LICH SU DANG BO 1930 1975

LICH SU DANG BO 1930 1975

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
SĐC
ĐẢNG CỘNG SÃN VIỆT NAM
p HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH PHƯỚC
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Sơ THẢO
í» S O -1 0 7 5

1.2 Page 2

▲back to top
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH BỈNH PHƯỚC
'ừ
TỈNH BÌNH PHướC
(1 9 3 0 -1 9 7 5 )
Sơ THẢO
t h ư V l'tN t ĩ n h !
CÔNG TRÌNH CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẢNG
LẦN VII TỈNH ĐẢNG BỘ BÌNH PHƯỚC

1.3 Page 3

▲back to top
Chịu trách nhiệm xuất bàn:
BAN CHẤP h à n h đ ả n g b ộ t ỉ n h b ì n h p h ư ớ c
Chỉ đạo biên soạn:
BÙI THANH PHONG - Bí thư Tỉnh ủy
NGUYÊN Hữu LUẬT - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy
NGUYÊN VÃN LỢI - Trưởng b a n Tuyên g iá o Tỉnh ủy
Ban Biên tập:
VŨ SỸ THẮNG PHÙNG ĐÌNH Ấm (BA CUNG)
NGUYỀN HUỲNH ĐOÀN TAN d ũ n g
n g u y ìn t h ị l a n Hư ơ n g n g u y ìn t h ị t u y I t m in h
NGUYÌN THANH DANH
Cố vấn Khoa học:
Phó G iáo sư : Hồ sĩ KHOÁCH
Tiến sĩ Sử h ọ c : LÊ HÙ\\J PHƯỚC

1.4 Page 4

▲back to top
B Ả N Đ ồ H À N H C H ÍN H
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Biên giới quốc gia
Biên giới tỉnh
Biên giới huyện
ủy ban nhân dàn xã, thị trấn
Quốc tộ
Sông hồ

1.5 Page 5

▲back to top
quê hương đất nước, củng cô" niềm tin đôi với Đảng, động
viên cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất là thế hệ trẻ, không
ngừng phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết dân tộc,
quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới. Với những ý nghĩa trên, ngay từ những ngày đầu mới
tái lập tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo biên soạn cuốn
Lịch sử Đảng hộ tỉnh Bình Phước (1930 - 1975). Cuôn sách
phản ảnh lại phong trào cách mạng ở Bình Phước kể từ khi
hình thành chi bộ đầu tiên của tỉnh cho đến kết thúc cuộc
kháng chiến chông Mỹ cứu nước.
Tái hiện lịch sử là một hoạt động khoa học, lại tiến
hành trong điều kiện tỉnh mới tái lập, có nhiều, khó khăn,
nhất là về tư liệu và nhân chứng; nhiều sự kiện, vụ việc xảy
ra không còn hồ sơ lưu lại nên công tác biên soạn gặp
nhiều trở ngại. Song, nhờ sự đóng góp nhiệt tình của nhiều
đồng chí lãnh đạo trong tỉnh, nhiều cán bộ lão thành đã
từng có thời gian công tác Bình Phước qua nhiều thời kỳ,
của V iện Lịch sử Đảng, một sô" nhà khoa học tại Thành
phô" Hồ Chí Minh, các kho lưu trữ Trung ương, Quân khu 7,
TP Hồ Chí Minh, Bảo tàng, Thư viện địa phương..., ban
biên soạn đã hoàn thành công việc với trách nhiệm cao.
Cũng trong quá trình này, trên những vân đề lớn, những ý
kiến chưa thông nhâ"t trong các lần hội thảo đều xin ý kiến
Thường vụ Tỉnh ủy.
Tuy nhiên, cuô"n “Lịch sử Đảng hộ tỉnh” được biên
soạn lần này, chắc không tránh khỏi thiếu sót; một sô" sự
kiện cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung tư liệu. Chúng
tôi mong còn nhận được nhiều ý kiến của bạn đọc gần xa,
nhất là các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí và đồng bào là
nhân chứng lịch sử trong cuộc đâu tranh cách mạng ở Bình
Phước, để bổ sung trong dịp tái bản sau này.
Thay mặt Ban Châ"p hành Đảng bộ tỉnh Bình Phước,
6

1.6 Page 6

▲back to top
tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các đồng chí và các bạn đã
đóng góp trí tuệ và công sức để cuốn “lịch sử Đang bộ tính
Bình Phước (1 9 3 0 - 1975) đến nay ra mắt bạn đọc, đây là
một trong những công trình chào mừng Đại hội Đảng bộ lần
thứ VII của tỉnh.
TM/BAN THƯỜNG v ụ TÍNH ỦY
BÍ THƯ
BÙI THANH PHONG

1.7 Page 7

▲back to top
PHẦN MỞ ĐẦU
BÌNH PHƯỚC: VỪNG ĐÂT, CON NGƯỜI VÀ
TRUYỀN THÔNG ĐÂU TRANH
TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG
CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIEM T ự n h i ê n , k i n h t ế -
XÃ HỘI VÀ NHỮNG BIẾN Đ ổ i HÀNH CHÁNH
QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH s ử
Bình Phước là một tỉnh miền núi dân tộc và biên giới ở
miền Đông Nam Bộ, có tổng diện tích tự nhiên 6.831,72 km2,
dân số 653.644 người, mật độ trung bình là 88 người/km2, trong
đó đồng bào dân tộc có 102.107 người chiếm khoảng 17,9%
dân sô" toàn tỉnh. Phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc và
Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Công Pông
Chàm (Campuchia), phía Bắc giáp tỉnh Krachê và Mun Dun
Ki Ri (Campuchia) và phía Nam giáp tỉnh Bình Dương. Bình
Phước có đường biên giới tiếp giáp Campuchia dài 240km. Trong
suốt quá trình lịch sử, Bình Phước luôn luôn có vị trí hết sức
quan trọng về chính trị, kinh tế và an ninh - quốc phòng.
Dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, Bình Phước thuộc
trấn Biên Hòa. Đến giữa thế kỷ XIX, sau khi đặt ách đô hộ tại
sáu tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành bốn khu
vực lớn là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát - xắc. Vùng đất
Bình Phước thuộc khu vực Sài Gòn, trong đó vùng đất phía
Đông thuộc tiểu khu Biên Hòa, vùng đất phía Tây Nam và phía
Nam thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một. Năm 1889, thực dân Pháp
đổi các tiểu khu thành các tỉnh, Bình Phước thuộc địa phận tỉnh
Biên Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một. Từ đó cho đến hết thời Pháp
thuộc bộ máy hành chính cơ bản không thay đổi. Sau năm 1954,
8

1.8 Page 8

▲back to top
trải qua hàng chục năm chiến tranh, vùng đất Bình Phước bị
chia cắt, sáp nhập nhiều lần tùy theo nhu cầu cai trị của thực
dân đế quốc trong từng thời kỳ lịch sử. Đến ngày 30/1/1971,
Trung ương Cục Miền Nam quyết định thành lập phân khu
Bình Phước. Cuối năm 1972, phân khu Bình Phước giải thể, tỉnh
Bình Phước chính thức được thành lập.
Sau khi cuộc kháng chiến chông Mỹ thắng lợi, để đáp
ứng yếu cầu phát triển kinh tế - văn hóa, ngày 2/7/1976, Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định
thành lập tỉnh Sông Bé bao gồm tỉnh Thử Dầu Một, Bình Phước
và ba xã thuộc huyện Thủ Đức (Thành phô" Hồ Chí Minh), chia
thành 7 huyện thị: Bình Long, Phước Long, Đồng Phú, Bến Cát,
Tân Uyên, Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một. Tháng 2/1978,
tách một sô" xã của huyện Bình Long và một sô" xã huyện Phước
Long để thành lập huyện Lộc Ninh. Năm 1988 huyện Phước
Long được chia thành 2 huyện Bù Đăng và Phước Long. Ngày
1/1/1997, tỉnh Bình Phước đươc tái lập bao gồm 5 huyện phía
"Bắc thuộc tỉnh Sông Bé củ: Đồng Phú, Bình Long, Lộc Ninh,
Bù Đăng và Phước Long, tỉnh lỵ đặt tại Đồng Xoài. Ngày 1/9/
1999, Chính phủ ban hành Nghị định 90/1999/NĐ-CP về việc
thành lập thị xã Đồng Xoài. Ngày 1/1/2000, thị xã Đồng Xoài
chính thức đi vào hoạt động.
v ề điều kiện tự nhiên, Bình Phước có vùng đất đỏ ba-
dan chiếm diện tích toàn tỉnh, đất đỏ trên đá phiến, đâ"t xám
và đất vàng nâu. Vùng đất đỏ ba-dan chủ yếu tập trung ở các
huyện Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng và chiếm một phần nhỏ
diện tích của các huyện Bình Long, Đồng Phú.
Đất đai Bình Phước rất thích hợp với các loại cây công
nghiệp dài ngày có giá trị kinh tê"cao như tiêu, điều, cà phê, cao
su. Đặc biệt cây cao su trồng trên đất đỏ ba-dan có chu kỳ kéo
dài, sản lượng mủ cao hơn rõ rệt so với cây cao su trồng trên đất
xám. Bên cạnh những loại cây công nghiệp dài ngày, đất ba
dan còn thích hợp nhiều loại cây màu, lương thực. Nhưng điều
hạn chê" lớn nhát đôi với việc trồng trọt các loại cây ngắn ngày
9

1.9 Page 9

▲back to top
là thiếu nguồn nước tưới mùa khô nên chỉ phát triển được vào
mùa mưa.
Cũng như các tỉnh Nam Bộ, khí hậu Bình Phước thuộc
khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định. Trong năm chia thành 2 mùa
rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng
5 và kéo dài đến cuối tháng 10 dương lịch. Những tháng đầu
mùa mưa thường là mưa rào và mưa đều vào những tháng 7, 8
và 9, ít có ngày mưa dầm. Đặc biệt Bình Phước hầu như
không có bão mà chỉ chịu ảnh hưởng của những cơn bão gần.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoáng 2400 mm rải đều trong
nhiều tháng nên ít khi gây ra lũ lụt. Nhờ lượng mưa tương đối
điều hòa nên hầu hết các loại cây trồng đều phát triển nhanh.
Nhiệt độ trung bình khoảng 29°c. Những tháng cuối mùa mưa
sang đầu mùa khô thời tiết thường se lạnh về đêm. Mùa khô
thường có gió từ Tây Trường Sơn thổi tới nên khí hậu khô hanh.
Mỗi ngày có trung bình từ 5 đến 7 giờ nắng. Vào mùa khô, nhiệt
độ ban ngày có nơi lên đến 35-37°C. Nhưng thời gian nóng bức
nhâd này thường chỉ kéo dài khoảng hơn một tháng. Sau đó
nhiệt độ giảm dần để chuẩn bị đón nhận những cơn mưa đầu
mùa năm sau.
Bình Phước có nhiều tài nguyên phong phú, trước hết là
rừng. Đầu thế kỷ XX, Bình Phước vẫn còn những khu rừng liền
khoảnh, bạt ngàn mênh mông trải dài từ Bắc đến Nam chiếm
gần 100% diện tích toàn tỉnh. Trong đó, có những khu rừng già,
những khu rừng nguyên sinh với nhiều loại gỗ quý của rừng
nhiệt đới như cẩm lai, gõ đỏ, gõ nu, sao, bằng lăng; có nhiều
loại cây dược liệu quý dùng làm thuốc chữa bệnh; nhiều loại
song, mây, tre, lồ ô... dùng làm bột giấy và các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ xuât khẩu. Rừng Bình Phước có nhiều loại dây,
củ lấy bột như củ nần, củ mài, củ chụp, củ nho, hạt gẩm, hạt
buông ... và nhiều loại rau rừng như lá nhiếp, lá nhau, đọt mây,
măng, môn dốc, tàu bay. Đây là nguồn lương thực, thực phẩm
quan trọng đã từng góp phần nuôi sông lực lượng cách mạng
trong những năm gian khổ ác liệt nhất.
Cùng với các loại cây rừng, thụ rừng ở Bình Phước cũng
10

1.10 Page 10

▲back to top
khá phong phú với các loại thú lớn, quý hiếm như voi, tê giác,
trâu rừng, nai .... các loại thú vừa và nhỏ như mễn, khỉ, nhím,
chồn, cheo và các loại chim, gà rừng ...
Khi tư bản Pháp tiến hành phá rừng lập đồn điền cao su
thì rừng Bình Phước bị thu hẹp lại. Với địa thê hiểm trở, trong
suốt hai thời kỳ kháng chiến chông Pháp và chống Mỹ, rừng
Bình Phước từng là nơi xây dựng những căn cứ địa cách mạng.
Hiện nay rừng Bình Phước bị thu hẹp lại do bị bom đạn, chât
độc hóa học tàn phá trong chiến tranh ác liệt cùng với việc khai
thác bừa bãi của các lực lượng lâm tặc và di dân tự do. Tuy vậy,
đến nay rừng và đất rừng vẫn còn khá phong phú trên 359.899
ha, chiếm 52,68% diện tích toàn tỉnh.
Trên dịa bàn Bình Phước, sông Bé là phụ lưu của sông
Đồng Nai nhưng là dòng sông lớn chảy trong lãnh thổ của tỉnh.
Sông Bé dài gần 2()0km, phía Bắc, nơi dòng sông chảy qua
vùng cư trú của đồng bào Stiêng, M nông, sông Bé được gọi là
sông Đaklung. Xuôi về phía Nam đồng bào Kinh gọi là sông
Bé. Sông Bé có một sô" nhánh sông quan trọng như ở thượng
nguồn có sông Đakquit, ĐakRlap bắt nguồn từ vùng đất đỏ
Nam Tây Nguyên và miền Đông Bắc Campuchia. Vào mùa
khô, ở mạn thượng lưu có chỗ mực nước hạ thâp còn khoảng lm
có thể lội ngang qua sông. Nói chung sông Bé chảy trên lãnh
thổ Bình Phước không thuận lợi cho giao thông đường thủy do
có bờ dốc đứng, lòng sông có nhiều đá ngầm, nhiều ghềnh thác
nên tàu thuyền lớn không thể đi lại được. Vào mùa mưa, nước
từ các núi đồi, suôi, rạch dồn dập đổ về khiến mực nước dâng
cao đột ngột. Dòng sông hiền hòa trở nên hung dữ, nước cuồn
cuộn chảy cuốn trôi những thân cây đổ; những bụi tre, doi đất
hai bên bờ. Thượng nguồn thác Mơ độ dốc lòng sông rất lớn,
gềnh thác chập chùng quanh năm nước chảy ào ạt. Thác Mơ(1)
không chỉ là một cảnh dẹp thiên nhiên thơ mộng mà còn có giá
trị kinh tế. Tại đây dã xây dựng nhà máy thủy diện Thác Mơ.
Điện Thác Mơ dược hòa vào mạng lưới điện Quôc gia, để phục
vụ cho sản xuât công nghiệp, nông nghiệp và đời sông sinh hoạt
của nhân dân cả nước, trong đó có phần ưu tiên cho nhân dân
11

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
Bình Phước. Ngoài sông Bé, phía Tây Bình Phước còn có sông
Sài Gòn bắt nguồn từ phía Bắc Lộc Ninh, đoạn chảy qua địa
phận Bình Long gần 50 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa
Bình Long và Tây Ninh. Ngoài ra c.òn có nhiều sông, suôi nhỏ
rải rác khắp các huyện; nhiều hồ thiên nhiên, bưng bàu thuận
lợi cho nuôi trồng thủy sản và góp phần làm cho môi trường, khí
hậu của Bình Phước trở nên ôn hòa.
Trong lòng đất của Bình Phước chứa đựng nhiều khoáng
sản phong phú. Các nhà địa chất đã phát hiện Bình Phước có
vỉa đá vôi trải dài qua hai huyện Bình Long và Lộc Ninh, có
chiều sâu trên 200m, là thứ đá vôi ròng gần như không lẫn tạp
chất, dễ khai thác và vận chuyển. Tuy trữ lượng không bằng đá
vôi Hà Tiên nhưng chất lượng tốt hơn hiệu quả kinh tế chắc
chắn sẽ cao vì đá vôi được dùng làm xi măng, chất kết dính. Ớ
Bình Long có loại đá vôi biến chất thành đá hoa, màu sắc và
cấu trúc đẹp, có độ cứng 3 rất có giá trị về nghệ thuật và kinh
tế, dùng để trang trí trong xây dựng, tạc tượng, làm đồ lưu niệm
và trang sức.
ở Bình Phước, đá ba-dan chiếm trên nửa diện tích đá
toàn tỉnh, chùy sỉ ba-dan lộ ra ở nhiều nơi và được dùng làm vật
liệu xây dựng như đá chẻ, đá hộc, đá dăm. Đá ong cũng là
nguồn vật liệu xây dựng dùng để làm đường, làm trụ cột. Ngoài
ra, Bình Phước còn có các loại đâVsét ở Mã Đà, Đồng Xoài, Tà
Thiết, Phước Long, Bù Gia Mập... dùng để làm gạch ngói.
Tài nguyên nước ngầm của Bình Phước cũng có giá trị
kinh tế ngang tầm với mỏ khoáng sản quý. Các mũi khoan địa
chất ở Bình Long, Lộc Ninh cho thấy nguồn nước ngầm của
Bình Phước phong phú.
Bình Phước có hai trục đường giao thông chiến lược
quan trọng là Quốc lộ 14 và Quốc lộ-13, nối liền Bình Phước với
Bình Dương, Thành phô" Hồ Chí Minh, với các tỉnh Nam Trung
Bộ, Nam Tây Nguyên và nước bạn Campuchia. Bên cạnh hai
con đường chiến lược đó còn có đường ĐT741, ĐT748, ĐT749,
ĐT750 ..., các đường lộ dọc ngang ở từng huyện, xã thuận lợi
12

2.2 Page 12

▲back to top
cho việc đi lại của nhân dân. Tổng chiều dài các loại đường
(không kể đường đất) trên địa bàn tỉnh là 1233km.
Đến nay, các đường đang được thi công làm mới sửa
chữa và nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông giữa
Nam Tây Nguyên với các tỉnh Nam Bộ. Trong tương lai, khi
đường xuyên Á được xây dựng và tuyến đường sắt Lộc Ninh -
Sài Gòn được khôi phục sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế, văn hóa và giao thông Bình Phước. Các tuyến
dường liên huyện, liên xã cũng đang được làm mới sửa chữa,
nâng cấp để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế và đời sống
sinh hoạt của nhân dân.
Đất Bình Phước ngày nay từng là địa bàn sinh sông của
con người từ thuở xa xưa. Các di chí khảo cổ khai quật được đã
chứng minh bề dày lịch sử của Bình Phước. Các nhà khảo cổ
học đã thu thập được ở Bình Long, Lộc Ninh, Phước Long, Bù
Đăng những rìu đá mài nhẵn bốn mặt mà các nhà khảo cổ gọi
là “rìu tứ diện” loại rìu này được phân bô" ở nhiều nơi trên đất
nước ta và các nước Đông Nam Á. Những “Thành tròn” phát
hiện ở Bình Long, Lộc Ninh, chứng tỏ những khu vực cư trú tạm
thời của các đoàn săn bắn tập thể của dân miền Đông Nam Bộ
vào thời kỳ đồ đá chuyển sang đồ đồng cách đây 2-3 ngàn năm.
Tuy trong các “Thành tròn” tầng văn hóa khảo cổ không rõ rệt,
hiện vật thưa thớt nhưng nó là cơ sở chứng minh sự có mặt của
những tộc người cổ trên đất Bình Phước. Tại Lộc Ninh, phát
hiện một trông đồng nằm sâu trong lòng đất. Bằng phương pháp
khoa học, các nhà khảo cổ kết luận trông đồng Lộc Ninh có
niên đại cùng thời với trông đồng Đông Sơn ở miền Bắc nước
ta. Gần đây, ngày 24/4/1998 hai trông đồng được phát hiện ở
Thọ Sơn (Bù Đăng) và Long Hưng (Phước Long) cũng thuộc
dòng trông đồng Đông Sơn có niên đại cách đây từ 1.900 đến
2.200 năm.
Như vậy, từ thuở xa xưa trên vùng đất Bình Phước ngày
nay đã có con người sinh sông. Cuộc sông của những con người
thời cổ diễn ra như thế nào thì tới nay tư liệu chưa cho phép làm
rõ. Chỉ biết rằng cho đến thế kỷ XVI, chủ nhân của vùng đât
13

2.3 Page 13

▲back to top
này là cư dân thuộc các dân tộc ít người S’tiêng, Châu Ro,
M’nông, Tà mun... Họ sông chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm,
làm nương, tỉa lúa theo phương thức du canh du cư. Họ sông rải
rác theo từng buôn sóc. Bộ lạc S’tiêng là những người có công
khai phá vùng đất từ núi Bà Đen đến thượng nguồn sông Sài
Gòn, vùng núi Bà Rá và vùng hữu ngạn sông Đồng Nai là vùng
đất xưa của người Châu Ro. Sang đầu thế kỷ XVII, vùng đất
này dần dần thu nạp những dân CƯmới người Khơ me đã lập
làng ở vùng Nha Bích, người Kinh di cư từ các tính phía Bắc
vào. Trong số này có những người vì không chịu nổi sự áp bức
bóc lột của chế độ phong kiến Trịnh - Nguyễn cũng như cảnh
lầm than, chết chóc do chiến tranh phong kiến gây ra phải rời
bỗ quê hương, có người mắc tội “nghịch mạng với triều đình” bị
lưu đày đến đây, có người trôn tránh SƯU thuế, binh dịch phải
chạy vào đây tìm chôn nương thân. Theo chân người Việt, một
sô" người Hoa cũng bắt đầu du nhập vào tỉnh. Thời kỳ đầu,
người Việt, người Hoa sống chủ yếu ven sông Đồng Nai, sông
Sài Gòn. về sau dân sô"phát triển họ mỏ rộng địa bàn cư trú lên
các huyện phía bắc Bình Phước.
Cuối thê" kỷ XVIII, sự tiếp xúc giữa người Kinh và người
S’tiêng ở Bình Phước đã diễn ra tương đôi thường xuyên thông
qua những binh lính lưu đồn nhà Nguyễn và gia đình của họ.
Những người Kinh này phần đông là dân cư vùng Trị Thiên,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Từ năm 1832 đến 1889,
sự gia tăng dân sô" người Kinh rất rõ rệt. Thời kỳ này, những
thông kê hành chính địa phương đã ghi tên các làng người S’tiêng
và người Khơ me vùng Hớn Quản theo tên gọi Hán Việt do
nhà Nguyễn đặt như An Lộc, Bình Tây, Đông Phất, Đông Nơ,
Xuân La, Nha Bích. Đầu thê" kỷ XIX, người Kinh đã cư trú tập
trung thành từng làng ở khu vực phía Nam tỉnh.
Đến thời Pháp, qua những lần khai thác thuộc địa, bọn
tư bản thực dân mở đồn điền cao su, một bộ phận nông dân bị
bần cùng hóa ở các tỉnh phía Bắc dược thu hút về đây làm phu
đồn điền, người Kinh ở Bình Phước tăng lên rõ rệt, hình thành
tầng lớp công nhân bị bóc lột hết sức nặng nề. Do tính châ"t tập
14

