Tap 5 Van hoa

Tap 5 Van hoa



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


I. SINH HOẠT LÀNG, XÃ:
Cư dân Việt hình thành ở Đồng Nai do hội nhập bởi nhiều đợt chuyển cư chủ
yếu từ đường biển đến cho nên, địa bàn cù lao, gò, giồng ven sông rạch được xem
là loại hình cư trú phổ biến của thuở khai sơ. Các làng xã ở dọc sông Phước Long,
Lòng Tàu, Thị Vải, Đồng Môn... đều là những làng xã sớm có tên trong Gia Định
Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Các địa danh: Giồng Ông Đông (huyện Nhơn
Trạch), Giồng Dài (huyện Long Thành), Cù Lao Rùa (Tân Uyên - Bình Dương), Cù
Lao Tân Triều (huyện Vĩnh Cửu), Cù Lao Phố (Biên Hòa)... còn mang đậm dấu ấn
của loại hình cư trú ven sông, rạch. Loại hình cư trú này, nhà cửa thường tập trung
ở gò, giồng cao ráo, hướng ra sông, trên bến, dưới thuyền, vườn ruộng gắn sông
nước; cây cao bóng cả soi bóng dòng sông.
Ở Đồng Nai còn có kiểu quần cư đáng kể theo dạng tỏa rộng ở các vùng bán
sơn địa gắn với nguồn lợi lâm thổ sản có nếp sống sinh hoạt vừa mang tính nông
nghiệp ruộng vườn vừa đậm dáng vẻ "sơn cước". Kiểu quần cư dọc theo các tuyến
lộ huyết mạch cũng phát triển khá sớm và khá nhanh trên con đường đô thị hóa.
Làng (thôn, xã) của người Việt ở Đồng Nai thuộc dạng hình thành sớm ở
Nam bộ, mang đặc điểm là làng khai phá, định cư sớm, lan tỏa nhanh. Từ xa xưa, có
thể ngược sông Đồng Nai đến tận nguồn để khai thác lâm, thổ sản; cho nên những
cảng thị, bến bãi ven sông với nghề buôn bán, hình thành khá sớm. Những làng cổ
có truyền thống buôn bán: Cù Lao Phố, Bến Đò Trạm (Biên Hòa), Bến Gỗ (Long
Thành), Bến Cá (Vĩnh Cửu)... có lịch sử không muộn hơn các làng thuần nông. Lê
Quí Đôn trong Phủ biên tạp lục cũng cho thấy vai trò của các nhà buôn từ khi đất
Đồng Nai còn là rừng rậm, nhiều ngòi lạch.
Thành phần phi lúa nước trong nông nghiệp đạt tỉ lệ cao khiến cho làng Việt
ở Đồng Nai càng đậm nét là làng có cơ cấu không bền chặt, thoáng mở, luôn trong
trạng thái động, rộng đường giao lưu, khá bình đẳng trong sinh hoạt và lao động, sự
phân hóa xã hội ít căng thẳng, sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị khó áp đặt
nặng nề.
Trong mỗi làng thường có nhiều họ khác nhau. Nhiều người ngoài làng tới
cùng khai phá phụ canh, khiến sinh hoạt trong làng trở nên cởi mở, đỡ bảo thủ, dễ
tiếp nhận cái mới và càng dễ canh tân nhờ các cuộc hôn nhân khác họ cũng như các
mối quan hệ giao lưu thường xuyên giữa trong và ngoài làng. Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Đình Đầu, địa bạ Biên Hòa lập năm 1836 cho thấy: một thôn thuộc tỉnh
Biên Hòa cũ, trong 81 chủ điền đã có 12 họ khác nhau. Kết quả khảo sát năm 1996
ở các xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch) xã Hiệp Hòa (TP. Biên Hòa) cũng cho thấy
cơ cấu làng xã nhiều họ với tỉ lệ tương tự.
Trong sinh hoạt làng xã, vai trò của phụ nữ được khẳng định. Dấu ấn của họ

1.2 Page 2

▲back to top


in đậm qua các địa danh: Bà Rịa (thị xã), Thị Vãi (núi), Bà Trường (ấp), Bà Bướm
(cầu), Bà Ký (rạch)... Trong thần điện thờ cúng, uy linh của nữ thần không kém nam
thần. Điều này có nguồn gốc từ vai trò của người phụ nữ trong đời sống hiện thực.
Khi nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ, tác giả Nguyễn Đình Đầu ngạc nhiên; "không ngờ
phụ nữ làm chủ ruộng đất với tỉ lệ khá cao. Tại Biên Hòa, thôn Bình Phú Trung
(tổng An Phú Thượng, huyện Bình An), 81 chủ sở hữu 1073.7.11.3 ruộng, trong đó
21 nữ chủ sở hữu 265.3.8.2, tức gần 25% số chủ và 24% ruộng đất". Vai trò người
phụ nữ được xem trong đó là dấu hiệu của xã hội đậm tính nhân văn.
Làng xã ở Đồng Nai ban đầu được thành lập tự phát theo chủ kiến của người
khẩn hoang, về sau, dần tuân theo quy chế của nhà Nguyễn; làng nhỏ (tiểu thôn) gọi
là: làng, ấp, trang, trại, hoặc phố phường (nếu là đô thị); làng trung bình gọi là thôn,
làng lớn (đại thôn) gọi là xã. Số lượng thôn của xã (cũng như làng, ấp của mỗi thôn)
thường bất định. Theo Minh Điền hương ước ban hành năm 1852, phải 200 dân đinh
trở lên, khai khẩn từ 100 mẫu trở lên mới được thành lập một xã; 50 đến 200 dân
đinh khẩn 50 mẫu trở lên được lập thôn; 10 đến 50 dân đinh khẩn trên 10 mẫu được
lập ấp.
Thực tế, ở Đồng Nai, làng ấp được lập không hoàn toàn theo qui định thời
điểm lập địa bạ 1836, toàn tỉnh khai khẩn 13.420 mẫu ruộng đất; trong 282 làng,
thôn được lập địa bạ năm 1836, có đến 205 thôn khẩn dưới 50 mẫu đất; chỉ có 26
thôn, làng có trên 100 mẫu đất. Nhưng sức tăng trưởng rất nhanh, khi cư dân khá
đông tách thành làng mới; năm 1820, Gia Định Thành thông chí ghi 310 xã, thôn,
phường năm 1837 phát sinh thêm 40 xã, thôn, làng mới. Tên đặt cho làng, xã, thôn
thường dùng những mỹ tự bắt đầu những chữ: An, Bình, Long, Phước, Tân, Vĩnh,
Mỹ... thể hiện sự ước muốn hưng thịnh, phát đạt. Tuy nhiên các tên làng xưa vẫn gọi
nôm na theo đặc điểm của từng vùng, như: Giồng Dài, Bến Cộ, Bàu Cá, Gò Me, Gò
Chùa, Cù Lao Rùa. Mỗi thôn làng ở Đồng Nai thường có nhà võ - đình - miếu - chùa
- chợ, bến (trạm)... là nơi sinh hoạt chung, thường đặt ở xã, chỗ cao ráo khu trung
tâm, tiện đi lại, có cổ thụ che bóng tạo cảnh quan thanh tịnh.
Thuở sơ khai, để khuyến khích việc khẩn hoang, lập ấp, làng, chúa Nguyễn
để cho các làng mới có quyền tự trị, tự quản. Đến năm 1852, vua Tự Đức ban hành
Minh Điền hương ước sắp xếp lại bộ máy điều hành chính ở nông thôn, gắn sinh
hoạt hành chính với sinh hoạt đình miếu. Mỗi xã có từ mười hai đến hai, ba mươi
hương chức, chia làm hai nhóm: Một nhóm lo việc hành chánh, quản trị, một nhóm
lo việc lễ hội đình, đám. Đến thời Pháp thuộc, sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa
mà thủ lĩnh là người có chân trong hương chức xã thôn, thực dân Pháp thực hiện chủ
trương phân hóa quyền lực của bộ máy hành chính nông thôn, thừa nhận và sử dụng
bộ phận hương chức hội tề, tách hương chức Hội hương ra khỏi bộ máy hành chánh.
Dầu vậy, hương chức làng xã vẫn không mất đi tính đại diện tự quản ở nông thôn.

1.3 Page 3

▲back to top


Cư dân Việt tha hương ở vùng đất mới Biên Hòa - Đồng Nai dễ kiếm sống
nhưng khó thiết lập những quan hệ bền chặt như kiểu làng - họ ở bổn quán cho nên
rất trân trọng tình cảm "đồng cảnh ngộ", không phân biệt dân cố cựu và ngụ cư.
Trong nếp sống thường ngày: Nồi cơm luôn đầy sẵn lòng đãi khách, lu nước ngọt
luôn trong lành và sẵn gáo dừa ở đầu bến hoặc ven đường, nhà ở luôn sẵn chỗ cho
người lỡ bước, kiểu nhà bè giúp người cơ nhỡ (gắn với sự tích truyện Thủ Huồng)...
đó là những tập quán "mở lòng" đối với người đồng cảnh ngộ.
...Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây...
Vì chung nỗi niềm xa xứ mà cư dân Việt và người Hoa dễ hội nhập với nhau.
Năm 1679, nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên vào cư trú ở Bàng Lân, lập
xã Thanh Hà, khuếch trương thương cảng Cù Lao Phố nổi danh một thời. Sự hội
nhập giữa hai dòng văn hóa Hoa - Việt có chung hệ nông - thương nghiệp khiến
người Hoa - người Việt ở làng xã Đồng Nai chung sống hòa hợp, cái hay cái đẹp
trong ứng xử thâm nhập vào nhau, dần dần lớp người Hoa đến sớm chan hòa trong
nếp sống của người Việt. Nếp sống thoáng mở của làng Việt cũng là cơ hội để các
tôn giáo bám rễ vào đời sống tâm linh của quần chúng nhân dân, với tính tích cực xã
hội đậm nét, tiếp cận nhạy bén với khoa học và thời cuộc.
Các dân tộc bản địa: Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng cư trú ở địa bàn vùng cao
gắn với hệ sinh thái rừng - đồi; nghề chính là săn bắn và nương rẫy; trước đây cuộc
sống du canh nên làng không cố định; Làng của người Châu Mạ gọi là Bboon (1[1]),
của người Stiêng gọi là Pauh (buôn) (2[2]) của người Châu Ro gọi là Blay hoặc
Đublay (3[3]) có nét giống nhau ở sự quần cư theo nhóm họ, ứng xử theo luật tục
truyền miệng, xã hội chưa phân hóa giàu nghèo, già làng và thầy cúng được tôn
trọng, dấu vết của chế độ mẫu hệ còn đậm nét trong tập tục tôn trọng phụ nữ, coi
trọng lời thề, không thích làm giàu, nhiều kiêng cữ trong việc chọn rẫy lập làng,
cùng xem con cù lần, chim Rlinh (chim chèo bẻo) như là biểu tượng của cộng đồng.
Hiện nay, làng của người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng chuyển dần theo cách của người
Việt, nếp xưa nhạt dần.
II. ĂN UỐNG:
Do thời khí của hai mùa mưa nắng, sản vật biển, rừng, sông nước, vườn
ruộng phong phú; cách ăn uống của người Việt ở Đồng Nai vừa thể hiện nét chung
của văn hóa Việt Nam vừa có sắc thái mang dấu ấn của Nam bộ.
(1[1]) Xứ người M, J.Boulbet (Đỗ Văn Anh Dịch)
(2) ESSAI de Vocabulaire Francais - Stiêng.
(3[3]) Người Châu Ro ở Đồng Nai - Nxb.. Đồng Nai 1988.

1.4 Page 4

▲back to top


Thức ăn được chọn lựa tươi ra tươi, khô ra khô, ăn để no, ăn để giao đãi, còn
để phòng chữa bệnh; dùng nhiều gia vị, phối hợp nhiều thức, món với nhau, nhiều
cách chế biến, khi thì chế biến công phu, lúc thì tận hưởng hương vị tự nhiên, "Ưa
ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít ăn cháo" (4[4]). Lâu dần trong giao lưu với
người Hoa, cháo ngày càng trở thành món chính trong bữa lót lòng.
Theo Sơn Nam, năm 1932, trên mặt báo đã nêu một "thực đơn" kiểu phổ biến
của người bình dân:
- Lót lòng (ăn sáng): cháo trắng với một vài trong các món: cá kho mặn (kho
sắc hoặc kho tiêu chiên lại), tôm khô chiên củ hành - củ cải muối mặn.
- Cơm trưa: Canh chua bạc hà - cá nướng (cá sông, cá biển), lòng heo xào
bún tàu - rau luộc (đọt dền, đọt lang) - thịt kho nước dừa.
- Cơm chiều: canh thịt nấu cải bẹ - thịt kho nước dừa - dưa cải hoặc dưa giá
- cá sặc hoặc cá rô (muối sương) - cua xào giấm...
Nhiều món ăn quen thuộc của người Biên Hòa - Đồng Nai nói riêng và Nam
bộ nói chung thường dùng để "trở bữa" cho cơ cấu ngày ba bữa ăn thông thường:
Cháo đậu ăn với cá lóc kho tiêu, cháo đậu nước cốt dừa, canh bầu nấu cá trê vàng,
cá lóc kho thơm, canh khoai mỡ nấu tép, canh chua cá lóc nấu thơm, mắm kho chấm
rau sống, mắm chưng cách thủy, canh mướp nấu tép hoặc thịt nạc, mắm đồng chưng
trứng, canh khổ qua dồn thịt, thịt kho tàu, canh ngót cá tươi...
Món cúng ông bà, thần thánh được chuẩn bị tươm tất hơn ngày thường. Ở
miền Bắc thường có 4 món chính: Ninh, giò, nem, mọc. Ở Nam bộ, mâm giỗ thường
bày nhiều món trong đó không thiếu 4 món chủ yếu: hầm, luộc, kho, xào. Nhiều nơi
có thêm món nướng và các món phụ: rau - dưa, mắm - gỏi, bánh - trái.
Kỹ thuật làm món của người Biên Hòa - Đồng Nai được chăm chút, nhiều
kiểu cách. Món hầm phổ biến dùng trong mâm giỗ là giò heo hầm măng tre Mạnh
Tông ngụ ý nhớ gương hiếu thảo trong Nhị thập tứ hiếu. Dần dần có thêm nhiều kiểu
hầm, tiềm với nhiều vật liệu khác nhau. Cùng với hoặc thay thế món hầm canh.
Người Đồng Nai thích ăn canh nấu hỗn hợp thịt cá với các loại rau vị mát; phổ biến
là canh chua cá lóc với me chua và các vị rau quen thuộc: Bạc hà, giá, đậu bắp, bắp
chuối, rau om, ớt. Có thể thay cá lóc bằng cá dứa, cá ngát, cá bông lau, cá mú... canh
bầu nấu với tép cũng là món quen thuộc của Nam bộ thường thấy ở mâm cơm người
bình dân ở Biên Hòa - Đồng Nai: "Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật
đầu khen ngon". Ngoài ra, canh chua gà lá giang là hương vị của nhóm cư dân ở gò
đồi, canh ngót nấu bằng cá tươi quen thuộc với vùng sông nước. Không có thịt cá
(4[4]) Văn Hóa: s5/1997, trang 75 - 76

1.5 Page 5

▲back to top


thì có thể là canh rau ngót, mồng tơi, dền, đọt bí, đọt mướp, rau đắng, khổ qua, nấu
với một ít tép khô cũng ngon miệng. Người miệt Nhơn Trạch tự hào với rau giá quê
mình. Giá nảy mầm từ đậu xanh, thứ rau quen thuộc của người Nam bộ. Nhưng, dân
vùng Nhơn Trạch có kiểu làm giá riêng. Không phải đổ thùng, ủ đất như nhiều nơi
mà gói thành từng ổ rất công phu, cẩn thận. Đậu xanh, thường là đậu mốc được đãi
loại bỏ đậu lép, ngâm nước ấm khoảng một buổi, trải thành một lớp mỏng trên lá
chuối có lót mặt (trên và dưới) bằng lớp đất gò mối tán nhuyễn có trộn ít thạch cao;
bên ngoài lá chuối là tấm manh lát buộc nhiều nuột dây chuối. Mỗi ổ giá khoảng một
lít đậu gốc, gói hình vuông, hằng ngày nhúng nước ba lần. Nước phải trong sạch,
nếu không sẽ bị thúi. Nhơn Trạch nhiều mạch nước ngầm trong mát, rất hợp với giá,
hình như vì thế mà cọng giá mập tròn, giòn tươi hơn giá ở nhiều nơi khác. Độ ba
ngày thì ổ giá no đầy, người ta tháo dây, xổ giá, đãi sạch rễ. Mùa xuân, dường như
cả làng đều làm giá. Gói giá tính ngày để xổ đúng vào các phiên chợ Tết. Những
ngày ấy, làng quê đỏ đèn, trắng giá, tiếng cười nói rộn ràng suốt đêm, lũ trẻ làng
không ngủ, thường cởi trần thách thức hơi xuân, dùng rổ vớt những cọng giá còn sót
lại lọt ra từ rổ đãi, gởi người lớn bán ở chợ hoặc xào mỡ đánh chén với nhau; nhiều
khi ngẩn ngơ đứng nhìn rễ giá trôi trắng trên những con mương bềnh bồng như
những đám mây trời.
Giá xuân để ăn, để biếu Tết, để bán; nhưng bán không chỉ để kiếm lãi,
phần lớn là để vui ba ngày xuân. Nhiều người gánh giá đến tận chợ Long Thành, xưa
kia còn đi bộ đến chợ Biên Hòa. Món dưa giá ngày Tết không thể thiếu bên cạnh thịt
kho tàu. Đặc biệt, giá Nhơn Trạch nhờ gói theo kiểu ấy cho nên muối dưa rất ngon,
để năm ba ngày dưa vẫn chua và giòn tươi, trắng nõn, không ủng.
Món luộc cũng lắm cách với nhiều món. Cùng là kiểu nấu chín các loại rau,
thịt, cá bằng nước sôi nhưng có nhiều cách luộc: luộc chín, luộc nhừ, luộc sơ, trụng,
nhúng... thông thường, người Biên Hòa - Đồng Nai thích luộc vừa chín tới để hưởng
hương vị tự nhiên.
Món xào, chiên thể hiện với nhiều dạng, cốt lõi là kỹ thuật dùng mỡ, làm
chính món ăn khô hay có nước, gồm nhiều thứ hoặc một thứ. Những thứ chỉ dùng
mỡ gọi là chiên, chiên thường chiên mềm hoặc chiên giòn (còn gọi là chiên xù). Cá
rô chiên giòn, mắm đù ướp sả chiên mặn là những món ăn nhớ đời.
Món xào cũng dùng mỡ nhưng có ít nước (nước tự nhiên trong rau hoặc thêm
vào) làm chín các món thường là kết hợp nhiều thứ: rau, bún gạo, mì, thịt, lòng,
trứng... bởi vậy món xào rất phong phú, có xào chua, xào ngọt, xào mặn, có thể từ
đó mà có món ăn ảnh hưởng của người Hoa: Mì xào dòn, hủ tiếu xào giòn, hoành
thánh xào giòn...
Họ hàng với cách xào, chiên còn lắm cách làm thức ăn. Rang là một cách
làm chín không dùng mỡ. Cua tôm rang me, rang muối là món ăn đặc sản của vùng

1.6 Page 6

▲back to top


ven sông rạch. Um là kiểu làm chín bằng mỡ kết hợp hầm món có ướp gia vị. Lươn
um mỡ hành, gà um nấm là món ăn công phu, sang trọng. Thịt ướp gia vị có đường
chiên với ít dầu mỡ gọi là riêm. Tôm riêm, thịt riêm là món thông dụng. Khìa là một
cách nấu chín như thịt ướp thấm gia vị với nước cốt dừa. Món khìa thường thấy ở
người biết làm đồ nhậu. Nai khìa, Rùa khìa thường được những người sành điệu
nhắc đến.
Món kho là thứ dễ thực hiện và phong phú nhất. Đại Nam quốc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của giải thích: Kho cá là nấu cá và nước mắm, muối làm mặn cố ý để
ăn nhiều bữa. Liều lượng làm mặn và vật nấu khác nhau khiến có nhiều cách kho.
Kho khô không đến mức không còn nước, còn gọi là kho rặc; đến khi có cá thắm
mặn khô cứng hoặc cong queo gọi là kho quéo; hoặc chỉ kho nước mắm với đường,
hành, tiêu đến mức đặc sệt gọi là kho quệt. Kho tộ là dạng kho khô bằng tộ. Cá bống,
cá lóc, cá rô, cá trê kho tộ là một món ăn ngon truyền đời. Kỹ thuật kho tộ chủ yếu
ở cách ướp cá tươi với gia vị, có thói quen dùng đường, nước cốt dừa, dùng nồi đất,
tộ đất đậy nắp kín, đốt lửa riu riu để nhiệt nóng từ từ và nguội từ từ; lửa từ rơm nếp
sáu tháng là tốt nhất.
Thịt, cá, tôm kho có nhiều đường, kho khô nước gọi là kho riêm. Thịt, cá ướp
ít gia vị, kho mềm, nhiều nước còn gọi là kho tàu; kho nhiều nước, không mặn gọi
kho ngót, lắm khi còn dùng nước cốt dừa gọi là kho nước cốt. Thịt, tôm kho nước
cốt dừa ăn với cơm gạo nanh chồn, nàng thơm, ba thắc là món ăn sang trọng thuở
xưa. Món kho dễ làm, dễ ăn, để được lâu vừa ngon miệng đối với người khá giả, vừa
thích hợp với người bình dân, có thể theo người lao động với cơm nắm cơm giỡ lên
rừng xuống biển, cho nên món kho đa dạng và cũng đa tình:
Buổi mai ăn một bụng cơm no
Bước xuống Bến Đò
Em mua chín cái trách
Em bắt quách lên lò
Một cái kho ngò
Hai cái kho củ cải
Ba cái kho nải chuối xanh
Bốn cái nấu canh rau má
Năm cái nấu cá chim chim
Sáu cái kho riêm thịt vịt
Bảy cái kho thịt con gà
Tám cái kho cà thù đủ
Chín cái nấu củ môn tây

1.7 Page 7

▲back to top


Em theo anh cho đến ngày nay
Công bất thành danh bất toại
Thì chín cái trách này cũng chẳng ra chi.
Món nướng gắn với kiểu ăn dân dã đồng thời cũng thông dụng với cách ăn
sang trọng. Thức nướng luôn phải tươi. Đối với món ăn sang trọng, thức nướng
thường được ướp gia vị, nướng lửa than, hoặc nướng lò. Heo, gà, vịt nướng ướp da
chín vàng theo kiểu người Hoa gọi là quay. Ấy là những cách nướng có lẽ cải biến,
nâng cao từ kiểu thô sơ của người bình dân. Nướng kiểu thô sơ nghĩa là không cần
gia vị để thưởng thức hương vị tự nhiên của đất trời. Có được thịt, cá tươi, người ta
ghim vào que nhọn gọi là nướng lụi. Với chim, không cần phải mổ bụng làm ruột,
học cách nướng nguyên của đồng bào dân tộc ít người gọi là nướng mọi; cá to để
nguyên, cắm cọc, đắp rơm rạ đốt chín gọi là nướng trui; bó đất sét đốt vàng gọi là
nướng đất sét; cá nhỏ, thịt vụn gói bằng lá chuối với ít rau thơm gọi là nướng gói.
Chim cu nướng mọi, cá lóc nướng trui, nấm mối nướng gói... là những thức ăn thú
vị của thuở xưa và quí hiếm ở thời nay. Thuở khai hoang, lập ấp; món nướng thông
dụng cho bữa ăn đông người là nướng tréo. Được thú lớn như nai, mang, heo, nhím...
người ta treo con vật lên, đốt lửa xung quanh, cùng xẻo thịt ăn với muối, ấy là nướng
tréo, còn gọi là tùng xẻo. Đối với một số ốc vỏ cứng, món nướng cũng thông dụng.
Chem chép nướng, dọp nướng là món nổi tiếng của vùng nước lợ (Nhơn Trạch, Long
Đất, Cần Giờ).
Cùng với các món ăn chủ yếu: canh (hầm), luộc, kho, xào, nướng; rau - gỏi
cũng là món thông dụng trong các bữa giỗ hoặc mời khách. Dĩa rau sống đầy đủ của
người Việt ở Biên Hòa - Đồng Nai tổng hợp rất nhiều loại: rau rừng - rau vườn -
rau ruộng; đủ vị cay - nồng - chua - chát, đắng; dưới dạng: hoa lá - trái - củ - cây;
tùy cơ cấu bữa ăn mà liều lượng rau khác nhau; ở miền Đông, Biên Hòa - Đồng Nai
thích dùng các loại rau: rau lang, rau đắng, rau má, rau om, rau chạy, ngò ta, thân
cây chuối hột, bắp chuối hột, giá sống, rau húng, lá ngành ngạnh, lá xoài, lá điều, lá
cách, lá chiếc... Rau sống làm cho bữa ăn ngon miệng, tổng hợp nhiều vị, cân bằng
với thịt cá, giải nhiệt, dễ tiêu hóa, mà lại rất dễ có (người xưa nói: quơ tay là có rau),
bởi vậy, rau sống là món ăn thông dụng. Đồ chua - ngọt cũng là dạng rau, gồm nhiều
thức: Bắp chuối hột, trái chuối hột non, cà pháo, giá, kiệu, hành... thậm chí vỏ dưa
hấu được các bàn tay khéo léo muối chua cũng trở thành món ngon góp phần trong
bữa ăn tạo hương vị khó quên. Ngày Tết, củ kiệu, dưa hành không thể thiếu, dưa giá
ăn với thịt kho tàu rất thú vị; củ kiệu, tôm khô, chuối non chua ngọt... rất cần cho
việc tiếp khách chúc xuân vốn sợ mùi thịt mỡ.
Độc đáo là các món gỏi, thông thường gỏi được trộn nhiều loại rau với thịt
tôm. Người miền Bắc thích gà luộc lá chanh, người Biên Hòa - Đồng Nai cũng như
người Nam bộ thích gà trộn gỏi có vị chua của chanh, cay của tiêu ớt, nồng của rau

1.8 Page 8

▲back to top


răm, giòn tươi của bắp chuối hoặc cải bắp hòa vị ngọt của gà tơ... gỏi gà lai rai với
rượu đế sau đó là tô cháo nóng nấu từ nước luộc gà... ấy là hương vị thân quen của
bữa ăn giao đãi thân tình. Gỏi bưởi gồm bưởi xiêm hoặc bưởi chua trộn với đu đủ,
tép khô, thịt ba chỉ và rau thơm từng là món nhậu đặc sản của xứ bưởi Biên Hòa.
Các loại gỏi trộn từ bông súng, ngó sen với thịt luộc, tôm luộc cũng đậm đà hương
vị như nhiều nơi. Đáng kể là các món gỏi sống. Với kỹ thuật của đồng bằng Bắc bộ
lưu truyền ở khu vực Hố Nai, Tân Mai, Tam Hiệp... gỏi tôm sống được thực hiện
với kỹ thuật như miền Tây. Gỏi thịt sống nghe nói nhưng ít thấy. Độc đáo nhất của
vùng biển, sông nước của miền Đông là gỏi sống cá trích, hiện là đặc sản của miệt
sông Nhơn Trạch, Long Thành, Bà Rịa, Long Hải... cá trích tươi rút xương (kiêng
dùng dao kim loại) sắp lớp trên dĩa, nặn chanh, trộn đậu phộng, đu đủ, rau thơm...
tạo hương vị khó quên. Thịt bò trụng sơ nước sôi, nặn chanh trộn thêm hành, rau
thơm gọi là bò bóp thấu. Món ăn phong phú nên món chấm cũng nhiều loại, có chấm
khô và chấm nước. Chấm khô gồm nhiều loại muối tốt nhất là muối biển miệt Bà
Rịa được hầm bung từ nồi đất, trộn gỏi với nhiều loại hương vị theo đó mà đặt tên:
Muối ớt, muối tiêu, muối sả, muối mè, muối đậu, muối sả ớt, muối mè đậu, muối
gừng, muối nghệ, muối chanh, muối hành mỡ, muối bột tôm, muối bột xương... mỗi
loại muối thích hợp với vài món luộc, rau chấm cho nên người xưa thường làm sẵn
nhiều loại muối khô cất giữ trong nhà. Nhiều khi không có món gì khác; cơm trắng
với muối khô cũng qua bữa. Có loại chấm không khô cũng không phải nước đó là
tương, chao. Tương, chao được làm từ đậu, chủ yếu là đậu nành, thích hợp cho người
ăn chay, cũng ngon miệng trong bữa ăn mặn.
Nước chấm là nhiều dạng hơn cả. Nguyên liệu chủ yếu của nước chấm là
nước mắm. Nước mắm ngon Phan Thiết, Phú Quốc đều được ưa thích ở Biên Hòa -
Đồng Nai. Người địa phương còn biết tự nấu nước mắm tương truyền theo cách của
người Chăm Trung bộ, ép từ cá cơm, cá nục, cá mòi. Ngon nhất là nước mắm nhĩ cá
cơm, đặc biệt là cá cơm tiêu; loại này quí hiếm nên thường dùng nguyên chất. Nước
mắm chấm rau, chan bún thường được pha chế gồm nhiều vị: Chanh, ớt, tỏi, đường,
nước nguội. Thịt vịt thường được dùng nước mắm gừng; ăn với canh ngót cá tươi,
bánh tráng dùng nước mắm tỏi ớt; Để có sức lặn sâu, bơi dài, người địa phương
thường uống một chén nước mắm nhĩ. Muốn biết nước mắm ngon, người ta thử bằng
đũa hoặc thả hạt cơm; độ đạm trong nước mắm thể hiện trong cách làm nổi hạt cơm
hoặc đẩy ngược chiếc đũa. Nói đến mắm, người Biên Hòa - Đồng Nai còn dùng
nhiều loại mắm mang tên gọi từ vật liệu hình thành: Mắm còng, mắm chua (tôm, đu
đủ). Mắm ruốc, mắm nục, mắm cơm, mắm đồng (các loại mắm đồng: mắm lóc, mắm
sặc, mắm linh) riêng mắm nêm có được gọi khác hơn do muối từ các loại cá con, tép,
ruốc, ngon nhất là muối chỉ từ ruốc. Cách làm mắm cũng đơn giản: một lớp mắm
một lớp muối cho vào ống tre hoặc hũ đậy kín để đến ngấu. Người ta thường lót mặt
bằng lá điều hoặc bằng lá khác để chống sinh dòi. Người Biên Hòa - Gia Định rất

1.9 Page 9

▲back to top


thích ăn mắm, đến mức: "có người trong một bữa ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn
20 cân, để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau" (1). Có ý kiến cho rằng, lẩu mắm phổ
biến hiện nay cũng do từ thói quen thích ăn mắm; Lẩu do từ mà ra, nói theo giọng
Quảng Đông; Mắm kho đun sôi để hấp dẫn và vệ sinh, lại để tiện ăn với các loại rau
(2). Người Hoa ít ăn mắm, thích dùng xì dầu; và các dạng xì dầu nấu từ nước xương
(dùng ăn mặn) hoặc các loại đậu (có thể chay) góp phần làm phong phú các món
chấm Nam bộ. Lâu dần, người ta chế biến thành các món chấm hợp thành các dạng
như tương ớt phổ biến khắp nơi. Người Nam bộ nói chung, Đồng Nai nói riêng, nếu
ăn mà thiếu nước chấm thì không cảm thấy ngon miệng.
Thức chính của bữa ăn người Việt ở Biên Hòa - Đồng Nai vẫn là chất bột từ
gạo, nếp; phụ là bắp, khoai, củ. Cơm từ gạo là món ăn thường; xôi, nếp, dùng trong
bữa lễ, giỗ, cưới, hoặc cúng thần. Xứ Đồng Nai có nhiều loại lúa gạo nên cơm cũng
nhiều loại và nhiều cách nấu. Gạo thường từ các loại lúa rẫy, lúa ruộng: Lúa bụi,
nàng ệch, lúa chàm, cuống chim, nàng phệt, nàng yên, ba thắc... dùng cho các bữa
cơm thông thường. Gạo tám thơm, nanh chồn quí hiếm dùng cho các bữa cơm sang
trọng. Cơm xứ Đồng Nai ngon nổi tiếng cùng cá biển miền Trung:
Cơm Nai, Rịa
Cá Rí, Rang.
Gạo nàng thơm Chợ Đào cũng nổi danh ở Biên Hòa xưa:
Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai.
Cơm nấu cho đông người ăn dùng nồi đồng, nồi đất, theo lượng người ăn mà
phân loại nồi hai mươi, ba mươi. Gạo ngon thường nấu trong niêu hoặc nồi đất nhỏ,
kín hơi với lửa than hoặc lửa rơm. Cũng có người nấu gạo thường, cho thêm lá dứa
để có mùi thơm. Gạo còn phân thành gạo cũ (để qua nhiều năm) cho cơm nở bung,
ít vị; gạo mới (đúng mùa vụ) thơm, dẻo, đậm đà hương vị. Khi cúng giỗ, tế thần, đãi
khách, người ta thường dùng gạo mới.
Nếp có nhiều loại, nếp dứa, nếp nai là giống nếp quí, thích hợp với phong
thổ địa phương. Cơm nếp nấu như cơm hoặc hấp cách thủy. Khó phân biệt giữa xôi
và cơm nếp. Đám tiệc lớn thường có xôi vị với vị ngọt; xôi lá cẩm màu tím tự nhiên
từ lá cẩm; xôi gấc màu đỏ tươi từ trái gấc; ngoài ra còn có xôi bắp, xôi đậu phộng,
xôi đậu xanh, xôi dừa... gọi theo tên những thứ nấu cùng.
Xứ Đồng Nai giàu lúa gạo cho nên từ gạo nếp và từ bột gạo nếp cũng tạo
thành nhiều loại bánh. Có bánh ngọt để ăn chơi và bánh dùng trong bữa ăn chính.
Bánh tráng phổ biến ở Trung bộ cũng quen dùng ở xứ Đồng Nai. Tuy nhiên, xứ
Đồng Nai ít thích bánh tráng bột mì, hiếm dùng bánh đa tráng dày; mà ưa bánh bột
(1) Gia Định Thành thông chí, tp h, Tu Trai Nguyn To dịch, Nha văn hóa XB 1972; t. 14.
(2) Theo Sơn Nam, Văn hóa s5/1997, trang 76 - 77.

1.10 Page 10

▲back to top


gạo tráng mỏng, nhúng ướt cuốn với rau tươi, xác dừa, tép luộc, rươi luộc chấm nước
mắm ớt tỏi. Bánh tráng Phước Lai, Phước Thọ, Tân Hạnh, Thạnh Phú... hiện vẫn
phát đạt với kĩ thuật tráng bánh mỏng bằng bột gạo sáu tháng trắng, dai, vị ngọt lẫn
mặn vừa phải. Ngoài ra còn có bánh tráng ngọt để nướng hoặc bánh tráng nướng kéo
mật đường khá quen thuộc với lớp trẻ thơ.
Bún, bánh hỏi là những thức từ bột gạo khá phổ biến. Bún, bánh hỏi Chợ
Đồn, Vĩnh Thị, Hiệp Hòa, Phước Lai... nổi tiếng xưa nay. Bánh canh cũng tinh chế
đồng dạng với bún nhưng sợi to hơn và để nấu tươi. Bánh canh đầu cá ở Chợ Đồn,
bánh canh tép ở Nhơn Trạch từng lưu danh xa gần. Bánh tét từ gạo nếp khác hẳn vị
bánh chưng, gói thành đòn dài, để rất lâu. Thông thường là bánh tét nhân đậu xanh
thịt mỡ. Nếp ngâm vài giờ vừa nở, gút qua nước lá bồ ngót cho có màu xanh dịu, mỡ
muối sẵn và đậu xanh đãi vỏ làm nhân, gói bằng lá chuối hột, cột dây thành đòn, nấu
chín kĩ nhiều giờ, khi chín vớt ra, xâu thành từng cặp treo đứng, để được rất lâu.
Không khí canh nồi bánh chưng ngày Tết thường in đậm trong kí ức tuổi thơ và đi
vào văn chương. Bánh tét chay không dùng nhân thịt mỡ mà gói với đậu, có thể là
đậu phộng, đậu đen. Người Long Thành, Nhơn Trạch còn gói với nhân hạt điều. Có
bánh tét nhưn chuối là thứ ăn chơi, ít được cúng. Lại có bánh tét bằng gạo nếp trộn
bắp non dẻo thơm mùi bắp. Người Đồng Nai gốc miền Tây thường gói bánh tét nước
dừa hoặc bánh tét nước tro, do việc ngâm nếp qua nước tro từ vỏ trái gòn hoặc gói
nếp với nước cốt dừa hay xác dừa. Họ hàng với bánh tét có bánh cúng, bánh cấp
thường dùng trong các lễ cúng cô hồn, thí thực. Cả hai đều gói bằng nếp, không
nhân. Bánh cúng hình dài, bánh cấp hình vuông ghép từng cặp, dân gian giải thích
rằng, để cúng và cấp cho cô hồn tiện mang theo ăn cho chắc bụng (thay cháo lá đa).
Các loại bột mì, bột củ chuối, bột củ hoàng tinh (mình tinh) cũng tham gia
cùng bột gạo nếp tạo nhiều loại bánh mặn, ngọt với kỹ thuật chế biến khéo léo, tinh
xảo: bánh tầm, bánh mứt, bánh xốp, bánh da lợn, bánh ú, bánh ít, bánh phồng, bánh
nghệ, bánh thửng (thuẩn), bánh men, bánh đúc, bánh xèo, bánh tổ, bánh cốm... hàng
trăm loại bánh góp mặt ở xứ Đồng Nai có nguồn gốc khắp Bắc, Trung, Nam; Hoa,
Việt, Chàm, Khơme... nhờ đó mà các món bánh phong phú, không ngừng được cải
tiến. Kỹ thuật làm bánh với màu sắc cây lá tự nhiên (lá bồ ngót, lá dứa, lá cẩm, trái
gấc...) và hương vị cây trái địa phương (nước dừa, thơm, sầu riêng...) được xem là
việc ứng dụng mang màu sắc địa phương.
Món uống thông thường là trà, nhưng không uống trà vị đậm như ở xứ Bắc.
Người địa phương thường uống trà tươi theo kiểu Huế gọi là trà Huế. Không rõ, trà
ở xứ Đồng Nai xuất hiện từ khi nào nhưng đã được nhắc đến từ Gia Định Thành
thông chí (1). Cây trà mọc cao từ ngang đầu người đến hàng chục mét, được trồng ở
các vùng gò đồi, lá và thân đều có thể dùng nấu nước. Lá trà được hái về, vò, ủ kín,
(1) Tp hạ, sđd, trang 57.

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


hạ thổ nấu bằng siêu. Khi rót, siêu nước trà được giơ cao, dòng trà rót mạnh xuống
tô nổi bọt trắng đục. Thế là trà ngon. Người ta thường rót trà vào một cái tộ, pha với
nước mưa đựng trong lu trước hàng hiên nhà, múc nước bằng gáo dừa. Các lão nông
có khi chỉ uống một tô trà thay bữa ăn sáng. Tiếp khách bằng một tô trà Huế là thú
vui tao nhã của người xưa. Uống trà còn tác dụng giải nhiệt, thông huyết mạch.
"Nước Mạch Bà, trà Phú Hội" là thức uống nổi tiếng xưa nay. Đọt trà non chế biến
thành trà khô ướp hương cũng là một cách dùng trà nhưng chỉ thường dùng với một
số ít người. Có lẽ vì ở xứ nóng, uống trà pha loãng để giải nhiệt đã dẫn đến thói quen
uống trà đá sau này.
Thức uống để giải khát còn có nước hột é, hột ư, mủ cây trôm trôm. Hoặc để
có mùi thơm người địa phương còn dùng hương vị của hột trái keo rang, hoặc lá dứa.
Người bình dân quen dùng nước mưa, nước mạch. Ở vùng Long Thành, Nhơn Trạch
có nhiều mạch nước trong lòng đất tự chảy ra, nước trong lành như nước mưa. Những
nơi khác, dùng lu, mái hoặc xây hồ chứa nước mưa xài cả năm. Nước mưa nước
mạch ngọt lành, không đun sôi uống vẫn tốt. Có đi xa mới thấy nhớ và hiểu hương
vị "nước Đồng Nai".
Thức uống có men phải nói đến rượu đế. Cùng với rượu Gò Đen (Long An),
Hòa Long (Bà Rịa) rượu gạo Bến Gỗ (Long Thành) cũng nổi tiếng xứ Đồng Nai.
Rượu đế chưng cất từ gạo nếp, kết tinh chất bổ dưỡng từ bột nên dùng đúng liều
lượng rất dễ tiêu hóa. Rượu đế còn ngâm thuốc gồm nhiều loại động, thực vật để
tăng lực hoặc chữa bệnh. Đồng Nai còn có rượu ngâu ngâm từ trái ngâu, một loại
trái của miền Đông vị lành mát, tác dụng an thần. Đáng kể là rượu nếp than nổi tiếng
ở xứ Đồng Nai, phổ biến ở Nam bộ. Nếp than là loại nếp màu tím than được trồng
nhiều ở Đồng Nai xưa. Nếp được gút sạch, ngâm nước nửa ngày, nấu chín rắc bột
men vào, trộn đều, vò viên, phơi nắng cho vào hũ hoặc nồi đậy kín bằng lá chuối,
tốt nhất là lá chuối hột hơ héo. Ba, bốn ngày sau, cơm nếp ra bã, cho nhiều nước
men nồng. Ấy cơm rượu, thường được mời nhau ở các dịp Tết giỗ, men gây say
nhẹ ngây ngất, phụ nữ, trẻ con đều có thể dùng, tác dụng kích thích tiêu hóa và diệt
giun sán. Nếu vắt bã cơm nếp lấy nước, cho vào hũ đậy kín, hạ thổ 100 ngày thành
rượu bách nhật, uống rất bổ. Người ta còn dùng trứng gà ngâm rượu bách nhật để
bồi dưỡng sản phụ.
Rượu vốn là thức uống tốt, vì bị lạm dụng nên sinh ra tệ nhậu nhẹt, say xỉn.
Ngay cả việc nhậu chỉ khi bị lạm dụng mới sinh ra tệ nạn. Cách nhậu người Đồng
Nai xưa có khác. Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) nghĩa
gốc của từ nhậu là uống, nhậu nước là uống nước (1). Sau mất dần cách gọi nhậu
nước còn nhậu rượu. Nhậu rượu trước đây được hiểu uống rượu là chính (khác với
nhắm rượu trong bữa ăn), nhưng uống lai rai để thưởng thức. Món ăn là phụ, nhằm
(1) Đại Nam quc âm tvca Hunh Tnh Ca, Nxb. Khoa hc - Xã hi, 1976, tp I.

2.2 Page 12

▲back to top


đưa cay, thường là một vài món; nhiều món sẽ gây lộn xộn, mất hứng thú thưởng
thức. Bởi vậy, rượu phải ngon, món nhắm phải đặc biệt (như các loại đặc sản của
rừng, biển, sông ruộng hoặc các món được chế biến kỳ công) hoặc rất thông thường,
có khi là rau cỏ, đọt cây, chuối chát, kể cả đọt bầu, cóc, xoài, ổi, me, mận... dễ tìm.
Quan trọng là người cùng uống, lai rai nói chuyện đời, chuyện ruộng vườn, hoặc
chia sẻ nỗi niềm đồng điệu, hoặc cùng nhau thưởng thức ngón đàn câu hát. Nơi nhậu
thường chọn chỗ thoáng mát, hữu tình, vắng người qua lại, đặc biệt là tránh nơi có
nhiều trẻ nhỏ. Kiểu nhậu ngày xưa đậm đà nghĩa tình, thường đến với người cao tuổi
thanh nhàn.
Xứ Đồng Nai giàu hoa trái, trái cây trở thành món ăn thông dùng. Gần như
quanh năm đều có trái cây. Bưởi là loại trái nổi tiếng:
Biên Hòa có bưởi thanh trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.
Bưởi thanh có nhiều loại, vị chua ngọt dễ chịu, múi nhỏ mọng nước, càng
chín càng ngọt, để lâu ăn cũng ngon, dễ trồng trên các loại đất ở Đồng Nai. Gần đây,
giới y học công bố bưởi thanh có tác dụng tốt cho tim mạch. Bưởi đường, bưởi xiêm
là các giống bưởi ngon ưu thế của xứ bưởi Tân Triều. Bưởi đường cũng có nhiều
loại (da cóc, lá cam, cao núm, da láng...) thích hợp ở vùng đất phù sa bồi ven cù lao
Tân Triều. Bưởi ổi có hình dáng như trái ổi, có vị thơm ngon, càng để lâu càng ngon,
khi vỏ khô cứng tưởng như đã hỏng, đem ngâm nước vỏ mềm lại, bưởi càng thơm
ngon hơn. Do năng suất kém, khó trồng nên bưởi ổi đang dần mai một. Bưởi có
nhiều công dụng, vỏ dùng để làm nem (nem bưởi), nấu chè (chè bưởi), hoa ép thành
nước thơm (dầu bông bưởi) lá để xông giải cảm, hạt phơi khô đốt đèn hoặc đốt thành
tro trị ghẻ chốc đầu. Thiếu nữ xứ Biên Hòa thường tự ví mình:
Thân em cam, quít, bưởi bòng
Đắng the ngoài vỏ mà lòng ngọt thanh.
Ý là muốn nói đến phẩm chất giống như đặc tính của họ bưởi: Hương vị dễ
thương ẩn bên trong cái hình thể khó tiếp nhận. Các loại trái: cam, quít, ổi, chôm
chôm, chuối, mít, sầu riêng, măng cụt... đều có hương vị ngon thơm nổi tiếng trong
vùng. Các vườn trái cây Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Triều, Lái Thiêu thuộc Biên
Hòa (xưa) và gần đây rộ nở ở Long Khánh trở thành quen thuộc với khách gần xa.
Sầu riêng là loại trái gần như là đặc sản của xứ Long Thành, Long Khánh. Vị sầu
riêng nồng đậm người lạ khó ưa nhưng nếu đã bén hơi thì không thể quên. Hương
vị sầu riêng được chế biến trong bánh ngọt, kẹo, xôi, nước giải khát và các loại chè
khiến người khó tính nhất cũng cảm thấy ngon miệng. Có những loại trái cây hiếm
có thể hiện nguồn gốc ở tên gọi: chuối chà, dâu miền dưới, chuối xiêm, dừa xiêm,
mãng cầu xiêm... Muốn kể hết các loại cây ở xứ Đồng Nai, phải cần đến một cuốn
tự điển. Có thể nói, xứ Đồng Nai quanh năm đều là ngày hội của cây trái; hương vị

2.3 Page 13

▲back to top


thường thiên về nồng đậm hơn so với hoa trái cùng loại ở nơi khác.
Ngoài ra, không thể không nhắc đến những món ăn, cách ăn khác tuy ít phổ
biến nhưng gây ấn tượng khó quên cho người sành ăn. Đuông là thức ăn quí hiếm
của người Nam bộ. Tên chữ là hồ da tử, người địa phương gọi là đuông chà là, đuông
dừa, đuông mía, đuông cau... tùy ở loại cây có đuông. Người miền Tây thích ăn
đuông dừa, có người nuôi đuông để dùng dần (1). Người miền Đông hay ăn đuông
tự nhiên có ở đọt chà là, đọt mía. Đuông chà là vùng rừng Sác (Nhơn Trạch, Cần
Giờ) quí hiếm nhưng ngon nổi tiếng. Đuông nướng lửa than, hoặc ngâm nước mắm
ngon rồi nhúng chảo dầu sôi, nhắm với rượu chát, rượu cúc; một lần được ăn dăm
con thì nhớ đời.
Miền Đông nhiều hoa trái nên cũng lắm dơi. Dơi quạ, dơi sen, dơi chó, dơi
hương giăng lưới bắt được trong mùa nhãn, mùa sầu riêng ngát hương, dơi càng hôi
thì xào lăn, băm nêm nấu cháo càng thơm. Huyết dơi thường dùng pha rượu uống,
nghe nói là rất mát. Thịt cá sấu là đặc sản hiếm có, vị ngọt, dai, ngon hơn thịt gà;
nấu cháo, xào, kho đều dùng ngon. Đặc biệt, trứng sấu to hơn trứng ngỗng, ăn bổ
khỏe được các chiến sĩ đặc công rừng Sác khen là ngon chưa từng có (2).
Các loại nấm: Nấm huyết, nấm dẻ, nấm rơm, nấm mộc, nấm sao, nấm gạo,
nấm gan... đều ăn được. Nấm dẻ xào lăng là món ăn độc đáo, khó quên. Đặc biệt,
Nấm mối là loại nấm bén duyên với người miền Đông. Ấy là loại nấm tự nhiên, mọc
ở đất gò mối, nơi ẩm mốc có nhiều lá cây rụng, mỗi năm thường chỉ mọc một hai
đợt vào thời điểm đầu và giữa mùa mưa khi khí trời chuyển tiếp nửa mưa nửa nắng;
mỗi đợt chỉ mọc trong vòng 3, 4 ngày. Bởi vậy nấm mối quí hiếm, ai được ăn là điều
may trong năm. Nấm mối vị ngọt như thịt gà, nấu cháo, nấu canh, xào, kho đều được.
Hương vị đặc biệt nhất của trẻ thơ là nấm mối gói bằng lá chuối hột cùng với lá lốt,
rau thơm, nướng lửa than chín vừa, chấm muối tiêu.
Hương vị của rừng nhiều loại, cũng là đặc sản của xứ Đồng Nai. Các loại
trút, kì đà, rắn, chuột, nai, mang, heo rừng, dọc, khỉ, chim... đều có bài chế biến
thành món ăn ngon miệng. Những khi thiếu đói, măng tre, cây, lá, củ rừng cũng
thành món ăn ngon. Có những món ăn nhớ đời của người tham gia kháng chiến:
Măng chua nấu với cá, rau tàu bay nấu canh hoặc luộc, củ chụp củ mài chấm muối
thay cơm; đặc biệt là củ nần là một loại củ rừng dây gai, củ mọc sâu dưới đất. Củ
nần được đào lên gọt vỏ, rửa sạch, xắt lát mỏng, ngâm nước, mỗi ngày thay nước ba
lần, trong ba ngày tức đủ chín lần thay nước thì có thể đem luộc, hấp, um mỡ ăn thay
cơm, nếu được nấu cùng cơm nếp thì tuyệt. Có điều, củ nần phải được giữ kỹ, kiêng
nước mưa từ mái nhà, nếu chỉ vài giọt nước mưa từ mái nhà lọt vào thì củ nần sẽ gây
ngộ độc cho người ăn; triệu chứng ngộ độc thường là cười như điên dại.
(1) Theo Món lmin Nam của Vũ Bằng, Nxb. Đồng Nai, 1989, trang 62.
(2) Theo Mt thi Rng Sác của Lê Bá Ước, Nxb. Đồng Nai, 1998.

2.4 Page 14

▲back to top


Bữa ăn thông thường, mọi người quây quần bên mâm tròn dưới đất hoặc trên
ván ngựa, dùng đũa, chấm chung; người lớn ngồi bên nồi cơm, bới cơm bằng đũa
cái giúp cho trẻ, thông thường là nàng dâu bới cơm cho cả nhà. Những bữa giỗ thì
bày nhiều mâm, thức món như nhau, ngồi bàn và cả ngồi ván, mâm của nam giới có
thêm rượu, mâm nữ giới có trầu cau, bánh ngọt. Bánh trái đám giỗ thường được gói
nhỏ tiễn khách. Những bữa ăn trong giờ lao động thường rất đơn giản, gồm cơm cá
kho hoặc dăm món khô, mặn; có thể ăn ngay trên đồng, trong rẫy ngoài ruộng, giữa
rừng, ở ghe, đò. Ghe đi xuôi có thể mang theo cà ràng và các thức nấu. Đi cấy, đi
rừng, đi rẫy thường ăn cơm giỡ theo kèm vài thức dễ mang đi. Dễ nhớ là các loại
cơm vắt: Cơm nấu nhão, vắt kỹ, bó mo cau hoặc gói lá chuối hột hơ héo ăn với muối
(nhiều loại) hoặc cá kho quéo.
Thuở xưa, món ăn do tự làm lấy trong gia đình là chính. Việc buôn bán món
ăn thường dưới hình thức gánh hàng rong với các món ăn vui miệng: Bắp nướng,
chè thưng, tàu hủ, bánh lọt, sâm sa... khi đô thị phát triển mới thấy xuất hiện các
tiệm ăn, đa phần là tiệm ăn của người Hoa, sau lan dần ra người Việt; thoạt đầu là
tiệm nhỏ phục vụ người vãng lai, dần dần một số người đô thị có thói quen ăn cơm
tiệm thay cơm nhà. Trước năm 1945, ở Biên Hòa tiệm ăn hãy còn thưa thớt, có thể
kể, tiệm Hiệp Lực ở chợ Biên Hòa, bán trên 100 món ăn chay; Quán cơm Tứ Hải
trong chợ Biên Hòa bán cơm bình dân, miễn phí cho người cơ nhỡ; Quán cơm bình
dân của người Chà ở góc đường Võ Tánh - Lý Thường Kiệt cũ; Quán cơm Ông Năm
bình dân ở góc đường Lê Thánh Tông - Lý Thường Kiệt cũ, có đọc truyện liên hồi
phục vụ khách ăn hoặc ở Chợ Đồn (Bửu Hòa) có quán bánh canh đầu cá nấu ngon
nổi tiếng xa gần.
Trong quan hệ cộng sinh với nhiều cộng đồng dân tộc, qua món ăn, cách ăn
ở xứ Đồng Nai cũng có thể thấy được sự giao tiếp của nhiều nếp văn hóa. Người
Hoa ăn uống không khác người Việt lắm, nhưng cũng có nét riêng, thích nước tương
hơn nước mắm, gia vị thường dùng nhiều đường; cơ cấu bữa ăn thích dùng cháo
buổi sáng với các món muối, buổi trưa ăn nhẹ, buổi tối ăn chính, cơ cấu món ăn chú
ý chất dinh dưỡng, chữa bệnh.
Người Châu Ro, Châu Mạ, Stiêng ăn nghèo món hơn người Việt, thường là
những món đánh, bắt, hái được trong rừng, chế biến ít công phu; thích ăn nướng,
kho; thèm vị mặn, thiếu muối thì dùng tro tranh, lá rừng; uống rượu cần (rượu ịch)
trong ngày lễ hội, nấu cơm lam bằng nứa rừng; ăn thịt trâu, dê, gà, heo nướng lụi với
muối ớt trong lễ hội; làm bánh bột gạo, bột nếp trong lễ cúng Yang. Kỹ thuật làm,
cách ăn thường giống nhau; chỉ khác ở tên gọi theo tiếng của mỗi dân tộc.
Không kể người Việt hay người Hoa, do tín ngưỡng Phật giáo, cách ăn uống
cũng khác thường. Phật tử thành tâm thường thích ăn nhiều rau, tránh thịt cá; ăn
chay trong các ngày lễ sóc, vọng (rằm, ba mươi, mồng một hàng tháng). Nhiều người

2.5 Page 15

▲back to top


ăn chay trường nhiều tháng, nhiều năm; Những bữa giỗ chay cũng thịnh soạn gồm
vài mươi món chế biến bằng nhiều thứ vật lành trong vùng.
III. MẶC:
Việc ăn mặc ở xứ Đồng Nai có diễn trình như lịch sử trang phục của Đàng
Trong sau đó có sự cải biến thích hợp với điều kiện, môi trường văn hóa của vùng
đất mới. Khi Nguyễn Hoàng mới chuyển cư vào Thuận Hóa, trang phục, vật dụng
thuở ấy ắt giống như Đàng Ngoài. Đời chúa Nguyễn Phước Nguyên (1613 - 1615),
Đào Duy Từ có hiến kế thay đổi trang phục cho khác Đàng Ngoài. Tuy nhiên, việc
cách tân ấy chỉ nghe qua truyền khẩu, chưa đủ tài liệu để xác định.
Có thể hình dung diễn tiến cách ăn mặc ở xứ Đồng Nai - Gia Định thuở khai
sơ theo mô tả của Trịnh Hoài Đức: "người quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo
phi phong, mang giày bì đà; hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều
mặc áo vắn tay, bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần; con trai dùng một
miếng vải buộc từ sau lưng thẳng đến dưới háng quanh lên đến rún, gọi là cái khố,
con gái có người không mặc váy, đội nón lớn, hút điếu bình, ở nhà thấp, trải chiếu
ngồi dưới đất, không có bàn ghế".(1)
Đến đời chúa Nguyễn Phước Khoát (1738 - 1765), có chuyện đồn rằng chúa
Thế Tôn tin lời một câu sấm truyền ở Nghệ An bèn xưng Quốc Vương, thay đổi
trang phục, đặt nhiều lệ tục khác hẳn Đàng Ngoài để tránh bị diệt vong. “Năm Mậu
Ngọ (1738), Thế tôn Hiếu Võ Hoàng đế định lại sắc phục, các quan võ châm chước
theo chế độ của Hán Đường, đến Đại Minh thì hình thức mới như phẩm phục quan
chế ngày nay đã ban hành theo trong hội điển, gồm đủ cả văn chất. Còn y phục gia
thất khí dụng của hàng sĩ thứ đại lược như thể chế đời Minh, bỏ hết tục xấu ở Bắc
Hà mà làm một nước y quan văn hiếu vậy".(2)
Có lẽ, phụ nữ mặc quần hai ống (thay váy), áo năm thân (thay vì mặc yếm
và áo tứ thân), bới tóc chứ không phải vấn... bắt đầu từ thời này. Vậy là, từ thuở khai
sơ, trang phục của cư dân Gia Định - Đồng Nai đã được cách tân theo khuôn mẫu
của Đàng Trong, ảnh hưởng nhiều của Bắc phương (Trung Quốc) diễn tiến theo con
đường khác miền Bắc.
Cách ăn mặc của người Gia Định - Đồng Nai không khác mấy so với cả vùng
Nam bộ. Trang phục cổ truyền của người bình dân chủ yếu bằng vải, bằng lãnh lụa
địa phương màu đen, nâu sẫm. Nam giới, khi lao động mặc áo cánh ngắn, không tay
xẻ giữa, cài nút vải; thường là năm nút tượng trưng cho năm giềng mối quan trọng
ở đời; quần lửng đến gối, có người đóng khố. Nữ luôn mặc đồ dài hơn, áo cánh tay
(1) Gia Định Thành thông chí, tp hạ, sđd, trang 6.
(2) Gia Định Thành thông chí, tp h, sđd, trang 6.

2.6 Page 16

▲back to top


dài, cổ đứng, nút vải. Thỉnh thoảng vẫn có người mặc váy đeo yếm, nhưng dần dần
vắng bớt rồi mất hẳn. Màu áo của người bình dân thường đen, nâu sẫm, chàm sậm,
nhuộm bằng các thứ vỏ cây. Đàn ông thường ăn trầu đeo túi hổ phệ ngang lưng để
đựng trầu cau, thuốc hút. Đàn bà thắt ruột ngựa may bằng vải để đựng trầu cau thuốc
xỉa, hoặc đeo thêm bọc nhỏ kết vào ruột ngựa vận lưng quần. Người trí thức, sư sãi
thường đeo túi vải gọi là hà bao có thêu hoa văn để đựng đồ lặt vặt (1).
Lúc xưa, người Gia Định - Đồng Nai thường đi chân đất (không mang giày
dép) nên người Quảng Đông gọi họ là người xích cước, vì từ trước chỉ có quan quyền
giàu có ở thị phố phong lưu mới mang giày tất. Đến thế kỷ XIX ảnh hưởng tục người
Trung Hoa, người làm thuê và tỳ nữ cũng biết mang guốc da, giày vải (2).
Ngày lễ, hội, người ta vận lễ phục chỉnh tề gồm: quần chùng trắng, áo dài
đen bằng the hoặc lụa, khuy đồng cài chệch bên phải, khăn đóng. Chân mang guốc
gõ hoặc giày hàm ếch, giày mã nị. Nữ mặc áo dài hơn nam; có loại áo dài năm thân
dành riêng cho nữ; nhưng thông thường, lễ phục nữ cũng như nam đều là áo dài,
không khác nhau mấy về kiểu và màu sắc khiến rất khó phân biệt đàn ông đàn bà.
Ngày thường, ở trong nhà, người đàn ông thường mặc áo bà ba không túi,
quần vận lưng có sợi dây vải thắt nút; đàn bà, con gái thường mặc áo đen nút bằng
hổ phách hay mã não, trong có áo lót (áo túi bó chặt ngực), hoặc áo vá quàng, ít khi
dùng áo màu. Người đàn ông lớn tuổi thường bịt khăn vải đỏ, người đàn ông trung
niên quấn khăn xéo, bà già có khăn rằn vắt vai hoặc khăn màu để lau cổ trầu. Thiếu
nữ tân thời đội nón lá buông hay nón bài thơ. Đàn bà trung niên thích bới tóc, xức
dầu dừa cho thơm, có giắt móc tai, trâm bạc hoặc đồi mồi, có khi là cái lông nhím.
Về các loại trang phục, có sự đổi khác theo thời: Như chiếc khăn đóng chẳng
hạn, đầu tiên là khăn xếp gồm một tấm vải màu quấn 5 lớp, kế đó là khăn đóng tương
tự cách xếp được đóng sẵn cho tiện, đến khăn chụp đóng sẵn gọn gàng hơn với nếp
chữ nhân ( đơn giản. Khăn đóng Suối Đờn thịnh hành khắp Nam bộ những năm
1920 - 1930.
Đến giai đoạn đầu thế kỷ XX, nam nữ thanh niên Gia Định - Biên Hòa còn
bới tóc. Nữ có kiểu bới tóc giữa đỉnh đầu, giắt lược cài trâm, hoặc kiểu bới chải
ngược ra sau, cuộn ba vòng, cài lược hoặc giắt móc tai. Nam giới bới tóc củ hành,
còn bao khăn, cài lược. Lược bằng đồi mồi là phổ biến.
Cùng với trang phục cổ truyền, đầu thế kỷ XX bắt đầu những kiểu trang phục
nửa Tây nửa ta, nhất là khi ảnh hưởng của phong trào Duy Tân (1906 - 1907), thanh
niên Nam bộ hưởng ứng phong trào vận động cắt tóc ngắn, dần chuyển sang mặc
(1) Theo Nhà , trang phục, ăn uống ca các dân tộc vùng đồng bng sông Cu Long, Phan ThTuyết , Nxb. Khoa
hc xã hi, 1993, trang 54.
(2) Gia Định Thành thông chí, tp hạ, sách đã dẫn, trang 12.

2.7 Page 17

▲back to top


kiểu Âu phục.
Do ảnh hưởng Âu Tây, trang phục và trang sức phụ nữ vốn đã nhiều kiểu
loại càng thêm phong phú. Có thể kể nhiều loại trang sức phụ nữ đầu thế kỷ XX:
Trâm cài tóc trâm phụng (hình chim phụng), trâm rung (kết bông vàng, khi di
chuyển đong đưa), trâm nĩa (hình cái nĩa). Thiếu nữ đã đính hôn hay phụ nữ đã có
chồng thời đeo bông tai ngụ ý lỗ tai đã bịt kín không còn nghe lời ong tiếng ve. Bông
tai gồm bông mù u, bông ớt, bông đinh, bông cẩm thạch... nghèo thì bông bằng hổ
phách, giàu thì bông đá quí, hột xoàn. Trang sức đeo cổ thường có kiềng, chuỗi hạt,
dây chuyền... bằng bạc, vàng, châu báu tùy ở chủ nhân giàu hay nghèo. Ngoài vàng,
ngọc, đá quí, ngọc trai, hổ phách, mã não, đồi mồi thường dùng làm đồ trang sức
cho phụ nữ, người Biên Hòa - Đồng Nai còn thích trang sức bằng ngà voi, nanh heo,
răng cọp, răng cá sấu, ngọc cốt cá ông... cho nam giới.
Đi ra khỏi nhà, bậc trung lưu thường có để che nắng, che mưa, còn để làm
vật trang sức. Xứ Đồng Nai dùng nhiều loại dù: dù giấy bằng sườn tre, đắp giấy dầu;
dù quéo với tay cầm có móc như cù quéo; dù hai da may bằng hai lớp vải màu khác
nhau trong ngoài; dù lục soạn là loại dù sang trọng mang tên loại lụa sản xuất tại
Trung Quốc... gặp nhau, người ta lễ phép chào bằng cách nghiêng dù. Trong khởi
nghĩa chống Pháp, dù được dùng làm mật hiệu của phong trào Thiên Địa Hội Biên
Hòa:
Dù mang bên tả: đảng viên
Đi việc cơ mật nói riêng chủ nhà.
Dù mang cái móc trở ra
Bàn sơ chút việc ghé qua đi liền.
Dù mang cái móc trở vô
Phải lo cơm nước với đồ nghỉ ngơi
Chiếc áo bà ba quen thuộc với người Nam bộ từ đầu thế kỷ XX không rõ có
nguồn gốc từ đâu. Có người cho rằng đó là do cách tân từ kiểu áo lá và áo "xá xẩu"
của tộc người Ba Ba ở đảo Pinăng của Malaysia (5[5]) Do áo xẻ vạt đẹp, tay kín, có
túi đựng lặt vặt, khoét cổ thoáng mát... nói chung là tiện dụng nên được cả nam, nữ
xứ Nam bộ ưa thích. Đến nay, qua nhiều lần cải tiến thời trang, áo bà ba vẫn đẹp,
hợp với sở thích người địa phương.
Phụ trang đi cùng với áo bà ba là nón lá với khăn rằn. Khăn rằn rõ là có
nguồn gốc Khơme nhưng gắn với phong tục Việt đã lâu, gồm rằn sọc xanh rằn
sọc đỏ. Khăn rằn để vắt vai, đội đầu, hoặc cột ngang lưng đều đẹp. Nón lá được thiếu
nữ nông thôn yêu thích. Nón lá buông Long Thành là loại nón phổ biến ở địa phương
(1) Theo Nhà , trang phục, ăn uống của người Vit ở đồng bng sông Cu Long, sđd, t. 62.

2.8 Page 18

▲back to top


nổi tiếng cùng nón Gò Găng (Bình Định) và nón bài thơ xứ Huế.
Trang phục cô dâu, chú rể vùng Gia Định - Biên Hòa đến đầu thế kỷ XX còn
theo trang phục lễ cổ truyền. Theo mô tả trong tác phẩm "Gò Công cảnh cũ người
xưa" của Việt Cúc, ngày cưới chú rể mặc áo lương thưa đen, quần vải quyến trắng,
đầu vấn khăn đen. Cô dâu mặc áo vân đen mỏng, quần đũi màu hồng sậm, cổ đeo
xâu chuỗi hổ phách, to bằng ngón cái, hai tay xỏ đôi búp bạc... Cả hai đều khoác
ngoài áo thụng rộng xanh, lót màu cánh sen, khi ra sân có cặp lọng che (6[6]) Theo
kiểu trang phục xưa, áo của cô dâu chú rể thường là áo cặp, có lẽ để chỉ sự "đủ đôi
đủ cặp" của lễ cưới. Áo cặp là áo dài đôi may hai lớp, bên ngoài là lụa gấm, thêu chữ
thọ, bên trong là lớp lót. Dần về sau, trang phục cổ truyền bị thay dần chuyển sang
âu phục.
Người Biên Hòa - Đồng Nai và Nam bộ nói chung thường dùng vải hơn lụa;
nhưng lụa vẫn được dệt ở Biên Hòa, còn mua ở các nơi khác nữa để may trang phục.
Nhiều gia đình nông thôn hiện còn giữ khung dệt của thời trồng bông dệt vải khi
xưa. Ở địa phương lưu hành nhiều thứ lụa: lãnh, xuyến, the (hay lương)... dệt tại địa
phương. Ngoài ra, còn có: lượt, là, sa, đũi, thao, tố, nhiễu, vân, gấm... từ nơi khác
mang đến. Lãnh đen Bà Rịa - lụa Tân Châu là những mặt hàng nổi danh khi xưa.
Vải thì nhiều loại do tự dệt ở khung cửi gia đình xưa. Vải thô dệt to sợi, giá
rẻ, dành cho quần áo lao động, vải viền nhỏ sợi may áo mát, vải hẩm không được
trắng lắm, vải Tây của người Pháp nhập vào... các loại vải đều phát huy công dụng
trong việc may sắm trang phục ở Biên Hòa - Đồng Nai xưa và nay.
Người Hoa ở xứ Biên Hòa - Đồng Nai ăn mặc không khác mấy người Việt,
chỉ vài nét dị biệt nhỏ khi phải chăm chút kỹ lưỡng, búi tóc phụ nữ không tròn mà
thường ép dẹp xuống; nữ trang nhiều kiểu loại hơn, lễ phục cưới chuộng màu đỏ,
thường là xiêm gấm thêu phụng, cô dâu người Hoa Quảng Đông còn đội mũ phụng,
che mặt bằng vải thưa. Đàn ông lớn tuổi người Hoa ăn mặc đơn giản, thường mặc
quần lững (dài đến gối) áo "xá xẩu" tay lỡ vải thường, người sang thì mặc quần dài
lãnh đen, áo gấm tay dài, đi giày gỗ, đội mũ quả bí (quá bì mũ).
Người Stiêng, Châu Mạ, Châu Ro xưa ăn mặc tương tự nhau, nam đóng khố
nhỏ, ở trần, đầu quấn khăn, thiếu nữ mặc áo cánh, thiếu phụ để ngực trần, quấn váy;
Ngày lễ hội nam nữ mặc trang phục đẹp khố, váy đều mới, hoa văn màu sắc sặc sỡ,
thường nhuộm màu từ vỏ cây rừng. Nữ điểm trang thêm kiềng bạc quanh cổ (người
Stiêng), người Châu Mạ kết tua đeo lục lạc đồng ở gấu váy; người Châu Ro trang
sức bằng các xâu chuổi hạt nhiều màu. Thổ cẩm là chất liệu chính tạo trang phục, do
người làng tự dệt theo kỹ thuật người Chăm. Hiện làng Mạ ở Tà Lài, Hiệp Nghĩa
còn nhiều người biết dệt, nhiều gia đình còn khung dệt. Dần dần, trang phục cổ
(1) Theo Gò công cảnh cũ người xưa, tp I, II, Sài Gòn 1969.

2.9 Page 19

▲back to top


truyền chỉ dành để ngày hội ở các cụ già, thanh niên tân thời đều theo lối ăn mặc của
người Việt.
IV. Ở:
Nhà trên mặt đất là loại nhà ở chủ yếu của người Việt. Số lượng nhà sàn cọc
gỗ ven sông không nhiều, cũng không lâu bền. Dạng nhà phố xây sàn lấn ra sông chỉ
là tạm bợ.
Theo chất liệu xây dựng, có nhiều dạng nhà ở thích hợp với từng vùng. Vùng
nông thôn, người bình dân thường ở nhà tranh hoặc nhà lá (lá dừa), những nơi thôn
rẫy chưa ổn định dựng tạm chòi lá hoặc chòi tranh. Gia đình khá giả xây dựng nhà
ngói vách ván bổ kho; khi tiếp xúc kỹ thuật châu Âu có thêm nhà gạch mái tôle hoặc
nhà bê tông mái ngói hay mái bằng của người khá giả.
Nhà ở nông thôn xứ Đồng Nai được xây dựng thường hài hòa với tự nhiên,
chuộng hướng Đông, Nam; quay mặt ra sông, ruộng, vườn; ngõ không vào thẳng
cửa chính, sân trước sân sau đều rộng, rào thẳng bằng chè cát, dâm bụt hoặc cây quít
dại; trước sân bày nhiều chậu hoa kiểng, nhiều nhà bày non bộ. Ở đô thị, nhà ở theo
dãy phố, dù hẹp cũng cố có chỗ bày hoa kiểng.
Theo kiến trúc xây dựng, nhà ở người Việt xứ Biên Hòa - Đồng Nai gồm các
kiểu chính:
- Nhà xông hai gian hoặc ba gian, không chái, thường bằng tre lá hoặc vật
dụng gỗ nhẹ. Đây là kiểu nhà phổ biến của gia đình nghèo hoặc mới "ra riêng".
- Nhà chái, cũng là kiểu nhà vật liệu tre lá đơn sơ hợp với người bình dân ở
nông thôn.
- Nhà sắp đọi có kiểu xây dựng như chén (đọi là chén, tiếng Việt cổ) xếp
trong tủ, nhà trên nhà dưới nối tiếp nhau, mặt tiền hẹp nhưng có chiều sâu, có nhiều
kiểu sắp đọi biến thể thành nhà chữ nhị (chỉ có nhà dưới và nhà trên); có trường hợp
nhà chữ nhị có thêm thảo bạt phía trước gọi là nhà chữ tam; cũng có trường hợp biến
thể kết hợp nhà xông, nhà chái, nhà chữ đinh... sắp đọi.
- Nhà chữ đinh là phổ biến hơn cả. Đây là kiểu nhà truyền thống của người
Việt Trung bộ, có người giải thích: “đinh” là dân đen, tức kiểu nhà dành cho người
bình dân. Nhà chữ đinh phân rõ hai khu vực, nhà trên nằm ngang, nhà dưới nằm dọc
hông. Có khi nhà dưới cách nhà trên một thảo bạt hay mái ngang. Cũng có khi nhà
trên kiểu ba gian, hai chái hoặc nhà xông có chái. Biến thể kiểu nào thì trông ngôi
nhà cũng thấy cân xứng, rõ dạng chữ đinh. Nếu nhà dưới nằm bên hông phải thì gọi
đinh thuận, nếu nhà dưới nằm bên hông trái gọi là đinh nghịch. Hiếm thấy kiểu
nhà chữ công ở xứ Biên Hòa - Đồng Nai. Những nhà ở phố chợ do diện tích chật
hẹp nên tận dụng đất, ít theo kiểu truyền thống. Khi có kỹ thuật kiểu châu Âu, xuất

2.10 Page 20

▲back to top


hiện kiểu nhà tường, hình hộp, cao tầng, mái tole, ngói, hoặc đổ bằng.
Về kỹ thuật, ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng như ở Nam bộ, có nhà rường, nhà
rội. Nhà rường có hai hàng cột cái theo kiểu phương Bắc, vững chãi trước giông
bão. Nhà rội chỉ một hàng cột cái (còn gọi là nọc ngựa). Theo truyền thống của người
Việt, do tiết kiệm cột cái nên bộ giàn trò yếu, nội thất chật hẹp. Để chắc chắn hơn,
nhà rội thường có xà đầu nối liền hàng cột cái. Ở Biên Hòa - Đồng Nai không thấy
có sự phân biệt tuổi tác, sang hèn trong việc ở nhà rường hay nhà rội, nhà rường là
kiểu bắt buộc của đình chùa, nhà rội phổ biến trong dân gian, kể cả những nhà sang
trọng dựng bằng danh mộc hoặc bằng vật liệu hiện đại.
Không gian sinh hoạt trong nhà thường phân bổ thành hai phần: Các thành
viên trong gia đình sinh hoạt ở nhà sau (nhà dưới). Nhà trước (nhà trên) là nơi thờ
phượng, tiếp khách. Khách thân, sơ, sang, hèn đều được tiếp ở nhà trước. Bàn thờ
gia tiên đặt ở sát vách, ngang cây đòn giông nhà ở gian giữa. Đối diện là bàn khách
(bàn dài hoặc bàn tròn). Hai bên là bộ ván ngựa để khách nghỉ ngơi. Tùy độ sang
hèn mà tủ thờ, ván ngựa bằng gỗ quí hay gỗ thường, cũng tùy giàu nghèo mà bày
thêm các vật trang trí khác. Những nhà giàu có thường treo nhiều liễn đối, đại tự sơn
son thếp vàng, có tủ bày đồ cổ, quí hiếm.
Những ngôi nhà của các ông: Nguyễn Háo Nhơn ở phường Quyết Thắng
thành phố Biên Hòa, thầy giáo Hảo ở Thạch Phú (Vĩnh Cửu), Trần Văn Thông
(phường Hòa Bình - Biên Hòa), Phan Đương ở Hiệp Phước (Nhơn Trạch), Nguyễn
Phát Vĩnh ở Cù Lao Phố (Biên Hòa) được xem là những ngôi nhà cổ khá tiêu biểu ở
Đồng Nai. Năm 1998, Trường đại học kiến trúc TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Nhà
bảo tàng Đồng Nai với sự hỗ trợ của các chuyên gia Trường đại học nữ Chiêu Hòa
(Nhật Bản) đã khảo sát 400 ngôi nhà cổ ở Đồng Nai, sau đó chọn lọc 25 ngôi nhà
kiểu xưa được xem là tài sản văn hóa cần được bảo tồn:
STT
Chủ hộ
01 Huỳnh Văn Sao
02 Nguyễn Văn Thân
03 Nguyễn Bửu Khoa
04 Đinh Văn Trơn
05 Trương Công Xã
06 Nguyễn Háo Thoại
07 Nguyễn Thị Sương
08 Nguyễn Thị Sáu
09 Phạm Văn Lẹo
Địa chỉ
K2, 53, Tân Mỹ, phường Bửu Hòa, Biên Hòa
K2, 54, Tân Mỹ, phường Bửu Hòa, Biên Hòa
72/1, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa
189/3, ấp Tam Hòa, xã Hiệp Hòa, Biên Hòa
19 Bùi Văn Hòa, thành phố Biên Hòa
145 CMT8, phường Quyết Thắng, Biên Hòa
Ấp 5, xã Tam An, Long Thành
186A, ấp 2, xã An Hòa, Long Thành
Ấp 1, xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch
Năm xây dựng
khoảng 1890
1900
1920
1930
1930
1897
trước 1945
trước 1900
khoảng 1890

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


10 Nguyễn Văn Lình
Ấp 2, xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch
khoảng 1940
11 Nguyễn Văn Pháp Ấp 2, xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch
trước 1890
12 Lê Thành Tôn
Ấp 2, xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch
khoảng 1880
13 Nguyễn Văn Canh 39/T2, Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, Nhơn Trạch
khoảng 1820
14 Nguyễn Thị Hiệp
Ấp Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, Nhơn Trạch
1938
15 Phạm Thị Khê
Ấp Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, Nhơn Trạch
khoảng 1930
16 Đào Mỹ Trí Nhân
Ấp Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, Nhơn Trạch
trước 1900
17 Mã Thị Tám
Ấp Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, Nhơn Trạch
khoảng 1890
18 Phan Duy Huân
Ấp Bến Sắn, xã Phước Thiền, Nhơn Trạch
khoảng 1910
19 Trần Ngọc Khánh
Ấp Bến Cam, xã Phước Thiền, Nhơn Trạch
trước 1900
20 Nguyễn Văn Lôm
Ấp Bến Cam, xã Phước Thiền, Nhơn Trạch
trước 1900
21 Phan Thị Xuyến
Ấp Bến Sắn, xã Phước Thiền, Nhơn Trạch
khoảng 1900
22 Nguyễn Văn Bạc
Ấp Bình Lục, xã Tân Bình, Vĩnh Cửu
khoảng 1900
23 Nguyễn Văn Thể
Ấp Bình Lục, xã Tân Bình, Vĩnh Cửu
khoảng 1900
24 Nguyễn Văn Hảo
Xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu
1916
25 Nguyễn Văn Tấn
26/2, ấp 1, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu
trước 1930
Nhà người Hoa ở nông thôn chủ yếu theo kiểu nhà trệt ba gian, bán kiên cố,
thường phân biệt với nhà người Việt ở việc dán nhiều giấy đỏ trước nhà. Ở đô thị,
nhà người Hoa ít có nhà chữ đinh, thường theo dạng phố lầu, liền sát nhau, lầu ít khi
có hàng hiên, hầu hết thuộc dạng kỹ thuật xuyên trính với kết cấu vì không có kèo
hay có kèo.
Đồng bào Châu Mạ, Stiêng, Châu Ro xưa đều có nhà dài. Nhà dài người
Châu Ro dài thường vài chục mét, có khi dài đến 100m, bộ cột tròn ít khi lột vỏ cây,
chọn những cây dáng thẳng tốt, không có dây leo; tính theo đòn giông, nhà có gốc
hướng đông, ngọn hướng tây; trổ cửa ngang hông, phần dưới chăn nuôi, phần trên
để ở, không vách ngăn phân chia theo thứ bậc: Góc phía đông nhiều ánh sáng dành
cho cha mẹ; những khoang tiếp theo bố trí theo thứ bậc con cái, phần giữa nhà là nơi
tiếp khách. Nhà sàn nhỏ thường cất quanh nhà dài, sàn cao khoảng 1,5m; thang lên
cửa hông bên trái, phía đông là bếp đun nấu. Nhà kho cất riêng, cũng theo chiều
đông tây, tránh không để mặt trời đi ngang qua đòn giông.
Nhà sàn dài của người Châu Mạ, Stiêng tương tự nhà của người Châu Ro.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, đã ít thấy nhà dài, nhà sàn kiểu xưa cũng dần mai
một.
V. VẬT DỤNG:

3.2 Page 22

▲back to top


Vật dụng gia đình:
Cuộc sống lao động phong phú đòi hỏi sáng tạo nhiều loại vật dụng để đáp
ứng yêu cầu hàng ngày. Nơi ăn nghỉ trong nhà thường rộng thoáng nên thường sử
dụng loại to nặng, lâm sản dồi dào, nên dùng gỗ quí là thể hiện sự sang trọng. Dù
nhà nghèo người ta cũng ráng sắm đồ bằng gỗ quí: Cẩm lai, trắc, hương, gõ... ít nhất
là với tủ thờ. Tủ khảm xà cừ với những hình ảnh: tứ quí, hoa cảnh và chuyện tích
tàu được xem là quí nhất. Hai mùa mưa nắng, khi nóng khi lạnh, bộ ván ngựa bằng
gõ, càng dày, càng quí; ván một (một tấm, ước 1,4 m ngang), ván hai (hai tấm, mỗi
tấm 0,7 m ngang) là quí nhất. Không có ván thì dùng vạc, chõng bằng tre.
Nằm ván ít khi trải chiếu. Chiếu có loại trải để bày đồ cúng, khổ vừa bàn giỗ
gọi là chiếu cỗ. Chiếu trải nằm thời xưa có nhiều loại: chiếu liếp đan bằng mây, tre
sợi nhỏ; chiếu lác đan bằng lác, chiếu đôi khổ rộng, chiếu chiếc khổ hẹp; chiếu kế
viền vải... Chợ chiếu Cù Lao Phố từng là nơi hội tụ nhiều loại chiếu trong cả nước.
Đệm đan bằng lác có thể thay chiếu trải nằm, nhưng đệm được dùng chính trong việc
phơi lúa, đậu.
Nhà của người Biên Hòa xưa luôn có nhiều gối để sẵn sàng tiếp khách.
Nhưng ấy là gối nằm. Còn nhiều loại gối khác: Gối ấp để ôm cho ấm, gối luôn may
dài đủ hai người nằm; gối dựa để dựa lưng, gối kê để kê tay chống mỏi, gối mỏng để
quỳ lạy... phổ biến là gối vải dồn bông gòn nhẹ mà dễ chống ẩm; Gối mây đan bằng
sợi mây cứng cáp, thông thoáng; Nghe nói người xưa còn gối gỗ các cụ cao niên
thường dùng, gối dồn vỏ xác đậu xanh để chống ẩm cho trẻ bị bệnh chảy mồ hôi
đầu.
Tất cả những vật dụng cần thiết cho việc tiếp khách hoặc để gia bảo thường
được bỏ vào rương xe bằng gỗ đậy kín. Rương xe có thể dùng làm chỗ ngủ cho một
người.
Bếp là nơi sống động của nhiều vật dụng gắn với nội trợ. Vật đựng của người
xưa thường bằng gốm, đất nung. Khó có thể kể hết tên gọi của các vật dụng quen
thuộc: Nồi, niêu, om, trách, ơ, trã, lu, hũ, vịm, mái, bình, lọ, tô, tộ, tượng, chén, dĩa...
Một câu đối mười bảy chữ cũng đã gọi được tên 6 loại vật chứa bằng gốm thô:
Mượn nồi không trã (trả) đòi lại trách
Bể ấm đền siêu cãi lộn om.
Biên Hòa là xứ gốm nên đồ gốm thông dụng. Đồ gốm ở Bến Đò Trạm (Bửu
Long), Rạch Lò Gốm (Cù Lao Phố), Tân Vạn... còn theo ghe thương hồ đi khắp miền
Tây.
Xứ Đồng Nai nhiều mây, tre nên đồ đan bằng mây tre rất phong phú và tinh
xảo. Gióng mây thắt đơn hoặc thắt đôi đều bền chắc, giỏ xách bằng mây cũng được
ưa dùng; ngoài ra, các thứ đan bằng tre: thúng, mủng, rổ, nia, vần, rế... cũng rất khéo

3.3 Page 23

▲back to top


tay được bán đi nhiều nơi.
Dao, rựa, cuốc, phảng, lưỡi cày... là công cụ đắc lực cho cuộc sống, có phần
được mua từ nhiều nơi, có phần được rèn tại địa phương. Lò thổi, thiết trường ở An
Hòa (Long Thành) là nơi có quặng sắt và hiện còn nhiều lò rèn gia truyền. Xóm lò
thổi ở Bình Thạnh (huyện Vĩnh Cửu) xưa cũng nổi tiếng về rèn đúc, đặc biệt là đúc
lưỡi cày, đến những năm gần đây còn giữ lệ cúng tổ vào ngày mồng hai tháng hai
âm lịch hàng năm. Phảng cổ cò của người làm ruộng, Chà gạc của người Châu Ro
ngoài việc để lao động sản xuất, nó đã từng theo người chiến sĩ nông dân ra trận lập
nên chiến công diệt thù.
Để chế biến thực phẩm, các vật dụng để đâm, xay, giã... thường làm bằng
gỗ tốt hoặc bằng đá. Cối giã tay, chày đạp bằng gỗ dùng làm bún ở Phước Kiểng,
Phước Lai hiện vẫn còn được dùng. Cối xay, cối giã bằng đá từ làng đá Bửu Long
được các tỉnh Nam bộ ưa chuộng. Mới đây, nghệ nhân làng đá Bửu Long còn tạo
một cối xay bằng đá Biên Hòa đường kính 2m theo đặt hàng để xuất đi nước ngoài.
Dụng cụ đo lường của người xưa dùng theo lối của Nam bộ; đong lúa kiểu
dân gian bằng thúng; hai thúng bằng một giạ; khoảng 25 giạ được một xe. Đong theo
kiểu chính xác bằng đấu (2 bát), bát, thăng (2 đấu).
Cái cân xách được dùng theo cách của người Hoa, tính bằng cân, yến (10
cân), tạ (10 yến). Thước mộc, thước đo ruộng không giống nhau. Đến đầu thế kỷ XX
mới thống nhất áp dụng cách đo lường theo kiểu của Pháp.
Phương tiện chuyên chở:
Sự vận chuyển bằng nội lực của người xưa tự đã nói lên vật dụng làm phương
tiện và cách thức vận chuyển: xách, vác, gánh, khiêng, kéo, đẩy... Người Hoa giỏi
gánh cõng. Đồng bào dân tộc thường là gùi. Người Chăm thạo về đội. Người Việt
tiếp thu, thực hiện được tất cả, tùy theo việc cụ thể mà chọn cách vận chuyển cho
phù hợp. Có thể hình dung:
Con thơ lưng cõng tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bong.
Sự dẻo dai, khéo léo trong cách vận chuyển tự thân đã được phát huy và thể
hiện hết sức mạnh, vẻ đẹp của nó trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ. Đòn gánh, đòn xóc bằng tre hoặc cau già có thể dùng làm vũ khí tự vệ rất lợi
hại. Vận chuyển nặng người ta có thể dùng xe hoặc cộ do trâu hay bò kéo. Xe bò đi
rừng thường có chà gạc để vẹt cây cối theo kiểu người Chăm với bánh bọc sắt, hai
bò kéo. Cộ trên đồng dùng hai thanh gỗ trượt do một trâu kéo là đủ. Còn có loại cộ
nhỏ để đập lúa do người kéo trên ruộng sụp, nơi không thể dùng sức kéo của trâu
bò.

3.4 Page 24

▲back to top


Cư dân Biên Hòa - Đồng Nai xưa đi xa bằng đường sông - biển là chính nên
giỏi dùng ghe, xuồng. Nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu khi xưa có
lẽ đã dùng thuyền to, mũi lái bọc đồng, buồm cánh dơi mới vượt biển cả vào đến
Đồng Nai. Thuyền có thể vượt biển của người Việt gọi là ghe bầu, ghe cửa với đáy
ghe đan bằng tre, trét chai. Chuyên chở vật liệu nặng như: Lu, mái, cát, đá... xuôi
ngược miền Tây có ghe chài rộng khoảng 3 thước, dài 10 thước. Chở hoa trái nhẹ
hơn có hình dáng nhẹ, nhỏ hơn gọi là ghe cui. Ghe cui chở cá gọi là ghe rỗi. Ghe
lườn thân dài độc mộc, có cơi be cũng có thể chở nặng.
Ở địa phương còn có xuồng ba lá (bằng ba tấm ván) để đi lại sông rạch;
xuồng vỏ gòn đóng ghép bằng nhiều tấm ván chở nhẹ nhưng vượt được sóng gió ven
bờ. Tương truyền, ở địa phương người xưa thường dùng ghe độc mộc được đục từ
một loại cây, đốt nóng nong rộng, không hề có dấu đóng, ghép. Loại thuyền này lướt
sóng nhanh, luồn lách trong các xẻo, tắc rất tiện. Gần đây, ở xã Long Thọ, gần di
tích Cái Vạn, cư dân đào đất nuôi tôm có phát hiện một xác ghe như thế, tiếc là đã
hư hỏng.
ẢNH 1,2
1, 2- Làng khai phá người Việt.
ẢNH 3
3- Vườn làng quê (ở xã Hiệp Phước, Nhơn Trạch).
ẢNH
Lễ vật cúng rằm tháng 7.
(Xôi, bánh cúng, bánh cấp, trái cây).
ẢNH 1, 2, 3, 4 &5
1, 2, 3, 4 &5- Hóa trái nghệ thuật (Ly, Lân, Qui, Phụng & Long Hổ tranh
châu).
ẢNH
Trang phục của thầy giáo ở Biên Hòa hồi đầu thế kỷ XX

3.5 Page 25

▲back to top


ẢNH
Trang phục của Hồi đồng hương chức.
ẢNH
Trang phục của phụ nữ xưa (Ảnh chụp năm 1930)
ẢNH 1
1- Xe bò (phương tiện vận chuyển)
ẢNH 2
2- Đòn gánh (bằng cau già, có mấu đồng)
ẢNH 3
3- Gánh
ẢNH 4
4- Cộ (đập hoặc kéo lúa)
ẢNH 5
5- Xa quạ lúa.
ẢNH 6
6- Mái.
ẢNH 7
7- Giã bột làm bánh.
ẢNH 8
8- Nồi đồng.

3.6 Page 26

▲back to top


I. TẬP QUÁN - TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN:
I.1. LỄ THỨC VÀ TẬP QUÁN TRONG MỘT VÒNG ĐỜI NGƯỜI:
I.1.1. Việc sinh, dưỡng:
Vòng đời người được tính từ khi "đậu thai" trong bụng mẹ cho đến khi "mãn
tang". Bắt đầu là chuyện "dưỡng thai". Khi có biểu hiện "đậu thai", người phụ nữ
có mang phải kiêng giữ và được bảo vệ kỹ lưỡng. Việc kiêng giữ tập trung ở các
mặt: Ăn uống, cử động giao tiếp.
Về ăn uống, phải kiêng cữ: Không ăn cua để tránh đẻ ngang, không ăn tôm
để tránh đẻ con lưng còng, ăn cá không được trở xương để bào thai khỏi động, không
ăn sò, ốc, hến để con không dãi nhớt, không ăn trái cây sinh đôi để tránh đẻ song
thai, không ăn chuối già để kiêng kỵ chuyện tục tằn, không ăn những thứ dị hình dị
dạng để con khỏi khuyết tật, tránh ăn nhiều gia vị để con cái hiền lành; một số người
còn kiêng ăn trầu cau và những loại trái “gai góc” (như sầu riêng, chôm chôm, mãng
cầu) để việc sinh nở được “trơn tru”. Ngược lại, người phụ nữ có mang được động
viên ăn nhiều muối để con cái có tình cảm mặn mà, ăn nhiều trứng để “mẹ tròn con
vuông”. Việc cử động cũng nhiều điều kiêng giữ: Không được chửi mắng hoặc cười
nói lớn tiếng, không được đến những nơi thờ cúng, không được bước qua mương
hoặc nhảy qua hào, không được chui qua sào (dây) phơi quần áo; không được ngủ
trưa quá buổi, không được đứng lâu ở ngã ba đường hoặc bến, ngã ba sông; không
được dắt hoặc đuổi theo trâu, đi xuồng ghe không được chèo hoặc ngồi mũi... Ngược
lại, người phụ nữ có mang luôn phải có việc làm, cử động chân tay nhẹ nhàng để
sinh nở được dễ dàng. Việc giao tiếp thường phải kiêng gặp người nóng nảy, nặng
vía, tính khí lì lợm hoặc đã có nhiều lần sinh nở không thành.
Việc "dưỡng thai" được xem trọng, việc sinh nở còn quan trọng hơn. Giai
đoạn "dưỡng thai" gắn với mẹ ruột, mẹ chồng, việc sinh nở gắn với vai trò của các
"mụ vườn". Mỗi làng thường có một bà mụ lo việc sinh đẻ cho cộng đồng; mụ thường
được học tập kinh nghiệm ở các mụ tiền bối và tự tích lũy thêm kinh nghiệm, biết
đỡ đẻ, làm thuốc và cúng bái. Có những mụ giàu kinh nghiệm (như mụ Bảy Mạnh ở
Cù Lao Phố, mụ Hồng ở Phước Thiền chẳng hạn) nắn sửa được thai, đoán định chính
xác cả giới tính của thai nhi.
Sinh con đầu lòng thường ở nhà mẹ ruột, lần sinh thứ hai mới ở nhà chồng
"con so nhà mạ, con rạ nhà chồng". Khoảng một tháng trước khi sinh, bà mụ tiến

3.7 Page 27

▲back to top


hành lễ đầu tiên, gọi là lễ đơm lẻ, bà mụ khấn "Mười hai mụ Bà mười ba Đức Thầy"
phù hộ độ trì cho mẹ tròn con vuông. Những bà mụ dày dạn kinh nghiệm thường
khấn có vần, có điệu.
Về mười hai Mụ Bà, mười ba Đức Thầy, theo truyện dân gian phổ biến cả
nước, mười hai Bà Mụ được Trời giao nhiệm vụ chọn đất tinh túy nặn thành con
người nên mười hai Bà Mụ ứng với con số 12 tháng trong năm trở thành người mẹ
sanh trong niềm tin của cư dân Việt. Đúng ra là: "mười hai Mụ Bà và Ba Đức Thầy".
Ba Đức Thầy là Tiên sư, Tổ sư Thánh sư, cùng lo việc "giáo", còn Mười hai Mụ
Bà lo việc "sinh".
Khi sản phụ lâm bồn, chỉ bà mụ và người trợ giúp (thường là mẹ ruột hoặc
chị em ruột) ở lại với sản phụ. Huỳnh Tịnh Của giải thích: Lâm bồn là đẻ (7[1]).
Người địa phương giải thích rằng, theo cách của người Hoa, sản phụ sinh con vào
một cái chậu (bồn) bằng sành hay gỗ nên gọi là lâm bồn. Cách gọi khác là vượt cạn.
“Rún” được cắt bằng miểng sành hay miếng tre nứa sắc cạnh. Nhau đứa trẻ được
cẩn thận cho vào hũ sành hoặc nồi đất đậy nắp kỹ, kín đáo chôn kỹ trong vườn nhà.
Công việc thầm kín này có ý nghĩa gắn con người với mảnh đất quê hương "chôn
nhau cắt rún" của mình.
Khoảng ba ngày sau khi sanh, bà mụ lại tiến hành lễ móc miếng với mục đích
"gọi ra" làm sạch nước ối còn trong miệng đứa trẻ. Lại bày hương hoa và khấn gọi
Mụ Bà, Đức Thầy như ở lễ đơm lẻ, nhưng lần này cúng trong chỗ "nằm lửa" của sản
phụ.
Thời gian "nằm lửa" của phụ nữ trong buồng kín gọi là ở cữ, thường kéo dài
suốt một tháng, có thể lâu hơn nếu người mẹ và đứa bé chưa đủ khỏe. Theo Trịnh
Hoài Đức, tục xưa "sản phụ nằm trên giường, bên dưới để lửa than đỏ ngày đêm
không dứt, lại lấy nồi lửa để chận hơ trên bụng mỗi ngày 1, 2 lần, ăn những vật cay
mặn khô táo, uống nước thì tùy theo hương tục, gia tục hoặc quen dùng thuốc Nam
lấy rễ cây vằm nhỏ nấu nước uống thường. Khi đầy tháng ra ngoài thì dùng củ nghệ
thoa đầy mình để ngăn gió..." (8[2]).
Dấu hiệu của nhà có người ở cữ là đoạn củi đã tắt lửa trước cửa nhà, gọi là
vỏ lửa. Vỏ lửa đầu đã cháy quay vào là sinh con trai, quay ra là sinh con gái. Tục
này, Trịnh Hoài Đức giải thích: "...để làm dấu hiệu ngăn đón những người có vía
không tốt: Như bị sản nạn không nuôi con được, bịnh huyết vựng (xây xẩm), bịnh
nhi chẩm (tục gọi là máu nhà con) và có hung tán v.v... đều không cho vào..." (9[3]).
Ngày đầy tháng được xem là ngày đầy cữ, không tính cữ theo vía "nam bảy nữ chín"
(7[1]) Đại Nam Quc âm tv, Hunh Tnh Ca. CTPH TP HCM, 1980, trang 70.
(8[2]) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 13.
(9[3]) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 13.

3.8 Page 28

▲back to top


(nam ngày thứ bảy, nữ ngày thứ chín) như ở Bắc bộ mà tính sụt ngày sinh "gái sụt
hai, trai sụt một". Trong lễ đầy tháng, ông bà, người thân đến mừng cháu bằng quà
tặng, lời chúc tốt đẹp hoặc thơ mừng. Tên khai sinh của đứa bé được chọn chính
thức trong dịp này. Việc đặt tên cũng được chọn lọc, kiêng húy thánh thần, ông bà,
người lớn tuổi như nhiều nơi khác. Quan trọng nhất của ngày đầy tháng là lễ cúng
mụ nhằm tạ ơn Mụ Bà đã "nặn ra đứa bé: mẹ tròn con vuông". Lễ cúng mụ gồm
nhang, đèn, hoa, trái cây, chè xôi, bộ đồ mã (gồm: áo, quần, khăn, hài bằng giấy;
bánh gói, miếng trầu têm sẵn), mỗi vật cúng đều tròn con số 12 ứng với 12 bà mụ.
Lại có thêm 3 chén chè, 3 dĩa xôi hoặc bộ ba các món khác dành cho 3 Đức Thầy.
Ngày đứa bé tròn năm, có lễ thôi nôi, Trịnh Hoài Đức gọi là lễ tổi bàn, lễ tôi
tôi. Lễ thôi nôi đơn giản hơn lễ đầy tháng, cũng khấn vái ông bà, cúng mụ bằng chè
xôi. Nhà khá giả có thể có tiệc mừng: Mừng con trai hoặc mừng con đầu lòng. Khác
với lễ đầy tháng, lễ thôi nôi có trò thử nghề, nói theo người Hoa là thí nghệ; tức bày
ra các vật dụng: Gương, lược, kim, chỉ, đũa, muỗng... (nếu là con gái); bút, giấy,
đàn, cờ... (nếu là con trai) cho trẻ tự chọn. Người ta tin rằng, món nào đứa bé chạm
đến đầu tiên sẽ ứng với nghề nghiệp thích hợp sau này. Bởi vậy, những món bày ra
cho bé thường tránh: Dao, búa, gươm, giáo... để không vướng vào nghiệp binh đao.
Sau ngày đầy tháng và tròn năm, việc nuôi dưỡng đứa bé nhẹ nhàng hơn
nhưng vẫn phải thường trực những việc kiêng kỵ và cầu cúng theo thông lệ. Ngày
xưa, nhiều gia đình giữ lệ cúng mụ 3 tháng một lần cho đến khi đứa bé tròn một con
giáp (12 tuổi). Trẻ từ đầy tháng đến 12 tuổi vẫn còn trong vòng bảo trợ của Mụ Bà,
Đức Thầy. Ra khỏi nhà phải quệt lọ trên trán trẻ để Thổ Công khỏi nhầm, không
được gọi tên thật của trẻ và kiêng đặt tên đẹp vì sợ ma quỉ biết mà chọc phá; trưa
đúng ngọ không được ra nắng, không giỡn nắng; nếu trẻ khóc đêm (gọi là dạ đề)
phải lấy một chiếc cọc chuồng heo hoặc chuồng gà để dưới gầm giường, cho trẻ đeo
vòng bằng cây dâu tằm để ngừa ma quỉ, có khi còn thỉnh bùa ở các thầy phù thủy
hoặc các đình ông đeo cho trẻ (gọi là đeo niệc) để tránh ma tà. Những gia đình sùng
tín còn đi gieo quẻ, xin lá số tử vi cho trẻ và hàng năm cúng sao vào ngày ứng với
sao hộ mạng của đứa bé theo số tử vi bằng một lễ cúng đơn giản gồm nhang, đèn,
vàng mã là chủ yếu.
Gặp trẻ ốm yếu khó nuôi, người xưa có tục "gởi nuôi" hoặc "đem bỏ" bằng
cách hẹn ngầm với người thân vào ngày giờ nhất định, người mẹ ẵm con đến "gởi"
hoặc "bỏ" một nơi nào đó, người thân đến "nhận" hoặc "lượm" về nuôi. Thay đổi
bảo mẫu như thế, người ta tin rằng đứa trẻ sẽ vui lòng "ở lại" với đời. Trường hợp
đứa trẻ gặp biến cố đột ngột như té ngã hay sợ hãi một điều gì đó mà thần sắc thất
thường, người ta cho rằng trẻ đã bị "lạc vía" hoặc "cướp vía" bèn có lễ hú vía bằng
cách đem nhang đèn, một đĩa gạo muối, một trứng vịt xẻ làm 3 cúng ở đầu đường
hoặc ngã ba đường khấn Thổ Công, cô hồn nhờ gọi vía về. Khi được lưỡi tầm sét
của thiên lôi đánh quỉ cắm vào đất (thật ra, đó là những rìu đá dễ tìm thấy ở nhiều

3.9 Page 29

▲back to top


nơi trên đất Đồng Nai), người ta thường mài vào mảnh ghè bể cho trẻ con uống để
ma quỉ phải tránh. Nếu cướp được lưỡi ông tiêu ở các lễ cúng chợ, cúng cô hồn, đem
lưỡi ấy bọc vải đeo cổ cho trẻ hoặc lót trong gối ngủ, đứa trẻ sẽ gặp điều tốt lành.
Đến mười hai tuổi, tức đã vượt qua giai đoạn đậu mùa và các dịch bệnh hiểm
nghèo khác, gia chủ mừng vui cúng lễ "tròn con giáp" bằng gà, vịt hay đầu heo khấn
vái tạ ơn ông bà, Thổ Công, Thổ Địa, mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy đã phù hộ,
độ trì cho đứa bé thật sự trở thành người. Từ đây, đứa trẻ mới được xem là "còn", là
thành viên chính thức của gia đình.
Do tri thức khoa học phát triển, hiện nay danh mục những điều kiêng giữ và
những lễ cầu cúng trong việc sinh dưỡng trẻ ngày càng thu gọn theo hướng lược bỏ
những điều lạc hậu, nặng về mê tín đồng thời vận dụng kinh nghiệm dân gian trong
kho tàng tri thức y học của nhân dân.
I.1.2. Hôn nhân:
Quan niệm về hôn nhân không khe khắt, chỉ những nhà gia thế mới tính
chuyện môn đăng hộ đối, còn lại số đông trong dân dã vốn ít phân biệt giàu - nghèo,
chủ - tớ, sang - hèn, chuyện hôn nhân thường chọn lựa theo tiêu chuẩn "vừa đôi phải
lứa", không cùng trực hệ và "được tuổi". Trường hợp chênh lệch tuổi giữa trai gái,
người ta dễ dàng chấp nhận sự "lệch chuẩn: Gái hơn hai, trai hơn một".
Việc tìm hiểu giữa trai gái cũng được tự do, phóng khoáng; ít có chuyện ràng
buộc phải tìm hiểu người cùng làng. Làng Việt ở Đồng Nai có cơ cấu mở, thường
gồm nhiều họ, đa nguồn gốc, nhiều người làng khác đến phụ canh. Thanh niên nam
nữ được dịp giao tiếp rộng cho nên việc tìm hiểu cũng trong mối quan hệ rộng và
trong vòng kiểm soát nới lỏng của gia đình.
Trai gái tìm hiểu khi thuận lòng nhau, về thưa với ba má để gia đình nhà trai
"bước tới". Tục xưa, người Đồng Nai theo tập tục Trung Hoa, thực hiện đủ sáu lễ:
Nạp thái, vấn danh, nạp kiết, nạp tệ, thỉnh kì, thân nghinh. Theo thời gian, các lễ
thức cưới xin phức tạp giảm dần. Theo Lương Văn Lựu (1), một đám cưới bình
thường của cư dân Việt thường được chú trọng các lễ: Lễ hỏi, lễ biếu (xêu), lễ xuất
giá (cô gái khấn cáo ông bà, cha mẹ sáng mai về nhà chồng), lễ rước dâu, lễ lại mặt.
Gần đây, lễ thức còn đơn giản hơn, chủ yếu là lễ hỏi và lễ cưới. Có nơi thêm lễ thăm
nhà, còn gọi là lễ chạm ngõ trước lễ hỏi. Trước ngày cưới 8 ngày, có nơi còn làm lễ
khai bát nhật (lập hôn ước, khai tên tuổi, sức khỏe của trai gái). Lễ này xuất hiện từ
khi thực dân Pháp cầm quyền.
Trong lễ hỏi, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, cậy mai dong đến nhà gái để
đặt vấn đề xin cưới. Mai dong là người cao tuổi (ông mai, cũng có thể là bà mai) có
(1) Biên Hòa sử lược, Lương Văn Lựu, 1960, trang 135 - 140.

3.10 Page 30

▲back to top


uy tín, có duyên ăn nói trong họ, trong làng. Lễ vật ăn hỏi dạng đơn giản nhất gồm:
Một đôi đèn, một cặp trà, một cặp rượu, hai quả bánh, một đôi bông tai... Tục xưa,
nhất thiết phải có một búp sen to bằng giấy, hai người khiêng. Búp sen treo ở gian
chính để chứng tỏ nhà đang có con gái đã đính hôn. Trường hợp hồi hôn, đàng gái
sẽ nêu lý do, trả của (lễ vật) cho đàng trai, nhất thiết là trả cho được búp sen ấy. Việc
trả của sau lễ hỏi khi hôn nhân không thành, có nơi giữ tục của Trung bộ, nếu nguyên
nhân từ phía đàng trai, lễ vật coi như mất, nếu nguyên nhân từ phía đàng gái, của
một phải trả hai, cho nên dân gian có câu: "Trai chê vợ của đổ xuống sông, gái hồi
chồng của một đền hai”.
Sau lễ hỏi, trai gái được xem là vợ chồng chưa cưới. Trường hợp có đại tang,
việc cưới xin vẫn có thể được tiếp tục nếu đã được tang chủ cho phép xả tang ngay
khi sắp cử hành lễ động quan. Hoặc sớm hơn thì có thể chuyển ngày cưới trước khi
có đại tang gọi là cưới chạy tang.
Lễ cưới được họ hàng, làng xóm cùng chăm lo. Trai gái lo việc dựng cổng,
trang trí bàn ghế; gái lo việc làm bánh, bếp núc. Chăm lo phụ giúp cho lễ cưới là
niềm vui và trách nhiệm của cộng đồng. Đôi vợ chồng mới cưới được chăm lo cảm
thấy hãnh diện, ấm cúng và có trách nhiệm với nhau hơn trong cuộc sống.
Đàng trai đến nhà gái được tiếp đón bằng tràng pháo giòn giã và có người
đón tận ngõ, khi vào nhà có người "rước dù", "rước quả". Nhà gái đã bố trí sẵn,
thành phần chính gồm: Ông (bà) mai, cha mẹ, đại diện họ hàng được mời vào nơi
bàn chính đối diện với bàn thờ tổ tiên. Đàng trai được ngồi vào vị trí, dấu hiệu là
chiếc bình bông trên bàn thờ. Bình bông thường đặt theo hướng "đông bình, tây
quả". Đông theo cách của thợ mộc là hướng của cây đòn đông trên nóc nhà, tức bên
trái, hay nói cách khác:"Nam tả nữ hữu". Lễ vật bày ra, ông (bà) mai tuyên bố lý do,
nêu lễ vật. Lời nói khéo léo thường dẫn dắt lễ vật đi liền với ý nghĩa luân lý, mỹ tục.
Nhà gái nhận lễ (có lại quả như ở lễ hỏi). Chủ gia thắp ba cây nhang khấn vái ông
bà báo việc hôm nay gả con gái lấy chồng. Cô dâu được mời ra trong trang phục cổ
truyền có dâu phụ đi kèm. Lễ lên đèn được thực hiện trang trọng; ông (hoặc bà) mai
cầm đôi đèn từ lễ vật của nhà trai đốt cho cháy cùng một lúc, khấn vái:
Thần đăng chứng giám
Thọ lưỡng tánh nhứt gia
Ông tu la, bà tu tiên
Ông tu hiền, bà tu đức
Ông giúp sức, bà giúp công
Ông Tơ hồng, bà Nguyệt lão
Xe dây cầm sắt, kết chặt vợ chồng
Sống bách niên giai lão.

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Rồi, mỗi tay cầm một cây đèn cùng chuyển cho đại diện nhà trai, nhà gái;
tay trái chuyển cho nhà trai, tay phải chuyển cho nhà gái. Đèn được trịnh trọng thay
vào chân đèn ở bàn thờ tổ tiên. Hai họ nhìn vào đôi đèn ấy mà đoán định hạnh phúc
của cô dâu chú rể: Đèn cháy thẳng ngọn, cùng sáng như nhau thì hòa hợp, bình đẳng;
ngọn bên nào cháy nhiều hơn thì bên đó sẽ lấn lướt. Bởi vậy, việc chọn đèn, lên đèn
trong đám cưới được thực hiện rất cẩn trọng. Đến khi đoàn đưa dâu ra khỏi nhà, ông
mai luôn là người đi ra sau cùng để tự tay tắt đôi đèn bằng cách bóp bằng hai ngón
tay hoặc chụp tắt bằng hai đồng xu sao cho sự tắt cũng cùng lúc như sự cháy.
Đoàn người rước dâu gồm đại diện họ hàng, cơ cấu cũng đi lẻ về chẵn. Người
mẹ không đưa dâu, thường cài vào áo cưới của con gái một chiếc kim băng hoặc một
cái lông nhím hay móc tai, gọi là để trừ tà, nhưng lời dặn thực là để sử dụng trong
lúc bất trắc đêm tân hôn.
Về nhà trai, lễ thức cũng khấn vái ông bà, lễ ra mắt họ hàng đơn giản như ở
nhà gái. Xong lễ là nhập tiệc. Trong tiệc, kiêng việc đổ vỡ; nên người địa phương có
câu:
Ai làm chén bể cơm rơi
Dĩa nghiêng cá đổ rã rời đôi ta.
Ba ngày sau, cô dâu chú rể mang một mâm trầu rượu, một cặp vịt sống về lại
nhà gái cảm ơn ba má và làm lễ lạy ông Táo gọi là phản bái hoặc là lễ lại mặt. Ngày
xưa, trong lễ phản bái, chú rể thường mang về nhà vợ một cái đầu heo cúng ông bà,
nếu đầu heo đã bị cắt mất tai (một hoặc hai) thì đó là dấu hiệu chú rể muốn bảo rằng:
Cô dâu không còn trinh trắng trước khi động phòng. Đó cũng là nỗi sỉ nhục của gia
đình nhà gái. Tục này vắng bóng đã lâu. Gần đây, quan niệm về “tiền dâm hậu thú”
không nặng nề như nhiều nơi khác.
I.1.3. Việc tang:
Vì quan niệm "chết" là điều ắt phải và cái chết luôn được cộng đồng chăm
sóc chu đáo cho nên đa phần cư dân Việt chấp nhận "chết" một cách thanh thản,
nhiều khi có sự chuẩn bị trước chu đáo. Chỗ "yên nghỉ" chọn sẵn, có khi xây mộ
trước gọi là kim tỉnh; hòm được đóng gỗ tốt dành sẵn gọi là cỗ sự. Nếu không phải
là "bất đắc kỳ tử" (chết đột ngột), dù đang ở đâu, vì lí do gì, cái chết được mong
muốn luôn là cái chết ở quê nhà.
Khi gia đình có người vừa trút hơi thở cuối cùng, việc đầu tiên là phải "hú
vía", đến khi không còn hi vọng, mới tắm rửa cho xác chết gọi là "mộc dục". Sau đó,
người chết được đặt trong buồng hoặc nhà dưới, bỏ vào miệng ba hột gạo (có nơi bỏ
thêm một đồng tiền xu) gọi là phạn hàm, rồi đắp mặt, đốt nhang trên đầu nằm.
Trường hợp chết bệnh, thường đặt trên bụng một nải chuối sứ gọi là để hút tà khí.

4.2 Page 32

▲back to top


Khi báo tang xong, gia chủ nhờ người coi tuổi, coi ngày giờ để phân xếp việc
tang lễ. Giờ tẩm liệm được chọn là giờ tốt, có tính đến thời gian hội đủ mặt người
thân thích. Trước khi chưa tẩm liệm, chó, mèo trong nhà được nhốt lại, có người
luôn canh xác để không con vật gì có thể vượt ngang qua. Tục này gắn với hàng loạt
truyện quỉ nhập tràng lưu truyền ở địa phương. Những gương kiếng tranh tượng
phật trong nhà phải che (dán) lại bằng vải (giấy) đỏ có dấu vôi trắng, nhiều nơi còn
quay mặt tượng Phật về bên phải.
Giờ tẩm liệm, hội đủ mặt những người thân không kị tuổi. Xác được liệm
bằng vải trắng dài 3 mét bó theo cách một dọc năm ngang (đại liệm) hoặc ba ngang
(tiểu liệm). Hòm được chọn theo hạng nhất, hạng nhì, hạng ba tùy theo chất lượng
gỗ. Tốt nhất là chiếc hòm bằng gỗ trai rất nặng hoặc gỗ hương thơm lừng. Nắp hòm
bằng một nửa thân cây đặc ruột mặt hình bán nguyệt vừa khít với thân hòm bằng ba
mảnh ván. Như thế hài hòa với sự vuông tròn của trời đất.
Hòm được đặt giữa nhà (nếu nhà có người cao niên hơn còn sống thì chiếc
hòm đặt lệch sang một bên để tỏ ý khiêm nhường), kê quay đầu ra ngoài với ý nghĩa
luôn nhớ về nhà, phân biệt với cách của người Hoa: Quay đầu vào trong để một đi
không trở lại.
Lễ thành phục được xem là lễ chính thức của việc tang. Tang chủ thường
thỉnh thầy chùa hành lễ, trước năm 1945 còn có thầy pháp cũng tham gia cầu cúng
lễ tang. Trong lễ thành phục, người thân quì trước quan tài nghe thầy cúng đọc kinh
và phát khăn tang. Theo Lương Văn Lựu (1), việc để tang rất khuôn phép; đồ tang
may sẵn bằng vải trắng, không nhất thiết phải xô gai như trước kia, nhưng phải phù
hợp với đối tượng. Con trưởng nam mặc áo trảm thôi may lộn mí ra ngoài, lưng áo
có miếng vải thêm gọi là phụ phiến với ý nghĩa cõng thêm sự đau xót, lưng thắt 2
vòng dây rơm hoặc dây chuối, mũ vành bằng bẹ chuối, đi dép rơm. Những người
con khác mặc áo vải trắng rộng có thích vai (hai miếng vải đính ở hai vai), bịt khăn
trắng bỏ mối ra sau ót, con gái thì mũ nhọn bằng vải thô thòng xuống che mặt. Con
rể và các cháu trai mặc áo trắng, đội mũ mấn; những người thân khác quấn khăn
trắng. Nếu người mẹ chết trước thì đồ tang mẹ được may vén lai hết thảy. Gậy tang
có độ dài đến ngang tim nhằm nâng đỡ trái tim đau, đầu trên để tròn, đầu chạm đất
gọt vuông cho ứng với trời tròn, đất vuông. Gậy tang cha bằng tre mang ý nghĩa
cương trực, gậy tang mẹ bằng gỗ vông để khắc sâu ân đức.
Sau lễ thành phục là lễ phúng điếu của họ hàng, xóm làng. Sui gia phúng
viếng với cung cách và lễ vật long trọng: Khăn đóng, áo dài, mâm trầu rượu, trái
cây, cặp đèn trắng, ba cây nhang đại, thường có thêm 1 bức trướng. Các tổ chức hội
làng cũng cử đại diện đến viếng. Như làng Bến Gỗ có tất cả 10 hội (2). Theo cách
(1) Biên Hòa sử lược, sách đã dẫn, trang 146.
(2) Làng Bến Gỗ xưa và nay, Diệp Đình Hoa, Nxb. Đồng Nai, 1995, trang 266 - 268.

4.3 Page 33

▲back to top


xưa, nam lạy kiểu “hưng phục”; nữ lạy kiểu ngồi bệt; đủ lễ là 4 lạy, giữa hai lạy có
xá hai xá và cuối cùng xá ba xá. Người nhà lạy trả hai lạy sau.
Khi tiến hành lễ phúng viếng ở nhà, thanh niên trong làng đã chuẩn bị đào
huyệt hoặc sửa kim tỉnh; đại diện tang chủ cúng Thổ Địa bằng một dĩa tam sên:
Trứng, cua, thịt luộc với rượu trắng và nhang đèn. Thông thường, nơi yên nghỉ đã
được chọn trước trong vườn nhà để quần tụ với ông bà, người nghèo thì có thể táng
thổ mộ (công thổ) hoặc đất chùa.
Đến ngày giờ tốt đã định, bắt đầu lễ động quan. Việc động quan do đạo tì
đảm nhiệm. Đạo tì gồm những thanh niên, trai tráng trong làng mặc đồng phục thao
tác theo lệnh của người chỉ huy (nhưn quan). Trong làng Việt xưa cũng như nay,
thường có tổ chức lo việc tang của cộng đồng trên nguyên tắc tự nguyện, làm việc
nghĩa, tùy theo đáp ơn hảo tâm của tang gia. Làng Bến Gỗ còn giữ được tập tục xưa,
người ta tham gia vào hội chơi hồi, có đóng góp tự nguyện. Hồi tang có trách nhiệm
giúp đỡ tang gia những khâu khó khăn: Tẩm liệm, tổ chức tiếp khách, đào huyệt và
quan trọng nhất là đạo tì tham gia an táng. Hình thức này được cải biến thành hội
bảo thọ ngày nay ở nông thôn. Nếu người chết thuộc diện ông - bà, cha - mẹ, chồng
- vợ của người có tham gia hội đình, miễu, các hội đình, miễu đưa trống đến cử lễ
và bô lão hội ấy thực hiện nghi thức Bái quan hầu khi động quan. Số lượng trống
chiêng của đình miễu và lượt bái quan hầu cử lễ tùy theo số hội mà người chết có
thân nhân tham gia, càng nhiều càng danh dự cho gia đình.
Khiêng quan tài động quan là cả một nghệ thuật. Gia chủ thường để trên quan
tài một ly rượu đầy đặt trên tờ giấy bạc với dụng ý là khiêng cho thăng bằng sẽ được
thưởng. Thủ thuật của những nhưn quan có kinh nghiệm là: Lót dưới ly rượu một tờ
giấy vàng bạc để thấm rượu tràn ly hoặc nhanh tay nhỏ vào ly rượu một giọt sáp đèn
cầy. Gặp những quan tài bằng gỗ trai quá nặng, đặt sát nền gạch thử thách đạo tì;
đạo tì khéo léo chêm vào đáy quan tài những đồng bạc trắng, khoảng ba đồng bạc
trắng chồng lên là đủ lòn ngón tay nhấc được quan tài.
Quan tài vừa chuyển động, người nhà đập tan siêu hoặc niêu đất cho tiếng
kêu to để đánh thức và xua ma quỉ. Thay vì đập siêu, niêu, người Hoa đốt pháo.
Đúng theo lối xưa, trước khi vào khiêng quan tài, nhưn quan cầm đuốc múa lửa
ngoài sân, đạo tì ngậm tăm múa theo. Người xưa giải thích tục này nhằm diễn lại
tích Chàng Lía hiếu thảo (nhân vật cổ tích ở Bình Định) về cướp quan tài mẹ đưa
lên núi chôn để báo hiếu. Tại một số nơi hiện còn tục cướp quan tài gắn với hò đưa
linh và tục nằm đường trả hiếu..
Đám tang giàu có theo lối xưa, còn có tục đánh động phá quàng diễn tích
thầy trò Tam Tạng mở đường đi thỉnh kinh ở chùa, cầu siêu hoặc mở đường đưa
vong hồn người chết về Tây phương cực lạc.

4.4 Page 34

▲back to top


Có gia đình còn tổ chức hát tuồng trước khi hạ huyệt; ở Quảng Nam - Đà
Nẵng có hát tuồng trong lễ tang, nhưng ở Đồng Nai chỉ hát tuồng lúc hạ huyệt với
số người hạn chế từ 5 đến 7 người (1).
Lễ mở cửa mả được thực hiện trong buổi sáng ngày thứ ba tính từ ngày an
táng. Tang gia mặc tang phục, mang lễ vật đến bày cúng nơi mộ, mời thầy cúng hành
lễ. Lễ vật gồm: 3 ống tre đựng gạo, nước, muối bịt đầu bằng vải trắng cắm trước mộ,
đó là thức ăn, món uống của người chết. Một cái thang bằng tàu chuối (nam 9 nấc,
nữ 7 nấc) đặt trước mộ để vong linh người chết leo lên "cõi trời". Một con gà con
được cột chân vào ngọn cây mía. Khi hành lễ, thầy cúng cầm mõ đi đầu vừa đi vừa
tụng kinh, một người trong nhà cầm cây mía kéo con gà đi theo thầy cúng ba vòng.
Về chuyện con gà và cây mía, chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Theo Trịnh
Hoài Đức, tục cúng tổ tiên cây mía có đủ cả gốc ngọn là để làm gậy chống đi khi già
yếu (2)...
Nếu gia đình sùng đạo Phật, sau lễ mở cửa mả là các lễ cúng thất, còn gọi là
làm tuần, mỗi thất cách nhau 7 ngày. Lễ cúng tại nhà hoặc tại chùa. Đến thất thứ 7
(chung thất), có thể mở đàn chay theo lễ thức của Phật giáo. Những nhà khá giả còn
lập đàn chay ứng phú, một loại nghi lễ của Phật giáo múa hát dâng lễ rất nghệ thuật.
Sau lễ chung thất, gia chủ vẫn phải cúng cơm ngày hai bữa cho đến lễ 100 ngày, gọi
lễ tốt khốc; đúng một năm sau cúng giỗ đầu gọi là tiểu tường; lần giỗ thứ hai gọi
đại tường, còn gọi là lễ xả tang, vì trong ngày này, đồ tang được đem đốt, có khi
còn đốt với đồ mã. Sau lễ đại tường, coi như là xong việc tang. Từ đó, người nhà
cúng giỗ hàng năm.
Tại Đồng Nai xưa, không có tục cải táng. Gần đây, do đất đai khó khăn,
nhiều biến động; lại do điều kiện làm ăn xa; nhiều người bốc mộ, hỏa táng, cho di
cốt vào hủ sành đậy nắp kín gởi ở chùa với ý nghĩ rằng vong linh người chết sẽ
nương cửa Phật, được ổn định, được nhang khói ngày đêm.
Trong vòng đời người, còn có những tập quán khác: Lễ thọ đối với người
cao tuổi, lễ khao đối với người hiển vinh... Những sinh hoạt như trên thường theo
thông lệ chung.
I.2. TỤC THỜ CÚNG TRONG NHÀ:
I.2.1. Thờ cúng ông bà :
Căn nhà dù nhỏ vẫn dành nơi trang trọng nhất (gian chính) thờ ông bà. Theo
Lương Văn Lựu, trước đây người địa phương thờ 3,4 đời; đến đời thứ 5 trở lên nếu
có thần chủ phải đem chôn gọi là “Ngũ đại mai thần chủ” (năm đời thì chôn thần
(1) Làng Bến Gỗ xưa và nay, sách đã dẫn, trang 201.
(2) Gia Định Thành Thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 10.

4.5 Page 35

▲back to top


chủ). Ông bà từ đời thứ tư trở lên được thờ chung, phối hưởng ở bàn thờ chính trong
nhà hoặc bàn thờ họ ở nhà từ đường.
Ở Đồng Nai, từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ít thấy có nhà thờ họ riêng
biệt; phổ biến là bàn thờ họ trong nhà từ đường do con trai lớn hoặc con trai út dòng
trưởng đảm nhiệm, nếu không con trai thì con gái thực hiện. Những hộ không phải
là nhà từ đường cũng thường có bàn thờ ông bà (thờ vọng hoặc thờ tượng trưng) ở
bàn thờ giữa gian chính. Bàn thờ cha mẹ bên trái, thờ ông bà nội (ngoại) bên phải.
Những người khuất mặt khác như anh, chị, em, con được thờ một góc trong nhà.
Người mới chết (dù là cha mẹ, ông bà) được thờ riêng cho đến khi xả tang mới được
thỉnh lư hương, di ảnh, vào bàn thờ chung.
Cách bày trí bàn thờ không khác mấy so với phong tục phổ biến, ngày càng
có phần đơn giản hơn nhưng không kém vẻ trang nghiêm. Bàn thờ họ thường có hai
lớp: Lớp trong là bàn giỗ để bày đồ cúng, lớp ngoài là tủ thờ để bày đồ thờ gồm:
Cặp chân đèn tượng trưng cho nhật nguyệt quang minh; bát nhang, khay trầu rượu
tượng trưng cho sự vuông tròn của trời đất. Lư hương tròn như là thái cực; “bình
bông” ở bên trái và “chò quả tử” ở bên phải (đông bình tây quả), một giá gương ghi
họ hoặc một chữ nho biểu niệm như: Phước, Thọ, Khang, Đức... Những nhà khá giả
bày đồ thờ bằng đồng theo bộ tam sự 3 món: chân đèn, lư hương, bình bông), ngũ
sự 5 món gồm tam sự có thêm cặp hạc - rùa và hộp trầu), thất sự (bảy món gồm ngũ
sự có thêm hai món khác). Tủ thờ, vật thờ bằng gỗ, thường được chạm cẩn xà cừ
tinh xảo, đồ đồng luôn giữ bóng, đồ gốm sứ càng cổ càng quý giá.
Thờ phụng ông bà không chỉ ở bàn thờ mà còn thể hiện ở việc bài trí hoành
phi, liễn đối trong nhà. Nhà khá giả của cư dân Việt xưa thường có hoành phi treo
cao ở giữa nhà với các đại tự (chữ nho) ý nghĩa thâm thúy.
Hoành phi, liễn đối trong nhà cư dân Việt không phải chỉ để trang trí mà
trong đó kết tinh tinh thần, ý chí, truyền thống của ông bà để lại được con cháu trân
trọng giữ gìn và lấy đó làm nền tảng cho sinh hoạt gia đình.
Cúng giỗ gắn với thờ phụng, việc thờ càng trang nghiêm, việc cúng càng
trang trọng. Hai hình thức cúng chủ yếu: Cúng hàng ngày cúng giỗ. Hàng ngày,
con cháu thay nước cúng, đốt nhang, lên đèn, xá trước bàn thờ ông bà. Mỗi khi đi xa
về hoặc chuẩn bị làm việc hệ trọng, người Đồng Nai cũng có thói quen đốt nhang
khấn cáo ông bà. Việc cúng giỗ không khác so với miền Bắc, miền Trung. Lòng
thành với cha mẹ, ông bà như nhau, lễ thức cũng giống nhau. Cúng giỗ cha mẹ được
chuẩn bị kỹ hơn cúng giỗ ông bà. Giỗ ở nhà từ đường long trọng hơn ở tại gia. Cũng
như phong tục phổ biến, sau ngày chết: 49 ngày cúng thất, 100 ngày cúng tiểu tường,
12 tháng cúng giáp năm, 24 tháng cúng đại tường, 27 tháng cúng xả tang; năm thứ
ba trở đi gọi là giỗ thường niên, cúng trước ngày giỗ chính gọi là cúng tiên thường
(thường là cúng chay), ngày giỗ chính cúng mặn.

4.6 Page 36

▲back to top


Việc thờ, thờ đến 3, 4 đời nhưng cúng giỗ có thể cúng đến đời thứ 5, thứ 7
nếu con cháu còn nhớ ngày chính xác. Như một gia đình họ Nguyễn ở Hòa Hưng
còn cúng giỗ 16 vị thuộc 7 đời (1). Ngoài cúng giỗ ông bà, cha mẹ, gia đình cư dân
Việt ở Đồng Nai còn cúng giỗ những người khuất mặt khác như: anh, chị, chồng
(vợ), cô, dì, chú, bác, ông bà, cha mẹ vợ... nếu không có người trực hệ phụng thờ.
Thậm chí, cúng giỗ cả người hàng xóm đơn độc hoặc sui gia như gia đình ông
Nguyễn Văn Dẻo ở xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch). Ngày giỗ được tính theo âm
lịch.
Trong ngày giỗ, nhất là giỗ ông bà nội ngoại; cha mẹ, anh em, con cháu họp
mặt, góp công sức chung lo bữa giỗ. Đây là dịp họp gia đình, nhắc nhở người chết
và trao đổi việc nhà việc họ. Người trong họ không đến dự được có thể gửi đồ cúng
đến cúng gọi là gửi giỗ. Cũng có thể cúng tại gia cùng lúc với giỗ chính ở từ đường
gọi là cúng vọng. Đồ cúng tùy theo phong tục của gia đình, thường đủ các món: Kho,
xào, nướng, canh, rau, bánh, trái cây, giải khát. Thường chuẩn bị ít nhất là 3 mâm
cúng: Một mâm cúng bày ở bàn thờ người được cúng, một mâm bày ở bàn giữa nhà
cho các vị phối hưởng, một mâm đất đai âm trạch (có nơi gọi đất đai nhơn trạch)
cho những người khuất mặt hữu danh vô vị, hữu vị vô danh.
Trong nhiều thức cúng, một số gia đình còn giữ tục “luôn phải cúng một
món gì đó” gắn với sở thích hoặc đặc điểm của ông bà, gọi là cúng lề. Có gia đình
cúng khoai mì, rau chạy, cháo cá ám, ốc luộc... vì các món này vốn được ông bà ưa
thích hoặc nhờ nó mà vượt khó khăn. Nhiều khi qua món cúng lề mà họ hàng nhận
ra nhau.
Cách dọn mâm, khấn mời, dự tiệc giỗ đều thể hiện không khí chung vui, hòa
hợp, bình đẳng, có tính nhân bản mang phong cách cởi mở, phóng khoáng của Nam
bộ.
Thờ cúng ông bà trong gia đình là truyền thống đẹp của cư dân Việt được
thể hiện thống nhất trong cả nước. Cư dân Việt ở Đồng Nai lưu truyền, gìn giữ tục
thờ cúng ông bà như gia bảo, có khuynh hướng đơn sơ, giản tiện hơn nhưng vẫn giữ
được ý nghĩa của nó là: Lòng tôn kính, biết ơn, kế thừa công đức tổ tiên; và sự cảm
hóa giáo dục con cháu “uống nước nhớ nguồn”, “ăn trái nhớ người trồng cây”. Tục
thờ cúng ông bà đã kết dính các lớp cư dân Việt ở Đồng Nai với nhau: Lớp trước
lớp sau, vùng này vùng khác, làng này làng nọ, tôn giáo này tôn giáo kia... đều coi
việc thờ cúng ông bà là phận sự hiển nhiên.
I.2.2. Thờ thần độ mạng:
Trong gia đình cư dân Việt ở Đồng Nai, ngoài việc thờ cúng ông bà để nhớ
nguồn cội, còn thờ thần độ mạng để được phù trợ, che chở. Thần độ mạng cho đàn
(1) Làng Bến Gỗ xưa và nay, sách đã dẫn, trang 222.

4.7 Page 37

▲back to top


ông phổ biến Quan Công (Quan Thánh Đế quân), độ mạng cho đàn bà phổ biến
là các mẫu còn gọi là mẹ sanh, mẹ độ.
Quan công là tên gọi dân gian của Quan Vân Trường, một nhân vật lịch sử
đời Tam Quốc, còn được gọi là Quan Thánh Đế quân, Quan Vũ, Xích Đế. Có lẽ tục
thờ Quan Công đến Đồng Nai theo con đường nhập cư của lớp người Hoa đến sớm,
nó nhanh chóng được Việt hóa, và hiện trở thành phổ biến, khó phân định nguồn gốc
Hoa, Việt. Những nhà còn thờ theo lối xưa có khám thờ ở phía sau bên trên bàn thờ
họ, giữa là Quan Công, bên trái là Định Phúc Táo quân, bên phải là mẫu (mẹ sanh,
mẹ độ). Những nhà không có khám thờ thường lập trang thờ Quan Công treo cao
bên trái trong gian chính. Tục xưa thường thờ bằng một bức dán giấy đỏ đề chữ nho
“Quan Thánh Đế quân”, gần đây, phổ biến loại tranh thờ vẽ trên gương gồm hai
loại: Tranh ba ông (Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng một tay vuốt râu
đôi khi vẽ thêm tay phải cầm Kinh Xuân Thu, sau lưng có Quan Bình giữ ấn và Châu
Thương cầm thanh long đao đứng hầu), Tranh năm ông (như tranh 3 ông, phía sau
có thêm Trương Tiên cầm cung và Xương Thiên Quân cầm giản đứng hầu) còn gọi
là tranh thờ ngũ công vương Phật.
Vía ông ngày 24 tháng 6 âm lịch, cúng đơn giản bằng nhang, đèn, hoa, trái;
có thể cúng mặn hoặc cúng chay, kiêng cúng thịt gà và hoa mồng (mào) gà; cũng
kiêng ăn thịt trâu, thịt chó.
Tục thờ Quan Công độ mạng không phải là biểu hiện của sự sùng bái cá nhân
mà là “biểu tượng của tinh thần trọng nhân nghĩa, trung tín, hoạn nạn có nhau, bần
cùng không biến tâm, giàu sang không đổi chí trong mọi hoàn cảnh vẫn một dạ chẳng
hai lòng” (1).
Thờ Bà (thờ mẫu):
Trang thờ Bà thường bằng gỗ như một khám nhỏ treo cao ở bên phải gian
chính, có khi Bà được thờ chung cùng Quan Công và Thích Ca hoặc Táo quân trong
khám ở sau bàn thờ giữa. Trang thờ Bà được bài trí giản đơn gồm 1 bức tranh tượng
(hoặc giấy hồng đơn đề tên Bà), bình bông, nhang, đèn, nước trong. Cúng Bà cũng
rất đơn giản: nhang, đèn, nước trong, bánh, trái cây. Bà cũng được mời phối hưởng
trong các lễ cúng giỗ, nhưng không bày đồ mặn. Bà độ mạng được gọi nôm na là mẹ
sanh, mẹ độ; đó là các nữ thần quen thuộc trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt
ở Nam bộ; tùy theo hằng tâm của người phụ nữ mà chọn nữ thần độ mạng cho mình.
Các Bà độ mạng được thờ trong gia đình gồm một trong số: Mẹ Thai Sanh, Chúa
Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương; Chúa Xứ nương nương, Linh Sơn
Thánh mẫu; Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Địa mẫu, Quan Âm Bồ tát... Do các
mẹ sanh mẹ độ đa dạng cho nên ngày cúng, ngày vía cũng không thống nhất, tùy
(1) Quan Thánh xưa và nay, Lê Anh Dũng, NXB VHTT, 1995.

4.8 Page 38

▲back to top


theo từng gia đình, thông thường là các ngày rằm hoặc ngày cuối tháng âm lịch hoặc
ngày vía. Tranh tượng thờ Bà cũng vậy. Trước đây, thường thờ bằng tờ hồng đơn
ghi tên Bà, hiện nay đang phổ biến tranh thờ Bà trong khuôn gỗ lồng kiếng.
Tục thờ Bà độ mạng phản ảnh tín ngưỡng thờ nữ thần của Nam bộ; trong đó
đan xen, tích hợp nhiều lớp văn hóa, có sự dung hợp các nữ thần gốc Hoa, gốc Chăm,
Việt trong niềm tin rộng mở của người địa phương.
I.2.3. Thờ cúng các thần bản gia :
Thần bản gia được hiểu là các vị thần bảo hộ cho gia đình trong một phạm
vi đất đai giới hạn và trách nhiệm khá rõ ràng.
Ông Địa - Thổ Công: một dạng thần Đất (tức Thổ Công), thường được thờ
ở khám thờ dưới đất phía bên trái bàn thờ chính, vật thờ gồm nhang, đèn, nước, và
cốt tượng với nét mặt vui tính, bụng phệ, vú to thể hiện sự sung mãn, tính nữ. Đó là
biểu tượng của sự thịnh vượng và sinh sản. Theo quan niệm dân gian, Ông Địa là
người mau mắn sẵn lòng giúp đỡ mọi người không nề hà việc hèn mọn hay cao cả,
không cần phải khấn vái, cầu xin, chỉ cần một lời nhờ, gọi thông thường là đủ. Bởi
vậy, Ông Địa được nhờ giúp cả việc đỡ đẻ. Các bà mụ gặp trường hợp đẻ khó thường
nói: “đẻ mau, mau mau Ông Địa”. Ông Địa giúp cả việc dẫn vía trẻ nhỏ, chứng thực
lễ thôi nôi, đầy tháng, tá thổ; mỗi khi cần tìm vật gì người ta thường vái “ông bà,
Ông Địa”. Ông Địa hòa nhập với mọi giới (nông dân, thợ thủ công, thương nhân)
được thờ cúng rộng rãi; thờ trong nhà, thờ cả trên ghe xuồng, trong chòi rẫy; một số
hộ người công giáo cũng bắt đầu hiện tượng thờ Ông Địa - Thần Tài.
Ngày vía của Ông Địa chưa được giải thích đầy đủ, cư dân Việt ở Đồng Nai
giữ lệ cúng Ông Địa vào ngày mồng mười của 5 tháng đầu năm từ tháng giêng đến
tháng năm âm lịch. Những ngày này Ông Địa - Thổ Công - Thần Tài được cúng hoa,
chuối, chè xôi và các thứ bánh ngọt khác. Người ta kiêng cúng Ông Địa bằng chè
hoặc bánh tét có đậu đen vì có chuyện kể rằng có kẻ trộm giống đậu đen đem về
trồng quanh miễu Ông Địa, khi bị phát hiện hắn đổ oan cho Ông Địa. Ông Địa bị tội
oan, từ đó rất ghét đậu đen. Theo Huỳnh Ngọc Trảng, lệ cúng Ông Địa ngày mồng
10 âm lịch có lẽ xuất phát từ quan niệm cổ truyền “ngày mồng chín sinh trời, ngày
mùng mười sinh đất” Ông Địa là thần Đất nên được cúng trong ngày vía đất.
Thần Tài: Thường được thờ chung một khám thờ với Ông Địa hình thành
một bộ Ông Địa - Thần Tài. Ông Địa bảo hộ về đất đai, Thần Tài bảo hộ việc sinh
lợi. Tài Bạch tinh quân của người Hoa là một ông sao thừa mệnh trời coi việc ban
bố tiền bạc cho nhân gian, vía cúng ngày 22 tháng 7 âm lịch, có dạng hình là một vị
tinh quân mặc quan phục tay cầm phất trần, tay kia cầm một thoi vàng hay thoi bạc,
hình dạng là một ông già sắc phục trắng, mi mày đều trắng. Thần Tài của cư dân
Việt thường được thờ trong hình dạng một ông già áo đỏ, mày trắng, râu trắng, với

4.9 Page 39

▲back to top


hai dạng cốt tượng phổ biến: Ngồi trong tư thế thong dong, hoặc đứng một tay xách
xâu tiền điếu hay bó lúa.
Táo quân: Là vị thần bảo trợ việc bếp núc, có danh hiệu là Đông trù tư mệnh
Táo phủ thần quân, Định phúc Táo quân, còn được gọi là Ông Đầu Rau hoặc Vua
Bếp, có chuyện kể về Vua Bếp giải thích hiện tượng hai ông một bà; ba người vẫn
là một, được thờ ở kệ thờ (hoặc khánh) trong bếp hoặc ở gian chính thờ ở bếp gọi là
Táo Bếp, thuần gốc dân dã. Táo thờ ở gian chính gọi Táo Phật. Người xưa quan
niệm chỉ có Táo Phật mới về trời trong ngày 23 tháng chạp, nên có câu :
Hăm ba Táo Phật về trời
Táo Bếp ở lại đội nồi cả năm
Canh ba, giờ Tý ngày 23 tháng chạp, ông Táo được đưa về trời “cờ bay ngựa
chạy”. Tục xưa còn có đốt vàng mã gồm mũ cánh chuồn, áo dài đen và đôi hia để
ông Táo có lễ phục chầu trời. Đặc biệt là không có quần dài bởi Táo quân mặc quần
lửng (quần đùi dài đến gối) theo kiểu của người Nam bộ. Lễ cúng tiễn Táo quân có
nhang đèn, xôi, chè, trái cây và không thể thiếu dĩa mứt thèo lèo. Lời khấn tiễn Táo
quân giản dị (trước kia còn có văn khấn) ngụ ý mong Táo quân về Trời báo cáo việc
nhà trong năm qua và xin Trời gia ân cho năm mới làm ăn khấm khá, gia đình thịnh
vượng. 23 tháng chạp tiễn đi, 30 đón về cùng với ông bà dự Tết. Táo Phật được tiễn
đi nhưng Táo Bếp vẫn gắn với “lửa củi” hàng ngày. Cư dân Việt ở Đồng Nai có tục,
sau khi đưa ông Táo về trời, trong ngày 23 tháng chạp, lật ông đầu rau giữa đục lỗ
rồi gánh cả ba đem đổ ở gốc cây to trong vườn, thay vào đó là 3 ông đầu rau khác.
Khi bếp lò được dùng phổ biến, việc thay bếp lò cũng được thực hiện như thay ông
đầu rau.
Táo quân không có cốt tượng để thờ, chỉ thờ bằng bức dán giấy hồng đơn có
ghi chữ nho “Định phúc Táo quân”, hàng năm tờ giấy được thay mới trước khi đón
Táo về ăn Tết cùng ông bà. Táo quân được cúng nhang, đèn, hoa, trái, nước trong
vào những ngày rằm, ba mươi, mồng một hàng tháng; còn được mời phối hưởng
trong các bữa giỗ.
Ngũ phương Ngũ thổ long thần:
Thường thể hiện trong khánh thờ dưới đất có bài vị ghi chữ nho: Ngũ phương
Ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ tài thần, nhiều khi còn có cốt tượng Ông Địa -
Thần Tài.
Cứ theo câu chữ mà xét thì bài vị nêu trên thờ hơn một chục vị thần, gồm :
* Ngũ phương thần: Đó là 5 vị thần trấn ở 5 phương (Đông, Tây, Nam,
Bắc và Trung ương) còn gọi là Thanh đế, Xích đế, Hắc đế, Bạch đế, Hoàng đế, có
quan niệm cho đó là Ngũ hổ.

4.10 Page 40

▲back to top


* Ngũ thổ long thần: 5 vị: Thổ Công (thần Long mạch đất nhà, đình,
chùa, miễu), Thổ Chủ (chủ khuôn viên đất đang ở, có người cho là chủ Ngung
Man Nương), Thổ Phủ (bảo hộ đất chợ), Thổ Kỳ (bảo hộ mạch đất nói chung, thường
thờ ở dưới bàn thiên trước nhà), Thổ Địa (bảo hộ cư dân cư trú trên một khu đất nhất
định).
* Tiền địa chủ : 1 vị, vị thần chủ đất cũ.
* Hậu địa chủ : 1 vị, vị thần chủ đất mới.
* Tài thần : 1 vị, vị thần bảo trợ về tiền của.
Thực ra, đây là hiện tượng “thu gọn bài vị” trong xu hướng giản lược sự thờ
tự đa thần xuất hiện từ thế kỷ XX.
Bàn trời: Là hình thức thờ cúng phổ biến, được dựng ở sân nhà, bằng cây
hoặc xây gạch cao ngang tầm người, không có mái che, thường gồm 2 tầng: tầng
trên thờ Thiên Hoàng, tầng dưới thờ Thổ Kỳ; đó là một kiểu thờ cân đối hài hòa trời
- đất, trong - ngoài, trên - dưới của người địa phương. Có người lại giải thích đó là
tàn tích “cây vũ trụ” của người bản địa nhằm nối liền cõi người với cõi trời.
I.2.4. Thờ khác :
Ngoài ra, một số gia đình ở Biên Hòa - Đồng Nai còn thờ những đối tượng
khác. Thờ Tổ nghiệp còn gọi là thờ Tiên sư, Thánh sư, Nghệ sư... những người thầy
đã truyền nghề cho đời sau. Tổ nghề thuốc, nghề gốm, nghề đúc đồng.. còn được
nhiều gia đình thờ nhưng lai lịch thường không rõ ràng. Những gia đình sùng đạo có
trang thờ các vị thần có nguồn gốc từ tôn giáo hợp với lòng tin của gia đình. Gia
đình Công giáo đương nhiên có tượng thờ chúa Jésu và mẹ Maria trong nhà, ngoài
ra còn có tượng ảnh thờ Thánh bổn mạng của gia chủ. Các gia đình theo đạo Phật
hoặc không tôn giáo cũng thường có ảnh tượng Phật, phổ biến là Quan Âm Bồ tát.
Người Biên Hòa - Đồng Nai, Việt cũng như Hoa có những phương thuật để trấn giữ
cửa nhà: Một tấm gương vẽ hình bát quái hoặc gương trong trước cửa ngụ ý ma quỉ
trông thấy phải sợ mà không vào, treo tượng ảnh ông Tử vi, để ngăn chặn tà ma thâm
nhập, dán ở cửa mảnh bùa Bát quái và ảnh thần Hổ cũng để ngăn trừ ma qủi... Tấm
bùa bát quái vẽ “Tứ tung ngũ hoành” có ảnh thần Hổ được thay mới hàng năm vào
ngày mồng 3 Tết.
Việc thờ cúng trong nhà đã trở thành thông tục của người Biên Hòa - Đồng
Nai. Người ta nghĩ rằng mái nhà không chỉ để ở mà còn là nơi con người giao hòa
với ông bà, tổ tiên, trời đất, thánh thần; nơi ấy con người được che chở, bảo vệ được
truyền thừa sức mạnh, và ân đức của lớp người trước để lại cho lớp người sau. Và
cũng ở nơi ấy con người có bổn phận phải tri ân các bậc ông bà, thánh thần và sửa
mình sống sao cho xứng đáng. Bởi vậy, việc thờ cúng trong nhà được xem trọng như
việc tạo ra căn nhà.

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


I.3. CÁC LỄ TIẾT GIA ĐÌNH TRONG NĂM:
I.3.1. Tết:
Tết là lễ tiết quan trọng trong năm của cư dân Việt đánh dấu một điều gì đó
hệ trọng trong đời sống tinh thần của công chúng. Người Biên Hòa - Đồng Nai lưu
tâm đến các Tết phổ biến: Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung thu.
Tết Nguyên Đán là lễ tiết quan trọng nhất trong năm, là ngày hội bắt đầu năm
mới. Không khí Tết được khởi đầu từ ngày 23 tháng chạp, tức là ngày đưa Ông Táo
về trời. Sau ngày đưa ông Táo là ngày chạp mả. Chạp mả là việc thăm, sửa sang
phần mộ của ông bà, tổ tiên. Ngày cụ thể tùy theo sự ấn định của từng họ, từng gia
đình, thường là trong tháng chạp, trước ngày 25. Đến ngày quy định của gia đình,
người trong họ, trong nhà hội về; đàn ông lo việc làm cỏ, sửa sang phần mộ, đàn bà
lo việc bếp núc. Trong tục chạp mả, có một quy ước truyền đời: Khi làm cỏ, sửa
sang xong một cái mả, người ta đánh dấu bằng một cục đá (hoặc hòn đất), đặt lên
tờ giấy vàng bạc ở nấm mả để biết mả đã có chủ. Sau ngày 25, nếu thấy ở khu vực
ấy còn mả chưa đánh dấu, tức mả vô chủ thì người ta huy động người trong nhà đến
đốt nhang, làm cỏ, cốt không để một mả nào “hoang vắng, lạnh lùng” trong những
ngày Tết.
Ngày 25 tháng chạp, dân làng thường dọn một bữa cúng đạm bạc gọi là tiễn
ông bà, thần thánh đi thăm viếng họ hàng, người thân đâu đó, ấy cũng là ngày quan
chức trong làng khép ấn, thợ thầy được nghỉ việc.
Những ngày cuối tháng chạp là những ngày bận rộn: Hàng quán sửa soạn để
vào phiên chợ Tết (28 đến 30 tháng chạp), thanh toán các khoản nợ nần, làm nốt các
công việc đang dở dang, gởi quà biếu Tết đến thầy học, sui gia, họ hàng thân thuộc.
Ngày 30 tháng chạp, mọi nhà đều soạn lễ cúng đón ông bà. Việc chưng cúng ở bàn
thờ luôn thể hiện sự tươi mới, lâu bền, sung túc cho nên, hoa: thường có hoa mai
(may mắn), vạn thọ (sống lâu); trái: thường có mâm ngũ quả gồm sung (sung túc),
dừa (vừa), đu đủ (đủ) xoài (sài, tiêu xài), mãng cầu (thỏa mãn điều cầu mong)... Dưa
hấu được chọn chưng phải là dưa ruột đỏ thắm. Nếu ngày Tết dưa không đỏ gia đình
sẽ kém may mắn, cho nên các phiên chợ Tết thường có tục “bói dưa”. Đặc biệt, trên
bàn thờ ông bà, thường có một gói đường phổi, đường phèn, bánh tổ, bánh nổ đặt
trên trái dưa có dán giấy đỏ. Tục này có lẽ để tưởng nhớ xứ sở Trung bộ.
Lễ cúng đón ông bà thịnh soạn như một bữa giỗ. Tục xưa, còn có gia đình
gánh thức cúng (rất nhiều bánh trái, giấy vàng bạc) cúng đón ông bà tận ngõ. Trong
ngày 30 (nếu tháng thiếu thì ngày 29), mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây
tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu, cau, vôi; ở bên giỏ có treo giấy

5.2 Page 42

▲back to top


vàng bạc, gọi là “lên nêu” (1). Cây nêu được dựng như thế cho đến mồng 7 thì hạ.
Việc đòi nợ để sau ngày hạ nêu.
Lễ giao thừa có ý nghĩa thiêng liêng nhất trong các ngày Tết. Đó là lễ “tống
cựu nghênh tân” đúng vào lúc năm cũ bước qua năm mới. Người miền Bắc và người
Hoa gọi là lễ Trừ tịch, người Đồng Nai gọi nôm na là lễ đón giao thừa. Đúng vào
phút giao thừa, con vật nào lên tiếng trước người ta tin rằng tính khí của con vật ấy
chi phối cả năm mới. Lễ giao thừa, gia chủ lên đèn sáng trong sáng ngoài, mở toang
các cửa lớn nhỏ, đốt nhang khấn cúng; văn cúng ngắn gọn, nêu rõ năm tháng họ tên
gia chủ, kể tên các phẩm vật cúng, khấn các vị hành binh hành khiển mới và các vị
Thổ Địa, Táo quân, Thần độ mạng, ông bà... phù hộ cho toàn gia năm mới tăng phúc,
tăng thọ, an khang thịnh vượng. Cư dân Việt tin rằng mỗi năm có một vị hành binh,
hành khiển và 1 vị phán quan coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho
thần kia. Cho nên, người ta cúng Tết để tiễn ông cũ và đón ông mới; ví dụ, năm Bính
Tý, các vị hành khiển hành binh đương niên là: Châu Vương hành khiển, Thiên Ôn
hành binh, Lý Tào phán quan. Tết năm Sửu, các vị này sẽ bàn giao cho: Triệu Vương
hành khiển, Tam Thập Lục Thương hành binh, Khúc Tào phán quan.. cứ vậy đến
tròn một con giáp, bắt đầu trở lại từ năm Tý.
Ngày mồng một thực sự là ngày của năm mới. Trẻ con mặc đồ mới, mừng
tuổi người lớn, được lì xì tiền lẻ trong bao đỏ. Phải là tiền lẻ để có thể sinh sôi thành
chẵn. Tục xông đất cũng được thực hiện như phong tục phổ biến. Người nào vía tốt
đi xông đất người khác được mừng đón. Người nào tự thấy mình xui xẻo, nhiều rủi
ro hoặc không hạp thì tránh xông nhà người khác. Từ mồng một đến mồng ba, người
ta kiêng đổ rác, không dùng giếng nước, mạch nước, không động đất trong vườn,
không nghỉ qua đêm ở nhà người khác. Người xưa giữ lễ nghĩa: “Mồng một Tết nhà,
mồng hai Tết (nhà) vợ, mồng ba Tết thầy”. Từ khi rước ông bà cho đến hết ngày
mồng ba, mỗi ngày dọn mâm cúng ông bà hai lần, phụng sự chu tất như lúc ông bà
còn sống.
Mồng ba: (có nhà cúng mồng bốn) là ngày Tết vườn, Tết chuồng. Các loại
cây cối, chuồng heo chuồng gà, chuồng bò đều được dán vàng bạc hoặc giấy đỏ. Gia
chủ soạn một mâm cỗ gồm gà trống luộc để nguyên con, bánh tét, hoa, trái cây, rượu,
khấn cúng Thổ Công, Thổ Kỳ, Thổ Địa, Thổ Chủ phù hộ cho vườn đất, gia cầm, gia
súc được sung mãn, sinh sôi nảy nở ra tiền của. Con trâu là đầu cơ nghiệp nên được
chăm sóc kỹ nhất. Trâu được cỏ mới, được ăn một lát bánh tét; trâu đực được uống
một chén rượu, trâu cái được uống trà; sừng được dán vàng bạc; trẻ chăn trâu được
chủ lì xì nhiều tiền và bộ quần áo mới.
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 7.

5.3 Page 43

▲back to top


Tết là ngày vui chơi, nhất là đối với thanh niên, trẻ em. Các trò chơi gồm:
Đốt pháo (nay không còn), đánh đu tiên, đá gà, múa lân, lắc bầu cua, xuất hành, hái
lộc... Đó là những trò vui vẻ được người Đồng Nai ưa thích nhất.
Ngày mồng bốn cúng đưa ông bà. Lễ vật cúng như lúc đón. Theo tục cổ,
người phụ nữ gánh thức cúng và vàng mã đưa ông bà đến ngõ, có khi đến tận mả,
cúng và “hoá vàng” ở đấy. Một số gia đình cúng ông bà bằng cháo cá ám, dạng cháo
nấu bằng cá lóc để nguyên vẩy để tưởng nhớ thuở khai sơ của gia đình. Mồng bảy
lễ hạ nêu. Vì sao hạ nêu vào ngày mồng 7, người địa phương không giải thích
được, cứ theo tục cổ truyền và xem đó là dấu hiệu chấm dứt Tết Nguyên Đán. Lễ hạ
nêu đơn giản, lễ vật như cúng giỗ. Sau hạ nêu, mọi người bắt đầu công việc năm mới
của mình, người làm nghề nông thì “động cuốc cày”, thợ rừng thì khai sơn, học trò
thì khai bút, thương nhân thì đi buôn lấy ngày.
Tết giữa năm: Ngày mồng 5 tháng 5 cũng được xem là một ngày Tết, người
Đồng Nai gọi là Tết giữa năm, nhiều người gọi là Tết Đoan Ngọ. Nguồn gốc ý nghĩa
của Tết Đoan Ngọ đã có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng Tết Đoan Ngọ
nhằm kỷ niệm ngày mất của Khuất Nguyên. Ở Đồng Nai, ý nghĩa của ngày Tết giữa
năm được xác định rõ, đấy là thời điểm xong mùa cấy, vào mùa hoa trái, cây cối vạn
vật đều chuyển mình trong mùa mưa, côn trùng sinh sôi nảy nở gây nhiều bệnh cho
cây, cho người. Vào ngày này, người địa phương tổ chức ngày Tết mừng đón mùa
vụ mới đồng thời cầu cúng mong cho mưa thuận gió hòa, tránh được bệnh tật. Bởi
vậy, sinh hoạt trong Tết Đoan Ngọ xoay quanh hai ý nghĩa quan trọng: Đón mùa vụ
phòng chống bệnh.
Ngày Tết giữa năm, ở Đồng Nai hoa trái sớm đã có, đang độ tươi ngon nhất
trong năm. Người địa phương chọn hoa trái đầu mùa chưng cúng ông bà gồm những
: Bưởi, chuối, sầu riêng, dâu, măng cụt, mít tố nữ. Ngày mồng 5 tháng 5, có thể cúng
chay hoặc cúng mặn. Ngày này, người ta thường cúng vịt vì theo quan niệm dân
gian, vịt gắn liền với sự sinh sản. Nhiều gia đình lại cúng món cháo cá ám như ngày
Tết. Ngày Tết giữa năm có nhiều tục lạ, cốt là để thúc giục cây trái đâm hoa kết quả
và ngăn ngừa bệnh tật. Đáng chú ý là tục “khảo cây”; những cây nào đến tuổi mà
chưa ra trái ngày này gia chủ đem rựa ra dứ dứ đòi chặt, hoặc giả chặt một vài nhát
để người vợ trong nhà chạy ra van xin, như thế năm sau cây sẽ ra quả. Tết giữa năm
thực là ngày Tết giao mùa, ở đó con người cùng vạn vật sửa mình để bước vào cuộc
vận hành của mùa mưa giàu sản vật nhưng cũng đầy chướng khí.
Tết Trung thu theo tên gọi là ngày Tết giữa mùa thu lúc trăng sáng nhất trong
tháng (rằm) và trong năm (ngày của sao Thái âm). Nhiều người giải thích nguồn gốc
của Tết Trung thu bằng tích truyện vua Duệ Tôn đời Đường đi chơi ở cung trăng;

5.4 Page 44

▲back to top


các tục thi, rước đèn, cỗ bánh, trông trăng đều do đấy mà ra (1). Ở Đồng Nai Tết
Trung thu thực là ngày Tết của trẻ con. Phổ biến là trò rước đèn, rước cỗ bánh theo
lối của người Hoa. Người lớn chuẩn bị cỗ bánh (bánh trung thu) và lồng đèn bày sẵn
để trẻ con rồng rắn đến rước, vừa đi vừa hát các bài đồng dao vui vẻ. Có nơi, trẻ con
trong xóm họp thành đám, tổ chức múa lân, cũng có Ông Địa dẫn đường, cũng nhảy
múa diễn trò như lân của người lớn. Mặc dù mang hình thức của người Hoa, nhưng
cốt lõi của Tết Trung thu vẫn lấp lánh ý nghĩa lễ tiết cổ truyền của cư dân Việt cổ.
Trong tâm thức dân gian, rằm tháng tám là tháng của cốm mới, của lúa mùa đọng
sữa, của sự non tơ chớm trưởng thành ở vạn vật ứng với lứa tuổi nhi đồng của xã hội
loài người. Chăm sóc trẻ con là lễ thức mừng đón, cầu mong sự trưởng thành đang
trong dạng mới kết tinh. Ở Biên Hòa - Đồng Nai, có thể nhận ra ý nghĩa cốt lõi ấy
qua các tục cúng cơm rượu, làm mạch nha, cúng lúa trổ đòng đòng...
I. 3.2. Những ngày rằm:
Ngoài rằm tháng tám là Tết Trung thu, có ba ngày rằm quan trọng được
người Biên Hòa - Đồng Nai thực hiện lễ thức cầu cúng đặc biệt; đó là rằm tháng
giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười.
Rằm tháng giêng là ngày rằm đầu tiên của các ngày rằm trong năm, dân gian
tin là ngày Phật giáng nên tổ chức lễ trọng, lễ hội ở chùa và lễ cúng ở gia đình; “lễ
Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Cũng có cách giải thích rằm tháng
giêng theo sách vở của người Hoa nên còn gọi rằm tháng riêng là Tết Thượng
Nguyên, Tết Trạng Nguyên, Tết Nguyên Tiêu... nhưng dân gian Đồng Nai thiên về
ngày lễ đậm tính dân gian của Phật giáo.
Rằm tháng bảy là rằm “xá tội vong nhân” gắn với tích truyện Mục Kiền
Liên và Lễ Vu lan của Phật giáo. Dân gian tin rằng, ngày này vong nhân ở địa ngục
được xá tội, các gia đình ở dương thế làm cỗ bàn cúng ông bà, thể hiện sự tha thứ,
xóa tội đối với mọi lỗi lầm ở cõi âm cũng như cõi dương.
Rằm tháng mười nhằm vào lúc mùa vụ “cơm mới,” các đình làng chuẩn bị
cúng Kỳ yên. Rằm tháng mười ở Nam bộ nói chung ở Đồng Nai nói riêng có ý nghĩa
như Tết cơm mới của một số vùng thuộc đồng bằng Bắc bộ, nhưng nghi thức theo
Phật giáo, lễ cúng như rằm tháng giêng, rằm tháng bảy.
Vào những ngày rằm tháng giêng, tháng bảy, tháng mười, các chùa mở hội
lễ Phật, cúng cầu siêu, có thể có chay đàn ứng phú. Ngoài việc dự lễ chùa, người địa
phương còn có lễ cúng tại gia, cúng Phật, vào ngày 15 bằng lễ chay và cúng thí cô
hồn vào ngày 16 bằng lễ mặn. Đáng chú ý là lễ cúng thí. Lễ cúng thí nhằm cầu siêu
và thí của cho thập loại cô hồn mang ý nghĩa nhân văn. Lễ cúng thí luôn có món
bánh cúng, bánh cấp.
(1) Nếp Cũ - Tín ngưỡng Vit Nam, Toan Ánh, NXB TP HCM tái bn, 1995, trang 418 - 431.

5.5 Page 45

▲back to top


Với tục cầu siêu, cúng thí; các lễ cúng rằm của cư dân Việt ở Đồng Nai thể
hiện lòng nhân đạo qua nghĩa cử “chăm lo cho người khác” mang đậm sắc thái dân
tộc và màu sắc Phật giáo. Chính vì vậy nó được phổ biến và có sức sống lâu dài.
I.3.3. Những ngày vía:
Ngoài những ngày Tết, ngày rằm, người Biên Hòa - Đồng Nai còn có những
lễ thức cúng vía vào những ngày vía trọng trong năm. Người địa phương quan niệm
rằng thế giới con người chịu sự chi phối của “thế giới hữu linh”. Các thần thánh, và
hiện tượng thuộc thế giới hữu linh đều có những ngày quan trọng (thăng hoặc giáng,
tàng hoặc ẩn), đó là ngày vía, cần có lễ cúng để tưởng niệm. Ngoài các ngày vía gắn
với việc thờ cúng các vị thần bản gia, trong chu kỳ một năm, cư dân Việt ở Đồng
Nai thường có các lễ cúng vía vào các ngày tháng nhất định.
Mồng 8 tháng giêng cúng sao hội. Mỗi người đều có sao ứng mạng theo tử
vi và có lễ cúng sao giải hạn theo ngày tháng khác nhau; ngày 8 tháng giêng là ngày
cúng sao hội (ngày hội cúng sao) chung cho mọi người; có thể cúng ở chùa, thường
thì người địa phương dự cúng ở chùa lẫn tổ chức lễ cúng tại gia. Cúng sao hội vào
ban đêm, bày đồ cúng ngoài sân, lễ vật gồm nhang, đèn, hoa, trái, bánh, nước trong,
xôi, chè... có thể cúng mặn bằng bộ tam sên (gồm cua, trứng, thịt luộc). Không thể
thiếu 28 ngọn đèn cầy thắp sáng tượng trưng cho nhị thập bát tú. Lời khấn cúng có
nội dung mời gọi các vị Kim tinh (sao trời) phối hưởng, và độ mạng cho con người
được mạnh khỏe, bình yên, phát đạt trong năm.
Cúng vía Trời, vía Đất: Trời đất sinh vạn vật, nhưng chính trời đất cũng được
sản sinh. Theo quan niệm cổ truyền :
- Ngày mồng một sinh ra giống gà,
- Ngày mồng hai sinh thêm giống chó,
- Ngày mồng ba sinh thêm giống heo,
- Ngày mồng bốn sinh thêm giống dê,
- Ngày mồng năm sinh thêm trâu,
- Ngày mồng sáu sinh thêm ngựa,
- Ngày mồng bảy sinh ra loài người,
- Ngày mồng tám sinh ra ngũ cốc,
- Ngày mồng chín sinh ra Trời,
- Ngày mồng mười sinh ra Đất;
Có lẽ từ đó mà dân gian có tục “mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”.
Ngày mồng chín người địa phương sắm lễ cúng chính ở bàn trời (bàn thiên) nhằm

5.6 Page 46

▲back to top


cúng Thiên Hoàng. Ngày mồng mười, cúng lễ như hôm trước cúng vía Đất ở bàn
thờ Thổ Kỳ, Thổ Công, Thổ Địa. Lễ cúng vía Đất được giữ lệ vào mỗi ngày mồng
mười mỗi tháng từ tháng giêng cho đến tháng năm (âm lịch). Lễ vật có gì cúng nấy,
tùy tâm gia chủ, gọn nhất có nhang, đèn, hoa, trái, nước trong; sang nhất có thêm
xôi, chè, gà, vịt, đầu heo...
Vía Ngâu: Ngày 7 tháng 7 là vía Ngâu gắn với tích truyện Ngưu Lang -
Chức Nữ. Những ngày này ở Đồng Nai thường mưa dầm kéo dài 5 đến 7 ngày, sau
đó là hạn bà Chằn, thời điểm để dọn đất chuyển vụ rẫy. Vía Ngâu được cúng như
một lễ nhỏ cầu thời tiết thuận lợi cho mùa màng; lễ cúng đơn sơ, cách cúng cũng
như những ngày vía khác. Hiện nay, nhiều nhà đã bỏ qua ngày vía này.
* Vía Bà:
Vía Bà không nhằm vào một ngày nhất định, mỗi nhà cúng vía bà vào ngày
vía ứng với nữ thần độ mạng trong nhà. Vía các bà như sau :
- Linh sơn Thánh mẫu: rằm tháng giêng.
- Quan Âm Bồ tát: ngày 19 tháng 2 và 19 tháng 6.
- Bà Chúa Xứ : 24 tháng 4.
- Năm bà Ngũ Hành : mồng 5 tháng 5.
- Cửu Thiên Huyền Nữ : mồng 9 tháng 9...
Ngày vía Cửu Thiên Huyền Nữ còn là ngày Tết Trùng cửu của người Hoa.
* Cúng Tá thổ :
Còn gọi là cúng mượn đất, một tục cổ khá phổ biến ở Trung bộ, và Nam bộ.
Người Khánh Hòa gọi là cúng Khảo thổ hay Mãi thổ, từ Phú Yên trở vào gọi là
thổ. Trong quá trình khai hoang lập làng hình thành xứ Đàng Trong, cư dân Việt bắt
gặp vùng đất nào cũng có dấu vết của người bản xứ, từ đó hình thành suy nghĩ: Vùng
đất mình đang khai phá, đang ở vốn đã có chủ, cần có sự “thỏa thuận” với chủ cũ để
cho việc làm ăn mới thuận lợi, đỡ bị “phá phách”. Ngày cúng Tá thổ không xác định
cụ thể, tùy theo từng gia đình, thường trong tháng ba lúc bắt đầu mùa mưa, sắp động
đất để vào vụ gieo trồng. Lễ vật cúng Tá thổ bày dưới đất, gồm heo hoặc là heo thu
gọn còn thủ vĩ (đầu heo, móng và đuôi), chè, cháo, bánh ít, mắm nêm - rau luộc, có
5 hình nhân bằng giấy ngực quét vôi trắng được phân trấn giữ 5 phương. Cuộc cúng
do thầy pháp điều khiển, có đồng bóng tham gia.
I.4. TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG GẮN VỚI CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI:
Con người gắn bó với gia đình, gia đình không thể tách rời cộng đồng xã hội.
Cư dân Việt ở Đồng Nai do “tứ chiếng” hợp lại, gặp cảnh “xứ sở lạ lùng”, “chim
kêu vượn hú” càng có nhu cầu hợp quần, nương tựa, tương trợ nhau trong đời sống;

5.7 Page 47

▲back to top


từ đó hình thành tập quán, tín ngưỡng gắn với cộng đồng xã hội; phổ biến là những
sinh hoạt xoay quanh cái đình, cái miễu.
I.4.1. Đình và lễ hội cúng đình:
* Đặc điểm và quá trình hình thành:
Do đặc điểm hình thành cộng đồng cư dân Việt ở Đồng Nai, đình thần ở
Đồng Nai ra đời muộn, tuổi đời còn ngắn, không có lai lịch giàu thần tích như đình
ở miền Bắc, miền Trung. Nhưng so với vùng đồng bằng Nam bộ, đình ở Đồng Nai
thuộc dạng định hình sớm. Gọi là hình thành sớm ở đất Nam bộ nhưng đình thần ở
Đồng Nai không phải bắt nguồn đình trạm như xứ Bắc, cũng không phải được tái
hiện theo “nguyên mẫu” được mang theo trong hành trang di cư. Có lẽ, ý niệm về
“cái đình” của cố hương chưa được hiện thực hóa ngay khi lập làng, lập ấp ở Đồng
Nai, mà bắt đầu từ cái miễu, một trú sở của thần thánh nói chung phù hợp với qui
mô của làng và tài lực của người thời khai phá. Bằng chứng rất rõ là cho đến nay,
dân gian vẫn chưa thuận miệng với tên gọi “đình”, thậm chí biển đình mới trùng tu
vẫn còn giữ nguyên Hán tự là “cổ miếu”, như: Bình Xương cổ miếu, Cẩm Vinh cổ
miếu, Vĩnh Thị cổ miếu... Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức kể rõ các
di tích ở trấn Biên Hòa nhưng vẫn không thấy nêu tên một đình nào (1). Các bô lão
địa phương cho biết từ lúc triều đình Huế yêu cầu kê khai thần tích đình làng để xin
sắc phong thì tên gọi “đình” mới xuất hiện trong văn tự rồi quen dần trong khẩu ngữ.
Như vậy, trong thực tế, người địa phương phân biệt đình, đền, miễu chưa rạch ròi;
vẻ nguyên sơ của cái đình còn rõ nét.
Quá trình lập làng ở Đồng Nai với mô hình “thôn - ấp” là chủ yếu, làng ban
đầu rất nhỏ nhưng phát triển rất nhanh, phân lập không chừng, tổ chức hành chính
nhiều biến đổi, do đó “thân phận” của cái đình cũng thăng trầm, phân bố không đều,
làng cũ đình miễu dày đặc, làng mới thưa thớt. Theo kết quả khảo sát của Chi hội
Văn nghệ dân gian Đồng Nai năm 1997, toàn tỉnh có 141 đình, riêng thành phố Biên
Hòa có 34 đình ở 26 phường xã, nhưng các huyện Xuân Lộc, Tân Phú, Định Quán
lưa thưa vài đình nhỏ. Có xã hơn mười cái đình (xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu: 12
đình; xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa: 11 đình), có nơi hai ba xã chung một cái
đình.
Hầu hết đình làng ở Đồng Nai đã qua nhiều lần trùng tu. Thuở khai sơ, do
khống chế của triều đình nên nhà cửa, nơi thờ phượng của dân Nam bộ có giàu lắm
cũng không được lợp ngói (2); bởi vậy, đình miễu thảy đều quy mô nhỏ, lợp lá,
trường hợp lợp ngói âm dương rất hiếm. Từ thế kỷ 19, đình miễu được phép trùng
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 108 - 113.
(2) Đình Nam bộ - tín ngưỡng và nghi l, Hunh Ngc Trng - Trương Ngọc Tường - Hồ Tường, Nxb. TP H
Chí Minh, 1993, trang 24.

5.8 Page 48

▲back to top


tu, mở rộng quy mô. Những đình còn giữ được kiến trúc cổ nhất như đình Phú Mỹ
(Phú Hội), đình An Hòa (Bến Gỗ)... cũng từ giai đoạn này.
Đình, miễu, chợ, chùa là trung tâm văn hóa của người địa phương cho nên
thường được xây dựng gần nhau ở khu đông dân cư, nơi cao ráo, có phong cảnh đẹp,
có chòm cổ thụ vừa mát vừa oai linh. Phần lớn đình cổ gần sông và quay hướng ra
sông, đình trẻ hơn lập ở gần lộ và quay hướng ra lộ; hướng đình không lệ thuộc theo
hướng Nam và kiêng hướng Bắc.
Kiến trúc đình ở Đồng Nai thường theo kiểu nhà rường tứ trụ bằng vật liệu
tốt khai thác từ địa phương và bàn tay thợ đá, thợ gỗ, thợ gốm của Biên Hòa xưa,
tạo cho đình vẻ đẹp mang sắc thái địa phương. Đình Tân Lân ở Biên Hòa, đình An
Hòa ở Long Thành, đình Phú Mỹ ở Nhơn Trạch được xem là những đình sắc nét của
Đồng Nai. Việc bố trí trong đình cũng như các đình khác ở Nam bộ, chánh điện
có khám thờ Thành Hoàng bổn cảnh, hai bên là Tả ban, Hữu ban; phía trước là hai
dãy các bàn thờ các chư vị phối tự như: Bạch mã Thái giám, Nhạc sư, Tiên sư...
Trước mặt bàn thờ Thành Hoàng là bàn La liệt để bày lễ vật cúng; tiếp đó là bàn Hội
đồng. Tiếp theo bàn Hội đồng bàn Chánh bái, hai bên bàn Chánh bái là Tả hữu
bồi tế. Đối diện với chánh điện là Võ ca có mái che nối hoặc không nối với gian
chính; nếu không Võ ca thì cũng là khoảng sân rộng để có thể dựng rạp hát. Bên trái,
bên phải mặt trước đình thường có bàn thờ thần Nông, thần Hổ, Rái Cá...
Nhà hậu (sau đình) có gian thờ: Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền đại hương
chức, Hậu đại hương chức... Liền mái với nhà hậu là nhà khói dùng làm nơi nấu
nướng chuẩn bị cỗ cúng. Bố cục trong đình cơ bản là giống nhau nhưng tùy theo các
đối tượng thờ cúng trong đình mà các bàn cúng thờ vị này hay vị kia.
Khi triều Nguyễn sắc phong Thành Hoàng để kéo đình làng vào hệ chính
thống thì đình ở Đồng Nai trở thành cơ sở nằm giữa hai thiết chế: Chính thống
dân gian, nhưng nghiêng về phần tín ngưỡng dân gian hơn. Một mặt, về hình thức,
đình ở Đồng Nai tuân thủ những chuẩn mực nghiêm nhặt theo điển lệ, mặt khác về
mục đích tín ngưỡng nó mở rộng các sinh hoạt dân gian, thể hiện tính đa chức năng:
Vừa là trú sở của Thành Hoàng và nhiều vị thần khác, vừa là công sở hành chánh
của làng, đồng thời là nhà hát, tụ điểm văn hóa của địa phương. Sinh hoạt đình dung
nạp cả hệ thống thần linh của ba miền; của Phật giáo, người Hoa, người bản địa;
dung nạp cả các hoạt động văn hóa thể thao từ múa lân, cờ người, võ thuật đến xây
chầu, đại bội, hát bội, hát bóng rỗi; thậm chí cả ca nhạc tài tử. Nhiều đình ở Đồng
Nai xưa gần như mở cửa quanh năm, có đình không cần đến cửa.

5.9 Page 49

▲back to top


* Nhng vthn được phng th:
Cũng như đặc điểm chung của Nam bộ, đình ở Biên Hòa - Đồng Nai “thờ
hàng chục, có khi đến ba bốn chục vị thần, gồm có Thành Hoàng, Phúc Thần, Thần
linh và những danh nhân sanh tiền có công xây dựng, kiến thiết địa phương... rất
phức tạp” (1). Việc kê danh sách cho đầy đủ các vị thần đã được thờ trong đình ở
Đồng Nai đã khó, việc phân loại càng khó. Huỳnh Ngọc Trảng và các đồng tác giả
xét về nguồn gốc, tạm thời chia các vị thần ở thần điện Nam bộ làm hai nhóm:
+ Nhóm 1: Thành Hoàng và Phúc thần do những người đi khai hoang đem
từ quê hương cũ vào thờ.
+ Nhóm 2: Những vị thần linh theo tín ngưỡng dân gian.
Xét về cơ cấu, lại chia thành ba nhóm khác:
+ Tập hợp các thần linh thuộc đối tượng tín ngưỡng chính thống của đình.
+ Tập hợp các vị tiền bối hữu công của làng như Tiền hiền, Hậu hiền, các
anh hùng liệt sĩ, các tổ nghề: Tiên sư, Tổ hát bội, Tổ nhạc lễ.
+ Tập hợp các vị thần thuộc tín ngưỡng dân gian truyền thống
Cũng có thể phân loại bằng cách dựa theo hệ thống các vị được thờ hiển thị
(có bàn thờ tại đình) và các vị chỉ được gọi mời trong văn cúng. Ở Biên Hòa - Đồng
Nai, bài trí thờ trong đình thường đơn giản hơn, có khánh, bàn, miễu thờ khoảng 10
đến 13 vị, nhưng văn cúng còn gọi mời nhiều vị khác như đình Cẩm Vinh chẳng
hạn, mời gọi hơn 20 danh thần.
Đáng lưu ý ở Đồng Nai là tục thờ vọng Quốc tổ và các anh hùng dân tộc. Cư
dân Việt tuy xa quê hương nhưng không rời cội nguồn, tâm thức luôn hướng về
Quốc tổ. Đình, đền, Quốc tổ ra đời tuy muộn nhưng sớm trở thành trung tâm văn
hóa ở địa phương thu hút niềm tin của các lớp người. Đền Hùng Vương ở Biên Hòa
(xây dựng năm 1960), do giáo dân Công giáo lập và phụng thờ, trong điện thờ tượng
Hùng Vương thứ 18, có bàn thờ Bác Hồ như vị Hùng Vương thứ 19. Ngày lễ hội 10
- 3 âm lịch rất đông người trong và ngoài tỉnh đến dự tưởng niệm. Trước bàn thờ
Quốc tổ Hùng Vương có đủ thành phần già trẻ, gái trai, giáo dân, phật tử, cán bộ
cách mạng. Đây là biểu hiện vừa cổ truyền vừa hiện đại của truyền thống đại đoàn
kết toàn dân và nghĩa đồng bào ở người Việt Nam. Đền thờ Hùng Vương ở Tân Phú,
Long Khánh cũng có ý nghĩa tương tự. Lạc Long Quân - Âu Cơ cũng được thờ như
Quốc tổ ở nhiều nơi, cách thờ cúng đơn giản nhưng đầy ý nghĩa; điện thờ ở Dầu
(1) Đình Nam bộ - tín ngưỡng và nghi l, sđd, trang 35.

5.10 Page 50

▲back to top


Giây huyện Thống Nhất thờ 100 chiếc đũa và văn cúng bằng thơ song thất lục bát
có ý nghĩa như một lời tự giáo huấn.
Các anh hùng dân tộc: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Tri Phương; các danh nhân
có công với vùng đất Đồng Nai: Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Thượng Xuyên, Võ Tánh,
Nguyễn Huỳnh Đức, Chu Văn Tiếp... và những nghĩa sĩ chống Pháp: Trương Định,
Nguyễn Đức Ứng, Đoàn Văn Cự... cũng được phụng thờ như Thành Hoàng của làng.
Tục thờ Bác Hồ ở đình cũng là biểu hiện đáng chú ý. Tượng ảnh Bác thường được
thờ ở bàn Hội đồng hay vị trí của Tiên sư ở hậu điện, hoặc lập bàn thờ Bác ở chính
điện mỗi khi tiến hành cúng Kỳ yên. Đình Phú Mỹ (xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch)
đã ngầm thờ Bác Hồ bằng 3 bức hoành phi (chữ Hán) qua mắt được kẻ địch:
Hồ nhiên nhi thiên
Chí vọng thâm ân
Minh hoài hậu đức
* Lhi cúng đình :
Lễ hội cúng đình thể hiện phần hồn của đình. ở Nam bộ phần lễ trội hơn phần
hội. Do phối tự thờ nhiều vị thần trong đình, cho nên lịch lễ dày đặc lễ cúng quanh
năm, có thể chia thành hai loại: Tạp tế cúng kỳ yên.
Tạp tế là các lễ nhỏ vào các lễ tiết và ngày vía thánh thần trong năm, cúng
chứ không tế, và không mở hội, thường là do các hương chức, hội tề hoặc Ban tế tự
dâng cúng lễ vật rất đơn giản và lời khấn ngắn gọn. Không cần nghi thức và bài bản
quy định. Lịch của các lễ tạp tế như sau :
STT Ngày tháng (âm lịch)
01 25 tháng chạp
02 30 tháng chạp
03 1 - 3 Tết
04 7 tháng giêng
05 15 tháng giêng
06 15 tháng bảy
07 15 tháng mười
Tên lễ
Sắp ấn, đưa thần
Rước thần
Lễ Nguyên Đán
Khai sơn, giở ấn
Rằm tháng giêng
Rằm tháng bảy
Rằm tháng mười
Nội dung
Niêm ấn, nghỉ việc làm, đưa thần về trời.
Đón thần về ăn Tết
Tết thần, Lễ xuân
Hạ nêu, mở ấn cúng Sơn thần, Hổ thần,
động thổ.
Vía Thiên quan đại đế
Vía Địa quan đại đế
Vía Thủy quan đại đế

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


08 Ngày lập xuân
Lập xuân
(Tứ thời tiết lạp)
09 Ngày lập hạ
Lập hạ
10 Ngày lập thu
Lập thu
11 Ngày lập đông
Lập đông
12 5 tháng 5
Tết giữa năm
Tết giữa năm
13 15 tháng tám
Trung thu
Tết trẻ em
14 9 tháng chín
Trùng cửu
Đình người Hoa cúng
15 10 tháng mười
Tiên sư
Cúng cơm mới
16 (Tùy từng đình)
Tiên sư
Cúng các bậc thầy dạy nghề
17 (Tùy từng đình)
Vía Bà
Cúng vía các Bà thờ trong đình.
18 (Tùy từng đình)
Giỗ danh nhân
Cúng giỗ danh nhân được thờ
Các đình không nhất thiết giữ đúng lệ theo lịch lễ tiết nêu trên, tùy theo Ban
quý tế của từng đình mà thủ lễ, thêm hoặc bớt ngày cúng; có đình cúng đầy đủ các
ngày sóc, vọng; lễ Thượng điền, Hạ điền; cúng cô hồn, liệt sĩ; cúng mặn hoặc cả
chay lẫn mặn...
Lễ Kỳ yên là lễ chính của đình gọi là lễ vía thần nhưng thực là lễ hội nông
nghiệp để cầu an: Cầu cho quốc thái dân an, phong điều võ thuận. Mỗi đình định
ngày cúng Kỳ yên riêng, phổ biến là trong 3 tháng đầu năm hoặc 3 tháng cuối năm
âm lịch. Nghi thức cúng lễ Kỳ yên ở đình làng Nam bộ tuân theo điển lệ của triều
đình nên trình tự cúng tế của các đình căn bản giống nhau. Sách Gia Định Thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức có ghi vắn tắt về lễ cúng Kỳ yên của đình làng xưa
(1), xét đến nay, không khác mấy. Lễ hội thường diễn ra trong 3 ngày, gồm có 3 lễ
chính: Túc Yết, Đàn cả (Đoàn cả), Tiền hiền - Hậu hiền. Những nghi lễ khác như:
Rước sắc thần, Xây chầu - đại bội, Đưa khách (Tống phong)... là những lễ thức
phụng sự trong 3 lễ chính.
Trong lễ Kỳ yên, có sự quy định khá nghiêm nhặt về thành phần nhân sự
tham gia tế tự. Nếu các lễ cúng nhỏ tạp tế có thể do ông từ thực hiện thì việc tế tự
trong lễ Kỳ yên do Ban Tế tự đảm trách với sự phân công cụ thể và chuẩn bị chu
đáo. Những người trong Ban Tế tự được tuyển chọn, phân công phải là người cao
niên, có uy tín, có đạo đức, gia đình “tròn trịa” cuộc sống lành mạnh, như thế mới
(1) Gia Định Thành Thông chí, sđd, tập H, trang 10 - 11.

6.2 Page 52

▲back to top


“hài lòng” thần linh. Thành phần tham gia tế tự gồm: Chánh niệm hương (1 vị, danh
dự nhất, thường do Kế hào hoặc Trưởng ban Tế tự phụ trách); Chánh bái (1 vị, chủ
tế); Bồi bái (2 vị, thủ lễ ở 2 bàn cạnh Chánh bái); Đông hiến Tây hiến (2 vị, thủ
lễ ở Tả ban, Hữu ban); Chấp sự viên (4 vị, nhiệm vụ đánh trống lệnh, trống lớn,
chiêng, mõ); Thị lập (4 vị, đứng bên các bàn chính điện và tả hữu); Thầy lễ (điều
khiển chương trình, đọc văn cúng); Học trò lễ (lễ sinh, ít nhất 3 cặp: 2 cặp bưng đèn,
đài; 1 cặp cúc cung xướng lễ); Đào thài (2 đến 4 cặp, đi sau lễ sinh, quạt và hát);
Ban nhạc lễ (đầy đủ là 11 người chơi 11 loại nhạc cụ cổ truyền; thường là 4 hoặc 5
người chơi trống, kèn, não bạt...); Lính hầu (4 kép hát bội mặc võ phục đứng hầu);
Thủ từ (túc trực bàn thần để gõ chuông, xếp lễ vào bàn)... Mỗi vị đều mặc lễ phục
cổ truyền theo quy định, nhất nhất làm phận sự một cách trang trọng.
Lễ vật dâng cúng các bàn thần cúng thức mặn, gồm hoa, trái, nhang, đèn và
các món cúng mặn: Thịt luộc, rau, mắm, muối, các món xào, kho... ở bàn La liệt, tế
thần luôn phải có món xôi thịt sống. Xôi thực ra là cơm nếp được chọn nếp ngon
nhất, nấu khéo nhất, đơm đẹp nhất để tế thần. Xôi tế thần không có đậu (để tinh
nguyên); thường là mâm xôi được rước từ nhà Chánh bái hoặc nhà người danh giá
nhất làng. Xôi cúng ở các bàn khác có thể có đậu. Lúc chuẩn bị xôi cúng đình, gia
đình không được “lộn xộn”, tránh đứng che bóng mặt trời rọi vào mâm xôi; khi đưa
hoặc rước xôi đến đình, không được bưng gánh mà là khiêng, đội, để trân trọng,
không ô uế. Người địa phương tin rằng, mâm (dĩa) xôi của mình càng ngon, đơm
khéo thì càng được thần phù trợ. Những mâm xôi khéo được chọn càng để gần bàn
thần, chủ nhân của nó càng vui, càng nhiều hy vọng.
Thịt sống nhằm để thần hưởng sự tinh nguyên từ lòng thành. Làng nghèo lắm
mới cúng thịt sống không đủ bộ (thu gọn còn đầu, móng, đuôi gọi là thủ vĩ). Thường
thì heo tế phải nguyên con được cạo sạch lông để ở bàn La liệt, tư thế quỳ hướng
đầu về phía bàn thần, người địa phương gọi là heo chong. Trước kia, người ta chọn
heo đen tuyền, lý do chưa rõ, có người giải thích đó là heo bổn địa, thuần giống,
chưa lai tạp. Nay, hiếm heo đen, được chọn heo trắng nhưng kỵ heo lang. Làng giàu
có thể cúng bò, dê theo tục cổ. Heo tế phải qua lễ tỉnh sanh.
Lễ tỉnh sanh còn gọi là lễ thỉnh sanh thường thực hiện vào lúc 0 giờ đêm
Túc yết nhằm mục đích trình thần vật cúng tinh nguyên (con heo còn sống không
bệnh). Bởi vậy, heo được chọn mua cẩn thận, chăm sóc kỹ, được trói khiêng vào
trước bàn thờ thần chọc cho kêu to, heo kêu to là “thần vui”, heo không kêu hoặc
kêu nhỏ là điềm xấu. Lễ tỉnh sanh được cử hành long trọng: Có khởi chinh cổ, lễ
sinh bưng đèn, nhạc sinh cử nhạc, Chánh niệm hương hành lễ rửa mặt, quỳ lạy;
Chánh bái cùng Bồi tế thứ tự lạy thần rồi mới khai dao. Những giọt huyết đầu tiên
của heo được hứng vào chén, cạo bỏ vào chén thêm nhúm lông, bịt chén bằng giấy
vàng bạc đem cúng bàn thần gọi là mao huyết. Sau khi cúng, mao huyết được đem
chôn ở gốc cây lớn nhất gần đình (gọi là ế mao huyết) mong cho sự sinh sôi của đất.

6.3 Page 53

▲back to top


Những đình có thờ Phi vận tướng quân Nguyễn Phục thì kiêng (hèm) giết heo tại
bàn thần, chỉ dứ dao vào cổ rồi đưa đi nơi khác. Tục này ngầm ý tránh cảnh “đâm
chém” như thần Nguyễn Phục đã thọ nạn. Ngoài thịt sống, bàn La liệt tế thần còn có
những món cúng khác, thường có rau luộc - mắm nêm; đình có đông người Hoa đến
cúng có thể có heo quay. Đình thờ Võ Tánh ở Phước Tỉnh kiêng cúng thịt quay để
tránh nghĩ đến cảnh chết cháy; có đình kiêng cúng heo thiến để không phạm đến đời
riêng của đức ông Lê Văn Duyệt.
Lễ Túc Yết là lễ trực ra mắt thần trước khi vào lễ chính thức; thường tiến
hành trước ngày Đàn cả, bắt đầu vào buổi sáng hoặc buổi chiều tùy theo lệ mỗi đình.
Nghi thức lễ Túc Yết theo bài bản có sẵn, mọi đình đều làm theo.
Lễ Đàn cả do người địa phương đọc trại âm từ Đoàn cả mà ra, được tiến
hành ngày thứ hai của lễ hội; giờ hành lễ khi xưa thường bắt đầu vào lúc 0 giờ (giao
hòa âm dương); những đình làng gắn với sông nước thì chọn giờ con nước sớm
(nước đầy vào buổi sớm); nay thì chọn giờ thuận lợi trong ban ngày. Nghi thức lễ
Đoàn cả thực hiện như lễ Túc Yết, chỉ khác ở chỗ lễ sinh xướng: “Tạ thần” thay cho
“Nghinh thần” khi hành lễ tấn tước.
Lễ Tiền hiền - Hậu hiền nhằm tạ ơn các vị “Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền
khai cơ” và các bậc có công với làng, với đình. Tục xưa, lễ thường diễn ra trong
ngày thứ ba (sau Đàn cả), nay thường thu gọn trong ngày, sau lễ Đàn cả vài giờ.
Nghi thức đơn giản hơn lễ Túc Yết nhưng không kém phần long trọng.
Ngoài ra, một số đình còn tiến hành các nghi lễ khác như cúng Cô hồn (đình
Bình Hòa), lễ Thỉnh sắc, Hồi sắc (đình Cẩm Vinh, đình Thành Hưng), lễ Tống phong
còn gọi là lễ Đưa khách (đình Long Thọ, đình Nguyễn Tri Phương)... Lễ cúng Cô
hồn theo nghi thức phật giáo, thực hiện giữa lễ Đàn cả và lễ Tiền hiền - Hậu hiền
hoặc trong đêm sau lễ Túc Yết. Lễ thường có cúng thí thực, đốt ông Tiêu, phát chẩn
gạo muối. Lễ Thỉnh sắc hoặc lễ an vị sắc thần thực hiện trước lễ Túc Yết, và Đưa
sắc (nếu có lễ rước sắc) sau khi kết thúc hội đình. Lễ Tống phong nhằm mục đích
tống ôn dịch đuổi tà khí ra khỏi làng, thực hiện sau khi vãn chầu đại bội. Trước kia,
lễ Tống phong thường được tổ chức ở nhà vuông (nhà võ) của làng vào tháng hai
âm lịch, nay đưa vào nhập với lễ Kỳ Yên ở đình; lễ vật bày ở sân gồm thịt luộc, xôi,
gạo, mắm, vàng mã; có sự tham gia hành lễ của thầy pháp hoặc thầy chùa; sau khi
đốt văn cúng và vàng mã, lễ vật được đặt lên bè chuối hình thuyền có hình nhân binh
tướng đứng hầu, đưa ra sông thả trôi. Trẻ mục đồng (con cháu thần Nông) được
quyền vớt, ăn những thức ăn trên bè ấy. Trong lễ cúng đình, không quên dọn lễ vật
cúng ở miễu nhỏ bên ngoài. Đặc biệt, ở bàn thần Nông thường có khoanh thịt nọng
(vuông thịt ở cổ heo), và xôi bánh; cúng xong để cho trẻ mục đồng giành nhau; nếu
trẻ mục đồng không giành hoặc cuộc giành giật không giằng co thì là điềm xấu.

6.4 Page 54

▲back to top


Lễ xây chầu - đại bội - hát tuồng được thực hiện sau lễ Đoàn cả. Lễ này
không thuộc lịch lễ hàng năm, thường là đáo lệ 3 năm một lần, hoặc vào những năm
làng có sự vui hệ trọng (như trúng mùa, được sắc phong...).
Thực chất của lễ xây chầu là nghi thức đánh trống. Ông chấp sự cầm dùi
trống múa, hát, vẽ bùa trên đất, vẽ bùa mặt trống, điểm trống rồi đánh ba hồi dài
theo nhịp trước thưa sau nhặt gọi là “tiền bần hậu phú”. Tiếng trống tượng trưng
cho tiếng sấm, thể hiện niềm vui, nỗi mong “mưa thuận gió hòa” của cư dân nông
nghiệp. Tiếng trống xây chầu còn có ý nghĩa “Khai thông thái cực” theo quan niệm
biến dịch của Đạo giáo.
Khi tiếng trống xây chầu dứt, ông chấp sự gác roi chầu, nhạc lễ liền trỗi điệu
song hỉ còn gọi là rước chầu; rồi thì các đào kép hát bội xuất hiện ở sân khấu, bắt
đầu lễ Đại bội. Lễ xây chầu đã khai thông thái cực thì lễ đại bội tiếp tục hình tượng
hóa sự biến dịch theo quan niệm thái cực sinh lưỡng nghi, tam tài, tứ tượng, bát quái
qua diễn xuất của các diễn viên hát bội. Lời hát và vũ điệu của diễn viên khuôn phép,
mang ý nghĩa nghi lễ. Đại bội gồm các tiết mục như sau :
- Khai thiên thông địa: Một kép hát hóa trang thành ông Bàn Cổ cầm nhang
múa, điểm hương bốn phía, không hát, với ý nghĩa thái cực đang vận hành.
- Xang nhật nguyệt: Hai diễn viên, một nam, một nữ hóa trang tượng trưng
cho nhật, nguyệt. Nam mặt đỏ, cầm dĩa tròn bọc vải đỏ tượng trưng cho mặt trời
thuộc dương. Nữ mặt trắng, cầm dĩa tròn bọc vải trắng tượng trưng cho mặt trăng,
thuộc âm. Diễn viên nam nữ cùng múa biểu hiện sự giao hòa, tương sinh tương khắc
giữa âm - dương.
- Tam tài: còn gọi là Tam hiền, Tam đa gồm 3 diễn viên hóa trang thành ông
Phúc, ông Lộc, ông Thọ tượng trưng cho Thiên - Địa - Nhân. Ba ông cùng ra sắp
hàng ngang, không múa, lần lượt hát những câu chúc: Phúc - Lộc - Thọ.
- Tứ Thiên vương: Tượng trưng cho tứ tượng: Thái dương, Thái âm, Thiếu
dương, Thiếu âm do 4 diễn viên nam hóa trang giống nhau lần lượt xuất hiện rồi
cùng múa; cuối cùng cả bốn chụm lưng nhau giương 4 câu liễn :
- Thọ tỷ Nam san
- Thánh thọ vô cương
- Quốc thái dân an
- Phúc như Đông hải.
Bốn câu liễn được Ban Tế tự rước lấy, có thưởng tiền cho "Tứ vị Thiên
vương".

6.5 Page 55

▲back to top


- Lễ Đứng cái: Tượng trưng cho ngũ hành, gồm 1 diễn viên nam đứng tuổi
(cái); 4 diễn viên nữ trẻ hơn đứng 4 góc (con); Cái thuộc hành Thổ tên là Viên
(vườn), các con thuộc hành Mộc (áo xanh) tên Mai, hành Hỏa (áo đỏ) tên Lan, hành
Kim (áo trắng), hành Thủy (áo tím). Cái và 4 con xếp hàng hát thài những bài hát
mang nội dung ước mong quốc thịnh, dân cường, an khang, hạnh phúc.
- Bát tiên hiến thọ: Gồm 8 diễn viên hóa trang thành 8 vị tiên trong Bát tiên,
cầm các “bảo vật” tượng trưng cho các thức ăn trường sinh cùng hát các bài theo
điệu lối, khách; cuối cùng dâng phẩm vật cho Ban tế tự. Có khi được thưởng tiền
như Tứ Thiên vương.
- Lễ gia quan tấn tước: Là lễ phụ do một người đóng vai Linh quan (thường
dưới hình dạng ông Địa, vui tính) cầm quạt múa vui sau đó múa bút viết 1 câu liễn
Gia quan Tấn tước” (thăng quan tiến chức) giao cho Ban tế tự. Đấy là các tiết mục
đầy đủ của Đại bội nhưng không nhất thiết phải thực hiện tất cả. Chọn diễn một số
trong các tiết mục nêu trên còn gọi là “Tiểu bội”.
Sau Đại bội là tuồng hát bội. Hát bội ở Đồng Nai biểu lộ rõ hình thức nghi
lễ nhưng nhằm mục đích sâu xa là thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người địa phương.
Gọi là hát cho thần nhưng thực là cho người hưởng thụ. Bởi vậy, cuộc hát có thể kéo
dài nhiều ngày đêm, ngay cả khi hết lễ hội. Tuồng hát ở đình được chọn lựa cẩn thận,
tránh bi thương, chém giết; tuồng tích thường xoay quanh chủ đề: “Vua băng - Nịnh
tiếm - Bà thứ lên chùa - Chém nịnh - Định đô - Tôn vương - Tức vị”. Tuồng thường
được chọn nhiều nhất là San Hậu, một vở tuồng Tả quân Lê Văn Duyệt rất yêu thích
lúc sinh thời.
Lễ Tôn vương tiếp ngay sau cảnh quân vương tức vị của tuồng hát, thường
là tuồng San Hậu được chọn hát đêm cuối để Lễ Tôn vương liền sau. Khi tuồng đến
cảnh hoàng tử được trao ngôi vua, hoàng tử vào hậu trường thay vương phục, đào
kép xuống sân khấu chia hai hàng đứng trước bàn thần; hoàng tử nâng ấn kiếm trịnh
trọng đi đến bàn thần trao cho Chánh hội trưởng, Chánh hội trưởng cùng một phụ tá
nâng ấn kiếm đi giật lùi đến bàn thờ thần, cẩn trọng đặt vào long khánh. Lúc ấy,
người xướng lễ hô to “Phản tiền di hậu” kép hát quay mặt lại phía sân khấu; khi ấn
kiếm đã yên chỗ, người xướng hô to: “phản hậu di tiền” kép hát quay mặt về bàn
thần, đồng thanh hô :
Tôn vương tức vị
Nối dõi tiên hoàng
Chúc thọ tỷ Nam san
Phước như Đông hải
Vạn vạn tuế (3 lần).

6.6 Page 56

▲back to top


Tung hô xong, đào kép cùng lạy thần 3 lạy, rồi quay lại sân khấu diễn tiếp
màn chót hoàng tử lên ngôi. Lễ Tôn soái cũng được thực hiện như Lễ Tôn vương
trong trường hợp đoạn cuối tuồng hát nhân vật chính được phong tướng chứ không
phải được truyền ngôi báu.
I.4.2. Miễu và lễ hội cúng bà:
Theo tài liệu khảo sát năm 1997, ở Đồng Nai có 198 miễu các loại; như vậy,
miễu đa dạng và số lượng nhiều hơn đình. Đình gắn với cộng đồng làng thì miễu gắn
với đình, chùa, cụm dân cư, vườn nhà của gia đình, hương lộ, hương thôn; nhân vật
chính là mẫu.
Những năm 1960, Lương Văn Lựu ghi nhận: “Ngoài đình làng: Nhân dân
trong ấp thường dựng lên những “Thổ Chủ” (miễu nhỏ), dưới cội đa hoặc cây to
bóng mát, trên đường vắng, hay trong góc vườn để thờ Thổ Địa hay bà Chúa Tiên,
Chúa Xứ, Liễu Hạnh và tùy theo ngày kỷ niệm của mỗi vị mà hành cúng hàng năm
một cách thành kính” (1). Xét về hình thức, miễu ở Đồng Nai có mấy dạng chính:
- Miễu độc lập ở làng xã: Gắn với cụm dân cư trong làng ấp. Quy mô hơn
các dạng miễu khác, thờ “thánh thần”, những làng, xã chưa có đình đều có lập miễu;
dạng miễu này như là tiền thân của cái đình.
- Miễu ở đình, chùa: Là những miễu nhỏ ở khuôn viên đình, chùa; thường ở
phía trước, thờ các vị Thổ thần, Sơn thần (thần Hổ), Thánh mẫu, Chiến sĩ trận vong.
- Miễu ở đất vườn: Gắn với các khu đất vườn, đất rẫy, đất ruộng của gia
đình, thường thờ Bà và thần Đất; người địa phương còn gọi là Thổ Chủ.
- Miễu lẻ ven đường: Miễu do bá tánh lập lên ở ven đường, ven sông, hoặc
dưới bóng cây, gò đất cảm thấy là linh thiêng thờ Thổ thần hoặc cô hồn không nơi
nương tựa. Đa phần là miễu cô hồn.
Xét về đối tượng thờ cúng, nhận thấy thần điện của miễu đa tạp hơn đình,
chùa. Có thể phân thành các dạng chính :
- Thờ vong hồn linh ứng: Những người chết “bất đắc kỳ tử” đều được tin là
linh ứng, thường được thờ. Trong đó, các anh hùng, liệt sĩ hữu danh hoặc vô danh,
có công hoặc có nhân cách cao được người địa phương thờ trang trọng nhất (như
miễu Bình Hòa lập từ 1837 thờ 7 vị công thần chết trận trong binh biến Lê Văn Khôi,
miễu cô hồn ở Dốc Sỏi (Bình Hòa) thờ 9 nghĩa sĩ trại Lâm Trung chống Pháp bị
hành quyết...).
- Thờ các phúc thần: Thần Hổ, Rái Cá, Mãng Xà vương... là những linh vật
giáng họa nhưng cũng được thờ ở đình miễu và được đãi lễ như là phúc thần, dạng
(1) Biên Hòa sử lược, sách đã dẫn, trang 149.

6.7 Page 57

▲back to top


này không nhiều, có sự tích hợp nhiều yếu tố, như miễu thờ Rái Cá ở Hòa Quới (Cù
Lao Phố), đã hội nhập vào bàn thờ Lang lại đại tướng quân, miễu thờ rắn (Mãng xà
vương) ở Mỹ Lộc (Tân Uyên) đã đổi dạng thành thờ Ngũ Hành; miễu thờ thần Hổ
thì còn ít nhiều ở các đình, các làng còn đậm nét vùng sơn cước. Phổ biến là các
miễu thờ thần Đất dưới dạng Thổ Chủ, Thổ thần hoặc Ông Tà.
- Thánh mẫu: Đa phần miễu ở làng, ấp cũng như ở đình đều có thờ Thánh
mẫu, người địa phương quen gọi là thờ Bà. Các Thánh mẫu đã thâm nhập sâu vào
đình, chùa, gia đình; lại chiếm lĩnh hầu hết thần điện của các miễu, chứng tỏ tín
ngưỡng thờ nữ thần “sâu rễ bền gốc” trong tâm linh của cư dân Việt ở Đồng Nai.
Tục thờ cúng nữ thần gắn liền với cư dân Việt ở Đồng Nai từ buổi đầu mở
đất, đồng hành với quá trình phát triển của xã hội, có sự tích hợp nguồn gốc nhập cư
và nguồn gốc bản địa; có sự phát triển từ rời rạc vươn lên mang tính “đạo thờ mẫu”
rồi lại địa phương hóa các mẫu được phụng thờ. Ở đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức
đã chú ý đến đặc điểm này của đất Gia Định - Đồng Nai “...Nhiều người trung dõng
khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế, có nhiều giai nhân mỹ nữ,
mà trong hạng người giàu sang, trường thọ khôn khéo cũng có xuất hiện tên tuổi
của giới phụ nữ. Họ hay chuộng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần,
như: Bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (quen gọi người phụ nhân tôn quý bằng bà), bà
Hỏa tinh, bà Thủy Long, và Cô Hồng, Cô Hạnh... “ (1).
Khảo sát miễu Bà ở Đồng Nai, Bà được thờ là một tập hợp các nữ thần có
nguồn gốc và “lý lịch” khác nhau, được thờ cúng ở miễu tùy theo tâm niệm của mỗi
nơi:
- Bà Âu Cơ: Bà mẹ “thủy tổ” của dân tộc, theo cư dân Việt vào Đồng Nai
khá muộn, được lập miễu thờ vọng gắn với thờ Quốc tổ ở vùng đất mới khai phá sau
1954, thờ cúng đơn giản, lễ cúng chính vào ngày 10 - 3 âm lịch.
- Bà Ngũ Hành: Được thờ phổ biến nhất, đó là 5 vị nữ thần ứng với: Kim
Đức Thánh phi, Mộc Đức thánh phi, Thủy Đức thánh phi, Hỏa Đức thánh phi, Thổ
Đức thánh phi. Năm bà Ngũ Hành chỉ là ý niệm chung về các vị nữ thần có thiên
chức phù trợ cho việc sản sinh và phát triển; không có thần tích cụ thể; ngày vía
chính là 5 - 5 âm lịch. Ở những vùng nhiều hỏa hoạn, đông người Hoa, nhiều khi
Hỏa (Hỏa Đức thánh phi) được thờ riêng một miễu.
- Liễu Hạnh Công chúa: Nữ thần quen thuộc của cư dân Việt ở đồng bằng
Bắc bộ, một thành viên trong Tứ Phủ được thờ ở miễu Bà dưới chân núi Gia Lào
(thuộc địa bàn huyện Xuân Lộc), được cúng vía vào ngày rằm tháng 3 âm lịch.
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, trang 4.