2.4 Page 14

▲back to top
trung và kỷ luật công nhân cao su dần dần giác ngộ giai cấp.
Sang thời Mỹ - ngụy, một bộ phận tín đồ Công giáo di
cư từ miền Bắc vào được ngụy quyền dưa lên khu vực Bình
Phước lập ra các khu dinh điền, khu trù mật nhằm tạo cơ sở xã
hội cho sự thống trị của chúng. Năm 1956, khi Ngô Đình Diệm
thành lập tỉnh Phước Long, tỉnh Bình Long, sô"dân bị ép buộc di
cư từ các tỉnh Trị Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định
vào, dẫn đến cơ câu dân cư có sự thay đổi lớn. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, khôi công nông liên minh được hình thành hỗ trợ cho
nhau, làm nòng cốt cho mặt trận thông nhât đoàn kết toàn dân
tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi, giải phóng tỉnh nhà
góp phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phổng, dân sô"Bình
Phước lại tăng nhanh trong đó phần lớn là đồng bào các tỉnh
dông dân đi xây dựng kinh tê" mới. Một sô" khác là cán bộ tập
kết trở về, bộ đội phục viên, công nhân cao su được tuyển từ nơi
khác đến để khôi phục và phát triển các nông trường cao su. Từ
1/1/1997, tỉnh Bình Phước chính thức được tái lập, dân sô" Bình
Phước lại tiếp tục tăng lên do nhân dân ở khắp các tỉnh thành
trong cả nước đến lập nghiệp, xây dựng kinh tê" và công tác.
Có thể nói Bình Phước hiện nay là hình ảnh thu nhỏ của
nước Việt Nam với những bản sắc văn hóa đa dạng, tất cả các
đặc tính đổ đều nằm trong sự thông nhất của nền văn hóa Việt
Nam. Nói đến văn hóa truyền thông ở Bình Phước, trước hết
phải nói đến nền văn hóa truyền thông lâu đời của cư dân bản
địa mà tiêu biểu là người dân tộc S’tiêng. Một trong những văn
hóa truyền thông nổi tiếng của đồng bào S’tiêng và các dân tộc
ít người ở Tây Nguyên vẫn dược bảo tồn và dược các nhà nghiên
cứu âm nhạc thê giới chú ý. Đó là văn hóa cồng Chiêng, cồng
Chiêng có vị trí hết sức quan trọng trong đời sông văn hóa của
đồng bào S’tiêng. Qua bao biến động thăng trầm của lịch sử,
văn hóa cồng Chiêng vẫn được duy trì và lưu truyền cho tới
ngày nay. Đôi với người S’tiêng, cồng Chiêng là của gia bảo
cha truyền con nôi thể hiện sự giàu có của từng gia đình, từng
dòng tộc hay cộng đồng. Có những bộ cồng Chiêng được lưu
15

2.5 Page 15

▲back to top
truyền hàng trăm năm.
về mặt âm nhạc, đây là nhạc cụ tiêu biểu, chủ đạo của
đồng bào S’tiêng cũng như hàng chục dân tộc trong cộng đồng
Tây Nguyên, cồng Chiêng gắn bó mật thiết với đời sống từng
con người, từng cộng đồng; gắn bó với tâm hồn của cả một dân
tộc trong quá trình lao động sản xuât, săn bắn, chiến đâu; trong
những ngày lễ hội vui, buồn. Đặc biệt, do cách biểu diễn tập
thể nên văn hóa cồng Chiêng có tác dụng giáo dục tính cộng
đồng, tương thân, tương ái và đoàn kết. Tuy nhiên đến nay
trong văn hóa S’tiêng có một sô" loại hình đã bị mai một như hát
đôi đáp hát, dệt vải...
Bản sắc văn hóa S’tiêng, M nông còn biểu hiện rõ nét
trong câu trúc nhà ở, tục đâm trâu; lễ dựng làng, lễ nghi cưới
xin, chọn đất làm rẫy... Người S’tiêng có nghệ thuật rèn đúc
khá sắc sảo.
Đặc điểm văn hóa của các dân tộc bản địa Bình Phước
là có sự giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau. Người S’tiêng ở Bình
Phước giữ được phong tục, tập quán đặc thù riêng, bản sắc văn
hóa riêng nhưng cũng ảnh hưỏng văn hóa người Việt. Trong tín
ngưỡng dân gian còn ảnh hưởng văn hóa Chăm hoặc Khơme,
IVTnông ...
Người Tà Mung có nhiều phương thuốc gia truyền rất
có giá trị và còn bảo lưu hai bài dân ca của tổ tiên xa xưa mà
nay các dân tộc khác không có.
v ề tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Stiêng, Khơ
Mer, Mnông, Tà Mung, Châu Ro ... ở Bình Phước là tín ngưỡng
đa thần.
Đến khi những lớp cư dân người Kinh xuât hiện thì ở
Bình Phước xuất hiện các đạo giáo mới như đạo Phật, Thiên
Chúa Giáo, Tin lành ... Đặc biệt, dưới thời Ngô Đình Diệm một
sô" tôn giáo ở Bình Phước do Mỹ - Diệm bô trí, chi phôi phát
triển nhanh nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị của chúng. Sau
khi thành lập tỉnh Phước Long, Bình Long Mỹ - Diệm dưa dân
16

2.6 Page 16

▲back to top
cư từ các tỉnh miền Trung vào, đặc biệt là đổng bào Thiên Chúa
Giáo miền Bắc di CƯvào được Mỹ - Diệm đưa về Bình Phước
ngày càng đông làm hậu thuẫn chính trị và để làm lá chắn
phòng thủ bảo vệ chúng ở các khu vực trung tâm và những nơi
quan trọng. Các xứ đạo Long Điền (Phước Bình), Chu Ninh (Bù
Đốp), Bù Đăng đều là dân công giáo miền Bắc di cư. Chúng
còn phát triển đạo Tin lành trong đồng bào Stiêng, lập nhà thờ
ở Sơn Giang (Phước Long) và Bù Đăng để quy tụ đồng bào dân
tộc vào sinh hoạt. Chúng cho lập thánh thất Cao Đài ở Phước
Long và tổ chức đưa tín đồ từ các vùng đồng bằng Nam Bộ lên
định cư ở đây. Đặc biệt, từ đầu những năm 90 trở lại đây, đạo
Tin lành phát triển khá mạnh trong vùng đồng bào dân tộc.
Nhìn chung đồng bào có đạo luôn châp hành tốt mọi đường lối
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân.
Bình Phước là một trong những tỉnh có tiềm năng phát
triển kinh tế. Dựa vào điều kiện tự nhiên và tiềm năng sẩn có,
Bình Phước xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh là Nông lâm nghiệp
- Dịch vụ - Công nghiệp. Với tổng quỹ đất nông nghiệp trên
177.452 ha, chiếm gần 26% diện tích toàn tỉnh, chủ yếu là đất
đỏ ba-dan thích hợp với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao.
Tỉnh ủy và UBND tỉnh xác định nhiệm vụ của các địa phương
coi nông - lâm nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu thúc đẩy tiến
trình kinh tế xã hội trên địa bàn. Các loại cây công nghiệp dài
ngày là thế mạnh của tỉnh như cao su, điều, cà phê, tiêu đã và
đang hình thành các vùng sản xuát tập trung, có khả năng cung
cấp sô lượng lớn sản phẩm cho công nghiệp chế biến tại chỗ và
xuất khẩu.
Tỉnh Bình Phước nằm cạnh khu kinh tế năng động, phía
Nam tốc độ tăng trưởng cao; có nhiều lợi thế về vị trí, cơ sở hạ
tầng, môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn như Thành phô" Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai... Đó là lợi thế để Bình Phước
có thể hòa nhập, kêu gọi đầu tư. Đồng thời sự phát triển nhanh
Của các tỉnh bạn có tác dụng thúc dẩy, kích thích tạo sự cạ,nh
tranh-I là nnhh mmcnnhh vvơii RBììnnhh PPhư ơ cr .
BÌNH PH ƯỔC
_
17
L Js>c j i d

2.7 Page 17

▲back to top
Với nguồn lao động dồi dào gần 300.000 người trong đó
độ tuổi từ 16 đến 40 chiếm 40% tổng sô" lao động hiện có, có
đức tính cần cù, chịu khó là nguồn lực hết sức quan trọng. Đảng
bộ và nhân dân Bình Phước có bề dày lịch sử, qua các cuộc
kháng chiến đã tôi luyện bản lĩnh chính trị vững vàng. Có nhiều
cán bộ trẻ có trình độ văn hóa, chuyên môn, chính trị cao đủ
khả năng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Mặc dù còn phải phân đâu gian khổ để khắc phục khó
khăn, hạn chế của một tính mới tái lập song với những tiềm
năng, thế mạnh nêu trên sẽ là những tiền đề cơ bản hứa hẹn sự
phát triển trong tương lai Bình Phước sẽ trở thành một tỉnh giàu
về kinh tế, mạnh về quốc phòng, nhân dân có đời sông âm no
và hạnh phúc.
18

2.8 Page 18

▲back to top
CHƯƠNG II: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHÔNG
PHÁP ở BÌNH PHƯỚC TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỠI
I.
CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA VÀ sự RA ĐỜI CỦA
NGÀNH KHAI THÁC CAO SU:
1. Sự ra đời của ngành khai thác cao su ở Bình Phước:
Sau khi thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị ở xứ Nam
Kỳ; Năm 1882, toàn quyền Đông Dương Pôn Đu-me (Paul
Doumer) bắt đầu tổ chức thực hiện kế hoạch bình định vùng
phía Nam Bà Rá và Hớn Quản và vùng Nam Đắc Lắc cũng như
phía Đông của Campuchia. Đến năm 1892 chúng mỏ rộng lên
6 tổng và 50 buôn làng ở phía Bắc Thủ Dầu Một. Năm 1898
chúng đặt thêm một sô" đồn bót nhỏ ở các vùng Bù Đốp, Chơn
Thành, Bà Rá, Hớn Quản do binh lính người Việt trú đóng.
Từ năm 1899 trở về sau chúng tiếp tục tổ chức nhiều
cuộc thám sát trên vùng đất Bình Phước, trong đó phải kể đến
đoàn thám sát của Pôn Pát-tê (Paul Patte) đã tiến hành một
chuyến đi dài ngày nhằm khám phá thêm vùng đâ"t của đồng
bào dân tộc thiểu sô". Năm 1904 đoàn thám sát của pỏn Pát-tê
gồm một bác sỹ, một nhân viên cầu đường, một viên đội người
Pháp cùng 13 lính người Việt đã tiến hành thám sát 2 bên bờ
sông Bé, vùng Bà Rá và Hớn Quản.
Sau khi thâm nhập sâu vào vùng đồng bào dân tộc, thực
dân Pháp tiếp tục tổ chức nhiều cuộc hành quân do các tên đại
úy Giê-Nanh, bá tước Ba-tê-lê-mi (Barthélémy), trung tá Ca-
ri-ê (Carrier) chỉ huy đàn áp và bắt dân lưu vực sông Bé, dưới
chân núi Bà Rá đưa về làm lao dịch. Thực dân Pháp dùng chính
sách lừa mị kết hợp với biện pháp vũ lực để cướp đâ"t của đồng
bào dân tộc, xua đuổi họ phải rời bỏ buôn làng, nương rẫy.
19

2.9 Page 19

▲back to top
Thâm hiểm hơn là chúng gây chia rẽ những cộng đồng bộ lạc,
khơi lại nỗi hận thù xa xưa do lịch sử để lại giữa các dân tộc
thiểu sô" với người Kinh. Chúng xóa bỏ chế độ tù trưởng và
dựng lên lớp tay sai thuộc tầng lớp có uy quyền nhất của các
làng, tổng.
Đôi với thực dân Pháp, mục đích đánh chiếm Việt Nam
là để biến Việt Nam thành thuộc địa, để khai thác thuộc địa
Việt Nam phục vụ cho lợi ích của nước Pháp. Cuối thế kỷ XIX,
đầu thê kỷ XX, chính sách khai thác thuộc địa ở Đông Dương,
trong đó có Việt Nam đã được hình thành với tinh thần cơ bản
là: Thuộc địa Đông Dương phải được đặc biệt dành riêng cho
thị trường Pháp. Nền sản xuât ỏ thuộc địa này chỉ được thu gọn
trong việc cung cấp cho chính quốc., về kỹ nghệ, nếu cần được
khuyên khích thì cũng chỉ sản xuât những gì mà nước Pháp cần.
Chiếm Việt Nam để làm thị trường tiêu thụ hàng hóa, để khai
thác tài nguyên của Việt Nam là chính sách kẻ cướp của tập
đoàn thông trị nước Pháp lúc đó - một nước tư bản đang chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Với mục tiêu này. ngay từ năm 1888, tức là chỉ sau 4
năm hoàn thành công cuộc đánh chiếm bằng quân sự đối với
Việt Nam, toàn quyền Đông Dương đã ra Nghị định cho bọn địa
chủ thực dân dược quyền lập đồn điền ở những vùng đất mà
chúng gọi là “vô chủ”. Cái gọi là “đất hoang”, “đất vô chủ”
thực chất là chúng đuổi ngươi nông dân bằng nhiều cách để
chiếm đoạt địa sản. Việc cướp đoạt đât đai diễn ra trắng trỢn,
tàn bạo, gây nên những thảm cảnh khôn cùng cho người dân đã
từng sinh sông bao đời trên mảnh đất quê hương.
Trong công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
ngành khai thác cao su ở Việt Nam nói chung và Bình Phước
nói riêng đã hình thành. Ngành khai thác cao su ra đời trước
tiên và chủ yếu là Nam Kỳ gắn liền với cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhâ"t ở Đông Dương của thực dân Pháp. Bắt đầu từ
năm 1897, toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) cho lập vườn
thí nghiệm Ông Yệm ở Thủ Dầu Một do một dược sĩ người Pháp
20

2.10 Page 20

▲back to top
là Ra-un (Raul) phụ trách và ở Suôi Dầu Nha Trang do bác sỹ
Yéc-xanh (Yersin) phụ trách. Cả hai trại thí nghiệm này đều
thành công. Sau khi thử nghiệm thành công, tư bản Pháp đã hùn
vốn để chuẩn bị khai thác đồn điền. Ở Nam Kỳ có các Công ty
là: Công ty Cao su Đồng Nai - tức Công ty Kỹ nghệ và Rừng
Biên Hòa trước kia - được thành lập vào năm 1908, đôi tượng
của Công ty này là khai thác đồn điền cây cao su, cây có dầu
và nứa ở Đông Dương. Trong những năm 1914 -1918 Công ty
này tập trung khai phá vùng rừng Trảng Bom, Cây Gáo, Tủc
Trung và khu vực chiến khu Đ sau này.
Nắm chắc kết quả, bọn tư bản Pháp hùn vốn để khai
thác đồn điền. Các công ty cao su lần lượt ra đời theo chính
sách khai thác thuộc địa của nhà cầm quyền Pháp, các chủ nhà
băng (ngân hàng) các nhóm tư bản tài phiệt Pháp đều có phần
hùn vào các công ty lớn. Dùng mãnh lực đồng tiền và thế lực
chính quốc, chúng nắm bọn viên chức thuộc địa từ phủ toàn
quyền Đông Dương đến thông đốc Nam Kỳ, chủ tỉnh. Vì vậy,
bao nhiêu bất công áp bức, đánh đập giết chóc, bóc lột tàn bạo
đều được bao che, dung túng. Mỗi công ty là một vương quốc
nhỏ, nắm quyền sinh sát. Luật lệ của thanh tra lao động và
ngành y tế không có tác dụng gì đôi với chúng.
Sau chiến tranh, công cuộc khai thác cao su càng diễn
ra ồ ạt vì lúc này nền công nghiệp Pháp mỗi năm cần đến 10
vạn tấn cao su, nhưng thứ hàng chiến lược này Pháp chưa tự túc-
được mà phải nhập của Anh. Nắm được nhu cầu của thị trường
Pháp, bọn tư bản thực dân tranh nhau đầu tư vào khai thác cao
su. Vcín đầu tư vào cao su tăng vọt, diện tích trồng cao su cũng
tăng. Đây là thời kỳ ngành khai thác cao su của tư bản Pháp
gắn liền với sự mở rộng của các Công ty cao su lớn và cũng gắn
liền với việc thành lập các đồn điền trên khắp miền Đông Nam
Bộ, trong đó Bình Phước chúng mở rộng:
- Công ty Cao su Đất Đỏ liên tiếp lập ra những đồn điền
lớn như Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch, Xa Cát và nhiều nơi
khác ở Biên Hòa, Bà Rịa không những thế trong quá trình phát
21

3 Pages 21-30

▲back to top

3.1 Page 21

▲back to top
triển, Công ty này còn mở rộng diện tích khai thác cao su sang
tận vùng biên giới Campuchia; riêng ở đồn điền Quản Lợi từ
1916 đến 1937 đã phát triển thêm được 5.372,35 ha, đồn điền
Xa Cam 3.100,63 ha, đồn điền Xa Trạch 1.613,51 ha.
- Công ty Mít-sơ-lanh từ 1917 đến 1935 đã xây dựng
hai đồn điền cao su lớn là Dầu Tiếng và Phú Riềng (sau đổi
thành đồn điền Thuận Lợi).
- Công ty Cao su Xét xử (S.C.C.E.O) thành lập hai đồn
điền cao su lớn là Lộc Ninh và Đakia.
Như vậy, gắn liền với sự phát triển ồ ạt của việc khai
thác cao su ở Việt Nam, thực dân Pháp đã thành lập một loạt
đồn điền cao su trên đất Bình Phước. Chính tại các đồn điền cao
su này, đội ngũ công nhân cao su Bình Phước đã hình thành và
trở thành lực lượng cách mạng quan trọng có sức mạnh to lớn
góp phần vào cuộc đâu tranh giải phóng dân tộc sau này.
2.
Sự ra đời của đội ngũ công nhân và ách cai trị tàn
nhẫn của thực dân Pháp trong các đồn điền cao su:
Cùng với sự ra đời của các đồn điền cao su trên vùng
đất Bình Phước, đội ngũ công nhân cao su cũng bắt đầu xuất
hiện. Trước chiến tranh thê giới lần thứ nhât sô" lượng công
nhân cao su chuyên nghiệp chưa nhiều vì lúc bây giờ công việc
của các Công ty chủ yếu là phá rừng, dọn đất để lập đồn điền.
Việc trồng cao su mới chỉ bắt đầu và còn mang tính thăm dò.
Do đó, đại bộ phận nhân công lúc này được thuê mướn tạm thời
hoặc tuyển dụng từ những nông dân người địa phương hoặc
người dân tộc. Đa sô" những công nhân này hết hợp đồng lại trở
về nhà với ruộng đồng và nương rẫy.
Sau chiến tranh thê" giới lần thứ nhất, công nhân cao su
thuộc địa bàn Hớn Quản, Bà Rá tăng lên rất nhanh. Nguồn gốc
của công nhân đồn điền cao su cũng có sự thay đổi cùng với sự
phát triển của việc khai thác cao su. Do yêu cầu phát triển của
sản xuâ"t cao su, dân địa phương không đủ để cung câ"p cho các
đồn điền, buộc bọn chủ tư bản Pháp phải ra miền Bắc, miền
22

3.2 Page 22

▲back to top
Trang tuyển mộ. Chúng thường gọi là “mộ phu” hay “công
tra” .Có một sô" đồn điền mộ phu từ các thuộc địa của Hà Lan
do thiếu công nhân chuyên nghiệp. Đến năm 1922, đồn điền
cao su Lộc Ninh vẫn sử dụng công nhân người Chà-và (Javanais)
- tức phu mộ từ In-đô-nê-xi-a thuộc loại công nhân có tay nghề
cao. về sau, sô" công nhân này về xứ không quen với môi
trường xa lạ. Mặt khác, thực dân Hà Lan ở In-đô-nê-xi-a câm
xuất khẩu công nhân cao su để chông lại sự cạnh tranh của tư
bản Pháp ở Việt Nam.
Đối tượng tuyển mộ của tư bản Pháp ở miền Bắc và
miền Trung vào thời điểm trước và sau năm 1929 cũng có sự
khác nhau. Trước năm 1929 phu mộ là những thanh niên trai trẻ
chưa lập gia đình. Sau năm 1929 chủ yếu là mộ cả gia đình
nhằm đảm bảo nguồn lực lâu dài cho các đồn điền, đồng thời
hạn chê" sức đâu tranh chông đôi của công nhân. Bằng các thủ
đoạn dụ dỗ và cưỡng ép, từ 1919 đến 1929, thực dân Pháp đã
mộ được hàng chục ngàn công nhân vào làm trong các đồn điển
thuộc các quận Hớn Quản và quận Bà Rá. Riêng năm 1929, sô
công nhân được tuyển mộ đi làm đồn điền cao su tụt xuông
nhiều là do có phong trào tẩy chay mạnh mẽ việc mộ phu đồn
điền cao su do các tổ chức cách mạng trong nước phát động.
Mặt khác, vụ ám sát Ba-danh (Bazin) - tên cai mộ phu gian ác
làm xôn xao dư luận khiến người đi mộ giảm hẳn.
Trong việc mộ phu cao su, thực dân Pháp khoanh vùng
mộ phu cho các Công ty để tránh sự tranh chấp. Các Công ty
trên địa bàn Hớn Quản, Bà Rá chủ yếu mộ phu từ các tỉnh Thái
Bình, Hải Phòng, Bắc Giang, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nam Định,
Hà Nội. Đôi với người nông dân nghèo khổ, việc mộ phu đi các
đồn điền cao su trở thành tội ác xâu xa, gieo bao tai họa cho họ.
Tờ báo La Volonté Indochinoise (Ý chí Đông Dương) ra ngày
10/8/1927 đã viết: “Đó là sự tái bản giữa thê" kỷ XX này của cái
chợ buôn nô lệ ”. Bọn mộ phu dùng mọi thủ đoạn để tuyển được
nhiều phu cho đồn điền. Cứ mỗi người phu mộ được thì kẻ mộ
phu được hưởng một khoản tiền hoa hồng. Vì thê" bọn mộ phu đổ
xô đến các vùng dân cư ở Bắc Kỳ, Trung kỳ để đánh lừa dân
23

3.3 Page 23

▲back to top
nghèo, hứa hẹn đủ điều. Song thủ đoạn này chỉ có tác dụng thời
gian đầu. v ề sau, chúng dùng thủ đoạn tinh vi và trắng trỢn hơn
trước. Trần Tử Bình - người phu công-tra thuộc lớp đầu tiên ở
đồn diền cao su Phú Riềng sau trở- thành nhà hoạt động cách
mạng đã kể lại: “Có Jigười còn bị lừa ký hợp đồng bằng một
cách thế này: chúng bảo phải chụp hình để trình Nhà nước. Có
thế sau này hễ xảy ra chuyện gì Chính phủ mới bênh vực cho.
Thê rồi chúng đưa người phu đi chụp ảnh. Chụp nghiêng, chụp
thẳng đủ kiểu. Sau đó chúng đưa giấy bảo người ấy điểm chỉ để
sau nhận ảnh. Sau mới biết té ra giấy đổ lại chính là một tờ hợp
đồng in sẵn. Cái người bị lừa ấy không bao giờ biết là mình đã
điểm chỉ vào giấy bán đứt tính mạng và tự do của mình cho chủ
tư bản”(2).
Người dân phu được tuyển mộ phải chịu sự quản lý chặt
chẽ ngay từ khi ký tên vào giấy giao kèo. Bọn cai mộ tập trung
dân phu đưa lên tàu hỏa hoặc tày thủy, ô tô về các đồn điền.
Chủ đồn điền phân bô"họ về các làng. Chúng thường bô" trí làng
theo địa phương, quê quán của người dân phu. Tỉnh nào đông
dân phu thì xếp thành làng riêng, các tỉnh ít dân phu thì ghép
chung vào một làng gọi là làng “Tứ xứ”.
Hệ thông cai trị của giới chủ đồn điền hết sức chặt chẽ
và khắc nghiệt. Đứng dầu một đồn điền là chủ đồn điền (bao
gồm cả chủ nhất và chủ nhì). Chủ đồn điền có bộ phận chuyên
môn giúp việc. Dưới chủ đồn điền là các chánh giám thị (Xu-
vây-dăng sếp). Các chánh giám thị điều khiển các giám thị
viên. Các giám thị viên chỉ huy các cai và các cai theo dối giám
sát các kíp sản xuất.
Mỗi kíp sản xuất có khoảng 10 công nhân do một cai
trông coi. Mỗi tên Xu-vây-dăng quản lý 3 kíp sản xuất và cứ ba
kíp sản xuất đưực lập thành một đội' sản xuất. Mỗi tên Xu-vây-
dăng sếp chỉ huy ba tên Xu-vây-dăng. Trong mỗi đồn điền có
nhiều Xu-vây-dăng sếp, những tên này chịu sự điều khiển của
chủ nhất. Cai thì hầu hết là người Việt Nam, mức sông của cai
có khá hơn công nhân. Xu-vây-dăng được ở nhà riêng, có một
24

3.4 Page 24

▲back to top
dân phu phục dịch. Do lối đôi xử phân biệt nên trong hàng ngũ
cai có sự phân hóa. Một sô" cai muôn ngoi lên Xu-vây-dăng để
được hưởng quyền lợi cao hơn nên chúng thẳng tay đàn áp công
nhân, sẩn sàng quỳ gốì làm theo mọi mệnh lệnh của bọn chủ.
Một sô" khác thì lại đứng về phía công nhân trong các cuộc đâu
tranh giành quyền dân sinh hàng ngày.
Để giữ chân công nhân, chúng dùng cờ bạc, rượu chè,
thuốc phiện nhằm móc hết tiền lương làm cho họ tay trắng suô"t
đời không thể về quê hương bản xứ.
Đặc biệt thâm hiểm là bọn chủ Pháp thường lợi dụng
đồng bào dân tộc thiểu sô"để giữ chân công nhân lại. Đồng bào
dân tộc thiểu sô" là dân bản địa, các phum-sóc của họ nằm rải
rác chung quanh các đồn điền. Họ sông rất nghèo khổ, bản chất
lại thật thà chất phác. Lợi dụng điều đó, bọn chủ tư bản đã
thưởng muôi, vải, tiền cho người Thượng nào bắt được công
nhân chạy trôn. Nhiều công nhân đồn điền Phú Riềng, Quản
Lợi, Lộc Ninh ... đã bị người dân tộc thiểu sô" bắt lại đem nộp
cho chủ Pháp để lãnh thưởng. Ngoài những thủ đoạn trên, bọn
chủ đồn điền còn tìm mọi cách chia rẽ giữa công nhân có đạo
và công nhân không có đạo hoặc gây môi hiềm khích giữa dân
phu cũ và dân phu mới. Chúng thường đưa dân công-tra mới ở
xen vào xóm dân công-tra cũ để thực hiện ý đồ nham hiểm
“lính mai cai lính tôi”.
Vào đồn điền, người công nhân cao su bị áp bức bóc lột
hết sức nặng nề và bị đôi xử vô cùng tàn nhẫn. Họ phải làm
việc mỗi ngày từ 10-12 giờ, tiền lương rẻ mạt, tiền thưởng không
có, đau ô"m không dám nghỉ vì sợ bị trừ lương. Ngày này qua
ngày khác, từ 3 h 30 sáng, khi nghe tiếng kẻng tầm vang lên,
người phu cao su liền tâ"t tả chạy đến sân điểm danh. Tại đây,
việc điểm danh đi liền với những trận roi mây, roi gân bò, cừ
nèo đánh lên đầu, lên cổ. Đi chậm: đánh, ngồi không ngay
hàng: đánh, trả lời chậm: đánh, trong thùng có cát: đánh, dao
lụt: đánh, gọi không dạ mà ừ: đánh. Mỗi buổi sáng ở sân điểm
danh diễn ra cảnh đánh đập man rợ đôi với anh chị em công
nhân.
25

3.5 Page 25

▲back to top
Cuộc bái công biêu tinh ngói của công nhân Phú Riềng.
Cảnh sống bẩn củng của cóng nhân cao su trước bọn chủ.
26

3.6 Page 26

▲back to top
Điểm sô xong, dân phu phải ra lô làm việc ngay. Làm
xong về tới nhà đã 8 - 9 giờ đêm. Công nhân cao su thường
truyền nhau câu nói chua chát:
“Con không biết mặt cha
Chó không biết mặt chủ nhà ”.
Làm việc cực nhọc như vậy nhưng người công nhân còn
phải chịu đựng với muỗi, mòng, vắt, kiến lửa, m ố i... muỗi gây
bệnh seit rét, mòng gây bệnh sâu quảng. Vì không có thuốc điều
trị nên lâu ngày dẫn đến tàn phế tử vong.
Chê độ làm việc đã vậy, chê độ ăn uống lại càng cơ cực
hơn. Mỗi ngày một người phu cao su được phân 400 gam gạo
mốc, mục cùng mấy con cá khô mục. Ăn uống đã khổ cực, chỗ
ở cũng không hơn gì. Sáu người chen chúc nhau trong một căn
nhà lá lụp xụp, tối tăm khoảng 24 m2. Có nhà nhưng không có
bếp phải đun nấu ngay cạnh giường nằm, khói bụi đầy nhà.
Lao động cực nhọc, ăn tồi tàn mà lương thì rẻ mạt, là
đồng lương chết đói. Cách tính lương của chúng là sao cho hễ
hết tháng là công nhân cũng hết tiền. Lao động vất vả, ăn uống
khổ cực, tiền lương chết đói nhưng chưa phải là tất cả nỗi thông
khổ của công nhân. Các hình phạt tàn nhẫn vô nhân đạo của
bọn chủ đồn điền còn không ngừng trút lên đầu công nhân.
Sự áp bức, bóc lột, đè nén trên làm cho con sô" tử vong
trong năm rất cao. Ớ các đồn điền thuộc Công ty Cao su Đất Đỏ
tính ra cứ 100 công nhân thì có 19 người chết và 37 người bị
bệnh nặng. Một tài liệu còn lưu trữ tại đồn điền An Lộc cho
thây tại đây, tuổi thọ bình quân của nam công nhân không quá
30, có 95% nữ công nhân bị sẩy thai và ốm đau. Nhiều trẻ em
mới 2 - 3 tuổi đã mắc bệnh sưng lá lách và phù thận.
Ngoài nỗi khổ nhục chung của mòi công nhân đồn điền
cao su, nữ công nhân còn nỗi khổ nhục riêng không thể nào tả
xiết. Nữ công nhân nào có chút nhan sắc bị bọn cai, xu nhìn
thây lập tức bị điều lên nhà riêng của chúng để tưới hoa, quét
nhà, coi vườn rồi giày vò chị em. Đến khi hoa tàn nhụy rữa thây
27

3.7 Page 27

▲back to top
chán chúng lại thải ra. Có gia đình chồng đi làm ngoài lô, vợ ở
nhà bị bọn xu, sếp mò đến cưỡng hiếp. Trong hồi ký Phú Riềng
Đỏ, Trần Tử Bình kể lại: “Nữ công nhân nom sạch mắt một
chút lại càng tội nghiệp. Hết Xu-vây-dăng sếp đến Xu-vây-
dăng thường, rồi cai tây, cai ta gọi lên. Chỉ qua vài tuần, thân
đã tàn tạ chẳng khác nào chiếc lá héo. Nếu người ây có chồng
còn liên lụy đến cả chồng. Ai chông cự cưỡng lại chúng nó thì
chúng nó đánh người chồng đến chết, còn vợ thì vẫn bị cướp đi
mất, đến lúc nó giày vò chán chê rồi thả cho về là đã ra m a”.
Sự tủi nhục này đã được công nhân đúc kết trong câu ca dao:
“Vợ mình là thật vợ mình
Xư, sếp muốn lấy mặc tình chẳng kiêng
Tất cả những tình cảnh trên cho thấy chính sách khai
thác thuộc địa của Pháp lúc này ở đồn điền cao su đã dồn
những người công nhân vào cuộc đời khôn khổ. Song chính sự
áp bức bóc lột vô cùng hà khắc ây là yếu tô thúc đẩy công nhân
cao su phải đứng lên đâu tranh với bọn chủ đồn điền đế bảo vệ
quyền lợi, cuộc sông của mình. Với truyền thông anh dũng quật
cường, đồng bào các dân tộc thiểu số và công nhân cao su đã
đứng lên đấu tranh chông lại ách thông trị của thực dân Pháp.
II.
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP ở BÌNH PHƯỚC
TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI:
1. Đồng bào dân tộc thiểu sô khởi nghĩa vũ trang chông
Pháp:
Trong lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu sô" là chủ
tíìn dầu tiên của vùng rừng núi bao la, hoang vắng với đất đai
ẵu mỡ và gỗ quý bạt ngàn. Từ thuở xa xưa họ đã phải đâu
tranh liên tục với thiên nhiên để bảo tồn và phát triển sự sông
của mình. Điều kiện sông nơi thiên nhiên hoang dã đã hun đúc
nên bản tính tự lực, tự cường tự do, phóng khoáng, thật thà,
trọng tín nghĩa của đồng bào các dân tộc thiểu sô".
Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị lên vùng đâ"t này và
tiến hành khai thác các đồn điền cao su, tư bản Pháp đã cướp
28

3.8 Page 28

▲back to top
đoạt trắng trỢn đất đai, nương rẫy của đồng bào dân tộc thiểu
sô". Đồng bào phải rời bỏ buôn làng, phum-sóc thân yêu của
mình, bỏ lại những vùng đất bằng phẳng, màu mỡ cho bọn chủ
tư bản Pháp rồi chuyển vào rừng sâu. Tại nơi ở mới họ cũng
không yên thân. Đồng bàơ phải gói một nắm đất mang về nộp
cho chủ đồn điền, nếu là đât đỏ chúng lại tìm mọi cách xua đuổi
họ để chiếm đất mở rộng đồn điền.
Chính sách mỵ dân của cái gọi là “Đất Thượng của
người Thượng” mà thực dân Pháp rêu rao trước đó không lâu,
dần dần tự bộc lộ sự giả dôi trước đồng bào dân tộc thiểu sô". Sự
mât mát những quyền lợi thiết thân hàng ngày cùng nhiều dau
khổ do giặc Pháp gây ra đã tạo nên môi thù sâu sắc trong đồng
bào dân tộc làm bùng nổ những cuộc đâu tranh quyết liệt chông
lại thực dân Pháp.
Lúc đầu, các tù trưởng bộ lạc là những người đề xướng
các cuộc chiến đâu chông Pháp lẻ tẻ. Ngay từ năm 1908, ỏ
vùng Hớn Quản, dưới sự lãnh đạo của ông Điểu Dô" - người
s tiêng ở sóc Thủ Bổn, Xa Trạch quận Hớn Quản; đông đảo
đồng bào các dân tộc S tiêng, Châu Ro, Tà Mung, Mnông đã
đứng lên cùng nhau đánh đuổi giặc Pháp xâm chiếm buôn làng.
Cuộc khởi nghĩa này được đông đảo đồng bào các dân tộc thiểu
sô" ở khu vực Hớn Quản hưởng ứng. Ông. Điểu Dô" quy tụ dược
nhiều người khỏe mạnh, hăng hái vào lực lượng khởi nghĩa.
Mỗi lần ra trận, ông Điểu Dô" và nghĩa quân dưới quyền chỉ có
giáo mác, cung tên, cây rừng vạt nhọn nhưng tinh thần chiến
đâu vô cùng anh dũng. Ông Dô" lập căn cứ tại Núi Gió (Quản
Lợi), chỉ huy nghĩa quân đánh các bót Hớn Quản, Bù Đô"p và
hoạt động ở nhiều nơi khác. Thực dân Pháp hoảng sợ, nhiều lần
mở các cuộc càn quét đàn áp cuộc khởi nghĩa. Trước sức mạnh
quân sự của Pháp và do lực lượng quá chênh lệch, ông Dô" và
nghĩa quân rút về xóm Mát, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát.
Đến năm 1918, trong một cuộc chiến đâu ở vùng ngã ba Nhà
Mát, xã Long Nguyên, Điểu Dô" bị giặc Pháp bắn chết. Không
còn người chỉ huy nhưng đồng bào dân tộc vẫn tiếp tục cuộc dâu
chiến đâu chông lại ách thông trị của thực dân Pháp. Trong
29

3.9 Page 29

▲back to top
nhiều năm liền, từ 1919 đến 1923, nghĩa quân Stiêng vẫn hoạt
động và có lúc mở rộng địa bàn sang cả đất Campuchia ở vùng
Xơ-rây Khơ-tum (Srey Khtum) và Xơ-rây Chia (Srey Chia).
Thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân và kêu gọi nghĩa
quân đầu hàng nhưng không có kết quả.
Từ năm 1912 trở đi, dưới sự lãnh đạo của N’Trang
Lơng(3), đồng bào các dân tộc vùng núi Bà Rá, Phú Riềng, Hớn
Quản, Lộc Ninh ... đã tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa chông lại
giặc Pháp. Cầm đầu các cuộc khởi nghĩa là những người được
đồng bào dân tộc gọi là “Tướng lĩnh” như các ông R’Dinh -
Chủ làng S’tieng ở sóc Bù Kơn, ông R’önglen Chủ làng Mnông
ỏ khu vực sông Đak Lung, sóc Bom Bu Nơr ... Đội quân của họ
thường có từ 150 đến 170 người, có lúc lên đến 400-500 người
gồm cả dân làng.
Đầu năm 1912, trong một trận mở màn, nghĩa quân
N’Trang Lơng đã phục kích bất ngờ, tấn công vào tòa đại lý
Pusna tiêu diệt một sô" lính khô" xanh và tên quan đồn. Chỉ huy
sở của chúng ở chân núi Nam Lia cũng bị tiêu diệt cùng một
lúc. Phát huy thắng lợi vừa giành được, ngay sau đó, nghĩa quân
lại phục kích các đơn vị tiếp tê" của Hăng-ri-mét-tơ-rơ từ Krache
tới. Sau những chiến thắng đó, thanh thê" của nghĩa quân ngày
càng lớn mạnh. N’Trang Lơng lây núi Nam Nung ở phía Nam
Đakmin làm căn cứ hoạt động.
Năm 1914, tiếp tục phát huy thế chủ động N’Trang
Lơng chỉ huy nghĩa quân tiêu diệt đồn Bu-mê-ra. Tên Đại úy
đồn trưởng Hăng-ri-mét-tơ-rơ là kẻ có nhiều nợ máu với đồng
bào dân tộc. Chính hắn đã hãm hiếp, giết cả vợ và con của
N’Trang Lơng. Đồn được xây dựng kiên cô" với hai trung đội
lính ngụy được trang bị đầy đủ vũ khí nên N’Trang Lơng phải
dùng kê" trá hàng. Ông cho hai chỉ huy thân tín của ông là
N’Ông Leng và R’Ding dẫn một sô" nghĩa quân ra trá hàng.
Ngày 2/4/1914, lễ đầu thú được tổ chức long trọng tại
Bu No - một địa điểm cách đồn Bu-mê-ra hơn nửa ngày đường.
Nghĩa quân kéo về dự râ"t đông. Lợi dụng việc bọn Pháp không
30

3.10 Page 30

▲back to top
biết mặt mình, N Trang Lơng trà trộn vào sô" thủ lĩnh ra “đầu
thú”, chờ có cơ hội thuận tiện sẽ nhanh chóng tiêu diệt Hăng-
ri-mét-tơ-rơ cùng bọn lính đi theo. Sau đó sẽ tập kích đồn Bu-
mê-ra, tiêu diệt sô"lính còn lại. về phía Hăng-ri-mét-tơ-rơ cũng
tới địa điểm làm lễ “đầu thú” cùng với 40 lính súng ống oai vệ.
Cuộc lễ “Đầu thú” được tiến hành vào lúc xế chiều.
Theo phong tục của đồng bào thì khi đình chiến hoặc liên minh
quân sự với nhau, vũ khí của hai bên đều phải mang ra tê" thần
đế cầu thần chứng giám. Giáo, mác, cung, nỏ của nghĩa quân
cùng tâ"t cả súng ông của giặc đều bó lại và chất thành đông.
Hăng-ri-mét-tơ-rơ cũng phải cởi cây súng ngắn và đặt trên sàn
nhà bên cạnh các cây kiếm của thủ lĩnh'nghĩa quân . Giữa lúc
đang “làm phép vũ khí”, N’Trang Lơng cho đến lúc này vẫn
ngồi trước mặt Hăng-ri-mét-tơ-rơ mà hắn không biết vì được
giới thiệu là một “Đầu làng”. Nhanh như chớp, N’Trang Lơng
chồm lên đâm chết Hăng-ri-mét-tơ-rơ. Sau khi tiêu diệt xong
bọn lính Pháp, nghĩa quân dùng kê" nghi binh tiêu diệt đồn Bu-
mê-ra.
Sau thất bại cay đắng ở Bu-mê-ra, thực dân Pháp dồn
hết lực lượng quân sự truy lùng ráo riết hòng bắt sông N’Trang
Lơng. Trong hoàn cảnh đó, đế bảo vệ thủ lĩnh của cuộc khởi
nghĩa, N’Trang Lơng cùng bộ tham mưu của ông tạm lánh sang
vùng phía Tây Di Linh (thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay) hoạt
động bí mật, chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đâu lâu dài.
Chính trong thời gian đó, Bu Luk Amprak vô"n là người chủ làng
người Mnông ở lưu vực sông Đak Huýt, một tướng lĩnh tài giỏi
được N’Trang Lơng giao cho việc lãnh đạo đồng bào Stiêng,
Mnông trên địa bàn rộng lớn thuộc toàn bộ vùng đất tỉnh Bình
Phước ngày nay.
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bô" dữ dội nhưng phong
trào đâu tranh của các dân tộc ít người ở vùng Bà Rá, Hớn
Quản, vẫn tồn tại. Năm 1925, thực dân Pháp mở con đường 14
nôi liền Sài Gòn với Đắc Lắc đến miền biển Trung Kỳ.
Đồng bào dân tộc quanh vùng bị đẩy vào tình cảnh vô
31

4 Pages 31-40

▲back to top

4.1 Page 31

▲back to top
cùng khôn khổ: thanh niên và người khỏe mạnh bị bắt đi làm
phu cho Pháp, nhà cửa bị phá, dân phải bỏ đi ở nơi khác xa
nguồn nước, nương rẫy đang mùa thu hoạch cũng không gặt hái
được ... Căm phẫn trước hành động tước đoạt tàn ác của giặc,
đồng bào các dân tộc đã chống lại lệnh của tên quận trưởng, tổ
chức lực lượng nghĩa quân do ông Rít Đinh, tướng lĩnh của Nơ
Trang Lơng chặn đánh một số lính đi thúc ép đồng bào. Đỉnh
cao của sự căm thù thể hiện ỏ chỗ tên quận trưởng Gatille dã bị
nghĩa quân và đồng bào ở Bù Đôp, tổ chức phục kích tiêu diệt.
Thực dân Pháp đàn áp dã man nhưng cuộc đâu tranh của nhân
dân không vì thế mà bị dập tắt, khiến cho việc làm con đường
này có lúc bị ngưng trệ. Tên Mo-ri-e về thay làm quận trưởng
Bà Rá vẫn theo phong cách thực dân, kẻ cướp. Đồng bào dân
tộc lại tiếp tục đấu tranh tìm cách tiêu diệt hắn.
Tinh thần đâu tranh bất khuất, kiên cường của nghĩa
quân và đồng bào các dân tộc vùng Hớn Quảng, Bà Rá là niềm
tự hào của nhân dân Bình Phước. Truyền thông đó tiếp tục
được phát huy trong những năm dài theo Đảng đấu tranh cách
mạng và kháng chiến, đế giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
2. Phong trào đấu tranh của công nhăn cao su:
Trong lịch sử, giai cấp công nhân nói chung và đội ngũ
công nhân cao su nói riêng, luôn bị bóc lột áp bức hết sức nặng
nề. Trước sự áp bức và bóc lột tàn bạo của bọn chủ đồn điền và
bọn tay chân của chúng, người công nhân không có con đường
nào khác là phải đứng lên đâu tranh chông lại để bảo vệ quyền
sông của mình.
Trong thời kỳ đầu do chưa có sự giác ngộ về giai cấp,
chưa có nhận thức đúng đắn về phương hướng và mục tiêu đâu
tranh nên những cuộc đâu tranh của công nhân cao su đều là
những cuộc đấu tranh tự phát nhằm thay đổi phần nào hoặc giải
thoát khỏi cuộc sông đau khổ, tủi nhục. Những hình thức phản
kháng tự phát khá phổ biến lúc bấy giờ là bỏ trốn, tự tử, nổi dậy
giết xu cai độc ác, chém Tây, lẩn công, hạ triệt cây trồng...
32

4.2 Page 32

▲back to top
Bỏ trôn là một kiểu phản ứng thường thây của những
người phu trong giai đoạn đầu mới thành lập đồn điền.
Nhưng trong số những người đi trốn, sô" trôn thoát rất ít.
Đa sô" gặp phải những sô" phận bi thảm: hoặc làm mồi cho thú
dữ, hoặc bị những người dân tộc thiểu sộ" lầm lạc bị Tây mua
chuộc bắt đem về nộp cho Tây lĩnh thưởng, hoặc bị bọn lính đồn
bắt lại trừng phạt, hành hạ đến máu đổ, thịt rơi như trường hợp
7 người phu trôn bị lính bắt lại ở đồn điền Phú Riềng mà Trần
Tử Bình đã kể lại trong “Phú Riềng Đỏ”: “Thằng chủ hạ lệnh
cho lính mang giày dinh dá vào người, bắt dằn người xuống đât,
cho lính giẫm giày đinh lên lồng ngực, người đứng ngoài nghe
thây tiếng xương gẫy kêu rau ráu. Giẫm giày đinh xong, chúng
còn đánh tiếp một trận gậy “thừa sông thiếu chết” nữa rồi bỏ
vào nhà tôi cùm lại. Một tuần sau, nhân có chuyện phạt cùm
một công nhân khác, chúng mở cửa nhà tôi ra thì 7 người bữa đó
đã chết hết, chân vẫn còn tra chéo trong cùm”.
Đôi với hình thức đâu tranh này của công nhân cao su,
Cuộc khởi nghĩa của 300 nghía binh đồng bào s tiéng - M nòng ớ đốn Bú Dỏp
ngày 2.4.1934 (tranh sơn dầu).
33

4.3 Page 33

▲back to top
trở ngại lớn nhất là sô đồng bào dân tộc thiểu sô" bị bọn chủ tư
bản đồn điền Pháp vừa dọa dẫm, vừa dụ dỗ theo chúng để lùng
bắt những công nhân chạy trôn. Một sô" người vì sợ, một sô"
người bị lừa mị, mua chuộc nên làm theo lời chúng. Kết quả là
một sô" công nhân đồn điền cao su thoát khỏi bọn xu, bọn lính
khô" xanh nhưng lại không thoát khỏi tay một sô" người Thượng
bị lầm lạc. Do đó, muôn chạy trôn được, anh em công nhân phải
phá vỡ được âm mưu chia rẽ dân tộc bằng cách cảm hóa và xây
dựng tình thương yêu đoàn kết với đồng bào dân tộc thiểu sô".
Nhâ"t là phải làm cho họ thây được người Kinh, người dân tộc
thiểu sô" tuy cảnh ngộ khác nhau nhưng đều là bạn, là anh em
ruột thịt và đều có kẻ thù chung là thực dân Pháp. Trong quá
trình đâu tranh tự phát chông bọn chủ tư bản đồn điền, công
nhân cao su đã dần dần làm thất bại âm mưu chia rẽ dân tộc
của thực dân Pháp. Sô" công nhân chạy trôn và thoát được ngày
càng tăng.
Do sô" phu đồn điền bỏ trôn ngày càng nhiều nên năm
1927, thực dân Pháp phải thành lập “Sở những người kiểm soát
lao động” (Service des controleurs de travail) với quyền hạn
đặc biệt để bắt lại những công nhân chạy trôn. Do đó, từ những
năm 1928, 1929 chúng bắt được nhiều người bỏ trôn hơn những
năm trước.
Tự tử cũng là hình thức phản kháng tự phát mang tính
tiêu cực ở thời kỳ đầu. Do cuộc sông nô lệ đen tối và đầy bi
thảm, không có lối thoát, không hy vọng tha thiết gì với tứơríg
lai, công nhân đồn điền cao su đã dùng cách tự sát để châm dứt
nỗi khổ cực của mình. Cũng có người tự sát vì bị ô nhục, tinh
thần bị tổn thương, phẩm giá bị nhơ nhuôc. Những trường hợp tự
tử như vậy không phải là ít các đồn điền cao su trong những
ngày đầu khi chưa có cách mạng dẫn dắt con đường đâu tranh.
Nguyễn Mạnh Hồng, một công nhân cao su kỳ cựu từ
năm 1930 ở đồn điền Phú Riềng nói về tình hình tự tử củẩ phu
đồn điền như sau:
“Tự sát thì nhiều vì con đường đánh Tây để về Bắc rất
34