6.8 Page 58

▲back to top


- Bà Chúa Thượng ngàn: Một nữ thần của cư dân đồng bằng Bắc bộ, của
Tam Tòa, Tứ Phủ theo cư dân Việt vào Đồng Nai khá sớm, còn dấu vết được thờ ở
nhiều nơi, dần dần bị lẩn khuất trong hào quang của các Bà Ngũ Hành, chỉ còn rải
rác một vài miễu thờ, như miễu thờ trong khuôn viên đình Thành Hưng (Biên Hòa).
Bà được phối hưởng trong lễ cúng đình, không còn cúng ngày vía riêng.
- Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương: Là biến thể của Thiên
Y A Na Diễn Ngọc Phi, mẹ xứ sở Po Inư Nagar của người Chăm; vừa được xem là
thần độ mạng cho phụ nữ tại gia, vừa là thần nữ phù trợ cho cộng đồng. Lệ cúng vào
ngày 3 tháng 3 (âm lịch) và các ngày rằm lớn.
- Chúa Xứ nương nương, Linh sơn Thánh mẫu: Cũng cùng một gốc với
Chúa Ngọc, Chúa Tiên nhưng có trú sở, lai lịch và thần tích riêng. Chúa Xứ được
giải thích có nguồn gốc ở Châu Đốc, điện thờ chính ở Núi Sam (Châu Đốc, An
Giang). Linh Sơn Thánh mẫu cũng vậy, tục gọi là Bà Đen, điện thờ chính ở núi Bà
Đen (Tây Ninh).
- Thiên Hậu Thánh mẫu: Có nơi còn thờ với tự hiệu là Thiên Phi nương
nương (như miễu ở đình An Hòa). Đây là vị nữ thần của người Hoa, họ Lâm gốc
Phúc Kiến, được người Hoa đưa vào Nam bộ, hòa nhập với thần thánh địa phương
trở thành một trong những vị thần bản địa. Vía Bà Thiên hậu ngày 23 - 3 âm lịch.
- Cửu Thiên Huyền Nữ: Vị thần mang ý niệm chung, người ta tin rằng Bà là
nữ thần quyền uy tối cao, cai quản cả chín tầng trời. Cửu Thiên Huyền Nữ là vị thần
độ mạng phụ nữ, đồng thời là vị thần khai sáng, dạy cho con người biết làm nhà hai
mái, biết làm mộc, đóng thuyền; Lộ Ban, Lộ Bốc, thờ Bà làm thầy. Bà được thờ
trong miễu khắp nơi, vía Bà ngày 9 - 9 trùng với ngày Cửu Trùng của người Hoa.
- Mẹ Thai sanh: Nguồn gốc là Kim Hoa Thánh mẫu của người Hoa, vị thần
trông nom về việc sinh nở. Người Đồng Nai thờ Mẹ Thai sanh với quan niệm là
“mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy”.
- Thủy Long Thần nữ: Gốc là một thần giếng, dần dần được quan niệm là
một thần cai quản sông nước, gọi chung là bà Thủy. Trong quan niệm dân gian hiện
nay, bà Thủy bao hàm cả chức phận của Hà Bá và có thể cũng là Thủy Đức Thánh
phi trong bộ Ngũ Hành, cho nên ngày vía cũng là ngày 5 - 5 âm lịch.
- Quan Âm Bồ tát: Vừa là Phật bà vừa là thần nữ. Người địa phương quan
niệm Quan Âm có họ hàng với các nữ thần, cùng chức năng cứu khổ, cứu nạn nhất
là cứu nạn trên biển. Cho nên, Quan Âm được kéo ra khỏi chùa, gắn với các miễu,
nhiều khi cũng được cúng đồ mặn như các nữ thần khác hoặc phối tự ở các miễu lẻ.
- Các nữ thần bổn địa: Vừa dung nạp những vị nữ thần nhập cư, người Biên
Hòa - Đồng Nai vừa có xu hướng gởi gấm niềm tin của mình ở những nữ thần tuy
không giàu thần tích nhưng gắn bó với mảnh đất mình đang sinh sống. Thị Vãi, một

6.9 Page 59

▲back to top


thôn nữ có tính cách khác thường, giàu lòng thương người được người địa phương
yêu mến lập miễu thờ, và tên miễu gắn liền với tên núi ở Long Thành - Bà Rịa.
bóng Hiên chuyên việc bói toán nhưng thực lòng, khẳng khái, được người địa
phương tin phục, lập miễu thờ ở Thiện Tân (Vĩnh Cửu), Ngày vía Cô 15 tháng 2 âm
lịch. Cô Lê Thị Hồng, một trinh nữ chết trôi có tấm lòng yêu đất yêu biển Long Hải
được ngư dân Long Hải thờ phụng ở Dinh Cô. Vía cô ngày 10 tháng 12 âm lịch.
Trịnh Hoài Đức có nhắc đến Cô Hồng, Cô Các trong Gia Định Thành thông
chí, nhưng kết quả điền dã chưa tìm được cơ sở thờ cúng các cô này ở Đồng Nai, chỉ
thấy có tên gọi trong văn cúng.
Việc bài trí điện thờ hết sức đơn giản, gồm bát nhang, bình bông, chén nước,
chân đèn; những ngày cúng thì: Nước trong, bông tươi, nhang thơm, đèn sáng; lễ vật
cúng có thêm bánh, trái, xôi, chè, thịt, thường là thịt vịt hoặc heo thu gọn thành thủ
vĩ. Nhiều nơi vật thờ còn có thêm: gương, lược, trâm cài, quạt và một vài món trang
sức khác của nữ giới. Những miễu độc lập thường có thêm Tả ban, Hữu ban; Nhị vị
công tử, Nhị vị công nương, Cậu Chài, Cậu Quới. Có miễu đầy đủ bàn thờ chư vị
như: Tiên sư, Thành Hoàng, thần Hổ, thần Nông, Chúa Tiên, Quan Âm Bồ tát như
miễu Ngũ Hành ở Cái Vạn (huyện Nhơn Trạch). Vì là thờ nữ thần cho nên, án thờ
dù nhỏ vẫn thường được trang hoàng sặc sỡ, có lọng che, rèm phủ. Câu đối xuất hiện
nhiều nhất ở miếu Bà:
Vạn cổ đào hoa chiêu Thánh nữ
Thiên thu vân tập hội Thần tiên.
Về tượng thờ các Bà, trước kia rất ít miễu có cốt tượng, thường thờ đơn giản
bằng chữ Hán vẽ trên tường hay dán trong khám thờ như: Ngũ Hành nương nương,
Chúa Ngọc nương nương, Chúa Xứ nương nương; gần đây phát triển thờ cốt tượng
bằng thạch cao, xi măng, gốm hoặc vẽ tranh lồng kiếng với lối sản xuất “hàng loạt”
cho nên các Bà đều đồng dạng, trang phục lộng lẫy như nhau, chỉ khác ở tên gọi
dành cho Bà này hay Bà kia. Riêng Bà Ngũ Hành là dễ nhận ra nhất với bộ cốt tượng
đủ 5 Bà trong 5 sắc áo khác nhau: Xanh, đỏ, tím, vàng, lục với quan niệm cổ truyền
rằng hành thổ màu vàng là trung tâm nên ngồi giữa.
Lễ hội cúng Bà ở mỗi miễu một khác, tùy vào ngày vía của mỗi Bà. Những
ngày sóc, vọng, ngày Tết, ngày vía đất, các miễu Bà được mở cửa cúng một lễ nhỏ
bằng nhang, đèn, bông, bánh trái. Ngày vía mới là lễ chính. Có nơi cúng thường niên
như nhau, có nơi đáo lệ 2, 3 năm một lần. Lễ cúng vía Bà thường vào ban đêm (thuộc
âm), do Ban tế tự của làng đứng cúng hoặc có khi do tổ chức Hội mẫu ở địa phương
làm chủ lễ. Miễu thuộc hệ dân dã nên nghi thức cúng Bà không đóng khung theo
khuôn phép điển lệ; cởi mở, sinh động hơn cúng đình. Tuy nhiên, nhiều địa phương
vẫn áp dụng nghi thức cúng đình trong cúng miễu.

6.10 Page 60

▲back to top


Lễ vật cúng đơn giản không nhất thiết phải heo sống, heo đen, xôi tinh khiết,
cũng không nhiều kiêng kỵ như cúng đình; bình thường thì: Heo quay, heo luộc,
mâm xôi, đèn nhang, vàng bạc, bánh trái; có thể cúng vịt; nghèo hơn thì cúng gà, xôi
chè, heo thu gọn thành thủ vĩ, vịt quay... nói chung là tùy tâm, tùy sức. Dân làng
thành tâm dâng cúng hoa, mâm vàng bạc, đồ trang sức.. đều được miễn là lòng thành.
Đêm trước ngày vía, có nơi đáo lệ hai ba năm hoặc năm năm một lần tiến
hành lễ thay áo cho Bà như lễ mộc dục phổ biến. Khi tiến hành lễ này, Chánh bái,
Bồi tế lên nhang đèn khấn vái xin phép Bà, rồi lui ra. Các phụ nữ “sạch mình” đã
chuẩn bị sẵn nước thơm (nước lá sả, hương nhu, bông bưởi), dùng khăn sạch nhúng
nước thơm lau khắp các tượng bà; khăn lau xong, vắt trả nước ra thau khác, cứ như
thế cho đến khi sạch rồi thay cho Bà áo mới, áo cũ và khăn lau không được dùng
việc khác, sau phải đốt.
Một số miễu lại có tục nghênh Ông ở đình về dự trước khi hành lễ chính;
nghênh Ông bằng kiệu có lỗ bộ, dàn nhạc, Lễ sinh và Chánh tế, Bồi tế đi hầu. Lễ
đón ở đình, lễ xong phải đưa về. Riêng lễ hội chùa Bà Thiên Hậu ở Thủ Dầu Một và
ở Bửu Long thì thực hiện theo nghi thức của Đạo giáo, với nhiều nghi thức phức tạp;
có đám rước Bà đi thăm Đình trước ngày lễ chính, có lễ phóng đăng, cúng thí, hát
bội, đặc biệt có lễ bắc cầu ngầm ý đón Bà từ biển vào. Lễ bắc cầu vào lúc 0 giờ, đêm
đầu tiên của lễ hội. Cầu là một tấm vải đỏ rộng khoảng 0,6 mét, nối dài từ hương án
bên ngoài sân vào chính điện. Cách khoảng 15 mét; trên tấm cầu đỏ rắc đầy hoa giấy,
vàng bạc. Ba vị Pháp sư tụng kinh cầu đón, lúc ngồi ở bàn lễ, lúc đi vòng quanh như
đón Bà; Khi Bà đã vào chính điện thì “cầu” được cuốn lại trân trọng để trước án thờ.
Lễ cúng Bà dịp tháng 3 năm 1995 ở chùa Thiên Hậu (Bửu Long), là lễ hội kéo dài 3
ngày do các Pháp sư chuyên nghiệp cùng với dàn nhạc lễ chuyên trách thực hiện với
một hệ thống tiết mục nghi lễ nhiều đến mức đa tạp. Lễ cúng Bà Thiên Hậu như đã
nêu là một hiện tượng riêng biệt, đáng suy nghĩ. Thông thường ở các miễu khác nghi
thức hành lễ giản dị; dân dã hơn. Dự phần vào lễ hội cúng Bà phổ biến là Hát bóng
rỗi, Chặp Địa - Nàng; một loại hình nghệ thuật truyền thống phổ biến ở Biên Hòa -
Đồng Nai.
Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng vừa mang tính nghi lễ (để cúng) vừa để giải
trí, vui chơi trong lễ hội; đó là hình thức diễn xướng tổng hợp, gồm nhiều tiết mục
liên hoàn; đồng thời cũng có thể phân chia thành các tổ hợp tiết mục tùy chọn. Một
chương trình đầy đủ của Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng, gồm 8 tiết mục chính, trong
đó mỗi tiết mục có thể phân nhỏ, hoặc kéo dài nội dung sinh hoạt. Tiến trình của các
tiết mục cũng có thể thay đổi thứ tự hoặc cấu thành nhiều chương trình khác nhau:
1. Lễ khai tràng, 2. Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Mời tiên ra tuồng; 4. Phước lộc, 5. Trạng
- Nàng xuống huê viên, 6, 7. Bóng múa, 8. Hát chặp.

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Hát bóng rỗi, Địa - Nàng ở Đồng Nai thường gồm các tiết mục: 1. Khai tràng,
2. Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Chặp Địa - Nàng, 4. Hát bóng rỗi.
Mở đầu cuộc hát luôn là Lễ Khai tràng nhằm mục đích khai mạc cuộc hát,
do dàn nhạc bóng biểu diễn, gồm: Chiêng, trống, đàn nhị, kèn, sanh cái. Tiếp theo
là các xấp hát Chầu mời - thỉnh tổ: Mời Bà, mời ông, mời tiên, mời các chiến sĩ về
dự lễ; mỗi đối tượng có các bài hát phù hợp, các bóng có trí nhớ tốt và tài ứng tác
nhanh, không cần hát hay cũng được tán thưởng. Thường thì các bóng cầm trống
tum (trống con) gõ nhịp, thay nhau hát. Điệu hát vận dụng cả lý, vè, nói rỗi (nói lối)
nhiều khi cả các làn điệu tuồng.
Sau Hát chầu là diễn Chặp Địa - Nàng. Chặp Địa - Nàng là chặp bóng - tuồng
hài hước “tổng hợp kiểu cách diễn của bóng rỗi lẫn tuồng (hát bội)” thường gắn với
lễ cúng miễu Bà hoặc miễu Thổ Địa. Cuộc hát chỉ có hai nhân vật (Địa và Nàng)
theo cốt truyện đơn giản: Tiên nữ Hằng Nga vâng lệnh Tây Vương mẫu xuống trần
để hái lộc cầu an cho dân chúng, nhờ Thổ Địa (Địa) dẫn đi đến huê viên để “khai
mạch giếng tưới cây huê”. Địa được dịp làm khó, vòi vĩnh, đùa giỡn với tiên nữ. Lối
diễn vừa theo bài bản vừa ứng tác; hát, nói, kể kết hợp với nhạc và vũ đạo tuồng;
các bài hát chắt lọc từ tuồng và các làn điệu dân ca quen thuộc; hóa trang cũng theo
phong cách tuồng hài...; ứng đối giữa Địa và Nàng vui nhộn, dẫn dắt câu chuyện tài
tình khiến cho cốt truyện đơn giản trở nên thú vị. Các đoạn: Địa đòi ăn, Địa đau đẻ,
Địa chấm chè.. làm nở rộ tiếng cười sảng khoái. Tính cách của Địa không chỉ vui
vẻ, còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Với một manh chiếu trước điện Bà, xung quanh
là dân làng không phân thứ bậc, Địa bộc lộ hết mình, đùa giỡn với Tiên nữ, châm
biếm cả chư Tiên, chư Phật; Địa còn mang ý nghĩa đại diện cho khát vọng thịnh
vượng, bình đẳng, có tính nhân bản của dân làng. Chặp Địa - Nàng vừa dứt, bóng
múa liền tiếp theo.
Bóng múa vừa mang tính nghi lễ vừa nhằm mục đích giải trí. Các bóng thay
nhau múa bông, múa dâng mâm vàng rồi tiếp theo là các tiết mục tạp kỹ. Múa bông
nhằm dâng cúng bông như để mở đầu cuộc múa bóng; với chén (hoặc tô) bông trên
đầu, các bóng múa xoay người, xoay vòng trước điện thờ rồi dừng để cho người thủ
từ nâng chén bông đặt lên bàn thờ Bà. Dâng bông 3 lần rồi đến dâng mâm vàng.
Chiếc mâm được trang trí bằng giấy ngũ sắc thành hình tháp (có lẽ mô phỏng tháp
Chàm). Mâm vàng được đội đầu, nâng, lật trên tay; trên trán, tự nhích từ chân lên
đầu; cuối cùng được đốt cháy. Tháp giấy trên mâm cháy xong là dứt múa dâng mâm
vàng, các bóng (vốn ái nam ái nữ) chuyển sang các màn trình diễn đặc sắc, với tài
nghệ tạp kỹ như xiếc: Múa ghế, múa khạp da bò, múa bông huệ, múa xe đạp, múa
dao, múa xoay đĩa, rót rượu bằng đầu... chủ yếu là các kỹ thuật dùng đầu, trán, mũi,
nhân trung nâng giữ vật nặng, vật phức tạp tạo thăng bằng và di chuyển trong vũ
điệu theo nhạc lúc mau lúc chậm.

7.2 Page 62

▲back to top


Với cách biểu diễn như thế, dễ dàng nhận ra nguồn gốc Chăm của múa bóng
với vũ điệu dựa vào kỹ năng đội đầu. Điều này đã được Huỳnh Ngọc Trảng chứng
minh qua phim tài liệu “Múa mâm vàng, cội nguồn và dung mạo” do Hãng phim Tư
liệu sản xuất năm 1992. Trước đó nữa, Quách Tấn đã chỉ ra được lò đào tạo các bóng
múa là xóm Bóng ở trước Tháp Bà, “nhưng lệ múa bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời
Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến“.
Người Nam bộ thường có câu hát luyến tiếc:
Ai về xóm Bóng thăm nhà
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn không?
Các tiết mục múa trò chơi, gọi là múa tạp kỹ dài - ngắn, nhiều - ít tùy theo
không khí cuộc vui; dân làng thưởng nhiều thì sự hào hứng khiến các bóng múa hay,
khéo, tận tình hơn, và ngược lại.
Các nữ thần được thờ tại miễu ở Đồng Nai phần lớn có nguồn gốc nữ thần
biển, đánh dấu một hồi ức gắn với chặng đường gian lao hình thành các cộng đồng
cư dân Việt ở Đồng Nai. Với một tập hợp nữ thần phức hệ như thế, Đồng Nai như
là điểm hội tụ đồng thời cũng là nơi khuếch tán các hệ tín ngưỡng thờ nữ thần của
miền Bắc, miền Trung, miền Tây, người Hoa và bổn địa. Tục thờ cúng nữ thần cũng
cho thấy, cư dân Việt ở địa phương ít nhất cũng tìm được biểu tượng có ý nghĩa nhân
bản hơn tư tưởng Nho giáo vốn xem thường phụ nữ.
Tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc bản địa có nhiều nét khác cư dân Việt,
Hoa. Người Châu Mạ thờ thần Yang Nđu tối cao, cúng Yang Bri (thần rừng) vào mùa
săn bắn; cúng Yang Hiu (thần nhà) cầu cho gia đình bình yên; quan trọng nhất là lễ
cúng Yang Bơnơm (thần núi) và Yang Koi (thần lúa) với sinh hoạt cổ truyền của cộng
đồng. Người Mạ không coi trọng trinh tiết, trai gái Mạ tự do tìm hiểu kết bạn, con
cô con cậu có thể kết hôn; đám hỏi, đám cưới có già làng làm mai dong; sau cưới
chú rể ở bên nhà gái sau đó mới ra riêng; luật tục truyền khẩu "nđrih" được thực
hiện nghiêm, tội ngoại tình, chửa hoang bị phạt nặng. Khi có người chết, người làng
làm lễ cúng Yang Bri xin cây đục làm hòm; hòm đưa vào nhà dài qua cửa lớn; xưa
để lâu ngày mới chôn, người chết được chia của; thầy chang cúng tế theo nghi thức
cổ, làng có đám tang kiêng cữ đi rừng 7 ngày; sau ba năm có lễ bỏ mả như phong
tục các dân tộc Tây Nguyên.
Người Stiêng, Châu Ro có tập quán, tín ngưỡng tương tự người Châu Mạ,
khác nhau ở tiểu tiết và tiếng nói, giống nhau ở quan niệm cổ truyền của cư dân cùng
địa bàn cư trú Nam Trường Sơn.
II. TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO:
II.1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở ĐỒNG NAI:

7.3 Page 63

▲back to top


Đồng Nai từ lâu đời là một địa bàn sinh tụ và cư trú của nhiều dân tộc với
các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, có sự giao lưu và ảnh hưởng tôn giáo lẫn nhau.
Vào khai hoang lập ấp ở Đồng Nai, người Việt đã trải qua nhiều giai đoạn,
nhiều chặng đường (10[4]). Ngoài văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo truyền thống được
mang theo vào vùng đất mới, người Việt đã tiếp nhận có chọn lọc các yếu tố văn
hóa, tín ngưỡng tôn giáo của các cộng đồng cư dân mà họ cùng sinh sống. Khi người
phương Tây vào truyền giáo, họ lại tiếp nhận văn hóa Ki tô giáo. Do điều kiện lịch
sử, địa lý nhân văn nên tín ngưỡng tôn giáo Đồng Nai không mang tính cổ điển mà
được hỗn dung nhiều nguồn, nhiều phía tạo nên sắc thái riêng. Dù theo tôn giáo này
hay tôn giáo khác thì truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ những người có công
với dân, với nước, nhớ ơn nghĩa người xưa theo đạo lý "uống nước nhớ nguồn" vẫn
là truyền thống phổ biến nhất, sâu rộng nhất.
Hiện nay Đồng Nai là một địa bàn đa tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành, Cao đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Trong đó, Công giáo và Phật giáo là hai tôn
giáo có số lượng tín đồ đông nhất. (11[5])
II.2. CÁC TÔN GIÁO Ở ĐỒNG NAI:
II.2.1. Phật giáo:
a) Tổng quan về Phật giáo Đồng Nai:
Đồng Nai là địa bàn Phật giáo đã được truyền vào từ xa xưa trong lịch sử và
đã từng là một trong những cái nôi của Phật giáo Đàng Trong thời các chúa, các
vua nhà Nguyễn, có ảnh hưởng không những đối với Phật giáo ở Nam bộ mà còn
ảnh hưởng cả đến Phật giáo ở miền Trung. Nhiều nhà sư nối tiếp ở Đàng Trong đã
từng tu hành, hoằng hóa ở Đồng Nai và có nhiều đệ tử nổi danh khác đi hoằng hóa
ở các nơi. Đồng Nai có nhiều ngôi chùa cổ kính, trong đó có ba ngôi đã được xếp
hạng di tích lịch sử văn hóa là chùa Long Thiền, chùa Đại Giác, chùa Bửu Phong.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, phật tử ở các nơi, nhất là ở
miền Trung về Đồng Nai làm ăn sinh sống, tăng ni ở các nơi về Đồng Nai tu hành
làm cho Phật giáo Đồng Nai có bước phát triển mới. Hơn 20 năm qua, số tăng ni gấp
ba lần sau giải phóng. Toàn tỉnh chỉ có 419.286 tín đồ nhưng đã có 2.250 tăng ni,
trong đó có 4 hòa thượng, 38 thượng tọa và 12 ni sư. Trong thời gian ngắn từ năm
1980 đến nay đã có hơn 100 chùa, tu viện... được trùng tu, xây dựng mới, đưa số cơ
sở thờ tự ở Đồng Nai là 448. Nhiều chùa, thiền viện, tịnh xá được xây dựng mới
(10[4]) Theo Đại Nam nht thng chí Phbiên tp lc của Lê Quý Đôn.
(11[5]) Công giáo: 718.255 tín đồ, Phật giáo: 419.268 tín đồ, Cao Đài: 9.652 tín đồ, Hồi giáo: 1.709 tín đồ, Hòa
Hảo: 210 tín đồ... (thng kê tháng 5 - 1997)

7.4 Page 64

▲back to top


khang trang và hiện đại, được kiến trúc và trang trí khác nhau theo từng hệ phái càng
tô điểm thêm cho sự phong phú, nhiều màu sắc của Phật giáo Đồng Nai.
Phật giáo Đồng Nai có nhiều tông môn, hệ phái cả Bắc tông và Nam tông,
bao gồm: Cổ truyền, Phật giáo Việt Nam thống nhất, Thiền tông, Khất sĩ, Tịnh Độ
ng, Nam tông Theravada, Phật giáo Khơ - me... Nhưng Thiền tông nhập thế hòa
nhập với tín ngưỡng dân gian truyền thống là chủ yếu, có ảnh hưởng sâu rộng trong
dân gian, không chỉ có ảnh hưởng trong phật tử mà còn có ảnh hưởng cả trong những
người theo đạo thờ cúng ông bà tổ tiên... theo quan niệm Thần, Phật ở bên cạnh con
người để "hộ quốc an dân".
b) Tiến trình phát triển qua các thời kỳ:
+ Sự hình thành và phát triển từ đầu đến trước thời kỳ Pháp thuộc:
Phật giáo được truyền vào Đồng Nai theo nhiều hướng khác nhau, nhiều thời
điểm khác nhau. Buổi đầu trực tiếp từ Ấn Độ, các nhà sư và phật tử theo thuyền
buôn bằng đường biển đến các nước vùng Đông Nam Á và Viễn Đông truyền giáo.
Những tài liệu khảo cổ tìm thấy ở Đồng Nai chứng tỏ ngay thời kỳ trước và sau công
nguyên, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở Ấn Độ đã có ảnh hưởng đến vùng đất này,
trong đó có văn hóa, tín ngưỡng Phật giáo.
Ngay thời kỳ nhà Trần (1225 - 1400) với việc di dân vào phía Nam, tín
ngưỡng Phật giáo cũng được mang theo vào vùng đất mới. Khi nhà Minh xâm chiếm
nước ta, Lê Lợi khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược dựng lên triều đại nhà
Lê (1428 - 1527), phái thiền Trúc Lâm do các vua nhà Trần lập cũng bị nghi kỵ. Vì
vậy, một số hoàng tộc nhà Trần và các thiền sư Trúc lâm đã phải lẩn trốn qua Chiêm
Thành, Chân Lạp vào tận vùng lưu vực sông Đồng Nai. Họ ẩn tu, che giấu tên tuổi,
tông tích nên tài liệu về sự truyền thừa của phái Trúc Lâm ở Đồng Nai chưa xác định
được rõ ràng. Chỉ biết rằng vào khoảng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII số người
Việt vào sinh sống ở Đồng Nai đã nhiều. Người Việt vào khai hoang lập ấp đến đâu
thì tín ngưỡng Phật giáo được loan truyền đến đó. Cho nên "buổi khai nguyên các
chúa Nguyễn thì tinh thần Phật giáo đã theo cuộc di dân nhiều đợt định cư trước đó
lan rộng rồi" (12[6]). Về sau các phái thiền Trung Quốc truyền vào đều chịu sự ảnh
hưởng của phái thiền Trúc Lâm đã có trước ở đây.
Năm 1630 khi cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành nổ ra và sau đó nhà Thanh
đánh bại nhà Minh chiếm trọn Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc không thần
phục nhà Thanh đã bỏ nước mà đi. Trong số người di cư tị nạn và xin vào lập nghiệp
ở Đàng Trong có cả các nhà sư Phật giáo. Vào Biên Hòa - Đồng Nai, các nhà sư
Trung Quốc được phật tử mời đến trụ trì các chùa do họ đã tạo dựng trước đó, hoặc
(12[6]) Vãn Thanh: Lược kho Pht giáo sVit Nam, Nxb Pht hc vin, Sài Gòn 1974, tr. 148.

7.5 Page 65

▲back to top


tự cất chùa, am để tu hành và hoằng hóa như: chùa Long Thiền, chùa Bửu Phong,
chùa Đại Giác... (thành phố Biên Hòa), chùa Châu Thới (nay thuộc Bình Dương)...
Năm Kỷ Mùi (1679), các tướng lưu vong nhà Minh đem theo quân vào Đàng
Trong thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho họ quan chức và cho họ khai khẩn
vùng Mỹ Tho, Biên Hòa. Tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An
Bình vào Biên Hòa khai khẩn Cù Lao Phố, còn gọi là Đại phố Nông Nại (theo phát
âm của người Hoa, nay thuộc xã Hiệp Hòa - Biên Hòa); chùa Thanh Lương là một
trong các chùa được xây dựng trong thời gian này, hiện nay còn long vị và tượng
Trần Thượng Xuyên.
Khác với các tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam đã xuất bản trước đây, những
tài liệu và hiện vật mới phát hiện ở Đồng Nai gần đây cho thấy vào khoảng năm
1692 - 1695, sau những biến cố chính trị và cuộc nổi loạn ở Quảng Nam và Quy
Nhơn vì bị nghi có liên quan, thiền sư Nguyên Thiều vị tổ sơ của phái thiền Lâm Tế
Đàng Trong và một số đệ tử lập chùa Kim Cang ở ấp Bình Thảo, trấn Biên Hòa (nay
là xã Tân Bình, Vĩnh Cửu). Thời đó, chợ Bình Thảo là một giang cảng lớn và thịnh
vượng, có đông thương khách, có hàng hóa trong nước và có cả hàng hóa ngoại
quốc(13[7]).
Việc phát hiện tháp mộ của thiền sư Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang và long
vị hòa thượng Minh Vật Nhất Tri ở chùa Kim Long (14[8]) đã mở đường cho việc
sưu tầm công tích hoằng hóa của thiền sư Nguyên Thiều và các đệ tử của thiền sư ở
Biên Hòa - Đồng Nai. Thiền sư Nguyên Thiều đã truyền thừa cho nhiều đệ tử nổi
danh như thiền sư Minh Vật Nhất Tri sau trụ trì chùa Kim Cang, thiền sư Thành
Đẳng Minh Lương trụ trì chùa Đại Giác, thiền sư Thành Nhạc Ẩn Sơn trụ trì chùa
Long Thiền, thiền sư Thành Trí Pháp Thông trụ trì chùa Bửu Phong v.v... Các đệ tử
thiền sư Nguyên Thiều ở Biên Hòa - Đồng Nai lại có nhiều đệ tử và pháp tôn nổi
tiếng mở rộng phạm vi hoằng hóa ở Đồng Nai - Gia Định và lan rộng ra ở Mỹ Tho,
Định Tường, Châu Đốc... còn truyền thừa cho đến ngày nay ở Nam bộ.
Trong thời các chúa Nguyễn, ở Biên Hòa - Đồng Nai có hai ngôi chùa được
sắc tứ là chùa Vạn An ở thôn Phước An (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu) và chùa Hộ
Quốc ở thôn Đắc Phước, huyện Phước Chánh (nay là Tân Vạn - Biên Hòa). Ngoài
phái thiền Lâm Tế, ở Biên Hòa - Đồng Nai còn có sự truyền thừa của phái thiền Tào
Động. Các tài liệu Phật giáo Việt Nam trước đây đều nói "Tông Tào Động do sư
(13[7]) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thông chí viết: "ChBến Cá hay chBình Tho tổng Phưóc Chánh, trấn Biên
Hòa thương khách tụ hi tin cả đường thủy, đường b, ngoi hóa, thsn cùng gia hào mvị ở sông rch và núi
non không thiếu vt gì, là mt chmin núi rất đông đảo".
(14[8]) Chùa Kim Long là chùa Kim Cang được xây dng li cách vị trí cũ khoảng 500 m sau khi chùa Kim Cang b
đốt cháy thi chống Pháp năm 1946. Hiện vẫn chưa xác định được tháp mca thiền sư Nguyên Thiều ở đây là tháp
tht hay tháp vng.

7.6 Page 66

▲back to top


(hòa thượng) Thạch Liêm truyền vào Việt Nam về phái xuất gia không thấy nói đến
người thừa kế". Nhưng ở Biên Hòa đã xác định được tháp mộ của thiền sư Pháp
Thông Thiện Hỷ mới biết thiền sư thuộc phái Tào Động thế hệ 36, người khai sơn
chùa Long Ẩn vào năm Ất Sửu (có thể là năm 1733 hay 1793); chùa thuộc làng Tân
Lại, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa).
Trong thời kỳ Nho giáo độc tôn dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX), "chính sách
của triều Nguyễn nói chung hạn chế sự phát triển của Phật giáo. Triều đình tăng
cường quản lý số sư tăng, bắt họ tham gia công tác xã hội, chủ trương thu hẹp ảnh
hưởng của nhà chùa đối với người dân, quy định ngặt nghèo nhằm giảm bớt việc xây
chùa, tô tượng, đúc chuông và người theo đạo Phật" (15[9]). Triều đình cho rằng để
Phật giáo phát triển sẽ làm hại cho lễ giáo phong kiến, ảnh hưởng đến việc thực hiện
các giáo điều Nho giáo. Nhưng trong lịch sử phát triển của mình, Phật giáo ở Biên
Hòa - Đồng Nai thời này không những không bị hạn chế mà còn phát triển. Các ngôi
chùa cổ kính danh tiếng ở Biên Hòa - Đồng Nai đều được xây dựng trong thời chúa
Nguyễn. Nhiều nhà sư tu hành, hoằng hóa ở Biên Hòa - Đồng Nai trở thành các nhà
sư tiêu biểu của Phật giáo Đàng Trong. Đó là vì Phật giáo với tính chất từ bi, bình
đẳng, nêu cao cứu khổ cứu nạn cho con người nên đã được người Biên Hòa - Đồng
Nai tiếp thu một cách sâu rộng, Phật giáo đã trở thành một mảng văn hóa đậm nét
trong văn hóa truyền thống ở địa phương, và vì trong thời gian chống Tây Sơn,
Nguyễn Ánh và hoàng gia đã nhiều lần lẩn trốn trong các ngôi chùa ở Biên Hòa -
Đồng Nai như chùa Kim Cang, chùa Đại Giác, chùa Bửu Phong. Chùa Bửu Phong
hiện còn một giếng nước rất trong, nhân dân địa phương lưu truyền là do Nguyễn
Vương trong thời gian lẩn trốn ở đây đã cho đào giếng này.
Nguyễn Ánh sau khi lên ngôi (1802) đã ban cho chùa Kim Cang 3 pho tượng
(Tam Thế Phật) và bức hoành phi khắc "Kim Cang tự". Nhà vua lại xuống chiếu chỉ
trùng tu chùa Đại Giác và cúng chùa pho tượng Phật A - di - đà bằng gỗ cao 2, 50 m
nên nhân dân địa phương còn gọi chùa Đại Giác là chùa "Phật lớn". Tháng 10 năm
Minh Mạng nguyên niên (1820), công chúa Ngọc Anh cúng chùa bức hoành phi
khắc "Đại Giác tự" sơn son thếp vàng treo ở chính điện.
***
Năm Gia Long thứ 14 (1815) vua xuống chiếu triệu thiền sư Mật Hoàng trụ
trì chùa Đại Giác về kinh đô sắc phong Tăng cang trụ trì chùa Thiên Mụ và thường
mời vào nội cung thuyết pháp cho hoàng gia. Năm Gia Long thứ 16 (1817) vua lại
triệu thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt là đệ tử của thiền sư Minh Vật Nhất Tri về kinh
đô phong Tăng cang trụ trì chùa Thiên Mụ (thay Tăng cang Mật Hoàng được cử trụ
trì chùa Quốc Ân) v.v...
(15[9]) Lch sPht giáo Vit Nam - y ban Khoa hc xã hi Vit Nam - Nxb. Hà Ni 1991, tr. 378.

7.7 Page 67

▲back to top


+ Phật giáo Đồng Nai thời kỳ Pháp thuộc:
Sau mấy thế kỷ nhòm ngó, điều tra, tính toán, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư
bản Pháp quyết định thôn tính Việt Nam. Tháng 9 - 1858, Pháp nổ súng ở Đà Nẵng
mở đầu thời kỳ xâm lược Việt Nam. Tháng 12 - 1861, Pháp chiếm Biên Hòa. Tháng
6 - 1862, Pháp buộc triều đình Huế phải nhượng 3 tỉnh miền Đông Nam bộ (Biên
Hòa - Gia Định - Định Tường) cho Pháp làm thuộc địa. Với truyền thống yêu nước
gắn bó với dân tộc, tăng ni, phật tử Đồng Nai tích cực tham gia cùng với nhân dân
đứng lên chống Pháp xâm lược. Khi Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định hiệu
triệu nhân dân đứng lên chống Pháp ở Gò Công, tăng ni, phật tử Đồng Nai đã hưởng
ứng và tham gia chống Pháp trong đạo quân của Đỗ Trình Thoại ở Biên Hòa và
nhiều đơn vị nghĩa quân khác.
Tháng 8 - 1883, Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Tháng 6 - 1884,
triều đình nhà Nguyễn phải ký hiệp ước thừa nhận sự thống trị của Pháp tại Việt
Nam. Nước Việt Nam từ độc lập thành nô lệ, trở thành thuộc địa nửa phong kiến.
Người dân mất nước là mất độc lập tự do, mất quyền sống, quyền sáng tạo mọi giá
trị. Người phật tử tu tại gia hay xuất gia, trước hết họ là người dân của nước Việt
Nam, họ cũng có nỗi đau chung của dân tộc. Pháp đã tạo điều kiện cho Công giáo
phát triển và âm mưu dùng tôn giáo này thay thế các tôn giáo bản địa. Trong tình
hình như vậy, Phật giáo có nguy cơ bị đẩy lùi và mất chỗ đứng.
Thời cuộc đặt ra cho Phật giáo Việt Nam hai vấn đề phải giải quyết: đó là
ứng phó với hiện trạng chính trị - xã hội đất nước như thế nào? Và sự phát triển tiếp
theo của Phật giáo ra sao để đối phó thời cuộc? Trong hàng ngũ Phật giáo lúc bấy
giờ không có quan điểm thống nhất, không có cùng một suy nghĩ, có người thờ ơ
với thời cuộc, nhưng các vị cao tăng và phật tử có lòng yêu nước, thương người thấy
mình phải quan tâm đến tình hình đất nước, phải thay đổi quan niệm về giáo lý nhà
Phật để thích ứng với dân tộc và thời đại. Cũng như Phật giáo trong cả nước, Phật
giáo Đồng Nai trong giai đoạn này từng bước tìm cách chấn hưng, nhập thế để góp
phần vào sự nghiệp chung của dân tộc và tạo chỗ đứng trước thời cuộc.
Nối tiếp truyền thống anh dũng đứng lên chống Pháp, thời kỳ Pháp đánh
chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ, nhiều hòa thượng, thượng tọa, tăng ni đã tham gia
phong trào yêu nước chống ách thống trị của thực dân Pháp tiêu biểu như hòa thượng
Hoan Hỉ chùa Long Thành, cùng với tăng ni, phật tử trực tiếp tham gia vận chuyển
lương thực cho phong trào nông dân khởi nghĩa ở Hóc Môn dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Văn Bường và Phan Công Hớn...
Các tăng già tiền bối tìm cách duy trì mối đạo, kêu gọi và tổ chức duy trì
tông lâm quy chế, tham gia hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học và xuất bản tạp chí
"Từ bi âm". Người trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp là giáo thọ Thiện Tâm ở
chùa Đại Giác đã cổ vũ phong trào chấn hưng Phật giáo ở Đồng Nai.

7.8 Page 68

▲back to top


Năm 1930 - 1931, cao trào đấu tranh của quần chúng nhân dân chống ách
thống trị của thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã
có ảnh hưởng sâu sắc đến nội bộ Phật giáo. Tăng ni, phật tử ở nhiều nơi dùng chùa
làm nơi học tập, in ấn tài liệu và nuôi chứa cán bộ cách mạng. Từ năm 1942 - 1945,
nhiều chùa bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh, vận động ủng hộ cách mạng. Tháng
8 - 1945, hòa thượng Thích Huệ Thành cùng với các nhà sư yêu nước hưởng ứng lời
kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa bí mật vận động tăng ni, phật tử tham gia giành chính
quyền. Cách mạng tháng Tám 1945 ở Biên Hòa thành công có sự đóng góp của đông
đảo tăng ni, phật tử.
+ Phật giáo Đồng Nai trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước:
Sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam bộ một lần nữa lại đi đầu trong
cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai. Tổ chức Phật giáo có
sự phân hóa mới. Nhiều tăng ni, phật tử hồi cư về vùng tạm chiếm, một số làm việc
trong các cơ quan kháng chiến rút về các căn cứ, các chiến khu. Được sự giúp đỡ
của Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa, ngày 6 - 9 - 1945, hòa thượng Thích Huệ
Thành đứng ra triệu tập Đại hội Phật giáo Biên Hòa, thành lập Hội Phật giáo cứu
quốc tỉnh, do hòa thượng làm chủ tịch, kiêm ủy viên Mặt trận Việt Minh tỉnh. Trụ sở
của Hội đặt tại chùa Long Thiền (Biên Hòa). Từ đó, các tổ chức cơ sở của Hội được
thành lập ở các quận, huyện và xã trong tỉnh.
Sau khi thành lập, các tổ chức Phật giáo cứu quốc từ tỉnh đến cơ sở đã vận
động tăng ni, phật tử tích cực tham gia ủng hộ kháng chiến, tham gia bầu cử Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tham gia hưởng ứng "Tuần lễ
vàng", "Tuần lễ kim khí". Nhiều chùa đã ủng hộ lư đồng, chân đèn bằng đồng, đại
hồng chung... tiêu biểu như chùa Phước Nhĩ xã Phước Thiền (Long Thành) đã hiến
hai đại hồng chung, mỗi cái nặng gần một tạ gởi vào chiến khu để đúc võ khí.
Cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một lan rộng, trụ sở của Phật giáo cứu
quốc tỉnh Biên Hòa dời về xã Hiệp Phước (Long Thành). Đến đầu năm 1946, trụ sở
dời về xã Mỹ Lộc quận Tân Uyên. Hòa thượng Thích Huệ Thành và một tăng ni
thoát ly đi kháng chiến.
Trong thời gian kháng chiến, trong vùng tự do mọi hoạt động đều hướng về
mục tiêu kháng chiến và sản xuất để phục vụ kháng chiến. Phần lớn tăng ni trong
vùng tự do đều trực tiếp lao động trồng lúa, tỉa bắp, tiếp tế, liên lạc hoặc làm công
tác xã hội, giáo dục... Tại các vùng tạm chiếm, hoạt động của phật tử diễn ra sôi
động hơn; tăng ni, phật tử có ý thức rất rõ về cuộc kháng chiến chống Pháp đang
diễn ra trên mọi miền đất nước và tâm hồn họ vẫn hướng về cuộc kháng chiến đó.
Bằng mọi cách, tăng ni, phật tử vẫn tìm cách liên lạc, ủng hộ và một số gia nhập
kháng chiến. Sau khi hồi cư, nhiều thanh niên phật tử lại bỏ nhà đi theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc, tìm ra chiến khu... Những người khác ở lại vùng Pháp

7.9 Page 69

▲back to top


kiểm soát vẫn âm thầm hoạt động cho kháng chiến. Một số tăng ni bí mật hoạt động
mà nòng cốt là nhà sư đảng viên cộng sản như nhà sư Thích Thiện Thuận.
Hòa thượng Thích Thiện Khải đã từng đóng vai thầy cúng, người viết các
câu đối cổ bằng chữ Hán len lỏi đi về nội thành để liên lạc giữa chiến khu với bộ
phận hoạt động bí mật trong nội thành. Chính trong thời gian này một số tăng ni bị
bắt, bị giam cầm hoặc bị sát hại.
Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra ngày càng quyết liệt, cũng là lúc các
tổ chức Phật giáo cứu quốc được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố, cần phải có
sự phối hợp chỉ huy thống nhất chung. Năm 1947, các vị cao tăng và phật tử trong
tổ chức Phật giáo cứu quốc các tỉnh, thành phố ra chiến khu Đồng Tháp Mười thành
lập ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam bộ. Hòa thượng Thích Huệ Thành, Chủ
tịch Phật giáo cứu quốc tỉnh Biên Hòa làm phó hội trưởng và được đề cử làm ủy
viên Mặt trận Liên Việt Nam bộ.
Sau khi ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam bộ được thành lập, một số
cao tăng ở lại chiến khu để tập hợp tăng ni, phật tử trực tiếp tham gia kháng chiến,
một số cao tăng về vùng tạm chiếm bí mật tổ chức đấu tranh chống thực dân Pháp.
Để có một tổ chức hợp pháp đứng ra tập hợp tăng ni, phật tử hướng về cuộc kháng
chiến chống Pháp xâm lược, năm 1952, Phật giáo cứu quốc ở Sài Gòn - Chợ Lớn
phối hợp với Phật giáo cứu quốc Biên Hòa thành lập và mở Trường Phật học. Giáo
hội Lục Hòa tăng Việt Nam xuất bản tờ Phật học tạp chí và mở trường Phật học.
Hòa thượng Thích Huệ Thành ở Biên Hòa được cử làm trưởng ban hoằng pháp. Năm
1953, ông củng cố và mở rộng tổ chức của giáo hội Lục Hòa tăng. Hòa thượng Thích
Thiện Hào, người đã xuất gia đầu Phật và thọ giới Tỳ kheo tại Đồng Nai làm phó
hội trưởng và hòa thượng Thích Huệ Thành làm phó tăng giám. Từ đó ảnh hưởng
của Giáo hội Lục Hòa tăng càng được mở rộng.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta sắp giành được thắng lợi,
để chuẩn bị thay chân Pháp, đế quốc Mỹ đã đưa gần một triệu đồng bào miền Bắc di
cư vào Nam, trong đó có hàng chục vạn tín đồ Phật giáo. Đế quốc Mỹ đã lôi kéo lợi
dụng một số người làm chỗ dựa chính trị để chúng lèo lái phong trào Phật giáo di
cư. Mỹ dàn dựng đưa "Tổng hội Phật giáo Việt Nam" tham gia "Liên hữu Phật giáo
thế giới", lợi dụng mối quan hệ quốc tế này, Mỹ đã gián tiếp hay trực tiếp tạo điều
kiện thuận lợi cho tăng ni du học, từ năm 1955. Chúng đã trực tiếp cấp hàng loạt học
bổng cho tăng ni học trong nước và nước ngoài để đào tạo lực lượng nòng cốt cho
các tổ, các tu viện, nhà trường... do Mỹ đài thọ xây cất.
Đáng lưu ý, trong giai đoạn này, nhiều hệ phái không tham gia "Tổng hội
Phật giáo Việt Nam" như giáo hội Lục Hòa tăng, giáo hội Nguyên thủy, phái Nam
tông Theravada. Ngược lại, nhiều phái đã tham gia Phật giáo cứu quốc và phong trào
đấu tranh chung của các đô thị. Các phái không tham gia "Tổng hội Phật giáo Việt

7.10 Page 70

▲back to top


Nam" chiếm ưu thế ở Đồng Nai như giáo hội Lục Hòa tăng, giáo hội Lục Hòa phật
tử, ni giới khất sĩ... Các tổ chức và hệ phái Phật giáo bị đế quốc Mỹ thao túng ít có
cơ sở ở Đồng Nai.
Năm 1963, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của phong trào Phật giáo Việt Nam.
Trong mùa Phật đản, Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo đã gây xúc động
cả giới Phật giáo, tiếp đến là nhiều cuộc bao vây thảm sát các tín đồ Phật giáo tại
Đài phát thanh Huế. Trước tình thế đó, "Tổng hội Phật giáo Việt Nam" đã phát động
phong trào đấu tranh chống Diệm đòi các tôn giáo bình đẳng.
Đối với Phật giáo, đây là một phong trào lớn có tính chất toàn miền, xuất
phát từ Huế sau đó lan ra các tỉnh miền Nam, đỉnh cao là cuộc tự thiêu của hòa
thượng Thích Quảng Đức (11 - 6 - 1963), song giai đoạn này vẫn mang nhiều sắc
thái tôn giáo. Từ tháng 7 - 1963 trở đi phong trào Phật giáo, đã phối hợp được các
yêu sách chung của các tầng lớp nhân dân các đô thị, chống chế độ độc tài phát xít
gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do dân chủ với quy mô ngày càng rộng lớn.
Năm 1963 cũng là thời điểm sôi sục của phong trào cách mạng miền Nam.
Sau đồng khởi năm 1960, nhiều vùng nông thôn rộng lớn được giải phóng, các đô
thị miền Nam đẩy mạnh cao trào chống Mỹ xâm lược, chống chế độ độc tài phát xít
gia đình trị Ngô Đình Diệm. Các phong trào đó lan rộng rất nhanh trong công nhân
lao động, sinh viên, học sinh... kết hợp các hình thức đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ
với các hình thức bạo lực xuống đường, đốt xe Mỹ, tấn công vào các đầu não của
Mỹ - ngụy, đồng thời kết hợp với phong trào của Phật giáo chống kỳ thị tôn giáo,
đòi thực hiện bản thông báo chung giữa Phật giáo với chế độ Sài Gòn khiến đế quốc
Mỹ lâm vào tình thế không thể duy trì chế độ Ngô Đình Diệm, buộc chúng phải lật
đổ Diệm - Nhu.
Tháng 11 - 1963, Diệm - Nhu bị giết, Mỹ tìm mọi cách nắm lực lượng Phật
giáo, tạo thêm chỗ dựa chính trị cho mưu đồ xâm lược của chúng. Tháng 1 - 1964,
chúng đã chấp nhận cho các hệ phái Phật giáo gồm 11 tập đoàn trong "Ủy ban liên
phái bảo vệ Phật giáo" tham dự đại hội lập ra "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất" hình thành tổ chức từ trung ương đến địa phương. Mỹ cũng chọn sẵn một số
con bài đưa vào tổ chức để nắm và lôi kéo Phật giáo đi theo con đường có lợi cho
Mỹ - ngụy.
Đối với Phật giáo đây là cơ hội tốt để phát huy thắng lợi vừa mới giành được.
Tuy nhiên, trong nội bộ Phật giáo lúc bấy giờ lại có nhiều xu hướng khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau: thống nhất được với nhau ở mục tiêu chung là chống Mỹ - ngụy
kỳ thị Phật giáo nhằm đưa Phật giáo lên một bước phát triển mới của phong trào
chấn hưng, nhưng từng nhóm, từng hệ phái, từng miền khác nhau, lại có những
khuynh hướng khác nhau.

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


"Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất" đã tăng cường hoạt động trên
nhiều lĩnh vực ở khắp các địa phương trong vùng địch kiểm soát.
Về tôn giáo, giáo hội đã đẩy mạnh hoạt động theo hướng hiện đại hóa Phật
giáo, tăng cường thuyết giảng, mở các Phật học viện đào tạo tăng tài, đẩy mạnh xây
dựng nơi thờ tự và các hoạt động từ thiện xã hội. Các chùa được xây dựng ở Đồng
Nai trong giai đoạn này đều được trang trí màu sắc sặc sỡ, đều có giảng đường để
thuyết giảng, các trường Bồ đề và các phòng khám bệnh phát thuốc được xây dựng
ở Biên Hòa, thị xã Long Khánh, Bà Rịa - Vũng Tàu...
Về chính trị, từ năm 1964 giáo hội tiếp tục chủ trương phát động phong trào
đấu tranh chống độc tài, chống phục hồi chế độ Diệm không có Diệm, hưởng ứng
và kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong
phong trào cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, Mỹ - ngụy sử dụng nhóm tay
sai đứng đầu là Thích Tâm Châu, công khai ra mặt chống cộng, chống lại cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Bọn này tìm mọi cách kiềm chế và tiếp tay cho
Mỹ - ngụy đàn áp đẫm máu phong trào học sinh, sinh viên và Phật giáo, công khai
phá vỡ và loại trừ các tổ chức cơ sở và ảnh hưởng của cách mạng trong Phật giáo.
Nhưng hầu hết các hệ phái và tông môn ở Đồng Nai không tham gia "Phật giáo Việt
Nam thống nhất" và tổ chức Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Biên Hòa do nhà sư
yêu nước Thích Diệu Tâm từ Phú Yên về làm chánh đại diện. Cũng trong thời gian
này, nhà sư yêu nước Thích Thiện Hào, một trong các nhà sư lãnh đạo giáo hội Lục
Hòa tăng và Lục Hòa phật tử sau hợp nhất và đổi thành Phật giáo cổ truyền Việt
Nam có nhiều cơ sở ở Đồng Nai - năm 1964 được bầu làm ủy viên đoàn chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam và năm 1968 được cử làm ủy viên
Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam
nguồn cổ vũ lớn cho tăng ni, phật tử Đồng Nai trên con đường "Đạo pháp dân tộc".
Phong trào đấu tranh của Phật giáo ở Biên Hòa kết hợp rất chặt chẽ với phong
trào đấu tranh của quần chúng và phật tử ở Sài Gòn, như phong trào cứu đói, cầu
nguyện cho hòa bình, tập hợp đông phật tử.
Cụ thể như lễ Vu lan 1971 ở chùa Định Quang (An Hảo) do nhà sư Thích
Thiện Hoa chủ trì. Trong đó có buổi nói chuyện của sinh viên phật tử Thiện Phước
(7 - 8 - 1971) thu hút gần 3000 phật tử, vạch trần "Việt Nam hóa chiến tranh" là tiếp
tục gây tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam.
Hoạt động phá hoại phong trào Phật giáo, gây cản trở con đường "Đạo pháp
dân tộc" của nhóm Thích Tâm Châu đã gây nhiều công phẫn trong đông đảo tăng ni,
phật tử, bọn chúng ngày càng mất uy tín và bị cô lập. Từ đó về sau, các phong trào
Phật giáo phản ánh rõ nét cuộc đấu tranh quyết liệt trong nội bộ Phật giáo, giữa một
bên (đa số) gắn bó với phong trào cách mạng miền Nam với nhóm Thích Tâm Châu
cố lái phong trào Phật giáo theo hướng có lợi cho Mỹ - ngụy. Chúng đều bị thất bại

8.2 Page 72

▲back to top


trước sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta và trước sức mạnh của truyền thống
yêu nước, gắn bó với dân tộc của Phật giáo Việt Nam.
+ Phật giáo Đồng Nai từ 30 - 4 - 1975 đến nay:
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tình hình Phật giáo có
nhiều biến đổi. Tăng ni, phật tử các nơi, nhất là ở miền Trung về Đồng Nai làm ăn
sinh sống ngày một nhiều, tập trung chủ yếu dọc quốc lộ 51 Biên Hòa - Vũng Tàu.
Các ngôi chùa đã có từ trước ở đây đều được mở mang, xây dựng lại, nhiều chùa,
viện, tịnh xá, tịnh thất mới được xây dựng khang trang, hiện đại tạo nên một vùng
Phật giáo đông đảo, sầm uất.
Tuyệt đại đa số tăng ni, phật tử tự hào về sự đóng góp của mình vào thắng
lợi chung của dân tộc, phấn khởi và tin tưởng vào công cuộc xây dựng lại quê hương
đất nước sau bao năm chiến tranh tàn phá. Đất nước đã độc lập thống nhất thì Phật
giáo Việt Nam cũng phải thống nhất trong cả nước. Đó là nguyện vọng tha thiết của
mọi tín đồ Phật giáo Việt Nam. Nhưng một số phần tử cực đoan chống đối vẫn còn
nắm quyền hành khống chế Viện Hóa đạo của giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất (Ấn Quang) ngăn cản việc thống nhất Phật giáo Việt Nam.
Ngày 12 - 2 - 1980, đông đảo hàng giáo phẩm có uy tín ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam đã tập hợp lại thành lập "Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam",
tiêu biểu cho hàng lãnh đạo các tổ chức và hệ phái Phật giáo trong cả nước để vận
động thống nhất Phật giáo đã được đông đảo hàng giáo phẩm, tăng ni, phật tử hưởng
ứng.
Ngày 4 - 11 - 1981, lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, hội nghị
thống nhất Phật giáo cả nước được tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) thành lập giáo
hội Phật giáo Việt Nam, thông qua Hiến chương chương trình hoạt động của giáo
hội. Hội nghị đã suy tôn các vị cao tăng vào "Hội đồng chứng minh" và suy cử "Hội
đồng trị sự" là hai cơ quan lãnh đạo cao nhất của Trung ương Giáo hội.
Tại Hội nghị lịch sử này, hai vị cao tăng tiêu biểu cho Phật giáo Đồng Nai:
hòa thượng Thích Huệ Thành được suy tôn làm phó pháp chủ Hội đồng chứng minh
và hòa thượng Thích Thiện Khải được suy tôn làm ủy viên Hội đồng. Sự tín nhiệm
này của hội nghị đã khẳng định vai trò, vị trí của Phật giáo Đồng Nai trong phong
trào Phật giáo chung của cả nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đoàn kết thống
nhất Phật giáo trong tỉnh.
Việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất trong cả nước đã mở
ra một trang sử mới, một hướng phát triển mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam để
phát huy cao hơn nữa truyền thống gắn bó giữa đạo Phật với dân tộc trong thời đại
mới theo phương châm "Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội".

8.3 Page 73

▲back to top


Sau Đại hội thống nhất Phật giáo trong cả nước năm 1981, Đồng Nai đã tổ
chức Đại hội thống nhất Phật giáo trong tỉnh, thành lập Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng
Nai trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại hội đã suy cử các thành viên trong
Ban trị sự Phật giáo tỉnh gồm 25 thành viên, đại diện tiêu biểu cho các tông môn, hệ
phái Phật giáo trong tỉnh. Ban trị sự có 1 trưởng ban, 2 phó ban và 12 ủy viên thường
trực, đồng thời là trưởng tiểu ban các ngành hoạt động của Giáo hội. Các huyện và
thành phố Biên Hòa có Ban đại diện Phật giáo huyện và thành phố, do Ban trị sự
Phật giáo tỉnh bổ nhiệm để giúp Ban trị sự thực hiện các phật sự ở địa phương.
Từ ngày Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời đến nay Giáo hội đã làm được
nhiều việc mà từ trước kia trong lịch sử Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ làm được.
Đó là thống nhất Phật giáo trong cả nước để duy trì chánh pháp, góp phần tích cực
cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hòa bình an lạc cho mọi người. Về Phật
sự, giáo hội đã tổ chức phiên dịch xuất bản Đại tạng kinh bằng tiếng Việt, biên soạn
xuất bản nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam, làm rõ để duy trì
và phát huy một cách độc đáo hơn nữa "cái chất Việt Nam" ở trong đạo Phật Việt
Nam, trong đó có sự đóng góp đáng trân trọng của hòa thượng Thích Thanh Từ, một
nhà sư phái Thiền Trúc Lâm tiêu biểu ở Đồng Nai; xây dựng Viện nghiên cứu Phật
học, mở hai Trường cao cấp Phật học ở các tỉnh và thành phố trong cả nước; tổ chức
giới đàn truyền giới cho đệ tử được tổ chức với quy mô lớn, trọng thể trong phạm vi
tỉnh, thành phố hoặc một vùng. Nhiều di tích lịch sử Phật giáo bị hủy hoại do thời
gian hoặc bị tàn phá do chiến tranh được trùng tu, xây dựng lại. Từ ngày thống nhất
Phật giáo đến nay, ở Đồng Nai đã mở được trường cơ bản Phật học, là tỉnh có nhiều
tăng ni theo học Trường cao cấp Phật học và du học ở nước ngoài nhiều nhất trong
cả nước, đã 4 lần tổ chức Đại giới đàn cho trên 700 tăng ni, xây dựng mới, trùng tu
hàng trăm chùa, am, tự viện... Một số chùa, tự viện được xây dựng mới hoặc xây
dựng lại to đẹp, hiện đại mà trong lịch sử Phật giáo Đồng Nai chưa bao giờ làm
được.
Gắn bó với dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn luôn cổ vũ tăng ni,
phật tử chấp hành tốt các chủ trương, chính sách, luật pháp của Nhà nước, hưởng
ứng, tham gia tích cực các công tác ở địa phương, các phong trào hành động cách
mạng do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, nhất là các phong trào từ thiện xã
hội, góp phần ngày càng có hiệu quả hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong sự ổn định và phát triển của đất
nước, chứng tỏ con đường "Đạo pháp - dân tộc - Chủ nghĩa xã hội" trong giai đoạn
mới của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với giáo lý
của nhà Phật, phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam.
II.2.2. Công giáo ở Đồng Nai:
a) Tổng quát về Công giáo ở Đồng Nai:

8.4 Page 74

▲back to top


Biên Hòa - Đồng Nai là một trong những địa bàn được truyền giáo sớm ở
Đàng Trong và đã từng có những giáo sĩ Thừa sai nổi tiếng đương thời hoạt động
truyền giáo ở đây. Nhưng từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1954 đạo Công giáo ở
Biên Hòa - Đồng Nai không trở thành một tôn giáo sâu rộng như Phật Giáo. Số dân
đến Biên Hòa - Đồng Nai cư trú từ lâu đời theo đạo Công giáo chiếm tỷ lệ rất thấp.
Một vùng đất vốn có truyền thống tín ngưỡng tôn giáo hỗn dung nhiều nguồn, nhiều
phía nên khi tiếp nhận đạo Công giáo, người giáo dân Biên Hòa - Đồng Nai cũng
không có niềm tin "tinh dòng", lễ nghi, phong tục, tập quán cũng không quá rườm
rà, hình thức. Đạo không có vùng tập trung đông giáo dân, các xứ họ không phải là
một lãnh địa khép kín, giáo dân sống xen kẽ với người ngoài đạo chan hòa cởi mở.
Trong một dòng họ, một gia đình cũng có người đi lương, người đi giáo. Thậm chí
trong một con người họ là tín đồ đạo Công giáo, họ đi nhà thờ cầu phúc, nhưng cũng
có khi họ đi đình, chùa cầu cúng thần, Phật.
Đạo Công giáo ở Biên Hòa - Đồng Nai là một giáo phận thuộc giáo tỉnh Sài
Gòn của giáo hội Công giáo Việt Nam. Giáo phận có Tòa giám mục, 16 giáo hạt,
252 giáo xứ và hơn 100 họ lẻ và các cụm giáo dân ở các vùng kinh tế mới. Có 2
giám mục và 282 linh mục với 842.809 giáo dân.
Bên cạnh hệ thống triều, các dòng tu cũng là một tổ chức của giáo hội với
nhiều loại hình khác nhau. Các dòng tu do Tòa thánh thiết lập hầu hết là dòng miễn
trừ, đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Tòa thánh ít bị chi phối của giáo quyền,
giáo phận. Các dòng tu do Tòa thánh thiết lập có cơ sở ở Việt Nam đều thuộc tỉnh
dòng nước ngoài và do các tỉnh dòng nước ngoài chi phối. Mãi đến năm 1956 trở đi
Việt Nam mới có tỉnh dòng riêng, nhưng cho đến nay vẫn còn các dòng tu trực thuộc
tỉnh dòng nước ngoài. Các dòng tu do Giám mục giáo phận thiết lập thì mọi hoạt
động đều đặt dưới sự kiểm soát của Giám mục giáo phận.
Hầu hết các dòng tu có ở Việt Nam đều có các cơ sở ở Biên Hòa - Đồng Nai.
Đến nay số dòng tu đã đăng ký hoạt động có 13 dòng nam và 24 dòng nữ với 62 cơ
sở dòng tu và 1510 tu sĩ.
+ Tiến trình phát triển qua các thời kỳ:
- Từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1954:
Việc truyền giáo vào Biên Hòa - Đồng Nai từ bao giờ cho đến nay chưa có
tài liệu nào xác định rõ. Chỉ biết rằng "Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu phái
Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý lấy đất Đồng Nai đặt ra huyện Phước Long, đất
Sài Gòn đặt ra huyện Tân Bình và đặt phủ Gia Định thì đã có đông lưu dân đến đây
lập nghiệp. Trong số lưu dân sớm sủa ấy đã thấy có sự hiện diện của người Công
giáo. Họ lác đác đến đây lập nghiệp tại vùng ven sông Đồng Nai, đồng bằng sông
Mê Công... từ đầu thế kỷ 17 hay thế kỷ 16. Như vậy, số người Công giáo tới đây đã

8.5 Page 75

▲back to top


theo đạo rồi chứ không phải tới đây mới theo đạo" (16[10]). Trong thư gởi Ban giám
đốc chủng viện truyền giáo Paris đề ngày 24 - 7 - 1710, giám mục phó giáo phận
Đàng Trong Labbé viết:
"Có một miền gọi là Đồng Nai (Dou - nai) ở giữa Cao Miên và Chiêm Thành,
đây là vùng đồng bằng đất tốt, khá rộng và dài, rừng rậm cây to, nơi mà người Đàng
Trong đến đây lập nghiệp từ 35 hay 40 năm nay. Tôi nghĩ là đã có hơn 20.000 người
Đàng Trong tới đây, trong số đó có ít nhất 2000 người Công giáo. Cách đây 13 hay
14 năm có một cha dòng Tên người Bồ Đào Nha (Pires) đến đây, ông đã xây một
nhà thờ khá lớn..." (17[11]).
Những họ đạo đầu tiên được nhắc tới ở Biên Hòa - Đồng Nai:
- Họ đạo Bến Gỗ (nay thuộc thành phố Biên Hòa) có từ cuối thế kỷ 17 do
thừa sai Feret quy tụ giáo dân thành lập, đến năm 1747 có khoảng 200 giáo dân. Khi
Hội thừa sai nước ngoài Paris vào truyền giáo ở Đàng Trong thì năm 1750, Hội đặt
trụ sở tại Bến Gỗ. Bến Gỗ trở thành nhà thờ đầu tiên của Hội thừa sai nước ngoài
Paris ở Nam bộ.
- Họ đạo Tân Triều (nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu), có từ thời
giám mục Pigneau làm giám mục đại diện tông tòa Đàng Trong (1771 - 1733). Trong
thời gian này có 4 năm (1778 - 1782) Tân Triều là nơi đặt trụ sở của đại diện tông
tòa Đàng Trong và chủng viện cũng được quy tụ về đây.
- Vùng Bà Rịa (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) "đã được truyền giáo từ
lúc các thừa sai ngoại quốc vừa đặt chân vào miền Nam... đến năm 1664 trở thành
khu vực truyền giáo quan trọng. Vùng Đất Đỏ là nơi thuận tiện cho các thừa sai
nước ngoài và linh mục bản xứ trú ẩn". Vì "các thừa sai không được thiện cảm của
triều đình, nhưng Bà Rịa là một vùng xa xôi hẻo lánh, có lẽ dễ bề truyền đạo hơn"
(18[12]).
Biên Hòa do có Bến Gỗ là trụ sở của Hội thừa sai nước ngoài Paris và Tân
Triều là trụ sở của đại diện tông tòa Đàng Trong nên đạo phát triển tương đối nhanh
hơn các khu vực khác ở Nam bộ. Theo phúc trình đề ngày 31 - 1 - 1852, giám mục
Lefèbvre đại diện tông tòa Tây Đàng Trong (tức Nam bộ ngày nay) cho thấy giáo
phận Tây Đàng Trong có 9 khu vực chính thì Biên Hòa có 3 khu vực.
- Thị Rịa (tức Bà Rịa) có 1914 giáo dân thuộc các họ đạo Đất Đỏ, Thôm,
Dinh (sau đổi thành Phước Lễ), Thành, Gò Sầm...
(16[10]) Địa chí văn hóa Thành phHô Chí Minh - Tp I, phn lch s, Nxb. TP. HCM 1997, tr. 143
(17[11]) Lch sCông giáo Nam b(thế kXVI - XVII - XVIII). Nguyt san Công giáo và dân tc s39,
tháng 3 - 1998.
(18[12]) Linh mc Errard (cha Y): Phước Tuy máu la - tài liu ca giáo hi xut bn 1960, tr. 8

8.6 Page 76

▲back to top


- Tân Triều có 3034 giáo dân của các họ đạo: Tân Triều, Bến Gỗ, Mỹ Hội...
- Lái Thiêu (nay thuộc tỉnh Bình Dương) là họ đạo có từ đầu thế kỷ 18 cho
đến năm 1852 vẫn là cái nôi của Công giáo Nam bộ, bởi nơi đây là nơi trú ẩn của
chủng viện, của các thừa sai và vẫn là một trung tâm với 3.547 giáo dân (19[13]).
Từ ngày đầu của việc truyền giáo cho đến tháng 6 - 1862, sự phát triển của
Công giáo Tây Đàng Trong còn rất hạn chế, chỉ mới bắt đầu xây dựng và phát triển
từ sau hòa ước ngày 5 - 6 - 1862 được ký kết giữa triều đình vua Tự Đức với đại
diện Pháp và Tây Ban Nha. Ở Biên Hòa cũng từ đó về sau, các nhà thờ lớn của các
xứ đạo, các cơ sở dòng tu được xây dựng. Nhà thờ Tân Triều xây dựng lại năm 1862,
nhà thờ Biên Hòa có từ năm 1861 đến năm 1870 xây dựng lại to đẹp hơn, nhà thờ
Bến Gỗ xây dựng lại năm 1862, nhà thờ Phước Lễ có từ năm 1664 đến năm 1877
xây dựng lại với quy mô lớn được coi là một trong những nhà thờ lớn nhất ở giáo
phận Tây Đàng Trong lúc bấy giờ. Nhà thờ Mỹ Hội, Long Thành xây năm 1889.
Phước Lý (huyện Nhơn Trạch) có sổ "rửa tội" từ năm 1885, nhưng mãi đến năm
1900 mới xây dựng nhà thờ...
Cơ sở dòng tu có quy mô lớn đầu tiên được xây dựng ở Phước Lễ, năm 1877,
Phước Lễ đã có trường học của nhà dòng, năm 1890 các nữ tu dòng Phao Lô đến
Phước Lễ lập Dưỡng lão đường và giảng dạy ở trường dòng. Các cơ sở kinh tế có
đồn điền cao su ở Mỹ Hội, trại trồng điều ở Phước Bửu.
Năm 1890 Đất Đỏ đã xây dựng một trung tâm dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ
thừa sai ngoại quốc mới đến Việt Nam. Vì vậy, vùng Phước Tuy - Biên Hòa là địa
bàn lui tới tổ chức truyền giáo của nhiều giáo sĩ thừa sai ngoại quốc nổi tiếng đương
thời.
Đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản
phương Tây đua nhau xâm chiếm phương Đông, trong đó Pháp ráo riết chuẩn bị xâm
chiếm Việt Nam. Trong bối cảnh ấy, các giáo sĩ ngày càng can dự vào chính sự Việt
Nam, can thiệp sâu vào nội trị Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1857, Pháp quyết định
đánh chiếm Việt Nam bằng vũ lực, cũng là lúc các giáo sĩ ngoại quốc cho rằng họ
đã chuẩn bị xong cho cuộc thôn tính Việt Nam. Linh mục Legrand, cha sở xứ Biên
Hòa năm 1865, trong bản trần tình gửi Napoléon III đã nói rõ tầm quan trọng của
việc xâm chiếm Việt Nam. Theo Legrand "Chỉ cần nhìn vị trí "xứ An Nam" người
ta hiểu ngay nếu chiếm đóng xứ này quan trọng cho Pháp đến đâu" và "Xứ này rất
đáng là một xứ thuộc địa xét về mặt giầu có của đất đai, vốn hơn hẳn Philipine,
Java, Bornéo... Tài nguyên của nó khiến cho nước Pháp sẽ yêu thích vùng thuộc địa
đẹp đẽ nhất, quí giá nhất này trong các thuộc địa cũ và mới của Pháp". Sau khi phân
(19[13]) Công giáo Nam b: Những ngày đầu thành lp giáo phn Sài Gòn (1844 - 1859). Nguyt san Công giáo
và dân tc, s43, tháng 7 - 1998.

8.7 Page 77

▲back to top


tích các nguyên nhân tất thắng của cuộc xâm chiếm Việt Nam, linh mục Legrand kết
luận: "Vùng đất mỹ miều và quí giá này sẵn sàng rơi vào tay Pháp. Trái đã chín rồi
không thể không rụng. Lạy Chúa! Đừng để nó rơi vào tay người Anh" (20[14]).
Sự dính líu giữa việc truyền giáo và chủ nghĩa thực dân của các thừa sai trên
đất Biên Hòa - Đồng Nai đã dẫn đến lệnh cấm đạo thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và
thời Tự Đức (1847 - 1862) được thực thi ở Biên Hòa - Đồng Nai. Nhiều giáo dân bị
bắt bớ tù đày và bị sát hại, các giáo sĩ thừa sai bị trục xuất, bị cấm truyền giáo.
Sự dính líu giữa công cuộc truyền giáo và chủ nghĩa thực dân dẫn tới việc
cấm đạo và đàn áp tràn lan người theo đạo của triều đình nhà Nguyễn là một sự thật
lịch sử không thể phủ nhận. "Nhưng sự dính líu giữa giáo hội với chủ nghĩa thực
dân phương Tây không thuộc về bản chất của việc truyền giáo, đó là sự dính líu
mang tính chất thời đại lúc bấy giờ, thời đại của sự phát sinh và phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã xảy ra vào cuối thế kỷ XV" (21[15]).
Chính giáo sĩ thừa sai Paris, linh mục Louvet, người đã làm cha sở xứ Biên
Hòa năm 1870, cũng thừa nhận đó không phải là kỳ thị tôn giáo vì không có một dân
tộc nào bao dung vấn đề tôn giáo hơn dân tộc Việt Nam. Ông viết: "Muốn cứu vãn
tôn giáo trong hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ, thì chỉ có một cách phải tách rời nó
ra khỏi toàn cảnh đế quốc và thực dân". Bởi vì "Vấn đề này mang tính chất chính
trị nhiều hơn tôn giáo, hay nói cho đúng, nó gần như hoàn toàn chính trị... cái mà
họ chống đối trong đạo Công giáo chính là sự xâm lược của châu Âu. Vậy hãy tách
rời minh bạch vấn đề tôn giáo ra khỏi vấn đề chính trị" (22[16]).
Vì ý nghĩa thiêng liêng và nhân bản của đạo hãy "tách rời minh bạch vấn đề
tôn giáo ra khỏi vấn đề chính trị" để người Công giáo Việt Nam có thể là con chiên
của Chúa mà vẫn là người Việt Nam, gắn bó với vận mệnh của Tổ quốc và nhân dân
của họ.
Theo linh mục Legrand, lúc làm cha sở xứ Biên Hòa thì số giáo dân của giáo
xứ có chừng 700 người, sau đó di tán chỉ còn chừng 300 người. Ý định tập hợp
những người theo đạo thành những xóm, làng riêng tách khỏi người ngoại đạo như
ở miền Bắc không thực hiện được ở Biên Hòa - Đồng Nai. Những xứ đạo được hình
thành lớn nhất của công cuộc truyền giáo ở Biên Hòa - Đồng Nai mãi đến trước năm
1954 vẫn xen kẽ với người ngoại đạo, không có xứ đạo toàn tòng, có xứ càng về sau
càng ít đi.
(20[14]) Cao Huy Thun: Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân ti Vit Nam - Xut bn tại Paris năm 1930, tr.
148.
(21[15]) Giáo sư Mạc Đường - tham lun ti Hi ngh: "Mt svấn đề lch sử đạo Thiên Chúa trong lch sdân tc
Việt Nam". Năm 1988 tại TP. HCM.
(22[16]) Cao Huy Thuần: (sách đã dẫn), tr. 149.

8.8 Page 78

▲back to top


Cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX, nước Pháp đã chuyển hẳn sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Những thuộc địa mới ở Viễn Đông trong đó có Việt Nam
bắt đầu được chú ý khai thác. Năm 1897, triều đình Huế buộc phải ký nhượng quyền
khai thác đất hoang cho Pháp. Từ đó trở đi thì sự chiếm đoạt ruộng đất càng trở nên
ồ ạt. Việc mộ dân (chủ yếu là miền Bắc và miền Trung) lập các đồn điền cao su ở
Biên Hòa - Đồng Nai đã hình thành các xứ, họ đạo của công nhân đồn điền cao su.
Từ năm 1912 đến năm 1947 đã hình thành các xứ họ: Dầu Giây (Thống Nhất), Suối
Tre, Bình Lộc, Xuân Tân (Long Khánh), nhà thờ họ lẻ của công nhân cao su ở Túc
Trưng (Định Quán), Bảo Thị (Xuân Lộc)... Số giáo dân trong các đồn điền cao su
này là 7197 người làm cho số giáo dân ở Biên Hòa - Đồng Nai tăng lên đáng kể.
Trên toàn địa bàn có 8 giáo xứ và một số họ lẻ được hình thành từ thế kỷ XVII,
XVIII và 6 giáo xứ và một số họ lẻ của giáo dân là công nhân các đồn điền cao su,
với số giáo dân gần 20 ngàn người thuộc giáo phận Sài Gòn.
Trong gần hai mươi ngàn giáo dân ấy, có một bộ phận là người Công giáo ở
các nơi sớm có mặt ở Biên Hòa - Đồng Nai khai hoang lập ấp, góp phần mở mang
vùng đất mới. Cũng như các lưu dân khác, họ đi xa để tìm đất sống và trốn tránh áp
bức, bất công. Riêng họ còn nhằm mục đích trốn tránh bách hại tôn giáo.
Vào vùng đất mới, trước cảnh rừng núi âm u hoang vắng, nhiều thú dữ, nhiều
bất hạnh do thiên nhiên và con người mang lại, họ phải đoàn kết gắn bó với các lưu
dân khác để tồn tại và phát triển. Vậy nên giữa họ dù là lương hay giáo luôn có mối
tương thân, tương trợ và cùng cảnh ngộ. Bên cạnh số giáo dân đã sống lâu đời ở Biên
Hòa - Đồng Nai, số giáo dân công tra ở các đồn điền cao su, họ là công nhân bị thực
dân Pháp, chủ đồn điền áp bức bóc lột tàn khốc, sớm giác ngộ cách mạng đi theo
Đảng tham gia các phong trào đấu tranh của công nhân cao su chống áp bức bóc lột,
đòi tự do dân chủ, chống ách thống trị của thực dân Pháp, tham gia giành chính
quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Trong thời Pháp thuộc và kháng chiến
chống Pháp, đạo Công giáo ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng bị thực dân, đế quốc lợi
dụng, nhưng đa số giáo dân vẫn gắn bó với quê hương, dân tộc, hăng hái tham gia
các phong trào chống Pháp xâm lược và kháng chiến chống Pháp cứu nước.
Nhiều cơ sở cách mạng trong vùng giáo dân là công nhân cao su được xây
dựng, có vùng đã trở thành căn cứ kháng chiến chống Pháp như: Bình Sơn, Bình
Lộc, Cẩm Mỹ v.v...
Từ lâu, đế quốc Mỹ đã có âm mưu can thiệp và xâm lược nước ta hòng thực
hiện kế hoạch bành trướng và thống trị của chúng ở vùng Đông Nam Á. Âm mưu và
ý đồ đó đã được thực hiện đầu tiên bằng việc dụ dỗ, cưỡng bức 40% giáo dân miền
Bắc di cư vào Nam, trong đó có Biên Hòa - Đồng Nai là một trọng điểm. Cuộc di
dân thấm đậm máu và nước mắt của giáo dân này được Mỹ Diệm coi là "thắng lợi
ban đầu với Cộng sản". Điều đó khẳng định rằng việc dụ dỗ, cưỡng bức giáo dân di

8.9 Page 79

▲back to top


cư năm 1954 không phải là việc làm mang ý nghĩa tôn giáo mà là ý nghĩa chính trị
thực sự. Mỹ - ngụy sử dụng giáo dân di cư làm hậu thuẫn chính trị trong những ngày
đầu còn non yếu của chế độ Diệm. Đồng bào được bố trí định cư ở khu Hố Nai dọc
đường quốc lộ 1 Biên Hòa - Long Khánh, quốc lộ 15 Biên Hòa - Bà Rịa, quốc lộ 20
Kiệm Tân - Lâm Đồng...
Giáo dân di cư năm 1954 và di cư đến các nơi rồi lại đến Biên Hòa - Đồng
Nai cư trú vào các năm sau đó, làm cho số giáo dân trên địa bàn tăng lên gấp bội. Từ
năm 1954 đến năm 1965, Biên Hòa - Đồng Nai đã có 133 giáo xứ và 105 họ lẻ, 175
linh mục, 3 dòng tu nam, 8 dòng tu nữ với 865 tu sĩ và 164.144 giáo dân.
Trong tình hình đó, ngày 04 - 10 - 1965, Tòa thánh Rôma ra sắc lệnh cho
tách khỏi giáo phận Sài Gòn, thành lập giáo phận Xuân Lộc (bao gồm 3 tỉnh: Biên
Hòa, Long Khánh, Phước Tuy và thị xã Vũng Tàu), Tòa giám mục đặt tại Xuân Lộc,
tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.
Từ năm 1972 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chế độ Sài Gòn lại
hốt hàng loạt dân, trong đó có nhiều giáo dân ở những vùng chiến ác liệt, những
vùng tranh chấp giữa ta và địch ở miền Trung và một số nơi như: Bình Dương, Bình
Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Tuy... về định cư ở Biên Hòa - Đồng Nai lập
nên một số xứ, họ đạo mới. Một số giáo dân ở Campuchia hồi cư năm 1972 về sống
xen kẽ với các xứ, họ ở Túc Trưng (Định Quán), Xuân Định, Xuân Hiệp (Xuân
Lộc)... làm cho giáo phận Xuân Lộc ngày càng phát triển cả tôn giáo và chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Sau 20 năm từ năm 1954 đến 1974, từ một địa bàn chỉ có gần 20 ngàn giáo
dân thuộc giáo phận Sài Gòn, Biên Hòa - Đồng Nai trở thành vùng Công giáo lớn
với 333.410 giáo dân chiếm 36,6% dân số, với một tòa giám mục, 14 giáo hạt, 192
giáo xứ, 53 cơ sở dòng tu và tu hội với 1158 tu sĩ và trên 3000 thực tập sinh dự tu.
Mỹ - ngụy âm mưu lợi dụng lực lượng Công giáo di cư làm chỗ dựa để lôi
kéo giáo hội miền Nam chạy theo chủ nghĩa chống cộng mù quáng, ủng hộ cuộc
chiến tranh xâm lược, diệt chủng chống lại dân tộc mình. Quan điểm và lập trường
chống cộng cực đoan mà Mỹ - ngụy đầu độc ấy đã ràng buộc lương tâm, đè nặng lên
số phận của phần đông linh mục, tu sĩ và giáo dân làm cho họ phải băn khoăn, trăn
trở, day dứt. Một số giáo dân tại chỗ và giáo dân trong các đồn điền cao su đã trưởng
thành trong các phong trào yêu nước và kháng chiến chống Pháp, trước âm mưu xâm
lược miền Nam nước ta của đế quốc Mỹ đã đứng lên cùng toàn dân kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Một số xã Anh hùng lực lượng vũ trang như: Phú Hội, Bình
Sơn, Bình Lộc... có sự đóng góp của những người Công giáo kính chúa, yêu nước.
Ở những nơi đông có đến 90% gia đình giáo dân là cơ sở cách mạng, gia đình thương
binh, liệt sĩ. Nhiều thanh niên công giáo tham gia kháng chiến trở thành cán bộ lãnh
đạo ở cơ sở, có người đã trở thành cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước. Bà

8.10 Page 80

▲back to top


mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Cúc là người Công giáo tiêu biểu của Đồng Nai
có ba con là liệt sĩ. Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Sen là giáo dân ở Long Khánh,
bà mẹ Lê Thị Tin Biên Hòa đều có chồng và hai con là liệt sĩ. Đó là những người
công giáo tiêu biểu cho "lòng kính Chúa yêu nước".
Lực lượng này tuy ít so với số giáo dân di cư đến Đồng Nai từ năm 1954 và
các năm sau, nhưng đã có tác động và ảnh hưởng đến xu hướng ngày càng gắn bó
với dân tộc của họ ngay trong chế độ cũ. Một số linh mục, tu sĩ thức thời, cấp tiến
muốn đi tìm một hướng đi mới, hướng đi "trở về nguồn", "tìm về dân tộc" để sống
trong tương quan "đạo đời" tốt đẹp hơn. Họ đã công khai trình bày quan điểm của
mình và kêu gọi những người đồng đạo "người Công giáo chân chính là người phải
yêu dân tộc mình, phải hi sinh tất cả cho dân tộc". Có những linh mục, tu sĩ đã đồng
tình ủng hộ sự nghiệp kháng chiến chính nghĩa của nhân dân. Một số linh mục, tu sĩ
ở vùng giáp ranh đã cùng với giáo dân tiếp tế lương thực, thuốc men cho kháng chiến
như linh mục Nguyễn Trinh Đoàn ở nhà thờ Hiếu Liêm (Vĩnh Cửu), linh mục Trần
Quang Vũ ở nhà thờ Đồng Lách (Biên Hòa), có linh mục ở Hố Nai, Biên Hòa đã đấu
tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù, giúp đỡ thuốc men cho tù nhân là cán bộ kháng
chiến và đã tìm cách cứu thoát một số cán bộ, chiến sĩ giải phóng trong nhà tù lúc
giao thời trước giải phóng. Tiêu biểu là linh mục Nguyễn Trinh Đoàn, năm 1962 đã
tham gia Đại hội Mặt trận giải phóng miền Đông Nam bộ. Linh mục đã được Nhà
nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng hai và Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân
tộc.
Trong thời Mỹ - ngụy, lực lượng này còn nhỏ bé, nhưng tiếng nói của họ đã
có tác động góp phần thức tỉnh đối với giáo dân, nhất là đối với trí thức, thanh niên,
sinh viên học sinh.
Tuyệt đại đa số giáo dân di cư năm 1954 là nông dân vốn có truyền thống
cần cù lao động, họ vốn phải chắt chiu, dành dụm để đảm bảo cuộc sống. Vào Đồng
Nai vùng đất màu mỡ, mưa thuận, gió hòa, dân cư thưa thớt, họ đã khai hoang, mở
mang ngành nghề phát triển sản xuất. Với chính sách tư sản hóa miền Nam của Mỹ
- ngụy, người sản xuất cũng thay đổi thành phần, thay đổi cách làm ăn. Trung nông
phát triển, nông, lâm, ngư nghiệp đã sử dụng máy móc, kỹ thuật tư bản, tiểu thủ công
nghiệp phát triển, một số người bỏ lao động chuyển sang buôn bán hình thành các
khu sản xuất, buôn bán sầm uất, các thị tứ, thị trấn dọc các quốc lộ và ven thành phố
Biên Hòa ra đời làm cho kinh tế Đồng Nai có bước phát triển mới.
Một bộ phận được chế độ Mỹ - ngụy ưu đãi, có đặc quyền nên giàu lên nhanh
chóng. Nhưng đại đa số giáo dân vẫn là người nghèo khổ, nhiều người bị đưa đẩy
vào nghịch cảnh của cuộc chiến tranh phi nghĩa, dần nhận ra chính nghĩa của cách
mạng, có nhiều hoạt động góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc. Trong những

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


năm về sau, cách mạng đã xây dựng được cơ sở ở một số vùng giáo dân di cư, cả ở
vùng Kiệm Tân, Hố Nai... các cơ sở này góp phần đáng kể trong việc tiếp tế lương
thực, thuốc men cho kháng chiến.
+ Từ 30 - 4 - 1975 đến nay:
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện chủ trương giãn dân từ
thành phố đi xây dựng vùng kinh tế mới; Đồng Nai tiếp nhận nhiều người từ các đô
thị đến vùng kinh tế mới ở huyện Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Châu
Thành... trong đó có nhiều chức sắc, giáo dân (có cả số giáo dân bị Mỹ - ngụy cưỡng
ép di tản chiến tranh không thành). Từ năm 1977 về sau, ngoài số giáo dân ở thành
phố, ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến các vùng kinh tế mới, các nông trường,
lâm trường theo kế hoạch của Nhà nước, còn có hàng trăm ngàn giáo dân vào Đồng
Nai cư trú ngoài kế hoạch, hình thành các cụm dân cư mới. Trong đó có 72 cụm dân
cư mới có nhiều giáo dân như Suối Nho 4.200 giáo dân, Phú Điền 4150 giáo dân,
Gia Canh 2400 giáo dân... (thuộc huyện Định Quán). Các cụm dân cư có trên dưới
3000 giáo dân ở huyện Châu Thành như Suối Trầu, Suối Quýt, Cẩm Đường, Bàu
Cạn và 11 cụm dân cư mới ở huyện Xuyên Mộc (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu).
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, Đồng Nai là một trong những trung tâm kinh
tế trọng điểm phía Nam, có những định hướng phát triển lớn, tập trung nhất là phát
triển công nghiệp đòi hỏi một lực lượng lao động lớn. Một lần nữa, dân ở các nơi lại
dồn về Đồng Nai làm ăn sinh sống trong đó có nhiều giáo dân làm cho dân số phát
triển cơ học ngày một tăng. Do dân số phát triển cơ học ngày một tăng và tỉ lệ tăng
dân số tự nhiên trong giáo dân còn cao (2,45%) đưa số giáo dân trên địa bàn Biên
Hòa - Đồng Nai tăng lên không ngừng. Trong vòng hơn 20 năm qua, từ 1974 đến
nay số giáo dân trên địa bàn tăng gấp hơn 2 lần.
Từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng đến nay, tín đồ đạo Công giáo
ở Đồng Nai ngày càng gắn bó với dân tộc. Giáo dân lúc đầu còn hoang mang lo sợ,
nhưng với chính sách đối xử nhân đạo đối với những người có dính líu với chế độ
cũ, chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã đáp ứng được lòng
mong đợi của quần chúng giáo dân, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của đông
đảo quần chúng giáo dân với dân tộc.
Hơn 10 năm đổi mới, với những thành tựu về kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng và các mặt khác, quần chúng giáo dân ngày càng phấn khởi, tin tưởng vào
chính sách của Đảng và Nhà nước, mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Có nhiều hộ giáo dân như ở Hố Nai, Tân Biên, Tân Mai (thành phố Biên Hòa), Bắc
Sơn, Gia Tân, Gia Kiệm (huyện Thống Nhất) đã đầu tư hàng tỷ đồng phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi, dịch vụ... Việc đồng bào Công giáo phấn khởi
làm ăn tạo ra những kết quả mới trong đời sống kinh tế, xã hội, mức sống được cải
thiện, có vùng được nâng cao rõ rệt. Đã có nhiều hộ làm ăn khá giả, nhiều hộ giàu

9.2 Page 82

▲back to top


lên, nhiều hộ làm được nhà kiên cố, có tiện nghi sinh hoạt đắt tiền. Bộ mặt của xứ,
họ đạo đổi mới, đường nông thôn, khu phố được mở mang, tu bổ sạch đẹp, cuộc
sống cộng đồng ngày một an vui. Nhiều tập thể và cá nhân điển hình trong các phong
trào quần chúng, nhất là các hoạt động từ thiện xã hội như: xóa đói giảm nghèo, cứu
trợ thiên tai, giúp đỡ người cô đơn, tàn tật, đền ơn đáp nghĩa, xã hội hóa giáo dục,
giao thông nông thôn...
Do đời sống được cải thiện và từng bước nâng cao, giáo dân có điều kiện xây
dựng, tu bổ lại nhà thờ, nhà nguyện. Hầu hết các nhà thờ xây dựng tạm bợ thời chiến
tranh đều được trùng tu, hoặc xây dựng lại với qui mô rộng lớn hơn, khang trang,
hiện đại hơn. Sinh hoạt lễ nghi tôn giáo ngày một đông vui. Đại đa số giáo dân có
thể tìm thấy tinh thần đạo thực sự của mình ở chính ngay trong việc "hòa mình gắn
với dân tộc, với vận mệnh quê hương". Dấn thân phục vụ cùng với toàn dân xây
dựng xã hội mới là con đường tất yếu tạo nên "bộ mặt mới, vị thế mới" trong cộng
đồng dân tộc để duy trì và phát triển đạo.
Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng có những thay đổi quan trọng. Năm 1980
Hội đồng giám mục Việt Nam ra Thư chung tỏ thái độ tuân thủ chính sách pháp luật
của Nhà nước, đoàn kết cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường
hướng "Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào". Tuy
nhiên, thực hiện đường hướng nói trên là một quá trình lâu dài. Vì lịch sử giáo hội
Công giáo Việt Nam trước kia như Hội đồng giám mục Việt Nam đã thừa nhận:
"luôn xen lẫn ánh sáng và bóng tối". Những bóng tối đầy máu và nước mắt, đầy băn
khoăn trăn trở trong lòng người Công giáo Việt Nam, sống trong lòng dân tộc mà
không hoàn toàn thuộc về dân tộc. Chiến thắng vĩ đại của dân tộc ngày 30 - 4 - 1975
"đã mở ra một vận hội lịch sử mới" cho giáo hội Công giáo Việt Nam.
II.2.3. Đạo Tin Lành:
a) Khái quát:
Đạo Tin Lành là một tôn giáo cải cách, tách ra từ đạo Công giáo từ thế kỷ
XVI ở châu Âu. Đạo có đường hướng hoạt động năng động, luôn luôn đổi mới từ
nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội của mọi quốc gia dân tộc
mà đạo truyền đến, đặc biệt là chủ trương "nhập thế" lấy hoạt động xã hội làm
phương tiện, điều khiển để thu hút tín đồ.
Đạo Tin Lành truyền vào Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX do tổ chức Tin Lành Liên hiệp Phúc âm và Truyền giáo Mỹ (CMA) thực
hiện. Những năm đầu truyền đạo ở Việt Nam, CMA gặp nhiều khó khăn về chính
trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, trong đó phải kể đến sự chèn ép, cấm cách của Pháp.
Mãi đến năm 1911, CMA mới đặt được cơ sở Hội thánh đầu tiên, rất ít tín đồ ở Đồng
Nai, chỉ phát triển từ năm 1954 đến năm 1975.

9.3 Page 83

▲back to top


Đạo Tin Lành truyền vào Đồng Nai chưa lâu, số lượng tín đồ ít, đến nay toàn
tỉnh có 8530 tín đồ thuộc 16 hội thánh với 16 thánh đường và 12 tụ điểm nằm rải rác
trên khắp các địa bàn từ thành phố, nông thôn đến các vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số trong tỉnh. Đạo Tin Lành ở Đồng Nai đã trở thành một tôn giáo tương
đối hoàn chỉnh, lại có mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng nên có điều kiện để
tiếp tục phát triển.
Về tổ chức, đạo Tin Lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất phổ
quát cho toàn đạo, mà đi theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với các
hình thức khác nhau tùy theo hệ phái, hoặc theo từng quốc gia. Trong cơ cấu tổ chức
giáo hội, các hệ phái Tin Lành chủ trương giao quyền tự trị cho các giáo hội cơ sở:
chi hội, các cấp hội thánh bên trên hình thành phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cho
phép. Trước năm 1975, tổ chức hội thánh Tin Lành miền Nam có 3 cấp: tổng liên
hội, địa hạt, chi hội (hay hội thánh cơ sở). Các chi hội ở Đồng Nai thuộc địa hạt miền
Đông Nam bộ. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, đạo chưa xây
dựng được tổ chức giáo hội bên trên cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới,
các hội thánh cơ sở đều độc lập, nhưng với tinh thần đồng đạo, tín đồ các hội thánh
vẫn có mối quan hệ tình cảm với nhau, chịu sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và
được phép cử đại diện phối hợp giữa các Hội thánh trong tỉnh để tiến hành một số
hoạt động chung như tổ chức bồi linh, mở các lớp giáo lý, các hoạt động từ thiện xã
hội
b) Quá trình phát triển qua các thời kỳ:
+ Từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1954:
Năm 1915, sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, mượn cớ các giáo sĩ Tin Lành
Mỹ làm gián điệp cho Đức, trong lúc đó Pháp đánh nhau với Đức, nhà cầm quyền
Pháp ở Đông Dương cấm các giáo sĩ CMA hoạt động. Để tránh sự kiểm soát của
nhà cầm quyền Pháp, các giáo sĩ CMA từ Sài Gòn lẻn về Đồng Nai truyền giáo. Từ
năm 1915 đến năm 1923 đã có một số người ở Biên Hòa theo đạo, CMA thuê một
căn nhà ở Biên Hòa làm nơi giảng đạo và sinh hoạt tôn giáo. Năm 1924, CMA lập
được Hội thánh ở Biên Hòa, Hội thánh đầu tiên ở Đồng Nai. Thời kỳ Nhật xâm
chiếm Việt Nam, Nhật cấm đạo Tin Lành hoạt động, đạo không phát triển được.
Suốt quá trình truyền giáo vào Đồng Nai từ năm 1915 đến năm 1954, đạo Tin Lành
ở Đồng Nai chỉ có 1746 tín đồ với 5 hội thánh ở Biên Hòa, Long Thành, Long Khánh,
Định Quán thuộc tổng liên hội Tin Lành Việt Nam.
+ Từ năm 1954 đến năm 1975:
Sau hiệp định Genève về Việt Nam (1954) CMA đẩy mạnh hơn bao giờ hết
việc đầu tư tiền của, phương tiện, đội ngũ giáo sĩ... giúp tổng liên hội hội thánh Tin
Lành Việt Nam (miền Nam) gọi tắt là Hội thánh Tin Lành miền Nam, xây dựng hệ
thống tổ chức, mở rộng các cơ sở tôn giáo, kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều nơi, củng

9.4 Page 84

▲back to top


cố và mở rộng các cơ sở đào tạo giáo sĩ, xây dựng Trường thánh kinh học viện Nha
Trang và mở 2 Trường thánh kinh cho Tây Nguyên. Mặc dù trên danh nghĩa Hội
thánh Tin Lành miền Nam là một tổ chức độc lập, nhưng mối quan hệ giữa CMA
với Hội thánh Tin Lành miền Nam được thiết lập chặt chẽ. CMA lập ban Trị sự đặt
bên cạnh tổng liên hội là "thuộc viên" của CMA. Một số giáo sĩ CMA được đưa vào
miền Nam bố trí ở các cấp Tổng Liên hội, các địa hạt và các địa bàn quan trọng để
phối hợp hoạt động.
Trong giai đoạn này, đạo Tin Lành đặc biệt chú trọng hướng hoạt động truyền
giáo đến các vùng dân tộc thiểu số, nơi chưa có một tôn giáo chính thống hoặc tôn
giáo đang suy thoái, nơi trình độ dân sinh, dân trí còn thấp. Truyền giáo ở vùng này,
đạo Tin Lành không những biết thích nghi với phong tục tập quán của địa phương,
còn tiếp tục đơn giản luật lệ, lễ nghi cách thức hành đạo vốn rất đơn giản, dễ
dàng hòa nhập với văn hóa, tâm lý, lối sống của người dân, từ đó lôi cuốn họ vào
đạo. Tổng Liên hội Tin Lành miền Nam có "bộ phận truyền đạo cho người Thượng".
Nó được quyền ưu tiên và có quy chế đặc biệt. Các giáo sĩ người dân tộc thiểu số
được tuyển chọn đào tạo công phu. Ở Đồng Nai có 16 mục sư và truyền đạo, trong
đó có 5 truyền đạo là người dân tộc thiểu số, phụ trách các hội thánh của người dân
tộc thiểu số.
Sau hơn 20 năm từ năm 1954 đến năm 1975, đạo Tin Lành ở Đồng Nai phát
triển nhanh chóng, số tín đồ và hội thánh cơ sở tăng gấp 3 lần năm 1954, đặc biệt là
xây dựng được nhiều cơ sở truyền giáo ở vùng dân tộc thiểu số.
Trong thời kỳ này ngoài hai hệ phái Tin Lành đã có từ trước là hội thánh Tin
Lành miền Nam (thuộc CMA) và Cơ đốc Phục lâm, còn có 25 hệ phái, tổ chức tôn
giáo xã hội quốc tế, chủ yếu là thuộc các hệ phái Tin Lành ở Mỹ và truyền giáo, xây
dựng cơ sở ở miền Nam. Trên địa bàn Đồng Nai có các hệ phái: Cơ đốc Phục lâm,
Báp - tít, Trưởng lão, Ngũ tuần, vào hoạt động truyền giáo, nhưng chỉ xây dựng được
3 cơ sở truyền giáo ở Biên Hòa, Long Khánh, Định Quán với 65 tín đồ. Năm 1960,
một mục sư người Mỹ bỏ tiền của và đứng tên xây dựng thánh đường của phái này
ở phường Quang Vinh, Biên Hòa.
+ Từ sau ngày 30 - 4 - 1975 đến nay:
Sau giải phóng, số giáo sĩ người Mỹ và nước ngoài, một số mục sư, truyền
đạo người Việt là tuyên úy quân đội Sài Gòn chạy ra nước ngoài. Các hệ phái, tổ
chức Tin Lành mới vào Đồng Nai truyền giáo sau năm 1954 cũng rời khỏi Đồng
Nai, kể cả phái Cơ đốc Phục lâm có một thánh đường do người Mỹ xây dựng, mục
sư này cũng bỏ ra nước ngoài, thánh đường không sử dụng nữa. Ở Đồng Nai chỉ còn
lại hội thánh Tin Lành Việt Nam, lực lượng truyền giáo giảm. Nhưng với phương
thức truyền đạo năng động, thích nghi với mọi hoàn cảnh xã hội, đạo Tin Lành ở
Đồng Nai tiếp tục được củng cố và phát triển, nhất là sau khi mối bang giao với nước

9.5 Page 85

▲back to top


ngoài mở rộng, được sự chi viện của các hệ phái, tổ chức Tin Lành ở nước ngoài,
hội thánh Tin Lành Việt Nam tích cực củng cố tổ chức, phát triển lực lượng bằng
nhiều hình thức vừa linh hoạt vừa mềm dẻo. Hội thánh Tin Lành Việt Nam tiếp tục
tập trung vào vùng dân tộc thiểu số và mở rộng ra các vùng sâu, vùng xa, các vùng
kinh tế mới còn nhiều khó khăn để truyền giáo, hình thành các tụ điểm và các tổ
chức hội thánh cơ sở mới.
Các tổ chức, hệ phái Tin Lành khác, sau khi giải phóng rời khỏi Đồng Nai,
nay cũng vào Đồng Nai tìm cách khôi phục lại các cơ sở đã bị tê liệt để truyền giáo.
Phái Cơ đốc Phục lâm đã khôi phục được tụ điểm sinh hoạt tôn giáo ở xã Phước Thái
(Long Thành) với gần 200 tín đồ; một số tín đồ ở Phú Túc (Định Quán) và ở các
phường nội ô thành phố Biên Hòa cũng trở lại sinh hoạt tôn giáo. Các hệ phái trên
còn lôi kéo cả mục sư, truyền đạo và tín đồ của hội thánh Tin Lành Việt Nam và tín
đồ đạo Công giáo theo hệ phái của họ.
Tín đồ đạo Tin Lành lúc đầu phần lớn là tầng lớp: tiểu thương, tiểu chủ, trí
thức, thanh niên học sinh, cơ sở xã hội chưa sâu rộng như các tôn giáo khác, nhưng
sau này đạo Tin Lành mở rộng phát triển ảnh hưởng của mình đến những vùng xa,
vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
II.2.4. Đạo Cao Đài:
a) Khái quát chung:
Vào những năm 20 của thế kỷ này, đạo Cao Đài đã xuất hiện trong thời điểm
lịch sử khá đặc biệt. Nhân dân Việt Nam, trong đó nhân dân Nam kỳ cùng cảnh ngộ
bị chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp áp bức bóc lột nặng nề. Các phong trào
khởi nghĩa của nông dân và sĩ phu yêu nước nổi lên nhiều nơi, nhưng đều bị bọn
thống trị và tay sai đàn áp khốc liệt nên đều thất bại, không tìm được lối thoát. Lòng
khao khát một sự giải thoát về tinh thần trước tình cảnh ngày càng khốn cùng đó đã
trở thành nhu cầu của đông đảo nhân dân. Khi người ta không tìm ra được lối thoát
cho cuộc sống hiện tại thì không tránh khỏi trông mong vào sự giải thoát ở đời sau
bằng con đường tìm đến tôn giáo. Sự xuất hiện của đạo Cao Đài mà nhiều người ở
Nam kỳ nghĩ đây là đạo mới, đạo may ra là cứu cánh, sự giải thoát cho con người
trong cảnh khốn cùng. Đạo Cao Đài ra đời và phát triển trong bối cảnh đó.
Năm 1926, đạo Cao Đài ra đời tại Tây Ninh đã có hơn 10 ngàn tín đồ. Nhưng
chỉ sau 4 năm, năm 1930 số tín đồ đã tăng lên gần nửa triệu. Mặc dù đạo Cao Đài
mới ra đời tồn tại ở một số địa phương và trong quá trình phát triển có những yếu tố
chính trị phức tạp, nhưng đạo Cao Đài có những thành tố của một tôn giáo: có hệ
thống giáo lý, luật lệ, lễ nghi, đội ngũ chức sắc, chức việc, tổ chức giáo hội, cơ sở
thờ tự ở các tỉnh Nam bộ và Trung bộ. Đạo mang tính chất quần chúng rộng rãi (hiện
có khoảng hơn 2 triệu tín đồ), mức độ tín ngưỡng sâu sắc.

9.6 Page 86

▲back to top


Năm 1926, đạo Cao Đài chính thức ra đời thì năm 1927 đã xây dựng được
cơ sở đầu tiên ở vùng Đất Đỏ (Long Đất) do chánh phối sư Nguyễn Ngọc Tương lúc
đó là viên chức làm việc cho chính quyền Pháp ở Xuyên Mộc đứng đầu. Từ đó, phát
triển ra Châu Thành, Long Thành, Biên Hòa và các huyện khác trên địa bàn Đồng
Nai (nay là Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai).
Khi mới ra đời, đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu não
Tòa thánh Tây Ninh. Nhưng đến năm 1945, đạo Cao Đài chia thành 12 hệ phái,
mỗi hệ phái đều có tổ chức giáo hội riêng. Trong thời kỳ Mỹ xâm lược miền Nam,
đạo Cao Đài tiếp tục phân hóa thành nhiều tổ chức hệ phái khác. Mỗi hệ phái có xu
hướng hành đạo và thái độ chính trị khác nhau. Có thể nói quá trình phát triển của
đạo Cao Đài là quá trình chia rẽ về tổ chức và phân hóa về thái độ chính trị. Trước
đây tuy một số chức sắc trong một số phái Cao Đài mang tư tưởng cơ hội, vọng
ngoại, bị các thế lực đế quốc, phản động mua chuộc lôi kéo, bôi nhọ thanh danh của
đạo, đi ngược lại sự nghiệp của toàn dân, nhưng đa số quần chúng tín đồ và một số
chức sắc đạo Cao Đài nhất là các phái Cao Đài Ban chỉnh đạo, Cao Đài Tiên thiên...
có những đóng góp xứng đáng cho dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Sau giải phóng một số tín đồ trở về quê cũ hoặc đi nơi khác làm cho số tín
đồ ở Đồng Nai giảm. Đạo Cao Đài ở Đồng Nai hiện có 24 thánh thất, 7 điện thờ Phật
mẫu với 9652 tín đồ thuộc 4 hệ phái, trong đó phái Tây Ninh có đông tín đồ nhất.
Các phái Cao Đài được truyền vào Đồng Nai ở các thời điểm khác nhau và phát triển
cũng khác nhau trong từng thời kỳ.
b) Quá trình phát triển qua các thời kỳ của các phái Cao Đài ở Đồng
Nai:
+ Cao Đài Ban chỉnh đạo:
Phái Cao Đài Ban chỉnh đạo tách ra khỏi Tòa thánh Tây Ninh từ năm 1934,
đi theo giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, một viên chức có lòng yêu nước. Tuy là chức
sắc cao cấp của Cao Đài, nhưng bất bình trước một số chức sắc cao cấp ở Tòa thánh
Tây Ninh làm tay sai cho Pháp chống lại nhân dân, ông về Bến Tre lập hội thánh
Ban chỉnh đạo, ý là để chỉnh đốn lại đạo. Đạo Cao Đài ở Đồng Nai cũng do ông
truyền vào và xây dựng nên khi ông đứng ra thành lập phái Cao Đài Ban chỉnh đạo
thì khoảng một nửa tín đồ Cao Đài ở Đồng Nai này tách ra đi theo phái Cao Đài Ban
chỉnh đạo do ông là giáo tông.
Là một chi nhánh của Cao Đài Tây Ninh tách ra, nhưng phái Cao đài Ban
chỉnh đạo có những nét tiến bộ về mặt tôn giáo và đi với dân tộc về mặt chính trị.
Từ khi ra đời, đạo Cao Đài chủ yếu dựa vào "thánh ngôn, thánh giáo, thần quyền,
cơ bút", nhưng phái Ban chỉnh đạo ngay từ khi ra đời đã công khai tuyên bố không
sử dụng cơ bút làm phương tiện hành đạo và điều khiển Hội thánh. Phương thức

9.7 Page 87

▲back to top


hành đạo chủ yếu dựa theo nghị quyết dân chủ công khai. Điều đó không chỉ biểu
hiện ở sự nghiệp đạo đức của giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, mà còn thể hiện yếu
tố yêu nước, thương nòi, đi với dân tộc của phái Ban chỉnh đạo.
Lập trường tiến bộ và cởi mở của giáo tông thể hiện qua việc thu nhận và
phong chức cao cấp trong đạo cho những người tham gia cách mạng và cả một số
trường hợp có án tù chính trị chống Pháp để có điều kiện tập hợp quần chúng tín đồ
đấu tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của đế quốc, thực dân và bọn phản động
tay sai. Ngược lại, ông ra lệnh bãi miễn các chức sắc theo Pháp, theo Nhật chống lại
nhân dân. Lập trường yêu nước, đi với dân tộc của giáo tông thể hiện cao đẹp nhất
trong việc ông đã cho hai người con trai của mình theo kháng chiến, một là phó tư
lệnh chiến khu 9 và một là ủy viên Ủy ban kháng chiến Nam bộ. Đồng thời giáo tông
cũng tán thành chủ trương lập Cao Đài cứu quốc Trung ương mà Nguyễn Ngọc Nhật
con trai ông làm phó chủ tịch để cùng với toàn dân kháng chiến cứu nước. Lập trường
yêu nước, đi với dân tộc của phái Ban chỉnh đạo đứng đầu là giáo tông Nguyễn Ngọc
Tương còn được khẳng định rõ bằng chủ trương tẩy chay việc thành lập quân đội
Cao Đài năm 1945, thực chất là quân đội tay sai của phát xít Nhật.
Thái độ yêu nước về mặt chính trị và tiến bộ về mặt tôn giáo của phái Cao
Đài Ban chỉnh đạo đã góp phần không nhỏ làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo
của đế quốc, thực dân, gạt bỏ các phần tử tay sai muốn lũng đoạn các phái Cao Đài
tiến bộ.
Trong thời kỳ 1954 - 1975, do sự đàn áp, khủng bố của Mỹ - ngụy một số
chức sắc, chức việc Cao Đài Ban chỉnh đạo chạy về Sài Gòn lập Cao Đài Ban chỉnh
đạo Đô thành, số còn ở lại trở thành Cao Đài Ban chỉnh đạo Bến Tre. Nhưng ở Đồng
Nai các họ đạo và đa số tín đồ dù ở đô thị hay nông thôn đều thuộc về Cao Đài Ban
chỉnh đạo Đô thành. Trong thời kỳ này, mặc dù Mỹ - ngụy tìm mọi cách lôi kéo,
thao túng các hệ phái, một số chức sắc Cao Đài Ban chỉnh đạo ngả theo Mỹ - ngụy,
nhưng đa số chức sắc, tín đồ Cao Đài Ban chỉnh đạo tiếp tục đóng góp sức người,
sức của cho cách mạng.
Trên địa bàn Đồng Nai (bao gồm cả tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay) chỉ
có 10 họ đạo với 5670 tín đồ, đã có 251 người tham gia kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cứu nước, có 192 người đã anh dũng hy sinh được công nhận là liệt sĩ.
Phái Cao Đài Ban chỉnh đạo ở Đồng Nai rất tự hào về việc các tín đồ phái mình tham
gia kháng chiến, trong đó có đại tá Nguyễn Thanh Hồng.
Từ tấm lòng yêu nước, gắn bó với dân tộc của giáo tông Nguyễn Ngọc
Tương, đến sự ra đời của tổ chức Cao Đài cứu nước, phái Cao Đài Ban chỉnh đạo đã
làm trong sáng đường lối hành đạo của giáo tông vào thực tiễn của đất nước ta. Ngày
8 - 12 - 1954, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trao tặng huân chương

9.8 Page 88

▲back to top


Kháng chiến hạng nhất cho gia đình giáo tông Nguyễn Ngọc Tương và huân chương
Kháng chiến hạng hai cho hội thánh Cao Đài Ban chỉnh đạo.
Phát huy truyền thống yêu nước, đi với dân tộc, từ sau ngày giải phóng đến
nay, phái Cao Đài Ban chỉnh đạo ở Đồng Nai không những tích cực tham gia cùng
toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn góp phần quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống bọn phản động và các phần tử xấu trong các phái Cao Đài để bảo vệ và
đưa các phái Cao Đài trở về với dân tộc.
+ Cao Đài Tây Ninh:
Mặc dù người đầu tiên tổ chức truyền giáo và xây dựng cơ sở đạo Cao Đài ở
Đồng Nai là chánh phối sư Nguyễn Ngọc Tương, một chức sắc cao cấp có tinh thần
yêu nước, sau tách ra lập Cao Đài Ban chỉnh đạo, nhưng Tòa thánh Tây Ninh vẫn
phái chức sắc của mình về Đồng Nai nắm tín đồ, xây dựng tổ chức Cao Đài Tây
Ninh ở đây. Trên địa bàn Đồng Nai phái Tây Ninh chỉ có 10 thánh thất với 7861 tín
đồ. Tòa thánh Tây Ninh đã xây dựng một hệ thống tổ chức gồm 1 khâm trấn (bao
gồm Đồng Nai và Bình Thuận) 3 châu đạo, 8 tộc đạo, 32 họ đạo và 41 hương đạo
với 379 chức sắc, chức việc.
Cao Đài Tây Ninh là một phái lớn, liên tục có sự phân hóa mạnh mẽ về
khuynh hướng. Trong khi đa số tín đồ và một số chức sắc có tinh thần yêu nước tham
gia các phong trào chống Pháp thì một số chức sắc thống lĩnh tối cao tại tòa thánh
Tây Ninh lại hợp tác với Pháp. Khi Nhật đổ quân vào miền Nam, họ lại ngả về phía
phát xít Nhật, dựa vào quân đội Nhật để phát triển tín đồ và mở rộng địa bàn hoạt
động. Bốn năm sau (1945) Nhật đầu hàng Đồng minh, Cách mạng tháng Tám bùng
nổ. Với khí thế sôi sục, mọi người Việt Nam yêu nước đều hăng hái đứng lên giành
chính quyền. Lúc bấy giờ đông đảo tín đồ cùng với một số chức sắc cùng nhân dân
giành chính quyền ở các địa phương, tham gia Mặt trận Việt Minh.
Pháp dựa vào quân đội Anh trở lại xâm lược nước ta, nhân dân Nam bộ đứng
lên ngăn cản bước tiến của quân Pháp, tiếng súng Nam bộ kháng chiến nổ ra ở khắp
nơi. Nhiều tín đồ Cao Đài đứng trong hàng ngũ Việt Minh cầm súng, cầm giáo mác
kháng chiến chống Pháp. Những người cầm đầu Cao Đài Tây Ninh rất hoang mang
dao động, bề ngoài tỏ ra hợp tác với Mặt trận Việt Minh, nhưng thật sự bên trong họ
vẫn giữ nguyên quân đội Cao Đài và bí mật hợp tác với Pháp. Năm 1946, Phạm
Công Tắc được Pháp đưa về tòa thánh Tây Ninh thì quân đội Cao Đài được Pháp
trang bị vũ khí và nuôi dưỡng, đã công khai dựa vào Pháp đánh phá ác liệt vùng tự
do. Ở Đồng Nai, phái Cao Đài Tây Ninh triển khai đóng đồn bốt, càn quét gom dân
lập các châu đạo và các "khu chu vi quốc gia" do họ kiểm soát ở Tân Vạn, Bửu Hòa,
Bến Gỗ.

9.9 Page 89

▲back to top


Mỹ thay chân Pháp xâm lược miền Nam, những người cầm đầu Cao Đài Tây
Ninh lại lèo lái Cao Đài Tây Ninh theo con đường làm hậu thuẫn chính trị cho Mỹ
và chính quyền tay sai tiếp tục chống lại nhân dân.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đáng lẽ họ phải thức thời trở về
với nhân dân, trở về con đường tu hành chân chính. Nhưng một số chức sắc và sĩ
quan quân đội Cao Đài cũ vẫn nuôi mộng dựa vào đế quốc và bọn phản động ở nước
ngoài tiếp tục chống phá cách mạng. Chúng gieo rắc tư tưởng phản động, đẩy mạnh
chiến tranh tâm lý gây hoang mang trong quần chúng tín đồ và ngầm lập ra các tổ
chức phản động, xây dựng lực lượng vũ trang hòng chờ thời cơ phối hợp với đế quốc
và bọn phản động ở nước ngoài gây bạo loạn phản cách mạng, lật đổ chế độ.
Để ngăn chặn hành vi phạm pháp của bọn phản động và các phần tử xấu
trong phái Cao Đài Tây Ninh, đồng thời để giúp những tín đồ tu hành chân chính
thoát ra khỏi sự khống chế kìm kẹp của chúng, chính quyền Tây Ninh và các tỉnh có
tín đồ Cao Đài Tây Ninh đưa ra công khai những hoạt động nguy hại đến an ninh
quốc gia, phá hoại đạo của bọn chúng trước ánh sáng của luật pháp và dư luận của
chức sắc, tín đồ. Đa số quần chúng tín đồ nhận rõ những hành vi phạm tội của một
số chức sắc và sĩ quan quân đội Cao Đài cũ, đứng lên đấu tranh giành lại quyền kiểm
soát hội thánh Cao Đài Tây Ninh, đưa đạo đi vào con đường trở về với dân tộc.
Đến nay, chức sắc và tín đồ Cao Đài Tây Ninh đã tổ chức được Đại hội đại
biểu thông qua hiến chương và điều lệ cầu phong, cầu thăng theo luật công cử. Đại
hội đã công cử được các chức sắc và chức vụ của cơ quan thường trực hội thánh Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh. Tổ chức giáo hội đã được chính quyền công
nhận tư cách pháp nhân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây mở ra trang sử mới của phái Cao Đài Tây Ninh để
cho quần chúng tín đồ yên tâm "phụng đạo, yêu nước", làm cho "nước vinh đạo
sáng".
+ Cao Đài Trung Việt Truyền giáo:
Sau những năm 1930, một số trí thức, sinh viên, học sinh các tỉnh miền Trung
vào Sài Gòn làm ăn sinh sống và học tập đã tiếp nhận đạo Cao Đài và phát triển
thành Cao Đài Trung Việt Truyền giáo (nay đổi thành Truyền giáo Cao Đài). Tòa
thánh trung tâm đặt tại Đà Nẵng, tín đồ tập trung chủ yếu ở Quảng Nam, Đà Nẵng
và các tỉnh miền Trung, các tỉnh Đông Nam bộ tín đồ Truyền giáo Cao Đài ít. Tại
Đồng Nai chỉ có thánh thất và tổ chức hội thánh ở Suối Nghệ, Châu Thành (nay là
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Có gần 100 tín đồ nằm rải rác ở các huyện Xuân Lộc, Long
Khánh, Long Thành trực thuộc ban trị sự hội thánh Suối Nghệ.
Từ năm 1975 đến nay, tín đồ Truyền giáo Cao Đài từ các tỉnh miền Trung
vào Đồng Nai làm ăn sinh sống, tự hình thành các xã đạo: Xuân Thọ, Xuân Trường
(Xuân Lộc), Cẩm Mỹ (Long Khánh), La Ngà (Định Quán), Dầu Giây (Thống Nhất),

9.10 Page 90

▲back to top


Bình Sơn (Long Thành), Cây Gáo (Vĩnh Cửu) và phát triển được một số tín đồ ở
Đồng Nai lên 526 người.
Tháng 7 năm 1996, Truyền giáo Cao Đài tổ chức hội nhân sinh thông qua
đạo qui và tổ chức nhân sự hội thánh. Hội thánh Truyền giáo Cao Đài đã được Ban
Tôn giáo Chính phủ công nhận tư cách pháp nhân hoạt động theo chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
+ Cao Đài Tiên thiên:
Năm 1934, một số chức sắc về Mỹ Tho lập “Cao Đài Thiên thai tịnh” sau
dời về Bến Tre đổi là Cao Đài Tiên thiên. Trong thời kỳ chống Pháp phái Cao Đài
Tiên thiên tham gia tổ chức “Cao Đài cứu quốc 12 phái hợp nhất" để động viên chức
sắc, tín đồ tham gia kháng chiến. Năm 1955, Cao Đài Tiên thiên phối hợp với các
lực lượng yêu nước trong các phái khác đấu tranh chống Mỹ - Diệm, đòi thi hành
hiệp định Genève, chống khủng bố đạo Cao Đài....
Tòa thánh trung tâm của Cao Đài Tiên thiên ở Bến Tre, tín đồ tập trung chủ
yếu ở Bến Tre, Long An, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 1975, ở
Đồng Nai chỉ có vài chục tín đồ ở huyện Tân Phú. Sau năm 1975, tín đồ Cao Đài
Tiên thiên ở Bến Tre, Long An, và Thành phố Hồ Chí Minh về Đồng Nai làm ăn
sinh sống ở các vùng kinh tế mới, các lâm trường huyện Tân Phú, hình thành các
cụm dân cư, tín đồ Cao Đài Tiên thiên ở Đồng Nai lên gần 400 người. Năm 1993,
xây dựng thánh tịnh ở xã Phú Bình (Tân Phú) và thành lập họ đạo của liên xã trong
huyện, bầu ban cai quản ban trị sự để cai quản thánh tịnh, hướng dẫn tín đồ tu
học hành đạo và làm phước thiện.
Tháng 2 - 1995, Cao Đài Tiên thiên tổ chức hội Vạn Ninh thông qua hiến
chương và suy cử chức sắc vào cơ quan thượng hội và ban thường trực hội thánh
Cao Đài Tiên thiên. Hội thánh Cao Đài Tiên thiên đã được Ban Tôn giáo Chính phủ
công nhận tư cách pháp nhân, nội dung và phạm vi hoạt động tôn giáo trong khuôn
khổ pháp luật Nhà nước.
II.2.5. Hồi giáo (Ixlam):
Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, một trong những khu vực phát
triển của Hồi giáo, tín đồ Hồi giáo chiếm 3/5 dân số khu vực. Nhưng ở Việt Nam
chỉ có người Chăm theo Hồi giáo với khoảng 50 ngàn tín đồ tập trung ở các khu vực
chủ yếu: Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Tây Ninh. Hồi giáo ở Việt Nam thường bị pha trộn với tín ngưỡng và phong tục, tập
quán ở địa phương và vay mượn từ các nguồn khác, không mang tính chính thống
như Hồi giáo ở vùng Trung Cận Đông.
Người Chăm với tôn giáo cổ là đạo Bà - la - môn, đã biết đến Hồi giáo từ thế
kỷ X, XI, nhưng chỉ sau biến cố lịch sử vào giữa thế kỷ XV với sự suy vong của nhà

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


nước Chămpa, tín ngưỡng Hồi giáo của người Chăm mới được biểu hiện rõ. Các khu
vực Hồi giáo của người Chăm ở nước ta được hình thành với những lý do khác nhau:
- Khu vực Châu Đốc (An Giang) được hình thành do những biến cố chính
trị ở Campuchia, người Chăm Hồi giáo ở đây đã lánh nạn chạy về xin nhà Nguyễn
cư trú ở Châu Đốc.
- Khu vực Hồi giáo Tây Ninh được hình thành vào thế kỷ XVIII do sự chạy
trốn của hai thủ lĩnh người Chăm Hồi giáo tới cư ngụ.
- Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành trong thời Pháp thuộc
do họ nhập cư vào thành phố.
- Khu vực Đồng Nai được hình thành trong chiến lược giãn dân của chế độ
Sài Gòn.
Do vị trí địa lý, hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và mức độ giao lưu với
bên ngoài, nhất là với thế giới Hồi giáo đã hình thành hai khối người Chăm Hồi giáo
ở Việt Nam.
- Khối người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Hồi giáo không chính
thống gọi là Chăm Bà Ni.
- Khối người Chăm ở Châu Đốc, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng
Nai là khối Hồi giáo chính thống gọi là Chăm Ixlam. Giữa hai khối này có sự khác
biệt đáng kể.
Hồi giáo Ninh Thuận (Chăm Bà Ni) chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục tập
quán, tín ngưỡng truyền thống, nhất là pha trộn với những yếu tố của đạo Bà - la -
môn và chế độ mẫu hệ như: đặt Mahomet ngang hàng với các tiên nữ, coi Mếc - ca
là thiên đàng của nữ thần... Giáo luật Hồi giáo có nhiều thay đổi và thực hiện không
đầy đủ. Phụ nữ có quyền đi hỏi và cưới chồng, người chồng phải ở rể và phụ thuộc
vào vợ và bố mẹ vợ.
Hồi giáo ở Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Châu Đốc (Chăm
Ixlam) sinh hoạt tôn giáo chính thống và sôi động hơn. Các luật lệ, lễ nghi Hồi giáo
được tuân thủ đầy đủ hơn. Đặc biệt Hồi giáo ở đây có mối quan hệ với thế giới Hồi
giáo bên ngoài nhiều hơn, chặt chẽ hơn. Chính điều này là nhân tố quan trọng làm
cho Hồi giáo ở đây ít biến dạng hơn. Trong khối người Chăm Ixlam ở đây còn phải
kể đến vai trò và ảnh hưởng của người Ma - lay - xi - a là cội nguồn du nhập và nuôi
dưỡng Hồi giáo người Chăm. Trước kia vai trò và ảnh hưởng của người Ma - lay -
xi - a không đều, đậm nhất là vùng Châu Đốc, còn ở Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí
Minh, Tây Ninh thì nhạt hơn. Nhưng những năm gần đây người Ma - lay - xi - a vào
đầu tư ở vùng trọng điểm kinh tế phía Nam thì mối quan hệ với Ma - lay - xi - a được
mở rộng hơn. Từ đó mối quan hệ với thế giới Hồi giáo bên ngoài cũng nhiều hơn.

10.2 Page 92

▲back to top


Về phương diện tổ chức giáo hội, giáo hội Hồi giáo thường tổ chức theo từng
quốc gia, chịu ảnh hưởng tập tục, truyền thống lịch sử và thể chế chính trị ở nước
đó. Ở Việt Nam thời Pháp thuộc tổ chức giáo hội Hồi giáo do giáo cả người Ma -
lay - xi a - đứng đầu. Vào những năm 1955 đến 1960 lập ra tổ chức "Hiệp hội Chăm
Hồi giáo Việt Nam", các khu vực người Chăm Ixlam đều có các chi hội và ban đại
diện. Việc lập "Hiệp hội Chăm Hồi giáo Việt Nam" làm nảy sinh mâu thuẫn nội bộ
nên năm 1966 thống nhất thành lập một tổ chức mới lấy tên là "Hội đồng giáo cả
Hồi giáo Việt Nam" và tồn tại đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Sau giải phóng, "Hội đồng giáo cả Hồi giáo Việt Nam" không còn nữa, chỉ
còn tổ chức Hội đồng Giáo cả của từng thánh đường hoạt động độc lập, chỉ có quan
hệ giữa các tín đồ của các thánh đường với nhau về mặt tình cảm của những người
đồng đạo mà thôi. Ở Đồng Nai có 2 thánh đường, 1 ở Xuân Hưng (Xuân Lộc) và 1
thánh đường ở Bình Sơn (Long Thành) với 1079 tín đồ.
ẢNH 1
1- Sắc thần (Đình Tân Lân, Biên Hòa)
ẢNH 2
2- Bàn thờ Cụ Hồ.
ẢNH 3
3- Bày trí gian chính ở nhà xưa.
ẢNH 4
4- Liễn đối ở đình Bình Kính.
ẢNH 5
5- Linh vị bà Nguyễn Thị Tồn (xã Bửu Hòa, Biên Hòa).
ẢNH 6
6- Linh vị Minh vật nhất tri (chùa Kim Long, Vĩnh Cửu).

10.3 Page 93

▲back to top


ẢNH
Đọc văn tế (Đền Hùng Vương, Biên Hòa)
ẢNH
Lễ sinh và đào thài (hiến tế, cúng đình).
ẢNH
Lễ hội nghinh Cô (bãi biển Long Hải)
ẢNH
Ban nhạc lễ cúng đình.
ẢNH
Địa Nàng – Bóng rỗi
(1- dâng mâm vàng, 2- múa bông, 3- xoay đĩa, 4- rót rượu, 5- nâng ghế, 6-
nâng ly và 7- địa nàng).
ẢNH
Cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo
(1- Đình Phú Mỹ, 2- Chùa Hộ Quốc, 3- Nhà thờ Phú Hội).
I. TẬP QUÁN - TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN:
I.1. LỄ THỨC VÀ TẬP QUÁN TRONG MỘT VÒNG ĐỜI NGƯỜI:
I.1.1. Việc sinh, dưỡng:
Vòng đời người được tính từ khi "đậu thai" trong bụng mẹ cho đến khi "mãn
tang". Bắt đầu là chuyện "dưỡng thai". Khi có biểu hiện "đậu thai", người phụ nữ

10.4 Page 94

▲back to top


có mang phải kiêng giữ và được bảo vệ kỹ lưỡng. Việc kiêng giữ tập trung ở các
mặt: Ăn uống, cử động giao tiếp.
Về ăn uống, phải kiêng cữ: Không ăn cua để tránh đẻ ngang, không ăn tôm
để tránh đẻ con lưng còng, ăn cá không được trở xương để bào thai khỏi động, không
ăn sò, ốc, hến để con không dãi nhớt, không ăn trái cây sinh đôi để tránh đẻ song
thai, không ăn chuối già để kiêng kỵ chuyện tục tằn, không ăn những thứ dị hình dị
dạng để con khỏi khuyết tật, tránh ăn nhiều gia vị để con cái hiền lành; một số người
còn kiêng ăn trầu cau và những loại trái “gai góc” (như sầu riêng, chôm chôm, mãng
cầu) để việc sinh nở được “trơn tru”. Ngược lại, người phụ nữ có mang được động
viên ăn nhiều muối để con cái có tình cảm mặn mà, ăn nhiều trứng để “mẹ tròn con
vuông”. Việc cử động cũng nhiều điều kiêng giữ: Không được chửi mắng hoặc cười
nói lớn tiếng, không được đến những nơi thờ cúng, không được bước qua mương
hoặc nhảy qua hào, không được chui qua sào (dây) phơi quần áo; không được ngủ
trưa quá buổi, không được đứng lâu ở ngã ba đường hoặc bến, ngã ba sông; không
được dắt hoặc đuổi theo trâu, đi xuồng ghe không được chèo hoặc ngồi mũi... Ngược
lại, người phụ nữ có mang luôn phải có việc làm, cử động chân tay nhẹ nhàng để
sinh nở được dễ dàng. Việc giao tiếp thường phải kiêng gặp người nóng nảy, nặng
vía, tính khí lì lợm hoặc đã có nhiều lần sinh nở không thành.
Việc "dưỡng thai" được xem trọng, việc sinh nở còn quan trọng hơn. Giai
đoạn "dưỡng thai" gắn với mẹ ruột, mẹ chồng, việc sinh nở gắn với vai trò của các
"mụ vườn". Mỗi làng thường có một bà mụ lo việc sinh đẻ cho cộng đồng; mụ thường
được học tập kinh nghiệm ở các mụ tiền bối và tự tích lũy thêm kinh nghiệm, biết
đỡ đẻ, làm thuốc và cúng bái. Có những mụ giàu kinh nghiệm (như mụ Bảy Mạnh ở
Cù Lao Phố, mụ Hồng ở Phước Thiền chẳng hạn) nắn sửa được thai, đoán định chính
xác cả giới tính của thai nhi.
Sinh con đầu lòng thường ở nhà mẹ ruột, lần sinh thứ hai mới ở nhà chồng
"con so nhà mạ, con rạ nhà chồng". Khoảng một tháng trước khi sinh, bà mụ tiến
hành lễ đầu tiên, gọi là lễ đơm lẻ, bà mụ khấn "Mười hai mụ Bà mười ba Đức Thầy"
phù hộ độ trì cho mẹ tròn con vuông. Những bà mụ dày dạn kinh nghiệm thường
khấn có vần, có điệu.
Về mười hai Mụ Bà, mười ba Đức Thầy, theo truyện dân gian phổ biến cả
nước, mười hai Bà Mụ được Trời giao nhiệm vụ chọn đất tinh túy nặn thành con
người nên mười hai Bà Mụ ứng với con số 12 tháng trong năm trở thành người mẹ
sanh trong niềm tin của cư dân Việt. Đúng ra là: "mười hai Mụ Bà và Ba Đức Thầy".
Ba Đức Thầy là Tiên sư, Tổ sư Thánh sư, cùng lo việc "giáo", còn Mười hai Mụ
Bà lo việc "sinh".

10.5 Page 95

▲back to top


Khi sản phụ lâm bồn, chỉ bà mụ và người trợ giúp (thường là mẹ ruột hoặc
chị em ruột) ở lại với sản phụ. Huỳnh Tịnh Của giải thích: Lâm bồn là đẻ (23[1]).
Người địa phương giải thích rằng, theo cách của người Hoa, sản phụ sinh con vào
một cái chậu (bồn) bằng sành hay gỗ nên gọi là lâm bồn. Cách gọi khác là vượt cạn.
“Rún” được cắt bằng miểng sành hay miếng tre nứa sắc cạnh. Nhau đứa trẻ được
cẩn thận cho vào hũ sành hoặc nồi đất đậy nắp kỹ, kín đáo chôn kỹ trong vườn nhà.
Công việc thầm kín này có ý nghĩa gắn con người với mảnh đất quê hương "chôn
nhau cắt rún" của mình.
Khoảng ba ngày sau khi sanh, bà mụ lại tiến hành lễ móc miếng với mục đích
"gọi ra" làm sạch nước ối còn trong miệng đứa trẻ. Lại bày hương hoa và khấn gọi
Mụ Bà, Đức Thầy như ở lễ đơm lẻ, nhưng lần này cúng trong chỗ "nằm lửa" của sản
phụ.
Thời gian "nằm lửa" của phụ nữ trong buồng kín gọi là ở cữ, thường kéo dài
suốt một tháng, có thể lâu hơn nếu người mẹ và đứa bé chưa đủ khỏe. Theo Trịnh
Hoài Đức, tục xưa "sản phụ nằm trên giường, bên dưới để lửa than đỏ ngày đêm
không dứt, lại lấy nồi lửa để chận hơ trên bụng mỗi ngày 1, 2 lần, ăn những vật cay
mặn khô táo, uống nước thì tùy theo hương tục, gia tục hoặc quen dùng thuốc Nam
lấy rễ cây vằm nhỏ nấu nước uống thường. Khi đầy tháng ra ngoài thì dùng củ nghệ
thoa đầy mình để ngăn gió..." (24[2]).
Dấu hiệu của nhà có người ở cữ là đoạn củi đã tắt lửa trước cửa nhà, gọi là
vỏ lửa. Vỏ lửa đầu đã cháy quay vào là sinh con trai, quay ra là sinh con gái. Tục
này, Trịnh Hoài Đức giải thích: "...để làm dấu hiệu ngăn đón những người có vía
không tốt: Như bị sản nạn không nuôi con được, bịnh huyết vựng (xây xẩm), bịnh
nhi chẩm (tục gọi là máu nhà con) và có hung tán v.v... đều không cho vào..." (25[3]).
Ngày đầy tháng được xem là ngày đầy cữ, không tính cữ theo vía "nam bảy nữ chín"
(nam ngày thứ bảy, nữ ngày thứ chín) như ở Bắc bộ mà tính sụt ngày sinh "gái sụt
hai, trai sụt một". Trong lễ đầy tháng, ông bà, người thân đến mừng cháu bằng quà
tặng, lời chúc tốt đẹp hoặc thơ mừng. Tên khai sinh của đứa bé được chọn chính
thức trong dịp này. Việc đặt tên cũng được chọn lọc, kiêng húy thánh thần, ông bà,
người lớn tuổi như nhiều nơi khác. Quan trọng nhất của ngày đầy tháng là lễ cúng
mụ nhằm tạ ơn Mụ Bà đã "nặn ra đứa bé: mẹ tròn con vuông". Lễ cúng mụ gồm
nhang, đèn, hoa, trái cây, chè xôi, bộ đồ mã (gồm: áo, quần, khăn, hài bằng giấy;
bánh gói, miếng trầu têm sẵn), mỗi vật cúng đều tròn con số 12 ứng với 12 bà mụ.
Lại có thêm 3 chén chè, 3 dĩa xôi hoặc bộ ba các món khác dành cho 3 Đức Thầy.
(23[1]) Đại Nam Quc âm tv, Hunh Tnh Ca. CTPH TP HCM, 1980, trang 70.
(24[2]) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 13.
(25[3]) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 13.

10.6 Page 96

▲back to top


Ngày đứa bé tròn năm, có lễ thôi nôi, Trịnh Hoài Đức gọi là lễ tổi bàn, lễ tôi
tôi. Lễ thôi nôi đơn giản hơn lễ đầy tháng, cũng khấn vái ông bà, cúng mụ bằng chè
xôi. Nhà khá giả có thể có tiệc mừng: Mừng con trai hoặc mừng con đầu lòng. Khác
với lễ đầy tháng, lễ thôi nôi có trò thử nghề, nói theo người Hoa là thí nghệ; tức bày
ra các vật dụng: Gương, lược, kim, chỉ, đũa, muỗng... (nếu là con gái); bút, giấy,
đàn, cờ... (nếu là con trai) cho trẻ tự chọn. Người ta tin rằng, món nào đứa bé chạm
đến đầu tiên sẽ ứng với nghề nghiệp thích hợp sau này. Bởi vậy, những món bày ra
cho bé thường tránh: Dao, búa, gươm, giáo... để không vướng vào nghiệp binh đao.
Sau ngày đầy tháng và tròn năm, việc nuôi dưỡng đứa bé nhẹ nhàng hơn
nhưng vẫn phải thường trực những việc kiêng kỵ và cầu cúng theo thông lệ. Ngày
xưa, nhiều gia đình giữ lệ cúng mụ 3 tháng một lần cho đến khi đứa bé tròn một con
giáp (12 tuổi). Trẻ từ đầy tháng đến 12 tuổi vẫn còn trong vòng bảo trợ của Mụ Bà,
Đức Thầy. Ra khỏi nhà phải quệt lọ trên trán trẻ để Thổ Công khỏi nhầm, không
được gọi tên thật của trẻ và kiêng đặt tên đẹp vì sợ ma quỉ biết mà chọc phá; trưa
đúng ngọ không được ra nắng, không giỡn nắng; nếu trẻ khóc đêm (gọi là dạ đề)
phải lấy một chiếc cọc chuồng heo hoặc chuồng gà để dưới gầm giường, cho trẻ đeo
vòng bằng cây dâu tằm để ngừa ma quỉ, có khi còn thỉnh bùa ở các thầy phù thủy
hoặc các đình ông đeo cho trẻ (gọi là đeo niệc) để tránh ma tà. Những gia đình sùng
tín còn đi gieo quẻ, xin lá số tử vi cho trẻ và hàng năm cúng sao vào ngày ứng với
sao hộ mạng của đứa bé theo số tử vi bằng một lễ cúng đơn giản gồm nhang, đèn,
vàng mã là chủ yếu.
Gặp trẻ ốm yếu khó nuôi, người xưa có tục "gởi nuôi" hoặc "đem bỏ" bằng
cách hẹn ngầm với người thân vào ngày giờ nhất định, người mẹ ẵm con đến "gởi"
hoặc "bỏ" một nơi nào đó, người thân đến "nhận" hoặc "lượm" về nuôi. Thay đổi
bảo mẫu như thế, người ta tin rằng đứa trẻ sẽ vui lòng "ở lại" với đời. Trường hợp
đứa trẻ gặp biến cố đột ngột như té ngã hay sợ hãi một điều gì đó mà thần sắc thất
thường, người ta cho rằng trẻ đã bị "lạc vía" hoặc "cướp vía" bèn có lễ hú vía bằng
cách đem nhang đèn, một đĩa gạo muối, một trứng vịt xẻ làm 3 cúng ở đầu đường
hoặc ngã ba đường khấn Thổ Công, cô hồn nhờ gọi vía về. Khi được lưỡi tầm sét
của thiên lôi đánh quỉ cắm vào đất (thật ra, đó là những rìu đá dễ tìm thấy ở nhiều
nơi trên đất Đồng Nai), người ta thường mài vào mảnh ghè bể cho trẻ con uống để
ma quỉ phải tránh. Nếu cướp được lưỡi ông tiêu ở các lễ cúng chợ, cúng cô hồn, đem
lưỡi ấy bọc vải đeo cổ cho trẻ hoặc lót trong gối ngủ, đứa trẻ sẽ gặp điều tốt lành.
Đến mười hai tuổi, tức đã vượt qua giai đoạn đậu mùa và các dịch bệnh hiểm
nghèo khác, gia chủ mừng vui cúng lễ "tròn con giáp" bằng gà, vịt hay đầu heo khấn
vái tạ ơn ông bà, Thổ Công, Thổ Địa, mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy đã phù hộ,
độ trì cho đứa bé thật sự trở thành người. Từ đây, đứa trẻ mới được xem là "còn", là
thành viên chính thức của gia đình.

10.7 Page 97

▲back to top


Do tri thức khoa học phát triển, hiện nay danh mục những điều kiêng giữ và
những lễ cầu cúng trong việc sinh dưỡng trẻ ngày càng thu gọn theo hướng lược bỏ
những điều lạc hậu, nặng về mê tín đồng thời vận dụng kinh nghiệm dân gian trong
kho tàng tri thức y học của nhân dân.
I.1.2. Hôn nhân:
Quan niệm về hôn nhân không khe khắt, chỉ những nhà gia thế mới tính
chuyện môn đăng hộ đối, còn lại số đông trong dân dã vốn ít phân biệt giàu - nghèo,
chủ - tớ, sang - hèn, chuyện hôn nhân thường chọn lựa theo tiêu chuẩn "vừa đôi phải
lứa", không cùng trực hệ và "được tuổi". Trường hợp chênh lệch tuổi giữa trai gái,
người ta dễ dàng chấp nhận sự "lệch chuẩn: Gái hơn hai, trai hơn một".
Việc tìm hiểu giữa trai gái cũng được tự do, phóng khoáng; ít có chuyện ràng
buộc phải tìm hiểu người cùng làng. Làng Việt ở Đồng Nai có cơ cấu mở, thường
gồm nhiều họ, đa nguồn gốc, nhiều người làng khác đến phụ canh. Thanh niên nam
nữ được dịp giao tiếp rộng cho nên việc tìm hiểu cũng trong mối quan hệ rộng và
trong vòng kiểm soát nới lỏng của gia đình.
Trai gái tìm hiểu khi thuận lòng nhau, về thưa với ba má để gia đình nhà trai
"bước tới". Tục xưa, người Đồng Nai theo tập tục Trung Hoa, thực hiện đủ sáu lễ:
Nạp thái, vấn danh, nạp kiết, nạp tệ, thỉnh kì, thân nghinh. Theo thời gian, các lễ
thức cưới xin phức tạp giảm dần. Theo Lương Văn Lựu (1), một đám cưới bình
thường của cư dân Việt thường được chú trọng các lễ: Lễ hỏi, lễ biếu (xêu), lễ xuất
giá (cô gái khấn cáo ông bà, cha mẹ sáng mai về nhà chồng), lễ rước dâu, lễ lại mặt.
Gần đây, lễ thức còn đơn giản hơn, chủ yếu lễ hỏi và lễ cưới. Có nơi thêm lễ thăm
nhà, còn gọi là lễ chạm ngõ trước lễ hỏi. Trước ngày cưới 8 ngày, có nơi còn làm lễ
khai bát nhật (lập hôn ước, khai tên tuổi, sức khỏe của trai gái). Lễ này xuất hiện từ
khi thực dân Pháp cầm quyền.
Trong lễ hỏi, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, cậy mai dong đến nhà gái để
đặt vấn đề xin cưới. Mai dong là người cao tuổi (ông mai, cũng có thể là bà mai) có
uy tín, có duyên ăn nói trong họ, trong làng. Lễ vật ăn hỏi dạng đơn giản nhất gồm:
Một đôi đèn, một cặp trà, một cặp rượu, hai quả bánh, một đôi bông tai... Tục xưa,
nhất thiết phải có một búp sen to bằng giấy, hai người khiêng. Búp sen treo ở gian
chính để chứng tỏ nhà đang có con gái đã đính hôn. Trường hợp hồi hôn, đàng gái
sẽ nêu lý do, trả của (lễ vật) cho đàng trai, nhất thiết là trả cho được búp sen ấy. Việc
trả của sau lễ hỏi khi hôn nhân không thành, có nơi giữ tục của Trung bộ, nếu nguyên
nhân từ phía đàng trai, lễ vật coi như mất, nếu nguyên nhân từ phía đàng gái, của
một phải trả hai, cho nên dân gian có câu: "Trai chê vợ của đổ xuống sông, gái hồi
chồng của một đền hai”.
(1) Biên Hòa sử lược, Lương Văn Lựu, 1960, trang 135 - 140.

10.8 Page 98

▲back to top


Sau lễ hỏi, trai gái được xem là vợ chồng chưa cưới. Trường hợp có đại tang,
việc cưới xin vẫn có thể được tiếp tục nếu đã được tang chủ cho phép xả tang ngay
khi sắp cử hành lễ động quan. Hoặc sớm hơn thì có thể chuyển ngày cưới trước khi
có đại tang gọi là cưới chạy tang.
Lễ cưới được họ hàng, làng xóm cùng chăm lo. Trai gái lo việc dựng cổng,
trang trí bàn ghế; gái lo việc làm bánh, bếp núc. Chăm lo phụ giúp cho lễ cưới là
niềm vui và trách nhiệm của cộng đồng. Đôi vợ chồng mới cưới được chăm lo cảm
thấy hãnh diện, ấm cúng và có trách nhiệm với nhau hơn trong cuộc sống.
Đàng trai đến nhà gái được tiếp đón bằng tràng pháo giòn giã và có người
đón tận ngõ, khi vào nhà có người "rước dù", "rước quả". Nhà gái đã bố trí sẵn,
thành phần chính gồm: Ông (bà) mai, cha mẹ, đại diện họ hàng được mời vào nơi
bàn chính đối diện với bàn thờ tổ tiên. Đàng trai được ngồi vào vị trí, dấu hiệu là
chiếc bình bông trên bàn thờ. Bình bông thường đặt theo hướng "đông bình, tây
quả". Đông theo cách của thợ mộc là hướng của cây đòn đông trên nóc nhà, tức bên
trái, hay nói cách khác:"Nam tả nữ hữu". Lễ vật bày ra, ông (bà) mai tuyên bố lý do,
nêu lễ vật. Lời nói khéo léo thường dẫn dắt lễ vật đi liền với ý nghĩa luân lý, mỹ tục.
Nhà gái nhận lễ (có lại quả như ở lễ hỏi). Chủ gia thắp ba cây nhang khấn vái ông
bà báo việc hôm nay gả con gái lấy chồng. Cô dâu được mời ra trong trang phục cổ
truyền có dâu phụ đi kèm. Lễ lên đèn được thực hiện trang trọng; ông (hoặc bà) mai
cầm đôi đèn từ lễ vật của nhà trai đốt cho cháy cùng một lúc, khấn vái:
Thần đăng chứng giám
Thọ lưỡng tánh nhứt gia
Ông tu la, bà tu tiên
Ông tu hiền, bà tu đức
Ông giúp sức, bà giúp công
Ông Tơ hồng, bà Nguyệt lão
Xe dây cầm sắt, kết chặt vợ chồng
Sống bách niên giai lão.
Rồi, mỗi tay cầm một cây đèn cùng chuyển cho đại diện nhà trai, nhà gái;
tay trái chuyển cho nhà trai, tay phải chuyển cho nhà gái. Đèn được trịnh trọng thay
vào chân đèn ở bàn thờ tổ tiên. Hai họ nhìn vào đôi đèn ấy mà đoán định hạnh phúc
của cô dâu chú rể: Đèn cháy thẳng ngọn, cùng sáng như nhau thì hòa hợp, bình đẳng;
ngọn bên nào cháy nhiều hơn thì bên đó sẽ lấn lướt. Bởi vậy, việc chọn đèn, lên đèn
trong đám cưới được thực hiện rất cẩn trọng. Đến khi đoàn đưa dâu ra khỏi nhà, ông
mai luôn là người đi ra sau cùng để tự tay tắt đôi đèn bằng cách bóp bằng hai ngón
tay hoặc chụp tắt bằng hai đồng xu sao cho sự tắt cũng cùng lúc như sự cháy.

10.9 Page 99

▲back to top


Đoàn người rước dâu gồm đại diện họ hàng, cơ cấu cũng đi lẻ về chẵn. Người
mẹ không đưa dâu, thường cài vào áo cưới của con gái một chiếc kim băng hoặc một
cái lông nhím hay móc tai, gọi là để trừ tà, nhưng lời dặn thực là để sử dụng trong
lúc bất trắc đêm tân hôn.
Về nhà trai, lễ thức cũng khấn vái ông bà, lễ ra mắt họ hàng đơn giản như ở
nhà gái. Xong lễ là nhập tiệc. Trong tiệc, kiêng việc đổ vỡ; nên người địa phương có
câu:
Ai làm chén bể cơm rơi
Dĩa nghiêng cá đổ rã rời đôi ta.
Ba ngày sau, cô dâu chú rể mang một mâm trầu rượu, một cặp vịt sống về lại
nhà gái cảm ơn ba má và làm lễ lạy ông Táo gọi là phản bái hoặc là lễ lại mặt. Ngày
xưa, trong lễ phản bái, chú rể thường mang về nhà vợ một cái đầu heo cúng ông bà,
nếu đầu heo đã bị cắt mất tai (một hoặc hai) thì đó là dấu hiệu chú rể muốn bảo rằng:
Cô dâu không còn trinh trắng trước khi động phòng. Đó cũng là nỗi sỉ nhục của gia
đình nhà gái. Tục này vắng bóng đã lâu. Gần đây, quan niệm về “tiền dâm hậu thú”
không nặng nề như nhiều nơi khác.
I.1.3. Việc tang:
Vì quan niệm "chết" là điều ắt phải và cái chết luôn được cộng đồng chăm
sóc chu đáo cho nên đa phần cư dân Việt chấp nhận "chết" một cách thanh thản,
nhiều khi có sự chuẩn bị trước chu đáo. Chỗ "yên nghỉ" chọn sẵn, có khi xây mộ
trước gọi là kim tỉnh; hòm được đóng gỗ tốt dành sẵn gọi là cỗ sự. Nếu không phải
là "bất đắc kỳ tử" (chết đột ngột), dù đang ở đâu, vì lí do gì, cái chết được mong
muốn luôn là cái chết ở quê nhà.
Khi gia đình có người vừa trút hơi thở cuối cùng, việc đầu tiên là phải "hú
vía", đến khi không còn hi vọng, mới tắm rửa cho xác chết gọi là "mộc dục". Sau đó,
người chết được đặt trong buồng hoặc nhà dưới, bỏ vào miệng ba hột gạo (có nơi bỏ
thêm một đồng tiền xu) gọi là phạn hàm, rồi đắp mặt, đốt nhang trên đầu nằm.
Trường hợp chết bệnh, thường đặt trên bụng một nải chuối sứ gọi là để hút tà khí.
Khi báo tang xong, gia chủ nhờ người coi tuổi, coi ngày giờ để phân xếp việc
tang lễ. Giờ tẩm liệm được chọn là giờ tốt, có tính đến thời gian hội đủ mặt người
thân thích. Trước khi chưa tẩm liệm, chó, mèo trong nhà được nhốt lại, có người
luôn canh xác để không con vật gì có thể vượt ngang qua. Tục này gắn với hàng loạt
truyện quỉ nhập tràng lưu truyền ở địa phương. Những gương kiếng tranh tượng
phật trong nhà phải che (dán) lại bằng vải (giấy) đỏ có dấu vôi trắng, nhiều nơi còn
quay mặt tượng Phật về bên phải.
Giờ tẩm liệm, hội đủ mặt những người thân không kị tuổi. Xác được liệm
bằng vải trắng dài 3 mét bó theo cách một dọc năm ngang (đại liệm) hoặc ba ngang

10.10 Page 100

▲back to top


(tiểu liệm). Hòm được chọn theo hạng nhất, hạng nhì, hạng ba tùy theo chất lượng
gỗ. Tốt nhất là chiếc hòm bằng gỗ trai rất nặng hoặc gỗ hương thơm lừng. Nắp hòm
bằng một nửa thân cây đặc ruột mặt hình bán nguyệt vừa khít với thân hòm bằng ba
mảnh ván. Như thế hài hòa với sự vuông tròn của trời đất.
Hòm được đặt giữa nhà (nếu nhà có người cao niên hơn còn sống thì chiếc
hòm đặt lệch sang một bên để tỏ ý khiêm nhường), kê quay đầu ra ngoài với ý nghĩa
luôn nhớ về nhà, phân biệt với cách của người Hoa: Quay đầu vào trong để một đi
không trở lại.
Lễ thành phục được xem là lễ chính thức của việc tang. Tang chủ thường
thỉnh thầy chùa hành lễ, trước năm 1945 còn có thầy pháp cũng tham gia cầu cúng
lễ tang. Trong lễ thành phục, người thân quì trước quan tài nghe thầy cúng đọc kinh
và phát khăn tang. Theo Lương Văn Lựu (1), việc để tang rất khuôn phép; đồ tang
may sẵn bằng vải trắng, không nhất thiết phải xô gai như trước kia, nhưng phải phù
hợp với đối tượng. Con trưởng nam mặc áo trảm thôi may lộn mí ra ngoài, lưng áo
có miếng vải thêm gọi là phụ phiến với ý nghĩa cõng thêm sự đau xót, lưng thắt 2
vòng dây rơm hoặc dây chuối, mũ vành bằng bẹ chuối, đi dép rơm. Những người
con khác mặc áo vải trắng rộng có thích vai (hai miếng vải đính ở hai vai), bịt khăn
trắng bỏ mối ra sau ót, con gái thì mũ nhọn bằng vải thô thòng xuống che mặt. Con
rể và các cháu trai mặc áo trắng, đội mũ mấn; những người thân khác quấn khăn
trắng. Nếu người mẹ chết trước thì đồ tang mẹ được may vén lai hết thảy. Gậy tang
có độ dài đến ngang tim nhằm nâng đỡ trái tim đau, đầu trên để tròn, đầu chạm đất
gọt vuông cho ứng với trời tròn, đất vuông. Gậy tang cha bằng tre mang ý nghĩa
cương trực, gậy tang mẹ bằng gỗ vông để khắc sâu ân đức.
Sau lễ thành phục là lễ phúng điếu của họ hàng, xóm làng. Sui gia phúng
viếng với cung cách và lễ vật long trọng: Khăn đóng, áo dài, mâm trầu rượu, trái
cây, cặp đèn trắng, ba cây nhang đại, thường có thêm 1 bức trướng. Các tổ chức hội
làng cũng cử đại diện đến viếng. Như làng Bến Gỗ có tất cả 10 hội (2). Theo cách
xưa, nam lạy kiểu “hưng phục”; nữ lạy kiểu ngồi bệt; đủ lễ là 4 lạy, giữa hai lạy có
xá hai xá và cuối cùng xá ba xá. Người nhà lạy trả hai lạy sau.
Khi tiến hành lễ phúng viếng ở nhà, thanh niên trong làng đã chuẩn bị đào
huyệt hoặc sửa kim tỉnh; đại diện tang chủ cúng Thổ Địa bằng một dĩa tam sên:
Trứng, cua, thịt luộc với rượu trắng và nhang đèn. Thông thường, nơi yên nghỉ đã
được chọn trước trong vườn nhà để quần tụ với ông bà, người nghèo thì có thể táng
thổ mộ (công thổ) hoặc đất chùa.
(1) Biên Hòa sử lược, sách đã dẫn, trang 146.
(2) Làng Bến Gỗ xưa và nay, Diệp Đình Hoa, Nxb. Đồng Nai, 1995, trang 266 - 268.

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Đến ngày giờ tốt đã định, bắt đầu lễ động quan. Việc động quan do đạo tì
đảm nhiệm. Đạo tì gồm những thanh niên, trai tráng trong làng mặc đồng phục thao
tác theo lệnh của người chỉ huy (nhưn quan). Trong làng Việt xưa cũng như nay,
thường có tổ chức lo việc tang của cộng đồng trên nguyên tắc tự nguyện, làm việc
nghĩa, tùy theo đáp ơn hảo tâm của tang gia. Làng Bến Gỗ còn giữ được tập tục xưa,
người ta tham gia vào hội chơi hồi, có đóng góp tự nguyện. Hồi tang có trách nhiệm
giúp đỡ tang gia những khâu khó khăn: Tẩm liệm, tổ chức tiếp khách, đào huyệt và
quan trọng nhất là đạo tì tham gia an táng. Hình thức này được cải biến thành hội
bảo thọ ngày nay ở nông thôn. Nếu người chết thuộc diện ông - bà, cha - mẹ, chồng
- vợ của người có tham gia hội đình, miễu, các hội đình, miễu đưa trống đến cử lễ
và bô lão hội ấy thực hiện nghi thức Bái quan hầu khi động quan. Số lượng trống
chiêng của đình miễu và lượt bái quan hầu cử lễ tùy theo số hội mà người chết có
thân nhân tham gia, càng nhiều càng danh dự cho gia đình.
Khiêng quan tài động quan là cả một nghệ thuật. Gia chủ thường để trên quan
tài một ly rượu đầy đặt trên tờ giấy bạc với dụng ý là khiêng cho thăng bằng sẽ được
thưởng. Thủ thuật của những nhưn quan có kinh nghiệm là: Lót dưới ly rượu một tờ
giấy vàng bạc để thấm rượu tràn ly hoặc nhanh tay nhỏ vào ly rượu một giọt sáp đèn
cầy. Gặp những quan tài bằng gỗ trai quá nặng, đặt sát nền gạch thử thách đạo tì;
đạo tì khéo léo chêm vào đáy quan tài những đồng bạc trắng, khoảng ba đồng bạc
trắng chồng lên là đủ lòn ngón tay nhấc được quan tài.
Quan tài vừa chuyển động, người nhà đập tan siêu hoặc niêu đất cho tiếng
kêu to để đánh thức và xua ma quỉ. Thay vì đập siêu, niêu, người Hoa đốt pháo.
Đúng theo lối xưa, trước khi vào khiêng quan tài, nhưn quan cầm đuốc múa lửa
ngoài sân, đạo tì ngậm tăm múa theo. Người xưa giải thích tục này nhằm diễn lại
tích Chàng Lía hiếu thảo (nhân vật cổ tích ở Bình Định) về cướp quan tài mẹ đưa
lên núi chôn để báo hiếu. Tại một số nơi hiện còn tục cướp quan tài gắn với hò đưa
linh và tục nằm đường trả hiếu..
Đám tang giàu có theo lối xưa, còn có tục đánh động phá quàng diễn tích
thầy trò Tam Tạng mở đường đi thỉnh kinh ở chùa, cầu siêu hoặc mở đường đưa
vong hồn người chết về Tây phương cực lạc.
Có gia đình còn tổ chức hát tuồng trước khi hạ huyệt; ở Quảng Nam - Đà
Nẵng có hát tuồng trong lễ tang, nhưng ở Đồng Nai chỉ hát tuồng lúc hạ huyệt với
số người hạn chế từ 5 đến 7 người (1).
Lễ mở cửa mả được thực hiện trong buổi sáng ngày thứ ba tính từ ngày an
táng. Tang gia mặc tang phục, mang lễ vật đến bày cúng nơi mộ, mời thầy cúng hành
lễ. Lễ vật gồm: 3 ống tre đựng gạo, nước, muối bịt đầu bằng vải trắng cắm trước mộ,
(1) Làng Bến Gỗ xưa và nay, sách đã dẫn, trang 201.

11.2 Page 102

▲back to top


đó là thức ăn, món uống của người chết. Một cái thang bằng tàu chuối (nam 9 nấc,
nữ 7 nấc) đặt trước mộ để vong linh người chết leo lên "cõi trời". Một con gà con
được cột chân vào ngọn cây mía. Khi hành lễ, thầy cúng cầm mõ đi đầu vừa đi vừa
tụng kinh, một người trong nhà cầm cây mía kéo con gà đi theo thầy cúng ba vòng.
Về chuyện con gà và cây mía, chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Theo Trịnh
Hoài Đức, tục cúng tổ tiên cây mía có đủ cả gốc ngọn là để làm gậy chống đi khi già
yếu (2)...
Nếu gia đình sùng đạo Phật, sau lễ mở cửa mả là các lễ cúng thất, còn gọi là
làm tuần, mỗi thất cách nhau 7 ngày. Lễ cúng tại nhà hoặc tại chùa. Đến thất thứ 7
(chung thất), có thể mở đàn chay theo lễ thức của Phật giáo. Những nhà khá giả còn
lập đàn chay ứng phú, một loại nghi lễ của Phật giáo múa hát dâng lễ rất nghệ thuật.
Sau lễ chung thất, gia chủ vẫn phải cúng cơm ngày hai bữa cho đến lễ 100 ngày, gọi
lễ tốt khốc; đúng một năm sau cúng giỗ đầu gọi là tiểu tường; lần giỗ thứ hai gọi
đại tường, còn gọi là lễ xả tang, vì trong ngày này, đồ tang được đem đốt, có khi
còn đốt với đồ mã. Sau lễ đại tường, coi như là xong việc tang. Từ đó, người nhà
cúng giỗ hàng năm.
Tại Đồng Nai xưa, không có tục cải táng. Gần đây, do đất đai khó khăn,
nhiều biến động; lại do điều kiện làm ăn xa; nhiều người bốc mộ, hỏa táng, cho di
cốt vào hủ sành đậy nắp kín gởi ở chùa với ý nghĩ rằng vong linh người chết sẽ
nương cửa Phật, được ổn định, được nhang khói ngày đêm.
Trong vòng đời người, còn có những tập quán khác: Lễ thọ đối với người
cao tuổi, lễ khao đối với người hiển vinh... Những sinh hoạt như trên thường theo
thông lệ chung.
I.2. TỤC THỜ CÚNG TRONG NHÀ:
I.2.1. Thờ cúng ông bà :
Căn nhà dù nhỏ vẫn dành nơi trang trọng nhất (gian chính) thờ ông bà. Theo
Lương Văn Lựu, trước đây người địa phương thờ 3,4 đời; đến đời thứ 5 trở lên nếu
có thần chủ phải đem chôn gọi là “Ngũ đại mai thần chủ” (năm đời thì chôn thần
chủ). Ông bà từ đời thứ tư trở lên được thờ chung, phối hưởng ở bàn thờ chính trong
nhà hoặc bàn thờ họ ở nhà từ đường.
Ở Đồng Nai, từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ít thấy có nhà thờ họ riêng
biệt; phổ biến là bàn thờ họ trong nhà từ đường do con trai lớn hoặc con trai út dòng
trưởng đảm nhiệm, nếu không con trai thì con gái thực hiện. Những hộ không phải
là nhà từ đường cũng thường có bàn thờ ông bà (thờ vọng hoặc thờ tượng trưng) ở
bàn thờ giữa gian chính. Bàn thờ cha mẹ bên trái, thờ ông bà nội (ngoại) bên phải.
(2) Gia Định Thành Thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 10.

11.3 Page 103

▲back to top


Những người khuất mặt khác như anh, chị, em, con được thờ một góc trong nhà.
Người mới chết (dù là cha mẹ, ông bà) được thờ riêng cho đến khi xả tang mới được
thỉnh lư hương, di ảnh, vào bàn thờ chung.
Cách bày trí bàn thờ không khác mấy so với phong tục phổ biến, ngày càng
có phần đơn giản hơn nhưng không kém vẻ trang nghiêm. Bàn thờ họ thường có hai
lớp: Lớp trong là bàn giỗ để bày đồ cúng, lớp ngoài là tủ thờ để bày đồ thờ gồm:
Cặp chân đèn tượng trưng cho nhật nguyệt quang minh; bát nhang, khay trầu rượu
tượng trưng cho sự vuông tròn của trời đất. Lư hương tròn như là thái cực; “bình
bông” ở bên trái và “chò quả tử” ở bên phải (đông bình tây quả), một giá gương ghi
họ hoặc một chữ nho biểu niệm như: Phước, Thọ, Khang, Đức... Những nhà khá giả
bày đồ thờ bằng đồng theo bộ tam sự 3 món: chân đèn, lư hương, bình bông), ngũ
sự 5 món gồm tam sự có thêm cặp hạc - rùa và hộp trầu), thất sự (bảy món gồm ngũ
sự có thêm hai món khác). Tủ thờ, vật thờ bằng gỗ, thường được chạm cẩn xà cừ
tinh xảo, đồ đồng luôn giữ bóng, đồ gốm sứ càng cổ càng quý giá.
Thờ phụng ông bà không chỉ ở bàn thờ mà còn thể hiện ở việc bài trí hoành
phi, liễn đối trong nhà. Nhà khá giả của cư dân Việt xưa thường có hoành phi treo
cao ở giữa nhà với các đại tự (chữ nho) ý nghĩa thâm thúy.
Hoành phi, liễn đối trong nhà cư dân Việt không phải chỉ để trang trí mà
trong đó kết tinh tinh thần, ý chí, truyền thống của ông bà để lại được con cháu trân
trọng giữ gìn và lấy đó làm nền tảng cho sinh hoạt gia đình.
Cúng giỗ gắn với thờ phụng, việc thờ càng trang nghiêm, việc cúng càng
trang trọng. Hai hình thức cúng chủ yếu: Cúng hàng ngày cúng giỗ. Hàng ngày,
con cháu thay nước cúng, đốt nhang, lên đèn, xá trước bàn thờ ông bà. Mỗi khi đi xa
về hoặc chuẩn bị làm việc hệ trọng, người Đồng Nai cũng có thói quen đốt nhang
khấn cáo ông bà. Việc cúng giỗ không khác so với miền Bắc, miền Trung. Lòng
thành với cha mẹ, ông bà như nhau, lễ thức cũng giống nhau. Cúng giỗ cha mẹ được
chuẩn bị kỹ hơn cúng giỗ ông bà. Giỗ ở nhà từ đường long trọng hơn ở tại gia. Cũng
như phong tục phổ biến, sau ngày chết: 49 ngày cúng thất, 100 ngày cúng tiểu tường,
12 tháng cúng giáp năm, 24 tháng cúng đại tường, 27 tháng cúng xả tang; năm thứ
ba trở đi gọi là giỗ thường niên, cúng trước ngày giỗ chính gọi là cúng tiên thường
(thường là cúng chay), ngày giỗ chính cúng mặn.
Việc thờ, thờ đến 3, 4 đời nhưng cúng giỗ có thể cúng đến đời thứ 5, thứ 7
nếu con cháu còn nhớ ngày chính xác. Như một gia đình họ Nguyễn ở Hòa Hưng
còn cúng giỗ 16 vị thuộc 7 đời (1). Ngoài cúng giỗ ông bà, cha mẹ, gia đình cư dân
Việt ở Đồng Nai còn cúng giỗ những người khuất mặt khác như: anh, chị, chồng
(vợ), cô, dì, chú, bác, ông bà, cha mẹ vợ... nếu không có người trực hệ phụng thờ.
(1) Làng Bến Gỗ xưa và nay, sách đã dẫn, trang 222.

11.4 Page 104

▲back to top


Thậm chí, cúng giỗ cả người hàng xóm đơn độc hoặc sui gia như gia đình ông
Nguyễn Văn Dẻo ở xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch). Ngày giỗ được tính theo âm
lịch.
Trong ngày giỗ, nhất là giỗ ông bà nội ngoại; cha mẹ, anh em, con cháu họp
mặt, góp công sức chung lo bữa giỗ. Đây là dịp họp gia đình, nhắc nhở người chết
và trao đổi việc nhà việc họ. Người trong họ không đến dự được có thể gửi đồ cúng
đến cúng gọi là gửi giỗ. Cũng có thể cúng tại gia cùng lúc với giỗ chính ở từ đường
gọi là cúng vọng. Đồ cúng tùy theo phong tục của gia đình, thường đủ các món: Kho,
xào, nướng, canh, rau, bánh, trái cây, giải khát. Thường chuẩn bị ít nhất là 3 mâm
cúng: Một mâm cúng bày ở bàn thờ người được cúng, một mâm bày ở bàn giữa nhà
cho các vị phối hưởng, một mâm đất đai âm trạch (có nơi gọi đất đai nhơn trạch)
cho những người khuất mặt hữu danh vô vị, hữu vị vô danh.
Trong nhiều thức cúng, một số gia đình còn giữ tục “luôn phải cúng một
món gì đó” gắn với sở thích hoặc đặc điểm của ông bà, gọi là cúng lề. Có gia đình
cúng khoai mì, rau chạy, cháo cá ám, ốc luộc... vì các món này vốn được ông bà ưa
thích hoặc nhờ nó mà vượt khó khăn. Nhiều khi qua món cúng lề mà họ hàng nhận
ra nhau.
Cách dọn mâm, khấn mời, dự tiệc giỗ đều thể hiện không khí chung vui, hòa
hợp, bình đẳng, có tính nhân bản mang phong cách cởi mở, phóng khoáng của Nam
bộ.
Thờ cúng ông bà trong gia đình là truyền thống đẹp của cư dân Việt được
thể hiện thống nhất trong cả nước. Cư dân Việt ở Đồng Nai lưu truyền, gìn giữ tục
thờ cúng ông bà như gia bảo, có khuynh hướng đơn sơ, giản tiện hơn nhưng vẫn giữ
được ý nghĩa của nó là: Lòng tôn kính, biết ơn, kế thừa công đức tổ tiên; và sự cảm
hóa giáo dục con cháu “uống nước nhớ nguồn”, “ăn trái nhớ người trồng cây”. Tục
thờ cúng ông bà đã kết dính các lớp cư dân Việt ở Đồng Nai với nhau: Lớp trước
lớp sau, vùng này vùng khác, làng này làng nọ, tôn giáo này tôn giáo kia... đều coi
việc thờ cúng ông bà là phận sự hiển nhiên.
I.2.2. Thờ thần độ mạng:
Trong gia đình cư dân Việt ở Đồng Nai, ngoài việc thờ cúng ông bà để nhớ
nguồn cội, còn thờ thần độ mạng để được phù trợ, che chở. Thần độ mạng cho đàn
ông phổ biến là Quan Công (Quan Thánh Đế quân), độ mạng cho đàn bà phổ biến
là các mẫu còn gọi là mẹ sanh, mẹ độ.
Quan công là tên gọi dân gian của Quan Vân Trường, một nhân vật lịch sử
đời Tam Quốc, còn được gọi là Quan Thánh Đế quân, Quan Vũ, Xích Đế. Có lẽ tục
thờ Quan Công đến Đồng Nai theo con đường nhập cư của lớp người Hoa đến sớm,
nó nhanh chóng được Việt hóa, và hiện trở thành phổ biến, khó phân định nguồn gốc

11.5 Page 105

▲back to top


Hoa, Việt. Những nhà còn thờ theo lối xưa có khám thờ ở phía sau bên trên bàn thờ
họ, giữa là Quan Công, bên trái là Định Phúc Táo quân, bên phải là mẫu (mẹ sanh,
mẹ độ). Những nhà không có khám thờ thường lập trang thờ Quan Công treo cao
bên trái trong gian chính. Tục xưa thường thờ bằng một bức dán giấy đỏ đề chữ nho
“Quan Thánh Đế quân”, gần đây, phổ biến loại tranh thờ vẽ trên gương gồm hai
loại: Tranh ba ông (Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng một tay vuốt râu
đôi khi vẽ thêm tay phải cầm Kinh Xuân Thu, sau lưng có Quan Bình giữ ấn và Châu
Thương cầm thanh long đao đứng hầu), Tranh năm ông (như tranh 3 ông, phía sau
có thêm Trương Tiên cầm cung và Xương Thiên Quân cầm giản đứng hầu) còn gọi
là tranh thờ ngũ công vương Phật.
Vía ông ngày 24 tháng 6 âm lịch, cúng đơn giản bằng nhang, đèn, hoa, trái;
có thể cúng mặn hoặc cúng chay, kiêng cúng thịt gà và hoa mồng (mào) gà; cũng
kiêng ăn thịt trâu, thịt chó.
Tục thờ Quan Công độ mạng không phải là biểu hiện của sự sùng bái cá nhân
mà là “biểu tượng của tinh thần trọng nhân nghĩa, trung tín, hoạn nạn có nhau, bần
cùng không biến tâm, giàu sang không đổi chí trong mọi hoàn cảnh vẫn một dạ chẳng
hai lòng” (1).
Thờ Bà (thờ mẫu):
Trang thờ Bà thường bằng gỗ như một khám nhỏ treo cao ở bên phải gian
chính, có khi Bà được thờ chung cùng Quan Công và Thích Ca hoặc Táo quân trong
khám ở sau bàn thờ giữa. Trang thờ Bà được bài trí giản đơn gồm 1 bức tranh tượng
(hoặc giấy hồng đơn đề tên Bà), bình bông, nhang, đèn, nước trong. Cúng Bà cũng
rất đơn giản: nhang, đèn, nước trong, bánh, trái cây. Bà cũng được mời phối hưởng
trong các lễ cúng giỗ, nhưng không bày đồ mặn. Bà độ mạng được gọi nôm na là mẹ
sanh, mẹ độ; đó là các nữ thần quen thuộc trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt
ở Nam bộ; tùy theo hằng tâm của người phụ nữ mà chọn nữ thần độ mạng cho mình.
Các Bà độ mạng được thờ trong gia đình gồm một trong số: Mẹ Thai Sanh, Chúa
Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương; Chúa Xứ nương nương, Linh Sơn
Thánh mẫu; Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Địa mẫu, Quan Âm Bồ tát... Do các
mẹ sanh mẹ độ đa dạng cho nên ngày cúng, ngày vía cũng không thống nhất, tùy
theo từng gia đình, thông thường là các ngày rằm hoặc ngày cuối tháng âm lịch hoặc
ngày vía. Tranh tượng thờ Bà cũng vậy. Trước đây, thường thờ bằng tờ hồng đơn
ghi tên Bà, hiện nay đang phổ biến tranh thờ Bà trong khuôn gỗ lồng kiếng.
Tục thờ Bà độ mạng phản ảnh tín ngưỡng thờ nữ thần của Nam bộ; trong đó
đan xen, tích hợp nhiều lớp văn hóa, có sự dung hợp các nữ thần gốc Hoa, gốc Chăm,
Việt trong niềm tin rộng mở của người địa phương.
(1) Quan Thánh xưa và nay, Lê Anh Dũng, NXB VHTT, 1995.

11.6 Page 106

▲back to top


I.2.3. Thờ cúng các thần bản gia :
Thần bản gia được hiểu là các vị thần bảo hộ cho gia đình trong một phạm
vi đất đai giới hạn và trách nhiệm khá rõ ràng.
Ông Địa - Thổ Công: một dạng thần Đất (tức Thổ Công), thường được thờ
ở khám thờ dưới đất phía bên trái bàn thờ chính, vật thờ gồm nhang, đèn, nước,
cốt tượng với nét mặt vui tính, bụng phệ, vú to thể hiện sự sung mãn, tính nữ. Đó là
biểu tượng của sự thịnh vượng và sinh sản. Theo quan niệm dân gian, Ông Địa là
người mau mắn sẵn lòng giúp đỡ mọi người không nề hà việc hèn mọn hay cao cả,
không cần phải khấn vái, cầu xin, chỉ cần một lời nhờ, gọi thông thường là đủ. Bởi
vậy, Ông Địa được nhờ giúp cả việc đỡ đẻ. Các bà mụ gặp trường hợp đẻ khó thường
nói: “đẻ mau, mau mau Ông Địa”. Ông Địa giúp cả việc dẫn vía trẻ nhỏ, chứng thực
lễ thôi nôi, đầy tháng, tá thổ; mỗi khi cần tìm vật gì người ta thường vái “ông bà,
Ông Địa”. Ông Địa hòa nhập với mọi giới (nông dân, thợ thủ công, thương nhân)
được thờ cúng rộng rãi; thờ trong nhà, thờ cả trên ghe xuồng, trong chòi rẫy; một số
hộ người công giáo cũng bắt đầu hiện tượng thờ Ông Địa - Thần Tài.
Ngày vía của Ông Địa chưa được giải thích đầy đủ, cư dân Việt ở Đồng Nai
giữ lệ cúng Ông Địa vào ngày mồng mười của 5 tháng đầu năm từ tháng giêng đến
tháng năm âm lịch. Những ngày này Ông Địa - Thổ Công - Thần Tài được cúng hoa,
chuối, chè xôi và các thứ bánh ngọt khác. Người ta kiêng cúng Ông Địa bằng chè
hoặc bánh tét có đậu đen vì có chuyện kể rằng có kẻ trộm giống đậu đen đem về
trồng quanh miễu Ông Địa, khi bị phát hiện hắn đổ oan cho Ông Địa. Ông Địa bị tội
oan, từ đó rất ghét đậu đen. Theo Huỳnh Ngọc Trảng, lệ cúng Ông Địa ngày mồng
10 âm lịch có lẽ xuất phát từ quan niệm cổ truyền “ngày mồng chín sinh trời, ngày
mùng mười sinh đất” Ông Địa là thần Đất nên được cúng trong ngày vía đất.
Thần Tài: Thường được thờ chung một khám thờ với Ông Địa hình thành
một bộ Ông Địa - Thần Tài. Ông Địa bảo hộ về đất đai, Thần Tài bảo hộ việc sinh
lợi. Tài Bạch tinh quân của người Hoa là một ông sao thừa mệnh trời coi việc ban
bố tiền bạc cho nhân gian, vía cúng ngày 22 tháng 7 âm lịch, có dạng hình là một vị
tinh quân mặc quan phục tay cầm phất trần, tay kia cầm một thoi vàng hay thoi bạc,
hình dạng là một ông già sắc phục trắng, mi mày đều trắng. Thần Tài của cư dân
Việt thường được thờ trong hình dạng một ông già áo đỏ, mày trắng, râu trắng, với
hai dạng cốt tượng phổ biến: Ngồi trong tư thế thong dong, hoặc đứng một tay xách
xâu tiền điếu hay bó lúa.
Táo quân: Là vị thần bảo trợ việc bếp núc, có danh hiệu là Đông trù tư mệnh
Táo phủ thần quân, Định phúc Táo quân, còn được gọi là Ông Đầu Rau hoặc Vua
Bếp, có chuyện kể về Vua Bếp giải thích hiện tượng hai ông một bà; ba người vẫn
là một, được thờ ở kệ thờ (hoặc khánh) trong bếp hoặc ở gian chính thờ ở bếp gọi là

11.7 Page 107

▲back to top


Táo Bếp, thuần gốc dân dã. Táo thờ ở gian chính gọi là Táo Phật. Người xưa quan
niệm chỉ có Táo Phật mới về trời trong ngày 23 tháng chạp, nên có câu :
Hăm ba Táo Phật về trời
Táo Bếp ở lại đội nồi cả năm
Canh ba, giờ Tý ngày 23 tháng chạp, ông Táo được đưa về trời “cờ bay ngựa
chạy”. Tục xưa còn có đốt vàng mã gồm mũ cánh chuồn, áo dài đen và đôi hia để
ông Táo có lễ phục chầu trời. Đặc biệt là không có quần dài bởi Táo quân mặc quần
lửng (quần đùi dài đến gối) theo kiểu của người Nam bộ. Lễ cúng tiễn Táo quân có
nhang đèn, xôi, chè, trái cây và không thể thiếu dĩa mứt thèo lèo. Lời khấn tiễn Táo
quân giản dị (trước kia còn có văn khấn) ngụ ý mong Táo quân về Trời báo cáo việc
nhà trong năm qua và xin Trời gia ân cho năm mới làm ăn khấm khá, gia đình thịnh
vượng. 23 tháng chạp tiễn đi, 30 đón về cùng với ông bà dự Tết. Táo Phật được tiễn
đi nhưng Táo Bếp vẫn gắn với “lửa củi” hàng ngày. Cư dân Việt ở Đồng Nai có tục,
sau khi đưa ông Táo về trời, trong ngày 23 tháng chạp, lật ông đầu rau giữa đục lỗ
rồi gánh cả ba đem đổ ở gốc cây to trong vườn, thay vào đó là 3 ông đầu rau khác.
Khi bếp lò được dùng phổ biến, việc thay bếp lò cũng được thực hiện như thay ông
đầu rau.
Táo quân không có cốt tượng để thờ, chỉ thờ bằng bức dán giấy hồng đơn có
ghi chữ nho “Định phúc Táo quân”, hàng năm tờ giấy được thay mới trước khi đón
Táo về ăn Tết cùng ông bà. Táo quân được cúng nhang, đèn, hoa, trái, nước trong
vào những ngày rằm, ba mươi, mồng một hàng tháng; còn được mời phối hưởng
trong các bữa giỗ.
Ngũ phương Ngũ thổ long thần:
Thường thể hiện trong khánh thờ dưới đất có bài vị ghi chữ nho: Ngũ phương
Ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ tài thần, nhiều khi còn có cốt tượng Ông Địa -
Thần Tài.
Cứ theo câu chữ mà xét thì bài vị nêu trên thờ hơn một chục vị thần, gồm :
* Ngũ phương thần: Đó là 5 vị thần trấn ở 5 phương (Đông, Tây, Nam,
Bắc và Trung ương) còn gọi là Thanh đế, Xích đế, Hắc đế, Bạch đế, Hoàng đế, có
quan niệm cho đó là Ngũ hổ.
* Ngũ thổ long thần: 5 vị: Thổ Công (thần Long mạch đất nhà, đình,
chùa, miễu), Thổ Chủ (chủ khuôn viên đất đang ở, có người cho là chủ Ngung
Man Nương), Thổ Phủ (bảo hộ đất chợ), Thổ Kỳ (bảo hộ mạch đất nói chung, thường
thờ ở dưới bàn thiên trước nhà), Thổ Địa (bảo hộ cư dân cư trú trên một khu đất nhất
định).
* Tiền địa chủ : 1 vị, vị thần chủ đất cũ.

11.8 Page 108

▲back to top


* Hậu địa chủ : 1 vị, vị thần chủ đất mới.
* Tài thần : 1 vị, vị thần bảo trợ về tiền của.
Thực ra, đây là hiện tượng “thu gọn bài vị” trong xu hướng giản lược sự thờ
tự đa thần xuất hiện từ thế kỷ XX.
Bàn trời: Là hình thức thờ cúng phổ biến, được dựng ở sân nhà, bằng cây
hoặc xây gạch cao ngang tầm người, không có mái che, thường gồm 2 tầng: tầng
trên thờ Thiên Hoàng, tầng dưới thờ Thổ Kỳ; đó là một kiểu thờ cân đối hài hòa trời
- đất, trong - ngoài, trên - dưới của người địa phương. Có người lại giải thích đó là
tàn tích “cây vũ trụ” của người bản địa nhằm nối liền cõi người với cõi trời.
I.2.4. Thờ khác :
Ngoài ra, một số gia đình ở Biên Hòa - Đồng Nai còn thờ những đối tượng
khác. Thờ Tổ nghiệp còn gọi là thờ Tiên sư, Thánh sư, Nghệ sư... những người thầy
đã truyền nghề cho đời sau. Tổ nghề thuốc, nghề gốm, nghề đúc đồng.. còn được
nhiều gia đình thờ nhưng lai lịch thường không rõ ràng. Những gia đình sùng đạo có
trang thờ các vị thần có nguồn gốc từ tôn giáo hợp với lòng tin của gia đình. Gia
đình Công giáo đương nhiên có tượng thờ chúa Jésu và mẹ Maria trong nhà, ngoài
ra còn có tượng ảnh thờ Thánh bổn mạng của gia chủ. Các gia đình theo đạo Phật
hoặc không tôn giáo cũng thường có ảnh tượng Phật, phổ biến là Quan Âm Bồ tát.
Người Biên Hòa - Đồng Nai, Việt cũng như Hoa có những phương thuật để trấn giữ
cửa nhà: Một tấm gương vẽ hình bát quái hoặc gương trong trước cửa ngụ ý ma quỉ
trông thấy phải sợ mà không vào, treo tượng ảnh ông Tử vi, để ngăn chặn tà ma thâm
nhập, dán ở cửa mảnh bùa Bát quái và ảnh thần Hổ cũng để ngăn trừ ma qủi... Tấm
bùa bát quái vẽ “Tứ tung ngũ hoành” có ảnh thần Hổ được thay mới hàng năm vào
ngày mồng 3 Tết.
Việc thờ cúng trong nhà đã trở thành thông tục của người Biên Hòa - Đồng
Nai. Người ta nghĩ rằng mái nhà không chỉ để ở mà còn là nơi con người giao hòa
với ông bà, tổ tiên, trời đất, thánh thần; nơi ấy con người được che chở, bảo vệ được
truyền thừa sức mạnh, và ân đức của lớp người trước để lại cho lớp người sau. Và
cũng ở nơi ấy con người có bổn phận phải tri ân các bậc ông bà, thánh thần và sửa
mình sống sao cho xứng đáng. Bởi vậy, việc thờ cúng trong nhà được xem trọng như
việc tạo ra căn nhà.

11.9 Page 109

▲back to top


I.3. CÁC LỄ TIẾT GIA ĐÌNH TRONG NĂM:
I.3.1. Tết:
Tết là lễ tiết quan trọng trong năm của cư dân Việt đánh dấu một điều gì đó
hệ trọng trong đời sống tinh thần của công chúng. Người Biên Hòa - Đồng Nai lưu
tâm đến các Tết phổ biến: Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung thu.
Tết Nguyên Đán là lễ tiết quan trọng nhất trong năm, là ngày hội bắt đầu năm
mới. Không khí Tết được khởi đầu từ ngày 23 tháng chạp, tức là ngày đưa Ông Táo
về trời. Sau ngày đưa ông Táo là ngày chạp mả. Chạp mả là việc thăm, sửa sang
phần mộ của ông bà, tổ tiên. Ngày cụ thể tùy theo sự ấn định của từng họ, từng gia
đình, thường là trong tháng chạp, trước ngày 25. Đến ngày quy định của gia đình,
người trong họ, trong nhà hội về; đàn ông lo việc làm cỏ, sửa sang phần mộ, đàn bà
lo việc bếp núc. Trong tục chạp mả, có một quy ước truyền đời: Khi làm cỏ, sửa
sang xong một cái mả, người ta đánh dấu bằng một cục đá (hoặc hòn đất), đặt lên
tờ giấy vàng bạc ở nấm mả để biết mả đã có chủ. Sau ngày 25, nếu thấy ở khu vực
ấy còn mả chưa đánh dấu, tức mả vô chủ thì người ta huy động người trong nhà đến
đốt nhang, làm cỏ, cốt không để một mả nào “hoang vắng, lạnh lùng” trong những
ngày Tết.
Ngày 25 tháng chạp, dân làng thường dọn một bữa cúng đạm bạc gọi là tiễn
ông bà, thần thánh đi thăm viếng họ hàng, người thân đâu đó, ấy cũng là ngày quan
chức trong làng khép ấn, thợ thầy được nghỉ việc.
Những ngày cuối tháng chạp là những ngày bận rộn: Hàng quán sửa soạn để
vào phiên chợ Tết (28 đến 30 tháng chạp), thanh toán các khoản nợ nần, làm nốt các
công việc đang dở dang, gởi quà biếu Tết đến thầy học, sui gia, họ hàng thân thuộc.
Ngày 30 tháng chạp, mọi nhà đều soạn lễ cúng đón ông bà. Việc chưng cúng ở bàn
thờ luôn thể hiện sự tươi mới, lâu bền, sung túc cho nên, hoa: thường có hoa mai
(may mắn), vạn thọ (sống lâu); trái: thường có mâm ngũ quả gồm sung (sung túc),
dừa (vừa), đu đủ (đủ) xoài (sài, tiêu xài), mãng cầu (thỏa mãn điều cầu mong)... Dưa
hấu được chọn chưng phải là dưa ruột đỏ thắm. Nếu ngày Tết dưa không đỏ gia đình
sẽ kém may mắn, cho nên các phiên chợ Tết thường có tục “bói dưa”. Đặc biệt, trên
bàn thờ ông bà, thường có một gói đường phổi, đường phèn, bánh tổ, bánh nổ đặt
trên trái dưa có dán giấy đỏ. Tục này có lẽ để tưởng nhớ xứ sở Trung bộ.
Lễ cúng đón ông bà thịnh soạn như một bữa giỗ. Tục xưa, còn có gia đình
gánh thức cúng (rất nhiều bánh trái, giấy vàng bạc) cúng đón ông bà tận ngõ. Trong
ngày 30 (nếu tháng thiếu thì ngày 29), mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây
tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu, cau, vôi; ở bên giỏ có treo giấy

11.10 Page 110

▲back to top


vàng bạc, gọi là “lên nêu” (1). Cây nêu được dựng như thế cho đến mồng 7 thì hạ.
Việc đòi nợ để sau ngày hạ nêu.
Lễ giao thừa có ý nghĩa thiêng liêng nhất trong các ngày Tết. Đó là lễ “tống
cựu nghênh tân” đúng vào lúc năm cũ bước qua năm mới. Người miền Bắc và người
Hoa gọi là lễ Trừ tịch, người Đồng Nai gọi nôm na là lễ đón giao thừa. Đúng vào
phút giao thừa, con vật nào lên tiếng trước người ta tin rằng tính khí của con vật ấy
chi phối cả năm mới. Lễ giao thừa, gia chủ lên đèn sáng trong sáng ngoài, mở toang
các cửa lớn nhỏ, đốt nhang khấn cúng; văn cúng ngắn gọn, nêu rõ năm tháng họ tên
gia chủ, kể tên các phẩm vật cúng, khấn các vị hành binh hành khiển mới và các vị
Thổ Địa, Táo quân, Thần độ mạng, ông bà... phù hộ cho toàn gia năm mới tăng phúc,
tăng thọ, an khang thịnh vượng. Cư dân Việt tin rằng mỗi năm có một vị hành binh,
hành khiển và 1 vị phán quan coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho
thần kia. Cho nên, người ta cúng Tết để tiễn ông cũ và đón ông mới; ví dụ, năm Bính
Tý, các vị hành khiển hành binh đương niên là: Châu Vương hành khiển, Thiên Ôn
hành binh, Lý Tào phán quan. Tết năm Sửu, các vị này sẽ bàn giao cho: Triệu Vương
hành khiển, Tam Thập Lục Thương hành binh, Khúc Tào phán quan.. cứ vậy đến
tròn một con giáp, bắt đầu trở lại từ năm Tý.
Ngày mồng một thực sự là ngày của năm mới. Trẻ con mặc đồ mới, mừng
tuổi người lớn, được lì xì tiền lẻ trong bao đỏ. Phải là tiền lẻ để có thể sinh sôi thành
chẵn. Tục xông đất cũng được thực hiện như phong tục phổ biến. Người nào vía tốt
đi xông đất người khác được mừng đón. Người nào tự thấy mình xui xẻo, nhiều rủi
ro hoặc không hạp thì tránh xông nhà người khác. Từ mồng một đến mồng ba, người
ta kiêng đổ rác, không dùng giếng nước, mạch nước, không động đất trong vườn,
không nghỉ qua đêm ở nhà người khác. Người xưa giữ lễ nghĩa: “Mồng một Tết nhà,
mồng hai Tết (nhà) vợ, mồng ba Tết thầy”. Từ khi rước ông bà cho đến hết ngày
mồng ba, mỗi ngày dọn mâm cúng ông bà hai lần, phụng sự chu tất như lúc ông bà
còn sống.
Mồng ba: (có nhà cúng mồng bốn) là ngày Tết vườn, Tết chuồng. Các loại
cây cối, chuồng heo chuồng gà, chuồng bò đều được dán vàng bạc hoặc giấy đỏ. Gia
chủ soạn một mâm cỗ gồm gà trống luộc để nguyên con, bánh tét, hoa, trái cây, rượu,
khấn cúng Thổ Công, Thổ Kỳ, Thổ Địa, Thổ Chủ phù hộ cho vườn đất, gia cầm, gia
súc được sung mãn, sinh sôi nảy nở ra tiền của. Con trâu là đầu cơ nghiệp nên được
chăm sóc kỹ nhất. Trâu được cỏ mới, được ăn một lát bánh tét; trâu đực được uống
một chén rượu, trâu cái được uống trà; sừng được dán vàng bạc; trẻ chăn trâu được
chủ lì xì nhiều tiền và bộ quần áo mới.
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 7.

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Tết là ngày vui chơi, nhất là đối với thanh niên, trẻ em. Các trò chơi gồm:
Đốt pháo (nay không còn), đánh đu tiên, đá gà, múa lân, lắc bầu cua, xuất hành, hái
lộc... Đó là những trò vui vẻ được người Đồng Nai ưa thích nhất.
Ngày mồng bốn cúng đưa ông bà. Lễ vật cúng như lúc đón. Theo tục cổ,
người phụ nữ gánh thức cúng và vàng mã đưa ông bà đến ngõ, có khi đến tận mả,
cúng và “hoá vàng” ở đấy. Một số gia đình cúng ông bà bằng cháo cá ám, dạng cháo
nấu bằng cá lóc để nguyên vẩy để tưởng nhớ thuở khai sơ của gia đình. Mồng bảy
lễ hạ nêu. Vì sao hạ nêu vào ngày mồng 7, người địa phương không giải thích
được, cứ theo tục cổ truyền và xem đó là dấu hiệu chấm dứt Tết Nguyên Đán. Lễ hạ
nêu đơn giản, lễ vật như cúng giỗ. Sau hạ nêu, mọi người bắt đầu công việc năm mới
của mình, người làm nghề nông thì “động cuốc cày”, thợ rừng thì khai sơn, học trò
thì khai bút, thương nhân thì đi buôn lấy ngày.
Tết giữa năm: Ngày mồng 5 tháng 5 cũng được xem là một ngày Tết, người
Đồng Nai gọi là Tết giữa năm, nhiều người gọi là Tết Đoan Ngọ. Nguồn gốc ý nghĩa
của Tết Đoan Ngọ đã có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng Tết Đoan Ngọ
nhằm kỷ niệm ngày mất của Khuất Nguyên. Ở Đồng Nai, ý nghĩa của ngày Tết giữa
năm được xác định rõ, đấy là thời điểm xong mùa cấy, vào mùa hoa trái, cây cối vạn
vật đều chuyển mình trong mùa mưa, côn trùng sinh sôi nảy nở gây nhiều bệnh cho
cây, cho người. Vào ngày này, người địa phương tổ chức ngày Tết mừng đón mùa
vụ mới đồng thời cầu cúng mong cho mưa thuận gió hòa, tránh được bệnh tật. Bởi
vậy, sinh hoạt trong Tết Đoan Ngọ xoay quanh hai ý nghĩa quan trọng: Đón mùa vụ
phòng chống bệnh.
Ngày Tết giữa năm, ở Đồng Nai hoa trái sớm đã có, đang độ tươi ngon nhất
trong năm. Người địa phương chọn hoa trái đầu mùa chưng cúng ông bà gồm những
: Bưởi, chuối, sầu riêng, dâu, măng cụt, mít tố nữ. Ngày mồng 5 tháng 5, có thể cúng
chay hoặc cúng mặn. Ngày này, người ta thường cúng vịt vì theo quan niệm dân
gian, vịt gắn liền với sự sinh sản. Nhiều gia đình lại cúng món cháo cá ám như ngày
Tết. Ngày Tết giữa năm có nhiều tục lạ, cốt là để thúc giục cây trái đâm hoa kết quả
và ngăn ngừa bệnh tật. Đáng chú ý là tục “khảo cây”; những cây nào đến tuổi mà
chưa ra trái ngày này gia chủ đem rựa ra dứ dứ đòi chặt, hoặc giả chặt một vài nhát
để người vợ trong nhà chạy ra van xin, như thế năm sau cây sẽ ra quả. Tết giữa năm
thực là ngày Tết giao mùa, ở đó con người cùng vạn vật sửa mình để bước vào cuộc
vận hành của mùa mưa giàu sản vật nhưng cũng đầy chướng khí.
Tết Trung thu theo tên gọi là ngày Tết giữa mùa thu lúc trăng sáng nhất trong
tháng (rằm) và trong năm (ngày của sao Thái âm). Nhiều người giải thích nguồn gốc
của Tết Trung thu bằng tích truyện vua Duệ Tôn đời Đường đi chơi ở cung trăng;

12.2 Page 112

▲back to top


các tục thi, rước đèn, cỗ bánh, trông trăng đều do đấy mà ra (1). Ở Đồng Nai Tết
Trung thu thực là ngày Tết của trẻ con. Phổ biến là trò rước đèn, rước cỗ bánh theo
lối của người Hoa. Người lớn chuẩn bị cỗ bánh (bánh trung thu) và lồng đèn bày sẵn
để trẻ con rồng rắn đến rước, vừa đi vừa hát các bài đồng dao vui vẻ. Có nơi, trẻ con
trong xóm họp thành đám, tổ chức múa lân, cũng có Ông Địa dẫn đường, cũng nhảy
múa diễn trò như lân của người lớn. Mặc dù mang hình thức của người Hoa, nhưng
cốt lõi của Tết Trung thu vẫn lấp lánh ý nghĩa lễ tiết cổ truyền của cư dân Việt cổ.
Trong tâm thức dân gian, rằm tháng tám là tháng của cốm mới, của lúa mùa đọng
sữa, của sự non tơ chớm trưởng thành ở vạn vật ứng với lứa tuổi nhi đồng của xã hội
loài người. Chăm sóc trẻ con là lễ thức mừng đón, cầu mong sự trưởng thành đang
trong dạng mới kết tinh. Ở Biên Hòa - Đồng Nai, có thể nhận ra ý nghĩa cốt lõi ấy
qua các tục cúng cơm rượu, làm mạch nha, cúng lúa trổ đòng đòng...
I. 3.2. Những ngày rằm:
Ngoài rằm tháng tám là Tết Trung thu, có ba ngày rằm quan trọng được
người Biên Hòa - Đồng Nai thực hiện lễ thức cầu cúng đặc biệt; đó là rằm tháng
giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười.
Rằm tháng giêng là ngày rằm đầu tiên của các ngày rằm trong năm, dân gian
tin là ngày Phật giáng nên tổ chức lễ trọng, lễ hội ở chùa và lễ cúng ở gia đình; “lễ
Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Cũng có cách giải thích rằm tháng
giêng theo sách vở của người Hoa nên còn gọi rằm tháng riêng là Tết Thượng
Nguyên, Tết Trạng Nguyên, Tết Nguyên Tiêu... nhưng dân gian Đồng Nai thiên về
ngày lễ đậm tính dân gian của Phật giáo.
Rằm tháng bảy là rằm “xá tội vong nhân” gắn với tích truyện Mục Kiền
Liên và Lễ Vu lan của Phật giáo. Dân gian tin rằng, ngày này vong nhân ở địa ngục
được xá tội, các gia đình ở dương thế làm cỗ bàn cúng ông bà, thể hiện sự tha thứ,
xóa tội đối với mọi lỗi lầm ở cõi âm cũng như cõi dương.
Rằm tháng mười nhằm vào lúc mùa vụ “cơm mới,” các đình làng chuẩn bị
cúng Kỳ yên. Rằm tháng mười ở Nam bộ nói chung ở Đồng Nai nói riêng có ý nghĩa
như Tết cơm mới của một số vùng thuộc đồng bằng Bắc bộ, nhưng nghi thức theo
Phật giáo, lễ cúng như rằm tháng giêng, rằm tháng bảy.
Vào những ngày rằm tháng giêng, tháng bảy, tháng mười, các chùa mở hội
lễ Phật, cúng cầu siêu, có thể có chay đàn ứng phú. Ngoài việc dự lễ chùa, người địa
phương còn có lễ cúng tại gia, cúng Phật, vào ngày 15 bằng lễ chay và cúng thí cô
hồn vào ngày 16 bằng lễ mặn. Đáng chú ý là lễ cúng thí. Lễ cúng thí nhằm cầu siêu
và thí của cho thập loại cô hồn mang ý nghĩa nhân văn. Lễ cúng thí luôn có món
bánh cúng, bánh cấp.
(1) Nếp Cũ - Tín ngưỡng Vit Nam, Toan Ánh, NXB TP HCM tái bn, 1995, trang 418 - 431.

12.3 Page 113

▲back to top


Với tục cầu siêu, cúng thí; các lễ cúng rằm của cư dân Việt ở Đồng Nai thể
hiện lòng nhân đạo qua nghĩa cử “chăm lo cho người khác” mang đậm sắc thái dân
tộc và màu sắc Phật giáo. Chính vì vậy nó được phổ biến và có sức sống lâu dài.
I.3.3. Những ngày vía:
Ngoài những ngày Tết, ngày rằm, người Biên Hòa - Đồng Nai còn có những
lễ thức cúng vía vào những ngày vía trọng trong năm. Người địa phương quan niệm
rằng thế giới con người chịu sự chi phối của “thế giới hữu linh”. Các thần thánh, và
hiện tượng thuộc thế giới hữu linh đều có những ngày quan trọng (thăng hoặc giáng,
tàng hoặc ẩn), đó là ngày vía, cần có lễ cúng để tưởng niệm. Ngoài các ngày vía gắn
với việc thờ cúng các vị thần bản gia, trong chu kỳ một năm, cư dân Việt ở Đồng
Nai thường có các lễ cúng vía vào các ngày tháng nhất định.
Mồng 8 tháng giêng cúng sao hội. Mỗi người đều có sao ứng mạng theo tử
vi và có lễ cúng sao giải hạn theo ngày tháng khác nhau; ngày 8 tháng giêng là ngày
cúng sao hội (ngày hội cúng sao) chung cho mọi người; có thể cúng ở chùa, thường
thì người địa phương dự cúng ở chùa lẫn tổ chức lễ cúng tại gia. Cúng sao hội vào
ban đêm, bày đồ cúng ngoài sân, lễ vật gồm nhang, đèn, hoa, trái, bánh, nước trong,
xôi, chè... có thể cúng mặn bằng bộ tam sên (gồm cua, trứng, thịt luộc). Không thể
thiếu 28 ngọn đèn cầy thắp sáng tượng trưng cho nhị thập bát tú. Lời khấn cúng có
nội dung mời gọi các vị Kim tinh (sao trời) phối hưởng, và độ mạng cho con người
được mạnh khỏe, bình yên, phát đạt trong năm.
Cúng vía Trời, vía Đất: Trời đất sinh vạn vật, nhưng chính trời đất cũng được
sản sinh. Theo quan niệm cổ truyền :
- Ngày mồng một sinh ra giống gà,
- Ngày mồng hai sinh thêm giống chó,
- Ngày mồng ba sinh thêm giống heo,
- Ngày mồng bốn sinh thêm giống dê,
- Ngày mồng năm sinh thêm trâu,
- Ngày mồng sáu sinh thêm ngựa,
- Ngày mồng bảy sinh ra loài người,
- Ngày mồng tám sinh ra ngũ cốc,
- Ngày mồng chín sinh ra Trời,
- Ngày mồng mười sinh ra Đất;
Có lẽ từ đó mà dân gian có tục “mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”.
Ngày mồng chín người địa phương sắm lễ cúng chính ở bàn trời (bàn thiên) nhằm

12.4 Page 114

▲back to top


cúng Thiên Hoàng. Ngày mồng mười, cúng lễ như hôm trước cúng vía Đất ở bàn
thờ Thổ Kỳ, Thổ Công, Thổ Địa. Lễ cúng vía Đất được giữ lệ vào mỗi ngày mồng
mười mỗi tháng từ tháng giêng cho đến tháng năm (âm lịch). Lễ vật có gì cúng nấy,
tùy tâm gia chủ, gọn nhất có nhang, đèn, hoa, trái, nước trong; sang nhất có thêm
xôi, chè, gà, vịt, đầu heo...
Vía Ngâu: Ngày 7 tháng 7 là vía Ngâu gắn với tích truyện Ngưu Lang -
Chức Nữ. Những ngày này ở Đồng Nai thường mưa dầm kéo dài 5 đến 7 ngày, sau
đó là hạn bà Chằn, thời điểm để dọn đất chuyển vụ rẫy. Vía Ngâu được cúng như
một lễ nhỏ cầu thời tiết thuận lợi cho mùa màng; lễ cúng đơn sơ, cách cúng cũng
như những ngày vía khác. Hiện nay, nhiều nhà đã bỏ qua ngày vía này.
* Vía Bà:
Vía Bà không nhằm vào một ngày nhất định, mỗi nhà cúng vía bà vào ngày
vía ứng với nữ thần độ mạng trong nhà. Vía các bà như sau :
- Linh sơn Thánh mẫu: rằm tháng giêng.
- Quan Âm Bồ tát: ngày 19 tháng 2 và 19 tháng 6.
- Bà Chúa Xứ : 24 tháng 4.
- Năm bà Ngũ Hành : mồng 5 tháng 5.
- Cửu Thiên Huyền Nữ : mồng 9 tháng 9...
Ngày vía Cửu Thiên Huyền Nữ còn là ngày Tết Trùng cửu của người Hoa.
* Cúng Tá thổ :
Còn gọi là cúng mượn đất, một tục cổ khá phổ biến ở Trung bộ, và Nam bộ.
Người Khánh Hòa gọi là cúng Khảo thổ hay Mãi thổ, từ Phú Yên trở vào gọi là
thổ. Trong quá trình khai hoang lập làng hình thành xứ Đàng Trong, cư dân Việt bắt
gặp vùng đất nào cũng có dấu vết của người bản xứ, từ đó hình thành suy nghĩ: Vùng
đất mình đang khai phá, đang ở vốn đã có chủ, cần có sự “thỏa thuận” với chủ cũ để
cho việc làm ăn mới thuận lợi, đỡ bị “phá phách”. Ngày cúng Tá thổ không xác định
cụ thể, tùy theo từng gia đình, thường trong tháng ba lúc bắt đầu mùa mưa, sắp động
đất để vào vụ gieo trồng. Lễ vật cúng Tá thổ bày dưới đất, gồm heo hoặc là heo thu
gọn còn thủ vĩ (đầu heo, móng và đuôi), chè, cháo, bánh ít, mắm nêm - rau luộc, có
5 hình nhân bằng giấy ngực quét vôi trắng được phân trấn giữ 5 phương. Cuộc cúng
do thầy pháp điều khiển, có đồng bóng tham gia.
I.4. TẬP QUÁN, TÍN NGƯỠNG GẮN VỚI CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI:
Con người gắn bó với gia đình, gia đình không thể tách rời cộng đồng xã hội.
Cư dân Việt ở Đồng Nai do “tứ chiếng” hợp lại, gặp cảnh “xứ sở lạ lùng”, “chim
kêu vượn hú” càng có nhu cầu hợp quần, nương tựa, tương trợ nhau trong đời sống;

12.5 Page 115

▲back to top


từ đó hình thành tập quán, tín ngưỡng gắn với cộng đồng xã hội; phổ biến là những
sinh hoạt xoay quanh cái đình, cái miễu.
I.4.1. Đình và lễ hội cúng đình:
* Đặc điểm và quá trình hình thành:
Do đặc điểm hình thành cộng đồng cư dân Việt ở Đồng Nai, đình thần ở
Đồng Nai ra đời muộn, tuổi đời còn ngắn, không có lai lịch giàu thần tích như đình
ở miền Bắc, miền Trung. Nhưng so với vùng đồng bằng Nam bộ, đình ở Đồng Nai
thuộc dạng định hình sớm. Gọi là hình thành sớm ở đất Nam bộ nhưng đình thần ở
Đồng Nai không phải bắt nguồn đình trạm như xứ Bắc, cũng không phải được tái
hiện theo “nguyên mẫu” được mang theo trong hành trang di cư. Có lẽ, ý niệm về
“cái đình” của cố hương chưa được hiện thực hóa ngay khi lập làng, lập ấp ở Đồng
Nai, mà bắt đầu từ cái miễu, một trú sở của thần thánh nói chung phù hợp với qui
mô của làng và tài lực của người thời khai phá. Bằng chứng rất rõ là cho đến nay,
dân gian vẫn chưa thuận miệng với tên gọi “đình”, thậm chí biển đình mới trùng tu
vẫn còn giữ nguyên Hán tự là “cổ miếu”, như: Bình Xương cổ miếu, Cẩm Vinh cổ
miếu, Vĩnh Thị cổ miếu... Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức kể rõ các
di tích ở trấn Biên Hòa nhưng vẫn không thấy nêu tên một đình nào (1). Các bô lão
địa phương cho biết từ lúc triều đình Huế yêu cầu kê khai thần tích đình làng để xin
sắc phong thì tên gọi “đình” mới xuất hiện trong văn tự rồi quen dần trong khẩu ngữ.
Như vậy, trong thực tế, người địa phương phân biệt đình, đền, miễu chưa rạch ròi;
vẻ nguyên sơ của cái đình còn rõ nét.
Quá trình lập làng ở Đồng Nai với mô hình “thôn - ấp” là chủ yếu, làng ban
đầu rất nhỏ nhưng phát triển rất nhanh, phân lập không chừng, tổ chức hành chính
nhiều biến đổi, do đó “thân phận” của cái đình cũng thăng trầm, phân bố không đều,
làng cũ đình miễu dày đặc, làng mới thưa thớt. Theo kết quả khảo sát của Chi hội
Văn nghệ dân gian Đồng Nai năm 1997, toàn tỉnh có 141 đình, riêng thành phố Biên
Hòa có 34 đình ở 26 phường xã, nhưng các huyện Xuân Lộc, Tân Phú, Định Quán
lưa thưa vài đình nhỏ. Có xã hơn mười cái đình (xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu: 12
đình; xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa: 11 đình), có nơi hai ba xã chung một cái
đình.
Hầu hết đình làng ở Đồng Nai đã qua nhiều lần trùng tu. Thuở khai sơ, do
khống chế của triều đình nên nhà cửa, nơi thờ phượng của dân Nam bộ có giàu lắm
cũng không được lợp ngói (2); bởi vậy, đình miễu thảy đều quy mô nhỏ, lợp lá,
trường hợp lợp ngói âm dương rất hiếm. Từ thế kỷ 19, đình miễu được phép trùng
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, tp H, trang 108 - 113.
(2) Đình Nam bộ - tín ngưỡng và nghi l, Hunh Ngc Trng - Trương Ngọc Tường - Hồ Tường, Nxb. TP H
Chí Minh, 1993, trang 24.

12.6 Page 116

▲back to top


tu, mở rộng quy mô. Những đình còn giữ được kiến trúc cổ nhất như đình Phú Mỹ
(Phú Hội), đình An Hòa (Bến Gỗ)... cũng từ giai đoạn này.
Đình, miễu, chợ, chùa là trung tâm văn hóa của người địa phương cho nên
thường được xây dựng gần nhau ở khu đông dân cư, nơi cao ráo, có phong cảnh đẹp,
có chòm cổ thụ vừa mát vừa oai linh. Phần lớn đình cổ gần sông và quay hướng ra
sông, đình trẻ hơn lập ở gần lộ và quay hướng ra lộ; hướng đình không lệ thuộc theo
hướng Nam và kiêng hướng Bắc.
Kiến trúc đình ở Đồng Nai thường theo kiểu nhà rường tứ trụ bằng vật liệu
tốt khai thác từ địa phương và bàn tay thợ đá, thợ gỗ, thợ gốm của Biên Hòa xưa,
tạo cho đình vẻ đẹp mang sắc thái địa phương. Đình Tân Lân ở Biên Hòa, đình An
Hòa ở Long Thành, đình Phú Mỹ ở Nhơn Trạch được xem là những đình sắc nét của
Đồng Nai. Việc bố trí trong đình cũng như các đình khác ở Nam bộ, chánh điện
có khám thờ Thành Hoàng bổn cảnh, hai bên là Tả ban, Hữu ban; phía trước là hai
dãy các bàn thờ các chư vị phối tự như: Bạch mã Thái giám, Nhạc sư, Tiên sư...
Trước mặt bàn thờ Thành Hoàng là bàn La liệt để bày lễ vật cúng; tiếp đó là bàn Hội
đồng. Tiếp theo bàn Hội đồng bàn Chánh bái, hai bên bàn Chánh bái là Tả hữu
bồi tế. Đối diện với chánh điện là Võ ca có mái che nối hoặc không nối với gian
chính; nếu không Võ ca thì cũng là khoảng sân rộng để có thể dựng rạp hát. Bên trái,
bên phải mặt trước đình thường có bàn thờ thần Nông, thần Hổ, Rái Cá...
Nhà hậu (sau đình) có gian thờ: Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền đại hương
chức, Hậu đại hương chức... Liền mái với nhà hậu là nhà khói dùng làm nơi nấu
nướng chuẩn bị cỗ cúng. Bố cục trong đình cơ bản là giống nhau nhưng tùy theo các
đối tượng thờ cúng trong đình mà các bàn cúng thờ vị này hay vị kia.
Khi triều Nguyễn sắc phong Thành Hoàng để kéo đình làng vào hệ chính
thống thì đình ở Đồng Nai trở thành cơ sở nằm giữa hai thiết chế: Chính thống
dân gian, nhưng nghiêng về phần tín ngưỡng dân gian hơn. Một mặt, về hình thức,
đình ở Đồng Nai tuân thủ những chuẩn mực nghiêm nhặt theo điển lệ, mặt khác về
mục đích tín ngưỡng nó mở rộng các sinh hoạt dân gian, thể hiện tính đa chức năng:
Vừa là trú sở của Thành Hoàng và nhiều vị thần khác, vừa là công sở hành chánh
của làng, đồng thời là nhà hát, tụ điểm văn hóa của địa phương. Sinh hoạt đình dung
nạp cả hệ thống thần linh của ba miền; của Phật giáo, người Hoa, người bản địa;
dung nạp cả các hoạt động văn hóa thể thao từ múa lân, cờ người, võ thuật đến xây
chầu, đại bội, hát bội, hát bóng rỗi; thậm chí cả ca nhạc tài tử. Nhiều đình ở Đồng
Nai xưa gần như mở cửa quanh năm, có đình không cần đến cửa.

12.7 Page 117

▲back to top


* Nhng vthn được phng th:
Cũng như đặc điểm chung của Nam bộ, đình ở Biên Hòa - Đồng Nai “thờ
hàng chục, có khi đến ba bốn chục vị thần, gồm có Thành Hoàng, Phúc Thần, Thần
linh và những danh nhân sanh tiền có công xây dựng, kiến thiết địa phương... rất
phức tạp” (1). Việc kê danh sách cho đầy đủ các vị thần đã được thờ trong đình ở
Đồng Nai đã khó, việc phân loại càng khó. Huỳnh Ngọc Trảng và các đồng tác giả
xét về nguồn gốc, tạm thời chia các vị thần ở thần điện Nam bộ làm hai nhóm:
+ Nhóm 1: Thành Hoàng và Phúc thần do những người đi khai hoang đem
từ quê hương cũ vào thờ.
+ Nhóm 2: Những vị thần linh theo tín ngưỡng dân gian.
Xét về cơ cấu, lại chia thành ba nhóm khác:
+ Tập hợp các thần linh thuộc đối tượng tín ngưỡng chính thống của
đình.
+ Tập hợp các vị tiền bối hữu công của làng như Tiền hiền, Hậu hiền, các
anh hùng liệt sĩ, các tổ nghề: Tiên sư, Tổ hát bội, Tổ nhạc lễ.
+ Tập hợp các vị thần thuộc tín ngưỡng dân gian truyền thống
Cũng có thể phân loại bằng cách dựa theo hệ thống các vị được thờ hiển thị
(có bàn thờ tại đình) và các vị chỉ được gọi mời trong văn cúng. Ở Biên Hòa - Đồng
Nai, bài trí thờ trong đình thường đơn giản hơn, có khánh, bàn, miễu thờ khoảng 10
đến 13 vị, nhưng văn cúng còn gọi mời nhiều vị khác như đình Cẩm Vinh chẳng
hạn, mời gọi hơn 20 danh thần.
Đáng lưu ý ở Đồng Nai là tục thờ vọng Quốc tổ và các anh hùng dân tộc. Cư
dân Việt tuy xa quê hương nhưng không rời cội nguồn, tâm thức luôn hướng về
Quốc tổ. Đình, đền, Quốc tổ ra đời tuy muộn nhưng sớm trở thành trung tâm văn
hóa ở địa phương thu hút niềm tin của các lớp người. Đền Hùng Vương ở Biên Hòa
(xây dựng năm 1960), do giáo dân Công giáo lập và phụng thờ, trong điện thờ tượng
Hùng Vương thứ 18, có bàn thờ Bác Hồ như vị Hùng Vương thứ 19. Ngày lễ hội 10
- 3 âm lịch rất đông người trong và ngoài tỉnh đến dự tưởng niệm. Trước bàn thờ
Quốc tổ Hùng Vương có đủ thành phần già trẻ, gái trai, giáo dân, phật tử, cán bộ
cách mạng. Đây là biểu hiện vừa cổ truyền vừa hiện đại của truyền thống đại đoàn
kết toàn dân và nghĩa đồng bào ở người Việt Nam. Đền thờ Hùng Vương ở Tân Phú,
Long Khánh cũng có ý nghĩa tương tự. Lạc Long Quân - Âu Cơ cũng được thờ như
Quốc tổ ở nhiều nơi, cách thờ cúng đơn giản nhưng đầy ý nghĩa; điện thờ ở Dầu
(1) Đình Nam bộ - tín ngưỡng và nghi l, sđd, trang 35.

12.8 Page 118

▲back to top


Giây huyện Thống Nhất thờ 100 chiếc đũa và văn cúng bằng thơ song thất lục bát
có ý nghĩa như một lời tự giáo huấn.
Các anh hùng dân tộc: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Tri Phương; các danh nhân
có công với vùng đất Đồng Nai: Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Thượng Xuyên, Võ Tánh,
Nguyễn Huỳnh Đức, Chu Văn Tiếp... và những nghĩa sĩ chống Pháp: Trương Định,
Nguyễn Đức Ứng, Đoàn Văn Cự... cũng được phụng thờ như Thành Hoàng của làng.
Tục thờ Bác Hồ ở đình cũng là biểu hiện đáng chú ý. Tượng ảnh Bác thường được
thờ ở bàn Hội đồng hay vị trí của Tiên sư ở hậu điện, hoặc lập bàn thờ Bác ở chính
điện mỗi khi tiến hành cúng Kỳ yên. Đình Phú Mỹ (xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch)
đã ngầm thờ Bác Hồ bằng 3 bức hoành phi (chữ Hán) qua mắt được kẻ địch:
Hồ nhiên nhi thiên
Chí vọng thâm ân
Minh hoài hậu đức
* Lhi cúng đình :
Lễ hội cúng đình thể hiện phần hồn của đình. ở Nam bộ phần lễ trội hơn phần
hội. Do phối tự thờ nhiều vị thần trong đình, cho nên lịch lễ dày đặc lễ cúng quanh
năm, có thể chia thành hai loại: Tạp tế cúng kỳ yên.
Tạp tế là các lễ nhỏ vào các lễ tiết và ngày vía thánh thần trong năm, cúng
chứ không tế, và không mở hội, thường là do các hương chức, hội tề hoặc Ban tế tự
dâng cúng lễ vật rất đơn giản và lời khấn ngắn gọn. Không cần nghi thức và bài bản
quy định. Lịch của các lễ tạp tế như sau :
STT Ngày tháng (âm lịch)
01 25 tháng chạp
02 30 tháng chạp
03 1 - 3 Tết
04 7 tháng giêng
05 15 tháng giêng
06 15 tháng bảy
07 15 tháng mười
Tên lễ
Sắp ấn, đưa thần
Rước thần
Lễ Nguyên Đán
Khai sơn, giở ấn
Rằm tháng giêng
Rằm tháng bảy
Rằm tháng mười
Nội dung
Niêm ấn, nghỉ việc làm, đưa thần về trời.
Đón thần về ăn Tết
Tết thần, Lễ xuân
Hạ nêu, mở ấn cúng Sơn thần, Hổ thần,
động thổ.
Vía Thiên quan đại đế
Vía Địa quan đại đế
Vía Thủy quan đại đế

12.9 Page 119

▲back to top


08 Ngày lập xuân
Lập xuân
(Tứ thời tiết lạp)
09 Ngày lập hạ
Lập hạ
10 Ngày lập thu
Lập thu
11 Ngày lập đông
Lập đông
12 5 tháng 5
Tết giữa năm
Tết giữa năm
13 15 tháng tám
Trung thu
Tết trẻ em
14 9 tháng chín
Trùng cửu
Đình người Hoa cúng
15 10 tháng mười
Tiên sư
Cúng cơm mới
16 (Tùy từng đình)
Tiên sư
Cúng các bậc thầy dạy nghề
17 (Tùy từng đình)
Vía Bà
Cúng vía các Bà thờ trong đình.
18 (Tùy từng đình)
Giỗ danh nhân
Cúng giỗ danh nhân được thờ
Các đình không nhất thiết giữ đúng lệ theo lịch lễ tiết nêu trên, tùy theo Ban
quý tế của từng đình mà thủ lễ, thêm hoặc bớt ngày cúng; có đình cúng đầy đủ các
ngày sóc, vọng; lễ Thượng điền, Hạ điền; cúng cô hồn, liệt sĩ; cúng mặn hoặc cả
chay lẫn mặn...
Lễ Kỳ yên là lễ chính của đình gọi là lễ vía thần nhưng thực là lễ hội nông
nghiệp để cầu an: Cầu cho quốc thái dân an, phong điều võ thuận. Mỗi đình định
ngày cúng Kỳ yên riêng, phổ biến là trong 3 tháng đầu năm hoặc 3 tháng cuối năm
âm lịch. Nghi thức cúng lễ Kỳ yên ở đình làng Nam bộ tuân theo điển lệ của triều
đình nên trình tự cúng tế của các đình căn bản giống nhau. Sách Gia Định Thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức có ghi vắn tắt về lễ cúng Kỳ yên của đình làng xưa
(1), xét đến nay, không khác mấy. Lễ hội thường diễn ra trong 3 ngày, gồm có 3 lễ
chính: Túc Yết, Đàn cả (Đoàn cả), Tiền hiền - Hậu hiền. Những nghi lễ khác như:
Rước sắc thần, Xây chầu - đại bội, Đưa khách (Tống phong)... là những lễ thức
phụng sự trong 3 lễ chính.
Trong lễ Kỳ yên, có sự quy định khá nghiêm nhặt về thành phần nhân sự
tham gia tế tự. Nếu các lễ cúng nhỏ tạp tế có thể do ông từ thực hiện thì việc tế tự
trong lễ Kỳ yên do Ban Tế tự đảm trách với sự phân công cụ thể và chuẩn bị chu
đáo. Những người trong Ban Tế tự được tuyển chọn, phân công phải là người cao
niên, có uy tín, có đạo đức, gia đình “tròn trịa” cuộc sống lành mạnh, như thế mới
(1) Gia Định Thành Thông chí, sđd, tập H, trang 10 - 11.

12.10 Page 120

▲back to top


“hài lòng” thần linh. Thành phần tham gia tế tự gồm: Chánh niệm hương (1 vị, danh
dự nhất, thường do Kế hào hoặc Trưởng ban Tế tự phụ trách); Chánh bái (1 vị, chủ
tế); Bồi bái (2 vị, thủ lễ ở 2 bàn cạnh Chánh bái); Đông hiến Tây hiến (2 vị, thủ
lễ ở Tả ban, Hữu ban); Chấp sự viên (4 vị, nhiệm vụ đánh trống lệnh, trống lớn,
chiêng, mõ); Thị lập (4 vị, đứng bên các bàn chính điện và tả hữu); Thầy lễ (điều
khiển chương trình, đọc văn cúng); Học trò lễ (lễ sinh, ít nhất 3 cặp: 2 cặp bưng đèn,
đài; 1 cặp cúc cung xướng lễ); Đào thài (2 đến 4 cặp, đi sau lễ sinh, quạt và hát);
Ban nhạc lễ (đầy đủ là 11 người chơi 11 loại nhạc cụ cổ truyền; thường là 4 hoặc 5
người chơi trống, kèn, não bạt...); Lính hầu (4 kép hát bội mặc võ phục đứng hầu);
Thủ từ (túc trực bàn thần để gõ chuông, xếp lễ vào bàn)... Mỗi vị đều mặc lễ phục
cổ truyền theo quy định, nhất nhất làm phận sự một cách trang trọng.
Lễ vật dâng cúng các bàn thần cúng thức mặn, gồm hoa, trái, nhang, đèn và
các món cúng mặn: Thịt luộc, rau, mắm, muối, các món xào, kho... ở bàn La liệt, tế
thần luôn phải có món xôi thịt sống. Xôi thực ra là cơm nếp được chọn nếp ngon
nhất, nấu khéo nhất, đơm đẹp nhất để tế thần. Xôi tế thần không có đậu (để tinh
nguyên); thường là mâm xôi được rước từ nhà Chánh bái hoặc nhà người danh giá
nhất làng. Xôi cúng ở các bàn khác có thể có đậu. Lúc chuẩn bị xôi cúng đình, gia
đình không được “lộn xộn”, tránh đứng che bóng mặt trời rọi vào mâm xôi; khi đưa
hoặc rước xôi đến đình, không được bưng gánh mà là khiêng, đội, để trân trọng,
không ô uế. Người địa phương tin rằng, mâm (dĩa) xôi của mình càng ngon, đơm
khéo thì càng được thần phù trợ. Những mâm xôi khéo được chọn càng để gần bàn
thần, chủ nhân của nó càng vui, càng nhiều hy vọng.
Thịt sống nhằm để thần hưởng sự tinh nguyên từ lòng thành. Làng nghèo lắm
mới cúng thịt sống không đủ bộ (thu gọn còn đầu, móng, đuôi gọi là thủ vĩ). Thường
thì heo tế phải nguyên con được cạo sạch lông để ở bàn La liệt, tư thế quỳ hướng
đầu về phía bàn thần, người địa phương gọi là heo chong. Trước kia, người ta chọn
heo đen tuyền, lý do chưa rõ, có người giải thích đó là heo bổn địa, thuần giống,
chưa lai tạp. Nay, hiếm heo đen, được chọn heo trắng nhưng kỵ heo lang. Làng giàu
có thể cúng bò, dê theo tục cổ. Heo tế phải qua lễ tỉnh sanh.
Lễ tỉnh sanh còn gọi là lễ thỉnh sanh thường thực hiện vào lúc 0 giờ đêm
Túc yết nhằm mục đích trình thần vật cúng tinh nguyên (con heo còn sống không
bệnh). Bởi vậy, heo được chọn mua cẩn thận, chăm sóc kỹ, được trói khiêng vào
trước bàn thờ thần chọc cho kêu to, heo kêu to là “thần vui”, heo không kêu hoặc
kêu nhỏ là điềm xấu. Lễ tỉnh sanh được cử hành long trọng: Có khởi chinh cổ, lễ
sinh bưng đèn, nhạc sinh cử nhạc, Chánh niệm hương hành lễ rửa mặt, quỳ lạy;
Chánh bái cùng Bồi tế thứ tự lạy thần rồi mới khai dao. Những giọt huyết đầu tiên
của heo được hứng vào chén, cạo bỏ vào chén thêm nhúm lông, bịt chén bằng giấy
vàng bạc đem cúng bàn thần gọi là mao huyết. Sau khi cúng, mao huyết được đem
chôn ở gốc cây lớn nhất gần đình (gọi là ế mao huyết) mong cho sự sinh sôi của đất.

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Những đình có thờ Phi vận tướng quân Nguyễn Phục thì kiêng (hèm) giết heo tại
bàn thần, chỉ dứ dao vào cổ rồi đưa đi nơi khác. Tục này ngầm ý tránh cảnh “đâm
chém” như thần Nguyễn Phục đã thọ nạn. Ngoài thịt sống, bàn La liệt tế thần còn có
những món cúng khác, thường có rau luộc - mắm nêm; đình có đông người Hoa đến
cúng có thể có heo quay. Đình thờ Võ Tánh ở Phước Tỉnh kiêng cúng thịt quay để
tránh nghĩ đến cảnh chết cháy; có đình kiêng cúng heo thiến để không phạm đến đời
riêng của đức ông Lê Văn Duyệt.
Lễ Túc Yết là lễ trực ra mắt thần trước khi vào lễ chính thức; thường tiến
hành trước ngày Đàn cả, bắt đầu vào buổi sáng hoặc buổi chiều tùy theo lệ mỗi đình.
Nghi thức lễ Túc Yết theo bài bản có sẵn, mọi đình đều làm theo.
Lễ Đàn cả do người địa phương đọc trại âm từ Đoàn cả mà ra, được tiến
hành ngày thứ hai của lễ hội; giờ hành lễ khi xưa thường bắt đầu vào lúc 0 giờ (giao
hòa âm dương); những đình làng gắn với sông nước thì chọn giờ con nước sớm
(nước đầy vào buổi sớm); nay thì chọn giờ thuận lợi trong ban ngày. Nghi thức lễ
Đoàn cả thực hiện như lễ Túc Yết, chỉ khác ở chỗ lễ sinh xướng: “Tạ thần” thay cho
“Nghinh thần” khi hành lễ tấn tước.
Lễ Tiền hiền - Hậu hiền nhằm tạ ơn các vị “Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền
khai cơ” và các bậc có công với làng, với đình. Tục xưa, lễ thường diễn ra trong
ngày thứ ba (sau Đàn cả), nay thường thu gọn trong ngày, sau lễ Đàn cả vài giờ.
Nghi thức đơn giản hơn lễ Túc Yết nhưng không kém phần long trọng.
Ngoài ra, một số đình còn tiến hành các nghi lễ khác như cúng Cô hồn (đình
Bình Hòa), lễ Thỉnh sắc, Hồi sắc (đình Cẩm Vinh, đình Thành Hưng), lễ Tống phong
còn gọi là lễ Đưa khách (đình Long Thọ, đình Nguyễn Tri Phương)... Lễ cúng Cô
hồn theo nghi thức phật giáo, thực hiện giữa lễ Đàn cả và lễ Tiền hiền - Hậu hiền
hoặc trong đêm sau lễ Túc Yết. Lễ thường có cúng thí thực, đốt ông Tiêu, phát chẩn
gạo muối. Lễ Thỉnh sắc hoặc lễ an vị sắc thần thực hiện trước lễ Túc Yết, và Đưa
sắc (nếu có lễ rước sắc) sau khi kết thúc hội đình. Lễ Tống phong nhằm mục đích
tống ôn dịch đuổi tà khí ra khỏi làng, thực hiện sau khi vãn chầu đại bội. Trước kia,
lễ Tống phong thường được tổ chức ở nhà vuông (nhà võ) của làng vào tháng hai
âm lịch, nay đưa vào nhập với lễ Kỳ Yên ở đình; lễ vật bày ở sân gồm thịt luộc, xôi,
gạo, mắm, vàng mã; có sự tham gia hành lễ của thầy pháp hoặc thầy chùa; sau khi
đốt văn cúng và vàng mã, lễ vật được đặt lên bè chuối hình thuyền có hình nhân binh
tướng đứng hầu, đưa ra sông thả trôi. Trẻ mục đồng (con cháu thần Nông) được
quyền vớt, ăn những thức ăn trên bè ấy. Trong lễ cúng đình, không quên dọn lễ vật
cúng ở miễu nhỏ bên ngoài. Đặc biệt, ở bàn thần Nông thường có khoanh thịt nọng
(vuông thịt ở cổ heo), và xôi bánh; cúng xong để cho trẻ mục đồng giành nhau; nếu
trẻ mục đồng không giành hoặc cuộc giành giật không giằng co thì là điềm xấu.

13.2 Page 122

▲back to top


Lễ xây chầu - đại bội - hát tuồng được thực hiện sau lễ Đoàn cả. Lễ này
không thuộc lịch lễ hàng năm, thường là đáo lệ 3 năm một lần, hoặc vào những năm
làng có sự vui hệ trọng (như trúng mùa, được sắc phong...).
Thực chất của lễ xây chầu là nghi thức đánh trống. Ông chấp sự cầm dùi
trống múa, hát, vẽ bùa trên đất, vẽ bùa mặt trống, điểm trống rồi đánh ba hồi dài
theo nhịp trước thưa sau nhặt gọi là “tiền bần hậu phú”. Tiếng trống tượng trưng
cho tiếng sấm, thể hiện niềm vui, nỗi mong “mưa thuận gió hòa” của cư dân nông
nghiệp. Tiếng trống xây chầu còn có ý nghĩa “Khai thông thái cực” theo quan niệm
biến dịch của Đạo giáo.
Khi tiếng trống xây chầu dứt, ông chấp sự gác roi chầu, nhạc lễ liền trỗi điệu
song hỉ còn gọi là rước chầu; rồi thì các đào kép hát bội xuất hiện ở sân khấu, bắt
đầu lễ Đại bội. Lễ xây chầu đã khai thông thái cực thì lễ đại bội tiếp tục hình tượng
hóa sự biến dịch theo quan niệm thái cực sinh lưỡng nghi, tam tài, tứ tượng, bát quái
qua diễn xuất của các diễn viên hát bội. Lời hát và vũ điệu của diễn viên khuôn phép,
mang ý nghĩa nghi lễ. Đại bội gồm các tiết mục như sau :
- Khai thiên thông địa: Một kép hát hóa trang thành ông Bàn Cổ cầm nhang
múa, điểm hương bốn phía, không hát, với ý nghĩa thái cực đang vận hành.
- Xang nhật nguyệt: Hai diễn viên, một nam, một nữ hóa trang tượng trưng
cho nhật, nguyệt. Nam mặt đỏ, cầm dĩa tròn bọc vải đỏ tượng trưng cho mặt trời
thuộc dương. Nữ mặt trắng, cầm dĩa tròn bọc vải trắng tượng trưng cho mặt trăng,
thuộc âm. Diễn viên nam nữ cùng múa biểu hiện sự giao hòa, tương sinh tương khắc
giữa âm - dương.
- Tam tài: còn gọi là Tam hiền, Tam đa gồm 3 diễn viên hóa trang thành ông
Phúc, ông Lộc, ông Thọ tượng trưng cho Thiên - Địa - Nhân. Ba ông cùng ra sắp
hàng ngang, không múa, lần lượt hát những câu chúc: Phúc - Lộc - Thọ.
- Tứ Thiên vương: Tượng trưng cho tứ tượng: Thái dương, Thái âm, Thiếu
dương, Thiếu âm do 4 diễn viên nam hóa trang giống nhau lần lượt xuất hiện rồi
cùng múa; cuối cùng cả bốn chụm lưng nhau giương 4 câu liễn :
- Thọ tỷ Nam san
- Thánh thọ vô cương
- Quốc thái dân an
- Phúc như Đông hải.
Bốn câu liễn được Ban Tế tự rước lấy, có thưởng tiền cho "Tứ vị Thiên
vương".

13.3 Page 123

▲back to top


- Lễ Đứng cái: Tượng trưng cho ngũ hành, gồm 1 diễn viên nam đứng tuổi
(cái); 4 diễn viên nữ trẻ hơn đứng 4 góc (con); Cái thuộc hành Thổ tên là Viên
(vườn), các con thuộc hành Mộc (áo xanh) tên Mai, hành Hỏa (áo đỏ) tên Lan, hành
Kim (áo trắng), hành Thủy (áo tím). Cái và 4 con xếp hàng hát thài những bài hát
mang nội dung ước mong quốc thịnh, dân cường, an khang, hạnh phúc.
- Bát tiên hiến thọ: Gồm 8 diễn viên hóa trang thành 8 vị tiên trong Bát tiên,
cầm các “bảo vật” tượng trưng cho các thức ăn trường sinh cùng hát các bài theo
điệu lối, khách; cuối cùng dâng phẩm vật cho Ban tế tự. Có khi được thưởng tiền
như Tứ Thiên vương.
- Lễ gia quan tấn tước: Là lễ phụ do một người đóng vai Linh quan (thường
dưới hình dạng ông Địa, vui tính) cầm quạt múa vui sau đó múa bút viết 1 câu liễn
Gia quan Tấn tước” (thăng quan tiến chức) giao cho Ban tế tự. Đấy là các tiết mục
đầy đủ của Đại bội nhưng không nhất thiết phải thực hiện tất cả. Chọn diễn một số
trong các tiết mục nêu trên còn gọi là “Tiểu bội”.
Sau Đại bội là tuồng hát bội. Hát bội ở Đồng Nai biểu lộ rõ hình thức nghi
lễ nhưng nhằm mục đích sâu xa là thỏa mãn nhu cầu tinh thần của người địa phương.
Gọi là hát cho thần nhưng thực là cho người hưởng thụ. Bởi vậy, cuộc hát có thể kéo
dài nhiều ngày đêm, ngay cả khi hết lễ hội. Tuồng hát ở đình được chọn lựa cẩn thận,
tránh bi thương, chém giết; tuồng tích thường xoay quanh chủ đề: “Vua băng - Nịnh
tiếm - Bà thứ lên chùa - Chém nịnh - Định đô - Tôn vương - Tức vị”. Tuồng thường
được chọn nhiều nhất là San Hậu, một vở tuồng Tả quân Lê Văn Duyệt rất yêu thích
lúc sinh thời.
Lễ Tôn vương tiếp ngay sau cảnh quân vương tức vị của tuồng hát, thường
là tuồng San Hậu được chọn hát đêm cuối để Lễ Tôn vương liền sau. Khi tuồng đến
cảnh hoàng tử được trao ngôi vua, hoàng tử vào hậu trường thay vương phục, đào
kép xuống sân khấu chia hai hàng đứng trước bàn thần; hoàng tử nâng ấn kiếm trịnh
trọng đi đến bàn thần trao cho Chánh hội trưởng, Chánh hội trưởng cùng một phụ tá
nâng ấn kiếm đi giật lùi đến bàn thờ thần, cẩn trọng đặt vào long khánh. Lúc ấy,
người xướng lễ hô to “Phản tiền di hậu” kép hát quay mặt lại phía sân khấu; khi ấn
kiếm đã yên chỗ, người xướng hô to: “phản hậu di tiền” kép hát quay mặt về bàn
thần, đồng thanh hô :
Tôn vương tức vị
Nối dõi tiên hoàng
Chúc thọ tỷ Nam san
Phước như Đông hải
Vạn vạn tuế (3 lần).

13.4 Page 124

▲back to top


Tung hô xong, đào kép cùng lạy thần 3 lạy, rồi quay lại sân khấu diễn tiếp
màn chót hoàng tử lên ngôi. Lễ Tôn soái cũng được thực hiện như Lễ Tôn vương
trong trường hợp đoạn cuối tuồng hát nhân vật chính được phong tướng chứ không
phải được truyền ngôi báu.
I.4.2. Miễu và lễ hội cúng bà:
Theo tài liệu khảo sát năm 1997, ở Đồng Nai có 198 miễu các loại; như vậy,
miễu đa dạng và số lượng nhiều hơn đình. Đình gắn với cộng đồng làng thì miễu gắn
với đình, chùa, cụm dân cư, vườn nhà của gia đình, hương lộ, hương thôn; nhân vật
chính là mẫu.
Những năm 1960, Lương Văn Lựu ghi nhận: “Ngoài đình làng: Nhân dân
trong ấp thường dựng lên những “Thổ Chủ” (miễu nhỏ), dưới cội đa hoặc cây to
bóng mát, trên đường vắng, hay trong góc vườn để thờ Thổ Địa hay bà Chúa Tiên,
Chúa Xứ, Liễu Hạnh và tùy theo ngày kỷ niệm của mỗi vị mà hành cúng hàng năm
một cách thành kính” (1). Xét về hình thức, miễu ở Đồng Nai có mấy dạng chính:
- Miễu độc lập ở làng xã: Gắn với cụm dân cư trong làng ấp. Quy mô hơn
các dạng miễu khác, thờ “thánh thần”, những làng, xã chưa có đình đều có lập miễu;
dạng miễu này như là tiền thân của cái đình.
- Miễu ở đình, chùa: Là những miễu nhỏ ở khuôn viên đình, chùa; thường ở
phía trước, thờ các vị Thổ thần, Sơn thần (thần Hổ), Thánh mẫu, Chiến sĩ trận vong.
- Miễu ở đất vườn: Gắn với các khu đất vườn, đất rẫy, đất ruộng của gia
đình, thường thờ Bà và thần Đất; người địa phương còn gọi là Thổ Chủ.
- Miễu lẻ ven đường: Miễu do bá tánh lập lên ở ven đường, ven sông, hoặc
dưới bóng cây, gò đất cảm thấy là linh thiêng thờ Thổ thần hoặc cô hồn không nơi
nương tựa. Đa phần là miễu cô hồn.
Xét về đối tượng thờ cúng, nhận thấy thần điện của miễu đa tạp hơn đình,
chùa. Có thể phân thành các dạng chính :
- Thờ vong hồn linh ứng: Những người chết “bất đắc kỳ tử” đều được tin là
linh ứng, thường được thờ. Trong đó, các anh hùng, liệt sĩ hữu danh hoặc vô danh,
có công hoặc có nhân cách cao được người địa phương thờ trang trọng nhất (như
miễu Bình Hòa lập từ 1837 thờ 7 vị công thần chết trận trong binh biến Lê Văn Khôi,
miễu cô hồn ở Dốc Sỏi (Bình Hòa) thờ 9 nghĩa sĩ trại Lâm Trung chống Pháp bị
hành quyết...).
- Thờ các phúc thần: Thần Hổ, Rái Cá, Mãng Xà vương... là những linh vật
giáng họa nhưng cũng được thờ ở đình miễu và được đãi lễ như là phúc thần, dạng
(1) Biên Hòa sử lược, sách đã dẫn, trang 149.

13.5 Page 125

▲back to top


này không nhiều, có sự tích hợp nhiều yếu tố, như miễu thờ Rái Cá ở Hòa Quới (Cù
Lao Phố), đã hội nhập vào bàn thờ Lang lại đại tướng quân, miễu thờ rắn (Mãng xà
vương) ở Mỹ Lộc (Tân Uyên) đã đổi dạng thành thờ Ngũ Hành; miễu thờ thần Hổ
thì còn ít nhiều ở các đình, các làng còn đậm nét vùng sơn cước. Phổ biến là các
miễu thờ thần Đất dưới dạng Thổ Chủ, Thổ thần hoặc Ông Tà.
- Thánh mẫu: Đa phần miễu ở làng, ấp cũng như ở đình đều có thờ Thánh
mẫu, người địa phương quen gọi là thờ Bà. Các Thánh mẫu đã thâm nhập sâu vào
đình, chùa, gia đình; lại chiếm lĩnh hầu hết thần điện của các miễu, chứng tỏ tín
ngưỡng thờ nữ thần “sâu rễ bền gốc” trong tâm linh của cư dân Việt ở Đồng Nai.
Tục thờ cúng nữ thần gắn liền với cư dân Việt ở Đồng Nai từ buổi đầu mở
đất, đồng hành với quá trình phát triển của xã hội, có sự tích hợp nguồn gốc nhập cư
và nguồn gốc bản địa; có sự phát triển từ rời rạc vươn lên mang tính “đạo thờ mẫu”
rồi lại địa phương hóa các mẫu được phụng thờ. Ở đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức
đã chú ý đến đặc điểm này của đất Gia Định - Đồng Nai “...Nhiều người trung dõng
khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế, có nhiều giai nhân mỹ nữ,
mà trong hạng người giàu sang, trường thọ khôn khéo cũng có xuất hiện tên tuổi
của giới phụ nữ. Họ hay chuộng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần,
như: Bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (quen gọi người phụ nhân tôn quý bằng bà), bà
Hỏa tinh, bà Thủy Long, và Cô Hồng, Cô Hạnh... “ (1).
Khảo sát miễu Bà ở Đồng Nai, Bà được thờ là một tập hợp các nữ thần có
nguồn gốc và “lý lịch” khác nhau, được thờ cúng ở miễu tùy theo tâm niệm của mỗi
nơi:
- Bà Âu Cơ: Bà mẹ “thủy tổ” của dân tộc, theo cư dân Việt vào Đồng Nai
khá muộn, được lập miễu thờ vọng gắn với thờ Quốc tổ ở vùng đất mới khai phá sau
1954, thờ cúng đơn giản, lễ cúng chính vào ngày 10 - 3 âm lịch.
- Bà Ngũ Hành: Được thờ phổ biến nhất, đó là 5 vị nữ thần ứng với: Kim
Đức Thánh phi, Mộc Đức thánh phi, Thủy Đức thánh phi, Hỏa Đức thánh phi, Thổ
Đức thánh phi. Năm bà Ngũ Hành chỉ là ý niệm chung về các vị nữ thần có thiên
chức phù trợ cho việc sản sinh và phát triển; không có thần tích cụ thể; ngày vía
chính là 5 - 5 âm lịch. Ở những vùng nhiều hỏa hoạn, đông người Hoa, nhiều khi
Hỏa (Hỏa Đức thánh phi) được thờ riêng một miễu.
- Liễu Hạnh Công chúa: Nữ thần quen thuộc của cư dân Việt ở đồng bằng
Bắc bộ, một thành viên trong Tứ Phủ được thờ ở miễu Bà dưới chân núi Gia Lào
(thuộc địa bàn huyện Xuân Lộc), được cúng vía vào ngày rằm tháng 3 âm lịch.
(1) Gia Định Thành thông chí, sách đã dẫn, trang 4.

13.6 Page 126

▲back to top


- Bà Chúa Thượng ngàn: Một nữ thần của cư dân đồng bằng Bắc bộ, của
Tam Tòa, Tứ Phủ theo cư dân Việt vào Đồng Nai khá sớm, còn dấu vết được thờ ở
nhiều nơi, dần dần bị lẩn khuất trong hào quang của các Bà Ngũ Hành, chỉ còn rải
rác một vài miễu thờ, như miễu thờ trong khuôn viên đình Thành Hưng (Biên Hòa).
Bà được phối hưởng trong lễ cúng đình, không còn cúng ngày vía riêng.
- Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương: Là biến thể của Thiên
Y A Na Diễn Ngọc Phi, mẹ xứ sở Po Inư Nagar của người Chăm; vừa được xem
thần độ mạng cho phụ nữ tại gia, vừa là thần nữ phù trợ cho cộng đồng. Lệ cúng vào
ngày 3 tháng 3 (âm lịch) và các ngày rằm lớn.
- Chúa Xứ nương nương, Linh sơn Thánh mẫu: Cũng cùng một gốc với
Chúa Ngọc, Chúa Tiên nhưng có trú sở, lai lịch và thần tích riêng. Chúa Xứ được
giải thích có nguồn gốc ở Châu Đốc, điện thờ chính ở Núi Sam (Châu Đốc, An
Giang). Linh Sơn Thánh mẫu cũng vậy, tục gọi là Bà Đen, điện thờ chính ở núi Bà
Đen (Tây Ninh).
- Thiên Hậu Thánh mẫu: Có nơi còn thờ với tự hiệu là Thiên Phi nương
nương (như miễu ở đình An Hòa). Đây là vị nữ thần của người Hoa, họ Lâm gốc
Phúc Kiến, được người Hoa đưa vào Nam bộ, hòa nhập với thần thánh địa phương
trở thành một trong những vị thần bản địa. Vía Bà Thiên hậu ngày 23 - 3 âm lịch.
- Cửu Thiên Huyền Nữ: Vị thần mang ý niệm chung, người ta tin rằng Bà là
nữ thần quyền uy tối cao, cai quản cả chín tầng trời. Cửu Thiên Huyền Nữ là vị thần
độ mạng phụ nữ, đồng thời là vị thần khai sáng, dạy cho con người biết làm nhà hai
mái, biết làm mộc, đóng thuyền; Lộ Ban, Lộ Bốc, thờ Bà làm thầy. Bà được thờ
trong miễu khắp nơi, vía Bà ngày 9 - 9 trùng với ngày Cửu Trùng của người Hoa.
- Mẹ Thai sanh: Nguồn gốc là Kim Hoa Thánh mẫu của người Hoa, vị thần
trông nom về việc sinh nở. Người Đồng Nai thờ Mẹ Thai sanh với quan niệm là
“mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy”.
- Thủy Long Thần nữ: Gốc là một thần giếng, dần dần được quan niệm là
một thần cai quản sông nước, gọi chung là bà Thủy. Trong quan niệm dân gian hiện
nay, bà Thủy bao hàm cả chức phận của Hà Bá và có thể cũng là Thủy Đức Thánh
phi trong bộ Ngũ Hành, cho nên ngày vía cũng là ngày 5 - 5 âm lịch.
- Quan Âm Bồ tát: Vừa là Phật bà vừa là thần nữ. Người địa phương quan
niệm Quan Âm có họ hàng với các nữ thần, cùng chức năng cứu khổ, cứu nạn nhất
là cứu nạn trên biển. Cho nên, Quan Âm được kéo ra khỏi chùa, gắn với các miễu,
nhiều khi cũng được cúng đồ mặn như các nữ thần khác hoặc phối tự ở các miễu lẻ.
- Các nữ thần bổn địa: Vừa dung nạp những vị nữ thần nhập cư, người Biên
Hòa - Đồng Nai vừa có xu hướng gởi gấm niềm tin của mình ở những nữ thần tuy
không giàu thần tích nhưng gắn bó với mảnh đất mình đang sinh sống. Thị Vãi, một

13.7 Page 127

▲back to top


thôn nữ có tính cách khác thường, giàu lòng thương người được người địa phương
yêu mến lập miễu thờ, và tên miễu gắn liền với tên núi ở Long Thành - Bà Rịa.
bóng Hiên chuyên việc bói toán nhưng thực lòng, khẳng khái, được người địa
phương tin phục, lập miễu thờ ở Thiện Tân (Vĩnh Cửu), Ngày vía Cô 15 tháng 2 âm
lịch. Cô Lê Thị Hồng, một trinh nữ chết trôi có tấm lòng yêu đất yêu biển Long Hải
được ngư dân Long Hải thờ phụng ở Dinh Cô. Vía cô ngày 10 tháng 12 âm lịch.
Trịnh Hoài Đức có nhắc đến Cô Hồng, Cô Các trong Gia Định Thành thông
chí, nhưng kết quả điền dã chưa tìm được cơ sở thờ cúng các cô này ở Đồng Nai, chỉ
thấy có tên gọi trong văn cúng.
Việc bài trí điện thờ hết sức đơn giản, gồm bát nhang, bình bông, chén nước,
chân đèn; những ngày cúng thì: Nước trong, bông tươi, nhang thơm, đèn sáng; lễ vật
cúng có thêm bánh, trái, xôi, chè, thịt, thường là thịt vịt hoặc heo thu gọn thành thủ
vĩ. Nhiều nơi vật thờ còn có thêm: gương, lược, trâm cài, quạt và một vài món trang
sức khác của nữ giới. Những miễu độc lập thường có thêm Tả ban, Hữu ban; Nhị vị
công tử, Nhị vị công nương, Cậu Chài, Cậu Quới. Có miễu đầy đủ bàn thờ chư vị
như: Tiên sư, Thành Hoàng, thần Hổ, thần Nông, Chúa Tiên, Quan Âm Bồ tát như
miễu Ngũ Hành ở Cái Vạn (huyện Nhơn Trạch). Vì là thờ nữ thần cho nên, án thờ
dù nhỏ vẫn thường được trang hoàng sặc sỡ, có lọng che, rèm phủ. Câu đối xuất hiện
nhiều nhất ở miếu Bà:
Vạn cổ đào hoa chiêu Thánh nữ
Thiên thu vân tập hội Thần tiên.
Về tượng thờ các Bà, trước kia rất ít miễu có cốt tượng, thường thờ đơn giản
bằng chữ Hán vẽ trên tường hay dán trong khám thờ như: Ngũ Hành nương nương,
Chúa Ngọc nương nương, Chúa Xứ nương nương; gần đây phát triển thờ cốt tượng
bằng thạch cao, xi măng, gốm hoặc vẽ tranh lồng kiếng với lối sản xuất “hàng loạt”
cho nên các Bà đều đồng dạng, trang phục lộng lẫy như nhau, chỉ khác ở tên gọi
dành cho Bà này hay Bà kia. Riêng Bà Ngũ Hành là dễ nhận ra nhất với bộ cốt tượng
đủ 5 Bà trong 5 sắc áo khác nhau: Xanh, đỏ, tím, vàng, lục với quan niệm cổ truyền
rằng hành thổ màu vàng là trung tâm nên ngồi giữa.
Lễ hội cúng Bà ở mỗi miễu một khác, tùy vào ngày vía của mỗi Bà. Những
ngày sóc, vọng, ngày Tết, ngày vía đất, các miễu Bà được mở cửa cúng một lễ nhỏ
bằng nhang, đèn, bông, bánh trái. Ngày vía mới là lễ chính. Có nơi cúng thường niên
như nhau, có nơi đáo lệ 2, 3 năm một lần. Lễ cúng vía Bà thường vào ban đêm (thuộc
âm), do Ban tế tự của làng đứng cúng hoặc có khi do tổ chức Hội mẫu ở địa phương
làm chủ lễ. Miễu thuộc hệ dân dã nên nghi thức cúng Bà không đóng khung theo
khuôn phép điển lệ; cởi mở, sinh động hơn cúng đình. Tuy nhiên, nhiều địa phương
vẫn áp dụng nghi thức cúng đình trong cúng miễu.

13.8 Page 128

▲back to top


Lễ vật cúng đơn giản không nhất thiết phải heo sống, heo đen, xôi tinh khiết,
cũng không nhiều kiêng kỵ như cúng đình; bình thường thì: Heo quay, heo luộc,
mâm xôi, đèn nhang, vàng bạc, bánh trái; có thể cúng vịt; nghèo hơn thì cúng gà, xôi
chè, heo thu gọn thành thủ vĩ, vịt quay... nói chung là tùy tâm, tùy sức. Dân làng
thành tâm dâng cúng hoa, mâm vàng bạc, đồ trang sức.. đều được miễn là lòng thành.
Đêm trước ngày vía, có nơi đáo lệ hai ba năm hoặc năm năm một lần tiến
hành lễ thay áo cho Bà như lễ mộc dục phổ biến. Khi tiến hành lễ này, Chánh bái,
Bồi tế lên nhang đèn khấn vái xin phép Bà, rồi lui ra. Các phụ nữ “sạch mình” đã
chuẩn bị sẵn nước thơm (nước lá sả, hương nhu, bông bưởi), dùng khăn sạch nhúng
nước thơm lau khắp các tượng bà; khăn lau xong, vắt trả nước ra thau khác, cứ như
thế cho đến khi sạch rồi thay cho Bà áo mới, áo cũ và khăn lau không được dùng
việc khác, sau phải đốt.
Một số miễu lại có tục nghênh Ông ở đình về dự trước khi hành lễ chính;
nghênh Ông bằng kiệu có lỗ bộ, dàn nhạc, Lễ sinh và Chánh tế, Bồi tế đi hầu. Lễ
đón ở đình, lễ xong phải đưa về. Riêng lễ hội chùa Bà Thiên Hậu ở Thủ Dầu Một và
ở Bửu Long thì thực hiện theo nghi thức của Đạo giáo, với nhiều nghi thức phức tạp;
có đám rước Bà đi thăm Đình trước ngày lễ chính, có lễ phóng đăng, cúng thí, hát
bội, đặc biệt có lễ bắc cầu ngầm ý đón Bà từ biển vào. Lễ bắc cầu vào lúc 0 giờ, đêm
đầu tiên của lễ hội. Cầu là một tấm vải đỏ rộng khoảng 0,6 mét, nối dài từ hương án
bên ngoài sân vào chính điện. Cách khoảng 15 mét; trên tấm cầu đỏ rắc đầy hoa giấy,
vàng bạc. Ba vị Pháp sư tụng kinh cầu đón, lúc ngồi ở bàn lễ, lúc đi vòng quanh như
đón Bà; Khi Bà đã vào chính điện thì “cầu” được cuốn lại trân trọng để trước án thờ.
Lễ cúng Bà dịp tháng 3 năm 1995 ở chùa Thiên Hậu (Bửu Long), là lễ hội kéo dài 3
ngày do các Pháp sư chuyên nghiệp cùng với dàn nhạc lễ chuyên trách thực hiện với
một hệ thống tiết mục nghi lễ nhiều đến mức đa tạp. Lễ cúng Bà Thiên Hậu như đã
nêu là một hiện tượng riêng biệt, đáng suy nghĩ. Thông thường ở các miễu khác nghi
thức hành lễ giản dị; dân dã hơn. Dự phần vào lễ hội cúng Bà phổ biến là Hát bóng
rỗi, Chặp Địa - Nàng; một loại hình nghệ thuật truyền thống phổ biến ở Biên Hòa -
Đồng Nai.
Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng vừa mang tính nghi lễ (để cúng) vừa để giải
trí, vui chơi trong lễ hội; đó là hình thức diễn xướng tổng hợp, gồm nhiều tiết mục
liên hoàn; đồng thời cũng có thể phân chia thành các tổ hợp tiết mục tùy chọn. Một
chương trình đầy đủ của Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng, gồm 8 tiết mục chính, trong
đó mỗi tiết mục có thể phân nhỏ, hoặc kéo dài nội dung sinh hoạt. Tiến trình của các
tiết mục cũng có thể thay đổi thứ tự hoặc cấu thành nhiều chương trình khác nhau:
1. Lễ khai tràng, 2. Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Mời tiên ra tuồng; 4. Phước lộc, 5. Trạng
- Nàng xuống huê viên, 6, 7. Bóng múa, 8. Hát chặp.

13.9 Page 129

▲back to top


Hát bóng rỗi, Địa - Nàng ở Đồng Nai thường gồm các tiết mục: 1. Khai tràng,
2. Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Chặp Địa - Nàng, 4. Hát bóng rỗi.
Mở đầu cuộc hát luôn là Lễ Khai tràng nhằm mục đích khai mạc cuộc hát,
do dàn nhạc bóng biểu diễn, gồm: Chiêng, trống, đàn nhị, kèn, sanh cái. Tiếp theo
là các xấp hát Chầu mời - thỉnh tổ: Mời Bà, mời ông, mời tiên, mời các chiến sĩ về
dự lễ; mỗi đối tượng có các bài hát phù hợp, các bóng có trí nhớ tốt và tài ứng tác
nhanh, không cần hát hay cũng được tán thưởng. Thường thì các bóng cầm trống
tum (trống con) gõ nhịp, thay nhau hát. Điệu hát vận dụng cả lý, vè, nói rỗi (nói lối)
nhiều khi cả các làn điệu tuồng.
Sau Hát chầu là diễn Chặp Địa - Nàng. Chặp Địa - Nàng là chặp bóng - tuồng
hài hước “tổng hợp kiểu cách diễn của bóng rỗi lẫn tuồng (hát bội)” thường gắn với
lễ cúng miễu Bà hoặc miễu Thổ Địa. Cuộc hát chỉ có hai nhân vật (Địa và Nàng)
theo cốt truyện đơn giản: Tiên nữ Hằng Nga vâng lệnh Tây Vương mẫu xuống trần
để hái lộc cầu an cho dân chúng, nhờ Thổ Địa (Địa) dẫn đi đến huê viên để “khai
mạch giếng tưới cây huê”. Địa được dịp làm khó, vòi vĩnh, đùa giỡn với tiên nữ. Lối
diễn vừa theo bài bản vừa ứng tác; hát, nói, kể kết hợp với nhạc và vũ đạo tuồng;
các bài hát chắt lọc từ tuồng và các làn điệu dân ca quen thuộc; hóa trang cũng theo
phong cách tuồng hài...; ứng đối giữa Địa và Nàng vui nhộn, dẫn dắt câu chuyện tài
tình khiến cho cốt truyện đơn giản trở nên thú vị. Các đoạn: Địa đòi ăn, Địa đau đẻ,
Địa chấm chè.. làm nở rộ tiếng cười sảng khoái. Tính cách của Địa không chỉ vui
vẻ, còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Với một manh chiếu trước điện Bà, xung quanh
là dân làng không phân thứ bậc, Địa bộc lộ hết mình, đùa giỡn với Tiên nữ, châm
biếm cả chư Tiên, chư Phật; Địa còn mang ý nghĩa đại diện cho khát vọng thịnh
vượng, bình đẳng, có tính nhân bản của dân làng. Chặp Địa - Nàng vừa dứt, bóng
múa liền tiếp theo.
Bóng múa vừa mang tính nghi lễ vừa nhằm mục đích giải trí. Các bóng thay
nhau múa bông, múa dâng mâm vàng rồi tiếp theo là các tiết mục tạp kỹ. Múa bông
nhằm dâng cúng bông như để mở đầu cuộc múa bóng; với chén (hoặc tô) bông trên
đầu, các bóng múa xoay người, xoay vòng trước điện thờ rồi dừng để cho người thủ
từ nâng chén bông đặt lên bàn thờ Bà. Dâng bông 3 lần rồi đến dâng mâm vàng.
Chiếc mâm được trang trí bằng giấy ngũ sắc thành hình tháp (có lẽ mô phỏng tháp
Chàm). Mâm vàng được đội đầu, nâng, lật trên tay; trên trán, tự nhích từ chân lên
đầu; cuối cùng được đốt cháy. Tháp giấy trên mâm cháy xong là dứt múa dâng mâm
vàng, các bóng (vốn ái nam ái nữ) chuyển sang các màn trình diễn đặc sắc, với tài
nghệ tạp kỹ như xiếc: Múa ghế, múa khạp da bò, múa bông huệ, múa xe đạp, múa
dao, múa xoay đĩa, rót rượu bằng đầu... chủ yếu là các kỹ thuật dùng đầu, trán, mũi,
nhân trung nâng giữ vật nặng, vật phức tạp tạo thăng bằng và di chuyển trong vũ
điệu theo nhạc lúc mau lúc chậm.

13.10 Page 130

▲back to top


Với cách biểu diễn như thế, dễ dàng nhận ra nguồn gốc Chăm của múa bóng
với vũ điệu dựa vào kỹ năng đội đầu. Điều này đã được Huỳnh Ngọc Trảng chứng
minh qua phim tài liệu “Múa mâm vàng, cội nguồn và dung mạo” do Hãng phim Tư
liệu sản xuất năm 1992. Trước đó nữa, Quách Tấn đã chỉ ra được lò đào tạo các bóng
múa là xóm Bóng ở trước Tháp Bà, “nhưng lệ múa bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời
Bảo Đại, trước đệ nhị thế chiến“.
Người Nam bộ thường có câu hát luyến tiếc:
Ai về xóm Bóng thăm nhà
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn không?
Các tiết mục múa trò chơi, gọi là múa tạp kỹ dài - ngắn, nhiều - ít tùy theo
không khí cuộc vui; dân làng thưởng nhiều thì sự hào hứng khiến các bóng múa hay,
khéo, tận tình hơn, và ngược lại.
Các nữ thần được thờ tại miễu ở Đồng Nai phần lớn có nguồn gốc nữ thần
biển, đánh dấu một hồi ức gắn với chặng đường gian lao hình thành các cộng đồng
cư dân Việt ở Đồng Nai. Với một tập hợp nữ thần phức hệ như thế, Đồng Nai như
là điểm hội tụ đồng thời cũng là nơi khuếch tán các hệ tín ngưỡng thờ nữ thần của
miền Bắc, miền Trung, miền Tây, người Hoa và bổn địa. Tục thờ cúng nữ thần cũng
cho thấy, cư dân Việt ở địa phương ít nhất cũng tìm được biểu tượng có ý nghĩa nhân
bản hơn tư tưởng Nho giáo vốn xem thường phụ nữ.
Tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc bản địa có nhiều nét khác cư dân Việt,
Hoa. Người Châu Mạ thờ thần Yang Nđu tối cao, cúng Yang Bri (thần rừng) vào mùa
săn bắn; cúng Yang Hiu (thần nhà) cầu cho gia đình bình yên; quan trọng nhất là lễ
cúng Yang Bơnơm (thần núi) và Yang Koi (thần lúa) với sinh hoạt cổ truyền của cộng
đồng. Người Mạ không coi trọng trinh tiết, trai gái Mạ tự do tìm hiểu kết bạn, con
cô con cậu có thể kết hôn; đám hỏi, đám cưới có già làng làm mai dong; sau cưới
chú rể ở bên nhà gái sau đó mới ra riêng; luật tục truyền khẩu "nđrih" được thực
hiện nghiêm, tội ngoại tình, chửa hoang bị phạt nặng. Khi có người chết, người làng
làm lễ cúng Yang Bri xin cây đục làm hòm; hòm đưa vào nhà dài qua cửa lớn; xưa
để lâu ngày mới chôn, người chết được chia của; thầy chang cúng tế theo nghi thức
cổ, làng có đám tang kiêng cữ đi rừng 7 ngày; sau ba năm có lễ bỏ mả như phong
tục các dân tộc Tây Nguyên.
Người Stiêng, Châu Ro có tập quán, tín ngưỡng tương tự người Châu Mạ,
khác nhau ở tiểu tiết và tiếng nói, giống nhau ở quan niệm cổ truyền của cư dân cùng
địa bàn cư trú Nam Trường Sơn.
II. TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO:
II.1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở ĐỒNG NAI:

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Đồng Nai từ lâu đời là một địa bàn sinh tụ và cư trú của nhiều dân tộc với
các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, có sự giao lưu và ảnh hưởng tôn giáo lẫn nhau.
Vào khai hoang lập ấp ở Đồng Nai, người Việt đã trải qua nhiều giai đoạn,
nhiều chặng đường (26[4]). Ngoài văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo truyền thống được
mang theo vào vùng đất mới, người Việt đã tiếp nhận có chọn lọc các yếu tố văn
hóa, tín ngưỡng tôn giáo của các cộng đồng cư dân mà họ cùng sinh sống. Khi người
phương Tây vào truyền giáo, họ lại tiếp nhận văn hóa Ki tô giáo. Do điều kiện lịch
sử, địa lý nhân văn nên tín ngưỡng tôn giáo Đồng Nai không mang tính cổ điển mà
được hỗn dung nhiều nguồn, nhiều phía tạo nên sắc thái riêng. Dù theo tôn giáo này
hay tôn giáo khác thì truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ những người có công
với dân, với nước, nhớ ơn nghĩa người xưa theo đạo lý "uống nước nhớ nguồn" vẫn
là truyền thống phổ biến nhất, sâu rộng nhất.
Hiện nay Đồng Nai là một địa bàn đa tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành, Cao đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Trong đó, Công giáo và Phật giáo là hai tôn
giáo có số lượng tín đồ đông nhất. (27[5])
II.2. CÁC TÔN GIÁO Ở ĐỒNG NAI:
II.2.1. Phật giáo:
a) Tổng quan về Phật giáo Đồng Nai:
Đồng Nai là địa bàn Phật giáo đã được truyền vào từ xa xưa trong lịch sử và
đã từng là một trong những cái nôi của Phật giáo Đàng Trong thời các chúa, các
vua nhà Nguyễn, có ảnh hưởng không những đối với Phật giáo ở Nam bộ mà còn
ảnh hưởng cả đến Phật giáo ở miền Trung. Nhiều nhà sư nối tiếp ở Đàng Trong đã
từng tu hành, hoằng hóa ở Đồng Nai và có nhiều đệ tử nổi danh khác đi hoằng hóa
ở các nơi. Đồng Nai có nhiều ngôi chùa cổ kính, trong đó có ba ngôi đã được xếp
hạng di tích lịch sử văn hóa là chùa Long Thiền, chùa Đại Giác, chùa Bửu Phong.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, phật tử ở các nơi, nhất là ở
miền Trung về Đồng Nai làm ăn sinh sống, tăng ni ở các nơi về Đồng Nai tu hành
làm cho Phật giáo Đồng Nai có bước phát triển mới. Hơn 20 năm qua, số tăng ni gấp
ba lần sau giải phóng. Toàn tỉnh chỉ có 419.286 tín đồ nhưng đã có 2.250 tăng ni,
trong đó có 4 hòa thượng, 38 thượng tọa và 12 ni sư. Trong thời gian ngắn từ năm
1980 đến nay đã có hơn 100 chùa, tu viện... được trùng tu, xây dựng mới, đưa số cơ
sở thờ tự ở Đồng Nai là 448. Nhiều chùa, thiền viện, tịnh xá được xây dựng mới
(26[4]) Theo Đại Nam nht thng chí Phbiên tp lc của Lê Quý Đôn.
(27[5]) Công giáo: 718.255 tín đồ, Phật giáo: 419.268 tín đồ, Cao Đài: 9.652 tín đồ, Hồi giáo: 1.709 tín đồ, Hòa
Hảo: 210 tín đồ... (thng kê tháng 5 - 1997)

14.2 Page 132

▲back to top


khang trang và hiện đại, được kiến trúc và trang trí khác nhau theo từng hệ phái càng
tô điểm thêm cho sự phong phú, nhiều màu sắc của Phật giáo Đồng Nai.
Phật giáo Đồng Nai có nhiều tông môn, hệ phái cả Bắc tông và Nam tông,
bao gồm: Cổ truyền, Phật giáo Việt Nam thống nhất, Thiền tông, Khất sĩ, Tịnh Độ
tông, Nam tông Theravada, Phật giáo Khơ - me... Nhưng Thiền tông nhập thế hòa
nhập với tín ngưỡng dân gian truyền thống là chủ yếu, có ảnh hưởng sâu rộng trong
dân gian, không chỉ có ảnh hưởng trong phật tử mà còn có ảnh hưởng cả trong những
người theo đạo thờ cúng ông bà tổ tiên... theo quan niệm Thần, Phật ở bên cạnh con
người để "hộ quốc an dân".
b) Tiến trình phát triển qua các thời kỳ:
+ Sự hình thành và phát triển từ đầu đến trước thời kỳ Pháp thuộc:
Phật giáo được truyền vào Đồng Nai theo nhiều hướng khác nhau, nhiều thời
điểm khác nhau. Buổi đầu trực tiếp từ Ấn Độ, các nhà sư và phật tử theo thuyền
buôn bằng đường biển đến các nước vùng Đông Nam Á và Viễn Đông truyền giáo.
Những tài liệu khảo cổ tìm thấy ở Đồng Nai chứng tỏ ngay thời kỳ trước và sau công
nguyên, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở Ấn Độ đã có ảnh hưởng đến vùng đất này,
trong đó có văn hóa, tín ngưỡng Phật giáo.
Ngay thời kỳ nhà Trần (1225 - 1400) với việc di dân vào phía Nam, tín
ngưỡng Phật giáo cũng được mang theo vào vùng đất mới. Khi nhà Minh xâm chiếm
nước ta, Lê Lợi khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược dựng lên triều đại nhà
Lê (1428 - 1527), phái thiền Trúc Lâm do các vua nhà Trần lập cũng bị nghi kỵ. Vì
vậy, một số hoàng tộc nhà Trần và các thiền sư Trúc lâm đã phải lẩn trốn qua Chiêm
Thành, Chân Lạp vào tận vùng lưu vực sông Đồng Nai. Họ ẩn tu, che giấu tên tuổi,
tông tích nên tài liệu về sự truyền thừa của phái Trúc Lâm ở Đồng Nai chưa xác định
được rõ ràng. Chỉ biết rằng vào khoảng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII số người
Việt vào sinh sống ở Đồng Nai đã nhiều. Người Việt vào khai hoang lập ấp đến đâu
thì tín ngưỡng Phật giáo được loan truyền đến đó. Cho nên "buổi khai nguyên các
chúa Nguyễn thì tinh thần Phật giáo đã theo cuộc di dân nhiều đợt định cư trước đó
lan rộng rồi" (28[6]). Về sau các phái thiền Trung Quốc truyền vào đều chịu sự ảnh
hưởng của phái thiền Trúc Lâm đã có trước ở đây.
Năm 1630 khi cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành nổ ra và sau đó nhà Thanh
đánh bại nhà Minh chiếm trọn Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc không thần
phục nhà Thanh đã bỏ nước mà đi. Trong số người di cư tị nạn và xin vào lập nghiệp
ở Đàng Trong có cả các nhà sư Phật giáo. Vào Biên Hòa - Đồng Nai, các nhà sư
Trung Quốc được phật tử mời đến trụ trì các chùa do họ đã tạo dựng trước đó, hoặc
(28[6]) Vãn Thanh: Lược kho Pht giáo sVit Nam, Nxb Pht hc vin, Sài Gòn 1974, tr. 148.

14.3 Page 133

▲back to top


tự cất chùa, am để tu hành và hoằng hóa như: chùa Long Thiền, chùa Bửu Phong,
chùa Đại Giác... (thành phố Biên Hòa), chùa Châu Thới (nay thuộc Bình Dương)...
Năm Kỷ Mùi (1679), các tướng lưu vong nhà Minh đem theo quân vào Đàng
Trong thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho họ quan chức và cho họ khai khẩn
vùng Mỹ Tho, Biên Hòa. Tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An
Bình vào Biên Hòa khai khẩn Cù Lao Phố, còn gọi là Đại phố Nông Nại (theo phát
âm của người Hoa, nay thuộc xã Hiệp Hòa - Biên Hòa); chùa Thanh Lương là một
trong các chùa được xây dựng trong thời gian này, hiện nay còn long vị và tượng
Trần Thượng Xuyên.
Khác với các tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam đã xuất bản trước đây, những
tài liệu và hiện vật mới phát hiện ở Đồng Nai gần đây cho thấy vào khoảng năm
1692 - 1695, sau những biến cố chính trị và cuộc nổi loạn ở Quảng Nam và Quy
Nhơn vì bị nghi có liên quan, thiền sư Nguyên Thiều vị tổ sơ của phái thiền Lâm Tế
Đàng Trong và một số đệ tử lập chùa Kim Cang ở ấp Bình Thảo, trấn Biên Hòa (nay
là xã Tân Bình, Vĩnh Cửu). Thời đó, chợ Bình Thảo là một giang cảng lớn và thịnh
vượng, có đông thương khách, có hàng hóa trong nước và có cả hàng hóa ngoại
quốc(29[7]).
Việc phát hiện tháp mộ của thiền sư Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang và long
vị hòa thượng Minh Vật Nhất Tri ở chùa Kim Long (30[8]) đã mở đường cho việc
sưu tầm công tích hoằng hóa của thiền sư Nguyên Thiều và các đệ tử của thiền sư ở
Biên Hòa - Đồng Nai. Thiền sư Nguyên Thiều đã truyền thừa cho nhiều đệ tử nổi
danh như thiền sư Minh Vật Nhất Tri sau trụ trì chùa Kim Cang, thiền sư Thành
Đẳng Minh Lương trụ trì chùa Đại Giác, thiền sư Thành Nhạc Ẩn Sơn trụ trì chùa
Long Thiền, thiền sư Thành Trí Pháp Thông trụ trì chùa Bửu Phong v.v... Các đệ tử
thiền sư Nguyên Thiều ở Biên Hòa - Đồng Nai lại có nhiều đệ tử và pháp tôn nổi
tiếng mở rộng phạm vi hoằng hóa ở Đồng Nai - Gia Định và lan rộng ra ở Mỹ Tho,
Định Tường, Châu Đốc... còn truyền thừa cho đến ngày nay ở Nam bộ.
Trong thời các chúa Nguyễn, ở Biên Hòa - Đồng Nai có hai ngôi chùa được
sắc tứ là chùa Vạn An ở thôn Phước An (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu) và chùa Hộ
Quốc ở thôn Đắc Phước, huyện Phước Chánh (nay là Tân Vạn - Biên Hòa). Ngoài
phái thiền Lâm Tế, ở Biên Hòa - Đồng Nai còn có sự truyền thừa của phái thiền Tào
Động. Các tài liệu Phật giáo Việt Nam trước đây đều nói "Tông Tào Động do sư
(29[7]) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thông chí viết: "ChBến Cá hay chBình Tho tổng Phưóc Chánh, trấn Biên
Hòa thương khách tụ hi tin cả đường thủy, đường b, ngoi hóa, thsn cùng gia hào mvị ở sông rch và núi
non không thiếu vt gì, là mt chmin núi rất đông đảo".
(30[8]) Chùa Kim Long là chùa Kim Cang được xây dng li cách vị trí cũ khoảng 500 m sau khi chùa Kim Cang b
đốt cháy thi chống Pháp năm 1946. Hiện vẫn chưa xác định được tháp mca thiền sư Nguyên Thiều ở đây là tháp
tht hay tháp vng.

14.4 Page 134

▲back to top


(hòa thượng) Thạch Liêm truyền vào Việt Nam về phái xuất gia không thấy nói đến
người thừa kế". Nhưng ở Biên Hòa đã xác định được tháp mộ của thiền sư Pháp
Thông Thiện Hỷ mới biết thiền sư thuộc phái Tào Động thế hệ 36, người khai sơn
chùa Long Ẩn vào năm Ất Sửu (có thể là năm 1733 hay 1793); chùa thuộc làng Tân
Lại, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa).
Trong thời kỳ Nho giáo độc tôn dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX), "chính sách
của triều Nguyễn nói chung hạn chế sự phát triển của Phật giáo. Triều đình tăng
cường quản lý số sư tăng, bắt họ tham gia công tác xã hội, chủ trương thu hẹp ảnh
hưởng của nhà chùa đối với người dân, quy định ngặt nghèo nhằm giảm bớt việc xây
chùa, tô tượng, đúc chuông và người theo đạo Phật" (31[9]). Triều đình cho rằng để
Phật giáo phát triển sẽ làm hại cho lễ giáo phong kiến, ảnh hưởng đến việc thực hiện
các giáo điều Nho giáo. Nhưng trong lịch sử phát triển của mình, Phật giáo ở Biên
Hòa - Đồng Nai thời này không những không bị hạn chế mà còn phát triển. Các ngôi
chùa cổ kính danh tiếng ở Biên Hòa - Đồng Nai đều được xây dựng trong thời chúa
Nguyễn. Nhiều nhà sư tu hành, hoằng hóa ở Biên Hòa - Đồng Nai trở thành các nhà
sư tiêu biểu của Phật giáo Đàng Trong. Đó là vì Phật giáo với tính chất từ bi, bình
đẳng, nêu cao cứu khổ cứu nạn cho con người nên đã được người Biên Hòa - Đồng
Nai tiếp thu một cách sâu rộng, Phật giáo đã trở thành một mảng văn hóa đậm nét
trong văn hóa truyền thống ở địa phương, và vì trong thời gian chống Tây Sơn,
Nguyễn Ánh và hoàng gia đã nhiều lần lẩn trốn trong các ngôi chùa ở Biên Hòa -
Đồng Nai như chùa Kim Cang, chùa Đại Giác, chùa Bửu Phong. Chùa Bửu Phong
hiện còn một giếng nước rất trong, nhân dân địa phương lưu truyền là do Nguyễn
Vương trong thời gian lẩn trốn ở đây đã cho đào giếng này.
Nguyễn Ánh sau khi lên ngôi (1802) đã ban cho chùa Kim Cang 3 pho tượng
(Tam Thế Phật) và bức hoành phi khắc "Kim Cang tự". Nhà vua lại xuống chiếu chỉ
trùng tu chùa Đại Giác và cúng chùa pho tượng Phật A - di - đà bằng gỗ cao 2, 50 m
nên nhân dân địa phương còn gọi chùa Đại Giác là chùa "Phật lớn". Tháng 10 năm
Minh Mạng nguyên niên (1820), công chúa Ngọc Anh cúng chùa bức hoành phi
khắc "Đại Giác tự" sơn son thếp vàng treo ở chính điện.
***
Năm Gia Long thứ 14 (1815) vua xuống chiếu triệu thiền sư Mật Hoàng trụ
trì chùa Đại Giác về kinh đô sắc phong Tăng cang trụ trì chùa Thiên Mụ và thường
mời vào nội cung thuyết pháp cho hoàng gia. Năm Gia Long thứ 16 (1817) vua lại
triệu thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt là đệ tử của thiền sư Minh Vật Nhất Tri về kinh
đô phong Tăng cang trụ trì chùa Thiên Mụ (thay Tăng cang Mật Hoàng được cử trụ
trì chùa Quốc Ân) v.v...
(31[9]) Lch sPht giáo Vit Nam - y ban Khoa hc xã hi Vit Nam - Nxb. Hà Ni 1991, tr. 378.

14.5 Page 135

▲back to top


+ Phật giáo Đồng Nai thời kỳ Pháp thuộc:
Sau mấy thế kỷ nhòm ngó, điều tra, tính toán, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư
bản Pháp quyết định thôn tính Việt Nam. Tháng 9 - 1858, Pháp nổ súng ở Đà Nẵng
mở đầu thời kỳ xâm lược Việt Nam. Tháng 12 - 1861, Pháp chiếm Biên Hòa. Tháng
6 - 1862, Pháp buộc triều đình Huế phải nhượng 3 tỉnh miền Đông Nam bộ (Biên
Hòa - Gia Định - Định Tường) cho Pháp làm thuộc địa. Với truyền thống yêu nước
gắn bó với dân tộc, tăng ni, phật tử Đồng Nai tích cực tham gia cùng với nhân dân
đứng lên chống Pháp xâm lược. Khi Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định hiệu
triệu nhân dân đứng lên chống Pháp ở Gò Công, tăng ni, phật tử Đồng Nai đã hưởng
ứng và tham gia chống Pháp trong đạo quân của Đỗ Trình Thoại ở Biên Hòa và
nhiều đơn vị nghĩa quân khác.
Tháng 8 - 1883, Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Tháng 6 - 1884,
triều đình nhà Nguyễn phải ký hiệp ước thừa nhận sự thống trị của Pháp tại Việt
Nam. Nước Việt Nam từ độc lập thành nô lệ, trở thành thuộc địa nửa phong kiến.
Người dân mất nước là mất độc lập tự do, mất quyền sống, quyền sáng tạo mọi giá
trị. Người phật tử tu tại gia hay xuất gia, trước hết họ là người dân của nước Việt
Nam, họ cũng có nỗi đau chung của dân tộc. Pháp đã tạo điều kiện cho Công giáo
phát triển và âm mưu dùng tôn giáo này thay thế các tôn giáo bản địa. Trong tình
hình như vậy, Phật giáo có nguy cơ bị đẩy lùi và mất chỗ đứng.
Thời cuộc đặt ra cho Phật giáo Việt Nam hai vấn đề phải giải quyết: đó là
ứng phó với hiện trạng chính trị - xã hội đất nước như thế nào? Và sự phát triển tiếp
theo của Phật giáo ra sao để đối phó thời cuộc? Trong hàng ngũ Phật giáo lúc bấy
giờ không có quan điểm thống nhất, không có cùng một suy nghĩ, có người thờ ơ
với thời cuộc, nhưng các vị cao tăng và phật tử có lòng yêu nước, thương người thấy
mình phải quan tâm đến tình hình đất nước, phải thay đổi quan niệm về giáo lý nhà
Phật để thích ứng với dân tộc và thời đại. Cũng như Phật giáo trong cả nước, Phật
giáo Đồng Nai trong giai đoạn này từng bước tìm cách chấn hưng, nhập thế để góp
phần vào sự nghiệp chung của dân tộc và tạo chỗ đứng trước thời cuộc.
Nối tiếp truyền thống anh dũng đứng lên chống Pháp, thời kỳ Pháp đánh
chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ, nhiều hòa thượng, thượng tọa, tăng ni đã tham gia
phong trào yêu nước chống ách thống trị của thực dân Pháp tiêu biểu như hòa thượng
Hoan Hỉ chùa Long Thành, cùng với tăng ni, phật tử trực tiếp tham gia vận chuyển
lương thực cho phong trào nông dân khởi nghĩa ở Hóc Môn dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Văn Bường và Phan Công Hớn...
Các tăng già tiền bối tìm cách duy trì mối đạo, kêu gọi và tổ chức duy trì
tông lâm quy chế, tham gia hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học và xuất bản tạp chí
"Từ bi âm". Người trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp là giáo thọ Thiện Tâm ở
chùa Đại Giác đã cổ vũ phong trào chấn hưng Phật giáo ở Đồng Nai.

14.6 Page 136

▲back to top


Năm 1930 - 1931, cao trào đấu tranh của quần chúng nhân dân chống ách
thống trị của thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã
có ảnh hưởng sâu sắc đến nội bộ Phật giáo. Tăng ni, phật tử ở nhiều nơi dùng chùa
làm nơi học tập, in ấn tài liệu và nuôi chứa cán bộ cách mạng. Từ năm 1942 - 1945,
nhiều chùa bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh, vận động ủng hộ cách mạng. Tháng
8 - 1945, hòa thượng Thích Huệ Thành cùng với các nhà sư yêu nước hưởng ứng lời
kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa bí mật vận động tăng ni, phật tử tham gia giành chính
quyền. Cách mạng tháng Tám 1945 ở Biên Hòa thành công có sự đóng góp của đông
đảo tăng ni, phật tử.
+ Phật giáo Đồng Nai trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước:
Sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam bộ một lần nữa lại đi đầu trong
cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai. Tổ chức Phật giáo có
sự phân hóa mới. Nhiều tăng ni, phật tử hồi cư về vùng tạm chiếm, một số làm việc
trong các cơ quan kháng chiến rút về các căn cứ, các chiến khu. Được sự giúp đỡ
của Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa, ngày 6 - 9 - 1945, hòa thượng Thích Huệ
Thành đứng ra triệu tập Đại hội Phật giáo Biên Hòa, thành lập Hội Phật giáo cứu
quốc tỉnh, do hòa thượng làm chủ tịch, kiêm ủy viên Mặt trận Việt Minh tỉnh. Trụ sở
của Hội đặt tại chùa Long Thiền (Biên Hòa). Từ đó, các tổ chức cơ sở của Hội được
thành lập ở các quận, huyện và xã trong tỉnh.
Sau khi thành lập, các tổ chức Phật giáo cứu quốc từ tỉnh đến cơ sở đã vận
động tăng ni, phật tử tích cực tham gia ủng hộ kháng chiến, tham gia bầu cử Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tham gia hưởng ứng "Tuần lễ
vàng", "Tuần lễ kim khí". Nhiều chùa đã ủng hộ lư đồng, chân đèn bằng đồng, đại
hồng chung... tiêu biểu như chùa Phước Nhĩ xã Phước Thiền (Long Thành) đã hiến
hai đại hồng chung, mỗi cái nặng gần một tạ gởi vào chiến khu để đúc võ khí.
Cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một lan rộng, trụ sở của Phật giáo cứu
quốc tỉnh Biên Hòa dời về xã Hiệp Phước (Long Thành). Đến đầu năm 1946, trụ sở
dời về xã Mỹ Lộc quận Tân Uyên. Hòa thượng Thích Huệ Thành và một tăng ni
thoát ly đi kháng chiến.
Trong thời gian kháng chiến, trong vùng tự do mọi hoạt động đều hướng về
mục tiêu kháng chiến và sản xuất để phục vụ kháng chiến. Phần lớn tăng ni trong
vùng tự do đều trực tiếp lao động trồng lúa, tỉa bắp, tiếp tế, liên lạc hoặc làm công
tác xã hội, giáo dục... Tại các vùng tạm chiếm, hoạt động của phật tử diễn ra sôi
động hơn; tăng ni, phật tử có ý thức rất rõ về cuộc kháng chiến chống Pháp đang
diễn ra trên mọi miền đất nước và tâm hồn họ vẫn hướng về cuộc kháng chiến đó.
Bằng mọi cách, tăng ni, phật tử vẫn tìm cách liên lạc, ủng hộ và một số gia nhập
kháng chiến. Sau khi hồi cư, nhiều thanh niên phật tử lại bỏ nhà đi theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc, tìm ra chiến khu... Những người khác ở lại vùng Pháp

14.7 Page 137

▲back to top


kiểm soát vẫn âm thầm hoạt động cho kháng chiến. Một số tăng ni bí mật hoạt động
mà nòng cốt là nhà sư đảng viên cộng sản như nhà sư Thích Thiện Thuận.
Hòa thượng Thích Thiện Khải đã từng đóng vai thầy cúng, người viết các
câu đối cổ bằng chữ Hán len lỏi đi về nội thành để liên lạc giữa chiến khu với bộ
phận hoạt động bí mật trong nội thành. Chính trong thời gian này một số tăng ni bị
bắt, bị giam cầm hoặc bị sát hại.
Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra ngày càng quyết liệt, cũng là lúc các
tổ chức Phật giáo cứu quốc được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố, cần phải có
sự phối hợp chỉ huy thống nhất chung. Năm 1947, các vị cao tăng và phật tử trong
tổ chức Phật giáo cứu quốc các tỉnh, thành phố ra chiến khu Đồng Tháp Mười thành
lập ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam bộ. Hòa thượng Thích Huệ Thành, Chủ
tịch Phật giáo cứu quốc tỉnh Biên Hòa làm phó hội trưởng và được đề cử làm ủy
viên Mặt trận Liên Việt Nam bộ.
Sau khi ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam bộ được thành lập, một số
cao tăng ở lại chiến khu để tập hợp tăng ni, phật tử trực tiếp tham gia kháng chiến,
một số cao tăng về vùng tạm chiếm bí mật tổ chức đấu tranh chống thực dân Pháp.
Để có một tổ chức hợp pháp đứng ra tập hợp tăng ni, phật tử hướng về cuộc kháng
chiến chống Pháp xâm lược, năm 1952, Phật giáo cứu quốc ở Sài Gòn - Chợ Lớn
phối hợp với Phật giáo cứu quốc Biên Hòa thành lập và mở Trường Phật học. Giáo
hội Lục Hòa tăng Việt Nam xuất bản tờ Phật học tạp chí và mở trường Phật học.
Hòa thượng Thích Huệ Thành ở Biên Hòa được cử làm trưởng ban hoằng pháp. Năm
1953, ông củng cố và mở rộng tổ chức của giáo hội Lục Hòa tăng. Hòa thượng Thích
Thiện Hào, người đã xuất gia đầu Phật và thọ giới Tỳ kheo tại Đồng Nai làm phó
hội trưởng và hòa thượng Thích Huệ Thành làm phó tăng giám. Từ đó ảnh hưởng
của Giáo hội Lục Hòa tăng càng được mở rộng.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta sắp giành được thắng lợi,
để chuẩn bị thay chân Pháp, đế quốc Mỹ đã đưa gần một triệu đồng bào miền Bắc di
cư vào Nam, trong đó có hàng chục vạn tín đồ Phật giáo. Đế quốc Mỹ đã lôi kéo lợi
dụng một số người làm chỗ dựa chính trị để chúng lèo lái phong trào Phật giáo di
cư. Mỹ dàn dựng đưa "Tổng hội Phật giáo Việt Nam" tham gia "Liên hữu Phật giáo
thế giới", lợi dụng mối quan hệ quốc tế này, Mỹ đã gián tiếp hay trực tiếp tạo điều
kiện thuận lợi cho tăng ni du học, từ năm 1955. Chúng đã trực tiếp cấp hàng loạt học
bổng cho tăng ni học trong nước và nước ngoài để đào tạo lực lượng nòng cốt cho
các tổ, các tu viện, nhà trường... do Mỹ đài thọ xây cất.
Đáng lưu ý, trong giai đoạn này, nhiều hệ phái không tham gia "Tổng hội
Phật giáo Việt Nam" như giáo hội Lục Hòa tăng, giáo hội Nguyên thủy, phái Nam
tông Theravada. Ngược lại, nhiều phái đã tham gia Phật giáo cứu quốc và phong trào
đấu tranh chung của các đô thị. Các phái không tham gia "Tổng hội Phật giáo Việt

14.8 Page 138

▲back to top


Nam" chiếm ưu thế ở Đồng Nai như giáo hội Lục Hòa tăng, giáo hội Lục Hòa phật
tử, ni giới khất sĩ... Các tổ chức và hệ phái Phật giáo bị đế quốc Mỹ thao túng ít có
cơ sở ở Đồng Nai.
Năm 1963, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của phong trào Phật giáo Việt Nam.
Trong mùa Phật đản, Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo đã gây xúc động
cả giới Phật giáo, tiếp đến là nhiều cuộc bao vây thảm sát các tín đồ Phật giáo tại
Đài phát thanh Huế. Trước tình thế đó, "Tổng hội Phật giáo Việt Nam" đã phát động
phong trào đấu tranh chống Diệm đòi các tôn giáo bình đẳng.
Đối với Phật giáo, đây là một phong trào lớn có tính chất toàn miền, xuất
phát từ Huế sau đó lan ra các tỉnh miền Nam, đỉnh cao là cuộc tự thiêu của hòa
thượng Thích Quảng Đức (11 - 6 - 1963), song giai đoạn này vẫn mang nhiều sắc
thái tôn giáo. Từ tháng 7 - 1963 trở đi phong trào Phật giáo, đã phối hợp được các
yêu sách chung của các tầng lớp nhân dân các đô thị, chống chế độ độc tài phát xít
gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do dân chủ với quy mô ngày càng rộng lớn.
Năm 1963 cũng là thời điểm sôi sục của phong trào cách mạng miền Nam.
Sau đồng khởi năm 1960, nhiều vùng nông thôn rộng lớn được giải phóng, các đô
thị miền Nam đẩy mạnh cao trào chống Mỹ xâm lược, chống chế độ độc tài phát xít
gia đình trị Ngô Đình Diệm. Các phong trào đó lan rộng rất nhanh trong công nhân
lao động, sinh viên, học sinh... kết hợp các hình thức đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ
với các hình thức bạo lực xuống đường, đốt xe Mỹ, tấn công vào các đầu não của
Mỹ - ngụy, đồng thời kết hợp với phong trào của Phật giáo chống kỳ thị tôn giáo,
đòi thực hiện bản thông báo chung giữa Phật giáo với chế độ Sài Gòn khiến đế quốc
Mỹ lâm vào tình thế không thể duy trì chế độ Ngô Đình Diệm, buộc chúng phải lật
đổ Diệm - Nhu.
Tháng 11 - 1963, Diệm - Nhu bị giết, Mỹ tìm mọi cách nắm lực lượng Phật
giáo, tạo thêm chỗ dựa chính trị cho mưu đồ xâm lược của chúng. Tháng 1 - 1964,
chúng đã chấp nhận cho các hệ phái Phật giáo gồm 11 tập đoàn trong "Ủy ban liên
phái bảo vệ Phật giáo" tham dự đại hội lập ra "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất" hình thành tổ chức từ trung ương đến địa phương. Mỹ cũng chọn sẵn một số
con bài đưa vào tổ chức để nắm và lôi kéo Phật giáo đi theo con đường có lợi cho
Mỹ - ngụy.
Đối với Phật giáo đây là cơ hội tốt để phát huy thắng lợi vừa mới giành được.
Tuy nhiên, trong nội bộ Phật giáo lúc bấy giờ lại có nhiều xu hướng khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau: thống nhất được với nhau ở mục tiêu chung là chống Mỹ - ngụy
kỳ thị Phật giáo nhằm đưa Phật giáo lên một bước phát triển mới của phong trào
chấn hưng, nhưng từng nhóm, từng hệ phái, từng miền khác nhau, lại có những
khuynh hướng khác nhau.

14.9 Page 139

▲back to top


"Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất" đã tăng cường hoạt động trên
nhiều lĩnh vực ở khắp các địa phương trong vùng địch kiểm soát.
Về tôn giáo, giáo hội đã đẩy mạnh hoạt động theo hướng hiện đại hóa Phật
giáo, tăng cường thuyết giảng, mở các Phật học viện đào tạo tăng tài, đẩy mạnh xây
dựng nơi thờ tự và các hoạt động từ thiện xã hội. Các chùa được xây dựng ở Đồng
Nai trong giai đoạn này đều được trang trí màu sắc sặc sỡ, đều có giảng đường để
thuyết giảng, các trường Bồ đề và các phòng khám bệnh phát thuốc được xây dựng
ở Biên Hòa, thị xã Long Khánh, Bà Rịa - Vũng Tàu...
Về chính trị, từ năm 1964 giáo hội tiếp tục chủ trương phát động phong trào
đấu tranh chống độc tài, chống phục hồi chế độ Diệm không có Diệm, hưởng ứng
và kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong
phong trào cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, Mỹ - ngụy sử dụng nhóm tay
sai đứng đầu là Thích Tâm Châu, công khai ra mặt chống cộng, chống lại cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Bọn này tìm mọi cách kiềm chế và tiếp tay cho
Mỹ - ngụy đàn áp đẫm máu phong trào học sinh, sinh viên và Phật giáo, công khai
phá vỡ và loại trừ các tổ chức cơ sở và ảnh hưởng của cách mạng trong Phật giáo.
Nhưng hầu hết các hệ phái và tông môn ở Đồng Nai không tham gia "Phật giáo Việt
Nam thống nhất" và tổ chức Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Biên Hòa do nhà sư
yêu nước Thích Diệu Tâm từ Phú Yên về làm chánh đại diện. Cũng trong thời gian
này, nhà sư yêu nước Thích Thiện Hào, một trong các nhà sư lãnh đạo giáo hội Lục
Hòa tăng và Lục Hòa phật tử sau hợp nhất và đổi thành Phật giáo cổ truyền Việt
Nam có nhiều cơ sở ở Đồng Nai - năm 1964 được bầu làm ủy viên đoàn chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam và năm 1968 được cử làm ủy viên
Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam
nguồn cổ vũ lớn cho tăng ni, phật tử Đồng Nai trên con đường "Đạo pháp dân tộc".
Phong trào đấu tranh của Phật giáo ở Biên Hòa kết hợp rất chặt chẽ với phong
trào đấu tranh của quần chúng và phật tử ở Sài Gòn, như phong trào cứu đói, cầu
nguyện cho hòa bình, tập hợp đông phật tử.
Cụ thể như lễ Vu lan 1971 ở chùa Định Quang (An Hảo) do nhà sư Thích
Thiện Hoa chủ trì. Trong đó có buổi nói chuyện của sinh viên phật tử Thiện Phước
(7 - 8 - 1971) thu hút gần 3000 phật tử, vạch trần "Việt Nam hóa chiến tranh" là tiếp
tục gây tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam.
Hoạt động phá hoại phong trào Phật giáo, gây cản trở con đường "Đạo pháp
dân tộc" của nhóm Thích Tâm Châu đã gây nhiều công phẫn trong đông đảo tăng ni,
phật tử, bọn chúng ngày càng mất uy tín và bị cô lập. Từ đó về sau, các phong trào
Phật giáo phản ánh rõ nét cuộc đấu tranh quyết liệt trong nội bộ Phật giáo, giữa một
bên (đa số) gắn bó với phong trào cách mạng miền Nam với nhóm Thích Tâm Châu
cố lái phong trào Phật giáo theo hướng có lợi cho Mỹ - ngụy. Chúng đều bị thất bại

14.10 Page 140

▲back to top


trước sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta và trước sức mạnh của truyền thống
yêu nước, gắn bó với dân tộc của Phật giáo Việt Nam.
+ Phật giáo Đồng Nai từ 30 - 4 - 1975 đến nay:
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tình hình Phật giáo có
nhiều biến đổi. Tăng ni, phật tử các nơi, nhất là ở miền Trung về Đồng Nai làm ăn
sinh sống ngày một nhiều, tập trung chủ yếu dọc quốc lộ 51 Biên Hòa - Vũng Tàu.
Các ngôi chùa đã có từ trước ở đây đều được mở mang, xây dựng lại, nhiều chùa,
viện, tịnh xá, tịnh thất mới được xây dựng khang trang, hiện đại tạo nên một vùng
Phật giáo đông đảo, sầm uất.
Tuyệt đại đa số tăng ni, phật tử tự hào về sự đóng góp của mình vào thắng
lợi chung của dân tộc, phấn khởi và tin tưởng vào công cuộc xây dựng lại quê hương
đất nước sau bao năm chiến tranh tàn phá. Đất nước đã độc lập thống nhất thì Phật
giáo Việt Nam cũng phải thống nhất trong cả nước. Đó là nguyện vọng tha thiết của
mọi tín đồ Phật giáo Việt Nam. Nhưng một số phần tử cực đoan chống đối vẫn còn
nắm quyền hành khống chế Viện Hóa đạo của giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất (Ấn Quang) ngăn cản việc thống nhất Phật giáo Việt Nam.
Ngày 12 - 2 - 1980, đông đảo hàng giáo phẩm có uy tín ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam đã tập hợp lại thành lập "Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam",
tiêu biểu cho hàng lãnh đạo các tổ chức và hệ phái Phật giáo trong cả nước để vận
động thống nhất Phật giáo đã được đông đảo hàng giáo phẩm, tăng ni, phật tử hưởng
ứng.
Ngày 4 - 11 - 1981, lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, hội nghị
thống nhất Phật giáo cả nước được tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) thành lập giáo
hội Phật giáo Việt Nam, thông qua Hiến chương chương trình hoạt động của giáo
hội. Hội nghị đã suy tôn các vị cao tăng vào "Hội đồng chứng minh" và suy cử "Hội
đồng trị sự" là hai cơ quan lãnh đạo cao nhất của Trung ương Giáo hội.
Tại Hội nghị lịch sử này, hai vị cao tăng tiêu biểu cho Phật giáo Đồng Nai:
hòa thượng Thích Huệ Thành được suy tôn làm phó pháp chủ Hội đồng chứng minh
và hòa thượng Thích Thiện Khải được suy tôn làm ủy viên Hội đồng. Sự tín nhiệm
này của hội nghị đã khẳng định vai trò, vị trí của Phật giáo Đồng Nai trong phong
trào Phật giáo chung của cả nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đoàn kết thống
nhất Phật giáo trong tỉnh.
Việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất trong cả nước đã mở
ra một trang sử mới, một hướng phát triển mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam để
phát huy cao hơn nữa truyền thống gắn bó giữa đạo Phật với dân tộc trong thời đại
mới theo phương châm "Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội".

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Sau Đại hội thống nhất Phật giáo trong cả nước năm 1981, Đồng Nai đã tổ
chức Đại hội thống nhất Phật giáo trong tỉnh, thành lập Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng
Nai trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại hội đã suy cử các thành viên trong
Ban trị sự Phật giáo tỉnh gồm 25 thành viên, đại diện tiêu biểu cho các tông môn, hệ
phái Phật giáo trong tỉnh. Ban trị sự có 1 trưởng ban, 2 phó ban và 12 ủy viên thường
trực, đồng thời là trưởng tiểu ban các ngành hoạt động của Giáo hội. Các huyện và
thành phố Biên Hòa có Ban đại diện Phật giáo huyện và thành phố, do Ban trị sự
Phật giáo tỉnh bổ nhiệm để giúp Ban trị sự thực hiện các phật sự ở địa phương.
Từ ngày Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời đến nay Giáo hội đã làm được
nhiều việc mà từ trước kia trong lịch sử Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ làm được.
Đó là thống nhất Phật giáo trong cả nước để duy trì chánh pháp, góp phần tích cực
cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hòa bình an lạc cho mọi người. Về Phật
sự, giáo hội đã tổ chức phiên dịch xuất bản Đại tạng kinh bằng tiếng Việt, biên soạn
xuất bản nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam, làm rõ để duy trì
và phát huy một cách độc đáo hơn nữa "cái chất Việt Nam" ở trong đạo Phật Việt
Nam, trong đó có sự đóng góp đáng trân trọng của hòa thượng Thích Thanh Từ, một
nhà sư phái Thiền Trúc Lâm tiêu biểu ở Đồng Nai; xây dựng Viện nghiên cứu Phật
học, mở hai Trường cao cấp Phật học ở các tỉnh và thành phố trong cả nước; tổ chức
giới đàn truyền giới cho đệ tử được tổ chức với quy mô lớn, trọng thể trong phạm vi
tỉnh, thành phố hoặc một vùng. Nhiều di tích lịch sử Phật giáo bị hủy hoại do thời
gian hoặc bị tàn phá do chiến tranh được trùng tu, xây dựng lại. Từ ngày thống nhất
Phật giáo đến nay, ở Đồng Nai đã mở được trường cơ bản Phật học, là tỉnh có nhiều
tăng ni theo học Trường cao cấp Phật học và du học ở nước ngoài nhiều nhất trong
cả nước, đã 4 lần tổ chức Đại giới đàn cho trên 700 tăng ni, xây dựng mới, trùng tu
hàng trăm chùa, am, tự viện... Một số chùa, tự viện được xây dựng mới hoặc xây
dựng lại to đẹp, hiện đại mà trong lịch sử Phật giáo Đồng Nai chưa bao giờ làm
được.
Gắn bó với dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn luôn cổ vũ tăng ni,
phật tử chấp hành tốt các chủ trương, chính sách, luật pháp của Nhà nước, hưởng
ứng, tham gia tích cực các công tác ở địa phương, các phong trào hành động cách
mạng do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, nhất là các phong trào từ thiện xã
hội, góp phần ngày càng có hiệu quả hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong sự ổn định và phát triển của đất
nước, chứng tỏ con đường "Đạo pháp - dân tộc - Chủ nghĩa xã hội" trong giai đoạn
mới của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với giáo lý
của nhà Phật, phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam.
II.2.2. Công giáo ở Đồng Nai:
a) Tổng quát về Công giáo ở Đồng Nai:

15.2 Page 142

▲back to top


Biên Hòa - Đồng Nai là một trong những địa bàn được truyền giáo sớm ở
Đàng Trong và đã từng có những giáo sĩ Thừa sai nổi tiếng đương thời hoạt động
truyền giáo ở đây. Nhưng từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1954 đạo Công giáo ở
Biên Hòa - Đồng Nai không trở thành một tôn giáo sâu rộng như Phật Giáo. Số dân
đến Biên Hòa - Đồng Nai cư trú từ lâu đời theo đạo Công giáo chiếm tỷ lệ rất thấp.
Một vùng đất vốn có truyền thống tín ngưỡng tôn giáo hỗn dung nhiều nguồn, nhiều
phía nên khi tiếp nhận đạo Công giáo, người giáo dân Biên Hòa - Đồng Nai cũng
không có niềm tin "tinh dòng", lễ nghi, phong tục, tập quán cũng không quá rườm
rà, hình thức. Đạo không có vùng tập trung đông giáo dân, các xứ họ không phải là
một lãnh địa khép kín, giáo dân sống xen kẽ với người ngoài đạo chan hòa cởi mở.
Trong một dòng họ, một gia đình cũng có người đi lương, người đi giáo. Thậm chí
trong một con người họ là tín đồ đạo Công giáo, họ đi nhà thờ cầu phúc, nhưng cũng
có khi họ đi đình, chùa cầu cúng thần, Phật.
Đạo Công giáo ở Biên Hòa - Đồng Nai là một giáo phận thuộc giáo tỉnh Sài
Gòn của giáo hội Công giáo Việt Nam. Giáo phận có Tòa giám mục, 16 giáo hạt,
252 giáo xứ và hơn 100 họ lẻ và các cụm giáo dân ở các vùng kinh tế mới. Có 2
giám mục và 282 linh mục với 842.809 giáo dân.
Bên cạnh hệ thống triều, các dòng tu cũng là một tổ chức của giáo hội với
nhiều loại hình khác nhau. Các dòng tu do Tòa thánh thiết lập hầu hết là dòng miễn
trừ, đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Tòa thánh ít bị chi phối của giáo quyền,
giáo phận. Các dòng tu do Tòa thánh thiết lập có cơ sở ở Việt Nam đều thuộc tỉnh
dòng nước ngoài và do các tỉnh dòng nước ngoài chi phối. Mãi đến năm 1956 trở đi
Việt Nam mới có tỉnh dòng riêng, nhưng cho đến nay vẫn còn các dòng tu trực thuộc
tỉnh dòng nước ngoài. Các dòng tu do Giám mục giáo phận thiết lập thì mọi hoạt
động đều đặt dưới sự kiểm soát của Giám mục giáo phận.
Hầu hết các dòng tu có ở Việt Nam đều có các cơ sở ở Biên Hòa - Đồng Nai.
Đến nay số dòng tu đã đăng ký hoạt động có 13 dòng nam và 24 dòng nữ với 62 cơ
sở dòng tu và 1510 tu sĩ.
+ Tiến trình phát triển qua các thời kỳ:
- Từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1954:
Việc truyền giáo vào Biên Hòa - Đồng Nai từ bao giờ cho đến nay chưa có
tài liệu nào xác định rõ. Chỉ biết rằng "Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu phái
Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý lấy đất Đồng Nai đặt ra huyện Phước Long, đất
Sài Gòn đặt ra huyện Tân Bình và đặt phủ Gia Định thì đã có đông lưu dân đến đây
lập nghiệp. Trong số lưu dân sớm sủa ấy đã thấy có sự hiện diện của người Công
giáo. Họ lác đác đến đây lập nghiệp tại vùng ven sông Đồng Nai, đồng bằng sông
Mê Công... từ đầu thế kỷ 17 hay thế kỷ 16. Như vậy, số người Công giáo tới đây đã

15.3 Page 143

▲back to top


theo đạo rồi chứ không phải tới đây mới theo đạo" (32[10]). Trong thư gởi Ban giám
đốc chủng viện truyền giáo Paris đề ngày 24 - 7 - 1710, giám mục phó giáo phận
Đàng Trong Labbé viết:
"Có một miền gọi là Đồng Nai (Dou - nai) ở giữa Cao Miên và Chiêm Thành,
đây là vùng đồng bằng đất tốt, khá rộng và dài, rừng rậm cây to, nơi mà người Đàng
Trong đến đây lập nghiệp từ 35 hay 40 năm nay. Tôi nghĩ là đã có hơn 20.000 người
Đàng Trong tới đây, trong số đó có ít nhất 2000 người Công giáo. Cách đây 13 hay
14 năm có một cha dòng Tên người Bồ Đào Nha (Pires) đến đây, ông đã xây một
nhà thờ khá lớn..." (33[11]).
Những họ đạo đầu tiên được nhắc tới ở Biên Hòa - Đồng Nai:
- Họ đạo Bến Gỗ (nay thuộc thành phố Biên Hòa) có từ cuối thế kỷ 17 do
thừa sai Feret quy tụ giáo dân thành lập, đến năm 1747 có khoảng 200 giáo dân. Khi
Hội thừa sai nước ngoài Paris vào truyền giáo ở Đàng Trong thì năm 1750, Hội đặt
trụ sở tại Bến Gỗ. Bến Gỗ trở thành nhà thờ đầu tiên của Hội thừa sai nước ngoài
Paris ở Nam bộ.
- Họ đạo Tân Triều (nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu), có từ thời
giám mục Pigneau làm giám mục đại diện tông tòa Đàng Trong (1771 - 1733). Trong
thời gian này có 4 năm (1778 - 1782) Tân Triều là nơi đặt trụ sở của đại diện tông
tòa Đàng Trong và chủng viện cũng được quy tụ về đây.
- Vùng Bà Rịa (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) "đã được truyền giáo từ
lúc các thừa sai ngoại quốc vừa đặt chân vào miền Nam... đến năm 1664 trở thành
khu vực truyền giáo quan trọng. Vùng Đất Đỏ là nơi thuận tiện cho các thừa sai
nước ngoài và linh mục bản xứ trú ẩn". Vì "các thừa sai không được thiện cảm của
triều đình, nhưng Bà Rịa là một vùng xa xôi hẻo lánh, có lẽ dễ bề truyền đạo hơn"
(34[12]).
Biên Hòa do có Bến Gỗ là trụ sở của Hội thừa sai nước ngoài Paris và Tân
Triều là trụ sở của đại diện tông tòa Đàng Trong nên đạo phát triển tương đối nhanh
hơn các khu vực khác ở Nam bộ. Theo phúc trình đề ngày 31 - 1 - 1852, giám mục
Lefèbvre đại diện tông tòa Tây Đàng Trong (tức Nam bộ ngày nay) cho thấy giáo
phận Tây Đàng Trong có 9 khu vực chính thì Biên Hòa có 3 khu vực.
- Thị Rịa (tức Bà Rịa) có 1914 giáo dân thuộc các họ đạo Đất Đỏ, Thôm,
Dinh (sau đổi thành Phước Lễ), Thành, Gò Sầm...
(32[10]) Địa chí văn hóa Thành phố Hô Chí Minh - Tp I, phn lch s, Nxb. TP. HCM 1997, tr. 143
(33[11]) Lch sCông giáo Nam b(thế kXVI - XVII - XVIII). Nguyt san Công giáo và dân tc s39,
tháng 3 - 1998.
(34[12]) Linh mc Errard (cha Y): Phước Tuy máu la - tài liu ca giáo hi xut bn 1960, tr. 8

15.4 Page 144

▲back to top


- Tân Triều có 3034 giáo dân của các họ đạo: Tân Triều, Bến Gỗ, Mỹ Hội...
- Lái Thiêu (nay thuộc tỉnh Bình Dương) là họ đạo có từ đầu thế kỷ 18 cho
đến năm 1852 vẫn là cái nôi của Công giáo Nam bộ, bởi nơi đây là nơi trú ẩn của
chủng viện, của các thừa sai và vẫn là một trung tâm với 3.547 giáo dân (35[13]).
Từ ngày đầu của việc truyền giáo cho đến tháng 6 - 1862, sự phát triển của
Công giáo Tây Đàng Trong còn rất hạn chế, chỉ mới bắt đầu xây dựng và phát triển
từ sau hòa ước ngày 5 - 6 - 1862 được ký kết giữa triều đình vua Tự Đức với đại
diện Pháp và Tây Ban Nha. Ở Biên Hòa cũng từ đó về sau, các nhà thờ lớn của các
xứ đạo, các cơ sở dòng tu được xây dựng. Nhà thờ Tân Triều xây dựng lại năm 1862,
nhà thờ Biên Hòa có từ năm 1861 đến năm 1870 xây dựng lại to đẹp hơn, nhà thờ
Bến Gỗ xây dựng lại năm 1862, nhà thờ Phước Lễ có từ năm 1664 đến năm 1877
xây dựng lại với quy mô lớn được coi là một trong những nhà thờ lớn nhất ở giáo
phận Tây Đàng Trong lúc bấy giờ. Nhà thờ Mỹ Hội, Long Thành xây năm 1889.
Phước Lý (huyện Nhơn Trạch) có sổ "rửa tội" từ năm 1885, nhưng mãi đến năm
1900 mới xây dựng nhà thờ...
Cơ sở dòng tu có quy mô lớn đầu tiên được xây dựng ở Phước Lễ, năm 1877,
Phước Lễ đã có trường học của nhà dòng, năm 1890 các nữ tu dòng Phao Lô đến
Phước Lễ lập Dưỡng lão đường và giảng dạy ở trường dòng. Các cơ sở kinh tế có
đồn điền cao su ở Mỹ Hội, trại trồng điều ở Phước Bửu.
Năm 1890 Đất Đỏ đã xây dựng một trung tâm dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ
thừa sai ngoại quốc mới đến Việt Nam. Vì vậy, vùng Phước Tuy - Biên Hòa là địa
bàn lui tới tổ chức truyền giáo của nhiều giáo sĩ thừa sai ngoại quốc nổi tiếng đương
thời.
Đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản
phương Tây đua nhau xâm chiếm phương Đông, trong đó Pháp ráo riết chuẩn bị xâm
chiếm Việt Nam. Trong bối cảnh ấy, các giáo sĩ ngày càng can dự vào chính sự Việt
Nam, can thiệp sâu vào nội trị Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1857, Pháp quyết định
đánh chiếm Việt Nam bằng vũ lực, cũng là lúc các giáo sĩ ngoại quốc cho rằng họ
đã chuẩn bị xong cho cuộc thôn tính Việt Nam. Linh mục Legrand, cha sở xứ Biên
Hòa năm 1865, trong bản trần tình gửi Napoléon III đã nói rõ tầm quan trọng của
việc xâm chiếm Việt Nam. Theo Legrand "Chỉ cần nhìn vị trí "xứ An Nam" người
ta hiểu ngay nếu chiếm đóng xứ này quan trọng cho Pháp đến đâu" và "Xứ này rất
đáng là một xứ thuộc địa xét về mặt giầu có của đất đai, vốn hơn hẳn Philipine,
Java, Bornéo... Tài nguyên của nó khiến cho nước Pháp sẽ yêu thích vùng thuộc địa
đẹp đẽ nhất, quí giá nhất này trong các thuộc địa cũ và mới của Pháp". Sau khi phân
(35[13]) Công giáo Nam b: Những ngày đầu thành lp giáo phn Sài Gòn (1844 - 1859). Nguyt san Công giáo
và dân tc, s43, tháng 7 - 1998.

15.5 Page 145

▲back to top


tích các nguyên nhân tất thắng của cuộc xâm chiếm Việt Nam, linh mục Legrand kết
luận: "Vùng đất mỹ miều và quí giá này sẵn sàng rơi vào tay Pháp. Trái đã chín rồi
không thể không rụng. Lạy Chúa! Đừng để nó rơi vào tay người Anh" (36[14]).
Sự dính líu giữa việc truyền giáo và chủ nghĩa thực dân của các thừa sai trên
đất Biên Hòa - Đồng Nai đã dẫn đến lệnh cấm đạo thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và
thời Tự Đức (1847 - 1862) được thực thi ở Biên Hòa - Đồng Nai. Nhiều giáo dân bị
bắt bớ tù đày và bị sát hại, các giáo sĩ thừa sai bị trục xuất, bị cấm truyền giáo.
Sự dính líu giữa công cuộc truyền giáo và chủ nghĩa thực dân dẫn tới việc
cấm đạo và đàn áp tràn lan người theo đạo của triều đình nhà Nguyễn là một sự thật
lịch sử không thể phủ nhận. "Nhưng sự dính líu giữa giáo hội với chủ nghĩa thực
dân phương Tây không thuộc về bản chất của việc truyền giáo, đó là sự dính líu
mang tính chất thời đại lúc bấy giờ, thời đại của sự phát sinh và phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã xảy ra vào cuối thế kỷ XV" (37[15]).
Chính giáo sĩ thừa sai Paris, linh mục Louvet, người đã làm cha sở xứ Biên
Hòa năm 1870, cũng thừa nhận đó không phải là kỳ thị tôn giáo vì không có một dân
tộc nào bao dung vấn đề tôn giáo hơn dân tộc Việt Nam. Ông viết: "Muốn cứu vãn
tôn giáo trong hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ, thì chỉ có một cách phải tách rời nó
ra khỏi toàn cảnh đế quốc và thực dân". Bởi vì "Vấn đề này mang tính chất chính
trị nhiều hơn tôn giáo, hay nói cho đúng, nó gần như hoàn toàn chính trị... cái mà
họ chống đối trong đạo Công giáo chính là sự xâm lược của châu Âu. Vậy hãy tách
rời minh bạch vấn đề tôn giáo ra khỏi vấn đề chính trị" (38[16]).
Vì ý nghĩa thiêng liêng và nhân bản của đạo hãy "tách rời minh bạch vấn đề
tôn giáo ra khỏi vấn đề chính trị" để người Công giáo Việt Nam có thể là con chiên
của Chúa mà vẫn là người Việt Nam, gắn bó với vận mệnh của Tổ quốc và nhân dân
của họ.
Theo linh mục Legrand, lúc làm cha sở xứ Biên Hòa thì số giáo dân của giáo
xứ có chừng 700 người, sau đó di tán chỉ còn chừng 300 người. Ý định tập hợp
những người theo đạo thành những xóm, làng riêng tách khỏi người ngoại đạo như
ở miền Bắc không thực hiện được ở Biên Hòa - Đồng Nai. Những xứ đạo được hình
thành lớn nhất của công cuộc truyền giáo ở Biên Hòa - Đồng Nai mãi đến trước năm
1954 vẫn xen kẽ với người ngoại đạo, không có xứ đạo toàn tòng, có xứ càng về sau
càng ít đi.
(36[14]) Cao Huy Thun: Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân ti Vit Nam - Xut bn tại Paris năm 1930, tr.
148.
(37[15]) Giáo sư Mạc Đường - tham lun ti Hi ngh: "Mt svấn đề lch sử đạo Thiên Chúa trong lch sdân tc
Việt Nam". Năm 1988 tại TP. HCM.
(38[16]) Cao Huy Thuần: (sách đã dẫn), tr. 149.

15.6 Page 146

▲back to top


Cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX, nước Pháp đã chuyển hẳn sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Những thuộc địa mới ở Viễn Đông trong đó có Việt Nam
bắt đầu được chú ý khai thác. Năm 1897, triều đình Huế buộc phải ký nhượng quyền
khai thác đất hoang cho Pháp. Từ đó trở đi thì sự chiếm đoạt ruộng đất càng trở nên
ồ ạt. Việc mộ dân (chủ yếu là miền Bắc và miền Trung) lập các đồn điền cao su ở
Biên Hòa - Đồng Nai đã hình thành các xứ, họ đạo của công nhân đồn điền cao su.
Từ năm 1912 đến năm 1947 đã hình thành các xứ họ: Dầu Giây (Thống Nhất), Suối
Tre, Bình Lộc, Xuân Tân (Long Khánh), nhà thờ họ lẻ của công nhân cao su ở Túc
Trưng (Định Quán), Bảo Thị (Xuân Lộc)... Số giáo dân trong các đồn điền cao su
này là 7197 người làm cho số giáo dân ở Biên Hòa - Đồng Nai tăng lên đáng kể.
Trên toàn địa bàn có 8 giáo xứ và một số họ lẻ được hình thành từ thế kỷ XVII,
XVIII và 6 giáo xứ và một số họ lẻ của giáo dân là công nhân các đồn điền cao su,
với số giáo dân gần 20 ngàn người thuộc giáo phận Sài Gòn.
Trong gần hai mươi ngàn giáo dân ấy, có một bộ phận là người Công giáo ở
các nơi sớm có mặt ở Biên Hòa - Đồng Nai khai hoang lập ấp, góp phần mở mang
vùng đất mới. Cũng như các lưu dân khác, họ đi xa để tìm đất sống và trốn tránh áp
bức, bất công. Riêng họ còn nhằm mục đích trốn tránh bách hại tôn giáo.
Vào vùng đất mới, trước cảnh rừng núi âm u hoang vắng, nhiều thú dữ, nhiều
bất hạnh do thiên nhiên và con người mang lại, họ phải đoàn kết gắn bó với các lưu
dân khác để tồn tại và phát triển. Vậy nên giữa họ dù là lương hay giáo luôn có mối
tương thân, tương trợ và cùng cảnh ngộ. Bên cạnh số giáo dân đã sống lâu đời ở Biên
Hòa - Đồng Nai, số giáo dân công tra ở các đồn điền cao su, họ là công nhân bị thực
dân Pháp, chủ đồn điền áp bức bóc lột tàn khốc, sớm giác ngộ cách mạng đi theo
Đảng tham gia các phong trào đấu tranh của công nhân cao su chống áp bức bóc lột,
đòi tự do dân chủ, chống ách thống trị của thực dân Pháp, tham gia giành chính
quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Trong thời Pháp thuộc và kháng chiến
chống Pháp, đạo Công giáo ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng bị thực dân, đế quốc lợi
dụng, nhưng đa số giáo dân vẫn gắn bó với quê hương, dân tộc, hăng hái tham gia
các phong trào chống Pháp xâm lược và kháng chiến chống Pháp cứu nước.
Nhiều cơ sở cách mạng trong vùng giáo dân là công nhân cao su được xây
dựng, có vùng đã trở thành căn cứ kháng chiến chống Pháp như: Bình Sơn, Bình
Lộc, Cẩm Mỹ v.v...
Từ lâu, đế quốc Mỹ đã có âm mưu can thiệp và xâm lược nước ta hòng thực
hiện kế hoạch bành trướng và thống trị của chúng ở vùng Đông Nam Á. Âm mưu và
ý đồ đó đã được thực hiện đầu tiên bằng việc dụ dỗ, cưỡng bức 40% giáo dân miền
Bắc di cư vào Nam, trong đó có Biên Hòa - Đồng Nai là một trọng điểm. Cuộc di
dân thấm đậm máu và nước mắt của giáo dân này được Mỹ Diệm coi là "thắng lợi
ban đầu với Cộng sản". Điều đó khẳng định rằng việc dụ dỗ, cưỡng bức giáo dân di

15.7 Page 147

▲back to top


cư năm 1954 không phải là việc làm mang ý nghĩa tôn giáo mà là ý nghĩa chính trị
thực sự. Mỹ - ngụy sử dụng giáo dân di cư làm hậu thuẫn chính trị trong những ngày
đầu còn non yếu của chế độ Diệm. Đồng bào được bố trí định cư ở khu Hố Nai dọc
đường quốc lộ 1 Biên Hòa - Long Khánh, quốc lộ 15 Biên Hòa - Bà Rịa, quốc lộ 20
Kiệm Tân - Lâm Đồng...
Giáo dân di cư năm 1954 và di cư đến các nơi rồi lại đến Biên Hòa - Đồng
Nai cư trú vào các năm sau đó, làm cho số giáo dân trên địa bàn tăng lên gấp bội. Từ
năm 1954 đến năm 1965, Biên Hòa - Đồng Nai đã có 133 giáo xứ và 105 họ lẻ, 175
linh mục, 3 dòng tu nam, 8 dòng tu nữ với 865 tu sĩ và 164.144 giáo dân.
Trong tình hình đó, ngày 04 - 10 - 1965, Tòa thánh Rôma ra sắc lệnh cho
tách khỏi giáo phận Sài Gòn, thành lập giáo phận Xuân Lộc (bao gồm 3 tỉnh: Biên
Hòa, Long Khánh, Phước Tuy và thị xã Vũng Tàu), Tòa giám mục đặt tại Xuân Lộc,
tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.
Từ năm 1972 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chế độ Sài Gòn lại
hốt hàng loạt dân, trong đó có nhiều giáo dân ở những vùng chiến ác liệt, những
vùng tranh chấp giữa ta và địch ở miền Trung và một số nơi như: Bình Dương, Bình
Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Tuy... về định cư ở Biên Hòa - Đồng Nai lập
nên một số xứ, họ đạo mới. Một số giáo dân ở Campuchia hồi cư năm 1972 về sống
xen kẽ với các xứ, họ ở Túc Trưng (Định Quán), Xuân Định, Xuân Hiệp (Xuân
Lộc)... làm cho giáo phận Xuân Lộc ngày càng phát triển cả tôn giáo và chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Sau 20 năm từ năm 1954 đến 1974, từ một địa bàn chỉ có gần 20 ngàn giáo
dân thuộc giáo phận Sài Gòn, Biên Hòa - Đồng Nai trở thành vùng Công giáo lớn
với 333.410 giáo dân chiếm 36,6% dân số, với một tòa giám mục, 14 giáo hạt, 192
giáo xứ, 53 cơ sở dòng tu và tu hội với 1158 tu sĩ và trên 3000 thực tập sinh dự tu.
Mỹ - ngụy âm mưu lợi dụng lực lượng Công giáo di cư làm chỗ dựa để lôi
kéo giáo hội miền Nam chạy theo chủ nghĩa chống cộng mù quáng, ủng hộ cuộc
chiến tranh xâm lược, diệt chủng chống lại dân tộc mình. Quan điểm và lập trường
chống cộng cực đoan mà Mỹ - ngụy đầu độc ấy đã ràng buộc lương tâm, đè nặng lên
số phận của phần đông linh mục, tu sĩ và giáo dân làm cho họ phải băn khoăn, trăn
trở, day dứt. Một số giáo dân tại chỗ và giáo dân trong các đồn điền cao su đã trưởng
thành trong các phong trào yêu nước và kháng chiến chống Pháp, trước âm mưu xâm
lược miền Nam nước ta của đế quốc Mỹ đã đứng lên cùng toàn dân kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Một số xã Anh hùng lực lượng vũ trang như: Phú Hội, Bình
Sơn, Bình Lộc... có sự đóng góp của những người Công giáo kính chúa, yêu nước.
Ở những nơi đông có đến 90% gia đình giáo dân là cơ sở cách mạng, gia đình thương
binh, liệt sĩ. Nhiều thanh niên công giáo tham gia kháng chiến trở thành cán bộ lãnh
đạo ở cơ sở, có người đã trở thành cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước. Bà

15.8 Page 148

▲back to top


mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Cúc là người Công giáo tiêu biểu của Đồng Nai
có ba con là liệt sĩ. Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Sen là giáo dân ở Long Khánh,
bà mẹ Lê Thị Tin Biên Hòa đều có chồng và hai con là liệt sĩ. Đó là những người
công giáo tiêu biểu cho "lòng kính Chúa yêu nước".
Lực lượng này tuy ít so với số giáo dân di cư đến Đồng Nai từ năm 1954 và
các năm sau, nhưng đã có tác động và ảnh hưởng đến xu hướng ngày càng gắn bó
với dân tộc của họ ngay trong chế độ cũ. Một số linh mục, tu sĩ thức thời, cấp tiến
muốn đi tìm một hướng đi mới, hướng đi "trở về nguồn", "tìm về dân tộc" để sống
trong tương quan "đạo đời" tốt đẹp hơn. Họ đã công khai trình bày quan điểm của
mình và kêu gọi những người đồng đạo "người Công giáo chân chính là người phải
yêu dân tộc mình, phải hi sinh tất cả cho dân tộc". Có những linh mục, tu sĩ đã đồng
tình ủng hộ sự nghiệp kháng chiến chính nghĩa của nhân dân. Một số linh mục, tu sĩ
ở vùng giáp ranh đã cùng với giáo dân tiếp tế lương thực, thuốc men cho kháng chiến
như linh mục Nguyễn Trinh Đoàn ở nhà thờ Hiếu Liêm (Vĩnh Cửu), linh mục Trần
Quang Vũ ở nhà thờ Đồng Lách (Biên Hòa), có linh mục ở Hố Nai, Biên Hòa đã đấu
tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù, giúp đỡ thuốc men cho tù nhân là cán bộ kháng
chiến và đã tìm cách cứu thoát một số cán bộ, chiến sĩ giải phóng trong nhà tù lúc
giao thời trước giải phóng. Tiêu biểu là linh mục Nguyễn Trinh Đoàn, năm 1962 đã
tham gia Đại hội Mặt trận giải phóng miền Đông Nam bộ. Linh mục đã được Nhà
nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng hai và Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân
tộc.
Trong thời Mỹ - ngụy, lực lượng này còn nhỏ bé, nhưng tiếng nói của họ đã
có tác động góp phần thức tỉnh đối với giáo dân, nhất là đối với trí thức, thanh niên,
sinh viên học sinh.
Tuyệt đại đa số giáo dân di cư năm 1954 là nông dân vốn có truyền thống
cần cù lao động, họ vốn phải chắt chiu, dành dụm để đảm bảo cuộc sống. Vào Đồng
Nai vùng đất màu mỡ, mưa thuận, gió hòa, dân cư thưa thớt, họ đã khai hoang, mở
mang ngành nghề phát triển sản xuất. Với chính sách tư sản hóa miền Nam của Mỹ
- ngụy, người sản xuất cũng thay đổi thành phần, thay đổi cách làm ăn. Trung nông
phát triển, nông, lâm, ngư nghiệp đã sử dụng máy móc, kỹ thuật tư bản, tiểu thủ công
nghiệp phát triển, một số người bỏ lao động chuyển sang buôn bán hình thành các
khu sản xuất, buôn bán sầm uất, các thị tứ, thị trấn dọc các quốc lộ và ven thành phố
Biên Hòa ra đời làm cho kinh tế Đồng Nai có bước phát triển mới.
Một bộ phận được chế độ Mỹ - ngụy ưu đãi, có đặc quyền nên giàu lên nhanh
chóng. Nhưng đại đa số giáo dân vẫn là người nghèo khổ, nhiều người bị đưa đẩy
vào nghịch cảnh của cuộc chiến tranh phi nghĩa, dần nhận ra chính nghĩa của cách
mạng, có nhiều hoạt động góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc. Trong những

15.9 Page 149

▲back to top


năm về sau, cách mạng đã xây dựng được cơ sở ở một số vùng giáo dân di cư, cả ở
vùng Kiệm Tân, Hố Nai... các cơ sở này góp phần đáng kể trong việc tiếp tế lương
thực, thuốc men cho kháng chiến.
+ Từ 30 - 4 - 1975 đến nay:
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện chủ trương giãn dân từ
thành phố đi xây dựng vùng kinh tế mới; Đồng Nai tiếp nhận nhiều người từ các đô
thị đến vùng kinh tế mới ở huyện Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Châu
Thành... trong đó có nhiều chức sắc, giáo dân (có cả số giáo dân bị Mỹ - ngụy cưỡng
ép di tản chiến tranh không thành). Từ năm 1977 về sau, ngoài số giáo dân ở thành
phố, ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến các vùng kinh tế mới, các nông trường,
lâm trường theo kế hoạch của Nhà nước, còn có hàng trăm ngàn giáo dân vào Đồng
Nai cư trú ngoài kế hoạch, hình thành các cụm dân cư mới. Trong đó có 72 cụm dân
cư mới có nhiều giáo dân như Suối Nho 4.200 giáo dân, Phú Điền 4150 giáo dân,
Gia Canh 2400 giáo dân... (thuộc huyện Định Quán). Các cụm dân cư có trên dưới
3000 giáo dân ở huyện Châu Thành như Suối Trầu, Suối Quýt, Cẩm Đường, Bàu
Cạn và 11 cụm dân cư mới ở huyện Xuyên Mộc (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu).
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, Đồng Nai là một trong những trung tâm kinh
tế trọng điểm phía Nam, có những định hướng phát triển lớn, tập trung nhất là phát
triển công nghiệp đòi hỏi một lực lượng lao động lớn. Một lần nữa, dân ở các nơi lại
dồn về Đồng Nai làm ăn sinh sống trong đó có nhiều giáo dân làm cho dân số phát
triển cơ học ngày một tăng. Do dân số phát triển cơ học ngày một tăng và tỉ lệ tăng
dân số tự nhiên trong giáo dân còn cao (2,45%) đưa số giáo dân trên địa bàn Biên
Hòa - Đồng Nai tăng lên không ngừng. Trong vòng hơn 20 năm qua, từ 1974 đến
nay số giáo dân trên địa bàn tăng gấp hơn 2 lần.
Từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng đến nay, tín đồ đạo Công giáo
ở Đồng Nai ngày càng gắn bó với dân tộc. Giáo dân lúc đầu còn hoang mang lo sợ,
nhưng với chính sách đối xử nhân đạo đối với những người có dính líu với chế độ
cũ, chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã đáp ứng được lòng
mong đợi của quần chúng giáo dân, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của đông
đảo quần chúng giáo dân với dân tộc.
Hơn 10 năm đổi mới, với những thành tựu về kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng và các mặt khác, quần chúng giáo dân ngày càng phấn khởi, tin tưởng vào
chính sách của Đảng và Nhà nước, mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Có nhiều hộ giáo dân như ở Hố Nai, Tân Biên, Tân Mai (thành phố Biên Hòa), Bắc
Sơn, Gia Tân, Gia Kiệm (huyện Thống Nhất) đã đầu tư hàng tỷ đồng phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, chăn nuôi, dịch vụ... Việc đồng bào Công giáo phấn khởi
làm ăn tạo ra những kết quả mới trong đời sống kinh tế, xã hội, mức sống được cải
thiện, có vùng được nâng cao rõ rệt. Đã có nhiều hộ làm ăn khá giả, nhiều hộ giàu

15.10 Page 150

▲back to top


lên, nhiều hộ làm được nhà kiên cố, có tiện nghi sinh hoạt đắt tiền. Bộ mặt của xứ,
họ đạo đổi mới, đường nông thôn, khu phố được mở mang, tu bổ sạch đẹp, cuộc
sống cộng đồng ngày một an vui. Nhiều tập thể và cá nhân điển hình trong các phong
trào quần chúng, nhất là các hoạt động từ thiện xã hội như: xóa đói giảm nghèo, cứu
trợ thiên tai, giúp đỡ người cô đơn, tàn tật, đền ơn đáp nghĩa, xã hội hóa giáo dục,
giao thông nông thôn...
Do đời sống được cải thiện và từng bước nâng cao, giáo dân có điều kiện xây
dựng, tu bổ lại nhà thờ, nhà nguyện. Hầu hết các nhà thờ xây dựng tạm bợ thời chiến
tranh đều được trùng tu, hoặc xây dựng lại với qui mô rộng lớn hơn, khang trang,
hiện đại hơn. Sinh hoạt lễ nghi tôn giáo ngày một đông vui. Đại đa số giáo dân có
thể tìm thấy tinh thần đạo thực sự của mình ở chính ngay trong việc "hòa mình gắn
với dân tộc, với vận mệnh quê hương". Dấn thân phục vụ cùng với toàn dân xây
dựng xã hội mới là con đường tất yếu tạo nên "bộ mặt mới, vị thế mới" trong cộng
đồng dân tộc để duy trì và phát triển đạo.
Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng có những thay đổi quan trọng. Năm 1980
Hội đồng giám mục Việt Nam ra Thư chung tỏ thái độ tuân thủ chính sách pháp luật
của Nhà nước, đoàn kết cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường
hướng "Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào". Tuy
nhiên, thực hiện đường hướng nói trên là một quá trình lâu dài. Vì lịch sử giáo hội
Công giáo Việt Nam trước kia như Hội đồng giám mục Việt Nam đã thừa nhận:
"luôn xen lẫn ánh sáng và bóng tối". Những bóng tối đầy máu và nước mắt, đầy băn
khoăn trăn trở trong lòng người Công giáo Việt Nam, sống trong lòng dân tộc mà
không hoàn toàn thuộc về dân tộc. Chiến thắng vĩ đại của dân tộc ngày 30 - 4 - 1975
"đã mở ra một vận hội lịch sử mới" cho giáo hội Công giáo Việt Nam.
II.2.3. Đạo Tin Lành:
a) Khái quát:
Đạo Tin Lành là một tôn giáo cải cách, tách ra từ đạo Công giáo từ thế kỷ
XVI ở châu Âu. Đạo có đường hướng hoạt động năng động, luôn luôn đổi mới từ
nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh xã hội của mọi quốc gia dân tộc
mà đạo truyền đến, đặc biệt là chủ trương "nhập thế" lấy hoạt động xã hội làm
phương tiện, điều khiển để thu hút tín đồ.
Đạo Tin Lành truyền vào Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX do tổ chức Tin Lành Liên hiệp Phúc âm và Truyền giáo Mỹ (CMA) thực
hiện. Những năm đầu truyền đạo ở Việt Nam, CMA gặp nhiều khó khăn về chính
trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, trong đó phải kể đến sự chèn ép, cấm cách của Pháp.
Mãi đến năm 1911, CMA mới đặt được cơ sở Hội thánh đầu tiên, rất ít tín đồ ở Đồng
Nai, chỉ phát triển từ năm 1954 đến năm 1975.

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Đạo Tin Lành truyền vào Đồng Nai chưa lâu, số lượng tín đồ ít, đến nay toàn
tỉnh có 8530 tín đồ thuộc 16 hội thánh với 16 thánh đường và 12 tụ điểm nằm rải rác
trên khắp các địa bàn từ thành phố, nông thôn đến các vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số trong tỉnh. Đạo Tin Lành ở Đồng Nai đã trở thành một tôn giáo tương
đối hoàn chỉnh, lại có mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng nên có điều kiện để
tiếp tục phát triển.
Về tổ chức, đạo Tin Lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất phổ
quát cho toàn đạo, mà đi theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với các
hình thức khác nhau tùy theo hệ phái, hoặc theo từng quốc gia. Trong cơ cấu tổ chức
giáo hội, các hệ phái Tin Lành chủ trương giao quyền tự trị cho các giáo hội cơ sở:
chi hội, các cấp hội thánh bên trên hình thành phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cho
phép. Trước năm 1975, tổ chức hội thánh Tin Lành miền Nam có 3 cấp: tổng liên
hội, địa hạt, chi hội (hay hội thánh cơ sở). Các chi hội ở Đồng Nai thuộc địa hạt miền
Đông Nam bộ. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, đạo chưa xây
dựng được tổ chức giáo hội bên trên cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới,
các hội thánh cơ sở đều độc lập, nhưng với tinh thần đồng đạo, tín đồ các hội thánh
vẫn có mối quan hệ tình cảm với nhau, chịu sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và
được phép cử đại diện phối hợp giữa các Hội thánh trong tỉnh để tiến hành một số
hoạt động chung như tổ chức bồi linh, mở các lớp giáo lý, các hoạt động từ thiện xã
hội
b) Quá trình phát triển qua các thời kỳ:
+ Từ ngày đầu truyền giáo đến năm 1954:
Năm 1915, sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, mượn cớ các giáo sĩ Tin Lành
Mỹ làm gián điệp cho Đức, trong lúc đó Pháp đánh nhau với Đức, nhà cầm quyền
Pháp ở Đông Dương cấm các giáo sĩ CMA hoạt động. Để tránh sự kiểm soát của
nhà cầm quyền Pháp, các giáo sĩ CMA từ Sài Gòn lẻn về Đồng Nai truyền giáo. Từ
năm 1915 đến năm 1923 đã có một số người ở Biên Hòa theo đạo, CMA thuê một
căn nhà ở Biên Hòa làm nơi giảng đạo và sinh hoạt tôn giáo. Năm 1924, CMA lập
được Hội thánh ở Biên Hòa, Hội thánh đầu tiên ở Đồng Nai. Thời kỳ Nhật xâm
chiếm Việt Nam, Nhật cấm đạo Tin Lành hoạt động, đạo không phát triển được.
Suốt quá trình truyền giáo vào Đồng Nai từ năm 1915 đến năm 1954, đạo Tin Lành
ở Đồng Nai chỉ có 1746 tín đồ với 5 hội thánh ở Biên Hòa, Long Thành, Long Khánh,
Định Quán thuộc tổng liên hội Tin Lành Việt Nam.
+ Từ năm 1954 đến năm 1975:
Sau hiệp định Genève về Việt Nam (1954) CMA đẩy mạnh hơn bao giờ hết
việc đầu tư tiền của, phương tiện, đội ngũ giáo sĩ... giúp tổng liên hội hội thánh Tin
Lành Việt Nam (miền Nam) gọi tắt là Hội thánh Tin Lành miền Nam, xây dựng hệ
thống tổ chức, mở rộng các cơ sở tôn giáo, kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều nơi, củng

16.2 Page 152

▲back to top


cố và mở rộng các cơ sở đào tạo giáo sĩ, xây dựng Trường thánh kinh học viện Nha
Trang và mở 2 Trường thánh kinh cho Tây Nguyên. Mặc dù trên danh nghĩa Hội
thánh Tin Lành miền Nam là một tổ chức độc lập, nhưng mối quan hệ giữa CMA
với Hội thánh Tin Lành miền Nam được thiết lập chặt chẽ. CMA lập ban Trị sự đặt
bên cạnh tổng liên hội là "thuộc viên" của CMA. Một số giáo sĩ CMA được đưa vào
miền Nam bố trí ở các cấp Tổng Liên hội, các địa hạt và các địa bàn quan trọng để
phối hợp hoạt động.
Trong giai đoạn này, đạo Tin Lành đặc biệt chú trọng hướng hoạt động truyền
giáo đến các vùng dân tộc thiểu số, nơi chưa có một tôn giáo chính thống hoặc tôn
giáo đang suy thoái, nơi trình độ dân sinh, dân trí còn thấp. Truyền giáo ở vùng này,
đạo Tin Lành không những biết thích nghi với phong tục tập quán của địa phương,
mà còn tiếp tục đơn giản luật lệ, lễ nghi cách thức hành đạo vốn rất đơn giản, dễ
dàng hòa nhập với văn hóa, tâm lý, lối sống của người dân, từ đó lôi cuốn họ vào
đạo. Tổng Liên hội Tin Lành miền Nam có "bộ phận truyền đạo cho người Thượng".
Nó được quyền ưu tiên và có quy chế đặc biệt. Các giáo sĩ người dân tộc thiểu số
được tuyển chọn đào tạo công phu. Ở Đồng Nai có 16 mục sư và truyền đạo, trong
đó có 5 truyền đạo là người dân tộc thiểu số, phụ trách các hội thánh của người dân
tộc thiểu số.
Sau hơn 20 năm từ năm 1954 đến năm 1975, đạo Tin Lành ở Đồng Nai phát
triển nhanh chóng, số tín đồ và hội thánh cơ sở tăng gấp 3 lần năm 1954, đặc biệt là
xây dựng được nhiều cơ sở truyền giáo ở vùng dân tộc thiểu số.
Trong thời kỳ này ngoài hai hệ phái Tin Lành đã có từ trước là hội thánh Tin
Lành miền Nam (thuộc CMA) và Cơ đốc Phục lâm, còn có 25 hệ phái, tổ chức tôn
giáo xã hội quốc tế, chủ yếu là thuộc các hệ phái Tin Lành ở Mỹ và truyền giáo, xây
dựng cơ sở ở miền Nam. Trên địa bàn Đồng Nai có các hệ phái: Cơ đốc Phục lâm,
Báp - tít, Trưởng lão, Ngũ tuần, vào hoạt động truyền giáo, nhưng chỉ xây dựng được
3 cơ sở truyền giáo ở Biên Hòa, Long Khánh, Định Quán với 65 tín đồ. Năm 1960,
một mục sư người Mỹ bỏ tiền của và đứng tên xây dựng thánh đường của phái này
ở phường Quang Vinh, Biên Hòa.
+ Từ sau ngày 30 - 4 - 1975 đến nay:
Sau giải phóng, số giáo sĩ người Mỹ và nước ngoài, một số mục sư, truyền
đạo người Việt là tuyên úy quân đội Sài Gòn chạy ra nước ngoài. Các hệ phái, tổ
chức Tin Lành mới vào Đồng Nai truyền giáo sau năm 1954 cũng rời khỏi Đồng
Nai, kể cả phái Cơ đốc Phục lâm có một thánh đường do người Mỹ xây dựng, mục
sư này cũng bỏ ra nước ngoài, thánh đường không sử dụng nữa. Ở Đồng Nai chỉ còn
lại hội thánh Tin Lành Việt Nam, lực lượng truyền giáo giảm. Nhưng với phương
thức truyền đạo năng động, thích nghi với mọi hoàn cảnh xã hội, đạo Tin Lành ở
Đồng Nai tiếp tục được củng cố và phát triển, nhất là sau khi mối bang giao với nước

16.3 Page 153

▲back to top


ngoài mở rộng, được sự chi viện của các hệ phái, tổ chức Tin Lành ở nước ngoài,
hội thánh Tin Lành Việt Nam tích cực củng cố tổ chức, phát triển lực lượng bằng
nhiều hình thức vừa linh hoạt vừa mềm dẻo. Hội thánh Tin Lành Việt Nam tiếp tục
tập trung vào vùng dân tộc thiểu số và mở rộng ra các vùng sâu, vùng xa, các vùng
kinh tế mới còn nhiều khó khăn để truyền giáo, hình thành các tụ điểm và các tổ
chức hội thánh cơ sở mới.
Các tổ chức, hệ phái Tin Lành khác, sau khi giải phóng rời khỏi Đồng Nai,
nay cũng vào Đồng Nai tìm cách khôi phục lại các cơ sở đã bị tê liệt để truyền giáo.
Phái Cơ đốc Phục lâm đã khôi phục được tụ điểm sinh hoạt tôn giáo ở xã Phước Thái
(Long Thành) với gần 200 tín đồ; một số tín đồ ở Phú Túc (Định Quán) và ở các
phường nội ô thành phố Biên Hòa cũng trở lại sinh hoạt tôn giáo. Các hệ phái trên
còn lôi kéo cả mục sư, truyền đạo và tín đồ của hội thánh Tin Lành Việt Nam và tín
đồ đạo Công giáo theo hệ phái của họ.
Tín đồ đạo Tin Lành lúc đầu phần lớn là tầng lớp: tiểu thương, tiểu chủ, trí
thức, thanh niên học sinh, cơ sở xã hội chưa sâu rộng như các tôn giáo khác, nhưng
sau này đạo Tin Lành mở rộng phát triển ảnh hưởng của mình đến những vùng xa,
vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
II.2.4. Đạo Cao Đài:
a) Khái quát chung:
Vào những năm 20 của thế kỷ này, đạo Cao Đài đã xuất hiện trong thời điểm
lịch sử khá đặc biệt. Nhân dân Việt Nam, trong đó nhân dân Nam kỳ cùng cảnh ngộ
bị chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp áp bức bóc lột nặng nề. Các phong trào
khởi nghĩa của nông dân và sĩ phu yêu nước nổi lên nhiều nơi, nhưng đều bị bọn
thống trị và tay sai đàn áp khốc liệt nên đều thất bại, không tìm được lối thoát. Lòng
khao khát một sự giải thoát về tinh thần trước tình cảnh ngày càng khốn cùng đó đã
trở thành nhu cầu của đông đảo nhân dân. Khi người ta không tìm ra được lối thoát
cho cuộc sống hiện tại thì không tránh khỏi trông mong vào sự giải thoát ở đời sau
bằng con đường tìm đến tôn giáo. Sự xuất hiện của đạo Cao Đài mà nhiều người ở
Nam kỳ nghĩ đây là đạo mới, đạo may ra là cứu cánh, sự giải thoát cho con người
trong cảnh khốn cùng. Đạo Cao Đài ra đời và phát triển trong bối cảnh đó.
Năm 1926, đạo Cao Đài ra đời tại Tây Ninh đã có hơn 10 ngàn tín đồ. Nhưng
chỉ sau 4 năm, năm 1930 số tín đồ đã tăng lên gần nửa triệu. Mặc dù đạo Cao Đài
mới ra đời tồn tại ở một số địa phương và trong quá trình phát triển có những yếu tố
chính trị phức tạp, nhưng đạo Cao Đài có những thành tố của một tôn giáo: có hệ
thống giáo lý, luật lệ, lễ nghi, đội ngũ chức sắc, chức việc, tổ chức giáo hội, cơ sở
thờ tự ở các tỉnh Nam bộ và Trung bộ. Đạo mang tính chất quần chúng rộng rãi (hiện
có khoảng hơn 2 triệu tín đồ), mức độ tín ngưỡng sâu sắc.

16.4 Page 154

▲back to top


Năm 1926, đạo Cao Đài chính thức ra đời thì năm 1927 đã xây dựng được
cơ sở đầu tiên ở vùng Đất Đỏ (Long Đất) do chánh phối sư Nguyễn Ngọc Tương lúc
đó là viên chức làm việc cho chính quyền Pháp ở Xuyên Mộc đứng đầu. Từ đó, phát
triển ra Châu Thành, Long Thành, Biên Hòa và các huyện khác trên địa bàn Đồng
Nai (nay là Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai).
Khi mới ra đời, đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu não
Tòa thánh Tây Ninh. Nhưng đến năm 1945, đạo Cao Đài chia thành 12 hệ phái,
mỗi hệ phái đều có tổ chức giáo hội riêng. Trong thời kỳ Mỹ xâm lược miền Nam,
đạo Cao Đài tiếp tục phân hóa thành nhiều tổ chức hệ phái khác. Mỗi hệ phái có xu
hướng hành đạo và thái độ chính trị khác nhau. Có thể nói quá trình phát triển của
đạo Cao Đài là quá trình chia rẽ về tổ chức và phân hóa về thái độ chính trị. Trước
đây tuy một số chức sắc trong một số phái Cao Đài mang tư tưởng cơ hội, vọng
ngoại, bị các thế lực đế quốc, phản động mua chuộc lôi kéo, bôi nhọ thanh danh của
đạo, đi ngược lại sự nghiệp của toàn dân, nhưng đa số quần chúng tín đồ và một số
chức sắc đạo Cao Đài nhất là các phái Cao Đài Ban chỉnh đạo, Cao Đài Tiên thiên...
có những đóng góp xứng đáng cho dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Sau giải phóng một số tín đồ trở về quê cũ hoặc đi nơi khác làm cho số tín
đồ ở Đồng Nai giảm. Đạo Cao Đài ở Đồng Nai hiện có 24 thánh thất, 7 điện thờ Phật
mẫu với 9652 tín đồ thuộc 4 hệ phái, trong đó phái Tây Ninh có đông tín đồ nhất.
Các phái Cao Đài được truyền vào Đồng Nai ở các thời điểm khác nhau và phát triển
cũng khác nhau trong từng thời kỳ.
b) Quá trình phát triển qua các thời kỳ của các phái Cao Đài ở Đồng
Nai:
+ Cao Đài Ban chỉnh đạo:
Phái Cao Đài Ban chỉnh đạo tách ra khỏi Tòa thánh Tây Ninh từ năm 1934,
đi theo giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, một viên chức có lòng yêu nước. Tuy là chức
sắc cao cấp của Cao Đài, nhưng bất bình trước một số chức sắc cao cấp ở Tòa thánh
Tây Ninh làm tay sai cho Pháp chống lại nhân dân, ông về Bến Tre lập hội thánh
Ban chỉnh đạo, ý là để chỉnh đốn lại đạo. Đạo Cao Đài ở Đồng Nai cũng do ông
truyền vào và xây dựng nên khi ông đứng ra thành lập phái Cao Đài Ban chỉnh đạo
thì khoảng một nửa tín đồ Cao Đài ở Đồng Nai này tách ra đi theo phái Cao Đài Ban
chỉnh đạo do ông là giáo tông.
Là một chi nhánh của Cao Đài Tây Ninh tách ra, nhưng phái Cao đài Ban
chỉnh đạo có những nét tiến bộ về mặt tôn giáo và đi với dân tộc về mặt chính trị.
Từ khi ra đời, đạo Cao Đài chủ yếu dựa vào "thánh ngôn, thánh giáo, thần quyền,
cơ bút", nhưng phái Ban chỉnh đạo ngay từ khi ra đời đã công khai tuyên bố không
sử dụng cơ bút làm phương tiện hành đạo và điều khiển Hội thánh. Phương thức

16.5 Page 155

▲back to top


hành đạo chủ yếu dựa theo nghị quyết dân chủ công khai. Điều đó không chỉ biểu
hiện ở sự nghiệp đạo đức của giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, mà còn thể hiện yếu
tố yêu nước, thương nòi, đi với dân tộc của phái Ban chỉnh đạo.
Lập trường tiến bộ và cởi mở của giáo tông thể hiện qua việc thu nhận và
phong chức cao cấp trong đạo cho những người tham gia cách mạng và cả một số
trường hợp có án tù chính trị chống Pháp để có điều kiện tập hợp quần chúng tín đồ
đấu tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của đế quốc, thực dân và bọn phản động
tay sai. Ngược lại, ông ra lệnh bãi miễn các chức sắc theo Pháp, theo Nhật chống lại
nhân dân. Lập trường yêu nước, đi với dân tộc của giáo tông thể hiện cao đẹp nhất
trong việc ông đã cho hai người con trai của mình theo kháng chiến, một là phó tư
lệnh chiến khu 9 và một là ủy viên Ủy ban kháng chiến Nam bộ. Đồng thời giáo tông
cũng tán thành chủ trương lập Cao Đài cứu quốc Trung ương mà Nguyễn Ngọc Nhật
con trai ông làm phó chủ tịch để cùng với toàn dân kháng chiến cứu nước. Lập trường
yêu nước, đi với dân tộc của phái Ban chỉnh đạo đứng đầu là giáo tông Nguyễn Ngọc
Tương còn được khẳng định rõ bằng chủ trương tẩy chay việc thành lập quân đội
Cao Đài năm 1945, thực chất là quân đội tay sai của phát xít Nhật.
Thái độ yêu nước về mặt chính trị và tiến bộ về mặt tôn giáo của phái Cao
Đài Ban chỉnh đạo đã góp phần không nhỏ làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo
của đế quốc, thực dân, gạt bỏ các phần tử tay sai muốn lũng đoạn các phái Cao Đài
tiến bộ.
Trong thời kỳ 1954 - 1975, do sự đàn áp, khủng bố của Mỹ - ngụy một số
chức sắc, chức việc Cao Đài Ban chỉnh đạo chạy về Sài Gòn lập Cao Đài Ban chỉnh
đạo Đô thành, số còn ở lại trở thành Cao Đài Ban chỉnh đạo Bến Tre. Nhưng ở Đồng
Nai các họ đạo và đa số tín đồ dù ở đô thị hay nông thôn đều thuộc về Cao Đài Ban
chỉnh đạo Đô thành. Trong thời kỳ này, mặc dù Mỹ - ngụy tìm mọi cách lôi kéo,
thao túng các hệ phái, một số chức sắc Cao Đài Ban chỉnh đạo ngả theo Mỹ - ngụy,
nhưng đa số chức sắc, tín đồ Cao Đài Ban chỉnh đạo tiếp tục đóng góp sức người,
sức của cho cách mạng.
Trên địa bàn Đồng Nai (bao gồm cả tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay) chỉ
có 10 họ đạo với 5670 tín đồ, đã có 251 người tham gia kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cứu nước, có 192 người đã anh dũng hy sinh được công nhận là liệt sĩ.
Phái Cao Đài Ban chỉnh đạo ở Đồng Nai rất tự hào về việc các tín đồ phái mình tham
gia kháng chiến, trong đó có đại tá Nguyễn Thanh Hồng.
Từ tấm lòng yêu nước, gắn bó với dân tộc của giáo tông Nguyễn Ngọc
Tương, đến sự ra đời của tổ chức Cao Đài cứu nước, phái Cao Đài Ban chỉnh đạo đã
làm trong sáng đường lối hành đạo của giáo tông vào thực tiễn của đất nước ta. Ngày
8 - 12 - 1954, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trao tặng huân chương

16.6 Page 156

▲back to top


Kháng chiến hạng nhất cho gia đình giáo tông Nguyễn Ngọc Tương và huân chương
Kháng chiến hạng hai cho hội thánh Cao Đài Ban chỉnh đạo.
Phát huy truyền thống yêu nước, đi với dân tộc, từ sau ngày giải phóng đến
nay, phái Cao Đài Ban chỉnh đạo ở Đồng Nai không những tích cực tham gia cùng
toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn góp phần quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống bọn phản động và các phần tử xấu trong các phái Cao Đài để bảo vệ và
đưa các phái Cao Đài trở về với dân tộc.
+ Cao Đài Tây Ninh:
Mặc dù người đầu tiên tổ chức truyền giáo và xây dựng cơ sở đạo Cao Đài ở
Đồng Nai là chánh phối sư Nguyễn Ngọc Tương, một chức sắc cao cấp có tinh thần
yêu nước, sau tách ra lập Cao Đài Ban chỉnh đạo, nhưng Tòa thánh Tây Ninh vẫn
phái chức sắc của mình về Đồng Nai nắm tín đồ, xây dựng tổ chức Cao Đài Tây
Ninh ở đây. Trên địa bàn Đồng Nai phái Tây Ninh chỉ có 10 thánh thất với 7861 tín
đồ. Tòa thánh Tây Ninh đã xây dựng một hệ thống tổ chức gồm 1 khâm trấn (bao
gồm Đồng Nai và Bình Thuận) 3 châu đạo, 8 tộc đạo, 32 họ đạo và 41 hương đạo
với 379 chức sắc, chức việc.
Cao Đài Tây Ninh là một phái lớn, liên tục có sự phân hóa mạnh mẽ về
khuynh hướng. Trong khi đa số tín đồ và một số chức sắc có tinh thần yêu nước tham
gia các phong trào chống Pháp thì một số chức sắc thống lĩnh tối cao tại tòa thánh
Tây Ninh lại hợp tác với Pháp. Khi Nhật đổ quân vào miền Nam, họ lại ngả về phía
phát xít Nhật, dựa vào quân đội Nhật để phát triển tín đồ và mở rộng địa bàn hoạt
động. Bốn năm sau (1945) Nhật đầu hàng Đồng minh, Cách mạng tháng Tám bùng
nổ. Với khí thế sôi sục, mọi người Việt Nam yêu nước đều hăng hái đứng lên giành
chính quyền. Lúc bấy giờ đông đảo tín đồ cùng với một số chức sắc cùng nhân dân
giành chính quyền ở các địa phương, tham gia Mặt trận Việt Minh.
Pháp dựa vào quân đội Anh trở lại xâm lược nước ta, nhân dân Nam bộ đứng
lên ngăn cản bước tiến của quân Pháp, tiếng súng Nam bộ kháng chiến nổ ra ở khắp
nơi. Nhiều tín đồ Cao Đài đứng trong hàng ngũ Việt Minh cầm súng, cầm giáo mác
kháng chiến chống Pháp. Những người cầm đầu Cao Đài Tây Ninh rất hoang mang
dao động, bề ngoài tỏ ra hợp tác với Mặt trận Việt Minh, nhưng thật sự bên trong họ
vẫn giữ nguyên quân đội Cao Đài và bí mật hợp tác với Pháp. Năm 1946, Phạm
Công Tắc được Pháp đưa về tòa thánh Tây Ninh thì quân đội Cao Đài được Pháp
trang bị vũ khí và nuôi dưỡng, đã công khai dựa vào Pháp đánh phá ác liệt vùng tự
do. Ở Đồng Nai, phái Cao Đài Tây Ninh triển khai đóng đồn bốt, càn quét gom dân
lập các châu đạo và các "khu chu vi quốc gia" do họ kiểm soát ở Tân Vạn, Bửu Hòa,
Bến Gỗ.

16.7 Page 157

▲back to top


Mỹ thay chân Pháp xâm lược miền Nam, những người cầm đầu Cao Đài Tây
Ninh lại lèo lái Cao Đài Tây Ninh theo con đường làm hậu thuẫn chính trị cho Mỹ
và chính quyền tay sai tiếp tục chống lại nhân dân.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đáng lẽ họ phải thức thời trở về
với nhân dân, trở về con đường tu hành chân chính. Nhưng một số chức sắc và sĩ
quan quân đội Cao Đài cũ vẫn nuôi mộng dựa vào đế quốc và bọn phản động ở nước
ngoài tiếp tục chống phá cách mạng. Chúng gieo rắc tư tưởng phản động, đẩy mạnh
chiến tranh tâm lý gây hoang mang trong quần chúng tín đồ và ngầm lập ra các tổ
chức phản động, xây dựng lực lượng vũ trang hòng chờ thời cơ phối hợp với đế quốc
và bọn phản động ở nước ngoài gây bạo loạn phản cách mạng, lật đổ chế độ.
Để ngăn chặn hành vi phạm pháp của bọn phản động và các phần tử xấu
trong phái Cao Đài Tây Ninh, đồng thời để giúp những tín đồ tu hành chân chính
thoát ra khỏi sự khống chế kìm kẹp của chúng, chính quyền Tây Ninh và các tỉnh có
tín đồ Cao Đài Tây Ninh đưa ra công khai những hoạt động nguy hại đến an ninh
quốc gia, phá hoại đạo của bọn chúng trước ánh sáng của luật pháp và dư luận của
chức sắc, tín đồ. Đa số quần chúng tín đồ nhận rõ những hành vi phạm tội của một
số chức sắc và sĩ quan quân đội Cao Đài cũ, đứng lên đấu tranh giành lại quyền kiểm
soát hội thánh Cao Đài Tây Ninh, đưa đạo đi vào con đường trở về với dân tộc.
Đến nay, chức sắc và tín đồ Cao Đài Tây Ninh đã tổ chức được Đại hội đại
biểu thông qua hiến chương và điều lệ cầu phong, cầu thăng theo luật công cử. Đại
hội đã công cử được các chức sắc và chức vụ của cơ quan thường trực hội thánh Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh. Tổ chức giáo hội đã được chính quyền công
nhận tư cách pháp nhân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đây mở ra trang sử mới của phái Cao Đài Tây Ninh để
cho quần chúng tín đồ yên tâm "phụng đạo, yêu nước", làm cho "nước vinh đạo
sáng".
+ Cao Đài Trung Việt Truyền giáo:
Sau những năm 1930, một số trí thức, sinh viên, học sinh các tỉnh miền Trung
vào Sài Gòn làm ăn sinh sống và học tập đã tiếp nhận đạo Cao Đài và phát triển
thành Cao Đài Trung Việt Truyền giáo (nay đổi thành Truyền giáo Cao Đài). Tòa
thánh trung tâm đặt tại Đà Nẵng, tín đồ tập trung chủ yếu ở Quảng Nam, Đà Nẵng
và các tỉnh miền Trung, các tỉnh Đông Nam bộ tín đồ Truyền giáo Cao Đài ít. Tại
Đồng Nai chỉ có thánh thất và tổ chức hội thánh ở Suối Nghệ, Châu Thành (nay là
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Có gần 100 tín đồ nằm rải rác ở các huyện Xuân Lộc, Long
Khánh, Long Thành trực thuộc ban trị sự hội thánh Suối Nghệ.
Từ năm 1975 đến nay, tín đồ Truyền giáo Cao Đài từ các tỉnh miền Trung
vào Đồng Nai làm ăn sinh sống, tự hình thành các xã đạo: Xuân Thọ, Xuân Trường
(Xuân Lộc), Cẩm Mỹ (Long Khánh), La Ngà (Định Quán), Dầu Giây (Thống Nhất),

16.8 Page 158

▲back to top


Bình Sơn (Long Thành), Cây Gáo (Vĩnh Cửu) và phát triển được một số tín đồ ở
Đồng Nai lên 526 người.
Tháng 7 năm 1996, Truyền giáo Cao Đài tổ chức hội nhân sinh thông qua
đạo qui và tổ chức nhân sự hội thánh. Hội thánh Truyền giáo Cao Đài đã được Ban
Tôn giáo Chính phủ công nhận tư cách pháp nhân hoạt động theo chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
+ Cao Đài Tiên thiên:
Năm 1934, một số chức sắc về Mỹ Tho lập “Cao Đài Thiên thai tịnh” sau
dời về Bến Tre đổi là Cao Đài Tiên thiên. Trong thời kỳ chống Pháp phái Cao Đài
Tiên thiên tham gia tổ chức “Cao Đài cứu quốc 12 phái hợp nhất" để động viên chức
sắc, tín đồ tham gia kháng chiến. Năm 1955, Cao Đài Tiên thiên phối hợp với các
lực lượng yêu nước trong các phái khác đấu tranh chống Mỹ - Diệm, đòi thi hành
hiệp định Genève, chống khủng bố đạo Cao Đài....
Tòa thánh trung tâm của Cao Đài Tiên thiên ở Bến Tre, tín đồ tập trung chủ
yếu ở Bến Tre, Long An, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 1975, ở
Đồng Nai chỉ có vài chục tín đồ ở huyện Tân Phú. Sau năm 1975, tín đồ Cao Đài
Tiên thiên ở Bến Tre, Long An, và Thành phố Hồ Chí Minh về Đồng Nai làm ăn
sinh sống ở các vùng kinh tế mới, các lâm trường huyện Tân Phú, hình thành các
cụm dân cư, tín đồ Cao Đài Tiên thiên ở Đồng Nai lên gần 400 người. Năm 1993,
xây dựng thánh tịnh ở xã Phú Bình (Tân Phú) và thành lập họ đạo của liên xã trong
huyện, bầu ban cai quản ban trị sự để cai quản thánh tịnh, hướng dẫn tín đồ tu
học hành đạo và làm phước thiện.
Tháng 2 - 1995, Cao Đài Tiên thiên tổ chức hội Vạn Ninh thông qua hiến
chương và suy cử chức sắc vào cơ quan thượng hội và ban thường trực hội thánh
Cao Đài Tiên thiên. Hội thánh Cao Đài Tiên thiên đã được Ban Tôn giáo Chính phủ
công nhận tư cách pháp nhân, nội dung và phạm vi hoạt động tôn giáo trong khuôn
khổ pháp luật Nhà nước.
II.2.5. Hồi giáo (Ixlam):
Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, một trong những khu vực phát
triển của Hồi giáo, tín đồ Hồi giáo chiếm 3/5 dân số khu vực. Nhưng ở Việt Nam
chỉ có người Chăm theo Hồi giáo với khoảng 50 ngàn tín đồ tập trung ở các khu vực
chủ yếu: Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Tây Ninh. Hồi giáo ở Việt Nam thường bị pha trộn với tín ngưỡng và phong tục, tập
quán ở địa phương và vay mượn từ các nguồn khác, không mang tính chính thống
như Hồi giáo ở vùng Trung Cận Đông.
Người Chăm với tôn giáo cổ là đạo Bà - la - môn, đã biết đến Hồi giáo từ thế
kỷ X, XI, nhưng chỉ sau biến cố lịch sử vào giữa thế kỷ XV với sự suy vong của nhà

16.9 Page 159

▲back to top


nước Chămpa, tín ngưỡng Hồi giáo của người Chăm mới được biểu hiện rõ. Các khu
vực Hồi giáo của người Chăm ở nước ta được hình thành với những lý do khác nhau:
- Khu vực Châu Đốc (An Giang) được hình thành do những biến cố chính
trị ở Campuchia, người Chăm Hồi giáo ở đây đã lánh nạn chạy về xin nhà Nguyễn
cư trú ở Châu Đốc.
- Khu vực Hồi giáo Tây Ninh được hình thành vào thế kỷ XVIII do sự chạy
trốn của hai thủ lĩnh người Chăm Hồi giáo tới cư ngụ.
- Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành trong thời Pháp thuộc
do họ nhập cư vào thành phố.
- Khu vực Đồng Nai được hình thành trong chiến lược giãn dân của chế độ
Sài Gòn.
Do vị trí địa lý, hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và mức độ giao lưu với
bên ngoài, nhất là với thế giới Hồi giáo đã hình thành hai khối người Chăm Hồi giáo
ở Việt Nam.
- Khối người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Hồi giáo không chính
thống gọi là Chăm Bà Ni.
- Khối người Chăm ở Châu Đốc, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng
Nai là khối Hồi giáo chính thống gọi là Chăm Ixlam. Giữa hai khối này có sự khác
biệt đáng kể.
Hồi giáo Ninh Thuận (Chăm Bà Ni) chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục tập
quán, tín ngưỡng truyền thống, nhất là pha trộn với những yếu tố của đạo Bà - la -
môn và chế độ mẫu hệ như: đặt Mahomet ngang hàng với các tiên nữ, coi Mếc - ca
là thiên đàng của nữ thần... Giáo luật Hồi giáo có nhiều thay đổi và thực hiện không
đầy đủ. Phụ nữ có quyền đi hỏi và cưới chồng, người chồng phải ở rể và phụ thuộc
vào vợ và bố mẹ vợ.
Hồi giáo ở Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Châu Đốc (Chăm
Ixlam) sinh hoạt tôn giáo chính thống và sôi động hơn. Các luật lệ, lễ nghi Hồi giáo
được tuân thủ đầy đủ hơn. Đặc biệt Hồi giáo ở đây có mối quan hệ với thế giới Hồi
giáo bên ngoài nhiều hơn, chặt chẽ hơn. Chính điều này là nhân tố quan trọng làm
cho Hồi giáo ở đây ít biến dạng hơn. Trong khối người Chăm Ixlam ở đây còn phải
kể đến vai trò và ảnh hưởng của người Ma - lay - xi - a là cội nguồn du nhập và nuôi
dưỡng Hồi giáo người Chăm. Trước kia vai trò và ảnh hưởng của người Ma - lay -
xi - a không đều, đậm nhất là vùng Châu Đốc, còn ở Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí
Minh, Tây Ninh thì nhạt hơn. Nhưng những năm gần đây người Ma - lay - xi - a vào
đầu tư ở vùng trọng điểm kinh tế phía Nam thì mối quan hệ với Ma - lay - xi - a được
mở rộng hơn. Từ đó mối quan hệ với thế giới Hồi giáo bên ngoài cũng nhiều hơn.

16.10 Page 160

▲back to top


Về phương diện tổ chức giáo hội, giáo hội Hồi giáo thường tổ chức theo từng
quốc gia, chịu ảnh hưởng tập tục, truyền thống lịch sử và thể chế chính trị ở nước
đó. Ở Việt Nam thời Pháp thuộc tổ chức giáo hội Hồi giáo do giáo cả người Ma -
lay - xi a - đứng đầu. Vào những năm 1955 đến 1960 lập ra tổ chức "Hiệp hội Chăm
Hồi giáo Việt Nam", các khu vực người Chăm Ixlam đều có các chi hội và ban đại
diện. Việc lập "Hiệp hội Chăm Hồi giáo Việt Nam" làm nảy sinh mâu thuẫn nội bộ
nên năm 1966 thống nhất thành lập một tổ chức mới lấy tên là "Hội đồng giáo cả
Hồi giáo Việt Nam" và tồn tại đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Sau giải phóng, "Hội đồng giáo cả Hồi giáo Việt Nam" không còn nữa, chỉ
còn tổ chức Hội đồng Giáo cả của từng thánh đường hoạt động độc lập, chỉ có quan
hệ giữa các tín đồ của các thánh đường với nhau về mặt tình cảm của những người
đồng đạo mà thôi. Ở Đồng Nai có 2 thánh đường, 1 ở Xuân Hưng (Xuân Lộc) và 1
thánh đường ở Bình Sơn (Long Thành) với 1079 tín đồ.
ẢNH 1
1- Sắc thần (Đình Tân Lân, Biên Hòa)
ẢNH 2
2- Bàn thờ Cụ Hồ.
ẢNH 3
3- Bày trí gian chính ở nhà xưa.
ẢNH 4
4- Liễn đối ở đình Bình Kính.
ẢNH 5
5- Linh vị bà Nguyễn Thị Tồn (xã Bửu Hòa, Biên Hòa).
ẢNH 6
6- Linh vị Minh vật nhất tri (chùa Kim Long, Vĩnh Cửu).

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


ẢNH
Đọc văn tế (Đền Hùng Vương, Biên Hòa)
ẢNH
Lễ sinh và đào thài (hiến tế, cúng đình).
ẢNH
Lễ hội nghinh Cô (bãi biển Long Hải)
ẢNH
Ban nhạc lễ cúng đình.
ẢNH
Địa Nàng – Bóng rỗi
(1- dâng mâm vàng, 2- múa bông, 3- xoay đĩa, 4- rót rượu, 5- nâng ghế, 6-
nâng ly và 7- địa nàng).
ẢNH
Cơ sở tín ngưỡng – tôn giáo
(1- Đình Phú Mỹ, 2- Chùa Hộ Quốc, 3- Nhà thờ Phú Hội).
Thể dục - thể thao là một trong những nhu cầu thiết yếu gắn với
đời sống xã hội và quá trình hình thành, phát triển xứ Đồng Nai. “Vốn
liếng” ban đầu của sự nghiệp này vẫn là nguồn tài sản, kinh nghiệm trong
hành trang của ông bà ta mang theo từ thuở khẩn hoang; đến vùng đất
mới có sự cải biến cho phù hợp với điều kiện của địa phương, chọn lựa bổ
sung để thích ứng với các quan hệ giao lưu văn hóa trên nền tảng phát
huy các nhân tố cội nguồn; dần dần phát triển từ kinh nghiệm dân gian

17.2 Page 162

▲back to top


đến kỹ thuật hiện đại; mở rộng nhiều bộ môn, hình thành các tổ chức trong
phong trào quần chúng và lực lượng chuyên môn; đạt nhiều kết quả về
phong trào cũng như về thành tích nâng cao.
I. Kinh nghiệm dân gian và trò chơi rèn luyện sc khe:
1. Quan nim dân gian vsc khe:
Đến với “xứ sở lạ lùng, cọp um sấu lội”, lớp người đầu tiên đi khẩn
hoang ở Đồng Nai ắt phải can đảm và khỏe mạnh. Sự rèn luyện sức khỏe và lòng
can đảm xuất phát từ nhu cầu sinh tồn, nhu cầu sản xuất trước khi trở thành hoạt
động mang tính chuyên môn để vui chơi, giải trí.
Theo quan niệm dân gian, sức khỏe, lòng can đảm là tiêu chí của cái
hay, cái đẹp trong sinh hoạt xã hội. Sức khỏe trong môi trường sản xuất nông nghiệp
biểu hiện ở nhiều mặt: Sức mạnh của cơ bắp (như khiêng vác nặng), sự chịu đựng
dẻo dại (lặn sâu, gánh đường dài, cày thông tầm), can đảm trước tình huống nguy
hiểm (chống thú dữ, đương đầu với thế lực mạnh hơn), sức ăn hơn người (ăn nhiều,
ăn nhanh), thao tác lao động khéo léo (leo cau, leo dừa, đi cà kheo)... Những người
có một hoặc nhiều thành tích như vậy thường được xã hội xem trọng, chiếm nhiều
ưu thế trong tuyển chọn lao động, hôn nhân; và thường là nhân vật quan trọng trong
các cuộc sinh hoạt cộng đồng như Tết, lễ hội, họp mặt gia đình, họ hàng... Tài nghệ
độc đáo thường được khích lệ biểu diễn trước đám đông nhân dịp họp mặt nào đó.
Miếng xôi giữa đình hay tràng vỗ tay nhiệt thành là phần thưởng sang trọng đủ làm
cho người biểu diễn tràn đầy tự hào và dốc tâm rèn luyện để nâng cao tài nghệ. Do
vậy, ý thức rèn luyện sức khỏe tự nhiên được động viên, khơi gợi; người lao động tự
đúc rút kinh nghiệm và tìm cách rèn luyện cho mình những kỹ xão đặc biệt để mong
có cơ hội trình nghề. Sự rèn luyện thực hiện tự phát ngay trong quá trình lao động;
sân tập là đồng ruộng, vườn nhà, sông nước hay bất cứ môi trường lao động nào
khác.
Từ lao động sản xuất, dần dần hình thành lực lượng có nghề và các trò
chơi trình nghề như: Xích đu, thi lặn, bắt vịt, leo cau, leo dừa, đi cà kheo...
I. 2. Trò chơi rèn luyện sức khỏe:
Tài liệu thư tịch viết về các trò chơi dân gian không nhiều. Ký ức của dân
gian chỉ còn lưu lại những hình ảnh và cảm xúc mơ hồ của mình về những trò chơi
yêu thích. Nhưng, mốc thời gian và nghệ nhân tiêu biểu thường không được nhớ rõ.
Tư liệu điền dã sau đây chỉ cho phép được nêu một cách không đầy đủ về một số trò
chơi và cách chơi đã từng phổ biến trên địa bàn Đồng Nai.

17.3 Page 163

▲back to top


* Đánh đu:
Dân gian còn gọi là xích đu, là trò chơi phổ biến khắp vùng Đồng Nai
- Gia Định xưa, nhất là ở các thị tứ đông dân, trong dịp lễ Tết nguyên đán; được
Trịnh Hoài Đức chú ý, ghi chép kỹ trong Gia Định Thành thông chí (39[1]); cho là
khác với thể thức đánh đu ở Trung Quốc. Trụ của đu làm bằng cột tre già, bên trái
và phải đều trồng 3 cây một chỗ theo vòng tròn, ở giữa treo giá đu đưa qua lại; hai
bên và trước sau chia thành 4 trụ tre cách rộng ra, đầu tre buộc túm lại thật chặt, một
cây gỗ tròn gác ngang ở giữa, 2 ròng rọc được xâu tiếp liền với 2 cán tre dài gần đến
đất (ước chừng vừa để người leo lên); đầu dưới 2 cán tre gác ngang một miếng ván
làm chỗ đứng. Người chơi đu leo đứng lên miếng ván, hai tay vịn 2 cán tre hai bên,
uốn mình nhún xuống đứng lên để đu đưa qua lại. Người gan dạ và khỏe mạnh đu
nhanh, mạnh, có thể đánh cao đến hết đà đu. Có khi treo thưởng bằng vật gì đó ở
điểm cao; ai đánh đu đến điểm cao ấy, nhanh tay chộp lấy phần thưởng. Phần thưởng
ít giá trị nhưng niềm vui lớn vì được khẳng định là tay đu giỏi. Hai ba người có thể
cùng đu một lượt; nhưng xưa, trai gái không đu chung.
Có kiểu đánh đu khác gọi là vân xa thu thiên, còn gọi: Đu tiên. Hai trụ
gỗ trồng hai bên, một cái trục bằng gỗ xoay động được gác ngang, khoét lỗ bánh xe
bằng ván luồn vô trục như bánh xe guồng nước. Ngoài vành bánh xe có 8 ròng rọc
bằng ván để làm chỗ ngồi; 8 phụ nữ trang sức đẹp đẽ, y phục lộng lẫy lên ngồi ở 8
miếng ván ấy; đầu tiên nhờ người đẩy bánh xe quay tròn, tiếp theo mỗi người ngồi
trên bánh xe khi lượt mình đến ngang mặt đất lấy chân đạp để có đà quay tiếp; đà
quay càng nhanh càng vui, y phục phất phơ trông như tiên nữ bay múa du xuân, rất
đẹp mắt. Trò chơi này hợp với nhiều người, được số đông yêu thích, thường được tổ
chức từ đầu Tết Nguyên đán cho đến rằm tháng giêng.
Một trò đu khác gọi là đu rút; gồm 2 cây trụ tre hoặc gỗ trồng cứng,
trên gác ngang một cây tròn, một sợi dây dẻo chắc vắt qua cây tròn ấy, một đầu dây
buộc một cây ngắn, đầu kia thả thòng xuống. Người chơi đứng trên đoạn cây ngắn,
nắm mối dây rút mạnh, nâng mình lên cao dần, rồi thả cho rơi xuống; cứ lên lên,
xuống xuống, nhanh - chậm, cao - thấp tùy theo sức kéo thả. Đu rút hợp với những
người khỏe cơ bắp. Có nhiều cuộc thi giữa người này với người khác, người làng
này với người làng khác; ai rút cao hơn, nhanh hơn, nhiều lượt hơn sẽ giành phần
thắng.
Đu dàng xoay (xay) ít phổ biến hơn nhưng cũng là trò chơi vui thú thời
xưa. Một trụ ngắn bề cao khoảng đến rún, đầu trên chuốt nhọn như búp măng, dùng
một thanh cây dài khoảng 2 sãi tay, đường kính hơn một nắm tay, giữa khoét lỗ vừa
khít ráp vào đầu trụ tạo cân bằng hai bên; hai trai tráng ngồi hai đầu cân nhau, dùng
(39[1]) Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, sđd, quyển IV, tr.5.

17.4 Page 164

▲back to top


chân nảy lên, dùng lực đè xuống (như trò bập bênh) hoặc đạp chân cho xoay vòng,
cốt để đối phương nghiêng ngửa; nhiều khi để tìm cách đoạt giải thưởng được đặt
trong lỗ đào sẵn dưới đất. Trò chơi dễ gây té ngã, rất nguy hiểm nên không được
khuyến khích.
* Thi lặn, lội:
Xứ Đồng Nai - Gia Định nhiều sông rạch, cù lao, bãi cát nên “trong 10 người
đã có 9 người giỏi nghề lội, bơi, chèo thuyền” (40[2]). Từ việc giỏi nghề dẫn đến
các cuộc thi tài. Cư dân miệt sông nước thuộc Phước Khánh, Phước An, Phước Thọ
(huyện Nhơn Trạch), Phước Thái, Bến Gỗ (huyện Long Thành) giỏi nghề đóng đăng,
đóng đáy nên nhiều người lặn giỏi và thường có các cuộc thi lặn trong lúc rảnh rỗi
hoặc trong các dịp lễ Tết. Có các kiểu thi: Lặn dài, lặn sâu, lặn lâu. Lặn dài lấy độ
dài một khúc sông nào đó, ai lặn dài hơn sẽ thắng cuộc. Lặn lâu tính bằng thời gian.
Có thể những người dự thi cùng ngụp xuống nước, ai ngoi lên trước là thua cuộc;
cũng có thể lần lượt từng người lặn, mỗi người ứng với một cây nhang đốt cháy, cây
nhang nào cháy nhiều hơn người đó sẽ thắng cuộc. Khó nhất là thi lặn sâu. Mỗi
người bám một cây sào dài, tụt xuống tận đáy sông nắm lên một nắm bùn (để chứng
tỏ là lặn đến đáy); đo lại ngấn nước và độ dài của cây sào, biết ai là người lặn sâu
hơn. Dân đóng đăng quen lặn sâu, có khả năng lặn đến 25 mét nước, trường hợp lặn
sâu ngang nhau, thước đo lại tính bằng thời gian xem ai lặn lâu hơn. Rất nhiều huyền
thoại về các tay lặn ngày xưa, có người lặn bằng thời gian nấu sôi một ấm nước;
nhiều người chịu áp lực nước đến chảy máu tai sau đó giảm sức nghe; trong kháng
chiến có người lặn giỏi trở thành đặc công thủy lập nhiều chiến công kỳ diệu; có
người nhờ lặn giỏi mà thoát vây ngay cả khi giặc phát hiện truy đuổi bằng thuyền
máy và đánh bằng lựu đạn. Nhiều người chỉ cần uống một ngụm nước mắm nhĩ có
thể sống dưới nước cả ngày mà không mệt, không lạnh.
Thi lội (bơi) đơn giản hơn thi lặn, thường là lội tự do, dân gian gọi là
lội rừng; cũng có thi lội nhanh, lội xa; lội vượt sông hoặc lội xuôi dòng; lội tay không
hoặc lội có vật nổi bằng thân cây chuối hột hoặc hai trái dừa đóng cây. Những dịp
cúng đình có tống phong bằng thuyền bẹ chuối trên có đồ ăn thức uống, trẻ mục
đồng thường lấy đó làm cuộc thi, ai lội giỏi hơn, bắt được bè trước nhất sẽ nhận phần
thưởng bằng thức ngon nhất trong bè.
Các cuộc thi lặn, lội thường tự phát, không có luật lệ chặt chẽ, tính tổ
chức không cao, thường là do ngẫu hứng trong sinh hoạt, vui chơi; nhưng rất hào
hứng và sôi nổi trong đối tượng thanh niên vùng sông nước.
*Bắt vịt:
Bắt vịt cũng là trò chơi dân gian phổ biến ở cư dân vùng sông nước.
(40[2]) Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, sđd, quyển IV, tr.7.

17.5 Page 165

▲back to top


Những ngày Tết, hoặc cúng đình, cúng miễu; dân làng thường bày trò thả vịt để
nhiều người bắt. Một khúc sông êm nước hoặc một ao hồ nào đó được chọn làm “sân
chơi”. Từng đợt vịt (mỗi đợt khoảng 5 - 10 con) được thả ra sông, hồ, ao. Sau hiệu
lệnh bằng tiếng trống hoặc tiếng hô của chủ trò, các thanh niên nhảy ùm xuống nước,
ra tài bơi, lặn đuổi bắt vịt, chỉ được bắt bằng tay, không được dùng dụng cụ gì khác.
Vịt được thả là loại vịt cỏ, vịt bầu rất giỏi bơi lội, việc bắt được vịt không phải là
chuyện dễ. Có rất nhiều cách chơi, mỗi cuộc thi được công bố qui ước riêng. Có khi
vịt do các “mạnh thường quân” mua thả để các tay bơi đuổi bắt cho vui, lúc ấy, cuộc
bơi lặn bắt vịt tự do; ai bắt được con nào được quyền làm chủ con ấy. Có khi, hội
đình, hội làng xuất quĩ, đứng ra tổ chức cuộc thi; hoặc thi nhiều vòng chọn thứ hạng;
hoặc chia nhóm để tranh tài tập thể; có khi vịt được sơn màu, đeo dây trên cổ, mỗi
con vịt ấn định thứ hạng hoặc ý nghĩa riêng để người dự thi xác định mục tiêu đuổi
bắt; phần thưởng là vịt bắt được hoặc miếng thịt cúng đình; nhiều khi được dân làng
thưởng tiền hoặc hiện vật tùy tâm. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ở miễu
Cái Vạn (xã Long Thọ, huyên Nhơn Trạch) và Chùa Ông (xã An Hòa, huyện Long
Thành) còn tổ chức thi bơi lặn bắt vịt rất đông vui.
Trò chơi bơi lặn bắt vịt có tác dụng rèn luyện sức khỏe, nâng kỹ năng
bơi lặn và tạo niềm vui tinh thần cho người lao động vùng sông nước.
*Cà kheo:
Cà kheo là trò chơi dân gian xuất phát từ hình thức lao động “tránh
nước” của cư dân miệt biển. Cà kheo được làm bằng hai đoạn tre (hoặc gỗ), cao độ
ngang đầu người (cao thấp tùy khả năng và sở thích); trên mỗi đoạn tre (gỗ), đóng
một then ngang ở độ cao tùy chọn làm chỗ đặt chân; người giỏi thì chọn độ cao cao
hơn (có người đi được cà kheo cao 2 mét). Người đi cà kheo đặt chân vào then ngang,
tay vịn thanh cây còn lại, có thể đi nhanh, chạy, lùi, leo dốc, bịt mắt bắt dê, đá banh...
Người đi cà kheo giỏi có khả năng không cần tay vịn nên cây cà kheo chỉ gồm đoạn
có độ cao đến bàn chân. Trong trường hợp này, những ngày lễ hội có thể hóa trang
người đi cà kheo thành khổng lồ, cao lêu ngêu, rất vui mắt. Dân miệt Long Đất, Cần
Giờ (trước thuộc Trấn Biên) xưa có nhiều người đi cà kheo giỏi; gần đây lễ hội
nghênh ông ở Cần Giờ có biểu diễn cà kheo hóa trang; chuẩn bị lễ hội Biên Hòa -
Đồng Nai 300 năm, Nhà văn hóa huyện Long Khánh tập hợp được một đội cà kheo
khoảng 30 em, tháng 12 năm 1997 tổ chức sinh hoạt ở Khu văn hóa Bửu Long phục
hiện được phần nào kỹ thuật của cà kheo truyền thống.
Cà kheo là một trò chơi mang tính thể thao có tác dụng rèn luyện khéo
chân khéo tay, giữ thăng bằng trong vận động và mạnh dạn chinh phục độ cao. Trò
chơi này còn có khả năng phát triển, nâng cao ở Đồng Nai.
*Đua ghe:
Dân xứ Đồng Nai - Gia Định giỏi sông nước, giỏi chèo ghe nên có tục

17.6 Page 166

▲back to top


đua ghe từ lâu đời, nhưng không rõ có tự bao giờ. Người địa phương truyền khẩu:
Thời Minh Mạng ở xứ này đã có đua ghe. Theo Lương Văn Lựu (tác giả Biên Hòa
sử lược), ở Biên Hòa năm 1832 có cuộc đua ghe gồm 40 chiếc tham gia. Thời ấy,
ghe dài 40 thước ta, rộng 4 thước ta, bằng gỗ nhẹ, quét dầu rái; mỗi chiếc có gắn
biểu trưng của địa phương ở mũi ghe. Ông nội của ông Huỳnh Văn Nhỏ (Chín Nhỏ)
là Huỳnh Văn Cừu sống ở thế kỷ XIX là đội trưởng đội đua ghe kỳ cựu của xã An
Hòa (huyện Long Thành).
Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chiếm đóng Biên Hòa, tổ chức nhiều
cuộc đua ghe phục vụ cho mục đích cai trị mị dân; cư dân ven sông Đồng Nai cũng
nhân đó mà bộc lộ tài nghệ đua ghe và ý chí bất khuất. Theo hồi ký “Quê hương
rừng thẳm sông dài” (41[3]), trước năm 1930, tuổi thơ của Huỳnh Văn Nghệ được
chứng kiến một cuộc đua ghe do chính quyền Pháp thuộc tổ chức mà ông đã nhớ và
miêu tả tỉ mỉ “...Có 20 chiếc thuyền đại diện cho các tổng, xã ven sông tham dự cuộc
đua. Mỗi chiếc thuyền đua được sơn một màu khác nhau rất đẹp. Chiếc sơn màu
xanh là của xã Tân Trạch ở cù lao, có tiếng bơi giỏi từ trước tới nay. Thuyền trắng
hình con phượng là của cù lao Hiệp Hòa. Thuyền vàng hình con lân là của xã Tân
Ba. Thuyền trắng hình con cá là của xã Long Điền chuyên nghề chài lưới. Thuyền
sơn màu tam sắc là của thị xã Biên Hòa. Đội thuyền này cũng mặc ba màu áo: Ở
trước mũi mặc màu xanh, ở giữa màu trắng và phía sau lái các tay bơi mặc màu đỏ;
trông xa như một lá cờ Pháp đang nổi trên sông... Mấy con thuyền khác thì ít được
chú ý hơn. Con rồng đỏ cánh trắng của xã tôi (Tân Tịch) nằm giữa có vẻ hiên ngang
nhất...”. Cuộc đua ấy, ghe đua của Tân Tịch chiến thắng, không phải là chiến thắng
thể thao bình thường mà là chiến thắng của tinh thần dân tộc trước ghe đua mang cờ
Pháp trong cuộc đua theo ý người Pháp. Theo ông Phạm Văn Rầy, một vận động
viên có hơn 40 năm cầm đua ghe, thời Pháp thuộc, ngày 14 tháng 7 thường tổ chức
đua ghe, mỗi xã có một chiếc đại diện; thường là ghe đua của Ba Doi (nay thuộc xã
Phước An, huyện Nhơn Trạch) và Tân Đức (Thạnh Phước, nay thuộc Bình Dương)
thay nhau chiếm giải nhất nhì, trong đó ghe Ba Doi ưu thế hơn; đáng tiếc, trong cuộc
đua năm 1936, đội ghe Ba Doi chiếm giải nhất, khi về bị giông bão, toàn đội bị tai
nạn.
Ghe đua của xứ Đồng Nai khác kiểu ghe bơi đăm của xứ Bắc và ghe
ngo của người Khơme. Trước năm 1975, thường là đua ghe lườn, 24 tay chèo gồm
1 phách nhất chỉ huy, 1 phách nhì đánh phèng la hoặc đánh trống tạo nhịp, 1 tát
nước, 1 xà bát đứng lái, 5 cặp trung khoang, 5 cặp đốc hậu. Xưa kia, ở xã Hiệp Hòa
còn kiểu ghe mổ (nguyên cây được mổ rỗng ruột). Sau năm 1975 mới đóng ghe bằng
gỗ huỷnh, 14 tay chèo, được phân công như sau:
(41[3]) Huỳnh Văn Nghệ, Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ, Nxb. Đồng Nai, 1998, tr. 80 - 92.

17.7 Page 167

▲back to top


Một mũi (1 người).
Một cặp phách dẫn dầm (2 người).
Ba cặp dầm hàng (6 người).
Hai cặp đóm bơi mạnh (4 người).
Một xà bát bẻ lái (1 người).
Từ năm 1990, phong trào đua ghe trong dân gian được phục hồi, dần
trở thành môn thể thao chính thức do ngành TDTT hướng dẫn và quản lý, thường tổ
chức đua ghe trong tỉnh và khu vực vào ngày 30 tháng 4 và ngày 2 tháng 9 các năm;
riêng ở Đồng Nai, ngày mồng 4 Tết Âm lịch gần như là ngày đua ghe truyền thống.
Đơn vị có truyền thống đua ghe lâu đời, gần đây đạt nhiều thành tích cao là An Hòa,
Long Hưng (trước đây là An Hòa Hưng); thường đứng nhất, nhì các cuộc thi trong
tỉnh và khu vực; riêng xã An Hòa hiện có 4 đội ghe với 80 vận động viên, trong đó
có một đội nữ. Gần đây, xã Bình Hòa (huyện Vĩnh Cửu) cũng khôi phục được đội
đua ghe nam và nữ, chiếm được giải cao trong các cuộc thi.
Cuộc đua ghe khu vực đáng nhớ tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh
ngày 2 - 9 - 1993 có các đội ghe của Úc, Lào, Khơme cùng tham gia; trong đó đội
ghe của An Hòa Hưng (Đồng Nai) giành thắng lợi vẻ vang. Năm 1998 (?) Đồng Nai
đăng cai tổ chức giải đua thuyền toàn quốc trên sông Đồng Nai có 40 thuyền các
tỉnh về dự; kiểu ghe và cách thức tổ chức cuộc thi của Đồng Nai được lưu ý để xây
dựng qui cách phổ biến thống nhất trong ngành thể dục thể thao.
Đua ghe là một hình thức sinh hoạt thể thao truyền thống cổ truyền ở
Đồng Nai có tác dụng rèn thể lực và kỹ thuật bơi ghe và tinh thần đồng đội rất cao;
có khả năng hội nhập với phong trào đua ghe trong khu vực và cả nước; bởi vậy rất
cần được phát huy và phát triển.
* Thi ăn, ung:
Ăn nhiều, uống nhiều được xem là biểu hiện của sức khỏe tốt, lao động giỏi.
Người ở Đồng Nai - Gia Định xưa hay đánh cuộc với nhau đọ sức ăn uống. Trong
cùng một thời gian (hoặc không phân thời gian), ai ăn, uống nhanh, nhiều hơn sẽ
thắng cuộc, sẽ được tiếng tăm về sức khỏe. Món ăn, uống đem thi tài là những món
ăn thông thường, bất kể thức gì đang có, thường là những món khó ăn, uống được
nhiều. Dân Đồng Nai - Gia Định thích ăn mắm, nhưng mắm là loại khó ăn. Có người
một bữa ăn hết hai hũ mắm. Lại có người đánh cuộc uống trà Huế. Xưa có ông
Nguyễn Văn Thạnh dùng cái vò to, tự nấu trà, rót ra bát to, uống một hơi mấy bát,
mồ hôi ra như tắm, thắng cuộc (42[4]).
(42[4]) Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, sđd, quyển IV, tr.9.

17.8 Page 168

▲back to top


II. Võ thuật:
II.1. Võ cổ truyền:
*Võ cổ truyền trong dân gian:
Lưu dân tứ xứ đến Đồng Nai trong cảnh “sơn lam chướng khí”, đất rộng
người thưa; các cộng đồng đều có nhu cầu tự bảo vệ, ngăn ngừa sự tấn công của kẻ
mạnh hoặc phá hoại của thú dữ cho nên tự phát sử dụng võ thuật, hình thành tổ chức
tập luyện võ nghệ để tự vệ. Những người dẫn đầu các đoàn người đi khẩn hoang
thuở xưa thường là những người giỏi võ và tự tin vào khả năng của mình; đến vùng
đất mới, trước nhu cầu tự vệ, được dịp sử dụng và trao truyền ngón nghề cho người
thân thuộc, đồng thời tiếp tục suy ngẫm, tìm cách cải biến, nâng cao cho thích hợp.
Do vậy, các trường phái võ cổ truyền của xứ Bắc, xứ Trung theo bước chân người
đi khẩn hoang sớm có mặt và phát triển ở Đồng Nai - Gia Định. Tuy nhiên, việc tập
luyện và sử dụng võ nghệ trong đời sống xưa chủ yếu trao truyền bằng kinh nghiệm
và truyền khẩu cho nên người đời sau ít có tư liệu đầy đủ về sự nghiệp võ thuật của
cha ông. Qua truyện kể dân gian và một ít sử liệu có thể đoán định được rằng vũ lực
của ông bà ta xưa để trị thú dữ, chống ngoại xâm dựa vào võ thuật là chính. Những
bậc nhân kiệt hữu danh và khuyết danh có công với vùng đất Đồng Nai - Gia Định
đều là những người võ nghệ cao cường.
Trong đời sống bình thường, võ thuật được ông bà ta xưa dùng đến để
rèn luyện cho con người được mạnh khỏe, linh hoạt, tăng triển phẩm hạnh, tôi luyện
ý chí. Câu nói dân gian được truyền khẩu: “Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần. Thanh tâm,
quả dục, thủ chân, luyện hình” thực ra là bài học căn bản để luyện võ; gồm 7 phép
rèn luyện: Giữ tinh, luyện thở, dưỡng thần, tâm sáng, chí bền, tính lành, thân khỏe.
Cách rèn luyện như thế không rõ bắt đầu từ trường phái võ thuật nào nhưng tự lâu
đời đã trở thành kinh nghiệm dân gian giúp ông bà ta khẳng định được mình, vượt
mọi khó khăn.
Trong công cuộc khẩn hoang, lập làng; nhiều huyền thoại nhắc đến việc
đánh cọp, bắt sấu, diệt mãng xà của các bậc cao nhân. Truyện về cha con ông Bảy
Túc ở Mỹ Lộc (Tân Uyên, trước thuộc Biên Hòa) diệt mãng xà bằng cau rừng, độc
ngạnh có vẻ là hoang đường nhưng ắt là có cốt lõi thực tế được dân gian truyền khẩu
lâu đời, Huỳnh Văn Nghệ đã ghi chép lại (43[5]). Cọp là mối hiểm họa lớn nhất nên
truyện kể đánh, bắt cọp phong phú nhất. Dân gian có câu “Cọp Bàu Lòng, Võ Tòng
Tân Khánh” nhắc đến giai thoại diệt cọp của ông Ất và ông Giá, 2 võ sĩ lừng danh
của lò võ Tân Khánh (Tân Uyên, trước thuộc tỉnh Biên Hòa) nổi tiếng. Truyện kể
rằng, cọp Bàu Lòng rất dữ, tàn hại dân lành, nhiều võ sư đã chào thua. Ông Ất và
ông Giá là bạn thân nhau, cùng xuất thân từ làng võ Tân Khánh, cùng giỏi đường roi
(43[5]) Huỳnh Văn Nghệ, Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ, Nxb. Đồng Nai, 1998, tr. 291 - 298.

17.9 Page 169

▲back to top


trường; nghe tiếng cọp Bàu Lòng tìm đến để thử sức, cũng là để cứu dân. Trận đấu
diễn ra quyết liệt (44[6]), cuối cùng cọp Bàu Lòng bị giết; ông Ất, ông Giá làm rạng
danh Tân Khánh với thành tích như Võ Tòng. Truyện dân gian kể về “miếng cọp
vấu” nhằm giải thích một thế võ sáng tạo của “thầy (võ sư) Ba Ngộ” miệt Long An
từ việc nghiên cứu các thế vồ của cọp dữ, được lưu truyền khắp xứ miền Đông; điều
ấy phản ảnh quá trình tìm tòi, sáng tạo võ thuật ở vùng đất mới để ứng dụng ngay
trong cuộc sống. Truyện kể về “Sự tích chùa Hóc Ông Che” (chùa Hiển Lâm ở Xã
Hóa An, thành phố Biên Hòa) cho thấy hình ảnh của một nhà sư chuyên cần luyện
võ, giúp dân tổ chức lực lượng, làm bẫy để chống cọp dữ, cuối cùng nhà sư đã hy
sinh thân mình trong trận đánh diệt cọp để trừ hại cho dân làng. Truyện về “Ông Bò
bà Hứa” ở xã An Hòa (huyện Long Thành) kể rằng: Vùng đất nọ có cọp rất dữ, rất
thiêng, không ai dám đến. Có một người dẫn cô con gái đến khẩn hoang, dân làng
can ngăn không được. Người ấy khấn với Ông Cọp rằng, xin cho được khẩn hoang,
cuối năm, được mùa ông sẽ cúng con thịt sống, một con bò chẳng hạn. Cuối năm,
được mùa, y lời hứa, người cha đặt đứa con gái nằm ở bàn cúng khấn mời Ông Cọp
ra nhận lễ. Cọp hí hửng ra định vồ mồi bị cô con gái dùng thế võ bí truyền đá văng
ra; rồi hai cha con quần nhau với cọp dữ, cuối cùng hạ được “chúa sơn lâm”. Từ đó
vùng đất nọ mới yên, dân làng gọi tên là đất “Ông Bò bà Hứa”. Truyện thực hư
không rõ nhưng cốt truyện phản ảnh cuộc đấu trí, đấu sức giữa người và thú dữ trong
quá trình khai hoang; sức mạnh và trí khôn của con người đã chiến thắng. Trong
cuộc sống, việc rèn luyện thân thể, có chút ngón nghề phòng thân luôn là mong ước
tốt của trai tráng làng quê. Nhiều người rất khỏe và rất giỏi, được cộng đồng nể phục
và truyền tụng. Như ông Mai Văn Dé ở Bến Cộ (nay thuộc xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch) chẳng hạn; tướng ông to lớn, sức khỏe hơn người, chuyện ông đánh,
bắt được cọp, trói tréo chân ở gốc dừa cho bà con coi chơi... đến nay vẫn còn được
kể. Theo Lương Văn Lựu, vào những năm sáu mươi thế kỷ này, còn một người thuộc
hàng cháu chắt của Lê Văn Khôi ẩn danh ở địa bàn huyện Long Thành, tính hiền
lành, ít nói nhưng rất giỏi võ; một võ sư nghe danh tìm đến, bất thần từ phía sau
phóng đến một ngọn tầm vông; người ẩn danh ấy đưa hai ngón tay đẩy ra, không cần
quay lại nhìn khiến vị võ sư kia cúi đầu bái phục.
Chuyện về võ thuật đại loại như nêu trên không thể nào kể hết; qua đó
đã thấy võ thuật cổ truyền đã trở thành nếp sống trong sản xuất, khẩn hoang, được
ông bà xưa trân trọng, lưu truyền, rất ích dụng trong sinh hoạt thường ngày.
Trong công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ cương thổ; võ thuật được sử
dụng, phát huy tác dụng, đóng góp nhiều cho kháng chiến. Các nghĩa sĩ tham gia
nghĩa quân Trương Định chống Pháp thường là những người giỏi võ, sử dụng tốt
binh khí gươm, giáo, lao, nỏ để chống lại vũ khí tối tân. Các ông: Nguyễn Ngọc Hớn,
(44[6]) Theo Sơn Nam, Địa chí tnh Sông Bé, Nxb. tng hp Sông Bé, 1991, trang 358 - 359.

17.10 Page 170

▲back to top


Nguyễn Ngọc Sang (nghĩa quân Trương Định), Nguyễn Văn Huyên, Cả Trọng, Tư
Lâm (Thiên Địa hội Long Thành), Hương Hầu, Tư Hổ (Thiên Địa hội trại Lâm
Trung)... đều là những người võ nghệ cao cường, khiến giặc có súng trong tay cũng
phải khiếp sợ. Ngay cả lão nghĩa sĩ Đoàn Văn Cự, vốn là thầy thuốc, thầy giáo, tuổi
đã 70, nhưng cũng là một võ sĩ giỏi dùng đao ngắn, cùng học trò sử dụng võ thuật là
chính chống lại với súng đạn thực dân; trước khi bị trúng đạn hy sinh, một đường
đao thiện nghệ của ông cũng đã kịp chém xả vai một viên sĩ quan ngạo mạn. Thời
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, võ cổ truyền vẫn được vận dụng kết hợp với vũ
khí hiện đại để thắng địch. Những ngày đầu kháng chiến, vũ khí thô sơ, việc tập
được xem trọng; trại huấn luyện Vĩnh Cửu do Phan Đình Công phụ trách đã tổ chức
dạy võ cho học viên, nhiều người thuần thục, rất tác dụng trong chiến đấu.
Võ cổ truyền ở Đồng Nai mang đặc điểm chung của võ cổ truyền truyền
thống; vì mục đích vị nhân sinh, lấy đạo lý “Thành - Tín - Trí - Dũng” làm phương
châm rèn luyện, quyền cước thể hiện ở đòn chân, tay kết hợp các bộ phận cơ thể
khác như đầu, vai, hông, mông để tấn công và phòng thủ, binh khí sử dụng nhiều
loại, kể cả vật dụng sinh hoạt như sợi dây thừng, chiếc khăn lụa, cái đòn gánh... đều
phát huy hiệu lực; các tuyệt chiêu: Xỉa mũi bàn tay xuyên thân cây chuối, công phá
các mục tiêu trên thân người gọi là “Ngũ mã phanh thây” thường được biểu diễn
thuần thục; các bài tập căn bản: Ngọc trản quyền, Lão mai quyền, Siêu xung thiên...
phổ biến như ở nhiều nơi khác.
Chưa có tài liệu thống kê để biết có bao nhiêu môn phái võ cổ truyền
đã và hiện có ở Đồng Nai. Nếu chia võ cổ truyền thành 4 nhóm phái chính (45[7])
thì ở Đồng Nai có mặt các môn phái thuộc 3 nhóm:
Nhóm các võ phái Bình Định: Thiếu lâm Tây Sơn, Tây Sơn Bình Định, Võ
trận Bình Định...
Nhóm các võ phái Nam bộ: Tân Khánh - Bà Trà, Thất Sơn quyền, Âm Dương
võ phái...
Nhóm các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa: Thiếu Lâm, Côn Lôn, Bạch
Hạc...
Các môn phái võ thuật ở Đồng Nai vẫn giữ nguyên được đường nét
truyền thống nhưng trong thể hiện có sự dung hợp, thâm nhập lẫn nhau, thích ứng
với đời sống giao lưu văn hóa giữa nhiều cộng đồng cư dân.
*Sphát trin ca phong trào và Hi võ ctruyn:
Võ cổ truyền thâm nhập đời sống ở Đồng Nai chủ yếu truyền bằng kinh
(45[7]) Nguyn Võ Tn Quang, Bước đầu tìm hiu phong trào võ thut ctruyn tỉnh Đồng Nai từ năm 1994 -
1998, từ đó định hướng phát triển đến năm 2000, tài liệu đánh máy, tr.11.

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


nghiệm, mang tính tự phát; gia truyền; trao đổi bằng trí nhớ, ít trao truyền bí quyết,
ít có ghi chép tài liệu cho nên khó phát triển bài bản và nâng cao. Mãi đến thập niên
60 - 70 thế kỷ XX, với sự ra đời của Tổng cục quyền thuật Việt Nam và Tổng hội
võ học Việt Nam, ở địa bàn tỉnh Biên Hòa mới có các phòng tập, võ đường của các
võ sư:
Tây Sơn Xuân Bình Võ đạo (của võ sư Xuân Bình).
Võ đường Thủy Thanh (của võ sư Mã Thành Hoàng).
Võ đường Đông Sơn Hòa (của võ sư Châu Sà Mách).
Võ đường Bửu Long tam nhạn (của võ sư Hoàng Thiện Chí).
Võ đường Lam Sơn Võ thuật đạo (của võ sư Nguyễn Văn Du).
Những năm 80, có thêm một số võ đường nữa:
Võ đường Lưu Việt (của võ sư Trần Anh Tuấn).
Võ đường Bạch Long (của võ sư Mai Văn Nam).
Võ đường Trung Sơn Võ đạo (của võ sư Nguyễn Văn Thanh).
Võ đường Thiên Mục Sơn (của võ sư Lê Văn Ngói).
Võ đường Nam Tông Bạch Hạc (của võ sư Nguyễn Quốc Cường).
Võ đường Sa Long Cương (của võ sư Hà Văn Nam).
Trước năm 1991, tuy đã có nhiều võ đường, nhưng võ cổ truyền ở Đồng
Nai vẫn mang tính tự phát, chưa được tổ chức chặt chẽ và thiếu sự phối hợp cần
thiết; phần lớn võ sư, huấn luyện viên chưa được đào tạo chính qui nên trình độ
chuyên môn và phương pháp giảng dạy còn hạn chế. Ngay sau khi Liên đoàn võ cổ
truyền Việt Nam ra đời (ngày 21 tháng 8 năm 1991), Sở thể dục - thể thao Đồng Nai
ký quyết định thành lập Hội võ cổ truyền tỉnh Đồng Nai (ngày 26 tháng 8 năm 1991)
với mục đích: Đáp ứng nguyện vọng của đông đảo công chúng quan tâm đến võ cổ
truyền, trao đổi kinh nghiệm và áp dụng phương pháp tiên tiến để nâng cao, nhân
rộng phong trào võ cổ truyền đến cơ sở; đào tạo lực lượng võ sinh trẻ để đáp ứng
nhu cầu kế thừa và phát triển. Hội võ cổ truyền ra đời khơi dậy một luồng sinh khí
mới trong phong trào võ cổ truyền ở Đồng Nai. Với sự hoạt động tích cực của các
thành viên trong Hội, đặc biệt là sự đóng góp của các võ sư tiêu biểu như: Nguyễn
Văn Du, Trần Anh Tuấn, Lê Văn Ngói..., trong một thời gian ngắn, võ cổ truyền ở
Đồng Nai được tổ chức có hệ thống, tập luyện và thi đấu theo điều lệ rõ ràng, nhiều
lớp tập huấn về chuyên môn và phương pháp quản lý được tổ chức ở tỉnh và huyện,
lực lượng võ sư, huấn luyện viên và võ sinh được bổ sung; có hoạt động phong trào
hoạt động thành tích nâng cao cho đội tuyển; định kỳ mỗi năm 1 hoặc 2 kỳ tổ
chức thi Hồng đai các cấp; tổ chức được nhiều giải trong tỉnh và tham gia các giải

18.2 Page 172

▲back to top


khu vực; ngoài Biên Hòa, các huyện Long Thành, Thống Nhất đều có phong trào
mạnh ở cơ sở xã, phường; năm 1998, số người theo tập võ cổ truyền là 2.016 người,
tăng 518 người so với năm 1994; huấn luyện viên được đào tạo cơ bản năm 1998 có
134 người, tăng 61 người so với 4 năm trước, trong đó có 30 trọng tài cấp tỉnh và 3
trọng tài cấp quốc gia; trong các lần dự giải toàn quốc (1994 - 1998), đạt được 5 huy
chương bạc và 16 huy chương đồng, cao nhất là năm 1997 (4 bạc, 5 đồng).
Thành tích võ cổ truyền ở Đồng Nai vẫn còn mỏng do còn nhiều khó
khăn về nhân lực, kinh phí và cơ sở tập luyện. Tuy nhiên, tiềm năng phát triển của
võ cổ truyền ở Đồng Nai đang “mở cửa”, thể hiện ở lực lượng võ sinh và huấn luyện
viên đang tăng trưởng khắp ở các huyện và thành phố.
* Các môn phái chính:
Hồng Mi Đạo Nhơn: Có nguồn gốc từ Thiếu lâm Trung Hoa thuộc chi
phái Hồng Mi do Mã Thanh Khôn sáng lập tại Đài Loan. Người đưa võ học Thiếu
lâm Hồng Mi vào Việt Nam là Huỳnh Kim Hên (sinh năm 1910, mất năm 1976);
khởi đầu từ cuộc du học Đông y tại Đài Loan, được thọ giáo sư tổ Mã Thanh Khôn,
sau trở về Bạc Liêu truyền nghề võ và nghề thuốc cho môn đệ, năm 1940 chuyển về
Sài Gòn - Chợ Lớn tiếp tục sự nghiệp, lấy tên hiệu là Mã Thanh Long; đào tạo được
nhiều võ sĩ nổi danh khắp miền Nam như: Mã Thanh Lèo, Mã Thanh Ba, Mã Thanh
Xích, Mã Thanh Thân, Mã Thanh Hoàng, Mã Thanh Hiệp, Mã Thanh Đại, Mã Thanh
Tuấn... Khi Mã Thanh Long mất, người vợ tiếp bước chồng, sau vì lý do sức khỏe
đã giao quyền chưởng môn cho môn đệ là Mã Thanh Hoàng đang truyền bá võ thuật
Hồng Mi tại Biên Hòa.
Người đầu tiên truyền bá môn võ phái Hồng Mi Đạo Nhơn vào Biên
Hòa là Đinh Quốc Hưng (sinh năm 1942), danh hiệu Mã Thanh Hoàng, thọ học thầy
Mã Thanh Long từ năm 1952, mở lớp tại Biên Hòa từ năm 1968 (cũng năm này được
giao quyền chưởng môn), mới đầu ở Bình Trước (nay thuộc phường Trung Dũng),
năm sau chuyển ra Câu lạc bộ thanh niên (nay thuộc khu vực Sở giáo dục - đào tạo),
năm 1970 lại chuyển ra Trường mỹ nghệ Biên Hòa cho đến ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng. Nhiều huấn luyện viên và võ sĩ nổi danh từ võ đường của Mã Thanh
Hoàng, trong đó có người đã góp công trong quân đội giải phóng như: Mã Thanh
Phát, Mã Thanh Châu; có người anh dũng thành liệt sĩ như Mã Thanh Chính... Sau
năm 1975, Hồng Mi Đạo Nhơn tiếp tục được truyền dạy do ngành TDTT thành phố
Biên Hòa quản lý, trở thành thành viên của Hội võ cổ truyền tỉnh; phát triển thêm
nhiều phòng tập:
Phòng tập Mã Thanh Châu (phường Hòa Bình).
Phòng tập Mã Thanh Sơn (phường Trung Dũng).
Phòng tập Mã Thanh Tánh (phường Quang Vinh).