4.4 Page 34

▲back to top
khổ nên người đau ốm chỉ giải quyết bằng cách tự sát: tự sát
trong nhà, tự sát ở suối nước. Từ nhà ra rừng cao su lúc nào
cũng có mùi hôi thôi của người tự sát treo cổ”(4)
Trong cuốn hồi ký ” Phú Riềng Đỏ”, Trần Tử Bình cũng
nói: “Công nhân thì quá cực đến nỗi có người ra rừng mượn sợi
dây treo cổ lên cành cây cho thoát nợ”.
Nổi dậy chém cai xu ác ôn và Tây là hình thức phản
kháng quyết liệt nhất trong thời kỳ đầu. u ấ t ức đến cùng cực,
lại cảm thây không còn con dường sống nào khác, một sô" công
nhân cao su đã chọn một hình thức phản kháng quyết liệt là
vùng dậy chém bọn chủ Tây độc ác.
Tiêu biểu nhâ"t là tháng 10/1927, anh Nguyễn Đình Tư
cầm đầu 120 công nhân làng 2 đồn điền cao su Phú Riềng nổi
dậy chém chết tên Mông-tây (Monteil) thời tên chủ sở Tri-e
(Triai) thông trị. Thường xuyên chứng kiến cảnh công nhân bị
đánh đập tàn nhẫn và hành động dâm đãng của bọn xu, sếp,
s "Đội quân Cung tê n ’’ cua đống bào tiêng.
35

4.5 Page 35

▲back to top
nhất là tên Mông-tây, anh Nguyễn Đình Tư cùng một sô" anh
em công nhân đồng tâm cắt huyết ăn thề sẽ trả thù bọn Tây mà
đốĩ tượng đầu tiên là tên Mông-tây tàn ác khét tiếng.
Vào một buổi sáng điểm danh như thường lệ, lợi dụng
lúc Mông-tây đang mải mê hạch sách, nạt nộ công nhân, anh
Nguyễn Đình Tư đột ngột đứng lên vung cao lưỡi búa nguyệt bổ
xuống người hắn. Tiếp theo là hàng loạt lưỡi búa chứa chất căm
hờn của công nhân làng 2 bổ tới tấp vào người tên ác ôn. Mặc
dù bị tấn công bất ngờ và bị thương nặng hắn vẫn cô" chạy về
buồng riêng lây súng nhưng mới tới chân cầu thang Mông-tây
đã bị 9 nhát búa vào thân thể. Nhát búa cuối cùng bửa một nửa
mặt của hắn. Những tên cai khác bị anh em công nhân dùng
dao, cuốc, rựa đuổi chạy tán loạn.
Cuộc nổi dậy đã đạt được mục tiêu, Mông -Tây bị giết
chết nhưng ngay sau đó anh em công nhân bị đàn áp khốc liệt.
Tên Tri-e chủ sở huy động lính vây tròn bôn phía, bắt đi khoảng
40-50 công nhân, đích thân Tri-e giương súng bắn chết một sô"
người. Một sô" công nhân chạy thoát ra rừng nhưng họ bị bọn
lính dùng người Thượng đuổi bắt đẹm về nộp lây thưởng. Một
sô"khác trúng đạn bị thương bị lính lôi về nhưng không được cứu
chữa theo lệnh chủ sở nên cũng chết. Những người chết bị vùi
xác luôn ngoài rừng, cả những người còn ngắc ngoải cũng bị
chôn sông. Sở mật thám Biên Hòa tra tân dã man tất cả sô"công
nhân bị bắt để tìm ra người chủ mưu. Anh Nguyễn Đình Tư bị
Tòa án Biên Hòa tuyên án tử hình, hai công nhân khác bị xử tù
chung thân.
Sau vụ này, tên chủ nhát Tri-e càng khủng bô" đàn áp
công nhân dữ dội hơn. Không khí trong đồn điền ngột ngạt tới
mức anh em công nhân đi lại không dám nhìn ngang.
Cuộc nổi dậy này tuy có bị tổn that, do anh em công
nhân chưa thây được kẻ thù chính cần phải đánh đổ để tự giải
phóng là toàn thể bọn chủ tư bản và bè lũ tay sai trong đồn điền,
là chủ nghĩa thực dân Pháp đang nô dịch cả dân tộc. Song, cuộc
nổi dậy này đã tạo ra tiếng vang rất lớn. Báo chí tiếng Việt,
36

4.6 Page 36

▲back to top
tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn đều đăng lại sự việc này.
Kiện ra tòa và tô" cáo tội ác của bọn chủ đồn điền cũng
là một hình thức phản kháng tự phát của công nhân cao su trong
thời kỳ đầu khi chưa có Đảng lãnh đạo. Tiêu biểu là vụ kiện ra
toà tên Va-lăng-tanh (Valentin) đánh chết anh Nguyễn Văn
Chánh ở đồn điền cao su Phú Riềng vào cuối năm 1927(5).
Căm phẫn trước hành động tàn ác của Va-lăng-tanh,
một sô" công nhân tiến bộ đã vận động mọi người cùng vợ anh
Chánh làm đơn kiện ra tòa án Biên Hòa. Chiếu theo đơn kiện,
Tòa án Biên Hòa về đồn điền lây khẩu cung và khám nghiệm
tử thi nhưng bọn chủ sở đã đút lót mọi cửa để chạy tội cho tên
giết người. Vì vậy, kết quả xét xử thật chua chát. Tòa án Biên
Hòa cho rằng Va-lăng-tanh chỉ phạm tội ngộ sát và bắt hắn bồi
thường 5đ cho vợ anh Chánh. Điều đó làm cho công nhân vừa
phẫn uất, vừa bi quan nhưng đây cũng là bài học lớn cho nhận
thức của họ: không bao giờ có sự công bằng và bình đẳng giữa
kẻ đi xâm lược và người bị thông trị.
Cùng với việc kiện ra tòa, công nhân cao su đồn điền
Phú Riềng còn khéo léo tô" cáo tội ác của bọn chủ sở với thanh
tra Pháp và thanh tra Việt khi họ về thanh tra đồn điền. Lần
đầu, công nhân cao su tô" cáo tội ác của bọn chủ sở với Đờ-la-
ma (Delamarre) - thanh tra lao động người Pháp vào cuối năm
1927; lần thứ hai công nhân tô" cáo tội ác của bọn chủ đồn điền
với Bùi Bằng Đoàn - thanh tra của Chính phủ Nam Triều vào
cuối năm 1928. Cả hai lần, công nhân đều khéo léo dẫn dắt các
viên thanh tra này tận mắt chứng kiến tội ác man rợ của bọn
chủ đồn điền. Song việc tô" cáo cũng không đem lại kết quả.
Đờ-la-ma thu thập tư liệu, ăn nhậu chè chén, nhận quà đút lót
của chủ sở rồi lặng lẽ ra về. Còn Bùi Bằng Đoàn, tính tinh
khẳng khái, cũng thu thập được nhiều tư liệu nhưng chẳng làm
được trò trông gì vì cả triều đình Huê" đã quá yếu thê", chỉ còn là
công cụ để bọn thực dân đê" quốc sai khiến.
Trong các hình thức đâu tranh tự phát của công nhân
cao su trước khi Đảng ra đời còn có hình thức lãn công, triệt hạ
37

4.7 Page 37

▲back to top
cây. Hình thức đấu tranh này cũng giống hình thức đâu tranh
phá hoại máy móc của công nhân công nghiệp phương Tây.
Người công nhân trút căm thù lên tài sản của bọn chủ đồn điền.
Hình thức đâu tranh này cũng gây ra cho bọn chủ đồn điền thiệt
hại đáng kể về mặt kinh tế. Vì vậy chúng phải buộc thay đổi
cách đối xử và phương thức bóc lột. ở đồn điền Phú Riềng, khi
Va-sê (Vachet) về thay cho Tri-e (Triai), vừa đặt chân đến đồn
điền (1928) hắn đã tuyên bô: “Câm Xu-vây-dăng đánh đập
công nhân”. Va-sê còn bỏ tiền ra mua sắm quần áo, mũ mão,
nhị trống cho công nhân lập phường chèo, phường nhạc cổ.
Bằng cách đó, Va-sê cho rằng sẽ xoa dịu đưực công nhân để họ
khỏi nổi loạn. Ngoài ra, Va-sê còn đặt ra chế độ khoán công
việc nhưng lương vẫn cô định để hạn chế việc công nhân lãn
công.
Như vậy, ngay trong những ngày đầu tư bản thực dân
Pháp khai thác đồn điền cao su, công nhân đã đứng lên chống
lại chế độ hà khắc, chống lại sự đối xử dã man, tàn bạo của bọn
chủ tư bản đồn điền với nhiều hình thức, mức độ khác nhau.
Các cuộc đấu tranh này thực chất là đấu tranh giai cấp nhưng
nhìn chung mới là những phản kháng mang tính chất tự phát.
Một vài hình thức đấu tranh còn mang tính chất tiêu cực, ý thức
giác ngộ giai cẫp chưa cao. Mặt khác, những cuộc đấu tranh
này còn diễn ra lẻ tẻ ở nơi này, nơi khác, chưa kết hợp thành
phong trào đâu tranh chung. Do vậy, hầu hết bị thất bại, trong'
nhiều trường hợp bị đàn áp đẫm máu. Tuy nhiên, qua những
cuộc đấu tranh đầy máu và nước mắt thời kỳ này công nhân
càng thương yêu, hiểu biết và gắn bó với nhau hơn. Nhận thức
của họ về kẻ thù, về giai cẫp ngày càng được nâng cao hơn,
kinh nghiệm đấu tranh cũng ngày càng được tích lũy phong phú
hơn.
Sau một thời kỳ đấu tranh 'dưới các hình thức tự phát
chống lại chế độ hà khắc và sự dã man các đồn điền, cuối
những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với phong trào công nhân
cả nước, phong trào đấu tranh của công nhân cao su ở Bình
Phước bắt đầu có những chuyển biến mới mang tính tự giác.
38

4.8 Page 38

▲back to top
Dưới sự lãnh đạo của các
chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, sau là chi bộ Đông
Dương Cộng sản Đảng ở đồn điền
Phú Riềng, công nhân cao su Bình
Phước bắt đầu chuyển từ đâu tranh
tự phát sang đâ"u tranh tự giác; ý
thức giai cấp và phong trào đấu
tranh của công nhân cao su có
những bước trưởng thành vượt bậc,
góp phần to lớn vào phong trào đâu
tranh cách mạng của nhân dân cả
nước.
*
*
*
Đồng chi Trần Tứ Bình - B i thư chi
bộ đồn điền Phú Riềng 1930 - Thiếu
tương Quân đội Nhân dân
Việt Nam.
Từ khi thực dân Pháp tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược, đồng bào các dân tộc thiểu số
đã anh dũng đứng lên đâu tranh chông lại sự cướp đoạt trắng
trỢn và tàn bạo của bọn tư bản thực dân. Các cuộc đấu tranh
của đồng bào dân tộc thiểu sô" làm cho tư bản thực dân Pháp
phải mâ"t nhiều năm mới thành lập được các đồn điền cao su và
dựng lên tầng lớp tay sai thân Pháp để đàn áp nhân dân.
Cùng với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, các đồn điền cao su được thành lập và đội ngũ công nhân
cao su ra đời. Khi chưa có Đảng lãnh đạo, công nhân cao su
phải chịu bao cảnh cơ cực lầm than do sự bóc lột tàn khốc của
tư bản đồn điền Pháp. Không cam chịu kiếp sông nô lệ, buổi
đầu công nhân cao su phản ứng chông lại bọn chủ tư bản Pháp
nhưng chỉ là những cuộc đâu tranh tự phát, đơn lẻ nên không
đem lại kết quả. Trái lại, bọn chủ tư bản đồn điền kết hợp với
bộ máy thông trị thực dân đàn áp công nhân vô cùng dã man.
Cuộc sông của đồng bào dân tộc thiểu sô" và công nhân cao su
cực kỳ đen tôi tưởng như không có đường ra.
Khi chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và sau
39

4.9 Page 39

▲back to top
đó là chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở đồn điền Phú
Riềng đã tạo một luồng sinh khí mới cho phong trào cách mạng
của nhân dân. Chi bộ cộng sản ở đồn điền Phú Riềng là một
trong những chi bộ ra đời sớm nhất ở miền Đông Nam bộ. Đó là
kết quả quá trình đâu tranh anh dũng của đồng bào các dân tộc
thiểu sô và công nhân cao su, là kết quả của quá trình tuyên
truyền vận động, xây dựng tổ chức của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên và Đông Dương Cộng sản Đảng. Với truyền
thông anh dũng quật cường, vùng đất Bình Phước chính là nơi
ươm trồng những hạt giông cách mạng của Đảng. Từ khi có chi
bộ cộng sản, công nhân cao su và đồng bào các dân tộc thiểu số
được tuyên truyền giác ngộ và tổ chức lại. Họ đã nhận rõ bản
chất, bộ mặt thật của kẻ thù tư bản thực dân, từng bước giác ngộ
giai cáp và nhận thức phương pháp đấu tranh cách mạng đúng
đắn theo con đường của chủ nghĩa Mác-lênin. Chính vì vậy,
phong trào đấu tranh của công nhân cao su và đồng bào các
dân tộc thiểu sô" trong những năm 1928-1930 đã chuyển dần từ
tự phát sang tự giác. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, phong trào đâu tranh cách mạng của nhân dân bước vào
giai đoạn mới: đâu tranh giải phóng giai cáp, giải phóng dân
tộc.
40

4.10 Page 40

▲back to top
PHẦN I
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN BÌNH PHƯỚC
ĐÂU TRANH CÁCH MẠNG, TIEN t ớ i
TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYÊN
(1930- 1945)
CHƯƠNG I: Sự RA ĐỜI CỦA CHI BỘ CỘNG SẢN
ĐẦU TIÊN VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
TỪ (1930 - 1935)
I.
CHI Bộ CỘNG SẢN ĐẦU TIẾN RA ĐỜI LẢNH ĐẠO cuộc
ĐẤU TRANH C ỦA CÔ NG NHÂN CAO su PHÚ RIỀNG:
Tháng 6/1925, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên ra đời ở Quảng Châu - Trung Quốc, do đồng chí Nguyễn
Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo. Đây là tổ chức tiền thân chuẩn
bị cho sự ra đời một Đảng Mác-xít ở Việt Nam. Nhiều hội viên
sau khi học tập huấn luyện ở đây đã trở về nước hoạt động.
Năm 1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên ở Nam Kỳ được thành lập. Năm 1928 thực hiện chủ trương
“Vô sản hóa”, nhiều hội viên của Kỳ bộ đã đi vào làm phu,
làm thợ ở các nhà máy, đồn điền miền Đông Nam Kỳ để tuyên
truyền vận động và xây dựng tổ chức cách mạng, đồng thời
cũng tự rèn luyện lập trường quan điểm giai cấp công nhân.
Một trong những hội viên tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Xuân
Cừ (tức Nguyễn Văn Vĩnh) được cử đi “Vô sản hóa” ở đồn điền
cao su Phú Riềng. Đồng chí Cừ quê ở Bắc Ninh, học sinh trường
Bưởi Hà Nội, có bằng tú tài, nói tiếng Pháp thông thạo sớm
giác ngộ cách mạng, đến “Vô sản hóa” cao su Phú Riềng vào
khoảng đầu năm 1928.
Làm công nhân ở Phú Riềng, anh hoạt động rất thận
41

5 Pages 41-50

▲back to top

5.1 Page 41

▲back to top
trọng khi thâm nhập vào công nhân. Trước khi tuyên truyền cho
ai thì điều tra, nghiên cứu kỹ người ấy rồi mới tiếp xúc. Anh
tuyên truyền cho họ những kinh nghiệm thành công và thất bại,
cũng như phương pháp đấu tranh cụ thể, chỉ ra cho họ thế nào
là một cuộc đâu tranh có tổ chức, phải đề ra khẩu hiệu, yêu
sách đấu tranh, phải lập ban lãnh đạo, phải có tổ chức bảo hộ,
phải tích trữ lương, thực, Anh kể cho họ nghe về đất nước Xô
Viết, về phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân thê
giới... Quan trọng hơn cả là anh thường giảng giải kỹ vân đề lý
luận cách mạng có quan hệ trọng đại'đến phong trào cách
mạng như thế nào và nêu lên những phương pháp đấu tranh
mới. Những vấn đề đó hoàn toàn mới mẽ đối với những người
công nhân ở đây, có tác đụng lớn đối với phong trào công nhân
Phú Riềng. Người đầu tiên anh tìm đến liên lạc là Trần Tử Bình
lúc đó đang làm công nhân quét dọn, giặt giũ ở trạm xá, người
nổi tiếng trong các trận đâu tranh trước đây. Và nhiều công
nhân dần dần nảy sinh tình cảm đôi với cách mạng và ít lâu sau
họ xin vào tổ chức. Ngoài ra, một mặt tuyên truyền cho công
nhân, mặt khác vẫn liên hệ chặt chẽ với đồng chí Ngô Gia Tự,
đại diện cho Đông Dương Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ (lúc đó ở
Sài Gòn - Chợ Lớn) báo cáo cụ thể tình hình công nhân ở Phú
Riềng và nhận sự chỉ đạo sâu sát hơn.
Sau một thời gian tuyên truyền, phát triển hội viên,
tháng 4/1928, chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
đồn điền Phú Riềng được thành lập gồm 5 hội viên Nguyễn
Xuân Cừ, Trần Tử Bình, Phan Thu Hồng Tạ và Hòa, do đồng
chí Nguyễn*Xuân Cừ làm Bí thư. Đây là tổ chức cách mạng có
xu hướng cộng sản đầu tiên, đã lãnh đạo công nhân Phú Riềng
cho đến cuối tháng 10/1929.
Ngày 20/10/1929, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên một cuộc đình công lớn với 2.000
công nhân tham gia nổ ra ở Phú Riềng. Đây là cuộc đình công
đông đảo nhất so với những năm trước. Anh em cử đại diện lên
gặp tên chủ sở Xu-ma-nhắc (Soumagnac) đưa các yêu sách đòi
tăng lương, chông đánh đập, không ăn gạo ẩm, gạo mục, nữ
42

5.2 Page 42

▲back to top
công nhân nghỉ đẻ được hưởng lương.. Đầu tiên, tên chủ sở cho
lính đến đàn áp và bắt một sô"công nhân đánh đập dã man. Anh
em công nhân kiên trì đâu tranh không manh động, buộc chủ
chấp nhận giải quyết các yêu sách. Thắng lợi này đã cổ vũ
phong trào công nhân địa phương trong bôi cảnh các tổ chức
cộng sản đang hình thành trên cả nước.
Sau khi được thành lập, khoảng tháng 8/1929 Trung
ương lâm thời Cộng sản Đảng Bắc Kỳ cử đồng chí Ngô Gia
Tự và một sô"đồng chí khác vào Sài Gòn xây dựng 3 cơ sở trọng
yếu Đảng 3 nơi trên đất Nam Kỳ, đó là Vĩnh Kim (Mỹ Tho),
Ba Son (Sài Gòn) và Phú Riềng. Sau một thời gian ở Sài Gòn,
đồng chí Ngô Gia Tự liên lạc được với đồng chí Nguyễn Xuân
Cừ ở Phú Riềng. Lúc này đồng chí Cừ bên trong là Bí thư chi bộ
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Phú Riềng, bên ngoài
lại là thư ký cho tên Lơ Bông-Su-Vây-Lăng ở làng 3, nên chủ
sở câp giây đi lại tự do, nhờ vậy đồng chí Cừ đi lại nhiều lần lên
Sài Gòn-Chợ Lớn, lấy cớ đi thăm họ hàng, nhưng thực chất là
đi làm cách mạng.
Thực hiện chủ trương phát triển tổ chức Đảng của Trung
ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, đồng chí Ngô Gia
Tự đã chỉ đạo cho đồng chí Nguyễn Xuân Cừ thành lập chi bộ
Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng. Vào đêm 28/10/
1929, tại bờ suôi khu rừng sau lưng làng 3, chi bộ cao su Phú
riềng được thành lập có 6 đảng viên gồm: Nguyễn Xuân Cừ,
Trần Tử Bình, Tạ, Hồng, Hòa và Doanh, đồng chí Nguyễn
Xuân Cừ được cử làm bí thư chi bộ. Đây là chi bộ Đảng Cộng
sản đầu tiên của Bình Phước và đồng thời là chi bộ đầu tiên của
ngành cao su Việt Nam.
Sau khi thành lập, chi bộ phân công các đồng chí đảng
viên phụ trách các mặt công tác: Đ/c Trần Tử Bình phụ trách tổ
thanh niên xích vệ đội, đ/c Tạ phụ trách làng sô"2, đ/c Hồng phụ
trách nghiệp đoàn, đ/c Doanh phụ trách làng sô" 3, đồng chí Hòa
cùng làm ở gara ô tô giúp đồng chí Hồng trong công tác vận
động công nhân lái xe và cơ khí đó. Các đảng viên trong chi
bộ khẩn trương bước vào cuộc chiến đâ"u mới, nhằm đáp ứng
43

5.3 Page 43

▲back to top
yêu cầu của phong trào công nhân đồng thời nhằm đối phó lại
những âm mưu và hành động nham hiểm của kẻ thù.
Các đảng viên được học tập về chủ trương của Đảng,
trong đó có các vấn đề đem lại ruộng đất cho dân cày, công
nhân phải tiến lên giành lại nhà máy, đồn điền và giải phóng
dân tộc, được đọc báo “Thanh niên giải phóng” của Đông Dương
Cộng sản Đảng, báo “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp.
về phương hướng, chi bộ chủ trương đi ngay vào việc tổ
chức đấu tranh đòi các quyền lợi thiết thực như tăng lương, cải
thiện chỗ ăn, chỗ ở, điều kiện sinh hoạt văn hóa tinh thần, đấu
tranh không được cúp phạt, đánh đập...
Trên có sở nghiệp đoàn công nhân, đã được thành lập
tháng 6/1928, đến lúc này chi bộ chú ý. xây dựng một nghiệp
đoàn bí mật, đông đảo và vững mạnh hơn. Nghiệp đoàn do
đồng chí Hồng, một đảng viên trực tiếp làm thư ký. Tháng 11/
1929, đồng chí Hồng đã tổ chức thành công cuộc đấu tranh đưa
yêu sách cho bọn cai quản xưởng cơ khí đòi tăng lương, chông
đánh đập, trợ cấp cho phụ nữ hậu sản;.. Công nhân tham gia
nghiệp đoàn rất đông, mọi chủ trương của chi bộ thông qua
nghiệp đoàn vận động đều được công nhân ủng hộ. Chính nhờ
tổ chức này, mà chi bộ Phú Riềng chưa đến 10 đảng viên vẫn
đủ sức lãnh đạo các cuộc đấu tranh từ nhỏ đến lớn.
Nghiệp đoàn còn ra tờ “Giải thoát” nhằm tuyên truyền
giáo dục ý thức cách .mạng, hướng dẫn công nhân đấu tranh
theo đường lối của Đảng, in bí mật phân phát cho công nhân
chuyền tay nhau xem. Nội dung, viết sát với tình hình, phê phán
những thói hư tật xâu trong công nhân do chế độ thực dân gây
ra, nêu kinh nghiệm đấu tranh công nhân các nơi, nêu lên đạo
đức mới của công nhân, thông tin hoạt động nghiệp đoàn ở các
đồn điền, thời sự, chính trị quốc tế.... Tờ “Giải thoát” được đồng
chí Ngô Gia Tự thưộng xuyên theo dối và chỉ dẫn. Đây là tờ báo
đầu tiên của công nhân ngành cao su Việt Nam. Tác dụng của
tờ báo cơ sở, cùng với tác dụng của những tờ báo, tài liệu do
cấp trên chuyển đến và sự hoạt động của các đảng viên cộng
44