18.3 Page 173

▲back to top


Phòng tập Mã Thanh Nguyên (xã Long Hưng, huyện Long Thành).
Phòng tập Mã Thanh Hùng (phường Trung Dũng).
Phòng tập Mã Thanh Hiền (phường Hòa Bình).
Qua các giải và hội thi võ cổ truyền ở tỉnh và khu vực, môn phái Hồng
Mi Đạo Nhơn đã đạt được 33 huy chương vàng, 25 huy chương bạc và 20 huy
chương đồng.
Âm Dương Võ Đạo: Có nguồn gốc gia truyền từ miền Bắc do Nguyễn
Vụ khai môn. Nguyễn Vụ còn được gọi là Cả Vụ, sinh năm 1905 tại làng Ngọc
Đồng, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên; được một danh sư ở miệt Cao Bằng, Lạng
Sơn truyền cho môn võ lâm thượng thừa từ lúc 15 tuổi, sau đó về quê nhà tiếp tục
nghiên cứu, tự rèn luyện, truyền dạy cho môn sinh, nổi tiếng về thành tích trừ gian
diệt bạo và chiếm ưu thế ở các võ đài Hà Nội, vang danh với các tuyệt kỹ: Trường
côn, nhảy cao, đá lẹ và nhất là thuật phi thân.
Người đưa Âm Dương Võ Đạo vào đời sống võ cổ truyền ở Đồng Nai
là Nguyễn Ngọc Dương, con trai duy nhất của ông Cả Vụ. Nguyễn Ngọc Dương
được kế thừa di sản võ học của cha, suy nghĩ bổ sung thêm về quan niệm hành võ
không duy chỉ dùng bạo lực để khuất phục người khác mà kết hợp dùng đạo lý để
cảm hóa. Năm 1980, Nguyễn Ngọc Dương cùng với 3 con trai là: Bảo Quốc, Tam
Kỳ, Cao Thắng đặt tên cho môn võ gia truyền của mình là “Gia Phái Bảo Quốc”
với chủ đích dùng võ như là tình thương để cảm hóa con người; tiếp tục đúc kết tinh
hoa của các môn phái võ cổ kim, Âu Á; dựa trên 3 cơ sở chủ yếu: Võ đạo, võ lực và
võ thuật. Về nhu, tiếp thu tinh hoa của nhu đạo và hiệp khí đạo; về cương rút tỉa từ
môn La Hán quyền và một số cương thuật khác; về thái cực, được thái nạp từ môn
thái cực quyền. Từ năm 1908 - 1984, Gia Phái Bảo Quốc chủ yếu truyền dạy người
trong gia đình và thanh niếu thiên trong xóm; lần đầu tiên ra mắt công chúng là cuộc
biểu diễn ngày 7 và ngày 8 tháng 2 năm 1989 tại phường Tân Hòa, được công chúng
hâm mộ, được các võ sư Trần Anh Tuấn (phái Lưu Việt), Nguyễn Văn Xuân (Thái
cực đạo), Nguyễn Văn Mễ động viên phát triển. Ngày 27 tháng 3 năm 1989, được
UBND phường Tân Hòa, thành phố Biên Hòa ra quyết định kết nạp vào Nhà văn
hóa, được mở võ đường, đến ngày 28 tháng 4 năm 1989, đã có 4 điểm tập ở phường
Tân Hòa, đến năm 1991 có 370 võ sinh theo tập, trong đó 194 em sơ đẳng, 39 em
trung đẳng.
Cuối năm 1989, danh sư Đoàn Tâm Ảnh (tên thật là Nguyễn Văn Sáu,
sinh năm 1900 tại Bạc Liêu, pháp hiệu là Thiền sư Thiện Tâm) đến thăm Gia Phái
Bảo Quốc, thấy hài lòng; đầu xuân 1991, ông nhận Nguyễn Ngọc Dương làm nghĩa
tử, ở lại với Gia Phái Bảo Quốc, truyền lại sở đắc võ công của mình, từ đó Gia Phái
Bảo Quốc được bổ sung về võ lực, võ thuật và võ học, đổi tên thành “Âm Dương Võ
Đạo” với tôn chỉ rõ ràng: Kiện tâm (linh mẫn tâm trí), kiện thân (thể chất tráng kiện),

18.4 Page 174

▲back to top


kiện tức (hơi thở điều hòa), thắng mình (làm chủ bản thân), dung người (khoan dung
đối với người khác), hộ thân (tự bảo vệ mình), độ nhân (cứu giúp người). Đặc điểm
của Âm Dương Võ Đạo dựa trên 3 nội dung chính: Phản nhược vi cường (biến yếu
thành mạnh), tứ lượng trừ thiên cân (4 lạng thắng vạn cân), đức hạnh vi tiên (đức
hạnh là trước hết).
Thiếu Lâm Tây Sơn: Có nguồn gốc từ Trung Quốc, được các võ sư
Bình Định tiếp thu, cải biến, sớm đưa vào Tân Khánh (trước thuộc tỉnh Biên Hòa)
và phổ biến ở khắp Nam bộ; tương truyền do Bà Trà là người khai môn ở Tân Khánh
nên có tên gọi môn phái “Bà Trà - Tân Khánh”. Ông Ất, ông Giá diệt cọp dữ ở Bàu
Lòng làm nổi danh “Cọp Bàu Lòng, Võ Tòng Tân Khánh” thuộc môn phái này. Ở
Biên Hòa, nhiều võ sư nổi tiếng: Xuân Bình, Bảo Long Tam Nhạn, Đinh Phước
Vinh, Tám Vũng, Hai Ngà... và hiện có nhiều phòng tập và nhiều võ sinh theo học.
II.2. Lân và võ lân:
* Múa lân: Lân là kỳ thú không có trong thực tế mà sống động trong
trí tưởng tượng của dân gian; có nhiều huyền thoại giải thích về nguồn gốc xuất hiện
của lân (do linh khí đất trời tụ thành hoặc vốn là thú dữ được con người thuần phục),
tuy giải thích nguồn gốc có khác nhau nhưng thảy đều chung quan niệm: Lân là biểu
tượng của thái bình, thịnh vượng, may mắn và tấn phát, là một trong “tứ linh” (long,
lân, qui, phụng) trong quan niệm cổ truyền; cho nên những ngày vui như lễ hội, Tết
Nguyên đán người ta có tục múa lân để vui và cầu mong đạt được những nội dung
gắn với biểu tượng lân.
Nguồn gốc tục múa lân phát sinh từ Trung Quốc, theo chân người Hoa
du nhập vào Nam bộ từ thế kỷ XVII, lâu dần hòa nhập vào văn hóa dân gian của
người Việt. Đồng Nai - Gia Định là địa bàn xuất hiện tục múa lân khá sớm, cùng
thời với công cuộc khai khẩn, lập làng. Người múa lân thường là con nhà võ, có sức
khỏe, nhanh nhẹn, lập thành đội nhóm (thường là người trong gia đình, trong họ,
xóm), mua sắm đạo cụ, tập luyện bài bản. Con lân gồm đầu lân và thân lân dài ngắn
khác nhau, thường khoảng 5 đến 10 mét. Đầu lân làm bằng giấy bồi thể hiện mặt
mày dữ tợn: Mắt lồi, răng nhọn, sừng to, râu dài... Thân lân bằng vải, nhiều màu sắc
thể hiện vảy cứng, đuôi ngắn. Khi múa, một người nâng đầu lân bằng hai tay thể
hiện các động tác xoay, lắc, nâng, hạ, giật, tiến, lùi, điều khiển cho mắt lân chớp mở;
một người khom mình nâng giũ đuôi, theo bước tiến, lùi của người nâng đầu; cả hai
kết hợp nhịp nhàng, sinh động trông rất đẹp mắt. Trong cuộc múa, không thiếu vai
trò của Địa. Một người mang mặt nạ Địa với nụ cười vui tính, bụng độn to, thường
mặc áo đỏ, tay cầm quạt mo, thể hiện các động tác dẫn dắt, chọc ghẹo, tranh giành
với lân. Địa và lân vui múa trong tiếng trống lân dồn dập, sôi nổi.
Những ngày Tết, lễ hội; đội lân đi thành đoàn với cờ, phướng, trống,
nhạc, võ sinh đồng phục khoảng vài chục người đến múa chào ở gia đình hoặc nơi

18.5 Page 175

▲back to top


mở hội, người xem hào hứng có thể thưởng tiền; có cách thưởng tùy tâm, cũng có
kiểu thưởng bằng cách thử thách như treo tiền lên cao hoặc đặt tiền vào nơi khó lấy
để lân phải ra tài.
* Võ lân: Kỹ thuật múa lân dựa trên nền tảng võ cổ truyền. Các điệu
múa: Lân lạy chào, lân ngủ, lân qua cầu, lân xuất động... đều phải thể hiện bằng trình
độ võ thuật nhất định. Các bài múa kỹ thuật: Lân mẫu xuất lân nhi, lân qua cầu ăn
cỏ linh chi, mai hoa thung, lân leo cây ... đòi hỏi người múa phải rèn tập điêu luyện,
có khả năng leo cột trơn cao hơn 10 mét, xuống ngược đầu, hoặc thực hiện các bước
nhảy khó phối hợp giữa hai người, thân thủ đều phải mềm mại, dẻo dai. Gặp trường
hợp người ta khen thưởng thử thách phải dùng trình độ để vượt qua, ví dụ: Nhảy thật
cao để đoạt tiền, leo nhanh và cao lấy quà, uống hết chậu nước để nhận đồng tiền
trong đáy chậu, dùng tay bóp nát quả dừa để lấy tiền thưởng trong đó... Các động tác
đều mô phỏng thao tác ăn mồi của lân khéo léo và đẹp mắt. Đẳng cấp của lân được
công nhận thông qua trình độ võ thuật - kỹ thuật đạt được qua các điệu múa. Dấu
hiệu hình thức có thể nhận ra ở màu râu của lân. Lân râu bạc thuộc trình độ cao nhất,
lân râu đen, râu xanh trông thấy phải tránh đường.
Sau những bài múa lân, thường có biểu diễn võ thuật, gồm nhiều tiết
mục tùy hứng hoặc tùy yêu cầu: Biểu diễn quyền cước, song đấu, hỗn đấu (tay không
và có binh khí), khí công. Các loại vũ khí cổ truyền như côn, roi, đao, kiếm, chỉa,
khiên, kích... đều được sử dụng phô diễn. Nhiều đội lân biểu diễn nhanh lẹ, quyết
đấu khiến người xem thích mắt, từ đó mà có cảm tình với đội.
Trước năm 1975, lân ở Biên Hòa đã nổi tiếng nhưng ít có tài liệu ghi
chép cụ thể. Theo lời kể của một số người hiểu biết, đội lân Tân Bình Đường được
gia truyền từ lâu đời, những năm 1976 Bầu É phát huy, nổi danh khắp vùng, các bài:
Lân qua cầu, lân xuất động, lân uống nước, mai hoa thung... đạt trình độ xuất chúng,
thường biểu diễn thành công ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa. Đội lân của Tám Xiểng ở
phường Hòa Bình được lập cũng từ lâu đời, từng biểu diễn ở Thái Lan, Campuchia
và đạt nhiều giải thưởng lớn. Các đội lân có truyền thống như: Thạnh Sơn Đường
(Bửu Long), Tái Khánh Đường (Hóa An), Việt Hoa Đường (Bình Trước)... được
duy trì, phát triển, nổi danh trong vùng.
Từ năm 1990, hoạt động lân và võ lân được chú ý. Hội lân ra đời gồm
30 thành viên, lần đầu tiên tổ chức hội thi lân năm 1990 tại Biên Hòa, xếp 5 đội loại
A (Tân Bình Đường, Tái Khánh Đường, Việt Hoa Đường, Nhân Nghĩa Đường,
Thạnh Sơn Đường), 10 đội còn lại loại B. Từ đó hàng năm, các đội lân hội diễn xếp
loại một lần dưới sự quản lý của Trung tâm TDTT tỉnh và hướng dẫn nghiệp vụ của
Hội lân tỉnh, ngày càng nâng cao về chất lượng và số lượng. Đến năm 1998, có
khoảng 50 đội lân ở thành phố Biên Hòa và các huyện Long Thành, Nhơn Trạch,
Long Khánh, Vĩnh Cửu, Định Quán, Thống Nhất; nhiều đội lân được khôi phục và

18.6 Page 176

▲back to top


nhanh chóng đạt lại thành tích cao như Hiệp Phước Đường của huyện Nhơn Trạch.
II.3. Các môn phái ngoại nhập:
* Judo: Năm 1983, khi ngành thể thao chính thức cho phép các môn võ được
mở phòng tập luyện, môn Judo mới bắt đầu có phòng tập. Anh Trần Đại Thắng huấn
luyện viên Judo từ trước năm 1975, từng đoạt chức vô địch thiếu niên Judo Việt
Nam mở phòng tập ở Nhà văn hóa Trung Dũng, Biên Hòa. Anh có trình độ ngũ đẳng
môn Judo. Thế nhưng mãi đến năm 1988, Đồng Nai mới dự giải Judo lần đầu tiên
và đoạt 2 huy chương đồng do công của Nguyễn Duy Trúc và Phạm Minh Khoa.
Năm sau thành tích được nâng lên với 1 huy chương bạc do công của Trần Văn Tèo.
Năm 1989, thành tích tiếp tục được nâng lên với một huy chương vàng của Nguyễn
Duy Trúc, 1 huy chương bạc của Phạm Minh Khoa và 1 huy chương đồng của Trần
Văn Tèo. Năm 1990, lần đầu tiên có 2 vận động viên nữ của Đồng Nai đoạt huy
chương đồng là Đinh Thị Xuân Thu và Nguyễn Thị Thu Trang; Phạm Minh Khoa
tiếp tục đoạt 2 huy chương bạc. Năm 1991, Thu Trang tiếp tục đoạt huy chương
đồng, Minh Khoa đoạt huy chương bạc. Năm 1992, Thu Trang đoạt huy chương bạc
và được chọn vào đội dự tuyển quốc gia. Năm 1993, Thu Trang đoạt huy chương
đồng, Minh Khoa đoạt huy chương bạc. Năm 1994, Lê Thị Hoài Thanh đoạt huy
chương đồng cùng với Minh Khoa. Năm 1995, tại giải Đại hội thể thao toàn quốc,
Hoài Thanh và Minh Khoa đoạt huy chương bạc. Năm 1996, hai vận động viên này
đoạt huy chương đồng. Năm 1997, Hoài Thanh Minh Khoa đoạt huy chương bạc,
Nguyễn Thị Thanh Trúc đoạt huy chương đồng. Năm 1998, giữ vững thành tích.
Năm 1999 chỉ có Minh Khoa đoạt huy chương đồng. Năm này lần đầu tiên Đồng
Nai dự giải trẻ toàn quốc, Bùi Minh Hiếu và Nguyễn Thái Bình đoạt huy chương
vàng, Trần Thị Mộng Thùy đoạt huy chương đồng. Đồng Nai đã có lực lượng dự bị
tuyển trẻ của môn Judo.
Trong nhiều năm liên tục, anh Trần Đại Thắng là huấn luyện viên trưởng
môn Judo, có công lớn trong việc mang lại thành tích. Hiện môn Judo có 3 phòng
tập ở Nhà văn hóa Trung Dũng, Trung tâm TDTT tỉnh và Trung tâm huấn nghệ và
bảo trợ cô nhi Biên Hòa. Tại trung tâm này có 2 vận động viên vừa đoạt huy chương
ở giải trẻ là Bùi Minh Hiếu và Nguyễn Thị Mộng Thùy.
Môn Judo ở Đồng Nai, ngoài Trần Đại Thắng còn có một huấn luyện viên
kỳ cựu khác là anh Huỳnh Đại Sơn, có 2 năm dẫn dắt đội tuyển Judo của tỉnh và
cũng giành được một số huy chương.
* Karatedo: Môn Karatedo chỉ mới phát triển ở Đồng Nai từ giữa thập niên
80, những người có công đầu đưa môn này vào Đồng Nai là các ông Ngô Đức Hiếu,
Trương Đình Hùng, Nguyễn Hoàng Thành (nay là Chủ tịch Hội Karatedo, huấn
luyện viên trưởng, đội trưởng đội tuyển và đội trẻ), Trương Dân, Hồ Công Chương.
Đây là những học trò đời thứ nhất và đời thứ 2 của hệ phái Suzucho Karatedo do

18.7 Page 177

▲back to top


ông Takeno Ucho Ryo thành lập ở Huế từ sau năm 1954.
Từ năm 1986, phong trào Karatedo phát triển mạnh ở thành phố Biên Hòa,
lúc đó ông Trương Đình Hùng làm trưởng ban chuyên môn; sau đó ban chuyên môn
của tỉnh được thành lập cũng do ông Trương Đình Hùng đảm nhiệm, sau này do ông
Nguyễn Hoàng Thành (huấn luyện viên trưởng đội tuyển) tiếp nối; và khi Hội
Karatedo được thành lập, ông Thành làm hội trưởng đến nay.
Tuy là môn mới phát triển ở Đồng Nai nhưng phong trào khá mạnh. Hiện
nay có 17 câu lạc bộ, 800 võ sinh đang tập luyện, mỗi câu lạc bộ có từ 1 đến 3 huấn
luyện viên có đẳng cấp từ 2 đến 5 đẳng trực tiếp huấn luyện. Môn Karatedo hiện
đang phát triển trong toàn tỉnh. Hội Karatedo hoạt động khá tốt, tập hợp lực lượng,
đào tạo vận động viên để lập thành tích cao.
Tổng số huy chương ở Giải vô địch toàn quốc từ năm 1991 đến nay, Đồng
Nai giành được 8 huy chương bạc, 2 huy chương đồng, 8 lượt vận động viên được
phong cấp kiện tướng, 2 vận động viên cấp 1.
Từ năm 1994 đến năm 1999, Đồng Nai dự Giải trẻ Karatedo toàn quốc, thành
tích được lập là 5 huy chương vàng, 10 huy chương bạc, 14 huy chương đồng. Các
vận động viên nhiều lần đoạt huy chương bạc ở giải vô địch quốc gia là Phạm Thái
Dũng, Đoàn Hữu Ngọc, Đỗ Hoàng Thảo, Nguyễn Thành Long. Ở giải trẻ, Nguyễn
Thị Vân Anh và Mai Thùy Dương nhiều lần đoạt huy chương đồng quốc gia, trong
đó Nguyễn Thị Vân Anh liên tục đoạt huy chương vàng toàn tỉnh từ năm 1994, 1995,
1996; Mai Thùy Dương 2 lần trong 2 năm 1998, 1999.
Về thành tích quốc tế, Karatedo là môn thể thao Đồng Nai lập thành tích
quốc tế cao nhất với 1 huy chương bạc ở giải Karetedo trẻ châu Á do công của Mai
Thùy Dương và 1 huy chương đồng do công của Nguyễn Thị Vân Anh, 4 lượt vận
động viên Đồng Nai thi đấu các giải quốc tế.
* Taekwondo: Là một trong số các môn võ giàu thành tích của thể thao
Đồng Nai. 3 huấn luyện viên có công đầu trong việc giảng dạy môn võ này ở Đồng
Nai từ năm 1965 là các ông Đào Đình Thu, Lê Đại và Trần Văn Phê. Sau này có
thêm các huấn luyện viên Hoàng Thế Nghiệp, Đinh Tường, Nguyễn Quang Thành
(nay là huấn luyện viên trưởng đội tuyển Taekwondo của tỉnh). Các phòng tập
Taekwondo từ năm 1965 đến 1975 hoạt động ở nội ô Biên Hòa, Tam Hiệp, giáo xứ
Bùi Đức ở Tam Hiệp, phòng tập Nguyễn Huệ 1, Nguyễn Huệ 2, Hiệp Hòa (do ông
Huỳnh Phát huấn luyện), Ngô Quyền, Lưu Việt ở khu vực Hố Nai... Phần lớn các
huấn luyện viên ở Biên Hòa trước 1975 có trình độ đến đai đen 3 đẳng (huyền đai
đại tam đẳng).
Từ năm 1975 đến 1981, việc dạy và học môn Taekwondo chưa được công
nhận chính thức, từ năm 1981 đến năm 1990 mới có một số phòng tập ra đời, tập

18.8 Page 178

▲back to top


trung ở Biên Hòa dưới sự quản lý của ngành thể thao.
Từ năm 1990, môn Taekwondo Đồng Nai mới bắt đầu dự các giải toàn quốc
và năm này đoàn vận động viên Biên Hòa thay mặt cho tỉnh tham dự, đoạt 3 huy
chương bạc, 5 huy chương đồng, trong đó có 2 huy chương bạc đối kháng do công
của Phạm Hòa Thông và Đỗ Xuân Lộc; trong 17 đoàn tham dự, đoàn Đồng Nai xếp
thứ 3 chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Năm 1991, thành tích sút giảm,
chỉ giành được 2 huy chương đồng. Năm 1992, thành tích khá hơn với 2 bạc, 1 đồng,
lần đầu tiên Nguyễn Thu Hương đoạt huy chương bạc đối kháng nữ. Năm 1993, ở
môn công phá nữ, 1 vận động viên Đồng Nai đoạt huy chương vàng, đây là huấn
luyện viên đầu tiên của môn Taekwondo ở Đồng Nai. Năm 1994 có 2 huy chương
bạc, 3 huy chương đồng, trong đó có 1 huy chương bạc đối kháng do công của Phạm
Tiên Long (thua trận chung kết trước Trần Quang Hạ, huy chương vàng ASIAD), 1
huy chương bạc đối kháng đồng đội nữ. Năm 1995, tại giải đại hội TDTT toàn quốc,
Nguyễn Thu Hương đoạt 1 huy chương bạc đối kháng nữ và 2 huy chương đồng do
công của Đỗ Thị Thu Thảo và Đinh Xuân Quyết. Năm 1996, lần đầu tiên Nguyễn
Thu Hương đoạt huy chương vàng đối kháng nữ, đây là huy chương vàng đối kháng
đầu tiên của Đồng Nai. Năm này Đồng Nai còn dự giải trẻ toàn quốc, Đặng Lệ Văn
đoạt huy chương vàng, xếp thứ 3 trên 24 đoàn dự giải. Năm 1997, có 2 vận động
viên đoạt huy chương vàng là Đỗ Thị Thu Thảo và Nguyễn Hoàng Thư (giải vô địch)
và Nguyễn Thu Hương đoạt huy chương vàng ở giải cấp quốc gia. Ở giải trẻ, Mai
Ngọc Lâm đoạt huy chương vàng, xếp đưa Đồng Nai lên hạng 4 trên 27 đoàn dự
giải. Năm 1998, Nguyễn Ngọc Thảo Trang đoạt huy chương bạc ở giải vô địch, ở
giải trẻ, Ngô Thịnh Đạt và Lại Trương Thanh Thủy đoạt huy chương vàng. Năm
1999, ở giải vô địch, Nguyễn Thu Hương đoạt huy chương bạc, giải trẻ Ngô Thịnh
Đạt đoạt huy chương vàng.
Các huấn luyện viên có nhiều đóng góp cho thành tích môn Taekwondo
Đồng Nai là Nguyễn Quang Thành, Võ Hồng Sinh, Nguyễn Đức Luân; ông Luân
còn là trọng tài quốc gia môn Taekwondo.
Về mặt tổ chức hội đoàn, môn Taekwondo có Hội Taekwondo của tỉnh, trước
đó là Ban chuyên môn do ông Nguyễn Quang Thành làm Chủ tịch hội đầu tiên, nay
là bà Nguyễn Ngọc Ngân, là học trò của ông Đào Đình Thu, người đầu tiên dạy môn
Taekwondo ở Đồng Nai.
Về thành tích quốc tế, Đỗ Thị Thu Thảo đoạt 2 huy chương đồng ở Sea
Games 18 tại Indonesia và Sea Games 19 tại Brunei; ngoài ra Thu Thảo còn đoạt 1
huy chương bạc giải Đông Nam Á và huy chương bạc giải các nuớc có sử dụng tiếng
Pháp.
Trong tỉnh có nhiều địa phương phát triển phong trào Taekwondo như Biên
Hòa, Thống Nhất, Long Khánh... Hiện Đồng Nai có nhiều huấn luyện viên 5 đẳng,

18.9 Page 179

▲back to top


được Liên đoàn Taekwondo quốc tế (ITF) công nhận.
III. Bóng đá:
Bóng đá là môn thể thao sớm phát triển ở xứ Đồng Nai, năm 1929 chi bộ
Đảng đầu tiên ở Phú Riềng (lúc đó thuộc tỉnh Biên Hòa) được thành lập, thông qua
tổ chức này thành lập các hội quần chúng để hoạt động cách mạng; trong đó có Hội
đá bóng, và Hội múa lân. Năm 1939, ở Biên Hòa có đội bóng đá mang tên CERCLE
PORLY, trong đội có nhiều đảng viên Đảng Cộng sản. Nhưng, trước 1945 là giai
đoạn của bóng đá tự phát, thiếu tổ chức, riêng lẻ, chỉ có ở một số khu dân cư đông
đúc như Biên Hòa, Long Thành, Vĩnh Cửu. Lúc ấy các đội bóng còn đá chân không
(không mang giày) mãi đến 1954. Một số nơi có đội bóng đá là Nhà máy cưa BIF
(Tân Mai), Bửu Long, Tân Thành, Hiệp Hòa, Tân Vạn, Nhà thương điên Biên Hòa;
ở những nơi này có bãi cỏ làm sân bóng, được xem là những sân có sớm nhất ở Biên
Hòa. Đội bóng tương đối có tổ chức là đội Nhà ga Biên Hòa, sau đổi tên là Câu lạc
bộ Biên Hùng (ngưng hoạt động một thời gian khá dài, sau khôi phục tên gọi, lập
được đội bóng trẻ, vận động viên đạt cấp kiện tướng). Đội bóng có mang giày khi
đá giao hữu với các đội khác là đội Cây Chàm thường được gọi là đội Nhà binh, đội
bóng này có một số lính Pháp cùng đá. Ngoài ra, một số cầu thủ ở Lái Thiêu (Bình
Dương) thường cùng đá trong đội Cây Chàm. Bửu Hòa và Hiệp Hòa là 2 nơi thường
liên quân với nhau khi đá với các đội khác. Ngoài Biên Hòa, miệt Phước Thiền của
Nhơn Trạch ngày nay và Long Khánh cũng có một vài đội bóng. Giai đoạn này, tuy
có nhiều đội bóng nhưng do chưa được tổ chức chặt chẽ nên chỉ đá giao hữu, không
có giải chính thức.
Sau năm 1954, các đội bóng mới dần dần được cấp đồng phục và mang giày.
Lúc này ở Hiệp Hòa có một sân bóng khá tốt, nay là khuôn viên Trường phổ thông
trung học Nam Hà. Những năm 1955 - 1965, một số đội bóng được chính quyền Sài
Gòn bảo trợ nên khá nổi tiếng, như: Đội Công xưởng không quân, đội Không đoàn
23 kỹ thuật - tiếp vận (sau này đổi tên thành đội Bộ chỉ huy kỹ thuật - tiếp vận), đội
Tiểu khu Biên Hòa... Năm 1973, đội thanh niên Hiệp Hòa được thành lập, đây là đội
bóng tập hợp những thanh niên mượn công việc đá bóng để khỏi đi lính ra mặt trận,
sau trở thành đội dự bị cho đội Sư đoàn 3 không quân ngụy. Có 4 đội bóng được
Tổng cuộc túc cầu của chính quyền Sài Gòn công nhận đẳng cấp là: Sư đoàn 3 không
quân, Bộ chỉ huy kỹ thuật - tiếp vận, Tiểu khu Biên Hòa và Thanh niên Hiệp Hòa.
Nhiều cầu thủ mượn công việc đá bóng để khỏi cầm súng, sau 1975 còn tiếp tục đá
bóng hoặc làm huấn luyện viên như Lôi Ngươn Bình, Phạm Trọng Quang, Nguyễn
Văn Minh, Kiều Văn Chảy, Võ Bá Môi...
Về phong trào bóng đá ngoài quân sự, có một đội bóng hoạt động được ít lâu
thì ngưng, đó là đội Huê Kiều nhưng thành phần nòng cốt vẫn là một số cầu thủ của
các đội khác tập hợp về.

18.10 Page 180

▲back to top


Sau năm 1975, ở Đồng Nai, bóng đá là môn thể thao đầu tiên có quyết định
thành lập. Đội bóng đầu tiên được thành lập là đội bóng khu phố 2, phường Thanh
Bình, Biên Hòa. Tháng 3 - 1976, Sở thể dục - thể thao quyết định thành lập đội tuyển
bóng đá của tỉnh do ông Lưu Thành Long làm chỉ đạo viên, ông Phan Văn Mỹ là
huấn luyện viên trưởng, huấn luyện viên phó là Huỳnh Mộng Nguyên. Lúc này Đồng
Nai có một số đội bóng mạnh: Đội bóng thành phố Biên Hòa, đội bóng Tỉnh đội, đội
bóng Vũng Tàu (lúc chưa tách tỉnh). Một giải lớn đội tuyển Đồng Nai tham dự là
giải Cửu Long, thi đấu không thành công, xếp 8/9 đội dự giải. Sau đó, đội tuyển
Đồng Nai liên tục tranh giải khu vực từ Huế trở vào, năm 1985 thi hành giải tách
hạng, do có tiêu cực trong tổ chức giải, đội Đồng Nai phải xuống hạng. Đến năm
1987, đội tuyển Đồng Nai lên hạng A1, lúc này huấn luyện viên trưởng là ông Lôi
Ngươn Bình; thành phần cầu thủ nòng cốt có Tôn Quốc Khánh, Lưu Ngọc Tuấn,
Nguyễn Đức Nhân, Trần Thanh Phong... Năm 1989, tham gia thi đấu tách hạng đội
mạnh, ở vòng loại, Đồng Nai xếp hạng thứ 5/11 đội, vào vòng trong xếp hạng thứ
6/6, không được lên hạng đội mạnh. Từ năm 1990 đến 1999, đội tuyển bóng đá Đồng
Nai ở hạng A1, 3 lần lọt vào vòng chung kết tranh lên hạng đội mạnh, năm 1990 ở
Huế; năm 1994 ở Gia Lai - Đắc Lắc, năm 1998 ở Đồng Tháp nhưng không thành
công.
Trong khi đó, năm 1990 huyện đầu tiên có đội bóng lên hạng A1 là đội Xuân
Lộc, sau đó giải thể. Ngành cao su Đồng Nai sau đó cũng lên hạng A1, tên là đội
bóng Cao su Đồng Nai. Đồng Nai là tỉnh duy nhất trong cả nước có 3 đội A1. Không
chỉ thế, xã đầu tiên có đội bóng đẳng cấp A2 toàn quốc là đội xã Hiệp Hòa, thành
phố Biên Hòa. Sau này hạng A2 giải thể, không tổ chức tranh giải.
Từ khi bóng đá Đồng Nai có tổ chức, hàng năm đều tổ chức giải vô địch, giải
hạng B và giải trẻ. Ngoài Biên Hòa, nhiều huyện có phong trào bóng đá mạnh, đoạt
nhiều giải cao ở cấp tỉnh như Long Khánh, Thống Nhất, Long Thành...
Bóng đá Đồng Nai có nhiều cầu thủ hay đóng góp cho phong trào bóng đá
chung của quốc gia và khu vực: Danh thủ Phan Văn Rạng từng đã luyện tập trên sân
cỏ Biên Hòa, Chín Lùn ở Nhà máy cưa BIF từng là thành viên đội tuyển Nam kỳ;
Nguyễn Văn Giao từng tham dự cúp C1 châu Á; Trần Triết Anh, Đinh Công Hoàng
nhiều năm được chọn vào đội tuyển quốc gia, Trần Cẩm Phúc, Lôi Ngươn Bình dự
giải thanh niên châu Á... Mới đây, vận động viên Nguyễn Đức Mạnh cũng được
chọn vào đội tuyển Olympic Việt Nam và đội dự tuyển Việt Nam. Những người từng
làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá Đồng Nai theo thứ tự trước sau là:
Phan Văn Mỹ, Đoàn Minh Lương, Lôi Ngươn Bình, Bùi Văn Thương, Bùi Xuân
Thiên, Trần Văn Xinh, Quách Hùng Bảo, Trần Chính, Lâm Ngọc Lập.
IV. Bóng chuyền:
Đồng Nai có đội bóng chuyền dự giải toàn quốc đầu tiên là đội bóng chuyền

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


nam của Nhà máy dệt Thống Nhất thuộc Sở công nghiệp Đồng Nai. Ngày 15 - 6 -
1976 là ngày đầu tiên dự Giải A2 toàn quốc tại Hà Nội. Liên tục từ đó đến năm 1983
tranh Giải A2 toàn quốc và đến năm này lên hạng A1. Trong thời gian này, đội bóng
chuyền nữ Dệt Thống Nhất cũng được thành lập trên cơ sở chiêu mộ nhiều cầu thủ
từ nơi khác về. Cặp vợ chồng đều là vận động viên có công sức đóng góp xây dựng
hai đội bóng nam, nữ Dệt Thống Nhất là anh Nguyễn Văn Hiếu và chị Dương Thị
Chúc. Đến năm 1986, do tình hình sản xuất kinh doanh của nhà máy không còn
thuận lợi như trước nên 2 đội bóng chuyền đã giải thể, các cầu thủ giỏi đầu quân cho
các đội khác.
Một đội bóng có đẳng cấp của bóng chuyền Đồng Nai là đội Cơ khí luyện
kim, có khi gọi là đội dây đồng Long Biên bởi đội bóng này do Xí nghiệp dây đồng
Long Biên (VIDICO) lúc đó do ông Thân Trọng Hòe làm giám đốc, trả lương cầu
thủ, tài trợ kinh phí thi đấu giải. Năm 1985 tại Đại hội TDTT, đội lên hạng đội mạnh
với tên là đội của ngành Cơ khí luyện kim cả nước.
Một số đội bóng chuyền khác có đẳng cấp quốc gia như đội Gỗ ván Đồng
Nai, tranh giải A2 năm 1982, cùng năm này, đội bóng chuyền nữ Bệnh viện tâm thần
Biên Hòa cũng tranh giải A2 toàn quốc, đội Công ty khách sạn ăn uống Đồng Nai
tranh giải hạng nhì năm 1984; năm 1990, đội Công ty vật tư tổng hợp Đồng Nai đoạt
chức vô địch giải bóng chuyền công đoàn toàn quốc nhân kỷ niệm 100 năm ngày
sinh Bác Hồ, đội bóng chuyền Công ty Xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Biên
Hòa tranh giải hạng nhì toàn quốc năm 1996, được vào vòng chung kết, một số đội
khác từng tranh giải A2 toàn quốc như Xí nghiệp chế biến thực phẩm Biên Hòa,
Công ty cao su Đồng Nai (nam và nữ). Thành tích cao nhất của bóng chuyền Đồng
Nai trong những năm gần đây là đội Công ty may Đồng Tiến thuộc Sở thương mại
- du lịch vừa lên hạng đội mạnh năm 1999 sau khi vào vòng chung kết hạng A1,
tranh lên hạng.
Ở thời điểm 1999, ngoài đội may Đồng Tiến, bóng chuyền Đồng Nai có một
số đội mạnh như Bưu điện Đồng Nai, Xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Biên
Hòa, Xây dựng - cấp nước Đồng Nai.
Phần lớn các đội bóng chuyền có đẳng cấp ở Đồng Nai không do ngành
TDTT quản lý trực tiếp mà là những đội bóng được xây dựng từ cơ sở do đó có
những hạn chế nhất định, nhất là cơ sở vật chất, điều kiện chuyên môn, kế hoạch
chiến lược và lực lượng vận động viên trẻ kế thừa... Đội bóng lệ thuộc vào tình hình
sản xuất và tình cảm yêu thích không thống nhất của lãnh đạo cơ sở nên chất lượng
không ổn định, khó lập và giữ thành tích cao lâu dài. Nhiều cầu thủ hay đóng
góp lớn cho phong trào bóng chuyền trong tỉnh: Mai Văn Oánh, Nguyễn Hữu Cương,
Phạm Phước Thọ, Đặng Kim Sơn, Đỗ Cao Thắng, Đỗ Cao Dân, Nguyễn Văn Minh,
Lưu Văn Dũng, Nguyễn Văn Mục... Thành tích các đội bóng chuyền cơ sở đều có

19.2 Page 182

▲back to top


sự góp công, hỗ trợ của các chuyên viên bộ môn bóng chuyền thuộc Trung tâm
TDTT tỉnh, như trường hợp lên hạng đội mạnh của đội bóng chuyền May Đồng Tiến.
V. Bóng bàn:
Từ sau năm 1975, trong nhiều năm bóng bàn Đồng Nai dẫn đầu khu vực
miền Đông Nam bộ nhưng ở Giải vô địch quốc gia, bóng bàn Đồng Nai chưa có vị
trí đáng kể. Bóng bàn Đồng Nai chưa có vận động viên được công nhận cấp kiện
tướng, số vận động viên cấp 1 cũng khá ít, như Dương Đình Hà (được công nhận
1978), Phan Bình (1978), Phạm Văn Mạnh (1982), Nguyễn Thị Thu Thủy (1984),
Đỗ Hoan (1988). Về phía nữ, vận động viên Lương Ngọc Oanh có hàng chục năm
thi đấu, nhiều năm vô địch bóng bàn đơn nữ miền Đông Nam bộ, hiện nay là cây vợt
chưa có đối thủ ở Đồng Nai và khu vực nhưng mãi đến năm 1998 mới được công
nhận là vận động viên cấp 1 khi tranh Giải báo Nhân Dân.
Tại các giải thiếu niên, nhi đồng khu vực, một số vận động viên lập thành
tích trong những năm gần đây như Nguyễn Thiện Trí, Nguyễn Hoàng Nam nhưng
chưa thể tranh tài ngang ngửa ở các giải toàn quốc.
Như ở nhiều địa phương khác, môn bóng bàn khá phổ biến nhưng muốn
vươn lên thành tích cao cấp quốc gia có rất nhiều việc phải làm. Các địa phương
khác có hệ thống đào tạo khá tốt, trong khi hoạt động các câu lạc bộ bóng bàn tỉnh
chỉ ở dạng phong trào, chưa đủ khả năng đào tạo vận động viên đẳng cấp cao.
Vài năm trở lại đây bóng bàn Đồng Nai thiếu sự cọ xát ở khu vực miền Đông,
do đó khó xác định được vị trí của môn bóng bàn hiện nay trong số các tỉnh miền
Đông chưa nói đến cả nước.
VI. Cầu lông:
Môn cầu lông xuất hiện ở Đồng Nai từ rất lâu nhưng sau 1975, môn cầu lông
không có giải vô địch tỉnh, những năm gần đây mới tổ chức những giải phong trào
trong khuôn khổ các hội tham gia của ngành, đoàn thể... Gần đây, thành phố Biên
Hòa có tổ chức các giải thành phố, chủ yếu dành cho lực lượng vận động viên phong
trào, số vận động viên có đẳng cấp từng đoạt giải cấp thành phố và cấp tỉnh chưa
nhiều.
Môn cầu lông phát triển mạnh trong ngành giáo dục, y tế, bưu điện; gần đây
nhiều câu lạc bộ cầu lông hình thành, cho thấy phong trào đang phát triển nhưng
ngành thể thao chưa có hệ thống đào tạo vận động viên có đẳng cấp cao để lập thành
tích ở giải quốc gia.
Cầu lông là một trong những môn thể thao được chú trọng để phổ cập trong
trường học, hỗ trợ cho chương trình rèn luyện thể chất trong nhà trường nhưng việc
triển khai còn chậm. Trong khuôn khổ Hội khỏe Phù Đổng, môn cầu lông vẫn chưa

19.3 Page 183

▲back to top


được đưa vào chương trình thi đấu cấp cơ sở.
VII. Quần vợt:
Trên thực tế, môn quần vợt ở Đồng Nai chưa phải là môn thể thao đã được
đại chúng hóa. Phong trào có phát triển, đã xuất hiện sớm ở Đồng Nai nhưng chỉ thu
hút ở một số đối tượng; hơn thế nữa môn quần vợt chưa có công chúng rộng rãi.
Thành tích cao nhất của Đồng Nai ở môn quần vợt là Trần Ngọc Quốc Vinh
đoạt chức vô địch lứa tuổi 14, 15 trong 2 năm 1997, 1998; năm 1999 Quốc Vinh
được lọt vào vòng 1/16 giải các cây vợt xuất sắc. Quốc Vinh còn đang được huấn
luyện tại Trung tâm thể thao quốc gia 2.
Ở các giải phong trào toàn quốc, năm 1998, Phạm Thị Hoàng Anh, Nguyễn
Thị Kim Thao đoạt giải nhất đội nữ lứa tuổi 39 trở xuống và Trần Thị Ngọc Dung -
Nguyễn Thị Lệ Mai đoạt giải nhất lứa tuổi trên 40, giải tổ chức tại Nha Trang.
Về cơ sở vật chất, trong một vài năm trở lại đây, một số sân quần vợt được
xây dựng ở Biên Hòa, Long Thành, Long Khánh nhưng chỉ phục vụ phong trào,
chưa có hệ thống đào tạo vận động viên để lập thành tích cao. Trường hợp Quốc
Vinh khá hạn hữu, nhà ở gần sân Võ Thị Sáu, do làm quen khá sớm với môn quần
vợt nên có thành tích được coi là đáng kể trên phạm vi quốc gia.
Trong hệ thống giải trẻ, Đồng Nai có một số vận động viên khác đoạt được
huy chương như Đặng Bình Đáng, La Hải Đăng..., trong khuôn khổ giải vô địch
chưa có thành tích cao.
VIII. Cầu mây:
Môn cầu mây mới được du nhập vào Đồng Nai vào những năm cuối thập
niên 90. Người gieo mầm đầu tiên là ông Nguyễn Công Dậu, nguyên là người theo
học chuyên ngành bóng đá, nhưng được ngành thể thao cử đi học môn cầu mây tại
Hà Nội để về phổ biến tại Đồng Nai. Tuy vậy đây là một trong số ít những môn được
Ủy ban thể dục - thể thao quốc gia đầu tư để đào tạo vận động viên theo chương
trình mục tiêu.
Đồng Nai có hai đội cầu mây nam và nữ đều ở hạng đội mạnh quốc gia, có
2 vận động viên được chọn vào đội tuyển quốc gia của tỉnh là Đoàn Văn Hòa và
Huỳnh Trúc Phương, huấn luyện viên Lưu Ngọc Tuấn được cử làm huấn luyện viên
phó đội cầu mây nữ quốc gia.
Trong những năm gần đây, cầu mây Đồng Nai tham dự cả giải trẻ và giải vô
địch quốc gia, mùa giải năm 1999, trong khuôn khổ giải vô địch, đội cầu mây nam
Đồng Nai được xếp hạng 3.

19.4 Page 184

▲back to top


IX. Bơi lặn:
Trong hai môn bơi và lặn ở Đồng Nai từ sau năm 1975 môn lặn giàu thành
tích cấp quốc gia hơn. Năm 1985, tại Đại hội thể dục - thể thao toàn quốc lần thứ
nhất tổ chức tại Hà Nội, vận động viên Nguyễn Văn Đức phá kỷ lục quốc gia môn
lặn 100 mét có vòi hơi, chân vịt nam, đoạt huy chương bạc, vận động viên Nguyễn
Minh Sang cũng phá kỷ lục ở nội dung này, đoạt huy chương bạc. Sau năm 1986,
Nguyễn Văn Đức tiếp tục đoạt huy chương vàng ở Giải vô địch toàn quốc ở Nghĩa
Bình, năm 1987, Nguyễn Minh Sang tiếp tục phá kỷ lục quốc gia, đoạt huy chương
bạc lặn có khí tài, Nguyễn Văn Đức đoạt huy chương bạc lặn 100 mét có vòi hơi,
chân vịt nam và lần đầu tiên có 1 vận động viên nữ đoạt huy chương đồng là Trương
Hồng Ngọc ở nội dung 100 mét vòi hơi chân vịt nữ. Năm 1988, tại Giải toàn quốc ở
Nghĩa Bình, Nguyễn Minh Sang tiếp tục phá kỷ lục ở môn sở trường lặn 100 mét,
Nguyễn Phương Trâm đoạt huy chương vàng 100 mét vòi hơi chân vịt nữ, Vũ Hà
Tường Cát đoạt huy chương bạc 100 mét vòi hơi chân vịt nam, 200 mét nữ và người
mang về 2 huy chương bạc là Lê Hữu Minh Tâm.
Từ năm 1989, những vận động viên bơi lặn của Đồng Nai như Nguyễn Minh
Sang, Nguyễn Phương Trâm, Vũ Hà Tường Cát, Lê Hữu Minh Tâm liên tục đoạt
huy chương tại các Giải bơi lặn toàn quốc, trong đó có mùa giải Lê Hữu Minh Tâm
vượt qua Nguyễn Thị Phương của Quảng Ninh ở môn 100 mét cấp nữ, người được
cử dự Olympic 1992 tại Barcelona, Tây Ban Nha. Rất tiếc, sau đó vì lý do học vấn,
Minh Tâm rời đường đua xanh.
Tại Đại hội thể dục thể thao lần thứ ba tại Hà Nội, Đồng Nai đoạt 3 huy
chương bạc do công của Vũ Hà Tường Cát ở nội dung 500 mét và 100 mét vòi hơi
chân vịt nam. Hai vận động viên Nguyễn Thiện Chơn và Trần Anh Tùng đạt thành
tích cấp kiện tướng ở nội dung 50 mét lặn có vòi hơi chân vịt nam.
Năm 1995, Đồng Nai dự giải bơi lặn trẻ thiếu niên nhi đồng toàn quốc tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Đức Tuấn đạt huy chương vàng 100 mét cấp nam
và huy chương bạc 50 mét cấp nam. Năm 1996, Vũ Hà Tường Cát đoạt huy chương
bạc 100 mét lặn vòi hơi chân vịt nam. Năm 1997, tại Giải vô địch toàn quốc tại Quy
Nhơn, 4 vận động viên Nguyễn Thiện Chơn, Trương Hoài Bảo, Ngô Nguyễn Đăng
Khoa và Nguyễn Anh Phi đoạt huy chương bạc tiếp sức 4 người 100 mét lặn vòi hơi
chân vịt nam.
Trong 2 năm 1998, 1999, do cơ sở vật chất không còn phù hợp đối với bộ
môn đang ngày càng hiện đại hóa nên Đồng Nai không lập được thành tích quốc gia.
Hiện nay, với nguồn vốn ngân sách, một hồ bơi hiện đại, tiêu chuẩn tổ chức
thi đấu các giải quốc gia được xây dựng, với cơ sở vật chất này, môn bơi lặn ở Đồng
Nai có khả năng đoạt thành tích cao.

19.5 Page 185

▲back to top


Trên địa bàn thành phố Biên Hòa, Thống Nhất hiện có nhiều hồ bơi tư nhân
được hình thành trong chương trình xã hội hóa hoạt động thể dục - thể thao, tuy
nhiên bơi lội chỉ dừng lại ở phong trào, chưa có lực lượng sẵn sàng cho thi đấu.
Huấn luyện viên Nguyễn Thiện Nhường nhiều năm làm huấn luyện viên đội
tuyển, nay đang tiếp tục công tác, là người có đóng góp nhiều cho môn bơi lặn ở
Đồng Nai.
X. Thể dục thể hình:
Môn thể thao thể dục thể hình chỉ mới xuất hiện ở Biên Hòa những năm đầu
thập niên 90 và đi vào hoạt động nề nếp từ năm 1993. Năm 1994 Biên Hòa tổ chức
Giải thể dục thể hình, năm 1995 Đồng Nai đăng cai tổ chức giải thể dục thể hình
toàn quốc và Trần Xuân Hải đoạt huy chương vàng, Võ Thành Chí và Trần Quang
Dũng đoạt huy chương đồng.
Từ năm 1996 đến năm 1999, năm nào Đồng Nai cũng đoạt được huy chương
ở các giải vô địch và giải câu lạc bộ mạnh trong toàn quốc. Đặc biệt tại Sea Games
18 tại Indonesia, 2 vận động viên của Đồng Nai đoạt được huy chương là Trần Xuân
Hải và Võ Thành Chí. Ngoài 2 vận động viên trên đây, những người đoạt huy chương
bạc và đồng từ năm 1997 đến năm 1999 trong khuôn khổ vô địch có Cao Ngọc Tuấn,
Võ Tấn Sang. Năm 1998, 1999, Võ Thành Chí liên tiếp đoạt huy chương vàng ở
Giải vô địch năm 1998 còn đoạt 1 huy chương vàng ở Giải câu lạc bộ. Ngoài ra,
Nguyễn Văn Quang còn đoạt 1 huy chương bạc ở Giải trẻ câu lạc bộ và Giải trẻ năm
1998, 1999.
Với thành tích trên đây, căn cứ vào số huy chương đoạt được và các thành
tích quốc tế, Đồng Nai chỉ xếp sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội ở môn thể
dục thể hình. Về phong trào ở cơ sở, Đồng Nai có 3 câu lạc bộ lớn ở Trung tâm
TDTT tỉnh, Trung tâm TDTT Biên Hòa, Nhà thiếu nhi. Ngoài ra nhiều phường xã ở
Biên Hòa có các phòng tập thể dục thể hình, đây là một trong những môn sớm được
xã hội hóa, từ trong phong trào quần chúng, tiến đến việc tổ chức giải ở Biên Hòa
và nay có giải toàn tỉnh.
Một trong những người mở phòng tập thể dục thể hình đầu tiên là anh
Nguyễn Thiện Nhường, huấn luyện viên bơi lặn. Nhiều người tập ở phòng tập Nhà
văn hóa Trung Dũng (Biên Hòa) sau này đều đoạt huy chương quốc gia, một số đoạt
huy chương quốc tế.
XI. Điền kinh:
Điền kinh là một trong những môn thể thao gây ấn tượng đậm nét và tương
đối giàu thành tích trên đấu trường quốc gia của thể thao Đồng Nai. Ngay từ năm
1978, điền kinh Đồng Nai đã có đội đại biểu dự Giải việt dã báo Tiền Phong tại Quy

19.6 Page 186

▲back to top


Nhơn (Bình Định). Từ năm 1978 đến năm 1981, điền kinh Đồng Nai chỉ tổ chức thi
đấu trong tỉnh và thành phố Biên Hòa, đến năm 1982, lần đầu tiên Đồng Nai có huy
chương quốc gia ở môn đẩy tạ trong khuôn khổ Hội khỏe Phù Đổng do công của vận
động viên Đinh Văn Báu của trường Ngô Quyền. Năm 1985, Đồng Nai có đội tuyển
dự giải điền kinh trong khuôn khổ Đại hội TDTH và vận động viên Nguyễn Văn
Nghiêm thi đấu môn nhảy 3 bước đạt được thành tích 12 mét 70. Năm 1986, dự giải
điền kinh học sinh toàn quốc, Đồng Nai đoạt được 3 huy chương vàng, 2 huy chương
bạc, 3 huy chương đồng. Năm 1987, tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc tại Thành
phố Hồ Chí Minh, vận động viên Mỹ Hoàng đoạt huy chương bạc môn nhảy cao.
Năm sau, Mỹ Hoàng đoạt huy chương vàng.
Năm 1987 đánh dấu bước nhảy vọt của điền kinh Đồng Nai trong khuôn khổ
giải vô địch quốc gia, vận động viên Phan Đình Chương lập kỷ lục quốc gia môn
nhảy sào với 3 mét và từ đó đến nay, Đồng Nai liên tục phá kỷ lục quốc gia ở môn
nhảy sào, công đầu thuộc về Phạm Duy Quang, hiện nay đang giữ kỷ lục quốc gia
với thành tích 4 mét. Trong nhiều năm, 3 vận động viên Phạm Duy Quang, Nguyễn
Minh Tâm, Nguyễn Minh Quỳnh thay nhau đoạt các huy chương vàng, bạc, đồng.
Trong những năm từ 1987 đến 1999, các vận động viên phá kỷ lục môn nhảy sào có
Đinh Văn Báu, Phạm Duy Quang 4 lần phá kỷ lục. Năm 1992 lập thành tích cao nhất
với 4 mét và đang giữ đến nay.
Nói tóm lại, từ năm 1987 đến nay, Đồng Nai luôn chiếm toàn bộ số huy
chương môn nhảy sào, do điều lệ giải thời gian gần đây qui định phải có 2 đơn vị
tham dự thi đấu mới tổ chức giải, do đó Đồng Nai mới chia số vận động viên cho
đơn vị bạn để thi đấu.
Ngoài môn nhảy sào nam, Đồng Nai còn có môn nhảy sào nữ. Lần đầu tiên
giải điền kinh quốc gia tổ chức thi đấu môn điền kinh nữ. Vận động viên Tống Mỹ
Kiều Loan thiết lập kỷ lục quốc gia mới môn này và Nguyễn Tường Vân đoạt huy
chương đồng. Kỷ lục của Kiều Loan là 2,8 mét và thành tích của Tường Vân là 2,6
mét.
Ngoài môn nhảy sào, Đồng Nai 2 lần liên tiếp đoạt huy chương vàng môn
nhảy xa. Năm 1997 do công của Nguyễn Văn Bình và năm 1998 do công của Nguyễn
Xuân Trường. Trước đó Nguyễn Văn Bình đoạt huy chương đồng và Nguyễn Xuân
Trường đoạt huy chương vàng giải trẻ toàn quốc, Xuân Trường còn đoạt huy chương
đồng Giải Thái Lan mở rộng 1999 và tại Giải điền kinh quốc tế Thành phố Hồ Chí
Minh năm này đoạt huy chương vàng.
Ở môn marathon, Đồng Nai có thành tích đáng lưu ý khi Trần Hải Phong
hoàn thành cự ly chạy trước giờ quy định, Hoàng Mai và Lan Hương hoàn thành cự
ly. Năm 1998, Phạm Duy Quang thi đấu Giải khối thịnh vượng chung.
Đến nay, trên đấu trường quốc gia, Đồng Nai rất tự tin môn nhảy sào nam và

19.7 Page 187

▲back to top


nữ, gần đây là môn nhảy xa trong hệ thống giải vô địch toàn quốc. Huấn luyện viên
Đinh Văn Phúc là người có công đầu trong việc đào tạo vận động viên điền kinh ở
Đồng Nai từ sau năm 1975, trong đó đáng lưu ý nhất là môn nhảy sào nam và nữ.
Hiện huấn luyện viên Nguyễn Văn Bình đang đào tạo một số môn mới cho điền kinh
Đồng Nai, nhất là môn nhảy xa và chạy các cự ly ngắn và trung bình.
XII. Cờ vua:
Lần đầu tiên, Đồng Nai tham dự Giải cờ vua toàn quốc là năm 1982, đó là
giải cờ vua trẻ toàn quốc lần thứ nhất tại Nha Trang. Trong thành phần kỳ thủ của
Đồng Nai, có 2 gương mặt được đánh giá cao là Trần Tiến Đức và Trần Thanh Khê.
Năm sau, Trần Thanh Khê đoạt huy chương đồng tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc.
Năm 1984, Đồng Nai đăng cai Giải vô địch cờ vua A1 và A2 toàn quốc. Năm này
chi hội cờ vua đầu tiên của Đồng Nai được thành lập, lúc đó do ông Trần Văn Thành,
trưởng Phòng giáo dục làm chi hội trưởng. Phong trào cờ vua có bước phát triển
mạnh trong ngành giáo dục ở Biên Hòa, đội năng khiếu cờ vua được thành lập do
ông Nguyễn Hữu Lộc, nay là trưởng bộ môn cờ vua thuộc Trung tâm TD - TH tỉnh
là huấn luyện viên trưởng.
Năm 1985, ngành thể thao Đồng Nai cử ông Nguyễn Hữu Lộc và ông
Nguyễn Ích Hợp tham dự lớp đào tạo khóa huấn luyện viên do chuyên gia Liên Xô
giảng dạy tại Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia tại Hà Nội. Năm này, đội tuyển
cờ vua tỉnh do ông Nguyễn Hữu Lộc làm huấn luyện viên với 3 vận động viên gồm
Nguyễn Hữu Luận, Đặng Sơn Hùng và Trần Thanh Khê tham dự giải cờ vua trong
khuôn khổ Đại hội thể dục - thể thao toàn quốc lần thứ nhất và là một trong số 8 đội
mạnh nhất giải.
Năm 1986, lần đầu tiên, giải vô địch cờ vua toàn tỉnh lần thứ nhất được tổ
chức, kỳ thủ Nguyễn Hữu Luận đoạt chức vô địch. Sau đó vận động viên Nguyễn
Hữu Luận và Nguyễn Văn Có dự giải cờ vua toàn ngành giáo dục tại Hà Nội vận
động viên Nguyễn Hữu Luận đoạt được chức vô địch tuyệt đối. Năm 1987, Đồng
Nai dự giải cờ vua A2 toàn quốc và giải Hội khỏe Phù Đổng. Năm 1988 Đồng Nai
đoạt 2 huy chương vàng giải ngành giáo dục, Trần Thanh Khê đoạt huy chương vàng
cá nhân và cùng với Nguyễn Văn Khánh đoạt huy chương vàng đồng đội nam. Năm
1989 Nguyễn Hữu Luận xếp hạng 3 giải A2 toàn quốc, đoạt thành tích vận động
viên cấp I quốc gia.
Năm 1990, Đồng Nai đăng cai giải vô địch cờ vua trong khuôn khổ Đại hội
TD - TH lần 2, vận động viên Nguyễn Hữu Luận được công nhận cấp dự bị kiện
tướng. Huấn luyện viên Nguyễn Hữu Lộc được mời sang Ukraina tập huấn theo lời
mời của Liên đoàn cờ vua nước này.
Năm 1992, chính thức có bộ môn cờ vua do ngành thể thao quản lý, câu lạc

19.8 Page 188

▲back to top


bộ cờ vua được thành lập do ông Nguyễn Văn Khánh làm chủ nhiệm. Vận động viên
Lê Nguyễn Như Ý đoạt chức vô địch lứa tuổi nhi đồng do Đồng Tháp đăng cai tổ
chức.
Năm 1993 là năm gặt hái được nhiều thành tích ở lứa tuổi nhi đồng. Lê
Nguyễn Như Ý đoạt chức vô địch ở lứa tuổi 10 toàn quốc, cùng với Hoàng Tùng
đoạt huy chương bạc và Ngô Phước Toàn đoạt huy chương đồng. Năm này, lần đầu
tiên, Đồng Nai có 1 vận động viên thi đấu quốc tế là Lê Nguyễn Như Ý dự giải cờ
vua trẻ tại Slovakia, được xếp hạng 4 trong các nước châu Á dự giải, được Tổng cục
TD - TH tặng bằng khen và cấp giấy chứng nhận. Năm 1994, vận động viên Hoàng
Mỹ Thu Giang đoạt chức vô địch tuyệt đối cờ vua nữ toàn quốc được tổ chức tại
Đồng Tháp, đến tháng 6 năm 1994, Thu Giang tiếp tục đoạt huy chương đồng giải
cờ vua nữ lứa tuổi 20 tổ chức tại Malaysia. Đồng Nai tiếp tục đăng cai giải cờ vua
trẻ - thiếu niên - nhi đồng toàn quốc, có 300 vận động viên của 40 tỉnh thành tham
dự giải, Đồng Nai về hạng nhì toàn đoàn thiếu niên - nhi đồng, trong đó có 1 huy
chương vàng, 6 bạc, 2 đồng ở các lứa tuổi. Năm 1994, đội cờ vua nữ Đồng Nai được
công nhận đội mạnh. Năm 1995, Đồng Nai tiếp tục đoạt 2 huy chương vàng, 3 bạc,
1 đồng tại giải trẻ tổ chức tại Lâm Đồng. Năm 1996, tại giải vô địch các đội mạnh,
Đồng Nai đoạt huy chương bạc đồng đội nam và huy chương đồng đồng đội nữ,
Huỳnh Tuấn Bá đoạt huy chương đồng cá nhân, huy chương bạc lứa tuổi 17 tại giải
Hội khỏe Phù Đổng. Năm 1997, Thu Giang đoạt huy chương đồng giải cờ vua nhanh
quốc tế và đoạt huy chương vàng cá nhân tại giải cờ vua đồng đội. Năm 1998, tại
giải trẻ toàn quốc, Đồng Nai đoạt huy chương bạc giải trẻ do công của Nguyễn Xuân
Vinh, Lê Nguyễn Như Ý và Phạm Thị Thắm. Năm 1999, Hoàng Mỹ Giang đoạt huy
chương vàng giải cờ vua nhanh toàn quốc dành cho nữ và Trần Ngọc Như Thảo,
Phạm Quốc Rạng Sơn đoạt huy chương đồng tại giải trẻ.
Từ khi bắt đầu dự thi toàn quốc đến nay, năm nào Đồng Nai cũng được huy
chương, cờ vua là một trong số ít bộ môn thể thao của Đồng Nai được Ủy ban thể
dục - thể thao quốc gia đầu tư đào tạo vận động viên trong chương trình mục tiêu
quốc gia. Đây là môn thể thao Đồng Nai đăng cai tổ chức nhiều giải toàn quốc, từ
giải trẻ đến giải vô địch. Hiện Đồng Nai có 4 vận động viên cờ vua A1 toàn quốc là
Thu Giang, Nguyễn Hữu Đức Luận, Võ Đại Hoài Đức và Trần Đức Tú. Huấn luyện
viên Nguyễn Hữu Lộc là trọng tài quốc tế được Liên đoàn cờ vua thế giới cấp giấy
chứng nhận. Nguyễn Hữu Lộc cùng với Nguyễn Văn Khánh là những người đóng
góp nhiều công sức cho môn cờ vua ở Đồng Nai, từ phong trào đến thành tích cao.
Cờ vua cũng là một trong số ít những môn thể thao Đồng Nai có các đội mạnh nam
và nữ.
Trung tâm thể dục thể thao tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp về
ngành thể thao toàn tỉnh. Trung tâm có 2 phòng chức năng gồm Phòng nghiệp vụ và
Phòng tổ chức hành chánh. Toàn trung tâm có 45 cán bộ, công nhân viên, cả biên

19.9 Page 189

▲back to top


chế và hợp đồng dài hạn, trong đó có 1 người trên đại học, 14 đại học, 6 trung cấp.
Trình độ chính trị có 1 cử nhân, 2 trung cấp. Số cán bộ thể dục - thể thao trong toàn
tỉnh có 220 người, trong số này có 17 người có trình độ đại học ở cấp tỉnh, cấp
phường xã đều kiêm nhiệm.
Ở cấp huyện có 4 trung tâm văn hóa - thông tin - thể thao ở Biên Hòa, Long
Thành, Long Khánh, Thống Nhất. Có 9 hội đoàn thể thao là Liên đoàn quần vợt, các
hội taekwondo, karatedo, judo, võ cổ truyền, mô tô, vovinam - Việt võ đạo, đua
thuyền, lân.
Vthdc - ththao qun chúng:
- Số người tập luyện TD-TT thường xuyên: 225.000 người/1.130.000.
- Số đơn vị tập từ 1 đến 3 môn: 520.
- Số người tập luyện tập trung: 130.000.
- Số gia đình tập luyện TD-TT: 13.500/345.000 gia đình.
- Số đội bóng đá cơ sở: 215.
- Số câu lạc bộ võ thuật; lân: 125.
- Số học sinh tập TD-TT nội khóa: 232.000/440.000 học sinh.
- Số học sinh tập TD-TT ngoại khóa: 65.500/440.000 học sinh.
Về thể thao thành tích cao: (số liệu cuối năm 1999)
- Số vận động viên hiện đang tập trung đào tạo: 207.
- Số vận động viên đoạt đẳng cấp quốc gia: 33. Trong đó, kiện tướng: 6, dự
bị kiện tướng: 1, cấp 1: 26
- Số huy chương đoạt được tại các giải quốc gia: 53. Trong đó, huy chương
vàng: 12, bạc: 13, đồng: 28.
- Số huy chương đoạt được các giải quốc tế: 1 đồng.
- Số giải thể thao toàn quốc đã tổ chức: 2
- Số huấn luyện viên, vận động viên đội tuyển quốc gia: 4.
- Số huấn luyện viên, vận động viên trẻ quốc gia: 4.
- Tham gia giải quốc tế: 7.
- Tham gia giải quốc gia: 250.
- Tham gia giải khu vực: 30.
- Phá kỷ lục quốc gia: 1 lần.

19.10 Page 190

▲back to top


I. GIÁO DỤC BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI TRƯỚC NĂM 1861:
Nền giáo dục và khoa cử ở Biên Hòa - Đồng Nai (sau đây gọi tắt là Biên
Hòa), cũng như các tỉnh Nam bộ, từ buổi đầu đến năm 1861 (năm có kỳ thi Hương
cuối cùng ở Nam bộ), về cơ bản nằm trong nền giáo dục và khoa cử của chế độ
phong kiến. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác ở Nam bộ, giáo dục tại
Biên Hòa không phải là một “phiên bản” của giáo dục chính thống thời bấy giờ. Mỗi
bước đi của nó mang dấu ấn lịch sử, địa lý của một vùng đất mới khai phá, vừa tiếp
thu những cái có sẵn ở Đàng Ngoài, vừa mang cốt cách của những người đi mở cõi.
I.1. Thời dựng nghiệp của chính quyền:
I.1.1. Năm 1698, khi Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ Đồng Nai làm huyện
Phước Long, đặt dinh Trấn Biên “chiêu mộ dân xiêu tán từ Quảng Bình trở vào cho
đến ở, chia đặt thôn ấp, người Thanh trú ngụ cũng biên vào sổ hộ” (46[1]). Cả một
thời gian dài sau đó, nghĩa là sau khi có “bộ máy hành chính” các cấp tại Biên Hòa,
dân cư ở dây vẫn còn khá ít ỏi, cuộc sống phần nhiều khó khăn. Đến năm 1776, Lê
Quý Đôn cho biết vùng này vẫn còn đầy rẫy rừng rậm. Mặt khác, nguồn nhân lực
còn ít ỏi này lại phải lo nuôi tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn và chiến tranh liên tục
tàn phá. Do đó, cả một thời gian dài, chí ít đến khi loạn thần Trương Phúc Loan bị
diệt (năm 1776), nguồn nhân lực ở cả xứ Đồng Nai - Gia Định không hề được vun
đắp. Sau sự kiện này, trước viễn cảnh bị tiêu diệt bởi phong trào nông dân Tây Sơn,
các chúa Nguyễn đã chú trọng hơn đến việc phát triển giáo dục ở vùng đất mới nhưng
không đáng kể.
I.1.2. Giáo dục và khoa cử dưới thời các chúa Nguyễn không khác gì so với các triều
đại phong kiến trước đó. Ở một số mặt, lại không bài bản và quy củ như Đàng Ngoài.
Thời này, các chúa Nguyễn không đứng ra lập trường để lo việc học mà chỉ tổ chức
các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài. Việc duyệt tuyển bắt đầu từ năm 1631, thời chúa
Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1634) để lấy Nhiêu học. Nhưng mãi đến năm
1674, đời chúa Thần Tông Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648) mới mở khoa thi Chính
đồ Hoa văn để lấy Giám sinh, Sinh đồ, Nhiêu học. Các kỳ thi ở thời các chúa
Nguyễn về sau, như Văn chức, Tam ty... cũng không có gì khác hơn, chủ yếu vẫn là
tuyển chọn những người làm công việc hành chính. Số người đi thi ít và cũng không
được ghi chép lại. Lê Quý Đôn nhận xét: Họ Nguyễn trước chuyên giữ một phương
(46[1]) Đại Nam nht thng chí, Nxb. Thun Hóa, 1992, tp 5, tr.36.

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


chỉ mở thi Hương, song chuyên dùng lại tư, không chuộng văn học, ít thu lượm người
tuấn dị. Mỗi khi có khảo thí thì lấy học sinh Hoa văn (thi viết chữ Hán - B.Q.H.) gấp
5 lần Chính đồ và những nơi quan yếu thì uỷ cho họ hàng coi giữ mà cho người đậu
vào Hoa văn giúp việc. Người đậu thi Hương, bắt đầu bổ làm tri huyện, chỉ coi việc
kiện tụng, thứ nữa là làm ký lục thì giữ việc đòi thu thế khóa, những kế lớn, mưu lớn
thì không hỏi han gì đến, còn bọn tiểu học hậu sinh thì cũng không thấy có sự nuôi
dạy tác thành (47[2]). Đã thế, việc tổ chức thi cử không lấy gì làm nghiêm túc. Có
kỳ thi như năm Tân Sửu (1721), chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725)
đã đánh hỏng 77 người trúng cách sau khi tự mình ra đề kiểm tra.
Đó là việc thi cử nói chung ở Đàng Trong, mà chủ yếu là vùng Thuận -
Quảng. Thời này, chỉ có một sự kiện đáng lưu ý là việc chúa Hiển Tông Nguyễn
Phúc Chu cho xây dựng văn miếu ở Trấn Biên (sẽ nói rõ hơn ở mục sau).
I.1.3. Giáo dục phong kiến ở vùng Đồng Nai - Gia Định thực sự tiến triển từ khi
Nguyễn Phúc Ánh (tức vua Gia Long sau này) xưng Đại nguyên soái, cầm đầu tàn
binh chúa Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777) tiếp tục chống lại Tây Sơn
(Mậu Tuất, 1778). Sau khi chiếm lại vùng Đồng Nai - Gia Định lần thứ nhất (1778),
Nguyễn Ánh đã dốc sức tổ chức lại bộ máy cai trị, sắp xếp các khu vực hành chính,
điều chỉnh mức thuế điền thổ, khuyến khích phát triển nông nghiệp. Dĩ nhiên, tất cả
những việc này đều nhằm mục tiêu duy nhất là tăng cường binh mã để đủ sức chống
đỡ những cuộc tấn công như vũ bão của phong trào Tây Sơn. Nhu cầu phục vụ chiến
tranh đó càng đòi hỏi đến đội ngũ quan lại nhiều hơn nữa. Vì thế, tập đoàn Nguyễn
Ánh ra sức đề cao Nho giáo, trọng dụng và khuyến khích người có học. Năm Mậu
Thân (1788), khi vua Quang Trung đang phải dốc toàn lực để chống lại 20 vạn quân
Thanh ở phía Bắc, Nguyễn Ánh đã xua quân chiếm lại vùng Đồng Nai - Gia Định
lần cuối cùng. Từ đây, Nam bộ hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn. Một trong những
việc hàng đầu của Nguyễn Ánh sau khi chiếm được Trấn Biên và Phiên Trấn là ra
lệnh miễn binh dịch và dao dịch cho học trò. Cũng năm đó, Trịnh Hoài Đức (1765 -
1825) và Lê Quang Định - những đại thần của triều Nguyễn sau này, đi thi và được
bổ chức Hàn lâm viện chế cáo. Những người có thực tài này đã thăng tiến khá nhanh
(Năm sau, Trịnh Hoài Đức được cử tri huyện Tân Bình, rồi thị giảng cho Đông cung
thái tử Cảnh...).
Từ đây, Nguyễn Ánh càng ra sức khuyến nông và đề cao Nho giáo hơn nữa.
Tháng tư năm Tân Hợi (1791), mở khoa thi, chia làm 2 kỳ. Kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa,
truyện nghĩa và thơ. Kỳ đệ nhị thi chiếu, chế, biểu. Khoa này lấy trúng cách được 12
người. Tháng chạp năm Ất Mão (1795), Nguyễn Ánh ra quy chế về thi cử. Đến năm
Bính Thìn (1796), khi đại tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu vây khốn Nguyễn Văn
(47[2]) Lê Quý Đôn toàn tập, tp 1: Phbiên tp lc, Nxb. Khoa hc xã hi, 1977, tr. 242 - 243.

20.2 Page 192

▲back to top


Nhân ở thành Diên Khánh, Nguyễn Ánh một mặt phải dốc tất cả quân thủy bộ cứu
viện, một mặt vẫn cho mở khoa thi, gồm 3 kỳ. Kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa và thơ. Kỳ
đệ nhị thi văn. Kỳ đệ tam thi thơ phú. Khoa này lấy 273 người, trong đó có 14 người
trúng tam trường (48[3]). Chỉ trong vòng 5 năm, giữa 2 kỳ thi, số người lấy đỗ đã
tăng gấp 20 lần. Điều này chứng tỏ nhu cầu tuyển dụng quan lại của tập đoàn Nguyễn
Ánh, nhưng phần nào phản ánh sự phát triển của việc học ở vùng Đồng Nai - Gia
Định.
I.1.4. Bên cạnh sự phát triển của Nho giáo theo con đường chính thống, trước và
đồng thời là sự bùng nổ của giáo dục trong dân gian. Nếu như vào năm 1689, toàn
phủ Gia Định mới chỉ có 40.000 hộ dân xiêu tán được tập hợp, song vẫn còn ở rải
rác thì tới năm 1775, trên địa bàn của 3 dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ đã
có khoảng 42.500 đinh, với hơn 1.300 thôn chính thức chịu thuế. Ngoài ra, toàn vùng
còn có 45.000 quân, mà chủ yếu là thuộc binh. Riêng dinh Trấn Biên có 9.500 đinh,
320 thôn và 10.320 quân. Từ những năm này, và nhất là từ sau khi Nguyễn Ánh
chiếm phủ Gia Định lần cuối cùng (1788), dân cư không chỉ được tập trung, chăm
lo sản xuất mà còn được liên tục bổ sung khá nhanh từ miền Thuận - Quảng trở vào.
Trong những đoàn người ấy, có nhiều người là nho sĩ hoặc chạy loạn, hoặc muốn
hợp tác với Nguyễn Ánh. Dĩ nhiên, họ đem theo cả nền nếp nho phong, học hành
vào vùng đất mới. Vì vậy, tuy chính quyền chưa mở trường học, nhưng nhiều trường
tư trong dân gian được mọc lên và tất nhiên được không chỉ người dân mà cả chính
quyền phong kiến hết sức ủng hộ. Học trò có thể theo học các trường ở huyện, trấn.
Muốn tiến xa hơn, theo học trường của nhà nho Võ Trường Toản, người sau này
được tôn là “Thái Sơn Bắc Đẩu” của sĩ phu Nam bộ, hay trường của thầy giáo Đặng
Đức Thuật nổi danh là “Đặng gia sử phái”... Trường của các danh sư này đông đến
hàng trăm học sinh, nhiều người sau này đỗ đạt, thực sự là những nơi đào tạo nhân
tài cho cả Nam bộ.
Ở các thôn, làng, việc học thời đó đa dạng hơn. Các trường tư ban đầu được
mở ở trung tâm huyện Phước Long, sau là các thôn có đông người Kinh. Số rất ít
các thầy giáo là những nhiêu học, vì hầu hết những người đỗ đạt đã được chính
quyền trọng dụng. Phần đông họ là người có học từ các phương xa mới đến. Làng
nào không có thầy phải lặn lội mời người biết chữ ở nơi khác về dạy. Có nơi, không
thành lập trường, thầy giáo được mời đến nhà một người giàu có để dạy trẻ con trong
gia đình và vài ba học trò xóm giềng. Thế nhưng, việc học được xem trọng, học trò
và phụ huynh hết lòng tôn kính thầy giáo. Ban đầu, các thầy giáo dạy cho học trò
Tam tự kinh, Tứ tự kinh... Dần hồi, học Dương tết, Sử thượng, rồi Tứ thư, Ngũ kinh,
Thông giám. Thế nhưng, khác với Đàng Ngoài, việc học ở Trấn Biên, cũng như phủ
Gia Định thời ấy, không quá bài bản, mà “thực dụng” hơn. Nếu như ở Đàng Ngoài,
(48[3]) Đại Nam thc lc, Nxb. Khoa hc xã hi, tp 2, 1963.

20.3 Page 193

▲back to top


một học trò, sau sáu năm rèn giũa ở bậc ấu học mới học đến cách làm thơ phú, kinh
nghĩa, văn sách thì ở đây, mười tuổi Trịnh Hoài Đức, lưu lạc nhiều nơi mà đã đọc cả
kinh sử tử tập, tam giáo cửu lưu (Thơ Trịnh Hoài Đức: Kỳ ư kinh sử tử tập, tam giáo
cửu lưu, phàm ngộ đồng văn chi thư tất cầu cánh độc). Sau này, chưa đầy 30 tuổi,
các ông Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định đều được cử làm thầy dạy cho Đông cung
thái tử Cảnh. Chính một nền giáo dục tự phát, nhưng gấp rút trong nhân dân đã làm
cho toàn vùng, theo Trịnh Hoài Đức, chẳng mấy nho sĩ đã “học qua Ngũ kinh, Tứ
thư, Thông giám, tinh hiểu nghĩa lý” (49[4]). Và nhờ thế, dù trước đó, một thời gian
dài, việc giáo dục không được chăm sóc, nhưng đúng như lời khen của Lê Quý Đôn:
Văn mạch một phương, dằng dặc không dứt ” (50[5]).
I.1.5. Ở trên, nói đến sự hình thành nền giáo dục ở Biên Hòa - Đồng Nai buổi ban
đầu mà chủ yếu là Nho học. Trong thời gian này, một yếu tố không kém phần quan
trọng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của giáo dục là Phật giáo. Từ thế
kỷ XVII, trong các đoàn di dân vào Đồng Nai - Gia Định, nhiều người là tín đồ Phật
giáo, các sư sãi (51[6]). Họ xây cất chùa, am ở những vùng nay thuộc thành phố
Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu, Bà Rịa... Buổi đầu, ở Biên Hòa, cũng như Đàng Trong,
Phật giáo chẳng những không bị ngăn cản mà còn được khuyến khích phát triển.
Nhiều vị chúa Nguyễn tôn sùng đạo Phật, đã sắc tứ các chùa, sắc phong cho các nhà
sư có uy tín. Còn những nho sĩ thì không chỉ thông thạo kinh Dịch mà còn ưa thích
cả kinh Phật. Nhiều người trong số họ đã nương nhờ và học hành ở cửa Phật trước
khi xuất hành. Trong một bài thơ, Trịnh Hoài Đức kể chuyện của mình khi nhỏ:
Ức tích thái bình thì
Lộc Động phương thịnh mỹ
Thích Ca giáo hưng sùng
Lâm ngoại tổ phú quý
Ngã vi thiêu hương đồng
Sư tác trì giới sĩ
Tuy ngoại phân thanh hoàng
Nhược mặc khế tâm chí.
(49[4]) Gia Định thành thông chí, Nha văn hóa Phủ quc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bn, Sài Gòn, 1972, tp
h, tr.4
(50[5]) Lê Quý Đôn, Sđd, tr.243
(51[6]) Tham kho các tài liệu: Văn Thanh, Lược kho sPht giáo Vit Nam, Sài Gòn, 1974; Nguyn Hiền Đức,
Lch sPhật giáo Đàng Trong, Nxb. Tp. HChí Minh, 1993; Cao TThanh, Nho giáo ở Gia Định, Nxb. Tp. H
Chí Minh, 1996...

20.4 Page 194

▲back to top


(Nhớ thuở thái bình xưa / Đồng Nai vừa thịnh mỹ / Đạo Thích được tôn sùng
/ Nhà ngoại còn phú quý / Ta làm trẻ dâng hương / Sư là người giữ giới / Áo tuy chia
xanh vàng / Lòng vẫn chung ý khí) (52[7]).
Câu chuyện này hẳn không riêng gì Trịnh Hoài Đức. Vì thế, có người đã
nhận định rất đúng rằng thiết chế văn hóa - tư tưởng thời ấy là kiểu “Nho - Thích
song hành” (53[8]).
Thời này, đạo Công giáo cũng đã phát triển ở nhiều nơi thuộc dinh Trấn Biên.
Một số vùng truyền giáo quan trọng như: Tân Triều, Phước Lễ, Bến Gỗ, Mỹ Hội...
đến cuối thế kỷ XVIII hình thành nên những nhà thờ, xứ đạo lớn. Tất nhiên, sự phát
triển này có ảnh hưởng ít nhiều đến giáo dục nhưng đó là việc sau này.
I.2. Thời ổn định của Triều Nguyễn (1808 - 1861):
I.2.1. Khi triều Nguyễn được thiết lập (năm 1802), dinh Trấn Biên (năm 1808 được
đổi thành trấn Biên Hòa) do có một thời gian trên 10 năm không có chiến tranh, dân
cư đã trở nên đông đúc hơn, kinh tế phát triển. Lúc đó, trấn Biên Hòa có 10.600 nhân
đinh. Đến năm 1832, khi đổi trấn thành tỉnh, Biên Hòa có 20.841 người và tới thời
Tự Đức đã có 12.190 đinh. Và tới khi thực dân Pháp chiếm được Biên Hòa, dân số
lúc đó đã là 31.381 người. Như vậy, trong gần 60 năm dưới chính quyền triều
Nguyễn, dân số tỉnh Biên Hòa đã tăng bằng 1,5 lần. 60 năm này, trừ 2 năm (1833 -
1834) bị ảnh hưởng bởi cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi, nhìn chung các mặt kinh
tế, xã hội ở Biên Hòa đều ổn định và phát triển. Đây là những tiền đề tốt cho giáo
dục và khoa cử ở Nam bộ nói chung, Biên Hòa nói riêng được phát triển. Dĩ nhiên,
trên từng khía cạnh cụ thể không phải bao giờ cũng đơn giản như vậy.
I.2.2. Như bất kỳ một vương triều nào mới được xác lập, ban đầu, nhu cầu về quan
lại của nhà Nguyễn rất lớn. Nhu cầu khách quan ấy khiến các vua đầu triều Nguyễn
càng chú trọng đến giáo dục và khoa cử. Vừa mới lên ngôi, Gia Long đã nói với bề
tôi: “Khoa cử là con đường bằng phẳng của học trò, thực không thiếu được, phải
nên giáo dục thành tài, rồi sau thi Hương, thi Hội lần lượt cử hành, thì người hiền
sẽ nối nhau giúp việc” (54[9]). Cũng năm này, Gia Long cho dời Quốc tử giám từ
Thăng Long vào Huế, giao nhiệm vụ khảo khóa học trò và chọn con quan lại, những
học trò giỏi để đào tạo thành người có học vấn ra làm quan. Một việc quan trọng
hơn, liên quan đến sự phát triển của giáo dục trấn Biên Hòa là năm này, triều đình
(52[7]) Bn dch ca Cao TThanh.
(53[8]) Cao Tự Thanh; sđd; tr.45.
(54[9]) Quc squán triu Nguyn; Đại Nam thc lc chính biên; tp III; Nxb. Khoa hc xã hi, Hà Ni; 1963;
tr.78.

20.5 Page 195

▲back to top


đã định lại học quy cho lưu trấn Gia Định (tức toàn vùng Nam bộ). Theo đó, mỗi xã
được cử ra một người cho miễn lao dịch để dạy học; trẻ em 8 tuổi trở lên thì vào
Tiểu học, rồi tới Hiếu kinh, Trung kinh, 12 tuổi trở lên học Tứ thư, 15 tuổi trở lên
học Ngũ kinh, kèm Chư tử và sử (55[10]). Hai năm sau, triều Nguyễn cử Trương Chí
Lý, Võ Xuân Biều, Hoàng Công Xuân làm Đốc học và Giáp ất phó đốc học lưu trấn
Gia Định, xây học đường Gia Định. Năm 1807, Gia Long xuống chiếu định phép thi
Hương, thi Hội. Đến năm 1813, những học trò Biên Hòa có dịp thi thố trong kỳ thi
Hương đầu tiên trên toàn quốc dưới triều Nguyễn. Các vị vua tiếp theo, nhất là Minh
Mạng và Tự Đức càng chú trọng hơn đến việc học và khoa cử, dần hồi đưa giáo dục
và khoa cử đi vào nền nếp, cho dù đó là nền nếp phong kiến chính thống. Chẳng hạn,
sau khi đặt chức quan đốc học coi việc học toàn tỉnh, năm 1839, vua Minh Mạng đã
cử thêm các quan huấn đạo coi việc học ở các huyện Phước Chánh, Bình An, Long
Thành của tỉnh Biên Hòa cùng với một vài tỉnh khác ở Nam bộ. Những việc làm này
là nguyên nhân khách quan thứ hai khiến giáo dục Biên Hòa phát triển có tính nhảy
vọt như vị đại thần quê Trấn Biên,Trịnh Hoài Đức đã nhận xét: “...Lúc đầu trung
hưng (triều Nguyễn) đặt chức đốc học, ban bố học quy, mở khoa thi, lối học cử
nghiệp phát khởi, từ đấy lý học cùng văn chương đều thịnh hành tốt đẹp, mà văn
phong mới trỗi dậy” (56[11]). Sau này, Quốc sử quán triều Nguyễn cũng đã đánh
giá hết sức tốt đẹp về người Biên Hòa: “Kẻ sĩ chăm học, dân sùng canh cửi, thợ ở
phố mà làm việc; buôn tùy đất mà canh tác...” (57[12]).
“...Lúc đầu trung hưng (triều Nguyễn) đặt chức đốc học, ban bố học quy, mở
khoa thi, lối học cử nghiệp phát khởi, từ đấy lý học cùng văn chương đều thịnh hành
tốt đẹp, mà văn phong mới trỗi dậy”(58[13]). Sau này, Quốc sử quán triều Nguyễn
cũng đã đánh giá hết sức tốt đẹp về người Biên Hòa: “Kẻ sĩ chăm học, dân sùng
canh cửi, thợ ở phố mà làm việc; buôn tùy đất mà canh tác...” (59[14]).
I.2.3. Về hệ thống trường học ở Biên Hòa thời Nguyễn:
Thời Nguyễn, bên cạnh các trường cao cấp đặt tại kinh sư dành riêng cho
con cháu của hoàng thân quốc thích như: Quốc tử giám, Tập thiện đường, Tôn học
đường, còn có hệ thống trường công lập đặt ở tỉnh, phủ, huyện. Đây là những trường
có nhiệm vụ rèn học sinh để đi thi Hương.
(55[10]) Quc squán triu Nguyễn; Sđd; tập III; tr.148 - 149.
(56[11]) Trịnh Hoài Đức; Sđd; tập h; tr.4
(57[12]) Quc squán triu Nguyn; Đại Nam nht thng chí; Nxb. Thun Hóa; 1992; tp 5; tr.42.
(58[13]) Trịnh Hoài Đức; Sđd; tập h; tr.4
(59[14]) Quc squán triu Nguyn; Đại Nam nht thng chí; Nxb. Thun Hóa; 1992; tp 5; tr.42.

20.6 Page 196

▲back to top


Trường học tỉnh Biên Hòa có từ đầu đời Gia Long, đặt ở thôn Tân Lại, huyện
Phước Long. Từ đời Minh Mạng, trường tỉnh chuyển về thôn Tân Lân, huyện Phước
Chánh, phủ Phước Long. Trường học tỉnh Biên Hòa gồm 1 giảng đường 3 gian 2
chái và 1 nhà vuông 1 gian 2 chái. Nếu so sánh với các tỉnh thuộc Nam bộ thời đó,
trường tỉnh Biên Hòa được xây cất cùng thời với trường tỉnh Gia Định (vốn là trường
của cả lưu trấn). Còn các trường tỉnh khác (An Giang, Vĩnh Long, Định Tường) đều
xây từ thời Minh Mạng (1820 - 1840), hoặc Thiệu Trị (1841 - 1848).
Trường học phủ ở tỉnh Biên Hòa xưa có hai. Một là Trường học phủ Phước
Long, ở về phía đông bắc lỵ sở của phủ (thôn Bình Lợi, huyện Phước Chánh).
Trường này được xây dựng từ trước năm 1837. Hai là Trường học phủ Phước Tuy,
ở phía đông bắc lỵ sở của phủ (thôn Phước Lễ, huyện Phước An). Trường học phủ
Phước Tuy được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837). Biên Hòa là tỉnh thứ
ba của lục tỉnh (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) thời nhà Nguyễn có 2 trường học
phủ. Đến năm 1823, vua Minh Mạng cho đặt các chức giáo quan ở các địa phương
đã quy định cả quy cách xây dựng các trường. Theo đó, các trường học phủ gồm 3
gian, 2 chái, được cấp 300 quan tiền để xây dựng.
Về trường học huyện ở tỉnh Biên Hòa xưa đến nay chưa thấy có tài liệu nào
ghi chép rõ ràng. Song, nếu so sánh với Trường học huyện Kiến Hòa, phủ Kiến An,
tỉnh Định Tường được xây năm 1835 (Minh Mạng thứ 16) là trường huyện xây sớm
nhất mà Đại Nam nhất thống chí có ghi với việc năm 1839, vua Minh Mạng đặt thêm
chức Huấn đạo cho các huyện Phước Chánh, Bình An và Long Thành của tỉnh Biên
Hòa thì có lẽ các trường này được xây dựng khoảng từ năm 1825 - 1839. Về quy
cách, trường học huyện được xây dựng như trường học phủ, nhưng quy mô và kích
thước nhỏ hơn với khoản tiền là 250 quan.
Trong lịch sử của giáo dục thời phong kiến, các trường học ở cấp cơ sở (tổng,
xã, thôn, ấp) hoàn toàn do nhân dân tự lo liệu. Dưới thời vua Gia Long có đặt chức
tổng giáo để dạy sơ học nhưng tới năm 1824, dưới triều vua Minh Mạng, bộ Lễ tâu
rằng các phủ, huyện đã có những quan giáo thụ, huấn đạo nên xin nhà vua bãi bỏ.
Trường ở các tổng, thôn của tỉnh Biên Hòa xưa do các thầy đồ, nho sĩ mở như các
tỉnh khác. Thế nhưng, do giáo dục ở vùng này có bề dày lịch sử hơn so với một số
vùng khác (dĩ nhiên, trừ Gia Định), nên có nhiều trường thu hút đông học trò ở các
tỉnh khác đến. Chẳng hạn, nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa quê ở Vĩnh Long đã về Biên Hòa
năm 10 tuổi, làm học trò thầy đồ Hoành ở Phước Chánh rồi đi thi Hương đỗ Giải
nguyên.
So với thời các chúa Nguyễn, thầy giáo dạy các trường cơ sở (hương học)
thời nhà Nguyễn có trình độ cao hơn, mặc dù vẫn có hai loại: những người đỗ đạt và
không đỗ đạt. Người đỗ đạt cũng có nhiều loại, từng làm quan rồi nghỉ hưu hay bị
cách chức về quê; đỗ đạt nhưng không ra làm quan, lấy nghề dạy học nhằm truyền

20.7 Page 197

▲back to top


thụ kiến thức cho lớp trẻ, hoặc làm thú vui, hoặc để nuôi sống gia đình và bản thân.
Người không đỗ đạt là những vị đã từng đi thi Hương nhưng không đỗ hoặc chỉ đỗ
một, hai trường, lui về quê dạy học để tiếp tục thi khóa sau hoặc không bao giờ đi
thi nữa. Chính những người này dân gian hay gọi là thầy đồ, thầy khóa, song học trò
và dân chúng vẫn hết sức kính trọng.
I.2.4. Nội dung học tập:
Giáo dục thời Nguyễn kế thừa các triều đại trước. Đó là giáo dục Nho giáo,
lấy tư tưởng Khổng Mạnh làm nội dung giảng dạy, hướng đến hành vi, ứng xử của
kẻ sĩ. Do đó, ở trường công hay trường tư, nội dung học tập không có gì khác nhau,
nếu có chỉ là mức độ, cách thức giảng dạy và học tập cho từng loại đối tượng. Đó là
không ngoài Tứ thư, Ngũ kinh. Tất cả các sách đều của Trung Hoa. Mãi sau này mới
có một vài cuốn sách do người Việt soạn, nhưng còn rất hạn chế. Điều đáng lưu ý
là, nội dung sách vở là vậy nên vai trò của người thầy rất quan trọng. Học trò không
chỉ học ở thầy giáo sách vở thánh hiền mà cả nhân cách Nho gia qua người thầy. Bởi
vậy, ở từng vùng, nhân cách của thầy giáo sẽ còn ảnh hưởng lâu dài đến hành xử của
những người sau này là rường cột quốc gia. Chẳng hạn, ở vùng Đồng Nai - Gia Định
là nhân cách của các thầy Đặng Đức Thuật, Võ Trường Toản... khi quá nửa quan lại
cao cấp đương triều là học trò của họ như lời Trịnh Hoài Đức từng nhận xét. Do đó,
bên cạnh những nguyên nhân khác đã khiến tầng lớp nho sĩ Biên Hòa, cũng như
Nam bộ thời ấy có nhiều điểm khác so với các vùng khác.
I.2.5. Về khoa cử và những người đỗ đạt:
Chế độ khoa cử triều Nguyễn kéo dài cho đến năm 1918, năm diễn ra khoa
thi Hương cuối cùng ở Trung kỳ. Thế nhưng, ở Nam kỳ, chế độ khoa cử phong kiến
đã chấm dứt vào năm 1864, năm có kỳ thi Hương cuối cùng được tổ chức tại trường
thi An Giang thay vì trường Gia Định như trước.
Tất cả các kỳ thi thời Nguyễn từng triều vua có khác nhau ít nhiều về cách
thức nhưng đều nhằm mục đích dùng thi cử để tuyển chọn người tài, phục vụ cho bộ
máy chính quyền các cấp, dù không phải ai đỗ đạt cũng đều làm quan. Song, do sớm
ý thức tầm quan trọng của đội ngũ quan lại, các vị vua đầu triều Nguyễn đặc biệt
quan tâm đến khoa cử. Năm 1807, vua Gia Long hạ chiếu nêu rõ: “Nhà nước cầu
nhân tài, tất do đường khoa mục. Tiên triều ta chế độ khoa cử đời nào cũng có cử
hành... Nay thiên hạ cả định, Nam Bắc một nhà, cầu hiền chính là sự cần
kíp”(60[15]). Tờ chiếu cũng quy định rõ phép thi: kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa; kỳ đệ
nhị thi chiếu, chế, biểu; kỳ đệ tam thi thơ, phú; kỳ đệ tứ thi văn sách. Khoa Đinh
(60[15]) Quc squán triu Nguyn; Đại Nam thc lc chính biên; tp III; Nxb. Khoa hc xã hi; Hà Ni; 1963;
tr.323.

20.8 Page 198

▲back to top


Mão (1807) năm ấy là kỳ thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn. Khoa này có 6
trường thi, gồm: Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam, Hải Dương,
lấy đỗ 61 người. Dự định, năm sau, Mậu Thìn (1808) sẽ thi Hội nhưng do mới bình
định, văn học còn ít nên đình lại đến năm Nhâm Ngọ Minh Mạng thứ ba (1822) mới
mở khoa thi Hội đầu tiên. Vào năm Quý Dậu (1813), ở khoa thi Hương thứ hai dưới
triều Nguyễn, trường thi Gia Định (bao gồm sĩ tử của Nam kỳ lục tỉnh và Bình
Thuận) mới tham gia.
Tính từ khoa thi năm Quý Dậu (1813) đến khoa thi năm Giáp Tý (1864), sĩ
tử các tỉnh Nam bộ và Bình Thuận có 19 kỳ thi. Trong 19 kỳ thi đó, theo Quốc triều
hương khoa lục (61[16]), có 22 sĩ tử Biên Hòa đậu Cử nhân. Sách xưa không chép
những người đậu Tú tài trong các kỳ thi Hương, nên bây giờ, khó có con số thống
kê chính xác về người đậu Tú tài ở Biên Hòa. Song, rõ ràng, đấy không phải là ít.
So sánh với 8 tỉnh có sĩ tử tham dự kỳ thi Hương tại trường Gia Định, Biên Hòa xếp
thứ tư (sau Gia Định, Vĩnh Long và Định Tường; trước Bình Thuận, An Giang và
Hà Tiên). Sau đây là những cử nhân của Biên Hòa xưa:
* Huỳnh Văn Tú, người thôn Tân Hội, tổng Chánh Mỹ, huyện Phước
Chánh, phủ Phước Long (nay là Tân Uyên), đậu thứ 8/12 người, khoa Kỷ Mão -
1819. Cử nhân Huỳnh Văn Tú làm quan đến chức Bố chánh (chức quan đứng thứ
hai ở một tỉnh lớn) tỉnh Cao Bằng. Cùng khoa với ông là những nhân vật xuất chúng
như: Trương Đăng Quế, Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Phức, Trương Minh Giảng...
* Tống Đức Hưng, người thôn Long Đức, tổng An Thủy, huyện Bình An,
phủ Phước Long (nay là Thủ Đức), đậu thứ 8/16 người, khoa Tân Tỵ - 1821.
* Phạm Tuấn, người thôn Bình Trước, tổng Phước Vĩnh, huyện Phước
Chánh (nay là thành phố Biên Hòa), đậu thứ 11/16, khoa Tân Tỵ - 1821.
* Đào Trí Kính (sau đổi là Đào Trí Phú), người thôn Phước Kiển, tổng
Thành Tuy, huyện Long Thành, phủ Phước Long (nay là xã Hiệp Phước, huyện
Nhơn Trạch), đậu thứ 14/15 người, khoa Ất Dậu - 1825. Cử nhân Đào Trí Kính làm
quan tới chức Tham tri bộ Hộ (chức quan thứ hai, dưới Thượng thư một bộ), Tổng
đốc Nam Ngãi. Cùng khoa với ông, năm này có Phan Thanh Giản (sau này là vị tiến
sĩ đầu tiên của Nam bộ), Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Đăng Giai...
* Nguyễn Văn Trị, người thôn Linh Chiểu, tổng An Thủy, huyện Bình An,
phủ Phước Tuy (nay là phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, tp. Hồ Chí Minh), đậu
thứ 4/11 người, khoa Đinh Dậu - 1837.
* Nguyễn Văn Toại, người thôn Linh Chiểu, tổng An Thủy, huyện Ngãi An,
phủ Phước Tuy (nay là Thủ Đức), đậu thứ 15/16 người, khoa Tân Sửu - 1841. Cử
(61[16]) Cao Xuân Dc; Quc triều hương khoa lục; Nxb. Tp HChí Minh; 1993.

20.9 Page 199

▲back to top


nhân Nguyễn Văn Toại làm quan tới chức Tri phủ.
* Nguyễn Duy Doãn, người thôn Tân An, huyện Bình Chánh, huyện Bình
An (nay là thị xã Thủ Dầu Một), đậu thứ 2/16 người (á khoa) khoa Nhâm Dần -
1842, làm quan đến chức Biện lý bộ Hộ.
* Nguyễn Quang Khuê, người thôn Bình Phú, tổng An Thủy, huyện Ngãi
An (nay là Thủ Đức), đậu thứ 10/16, khoa Nhâm Dần (1842), làm quan đến chức
Ngự sử (viên quan chuyên khuyến cáo, can gián những lỗi lầm của vua và đàn hặc
quan lại phạm tội).
* Nguyễn Văn Nghị, người thôn Tân Lập, huyện Phước Bình (nay là tỉnh
Bình Phước), đậu thứ 13/16 người, khoa Nhâm Dần - 1842, làm quan đến chức Tri
huyện.
* Phạm Văn Trưng, người thôn Linh Chiểu, tổng An Thủy, huyện Ngãi An
(nay là Thủ Đức) đỗ thủ khoa (Giải nguyên) /15 người, khoa Quý Mão - 1843, từng
là Đốc học tỉnh An Giang.
* Trần Văn Học, cùng quê, đồng khoa với Phạm Văn Trưng, đậu thứ 8/15
người, làm quan đến chức Tri huyện.
* Nguyễn Văn Hưng (sau đổi là Nguyễn Túc Trưng), người thôn Hắc Long,
tổng An Phú, huyện Phước An, phủ Phước Tuy (nay là huyện Châu Thành, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu), đậu thứ 14/15 người, khoa Quý Mão - 1843, làm quan tới chức
Phủ thừa (chức quan dưới quyền Phủ doãn, chuyên coi việc tư pháp của kinh đô)
Thừa Thiên, quyền biện Bố chánh Bình Định.
* Nguyễn Lương Ngạn (sau đổi là Nguyễn Lương Năng), người thôn Bình
Thành, tổng Phước Vĩnh, huyện Phước Chánh (nay là thành phố Biên Hòa), đậu thứ
10/20 người, khoa Bính Ngọ - 1846, làm quan tới chức Ngự sử.
* Hồ Văn Phong, người thôn Linh Chiểu, huyện Ngãi An, đậu thứ 10/20
người, làm quan tới chức Tri phủ, đồng khoa với Đình nguyên Thám hoa Nguyễn
Đức Đạt.
* Nguyễn Khiêm Trinh, người thôn Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ, huyện
Phước Chánh (nay là xã Uyên Hưng, huyện Tân Uyên), đậu thứ 15/20 người, khoa
Mậu Thân - 1848, làm quan tới chức Tri phủ, đồng khoa với Nguyễn Hàm Ninh.
* Nguyễn Khiêm Khanh, em ruột của Cử nhân Nguyễn Khiêm Trinh, đậu
thứ 7/17 người, khoa Kỷ Dậu - 1849, đồng khoa với nhà thơ danh tiếng Phan Văn
Trị, Trương Gia Hội, Nguyễn Thông.
* Nguyễn Nùng Hương, người thôn Long Thạnh, tổng An Phú, huyện
Phước An, đậu thứ 9/13 người, khoa Nhâm Tý - 1852, làm quan đến chức Tri phủ.

20.10 Page 200

▲back to top


* Bùi Đức Lý, người thôn An Hòa, tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành, phủ
Phước Tuy (nay là xã An Hòa, huyện Long Thành), được bổ làm Giáo thụ (quan
đứng đầu ngành giáo dục của một phủ), đồng khoa Nhâm Tý (1852) với Thủ khoa
Nguyễn Hữu Huân. Sách Quốc triều hương khoa lục có ghi cha ông là Bùi Đức Độ
cũng đã đậu Cử nhân, song không thấy ghi rõ khoa năm nào. Nếu ông Bùi Đức Độ
đậu cử nhân thì số “ông cử” của Biên Hòa là 23 người .
* Nguyễn Lương Tri, em ruột của Cử nhân Nguyễn Lương Ngạn, đậu thứ
6/9 người, khoa Mậu Ngọ - 1858.
* Võ Xuân, người thôn Tân Thuận, huyện Phước Chánh (chưa rõ nay là Tân
Uyên hay Vĩnh Cửu), đậu thứ 2/10 người, khoa Giáp Tý (1864), tại trường An Giang.
* Nguyễn Văn Học, người thôn Bình Thảo, tổng Phước Vĩnh, huyện Phước
Chánh (nay là xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu), đậu thứ 6/10 người , khoa Giáp Tý -
1864.
Như vậy, trong số những người đỗ đạt ở Biên Hòa xưa, có đến 4 người là
anh em ruột của nhau; huyện Phước Chánh (nằm phần lớn là thành phố Biên Hòa
ngày nay) là nơi có nhiều người đậu nhất. Ở khoa Ất Mùi (1835), nhà thơ Bùi Hữu
Nghĩa (vốn người Vĩnh Long) đậu Giải nguyên. Từ nhỏ, nhà thơ đã về Biên Hòa
theo học và từ đây khăn gói đi thi (năm 28 tuổi). Đậu Cử nhân, sau một thời gian
ngắn tập sự ở bộ Lễ, Bùi Hữu Nghĩa đã được cử làm Tri huyện phủ Phước Long
(Biên Hòa). Cũng trong các khoa thi này, Biên Hòa có 1 thủ khoa (Phạm Văn Trưng),
2 á khoa (Nguyễn Duy Doãn và Võ Xuân). Còn Cử nhân Đào Trí Phú đã được cử
làm chủ khảo trường thi Thừa Thiên - trường thi lớn nhất nước thời đó, khoa Nhâm
Dần - 1842...
I.3. Văn miếu Trấn Biên:
I.3.1. Về thời gian ra đời Văn miếu Trấn Biên:
Có hai loại ý kiến về thời gian ra đời của Văn miếu Trấn Biên. Một loại ý
kiến cho rằng Văn miếu Trấn Biên (VMTB) đuợc xây dựng từ khá sớm, năm 1715.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng mãi 60 năm sau, tức năm 1775, VMTB mới được ra
đời.
Sách Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu, Quyển thứ I, Trấn Biên cổ kính,
tác giả xb, 1972 có viết: “Ở Biên Trấn, “Văn Miếu” được xây cất tại thôn Tân Lại
(Tân Thành) huyện Phước Chính (Đức Tu) cách trấn thành 2 dặm (ngàn thước) về
phía Tây Bắc. Địa điểm này do quan trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm
Khánh Đức lựa đất, năm Ất Mùi (1775) đời Duệ Tông Hoàng đế Phúc Thuần
(tr.65). Có lẽ đây là điểm xuất phát của những ý kiến cho rằng VMTB xuất hiện năm
1775, vì trước ông Lương Văn Lựu, không thấy ai xác định VMTB ra đời năm 1775.

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Các sách xưa (Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam nhất
thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn) đều ghi thời điểm ra đời của VMTB là
“năm Ất Mùi” (năm 1715 và 1775 theo Âm lịch, đều là “Ất Mùi”). Song, cả Trịnh
Hoài Đức lẫn Quốc sử quán triều Nguyễn đều ghi rõ: “Đời vua Hiển Tông năm Ất
Vị (tức Ất Mùi) thứ 25” hoặc “Năm Ất Mùi, Hiển Tông thứ 25”. “Hiển Tông” theo
thế thứ của triều Nguyễn chính là Hiển Tông Hiếu minh Hoàng đế Nguyễn Phúc
Chu (1691 - 1725), đương thời gọi là Quốc chúa. Chính vị chúa này đã sai Lễ thành
hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược xứ Đồng Nai. Năm thứ 25, đời Hiển Tông Nguyễn
Phúc Chu là Ất Mùi (1715). Vì thế, VMTB đã ra đời từ năm Ất Mùi - 1715, (tức đời
chúa Nguyễn Phúc Chu), không phải là Ất Mùi - 1775.
I.3.2. Quá trình hình thành và tồn tại của Văn miếu Trấn Biên:
a) Văn miếu Trấn Biên hình thành sớm nhất ở Nam bộ. Đến năm Minh Mạng
thứ 5 (tức Giáp Thân, 1824), triều Nguyễn mới cho xây dựng Văn miếu Gia Định ở
thôn Phú Mỹ, huyện Bình Dương. Tại tỉnh Vĩnh Long, đến năm Tự Đức thứ 17
(1864), văn thân trong tỉnh mới họp nhau dựng nên ở thôn Long Hồ, huyện Vĩnh
Bình. Đấy là 3 văn miếu ở 6 tỉnh Nam bộ lúc bấy giờ.
b) Lý do chúa Nguyễn Phúc Chu sai Trấn thủ dinh Trấn Biên và Ký lục Phạm
Khánh Đức lựa thôn Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa)
để xây dựng VMTB có thể hiểu là vì khi đó Biên Hòa đã là nơi dân cư ổn định, phát
triển hơn nhiều vùng khác, kể cả Gia Định (đến năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chu
mới lập dinh Long Hồ và châu Định Viễn). Việc hình thành VMTB đối với chúa
Nguyễn có ý nghĩa như là sự khẳng định những giá trị văn hóa và cả chính trị ở một
vùng đất mới.
c) Theo thuật phong thủy của người xưa, nơi dựng VMTB là chỗ đất tốt.
Sách Gia Định Thành thông chí chép: “Phía nam hướng đến sông Phước, phía bắc
dựa theo núi rừng, núi sông thanh tú, cỏ cây tươi tốt” (62[17]). Còn Đại Nam nhất
thống chí ghi rõ hơn: “Phía Nam trông ra sông Phước Giang, phía Bắc dựa vào núi
Long Sơn, là một cảnh đẹp nhất ở Trấn Biên” (63[18]). Ban đầu, có thể VMTB còn
sơ sài, hoặc sau đó bị các cuộc chiến tranh (Tây Sơn - Nguyễn Ánh) làm tổn hại. Từ
đó, VMTB trải qua hai lần trùng tu lớn.
Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Phúc Ánh đã sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô
trùng tu, “giữa làm Đại Thành điện và Đại Thành môn, phía đông làm Thần miếu,
phía tây làm Dục Thánh từ, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía
hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn các treo trống chuông
(62[17]) Trịnh Hoài Đức; Sđd; tập h; tr. 108.
(63[18]) Quc squán triu Nguyn; Đại Nam nht thng chí; Nxb. Thun Hóa; 1992; tp 5; tr 74.

21.2 Page 202

▲back to top


trên đấy, phía tả có Sùng Văn đường, phía hữu có Duỵ Lễ đường. Chu vi bốn mặt
ngoài xây thành vuông, mặt tiền làm cửa Văn miếu, phía tả phía hữu có cửa Nghi
môn, rường cột chạm trổ, quy chế tinh xảo, đồ thờ có những thần bái, khám vàng,
ve chén và đồ phủ quý biên đậu đều chỉnh nhã tinh khiết” (64[19]). Lần trùng tu này
diễn ra ngay trước khi Nguyễn Ánh đưa quân ra đánh chiếm Quy Nhơn. Bản thân
nó cũng đủ nói lên tầm quan trọng đối với tập đoàn phong kiến đương thời, chí ít
VMTB cũng như một tấm bình phong để Nguyễn Ánh đề cao Nho gia...
Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852). Lúc này, quy
mô của VMTB lớn hơn trước: “Văn miếu chính đường và tiền đường đều 5 gian, lại
dựng thêm 2 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian; đền Khải Thánh, chính đường và
tiền đường đều 3 gian, một tòa cửa giữa 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian, một tòa
kho đồ thờ 3 gian, một tòa Khuê Văn các 2 tầng, ba gian hai chái; phía trước, biển
“Đại Thành điện” đổi làm “Văn Miếu điện” và “Khải Thánh điện” đổi làm “Khải
Thánh từ”.
Như vậy, đến thời Tự Đức, VMTB đã được xây dựng hoàn chỉnh và to đẹp
nhất. Trong bộ Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, VMTB
được ghi chép đầy đủ và chi tiết nhất so với 27 văn miếu ở các tỉnh, đạo, phủ khác,
kể cả văn miếu ở kinh sư. Những lần xây dựng và trùng tu VMTB đều được đích
thân các quan lại phụng mệnh người đứng đầu chính quyền trung ương thời bấy giờ
(Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Ánh, Tự Đức) thực hiện.
d) Như những văn miếu khác, VMTB thờ Khổng tử , vị “khai sáng” của Nho
giáo và Nho học. Vì thế, ngay từ buổi đầu, VMTB trước hết là nơi tôn vinh những
giá trị của nền giáo dục Nho học. Đầu đời trung hưng (trước năm 1802), đích thân
chúa Nguyễn đến VMTB để hành lễ hàng năm vào ngày đinh mùa xuân và mùa thu.
Từ đó về sau (khi nhà Nguyễn đã được thiết lập), khâm mạng vua, quan Tổng trấn
thành Gia Định đến hành lễ, cùng với Trấn quan Biên Hòa và quan Đốc học (vị quan
xem việc học ở trấn Biên Hòa). Lệ đặt mỗi kỳ là 50 lễ sinh và 50 miếu phu.
Bên cạnh là nơi thờ cúng, văn miếu ở kinh sư (thủ đô) còn có Quốc tử giám
để giảng dạy học trò. Ở Biên Hòa, bên cạnh Văn Miếu là Tỉnh học (trường học tỉnh
Biên Hòa). Trường học lớn của cả tỉnh này mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về
thôn Tân Lại (phường Hòa Bình, Biên Hòa). Cũng vào thời Minh Mạng, Trường phủ
Phước Long đã được thành lập ở thôn Bình Lợi, tổng Phước Vĩnh (nay là huyện
Vĩnh Cửu). Như vậy, VMTB đã đóng vai trò như một trung tâm văn hóa, giáo dục
của tỉnh Biên Hòa xưa. Bởi vậy, khi đáo nhậm (trở lại làm nhiệm vụ cũ), năm 1840,
quan Bố chánh tỉnh Biên Hòa Ngô Văn Địch đã hết lời ca ngợi VMTB qua đôi liễn:
“Giang hán dĩ trạc, thu dương dĩ bộc, hạo hồ bất khả thượng;
(64[19]) Trịnh Hoài Đức; Sđd; tập h; tr. 108.

21.3 Page 203

▲back to top


Tôn miếu chi mỹ, bá quan chi phú, du giả vi ngôn” (65[20])
Giá trị mang tính biểu trưng về văn hóa của VMTB không chỉ được tầng lớp
quan lại và sĩ phu phong kiến tôn vinh. Nhân dân Biên Hòa rất ngưỡng vọng và gọi
bằng cái tên gần gũi hơn “Văn Thánh”. Cũng chính vì những lý do đó, năm 1861,
ngay sau khi chiếm được tỉnh Biên Hòa, một trong những việc đầu tiên thực dân
Pháp đã làm là đốt phá VMTB. Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Biên Hòa đã lén cất
giấu đôi liễn của quan Bố chánh Ngô Văn Địch thuở trước, để rồi sau đó đưa về treo
tại đình Hiệp Hưng, huyện Tân Uyên (66[21]).
e) Trong dịp kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa -
Đồng Nai, UBND tỉnh Đồng Nai đã giao cho thành phố Biên Hòa tái tạo lại VMTB,
xem đây là một trong những công trình văn hóa lớn, nhằm tôn vinh những giá trị
nhân văn - giáo dục truyền thống.
VĂN MIẾU Ở VIỆT NAM XƯA (67[22])
TỈNH
NĂM XÂY DỰNG
ĐỊA BÀN
GHI CHÚ
BIÊN HÒA
GIA ĐỊNH
Ất Mùi (1715), đời Hiển tông Hiếu
minh hoàng đế Nguyễn Phúc Chu
Giáp Thân (1824), Minh Mạng thứ
5
thôn Tân Lại, huyện
Phước Chánh.
tổng Phú Mỹ, huyện
Bình Dương, phủ Tân
Bình
VĨNH LONG
BÌNH THUẬN
PHÚ YÊN
(đạo)
KHÁNH HÒA
BÌNH ĐỊNH
Nhâm Dần (1864), Tự Đức thứ 17
Bính Tuất (1826), Minh Mạng thứ
7
Thời chúa Nguyễn. Đầu đời Gia
Long đặt ở xã Năng Tĩnh,Tuy Hòa.
Không rõ năm nào
Nhâm Tuất (1802), Gia Long thứ
nhất
tổng Long Hồ, huyện
Vĩnh Bình, phủ Định
Viễn
huyện Hòa Đa, phủ Hàm
Thuận
xã Ngân Sơn, huyện
Đồng Xuân.
Do Văn Thân trong
tỉnh dựng nên.
Năm 1824 dời đến
xã Ngân Sơn.
xã Phú Lộc, huyện Phúc
Điền, phủ Diên Khánh
huyện Phù Cát, phủ Hoài
Nhân
Miếu chính và đền
Khải Thánh lợp cỏ
tranh. Năm 1842, tu
bổ, lợp ngói
(65[20]) Nhà nghiên cu Lý Việt Dũng giải nghĩa: Chốn tôn miếu ca nhà vua mmiu, bá quan trong triu sang
c, sự đẹp đẽ không thnói hết được
(66[21]) Theo Lương Văn Lựu; Sđd; tr. 66.
(67[22]) Theo Quc squán triu Nguyn; Đại Nam nht thng chí; 5 tp; Nxb. Thun Hóa, 1992.

21.4 Page 204

▲back to top


QUẢNG NGÃI
QUẢNG NAM
QUẢNG BÌNH
HÀ TĨNH (đạo)
KINH SƯ
(Phú Xuân)
THỪA THIÊN
(phủ)
NGHỆ AN
THANH HÓA
Bính Tý (1817), Gia Long thứ 16
Đầu thời chúa Nguyễn.
Mậu Dần (1818), Gia Long thứ 17
Quý Tỵ (1833), Minh Mạng thứ 14
Đầu thời chúa Nguyễn ở Triều Sơn.
Năm 1770 (Canh Dần) dời về xã
Long Hồ. Năm 1808 dời về xã Yên
Ninh.
Đầu thời chúa Nguyễn ở xã Phúc
Mỹ, huyện Đăng Xương, phủ Triệu
Phong, dinh Quảng Trị. Năm 1814,
dời đến xã Thạch Hãn, huyện Hải
Lăng, phủ Triệu Phong.
Quý Hợi (1803), Gia Long thứ 2
Nhâm Tuất (1802), Gia Long thứ
nhất
xã Phú Nhân, huyện
Bình Sơn, phủ Tư Nghĩa
xã Thanh Chiêm, huyện
Diên Phước, phủ Điện
Bàn
Năm 1838, dời đến
huyện Phong Lộc, phủ
Quảng Ninh.
xã Đông Lỗ, huyện
Thạch Hà
xã Yên Ninh (kinh
thành)
Năm Canh Tý (1840),
dời đến xã An Đôn,
huyện Đông Xương, phủ
Triệu Phong, dinh Quảng
Trị.
Từ năm 1854, để cho đạo
Quảng Trị (thuộc phủ
Thừa Thiên) thờ.
xã Yên Dũng, huyện
Chân Lộc, phủ Anh Sơn.
xã Đông Sơn, huyện
Đông Sơn, phủ Thiệu
Hóa.
Thời chúa Nguyễn
ở xã Câu Nhi, năm
1835 dời về Thanh
Chiêm
Ban đầu dựng ở xã
Phong Đăng. Năm
1895 sửa lại.
Xây quy mô lớn;
đền Khải Thánh
được xây riêng.
Các vua nhà
Nguyễn đều tới
hành lễ.
HÀ NỘI
NINH BÌNH
HƯNG YÊN
NAM ĐỊNH
HẢI DƯƠNG
Canh Tuất (1070), Lý Thánh Tông
thứ 15.
tổng Minh Giám, huyện
Thọ Xương, phủ Hoài
Đức.
Không rõ năm nào. Năm 1835, sửa
lại Văn miếu cũ của phủ Yên
Khánh.
Kỷ Dậu (1839), Minh Mạng thứ 21.
Ất Mùi (1835), Minh Mạng thứ 16.
Quý Mùi (1823), Minh Mạng thứ 4.
huyện Yên Khánh, phủ
Yên Khánh.
xã Xích Đằng, huyện
Kim Động, phủ Khoái
Châu.
huyện Mỹ Lộc, phủ
Thiên Trường.
xã Mao Điền, huyện
Cẩm Giàng, phủ Bình
Giang.
Các triều Lý, Trần,
Lê là văn miếu kinh
sư. Từ đời Gia
Long, là văn miếu
Bắc Thành.

21.5 Page 205

▲back to top


QUẢNG YÊN
BẮC NINH
THÁI
NGUYÊN
SƠN TÂY
HƯNG HÓA
TUYÊN
QUANG
LẠNG SƠN
CAO BẰNG
Ất Mùi (1805), Gia Long thứ 4.
Thời chúa Nguyễn. Năm 1802,
được tu bổ.
Nhâm Dần (1832), Minh Mạng thứ
13
Không rõ năm nào.
Không rõ năm nào. Được tu bổ năm
1830.
Ất Dậu (1825), Minh Mạng thứ 6.
Đời Lê, phiên thần 7 châu quyên
tiền dựng ở ngoài cửa bắc tỉnh
thành (xã Mai Pha)
Kỷ Tỵ (1809), Gia Long thứ 8.
xã Quỳnh Lâu, huyện
Yên Hưng, phủ Sơn
Định.
xã Thị Cầu, huyện Võ
Giàng, phủ Từ Sơn.
xã Đồng Lẫm, huyện
Động Hỉ, phủ Phú Bình.
xã Mông Phụ, huyện
Phúc Thọ, phủ Quảng
Oai.
huyện Tam Nông, phủ
Gia Hưng.
xã Ỉ La, huyện Hàm Yên,
phủ Yên Bình.
Năm 1838 dời đến cửa
nam tỉnh thành (xã Mai
Pha, châu Ôn, phủ Tràng
Khánh).
Giang Cung, huyện
Thạch An (tỉnh thành)
- Năm Thiệu Trị
thứ 4 (1844), làm
lại.
- Năm 1844 dời từ
xã Cốt Ngạnh,
huyện Phổ Yên về.
- Đàn Xã Tắc, đàn
Tiên Nông dựng
năm 1833.
- Năm 1809 (Gia
Long thứ 8) được tu
bổ lại.
II. GIÁO DỤC BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI TỪ NĂM 1861 - 1945:
Sau khi chiếm Biên Hòa, rồi cả Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp thực hiện
một chính sách giáo dục nô dịch, tuy có những thay đổi chút ít theo từng thời gian,
nhưng về cơ bản vẫn nhằm mục đích buổi ban đầu: đào tạo đội ngũ giúp việc trung
thành và thành thạo Pháp ngữ; hạn chế và đi đến xóa dần Nho học, văn hóa Việt
Nam. Dĩ nhiên, mục đích ấy có đạt được hay không là chuyện khác, nhất là trong
hoàn cảnh nhân dân Việt Nam liên tục kháng chiến và luôn giữ vững tinh thần dân
tộc.
II.1. Dưới lăng kính “khai hóa” của thực dân Pháp:
II.1.1. Ngay từ buổi đầu khi mới đặt chân lên đất Nam kỳ, thực dân Pháp ắt có ý
thức sử dụng giáo dục là công cụ phục vụ cho sự thống trị của chúng. Sau đó không
lâu, một viên “thanh tra công việc bản xứ” (Inspecteur des Affaires Indigènes),
Paulin Vial đã viết về Thiếu tướng hải quân, Phó thủy sư đô đốc Bonard, người đã
chỉ huy quân đội đánh chiếm Biên Hòa và sau đó là Tổng chỉ huy lực lượng viễn
chinh Pháp tại Việt Nam: “Đô đốc Bonard mà nhiệm vụ là phải xây dựng một thuộc
địa lớn ở Nam kỳ, đã chú ý ngay tức khắc đến việc phát triển các cơ quan giáo dục”
(68[23]). Sự “chú ý ngay tức khắc” của Bonard đối với Biên Hòa là cho quân triệt
(68[23]) Dn theo Tp chí Nghiên cu lch s, s96/ 1967; tr.14.

21.6 Page 206

▲back to top


hạ Văn miếu Trấn Biên vì đây không đơn thuần là nơi thờ Khổng Phu tử mà chính
là biểu tượng cho sự tôn vinh những giá trị giáo dục, văn hóa truyền thống.
II.1.2. Để thực hiện chính sách giáo dục mới, thực dân Pháp đã lần lượt thành lập
nhiều trường học tại Nam kỳ, chủ yếu ở Sài Gòn, như: Trường thông ngôn (Collège
des Interprètes - 1864) để đào tạo thông ngôn, Trường tập sự (Collège des Stagiaires
- 1873) để đào tạo nhân viên hành chính; Trường trung học Chasseloup Laubat
(Collège Chasseloup Laubat - 1874) giảng dạy cho con em người Pháp và quan lại
Việt phục vụ cho bộ máy cai trị...; Sở học chánh Nam kỳ (Service de l’Instruction
Publique - 1879) để đặt chương trình giáo dục Pháp - Việt; mặt khác, loại dần nền
giáo dục khoa cử Hán học. Vì thế, ở các tỉnh như Biên Hòa, các trường lớp dạy chữ
Nho tự phát trong dân gian hoặc do nhà Nguyễn hình thành mai một dần. Với quyền
lực trong tay, từ năm 1869 đến ngày 30 - 1 - 1882, các thống đốc Nam kỳ đã ra 10
nghị định nhằm mục đích này. Nếu như ở Nghị định ngày 26 - 9 - 1881, Thống đốc
Nam kỳ G. De Trentinian quy định: “Kể từ ngày ký (26 - 9 - 1881), việc sử dụng chữ
Pháp được xem là bắt buộc trong các địa hạt và các tổng sau đây: (...) tổng Chánh
Mỹ trung, Chánh Mỹ thượng, Phước Vĩnh trung, Phước Vĩnh thượng thuộc địa hạt
Biên Hòa” thì đến Nghị định ngày 30 - 1 - 1882 của Thống đốc Nam kỳ Le Myre de
Vilers thì quy định trên được áp dụng.
Xuất phát từ mục đích rõ ràng như vậy nên đến những năm 30 của thế kỷ
XX, hệ thống giáo dục nô dịch Pháp về cơ bản đã hoàn chỉnh ở các cấp học (69[24]).
II.1.3. Tuy thực dân Pháp xem trọng việc mở mang một nền giáo dục nô dịch, nhưng
kết quả lại không hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn đó.
Trước năm 1861, Biên Hòa là một vùng trù phú, dân cư đông đúc nhưng từ
khi quân Pháp đến thì dân làng bỏ đi nơi khác, nhiều vùng đã trở nên hoang vắng,
dân cư thưa thớt. Theo Đại Nam thực lục, 74 thôn của 3 huyện Nghĩa An, Bình An,
Long Thành, 25,9% số xã thôn Biên Hòa hồi ấy xiêu tán; những nơi gần quân Pháp
đóng, người dân đã bỏ đi (70[25]). Còn những người có học thì sự ra đi khỏi quê
quán đã trở thành một kiểu hành xử của kẻ sĩ, chính các sĩ quan Pháp đã viết: “Những
người An Nam có học, tầng lớp trí thức trung thành với luật pháp xứ sở họ, chỉ có
thể xem chúng ta như kẻ thù; tầng lớp có khả năng cai trị thì vắng mặt hay có ác
cảm... Theo lệnh triều đình Huế, các nhà nho và quan lại đã biến đi, vì thế đồng loạt
(69[24]) Tham kho các công trình: Lch sgiáo dc Vit Nam (Đặng Văn Tiến chbiên; Nxb. Giáo dc; 1996),
Giáo dc và khoa cVit Nam (Nguyn Q. Thng; Nxb. VHTT; 1993)...
(70[25]) Quc squán triu Nguyễn; Sđd; tập 29; Nxb. Khoa hc xã hi; Hà Ni; 1974; tr.283.

21.7 Page 207

▲back to top


không hợp tác” (71[26]). Một khi đã xem thực dân Pháp là quân xâm lược thì người
Biên Hòa cũng không chấp nhận hệ thống giáo dục mà họ mang đến. Bởi vậy, dù
trường học được quân Pháp mở khá sớm ở địa hạt Biên Hòa nhưng cũng chẳng có
mấy học sinh đến học. Sách Đất Nam kỳ thuộc Pháp, xuất bản năm 1878 chép: “...Ở
Biên Hòa có trường học, 33 học sinh ngoại trú”.
Những nỗ lực nhằm gấp rút đào tạo “những người ngoại quốc trong xứ sở
của họ” (lời của Paul Beau) của thực dân Pháp cũng đã đem lại một số kết quả nhất
định. Cho đến năm 1886, “ở Nam kỳ có 17 trường người Âu cầm đầu, có 10 trường
nam, 7 trường nữ. Có 48 giáo viên người Pháp và 78 giáo viên Việt Nam dạy cho
1.829 học sinh của 10 trường nam, 25 giáo viên nữ người Pháp và 13 giáo viên Việt
Nam dạy cho 992 học sinh của 7 trường nữ. Các trường quận do xứ thuộc địa đài
thọ, một số lớn trường làng do ngân sách địa phương đài thọ và một số trường khác
tồn tại bằng tiền của các làng và tư nhân. Có 16 trường hàng quận với 24 giáo viên
người Pháp và 51 giáo viên người Việt Nam dạy 1553 học sinh; 219 trường hàng
tổng với 270 giáo viên Việt Nam dạy 10.441 học sinh; 91 trường xã với 91 giáo viên
Việt Nam và 3.416 học sinh” (72[27]). Như vậy, đến năm này, toàn Nam kỳ có 343
trường công các loại với 600 giáo viên và 18.231 học sinh. Còn ở địa hạt Biên Hòa,
đến năm 1897, gồm 16 tổng và 183 làng nhưng chỉ có 1 trường địa hạt đặt ở làng
Bình Trước, tổng Phước Vĩnh trung; có thể khẳng định Trường tiểu học Nguyễn Du
(thành phố Biên Hòa) xưa vốn là trường địa hạt, rồi một thời gian dài sau đó là
trường tiểu học tỉnh lỵ, đã được hình thành chậm nhất là năm 1897) và 4 trường tổng
đặt ở các làng: Bình Trước, Bình Mỹ (tổng Phước Vĩnh trung), An Hòa (tức Bến Gỗ,
thuộc tổng Long Vĩnh thượng) và Tân Uyên (tổng Chánh Mỹ trung) (73[28]). Đây
là kết quả của trên 20 năm thực dân Pháp thực hiện chính sách giáo dục ở Nam kỳ
nói chung và Biên Hòa nói riêng. Đó là thời kỳ chúng nóng lòng muốn thấy những
thành quả giáo dục nên thậm chí đã có những cách thức mị dân nhất như thưởng 200
francs/ năm cho thầy đồ dạy thêm quốc ngữ, đưa học sinh du học, thưởng tiền cho
học sinh mỗi tuần 5 xu. Nhưng chất lượng, lại là một chuyện khác, mà chính những
người Pháp thực hiện chính sách giáo dục đó đã phải thừa nhận: “Kết quả chẳng ra
làm sao cả. Phần đông trẻ em đi học chỉ học đọc hay viết chữ quốc ngữ, không mấy
đứa học và nói tiếng Pháp. Có nói được cũng kém quá. Sau một năm học, vài đứa
(71[26]) Dn theo Cao Huy Thun; Đạo Thiên chúa và chủ nghĩa thực dân ti Vit Nam; Lun án tiến sĩ quốc gia
khoa hc chính trị Đại hc Paris, tr.169.
(72[27]) Nguyễn Đăng Tiến (chbiên); Lch sgiáo dc Việt Nam trước Cách mng Tháng 8 - 1945; Nxb. Giáo
dc; 1996; 193.
(73[28]) Theo Lch An Nam thông dụng năm 1897, trong Vương Hồng Sn: Tvtiếng Vit min Nam; Nxb. Văn
hóa; 1993; tr. 158 - 179.

21.8 Page 208

▲back to top


bị bắt đi làm thông ngôn ở các đồn lính”(74[29]). Viên Toàn quyền dân sự
(gouverneur civil) đầu tiên của Nam kỳ, Le Myre de Vilers còn chua chát hơn: “Vài
trăm người An Nam nói tiếng Pháp, vài ngàn người nói sai tiếng Pháp đó là những
bồi bếp, kéo xe... Dân chúng còn lại không biết tiếng An Nam (tức chữ quốc ngữ -
BQH) lẫn tiếng Pháp. Chúng ta hiểu rằng những người An Nam vẫn nói tiếng của
họ, nhưng họ không biết viết và biết đọc, vì những lẽ trên, mà chúng tôi đào tạo
những người vô học ”(75[30]).
Trường tiểu học Nguyễn Du ngày nay khi có đến lớp nhất mới mang tên
École primaire complémentaire de Biên Hoa là trường tiểu học đầu tiên của tỉnh
Biên Hòa. Mặc dù thành lập sớm, giữ vai trò là trường địa hạt, rồi trường tỉnh lỵ
nhưng một thời gian dài do chính sách giáo dục của thực dân Pháp, trường chậm
phát triển. Theo ông Nguyễn Văn Thuyết, ban đầu cơ sở trường là trại lính kỵ binh,
sau là trại giam tù (vì buổi đầu, sau khi chiếm Biên Hòa, quân Pháp chưa xây dựng
khám đường). Đến năm 1934, tỉnh Biên Hòa có thêm một trường nữ tiểu học, trường
tiểu học Biên Hòa trở thành trường nam tiểu học tỉnh lỵ. Năm 1954, trong chương
trình Việt hóa tên các trường học, trường chính thức được đổi tên là Trường Nguyễn
Du. Trước năm 1930, đốc học (hiệu trưởng) Trường tiểu học Biên Hòa là người
Pháp. Từ năm 1933, các thầy giáo người Việt Nam lần lượt làm hiệu trưởng: Lê Hữu
Vĩnh, Huỳnh Văn Giỏi, Lâm Văn Huê, Phan Khoái Hượt, Nguyễn Văn Phát, Hồ Văn
Tam, Nguyễn Thành Dợt, Nguyễn Tấn Hưng, Nguyễn Văn Trình, Huỳnh Anh...
Trường tiểu học Biên Hòa là nơi học tập của hầu hết các nhân vật danh tiếng ở Biên
Hòa thời xưa như: nhà giáo Hồ Văn Tam, nhà giáo Hồ Văn Thể, nhà giáo cách mạng
Nguyễn Văn Ngũ (Hoàng Minh Viễn); các kỹ sư: Nguyễn Háo Ca, Phạm Minh
Dưỡng, Lương Kiển Thạnh; nhà văn Lý Văn Sâm, tướng Lương Văn Nho, nhà
nghiên cứu Lương Văn Lựu...
II.1.4. Từ những năm cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, sau một thời gian định “thủ
tiêu” giáo dục phong kiến nhưng bất thành vì “làm như thế chẳng khác gì phế bỏ
sông Hồng vì nó cũng bắt nguồn từ Trung Quốc”, thực dân Pháp đã “tóm lấy nó, thu
thập nó để có lợi ” (lời của Dumoutier) rồi bãi bỏ hoàn toàn chữ nho, đưa giáo viên
từ Pháp sang để phổ biến tiếng Pháp. Hoặc từ chỗ buộc trẻ con đi học khiến học sinh
phần lớn là kẻ vô phúc do các làng thuê học” (lời của Bá tước Comte Lafont, Thiếu
tướng hải quân, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, Thống đốc Nam kỳ từ 16 - 10 -
1878 đến 6 - 7 - 1879) đến công thức phát triển “giáo dục theo chiều ngang chứ
không phải theo chiều đứng” của Toàn quyền Merlin (20 - 2 - 1923 đến 27 - 7 -
1925) v.v... Tuy nhiên, mục tiêu của nền giáo dục nô dịch ấy không thay đổi, khiến
(74[29]) Dn theo Trần Văn Giàu; Lch scận đại Vit Nam; Nxb. Giáo dc; Hà N; 1962; tp 3; tr. 201.
(75[30]) Dn theo Tp chí Nghiên cu lch s; s98, tháng 5.1967; tr.42.

21.9 Page 209

▲back to top


đội ngũ trí thức địa phương chậm được đào tạo, mặt bằng dân trí rất thấp, đại đa số
nhân dân mù chữ.
Xứ Nam kỳ, nơi thực dân Pháp đặt chế độ trực trị, có ưu đãi hơn so với Bắc
kỳ và Trung kỳ nhưng đến năm 1916 bậc tiểu học Pháp - Việt mới chỉ có khoảng
798 trường với 51.137 học sinh (so với Bắc kỳ là 36 trường với 4.620 học sinh). Ở
bậc trung học, toàn xứ Nam kỳ lúc đó chỉ có 3 trường: Mĩ Tho, Gia Định, Chasseloup
Laubat. Về sau, số học sinh và trường học có tăng nhưng nếu so với dân tỷ lệ vẫn
rất thấp. Năm 1923, cả nước có 46.000 học sinh; năm 1924: có 72.000 học sinh. Sáu
năm sau, do nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân, học sinh đòi phát triển giáo dục, số
học sinh có tăng lên. Tới năm học 1936 - 1937, bình quân 100 người dân mới có 2
học sinh sơ học (2%); 100 người dân có 0,4 học sinh tiểu học (0,4%). Cũng năm học
này, ở bậc cao đẳng tiểu học (tương đương trung học cơ sở ngày nay), cả Việt Nam
chỉ có 16 trường. Riêng Nam kỳ, với 4,616 triệu dân nhưng chỉ có 4 trường: Collège
Le Myre de Vilers (nay là Trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho), Collège
de Cần Thơ (Trường PTTH Châu Văn Liêm, Cần Thơ), Pétrus Ký (sau chuyển thành
trường trung học, nay là Trường PTTH Lê Hồng Phong, TP Hồ Chí Minh), Trường
Áo Tím (tức trường nữ, sau đổi là Trường Gia Long, nay là trường PTTH Nguyễn
Thị Minh Khai, TP Hồ Chí Minh). Còn bậc trung học công lập, từ năm 1936 - 1945,
toàn cõi Việt Nam chỉ có 3 trường: Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký (Nam kỳ), Lycée
du Protectorat (còn gọi Trường Bưởi, Bắc kỳ) và Lycée Khải Định (Trung kỳ). Trong
Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản bằng tiếng Pháp ở Paris năm 1925, Nguyễn
Ái Quốc đã thống kê tình hình giáo dục tại Việt Nam thời đó: “Lúc ấy, cứ 1.000 làng
thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng
đó, lại chỉ có vẻn vẹn 10 trường học” (76[31]). Cũng theo Nguyễn Ái Quốc, nhân
dân “khẩn khoản đòi mở trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng. Mỗi
năm, vào kỳ khai giảng, nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi thần thế,
có khi chịu trả tiền gấp đôi tiền nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học.
Và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường”. Người cho rằng “làm
cho dân ngu để dễ trị” là chính sách mà thực dân Pháp “ưa dùng nhất” ở các thuộc
địa (77[32]).
Trong một bản báo cáo gửi về Paris, viên Thống đốc dân sự đầu tiên Le Myre
de Vilers đã viết về Biên Hòa và Nam kỳ trước năm 1879, tức thời kỳ thực dân Pháp
phải đối phó nhiều với phong trào kháng chiến của nhân dân ta như sau: “Vì thiếu
phương tiện giao thông nhanh chóng, sự liên lạc giữa Sài Gòn và nội địa hầu như
không làm được. Rất ít người Âu đi qua Mỹ Tho hay Biên Hòa...”. Nhưng vài năm
(76[31]) Nguyn Ái Quc; Bn án chế độ thc dân Pháp; Nxb. Stht; Hà Ni; 1975; tr.32.
(77[32]) Nguyn Ái Quốc; Sđd; tr. 103, 104, 105.

21.10 Page 210

▲back to top


sau đó, “ không làng nào không có sở bưu điện phục vụ. Chỉ trong vòng 24 giờ đồng
hồ là đã có thể di chuyển quân đội ra khắp nơi...”. Và, quan trọng hơn, “ xứ Nam kỳ
hàng năm mang về cho nước Pháp 20 triệu francs. Không một xứ sở nào trên thế
giới lại bộc lộ một sự phát triển nhanh chóng, một sức sống mạnh mẽ như vậy
“(78[33]). Thế nhưng, sự phát triển về văn hóa - giáo dục lại là một chuyện khác. Từ
năm 1897 - 1901, giáo dục Biên Hòa hầu như giẫm chân tại chỗ. Năm này, Biên Hòa
vẫn 16 tổng, 160 làng, dân số 102.941 người. Song, số trường học công vẫn bằng
năm 1897 gồm: 1 trường địa hạt đặt tại tỉnh lỵ (tức Trường tiểu học Nguyễn Du sau
này) có 5 giáo viên (1 người Pháp, 4 người Việt), với 182 học sinh; 4 trường tổng
(sơ học) do các giáo viên người Việt phụ trách, với 196 học sinh. 4 trường tổng đó
đặt tại: Bình Trước (tỉnh lỵ), Tân Uyên (tổng Chánh Mỹ trung), Bình Mỹ (tổng
Phước Vĩnh trung) và Bến Gỗ (tổng Long Vĩnh trung), tức là 4 trường đã có từ trước.
Như vậy, toàn tỉnh Biên Hòa hồi đầu thế kỷ XX chỉ có 378 học sinh (trường công).
Bình quân, 272 người dân mới có 1 học trò sơ học (79[34]).
Hơn 20 năm sau, người Pháp ghi những dòng rất tự hào về giáo dục ở Biên
Hòa: “Nền giáo dục Pháp - Việt được bảo đảm đầy đủ ở trường tiểu học tỉnh lỵ, là
cơ sở rất quan trọng gồm 15 thầy giáo, 500 học trò, còn 11 trường tổng (kể cả các
trường Thượng ở núi Chứa Chan và An Bình) và 16 trường xã “ (80[35]).
11 trường tổng gồm: Bình Trước (tổng Phước Vĩnh trung), Tân Uyên (tổng
Chánh Mỹ trung), Bến Cá, Cây Đào (tổng Phước Vĩnh hạ), Bến Gỗ (tổng Long
Vĩnh thượng), Chợ Đồn (tổng Chánh Mỹ thượng), Mỹ Lộc (tổng Chánh Mỹ hạ),
Long Thành, Phước Long (tổng Thành Tuy thượng), Tân Ba (tổng Chánh Mỹ
trung), An Bình (tổng Bình Cách), Chứa Chan (thuộc các tổng người dân tộc, chưa
rõ tổng nào). Tổng số học sinh các trường tổng ở Biên Hòa là 979 (trong đó có 81
học sinh nữ).
Cuốn Monographie de la Province de Bien Hoa (năm 1924) cho biết, toàn
tỉnh có 16 trường xã do các làng bảo trì, chăm lo với khoảng 2.000 học sinh (179
học sinh nữ). Sách này viết, số học sinh ghi tên học các trường xã đông hơn (khoảng
2.900), “nhưng số vắng mặt còn nhiều vì: sốt rét theo mùa và việc dùng trẻ em thu
hái mùa màng”. Như vậy, toàn tỉnh có khoảng 3.479 học sinh trường công. Điều
đáng lưu ý là do tác động của chính sách phát triển “giáo dục theo chiều ngang” mà
Biên Hòa thời ấy chỉ có 14% học sinh tiểu học. Cả tỉnh chỉ có một trường tiểu học
hoàn chỉnh (École primaire de plein exercice) đặt ở tỉnh lỵ dạy đến lớp nhứt (cours
(78[33]) Dẫn theo Đinh Xuân Lâm; Tp chí Xưa và nay; s35B, tháng 7.1998; tr.31 - 32.
(79[34]) Sliệu được trích tMonographie de la Province de Biên Hòa, 1901 (Bn dch Nguyn Yên Tri).
(80[35]) Monographie de la Province de Biên Hòa, 1924 (Bn dch Nguyn Yên Tri).

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Supérieur), tương đương lớp Năm bây giờ). Tất cả các trường còn lại đều là trường
sơ học (École Elémentaire), gồm 3 lớp: Đồng ấu (cours enfantin), Dự bị (cours
préparatoire), Sơ đẳng (cours Elémentaire) và các trường làng (École Communale)
ở những làng, dạy đến lớp Dự bị.
Từ năm 1928 - 1936, dưới sự cai trị của các Toàn quyền Đông Dương P.
Pasquier và Robin, phong trào vận động dân sinh dân chủ và cách mạng bị đàn áp,
nhiều biện pháp xã hội nghiêm khắc được áp dụng, thực dân Pháp mở các trường
công kiểu nhỏ giọt. Năm 1936, toàn tỉnh Biên Hòa mới có 4 trường tiểu học, gồm:
Trường tỉnh lỵ (Trường tiểu học Biên Hòa), Trường Phước Thiền (quận Long
Thành), Trường Tân Uyên (quận Tân Uyên), Trường Bến Cá (tức Trường Bình Hòa,
quận Châu Thành). Trừ Trường tỉnh lỵ, các trường tiểu học khác đến năm 1938,
1939 mới có học sinh thi lấy bằng Tiểu học, còn gọi là Sơ đẳng Pháp - Bản xứ
(Certificat dEtudes Primaire Franco - Indigène); đến trước Cách mạng Tháng Tám
vẫn không có gì thay đổi. Bởi vậy, một vùng rộng mênh mông như Long Thành,
Nhơn Trạch trước năm 1945 chỉ có 1 thanh niên đậu Tú tài, và chỉ có 4 phụ nữ đậu
bằng sơ học.
II.1.5. Về giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề:
Thời phong kiến trên đất nước ta không có loại hình trường chuyên nghiệp
hay dạy nghề do Nhà nước lập ra như ngày nay. Các nghề được đào tạo theo kiểu
“cha truyền con nối” hay ở các làng nghề. Buổi đầu khi mới chiếm được Nam kỳ,
giáo dục phổ thông chưa phải là ưu tiên phát triển đối với người Pháp. Các trường
đầu tiên là những trường mang tính chất “dạy nghề” như Trường Pigneau de Béhaine
(thành lập theo nghị định ngày 21 - 9 - 1861 của Phó thủy sư đô đốc Charner) để đào
tạo thông ngôn, thư ký mà người học là binh lính, viên chức; Trường thông ngôn
(Collège des Interprèses, theo Nghị định ngày 16 - 7 - 1864 của Thống đốc Nam kỳ
Bonard); Trường tập sự (Collège des Stagiaires, 20.2.1873) đào tạo nhân viên hành
chính... Mãi đến gần cuối thế kỷ XX, những trường dạy nghề mới thực sự ra đời
như: Trường bá nghệ ở Hà Nội (École professionnelle de Hanoi, 5.1898), Trường
cao đẳng công chính (École Supérieure des Travaux Publics, 25.12.1918)... Đây là
thời kỳ chính quyền thuộc địa thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai. Giáo dục
chuyên nghiệp được chú trọng hơn nhằm mục đích đào tạo thợ chuyên môn hoặc
đốc công, đáp ứng nhu cầu mở rộng công nghiệp ở Việt Nam. Chính Klobukowski,
viên Toàn quyền Đông Dương áp dụng chính sách dùng cường quyền, đóng cửa đại
học, các hội đồng đại biểu và Nha học chính đã khẳng định: “Giáo dục trung học
chuyên nghiệp có một nguồn tư bản rất quan trọng ở một xứ kỹ nghệ địa phương và
kỹ nghệ Âu châu đang phát triển rầm rộ” (81[36]). Những năm này, chính quyền
(81[36]) Dn theo tp chí Nghiên cu lch s, s98, tháng 5.1967, tr. 48.

22.2 Page 212

▲back to top


thuộc địa liên tục cho mở các Trường kỹ nghệ ở Sài Gòn, Hà Nội, Trường bách công
ở Huế, các Trường mỹ nghệ ở Biên Hòa,Thủ Dầu Một, Hà Tiên, Sa Đéc, Cần Thơ,
Nam Định, Hải Phòng, Hưng Hóa, Sơn Tây... dạy nhiều nghề khác nhau.
Trường dạy nghề (bá nghệ) Biên Hòa được thành lập năm 1903, đặt tại tỉnh
lỵ, do một kỹ sư người Pháp tên J.Lamorte làm Hiệu trưởng. Ban đầu, trường có các
bộ môn: mộc, rèn, đúc, đồng, gốm, đan lát, gia chánh. Năm 1916, ông A. Joyeux
thay thế J. Lamorte làm Hiệu trưởng, chỉ giữ lại các môn gốm và đúc, cho nghiên
cứu các sắc thái men gốm nhưng không thành công. Trường đổi tên là Trường mỹ
nghệ Biên Hòa (Ecole d’ Art de Biên Hòa) Từ năm 1923, khi R.Balick, một người
vừa tốt nghiệp Trường mỹ thuật Paris sang điều khiển thì những sản phẩm gốm của
trường mới bắt đầu nổi tiếng. Sách Monographie de la Province de Biên Hòa, năm
1924, đã viết: “Trường đã nổi tiếng, dù sản phẩm có hạn, tổ chức không nhằm bán
nhiều hàng nhưng để giáo dục kỹ thuật cho thợ mỹ thuật bản xứ. Cũng chính lý do
này đã gạt bỏ khỏi trường việc sử dụng ở trường một thứ vật liệu sản xuất quá tốn
kém và quá hiện đại mà học trò chỉ có thể dùng trong nhà trường và nó đi sai chương
trình giáo dục, đến nỗi các người lãnh đạo muốn trước hết, có mục đích chuẩn bị
cho những thợ thủ công Nam kỳ hành nghề tiểu thủ công tại nhà...” . Từ đây, Trường
mỹ nghệ Biên Hòa “đào tạo nghệ nhân cho cả Nam kỳ” và đoạt nhiều giải thưởng
tại các triển lãm quốc tế về gốm mỹ thuật. Trước năm 1945, bên cạnh ông bà R. và
M. Balick là người Pháp trường có những giáo viên người Việt là nghệ nhân nổi
tiếng như: Bùi Văn Chà, Huỳnh Văn Thọ, Võ Kim Đôi (ngành gốm), Đặng Văn
Quới, Bạch Đường Khúc, Trần Văn Ơn (ngành đồng)... Tuy nhiên, do trung thành
với mục tiêu ban đầu là “đào tạo hay hoàn thiện cho thợ và đốc công Việt Nam” nên
quy mô đào tạo không lớn (bao giờ cũng từ 50 học sinh trở xuống) và không “quá
tốn kém và quá hiện đại”. Năm 1944, trường đổi tên thành Trường mỹ nghệ thực
hành Biên Hòa (Ecole d’art appliqué de Bien Hoa). Năm 1963 - 1964, trường mang
tên Trường trung học kỹ thuật Biên Hòa (do Nha kỹ thuật học vụ, Bộ giáo dục chính
quyền Sài Gòn quản lý). Năm 1976 - 1977, trường đổi tên thành Trường phổ thông
công nghiệp tỉnh Đồng Nai. Đến năm 1998, trường được quyết định nâng cấp thành
Trường cao đẳng mỹ thuật Đồng Nai, vẫn thuộc Bộ văn hóa - thông tin quản lý; nằm
trong hệ thống các trường cao đẳng, đại học của quốc gia. Hiện nay, trường đào tạo
5 ngành nghề: gốm mỹ thuật, đồ họa công nghiệp, điêu khắc chất liệu, trang trí nội
thất, trang trí kim loại.
Trước năm 1923, tại Biên Hòa, một trường chuyên nghiệp cũng được thành
lập. Đó là Trường nữ công gia chánh, dành cho học sinh nữ người bản xứ, được đặt
tại tỉnh lỵ. Trường mở các khóa gia chánh, may vá, thêu thùa. Số học sinh đến cuối
năm 1923 là 66 người. Ban đầu, Hiệu trưởng cũng là một nữ giáo viên người Pháp,
rồi sau mới là người Việt. Trường chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn rồi tự giải thể.

22.3 Page 213

▲back to top


II.2. Các loại hình giáo dục ngoài công lập:
II.2.1. Các trường lớp của giáo hội Công giáo (82[37]):
Năm 1862, Chasseloup Laubat, Bộ trưởng hải quân và thuộc địa Pháp đã viết
cho Thiếu tướng, Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh tại Việt Nam như sau: “Tôi
muốn nền văn minh Thiên Chúa giáo có được một căn cứ to lớn trong vùng đất mới
chiếm của chúng ta, để tỏa chiếu trên các vùng đất còn các tập quán man rợ đó
(83[38]). Thực dân Pháp cũng ý thức được rằng, “Sau khi người lính đã hoàn thành
sự nghiệp của mình thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ
(Besancon Jules). Để thực hiện ý đồ, thực dân Pháp một mặt bình định vùng đất mới
chiếm đóng, mặt khác tách nhân dân Việt Nam khỏi các mối liên hệ với văn hóa,
lịch sử dân tộc bằng cách triệt hạ tôn giáo và văn hóa cổ truyền. Hệ thống trường
dòng đã trở thành phương tiện đồng hóa hiệu quả nhất. Thống đốc Bonard đã giao
cho thuộc cấp thành lập ngay hệ thống trường này ở các tỉnh vừa chiếm được. Viên
phụ tá của Bonard, Thiếu tá Aubaret đã nhận xét: “Các trường học sẽ là cơ hội tốt
để chúng ta đồng hóa hoàn toàn dân tộc này. Ngay cùng lúc chúng ta ắp nó lên hàng
các quốc gia dùng tiếng châu Âu bằng cách bãi bỏ chữ Nho...”. Do đó, ở Nam kỳ,
trước khi các trường học thế tục Pháp - Việt ra đời thì các trường học của giáo hội
Công giáo đã “đóng vai trò quan trọng trên con đường thực hiện chính sách thực
dân, chính sách cải đạo và đồng hóa một dân tộc (84[39]). Và hệ thống giáo dục
này đã hầu như giữ vai trò độc quyền cho đến cuối thế kỷ XIX. Hệ thống giáo dục
này được đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền và những người truyền giáo được
giao nhiệm vụ tổ chức và đào tạo. Hệ thống giáo dục trong Dòng được chia thành 2
bậc: sơ đẳng và trung đẳng... Bậc trung đẳng nhằm đào tạo những người có khả năng
giữ trọng trách trong bộ máy cai trị. Bậc sơ đẳng được chú trọng hơn vì đối tượng
của nó là trẻ em. Tốc độ phát triển của các trường này rất nhanh. Tại Biên Hòa, nơi
có những nhà thờ và dòng tu từ trước khi thực dân Pháp xâm chiếm, sau năm 1861,
các trường của giáo hội Công giáo lại có dịp phát triển hơn. Năm 1863, Biên Hòa -
Gia Định mới chỉ có một trường chưa đến 100 học sinh thì năm 1865 đã có trên 20
trường với 800 học sinh. Đến năm 1868, Nam kỳ có 56 trường với 1.300 học sinh;
(82[37]) Lâu nay, nhiu tài liệu thường dùng từ "Thiên Chúa giáo" thay cho "Công giáo". Đây là cách viết theo thói
quen, không đúng. Trong bộ Địa chí Đồng Nai này, tôn giáo này được viết là đạo "Công giáo". Nhng chdùng
"Thiên chúa giáo" chỉ ở trong nhng trích dẫn nguyên văn tài liệu (B.T).
(83[38]) Dn theo GS. Hồ Sĩ Khoách; Tìm hiu mi liên hgia chính sách thc dân và Gia Tô trong vic thiết lp
thuộc địa Pháp Nam ktrong Mt svấn đề lch sử đạo Thiên Chúa trong lch sdân tc Vit Nam; y ban khoa
hc xã hi Vit Nam và Ban Tôn giáo chính ph; 1988; tr. 200.
(84[39]) GS. Hồ Sĩ Khoách; Sđd; tr. 208.

22.4 Page 214

▲back to top


năm 1869 có 104 trường với 3.200 học sinh(85[40]).
Đến năm 1901, khi các trường thế tục đã được mở thì những trường Dòng
vẫn chiếm số lượng nhiều hơn, với 6 trường. Chúng được “duy trì và điều khiển bởi
các giáo sĩ ”. Các trường được đặt tại: Bình Trước (tỉnh lỵ), Tân Triều đông, Phước
Vĩnh (xóm Bò Nứa), Long Bình (xóm Long Điềm), Mỹ Hội, Phước Thành. Tổng số
học sinh là 229, trong đó có 79 học sinh nữ (86[41]). Đến năm 1924, cũng vẫn 6
trường này, nhưng số học sinh đã là 330, trong đó có 80 học sinh nữ (87[42]) .
Ở các trường học này, nhà cầm quyền đã “buộc các em bé này muốn được
nhận vào cần phải rửa tội trước ”, bởi vì như vị linh mục Wibaux đã viết trong thư
gửi Thống đốc Bonard: “Trường học sẽ không phải chỉ là các cơ sở để dạy chữ Pháp
và các hiểu biết thường thức, mà còn phải là nơi dạy đạo cho trẻ em, và chúng ta có
thể hy vọng rằng tại đó, chúng ta không những đào tạo người Pháp mà còn con
chiên nữa... Vì thế, việc lập các trường học là phương tiện tốt nhất cho chính sách
thuộc địa và việc truyền đạo”(88[43]). Dĩ nhiên, không phải tất cả học sinh Biên
Hòa nào học các trường này cũng đều trở thành “người Pháp” hay “con chiên” như
nhà cầm quyền mong đợi và hệ thống giáo dục nhà Dòng mặc dù vẫn còn nhiều ưu
đãi nhưng đã không còn giữ vị trí “độc quyền” khi giáo dục thế tục hình thành và
phát triển.
II.2.2. Các trường dân lập, tư thục:
a) Như đã nói ở trên, ngay từ buổi đầu xâm chiếm Nam kỳ, thực dân Pháp
đã tìm mọi cách cắt đứt mối liên hệ của nhân dân ta với văn hóa và lịch sử dân tộc.
Ngược lại, đối với người dân, giữ lấy văn hóa và nhớ đến lịch sử đồng nghĩa với yêu
nước. Do đó, khi thực dân Pháp mở trường, bày trò dụ dỗ, số lượng học sinh vẫn
không đáng kể. Hàng loạt nghị định ra đời nhằm cổ xuý cho tiếng Pháp, chữ quốc
ngữ, cấm sử dụng, cấm học chữ Nho - thứ chữ viết đã gắn bó mật thiết và trở thành
một bộ phận của văn hóa dân tộc, nhưng chúng vẫn không ngăn cản được số đông
học sinh tìm đến các trường, lớp của những thầy đồ. Khi ban hành sắc lệnh đầu tiên
cấm sử dụng chữ Nho ngày 13 - 9 -1869, Thống đốc Nam kỳ G. Ohier đã viết: “Biện
pháp này có một lợi ích quan trọng vì nó bứng bỏ dần dần việc dùng chữ Nho vốn
là nguyên nhân chận đứng sự đồng hóa người bản xứ và là một trở lực cho nền cai
trị của chúng ta”. Thế mà, hơn 10 năm sau, năm 1874, “các trường của thầy đồ học
(85[40]) Theo GS. Hồ Sĩ Khách; Sđd; tr.207 - 208.
(86[41]) Monographie de la Province de Bien Hoa; năm 1901.
(87[42])Monographie de la Province de Bien Hoa; năm 1924.
(88[43]) Dn theo GS. Hồ Sĩ Khách; Sđd; tr. 207.

22.5 Page 215

▲back to top


sinh vẫn học như lối cũ ”. Tình hình đó làm thực dân Pháp lo ngại, chúng tiếp tục dụ
dỗ người học lẫn người dạy. Còn các viên chủ tỉnh thì thường xuyên “thăm viếng”
trường học. Viên Thanh tra công việc bản xứ Paubaret Vial đã viết như sau: “Không
bao giờ Đô đốc De la Grandière (tức Thống đốc Nam kỳ) đi thăm một làng mà
không ghé vào trường học, ông hỏi han học trò, bảo học trò viết một bài tập hay giải
những phép tính trên bảng đen. Rồi chính tự ông phân phát phần thưởng hay những
đồ chơi đến tay những ai trả lời tốt hơn cả. Tuy còn ít ỏi, nhưng những số liệu sau
đây chứng minh cho hiện trạng đó. Theo số liệu của chính thực dân Pháp thì đến
ngày 1 - 1 - 1886, ở Nam kỳ vẫn còn 426 thầy đồ dạy 8.496 học sinh. Nếu so với
tổng số học sinh toàn Nam kỳ hồi đó là 27.473 người (kể cả học sinh trường Dòng)
thì học sinh học chữ Nho vẫn chiếm trên 30%. Tại Biên Hòa, đầu thế kỷ XX, người
Pháp cho rằng các lớp tư thục học chữ Nho tồn tại ở “các làng ít quan trọng” do các
thầy đồ già đảm trách. Thế nhưng, số học sinh này đã gấp 3 lần học sinh trường quận
(652/ 182).
b) Từ sau khi có Quy chế giáo dục tháng 11.1874 của Thống đốc Nam kỳ
Duperré, cấm các trường tư không được mở nếu không được phép của chính quyền
thì các loại hình trường lớp do nhân dân lập ra hoạt động khó khăn hơn. Đến năm
1924, tỉnh Biên Hòa, theo ghi nhận của người Pháp, các trường tư học chữ Nho và
quốc ngữ chỉ có khoảng 500 học sinh. Đây cũng là tình hình chung của cả Nam kỳ
lúc bấy giờ. Theo tài liệu của Pháp, vào năm 1930, Nam kỳ có 1591 trường công các
loại với 138.330 học sinh. Trong khi đó, tất cả các loại trường tư chỉ có 30 với 3.500
học sinh.
II.3. Phong trào đấu tranh của thầy giáo và học sinh Biên Hòa:
II.3.1. Trước năm 1945, nhất là từ đầu thế kỷ XX, ở nước ta xuất hiện nhiều phong
trào yêu nước và cách mạng. Đây chính là tiền đề làm xuất hiện dòng giáo dục yêu
nước, ban đầu do các sĩ phu phong kiến, sau là các tổ chức chính trị của giai cấp vô
sản chỉ đạo. Do những đặc điểm lịch sử nhất định, Biên Hòa cũng như Nam kỳ hồi
đó, các phong trào giáo dục này bị chính quyền thực dân Pháp cản trở nên phát triển
chậm hơn và không sôi nổi như Bắc và Trung kỳ(89[44]), nhất là sau cuộc khởi
nghĩa bất thành của nhà nho Đoàn Văn Cự.
Đoàn Văn Cự sinh năm Ất Mùi (1835), ở huyện Bình An, phủ Phước Long,
tỉnh Biên Hòa (90[45]). Cha ông là nhà nho uyên thâm, giàu lòng yêu nước nhưng
(89[44]) Xem thêm Lch sgiáo dc Việt Nam trước Cách mng Tháng 8.1945; Nxb. Giáo dục; 1996; chương VII,
phn B: Shình thành, phát trin dòng giáo dục yêu nước trong nửa đầu thế kXX.
(90[45]) Hu hết các tài liu viết về Đoàn Văn Cự (Người Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, 1995; Biên Hòa - Đồng Nai
300 năm hình thành và phát triển, Nxb. Đồng Nai, 1998...) đều căn cứ vào tư liệu của Lương Văn Lựu: Biên Hòa s
lược toàn biên, Quyn thII, Tác gixut bản, 1972. Ông Lương văn Lựu viết: “Đoàn Văn Cự ...sinh năm 1835, tại

22.6 Page 216

▲back to top


gặp lúc vận nước đang suy, lại bị theo dõi nên đã bỏ nhà tha hương. Đoàn Văn Cự
nối chí cha, đem cả gia đình về bưng Kiệu, thôn Vĩnh Cửu, tổng Phước Vĩnh thượng,
huyện Phước Chánh. Khi ấy, bưng Kiệu là rừng. Chính ở đây, ông đã dạy học, bốc
thuốc và vận động đồng bào đấu tranh chống quân xâm lược. Trong 3 năm, Đoàn
Văn Cự đã tích trữ lương thực, khí giới, tập luyện nghĩa quân. Đông đảo nhân dân
miền Đông, nhất là các vùng Bình Đa, chợ Chiếu (Hiệp Hòa), núi Nứa (Bà Rịa) ủng
hộ nhiệt tình nghĩa quân Đoàn Văn Cự.
Ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905), thực dân Pháp điều động một tiểu
đội mã tà đến thôn Vĩnh Cửu. Đoàn Văn Cự đã triệu tập hàng trăm nghĩa quân chuẩn
bị nghênh chiến. Nhưng chúng lại không tiến đánh. Khi cụ vừa cho nghĩa binh rút
thì quân Pháp lại kéo đến đông hơn. Lần này, một viên đại úy trực tiếp chỉ huy. Tên
đại úy cùng viên thông ngôn và hai lính hộ vệ xông vào nhà cụ Đoàn Văn Cự. Trong
trang phục uy nghi, đầu chít khăn lụa điều, mình thắt dây lưng vải hồng, cụ rút đoản
đao đầu hổ chém vào đầu tên đại úy. Tuy bị thương nhưng tên địch đã rút súng bắn
mấy phát khiến cụ Đoàn Văn Cự chết ngay trước bàn thờ tổ. Sau đó, quân địch bắn
phá vào doanh trại của nghĩa quân. Trong cơn binh lửa, 16 nghĩa binh của Đoàn Văn
Cự đã hy sinh, số còn lại chạy thoát vào rừng.
Tuy sớm thất bại nhưng Đoàn Văn Cự và nghĩa quân của ông đã nêu cao cờ
nghĩa chống ngoại xâm vào thời kỳ đen tối nhất của lịch sử lúc bấy giờ, khi thực dân
Pháp đã chiếm trọn đất nước ta và hầu hết các cuộc khởi nghĩa do sĩ phu phong kiến
lãnh đạo đã thất bại. Hàng năm, cứ đến ngày mồng 8 - 4, nhân dân Biên Hòa đều
thiết lễ giỗ tưởng nhớ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa quân của ông hy sinh tại ngôi đền
được xây cất vào năm 1956 ở phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa. Còn mộ của
Đoàn Văn Cự và các nghĩa quân đến nay vẫn còn ở phường Long Bình, bên cạnh
dòng suối Linh.
II.3.2. Tuy không thành cao trào rộng lớn nhưng phong trào đấu tranh của nhà giáo,
học sinh, thanh niên Biên Hòa vẫn như ngọn lửa âm thầm, hễ có dịp là bùng phát.
Chẳng hạn, vào năm 1937, học sinh Đinh Văn Do (tên thật là Trần Văn Do), học
sinh Trường mỹ nghệ thực hành Biên Hòa chịu ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản,
qua đảng viên Nguyễn Văn Nghĩa, đã làm đơn gửi Brévié, Toàn quyền Đông Dương,
đòi tăng lương cho thợ và yêu cầu thực hiện ngày làm 8 giờ. Các anh: Phạm Tấn Bộ,
Trần Văn Hộ, Trần Văn Năm cùng ký tên với Trần Văn Do. Khi công nhân Hãng
cưa BIF bãi công, học sinh Trường mỹ nghệ thực hành cũng đã bãi khóa hưởng ứng
Bình An Thủ Đức (Gia Định)” (tr.186). Chỗ này, ông Lương Văn Lựu nói không rõ. Vào năm 1835, huyện Bình An
(nay là huyn Thủ Đức, tp. HChí Minh) thuc phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa. Mãi đến năm 1866, thực dân Pháp
chia tỉnh Biên Hòa thành 6 địa ht, huyn Bình An mi trở thành địa ht Bình An và t1871 trthành mt bphn
ca tnh ThDu Mt. Chúng tôi nghĩ, ông Lương Văn Lựu ghi như vậy là đối chiếu với địa danh Bình An khi viết
sách (BQH).

22.7 Page 217

▲back to top


theo. Vì chuyện này, anh Trần Văn Do bị cảnh sát bắt giam về tội “phá rối trị an”.
Hiệu trưởng của Trường mỹ nghệ thực hành Biên Hòa đã cho anh Do vài tháng học
bổng rồi... đuổi học.
Từ giữa năm 1944, phong trào truyền bá quốc ngữ (91[46]) sau nhiều năm
bị cấm đoán, đã phát triển ở Nam kỳ. Tháng 8 - 1944, Thống đốc Nam kỳ buộc phải
ký lệnh cho phép Hội hoạt động. Ngay trong năm này, nhiều tỉnh như: Gia Định,
Biên Hòa, Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre, Long Xuyên, Sa Đéc... đã thành lập chi hội
truyền bá quốc ngữ. Một số nơi đã mở lớp học xuống tận xã. Tính đến tháng 8.1945,
sau 7 năm hoạt động, Hội truyền bá quốc ngữ đã lập được 51 chi hội (Bắc kỳ: 30;
Trung kỳ: 15; Nam kỳ: 6); mở 857 lớp có 59.827 học viên sơ cấp và 10.000 học viên
“cao đẳng” (bổ túc sau xóa mù); huy động 1971 giáo viên tham gia; in và phát cho
học viên 17.500 cuốn sách. Đó là thành quả hết sức to lớn nếu so với gần 18 triệu
người mù chữ trên cả nước Việt Nam.
Ở Biên Hòa, Hội truyền bá quốc ngữ được chính thức thành lập vào tháng
11 - 1944, do Đoàn thanh niên tiền phong đỡ đầu, Câu lạc bộ thể thao Biên Hòa
(Cercle sportif de Biên Hòa) bảo trợ. Lãnh đạo Hội gồm: luật sư Lê Văn Trá (Hội
trưởng), Tôn Thất Hanh (Phó hội trưởng), Nguyễn Văn Thuyết (Thư ký), Hồ Văn
Thế (Thủ quỹ), Phan Văn Lung, Lương Văn Lựu, Huỳnh Thiện Nghệ (các uỷ viên:
giáo viên, khánh tiết và cổ động). Chiều thứ bảy, 25 - 11 - 1944, Hội tổ chức ra mắt
tại Câu lạc bộ thể thao Biên Hòa. Hôm đó, tất cả hội viên của Câu lạc bộ đều đến
dự, có 100 thanh niên tiền phong làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự và trên 200 đồng bào
trong xã Bình Trước, đa số là những người còn mù chữ. Sau ngày ra mắt, Hội mở
hai lớp truyền bá quốc ngữ tại Trường tiểu học tỉnh lỵ. Lớp tráng niên (dành cho
người lớn) có 53 học viên, do ông Phan Văn Lung phụ trách. Các ông Nguyễn Văn
Thuyết và Hồ Văn Thể dạy lớp dành cho thiếu nhi, có 46 em. Khi đi học, tất cả các
học viên đều được phát tập vở, viết, cuốn vần. Ngày mãn khóa được thưởng giấy
viết và sách vở. Các lớp học kéo dài từ ngày 26 - 11 - 1944 đến ngày 25 - 2 - 1945
(92[47]).
III. GIÁO DỤC BIÊN HÒA - ĐỒNG NAI TỪ 1945 - 1975:
III.1. Sự phát triển của giáo dục trong kháng chiến:
(91[46]) Hi truyn bá quc ngữ do Đảng CSVN lãnh đạo, được thành lp ttháng 8.1938, do cNguyễn Văn Tố
làm Hội trưởng. Hi phát trin trên toàn quc, trthành phong trào rng ln, nhằm “Truyn bá quc ng, dạy người
Vit Nam biết viết tiếng mình. Khi có thể được thì dạy cho người Vit Nam biết ít điều thường thc cho cuc sinh
hot hin thi ” (Điều lHi).
(92[47]) Theo li kca ông Nguyễn Văn Thuyết, thành viên ban lãnh đạo Hi truyn bá quc ngtnh Biên Hòa.

22.8 Page 218

▲back to top


III.1.1. Trong kháng chiến chống Pháp:
a) Là người đã từng lên án mạnh mẽ chính sách ngu dân và chủ trương đồng
hóa của thực dân Pháp, ngay từ khi mới thành lập Đảng (ngày 3 - 2 - 1930), trong
Chính cương vắn tắt, Bác Hồ đã đưa ra chủ trương “Phổ thông giáo dục theo hướng
công nông hóa“. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ Cách mạng lâm thời, Bác Hồ đề ra chương trình hành động gồm 3 vấn
đề: chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm. Sáu ngày sau đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh lại ký cả 3 sắc lệnh: Thành lập Nha bình dân học vụ, cơ quan phụ
trách ngành học cho người lớn tuổi, trước hết là xóa nạn mù chữ (Sắc lệnh số 17);
Trong toàn cõi Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình
dân buổi tối (Sắc lệnh số 19); Trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bách,
việc học chữ Quốc ngữ từ nay, bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn
trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc và biết viết
chữ Quốc ngữ (Sắc lệnh số 20). Khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Trung ương Đảng
đã chỉ thị cho ngành Bình dân học vụ phương hướng mới: Đi học là kháng chiến;
Mỗi lớp học là một tổ tuyên truyền kháng chiến; Mỗi giáo viên Bình dân học vụ là
một đội viên tuyên truyền kháng chiến; Có biết chữ kháng chiến mới mau thắng lợi;
Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương diệt giặc dốt. Như vậy, nền giáo dục mới đã
sớm được hình thành trong kháng chiến, có nội dung, phương hướng hẳn hoi.
b) Mặc dù ở xa Chính phủ Cách mạng lâm thời nhưng nền giáo dục kháng
chiến sớm hình thành và phát triển ở Nam bộ. Ngay từ năm 1946, phong trào xóa
mù chữ đã được phát triển rộng khắp. Đến tháng 8 - 1947, Ủy ban kháng chiến hành
chánh Nam bộ đã ra Quyết định thành lập Sở giáo dục Nam bộ và Viện văn hóa
kháng chiến Nam bộ, với nhiệm vụ “quét sạch tàn tích văn hóa nô dịch, ngu dân của
thực dân Pháp, xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam mà trước mắt là thanh toán nạn
mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, phát triển giáo dục phổ thông, bồi
dưỡng thế hệ trẻ thành những công dân tốt, người lao động tốt, người cán bộ phục
vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến, xây dựng đất nước ”. Ở Đồng Nai, nhà giáo
Nguyễn Văn Ngũ (tức Hoàng Minh Viễn) được cử làm Trưởng ban bình dân học vụ
tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 2.1948, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ có quyết
định chính thức bổ nhiệm ông Hoàng Minh Viễn làm Trưởng ty giáo dục tỉnh Biên
Hòa. Đây là quyết định đầu tiên và cũng là duy nhất của Ủy ban kháng chiến hành
chánh Nam bộ bổ nhiệm 6 trưởng ty giáo dục ở các tỉnh, trong đó có Biên Hòa.
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, ngành giáo dục tỉnh Biên Hòa đã chọn
xã Thái Hòa (huyện Tân Uyên) làm điển hình của phong trào xóa mù chữ trong thời
gian một tháng rưỡi. Đêm đêm, từng tốp thanh thiếu niên lặn lội đến từng nhà đồng
bào để vận động đốt đèn dầu đánh vần, viết chữ. Cả vùng kháng chiến rộng lớn, nơi
nào cũng có lớp học. Ty giáo dục Biên Hòa đóng ngay giữa rừng chiến khu Đ, quy
tụ nhiều thế hệ thầy giáo. Việc biên soạn sách giáo khoa được giao cho các thầy giáo

22.9 Page 219

▲back to top


đã từng dạy trước đó. Hầu hết các huyện đều thành lập ban giáo dục huyện. Tại các
xã do chính quyền cách mạng quản lý, có một trưởng ban giáo dục xã phụ trách.
Riêng huyện Tân Uyên gồm 20 xã, Ban giáo dục huyện, do ông Huỳnh Văn Bản
(sau này là nhà văn Hoàng Văn Bổn) làm Trưởng ban, đã mở được hai Trường tiểu
học kháng chiến. Học sinh bao gồm: con em cán bộ, trẻ mồ côi, các chú bé liên lạc,
công vụ các cơ quan, đoàn thể...(93[48]). Thầy giáo các Trường kháng chiến được
Ban giáo dục vận động từ vùng địch ra như: các thầy Tống Văn Phụng, Tống Hòa
Việt, Tô Bá Hùng, Mai Văn Tươi, Lệ Tâm... Sau khi học hết tài liệu do các thầy ở
địa phương soạn, Ban giáo dục huyện Tân Uyên cử người xuống tận rừng U Minh
tìm tài liệu ở Trường trung học sư phạm của giáo sư Hoàng Xuân Nhị về biên soạn,
in ấn, dùng cho hai trường và cả Ty giáo dục Biên Hòa. Còn ở chiến khu Phước An
(địa bàn huyện Nhơn Trạch ngày nay), từ năm 1948 - 1951, một Trường tiểu học
(Trường tiểu học chiến khu Phước An) cũng được mở với 5 giáo viên, lúc cao điểm
trường có 5 lớp với trên 80 học sinh.
Phong trào bình dân học vụ và giáo dục phổ thông ở tỉnh Biên Hòa những
năm 1946 - 1952 ở vào những tỉnh phát triển nhất của Nam bộ. Đến giữa năm 1948,
xã Thái Hòa (huyện Tân Uyên) cùng với xã Qưới Xuân, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia
Định là 2 xã đầu tiên của Nam bộ được kiểm tra và công nhận đã thanh toán nạn mù
chữ theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong năm này, toàn Nam bộ có 6 xã được
công nhận hoàn thành xóa mù chữ. Sang năm 1949, tỉnh Biên Hòa có thêm 14 xã
thanh toán nạn mù chữ, trong đó có Rừng Lá là nơi có nhiều đồng bào dân tộc
(94[49]). Như vậy, sau gần một thế kỷ dưới chế độ thực dân Pháp, hàng vạn người
nông dân Đồng Nai đã biết chữ. Đó là thành tựu hết sức to lớn của nền giáo dục
kháng chiến.
Bên cạnh đó, chính quyền Cách mạng đã cử nhiều cán bộ về tận vùng Cà
Mau, Bạc Liêu - nơi có Sở Giáo dục Nam bộ, để theo học các lớp trung học. Chính
những chủ trương đúng đắn này đã góp phần nuôi dưỡng những tinh hoa của một
nền giáo dục cách mạng và nhân dân trong nhiều năm liền đấu tranh gian khổ sau
này.
III.1.2. Trong kháng chiến chống Mỹ:
Hơn 20 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn cảnh nhiều khó
(93[48]) Xem thêm Ni san Giáo dc - đào tạo, Sgiáo dc - tào tạo Đồng Nai: Hoàng Văn Bổn, Knim vcông
tác giáo dc trong kháng chiến chng Pháp (s20.11.1995); Yên Tri: Ngành giáo dc tnh Biên Hòa thi kỳ đầu
chế độ Vit Nam dân chcng hòa (skhai giảng năm học 1995 - 1996); Trn Huy Anh, Nhà giáo Hoàng Minh
Vin - Trưởng ty giáo dục đầu tiên ca tnh Biên Hòa (sXuân Mu Dn, 1998).
(94[49]) Theo Trn Thanh Nam (chbiên): Sơ thảo 30 năm giáo dục min Nam (1945 - 1975); Nxb. Giáo dc;
1995; tr. 90.

22.10 Page 220

▲back to top


khăn, ác liệt hơn trước, nhưng nền giáo dục cách mạng vẫn được duy trì ở miền
Nam, đặc biệt là miền Tây Nam bộ, nơi có vùng kháng chiến rộng lớn.
Ngay sau năm 1954, Đảng đã bố trí nhiều cán bộ kháng chiến từ chiến khu
trở về hoạt động trong lòng địch như trực tiếp giảng dạy tại các trường, hỗ trợ phong
trào đấu tranh ở đô thị của nhiều tỉnh như: Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ
Tho... Tại Biên Hòa, Đảng đã cử đồng chí Phan Văn Phổ về Trường Thanh Khiết.
Hoặc Huyện ủy Vĩnh Cửu đã cử cán bộ về vận động thầy giáo Hồ Văn Thể đứng ra
làm Chủ tịch hội đồng xã. Thầy giáo Hồ Văn Thể (1903 - 1976) dạy học từ năm
1925, sau Cách mạng tháng Tám từng là Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến
xã Tam Hiệp (nay là các phường Tam Hiệp, Tam Hòa, Bình Đa, Tân Mai của thành
phố Biên Hòa). Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nhân dân làng Tam Hiệp đã
xiêu tán các nơi. Huyện ủy Vĩnh Cửu vận động thầy giáo Thể làm Chủ tịch Hội đồng
xã trong chính quyền ngụy nhằm mục đích tập hợp dân chúng trở về, tạo điều kiện
cho cán bộ ta dễ dàng hoạt động. Trong thời gian giữ chức vụ này (từ năm 1954 -
1960), thầy giáo Thể “đã che chở cho nhiều cán bộ nằm vùng, thậm chí đưa một số
vào bộ máy chính quyền xã: ông Mười Hậu và ông Năm Sang làm phó chủ tịch
“phong trào cách mạng quốc gia” xã Tam Hiệp, một số đoàn viên thanh niên lao
động vào dân vệ xã..., ông Tám Khỏe đã lấy giấy thông hành khống chỉ ở hội đồng
xã cho cán bộ ta có giấy tờ hợp pháp hoạt động”(95[50]).
Tháng 10 - 1962, Trung ương Cục miền Nam đã thành lập Tiểu ban giáo dục
Miền. Ngày 13 - 2 - 1963, đường lối giáo dục của miền Nam được Trung ương Cục
vạch rõ: “Dựa vào lực lượng nhân dân, cán bộ giáo dục và các nhà giáo yêu nước,
kiên quyết đả phá chính sách ngu dân và các hình thức giáo dục nô dịch, phản động,
ngoại lai, đồi trụy của Mỹ - ngụy, tích cực xây dựng một nền giáo dục dân tộc, dân
chủ và khoa học theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm bồi dưỡng chính trị, văn hóa cho
nhân dân lao động trước nhất là cán bộ và chiến sĩ, nhằm đào tạo thế hệ trẻ toàn
diện, biết căm thù giặc sâu sắc, biết yêu nước nồng nàn, có kiến thức, đạo đức và
sức khỏe để tiếp tục sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và kiến thiết xã hội sau này
(Thông tư 44/TT). Từ đó, ở các vùng kháng chiến, đã hình thành nên các Trường
giáo dục tháng Tám, Trường sư phạm Miền, tổ chức Đại hội giáo dục toàn miền
Nam Việt Nam...
Ở rừng chiến khu Đ miền Đông Nam bộ, sau những đợt càn quét của địch,
đồng bào vào rừng lập làng. Tại đây, bà con đốn gỗ dựng trường lớp và tổ chức
những lớp. Các Trường Văn Chính đã thành lập ở Bình Dương, Tây Ninh... Hai năm
1964 và 1965 được xem là mạnh nhất của giáo dục kháng chiến thời chống Mỹ.
(95[50]) Yên Tri; Thy giáo Hồ Văn Thể, một nhân sĩ trí thức; Ni san Giáo dc - đào tạo; SGD - ĐT Đồng Nai;
sra ngày 20.11.1994.

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Từ năm 1970, chiến trường Nam bộ, nhất là miền Đông, ác liệt. Mỹ mở nhiều
cuộc càn quét rộng lớn, các khu ủy miền Trung và Đông phải lánh sang đất bạn,
phong trào giáo dục kháng chiến bước vào thời kỳ khó khăn nhất. Tuy vậy, nhiều
địa phương đã mở rộng các hình thức tuyên truyền, đấu tranh trong học sinh, giáo
chức vùng tạm chiếm. Đặc biệt, trong các nhà tù, những chiến sĩ cách mạng một mặt
không ngừng đấu tranh, một mặt vẫn tổ chức nên các lớp học ngay trong tù.
Nhà lao Tân Hiệp ở tỉnh Biên Hòa nằm trong số các nhà tù lớn của chế độ
Mỹ - ngụy lúc đó. Tại đây, địch đã giam khá nhiều trí thức yêu nước và cách mạng.
Khi Hiệp định Paris được ký kết, phong trào đấu tranh của đồng bào đòi thả tù chính
trị diễn ra khắp nơi. Ngày 23 - 2 - 1973, 11 nữ giáo chức và sinh viên bị giam tại
Nhà lao Tân Hiệp đã dũng cảm gửi một tâm thư ra ngoài tố cáo chế độ lao tù của
Mỹ - ngụy (96[51]).
Cũng trong những năm kháng chiến, nhiều đoàn cán bộ giáo dục từ miền Bắc
đã chi viện vào miền Nam. Tháng 9 - 1972, Tiểu ban giáo dục Miền đã đưa đoàn cán
bộ về xây dựng Khu giáo dục miền Đông Nam bộ, do đồng chí Sáu Nguyên (tức
Nguyễn Văn Nguyên, sau là: Giám đốc Sở giáo dục khu Đông Nam bộ, Trưởng ty
giáo dục tỉnh Đồng Nai) làm Trưởng tiểu ban. Tại Biên Hòa, tháng 12 - 1973, được
Sở giáo dục khu Đông tăng cường cán bộ, Tỉnh ủy Biên Hòa mở trường phổ thông
cơ sở của tỉnh tại vùng giải phóng Cây Gáo. Trường do đồng chí Nguyễn Sỹ Huấn
phụ trách, giáo viên Bùi Quang Tú. Trường dạy văn hóa từ lớp 1 đến lớp 5 cho các
em ở vùng giải phóng và dạy bổ túc văn hóa cho nhiều cán bộ, chiến sĩ của tỉnh,
huyện, xã. Nhờ đó, ở miền Đông, tỉnh Bình Phước, nơi có vùng giải phóng rộng đã
thành lập được Ty giáo dục tỉnh và ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng,
tổ chức giáo dục mới đã sớm đi vào hoạt động.
III.2. Giáo dục trong vùng tạm chiếm:
III.2.1. Từ năm 1945 - 1954:
a) Khi trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp vấp phải sự chiến đấu quật
cường của nhân dân. Do đó, công việc chính của chúng là dùng vũ lực để mở rộng
các vùng tạm chiếm đóng hòng tái lập chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, càng lúc cuộc
kháng chiến của nhân dân ta càng lớn mạnh. Vì vậy, những chính sách về văn hóa -
xã hội của thực dân Pháp tuy mục đích không thay đổi so với trước nhưng từng lúc
lại có những nhượng bộ và nửa vời. Việc học sinh người Việt vào các trường trung
và tiểu học Pháp không bắt buộc phải có quốc tịch Pháp như trước. Mặt khác, do
phong trào đấu tranh của quần chúng, của học sinh, sinh viên Việt Nam, thực dân
(96[51]) Theo HHu Nht; Phong trào đấu tranh chng Mca giáo chc, hc sinh sinh viên Sài Gòn; Nxb. tp.
HChí Minh; 1974; tr.174.

23.2 Page 222

▲back to top


Pháp nới rộng quy mô các trường công và cho phép mở thêm trường tư. Đến năm
1950, nhà cầm quyền cho công bố một chương trình sách giáo khoa Việt Nam, được
áp dụng ở bậc tiểu học và trung học với chuyển ngữ là tiếng Việt. Đây là nhượng bộ
mang tính căn bản của thực dân Pháp trong vấn đề giáo dục ở Việt Nam. Dù vậy,
nền giáo dục ấy vẫn què quặt “thiếu tính dân tộc, tính nhân dân và chưa thoát được
sự lệ thuộc nước ngoài về văn hóa ”(97[52]).
b) Ở tỉnh Biên Hòa, bên cạnh những trường học đã có từ trước, trong thời kỳ
này, một số ít trường sơ cấp được nâng cấp thành trường tiểu học hoàn chỉnh. Riêng
tại thành phố Biên Hòa, số trường có đông hơn. Đó là 3 trường tiểu học được nhà
giáo Hồ Văn Tam (Hiệu trưởng Trường tiểu học tỉnh lỵ, Phó ty giáo huấn Biên Hòa)
vận động thành lập, gồm: Trường sơ cấp Đồ Chiểu (nay là Trường PTTH bán công
Chu Văn An), Trường sơ cấpTrịnh Hoài Đức (nay là Trường tiểu học Trịnh Hoài
Đức), Trường sơ cấp Nguyễn Khắc Hiếu (nay là Trường tiểu học Nguyễn Khắc
Hiếu). Cũng tại thành phố Biên Hòa, vào năm 1947, một trường tư thục của đồng
bào người Hoa được mở, mang tên Trường tiểu học Dục Đức (nay là Trường THCS
Hùng Vương), nhưng ban đầu Pháp văn được dùng làm chuyển ngữ (đến năm 1960,
tiếng Việt mới là chuyển ngữ, Hoa văn là phụ).
III.2.2. Từ năm 1954 - 1975:
Xét về hình thức, từ năm 1954 - 1975, nền giáo dục ở vùng tạm chiếm miền
Nam nói chung, Biên Hòa - Đồng Nai nói riêng, phát triển ào ạt và dần hình thành
một hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Từ nội dung, bản chất đến các mô hình giáo dục
hoàn toàn khác trước. Đó là nền giáo dục thực dân kiểu mới.
a) Nhìn một cách toàn diện, nền giáo dục thực dân từ 1954 - 1975 ở miền
Nam nhằm vào 3 mục đích chính: Biến giáo dục thành công cụ chiến tranh xâm
lược; dùng giáo dục để duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa ở một xứ thuộc địa; dùng
giáo dục để đầu độc thế hệ trẻ (98[53]). Do đó, chế độ ngụy quyền Sài Gòn, dưới sự
ủng hộ của Mỹ, đã mở khá nhiều trường từ tiểu học đến đại học, tập trung trên 2,5
triệu học sinh, sinh viên và hơn 50 ngàn giáo chức (99[54]). Đó là chưa kể cả một
hệ thống trường lớp của các tôn giáo: Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Cao Đài và
quân đội. Ở nông thôn, việc thành lập các “Trường ấp tân sinh” nằm trong kế hoạch
(97[52]) Bùi Đức Tnh: Giáo dc ti Thành phtừ trước đến sau ngày hoàn toàn gii phóng trong Địa chí văn hóa
thành phHChí Minh; tp II; Nxb. Tp. HChí Minh; 1988; tr. 433.
(98[53]) Võ Quang Phúc: Âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân mi của đế quc Mvào nn giáo dc phthông
min Nam Vit Nam trong Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ M- ngy; tập II; Nxb. Văn hóa; Hà Ni;
1979; tr. 146 - 147.
(99[54]) Thanh Nam; Sđd; tr. 96.

23.3 Page 223

▲back to top


bình định, ép buộc đồng bào vào ấp chiến lược. Không phải một mà nhiều lần, các
cố vấn Mỹ đã nói rõ mục đích giáo dục này: “Dự án giáo dục ấp tân sinh được thiết
lập để... thu nhận trẻ con vào trường nhiều và nhanh chóng chương trình bình định”
hoặc: ”Ngay từ buổi đầu, dự án giáo dục tiểu học ấp tân sinh được xem là vấn đề ưu
tiên đối với USAID (United States Agency for International Development: Cơ quan
phát triển quốc tế Hoa Kỳ) và chính quyền Việt Nam vì tầm quan trọng của nó trong
chương trình bình định nông thôn” (100[55]). Bởi vậy, hầu như xã nông thôn nào
chính quyền Sài Gòn chiếm được cũng đều có loại trường tiểu học này. Còn ngược
lại, chỉ có những vùng đô thị, các loại trường trung học mới phát triển. Đến năm học
1970 - 1971, toàn miền Nam có đến 7.987 trường tiểu học công và tư; 886 trường
trung học công và tư. Riêng vùng Sài Gòn - Gia Định đã chiếm 13% (trường tiểu
học) và 24 % (trường trung học) (101[56]). Sự mất cân đối này cho thấy phần nào
về thực chất cái gọi là “giáo dục đại chúng”, “giáo dục cho mọi người” của chính
quyền Sài Gòn.
b) Địa bàn tỉnh Biên Hòa vào thời kỳ chính quyền Sài Gòn Mỹ - ngụy phân
thành 3 tỉnh: Biên Hòa, Long Khánh và Phước Tuy. Sự phát triển giáo dục của 3 tỉnh
này như sau.
Tỉnh Long Khánh:
- Tỉnh Long Khánh được chính quyền Sài Gòn thành lập theo sắc lệnh số 143
- NV, ngày 22 - 10 - 1956, nhưng đến ngày 19 - 4 - 1957 mới chính thức ra đời. Ban
đầu, tỉnh có 2 quận (Xuân Lộc và Định Quán) sau năm 1974 nâng lên thành 4 quận,
địa bàn bao gồm các huyện Xuân Lộc, Long Khánh, Định Quán, Tân Phú, phần lớn
huyện Thống Nhất và một phần huyện Vĩnh Cửu ngày nay. Khi còn là một quận của
tỉnh Biên Hòa, trước năm 1954, vùng Long Khánh chỉ có 1 trường tiểu học do người
Pháp xây dựng với 2 phòng. Về sau, đây chính là trường tiểu học tỉnh lỵ Long Khánh
(nay là Trường tiểu học Kim Đồng, thị trấn Xuân Lộc, huyện Long Khánh). Đến
giữa năm 1957, toàn tỉnh Long Khánh cũng mới chỉ có 5 trường tiểu học bậc công
lập với 8 giáo viên và 420 học sinh. Bậc trung học không có (102[57]).
- Bậc tiểu học: được xem là phát triển nhất trong nền giáo dục Mỹ - ngụy.
Ở tỉnh Long Khánh, từ năm 1963 có sự “bùng nổ” về các loại hình trường tiểu học.
Theo Địa phương chí tỉnh Long Khánh, năm học 1967 - 1968, toàn tỉnh có 59 trường
(100[55]) Dán giáo dc ti Vit Nam cng hòa; USAID; Sài Gòn; 1966, dẫn theo Võ Quang Phúc; Sđd; tr.148.
(101[56]) Niên giám thng kê giáo dc 1970 - 1971.
(102[57]) Tư liệu sdng tcác cun: Địa phương chí tỉnh Long Khánh, các năm 1968, 1972 của Tòa hành chánh
tnh Long Khánh xut bn và li kca các nhà giáo huyn Long Khánh, nhất là ông Đặng Huy Bí (Hiệu trưởng
Trường tiu hc tnh l, Thanh tra tiu hc tnh).

23.4 Page 224

▲back to top


công lập (gồm 26 trường tiểu học, 11 trường sơ cấp và 22 trong ấp tân sinh), 25
trường tư thục (gồm: 14 trường tiểu học, 14 trường sơ cấp và 1 trường học nghề).
Tổng số học sinh: 24.844 (công lập: 16.300; tư thục: 8.544). Cả tỉnh có 503 giáo
viên bậc tiểu học. Theo ông Đặng Huy Bí, nguyên Thanh tra tiểu học tỉnh, đến năm
1975, tỉnh Long Khánh có gần 70 trường tiểu học nhưng chỉ có 18 trường tiểu học
hoàn chỉnh (dạy từ lớp Năm đến lớp Nhất), hệ công lập. Trong bản lương giáo viên
tiểu học của tỉnh có 1.000 người. Thời gian này, các trường tư thục phát triển khá
mạnh, hầu như giáo hội tôn giáo nào cũng mở trường, nhất là Công giáo. Hầu như
xứ đạo nào cũng có mở một vài lớp sơ cấp (từ lớp Năm đến lớp ba) ngay trong nhà
thờ.
- Bậc trung học: cũng như nhiều tỉnh ở miền miền Đông Nam bộ, tại Long
Khánh, phát triển muộn.
+ Trường trung học tỉnh Long Khánh được thành lập vào năm 1958, đặt tại
Trường tiểu học tỉnh lỵ, có 2 lớp đệ thất (lớp sáu) với 100 học sinh. Những năm đầu,
trường mang tên Trường trung học Lê Thánh Tôn, do ông Trần Nhơn Kiệt, lúc bấy
giờ là Trưởng ty tiểu học tỉnh kiêm chức cho đến năm 1962 mới có hiệu trưởng mới.
Từ năm 1960, trường lấy tên Trường trung học tỉnh Long Khánh. Vào năm 1959,
trường được xây dựng cơ sở mới nhưng vẫn nằm trong khuôn viên của Trường tiểu
học tỉnh lỵ. Sau đó, trường học cả hai nơi là Trường tiểu học Kim Đồng và Trường
trung học dân lập Văn Hiến ngày nay. Đến năm học 1967 - 1968, Trường trung học
tỉnh Long Khánh có 13 lớp, từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhất (lớp 12), với 539 học sinh
và 20 giáo viên.
+ Trường trung học công lập Gia Kiệm được thành lập từ năm 1966, đặt ở
xã Gia Kiệm, quận Kiệm Tân. Đây là một trường trung học đệ nhất cấp (tức dạy từ
lớp đệ thất đến đệ tứ, tương đương với trường trung học cơ sở ngày nay). Vào năm
học 1967 - 1968, trường này chỉ mới có 2 lớp với 80 học sinh.
+ Các trường trung học tỉnh hạt. Từ năm 1972, chính quyền Sài Gòn cho ra
đời một loạt các trường “trung học tỉnh hạt”, đặt ở những vùng không phải đô thị
nhưng quần cư. Đây là các trường trung học đệ nhất cấp nằm trong hệ thống công
lập. Ở tỉnh Long Khánh, có 5 trường trung học tỉnh hạt sau: Bảo Định, Bình Khánh,
Dầu Giây (quận Xuân Lộc), Bình Hòa (quận Kiệm Tân), Phương Lâm (quận Định
Quán).
+ Các trường trung học bán công. Toàn tỉnh Long Khánh chỉ có 2 trường
trung học bán công. Trường trung học bán công Xuân Lộc được thành lập vào năm
1962, đặt ở tỉnh lỵ (vị trí nay là Trường mẫu giáo An Bình, thị trấn Xuân Lộc). Sau
năm 1970, trường này mới có những lớp đệ nhị cấp. Vào năm 1968, trường có 6 lớp
đệ nhất cấp với 500 học sinh. Việc thành lập trường này có nhiều điểm đặc biệt.
Kinh phí xây dựng một phần chính quyền cấp và dân đóng góp nhưng phần lớn lại

23.5 Page 225

▲back to top


do tỉnh bán số cây gỗ trái phép bị tịch thu. Hội đồng quản trị do Tòa hành chánh tỉnh
nắm; hiệu trưởng là người được Tỉnh trưởng giới thiệu để Bộ giáo dục bổ nhiệm.
Trường thứ hai là Trung học bán công Định Quán nằm ở quận Định Quán, được
thành lập sau năm 1970, chỉ có các lớp đệ nhất cấp.
+ Các trường trung học tư thục. Gồm 6 trường tư thục trung học đệ nhất cấp,
tập trung ở hai quận Xuân Lộc và Kiệm Tân. Quận Xuân Lộc có các trường: TH tư
thục Bồ Đề (nay là Trường THCS Hồ Thị Hương), TH tư thục Tin Lành (nay là
Trường tiểu học Trần Phú), TH tư thục Hòa Bình (nay là Trường tiểu học Hòa Bình),
TH tư thục Đồng Tâm (Trường THCS Xuân Tâm). Quận Kiệm Tân có 2 trường:
Trung tiểu học Monica Trung tiểu học Bùi Chu. Trong số các trường tư thục kể
trên, Trường trung tiểu học Monica (ở xã Gia Kiệm) được hình thành sớm nhất
(trước năm 1965), do các linh mục trực tiếp điều khiển; vào năm học 1965 - 1966 có
11 lớp với 772 học sinh và 14 giáo viên; năm học 1967 - 1968 có 14 lớp với 950 học
sinh. Điểm đáng chú ý nữa là trong số 6 trường trung học tư thục có đến 4 trường
của giáo hội Công giáo, 1 trường của Hội thánh Tin Lành và 1 trường của Phật giáo.
Như vậy, trước năm 1975, ở tỉnh Long Khánh có 15 trường trung học, gồm:
7 trường công lập, 2 trường bán công và 6 trường tư thục. Trong số 15 trường này
chỉ có 5 trường có các lớp đệ nhị cấp (TH tỉnh Long Khánh, TH bán công Xuân Lộc,
TH tư thục Hòa Bình, TH Bồ Đề và trung tiểu học Monica) .
Tỉnh Biên Hòa:
- So với Long Khánh, tỉnh Biên Hòa đã có một bề dày về sự phát triển giáo
dục. Từ khi Long Khánh trở thành một tỉnh, địa bàn tỉnh Biên Hòa có 6 quận: Tân
Uyên, Công Thanh, Đức Tu, Dĩ An, Long Thành, Nhơn Trạch. Dân số tỉnh Biên Hòa
năm 1970 là 469.114 người, gấp 3 lần tỉnh Long Khánh (103[58]). Dưới chế độ Sài
Gòn, Biên Hòa được đánh giá là tỉnh lớn nhất miền Đông Nam kỳ. Do đó các bậc
học phổ thông về số lượng đều phát triển.
- Bậc tiểu học:
Thời Pháp thuộc, các trường tiểu học hoàn chỉnh của tỉnh Biên Hòa xưa đều
nằm trên địa bàn của tỉnh Biên Hòa (nay). Vào năm 1960, tỉnh Biên Hòa đã có nhiều
trường tiểu học đặt ở tỉnh lỵ (xã Bình Trước) và các xã đông dân như: Bửu Hòa, Hố
Nai (quận Đức Tu), Đông Hòa (Dĩ An), Đại Phước, Phú Hội, Phước Thọ (Nhơn
Trạch), Uyên Hưng (quận Tân Uyên)... Ở các xã khác đều có trường sơ cấp. Ngoài
ra, các cơ quan quân sự: Không quân, Sư đoàn 7 bộ binh (ngụy), Dưỡng Trí Viện
đều thành lập trường sơ cấp. Còn tại tỉnh lỵ và các quận lỵ cũng đã hình thành những
(103[58]) Theo Nguyễn Đình Đầu; Tng kết nghiên cứu địa bNam klc tnh; Nxb. TP. HChí Minh; 1994; tr.
116 - 121.

23.6 Page 226

▲back to top


trường tư thục bậc tiểu học và sơ cấp (104[59]).
Đến năm 1973, theo Địa phương chí tỉnh Biên Hòa, các trường tiểu học công
lập (các loại trường) đã có ở tất cả 65 xã trong tỉnh (105[60]):
CÔNG LẬP
TRƯỜNG
HỌC SINH
GIÁO VIÊN
LỚP HỌC
Sơ cấp
97
15.880
284
358
Tiểu học
92
70.665
1.166
1.273
Quân đội
13
3.678
73
85
Mẫu giáo
1
295
8
8
Nữ công
67
4
2
Tổng cộng
204
90.585
1.535
1.726
Ngoài ra, tại tỉnh Biên Hòa thời gian này cũng có nhiều trường tiểu học tư thục
được mở:
TƯ THỤC
TRƯỜNG
HỌC SINH
GIÁO VIÊN
LỚP HỌC
Sơ cấp
28
3.691
55
78
Tiểu học
20
10.332
132
172
Học nghề
2
54
2
2
Nữ công
1
32
1
1
Tổng cộng
51
14.109
190
253
Như vậy, đến năm 1973, tỉnh Biên Hòa có 104.694 học sinh tiểu học và 1.725
giáo viên.
- Bậc trung học: ở tỉnh Biên Hòa bắt đầu hình thành từ năm 1956 với sự ra
đời của Trường trung học Ngô Quyền. Từ đó, hệ thống các trường trung học lần lượt
ra đời.
+, Trường trung học Ngô Quyền thành lập vào năm 1956, nhờ có sự vận
động của nhà giáo Hồ Văn Tam, Hiệu trưởng Trường tiểu học tỉnh lỵ, đồng thời là
Thanh tra tiểu học tỉnh Biên Hòa. Trường tiểu học tỉnh lỵ đã cắt 3 phòng học để
Trường trung học Ngô Quyền mở 3 lớp đệ thất. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là
ông Phạm Văn Nga, Trưởng ty giáo dục tỉnh Biên Hòa, nhưng ông Hồ Văn Tam là
người điều hành mọi công việc. Các thầy giáo kỳ cựu nhất của Trường tiểu học
Nguyễn Du như: Phạm Văn Tiếng, Đinh Văn Sái, Bùi Quang Huệ được cử sang
(104[59]) Theo Lương Văn Lựu; Biên Hòa sử lược (toàn biên); Tác gixut bn; 1960; tr. 88 - 89.
(105[60]) Theo Các sliu trong phn giáo dc tnh Biên Hòa được ly ttài liu trên

23.7 Page 227

▲back to top


đứng lớp. Nhiều bộ môn trường phải mời thầy giáo từ Sài Gòn về dạy. Những năm
học sau, do số học sinh đông, trường phải điều một số lớp sang học ở Trường nữ tiểu
học và Trường nữ công gia chánh. Đến năm 1960, chính quyền Sài Gòn mới cho
xây dựng một cơ sở riêng cho trường, nằm ở vị trí của Trường PTTH Ngô Quyền
hiện nay. Cũng năm này, Trường trung học Ngô Quyền mới có một hiệu trưởng
chính thức là ông Huỳnh Quốc Tuấn. Những năm 70, Trường trung học Ngô Quyền
đã có gần 2000 học sinh, trên 50 lớp đệ nhất và đệ nhị cấp với 80 giáo viên. Trải qua
hơn 40 năm hình thành và phát triển, Trường trung học Ngô Quyền không chỉ là
trường trung học đầu tiên của cả miền Đông Nam bộ mà còn là chiếc nôi đào tạo
nhiều nhân tài cho tỉnh Đồng Nai.
+ Các trường trung học công lập. Từ chỗ chỉ có 1 trường, đến những năm
1970, tỉnh Biên Hòa có 5 trường trung học công lập khác, gồm: Trường Phước Thành
(đặt ở quận lỵ Tân Uyên, có 12 lớp, 750 học sinh và 16 giáo viên); Trường Dĩ An
(quận lỵ Dĩ An, 1.437 học sinh, 27 lớp, 33 giáo viên); Trường Long Thành (thành
lập ngày 12 - 8 - 1960, 1.332 học sinh, 25 lớp, 26 giáo viên); Trường Nhơn Trạch
(quận lỵ Nhơn Trạch, 815 học sinh, 12 lớp, 18 giáo viên); Trường Công Thanh (quận
lỵ Công Thanh, 852 học sinh, 12 lớp, 20 giáo viên).
Đến năm 1973, tỉnh Biên Hòa có 6 trường trung học công lập, với 7.844 học
sinh, 135 lớp và 189 giáo viên. Riêng Trường trung học Ngô Quyền đã chiếm gần
một phần ba tổng số học sinh các trường công lập.
+ Các trường trung học tỉnh hạt. Đây cũng là các trường công lập, nhưng
phụ huynh học sinh tham gia xây cất trường và đóng một phần học phí nhẹ hơn ở
các trường bán công, tư thục. Tỉnh Biên Hòa có 5 trường trung học tỉnh hạt với 27
lớp, 1.332 học sinh và 30 giáo viên, gồm: Hố Nai (xã Hố Nai, quận Đức Tu, có 11
lớp với 592 học sinh và 12 giáo viên); Hiệp Hòa (xã Hiệp Hoà, quận Đức Tu, có
11 lớp, 447 học sinh và 6 giáo viên); Tân Vạn (xã Tân Vạn, quận Đức Tu, có 2 lớp,
110 học sinh và 4 giáo viên); Bửu Long (xã Bửu Long, quận Đức Tu, có 2 lớp, 110
học sinh và 4 giáo viên); Phước Thiền (xã Phước Thiền, quận Nhơn Trạch, có 2
lớp, 110 học sinh và 4 giáo viên).
+ Các trường trung học bán công. Toàn tỉnh chỉ có 3 trường trung học bán
công, đến năm học 1973 - 1974 có 44 lớp, 2.299 học sinh và 89 giáo viên, gồm:
Trường trung học bán công Dĩ An (thành lập từ năm 1956, đặt tại quận lỵ Dĩ An, có
12 lớp, 932 học sinh và 27 giáo viên); Trường trung học bán công Trần Thượng
Xuyên (thành lập từ năm 1960, đặt tại tỉnh lỵ, cạnh Trường trung học Ngô Quyền,
có 21 lớp, 1.687 học sinh và 42 giáo viên); Trường trung học bán công Long Thành
(đặt tại quận lỵ Long Thành, cạnh Trường trung học Long Thành, có 11 lớp, 680 học
sinh và 20 giáo viên).
+ Các trường trung học tư thục. Khác với các loại hình trường trung học

23.8 Page 228

▲back to top


khác, trường trung học tư thục ở tỉnh Biên Hòa ra đời sớm hơn. Vào năm 1960, tỉnh
Biên Hòa đã có 11 trường trung học tư thục. Đến năm học 1973 - 1974, phát triển
thành 21 trường, với 15.977 học sinh và 364 giáo viên. Phần lớn các trường trung
học tư thục tập trung ở quận Đức Tu và thuộc quyền quản lý của giáo hội Công giáo.
Chẳng hạn, xã Bình Trước có 5 trường, xã Hố Nai có 8 trường. Cụ thể các trường
trung học tư thục ở tỉnh Biên Hòa phân bổ như sau: Quận Đức Tu có 17 trường:
Khiết Tâm, Phan Chu Trinh, Minh Tân, Bồ Đề, Dục Đức (xã Bình Trước), Bùi Chu,
La - san Văn Côi, Minh Đức, Thánh Tâm, Đa Minh Úy, Minh Thế, Chân Lý, Thân
Dân (xã Hố Nai), Thăng Long, Vinh San, Viên Giác (xã Tam Hiệp), Thánh Gia
(Bùi Tiếng); quận Công Thanh có 2 trường: Nguyễn Trường Tộ (xã Thái Hưng),
Quốc Tuấn (xã Bình Thạnh); quận Nhơn Trạch có 2 trường: Lê Chí Mỹ (xã Đại
Phước), Thanh Minh (xã Vĩnh Thanh).
Tổng hợp, các loại hình trường trung học ở tỉnh Biên Hòa đến năm học 1973
- 1974 như sau:
TRUNG HỌC
TRƯỜNG
LỚP
GIÁO VIÊN HỌC SINH
Công lập
6
135
189
7.844
Tỉnh hạt
5
27
30
1.332
Bán công
3
44
89
2.299
Tư thục
21
217
364
15.977
TỔNG CỘNG
35
423
672
27.442
- Trường chuyên nghiệp, dạy nghề: Trong hơn 20 năm, giáo dục chuyên
nghiệp, dạy nghề ở tỉnh Biên Hòa không có sự phát triển đáng kể. Bên cạnh Trường
mỹ nghệ thực hành thành lập từ thời Pháp, tỉnh Biên Hòa có các trường chuyên
nghiệp, dạy nghề sau:
+ Trường trung học Nông lâm súc thành lập năm 1970, đặt tại xã An Hòa
Hưng, quận Đức Tu, có 3 giáo viên dạy 2 lớp sáu và bảy nông - lâm - súc cho 103
học sinh.
+ Trường tá viên điều dưỡng thành lập ngày 3 - 8 - 1968, nhưng chính thức
khai giảng vào tháng 2 - 1969. Theo Địa chí tỉnh Biên Hòa thì trường được thành
lập do “sáng kiến của bác sĩ Nghiêm Xuân Thọ, Trưởng ty Y tế Biên Hòa kiêm Giám
đốc Bệnh viện Biên Hòa, với sự trợ giúp tài chính của bác sĩ Vanderhoof, Trưởng
vùng III y tế cùng sự trợ giúp của đại tá Tỉnh trưởng Lâm Quang Chính về địa
điểm...”. Chương trình giảng dạy của trường này theo hệ thống các trường tá viên
điều dưỡng của Bộ y tế. Mỗi năm trường đào tạo khoảng 50 học viên. Ông Nghiêm
Xuân Thọ trực tiếp làm Giám đốc trường.

23.9 Page 229

▲back to top


+ Trường trung học tư thục Quốc Thịnh đặt ở xã Tam Hiệp, quận Đức Tu,
có 6 lớp nông - lâm - súc, có 4 giáo viên tư thục và 250 học sinh.
c) Nhận xét chung về giáo dục từ năm 1954 - 1975:
Nếu chỉ căn cứ vào số lượng trường lớp, học sinh thì chưa bao giờ giáo dục
ở Biên Hòa - Đồng Nai lại phát triển nhanh chóng như vậy. Những nguyên nhân
khiến có sự phát triển ấy không nằm ngoài những biến đổi về kinh tế, xã hội, đặc
biệt là chủ trương của chính quyền Mỹ - tay sai thời bấy giờ ở cả miền Nam Việt
Nam. Tuy nhiên, trong sự phát triển ào ạt ấy tự thân nó cũng bộc lộ đầy đủ đường
hướng của nền giáo dục thực dân kiểu mới. Vào năm 1969, dân số tỉnh Long Khánh
là 142.782 người. Bình quân 5,3 người dân của tỉnh này có 1 học sinh phổ thông của
tất cả các loại hình trường lớp. Cụ thể, tình hình thanh thiếu niên được đi học như
sau: bậc tiểu học (kể cả trường sơ cấp, trường ấp tân sinh) 5,9 người dân có 1 học
sinh, nhưng bậc trung học (chủ yếu là đệ nhất cấp) phải 69 người dân mới có 1 học
sinh.
Còn ở tỉnh Biên Hòa, nơi được xem là có sự phát triển giáo dục nhất các tỉnh
miền Đông, vào năm 1971 (dân số 494.674 người), thì cứ 5,3 người dân có 1 học
sinh phổ thông. Thế nhưng, vẫn có sự chênh lệch rất lớn giữa học sinh tiểu học và
trung học. Tỷ lệ học sinh của 2 bậc học này trên số dân là: 1/4,7 (bậc tiểu học) và
1/18 (bậc trung học).
Sự chênh lệch trong phát triển giáo dục giữa nông thôn và đô thị rất đáng kể.
Hầu hết các trường trung học đều nằm tại tỉnh lỵ và các quận lỵ. Quận Xuân Lộc có
9 trong tổng số các trường trung học của tỉnh Long Khánh. Còn quận Đức Tu thì
chiếm đến 23 trường trong tổng số 35 trường trung học của tỉnh Biên Hòa. Đây cũng
là tình hình chung của nền giáo dục vùng tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975.
Chính cố vấn Mỹ Donald M. Knox, Trưởng phái đoàn cố vấn Mỹ tại miền Nam Việt
Nam đã nhận xét: toàn miền có khoảng 2,6 triệu các em tuổi từ 12 - 18 nhưng chỉ có
60 vạn em có chỗ học trong các trường trung học. Hay như nội san AĐS cho biết:
Cứ 100 em vào lớp đầu của bậc tiểu học thì chỉ có 3 em được học trung học đệ nhị
cấp, còn 97 em bị hất ra ngoài nền giáo dục đại chúng của ông Thiệu, và trong tiểu
học có 51% học sinh không được học lên lớp 4”(106[61]).
Trong nền giáo dục dưới chế độ Mỹ - tay sai, các loại hình trường ngoài
công lập, nhất là trường tư thục phát triển khá mạnh, trở thành hiện tượng đặc biệt.
Theo thống kê của Bộ giáo dục (ngụy), năm học 1972 - 1973, miền Nam có 2.645
trường tư các loại, với 886.321 học sinh và 24.809 giáo viên. Học sinh trường trung
học tư thục bao giờ cũng chiếm trên 50% tổng số học sinh trung học. Thời Pháp
(106[61]) Theo Thanh Nam; Sđd; tr. 98 - 99.

23.10 Page 230

▲back to top


thuộc, trường tư thuộc nhà Dòng đã phát triển, nhưng nếu so với thời kỳ này thì phải
nói đến vai trò gần như “độc quyền” của nó. Theo báo Chính Luận, ngày 26 - 6 -
1973, 700 trong tổng số trên 800 trường trung học tư thục thuộc về giáo hội Công
giáo và Phật giáo. Sự phát triển mạnh mẽ các loại hình trường tư thục ngoài lý do
kinh tế (107[62]), nguyên nhân chính không ngoài sự lợi dụng tôn giáo để thực hiện
những ý đồ chính trị của nhà cầm quyền. Tại tỉnh Long Khánh, tỷ lệ học sinh trường
trung học công lập chỉ chiếm 29%, học sinh tiểu học công lập chiếm 65% tổng số
học sinh. Còn ở tỉnh Biên Hòa, tỷ lệ học sinh tiểu học công lập có cao hơn (86,5%),
nhưng học sinh trung học công lập lại ít hơn (28,5%). Có những vùng, trường tư
thục thuộc giáo hội Công giáo chiếm gần tuyệt đối như xã Hố Nai (quận Đức Tu,
tỉnh Biên Hòa), quận Kiệm Tân, tỉnh Long Khánh.
Từ năm 1954 - 1975, chính quyền Sài Gòn đã thực hiện quá trình chuyển
đổi từ nền giáo dục mang nặng ảnh hưởng của thực dân Pháp sang nền giáo dục thực
dụng của Mỹ. Nhất là “từ năm 1961 - 1968, chúng nghiên cứu và thí nghiệm các
loại trường tiểu học cộng đồng, trung học tổng hợp, đẩy mạnh nghiên cứu và thực
nghiệm nội dung giáo dục kỹ thuật công nông nghiệp...”(108[63]). Tuy nhiên “các
trường chuyên nghiệp và các trường kỹ thuật rất cần thiết để tạo ra những chuyên
viên kỹ thuật thì lại không được chú ý “(109[64]). Trong một dự án về giáo dục
chuyên nghiệp, chính các cố vấn Mỹ đã nhận xét miền Nam đang ở vào tình trạng
thiếu hụt công nhân lành nghề rất trầm trọng”(110[65]). Thời đó, cả tỉnh Biên Hòa,
nếu tính cả trường chuyên nghiệp đã được người Pháp mở từ đầu thế kỷ XX, chỉ có
4 trường, nhưng 1 trường do ngành y tế quản lý, 1 trường tư thục. Còn tại tỉnh Long
Khánh thì hầu như không có trường chuyên nghiệp, dạy nghề nào.
Trên đây mới chỉ là diễn trình về nền giáo dục trong vùng tạm chiếm từ
năm 1954 - 1975. Còn thực chất nền giáo dục ấy? Ý kiến của một tác giả ngay trong
lòng chế độ này là một nhận xét: “Giáo dục Việt Nam vẫn ca tụng những lý tưởng
nhân bản, dân tộc, khoa học, khai phóng: Còn gì quý báu, cao cả hơn. Nhưng nhân
bản ở chỗ nào khi một nửa số trẻ em trai gái không được đi học tiểu học; khi 50%
(107[62]) Theo Bộ trưởng BKinh tế (chế độ Sài Gòn), Nguyễn Văn Hảo, tlngân sách giáo dc gim dn trong
ngân sách quốc gia: các năm 1954 - 1963 khoảng 5,5%, các năm 1964 - 1970 còn 4,5%. Trong khi đó, ngân sách
dành cho quân skhông ngừng tăng: năm 1960 là 46%, năm 1962 là 53,81%, từ năm 1966 trở đi trên 60% (Dẫn
theo Võ Quang Phúc; Sđd; tr. 152 - 153).
(108[63]) HHu Nht; Phong trào đấu tranh chng Mca giáo chc, hc sinh sinh viên Sài Gòn; Nxb. Tp. H
Chí Minh; 1984; tr. 31.
(109[64]) HHu Nhựt; Sđd; tr. 12 - 13.
(110[65]) Dẫn theo Võ Quang Phúc; Sđd; tr. 158.

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


dân chúng còn mù chữ? Nhân bản chỗ nào khi nó chỉ nhằm phục vụ cho một thiểu
số trưởng giả ở thành thị; khi đại đa số nhân dân nông thôn và thành thị nghèo hèn
bị lãng quên và khinh bỉ? Dân tộc ở chỗ nào khi chính tiếng quốc ngữ bị các nhà
đại trí thức khinh bỉ, chà đạp; khi giai cấp thượng lưu của xã hội cho con cái đi học
trường Tây, trường Mỹ...? Khoa học ở chỗ nào khi có cái học từ chương, buôn bằng
bán chữ; khi tổng số học sinh, sinh viên kỹ thuật chỉ là 0,5% tổng số học sinh, sinh
viên; khi sự mê tín dị đoan còn ngự trị trong khắp miền thôn quê 80% dân số ? Khai
phóng ở đâu khi chung quanh toàn những cảnh ngông cuồng, ăn cướp, ăn cắp... đưa
lên làm mẫu mực; ...khi những bộ mặt to lớn chường ra đầy dơ bẩn và độc hại ? Khi
xã hội dành cho đại đa số thế hệ đang lên số phận bi đát của bần cùng, nhục nhã,
lầm than, tuyệt vọn ?”(111[66]).
Tuy nhiên, giữa mục đích và thực tiễn không phải bao giờ cũng đồng nhất.
Khi chính quyền Mỹ và tay sai sử dụng giáo dục như một công cụ để thực hiện ý đồ
chính trị của mình thì kết quả khách quan của nó phần nào đưa đến một thực tế là
mặt bằng dân trí từ năm 1954 - 1975 cao hơn trước khá nhiều. Và dĩ nhiên, không
phải tất cả sản phẩm của nền giáo dục ấy đều như nhà cầm quyền mong muốn, nhất
là trên một vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, sự tác động của cuộc kháng
chiến lúc âm thầm, khi quyết liệt luôn tác động đến tâm thức của học sinh và đội ngũ
thầy, cô giáo. Ở Biên Hòa - Đồng Nai, từ những mái trường của chính quyền Mỹ -
tay sai đã có biết bao chàng trai, cô gái đi kháng chiến, hoặc trở thành những trí thức
cho giai đoạn cách mạng sau này.
IV. GIÁO DỤC ĐỒNG NAI THỜI ĐỘC LẬP - XÂY DỰNG (1975 - 1998):
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30 - 4 - 1975), nền giáo dục cách
mạng của tỉnh Đồng Nai bước sang giai đoạn mới: phát triển trong sự thống nhất với
nền giáo dục cả nước và gắn liền với nhiệm vụ xây dựng CNXH. Trải qua 23 năm
cải tạo và xây dựng, sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh đã qua 3 thời kỳ: Khôi
phục, cải tạo và mở rộng mạng lưới trường lớp trên khắp các địa bàn trong tỉnh, đặc
biệt là các vùng kháng chiến cũ và kinh tế mới (1975 - 1978); thực hiện cải cách
giáo dục theo Nghị quyết 14 - NQ/TW của Bộ Chính trị TW Đảng khóa 4 (1979 -
1986); phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong công cuộc đổi mới toàn diện của
đất nước (1987 - 1998).
IV.1. Từ năm 1975 - 1978:
IV.1.1. Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, địa bàn tỉnh Đồng Nai bao gồm 3 tỉnh:
Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh và Tân Phú. Đến tháng 1 - 1976, ba tỉnh trên được
Trung ương hợp nhất thành tỉnh Đồng Nai. Sau nhiều lần thay đổi ranh giới hành
(111[66]) Nguyn TLc; Thc cht giáo dc min Nam Vit Nam ; Tp chí Văn học; s69/ 1966; tr.4.

24.2 Page 232

▲back to top


chính, từ năm 1995, địa bàn tỉnh Đồng Nai gồm 1 thành phố (Biên Hòa), 8 huyện
(Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Tân Phú, Định Quán, Long
Khánh, Xuân Lộc). So với hiện nay, địa bàn tỉnh Đồng Nai lúc đó rộng hơn, bao
gồm các địa phương: toàn bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, huyện Cần Giờ (TP. Hồ Chí
Minh), huyện Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa).
IV.1.2. Như đã nói, trong hai cuộc kháng chiến, nền giáo dục cách mạng vẫn luôn
tồn tại và phát triển ở miền Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, tuy gặp nhiều khó
khăn, nhưng giáo dục đã có sự tổ chức thành hệ thống ở toàn miền Nam. Bởi vậy,
ngay sau khi miền Nam được giải phóng, lực lượng giáo dục Miền đã phối hợp với
lực lượng tại chỗ nhanh chóng tiếp quản đội ngũ giáo viên và cơ sở trường lớp của
chế độ cũ, ổn định tình hình, chuẩn bị khai giảng năm học mới.
Ngành giáo dục miền Đông lúc bấy giờ đặt dưới sự chỉ đạo của Sở giáo dục
khu Đông Nam bộ, bao gồm 5 tỉnh: Biên Hòa, Vũng Tàu, Bà Rịa - Long Khánh, Tân
Phú và Thủ Dầu Một đã tiếp quản toàn bộ các cơ sở giáo dục do chế độ cũ để lại
(112[67]).
Chính quyền và nhân dân các tỉnh miền Đông đã nhanh chóng sữa chữa
trường lớp bị hư hại do chiến tranh và chuẩn bị xây dựng thêm trường học cho các
vùng kinh tế mới ở tỉnh Bà Rịa - Long Khánh và Thủ Dầu Một.
TỈ NH
Thủ Dầu Một
Cấp I
Số
trường
Phòng học
211
763
Cấp II, III
Số trường
Phòng học
16
189
Vũng Tàu
35
169
12
221
Bà Rịa - Long Khánh
123
600
-
-
Tân Phú
19
211
-
27
Biên Hòa
209
607
42
370
Tổng cộng 597
2350
100
1007
Về đội ngũ giáo viên, Sở giáo dục khu Đông Nam bộ đã vận động 7.047 giáo
viên từng giảng dạy trước năm 1975 ra đứng lớp, gồm: 5.118 giáo viên cấp I, 1.432
giáo viên cấp II và 497 giáo viên cấp III. Hầu hết các tỉnh đều thiếu giáo viên (tổng
cộng thiếu 1.441 giáo viên các cấp), nhưng đã nhanh chóng có những biện pháp khắc
(112[67]) Sliệu được trích dn t: Báo cáo vtình hình giáo dục trước ngày khai giảng năm học 1975 - 1976
Báo cáo bsung vvic tchc ngày khai giảng năm học 19 - 10 - 1975 và tình hình tun lhọc đầu tiên các
trường phthông; Sgiáo dục khu Đông Nam b; ngày 18 - 10 - 1975 và ngày 26 - 10 - 1975.

24.3 Page 233

▲back to top


phục như: đào tạo giáo viên cấp tốc, vận động dạy thêm giờ, thêm buổi...
IV.1.3. Ngày 17 - 6 - 1975, Ban bí thư TW Đảng đã có chỉ thị 221 - CT/TW về
“Công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn giải phóng” và chỉ thị 222 -
CT/TW về “Công tác giáo dục Đại học và Chuyên nghiệp ở miền Nam trong thời
gian tới”.
Chỉ thị 221 - CT/TW Ban bí thư nêu rõ nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng
miền Nam là “Nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động của nền giáo
dục Mỹ - ngụy ở vùng mới giải phóng, tích cực góp phần xây dựng con người mới
và cuộc sống mới, đáp ứng yêu cầu cấp bách và lâu dài của cách mạng trên các mặt
kinh tế, văn hóa, quốc phòng”. Chỉ thị cũng chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể: Tích cực
xóa mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa; phát triển mạnh và đều khắp các trường
phổ thông; tiếp bước xây dựng ngành mẫu giáo; xây dựng thật tốt các trường đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ, giáo viên;
Đồng thời, nêu lên vấn đề trước mắt về tổ chức và lãnh đạo công tác giáo
dục là: Cải tạo cơ sở giáo dục cũ của Mỹ - ngụy; xây dựng bộ máy giáo dục các cấp;
tiến hành điều tra cơ bản về giáo dục để có cơ sở chuẩn bị tốt cho việc xây dựng kế
hoạch giáo dục trong những năm tới; phát động phong trào quần chúng tham gia
giáo dục.
Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND các tỉnh, ngành giáo dục các tỉnh khu
Đông Nam bộ đã nhanh chóng triển khai thực hiện chỉ thị 221 - CT/TW của Ban Bí
thư, khôi phục toàn bộ các cơ sở trường lớp do chế độ cũ để lại, cải tạo hệ thống tư
thục, trường lớp; mở rộng mạng lưới trường học ở các vùng giải phóng cũ, vùng
kinh tế mới, phát động phong trào toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ, xây dựng hệ
thống trường lớp BTVH cho cán bộ và thanh niên, tách các trường mẫu giáo ra khỏi
các trường phổ thông để hình thành trường mẫu giáo hoàn chỉnh, tiến hành bồi dưỡng
và tuyển dụng lại đội ngũ giáo chức vùng mới giải phóng, khôi phục Trường trung
học sư phạm Bà Rịa và xúc tiến việc xây dựng Trường cao đẳng sư phạm, Trường
sư phạm mẫu giáo tại thành phố Biên Hòa để đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở cho tỉnh, xây dựng bộ máy giáo dục các cấp, triển khai công tác điều
tra cơ bản để xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo những năm sau, tham
mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền động viên toàn thể nhân dân tham gia xây
dựng giáo dục, thành lập các “Ban vận động xóa mù chữ”, “Hội bảo trợ nhà trường”,
“Hội cha mẹ học sinh”...
Sau 5 tháng chuẩn bị, ngày 19 - 10 - 1975, cùng với toàn miền Nam, các tỉnh
miền Đông đã khai giảng năm học mang tính lịch sử 1975 - 1976. Sau đây là số học
sinh các cấp so với năm học 1974 - 1975:
Học sinh cấp I
Học sinh cấp II
Học sinh cấp III

24.4 Page 234

▲back to top


TỈNH
Thụ Dầu Một
Vũng Tàu
Bà Rịa - Long Khánh
Tân Phú
Biên Hòa
Tổng cộng
74 75
47.090
12.400
33.122
8.990
84.700
186.302
75 - 76
48.350
11.866
50.464
10.590
84.000
205.450
74 - 75
15.080
4.360
3.811
1.100
20.346
42.697
75 - 76
18.790
4.234
6.077
1.155
20.346
47.602
74 - 75
2.856
1.650
1.900
-
6.445
12.851
75 - 76
5.056
1.445
2.900
-
6.445
15.844
Như vậy, so với năm học trước ngày miền Nam giải phóng, học sinh các cấp
của miền Đông Nam bộ, mà địa bàn chủ yếu là tỉnh Đồng Nai sau đó, hầu hết đều
tăng. Ở cấp I, tăng hơn 10%; cấp II và III, tăng hơn 14%. Sở giáo dục khu Đông
Nam bộ giải thích là do dân số trong khu vực tăng hơn trước, nhưng nguyên nhân
chính là do đông đảo con em nông dân trước đây thất học nay được đi học lại.
Trước đó, ngành giáo dục đã tổ chức thi hết lớp Năm cho 19.457 học sinh và
thi tuyển vào lớp Sáu. Kỳ thi tốt nghiệp lớp 12 năm học 1974 - 1975 cũng đã được
tổ chức nghiêm túc cho 4.691 học sinh 4 tỉnh miền Đông. Tỉnh Biên Hòa là nơi có
số học sinh thi hết lớp Năm (7.800) và hết lớp Mười hai (2.268) cao nhất các tỉnh.
Công tác bình dân học vụ và bổ túc văn hóa đã được ngành giáo dục đặc biệt
chú trọng ngay sau khi tiếp quản các vùng tạm chiếm. Tỉnh có nhiều khó khăn như
Tân Phú nhưng đã phát động được phong trào sôi nổi trong toàn dân tham gia xóa
mù chữ và bổ túc văn hóa. Đến tháng 10.1975, tỉnh Tân Phú đã huy động 361 giáo
viên dạy cho 525 học viên bổ túc văn hóa và 626 học viên mù chữ.
IV.1.4. Sau ba năm học đầu tiên sau giải phóng (1975 - 1976, 1976 - 1977, 1977 -
1978), sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh Đồng Nai đã đạt được những thành tựu
to lớn:
- Hoàn thành việc tiếp quản và cải tạo hệ thống trường lớp của chế độ cũ để
lại.
- Công lập hóa 64 trường tư thục, bao gồm 4 trường mẫu giáo, 46 trường tiểu
học, 14 trường trung học.
- Sắp xếp, thu gọn lại 78 trường tiểu học (chủ yếu là trường ấp) và 8 trường
trung học có qui mô quá nhỏ để xây dựng thành trường có qui mô phù hợp.
- Tách 71 trường trung - tiểu học (C1+2+3 hoặc C1+2) để hình thành hệ
thống trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông riêng biệt.
- Tách 96 cơ sở mẫu giáo gắn với các trường phổ thông để hình thành lại
trường mẫu giáo độc lập.

24.5 Page 235

▲back to top


- Sắp xếp lại 6 trường kỹ thuật, trong đó tập trung xây dựng 3 trường lớn ở
Biên Hòa là Kỹ thuật Tân Mai, Trung học kỹ thuật Biên Hòa và Nữ công gia chánh
Biên Hòa.
- Củng cố Trường trung học sư phạm Bà Rịa, hoàn thành việc đào tạo chuyển
tiếp cho 305 giáo sinh đã học từ trước giải phóng.
- Xây dựng mới hệ thống trường phổ thông ở các vùng giải phóng cũ, vùng
kinh tế mới của tỉnh, bao gồm 1 trường PTTH cho huyện Tân Phú, 17 trường tiểu
học và trung học cơ sở cho các xã thuộc vùng kháng chiến cũ và kinh tế mới ở các
huyện: Xuyên Mộc, Châu Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Long Thành,
Xuân Lộc, Long Đất.
- Xây dựng Trường sư phạm cấp 2 và Trường sư phạm mẫu giáo Đồng Nai
để đào tạo giáo viên cấp 2 và giáo viên mẫu giáo cho tỉnh. Xây dựng hai trường
BTVH tập trung tỉnh, 4 trường BTVH tập trung và 8 trường BTVH tại chức tại các
huyện và thành phố Biên Hòa. Mở các lớp xóa mù chữ rộng khắp trong toàn tỉnh.
- Xây dựng hoàn chỉnh bộ máy quản lý từ Sở đến các trường học bao gồm
cơ quan ty, 11 phòng giáo dục (Biên Hòa, Châu Thành, Duyên Hải, Long Đất, Long
Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Vũng Tàu, Xuân Lộc, Xuyên Mộc) và 468
ban giám hiệu các trường học.
- Tuyển dụng lại 3.071 giáo chức của chế độ cũ, đào tạo mới 2.006 giáo viên
THCS, tiểu học và mẫu giáo. Xin chi viện từ các tỉnh bạn 287 giáo viên, chủ yếu là
giáo viên PTTH và sư phạm.
- Ngoài ra, các địa phương còn tổ chức đào tạo cấp tốc gần 500 giáo viên cho
các trường vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
- Xây dựng mới 793 phòng học, trong đó có 95 phòng kiên cố, 698 phòng
bán kiên cố và tạm thời.
Trong ba năm học này, ngành giáo dục cũng đã tổ chức thi tốt nghiệp cho
6.278 học sinh lớp 12, 17.843 học sinh lớp 9, 66.263 học sinh lớp 5 và 2.175 giáo
sinh sư phạm của tỉnh. Mở gần 30 lớp xóa mù cho 4.753 học viên, hoàn thành về cơ
bản xóa mù chữ cho cán bộ, thanh niên trong độ tuổi, được Nhà nước thưởng 3 huân
chương Lao động hạng 3 về công tác xóa mù chữ (một cho toàn tỉnh, hai cho xã Ngãi
Giao, huyện Châu Thành và phường Thống Nhất, thị xã Vũng Tàu).
Đến cuối năm 1978, hệ thống giáo dục - đào tạo Đồng Nai đã được xây dựng
hoàn chỉnh và thực hiện chương trình dạy học, sách giáo khoa thống nhất do Bộ giáo
dục chỉ đạo. Hệ thống giáo dục của tỉnh lúc bấy giờ như sau:
NGÀNH HỌC SỐ TRƯỜNG PHÒNG HỌC GIÁO VIÊN HỌC SINH

24.6 Page 236

▲back to top


Mẫu giáo
Tiểu học
THCS
PTTH
BTVH
Kỹ thuật
Sư phạm
Tổng cộng
129
569
216
2.139
88
441
15
151
14
24
3
37
3
38
468
3.399
914
3.696
916
280
-
73
59
6.065
30.577
189.271
40.087
7.481
5.721
547
1.746
275.430
IV. 2. Từ năm 1979 – 1986:
IV.2.1. Tháng 12 –1 976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã xác
định giáo dục là “nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một
dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự phát triển toàn diện con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(113[68]). Đại hội đã quyết định tiến hành cuộc
cải cách giáo dục lần thứ ba (hai lần trước vào các năm: 1950, 1956). Thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần IV, ngày 11 - 1 - 1979, Bộ Chính trị TW Đảng đã ra Nghị
quyết số 14 – NQ/TW về cải cách giáo dục. Nội dung và mục tiêu cơ bản của cuộc
cải cách giáo dục là:
- Coi giáo dục là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng, văn hoá,
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật.
Giáo dục là nhân tố có tính quyết định trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và đội
ngũ lao động mới có đạo đức, kiến thức, kỹ năng, sức khoẻ.
- Thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng
thành, từng bước thu hút tất cả trẻ em trong độ tuổi vào nhà trẻ và lớp mẫu giáo,
phấn đấu cho thế hệ trẻ đến tuổi trưởng thành được học đầy đủ đến bậc phổ thông
trung học.
- Thực hiện tốt nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Lao động sản xuất trong trường
phổ thông có tính chất kỹ thuật tổng hợp. Trong trường đại học và chuyên nghiệp,
lao động sản xuất gắn với đào tạo nghề và nghiên cứu, thực hiện khoa học.
- Cải cách cơ cấu hệ thống giáo dục, nội dung giáo dục, và phương pháp
giáo dục (114[69]).
(113[68])Báo cáo chính trca Đạ i hi ln thIV ca Đả ng cng sn Vit Nam
(114[69]) Trn Hng Quân (Tng chbiên); 50 nă m phát trin snghip giáo dc và đ ào to (1945 -
1995); Nxb. Giáo dc; 1995; tr.24 - 25

24.7 Page 237

▲back to top


Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ II (4 – 1977), lần thứ III
(1 – 1983) đã chỉ rõ nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của tỉnh trong giai đoạn mới là:
thực hiện tốt chủ trương cải cách giáo dục của Đảng, tiếp tục mở rộng về qui mô,
hoàn thiện về hệ thống giáo dục và từng bước thực hiện nguyên lý giáo dục để nâng
cao chất lượng đào tạo.
Thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm học 1979 – 1980, ngành giáo dục và
đào tạo Đồng Nai đã triển khai những nhiệm vụ phát triển và điều chỉnh hệ thống
giáo dục, từng bước thực hiện chương trình cải cách do Bộ giáo dục – đào tạo chỉ
đạo, tăng cường các điều kiện về đội ngũ và cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng
đào tạo.
IV.2.2. Sau 8 năm thực hiện cải cách giáo dục, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do
cơ sở vật chất thiếu thốn, tình trạng học ca ba ngày một tăng, đời sống giáo viên
giảm sút, một số khá đông anh chị em phải nghỉ việc, bỏ việc, chương trình sách
giáo khoa thay đổi liên tục, song sự nghiệp giáo dục của tỉnh đã đạt được những
kết quả quan trọng: Quy mô giáo dục tiếp tục tăng cao, mạng lưới trường lớp phát
triển rộng khắp trong toàn tỉnh, đảm bảo về cơ bản nhu cầu học tập của con em
nhân dân. Hệ thống giáo dục quốc dân của tỉnh điều chỉnh thêm một bước. Các
ngành học, cấp học phát triển cân đối và đồng bộ. Các điều kiện dạy học nhất là
đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trường học được bổ sung đáng kể. Chương trình
cải cách giáo dục do Bộ chỉ đạo được triển khai thực hiện nghiêm túc trong tất cả
các ngành học, cấp học và nhất là ở bậc Tiểu học.
Cuối năm học 1986 – 1987, ngành giáo dục – đào tạo của tỉnh đã phát triển
với qui mô lớn ở tất cả các ngành học, cấp học:
a) Giáo dục mầm non:
Ngành học mầm non từ chỗ không nằm trong hệ thống giáo dục trong chế
độ Sài Gòn, sau mười năm xây dựng, toàn tỉnh có 181 trường, 1.082 phòng học, có
44.893 cháu do 1.763 giáo viên phụ trách.
b) Giáo dục phổ thông:
CẤP HỌC
Tiểu học
PTCS (C1+C2)
THCS (C2)
PTTH
TRƯỜNG
66
180
25
20
PHÒNG
HỌC
GIÁO VIÊN
2.748
-
1.025
261
5.464
-
2.647
695
HỌC SINH
238.034
-
92.698
16.491

24.8 Page 238

▲back to top


Tổng cộng
291
4.034
8.806
350.220
c) Giáo dục thường xuyên:
Toàn tỉnh có 4 trường BTVH tập trung (2 trường tỉnh và 2 trường huyện), 18
trường BTVH tại chức (1 trường tỉnh và 17 trường huyện). Tổng số học sinh các cấp
là 9.318, trong đó BTVH cấp 2 là 5.690, cấp 3 là 3.628 học sinh.
Số học viên các lớp xóa mù chữ phát triển ở hầu hết các xã phường trong
toàn tỉnh, thu hút khá đông người lao động (nhất là thanh niên) theo học các chương
trình ngắn hạn hòng giúp kiến thức văn hóa và kỹ thuật.
d) Giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề:
Đến năm học 1986 - 1987, tỉnh Đồng Nai có 1 trường cao đẳng, 6 trường
THCN và 3 trường công nhân kỹ thuật:
- Trường cao đẳng ư phạm: 600 sinh viên.
- Trường trung học sư phạm: 600 giáo sinh.
- Trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tỉnh: 150 người.
- Trường sư phạm mầm non: 250 giáo sinh.
- Trường trung học kinh tế: 200 học sinh.
- Trường trung học y tế: 450 học sinh.
- Trường trung học văn hóa - nghệ thuật: 100 học sinh.
- Trường trung học nông nghiệp: 300 học sinh.
- Trường công nhân kỹ thuật xây dựng: 300 học sinh.
- Trường công nhân lái xe: 250 học sinh.
- Trường công nhân kỹ thuật cơ điện: 450 học sinh.
Ngoài ra, còn có một số trường sơ cấp như: Nuôi dạy trẻ, Lâm nghiệp, Thủy
lợi, Thương nghiệp, Y tá (được hình thành từ cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, đến
năm học 1996 - 1997 đã được sát nhập với các trường trung học theo chỉ đạo của
UBND tỉnh).
Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn có các trường trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề do các bộ, ngành Trung ương xây dựng để đào tạo cán bộ trung cấp và công
nhân kỹ thuật cho khu vực phía Nam:
- Trường cao đẳng l âm nghiệp, đặt tại huyện Thống Nhất.
- Trường trung cấp lâm nghiệp, đặt tại huyện Thống Nhất.

24.9 Page 239

▲back to top


- Trường trung cấp hóa chất, đặt tại thành phố Biên Hòa.
- Trường trung cấp thống kê, đặt tại thành phố Biên Hòa.
- Trường trung học trang trí mỹ thuật, đặt tại thành phố Biên Hòa.
- Trường trung học Đo đạc bản đồ II, đặt tại huyện Long Thành.
- Trường lục quân II, đặt tại huyện Long Thành.
- Trường công nhân Lắp máy số II, đặt tại huyện Long Thành.
- Trường công nhân cơ giới III, đặt tại huyện Thống Nhất.
- Trường công nhân cơ khí nông nghiệp, đặt tại huyện Vĩnh Cửu.
Các trường chuyên nghiệp, dạy nghề đã góp phần đào tạo, bồi dưỡng một số
lượng lao động kỹ thuật và cán bộ nghiệp vụ, cán bộ quản lý rất lớn, phục vụ công
tác phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Đặc biệt, đã đào tạo được trên 3.000 giáo viên
THCS, tiểu học, mầm non đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng các ngành học,
cấp học trong tỉnh.
e) Bộ máy quản lý giáo dục các cấp:
Cùng với sự phát triển của ngành học, cấp học, bộ máy quản lý giáo dục từ
tỉnh đến cơ sở tiếp tục được kiện toàn.
Sở giáo dục - ào tạo được tăng cường thêm cán bộ quản lý sau khi hợp nhất
với Ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Tổng số CBCNV của cơ quan Sở là 76 người ở
9 phòng, ban trực thuộc. Phòng mẫu giáo được đổi thành phòng giáo dục mầm non,
quản lý cả mẫu giáo và nhà trẻ.
Toàn tỉnh có 11 phòng giáo dục, gồm thành phố Biên Hòa, các huyện: Châu
Thành, Long Đất, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Xuyên
Mộc và Phòng mầm non Công ty cao su Đồng Nai. Riêng Phòng giáo dục huyện
Duyên Hải năm 1979 đã cắt chuyển về thành phố Hồ Chí Minh theo quyết định của
Chính phủ.
Toàn tỉnh có 505 ban giám hiệu trường học với tổng số 1.139 hiệu truởng,
hiệu phó (trong đó có 592 nữ).
Hầu hết cán bộ quản lý của ngành đã được đào tạo đạt tiêu chuẩn về chuyên
môn. Trên 50 cán bộ sở, phòng, hiệu trưởng, hiệu phó các trường được bồi dưỡng
nghiệp quản lý tại Trường cán bộ quản lý TW 2 của Bộ giáo dục - đào tạo và Trường
cán bộ quản lý giáo dục của tỉnh.
IV.3. Từ năm 1986 - 1998:
IV.3.1. Tháng 12 - 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã mở ra

24.10 Page 240

▲back to top


thời kỳ mới trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta: thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu
sắc ở tất cả các lĩnh vực. Ngành giáo dục - đào tạo đã chủ trương 10 tư tưởng chỉ
đạo để xây dựng một chương trình phát triển giáo dục từ năm 1987 - 1990.
Tháng 7 - 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng
định và tiếp tục phát triển đường lối đổi mới. Bộ giáo dục - đào tạo đã đề ra 8 chương
trình - mục tiêu cho ngành trong 5 năm (1991 - 1995). Đến tháng 1 - 1993, tại Hội
nghị lần thứ 4, BCH. TW Đảng (khóa VII) đã đề ra nghị quyết về “tiếp tục đổi mới
sự nghiệp giáo dục và đào tạo” (NQTW4). Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của
của BCH.TW Đảng về giáo dục và đào tạo.
NQTW4 đã nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo:
- Giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách
hàng đầu, phải coi đầu tư cho giáo dục và đào tạo là một trong trong những hướng
chính của đầu tư phát triển; huy động toàn xã hội góp sức xây dựng giáo dục.
- Giáo dục phải nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực.
- Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với xu thế
tiến bộ của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học và học thường
xuyên suốt đời.
- Đa dạng hóa hình thức giáo dục đào tạo, đảm bảo công bằng xã hội trong
giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua
đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo; Nhà nước có chính sách bảo đảm cho
người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học (115[70]).
NQTW 4 cũng vạch ra 12 điểm về chủ trương, chính sách và biện pháp lớn
để tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Đến Hội nghị BCH. TW lần thứ 2 (khóa VIII), Đảng đã định hướng chiến
lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa với 6
quan điểm cơ bản:
- Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo,
trong chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường. Chống khuynh hướng “thương
mại hóa” trong giáo dục, đề phòng khuynh hướng “phi chính trị” hóa trong giáo
dục - đào tạo .
- Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn
(115[70]) Trn Hồng Quân; Sđd; 26 - 27.

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


dân. Mọi người được đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Mọi người chăm lo
cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình đều có trách nhiệm tích cực góp phần
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
- Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội,
những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
- Giữ vai trò nòng cốt của trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại
hình giáo dục - đào tạo.
Nghị quyết TW 2 (khóa 8) cũng nêu rõ nhiệm vụ, mục tiêu phát triển giáo
dục - đào tạo đến năm 2.000 và những giải pháp chủ yếu.
Như vậy, trong hơn mười năm thực hiện đổi mới toàn diện và triệt để mọi
mặt đời sống, xã hội, bằng nhiều nghị quyết mang tính lịch sử, Đảng đã định rõ chiến
lược phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, giải phóng nhiều tiềm lực to lớn cho
giáo dục - đào tạo phát triển lâu dài.
Thực hiện những quan điểm và chủ trương của Đảng, Tỉnh Đảng bộ Đồng
Nai đã định hướng cho công cuộc đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh gắn
liền với đổi mới kinh tế - xã hội. Nghị quyết Tỉnh đảng bộ lần thứ V và VI đã nêu rõ
quan điểm: “Đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo theo hướng xã hội hóa, củng cố,
duy trì phát triển về qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả “ và xác định
nhiệm vụ, mục tiêu và biện pháp nhằm tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo
của tỉnh Đồng Nai đến năm 2.000 như sau :
Thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường lớp đáp ứng yêu cầu và nguyện
vọng của nhân dân, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của địa phương. Hoàn chỉnh
và thực hiện tốt qui chế hoạt động đối với từng loại hình trường lớp. Thực hiện bằng
được việc xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, phát triển hệ thống giáo dục bổ túc văn
hóa. Củng cố và mở rộng trường mầm non tạo điều kiện tốt để huy động tối đa trẻ
em trong độ tuổi vào lớp 1. Phấn đấu trước năm 2.000, hoàn thành phổ cập tiểu học
trong toàn tỉnh, thực hiện được việc phổ cập cấp II ở thành phố Biên Hòa, các thị
trấn của huyện và các xã có điều kiện. Huy động phần lớn thanh niên có trình độ
văn hóa lớp 9 vào các trường bổ túc văn hóa có dạy nghề. Quan tâm phát triển giáo
dục vùng đồng bào dân tộc và có chính sách phù hợp cho học sinh giáo viên các
trường dân tộc nội trú.
Hàng năm cần tăng tỉ trọng đầu tư ngân sách Nhà nước và huy động nguồn
lực của các thành phần kinh tế, nguồn viện trợ quốc tế cho giáo dục - đào tạo. Thực
hiện tốt chương trình chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Hoàn chỉnh trung tâm sư phạm
của tỉnh để bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ngành tăng cả

25.2 Page 242

▲back to top


số lượng và chất lượng. Có chế độ thích hợp giảm bớt khó khăn về đời sống để ổn
định đội ngũ giáo viên, nhất là đối với cấp mẫu giáo, nhà trẻ và giáo viên ở nông
thôn, xã miền núi. Thực hiện tốt chủ trương phân ban ở bậc phổ thông trung học.
Coi trọng đầu tư xây dựng hệ thống trường chuyên, trường trọng điểm để bồi dưỡng
đào tạo nhân tài. Về cơ sở vật chất ngành đến năm 2.000 phấn đấu không còn lớp
học ca 3 ở những nơi dân cư ổn định, không còn lớp tranh tre nứa lá, bảo đảm đủ
phương tiện dụng cụ giảng dạy và học tập cho thầy và trò.
Quan hệ với Bộ giáo dục - đào tạo và các trường đại học để mở các phân
hiệu đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thành lập trường đại
học dân lập của tỉnh. Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, lao động có kỹ thuật hiện có
và theo dõi sự phát triển tài năng của cán bộ để có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo lại,
đào tạo trên đại học, xây dựng đồng bộ đội ngũ công chức và nhân viên lành nghề
trên các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, văn hóa, nghệ
thuật. Mở rộng chế độ cấp học bổng, tài trợ cho con em gia đình lao động nghèo
học giỏi và diện chính sách để có điều kiện học tập, phát triển, sau khi tốt nghiệp về
phục vụ cho địa phương”.
IV.3.2. Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 khi mới bước vào thực hiện
công cuộc đổi mới theo đường lối của Đảng, sự nghiệp giáo dục - đào tạo tỉnh Đồng
Nai bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo còn thấp.
Học sinh bỏ học, lưu ban có chiều hướng gia tăng. Số lượng người mù chữ chiếm tỉ
lệ cao. Nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề không tìm được việc làm. Trường lớp xuống cấp và thiếu thốn nghiêm trọng,
mỗi năm có từ 300 đến 350 lớp phải học ca 3, nhất là ở tiểu học, giáo viên thiếu, yếu
và không đồng bộ, nhiều anh chị em đã bỏ việc, nghỉ việc. Sự nghiệp giáo dục - đào
tạo không đáp ứng được yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của kinh tế - xã hội, đặc biệt là
chậm chuyển biến để thích ứng với nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN.
Từ năm học 1990 - 1991 được sự chỉ đạo của Bộ giáo dục - đào tạo và Tỉnh
ủy, UBND tỉnh, ngành giáo dục - đào tạo Đồng Nai đã sơ kết, rút kinh nghiệm 3 năm
thực hiện đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo và xây dựng chiến lược phát triển
giáo dục đến năm 2.000 và 2.010. Những năm tiếp theo ngành đã xây dựng các
chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa VII) và Nghị quyết
TW2 (khóa VIII) nhằm đẩy mạnh tốc độ và hiệu quả công cuộc đổi mới giáo dục -
đào tạo của tỉnh.
Công cuộc đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh tập trung vào những
nội dung lớn sau đây:
- Củng cố, sắp xếp lại hệ thống giáo dục - đào tạo và mạng lưới trường lớp
cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tạo sự liên thông, liên
kết giữa các ngành học, cấp học, mở rộng qui mô phát triển phục vụ mục tiêu “nâng

25.3 Page 243

▲back to top


cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
- Thực hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa giáo dục - đào tạo, đa dạng hóa
các loại hình trường lớp, đáp ứng mọi nhu cầu học tập của con em nhân dân và thu
hút ngày càng nhiều các nguồn lực phục vụ cho phát triển giáo dục - đào tạo.
- Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trường học. Tăng
cường đào tạo để đảm bảo số lượng, đồng thời tích cực bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng. Giải quyết chính sách để thu hút cán bộ giáo viên về các vùng núi, vùng sâu.
- Tăng cường kinh phí và cải tiến trong công tác quản lý để nâng cao hiệu
quả đầu tư phát triển nhất là đầu tư cơ sở vật chất trường học.
- Cải tiến công tác quản lý giáo dục, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
IV.3.3. Quá trình đổi mới của sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở Đồng Nai diễn ra một
cách toàn diện và sâu sắc:
a) Củng cố, sắp xếp hệ thống giáo dục - đào tạo:
Bắt đầu từ năm học 1987 - 1988 việc củng cố, sắp xếp lại hệ thống giáo dục
và mạng lưới trường lớp đã được đặt ra, nhưng đến năm học 1991 - 1992 khi có
Quyết định 255/CT của Hội đồng Bộ trưởng và Thông tư 53/ TT của Bộ giáo dục -
đào tạo về tổ chức sắp xếp mạng lưới trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân
thì công tác củng cố, sắp xếp hệ thống giáo dục - đào tạo và mạng lưới trường lớp
của tỉnh mới thực sự có chuyển biến mạnh mẽ. Ngày 24 - 04 - 1992, Sở giáo dục -
đào tạo đã có công văn số 76/KH định hướng một số vấn đề cơ bản về tổ chức, sắp
xếp mạng lưới trường mầm non và phổ thông trên địa bàn tỉnh với chương trình dự
kiến trong 4 năm 1992 - 1996.
Ngày 24 - 11 - 1993, Chính phủ ban hành Nghị định 90/CP qui định cơ cấu
khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục và
đào tạo của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó cơ cấu khung của hệ thống giáo dục
quốc dân nước CHXHCN Việt Nam bao gồm: Giáo dục mầm non (nhà trẻ, mẫu
giáo); Giáo dục phổ thông (tiểu học, THCS, TH chuyên ban); Giáo dục chuyên
nghiệp (trung học chuyên nghiệp, trung học nghề, đào tạo nghề); Giáo dục đại học
(cao đẳng, đại học, sau đại học); Giáo dục thường xuyên.
Cơ cấu khung nêu trên thể hiện nguyên tắc: đảm bảo nhu cầu học tập thường
xuyên, suốt đời cho mọi người và ở mọi lứa tuổi.
Nghị định 90/CP cũng qui định hệ thống trường lớp của nền giáo dục quốc
dân bao gồm: Loại hình trường lớp công lập, bán công, dân lập và tư thục; loại hình
trường lớp dành cho đối tượng phổ biến, dành cho học sinh có tài năng, năng khiếu
và các loại hình trường lớp dành cho đối tượng đặc biệt như trẻ khuyết tật, chậm đi

25.4 Page 244

▲back to top


học, bỏ học; hoạt động giáo dục, đào tạo được thực hiện dưới nhiều hình thức: dài
hạn, ngắn hạn, tập trung, không tập trung, đào tạo, bồi dưỡng, chính qui, không chính
qui, tự học, từ xa...
Ngày 20 - 04 - 1994, Bộ giáo dục - đào tạo ban hành Thông tư 03/TT hướng
dẫn thi hành Nghị định 90/CP của Chính phủ. Thông tư nêu rõ thêm một số vấn đề
về hệ thống trường lớp ở bậc học phổ thông và dạy nghề. Trong đó, trường PTCS
được tách làm hai cấp riêng biệt (trường cấp I được gọi là “trường tiểu học”, trường
cấp II được gọi là “trường PTCS”); trường PTTH vẫn giữ nguyên tên cũ đến khi
hoàn thành việc phân ban sẽ đổi thành trường “trường trung học chuyên ban”;
“trường trung học nghề” thay thế cho “trường dạy nghề trung học” hiện nay.
Thực hiện các qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ giáo dục - đào
tạo, ngành giáo dục - đào tạo tỉnh Đồng Nai đã củng cố đã sắp xếp lại các ngành học,
cấp học theo cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục mầm non:
Sau khi sáp nhập với các nhà trẻ, đã xây dựng thành một ngành học hoàn
chỉnh với ba loại hình trường: Mầm non (nhà trẻ, mẫu giáo hợp nhất), trường mẫu
giáo độc lập, nhà trẻ độc lập. Số trường lớp đã tăng từ 137 trường năm học 1987 -
1988 (trừ 3 huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc cắt về tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu), lên 203 trường trong năm học 1998 - 1999. Tổng học sinh tăng từ 37.808 lên
47.185 cháu. Ngoài hai trường trọng điểm cải cách của tỉnh, hệ thống trường trọng
điểm cải cách của huyện và Công ty cao su Đồng Nai đã được củng cố và phát triển.
Giáo dục phổ thông:
Ngành đã tiến hành tách các trường PTCS (C1+2) thành trường tiểu học và
THCS. Từng bước tách trường cấp 2+3 để xây dựng bậc THPT hoàn chỉnh với hai
cấp: THCS và THCB. Riêng THCB mới thực hiện thí điểm phân ban ở các trường:
Ngô Quyền, Long Thành, Long Khánh, Thống Nhất A, Thống Nhất B, Tân Phú,
Nguyễn Trãi; các trường còn lại chưa phân ban nên giữ nguyên tên gọi là trường
PTTH. Bên cạnh các trường phổ thông bình thường, tỉnh đã mở thêm hai trường phổ
thông nội trú cho học sinh và con em dân tộc ít người và 4 trường chuyên đào tạo
học sinh giỏi: PTTH Lương Thế Vinh, PTCS Nguyễn Bỉnh Khiêm, PTCS Lê Quí
Đôn, PTCS Cao Bá Quát (đến năm học 1997 - 1998, thực hiện chủ trương của Bộ
giáo dục - đào tạo, tỉnh đã chuyển 3 trường chuyên PTCS thành các trường phổ thông
bình thường).
Năm học 1987 - 1988, toàn tỉnh có 64 trường PTCS cấp I; 129 trường PTCS
cấp 1+2; 19 trường PTCS cấp II; 16 trường PTTH với tổng số học sinh 75.430. Trong
đó, cấp I có 193.186 học sinh, cấp II có 75.430 học sinh, cấp III có 17.487 học sinh.
Kết quả củng cố, sắp xếp và phát triển ngành học đến năm học 1998 - 1999 có 260

25.5 Page 245

▲back to top


trường tiểu học, 9 trường PTCS (cấp 1+2), 119 trường PTCS (cấp 2); 22 trường
PTTH cấp 3 (trong đó có 6 trường chuyên ban); 13 trường PTTH cấp 2,3 (trong đó
có một trường chuyên ban) với tổng số 466.192 học sinh. Trong đó, tiểu học: 269.639
học sinh; THCS: 152.213 học sinh; THPT: 44.340 học sinh.
Giáo dục đại học và chuyên nghiệp:
Từ năm học 1987 - 1988, các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề của tỉnh được sắp xếp lại theo yêu cầu đổi mới công tác đào tạo phục vụ kinh
tế - xã hội của tỉnh. Kết quả quá trình sắp xếp, đổi mới như sau:
- Trường cao đẳng sư phạm (CĐSP) tiếp tục được củng cố và phát triển.
Năm học 1987 - 1988, qui mô của trường là 600 sinh viên, đến năm 1997 - 1998
trường được nâng lên thành trường CĐSP đa hệ, đào tạo giáo viên THCS, tiểu học
và mầm non với qui mô 3.500 sinh viên.
- Trường trung học sư phạm (THSP) Bà Rịa được bàn giao về tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu khi tỉnh này có quyết định thành lập. Năm học 1992 - 1993, tỉnh Đồng
Nai xây dựng trường THSP mới hợp nhất với Trường sư phạm mầm non. Đến năm
1997 - 1998, Trường THSP được hợp nhất với Trường CĐSP đa hệ, hệ đào tạo giáo
viên tiểu học và mầm non với qui mô 1.500 giáo sinh.
- Trường trung học y tế năm 1990 sát nhập thêm Trường sơ cấp y tế, đào tạo
y sĩ đa khoa qui mô 450 học sinh, đến năm 1997 - 1998 thay đổi cơ cấu đào tạo, chủ
yếu đào tạo y tá trung cấp, điều dưỡng viên và dược sĩ trung cấp, qui mô giảm xuống
còn 150 học sinh.
- Trường trung học kinh tế tiếp tục mở rộng qui mô và hình thức đào tạo,
ngoài việc đào tạo kế toán trung cấp, trường còn liên kết với các trường đại học ở
thành phố Hồ Chí Minh để đào bậc đại học. Qui mô được nâng từ 200 lên 600 trong
năm học 1997 - 1998.
- Trường trung học nông nghiệp sau khi hoàn thành nhiệm vụ đào tạo cán bộ
trung cấp trồng trọt, thú y, bảo vệ thực vật, từ năm 1990 chỉ giữ lại một bộ phận để
bồi dưỡng trình độ sơ cấp chăn nuôi, trồng trọt, bảo vệ thực vật cho cán bộ cơ sở.
Toàn bộ cơ sở vật chất nhà trường được chuyển qua xây dựng Trường dân tộc nội
trú tỉnh.
- Trường trung học văn hóa - nghệ thuật bước vào thập kỷ 90 đã chuyển sang
đào tạo chuyên sâu các bộ môn: múa, nhạc cụ dân tộc và đào tạo cán bộ văn hóa,
nghệ thuật cho các vùng dân tộc, đồng thời liên kết với Trường CĐSP để đào tạo
giáo viên dạy nhạc ở các trường PTCS.
- Trường công nhân kỹ thuật tiếp tục phát triển mạnh mẽ các ngành nghề cơ
khí, động lực, điện công nghiệp, điện tử, may công nghiệp. Ngoài hệ công nhân kỹ

25.6 Page 246

▲back to top


thuật, Trường còn phát triển hệ trung học nghề. Qui mô đã tăng từ 450 năm 1987 -
1988 lên 2000 học sinh năm học 1997 - 1998.
- Trường công nhân kỹ thuật xây dựng tiếp tục phát triển các nghề mộc xây
dựng, nề, bê tông, sản xuất vật liệu xây dựng. Qui mô tăng từ 300 năm 1987 - 1988
lên 400 học sinh năm học 1997 - 1998.
- Trường công nhân lái xe năm 1992 được đổi thành Trường công nhân kỹ
thuật giao thông vận tải Đồng Nai, đào tạo lái xe và lái máy công trình. Qui mô tăng
từ 250 lên 350 học sinh.
- Trường trung học nghề được tỉnh thành lập từ năm học 1998 - 1999 với qui
mô 400 học sinh, đào tạo các ngành điện công nghiệp, điện lạnh, tin học, hàn...
- Trường đại học dân lập Lạc Hồng được thành lập theo Quyết định số
790/TTg, ngày 23 - 9 - 1997 của Thủ tướng Chính phủ, đặt ở phường Bửu Long, tp.
Biên Hòa, đào tạo bậc đại học, cao đẳng, trung cấp và công nhân kỹ thuật với các
ngành: công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, kỹ thuật công trình, kinh tế, ngoại
ngữ, nông nghiệp, chế biến thực phẩm, nông nghiệp sau thu hoạch. Năm học 1997 -
1998 và năm học 1998 - 1999 đều tuyển 1.500 sinh viên.
Ngoài các trường đại học, cao đẳng và THCN của tỉnh, các trường thuộc
trung ương đóng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng được sắp xếp lại để đáp ứng yêu
cầu đào tạo phục vụ cho sự nghiệp đổi mới về kinh tế - xã hội của cả nước:
- Trường trung học lâm nghiệp TW IV năm 1988 đổi thành Trường trung học
lâm nghiệp TW II đào tạo các ngành: lâm sinh, khai thác, kinh tế lâm nghiệp, kế toán,
quản lý rừng.
- Trường trung cấp đo đạc bản đồ được đổi thành Trường trung học địa
chính 3, đào tạo các ngành: trắc địa, không ảnh, đồ bàn, quản lý ruộng đất.
- Trường cơ khí nông nghiệp đổi thành Trường cơ điện và xây lắp nông
nghiệp - công nghiệp thực phẩm, đào tạo công nhân lái máy kéo, điện công nghiệp,
công nhân mía đường.
- Trường dạy nghề cơ giới III phát triển mạnh việc đào tạo lái xe, hàn, tiện,
máy công trình với qui mô 700 học sinh/năm.
- Trường công nghiệp lắp máy số II tiếp tục đào tạo công nhân hàn, tiện, máy
công trình, lái xe với qui mô 800 học sinh/năm.
- Trường trung học thống kê II mở thêm kế toán, tin học với qui mô 600 học
sinh/năm.
- Trường mỹ thuật trang trí được nâng cấp thành Trường cao đẳng mỹ thuật
từ năm 1998 - 1999, đào tạo các ngành: đồ họa công nghiệp, trang trí nội thất, gốm,

25.7 Page 247

▲back to top


điêu khắc, kỹ thuật sắt.
Như vậy, hiện nay, ngành giáo dục đại học và chuyên nghiệp của tỉnh có 16
trường. Trong đó, thuộc tỉnh quản lý là 9 trường, gồm 1 trường đại học, 2 trường cao
đẳng và 13 trường chuyên nghiệp, dạy nghề.
Giáo dục thường xuyên:
Ngành giáo dục thường xuyên cũng đã được sắp xếp lại hệ thống trường lớp.
Các trường BTVH tập trung sau khi hoàn thành nhiệm vụ BTVH cho cán bộ và các
đối tượng chính sách phục vụ qui hoạch cán bộ của tỉnh, huyện đã chuyển qua hình
thức đào tạo tại chức hoặc giải thể. Từ năm học 1987 - 1988, bình quân mỗi huyện
có 1 trường BTVH tại chức huyện (thành phố) và một số trường cụm để đáp ứng
nhu cầu học tập của người lao động, tại Biên Hòa có một trường BTVH tại chức của
tỉnh. Năm học 1995 - 1996, các huyện đã hình thành các trung tâm giáo dục thường
xuyên (TTGDTX) để tổ chức và quản lý các hoạt động dạy, học ngoài chính qui.
Đến năm học 1998 - 1999, toàn tỉnh có 1 TTGDTX tỉnh, 9 TTGDTX huyện và thành
phố Biên Hòa, 1 trường BTVH tỉnh, 1 trường BTVH của Công ty cao su Đồng Nai,
một số lớp BTVH do các trường THCN mở cho học sinh vừa học văn hóa vừa học
nghề. Tổng số học viên là 13.528, trong đó cấp 2 là 4.603, cấp 3 là 8.925.
Song song với việc phát triển BTVH, các lớp XMC và phổ cập tiểu học cũng
phát triển mạnh mẽ. Từ năm học 1990 - 1991, khi có Chỉ thị số 18/ CT - UBT của
UBND tỉnh về công tác xóa mù chữ và phổ cập tiểu học (PCTH), các lớp XMC và
PCTH được triển khai rộng khắp các địa bàn trong tỉnh. Công tác kiểm tra công nhận
XMC và PCTH đã hoàn thành trên toàn tỉnh vào cuối năm 1998 với 162/163 xã,
phường đạt chuẩn quốc gia về XMC và PCTH.
b) Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục - đào tạo và đa dạng hóa các loại hình trường lớp:
Để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục - đào tạo và đa dạng hóa các loại hình
trường lớp nhằm đáp ứng mọi nhu cầu học tập của con em nhân dân, từ năm học
1989 - 1990, ngành giáo dục Đồng Nai tiếp tục phát triển các trường mầm non dân
lập và xây dựng các trường dân lập, bán công ở ngành học phổ thông.
Vào năm học 1989 - 1990, toàn tỉnh mới chỉ có 1 trường dân lập C2+3 (Văn
Hiến) và một số lớp dân lập ở bậc tiểu học, mầm non, đến năm học 1998 - 1999 đã
có 29 trường mầm non dân lập, bán công, 6 trường tiểu học dân lập, 1 trường PTCS
dân lập, 5 trường PTTH dân lập; 1 trường mầm non bán công, 12 trường THCS bán
công, 8 trường PTTH bán công với tổng số 16.889 học sinh dân lập và 28.800 học
sinh bán công.
Bên cạnh các trường cao đẳng, THCN, dạy nghề công lập, tỉnh đã mở ra các
loại hình trường (trung tâm) dân lập, bán công, tư thục và các cơ sở dạy nghề gắn
với các doanh nghiệp. Đến cuối năm 1998, bên cạnh Trường đại học dân lập Lạc

25.8 Page 248

▲back to top


Hồng, trên địa bàn còn có 1 cơ sở đại học mở - bán công, 1 trung tâm dạy nghề của
tỉnh (sau đổi thành Trung tâm hướng nghiệp - dạy nghề), 4 trung tâm dạy nghề của
các ban, ngành, đoàn thể, 2 trung tâm của thành phố Biên Hòa và huyện Long Thành,
17 cơ sở dạy nghề tư nhân; 1 trường dân lập ngoại ngữ, 5 trung tâm tin học ngoại
ngữ và 16 cơ sở dạy ngoại ngữ - tin học được cấp phép hoạt động.
Ngoài việc tổ chức giảng dạy chương trình chính qui theo chỉ tiêu kế hoạch
được giao, các trường cao đẳng, THCN, dạy nghề đều tổ chức các lớp đào tạo tại
chức hoặc liên kết với các trường đại học để đào tạo cho cán bộ có trình độ đại học
.
Từ năm 1990 đến năm 1998, số người được đào tạo, bồi dưỡng từ các hình
thức ngoài chính qui lên đến hàng chục ngàn người, giúp cho nhiều cán bộ và người
lao động có cơ hội để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hoặc học được một
nghề để tự tổ chức sản xuất hay xin vào làm tại các công ty, xí nghiệp đóng trên địa
bàn tỉnh.
c) Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trường học:
Đào tạo giáo viên các cấp:
Từ năm học 1987 - 1988 công tác đào tạo giáo viên tiếp tục được duy trì,
nhưng tới năm học 1992 - 1993 qui mô đào tạo mới được đẩy mạnh và trở thành một
chương trình trọng điểm của ngành. Năm học 1987 - 1988 qui mô đào tạo của các
trường sư phạm là 400 giáo viên/năm. Cùng với việc đào tạo giáo viên mầm non,
tiểu học, THCS, tỉnh đã xin phép Bộ giáo dục - đào tạo liên kết với các Trường đại
học sư phạm Huế, TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội để đào tạo giáo viên PTTH và liên kết
với các Trường đại học bách khoa Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đại học sư phạm kỹ
thuật đào tạo giáo viên ngoại ngữ, tin học, kỹ thuật cho các trường trong tỉnh. Hơn
10 năm đào tạo, đội ngũ giáo viên của tỉnh đã tăng từ 9.502 giáo viên các cấp lên
14.238 giáo viên.
Trong đó, mầm non: 2.194 gv (trước là: 1.576); tiểu học: 6.966 gv (4.377);
THCS: 3.613 gv (2.482); THPT: 923 gv (624); BTVH: 246 gv (196); chuyên nghiệp
- dạy nghề: 283 gv (247).
Bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý trường học:
Từ năm học 1987 - 1988 đến năm học 1997 - 1998, toàn tỉnh đã bồi dưỡng
chuẩn hóa cho 1.254 gv mầm non, 5.746 gv tiểu học, 3.018 gv THCS, 803 gv THPT,
đưa tỉ lệ gv được chuẩn hóa lên 83,3% tổng số gv các cấp.
Song song với việc tổ chức bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục tại Trường
bồi dưỡng giáo dục tỉnh (sau này nhập với Trường CĐSP thành một khoa của nhà
trường), tỉnh đã cử cán bộ đi bồi dưỡng tại Trường cán bộ quản lý giáo dục TW 2

25.9 Page 249

▲back to top


(Bộ GD - ĐT) và các khóa bồi dưỡng quản lý nhà nước của Học viện chính trị Quốc
gia. Đến cuối năm học 1997 - 1998, 93 % số cán bộ quản lý giáo dục cấp tỉnh và
huyện và 87% số hiệu trưởng, hiệu phó các trường học đã được bồi dưỡng nghiệp
vụ quản lý.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ GD - ĐT, công tác bồi dưỡng thường xuyên cho
giáo viên các cấp chu kỳ I (1992 - 1997) đã hoàn thành. Hầu hết giáo viên mầm non,
tiểu học, THCS, THPT đã tham gia bồi dưỡng chu kỳ I và đang chuẩn bị tham gia
bồi dưỡng chu kỳ II (1998 - 2002).
Ngoài ra, ngành đã cử giáo viên và cán bộ quản lý đi đào tạo đại học và trên
đại học để xây dựng mạng lưới giáo viên nồng cốt cho các cấp học, nhất là cho các
trường sư phạm, trường chuyên và cho đội ngũ thanh tra chuyên môn của sở, phòng
giáo dục. Trong 8 năm (1990 - 1998), số giáo viên và cán bộ quản lý được đào tạo
đại học và trên đại học là 1.743 người, nâng tổng số giáo viên và cán bộ quản lý có
trình độ đại học lên 4.223 người, có trình độ trên đại học lên 82 người.
Giải quyết chế độ, chính sách:
Tất cả các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với giáo viên và cán bộ quản
lý đã được thực hiện nghiêm túc, đặc biệt là chế độ phụ cấp ưu đãi theo Quyết định
779/TTg và Quyết định 973/1997/QĐ.TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tổng số giáo
viên và cán bộ quản lý trường học được hưởng phụ cấp ưu đãi theo QĐ 973/QĐ.TTg
là 14.029 người, chiếm 99,8% tổng số giáo viên của ngành.
Ngoài các chế độ chung của Nhà nước, UBND tỉnh Đồng Nai đã ban hành
Quyết định 559/QĐ.UBT, Quyết định 176/QĐ.UBT qui định một số chế độ trợ cấp
đối với giáo viên vùng núi, vùng sâu, giáo viên dạy các trường chuyên, trường dân
tộc nội trú, giáo viên mầm non, giáo viên vùng thiếu nước ngọt trong mùa khô và
sinh viên, học sinh các trường sư phạm của tỉnh và thu hút được giáo viên về các
trường vùng núi, vùng sâu, các trường trọng điểm cải cách.
d) Tăng cường nguồn lực và cải tiến quản lý để nâng cao hiệu quả đầu tư
phát triển:
Kinh phí đầu tư cho giáo dục, đào tạo ở tỉnh Đồng Nai hằng năm đều tăng,
chiếm từ 28 - 30% tổng chi ngân sách của tỉnh. Từ năm 1991 đến năm 1998, tổng
chi cho giáo dục đã tăng gấp 5 lần. Sau đây là thống kê về sự đầu tư kinh phí cho
giáo dục ở các năm qua (đơn vị tính là: 1 triệu đồng):
Nội dung
Sự nghiệp
XDCB
1991
47.609
2.035
1993
66.384
17.135
1994
98.535
14.227
1995
116.400
20.765
1996
130.046
25.018
1997
164.200
38.563
1998
201.450
46.950

25.10 Page 250

▲back to top


CTCM
Cộng:
1.200
50.844
3.949
87.387
7.643
120.405
10.065
138.230
7.050
162.114
8.500
211.265
8.010
256.410
Để nâng cao hiệu quả đầu tư, từ đầu năm 1993, tỉnh cho phép ngành giáo dục
- đào tạo được quản lý trực tiếp theo ngành. Sở GD - ĐT là chủ đầu tư các công trình
xây dựng cơ bản (XDCB) của ngành (trừ các trường CN - DN). Kinh phí chi thường
xuyên sự nghiệp (SN) giáo dục do Sở trực tiếp quản lý, cấp phát theo kế hoạch và
dự toán được duyệt cho các phòng giáo dục và trường trực thuộc Sở. Cuối năm 1993,
tỉnh cho phép Sở GD - ĐT thành lập Ban quản lý công trình XDCB, sau đổi thành
Ban quản lý dự án để trực tiếp quản lý các công trình XDCB của ngành.
Cơ chế quản lý mới đã giúp cho ngành giáo dục - đào tạo chủ động trong
việc xây dựng kế hoạch, lập dự án, tổ chức thực hiện dự án, cấp phát và thanh quyết
toán, vì vậy đáp ứng kịp thời và có hiệu quả các hoạt động dạy học và đầu tư cơ sở
vật chất nhà trường. Bình quân mỗi năm xây dựng từ 300 đến 350 phòng học để
phục vụ cho phát triển giáo dục và thay thế các cơ sở đã xuống cấp, dành từ 6 - 7 tỷ
đồng để trang bị sách giáo khoa và đồ dùng dạy học cho các trường học. Từ năm
học 1987 - 1988 đến năm học 1998 - 1999 số phòng học mầm non, phổ thông của
tỉnh đã tăng lên 3.265 phòng. Trong đó, mầm non: 1.479 phòng (trước là: 969
phòng); tiểu học: 3.979 (2.379); THCS: 1.584 (860); THPT: 667 (236). Có 20 trường
học đã được xây dựng mới khang trang, hiện đại phục vụ tốt cho công tác nâng cao
chất lượng dạy học. Trong đó, mầm non: 2 trường, tiểu học: 8 trường, THCS: 2
trường, THPT: 6 trường, trung tâm GDTX: 1 trường.
e) Đổi mới quản lý, phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả đào tạo:
Giáo dục mầm non:
Công tác đổi mới quản lý và phương pháp dạy học được thực hiện qua việc
hợp nhất nhà trẻ và mẫu giáo, tạo sự liên thông, liên kết trong việc chăm sóc giáo
dục trẻ và thực hiện các chương trình cải tiến nuôi dạy trẻ: Chương trình chỉnh lý ở
nhà trẻ, Chương trình cải cách ở mẫu giáo, Chương trình lồng ghép vì sự phát triển
của trẻ thơ có sự tài trợ của UNICEF. Sau gần mười năm triển khai thực hiện, tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng, trẻ mắc 6 bệnh phổ biến đã giảm đi rõ rệt, các cháu khỏe mạnh,
tự tin, ham học và có những hiểu biết tốt về lòng nhân ái. Số cháu ở độ tuổi 5 tuổi
được chuẩn bị tốt để bước vào học phổ thông.
Giáo dục phổ thông:
Công tác đổi mới quản lý và phương pháp dạy học được thực hiện qua việc
đổi mới thanh tra giáo dục, nhất là thanh tra giáo viên, đổi mới công tác thi cử đánh
giá học sinh, đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện “phương pháp giáo dục tích
cực” với việc lấy người học làm trung tâm, bồi dưỡng cho học sinh “năng lực tư duy
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Công tác thanh tra giáo viên được triển khai

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


từ năm học 1993 - 1994 đến nay đã có 77% giáo viên tiểu học, 89% THCS, 59,7%
THPT được thanh tra xếp loại theo tiêu chuẩn của Bộ GD - ĐT. Công tác thi cử đánh
giá học sinh được tổ chức ngày càng chặt chẽ, nghiêm túc và toàn diện hơn, số môn
thi ở THCS và THPT tăng từ 4 môn lên 6 môn. Kết hợp chặt chẽ giữa việc đánh giá
thường xuyên trong năm và các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp. Các chuyên đề đổi mới
phương pháp giảng dạy đạo đức ở tiểu học; giáo dục công dân, giáo dục thể chất,
giảng dạy ngoại ngữ, vật lý, hóa học ở bậc trung học được triển khai có kết quả. Việc
thực hiện giảng dạy chương trình chuyên ban ở các trường PTTH phân ban đã tiến
hành nghiêm túc. Công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu đã được
đầu tư đúng mức. Sau hơn 10 năm đổi mới, chất lượng và hiệu quả đào tạo đã tăng
lên đáng kể. Số học sinh tốt nghiệp tiểu học hàng năm đạt từ 90% - 95%; tốt nghiệp
THCS từ 80% - 85%; tốt nghiệp THPT từ 75% - 80%. Hiệu quả đào tạo ở cấp I tăng
từ 56% lên 73%; ở THCS từ 48% lên 64%; ở PTTH từ 64% lên 75%. Số học sinh
giỏi đoạt giải quốc gia ngày một tăng cao. Năm học 1991 - 1992 có 21 học sinh đoạt
giải quốc gia, đến năm học 1997 - 1998 có 70 học sinh đoạt giải quốc gia .
Giáo dục thường xuyên:
Công tác đổi mới về chương trình, SGK dạy học được triển khai nghiêm túc.
Từ 4 môn học BTVH cấp 2, cấp 3 đến nay đã tăng lên 8 môn . Chương trình dạy học
đã bám sát chương trình của phổ thông cùng cấp. Thi cử được tổ chức chặt chẽ và
toàn diện hơn. Từ thi 4 môn: văn, toán, vật lý, hóa học đến năm học 1997 - 1998 đã
thi đủ 6 môn như ở các trường THPT cùng cấp. Số lượng học sinh tốt nghiệp cấp 2
và cấp 3 ngày một tăng cao. Năm học 1987 - 1988 có 1.193 học viên tốt nghiệp
BTVH cấp 2 và 375 học viên tốt nghiệp BTVH cấp 3. Năm học 1997 - 1998 đã có
1.003 học viên tốt nghiệp BTVH cấp 2 và 2.185 học viên tốt nghiệp BTVH cấp 3.
Nhiều học sinh tốt nghiệp BTVH đã thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và
THCN.
Giáo dục chuyên nghiệp - dạy nghề:
Việc đổi mới tập trung và phân cấp quản lý theo hướng tăng quyền tự chủ
cho nhà trường, đa dạng hóa phương thức dạy và học, mở rộng liên thông liên kết
giữa các trường học với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các cơ quan nghiên cứu và
ứng dụng khoa học. Từ năm học 1990 - 1991 các trường đã được cấp bằng tốt nghiệp
hoặc chứng chỉ học phần cho học sinh. Hầu hết các trường đều cải tiến mục tiêu, nội
dung chương trình giảng dạy, thực hiện đào tạo theo diện rộng, đào tạo kép, cắt bỏ
những phần không cần thiết và đưa vào chương trình các môn mà nhu cầu xã hội
đang đặt ra như: tin học, ngoại ngữ, pháp luật. Ngoài các phương pháp dạy truyền
thống nhiều trường áp dụng phương pháp đào tạo theo modul, tạo điều kiện cho
người lao động có thể lựa chọn nội dung và cách học thích hợp. Việc tổ chức hội
giảng cấp trường, cấp tỉnh và tham gia hội giảng toàn quốc đã được thực hiện có nề

26.2 Page 252

▲back to top


nếp. Nhiều giáo viên được giải cao trong các kỳ hội giảng do Bộ GD - ĐT tổ chức.
Việc gắn giảng dạy với thực hành, đào tạo với sử dụng được đặt ra như một điều
kiện sống còn của nhà trường, giúp cho học sinh tốt nghiệp có tay nghề vững vàng
và có nhiều cơ hội tìm được việc làm tại các cơ sở sản xuất, dịch vụ.
Sau hơn 10 năm đổi mới, một số trường đã vươn lên mạnh mẽ tiếp tục khẳng
định vị thế của mình, đáp ứng được yêu cầu đổi mới về kinh tế - xã hội của tỉnh như:
CĐSP, THSP, Công nhân kỹ thuật, Công nhân xây dựng, Công nhân giao thông...
Một số trường đã vượt qua được giai đoạn khó khăn để trụ lại và tiếp tục phát triển
như: Trung học kinh tế, Trung học y tế, Trung học văn hóa - nghệ thuật. Các trường
TW đóng trên địa bàn tỉnh cũng tiếp tục mở rộng qui mô đào tạo và đạt được những
kết quả đáng kể. Số sinh viên, học sinh được đào tạo trong 10 năm qua đã lên trên
20.000 người, trong đó một số khá đông có việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho
việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Bộ máy quản lý giáo dục các cấp:
Từ năm học 1988 - 1989, có chủ trương hợp nhất với Ban giáo dục chuyên
nghiệp tỉnh, thành, Sở giáo dục - đào tạo tỉnh Đồng Nai đã quản lý toàn bộ hệ thống
giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh từ mầm non đến giáo dục đại học, chuyên nghiệp
và dạy nghề.
Bộ máy quản lý giáo dục được phân làm 2 cấp: cấp tỉnh là Sở giáo dục - đào
tạo, cấp huyện (thành phố) là Phòng giáo dục - đào tạo. Riêng Công ty cao su Đồng
Nai không phải là một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh nhưng từ lâu đã hình thành
hệ thống các trường mầm non gắn với các nông trường. Khi các trường mầm non do
ngành GD - ĐT quản lý thì ở Công ty cao su Đồng Nai hình thành Phòng giáo dục
mầm non trực thuộc Sở GD - ĐT.
Năm học 1992 - 1993, thực hiện Quyết định 2028/QĐ.UBT, ngày 7 - 11 -
1992 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc “Ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của
Sở giáo dục - đào tạo theo cơ chế quản lý ngành”, bộ máy của Sở GD - ĐT và các
phòng GD - ĐT được sắp xếp, củng cố cho phù hợp với công tác quản lý theo ngành.
Đến năm học 1998 - 1999, Văn phòng Sở GD - ĐT biên chế 60 CBCNV được tổ
chức gồm: ban giám đốc (3 người) và 9 phòng ban chuyên môn (57 người). 10 phòng
GD - ĐT biên chế 121 CBCNV.
Từ năm học 1993 - 1994 đến năm học 1998 - 1999 do yêu cầu nâng cao chất
lượng quản lý, chỉ đạo của các cấp quản lý nhất là quản lý chuyên môn nghiệp vụ,
các phòng, ban của Sở được sắp xếp và củng cố thêm một bước. Phòng kế hoạch -
tài vụ tách ra một bộ phận để thành lập Ban quản lý công trình sau đổi thành Ban
quản lý dự án (biên chế không thuộc Sở). Phòng giáo dục phổ thông tách thành 2
phòng: Phòng giáo dục tiểu học và Phòng giáo dục THPT, các phòng ban khác cũng

26.3 Page 253

▲back to top


được bổ sung thêm cán bộ nghiệp vụ. Bên cạnh các phòng ban chuyên môn, cơ quan
Sở còn thành lập một tổ thông tin quản lý để thực hiện nhiệm vụ nối mạng thông tin
toàn ngành. Các phòng ban tuy không tăng biên chế nhưng được điều chỉnh các bộ
phận chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng quản lý, đặc biệt là củng cố bộ
phận thanh tra giáo dục, mỗi phòng (ban) có cử một cán bộ làm chuyên trách thanh
tra giáo dục.
Bộ máy quản lý các trường học cũng tiếp tục củng cố để nâng cao chất lượng
quản lý của nhà trường. Một số trường THCN - DN đã tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm
hiệu trưởng, hiệu phó để làm cơ sở cho việc bổ nhiệm, đề bạt của cơ quan quản lý
cấp trên. Năm học 1998 - 1999, toàn tỉnh có 649 ban giám hiệu trường học và ban
giám đốc các TTGDTX, TT hướng nghiệp - dạy nghề, TT tin học - ngoại ngữ với
tổng số 1.247 hiệu trưởng, hiệu phó, giám đốc, phó giám đốc.
IV.4. Đánh giá chung:
IV.4.1. Qua hơn hai thập kỷ xây dựng và phát triển, sự nghiệp giáo dục - đào tạo
tỉnh Đồng Nai đã gắn bó chặt chẽ với công cuộc cải tạo, xây dựng và đổi mới kinh
tế - xã hội theo định hướng XHCN do Đảng lãnh đạo. Mặc dù gặp không ít khó khăn,
phức tạp và còn nhiều mặt yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mạnh mẽ
kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Tỉnh đảng bộ, song nhìn chung sự nghiệp giáo
dục - đào tạo đã trưởng thành vượt bậc cả về qui mô và chất lượng đào tạo. Số người
được học tăng gấp 2 lần. Bình quân 3,6 người dân có 1 người đi học. Mặt bằng dân
trí của tỉnh đã được nâng lên đáng kể. 99,4% số xã phường hoàn thành XMC và phổ
cập tiểu học. 678.356 học sinh tốt nghiệp tiểu học; 237.839 học sinh tốt nghiệp
THCS; 73.242 học sinh tốt nghiệp THPT, trên 20.000 người trong đó có một số lớn
cán bộ chủ chốt đã tốt nghiệp BTVH cấp II và III. Nhiều học sinh giỏi đã được phát
hiện và bồi dưỡng thành những nhân tài cho đất nước. Từ năm học 1978 - 1979 đến
năm học 1997 - 1998 đã có 321 học sinh đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc
gia và hàng trăm học sinh đoạt huy chương vàng, bạc, đồng trong các kỳ thi thể thao,
văn nghệ học sinh toàn quốc và khu vực. Các trường chuyên nghiệp - dạy nghề của
tỉnh và TW đóng trên địa bàn tỉnh đã góp phần đào tạo cho tỉnh hàng chục ngàn cán
bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, đã đào tạo trên 8.000 giáo viên từ mầm
non đến PTTH phục vụ cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh.
Sự trưởng thành của ngành giáo dục - đào tạo và thành tích phấn đấu của các
đơn vị trường học, các thầy cô giáo đã được Nhà nước và các cấp chính quyền ghi
nhận và tôn vinh: ngành được Chủ tịch Nước tặng thưởng 2 huân chương lao động
hạng II và hạng III; 2 trường được tặng huân chương lao động hạng II và 10 trường
học được tặng huân chương lao động hạng III; 5 nhà giáo được tặng huân chương
lao động hạng III; 38 cán bộ, giáo viên được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao

26.4 Page 254

▲back to top


quí “Nhà giáo ưu tú”; 2.405 nhà giáo được tặng huy chương “Vì sự nghiệp giáo
dục”; 4 đơn vị trường học được tặng cờ của Chính phủ; 105 đơn vị trường học và cá
nhân được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; hàng ngàn đơn vị và cá nhân
được Bộ GD - ĐT và UBND tỉnh Đồng Nai tặng bằng khen.
IV.4.2. Trong suốt chặng đường 23 năm xây dựng và phát triển, sự nghiệp GD - ĐT
của tỉnh Đồng Nai luôn luôn được sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và
Bộ GD - ĐT đồng thời được sự ủng hộ mạnh mẽ của các ban, ngành, đoàn thể, các
cấp ủy, chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân. Giáo dục đã thực sự trở thành
sự nghiệp chung của toàn xã hội. Được soi sáng bởi đường lối giáo dục của Đảng,
sự nghiệp giáo dục - đào tạo Đồng Nai đang hướng tới thế kỷ XXI với mục tiêu “Xây
dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm
năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích
cực của cá nhân làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng
tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghệ, có tính tổ chức và kỹ luật;
có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
Trang 1
ẢNH 1
1- “Ông Nhật – Bà Nguyệt” trang trí gốm mỹ nghệ ở mái đình chùa Ông.
ẢNH 2
2- Tượng bằng giấy bồi.
ẢNH 3
3- Thư pháp khắc gỗ ở đình Tân Giám.
ẢNH 4
4- Hai bức chạm lộng và chạm hình ở đình làng Cù Lao Phố.

26.5 Page 255

▲back to top


ẢNH 5
5- Mộ đá (ở Biên Hòa).
Trang 2
ẢNH 1
1- Một đội bóng đá tại chiến khu Đ năm 1949.
ẢNH 2
2- Cà kheo được phục hồi.
ẢNH 3
3- Múa lân (Mai hoa thưng).
ẢNH 4
4- Đua thuyền trên sông Đồng Nai.
Trang 3
ẢNH 1
1- Tiết mục xếp hình của học sinh Đồng Nai trong Hội khỏe Phù Đổng.
ẢNH 2

26.6 Page 256

▲back to top


2- Cờ vua, môn thể thao trí tuệ, phát triển mạnh trong lớp trẻ ở Đồng Nai.
ẢNH 3
3- Ở nông thôn, bóng đá vẫn là môn thể thao “vua”.
ẢNH 4
4- Nhiều cơ quan, xí nghiệp đã lập được đội bóng chuyền để rèn luyện sức
khỏe.
ẢNH 5
5- Người cao tuổi hưởng ứng phong trào rèn luyện sức khỏe.
Trang 4
ẢNH 1
1- Lớp học ngày xưa.
ẢNH 2
2- Trường tiểu học tỉnh lỵ Biên Hòa trong trận lụt năm Thìn (1952).
ẢNH 3
3- Thợ đúc đồng Trường kỹ nghệ thực hành Biên Hòa.
ẢNH 4
4- Một lớp học nghề gốm ở Trường kỹ nghệ thực hành Biên Hòa.
ẢNH 5

26.7 Page 257

▲back to top


5- Hội truyền bá Quốc ngữ tỉnh Biên Hòa hoạt động công khai những năm
1950.
Trang 5
ẢNH
Phong trào đấu tranh của giáo chức, học sinh đòi độc lập, tự do ở thị xã Biên
Hòa thời chống Mỹ.
ẢNH
Học sinh Trường tiểu học bổ túc tỉnh và thầy giáo Hồ Văn Tam.
ẢNH
Nữ sinh Biên Hòa trước năm 1975.
Trang 5
ẢNH
Trường PTTH. Ngô Quyền, đơn vị đầu tiên ở miền Nam, đón nhận danh hiệu
tập thể học sinh XHCN.
Trong ảnh: Đ/c Trần Thị Minh Hoàng, Bí thư Tỉnh đoàn khóa I trao cờ cho
trường.
ẢNH
Đ/c Trần Thị Minh Hoàng, Ủy viên TW. Đảng, Bí thư Tỉnh ủy khóa VI trao
danh hiệu đơn vị Anh hùng Lao động cho Trường PTTH. Tân Phú.

26.8 Page 258

▲back to top


ẢNH
Bộ trưởng giáo dục – đào tạo Trần Hồng Quân thăm các lớp dạy nghề ở
Trường PTTH. Ngô Quyền năm 1992.
I. BÁO CHÍ ĐỒNG NAI TỪ NĂM 1859 ĐẾN 1945:
I.1. Báo chí Đồng Nai từ năm 1859 đến 1945 gắn liền với sự hình thành
và phát triển của báo chí Nam bộ. Trước khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ra
đời - tờ Gia Định báo, ở Nam bộ có ba tờ báo tiếng Pháp và chữ Hán: Le bulletin
officiel de L'expe'dition de la Conchichine (1861 - 1888), Le bulletin des Comnumes
(1862), Le courrier de SaiGon (1864). Ba tờ này chủ yếu in những công văn, thông
tư, nghị định... của chính phủ và do người Pháp thành lập. Không mấy người đọc
được tiếng Pháp nên người Pháp mới nghĩ đến thành lập một tờ báo tiếng Việt. Với
sự ra đời của Gia Định báo (1865), báo chí bằng chữ quốc ngữ ở Nam bộ đã xuất
hiện sớm hơn ở Bắc và Trung bộ trên 40 năm (116[1]). Sở dĩ báo chí ở Nam bộ phát
triển sớm vì Pháp chiếm Nam bộ trước [PT1](117[2]). Nam bộ là một thuộc địa khác
với Bắc và Trung bộ là chế độ bảo hộ. Là thuộc địa nên Nam bộ theo chế độ trực trị,
điều kiện làm báo có nới hơn và đặc biệt là được hưởng đạo luật báo chí của Pháp
(29 - 7 - 1881). Theo đạo luật này thì việc ấn hành sách báo ở Nam kỳ được hoàn
toàn tự do, dù báo chữ Pháp hay Việt. Điều luật có ghi: "Tất cả các loại báo sẽ được
phát hành không cần sự cho phép trước và không cần ký qũy tiền, sau khi được công
bố đúng theo điều 7". Điều 7 quy định, trước khi phát hành, tờ báo phải được khai
báo ở Sở Biện lý những gì có liên quan đến: "Tít báo, loại báo; Tên họ, địa chỉ người
quản lý; Ghi rõ nơi in báo; Tất cả những thay đổi về những điều trên được khai báo
trước 5 ngày". Tuy nhiên về sau, Chính phủ Pháp lại ban bố sắc lệnh 30 - 12 - 1898
nhằm sửa đổi một số điều của đạo luật trên. Cụ thể là: "Tất cả những tờ báo in bằng
chữ quốc ngữ, bằng chữ Hoa hay bất cứ một thứ tiếng nào khác ngoài tiếng Pháp
phải có sự cho phép trước của quan Toàn quyền sau khi quan Toàn quyền hội ý với
ban thường trực Thượng hội đồng Đông Dương". Lý do sửa đổi là nhằm hạn chế sự
phát triển của báo chí mà suy cho cùng là hạn chế sự công kích, vạch trần âm mưu,
thủ đoạn xâm lược nước ta của thực dân và thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam
(116[1]) Hà Ni, Đại Vit Tân Báo xut bn 1905, na phn chHán, na phn chquc ngữ. Trước đó, năm
1892 đã có Đại Nam Đồng văn nhật báo nhưng mãi đến 1907 tbáo này mi có chQuc ngbên cnh chHán
(117[2]) Pháp chiếm Gia Định (1859), 3 tnh miền Đông Nam kỳ (1862), 3 tnh min Tây (1867)
Commented [PT1]:

26.9 Page 259

▲back to top


dưới ách đô hộ của thực dân và bọn tay sai. Sắc luật 1898 tuy trái với đạo luật 1881,
nghĩa là không hợp hiến nhưng nó vẫn tồn tại lâu dài cho đến năm 1936 khi Mặt trận
bình dân thắng cử ở Pháp. Và mãi cho đến năm 1938, mới có một tờ báo tiếng Việt
phát hành mà không phải xin phép quan Toàn quyền, chỉ báo cho sở Biện lý. Đó là
tờ Dân chúng.
I.2. Trên thế giới, báo chí ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin
trong xã hội. Ở nước ta, báo chí nảy sinh do thực dân Pháp dùng nó làm công cụ
thống trị sau khi ổn định quá trình xâm lược, cho cái gọi là "sứ mạng khai hóa"...
của chúng. Do vậy, buổi đầu, thực dân Pháp dùng báo chí để phổ biến các thông tư,
nghị định..., cổ võ cho tiếng Pháp và chữ quốc ngữ la tinh, nhằm đánh bại chữ Hán
Nôm, cũng đồng nghĩa với việc đẩy lùi và loại trừ thế lực tinh thần của sĩ phu yêu
nước lúc bấy giờ - lực lượng chủ yếu lãnh đạo kháng chiến chống Pháp. Nhưng rồi,
người mình thấy được lợi ích của chữ quốc ngữ "dễ học, dễ thuộc", nó như một
phương tiện để nâng cao trình độ dân trí, mở mang văn hóa dân tộc, truyền bá tư
tưởng yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc và nhất là dùng chính cái vũ khí của thực
dân để đánh lại thực dân.
Đặc điểm này đã thể hiện rất rõ ở báo chí nước ta, đặc biệt là báo chí
Nam bộ, mảnh đất "màu mỡ" của báo chí vào buổi đầu hình thành cho đến 1945:
I.2.1 Khởi đầu từ Gia Định báo (118[3]) đến các tờ báo tiếng Việt ra
đời ở Nam bộ trong những năm cuối thế kỷ 19 (Phan Yên báo, Nam kỳ địa phận
(119[4])...), hầu hết đều do bọn thống trị Pháp lập ra nhằm phục vụ cho chính sách
xâm lược đất nước ta, nô dịch nhân dân ta. Người viết báo gồm cả người Pháp lẫn
người Việt. Những người Việt viết báo hầu hết là công chức của Pháp.
Báo chí buổi đầu là một công cụ văn hóa nhằm thực hiện chính sách
thống trị của thực dân Pháp. Song ở một phía khác, người Việt Nam cũng bắt đầu
(118[3]) Gia Định báo: là tbáo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, số đầu tiên ra vào ngày 15 - 4 - 1865, được chính ph
Pháp giao cho một người Pháp tên là Ernest Potteau quyn quản lý và phát hành. Đến ngày 16 - 9 - 1869, đô đốc
Ohier ký nghị định giao cho ông Trương Vĩnh Ký đảm nhiệm giám đốc và Hunh Tnh Ca làm chbút. Từ năm
1865 đến năm 1869, Gia Định báo có ni dung ca mt tờ công báo (đăng các công văn, nghị định...). Năm 1869,
dui sự điều hành của ông Trương Vĩnh Ký nội dung có phong phú hơn. Ngoài việc đăng những công văn, nghị
định, báo còn có các bài nghiên cu vlch sử, thơ, văn... cổ động và khuyến khích dân chúng hc chquc ng. T
Gia Định báo có 4 trang, kh32 x 25 cm, phát hành mi tháng 1 k, về sau báo tăng lên 2 kỳ trong tháng, rồi đến
mi tun mt kỳ. Khuynh hướng chung ca Gia Định báo bc ltính chất xâm lược ca bn thc dân và tính cht
đầu hàng bán nước ca mt bphn phong kiến bn xhp tác vi gic Pháp. Trong những năm Trương Vĩnh Ký
làm giám đốc, Gia Định báo có ni dung cổ động li hc mi, góp phn phát trin chquc ngvà cổ động vic
hc chquc ng.
(119[4]) Phan Yên báo: là tbáo tiếng Vit thứ 2 ra đời (1868), Giám đốc: Diệp Văn Cường, mt hi viên ca Hi
đồng qun ht Nam k. Báo chỉ ra được mt vài sthì bcấm vì đăng bài có nội dung công kích và phê phán mt s
chính sách ca thc dân. Nam kỳ địa phn: xut bản năm 1883 tại Sài Gòn, tbáo nhm tuyên truyn giáo lý đạo
Công giáo...

26.10 Page 260

▲back to top


làm quen với một phương tiện thông tin mới: báo chí. Từ đó, dần dần tiến lên sử
dụng báo chí như một vũ khí đấu tranh. Thông qua báo chí, người Việt Nam tìm hiểu
tình hình trong nước, thế giới, tìm hiểu âm mưu, thủ đoạn của thực dân và tay sai.
Các nhà yêu nước Việt Nam đã thấy chữ quốc ngữ là công cụ rất tốt để tuyên truyền
chủ nghĩa yêu nước và giáo dục mở mang dân trí trong nhân dân.
I.2.2. Bước sang thế kỷ 20, tình hình nước ta có những chuyển biến
mới. Sau khi ổn định quá trình xâm lược, thực dân Pháp bắt tay vào việc xây dựng
chế độ thực dân và khai thác thuộc địa. Thời kỳ này, những cuộc khởi nghĩa vũ trang
của nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị thất bại nhưng nhân dân ta vẫn tiếp tục
đấu tranh chống Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau như: phong trào chống đi phu,
chống sưu thuế (1908), cuộc vận động Duy Tân (1906 - 1908) và Đông Kinh Nghĩa
Thục (1907). Trong tình hình mới, thực dân Pháp càng tăng cường sử dụng vũ khí
báo chí vào chính sách khai thác thuộc địa. Các tờ Nông cổ mím đàm, Đại Việt tân
báo, Lục tỉnh tân văn, Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn...
ra đời. Song tác động của cuộc đấu tranh của các lực lượng yêu nước nên báo chí
cũng phản ảnh một phần tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó có phong trào
đấu tranh quần chúng chống Pháp. Một vài tờ báo tiếng Việt như Đại Việt tân báo,
Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn... thỉnh thoảng có đăng bài bày tỏ thiện cảm đối
với phong trào chính trị do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh lãnh đạo.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Ở châu Âu, Pháp và Đức
đánh nhau. Thực dân Pháp huy động sức người, sức của ở Đông Dương để cung ứng
cho chiến tranh. Chúng sử dụng báo chí (các tờ Công luận báo, Nam Phong...) để
phục vụ cho chủ trương này. Các nhà yêu nước Việt Nam, nhân cơ hội Pháp mắc kẹt
trong chiến tranh chống Đức đã vận động nhân dân nổi lên đánh đuổi giặc Pháp,
giành lại độc lập dân tộc.
Theo Lịch sử báo chí của Hoàng Chương, trong những năm cuối thế kỷ
19 và 10 năm đầu thế kỷ 20, ở nước ta có khoảng 10 tờ báo tiếng Việt, trong lúc đó
có trên 70 tờ báo tiếng Pháp do người Pháp xuất bản. Một số tờ báo tiếng Việt chỉ là
bản dịch báo tiếng Pháp (120[5])...
I.2.3 Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi có Đảng CSVN: Báo
chí do người Việt làm chủ và là phương tiện đấu tranh chính trị
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ở nước ta đã xuất hiện những lực lượng xã
hội mới: đó là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Các giai cấp này hình thành và
phát triển trong các đợt khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
(120[5]) TNht báo tnh do G. Garros lp ra là bn dch ca tMoniteur des provinces, tCông lun báo là bn
dch ca tOpinion, tAn Hà nht báo là bn dch ca tLe Courrier de l'Ouest...

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Phong trào cách mạng cũng có những chuyển biến mới. Nếu trước đó,
phong trào do tầng lớp sĩ phu yêu nước xuất thân từ giai cấp phong kiến lãnh đạo thì
từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng do tầng lớp thanh niên
tiên tiến có ảnh hưởng Cách mạng Tháng 10 Nga, hoặc tầng lớp trí thức xuất thân từ
giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo. Đây là thời kỳ đấu tranh để chuẩn bị thành lập đảng
cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, là thời kỳ đấu tranh giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản dân tộc để giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Báo chí ở nước ta từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất cũng tăng hơn
nhiều. Để thi hành chính sách cải lương, thực dân Pháp không giữ độc quyền báo
chí như trước nữa mà cho một số người thuộc tầng lớp trên trong xã hội nước ta
được phép xuất bản báo chí. Cố nhiên, là phải tuân theo pháp luật của chính quyền
thực dân và phải chịu sự kiểm soát của chúng. Tất cả các tờ báo xuất bản công khai
trong thời kỳ này đều hoặc tự nguyện, hoặc bị ép buộc phải phục vụ cho chính sách
khai thác thuộc địa và chính sách cải lương của thực dân Pháp. Ngoài nét chung đó,
mỗi tờ báo lại có nét riêng, phản ánh lợi ích của chủ báo là người trong giai cấp tư
sản hoặc địa chủ. Một số người có thế lực và tiền đã xuất bản báo chí, dùng báo chí
làm phương tiện để mua danh lợi. Trong nghề báo dần dần hình thành hai loại: người
chủ báo và người viết báo. Nếu trong thời kỳ từ năm 1918 trở về trước, báo chí ở
nước ta nói chung chỉ có một khuynh hướng duy nhất là khuynh hướng thực dân
phong kiến, thì báo chí trong thời kỳ sau năm 1918 có nhiều khuynh hướng phức tạp
hơn, phản ánh lợi ích của nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội lúc bấy giờ.
Tại Sài Gòn, một số tờ báo xuất bản vào thời kỳ này như: Đông Pháp thời
báo của Nguyễn Kim Đính (1923), Kỳ lân báo (1928) của Vân Trình (chủ nhiệm)
và Bùi Ngọc Thự (quản lý), Thần Chung (1929) của Diệp Văn Kỳ...
Một sự kiện quan trọng đáng chú ý của thời kỳ này là sự ra đời của báo
chí cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga (1917), việc thành
lập Quốc tế cộng sản và những hoạt động của Quốc tế cộng sản đã tác động tích cực
đến phong trào yêu nước ở Việt Nam. Báo chí cách mạng ra đời là một tất yếu khách
quan nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển phong trào yêu nước trong thời kỳ mới.
Báo Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, số đầu tiên ra ngày 21 - 6 - 1925 là
tờ báo cách mạng đầu tiên ở nước ta. Báo xuất bản hàng tuần vào ngày chủ nhật, 4
trang, khổ 18x24. Báo in ở Quảng Châu, in xong được chuyển về nước theo đường
dây liên lạc bí mật. Những người cách mạng trong nước chép lại thành nhiều bản để
lưu hành rộng rãi hơn. Báo Thanh Niên là ngọn nguồn của báo chí cách mạng Việt
Nam. Sau khi báo xuất bản, nhiều tờ báo cách mạng khác kế tiếp nhau ra đời. Theo
thống kê, trong khoảng 20 năm (từ khi báo Thanh Niên ra đời đến Cách mạng tháng
Tám 1945 thắng lợi), có khoảng trên 550 tờ báo cách mạng đã được xuất bản và lưu
hành trong cả nước ta

27.2 Page 262

▲back to top


I.2.4. Từ khi có Đảng đến cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công: Báo chí phát triển mạnh mẽ và song song với hai dòng báo chí:
- Báo chí cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương phát hành trong
bí mật. Đó là báo chí của Trung ương Đảng, Xứ ủy, Tỉnh ủy, cả báo trong nhà tù đế
quốc: Hỏa lò, Sơn La, Ban mê Thuộc, Khám lớn, Côn Đảo. Cộng với báo chí của
các Đảng Cộng Sản Pháp, Trung Hoa, Liên Xô cũng được chuyển từ Pháp, Trung
Hoa, Liên Xô qua đường dây bí mật đến Việt Nam, đến các Đảng viên Đảng Cộng
sản Đông Dương, đến nhân dân Việt Nam, đến nhân dân Đông Dương.
- Báo chí công khai: Có những xu hướng:
* Báo chí của nhà cầm quyền Pháp, nội dung chống Đảng Cộng sản
Đông Dương, nhất là khi có cuộc khởi nghĩa Nghệ Tĩnh. Đơn cử một số báo như:
Trường An Cận Tín (1930) của Phủ Thống sứ Trung kỳ, Thanh Nghệ Tĩnh tân văn
(1930) của Phủ công sứ Vinh, Bình Phú tân văn (1930) của Phủ Thống sứ Trung
kỳ... Những tờ báo này chỉ tồn tại không lâu. Riêng các tờ Lục Tỉnh tân văn (bộ mới
1907), Đông Dương Tây chí (1918), Nam Phong Tây chí (1925) đều có trợ cấp, rồi
lần lượt chết, chỉ còn Lục Tỉnh tân văn là tờ công báo cuối cùng đến khi Nhật lật đổ
Pháp ở Đông Dương thì tờ báo mới chết hẳn.
* Báo chí đối lập, nhất là phong trào Đông Dương đại hội (tiếng Việt,
tiếng Pháp) đủ loại ra đời: Lao Động (1933), La Lutte (1935), Le Travail (1936),
Nhành Lúa, Tin Tức, L'Avant Garde Le Peuple (1937), Dân Chúng (1939)...
Năm 1936, có chuyện báo chí xuất bản không cần xin giấy phép, đi đầu
là tờ Dân Chúng của Cendrieux. Báo bị nhà cầm quyền Pháp ở Sài Gòn tịch thu.
Cendrieux là người Pháp theo luật báo chí của Pháp thì không xin phép, nên phản
đối và cứ tiếp tục ra báo (chỉ gởi cho Biện Lý cuộc ban trước 24 giờ xuất bản). Tức
nhiên báo vẫn bị tịch thu, chủ nó là Cendrieux bị đưa ra Tòa. Tòa phúc án ở Sài Gòn
xử báo Dân Quyền được Biện Lý cuộc Sài Gòn chống án qua Pháp (đó là lúc ở Pháp
Chính phủ Bình Dân nắm quyền, chính phủ có Đảng Cộng sản Pháp)... Mãi hai năm
sau Tòa án này công nhận Tòa phúc án ở Sài Gòn xử đúng. Cũng từ đó báo chí ở
Việt Nam phá thông lệ muốn ra báo phải xin phép... Nhưng chỉ được một thời gian.
Thời gian này, một số tờ báo của tư nhân tiến bộ chuyên ngành cũng
ra đời như: Tri Tân, Thanh Nghi, Khoa học...
I.2. Người Đồng Nai viết báo, làm báo:
Giai đoạn này, Đồng Nai chưa có tờ báo riêng mang tính chất báo địa
phương như các giai đoạn sau này. Tuy nhiên, người Biên Hòa - Đồng Nai (gồm
người sinh ra và lớn lên ở địa phương này cũng như dâu, rể, hay người nơi khác có
lúc dừng chân trên dòng sông Đồng Nai lịch sử... đã nhìn nhận đất Biên Hòa là quê
hương thứ hai) đã tham gia làm báo, viết cho các tờ báo ở Sài Gòn, Hà Nội... thì

27.3 Page 263

▲back to top


không ít. Theo ông Hoàng Thơ, từ năm 1865 đến 1945 (tức gần 80 năm), người
Đồng Nai đã tham gia làm báo và viết báo trên 21 tờ báo, tạp chí, chuyên san... Sưu
tầm các tư liệu có được ông cho biết:
* Gia Định Báo: (bộ mới) số 9 ra ngày 24 tháng 3 năm 1870 có tin của
thầy giáo (lúc ấy gọi là giáo tập) Trần Văn Kim ở làng Bình Dương (121[6]) huyện
Long Thành, bản tin ấy không có tựa như sau:
"Tại làng Bình Dương có một người ngoại tên Chánh, ngày 30 tháng
Chạp rước ông bà qua ngày mùng một tháng giêng năm mới là năm canh ngũ nhằm
đứng bóng mới dọn đồ lên bàn thờ mà cúng. Khi người ấy vái lạy xong xá rồi ngó
thấy đồ ăn thì hết mà không thấy ai ăn, thời mọi nhà lấy làm lạ lắm, rồi lại thấy có
hai cái răng lại càng sửng sờ và sợ quá, mới chạy kêu lối xóm đến coi, vậy có kẻ gọi
răng ấy là ngọc quý, có kẻ lại cho rằng ấy chẳng phải là ngọc quý song nó là ma
quỷ đó. Khi ấy, thiên hạ nghe mà chạy đến coi rất đông, liền có đất ai quăng, bấy
giờ ai ai đều tin là ma mà thôi. Ma ấy chỉ quấy người nhà mà thôi. Quăng trúng
người con trai sưng cánh tay rồi lại quăng nhầm bàn tọa người dân không đi đâu
đặng."
* Năm 1901 báo Nông Cổ Mín Đàm (122[7]) ra đời, số 1 ra ngày 1
tháng 8. Báo do viên hội đồng quản hạt Canavaggie làm Giám đốc, chủ bút (thay đổi
nhiều người) Đỗ Thúc Lương Khắc Ninh, Gillert Chiếu, Nguyễn Đồng Trụ, Lê Văn
Trung, Tân Châu Nguyễn Chánh Sát.
Tuần báo: Về phương diện văn chương lối hành văn còn thô sơ. Có
những bài liên quan với canh nông sĩ nghệ cao su, trà, cà phê). Thỉnh thoảng có đăng
thơ (của độc giả cộng tác viên) ở trang nhất.
Trịnh Hoài Nghĩa (123[8]) (cháu Trịnh Hoài Đức) đang dạy học ở
Trường trung học Mỹ Tho cũng có gởi thơ đăng trên báo này.
Năm 1907, báo Lục Tỉnh tân văn (bộ cũ) ra đời đây là tờ báo tuyên
truyền của nhóm Minh Tân chịu ảnh hưởng của Đông Du - Phan Bội Châu.
Số 30 ra ngày 16 tháng 7 có tin về chuẩn bị thành lập tiệm buôn Nam
Hòa Hưng tại chợ Biên Hòa (124[9]):
(121[6]) Làng Bình Dương: Nay là một phường (Long Bình Tân) thuc thành phố Biên Hòa. Đây làng Công giáo có
lâu đời (trước họ đạo Tân Triu) thuc họ đạo Bến G- Long Điền.
(122[7]) TMín không có nghĩa nhưng do viết sai chánh ttMính. Trà nông cổ mính đàm: va ung trà va nói
chuyn canh nông sĩ nghệ.
(123[8]) Trịnh Hoài Nghĩa: nhà thơ tên tuổi. Dch tác phm Qun anh h(1907). Mchôn khu mtáng hTrnh
tại phường Trung Dũng TP.Biên Hòa. Bia có mấy chữ đề: "Trnh Xử sĩ chi mộ".
(124[9]) Tim buôn Nam Hòa Thạnh xưa ở góc đường Lê Thánh Tông và Nguyn ThHin, sau gii phóng có lúc là
trscủa UBND phường Thanh Bình.

27.4 Page 264

▲back to top


"Hội thương mãi này do người tùng chánh trong các ty làm việc hiệp
với mấy ông cai tổng, phó tổng và hội đồng trong hạt mà thành lập một cuộc hùn
buôn bán cá hóa hàng tại Châu Thành Biên Hòa, đây là hội thương mãi ẩn danh
(Société Anonyme) bạc vốn là 11.800 đồng, nhóm đại hội ngày 19 tháng 4 năm 1908
có mặt 130 ông có bắt thăm cử 6 ông phiên viên lo lập tiệm này là:
Ông: Lê Tấn Biện làm Chánh tổng lý
Ông: Phan Trung Lưu, Phó Tổng lý
Ông: Nguyễn Hóa Nhơn, Tư hòa.
Ông: Ngô Phước Lượng, thơ ký.
Ông: Lê Văn Huê, thơ ký.
Ông: Nguyễn Văn Chức, Nghị sư.
Lại có cử 3 ông kiểm soát lo tra xét sổ sách và tiền bạc,
Ông: Lê Văn Thôn, Trương Văn Nga, Trần Văn Đa.
Từ 15 đến 30 tháng 5, bạc hùn đã đóng có 7.000 đồng".
Số 35 ra ngày 16 tháng 7, có bài thơ của Lê Thời Khương ở làng Mỹ
Khoan, tổng Thành Tuy hạ, quận Long Thành khen Nam Trung Khánh sau:
Lai vãng từ đây có chỗ nương.
Nam. Trung tiếp rước rất khiêm nhường
Trong tiệm lao xao người 6 tỉnh
Ngoài hiên chộn rộn khách đôi phương
Ăn uống dọn bày theo Nam Việt.
Ghế bàn sắp đặt khách Tây Dương.
Như vậy mới phải nhà khách sạn.
Kính tặng Gilbert thọ cửu trường.
Và số 46 có tin thêm về tiệm buôn Nam Hòa Thạnh:
Ngày 1 tháng 10 năm 1908, ông G. Chiếu chủ nhơn dịp đi Biên Hòa mua đá
đặng cất lò savon ở Mỹ Tho có đánh giây thép báo tin cho thầy ký Lương là người
có hùn Minh Tân Công nghệ, nên khi đến Biên Hòa ông G. Chiếu viếng ngay tiệm
Nam Hòa Thạnh công ty.
Thiệt là đáng khen, bán đủ các món hàng thiên hạ cần dùng, nhà rộng rãi
ba căn lầu, vốn được 12.000 đồng. Đầu gia là M.Vân, nho nhã chiêu hiền đãi sĩ. Tôi
chắc sau Công ty nầy sẽ thành vì tổng làng đều có hùn vào đó, chẳng hề chịu mua

27.5 Page 265

▲back to top


của các - chú nữa. Tánh người An Nam mình hay sợ sệt lắm mà hễ có các ông nha
môn ra làm đầu thì đâu đâu ai cũng xin vô hùn. Ấy vậy nơi Nam kỳ Tỉnh Bà Rịa và
Biên Hòa là nghèo hơn các tỉnh khác mà sao lại khởi sự làm gương trước. Đấy là
tại nhiều người trong tỉnh biết thương quê hương. Bổn quán mừng và khen chư vị
quân tử Biên Hòa.
Năm 1917, tờ An Hà Báo ra đời. Đây báo tuần bằng tiếng Việt của tờ
Le Courrier de L' Ouest. Báo thông tin có liên quan đến canh nông, thương mãi và
kỹ nghệ. Đó cũng tờ báo địa phương xuất bản ở Cần Thơ. Chủ nhiệm Võ Văn Thơm
chủ bút (trước) Nguyễn Tất Đoài (sau) Trương Quang Tiền (125[10])
Năm 1920, có tờ Sư Phạm Học Khoa, tuần báo ra ngày thứ hai. Được
sự bảo trợ của Giám Đốc nha tiểu học Nam Kỳ: Nguyễn Trọng Quản (126[11]).
Hai giáo sư tốt nghiệp cao Đẳng sư phạm Hà Nội là Phan Thanh Hương
(127[12]) và Trần Văn Quế (128[13]) có gởi bài đăng báo này.
Và năm 1929 có tờ Phụ nữ Tân Văn ra đời , số 1 ra ngày 2 tháng 5 năm
1929. Tuần báo chuyên ngành. Chủ nhiệm bà Nguyễn Đức Nhuận tức Trần Thị
Khánh, chủ bút Đào Trinh Nhứt. Ban Biên Tập: Phan Khôi, Viên Hoàn (em Hồ Biểu
Chánh) Phan Văn Hùm, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Thiếu Sơn, Nguyễn Thi Kiêm
Phan Thị Nga, v.v...
Báo tuy thuộc nữ giới, nhưng các giới khác đều chuộng số phát hành
lớn, phát hành không riêng ở Nam kỳ mà cả Trung Bắc, Cao Miên, Ai Lao và Pháp.
Báo có nội dung phong phú, số ra mắt đã có các mục và bài như:
1. Ý kiến của chúng tôi đối thời sự.
2. Phụ nữ hướng Truyền: Đồn bà làm quan Tòa. Có phép chỉ đẻ con
trai. Một năm chỉ có hai cái áo.
3. Cuộc trưng cầu ý kiến của Phụ nữ Tân Văn: Các danh nhân trong
nước đối với vấn đề phụ nữ.
(125[10]) Trương Quang Tiền: Quê quận Tân Uyên, Biên Hòa, nay Bình Dương, nhà báo, nhà văn, bầu gánh.
Sách đã xuất bn: Tiu thuyết Hoàng Nguyt Ánh (1924). các tung hát: Phụng Nghi Đình, Hoạn Thư tróc Kiều,
Kiều đi thanh minh, Kiều ngTHi (1926).
(126[11]) Nguyn Trng Qun: Quê phủ Phước Tuy, Biên Hòa, từng đI học Algié vi Diệp Văn Cương. Rễ
Trương Vĩnh Ký. Đã xuất bn tiu thuyết Truyn thy Lazarô (1887) .
(127[12]) Phan Thanh Hương: Quê ở tỉnh Sóc Trăng, lớn lên tnh Biên Hòa, tt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà
Ni, ri dy hc ở Trường Sư phạm Sài Gòn.
(128[13]) Trần Văn Quế: Quê qun Long Thành, tt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Ni. Dạy Trường Trung hc
Trương Vĩnh Ký, dy môn sử địa. Đã từng bthc dân Pháp kết án tù đày Côn Đảo vì có tham gia phong trào yêu
nước trước 1945.

27.6 Page 266

▲back to top


4. Về văn học phụ nữ Việt Nam
5. Văn uyển
6. Khảo về giáo dục phụ nữ nước Nhựt Bổn.
7. Việt Nam phụ nữ liệt truyện
8. Gia Chánh: Cá kho, Tiết kiệm trong sự ăn uống.
9. Phụ nữ vệ sinh: Đàn bà có thai. Cách vệ sinh khi có kinh nguyệt.
10. Ý kiến vệ sinh: Sự đẹp
11. Gần đây trong nước có những việc này
12. Nói chuyện thế giới: Thơ cho bạn
13. Sang Tây: Du hý của một thiếu nữ
14. Hai đàm
15. Tiểu thuyết: Vì nghĩa vì tình của Hồ Biểu Chánh.
16. Phần nhi đồng
17. Cuộc thi: Nàng Túy Kiêu nên khen hay nên chê.
Tờ báo ra đời chỉ có ba năm: (1929 - 1932) nhưng cũng cống hiến cho
xã hội các công ích:
- Trợ cấp cho học sinh nghèo có thể du học bên Pháp.
- Lập ký nhi viện
- Hội chợ thi nữ công
- Lập quán ăn cho lao động và dân thất ngiệp.
Nàng dâu Biên Hòa là bà Nguyễn Háo Cá (129[14]). Bà là cộng tác
viên của báo, viết các mục Xã luận, gia chánh, làm thơ. Bà cũng là nhà hoạt động xã
hội của "Nhóm các bà vợ các ông trí thức Sài Gòn": Bà luật sư Trịnh Đình Thảo, bà
kỹ sư Lưu Văn Lang, bà giáo sư Trương Vĩnh Tống; các bà bác sĩ: Nguyễn Văn Nhã,
Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Thinh... Chính nhóm này đã hỗ trợ cho bà chủ bút Phụ
nữ Tân Văn làm được một số công trình xã hội công ích lúc ấy.
* Năm 1934, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy (loại cũ), Nhứt Lưu (130[15])
và Trọng Khánh (131[16]) gởi truyện ngắn "Hận Rừng Xanh" và được đăng. Sau đó
Nhứt Lưu còn đăng thơ và truyện ngắn nữa không ký tên chung. Tờ báo này về sau
(129[14]) Bà Nguyn Háo Cá: tên tht Lâm Thị Đảnh, quê tỉnh Vĩnh Long.
(130[15]) Nhứt Lưu: tên Lương Văn Lựu, lúc ấy là thơ ký văn phòng Luật sư ở TP Biên Hòa.
(131[16]) Trng Khanh: bút hiệu đầu tiên của Lý Văn Sâm.

27.7 Page 267

▲back to top


có nhiều cây bút tên tuổi cộng tác: Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Lê Văn Trương,
Nguyễn Đỗ Mục, Trúc Khê, Ngọc Giao, Thanh Châu, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyên
Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và các cây bút mới
khắp ba miền: Kim Lân (Bắc Ninh), Nguyễn Văn Nhàn (?), Nguyễn Tất Thứ (Nghệ
An), Bửu Kế, Phan Du (Huế), Nguyễn Văn Xuân (Quảng Nam), Lý Văn Sâm (Biên
Hòa) (132[17]), Lê Công Thành (Thủ Dầu Một), Thành Kỉnh (Tây Ninh)...
Năm 1935 tuần báo Sống ra đời ở Sài Gòn, do nhóm nhà giáo dạy Trí
Đức Học Xá ở Hà Tiên. Do Đông Hồ làm Giám đốc, Sơn Khanh (133[18]) và Hi
Đam (134[19]) có gởi thư đăng báo này.
Đó cũng là lúc các nhựt báo có nhiều người ở Biên Hòa công tác:
- Trung lập: Hồng Kim Tuyền (135[20]) viết tiểu thuyết hàng ngày
trên tờ này, Nhứt Lưu phụ trách Trang văn chương mỗi tuần.
- Sài Gòn: Nhứt Lưu phụ trách Trang văn chương mỗi tuần, năng dịch
thơ Pháp (song ngữ).
- Điển Tín: Có Hoài Lan (136[21]) làm thông tin viên thường trực ở
Biên Hòa. Ba Kẹo (137[22]) thỉnh thoảng viết truyện vui trên phụ trang thể thao của
Thiệu Võ.
- Công Luận: Trần Minh (138[23]) làm thông tin viên thường trực ở
Biên Hòa . Thời Đông Dương Đại Hội tại chợ Biên Hòa có nơi Đại lý phát hành báo
L'Avant Garde, Le Peuple và Dân Chúng... Người chịu trách nhiệm phát hành là
Nguyễn Văn Nghĩa (139[24]) có hệ thống chân rết từ Sài Gòn về nông thôn (Bình
ý, Bình Thảo, Tân Triều, Bình Thạnh) và đô thị Biên Hòa... Nguyễn Văn Nghĩa cũng
là cộng tác viên cũ các tờ báo ấy.
- Tờ L'Avant Garde: Số 1 ra ngày 29 tháng 5 năm 1937. Đây là cơ
quan của lao động và nhân dân Đông Dương, do Trung ương xuất bản.
(132[17]) Lý Văn Sâm đăng trên Tiu thuyết ThBy bmi vi các chuyn ngn và ni danh: Cây nhSông Ph,
Cái ng tin, Kòn Trô...
(133[18]) Sơn Khanh: tên Nguyễn Văn Lộc lúc y là thơ ký Nhà thương điên Biên Hòa, đã xuất bn tập thơ Tiếng
Lòng, quê ở Vĩnh Long .
(134[19]) Hi Đạm: tên Nguyn Hu Trí, quê Tây Ninh lúc y là thy giáo dy trung tiu hc tnh l.
(135[20]) Hng Kim Tuyên (không rõ tên tht) quê huyện Long Thành, nay Nhơn Trạch. Lúc y là công chc
SThuế v.
(136[21]) Hoài Lang: Xut thân thy giáo, tên Bi, không rõ h.
(137[22]) Ba Kẹo: tên là Bi Văn Tỉnh, quê xã Hip Hòa (tức xã anh hùng đánh Mỹ)
(138[23]) Trn Minh tên Trần Văn Miêng
(139[24]) Nguyễn Văn Nghĩa quê ở Bình Ý

27.8 Page 268

▲back to top


Le Peuple: ra số 1 ngày 24 tháng 9 năm 1937 khi tờ L'Avant Garde bị đình
bản, Tòa soạn ở 43 Hamelin (nay Lê Thị Hồng Gấm)
- Dân Chúng: cơ quan lao động và dân chúng Đông Dương, số 1 ra
ngày 22 tháng 7 năm 1938. Tòa soạn 42 Hamelin (chung với tờ Le Peuple, sau về
51 đường Colonel Grimand (nay Phạm Ngũ Lão) số 1 in 1.000 bản, số 2 tăng 2.000
bản, số 40 - 41 số kỷ niệm năm thứ 9 ngày thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương
in 15 ngàn bản các số thường in 6.000 bản.
Tờ báo L' Avant Garde đến Le Peuple Dân Chúng, trong ban biên
tập có Hồ Văn Lèo (140[25]) và vợ Nguyễn Thị Ánh (141[26]) tham gia.
Trong lúc ấy ở Trường Tiểu học Bình Hòa (142[27]) có cậu học trò
Trương Gia Triều (143[28]) cúng tổ làm báo tay, nay nhà nghiên cứu Trần Bạch
Đằng .
Năm 1940 - 1941, tờ báo tiếng Pháp của Tổng Hội sinh viên Đông
Dương ra đời Le Monéné. Hình thức là nội san. Tờ này được toàn sinh viên, các giới
trí thức, học sinh thích. Chủ bút là rể của Biên Hòa: Mai Văn Bộ.
Từ đó tình hình Đông Dương có những chuyển biến: Nam Kỳ khởi
nghĩa, Nhựt vào Đông Dương, phong trào sinh viên học sinh... Báo chí thì luôn có
người ở Biên Hòa tham gia viết đều đều...
Tuần báo Trung Bắc Chủ Nhựt có Xuân Lữ (144[29]) từ Huế vào dừng chân
ở Biên Hòa, tham gia gởi thơ đăng trên báo này.
(140[25]) Quê ở làng Bình Trước, TP Biên Hòa, cơ sở của Dương Bạch Mai
(141[26]) Quê ở Cao Lãnh, được Đảng bộ Sa Đéc giới thiu vi Xứ ủy trong tòa sọan đảm trách hu cn.
(142[27]) Tc làng Bình Hòa nay thuc huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai.
(143[28]) Trong hi ký Trn Quang (mt trong nhiu bút hiu và bí danh ca Trn Bạch Đằng có viết đăng trên tờ
Tui Trẻ trước đây có đoạn: "By gimỗi ngày chúng tôi đi học qua khu rng chi nhiu gò mã, có một đám đất
trng gi Gò Dê. Ủy ban hành động Bình Ý trong phong trào Đông Dương Đại hi có dng tại đây một khán đài
cao. Người ca y ban - Anh Thuận, sau này Ba Thu đứng lên din thuyết, phân phát truyền đơn và báo Dân
Chúng. chợ Cây Đào, chợ Bến Cá... đều có phòng đọc sách và người ta lập các văn đoàn, mỗi văn đoàn ra báo tay.
Người lớn làm được thì học sinh cũng làm được, chúng tôi lp luận như vậy.
Báo ly tên Gọi Đàn cũng có đứa trong chúng tôi mun tờ báo dính đến nhà trường hơn, song ý kiến này bbác vì
hai tiếng "Bến Cá" nghe "không văn chương!
... Báo ra không định k, cchép liên miên chng nào hết trang giy tp là xong số 1. Báo đăng thơ, mẩu chuyn,
chuyện vui, có tranh và tranh đố... "
(144[29]) Xuân Lquê NghAn, tham gia phong trào thanh niên dân ch, viết báo Nhành Lúa... Có lúc dng chân
Biên Hòa, kết bn vi Nhứt Lưu, Lý Văn Sâm, Sơn Khanh và gợi ý thành lập văn đoàn Sông Phố. Có xut bn
cuốn thơ "Tiếng Trống Trường"

27.9 Page 269

▲back to top


Tuần báo Hạnh Phúc: thỉnh thoảng có bài của Phan Văn Hùm (145[30]) từ
quận lỵ Tân Uyên gởi đến góp phần.
Nam Kỳ Tuần Báo: Có Thân Văn (146[31]) gởi bài đến.
Thể thao Đông Dương, bắt đầu có thơ Đinh Quang Dữa (147[32]) đăng trên
báo này.
Từ năm 1943, tuần báo Thanh Niên (bộ mới) (từ 7 - 8 - 43 đến 30 - 9 - 44)
do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Giám đốc. Thơ ký tòa soạn (trước): Tô Văn
Của, (sau ): Mai Văn Bộ... Thầy cò và phụ thơ ký tòa soạn Nguyễn Hữu Ngư. Tờ
báo này có Ban biên tập và cộng tác viên đông đảo và nổi tiếng: Nhà văn: Dương
Tử Giang, Nguyễn Văn Bổng, Mạnh Phú Tư, Nguyên Hồng; Nhà thơ: Xuân Diệu,
Huy Cận, Xuân Việt, Anh Thơ, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Thu Hồng, Thành Kỉnh;
Kịch thơ: Nguyễn Hoàng Tư; Phiếm luận: Bằng Vân; Phê bình: Thanh Uy; Bàn về
sử: Nê Uy; Góp ý kiến về giáo dục: Từ Ngọc; Hội họa: Phạm Hầu; Âm nhạc: Lê
Thương.
Người tỉnh Biên Hòa cũng có phần: Văn: Bình Nguyên Lộc (148[33]); Thơ:
Huỳnh Văn (149[34]); Phiếm luận: Văn Nam (150[35]); Kịch: Hoài Vũ (151[36]);
Ngữ pháp: Phan Văn Hùm...
Năm 1945, tuần báo Tiến ra đời (cơ quan của Thanh niên Tiền phong), chủ
bút Mai Văn Bộ.
Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra trang sử mới của dân tộc,
báo chí Việt Nam tiếp tục phát triển. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 mở đầu kháng Pháp
kéo dài 9 năm, tiếp đến là 21 năm đánh Mỹ. Báo chí Việt Nam khá đa dạng, phong
phú và có nét đặc thù là báo địa phương ra đời góp phần trong mặt trận văn hóa đánh
Pháp, đánh Mỹ đến ngày toàn thắng
II. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG Ở ĐỒNG NAI TRONG KHÁNG CHIẾN (1945 -
1975):
(145[30]) Nhà văn - nhà giáo quê ThDu Mt bthực dân câu lưu ở Tân Uyên. Thi gian ở đây có viết và xut
bn (sách do Nhà xut bn Tân Vit): Lun Tùng, Pht giáo triết học, Vương Dương Minh, Ngư Tiều vấn đáp y
thut...
(146[31]) Thi gian quận Tân Uyên đảm nhim Quận trưởng. Nhà văn soạn tung hát. Cùng với Phan Văn Hùm
dch ra chnh lý tung Sơn Hậu. Tên tht: Nguyễn Văn Quý
(147[32]) Quê ở Nam Định đến Biên Hòa lp nghip và tham gia kháng Pháp, kháng M. Bbt nhiu ln, tng
cộng trên 10 năm, từng các nhà tù: Tổng Nha, Gia Định, Chí Hòa, Phú Li, Tân Hiệp, Côn Đảo...
(148[33]) Quê qun Tân Uyên. Lúc viết báo Thanh Niên là công chc Skho bc Sài Gòn. Tên thật Tõ Văn Tuấn.
(149[34]) Tc là Huỳnh Văn Nghệ. Lúc viết báo Thanh Niên là công chc Sha xa Sài Gòn.
(150[35]) Bút hiu của Tô Văn Của, quê qun Tân Uyên. Lúc viết báo Thanh Niên là thanh tra Sha xa Sài Gòn.
(151[36]) Mt bút hiu của Mai Văn Bộ lúc viết kch bằng văn xuôi.

27.10 Page 270

▲back to top


II.1.TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954):
II.1.1.Tuyên truyền trước khi có báo:
Cách mạng tháng Tám thành công, cùng cả nước nhân dân Biên Hòa
bước vào thời kỳ độc lập dân tộc. Tuy nhiên thực dân Pháp, kẻ từng làm giàu nhờ
xâm lược thuộc địa không dễ bỏ miếng mồi ngon Đông Dương và Việt Nam. Chúng
lợi dụng danh nghĩa đồng minh vào giải phóng quân Nhật, ráo riết chuẩn bị xâm
lược nước ta lần thứ hai.
Tại Biên Hòa, sau cách mạng tháng Tám 1945, công tác tuyên truyền
vận động quần chúng rất được chú trọng. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh phân công
đồng chí Huỳnh Văn Hớn - Phó chủ tịch UBND phụ trách công tác tuyên truyền.
Ban tuyên truyền đầu tiên của tỉnh Biên Hòa gồm có: Mai Văn Bộ, Hoàng Trọng
Quý, Lý Văn Sâm, Ngô Văn Long, Hoàng Thơ, Lương Văn Lựu, Nguyễn Thị Bông,
Lê Ngọc Liệu...
Không khí độc lập đã tạo điều kiện tinh thần rất lớn cho công tác tuyên
truyền cách mạng. Bao năm sống trong đêm đen nô lệ, nay nước nhà độc lập, nhân
dân Biên Hòa rất phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng. Công tác tuyên truyền chủ
trương, đường lối, chính sách của Nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của Ban Tuyên
truyền, cán bộ tuyên truyền, mà là của toàn dân.
Để có thể đi sâu vào quần chúng, Ban Tuyên truyền tổ chức thành 4 đội
tuyên truyền phụ trách các quận Tân Uyên, Châu Thành, Xuân Lộc, Long Thành...
Công tác in ấn lúc này rất khó khăn do thiếu máy móc, thiết bị, cán bộ tuyên truyền
phải nắm vững các chủ trương của tỉnh và truyền đạt cho nhân dân chủ yếu bằng
truyền khẩu (họp dân từng thôn, từng xóm để phổ biến, giáo dục), bằng truyền đơn,
băng rôn... Giản đơn, nhưng hiệu quả tuyên truyền lại rất cao trên các lĩnh vực bức
xúc như: xây dựng nếp sống mới, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, mê tín, tệ nạn cờ bạc, rượu
chè, xóa mù chữ, phát động nhân dân ra sức khai hoang phục hóa không bỏ ruộng
hoang, sản xuất hoa màu...
Từ tháng 9/1945 đến cuối năm 1945, phương tiện làm việc của
Ban tuyên truyền chỉ độc một chiếc radio để bắt tin, chép tin, một bàn máy đánh chữ,
nhưng Ban đã làm được nhiều việc: Tuyên truyền cổ vũ thanh niên tham gia trại du
kích Vĩnh Cửu; vận động nhân dân quyên góp gạo thóc, tiền bạc ủng hộ kháng chiến;
lặn lội xuống tận các xã, thôn cùng chính quyền cơ sở lập danh sách cử tri, tuyên
truyền cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa 1; phát hành báo chí từ Sài Gòn cổ vũ nhân
dân tham gia cuộc kháng chiến...
Đầu năm 1946, Ban tuyên truyền chưa về Tân Uyên (sau trở thành chiến
khu Đ) mà vẫn ở khu vực Gò Mọi (xã Tân Định). Sau đó quân Pháp tấn công vào
Đồng Lách, Ban Tuyên truyền phải mang máy đánh chữ, radio chuyển về Hóc Bà

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Thức (xã Tân Phong). Đồng chí Lưu Văn Văn (Chín Văn), một đảng viên trước Cách
mạng tháng Tám, nguyên là nhân viên dưỡng trí viện Biên Hòa, đã đưa bộ phận tác
chiến của Ban Tuyên truyền vào ở một gian nhà nằm trong khu vực dành cho nhân
viên trong bệnh viện (nhà của người chị đồng chí Chín Văn). Bộ phận thường trực
của Ban Tuyên truyền vừa làm nhiệm vụ ghi tin qua radio, vừa đánh máy, vừa in ấn
các loại truyền đơn, các bản tin (in xu xoa) để phổ biến cho cán bộ, đảng viên, nhân
dân. Đồng chí Tiêu Như Thủy (Mười Quang) đánh máy trên giấy than (carbon), đồng
chí Chín Văn, sau khi xem lại cho in bằng rau câu (rau câu do Chín Văn đổ, yêu cầu
phải không có bọt và đổ đông đặc đảm bảo). Các bản tin, truyền đơn được anh Ấm,
chị Tư Bông đưa đi phát hành.
II.1.2. Báo Đồng Nai - Biên Hòa:
Giữa năm 1946, Ty thông tin Biên Hòa ra tờ báo Đồng Nai và Ban chỉ
huy đội 10 ra tờ báo Tiếng Rừng. Đây là 2 tờ báo cách mạng đầu tiên ở Biên Hòa ra
đời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Báo Đồng Nai được in ronéo, mỗi kỳ chỉ có 2 trang với khổ 30 x 40
cm; mỗi số in khoảng 300 - 500 tờ. Do báo in khổ lớn, máy chữ không có trục rulô
dài vừa khổ giấy, báo Đồng Nai phải viết bằng bút nhọn trên giấy sáp (stencil)
(152[37]). Báo được in bằng một trục rulô bằng gỗ tròn láng, một người đặt giấy,
một người lăn trục. Những cây viết chính cho báo bấy giờ gồm: Dương Minh Cưu,
Nguyễn Trạc, Tiêu Như Thủy, Hoàng Thơ... và các cộng tác viên ở chi đội 10, các
cơ quan dân chính đảng trong tỉnh.
Báo Đồng Nai như vậy là cơ quan chiến đấu của Đảng bộ và quân dân
Biên Hòa. Các mục thường xuyên trên báo thường có xã luận, tin tức trong tỉnh,
ngoài tỉnh (chép từ radio hoặc từ Tỉnh ủy, Ủy ban, Ban chỉ huy Chi đội 10 cung cấp);
các văn bản chỉ thị phản ánh các phong trào yêu nước, kháng chiến của nhân dân
trong tỉnh. Mục văn nghệ gồm truyện, ký, thơ... với những cây bút như Phạm Thiều,
Huỳnh Văn Nghệ, Bùi Cát Vũ, Lý Văn Sâm...
Từ năm 1947, đồng chí Hồ Tấn Trai về thay Dương Minh Cưu làm
Trưởng Ty thông tin tuyên truyền Biên Hòa. Báo Đồng Nai vẫn ra nhưng không đều,
có khi 10, 15 ngày hoặc lâu hơn mới ra được một số. Nguyên nhân chủ yếu là do
thiếu giấy, mực in (các loại nguyên liệu này phải mua từ trong thành, tức vùng địch
tạm chiếm).
Báo Tiếng Rừng do chính trị viên Chi đội 10 Biên Hòa (Phan Đình
Công) chịu trách nhiệm. Báo khổ nhỏ bằng quyển vở 100 trang, mỗi số từ 2 - 4 trang.
Báo được đánh trên giấy sáp, in bằng xu xoa (rau câu). Báo được phát hành tới các
đại đội, trung đội của chi đội. Ngoài ra, Chi đội 10 còn ra báo Sứ Mạng (cũng viết
(152[37]) Người thường phtrách viết trên giấy sáp là Hoàng Thơ

28.2 Page 272

▲back to top


tay và in rau câu). Cả 2 tờ Tiếng Rừng, Sứ Mạng số lượng in không nhiều (từ 100 -
150 tờ/kỳ), nhưng nhờ bộ đội sinh hoạt tập thể, có kỷ luật, nên báo vẫn phổ biến
xuống tới các chiến sĩ. Nội dung báo thường có tin chiến sự phản ánh chiến thắng
của bộ đội, thất bại của thực dân Pháp; phong trào thi đua trong các đơn vị, thơ, văn
thể hiện lòng yêu nước, tinh thần hy sinh, đoàn kết chiến đấu của quân dân ta, kêu
gọi nhân dân ủng hộ kháng chiến.
Chính trên tờ báo Tiếng Rừng, bài thơ "Tiếng hát giữa rừng" của Huỳnh
Văn Nghệ viết về tinh thần dũng cảm chịu đựng của một chiến sĩ Chi đội 10 bị
thương phải cưa chân bằng cưa thợ mộc, nhưng vẫn hát vang bài quốc ca, gây xúc
động và thể hiện ý chí tinh thần của người chiến sĩ cách mạng:
... Bác sĩ đang cưa chân
Một chiến sĩ bị thương
Bằng cưa thợ mộc...
Bác sĩ vừa cưa vừa khóc
Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe
Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre...
...Anh chiến sĩ cứ mê mãi hát:
"Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc..."
...Anh lịm đi...
Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt...
Hay bài thơ "Nhớ Bắc" bất hủ với 4 câu mở đầu:
Ai về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Để cổ vũ phong trào huấn luyện, xây dựng đơn vị và chiến đấu. Ban chỉ huy
Chi đội 10 Biên Hòa đã phát động phong trào làm báo tường trong các đại đội, trung
đội. Báo tường được in trên giấy manh. Báo thường mang tên như Quyết Thắng,
Chiến Thắng... Chủ đề, nội dung tập trung là ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc,
tình đồng đội, nghĩa đồng bào... Tin về chiến thắng như Bảo Chánh, Trảng Táo, Gia
Huynh, Bàu Cá, La Ngà... đều được phản ánh kịp thời trên báo của chi đội và các
báo tường. Có thể nói báo tường là một loại hình báo chí khá phổ biến, có ý nghĩa
tuyên truyền nhanh, tính giáo dục cao.

28.3 Page 273

▲back to top


Trên địa bàn tỉnh còn có báo Tiền Đạo, một tờ báo của Bộ Tư lệnh khu miền
Đông. Báo có khổ in như báo Sứ Mạng, số lượng mỗi kỳ từ 100 - 200 tờ/kỳ, chủ yếu
phát hành trong các lực lượng vũ trang quân khu (153[38]). Nhiều bài thơ do Huỳnh
Văn Nghệ sáng tác được in trên các báo Tiếng Rừng, Tiền Đạo thời kỳ này. Đến năm
1948, Ty thông tin tuyên truyền Biên Hòa đã tập hợp và in thành tập thơ "Chiến Khu
Đ".
Báo chí của Biên Hòa thời kỳ này còn thô sơ cả về nội dung, hình thức và kỹ
thuật in ấn, nhưng tính chiến đấu rất cao. Năm 1947, thực dân Pháp ra sức thành lập
cái gọi là chính phủ "Nam kỳ tự trị" do Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng. Để tỏ ra
"Nam kỳ tự trị" là dân tộc, Thinh cho cải biên một đoạn trong tác phẩm Chinh phụ
ngâm để làm quốc ca cho chính phủ bù nhìn. Lập tức trên báo Tiền Đạo, giáo sư
Phạm Thiều có ngay bài thơ láy Chinh phụ ngâm:
Thuở giặc Pháp gây cơn gió bụi.
Bọn Việt gian nhiều nổi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Thực dân gây dựng mới nên nổi này...
Tháng 5 - 1948, Ty thông tin đổi thành Ty thông tin tuyên truyền, đồng chí
Hoàng Tam Kỳ - Trưởng phòng chính trị trung đoàn 310 (154[39]) được cử làm
Trưởng Ty. Để hỗ trợ cho Ty, Phân sở thông tin tuyên truyền miền Đông đã cử anh
Trọng Trương xuống Biên Hòa để hướng dẫn nghiệp vụ làm và in báo chữ chì. Máy
in được đóng bằng gỗ, ống cáng bằng gỗ được bào tròn, chữ chì được trên đưa xuống
khoảng 100 kg.
Từ in stencil, xu xoa đến in báo chữ chì là một bước tiến lớn trong công tác
báo chí ở Biên Hòa. Nhà in Biên Hòa không chỉ in báo, tài liệu truyền đơn, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng mà còn in cả sách như tập thơ Huỳnh Văn Nghệ, tài liệu
"Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Tổng Bí thư Trường
Chinh.
Ty thông tin tuyên truyền Biên Hòa đầu tiên đóng ở xã Mỹ Lộc, từ cuối năm
1948 chuyển về Đất Cuốc. Ty đã cho xuất bản hai tờ báo Biên Hòa Thông tin
Biên Hòa. Ban biên tập báo gồm Hoàng Tam Kỳ, Nguyễn Trạc, Lê Minh Tiến, Mạc
Đăng Thanh, Lê Như Huỳnh. Bộ phận ấn loát có các anh Đàm, Minh, Đường, Tâm
Hưởng và Đạt.
Tờ Thông tin Biên Hòa 3 ngày ra một số, tính chất như một tờ tin nhanh, số
lượng in từ 500 - 600 tờ, chỉ có 2 trang khổ nhỏ bằng quyển vở học trò. Nội dung tờ
(153[38]) Báo không ra định kvì lthuc vào nguyên liệu như giấy, mc in phi mua ngoài thành.
(154[39]) Trung đoàn 310 phát triển từ Chi đội 10 Biên Hòa.

28.4 Page 274

▲back to top


Thông tin Biên Hòa là phổ biến nhanh tin tức trong tỉnh, tin tức trong nước, phản
ánh công cuộc kháng chiến và kiến quốc của nhân dân ta. Báo được phát hành trong
tất cả các cơ quan, đoàn thể quân dân chính Đảng. Trong lực lượng vũ trang phổ
biến xuống đến cấp trung đội. Nhờ kỹ thuật ấn loát chữ chì, báo ra nhanh, tương đối
phản ánh kịp thời tình hình kháng chiến, có tác dụng động viên cổ vũ tinh thần cán
bộ chiến sĩ, nhân dân trong lao động và chiến đấu.
Báo Biên Hòa có khổ in 30 x 40 cm, in 4 trang, 10 ngày ra một số với số
lượng in từ 500 - 600 tờ/kỳ. Báo Biên Hòa là cơ quan kháng chiến của Đảng bộ và
quân dân Biên Hòa. Mỗi số ngoài xã luận (thường do đồng chí Hoàng Tam Kỳ viết),
còn có các mục tin tức, thời sự, phóng sự, khẩu hiệu cổ động kháng chiến, sản xuất,
thơ, văn... do cộng tác viên là cán bộ các cơ quan gởi về. Báo Biên Hòa không chỉ
lưu hành trong vùng căn cứ, mà còn được cơ sở bí mật chuyển vào vùng tạm chiếm
để phục vụ công tác tuyên truyền, vận động nhân dân vùng địch kiềm kẹp ra sức ủng
hộ kháng chiến.
Cuối năm 1948 và trong năm 1949, Ty thông tin tuyên truyền còn giúp cho
mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa ra tờ báo Địch Vận viết bằng tiếng Pháp. Tờ Địch
Vận do anh Đoàn Văn Sinh làm chủ biên, cộng tác còn có một hạ sĩ quan Pháp (cấp
thượng sĩ) đã thoát ly về với kháng chiến. Ngoài ra Ban tuyên huấn Tỉnh ủy còn ra
tập san Xây dựng (mỗi tháng một số) để hướng dẫn công tác Đảng trong các cơ quan
quân dân chính đảng.
II.1.3. Báo Thông Tin Thủ Biên:
Tháng 5 - 1951, tỉnh Thủ Biên thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Thủ
Dầu Một và Biên Hòa. Ty thông tin tuyên truyền Biên Hòa thành Ty thông tin tuyên
truyền Thủ Biên do Hoàng Tam Kỳ làm Trưởng ty, Trịnh Văn Kính, Huỳnh Công
Thân làm Phó ty. Ty đảm nhận công tác thông tin tuyên truyền trong tỉnh, có bộ phận
ấn loát riêng, có đội văn công và thực chất đảm nhiệm vai trò Ban biên tập báo Thông
tin Thủ Biên (từ tờ Thông tin Biên Hòa chuyển thành). Đến cuối năm 1951, đồng chí
Hoàng Tam Kỳ chuyển về đội vũ trang tuyên truyền thị xã Biên Hòa, đồng chí Tô
Văn Của thay thế làm Trưởng Ty. Cuối năm 1952, sau khi học xong lớp Trường
Chinh khóa 2 ở Đồng Tháp, đồng chí Lê Đình Nhơn (Chín Lê) về làm Trưởng ban
tuyên huấn kiêm Trưởng ty thông tin tuyên truyền và phụ trách tờ Thông tin Thủ
Biên.
Nhà in Ty thông tin tuyên truyền Thủ Biên được tăng cường thêm cán bộ và
tiệm ấn loát gồm một máy in typo pédal với 200 kg chữ chì. Nhà in đóng tại Suối
Đĩa do đồng chí Nguyễn Đình Thu phụ trách.
Tờ báo Thông tin Thủ Biên là cơ quan chiến đấu của Đảng bộ và quân dân
tỉnh Thủ Biên. Báo có khổ in 30 x 40 cm, 3 ngày ra một số, số lượng 500 - 600 tờ

28.5 Page 275

▲back to top


với 4 trang. Nội dung báo có xã luận, tin tức trong tỉnh, trong nước, quốc tế, văn
nghệ...
Từ cuối năm 1951 đến đầu năm 1953, do nhiều nguyên nhân, nhất là sau cơn
bão lụt Nhâm Thìn 1952, tỉnh Thủ Biên gặp rất nhiều khó khăn cả về vũ khí, lương
thực và các loại văn phòng phẩm như giấy, mực in... Trước khó khăn đó, theo chỉ
đạo của Tỉnh ủy và Ban tuyên huấn, tờ Thông tin Thủ Biên đổi măng - sét (manchette)
thành báo Thủ Biên, giảm bớt cả số lượng, khổ báo và trang in. Báo thu gom lại chỉ
còn khổ nhỏ như quyển tập 100 trang, 3 ngày ra một số, chỉ có 2 trang, số lượng in
từ 400 - 500 tờ. Việc giảm số lượng, khuôn khổ báo để đảm bảo báo có thể ra đều
kỳ.
Song song với tờ Thủ Biên, tập san Xây dựng, cơ quan của Đảng bộ Thủ
Biên, vẫn ra hàng tháng, gồm các bài viết mang tính chất lý luận, tổng kết các vấn
đề về công tác Đảng, công tác quần chúng; các kinh nghiệm qua thực tiễn kháng
chiến, kiến quốc...
Từ cuối năm 1951, để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng phong trào và cơ sở vùng
tạm chiếm (thực hiện phương châm công tác 3 vùng), Tỉnh ủy Thủ Biên thành lập
các đội vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc, Trảng Bom, thị xã Biên Hòa (thị xã chia
làm 5 đội). Các đoàn vừa thực hiện diệt tề trừ gian, vừa tuyên truyền xây dựng cơ sở
thông qua việc phát hành báo Thủ Biên trong các vùng tạm chiếm. Báo Thủ Biên đã
góp phần tuyên truyền đường lối kháng chiến, cổ vũ, củng cố lòng tin cho nhân dân
cả vùng căn cứ giải phóng và vùng tạm chiếm.
Từ cuối năm 1953, báo Thủ Biên tập trung tuyên truyền, phản ánh chiến
thắng của bộ đội ta trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 do Trung ương lãnh
đạo. Tin thắng trận ở các chiến dịch Hạ Lào, Tây nguyên, Hòa Bình, Điện Biên Phủ
mang đến cho quân dân trong tỉnh một niềm tin chiến thắng.
Báo Thủ Biên đã đưa tin về Đại hội mừng công ở Đất Cuốc năm 1953, phong
trào thi đua sôi nổi trong các đơn vị quân đội, đoàn thể, dân đảng giành Giải thưởng
Hồ Chí Minh. Báo cho biết trong phong trào thi đua từ tháng 9 - 1953 đến cuối năm
1953, lực lượng kháng chiến toàn tỉnh đã bổ sung được 308 người. Riêng tiểu đoàn
tập trung 303 của tỉnh từ 703 chiến sĩ (đầu năm 1953) tăng lên 741 chiến sĩ (cuối
năm 1953). Phối hợp với chiến trường chung, các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã
tác chiến 544 trận, bắt sống 45 tên địch (có 2 quan tư, 6 quan 2, 3 quan 1), loại khỏi
vòng chiến đấu 2.245 tên, phá hủy nhiều xe cơ giới, quân trang, quân dụng của địch...
Báo chí Biên Hòa Đồng Nai trong kháng chiến chống Pháp đã đi từ không
đến có, từ kỹ thuật thô sơ như in xu xoa, stencil, in khuôn gỗ tiến lên in chữ chì...
Đội ngũ làm báo không chuyên nhưng nhiệt tình, báo ra không thường kỳ, khổ báo
lại thường thay đổi do khó khăn về phương tiện làm báo. Thế nhưng báo Biên Hòa
đã làm được nhiệm vụ tuyên truyền, cổ vũ tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào

28.6 Page 276

▲back to top


trong cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng vì độc
lập dân tộc.
II.2 TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954 - 1975):
II.2.1 Thời kỳ 1954 - 1961:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với Hiệp định Giơ - ne - ve
(Genève) ký kết ngày 20 - 7 - 1954. Toàn bộ lực lượng vũ trang Thủ Biên đều lên
đường tập kết ra miền Bắc. Cách mạng nước ta chuyển sang một thời kỳ mới: xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ - Diệm ở miền Nam với
mục tiêu độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc. Trước mắt nhiệm vụ của cách mạng
miền Nam là đấu tranh đòi thi hành hiệp định, đòi dân sinh dân chủ bảo vệ quyền lợi
của nhân dân đã giành được trong 9 năm; đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất
Nam Bắc.
Đấu tranh trong tình hình mới, trong điều kiện không còn lực lượng vũ trang
và kẻ thù đang âm mưu phá hoại hiệp định, chia cắt đất nước, đánh phá phong trào
cách mạng nhằm thống trị lâu dài ở miền Nam Việt Nam; kẻ thù lại có bộ máy đàn
áp, khủng bố khổng lồ, rõ ràng là một cuộc đấu tranh không cân sức.
Tuy nhiên trong cuộc chiến đấu mới, cách mạng miền Nam cũng có những
thuận lợi nhất định: có Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; đội ngũ
cán bộ đảng viên được bố trí ở lại địa phương đã kinh qua chiến đấu, thử thách; quần
chúng nhân dân có truyền thống yêu nước, tin tưởng cách mạng; có pháp lý hiệp
định và được nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ.
Khi tập kết chuyển quân (tháng 8 - 1954), hầu hết cán bộ lãnh đạo của tỉnh
và cán bộ dân chính Đảng của tỉnh Biên Hòa được bố trí ở lại để tiếp tục cùng nhân
dân đấu tranh. Máy in của tỉnh được chôn lại ở chiến khu Đ. Cán bộ Ban tuyên huấn
Biên Hòa, cùng bộ phận nhà in (gồm có một máy quay ronéo tự chế tạo, một bàn in
bằng gỗ, một máy đánh chữ) từ chiến khu Đ chuyển về đứng chân ở Thái Hòa (Tân
Biên) để gần dân, thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền theo chỉ đạo của Tỉnh ủy.
Thời kỳ 1954 - 1960, là giai đoạn thử thách và chiến đấu rất ác liệt của Đảng
bộ và nhân dân tỉnh Biên Hòa. Chính quyền tay sai bù nhìn Sài Gòn chia Biên Hòa
ra làm ba tỉnh: Biên Hòa, Phước Thành, Long Khánh; xây dựng bộ máy chính quyền
từ tỉnh xuống quận, xã; tổ chức dân vệ; thực hiện nhiều âm mưu thủ đoạn và biện
pháp thâm độc để phân loại quần chúng, trả thù người kháng chiến, tìm bắt cán bộ
cách mạng còn ở lại (điển hình như chiến dịch Trương Tấn Bửu tháng 7 - 1956).
Về công tác tuyên truyền, Tỉnh ủy chủ trương phải làm cho cán bộ, đảng
viên, nhân dân quán triệt hiệp định Genève 1954 về tình hình nhiệm vụ mới. Tài liệu
sử dụng chủ yếu là các nghị quyết của Trung ương, xứ ủy, báo chí công khai xuất
bản tại Sài gòn, nhằm mục đích vạch trần bản chất, âm mưu xâm lược của đế quốc

28.7 Page 277

▲back to top


Mỹ, bản chất tay sai của ngụy Sài Gòn; hướng dẫn và lãnh đạo nhân dân đấu tranh
chống khủng bố, bảo vệ quyền dân sinh dân chủ cho dân.
Ban tuyên huấn Tỉnh ủy lúc này phụ trách cả nhà in của tỉnh (chỉ có một máy
đánh chữ và một máy in giấy sáp). Nhiệm vụ chủ yếu là in truyền đơn, tài liệu học
tập cho đảng viên, đoàn viên, cán bộ. Tuy chưa phải là thể loại báo chí, nhưng những
truyền đơn phục vụ cho các cuộc đấu tranh đòi hiệp thương, tổng tuyển cử, truyền
đơn binh vận kêu gọi binh lính ngụy, lên án vụ thảm sát Phú Lợi (12 - 1958)... Đã
rất kịp thời cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng.
Với phương tiện in rất hạn chế, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Tuyên huấn
đã cho in "Tài liệu vấn - đáp về đường lối cách mạng miền Nam". Đây là tài liệu của
Xứ ủy Nam bộ in ngày 31 - 11 - 1957, được nhà in Biên Hòa in lại. Tài liệu gồm 15
trang, với 9 câu hỏi và trả lời. Qua tài liệu này, đảng viên, đoàn viên, cán bộ nhận
thức được đối tượng đấu tranh trước mắt; âm mưu của Mỹ - Diệm; mục đích của
cách mạng miền Nam; phương pháp tiến hành đấu tranh... Tài liệu được phổ biến
xuống các chi bộ cơ sở.
Từ năm 1956 đến 1959, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa diễn ra nhiều sự kiện
quan trọng (như cuộc nổi dậy phá khám 2 - 12 - 1956, cuộc tiến công trụ sở phái
đoàn cố vấn quân sự Mỹ MAAG ở Tân Mai...), nhưng phong trào cách mạng cũng
bị nhiều tổn thất do địch đánh phá, khủng bố và một số cán bộ mất phẩm chất ra đầu
ng địch đánh phá lại cách mạng (155[40]) .
Tháng 1 - 1959, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ XV ra đời, mở ra một
thời kỳ mới cho cách mạng miền Nam. Tháng giêng, 1960, phong trào Đồng Khởi
bùng nổ ở Bến Tre. Ngày 25 và 26 - 1 - 1960, lực lượng vũ trang miền Đông tiến
công Tua Hai (trại Nguyễn Thái Học của địch ở Tây Ninh), mở đầu cho phong trào
kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trong toàn miền.
Tháng 9 - 1960 đến 6 - 1961, hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa sáp nhập
thành tỉnh Thủ Biên. Đồng chí Lê Quang Chữ được cử làm Bí thư kiêm Trưởng Ban
tuyên huấn, Tiêu Như Thủy, Phó ban; các ủy viên: Nguyễn Văn Thạch (Tám Thạch),
Ba Ngôn. Phụ trách nhà in của tỉnh là đồng chí Bảy Trổ (người xã Bình Hòa, huyện
Vĩnh Cửu). Nhà in đặt ở gần suối Tân Lợi (xã Tân Lợi).
Tháng 1 - 1961, khi các tướng tá ở Sài Gòn làm đảo chính Ngô Đình Diệm,
Tỉnh ủy chủ trương ra báo Thủ Biên. Báo viết tay in giấy sáp có 4 trang, khổ 20x30
cm với các nội dung: xã luận, tin tức về phong trào Đồng Khởi và các cuộc tiến công
(155[40]) Như các tên Hà Tư, Đoàn Trị, Ba Chánh.

28.8 Page 278

▲back to top


của cách mạng miền Nam và địa phương nhằm mục đích đánh đổ chính quyền tay
sai Sài Gòn (156[41]).
Có thể nói báo Thủ Biên là tiền thân của báo Đồng Nai trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
II.2.2.Thời kỳ 1961 - 1967:
* Báo Đồng Nai:
Trong giai đoạn này, tỉnh Biên Hòa và tỉnh Bà Rịa có một lần nhập, tách
(3/1963 - 12/1964). Do đó tờ báo của tỉnh cũng hai lần thay đổi manchette: từ báo
Đồng Nai đến báo Giải Phóng (tỉnh Bà Biên) và trở lại báo Đồng Nai cho đến cuối
năm 1967.
Tháng 6 - 1961, tỉnh Biên Hòa được lập lại do đồng chí Nguyễn Văn
Trị (Năm Kiệm) làm Bí thư kiêm Trưởng Ban tuyên huấn. Cơ sở in ấn của tỉnh Thủ
Biên được phân chia về cho hai tỉnh Biên Hòa và Phước Thành. Bộ phận in của tỉnh
Biên Hòa chuyển về đặt ở Trảng Bom, đồng chí Ba Tùng phụ trách (chỉ còn lại một
máy in ronéo).
Đây là giai đoạn cách mạng miền Nam và Biên Hòa chuyển sang một thời
kỳ mới: kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhằm mục tiêu trước mắt
là đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Để phục vụ nhiệm vụ
chính trị này, đồng thời cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân trong tỉnh, Tỉnh ủy
Biên Hòa chủ trương ra báo Đồng Nai.
Báo Đồng Nai do Ban tuyên huấn tỉnh phụ trách. Số báo ra đầu tiên
ngày 25 - 1 - 1962 (số 6 là tiếp nối báo Thủ Biên). Báo có khổ in 30 x 40 cm, và vì
ra đúng dịp Tết nên có đến 38 trang (không kể bìa), số lượng phát hành: 3.000.
Trang bìa của báo Đồng Nai in hai màu trắng đen, vẽ tranh một đoàn quần
chúng đi biểu tình với khí thế sôi nổi quyết tâm, mang theo 2 băng - rôn với khẩu
hiệu: "Chấm dứt việc dồn dân đuổi làng" và "Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt
Nam". Bên trái phía trên trang bìa là manchette báo gồm có 3 dòng chữ: dòng trên
cùng là hàng chữ Độc lập - Dân chủ - Hòa bình - Trung lập (cỡ chữ 12); dòng giữa
là Đồng Nai (cỡ chữ 48); dòng dưới là Cơ quan thông tin của Mặt trận Dân tộc giải
phóng tỉnh Biên Hòa (cỡ chữ 12). Góc bên phải phía dưới trang bìa là dòng chữ "Số
đặc biệt Xuân Nhâm Dần 1962".
Mở đầu số báo đầu tiên cũng là số Xuân báo Đồng Nai giành hơn 2 trang cho
i xã luận nhan đề "Năm mới, nhân dân Đồng Nai phấn khởi, vững vàng tiến lên
giành thắng lợi lớn". Bài xã luận đã điểm lại tình hình thắng lợi một năm qua của
(156[41]) Theo li kcủa đ/c Tiêu Như Thủy. Đồng chí không nhớ báo ra được bao nhiêu svà thi hn báo ra tng
k. Có thể báo ra được 5 s, bi báo Đồng Nai ra ngày 25 - 1 - 1962 ghi s6.

28.9 Page 279

▲back to top


nhân dân miền Nam trong phong trào Đồng Khởi. Đặc biệt Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã lãnh đạo và thúc đẩy phong trào cách mạng
miền Nam vững bước đi lên, làm đế quốc Mỹ và tay sai Sài Gòn càng thất bại nặng
nề; khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của Đảng bộ
và quân dân miền Nam.
Trang 3 và 4 là thư chúc Tết đồng bào miền Nam của Ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau khi lượt qua những thắng lợi
cơ bản của phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam và phong trào đấu tranh
vì hòa bình tiến bộ trên thế giới, sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc ở miền Nam, thư
viết: "Ủy ban Trung ương Mặt trận hết sức vui mừng gởi lời khen ngợi toàn thể đồng
bào đã anh dũng hy sinh phấn đấu quyết giành độc lập, tự do cho tổ quốc; Gởi lời
thăm hỏi thân thiết đến những gia đình và anh chị em hiện bị Mỹ - Diệm bắt bớ, tra
tấn, tù đày, đang phải chịu biết bao nhục hình đau khổ, nhưng vẫn vững lòng đấu
tranh và tin tưởng ở ngày mai tươi sáng của đất nước; Gởi đến đồng bào bị nạn lụt
những lời hỏi thăm ân cần và thông cảm sâu sắc nhất; Gởi đến đồng bào miền Bắc
thân yêu và Kiều bào hải ngoại những tình cảm nhớ thương tha thiết và những lời
cảm ơn ruột thịt".
Bức thư khẳng định: "Nhân dân ta sẵn có truyền thống đoàn kết đấu tranh
kiên cường, bất khuất của một dân tộc anh hùng, có đường lối đúng đắn của Mặt
trận dân tộc, có sự đồng tình ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân trong cả nước và nhân
dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, phong trào cách mạng miền Nam buớc sang
năm mới tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng nhất định sẽ thu được những thắng lợi
to lớn hơn nữa... Ủy ban Trung ương Mặt trận chúc đồng bào năm mới đón xuân
với niềm phấn khởi, tin tưởng thắng lợi mới".
Bài viết "Mùa xuân phấn khởi và dũng mãnh" của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam tỉnh Biên Hòa khẳng định quyết tâm của quân và dân tỉnh nhà:
"Chúng ta quyết giành lại một mùa xuân tươi thắm, huy hoàng, đem lại độc lập, hòa
bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước".
Báo còn đăng bức thư của Mặt trận tỉnh Biên Hòa chào mừng một sự kiện
trọng đại của cách mạng miền Nam, đó là sự kiện Đảng nhân dân Cách mạng Miền
Nam ra đời (1 - 1 - 1962). Bức thư khẳng định sự tín nhiệm đối với Đảng nhân dân
Cách mạng miền Nam cũng như đã từng tín nhiệm "những người theo chủ nghĩa
Mác - Lênin trong Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Lao động Việt Nam trước
kia đã đem lại Cách mạng Tháng Tám thành công và cuộc kháng chiến 9 năm thắng
lợi".
Báo Đồng Nai đã điểm lại những nét lớn tình hình thế giới, tình hình phong
trào miền Nam, phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa năm qua; tuyên bố của Luật sư

28.10 Page 280

▲back to top


Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch UB Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, nguyên chủ
tịch phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn.
Để điểm tô thêm cho mùa xuân, báo giành các trang còn lại cho các mục văn
hóa, văn nghệ. Bài bút ký Mùa xuân trên đất Đồng Nai của Văn Thạch đã thể hiện
được những nét đẹp tâm hồn và truyền thống lao động văn hóa của nhân dân địa
phương từ thuở cha ông đi mở đất:
Tới đây sông nước rẽ hai
Ai đi về xứ Đồng Nai thì về
Và:
Trà Mỹ Hội, suối Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân.
Cá Buôi, sò huyết Phước An.
Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An
Những cảnh đẹp thiên nhiên với Hàn Ông Sâm (thác Trị An) kỳ vĩ:
Kỳ quan nghe tiếng tự xưa nay
Lạc lối xuôi ta đến chốn này
Hai dãy rừng xanh im phẳng lặng
Một dòng thác bạc đổ vang rừng.
Tinh thần kiên cường anh dũng của những người "núi Thới, sông Đồng"
(157[42]) với những chiến công Lạc An, Bàu Cá, La Ngà, Đồng Xoài, Trảng Bom,
Long Điền, Bà Bông...
Bao phen lũ giặc kinh hồn
Máu tanh từng đẫm đường thôn năm nào
Các chuyện ngắn Cây thánh giá của Văn Thanh; sớ Táo quân; trang thơ
Vườn ươm văn nghệ Đồng Nai của những cán bộ chiến sĩ đang chiến đấu trên các
chiến trường, những thanh niên còn sống ở những vùng địch tạm chiếm... những bài
thơ của những cây bút quen thuộc như Hoàng Bến, Bảy Trang, Huỳnh Hùng Hoa,
Chính Nghĩa, bài vọng cổ Lời sông núi của Thanh Hải... cũng góp mặt trên số báo
này.
Báo Đồng Nai số đầu tiên, cũng là số Xuân Nhâm Dần 1962 với 38 trang là
một nỗ lực lớn của Ban tuyên huấn Biên Hòa, với sự cộng tác của nhiều cây bút mở
(157[42]) Tc núi Châu Thới và sông Đồng Nai

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


đầu cho thời kỳ mới trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của quân dân Đồng Nai. Báo
Đồng Nai không chỉ là cơ quan thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Biên
Hòa, mà còn là cơ quan của nhân dân địa phương nói lên được chính nghĩa của cuộc
đấu tranh; nguyện vọng của đồng bào Đồng Nai trong sự nghiệp vì Độc lập, Dân
chủ, Hòa bình, Trung lập.
* Báo Giải Phóng:
Từ tháng 3 đến tháng 12 - 1966, 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh
sáp nhập thành tỉnh Bà Biên. Tỉnh ủy Bà Biên (158[43]) quyết định ra báo Giải
Phóng - cơ quan đấu tranh của nhân dân tỉnh Biên Hòa - Bà Rịa - Long Khánh.
Báo in khổ 30 x 40 cm, số trang báo từ 8 - 12 trang, số lượng phát hành mỗi
kỳ từ 500 - 5.000 số. Riêng số Xuân có đến 26 - 30 trang.
Nội dung báo thường kỳ có các mục: xã luận; tổng kết thành tích chiến đấu
của quân dân Biên Hòa - Bà Rịa - Long Khánh hàng tháng, hàng quý hoặc năm; bình
luận; trang văn nghệ (truyện ngắn, bút ký, thơ, nhạc...); tin tức về quân dân miền
Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
tin chiến thắng của quân dân miền Nam... Với số Xuân, nội dung báo phong phú hơn
và luôn có thư chúc Tết của Bác Hồ, của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, của Mặt trận tỉnh...
Thử điểm lại báo Giải Phóng số Xuân Đinh Mùi 1967:
Trang bìa báo Xuân in màu với tranh (khắc gỗ) một chiến sĩ giải phóng quân
trong tư thế xốc tới diệt thù và bài thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh(159[44])
Sau trang bìa là phụ trang tranh của họa sĩ Lê Minh, khắc gỗ Văn An. Đó là
bức tranh châm biếm Tổng thống Mỹ Giôn - xơn bắn pháo 105 ly trong cuộc phản
công chiến lược mùa khô 1966 - 1967; bài nhạc Sông Đồng quê tôi của nhạc sĩ Vĩnh
Tân.
Bài xã luận: "Phát huy thắng lợi năm qua, quân dân Biên Hòa - Bà Rịa -
Long Khánh quyết xốc tới giành nhiều thắng lợi trong năm mớ” khẳng định: "Năm
1966 là năm thắng lợi vĩ đại của quân dân hai miền Nam Bắc, cũng là năm thất bại
thảm hại của đế quốc Mỹ trong buớc đầu chiến tranh cục bộ ở miền Nam và trong
chiến tranh leo thang ở miền Bắc”. Bài xã luận đã điểm lại thành quả lao động chiến
đấu của quân dân hai miền Nam Bắc, là hệ quả của tinh thần yêu nước, đấu tranh
kiên cường của quân dân miền Nam. Bài xã luận khẳng định Tết Đinh Mùi sẽ là Tết
chiến thắng của quân dân miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
(158[43]) Do đồng chí Lê Đình Nhơn (tức Chín Lê hay Lê Chín) làm bí thư
(159[44])
"Xuân vxin có mt bài ca -
Gởi chúc đồng bào cả nước ta -
miền đều đánh giỏi -
Tin mng thng trn nở như hoa"
Chng Mhai

29.2 Page 282

▲back to top


Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
trong thư chúc mừng năm mới đã gởi đến "Toàn thể đồng bào trong cả nước, cán
bộ, chiến sĩ, nhân viên các ngành, các cấp năm mới đại đoàn kết, quyết đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược và tay sai bán nước”. Với thắng lợi của năm 1966 Ủy ban Trung
ương Mặt trận kêu gọi chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, hăng hái thi đua mọi mặt
lập thành tích vẻ vang, giành nhiều thắng lợi rực rỡ.
Báo đã điểm lại những trận đánh mở đầu đông xuân quyết thắng tiêu biểu
như: Ba trận liên tục tiến công vào tổng kho Long Bình (tháng 10, 11, 12 - 1966)
gây thiệt hại lớn cho Mỹ; trận chống càn của du kích Nhơn Trạch từ 26 - 10 đến 13
- 11 - 1966; trận đánh đoàn xe thiết giáp của trung đoàn 11 Mỹ trên quốc lộ 1 diệt
25 xe, bắn rơi 3 máy bay; trận chống càn căn cứ Suối Cả từ 22 đến 23 - 11 - 1966
diệt 140 Mỹ, bắn rơi 3 máy bay... Minh họa thêm cho những chiến công trên, là 3
bài báo "Một trận diệt địch gọn, đẹp" phản ánh tinh thần chiến đấu kiên cường và
thắng lợi to lớn của quân dân ta trong trận đánh giao thông lộ 15 (13 - 11 - 1966);
bài Kiên quyết giữ làng của Dân Trí phản ánh chi tiết cuộc chiến đấu chống càn của
du kích lộ 2 với trung đoàn 11 cơ giới Mỹ; Hoa xuân vạn kiếp cũng của Dân Trí
phản ánh trận tập kích thắng lớn của quân Giải phóng vào Trung tâm huấn luyện
Vạn Kiếp của ngụy ở Bà Rịa.
Bài báo Đã thấy ánh sáng phản ánh sự bế tắc về lý tưởng sống của tầng lớp
thanh niên trong hàng ngũ binh lính Sài Gòn; sự phấn khởi, tin tưởng vững bước
chiến đấu khi trở thành chiến sĩ quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Với Con đường cứu nước, báo phản ánh sự chuyển biến tâm trạng của một
học sinh tú tài tên Hoàng trong vùng địch tạm chiếm. Nhờ gần gũi với quần chúng
quê nhà những tháng hè, anh nhận thức được lý tưởng cách mạng và lên đường tham
gia quân Giải phóng.
Ngoài những tin tức thắng lợi trên các mặt chiến đấu, lao động của quân dân
miền Nam năm 1966, báo còn có mục Thế giới ủng hộ chúng ta phản ánh dư luận
thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam, kêu gọi
ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của quân dân miền Nam Việt Nam.
Trang văn nghệ, ngoài những vần thơ, những bài ca dao, báo đăng chập hát
bộ Kiểm thảo cuối năm, dựa theo tích tuồng cổ Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê để
động viên thanh niên miền Nam tòng quân đánh Mỹ. Bút ký Giữ đất của Huy Thắng
làm nổi bật tinh thần, tính cách của những người nông dân chất phát, kiên quyết bám
đất, giữ làng trước âm mưu gom tát dân của Mỹ, ngụy.
* Những đặc điểm của báo Đồng Nai, Giải Phóng:
- Măng - sét (manchette) không ổn định:

29.3 Page 283

▲back to top


Số báo đầu tiên ra ngày 25 - 1 - 1962 với măng - sét: Đồng Nai - cơ quan
thông tin của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Biên Hòa, nhưng từ số đặc biệt mừng
Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Biên Hòa (số ra ngày 20 - 7 - 1962) đổi
măng - sét: Đồng Nai - cơ quan đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh
Biên Hòa. Đến số Xuân 1963, báo lại đổi măng - sét: Đồng Nai - cơ quan thông tin
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Biên Hòa.
Từ tháng 3 - 1963, tỉnh Bà Biên được thành lập, báo Giải Phóng ra đời với
măng - sét: Giải phóng - cơ quan thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Bà Rịa
- Biên Hòa. Khi tách tỉnh (tháng 1 - 1964), Biên Hòa lại ra báo Đồng Nai với măng
- sét: Đồng Nai - cơ quan thông tin của Mặt trận Giải phóng tỉnh Biên Hòa. Từ số
tháng 4 - 1965, măng - sét là: Đồng Nai - cơ quan đấu tranh của nhân dân tỉnh Biên
Hòa.
Từ tháng 3 đến tháng 12 - 1966, tỉnh Bà Biên thành lập trên cơ sở sáp nhập
tỉnh Biên Hòa với tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, báo Giải Phóng được xuất bản với
măng sét: Giải Phóng - cơ quan đấu tranh của nhân dân tỉnh Biên Hòa - Bà Rịa -
Long Khánh.
Tuy nhiên, báo Đồng Nai, báo Giải Phóng trong tiến trình hình thành và hoạt
động luôn có tính kế thừa, là tiếng nói, là công cụ đấu tranh rất đắc lực của Đảng bộ,
Mặt trận và của quân dân địa phương trên mặt trận văn hóa, chính trị, tư tưởng. Báo
luôn giữ vững mục tiêu, tôn chỉ của mình là đoàn kết đấu tranh vì sự nghiệp "Độc
lập, dân tộc, hòa bình, trung lập" như Cương lĩnh của Ủy ban Trung ương Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đề ra khi thành lập ngày 20 - 12 - 1960.
Tôn chỉ, mục tiêu đấu tranh của báo Đồng Nai được nêu rõ trong số báo ra
ngày 25 - 1 - 1962 trong bài: Gởi các bạn văn nghệ sĩ cách mạng, các bạn đọc báo
Đồng Nai: "... Báo Đồng Nai cũng gởi lời thân ái đến các bạn độc giả của báo Đồng
Nai một mùa xuân phấn khởi. Chúc các bạn nhiều sức khoẻ và thêm nghị lực mới để
sang năm tới nỗ lực đập tan mọi âm mưu xâm lược trắng trợn và đen tối của bọn đế
quốc Mỹ và hành động bán nước của bè lũ Ngô Đình Diệm, để đẩy mạnh hơn nữa
phong trào cách mạng miền Nam sớm kết thúc thắng lợi vẻ vang, giành lại Hòa bình,
Độc lập, Dân chủ và Trung lập để tiến tới thống nhất đất nước".
- Báo luôn bám sát thực tiễn kháng chiến và định hướng chỉ đạo của cấp ủy
địa phương, nhằm tuyên truyền giải thích đường lối kháng chiến; cung cấp thông tin,
tình hình trong nước và quốc tế, những thành tựu của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;
tiến công địch trên mặt trận binh vận bằng hình thức văn nghệ khá phong phú; vạch
trần bản chất xâm lược và tay sai bán nước của Mỹ - ngụy; đề ra được những nhiệm
vụ trước mắt, cấp thời để hướng dẫn, kêu gọi và cổ vũ cán bộ, chiến sĩ chiến đấu,
vận động nhân dân vùng giải phóng cũng như vùng địch tạm chiếm tham gia và ủng
hộ kháng chiến.

29.4 Page 284

▲back to top


Như báo số ra ngày 4 - 4 - 1966, với bài xã luận nhan đề Kiên quyết đập tan
âm mưu khủng bố, bình định nông thôn của đế quốc Mỹ: sau khi vạch trần âm mưu
chiến lược cục bộ, những thủ đoạn bình định thâm độc của Mỹ - ngụy, bài xã luận
đã nêu lên những nhiệm vụ chủ yếu của phong trào cách mạng địa phương: "Nêu
cao lòng căm thù với đế quốc Mỹ và tay sai gây ra cho nhân dân. Ra sức xây dựng
lực lượng vũ trang đánh địch tại xã ấp; phát triển xã, ấp chiến đấu, sẵn sàng chống
địch càn quét, thực hiện giặc vào làng, toàn dân đánh giặc. Đẩy mạnh tăng gia sản
xuất. Quân và dân ta kiên quyết đánh và đánh trúng, đánh mạnh hơn làm cho kế
hoạch bình định nông thôn của đế quốc Mỹ và tay sai bị thất bại hoàn toàn”.
- Báo luôn thể hiện tính chiến đấu cao:
Trong những điều kiện thông tin khó khăn, phương tiện in ấn lạc hậu, khâu
phát hành hạn chế, nhưng với những nỗ lực cao nhất, báo Đồng Nai luôn thể hiện rõ
tính chiến đấu cao với nhiều bài viết rất kịp thời, phản ánh các thông tin mang tính
thời sự trên các mặt trận chính trị, tư tưởng, quân sự, binh vận, văn hóa...; những bài
xã luận, bình luận khá sắc bén vạch trần âm mưu xâm lược, tội ác đế quốc và tay sai
gây ra cho nhân dân; định hướng chiến đấu cho các lực lượng cách mạng trong tỉnh.
Báo Đồng Nai số ra ngày 20 - 7 - 1962, dành toàn bộ các trang để kịp thời
đưa tin, phản ánh một sự kiện quan trọng của phong trào cách mạng địa phương: Đó
là số đặc biệt chào mừng Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Biên Hòa. Ngay
trang bìa của báo là bức tranh vẽ cổng chào mừng các đại biểu (đại hội có 86 đại
biểu tham dự) từ các địa phương trong tỉnh về tham dự đại hội với hai câu đối:
Ly rượu liên hoan điểm lại chiến công, Mặt trận tỉnh nhà thêm củng cố
Chén trà đoàn kết nung thêm ý chí, Chào mừng Đại hội bước thành
công
Báo có nhiều tin, bài tường thuật, phóng sự, phỏng vấn các đại biểu đại diện
đủ các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo..., trang văn nghệ phản ánh được không khí hân
hoan, phấn khởi, tự hào và tin tưởng vào vai trò lãnh đạo, đoàn kết Mặt trận Dân tộc
Giải phóng tỉnh Biên Hòa. Báo kịp thời đưa tin về kết quả bầu Chủ tịch đoàn Ủy ban
Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Biên Hòa gồm các thành viên:
Chủ tịch: Tô Văn Thanh (tư sản)
Phó Chủ tịch: Nguyễn Văn Luông (nông dân giải phóng)
Phó Chủ tịch: Domico Đỗ Tấn Minh (Công giáo)
Phó Chủ tịch: Nguyễn Văn Trị (Đảng Nhân dân Cách mạng)
Tổng Thư ký : Nguyễn Văn Vinh (Nông dân giải phóng)
Ủy viên : Phạm Thị Nghĩa (Phụ nữ giải phóng)

29.5 Page 285

▲back to top


Ủy viên : Nguyễn Thành A (Lao động giải phóng)
Ủy viên : Vày A Xám (Hoa Nùng)
Ủy viên
: Phạm Văn Trắng (Thanh niên giải phóng)
Ủy viên
: Nguyễn Thanh Bình (Giải phóng quân)
Ủy viên
: Nguyễn Trung Tâm (Học sinh giải phóng)
Ủy viên
: Nguyễn Văn Thạch (Văn nghệ giải phóng)
Tính chiến đấu, kịp thời thể hiện rõ khi báo rất nhanh chóng trong việc đưa
tin về cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân dân ta. Báo Đồng Nai số tháng 1 -
1965, đưa tin và số liệu cụ thể về thắng lợi của tỉnh Biên Hòa trong tháng 1 - 1965:
159 địch bị loại, có 2 xâm lược Mỹ
3 bót, 3 tháp canh, 1 tua gát bị đánh sập.
5 xe quân sự bị phá hủy, 1 máy bay bị bắn rơi, 64 súng lọt vào tay quân ta.
6 ấp chiến lược bị phá (có 2 ấp phá dứt đIểm). Cụ thể các ấp chiến lược:
Xoài Minh, Cù lao Ông Còn, Phước Lai (Nhơn Trạch); Đại An (Vĩnh Cửu);
Sở cao su Bình Sơn (Long Thành); Tam An (Long Thành).
Bang 200 mét bờ thành, cắt 50.875 mét dây kẽm gai, 270 trụ sắt, 50 trụ cây...
Bình Sơn, Tam An giải phóng trên 6.000 dân".
Báo Đồng Nai số tháng 4 - 1965 đưa tin quân dân miền Bắc đánh bại âm
mưu khiêu khích của đế quốc Mỹ: "1 giờ 30 phút ngày 1 - 2 - 1965, Mỹ cho tàu
chiến xâm phạm vùng bờ biển miền Bắc. Quân dân miền Bắc bảo vệ bờ biển trừng
trị đích đáng, bắn cháy 3 chiếc tàu chiến”. Các số báo sau đó, đều đưa tin quân dân
miền Bắc đánh bại âm mưu phá hoại miền Bắc bằng không quân và tàu chiến của đế
quốc Mỹ.
Trong những ngày lễ kỷ niệm của dân tộc, của cách mạng như Cách mạng
Tháng Tám, Quốc Khánh 2 - 9, ngày Phụ nữ, Lao động quốc tế, ngày thành lập Quân
đội nhân dân, ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo Đồng Nai đều dành nhiều trang
để phản ánh lịch sử và phong trào đấu tranh thiết thực để kỷ niệm và phát huy truyền
thống.
Ngày 19 - 5 - 1965, báo Đồng Nai ra số đặc biệt mừng sinh nhật lần thứ 75
của Bác Hồ kính yêu. Trang bìa báo là bức ảnh chân dung của Người. Báo có bài xã
luận: "Chúng ta làm gì để làm quà dâng lên Hồ Chủ tịch". Bài xã luận cho rằng để
thiết thực chào mừng sinh nhật Bác phải ra sức học tập tinh thần yêu nước, cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư của Người; đẩy mạnh tiến công và giành thắng lợi trên
các mặt quân sự, chính trị... Báo có các bài giới thiệu về đạo đức tác phong, 12 điều

29.6 Page 286

▲back to top


xử thế của Hồ Chủ tịch, thể hiện nhân cách cao quý, đạo đức, sự toàn tâm toàn ý của
Người vì lợi ích của quần chúng, là tấm gương sáng cho nhân dân ta...
Đặc biệt nổi bật là khi đế quốc Mỹ mở 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô
(1965 - 1966, 1966 - 1967), các căn cứ địa ở miền Đông bị đánh phá ác liệt bằng bộ
binh, cơ giới, không quân, những người làm báo Đồng Nai vẫn kiên cường bám sát
chiến trường phản ánh kịp thời tin tức thắng lợi trên, đưa nhiều tin, bài về phong trào
chiến tranh nhân dân trong tỉnh và đơn vị, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân tiêu biểu trong
chiến đấu và phục vụ kháng chiến, góp phần làm phá sản hai cuộc phản công của
chúng trên toàn miền.
Báo Đồng Nai ra ngày 4 - 4 - 1966 có bài viết của Lê Mai phản ánh sự lớn
mạnh của phong trào du kích chiến tranh nhân dân trong tỉnh. Sự lớn mạnh đó "Nói
lên đường lối chiến tranh nhân dân, du kích chiến tranh đã được quán triệt từ trên
xuống dưới; Nó còn nói lên đường lối chỉ đạo của tỉnh rất đúng, rất sát với từng địa
phương. Đường lối chiến tranh nhân dân đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi
hành động của cấp bộ, đảng viên và toàn thể cán bộ nhân viên trong tỉnh".
Báo đưa tin về Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua năm 1965, tổng kết công
tác đảm phu và bảo vệ mùa màng của tỉnh, nêu những gương chiến đấu, công tác
tiêu biểu đạt nhiều thành tích của cán bộ chiến sĩ, đảng viên, nhân dân trong tỉnh trên
các lĩnh vực đấu tranh như quân sự, chính trị, binh vận, hậu cần, giao liên... có sức
cổ vũ, động viên phong trào thi đua cách mạng (160[45])
Về tin quốc tế, báo đưa tin thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam. Từ tháng 3 -
1966, nhân dân thế giới nhiệt liệt hưởng ứng "Tuần lễ ba châu đoàn kết với Việt
Nam", vạch trần bản chất xâm lược của Mỹ và ủng hộ hoàn toàn lập trường 4 điểm
của nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố 5 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam. Nhiều cuộc biểu tình với quy mô hàng vạn người ở Ý,
Anh, Pháp... phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam. "Ngày 26/3, hàng trăm ngàn
nhân dân, sinh viên, thanh niên Mỹ ở thủ đô Oa - sinh - tơn, Nữu Ước, Săng Phăng
xi cô, Át - lan ta, Chi ca gô... xuống đường phản đối chính quyền Mỹ tham gia chiến
tranh ở Việt Nam".
- Báo Đồng Nai còn có chức năng văn nghệ, giải trí:
Tất cả các số báo Đồng Nai xuất bản đều có trang văn nghệ gồm truyện ngắn,
bút ký, thơ, sáng tác ca khúc, Sớ Táo quân (các báo xuân), những bài vọng cổ... thể
hiện được nguyện vọng, tình yêu đất nước, quê, hương, tình yêu lứa đôi, tình đồng
chí, đồng bào, lòng căm thù giặc cướp nước và tinh thần chiến đấu, hy sinh anh dũng
của những người con Biên Hòa. Tiêu biểu như những truyện ngắn: Cây thánh giá,
(160[45]) Lý Hùng Quốc, du kích xã Phước Thiền dũng cảm kiên cường, là chiến sĩ thi đua của tnh. Riêng trong
trn chng càn 20 - 1 - 1966, anh đã bắn hạ 10 tên xâm lược M, bn cháy mt máy bay.

29.7 Page 287

▲back to top


Cuộc gặp trên đồi Hoa mai (Tư Mai), ánh sáng đời em (Văn Thanh), Xuân đến với
lòng em (Phương Thảo), Lệ thắm góc rào (Chính Nghĩa); Bút ký Giữ đất (Huy
Thăng), Một tấc không đi, một ly không rời...
Những bài thơ sáng tác theo thể ca dao có sức tiến công binh vận, đánh
vào tư tưởng binh lính Sài Gòn như:
Tiếng loa kêu gọi tòng quân.
Sao anh chưa chịu rời chân lên đường
Anh đi bảo vệ quê hương
Mẹ già, con dại ruộng vườn em lo
(Cô TH)
Quê em từ lúc giặc đi
Chông bàn chông vỗ bố vi khắp làng
Một hôm lũ giặc vào càn
Tớ thầy giặc Mỹ chúng mang trở về.
Xì xồ! Kẻ ớn thằng ghê
Vào đây không hẹn ngày về nhe bây..."
- Báo xuất bản không đều kỳ, đều trang:
Do điều kiện chiến tranh ác liệt, địch thường xuyên càn quét, đánh phá,
nguồn giấy và vật tư (giấy sáp, mực in...) để in báo phải mua từ ngoài vùng địch tạm
chiếm, do đó số lượng báo phát hành, số kỳ báo xuất bản không ổn định. Chiến
trường càng ác liệt, nguồn vật tư bị hạn chế, do đó số trang báo cũng bất thường (có
số báo chỉ 4 trang, 8 trang, 12 trang..., nhưng cũng có số đến 38 trang như số báo
Tết). Số lượng báo phát hành từng kỳ cũng bị ảnh hưởng như trên, nhưng số phát
hành thấp nhất là 500 tờ và số cao nhất đến 6000 tờ. Thời hạn ra báo có khi mỗi
tháng một số (như từ năm 1962 đến 1965), nhưng cũng có khi phải 2 tháng mới ra
được một số (như năm 1966 - 1967).
Công tác phát hành báo phải dựa vào hệ thống giao bưu của tỉnh để phát hành
về Trung ương, Khu miền Đông, các huyện các đơn vị quân đội, các chi bộ và cơ
sở, vào các vùng địch tạm chiếm...
II.2.3 Thời kỳ 1968 - 1975:
Tháng 10 - 1967, để chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân
1968, Trung ương cục quyết định tổ chức lại chiến trường: Giải thể Khu miền Đông,

29.8 Page 288

▲back to top


thành lập 5 phân khu để hình thành 5 mũi tiến công vào các cơ quan chỉ huy đầu não
của Mỹ ngụy ở Sài Gòn.
Chiến trường Đồng Nai bấy giờ gồm có U1 (thị xã Biên Hòa, huyện Vĩnh
Cửu và huyện Trảng Bom); phân khu 4 bao gồm các huyện Long Thành, Nhơn
Trạch, khu vực cao su Bình Sơn, An Viễn, huyện Thủ Đức, quận 9; tỉnh Bà Rịa -
Long Khánh.
Nhà in khu miền Đông giải thể, các phương tiện ấn loát như máy in
(bằng gỗ), chữ chì, mực in, giấy in... được phân chia về cho các đơn vị nhà in của
U1, phân khu 4, Bà Rịa - Long Thành.
Theo sự chỉ đạo của tỉnh ủy, tất cả mọi lực lượng, mọi khả năng đều tập
trung vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân để giành thắng lợi quyết
định. Các cán bộ tuyên huấn, nhà in... đều ra mặt trận, đều tham gia xuống đường
chiến đấu, tải thương, tải gạo, đạn dược cho các mặt trận.
Cuộc tiến công và nổi dậy xuân 1968 kéo dài ba đợt. Ta đưa được chiến
tranh vào tận hang ổ của kẻ thù, tiến công hầu hết thành phố thị xã của địch, các cơ
quan chỉ huy, các căn cứ, kho tàng làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ ngụy, buộc
chúng phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Paris .
Trong thời gian diễn ra cuộc tiến công Xuân Mậu Thân 1968, báo Đồng
Nai không ra được. Sau Mậu Thân, lợi dụng sơ hở của ta lơi lỏng ở nông thôn, Mỹ
ngụy thực hiện bình định nông thôn, chiếm lại nhiều vùng ta làm chủ trước đó, gây
cho lực lượng cách mạng nhiều khó khăn và tổn thất.
Từ tháng 5 - 1968, địch bung ra càn quét, đánh phá rất ác liệt khu vực Bưng
6 (Thủ Đức), căn cứ của phân khu 4; khu vực Lòng Chảo Nhơn Trạch, đông tây liên
tỉnh lộ 2, Cẩm Đường, Suối Cả, Bàu hàm, Hưng Lộc... là những khu vực căn cứ của
các tỉnh. Các cửa khẩu hậu cần ở Bình Sơn, Phước Thái, Long Phước, cây số 116,
125... bị đánh phá liên tục. Việc tìm mua mực in, giấy in từ ngoài vùng tạm chiếm
rất khó khăn. Bộ phận nhà in phải gói chữ chì thành từng gói nhỏ để bảo quản, hoặc
giấu xuống các hầm bí mật. Máy in lớn không thể giữ vì cồng kềnh mang theo khó
khăn. Bộ phận nhà in U1 Biên Hòa phải cải tiến, đóng bàn in bằng gỗ, chỉ có thể in
khổ nhỏ bằng quyển tập 100 trang.
Chiến trường ác liệt là một trong những nguyên nhân quan trọng làm
cho báo Đồng Nai, Giải Phóng phải ngưng xuất bản. Mãi đến ngày 15 - 9 - 1968 báo
Giải Phóng - cơ quan đấu tranh của nhân dân tỉnh Bà Rịa - Long Khánh mới ra lại.
Báo cũng in khổ 30 x 40 cm, mỗi số từ 8 - 12 trang in, số lượng phát hành từ 600 -
2000 tờ/kỳ tùy theo tình hình cung cấp giấy in, mực in.
Số báo Giải Phóng kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh ra ngày
15 - 9 - 1968. Ngay trang đầu, báo trích lời kêu gọi của Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung

29.9 Page 289

▲back to top


ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lời kêu gọi nhắc lại sự
kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tuyên
ngôn độc lập ngày 2 - 9 - 1945; nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc và kêu
gọi các giai cấp tầng lớp cùng đoàn kết: "Trong giờ phút lịch sử hiện nay với tinh
thần vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, toàn dân ta tin tưởng vững chắc rằng sự
nghiệp giải phóng miền Nam, giải phóng miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ
quốc của nhân dân ta nhất định sẽ toàn thắng”.
Báo đã đưa tin chi tiết về cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở
các địa bàn nông thôn, thị trấn ở miền Nam và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh; nêu bật
tinh thần ý chí tiến công của quân dân địa phương góp phần làm phá sản chiến lược,
chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Báo cho biết với những thành tích đạt được trong 6 tháng đầu năm 1968,
quân dân Bà Rịa - Long Khánh đã được Ủy Ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam và Ban chỉ huy lực lượng vũ trang Miền tặng Huân chương thành
đồng hạng ba.
Báo còn nhiều tin, bài thể hiện tinh thần bám đất giữ làng của nhân dân
(như bài Mài mác chém Mỹ), tin lính Mỹ phản chiến đòi về nước ở Long Khánh; tin
quân dân miền Bắc bắn rơi nhiều máy bay Mỹ bảo vệ bầu trời Tổ quốc; tin đại hội
liên hoan thanh niên sinh viên thế giới họp tại Sophia (tháng 8 - 1968) ủng hộ cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam vì cuộc chiến đấu của dân tộc ta cũng là "Cuộc
chiến đấu chung của các dân tộc để bảo vệ hòa bình thế giới, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội". Ngoài ra báo còn có nhiều bài thơ động viên tinh thần sản
xuất lao động và phong trào tòng quân của thanh niên (thơ Diệu Hiền).
Những số báo sau đó, báo Giải Phóng đều bám sát phong trào chống phá
bình định của nhân dân địa phương, đấu tranh tố cáo tội ác Mỹ ngụy trong việc tàn
phá xóm làng, nhà cửa, tài sản nhân dân bằng bom pháo và chất độc hóa học.
Trong số báo tháng 10 - 1968, báo còn đăng điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khen ngợi đồng bào và chiến sĩ miền Nam:
"... Đồng bào chiến sĩ và cán bộ miền Nam Việt Nam thân mến! Quân và dân
miền Nam anh hùng nêu cao tinh thần liên tục tiến công, liên tục đánh thắng. Trong
việc kỷ niệm Cách Mạng tháng Tám và Quốc Khánh vừa qua đã giành thêm nhiều
thắng lợi mới, đã mở hàng trăm cuộc tiến công và nổi dậy ở khắp miền Nam và đã
thu được nhiều tành tích vẻ vang như là:
Tây Ninh, Bình Long, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bến Tre, Gia Lai
và nhiều nơi khác.
Thắng lợi to lớn này của miền Nam càng làm cho thế ta thêm vững, sức ta
thêm mạnh...

29.10 Page 290

▲back to top


Bác nhắc nhở: "... Nhưng càng gần thắng lợi thì càng gian nan, quân và dân
miền Nam anh hùng quyết vượt mọi khó khăn gian khổ, anh dũng và bền bỉ chiến
đấu, nhất định sẽ giành được thắng lợi to lớn hơn nữa”.
Tuy không ra báo, nhưng để đảm bảo công tác giáo dục tuyên truyền, ban
Tuyên huấn U1 vẫn in và phát hành các tài liệu như Quân lệnh tiến công nổi dậy
xuân Kỷ Dậu 1969, bản di chúc của Hồ Chủ tịch...
Tháng 5 - 1971, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh nhận thêm các huyện Long
Thành (bao gồm cả huyện Nhơn Trạch, Thủ Đức... chuyển thành phân khu Bà Rịa,
Thủ Dầu Một và U1 sáp nhập thành phân khu Thủ Biên (161[46]).
Tháng 9 - 1972, Khu ủy miền Đông được thành lập lại. các tỉnh Biên
Hòa, Bà Rịa - Long Khánh cũng được lập lại vào cuối năm 1972. Tháng 10 - 1973,
để chuẩn bị địa bàn và cơ sở cho việc nắm thời cơ cách mạng sau này, Trung ương
Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh căn cứ Tân Phú gồm huyện Độc Lập (Tân
Phú), Định Quán và một số huyện thuộc tỉnhThủ Dầu Một. Tháng 6 - 1973, tỉnh
Biên Hòa tách làm hai bộ phận: Tỉnh Biên Hòa nông thôn và Biên Hòa đô thị - trực
thuộc Khu ủy - gọi là thành phố Biên Hòa.
Buớc vào cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1974 - 1975, mở chiến dịch
đường 14 Phước Long. Ngày 6 - 1 - 1975, tỉnh Phước Long được giải phóng hoàn
toàn, góp thêm thực tiễn để Bộ Chính trị Trung ương Đảng bổ sung quyết tâm chiến
lược giải phóng miền Nam ngay trước mùa mưa năm 1975.
Nhà in tỉnh Biên Hòa (ở Suối Quít), nhà in Cờ Giải Phóng của thành phố
Biên Hòa (ở Bàu Hàm) đã nhanh chóng cho ra đời những bản tin chiến thắng của
quân dân ta ở miền Đông, Tây nguyên cổ vũ động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân trong tỉnh; Bản tin về chiến thắng Xuân Lộc (từ 9 - 21/4/1975) đập tan
cánh cửa thép của ngụy quyền ở phía Đông Sài Gòn. Hàng ngàn bản chính sách 10
điểm của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,
tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được
phát hành. Quân lệnh số 1, số 2 ở mặt trận phía Đông được in tại nhà in Cờ Giải
Phóng Biên Hòa.
Ngày 25, 26 - 4 - 1975, lời kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Biên Hòa và
thành phố Biên Hòa đã được in và phát hành tạo điều kiện để phát động cuộc tổng
tiến công và nổi dậy ở thành phố Biên Hòa và toàn tỉnh đập tan toàn bộ ngụy quân,
ngụy quyền tay sai ở Biên Hòa, giải phóng địa phương cùng cả nước hoàn thành
công cuộc giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước.
(161[46]) Ngoài Báo Gii Phóng ca Bà Ra - Long Khánh, đến nay chúng tôi chưa tìm được các báo khác thuc
tnh Biên Hòa, phân khu ThBiên.

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Ngày 30 - 4 - 1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Ban tuyên huấn
miền Đông, Ban Tuyên huấn tỉnh Biên Hòa, vào tiếp quản các cơ quan thông tấn,
báo chí ngụy quyền ở Biên Hòa. Một thời kỳ mới cho báo chí cách mạng của tỉnh
được mở ra và với nhiệm vụ mới: Thống nhất nước nhà, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
III. THỜI KỲ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN SAU NGÀY THỐNG NHẤT ĐẤT
NƯỚC (1975 - 1999):
III.1. Thời kỳ 1975 - 1979: Những năm đầu xây dựng, vượt qua khó khăn:
Sau ngày giải phóng miền Nam 30 - 4 - 1975, các phóng viên của Thông tấn
Giải Phóng Khu Đông Nam bộ do đồng chí Trịnh Yến phụ trách vẫn bám sát tình
hình Đồng Nai để thông tin kịp thời các mặt hoạt động, ổn định tình hình an ninh
chính trị, giữ vững thành quả cách mạng của Đồng Nai ra cả nước.
Chỉ một tuần sau đó, Khu ủy miền Đông quyết định xuất bản số báo đầu tiên
của tỉnh Biên Hòa và giao cho các đồng chí Trần Văn Lực, nguyên trưởng Phân xã
miền Đông và các đồng chí: Trần Trác, Vũ Khánh, Lữ Sĩ Sinh, Đoàn Ngọc Giao...
xoay xở từ khâu viết tin, bài đến in ấn cho ra mắt tờ báo Biên Hòa, ghi dấu ấn khó
quên trong lòng nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai đang rạo rực niềm vui của miền Nam
giải phóng, đất nước thống nhất.
Tiếp đó, Đài truyền thanh Biên Hòa được gấp rút xây dựng với máy phát
300W đặt tại ngã ba Vườn Mít. Cũng trong thời gian này, đồng chí Lê Quang Thành,
Trưởng ban tuyên huấn Tỉnh ủy xây dựng phương án trình Thường vụ cho xuất bản
tờ báo mang tên Đồng Nai do Ban tuyên huấn quản lý. Sau khi xuất bản được 32 số,
đến tháng 9 - 1976, thi hành nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh, từ số 33 ra ngày 15
- 10 - 1976, báo Đồng Nai chuyển thành cơ quan của Đảng bộ Đồng Nai, gồm 8
trang và xuất bản hàng tuần. Ban lãnh đạo báo Đồng Nai theo quyết định của Thường
vụ Tỉnh ủy lúc đó gồm các đồng chí: Lê Quang Thành, chủ nhiệm; Lê Tư Huyền,
Tổng biên tập và Đoàn Ngọc Giao, Phó tổng biên tập kiêm Thư ký tòa soạn. Đến
tháng 12 - 1976, báo Đồng Nai ra mắt bạn đọc số xuân Bính Thìn - số báo Xuân đầu
tiên của báo Đồng Nai sau ngày miền Nam giải phóng. Cùng với việc phát hành báo
Đồng Nai, Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng một Đài phát thanh để phủ sóng toàn tỉnh. Hai
máy phát có công suất 20 KW, hiệu Gate cùng với 2 máy nổ 150KVA của Đài Mẹ
Việt Nam được các đồng chí Nguyễn Văn Thọ (Năm Thọ), Nguyễn Văn Nhiên,
Nguyễn Minh Trưng điều về Biên Hòa xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ban đầu cho
Đài PT - TH Đồng Nai. Để phục vụ cho Đài phát thanh của tỉnh, Đài truyền thanh
Biên Hòa được giao cho đồng chí Lê Ánh Vân phụ trách, đồng chí Nguyễn Thị Bích
Vân và đồng chí Nguyễn Minh Tiến được giao nhiệm vụ gấp rút tuyển dụng và đào
tạo, gởi đi đào tạo một lớp phóng viên trẻ phục vụ cho đài.

30.2 Page 292

▲back to top


Sau một thời gian chuẩn bị, đến 19 giờ ngày 19 - 11 - 1976, nhân dịp Đại hội
lần thứ nhất của Đảng bộ Đồng Nai, chương trình chào mừng Đại hội Đảng được
phát trên sóng với lời mở đầu "Đây là Đài phát thanh Đồng Nai - Tiếng nói của
nhân dân tỉnh Đồng Nai” qua giọng đọc của 2 xướng ngôn viên Đoàn Bửu và
Nguyễn Thị Thuyết đã vang đến từng vùng trong tỉnh, mở đầu thêm một loại hình
báo chí mới ở Đồng Nai. Đài phát thanh Đồng Nai lần lượt do hai đồng chí Vũ Khánh
và Lê Tư Huyền phụ trách. Sang năm 1977, có thêm Phân xã TTXVN ra đời do đồng
chí Võ Thế Đại là Trưởng Phân xã và sau đó là các Đài truyền thanh Sông Ray,
Vũng Tàu, Long Thành, Xuân Lộc, Vĩnh Cửu, Tân Phú... lần lượt ra đời góp mặt
cùng các loại hình báo chí khác. Cùng với báo, đài Đồng Nai, hệ thống Đài truyền
thanh cơ sở và hơn một chục tờ tin của các huyện, thành phố, một số đoàn thể; ngày
22 tháng 12 năm 1979, Đại hội thành lập Hội văn học - nghệ thuật Đồng Nai được
tổ chức, nhà văn Lý Văn Sâm làm được bầu làm Chủ tịch Hội và tờ Văn nghệ Đồng
Nai cũng ra đời từ đây.
Báo chí Đồng Nai trong giai đoạn này tập trung tuyên truyền việc khôi phục
sản xuất, ổn định tình hình đời sống nhân dân, bảo vệ chính quyền cách mạng; khắc
phục hậu quả thiên tai, kêu gọi toàn dân, toàn quân dồn sức để bảo vệ biên giới Tây
Nam, biên giới phía Bắc; nêu những biện pháp tháo gỡ khó khăn; ủng hộ các biện
pháp, nỗ lực bung ra tìm các mô hình làm ăn mới trong công nghiệp, nông nghiệp
để giữ vững sản xuất, vượt qua khủng hoảng.
III.2. Báo chí Đồng Nai trên đường đổi mới:
III.2.1 Động lực đổi mới báo chí: "Những việc cần làm ngay”:
Cơ chế quản lý theo kiểu quan liêu bao cấp kéo dài đã triệt tiêu động lực,
làm sản xuất bị đình đốn, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Trong bối cảnh
đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng CSVN với khẩu hiệu đổi mới tư duy, trước hết là
đổi mới tư duy kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, giải phóng lực
lượng sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng. Nhờ đó, nền kinh tế bắt đầu chuyển động,
kéo lùi dần lạm phát, đẩy lùi khủng hoảng đang ở bờ vực thẳm.
Trong bối cảnh cả nước và Đồng Nai đang khởi động đổi mới theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng CSVN, báo chí Đồng Nai cũng tích cực chủ động
đổi mới và được tiếp sức bằng những bài báo có tiêu đề "Những việc cần làm ngay"
của tác giả NVL và sau đó là Chỉ thị 15 của Ban bí thư đã tạo điều kiện cho báo chí,
trong đó có báo chí Đồng Nai đổi mới ngày càng mạnh mẽ.
Các báo, đài trong thời gian này thông tin đậm các biện pháp tích cực trên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội để tham gia thực hiện đổi mới, ủng hộ các điển hình,
nêu các thành tựu của công cuộc đổi mới đem lại, phê phán những biểu hiện cản trở
công cuộc đổi mới. Đặc biệt, báo chí Đồng Nai đã sớm đi vào lĩnh vực gai góc là
đấu tranh chống tiêu cực, vạch trần các hiện tượng lãi giả lỗ thật, nêu đích danh các

30.3 Page 293

▲back to top


cán bộ tham ô lãng phí, mất dân chủ. Cuộc chiến đấu trên lĩnh vực này của báo chí
Đồng Nai hết sức gian nan, bị phản ứng quyết liệt của các đối tượng, thậm chí có
phóng viên bị chụp mũ, bị tạm giữ nhưng được sự lãnh đạo sát sao của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy nên báo chí trong cuộc đấu tranh này vẫn giữ đúng định hướng và đạt
hiệu quả.
III.2.2. Thêm nhiều loại hình báo chí:
Trong giai đoạn này, các tờ tin dần dần bị mai một, chỉ có tờ tin Công đoàn
Đồng Nai, Cao su, Công an, Tuổi trẻ Đồng Nai được duy trì và có hình thức, nội
dung như một tờ báo. Riêng tờ tin Công đoàn Đồng Nai tiếp tục phát triển và đến
tháng 9 - 1993 được phép của Bộ văn hóa thông tin, chuyển thành tờ báo Lao Động
Đồng Nai, do đồng chí Nguyễn Thành Tuấn làm Tổng biên tập. Ngày 2 - 10 - 1993,
Chủ tịch LĐLĐ tỉnh (nhiệm kỳ V) Nguyễn Đình Thắng ký quyết định thành lập báo
cho phép báo có pháp nhân và hạch toán độc lập, cử đồng chí Phó ban Tuyên giáo
LĐLĐ tỉnh Đào Minh Phúc sang phụ trách Phó tổng biên tập chuyên trách xây dựng
lực lượng và làm báo. Ngày 15 - 10 - 1993 số 1 của báo Lao Động Đồng Nai ra mắt
(8 trang, 4 trang màu, khổ 30 x 40, 2 tuần/kỳ). Sự ra đời của báo Lao Động Đồng
Nai đã đáp ứng xu hướng phát triển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và của đội ngũ công nhân lao động trên địa bàn. Cùng với đội ngũ báo chí trong tỉnh,
báo Lao động Đồng Nai đã góp thêm tiếng nói trong quá trình đổi mới báo chí ở
Đồng Nai.
Sự ra đời của truyền hình Đồng Nai cũng là một nét mới trong quá trình phát
triển và đổi mới báo chí ở Đồng Nai. Từ 2 máy quay phim 16 ly mang từ chiến khu
ra và do Ty văn hóa - thông tin chuyển giao năm 1981, Phòng truyền hình thuộc Đài
PT - TH Đồng Nai với 7 cán bộ, phóng viên đã luôn có mặt ở những điểm nóng để
quay phim, dàn dựng và đưa phát trên Đài truyền hình TP.HCM.
Do yêu cầu của sự phát triển, BCH Tỉnh ủy có nghị quyết về việc xây dựng
Đài Truyền hình. Nhờ đó, đến ngày 26/1/1995 sóng truyền hình Đồng Nai đã được
phát thử nghiệm trên kênh 12 VHF, đưa hình ảnh của các hoạt động kinh tế - văn
hóa - xã hội - an ninh - quốc phòng của tỉnh, đến nhân dân trong tỉnh và khu vực.
Đài PTTH Đồng Nai trong giai đoạn này do các đồng chí Phạm Minh, Nguyễn Thị
Bích Vân, Vũ Khánh phụ trách. Cùng với sự ra đời của Truyền hình Đồng Nai
báo Lao Động Đồng Nai là sự bổ sung của một lớp nhà báo trẻ bên cạnh các nhà báo
đi trước thực hiện sự nghiệp đổi mới báo chí trên địa bàn.
III.2.3 Trưởng thành của đội ngũ báo chí:
Trong gần 25 năm qua, dưới sự dìu dắt của các nhà báo trưởng thành trong
chiến tranh, các nhà báo có kinh nghiệm từ miền Bắc được bổ sung, đội ngũ báo chí
Đồng Nai đã có bước trưởng thành hết sức quan trọng. Đội ngũ báo chí Đồng Nai
được đồng nghiệp trong cả nước đánh giá là một lực lượng báo chí mạnh trong khu

30.4 Page 294

▲back to top


vực và cả nước. Những nhà báo trưởng thành sau ngày giải phóng đã góp phần tích
cực vào mặt trận báo chí địa phương, từng bước khẳng định tài năng của mình trước
yêu cầu đổi mới báo chí hết sức khắc khe. Trong số các nhà báo này, có người trở
thành những cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan báo chí của tỉnh, có người không chỉ
khẳng định uy tín của mình đối với công chúng trong tỉnh, mà còn khẳng định vị trí
nghề nghiệp đối với công chúng, đồng nghiệp trong khu vực và cả nước bằng những
bài viết sắc sảo, những bài viết đoạt huy chương vàng các liên hoan PT-TH, đoạt
giải báo chí toàn quốc.
III.2.4 Sự phát triển của công nghệ - kỹ thuật làm báo:
Giai đoạn đổi mới báo chí ở Đồng Nai, được đánh dấu không chỉ về số lượng,
chất lượng các loại hình báo chí, đội ngũ những người làm báo mà còn là sự đổi mới
về phương pháp, nội dung thông tin với sự hỗ trợ tích cực của công nghệ thông tin.
Từ một vài phóng viên tự trang bị và sử dụng máy tính, thông qua bảo lãnh của Hội
Nhà báo xin vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng nông nghiệp và sau đó anh em tự trang bị,
đến nay có trên 30% đội ngũ phóng viên đã có máy vi tính và làm việc bằng phương
tiện này. Báo Đồng Nai đã có hệ thống máy vi tính nối mạng cục bộ và được kết nối
với mạng diện rộng của Chính phủ, mạng Internet... phục vụ đắc lực cho việc làm
báo từ khai thác thông tin, xử lý kỹ thuật, dàn dựng đến ra support hoàn chỉnh.
Đội ngũ anh chị em cán bộ, biên tập, phóng viên ở Đài PT - TH, báo Đồng
Nai, báo Lao Động Đồng Nai... phần lớn đã biết sử dụng máy vi tính cho công việc
làm báo. Đặc biệt với việc tiếp thu công nghệ phát thanh trực tiếp của tổ chức SIDA
(Thụy Điển), trong chương trình hỗ trợ giữa Việt Nam - Thụy Điển của Đài PTTH
Đồng Nai, đã góp phần đổi mới tác phong làm báo theo hướng hiện đại ở đơn vị này.
III.2.5 Báo chí Đồng Nai đổi mới và phát triển:
Trong hơn 10 năm đổi mới của đất nước, báo chí Đồng Nai dưới sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai, đã không ngừng đổi mới, năng động tìm tòi sáng
tạo, làm tốt chức năng thông tin của mình, phấn đấu ngày càng xứng đáng là tiếng
nói của Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân lao động.
Bám sát tôn chỉ mục đích trên cơ sở quán triệt sâu sắc các nghị quyết
của Đảng, chủ trương chính sách của nhà nước, báo chí Đồng Nai đã nhanh nhạy
trong việc thông tin các vấn đề về thời sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh
quốc phòng... Trong thông tin, chú trọng nêu bật những thành tựu, các điển hình tiên
tiến, nhưng cũng kịp thời đấu tranh phê phán với những biểu hiện tiêu cực trong xã
hội, đặc biệt là tệ nạn tham nhũng quan liêu, góp phần làm lành mạnh các quan hệ
xã hội, ổn định đời sống của nhân dân lao động. Báo chí Đồng Nai cũng đã thể hiện
bản lĩnh của mình trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, đấu tranh thông tin chống
lại những luận điệu xuyên tạc, thù địch của kẻ thù trong và ngoài nước.