5.4 Page 44

▲back to top
sản, các cán bộ nghiệp đoàn, tất cả đã góp phần nâng cao sự
giác ngộ của giai cấp công nhân và chỉ cho họ biết cách đấu
tranh giành thắng lợi.
Ngoài tổ chức nghiệp đoàn, chi bộ còn có một đội thanh
niên xích vệ rất mạnh, do đồng chí Trần Tử Bình phụ trách.
Mỗi làng chi bộ tổ chức một tiểu đội gồm 40 thanh niên công
nhân vũ trang bằng nhiều thứ vũ khí tự tạo. Tổ chức này có Ị
nhiệm vụ bảo vệ chi bộ, bảo vệ côngnhân trong các cuộc đấu/
tranh, lúc bình thường thì canh gác xộm làng. Đội vũ trang này í
đã phát huy tác dụng rất tốt trong cuộc nổi dậy “Phú Riềng Đ ỏ’/
vào tháng 2/1930.
Chi bộ Phú Riềng rất chú trọng công tác bồi dưỡng phát
triển đảng viên mới. Đêm ngày 7/11/1929, chi bộ bí mật tổ
chức kỷ niệm Cách mạng tháng 10 Nga và kết nạp đảng viên
mới là đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng. Ngoài ra còn góp phần
vào việc đào tạo các “hạt giông đỏ” cho các đồn điền khác.
Đến cuối năm 1929 đồng chí Nguyễn Xuân Cừ bí thư chi bộ bị
Pháp trục xuất, vì nghị vấn làm chính trị, đồng chí phải thôi việc
về Sài Gòn hoạt động bất hợp pháp. Bí thư chi bộ giao lại cho
đồng chí Trần Tử Bình thay thế và tiếp tục thực hiện cuộc đâu
tranh trong tình hình mới.
Ngày 31/1/1930, chi bộ phát động một cuộc đấu tranh
lớn được tuyệt đại đa sô anh em công nhân ủng hột Mục đích
của cuộc đấu tranh này là đòi quyền lợi kinh tế cho nhiều đôi
tượng. Để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh, đêm 28 tết (tức ngày 27/
1/1930) Ban chấp hành nghiệp đoàn cao su theo chỉ thị của chi
bộ cộng sản đã mở Hội nghị Đại biểu công nhân của 5 trong sô"
10 làng công nhân, thảo luận nhiều lần ở trong rừng, nhất trí với
các yêu sách: cấm dánh đập, cấm cúp phạt lương, miễn sưu
thuế, trả lương cho công nhân nghỉ đẻ, bồi thường cho công
nhân bị tai nạn lao dộng, trả về quê cũ những người hết hạn
giao kèo, trả tư do cho những người bị bắt... đồng thời kiểm tra
lại tình hình chuẩn bị, thông nhất yêu sách đề ra, thông nhất
đánh đòn thị uy ra quân bằng hình thức chúc tết chủ sở sáng
mồng 1 tết.
45

5.5 Page 45

▲back to top
Vào sáng mồng 1 tết Canh Ngọ (tức ngày 30/1/1930),
công nhân mở đầu cuộc đấu tranh bằng “ đòn thị uy ra quân”,
công nhân lợi dụng việc chúc tết, đưa các yêu sách lên chủ sở,
nhưng không được trả lời. Trước tình hình đó, các đảng viên và
cán bộ nghiệp đoàn tăng cường tuyên truyền, giải thích cho
công nhân hiểu rõ vì sao họ bị cực khổ, đồng thời kêu gọi anh
em đồng tãm hiệp lực kiên trì đâu tranh đòi cho được quyền lợi,
không nản chí ngã lòng. Được đông đảo công nhân tỏ thái độ
đồng tình, chi bộ quyết định tiến tới bãi công sau 3 ngày tết.
Ban chấp hành nghiệp đoàn, được sự chỉ đạo của chi bộ
đã bí mật thông báo cho công nhân ở đâu cứ ở đó, đến bao giờ
bọn chủ giải quyết những yêu sách của mình, Ban chấp hành
nghiệp đoàn thông báo cho anh em đi làm.
Ngày 3/2/1930 (mồng 5 tết), là ngày làm việc trở lại
sau nghỉ tết, 5.000 công nhân thực hiện tổng bãi công.
v ề phía chủ sở, thấy hết hạn nghỉ mà toàn thể phu thợ
không ai đi làm. Chúng ra lệnh cho bọn cai, lính đến thúc ép
nhiều người 3 làng đi làm việc, cồn 7 làng khác thì bất động cho
nên bị đàn áp. Tên cai Tây Đờ Cát-ly đánh chết anh Cảo làng
9, bắt giam anh cai Lự... lập tức bị công nhân phản kháng, đánh
đuổi và sau đó đưa đơn kiện lên chủ sờ.
Nhạy bén với sự kiện nóng bỏng vừa xảy ra, chi bộ giao
cho nghiệp đoàn phát động biến căm thù thành một cuộc thị uy
trực diện với chủ sở và đưa những yêu sách mới phải bồi thường
tính mạng anh Cảo, trả tự do cho cai Lự, đuổi tên cai Tây giết
người...đồng thời viết khẩu hiệu mới. “ Chủ sở không chấp nhận
yêu sách, quyết không đi làm”, khiến cho mọi công nhân đồng
tình ủng hộ.
Sáng ngày 4/2, nghiệp đoàn tổ chức một cuộc biểu tình
lớn bao gồm công nhân 10 làng tham gia, cố' các đội tự vệ hổ
trỢ. Quận trưỏng Mo-ri-e quận Bà Rá trực tiếp dẫn 25 lính khô"
đỏ đến đàn áp công nhân, khoảng 800 công nhân áp đảo làm
chúng phải nhượng bộ, bỏ chạy. Ta bắt được 5 tên, thu 7 khẩu
46

5.6 Page 46

▲back to top
súng, trang bị cho đội tự vệ. Họ hiên ngang kéo thẳng vào gặp
chủ sở Xu-ma-nhắc. Chủ sở sợ quá phải mở cửa điều đình.
Công nhân cử 2 đồng chí Hồng và Tạ đưa yêu sách đã định từ
trước. Tên chủ sở Xu-ma-nhắc sợ hãi chấp nhận không dám
chần chừ. Biên bản được ký kết giữa chủ sở và công nhân, cam
kết thực hiện những yêu sách của công nhân, là điều có một
không hai ở Phú Riềng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, tư bản
đồn điền cao su Pháp ở Việt Nam ký vào biên bản chấp nhận
yêu sách đấu tranh của công nhân.
Sau thắng lợi lớn của công nhân, đại diện Ban châp
hành nghiệp đoàn tuyên bô" giải tán để ngày mai đi làm, nhưng
chủ trương dúng đắn này không được chấp hành nghiêm chỉnh.
Bỏi vì anh em công nhân quá say sưa với chiến thắng, một sô"
cán bộ nảy sinh ra tư tưởng manh động, trên dường về làng biểu
dương lực lượng, hoạt động công khai. Diễn văn nghệ, luyện
tập quân sự, diễn thuyết, bắn súng thị uy làm kích động tâm lý
khởi nghĩa với hàng trăm người tham dự. Nhiều người trong đó
có cán bộ nghiệp đoàn, đảng viên có tư tưởng bạo động giành
chính quyền toàn đồn điền... bọn cai, lính hoang mang bỏ chạy,
không dám chông cự. Tinh hình đó làm cho anh em công nhân
càng tưởng rằng ngày đâu tranh chiếm chính quyền ở Phú Riềng
đã đến. Do đó, ở nhiều làng bà con công khai trưng cờ đỏ búa
liềm, các tổ chức nghiệp đoàn, thanh niên tự vệ, chi bộ Đảng từ
chỗ hoạt động bí mật chuyển ra hoạt dộng công khai. Công
nhân làm chủ các làng và tại làng 3 trở thành trung tâm hoạt
động công khai, họ tổ chức đi phá kho gạo, kho thực phẩm... lây
cho công nhân, còn lại đem vào rừng dự trữ, phòng khi cuộc
đâu tranh kéo dài ngày vẫn có lương thực để sông.
Đến đây một vâ"n đề nóng bỏng đặt ra là cuộc đâ"u tranh
sẽ được phát triển như thế nào và sẽ đi tới đâu! Một cuộc tranh
luận diễn ra ở hội nghị chi bộ Đảng, có 2 ý kiến khác nhau. Một
ý kiến đa sô" đồng tình ủng hộ, một ý kiến khác của đồng chí
Trần Tử Bình, Nguyễn Mạnh Hồng và một sô" đảng viên không
châ"p nhận như vậy, họ đề nghị giải tán để bảo toàn lực lượng.
Trong lúc đang có nhiều ý kiến phân tán như vậy, Xứ
47

5.7 Page 47

▲back to top
ủy Nam Kỳ đã cử đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (lúc này ở Sài
Gòn) đến Phú Riềng kịp thời chỉ đạo phải chuyển hướng đấu
tranh. Đồng chí Cừ đã uốn nắn kịp thời lại tình hình và cùng chi
bộ, cán bộ nghiệp đoàn thuyết phục công nhân chấp hành chủ
trương của Đảng: trở về gia đình, phục hồi lao động, trả vũ khí
cho chủ. Nhờ vậy làm tiền đề cho cuộc đấu tranh sau này khỏi
đẫm máu.
Ngày 6/2/1930 chuẩn bị cho khởi nghĩa tự phát, trở thành
biểu tình ngồi và kết thúc thắng lợi. Riêng tại làng 3 và làng 9,
diễn ra nhiều tình huống căng thẳng giữa ta và đôì phương.
Trong khi đó, tên Xu-ma-nhắc, chủ đồn điền Phú Riềng
tìm biện pháp đối phó mạnh, một mặt chúng tập trung 10 nhân
viên người Tây và một số cai, xếp lính người Việt có vũ khí để
phòng thủ dinh cơ của hắn. Mặt khác báo điện về cho tỉnh
trưởng Biên Hòa, Thông đốc Nam Kỳ ở Sài Gòn xin giải cứu
nguy.
Nhận được điện báo của Xu-ma-nhắc, chính quyền thuộc
địa ở Sài Gòn và Biên Hòa cấp tốc huy động một lực lượng lớn
gồm có Thông đốc Nam Kỳ, Chánh mật thám Đông Dương,
Công sứ Biên Hòa cùng 500 lính bộ binh, xe bọc thép, 3 máy
bay đến uy hiếp tinh thần công nhân và sẩn sàng nả súng.
Nhưng chúng không thực hiện được ý đồ, vì ta chủ động đấu
tranh ôn hòa, không có gì để chúng hành dộng, chúng chỉ dọa
rằng cứ di làm việc ngày mai thì được lãnh gạo, còn ai đình
công thì bị phạt.
Tất cả công nhân đều ngồi chỉnh tề và có đại diện đứng
ra đối đáp với chúng, rồi đưa yêu sách. Riêng làng 9, lúc đầu
chánh mật thám hạ lệnh bắt 25 công nhân lên xe, ta đâu tranh
quyết liệt chúng phải thả hết, rồi 2 bên tiếp tục đấu lý với nhau
và kết thúc an toàn, bọn Pháp đành phải nhượng bộ và hứa sẽ
giải quyết những yêu sách của công nhân.
Cuộc đấu tranh mỏ dầu ngày 30/1 và kết thúc ngày 6/2/
1930 sau 8 ngày đấu tranh anh dũng “ Phú Riềng Đỏ” giành
48

5.8 Page 48

▲back to top
được thắng lợi to lớn, ảnh hưởng rộng rãi và để nhiều bài học
sâu sắc. Cuộc bãi công ấy, đã làm rung chuyển cả hệ thông địa
ngục cao su Đông Dương, làm chấn động dư luận báo chí trong
nước và nước Pháp. Bài học quý báu nhât của cuộc đấu tranh là
biết nổ ra đúng lúc giành thắng lợi và bảo toàn được lực lương
cách mạng, làm thất bại mưu đồ thảm sát của bọn thực dân
Pháp.
Sự xuất hiện Phú Riềng Đỏ chứng tỏ một khi đấu tranh
của công nhân có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng Cộng sản, thì
phong trào sẽ phát huy được bản chất sáng tạo của lực lượng
quần chúng, làm xuất hiện những nhân tô mới, khả năng mới để
phát huy cách mạng. Qua đó, cũng.chứng minh năng lực lãnh
đạo, uy tín lãnh đạo của chi bộ Phú Riềng Đỏ; Đảng của giai
cấp công nhân nói chung. <
II,
ĐẤU TRANH CHỐNG KHỦNG Bố TRANG, KHÔI PHỤC VÀ
PHÁTTRIỂN Lực LƯỢNG CÁCH M ẠNG 1932- 1935:
1. Khủng bô'trắng của thực dân Pháp sau năm 1930:
Trước làn sóng cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ
khắp nơi trong cả nước, thực dân Pháp và tay sai dã tập trung
mọi lực lượng khủng bố những người cộng sản và cơ sở Đảng.
Chúng thẳng tay dàn áp dã man những chiến sĩ cách mạng,
nhiều cơ sỡ Đảng bị tan vỡ, nhiều đẳng viên ưu tú bị chúng sát
hại. Phong trào cách mạng trong tĩnh cũng như trong cả nước
lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng.
Trên phạm vi cả nước, chỉ trong 3 ngày tháng 5/1931,
chúng bắt giam 246.532 người, kết án tử hình 8 người và kết án
tù chung thân 98 người. Tại Sài Gòn tính đến năm 1935, chúng
đã giết hại 833 người(6) . Tháng 4/1931, đồng chí Tổng Bí thư
Trần Phú và hầu hết các dồng chí trong Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đều bị địch bắt, Xứ ủy Nam Kỳ cũng tan rã.
Từ năm 1932 đến tháng 5/1935 Xứ ủy Nam Kỳ 4 lần bị
chúng đánh tan. Nhưng với truyền thông đấu tranh bất khuất
chông ngoại xâm, nhân dân cả nước vẫn bảo vệ những cơ sở
49

5.9 Page 49

▲back to top
cách mạng vừa bị địch khủng bô". Các cơ sở cách mạng vẫn
khéo léo tiếp tế cho các chiến sỹ cách mạng bị cầm tù và đâu
tranh hợp pháp giữ vững quyền lợi kinh tế hàng ngày và giữ
vững tấm lòng son sắt với cách mạng.
Tình hình trong tỉnh, phong trào cách mạng cũng gặp
khó khăn vì hệ thông trạm kiểm soát, mạng lưới mật vụ, chỉ
điểm thực dân Pháp hoạt động ráo riết. Ớ Phú Riềng, sau cuộc
đâu tranh tháng 2/1930, theo lệnh chánh mật thám Đông Dương,
tên quận trưởng Mo-ri-e quận Bà Rá(7), đưa 10 lính sen đầm và
120 nhân viên an ninh Việt gian tiến hành khủng bô" những công
nhân tham gia đâu tranh, chúng bắt đồng chí bí thư chi bộ,
nhiều đảng viên cộng sản và hơn 100 công nhân, trong đó có
nhiều thanh niên tự vệ và cán bộ nghiệp đoàn.
Sở dĩ có tổn thâ"t lớn này là do ta chưa có kinh nghiệm
hoạt động bí mật, do quá say sưa trong thắng lợi của những
ngày nổ ra cuộc đâu tranh nên đa sô" các đồng chí trong chi bộ
và Ban chấp hành nghiệp đoàn đều bị địch phát hiện. Những
người bị b ắ t, bị đem về giam ở nhà tù Bà Rá, sau chuyển sang
khám Biên Hòa. Ớ hai nơi này, họ đều chịu nhiều tra tân dã
man, nhưng hầu hết đều giữ vững khí tiết, không chịu khai báo.
Không những thê" họ đều chuẩn bị tư tưởng và tư thê" cho nhau,
trước khi ra vành móng ngựa của toà án đế quô"c.
ở tòa án Biên Hòa, các đồng chí Trần Tử Bình, Nguyễn
Mạnh Hồng, Tạ, Doanh... đâu lý với bọn quan tòa quyết liệt, đã
dũng cảm vạch trần tội ác của chúng với những lý lẽ đanh thép,
hùng hồn. Tư thê" vững vàng bâ"t khuất của ho đều tạo được
tiếng vang lớn, tác động mạnh mẽ đến phong trào đâu tranh của
công nhân và tầng lớp lao động ở Biên Hòa, nhâ"t là công nhân
nhà máy cưa BIF Biên Hòa, còn bọn quan tòa tuyên án vội
vàng cho xong.
Đến tháng 5/1930, vụ án Phú Riềng lại tiếp tục đưa ra
tòa án đại hình ở Sài Gòn. Được sự hậu thuẫn của công nhân và
nhân dân Sài Gòn có mặt trong phiên tòa, cùng với sự khích lệ
của phong trào đâu tranh sôi nổi kỷ niệm ngày Quô"c tê" Lao
50

5.10 Page 50

▲back to top
động 1/5 trong cả nước, một lần nữa những người cộng sản và
công nhân Phú Riềng với tư thế vững vàng đầy dũng khí làm
cho mọi tầng lớp nhân dân Sài Gòn khâm phục. Tiếng vang Phú
Riềng hòa nhập một cách nhanh chóng vào phong trào đấu
tranh của công nhân Sài Gòn lúc ấy.
Âm mưu thâm độc của thực dân Pháp là muôn qua vụ
xử án công khai này, để trực tiếp làm ô danh Đảng ta và ngăn
chặn các cuộc nổi dậy của quần chúng cách mạng. Nhưng chúng
đã bị thất bại, các dồng chí ta đã biến phiên tòa thành diễn đàn
tố cáo tội ác của bọn thực dân ngay tại Sài Gòn- trung tâm
chính trị, kinh tế của xứ Đông Dương lúc bây giừ.
Cuộc khủng bô" trắng của thực dân Pháp ở nước ta, diễn
ra trong bôi cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế của tư bản chủ
nghĩa, dã ảnh hưởng trực tiếp đến Đông Dương. Vì vậy nhân
dân Nam Bộ nói chung và nhân dân trong tỉnh nói riêng càng
chịu những hậu quả rất nặng nề, bi thảm. Chúng tưởng rằng
chính sách đàn áp dẫm máu có thể tiêu diệt được Đảng Cộng
sản và dập tắt được phong trào cách mạng. Nhưng chúng đã
lầm. Từ năm 1932 phong trào cách mạng bắt đầu được khôi
phục trên phạm vi cả nước.
2. Phong trào đấu tranh* của công nhân cao su:
Mở đầu cho sự khôi phục phong trào cách mạng ở Đông
Nam Bộ là cuộc đâu tranh của phong trào công nhân dồn diền
cao su Dầu Tiếng, vào giữa tháng 12/1932.
Cuộc đâu tranh vừa châm dứt thì tháng 2/1933, Dầu
Tiếng lại nổ ra một cuộc đâu tranh mới. Trước cuộc đâu tranh
nổ ra liên tiếp, Thành ủy Sài Gòn đã cử đồng chí Văn Công
Khai(81đến đây tổ chức Công Hội đỏ để làm nòng cốt cho cuộc
đâu tranh và chuẩn bị xây dựng chi bộ Đảng.
Những cuộc đâu tranh của công nhân Phú Riềng, Dầu
Tiếng, đã ảnh hưởng sâu rộng trong các đồn diền cao su. Công
nhân đồn điền Lộc Ninh - Đakia đã thây rõ vai trò của mình
51

6 Pages 51-60

▲back to top

6.1 Page 51

▲back to top
trong sự nghiệp đấu tranh giành quyền sông và giải phóng giai
cấp. Từ đó, hướng theo ngọn cờ của Đảng đứng lên đấu tranh.
Tháng 5/1935, hơn 500 công nhân thuộc các làng, sỏ đồn điền
Lộc Ninh - Đakia đã bãi công, biểu tình đòi chủ sỏ không được
tự tiện giảm lương công nhân từ 46 xu/ ngày xuống 30 xu/ ngày,
không được uy hiếp công nhân. Bọn chủ sở viện lý do là quyết
định của Chính phủ bảo hộ nên chúng không chấp nhận yêu
sách. Công nhân các đồn điền Lộc Ninh - Đakia, dưới sự lãnh
đạo của ban tổ chức đâu tranh, kẻ cầm gậy, người cầm dao,
giáo mác, ùn ùn kéo đến văn phòng chủ sở. Đoàn người lúc đầu
500 người, nhưng về sau đông gần gấp đôi, có cả công nhân
người Thượng cầm xà gạt, cung tên, ná nỏ. Đoàn người đến
điểm tập trung, mỗi người từng đợt đồng thanh hô khẩu hiệu:
“không được giảm lương của công nhân”.
Đại diện công nhân gặp chủ sở đưa tận tay bản yêu
sách, buộc chúng phái giải quyết ngay. Trước khí thế sôi sục
của công nhân, chủ sở phải cử người nhận yêu sách của công
nhân và xoa dịu rằng chờ nghiên cứu giải quyết. Cùng lúc đó,
điều cấp tốc mây chục quân lính, trang bị vũ khí đầy đủ đến đàn
áp nổ súng một loạt thị uy công nhân. Cuộc đấu tranh diễn ra ác
liệt, anh em công nhân, xông tđi đánh nhau với bọn lính, bọn
lính bắn vào đoàn biểu tình làm chết một công nhân và bắt gần
40 người. Nhưng trước sức mạnh đấu tranh của công nhân, chủ
sở buộc phải chấp nhận yêu sách, điều bọn lính đàn áp di nơi
khác và thả số công nhân vừa bị bắt.
Cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao su Lộc
Ninh - Đakia đã giành được thắng lợi. Tốì hôm đó anh em công
nhân các làng tổ chức truy điệu, an táng công nhân đã hy sinh
và tiếp tục chăm sóc những người bị thương.
Phối hỢp với đấu tranh phản đối hạ lương, số anh em
mãn hạn giao kèo cũng phát đơn đòi trả về quê quán cũ, kiên
quyêt không chịu tái đăng ký, Bọn chủ lúc đầu dùng thủ đoạn
khuyên giải anh em ở lại làm thêm, nhưng không có kết quả,
chúng phải chấp nhận cho 43 người trở về quê cũ.
52

6.2 Page 52

▲back to top
Các cuộc đâu tranh của công nhân cao su các đồn điền,
cùng phong trào cách mạng trong cả nước, đã ảnh hưởng đến
công nhân cao su Hớn Quản (Bình Long). Khẩu hiệu đòi dân
sinh dân chủ trong các đồn điền tiếp tục tăng lên buộc chúng
phải giải quyết những yêu sách chính đáng của anh em. Mặc dù
bị đàn áp, công nhân trong các đồn điền Quản Lợi, Xa Cam, Xa
Trạch thuộc Công ty Đất Đỏ, lần lượt nổi đậy đâu tranh mặt
giáp mặt với chủ đồn điền, buộc chúng phải giải quyết yêu sách
của công nhân như: không phát gạo mục, cá thối, giảm lương
của công nhân.
Thông qua các cuộc đấu tranh này, đội ngũ công nhân
được củng cố, kinh nghiệm đấu tranh được tích lũy. Nhiều công
nhân qua thử thách, đã trở thành những cán bộ ưu tú của Đảng.
Từ sau 1933, dân công tra ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào đông,
anh em công nhân cũ xiết chặt hàng ngũ với anh em dân phu
mới đoàn kết đâu tranh, làm cho phong (rào càng mạnh, trước
sức mạnh đấu tranh của công nhân, bọn chủ của nhiều đồn điền
ở Hớn Quản Lộc Ninh, Thuận Lợi. . . buộc phải hủy bỏ chế độ
ăn chung, ở chung, phát gạo về nhà nâu ăn riêng. Có đồn điền
đã bắt đầu mở trường dạy học cho một số con em công nhân.
3. Phong trào đấu tranh của đồng bào dân tộc:
Cùng chung sô" phận với công nhân, đồng bào các dân
tộc ít người cư trú ở vùng Hớn Quản, Bà Rá (Bình Phước ngày
nay), cũng chịu ách thông trị của bọn thực dân Pháp. Với truyền
thông yêu nước, lòng căm ghét áp bức bất công và tác động
mạnh mẽ các cuộc đâu tranh của công nhân Phú Riềng, Lộc
Ninh, Hớn Quản ... Đồng bào dân tộc ít người, đã cùng đứng dậy
tự tổ chức nhiều cuộc đâu tranh vũ trang chống Pháp. Trong đó,
chú ý hơn cả là vụ giết tên quận trưởng Mo-ri-e quận Bà Rá
tháng 10/1933 và cuộc đâu tranh của đồng bào dân tộc năm
1934 trên vùng đất Phước Long, Bù Đăng ngày nay.
Tên quận trưởng Mo-ri-e khét tiếng gian ác đôi với
công nhân và đồng bào dân tộc vùng Bà Rá. Hắn thi hành
53