30.5 Page 295

▲back to top


Ngoài việc làm nhiệm vụ thông tin, định hướng dư luận, báo chí còn
thông qua các sự kiện của đời sống xã hội để phổ cập, giải thích pháp luật, động viên
mọi tầng lớp nhân dân sống và làm việc theo pháp luật.
Nét mới trong đổi mới báo chí là, ngoài nhiệm vụ trên trang báo, trên
sóng phát thanh truyền hình, báo chí còn tham gia làm tốt công tác xã hội như: tuyên
truyền vận động trong nhân dân tham gia đóng góp xây nhà tình nghĩa, chăm sóc và
phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình liệt sĩ và người có công với
cách mạng, chương trình xóa đói giảm nghèo; ủng hộ cứu trợ đồng bào bị thiệt hại
do bão lụt, những cảnh đời cơ nhỡ, khó khăn, những hoàn cảnh thương tâm...
Từ việc đổi mới nội dung thông tin theo hướng báo chí là nhịp cầu giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, các cơ quan báo chí ở Đồng Nai cũng đã không ngừng
đổi mới hình thức trang báo, trên sóng phát thanh truyền hình bằng việc mở thêm
nhiều nội dung chuyên mục, tăng số trang, thời lượng phát sóng chương trình... nhằm
đa dạng, phong phú hình thức thông tin tuyên truyền, đáp ứng với yêu cầu ngày càng
cao của bạn đọc, bạn nghe và xem đài...
Những thành quả đạt được và nổi bật của báo chí trong hơn 10 năm đổi
mới gắn liền với sự trưởng thành của đội ngũ của những người làm báo ở Đồng Nai.
Cơ chế thị trường có tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội, tích cực lẫn tiêu cực,
trong đó có đời sống báo chí. Anh chị em làm báo của tỉnh tuy đời sống chưa cao,
nhiều nhà báo còn khó khăn, nhưng đại bộ phận vẫn giữ được đạo đức, tư cách và
phẩm chất của nhà báo. Họ có nhiều nỗ lực, phấn đấu trong nghề nghiệp qua việc
không ngừng học tập và rèn luyện. Trong số trên 150 phóng viên, biên tập viên công
tác tại các cơ quan báo chí của tỉnh đã có 108 người là hội viên Hội nhà báo Việt
Nam, 70% có trình độ đại học, trên 55% số hội viên được kết nạp Đảng CSVN và
đã có 27 hội viên được tặng thưởng huy chương "Vì sự nghiệp báo chí". Nhờ tích
cực đổi mới và có nhiều tiến bộ nên báo chí đã tạo được uy tín đối với bạn đọc, bạn
nghe và xem đài PTTH, từ đó cũng đã thu hút số lượng lớn lực lượng cộng tác viên
trong cũng như ngoài tỉnh. Theo thống kê, hiện có khoảng trên 600 cộng tác viên
thường xuyên của các cơ quan báo đài. Hàng năm, lực lượng này cũng đã đóng góp
trên 50% số lượng tin bài cho trang báo, cũng như sóng phát thanh, truyền hình.
Cùng với báo chí của tỉnh nhà phát triển, hoạt động Hội nhà báo - tổ
chức chính trị - nghề nghiệp của những người làm báo trong 5 năm qua cũng đã có
nhiều nội dung phong phú, bổ ích. Đề cập đến những bước trưởng thành của đội ngũ
những người làm báo trong tỉnh không thể không nhắc đến vai trò hỗ trợ và những
đóng góp tích cực, quan trọng của những sinh hoạt nghiệp vụ do Hội tổ chức.
Giải báo chí Ngòi viết vàng của Hội được tổ chức thường xuyên hàng năm
thật sự là động lực quan trọng để những người làm báo Đồng Nai nỗ lực, phấn đấu
và khẳng định nghề nghiệp. Thông qua tổ chức Hội, nhiều hội viên được tham gia

30.6 Page 296

▲back to top


học tập, bồi dưỡng các lớp nghiệp vụ nâng cao trình độ làm báo. Hội nhà báo tỉnh
thật sự là nơi tập hợp, đoàn kết anh chị em làm báo trong tỉnh, làm cho báo chí ngày
càng tăng uy tín trong xã hội và báo chí xứng đáng với chức năng, nhiệm vụ là một
tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp của những người làm báo trong tỉnh.
Mặc dù nằm cạnh Sài Gòn nơi ra đời tờ báo quốc ngữ đầu tiên năm
1865, nhưng mãi đến năm 1946, tỉnh Biên Hòa mới xuất bản tờ báo mang tên Đồng
Nai và đó cũng là tờ báo cách mạng đầu tiên của Đồng Nai.
Sự ra đời của báo chí cách mạng ở Đồng Nai đã tạo điều kiện cho các nhà
báo phát huy tài năng, kiên trì vượt qua thiếu thốn khó khăn. Từ in xu xoa, bản gỗ
đến in offsset, từ phát tin bằng mort đến truyền cáp quang, phát sóng AM, FM, truyền
hình; từ khai thác tin qua bản tin đọc chậm đến khai thác qua vệ tinh, Internet; từ
chuyển tin bằng thư đến thư điện tử (e-mail)... là một bước phát triển khá dài của
báo chí Đồng Nai.
Hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, báo chí cách mạng ở Đồng Nai đã
hòa mình vào nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và đã có những đóng góp tích
cực, xứng đáng là công cụ tư tưởng văn hóa quan trọng của Đảng Cộng sản Việt
Nam và là tiếng nói của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
I. TKINH NGHIỆM DÂN GIAN ĐẾN Y HC CTRUYN:
Quá trình hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai cũng
chính là quá trình giao lưu hội nhập những quan niệm và kinh nghiệm dân gian
trong phòng và trị bệnh. Từ buổi đầu khai phá, người dân phải đối mặt với thú dữ,
rừng rậm, dịch bệnh và sau đó là những cuộc chiến tranh. Trong hoàn cảnh khắc
nghiệt ấy, người dân đã biết "tự cứu" bằng những phương pháp phòng bệnh dân
gian, bằng những bài thuốc, vị thuốc đơn giản, truyền cho nhau từ nhiều nguồn, qua
nhiều đời. Trong hành trang của cư dân Biên Hòa - Đồng Nai thời mở đất có bài
học "phòng bệnh hơn chữa bệnh” của cha ông từ mấy nghìn năm trước, có kinh
nghiệm dùng thức ăn làm vị thuốc của những cộng đồng dân tộc anh em cùng hội
nhập trên mảnh đất này.
I.1. Quan nim và kinh nghim dân gian trong phòng cha bnh:
I.1.1 Thầy tại chỗ, thuốc tại chỗ:

30.7 Page 297

▲back to top


Dấu tích của quan niệm "thầy tại chỗ, thuốc tại chỗ" ngày nay là những
mảnh vườn có ít nhiều cây thuốc ở hầu hết các gia đình nông thôn và cả ở thành phố,
thị trấn, thị tứ. Ý thức tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình, và cộng đồng
biểu hiện rõ nét trong việc chọn lựa các loại cây có vị thuốc để trồng trong mảnh
sân, miếng vườn nhà mình. Những cây thuốc có tác dụng cấp cứu, sơ cứu (như sả,
gừng, đinh lăng... ) được trồng ở chỗ gần nhà nhất trong vườn. Vườn rau cũng đồng
thời là vườn thuốc. Người dân thôn quê luôn có thông tin về những cây thuốc được
trồng trong các mảnh vườn của hàng xóm để thông báo cho nhau khi cần cũng như
để chọn lựa việc trồng mới cho hợp lý. Danh mục các cây thuốc được trồng trong
các mảnh vườn ở Đồng Nai khá phong phú, hầu như có đầy đủ các nguồn dược liệu
để chữa bệnh (162[1]). Các kinh nghiệm dân gian trong phòng trị bệnh ở Đồng Nai
rất đa dạng, hiện chưa thống kê hết được.
Khó phân biện được ranh giới giữa cây rau - cây thuốc trong nhiều
mảnh vườn ở nông thôn: Các loại rau ăn sống, luộc chín hoặc nấu canh thường gặp
trong quan niệm của người dân đều là những vị thuốc như: rau cần tàu giải nhiệt,
tiêu ứ, rau cần nước giải nhiệt, nhuận trường, chữa vàng da, rau diếp cá giải nhiệt,
tiêu độc, tan mụn nhọt, chữa ghẻ lở, chữa bệnh trĩ, trị bệnh lá lách, dạ dày, tiêu thực,
rau húng cay tiêu độc, tiêu viêm, trị cảm, ho, rau húng lủi chữa ban sởi, lợi tiểu, rau
húng quế tiêu độc, rau kinh giới giải ban, chữa nhức đầu, chóng mặt, trị ngứa ngáy,
hôi da, rau răm chữa đau bụng, rau tần dày lá (húng chanh) hạ đờm, chữa ho, rau
tía tô chữa ho suyễn, rau bình bát giải nhiệt, ghẻ lở, rau bù ngót nhuận dưỡng kinh
mạch, cầm máu, mát gan, chữa táo bón, rau má giải nhiệt, trị nóng sốt, đau bụng,
kiết lỵ, tiêu đờm, tiêu máu bầm, chữa ung nhọt và ghẻ lở, mồng tơi tía giải nhiệt, da
bớt nhăn, giá bổ tì, nhuận táo, hạ nhiệt, dưỡng da v.v...
Cây bưởi trồng trong vườn ở miền đất ven sông - đặc biệt là ở vùng Tân
Triều (Vĩnh Cửu) - vốn được coi là đặc sản xứ Biên Hòa cũng đồng thời là cây thuốc
của người dân. Do lá hoa quả bưởi đều chứa tinh dầu nên lá bưởi được dùng để xông
chữa cảm cúm, nhức đầu, có nơi còn cất tinh dầu bưởi. Vỏ quả bưởi chữa ăn uống
không tiêu, đau bụng, ho. Vỏ hạt bưởi có thể dùng làm thuốc cầm máu, dùng chải
tóc giúp cho tóc êm, mượt. Bưởi còn là vị thuốc chữa chốc đầu cho trẻ con (hạt bưởi
bóc vỏ ngoài cùng xâu vào sợi dây thép, đốt trên ngọn lửa cho cháy thành than,
nghiền nhỏ, rửa nơi chốc đầu thiệt sạch bằng nước ấm, thấm cho khô, bôi bột than
hạt bưởi lên, ngày bôi 1 - 2 lần, trị từ 3 - 6 ngày).
Một trong những bài thuốc dân gian phổ biến là nồi nước xông nồi
cháo giải cảm. Nồi nước xông cũng được nấu bằng những cây thực phẩm, cây rau
làm gia vị quanh nhà như sả, hương nhu, bạch đàn, khuynh diệp, lá bưởi, lá khế...
(162[1]) Xem thêm phn nói vvic nuôi trồng dược liu ở Đồng Nai trong mc II. Y hc ctruyn

30.8 Page 298

▲back to top


Nồi nước xông ở Đồng Nai là bài thuốc dân gian rất phong phú, đa dạng (có đến
hàng trăm "công thức" ở các vùng) và mang dấu ấn địa phương rõ nét.
Cầm máu lấy đọt cây chuối nhai đắp, bị kiết ăn trái dâu già, khế non
chấm đường, bị tiêu chảy nhai gừng sống, bị ghẻ hờm dùng cây găng, rễ vú sữa, bị
"giời ăn" dùng lá dâu tằm giã nát, bỏ thêm ít muối, thoa 2, 3 lần, nhổ răng cầm máu
dùng phèn chua lọ nghẹ..., trẻ em bị mồ hôi trộm thì ăn cháo đậu đen, gạo lức...
Có đến hàng ngàn bài thuốc dân gian như thế hiện còn được lưu giữ trong ký ức dân
gian ở Đồng Nai.
I.1.2. Món ăn là vthuc:
Trong quan niệm của người dân, gốc rễ bệnh tật là do chế độ ăn uống
không hợp lý. Và cách phòng chữa bệnh tốt nhất là sử dụng món ăn như những vị
thuốc.
Món canh chua gà nấu lá giang ngày nay ở Đồng Nai được xem như
đặc sản ẩm thực đối với người dân nông thôn là một vị thuốc. Lá giang (163[2]) còn
được nấu với thịt ếch như một món ăn dân dã nhưng rất bổ, chữa bệnh sỏi thận, các
bệnh viêm nhiễm về thận, tiết niệu (có thêm ớt tỏi, gia vị). Giá đậu xanh được dùng
trong hầu hết món ăn với quan niệm là một vị thuốc giúp cơ thể tăng sức đề kháng
chống bệnh tật. Cây sả được dùng để nấu nước thơm tắm rửa, gội đầu, xông trị cảm
cúm, làm chổi đuổi muỗi. Các món ăn nấu với lươn, tôm, thịt bò, thịt heo, thú rừng,
chuột đồng không thể nào thiếu sả. Trái cây chế biến thành nước sinh tố (giàu
vitamin), mía ép thành nước mía để tăng nguồn sinh tố. Rau sam, chó đẻ, cối xay,
xuân hoa, diếp cá, rau răm, bạc hà, chuối hột, bưởi, chanh, giang, táo nhơn, đinh
lăng... vừa là món ăn, vừa là vị thuốc.
Danh mục những món ăn có tác dụng chữa bệnh của người Đồng Nai
rất phong phú. Hầu hết các loại rau, củ làm thực phẩm, gia vị đều là những vị thuốc
như: củ hành ta hạ mồ hôi, giải cảm, trừ khí độc, củ hành tây trừ đờm chữa ho, thông
tiểu, trướng bụng, kích thích tiêu hóa, củ kiệu hạ đờm nhớt, kích thích tiêu hóa, củ
tỏi sát trùng tiêu độc, chữa bụng đầy hơi, trừ giun, diệt khuẩn mạnh, củ và lá hẹ trợ
vị khí hành huyết, thông gan và tim, tiêu thủy thấp, hạ đờm, giải độc, thìa là bổ dạ
dày, thận, chữa đầy bụng, dái sưng, đau dạ dưới, kích thích tiêu hóa, hạt tiêu chữa
bao tử, lá lách, giải độc, sát trùng, giúp tiêu hóa, gừng trừ độc, hạ đờm, chữa nôn
mửa, trừ ho hen và là nguồn dược liệu quý, nghệ trừ độc, giúp tiêu hóa, chữa ho (trộn
với mật ong làm thuốc mật nghệ chữa đau bao tử) (164[3]). Lương dược Đoàn Thị
(163[2]) Cây lá giang (hoc lá dang) min Bc gi là cây răng bừa.
(1) Xem thêm phn nói vvic sn xuất Đông dược ở Đồng Nai trong mc II. Y hc ctruyn

30.9 Page 299

▲back to top


Tiểu Nguyệt ở ấp I xã Hiệp Phước - Nhơn Trạch hiện nay còn có bài thuốc dân gian
chuyên trị bệnh phụ khoa bằng hành, gừng, tỏi.
Các loại trái, đậu, củ cũng được quan niệm là những vị thuốc như bầu
giải nhiệt (vỏ bầu khô dùng chữa bệnh thũng nước), bí đao giải nhiệt, lợi tiểu, bí đỏ
tiêu độc (hột bí đỏ dùng trừ lãi), khổ qua làm sáng mắt, dưa gang, dưa leo, dưa chuột
giàu sinh tố, lợi tiểu, dưa hấu chữa khô cổ họng, giải nhiệt, mướp hương tiêu sưng
thũng, kiết lỵ, vàng da, vỏ mướp già khô đốt cháy đen tán uống cầm băng huyết,
nâu, cà dái dê, cà chua tan máu bầm, chữa kiết lỵ, đậu đen tỏ tai, sáng mắt, đậu đỏ
chữa kiết lỵ, thông tiểu, đậu đũa bổ lách, mướt da, đậu nành tăng sinh lực, đậu hũ
(một sản phẩm từ đậu nành) tiêu độc dạ dày, đậu phộng chữa táo bón, bổ phổi, đậu
rồng, đậu khóa chữa đau mỏi gân xương, đậu trắng chữa bạch đái, đậu xanh thông
nhiệt, trừ táo bón, tăng sinh lực, củ cải đỏ bổ thần kinh, điều hòa tiêu hóa, củ cải
trắng hạ khí ứ trệ, hột củ cải chữa no hơi, củ sắn dây nấu với rễ tranh lấy nước uống
giải nhiệt, trừ tiểu gắt, khoai lang chữa vàng da, trị lãi trẻ con, khoai mài bổ tim,
chữa sưng thũng, khoai mì bổ tì vị, khoai môn trừ thũng, khoai mì trẻ em ăn ngừa
độc ban trái.
Theo kinh nghiệm dân gian ở vùng Biên Hòa, Long Thành thì muối
ngoài ý nghĩa một gia vị còn có tác dụng dược tính rất mạnh. Dược tính đặc biệt của
muối là tiêu viêm, sưng, bầm, giảm đau và sát trùng. Tất cả các triệu chứng này biểu
hiện trên cơ thể (ngoại trừ mắt) dưới những hình thức như mẩn ngứa, lác các loại...
đều có thể đắp muối trực tiếp lên mặt da (chưa rách). Riêng việc sát trùng mắt có thể
xử lý bằng việc trừng mắt trong nước muối loãng.
Những loại động vật thường được dùng trong bữa ăn cũng được xem là
những vị thuốc quý. Ở vùng Long Thành - Nhơn Trạch, có khá nhiều bài thuốc dân
gian liên quan đến con cua đinh, cua đồng... Ví dụ chữa đau tức do bị té thì dùng
cua đồng lột yếm rửa sạch gạch, đâm nhuyễn pha với nước sôi, rượu và đường uống.
Nếu không uống được rượu thì uống nước cua pha muối. Chữa bệnh thủy thũng dùng
thịt trâu chưng chín gừng sống đâm nát hòa dấm, chấm thịt ngày 2 - 3 lần. Chữa
bệnh lòi trôn trê dùng ruột già của heo (lấy khúc gần hậu môn) cho đậu đen vào
đầy, buộc 2 đầu ruột lại, cho vào nồi đất, nấu chín rục, ăn lạt.
I.1.3. Phòng bnh hơn cha bnh:
Trong quá trình lao động, chiến đấu, ý thức phòng bệnh luôn được đặt
lên hàng đầu trong việc chăm sóc sức khỏe. Đây là một quan niệm lớn phù hợp với
tinh thần y học nhân loại xưa và nay cũng như y học hiện đại (coi trọng công tác y
tế dự phòng). Nhiều kinh nghiệm còn lưu truyền trong dân gian Đồng Nai hiện nay
cho thấy ý thức làm vệ sinh thân thể, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường
sống đã có từ hàng ngàn năm trước. Nhiều người cao tuổi ở Vĩnh Cửu kể rằng: Ngày
xưa, khi đến một vùng đất mới, người dân thường lấy một cục đất tại đó, nướng cháy

30.10 Page 300

▲back to top


khô, bỏ vào nồi nước sôi để pha uống nhanh với mục đích phòng ngã nước (sốt rét).
Phát quang môi trường ẩm thấp và un khói để trừ muỗi cũng là những kinh nghiệm
quý.
Một trong những biện pháp phòng bệnh tốt nhất là chế độ ăn uống. Ăn
thật khỏe để tạo sức đề kháng tốt. Những món ăn có khả năng phòng bệnh được lưu
truyền khá nhiều. Lấy ví dụ những món ăn liên quan đến các loài cá, tôm, cua, sò,
ốc, rùa… được người dân quan niệm như: cá bống tăng lực, cá bống mú làm mướt
da, cá lóc chữa suy yếu, cá trê chữa đau nhức, cá linh trừ phong tiêu thấp, thông tiểu
tiện, cá chép chữa sưng thũng, suyễn, cá chẽm tăng khí lực, lươn chữa nhức xương,
cá đuối bổ gân xương, cá nhám chữa đại tiện ra máu, mủ, đàm, gan cá nhám ăn sáng
mắt, cá thu, cá nục, cá khoai điều hòa khí huyết, cá thiều, cá mực tăng sinh lực, điều
kinh, cá đường chữa suy nhược thần kinh, cua biển, tôm bồi bổ gân xương, con hầu
bổ xương (vỏ hầu đốt chữa đau dạ dày, băng huyết, di tinh, bạch đái), sò huyết tiêu
huyết ứ, rùa chữa kinh nguyệt không đều và bạch đái, yếm rùa nướng tán bột pha
rượu chữa đau bụng, con cóc thịt ăn giải độc, chữa kinh phong, cam tích, trừ ghẻ,
phù thũng, kiết lỵ, chữa hư lao, đàn bà sinh đẻ suy yếu, đàn ông khí hư tinh dịch
tiết ra yếu, xương trâu nấu xúp bổ xương tủy...
Những bài thuốc phòng bệnh khi có dấu hiệu của một chứng nào phần
lớn cũng là những món ăn như: phòng bệnh thủy thũng thì ăn đậu đỏ nấu lạt thay
cơm, kiêng muối mắm, hoặc đậu xanh, hột mã đề nấu cháo, hoặc gạo lức nấu với
tỏi, phèn chua, cơm chín hòa lại ăn với chuối hoặc đường. Phòng bệnh đái đường
dùng bí đao bỏ vỏ, giã nát cả hột hòa vào nước mưa uống, hoặc dùng trái khổ qua
nấu canh ăn nhiều lần. Phòng và trị bệnh rụng tóc thì dùng mè đen giã nát, hà thủ ô,
cẳng chân heo hầm thật kỹ ăn hàng ngày. Đề phòng tai biến mạch máu não thì hàng
ngày ăn gạo lức, sữa bò, củ cà rốt nấu cháo (thêm ít dầu mè hoặc dầu đậu phộng,
nước mắm, đường)...
Những kinh nghiệm phòng chữa bệnh trong dân gian ở Đồng Nai gắn
liền với khá nhiều những cây thuốc, con thuốc và vị thuốc là thực phẩm. Bên cạnh
những nguồn dược liệu phổ biến trên cả nước, người Đồng Nai còn tìm ra những
nguồn dược liệu riêng, phát hiện trong quá trình góp công xây dựng mảnh đất này.
I.1.4. Tnhng quan sát và tng kết:
Nhiều kinh nghiệm dân gian trong phòng chữa bệnh sưu tầm được ở
Đồng Nai có nguồn gốc từ quá trình quan sát thiên nhiên, tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn. Lương y Nguyễn Tăng Công ở Long Khánh khẳng định rằng cây bìm bịp được
người Châu Mạ, Châu Ro và cả người Kinh ở Đồng Nai sử dụng như một vị thuốc
chữa trật đả xuất phát từ việc quan sát bìm bịp con bị bẻ tay chân và người dân thấy
con mẹ tìm cây thuốc này để chữa trị cho con. Vùng Xuân Lộc còn có khá nhiều cây
thuốc dòi (cây bọ mắm) được xem là nguồn dược liệu trị bệnh phổi rất hay mà theo

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


nhiều lương y, tên cây thuốc bắt nguồn từ những đặc điểm thiên nhiên (đặt cây thuốc
dòi trên hủ mắm thì mắm không sinh dòi bọ).
Cũng từ việc đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, người dân Đồng Nai còn
có nhiều phương pháp cấp cứu trúng độc bằng các loại dược liệu thông thường vốn
là thực phẩm như bột khoai lang và đường đen pha uống hoặc bằng cách dùng ngón
tay chấm dầu phộng quậy vào cổ họng cho độc tố trong bao tử ói ra.
Người dân Biên Hòa có nhiều bài thuốc cấp cứu ngộ độc thức ăn đơn
giản như dùng đậu đen và cam thảo giúp rã độc trong trường hợp ăn phải những
thực phẩm xung kỵ nhau như cá trạch với gan bò, cá thớt với bí rợ, cá rô với mật
ong, cá trạch với giấm, bí rợ với tôm, dùng đậu xanh để rã độc trong trường hợp ăn
phải những thực phẩm xung kỵ nhau như thịt chim với gan, hào sống với đường đen,
rau chân vịt với chao bò, cá lóc với chao bò, thịt heo với cam thảo, kẹo mạch nha
với măng tre, giấm chua với chao bò... Người dân Vĩnh Cửu có kinh nghiệm: Khi lỡ
ăn nấm với ốc gạo bị trúng độc thì giải độc bằng cây sen, còn thịt cua giúp rã độc
khi ăn phải lươn nấu với táo đỏ hoặc bí rợ. Hành, ngò cũng là thuốc rã độc nếu lỡ
ăn hến với ốc gạo. Mắt củ sen, nước củ sen, nước củ tỏi giúp rã độc khi ăn cua đồng
nấu chung với trái thị, với cà, hoặc với cam quýt. Ngược lại, vỏ cam quýt lại là thuốc
rã độc khi ăn cua đồng với dưa gang. Còn theo kinh nghiệm dân gian ở Thống Nhất
thì cua đinh nấu với rau dền, rau cần ăn cũng trúng độc, bài thuốc rã độc là nước ép
cà na. Có một bài thuốc rã độc đơn giản nhưng đựơc dùng trong rất nhiều trường
hợp cấp cứu trúng độc đó là nước giếng. Nước giếng giúp rã độc trong những trường
hợp bị xung kỵ thức ăn như hột vịt với trái lý, cua đồng nấu với bí rợ, ốc gạo với
trái bắp, mực nang với trái thị, cua đồng với mật ong, cua đồng với đậu phộng sống,
đun củi cây dâu nấu lươn, gan dê với măng tre, cua đồng với cá chạch, cá trạch với
trái mơ, bột khoai mì với dầu mè, nước tiểu thằn lằn trong cơm... Bài thuốc rã độc
dân gian của người Nùng ở vùng Bàu Hàm 1 huyện Thống Nhất dùng các loại "dược
liệu" khá lạ: nước hẹ (rã độc khoai lang ăn với trái lựu), hoặc nước miếng gà (trong
trường hợp ăn trái lý với thịt chim, thịt gà với trái lý), hoặc sữa người và nước tương
(để rã độc trong trường hợp ăn đồ xung kỵ như thịt bò với cá kheo, thịt bò với he).
I.1.5. Tthc tế sinh hot - sn xut - chiến đấu:
Hầu hết những kinh nghiệm dân gian trong phòng chữa bệnh ở Đồng
Nai còn lưu truyền hiện nay đều gắn liền với sinh hoạt, sản xuất và chiến đấu hàng
trăm năm qua. Có thể thấy điều này qua sự phong phú về kinh nghiệm trừ rắn cắn
được giữ gìn với khá nhiều bài thuốc khác nhau.
Người dân vùng Định Quán trị rắn cắn bằng cây chó đẻ răng cưa. Bài
thuốc này ở Long Khánh thì dùng cây sắn dây, cỏ môi, tỏi, gừng, cỏ mực (lấy nước
uống, bẻ đắp). Lương y Lê Đức Khánh làm thuốc gia truyền trên 8 đời từ miền Bắc
di cư vào hiện sống tại phường Tân Biên - Biên Hòa nổi tiếng với bài thuốc chữa rắn

31.2 Page 302

▲back to top


cắn. Ông cho biết đây cũng là bài thuốc học từ kinh nghiệm dân gian. Theo đó, việc
sơ cứu bệnh nhân bị rắn cắn chỉ dùng đọt đu đủ nhai, nuốt nước lấy bã đắp, sau đó
dùng thêm bài thuốc hồng hoàng, bạch chỉ, hà thủ ô, xuyên sơn giáp, hương phụ,
cam thảo, ngũ linh chi (mỗi thứ một đồng, sắc uống). Ngoài ra có nơi còn sử dụng
cây cỏ gà, cỏ gừng để chữa. Và trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, kinh nghiệm
chữa rắn cắn trong dân gian cũng được áp dụng khá phong phú. Cán bộ, bộ đội và
nhân dân truyền cho nhau những bài thuốc ấy và mang trong mình những viên thuốc
chế biến từ "công thức dân gian" để phòng bệnh.
Và ngay trong điều kiện y học tiến bộ và mạng lưới y tế được xây dựng
hoàn chỉnh ngày nay, người dân Đồng Nai vẫn còn lưu giữ những kinh nghiệm dân
gian ấy, bởi phần lớn những kinh nghiệm ấy gắn liền với sinh hoạt, sản xuất (đặc
biệt là trong sơ cấp cứu).
Ví dụ như ở Long Thành, một số gia đình hiện còn lưu giữ bài thuốc trừ chí
rất đơn giản. Ở vùng sông nước Nhơn Trạch hiện có nhiều bài thuốc chữa bò cạp
chích, ong đốt, cá sông chém, sao ngứa. Các bài thuốc dân gian chữa trị té tức, té
cây chết giấc, bị đánh vỡ máu, bị mề đay, hoặc tai nạn lao động như đạp đinh, phỏng
lửa, phỏng nước sôi, gãy xương, trặc xương, bong gân; hoặc các triệu chứng trong
sinh hoạt hằng ngày như mắc xương, nấc cục, nghẹn tức, trúng thực, cảm cúm,
nhức đầu, chảy máu cam; hoặc các bệnh thông thường như lang ben, mụn cóc, nốt
ruồi, hôi nách, kinh phong, yết hầu... đều còn lưu giữ ở nhiều nơi. Làng Bến Gỗ (xã
An Hòa - huyện Long Thành còn lưu giữ những bài thuốc dân gian (được viết thành
văn bản truyền qua nhiều đời trong một số gia đình) như thuốc chữa ghẻ (ghẻ ngứa,
ghẻ phồng, ghẻ hòm), chữa di tinh, mộng tinh và cả bệnh liệt âm, chữa ho (ho gà, ho
gió, ho cảm, ho xuất huyết, ho đàm kéo, ho lam đởm, ho suyễn, ho sản hậu), thổ
huyết, đau bụng, kiết (kiết hà, kiết nhựt, kiết ỉa máu, kiết không đàm, không máu),
bệnh trĩ, đái tháo đường... Người dân Tân Triều (Vĩnh Cửu) có kinh nghiệm chữa
đau răng, đau nướu, sưng lợi bằng thanh phàn, phèn chua, lá ngải và da trăn, bệnh
đau dạ dày bằng quế nhân, cam thảo, nang mực đốt, muối ăn để lâu năm, chữa mẩn
ngứa bằng cây huyết dụ. Người dân Long Khánh xưa trị sốt rét bằng thảo quả,
thường sơn, hạt cau già, dây cóc, thần thông.
Thực tế chiến đấu chống ngoại xâm khắc nghiệt cũng giúp cho người
dân Đồng Nai tìm ra nhiều kinh nghiệm quý trong phòng chữa bệnh. Những phương
pháp này xuất phát từ kinh nghiệm lâu đời và được sáng tạo trong điều kiện mới. Bài
thuốc bó xương gãy (165[4]) trong thời chống Mỹ ở miền Đông sử dụng lá trung
quân, găng tu hú, nghệ trắng... tán bột ngâm rượu hoặc sử dụng trứng kiến vàng,
nghệ, xuyên điền thất, lá ngũ trảo, lá móng - tán nhuyễn, đắp vết thương, chỗ gãy,
chống di lệch xương bằng nẹp tre. Ông Huỳnh Minh Cường, một cán bộ về hưu ở
(165[4]) Do lương y Lê Minh cung cấp

31.3 Page 303

▲back to top


Bình Sơn kể rằng, vào những năm chiến tranh chống Mỹ quá ác liệt, do thiếu thốn
nên cán bộ chiến sĩ đã phải liều dùng phổi mối (phần bên trong tổ mối) để sắc uống
chống sốt rét. Ý tưởng này xuất phát từ bài thuốc ngã nước trong dân gian và cũng
do phổi mối có vị đắng như ký ninh. Một số nơi khác dùng dây thần thông chữa sốt
rét (theo kinh nghiệm dân gian, dây thần thông giã cho dập thêm ít phèn chua làm
nước tắm chống ghẻ) do dây thần thông cũng có vị rất đắng. Thế nhưng, các giải
pháp tình thế này đã thành công và sau đó một thời gian được nhân rộng.
I.1.6. Tính cht nhân bn:
Những bài thuốc và kinh nghiệm dân gian trong phòng chữa bệnh hiện
còn ở Đồng Nai có một tỷ lệ khá cao là những bài thuốc dành cho đối tượng là phụ
nữ và trẻ em. Có thể tìm thấy khá nhiều bài thuốc và kinh nghiệm chữa trị kinh
nguyệt không đều, băng huyết, có thai đau bụng, động thai, đau dạ con, ho sản hậu,
có thai đau lưng nhức mỏi, sản hậu, thiếu sữa, huyết trắng (bạch huyết, bạc huyết),
vấn đề dưỡng thai, điều kinh... Số lượng các bài thuốc dành cho trẻ em, đặc biệt là
trẻ em sơ sinh có đến hàng trăm, phổ biến là các bệnh chứng như ban bạch, ban đỏ,
đẹn, đái dầm, trúng gió, bỏ bú, tưa lưỡi, sài lở, khóc đêm, thúi tai, ọc sữa, nổi sẩy,
cam tích...
Người dân các vùng đất hạ lưu sông Đồng Nai (Vĩnh Cửu, Long Thành,
Nhơn Trạch) có kinh nghiệm sử dụng cây cau để chữa ban trẻ em: chặt lấy lưỡi mèo
(buồng cau non khi có hình dáng như lưỡi), giã nhỏ, vắt nước, pha chút muối cho trẻ
uống. Một bài thuốc chữa ban bạch trẻ em khác sử dụng hạt khổ qua giã nát hạt hòa
1 chén sữa mẹ, 1 chén nước lã, lọc lấy nước cho uống một nửa, còn một nửa lấy
bông hay vải mỏng nhúng vào đắp từ ngực trở lên một lát, sau phải gỡ ra cho hở hơi.
Bài thuốc dân gian ở Nhơn Trạch, Long Thành chữa cam tích trẻ em (166[5])
gồm sử quân tử, linh tiên, cam thảo tán nhuyễn, trộn tròng trắng hột gà đem chưng.
Cũng bài thuốc này, kinh nghiệm dân gian vùng Tân Phú hơi khác: bột gạo nếp, đùi
cóc, cam thảo làm thành bánh cho trẻ ăn.
Bài thuốc dân gian trị rong kinh ở vùng Vĩnh Cửu gồm: hoa hòe, trắc
bá diệp, bồ hoàng, kinh giới, gừng tươi sao đen, sắc uống.
Số lượng những bài thuốc dành cho phụ nữ có thai và trẻ em khá nhiều xuất
phát từ thực tế: đây là đối tượng lớn của phòng và trị bệnh, đồng thời, cũng phản ảnh
tính chất nhân bản của người Đồng Nai trong quá trình phát triển xã hội.
I.1.7. Tkinh nghim đến khoa hc:
(166[5]) Do ông Huỳnh Minh Cường (xã Bình Sơn - Long Thành) sưu tầm

31.4 Page 304

▲back to top


Nhiều bài thuốc dân gian hiện nay chưa đủ cơ sở khoa học để chứng
minh, so sánh tác dụng, song trong thực tế, nó đã giúp cho việc sơ cứu kịp thời và
giúp cho người dân tự chăm sóc sức khỏe. Đây cũng là vấn đề đang đặt ra cho các
cơ quan chuyên môn: cần nhanh chóng khảo sát, thống kê, nghiên cứu để tránh sự
mai một.
Nhiều kinh nghiệm dân gian ngày nay đang chờ sự lý giải đầy đủ về mặt
khoa học. Chẳng hạn bài thuốc chữa mắc xương ở vùng Long Thành: dùng 1 ly
nước, giữ bí mật không cho người mắc xương biết, cạo móng tay lấy bột, trộn vào
ly nước. Đọc to "Nam mô" và yêu cầu người bệnh hớp một hớp nước. Sau một lúc
sẽ hết mắc xương. Hoặc các hình thức cắt lể ví dụ như bài cắt lể chữa đau bụng bão
của ông Huỳnh Minh Cường ở Bình Sơn - Long Thành. Theo ông Cường thì vấn đề
là phải xác định đau bụng bão khác với đau ruột thừa, viêm ruột... và việc cắt lể cần
tránh nhiễm trùng, cắt 4 vị trí: khu vực xương sống ứng với rốn, khu vực gần 2 trái
thận, đốt xương cùng... Vùng Tân Phú - Đồng Nai có bài chữa đau bụng thổ tả: cục
gạch lâu năm (cạo sạch đất bên ngoài) 250g, bạch phàn 120g (nửa chín khô, nửa để
nguyên sống), tán mịn, rây kỹ, trộn đều, viên thành viên như hạt tiêu sọ. Ở vùng
Long Thành có bài thuốc trị thận bằng cây chuối sứ (chuối hột) rất lạ: chặt ngang ở
cổ chân cây chuối, khoét một lỗ giữa cây, bỏ đường phèn vào, sau 24 giờ múc nước
đó uống hết. Tiếp tục chặt cây và làm lại như trên, uống nhiều lần.
Nhiều bài thuốc dân gian được chép lại trong các tư liệu gia đình ở
Đồng Nai cho thấy có thể chữa được bệnh tê bại, bán thân bất toại, đau lưng, phong
lâm sưng, kinh phong giật tay chân. Hoặc có những chứng bệnh Tây y chữa trị rất
khó khăn nhưng kinh nghiệm dân gian rất đơn giản như việc dùng lá cây bạch chỉ,
rửa sạch, đâm nhuyễn chữa mạch lươn, hoặc trị bướu cổ... hoặc chữa xơ gan cổ
trướng bằng cá trê nướng nhựa xương rồng, chữa kinh phong bằng cách nuốt
sống trùn hổ đất...
Không phải tất cả các bài thuốc dân gian đều hiệu quả trong phòng chữa
bệnh. Bởi thực tế, những kinh nghiệm này được phổ biến bằng truyền miệng qua
nhiều đời và được ứng dụng "linh động". Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng có
khá nhiều lương y, bác sĩ ở Đồng Nai đã sử dụng kinh nghiệm dân gian để tìm ra bài
thuốc cho riêng mình rất thành công.
1.8. Trong dòng chy dân gian:
Phong trào khám chữa bệnh từ thiện bằng thuốc Nam những năm sau
ngày thống nhất đất nước đã giúp cho nhiều thanh niên có dịp tiếp cận, hiểu biết
nhiều hơn với cây con thuốc và vị thuốc dân gian. Nhiều ngôi chùa hằng năm được
nhân dân đóng góp tự nguyện hàng ngàn tấn thuốc Nam. Trong số những người đi
tìm dược liệu ấy, có rất nhiều thanh niên nông thôn. Các em nhỏ ở nông thôn còn
thường được người già nhờ đi kiếm cây thuốc, và sau nhiều chuyến đi ấy, nhiều em

31.5 Page 305

▲back to top


có thể phân biệt được một số cây thuốc chữa các bệnh thông thường: cảm cúm, nhức
đầu, cầm máu, trị vết rắn cắn.
Các cụ già chơi kiểng, tạo vườn vẫn chú ý đến giá trị dược liệu của các
cây và kể cho con cháu hiểu. Bằng kinh nghiệm đi làm đồng, làm rẫy, đi săn ngày
xưa vốn tự biết dùng cây cỏ để sơ cứu vết thương, nhiều bậc cha mẹ hôm nay đã chỉ
lại cho con cháu những bài thuốc dân gian quý.
Phong trào trồng cây gây rừng và trồng cây thuốc gia đình cũng đã góp
phần lớn trong việc bảo tồn những kinh nghiệm dân gian về phòng và trị bệnh. Tuy
nhiên, hiện nay do nhiều nguyên nhân, Tây y vẫn được cộng đồng chuộng hơn mặc
dù y học dân tộc vẫn được đề cao trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt
khác, việc phá rừng đã gây nên tình trạng kiệt quệ về thảm thực vật, làm mất đi nhiều
nguồn dược liệu quý. Tình trạng săn bắt thú rừng làm tuyệt chủng nhiều loài động
vật làm thuốc và những quy định khắt khe về nuôi động vật hoang dã đã không cho
phép bà con giữ được nhiều con thuốc quý trong gia đình.
Nhiều kinh nghiệm dân gian quý cũng đang có nguy cơ mai một. Do
đặc trưng của một vùng đất hình thành và phát triển mạnh trên 300 năm trở lại đây
và do được giao lưu từ nhiều nguồn dân cư (dân bản địa, người Việt từ miền Bắc,
miền Trung, người Hoa, người Chăm, người Khơ me... ), kinh nghiệm dân gian về
phòng chữa bệnh ở Đồng Nai rất phong phú và cần được các nhà chuyên môn nghiên
cứu để phát huy những giá trị khoa học và văn hóa của nó.
I.2. Y hc ctruyn:
I.2.1. Quá trình hình thành:
Sự hình thành và phát triển của nền y học cổ truyền ở Đồng Nai gắn
liền với quá trình phát triển chung. Song song với những kinh nghiệm dân gian và
kinh nghiệm thực tiễn có được qua cuộc sống mới, việc chăm sóc sức khỏe cộng
đồng còn có vai trò của những thầy thuốc Đông y. Đó là những người hiểu biết chút
ít y thuật trở thành thầy thuốc. Đó là các sư sãi từ miền ngoài vào truyền đạo coi y
học như một phương tiện cứu người để xây đạo. Nhiều ngôi chùa không chỉ có ý
nghĩa như những cơ sở tôn giáo mà còn là những cơ sở y tế lúc bấy giờ.
Mặt khác, do trình độ dân trí chung còn thấp nên các tập tục mê tín vẫn tồn
tại rất mạnh. Hệ thống các thầy pháp chữa bệnh nơi nào cũng có, lối chữa bệnh sử
dụng âm binh và âm tướng để xua đuổi tà ma cũng đóng vai trò quan trọng không
kém. Tuy nhiên, một số lớn những thầy pháp này cũng đồng thời là những thầy thuốc
Nam, biết chút ít y thuật, dùng pháp thuật như là hình thức đánh mạnh vào niềm tin
người bệnh. Khi Trần Thượng Xuyên cùng những binh lính và thân quyến của họ
được phép chúa Nguyễn vào Biên Hòa khai phá, chắc chắn trong số họ có nhiều

31.6 Page 306

▲back to top


người là thầy thuốc, tất nhiên là thuốc Bắc và những kinh nghiệm chữa bệnh dân
gian của người Trung Quốc. Cùng với sự xuất hiện của người Hoa, thuốc Bắc đã có
mặt trên vùng đất Đồng Nai khá sớm. Quân đội Trần Thượng Xuyên trong những
ngày đầu lập ấp, đã xây dựng chùa Ông vừa để thờ cúng vừa để bốc thuốc cho mọi
đối tượng (theo toa hoặc khám và điều trị). Thuốc sử dụng chủ yếu theo dược tính
kinh điển của Trung y, được chuyên chở từ vùng Chợ Lớn lên để bán, đa phần là
thuốc phiến và một số ít là cao đơn hoàn tán. Sau đó, các tiệm thuốc Bắc đều tập
trung về chợ Biên Hòa. Rồi các thầy thuốc Đông y chính thống xuất hiện ngày càng
nhiều hơn: Họ là những người giỏi về chữ Hán, được học một cách bài bản về Đông
y trong một thời gian dài, thường là cha truyền con nối, hiểu rõ Nội, Nan, Thương,
Kim (167[6]), ngoài ra còn nghiên cứu thêm Kinh Dịch (168[7]) để có khả năng biện
luận về y lý, tự lập phương điều trị... Phần lớn những thầy thuốc đều có khả năng
chữa trị đa khoa nhưng họ có một chuyên khoa riêng biệt, có sở trường điều trị một
loại bệnh chứng nào đó như nội khoa hoặc giả phụ nhi.
Thầy thuốc xưa kia ở Biên Hòa - Đồng Nai còn là thầy đồ, vừa dạy học
vừa bốc thuốc như trường hợp thầy đồ Hoành, thầy thuốc Gió. Thầy thuốc bấy giờ
còn có những nho sĩ yêu nước coi việc chữa bệnh cho người nghèo là phương pháp
chiêu binh như trường hợp Đoàn Văn Cự.
Các thầy thuốc Nam ban đầu được hiểu như những người học nghề Đông y
không chính thống. Có nghĩa là thời gian học không nhiều, không có khả năng đọc
được sách y lý, không lập được phương điều trị, không có khả năng phối ngẫu bài
thuốc, sử dụng các toa sẵn có, kinh nghiệm là phương pháp điều trị chủ yếu. Các
thầy pháp cũng sử dụng thuốc Nam trong điều trị, phù phép chỉ là hình thức. Rồi về
sau cùng với những thầy thuốc Bắc, những thầy thuốc Nam này đã Việt Nam hóa
các bài thuốc Bắc theo dược điển Trung Quốc để phù hợp với điều kiện khí hậu, đặc
trưng chữa bệnh và khả năng đáp ứng nguồn dược liệu ở Đồng Nai.
Khi y học hiện đại chưa đáp ứng đủ về nhu cầu chăm sức khỏe cho bà mẹ và
trẻ em, hệ thống những bà mụ vườn ở các thôn làng cũng đã góp phần lớn trong việc
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đây là những người học nghề từ thực tiễn và kinh
nghiệm của người thầy đã dạy cho họ. Kinh nghiệm càng nhiều thì càng mát tay, từ
chỉnh thế ngôi thai đến đỡ đẻ và cắt rốn... Họ có thể làm thành thạo nhưng không
tránh được tai biến vì điều kiện vô trùng không bảo đảm. Ngày nay, vai trò của
những mụ vườn hầu như không còn tồn tại khi mà hệ thống trạm y tế hộ sinh cơ sở
phát triển, ý thức người dân được nâng cao về vấn đề bảo vệ sức khỏe và an toàn
cho bà mẹ và trẻ em.
(167[6]) Bn pho sách ln của Đông y bao gồm: Ni kinh tvn (), Nan kinh (), Thương Hàn
Lun ( ) và Kim quyếu lược ().
(168[7]) Kinh Dch ()

31.7 Page 307

▲back to top


Sau khi Nguyễn Hữu Cảnh cắt đặt nền hành chính tại xứ Biên Hòa -
Đồng Nai, rồi đến giai đoạn triều Nguyễn, tại các địa phương dần dần về sau đều có
các quan kiêm nhiệm hoặc trực tiếp trông coi việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Họ có trách nhiệm làm y tế dự phòng, giúp dân ngăn cản, hạn chế ảnh hưởng các
nạn dịch sau lũ lụt. Nhưng hệ thống các thầy thuốc của triều đình rất mỏng và chủ
yếu phục vụ cho quân đội cùng các quan lại. Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
vẫn phải dựa vào các thầy thuốc gia truyền (thầy thuốc Bắc), các nho sĩ, các thầy
chùa, các thầy đồ, thầy pháp...
Đến năm 1945, ở Biên Hòa vẫn còn rất nhiều tiệm thuốc Bắc như Nhân
Hòa đường của lương y Tiêu Viên, Vạn An đường của lương y Chung Ngũ Chi, Lợi
Hòa đường của lương y Vũ Sĩ Ngôi, Hạnh Lâm đường của lương y Lại Ngọc Linh,
Vĩnh An đường, Thái An đường... hoặc các cơ sở Đông y lâu đời như cơ sở thầy Bảy
Cây Lơn (lương y Phạm Văn Đựng - Bửu Hòa - chuyên ban đẹn trẻ em), cơ sở Viện
Phước của lương y Trần Văn Viện (Tân Mai) chữa bó gãy xương, cơ sở của lương
y Nguyễn Văn Thuyết, lương y Huỳnh Văn Chắc, cơ sở Sơn Minh với bài thuốc thấp
thủy tiên. Ở Vĩnh Cửu có lương y Lâm Văn Bảng chuyên trị trái trời (đậu mùa) sau
ông bị giặc Pháp bắn chết. Ở vùng Long Khánh - Xuân Lộc có vài tiệm thuốc Bắc
của người Hoa và một vài người Việt. Ở khu vực Long Thành - Nhơn Trạch cũng
có khá nhiều nhà thuốc và thầy thuốc tên tuổi như nhà thuốc Lão Cần Tế thành lập
đầu thế kỷ 20 (hiện do lão lương y Châu Sanh Hớn phụ trách - ông hành nghề từ
năm 1958 tới nay nối nghiệp ông nội và cha, đây là nơi nổi tiếng về trị bán thân bất
toại thần kinh tọa ở khu vực Long Thành - Nhơn Trạch), các thầy Bảy Đền, Sáu
Thế, Hai Phủ, các lương y Huỳnh Cẩn, Huỳnh Thoại Tài hành nghề cũng từ đầu thế
kỷ, riêng nhà thuốc Nhơn Đức Tế do lương y Lý Quý thành lập 1940 ở ấp Chợ xã
Phước Thiền (hiện nay, con là lương y Lý Thị Liêm tiếp tục hành nghề)... Ở làng
Bến Cá (Tân Triều - Vĩnh Cửu) có hiệu thuốc Đức Sanh do ông nội của lương y Tạ
Thành Phát thành lập từ cuối thế kỷ XIX.
Từ sau 1954, cùng với đợt chuyển cư của những người từ miền Bắc
vào, khu vực Hố Nai có thêm 6 hiệu thuốc Bắc gia truyền do dân di cư thành lập. Từ
sau 1975, ở Xuân Lộc có thêm nhiều cơ sở Đông y do các lương y xuất thân từ Trung
Quốc như ông Chống Quyền, ông Hỷ A Sáng (xã Bảo Bình), ông Lý Thiệp Mộc
(Xuân Hiệp), hoặc từ các tỉnh miền Trung (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên) như bà Nguyễn Thị Phụng, ông Vũ Xuân Tân, ông Nguyễn Quang Bảy,
ông Võ Thanh Hòa, ông Dương Thuận Quảng...
I.2.2. Nam dược trNam nhân:
Xuất phát từ quan điểm "Nam dược trị Nam nhân", quan niệm "Bắc
phương phong cao thổ tháo đa bệnh, Nam phương địa ti thủy thấp đa hàn” và xuất
phát từ tinh thần giao lưu, đùm bọc nhau, các thầy thuốc Đông y ở Đồng Nai đã nỗ

31.8 Page 308

▲back to top


lực xây dựng những bài thuốc phù hợp với điều kiện dược liệu và yêu cầu chữa trị ở
Đồng Nai với hình thức làm từ thiện và nghiên cứu. Rồi căn cứ vào kinh nghiệm sử
dụng, từ đời này sang đời khác, họ đã chọn lọc từ những cây cỏ, những con vật xung
quanh thành dược liệu trên cơ sở khí vị và quy kinh. Những cây thuốc có vị chua
vào kinh can như giấm, rau sam... Những cây thuốc có vị đắng vào kinh tâm trị hỏa
chứng (sốt cao) như hoàng liên, hoàng đằng... Những cây thuốc có vị ngọt vào kinh
tì, có tác dụng điều bổ, làm tăng hấp thụ ruột, dạ dày như cam thảo, cải ngọt... Những
cây thuốc có vị cay ấm như bạc hà, tía tô, quế, gừng có tác dụng làm ra mồ hôi, hạ
nhiệt, do đó trị được các chứng viêm nhiễm, làm thông phế khí, chống đầy hơi, lên
men như sả, riềng, mộc hương, đậu khấu, cỏ cú... Những cây thuốc có tác dụng lợi
tiểu như mã đề, dừa nước, ý dĩ, râu bắp, hoạt thạch... Những vị thuốc làm mềm các
chất ứ đọng trong ruột (phân bị táo) như mang tiêu, muối làm tẩy xổ...
Khảo sát tại làng Bến Gỗ (xã An Hòa - huyện Long Thành), tác giả
Diệp Đình Hoa thống kê được 1700 loài thực vật và trong số này có 300 cây là cây
thuốc. Có những cây thuốc ở Đồng Nai hiện nay được đưa về từ miền Bắc, miền
Trung, Cao nguyên, cũng có những cây thuốc được di thực từ nước ngoài. Ví dụ:
cây lô hội ở vùng Vĩnh Cửu (nhân dân thích ăn sống, nấu chè ăn giải nhiệt) tên dân
gian là cây lưỡi hổ được mang về từ châu Âu, hoặc tại Long Khánh, lương y Nguyễn
Tăng Công đã trồng được những cây trường sinh (gốc Nhật Bản).
Việc xây dựng một hệ thống cây thuốc, con thuốc, dược liệu của địa phương
xuất phát từ ý thức của cộng đồng qua những kinh nghiệm dân gian cùng với tinh
thần tự chủ, sáng tạo của các thầy thuốc Đồng Nai. Trong hàng ngàn nguồn dược
liệu hiện có trong tỉnh, có nhiều loại cây thuốc chỉ có ở phía Nam, hoặc phổ biến ở
Đông Nam bộ, hoặc có tác dụng dược tính cao khi được trồng trên đất Đồng Nai.
Những cây thuốc Nam ấy lần lượt được kết hợp với dòng thuốc Bắc tạo nên sự đa
dạng của Đông y Đồng Nai - đặc biệt là từ sau 1975 đến nay.
Cây dừa nước (có rất nhiều ở vùng ven hạ lưu sông Đồng Nai), lá lợp
nhà, hoa non được nhân dân khai thác làm sinh tố. Nhưng lá dừa cũng được dân gian
dùng trị đẹn voi, đẹn dùng. Cây thốt nốt có nhựa hoa non cho nhiều đường dùng làm
rượu, vitamin B12, quả bì cho bột ngon, được dùng làm dược liệu trị đẹn. Trái mãng
cầu xiêm dùng làm thuốc trị đờm. Hoặc có thể kể đến cây sầu riêng chữa vàng da
(trái ăn ngon, bồi bổ sức khỏe), cây bồ đề chữa nấm mốc... Tương tự như thế là cây
nhàu, so đũa, vú sữa.
Sự kết hợp hai dòng thuốc Nam - Bắc thể hiện rõ nét từ sự thay đổi
dược liệu trong các công thức kinh điển. Ví dụ bài thuốc sốt rét của lương y Lê Minh
dựa theo bài "tiểu sài hồ" của dược điển Trung Quốc nhưng sử dụng các loại cây
thuốc sẵn có trong rừng Đồng Nai: Rễ cây lức 20g, đinh lăng 12g, ké hoa đào 16g,
cam thảo đất 12g, cỏ hôi 8g, cây chó đẻ 8g, củ có gấu 8g, hột cau 6g, gừng sống 8g.

31.9 Page 309

▲back to top


Trong lập phương điều trị, nhiều lương y ở Đồng Nai tính đến khí hậu và thể chất
con người ở đất Đồng Nai và dựa vào hai nguyên tắc cơ bản: điều hòa cơ thể, giải
quyết gốc bệnh và chứng. Lương y Vũ Sĩ Ngôi có nhiều bài thuốc tiêu biểu dựa trên
việc kết hợp thuốc Bắc và thuốc Nam như: Viêm mũi dị ứng dùng bạc hà, ké đầu
ngựa, bạch chỉ nam, chanh; Cảm mạo dùng tía tô, kinh giới, bạch chỉ, bạc hà; Điều
kinh dùng hương phụ, ích mẫu, thuốc cứu; Phá khí hành huyết dùng tam lăng, nga
truật, cù đèn; An thần dùng lạc tiên, lá vông, lá sen, táo nhãn; Phổi dùng mạch môn,
thiên môn, kết cánh, thuốc dòi, bách bộ; Tỳ vị dùng sa nhân, hoắc hương, mộc
hương, vỏ quýt, thương truật. Lương y Đỗ Văn Vực (ở Tân Hòa - Biên Hòa, từng
công tác ở Bệnh viện đa khoa khu vực Thống Nhất, gia đình 5 đời làm nghề thuốc
chuyên trị phụ khoa), đã xây dựng nhiều bài thuốc chữa phụ khoa kết hợp thuốc Nam
- Bắc như băng huyết dùng trắc bách diệp, huyết trắng, bấn tráng, hoa đậu ván
trắng; động an thai dùng sâm bố chính, sâm cau (khai thác ở Phú Túc).
Nguyên tắc chẩn bệnh của y học cổ truyền là nhờ tứ chẩn bát pháp
biện luận. Tứ chẩn gồm vọng, văn, vấn, thiết nhằm thu thập những dữ kiện về người
bệnh để thông qua bát pháp (âm - dương, hàn - nhiệt, biểu - lý, hư - thực) nhằm biện
luận tìm ra phép chữa bệnh. Y đức của người thầy thuốc yêu cầu lương y không xem
nhẹ khâu nào trong 4 phép của tứ chẩn. Nhưng ngày nay, với sự trợ giúp của y học
hiện đại, các lương y Đồng Nai đã có thể xây dựng những bệnh án từ các kết quả
cận lâm sàng của Tây y như nội soi, siêu âm, chụp X - quang, chụp cắt lát... Những
năm sau ngày thống nhất đất nước, các thành quả của y học cổ truyền đã được phát
triển mạnh hơn và sự kết hợp từ kinh nghiệm dân gian đến dòng thuốc Bắc, thuốc
Nam và Tây y hiệu quả hơn đã góp phần tạo nên diện mạo của nền y học cổ truyền
Việt Nam nói chung và nền y học cổ truyền Đồng Nai nói riêng. Theo lương y Lê
Minh, Chủ tịch Hội y học cổ truyền Đồng Nai, hiện nay trong một số lĩnh vực như
môn dưỡng sinh, châm cứu, châm tê, chữa bỏng bằng dầu mù u, chữa trĩ và thuốc
dân tộc... y học cổ truyền ở Đồng Nai có thể “đối thoại bình đẳng” với y học hiện
đại. Nhiều bài thuốc của các lương y ở Đồng Nai đã được nhân dân trong khu vực
tín nhiệm. Điều đặc biệt là hầu hết các lương y ở Đồng Nai đã khai thác có hiệu quả
các cây thuốc, con thuốc từ Đồng Nai.
Lương y Trần Văn Sơn ở Phú Cường có bài thuốc "Viêm gan thể vàng
da” gồm 20 vị, trong đó có 8 vị từ cây thuốc dân gian. Ông có bí quyết chiết dược
tính từ cây thuốc Nam nhưng không cung cấp. Ngoài ra ông có bài thuốc chữa sỏi
thận, sỏi mật, sinh lý, phong thấp bằng các cây thuốc khai thác từ Tân Phú, Vĩnh
Cửu như hoàng đằng, cỏ xước, ngưu tất nam, trinh nữ, ké đầu ngựa, nhàu, bướm
bạc, ô rô tía. Lương y Dương Văn Dân cũng có bài "xơ gan cổ chướng", bài "trị
suyễn" "hoàng đản" (gan, da vàng, mắt vàng), bài trị "ngã nước" bằng trùn phong
cổ, bài trị phong thấp dựa trên kinh nghiệm dân gian. Lương y Lê Đức Khánh chuyên
trị về tiết niệu, sạn thận hen suyễn, viêm xoang, thần kinh tọa kết hợp châm cứu.

31.10 Page 310

▲back to top


Dược liệu thường dùng của ông là trái dứa dại (giã bạch nhãn) và trái nhàu ở sông
Đồng Nai, diếp dại (bồ công anh nam), con sao biển (chữa ho, đau cột sống), rắn,
rùa, hươu... Lương y Đinh Xuân Cảo (Thống Nhất) thiên về các bệnh phụ khoa, xơ
gan cổ chướng, lao. Đông y sĩ Huỳnh Kiều (cơ sở Bình An đường, xã Phước Thiền,
huyện Nhơn Trạch) có bài thuốc chữa phong thấp, tê bại, đau cột sống (dựa theo
dược điển Trung Quốc các bài “Độc hoạt ký sinh thang”, “Lục vị”, “Bổ trung ích
khí thang”). Lương y Lê Thị Thu Cúc có phương pháp chữa bệnh bằng tác động
tổng hợp, lương y Nguyễn Oắng có phương pháp cắt lể hiệu quả. Lương y Lưu Văn
Đức (thầy Minh Thông) (làm thuốc từ thiện từ năm 1966, trụ trì ngôi chùa Thiên
Hòa ở ấp Thọ Chánh, xã Xuân Thọ, Xuân Lộc) có bài thuốc trị sốt rét bằng é tía,
giúp sanh đẻ bằng khổ qua, thuốc cứu, ích mẫu, trị rắn bằng sâm hành. Lương y
Nguyễn Trí Tài (Thích Thiện Thắng) làm thuốc gia truyền và chữa bệnh từ thiện ở
xã An Phước - Long Thành thiên về trị phong thấp khớp, rất chú trọng dùng cây
thuốc Nam như cây nhàu, chùm gởi, cây dâu, lá lốp, ké hoa đào, ngũ trảo, thần
thông, hà thủ ô, chùm bao, cối xay, cỏ xước, cức lợn, chó đẻ, ô rô, đinh lăng, vông
nem, rau má, khổ qua, ngãi cứu, đậu săn, óc chó, cổ rùa, cam thảo, chùm rụm, râu
mèo... Lương y Mai Thúc Tứ (Phước Thái - Long Thành) chuyên châm cứu và chỉ
sử dụng thuốc Nam, đặc biệt có bài thuốc sở trường chữa dây chằng của phụ nữ.
Lương y Vương Văn Hải ở Long Thành sử dụng cây tướng quân, cây ngũ trảo, hoa
hoè để chữa ban đẹn trẻ em. Lão lương y Võ Đình Hành ở Long Thành chuyên khoa
dạ dày sử dụng thuốc Nam (ngãi cứu, bồ công anh, khổ sâm...). Lương y Đào Văn
Hân, Lương y Lê Văn Ngôn (Long Thành) cũng có những bài thuốc chữa bong gân,
trật khớp, xơ gan cổ trướng bằng cây thuốc Nam.
I.2.3. Hi y hc ctruyền Đồng Nai:
Vào năm 1970, có 2 nơi có tổ chức hành nghề tập thể tự phát của các
lương y là xã Xuân Bình (huyện Long Khánh) và ấp Núi Đất (thị xã Biên Hòa).
Tháng 7 năm 1977, tại huyện Long Thành là "Phòng thuốc Đông y nhân dân" do
lương y Phạm Văn Dùng, lương y Châu Sanh Hớn, lương y Nguyễn Văn Mít sáng
lập (169[8]). Cũng trong thời gian này, UBND tỉnh Đồng Nai đã yêu cầu ngành y tế
tổ chức quản lý về y học cổ truyền, thực hiện việc cải tạo và xây dựng mạng lưới,
tập hợp các lương y và các tổ chẩn trị, đưa một số lương y vào phục vụ ở các trạm
xá, bệnh viện. Và sau đó, vào năm 1982, Hội y học cổ truyền tỉnh Đồng Nai ra đời
(170[9]).
Tính đến cuối năm 1997, Hội Y học cổ truyền tỉnh Đồng Nai có 83 chi hội,
34 tổ hội. Mạng lưới hành nghề y học cổ truyền có 16 phòng chẩn trị, 158 tổ chẩn
(169[8]) Năm 1980, Hội y hc ctruyn huyện Long Thành ra đời. Năm 1981 "Phòng thuốc đông y nhân dân"
chuyn thành "Phòng chn try hc dân tc" thuc biên chế nhà nước (Trung tâm y tế huyn).
(170[9]) Theo Quyết định s630/UBT ngày 20 - 4 - 1982 ca UBND tỉnh Đồng Nai

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


trị (hữu phí và miễn phí). Từ năm 1977 đến 1997, số lượng bệnh nhân được điều trị
trên 18 triệu lượt người, trong đó có trên 4 triệu lượt người được chữa trị miễn phí.
Toàn tỉnh hiện có 31 cơ sở khám chữa bệnh miễn phí rải đều hết các huyện và Biên
Hòa, đông nhất là Long Thành, Nhơn Trạch (như chùa Phước Hưng, chùa Bà Bảy,
chùa Pháp Hoa). Bình quân hàng năm tỉ lệ chữa trị miễn phí chiếm 31% so với tổng
số điều trị y học cổ truyền trên toàn tỉnh. Điều đáng nói là số bệnh nhân được chữa
trị (hữu phí và miễn phí) không chỉ ở tại khu vực miền Đông, Thành phố Hồ Chí
Minh mà còn có cả bệnh nhân từ miền Bắc, miền Trung và từ nước ngoài về Việt
Nam.
Nếu sự thành công trong việc xây dựng mạng lưới xuất phát từ nỗ lực
của bản thân Hội y học cổ truyền Đồng Nai thì thành tích khám chữa bệnh từ thiện
có phần đóng góp không nhỏ của Hội chữ thập đỏ tỉnh Đồng Nai (thành lập 22 - 4 -
1976), đặc biệt là trong phong trào sưu tầm và nuôi trồng dược liệu từ Đồng Nai.
Bằng sự tập hợp chất xám, vật chất trong hội viên, Hội y học cổ truyền
Đồng Nai đã tổ chức dịch 42 đầu sách quý từ các sách kinh điển như Tố vấn, Linh
khu, Nan kinh, Y lý, Dịch lý...đến các sách chuyên khoa phục vụ cho công tác bồi
dưỡng, đào tạo lực lượng kế thừa. Nhiều lương y đã chia sẻ những nghiên cứu chuyên
sâu, kinh nghiệm của riêng mình qua các diễn đàn của Hội (171[10]). Hội Y học cổ
truyền Đồng Nai cũng tổ chức biên soạn và xuất bản các tập sách như: Tuyển tập
nghiệm phương (tổng hợp các bài thuốc hay của các lương y ở Đồng Nai), Bịnh học
thực hành về mắt, Bịnh học thực hành về tai mũi họng, Cẩm nang mạch học, Cẩm
nang từ vựng châm cứu, Dịch lý và y lý, Y lý y học cổ truyền, Thể dục y khoa dưỡng
sinh, Châm cứu kinh huyệt đồ, Mạch lý phương dược Đông y, Thần phương (quyển
1 và 2), Thần phương diệu dược, Y đạo dưỡng sinh, Sống khỏe - sống lâu - sống có
ích, Thuốc thiết yếu, Phụ khoa y học cổ truyền, Dược học y học cổ truyền, Day ấn
bấm huyệt chữa bệnh thông thường, Cắt lể, Châm cứu ngũ hành hồi tác, Linh quy
bát pháp, Tý ngọ lưu chú, Châm cứu thực hành, Y học cổ truyền thực hành, Hiểu
biết phương dược, Giáo trình phụ khoa y học cổ truyền, Hán văn dành cho y học cổ
truyền, Hoa quả món ăn thay thuốc, Tuyển tập phương thang Đông y, Tuyển tập các
y án hay, Dưỡng sinh học, Khoa châm cứu thần hiệu và các bài thuốc, Đồ hình lưu
chuyển khí, Đồ hình mạch học, Đông y học, Y dịch lục khí, Kết hợp y học cổ truyền
và y học hiện đại... với tổng số đầu sách: 43 và số bản sách trên 125.000 cuốn.
I.2.4. Xã hi hóa y hc ctruyn:
(171[10]) Có thkể đến Bác sĩ Trần Nam Hưng, GS. Huỳnh Minh Đức, GS. Trần Văn Kỳ, lương y Hoàng Duy Tân,
lương y Nguyễn Hữu Khai, lương y Nguyễn Oắng, lương y Lê Minh, lương y Vũ Sĩ Ngôi, lương y Nguyễn Trung
Hòa, lương y Trần Văn Nhủ, lương y Trn Khiết...

32.2 Page 312

▲back to top


Ngay từ khi chưa có Nghị quyết Trung ương V về vấn đề "giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc", những người làm công tác y học cổ truyền ở
Đồng Nai đã hết sức chú ý đến việc xây dựng nền y học dân tộc thật vững để kết hợp
nhuần nhuyễn y học cổ truyền và y học hiện đại theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng thời, tìm mọi biện pháp để xã hội hóa y học cổ truyền, trả lại nhân dân
những kinh nghiệm và tài sản về y học của nhân dân. Một trong những nỗ lực ấy là
chú trọng đến việc phổ biến tài liệu để nhân rộng các cây thuốc, con vật có tác dụng
dinh dưỡng, vừa có khả năng làm dược liệu, phát huy phương châm "thầy tại chỗ,
thuốc tại chỗ", tự chăm sóc sức khỏe của mình; Hội Y học cổ truyền đã mở nhiều
lớp bồi dưỡng huấn luyện về thuốc Nam, châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh, cắt lể,
châm tê ngoại khoa, nhĩ châm, chích lể, thầy thuốc gia đình, châm tê, châm cứu
chuyên sâu...; mời được một số lương y giỏi ở các địa phương về giảng dạy, truyền
nghề cho lớp trẻ, bồi dưỡng về y lý, y thuật cho các lương y sơ trung cấp. Hàng
tháng, các tổ, các phòng chẩn trị, câu lạc bộ y dược Tuệ Tĩnh đều có sinh hoạt chuyên
môn để báo cáo tâm đắc (phương pháp chữa các loại bệnh).
Cùng với công tác khám chữa bệnh từ thiện, nhiều cơ sở y tế đã giúp cho
nhiều đối tượng, đặc biệt là giới trẻ, tham gia vào việc tìm hiểu y học cổ truyền, sưu
tầm dược liệu, đốt lên trong họ ngọn lửa nhiệt tình bảo vệ vốn di sản y học của cha
ông. Hiện nay, nhiều địa phương, số lương y là nữ rất cao và những người còn trẻ
tuổi quyết tâm theo nghề y học cổ truyền những năm gần đây (1996 - 1999) có tăng
lên. Long Thành là địa phương có số lương y nữ chiếm tỷ lệ cao nhất so với nhiều
địa phương trong tỉnh, phần đông trong số này là các ni sư. Đây cũng là địa phương
có tỷ lệ lương y trong các trạm y tế cơ sở cao nhất (15/19 trạm y tế xã có lương y tay
nghề cao), địa phương có phong trào làm vườn thuốc Nam gia đình và phong trào
khám chữa bệnh từ thiện phát triển nhất.
I.2.5. Nuôi trng dược liu ở Đồng Nai:
Một trong những thành quả đáng kể nhất của công tác xã hội hóa y học
cổ truyền trong tỉnh là việc nuôi trồng dược liệu.
Đồng Nai là tỉnh có nhiều cây, con vật nuôi trồng tự nhiên vừa để tăng
nguồn dinh dưỡng và vừa để chữa bệnh. Trong phong trào "dứt điểm 3 về nuôi trồng
và sử dụng thuốc Nam" trên quy mô huyện và thành phố, 1980, huyện Xuân Lộc
(cũ) được Bộ y tế công nhận và được xem là lá cờ đầu trong toàn tỉnh, sau đó là
thành phố Biên Hòa (1982). Đến nay, nhiều hộ ở Đồng Nai đã có vườn thuốc xanh
bằng cây ăn trái lâu năm, cây kiểng, rau ăn sống. Ở Long Thành, tổ chẩn trị xã Phước
Tân trồng 1 ha cây dừa cạn đã cho thu hoạch, phòng chẩn trị từ thiện Thiền Chiếu
trồng 1 ha gồm 35 cây thuốc thông thường của Bộ y tế quy định. Vườn thuốc Nam
của lương y Dương Văn Dân có 8,5 sào trồng nhiều hy thiêm, ngải cứu, ích mẫu,
thiên niên kiện, sâm bố chính và một số cây thuốc quý của Xuân Lộc như bình vôi

32.3 Page 313

▲back to top


(chữa tim mạch), mộc thông, ba kích, sa nhân, củ ráng bay, hà thủ ô, chà là. Lương
y Lê Đức Khánh (ở phường Tân Biên - Biên Hòa) nuôi hươu, nai, rắn... để làm thuốc.
Hơn 10 năm qua, Lương y Nguyễn Tăng Công đã miệt mài nhân giống, chăm chút
hàng ngàn cây trinh nữ hoàng cung. Với 5 ha đất bazan màu mỡ, ông Nguyễn Tăng
Công có thể thu lợi mỗi năm hàng trăm triệu đồng, nhưng ông vẫn quyết định dành
toàn bộ khu vườn để trồng cây thuốc. Hiện nay, khu vườn của ông là vườn dược liệu
duy nhất ở Nam bộ trồng 1600 cây quế Trà My 18 năm tuổi, một loại dược liệu rất
quý. Ngoài quế, đinh lăng được trồng rất công nghiệp, ông đã cho xen kẽ nhiều loại
cây thuốc quý hiếm như bồ quan, bồ kết, long nhãn, trường sinh, rẻ quạt, ngũ gia
bì, thường sơn, nhân trần, ích mẫu, cây nhàu mà theo kinh nghiệm của ông, cây
nhàu có thể sử dụng làm dược liệu từ gốc đến ngọn: Trái chữa các bệnh băng huyết,
kiết lị, lá chữa mụn nhọt, nấu canh ăn rất nhuận trường, rễ chữa nhức mỏi. Khu vườn
của ông Nguyễn Tăng Công là điểm hẹn của nhiều nhà nghiên cứu, bạn đồng nghiệp
tâm huyết. Phòng chẩn trị y học dân tộc của Dòng Gioan Thiên chúa (trong khuôn
viên Bệnh viện Thống Nhất) cũng lưu giữ khá nhiều cây thuốc, trong đó có trên 100
loại cây thuốc trong rừng Mã Đà, Lạc An. Vườn thuốc này có nhiều loại cây quý
như ráy gai (chữa phong thấp), thiên niên kiện, nho rừng (chữa thận), củ bình vôi,
cỏ may (chữa sạn thận), đài bi (chữa hậu sản), long não, ích mẫu.. Đây cũng là nơi
phân phối nhiều cây thuốc quý cho các trạm xá và đã vẽ được bản đồ dược liệu,
thống kê trên 400 loại cây thuốc từng có trong rừng miền Đông, làm tiêu bản khô
của 200 loại dược liệu, tổ chức triển lãm cây thuốc.
Cây thuốc Đồng Nai hiện còn được lưu giữ ở rất nhiều ngôi chùa (đồng thời
là phòng chẩn trị y học cổ truyền) hoặc ở các vườn chùa. Ở chùa Hội Phước (Tân
Triều) có vườn thuốc Nam còn nhiều cây thuốc quý như cùm rụm (chữa nhức mỏi,
tê bại), cây xà lỉa, cọng đu đủ, thảo nam sơn. Thiện nam tín nữ đến cầu xin được
biếu không, ai có lòng cúng vào chùa, nhiều người làm công không đi tìm cây thuốc
cúng cho chùa. Chùa Thiên Hòa ở ấp Thọ Chánh, xã Xuân Thọ (trong vùng đồng
bào Châu Ro) hiện trồng nhiều cây thuốc quý của núi rừng Đồng Nai như thường
sơn, lồng mức, râu mèo, đinh lăng, bông nho, cam thảo, đỗ trọng, phẩm, phùi, lốp
bốp, huyết rồng, bá bịnh, é tía, cây lá dằn (uống khi sinh), cây bông ổi, lá dừng, đặc
biệt khu vườn chùa còn có một cây ngũ gia bì được xem là lớn nhất ở Đồng Nai
một cây quế chi duy nhất ở Đồng Nai.
Một số bệnh viện, trạm y tế, trường học ở trong tỉnh đều có vườn thuốc
với 35 cây thuốc Nam chữa 7 chứng thông thường. Ở một số xã trong tỉnh, Hội người
cao tuổi đứng ra trồng các vườn cây thuốc.
Vườn thuốc gia đình của những người không hành nghề Đông y chuyên
nghiệp ở Đồng Nai rất phong phú. Hầu như gia đình nông thôn nào cũng trồng cây
thuốc quanh nhà, chí ít là cây sả. Có nhiều vườn thuốc gia đình trồng đến hàng trăm
loại dược liệu. - Danh mục vườn thuốc nhà ông Kẽo (Tân Triều - Vĩnh Cửu) có rất

32.4 Page 314

▲back to top


nhiều cây thuốc quý như: thảo lâm sơn, sâm đại hành, mỏ quạ, cùm rụm, trắc bá
diệp, lá lưỡi rồng, ổ kiểng, cây quý, cây liễu, mãng cầu xiêm, ngãi trắng, dây cóc,
sâm, nha đam, thuốc dòi, mơ lông, xuyên tâm liên, sả, bạc hà trắng, rau má, mã đề,
nghệ xà, rau tần, rau càng cua, cây tim bắc, nén, sắn dây, dứa, kim cúc, đinh lăng
(lá nhọn, lá to, lá tròn), gừng, dâu, diếp cá, sống đời, rễ rồng, lưỡi rồng, râu rồng,
nghệ đen.
Việc bảo tồn nguồn dược liệu thiên nhiên ở Đồng Nai đang gặp phải
khó khăn do nhiều nguyên nhân. Nhiều cây di thực về Đồng Nai như đương quy,
ngũ gia bì, thiên niên kiện khó trồng ở một vài nơi. Nhiều cây vốn sống trong rừng
Mã Đà, Hiếu Liêm nay tuyệt chủng do tình trạng phá rừng như cây xá xị (có vị thuốc
tác dụng giải nhiệt, giải khát). Hoặc theo một số lương y tâm huyết thiềm tô, xạ
hương nếu không nuôi không thể có dược liệu (bởi không thể bắt đủ cóc làm thuốc
và làm thuốc một cách công nghiệp như Trung Quốc được). Một số cây hoang dại
có dược tính cao ở vùng Thống Nhất, Định Quán như cây huyết rồng, cây nhàu rừng,
xích đồng nam, tía tô dại, dây gùi đang có nguy cơ mất hẳn.
I.2.6. Lp trvà y hc ctruyn:
Dù số người theo học Đông y ở Đồng Nai hiện có tăng, nhưng vẫn còn
ít. Và đây cũng là một trong những thực trạng đáng lo. Hội Y học cổ truyền thành
phố Biên Hòa hiện có trên 200 hội viên, các lão lương y còn khoảng 30 người. Tuổi
từ 35 - 50 chiếm đa số (70%). Dưới 35 tuổi chỉ 3 người. Tuy nhiên, những y sĩ, bác
sĩ trẻ đã theo ngành Đông y ở Đồng Nai, hầu hết đều là những người rất có tâm huyết
với y học cổ truyền. Mặt khác, phần lớn trong số họ là những người nối nghiệp gia
đình, gia tộc. Ví dụ: Nhiều lương y ở Long Khánh hiện nay là con, cháu của lương
y Dương Văn Dân, hoặc con trai của lương y Nguyễn Tăng Công là một dược sĩ Tây
y (hiện công tác tại Trung tâm y tế huyện Long Khánh) đã nghiên cứu và giúp cho
ông rất nhiều trong việc sản xuất các thuốc Đông y dạng viên. Y sĩ Trần Văn Đức,
sinh 1960, làm việc tại Phòng chẩn trị y học Dòng Gioan Thiên chúa là người rất say
mê cây thuốc và sản xuất đông dược. Anh là tác giả của bài thuốc Cao viêm thận
(172[11]), Cao phong thấp (173[12]). Lương y trẻ Nguyễn Thị Thu Thủy (sinh 1971)
ở Tam Phước - Long Thành chuyên chữa áp huyết cao. Chị rất chú trọng việc sử
dụng thuốc Nam (cây thuốc thường dùng của chị là táo nhân, rễ nhàu, trạch tả, mã
đề, thục địa, cỏ xước, hoa hoè). Bác sĩ trẻ Phan Nhật Linh sinh 1969, hiện công tác
ở Trung tâm y tế huyện Xuân Lộc cũng là một thanh niên rất say mê sưu tầm bảo vệ
những cây thuốc quí. Anh nắm khá rõ sơ đồ vùng có cây thuốc ở Xuân Lộc. Tương
(172[11]) Công thc: Ba kích, đỗ trọng, ngưu tất, thphục linh, hòai sơn (mi th5g), bct trái, bạch mao căn,
cu tích, tì gii (mi th10g)
(173[12]) Công thc: Cỏ xước 10g, địa lin 4g, hy thim 12g, thiên niên kin 10g, lá lt 30g, hà thủ ô đỏ 20g, th
phc linh 40g, gng 10g, quế 5g.

32.5 Page 315

▲back to top


tự như thế là nữ lương y Lê Thị Trinh sinh 1962, tổ chẩn trị y học cổ truyền số 18
xã Suối Cao. Lương y trẻ Huỳnh Phước Lương ở Biên Hòa thừa kế được nhiều bài
thuốc hay của gia đình hiện tiếp tục nghiên cứu thêm về Đông y. Anh cũng có bài
thuốc tâm đắc Tiêu phong gan (174[13]). Theo lương y Lê Minh - Chủ tịch Hội y
học cổ truyền Đồng Nai, do cơ chế chính sách chưa hợp lý nên việc xây dựng đội
ngũ kế thừa và việc khai thác tốt các di sản Đông y ở Đồng Nai còn hạn chế. Nhiều
bài thuốc quý, hay, đơn giản nhưng do ích kỷ và chưa tin tưởng nên đã và dễ thất
truyền. Hội y học cổ truyền Đồng Nai nhiều năm qua đã đào tạo, bồi dưỡng được
trên 900 lượt người phục vụ cho công tác Đông y (bằng kinh phí xã hội hóa). Tuy
nhiên, số người tâm nguyện theo nghề và đầu tư chiều sâu rất ít. Ở khu vực phía
Nam hiện có Trường Tuệ Tĩnh (tại Thành phố Hồ Chí Minh) đào tạo y sĩ Đông y,
thế nhưng chương trình đào tạo thiên về nghiệp vụ Tây y hơn, số y sĩ ra trường chưa
được trang bị cần thiết để nghiên cứu sâu. Lớp trẻ theo nghề Đông y hiện nay sử
dụng kinh nghiệm gia đình nhiều, ít ai chịu học chữ Hán.
I.2.7. Hot động châm cu ở Đồng Nai:
Có thể nói, hầu hết những thành quả y học trên lĩnh vực châm cứu đều
được ứng dụng ở Đồng Nai và tốc độ ứng dụng châm cứu vào chăm sóc sức khỏe
ngày càng cao. Trên địa bàn toàn tỉnh hiện có hơn 500 người hành nghề châm cứu
(châm cứu không dùng thuốc và châm cứu kết hợp với các hình thức chữa trị Đông
Tây y khác). Vào năm 1997, Hội châm cứu Đồng Nai được thành lập (175[14]). Đến
nay, Hội có 334 hội viên. Hầu hết là các lương y, bác sĩ, y sĩ đang công tác ở khắp
các cơ sở y tế trong toàn tỉnh. Hàng năm, ở Đồng Nai có trên 300.000 lượt bệnh nhân
chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu. Toàn tỉnh có 197 cơ sở khám chữa bệnh
bằng châm cứu (kể cả các trạm y tế và phòng chẩn trị có châm cứu). Nhiều cơ sở tổ
chức khám châm cứu chữa bệnh miễn phí cho nhân dân. Ngành y tế Đồng Nai
thường xuyên hướng dẫn các lương y thực hiện chế độ vô trùng trong châm cứu để
ngăn ngừa các bệnh lây lan qua đường châm như viêm gan siêu vi B, HIV/AIDS...
Hoạt động châm cứu ở Đồng Nai được nhân dân khu vực miền Đông đánh giá cao
trong việc chữa các bệnh mãn tính như thấp khớp, thoái hóa cột sống, phục hồi bại
liệt, thần kinh tọa... Phòng chẩn trị "Linh gia điều xá" do lương y Trần Quốc Sử sáng
lập từ năm 1973 để khám chữa bệnh từ thiện. Hiện nay, với 30 nhân viên, hàng ngày
ở đây có khoảng 110 - 120 lượt bệnh nhân. Nguồn kinh phí do nhân dân hảo tâm tự
góp. Ông Sử tốt nghiệp Tây y (điều dưỡng viên) sau đi học thêm Đông y, thiên về
châm cứu bấm huyệt. Năm 1998 ông đã bấm huyệt miễn phí cho 14.500 bệnh nhân.
Đây là cơ sở duy nhất ở Đồng Nai sử dụng phương pháp nhu châm (cấy chỉ). Theo
(174[13]) Công thc: nhân trn 80g, bch trut 40g, lương truật 80g, xuyên sơn giáp 20g, đại hoàng 15g, ut kim
15g, mộc hương 10g.
(175[14]) Theo Quyết định số 876/QĐ.UBT của Chtch UBND tỉnh Đồng Nai

32.6 Page 316

▲back to top


ông, phương pháp này chữa hầu hết các bệnh trừ giun sán. Sở trường của ông là chữa
đau nhức, thần kinh tọa. Có những chứng như suy nhược thần kinh chữa ít năm thì
khỏi.
Lương y Nguyễn Thị Cát có bài châm cứu chữa cổ vẹo cứng (sáng ngủ dậy,
khó xoay cổ gáy, xoay bị đau): Huyệt: Cổ gáy trị liệu phản chiếu trên lòng bàn chân.
Vị trí: Giữa lằn chỉ cuối ngón chân cái và hai bên bờ dọc ngón chân cái. Thủ pháp:
Dùng dầu cao sao vàng bôi vào vùng huyệt rồi dùng đồng tiền cạo cho đến khi ửng
đỏ. Đau bên trái, làm bên phải và ngược lại.
Lương y Đặng Minh Khanh có bài châm cứu chữa nhức đầu nhiều, đau
nhất ở vùng đỉnh hoặc chấm gáy: Huyệt: tuyến yên của trị liệu phản chiếu trên lòng
bàn chân, Vị trí: Giữa bụng ngón chân cái, hướng lòng bàn chân. Thủ pháp: Dùng
que dò, ấn tìm điểm đau nhất dùng kim ngắn 1,5 cm châm nhanh, lưu kim 1 - 2 phút,
thỉnh thoảng vê kim theo tả pháp. Châm 2 - 3 lần khỏi.
Lương y Nguyễn Thị Thanh Tâm có bài châm cứu chữa chứng ngứa,
dị ứng (ngứa hoặc nổi các mảng đỏ trên da, nhất là sau khi ăn phải thức ăn uống
không thích hợp): Huyệt: khúc trì, huyết hải. Thủ pháp: Dùng ớt (càng cay càng tốt)
giã nát, lấy nước xoa. Theo lương y Nguyễn Thị Thanh Tâm, trong ớt, có chất
capsacin, có tác dụng gây cay (kích thích) nhưng không phỏng da. Huyệt huyết hải
có tác dụng lương huyết, trừ thấp, đồng thời trị các chứng ngứa ở vùng dưới da.
Huyệt khúc trì thuộc kinh đại trường có tác dụng thanh nhiệt trừ thấp và chữa các
chứng ngứa vùng trên. Khỏi sau khi bôi 2 - 3 lần.
Lương y Trần Thị Nhật có bài châm cứu chữa ong đốt, bong gân, nhọt đang
nung mủ, sưng đỏ: Huyệt: Điểm đau nhất đối xứng qua thân thể. Thực hiện: ấn dò
tìm điểm đau nhất nơi tổn thương (bong gân, chín mé... ). Tìm điểm đối xứng qua
cơ thể (thí dụ điểm đau do ong chích ở vùng ngoài khuỷu tay trái (huyệt khúc trì)
dùng kim châm theo tả pháp, vê kim mạnh ở huyệt khúc trì bên tay phải (bên không
tổn thương, đối xứng qua cơ thể) lưu kim 15 phút, cứ 3 phút vê kim một lần (có thể
hướng dẫn người bệnh tự vê kim). Kết quả: khỏi sau khi châm 1 - 2 lần.
Lương y Nguyễn Ngọc Sáng có bài châm cứu chữa chứng: rối loạn thần kinh
gây mất ngủ: Huyệt: an miên 1 an miên 2. Vị trí: Sau cơ thang - gáy, giữa huyệt
phong trì ế phong là huyệt ế minh, giữa huyệt ế minh phong trì an miên 1,
giữa ế minh ế phong an miên 2. Thủ pháp: châm nhẹ, vê kim bổ, lưu kim 15
phút, 5 phút vê kim một lần, cảm giác đắc khí chạy vào trong tai và lan ra 2 bên gáy
là tốt.
Lương y Lăng Nhuận Thành có bài hỏa cứu trị Ban khỉ (suy dinh dưỡng):
Hỏa cứu (hơ ấm huyệt) 14 điểm: 8 điểm phần thượng: giữa đỉnh đầu, chân tóc trán
(thẳng bá hội lên) hai đầu chân mày, ấn đường, nhân trung, thừa tương và hai bên
tai; 4 điểm phần trung: giữa bụng (huyệt trung quản), 2 bên rốn (huyệt thiên xu),

32.7 Page 317

▲back to top


dưới rốn (huyệt khí hải); 2 điểm phần dưới: huyệt túc tam lý, huyệt tam âm giao.
(Nếu ỉa chảy nhiều, thêm huyệt trường cường). Kết hợp uống thuốc: Mạch nha, sa
nhân, trần bì, phục linh, hoài sơn, sử quân tử, thủy tiên tử, bạch truật, sơn tra, đảng
sâm, chỉ xác sao vàng, tán bột, ngày uống 2, 3 lần, mỗi lần 4g với nước cơm chín
(Khi uống thuốc, phải phối hợp thêm cả hỏa cứu mới đạt hiệu quả cao).
Thành tựu nổi bật của ngành châm cứu ở Đồng Nai có thể kể đến công
trình ứng dụng châm tê trong phẫu thuật cắt amygdal của bác sĩ Trần Ngọc Sang
(Khoa tai mũi họng - Bệnh viện khu vực Thống Nhất). Đây là phương pháp dùng
châm cứu làm mất hoặc giảm cảm giác đau ở vùng mổ, giúp người bệnh vượt qua
cuộc mổ an toàn, thuận lợi và không có di chứng (phương pháp vô cảm). Phương
pháp vô cảm từ trước tới nay chủ yếu là thuốc tê và thuốc mê, lần đầu tiên, 1996,
phương pháp châm cứu được ứng dụng ở Đồng Nai cho thấy có nhiều thuận lợi và
ưu điểm.
Cách châm tê cắt amygdal của bác sĩ Trần Ngọc Sang như sau: cho bệnh
nhân ở tư thế nằm, chọn huyệt hợp cốc và 2 huyệt amygdal (góc dưới hàm 2 bên),
châm kim: phải đạt yêu cầu tê (nếu bệnh nhân kêu đau buốt phải châm lại), kích
thích kim bằng máy xung điện cường độ từ 2 - 4 mA và tăng dần cho đến ngưỡng
bệnh nhân chịu được. Tần số tăng dần khoảng 360 - 3600 chu kỳ/phút. Thời gian
kích thích từ 30 - 40 phút. Khi bác sĩ ngoại khoa bắt đầu cắt amygdal thì ngừng kích
thích và rút toàn bộ kim châm. (Nếu không dùng châm tê, thì bệnh nhân phải dùng
liều thuốc tê tương ứng là 6 ống Lidocain 2%). Khảo sát trên 200 trường hợp, bác sĩ
Trần Ngọc Sang ghi nhận rằng việc châm tê có hiệu quả gần như dùng thuốc tê. Có
55% ca đạt kết quả tốt. Đây cũng là kết quả tương đương với tổng kết của GS. châm
cứu hàng đầu Việt Nam Nguyễn Tài Thu.
Điều đáng nói là phương pháp châm tê đã góp phần khá tốt trong việc
phẫu thuật amygdal cho những bệnh nhân dị ứng thuốc tê. Đồng thời, đối với những
bệnh nhân thể trạng suy nhược thì khi dùng một lượng lớn thuốc tê như trong cắt
amygdal dễ gây nên hiện tượng mệt lã, khó thở, vẻ mặt xanh tái, hoặc choáng ngất,
phẫu thuật viên không an tâm tiến hành cắt amygdal. Nhưng nếu châm tê, thì các
biểu hiện này hầu như không xảy ra. Việc châm tê thay cho dùng thuốc cũng
phương pháp tiết kiệm và kinh tế hơn. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này
là bệnh nhân ít an tâm nên ảnh hưởng tâm lý, do đó, ảnh hưởng đến hiệu quả châm
tê. Châm tê tốn thời gian nhiều hơn gây mê, gây tê nên nếu có nhiều bệnh nhân thì
sẽ khó có đủ phòng nằm, máy xung điện, và kỹ thuật viên... Vì thế, phương pháp
này đến nay vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm.
I.2.8. Y hc ctruyn trong kháng chiến:
Ngay từ những năm đầu kháng chiến, ngành y tế đã thực hiện phương
châm “địa phương hóa Tây y, khoa học hóa Đông y”. Chủ trương này xuất phát từ

32.8 Page 318

▲back to top


yêu cầu xây dựng một nền y học Việt Nam và do những khó khăn quá lớn bấy giờ.
Năm 1951, hệ thống quân dân y sáp nhập lại từ cấp xã lên đến tỉnh, phân liên khu.
Các cơ sở bào chế, quân y xã bên cạnh học tập, áp dụng những kinh nghiệm y học
tiên tiến trên thế giới, đã phát động phong trào tận dụng tài nguyên rừng, sản xuất
thế phẩm (thuốc Nam bào chế thành thuốc viên hay thuốc ống, thuốc xoa theo hình
thức Tây y) theo tinh thần Hội nghị Quân dân y miền Đông họp tại Chiến khu Đ
tháng 3 - 1951. Cách làm đó đã giải quyết được phần lớn nhu cầu điều trị trong căn
cứ, đặc biệt là các loại thuốc chữa bệnh sốt rét, lỵ, ho, đau bao tử và thuốc bổ. Các
cuốn sách "Tánh dược Đông y", "Tủ thuốc nhân dân", "Hướng dẫn cách sử dụng
các vị thuốc thông thường” được ấn loát lưu hành rộng rãi. Bộ đội, nhân dân khắp
nơi tích cực sưu tầm gửi hàng ngàn toa thuốc gia truyền về Ban nghiên cứu Đông y
Nam bộ. Khẩu hiệu ngành y dược được mọi người nhiệt liệt hưởng ứng lúc này là
"Dùng thuốc Nam là yêu nước, là đấu tranh kinh tế với địch”.
Một sự kiện y học mà các cán bộ chiến sĩ từng chiến đấu ở miền Đông Nam
bộ trong những năm chống Pháp không quên đó là, các bác sĩ đã áp dụng hiệu quả
phương pháp cấy Filatov (của Liên Xô cũ) trong điều trị. Điều này đã gây thêm niềm
tin tưởng trong cán bộ chiến sĩ, nhân dân trong và ngoài chiến khu với hệ thống y tế
cách mạng. Có gia đình ngụy binh ở vùng bị chiếm đã móc nối vào Chiến khu xin
được trị bệnh bằng phương pháp này. Filatov được chế biến từ việc ngâm nhau với
mật ong làm thành thuốc nước, hoặc dạng chế sấy khô nhau để cấy dưới da. Về sau
do nguồn dược liệu hiếm, các lương y, bác sĩ đã chế lại dược liệu bằng nhau con
cheo.
Theo lời kể của Thiếu tướng Bùi Cát Vũ - Giám đốc Binh công xưởng
Quân khu 7 - sau trận lụt lớn 1952, trong chiến khu, thuốc men dụng cụ thiếu thốn
rất nhiều mà bệnh tật lại tăng lên. Vì thế có giai đoạn, các bác sĩ chỉ chuyên làm
những việc như nấu quần áo diệt rận, xoa bóp cạo gió, nấu nồi xông cho thương bệnh
binh. Nhiều bác sĩ đã chịu khó tìm những lá rừng theo kinh nghiệm dân gian về làm
thuốc uống, thuốc tắm ghẻ cho bộ đội. Quân y viện bấy giờ cũng phải băng bó vết
thương bằng mật ong, rửa ghẻ bằng nước muối, trị sốt rét bằng dây thần thông giã
nhỏ, băng bông giặt đi giặt lại, có khi phải dùng đến bẹ chuối rừng phơi khô để thay
cho băng gạc. Bác sĩ Võ Cương hướng dẫn cho cán bộ chiến sĩ ngành y tăng cường
chất đạm và vitamin cho thương bệnh binh bằng cách kiếm cám cho anh em ăn.
Nhiều trường hợp ở Quân y viện, thương binh quá nặng, có nguy cơ tử vong nhưng
bác sĩ, y tá đều phải bó tay ngồi khóc vì thiếu thuốc. Đã có những trường hợp thương
binh chết trong miệng còn ngậm cám! (176[15])
Trong điều kiện thiếu thốn ấy, y tế kháng chiến ở Đồng Nai đã sáng tạo
nhiều hình thức chữa bệnh, cấp cứu. Câu chuyện về anh thương binh Bùi Xuân Tảo
(176[15]) Nhiu tác gi, Lch sChiến khu Đ , Nxb. Đồng Nai, 1998

32.9 Page 319

▲back to top


được cưa tay như là huyền thoại: Sau trận tấn công của Vệ quốc đoàn Biên Hòa vào
thị xã Biên Hòa đêm 1 - 1 - 1946, có khá nhiều thương binh của ta được đưa về trạm
xá Tân Hòa - Tân Tịch (sau này thuộc chiến khu Đ). Anh Bùi Xuân Tảo, bị thương
nát cánh tay trái và nhiều chỗ khác nữa đã tự đi bộ về đến trạm xá. Mặc dù đã kiệt
sức do nhiễm trùng nặng, song, anh vẫn phải được đưa lên bàn phẫu thuật khi cơn
sốt chớm bắt đầu. Trạm xá không có thuốc gây tê, gây mê. Phương tiện mổ cắt lúc
bấy giờ chỉ là cái cưa kim loại hiệu Peugeot. Qua hội chẩn nhanh, bác sĩ Võ Cương
cùng các nhân viên quyết định khẩn thương cứu sống anh thương binh Bùi Xuân
Tảo bằng việc cưa cánh tay. Trong lúc đau đớn, anh Tảo đã hát vang bài "Tiến quân
ca" (sau này là Quốc ca). Cuộc phẫu thuật nhanh gọn hơn mức yêu cầu. Nhiều anh
em nhân viên trạm xá đã xúc động cùng hát theo trong nước mắt. Sau này khi ghé
thăm anh thương binh Bùi Xuân Tảo, nhà thơ - vị chỉ huy Chi đội 10 Huỳnh Văn
Nghệ đã viết bài thơ ca ngợi sự kiện này.
Từ sau những trường hợp thiếu thuốc gây tê, gây mê như thế các lương
y trong kháng chiến đã dựa vào kinh nghiệm của nhân dân tìm ra rễ cây lài để dùng
như một thứ thuốc gây mê, hoặc dùng nước trái dừa, hái mang xuống (không được
ném từ trên cây xuống) để làm dịch truyền.
Thời kháng chiến chống Mỹ, nhiều đơn vị quân y, dân y đã tổ chức
những cơ sở khép kín quy trình từ nuôi trồng dược liệu đến khám và điều trị bằng y
học cổ truyền, đồng thời còn lo công tác đào tạo cán bộ. Rừng Đồng Nai bấy giờ có
khá nhiều cây thuốc quý. Nhờ nỗ lực thu hái, chế biến, Ban dân y tỉnh đã cho ra đời
11 loại thuốc: viên Vàng Đằng (nay là Donabecberin), cao Thiên Môn, rượu phong
thấp, viên chữa cảm mạo, thuốc điều kinh, bột trị dạ dày, viên mật nghệ, bột bó gãy
xương, thuốc nọc rắn, thuốc chữa ho, thuốc chữa sạn thận... Những loại thuốc này
đã dùng kết hợp để chữa trị thương bệnh binh và nhân dân các vùng căn cứ rất có
hiệu quả và sau ngày thống nhất nhiều loại được sản xuất dưới dạng thương phẩm.
Nhiều mặt hàng thuốc nói trên sử dụng cây vàng đắng từ kinh nghiệm
của đồng bào dân tộc Châu Ro (dùng trị ỉa chảy). Có mặt hàng sử dụng cây chiêu
liêu (nấu cao làm thuốc viên). Những mặt hàng trên được dựa vào 10 toa thuốc căn
bản của Đông y nhưng sử dụng các cây thuốc trong rừng như lá từ bi, gừng, vỏ quýt,
cỏ mực, sả, dần xay, cỏ mần trầu. Lương y Lê Minh trong kháng chiến đã làm nhiều
bài thuốc Đông y dựa trên nguồn dược liệu dồi dào trong rừng miền Đông phục vụ
cho nhân dân và bộ đội như sử dụng cây bình vôi ở núi Chứa Chan chữa thấp khớp,
cây sữa ở Long Thành để làm thuốc điều kinh, hoặc cỏ gấu, ích mẫu, thường sơn,
thanh hao, dây ký ninh chữa sốt rét. Và bài thuốc chữa rắn cắn của ông cũng được
phổ biến lúc bấy giờ: Lưu hội (nha đam), chùm luông cọng đỏ, hùng hoàng, cây nén,
phèn tán ra viên. Bài thuốc bổ trong kháng chiến của lương y Lê Minh gồm từ các
cây thuốc tam tài cao, sâm bổ chính, thiên môn, hà thủ ô trắng tẩm nước đậu đen
(thay cho thục địa) nấu cao. Bài thuốc chữa dạ dày gồm củ cỏ gấu, nang mực, mề

32.10 Page 320

▲back to top


gà, xuyên bổi mẫu, lá cà độc dược, cam thảo. Bài thuốc bó xương đã giúp ích rất
nhiều cho quân y trong cấp cứu chấn thương sau các chiến dịch lớn. Chính trong
điều kiện kháng chiến, ngành y tế Đồng Nai đã có sự kết hợp chặt chẽ Đông Tây y,
đặc biệt là trong chữa bệnh, sản xuất dược.
I.2.9.Mt sbài thuc y hc ctruyn tiêu biu ở Đồng Nai:
Từ khi phát động dùng cây thuốc Nam, nâng cao y học cổ truyền dân tộc,
nhiều lương y ở Đồng Nai đã vận dụng có sáng tạo, đặc biệt trong các bệnh viêm
nhiễm, cảm ho, đường ruột. Có khá nhiều bài thuốc tiêu biểu của các lương y ở Đồng
Nai . Đây là những bài thuốc của lương y Lê Minh:
a) Trbnh nhit:
1. Bổ thận thủy bình can mộc: Dùng các vị: sinh địa, huyền sâm, mạch môn,
hột muồng sao, hoài sơn, trạch tả, cỏ mực, cỏ xước, đậu đen.
2. Tư âm giáng hỏa: dùng phương trên tùy theo bệnh chứng mà gia các vị
sau: chi tử, trắc bá diệp, hoa hòe, hoa cúc, thiên môn, thiên hoa phấn, rễ chanh, bù
ngót.
3. Thanh nhiệt tả hỏa: Cát căn, rau má, lá tre, rễ tranh, mã đề, hột mã đề,
hoạt thạch, thạch cao, rễ cây sậy, cỏ dùi trống, cây cối xay, hoàng đằng, hoàng liên,
núc nác, dành dành.
4. Thanh nhiệt giải thử: Lá sen, hương nhu, đậu ván trắng.
5. Thanh nhiệt lương huyết: Sài đất, đan sâm, rễ củ gai, vỏ mò cua (cây
vừng), cây dạy (xích đồng nam)
6. Thanh nhiệt táo thấp: Hoàng liên, hoàng đằng, nhân trần, cỏ sữa nhỏ lớn,
rau sam, xuyên tâm liên, sâm đại hành
7. Bình can tức phong: Câu đằng, con rít (ngô công), cương tàm (tằm chết
gió), thuyền thóai (xác ve), toàn yết (bò cạp)
8. Tả hạ lợi nhuận: Vỏ cây sứ (sao), cây muồng trâu (sao vàng), chỉ xác, đại
hoàng, hột bìm bìm, cây cỏ cộng.
9. Hoạt huyết tiêu viêm: Lá móng tay (mọi lựu), vỏ cây gòn, huyết giác, sài
đất, kim ngân hoa, ké đầu ngựa, xuyên tâm liên, bồ công anh.
10. Bổ huyết điều kinh: Sinh địa, hà thủ ô, trái dâu tằm, xuyên khung, đương
quy, sâm đại hành, nghệ, kê huyết đằng, long nhãn, nhau thai nhi, quy lộc nhị tiên
giao, mật ong, mạch nha, ích mẫu, lá dâu tằm, đậu đen.
b) Trbnh hàn:

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


11. Hành khí phát tán: Gừng sống, vỏ quýt, hoắc hương, củ gấu, ô dước, chỉ
thực, địa liền, xương bồ, tô tử, kinh giới, hương nhu, tử tô, hành lá.
12. Tiêu tích đạo trệ: Hậu phác, nga truật, nghệ vàng, chỉ xác, sơn tra, xạ
can (rẻ quạt), hột cau, đại hoàng, bìm bìm, cỏ gấu.
13. Ôn trung hạ khí: Riềng, gừng khô, hột tiêu, thảo quả, hồi hương, đàn
hương, trầm hương, ích tri nhân, mộc hương, tô tử, hột cải.
14. Ôn hóa hàn đàm: Bá hợp, hột tử tô, bán hạ, vỏ quýt, gừng khô, vỏ rễ dâu.
15. Tán huyết ứ giảm đau: Đào nhân, bạch chỉ, xuyên khung, hồng hoa, mắt
cây thông, tùng hương, huyết đằng, dây chiều, hoàng lực, nhũ hương, mộc dược,
huyết rồng, huyết giác, dây gấm.
16. Thông khí khai khiếu: Xương bồ, an tức hương, tạo giác, trúc lịch.
17. Bổ khí trợ dương: Sâm đảng, sâm bố chính, củ mài, cam thảo, bạch truật,
hoàng kỳ, sa nhân, nhục quế, tắc kè, cao ban long, mật ong, ba kích, đương quy,
xuyên khung, hột tơ hồng, tục đoạn, dây gùi.
c) Trhuyết:
18. Dương âm bổ huyết: Sa sâm, quy bản, mạch môn, đương quy, hà thủ ô,
đậu đen, lá dâu tằm, huỳnh tinh, thạch hộc, trinh nữ, mè đen, nhau thai nhi.
19. Chỉ huyết: Trắc bá diệp, cỏ mực, nan mực, rễ tranh, ngải cứu, hoa lẻ
bạn.
20. Lý huyết: Trạch lan, ích mẫu, xuyên khung, khương hoàng, quy vĩ, nga
truật, tô mộc.
Bài thuốc Cước khí cấp tính của lương y Dương Văn Dân (Long Khánh)
Củ gấu 80g: Khai uất thành khí trệ
Hạt cau 80g: Trừ phong đàm lợi tiểu
Chỉ xác (sao vàng) 40g: Tán khí kết, tiêu tích trệ
Ké đầu ngựa (sao cháy, đâm dập) 40g: Trị phong tê thấp, tiêu độc
Vỏ chân chim 40g: Trừ phong thấp, tán ứ huyết
Tía tô 40g: Phát hãn, tán thấp
Mắt cây thông 40g: Trị phong tê thấp, gân xương đau nhức
Các vị tán bột mịn, mỗi lần uống 12 g
Dùng tía tô 9 lá, vỏ quýt 1 cái, gừng 3 lát, đổ sấp nước sắc làm thang uống
với thuốc tán, hoặc chia làm 3 thang sắc uống.

33.2 Page 322

▲back to top


Bài thuốc chữa trật đốt xương sống của lương y Nguyễn Văn Trạt (Xuân
Lộc):
Nghệ xà cừ 3 củ, ngũ trảo 100g, dâm bụt 100g, giã nát trộn chung 20 ml rượu
trắng, bó chỗ tổn thương, chừng 4 lần có kết quả. Kết hợp uống: khổ qua 10g, mần
trầu 10g, ké đầu ngựa 10g, cỏ xước 10g, bá bịnh 10g, vòi voi 10g, sục sạc 10g, nhàu
rừng 10g, hạ thủ ô 5g, cù đèn 5g, tô mộc 10g, đỗ trọng 20g, vỏ bưởi 10g, vông nem
10g. Trong thang đầu cho thêm muồng trâu 10g, hoa đại 10g, các thang sau không
dùng tiếp nữa. Sắc 4 chén nước còn 1 chén, uống. Khoảng 10 thang có hiệu quả tốt.
Bài thuốc chữa sạn thận của lương y Lưu Văn Đức (Xuân Thọ - Xuân Lộc):
Cam thảo 20g, râu bắp 20g, chân chim 20g, lá tre 20g, vỏ quýt 10g, râu mèo
20g, hà thủ ô 20g, mã đề 30g, đỗ trọng 30g, bìm bìm 30g, sắc 4 chén nước còn 1
chén, uống. Nước thứ nhì, đổ 3 chén còn lại nửa chén, uống ngày 1 thang, chia làm
2 lần.
Bài thuốc chữa sạn thận của lương y Lê Minh Lượng (xã Xuân Hòa)
Vạn niên tùng 10g, vỏ cau 10g, rau trai tía 20g, lá gai tươi 20g, sơn từ cô
5g, vỏ dâu tằm 10g, sắc 3 chén nước còn 1 chén uống. Nước thứ nhì sắc 3 chén còn
nửa chén. Ngày 1 thang, uống đến khi hết bệnh.
Bài thuốc chữa sốt rét của lương y Trần Kim Điện
Thường sơn 60g, binh lang 40g, thanh bì 40g, thạch cao 80g, gừng sống 3
lát, trần bì 40g, thương truật 40g, bạch truật 20g, thảo quả 40g
Gia giảm: rét nhiều: bỏ thạch cao, gia quế chi uống 1 lần 4 g. Ngày 3 lần.
Bài thuốc chữa sốt rét của lương y Lưu Văn Đức (xã Xuân Thọ)
Cam thảo 6g, thường sơn 10g, dây cóc 5g, cau khô 7g, cây lồng mứt 6g, cây
mãng cầu 6g, lá tre 6g, hậu phác 6g, sắc 3 chén còn 1 chén, ngày uống 1 thang.
Bài thuốc chữa thần kinh tọa của lương y Võ Đình Đức (BV khu vực Xuân
Lộc)
Tu hú 6g, cỏ rùa 6g, cối xay 6g, rễ tranh 4g, nhàu 6g, ngũ trảo 6g, cành dâu
6g, hà thủ ô 8g, cỏ xước 6g, ráng bay 8g, trinh nữ 6g, muồng 4g sắc 1 lít nước, còn
200 ml, chia 2 lần uống. Kết hợp châm cứu: đại trường du, thận du, chí thất, bát
liêu, hoàn khiêu, âm lăng tuyền, thừa sơn, côn lôn, tuyệt cốt.
Bài thuốc chữa viêm họng của lương y Văn Phú Khóa (Xuân Lộc)
Nghệ 4g, sơn tra 12g, bạch truật 12g, thiên môn 12g, hạt cau 4g, chỉ xác 4g,
bìm bìm 8g, đương quy 8g, rẻ quạt 4g, hậu phác 4g, a giao 8g, nhân sâm 12g.
Bài thuốc chữa viêm mũi của lương y Văn Phú Khóa (Xuân Lộc)

33.3 Page 323

▲back to top


Rau má 8g, dâu tằm 8g, sinh địa 12g, cỏ xước 12g, huyền sâm 8g, khổ qua
8g, cỏ mực 8g, quyết tử minh 8g.
Bài thuốc chữa sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật do thấp nhiệt của lương y
Thái Vân Trình (Thống Nhất)
Bài 1: Cỏ mần trầu (phơi trong mát cho tái đi) 500g, Hoạt thạch (tán mịn)
8g, gừng sống 6g. Cỏ mần trầu và gừng sống cắt nhỏ, sắc 1500 ml nước, còn 500
ml, chia làm 3 lần uống. Bột hoạt thạch chia làm 3, mỗi lần uống hòa chung với
nước thuốc trên. Uống mỗi tháng 2 - 3 đợt, mỗi đợt 5 - 6 ngày sỏi sẽ tiêu dần.
Bài 2: Thổ phục linh 4g, hoạt thạch (tán bột) 15g gói riêng, cỏ mần trầu 50g,
trạch tả 20g. Các vị trên cắt nhỏ, sắc với 1500 ml nước còn lại 500 ml, chia 3 lần
uống, mỗi lần uống cách nhau 3 giờ với 3g bột hoạt thạch.
Bài 3: Thuốc cứu tươi 30g, cỏ hàn the tươi 20g, rễ cỏ may 40g, rau bợ 50g,
nõn dứa gai tươi 30g. Giã nát, hòa 100 ml nước sôi để nguội, quậy đều, lọc lấy nước
đặc, chia uống nhiều lần trong 1 ngày. Mỗi tháng uống 10 - 15 ngày để tiêu sỏi.
Bài thuốc chữa sản hậu của lương y Lại Ngọc Linh (Tân Mai - Biên Hòa):
Đơn sơn tra 1 lạng sắc độ 2 chén nước lấy 1 chén (uống nóng), một lần đỡ đau thì
thôi, nếu còn đau để thêm 1 chén rưỡi nước vào bã thuốc đã sắc, đun lấy 8 phân,
uống tiếp.
Bài thuốc Bế kinh của lương y Phạm Xuân Khu (Tân Biên - Biên Hòa): Nam
mộc hương 10 cân, Nga truật 2 cân, Hương phụ 1 cân, tất cả tán bột, mỗi lần dùng
từ 1 - 2 đồng cân.
Bài châm cứu trị hôi nách của lương y Đặng Minh Khanh (Tân Hòa - Biên
Hòa): Cứu huyệt gồm 2 điểm: cực tuyền, điểm sâu (lõm) nhất trong hố nách. Dùng
cây thuốc cứu cứu mỗi điểm 5 - 10 phút. Thực hiện mỗi ngày một lần, liên tục 10
ngày không ngắt quãng.
Bài thuốc trị nhức đầu, đau sống lưng của lương y Lâm Quang Tươi (Thống
Nhất - Biên Hòa): Ma hoàng 2 chỉ, hạnh nhân 2 chỉ, phòng phong 2 chỉ, khương
hoạt 2 chỉ, thăng ma 2 chỉ, quế chi 2 chỉ, cam thảo 2 chỉ, bạch chỉ 2 chỉ, gừng sống
3 lát, táo 2 quả, sắc 2 chén còn 8 phân, uống lúc thuốc còn ấm ấm với nước trà có ít
gừng.
Bài thuốc trị phong ngứa do gan của lương y Nguyễn Văn Vinh (Trung Dũng
- Biên Hòa): Đại hoàng 4 chỉ, uy linh tiên 3 chỉ, chi tử 3 chỉ, nhân trần 4 chỉ, kim
ngân hoa 3 chỉ, thương nhĩ tử 3 chỉ, liên kiều 3 chỉ, hoạt thạch 3 chỉ, thạch cao 3
chỉ, hoàng cầm 3 chỉ, huỳnh bá 3 chỉ, phòng phong 3 chỉ, mỗi ngày uống 1 thang,
nước thứ nhất đổ 4 chén nước lấy 1 chén, nước thứ hai đổ 3 chén nước, nấu lấy còn
1 chén, có thể hòa 2 chén trộn chung chia đôi uống lúc đói bụng. Người ngứa nhiều

33.4 Page 324

▲back to top


7 thang, 7 ngày; người ngứa ít dùng 4 ngày, 4 thang, kèm theo nồi xông: lá sả, é tía,
ngũ trảo, nắm muối, lá ổi, lá khế.
Bài thuốc gia truyền chữa chứng hạt ở cổ của lương y Mai Thị Diệu (Long
Bình - Biên Hòa): Huyền sâm 4 lạng (nấu sôi vài trào), xuyên bối mẫu 4 lạng (bỏ
nậm giữa, nấu sôi vài trào), hạ khô thảo 8 lạng (nấu thành cao cùng hai vị trên hoàn
với mật ong, người lớn mỗi lần uống 4 đồng, ngày uống 2 lần, sau khi ăn 20 phút;
trẻ em phân nửa liều người lớn.
Bài thuốc Nam điều trị sản hậu của lương y Nguyễn Đình Việt (An Bình -
Biên Hòa): Trạch lan 200g, ngải cứu 200g, nga truật 100g, đâm nát các vị thuốc
trên, rồi trộn chung lại với nhau, cho vào chừng 1 chén nước, đun sôi 3 phút, lọc bỏ
bã, pha vào 1 chung rượu để uống.
Bài thuốc Thích ma thang (lương y Huỳnh Phước Lương - Biên Hòa) gia
giảm trị dở ngứa, dở đau, bên trong cơ thể như có sâu bò lộn xộn, như tê dại hẳn, đè
lên không thấy đau: vân linh 20 g, đương quy 16 g, bạch truật 16 g, chích kỳ 10 g,
cát lâm sâm 10 g, thục địa 8 g, cam thảo 6 g, bán hạ 5 g, sài hồ 6 g, quế chi 6 g,
bách giới tử 4 g, phụ tử 2 g.
Bài thuốc Hoàng đản của lương y Huỳnh Phước Lương: nhân trần (dùng
bông và rễ) 60 g, thương truật (sao vàng với cám) 30 g, bạch phục linh 40 g, trư linh
30g, xuyên khung 10 g, bạch truật (sao cho vàng) 40 g, trần bì (sao với gừng) 10 g.
Nếu chân tay lạnh thêm quế chi 8 g; nếu khát nước, thêm hoạt thạch 8 g, hoàng cầm
16 g, bỏ thương truật.
Bài thuốc điều trị chứng lao xương của lương y Lăng Nhuận Thành (phường
Bửu Long - Biên Hòa): sa sâm 8 g, bán hạ chế 8 g, huyết kiệt 12 g, phá cô chỉ 12 g,
kinh giới 12 g, thương nhĩ tử 12 g, thạch cao 20 g, bạch truật 8 g, thục địa 12 g, kết
cánh 8 g, độc hoạt 12 g, xạ can 12 g, nga truật 12 g, hầu cốt (sao) 20 g, đương quy
8 g, sinh địa 8 g, thổ ti tử 8 g, khương hoạt 8 g, ngưu tất 16 g, tam lăng 12 g, thổ
phục linh 12 g, nhục quế 8 g, tục đoạn 12 g, phòng phong 12 g, tự nhiên đồng 12 g,
xuyên điền thất 10 g, bạch đầu ong 20 g, quy bản (sao) 20 g. Thuốc tán bột, làm
hoàn, mỗi viên 4 g (sáng uống 1 viên, chiều uống 1 viên với nước sôi để nguội).
Bài thuốc điều trị chứng phong ngứa của lương y Huỳnh Văn Long: kim
ngân hoa 12 g, sinh địa 16 g, quy điều 12 g, kim thiền thoái 12 g, hồ ma nhân 8 g,
tri mẫu 8 g, phòng phong 6 g, kinh giới hoa 6 g, khổ sâm căn 4 g, thương truật 4 g,
cam thảo 4 g.
Bài thuốc điều trị chứng thổ huyết của lương y Huỳnh Văn Long: phòng đảng
sâm 40 g, hoàng kỳ (tẩm mật sao) 20 g, quy đầu 20 g, bạch truật (sao vàng) 20 g,
phục thần 20 g, viễn trí 8 g, táo nhân (sao đen vừa) 20 g, long nhãn nhục 15 g, mộc

33.5 Page 325

▲back to top


hương 4 g, trích thảo 8 g, bạch thược 20 g, thục địa 30 g, trắc bách diệp 8 g, địa du
4 g, kinh giới 4 g, táo tàu 4 trái, gừng sống (sao đen) 3 miếng.
Bài thuốc điều trị bong gân của lương y Đinh Viết Đản (Tam Hiệp - Biên
Hòa): con cóc (sống) 500 g, đại hồi 20 g, tiểu hồi 20 g, quế chi 20 g, long não 10 g,
mã tiền nướng 10 g, rượu 400 hơn 1 lít, muối rang. Bỏ con cóc vào keo thủy tinh,
xóc mạnh và đều. Sau đó đổ nửa lít rượu vào và tiếp tục xóc. Ngày hôm sau lấy rượu
ra và đổ thêm nửa lít còn lại vào làm như hôm trước. Sau đó lấy rượu đổ chung.
Dùng đũa tre moi mắt, gan, trứng cóc cho vào rượu, còn các vị thuốc trên nghiền nát
và cho vào ngâm trong rượu. Sau 1 tuần, lấy rượu ra lọc rồi cho muối vào lắc. Rượu
ấy được dùng để thoa bóp chỗ chấn thương, chỗ bó bong gân, không được uống.
Bài thuốc nhức mỏi của lương y Huỳnh Văn Chắc (Biên Hòa): thục địa 40
g, đương quy 40 g, lô hội 12 g, đảng sâm 20 g, chế nhủ hương 12 g, chế mộc dược
12 g, úy linh tiên 8 g, uất kim 12 g, phục linh 12 g.
Bài thuốc ban đẹn trẻ em của lương y Phạm Văn Đựng (Bửu Hòa - Biên
Hòa): Nếu cảm nóng, ho dùng: bạch thược, kỷ hỉ, liên kiều, xương bồ, cát cánh, bối
mẫu, hoạt thạch, huỳnh liên, băng phiến, thần sa chế. Nếu miệng lưỡi dộp đỏ, đẹn
phá và đẹn khuyết dùng: thạch cao sống, thanh đại, băng phiến, long não (tán bột
xức và rơ miệng). Nếu đẹn trắng và đẹn vôi dùng: khổ qua, đại hồi, bì da diệp, cam
thảo, ngũ châu du, mạch nha, xuyên khung, thiên trúc buồm, ngủ linh chi, huỳnh
liên, chánh mại phiến (tán bột xức và rơ miệng).
Bài thuốc Nam chữa cao huyết áp của lương y Huỳnh Thị Tân (chùa Phổ
Hiền - Bửu Long - Biên Hòa): dừa cạn 12 g, nhàu 16 g, nhân trần 8 g, bông sứ 4 g,
lạc tiên 8 g, dâu tằm 8 g.
Bài thuốc chữa phong thấp của lương y thừa kế Nguyễn Thị Tâm - Tuệ Tĩnh
đường (chùa Linh Chiếu, Phước Thái - Long Thành) có: phòng phong 12 g, khương
hoạt 12 g, đương quy 12 g, phục linh 16 g, tần giáo 12 g, quế chi 8 g, bạch thược 12
g, cam thảo 4 g.
I.2.10. Nhng ngun dược liu tiêu biu ở Đồng Nai:
Các vị thuốc bổ động vật:
Lộc nhung: bổ dương, dùng trong các phương thuốc chữa liệt dương, thông
tiểu; Gạc nai: (nhung già) thuốc bổ chống mệt nhọc, dùng trong các thang điều trị
ho, tiểu ra tinh dịch, mụn nhọt; Cá ngựa: thuốc bổ tráng dương, có thể chữa đau
bụng phụ nữ, đẻ khó; Nhau khỉ: (huyết lình) Chữa trẻ con chậm lớn kém ăn, thuốc
xoa bóp khi đau ngã; Tắc kè: thuốc bổ, chữa ho, rượu thuốc chữa suy nhược thần
kinh, đau ngang lưng; Mật ong: Thuốc bổ, kích thích tiêu hóa, diệt vi trùng, trị vết
thương nhiễm trùng; Bò cạp: dùng trong các vị thuốc chữa trẻ con kinh phong, người

33.6 Page 326

▲back to top


lớn bị ngất, liệt; Cóc: Nhựa cóc (thiềm tô) vị thuốc chữa sốt nặng, trúng độc, trẻ con
kém ăn, chậm lớn, thịt cóc chữa suy dinh dưỡng trẻ em, chữa cam tích trẻ em; Phân
dơi (dạ minh sa): dùng trong phương thuốc chữa mắt. Bài thuốc quen dùng: hòa với
mật heo uống với nước cơm chữa trẻ con quáng gà; Dế: chữa tiểu tiện khó khăn;
Nước đái trẻ con: chữa sốt rét, nhức đầu, chảy máu răng, phụ nữ sau khi đẻ; Trùn
đất (địa long): giảm sốt, giãn khí quản, hạ huyết, bổ dương hoàn ngũ thang, các
trường hợp bán thân bất toại, trị phong méo mồm, bí đái...; Hổ cốt: Rượu hổ cốt
chữa yếu xương, viêm xương, cao hổ cốt bồi dưỡng, hấp cao với gà giò cách thủy,
món ăn bổ dưỡng cho người suy yếu; Cao khỉ: Thuốc bổ máu cho phụ nữ xanh xao,
kém ăn, mất ngủ, sanh nở. Sỏi mật khỉ giải độc; Nhện (bích tàm trùng): Trứng nhện
dùng cầm máu, chữa viêm họng, mụn nhọt, đái dầm, mồ hôi trộm. Con nhện nướng
bằng gạch ngói tán bột, chữa được mụn nhọt ở lưng, gáy (đắp ngoài); Rắn: Dùng
thịt, mật, xác rắn trị thần kinh, tê liệt, chữa nhọt độc, phong độc. Mật rắn chữa ho,
đau lưng, nhức đầu. Xác rắn khử phong, sát trùng, ghẻ lở, rượu rắn xoa bóp, uống
giải độc; Rùa: Yếm rùa (quy bản) bổ thận âm, chữa bệnh ho lâu ngày; Tê giác: Sừng
tê giác là bảo vật giải độc, phòng phong; Thằn lằn: nuốt sống trị lao hạch; Tóc rối
(huyết dụ): dùng trong vạn ứng cao để chữa mụn nhọt chưa vỡ mủ; Trút (tê tê, xuyên
sơn giáp): dùng trong chữa mụn nhọt, tắc tinh sữa, đau nhức khớp xương, máu trút,
uống ngừa sốt rét; Bìm bịp: ngâm rượu uống chữa đau lưng, suy nhược tuổi già,
ngâm một cặp bìm bịp hoặc một bìm bịp với tắc kè; Cá nóc (cá cóc): giải độc cá nóc
bằng nước dừa, nước quả; Dê: dùng trong phương thuốc chữa thiếu máu, phụ nữ đẻ
xong suy yếu, trẻ con hay ăn đất; Kỳ đà: mật chữa hen suyễn, thịt kỳ đà nấu cháo ăn
chữa động kinh; Nhím (dạ dày nhím): dùng trong phương thuốc trị chảy máu, cổ
trướng, hoàng đản; Rắn mối (thằn lằn): ăn thịt trị hen suyễn; Trăn: Chữa đau nhức
xương, cột sống, máu trăn chữa hoa mắt, mỏi lưng, mỡ trăn chống nứt chân; Con
rết: chữa mụn nhọt, dầu ngâm rết chữa các vết thương bị độc trùng cắn, xác rết đốt
thành bột trị đau nhức tê thấp v.v...
Các cây thuốc và vị thuốc chữa mụn nhọt, mẩn ngứa: Ké đầu ngựa (thương
nhĩ): chữa mụn nhọt, bướu cổ, đau răng; Sài đất (húng trám): trị rôm, sải, sốt rét;
Bạch hoa xà (cây đuôi công): chữa bệnh ngoài da, vết loét, vết thương, chốc đầu;
Béo cái (béo tai tượng): chữa exzema, ngứa da, hen suyễn; Chó đẻ răng cưa: làm
thuốc giã nát chữa đinh râu, mụn nhọt, còn chữa gan, đau mắt, rắn cắn, kháng sinh.
Đồng bào dân tộc hay dùng; Dâm bụt: giã đắp mụn nhọt; Khế (dương đào): chữa lỡ
sơn, dị ứng, lỡ loét, xông và tắm; Mù u: nhựa tán thành bột rắc các vết thương lở
loét, mụn nhọt, tai có mủ. Dầu mù u trị ghẻ, bệnh ngoài da; Thuốc bỏng (trường
sinh, thổ tam thất): chữa bỏng, cầm máu, đắp vết thương, đắp mắt đau, giải độc;
Thuốc giấu (dương san hô): dùng cây tươi cầm máu; Trầu không: trị lở loét, vết
châm, mụn nhọt; Bạc hà: chữa cảm, sốt, nhức đầu, ngạt mũi, ăn không tiêu, đi ngoài,
thuốc nôn, tiêu hóa, cảm mạo, nhức đầu; Cây cối xay (nhĩ hương thảo): lá giã đắp

33.7 Page 327

▲back to top


mụn nhọt, chữa sốt; Hành: chữa cảm mạo, nhức đầu, mụn nhọt, động thai; Kinh giới:
chữa cảm nóng, ngã ngất, cảm cúm, phụ nữ băng huyết; Dây ký ninh (thuốc sốt rét,
dây thần thông, bảo cự hành): trị sốt rét, rửa vết lở loét; Cỏ mần trầu: chữa sốt rét,
mát gan, chữa huyết áp cao; Mãng cầu ta: lá nấu uống chữa sốt rét, hạt tán nhỏ trừ
chấy rận; Sắn dây: chữa cảm mạo rất tốt; Tía tô: an thai, chữa ho, trừ đờm, chữa
ngoại cảm, ngộ độc cua, cá; Húng quế (é tía): hạt ăn mát, chống táo bón, chữa đau
dạ dày, thông tiểu, sâu răng; Ngâu: Ngoài việc để ướp chè thơm còn dùng lá ngâu
chữa sốt, vàng da, tắm ghẻ; Cây từ bi (đại bi): lá và cành non dùng làm thuốc chữa
cảm sốt dưới dạng xông hay sắc uống, còn giúp tiêu hóa, chữa lỵ, chế ra băng phiến;
1.2.11. Các chng bnh thông thường được xếp vào 7 bnh chng và đơn thuốc để
điu trthích hp bng các vthuc và cây thuc Nam:
1) Giải cảm, bệnh ở phần biểu cần phát hãn, thanh nhiệt: Bát cháo nóng có
hành, tiêu, gừng lòng đỏ trứng ít muối... Ăn xong đắp chăn cho ra mồ hôi.
Thuốc uống trong toa gồm: bạc hà, kinh giới, tía tô, gừng tươi, hương nhu,
cúc hoa vàng, cam thảo. Sắc uống nóng, đắp chăn cho mồ hôi ra.
2) Ho, viêm họng, nóng: Rau đắng, húng chanh, tía tô, vỏ quýt, cam thảo,
bạc hà sắc uống.
3) Điều kinh, đau bụng kinh: Cỏ cú - ích mẫu, ngãi diệp sắc uống.
4) Kiết lỵ: Cỏ sữa, mơ tam khế, rau sam, sắc uống
5) Tiêu chảy: Hoắc hương, đọt ổi, rau má, vỏ măng cụt, sắc uống. Cần nấu
nước gạo rang ít muối, uống để chống cơ thể bị mất nước
6) Tiêu độc lở ngứa ngoài da: Kim ngân hoa, kinh giới, ké đầu ngựa, sài đất,
sắc uống. Ngoài rửa bằng nước sắc nghệ, kinh giới, phèn chua.
7) Phong thấp, khớp: Cỏ xước, ké đầu ngựa, lá lốt, hà thủ ô, thiên niên kiện,
cốt toái bổ, cam thảo, sắc uống
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y HỌC HIỆN ĐẠI
1. Sxâm nhp ca Tây y thi thc dân Pháp (1861 - 1954):
Ngay từ ngày đầu kéo quân xâm lược mảnh đất Biên Hòa - Đồng Nai,
thực dân Pháp đã nghĩ đến việc xây dựng bệnh viện với mục đích phục vụ cho quân
đội viễn chinh Pháp trong cuộc chiến chống lại quân Triều đình nhà Nguyễn. Có thể
nói, Tây y đã xâm nhập vào đất Biên Hòa khá sớm cùng với gót giày kẻ xâm lược.
Tất nhiên, trước đó, các cố đạo người Châu Âu trong quá trình tiếp cận giảng đạo đã
mang theo thuốc men và phương pháp chữa trị theo Tây y đến xứ Biên Hòa

33.8 Page 328

▲back to top


(177[16]). Nhưng chưa bao giờ trên mảnh đất này có một bệnh viện với quy mô lớn
tương đương 100 giường bệnh. Trong cuốn sách "Sơ lược lịch sử chinh phục các
tỉnh Nam kì" có in một bức thư và đó cũng là một báo cáo của đô đốc Bonard - người
chỉ huy trận đánh chiếm thành Biên Hòa - gởi Bộ trưởng (Hải Quân) Pháp. Bức thư
nói rõ về việc người Pháp xây dựng "nhà thương 100 giường tại Biên Hòa" sau trận
đánh thất thủ đồn Mỹ Hòa (178[17]) và chiếm thành Biên Hòa cuối năm 1861.
Ngày 9 tháng 5 năm 1862, Triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước Nhâm
Tuất nhượng đứt cho thực dân Pháp 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Tỉnh
Biên Hòa lúc bấy giờ có 2 phủ 4 huyện với tổng dân số là 31.381 người. Vùng đất
Biên Hòa trở thành một trong những địa phương ở Nam kỳ được thực dân Pháp đặc
biệt chú ý khi chúng tiến hành khai thác thuộc địa ở lãnh thổ này.
Hệ thống hành chính của thực dân Pháp lúc đầu chưa đầy đủ, chủ yếu
là do quân đội quản lý ở cấp tỉnh. Tại các huyện và các tổng vẫn do quan lại người
Việt phụ trách dưới sự "cố vấn" của các sĩ quan người Pháp. Các sĩ quan Pháp giao
việc trông coi y tế cho các hương quan kiêm nhiệm trong mỗi làng. Vào năm 1878,
tại Biên Hòa, người Pháp đã xây dựng một Trạm quân y và một bệnh viện nhỏ. Bệnh
viện có 8 giường bệnh phục vụ cho quan chức và quân đội Pháp. Cơ sở này có 28
người Âu và 2 dì phước người bản địa phụ trách. Ngày 25 - 8 - 1903, Toàn quyền
Đông Dương ra nghị định thành lập Trường Y tế thực hành bản xứ ở Nam kỳ để đào
tạo y tá và nữ hộ sinh người Việt để đáp ứng yêu cầu lập các trạm xá ở xã hay liên
xã. Đến 1924, người Pháp xây dựng thêm ở Biên Hòa một nhà hộ sinh và nâng cấp
bệnh viện cũ, 2 cơ sở này đều do một bác sỹ người Pháp làm giám đốc với các y sĩ
người bản xứ phục vụ. Cũng thời gian này, người Pháp bắt đầu xây dựng nhà thương
Long Thành và một nhà thương ở An Bình (thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay)
Mãi đến sau năm 1950, hệ thống y tế của chính quyền thực dân mới có quan
phụ trách y tế người Việt (179[18]). Các bác sĩ người Pháp chủ yếu phục vụ cho
(177[16]) Xem thêm: Xứ Đàng ngoài 1621 ca Christophoro Borri, Nxb. thành phHChí Minh, 1998.
(178[17]) MHòa nm khong gia thành phHChí Minh và Biên Hòa ngày nay, theo GS. Nguyn Phan
Quang, thì MHòa khu vc sui Lồ Ồ ngày nay.
(179[18]) Theo Cù Lao Ph: lch sử và văn hóa, nhiu tác giả, Nxb. Đồng Nai, 1997: Mãi đến năm 1904, Thống đốc
Nam Kquyết định ngày 27 - 8 - 1904 mi Ban Hi Tgồm 11 người: Hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương
trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương quản, Hương bộ, Hương thân, Xã trưởng hay Thôn trưởng, Hương hào.
Đến ngày 30 - 10 - 1927 có Nghị định ca Toàn quyền Đông Dương, qui định Ban hi tề có 12 người: Hương cả
hay Đại hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương quản, Hương bộ hay
Thbộ, Hương thân, Xã trưởng hay Thôn trưởng, Chánh lc b. Và đến năm 1944 Toàn quyền Đông Dương qui
định thành phn Ban hi tlà những người: Điền ch, có gia sn, có bằng cao đẳng tiu hc, công chc thuc ngch
trung đã nghỉ hưu, cùng tư chức, quân nhân hồi hưu hay giải ngũ, với cp bc ít nhất là trung sĩ hay có huy chương
quân s. Thành phn Ban hi tvẫn 12 người (thêm Phó lc bộ). Ngoài hương chức hi tề, còn có hương chức hi
hương. Sau 1950, hành chánh cp tnh là dân sự: trong đó có 5 tham biện người Pháp và 3 tỉnh trưởng người Vit do
Pháp đưa lên. Bấy gi, Ban hi txã trong vùng Pháp chiếm đóng được đổi tên Hội đồng hương chánh gồm 11

33.9 Page 329

▲back to top


quân đội. Việc chăm sóc sức khỏe nhân dân bấy giờ chủ yếu vẫn dựa Đông y, những
kinh nghiệm dân gian trong phòng chữa bệnh.
Hơn nửa thế kỷ sau ngày xâm lược Biên Hòa - Đồng Nai, người Pháp
tiếp tục xây dựng một bệnh viện chữa trị người điên tại Biên Hòa (1914) và sau đó
là Bệnh viện Biên Hòa (1939) và Bệnh viện An Lộc (nay thuộc Công ty cao su Đồng
Nai) (1938) với mục đích chữa trị và hộ sinh cho nhân viên của người Pháp, nhân
viên và công nhân của người Việt làm cho Pháp. Khoảng đầu thế kỷ XX, hệ thống
y tế ở Biên Hòa do người Pháp quản lý có thêm một cán bộ y tế người Pháp và chủ
yếu là thầy thuốc người Việt (180[19]).
Y tế các đồn đin cao su:
Đầu thế kỷ XX, cây cao su ra đời trên đất Đồng Nai cùng với những
đồn điền cao su. Đồn điền xuất hiện đầu tiên là Suzannah. Rồi sau đó là hàng loạt
đồn điền cao su khác như Dầu Giây, An Lộc, Bình Lộc, Ông Quế, Long Thành, Túc
Trưng, Hàng Gòn, Cẩm Mỹ cũng lần lượt ra đời. Quá trình tiến hành công việc kinh
doanh mở mang nông nghiệp, ngoài việc trồng cây cao su còn có cây cà phê. Tổng
số gốc cà phê đầu tiên được trồng khoảng 100.000 gốc, tập trung ở xã Long Bình
(nay là Long Bình Tân) lên đến Vĩnh Cửu. Việc mở ra các đồn điền của thực dân
này đã kéo theo việc mộ phu người bản xứ bởi lực lượng nhân công tại chỗ không
đủ. Bấy giờ tỉnh Biên Hòa có khoảng 100.000 dân.
Hàng trăm ngàn người dân miền Bắc, miền Trung được mộ vào Đồng Nai
làm phu cao su (gọi là dân contrat) sống trong những điều kiện hết sức kham khổ,
họ phải làm việc và sống trong những khu vực đầy mầm bệnh sốt rét. Đầu năm 1905,
Girard - Giám đốc đồn điền cao su Suzannah, xây dựng một trại y tế ngay cạnh ga
Dầu Giây để chữa bệnh sốt rét, nhưng thuốc men quá thiếu và người dân contrat bị
tử vong vì sốt rét ngày càng cao. "Trẻ em lá lách sưng phồng, đại đa số cu li có màu
da xỉn như đất" - tác giả cuốn sách "Ainsi la SIPH vint au monde" - Arnaud de
Voguei kể lại. Bấy giờ các giám đốc đồn điền áp dụng biện pháp trừ sốt rét cho công
nhân bằng ký ninh: "Vào lúc điểm danh cu li buổi sớm trước khi mặt trời mọc một
chút, người ta bắt mỗi cu li uống một chén nước kí ninh, thứ thuốc nước đặc biệt
người: Chtch, Phó chtch, Tổng thư ký, Các y viên: Giáo dc, Y tế, Htch, Cnh sát (không còn gọi là Hương
qun), Tài chánh, Thuế v, Công chánh và Canh nông.
(180[19]) Địa chí Biên Hòa 1924 viết rõ: "Ngành y tế được giao cho mt thy thuốc người Pháp, được mt thy
thuc bn xphgiúp. tnh lỵ đã đặt mt bnh xá và mt nhà hsinh có một đội ngũ y tá và cô mụ. Đồn núi
Cha Chan có mt y tá bn xbit phái. Mt bnh xá slp An Bình và mt cái dự định Long Thành. Cách
Bình Trước vài km, trên mt thửa đất rộng đã lập một dưỡng đường cho bnh nhân tâm thần chung cho Đông
Dương, cho đến giai đoạn sp ti thiết lp một cơ sở tương tự shoạt động Bc k- nhà thương vôi ở tnh Bc
Giang."

33.10 Page 330

▲back to top


lợm giọng, người Âu có mặt phải ngăn họ khạc nhổ " (181[20]). Chi tiết này cho
thấy khá rõ việc người Pháp đã đưa Tây y vào phục vụ người dân công tra ở tỉnh
Biên Hòa bằng việc phòng chống sốt rét bằng ký ninh và diệt muỗi.
Vào năm 1925, hàng ngàn gia đình mộ phu, cu li từ miền Bắc - nhiều
người mang theo cả gia đình - được đưa liên tục vào Biên Hòa - Đồng Nai theo từng
nhóm để khai phá rừng. Mỗi người trong số họ được làm một bản giao kèo (contrat),
trong đó ghi những điều kiện làm việc qui định chi tiết. Và trong bản giao kèo ấy có
sự ràng buộc: được chăm sóc y tế cần thiết. Thế nhưng, các ông chủ thực dân vẫn
không bảo đảm lời cam kết cho nên dịch sốt rét vẫn hoành hành và gây tử vong cao
cho người công nhân:
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy từng
Tỷ lệ tử vong cao gây thiệt hại cho bọn chủ đồn điền. Vì thế người Pháp
quyết định xây dựng một trung tâm y tế đặt ở An Lộc để vừa tăng cường giám sát y
tế, phòng và chống sốt rét trên các đồn điền vừa phối hợp chữa các bệnh khác. Phụ
trách bệnh viện này là một thầy thuốc người Pháp "có kinh nghiệm về các bệnh nhiệt
đới chính, hàng đầu là bệnh sốt rét". Bệnh viện này được mô tả: "năm chái tầng trệt
có hình thuôn dài, ngăn bằng vải và chái nọ nối chái kia bằng lối thông có mái che.
Mỗi căn có công năng riêng: căn hộ sinh, căn cho người nhiễm sốt rét, căn cho
người bị thương khác nhau, căn cuối để xử lí các bệnh phổi thường xảy ra vào vài
mùa hàng năm. Ngoài ra cũng có một nơi để mổ, nơi phát thuốc, phòng tiếp nhận
và phân loại con bệnh tới, và văn phòng bác sĩ Vieron - nổi tiếng trong tập đoàn
SIPH vì các nghiên cứu về các thương tật cuả người Việt Nam do bệnh ghẻ cóc, ghẻ
hờm trứ danh gặm nhấm chi dưới của cu li quá quen đi chân trần (chân đất), đôi khi
lây lan như một bệnh dịch vì chữa trị chống lại không kịp thời. Việc xây cất tổng thể
quan trọng này được thực hiện vào mùa đông năm 1938 - 1939 nhưng chỉ hoàn toàn
xong xuôi mười tám tháng sau". (182[21])
Nhà thương điên Biên Hòa (183[22]):
Đây là cơ sở y tế đầu tiên có quy mô lớn được xây dựng trên đất Biên
Hòa nằm trên quốc lộ 1, cách trung tâm thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai khoảng
4 cây số về hướng Đông Bắc, khuôn viên của toàn bệnh viện có diện tích khoảng 22
ha nằm trên vùng đất cao hơn so với khu trung tâm thành phố Biên Hòa. Chính quyền
thuộc địa Pháp bắt đầu việc xây cất, đặt viên đá đầu tiên vào ngày 17 - 3 - 1915. Việc
(181[20]) Ainsi la SIPH vint au monde ca Arnaud de Voguei. Bn dch ca Nguyn Yên Tri.
(182[21]) Ainsi la SIPH vint au monde, sđd.
(183[22]) Dẫn theo tư liệu Kyếu 80 năm thành lập và phát trin Bnh vin tâm thn Biên Hòa 1915 - 1995, Nxb.
Đồng Nai, 1995.

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


xây cất hoàn thành ngày 16 - 9 - 1916 và tiếp nhận người bệnh đầu tiên ngày 21 - 1
- 1919.
Lúc mới thành lập, cơ sở này có tên gọi là Asile d' alienes de Bien Hoa
(Trại người điên Biên Hòa, nhân dân thường gọi là Nhà thương điên Biên Hòa). Thời
kỳ này, nơi đây giống như một Trú xá của người điên vì chỉ nhận quản lý người điên
tránh việc họ gây rối xã hội. Sau đó cơ sở được đổi tên Hôpital psychiatrique de
Cochichine (Dưỡng trí viện Nam kỳ) và được chuyển qua hình thức tổ chức của một
bệnh viện với mục đích điều trị. Năm 1945, trong giai đoạn Việt Minh nắm chính
quyền, Dưỡng trí viện Biên Hòa được gọi tên là Dưỡng trí đường Biên Hòa (Theo
văn bản số 3231 VM ngày 12 - 10 - 1945 do đồng chí Hoàng Minh Châu ký) và
Dưỡng trí đường Trần Phú (văn bản số 400 VM ngày 18 - 10 - 1945 do đồng chí
Hoàng Minh Châu ký). Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, chính
quyền thực dân đổi tên cơ sở này thành Hôpital psychiatrique du Sud Vietnam à
Bien Hoa (Dưỡng trí viện miền Nam Việt Nam tại Biên Hòa). Thời kỳ 1918 - 1945,
Nhà thương điên Biên Hòa có 15 tòa nhà được gọi chung là Trại nuôi bệnh gồm:
Nhà quan quản lý, nhà quan lương y An Nam, nhà các thầy điều dưỡng, nhà các viên
gác - dan, nhà tắm, nhà bếp, chuồng ngựa, chuồng bò, chuồng heo, nhà người đánh
xe, trại thợ mộc, kho thuốc... Việc chữa trị có sự phân biệt giữa người bệnh nước
ngoài (chủ yếu là người Pháp) và người Việt Nam: Người bệnh nước ngoài có chỗ
ăn ở sung sướng với tiêu chuẩn cao, người bệnh Việt Nam lại chia làm hai hạng:
Hạng có trả tiền được ăn uống khá hơn hạng không trả tiền (hạng thí). Tất cả người
bệnh phải mặc quần áo riêng của nhà thương, có người giặt giũ. Người bệnh tỉnh
được cho đi làm rẫy, làm ruộng hoặc giúp đỡ nhà bếp cùng làm các việc lặt vặt khác.
Thân nhân tới thăm có giờ giấc quy định và theo sự hướng dẫn của người có trách
nhiệm. Năm 1930, Nhà thương điên Biên Hòa xây cất thêm 4 trại bệnh và năm 1945
lại xây thêm 9 trại nữa để nhận số người bệnh đến điều trị ngày một đông hơn
(khoảng 600 người bệnh vào thời điểm này).
Thời kỳ 1945 - 1954, đây là thời kỳ Dưỡng trí viện gặp nhiều khó khăn,
hòa bình lập lại sau Cách mạng tháng Tám 1945 quá ngắn ngủi, tháng 10 - 1945,
Pháp núp sau quân Anh, Ấn tái chiếm Biên Hòa và đàn áp những cơ sở cách mạng,
những người nuôi giấu cán bộ chiến sĩ trong bệnh viện rất dã man. Tháng 9 - 1946,
Pháp tái lập chính quyền. Dưỡng trí viện Biên Hòa hầu như bị bỏ quên, mất liên lạc,
không được tiếp tế trong một thời gian. Theo lời kêu gọi của Xứ ủy Nam kỳ, nhiều
nhân viên nghỉ việc gia nhập phong trào Việt Minh. Dưỡng trí viện luôn bị kiểm soát
gắt gao bởi phòng nhì và công an. Một số nhân viên bị bắt điều tra, trong đó có con
trai của bác sĩ Hoài là Nguyễn Văn T. Tuy vậy, bác sĩ Nguyễn Văn Hoài cùng nhân
viên Dưỡng trí viện đã cùng nhau vượt qua các khó khăn, vừa tự sản xuất lương thực
vừa lo việc điều trị cho người bệnh.

34.2 Page 332

▲back to top


Giai đoạn này, tổ chức của Dưỡng trí viện có nhiều thay đổi. Các khu
trại được thay đổi để phân loại bệnh nhân hợp lý hơn. Phương pháp chữa trị cũng có
nhiều thay đổi về chất. Trước 1930, cơ sở này được xây dựng như một trại giam với
mục đích thu gom quản lý người bệnh tâm thần. Kỹ thuật quản lý sử dụng những
buồng con cách ly để giam nhốt và áo bó để cố định người bệnh. Sau 1930, hoạt
động của bệnh viện gắn liền với tên tuổi của bác sĩ Nguyễn Văn Hoài. Những kỹ
thuật điều trị cũ như cách ly người bệnh, dùng áo bó... vẫn được sử dụng. Một số kỹ
thuật khác được dùng để giải quyết những trường hợp người bệnh kích động như:
tạt nước, tiêm thuốc gây áp xe. Nhưng điểm nổi bật trong thời gian này là sử dụng
liệu pháp sốc điện (electrochoc). Bấy giờ, trên thế giới chỉ có 3 nơi có máy sốc điện
là Rome, Alger và Fukuyoka. Bác sĩ Hoài và bác sĩ Dorolle đã dành 2 năm nghiên
cứu theo y văn và nguyên lý máy sốc điện để tự chế tạo máy (từ 1939 - 1941). Công
trình này được công bố trong tạp chí Médicale Francaise ngày 4 - 4 - 1942.
Về liệu pháp hóa dược, thời gian này chưa có thuốc Aminazine. Thuốc
được sử dụng chủ yếu là Reserpine. Liệu pháp hoạt động (Therapeutique
occupationnelle) được đẩy mạnh nhất là từ khi bác sĩ Hoài trở thành Giám đốc. Ông
chủ trương: người bệnh biết nghề gì thì tập lại cho họ nghề ấy, đổi nghề mới hay học
nghề mới. Những hình thức đã được áp dụng là: làm ruộng rẫy, chăn nuôi, lập xưởng
thợ với các nghề như: mộc, nguội, rèn, may, đóng sách..., nhà máy xay lúa và các
hình thức lao động phục vụ sinh hoạt như: làm việc ở nhà bếp, nhà giặt, làm bồi, làm
bếp, giữ nhà, trông nom con cái cho cán bộ nhân viên. Người bệnh lao động được
trả công mỗi ngày 2 xu (để ăn quà bánh hoặc làm lộ phí khi ra viện).
Hiện nay, trong kho lưu trữ của bệnh viện vẫn còn đầy đủ các hồ sơ
bệnh án. Bệnh nhân tâm thần đầu tiên đến nhập viện ngày 21 - 1 - 1919 là bà Nguyễn
Thị Điều, 35 tuổi, sinh năm 1884 tại làng Thới An, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Hồ
sơ lưu còn cả ảnh chụp người bệnh với số hiệu in trên đồng phục "Biên Hòa - 1".
Bệnh nhân này đã ở tròn suốt 36 năm và qua đời tại đây. Hồ sơ bệnh án của bệnh
nhân Nguyễn Thị Điều cho thấy: Sau khi bà phát bệnh, làng đã làm đơn gởi lên quan
huyện rõ để đưa bà vào nhà thương điên. Trong đơn viết tay của làng có sự điểm chỉ
của người mẹ tên Nguyễn Thị Có, 77 tuổi và các vị hương chức của làng cũng ký
tên đầy đủ để trình bẩm quan huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ ngày 18 - 10 - 1918. Ngày
24 - 10 - 1918, chính quyền Cần Thơ gởi bản phúc trình cho quan Toàn quyền Đông
Dương tại Sài Gòn để điều trần sự việc Nguyễn Thị Điều bị điên và bà được gởi vào
Bệnh viện Cần Thơ. Tiếp đó ngày 1 - 3 - 1919, hương quản làng Thới Thạnh, tổng
Thới Bảo, huyện Ô Môn gởi đến tỉnh trưởng Cần Thơ bản báo cáo chi tiết về sự việc
của Nguyễn Thị Điều. Ngày 10 - 1 - 1919, bệnh nhân này được đưa từ bệnh viện
Cần Thơ về Bệnh viện Chợ Quán (Sài Gòn). Sau 10 ngày được các thầy thuốc khoa
thần kinh Bệnh viện Chợ Quán khám nghiệm và theo dõi, cuối cùng ngày 20 - 1 -
1919, bệnh nhân Nguyễn Thị Điều được ký giấy chuyển về Nhà thương điên Biên

34.3 Page 333

▲back to top


Hòa để điều trị lâu dài. Sau khi nhận người bệnh đầu tiên này, giám đốc trại lúc đó
là bác sĩ Pujat đã gởi một bản thông báo cho tỉnh trưởng Biên Hòa và tỉnh trưởng
Cần Thơ rõ sự việc. Ngày 22 - 2 - 1919, tỉnh trưởng Cần Thơ đã gởi một bản phúc
đáp để trại nắm rõ về gia cảnh và bệnh tình của Nguyễn Thị Điều lúc còn ở quê nhà
để bệnh viện tiện bề liên lạc và theo dõi điều trị bệnh.
II.2. Y tế kháng chiến:
II.2.1. Thi chng Pháp (1945 - 1954:
Sau Cách mạng tháng Tám, hưởng ứng lời kêu gọi của Xứ ủy và Ủy
ban kháng chiến Nam bộ, với khí thế cách mạng sục sôi, các nhân viên y tế ở các
bệnh viện Sài Gòn, ở Biên Hòa đã hăng hái gia nhập hàng ngũ lực lượng tự vệ nhân
dân chiến đấu chống giặc. Trong số này có nhiều nhân sĩ trí thức danh tiếng, đặc biệt
có bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, bác sĩ Trần Nam Hưng (184[23]). Đây là đội ngũ cốt
cán trong hệ thống y tế kháng chiến bấy giờ ở Nam bộ nói chung và khu vực Biên
Hòa - Đồng Nai nói riêng. Lực lượng trí thức, nhân viên y tế này đã tổ chức ra các
tổ cứu chữa, bảo vệ thương binh, bảo vệ thuốc men, y cụ và chuyển ra cho các mặt
trận chiến đấu.
Ngay trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tại Nam
bộ đã có tổ chức Sở Y tế quân - dân Nam bộ. Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng được Ủy
ban kháng chiến hành chánh Nam bộ bổ nhiệm làm Giám đốc Sở y tế quân - dân
Nam bộ. Bác sĩ Hồ Văn Huê nhận nhiệm vụ quân y vụ trưởng Khu 7. Số quân y và
dân y các tỉnh, huyện đều sáp nhập thành một đầu mối để đủ khả năng phục vụ cho
bộ đội và cho nhân dân chiến đấu, sản xuất.
Tháng 7 năm 1947, Tỉnh ủy Biên Hòa đã triệu tập hội nghị cán bộ Đảng
toàn tỉnh lần thứ II tại Mỹ Lộc (Tân Uyên). Hội nghị đã kiểm điểm phong trào địa
phương từ khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến và thành lập một số cơ quan
chuyên môn trong đó có Ty y tế do bác sĩ Võ Cương, Trưởng ty kiêm Trưởng Ban
quân y Chi đội 10.
Ty y tế kết hợp với các ban ngành, đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên
truyền phòng chống các bệnh. Việc ăn chín, uống chín, ngủ mùng, làm vệ sinh khu
vực doanh trại, cơ quan, nơi ở nhân dân trở thành việc thường xuyên hằng ngày.
(185[24])
Đáp ứng yêu cầu cứu chữa thương bệnh binh trên chiến trường miền
Đông, theo sự chỉ đạo của Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu 7, Quân y vụ Khu 7 đã xây
(184[23]) Bác sĩ Trần Nam Hưng nguyên là trung úy quân y của quân đội Pháp.
(185[24]) Lch sử Đảng bộ Đảng Cng sn Vit Nam tỉnh Đồng Nai, tập I, Nxb, Đồng Nai, trang 48 - 49.

34.4 Page 334

▲back to top


dựng các quân y viện khu vực. Các quân y viện này đứng chân ở các tỉnh, làm nhiệm
vụ cứu chữa, điều trị cho các lực lượng của khu và địa phương nơi đứng chân.
Chiến trường Miền Đông Nam bộ có tất cả 7 quân y viện khu vực
(186[25]). Trên địa bàn Biên Hòa bấy giờ, có 2 quân y viện đứng chân. Đó là quân
y viện số 5 do bác sĩ Võ Cương làm viện trưởng đóng ở Suối Cát, chiến khu Đ (Biên
Hòa) và quân y viện số 7 do bác sĩ Nguyễn An Trạch làm viện trưởng liên chi Bình
Xuyên đóng ở Rừng Sác, Nhơn Trạch. Mỗi quân y viện khu vực ban đầu chỉ có 5, 6
người. Ngoài viện trưởng là bác sĩ, còn lại là các y tá từng làm việc trong các bệnh
viện Chợ Rẫy, Bà Chiểu, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa.
Tại Nhà thương điên Biên Hòa (Dưỡng trí viện), đồng chí Phạm Văn
Phụng, cán bộ Việt Minh quận Châu Thành, qua anh Nguyễn Văn Trừ đã gây dựng
được nhiều cơ sở kháng chiến, trong đó có bác sĩ Giám đốc Nguyễn Văn Hoài. Cán
bộ, nhân viên bệnh viện đã chuyển tiền, thuốc men, dụng cụ y tế ra ủng hộ kháng
chiến. Nhiều lần địch truy đuổi cán bộ kháng chiến, cơ sở bệnh viện đã che giấu và
tìm cách đưa về căn cứ an toàn.
Hoạt động y tế trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp hết sức
khó khăn. Ban quân y các tiểu đoàn chủ lực tỉnh có khoảng 3 đến 5 y tá cứu thương,
do một y tá trưởng phụ trách. Biên chế mỗi đại đội một y tá, mỗi trung đội một cứu
thương. Tiểu đoàn đều có một đội phẫu thuật cơ động phục vụ khi tác chiến cấp tiểu
đoàn hoặc cấp đại đội tăng cường. Đội phẫu thuật tiểu đoàn thường phải xử trí mở
rộng, trang bị một bộ trung phẫu thiếu, được cung cấp các loại thuốc cấp cứu hồi sức
(rất hiếm dịch truyền), một số kháng sinh, thuốc gây tê và gây mê Chloroforme hoặc
ête. Các bác sĩ ngoại khoa đã áp dụng phương pháp điều trị vết thương chiến tranh
(theo phương pháp ở các bệnh viện quân y Pháp) bằng cách băng bó bột kín vết
thương gãy xương chân, tay đem lại kết quả tốt, mở ra phương hướng mới trong điều
trị vết thương gãy xương tay chân lúc bấy giờ. Phương pháp bó bột kín để từ 7 đến
10 ngày mới thay băng một lần có tác dụng để vết thương mau lành hơn thay hàng
ngày. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm: vì để lâu thay băng, ở vết
thương có nước vàng rỉ ra bốc mùi hôi thối, khó chịu cho thương binh.
Quân y tỉnh đội có tổ bào chế làm nhiệm vụ pha chế một số thuốc tiêm
như quinine các loại và sản xuất thuốc đông y bằng các cây thuốc sẵn có trong rừng.
Thuốc tiêm đựng vào lọ pénicilline có các thuốc như: Cacodylat de soude, strycnin,
(186[25])
Quân y vin số 1 do bác sĩ Hồ Văn Huê làm viện trưởng đóng ở Kinh Xáng, Hội Đồng Sm; Quân
y vin số 2 do bác sĩ Trần Nam Hưng làm viện trưởng đóng ở Ging Dinh (Ging Si) trên mt gò nổi và thường
gi là "Giồng nhà thương" ; Quân y viện số 3 do bác sĩ Nguyễn Văn Hoa từ chi đội 15 qua làm viện trưởng đóng ở
Lc An (Bà Ra); Quân y vin số 4, do bác sĩ Trần Quang Quá làm viện trưởng đóng ở căn cứ An Phú Đông (Gia
Định) ; Quân y vin số 5 do bác sĩ Võ Cương làm viện trưởng đóng ở Sui Cát, chiến khu Đ (Biên Hòa) ; Quân y
vin số 6, do bác sĩ Huỳnh Bá Nhung làm viện trưởng đóng ở Đức Hòa (ChLn) ; Quân y vin số 7, do bác sĩ
Nguyn An Trch làm viện trưởng liên chi Bình Xuyên đóng ở Rng Sác Long Thành (Biên Hòa) ;

34.5 Page 335

▲back to top


sinh tố B1 dung dịch quinine tiêm phát cho các đơn vị bằng chai 500 ml. Các loại
thuốc viên thông dụng là viên quinine do tổ dược sản xuất. Thuốc đông y có các loại
điều trị sốt rét như viên kinita làm bằng dây thần thông (dây cóc) và cây thường sơn,
viên thuốc ho từ vỏ quýt, viên lỏng lỵ, viên nút áo, lá lấu... Cơ sở sản xuất thuốc
đông y rất đơn giản, chỉ có thuyền tán thuốc, sản xuất thuốc viên lúc đầu chỉ vò viên
bằng tay hoặc sàng lắc viên tròn. Qua quá trình sản xuất các dược tá đã nghiên cứu
làm được dụng cụ dập viên bằng vỏ đạn súng trường, làm được viên dẹp năng suất
cao hơn.
Thuốc quinine loại dung dịch thường phải tiêm bằng đường tĩnh mạch.
Người bệnh sốt rét phải chịu đựng các hậu quả tai biến do tiêm thuốc như dễ bị gây
phản ứng thuốc, buốt tĩnh mạch, chai cứng tĩnh mạch sau nhiều lần tiêm. Nếu tiêm
tĩnh mạch dễ bị áp xe vì khó bảo đảm vô trùng khi pha chế hoặc khi thao tác tiêm;
mặc khác do tiêm nhiều lần gây xơ chai bắp thịt vùng tiêm. Tình hình thuốc men kể
cả các loại thuốc chủ yếu về điều trị sốt rét, điều trị vết thương, bông băng rất thiếu,
nhất là ở vùng sâu trong căn cứ. Có nhiều nơi gạc băng vết thương phải dùng lại
nhiều lần bằng cách ngâm nước tro lắng trong rồi đun nấu giặt lại vì cả xà bông cũng
không có kinh phí để mua. Nhiều lúc sau khi giặt có những băng gạc do băng vết
thương nhiễm trùng mủ nhiều trước đó, ngửi vẫn còn mùi thối.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn nhiều mặt, hoạt động của các quân y viện,
quân y xá, việc điều trị, nuôi dưỡng thương bệnh binh càng khó khăn. Cán bộ chiến
sĩ quân y đã nêu cao quyết tâm kháng chiến, đạo đức người thầy thuốc cách mạng
nỗ lực khắc phục khó khăn, chủ động tìm tòi cách cứu chữa anh em thương bệnh
binh có hiệu quả, sản xuất tự túc nuôi dưỡng thương bệnh binh, bám sát phục vụ các
đơn vị chiến đấu.
Từ tháng 6 năm 1950 trở đi, cuộc kháng chiến của quân và dân Biên Hòa
bước vào giai đoạn khó khăn. Các đường giao thông bị địch phong tỏa và kiểm soát
chặt chẽ. Quân y viện Khu 7 được thành lập và xây dựng tại xã Tân Dân (Suối Sâu)
thuộc huyện Tân Uyên (Biên Hòa) do bác sĩ Võ Cương làm viện trưởng. Bệnh viện
có khả năng thu dung từ 100 đến 200 giường có đủ khoa nội, khoa ngoại, khoa dược,
là cơ sở điều trị có khả năng kỹ thuật cao ở miền Đông. Tuy phương tiện trang bị
chưa đủ nhưng quân y viện nhờ có nhân viên giỏi chuyên môn nên đã tập trung khả
năng điều trị, giải quyết tốt nhiều trường hợp thương binh nặng.
Cũng thời gian này, dược sĩ Hồ Thu và dược sĩ Phạm Thị Yến từ Sài Gòn ra
chiến khu, về phòng bào chế Phân liên khu miền Đông. Nhờ cơ sở bào chế và cửa
hàng thuốc của 2 dược sĩ ở Sài Gòn (đầu mối thu mua thuốc và tổ chức đưa vào
chiến khu) đã bảo đảm cung cấp một phần đáng kể nguồn thuốc, trang bị y tế cho
ngành quân y. Hai dược sĩ đã cùng với các dược tá nghiên cứu phát triển sản xuất,
pha chế nhiều loại thuốc tây y và đông y phục vụ nhu cầu điều trị cho bộ đội và nhân

34.6 Page 336

▲back to top


dân. Đến cuối năm 1951, dược sĩ Hồ Thu về bộ phận dược của quân y viện Thủ Biên
đóng tại bến Chang Chang (chiến khu Đ), giúp xây dựng tổ bào chế của quân y tỉnh.
Trong thời gian này bệnh sốt rét đang phát triển ở các đơn vị miền
Đông, nhưng thuốc lại thiếu, nhiều nơi điều trị không cắt được cơn. Bộ Tư lệnh Phân
liên khu miền Đông đã yêu cầu ngành quân y nghiên cứu phương thức điều trị làm
giảm bệnh sốt rét xuống. Cuối năm 1951, phòng quân y Phân liên khu tổ chức hội
nghị để kiểm điểm tình hình sốt rét phát triển và đề ra biện pháp hạ thấp số người
mắc bệnh. Hầu hết các đơn vị quân - dân y trong Phân liên khu đã về dự. Tại hội
nghị, bác sĩ Trần Nam Hưng đã quán triệt chủ trương điều trị bằng đông y của Sở y
tế quân dân Nam bộ và đề ra phương pháp điều trị kết hợp đông - tây y đối với bệnh
sốt rét, kết hợp với nuôi dưỡng làm tăng sức chống đỡ của cơ thể để tăng hiệu quả
điều trị của quinine. Bằng phương pháp điều trị này, tình hình bệnh sốt rét ở các đơn
vị giảm xuống, góp phần đắc lực cho chiến đấu và động viên mạnh mẽ tinh thần anh
chị em quân y.
Phong trào chữa bệnh bằng thuốc Nam được đẩy mạnh với khẩu hiệu "Dùng
thuốc nam là yêu nước, là đấu tranh kinh tế với địch". Nhiều mặt hàng thuốc đông y
được sản xuất như thuốc chữa sốt rét có viên kinita, thuốc chữa ho viên và nước,
thuốc bổ, thuốc chữa ghẻ... có hình thức đẹp, chất lượng tốt.
Đặc biệt từ năm 1952 trở đi, phương pháp trị liệu cấy philatốp do bác
sĩ Nguyễn Thiện Thành nghiên cứu sản xuất áp dụng ở miền Tây Nam bộ cũng được
phổ biến đến Phân liên khu miền Đông, Biên Hòa. Các quân y viện tỉnh đã sản xuất
được và phổ biến rộng khắp nhiều địa phương, điều trị có hiệu quả. Kết quả điều trị
bằng phương pháp Philatốp trong vùng kháng chiến đã có tiếng vang ra vùng địch
tạm chiếm, nhiều người dân kể cả ngụy binh bị bệnh đã vào chiến khu xin điều trị
làm tăng thêm uy tín của ngành y tế kháng chiến.
Tháng 10 - 1952, một cơn bão lớn chưa từng có ập đến các tỉnh miền
Đông Nam bộ đặc biệt là vùng căn cứ kháng chiến. Gió bão, nước lụt ào ạt dâng cao
làm cây đổ đè sập kho tàng, cuốn trôi nhà cửa, phá hủy hoa màu lúa thóc sắp đến
ngày thu hoạch. Hậu quả trực tiếp của bão lụt là nạn đói kéo theo bệnh tật phát triển...
Trong vùng căn cứ, nạn đói diễn ra từng ngày một, có đơn vị quân y không đủ gạo
nấu cháo cho thương binh. Các loại rau củ rừng, trái cây có thể ăn được còn sót lại
đều được đào bới, nhặt hái về nấu thay gạo cũng không đủ ăn. Thừa lúc ta gặp khó
khăn, giặc Pháp tăng cường càn quét, phá hoại kho tàng, hoa màu còn sót lại.
Trước tình hình đó, các bệnh xá tỉnh đội được củng cố lại thành các
quân y viện tỉnh đội. Các trưởng ban quân y tỉnh kiêm luôn quân y viện trưởng. Y tá

34.7 Page 337

▲back to top


trưởng Phan Văn Có và sau đó là bác sĩ Hồng Văn Bảy từ miền Bắc vào làm Trưởng
Ban quân y tỉnh đội Thủ Biên (187[26]).
Hệ thống quân - dân y được tổ chức đồng bộ từ Phân liên khu xuống tỉnh,
huyện, các đơn vị chiến đấu, giúp cho sự chỉ đạo của ngành được thông suốt. Và
ngành y tế tuy gặp nhiều khó khăn trong những năm cuối của cuộc kháng chiến
chống Pháp vẫn phải nỗ lực để tổ chức phòng bệnh, chữa trị, tăng cường sức chiến
đấu cho các lực lượng vũ trang.
II.2.2. Thi chng M(1954 - 1975):
Giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 1954 -
1960, anh chị em y tá, cứu thương, dược tá, hộ sinh, cô đỡ của quân - dân y được bố
trí lại rải rác khắp các tỉnh Nam bộ, tỉnh nào cũng có 5, 3 anh chị em nằm trong dân
ở từng nơi, tùy theo khả năng mà phục vụ nhân dân địa phương trong chiến đấu và
lao động sản xuất.
Tháng 2 - 1955, bác sĩ Võ Cương (Mười Năng) theo chỉ đạo của Xứ ủy
đã mở nhiều lớp đào tạo y tá bổ sung cho các đơn vị chiến đấu và cho y tế địa phương.
Những lớp học ấy là nguồn bổ sung cán bộ cho khu vực. Đến giữa năm 1964, cán
bộ quân - dân y ở miền Bắc trở về càng nhiều, trong đó có cả cán bộ chủ chốt của
quân - dân y. Trước tình hình phát triển của cách mạng nói chung và của lực lượng
vũ trang nói riêng, cấp trên quyết định tách quân y và dân y thành 2 bộ phận. Ban
dân y chuyên lo cho nhân dân và các cơ quan dân chính Đảng. Tuy vậy, hoạt động
của hai bộ phận hầu như không tách rời nhau, có sự hỗ trợ qua lại rất lớn.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bộ đội
trong vùng chiến khu Đ bị bệnh sốt rét đe dọa, nhiều trường hợp sốt rét ác tính hy
sinh với tỷ lệ tử vong khá cao đã trở thành nỗi ám ảnh không nhỏ trong một bộ phận
cán bộ và chiến sĩ. Qua thời gian nghiên cứu, Ban quân y đề ra được biện pháp toàn
diện phòng và chống sốt rét ác tính gồm 5 điểm:
1. Tích cực phòng chữa cảm sốt do lội qua suối Mã Đà. Phòng chống sốt rét
thường xuyên thật tốt.
2. Điều trị sốt rét sớm, uống đủ liều, cắt cơn ngay cơn sốt đầu tiên.
3. Có nhân viên quân y và thuốc sốt rét ở ngay tại đơn vị
4. Phải vận chuyển đi ngay khi phát hiện có sốt rét ác tính, đến bệnh viện,
tiêm ngay thuốc sốt rét cách 5 giờ một lần cùng các loại thuốc trợ tim, trợ lực v.v...
(187[26]) Quân y vin Thủ Biên lúc này đóng ở Chang Chang, chiến khu Đ.

34.8 Page 338

▲back to top


5. Tổ chức mạng lưới chiến sĩ vệ sinh ở đơn vị và tăng cường cải thiện nuôi
dưỡng tốt.
Việc tách hai ngành quân y và dân y hình thành 2 hệ thống riêng lúc
bấy giờ đã cơ bản hoàn tất. Tuy nhiên, ở các địa phương vẫn còn khó khăn về cán
bộ kỹ thuật, tuy từng nơi thường duy trì mối quan hệ hỗ trợ giữa quân y và dân y,
bảo đảm phục vụ chiến đấu cho các lực lượng vũ trang và cứu chữa cán bộ, nhân
dân thương bệnh binh. Bên cạnh hệ thống dân y, hệ thống quân y được tổ chức lại
thành nhiều tổ quân y đặc khu. Mỗi tổ quân y đặc khu có một bệnh xá đặc khu với 5
giường bệnh. Bệnh xá có một bộ trung phẫu (chưa hoàn chỉnh) và một số thuốc men
do đoàn hậu cần 84 cấp. Đặc khu tổ chức trong dân thu mua thêm thuốc và một số
dụng cụ y khoa để sử dụng và cấp cho các đơn vị như thuốc trị sốt rét, các loại sinh
tố, thuốc cảm, ho, bổ máu, dịch truyền.
Hệ thống dân y đã cùng hỗ trợ với quân y Miền trong công tác dược
chính. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn lúc này, hệ thống y tế kháng chiến vẫn có
thể sản xuất được các loại thuốc ngoài da, thuốc tê Novocaine, dịch truyền mặn ngọt,
B12, Cacodylate, Sirop nhau để dùng trong bệnh xá. Nhiều nơi còn dùng nước mặn
nấu nước cất để pha chế thuốc.
Trong những chiến trường ác liệt vùng ven Sài Gòn như Rừng Sác, hệ
thống y tế cả quân và dân y phải hoạt động trong những điều kiện hết sức ác liệt. Bộ
phận quân y của đoàn 10 đặc công được tổ chức bảo đảm cho các đơn vị hoạt động
bên bờ Tây sông Lòng Tàu. Các trạm xá chăm sóc anh em thương bệnh binh trong
địa hình rừng thưa thớt nên chỉ có khả năng thu dung từ 15 - 20 giường. Thuốc men
bông băng và dụng cụ có được một phần nhờ dân y liên hệ với bà con nhân dân để
mua giúp từ vùng địch. Thương bệnh binh phải giữ lại điều trị tại chỗ, không thể
vượt sông Lòng Tàu để chuyển về khu an toàn hơn. Thông thường, để đi qua lại sông
phải dùng nylon che mưa bọc đồ đạc làm phao để bơi vượt sông. Sống, chiến đấu ở
vùng ngập mặn, địch bao vây, phong tỏa, thường xuyên đánh phá bằng hải quân,
không quân, chất độc hóa học, cán bộ quân y đoàn 10, vừa chăm sóc thương binh,
đồng thời cũng là những chiến sĩ chiến đấu chống càn, bảo vệ căn cứ, bảo vệ thương
bệnh binh. Tháng 1 - 1966, trạm xá của đoàn 10 ở Đồng Kho bị quân Mỹ - ngụy tập
kích. Anh chị em nhân viên bệnh xá đã dũng cảm chiến đấu ngăn cản địch, bảo vệ
được thương bệnh binh rút lui an toàn.
Trong giai đoạn phản công chiến lược mùa khô lần thứ 1 và lần thứ 2
của địch (1964 - 1967), hệ thống y tế kháng chiến của tỉnh không ngừng phát triển.
Tổng số giường của các bệnh viện, bệnh xá trong tỉnh bảo đảm thu dung từ 500 đến
700.
Tuy là bệnh viện, bệnh xá ở tuyến sau nhưng các cơ sở điều trị đều ở
hầm ngầm và hầm bán ngầm. Các bệnh viện, bệnh xá đều có tổ chức các tuyến chiến

34.9 Page 339

▲back to top


đấu, ụ chiến đấu, giao thông hào từ ngoài vào đến các nhà ở, các hầm của thương
bệnh binh. Các bộ phận đều được trang bị súng chiến đấu AK, CKC, B40, lựu đạn
và mìn. Thương bệnh binh ở huyện nào thì huyện đó có nhiệm vụ tổ chức cấp cứu,
vận chuyển đưa anh em về cơ sở bệnh xá hoặc bệnh viện gần nhất.
Hệ thống hậu cần y tế này đã góp phần lớn trong thắng lợi của cuộc
Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Một trong những đóng góp to lớn của
quân y và dân y trong cuộc Tổng tấn công này là hoạt động chuyển thương binh về
tuyến sau. Công tác này vô cùng khó khăn nên nhiều cán bộ, chiến sĩ ngành y đã
phải hy sinh cả xương máu để hoàn thành nhiệm vụ.
Việc vận chuyển thương binh từ trong nội đô (Biên Hòa, Sài Gòn) về
tuyến sau bằng nhiều phương tiện: đi bộ, cáng võng, xe đạp thồ, xe bò và xe trâu,
lực lượng chủ yếu là dân công các địa phương vùng ven. Có những chiếc ghe có thể
chuyển từ 60 đến 100 thương binh cả nằm lẫn ngồi. Trong một chuyến đưa thương
binh về bệnh xá Đoàn 10 đặc công Rừng Sác, khi đến sông Vàm Chà Lở, bác sĩ
Luân, chủ nhiệm quân y Đoàn 10 cùng y tá Mai và các thương binh đi trên xuồng
hy sinh.
Trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1968, quân y sư đoàn 5
được giao nhiệm vụ tổ chức phục vụ theo hướng tấn công và các khu căn cứ quan
trọng nhất của Mỹ - ngụy ở Biên Hòa: Bộ tư lệnh dã chiến II, Sân bay quân sự Biên
Hòa, Bộ tư lệnh quân đoàn III ngụy, Tổng kho Long Bình... Trong đợt tiến công này,
địch đã điều lực lượng đàn áp các mũi nổi dậy của quần chúng ở Biên Hòa. Sáng
ngày 2 tháng 2 năm 1968, trước tình huống phát triển không thuận lợi, chỉ huy trưởng
mặt trận cho các đơn vị tạm rút ra ngoài. Trên đường rút khỏi các mục tiêu tiến công,
sư đoàn 5 và các lực lượng Phân khu 5 liên tục đánh phản kích dù chịu nhiều tổn
thương. Hàng ngàn dân công chủ yếu là phụ nữ đã lăn lộn trong mưa bom, bão đạn,
chuyển tải gần hết 1500 thương binh tuyến trước của quân y Phân khu ở bàu Tiền
Tà. (188[27])
Từ 1969 đến 1973, thực hiện học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh",
tăng cường chiến tranh ở Lào và mở rộng chiến tranh sang Campuchia, địch đã gây
cho hậu cần - quân y chiến trường và dân y vô vàn khó khăn. Địch tập trung đánh
phá ác liệt vào cơ sở hậu phương, hậu cần từ vùng sâu, vùng trung tuyến đến các cơ
sở dự trữ hậu cần chiến lược dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia. Cơ sở vật
chất kỹ thuật và cả tổ chức con người của hệ thống y tế kháng chiến bị tổn thất
nghiêm trọng. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân y và dân y Biên Hòa đã
nỗ lực góp phần bảo đảm cho các chiến dịch lớn thắng lợi.
(188[27]) Theo Lch squân y kết hp dân y phc vkháng chiến miền Đông Nam bộ, Nxb. QĐND, 1996, trang
218.

34.10 Page 340

▲back to top


Bên cạnh việc chăm sóc sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, y tế
kháng chiến còn phải lo chữa trị cho tù, hàng binh. Lúc này, việc tổ chức cấp cứu,
vận chuyển, xử trí phẫu thuật, điều trị nuôi dưỡng thương bệnh binh đã có tiến bộ
nhiều so với giai đoạn trước. Tỷ lệ tử vong tàn phế được giảm đến mức thấp nhất.
Nhờ sự chi viện mạnh của miền Bắc cả về sức người lẫn các điều kiện cơ sở vật chất
kỹ thuật, y tế kháng chiến đã đảm bảo cho cán bộ, bộ đội và nhân dân trong vùng
kháng chiến những thuốc chủ yếu như thuốc chiến thương, thuốc sốt rét. Bên cạnh
việc quản lý tốt thuốc men, dụng cụ y tế, đây là giai đoạn ngành dược cũng có những
bước tiến bộ so với trước. Tuy nhiên, gọi là xưởng dược, nhưng dụng cụ bào chế
chưa có gì đáng kể: cái cân do anh em mang từ miền Bắc về (sau này tiếp liệu có
mua được loại cân tiểu ly kiểu để cân bán vàng), ống đong, đũa thủy tinh đều tự tạo
từ chai dịch truyền. Nồi cất nước theo kiểu nồi nấu phở, nhãn ống thuốc bằng giấy
viết tay rồi dán vào. Lúc đầu sản xuất thuốc viên đều trộn thành bột nhão, se dài
thành như chiếc đũa rồi vo tròn bằng tay (sau này nhờ xưởng quân giới, làm thiết bị
in viên từ vỏ đạn súng trường). Ở trong rừng rất khó phơi khô viên thuốc nên cán bộ
y tế đắp lò sấy (như kiểu lò phơi sấy lá thuốc thủ công, đốt lửa cho lò nóng lên, rồi
đưa khay thuốc vào sấy cho khô).
Có chiến sĩ ngành dược nghiên cứu sản xuất 2 loại đạm thủy phân để
tiêm nhằm cung cấp thêm đạm cho thương bệnh binh, nhưng do thiếu tài liệu tham
khảo, thiếu phương tiện thử nghiệm hóa, lý, vi sinh nên khi sản xuất ra phải tự tiêm
thử trước cho mình và hai nữ dược công cộng sự. Sau đó, cả 3 người đều bị trụy tim
mạch phải cấp cứu suốt đêm, có người suýt chết.
So với giai đoạn trước, bấy giờ ngành y đã có những bước tiến về chất
lượng phục vụ và điều trị. Việc phối hợp chiến đấu để phục vụ cho những chiến dịch
lớn được thực hiện khá tốt. Bên cạnh Tây y, hoạt động đông y, y học cổ truyền cũng
phát triển mạnh. Có thể nói, mỗi cán bộ, chiến sĩ thời bấy giờ đều phải tự trang bị
cho mình những kiến thức y tế tối thiểu để có thể tự chữa bệnh, tự sơ cứu chấn
thương.
Những bài thuốc đông y, những cây thuốc quý được truyền tụng trong mọi
thành viên kháng chiến để tự chữa cho mình và giúp đỡ cho đồng chí, đồng đội ngay
khi thiếu cán bộ, nhân viên y tế. Bằng tinh thần vượt khó, bằng nỗ lực tự chủ, từng
cán bộ và chiến sĩ trong kháng chiến đã góp phần làm nên một hệ thống y tế kháng
chiến khá đặc biệt mà khó có nơi nào, thời nào có được.
Hệ thống y tế như thế đã góp phần lớn trong thắng lợi của chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975 - thống nhất đất nước. Trước và sau chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, hệ thống y tế của tỉnh được sắp xếp lại hợp lý hơn để chuẩn bị
cho chiến đấu và tiếp quản. Trong từng đơn vị quân đội và tại từng địa phương, các
nghị quyết của cấp ủy đều đặt ra công tác y tế để chuẩn bị cho chiến dịch và tiếp

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


quản các cơ sở sau chiến thắng. Ví dụ, ngày 16 tháng 4 năm 1975, Thành ủy Biên
Hòa ra Nghị quyết "Tổng công kích và nổi dậy giải phóng thành phố Biên Hòa".
Nghị quyết cũng xây dựng việc thành lập Ủy ban quân quản thành phố Biên Hòa do
hai đồng chí Trần Việt Hoa (Mười Thà), Phan Văn Trang đảm trách. Ủy ban nhân
dân cách mạng thành phố gồm 9 thành viên: Phan Văn Trang - Chủ tịch cùng 8
phó chủ tịch trong đó có một người phụ trách công tác y tế, đó là đồng chí Ba Niên.
Giai đoạn cuối cùng kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vĩ
đại cũng là giai đoạn mà hệ thống y tế kháng chiến của Biên Hòa - Đồng Nai phát
triển mạnh, đặc biệt là ngành quân y. Một số kết quả thống kê sau ngày thống nhất
cho thấy những nỗ lực đó:
Tỷ lệ thương binh được phân loại nặng, trung bình, nhẹ qua các chiến dịch
từ 1973 - 1975 theo thứ tự là 17%, 32% và 51%. Các bệnh phổ biến lúc bấy giờ trong
cán bộ chiến sĩ là sốt rét 30%, lỏng lỵ 1,5%, hắc lào 2,53%, mệt mỏi suy nhược
8,38% và các bệnh khác. Bệnh sốt rét hoành hành mạnh vào giai đoạn mùa mưa. Tỷ
lệ thương vong hỏa tuyến so với tổng số thương vong trung bình là 20,53%. Thương
vong chủ yếu là do các loại vũ khí sát thương như mảnh bom và pháo (88%). Đạn
thẳng, sức ép, rocket, bom napan, bom bi, bỏng... chiếm tỷ lệ thấp hơn. Thương binh
được phân loại theo bộ phận bị thương như sau: Đầu, mặt, cổ: 23,5%, ngực - lưng:
13,3%, bụng - chậu: 13%, chi trên: 25%, chi dưới: 24%, nhiều vết thương: 1,78%.
Phân loại theo tính chất tổn thương: Phần mềm: 51,17%, gãy xương: 9,46%, mạch
máu: 1,4%, sọ não: 6,1%, cột sống: 0,3%, thấu ngực: 3%, thấu bụng: 2,5%,
dập nát chi: 0,89%, sức ép, vùi lấp: 1,39%, đa chấn thương: 11,28%. Ngày điều trị
trung bình khỏi bệnh của thương bệnh binh: Thương binh nhẹ: 18 ngày, thương binh
nặng: 35 ngày, bệnh binh: 21 ngày, sốt rét: 18 ngày.
Tất cả thương binh, sau khi qua tuyến sơ cứu đầu tiên của quân y tiểu
đoàn đều được chuyển về các đội phẫu thuật trung đoàn. Thời gian thương binh được
đưa về đến các phân đội quân dân y để xử lý phẫu thuật cơ bản như sau: Trước 6
giờ: 22%, trước 12 giờ: 69%, trước 24 giờ: 9%.
Với những đóng góp to lớn của mình, ngành quân y, dân y của tỉnh Biên
Hòa, Thủ Biên, Phước Thành, Bà Rịa - Long Khánh, U1, tỉnh căn cứ Tân Phú (tên
gọi của các địa danh thuộc Đồng Nai ngày nay) trong nhiều giai đoạn kháng chiến
chống Pháp và Mỹ đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao
quý.
II.3. Y tế Đồng Nai dưới chế độ Sài Gòn:
Từ cuối năm 1956, địa bàn Đồng Nai được chính quyền Sài Gòn chia
thành 2 tỉnh Biên Hòa và Long Khánh. Các quận cũng được chia nhỏ để phục vụ cho
mục đích quân sự. Cơ sở y tế của tỉnh Biên Hòa lúc bấy giờ chủ yếu là một bệnh

35.2 Page 342

▲back to top


viện trong khu vực rộng 13.439 m2 tọa lạc trên đường Trịnh Hoài Đức (nay là đường
30 - 4) do người Pháp thiết lập từ 1939. Bên cạnh đó, tại thị xã Biên Hòa còn có
Dưỡng trí viện bác sĩ Nguyễn Văn Hoài mà nhân dân quen gọi là Nhà thương điên
Biên Hòa. Các cơ sở y tế này được người Pháp xây dựng để điều trị và hộ sinh cho
các nhân viên và công nhân tại các đồn điền cao su của người Pháp trong tỉnh. Người
dân Biên Hòa bấy giờ còn nặng nề phương thức chữa trị theo cổ truyền nên ít đến
xin chữa trị. (189[28])
Khi Chính quyền Sài Gòn tiếp quản cơ sở y tế của thực dân Pháp ở Biên
Hòa sau Hiệp định Genève 1954, thì cơ sở này gồm có: Khu ngoại chẩn, khu nội
khoa (80 giường bệnh) và khu hộ sinh (30 giường bệnh). Năm 1956, Ty y tế tỉnh
Biên Hòa được Chính quyền Sài Gòn thành lập song song với việc thiết lập Bệnh
viện tỉnh. Tên gọi Bệnh viện Biên Hòa bắt đầu có từ thời gian này. Song song với
việc thiết lập bệnh viện, chính quyền tỉnh Biên Hòa lúc đó cũng tiến hành việc tổ
chức bộ máy bệnh viện và hệ thống y tế cả tỉnh. Lúc đầu thành lập, Bệnh viện Biên
Hòa và hệ thống y tế của tỉnh chưa được Bộ y tế của chính quyền Sài Gòn "tiếp liệu
thuốc men, cung cấp và đài thọ nhân viên chuyên môn, mọi kinh phí khác như lương
bổng nhân viên không chuyên môn (hạng C và D), xây cất thêm cơ sở, kinh phí điều
hành đều do ngân sách tỉnh yểm trợ" (190[29]).
Tuy nhiên, việc xây dựng mạng lưới y tế cơ sở được tiến hành rất chậm.
Mãi đến năm 1966, khi viện trợ của đế quốc Mỹ đổ ào ạt cho Chính quyền Sài Gòn,
Bộ Y tế ngụy mới thực sự đài thọ hoàn toàn mọi chi phí về điều hành cùng lương
bổng của các hạng nhân viên không chuyên môn cho hệ thống y tế của tỉnh. Bệnh
viện Biên Hòa là cơ quan lo điều trị, Ty y tế chú trọng đến y tế công cộng bên cạnh
việc xây dựng mạng lưới toàn tỉnh. Tính đến 1972, Ty Y tế tỉnh Biên Hòa có 6 chi
y tế quận. Đó là các quận Đức Tu, Công Thanh, Long Thành, Nhơn Trạch và Dĩ An.
Toàn tỉnh có 13 bệnh xá - hộ sinh xã; 10 nhà hộ sinh - trạm phát thuốc; 59 trạm y tế
ấp. Theo tài liệu của Chính quyền Sài Gòn, hệ thống y tế cơ sở này hoạt động mỗi
tháng trung bình khám và cấp thuốc khoảng 19.000 người.
Bệnh viện Biên Hòa khi chính quyền Sài Gòn tiếp quản có khoảng 110
giường. Nhân viên chuyên môn và không chuyên môn khoảng vài chục người. Đến
năm 1964, Chính phủ Australia yểm trợ cho Bệnh viện Biên Hòa một đội ngũ y bác
sĩ ngoại khoa chuyên giải phẫu và nhiều dụng cụ thuốc men. Đến năm 1968, Chính
phủ Australia lại tiếp tục đầu tư cho Bệnh viện Biên Hòa tu bổ lớn lại bệnh viện như:
xây cất khu giải phẫu, nhà bếp, nhà giặc, tu bổ cải thiện khu ngoại chẩn, trại trả tiền,
thiết lập một hệ thống điện và thoát nước mới thay thế hệ thống cũ đã quá lỗi thời
không tác dụng.
(189[28]) Theo Địa chí tnh Biên Hòa 1968, bản đánh máy, chưa xuất bn.
(190[29]) Theo Địa chí tnh Biên Hòa 1968, bản đánh máy, chưa xuất bn.

35.3 Page 343

▲back to top


Tính đến năm 1968, số nhân viên của bệnh viện Biên Hòa có khoảng
170 người (191[30]). Quy mô bệnh viện được phát triển: Trại bệnh trả tiền (phòng
1), trại công chức (phòng 2), khu ngoại chẩn, trại bảo sanh, trại ngoại khoa đàn ông,
trại nội khoa đàn ông, trại ngoại khoa đàn bà, trại nội khoa đàn bà, trại nhi đồng, trại
lao, khu giải phẫu, trại bệnh can phạm, câu lạc bộ, với số giường tính chung là 375
giường. Trung bình tại khu ngoại chẩn, mỗi ngày khoảng 300 người đến xin khám
bệnh và xin cấp thuốc. Trong điều kiện chiến tranh ngày càng khốc liệt, nhu cầu
chữa bệnh, đặc biệt là các loại bị thương do chiến tranh ngày càng nhiều. Và số
giường của bệnh viện gần 400 giường đã không đủ để có thể tiếp nhận bệnh nhân,
và riêng khu hộ sinh đã tiếp nhận trung bình trong một tháng khoảng trên 500 sản
phụ tới xin hộ sản. Chính quyền Sài Gòn với sự trợ giúp của Chính phủ Australia
lúc bấy giờ với ngân khoản 800.000 Úc kim lại tiếp tục cải tạo và nâng cấp bệnh
viện Biên Hòa. Việc nâng cấp bệnh viện này không chỉ tăng số giường bệnh đến trên
500 giường mà còn tiếp tục trang bị đầy đủ tiện nghi của một bệnh viện tối tân so
với trình độ kỹ thuật lúc ấy.
Cũng vào năm 1968, ông Nghiêm Xuân Thọ, bác sĩ, Trưởng Ty y tế
Biên Hòa kiêm Giám đốc Bệnh viện Biên Hòa đã đề nghị việc xây dựng một cơ sở
đào tạo y tế tại Biên Hòa với tên gọi là Trường tá viên điều dưỡng. Nhờ sự tài trợ
của hệ thống y tế quân đội chính quyền Sài Gòn và quân đội Mỹ (192[31]), Trường
tá viên điều dưỡng được thành lập (193[32]) và chính thức hoạt động từ tháng 2 -
1969 và ông Nghiêm Xuân Thọ kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc trường. Cơ sở đào
tạo này đã khai giảng khóa học đầu tiên ngày 1 - 4 - 1969, thu nhận 50 học viên qua
một kỳ thi tuyển nhập học theo thể lệ được áp dụng chung cho các trường tá viên
điều dưỡng của Bộ y tế ngụy. Mỗi năm, trường đào tạo khoảng 50 học viên.
Công tác y tế cộng đồng giai đoạn này không được chú trọng nhiều. Hệ
thống nhân viên y tế cơ sở thỉnh thoảng có tổ chức phun thuốc đào tạo để diệt muỗi
ở một số địa phương song việc làm này có tính chất hình thức nên hiệu quả không
cao. Việc tuyên truyền vệ sinh cũng được tổ chức nhưng chủ yếu là hình thức áp -
phích do Bộ y tế chính quyền Sài Gòn phát hành.
Địa bàn tỉnh Long Khánh (lúc đầu là một quận của tỉnh Biên Hòa), hệ
thống y tế bấy giờ còn rất sơ sài, chỉ có một phòng phát thuốc và 7 trạm cấp cứu với
số nhân viên không quá 10 người. Đến năm 1968, số nhân viên y tế của tỉnh Long
Khánh có khoảng 136 người. Cơ sở y tế được xây dựng mới một bệnh viện tại tỉnh
lỵ (thị trấn Xuân Lộc ngày nay) gồm: Khu ngoại chẩn với các phòng cấp cứu, khám
(191[30]) Nhiu nhân viên lúc by ginay vn còn phc vti bnh vin này.
(192[31]) By gi, ông Nghiêm Xuân Thọ đã được strgiúp của bác sĩ Vanderhoof, trưởng vùng III Y tế và Lâm
Quang Chính, đại tá tỉnh trưởng chính quyn ngy.
(193[32]) Theo Nghị định số 327/BYT/KHHL/NĐ ngày 3 - 8 - 1968 ca BY tế Chính quyn Sài Gòn.

35.4 Page 344

▲back to top


bệnh, thí nghiệm, quang tuyến X và phòng dược liệu; Khu điều trị với 138 giường
và Khu giải phẫu với một số dụng cụ và tiện nghi được nhập từ Mỹ, Pháp. Hệ thống
y tế cấp quận, xã của tỉnh Long Khánh thời gian này gồm 2 chi y tế: quận Kiệm Tân
và quận Định Quán. Toàn tỉnh có 3 tiểu bệnh xá hộ sinh, 2 nhà hộ sinh và trạm phát
thuốc, 5 chẩn y xá và 21 trạm y tế.
Năm 1954, một cơ sở y tế được xây dựng ở Hố Nai do những tu sĩ của
dòng "Đức mẹ chỉ bảo đàng lành" (Công giáo) thành lập và do một thầy dòng người
Canada William Gagnon quản lý. Lúc đầu, dân trong vùng quen gọi là "bệnh viện di
cư" vì chủ yếu phục vụ cho người Bắc di cư vào. Đến 1956, cơ sở y tế này được
dòng Gioan Thiên chúa đầu tư nâng cấp với quy mô lớn hơn và đặt tên là "Bệnh viện
Thánh Tâm".
Cũng trong thời gian này, chính quyền Sài Gòn tiếp quản Dưỡng trí viện
Biên Hòa và đổi tên thành Dưỡng trí viện bác sĩ Nguyễn Văn Hoài (194[33]) để ghi
công bác sĩ Hoài, Giám đốc người Việt Nam đầu tiên của bệnh viện đã tạ thế năm
1955 tại Dưỡng trí viện. Sau đó, vào năm 1971 lại đổi tên Dưỡng trí viện thành Bệnh
viện tâm trí bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, chú ý chức năng điều trị hơn là di dưỡng
(195[34]). Từ sau 1955, số trại bệnh tăng thêm, được sắp xếp khoa học hơn. Cho
đến những năm cuối của thập niên 60, Dưỡng trí viện Biên Hòa gồm các phòng điều
trị bệnh và 18 trại bệnh:
- Phòng ngoại chẩn: Làm việc mỗi ngày từ 8 giờ 30 đến 11 giờ 30 và
từ 14 giờ 30 đến 17 giờ, có nhiệm vụ tìm các trường hợp bệnh mới phát khởi, giải
quyết các trường hợp nhẹ chưa cần nằm viện, theo dõi điều trị lai hành (traitement
ambulatoire - hiện nay gọi là điều trị ngoại trú) những trường hợp đã thuyên giảm
và trắc nghiệm tâm lý trường hợp cần thiết.
- Phòng trắc nghiệm: Có nhiệm vụ trắc nghiệm tâm lý để chẩn bệnh
và theo dõi người bệnh, nhất là các trường hợp người bệnh thiếu trí.
- Phòng chỉ dẫn
- Phòng thăm bệnh
- Phòng xã hội: Liên lạc với các cơ quan từ thiện, cá nhân hảo tâm tới
an ủi, giúp đỡ người bệnh. Liên lạc với người bệnh còn ở gia đình họ để theo dõi.
- Phòng đọc sách
- Câu lạc bộ: Bán các loại nước giải khát, điểm tâm và một vài vật
dụng hàng ngày cho người bệnh.
(194[33]) Theo Nghị định s1918 HCSV ngày 11 - 7 - 1955 ca Chính quyn Sài Gòn.
(195[34]) Theo Nghị định s3243 - BYT/PC/NĐ ngày 26 - 7 -1971 ca By tế chính quyn Sài Gòn.

35.5 Page 345

▲back to top


- Phòng quang tuyến, phòng thí nghiệm và các dược xá: Là những cơ
sở chuyên môn.
Các khu trại bệnh gồm có:
- Trại quan sát: Điều trị và quan sát các người bệnh đặc biệt cần theo
dõi thường xuyên hoặc người bệnh mới nhập viện trong 15 ngày đầu. Các phòng ở
trại này có đầy đủ tiện nghi và nhân viên trực 24 giờ trong ngày.
- Trại y xá (Trại 3): người bệnh nữ; Trại 4: người bệnh nam): Điều trị
các người bệnh tâm trí về nội ngoại thông thường và săn sóc đặc biệt người bệnh già
yếu.
- Trại nhi đồng (Trại 2): điều trị trẻ em mắc bệnh tâm trí.
- Trại bệnh án: Là nơi giam và điều trị những người bệnh tâm trí phạm
pháp hoặc do cơ quan tư pháp gửi đến khám nghiệm hay điều trị. Trại gồm 2 trại
riêng: trại 16 cho người bệnh nam và trại 13 cho người bệnh nữ.
- Các trại bệnh khác chia làm 2 khu riêng: người bệnh nam ở các trại
số chẵn: 6, 8, 10, 12, 14, 16, 18, 20. Người bệnh nữ ở các trại số 5, 7, 9, 11, 15.
- Khu lao tác trị liệu: Là nơi thực nghiệm một trong những phương
pháp điều trị bệnh tâm trí, áp dụng cho những người bệnh nhẹ hoặc đã tỉnh qua các
việc như: hội họa, dệt chiếu, dệt vải, gia chánh, rèn, mộc, may, thêu...
Ngoài các trại bệnh, văn phòng, Dưỡng trí viện Biên Hòa còn có các
công thự, cư xá, trường học, hồ tắm, sân vận động, xưởng thợ, khu chăn nuôi và
trồng trọt dành cho bác sĩ và nhân viên.
Thời gian này, cùng với sự phát triển về y học trên lĩnh vực tâm thần
trên thế giới, Dưỡng trí viện Biên Hòa đã nghiêng về các liệu pháp điều trị mới. Theo
tư liệu còn lưu trữ trong khoảng năm 1956 - 1963, thì tổng số người bệnh năm 1956
là 1.102 người, trong đó số trở lại bình thường được xuất viện là 384. Năm 1963, số
người bệnh là 1672 và số được ra là 636 người. Nhiều người bệnh từng có địa vị
trong xã hội như: Một ông hoàng Lào, một viên quan hai, một ông chủ bưu điện,
một cô đầm... thậm chí cả bác sĩ, nhà giáo và trí thức khác. Khoảng những năm 1965
- 1966, một số nhà báo, nhà thơ đã là bệnh nhân của Dưỡng trí viện Biên Hòa và
phải tới đây điều trị nhiều lần như: Nguyễn Ngu Í, Bùi Giáng...
Tính đến trước ngày 30 - 4 - 1975, bệnh viện có 21 trại: Trại cấp tính
nữ, Trại cấp tính nam (còn gọi là Dũng), Trại quan sát: cấp cứu tập trung, Trại 3: y
xá đàn bà, Trại 4: y xá đàn ông, Trại 5: trại bệnh nữ trả tiền, Trại 6: trại bệnh nam
trả tiền, Trại 7: Bán cấp nữ, Trại 8: Bán cấp nam, Trại 9: Lao ổn định nữ, bán cấp
tâm thần, Trại 10: Lao ổn định nam, bán cấp tâm thần, Trại 11: Động kinh nữ, Trại
13: Pháp y nữ, Trại 14: Động kinh nam, Trại 15: Nữ già yếu, Trại 16: Pháp y nam,

35.6 Page 346

▲back to top


Trại 18: Nam sa sút, Trại 20: Lao điều trị, Trại nhi đồng, Nông trại nữ: người bệnh
ổn định nữ, Nông trại nam: người bệnh ổn định nam.
III. Y TẾ ĐỒNG NAI TSAU NGÀY THNG NHẤT ĐẤT NƯỚC:
III.1. Sự trưởng thành đội ngũ cán bộ và mạng lưới tchc:
Sau ngày giải phóng 30 - 4 - 1975, Chính quyền cách mạng tiếp quản
các cơ sở y tế của Chính quyền Sài Gòn cũ và bắt tay vào xây dựng lại mạng lưới y
tế cơ sở cũng như đội ngũ cán bộ. Bấy giờ, toàn tỉnh có một bệnh viện lớn với quy
mô 375 giường ở Biên Hòa, ở Long Khánh có 1 bệnh viện đặt tại thị trấn Xuân Lộc
với trên 100 giường, tại huyện Thống Nhất có Bệnh viện Thánh Tâm với quy mô
trung bình (trên 150 giường bệnh). Ngoài ra còn có Bệnh viện tâm trí bác sĩ Nguyễn
Văn Hoài (tức Nhà thương điên Biên Hòa). Mạng lưới y tế cơ sở trên địa bàn toàn
tỉnh lúc ấy tuy được hình thành nhưng không đồng bộ, phiến diện. Các trạm y tế nhà
hộ sinh do chế độ cũ để lại thiên về điều trị và không coi trọng công tác dự phòng.
Mặt khác, mạng lưới cơ sở y tế lại tập trung vào vùng đô thị, thị tứ, thị trấn, chưa
phát triển ở vùng nông thôn.
Những năm đầu sau ngày thống nhất, Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo cho
ngành y tế phải sớm kiện toàn hệ thống và tổ chức, tăng cường đội ngũ cán bộ với
mục tiêu: hoàn thiện tuyến tỉnh, tăng cường tuyến huyện, củng cố và phát triển y tế
xã - phường, y tế vùng xa, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người và xây dựng
hoàn thiện mạng lưới phòng bệnh từ tỉnh đến cơ sở.
Hàng loạt những quyết định của UBND tỉnh Đồng Nai đã ra đời để tiến
hành các mục tiêu trên: Năm 1976, UBND tỉnh ra quyết định thành lập Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Đồng Nai. Năm 1977, UBND tỉnh ra quyết định thành lập Bệnh viện
cán bộ với quy mô 200 giường (196[35]). Năm 1978, UBND tỉnh ra Quyết định quốc
lập hóa Bệnh viện Thánh Tâm (nay là bệnh viện Thống Nhất) tổ chức lại một bệnh
viện tuyến tỉnh với quy mô 250 giường (197[36]). Năm 1980, UBND tỉnh ra quyết
định thành lập Bệnh viện Khu công nghiệp Biên Hòa với quy mô 50 giường
(198[37])... Việc thành lập các bệnh viện khu vực, các phòng khám khu vực cũng
như các trạm y tế xã phường diễn ra liên tục. Tính đến 1997, toàn tỉnh đã có một hệ
thống cơ sở y tế khá mạnh và tương đối đầy đủ.
Tỉnh Đồng Nai hiện có: 1 bệnh viện đa khoa tỉnh là Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Đồng Nai; 4 bệnh viện đa khoa khu vực là Bệnh viện khu vực Thống Nhất, Bệnh
viện khu vực Long Thành, Bệnh viện khu vực Xuân Lộc và Bệnh viện khu vực Tân
(196[35]) Quyết định số 511/QĐ - UB ngày 11 - 5 - 1977 ca UBND tỉnh Đồng Nai
(197[36]) Quyết định số 1029/QĐ - UBT ngày 31 - 8 - 1978 ca UBND tỉnh Đồng Nai
(198[37]) Quyết định số 566/QĐ.UBT ngày 6 - 8 - 1980 ca UBND tỉnh Đồng Nai

35.7 Page 347

▲back to top


Phú; 6 bệnh viện tuyến huyện (còn gọi là Trung tâm y tế có giường bệnh) ở Vĩnh
Cửu, Xuân Lộc, Thống Nhất, Nhơn Trạch, Tân Phú, Biên Hòa; 3 bệnh viện chuyên
khoa là Trung tâm lao và bệnh phổi, Trung tâm nhi đồng Đồng Nai (nay là Bệnh
viện nhi đồng Đồng Nai), Bệnh viện da liễu và HIV/ADIS. Ngoài ra, còn có Trung
tâm y học dự phòng (trước đây là trạm vệ sinh phòng dịch), Trạm phòng chống sốt
rét, Bệnh viện y học cổ truyền (thành lập 1999) và các phòng chẩn trị y học dân tộc...
Mạng lưới y tế phường, xã được xây dựng với 163 trạm xá và 3 trạm y
tế công nông lâm trường, tăng gấp 2 lần so với năm 1976. Số giường bệnh ở cả ba
tuyến đã gấp 4 lần so với năm 1975 (3085/800 giường). Số cán bộ y tế của tỉnh cũng
đã không ngừng tăng. So với năm 1976, cán bộ toàn ngành y tế tăng 2 lần
(3.683/1.798). Trong đó bác sĩ tăng gần 9 lần (508/57), y sĩ tăng gần 8 lần (807/102).
Đưa bình quân bác sĩ cho một vạn dân từ 0,41 lên 2,7 và y bác sĩ cho 1 vạn dân từ
0,9 lên 7 người. Hệ thống các trạm chuyên khoa từ 2 trạm với 16 cán bộ đến nay đã
có 6 trạm và trung tâm với 242 cán bộ, và mỗi huyện thị có 26 cán bộ chuyên trách
phòng bệnh. Đặc biệt, tuyến xã phường có từ 6% xã có y sĩ đến nay 100% xã phường
y bác sĩ trong đó có 41 xã phường có bác sĩ chiếm 35% (41/119).
Bên cạnh việc phát triển hệ thống y tế hiện đại, mạng lưới y học cổ
truyền được chú trọng mở rộng hơn trong những năm gần đây. 1997, UBND tỉnh ra
quyết định thành lập Trung tâm y học dân tộc (1999 chuyển thành Bệnh viện y học
cổ truyền). Cùng với hoạt động của Hội y học cổ truyền Đồng Nai, các bệnh viện
lớn của tỉnh đều có Khoa y học dân tộc cổ truyền. Số người hành nghề y học dân tộc
được công nhận lương y là 775 người. Năm 1998, hệ thống y tế trong tỉnh có thêm
3 đoàn thể nữa là Hội châm cứu, Hội điều dưỡng và Hội dược học.
III.2. Phòng chng dch bnh:
Sau 1975, các dịch bệnh sốt xuất huyết, dịch tả, dịch hạch xảy ra liên
tiếp và diện rộng - tử vong cao, trong đó dịch tả năm 1976 có 755 người mắc bệnh.
Dịch hạch xảy ra trong 3 năm liên tục với số người mắc là 431, trong đó tử vong 18
(1977). Sốt xuất huyết có 585 người và 71 tử vong v.v...
Trong hơn 20 năm từ 1975 - 1997, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng
UBND tỉnh đã chỉ đạo và đầu tư cho ngành y tế để phát động các phong trào vệ sinh
công cộng, phát triển thêm các công trình vệ sinh, tích cực chủ động thực hiện
chương trình tiêm chủng mở rộng. Do đó tỷ lệ trẻ trong diện được uống và tiêm vac
- xin đủ 6 loại ngày càng tăng nhanh, nhất là từ 1993 đến nay luôn đạt trên 96%, góp
phần giảm tỷ lệ mắc các bệnh lây, khống chế và từng bước đẩy lùi, đến nay một số
bệnh có khả năng thanh toán. Năm 1976 toàn tỉnh có 755 người mắc dịch tả, năm
1996 con số này chỉ còn 1 và năm 1997 không có ca dịch tả nào trên địa bàn toàn
tỉnh. Bệnh thương hàn năm 1976 có 569 người mắc, đến năm 1997 còn 90 người
mắc. Bệnh ho gà giảm trên 1.000 lần (2.808/2), bệnh sởi giảm 50 lần (107/2), bệnh

35.8 Page 348

▲back to top


viêm màng nảo giảm 6,7 lần (135/20), bệnh bại liệt giảm từ 90 người xuống còn 2
người/năm. Riêng bệnh sốt rét có diễn biến khá phức tạp, dịch sốt rét tăng mạnh
trong những năm 1989 - 1991, thời gian trên địa bàn Đồng Nai đang xây dựng công
trình thủy điện Trị An. Năm 1991, số người mắc sốt rét trong địa bàn toàn tỉnh khá
cao 43995. Với quyết tâm của lãnh đạo Đảng, chính quyền và sự đầu tư của Trung
ương, của tỉnh, ngành y tế Đồng Nai đã kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi dịch sốt rét
trong 3 năm gần đây. Mạng lưới phòng chống sốt rét được củng cố và phát triển
vững chắc từ tỉnh đến cơ sở, nhất là các xã trọng điểm. Số người được bảo vệ tăng
8 lần so với năm 1976 (421.204/53.058), tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét giảm từ 19%
xuống 4,38% trong năm 1995, số người chết do sốt rét giảm 50 lần so với năm 1976
(200/4). Mạng lưới phòng chống lao và bệnh da liễu được mở rộng so với những
năm 1976 - 1985, tỉ lệ khám, phát hiện, thu dung điều trị ngày càng tăng. Gần đây,
việc triển khai thực hiện các chương trình phòng chống các rối loạn do thiếu iode và
phòng chống HIV/AIDS đã đạt được kết quả tốt. Ngành y tế đã đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục qua các phương tiện truyền thông đại chúng và tại các cơ sở
y tế. Theo một khảo sát của Sở y tế Đồng Nai, hiện nay trên 95% người dân Đồng
Nai có hiểu biết cơ bản và chủ động phòng HIV/AIDS cùng các bệnh dịch khác và
tích cực tham gia vào các chương trình y tế cộng đồng. Qua điều tra thăm dò ở một
huyện, kết quả cho thấy có trên 84% người sử dụng muối iode.
Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, vệ
sinh học đường, vệ sinh lao động được thực hiện thường xuyên. Qua các đợt thanh
kiểm tra, đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm các quy định về vệ sinh, góp
phần không nhỏ vào công tác phòng chống dịch bệnh.
III.3. Bo vbà mtrem và kế hoạch hóa gia đình:
20 năm qua công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã có những bước
đi chắc chắn, phát triển nhanh và khá toàn diện nhất là từ năm 1986 đến nay. Năm
1976 toàn tỉnh chỉ có 165 người đặt vòng, đến năm 1996 đã có 30.165 người/năm.
Việc sử dụng các phương pháp tránh thai hiện đại được tuyên truyền phổ biến mạnh
mẽ dưới nhiều hình thức nên được sự hưởng ứng ngày càng nhiều: Số liệu thống kê
cho thấy so với năm 1976, số người triệt sản tăng trên 30 lần (3.934/125), điều trị
phụ khoa tăng 30 lần (35.800/1.200). Tỷ lệ chết sơ sinh giảm từ 2,2% xuống 0,4%
trong năm 1996, sản phụ chết do sinh giảm 25 lần so với năm 1976 (1/25).
Các chương trình vì sức khỏe trẻ em như chống tiêu chảy - loại trừ uốn
ván sơ sinh - chống thiếu hụt vitamin A và ARI được thực hiện tốt và đồng bộ, góp
phần tích cực vào việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trẻ em
III.4. Hoạt động khám cha bnh:

35.9 Page 349

▲back to top


22 năm qua kể từ 30 - 4 - 1975, ngành y tế Đồng Nai đã có một quá
trình nỗ lực tạo dựng cơ sở vật chất, đầu tư thiết bị theo kịp với trình độ phát triển
khoa học kỹ thuật và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Có thể nói, đến nay,
hệ thống khám chữa bệnh từ tỉnh đến khu vực của Đồng Nai đã khá hoàn thiện.
Từ một bệnh viện đa khoa tỉnh với quy mô 500 giường đã phát triển
thêm 3 bệnh viện chuyên khoa: Nhi - Lao - Da liễu với tổng số giường bệnh 1.010
giường. Tuyến huyện từ những bệnh xá quy mô 30 giường đến nay đã có 6 Trung
tâm y tế có Khu điều trị đa khoa hoàn chỉnh với 270 giường và 4 bệnh viện khu vực
liên huyện với 970 giường. Ngoài ra các phòng khám khu vực cũng được đầu tư xây
dựng với 12 cơ sở và 120 giường bệnh và phát triển được 775 giường tuyến xã -
phường. Các con số thống kê đều cho thấy sự phát triển mạnh về quy mô cơ sở
y tế của Đồng Nai:
- Đảm bảo 12,5 giường quốc lập/1 vạn dân.
- Tổng số lần khám bệnh tăng gần 2 lần so với năm 1976
(2.956.221/1.619.252)
- Chỉ số khám bệnh đầu người trong năm từ 1 lên 1,5 lần.
- Tổng số người điều trị tăng 3 lần so với năm 1976 (186.666/63.061)
- Tỷ lệ điều trị tăng từ 80% - 92%
- Tỷ lệ tử vong giảm từ 2,55% xuống 0,43%
- Tổng số phẫu thuật tăng 4 lần (7550/1.763)
- Bình quân sử dụng giường bệnh trong tháng tăng dần từ 17,5 lên đến 29
ngày/tháng.
Cùng với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, hàng loạt những thiết
bị y học hiện đại đã ra đời trên thế giới. Trong những năm gần đây, nhờ tận dụng
nhiều nguồn vốn, ngành y tế Đồng Nai đã đầu tư nhiều thiết bị hiện đại như máy
siêu âm, nội soi, thận nhân tạo, xét nghiệm đa năng, máy điện quang hiện đại, chụp
cắt lát CT - Scanner... là những yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh.
Hiện nay 100% bệnh viện tỉnh, huyện đều tiến hành tốt phẫu thuật cấp
cứu, phát triển phẫu thuật chấn thương sọ não - tim mạch - bướu giáp v.v... những
công việc chuyên môn mà trước đây đội ngũ và phương tiện của ngành y tế Đồng
Nai không làm được, phải chuyển về tuyến trên.
Các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng y học cổ truyền dân tộc được
Nhà nước chú trọng. Hoạt động y học cổ truyền dân tộc ở Đồng Nai phát triển theo
mô hình "thầy tại chỗ, thuốc tại chỗ". Trong những năm qua y học cổ truyền dân tộc

35.10 Page 350

▲back to top


đã đóng góp rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất
là dân nghèo ở nông thôn. Sưu tầm thừa kế nhiều bài thuốc quý trong nhân dân, đào
tạo - bồi dưỡng nhiều lớp lương y kế thừa, phát triển các phương pháp điều trị không
dùng thuốc như: châm cứu, bấm huyệt, khí công, xông hơi, xoa bóp...
III.5. Đào tạo đội ngũ:
Để phục vụ cho việc kiện toàn hệ thống y tế trong tỉnh, ngay từ những
năm đầu sau giải phóng, tỉnh đã thành lập Trường sơ cấp y tế tại thị trấn Xuân Lộc
huyện Long Khánh và sau đó thành lập trường Trung học y tế tại xã Hố Nai 2 huyện
Thống Nhất. Đến 1987, Sở y tế Đồng Nai đã sáp nhập 2 trường này hình thành
trường Trung học y tế Đồng Nai với 4 chuyên khoa vừa đào tạo dài hạn để đáp ứng
lâu dài vừa bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho số cán bộ, nhân viên trong ngành
phục vụ trước mắt.
Qua 20 năm đã đào tạo: 3872 cán bộ y tế các loại. Trong đó: Y sĩ: 1972,
y tá trung học: 540, nha sĩ trung học: 309, y tá sơ học: 80, nữ hộ sinh: 109, dược tá:
814, y học dân tộc: 47, chuyên khoa sốt rét: 46.
Bên cạnh công tác đào tạo bồi dưỡng chính ngạch, những năm qua,
trường Trung học y tế Đồng Nai còn tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng
giám sát quản lý các chương trình y tế cộng đồng cho cán bộ y tế phường xã, bồi
dưỡng nâng cao tay nghề cho điều dưỡng viên, kỹ thuật viên xoa bóp...
Hàng năm, ngành y tế đã bố trí hàng trăm cán bộ tiếp tục được bồi
dưỡng chuyên sâu ở các trung tâm lớn của Bộ và của nước ngoài.
III.6. Hoạt động sn xuất kinh doanh tân dược:
Năm 1975, những cán bộ từng làm công tác dược chính trong đội ngũ
quân dân y tỉnh Biên Hòa được ngành y tế tập hợp để xây dựng một đơn vị sản xuất
thuốc tân dược phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh trong tỉnh. Năm 1977, UBND tỉnh
Đồng Nai ra quyết định cho phép ngành y tế Đồng Nai thành lập Xí nghiệp Dược
phẩm Đồng Nai. Xí nghiệp dược phẩm bước đầu hình thành với 35 cán bộ, sản xuất
11 mặt hàng, chủ yếu viên nang, thuốc uống thông thường. Những năm 80, mặt hàng
Donaberine của xí nghiệp nổi tiếng trên thị trường, đặc biệt tiêu thụ ở nhiều tỉnh
miền Tây Nam bộ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, công tác sản xuất và lưu thông
phân phối thuốc bước đầu đã gặp nhiều khó khăn. Sau nhiều lần nhập tách và rút
kinh nghiệm về những thất bại trong công tác xuất nhập khẩu và kinh doanh thuốc
tân dược, đến năm 1990, UBND tỉnh ra quyết định thành lập Công ty dược phẩm
Đồng Nai trên cơ sở sáp nhập các đơn vị trực thuộc với tên giao dịch là Donafarm.
Donafarm đã tập hợp được đội ngũ cán bộ trẻ năng động và tìm ra những hướng đi
thích hợp, từng bước phát triển vững trong cơ chế thị trường.