6.3 Page 53

▲back to top
nhiều chính sách thâm độc như lấy người Thượng trị dân Thượng,
dùng người Kinh đàn áp người thiểu số’, áp dụng lao dịch từ 5-
6 tháng trong một năm, để bắt dân ở đây đi làm đường bộ, xây
dựng đồn bót, làm phu cho các sở cao su... trong lúc đó, lương
thực phải tự túc, mà gia cảnh luôn thiếu đói, bệnh đau không
được thuốc trị nhiều người chết khi lao động quá sức. Hắn còn
có những hành vi rất tàn bạo như bắt gái dẹp về hãm hiếp, bắt
làm tôi tớ... Không chịu nổi những thủ đoạn tàn bạo đó, hai anh
em Điểu Môn và Điểu Mốt vốn là nghĩa quân của phong trào
Nơ Trang Lơng ở sóc Bù Xum, được dân tin cậy nhất, đứng ra
vận động lập đội nghĩa quân và hợp cùng 200 dân trong các
làng Bù Xum, Bù Kế, Bù Tó, Bù Tung... bàn mưu kế tiêu diệt
quận trưởng Mo-ri-e.
Sau một thời gian xây dựng lực lượng và tìm hiểu kẻ
địch, vào gần cuối tháng 10/1933, nghĩa quân phục kích trên
đoạn đường 14 gần sóc Bù Xum (nay là xã Minh Hưng huyện
Bù Đăng). Nghĩa quân chờ suốt hai ngày liền mà chúng không
đến, mọi người bèn giải tán. Riêng hai ông Môn và Mốt vẫn
kiên trì lại phục kích và còn vận dộng thêm vài ngươi nữa như
ông Nhim, ông Giang... cùng tham gia. Do nắm chắc quy luật,
mỗi tuần tên quận trưởng Mo-ri-e cỡi ngựa cùng bọn lính từ Bà
Rá sang đường 14 để kiểm soát làm đường của dân làm xâu.
Đến ngày thứ 3 (25/10/1933) tên Mo-ri-e cùng với mấy tên lính
hộ vệ lọt vào thế trận phục kích. Ông Điểu Mốt giả vờ xin lửa
hút thuốc rồi nhanh như chớp ông dùng xà gạt chém.Mo-ri-e,
kết liễu đời tên thực dân vấy máu đồng bào, sau đó rút lui an
toàn.
Ngày hôm sau, thực dân Pháp tập trung càn quét bắn
phá giữ dội vùng Bù Xum, bắn chết ông Nhim, ông Giáp. Trước
cảnh đàn áp thảm khốc, đồng bào các dân tộc phải rút lui vào
rừng sâu cắm chông ngăn địch đàn áp, lùng xục.
Đồng thời với cuộc nổi dậy giết chết tên cò Mo-ri-e, là
phong trào đấu tranh vũ trang của đồng bào dân tộc nhằm mục
tiêu diệt đồn Bù Có, đồn này lập năm 1933, do tên Gec-be làm
54

6.4 Page 54

▲back to top
đồn trưởng. Nơi đây xuất phát quân đi càn quét, gây tội ác với
các đồng bào buôn làng ở nhiều vùng như Lộc Ninh, Hớn Quản,
Bà Rá và biên giới Việt Nam - Campuchia.
Cuộc tấn công nổ ra ngày 2/1/1934, với hơn 300 nghĩa
quân người S’tiêng phần nhiều được trang bị cung tên tẩm thuốc
độc, giáo mác, xà gạc một ít súng săn. Trước khi tấn công,
những người chỉ huy đã tổ chức hạ cây cản đương chặn viện
binh địch từ Bù Na, không cho xe tiếp viện. Cuộc chiến đấu
diễn ra ác liệt, do kê hoạch thiếu chu đáo bị địch phát hiện và
tân công nên buộc nghĩa quân phải rút lui. Kết quả trận đánh
tuy chỉ bắn chết'và làm bị thương hai tên, nhưng làm cho địch
khiếp vía, bỏ đồn Bù Có về co cụm ở Bù Đăng.
Sau trận này, các thủ lĩnh nghĩa quân ở Bù Đô"p, Bà Rá
và lưu vực sông Đồng Nai liên hệ với nhau khá chặt chẽ. Dựa
vào thế hiểm trở của núi rừng với diện tích rộng lớn gần 3 ngàn
km2, nghĩa quân gần như làm chủ khu vực, địch tấn công nhiều
lần, nhưng vẫn không kiểm soát được. Ngoài ra, đồng bào còn
tổ chức cắm chông, bảo vệ buôn sóc, ngăn dịch lùng sục. Phong
trào này lan rộng từ vùng đồng bào S’tiêng đến các địa bàn cư
trú lân cận của người M’nông, Mạ, Châu Ro, đến cả dân tộc
ít người ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó, dồng bào còn hết lòng
dùm bọc, che chở cho một sô" công nhân, cán bộ trôn đồn điền,
vượt ngục Bà Rá, Tà Lài... Cuộc chiến dâu kéo dài đến 1935,
mới tạm ngưng khi ông Nơ Trang Lơng thủ lĩnh nghĩa quân Tây
Nguyên bị dịch bắt.
Nhìn chung, phong trào đấu tranh của các dân tộc thiểu
sô" đứng lên chống thực dân Pháp ở giai đoạn này, chỉ dừng lại
ở mức độ tự phát. Các cuộc đâu tranh chỉ tập trung vào mục
đích bảo vệ quyền tự chủ núi rừng chưa có ý thức sâu sắc về
chính trị. Hơn nữa, lúc này lực lượng đảng viên Cộng sản Việt
Nam ở tỉnh ta còn rất ít, chưa đủ diều kiện làm công tác vận
động trong các đồng bào dân tộc ít người, cho nên ảnh hưởng
của Đảng chưa đến vùng sâu là một thực tế. Tuy vậy đó là
những bước tập' dượt đầu tiên đặt tiền đề cho chặng đường đấu
55

6.5 Page 55

▲back to top
tranh chống thực dân đế quốc dưới sự lãnh dạo của Đảng sau
này.
*
*
*
Như vậy, Bình Phước là một trong 3 nơi xuất hiện sớm
nhất chi bộ cộng sản đầu tiên ở Nam Bộ. Vừa mới ra đời, quán
triệt đường lối, phương châm hoạt động cách mạng của Đảng,
chi bộ cộng sản Phú Riềng đã bước lên vũ đài chính trị, lãnh
đạo một cuộc đấu tranh giành thắng lợi, góp phần thúc đẩy
phong trào đấu tranh của giai câp công nhân Việt Nam tiến lên
một bước phát triển mới. Sự kiện đặc biệt này, đã đánh dấu một
bước ngoặt căn bản trong phong trào cách mạng của công nhân
và nhân dân tỉnh nhà . Phú Riềng Đỏ đã có ảnh hưởng to lớn
trong việc xây dựng và phát triển cơ sở Đảng, cơ sở nghiệp
đoàn, phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của đồng
bào dân tộc của tỉnh nhà và thúc đẩy phong trào công nhân
miền Đông Nam Bộ bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ cách
mạng giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ lãnh đạo cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
III.
ĐẬU TRANH ĐÒI Q UYỀN DÂN SINH, DÂN CHỦ TRONG
CAO TRÀO CÁCH M ẠNG 1 936-1939:
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, trong năm
1933 - 1934 chủ nghĩa phát xít trở thành nguy cơ lớn đe dọa
hòa bình và an ninh quốc tế. Trước tình hình đó, tháng 7/1935,
Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII(9) đã vạch rõ, nhiệm vụ
trước mắt lúc này của giai cấp công nhân quốc tế là dấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh do chúng gây
ra. Do vậy, giai cấp công nhân quốc tế phải thông nhất hàng
ngũ của mình và lập mặt trận thông nhất rộng rãi với các giai
cấp và tầng lớp khác trong nhân dân đê hoàn thành nhiệm vụ
trước mắt.
Sau đại hội này, Mặt trận nhân dân Pháp mà Đảng
Cộng sản Pháp là nòng cốt giành được thắng lợi trong cuộc tổng
56

6.6 Page 56

▲back to top
Cóng nhân cao su đấu tranh đôi tăng lương, giảm giờ làm việc (tranh son dầu).
tuyển cử tháng 4/1936. Chính phủ Mặt trận nhân dận lên cầm
quyền có Đảng Cộng sản Pháp tham gia, do Lê-ông Blum lãnh
tụ Đảng Xã hội làm thủ tướng. Chính phủ do Lê-ông Blum đã
thi hành một sô' điều khoản trong cương lĩnh Mặt trận nhân dân
Pháp đã vạch ra, trong đó có những chủ trương tiến bộ, nhân
đạo như thả tù chính trị ỡ các thuộc địa Pháp, thành lập úy ban
điều tra tình hình thuộc địa ở Bắc Phi và Đông Dương, thay đổi
một sô" chế độ lao động đôi với công nhân. Những điều đó đã
tạo thuận lợi cho cách mạng nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cuộc đâu tranh công
khai hợp pháp và nửa hợp pháp đã diễn ra sôi nổi ở ba miền đất
nước. Phong trào Đông Dương đại hội, phong trào “đón” Gô da
sang Đổng Dương, những cuộc mít tinh nhân ngày Quốc tế Lao
động ... đã thu hút các phong trào hàng nghìn, hàng vạn quần
chúng tham gia và những cuộc đâu tranh dân quyền cũng giành
được những thắng lợi bước đầu. Chính phủ Pháp phải ra lệnh ân
xá tù phạm chính trị.
Giữa lúc tình hình thế giới, trong nước có sự chuyển
biến tích cực, ở Thủ Dầu Một, phong trào quần chúng lên cao,
57

6.7 Page 57

▲back to top
kết nạp thêm được nhiều đảng viên mới, thành lập thêm nhiều
chi bộ, cơ sở đảng. Tinh hình cho phép thành lập Tỉnh ủy.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cô" kiện
toàn công tác tổ chức, thực hiện Chỉ thị của Xứ ủy Nam Kỳ.
Cuối năm 1935, đồng chí Trương Văn Nhâm - Xứ ủy viên và
đồng chí Trương Văn Bang - ủ y viên liên Tỉnh ủy Miền Đông
đến gặp Tỉnh ủy Gia Định bàn việc tách các chi bộ củaThủ Dầu
Một (đang sinh hoạt hoặc ghép trong Đảng bộ Gia Định), để
thành lập Đảng bộ mới.
Đầu Năm 1936, Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một ra đời
với một cấp ủy gồm 5 đồng chí (4 nam, 1 nữ) đồng chí Trương
Văn Nhâm được cử làm Bí thư. Việc thành lập Tỉnh ủy lâm
thời vào mùa xuân năm 1936 đánh dâu một bước ngoặt trong
phong trào cách mạng của giai cẩp công nhân và nhân dân
Thủ Dầu Một.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy lâm thời, trong năm 1936
nhiều cuộc đâu tranh của các tầng lớp nhân dân: công nhân, nông
dân, tiểu thương, tiểu chủ, thầy giáo, công chức... đã liên tiếp nổ
ra ở khắp nơi trong tỉnh, do Công Hội đỏ và Nông Hội đỏ làm
nòng cốt. Sau đó phong trào tiếp tục, các tầng lớp quần chúng sôi
nổi tham gia cuộc vận động Đông Dương đại hội và đâu tranh
trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tận dụng tình hình thuận lợi
đòi Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp phải thi hành những cải
cách dân chủ và cải thiện đời sống cho dân chúng.
Hớn Quản và Bù Đốp là phần đất thuộc tỉnh Thủ Dầu
Một, nơi có nhiều đồn điền cao su, đội ngũ công nhân đã lớn
mạnh đang cùng chung sống với các tầng lớp nhân dân người
Kinh, s tiêng, Châu Ro, Tà Mung, Nùng, Chàm, Khơ me và
một số người Hoa Kiều. Tuy xa xôi, đất rộng, người thưa nhưng
Tỉnh ủy lâm thời, Thủ Dầu Một đã quan tâm chí đạo sâu sát.
Cuối năm 1936, Tỉnh ủy lâm thời mở hội nghị kiểm
diểm tình hình, quán triệt tình hình mới, đề ra nhiệm vụ sát hựp
với phong trào và bầu Ban Chấp hành mới gồm 7 đồng chí.
Tháng 1/1937, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được trên chuẩn y và
58

6.8 Page 58

▲back to top
công nhận chính thức, đồng chí Hồ Văn Công giữ chức vụ Bí
thư.
Cũng trong năm 1936 ở Biên Hòa, phong trào đấu tranh
đòi địch b ỏ thuế thân, giảm các khoản SƯU cao thuế nặng, đòi
quyền tự do cư trú, tự do đi lại làm ăn... nổ ra liên tiếp cũng như
ở Thủ Dầu Một. Riêng cuộc vận động hưởng ứng phong trào
Đông Dương đại hội và tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương
có phần sôi nổi hơn.
Xuất phát từ phong trào quần chúng đấu tranh lên cao,
chi bộ Đảng cũng được phát triển. Cuối năm 1936, đồng chí
Trương Văn Bang được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về Biên
Hòa để lãnh đạo phong trào, củng cô" xây dựng cơ sở Đảng và
thành lập Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa. Tháng 1/1937, Tỉnh
ủy Biên Hòa được trên công nhận chính thức. Đồng chí Trương
Văn Bang làm Bí thư.
Việc thành lập Tỉnh ủy Biên Hòa đã đánh dấu một
bước phát triển có ý nghĩa chuyển chất lượng phong trào đấu
tranh của quần chúng trong tỉnh. Đặc biệt là đốì với các đồn
điền cao su trên địa bàn .
Quận Bà Rá bao gồm tất cả miền đất phía Bắc tỉnh
Biên Hòa là một quận dân cư thưa thớt, s tiêng, M'nông, Châu
Ro, Châu Mạ là các dân tộc ít người có sô" lượng dân đáng kể,
là một vùng “rừng thiêng nước độc”. Từ năm 1925, Pháp đã
thành lập nhà tù Bà Rá để đày ải các chiến sĩ cách mạng. Các
đồn điền cao su Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) đã đi vào khai thác,
nhưng đời sông công nhân vẫn lầm than, đói khổ. Sự kiện Phú
Riềng Đỏ sôi động một thời đã bị địch khủng bô" trắng, đảng
viên bị bắt, chi bộ bị phá... phong trào công nhân tạm lắng.
Sau khi Tỉnh ủy Biên Hòa được thành lập, Đảng đã chỉ
đạo, Tỉnh ủy đã quan tâm và cử cán bộ về đồn điền Thuận Lợi
để tổ chức lại phong trào. Ngày 1/5/1938, công nhân đồn điền
Thuận Lợi đã tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tê" Lao động công
khai hợp pháp. Đây là lần đầu tiên sau 7 năm thoái trào, đồn
điền Thuận Lợi mới tổ chức lại được phong trào công nhân đâu
59

6.9 Page 59

▲back to top
tranh có ý .nghĩa chính trị.
Bà Rá của Biên Hòa và Hớn Quản của Thủ Dầu Một là
2 quận rộng lớn, nằm sát biên giới, là địa bàn của tỉnh Bình
Phước ngày nay, xa xôi cách trở, phương tiện đi lại, liên lạc khó
khăn. Vì còn thiếu cán bộ đồng thời phải tập trung sức chỉ đạo
phát triển phong trào cách mạng, phát triển Đảng ở vùng đông
dân cư phía Nam nên 2 Tỉnh ủy Biên Hòa và Thủ Dầu Một đều
cử cán bộ đi về để triển khai Chỉ thị, Nghị quyết và sự chỉ đạo của
Tỉnh ủy đến các nòng cốt và các hội quần chúng, không bám trụ
lại được. Do các hội, các tầng lớp nhân dân, kể cả trong công
nhân tại chỗ thiếu sự dìu dắt cụ thể, thường xuyên nên phong trào
cách mạng của quần chúng phát triển không đều, tcíc độ phát
triển chậm. Chưa phát triển được đảng viên tại chỗ, chưa thành
lập đưực chi bộ ở cả 2 quận này là một hạn chế rất lớn.
Tuy nhiên, nhờ tình hình chung trên thế giới, đặc biệt là
ở nước Pháp, tình hình sôi động trong nước và các quận phía
nam của 2 tỉnh, chủ trương của 2 Tỉnh ủy được phổ biến đến
công nhân nòng cốt và các hội quần chúng, nên phong trào
cách mạng vẫn liên tiếp nổ ra trên địa bàn này
Cuộc biểu tình của 150 công nhân Thuận Lợi, ngày 4/5/
1938, họ cử đại biểu lên gặp chủ sở đưa ra yêu sách: chống
đánh đập, ngày làm 8 giờ, chông bán gạo mục, bán đắt... sự
kiện này nổ ra còn do phong trào đấu tranh của công nhân cao
su Dầu Tiếng, cao su Lộc Ninh tác động. Lúc đó, Dầu Tiếng đã
có chi bộ Đảng và Hội ái hữu hoạt động mạnh, các dồng chí ta
lợi dụng việc công nhân hai bên qua lại binh thương đã bí mật
tuyên truyền và gây cơ sở cách mạng ở Thuận Lợi.
Cuộc bãi công của công nhân đồn điền cao su Quản Lợi
phản đốì hành động đánh dập của bọn cai. Trong cuộc bãi công
này, 4 công nhân bị bắt, nhưng đã làm cho bọn cai, xếp chùn tay.
Cuộc bãi công, biểu tình của công nhân đồn diền cao su
Lộc Ninh thuộc Công ty XétrXÔ ngày 21/12/1938, hơn 300 công
nhân các làng của đồn điền cao su Lộc Ninh tổ chức bãi công,
biểu tình và cử đại diện công nhân đưa yêu sách cho tên Đờ -
60

6.10 Page 60

▲back to top
La-lăng - chủ Công ty Xét-xô, với nội dung: tăng lương cho
công nhân, thi hành ngày làm việc 8 giờ, giảm phần cạo, bớt từ
400 cây xuống 350 cây/ngày, công nhân bị bệnh phải có thuốc
uống.
Công nhân đã tổ chức thành đội ngũ, từng đoàn đi diễu
hành từ làng đến văn phòng sở, vừa đi vừa hô to khẩu hiệu:
“Hoan hô Mặt trận bình dân Pháp giành dược thắng lợi lớn
trong cuộc tổng tuyển cử”.
Được tin báo công nhân nổi dậy biểu tình, Đờ La-lăng
cấp tốc tập hợp bọn tay sai bàn tính cách đối phó. Hắn cho điều
lính gác sở và đám tay sai người dân tộc do tên Tổng Mé cầm
đầu bô" trí trong khu vực văn phòng sở. Khoảng chín giờ sáng,
hai đoàn người từ hai hướng về văn phòng sở. Đại diện công
nhân bước thẳng đến văn phòng sở, 15 phút trôi qua vẫn chưa
thấy đại diện công nhân trở ra, còn bọn lính từ phía sau văn
phòng ào tới chỗ đoàn công nhân biểu tình, xô đẩy công nhân
bắt phải giải tán. Nhưng bọn chúng không giải tán dược đoàn
biểu tình. Được sự chi' đạo của Ban tổ chức, anh chị em lại ào
lên đòi để tất cả mọi người kéo vào văn phòng, vây đánh bọn
chúng. Trước tình hình ngày càng căng thẳng, bọn chủ đành
chấp nhận yêu sách của công nhân và hứa giải quyết.
Cuộc bãi công do Hội ái hữu đứng ra tổ chức đã giành
được thắng lợi (lúc này ở đây chưa có chi bộ, chưa có đảng viên
cộng sản). Đoàn người phân khởi diễu hành qua mây ngã dường,
sau đó được chỉ đạo giải tán về các làng sỏ.
**
*
Suốt thời kỳ 1936 -1939, Đảng bộ Bình Phước đã nhạy
bén, sáng tạo, thực hiện đường lôi cách mạng của Đảng, tập
hợp quần chúng nhân dân dưới ngọn cờ Mặt trận Dân chủ Đông
Dương; xây dựng được nhiều tổ chức quần chúng vừa công
khai, bán công khai dưới nhiều hình thức, đâu tranh từ thấp đến
cao với khẩu hiệu dân sinh, dân chủ thiết thực, phù hợp với
61

7 Pages 61-70

▲back to top

7.1 Page 61

▲back to top
nguyện vọng bức thiết của quần chúng lao động.
Qua các phong trào tranh đấu quần chúng lao động hiểu
Đảng Cộng sản đúng đắn hơn, họ hiểu Đảng là tổ chức cách
mạng chân chính, vì lợi ích của người lao động mà đấu tranh.
Tất nhiên, bên cạnh đó không sao tránh khỏi hiện tượng quá tả,
quá hữu vẫn còn xảy ra ở một số nơi, bên cạnh đó còn có nhiều
vùng (đặc biệt là vùng dân tộc) chưa có phong trào vì thiếu lực
lượng đảng viên.
Nói chung, trong cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939,
cổng nhân các đồn điền cao su Quản Lợi, Xa Cát, Xa Trạch,
Lộc Ninh, Đakia... cùng nông dân và các tầng lớp nhân dân
trong tỉnh dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ, đã góp phần xứng
đáng vào phong trào chung của cả nước. Diễn biến của các
cuộc đâu tranh trong những năm 1936-1939 là ngày hội của
quần chúng cách mạng, chuẩn bị diều kiện để đưa quần chúng
bước vào cuộc đâu tranh mới trong thời kỳ 1939-1945.
62

7.2 Page 62

▲back to top
CHƯƠNG II: THựC HIỆN CHUYÊN h ư ớ n g c h ỉ đ ạ o
CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG TIEN t ọ n g k h ở i
NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYÊN
(1939-1945.)
I.
CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC
C ỦA ĐẢNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA KHỞI NGHĨA NAM KỲ ĐÔÌ VỚI
PHONG TRÀO CÁCH M ẠNG BÌNH PHƯỚC:
Tháng 9/1939 Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ.
Để phục vụ cho chiến tranh đế quốc của chúng, ở Đông Dương
thực dân Pháp đã ra lệnh tổng động viên, vơ vét tiền của của
nhân dân, bắt lính, xóa bỏ các quyền tự do dân chủ. Chúng tấn
công vào Đảng Cộng sản, các tổ chức quần chúng, báo chí tiến
bộ bị đóng cửa, các tổ chức dân chủ và những quyền lợi mà
quần chúng đã giành được trong phong trào Mặt trận Dân chủ
Đông Dương (1936-1939) đều bị xóa bỏ. Ngày 28/9/1939 Toàn
quyền Đông Dương Ca-tơ-ru (Catroux) ra Nghị định giải tán
các tổ chức ái hữu, nghiệp đoàn, tịch thu giấy tờ và tài sản của
các tổ chức đó.
Cuộc chiến tranh đế quốc đã đặt đất nước ta vào. tình
hình mới. Đấu tranh hợp pháp giành các quyền dân sinh, dân
chủ không còn khả năng, mà cũng không phải là mục tiêu trực
tiếp của cách mạng lúc này. Đảng quyết định chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh việc giải quyết môi quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chông đế quốc và chông phong kiến, chuẩn
bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Từ ngày 6 đến 8/11/1939, Hội nghị Trung ương lần 6
(khóa I) họp tại Bà Điểm - Hóc Môn - Gia Định. Dưới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, dự hội nghị có các đồng chí
Lê Duẩn, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu...
63

7.3 Page 63

▲back to top
Hội nghị quyết định chuyển hướng sự chỉ đạo chiến lược
cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với hoàn cảnh mới: xác
định kẻ thù chủ yếu của Đông Dương lúc này là chủ nghĩa đế
quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc, xác định cuộc cách mạng
Đông Dương là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
về hình thức đấu tranh, hội nghị nêu rõ cần được thay
đổi cho phù hợp với nhiệm vụ mới và chuẩn bị “bước tới bạo
động làm cách mạng giải phóng dân tộc”, “Song phải hết sức
tránh những cuộc đâu tranh non, đấu tranh không phương pháp,
không chuẩn bị”.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939, đã đánh dâu
sự chuyến hướng đúng đắn về chí đạo chiến lược, dánh giá một
cách toàn diện vấn đề dân tộc và phong trào giải phóng dân
tộc, coi phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng
khít của phong trào cách mạng thế giới, đã giải quyết đúng đắn
những vân đề chiên lược và phương pháp cách mạng nhằm
dánh đổ chính quyền dô quốc và tay sai. Mơ ra một thơi kỳ mơi
cho cách mạng Việt Nam.
Lúc này, mặc dù bị khủng bô" ác liệt, nhiều đồng chí
Trung ương và Xứ ủy bị bắt, song các tổ chức cơ sở của Đảng
ở Thủ Dầu Một vẫn tồn tại. Sách báo và truyền đơn của Đảng
vẫn dược lưu hành và phổ biến rộng rãi, các dội tuyên truyền
vẫn thâm nhập vào quần chúng giải thích tinh thần Nghị quyết
6 của Trung ương. Đặc biệt là phong trào chông bắt lính nổ ra
sôi nổi và rộng khắp, những đợt tuyên truyền cố động binh lính
chông chiến tranh và ủng hộ cách mạng được tổ chức ỏ nhiều
nơi trong tỉnh.
Tháng 6/1940 Pháp đầu hàng Đức, nước Pháp bị phát
xít Đức chiếm đóng. Nhân cơ hội đó, tháng 9/1940 phát xít Nhật
xâm lược Đông Dương. Chính sách ngày càng phản dộng của
thực dân Pháp, chúng tăng cường khủng bô", dàn áp, nhiều cơ sơ
cách mạng bị phá, lực lượng cán bộ bị tốn thât, nhưng phong
trào đâu tranh của nhân dân vẫn tiếp tục được duy trì, nhất là
các vùng nông thôn.
64

7.4 Page 64

▲back to top
Trước tình hình đó, vào tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Kỳ
triệu tập hội nghị mở rộng, tại ấp Tân Thuận, làng Tân Hương,
Mỹ Tho. Hội nghị gồm 24 đại biểu của Xứ ủy, các liên Tỉnh ủy,
Tỉnh ủy và các ngành công vận, nông vận, binh vận tham gia.
Sau nhiều ngày thảo luận, Hội nghị đi đến nhất trí thông qua
chủ trương kế hoạch khởi nghĩa và thành lập úy ban Khỏi nghĩa
của Xứ ủy và Ban Quân sự các cấp. Hội nghị bầu ra Xứ ủy mới
do đồng chí Tạ Uyên làm Bí thư và đề cử đồng chí Phan Đăng
Lưu ra Bắc dự hội nghị Trung ương lần 7 (11/1940), xin chỉ thị
của Trung ương về chủ trương khỏi nghĩa, trong khi đó vẫn
chuẩn bị sẵn sàng theo kế hoạch.
Ngày 21 đến 25/9/1940, Xứ ủy Nam Kỳ tiếp tục mở một
hội nghị tại Tân Xuân, Hóc Môn - Gia Định để quyết định về
một số’công tác trọng yếu: quyết định khởi nghĩa, chuẩn bị tích
cực về mọi mặt và trao cho Thường vụ Xứ ủy quyền quyết định
ngày tiến hành khỏi nghĩa và ban bô" lệnh khỏi nghĩa. Ngoài ra
hội nghị còn quyết định mẫu cờ là nền đỏ, ỡ giữa có ngôi sao
vàng năm cánh.
Sau hội nghị Tân Xuân 10 ngày, ngày 3/10/1940 Ban
Thường vụ Xứ ủy lại hợp để uốn nắn những sai lầm, lệch lạc về
tư tưởng cũng như hành động, xuâ"t hiện trong quá trình chuẩn bị
khởi nghĩa, nhắc nhở thêm một sô" công' việc mà hội nghị lần
trước chưa đề cập. Hội nghị quyết định khởi nghĩa, lệnh khởi
nghĩa được gửi đi các nơi, quyết định toàn Xứ ủy thông nhâ"t
khởi nghĩa vào đêm 22/11/1940. Trong lúc đó, đồng chí Phan
Đăng Lưu sau khi dự hội nghị Trung ương 7 mang chỉ thị của
Trung ương hoãn cuộc khởi nghĩa về Sài Gòn thì bị địch bắt,
chưa kịp phổ biến, hơn nữa lệnh khỏi nghĩa dã xuồng tận cơ sở
không thể hoãn được.
Thực hiện chủ trương của Xứ ủy, ở tỉnh Thủ Dầu Một
và tính Biên Hòa(10) công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến
hành khẩn trương, ở tỉnh Thủ Dầu Một, dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy - đồng chí Hồ Văn Công Bí thư Tỉnh ủy lãnh đạo nhân
dân một số nơi trong tỉnh đứng lên hưởng ứng cuộc khỏi nghĩa.
65

7.5 Page 65

▲back to top
Ban khởi nghĩa của tỉnh do đồng chí Hồ Văn cống phụ trách.
Ớ Biên Hòa cũng giống như một số tính khác, Pháp khủng bố
bắt khá nhiều đảng viên của Biên Hòa, các câp thiêu cán bộ.
Tỉnh ủy đã giao cho đồng chí Huỳnh Liễu tổ chức một đội vũ
trang trên 30 người Mỹ Lộc (Tân Uyên) luyện tập võ nghệ
chuẩn bị khởi nghĩa.
Do kế hoạch khỏi nghĩa bị lộ, trong khi đó các địa phương
đã triển khai lệnh khởi nghĩa. Ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa
Nam Kỳ bùng nổ, chủ yếu là vùng nông thôn đông dân của các
tỉnh miền Đông, miền Tây. Trung tâm khởi nghĩa ỏ miền Tây là
Cai Lậy, Vĩnh Kim của Mỹ Tho. Chính quyền cách mạng Mỹ
Tho tồn tại 40 ngày dã tịch thu ruộng đất của địa chủ phản động
chia cho dân nghèo, lập tòa án nhân dân trừng trị những tên
phản cách mạng. Đây là một thành tích quan trọng của khởi
nghĩa Nam Kỳ. ơ miền Đông, trung tâm khơi nghĩa là vùng
Hóc Môn - Bà Điểm, tính Gia Định.
ở Thủ Dầu Một, khởi nghĩa đã nổ ra ỏ các nơi: Dầu
Tiếng, Dĩ An, thị xã Thủ Dầu Một, Bến Súc, ấp Kiến Điền
(Bến Cát) ... ở Biên Hòa, khởi nghĩa nổ ra các làng Mỹ Lộc,
Uyên Hưng, Thường Lang... tại căng Bà Rá (Phước Long), ngày
12/12/1940, 4 chiến sĩ cách mạng bị giam cầm ở trại c nổi dậy
giết 1 lính gác, lấy 1 súng 5 viên đạn rồi bỏ trôn, làm cho Pháp
phải lo sỢ. Nam Kỳ khởi nghĩa ở Hớn Quản - Bà Rá, tuy không
có nổi dậy như các nơi khác, nhưng những tâm gương chiến đâu
anh dũng của các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã gây một ảnh
hưởng sâu sắc đổì với công nhân cao su Hớn Quản - Bà Rá.
Theo gương các chiến sĩ Nam Kỳ khỏi nghĩa, công nhân các
đồn điền cao su Quản Lợi, Lộc Ninh. Thuận Lợi ... đã nổi dậy
đâu tranh chống đế quốc và tư bản Pháp đòi quyền dân sinh vơi
các yêu sách như: hủy bỏ việc đánh đập, cúp phạt, không được
trì hoãn việc trả lương công nhân; công nhân về xứ theo đúng
thời hạn, không được phát gạo mục, cá thôi cho công nhân, mơ
thêm trường học cho con em công nhân học, mơ thêm bệnh viện
để chữa trị...
Mặt khác, sau khi thất bại của Nam Kỳ khơi nghĩa, các
66

7.6 Page 66

▲back to top
đồn điền cao su và vùng nông thôn, vùng dân tộc Hớn Quản -
Bà Rá trở thành nơi ẩn náu của cán bộ, đảng viên trước sự truy
lùng, bắt bớ của thực dân Pháp, trở thành miếng đất giữ gìn và
ươm trồng hạt giông cách mạng. Trong hai năm 1941 - 1942,
một số’đảng viên đã từng tham gia Mặt trận dân chủ và khỏi
nghĩa Nam Kỳ ơ các tính Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Sài Gòn,
Chợ Lớn . . . như đồng chí Lê Đức Anh, dồng chí Nguyễn Xang,
đồng chí Nguyễn Văn Tảng .. ., lần lượt quy tụ về các đồn điền
cao su Hớn Quản, Lộc Ninh. Từ khi các đồng chí cộng sản về
hoạt động trong phong trào công nhân, các cơ sở cách mạng
được xây dựng và phát triển mạnh. Nhiều cuộc dấu tranh đã
mang dậm màu sắc dân tộc và giai cấp với khẩu hiệu “Tố quốc
và sự giải phổng cần lao”. Tại đồn điền Quản Lợi, Lộc Ninh,
Đakia, công nhân đòi thực dân Pháp và tư bản Pháp cút về
nước, trả lại đồn điền cho người Việt Nam quản lý.
Khỏi nghĩa Nam Kỳ bị thất bại, nhưng sự thất bại ấy lại
dẫn dến một hệ quả có vẻ “nghịch lý” là phong trào đấu tranh
của công nhân cao su lại dâng cao hơn, nhơ những hoạt động
của sô" cán bộ đảng viên chuyển vùng về các đồn điền.
Cuộc khỏi nghĩa Nam Kỳ that bại vì nổ ra không dúng
thời cơ, điều kiện chưa chín muồi. Nhưng vẫn vang dội cả nước,
nói lên tinh thần quật khởi và quyết tâm của nhân dân ta không
bỏ lơ cơ hội nào để nổi dậy đánh đổ ách thống trị của thực dân
Pháp. Cuộc khởi nghĩa đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học
xương máu về nắm thơi cơ khởi nghĩa, về sự phôi hợp đồng bộ
giữa địa phương và cả nước, giữa thành phố và các tỉnh, giữa
phát động quần chúng nhân dân nổi dậy với vận dộng binh lính
quay sung chổng lại quân thù, về tinh thần cảnh giác cách
mạng ... Đó là những kinh nghiệm quý báu cho giai đoạn cách
mạng tiếp theo.
II.
CHUẨN BỊ Lực LƯỢNG CHÍNH TRỊ VÀ v ũ TRANG CHO
KHỞI NGHĨA GIANH CHÍNH QỦYẾN (1941 - 1945):
Nway sau Nam Kỳ khơi nghĩa thất bại, tháng 12/1940,
Xứ ủy liên tiếp mở ra 2 hội nghị ở xã An Phú Tây và xã Đa
67

7.7 Page 67

▲back to top
Phước thuộc huyện Bình Chánh (Thành phô" HCM ngày nay),
để rút kinh nghiệm, cử ra Xứ ủy mới. Hội nghị cũng quyết định
một sô" chủ trương xuất phát từ tình hình mới sau khi khởi nghĩa
thất bại: đưa nhân dân ra sô"ng hợp pháp với địch nhằm hạn chê"
bớt sự hy sinh tổn thâ"t, cán bộ đảng viên về bám cơ sở, bám
dân, chông khủng bô", người nào bị lộ thì chuyển vùng hoạt
động, nơi nào có lực lượng vũ trang thì tìm cách giữ lại và lập
căn cứ, nơi nào không giữ được thì phân tán và giấu súng. Các
tỉnh, quận, có cơ sở phải lo củng cố và phát triển lực lượng quần
chúng cách mạng là chính, không được bộc lộ lực lượng. Hội
nghị cũng quyết định phân công các xứ ủy viên đi về các tỉnh để
chắp nôi lại tổ chức, duy trì phong trào, quyết dịnh ra tờ báo
“Giải phóng”, để hướng dẫn các cấp đảng bộ và quần chúng
cách mạng về đường lối và nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu
dài và tìm mọi cách liên lạc với Trung ương.
Thời kỳ 1941-1943, đây là thời kỳ khó khăn của Đảng
bộ Nam Bộ. Xứ ủy liên Tỉnh ủy, Tỉnh ủy bị phá vỡ lập đi lập lại
nhiều lần. Phần lớn đảng viên bị.bắt cầm tù. Riêng Tỉnh ủy Thủ
Dầu Một chỉ còn lại khoảng 20 cán bộ đảng viên(n' phải chuyển
vùng lánh về nông thôn, các đồn điền cao su ... đế ẩn náu, tạo
dựng cơ sở, tạo chân đứng để khôi phục phong trào cách mạng
và coi việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại.
Bọn thực dân Pháp ở thuộc địa phân hỏa thành 2 phe:
phái Pê-tanh (Pétain) đầu hàng phát xít Đức và phái Đờ Gôn
(De Gaul) kháng chiến chông phát xít.
Những biến chuyển â"y đã có tác động đến tình hình
cách mạng Việt Nam. Riêng ở trong tỉnh những người cộng sản
trung kiên bắt đầu có sự hoạt động mới.
Năm 1942 tại căng Bà Rá(12), nơi giam giữ gần 400
quần chúng yêu nước và những người cộng sản, trong đó phần
lớn bị bắt vì tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ. Các dồng chí bí mật
liên lạc thông báo tin tức cho nhau. Riêng ở trại Cô Lông các
đồng chí tổ chức hội “người cùng quê” để làm công tác binh
68

7.8 Page 68

▲back to top
Quân giớ i miến Đỏng Nam Bộ chế tạo vu khi ớ cản cứ thời kỳ chống Pháp.
vận, liên lạc với người nhà để nhận sách báo và tin tức đấu
tranh ỏ các tỉnh.
Cuối năm 1942, ở đồn điền Lộc Ninh, hdn 100 công
nhân cao su làng 4, 9 và 10 đã biểu tình thị uy, đòi chủ sở phải
giảm giờ làm, ngày làm 8 tiếng, không được cúp lương. Thực
dân Pháp và chủ sở đáp lại bằng cách nổ súng đàn áp, làm gần
10 người chết và bị thương, chúng bắt đi một số người khác,
hành động này làm thêm sôi sục lòng căm thù của 2 vạn công
nhân cao su đang sổng 11 làng. Lúc này đồng chí Lê Đức Anh
đang hoạt động hựp pháp Lộc Ninh, lập ra nhóm “công nhân
nòng cốt” để củng cố và phát triển phong trào đấu tranh sắp tơi.
Ọua cuộc đấu tranh đó, các đảng viên và công nhân rút
kinh nghiệm, củng cố lại tổ chức. Vào đầu 1943, vận động hơn
300 công nhân của 4 làng đồn điền cao su Lộc Ninh kéo đến
Văn phòng chủ sỏ; đòi chủ giảm giờ làm, không được cúp lương
mà tăng lương cho công nhân. Lần này đội ngũ công nhân đã tổ
chức ra một lực lượng thanh niên khỏe để bảo vệ đoàn biểu
69

7.9 Page 69

▲back to top
tình, được trang bị đao, gậy và nhiều phương tiện khác giâu sẩn
trong người, chuẩn bị tinh thần chống trả đàn áp. Đoàn người
kéo đến cổng chủ sở hô to: “không được cúp lương, phải tăng
lương”, “phải thi hành luật ngày làm việc 8 giờ”. Mặc dù xô xát
bắt bớ diễn ra quyết liệt, bọn lính bắn xối xả vào đám đông làm
chết 2 người và nhiều người bị thương. Nhưng công nhân vẫn
vượt chướng ngại vật đi thẳng đến bao vây nhà tên chủ sở Đờ
La-lăng, hoảng hốt trước sức mạnh dâu tranh của công nhân
chủ chánh Công ty Xét-xô buộc lòng nhượng bộ, tiếp đón đại
diện công nhân. Sẽ giải quyết theo nội dung yêu sách của công
nhân, đồng thời chấp nhận thay sô" lính ác ôn vừa đàn áp công
nhân đi nơi khác. Cuộc đâu tranh này của công nhân đã giành
thắng lợi. Tốì hôm đó các làng công nhân quy tụ về tại làng 4
dự lễ truy điệu mai táng cho 2 công nhân đã anh dũng hy sinh.
Cuối 1942, các nhóm đảng viên hoạt động ở Quản Lợi,
Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Thuận Lợi đã vài lần hội họp với các
đảng viên hoạt động ở Lái Thiêu, thị xã Thủ Dầu Một để thành
lập Tỉnh ủy, kết thúc thời kỳ tạm lắng.
Từ năm 1943, sau khi Hồng quân Liên Xô chuyển sang
phản công, với chiến thắng lịch sử Xtalingrát và đập tan cuộc
phản công của Hít-le ở vòng cung Cuốcxcơ, chiến tranh thế giới
bước vào giai đoạn mới: sự sụp đổ của phát xít Đức-bắt đầu.
Trên mặt trận châu Á và Thái Bình Dương, phát xít Nhật tuy
còn khá mạnh, nhưng mâ"t thế hùng hổ như trước.
Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã họp từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943 ở Võng La,
Đông Anh, Hà Nội nhận định: “Năm 1943 là năm phe dân chủ
sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn dể sửa soạn điều
kiện cho bước thắng lợi cuối cùng”(13) . Cách mạng Việt Nam
có thể tiến lên bằng những bước nhảy vọt. Toàn bộ công tác
của Đảng phải nhằm vào chỗ chuẩn bị khỏi nghĩa vũ trang.
Hội nghị chủ trương phát triển Mặt trận dân chủ thông
nhất trên cơ sở không ngừng củng cô" và phát triển các tổ chức
của công nhân và nông dân, bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng.
70

7.10 Page 70

▲back to top
Thành lập Mặt trận dân chủ chông phát xít Nhật ở Đông Dương.
Nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chông phát xít bao gồm cả
ngoại kiều và bắt tay có điều kiện với phái Đờ-Gôn (Pháp).
Những chủ trương đúng đắn đó, đã tạo điều kiện đưa
cách mạng trong cả nưức không ngừng phát triển mạnh mẽ.
Trước bôi cảnh chung đó, việc phục hồi cấp ủy tỉnh
cũng diễn ra gấp rút. Đến 1943, tại làng 1 đồn điền cao su Dầu
Tiếng, Ban cán sự Đảng (tức Tỉnh ủy lâm thời) tỉnh Thủ Dầu
Một được thành lập gồm các đồng chí Văn Công Khai, Nguyễn
Văn Thi, Nguyễn Văn Trung, Lê Đức Anh và Vũ Văn Hiển,
dồng chí Văn Công Khai được cử làm Bí thư, các đồng chí Lê
Đức Anh, Nguyễn Văn Trung phụ trách vấn đề các dân tộc ít
người. Theo sự phân công của Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Văn
Trung và Lê Đức Anh về hoạt động ở vùng Hớn Quản, Lộc
Ninh, chỉ đạo các phong trào đấu tranh của công nhân, nông
dân và đồng bào các dân tộc. Các đồng chí còn bàn bạc các
công tác cụ thể như phục hồi các chi bộ Đảng trên cơ sở những
đảng viên còn đủ phẩm chất, lựa chọn quần chúng tốt trong các
tổ chức hợp pháp đang hoạt động, làm nòng cốt dể lập ra các
hội cứu quốc, móc liên lạc với các dồng chí Xứ ủy, Thành ủy
Sài Gòn, Tỉnh ủy Gia Định để nắm tình hình chung và tiếp nhận
tài liệu của Trung ương.
Cuối 1943, vì chưa biết ở đây đã thành lập Tỉnh ủy “Xứ
ủy Tiền Phong”(14) cử đồng chí Dương Quang Đông (Dung Văn
Phúc) - ủy viên Thường vụ Xứ ủy, đến gặp đồng chí Văn Công
Khai và 3 người khác đang công tác tại thị xã Thủ Dầu Một.
Đồng chí Dương Quang Đông truyền đạt Nghị quyết tháng 2
của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và chỉ định đồng chí Văn
Công Khai làm Bí thư. Lúc này Đảng bộ Thủ Dầu Một đã có
nhiều chi bộ được lập lại một sô" đảng viên ở các đồn điền cao
su Dầu Tiếng, Quản Lợi, Lộc Ninh, đều tập trung vào công tác
phục hồi phong trào quần chúng, đẩy mạnh đâu tranh, do đó
phong trào cách mạng trong năm 1944 có bước phát triển mới.
Tháng 2/1944 chi bộ Lộc Ninh được thành lập gồm 3
71

8 Pages 71-80

▲back to top

8.1 Page 71

▲back to top
đảng viên(l5). Đồng chí Lê Đức Anh - ủy viên Ban cán sự tỉnh
Thủ Dầu Một, phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số làm Bí thư.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, điều lệ Việt Minh về việc
thành lập Mặt trận Việt Minh chi bộ đã phổ biến sâu rộng trong
công nhân và nhân dân vùng này. Ngoài ra chi bộ còn thành lập
nhóm trung kiên gồm các ông Mé, ông Ký Thinh, ông Khiêm,
ông Ba Đèn, ông Cai Loại và ông Hai Đinh (con ông Ba Đèn)
làm nòng cốt vận động phong trào Việt Minh, tạo cơ sở cho các
hội cứu quốc ra đời.
Đầu năm 1944, tại đồn điền cao su Lộc Ninh, khoảng
300 dân công tra tiến hành bãi công. Cuội bãi công bị đàn áp
nặng nề hàng mấy chục người bị đánh đập, bắt giam và chết tại
chỗ các anh Dậu, cần, Ngân.
Ớ đồn điền cao su Quản Lợi, một sô" khá đông công
nhân do nhóm thợ sơn, thợ nguội cầm đầu, tiến hành “làm reo”
chông lại bọn cai xếp gian ác như tên Cao Phong .v.v.
ở nhà tù Bá Rá (Phước Long) các đồng chí ta nhiều lần
dâu tranh đòi cải thiện đời sông, đòi thuốc chữa bệnh ... chi bộ
ở đây tích cực chuẩn bị gạo, muôi ... cho cuộc vượt ngục. Tại
trại “Cô Lông” nhà tù Bà Rá, giữa những người cộng sản như
Hồ Bá Phúc, Tô Ký, Trương Văn Bang... và nhóm Tờ-rốt-kít
do Lê Văn Thử cầm đầu, cũng diễn ra tranh luận nhiều lần về
vân đề “Nga, Đức ai thắng ai?”. Các đồng chí ta dùng nhiều lý
lẽ chứng minh Nga thắng Đức thua. Bọn Tờ-rốt-kít thì nói ngược
lại. Quan điểm của các đồng chí ta được anh em tù chính trị và
một sô" anh em “Hội những người cùng quê đồng tình”.
Đầu 1945 các hội cứu quô"c lần lượt ra đời và hoạt động
khắp nơi. Hội cứu quốc hoạt động ở Quản Lợi, Lộc Ninh, Thuận
Lợi, Bà Rá phát triển mạnh, đến giữa 1945 thì phần lớn công
nhân đều là hội viên cứu quốc. Các hội viên cứu quốc này lại
cử người đến làng, sóc vận động đồng bào dân tộc S’tiêng,
Khơme, Châu Mạ.... tham gia tổ chức của đồng bào dân tộc
không gọi là hội cứu quốc mà gọi “Tổ chức những người Việt
Nam mới”. Tổ chức này thu hút râ"t dông nhân dân tham gia, lập
72