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


Đến nay Công ty dược phẩm Đồng Nai Donafarm được trang bị nhiều
thiết bị hiện đại, sản xuất trên 40 mặt hàng, đảm bảo chất lượng, mẫu mã hợp thị
hiếu, đủ sức cạnh tranh thị trường. Tổng trị giá sản xuất bình quân 5 tỷ đồng/ năm.
Mạng lưới bán thuốc ngày càng phát triển vững chắc, phân bố rộng khắp từ tỉnh đến
tận cơ sở, đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ, đủ thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân.
III.7. Kết hp y hc ctruyn và y hc hiện đại:
Ở Đồng Nai, các cơ sở y tế lớn đã giúp cho các khoa Đông y và các cơ
sở y học cổ truyền trong việc xem bệnh bằng các thiết bị hiện đại. Tứ chẩn bát
pháp biện luận trước đây nay được hỗ trợ thêm bằng máy móc như: máy chụp X
quang, máy siêu âm, nội soi, điện tim và các xét nghiệm; còn điều trị bằng kê đơn,
bốc thuốc, sắc uống cho người bệnh. Bằng phương pháp này, vừa nghiên cứu và ứng
dụng vào công tác khám, chữa bệnh, nhiều đơn vị y học cổ truyền đã và đang chữa
trị cho nhiều người mắc các chứng bệnh: cao huyết áp, hen phế quản, viêm loét dạ
dày, sỏi mật, đau tức ngực, đái đường... Đáng chú ý gần đây, có một số cơ sở Đông
y đang thử nghiệm bài thuốc có tác dụng hạn chế sự tiến triển của ung thư. Không
chỉ dừng lại ở những thang thuốc sắc hằng ngày, nhiều địa phương các lương y, bác
sĩ ở đây còn hướng dẫn người bệnh phương pháp luyện tập dưỡng sinh nhằm phòng,
chống các chứng bệnh hay gặp ở người cao tuổi như khó thở, thiểu năng tuần hoàn
não, đau nhức khớp xương.
Một số cơ sở y tế như Bệnh viện khu vực Thống Nhất sau khi tiếp nhận
người bệnh thường xử lý bằng Tây y trước, sau đó các bệnh lý được theo dõi, điều
trị bằng các loại thuốc y học dân tộc, hoặc vừa kết hợp châm cứu, vừa dùng phương
pháp cấy chỉ vào huyệt để chữa... Nhiều loại thuốc Đông y được sử dụng hiệu quả
nhưng có giá thành rẻ hàng chục lần so với dùng thuốc Tây y. Tuy nhiên, việc thực
hiện ý tưởng kết hợp nhịp nhàng giữa y học dân tộc và y học hiện đại trong khám,
chữa bệnh ở Đồng Nai, vẫn còn nhiều bất cập. Ngành y tế còn có quá ít các y bác sĩ
hiểu biết sâu về y học cổ truyền, chưa có biện pháp hạn chế sự "trôi nổi" của đủ loại
tân dược từ nước ngoài tràn vào, đồng thời chưa có trường đào tạo y học cổ truyền
để thu hút đội ngũ kế thừa. Việc phát huy thế mạnh y học dân tộc, kết hợp y học cổ
truyền và y học hiện đại để tạo nên một nền y học mang đậm bản sắc Việt Nam được
ngành y tế Đồng Nai đưa vào trong phương hướng hoạt động nhiều năm song kết
quả còn khiêm tốn. Nổi lên trong hoạt động này vẫn là Bệnh viện khu vực Thống
Nhất. Khoa y học dân tộc của Bệnh viện này thành lập khá sớm (1979), đến nay vẫn
luôn duy trì được quy mô 74 giường bệnh, tạo được uy tín trong nhân dân về lĩnh
vực chữa trị. Khoa thường dùng 2/3 thuốc Đông y cho bệnh nhân. Bắt mạch có bác
sĩ chuyên khoa cấp I Đông y và phối hợp với các phương pháp chẩn đoán cận lâm
sàng của Tây y (laser, siêu âm, nội soi). Phương pháp xoa bóp kết hợp với những
kiến thức vật lý trị liệu hiện đại, bào chế thuốc Đông y bằng các phương pháp Tây

36.2 Page 352

▲back to top


y, sắc thuốc Đông y bằng ấm điện. Khoa nổi tiếng về trị tai biến mạch máu não, trĩ.
Hằng năm có các công trình nghiên cứu khoa học được đánh giá cao như Điều trị
liệt thần kinh số 7 bằng điện châm, Điều trị viêm thần kinh tọa bằng thuốc Nam, So
sánh trong điều trị liệt thần kinh ngoại biên giữa dùng thuốc và châm cứu, ứng dụng
châm tê trong cắt amygdale...
Việc kết hợp thế mạnh của Đông y với y học hiện đại ở Đồng Nai nổi
lên trong lĩnh vực sản xuất thuốc. Công ty bào chế đông dược Thiên Đăng là đơn vị
sản xuất đông dược đầu tiên trong tỉnh Đồng Nai. Thành lập từ tháng 7 - 1996, đến
nay, Công ty đã có trên 15 mặt hàng được Bộ y tế cho phép lưu hành toàn quốc. Đó
Hạc tất phong A, Hoàng đế dược tửu, Xương xa hoàn, Sâm nhung bổ thận hoàn,
Thiên Đăng viêm xoang hoàn, Dưỡng não hoàn, Phì nhi cam tích, Dầu nóng Song
mã đỏ, Viên bổ tì, Lục vị hoàn, Bổ tâm dưỡng tì, Dầu Thanh Hương, Tuấn bổ tinh
huyết cao, Tư âm giáng hỏa cao, cồn xoa bóp Thiên Đăng. Những mặt hàng Đông
dược này được bào chế bằng các phương tiện hiện đại của các xí nghiệp sản xuất
thuốc Tây y.
Lương y Nguyễn Tăng Công cũng sử dụng công nghệ sản xuất thuốc
hiện đại để cho ra đời các bài thuốc quý dưới dạng viên có bao bì đẹp và rất giống
tân dược. Đó là thuốc "Tiêu viêm giảm đau" trị viêm đa xoang được Sở y tế cho phép
lưu hành trong tỉnh và viên "Thạch lâm thông" trị sỏi thận được Bộ y tế cho phép
lưu hành toàn quốc. Cơ sở Đông y của ông (Hòa Thuận đường) là cơ sở khép kín
quy trình: sản xuất dược liệu - bào chế - khám chữa bệnh từ thiện - nghiên cứu, khảo
sát - xây dựng các bài thuốc. Tất cả các bệnh nhân đến khám và chữa bệnh (theo
phương pháp Đông y đều được làm bệnh án theo phương pháp các bệnh viện lớn
thực hiện) để ông có thể thống kê chi tiết.
Lương y Trần Tá (Bệnh viện Đa khoa Tân Phú cũng xây dựng dược
phẩm "Cốm hoa mai" (trị u bướu nói chung, bướu cổ nói riêng) bằng việc thừa kế
bài thuốc cổ truyền với phương pháp sản xuất hiện đại. Dược phẩm này sau khi thực
nghiệm chữa trị và kiểm nghiệm độc tại Viện y học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh
đã được nhiều nhà chuyên môn đánh giá cao. Phòng chẩn trị YHDT dòng Gioan
Thiên chúa cũng sản xuất những loại Đông dược bằng các phương pháp hiện đại.
Đó là cao bách thảo, cao viêm thấp, tể bổ tì, tể dạ dày, tể thập toàn đại bổ, thuốc
viêm xoang, ngải cứu.
III.8. Công tác nghiên cu khoa hc:
Tình hình bệnh tật phổ biến ở Đồng Nai những năm qua là các bệnh
nhiễm (sốt rét, thương hàn, sốt xuất huyết, lao...), ngộ độc thuốc trừ sâu và nhất là
tai nạn lưu thông. Những đề tài nghiên cứu khoa học của ngành y tế Đồng Nai cũng
tập trung vào những vấn đề trên. Ngoài ra, còn có một số đề tài nghiên cứu về bệnh
tim mạch, nội tiết, các chuyên khoa mắt, tai - mũi - họng, tình hình kháng thuốc

36.3 Page 353

▲back to top


kháng sinh, vai trò của siêu âm trong chẩn đoán và điều trị, quản lý tiêm chủng, sinh
đẻ có kế hoạch v.v...
Các công trình nghiên cứu khoa học của ngành y tế Đồng Nai còn có
sự tham gia hỗ trợ của các đơn vị y tế trung ương (tuyến trên) như Bệnh viện Chợ
Rẫy, Trung tâm bệnh nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Pasteur Thành phố
Hồ Chí Minh và các tổ chức y học nước ngoài như: Viện nghiên cứu y học nhiệt đới
SANYA (Trung Quốc), tổ chức WELLCOME TRUST (Đại học Oxford - Anh
quốc).
Các bác sĩ Nguyễn Văn Cao (Bệnh viện khu vực Long Thành) và
Nguyễn Đức Thỉnh (Bệnh viện Đồng Nai) đã có các công trình nghiên cứu về điều
trị ngộ độc thuốc trừ sâu gốc phosphore hữu cơ ở vùng nông thôn (bằng pradiloxime
truyền tĩnh mạch, kết hợp sử dụng máy thở) (199[38]). Những công trình này đã góp
phần giảm tỉ lệ tử vong do ngộ độc thuốc rầy. Nhóm bác sĩ Phạm Quang Huy (chủ
đề tài), Lưu Tuấn Giang, Huỳnh Thu Ba, Nguyễn Văn Bình của Bệnh viện khu vực
Thống Nhất đã nghiên cứu thành công mối liên quan giữa đường huyết, áp huyết
trong tai biến mạch máu não và đưa ra phương pháp điều trị riêng góp phần giảm tỷ
lệ tử vong. Nhóm bác sĩ Phan Huy Anh Vũ, Phạm Thị Ngọc Nga, Võ Mậu Thiên
(Bệnh viện Đồng Nai) tìm ra phác đồ điều trị mới "phối hợp thyroxin thuốc kháng
giáp trong điều trị basedow. Nhóm bác sĩ Cao Xuân Thanh Phương của Trung tâm
nhi đồng Đồng Nai đã phối hợp với Trung tâm bệnh nhiệt đới Thành phố Hồ Chí
Minh và Tổ chức Wellcome Trust (Đại học Oxford) thực hiện nhiều công trình
nghiên cứu về điều trị thương hàn không biến chứng cho trẻ em (dùng ofloxacin
cefixime) và điều trị sốt xuất huyết Dengue (200[39]) bằng dung dịch điện giải
lactated ringer kết hợp với Dextran 70 trong dung môi Natricholorure 0,9%.
Phần lớn các công trình khoa học ở các cơ sở y tế của Đồng Nai là
những công trình có tính chất so sánh thống kê tìm biện pháp tối ưu. Ví dụ công trình
so sánh việc sử dụng artemisinin hoặc artesunate (phối hợp với một số thuốc khác)
thay cho quinine trong điều trị sốt rét để giảm tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính của
nhóm bác sĩ Phạm Lê Thịnh (Bệnh viện khu vực Xuân Lộc) phối hợp với GS. Lý
Quốc Kiều và cộng sự thuộc Viện nghiên cứu y học nhiệt đới Sanya (Quảng Châu -
Trung Quốc)... Từ khi máy siêu âm được đưa vào sử dụng như một phương tiện cận
lâm sàng, nhiều cơ sở y tế Đồng Nai đã có những công trình nghiên cứu có tính chất
tổng kết về các loại bệnh có nguy cơ tử vong cao như công trình nghiên cứu về phẫu
thuật máu tụ dưới dạng cứng mãn tính của nhóm bác sĩ Ngô Đức Để, hoặc chẩn
đoán thủng tạng rỗng của nhóm bác sĩ Phạm Long Thắng (Bệnh viện Đồng Nai),
(199[38]) Kết quca các công trình nghiên cứu này: Khi chưa trang bị máy th(1991): 26% tvong, khi có máy
th(1994): 18,8%, từ 1995 đến nay, khi có Pralidoxime, tvong còn 13,15%
(200[39]) Do siêu vi trùng Dengue gây ra và có tltvong rất cao 20 năm qua ở khu vực Đông Nam Á

36.4 Page 354

▲back to top


hoặc xuất huyết màng não sớm ở trẻ sơ sinh của bác sĩ Trần Thị Hiệp (Trung tâm
nhi đồng Đồng Nai). Do chưa chú trọng công tác nghiên cứu, ngành y tế Đồng Nai
ít có những công trình có đóng góp cao cho y học.
III.9. ng dng công nghhiện đại trong khám cha bnh ở Đồng Nai:
Bệnh viện đa khoa khu vực Thống Nhất: Từ 150 giường bệnh khi tiếp
quản 3 - 1979, đến nay, Bệnh viện đa khoa khu vực Thống Nhất đã có quy mô 350
giường bệnh. Bệnh viện có 5 phòng chức năng, 7 khoa lâm sàng (khám bệnh, hồi
sức cấp cứu, ngoại tổng quát, nội tổng quát, phụ sản, y học cổ truyền, phục hồi chức
năng và điều trị bằng laser, liên chuyên khoa: mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt), 3
khoa cận lâm sàng (Xét nghiệm: huyết học, sinh hóa, vi sinh, miễn dịch; Chẩn đoán
hình ảnh: nội soi, siêu âm, X - quang, điện tim; Dược và vật tư y tế) với tổng số 315
cán bộ công chức, trong đó, số người có trình độ đại học và sau đại học chiếm
26,35%. Đây là cơ sở y tế trong tỉnh có nhiều nỗ lực trong việc ứng dụng những
thành tựu y học hiện đại. Bệnh viện đã trang bị được máy gây mê, máy đếm tế bào,
máy siêu âm, máy kích thích nhịp tim, máy shock điện, máy tạo nhịp tim, máy phân
tích công thức máu, máy nội soi ống mềm, máy phân tích nước tiểu, máy giúp thở,
máy miễn dịch học, máy X - quang di động, máy cắt đốt điện, máy LASER (năng
lượng cao, năng lượng thấp), máy điện từ trường... Bệnh viện cũng có trên 40 đề tài
nghiên cứu khoa học có giá trị lớn về điều trị như Kỹ thuật châm tê để cắt amygdale,
chọc dò abces gan qua siêu âm, chuyển đạo cabrera cải biên trong chẩn đoán điện
tim, tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng creatinine máu, điều trị nhồi máu cơ tim, ghép
da trong điều trị phỏng v.v...
Những sáng kiến cải tiến kỹ thuật và ứng dụng các thành tựu y học hiện
đại vào chẩn đoán và điều trị đã góp phần giảm tỷ lệ tử vong, giảm ngày điều trị,
giảm chi phí và giảm tình trạng chuyển lên tuyến trên, tránh phiền hà tốn kém cho
bệnh nhân.
Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa: Sau 1975, Bệnh viện Tâm thần Biên
Hòa trở thành bệnh viện Trung ương trên địa bàn Đồng Nai được Bộ y tế giao nhiệm
vụ điều trị, phòng bệnh, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ, xây dựng và chỉ đạo
tuyến cho 16 tỉnh, thành phố phía Nam. 24 năm qua, đơn vị này đã từng bước cải
tiến về tổ chức và hoạt động.
- Thành lập bộ phận hoạt động liệu pháp qua các hình thức như giải trí
(người bệnh nghe đài, xem truyền hình, xem phim, chơi cờ tướng, đômino, cầu lông,
ca hát, hội họa...), tập thể dục mỗi ngày và đồng diễn thể dục hàng tuần, hướng dẫn
người bệnh về nghề may, đan, dệt vải, dệt chiếu, chằm nón lá..., tổ chức lao động
liệu pháp (trồng tỉa, chăn nuôi bò, heo...).

36.5 Page 355

▲back to top


- Từng bước mở thêm các bộ phận chuyên khoa cận lâm sàng như nha
khoa, tai mũi họng, EEG, ECG... phục vụ rộng rãi cho nhân dân Đồng Nai và các
vùng lân cận. Từ năm 1990, bệnh viện hợp đồng với lương y Lưu Văn Xiêm mở
thêm khoa điều trị nghiện ma túy với thuốc Bông sen dạng cao lỏng (Bằng sáng chế
được Nhà nước cấp ngày 22 - 3 - 1994).
- Mở rộng đối tượng phục vụ không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi
người bệnh tâm thần phân liệt hay động kinh mà còn khám chữa bệnh có nguồn gốc
tâm lý, tâm thần khác. Phòng khám nội khoa thần kinh ra đời đã phục vụ tốt các đối
tượng trên, có uy tín trong nhân dân các tỉnh phía Nam.
Đội ngũ cán bộ chuyên khoa được cử đi học các nơi trong và ngoài
nước và thường xuyên sinh hoạt khoa học. Bệnh viện cũng mở rộng quan hệ nhiều
Bệnh viện tâm thần nước ngoài như Maison Blanche (Pháp). Nhờ đó, các kỹ thuật
điều trị được từng bước nâng cao về chất lượng, hoàn thiện hơn với các liệu pháp
như hóa dược, liệu pháp tâm lý xã hội như (hoạt động giải trí cho người bệnh: xem
phim hàng tháng, mở phòng đọc sách, quán ăn, phòng hớt tóc..., tổ chức ca nhạc tại
các khu bệnh và khuyến khích người bệnh tham gia, tổ chức cho một số người bệnh
tham quan Bửu Long, Vũng Tàu; liệu pháp lao động như thành lập khu hướng nghiệp
(với các tổ ngành nghề khác nhau) và hai khu nông trại (nam và nữ).
Bệnh viện tâm thần Biên Hòa còn có Hội đồng giám định pháp y tâm
thần cao nhất tại khu vực phía Nam. Những năm gần đây Bệnh viện trang bị thêm
nhiều máy móc hiện đại nâng cao chất lượng điều trị. Đáng chú ý là:
+ Kỹ thuật chẩn đoán: ghi điện não, ghi điện tim, siêu âm, xét nghiệm,
trắc nghiệm tâm lý.
+ Kỹ thuật điều trị: liệu pháp hóa dược, liệu pháp chuyên biệt như: sốc
điện, bơm khí não, ứng dụng laser từ trường trong điều trị ban đầu, suy nhược thần
kinh và những rối loạn thần kinh, tâm thần..., điều trị cắt cơn nghiện ma túy bằng y
học dân tộc, liệu pháp tâm lý xã hội: củng cố và nâng cao chất lượng các liệu pháp
lao động, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, hội họa...
Ngoài ra, theo xu hướng hiện nay của thế giới về điều trị bệnh tâm thần
tại cộng đồng, bệnh viện đã và đang nghiên cứu thí điểm để đóng góp tìm mô hình
điều trị thích hợp tại Việt Nam (tham gia chương trình nghiên cứu với Viện Vệ sinh
y tế cộng đồng Thành phố Hồ Chí Minh).
Bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Nai: Việc trang bị máy chụp cắt lớp CT -
scanner cho Bệnh viện đa khoa Đồng Nai được coi là sự kiện lớn trong quá trình ứng
dụng khoa học nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị của ngành y tế Đồng Nai.
Trước đây, nhiều ca cấp cứu chấn thương sọ não do không có thiết bị này nên Bệnh
viện đa khoa Đồng Nai đã buộc phải chuyển viện dẫn đến tình trạng tử vong cao.

36.6 Page 356

▲back to top


Ngày nay, với nhiều công trình nghiên cứu khoa học có hiệu quả ứng dụng cao và
với đội ngũ thầy thuốc được đánh giá là giỏi nhất tỉnh, Bệnh viện đa khoa Đồng Nai
vẫn đang là lá cờ đầu của ngành y tế Đồng Nai trong những thành tựu y học chung.
DANH SÁCH THẦY THUỐC ƯU TÚ Ở ĐỒNG NAI:
1. Phạm Quang Huy - Trưởng khoa HSCC Bệnh viện khu vực Thống Nhất
2. Tống Văn Hữu - Phó giám đốc Bệnh viện đa khoa khu vực Thống Nhất
3. Trần Thị Hiệp - Trưởng phòng kế hoạch Trung tâm nhi đồng Đồng Nai
4. Dương Thị Mùi - Giám đốc Bệnh viện đa khoa Đồng Nai.
5. Nguyễn Thị Nê - Phó giám đốc Bệnh viện đa khoa Đồng Nai
6. Nguyễn Thị Ngọc - Giám đốc Trung tâm Bảo vệ bà mẹ trẻ em.
7. Phạm Xuân Tứ - Trưởng phòng KHTH Bệnh viện đa khoa Đồng Nai
8. Cao Xuân Thanh Phương - Trung tâm Nhi đồng Đồng Nai
9. Trương Minh Trung - Giám đốc Sở y tế Đồng Nai
10. Dương Văn Hải - nguyên Giám đốc Sở y tế Đồng Nai
11. Nguyễn Kim Bôn - nguyên Phó Giám đốc Sở y tế Đồng Nai
12. Vũ Thị Kim Các - nguyên Phó Giám đốc Trung tâm nhi đồng Đồng Nai
CÁC GIÁM ĐỐC SỞ Y TẾ ĐỒNG NAI TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY:
1975 - 1979: BS. LÊ ĐỨC ĐÔNG
1979 - 1995: BS. DƯƠNG VĂN HẢI
1995 đến nay: BS. TRƯƠNG MINH TRUNG
PHỤ LỤC SỐ LIỆU HOẠT ĐỘNG Y TẾ.
1976-1997
(Xem file phụ lục)
ẢNH 1
1- Báo Đồng Nai số đặc biệt chào mừng Đại hội Mặt trận tỉnh Biên Hòa lần
thứ I, năm 1962.
ẢNH 2

36.7 Page 357

▲back to top


2- Tòa soạn báo Vệ Quốc đang làm việc tại Chiến khu Đ.
ẢNH 3
3- Nhóm điện đài của Phân xã Thông tấn xã Giải phóng trên đường về Đông
Nam bộ (1972).
ẢNH 4
4- Các nhà báo chuẩn bị lên đường về Phân xã, Thông tấn xã Giải phóng
Đông Nam bộ.
Ảnh chụp Đầu năm 1972, tại một căn cứ ở ranh giới Việt Nam – Campuchia.
ẢNH 1
1- Các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh tham dự Đại hội Hội nhà báo
Việt Nam tỉnh Đồng Nai lần thứ 6.
ẢNH 2
2- Liên hoan tiếng hát truyền hình, hoạt động văn hóa thu hút đông đảo người
tham gia của Đài PH-TH Đồng Nai
ẢNH 3
3- Nhiều nhà báo trong và ngoài nước đến đưa tin về lễ kỷ niệm 20 năm ngày
chiến thắng Xuân Lộc.
ẢNH 4
4- Khánh thành và đưa vào sử dụng phim trường của Đài PT-TH Đồng Nai.
ẢNH 5
5- Đưa thông tin về cơ sở.
ẢNH 1
1- Bệnh viện miền Đông tại chiến khu Đ.
ẢNH 2

36.8 Page 358

▲back to top


2- Nhà thương điên Biên Hòa (Bệnh viện tâm thần Biên Hòa nay) năm 1943.
ẢNH 3
3- Bệnh viện khu vực Thống Nhất, đơn vị Anh hùng Lao động, phối hợp với
các đoàn bác sĩ Thái Lan tổ chức phẫu thuật miễn phí cho trẻ bị sứt môi, hở hàm ếch.
ANH 4
4- Về vùng sâu, khám chữa bệnh cho người nghèo.
(Trong ảnh: Đoàn y, bác sĩ Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai).
ẢNH
Bệnh viện khu vực Thống Nhất đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động.
ẢNH
Hội từ thiện tỉnh tổ chức “nồi cháo tình thương” cho bệnh nhân nghèo ở Bệnh
viện Đồng Nai.
ẢNH
Chăm sóc bệnh nhân tại Trung tâm lao và bệnh phổi tỉnh.
I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT:
Hiện có khoảng 40 dân tộc ít người chung sống trên địa bàn Đồng Nai.
Theo số liệu thống kê của tỉnh ngày 01 tháng 01 năm 1996 số lượng đồng
bào các dân tộc ít người là 157.870 người, chiếm tỉ lệ 8,15% số nhân khẩu toàn tỉnh.
Người Hoa
Người Tày
Người Nùng
103.540
12.419
12.279

36.9 Page 359

▲back to top


Người Châu Ro
Người Dao
Người Mường
Người Khmer
Người Chăm
Người Mạ
Người Giarai
Người Stiêng
Người Kơho
Người Êđê
Người Thái
Người Sán Dìu
Người nước ngoài
Người Thổ
Các dân tộc khác
Người Sán Chay
Người Raglay
Người Lô Lô
Người Giáy
Người Hmông
Người Bana
Người Tà na
Người Pà Thẻn
Người Mnông
Người Kháng
Người Xinh Mun
Người Bru
Người Lào
Người Hrê
Người Xơđăng
Người Hà Nhì
Người La Chí
Người Cơ Lao
Người Cơtu
Người Rơmăm
Người Khơmú
Người Giẻ Triêng
Người Bố Y
11.805
3.230
2.673
2.063
1.854
1.848
1.252
1.185
646
491
466
392
392
377
299
297
94
70
63
53
43
43
28
22
16
12
8
7
5
4
4
3
3
3
3
2
1
1

36.10 Page 360

▲back to top


Vân Kiều
Các dân tộc bản địa: Châu Ro, Mạ, Stiêng, Kơho... là chủ nhân vùng đất
Đông Nam bộ từ rất lâu đời. Người Stiêng ở phía Tây Bắc Đồng Nai, nhưng địa bàn
cư trú tập trung nhất ở tỉnh Bình Phước (thuộc Tây Bắc tỉnh Biên Hòa xưa); một số
mới về ở huyện Xuân Lộc từ những năm 1970. Người Mạ và Kơho ở từ phía Bắc
sông La Ngà trở lên Lâm Đồng. Người Châu Ro ở rìa phía Nam dãy Trường Sơn -
Tây Nguyên tiếp giáp với đồng bằng Nam bộ...
Các dân tộc ít người tới sau vào các thời điểm khác nhau do những biến thiên
của lịch sử. Người Chăm và người Khmer có thể có mặt tại đây khoảng vài thế kỷ
sau Công nguyên; nhưng số người Chăm tập trung ở Xuân Lộc thì mới tới năm 1972.
Người Hoa có mặt hơn ba trăm năm trước, sử sách còn ghi chép rõ. Các dân tộc Tày,
Nùng, Thái, Mường đến cư trú từ sau hiệp định Genève tháng 7 - 1954 và đến đông
đảo từ sau ngày đất nước thống nhất...
Các dân tộc ít người ở Đồng Nai - dù là dân bản địa hay người đến sau - sống
bằng nông nghiệp là chính. Đại bộ phận các dân tộc "ăn rừng", "ăn nước trời" làm
nương rẫy du canh, đao canh hỏa nậu, quảng canh... nên năng suất cây trồng nói
chung thấp. Phương thức sản xuất này hủy hoại mạnh mẽ môi trường sinh thái, tác
hại lâu dài đến chính cuộc sống của họ. Thực hiện chủ trương lớn định canh định cư,
bảo vệ rừng, đến nay họ đã định canh định cư, học tập kỹ thuật canh tác tiến bộ của
một số dân tộc anh em, do đó đời sống bớt khó khăn hơn trước. Người Hoa, Nùng,
Tày... là các dân tộc có trình độ sản xuất tiến bộ hơn, biết thâm canh cây trồng, trồng
các cây công nghiệp và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ có thu nhập từ
khá trở lên.
Chăn nuôi chưa phát triển trong nhiều cộng đồng dân tộc, chưa có tính chất
sản xuất hàng hóa.
Hình thái kinh tế chiếm đoạt: hái lượm rau, củ, quả..., săn bắn chim và thú
trong rừng, đánh cá ở suối... trước đây giữ vị trí đáng kể trong đời sống hàng ngày
thì nay chỉ là rất phụ vì rừng không còn bao nhiêu (dưới 25% diện tích tự nhiên).
Các nghề đan lát, dệt... chưa tách khỏi nghề nông và chưa có sản phẩm hàng
hóa đáng kể, chủ yếu mang tính tự cung tự cấp.
Xưa kia các dân tộc bản địa ở Đồng Nai cũng có hội đồng già làng như các
dân tộc ở Tây Nguyên - Trường Sơn, ngày nay không còn nữa. Nhà sàn dài cũng
biến mất khoảng vài chục năm nay. Chế độ theo dòng cha ở các mức độ khác nhau.
Các đơn vị sóc, bòn, bù plây... trở thành đơn vị xóm, ấp và ở cơ sở nào có người dân
tộc sinh sống thì họ đều có người làm trưởng ấp, cán bộ UBMTTQ ấp và xã, đại biểu
HĐND các cấp, cán bộ UBND địa phương...

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Phong tục tập quán của các dân tộc ít người ở Đồng Nai dần dần có nhiều
nét tương đồng qua quá trình giao tiếp lâu ngày. Ngôn ngữ chung là tiếng Việt, tiếng
mẹ đẻ chỉ dùng trong nội bộ tộc người, một bộ phận lớp trẻ đến nay cũng không nói
được tiếng của dân tộc mình nữa.
Mỗi dân tộc ít người đều có kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc riêng (thần
thoại, cổ tích, dân ca, điệu múa...) song đang mai một dần theo lớp người già. Chúng
ta cần có kế hoạch gìn giữ vốn văn hóa quí giá này.
Một điểm nổi bật là truyền thống đoàn kết thuận hòa giữa các dân tộc anh
em cùng chung sống trên đất Đồng Nai. Người ta không thấy nổ ra cuộc xung đột
sắc tộc nào trong hơn 300 năm qua.
Bức tranh các dân tộc ít người ở Đồng Nai thật đa dạng - Chương sách này
chỉ trình bày về bốn dân tộc bản địa: Châu Ro, Mạ, Stiêng, Kơho và bốn dân tộc
đến sau: Hoa, Chăm, Mường, Nùng có những nét văn hóa đặc sắc trong số 40 dân
tộc ít người cùng chung sống trên mảnh đất này.
II. NGƯỜI CHÂU RO (JRO):
II.1. Dân số và phân bố:
Người Châu Ro được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Người Khmer gọi họ là
Ph'nôông. Sách báo cũ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 gọi họ là Ro, Tô, Xôp
(Coop)... Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam của Tổng cục thống kê ngày
2 - 3 - 1979 thống nhất gọi là Châu Ro hoặc Dơro. Đồng bào tự gọi là Chrau Jro
(chrau: người; Jro: tên bộ tộc).
J. Boulbet cho rằng:" Chrau Jro: nhóm con của Người ở rời rạc ở đồng bằng
phía Tây Nam người Mạ (Đông Nam thì đúng hơn, NV chú). Nhiều làng Jro là láng
giềng của những làng thường trực Việt Nam đầu tiên. Các nhà thám hiểm Pháp mô
tả vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, người Jro mà họ gọi là Chrau như là rất gần
người Mạ, Maitre cho đó là người Mạ ở đồng bằng và những bức ảnh đầu tiên cho
ta thấy họ rất gần với người Mạ hơn là người Jro hiện nay". (J. Boulbet: Pays des
Maa, domaine des génies - Nggar Maa, nggar yang, p.134).
Người Châu Ro có nhiều thị tộc cư trú ở các địa bàn khác nhau:
- Chrau M'Xang ở vùng Võ Đắc, Tánh Linh (Bình Thuận).
- Chrau B'Giêng ở vùng Túc Trưng, Long Khánh.
- Chrau Chà Lun ở vùng Gia Kiệm (xưa là Võ Dõng), Bảo Chánh.
- Chrau M'Rơ ở vùng Bàu Lâm (Xuyên Mộc)...

37.2 Page 362

▲back to top


Dân số Châu Ro đầu năm 1996 là 11.805 người (5942 nữ) xếp thứ 5 trong
số 40 dân tộc ít người ở Đồng Nai và đông nhất khối dân tộc bản địa. Người Châu
Ro là một trong các cư dân bản địa mà địa bàn sinh sống là vùng đồi núi thấp của
tỉnh Biên Hòa (cũ). Miền Đông Nam bộ còn có người Châu Ro ở các tỉnh lân cận:
Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Bình Phước, nhưng số lượng ít hơn nhiều. (Tổng
số dân tộc Châu Ro cả nước khoảng hơn 15.000 người). Tiếng Châu Ro thuộc dòng
Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Một số người Châu Ro lớn tuổi ở ấp Đức Thắng xã Túc Trưng (Định Quán)
cho biết: một tổ tiên của họ là Điểu Ué sinh năm 1841, qua đời năm 1964, thọ 123
tuổi nói cho con cháu rõ xưa kia cụ và những người cùng palây có quê ở sát Ngã
Bảy (tp Sài Gòn), bộ tộc Châu Ro này hồi đó chỉ có vài chục người. Họ trôi dạt dần
về phía Đông Bắc, con cháu cụ bây giờ định cư ở ấp Đức Thắng. Vì sống du canh,
du cư nên bộ tộc này - cũng như cả dân tộc Châu Ro - luôn luôn thay đổi vùng canh
tác, họ đi ngược lên vùng trung lưu sông Đồng Nai, tỏa ra nhiều địa điểm khác nhau.
Người Việt theo sau, nơi nào người Châu Ro bỏ không làm, thì người Việt trồng trọt
ở mảnh đất đó, nhưng vì biết thâm canh nên họ đạt năng suất khá hơn, định cư luôn
tại đó.
Theo số liệu năm 1996 huyện Long Khánh hiện có số cư dân Châu Ro đông
nhất tỉnh: 4.015 người (2084 nữ); trong đó xã Xuân Bình có 1.015 nhân khẩu (534
nữ) với 128 hộ và xã Xuân Vinh có 1.649 người (1.238 nữ) thuộc 306 hộ...
Huyện Xuân Lộc có 3.471 người Châu Ro (1.715 nữ). Xã Xuân Trường đông
nhất, có 1.117 người (569 nữ) với 249 hộ. Xã Xuân Phú có 794 người (399 nữ) của
132 hộ; xã Xuân Thọ có 769 nhân khẩu (373 nữ) với 145 hộ. Còn lại, người Châu
Ro sống rải rác ở các xã Xuân Hòa, Xuân Hiệp...
Ở huyện Định Quán, người Châu Ro có 3.387 nhân khẩu (1.666 nữ) tập trung
nhất ở 2 ấp Đức Thắng và Đồng Xoài, xã Túc Trưng: 2.900 nhân khẩu với 503 hộ.
Ấp Lý Lịch xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu có 66 hộ người Châu Ro gồm 397
nhân khẩu (189 nữ).
Huyện Long Thành chỉ có 42 hộ Châu Ro gồm 174 người (93 nữ) ở khá rải
rác...
II.2. Phương thức canh tác cổ truyền:
Như tất cả các dân tộc khác ở miền Đông Nam bộ và Tây Nguyên - Nam
Trường Sơn, nền kinh tế cổ truyền của người Châu Ro là kinh tế nương rẫy, du canh
(do đó du cư) "ăn nước trời" dựa trên quan hệ sản xuất tập thể nguyên thủy. Hồi đó,
mỗi thị tộc nhỏ bé tập hợp chưa đến 100 nhân khẩu. Mọi người cùng làm cùng hưởng
những sản phẩm trồng trọt, hái lượm, đánh cá một cách bình đẳng. Qua tiếp xúc liên

37.3 Page 363

▲back to top


tục, lâu dài với các dân tộc anh em khác mà quan hệ sản xuất tập thể nguyên thủy
dần dần tan rã, thay thế bằng lối làm ăn riêng lẻ du canh còn tồn tại đến nay.
Muốn làm rẫy, người chủ gia đình Châu Ro (trước kia là vị gìa làng có kinh
nghiệm nhất, hoặc người đứng đầu làng (palây) thấy nơi nào đất ẩm nhiều mùn hoặc
đất đỏ tơi xốp thì chọn nơi đó. Rẫy đất xám nghèo mùn và độ phì thường chỉ làm 2
vụ đã kiệt màu thì bỏ. Rẫy đất đỏ tơi xốp phì nhiêu hơn, có thể trồng 3, 4 vụ liền.
Các rẫy lọt thỏm giữa rừng già đại ngàn mênh mông có hình thái da beo đánh giá sự
có mặt của con người trong thảm thực vật phồn thịnh miền nhiệt đới gío mùa châu
Á. Các loại thú thường phá hoại các loại cây trồng trên nương rẫy, có khi chỉ một
đêm (hoặc một buổi tối) chúng có thể xóa sạch thành quả lao động cả vụ. Cho nên
các rẫy trong một làng thường ở cạnh nhau, rẫy mỗi nhà ngăn cách bằng ranh giới
hoàn toàn ước lệ: hàng cây, những hòn đá xếp thành vạch... Các rẫy ở ngoài cùng
được rào bằng tre hoặc cành cây khá chắc chắn.
Lựa xong đất làm rẫy (mir, có nơi gọi là re) người ta phát sạch một miếng
đất cỏ bằng nền nhà nhỏ, đêm đó nếu nằm chiêm bao thấy ông bà tổ tiên cho làm thì
mới trồng tỉa; nếu không, họ tiếp tục tìm đất mới. Định được nơi làm rẫy, chủ nhà
cúng rẫy, van vái các thần (yang) và ông bà tổ tiên cho được mùa. Lễ vật gồm: một
con gà, một chai rượu, vài chiếc bánh nếp, một chén gạo, một nhúm muối, vài miếng
trầu cau... Cúng xong người ta ăn ngay tại chỗ và bắt đầu chặt hạ cây cối và phát các
bụi nhỏ, cỏ, dây leo...
Người Châu Ro ở Đồng Nai có vài kiêng cữ: con cù lần (con cu li hoặc phủ
hầu) vào rẫy; hoặc trút, trăn, rắn, rùa chết trong rẫy thì người ta bỏ rẫy đó không
làm vì sợ trỉa lúa sẽ thất, gia đình sẽ đau ốm. Muốn làm tiếp tục trên rẫy đó thì phải
cúng. Đi làm nếu gặp con mang (mển, đỏ) thì quay về, mai đi làm tiếp. Trong khi
làm rẫy phải cữ kêu trời, không nói tới toi dịch... Người Châu Ro (cũng như người
Mạ, người Stiêng) ở Đồng Nai giải thích: xưa kia cù lần là ông tổ con người, dạy
người làm rẫy cho nên gặp ông tổ thì con cháu phải tránh xa, không được làm kinh
động. Như vậy con cù lần là tô tem của người Châu Ro ở Đồng Nai.
Xưa kia đất rừng còn rộng mênh mông, họ bỏ hẳn rẫy cũ. Người Việt đến
tiếp tục trồng trỉa trên đất bỏ đi đó, tuy độ phì giảm nhưng không tốn công khai phá.
Nay người đông lên, đất chật và tìm đất mới không dễ thì họ chỉ bỏ hóa vài năm cho
đất phục hồi rồi lại trồng tiếp tục. Một mảnh rẫy cũ (re hoặc re thâm) chỉ cần bỏ hóa
2 năm thì cây chồi đã mọc thành rừng chồi. Bảy, tám năm sau cây lớn, đất tích lũy
được lượng mùn nhất định, người ta lại có thể làm rẫy trở lại. Gia đình nào trước
đây cũng có ít nhất một rẫy cũ đã làm qua một vụ và rẫy mới (răm) vừa khai phá.
Các rẫy có thể ở gần hoặc xa nhau tùy địa phương. Một đời người xưa kia thường
chỉ quay 3 vòng rẫy là cùng, đó là cách làm rẫy chu kỳ kín. Nhưng có những nhóm

37.4 Page 364

▲back to top


dựng nhà rồi lại làm rẫy kế bên, vài năm sau họ bỏ đi và không trở lại làm rẫy cũ
nữa, đó là lối du canh du cư thực sự, nay hầu như không còn.
Mảnh rẫy cũ bỏ hoang từ 2 năm trở lên thì không thuộc quyền sở hữu của
bất kỳ ai, người nào muốn làm cũng được. Nhưng để giữ mối quan hệ tốt với người
có công khai phá trước thì người tới sau thường đem chai rượu, thuốc hút và trầu
cau đến nói chuyện. Ở vùng đồng bào Châu Ro rất hiếm xảy ra tranh chấp nương
rẫy, mãi gần đây mới có một số bà con sang ruộng và rẫy cho các dân tộc anh em
đến làm ăn xen kẽ. Ruộng rẫy đem sang thường gần làng xóm, đã bạc màu. Người
Châu Ro ngày càng làm rẫy sâu vào vùng rừng núi như vết dầu loang. Khoảng đầu
và giữa thập niên 60, đồng bào Châu Ro ở Túc Trưng (xưa là xã Bình Hòa, Định
Quán) còn làm ruộng và rẫy ở ven Quốc lộ 20 thì nay bà con đã khai phá sâu về phía
Lâm trường Vĩnh An, Cây Gáo đến 10 km. Năm 1975 bà con ở Bảo Chánh còn làm
rẫy ở núi Chứa Chan (Gung Char: núi lớn) thì nay rẫy lui sâu vào phía Thọ Vực hơn
5 km trở lên.
Từ khoảng tháng 1 âm lịch, từng gia đình bắt đầu khai phá rẫy mới và dọn
rẫy cũ. Đây là công việc nặng nhọc đòi hỏi nhiều sức người, nên trong xóm làng
người ta thường vần đổi công. Chủ rẫy lo cơm trưa cho những người làm giúp. Chặt
hạ cây là việc nặng và nguy hiểm do đàn ông đảm nhiệm. Người ta dùng rìu (xuung)
hạ cây lớn, rựa (bra) hoặc chà gạc (via) phát bụi cây nhỏ, dây leo, cỏ tranh... Bộ
công cụ lao động và dụng cụ gia đình của người Châu Ro ngày nay gồm:
- Rìu đốn cây to gọi là xuung hoặc xuung cây xơ, xuông tùy nơi.
- Rựa chặt cây nhỏ gọi là bra, pì bra; chà gạc gọi là via (wiah)
- Cào gom cỏ hoặc cây chồi là xơ xằm băm; chĩa tre gom cỏ là kđạp.
- Cuốc nhỏ làm cỏ gọi là nạo, nih, cuốc lớn cũng gọi là cuốc
- Cây chọc lỗ trỉa hạt là chà moi, xơmol, chơtamâng.
- Dao cắt lúa gọi là to knhel, liềm cắt lúa cũng gọi là lưỡi hái.
- Cái cày gọi là war, cái bừa không có tên riêng.
- Cối giã gạo là kpây, là pal, n'pal voh va; chày tay là r'nây, gnây, r'nây voh
va (tùy từng vùng).
- Nia sảy gạo là xập pin, xa piây.
- Gùi nhỏ đan thưa đựng củi, trái cây... là jal, xah xoi; gùi lớn (cái bồ) đựng
thóc, bắp là prông, xah.
Theo lời nhiều bà con, xưa kia chà gạc được dùng phổ biến, cũng như rựa,
cuốc nhỏ, cây chọc lỗ, gùi nhỏ. Một số loại công cụ mới sử dụng về sau này: các loại
rìu, rựa, thuổng, cào cỏ... bằng sắt do trao đổi với các dân tộc anh em mà có. Một số

37.5 Page 365

▲back to top


cụ già Châu Ro ở Túc Trưng còn nhớ vào khoảng cách nay năm, sáu chục năm có
ông Tám Xương - tín đồ Tin Lành - từ Biên Hòa dùng xe đạp chở các loại công cụ
sắt này lên bán.
Từ tháng ba âm lịch, cây bị đốn đã khô, người ta đốt đi. Các gốc cỏ sót lại
được rẫy nốt bằng cào cỏ (xạc lai (201[1])). Cho đến nay, nhiều bà con Châu Ro còn
tin rằng nếu dọn sạch và đốt rẫy xong trưóc rằm tháng ba âm lịch thì rẫy sẽ ít cỏ,
được mùa... Theo phó tiến sĩ Nguyễn Thành Luông (đài Khí tượng thủy văn Thành
phố Hồ Chí Minh) thì ngày mưa thật sự - ngày mưa trên 5 mm và sau đó dãy lượng
mưa tích lũy trượt 5 ngày đạt từ 25 mm trở lên và liên tục, cách nhau không quá 4
ngày - trong vòng 15 năm trở lại đây, là từ khoảng 8 - IV đến 25 - V tức là khoảng
giữa cuối tháng 3 và tháng tư âm lịch (202[2]). Chế độ mưa và thời gian mưa ở
Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai không khác nhau mấy. Như vậy, qua thực
tiễn, người Châu Ro sản xuất theo quy luật diễn biến của khí hậu địa phương.
Người Châu Ro ở Bảo Chánh (huyện Xuân Lộc, Đồng Nai) và Ngãi Giao
(huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu) đã biết dự đoán thời tiết khá chính xác qua
quan sát thiên nhiên. Khoảng cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch, nếu ở núi Chứa Chan
(Gung Char) có sấm - mà bà con gọi là trời gầm đầu mùa - thì sắp có trận mưa đầu
mùa. Núi Chứa Chan cao hơn, thường mưa trước, có sấm chớp; nếu núi Thị Vãi
(Gung Xoai) có tiếng vang đáp lại thì đó là bắt đầu mùa mưa. Ban đêm, những người
tinh mắt ở Ngãi Giao nhìn thấy ở núi Thị Vãi có một hòn đá đỏ lừ, sáng ra thấy khói
bốc lên, thì một tuần sau nhất định có mưa đầu mùa. Vào mùa mưa, nhìn đồi núi phủ
khói thì trời mưa liên tục; vào cuối mùa mưa, nếu thấy núi có khói thì hôm đó trời
mưa. Khói ở đỉnh núi chính là mây bị địa hình cao đột khởi chặn lại ắt gây mưa..
Người Châu Ro nhìn trăng ban đêm thấy tán màu xám đoán sẽ có mưa nhỏ, nếu tán
đen dày là sắp mưa to.
Người Châu Ro khá am tường vật hậu học, họ có câu: "Ray nhim đaq (đọc
là đạ) Gung Char": đầu mùa mưa, cây to (là anh) mọc ven sông Ray khóc cỏ tranh
(là em) mọc trên núi Chứa Chan còn bị nắng nên héo vàng; và cũng có câu: "Gung
Char đaq nhim Ray": giữa mùa mưa cỏ tranh (là em) trên núi Chứa Chan khóc anh
(cây to) mọc ven sông Ray chết vì ngập nước. Khi họ thấy ếch kêu, ve kêu, thấy đuôi
kỳ đà đen đều, cắc ké đầu xanh, xương ếch đen đi (khi bắt ăn thịt)... thì biết trời sắp
mưa. Bà con cũng để ý quan sát thấy nước giếng tự nhiên cạn bớt là dấu hiệu trời
sắp mưa...
Sau những trận mưa dông đầu mùa nửa cuối tháng 3 âm lịch, các gia đình
bắt đầu tỉa hạt bắp, bầu bí, dưa leo... Đàn ông hai tay cầm 2 gậy chọc lỗ (xơmol) dài
khoảng 2 m nhọn đầu (có thể bịt sắt) vừa đi vừa chọc 2 hàng lỗ. Một người chọc lỗ
(201[1]) Bt ngun ttiếng Pháp sarcler: làm c.
(202[2]) Báo Khoa hc phthông s176 ngày 1 - 6 - 1983.

37.6 Page 366

▲back to top


nhanh có thể đảm bảo cho vài phụ nữ đi sau tỉa hạt. Họ cầm ống tỉa (tinh xoay) bằng
lồ ô hoặc nứa dài đựng hạt giống, dốc hạt ra bàn tay tự do thả 2, 3 hạt vào lỗ rồi cầm
ống tỉa lấp đất. Một tốp mỗi ngày có thể gieo hạt được vài công (1 công: 1.000 m2).
Cuốc chưa được dùng nhiều để lật hoặc xới xáo đất. Rẫy được dọn, đốt xong
thì người ta chọc lỗ tỉa hạt nên rễ cây thường ăn nông làm đất mặt kiệt màu nhanh -
nhất là đồng bào chưa bón phân - chưa kể đất mặt bị những trận mưa rào xối xả cuốn
đi ròng rã 6 tháng mùa mưa.
Bắp, bầu bí, mướp, dưa leo... được tỉa đầu tiên, mỗi lỗ cách nhau khoảng 60
cm. Đến tháng năm âm lịch, mưa đều hơn, đất đã nguội, bắp lên cao vài gang tay thì
bà con bắt đầu tỉa lúa và hạt bông cùng lúc, khoảng cách từ 30 - 40 cm.
Theo tập quán, bà con thường tỉa hạt rẫy cũ xong mới đến rẫy mới. Cách làm
này có cơ sở khoa học: rẫy mới tuy tỉa sau nhưng vì màu mỡ hơn nên cây trồng vẫn
lớn kịp thứ tỉa trước. Trên một mảnh rẫy, mùa đầu người Châu Ro trồng nhiều loại:
- Phía ngoài cùng bắp, đậu ván, đậu rồng, mướp...
- Ở vành đai trong, người ta trồng khoai mì
- Ở giữa (trong cùng) người ta tỉa lúa rẫy và mè xen bắp.
Đến mùa sau, rẫy đã cũ, được chia làm 3 mảnh trồng 3 thứ: lúa, bắp, khoai
mì. Còn đậu ván, đậu rồng, mướp... trồng ở cạnh nhà. Trên mảnh rẫy, cây trồng có
thể đa dạng tuỳ sở thích chủ nhân. Mùa rẫy hàng năm bắt đầu sau khi bà con cúng
yang lúa (yang va). Họ thu hoạch bắp vào tháng 6 âm lịch, lúa nương vào tháng 10.
Người Châu Ro ở các xã Xuân Phú, Xuân Thọ và một số nơi khác biết làm
ruộng lúa nước thành thạo với kỹ thuật như người Việt (ở xen kẽ): cày bừa, gieo mạ
rồi cấy và chăm sóc (tát nước, làm cỏ, bón phân...). Nơi sẵn nước, bà con có thể làm
2, 3 vụ mỗi năm: vụ đông xuân cấy tháng 11, 12 âm lịch và gặt tháng 3 âm lịch; vụ
hè thu cấy tháng 5 gặt tháng 8; vụ mùa cấy tháng 6 gặt tháng 11, 12 - nay ít làm, nơi
nào cấy giống ngắn ngày vào tháng 9 thì gặt tháng 12 âm lịch. Ruộng lúa nước tỏ rõ
tính hơn hẳn so với lúa rẫy: năng suất cao và ổn định, thâm canh tốt có thể đạt 4
tấn/vụ/ha.
Tập đoàn lúa của người Châu Ro phong phú chứng tỏ họ là cư dân nông
nghiệp lâu đời. Họ trồng nhiều thứ lúa (va, bar):
- Lúa nếp có: nếp cái (nh' pal Chrau jro), nếp tép (va con brih), nếp trắng
(va xom), nếp con cua (bram bray cham), nếp muối (bram bray boh), nếp than (va
bar chaông), lúa nếp cha (nh'pal xkan)
- Lúa tẻ có: lúa bãi trầu (va brau yang), lúa va xe, lúa cà ké (va keh), lúa mờ
(va tơm), lúa mang (va djil), lúa cung (va kla), lúa thơm tôn (va kop), lúa mẹ (va

37.7 Page 367

▲back to top


gup), lúa mẫn (va mẫn), lúa khô vằn (va chap chay), lúa ruồi (va thuc)... và ngày nay
họ cũng trồng lúa trắng tép, ba bụi, ba xe...
Các loại hoa màu có: bắp (tờ ngơi, xom), khoai mì (bum blang), khoai lang
(bum brăng), khoai mỡ (bum tơng), khoai chụp (bum brih)...
Các loại rau đậu gồm: đậu, bầu (tôh), bí xanh (là buôl), bí đỏ (ploi), dưa leo
(rà pung), dưa hấu (cai), mướp (pai vuynh), cà (plân)
Các loại cây gia vị có: ớt (m'rêch), xả (plăng), nghệ (mứt), gừng...
Lịch thời vụ chính của người Châu Ro theo âm lịch:
CÂY TRỒNG TỈA HẠT
THU HOẠCH
Bắp
Tháng 3, 4
Tháng 6,7
Đậu xanh
Tháng 3, 4
Tháng 6
Khoai lang vụ 1 Tháng 3, 4
Tháng 7
Khoai lang vụ 2 Tháng 7
Tháng 10,11
Bầu, bí mướp
Tháng 3, 4
Tháng 6
Lúa rẫy
Tháng 5
Tháng 10,11
Bông
Tháng 5
Tháng 11
Khoai mì
Tháng 3, 4
Tháng 10 trở lên
Từ lâu người Châu Ro trồng tỉa theo âm lịch, một năm (đuung ba) chia làm
mười hai tháng (mât bar khay), mỗi tháng có một số việc chính
THÁNG (âl) TÊN CHÂU
RO
CÁC CÔNG VIỆC NÔNG NGHIỆP
Giêng
Khay muôi Khai phá rẫy mới từ sau ngày 15, làm be (củi, gỗ)
Hai
Khay bar Làm mướn... (hai tháng công việc như nhau)

37.8 Page 368

▲back to top


Ba
Năm
Sáu
Bảy
Tám
Khay pe
Nửa đầu tháng đốt rẫy, dọn rẫy cũ, có mưa thì tỉa
bắp, bầu bí, dưa, mướp
Khay puôn Như tháng 3
Khay prăm Làm cỏ rẫy, tỉa lúa, từ 5 - 5 gieo mạ mùa dài
ngày...
Khay prau Làm cỏ rẫy, thu hoạch hoa màu: bầu bí
Khay pơ
Tiếp tục thu hoạch, tỉa bắp vụ 2, cấy lúa ruộng,
cắm câu, đi săn...
Khay ph'am Cắm câu, đi săn
Chín
Khay xin Như tháng tám
Mười
Khay mât Thu hoạch bắp vụ 2, khoai lang
Mười một Khay mât Thu hoạch lúa rẫy, bông, lúa ruộng
nuôi
Chạp
Khay mât Đi săn, tát cá, làm be
bar
Từ tháng mười một tới tháng ba âm lịch, được tương đối rảnh rỗi, các hộ
Châu Ro nghèo thường đi làm mướn kiếm thêm tiền.
Đất núi rừng còn rộng, người thưa, cho đến nay đồng bào Châu Ro chưa bị
trói vào cái "xiềng ba sào" - tương đương một công đất 1000 m2 - nhưng một gia
đình có vài bốn lao động chính và phụ cũng chỉ làm được hai ba ha rẫy là cùng. Sau
khi tỉa hạt (lúa, bắp...) hơn một tháng thì cỏ dần dần lấn át cây trồng, tranh chất dinh
dưỡng, ánh sáng, nước của cây trồng. Người ta cần cù làm cỏ bằng cào cỏ (nạo, xạc
lai) mất nhiều thời gian, công sức. Vì vậy, nhiều gia đình bám rẫy suốt vụ bảy tám
tháng liền, chỉ khi cần mới về nhà, tuy nhà chỉ cách rẫy một giờ đi bộ. Qua kinh
nghiệm, người ta thấy rẫy cũ thường nhiều cỏ hơn rẫy mới, nơi đất dốc càng ít cỏ,
đỡ tốn công làm cỏ. Năng suất cây trồng phụ thuộc vào sự mầu mỡ của đất, thời
tiết... Năm nào mưa thuận gió hòa thì thu hoạch khá, năm nào nắng hạn nhiều chắc
chắn thất thu. Mức 200 giạ lúa/ha rẫy tương đương 3 tấn/ha là mơ ước của mọi gia

37.9 Page 369

▲back to top


đình. Thu hoạch hơn 200 giạ, bà con sẽ cúng trả lễ bằng heo, đạt dưới mức này thì
lễ vật chỉ là con gà.
Ở xen kẽ và tiếp xúc với người Việt và một số dân tộc anh em khác, người
Châu Ro biết làm ruộng nước từ khá lâu. Nhưng hầu như ruộng nước người Châu
Ro mất công khai phá lần hồi bị thực dân Pháp và địa chủ câu kết cướp đoạt. Vùng
Bảo Chánh ở chân núi Chứa Chan, nay thuộc xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, xưa
kia là vùng trảng cỏ xen rừng chồi. Theo lời các cụ già, giữa trảng cỏ có khu ruộng
tiên có mội nước chảy quanh năm, bà con thường tới đó lấy nước ăn về mùa khô
(Ông Hai Của - nguyên chủ tịch UBMTTQ xã Xuân Thọ - cho rằng, một đám cháy
làm chết cỏ đã hình thành khu ruộng tiên). Bà con phát cỏ, cho trâu dẫm nổi sình lên
để cấy lúa nước. Lần hồi, người ta khai phá toàn bộ trảng cỏ làm nên cánh đồng Bảo
Chánh rộng hàng trăm ha. Chủ điền lớn Đỗ Cao Lụa, người xã Bình Trước, nay là
thành phố Biên Hòa, câu kết với tổng Nhay, lợi dụng tính thật thà chất phác của đồng
bào Châu Ro, lén cho tay chân chôn một số trụ xi măng đánh dấu khu vực ruộng (bà
con đã làm), rồi lập bằng khoán cướp trắng. Đỗ Cao Lụa sai tổng Nhay di người
Châu Ro vào Thọ Vực cách đó 6, 7 km, một số khác ra ở ruộng Tre cách 3 km. Đến
năm 1950, quân Pháp bắt bà con tập trung về Bảo Chánh, Gia Ray để chúng dễ kiểm
soát, mặt khác ngăn chặn cán bộ ta liên hệ, xây dựng cơ sở. Người Châu Ro phải
mướn ruộng, hàng năm nộp tô mười giạ lúa/ha. Từ sau ngày Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời, lực lượng cách mạng mạnh lên, ta không cho chủ
điền thu tô nữa.
Đồng bào Châu Ro ở ấp Túc Trưng (xã Bình Hòa, nay là xã Túc Trưng,
huyện Định Quán) bỏ nhiều công sức khai phá đất rừng ven Quốc lộ 20 thành khu
ruộng Choóc khoảng vài chục ha (ở phía tay mặt Quốc lộ 20 hướng Biên Hòa - Đà
Lạt). Năm 1955, người Mường đến tiếp tục khai phá khu ruộng này.
Thực dân Pháp cướp đất trên qui mô lớn và tàn bạo, không địa chủ bản xứ
nào sánh được. Từ năm 1906 trở đi, các công ty đồn điền cao su như Suzannah, An
Lộc... rồi Công ty cao su Xuân Lộc ở Hàng Gòn, Công ty cao su Đồng Nai... lần lượt
ra đời. Chúng đuổi người Châu Ro khỏi địa bàn cư trú quen thuộc lâu đời - vùng đất
đỏ rộng lớn trải dài từ Định Quán qua Long Khánh, Xuân Lộc tới Bà Rịa - Bà con
phải đi tìm nơi lập làng mới, lấy một nắm đất nơi sẽ cư trú mang về nộp chủ đồn
điền. Nếu là đất đỏ, chúng còn đuổi tới khi nào mang đất trắng hay đất xám về mới
thôi. Vốn bản tính thích sống tự do phóng khoáng, bà con rút vào sâu mãi. Số người
ở lại đất cũ trở thành cu ly cao su. Bị dồn đuổi vào chốn heo hút, đất đai kém màu
mỡ, cuộc sống của người Châu Ro ngày càng mòn mỏi, tàn lụi trên đà nguy cơ diệt
vong như một số dân tộc anh em khác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

37.10 Page 370

▲back to top


Thời gian làm nông nghiệp thực sự hàng năm của mỗi gia đình Châu Ro chỉ
chừng 4 tháng. Lúc nhàn rỗi, họ làm kinh tế phụ: săn bắn, hái lượm, tát cá, dệt, đan
lát, ăn ong, múc dầu chai...
Khi rừng già mênh mông còn bao phủ khắp nơi, rất sẵn chim, thú. Săn bắn
trước hết nhằm bảo vệ nương rẫy khỏi bị thú rừng phá hoại; mặt khác cung ứng thịt
bù vào phần chăn nuôi nhỏ bé. Người Châu Ro săn bắn bằng nhiều loại dụng cụ, phổ
biến nhất là (nỏ), tên (tên tẩm thuốc độc dùng săn thú lớn, có khi chỉ trầy da cũng
không thoát chết), ngoài ra còn dùng lao săn voi, các loại bẫy, sau này có thêm súng
(nhưng ít người có). Chó săn rất đắc lực trong việc săn cáo, chồn... Người Châu Ro
săn bắn: các chim rừng, công, gà lôi, trăn, hươu, nai, mang, mển, khỉ, voọc, min, heo
rừng, gấu, cọp, voi... "Khoảng đầu những năm 1930 thị trấn Xuân Lộc mới lèo tèo
người, rừng còn nối rừng. Chợ Xuân Lộc có dăm chục người bán hàng. Đồn điền
mới mở, có những chiều hàng đàn voi kềnh càng lững thững vào sân nhà trong đồn
điền, bình tĩnh ngơ ngác ngó quanh một lát rồi bỏ đi" (203[3])
Xưa kia, bà con trong làng thường đi săn tập thể bằng tên, ná hoặc đánh bẫy.
Nhưng gần đây, đi săn cá nhân phổ biến hơn, nhất là khi đồng bào biết dùng súng.
Thời gian đi săn thường vào ban đêm. Con thú bị bắn hạ được chia cho bà con, họ
hàng; nếu là thú lớn như bò rừng, trâu rừng, min... thì cả sóc (palây, đublây) nấu
nướng ăn uống cả tuần liền, mọi người say sưa ca hát nhảy múa vui vẻ. Ai săn được
thú đều cúng yang bri để cám ơn rừng cho cái ăn đều đều. Hàm răng thú (heo rừng,
cheo, sóc, voọc, mển, khỉ...) được người đi săn phơi khô, treo thành dãy trên xà nhà
đánh dấu thành tích săn giỏi. Ông Năm Nổi ở Lý Lịch (xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu)
hiện còn giữ được vài chục hàm răng thú như vậy. Nếu người đi săn qua đời, thân
nhân đốt rồi vất bỏ các xương thú vào rừng. Chắc hẳn xưa kia săn bắn là nguồn cung
cấp thực phẩm động vật quan trọng của người Châu Ro; nhưng ngày nay chỉ là nguồn
thu nhập phụ thất thường ở vài nơi còn chim và thú.
Việc hái lượm rau rừng, măng, nấm, củ và quả rừng là nguồn thu nhập phụ
của nhiều nhà. Người ta hái tất cả các loại cây cỏ có thể ăn được, trong đó đọt mây
non vị đắng là thành phần không thể thiếu trong món canh bồi truyền thống gồm:
đọt mây non ngâm nước muối, gạo tẻ giã bột, rau dền, đọt mướp... nấu với thịt (cheo,
khỉ, nai, hươu... phơi khô) nêm sả ớt, mắm, muối... Canh bồi tương tự một thứ xúp.
Nếu không có thịt khô, người ta thay bằng da, xương thú phơi khô (hoặc gác bếp).
Hái rau là việc của đàn bà, con nít song đào củ chụp (củ mài) đòi hỏi sức khỏe của
đàn ông. Với lưỡi thuổng nhỏ (nih) người ta đào theo gốc dây, có khi sâu 2, 3 m mới
lấy hết các đoạn gãy vụn. Người ta chỉ đào củ chụp vào lúc giáp hạt, lúa đã hết; ngày
nay phải đi xa mới có.
(203[3]) Lê Sc Nghi: Đất đỏ miền Đông, - Công ty Cao su Đồng Nai xut bn.

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


Vài chục năm trước đây, nghề ăn ong của người Châu Ro là nguồn thu nhập
đáng kể. Các sách Gia Định Thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí đều đề cập
đến nguồn lợi tự nhiên này ở tỉnh Biên Hòa (cũ). Hầu như khu rừng nào cũng có một
số bộng ong, mỗi bộng có thể cho hàng chục lít mật và chừng một ký sáp. Mật và
sáp ong dùng đổi lấy rìu, rựa, ché, muối... Nay nguồn lợi về ong rừng không đáng là
bao.
Rừng Đồng Nai mọc ở vùng đồi núi thấp, ưu hợp cây họ Dầu
Dipterocarpaceae tạo nghề múc dầu trai. Dầu này trộn xơ đay trét ghe xuồng rất bền.
Khi nghề đánh cá sông, biển phát triển, đòi hỏi đóng mới nhiều phương tiện thì người
ta thi nhau đi tìm mổ cây họ Dầu. Ngày nay rừng bị tàn phá ghê gớm, việc múc dầu
trở nên khó khăn. Người Châu Ro cho đến thời kỳ gần đây chưa biết làm nghề chài
lưới theo đúng nghĩa. (Hiện nay nhóm người Châu Ro ở Bình Châu, Xuyên Mộc, Bà
Rịa - Vũng Tàu cách biển chừng một km tỏ ra xa lạ với việc đánh cá biển cũng như
không biết làm muối biển). Người ta chỉ bắt cá lúc rảnh rỗi bằng cách: đắp chặn một
khúc suối nhỏ rồi tát cạn để bắt; tát cạn các đìa, bàu nhỏ vào mùa khô; giã nát một
số cây rừng: trái biên, dây vàng nghệ... thả xuống suối, cá ngấm chất độc nổi lên.
Các hình thức câu, đặt lờ, đặt lọp, chài... ít phổ biến và mới xuất hiện gần đây.
Vào lúc rảnh rỗi, thường là vào các buổi chiều, người Châu Ro đan các loại
gùi lớn nhỏ dùng vào các việc: gùi rau, gùi củi, gùi lúa...; một số lờ, lọp đánh cá, hộp
đựng trầu (kruh) bằng lá dứa; các tấm đệm nằm thay chiếu bằng dong rừng (lùng),
lá buông... Các chàng trai Châu Ro khéo tay trước đây là đối tượng được nhiều cô
gái ưa thích. Các sản phẩm đan lát là những tác phẩm mỹ nghệ thủ công độc lập.
Ngày nay, tuy các loại rổ, rá, giỏ xách... bằng nhựa hoặc nhôm bán khắp nơi nhưng
vào bất kỳ gia đình Châu Ro nào, chúng ta vẫn thấy đồ đan lát thủ công chiếm vị trí
quan trọng.
Nghề dệt vải bông cổ truyền xưa kia cung cấp y phục: áo (ao), khố (khô),
váy (xibut: chăn mặc), chăn đắp (xu). Ao khô rõ ràng là từ vay mượn, nói lên
người Châu Ro biết sử dụng các thứ này chưa lâu lắm. Ở các ấp Đồng Xoài, Đức
Thắng (Túc Trưng, Định Quán) còn một số phụ nữ tuổi trên 40 biết dệt xibut và xu
theo kỹ thuật cổ truyền. Bông thu hoạch ở rẫy tháng 11, 12 âm lịch đem về, dùng xa
quay thành sợi thô (như sợi len) rồi guồng thành con cúi, đem hồ sợi cho cứng.
Khung cửi chỉ là thanh gỗ ngang có chiều dài chừng 1 m, rộng 5 cm, dày 2 cm để
mắc sợi dọc. Con thoi dài gần 1 m đan sợi ngang. Độ một phút người ta mới lồng
con thoi qua hàng sợi dọc một lượt, do đó dệt một tấm chăn dài 2 m đòi hỏi khoảng
thời gian chừng nửa tháng. Giá thành sản phẩm đắt hơn thứ bán ở chợ, trông lại thô
tháp, vì vậy chị em chỉ dệt chăn vào lúc thật rảnh rỗi mùa khô. Hoa văn dệt nhiều
kiểu thức biến đổi phức tạp, đẹp mắt song sản phẩm dệt này chỉ để dùng trong gia
đình.

38.2 Page 372

▲back to top


Phần lớn người Châu Ro sống bằng nương rẫy "ăn nước trời" với trình độ kỹ
thuật khá nguyên thủy, nhưng đã có một số ít trở thành công nhân kỹ thuật: lái máy
cày, lái xe be (xe chở gỗ hạng nặng), sửa chữa máy móc... Ở một số nông trường cao
su có hàng trăm công nhân người Châu Ro.
II.3. Cấu trúc xã hội, gia đình và tập quán, tín ngưỡng:
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chế độ gia đình lớn theo dòng mẹ còn
tồn tại thì ở vùng người Châu Ro cư trú người ta thấy có những ngôi nhà dài có khi
đến gần 100 m. Những người thuộc lứa tuổi 60 trở lên còn thấy (vào lúc nhỏ) mỗi
làng (sóc, palây, đublây) có vài dãy nhà dài. Mỗi dãy nhà dài là một gia đình lớn
ng tộc (họ), chia làm nhiều gia đình hạt nhân.
Trong việc dựng nhà sàn dài, một già làng - trưởng tộc tìm địa điểm ưng ý:
khu đất đủ rộng, tương đối bằng phẳng, quang đãng, không xa nguồn nước... Ông
giẫy một vạt cỏ nhỏ, chọn 7 hạt gạo nguyên vẹn đặt xuống đó, úp chén ăn cơm lên.
Qua một đêm thấy các hạt gạo vẫn y nguyên không xê xích thì ông cho nơi đó có thể
dựng nhà (vì không có mối, kiến... mà mối là loại côn trùng phá hoại nhà cửa, vật
dụng bằng cây mạnh mẽ nhất, cần phải tránh xa). Trước khi cất nhà, ông làm lễ cúng
đơn giản: con gà, chai rượu, bình trà, trầu cau... cầu khấn các yang và ông bà tổ tiên
cho ở yên ổn và làm ăn được mùa.
Người Châu Ro ở Lý Lịch (Vĩnh Cửu) lấy cây rượng đo cẩn thận phạm vi
nền nhà và bốn góc để khi dựng nhà các cột không xê dịch bao nhiêu, nền nhà không
méo. Bà con cho rằng chọn được nền đất như vậy là tốt, gia đình sẽ bình yên không
bị xáo trộn. Cột chọn trong rừng sâu có dáng thẳng, gỗ tốt, không có dây leo bám
(như vậy chủ nhà không bị ràng buộc gì, hoàn toàn tự do). Người lớn tuổi chịu trách
nhiệm dựng cây cột cái và cây đòn dông (nóc). Căn nhà người Châu Ro có gốc tính
từ cột cái ở hướng Đông và ngọn ở hướng Tây. Nhà dài được phân chia theo thứ
bậc: góc phía Đông nhiều ánh sáng dành cho cha mẹ, những khoang tiếp theo bố trí
theo ngôi thứ con cái, cho đến phần nhà dùng để tiếp khách. Sau khi cha mẹ qua đời,
người anh hoặc chị lớn nhất sẽ ở vị trí dành cho cha mẹ trước kia, các người em đôn
vị trí lên từng bước...
Nhà dài có bộ cột tròn ít khi lột vỏ cây, đẽo sơ cho kích thước bằng nhau.
Tất cả các cột đều chôn sâu vững chãi. Bà con thường làm cột bằng cây bằng lăng,
gõ, kiêng cữ cột gỗ căm xe, cẩm lai (cho là hệ lắm, ở nhà làm bằng cột gỗ này dễ
bệnh tật, tính tình trở nên nóng nảy...). Nguyên vật liệu làm nhà gồm:
- Gỗ kèo, cột, dui... (bộ sườn nhà)
- Cau rừng hoặc tre nứa, lồ ô chẻ ra làm sàn và vách ngăn.
- Cỏ tranh, lá trung quân lợp mái, ngăn vách.

38.3 Page 373

▲back to top


Dụng cụ làm nhà khá đơn giản: rìu, chà gạc, rựa. Các thứ: cưa, bào, đục
tràng... mới dùng phổ biến sau năm 1954. Cho nên các cột, kèo, đòn tay... chỉ được
cắt ngoàm, gác lên nhau rồi buộc bằng dây mây. Có nơi như Túc Trưng, Bảo
Chánh..., người Châu Ro mới học cưa và líu (xẻ ván) sau ngày giải phóng ở các thợ
mộc miền Bắc vào. Xưa người Châu Ro cữ dùng đinh sắt vì cho rằng đinh ém cột,
làm nặng hồn, nặng vía, dễ bệnh tật, làm ăn sút kém... chỉ dùng dây mây. Nay dây
mây khó kiếm và cũng đắt thì đinh lại được ưa chuộng. Gần đây, bà con làm nhà sàn
nhỏ với bộ cột gỗ xẻ vuông, kê tán (đá), bộ khung nhà liên kết bằng các mộng đục
song hệ thống cột nóc vẫn tồn tại (như vết tích nhà dài cổ truyền).
Mọi thành viên nam nữ của dòng họ tùy sức lực mà tham gia tìm kiếm, chuẩn
bị gom vật liệu làm nhà. Thực ra hồi đó quanh làng là rừng bạt ngàn, là trảng cỏ
tranh rộng, rất sẵn nguyên vật liệu. Nhà dài là nơi cư trú của tập thể một dòng họ
thân tộc gồm hàng chục gia đình nhỏ trở lên, chia làm nhiều gian, ngăn cách bằng
vách liếp sơ sài, mỗi gian dành cho một gia đình nhỏ. Về sau nhà sàn nhỏ thay thế
nhà dài. Mỗi xóm ấp làng Châu Ro lúc này gồm vài chục nhà sàn nhỏ, nằm rải rác
ven rẫy hoặc bao quanh một khu đất rộng. Người ta cất nhà không cần chọn hướng,
không lựa ngày tốt, chỉ cần cất nhà theo thế đất.
Nhà sàn cao chừng 1,5 m, hai cửa hông với hai thang gỗ hoặc tre: thang
người đi ở bên trái, thang chuồng gà (nhi ier) ở tay mặt. Nhà có một số lỗ trổ làm
cửa sổ, cửa ra vào không có cánh để đóng mở. Khoảng sàn nhà phía Đông được đắp
một ô đất (chống cháy) đó là bếp đun nấu. Khoang giữa nhà rộng rãi là nơi ngồi chơi,
ăn cơm, đan lát. Nửa sàn nhà phía Tây là sạp tre dài cao hơn sàn một chút, thường
trải đệm chiếu (vêl r'tiêng) đan bằng cây lùng (dong rừng) chẻ nhỏ, đó là nơi ngủ
của gia đình. Phía trên nơi ngủ, gần sát mái nhà có bàn thờ dài bằng tre để cúng
nhang lúa (yang va), cúng chữa bệnh... Có nơi làm chuồng gà (nhi ier) ở một góc
nhà sàn, có nơi làm ở gầm sàn cùng với chuồng heo. Đằng sau nhà ở là chòi lúa (nhi
va), đó là nhà sàn nhỏ, sàn cao bằng đầu người (gần 2 m), có cầu thang. Nhà để lúa
(nhi va, cà uôn) của đồng bào Châu Ro Lý Lịch (Vĩnh Cửu) được dựng bất cứ thời
gian nào nhưng phải theo đúng hướng Đông - Tây như nhà ở, để mặt trời khỏi đi
ngang đòn dông, nếu làm không đúng là xúc phạm đến yang va, (yang lớn nhất trong
các yang). Trước đây người Châu Ro cho rằng nếu cất thóc lúa trong nhà ở thì thần
lúa (yang va) và ông bà tổ tiên sẽ giận, sẽ làm thất mùa. Chòi lúa làm riêng biệt sẽ
giữ được sự trong sạch, tôn kính với thần lúa. Đây là xuất phát từ tín ngưỡng của cư
dân nông nghiệp khi các thành viên làm chung ăn chung, sản phẩm chia đều cho mọi
người. Người phụ nữ đóng vai trò "tay hòm chìa khóa" cai quản phân phối kho lúa
chung gọi là mẹ lúa (mây va).
Nhà làm xong, vị già làng làm lễ cúng, mâm lễ gồm: con gà luộc, nải chuối,
bình trà, trầu cau... van vái ông bà tổ tiên cho con cháu mạnh khỏe, yên ổn, làm ăn
trúng mùa.

38.4 Page 374

▲back to top


Trải qua mấy chục năm chiến tranh, các nhà sàn dài cổ truyền đã bị phá hủy
hết. Chính sách dồn dân của Pháp rồi Mỹ và vấn đề thiếu gỗ trong rừng khiến người
Châu Ro làm nhà trệt theo kiểu nhà người Việt. Vật liệu làm nhà gồm: gỗ xẻ, cây
nhỏ, tranh, tre, tôn, đinh sắt... Số nhà gạch thay dần nhà tranh sơ sài. Mỗi gia đình
thường có bàn ghế, giường ngủ, sạp tre (chà nơng cà la) to hơn giường ngủ để gia
đình ngồi ăn cơm - tàn dư chiếc sàn nhà xưa. Ở Túc Trưng, bà con Châu Ro dựng
một số nhà sàn kiểu thức kiến trúc vila. Nhà cửa sắp xếp có tổ chức kiểu quần cư đô
thị, đường đi lại trong xóm ấp rộng và thẳng đủ cho ôtô chạy. Một số vườn nhà trồng
cây ăn quả, khoai mì, bầu bí... Ở Bảo Vinh, Suối Chồn (Long Khánh) người Châu
Ro trồng cà phê. Cơ cấu cây trồng có biến đổi nhưng chậm, cuộc sống chủ yếu vẫn
trông vào nương rẫy, rừng núi.
II.3.1. Làng (pa lây, đu blây, sóc) là đơn vị hành chánh của một tập hợp gia
đình cùng dòng họ, cũng có thể thuộc vài tộc xen kẽ. Ranh giới làng xưa không rõ
rệt, gồm vài nhà sàn dài (sau này là vài chục nhà sàn nhỏ) ở gần khu rẫy hoặc ruộng,
số nhân khẩu ít khi vượt số trăm. Mỗi làng là một lõm nhỏ lọt thỏm giữa rừng già
mênh mông. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ nhì (1945 - 1954),
đồng bào Châu Ro bị gom vào một số điểm để chúng dễ kiểm soát. Dưới chế độ Sài
Gòn, bà con bị gom triệt để hơn vào các ấp ven lộ, làm nhà có hàng lối theo lô như
ở đô thị
II.3.2. Xưa kia, đứng đầu mỗi nhà dài là vị trưởng họ gọi là ông đầu nhang
(voh yang va). Đó là người già có uy tín, có kinh nghiệm sản xuất và chiến đấu, được
mọi người tuân phục cử ra. Nếu là xóm nhỏ giữa rừng thì người đứng đầu gọi là mẹ
sóc, mây srok (mây srok là đàn ông). Các vị trưởng họ hoặc mẹ sóc và các người
cao tuổi nhất họp thành hội đồng già làng đứng ra lãnh đạo mọi việc: dời làng, dựng
nhà, tổ chức làm ăn, cúng lễ, vui chơi, đi săn, tát cá... Song các cụ già Châu Ro tuổi
xấp xỉ 80 cho biết chỉ nghe nói lại chứ không thấy hội đồng già làng, họ chỉ thấy các
vị đầu nhang và chức sắc chính quyền cũ: ông tổng (cai tổng), ông xã (xã truởng),
ông cả, cai tuần... Các chức sắc nói chung thuộc loại khá giả, có tài sản: trâu, ché,
đồng la... xét xử công việc làng xóm và thực hiện những gì do cấp trên đưa xuống.
Xã hội Châu Ro chưa phân hóa rõ rệt giàu nghèo. Gia đình nhiều lao động,
có tiền bạc dư dả thì cũng làm tới vài mẫu rẫy. Trung bình mỗi hộ chỉ làm một, hai
mẫu. Ở khu vực người Châu Ro cư trú, đất canh tác - tư liệu sản xuất chính - không
thiếu, sức người có hạn nên việc khai phá nương rẫy cũng có hạn. Mỗi làng chỉ có
một số ít hộ dư dả chút đỉnh do đông lao động, trúng mùa, ít bệnh tật... Phần lớn số
hộ thiếu ăn vài tháng - chính xác là thiếu gạo; hoa màu: khoai mì, khoai lang, củ
chụp vẫn có cho 2 bữa - đó là các hộ neo đơn, hay bệnh tật, chủ hộ thiếu chăm chỉ,
chi tiêu thiếu kế hoạch... Trong chế độ cũ, một số chức sắc Châu Ro lợi dụng uy
quyền, bóc lột dân làng về sức lao động, ăn phạt... mà có của hơn người khác.

38.5 Page 375

▲back to top


Người Châu Ro không có nô lệ trong nhà như người Stiêng. Dù nghèo khổ
đến đâu họ cũng chỉ bỏ sức lao động để kiếm ăn chứ không đi ăn xin ăn mày, đó là
nét phẩm chất đặc sắc cao đẹp.
Cộng đồng người Châu Ro có những luật lệ truyền miệng mà mỗi thành viên
phải theo. Các vi phạm tục lệ: phụ nữ chửa hoang, loạn luân, vào nhà đã cắm lá
cấm... đều bị xử phạt: đòn, ăn phạt ché, heo, gà, rượu... Các hiện tượng tranh chấp
ruộng rẫy, xích mích đánh lộn, cướp của giết người... hầu như chưa từng xảy ra nên
chưa có luật miệng nói tới cần xử phạt thế nào. Nội bộ người Châu Ro sống đoàn
kết thuận hòa, thân ái giúp nhau vô tư. Mọi việc hòa giải, xét xử các vi phạm, thường
tiến hành trong nội bộ dòng họ thân mà người xét xử chính là ông đầu nhang, ít khi
đưa ra làng nhờ các chức sắc phân xử.
Trong cộng đồng người Châu Ro ở Lý Lịch, nếu có ai bị mất cắp vật gì, và
có đối tượng bị nghi ngờ thì họ làm lễ thề. Mỗi bên đều có lễ vật gồm: một cây đèn
cầy, 7 lá gáo vàng, 7 lá cà độc dược, một con gà lông trắng, một chén vỏ cây chùm
lum. Người mất của trình bày với yang xin yang phán xử thanh minh với người mình
nghi. Người bị nghi lấy cắp (mà không lấy) thì thề đại ý: "Tôi là người bị nghi lấy
cắp của người khác nên tôi trình yang xem xét. Nếu tôi có lấy cắp thiệt, xin yang
phạt tôi và cả dòng họ tôi chết hết như lá gáo, lá cà (204[4]) vào mùa nắng, còn
không xin yang giải oan cho tôi, cho cả dòng họ tôi sống như cây rừng xanh tươi
mạnh mẽ...". Tình trạng trộm cắp rất hiếm xảy ra vì họ sợ yang phạt như lời thề độc.
Tổ chức gia đình lớn với ông đầu nhang nhiều uy quyền đã tan rã khá lâu
trước Cách mạng tháng Tám 1945. Bây giờ tế bào cơ bản là gia đình nhỏ một vợ
một chồng theo dòng cha, tuy còn rơi rớt ảnh hưởng dòng mẹ qua tục ở rể. Người
cha là lao động trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định mọi việc song ít khi tỏ ra
độc đoán mà thường bàn bạc với vợ. Người phụ nữ làm công việc không đòi hỏi sức
mạnh cơ bắp của nam giới và việc nội trợ nuôi con... Họ vẫn giữ vai trò đáng kể
trong nhà, tương đối bình đẳng với nam giới. Nhưng vì chưa quen hoạt động xã hội
nên người phụ nữ Châu Ro còn tự ti, trong đó yếu tố trình độ văn hóa thấp thực sự
cản trở họ tham gia công tác đoàn thể xã hội. Do đó cần cấp thiết nâng cao trình độ
văn hóa cho chị em trong quá trình giải phóng phụ nữ, tạo sự bình đẳng thật sự với
nam giới.
Người Việt, người Hoa... còn rơi rớt tư tưởng coi trọng con trai nhưng người
Châu Ro cũng như các dân tộc ở vùng Đông Nam bộ - Nam Trường Sơn - Tây
Nguyên có phần quý con gái hơn vì họ cho rằng con gái có hiếu với cha mẹ, gắn bó
với cha mẹ hơn con trai. Con gái lấy chồng vẫn ở cùng và nuôi cha mẹ, con trai lớn
lên lấy vợ, theo vợ, nuôi cha mẹ vợ - đây là tàn dư dòng mẹ.
(204[4]) Hai loi cây này rng hết lá vào mùa khô

38.6 Page 376

▲back to top


Khi cha mẹ chết, các con đều được chia tài sản để "làm kỷ niệm". Cha mẹ
thường sống với con gái út. Trong một gia đình Châu Ro ngày nay, hiếm thấy cảnh
một số chị em gái và chồng con của họ cùng chung sống một mái nhà, vì gia đình
lớn đã tan rã từ lâu.
Trong quan hệ thân tộc, người Châu Ro nói chung không phân biệt nhiều
dòng cha, dòng mẹ qua ngôn ngữ:
ông cụ: cor cầm vinh; bà cụ: un cầm vinh (205[5])
ông (nội, ngoại): câu; bà (nội, ngoại): un
ông nội: va nội; bà nội: va ya vàp (1)
ông ngoại: va ngoại; bà ngoại: va ya mây (1)
cha: vàp; mẹ: mê, mây
cha (chồng, vợ): vàp po; mẹ (chồng, vợ): mê po (206[6])
cha, mẹ chồng: vàp, mây a xực khô; cha mẹ vợ: vàp, mây a xực ur (1)
bác (trai, gái): mí (khô, ur)
chú, cậu, dượng: đeh
cô (chị, em cha); dì (chị em mẹ): yôông; mợ (vợ cậu): đeh b' yôông
cô ruột: yôông a vàp; dì ruột: yôông a mây; thím: yôông sâu (1)
anh, chị: pôp
con đẻ: kon vơn; con (trai, gái): kon (khô, ur)
con (rể, dâu): kon m'xa
cháu (trai, gái): xnau (khô, ur)
cháu họ (trai, gái): k'mol (khô, ur)
chắt: xne
chút: xnoach
Người Châu Ro không có từ tương đương với cụ (thân sinh ông bà), cố (thân
sinh cụ).
Con trai Châu Ro từ lúc còn nhỏ đã được người cha truyền lại và rèn luyện
đức tính dũng cảm qua các buổi săn bẫy thú: gài bẫy, bắn ná, phóng lao, sử dụng chà
(205[5]) Người Châu Ro ở Vĩnh Thanh, huyện Châu Đức, Bà Ra - Vũng Tàu gọi như vậy.
(206[6]) Con r, con dâu gi cha mv, cha mchng.

38.7 Page 377

▲back to top


gạc... Đứa nhỏ được tham gia các cuộc hội họp, cúng lễ, tang ma, cưới xin... của
cộng đồng, bộ tộc. Nó còn được mẹ dạy cách đan các loại gùi khác nhau.
Con gái Châu Ro được mẹ và các dì dạy nấu ăn, dẫn vào rừng hái lượm rau
quả rừng ăn được, tát cá... Nó còn được dạy cách dệt thổ cẩm làm váy. Qua các sinh
hoạt của cộng đồng, bé gái Châu Ro học dân ca (hò, hát), múa... và trưởng thành
dần.
II.3.3. Xưa kia, người đàn ông Châu Ro đóng khố (khô), đàn bà mặc váy
(xibut: chăn mặc), nửa thân trên ở trần như các dân tộc Nam Trường Sơn - Tây
Nguyên. Người ta lý giải bằng thành ngữ "tốt khoe, xấu che" (đối với phụ nữ), nhưng
thực ra vì họ quá nghèo không đủ quần áo mặc mà thôi! Khố đã biến mất từ lâu, đàn
ông Châu Ro đứng tuổi chỉ nghe nói chứ ít người thấy. Váy còn một ít ở Túc Trưng,
được phụ nữ mặc vào lúc múa hát văn nghệ, hoặc chụp ảnh. Đàn ông hay để đầu
trần, đàn bà cũng dùng nón; đồ trang sức ưa thích là chuỗi hạt cườm nhiều màu,
còn các loại vòng đồng và bạc đã bán hết từ lâu.
Người Châu Ro hút thuốc lá rê (yú, hăm, nao), phụ nữ cũng ăn trầu (mlu) với
cau (pa nơng, play xia). Thường ngày họ ăn cơm tẻ; gạo nếp là lương thực quý dùng
làm các loại bánh: piêng đinh (cơm lam nướng trong ống nứa), piêng puh (bánh dày
trộn mè) piêng chum (bánh tét)... Rượu quảng còn gọi là rượu ịt (xe tơm) là rượu cần
làm vào dịp ăn nhang lúa, cưới xin, ma chay, làm nhà... đòi hỏi thời gian chuẩn bị
khá lâu.
(Cách làm rượu quảng (xe tơm): gạo nếp lức hoặc gạo tẻ nấu chín đem rải ra
đệm cho nguội. Lấy lá cây cù đen (bun mai) lót ở thúng rồi đổ cơm vào ủ, phủ lá cù
đen lên trên cho kín. Để vài ngày, cơm lên meo, đem phơi nắng cho khô rồi đưa vào
cối giã nhỏ thành bột. Lấy vỏ cây dâu da rừng, vỏ cây bình linh đun lên chừng một
tiếng, để nguội rồi cho bột meo vào quậy kỹ, đều. Nút ché rượu bằng lá trung quân,
cho thêm nước và để nguội một thời gian cho lên men. Rượu cốt có màu trà nâu
đậm, đục, vị rượu lạt và hơi chua như bia. Người ta rút rượu cốt ra để cúng, rồi đổ
đầy nước lã đến miệng ché. Khi uống cắm các cần trúc nhỏ, mời khách hút rượu.
Rượu vơi đến đâu người ta đổ nước đầy thêm đến đó. Càng uống, rượu quảng càng
lạt. Có gia đình làm lễ ăn nhang chuẩn bị tới dăm ché rượu quảng. Khi rượu quảng
lạt quá, người ta mua rượu đế (lăc) để cuộc nhậu vui có thể kéo dài, tình bà con, xóm
giềng càng thêm khắng khít).
II.3.4. Khi trai gái đã lớn, họ được tự do tìm hiểu nhau qua các buổi làm rẫy,
tát cá, đi săn... và các buổi cúng lễ, cưới xin. Đôi trai gái tìm nơi vắng vẻ để tâm sự
bước đầu. Rồi ban đêm, chàng trai đến nhà cô gái với nhánh lồ ô trên tay, đút cây vô
cửa hoặc chọc từ dưới sàn lên. Nếu cây được kéo vào là cha mẹ cô gái đã ngủ; nếu
cây bị đẩy ra là cha mẹ còn thức, hãy đợi đấy. Cửa mở ra, anh con trai vào ngủ cùng
cô gái, sớm hôm sau ra về, trước khi cả nhà dậy. Ba đêm liền như vậy mà người con

38.8 Page 378

▲back to top


trai chưa nói gì đến cưới hỏi hoặc trao vật làm tin thì người con gái yêu cầu anh ta
để lại: áo, khăn, vòng... Cơ sở của tình yêu vẫn là "muôn thuở": hai bên mến nhau
vì nết chăm chỉ, người con trai thì săn giỏi và đan lát tài, con gái dệt giỏi, cũng có
đôi ưa thích nhau vì vẻ đẹp bề ngoài, về cách nói năng hoạt bát, linh lợi hoặc vì "nhà
bên kia" khá giả... Trong tình yêu, người con gái Châu Ro luôn luôn có mẹ và các dì
làm cố vấn; nếu mẹ không ưng thì cuộc sống tương lai của đôi vợ chồng trẻ có thể
gặp khó khăn. Kiểu tìm hiểu của nam nữ thanh niên Châu Ro khá xa lạ với người
Việt nhưng thật sự tự do. Trong kho từ vựng Châu Ro không có từ chỉ sự trinh tiết.
Cả chàng trai và cô gái đều nói chuyện với cha mẹ mình về mối quan hệ tình
cảm đó. Có sự khác biệt giữa các địa phương: ở Túc Trưng thì cha mẹ cô gái giữ
chàng trai ở lại rồi cho người đi mời cha mẹ anh tới để hai bên nói chuyện; trong khi
đó ở Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), cha mẹ cô gái chủ động qua nói chuyện
với bên đàng trai. Người Châu Ro vùng Bảo Chánh đi làm đám nói (hỏi vợ - lục xai)
cho con trai bằng cách nhờ mai mối. Ông mai có thể là họ hàng, cũng có thể là người
ngoài, song phải thạo giao tiếp, có khả năng đối đáp tốt. Sau khi ông mai trình bày,
cha mẹ cô gái màu mè chút đỉnh: "Con gái tôi còn dại lắm... ". Cuộc trao đổi giữa
hai bên kết thúc bằng việc ấn định ngày cưới, số lễ vật nhà trai phải mang sang vào
bữa đó (hơi khác người Việt là sính lễ mang sang trước ngày cưới). Ở Lý Lịch, cha
mẹ của đôi trai gái yêu nhau đến thăm nhà nhau. Cha mẹ chàng trai chú ý quan sát
bếp nhà cô gái có ngăn nắp, sạch sẽ không. Nếu bếp gọn gàng, điều đó chứng tỏ cô
gái siêng năng, biết việc bếp núc; đó là tiêu chuẩn của cô dâu tương lai. Cha mẹ họ
hàng cô gái thì chú ý xem các dụng cụ sản xuất, săn bắn của chàng trai: chà gạc, rìu,
ná, gùi... có đẹp, chắc chắn không, chàng có biết đan gùi không? Những vật dụng
trên có thể làm nổi bật phẩm chất chăm chỉ, dũng cảm, khéo léo... của anh, và tương
lai anh sẽ là người chồng tốt - trụ cột vững chắc của gia đình. Ở những nơi nhà gái
chủ động qua nhà trai nói chuyện hôn nhân thì họ mang theo: một lít rượu, một con
gà, 4 cặp bánh nếp, trầu cau, thuốc hút... Ở Lý Lịch, có gia đình đem theo lễ vật cưới
là: heo, trâu, chà gạt, ché rượu cần... Mỗi món gồm một đôi thì vợ chồng sẽ không
đơn côi lẻ bóng. Ở Túc Trưng, nhà gái qua nhà trai trước, mang theo rượu, gà vịt,
trầu cau, thuốc hút, một số bánh dày, 50 bánh tét nhỏ, 300 bánh ống... công bố để
hai bên biết về tình yêu của đôi trai gái. Trong lần gặp này, nhà trai thêm thắt rượu,
gà vịt... để cuộc "nói chuyện" thêm xôm tụ và đi đến kết thúc vui vẻ. Nếu cha mẹ
chàng trai đã qua đời thì người cậu nhận thay.
Người Châu Ro cưới vào mùa khô, từ tháng chạp đến tháng ba âm lịch, là
lúc nông nhàn. Lúa đã nằm gọn trong kho, công việc nương rẫy chưa bận rộn. Mùa
mưa là mùa làm nương rẫy, người ta phải dốc hết sức lực và tận dụng thời gian để
lao động. Lúa trong kho đã vơi, ít ai dám nghĩ chuyện cưới xin. (Nhưng đến nay, do
cư trú xen kẽ với các dân tộc anh em khác, một số thanh niên Châu Ro tổ chức cưới
vào thời điểm mà gia đình họ thấy là phù hợp). Hôn nhân là niềm vui lớn trong cuộc

38.9 Page 379

▲back to top


đời đôi lứa cần được làng xóm biết, có nhiều người dự càng tăng niềm vui cho chủ
nhà và cặp vợ chồng mới.
Nếu gia đình bên trai nghèo, bà con cùng dòng họ tùy khả năng, mỗi người
giúp một vài thứ: gạo, tiền, gà vịt... hoàn toàn tự nguyện không đòi hỏi về sau phải
đền đáp. Đây là nét phong tục tốt đẹp cổ truyền, ở dân tộc Châu Ro không có tình
trạng vì quá nghèo mà người con trai phải chịu cảnh cô đơn buồn khổ suốt đời.
Ngày làm đám cưới (lại xa piêng), họ đàng trai qua nhà gái và mang theo:
ché (tôh), rượu, gà vịt, heo, bánh nếp, trầu cau, thuốc hút, mùng mền, chiếu... Con
heo phải dắt, bà con kiêng cữ chỉ khiêng người chết, con vật lớn chết. Đám cưới kéo
dài suốt ngày, tới tận đêm khuya. Gia đình khá giả có thể đãi khách gần xa và họ
hàng thân quen hai ba ngày liền.
Ở Bảo Chánh trước đây, dẫn đầu họ nhà trai là thầy chang (katungđăp). Thầy
chang đàng gái chờ ở cửa, hát đón nhà trai bằng một bài dân ca cổ truyền (yalyau).
Trước khi đón nhà trai thì nhà gái đã làm cơm cúng ông bà. Khi hai họ yên vị, những
người tiếp tân đàng gái rót rượu quảng (rượu ịt xetơm) mời từng thành viên nhà trai
một ly nhỏ. Người đại diện mỗi bên lần lượt giới thiệu từ những người có vai vế nhất
tới người chót (trước hết là ông bà, cha mẹ, bác chú, cậu, dì, dượng, anh em, chị
em...) để chú rể, cô dâu được biết. Sau khi cúng vái bàn nhang (gô yang), chú rể và
dâu phải cúi lạy họ hàng 4 bên (họ nội nhà trai, họ ngoại nhà trai, họ nội nhà gái,
họ ngoại nhà gái) từ bậc cao nhất trở xuống, ông già đầu tộc làng, các vị chức sắc
trong làng (ông cả, ông sếp). Người ta trải chiếu và mền cho cặp vợ chồng trẻ nằm
dài mấy phút (có tính tượng trưng), sau đó họ quỳ gối đối mặt với nhau, một người
chuẩn bị rượu để chàng rể mời mỗi người bên nhà gái một ly, cô dâu mời mỗi người
nhà trai một ly... Đôi vợ chồng có thể phải quỳ dâng rượu suốt ngày tới khuya nếu
họ mạc đông và người được mời vừa nhâm nhi, vừa vui vẻ trò chuyện. Đến nay, việc
lễ tổ tiên còn duy trì, song việc lạy họ hàng 4 bên đã bớt đi hoặc bỏ hẳn.
Ông bà, cha mẹ, họ hàng đôi bên dặn dò 2 người ngắn gọn và có thể tặng
phong bao nhỏ. Mời rượu giáp vòng rồi, chú rể và cô dâu uống chung một ly rượu,
chàng uống trước, đó là lời giao ước chung sống trọn đời cùng nếm vị tình yêu nồng
thắm và đắng cay. Hai bên họ hàng ăn uống, hát hò vui chơi, đánh đồng la (bộ cồng
chiêng 6 chiếc) suốt đêm, sáng hôm sau mọi người giải tán, chàng rể ở luôn bên vợ.
Tám ngày sau, dâu và rể cùng về nhà trai, mang theo gà vịt, rượu bánh, trầu
cau, thuốc hút... và một tiệc nữa lại diễn ra. Cô dâu về bên trai một tuần lễ thì hai vợ
chồng trẻ về ở hẳn bên gái. Cha mẹ chàng trai có thể cho một số tài sản: trâu, ché,
đồng la, mâm nồi, ruộng rẫy... Cho đến nay, tục bắt rể ít nhất ba năm còn khá phổ
biến trong cộng đồng người Châu Ro. Đó là nét bảo lưu tàn tích chế độ mẫu hệ. Song
ở những vùng người Châu Ro cư trú xen kẽ với người Việt, người Hoa thì khi cưới

38.10 Page 380

▲back to top


cô dâu về ở luôn nhà chồng, với những nghi lễ thông thường của các cộng đồng dân
tộc Việt, Hoa.
Người Châu Ro có tục kiêng cữ không được gọi tên của ông bà, cha mẹ, chú
bác, cô dì dượng, anh chị - nghĩa là tất cả các bề trên hai bên - mà chỉ được gọi bằng
thứ, thí dụ: bác Hai, cô Ba, dì Tư... nếu không muốn bị bắt lỗi. Kêu thứ bậc kèm tên
bề trên bị coi là có thái độ bất kính, bị phạt vạ một lít rượu, một con vịt. Thậm chí
chàng rể đi tiêu, tiểu trong rừng cũng phải kín đáo không được để bên họ vợ thấy
nếu không sẽ bị bắt lỗi và bị phạt.
Trước kia, người ta thường gặp một gia đình có vài chàng rể cùng chung
sống, làm ăn cần mẫn. Họ chỉ ra ở riêng khi có khả năng bảo đảm cuộc sống, khai
phá nương rẫy riêng. Thảng hoặc chàng rể xích mích với cha mẹ vợ cũng ra ở riêng,
nhưng bị cộng đồng, làng xóm phê phán.
Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã bền vững trong xã hội Châu Ro. Hai
vợ chồng chung sống suốt đời, chồng đi đâu, vợ đi đó, sướng khổ có nhau. Mời
người đàn ông đi ăn nhang lúa, ăn cưới... phải mời luôn người vợ. Nếu sắp xảy ra
tình trạng ly hôn, họ hàng đôi bên phải họp lại xem xét, phân xử lỗi do ai gây ra. Ly
hôn bị cộng đồng phạt vạ nặng theo luật tục truyền miệng bằng: trâu, ché, đồng la là
những đồ vật xưa, quý, có giá trị bằng một con trâu trở lên. Thông thường, người
đòi ly hôn khó đáp ứng phạt vạ và khoản bồi thường do người bị ly dị đưa ra, nên
phần lớn lại quay về chung sống cùng nhau. Nếu ai có khả năng đáp ứng điều kiện
(phạt vạ và bồi thường) thì hai bên gia đình bàn bạc thỏa thuận. Sau khi nộp phạt và
bồi hoàn thì mỗi người được tự do, đối xử tốt với nhau, không gây hận thù.
Tục lệ Châu Ro cho phép trai gái tự do tìm hiểu, yêu đương; chuyện vợ chồng
bỏ nhau rất ít xảy ra.
Người Châu Ro không lấy vợ chồng cùng họ tộc, dù cách nhau vài đời,
coi đó là sự loạn luân, vi phạm luật tục cổ truyền. Hôn nhân không chỉ bó hẹp trong
tộc người Châu Ro, người ta thấy họ cũng kết hôn với người Việt, Mạ, Stiêng,
Khmer... Người Châu Ro lấy người Khmer cảm thấy gần gũi: "Chăm ngai, Sai mêch"
(Chăm xa, Miên gần).
Cuốn Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam của Nguyễn Trắc Dĩ xuất bản
ở Sài Gòn năm 1972 và cuốn Đại gia đình dân tộc Việt Nam của Ngô Vĩnh Bình và
Nguyễn Khắc Tụng (Nhà Xuất bản Giáo dục - Hà Nội) viết về hôn nhân của người
Châu Ro cũng có một chi tiết: "... Ở người Châu Ro cũng có tục nếu vợ chết, người
chồng có thể lấy em vợ. Và người đàn bà lấy chồng lâu năm mà không có con thì có
quyền lấy thêm một người chồng nữa. Để tránh xích mích thường mỗi người chồng
ở một nhà". Đi điều tra điền dã tại các vùng đồng bào Châu Ro sống tập trung như
Túc Trưng, Bảo Chánh, Lý Lịch chúng tôi thấy không tồn tại tục hôn nhân chị em

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


vợ (sôrôrat) hoặc hôn nhân anh em chồng (lêvirat) như ba tác giả trên nêu. Hoặc giả
đó là nét phong tục quá xưa nay đã mờ hẳn trong tâm trí người đương đại?
Khi một cô gái lỡ có bầu, sẽ bị phạt nghiêm khắc. Cha mẹ, họ hàng cô đào
hố bắt cô nằm úp bụng xuống đó rồi đánh đòn để cô khai tên người tình. Họ sẽ bắt
anh ta lấy cô, nếu không sẽ bị phạt vạ bằng trâu, ché, đồng la... Ngày nay, bà con bắt
anh này nộp một số tiền để cô chuẩn bị sinh và nuôi con. Người con gái phải cúng
phạt bằng gà, rượu... mới được vào nhà người khác. Xã hội Châu Ro không phân
biệt đối xử với cô gái cả nể này cũng như đứa con hoang. Cô có thể lấy chồng khác
- tuy không thành văn bản tục lệ - thường là người đàn ông góa vợ. Đã có vợ, chồng
nếu mèo chuột với nhau có thể dẫn đến tình trạng đâm chém đổ máu và bị cộng đồng
làng xóm phạt vạ rất nặng.
II.3.5. Người phụ nữ Châu Ro sắp đến ngày sinh thì chồng làm một cái chòi
ở gần nhà, như chòi để lúa, đủ chỗ cho sản phụ nằm. Họ kiêng cữ không đẻ trong
nhà vì sợ ô uế, tổ tiên giận gây bệnh tật, làm ăn không được.
Bà con Châu Ro ở Lý Lịch bắt đầu làm nhà đẻ cho người phụ nữ mang bầu
tháng thứ bảy. Nhà để đẻ cách nhà ở chính chỉ từ 5 đến 10 m. Các cột nhà này phải
suông đuột, không có dây leo (mong cho sản phụ khi sinh đau bụng ít, đứa trẻ ra đời
dễ và ít bệnh tật). Nhà phải ở nơi quang đãng không có cây cối, gò mối; sản phụ nằm
xoay mặt ra cửa. Mỗi lần sinh đẻ, gia đình làm cho người phụ nữ một nhà đẻ khác
nhau, xong việc thì phá bỏ chứ không dùng cho lần sau. Thời gian nằm ở nhà đẻ
khoảng 9 ngày, việc cơm nước do người chồng lo hoặc do chị em giúp. Sau thời gian
này, sản phụ phải tắm rửa cẩn thận mới được về nhà chính của mình. (Nay nếu nơi
nào gần trạm xá hoặc nhà hộ sinh thì chị em tới đó sinh đẻ). Người chồng đi rước bà
mụ về và cắm cành lá cấm người lạ vào nhà thời gian này vì sợ ma quỷ phá phách,
làm trẻ quấy khóc, bệnh hoạn. Nếu người phụ nữ khó sinh, sẽ được cho uống một
vài chén thuốc lá rừng gồm: lá và rễ cây lấu, cây bông trang, mùa cua, dây vú bò...
thì đứa trẻ sổ dễ dàng như được chích một mũi thuốc kích thai. Người mẹ và đứa trẻ
sơ sinh được tắm nước lá rừng gồm: mục pu, ừng gâm, mùa cua (tâng cham)... mỗi
ngày 3 lần. Có nơi có tục cho sản phụ uống một ly nhỏ nước muối và ăn từng ít xôi
nếp một. Khi sản phụ đẻ con so được ăn nhiều thứ, mỗi thứ một vài miếng nhỏ, nếu
thức ăn nào làm đau bụng, khó chịu, tiêu chảy... thì có lá rừng trị liền (và sau đó phải
cữ lâu ngày). Hằng ngày, sản phụ còn dằn bụng và uống thuốc lá rừng gồm: cút cu
(vót đũa), đồng hồ, chân chim, vú bò, mè (để làm tiêu cuống nhau và sổ cửa mình),
hồng quân (thơ thường quưn), từ bi (ừng gâm), sương sáo (sương plú), đoong xcâu...
Hầu như người đàn ông Châu Ro nào lớn tuổi cũng biết các bài thuốc dân tộc kích
sinh, lá để tắm, lá uống mau lại sức... Sản phụ thường nằm bếp than để chống lạnh.
Bảy ngày sau, hồi phục sức khỏe, một số chị đã đi làm thì gia đình bỏ cành lá cấm.

39.2 Page 382

▲back to top


Người chồng làm thịt gà, nấu xôi làm mâm cỗ mời bà mụ tới khấn vái cho
đứa nhỏ mau lớn, không bị quỷ ám, không bệnh tật, đó là lễ tạ ơn bà mụ. Lễ vật
ngoài rượu, thịt gà, xôi nếp, trà, trầu cau, thuốc hút còn có một chiếc cà rá, một cây
đuốc dầu chai. Bà mụ đốt đuốc, quay tròn làm phép xóa bỏ ám ảnh con mắt ma quỷ
dòm ngó. Cúng xong, ngả ra ăn uống. Tên đứa trẻ có thể do cha mẹ hoặc bà mụ đặt,
nhưng nhất thiết không được trùng tên ông bà, chú bác... Trẻ được bảy, tám tháng
thì người mẹ lấy bốn, năm hạt gạo cho vào túi nhỏ nấu nhừ với thuốc lá rừng của
mẹ, cho nó uống vài lần để trẻ mau mạnh. Hằng năm, gia đình đều biếu bà mụ: gà,
trà, rượu... để tạ ơn.
II.3.6. Họ tin ma lai làm người ta bệnh tật xui xẻo, nên ai có ma lai sẽ bị cách
ly khỏi cộng đồng (xưa kia có thể bị giết chết). Chịu ảnh hưởng các tộc người khác,
họ tin các cây cổ thụ, hòn đá lớn đều có ma quỷ trú ngụ; cũng tin con người có 3 hồn
7 vía (hoặc 9, nếu là nữ) nên lúc cúng yang va hằng năm thầy chang hoặc bà bóng
sẽ lấy vía trả lại người trong nhà (sợ vía có thể đi lạc). Lu nước của gia đình phải
để hướng Đông, khi ngủ thì nằm đầu hướng Tây và không úp mặt, không co chân
(sợ không ăn nên làm ra). Họ cấm con nít la hét lúc bình minh hoặc chiều tà vì tin
rằng lúc đó ma quỷ đi săn, chúng tưởng là khỉ sẽ bắn mũi tên bệnh tật làm trẻ đau
ốm và có thể chết.
Người Châu Ro cũng như các dân tộc khác ở miền Đông Nam bộ mỗi khi
đau ốm thường nghĩ do một lực siêu nhiên nào đó gây ra. Bà con thường mời bà
bóng cúng chữa bệnh (ủa xà păm tăm bli). Thường ngày, bà bóng vẫn đi rẫy, làm
lụng chứ không thoát ly lao động. Bà bóng là một phụ nữ đặc biệt được thần linh ốp
vào, học truyền khẩu thuộc lòng các bài cầu cúng. Theo quan niệm của bà con, bà
bóng có thể gặp gỡ ông bà tổ tiên của bệnh nhân, trông thấy ma quỷ gây bệnh, là
người liên lạc giữa thế giới này với cõi vô hình. Khi bộ lục lạc rung lên theo nhịp
điệu, tiết tấu nhất định, đầu và thân bà bóng đảo liên tục, đó là lúc bà ta giao tiếp với
thần linh, ông bà tổ tiên hoặc ma quỷ, hiểu các vị đó đòi cúng thứ gì (gà? heo? trâu?).
Chủ nhà hỏi, bà bóng lấy một chén nước lã, đốt một nén nhang, huơ huơ vài vòng
trên chén nước, miệng lầm rầm cầu khấn, soi xem vì sao người đó bị bệnh và phải
trả lễ thứ gì. Tùy theo lời phán của bà bóng, chủ nhà phải giết gà vịt, dê, heo, hoặc
trâu cúng ông bà hoặc xin ma quỷ tha.
Lễ cúng chữa bệnh thường làm ban đêm. Cúng một lần chưa khỏi, gia đình
người bệnh lại tới hỏi bà bóng, lại cúng nữa, lễ vật tăng lên từ gà vịt tới dê, heo hoặc
trâu. Bệnh kéo dài, gia đình người bệnh càng sốt ruột, muốn người bệnh chóng khỏi,
càng không quản tốn kém. Cuộc sống hàng ngày của người Châu Ro vốn đã eo hẹp,
lúa gạo trồng ra có hạn, gia súc ít ỏi, thì mỗi khi gia đình có người đau ốm, kinh tế
càng khó khăn. Việc cúng lễ khiến đàn gia súc nhỏ bé của mỗi gia đình khó trở thành
sản phẩm hàng hóa.

39.3 Page 383

▲back to top


Trước ngày giải phóng, nhiều tu sĩ người Mỹ đến vùng đồng bào dân tộc
Châu Ro truyền đạo, một mặt dùng vật chất lôi kéo, mặt khác cho thuốc chữa bệnh
gây lòng tin với bà con; một số nhà thờ Tin Lành được xây cất, phục vụ ý đồ chính
trị sâu xa. Từ sau ngày giải phóng, ta mở rộng mạng lưới y tế xã, đẩy mạnh tuyên
truyền vệ sinh phòng bệnh nên đến nay, phần lớn đồng bào tin ở thuốc hơn tin vào
bà bóng cúng cho khỏi bệnh.
II.3.7. Vấn đề ma chay của người Châu Ro khá đơn giản, có nhiều nét tương
tự các dân tộc anh em khác ở miền Đông Nam bộ. Khi gia đình có người qua đời (do
già hoặc bệnh tật) bà con dòng họ và làng xóm đến chia buồn ngay. Gia đình người
chết cử người đi báo tin cho họ hàng ở xa về dự đông đủ, nếu không, sẽ bị trách móc
nặng nề. Thường thường, người cùng dòng họ ở tụ họp gần nhau nên việc báo tang
không mất thì giờ, hiếm có trường hợp thân nhân ở xa trên 100 km. Họ hàng tới
mang theo rượu, gà vịt, nhang, vàng mã... góp phần cúng người chết. Việc dùng
nhang và vàng mã rõ ràng chịu ảnh hưởng của người Việt, người Hoa... vì khi ăn
nhang lúa, người Châu Ro thường đốt vụn trầm (nay trầm hiếm, người ta đốt nhang
thay thế).
Nhà có ông bà, cha mẹ qua đời thì con trai, con gái, con rể, con dâu phải thức
sáng đêm biểu thị lòng thương nhớ người đã khuất, tối kỵ nằm ngủ. Người ta làm
mâm cơm cúng có đủ cơm, rượu, thịt, cá, trầu cau, thuốc hút, nhang, đèn cầy đặt ở
đầu sạp tử thi nằm. Áo người chết đang mặc cắt hết nút (khuy). Người Châu Ro
không chuẩn bị trước cỗ hàng (áo quan, hòm, quan tài). Một số người trong dòng họ
hoặc hàng xóm vác rìu vào rừng chọn cây mổ hòm. Nhà chủ chuẩn bị một mâm cơm
có đủ rượu thịt, trầu cau, thuốc hút... gánh theo làm lễ cúng xin cây. Một người lớn
tuổi đặt mâm cỗ cúng, khấn vái ngắn gọn dưới gốc cây xa cao, cây tung định chặt hạ
(các loại gỗ này mềm, thớ thẳng, đường kính trên 50 cm). Với cây rìu bén, tốp chặt
hạ chỉ ra tay chưa đầy một giờ thì cây đổ. Họ cắt một khúc dài hơn 2 m, dùng rìu và
nêm chẻ dọc thân cây thành 2 phần: phần mỏng 20 cm đẽo làm nắp trên, phần dưới
dày 30 cm dùng rìu moi ruột lõm xuống để đựng tử thi. Một tốp 5 người làm xong
hòm mất một buổi, xong cỗ cúng xin cây, họ khiêng hòm về nhà.
Xác chết liệm bằng tấm chăn người đó thường đắp rồi cho vào hòm. Người
ta dùng dây mây cuốn một số đai quanh hòm, xoắn lại, đóng nêm cho nắp và thân
hòm khít rịt, trét khe hở giữa thân và nắp bằng đất sét hoặc xôi nếp giã nhuyễn nhằm
ngăn mùi hôi không bốc ra. Mặt ngoài hòm, có thể dán giấy hồng đơn. Nếu người
chết thuộc loại nghèo, đơn chiếc, họ hàng làng xóm ít không làm được hòm thì người
ta liệm xác vào chăn, ngoài bó chiếu, ngoài cùng nẹp bảy hoặc chín nẹp tre to cỡ bàn
tay đan kết bằng dây mây (kiểu cái cáng thương tự tạo thời kháng chiến) bó tròn lại
để khiêng đi chôn cho dễ. Bà con dòng họ hoặc hàng xóm giúp đỡ tang chủ một ít
rượu, gạo, gà vịt, tiền tùy lòng hảo tâm.

39.4 Page 384

▲back to top


Xưa kia, người Châu Ro để người chết trong nhà ba hôm thì đem chôn. Họ
không lập nghĩa địa, nơi chôn thường do người sắp chết trăn trối, ở một góc rừng
vắng nào đó. Nếu không có lời dặn dò thì một người trong tang quyến khấn vái, gieo
quẻ bằng 2 đồng tiền, nếu một đồng ngửa, một đồng sấp thì sẽ chôn theo lời khấn.
Việc gieo quẻ chắc cũng chịu ảnh hưởng các dân tộc anh em sống xen kẽ gần đây,
và cũng chỉ ở vùng Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu) mới có việc này.
Sáu thanh niên cùng dòng họ (bây giờ là cùng xóm ấp) chia thành 3 cặp: 2
cặp khiêng 2 đòn ngắn ở đầu và cuối hòm, 1 cặp khiêng đòn dài dọc hòm, đi theo
hiệu chiêng đám ma. Người thân (vợ con, họ hàng...) đi theo sau, khóc lóc kể lể tới
khi hạ huyệt. Huyệt cũng không đào trước. Người nhà tang chủ gánh theo một mâm
cỗ đủ rượu thịt, trà thuốc... tới nơi định đào huyệt, xin keo thần rừng (yang bri), thần
đất cho gởi người chết rồi mới đào hố chôn cất, không cần chọn hướng. Người ta
đóng cọc đánh dấu phía đầu và chân. Cách nay vài chục năm, người Châu Ro cũng
làm nhà mồ (nhi cầm hoic) có hàng rào cây bao quanh, giống như các dân tộc Tây
Nguyên - Nam Trường Sơn. Nay nhà mồ không còn nữa, ở cạnh mộ gia đình để một
số chén, đũa, dĩa, chai lọ, tĩn... với ý nghĩa chia của cho người quá cố, dù sang thế
giới bên kia vẫn có vật dụng hàng ngày. Lúc trước, đồ chia của để nguyên, sau này
người ta đập vỡ, chọc thủng, quần áo cũ thì đốt và giải thích có đập và đốt như thế
người chết mới dùng được. Thực ra, biến tấu này nhằm chống lòng tham của một số
đi lượm đồ chia của về xài, cũng có thể do chịu ảnh hưởng tục đốt vàng mã của các
dân tộc anh em khác.
Xưa kia, người ta giết heo hoặc trâu để cúng tại mả, đầu và 4 chân con vật
chôn cùng người chết. Đưa đám xong, mọi người về nhà, ông đầu tộc rảy nước phép
rửa nhà người chết cũng như rảy lên người đưa đám để ma quỷ và hồn người chết
không ám, sau đó mọi người dự bữa cơm do chủ nhà đãi. Gia đình người chết đem
của cải của người chết ra cho mọi người coi rồi chia số của đó cho con cháu làm vật
kỷ niệm.
Qua ba ngày, gia đình ra đốt lửa sưởi ấm ngôi mộ. Người Châu Ro cũng mở
cửa mả vào ngày thứ bảy. Gia đình làm mâm cơm cúng có 7 (hoặc 9) viên cơm tròn,
7 (hoặc 9) miếng trầu cau, 7 (hoặc 9 hạt) nhúm muối, tùy theo người chết là nam hay
nữ - một chai rượu, một con gà, một bịch thuốc rê... mang ra mộ khấn vái xin người
quá cố an nghỉ, đừng về quậy phá hoặc gây bệnh tật cho người trong nhà, phù hộ gia
đình làm ăn thuận lợi bằng anh bằng em trong làng xóm. Muốn biết liệu người chết
hoặc ma quỷ có quấy nhiễu gia đình hay không, một số nhà rải lớp tro ở vườn để
xem dấu chân ma quỷ. Chịu ảnh hưởng của các dân tộc anh em, nhiều gia đình Châu
Ro cũng rẫy cỏ, sửa sang mồ mả vào ngày 25 tháng chạp âm lịch. Họ làm mâm cơm
cúng ở mộ, có thắp nhang và khấn vái; ngày tất niên (29 hoặc 30 tháng chạp) cũng
cúng ông bà tổ tiên vào dịp Tết năm mới.

39.5 Page 385

▲back to top


Ở Túc Trưng thì 3 ngày sau người ta cúng ở nhà "để cho nhà cửa được sạch
sẽ, con cháu khỏe mạnh và làm ăn khá giả". Hàng năm, họ không cúng người đã
khuất. Trong xóm ấp có người chết thì nhân đưa đám mà con cháu rẫy cỏ, vun đắp
mộ ông bà, cha mẹ... Nay đến 25 tháng chạp âm lịch, bà con cũng sửa sang mồ mả
như một số dân tộc khác. Trẻ con chết yểu thì làm tang đơn giản hơn nhiều, thường
chôn cất ngay trong ngày, số người đưa đám cũng ít.
Người chết bất đắc kỳ tử (chết có máu: chich priêng, pi dâng) như: thắt cổ,
tự vận, chết đuối, chết do đâm chém hoặc bom đạn, xe cán... thì người ta không
mang xác về nhà. Gia đình đánh chiêng ma, nhờ bà bóng, thầy chang trục hồn người
chết hỏi ma nào bắt. Người ta chôn cất gần nơi bị chết, nghi lễ đơn giản, không để
thây nằm lâu ở đó. Chủ nhà thường mời thầy chang cúng trút hồn (tr'âng b'ghi) để
mong trong nhà không có ai bị như thế nữa. Người chết trẻ có khi bị bấm lỗ tai, cột
ngón chân để sau này có đầu thai thì gia đình nhận biết.
II.3.8. Người Châu Ro thờ đa thần - tín ngưỡng nguyên thủy - có liên quan
mật thiết với nghề nông cổ truyền: yang va (thần lúa), yang bri (thần rừng), yang dal
(thần suối), yang re (thần rẫy), yang mơ (thần ruộng)... và một số thần linh ma quỷ
khác: yang nhi (thần nhà, thổ công), pach vri (quỷ sứ), chaq (đọc tr'á: ma lai)...
Phần đông người Châu Ro sống hoàn toàn bằng nghề nông cổ truyền nên tục
cúng yang va (yang: thần, va: lúa) đến nay vẫn còn nhiều nét đặc sắc. Khoảng tháng
11 âm lịch, mùa nương rẫy kết thúc, thóc lúa thu hoạch xong được phơi kỹ, cất vào
chòi hoặc bồ lúa (nhi va). Từ tháng chạp đến tháng ba âm lịch, bà con vô rẫy chặt
cây, phát cỏ. Từ rằm tháng ba, họ xem trời, lựa ngày nắng khô để đốt rẫy, chuẩn bị
trỉa hạt mùa tới. Đó là thời điểm cúng yang va. Cách nay dăm chục năm trước, người
Châu Ro còn ở nhà dài thì lễ cúng yang va mang tính tập thể kéo dài khoảng một
tuần lễ. Nay từng hộ nhỏ lần lượt cúng thì lễ hội này ở mỗi ấp có thể kéo dài cả
tháng, nhưng cũng chỉ gọn trong tháng ba.
Trước ngày cúng, chủ nhà xách chai rượu ịt đi mời họ hàng, chòm xóm.
(Khách đến dự đều chuẩn bị một chai rượu, có thể là rượu đế, và phong bao tiền
nhiều, ít tùy hảo tâm). Bữa trước khi cúng yang va, chủ nhà làm mâm cơm cúng mời
ông bà tổ tiên về ăn lễ cùng con cháu. Đêm cúng yang va, chủ nhà nhờ họ hàng, bè
bạn tới làm giúp. Lễ vật cúng nhang: hai con gà luộc (ở chòi lúa), hai con gà luộc
(cúng ông bà), một con gà luộc (ở rẫy tỉa lúa) với rượu ịt, trầu cau, bánh trái. Nhà
làm ăn trúng mùa thì giết heo. Xưa kia, khi còn ở nhà sàn dài, bà con có tục đâm trâu
tương tự các dân tộc anh em Tây Nguyên.
Bánh cúng gồm: piêng chum (bánh tét), piêng puh (bánh dày mè đen), bánh
ít, bánh ú, piêng đinh (cơm lam)... Người ta lấy hai cây tre non vót bông ở đầu cây
tượng trưng cho bông lúa; một cây dựng ở bàn thờ (gô yang), một cây đặt trên bồ
lúa (voh piêng va) hoặc trong chòi lúa (nhi va). Bàn thờ của người Châu Ro rất đơn

39.6 Page 386

▲back to top


sơ, đặt mâm cúng gồm: thịt gà luộc, bánh rượu, trầu cau, miếng thịt heo sống. Riêng
mâm hứa trả vụ tới không có thịt gà mà có 15 cọng tre mỗi cọng xâu 7 miếng tim,
gan, lòng... đặt quanh miếng thịt heo sống, đầu heo sống, thịt gà sống cả con.
Trong khi người nhà và họ hàng chuẩn bị lễ vật cúng thì bà chủ nhà (mây va)
đeo gùi và vác chà gạt ra rẫy. Trên đường, bà chặt lấy một ngọn mía, một thân chuối
non, hai trái bầu khô (dành sẵn từ trước) cho vào gùi. Ở giữa rẫy, đã chừa lại một
bụi lúa mẩy hạt. Bà chủ nhà khấn vái một lúc rồi cắt bụi lúa cho vào gùi, đi thẳng về
chòi lúa. Bà đặt bụi lúa, ngọn mía, trái bầu, thân chuối vào đó, khấn khứa một hồi
nữa.
Từ 7 giờ tối tới nửa đêm, thầy chang (katung đăp) hoặc bà búp (xà păm) làm
lễ 3 lần:
- Lần đầu, thầy chang đọc lời thỉnh yang và ông bà tổ tiên về chứng kiến
lòng thành của chủ nhà, sau đó đập đầu một con gà chứ không cắt tiết như người
Việt rồi mổ thịt để cúng.
- Lần thứ nhì, bà búp khấn trả lễ mùa trước. Nếu năm vừa rồi, chủ nhà hứa
cúng heo mà năm đó trúng thì nay mổ heo tạ lễ; chẳng may mùa vụ thất bát thì chỉ
cúng con gà cũng được.
- Lần thứ ba, bà búp lên đồng, cùng chủ nhà khấn vái mong mùa tới yang và
ông bà cho được mùa thì sẽ trả lễ to.
Lễ cúng diễn ra trong tiếng dàn cồng chiêng 6 chiếc đánh theo nhịp điệu lúc
khoan thai, lúc dồn dập. Ban đêm thanh vắng, tiếng đồng la vang xa hàng km.
Bài khấn hứa của chủ nhà có tiết tấu nhịp nhàng, nội dung giống nhau nhưng
lời khác nhau tùy từng địa phương. Ông Thổ Hởi ở xã Bảo Chánh (Xuân Lộc) là
thầy cúng, đọc bài lai vung cầu khẩn:
"... ờ ớ bơn nơi, na cô mia rpap, na cô pap bờn yênh bươn nhai, muynh ênh
pơ zlah, là pah ênh lir, là pir ênh đang, là pang ênh yêt, pây xim yô tang, bay yang
yô blơ, an ênh ôp hut, ôp xa nơ gheh, đằn ôp đằn o, đằn poh đằn oh, đằn xa nơ
gheh..." (lược dịch nội dung: Kính cáo ông bà tổ tiên rõ, cha mẹ mang thai, cha mẹ
sinh đẻ, con sắm lễ đãi ông bà tổ tiên, con không quên ông bà, mong ông bà cho con
làm ăn được mùa bằng anh bằng em, có ăn có uống...".
Ông Sáu Đồng - người Châu Ro ở Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu) đọc lời
khấn khác:
... Tơ yang pan yang cô bap, yang rêh yang ru, yang vu yang tênh,yang đêh
yang cô, u a ta yar; tơ yang pan yang cô bap, yang voh tơ nây, nar he ênh oh, nar
he ênh vah, nar he ênh toh, vơr nhai muynh vơr ta lep, tơ ne pan yang cô bap...”

39.7 Page 387

▲back to top


(Lược dịch nội dung: Lạy trời, lạy ông bà tổ tiên, lạy chư thần khèn, tên ná,
thuốc độc, thần lúa, thần muối, lạy ma lai; hôm nay tôi khấn, tôi van vái, tôi trả hứa
cũ chứ không dám nói láo, nói gạt..."
Sau lời khấn vái, thày chang vảy ít gạo lên bàn thờ. Ba lượt lễ kết thúc, chủ
nhà làm tiệc đãi khách gần xa suốt ngày hôm sau. Người phụ nữ lớn tuổi nhất trong
gia đình chịu trách nhiệm cai quản chòi lúa (nhi va) gọi là mẹ lúa (mây va) uống li
rượu đầu tiên vì bà tiêu biểu cho sự cai quản, chăm sóc nhà dài, nương rẫy, chịu
đựng nhiều lo lắng với cộng đồng nhỏ bé. Đây là nét bảo lưu của chế độ mẫu hệ.
Mọi người ăn uống, hò hát, nhảy múa trong tiếng cồng chiêng "bồng bênh"
theo tiết tấu, nhịp điệu khác nhau. Ché rượu cần (tôh xe jro) được châm nước đầy,
miệng ché đặt một con cò tre làm cữ, cắm một số vòi hút. Chủ nhà mời một cò rượu
thì khách phải hút lượng rượu tương đương một chén ăn cơm. Rồi người ta châm
thêm nước lã cho mức rượu cần vừa chấm con cò. Một vị khách khác được mời...
Quá trình trên tiếp diễn. Mới đầu rượu đậm, càng về sau rượu càng lạt dần. Xóm ấp
sôi động, rộn ràng. Con trâu, con bò cũng được chủ cho ăn miếng bánh, uống li rượu
như để đền ơn khó nhọc.
Ngoài tục lệ cúng nhang lúa, người Châu Ro còn cúng rẫy trước khi dọn rẫy
cũ, phát rẫy mới. Lễ vật gồm: một con gà, một chai rượu, vài chiếc bánh nếp, một
chén gạo, một nhúm muối, vài miếng trầu cau... Bà con cúng tại đầu bờ, thắp nhang
khấn vái, rồi những người dọn rẫy ăn uống trước khi bắt tay vào công việc.
Khi lúa có đòng, người Châu Ro cúng lúa chửa (có bầu) tương tự người
Chăm. Lễ vật là: gà, rượu, trái cây (nhất thiết có trái me và khế chua là những thứ
phụ nữ mang bầu ưa thích), trầu cau...
Lúa bắt đầu chín, người Châu Ro tuốt lúa mới phơi khô và cho vào rang rồi
giã bằng chày tay (chày cối vùng đồng bào dân tộc). Gạo mới đem nấu cơm cúng;
nhất thiết không dùng gạo mua hoặc gạo ở rẫy người khác. Mâm cúng gồm: 1 muỗng
gạo mới, 8 chén cơm, 8 con cá, 1 chén mật ong, 2 ly rượu. Khách dự là bạn bè thân,
họ hàng, thầy chang (katungđăp) hoặc bà bóng (xàpăm). Mỗi khách dự đều mang
theo chai rượu biếu chủ nhà góp vào tiệc vui.
Người Châu Ro cúng yang bri (thần rừng) vào trước mùa mưa, song không
ấn định thời gian cụ thể. Già làng đứng ra tổ chức cúng yang bri, mọi người trong
xóm ấp góp lễ vật: gạo, rượu, heo, gà, vịt, trầu cau, trái cây... Lễ vật bày dưới tán
cây to (thường là ở gốc cây dầu, cây đa, cây bằng lăng... ); vị già làng cầu suối cho
nhiều cá, rừng cho nhiều nai, mển, cây có nhiều chim, nhiều ong... Bài khấn dưới
đây thu thập ở xã Châu Pha (Bà Rịa - Vũng Tàu):
Đất đai dương trạch
Hoài đai dương trạch

39.8 Page 388

▲back to top


Cây có lá xanh
Đá Trang, sông Xoài
Hòn Đại, hòn Lang
Trương Giác, Trương Hải
Trương Thiên vạn vị
Mới tạo thiên lập địa
Con người còn tối tăm non dại
Thưa thần linh
Nhờ ơn thần linh
Con trai ra con trai
Con gái cầm chày giã gạo
Con trai đi săn bắn ná
Thưa thần linh... (207[7])
Lời khấn này chắc chắn chịu ảnh hưởng lời khấn của thầy cúng Việt, nhưng
vẫn giữ bản sắc dân tộc thiểu số. Cúng xong, mọi người ăn uống rồi ra về.
Văn hóa dân gian của người Châu Ro khá phong phú. Dân ca, chuyện cổ tích
và huyền thoại được lưu truyền qua các thế hệ đều phản ánh: tình yêu, hiện thực sản
xuất lao động, tín ngưỡng vạn vật hữu linh... Chúng ta cần kịp thời tổ chức sưu tầm,
giữ gìn vốn quý này; chẳng bao lâu, nếu không thực hiện được, vốn tinh thần này sẽ
vĩnh viễn mất đi.
Người Châu Ro có một số dụng cụ âm nhạc cổ truyền: chiêng đồng, mõ gỗ,
trống, khèn bầu, sáo, kèn nhỏ, kèn ống lúa, đàn ống tre... Bộ chiêng đồng có 7 chiếc
(3 chiếc lớn tạo hòa âm, giai điệu, 4 chiếc nhỏ giữ nhịp) dùng trong lễ cúng nhang
lúa, lễ cầu an, đám cưới... Xưa kia, chiêng đồng được dùng rộng rãi trong các buổi
sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, hòa giải xích mích. Tiếng chiêng trầm hùng vang xa
được bà con gọi nôm na là đồng la. Ngày nay, các xóm ấp Châu Ro hầu như không
còn bộ chiêng nào, ngoại trừ ở Túc Trưng và Lý Lịch (bộ chiêng Lý Lịch do Sở
VHTT Đồng Nai mua và giao cho bà con giữ, sử dụng).
Xưa kia, người Châu Ro tự dệt loại vải thô, hoa văn khá đặc sắc. Đến nay,
nghề dệt thổ cẩm thủ công hầu như biến mất vì vải dệt máy nhiều, rẻ, bán khắp nơi.
Từ sau ngày thống nhất đất nước tới nay, đã 20 năm trôi qua. Cuộc sống của
đồng bào Châu Ro có những biến đổi đáng kể. Với chương trình định canh định cư
(207[7]) Các dân tc thiu số ở Đồng Nai , - tài liệu đánh máy lưu trữ ở UBMTTQ Vit Nam tỉnh Đồng Nai.

39.9 Page 389

▲back to top


của Nhà nước, tình trạng du canh, du cư giảm rất nhiều. Rút kinh nghiệm xây dựng
khu định canh định cư Tà Lài, cán bộ ta đã trưng cầu ý kiến đồng bào Châu Ro ở Lý
Lịch (xã Phú Lý) làm nhà theo lối cổ truyền được bà con hoan nghênh. Mô hình khu
định canh định cư Lý Lịch có những thành công nhất định và cần được triển khai ở
những nơi có điều kiện.
Sống xen kẽ với các dân tộc anh em, đồng bào Châu Ro tiếp thu được kinh
nghiệm làm lúa nước (ở những vùng có ruộng) đạt năng suất cao hơn trồng lúa trên
rẫy. Một số bà con ở Bảo Vinh, Xuân Thọ... đã đầu tư trồng cây ăn quả và cây công
nghiệp lâu năm có giá trị hàng hóa cao.
Trẻ em Châu Ro phần lớn đều đến trường tiểu học. Ở tỉnh, trong năm học
1995 - 1996 Trường phổ thông Dân tộc nội trú Đồng Nai có 232 học sinh Châu Ro
học từ cấp 2 đến cấp 3. Một số sinh viên Châu Ro được tỉnh cấp học bổng để có thể
theo học đến khi tốt nghiệp. Số đã tốt nghiệp đại học rất ít, đều được bố trí công tác.
Mạng lưới y tế xã góp phần đẩy lui bệnh tật của bà con và ngày nay khi bị
bệnh rất ít người cúng bái mà đưa người bệnh tới trạm xá và mua thuốc uống. Phụ
nữ sinh đẻ cũng ra trạm xá để bảo đảm mẹ tròn con vuông.
Hàng trăm công nhân các Nông trường cao su Cẩm Mỹ, Hàng Gòn có thu
nhập ổn định và cao hơn hẳn mức sống của nông dân. Bình quân lương hàng tháng
năm 1995 khoảng 700 ngàn đồng chưa kể tiền thưởng vượt năng suất. Nông trường
Cẩm Mỹ đã xây cất cho mỗi gia đình công nhân Châu Ro một căn hộ, công đoàn cơ
sở liên tục vận động, giáo dục bà con nếp sống mới sạch sẽ, gọn gàng. Các cặp vợ
chồng trẻ được hướng dẫn chu đáo để thực hiện KHHGĐ, tạo hạnh phúc đôi lứa...
Nhưng nhìn chung, do chưa dứt bỏ thói quen du canh, du cư, chưa được
hướng dẫn tốt cách làm kinh tế gia đình nên phần đông còn gặp khó khăn trong đời
sống. Ở Phước Bình (Long Thành), số hộ nghèo đói khoảng 80%. Đồng chí Điểu
Bảo - chủ tịch UBND xã Túc Trưng, đại biểu Quốc hội - cho biết: số gia đình bà con
Châu Ro thiếu đói cũng không dưới 80%. Nhiều hộ sang đất ở gần nhà đi làm rẫy ở
rất xa nhưng vẫn chưa khá. Bà con không muốn vay vốn "xóa đói giảm nghèo" vì lo
vay rồi không có tiền trả...
Dân tộc Châu Ro ở Đồng Nai có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên
cường ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Điểu Xiển là đảng viên cộng
sản người Châu Ro từ đầu những năm 1940, sau đó trở thành một trong những đại
biểu Quốc hội VNDCCH khóa 1 (đã hy sinh ngay đầu năm 1946). Điểu Cải là Anh
hùng - liệt sĩ LLVTND được tuyên dương năm 1978. Hai xã Túc Trưng (huyện Định
Quán) và Phú Lý (huyện Vĩnh Cửu) có đông đồng bào dân tộc Châu Ro sinh sống,
đóng góp rất lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc suốt 2 thời kỳ kháng chiến được
tuyên dương Đơn vị anh hùng LLVTND. Các ông Sang Văn Mão và Điểu Bảo đã
và đang là đại biểu Quốc hội, đại diện cho các dân tộc ít người ở Đồng Nai.

39.10 Page 390

▲back to top


Để giúp đồng bào Châu Ro giữ được bản sắc độc đáo của dân tộc mình, điều
cấp thiết là tìm mọi cách giúp bà con vượt qua đói nghèo triền miên, đồng thời, từng
bước giúp nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng mà đối tượng chính là đông đảo
thanh thiếu niên Châu Ro.
III. NGƯỜI MẠ:
III.1. Dân số và phân bố:
Dân tộc Mạ được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Chau Mạ (Chau: người, Mạ:
tên tộc người), Chê Mạ, Mạ Ngan (Ngan: chính dòng), Mạ Xôp (xôp: đá phiến, Mạ
Xôp: người Mạ ở vùng đá phiến, người Pháp phiên âm ìop), Mạ Tô (Tô: vùng thượng
nguồn sông Đồng Nai), Mạ Krung (Krung: vùng đồng bằng), Mạ Xrê (Xrê: ruộng,
Mạ Xrê: người Mạ làm ruộng), Mạ Hoang (Hoang: người Pháp xưa kia không kiểm
soát được). Một số sách báo cũ liệt các nhóm tộc người Jiroo (gọi đúng: Jro), Nôp,
Lạt, Kơho, Chéttô... vào dân tộc Mạ, thực ra các nhóm này thuộc các tộc người Jro
(Châu Ro), Kơho.
Nhà nước ta xác định dân tộc thiểu số dựa vào ba tiêu chuẩn cơ bản: đặc
điểm ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt - văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Theo Danh
mục thành phần dân tộc Việt Nam ban hành ngày 2 - 3 - 1979, người Mạ được gọi
bằng tên chính thức: dân tộc Mạ thuộc dòng Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer,
xưa kia chỉ có tiếng nói, chưa có chữ viết riêng. Tiếng nói của người Mạ và người
Kơho căn bản giống nhau, họ có thể học được chữ Kơho la tinh hóa được tạo ra chưa
lâu.
Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai năm 1996, số người Mạ toàn tỉnh
là 1848, xếp thứ 10 trong số hơn 40 dân tộc anh em. Họ tập trung đông nhất tại ấp
Hiếu Nghĩa (trước đây là ấp Trung Hiếu, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán):
182 hộ với 923 nhân khẩu. Xã Tà Lài có 433 nhân khẩu, đông thứ nhì. Số còn lại rải
ra ở một số xã khác thuộc huyện Tân Phú như Phú Bình, Phú Sơn...
Người Mạ là một trong các cư dân bản địa. Xưa kia họ đã lập được Nggar
Chau Mạ (nước người Mạ), mà Bernard Bourotte gọi là công quốc Mạ (principauté
Mạ), đại khái ranh giới phía Nam là sông La Ngà (Đạ R'Nga), phía Bắc là vùng Đức
Trọng (Lâm Đồng), phía Đông giáp đồng bằng Bình Thuận, phía Tây giáp sông Bé
(tỉnh Bình Phước hiện nay). Nước người Mạ nằm trên phần lớn cao nguyên Di Linh
- Bảo Lộc, nửa phía Bắc huyện Định Quán và toàn huyện Tân Phú hiện nay.
Năm 1994 ngành khảo cổ khám phá thánh địa Cát Tiên (nằm ở hai bờ Bắc,
Nam sông Đồng Nai thuộc phạm vi hai tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai hiện thời) khẳng
định sự tồn tại của tiểu quốc này. Nó là trái độn giữa vương quốc Chămpa với xứ sở
người Stiêng, từng tồn tại khá lâu. Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng tiểu quốc Mạ

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


chỉ là sự liên minh của nhiều bộ lạc, thị tộc. Cuối thế kỷ 17, tiểu quốc Mạ biến mất
chưa rõ vì nguyên nhân nào.
Trong phạm vi tỉnh Đồng Nai, trước Cách mạng tháng Tám 1945, người Mạ
sống tập trung ở địa điểm bây giờ là thị trấn Định Quán, các làng Thuận Tùng, Cao
Cang, Gia Canh và Tà Lài. Năm 1947 họ bị quân Pháp cưỡng bức tập trung về Trảng
Bom (huyện Thống Nhất bây giờ) nhằm bắt thanh niên Mạ đi lính ngụy - mà người
ta quen gọi là nh Thổ - để thực hiện âm mưu gây chia rẽ dân tộc, "dùng người Việt
đánh người Việt".
Nhưng không bao lâu bà con đấu tranh bỏ về quê cũ không chịu sống cảnh
cá chậu chim lồng.
III.2. Phương thức sản xuất:
III.2.1. Tương tự các dân tộc thiểu số Đông Nam bộ, phương thức canh tác
cổ truyền của người Mạ là làm nương rẫy du canh, "ăn rừng", " ăn nước trời" đậm
nét nguyên thủy.
Người Mạ gọi rẫy mì rì, mir; rẫy mới mì rì pơ, mđrih; rẫy cũ mì rì tệ,
mpuh. Khoảng tháng giêng âm lịch, những người cùng làng (bòn) kéo nhau đi tìm
đất, có vị già làng giàu kinh nghiệm sản xuất dẫn đầu. Họ "ăn rừng" ở nơi địa hình
tương đối bằng phẳng, sườn đồi dốc thoải, đất xám màu xẫm nhiều mùn, chất đất
dẻo... Thường thường bà con chọn rừng thứ sinh (xar) đất tốt, ẩm dễ khai phá hơn
các khu rừng nguyên sinh (rlau) hoặc rừng thưa (lac). Rừng thiêng (krông) khu rừng
già cây cao bóng cả, um tùm rậm rạp - là nơi ngự trị của các thần linh được coi là
rừng cấm.
Đi tìm đất rẫy, người Mạ cũng kiêng cữ như người Châu Ro; nếu gặp con cù
lần (đù gle), rắn sọc đen, sọc vằn, chồn, trăn... thì không làm. Chọn được vùng đất
ưng ý, mỗi gia đình được chia một khoảnh, định mốc bằng các hòn đá lớn, gốc cây
to... Họ cũng có thể tự do đi tìm rừng để khai phá trồng tỉa theo ý riêng. Các gia đình
cùng bòn (làng) làm rẫy sát nhau, ranh giới giữa vùng rừng kế cận và khu rẫy của
bòn là các mốc thiên nhiên, được các bòn khác tôn trọng. Dân bòn tôn trọng quyền
chiếm hữu đất đai của mỗi gia đình, chưa từng có tranh chấp bất động sản vì đất rất
rộng mà người lại thưa. Xưa kia mỗi bòn Mạ có một chủ rừng (tôm bri) do dân cử,
dân nơi khác muốn đến săn bắn, đánh cá hoặc làm rẫy trong phạm vi đất đai của bòn
đều phải được tôm bri cho phép.
Lựa và phân xong rẫy, người ta dùng chà gạt (yơh: đọc yở) phát cỏ và bụi
cây nhỏ, dùng rìu (xuung) đốn cây lớn và vừa. Khoảng tháng hai, tháng ba âm lịch
khi cây và cỏ đã khô, họ lựa ngày ít gió để đốt rẫy. Mùa rẫy thực sự bắt đầu từ tháng
tư âm lịch khi trời lác đác mưa. Bà con cúng rẫy ngay nơi trồng tỉa với niềm ước
mong các thần linh (yang) và ông bà tổ tiên cho được mùa, ma quỉ không quậy phá

40.2 Page 392

▲back to top


cây trồng, vật nuôi. Rẫy mới (mì rì pơ, mđrih) năm đầu trồng lúa cạn, năm sau trồng
lúa xen các hoa màu: bắp (tơ ngòi), dưa leo (play pung), bí (play bào), khoai mì
(mpuh blang), khoai lang, bông (đỉ)... theo hàng rạch cách nhau chừng 40 cm để dễ
dàng thu hoạch các sản phẩm vào các thời điểm khác nhau (bắp và đậu hái trước, rồi
đến dưa, bí, kế đến lúa và cuối cùng là khoai mì).
Người Mạ trồng các loài lúa: xương gà (kòi brao), bạc đầu bông (kòi lel),
gạo đỏ (kòi tràng), ba túc, tiu, nàng rá... nhưng loại lúa chính là lúa mẹ (kòi mẹ)
diện tích lớn nhất. Bà con cũng trồng lúa nếp (kòi mbar) ở ven đồi, song lúa tẻ chiếm
tỉ trọng tuyệt đối. Họ chỉ trồng bằng lúa giống do gia đình thu hoạch vì tin rằng như
vậy ông bà mới cho được mùa. Thực ra niềm tin này phản ánh tính tự cung tự cấp
cao độ của một nền nông nghiệp còn mang tính nguyên thủy.
Mỗi nương rẫy trồng quảng canh như vậy hai, ba năm thì bạc màu, họ bỏ hóa
bảy, tám năm cho lớp phủ thực vật phát triển trở lại rồi quay về khai phá thực hiện
chu kỳ trồng tỉa mới.
Từ khoảng năm 1957, đồng bào Mạ ở ấp Hiếu Nghĩa (thị trấn Định Quán)
khai phá cánh đồng ven ấp được hơn 50 ha ruộng, học cách trồng lúa của người Việt
sống gần đó. Cánh đồng Định Quán hồi đó đầy lau, sậy, điên điển... khá hoang vu.
Thoạt đầu chưa biết cày bừa, để làm đất, họ đóng cọc ở đầu bờ, buộc trâu bằng sợi
thừng dài rồi lùa xuống ruộng cho chúng quần nổi sình (bùn). Họ vơ cỏ cho sạch rồi
cấy. Sau đó họ học cách dùng cày, bừa (nhảr) bằng trâu song chưa bón phân (trâu,
bắc) vì sợ bẩn. Ở nơi không có trâu, bà con dùng cuốc lật đất rồi nhặt sạch cỏ. Kế
đến, họ dùng miếng ván lớn, nặng, buộc dây ở hai đầu ván cho hai người kéo; một
cây gậy tra vào giữa miếng ván như tay lái để người đi sau điều khiển. Cách trang
mặt ruộng này khá nặng nhọc, tốn lao động. Khi lớp bùn phẳng ở mặt ruộng hơi se
se, họ dùng gậy chọc lỗ tra lúa giống, tương tự trồng lúa rẫy.
Để bảo vệ lúa khỏi bị chim và thú rừng phá, người ta làm chòi, ở đó luôn tới
khi thu hoạch mới quay về bòn.
Vào thập niên 80, Nhà nước có chủ trương lớn định canh định cư, giúp bà
con Mạ ở Tà Lài (huyện Tân Phú) mở mang thêm một số ruộng lúa nước (song song
với việc làm nhà cấp cho họ). Nhưng cho đến nay kí ức về cuộc sống du canh chưa
phai mờ trong tâm trí bà con, họ vẫn thích làm nương rẫy xa nhà.
III.2.2. Ngoài việc trồng tỉa là chính, mỗi gia đình Mạ thường chăn nuôi một
số gà vịt, một vài con heo giống địa phương thả rông - quen gọi heo Mọi (không có
ý miệt thị). Gia đình khá giả thì nuôi trâu, xưa kia có nhà nuôi tới vài chục con thả
ven rừng nên tính hoang dã cao, hung hãn. Người ta không làm chuồng mà chỉ cột
vào cọc, trâu ở ngoài trời dù nắng hay mưa. Chăn nuôi chưa trở thành ngành kinh tế
nông nghiệp làm ra sản phẩm hàng hóa, người Mạ chỉ dùng vật nuôi vào việc cưới
hỏi, ma chay hoặc cúng nông nghiệp, ít khi mang bán.

40.3 Page 393

▲back to top


III.2.3. Những lúc nông nhàn rảnh rỗi, người Mạ cũng săn bắt thú rừng bằng
tên ná, mò ốc, tát cá (hoặc giã lá độc thả xuống khúc suối làm cá trúng độc nổi lên
mà vớt)... Lúc đi rừng, họ hái lượm măng tre, tìm mật ong và sáp, khai thác dầu chai
(để trét ghe xuồng) .
III.2.4. Gia đình nào cũng tự đan chiếu, các loài gùi (tùy cỡ nhỏ, to mà có tên
nơl, xờ, xa vài, xa bràng...) để dùng trong nhà. Xưa kia người Mạ nổi tiếng về nghề
dệt, họ trồng bông, kéo sợi và dùng loại khung dệt rất thô sơ để dệt một thứ vải thô
(thổ cẩm) làm chăn đắp, áo, váy, khố... với các hoa văn trang trí đẹp mắt. Cộng đồng
các dân tộc Đông Nam bộ khâm phục sự khéo léo, tinh tế của sản phẩm dệt Mạ. Bây
giờ nghề dệt cổ truyền của người Mạ bị vải dệt công nghiệp rẻ, đẹp, bền, hợp thời
trang lấn lướt.
Nghề rèn sắt đã mất, các dụng cụ sản xuất như: dao rựa (bra), cuốc, cày, bừa
(nhảr), liềm (mớ), rìu (xuung)... đều mua ở chợ do thợ rèn Việt làm ra.
Nền kinh tế tự cấp tự túc của người Mạ đang biến đổi dần trong quá trình
tiếp xúc, giao lưu với các dân tộc anh em. Chưa thấy người Mạ nào biết buôn bán
đúng nghĩa tuy đây đó có vài tiệm quán đơn sơ. Cho đến nay họ vẫn "ăn rừng", "ăn
nước trời" là chính nên cuộc sống vẫn đói nghèo triền miên. (Trong khi đó ở Lâm
Đồng, một số gia đình Mạ biết trồng cà phê, điều... khiến cuộc sống khá giả hẳn lên,
trong nhà có một số tiện nghi và cất nhà đúc đàng hoàng).
III.3. Cấu trúc gia đình, xã hội và phong tục tập quán:
III.3.1. Xưa kia, mỗi làng Mạ gọi là bòn thường có vài nóc nhà sàn gọi là hìu
đoòng, mỗi nóc nhà có thể dài dăm chục mét hoặc hơn. Sàn cách mặt đất từ 1 mét
đến 1,5 mét, khung nhà bằng cây căm xe (xir pẻ), gõ (xir tê), bằng lăng (xir pè),
người ta cữ không làm bằng cây dầu. Các mối buộc bằng dây mây, không đục mộng
tra ngoàm nên bộ khung nhà không vững chãi lâu dài. Khung nhà bằng gỗ cây để
nguyên không bào (đôi khi đẽo sơ sơ), mái lợp tranh hay lá, sàn bằng tre nứa, vách
thưng chung quanh cũng bằng tre nứa. Nhà thường không cao, mỗi nhà sàn (hìu
đoòng) chung sống hàng chục gia đình cùng huyết thống.
Trong nhà không có giường, bàn ghế... người ta nằm ngủ, ngồi chơi, tiếp
khách... trên chiếu trải ở sàn nhà, cạnh bếp lửa gia đình. Mỗi nhà sàn dài có một hay
vài chòi lúa chung do một phụ nữ lớn tuổi quản lí, phân phối cho các gia đình nhỏ.
Chòi này thường có kích thước 2 m x 1,5 m sàn chòi lúa cách mặt đất hơn 1mét; chòi
lúa cất tách rời nhà dài (bà con tin rằng nếu cất lúa trong nhà ở thì bị xui, ông bà quở
trách gây đau ốm, bệnh tật...).
Lối sống tập thể cổ truyền đã thay đổi sau năm 1954 khi người Mạ bị dồn
vào các ấp chiến lược. Nhà sàn dài biến mất, mỗi gia đình nhỏ sống riêng biệt trong
căn nhà trệt lợp tranh hoặc tôn viện trợ Mĩ. Nhà nền đất khiến một số gia đình mua

40.4 Page 394

▲back to top


sắm bàn ghế, giường... các gia đình nghèo thì làm sạp tre dài (thay cho giường). Có
nhà còn làm kho lúa nhỏ cạnh nhà, song số gia đình thu hoạch ít thóc thì đóng bao,
cất ngay trong nhà mình.
Xưa kia, việc tìm đất dựng nhà, cúng kiếng trước và sau khi làm nhà xong
cũng tương tự như các dân tộc Châu Ro, Stiêng... anh em sống gần đó.
III.3.2. Cũng như các dân tộc ít người ở Nam Trường Sơn - Tây Nguyên
khác, ông tộc trưởng (người đứng đầu nhà dài: chau đoòng) có nhiệm vụ cúng kiếng,
tham gia hòa giải mâu thuẫn nội bộ, tham gia xử phạt các thành viên mắc lỗi... Các
chau đoòng họp thành hội đồng già làng gồm thêm một số bô lão giàu kinh nghiệm
sản xuất, săn bắn, giỏi chỉ huy chiến đấu, thạo giao dịch đối ngoại. Nhưng từ thời
thuộc Pháp cơ cấu này không còn, thay vào đó là các chức sắc của hệ thống chính
quyền do Nhà nước thực dân đặt ra. Xã hội người Mạ ở Đồng Nai chưa phân hóa
giai cấp rõ rệt. Một số ít hộ có mức sống khá, có tài sản đáng giá như trâu, ché,
chiêng... còn phần đông thì đời sống vẫn nghèo đói, thiếu thốn, một số phải đi làm
mướn kiếm ăn hàng ngày.
III.3.3. Bản tính người Mạ thuần phác, hiền hòa, ít tranh chấp gây lộn. Họ
không đi buôn, không cần làm giàu, có gạo có tiền thì ăn và uống rượu, hết thì đi
làm nữa, thiếu tính toán phòng xa nên khi gia đình gặp tai biến hoặc bệnh tật thì phải
đi vay nặng lãi, bán trâu, sang ruộng rẫy...
III.3.4. Cách đây vài chục năm, khi còn nhà sàn dài, người mẹ, người vợ
quyết định mọi việc trong nhà. Con gái được quí trọng hơn con trai, nam thanh niên
lấy vợ thì ở nhà vợ và vai trò người cậu (anh mẹ) rất quan trọng trong việc giải quyết
các chuyện gia đình (thí dụ: cưới hỏi, ma chay...). Ngày nay gia đình nhỏ thay thế
gia đình lớn, chế độ theo dòng cha từng bước thắng thế, người đàn ông có bổn phận
làm nuôi gia đình nên quyền hành cũng lớn, con trai trưởng được coi trọng. Khi đôi
lứa thanh niên lấy nhau, người con gái về nhà chồng làm ăn sinh sống (theo thỏa
thuận giữa đôi bên cha mẹ).
Trong quan hệ thân tộc, người Mạ có sự phân biệt khá rõ:
Cụ: kra
Anh chồng: vi pa klau
Ông: pàng kau
Anh vợ: vi pa ul
Cha: vàp
Chị: vi ul
Mẹ: mê
Chị chồng; vợ: vi pa ul.
Bác, chú, dượng: wa
Em: oh

40.5 Page 395

▲back to top


Cụ ông: ôông kra
Em trai: oh klau
Cụ bà: mộ kra
Em gái: oh ul
Bà: pàng ul
Con: con
Cha chồng: vàp pa klau
Con trai: con klau
Cha vợ: vàp pa ul
Con rể: con ban
Mẹ chồng: mê pa klau
Con gái: con ul
Mẹ vợ: mê pa ul
Con dâu: con klai
Bác gái: wa ul
Cháu nội: xau (ông, bà gọi)
Cậu: cô inh (ở Tà Lài gọi là: o)
Cháu nội trai: xau klau
Mợ (vợ cậu): hìn
Cháu nội gái: xau ul
Cô, dì, thím mợ: mỉ, mí, bí (từng
Cháu (của bác, chú...):
vùng)
kmon
Chồng: bao klau
Cháu họ trai: kmon klau
Vợ: bao ul
Cháu họ gái: kmon ul
Anh: vi klau
III.3.5 Trai gái Mạ lớn lên được tự do tìm hiểu, yêu đương qua các lần gặp
gỡ, tiếp xúc hoặc qua lao động. Tùy theo từng nơi, xã hội người Mạ không ngăn cấm
con cô con cậu tiến tới hôn nhân, song con chú con bác thì không được phép. Người
Mạ có những câu ca ngăn cấm tội loạn luân.
Vi phạm luật tục (nđrih, đrin) của cộng đồng, đôi trai gái bị phạt vạ nặng,
thậm chí có thể bị đuổi khỏi cộng đồng làng xóm.
Người Mạ không có quan niệm về trinh tiết, thiếu nữ Mạ có thể ngủ với
người yêu nhưng không được có bầu (tương tự người Châu Ro). Cô gái nào ít giao
du với đàn ông vẫn được dư luận xã hội đánh giá cao hơn. Nếu cô nào ăn ngủ với
chàng trai (chưa vợ) cũng không bị phê phán gì, song không được có vài người tình
cùng một lúc. Ít có cô gái Mạ mắc lỗi chửa hoang vì khi trai gái ưng nhau thì họ lấy
nhau. Nếu hai chàng trai cùng say mê một cô gái, họ thách đấu nhau bằng chà gạt,
ai thắng sẽ trở thành chồng.

40.6 Page 396

▲back to top


III.3.6. Khi đôi trai gái ưng nhau, chàng trai thưa chuyện với cha mẹ mình,
được chấp thuận thì nhà trai đi làm đám nói (đám hỏi). Ông mai là bậc bề trên thuộc
họ gần (bác, chú, anh); nếu là bà con xa thì không được. Xưa kia chàng trai mặc
chiếc khố có tua đỏ, tay đeo nhiều vòng đồng, mái tóc cài lược sừng trâu, búi tóc
cắm hai lông chim trắng dài. Đến trước cửa nhà gái, đoàn nhà trai dừng lại. Chàng
trai cắm ngọn lao xuống đất, vai vẫn vác chà gạt, dao gài thắt lưng. Đã được thông
báo trước, cha cô gái (hoặc người cậu ruột) và một số họ hàng ra đón. Anh trình bày
mục đích cuộc viếng thăm (tuy cô gái đã cho cha mẹ biết).
Khi được nhà gái đồng ý, chàng thanh niên rút ngọn lao, cầm lấy bước vào
nhà, đến trước bàn thờ các yang và ông bà tổ tiên khấn vái rồi gác ngọn lao lên xà
nhà, để đó bảy ngày đêm. Hai họ chuyện trò, bàn bạc vui vẻ bằng dân ca theo lối nói
vòng vo dài dòng trong khi cùng nhau hút thuốc, ăn trầu, uống rượu... Thỏa thuận
xong xuôi, đàng trai ra về. Chàng thanh niên ở lại nhà gái, tham gia làm lụng mọi
việc trong nhà. Tuy đã làm đám nói song đôi trai gái không được chung sống trong
nhà cô gái. Muốn tâm sự, họ làm túp lều nhỏ xa bòn (làng) trong một góc rừng kín
đáo vắng vẻ và chung sống với nhau. Cô gái trang sức đẹp: đeo nhiều chuỗi vòng,
chuỗi hạt cườm hoặc vỏ ốc đẹp, búi tóc gài lược sừng có cắm con dao nhỏ cán sừng,
thắt lưng bằng tấm vải hẹp có hoa văn nhiều màu rực rỡ, váy dệt có hoa văn đẹp, có
chùm bông đỏ bằng vải để trang trí...
Trong đám nói, nhà trai đưa cho bên gái: 1 cái ché, 1 con gà đã làm thịt, một
số món trang sức: vòng, lược, chuỗi cườm đeo cổ và vài thứ cô gái yêu cầu từ trước.
Nhận sính lễ rồi mà cô gái muốn thoái hôn thì phải đền nhà trai: 1 con heo, 15 cái
ché. Anh con trai muốn từ hôn do không ưng cô gái nữa thì phải đền 1 con heo, 1
cái ché. Việc từ hôn, thoái hôn hiếm xảy ra vì họ muốn đôi trai gái cưới nhau.
Người Mạ có ngạn ngữ:
Lưỡi mác phải có cán
Muốn ngủ phải có mền
Muốn cưới xin phải có cỗ bàn và trao vòng tay...
Ngày cưới, nhà trai mang sang nhà gái: tiền, gạo, rượu cần, ché rượu cần
(xáng đốốc), bộ chiêng (chinh), trâu, heo... như trước đây hai bên đã thỏa thuận.
Đám cưới làm bên nhà gái. Ông thầy cúng được mời tới làm lễ cúng ông bà tổ tiên,
cầu cho đôi vợ chồng trẻ chung sống tới già. Người ta mổ trâu, heo làm tiệc đãi
khách gần xa. Đám cưới ăn uống, ca hát suốt ngày đêm trong nhịp chiêng vang dội.
Trong buổi lễ, đôi vợ chồng trao vòng cho nhau và cùng ăn gan heo... Gia đình khá
giả thì đám cưới kéo dài vài ngày, nhưng thường chỉ một ngày đêm. Chàng rể ở luôn
nhà gái.

40.7 Page 397

▲back to top


III.3.7. Nếu cô gái có bầu trước khi cưới, anh con trai muốn lấy, thì tổ chức
lễ cưới bình thường. Biết rõ tác giả của cái thai (không phải là chàng rể) thì người
đàn ông nọ phải nộp cho bòn: 1 con heo, 1 con dê để bòn cúng yang. Nếu đứa bé ra
đời trước khi cưới thì người này phải nộp 1 con trâu.
Trong xã hội Mạ, khi chế độ theo dòng mẹ suy giảm dần, và nhất là dưới chế
độ thực dân, đàn ông có thể lấy vài ba vợ. Thực ra thì chỉ các gia đình giàu có hoặc
các chức sắc trong bòn, trong tổng mới cưới vợ nhỏ bằng 1 con trâu.
Ở nhà vợ vài năm, người đàn ông muốn gia đình nhỏ của mình ra ở riêng
hoặc đưa vợ về gia đình cha mẹ mình thì phải nộp đủ lễ vật cho nhà vợ, nếu chưa đủ
thì phải tiếp tục làm để thanh toán số nợ còn thiếu.
Xã hội Mạ đang chuyển mạnh sang chế độ theo dòng cha, người phụ nữ về
nhà chồng thì quyền hành giảm nhiều. Người chồng chết thì gia tài do anh em ruột
hoặc con trai trưởng quản lý có tham khảo ý kiến của mẹ và vợ người đó. Lúc đó
người vợ có thể về nhà cha mẹ đẻ và phải nộp lại một phần của hồi môn trước đây
(theo thỏa thuận). Vợ chồng li dị thì con trai đầu ở với cha.
III.3.8.
Ăn ớt, rát họng
Ăn sả, rát yết hầu
Ngủ với vợ người khác, có chuyện!
Xã hội Mạ hiếm có chuyện ngoại tình. Theo luật tục (nđrih, đrin) truyền
miệng, có những cách xét xử khác nhau:
- Nếu chồng bắt quả tang vợ ngoại tình, có quyền giết chết người đàn ông
kia mà không mắc tội.
- Nếu vợ bắt quả tang chồng ngoại tình thì anh ta phải nộp cho bên vợ một
số lễ vật phạt vạ.
- Nếu chồng nghi ngờ vợ ngoại tình, có thể thách đấu lao với người tình của
vợ.
- Người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình phải nộp phạt cho chồng mình và
vợ người kia một số phạt vạ.
- Đàn bà ngoại tình với trai chưa vợ thì cả hai liên đới nộp cho người chồng:
1 con trâu, 1 bộ chiêng; nộp phạt vạ cho bòn: 1 con trâu hay 1 con dê, cúng con
đường ra rẫy 1 con vịt, con đường xuống suối lấy nước 1 con vịt, căn nhà xảy ra
chuyện ngoại tình 1 con heo hay 1 con dê, con đường đến nơi thờ thần linh 1 con dê
(phạt vạ rất nặng!).

40.8 Page 398

▲back to top


Người phụ nữ không sửa lỗi này sẽ bị đuổi khỏi bòn, ra đi hai bàn tay trắng
theo luật tục Mạ. Khi bòn xảy ra một vụ ngoại tình thì trong tuần bảy ngày có hai
lần cả bòn ngưng mọi hoạt động, cắm cành lá cấm người lạ vào.
III.3.9 Khi một phụ nữ Mạ sắp sinh, gia đình dọn dẹp một góc nhà cho nằm.
Một người đi rước bà mụ đến đỡ đẻ. Nay chị em Mạ ra trạm xá hoặc nhà hộ sinh để
bảo đảm cho sản phụ và hài nhi được an toàn hơn.
Nếu sinh khó, gia đình cúng kiếng cầu cho mẹ tròn con vuông. Đứa trẻ ra
đời khoảng một tuần thì mẹ bồng ra suối tắm cho bé với ước mong bé luôn luôn
mạnh khỏe, ít bệnh tật (nhưng thực tế dễ làm trẻ sơ sinh nhiễm bệnh).
Hồi xưa, sản phụ được uống một bài thuốc khiến sức khỏe hồi phục nhanh.
Các cụ già Mạ cho biết bài thuốc đó đã thất truyền. Sản phụ hầu như không kiêng
cữ gì trong ăn uống như các dân tộc khác. Chừng ngoài mười ngày, người mẹ đã địu
con lên rẫy; chắc chắn khó mà chịu đựng nắng lửa mưa dầu, khiến tỉ lệ trẻ em Mạ tử
vong cao là điều dễ hiểu.
Người Mạ rất quí con gái - nét tàn dư chế độ theo dòng mẹ - nhiều bậc cha
mẹ thường sống với cô gái út. Khi bé gái ra đời, gia đình ăn mừng: giết heo, gà, uống
rượu cần... Đồng la vang xóm làng như muốn cả bòn, cả đất trời chung vui với bé.
Hài nhi ra đời, gia đình làm một số lễ cúng:
- Lễ tạ ơn bà mụ đỡ đẻ và đặt tên cho bé được tổ chức sau một tuần.
- Lễ cầu mong tổ tiên và các yang luôn giúp bé khỏe mạnh được tổ chức sau
nửa tháng và một tháng (nhà nghèo chỉ làm một lần).
Lễ vật đơn giản: một con gà, một chai rượu, trầu cau...
III.3.10. Xưa kia việc tang ma của người Mạ do từng gia đình lo liệu với sự
giúp đỡ của cả bòn. Trong nhà có người qua đời thì thân nhân chia nhau đi làm một
số công việc: báo cho các chức sắc trong bòn, trong xã ; báo tin cho họ hàng và người
quen ở các bòn lân cận ; một số đàn ông vào rừng tìm cây để mổ hòm, khi chọn được
cây, phải cúng xin cây mới được chặt hạ... Hòm đưa về nhà qua cửa lớn (cửa chính
của nhà dài). Ba ngày sau, người quá cố được rửa ráy sạch sẽ rồi tẩm liệm đơn giản.
Xưa kia người chết được quàn hàng tháng nên đáy hòm có đục một số lỗ, phía dưới
có vò nhỏ hứng nước từ tử thi chảy ra (hàng ngày đem ra nghĩa địa đổ). Sau tang lễ
rút xuống một tuần, nay chỉ hai, ba ngày để bà con, họ hàng đến viếng tang (có ăn
uống, rượu chè). Tang ma kéo dài gây khó khăn cho các gia đình nghèo. Ngày nay
đám tang chỉ làm hai, ba ngày, cả ấp xúm lại giúp đỡ nên tổn phí giảm nhiều.
Hòm được khiêng ra đến nghĩa địa (một khu rừng âm u vắng vẻ xa bòn)
người ta dừng lại. Thày chang làm lễ cúng xin thần đất rồi đào huyệt. Chôn cất xong,
thày chang lại cúng nữa, mọi người mới ra về. Người chết được chia của theo phong

40.9 Page 399

▲back to top


tục; tang gia đem một số vật dụng: chén, dĩa, li, chai thủy tinh...(xưa kia có cả chiêng,
ché, rìu, ná...) đặt lên mộ, tất cả đều đập vỡ. Người Mạ cho rằng: con người không
phải con chó, sống chết phải bằng nhau (cho nên người chết được chia của). Các tài
sản không bỏ ở mả thì chia cho các thân nhân (con cái, anh chị em ruột).
Những người đưa đám phải tẩy uế, không được vào nhà ngay. Người ở nhà
đun sẵn nồi nước lớn, cắt tiết gà vào đó. Từng người đưa đám được thân chủ lấy lá
ngải nhúng vào nồi nước tiết gà vẩy vào, và cầu khẩn âm hồn không làm hại người
nhà, người quen.
Bòn có đám ma, người ta kiêng cữ không đi rẫy một tuần bảy ngày. Ngôi
nhà có người chết bị bỏ, họ hàng cất ngôi nhà mới ở địa điểm gần nhà cũ.
Nếu ai chết bất đắc kì tử: tai nạn, bom đạn, thú dữ, rắn độc... thì người nhà
khâm liệm rồi chôn gần đó chứ không khiêng xác về gia đình làm ma chay.
III.3.11. Trái với vẻ ngoài thầm lặng, người Mạ có đời sống tâm linh phong
phú. Họ tin vạn vật hữu thần (Yàng): núi, rừng, tảng đá lớn, cây cối, sông suối... mỗi
vật thể này đều do một Yàng cai quản. Yàng có thể ban ơn, mang lại các điều tốt
lành, song cũng có thể giáng tai họa, do đó cần cúng lễ hàng năm.
Nđuh là vị thần tạo hóa cao nhất, sinh ra muôn loài, muôn vật; nhưng vì cao
nhất nên người Mạ có thái độ kính nhi viễn chi. Kri krông ngự trị ở vùng đất của bòn
(tương tự thổ thần của người Việt và Hoa). Yàng bri cai quản rừng rú (như thần sơn
lâm của ta). Yàng kòi (thần lúa) là vị thần rất quan trọng và gần gũi mọi nhà. Người
Mạ còn cúng thần núi, thần suối, thần lửa... và nhiều Yàng khác.
Là cư dân nông nghiệp cổ truyền, mỗi năm họ có nhiều lễ cúng. Người Mạ
ở ấp Hiệp Nghĩa (thị trấn Định Quán) coi ngọn núi Đang Kar gần đó là nơi linh
thiêng có chư thần cư ngụ nên xưa kia thường cúng Yàng bơ nơm vào cuối năm âm
lịch. Hồi đó núi có nhiều cây cao bóng cả và tre nứa um tùm. Cả cộng đồng cư dân
Mạ trong ấp góp lễ vật, cử một già làng đọc lời khấn cầu phúc cho bòn. Người ta
làm lễ cúng thần rừng (yu xin bri) vào dịp Tết âm lịch tại nhà tôm bri - vị già làng
đại diện bảo vệ chủ quyền, đất đai nương rẫy và khu vực rừng thuộc phạm vi bòn -
Tôm bri cùng đàn ông trai tráng vào rừng thưa, chọn nơi làm rẫy mới (mì rì pơ). Họ
cúng thần rừng bằng gà, rượu, xôi, trầu thuốc...rồi mới chặt hạ cây to, cây nhỏ, phát
cỏ và lùm bụi, dây leo. Hai, ba tháng sau cây cỏ đã khô, họ cúng thần lửa (lở Yàng
ux) để thực vật cháy hết biến thành phân tro, đất thêm màu mỡ vụ tới. Bắt đầu mưa
vài trận, bà con làm lễ cúng hồn lúa (lở Yàng túyt kòi) tại rẫy trước khi chọc lỗ tỉa
hạt... Lúa vào đòng, bà con lễ tạ ơn lúa mẹ (yú tam nơn). Chủ nhà sửa soạn mâm đồ
cúng gồm: con gà luộc, rượu, chén cơm trầu cau, nhúm muối... và khấn:
Lở Yàng kòi, chèng ier đù nâm, lở Yàng kòi chắt tòm gòm ha tủ plây lay mùn
banh chât xô banh rô kòi banh glỏ banh xap anh đăn mà nu Yàng còn toong ti mà

40.10 Page 400

▲back to top


chao toong ti mà gâp banh anh glơ rạp bxạp rịp banh chà nế bich cú là rụ iar, nụ
xìn anh gu...
"Hỡi thần lúa (tôi) đem con gà cúng xin thần lúa (cho) tốt gốc, tốt lá, cho có
dòng không bị khô, đừng có họ xít, đừng làm (tôi) đừng cho (tôi) ăn lạt. Xin thần lúa
cho con cái (tôi) đừng (phải) chìa tay ăn xin người ta, cho vợ (tôi) đừng đói ăn cực
khổ, đừng nghèo không có quần áo".
Một lời khấn tương tự được ghi bằng chữ Mạ la tinh hóa:
Lơh Yàng kòi cèng iăr do nơm, lơh Yàng kòi nbẵn chơt nbẵn ro trù kòi, nbẵn
jê gloh tài, ằn dăn Yàng kòi tong ntê mơ cau mơ tong ntê mơ gâp bòn he dê, dăn
Yàng sền gar ẵn...
"Tôi cúng thần lúa có đem theo gà một con, cúng thần lúa kể từ nay không
còn chết rụi nữa, xin đừng cho đói, xin thần lúa đưa tay che chở cho người khốn
khổ, nâng đỡ người cùng buôn làng, xin thần lúa về giúp cho... Lúa chắc hạt, bà con
lễ cúng yú rmul tin chắc được ăn".
Lễ hội nông nghiệp lớn nhất là hội mùa (nor he) cúng thần lúa (lở Yàng kòi)
(tương tự lễ ăn nhang yang va của người Châu Ro). Lễ cúng thần lúa (lở Yàng kòi)
diễn ra trong bòn từ tháng hai âm lịch đến tháng ba xưa kia theo từng nhà dài, sau
này theo từng gia đình nhỏ.
Người ta lấy hai cây tre non cao từ 2 đến 3 mét chẻ nhỏ ngọn làm 6 bông xòe
ra, chính giữa cây tre cắm chùm gai mây tượng trưng cho bông lúa. Hai cây tre này
chôn trước nhà, ở mỗi bông xòe ra gài một chén cơm nhỏ. Trên cây tre, các nhánh
có trang trí những hình vuông lớn với hoa văn hình học. Người Mạ ở Tà Lài thì trang
trí cây tre bằng hình tượng con dê cách điệu hóa (bằng lạt tre) hoặc các hình vuông
tròn...rất sinh động. Các ché rượu cần được bày ở gốc cây tre. Vào buổi tối, tùy khả
năng mà gia chủ giết gà vịt, heo hoặc trâu để làm lễ cúng. Gia chủ tự cúng, không
mời thầy chang hoặc bà bóng như người Châu Ro.
Lời khấn vái có nhịp điệu, tiết tấu nhưng nội dung thật cụ thể và không có
tính van lơn như lời khấn vái của người Việt trong các lễ cúng lớn nhỏ.
Ông K' Linh ở Tà Lài đọc bài khấn như sau:
Ớ Yàng kòi anh lở kòi cành ghẻ âm nghèo khổ đa xang ghit anh ùi tơ ở ghể
ao xo ở ghể piêng xa ở ghể..Ớ Yàng kòi xìn anh âm rba rbập o vì mè vạp ở ghể con
đòi ớ Yàng xin anh đơ tàm yu tàm mà tùng mà quăng cành chnâm xin anh vì o vì vi
xo vi vụ anh gầm cho nhó xo xú anh cho gầm tôồng quăng đa xang ghịt anh ớ Yàng
đòong in.
Ớ Yàng kòi năm đô đoong kol anh le ghe kòi anh xa xunr xa ier xa đạ xa vê
anh xa mừng dự xnăm. Năm pơ mong Yàng kòi đoong kol anh lở kòi cành ghẻ tay vì

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


năm ieo. Ớ Yàng kòi banh lơ glỏ lơ xạp cành ghẻ kòi tiếp tục anh in. Ớ Yàng kòi xa
puêch xunr puêch đạ puêch vê xa anh in.
"Hỡi thần lúa, tôi làm lúa mong thoát khỏi nghèo khổ tội nghiệp, tôi chăn
không có, áo không có, không có cơm ăn. Xin thần lúa xem tôi sống nghèo khổ mồ
côi, cha mẹ anh em không có. Tôi xin thần coi tôi ăn nói, người ta tin nghe, coi tôi
như anh như em, thấy đầu (mặt) tôi họ cười vui vẻ, thấy mình tôi họ mừng, các quan
quyền thương hại tội nghiệp tôi, tôi cầu xin ông bà phù hộ tôi.
Xin thần lúa năm nay giúp đỡ tôi có lúa ăn thì tôi mừng ăn gà ăn vịt, ăn heo,
ăn dê cả năm. Mong năm mới thần lúa giúp tôi có nữa như năm rồi. Xin thần lúa
đừng làm tôi đói (xin thần) tiếp tục cho tôi lúa. Xin thần lúa ăn giùm thịt heo, gà vịt,
dê cho tôi".
Một lời khấn tương tự được ghi lại bằng chữ Mạ latinh hóa (hay Kơho):
Ơ Yàng kòi ẵn lơh kòi kỡn geh ơm sơ nê rơ bah, nđặc sơn git ẵn, phăn sù
phăn soh phăn sa ò geh mơ cau, ơ Yàng dăn Yàng dong ẵn ơm niăm mơ tùng mơ
kwăng kỡn nđặc sơn git ẵn.
Ơ Yàng kòi sơnăm do dăn dong ẵn geh kòi sa mơ cau, tua năm ẵn sa mơ
Yàng sa sur sa iăr, sa da, sa be, hở là sa chò hóp năm pa, năm pa ẵn lơh kòi kỡn
geh, ơ Yàng kòi mhẵn ai ẵn in sơ nê rơ bah tài, đi lah geh sa ẵn lơh Yàng ai sua, ai
da, ai be nàng sa mơ Yàng kòi...
"Hỡi thần lúa cho gia đình tôi làm lúa được mùa đời sống gia đình tôi bớt
khó khăn cực khổ, trước đây cơm ăn áo mặc không đủ như người ta xin thần lúa xót
thương tôi, xin thần lúa giúp tôi sống biết tôn trọng quan quyền thì quan quyền sẽ
thương lại tôi.
Hỡi thần lúa, xin ban cho tôi làm đủ ăn như mọi người, nếu thường đủ ăn thì
gia đình tôi sẽ ăn mừng heo, gà, vịt, dê... cho một năm bội thu, xin thần lúa giúp gia
đình tôi đừng khổ cực, nếu hàng năm trúng mùa gia đình tôi sẽ luôn luôn mang các
con vật trên cúng thần lúa".
Ông K' Rau thuộc nhóm Mạ Xrê (đọc chệch thành Xaray) có lời khấn:
Ngay đao anh yôr hay anh ghẻ đù it xưnr anh yah Yàng kòi xa goh bèng la
yê xá ló năm anh lỏ tay ghẻ beng glỏ loh mì rì ghẻ piêng xa anh xưnr Yàng kòi xa
viêp xưnr yô đar nâm xa piêng bar anh ay Yàng kòi ừn xa ti năm pơ anh lỏ tay xăm
ghẻ tàm tú lù nam tàm pay đó ai kòi ưn xa đap đê hay k'puôn ay năm iar băt đầu
tuych tiên hay kpoh anh yòi đù it đạ yay Yàng kòi ưn xa tí hay kmât anh hào kòi ghẻ
kòi rhiêng anh ai đu it xưnr yah Yàng kòi ay Yàng kòi ưn xa anh lỏ tay xam ghẻ nơng
ghẻ piêng xa.

41.2 Page 402

▲back to top


"Năm nay (tôi) uống mừng lúa (tôi) cúng heo cho thần lúa (mong bồ đựng
lúa ăn đừng hết, tới năm sau làm nữa (thì ) có nữa (mong thần lúa) đừng làm (tôi)
đói, (tôi làm rẫy) có cơm ăn (tôi) mời thần lúa ăn con heo, uống rượu, ăn cơm nếp,
tôi mừng thần lúa tôi ăn tới mùa mới, sang năm tôi làm lại có ba lần cho thần lúa
ăn, trước tháng tư cúng con gà, bắt đầu tháng bảy cúng thần con vịt, tháng mười tôi
cắt lúa trên một trăm giạ tôi cúng thần lúa con heo; năm nay thần lúa cho (tôi) ăn,
tôi làm nữa (để) lại có cơm ăn".
Ngày hôm sau, gia chủ đãi tiệc bà con và người quen. Nhà giàu đãi khách
hai, ba ngày liền. Nhà nghèo thì gọn một ngày. Số ché (xáng đôôc) rượu cần (rnòm)
ít nhất cũng vài ché trở lên, rượu cần được làm từ hàng tháng trước. Hết rượu cần
(rnòm), người ta uống thêm rượu đế (lăc). Trong lúc nhậu, người ta đánh cồng
chiêng, hát dân ca (yalyau). Bòn vang tiếng chiêng hàng tháng ròng. Phần lớn công
sức lao động cả năm tiêu phí vào dịp này.
Xưa kia người Mạ cũng có lễ đâm trâu như các tộc người Tây Nguyên vào
mùa cúng thần lúa. Cứ ba năm bòn lại làm lễ hiến sinh, có khi vài bòn gần nhau góp
làm chung. Nay lễ đâm trâu đã mất.
Khoảng ba năm dân trong bòn lại cùng nhau làm lễ cúng thần rừng (lở Yàng
bri). Mỗi nhà góp gạo, rượu, gà vịt... đem ra miễu lá đựng trên đường đi rừng làm lễ
cúng, mong Yàng bri cho bà con măng, dầu chai, mật ong... Tôm bri hoặc một già
làng có uy tín khấn vái. Cúng xong, người ta xúm nhau nấu nướng rồi cả bòn cùng
ăn uống vui vẻ trong tiếng cồng chiêng.
Đi săn được thú rừng, người ta cũng cúng Yàng bri. Săn được voi, cọp thì
cúng heo, săn được hươu, nai, min... cúng gà. Lỡ săn trượt người ta luộc trứng gà
cầu cho lần sau bắn trúng. Lời cúng Yàng bri mộc mạc:
Anh nay đao anh ghẻ đù it rà rủa anh yah Yàng bri anh ay đù it xưnr anh ay
Yàng bri ưn xa anh tày ghẻ beng glỏ mẻ anh yòi tay xam gơ inh ghẻ beng glỏ mẻ...
"Tôi nay đi săn (nếu) tôi giết con voi tôi kiếm con heo cho thần rừng ăn, tôi
kiếm con nữa để thần rừng đừng làm (tôi) xui, nếu thần rừng cho sớm, tôi kiếm (heo)
sớm cho quí vị ăn, không làm tôi bị xui..."
Trước kia người Mạ tin rằng ma quỉ (chà) gây ra bệnh tật, đòi cúng quải. Bà
bóng, thầy cúng (chau cha năng) đến nhà bệnh nhân lên đồng, chữa bệnh. Không
dùng thuốc, chỉ cúng kiếng rất tốn kém, kết cục hao tốn heo gà mà không khỏi bệnh,
thậm chí có khi tử vong, khiến tử suất ở người Mạ rất cao. Hai bệnh phổ biến: sốt
rét và lao từng hoành hành ở xứ Mạ, ngoài ra còn một tỉ lệ người cùi nào đó. Đến
nay, bà con đã thôi cúng chữa bệnh, biết đi trạm xá, bệnh viện khám mỗi khi đau
ốm.
III.3.12. Người Mạ có một số kiêng cữ:

41.3 Page 403

▲back to top


- Không đi gần các tảng đá lớn, sợ ma quỉ (chà) ám gây xui xẻo.
- Nhà có người bệnh (hoặc mới sinh đẻ) thường cắm cành lá tươi, cấm không
cho người lạ vào sợ họ mang theo bóng vía ma quỉ.
- Ra khỏi nhà mà chợt ớn lạnh hoặc sổ mũi, người ta quay về liền, sợ nếu
tiếp tục đi sẽ gặp điều không lành (thực ra có dấu hiệu chớm ốm đau thì quay về
chữa là rất hợp khoa học!).
- Kì đà, rắn mai gầm... vào nhà thì xui xẻo, không làm ăn được.
- Kiêng ăn thịt cọp vì cọp ăn người.
- Cữ thịt chó, chó chết trong nhà phải mang chôn và cúng gà vịt vì nó ăn
cơm gạo như người (bà con quí chó vì nó biết đi săn, quấn quít gắn bó với con
người). Chó chết ở rẫy, phải đền cho chủ rẫy; không dùng lúa ở rẫy đó làm giống
mà phải dùng giống mới.
- Không ăn đọt mây vì sợ cọp ăn trâu nhà mình...
Ngày nay đại bộ phận người Mạ ở Đồng Nai theo đạo Tin lành và Công giáo.
Tục lệ cổ truyền đã phôi pha nhiều.
Nền văn hóa dân gian Mạ đang mất mát khá nhiều vì lớp người già chết mà
lớp trẻ không kế thừa được. Các chuyện cổ, huyền thoại Mạ dần dần bị quên lãng.
Một số người già Mạ còn nhớ dân ca huyền thoại truyền thống yalyau, hát đối đáp
giao duyên trữ tình (tam pơt) và chỉ còn một vài già làng ở lứa tuổi bảy, tám mươi
còn nhớ luật tục truyền khẩu (nđrih, đrin). Các nhạc cụ: chiêng, đàn đinh đút không
còn được chơi phổ biến. Vào dịp lễ hội nông nghiệp (lở Yàng kòi), người ta chơi
chiêng và múa bắt chước nhịp điệu nào đó mà vẫn gọi là múa Mạ theo yêu cầu của
du lịch hoặc để quay phim, chụp ảnh tư liệu.
Số học sinh Mạ học cấp 3 còn quá ít và chưa có ai tốt nghiệp đại học.
Là một trong các cư dân bản địa ở Đồng Nai, tuy chỉ có số lượng ít song
đồng bào Mạ có một số đóng góp vào quá trình lịch sử phát triển của vùng đất này.
Ngày nay, bà con đang cố gắng cùng với các dân tộc anh em xây dựng cuộc sống
mới văn minh hạnh phúc.
IV. NGƯỜI STIÊNG:
IV.1. Phân bố dân cư:
Stiêng là tên gọi chính thức của một dân tộc ít người mà địa bàn cư trú chính
ở các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh (và cả ở Campuchia); ngoài ra họ còn phân bố ở
Lâm Đồng, Đồng Nai. Các sách báo từ trước đến nay gọi tộc người này bằng nhiều
tên khác nhau: Xađiêng, Tàmun, Dalmer (đọc: Đanme), Bà Tô, Bù Đip, Bù Lach,

41.4 Page 404

▲back to top


Ray, Bà Rá, Rong, Ah, Bù Le, Bù Lơ (người vùng cao), Bù Đek (người vùng thấp)...
Song Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam (2 - 3 - 1979) thống nhất gọi họ
là dân tộc Stiêng (còn viết là Xtiêng).
Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của Taberd (1838) ghi địa điểm thành
Xương tinh (âm Hán - Việt của Stiêng) nằm ven biên giới Nam Kì - Campuchia, đó
là thủ phủ của dân Stiêng. Tiếng nói của người Stiêng thuộc dòng Nam Á, nhóm
Môn - Khmer, có nhiều từ ngữ khá gần với tiếng Châu Ro, Mạ, Kơho... Người Stiêng
chưa có chữ viết, chỉ từ khi thực dân Pháp thống trị đất nước ta, một số học giả Pháp
mới phiên âm la tinh hóa tiếng Stiêng, thứ chữ này không phổ biến trong đồng bào.
Trong cộng đồng các dân tộc ở Đồng Nai, người Stiêng có 1185 nhân khẩu
(603 nữ) xếp thứ 12/40 dân tộc anh em. Bà con tập trung đông nhất ở xã Tà Lài
(huyện Tân Phú), 422 nhân khẩu. Xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) có 52 hộ với
275 nhân khẩu là nơi có đông người Stiêng. Các xã khác, huyện khác cũng có bà con
sinh sống song ở phân tán hơn, xen kẽ với các dân tộc anh em.
Người Stiêng ở Bù Chrap (xã Tà Lài) là nhóm dân bản địa suốt hai thời kì
kháng chiến một lòng đi theo cách mạng; khi địch càn quét gom dân thì họ vào rừng
chứ không chịu vào ấp chiến lược. Ngay từ năm 1861 khi thực dân Pháp mới đánh
chiếm tỉnh Biên Hòa lần đầu, người Stiêng đã kề vai sát cánh cùng người Việt, người
Mạ, người Châu Ro... đứng lên chống xâm lược khiến địch nhiều phen hoang mang
lo lắng, chịu nhiều tổn thất. Bà con Stiêng ở Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) và một
số nơi khác ở Đồng Nai vốn quê ở biên giới Bình Phước - Campuchia mới bị địch
gom đưa về đầu thập niên 70, nhất là trong đợt tiến công chiến lược xuân 1972 (chiến
dịch Nguyễn Huệ) của quân giải phóng ở khu Đông Nam bộ.
IV.2. Phương thức sản xuất:
IV.2.1. Trồng trọt:
Xưa kia, tương tự các tộc ít người khác ở miền Đông Nam bộ, người Stiêng
làm nương rẫy du canh. Họ ăn nước trời, ăn rừng, đến mùa làm nương rẫy, bà con
dựng chòi tại đây để đỡ mất công đi lại, tiện chăm sóc lúa và hoa màu, xa nhà suốt
vụ trồng tỉa.
Rẫy gọi là miar, mir; rẫy mới là miar mây, rẫy cũ là miar puh. Đi chọn đất
làm rẫy là ông tộc trưởng tom yau (đứng đầu căn nhà dài gồm nhiều gia đình nhỏ)
và một số người lớn tuổi. Họ chọn bãi đất tương đối rộng, bằng phẳng, chất đất có
màu đen (nhiều mùn hữu cơ), có lồ ô mọc thì đó là đất tốt. Nếu đang phát hoặc đã
phát xong rẫy mà có con cù lần hoặc con trăn tới thì người ta bỏ ngay vì sợ xui: mùa
thất, bệnh tật ốm đau...

41.5 Page 405

▲back to top


Tháng giêng, tháng hai âm lịch bà con bắt tay chặt hạ cây cối, phát sạch lùm
bụi và cỏ. Lúc đó bà con cúng làm đất rẫy với lời cầu khấn mộc mạc:
"Yang bri yang te nar ơi hây uynh mi lơ miar lơ klanh xac ê lơ par tanh ê lơ
tach yâng tach tây ghe lơ miar lơ bar ôi muôi coi an kmay đac xe pai iar an kmay
xa..."
"Hỡi thần rừng, thần đất, hôm nay tôi xin đất làm rẫy được tốt, xin các vị
đừng làm (tôi) bệnh, làm đứt chân đứt tay; (tôi) làm rẫy làm lúa mai mốt cho ông
bà có rượu, thịt gà ăn...”
Khoảng một, hai tháng sau cây cối bị chặt hạ khô đi. Khoảng từ giữa tháng
ba âm lịch, nhà nhà đốt rẫy. Khói bốc nghi ngút từng đám, thành cột lên bầu trời
quang quẻ cuối mùa khô.
Tháng tư âm lịch, khi trời bắt đầu mưa lác đác một số trận, nhắm có thể trồng
tỉa được, bà con cúng rẫy trước khi trồng tỉa. Lễ vật là gà, rượu, trầu cau, bánh nếp...
Chủ nhà khấn khứa ngắn:
"Yang boh yang bar nar ơu hay kzưr til xăm huon măt tac ria ê an rô rưt
tx'ưt um xăm huon râng ban khay ban xnăm..."
"Thưa các thần muối thần lúa, hôm nay tôi xuống giống (xin chư thần) cho
mọc rễ, đừng làm khô, chết thối, lên nhanh để kịp tháng kịp năm..."
Sau lễ cúng, bà con bắt đầu tỉa hạt. Một người đàn ông hai tay cầm hai gậy
vót nhọn (hoặc bịt sắt ở đầu nhọn) vừa đi vừa chọc lỗ theo khoảng cách 0,5 mét;
theo sau có hai phụ nữ lưng đeo gùi hạt giống, vừa bỏ hạt vừa lấy chân gạt đất phủ
kín hạt (để chim khỏi ăn). Các động tác này lặp đi lặp lại. Bà con vần đổi công tỉa
hạt và làm rẫy có tính tương trợ nguyên thủy: những người cùng dòng họ làm giúp
nhau thì không đòi hỏi có rượu trong bữa ăn. Khi cả sóc (bòn) cùng làm cho một hộ
trong một ngày thì chủ nhà đãi cơm, rượu số người tham gia. Các hộ khá giả mời
đông người làm vào lúc thời vụ gấp gáp liền vài ba ngày thì ngày nào cũng đãi cơm,
rượu.
Nương rẫy của người Stiêng ngoài lúa là cây lương thực chính, thường trồng
xen: bắp, bầu bí, mướp, dưa leo, dưa gang, mè, thuốc lá, bông... Những cây này
thường trồng sát gò mối là nơi đất tốt hơn, cho thu hoạch khá.
Ở một số vạt đất ven suối, họ cũng làm ruộng lúa nước (xrê, xarai) với lối
canh tác thô sơ: dùng cuốc lật đất và băm nhỏ đất, chưa dùng phân bón ruộng.
Từ thập niên 80, thực hiện chủ trương định canh định cư, Nhà nước đầu tư
dựng nhà cửa ở Tà Lài (Tân Phú), khai phá ruộng cho bà con Stiêng làm, hướng dẫn
kỹ thuật trồng trọt tỉ mỉ. Đến nay, đồng bào đã biết làm ruộng, thu nhập có khá hơn.