8.2 Page 72

▲back to top
ra các đội tự vệ, mỗi đội vài chục người với trang bị thô sơ như
cung, ná, súng săn... Sau khi được thành lập, hội viên các hội
cứu quốc tích cực vận động đồng bào tham gia đế đấu tranh
chông lại Pháp, Nhật và chuẩn bị giành chính quyền.
III.
CAO TRÀO KHÁNG NHẬT cứu NƯỚC VÀ cuộc KHỞI
NGHĨA GIÀNH CHÍNH Q UYỀN TRÊN ĐỊA BÀN BỈNH PHƯỚC:
1. Công cuộc chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa ở tỉnh
nhà:
Cuối năm 1944 đến 1945, chiến tranh thế giới đã chuyển
qua giai đoạn kết thúc. Quân đội Xô Viết và liên quân Anh -
Mỹ mỏ những cuộc tiến công như vũ bão về phía Béclin, lần
lượt giải phóng các nước Trung, Đông âu.
ở Đông Dương, trước những chuyển biến mơi của cuộc
chiến tranh, đúng như Đảng ta đã dự doán từ lâ.u» tình trạng tạm
thời hòa hoãn giữa hai tên phát xít Nhật, Pháp châm dứt, mâu
thuẫn giữa chúng đã gay gắt đến mức: “Cái nhọt bọc nhất dinh
phái vỡ mủ”. Nhìn thấy triển vọng chiến thắng của quân đồng
minh dang đến gần, lực lượng Pháp theo Đờ Gôn ở Đông Dương
đã hoạt động ráo riết, chuẩn bị kế hoạch chiếm Đông Dương
khi quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương tiến công Nhật.
Âm mưu và hành động đó không lọt qua được tai mắt
phát xít Nhật. Chúng dưa thêm quân đội vào Đông Dương và
quyết định hành động trước để tiêu diệt quân Pháp. Ngày 9/3/
1945, Nhật đưa tốì hậu thư đòi Pháp phải trao trả tất cả quyền
hành cho chúng và bắt giam toàn quyền Dơ Cu Sài Gòn. Trên
toàn Đông Dương Nhật nổ súng tấn công. Quân Pháp không
chổng cự nổi, đầu hàng nhanh chóng.
Đảng ta theo dõi tình hình rất sát. Ngay đêm Nhật đảo
chánh Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp làng
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì. Hội nghị chủ trương “phát dộng một
phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho
cuộc tổng khỏi nghĩa”.
73

8.3 Page 73

▲back to top
Nội dung của hội nghị được trình bày trong bản chí thị
lịch sử ngày 12/3/1945: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta”. Chỉ thị quan trọng này thể hiện rõ sự lãnh đạo
sáng suốt kiên quyết, kịp thời và sáng tạo của Đảng ta. Nó là
kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng trong cao trào chông
Nhật, cứu nước dẫn đến thắng lợi trực tiếp của Tổng khỏi nghĩa
tháng Tám.
Dưới ánh sáng Chỉ thị của Trung ương và tác động của
tình hình mới, từ sau tháng 3/1945 phong trào dâu tranh cách
mạng trong tỉnh phục hồi nhanh chóng. Nhiều dồng chí cán bộ,
đảng viên bị giặc bắt giam đã thoát khỏi nhà tù trỏ về các địa
phương hoạt dộng, chắp nốì lại với các đồng chí còn lại địa
phương, nhanh chóng khôi phục lại tổ chức Đảng, hồi phục
phong trào. Nhiều dồng chí đảng viên các nơi đã quy tụ về tỉnh,
một sô" đảng viên phá trại giam Bà Rá về, cũng nhanh chóng
móc nôi nhập vào phong trào, Sô" đảng viên tăng lên nhanh,
phần lớn các đồng chí có năng lực tổ chức lãnh đạo. Các nhóm
cộng sản dều có sự liên lạc và kết hợp với nhau trên một sô"mặt
công tác. Tất cả các nhóm đều ra sức phát triển tổ chức Đảng,
mỏ rộng cơ sở ráo riết chuẩn bị cho tổng khỏi nghĩa.
về phía kẻ thù, sau khi đảo chính Pháp, bộ máy thông
trị của thực dân Pháp dược duy trì nguyên vẹn, chí có một diều
khác trước là bọn phát xít Nhật thay Pháp làm toàn quyền,
thông sứ, khâm sứ, thông đốc, công sứ nắm toàn bộ quyền lực.
Nhật dưa Trần Trọng Kim lên lập ra chính phủ bù nhìn. Ớ Nam
Kỳ chúng dùng chê" độ thuộc trị của Nhật. Chúng chỉ thay đổi
một vài tên cai trị ở bên trên, còn nguyên bộ máy cũ của thực
dân Pháp.
Tại các nơi trong tĩnh, từ sau tháng 3/1945 trỏ di, Nhật
càng ra sức xây dựng bộ máy cai trị của chúng, đồng thời tìm
mọi cách loại trừ phong trào Việt Minh và Cộng sản. Bên cạnh,
một tên quan văn đứng đầu toàn tính, còn có tên Araki làm
chức cảnh sát trưởng. Chúng sử dụng lại tên ác ôn đầu sỏ Lương
Sư Khai làm tĩnh trưởng, Đỗ Văn Công làm quận trưởng ... cùng
74

8.4 Page 74

▲back to top
với bè lũ tay sai. Chúng giữ nguyên hệ thông hành chính cũ bao
gồm tỉnh, quận (4 quận), tổng (12 tổng) và làng (123 làng).
Ngoài ra, chúng còn bô" trí hàng trung đoàn bộ binh chiếm đóng
các vị trí quan trọng về quân sự, kinh tế và chính trị như thị xã,
các thị trân, các đồn điền cao su lớn Lộc Ninh, Hớn Quản, Dầu
Tiếng, Thuận lợi... đồn biên phòng ở biên giới Việt Nam -
Campuchia, nhà ga xe lửa Lộc Ninh - Sài Gòn.
Các tổ chức, đảng phái thân Nhật như Thanh niên ái
quốc đoàn, Thanh niên bảo quốc đoàn, Võ sĩ đoàn, Nghĩa đạo
thực hành đoàn ... đẩy mạnh các hoạt động lừa bịp nhân dân,
tuyên truyền nền độc lập giả hiệu của Chính phủ Trần Trọng
Kim, gióng trống khua chiêng ủng hộ thuyết “Đại Đông Á ”,
thuyết “Đồng văn đồng chủng”, tuyên truyền Nhật sẽ ủng hộ
Việt Nam độc lập, bọn Tờ-rốt-kít cũng cổ mặt làm tay sai cho
Nhật
Cùng với việc xây dựng và củng cô" bộ máy cai trị, bọn
quân phiệt Nhật còn ra sức vơ vét về kinh tê" để nuôi dưỡng và
kéo dài chiến tranh. Chúng dựng lên một hệ thông kho tàng
hàng trăm cái ở những nơi bảo đảm bí mật và ở 10 trong sô" 22
đồn điền Quản Lợi, Lộc Ninh, Đakia, Thuận Lợi, Xa Cam, Dầu
Tiếng, Phước Hòa ..., tích trữ hàng ngàn tân lương thực, thực
phẩm, dược liệu, nguyên vật liệu..., mà chúng ăn cướp ở nhiều
tĩnh, thành ở Nam Kỳ và ở trong tỉnh. Chúng định mức thuê" cao
đôi với các loại thuê" xuất, bắt hàng ngàn dân công đi xây dựng
hệ thông hầm kho, hầm trú ẩn, hào chiến đấu, công trình bảo
vệ phi trường, các đồn lính Nhật ờ khắp nơi trong tỉnh nhưb Phú
Hòa, Thành Săn đá (thị xã), Tân Uyên, Chơn Thành, Hớn Quản,
Bà Rá, Bù Đôp, Lộc Ninh .... Dã man nhâ"t là chúng đã thủ tiêu
tâ"t cả những người đã đào hầm chôn dâu các loại vũ khí, các
mặt hàng chiến lưực cho chúng ở tất cả các nơi để bảo đảm an
toàn bí mật cho chúng'16'.
Tình cảnh vô cùng khôn đôn đó đã làm cho các tầng lớp
nhân dân nhận ra rằng kẻ thù không phải là da trắng hay vàng
mà là sự tàn bạo, dã man cướp nước ta, bắt nhân dân ta làm nô
75

8.5 Page 75

▲back to top
lệ. Được Đảng Cộng sản tuyên truyền giáo dục và tổ chức, nên
các tầng lớp nhân dân nhất là quần chúng lao động sục sôi tinh
thần cách mạng. Quyết tâm vùng lên đánh đổ phát xít Nhật và
tay sai để giành lại đất nước của mình.
Cao trào chông Nhật cứu nước của nhân dân trong tỉnh
được mở đầu bằng cuộc nổi dậy “Tự giải thoát” của 200 tù
chính trị ở căng Bà Rá vào lúc 7 giờ ngày 10/3/1945. Cuộc “tự
giải thoát” đã thành công nhờ có sự chuẩn bị từ trước, lại nhân
cơ hội Pháp bỏ chạy, binh lính Nhật (1 đại đội) mới đến, chưa
kịp vào cai qụản. Ngoài việc tự giải thoát, các đồng chí còn vận
động binh lính người Việt, người dân tộc và người Pháp bỏ trại
và giâu súng<17). Sau khi ra khỏi căng các đồng chí đã tổ chức
một cuộc mít tinh bên bờ sông Bé gồm 40 người, trong đó có
các đồng chí Nguyễn Thành A, Hồ Bá Phúc, Trương Văn Bang,
Liên, Giáo, Nữ, Xuân, Hồng, Thơm.v.v... Tại cuộc mít tinh đồng
chí Nguyễn Thành A thay mặt đoàn đọc bản tuyên ngôn của
Mặt trận Việt Minh và nhắc nhở mọi người khi về tỉnh nhà hãy
góp phần cùng Đảng bộ và nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa
giành chính quyền thắng lợi<18).
Tiếp theo cuộc nổi dậy của tù chính trị căng Bà Rá,
là công nhân, nông dân ở nhiều vùng khác trong tỉnh cũng
phá kho gạo, kho thóc của Nhật để cứu đói cho nhân dân
trong vùng.
Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang
bắt đầu phát triển, đồng chí Văn Công Khai Bí thư Tỉnh ủy
triệu tập hội nghị Tỉnh ủy tại nhà anh Nguyễn Thiện Hành
(Sáu Trọng) ở làng Mỹ Phước, với sự có mặt của đồng chí
Nguyễn văn Trấn, phái viên của Xứ ủy Tiền phong phụ trách
các Tỉnh ủy miền Đông.
Cuộc họp nhận định Nhật là kẻ thù chính trước mắt, ta
phải đẩy mạnh công tác phát triển Đảng và hội cứu quôc, lập
ra đội tự vệ sắm sửa vũ khí để giành chính quyền trước khi
quân đồng minh vào. Chủ trương đúng đắn đó của Tỉnh ủy
được phổ biến đến tận chi bộ, các nhóm đảng viên trong toàn
76

8.6 Page 76

▲back to top
Tỉnh Đảng bộ.
Đồng chí Lê Đức Anh, dự hội nghị ở tỉnh về, đã tổ chức
thực hiện chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa trên tất cả các làng, đồn
điền Lộc Ninh, Hớn Quản, Đakia... đến các vùng dân tộc ít
người. Công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền được
đẩy mạnh với hàng loạt các tổ chức đoàn thể ra đời và bắt đầu
hoạt động công khai, công tác chuẩn bị khởi nghĩa cũng lan
rộng trong đồng bào dân tộc, “lực lượng Việt Nam mới”, một tổ
chức cứu quốc của đồng bào dân tộc ít người ra đời. Đây là tập
thể yêu nước đại diện cho các dân tộc S’tiêng, Khơme, M’mông,
Chân Mạ.... của 50 làng trực thuộc Hớn Quản, Lộc Ninh, “lực
lưựng Việt Nam mới” đã tổ chức ra một đội bán vũ trang khoảng
vài chục người được trang bị cung tên, giáo gươm, dao và khoảng
6, 7 súng trường, súng săn do anh Giáo (thầy giáo người Kinh)
chí huy.
Tháng 5/1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Tiền phong,
tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập tại Sài Gòn do
bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, đảng viên Đảng Cộng sán Đông
Dương làm thủ lĩnh. Trong thời gian ngắn vận động và tổ chức,
với sự hoại dộng tích cực của cán bộ đảng viên, đoàn viên công
đoàn. Đội ngũ Thanh niên Tiền phong đã phát triển nhanh chóng
hầu hết các tỉnh Nam Kỳ.
ở tĩnh ta, tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành
lập do đồng chí Trịnh Kim Ảnh<19) làm thủ lĩnh. Hoạt động của
Thanh niên Tiền Phong Việt Minh rất sôi nổi. Anh chị em Thanh
niên Tiền phong ngày đêm học tập, canh gác, giữ gìn trật tự
ngoài đường, đi dạy các lớp bình dân học vụ một không khí
bao trùm thị xã, thị trấn, nông thôn đến dồn điền cao su, tạo nên
khí thế sôi nổi, sục sôi cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.
Không chỉ có thanh niên mà các lứa tuổi như thiếu niên, người
già, phụ nữ tham gia tích cực. Hàng ngày trên khắp nẻo đường
tiếng hát “Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi”, lời ca
“nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng...’’vang lên, hun
dúc tinh thần yêu nước, nâng cao tinh thần đâu tranh cho tự do,
độc lập của dân tộc.
77

8.7 Page 77

▲back to top
Bên cạnh, các hoạt động chính trị, văn hóa để chuẩn bị
cho cuộc tổng khởi nghĩa, tháng 5/1945, liên Tỉnh ủy Miền
Đông triệu tập hội nghị tại Biên Hòa, với các đại biểu của
Đảng bộ Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Biên Hòa để phổ
biến tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, phổ
biến chủ trương của Xứ ủy là gâp rút xây dựng, phát triển lực
lượng cách mạng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang để
chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Đây là cuộc họp quan
trọng, là cơ sở đê đoàn kết các đảng viên cộng sản, tạo sự
thống nhất hành động trước thời cơ mới.
Sau hội nghị liên Tỉnh ủy Miền Đông, Tỉnh ủy chủ trương
phát động phong trào sắm sửa vũ khí, lập đội tự vệ, trang bị vũ
khí và huân luyện quân sự cho thanh niên. Trong các tổ chức
Thanh niên Tiền Phong, Thanh niên Cứu quốc, hầu hết đoàn
viên đều tự trang bị gậy tầm vông, dao găm, luyện tập dánh võ.
Hàng trăm thợ rèn ở khắp nơi trong tỉnh coi việc rèn dao, gươm
cho Việt Minh là hành động yêu nước. Ngoài ra ta còn tổ chức
lấy được hàng trăm khẩu súng từ Nhật, Pháp và ngụy quân dem
trang bị cho Thanh niên Tiền Phong, công nhân, nông dân.
Không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi nổi, khẩn trương của
quần chúng cách mạng đã lôi cuốn các tầng lớp đang lừng
chừng, do dự, bàng quan trong giai cấp tư sản, địa chủ, ngã theo
phong trào Việt Minh, ngăn chặn được những hoạt động của
bọn tay sai thân Nhật.
2.
Khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 ở địa
bàn Bình Phước:
Mùa thu 1945, sau khi Liên Xô đánh tan quân phát xít
Đức, ngày 9/8/1945 tuyên chiến với phát xít Nhật và đánh tan
đạo quân Quan Đông tinh nhuệ. 13/8/1945 phát xít Nhật đầu
hàng không điều kiện các nước đồng minh. Sự kiện này, làm
cho quân đội Nhật ở Đông Dương mất tinh thần, hoang mang
tan rã, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kinrhoàn toàn tê liệt từ
trên xuống dưới.
Từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
78

8.8 Page 78

▲back to top
họp tại Tân Trào khẳng định: Điều kiện tổng khởi nghĩa đã chín
muồi, Đảng phải lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền
trong cả nước trước khi quân đồng minh kéo vào Đông Dương,
theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, kịp thời; úy ban Khởi
nghĩa toàn quốc được thành lập, do đồng chí Trường Chinh làm
Trưởng ban. Hội nghị đề ra đường lối đối nội, đối ngoại, kiện
toàn Ban Chấp hành Trung ương để thích ứng với tình hình mới.
Được tin Nhật xin đầu hàng, ngay đêm 13/8/1945, ủy ban Khởi
nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh sô" 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân
khai mạc, có hơn 60 đại biểu Bắc, Trung, Nam. Đại hội nhiệt
liệt hoan nghênh chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10
chính sách của Việt Minh; quyết định thành lập úy ban Giải
phỗng Dân tộc, do Hồ Chí Minh (tên mới của đồng chí Nguyễn
Ai Quốc) làm Chủ tịch; Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca của
nước Việt Nam mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 25 triệu đồng bào ta đã
nhâ"t tề vùng dậy “đem sức ta mà giải phóng cho ta ”. Sức
mạnh như triều dâng, thác đổ, nhân chìm lũ cướp nước và bán
nước, tiến hành tổng khỏi nghĩa oanh liệt, giải phóng toàn bộ
đất nước.
Quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng và Xứ ủy
Nam kỳ về tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đồng chí Văn
Công Khai Bí thư Tỉnh ủy, tổ chức ngay cuộc họp Tỉnh ủy mở
rộng đến Bí thư chi bộ<20) bàn việc chấp hành Nghị quyết của Xứ
ủy và lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương. Hội nghị Quyết dinh:
1. Thành lập ửy ban Khởi nghĩa ỏ tỉnh do đồng chí Văn
Công Khai phụ trách.
2. Các cơ sở lập ngay ủy ban Khởi nghĩa.
3. Ngày 25/8/1945 tập trung lực lượng trong toàn tỉnh
giành chính quyền tại thị xã.
4. Các thị trân, các đầu môi đồn điền cao su đồng loạt
79

8.9 Page 79

▲back to top
khởi nghĩa, hoặc sớm hơn tùy tình hình cụ thể.
Hội nghị chủ trương hết sức tránh những vụ khiêu khích
của địch. Nếu chúng chông lại thì ta dùng các đơn vị tự vệ chiến
đấu và huy động quần chúng đấu tranh. Hội nghị khẳng định dù
tình thế khó khăn thế nào cũng phải khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi, coi đó là nguyên tắc cao nhất của cách mạng.
Chấp hành chủ trương của Tỉnh ủy và ủy ban Khởi
nghĩa tỉnh, nhân dân thị xã và các quận đã nhất tề đứng lên khởi
nghĩa giành chính quyền trong khí thế tiến công sôi sục.
Tại Lộc Ninh, ngày 24/8/1945, trời vừa sáng nhân dân
và công nhân các làng, sở cao su Lộc Ninh - Đakia với nòng cốt
là lực lượng thanh niên quyết chiến, lực lượng tự vệ, lực lượng
Việt Nam mới nhất tề nổi dậy. Từng đoàn người gậy tầm vông
vạt nhọn, xà beng, giáo mác, cung ná tiến vào các nhà máy, xí
nghiệp đồn điền cao su và các cơ sở sản xuất, làn sóng người ào
ạt vượt rào, leo tường, trương cờ đỏ sao vàng, căng khẩu hiệu
“chính quyền về tay nhân dân”, “Việt Nam độc lập muôn năm”,
“Đảng cộng sản Đông Dương muôn năm”. Bọn lính Nhật không
đầu hàng thì bị bắt hoặc bị trừng trị.
Riêng tại nhà chỉ huy bọn phát xít Nhật, viên chí huy
Nhật ra lệnh bắn vào lực lượng thanh niên quyết chiến đang
tiến tới. Tình huống trỏ nên khỏ khăn. Đồng chí Lê Đức Anh
chọn ra một đội gồm những chiến sĩ cảm tử và dích thân chỉ huy
đánh chiếm mục tiêu. Súng địch bắn xối xả, nhiều chiến sĩ đã
ngã xuống, song người này ngã, người khác tiếp bước xông lên,
ào ào vượt qua vào đồn giặc. Sau 15 phút, cuộc chiến dã kết
thúc 18 lính Nhật bị giết trong đó có 2 tên chí huy, những tên
còn lại dầu hàng. Ta thu 40 khẩu súng và toàn bộ quân trang,
quân dụng.
Tại Bù Đốp, lực lượng khởi nghĩa gồm có nông dân, công
nhân với dao, gậy... bao vây đánh địch thu được kho súng, trong
đó có cả súng máy. Đây là nguồn súng đã làm cho lực lượng vũ
trang Lộc Ninh sau này được trang bị mạnh hơn nhiều nơi khác.
80

8.10 Page 80

▲back to top
22 chiến sĩ công nhân Lộc Ninh đã hy sinh anh dũng cho
cuộc khởi nghĩa toàn thắng. Lộc Ninh trở thành một trong những
nơi cướp chính quyền sớm nhât trong tỉnh Thủ Dầu Một. Sau
cuộc khởi nghĩa thắng lợi, đồng chí Lê Đức Anh cùng các đồng
chí Ba Quyên (lái xe), Ba Anh (công nhân), Ba đèn, cầu, Kỳ,
Ngân, những người lãnh đạo phong trào trở thành những người
phụ trách các công việc về chính quyền. Đó là chính quyền độc
lập đầu tiên của Lộc Ninh.
Tại Hớn Quản, sáng 25/8/1945, đông đảo anh em công
nhân và nhân dân các đồn điền Quản lợi, Xa cam, Xa Trạch,
Xa C á t... nổi dậy tổ chức mít tinh rồi chuyển sang biểu tình, tay
mang xẻng, cuốc, gậy gộc, xà beng, búa, có cả súng trường và
lựu đạn kéo nhau đi chiếm nơi ở và làm việc của bọn chủ,
giành lại quyền làm chủ đồn điền. Đối với bọn Nhật, công
nhân và nhân dân dùng gậy tầm vông vọt nhọn, dao găm và
một ít súng tới vây các đồn bót có lính Nhật chiếm đóng. Các
đại biểu công nhân hùng dũng tiến vào tận sào huyệt địch.
Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng cách mạng, hầu
hết các đồn điền, bọn tư bản Pháp và bọn chỉ huy quân Nhật
đều run sợ, chúng vội vàng giao chìa khóa tủ sắt, công xưởng,
các kho tàng, máy móc, đồn bót cho đại biểu nhân dân, trả lại
đồn điền cho công nhân.
Sau khi giành lại được quyền quản lý các đồn điền,
đông đảo anh em công nhân cùng với nông dân và đồng bào
dân tộc ít người, mà nòng cốt là lực lượng Thanh niên Tiền
phong, kéo về chợ Hớn Quản tổ chức mít tinh lớn nhằm biểu
dương lực lượng cách mạng, đồng thời cướp chính quyền ở
quận lỵ. Tại cuộc mít tinh đồng chí Nguyễn Văn Trung - Tỉnh
ủy viên được cử làm lãnh đạo khởi nghĩa, đã nói chuyện trước
nhân dân, giải thích rõ cuộc cách mạng đồng thời kêu gọi
nhân dân ủng hộ cách mạng giữ vững chính quyền vừa giành
được. Cuộc mít tinh mà thực chất là cuộc nối dậy biểu dương
lực lượng giành chính quyền đã diễn ra với khí thế vô cùng
rầm rộ, náo nức.
Cũng trong sáng ngày 25/8/1945, cùng với việc Khởi
81