41.6 Page 406

▲back to top


Nhưng từ trong tiềm thức, người Stiêng chưa thoát khỏi phương thức sản
xuất nông nghiệp cổ truyền ăn rừng, ăn nước trời, tự cấp tự túc. Để tiến tới sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, chúng ta còn phải kiên trì vận động bà con thực hiện các biện
pháp kỹ thuật trồng trọt mới mong từng bước cải thiện đời sống đồng bào.
Người Stiêng trước kia thường trồng: lúa rẫy sớm (pa con tr'ây), lúa trễ (pa
xđôc), pa xà ông... là các loại lúa tẻ; lúa nếp có: nếp than (pa p'nhênh xơ uych, pa
p'nhênh)...
Công cụ lao động và dụng cụ gia đình thường dùng là:
- Rìu (xung) để chặt hạ cây lớn; chà gạt (via) phát bụi cây hoặc cỏ cao; rựa
(queo) cùng công dụng như chà gạt.
- Cuốc nhỏ (côr) và cuốc lớn (cuôc) để xới và lật đất; cày (ngal khmu)
bừa (rue); cào cỏ (krngoai) làm cỏ lúa; liềm (kniêu) cắt lúa; chày (rnay) và cối (pal)
dùng giã gạo, gùi (rnaanh) để mang lúa, bắp, hoa màu, củi...
IV.2.2. Chăn nuôi, săn bắn, đánh cá:
Mỗi gia đình Stiêng thường chăn nuôi một ít gà vịt, heo; gia đình khá giả thì
nuôi trâu. Chăn nuôi là sản xuất phụ, chưa có đầu tư gì về khoa học kỹ thuật, trước
đây chủ yếu dùng vào các lễ cúng khi vào mùa trồng tỉa, cúng chữa bệnh, đám cưới,
đám ma, mừng được mùa... chứ chưa có sản phẩm hàng hóa. Đến nay, tình hình đã
biến đổi, ở ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) có gia đình nhờ chăn nuôi heo đã
có thể xây nhà gạch chắc chắn.
Ngoài thời giờ làm nương rẫy, đàn ông Stiêng còn tranh thủ săn bắn thú rừng:
voọc, cheo, mển, nai, heo rừng... xưa kia còn săn bắn các thú lớn: voi, cọp, gấu...
Công cụ săn bắn là ná và tên độc. Cánh ná lớn dài bằng chiều cao thân người, khoảng
1,6 mét. Tên độc dài nửa mét, vót bằng lồ ô phơi khô, đầu nhọn hơ lửa cho cứng,
đuôi tên gắn mảnh lá buông nhỏ tam giác, thân tên có cạnh để phăng gió. Nay mũi
tên gắn đầu đạn chì nhỏ làm tăng sức mạnh cắm vào con mồi. Người ta lấy rễ cây
dơ ué hoặc mủ cây xeo ngâm với dây leo xa cách dơ, dây la roi la poong bảy ngày
đêm, sau đó nấu cô đặc rồi đổ vào ống tre. Mũi tên nhúng vào hợp chất này trước
khi đi săn. Nếu người bị trúng tên độc thì có hai cách giải độc: ăn bí đao hoặc uống
nước cua giã sống. Cần giải độc càng sớm càng tốt vì để lâu chất độc ngấm vào máu
thì khó chữa.
Vào mùa khô, bà con thường bắt cá dưới suối bằng cách lấy rễ cây tầm đàng
hoặc trái buông giã nát rồi thả xuống khúc suối. Cá trúng độc nổi lên, người ta lấy
rổ vớt. Cách đánh cá bằng cây độc làm chết cá nhỏ trước tiên, do đó nguồn lợi này
nhanh cạn kiệt.
IV.2.3. Nghề thủ công:

41.7 Page 407

▲back to top


Gia đình nào cũng tự đan các loại gùi lớn, nhỏ khác nhau dùng vào việc vận
chuyển: lúa, hoa màu, rau, củi... Nghề dệt vải, chăn... xưa kia tương đối phổ biến ở
phụ nữ Stiêng, song hầu như biến mất từ lâu. Người Stiêng cũng có tiếng về nghề
rèn, nay nghề này đã mai một.
IV.3. Cấu trúc gia đình, xã hội và phong tục tập quán:
IV.3.1. Cấu trúc xã hội Stiêng:
Người Stiêng gọi làng là sóc, bòn, . Mỗi sóc, bòn, bù xưa kia có vài dãy
nhà dài hoặc vài chục ngôi nhà nhỏ. Do phương thức sản xuất du canh du cư nên vị
trí sóc, bòn, bù không cố định.Tới nay, tình hình trên đã thay đổi hoàn toàn do Nhà
nước tiến hành định canh định cư, chấm dứt tình trạng đốt phá rừng làm rẫy bừa bãi.
Mỗi nhà dài có một tộc trưởng (tom yau) ít quyền hành: tiếp khách, cúng lễ
thần linh. Từ thời thuộc Pháp, công việc hành chánh do chủ làng gọi là ông cả, ông
sếp đảm nhận; bây giờ ủy ban xã đảm đương giải quyết các mối bất hòa nội bộ, xét
xử các vụ trộm cắp... Các cụ già thường được hỏi ý kiến vì các cụ am hiểu, nhiều
kinh nghiệm sống. Tuy chưa phân hóa giai cấp rõ nhưng xã hội Stiêng trước kia có
thể chia làm ba hạng:
- Các nhà khá giả có nhiều chiêng, ché, ghè rượu (xrung), trâu bò...
- Phần đông là các hộ bình thường.
- Đik (hay đek) là tôi đòi, người ở; đó là tù binh hoặc người mắc nợ không
trả nổi phải đi ở. Nay loại đik không còn.
Cũng như các dân tộc ít người khác, người Stiêng có tinh thần đoàn kết tương
trợ cao. Một gia đình có công việc gì, cộng đồng sẵn sàng tham gia giúp đỡ giải
quyết. Mổ thịt con trâu, chủ nhà đem chia cho bà con dòng họ và chòm xóm cùng
sóc. Khách tới sóc được tiếp đãi niềm nở, được lo chỗ ăn chỗ nghỉ chu đáo.
Nửa cuối thế kỉ 19, thực dân Pháp đánh chiếm miền Đông Nam bộ, người
Stiêng tỏ rõ tinh thần bất khuất chống xâm lược liên tục. Một số tên thực dân bị giết
ở vùng này vào nhiều thời điểm khác nhau khiến sách báo cũ đánh giá: người Stiêng
nóng nảy, hiếu chiến...
IV.3.2. Cấu trúc gia đình:
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chế độ theo dòng mẹ của người Stiêng
ở tỉnh Biên Hòa cũ (nay là Đồng Nai) dần dần bị chế độ theo dòng cha thay thế. Suốt
hai thời kỳ kháng chiến, bà con Stiêng ở Bù Chrap, Tà Lài đi theo cách mạng thì quá
trình này càng được đẩy nhanh, hiện nay chỉ còn một số tàn dư trong cuộc sống.
Xưa kia bà con ở nhà dài, mỗi sóc có vài căn nhà dài. Nhưng suốt ba mươi
năm chiến tranh ác liệt, phải di chuyển, tránh né địch nhiều lần nên nhà sàn dài biến

41.8 Page 408

▲back to top


mất. Từ đầu những năm 80, thực hiện chính sách định canh định cư, Nhà nước làm
nhà cho bà con, mỗi gia đình một căn nhà. Nay chỉ những cụ già ở lứa tuổi bảy, tám
mươi còn hình dung được căn nhà sàn dài truyền thống của dân tộc mình.
Cho đến năm 1983 ở ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) vẫn còn dăm
căn nhà sàn dài của nhóm đồng bào Stiêng từ Bình Phước về cư trú. Mỗi căn dài
khoảng hai, ba chục mét với cột gỗ, mái tranh, sàn và vách bằng tre nứa đan thành
liếp. Sàn nhà cao khoảng 0,8 mét đến 1,5 mét, đầu nhà có thang gỗ ba, bốn bậc không
tay vịn để lên xuống. Căn nhà không trổ cửa sổ nên dù bên ngoài nắng lóa mắt mà
trong nhà vẫn tối mờ mờ. Mỗi căn nhà chia làm một số khoang, mỗi khoang một gia
đình nhỏ cư ngụ có chiếc bếp nhỏ đắp đất lên sàn nhà (để chống cháy). Khoang nọ
cách khoang kia một bức liếp nứa nhỏ. Ngoài chiếc bếp, khoảng trống trên sàn nhà
trải chiếu lùng, đó là nơi ngồi chơi, ăn uống, ngủ nghỉ của cả gia đình. Những căn
nhà trệt khác trong ấp có sạp tre dài cỡ hai chiếc giường (làm chỗ ngồi chơi và ngủ)
là nét bảo lưu của sàn nhà dài truyền thống.
Xưa kia, khi chế độ theo dòng mẹ còn thịnh hành, người ta cất chòi lúa cạnh
nhà dài; một người phụ nữ lớn tuổi coi sóc và phân phát lúa gạo cho mỗi gia đình
nhỏ, thành viên của dòng họ. Bà con tin rằng nếu cất thóc lúa trong nhà ở thì bị xui,
ông bà tổ tiên quở phạt. Nay mỗi gia đình nhỏ thu hoạch không bao nhiêu, sau khi
phơi khô quạt sạch, bà con đóng bao và cất thóc lúa ở một góc nhà.
Đến nay (1997), cả ở Tà Lài và ấp 4 Xuân Hưng không còn căn nhà dài nào.
Bây giờ người cha trong gia đình quyết định mọi việc sau khi bàn bạc với người mẹ.
Con cái theo họ cha, chàng trai cưới vợ về nhà mình...
Thuật ngữ quan hệ thân tộc của người Stiêng (ở Xuân Hưng và Tà Lài)
- cụ: rung
- cụ ông: iau rung
- ông: iau
- cụ bà: iai rung
- ông nội: iau klau
- ông ngoại: iau ur
- bà: iau
- bà nội: iau klau
- dượng: đeh
- cậu: côinh (Stiêng ở Xuân Hưng)
- mợ: uay, uôi (Stiêng ở Xuân Hưng)
- ego
- anh: em, iêm
- anh trai: em klau
- em: oh
- em trai: oh đơ klau

41.9 Page 409

▲back to top


- bà ngoại: iau ur
- em gái: oh đơ ur
- cha: mom
- em trai vợ: oh klau xai ur
- cha chồng: mom pâu
- em gái vợ: oh xai ur
- cha vợ: mom ur
- chị: em
- mẹ: mây
- chị gái: em ur
- mẹ chồng: mâypâu
- con: con
- mẹ vợ: mây ur
- con trai: con klau
- bác: ma đeh
- con gái: con đơ ur
- bác gái: tih, mây cuống
- cháu: mon
- chú, cậu: ma
- cháu trai: mon klau
- cô, dì: têh, ming
- cháu gái: mon đơ ur
IV.3.3. Cưới xin:
Trai gái lớn lên được tự do tìm hiểu nhau trong các buổi lao động hay tiếp
xúc trong các cuộc gặp gỡ sinh hoạt của cộng đồng. Người con gái Stiêng biểu lộ
tình cảm của mình qua các bài hát đối đáp giao duyên, nếu muốn khước từ, cô trả
lời ngụ ý đã có chồng. Chàng trai say mê cô gái nào phải tốn công khéo léo hỏi
những người sống gần để xem điều đó có đúng không. Nếu cô gái chưa hứa hẹn cùng
ai, anh chàng tìm dịp mời cô uống rượu chung rồi mượn ống điếu cô đang hút để
mình hút tiếp. Lúc trả lại, thấy cô không nhồi thuốc mới thì có thể yên tâm. (Nếu cô
phì bã thuốc rồi nhồi thuốc mới thì hết hi vọng). Chàng trai tiếp tục gây cảm tình
bằng cách tặng cô nắm thuốc hút. Rồi chàng trai Stiêng rủ cô ra khỏi nhà để trò
chuyện tâm tình. Khi sắp cúng nhang lúa, dân làng vào rừng kiếm măng, cá, thịt thú
rừng... thì anh theo cô, giúp cô tìm kiếm thức ăn và tiếp tục trò chuyện tâm sự. Khi
cô gái hoàn toàn đồng ý, hai người dắt nhau ra chòi ở rẫy - không xa nhà bao nhiêu
- chung sống. Người Stiêng không có quan niệm khe khắt về trinh tiết như người
Việt.
Mỗi lần gặp gỡ anh lại tặng cô một món kỷ niệm: chuỗi cườm, vòng, nhẫn
(bằng đồng). Trong thời gian quen biết, lỡ cô gái mang bầu và chàng trai chỉ chơi
bời thôi, khi bị sóc tra hỏi, cô gái khai ra, anh chàng bị phạt ché, tô... Nếu cô gái đã

41.10 Page 410

▲back to top


có người ăn hỏi mà còn lang chạ, bị bắt quả tang thì gia đình anh kia bị phạt trâu,
ché, tô... nặng hơn.
Khi cô gái đồng ý làm vợ, chàng trai báo với cha mẹ, nhờ ông mai - người
lớn tuổi trong họ hoặc người có uy tín khác - đem rượu, gà vịt và con heo nhỏ đến
nhà cô gái. Nếu đằng gái bằng lòng (mà thường thường là bằng lòng), hai bên bàn
bạc thỏa thuận về sính lễ và ngày cưới. Đây là buổi dạm hỏi (bê đop bê beng: bỏ
hàng rào thưa), nhà trai mang qua: 1 lít rượu, 1 chuỗi hạt cườm, 1 bộ quần áo, 1áo,
1 chăn.
Đám nói thật sự (bêr nôp, pai hăn ôp: rượu đi hỏi, thịt đi hỏi) thì nhà trai
mang qua nhà gái: con heo 50 kg, 20 lít rượu, tô chén dĩa (10 chiếc mỗi thứ), 2 mâm
nhôm, 1 ché rượu, 7 vòng đồng, 1 hộp trầu cau bằng đồng, rìu, dao, chà gạt...
Sính lễ cũ ở vùng Bình Phước khá nặng:
- 1 đik (nô lệ)
- 1 xrung ( ché cổ)
- 1 thanh đao
- 1 con dao tốt
- 1 djiri (vò cổ)
- 1 chiêng
- 7 cái tĩn đựng nước.
- 1 niêng (váy dài 2 mét)
- 1 tô đồng, 10 tô lớn, 20 tô nhỏ
- 1 vòng đồng, 1 cuộn chỉ
- 2 chuỗi cườm
- 1 con trâu đãi tiệc cả làng
- 3 con heo (1 cúng thần rừng, 1 cúng thần đất, 1 cho hai năk mha (người làm
chứng) Ngày nay sính lễ được qui ra tiền; nếu đằng trai nghèo không nộp đủ sính lễ
thì phải ở và làm cho nhà vợ để trừ nợ.
Ngày làm bêr nôp, pai hăn ôp mỗi bên chọn một người làm chứng (năk mha)
thạo cầu khấn. Đôi trai gái đứng trước bàn thờ đằng gái cùng hai họ nghe các người
làm chứng đọc lời khấn khứa thần linh và tổ tiên ông bà về chứng kiến, ban sự may
mắn hạnh phúc cho cặp vợ chồng trẻ. Cúng xong, ông năk mha đằng trai buộc chỉ
cổ tay cô dâu; ông năk mha đằng gái buộc chỉ cổ tay chàng rể. Sợi chỉ buộc cổ tay
có giá trị thiêng liêng như nhẫn cưới đôi tân hôn theo đạo Công giáo. Đôi vợ chồng

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


trẻ được họ hàng và người dự mừng tiền làm vốn, bắt đầu tạo dựng cơ nghiệp mới.
Lễ cưới kéo dài khoảng một tiếng thì xong. Khách khứa vui vẻ ăn uống, ca hát, đánh
chiêng, nhảy múa suốt ngày đêm.
Sau này khi có điều kiện, đôi vợ chồng (có thể đã có con cháu đầy đàn) tổ
chức đám cưới lại (bê rung pai rung) (rượu giống, thịt giống) đãi nhà gái trâu, heo.
Đến đây mới kết thúc một đám cưới Stiêng đúng theo phong tục đích thực.
Tục lệ Stiêng cho phép con cô, con cậu ruột có thể lấy nhau. Thời thuộc
Pháp, một số nhà giàu Stiêng lấy hai, ba vợ. Muốn có vợ nhỏ, người chồng phải
được sự thỏa thuận của vợ cả. Nếu vợ cả không tán thành, người chồng có thể li dị
và đòi lại sính lễ. Li dị nhau mà người đàn bà đi lấy chồng khác thì phải trả đủ tổn
phí cho chồng cũ.
Ngày nay đàn ông làm chủ gia đình song người phụ nữ vẫn được tôn trọng;
thường thì người chồng hỏi ý kiến mẹ và vợ trước khi quyết định một việc gì quan
trọng trong nhà.
Ở đồng bào Stiêng, tục lệ cưới chị em vợ (sororat) hoặc anh em chồng
(levirat) đã mờ nhạt. Vợ chết, người chồng có thể lấy em gái vợ song không được
lấy chị vợ; chồng chết, người vợ có thể lấy em trai chồng chứ không được lấy anh
chồng. Làm không đúng sẽ bị phạt vạ nặng. Luật tục Stiêng có một số ngoại lệ:
chồng chết, vợ được đi lấy chồng khác; nếu chồng còn sống nhưng chưa nộp đủ sính
lễ thì tiếp tục ở nhà vợ làm trừ nợ cho đủ, nếu hai vợ chồng cưới nhau lâu mà chưa
có con thì chồng được lấy vợ khác...
Việc trừng phạt tội ngoại tình có sự phân biệt đối xử. Người đàn bà Stiêng
mắc lỗi:
- Ngoại tình với người đàn ông quen trong rừng thì chị và anh ta bị phạt vạ
1 con heo, 1 ghè rượu.
- Ngoại tình với người lạ thì mức phạt vạ gấp đôi.
- Ngoại tình ngay trong nhà thì người đàn ông phải trả cho người chồng 1
con trâu, 1 con heo lớn và 1 ché rượu nộp cho làng. Người vợ bị đánh đòn để răn đe.
Nếu tái phạm, chị ta sẽ bị li dị và gia đình hoặc người tình phải bồi hoàn sính lễ đám
cưới trước đây. Nếu người tình không trả đủ thì phải làm tôi tớ (đik) trừ nợ.
- Người chồng đi ngoại tình chỉ bị phạt nhẹ một con gà.
IV.3.4. Sinh đẻ:
Xưa kia, khi vợ sắp đến ngày sinh, người chồng cất một chòi tranh cho vợ ra
ở đó. Sản phụ chuyển bụng thì chồng hoặc người nhà đi rước bà mụ về đỡ đẻ. Người
ta vào rừng tìm một số lá rừng, rễ cây rừng (theo bài thuốc dân gian truyền miệng)

42.2 Page 412

▲back to top


đem về nấu tắm cho sản phụ và hài nhi. Vài ngày sau, người mẹ có thể bồng đứa bé
ra suối tắm theo phong tục cổ truyền.
Từ lúc đứa bé sinh ra, gia đình cắm cành lá cấm không cho người lạ vào nhà,
vào chòi vì kiêng cữ ma quỉ theo người tới thăm sẽ gây bệnh cho sản phụ, hài nhi.
Sau một tuần bảy ngày, người chồng đưa vợ con về nhà, làm lễ cúng: mừng đứa trẻ
ra đời thấy ánh mặt trời, thấy cha mẹ, mong cho bé luôn luôn khỏe mạnh chóng lớn.
Lễ vật là con gà, chai rượu, trầu cau, bánh nếp... Đồng thời chủ nhà trả công bà mụ
tùy khả năng của gia đình.
Nếu đứa con đầu lòng sinh ra chẳng may chết non thì gia đình kiêng ăn thịt
mển và chim cu một thời gian dài dăm, bảy tháng.
Sau mười ngày nằm cữ, sản phụ có thể đi làm. Ngày nay phụ nữ Stiêng sinh
đẻ ở trạm xá xã (hoặc nhà hộ sinh), được hướng dẫn chăm sóc đúng vệ sinh và chỉ
đi làm khi sức khỏe phục hồi hoàn toàn. Việc tắm suối cho đứa bé đã bỏ vì dễ làm
bé bị bệnh dẫn đến tử vong.
IV.3.5. Ma chay:
Khi trong gia đình người Stiêng có ai qua đời, người nhà một mặt báo tang,
mặt khác giết gà (nhà khá giả giết heo) mời bà con trong sóc và họ hàng gần xa về
dự lễ tang.
Một số người khỏe mạnh mang theo con gà, lít rượu và trầu cau vào rừng
chọn cây dầu chai hoặc gõ đỏ có đường kính đủ lớn, sau khi cúng xong thì hạ cây,
cắt hai khúc (mỗi khúc dài gần 3 mét), dùng rìu mổ khúc cây rỗng như chiếc thuyền
độc mộc để làm cỗ hàng (quan tài).
Thi hài được chùi rửa sạch sẽ, liệm vải trắng rồi đặt vào hòm. Trước đây,
hòm để trong nhà tám ngày (nay chỉ hai, ba ngày) để họ hàng và người quen đến
khóc lóc chia buồn nhờ người chết chuyển lời của họ đến các người thân đã qua đời.
Một số gia đình có thể không đến dự vì kiêng kị do khác bộ tộc, khác yang, hoặc
trước kia bị bắt làm tôi tớ (đik) tuy đã hòa nhập với cộng đồng mới song vẫn giữ tín
ngưỡng cũ, yang cũ của bộ tộc mình.
Trước khi đưa đám, gia chủ làm mâm cơm cúng rồi khiêng hòm đi. Họ mang
theo con gà, chai rượu ra tới nghĩa địa làm lễ cúng thần đất xin chỗ chôn cất rồi mới
đào huyệt.
Chôn cất xong, tùy gia cảnh mà tang chủ cúng mả bằng heo hay trâu. Mả đắp
cao, người Stiêng cũng có tục chia của cho người chết, một số vật dụng: tên ná, gùi,
chà gạt, rựa, tĩn... đặt bên mả.
Đắp điếm xong, những người đưa đám ù té chạy về nhà vì sợ ma quỉ ám.
Một người lấy lông gà bôi vào cục đá, miếng sắt rồi quẹt vào chén tiết gà, thoa lên

42.3 Page 413

▲back to top


tay chân người đưa đám như muốn xóa sạch mọi dính líu với người quá cố. Sau đó
mọi người mới được vào nhà.
Cả sóc không đi làm một tuần bảy ngày, không đến nhà có người chết. Căn
nhà có người chết được dời đi ít nhất 1 mét - vì là nhà tranh cột cây nên việc dời n
cũng dễ - Chồng chết, vợ cắt tóc ngắn; vợ chết, chồng cạo trọc hàm ý để tang.
Ba ngày sau, gia đình người quá cố cúng mở cửa mả là lễ cúng cuối cùng (do
chịu ảnh hưởng phong tục một số dân tộc anh em). Người Stiêng không cúng giỗ
hàng năm. Chỉ khi nào gia đình có người đau ốm, đi coi bói, thấy nói do ông bà gây
ra bệnh thì mới cúng và sửa sang đắp lại mộ.
IV.3.6. Tín ngưỡng:
Người Stiêng tin rằng vạn vật hữu thần và ông bà tổ tiên có thể giúp người
ta gặp hên làm ăn may mắn hoặc tránh bị xui xẻo làm ăn thất bát, bệnh tật.
Mỗi sóc có một miếu nhỏ thờ neak tà đó là ngẫu tượng nhỏ bằng gỗ, đá -
Miếu đặt ở một gốc cây lớn tại ngã ba, ngã tư của sóc mà dân thường qua lại. Theo
một số nhà nghiên cứu thì neak tà là vị thần Khmer mà người Stiêng vay mượn trong
quá trình giao lưu. Trong cuốn sách Người Việt gốc Miên (1969), Lê Hương ghi một
số neak tà như neak tà tức: thủy thần, neak tà phnom: thần núi, neak tà prey: thần
rừng, neak tà xre: thần ruộng, neak tà prek: thần sông, neak tà đam pô: thần cây đa,
neak tà popue tuk: thần bọt nước, neak tà krapum chuuk: thần gương sen... Người
Stiêng thờ thần mặt trời, thần sấm sét cai quản đất đai, thần mặt trăng coi sóc việc
gặt hái và cây cối... ngoài ra cũng tin rằng có một số ác thần và ma quỉ. Lỡ chặt củi
cạnh gò mối hoặc ngồi dưới gốc cây cao to mà về nhà sau đó bị bệnh thì người ta
san phẳng gò mối, chặt hạ cây đó.
Sóc thường có bà bóng (mây gruh) coi bói. Nếu gia đình có chuyện bất
thường thì đi coi bói; bà bóng phán thần, ma qủi hoặc ông bà quở phạt thì bà chủ
mời bà bóng tới cúng. Mây gruh nhảy nhót theo nhịp chiêng, hoa tay muá chân theo
nhịp đồng thời hát lời cầu khấn.
Khi sóc có nhiều người đau ốm, người ta góp rượu thịt, gạo tổ chức chung
tại miếu thờ neak tà. Cúng xong, mọi người ăn uống rồi giải tán. Lễ cúng neak tà
không theo hạn định nào.
Là cư dân nông nghiệp cổ truyền, người Stiêng có một số lễ cúng nông
nghiệp hàng năm:
- Đầu năm âm lịch, họ tổ chức cúng veha cầu cho cộng đồng được bình an,
mùa màng tươi tốt. Mọi nhà góp lễ vật rồi cùng ăn uống. Một số nhà nghiên cứu cho
rằng lễ cúng veha chịu ảnh hưởng của người Khmer. Lễ này tương tự lễ kì yên của

42.4 Page 414

▲back to top


người Việt (chỉ khác là lễ kì yên ở Đồng Nai thường tổ chức vào tháng mười một
âm lịch).
- Bắt đầu phát nương rẫy,người ta làm lễ cúng thần đất.
- Khi chọc lỗ tỉa lúa, người ta làm lễ cúng thần lúa.
- Tháng tám âm lịch trổ đòng, mọi nhà đều cúng xin mùa màng tốt tươi, chắc
ăn. Khi lúa chín, người ta cúng cơm mới.
- Người Stiêng tin mỗi con suối, mỗi khúc sông đều có thần cai quản nên khi
đánh được mẻ lưới đầu tiên, sẽ làm lễ cúng pha bào (hình thức trả lễ thần sông suối).
- Từ tháng chạp âm lịch trở đi, sau khi xong lúa và lúa đã ở trong kho, người
Stiêng làm lễ cúng thần lúa (khuôl bra bar) tương tự lễ ăn nhang lúa của người Châu
Ro. Tùy gia đình, người ta mổ gà, mổ heo hoặc trâu ăn uống, hát hò vui vẻ ít nhất
một ngày. Đây là lễ hội nông nghiệp lớn nhất của đồng bào Stiêng. Cách đây dăm
chục năm, người ta tổ chức đâm trâu như các dân tộc Tây Nguyên, nay hầu như
không còn.
Bài khấn lễ cúng khuôl bra bar ở Xuân Hưng như sau:
- Bra te bra tung bra brang, khuôl bra miar ban bar khuôl bra bar cơt chăp
cơm nơt ban ban boh ra pa riêng piêng đâm piêng rơ klâu đi xru pooc goong đi
goong pooc đic pooc đic rloong pooc goong rlêc kêch ba riêng câp xnăm pan piêng
cơt kra pan ba cơt co boh pan boh cơt tmau lơ pcau pan cơt pur tul chim xơr cơt
đang hoic pan khuưn tât kche rme tât kranh lanh kêi tât luych tât pul đuk mây kla
kla mây klu khuôl tu đac nhu tuar xu hê đuk nhul rxal hê đuk ch'ôm mai veng đuk
xêr po bôông klôông po riêng piêng poh chmam hê đuk le le a tơm klơm a chuông
đinh puar yuông đa vih a ma đac ya a ghiêu hê đac hê đuôl khuôl đu buôc lơ pôông
khuôl yu chuông rinh khuôl bra miar kban ya khuôl bra bra kban cơt chap cơm nơt
pan xơr nuc xac lac bic...
"Tôi xin thần đất, mời thần rẫy (cho) được lúa, mời thần lúa về chứng kiến
tôi được lúa đầy đồng, cơm thừa cơm nguội (ăn dư dả thả giàn) mua được chiêng,
một sào sắm được tôi tớ, không thiếu nợ, năm nào cũng thu hoạch nhiều lúa, được
cơm cháy ăn không vơi, được muối như đá không mòn, lúa nhiều như gò đất, nuôi
heo được nhiều, được giàu tới già răng rụng, lúc nào cũng lanh lợi, cây trồng luôn
luôn tươi tốt. Xin ông bà chứng kiến giùm lời khấn vái (tôi) kêu xin thần suối thần
núi, lời khấn vái này xin chư thần làm sao kết được như nhện chăng tơ. Các lễ vật
(tôi) sẽ dâng bảy gang cơm, tất cả cá gà rượu chè xin cúng chư thần: rượu bên tay
mặt, thịt bên tay trái xin dâng quí thần. Gia đình cầu xin chư vị chứng kiến, dùng đủ
và cho chúng tôi ăn ngon ngủ yên..."
Người Stiêng có một số kiêng cữ:

42.5 Page 415

▲back to top


- Đã chọn xong đất làm rẫy hoặc đã phát xong rẫy, nếu gặp rắn, xương rắn,
con cù lần, con kì đà thì người ta kiên quyết bỏ không làm.
- Lập sóc mới, cấm người lạ bảy ngày đầu không được vào, dấu hiệu: chăng
dây ngang đường và buộc cành lá xanh làm hiệu. Cũng cấm mang vào sóc các ghè
đựng rượu (xruung). Ai vi phạm bị phạt nặng. Trong thời gian bảy ngày dân sóc
kiêng ăn thịt heo, gà và rau cải. Họ dựng cột buộc trâu chuẩn bị làm lễ lập sóc mới.
Đàn ông ngủ toàn bộ trong rừng.
- Thấy chim két bay qua, họ cho là sóc sắp bị tiến công.
- Vào sóc, khách phải gặp trưởng sóc trước tiên. Không được vào nhà người
bệnh vì có thể mang cái chết cho người này.
- Nhà sàn dài mới dựng xong thì bảy ngày đầu phải nấu ăn ở gầm sàn, sau
đó mới được nấu ăn ở bếp gia đình. Trước cửa ngôi nhà thường treo tổ ong vò vẽ để
trấn ma quỉ.
- Chó chết thì phải ăn thịt hoặc quăng đi. Không được chôn vì chỉ người mới
được chôn; nếu chôn chó chết thì nhà đó sẽ mất một người.
- Một số nhà kiêng ăn con cá héc, lươn (pen đôông), cá sấu (kara vâư), tôm
(paira tu) và một số cây: đọt mây cát (tầm oong), môn nước (pe puôl), bí đao...
- Người nào bị hắt hơi (nhảy mũi) không được ra khỏi nhà ngay, nếu ra sẽ
gặp ác quỉ (nếu giải thích theo khoa học thì cơ thể không khỏe cần ở nhà).
- Heo, gà chỉ sinh ba con thì không nuôi, tốt nhất mang bán. Gà không vào
chuồng ban đêm thì hôm sau đem thịt để tránh tai họa cho chủ...
IV.4. Văn hóa nghệ thuật:
Trước đây một số huyền thoại, cổ tích Stiêng được sưu tầm, viết thành sách
tiếng Việt và tiếng Pháp. Nhưng hiện nay số người Stiêng nhớ các truyện của dân
tộc mình không nhiều. Các bài cúng lễ bị quên dần, nhất là trong cộng đồng người
Stiêng theo đạo Tin Lành.
Nhạc cụ của người Stiêng có bộ chiêng đánh trong các dịp cúng lễ, múa hát.
Ngoài ra họ có cây đàn đinh đut bằng lồ ô dài khoảng 50 cm, tước 6 sợi cật bên
ngoài, các sợi này căng lên nhờ hai con ngựa tre nhỏ ở đầu các sợi dây. Người ta
dùng phần mềm của đầu ngón tay bật các sợi dây để tạo nên các âm thanh khác nhau,
dùng đệm khi ca hát. Đàn đinh đut có âm thanh rất nhỏ, chỉ dùng cho cá nhân hoặc
nhóm nhỏ vài ba người.
Từ ngày giải phóng tới nay, người Stiêng ở Đồng Nai đã định canh định cư,
cuộc sống đã có nhiều thay đổi: trẻ em đi học nhiều, mặt bằng dân trí nâng cao từng
bước, đời sống vật chất cải thiện dần, bà con có ý thức tiết kiệm hơn xưa... Đó là

42.6 Page 416

▲back to top


những tiến bộ đáng mừng trong quá trình hòa nhập của đồng bào với cộng đồng các
dân tộc anh em khác đang cùng nhau chung sống thuận hòa.
V. NGƯỜI KƠHO:
V.1. Dân số và phân bố:
Dân tộc Kơho (có sách báo viết là K'ho, Kaho) là một trong 54 dân tộc ở Việt
Nam, phân bố thành dải dài từ Nam Khánh Hòa, Lâm Đồng, Tây Bình Thuận tới
Bắc Đồng Nai, nhưng tập trung đông nhất ở Lâm Đồng.
Cộng đồng dân tộc Kơho có nhiều nhóm:
- Xrê (Srê):tập trung đông nhất ở cao nguyên Di Linh
- Nôp (còn gọi Tơ Nôp, Tơ La, Tala): ở phía Nam cao nguyên Di Linh, dọc
đường 6 đi về Phan Thiết.
- Cơ Don (còn gọi là Cơ Dòn, Queyon) ở Đông Nam Di Linh và Tây Bình
Thuận.
- Chil: sống ở cao nguyên Di Linh và Lâm Viên, gốc là Mnông đã hòa nhập
khá lâu với dân Kơho.
- Lạt (có sách báo viết Lach): sống tập trung ở phía Bắc Đà Lạt.
- T'ring (Tơrinh) sống thành một dải từ Tây Nam Khánh Hòa, huyện Đơn
Dương (Lâm Đồng).
Sống xen kẽ và giao lưu chặt chẽ với các dân tộc Mạ và Mnông anh em nên
một số nhóm Kơho khó phân biệt với hai dân tộc trên, nhất là về tiếng nói. Ngay ở
Đồng Nai, khi được hỏi, một số bà con lúc nhận mình là người Kơho, lúc lại nhận là
Mạ, khiến cho công tác điều tra thống kê dân số gặp khó khăn.
Cũng như các tộc người ở Nam Tây Nguyên - Đông Nam bộ, dân tộc Kơho
thuộc dòng Nam Á, nhóm Môn - Khmer. Người Kơho là một trong các cư dân bản
địa sinh sống lâu đời ở phía Bắc tỉnh Đồng Nai. Năm 1996, người Kơho có 646 nhân
khẩu (324 nữ) xếp thứ 13 về dân số trong cộng đồng các dân tộc ít người của Đồng
Nai. Bà con sống tập trung ở huyện Tân Phú 462 người thì riêng xóm Là Ủ, ấp Phú
Kiên, xã Phú Bình (Tân Phú) có 76 hộ với 413 nhân khẩu (208 nữ)... Ngoài ra người
Kơho còn rải rác ở các huyện Long Khánh, Định Quán...
V.2. Sinh hoạt kinh tế:
Người Kơho là cư dân nông nghiệp cổ truyền, xưa kia họ chuyên "ăn rừng",
"ăn nước trời". Lúc đó họ sống du canh du cư như các dân tộc ít người anh em khác
trong vùng. Chu trình làm rẫy là chu trình khép kín: họ trồng hai, ba năm rồi bỏ hóa

42.7 Page 417

▲back to top


đất đai từ bảy, tám năm tới mười năm cho đất phục hồi độ màu mỡ, lại quay về khai
thác tiếp. Các già làng, trưởng tộc cầm đầu từng họ, từng nhóm dân làng tiến hành
chọn đất phát rẫy (mua brê) vào tháng giêng âm lịch. Đến tháng ba âm lịch cây cỏ
chặt hạ đã khô, họ đốt rẫy (chu mir). Đến tháng tư, bắt đầu mùa mưa, người ta tỉa
hạt (tut kòi).
Rẫy gọi là mir rẫy mới khai phá để trồng vụ đầu là mir pa, rẫy cũ đã trồng là
mir jao. Nếu bắt đầu phát rẫy mà gặp trăn, chồn, rùa núi, phủ hầu... thì người ta bỏ
không làm vì sợ xui xẻo, điềm xấu.
Công cụ làm nương rẫy gồm: chà gạt (joăh: đọc gioẻ), rựa (bra) rìu (xung),
cây chọc lỗ (crmul đọc chrơmun), ống tỉa hạt (ding tut đọc tinh tut)...
Trước khi phát rẫy, bà con làm lễ cúng (boh brê) cầu xin thần rừng cho làm
ăn được mùa, đất đai tốt, phát rẫy thuận lợi, đốt rẫy sạch sẽ.
Tiếp đó, đến cúng dọn rẫy (rơ yau) cầu xin khi tỉa hạt thì lúa sớm nảy mầm,
mưa thuận gió hòa, công việc làm ăn suôn sẻ mọi bề...
Từ sau ngày giải phóng đến nay, do yêu cầu bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường
sinh thái, diện tích nương rẫy ngày càng thu hẹp, bà con dân tộc Kơho lại sang
nhượng nương rẫy cho người mới tới nên đến nay hầu như bà con không làm nương
rẫy mấy.
Đối với một số nương rẫy tương đối bằng phẳng và ở nơi thấp, bà con chuyển
thành ruộng khô (xrê răn) canh tác liên tục nhiều năm với kỹ thuật dùng cuốc (jơ
leng) để cuốc phơi đất diệt cỏ (po ụ is, đọc is là iz) rồi cuốc trở đất và băm nhỏ đất
rơ loh ụ. Những gia đình có trâu bò, có cày (lơ war) và bừa (xkam) thì người ta tiến
hành cày khô (lơ òr xrê răn) khi có một vài trận mưa đầu mùa (trổ mìu bồ xnam).
Mưa đã thấm đầy ruộng người ta dùng bừa trang phẳng mặt ruộng và làm đất nhuyễn
rồi xạ lúa. Ở những chân ruộng sình (xrê bo) và ruộng lầy thụt (xrê lơgơl), người ta
không thể dùng trâu bò cày bừa mà dùng trâu giẵm cho nổi sình, vơ hết cỏ rồi dùng
bàn trang (lơ pan tơring ù do trâu kéo) để trang phẳng ruộng (lơ kơr xrê). Loại ruộng
sình, ruộng lầy thụt không thể xạ trực tiếp xuống mà phải làm theo các công đoạn:
gieo mạ, nhổ mạ (buih tơ nih) và cấy lúa (tăm kòi), làm cỏ (lơ nỵhơt xtê ya nỵhơt
đọc là nhơhơt)...
Các công cụ làm ruộng của người Kơho gồm: chà gạt (joăh), cuốc (jơ leng),
xẻng (bìa), cày (lơ war), bừa (xkam), cào cỏ (njar), bàn trang ruộng (lơ pan tơring
ù)...
Các nghi lễ làm ruộng cũng tương tự cách lễ cúng khi làm rẫy, mỗi làng xóm
thường cùng tiến hành vào một thời điểm. Các già làng chịu trách nhiệm đứng ra tổ
chức và bà con trong làng đều đóng góp: rượu, gà, vịt, cơm nếp... tùy theo khả năng
từng gia đình. Vào lúc tiến hành các nghi lễ nông nghiệp này, mọi người phải kiêng

42.8 Page 418

▲back to top


kị không ăn các con: trăn, rắn, chó, chồn, kì đà, rùa núi... Những con vật này lỡ chết
tại khu vực ruộng, rẫy thì người ta bỏ vài chục mét vuông không trồng tỉa. Nếu
những con vật này chết trong nhà thì đó là điềm không lành, điều tối kị.
Khi lúa đang thì con gái mọc xanh tốt, bà con cúng lúa xanh kiăp măh cầu
mong lúa tươi tốt, làm đòng chắc hạt. Việc cúng này do từng nhà làm đơn sơ thôi.
Lúa chín nửa bông, bà con làm lễ cúng lúa chín nỵô rơ mul (nỵô đọc là nhô)
tương tự người Việt cúng cơm mới để tạ ơn các thần đã cho một vụ thu hoạch và cầu
xin cho việc gặt hái thuận lợi, thóc về đến nhà không hao hớt.
Như vậy, một chu kỳ nông nghiệp đã hoàn thành trong khoảng chín mười
tháng.
- Lịch của người Kơho như sau:
Tháng giêng : kơnhai đul Tháng bảy
: kơnhai por
Tháng hai
: kơnhai bar Tháng tám
: kơnhai ph'am
Tháng ba
: kơnhai pe
Tháng chín
: kơnhai xin
Tháng tư
:kơnhai poan Tháng mười
: kơnhai jơt
Tháng năm :kơnhai pram Tháng mười một : kơnhai jơt đul
Tháng sáu
: kơnhai prau Tháng mười hai : kơnhai jơt bar
Lịch của người Kơho lấy từ lịch của người Việt (lịch âm dương) nhưng mùa
vụ thì căn cứ trời mưa nên có năm bà con làm ruộng rẫy sớm nếu trời mưa sớm; khi
mưa trễ thì mùa vụ lui lại. Những lúc nông nhàn, người ta đánh cá ở sông suối với
các dụng cụ: chài (jal), chĩa (cràng đọc là chràng), vó (ju), rổ vớt (nrir), nơm (jrut),
lờ (pàm), đăng (xrọ), cần câu (đàr) (với kỹ thuật câu cặm (ping kai) và câu giăng (rơ
nòng), ống trúm (ding dung đọc tinh tung). Ở các khúc suối nhỏ ít nước, người ta tát
(xạt ka) hoặc dùng cây độc (krao ka) để bắt. Hai thứ cây độc (proh) (kơ tanh)
mọc hoang trong rừng, người ta lấy lá, thân, hạt của chúng đem giã nát rồi thả xuống
suối, cá trúng độc nổi lên, bà con dùng rổ mà vớt.
Nhìn số lượng các loại dụng cụ đánh cá, người ta thấy dân Kơho thành thạo
với nghề phụ này, chắc hẳn nghề đánh cá một thời là nguồn cung ứng thực phẩm
quan trọng của họ.
Xưa kia, người ta cúng suối không phải mong thần suối cho nhiều cá ăn. Đối
với người Kơho, con suối là tượng trưng cho loài rắn mang lại những điều không
may cho con người, cúng suối là cầu xin ma quỉ không ám con người gây ra bệnh

42.9 Page 419

▲back to top


tật, cầu cho người bệnh chóng khỏi. Việc cúng suối chỉ tiến hành khi làng xóm có
người mắc bệnh, lễ vật sơ sài, có khi chỉ là cầu khấn miệng mà thôi.
Khi rừng còn bao phủ khắp vùng cư trú của người Kơho thì săn bắn là nguồn
thu nhập đáng kể của họ. Các dụng cụ săn bắn khá phong phú: ná (xơna), tên (kon
na, lao crèng đọc chrèng), bẫy (dă đọc yá), bẫy thòng lọng để xiết cổ thú vật (dă
ko), bẫy xiết chân thú vật (dă jăn), bẫy đâm (tơ o là một loại mang cung, bẫy có
nhiều ngọn lao nhọn)...
Người Kơho thường săn bắt các loài thú: khỉ, heo rừng, nai, mển, chồn... Họ
kiêng không giết, không ăn thịt, không đem về nhà con trăn; rắn cũng ít người ăn,
có thể giết nhưng không được đem vào nhà...
Người Kơho thường đi săn tập thể, có dùng chó săn. Khi săn bắt được một
con thú, thì tùy to nhỏ mà có cách chia khác nhau:
- Thường thường, người bắn được con vật sẽ hưởng cái đầu, còn thịt thì chia
đều cho các thành viên tham gia cuộc săn.
- Nếu con vật lớn, thì chia đều cho cả làng, các người đi săn được nhiều hơn
một chút.
- Nếu con thú nhỏ thì người ta băm nhỏ, dùng chén chia đều phần thịt cho
các thành viên đi săn.
- Nếu con thú quá nhỏ (con nhím, con sóc chẳng hạn), người ta nấu lên, mọi
thành viên ăn chung một bữa đầy vui vẻ.
Chó săn không được tính như một thành viên, không ưu đãi, chỉ được đối xử
như thường ngày (nghĩa là được cho ăn xương thừa). Khi săn được con thú lớn:
hươu, nai, heo rừng, min... người ta làm lễ cúng Yang rừng hoi Yang brê tạ ơn thần
rừng. Đi săn không được gì, người ta tranh thủ bắt cá, hái rau rừng: đọt mây và rau
ria là hai thứ lúc nào trong rừng cũng có.
Từng gia đình chăn nuôi heo, gà vịt, trâu bò... chủ yếu dùng vào các lễ cúng,
chứ chưa làm ra sản phẩm hàng hóa. Số gia súc ít, lại chăn thả tự do nên năng suất
chăn nuôi nói chung thấp, chỉ đáp ứng được nhu cầu rất khiêm tốn.
Lúc no đủ người Kơho thường ăn ba bữa một ngày: sáng, trưa, chiều. Cơm
tẻ (piêng ngan) là lương thực chính, thực phẩm lấy từ sản phẩm hái lượm, đánh cá
hoặc săn bắn. Gạo nếp được nấu cơm nếp (piêng bar) hoặc xôi, bánh dùng trong các
ngày lễ, cúng... (hoặc khi thích ăn).
Người ta uống nước suối là chính. Ở các ấp Kơho, chưa có giếng đào. Khi đi
rừng, ở những chỗ khô khan hiếm nước, bà con thường chặt dây leo lấy nước uống
(xe jroh). Trong các dịp cúng lễ, rượu là thức uống truyền thống. Rượu đế (ơ lac)
thường phải mua, rượu cần (rơ nàm) do bà con tự làm.

42.10 Page 420

▲back to top


Người Kơho làm rượu cần theo hai công đoạn:
- Ủ men (kanh)
Gạo (tẻ hoặc nếp) đem ngâm khoảng một ngày cho mềm rồi vớt ra cho ráo
nước. Lấy lá rừng (nô tơ klo đọc: nhô tơ klo) rửa sạch, phơi ráo nước rồi đem giã
chung với gạo đã ngâm cho thật nhuyễn. Lấy khối bột nhão nhồi thành bánh tròn
dẹp hoặc làm thành nắm tròn cỡ nắm tay, để gần bếp lửa cho khô dần dần. Con men
phát triển trong cục bột, người ta không đem phơi nắng sợ men kém phát triển, làm
rượu lạt.
- Hầm rượu (cài rượu)
Nấu cơm gạo tẻ hoặc nếp tùy khả năng mỗi nhà. Cơm hơi nhão để dễ trộn
với men rượu khi đã nguội. Người ta thêm vỏ trấu sạch theo tỉ lệ thích hợp rồi cho
tất cả vào ché, lèn thật chặt.
Tro bếp trộn nhão (với nước) dùng để bịt kín miệng ché. Cất ché rượu vào
một góc nhà.
Ché rượu để khoảng một tháng thì gạo lên men đầy đủ, khi gỡ bỏ lớp tro hàn
miệng, bên trong bốc mùi thơm nồng nàn. Uống sớm hơn thì rượu chưa ngon.
Người ta lấy lá cỏ tranh hoặc lá tre chèn kín miệng ché để trấu không nổi lên.
Một số ống hút (bằng tre nhỏ) cắm sâu vào ché, người ta chuẩn bị cho tiệc vui. Rượu
cần (rơ nàm) thoạt đầu có màu nâu đục, khi uống đổ thêm nước lã cho tới miệng
ché. Khi nào nước lã xuống tới đáy ché thì rươụ lạt, người ta thôi không uống tiếp
(và chuyển sang ché mới hoặc uống rượu đế).
Người uống ngụm rượu cần đầu tiên là vị già làng hoặc chủ nhà. Nếu là lễ
cúng thần lúa (loh Yang koi đọc: lở Yàng kòi) thì bà mẹ lúa được khai mạc ché rượu
đầu tiên.
Thứ tự uống: già làng - khách - người lớn - thanh niên.
Một lễ cúng lớn hoặc một đám cưới lớn có thể dùng đến hàng chục ché rượu
cần (loại ché cao trên 1 mét).
Người Kơho có vài nghề thủ công xưa kia khá phát triển song bây giờ lụi tàn
dần. Nghề rèn đã biến mất, các công cụ lao động bằng sắt đều được mua ở chợ. Nghề
dệt mang tính tự cấp tự túc trong nội bộ cộng đồng chứ không có sản phẩm hàng hóa
nào để bán. Bà con còn dệt váy (tanh ôi), dệt áo (tanh xo kroh)... và nhà nào cũng
dệt chiếu (tanh bil) bằng một loại lá rừng, đan gùi (tan xah)... Có mấy loại gùi: gùi
lớn (xah dong), gùi nhỏ (xah dit đọc tit), gùi cao (xah poh), gùi trang trí (xah bôt),
gùi có lỗ (xah bài đọc: vài)... dùng vào các công việc khác nhau.

43 Pages 421-430

▲back to top


43.1 Page 421

▲back to top


Cách nay hơn nửa thế kỉ, đàn ông Kơho thường đóng khố (tron), mặc áo
hoặc cởi trần, trên đầu có lúc cột chiếc khăn nhỏ. Nam giới không cà răng căng tai
(bằng khúc ngà voi hoặc khúc gỗ quí), tay đeo vòng đồng búi tó cài chiếc lông chim
chèo bẻo (căp xoh pling). Một số ông già buộc sợi dây ngang bụng, trên sợi dây cài
từ ba đến năm chiếc lục lạc (bơ liêm) nhỏ, khi đi lại tạo nên tiếng nhạc vui tai.
Phụ nữ Kơho mặc váy (bơn) có hoa văn, áo và quấn khăn (jră) trên đầu. Búi
tóc thường cài chiếc lược sừng trâu và con dao nhỏ cán cong (pis cut đọc: piz chut),
nhiều cô trang điểm thêm chiếc lông chim pling vào các dịp lễ hội. Đồ trang sức của
phụ nữ phong phú hơn nam giới, ngoài lục lạc đính vào gấu váy để tạo âm thanh vui
tai và làm căng chiếc váy làm tăng tính thẩm mĩ, còn có: vòng đồng (kòng tê), chuỗi
hạt (nỵong đọc: nhong), kiềng (vòng cổ kòng soạn), bông tai (bơ no), nhẫn (xơ biat),
nhẫn cưới (xơ biat tom bau)... Vòng đồng đeo tay (kòng tê) là vật thiêng liêng tượng
trưng cho sự thủy chung, là chứng tích của tình yêu nồng thắm. Lục lạc cũng được
đính vào một số vật tùy thân có giá để khi lỡ rơi rớt cũng dễ tìm (do âm thanh phát
ra).
V.3. Tổ chức xã hội, gia đình và các phong tục tập quán:
V.3.1. Tổ chức xã hội:
Bòn (làng) là đơn vị cư trú cơ bản của người Kơho. Mỗi làng gồm vài căn
nhà dài (hìu jòng); mỗi căn nhà dài là một dòng họ (tum) cư ngụ. Đứng đầu căn nhà
dài là vị tộc trưởng (jơ na). Mỗi căn nhà dài có hàng chục gia đình cùng quan hệ
huyết thống. Mỗi gia đình nhỏ ở một, hai gian và các gian chỉ ngăn cách sơ sài bằng
tấm liếp tre, nứa. Người ta ăn uống, ngồi chơi, tiếp khách và ngủ ngay trên sàn nhà,
gần bếp lửa của mỗi gia đình.
Mỗi nhà sàn dài có một chòi lúa ở cách đó chừng dăm, bảy mét do một mẹ
lúa cai quản và phân phối cho từng gia đình nhỏ.
Đứng đầu bòn là vị chủ làng (kuang bòn) có uy tín rất cao, được mọi người
tuân phục. Dọc đường 20, từ km 133 trở đi, xưa kia một số bòn ở gần nhau đã tổ
chức thành liên bòn do kuang bòn có thế lực nhất đứng đầu. Thời thuộc Pháp, kuang
bòn còn là chức sắc do nhà cầm quyền bổ nhiệm nên càng có thế lực.
Do chiến tranh kéo dài, các nhà sàn dài bị phá hủy, người dân Kơho bị xúc
tát vào các ấp chiến lược chuyển sang ở nhà trệt nhỏ theo từng gia đình nhỏ. Lối
sống tập thể cổ truyền bị phá vỡ hoàn toàn.
Xã hội Kơho chưa phân hóa sâu sắc giàu nghèo, tuy mỗi bòn đều có một vài
hộ nhiều trâu, ché, chiêng hơn những gia đình khác.
Ngày nay, nhìn chung đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn. Người
Kơho đã có đại biểu trong các cơ quan, đoàn thể ở cơ sở ấp, xã.

43.2 Page 422

▲back to top


V.3.2. Gia đình:
Từ chế độ theo dòng mẹ, ngày nay, gia đình nhỏ Kơho do người cha, người
chồng làm chủ vì họ có trách nhiệm làm lụng để nuôi cả nhà. Con trai trưởng được
coi trọng.
Thuật ngữ quan hệ thân tộc hiện nay của người Kơho ở Đồng Nai như sau:
- Cụ ông: kuang kra
- Anh rể: bi bơr tâu
- Cụ bà: pang kra
- Chị gái: bi ur
- Ông: ông
- Em gái: oh ur
- Ông nội: ông kra bặp
- Em dâu: ban
- Bà nội: mọ kra bặp
- Em trai: oh klau
- Bà: mọ
- Em rể: bơr tâu
- Ông ngoại: ông kra me
- Anh chồng: bi bao klau
- Bà ngoại: mọ kra me
- Anh vợ: bi bao ur
- Cha: bặp
- Chị chồng: bi ur bao klau
- Mẹ: me
- Em gái vợ: oh ur đăh bao ur
- Bác: woa dòng
- Em gái chồng: oh ur bao klau
- Chú: woa oh
- Em trai chồng: oh bao klau
- Cô: me loh
- Anh vợ: bi bao ur
- Cậu: kôn
- Chị vợ: poh bi ur
- Cha chồng: poh bặp
- Chị dâu: bi ban
- Mẹ chồng: poh me
- Em trai vợ:oh klau ur
- Bác trai: poh mi
- Con trai: kon klau
- Thím: me êt
- Con gái: kon ur
- Dượng: woa oh
- Con dâu: ban kon

43.3 Page 423

▲back to top


- Dì: me jông
- Con rể: bơ tâu kon
- Cha vợ: poh bặp ur
- Cháu: sao
- Mẹ vợ: poh me ur.
- Cháu nội: sao đăh bặp
- Bác gái: bi ur dòng
- Cháu ngoại: sao đăh ur
- Chồng: bao klau
- Chắt: xê
- Vợ: bao ur
- Chắt nội: xê bặp
- Anh trai: bi klau
- Chắt ngoại: xê ur
V.3.3. Cưới xin:
Từ xa xưa, nam nữ thanh niên được tự do yêu đương, tìm hiểu nhau. Chàng
thanh niên thường lớn hơn bạn gái vài tuổi, chủ động tìm hiểu để đi tới hôn nhân.
Đôi trai gái được tự do gặp gỡ trò chuyện, tâm sự song không được ăn nằm với nhau.
Người con gái lỡ có bầu với bạn trai thì vẫn được làm đám cưới, nhưng phải nộp cho
bòn một món phạt vạ khá nặng.
Trước khi đi đến quyết định cưới xin, nam nữ thường tặng nhau một số vật
kỉ niệm: vòng, nhẫn, chuỗi hạt đeo cổ... các kỉ vật này được trình cho cha mẹ đôi
bên biết.
Một đám cưới của người Kơho thường trải qua những lễ sau đây:
- Lễ coi mắt (đám nói):
Nhà gái chủ động đến coi mắt gia đình bên trai (ít khi có chuyện ngược lại).
Ông bà mai (kòn ma, kòn gùng) là người có tuổi, biết ăn nói, dẫn đầu đoàn nhà gái
qua đàng trai. Khi vào nhà, ông, bà mai đi đầu rồi lần lượt theo thứ tự tuổi tác lớn,
nhỏ. Gia đình nhà trai lo làm tiệc, giết gà vịt, làm rượu cần để đãi khách. Hai bên trò
chuyện, bàn bạc, đi đến thỏa thuận về sính lễ rồi ấn định ngày cưới.
Khác với người Việt, người Hoa... nhà trai Kơho có quyền đòi sính lễ của
nhà gái: chiêng (phèng la), ché, trâu bò, heo, gà vịt, chăn, áo quần... Từ cha mẹ
chồng tương lai tới anh chị em chồng đều có quyền ra giá đòi sính lễ. Sau cuộc bàn
bạc dài dòng, nhà gái đòi giảm mức lễ vật, hai bên đi đến thống nhất. Nếu đàng gái
không chấp nhận mức đòi hỏi (quá cao) của nhà trai thì đám cưới sẽ không thành,
nhưng chuyện này ít xảy ra vì cả hai bên nói chung đều biết điều. Nếu đàng trai đi
coi mắt nhà gái (hiếm khi có) thì nhà gái có quyền đòi hỏi sính lễ, hồi môn.
- Lễ cưới:

43.4 Page 424

▲back to top


Đúng ngày đã định, nhà trai đến rước dâu. Hôn lễ cử hành có sự chứng giám
của ông bà mai, bà con họ hàng đôi bên. Hai bên lo chuẩn bị đồ đạc, nhất là vòng
đồng. Hai chiếc vòng đồng đặt trên hai dĩa gạo đặt sát nhau trên bàn thờ. Sau khi lễ,
ông bà mai nhà trai đeo vòng vào tay cô dâu, ông bà mai đàng gái đeo vòng vào tay
chú rể. Việc đeo vòng có ý nghĩa đặc biệt: sau này đôi vợ chồng đó có trục trặc gì
thì các ông bà mai có trách nhiệm hòa giải hoặc giải quyết hậu quả.
Phong tục Kơho cấm kị các cuộc hôn nhân cùng dòng họ:
- Con chú con bác không được lấy nhau.
- Con bạn dì không được lấy nhau.
Nếu vi phạm, phải bỏ làng mà đi nơi khác hoặc phải chết để chấm dứt mối
quan hệ bất chính. Song con cô con cậu có thể lấy nhau.
Ở người Kơho vẫn còn tục sororat và lêvirat. Nếu vợ chết mà chồng còn trẻ,
anh ta có thể lấy chị hoặc em của vợ mình (nếu được đồng ý). Nếu chồng chết, người
vợ có thể lấy anh hoặc em trai chồng. Việc lấy chị em vợ hoặc anh em chồng nhằm
giữ của cải gia đình khỏi lọt ra ngoài. (Riêng việc lấy anh em chồng, theo luật tục là
có tội lớn, vì để giữ vợ cũ và gia sản cho con cái đành chấp nhận phạm tội trên, phải
cúng đầu heo để giải tội).
Ngoại tình là tội rất nặng không thể tha thứ.
Người đàn bà có chồng đi ngoại tình với trai chưa vợ thì chồng hoặc gia đình
chồng có thể giết hay phạt vạ nặng, tới 10 cặp ché lớn hay 10 con trâu, bò qui định
ngang giá với 2 mạng người. Cặp ngoại tình này phải quì gối trước nhà chồng, lạy
xin các già làng, các bậc lớn tuổi, họ hàng và chồng. Nếu được người chồng và mọi
người đồng ý thì người vợ mới trở lại chung sống với chồng; ngược lại thì chị ta phải
ra đi với hai bàn tay trắng. Quá hơn nữa, chồng và gia đình chồng có thể giết cả đôi
phạm tội mà không bị khép tội.
Người đàn bà có chồng đi ngoại tình với người đàn ông có vợ thì phải lạy
xin cả đôi bên. Bên chồng của người đàn bà ngoại tình có quyền giải quyết trước,
sau đó mới tới bên vợ của người đàn ông ngoại tình. Cách xử lí tương tự như cách
đã nêu trên.
Nếu đôi ngoại tình bỏ trốn khỏi bòn, già làng cử người thân của cặp ngoại
tình đi tìm bằng được, đưa về xử lí theo luật tục.
Vụ ngoại tình dù bị phát giác lúc nào, ở bất cứ nơi nào cũng đều phạt vạ nặng
như nhau. Đặc biệt vụ ngoại tình xảy ra ở nhà đàn bà có chồng là điều tối kị, phạt vạ
nặng, có thể xử chết.
Hoang thai cũng là tội lớn đối với người Kơho. Người con gái chưa chồng
mà có bầu (không cưới xin) sẽ bị đuổi ra khỏi cộng đồng. Gia đình cô gái phải cúng

43.5 Page 425

▲back to top


xin, sau ba năm cô ta mới được về làng. Trong thời gian bị đuổi đi, cô gái đơn độc
ở ngoài rẫy tự lo liệu mọi sinh hoạt, người làng xa lánh không ai giao du.
Anh chàng nếu nhận con thì được cưới cô gái. Trong lễ cưới (cô gái lỡ có
bầu và có con), ngoài các nghi thức chung, người chồng phải dắt vợ lòn dưới sợi chỉ
đen - dây gùi - chăng cách mặt đất khoảng 1 mét ở ngang cửa, liên tục bảy lần dưới
sự chứng kiến của ông bà mai và hai họ.
Nếu cô gái chửa hoang kiện mà anh con trai không nhận thì làng tổ chức ăn
thề. Người ta đun một nồi nước sôi, thả cặp nhẫn vào đó. Sau khi vị già làng làm lễ
cúng thần, chàng trai và cô gái cho tay vào lấy chiếc nhẫn ra. Nếu ai trung thực thì
được thần linh che chở, sẽ an toàn vô sự (?), còn kẻ tà ý sẽ phỏng và bị phạt vạ rất
nặng, kể cả khoản chi phí cúng thần linh và bồi hoàn cho làng tới chứng kiến.(Anh
con trai bị kiện mà không chịu tham gia lễ thề nguyền "nhúng tay vào nước sôi" sẽ
bị "thư" đến chết). Sau khi nhúng tay vào nước sôi, anh bị phỏng phải về ăn ở với
cô gái, chịu trách nhiệm nuôi con. Người Kơho kể lại tục lệ này như truyền thuyết,
chớ từ lâu lắm rồi không thấy lễ thề nguyền nữa.
Hai vợ chồng do bất hòa (hay vì lí do nào đó) nếu thuận tình li dị thì "đường
ai nấy đi", không bị phạt vạ.
Nếu một bên không thuận li dị thì được quyền phạt vạ người muốn li hôn...
Nhận xét: xưa kia chắc quan hệ trước hôn nhân của người Kơho cũng phổ
biến như các dân tộc anh em thuộc ngữ hệ Môn - Khmer sống gần đó. Luật tục trở
nên nghiệt ngã với phụ nữ từ khi chế độ theo dòng mẹ lụi tàn, chế độ theo dòng cha
dần dần chiếm ưu thế.
V.3.4. Sinh đẻ:
Khác với các dân tộc anh em bản địa, phụ nữ Kơho sinh đẻ ngay tại nhà
mình. Chồng và các thành viên khác có trách nhiệm lo săn sóc sản phụ.
Nơi nghỉ ngơi của sản phụ phải yên tĩnh, kiêng các tiếng động mạnh dội tới.
Khi sắp sinh, gia đình đón bà mụ có kinh nghiệm, mát tay để đỡ cho bé ra đời suôn
sẻ, sau này hay ăn chóng lớn, mạnh khỏe. Sản phụ ăn cháo với muối, cá khô kho
mặn, kiêng ăn mỡ; uống một chút rượu và uống thuốc lấy từ cây rừng cho chóng hồi
phục sức khỏe. Chị nằm sưởi bằng bếp than ít bữa để chống lạnh. Hai vợ chồng phải
kiêng cữ không ăn nằm với nhau trong ba tháng liền.
Sinh bé được bảy ngày, gia đình cúng đặt tên (poh kah mat) với lễ vật là dê,
gà vịt, rượu... Các già làng, ông bà, bà mụ, bạn bè... được mời dự lễ đều có món quà:
áo, quần, vòng, nhẫn... mừng bé.
Già làng hoặc ông nội đặt tên cho bé và tên không trùng với người trong bòn
vừa chết, tên những người trong dòng họ: ông bà, chú bác, dì dượng...

43.6 Page 426

▲back to top


Ngày hôm sau - tức ngày thứ tám sau khi bé ra đời - gia đình làm lễ tạ ơn
bà mụ. Lễ vật gồm: tiền, quần áo, chăn mền, gà vịt..., bà mụ có quyền chọn một vài
thứ, có tính cách lấy tượng trưng.
V.3.5. Tang ma:
Trong nhà có người qua đời, thân nhân phải báo tin cho dân làng và họ hàng
xa gần được biết.
Một số người khỏe mạnh được cử vào rừng làm lễ xin cây để làm hòm. Khi
chọn được cây tung hoặc cây bông lau (gỗ nhẹ, thớ thẳng, mềm) vừa ý, người ta đặt
ba cục than đỏ xuống gốc, cầu xin thần rừng (yang brê) cho phép chặt hạ không bị
ma quỉ cản phá. Người ta dùng rìu cắt hai khúc cây, mỗi khúc dài khoảng hơn hai
mét, rồi khoét mổ hòm và nắp. Xong xuôi, cỗ hòm được khiêng về nhà. Thi hài được
lau rửa trước khi khâm liệm.
Hai, ba ngày sau, người ta làm lễ đào huyệt. Người ta cũng đặt ba cục than
cháy đỏ xuống nơi định đào huyệt, cầu xin thần rừng ngăn không cho ma qủi tới phá,
người chết được yên nghỉ tại đó. Huyệt mộ đào sâu khoảng 1,5 mét trước ngày đưa
đám.
Người Kơho chôn người chết vào lúc sáng sớm. Ngôi mả làm nhà mồ đơn
giản bằng lá. Người chết được chia của, mấy thứ quí giá thì đặt trong hòm, những
thứ khác: chai, ché, gùi... thì đập vỡ và rắc trên mộ. Người chết được chia phần tài
sản bằng với phần của người còn sống (thí dụ: gia đình có sáu người thì người quá
cố được chia một phần sáu tài sản). Đưa đám trở về, mọi người sau khi tẩy uế theo
tục lệ, được mời dự bữa cơm trước khi ai về nhà nấy.
Bảy ngày sau, người nhà ra thăm mộ, sửa sang phần mộ lần đầu cũng là lần
cuối cùng. Lúc này hồn người chết đã về cõi khác.
Sau khi thăm mộ, về nhà gia đình làm cỗ cúng để cầu cho linh hồn người
chết yên nghỉ, đồng thời tạ ơn bòn và thông báo cho bòn biết đợt lễ tang của gia đình
đã kết thúc.
Trong vòng bảy ngày, gia đình có người chết không được đến nhà người
khác, không làm rẫy...
Tuy không có tục lệ để tang như người Việt nhưng luật tục Kơho qui định
sau ba năm thì chồng (hoặc vợ) mới được tái giá.
Trong trường hợp gia đình có người chết bất đắc kì tử (tai nạn, chết ở sông
suối, chết vì bom rơi đạn lạc...) thì gia đình phải kiêng ba năm mới được tới nhà
người khác. Có khi cộng đồng bòn đuổi gia đình đó ra ở một góc rừng xa làng trong
ba năm; hết kì hạn, gia đình đó làm lễ cúng mới được trở về bòn, đến chơi với mọi
nhà.

43.7 Page 427

▲back to top


V.3.6. Một số lễ cúng:
- Cúng thần đất (loh Yang ụ, đọc: lở Yàng ụ)
Người ta cúng thần đất khi tìm xong đất làm nương rẫy. Lễ cúng tiến hành
trước khi chặt cây, phát bụi, nhằm cầu xin thổ thần cho làm ăn thuận lợi, hoa màu
và lúa trồng tốt tươi, thóc gạo đầy chòi lúa, mọi người luôn mạnh chân khỏe tay.
Các lễ vật gồm: dê, gà vịt, rượu cần.... Vị già làng hoặc trưởng tộc, chủ hộ
cầu khấn, van vái chư thần cùng ông bà, tổ tiên.
- Lễ rửa chân trâu (rao jơng rpuh).
Trâu quần cho ruộng lầy nổi sình, đất bùn nhuyễn ra giúp cho việc cấy lúa
dễ dàng. Khi xong công đoạn này, người ta làm lễ rửa chân trâu chủ yếu mang tính
hình thức (cầu xin, van vái) đơn giản và không cần lễ vật. Từ nay, con trâu được
nghỉ ngơi thoải mái không còn lao động vất vả nữa.
- Cúng lúa sắp làm đòng:
Lúa đang thì con gái lên xanh tốt, sắp sửa có đòng thì người ta làm lễ cúng
cầu cho mùa màng tươi tốt, thu hoạch nhiều. Lễ vật: gà vịt, dê, rượu... và cúng tại
nương rẫy hay bờ ruộng.
- Cúng lúa chín:
Tạ ơn các thần đã cho một vụ thu hoạch tốt đẹp. Người ta cúng ngay tại
ruộng, rẫy với lễ vật là gà vịt, rượu...
- Cúng thần lúa: (loh Yang koi đọc: lở Yàng kòi)
Là lễ cúng trọng thể, tương tự tục ăn nhang của người Châu Ro. Sau khi thu
hoạch xong xuôi, từng dòng họ (nay thì từng hộ) làm lễ cúng thần lúa. Người ta lập
bàn thờ, trang trí cây tre vót bông ở đỉnh tượng trưng cho bông lúa, một cây có bông
bằng vải kết hoa, Bàn thờ có: cốm dẹp, bánh chưng, bánh dày, củ khoai môn, bộ đồ
lòng con vật cúng, li rượu cần, đọt mây... Từ bàn nhang, có hai sợi chỉ treo xuống
bình rượu cần để dẫn đường.
Người ta cúng tại chòi lúa trước, sau đó mới làm lễ cúng trong nhà (có đọc
lời cầu khấn, van vái, tạ ơn và hứa trả vụ sau...). Sau lễ cúng, tiệc được dọn ra đãi
khách trong tiếng cồng chiêng vang dội. Lễ cúng thần lúa trước kia kéo dài vài ba
ngày.
- Lễ đâm trâu: (nỵo sa rpuh đọc: nhô xa rơpú)
Là một lễ hội trọng thể trong các dịp: cầu an cho làng xóm hoặc kết nghĩa
giữa các làng.

43.8 Page 428

▲back to top


Trên một bãi đất rộng của bòn, người ta dựng một cây cột cao (nđăh) có bông
tre và một cột thấp (kơrơng) để cột con trâu hiến tế. Trâu được cột vào đó trước một
ngày.
Khoảng bảy giờ sáng, lễ đâm trâu bắt đầu.
Nếu là cúng cầu an cho làng xóm thì vị già làng lãnh trách nhiệm đâm trâu.
Nếu là lễ kết nghĩa thì người bạn kết nghĩa sẽ đâm trâu.
Dụng cụ để đâm trâu là một ngọn giáo sắc cả hai lưỡi (lưỡi giáo hình búp
đa). Người đâm lựa thế, đâm một nhát từ hông trâu bên trái xuyên vào tim. Con vật
gục ngay xuống và người ta bôi máu trâu lên một số vật: bông tre, hòn đá thờ của
dòng họ...
Nếu là đâm trâu để cầu an thì thịt trâu đem làm tiệc đãi cả bòn. Nếu đâm trâu
kết nghĩa thì con vật được xẻ đôi, mỗi bên lấy một nửa làm tiệc đãi khách, họ hàng
cùng hưởng. Bên kia sẽ làm lễ đâm trâu mời vào dịp khác.
Ngày trước, bà con Kơho làng Là Ủ (nay là ấp Phú Kiên, xã Phú Bình)
thường cúng miễu tại khu Bàu nước sôi (nay là khu vực Công ty nước khoáng Đa
Kai). Hàng năm, bà con cúng dê hay trâu, nay tục lệ này không còn (cùng với các lễ
cúng nông nghiệp khác). Bà con đã theo đạo Tin Lành.
- Lễ cúng yang rừng (hoi yang brê).
Khi săn được thú lớn hay nhiều thú nhỏ, người ta cúng tạ ơn thần rừng. Lễ
vật là thịt thú săn được. Số người tham dự ít, dăm mười người của cuộc săn mà thôi.
Người ta cúng tại rừng, nấu nướng xong thì ăn tại chỗ, không mang thức ăn về mà
chỉ mang phần thịt sống về thôi.
V.3.7. Đời sống tâm linh:
Cũng như dân tộc Mạ, người Kơho tin rằng có một vị thần cao nhất là Nđu
(như Thượng đế). Nhưng bà con thường cúng vái những vị thần ở cấp thấp hơn, gần
gũi hơn: thần đất, thần rừng, thần lúa, thần núi, thần sông...
Bà bóng (jơnăng) không phải là người chuyên nghiệp gọi hồn, làm bùa. Bà
ta vẫn tham gia lao động bình thường, chỉ khi gia đình nào có người đau ốm mới
rước về để cầu cúng xin lành bệnh. Bà bóng gọi hồn tổ tiên, ông bà về giúp đỡ con
cháu mau bình phục.
V.4. Văn hóa nghệ thuật:
Người Kơho xưa kia có bộ nhạc cụ khá phong phú: đàn tre (cing kơ diês đọc
chinh kơ tiêx), sáo hai lỗ (am pre), kèn bầu (buât), kèn môi (tồng), kèn lúa (kơ
woao)... Bộ chiêng chỉ đánh trong các lễ hội cưới xin.

43.9 Page 429

▲back to top


Về vốn văn nghệ, người Kơho có nhiều điệu hát: hát giao duyên (đơs crih
woar giữa đôi nam nữ hay đôi người già), kể luật tục (đơs crih jal jơ nau jiao), kể
chuyện xưa (jal jơ nau jiao), hát ru con (crih bơ điay kòn), hát lúc ân ái (đam bơ
in)...
Nhiều vốn quí đang mai một dần, may ra chỉ một số ít cụ già Kơho nhớ lại ít
nhiều mà thôi.
Là một cộng đồng dân tộc không đông song ngày nay người Kơho ở Đồng
Nai từng bước đi lên, cố gắng xây dựng cuộc sống mới đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu.
VI. NGƯỜI HOA:
VI.1. Nguồn gốc, phân bố và dân số:
Trước đây, ở Đồng Nai cũng như toàn miền Nam, người Hoa được gọi bằng
nhiều tên khác nhau: người Hoa, người Việt gốc Hoa, người Hán, người Hoa Nùng,
người Khách, người Minh hương, Hoa kiều...
Chúng ta thống nhất gọi theo Danh mục thành phần dân tộc Việt Nam là dân
tộc Hoa. Cần tránh những danh xưng không chính xác:
- Người Hoa Nùng: Hoa và Nùng là hai dân tộc ít người khác nhau, gọi gộp
làm một thì không đúng (ngôn ngữ Tày - Nùng khác ngôn ngữ Hán).
- Hoa kiều: trong thực tế Nhà nước ta đối xử với người Hoa như một thành
viên bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; họ được hưởng mọi quyền
lợi và phải thực hiện mọi nghĩa vụ công dân Việt Nam. Họ không phải là người mới
tới tạm trú mà đã làm ăn sinh sống lâu dài tại đây.
- Việt gốc Hoa: là lối nói của sách báo chế độ cũ có thể gây hiểu lầm Nhà
nước ta cưỡng bức đồng hóa dân tộc Hoa với dân tộc Việt.
- Tàu, Chệt, Khách: là lối gọi nôm na.
Người Hoa ở Đồng Nai gồm nhiều nhóm cư dân Trung Hoa đến đây vào các
thời điểm khác nhau. Nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình
xin tị nạn chính trị, được đưa vào lập nghiệp ở vùng Cù Lao Phố năm 1679 theo lệnh
chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) là nhóm đến sớm nhất mà sử sách ghi chép rõ. Còn
nhiều đợt người Hoa đến sau, vào nhiều thời điểm khác nhau, họ dần dần hòa nhập
với cộng đồng các dân tộc khác khá nhanh. Đến nay, phần lớn số thanh niên Hoa
không còn nói được tiếng mẹ đẻ, ngoại trừ một số người già.
Tổng số người Hoa ở Đồng Nai năm 1996: 103.540 nhân khẩu (48.778 nữ)
là dân tộc ít người đứng vị trí thứ nhất trong cộng đồng hơn 40 dân tộc thiểu số tại
đây. Huyện Định Quán đông người Hoa nhất: 34.842 nhân khẩu (16.191 nữ) trong
đó xã Phú Lợi đông người Hoa nhất tỉnh: 12.187 nhân khẩu. Huyện Thống Nhất

43.10 Page 430

▲back to top


đông thứ nhì: 20.549 người (9.855 nữ) trong đó xã Bàu Hàm tập trung tới 6.367 nhân
khẩu. Huyện Xuân Lộc đứng thứ ba: 19.472 nhân khẩu (9.196 nữ); huyện Long
Khánh có 10.931 người Hoa; huyện Tân Phú có: 8.932 người; thành phố Biên Hòa
có: 5.496 người; huyện Vĩnh Cửu có: 1.483 người; huyện Long Thành có: 1.407
người và huyện Nhơn Trạch ít nhất: 428 người.
VI.2. Các hình thái kinh tế:
Người Hoa đến làm ăn sinh sống lâu đời ở Đồng Nai cư trú ở khắp nơi: thị
trấn, thị tứ, nông thôn. Họ làm đủ mọi loại nghề khác nhau:
- Người bang Quảng thường mở quán ăn và tiệm chạp phô (tạp hóa).
- Người Tiều (Triều Châu) buôn bán vặt, chế biến trà, gánh nhuộm rong, bán
xe đẩy (thạch, các thứ giải khát, bột chiên...), trồng rau...
- Người Thượng Hải và Phúc Kiến buôn đồ sắt, trồng răng...
- Người Hẹ bán thuốc bắc, làm nghề đục đá ở Bửu Long, mở lò gạch, lò gốm
ở Tân Vạn, Hóa An... Hàng trăm gia đình người Hoa làm nghề đục đá ở phường Bửu
Long nay phải bỏ nghề do không được phép khai thác đá núi Bửu Long và các vùng
lân cận (để bảo vệ di tích thắng cảnh); nay chỉ còn khoảng một chục hộ tạc tượng,
làm cột đèn trang trí, cối, bia đá...
Thủa ban đầu mới tới, họ chỉ có đôi quang gánh, sẵn sàng làm đủ mọi thứ
lao động nặng nhọc. Do tính cần cù chịu cực, do tính toán kĩ, được đồng hương tới
trước giúp đỡ vốn liếng và mách bảo kinh nghiệm... lần hồi phần đông khấm khá
lên, một số ít trở thành giàu có. Những người Hoa sống ở thị trấn, thị tứ, thành phố
nói chung thạo nghề buôn bán và nghề thủ công.
Nhóm người Tiều thạo nghề trồng rau, họ thường ở thị trấn, thị tứ - nơi tập
trung dân cư, tiêu thụ nhiều thực phẩm trong đó có rau xanh.
Nhóm người Hoa từ miền Bắc di cư vào đây sau hiệp định Genève 1954 phần
đông chuyên nghề ruộng rẫy vì họ vốn là nông dân. Đến Biên Hòa và Long Khánh
(cũ), vì không có ruộng, họ chuyển qua làm nương rẫy. Từ km 118 đến km 125 trên
Quốc lộ 20 vào khoảng trước năm 1968, rừng rậm um tùm còn mọc sát quốc lộ, dân
cư thưa thớt. Đất đỏ bazan màu mỡ đã thu hút mạnh mẽ đông đảo người Hoa tới phá
rừng làm nương rẫy. Họ giỏi về trồng tỉa đậu tương và thuốc lá, hai loại cây công
nghiệp ngắn ngày có giá trị cao, cũng đòi hỏi kĩ thuật cao.
Công cụ trồng trọt phổ biến và đơn giản là chiếc cuốc bàn lưỡi to dùng để lật
đất, xới đất và làm cỏ ở nơi đất đỏ xen đá cứng. Từ trước ngày giải phóng, một số
hộ người Hoa có khả năng đã mua máy cày lớn, máy xới nhỏ để làm đất trên các
nương rẫy, cuối vụ thì các loại máy nói trên được dùng chuyên chở sản phẩm thu
hoạch.

44 Pages 431-440

▲back to top


44.1 Page 431

▲back to top


Hàng năm, người Hoa trồng hai vụ đậu tương. Vụ đầu làm vào sau Tết âm
lịch. Khoảng tháng hai ta, họ làm đất, xới cỏ, để khô rồi đốt. Do có kinh nghiệm
quan sát thời tiết, họ thường gieo hạt vào đúng một tuần trước khi có những cơn mưa
đầu mùa. Hạt giống nằm dưới lớp đất mỏng gặp mưa sẽ nảy mầm, từ đó trở đi mưa
đều thì cây mọc mạnh. Nếu để có mưa mới tra hạt thì cây mọc không đều, không tốt.
Bà con giải thích là "mưa làm đất lạnh đi". Đứng về góc độ khoa học, có thể giải
thích sơ lược như sau: trời mưa làm đất mặt ngậm nước khác nhau. Gieo hạt vào nơi
đất vón cục, rễ cây non sẽ kém phát triển; nắng vài bữa cục đất khô đi, cây non không
sống nổi. Còn gieo hạt dưới lớp đất tơi xốp ẩm đều, cây mọc đều hơn.
Vụ đậu tương thứ nhất thu hoạch đúng lúc mưa nhiều nên phơi khó khăn.
Mùa đậu tương thứ nhì bắt đầu vào tháng 8 dương lịch, lúc xảy ra "hạn bà
chằn" (khoảng cuối tháng sáu âm lịch). Thu hoạch xong vụ đầu, bà con cuốc xới đất
để đất se đi ít bữa. Gieo hạt xong, mưa ngâu liên tục làm hạt nảy đều và tốt.
Tháng 9 dương lịch, họ bắt đầu trồng thuốc lá. Trước đây giống thuốc lá nâu
- làm thuốc rê - khá phổ biến, nhưng vì giá thấp nên dần dần ít trồng. Bà con trồng
ngày càng nhiều giống thuốc lá sợi vàng, thu hoạch theo kiểu tỉa lá vàng rồi đưa vào
lò sấy. Thuốc lá sợi vàng có giá cao hơn, dùng chế biến thuốc lá điếu.
Cây thuốc lá con hoặc trồng riêng, hoặc trồng xen đậu tương. Đến tháng 12
dương lịch, cây con đã lớn, chịu được khô hạn, chỉ cần sương đêm cũng đủ cho nó
sinh trưởng.
Những năm gần đây, nhiều bà con người Hoa phát triển cây cà phê, tiêu và
điều ở nhiều nơi trong tỉnh. Nhiều hộ trở nên giàu có nhờ làm ăn đúng thời điểm các
loại cây này có giá trên thị trường.
VI.3. Tổ chức xã hội, gia đình và một số nét phong tục tập quán:
Khi nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên cầm đầu vào định cư ở đất
Đồng Nai, họ lập xã Thanh Hà - mà vị trí, phạm vi của xã này khá mơ hồ, đại thể
vùng đất này kéo dài từ Bến Gỗ, Cù Lao Phố tới chợ Biên Hòa bây giờ - Việc lập xã
này phát xuất từ việc quản lí nhân khẩu và thu thuế cho nhà cầm quyền hồi đó (ít
nhất là từ sau năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức hành chính vùng đất Đồng
Nai - Gia Định).
Thời thuộc Pháp, để tiện việc kiểm tra, theo dõi số người Hoa ở tỉnh Biên
Hòa cũ, nhà cầm quyền cho người Hoa ở đây lập thành các bang: bang Quảng, bang
Phúc Kiến, bang Tiều, bang Hẹ (gồm người Hẹ, người Hồ Nam, Hồ Bắc, người Hải
Nam...). Mỗi bang có một trưởng bang đứng đầu gọi là ông bang, có phó bang giúp
việc, do các thành viên của bang bầu ra (và được chính quyền sở tại chấp nhận) theo
nhiệm kì bốn năm. Hết nhiệm kỳ, nếu các trưởng và phó bang vẫn làm tốt và có uy

44.2 Page 432

▲back to top


tín sẽ tái đắc cử. Nhiệm vụ của bang là: thu tiền thuế thân hai năm một lần, ai đóng
đủ sẽ được cấp sổ thông hành để tiện việc giao dịch, đi lại làm ăn (nếu người Hoa
nào không có giấy tờ sẽ bị trục xuất). Một số người Hoa quá nghèo không có khả
năng đóng thuế thân, các ông trưởng và phó bang sẽ đóng cho. Ngoài ra, các trưởng
phó bang có nhiệm vụ đề đạt tâm tư, nguyện vọng của dân Hoa lên chính quyền sở
tại.
Bang trưởng trong thực tế có quyền hạn lớn và đều là những người giàu có.
Gia đình người Hoa mang tính chất phụ hệ gia trưởng sâu sắc. Tộc trưởng
xưa kia có quyền uy nhất định đối với các thành viên trong dòng họ. Ngày nay, tình
hình đã thay đổi nhiều, người giàu thường có uy thế hơn tộc trưởng
Trong quan hệ họ hàng, có điểm khác người Việt: nếu cùng trang lứa (con
chú, con bác, con dì) thì ai sinh trước được làm anh, chị; người sinh sau là em.
Gia đình người Hoa xưa kia là gia đình lớn, có khi mấy thế hệ cùng chung
sống. Nếu năm thế hệ cùng sống dưới một mái nhà (ngũ đại đồng đường) thì gia
đình đó được coi là đại phúc. Nay gia đình nhỏ thay thế gia đình lớn, số gia đình ba
thế hệ cùng sống chung không nhiều. Trong nhà, người cha hoặc người chồng làm
chủ, quyết định mọi việc lớn, nhỏ. Ảnh hưởng lễ giáo Khổng Mạnh tuy đã mờ nhạt
nhưng vai trò người cha, người chồng, người con trai cả vẫn khá rõ. Khi chia gia tài
cho các con thì người con cả thường được nhiều hơn vì anh ta phải cúng giỗ tổ tiên.
Trước đây, con gái Hoa ít được học hơn con trai, ngày nay tình hình đã thay
đổi, họ được học hành ngang nam giới, tham gia nhiều công tác xã hội, dần dần tiến
tới sự bình đẳng nam nữ thực sự.
Cách nay vài chục năm, người ta thấy hiện tượng: con gái người Hoa thường
chỉ lấy chồng Hoa; trong khi đàn ông Hoa lấy vợ các dân tộc khác khá phổ biến. Sở
dĩ có tình hình trên là do: lúc đó số phụ nữ Hoa ít hơn nam giới, cũng có thể do chịu
ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng dân tộc lớn... Ngày nay hôn nhân Hoa - Việt, Hoa - các
dân tộc khác là phổ biến.
Theo phong tục tập quán cũ, trai gái cùng họ (thí dụ họ Trần, họ Lý họ
Trương...) không được lấy nhau vì người Hoa cho là cùng ông tổ, là anh em một nhà.
Người thuộc hai họ kết nghĩa cũng không được lấy nhau. Con cô con cậu ruột nhưng
khác họ có thể lấy nhau. Chuyện quạt ước trâm thề giữa đôi bên cha mẹ hẹn gả con
cho nhau từ lúc còn nhỏ hoặc chưa sinh đã đi vào dĩ vãng.
Ngày nay tục tảo hôn đã biến mất. Nam nữ thanh niên Hoa cưới xin ở độ tuổi
trưởng thành; chế độ một vợ một chồng là phổ biến, bền chặt. Cưới hỏi là kết quả
của việc tự do tìm hiểu giữa đôi trai gái, song ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng môn đăng
hộ đối, nhất là về tài sản.

44.3 Page 433

▲back to top


Lễ cưới của người Hoa ngày nay tương tự người Việt, thường chia làm hai
giai đoạn. Khi đôi trai gái ưng nhau và được hai gia đình chấp thuận thì người ta so
tuổi rồi nhà trai nhờ người làm mai đi dạm hỏi, làm đám nói (lễ ăn hỏi). Ông bà mai
và cha mẹ cô gái thỏa thuận về sính lễ, ngày cưới. Trong số lễ vật cưới của người
Tiều thường có trái cau duy nhất tượng trưng người con gái là vợ một người; cũng
có cô dâu về nhà chồng cặp cây mía biểu thị hạnh phúc ngọt ngào. Người Quảng thì
làm bánh bò nổi (pha cú) hoặc tục lệ ăn chè ỷ (như bánh trôi viên tròn) tượng trưng
cho sự viên mãn, con đàn cháu đống. Đám cưới diễn ra ở từng bên nhà trai, nhà gái;
nhà gái đãi khách bữa trước, nhà trai đãi khách bữa sau; cũng có thể đôi bên đãi
khách chung một ngày. Đám cưới ngày nay đơn giản hơn trước rất nhiều; nhiều lễ
tiết đã bỏ: cô dâu khi về nhà chồng không khóc (xưa kia ra khỏi nhà cha mẹ đẻ, cô
dâu phải khóc lóc kể lể công ơn sinh thành; "Khốc như thiếu nữ vu qui nhật" dịch
nghĩa: "Khóc như thiếu nữ đi lấy chồng"...). Tặng phẩm được thay bằng phong bao
giúp đôi vợ chồng trẻ có món vốn nho nhỏ khi bắt đầu cùng nhau chung sống. Cô
dâu rót nước, rót rượu mời gia đình bên chồng biểu thị sự kính trọng, rót nước mời
chồng đêm tân hôn biểu thị lòng chung thủy phục tùng.
Việc ma chay của người Hoa ở Đồng Nai dần dần có nhiều nét tương tự
người Việt ở địa phương. Họ quan niệm người ta sống gửi, chết về (để sang thế giới
bên kia, hoặc lên cõi nát bàn, hoặc bị sa địa ngục). Một đám tang gồm nhiều bước:
báo tang, phát tang, khâm liệm, phúng điếu, đưa đám chôn cất, lễ mở cửa mả... Người
Hoa di cư (năm 1954) ở vùng nông thôn báo tang bằng cách cho thổi tù và sừng trâu
hoặc phèng la theo tiết tấu nhất định. Ở thành phố, thị xã, thị trấn, lúc đưa đám, ngoài
ban nhạc ngũ âm, đối với tang chủ khá giả, có địa vị xã hội, người ta thấy có một số
ban nhạc tây (có đám tới bốn, năm ban nhạc). Không phải là tang chủ thuê các ban
nhạc này, mà do các thân bằng cố hữu góp vào để tiễn đưa người quá cố, làm không
khí bớt thê lương. Dăm năm trước, khi pháo chưa bị cấm, gia đình có người già qua
đời đốt pháo rộn rã và không khóc lóc (như để mừng người chết được giải thoát khỏi
mọi khổ đau trên đời).
Người thuộc bang nào chôn cất ở nhị tì (nghĩa địa) bang đó. Nhị tì thường
xây cổng lớn ghi rõ tên bang, bên trong có nhà nghĩa từ, có nghĩa đường bài vị người
quá cố, có cây long khán thờ thổ thần. Trước đại chiến thế giới thứ hai (1939 - 1945)
nhiều người Hoa ở bang Quảng cải táng bốc cốt thân nhân mang về quê cha đất tổ ở
Trung Quốc, xây phần mộ. Mồ mả người Hoa thường xây nấm lớn mong có tính
cách trường tồn. Hàng năm người thân tổ chức sửa sang mồ mả vào cuối tháng chạp
âm lịch và vào tiết thanh minh (cuối tháng hai ta).
Trong đời sống tâm linh, người Hoa coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, "uống
nước nhớ nguồn". Bàn thờ tổ tiên đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà, với chiếc lư
hương, cặp chân nến và một số bài vị. Mỗi nhà - nhất là người buôn bán - đều thờ
thổ địa, thần tài ở cùng một trang thờ đặt sát đất. Họ cũng có những trang thờ: Cửu

44.4 Page 434

▲back to top


Thiên huyền nữ, Quan Thánh đế quân, Tiền hậu địa chủ tài thần, thờ Bát quái... Các
nhà buôn có miếng giấy dán ở cửa ra vào thờ thổ công, hàng tháng cúng cô hồn hai
lần vào ngày mùng hai và mười sáu âm lịch.
Mỗi năm, người Hoa có một số lễ trọng vào ngày 14 tháng giêng âm lịch (lễ
Thượng nguyên), ngày hai mươi tám tháng hai (lễ Thanh minh), ngày 5 tháng năm
(tưởng nhớ Khuất Nguyên), rằm tháng bảy (lễ Vu lan, Trung nguyên), rằm tháng
tám (Trung thu), ngày 9 tháng chín (Trùng cửu), rằm tháng mười (Hạ nguyên).
Khi xa xứ tha phương, cộng đồng người Hoa lo kiến tạo một số công trình
phục vụ: đền chùa, trường học, nhà thương. Ở Đồng Nai họ dựng chùa Ông thờ
Quan công ở Cù Lao Phố (dân thường gọi là Thất phủ Quan Võ cổ miếu, sách Gia
Định Thành thông chí viết là miếu Quan Đế xây dựng từ năm 1684); chùa này cúng
Quan công ngày 24 tháng sáu âm lịch, cúng Kim Hoa nương nương ngày 17 tháng
tư và cúng bà Thiên Hậu ngày 23 tháng ba. Chùa Ông ở Phước Thiền (huyện Nhơn
Trạch) và chùa Ông (thị trấn Xuân Lộc, huyện Long Khánh) đều cúng lễ ngày 12
tháng ba; chùa Ông (phước Thiền) còn lễ kì yên ngày 16 tháng 11... Quan công
tượng trưng cho trung cang nghĩa khí, trung nghĩa thiên thu, là khuôn vàng thước
ngọc của tình bạn, tình anh em kết nghĩa. Do đó nhiều gia đình người Hoa cũng thờ
tranh Quan công trong nhà, trang thờ đặt ở nơi trang trọng. Chùa Bà thờ bà Thiên
Hậu ở Bửu Long, hàng năm lễ cúng tổ chức vào ngày 13 tháng ba âm lịch. Người ta
đến đây cầu mong làm ăn phát tài, đi đường gặp nhiều may mắn; nếu ai được như
lời cầu xin thì họ làm lễ tạ ơn rất hậu. Ba năm, nơi đây làm lễ lớn một lần. Ai đến
chùa này nếu tinh ý sẽ thấy bà Thiên Hậu được thờ ở bàn thờ bên trái nhìn từ ngoài
vào. Bàn thờ chính giữa thờ ba pho tượng: Uất Trì Cung (tổ sư nghề làm đá), Lỗ Ban
(ông tổ nghề mộc) và Ngũ Đinh (ông tổ nghề rèn). Lễ cúng Ngũ đăng tổ sư từ ngày
10 đến 13 tháng sáu. Cả ngôi chùa được xây bằng phiến đá - nguyên liệu tại chỗ -
càng khẳng định: chùa Bà thoạt đầu là ngôi miếu thờ các tổ nghề thủ công, sau này
người ta thờ thêm bà Thiên Hậu để thu hút khách hành hương. Chùa Bà thoạt đầu có
tên là miếu Tổ Sư song cái tên này đã bị quên. Các câu đối trong chùa hầu như không
nói bao nhiêu về Bà, mà chủ yếu ca tụng nghề. Đình Tân Lân (gần chợ Biên Hòa)
thờ Trần Thượng Xuyên cúng ngày 26 tháng mười. Phụng Sơn tự ở thành phố Biên
Hòa thờ Quảng Trạch tôn vương, hàng năm cúng lễ hai lần vào các ngày 22 tháng
hai và 22 tháng tám. Mỗi khi cúng, người Hoa đều có dàn nhạc lễ phụ họa các nghi
thức. Tục bán đấu giá đèn lồng ở các đền chùa của người Hoa rất đặc sắc: vài năm
mỗi đền chùa tổ chức bán một lồng đèn, ai trả giá cao nhất sẽ thắng, số tiền ấy dùng
vào việc cúng tế hoặc việc công ích và được quản lí chặt chẽ (do một ban trị sự được
cộng đồng cử ra). Người mua là nhà giàu mong được các thần phù hộ cho gia đình
mình thêm phúc, lộc, thọ, khang, ninh...
Để giữ gìn tiếng nói và chữ viết là bản sắc văn hóa dân tộc, người Hoa thường
mở các trường lớp dạy chữ và tiếng Hoa. Ở thành phố Biên Hòa trước kia có Trường

44.5 Page 435

▲back to top


Dục Đức (nay đổi là Trường Hùng Vương); nguồn kinh phí xây dựng do tiền công
đức của chùa và do các Mạnh Thường quân đóng góp. Ở thị trấn Xuân Lộc có trường
Quang Trung cũng do người Hoa đóng góp xây dựng nên. Để làm kinh tế, người ta
xây một số căn phố rồi cho mướn, lấy tiền đó trả cho các thầy cô giáo dạy chữ Hoa
(ở Biên Hòa, bang Quảng có 10 căn, ở thị trấn Xuân Lộc có 8 căn). Như vậy các
chùa nuôi các trường.
Ở tỉnh Biên Hòa (cũ), vì cộng đồng người Hoa không đông nên chưa đủ khả
năng mở nhà thương riêng như ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Các thế hệ người Hoa đã cùng các dân tộc anh em góp phần xây dựng đất
Đồng Nai từ khá lâu đời. Trong hai thời kỳ kháng chiến vừa qua, đồng bào Hoa đã
góp một phần xương máu, của cải vào sự nghiệp giải phóng dân tộc vĩ đại. Ngày
nay, cộng đồng người Hoa lại kề vai sát cánh cùng hơn bốn chục dân tộc ít người
trong tỉnh ra sức xây dựng cuộc sống mới, đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu, ngày càng ấm
no, hạnh phúc, công bằng, văn minh.
VII. NGƯỜI CHĂM:
VII.1 Dân số và phân bố:
Dân tộc Chăm được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Chàm, Chiêm Thành,
Hời, Chămpa, Chà Và Ku... nhưng Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam do
Tổng cục thống kê ban hành ngày 2 - 3 - 1979 thống nhất gọi là dân tộc Chăm. Ngôn
ngữ của họ thuộc dòng Nam Đảo (Malayô - Pôlinêxia), họ phân bố rộng rãi từ miền
Nam Trung Bộ (hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận) tới miền Tây Nam bộ (Châu Đốc,
tỉnh An Giang), Campuchia (do đó có tên Khmer Ixlam), Thái Lan, Malaixia, đảo
Hải Nam (Trung Quốc).
Theo sử cũ, dưới thời nhà Lê, vào năm 1471, Trà Toàn - vua Chăm - bị đánh
bại, vương quốc Chămpa suy vong khiến một bộ phận người Chăm phải dạt vào
miền Tây Nam bộ, sang Campuchia và nhiều nơi khác.
Người Chăm ở miền Tây Nam bộ (cũng như ở Campuchia, Thái Lan,
Malaixia...) do tiếp xúc mật thiết với người Mã Lai, Ấn Độ nên đã theo đạo Ixlam,
họ còn được gọi là Chăm Ixalam. Họ tiếp thu một số từ ngữ Á rập, Mã Lai; trong
khi đó người Chăm ở Nam Trung Bộ tiếp thu một số từ ngữ Việt do mối giao lưu
Chăm - Việt lâu đời.
Người Chăm ở Đồng Nai hiện nay có nguồn từ Châu Đốc, Sài Gòn, Tây
Ninh, Campuchia (dạt về năm 1970 khi Lon Nol lên cầm quyền ở đó). Họ bị chế độ
Sài Gòn gom đưa về ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) ngày 19 - 9 - 1972. Sau
hiệp định Paris, địch âm mưu dùng số đồng bào này vào việc khai quang địa bàn,
tranh chấp lấn chiếm vùng giải phóng, phong tỏa ngăn chặn lực lượng ta từ vùng núi

44.6 Page 436

▲back to top


Chứa Chan xuống vùng núi Mây Tàu. Chúng trả cho mỗi ha rừng khai phá 70 ngàn
đồng tiền Sài Gòn, gỗ và than củi bán được là khoản thu nhập thêm không nhỏ của
nhiều hộ gia đình. Mới về Xuân Hưng song người Chăm đã có liên hệ với cách mạng.
Nhiều người tham gia bảo vệ, tiếp tế, nuôi giấu lực lượng cách mạng bám trụ địa
phương.
Năm 1996 toàn tỉnh có 1848 nhân khẩu Chăm thì riêng ấp 4 xã Xuân Hưng
có 1.503 người, số còn lại ở rải rác khắp tỉnh.
VII.2 Vấn đề làm ăn sinh sống:
Tháng 9 - 1972 khi mới về ở Xuân Hưng, bà con người Chăm làm than củi
là chính. Họ khai hoang được nhiều ruộng đất; khi cây rừng đã cạn, đại bộ phận
chuyển sang làm ruộng, trồng lúa, khoai, đậu...
Thổ nhưỡng Xuân Hưng là đất thịt pha cát ít mùn, độ phì không cao. Việc
canh tác hoàn toàn trông chờ "nước trời" trong mùa mưa. Còn vào mùa khô kéo dài
sáu tháng, do ở đây không có công trình thủy lợi nào, bà con không thể trồng tỉa gì.
Nếu có hồ chứa nước như ở các nơi khác, bà con có thể tăng vụ, trồng tỉa thêm một
số hoa màu: rau, dưa... Máy móc nông nghiệp có ít, bà con dùng sức người và sức
trâu bò là chính vào việc cày bừa làm đất. Phân trâu bò và gia súc khác được tận
dụng để bón ruộng khiến năng suất lúa, khoai, đậu, rau... đạt mức từ trung bình trở
lên so các xã khác trong huyện.
Hơn hai mươi năm qua, do thiếu đói nên nhiều hộ Chăm đã sang nhượng
khoảng 150 ha đất cho doanh nghiệp tư nhân Lý Thái Thuận (để kinh doanh trồng
điều và tre) và một số ruộng đất khác cho những người mới tới gần đây.
285 hộ trong tổng số 323 hộ Chăm (bằng 88,2%) có ruộng đất sản xuất, một
số hộ chỉ có 0,3 ha, trung bình là 0,6 ha/hộ, nhưng cũng có một số hộ có trên dưới 2
ha. Kĩ thuật canh tác, mùa vụ của người Chăm ở Xuân Hưng đều theo tập quán sản
xuất của dân địa phương.
5 hộ trồng cà phê và 1 hộ chạy xe đò có mức thu hoạch cao.
Đại bộ phận người Chăm ở Xuân Hưng có mức sống trung bình, 75 hộ (bằng
23,2%) thuộc diện xóa đói giảm nghèo, hàng ngày phải đi làm mướn hoặc nhặt phân
trâu bò gom lại bán cho người trồng tỉa.
Đạo Ixlam cho con heo là loài dơ bẩn nên người Chăm ở Xuân Hưng không
nuôi heo; chỉ nuôi trâu bò, dê, gà vịt...
Năm 1994, thực hiện dự án 61, Nhà nước cấp cho bà con Chăm 100 con bò
sinh sản nhằm phát triển đàn bò ở địa phương. Nhưng do thiếu đói bà con đã bán
hầu hết để mua gạo ăn; đến đầu năm 1997 chỉ còn 11 con (sinh sản được 6 con bê),
mua trâu thay thế song đàn trâu bò của bà con cũng chỉ có 21 con.

44.7 Page 437

▲back to top


VII.3 Xã hội, gia đình, phong tục tín ngưỡng:
Về mặt xã hội, ông giáo cả (hakim hakem) là người lãnh đạo tinh thần của
cộng đồng người Chăm, ông phải giỏi giáo lí đạo Ixlam, làu thuộc kinh sách; trước
kia được dân bầu và giữ chức vụ này suốt đời, nay được bầu theo nhiệm kì vài năm.
Ông phó giáo cả (naêp) cũng là người giỏi giáo lí, chuyên dạy kinh Qur'an cho trẻ
em. Mỗi tổ nhân dân có ông tổ trưởng (ahly). Các vị này nếu không được tín nhiệm
(do uống rượu hoặc mắc lỗi nặng) thì bị bãi miễn, cộng đồng bầu người khác. Xưa
kia các vị này và hội đồng bô lão có toàn quyền giải quyết cả việc đạo lẫn việc đời.
Nay việc đời do đại biểu ấp, cán bộ HĐND, MTTQ, UBND xã giải quyết. Tuy vậy
vai trò của ông giáo cả vẫn rất lớn. Ai phạm các điều cấm: đĩ điếm, uống rượu, đánh
bạc, trộm cắp, cho vay nặng lãi... thì có thể bị ông giáo cả phạt từ 50 đến 100 roi ở
nơi công cộng.
Đạo Ixlam đặt ra lịch Hồi; lịch chia năm ra 12 tháng thì 6 tháng có 30 ngày
và 6 tháng có 28 ngày, mỗi tuần có 7 ngày. Mỗi năm của lịch Hồi có 348 ngày, lịch
này dùng trong các ngày lễ của người theo đạo Ixlam. Ông giáo cả (hakim) và ông
phó giáo cả (naêp) nắm rất vững lịch này để tiến hành các nghi lễ của đạo trong năm
(vì lịch Hồi không khớp với dương lịch cũng như lịch âm dương của chúng ta).
Trong khi người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận theo đạo Bàlamôn và đạo
Hồi cũ còn chịu ảnh hưởng sâu sắc chế độ theo dòng mẹ thì người Chăm Ixlam ở
Đồng Nai đã xác lập chế độ theo dòng cha từ lâu. Trong gia đình, người cha và người
chồng có nhiều quyền hành. Con cái mang họ cha. Ông Youssov Ossamain (đọc:
Yuxố Ôxman) - thường gọi là Xốc Man - có con gái tên là Ossamain Sophiah (đọc:
Ôxman Xôphi - á), và con trai đặt tên Ossamain Soleh (đọc: Ôxman Xôlế)...
Việc đặt tên cho đứa trẻ do ông giáo cả (hakim) hoặc (naêp) đảm nhận theo
quy định của kinh Qur'an. Đứa trẻ sinh vào buổi nào, ngày nào trong tuần thì phải
đặt tên là gì? Tên cha đặt trước tên đứa trẻ khiến mọi người không lầm lẫn được.
Tên nam giới thường là: Muhamad, Halim, Issamael, Ossamain, Yacob, Abdullah,
Ibrahim, Youssov, Ismail, Ahmet, Abdel, Hariff, Mahli, Karim... Tên nữ giới thường
là: Tima, Saroh, Fatimah, Khotichah, Maymanah, Aminah, Mariyam, Marien,
Saynop, Rokeh, Maysum, Abidah... Đây là các tên thường gặp trong các cộng đồng
Ixlam với những biến thể, từ vùng Bắc Phi, Trung Cận Đông, Trung Á, Đông Nam
Á...
Trong quan hệ thân tộc, người Chăm ở Xuân Hưng chưa phân biệt chặt chẽ:
- Cụ ông: ôông
- Chị: chi long ca may

44.8 Page 438

▲back to top


- Ông nội, ông ngoại: - Em trai: tei kei (thêm từ chỉ thứ tự)
ôông ca may
- Cụ bà, bà: mây, may
- Em gái: tei ca may (thêm từ chỉ thứ tự)
- Bà nội, bà ngoại: mây ca may - Em rể: tei rany
- Cha: ya
- Em dâu: tei rany ca may
- Mẹ: mạ
- Con trai: mị kei
- Bác: wa
- Con rể: mị matau
- Chú, cậu, dượng: míu
- Con gái: mị ca may
- Chú chồng, chú vợ, thím, mợ: - Con dâu: mị matau ca may
míu la cay
- Cha chồng, cha vợ: tăm ha - Cháu trai: ca muôn
- Mẹ chồng, mẹ vợ: - Cháu trai họ: ca cho
tăm ha ca may
- Bác chồng, bác vợ: hòa la cay - Cháu gái: tạ cho
- Cô: mạ
- Cháu gái họ: tạ cho
- Anh: chi long kei
(thứ mấy thì thêm từ chỉ thứ tự)
Theo luật tục Ixlam, phụ nữ phải sống kín đáo, riêng biệt, không tiếp khách
đàn ông nếu nhà chỉ có một mình. Nam nữ không ngồi chung chiếu. Các thiếu nữ từ
15 tuổi trở lên phải đội khăn che kín mặt khi ra đường. Mỗi cô gái hoặc phụ nữ đều
được cả cộng đồng lưu ý quan sát khi người đó ra khỏi nhà. Trai gái Chăm chưa
được tự do tìm hiểu, yêu đương. Ngày nay cởi mở hơn, qua tiếp xúc mà họ quen biết
nhau thì phải tiến tới hôn nhân - tuy việc bà mẹ chú ý quan sát các thiếu nữ để tìm
vợ cho con trai vẫn là chính - với đủ năm điều kiện:
- Người phối ngẫu phải là tín đồ đạo Ixlam.
- Trong buổi lễ cưới phải đủ mặt dâu, rể.
- Hai người đều trưởng thành, đủ trí khôn.
- Cha vợ chấp thuận chú rể.

44.9 Page 439

▲back to top


- Trao đủ tiền dẫn cưới cho cô dâu.
Người Chăm tổ chức đám cưới tương tự các dân tộc anh em. Sau khi so tuổi,
nhà trai làm đám nói (ploh panuôic: lễ dứt khoát lời nói) gồm cha mẹ, bà con, hàng
xóm có uy tín và ông (ahly: tổ trưởng) mang một mâm hoa quả và lễ vật qua nhà
gái để trao đổi chuyện trò. Vài bữa sau, nhà gái - với thành phần tương tự - mang
một mâm bánh và hoa quả qua nhà trai đáp lễ. (Trong đám nói, nếu cha mẹ vắng mặt
vì lí do bận việc thì ông bà mai (ôn/mụ maha) thay mặt cũng được).
Trước ngày cưới khoảng một tháng, nhà trai đem tiền chợ và vải, áo, chăn
mền cho nhà gái (theo thỏa thuận giữa đôi bên).
Lễ cưới (la khah) tiến hành theo hai bước:
- Ngày dựng việc hay lễ nhóm họ (hagây pađưng barik): cả hai đàng nhà trai
và nhà gái đều trang hoàng nhà cửa đẹp đẽ, song bên gái lộng lẫy rực rỡ hơn vì có
phòng hoa chúc của đôi tân lang, tân giai nhân. Chàng rể ăn mặc trang phục dân tộc
như một hadji đi hành hương ở thánh địa Mecca (Arap Xêut). Cô dâu ăn mặc và
trang sức lộng lẫy như một tiểu thư. Hai người ngồi trên ghế lễ xong, mỗi bên được
ôn uôk, mụ uôk hướng dẫn và làm lễ ở hai nơi khác nhau. Một bô lão khấn vái, đọc
kinh Qur'an; những người chung quanh đọc theo và chúc tụng chú rể, cô dâu. Xong
nghi lễ này, chú rể mới được gọi là pa nganh tanh la kei, cô dâu được gọi là pa
nganh tanh ca mây.
Tối ngày dựng việc, chú rể và cô dâu đều tiếp bè bạn đến chúc tụng. Đặc biệt
những cô gái cấm cung theo tục lệ vào dịp này được gia đình đưa đến tham dự.
Những bà mẹ các chàng trai thường có mặt trong dịp này để tìm hiểu, lựa con dâu
tương lai.
- Ngày cưới hay ngày đưa rể (hagây he): vào buổi sáng hôm sau, nhà trai đưa
rể sang nhà gái. Đi đầu là ông hakim hay ahly, một số bô lão rồi đến ông bà mai,
chàng rể và bạn bè thân thuộc.
Đến nơi, họ nhà trai được nhà gái đón tiếp nồng nhiệt. Sau khi hai họ uống
nước, hút thuốc, ăn trầu thì lễ cưới bắt đầu. Ông hakim hay ahly đọc xong kinh
Qur'an, cha vợ (tăm ha) - hoặc người đại diện họ gái đặt vào tay con rể (mị matau)
và nói một câu đại ý: "Ba bằng lòng gả con gái cho con với số tiền là...". Câu nói có
tính nghi thức kinh điển này phản ánh tục lệ xưa coi hôn nhân là mua bán. Nay
UBMTTQ xã đề nghị sửa lại thành lời cầu chúc hai con hạnh phúc trăm năm.
Sau đó mọi người chúc mừng, trao tặng phẩm hoặc tiền phong bao cho cô
dâu chú rể rồi vào tiệc vui vẻ. Tiệc cưới của người Chăm ở Đồng Nai không có bia,
rượu (vì phạm luật cấm của đạo Ixlam).

44.10 Page 440

▲back to top


Chú rể sống với cô dâu trong phòng hoa chúc và ở lại nhà vợ; đây là tàn dư
phong tục xưa kia khi chế độ theo dòng mẹ còn thịnh hành. Tùy theo sự bàn bạc giữa
hai nhà, chàng rể ở bên vợ lâu hay mau, hoặc có thể ra ở riêng sống tự lập do hai bên
thỏa thuận. Bây giờ, sau đám cưới thường cô dâu về ở bên chồng.
Theo kinh Qur'an và luật tục Ixlam, vợ chồng không được li dị nhau. Trong
thực tế, người Chăm Ixlam vẫn có chuyện li dị, người chồng li hôn dễ hơn vợ rất
nhiều. Nếu người chồng có bằng cứ vợ mình trò chuyện, giao tiếp với người đàn ông
khác khi mình vắng nhà, anh ta có thể lấy đó để thưa với ông giáo cả (hakim) mà xin
li dị vợ. Người vợ có thể xin li dị với lí do người chồng không quan tâm nuôi nấng
vợ con, tất nhiên phải được cộng đồng thẩm định...
Đạo Ixlam cho phép đàn ông lấy tới bốn vợ (với điều kiện kinh tế của anh ta
cho phép nuôi chừng ấy vợ con). Hiện nay ở Xuân Hưng, hầu hết đều một chồng
một vợ. Tội ngoại tình bị trừng phạt nặng. Người phụ nữ theo luật tục có thể bị chôn
sống, bị ném đá cho tới chết hoặc bị cột vào con bò đi bêu riếu khắp làng. Người đàn
ông bị phạt roi và tiền. Nay ta vận động bỏ luật tục hà khắc này.
Khi có người chết, người Chăm ở Xuân Hưng tiến hành chôn cất như nhiều
dân tộc anh em khác. Gia đình có người hấp hối thì người ta báo cho ông giáo cả
(hakim), ông naêp và cộng đồng. Người thân đọc kinh Qur'an cầu cho người sắp chết
được cứu rỗi.
Thi hài được tắm rửa sạch sẽ, nam giới được tẩm liệm bằng 12m vải trắng,
nữ giới thì 16m. Ông giáo cả (hakim) hay phó giáo cả (naêp) tới đọc kinh Qur'an cầu
siêu cho người quá cố. Thân nhân không khóc lóc, kể kể than vãn làm mất vẻ nghiêm
trang u buồn của đám tang. Thường thì thi hài chỉ quàn trong nhà một ngày rồi đem
chôn với nghi lễ đơn giản. Xác đặt trên một cái cáng (hanh đu tấm ván trên có mui
che như mui ghe) và do sáu hoặc tám người khiêng. Người đưa ma đi lặng lẽ sau
hanh đu, không tiếng khóc than, không kèn không trống, thỉnh thoảng dừng lại một
chút để linh hồn người quá cố nhìn lại quê hương, nơi sinh sống đầy tình cảm quyến
luyến. Đến huyệt đào sẵn, sâu khoảng 1,6m khoét lõm về phía Đông, người ta đặt
xác theo tư thế nằm nghiêng, mặt ngoảnh hướng Tây (về phía thánh địa Mecca), sau
đó úp miếng ván mau mục nhất rồi lấp bằng mặt đất. Hai đầu mộ đặt hai viên đá
hoặc bia để đánh dấu. Tối hôm đưa đám, gia đình tang chủ và bà con quen biết tập
hợp ở thánh đường đọc kinh cầu siêu, sau đó cùng nhau dùng chung bữa cơm.
Từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 40, mỗi ngày hai lần: vào lúc mặt trời vừa
mọc và lúc mặt trời sắp lặn, gia đình phải có người ra mộ đọc kinh tưởng nhớ người
quá cố (nếu không có ai, có thể thuê người đọc kinh, không được bỏ). Các ngày thứ
ba, thứ bảy, thứ bốn mươi và một trăm ngày, gia chủ mời ông giáo cả (hakim) làm
lễ cầu hồn. Ngoài ra, gia chủ không còn phải làm thêm lễ cúng gì khác. Gia đình

45 Pages 441-450

▲back to top


45.1 Page 441

▲back to top


không có bàn thờ để thờ cúng những thế hệ đã qua đời. Hàng năm, họ có thể cúng
giỗ và phải nhờ người thạo kinh Qur'an tới đọc kinh cầu siêu.
Người Chăm Ixlam có các lễ trọng:
- Lễ bắt buộc vào thứ sáu hàng tuần (chum at), vào lúc 5 giờ chiều. Tín đồ
Ixlam nếu đi làm công, thường xin nghỉ và làm bù chủ nhật.
Thánh đường của người Chăm ở Xuân Hưng xây cất năm 1973 còn gọi là
chùa (mosjid, xâm kí) làm đơn giản. Trong thánh đường, có một bộ phận trông giống
tủ thờ nhưng không có vật gì; cạnh tủ treo áo dài và cây gậy của ông giáo cả (hakim)
dùng hành lễ. Bà con cho rằng niềm tin vào Đức Olloh (hay Allah) là tuyệt đối nên
không cần ảnh tượng thờ. Nền thánh đường trải nhiều chiếu để tín đồ quì đọc kinh.
Ngay ở cửa thánh đường, có một hồ (bồn) nước sạch lớn. Mỗi tín đồ trước
khi làm lễ, phải tẩy uế (xâm bayăng), khoát nước rửa (theo thứ tự) ba lần: mặt, tai,
đỉnh đầu, tay, chân. Lúc này không ai nói chuyện. Người ta bước chân phải vào
thánh đường. Người vào chào: "Axalam alâycum", những người có mặt bên trong
đáp lại đồng thanh: "Alâycum axalam"...
- Lễ Mâu lut vào ngày 12 tháng 3 lịch Hồi, kỉ niệm ngày sinh của đấng
Muhammed, nhà sáng lập đạo Ixlam.
- Lễ Ramađan là tháng nhịn hay tháng ăn chay, liên tục từ ngày 1 đến 30
tháng 9 lịch Hồi. Ban ngày, người ta không ăn, không uống, không hút thuốc, không
nuốt nước miếng. Từ lúc mặt trời lặn, mọi người mới ăn uống bình thường. Tháng
Ramađan đặt ra để tưởng nhớ thời kỳ gian khổ nhất của cố giáo chủ Muhammed khi
phát triển đạo Ixlam. Mọi người không đi làm; nhưng bây giờ bà con lao động bình
thường. Phụ nữ có thai, trẻ em, người già, người bệnh được phép ăn uống bình
thường.
- Lễ bố thí (roya phik trok) vào ngày 1 tháng 10 lịch Hồi. Mọi người ăn Tết
một ngày sau tháng nhịn, họ thăm viếng nhau, chúc nhau sức khỏe và xin tha thứ
mọi lỗi lầm. Vào ngày này, người Chăm Ixlam có tục lệ bố thí 2% số lúa làm ra cho
người neo đơn, mất sức lao động, trẻ mồ côi, người tu hành già cả, vợ chồng trẻ mới
cưới... Mỗi hộ bố thí (zacat) cho một vài đối tượng dưới sự chứng kiến của ông giáo
cả.
- Lễ hành hương thánh địa Mecca (roja hadji). Mỗi tín đồ Ixlam đi hành
hương đến Mecca trước ngày 10 tháng 12 lịch Hồi, sẽ được tặng danh hiệu hadji
vinh dự. Ai cũng mong ít nhất một lần trong đời hành hương đến Mecca và nhận
danh hiệu vẻ vang đó.

45.2 Page 442

▲back to top


Hiện nay, người Chăm ở Đồng Nai đang kề vai sát cánh cùng các dân tộc
anh em, ra sức lao động cần cù, xây dựng cuộc sống mới ngày càng ấm no, hạnh
phúc.
VIII. NGƯỜI MƯỜNG:
VIII.1 Nguồn gốc, dân số và phân bố:
Theo ý kiến các nhà nghiên cứu và căn cứ nhiều tài liệu khoa học khác nhau,
ngày nay người ta nhận định tương đối thống nhất: người Mường và người Việt là
cư dân bản địa Việt Nam; tổ tiên người Mường và người Việt là người Lạc Việt, chủ
nhân nền văn hóa Đông Sơn nói riêng, nền văn minh sông Hồng nói chung.
Người Mường cư trú thành vệt dài từ các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình,
Ninh Bình tới Thanh Hóa, nhưng tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình.
Danh từ Mường thực ra để chỉ một địa phương, một vùng, một khu vực qui
mô rộng hẹp khác nhau (như: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường
Động, Mường Ống là các mường nổi tiếng của đồng bào). Nay danh từ này trở thành
tên gọi chính thức của một dân tộc ít người. Bà con còn tự gọi là: Mol, Muan... có
nghĩa là người.
Về phương diện nhân chủng, người Mường thuộc dòng Nam Á, tiểu chủng
Môngôlôit phương Nam, nhóm Việt - Mường.
Đồng bào Mường từ miền Bắc di cư tới Đồng Nai (lúc đó là tỉnh Long
Khánh) từ sau hiệp đinh Genève tháng 7 - 1954, được đưa về định cư tại ấp Ân Lập,
xã Bình Hòa (nay là xã Phú Túc, huyện Định Quán). Quê hương bà con ở hai tỉnh
Hòa Bình và Phú Thọ.
Năm 1996, tổng số người Mường ở toàn tỉnh Đồng Nai là 2.673 (có 1340
nữ), trong đó huyện Định Quán đông nhất, 2.016 nhân khẩu; xã Phú Túc tập trung
tới 1.328 nhân khẩu (ở ba ấp Tân Lập, Bình Hòa, Cầu Ván). Số còn lại ở rải rác các
huyện: Xuân Lộc 306 người, Tân Phú 138, Vĩnh Cửu 75, Thống Nhất 68...
VIII.2 Sinh hoạt kinh tế:
Người Mường ở Đồng Nai chủ yếu sống bằng nghề nông. Số hộ buôn bán
và làm các nghề khác không đáng kể. Họ biết làm ruộng từ lâu đời, định canh định
cư. Cây trồng quan trọng nhất là lúa nước.
Ngay khi mới tới định cư ở ấp Ân Lập (nay đổi thành ấp Tân Lập) bà con bắt
tay khai hoang cánh đồng Chóoc rộng hàng trăm mẫu - lúc đó là đất bỏ hóa trong
phạm vi làm rẫy hưu canh của người Châu Ro cư ngụ tại các ấp Đồng Xoài và Đức
Thắng ở bên kia Quốc lộ 20 - Cách nay hơn bốn mươi năm, cánh đồng này còn nhiều
cây rất to, cây nhỡ, bụi rậm phủ kín và một số lõm cỏ tranh mọc xen cây bụi. Bà con

45.3 Page 443

▲back to top


người Mường kiên nhẫn đốn cây, phát bụi và cỏ, san đất... trong nhiều năm liền, đã
biến cánh rừng này thành cánh đồng tương đối bẳng phẳng trồng tỉa được.
Đất đai ở đây là đất pha cát, pha sét và đất thịt, các thửa ruộng có độ cao thấp
không đều nên việc đắp bờ giữ nước tốn nhiều công sức thủa đầu. Cả vùng không
có sông suối, việc làm ruộng hoàn toàn trông chờ trời mưa. Trước kia, bà con chỉ
trồng một vụ mùa; nay nhờ đưa khoa học kĩ thuật vào, có chỗ làm được hai vụ: đông
xuân và hè thu song diện tích lúa đông xuân không lớn.
Kĩ thuật trồng lúa của bà con tương tự như người Việt sống bên cạnh, gồm
nhiều khâu: khi bắt đầu có mưa thì cày vỡ một, hai lần, bừa và nhặt sạch cỏ, gieo
mạ, cấy, làm cỏ, bón đón đòng... Cho đến nay, hầu như mọi việc lao động đều bằng
sức người, sức trâu bò là chính tuy bà con đã mua sắm được dăm chiếc máy cày,
máy xới và một số máy bơm... để giảm nhẹ nặng nhọc.
Bộ công cụ làm ruộng gồm: cày, bừa, cuốc, xẻng, liềm, gầu, dao, cào cỏ...
Để đạt năng suất cao, bà con tận dụng phân bắc, phân chuồng bón ruộng, đồng thời
cũng dùng nhiều phân hóa học.
Ngoài lúa, bà con còn trồng rau xanh, cà, bí, đậu xanh... Một số hộ có rẫy xa
nhà đã trồng cà phê, điều, bắp, đậu...
Gia đình nào cũng chăn nuôi ít nhiều gia súc: trâu, bò, heo, gà vịt (gà vịt
thường nuôi ở rẫy xa nhà để tránh dịch bệnh và phá hoại vườn hàng xóm). Chăn nuôi
đang trên đà trở thành ngành sản xuất hàng hóa, tạo nguồn thu nhập thêm cho mọi
nhà.
Một số người đánh cá trên sông La Ngà vào lúc nông nhàn.
Các nghề thủ công: dệt, rèn... không tồn tại nữa.
Việc hái lượm: rau rừng, củ quả, cua ốc... ngày càng ít.
Nhìn chung mức sống của đồng bào chưa cao; không còn hộ đói nhưng số
hộ nghèo cần được trợ giúp xóa đói giảm nghèo khoảng trên dưới 30%.
VIII.3. Tổ chức xã hội, gia đình và phong tục tập quán:
VIII.3.1. Tổ chức xã hội:
Xưa kia, người Mường cư trú thành xóm quêl, làng xã, mường (có mường
rộng bằng dăm, bảy xã; có mường chỉ gồm một xã). Đứng đầu mường là các chức:
lang, đạo, thổ ti (tùy địa phương) có thế lực, có quyền hành rất lớn.
Từ năm 1954, người Mường (ở Hòa Bình và Phú Thọ) di cư vào ấp Ân Lập
làm ăn, chế độ lang đạo không còn. Ruộng đất do gia đình nào khai phá thì thuộc
quyền sở hữu của nhà đó.

45.4 Page 444

▲back to top


Ở Đồng Nai hiện nay, người Mường có đại biểu trong các cơ quan HĐND,
UBND và trong các đoàn thể UBMTTQ, phụ nữ, thanh niên xã, ấp.
VIII.3.2 Tổ chức gia đình:
Người Mường theo chế độ phụ hệ từ lâu. Thường thường họ sống theo gia
đình nhỏ, nhưng cũng có nhà có tới ba thế hệ chung sống thuận hòa. Người cha,
người chồng, người con trai cả có vai trò quan trọng trong gia đình.
Khi cha chết, người con trai cả được thừa kế toàn bộ gia sản song cũng có
trách nhiệm dựng vợ, gả chồng cho các em chưa yên bề gia thất và lo việc cúng giỗ
tổ tiên, ông bà, cha mẹ...
Cha mẹ có thể chia của cho các con thứ, trích từ phần tài sản riêng của mình,
việc phân chia này mang tính tượng trưng là chính.
VIII.3.3 Cưới hỏi, sinh đẻ:
Xưa kia khi chế độ lang đạo thịnh hành, giữa lang và dân có sự cách biệt
nghiêm ngặt. Dân không được phép lấy con gái nhà lang. Ngược lại, lang được lấy
con gái nhà dân làm vợ lẽ (tuy cưới trước). Vợ cả nhà lang phải thuộc dòng lang.
Khi lang lấy vợ, cả mường phải đóng góp vào lễ cưới này.
Ngày nay, nam nữ thanh niên Mường ở xã Phú Túc (Định Quán) được tự do
hôn nhân, không còn phân biệt giàu nghèo. Khi đôi nam nữ có tình cảm với nhau,
họ phải nói cho cha mẹ mình rõ. Các bậc cha mẹ tiến hành so tuổi, nếu hợp thì đồng
ý cho đôi trẻ lấy nhau. Nếu kị tuổi, hai người đành ngậm ngùi chia tay nhau. Tuy
không còn tình trạng "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" như xưa, song ý kiến các bậc
sinh thành vẫn có trọng lượng nhất định. Hiếm thấy có đôi trai gái nào dám vượt rào,
trái ý mẹ cha, chỉ làm theo ý mình.
Đôi trai gái cùng họ nội không được phép lấy nhau, ngay cả hôn nhân con
cô con cậu cũng ít xảy ra. Nếu ai làm trái sẽ bị phạt vạ nặng (trâu, heo) theo luật tục
của cộng đồng. Người Mường có thể lấy vợ lấy chồng là người các dân tộc khác.
Trình tự một cuộc hôn nhân có nhiều nét tương đồng các dân tộc anh em
chung sống xen kẽ. Trước hết là lễ chạm ngõ, ông bà mai và các thân nhân chàng
trai qua nhà gái, mang theo hai chai rượu, một cơi trầu để thưa chuyện với đàng gái.
Sau đó ít lâu là lễ hỏi (đám nói), nhà trai mang sang: tiền, đồ trang sức và một số vật
dụng theo yêu cầu của nhà gái. Chọn được ngày lành tháng tốt, hai bên tổ chức đám
cưới. Mỗi nhà đều làm tiệc đãi khách, cũng có khi hai bên thống nhất đãi khách
chung. Nhà trai đi đón dâu, tới cửa nhà gái nếu có chăng dây thì phải lì xì chút đỉnh
mới được vào nhà.
Ngoài các đồ sính lễ cùng rượu, trầu cau... nhà trai phải mang theo hai cây
mía. Khi rước dâu, nhà gái mang về nhà trai hai cây mía khác. Các thứ bánh trong

45.5 Page 445

▲back to top


đám hỏi và đám cưới đều không có nhân, chỉ toàn nếp. Rước dâu, số người phải
chẵn, người ta kiêng kị số lẻ. Cô dâu về nhà chồng theo tục lễ cũ, mang theo con dao
nhọn nhỏ cắm một lát gừng (thầy cúng đã khoán trừ tà). Trước khi lễ tơ hồng, ông
bà mai đưa cho đôi vợ chồng trẻ các miếng trầu hai bên têm sẵn để họ ăn rồi người
ta coi bã trầu đoán hậu vận.
Việc vái lạy ông bà, cha mẹ đôi bên, lễ tơ hồng, lễ nhị hỉ (lại mặt) vẫn được
một số gia đình duy trì.
Trong đám cưới, thường thì cô dâu về ở nhà chồng. Xưa kia, ngay sau đám
cưới cô lại về nhà cha mẹ đẻ, ba ngày sau nhà chồng sang đón. Cũng có một ít gia
đình không có con trai thì tổ chức cưới rể. Chàng rể đâm đòn rất có giá trị vì anh ta
về ở nhà vợ song vẫn giữ họ của mình, khi cha mẹ vợ qua đời, anh nghiễm nhiên trở
thành chủ gia đình, thừa hưởng tài sản cha mẹ vợ để lại.
Vấn đề ngoại tình ít xảy ra trong xã hội Mường, và bị xử phạt nặng (trâu,
heo), dư luận cộng đồng lên án nghiêm khắc.
Khi người phụ nữ Mường mang thai, họ tuân theo nhiều kiêng cữ: không dự
đám tang, không ăn chuối dính đôi, không đến các nhà sàn có cột chống phụ, không
ăn thịt chó, lươn, gà trống... Khi sinh đẻ, họ ăn cơm muối tiêu, thịt gà mái tơ, uống
nước đái trẻ con, uống nước lá vông hay lá vang để tiêu độc... Bé gái sơ sinh được
đeo vòng vàng hay bạc tùy từng gia đình.
Đứa trẻ ra đời được bảy ngày thì gia đình đặt tên cho bé. Theo tục lệ cũ,
người ta thường đặt cái tên xấu xí để tà ma không để ý, gây bệnh tật và điều không
may cho bé. Một tháng sau, gia đình cúng vía cho trẻ. Một năm sau, làm lễ cúng thôi
nôi.
Cha mẹ, anh chị nói với bé bằng ụn (thằng ụn, con ụn) đầy âu yếm cũng như
người Việt miền Nam gọi bằng cưng.
Khi con trai đến tuổi 17, con gái 12 thì gia đình cúng mụ, trả ơn bà mụ che
chở đứa trẻ từ khi sơ sinh đến lúc bước vào tuổi trưởng thành.
VIII.3.4 Tang ma:
Khi một gia đình có cha già mẹ héo, con cái lập tức đi báo tin ngay cho các
già làng, bố làng. Các cụ cho nổi trống (khác với người Nùng cho thổi tù và, ở một
số nơi người Hoa và người Việt cho đánh chiêng) mời các chức việc trong làng tới
bàn việc phân công và huy động đóng góp gạo, tiền tương thân tương ái với nhà có
tang. Một bộ phận được phân công đi đào huyệt, một bộ phận được cắt cử chuẩn bị
khiêng đòn đám ma, những người khác lo việc tiếp tân...Trong cộng đồng Mường,
gia đình có tang dù nghèo hay rất nghèo đều được làng xóm tận tình giúp đỡ tang lễ
đàng hoàng.

45.6 Page 446

▲back to top


Thày mo coi giờ, định việc lau rửa, khâm liệm thi hài - thường sau khi chết
ba, bốn tiếng. Bàn thờ người chết dựng cây mía cả ngọn, mỗi bữa đều cúng cơm.
Thày mo thường làm lễ từ xẩm tối trở đi, tùy theo địa vị vai vế người chết mà thày
có bài cúng phù hợp. Hồn ma theo lời hát cúng mà phiêu diêu ngắm cảnh quê hương
rồi lên trời gặp tổ tiên, được phán xét (tốt, xấu) rồi lại ngược về nghĩa địa nhưng
không được về nhà. Hai, ba ngày sau, tổ chức đưa đám. Tương tự người Việt, con
trai/con gái người chết đội mũ rơm/mũ mấn, mặc áo dài xô không viền gấu, các anh
chị em hay cháu chắt chít khăn tang màu trắng. Con, cháu ruột nằm lót đường ở cửa
để quan tài khiêng qua bên trên. Con trai thì cầm dao đi rừng, con gái cầm quạt và
ống nước bằng bương, vẫn theo sau thày mo và quan tài ra nghĩa địa. Ống nước đặt
ở phía chân mả. Người Mường Hòa Bình để một vài ống nước, còn người Mường
Phú Thọ thì phải đủ nam bảy ống, nữ chín ống dùng vào lễ mở cửa mả (nay thay
bằng bình để nước cúng). Trước, số thanh niên trai tráng được phân công khiêng
quan tài từ nhà ra tới nghĩa địa; nay bà con ở Phú Túc đã sắm được xe tang. Đám
tang nào cũng có ban nhạc với đàn cò (nhị), sáo, trống...
Chôn cất được vài ngày, tang chủ làm lễ mở cửa mả, một trăm ngày sau lại
làm lễ trăm ngày. Đủ ba năm chín tháng mười ngày, gia đình làm lễ đoạn tang (hết
tang), những bộ quần áo tang đem đốt bỏ. Người Mường có tục cải táng như người
Việt ở miền Bắc. Sau một số năm chôn cất, khi có điều kiện, gia đình bốc mộ người
chết, lấy hài cốt chuyển sang tiểu sành và đem chôn lại ở địa điểm khác (có xem
ngày giờ cẩn thận). Nấm mồ cải táng mới là ngôi mộ vĩnh viễn.
VIII.3.5 Đời sống tâm linh, tín ngưỡng và các lễ hội:
Người Mường phần lớn chỉ thờ cúng tổ tiên - các bậc sinh thành. Hàng năm,
mỗi gia đình đều cúng giỗ người đã khuất với thái độ tôn kính. Người con trai cả
phải đảm đương nhiệm vụ nặng nề này (vì anh ta được thừa hưởng phần gia sản lớn
nhất). Mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên ở vị trí trang trọng giữa nhà.
Nhiều nhà có bàn thờ thổ địa ở một nơi cao, phía tay phải bàn thờ gia tiên.
Một số bà con đi chùa lễ Phật vào các ngày rằm, mùng một âm lịch song số
tín đồ đạo Phật thực sự trong đồng bào Mường không nhiều lắm.
Một năm, người Mường có bốn lễ liên quan đến nông nghiệp:
- Lễ khai hạ (hạ nêu) vào ngày 7 tháng giêng âm lịch, chấm dứt lễ Tết cổ
truyền.
- Lễ hạ điền vào tháng ba âm lịch, khi trời sắp mưa, bà con chuẩn bị bước
vào vụ cày cấy trong năm.
- Lễ thượng điền vào tháng bảy âm lịch, sau khi bà con làm cỏ xong xuôi,
cầu mong Trời phù hộ cho lúa tốt, mùa màng bội thu.

45.7 Page 447

▲back to top


- Lễ cơm mới vào tháng mười âm lịch, khi lúa chín được gặt.
Ba lễ: hạ điền, thượng điền, cơm mới được tổ chức tại các miếu ở các xóm
(ở Hòa Bình và Phú Thọ thì cúng ở đình); trong đó lễ cơm mới lớn nhất. Mỗi gia
đình cử một, hai người tham gia, đóng góp gạo và tiền đầy đủ. Mỗi lễ cúng này
thường chỉ làm một buổi.
Trước hết, thày mo và già làng xin âm dương rồi thày mo đọc lời khấn vái.
Sau đó dân ấp theo thứ tự: già trước trẻ sau, nam trước nữ sau, lần lượt từng người
vào vái lạy trước ba bàn thờ trong miếu, mỗi bàn thờ lạy bốn lạy. (Mỗi miếu có ba
bàn thờ: chính giữa thờ thổ thần, hai bên thờ các tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai
canh - nghĩa là thờ tất cả các vị có công tạo dựng làng xóm đã quá cố). Lễ cúng kéo
dài chừng hai, ba giờ, từ chín giờ sáng tới trưa thì kết thúc bằng bữa tiệc tập thể. Xét
theo mặt nào đó, các lễ cúng nói trên có tác dụng đoàn kết, gắn bó cộng đồng vào
những dịp họp mặt đông đảo này.
Xưa kia, phụ nữ không được tham gia cúng đình hoặc miếu, bây giờ nam nữ
đã bình đẳng ở chốn đình trung.
VIII.4 Văn nghệ dân gian:
Tuy xa quê hương bản quán hơn bốn mươi năm, song cộng đồng người
Mường ở xã Phú Túc vẫn giữ được nhiều nét bản sắc văn hóa, văn nghệ dân gian
của dân tộc mình. Kho tàng này cần được khai thác, giữ gìn vì nó góp phần làm
phong phú văn hóa Đồng Nai.
Vào dịp lễ hội, bà con thường đánh chiêng có núm, một bộ đủ gồm bảy đến
chín chiếc kích cỡ khác nhau, mỗi chiếc có tên gọi riêng. Chiếc lớn nhất gọi là đàm,
chiếc thứ nhì gọi là chàm... Ngày nay ở Phú Túc chỉ mấy người già mới biết đánh
chiêng theo các bài bản: bông trắng bông vàng, đi đường leo dốc... Chiêng đánh theo
tiết tấu, nhịp điệu khác nhau tạo nên nhạc điệu lúc trầm hùng, lúc bay bổng. Chiêng
được chơi vào các lễ hội, ngày Tết.
Sáo, nhị, trống... chỉ dùng trong đám tang.
Trò chơi ném đúm (ném còn) ở Phú Túc xưa kia được tổ chức vào dịp Tết,
nay đã mất khoảng mười năm. Vào dịp Tết âm lịch, trên bãi đất trống, người ta chôn
cây cột cao, đỉnh cột có vòng tròn nhỏ. Nam nữ đứng ở hai bên bãi, ném cho nhau
trái đúm - chiếc túi nhỏ vuông, bên trong có nhồi đủ nặng, đính tua vải để ném đi dễ
dàng - Ném đúm giúp cho trai gái bày tỏ tình cảm với nhau: chàng trai để ý cô gái
nào thì ném đúm cho cô đó (và ngược lại). Người được ném mà không bắt được và
ném trả thì phải phạt một đồ vật, thí dụ: chiếc khăn... Nếu chàng trai ném trái đúm
mà cô gái tỏ ra hờ hững thì biết là nên thôi đi. Tới ngày hạ nêu (mùng bảy tháng

45.8 Page 448

▲back to top


giêng) hai bên trả lại cho nhau các món bị phạt, và nếu có tình ý với nhau thì câu
chuyện sẽ tiến xa hơn; ngược lại, hai người chuyện trò qua loa và chấm dứt ở đó.
Một số bà già Mường còn thuộc nhiều câu hát ví, rang thường, bộ mẹng, ru
con, đồng dao... ca ngợi tình mẹ con, ca ngợi lao động sản xuất, lời tỏ tình thắm
thiết...
Truyện kể Mường phong phú, một số nhằm giải thích và trình bày kinh
nghiệm chống thú dữ.
Các bài lễ ca do các ông mo (thày cúng) và bà mợi (bà bóng) đọc và hát trong
đám tang, cúng ma, cầu vía... cũng còn được lưu giữ.
Tuy số dân không đông, song từ ngày đất nước thống nhất, đồng bào Mường
ở Đồng Nai đã góp một phần công sức vào việc xây dựng cuộc sống mới ngày càng
ấm no, hạnh phúc, đoàn kết chặt chẽ với các dân tộc anh em để đưa tỉnh ta trở thành
tỉnh giàu mạnh với xã hội công bằng, văn minh.
IX. NGƯỜI NÙNG:
IX.1 Nguồn gốc, dân số và phân bố:
Người Nùng là một dân tộc ít người phân bố chủ yếu ở vùng Việt Bắc: Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, và cũng có ở Bắc
Giang, Quảng Ninh. Khu tự trị Choang (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) cũng có người
Nùng. Xét nguồn gốc, một bộ phận người Nùng là cư dân bản địa thuộc nhóm Bách
Việt đã hòa vào với người Tày; còn bộ phận hiện nay được gọi là Nùng, là bộ phận
di dân từ tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) sang làm ăn sinh sống khoảng mười đời, hai
trăm năm nay và nay đã hòa vào cư dân bản địa.
Người Nùng chia thành nhiều nhóm địa phương: Nùng Khen lài (mặc áo có
ống tay ráp vải khác màu), Nùng Hu lài (đội khăn chàm có nhiều chấm trắng), Nùng
Slử tỉn (mặc áo ngắn chấm mông)... Nùng An (quê châu An Kết), Nùng Inh (quê châu
Long Anh), Nùng Lòi (quê châu Hạ Lôi), Nùng Cháo (quê Long Châu), Nùng Phàn
Slình (quê châu Vạn Thành)... Người Nùng sử dụng ngôn ngữ Tày - Thái thuộc dòng
Nam Á.
Người Nùng tới đất Đồng Nai cư trú từ sau hiệp định Genève 1954 trong đó
một bộ phận là lính sư đoàn 5 của Voòng A Sáng. Họ thuộc nhiều nhóm khác nhau.
Mới đầu sư đoàn 5 Nùng đóng ở vùng Bình Thuận, sau mới chuyển về Đồng Nai. Ở
vùng đất mới, họ không còn phân biệt các nhóm địa phương (như ở quê cũ) mà đã
cố kết, hòa vào nhau, giữ được những điểm chủ yếu đồng nhất, còn khác biệt ít bộc
lộ rõ.

45.9 Page 449

▲back to top


Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai năm 1996, cả tỉnh có 12279 nhân
khẩu Nùng (trong đó có 5827 nữ) xếp thứ nhì trong tổng số hơn 40 dân tộc ít người
(sau người Hoa). Địa phương nào trong tỉnh cũng có người Nùng song họ có số
lượng đông nhất ở huyện Xuân Lộc 4540 người (2222 nữ), huyện Thống Nhất ít hơn
một chút 4486 người (2088 nữ)... và ít nhất là huyện Nhơn Trạch: 10 người (7 nữ).
Ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất tập trung 331 hộ với 1068
nhân khẩu là nơi người Nùng sống đông đảo nhất.
IX.2 Hoạt động kinh tế:
Phần lớn người Nùng ở Đồng Nai làm nghề nông là chính, số làm nghề buôn
bán dịch vụ, tiểu thủ công không nhiều.
Xưa kia ở quê cũ họ phân bố ở các thung lũng nhỏ hẹp vùng đồi núi thấp, ít
ruộng nên làm nương rẫy là chính.
Vào nửa cuối thập niên 50, đến vùng đất mới Đồng Nai - lúc đó thuộc hai
tỉnh Biên Hòa, Long Khánh còn nhiều đất đai hoang hóa, họ ra sức khai phá rừng và
đất rừng. Thoạt tiên họ áp dụng lối đao canh hỏa chủng nguyên thủy làm nương rẫy
nên cũng du canh khi đất trồng bạc màu. Nhưng dân cư ngày càng đông, đất trồng
trở nên hiếm hoi dần, từng bước họ buộc phải thâm canh nương rẫy để trồng các loại
hoa màu: bắp, khoai lang, khoai mì, đậu... và các cây công nghiệp ngắn ngày: đậu
tương, thuốc lá... Từ sau ngày giải phóng, nhiều hộ người Nùng ở các huyện Thống
Nhất, Long Khánh, Xuân Lộc, Định Quán... đầu tư vốn, mở vườn trồng cà phê, tiêu,
điều... nên có thu nhập hơn hẳn các hộ chỉ trồng lúa hoặc hoa màu.
Ở những nơi địa hình tương đối bằng phẳng, bà con khai phá thành ruộng
lúa và trồng hoa màu. Nơi nào sẵn có nguồn nước thì họ trồng hai vụ lúa, nơi không
có suối thì chỉ làm một vụ lúa nhờ trời mưa.
Tình trạng du canh ở đồng bào Nùng thực sự chấm dứt khi luật 034/67 của
chính quyền Sài Gòn ban hành năm 1967 (công nhận và bảo vệ ruộng đất của đồng
bào thiểu số, thực hiện chính sách khuyến nông "Người cày có ruộng"). Kể từ đó, bà
con đầu tư vốn mua máy cày, máy xới, máy bơm... mua phân hóa học, dùng các
giống cây trồng và vật nuôi năng suất cao.
Do giao lưu chặt chẽ rộng rãi với người Việt, người Hoa và đặc biệt do tích
lũy kinh nghiệm sản xuất nương rẫy từ lâu đời, người Nùng biết tính thời gian chuẩn
xác khi bắt đầu gieo trồng các loại cây. Bà con các dân tộc khác sống xen kẽ đã làm
theo người Nùng và đạt kết quả tốt, ít khi bị mất giống cây trồng hoặc phải tỉa đi tỉa
lại tốn công vô ích. Từ phương thức làm ăn quảng canh, ngày nay người Nùng trở
thành nhà nông biết thâm canh nên đạt năng suất cao đối với các loại cây trồng. Các
sản phẩm nông nghiệp thường được bán cho người Hoa thạo nghề buôn bán hơn.

45.10 Page 450

▲back to top


Người Nùng chăn nuôi nhiều loại gia súc: trâu để lấy sức kéo và phân bón,
heo lấy thịt và phân, gà vịt... Xưa kia người ta chăn nuôi theo lối thả rong, ngày nay
bà con làm chuồng xây cất cẩn thận và dọn rửa thường xuyên. Bà con hiểu rõ: thả
rong dễ làm gia súc, gia cầm bị dịch bệnh.
Chăn nuôi hiện nay vẫn còn ở qui mô nhỏ gia đình, chưa trở thành ngành sản
xuất riêng, vẫn là ngành phụ của trồng trọt.
Người Nùng vốn có một số ngành nghề truyền thống khá nổi tiếng: dệt, rèn.
Nhưng ở Đồng Nai các ngành nghề này của đồng bào đã bị mai một từ khi họ tới
định cư.
Về ăn uống, người Nùng có những nét gần người Hoa hơn người Việt. Lương
thực chính của họ là gạo tẻ, mỗi ngày bà con ăn hai bữa cơm với canh và các món
chiên xào chứ hiếm khi ăn đồ luộc. Trước đây vào buổi sáng họ ăn cháo loãng với
món mặn; bây giờ họ chọn thức điểm tâm theo khẩu vị và túi tiền. Phần đông kiêng
cữ thịt chó, thịt mèo.
Về trang phục, người ta không thấy có sự khác biệt nào với người Việt. Chiếc
áo Nùng màu chàm với tay áo rộng, thân áo chấm ngang mông không tồn tại từ ngày
bà con vào sống ở vùng đất mới này.
IX.3 Nhà cửa:
Nhà cửa của người Nùng có nét khác biệt so với nhà của người Việt hoặc
dân tộc anh em khác sống xen kẽ.
Ở khu vực Bàu Xéo (xã Sông Trầu, huyện Thống Nhất), nhà của đồng bào
Nùng san sát nhau như hình ống, không có vườn, vách nhà này liền vách nhà kế bên.
Đại thể căn nhà hình chữ nhật, có hai mái xuôi về hai phía trước và sau. Từ hai đầu
đòn dông có kèo, vì; nhà khá giả thì vách lợp tôn; nhà nghèo thì vách phên hoặc trát
đất lợp tranh. Mái sau thường dài hơn mái trước; bếp có thể làm liền hoặc lui về phía
sau một ít tùy từng gia đình. Chuồng trại ở sâu về phía sau nữa.
Ở ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2 thì nhà cửa mang nét kiến trúc Việt càng rõ
hơn. Đó là những ngôi nhà ba gian hai chái, nhà bếp và chuồng gia súc ở phía sau
không dính líu với nhà ở. Vật liệu xây dựng là gạch ngói, xi măng, tôn...
Kiểu nhà sàn không thấy có ở nơi nào trong tỉnh.
Nhiều gia đình khá giả làm nhà lầu đúc hiện đại, trang trí nội thất đắt tiền.
Ở Bàu Xéo, Tây Hòa..., kiểu quần cư "ấp chiến lược" khá rõ nét.
Khi làm nhà, đồng bào thường đến nhờ thầy mo (thày cúng) xem giúp ngày
giờ xây cất, nhất là lúc dựng cây đòn dông. Nhà day mặt về hướng địa hình thấp hơn
hoặc hướng Tây, không nhất thiết mặt tiền hướng đường lộ. Có lẽ đây là tàn dư của

46 Pages 451-460

▲back to top


46.1 Page 451

▲back to top


cách chọn hướng nhà xưa kia - khi người Nùng cư trú ở vùng đồi núi thì lưng nhà
quay về sườn đồi, mặt tiền hướng về đường đi thường ở chân đồi.
IX.4 Gia đình và tổ chức xã hội:
Gia đình dân tộc Nùng ở Đồng Nai hiện nay là gia đình nhỏ theo dòng cha.
Thường thì một gia đình gồm cha mẹ và các con. Cũng có một số gia đình chung
sống ba thế hệ: ông bà, cha mẹ và các con.
Người đàn ông, người cha, người chồng và con trai trưởng có nhiều quyền
hành trong nhà, chính họ quyết định mọi việc lớn nhỏ - tất nhiên cũng trao đổi tham
khảo ý kiến người mẹ hoặc vợ.
Người cha, người chồng thường được gọi theo tên con trai cả hoặc con gái
lớn (nếu không có con trai).
Việc phân chia tài sản của cha mẹ thường "ưu tiên" cho con trai cả vì anh
này phải lo cúng giỗ tổ tiên, ông bà... Con gái thường chỉ được món hồi môn khi đi
lấy chồng, tuy nhiên cũng có người được cha mẹ chia cho một phần tài sản.
Trong dòng họ, người Nùng xưng hô theo tập tục người Việt phía Bắc: ông
bà, bác chú, dượng, cô, thím, mợ, cậu, dì... những ai thuộc vai lớn hơn cha mẹ thường
được kêu bằng bác. Một số dòng họ có tục gọi những ai sinh trước là anh chị mà
không cần kể đến thứ bậc dòng anh, dòng em (tương tự cách xưng hô của người
Hoa). Xưa kia vai trò người trưởng tộc được coi trọng, nay đã rất mờ nhạt. Người
Nùng cũng như người Hoa coi những ai cùng họ, ví dụ họ Trần, họ Lý họ Trương...
là đồng tộc, là gần gũi thân thiết (không được lấy nhau)
Cộng đồng người Nùng ở xã Bàu Hàm 2 tổ chức "hội hiếu" chuyên lo việc
tang ma (tương tự hội bảo thọ). Trong xóm ấp có người qua đời thì hội hiếu đứng ra
lo mọi việc giúp gia chủ. Mỗi hội viên đóng hai kg gạo (hoặc số tiền tương đương).
Hội sẽ phân công người làm các việc: tiếp tân, đào huyệt, khiêng quan tài, nấu nướng
phục vụ tang chủ...
IX.5. Cưới xin:
Trai gái Nùng ngày nay hoàn toàn tự do tìm hiểu nhau để tiến tới hôn nhân.
Nếu đúng tuổi kết hôn do pháp luật qui định thì họ đăng kí tại UBND xã, phường
rồi làm đám cưới với các thủ tục nghi thức thông thường. Tảo hôn hầu như không
thấy có ở Đồng Nai. Người Nùng rất coi trọng chữ trinh. Khi đôi thanh niên đã ưng
nhau, họ báo cáo với cha mẹ đôi bên. Người ta cũng đi coi bói, so tuổi... và phần lớn
các cặp nam nữ đều tiến tới cưới xin, ít có trường hợp phải chia tay vì khắc tuổi.
Đám nói và lễ cưới tiến hành tương tự người Việt. Có đôi nét khác biệt đáng
chú ý:

46.2 Page 452

▲back to top


- Nếu người em lập gia đình trước anh chị thì trong ngày cưới, người em lấy
miếng vải đỏ khoác lên vai hay ngực của anh chị hàm ý: anh chị sẽ không lỡ thì, mất
duyên. Miếng vải đó sẽ đặt trên bàn thờ, một năm sau lấy xuống, bỏ đi.
- Con dâu được xem như bán đứt cho nhà chồng, vì vậy việc thách cưới có
nơi còn nặng. Anh con trai ở rể (do nhà gái không con trai) thì được giảm, có khi
không phải bỏ tiền làm đám cưới. Anh này sẽ ở nhà vợ suốt đời, được hưởng gia tài
của cha mẹ vợ và phải lo cúng bái cho bên vợ. (Xưa kia, có anh còn phải đổi theo
họ vợ, ít ra thì con cái mang họ vợ).
- Trong buổi rước dâu, nhà trai thường chọn những người mà gia đình song
toàn đi chẵn, có lớn có nhỏ. Lúc rước dâu, xe chở cô dâu phải tiến, lùi ba lần ngụ ý:
để cô dâu chào tiễn biệt gia đình và dòng họ mình. Trên đường đi, gặp trắc trở gì,
người ta kiên nhẫn giải quyết với thái độ hoan hỉ, không nôn nóng. Thí dụ: gặp người
chắn ngang đường xin tiền thì người ta cho liền, nếu gặp sự cố thì chờ xong mới đi.
- Cô dâu về nhà trai, sau khi làm lễ gia tiên thì bưng khay trầu rượu, mời họ
hàng theo thứ tự trên dưới. Người được mời đều có món quà nhỏ (tiền, vàng) mừng
cô dâu, chú rể với lời chúc mừng hoặc khuyên nhủ. Trong các đám cưới hiện nay,
khi cô dâu, chú rể đi chúc rượu sẽ được tặng phong bao như tục lệ chung. Gia chủ
sẽ ghi số tiền mừng để sau này sẽ có dịp đáp lại tương xứng.
- Cô dâu ở lại nhà chồng, suốt ba ngày sau đám cưới không ra khỏi nhà (kể
cả đi chợ). Ngày thứ tư là lễ nhị hỉ (lại mặt) thì cặp vợ chồng mới về thăm gia đình
và họ hàng bên vợ.
Ngày nay hôn nhân ngoại tộc dần dần tăng lên. Người Nùng bây giờ lấy vợ,
lấy chồng khác dân tộc không còn là điều hiếm hoi, đó là kết quả của quan hệ giao
lưu, đan xen giữa các cộng đồng tộc người.
Người phụ nữ sinh con tại nhà chồng (và thường sinh tại trạm xá hoặc nhà
hộ sinh, bệnh viện để bảo đảm mẹ tròn con vuông khi sinh nở). Trong tháng đầu tiên
sau khi ở cữ, sản phụ ít ăn đồ kho, kiêng ăn cá mà thường dùng các món thịt hầm
với gừng, rượu (cho ấm bụng, dễ tiêu). Người Nùng không kiêng cữ gì khi nhà có
phụ nữ sinh đẻ.
IX.6. Tang ma:
Khi gia đình có người qua đời, một người đến nhà thày mo để xem ngày giờ
tẩm liệm, động quan, di quan, chôn cất...Để báo tin buồn cho cộng đồng, người ta
đánh cồng (chiêng có núm) theo một điệu bi ai.
Thi hài thường đặt nằm dưới đất. Khi tẩm liệm, con cháu và người thân phủ
phục quanh quan tài. Trước khi chôn cất, những người chịu tang phải túc trực quanh
quan tài, không đi xa trừ các trường hợp đặc biệt: đau ốm, làm vệ sinh cá nhân...

46.3 Page 453

▲back to top


Người chịu tang phải ăn chay cho đến khi chôn cất xong mới ăn mặn (có thịt, cá)
bình thường.
Mỗi khi có người tới phúng điếu, hội hiếu lại cử nhạc với cồng, trống, đàn...
(hoặc cử nhạc lễ cúng). Bạn hữu, người thân tới viếng được phát vòng dây tang đeo
tay, bây giờ lệ này không phổ biến. Tiền phúng điếu được một người ghi chép cẩn
thận vào sổ tang (như ở đám cưới).
Thày mo đến đọc kinh, cầu khấn (bằng tiếng Nùng) đưa hồn người chết về
xum họp với tổ tiên, đồng thời mong hồn phù hộ gia đình, dòng họ, xóm làng được
mọi sự yên vui. Thày mo có mang theo bàn thờ tổ, gia chủ mang gạo, trái cây đặt
lên bàn thờ tổ. Cúng xong, thày được hưởng các lễ vật của tang chủ, ngoài ra còn
được thêm thịt heo, tiền công và một con gà nhỏ còn sống.
Cũng như người Việt, người Hoa, trong đám tang thì người chịu tang là vợ
con, anh chị em, cháu. Người chồng không phải để tang vợ. Chồng chết, người vợ
không được theo ra huyệt mộ. Thày mo xem tuổi các người chịu tang, ai hợp tuổi
(với người quá cố) mới được đưa quan tài ra đến mộ.
Khi đưa đám, từ một đến ba người thân nhất phải nằm ngửa hoặc phủ phục
để quan tài khiêng qua ba lần, gọi là "lót đường". Nhiều gia đình làm nhà táng bằng
giấy phủ được quan tài và mua ngựa giấy, vàng mã... đốt tại huyệt mộ để người chết
có nhà ở, có ngựa cưỡi và có tiền bạc tiêu xài ở thế giới bên kia.
Con gái thì làm cây tiền bằng giấy cắt dán, khi đưa đám vừa lắc cây tiền vừa
khóc. Tới huyệt mộ, sau khi chôn cất và đốt nhà táng, vàng mã thì cũng đốt luôn cây
tiền.
Một người con gái khác gánh các đồ dùng thường ngày của người quá cố ra
để gần huyệt rồi chạy trốn, chừng nào chôn cất xong mới lại có mặt (người ta không
giải thích vì sao lại có hành động này).
Khi chôn cất xong, những người chịu tang tháo bỏ hết tang phục cho vào
gánh hoặc giỏ xách đem về. Cuối năm, gia đình xả tang (dù người chết vào lúc xa
hay cận Tết) cho hết u buồn của năm cũ, để năm mới được bình yên vui vẻ. Làm lễ
xả tang phải mời thày mo đến cúng và đọc kinh, sau đó đốt hết tang phục.
Trong nhà có người qua đời thì mọi vật dụng trên bàn thờ tổ tiên đều bỏ đi
hết (vì tổ tiên không giữ được cho người đó thì không cúng). Chôn cất xong, người
ta lại mua các vật dụng khác để tiếp tục cúng kiếng (thí dụ: bát nhang, lô chén nước,
chân nến...)
Cũng như người Việt ở miền Bắc, người Nùng chôn cất (hung táng) người
chết bằng mả đất. Sau ba năm, họ cải táng, nhờ thày mo xem ngày giờ bốc mộ, lấy

46.4 Page 454

▲back to top


cốt rửa sạch rồi cho vào tiểu sành hoặc vò, đem chôn chỗ khác. Cải táng xong, người
ta mới xây ngôi mộ lâu dài.
Nếu con cháu làm ăn vẫn khá thì gia đình đó chưa cải táng, nếu làm ăn sút
kém thì mới di dời mộ bằng cách cải táng, có nhờ thày xem mạch đất với mong ước
sẽ phát.
IX.7. Đời sống tâm linh:
Phần đông người Nùng ở Đồng Nai hiện nay vẫn thờ cúng tổ tiên là chính.
Số người theo các tôn giáo khác không nhiều. Các ông bà già thường đi chùa lễ Phật
vào ngày mùng một hoặc ngày rằm âm lịch.
Trong mỗi gia đình, nơi trang trọng nhất, dễ thấy nhất (vì ở giữa nhà) có bàn
thờ tổ tiên tương tự như bàn thờ của người Việt hoặc người Hoa. Bàn thờ này có thể
được bày cỗ mặn vào các dịp cúng kiếng. Phía trên bàn thờ tổ tiên có trang thờ Phật
Quan Thế Âm bồ tát, chỉ có nhang và nước, hoa... Ly, tách, dĩa, bát nhang, chân
nến... trên bàn thờ chỉ rửa mỗi năm một lần bằng nước lá bưởi (có mùi thơm) vào
chiều 29 hay 30 tháng chạp vì người ta không muốn động đến bàn thờ, làm kinh
động sự bình yên của tổ tiên.
Ở cửa ra vào có nhà có bàn thờ thần thổ công, nhưng nay ít thấy. Nhiều nhà
tuy không buôn bán cũng thờ thần tài với niềm hi vọng tăng gia sản xuất, chăn nuôi
được suôn sẻ, nông sản làm ra bán có giá.
Vào dịp Tết, người Nùng mua giấy lì xì màu đỏ in trang kim dán trước cửa
ra vào mong được hên trong mọi việc làm ăn. Việc dán giấy lì xì có thể là do họ chịu
ảnh hưởng của người Hoa.
Ở bếp, người ta cũng thờ ông Táo nhưng không có lệ cúng ông Táo chầu
Trời ngày 23 tháng chạp. Người ta cấm kị việc nấu thịt chó, mèo, trâu ở bếp vì sợ
xui. Các món thức ăn để cúng nhất thiết không được dùng thịt các loại gia súc nói
trên.
Hàng năm, người Nùng ở Đồng Nai còn giữ một số ngày cúng lễ:
- Cúng Tết cổ truyền vào các ngày từ mùng 1 đến mùng 4 Tết để tổ tiên ông
bà cùng về xum họp, phù hộ cho con cháu.
- Lễ cúng rằm tháng giêng âm lịch, vào dịp này các người lớn tuổi thường đi
chùa lễ Phật.
- Lễ cúng thanh minh vào mùng 3 tháng 3 âm lịch, vào dịp này con cháu đi
sửa sang phần mộ của ông bà và người thân đã khuất.
- Lễ cúng mùng 5 tháng năm âm lịch.
- Lễ cúng ruộng vào mùng 6 tháng sáu âm lịch, làm ngay ở ruộng.

46.5 Page 455

▲back to top


- Lễ cúng rằm tháng bảy xá tội vong nhân và cúng cô hồn.
- Lễ cúng trung thu vào rằm tháng tám, nay có gia đình không làm.
- Lễ cúng tất niên vào ngày 29 hay 30 tháng chạp, đón tổ tiên ông bà về ăn
Tết cùng con cháu.
Dù giàu, dù nghèo vào những ngày này mỗi gia đình ít nhất cũng làm mâm
cơm cúng. Các gia đình thường làm thịt lạp (thịt heo ba chỉ ướp rượu, tiêu, muối...
rồi phơi khô bằng cách treo ở bếp) để ăn dần vào sau Tết.
Mỗi xóm, ấp Nùng đều có ngôi miếu thờ Thổ công (vị thần quản lí đất đai
địa phương). Miếu tương đối nhỏ, có thể được xây gạch lợp ngói, cũng có miếu làm
đơn giản bằng cây lợp tranh. Miếu có bàn thờ với bát nhang, đèn dầu, lư hương, bình
bông...
Miếu ông Công ở xã Bàu Hàm 2 tiến hành cúng lễ vào ngày mùng 2 Tết
tương tự lễ cúng kì yên của người Việt. Mỗi gia đình đóng một số tiền để làm cỗ
cúng miếu. Mỗi gia đình đều mang đến một mâm lễ vật gồm: một con gà luộc, vàng
mã, hoa quả... Thày mo tiến hành khấn vái, đọc bài cúng bằng tiếng dân tộc, sau đó
đàn ông từng nhà lần lượt vào vái. Lễ cúng miếu ông Công chỉ nam giới được tham
dự; gia đình nào không có đàn ông thì phải nhờ một người đàn ông mang lễ vật tới
cúng.
Khi buổi lễ kết thúc, lễ vật nhà ai được hoàn trả về nhà nấy, số nam giới tham
gia dự tiệc chung.
Lễ cúng vào 16 tháng tám âm lịch cũng làm tại miếu, là lễ cúng khi đã hoàn
thành cơ bản việc trồng tỉa vụ mùa, chỉ còn chờ thu hoạch.
Thày mo và bà then là nhân vật quan trọng trong đời sống tâm linh của người
Nùng. Khi làm việc gì (xây cất nhà cửa, dựng vợ gả chồng, làm đám ma...) người ta
đều đến nhờ thày xem lịch, tính toán ngày giờ sao cho công việc diễn ra tốt đẹp,
mang lại may mắn cho gia chủ.
Thày mo được học chữ Hán và nôm Nùng, các bài khấn cúng và thành thạo
nghi thức cúng lễ. Thày không thoát li sản xuất. Là trung gian giữa các vị thần và
con người, biết việc cát hung, giúp tránh việc xui nên thày mo được cộng đồng kính
trọng. Ở ấp Ngô Quyền hiện có thày Hải Việt Nam từng học làm thày mo từ hồi còn
nhỏ, có con dấu gỗ (mộc triện) do vị sư phụ truyền cho từ lúc còn ở ngoài Bắc, mới
được lập bàn thờ tổ trong nhà mình.
Bà then chuyên làm nhiệm vụ xem bói, giải hạn, cúng chữa bệnh... Bà then
thuộc nhiều bài hát then, được ơn trên cho làm nghề. Nhà cũng có bàn thờ tổ và cây
đàn tính ba dây để phụ họa, đệm cho các bài then cúng chữa bệnh thường tiến hành
vào ban đêm (hoặc cúng bà mụ cho trẻ em, hoặc lễ sinh nhật...)

46.6 Page 456

▲back to top


Người Nùng có một số cấm kị:
- Phụ nữ không tham dự các lễ cúng ở nơi công cộng.
- Tháng giêng người ta không ăn, không cúng thịt vịt và trứng các loại.
- Ngoài hai ngày 29, 30 tháng chạp và mùng 3 tháng ba, người Nùng không
dãy cỏ ở mả.
- Làm nhà, sửa nhà, lập bàn thờ, chuyển bàn thờ phải mời thày mo chứ không
được tự ý làm.
- Họ rất sợ ma gà - loại ma quấy phá làm hại người và gia súc.
Tuy dân không đông, song trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, một số đồng
bào Nùng đã giúp đỡ cách mạng bằng cách ủng hộ, mua bán giùm những thứ cách
mạng cần. Ngày nay, cộng đồng người Nùng cũng đóng góp một phần vào việc xây
dựng kinh tế - xã hội để thực hiện một xã hội ngày càng giàu mạnh, công bằng, văn
minh trên đất Đồng Nai.
ẢNH
Làng của đồng bào dân tộc ít người ở Đồng Nai xưa.
ẢNH
Nhà dài làng Mạ
ẢNH
Người Mạ ở Chứa Chan
ẢNH
Người Mạ bẫy cọp
ẢNH
Người Mạ tạo ra lửa từ hai hòn đá.
ẢNH
Rượu “ịch”

46.7 Page 457

▲back to top


ẢNH
Thiếu nữ Mạ xưa
ẢNH
Thiếu nữ Mạ nay.
ẢNH
Lễ hội đâm trâu của người Mạ ở Tà Lài, Tân Phú, năm 1998
ẢNH
Dấu vết “chia của cho người chết” bỏ mả của người dân tộc hiện còn ở vùng
Định Quán.
ẢNH
Nghề dệt của đồng bào Mạ được khuyến khích phát triển
ẢNH
Đội cồng chiêng của người Mạ ở Hiệp Nghĩa.
ẢNH
Đồng bào dân tộc làm đồ gốm và chèo xuồng bắt cá trên sông La Ngà (Ảnh
chụp năm 1930).
ẢNH 1
1- Đồng bào Mường ở xã Phú Túc.
2, 3, 4 - Vật dụng của người Mường: Bừa (2), Ốp bắt cá (3), Dao, giỏ (4)
ẢNH 1

46.8 Page 458

▲back to top


1- Nhà đồng bào dân tộc Châu Ro ở ấp Sơn Thọ (xã Xuân Thọ, huyện Xuân
Lộc).
ẢNH 2
2- Nhà đồng bào Châu Ro ở Lý Lịch.
ẢNH 3
3- Trang sức của phụ nữ người Stiêng ở Bù Cháp (Tài Lài, Tân Phú).
ẢNH 1
1- Kiến trúc mái đình người Hoa
ẢNH 2
2- Trường tiểu học Hoa văn (Ecole Chinoise) ở Biên Hòa trong trận lụt năm
Thìn (1952).
ẢNH 3
3- Chùa Ông (xã Hiệp Hòa, Biên Hòa) ngôi chùa Hoa đầu tiên ở Nam bộ.
Phụ lục ảnh của bộ ĐỊA CHÍ ĐỒNG NAI do BÙI QUANG HUY biên soạn
từ ảnh tư liệu và của các tác giả:
Nguyễn Đại Phúc, Phan Dẫu, Phan Huy Dũng, Huỳnh Thái, Huỳnh Tới, Bùi
Quang Huy, Lưu Thuận Thời, Đình Dũng, Yên Tri, Nguyễn Văn Thơi, Tôn Hoàn...
Vì lý do kỹ thuật và trình bày, tên tác giả ảnh không thể chú thích dưới mỗi
ảnh.
Chúng tôi mong sự thông cảm của các tác giả (B.T)

46.9 Page 459

▲back to top


I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT:
Hiện có khoảng 40 dân tộc ít người chung sống trên địa bàn Đồng Nai.
Theo số liệu thống kê của tỉnh ngày 01 tháng 01 năm 1996 số lượng đồng
bào các dân tộc ít người là 157.870 người, chiếm tỉ lệ 8,15% số nhân khẩu toàn tỉnh.
Người Hoa
Người Tày
Người Nùng
Người Châu Ro
Người Dao
Người Mường
Người Khmer
Người Chăm
Người Mạ
Người Giarai
Người Stiêng
Người Kơho
Người Êđê
Người Thái
Người Sán Dìu
Người nước ngoài
Người Thổ
Các dân tộc khác
Người Sán Chay
Người Raglay
Người Lô Lô
Người Giáy
Người Hmông
Người Bana
Người Tà na
Người Pà Thẻn
Người Mnông
Người Kháng
Người Xinh Mun
Người Bru
Người Lào
Người Hrê
103.540
12.419
12.279
11.805
3.230
2.673
2.063
1.854
1.848
1.252
1.185
646
491
466
392
392
377
299
297
94
70
63
53
43
43
28
22
16
12
8
7
5

46.10 Page 460

▲back to top


Người Xơđăng
4
Người Hà Nhì
4
Người La Chí
3
Người Cơ Lao
3
Người Cơtu
3
Người Rơmăm
3
Người Khơmú
2
Người Giẻ Triêng 1
Người Bố Y
1
Vân Kiều
Các dân tộc bản địa: Châu Ro, Mạ, Stiêng, Kơho... là chủ nhân vùng đất
Đông Nam bộ từ rất lâu đời. Người Stiêng ở phía Tây Bắc Đồng Nai, nhưng địa bàn
cư trú tập trung nhất ở tỉnh Bình Phước (thuộc Tây Bắc tỉnh Biên Hòa xưa); một số
mới về ở huyện Xuân Lộc từ những năm 1970. Người Mạ và Kơho ở từ phía Bắc
sông La Ngà trở lên Lâm Đồng. Người Châu Ro ở rìa phía Nam dãy Trường Sơn -
Tây Nguyên tiếp giáp với đồng bằng Nam bộ...
Các dân tộc ít người tới sau vào các thời điểm khác nhau do những biến thiên
của lịch sử. Người Chăm và người Khmer có thể có mặt tại đây khoảng vài thế kỷ
sau Công nguyên; nhưng số người Chăm tập trung ở Xuân Lộc thì mới tới năm 1972.
Người Hoa có mặt hơn ba trăm năm trước, sử sách còn ghi chép rõ. Các dân tộc Tày,
Nùng, Thái, Mường đến cư trú từ sau hiệp định Genève tháng 7 - 1954 và đến đông
đảo từ sau ngày đất nước thống nhất...
Các dân tộc ít người ở Đồng Nai - dù là dân bản địa hay người đến sau - sống
bằng nông nghiệp là chính. Đại bộ phận các dân tộc "ăn rừng", "ăn nước trời" làm
nương rẫy du canh, đao canh hỏa nậu, quảng canh... nên năng suất cây trồng nói
chung thấp. Phương thức sản xuất này hủy hoại mạnh mẽ môi trường sinh thái, tác
hại lâu dài đến chính cuộc sống của họ. Thực hiện chủ trương lớn định canh định cư,
bảo vệ rừng, đến nay họ đã định canh định cư, học tập kỹ thuật canh tác tiến bộ của
một số dân tộc anh em, do đó đời sống bớt khó khăn hơn trước. Người Hoa, Nùng,
Tày... là các dân tộc có trình độ sản xuất tiến bộ hơn, biết thâm canh cây trồng, trồng
các cây công nghiệp và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao nên nhiều hộ có thu nhập từ
khá trở lên.
Chăn nuôi chưa phát triển trong nhiều cộng đồng dân tộc, chưa có tính chất
sản xuất hàng hóa.

47 Pages 461-470

▲back to top


47.1 Page 461

▲back to top


Hình thái kinh tế chiếm đoạt: hái lượm rau, củ, quả..., săn bắn chim và thú
trong rừng, đánh cá ở suối... trước đây giữ vị trí đáng kể trong đời sống hàng ngày
thì nay chỉ là rất phụ vì rừng không còn bao nhiêu (dưới 25% diện tích tự nhiên).
Các nghề đan lát, dệt... chưa tách khỏi nghề nông và chưa có sản phẩm hàng
hóa đáng kể, chủ yếu mang tính tự cung tự cấp.
Xưa kia các dân tộc bản địa ở Đồng Nai cũng có hội đồng già làng như các
dân tộc ở Tây Nguyên - Trường Sơn, ngày nay không còn nữa. Nhà sàn dài cũng
biến mất khoảng vài chục năm nay. Chế độ theo dòng cha ở các mức độ khác nhau.
Các đơn vị sóc, bòn, bù plây... trở thành đơn vị xóm, ấp và ở cơ sở nào có người dân
tộc sinh sống thì họ đều có người làm trưởng ấp, cán bộ UBMTTQ ấp và xã, đại biểu
HĐND các cấp, cán bộ UBND địa phương...
Phong tục tập quán của các dân tộc ít người ở Đồng Nai dần dần có nhiều
nét tương đồng qua quá trình giao tiếp lâu ngày. Ngôn ngữ chung là tiếng Việt, tiếng
mẹ đẻ chỉ dùng trong nội bộ tộc người, một bộ phận lớp trẻ đến nay cũng không nói
được tiếng của dân tộc mình nữa.
Mỗi dân tộc ít người đều có kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc riêng (thần
thoại, cổ tích, dân ca, điệu múa...) song đang mai một dần theo lớp người già. Chúng
ta cần có kế hoạch gìn giữ vốn văn hóa quí giá này.
Một điểm nổi bật là truyền thống đoàn kết thuận hòa giữa các dân tộc anh
em cùng chung sống trên đất Đồng Nai. Người ta không thấy nổ ra cuộc xung đột
sắc tộc nào trong hơn 300 năm qua.
Bức tranh các dân tộc ít người ở Đồng Nai thật đa dạng - Chương sách này
chỉ trình bày về bốn dân tộc bản địa: Châu Ro, Mạ, Stiêng, Kơho và bốn dân tộc
đến sau: Hoa, Chăm, Mường, Nùng có những nét văn hóa đặc sắc trong số 40 dân
tộc ít người cùng chung sống trên mảnh đất này.
II. NGƯỜI CHÂU RO (JRO):
II.1. Dân số và phân bố:
Người Châu Ro được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Người Khmer gọi họ là
Ph'nôông. Sách báo cũ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 gọi họ là Ro, Tô, Xôp
(Coop)... Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam của Tổng cục thống kê ngày
2 - 3 - 1979 thống nhất gọi là Châu Ro hoặc Dơro. Đồng bào tự gọi là Chrau Jro
(chrau: người; Jro: tên bộ tộc).
J. Boulbet cho rằng:" Chrau Jro: nhóm con của Người ở rời rạc ở đồng bằng
phía Tây Nam người Mạ (Đông Nam thì đúng hơn, NV chú). Nhiều làng Jro là láng
giềng của những làng thường trực Việt Nam đầu tiên. Các nhà thám hiểm Pháp mô

47.2 Page 462

▲back to top


tả vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, người Jro mà họ gọi là Chrau như là rất gần
người Mạ, Maitre cho đó là người Mạ ở đồng bằng và những bức ảnh đầu tiên cho
ta thấy họ rất gần với người Mạ hơn là người Jro hiện nay". (J. Boulbet: Pays des
Maa, domaine des génies - Nggar Maa, nggar yang, p.134).
Người Châu Ro có nhiều thị tộc cư trú ở các địa bàn khác nhau:
- Chrau M'Xang ở vùng Võ Đắc, Tánh Linh (Bình Thuận).
- Chrau B'Giêng ở vùng Túc Trưng, Long Khánh.
- Chrau Chà Lun ở vùng Gia Kiệm (xưa là Võ Dõng), Bảo Chánh.
- Chrau M'Rơ ở vùng Bàu Lâm (Xuyên Mộc)...
Dân số Châu Ro đầu năm 1996 là 11.805 người (5942 nữ) xếp thứ 5 trong
số 40 dân tộc ít người ở Đồng Nai và đông nhất khối dân tộc bản địa. Người Châu
Ro là một trong các cư dân bản địa mà địa bàn sinh sống là vùng đồi núi thấp của
tỉnh Biên Hòa (cũ). Miền Đông Nam bộ còn có người Châu Ro ở các tỉnh lân cận:
Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Bình Phước, nhưng số lượng ít hơn nhiều. (Tổng
số dân tộc Châu Ro cả nước khoảng hơn 15.000 người). Tiếng Châu Ro thuộc dòng
Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Một số người Châu Ro lớn tuổi ở ấp Đức Thắng xã Túc Trưng (Định Quán)
cho biết: một tổ tiên của họ là Điểu Ué sinh năm 1841, qua đời năm 1964, thọ 123
tuổi nói cho con cháu rõ xưa kia cụ và những người cùng palây có quê ở sát Ngã
Bảy (tp Sài Gòn), bộ tộc Châu Ro này hồi đó chỉ có vài chục người. Họ trôi dạt dần
về phía Đông Bắc, con cháu cụ bây giờ định cư ở ấp Đức Thắng. Vì sống du canh,
du cư nên bộ tộc này - cũng như cả dân tộc Châu Ro - luôn luôn thay đổi vùng canh
tác, họ đi ngược lên vùng trung lưu sông Đồng Nai, tỏa ra nhiều địa điểm khác nhau.
Người Việt theo sau, nơi nào người Châu Ro bỏ không làm, thì người Việt trồng trọt
ở mảnh đất đó, nhưng vì biết thâm canh nên họ đạt năng suất khá hơn, định cư luôn
tại đó.
Theo số liệu năm 1996 huyện Long Khánh hiện có số cư dân Châu Ro đông
nhất tỉnh: 4.015 người (2084 nữ); trong đó xã Xuân Bình có 1.015 nhân khẩu (534
nữ) với 128 hộ và xã Xuân Vinh có 1.649 người (1.238 nữ) thuộc 306 hộ...
Huyện Xuân Lộc có 3.471 người Châu Ro (1.715 nữ). Xã Xuân Trường đông
nhất, có 1.117 người (569 nữ) với 249 hộ. Xã Xuân Phú có 794 người (399 nữ) của
132 hộ; xã Xuân Thọ có 769 nhân khẩu (373 nữ) với 145 hộ. Còn lại, người Châu
Ro sống rải rác ở các xã Xuân Hòa, Xuân Hiệp...
Ở huyện Định Quán, người Châu Ro có 3.387 nhân khẩu (1.666 nữ) tập trung
nhất ở 2 ấp Đức Thắng và Đồng Xoài, xã Túc Trưng: 2.900 nhân khẩu với 503 hộ.

47.3 Page 463

▲back to top


Ấp Lý Lịch xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu có 66 hộ người Châu Ro gồm 397
nhân khẩu (189 nữ).
Huyện Long Thành chỉ có 42 hộ Châu Ro gồm 174 người (93 nữ) ở khá rải
rác...
II.2. Phương thức canh tác cổ truyền:
Như tất cả các dân tộc khác ở miền Đông Nam bộ và Tây Nguyên - Nam
Trường Sơn, nền kinh tế cổ truyền của người Châu Ro là kinh tế nương rẫy, du canh
(do đó du cư) "ăn nước trời" dựa trên quan hệ sản xuất tập thể nguyên thủy. Hồi đó,
mỗi thị tộc nhỏ bé tập hợp chưa đến 100 nhân khẩu. Mọi người cùng làm cùng hưởng
những sản phẩm trồng trọt, hái lượm, đánh cá một cách bình đẳng. Qua tiếp xúc liên
tục, lâu dài với các dân tộc anh em khác mà quan hệ sản xuất tập thể nguyên thủy
dần dần tan rã, thay thế bằng lối làm ăn riêng lẻ du canh còn tồn tại đến nay.
Muốn làm rẫy, người chủ gia đình Châu Ro (trước kia là vị gìa làng có kinh
nghiệm nhất, hoặc người đứng đầu làng (palây) thấy nơi nào đất ẩm nhiều mùn hoặc
đất đỏ tơi xốp thì chọn nơi đó. Rẫy đất xám nghèo mùn và độ phì thường chỉ làm 2
vụ đã kiệt màu thì bỏ. Rẫy đất đỏ tơi xốp phì nhiêu hơn, có thể trồng 3, 4 vụ liền.
Các rẫy lọt thỏm giữa rừng già đại ngàn mênh mông có hình thái da beo đánh giá sự
có mặt của con người trong thảm thực vật phồn thịnh miền nhiệt đới gío mùa châu
Á. Các loại thú thường phá hoại các loại cây trồng trên nương rẫy, có khi chỉ một
đêm (hoặc một buổi tối) chúng có thể xóa sạch thành quả lao động cả vụ. Cho nên
các rẫy trong một làng thường ở cạnh nhau, rẫy mỗi nhà ngăn cách bằng ranh giới
hoàn toàn ước lệ: hàng cây, những hòn đá xếp thành vạch... Các rẫy ở ngoài cùng
được rào bằng tre hoặc cành cây khá chắc chắn.
Lựa xong đất làm rẫy (mir, có nơi gọi là re) người ta phát sạch một miếng
đất cỏ bằng nền nhà nhỏ, đêm đó nếu nằm chiêm bao thấy ông bà tổ tiên cho làm thì
mới trồng tỉa; nếu không, họ tiếp tục tìm đất mới. Định được nơi làm rẫy, chủ nhà
cúng rẫy, van vái các thần (yang) và ông bà tổ tiên cho được mùa. Lễ vật gồm: một
con gà, một chai rượu, vài chiếc bánh nếp, một chén gạo, một nhúm muối, vài miếng
trầu cau... Cúng xong người ta ăn ngay tại chỗ và bắt đầu chặt hạ cây cối và phát các
bụi nhỏ, cỏ, dây leo...
Người Châu Ro ở Đồng Nai có vài kiêng cữ: con cù lần (con cu li hoặc phủ
hầu) vào rẫy; hoặc trút, trăn, rắn, rùa chết trong rẫy thì người ta bỏ rẫy đó không
làm vì sợ trỉa lúa sẽ thất, gia đình sẽ đau ốm. Muốn làm tiếp tục trên rẫy đó thì phải
cúng. Đi làm nếu gặp con mang (mển, đỏ) thì quay về, mai đi làm tiếp. Trong khi
làm rẫy phải cữ kêu trời, không nói tới toi dịch... Người Châu Ro (cũng như người
Mạ, người Stiêng) ở Đồng Nai giải thích: xưa kia cù lần là ông tổ con người, dạy

47.4 Page 464

▲back to top


người làm rẫy cho nên gặp ông tổ thì con cháu phải tránh xa, không được làm kinh
động. Như vậy con cù lần là tô tem của người Châu Ro ở Đồng Nai.
Xưa kia đất rừng còn rộng mênh mông, họ bỏ hẳn rẫy cũ. Người Việt đến
tiếp tục trồng trỉa trên đất bỏ đi đó, tuy độ phì giảm nhưng không tốn công khai phá.
Nay người đông lên, đất chật và tìm đất mới không dễ thì họ chỉ bỏ hóa vài năm cho
đất phục hồi rồi lại trồng tiếp tục. Một mảnh rẫy cũ (re hoặc re thâm) chỉ cần bỏ hóa
2 năm thì cây chồi đã mọc thành rừng chồi. Bảy, tám năm sau cây lớn, đất tích lũy
được lượng mùn nhất định, người ta lại có thể làm rẫy trở lại. Gia đình nào trước
đây cũng có ít nhất một rẫy cũ đã làm qua một vụ và rẫy mới (răm) vừa khai phá.
Các rẫy có thể ở gần hoặc xa nhau tùy địa phương. Một đời người xưa kia thường
chỉ quay 3 vòng rẫy là cùng, đó là cách làm rẫy chu kỳ kín. Nhưng có những nhóm
dựng nhà rồi lại làm rẫy kế bên, vài năm sau họ bỏ đi và không trở lại làm rẫy cũ
nữa, đó là lối du canh du cư thực sự, nay hầu như không còn.
Mảnh rẫy cũ bỏ hoang từ 2 năm trở lên thì không thuộc quyền sở hữu của
bất kỳ ai, người nào muốn làm cũng được. Nhưng để giữ mối quan hệ tốt với người
có công khai phá trước thì người tới sau thường đem chai rượu, thuốc hút và trầu
cau đến nói chuyện. Ở vùng đồng bào Châu Ro rất hiếm xảy ra tranh chấp nương
rẫy, mãi gần đây mới có một số bà con sang ruộng và rẫy cho các dân tộc anh em
đến làm ăn xen kẽ. Ruộng rẫy đem sang thường gần làng xóm, đã bạc màu. Người
Châu Ro ngày càng làm rẫy sâu vào vùng rừng núi như vết dầu loang. Khoảng đầu
và giữa thập niên 60, đồng bào Châu Ro ở Túc Trưng (xưa là xã Bình Hòa, Định
Quán) còn làm ruộng và rẫy ở ven Quốc lộ 20 thì nay bà con đã khai phá sâu về phía
Lâm trường Vĩnh An, Cây Gáo đến 10 km. Năm 1975 bà con ở Bảo Chánh còn làm
rẫy ở núi Chứa Chan (Gung Char: núi lớn) thì nay rẫy lui sâu vào phía Thọ Vực hơn
5 km trở lên.
Từ khoảng tháng 1 âm lịch, từng gia đình bắt đầu khai phá rẫy mới và dọn
rẫy cũ. Đây là công việc nặng nhọc đòi hỏi nhiều sức người, nên trong xóm làng
người ta thường vần đổi công. Chủ rẫy lo cơm trưa cho những người làm giúp. Chặt
hạ cây là việc nặng và nguy hiểm do đàn ông đảm nhiệm. Người ta dùng rìu (xuung)
hạ cây lớn, rựa (bra) hoặc chà gạc (via) phát bụi cây nhỏ, dây leo, cỏ tranh... Bộ
công cụ lao động và dụng cụ gia đình của người Châu Ro ngày nay gồm:
- Rìu đốn cây to gọi là xuung hoặc xuung cây xơ, xuông tùy nơi.
- Rựa chặt cây nhỏ gọi là bra, pì bra; chà gạc gọi là via (wiah)
- Cào gom cỏ hoặc cây chồi là xơ xằm băm; chĩa tre gom cỏ là kđạp.
- Cuốc nhỏ làm cỏ gọi là nạo, nih, cuốc lớn cũng gọi là cuốc
- Cây chọc lỗ trỉa hạt là chà moi, xơmol, chơtamâng.

47.5 Page 465

▲back to top


- Dao cắt lúa gọi là to knhel, liềm cắt lúa cũng gọi là lưỡi hái.
- Cái cày gọi là war, cái bừa không có tên riêng.
- Cối giã gạo là kpây, là pal, n'pal voh va; chày tay là r'nây, gnây, r'nây voh
va (tùy từng vùng).
- Nia sảy gạo là xập pin, xa piây.
- Gùi nhỏ đan thưa đựng củi, trái cây... là jal, xah xoi; gùi lớn (cái bồ) đựng
thóc, bắp là prông, xah.
Theo lời nhiều bà con, xưa kia chà gạc được dùng phổ biến, cũng như rựa,
cuốc nhỏ, cây chọc lỗ, gùi nhỏ. Một số loại công cụ mới sử dụng về sau này: các loại
rìu, rựa, thuổng, cào cỏ... bằng sắt do trao đổi với các dân tộc anh em mà có. Một số
cụ già Châu Ro ở Túc Trưng còn nhớ vào khoảng cách nay năm, sáu chục năm có
ông Tám Xương - tín đồ Tin Lành - từ Biên Hòa dùng xe đạp chở các loại công cụ
sắt này lên bán.
Từ tháng ba âm lịch, cây bị đốn đã khô, người ta đốt đi. Các gốc cỏ sót lại
được rẫy nốt bằng cào cỏ (xạc lai (208[1])). Cho đến nay, nhiều bà con Châu Ro còn
tin rằng nếu dọn sạch và đốt rẫy xong trưóc rằm tháng ba âm lịch thì rẫy sẽ ít cỏ,
được mùa... Theo phó tiến sĩ Nguyễn Thành Luông (đài Khí tượng thủy văn Thành
phố Hồ Chí Minh) thì ngày mưa thật sự - ngày mưa trên 5 mm và sau đó dãy lượng
mưa tích lũy trượt 5 ngày đạt từ 25 mm trở lên và liên tục, cách nhau không quá 4
ngày - trong vòng 15 năm trở lại đây, là từ khoảng 8 - IV đến 25 - V tức là khoảng
giữa cuối tháng 3 và tháng tư âm lịch (209[2]). Chế độ mưa và thời gian mưa ở
Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai không khác nhau mấy. Như vậy, qua thực
tiễn, người Châu Ro sản xuất theo quy luật diễn biến của khí hậu địa phương.
Người Châu Ro ở Bảo Chánh (huyện Xuân Lộc, Đồng Nai) và Ngãi Giao
(huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu) đã biết dự đoán thời tiết khá chính xác qua
quan sát thiên nhiên. Khoảng cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch, nếu ở núi Chứa Chan
(Gung Char) có sấm - mà bà con gọi là trời gầm đầu mùa - thì sắp có trận mưa đầu
mùa. Núi Chứa Chan cao hơn, thường mưa trước, có sấm chớp; nếu núi Thị Vãi
(Gung Xoai) có tiếng vang đáp lại thì đó là bắt đầu mùa mưa. Ban đêm, những người
tinh mắt ở Ngãi Giao nhìn thấy ở núi Thị Vãi có một hòn đá đỏ lừ, sáng ra thấy khói
bốc lên, thì một tuần sau nhất định có mưa đầu mùa. Vào mùa mưa, nhìn đồi núi phủ
khói thì trời mưa liên tục; vào cuối mùa mưa, nếu thấy núi có khói thì hôm đó trời
mưa. Khói ở đỉnh núi chính là mây bị địa hình cao đột khởi chặn lại ắt gây mưa..
(208[1]) Bt ngun ttiếng Pháp sarcler: làm c.
(209[2]) Báo Khoa hc phthông s176 ngày 1 - 6 - 1983.

47.6 Page 466

▲back to top


Người Châu Ro nhìn trăng ban đêm thấy tán màu xám đoán sẽ có mưa nhỏ, nếu tán
đen dày là sắp mưa to.
Người Châu Ro khá am tường vật hậu học, họ có câu: "Ray nhim đaq (đọc
là đạ) Gung Char": đầu mùa mưa, cây to (là anh) mọc ven sông Ray khóc cỏ tranh
(là em) mọc trên núi Chứa Chan còn bị nắng nên héo vàng; và cũng có câu: "Gung
Char đaq nhim Ray": giữa mùa mưa cỏ tranh (là em) trên núi Chứa Chan khóc anh
(cây to) mọc ven sông Ray chết vì ngập nước. Khi họ thấy ếch kêu, ve kêu, thấy đuôi
kỳ đà đen đều, cắc ké đầu xanh, xương ếch đen đi (khi bắt ăn thịt)... thì biết trời sắp
mưa. Bà con cũng để ý quan sát thấy nước giếng tự nhiên cạn bớt là dấu hiệu trời
sắp mưa...
Sau những trận mưa dông đầu mùa nửa cuối tháng 3 âm lịch, các gia đình
bắt đầu tỉa hạt bắp, bầu bí, dưa leo... Đàn ông hai tay cầm 2 gậy chọc lỗ (xơmol) dài
khoảng 2 m nhọn đầu (có thể bịt sắt) vừa đi vừa chọc 2 hàng lỗ. Một người chọc lỗ
nhanh có thể đảm bảo cho vài phụ nữ đi sau tỉa hạt. Họ cầm ống tỉa (tinh xoay) bằng
lồ ô hoặc nứa dài đựng hạt giống, dốc hạt ra bàn tay tự do thả 2, 3 hạt vào lỗ rồi cầm
ống tỉa lấp đất. Một tốp mỗi ngày có thể gieo hạt được vài công (1 công: 1.000 m2).
Cuốc chưa được dùng nhiều để lật hoặc xới xáo đất. Rẫy được dọn, đốt xong
thì người ta chọc lỗ tỉa hạt nên rễ cây thường ăn nông làm đất mặt kiệt màu nhanh -
nhất là đồng bào chưa bón phân - chưa kể đất mặt bị những trận mưa rào xối xả cuốn
đi ròng rã 6 tháng mùa mưa.
Bắp, bầu bí, mướp, dưa leo... được tỉa đầu tiên, mỗi lỗ cách nhau khoảng 60
cm. Đến tháng năm âm lịch, mưa đều hơn, đất đã nguội, bắp lên cao vài gang tay thì
bà con bắt đầu tỉa lúa và hạt bông cùng lúc, khoảng cách từ 30 - 40 cm.
Theo tập quán, bà con thường tỉa hạt rẫy cũ xong mới đến rẫy mới. Cách làm
này có cơ sở khoa học: rẫy mới tuy tỉa sau nhưng vì màu mỡ hơn nên cây trồng vẫn
lớn kịp thứ tỉa trước. Trên một mảnh rẫy, mùa đầu người Châu Ro trồng nhiều loại:
- Phía ngoài cùng bắp, đậu ván, đậu rồng, mướp...
- Ở vành đai trong, người ta trồng khoai mì
- Ở giữa (trong cùng) người ta tỉa lúa rẫy và mè xen bắp.
Đến mùa sau, rẫy đã cũ, được chia làm 3 mảnh trồng 3 thứ: lúa, bắp, khoai
mì. Còn đậu ván, đậu rồng, mướp... trồng ở cạnh nhà. Trên mảnh rẫy, cây trồng có
thể đa dạng tuỳ sở thích chủ nhân. Mùa rẫy hàng năm bắt đầu sau khi bà con cúng
yang lúa (yang va). Họ thu hoạch bắp vào tháng 6 âm lịch, lúa nương vào tháng 10.
Người Châu Ro ở các xã Xuân Phú, Xuân Thọ và một số nơi khác biết làm
ruộng lúa nước thành thạo với kỹ thuật như người Việt (ở xen kẽ): cày bừa, gieo mạ
rồi cấy và chăm sóc (tát nước, làm cỏ, bón phân...). Nơi sẵn nước, bà con có thể làm

47.7 Page 467

▲back to top


2, 3 vụ mỗi năm: vụ đông xuân cấy tháng 11, 12 âm lịch và gặt tháng 3 âm lịch; vụ
hè thu cấy tháng 5 gặt tháng 8; vụ mùa cấy tháng 6 gặt tháng 11, 12 - nay ít làm, nơi
nào cấy giống ngắn ngày vào tháng 9 thì gặt tháng 12 âm lịch. Ruộng lúa nước tỏ rõ
tính hơn hẳn so với lúa rẫy: năng suất cao và ổn định, thâm canh tốt có thể đạt 4
tấn/vụ/ha.
Tập đoàn lúa của người Châu Ro phong phú chứng tỏ họ là cư dân nông
nghiệp lâu đời. Họ trồng nhiều thứ lúa (va, bar):
- Lúa nếp có: nếp cái (nh' pal Chrau jro), nếp tép (va con brih), nếp trắng
(va xom), nếp con cua (bram bray cham), nếp muối (bram bray boh), nếp than (va
bar chaông), lúa nếp cha (nh'pal xkan)
- Lúa tẻ có: lúa bãi trầu (va brau yang), lúa va xe, lúa cà ké (va keh), lúa mờ
(va tơm), lúa mang (va djil), lúa cung (va kla), lúa thơm tôn (va kop), lúa mẹ (va
gup), lúa mẫn (va mẫn), lúa khô vằn (va chap chay), lúa ruồi (va thuc)... và ngày nay
họ cũng trồng lúa trắng tép, ba bụi, ba xe...
Các loại hoa màu có: bắp (tờ ngơi, xom), khoai mì (bum blang), khoai lang
(bum brăng), khoai mỡ (bum tơng), khoai chụp (bum brih)...
Các loại rau đậu gồm: đậu, bầu (tôh), bí xanh (là buôl), bí đỏ (ploi), dưa leo
(rà pung), dưa hấu (cai), mướp (pai vuynh), cà (plân)
Các loại cây gia vị có: ớt (m'rêch), xả (plăng), nghệ (mứt), gừng...
Lịch thời vụ chính của người Châu Ro theo âm lịch:
CÂY TRỒNG
Bắp
Đậu xanh
Khoai lang vụ 1
Khoai lang vụ 2
Bầu, bí mướp
Lúa rẫy
Bông
TỈA HẠT
Tháng 3, 4
Tháng 3, 4
Tháng 3, 4
Tháng 7
Tháng 3, 4
Tháng 5
Tháng 5
THU HOẠCH
Tháng 6,7
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 10,11
Tháng 6
Tháng 10,11
Tháng 11

47.8 Page 468

▲back to top


Khoai mì
Tháng 3, 4
Tháng 10 trở lên
Từ lâu người Châu Ro trồng tỉa theo âm lịch, một năm (đuung ba) chia làm
mười hai tháng (mât bar khay), mỗi tháng có một số việc chính
THÁNG (âl) TÊN CHÂU
RO
CÁC CÔNG VIỆC NÔNG NGHIỆP
Giêng
Khay muôi Khai phá rẫy mới từ sau ngày 15, làm be (củi, gỗ)
Hai
Khay bar Làm mướn... (hai tháng công việc như nhau)
Ba
Khay pe
Nửa đầu tháng đốt rẫy, dọn rẫy cũ, có mưa thì tỉa
bắp, bầu bí, dưa, mướp
Khay puôn Như tháng 3
Năm
Khay prăm Làm cỏ rẫy, tỉa lúa, từ 5 - 5 gieo mạ mùa dài
ngày...
Sáu
Khay prau Làm cỏ rẫy, thu hoạch hoa màu: bầu bí
Bảy
Khay pơ
Tiếp tục thu hoạch, tỉa bắp vụ 2, cấy lúa ruộng,
cắm câu, đi săn...
Tám
Khay ph'am Cắm câu, đi săn
Chín
Khay xin Như tháng tám
Mười
Khay mât Thu hoạch bắp vụ 2, khoai lang
Mười một Khay mât Thu hoạch lúa rẫy, bông, lúa ruộng
nuôi
Chạp
Khay mât Đi săn, tát cá, làm be
bar
Từ tháng mười một tới tháng ba âm lịch, được tương đối rảnh rỗi, các hộ
Châu Ro nghèo thường đi làm mướn kiếm thêm tiền.

47.9 Page 469

▲back to top


Đất núi rừng còn rộng, người thưa, cho đến nay đồng bào Châu Ro chưa bị
trói vào cái "xiềng ba sào" - tương đương một công đất 1000 m2 - nhưng một gia
đình có vài bốn lao động chính và phụ cũng chỉ làm được hai ba ha rẫy là cùng. Sau
khi tỉa hạt (lúa, bắp...) hơn một tháng thì cỏ dần dần lấn át cây trồng, tranh chất dinh
dưỡng, ánh sáng, nước của cây trồng. Người ta cần cù làm cỏ bằng cào cỏ (nạo, xạc
lai) mất nhiều thời gian, công sức. Vì vậy, nhiều gia đình bám rẫy suốt vụ bảy tám
tháng liền, chỉ khi cần mới về nhà, tuy nhà chỉ cách rẫy một giờ đi bộ. Qua kinh
nghiệm, người ta thấy rẫy cũ thường nhiều cỏ hơn rẫy mới, nơi đất dốc càng ít cỏ,
đỡ tốn công làm cỏ. Năng suất cây trồng phụ thuộc vào sự mầu mỡ của đất, thời
tiết... Năm nào mưa thuận gió hòa thì thu hoạch khá, năm nào nắng hạn nhiều chắc
chắn thất thu. Mức 200 giạ lúa/ha rẫy tương đương 3 tấn/ha là mơ ước của mọi gia
đình. Thu hoạch hơn 200 giạ, bà con sẽ cúng trả lễ bằng heo, đạt dưới mức này thì
lễ vật chỉ là con gà.
Ở xen kẽ và tiếp xúc với người Việt và một số dân tộc anh em khác, người
Châu Ro biết làm ruộng nước từ khá lâu. Nhưng hầu như ruộng nước người Châu
Ro mất công khai phá lần hồi bị thực dân Pháp và địa chủ câu kết cướp đoạt. Vùng
Bảo Chánh ở chân núi Chứa Chan, nay thuộc xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, xưa
kia là vùng trảng cỏ xen rừng chồi. Theo lời các cụ già, giữa trảng cỏ có khu ruộng
tiên có mội nước chảy quanh năm, bà con thường tới đó lấy nước ăn về mùa khô
(Ông Hai Của - nguyên chủ tịch UBMTTQ xã Xuân Thọ - cho rằng, một đám cháy
làm chết cỏ đã hình thành khu ruộng tiên). Bà con phát cỏ, cho trâu dẫm nổi sình lên
để cấy lúa nước. Lần hồi, người ta khai phá toàn bộ trảng cỏ làm nên cánh đồng Bảo
Chánh rộng hàng trăm ha. Chủ điền lớn Đỗ Cao Lụa, người xã Bình Trước, nay là
thành phố Biên Hòa, câu kết với tổng Nhay, lợi dụng tính thật thà chất phác của đồng
bào Châu Ro, lén cho tay chân chôn một số trụ xi măng đánh dấu khu vực ruộng (bà
con đã làm), rồi lập bằng khoán cướp trắng. Đỗ Cao Lụa sai tổng Nhay di người
Châu Ro vào Thọ Vực cách đó 6, 7 km, một số khác ra ở ruộng Tre cách 3 km. Đến
năm 1950, quân Pháp bắt bà con tập trung về Bảo Chánh, Gia Ray để chúng dễ kiểm
soát, mặt khác ngăn chặn cán bộ ta liên hệ, xây dựng cơ sở. Người Châu Ro phải
mướn ruộng, hàng năm nộp tô mười giạ lúa/ha. Từ sau ngày Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời, lực lượng cách mạng mạnh lên, ta không cho chủ
điền thu tô nữa.
Đồng bào Châu Ro ở ấp Túc Trưng (xã Bình Hòa, nay là xã Túc Trưng,
huyện Định Quán) bỏ nhiều công sức khai phá đất rừng ven Quốc lộ 20 thành khu
ruộng Choóc khoảng vài chục ha (ở phía tay mặt Quốc lộ 20 hướng Biên Hòa - Đà
Lạt). Năm 1955, người Mường đến tiếp tục khai phá khu ruộng này.
Thực dân Pháp cướp đất trên qui mô lớn và tàn bạo, không địa chủ bản xứ
nào sánh được. Từ năm 1906 trở đi, các công ty đồn điền cao su như Suzannah, An
Lộc... rồi Công ty cao su Xuân Lộc ở Hàng Gòn, Công ty cao su Đồng Nai... lần lượt

47.10 Page 470

▲back to top


ra đời. Chúng đuổi người Châu Ro khỏi địa bàn cư trú quen thuộc lâu đời - vùng đất
đỏ rộng lớn trải dài từ Định Quán qua Long Khánh, Xuân Lộc tới Bà Rịa - Bà con
phải đi tìm nơi lập làng mới, lấy một nắm đất nơi sẽ cư trú mang về nộp chủ đồn
điền. Nếu là đất đỏ, chúng còn đuổi tới khi nào mang đất trắng hay đất xám về mới
thôi. Vốn bản tính thích sống tự do phóng khoáng, bà con rút vào sâu mãi. Số người
ở lại đất cũ trở thành cu ly cao su. Bị dồn đuổi vào chốn heo hút, đất đai kém màu
mỡ, cuộc sống của người Châu Ro ngày càng mòn mỏi, tàn lụi trên đà nguy cơ diệt
vong như một số dân tộc anh em khác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thời gian làm nông nghiệp thực sự hàng năm của mỗi gia đình Châu Ro chỉ
chừng 4 tháng. Lúc nhàn rỗi, họ làm kinh tế phụ: săn bắn, hái lượm, tát cá, dệt, đan
lát, ăn ong, múc dầu chai...
Khi rừng già mênh mông còn bao phủ khắp nơi, rất sẵn chim, thú. Săn bắn
trước hết nhằm bảo vệ nương rẫy khỏi bị thú rừng phá hoại; mặt khác cung ứng thịt
bù vào phần chăn nuôi nhỏ bé. Người Châu Ro săn bắn bằng nhiều loại dụng cụ, phổ
biến nhất là (nỏ), tên (tên tẩm thuốc độc dùng săn thú lớn, có khi chỉ trầy da cũng
không thoát chết), ngoài ra còn dùng lao săn voi, các loại bẫy, sau này có thêm súng
(nhưng ít người có). Chó săn rất đắc lực trong việc săn cáo, chồn... Người Châu Ro
săn bắn: các chim rừng, công, gà lôi, trăn, hươu, nai, mang, mển, khỉ, voọc, min, heo
rừng, gấu, cọp, voi... "Khoảng đầu những năm 1930 thị trấn Xuân Lộc mới lèo tèo
người, rừng còn nối rừng. Chợ Xuân Lộc có dăm chục người bán hàng. Đồn điền
mới mở, có những chiều hàng đàn voi kềnh càng lững thững vào sân nhà trong đồn
điền, bình tĩnh ngơ ngác ngó quanh một lát rồi bỏ đi" (210[3])
Xưa kia, bà con trong làng thường đi săn tập thể bằng tên, ná hoặc đánh bẫy.
Nhưng gần đây, đi săn cá nhân phổ biến hơn, nhất là khi đồng bào biết dùng súng.
Thời gian đi săn thường vào ban đêm. Con thú bị bắn hạ được chia cho bà con, họ
hàng; nếu là thú lớn như bò rừng, trâu rừng, min... thì cả sóc (palây, đublây) nấu
nướng ăn uống cả tuần liền, mọi người say sưa ca hát nhảy múa vui vẻ. Ai săn được
thú đều cúng yang bri để cám ơn rừng cho cái ăn đều đều. Hàm răng thú (heo rừng,
cheo, sóc, voọc, mển, khỉ...) được người đi săn phơi khô, treo thành dãy trên xà nhà
đánh dấu thành tích săn giỏi. Ông Năm Nổi ở Lý Lịch (xã Phú Lý huyện Vĩnh Cửu)
hiện còn giữ được vài chục hàm răng thú như vậy. Nếu người đi săn qua đời, thân
nhân đốt rồi vất bỏ các xương thú vào rừng. Chắc hẳn xưa kia săn bắn là nguồn cung
cấp thực phẩm động vật quan trọng của người Châu Ro; nhưng ngày nay chỉ là nguồn
thu nhập phụ thất thường ở vài nơi còn chim và thú.
Việc hái lượm rau rừng, măng, nấm, củ và quả rừng là nguồn thu nhập phụ
của nhiều nhà. Người ta hái tất cả các loại cây cỏ có thể ăn được, trong đó đọt mây
(210[3]) Lê Sc Nghi: Đất đỏ miền Đông, - Công ty Cao su Đồng Nai xut bn.

48 Pages 471-480

▲back to top


48.1 Page 471

▲back to top


non vị đắng là thành phần không thể thiếu trong món canh bồi truyền thống gồm:
đọt mây non ngâm nước muối, gạo tẻ giã bột, rau dền, đọt mướp... nấu với thịt (cheo,
khỉ, nai, hươu... phơi khô) nêm sả ớt, mắm, muối... Canh bồi tương tự một thứ xúp.
Nếu không có thịt khô, người ta thay bằng da, xương thú phơi khô (hoặc gác bếp).
Hái rau là việc của đàn bà, con nít song đào củ chụp (củ mài) đòi hỏi sức khỏe của
đàn ông. Với lưỡi thuổng nhỏ (nih) người ta đào theo gốc dây, có khi sâu 2, 3 m mới
lấy hết các đoạn gãy vụn. Người ta chỉ đào củ chụp vào lúc giáp hạt, lúa đã hết; ngày
nay phải đi xa mới có.
Vài chục năm trước đây, nghề ăn ong của người Châu Ro là nguồn thu nhập
đáng kể. Các sách Gia Định Thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí đều đề cập
đến nguồn lợi tự nhiên này ở tỉnh Biên Hòa (cũ). Hầu như khu rừng nào cũng có một
số bộng ong, mỗi bộng có thể cho hàng chục lít mật và chừng một ký sáp. Mật và
sáp ong dùng đổi lấy rìu, rựa, ché, muối... Nay nguồn lợi về ong rừng không đáng là
bao.
Rừng Đồng Nai mọc ở vùng đồi núi thấp, ưu hợp cây họ Dầu
Dipterocarpaceae tạo nghề múc dầu trai. Dầu này trộn xơ đay trét ghe xuồng rất bền.
Khi nghề đánh cá sông, biển phát triển, đòi hỏi đóng mới nhiều phương tiện thì người
ta thi nhau đi tìm mổ cây họ Dầu. Ngày nay rừng bị tàn phá ghê gớm, việc múc dầu
trở nên khó khăn. Người Châu Ro cho đến thời kỳ gần đây chưa biết làm nghề chài
lưới theo đúng nghĩa. (Hiện nay nhóm người Châu Ro ở Bình Châu, Xuyên Mộc, Bà
Rịa - Vũng Tàu cách biển chừng một km tỏ ra xa lạ với việc đánh cá biển cũng như
không biết làm muối biển). Người ta chỉ bắt cá lúc rảnh rỗi bằng cách: đắp chặn một
khúc suối nhỏ rồi tát cạn để bắt; tát cạn các đìa, bàu nhỏ vào mùa khô; giã nát một
số cây rừng: trái biên, dây vàng nghệ... thả xuống suối, cá ngấm chất độc nổi lên.
Các hình thức câu, đặt lờ, đặt lọp, chài... ít phổ biến và mới xuất hiện gần đây.
Vào lúc rảnh rỗi, thường là vào các buổi chiều, người Châu Ro đan các loại
gùi lớn nhỏ dùng vào các việc: gùi rau, gùi củi, gùi lúa...; một số lờ, lọp đánh cá, hộp
đựng trầu (kruh) bằng lá dứa; các tấm đệm nằm thay chiếu bằng dong rừng (lùng),
lá buông... Các chàng trai Châu Ro khéo tay trước đây là đối tượng được nhiều cô
gái ưa thích. Các sản phẩm đan lát là những tác phẩm mỹ nghệ thủ công độc lập.
Ngày nay, tuy các loại rổ, rá, giỏ xách... bằng nhựa hoặc nhôm bán khắp nơi nhưng
vào bất kỳ gia đình Châu Ro nào, chúng ta vẫn thấy đồ đan lát thủ công chiếm vị trí
quan trọng.
Nghề dệt vải bông cổ truyền xưa kia cung cấp y phục: áo (ao), khố (khô),
váy (xibut: chăn mặc), chăn đắp (xu). Ao khô rõ ràng là từ vay mượn, nói lên
người Châu Ro biết sử dụng các thứ này chưa lâu lắm. Ở các ấp Đồng Xoài, Đức
Thắng (Túc Trưng, Định Quán) còn một số phụ nữ tuổi trên 40 biết dệt xibut và xu
theo kỹ thuật cổ truyền. Bông thu hoạch ở rẫy tháng 11, 12 âm lịch đem về, dùng xa

48.2 Page 472

▲back to top


quay thành sợi thô (như sợi len) rồi guồng thành con cúi, đem hồ sợi cho cứng.
Khung cửi chỉ là thanh gỗ ngang có chiều dài chừng 1 m, rộng 5 cm, dày 2 cm để
mắc sợi dọc. Con thoi dài gần 1 m đan sợi ngang. Độ một phút người ta mới lồng
con thoi qua hàng sợi dọc một lượt, do đó dệt một tấm chăn dài 2 m đòi hỏi khoảng
thời gian chừng nửa tháng. Giá thành sản phẩm đắt hơn thứ bán ở chợ, trông lại thô
tháp, vì vậy chị em chỉ dệt chăn vào lúc thật rảnh rỗi mùa khô. Hoa văn dệt nhiều
kiểu thức biến đổi phức tạp, đẹp mắt song sản phẩm dệt này chỉ để dùng trong gia
đình.
Phần lớn người Châu Ro sống bằng nương rẫy "ăn nước trời" với trình độ kỹ
thuật khá nguyên thủy, nhưng đã có một số ít trở thành công nhân kỹ thuật: lái máy
cày, lái xe be (xe chở gỗ hạng nặng), sửa chữa máy móc... Ở một số nông trường cao
su có hàng trăm công nhân người Châu Ro.
II.3. Cấu trúc xã hội, gia đình và tập quán, tín ngưỡng:
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chế độ gia đình lớn theo dòng mẹ còn
tồn tại thì ở vùng người Châu Ro cư trú người ta thấy có những ngôi nhà dài có khi
đến gần 100 m. Những người thuộc lứa tuổi 60 trở lên còn thấy (vào lúc nhỏ) mỗi
làng (sóc, palây, đublây) có vài dãy nhà dài. Mỗi dãy nhà dài là một gia đình lớn
ng tộc (họ), chia làm nhiều gia đình hạt nhân.
Trong việc dựng nhà sàn dài, một già làng - trưởng tộc tìm địa điểm ưng ý:
khu đất đủ rộng, tương đối bằng phẳng, quang đãng, không xa nguồn nước... Ông
giẫy một vạt cỏ nhỏ, chọn 7 hạt gạo nguyên vẹn đặt xuống đó, úp chén ăn cơm lên.
Qua một đêm thấy các hạt gạo vẫn y nguyên không xê xích thì ông cho nơi đó có thể
dựng nhà (vì không có mối, kiến... mà mối là loại côn trùng phá hoại nhà cửa, vật
dụng bằng cây mạnh mẽ nhất, cần phải tránh xa). Trước khi cất nhà, ông làm lễ cúng
đơn giản: con gà, chai rượu, bình trà, trầu cau... cầu khấn các yang và ông bà tổ tiên
cho ở yên ổn và làm ăn được mùa.
Người Châu Ro ở Lý Lịch (Vĩnh Cửu) lấy cây rượng đo cẩn thận phạm vi
nền nhà và bốn góc để khi dựng nhà các cột không xê dịch bao nhiêu, nền nhà không
méo. Bà con cho rằng chọn được nền đất như vậy là tốt, gia đình sẽ bình yên không
bị xáo trộn. Cột chọn trong rừng sâu có dáng thẳng, gỗ tốt, không có dây leo bám
(như vậy chủ nhà không bị ràng buộc gì, hoàn toàn tự do). Người lớn tuổi chịu trách
nhiệm dựng cây cột cái và cây đòn dông (nóc). Căn nhà người Châu Ro có gốc tính
từ cột cái ở hướng Đông và ngọn ở hướng Tây. Nhà dài được phân chia theo thứ
bậc: góc phía Đông nhiều ánh sáng dành cho cha mẹ, những khoang tiếp theo bố trí
theo ngôi thứ con cái, cho đến phần nhà dùng để tiếp khách. Sau khi cha mẹ qua đời,
người anh hoặc chị lớn nhất sẽ ở vị trí dành cho cha mẹ trước kia, các người em đôn
vị trí lên từng bước...

48.3 Page 473

▲back to top


Nhà dài có bộ cột tròn ít khi lột vỏ cây, đẽo sơ cho kích thước bằng nhau.
Tất cả các cột đều chôn sâu vững chãi. Bà con thường làm cột bằng cây bằng lăng,
gõ, kiêng cữ cột gỗ căm xe, cẩm lai (cho là hệ lắm, ở nhà làm bằng cột gỗ này dễ
bệnh tật, tính tình trở nên nóng nảy...). Nguyên vật liệu làm nhà gồm:
- Gỗ kèo, cột, dui... (bộ sườn nhà)
- Cau rừng hoặc tre nứa, lồ ô chẻ ra làm sàn và vách ngăn.
- Cỏ tranh, lá trung quân lợp mái, ngăn vách.
Dụng cụ làm nhà khá đơn giản: rìu, chà gạc, rựa. Các thứ: cưa, bào, đục
tràng... mới dùng phổ biến sau năm 1954. Cho nên các cột, kèo, đòn tay... chỉ được
cắt ngoàm, gác lên nhau rồi buộc bằng dây mây. Có nơi như Túc Trưng, Bảo
Chánh..., người Châu Ro mới học cưa và líu (xẻ ván) sau ngày giải phóng ở các thợ
mộc miền Bắc vào. Xưa người Châu Ro cữ dùng đinh sắt vì cho rằng đinh ém cột,
làm nặng hồn, nặng vía, dễ bệnh tật, làm ăn sút kém... chỉ dùng dây mây. Nay dây
mây khó kiếm và cũng đắt thì đinh lại được ưa chuộng. Gần đây, bà con làm nhà sàn
nhỏ với bộ cột gỗ xẻ vuông, kê tán (đá), bộ khung nhà liên kết bằng các mộng đục
song hệ thống cột nóc vẫn tồn tại (như vết tích nhà dài cổ truyền).
Mọi thành viên nam nữ của dòng họ tùy sức lực mà tham gia tìm kiếm, chuẩn
bị gom vật liệu làm nhà. Thực ra hồi đó quanh làng là rừng bạt ngàn, là trảng cỏ
tranh rộng, rất sẵn nguyên vật liệu. Nhà dài là nơi cư trú của tập thể một dòng họ
thân tộc gồm hàng chục gia đình nhỏ trở lên, chia làm nhiều gian, ngăn cách bằng
vách liếp sơ sài, mỗi gian dành cho một gia đình nhỏ. Về sau nhà sàn nhỏ thay thế
nhà dài. Mỗi xóm ấp làng Châu Ro lúc này gồm vài chục nhà sàn nhỏ, nằm rải rác
ven rẫy hoặc bao quanh một khu đất rộng. Người ta cất nhà không cần chọn hướng,
không lựa ngày tốt, chỉ cần cất nhà theo thế đất.
Nhà sàn cao chừng 1,5 m, hai cửa hông với hai thang gỗ hoặc tre: thang
người đi ở bên trái, thang chuồng gà (nhi ier) ở tay mặt. Nhà có một số lỗ trổ làm
cửa sổ, cửa ra vào không có cánh để đóng mở. Khoảng sàn nhà phía Đông được đắp
một ô đất (chống cháy) đó là bếp đun nấu. Khoang giữa nhà rộng rãi là nơi ngồi chơi,
ăn cơm, đan lát. Nửa sàn nhà phía Tây là sạp tre dài cao hơn sàn một chút, thường
trải đệm chiếu (vêl r'tiêng) đan bằng cây lùng (dong rừng) chẻ nhỏ, đó là nơi ngủ
của gia đình. Phía trên nơi ngủ, gần sát mái nhà có bàn thờ dài bằng tre để cúng
nhang lúa (yang va), cúng chữa bệnh... Có nơi làm chuồng gà (nhi ier) ở một góc
nhà sàn, có nơi làm ở gầm sàn cùng với chuồng heo. Đằng sau nhà ở là chòi lúa (nhi
va), đó là nhà sàn nhỏ, sàn cao bằng đầu người (gần 2 m), có cầu thang. Nhà để lúa
(nhi va, cà uôn) của đồng bào Châu Ro Lý Lịch (Vĩnh Cửu) được dựng bất cứ thời
gian nào nhưng phải theo đúng hướng Đông - Tây như nhà ở, để mặt trời khỏi đi
ngang đòn dông, nếu làm không đúng là xúc phạm đến yang va, (yang lớn nhất trong
các yang). Trước đây người Châu Ro cho rằng nếu cất thóc lúa trong nhà ở thì thần

48.4 Page 474

▲back to top


lúa (yang va) và ông bà tổ tiên sẽ giận, sẽ làm thất mùa. Chòi lúa làm riêng biệt sẽ
giữ được sự trong sạch, tôn kính với thần lúa. Đây là xuất phát từ tín ngưỡng của cư
dân nông nghiệp khi các thành viên làm chung ăn chung, sản phẩm chia đều cho mọi
người. Người phụ nữ đóng vai trò "tay hòm chìa khóa" cai quản phân phối kho lúa
chung gọi là mẹ lúa (mây va).
Nhà làm xong, vị già làng làm lễ cúng, mâm lễ gồm: con gà luộc, nải chuối,
bình trà, trầu cau... van vái ông bà tổ tiên cho con cháu mạnh khỏe, yên ổn, làm ăn
trúng mùa.
Trải qua mấy chục năm chiến tranh, các nhà sàn dài cổ truyền đã bị phá hủy
hết. Chính sách dồn dân của Pháp rồi Mỹ và vấn đề thiếu gỗ trong rừng khiến người
Châu Ro làm nhà trệt theo kiểu nhà người Việt. Vật liệu làm nhà gồm: gỗ xẻ, cây
nhỏ, tranh, tre, tôn, đinh sắt... Số nhà gạch thay dần nhà tranh sơ sài. Mỗi gia đình
thường có bàn ghế, giường ngủ, sạp tre (chà nơng cà la) to hơn giường ngủ để gia
đình ngồi ăn cơm - tàn dư chiếc sàn nhà xưa. Ở Túc Trưng, bà con Châu Ro dựng
một số nhà sàn kiểu thức kiến trúc vila. Nhà cửa sắp xếp có tổ chức kiểu quần cư đô
thị, đường đi lại trong xóm ấp rộng và thẳng đủ cho ôtô chạy. Một số vườn nhà trồng
cây ăn quả, khoai mì, bầu bí... Ở Bảo Vinh, Suối Chồn (Long Khánh) người Châu
Ro trồng cà phê. Cơ cấu cây trồng có biến đổi nhưng chậm, cuộc sống chủ yếu vẫn
trông vào nương rẫy, rừng núi.
II.3.1. Làng (pa lây, đu blây, sóc) là đơn vị hành chánh của một tập hợp gia
đình cùng dòng họ, cũng có thể thuộc vài tộc xen kẽ. Ranh giới làng xưa không rõ
rệt, gồm vài nhà sàn dài (sau này là vài chục nhà sàn nhỏ) ở gần khu rẫy hoặc ruộng,
số nhân khẩu ít khi vượt số trăm. Mỗi làng là một lõm nhỏ lọt thỏm giữa rừng già
mênh mông. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ nhì (1945 - 1954),
đồng bào Châu Ro bị gom vào một số điểm để chúng dễ kiểm soát. Dưới chế độ Sài
Gòn, bà con bị gom triệt để hơn vào các ấp ven lộ, làm nhà có hàng lối theo lô như
ở đô thị
II.3.2. Xưa kia, đứng đầu mỗi nhà dài là vị trưởng họ gọi là ông đầu nhang
(voh yang va). Đó là người già có uy tín, có kinh nghiệm sản xuất và chiến đấu, được
mọi người tuân phục cử ra. Nếu là xóm nhỏ giữa rừng thì người đứng đầu gọi là mẹ
sóc, mây srok (mây srok là đàn ông). Các vị trưởng họ hoặc mẹ sóc và các người
cao tuổi nhất họp thành hội đồng già làng đứng ra lãnh đạo mọi việc: dời làng, dựng
nhà, tổ chức làm ăn, cúng lễ, vui chơi, đi săn, tát cá... Song các cụ già Châu Ro tuổi
xấp xỉ 80 cho biết chỉ nghe nói lại chứ không thấy hội đồng già làng, họ chỉ thấy các
vị đầu nhang và chức sắc chính quyền cũ: ông tổng (cai tổng), ông xã (xã truởng),
ông cả, cai tuần... Các chức sắc nói chung thuộc loại khá giả, có tài sản: trâu, ché,
đồng la... xét xử công việc làng xóm và thực hiện những gì do cấp trên đưa xuống.

48.5 Page 475

▲back to top


Xã hội Châu Ro chưa phân hóa rõ rệt giàu nghèo. Gia đình nhiều lao động,
có tiền bạc dư dả thì cũng làm tới vài mẫu rẫy. Trung bình mỗi hộ chỉ làm một, hai
mẫu. Ở khu vực người Châu Ro cư trú, đất canh tác - tư liệu sản xuất chính - không
thiếu, sức người có hạn nên việc khai phá nương rẫy cũng có hạn. Mỗi làng chỉ có
một số ít hộ dư dả chút đỉnh do đông lao động, trúng mùa, ít bệnh tật... Phần lớn số
hộ thiếu ăn vài tháng - chính xác là thiếu gạo; hoa màu: khoai mì, khoai lang, củ
chụp vẫn có cho 2 bữa - đó là các hộ neo đơn, hay bệnh tật, chủ hộ thiếu chăm chỉ,
chi tiêu thiếu kế hoạch... Trong chế độ cũ, một số chức sắc Châu Ro lợi dụng uy
quyền, bóc lột dân làng về sức lao động, ăn phạt... mà có của hơn người khác.
Người Châu Ro không có nô lệ trong nhà như người Stiêng. Dù nghèo khổ
đến đâu họ cũng chỉ bỏ sức lao động để kiếm ăn chứ không đi ăn xin ăn mày, đó là
nét phẩm chất đặc sắc cao đẹp.
Cộng đồng người Châu Ro có những luật lệ truyền miệng mà mỗi thành viên
phải theo. Các vi phạm tục lệ: phụ nữ chửa hoang, loạn luân, vào nhà đã cắm lá
cấm... đều bị xử phạt: đòn, ăn phạt ché, heo, gà, rượu... Các hiện tượng tranh chấp
ruộng rẫy, xích mích đánh lộn, cướp của giết người... hầu như chưa từng xảy ra nên
chưa có luật miệng nói tới cần xử phạt thế nào. Nội bộ người Châu Ro sống đoàn
kết thuận hòa, thân ái giúp nhau vô tư. Mọi việc hòa giải, xét xử các vi phạm, thường
tiến hành trong nội bộ dòng họ thân mà người xét xử chính là ông đầu nhang, ít khi
đưa ra làng nhờ các chức sắc phân xử.
Trong cộng đồng người Châu Ro ở Lý Lịch, nếu có ai bị mất cắp vật gì, và
có đối tượng bị nghi ngờ thì họ làm lễ thề. Mỗi bên đều có lễ vật gồm: một cây đèn
cầy, 7 lá gáo vàng, 7 lá cà độc dược, một con gà lông trắng, một chén vỏ cây chùm
lum. Người mất của trình bày với yang xin yang phán xử thanh minh với người mình
nghi. Người bị nghi lấy cắp (mà không lấy) thì thề đại ý: "Tôi là người bị nghi lấy
cắp của người khác nên tôi trình yang xem xét. Nếu tôi có lấy cắp thiệt, xin yang
phạt tôi và cả dòng họ tôi chết hết như lá gáo, lá cà (211[4]) vào mùa nắng, còn
không xin yang giải oan cho tôi, cho cả dòng họ tôi sống như cây rừng xanh tươi
mạnh mẽ...". Tình trạng trộm cắp rất hiếm xảy ra vì họ sợ yang phạt như lời thề độc.
Tổ chức gia đình lớn với ông đầu nhang nhiều uy quyền đã tan rã khá lâu
trước Cách mạng tháng Tám 1945. Bây giờ tế bào cơ bản là gia đình nhỏ một vợ
một chồng theo dòng cha, tuy còn rơi rớt ảnh hưởng dòng mẹ qua tục ở rể. Người
cha là lao động trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định mọi việc song ít khi tỏ ra
độc đoán mà thường bàn bạc với vợ. Người phụ nữ làm công việc không đòi hỏi sức
mạnh cơ bắp của nam giới và việc nội trợ nuôi con... Họ vẫn giữ vai trò đáng kể
trong nhà, tương đối bình đẳng với nam giới. Nhưng vì chưa quen hoạt động xã hội
(211[4]) Hai loi cây này rng hết lá vào mùa khô

48.6 Page 476

▲back to top


nên người phụ nữ Châu Ro còn tự ti, trong đó yếu tố trình độ văn hóa thấp thực sự
cản trở họ tham gia công tác đoàn thể xã hội. Do đó cần cấp thiết nâng cao trình độ
văn hóa cho chị em trong quá trình giải phóng phụ nữ, tạo sự bình đẳng thật sự với
nam giới.
Người Việt, người Hoa... còn rơi rớt tư tưởng coi trọng con trai nhưng người
Châu Ro cũng như các dân tộc ở vùng Đông Nam bộ - Nam Trường Sơn - Tây
Nguyên có phần quý con gái hơn vì họ cho rằng con gái có hiếu với cha mẹ, gắn bó
với cha mẹ hơn con trai. Con gái lấy chồng vẫn ở cùng và nuôi cha mẹ, con trai lớn
lên lấy vợ, theo vợ, nuôi cha mẹ vợ - đây là tàn dư dòng mẹ.
Khi cha mẹ chết, các con đều được chia tài sản để "làm kỷ niệm". Cha mẹ
thường sống với con gái út. Trong một gia đình Châu Ro ngày nay, hiếm thấy cảnh
một số chị em gái và chồng con của họ cùng chung sống một mái nhà, vì gia đình
lớn đã tan rã từ lâu.
Trong quan hệ thân tộc, người Châu Ro nói chung không phân biệt nhiều
dòng cha, dòng mẹ qua ngôn ngữ:
ông cụ: cor cầm vinh; bà cụ: un cầm vinh (212[5])
ông (nội, ngoại): câu; bà (nội, ngoại): un
ông nội: va nội; bà nội: va ya vàp (1)
ông ngoại: va ngoại; bà ngoại: va ya mây (1)
cha: vàp; mẹ: mê, mây
cha (chồng, vợ): vàp po; mẹ (chồng, vợ): mê po (213[6])
cha, mẹ chồng: vàp, mây a xực khô; cha mẹ vợ: vàp, mây a xực ur (1)
bác (trai, gái): mí (khô, ur)
chú, cậu, dượng: đeh
cô (chị, em cha); dì (chị em mẹ): yôông; mợ (vợ cậu): đeh b' yôông
cô ruột: yôông a vàp; dì ruột: yôông a mây; thím: yôông sâu (1)
anh, chị: pôp
con đẻ: kon vơn; con (trai, gái): kon (khô, ur)
con (rể, dâu): kon m'xa
cháu (trai, gái): xnau (khô, ur)
(212[5]) Người Châu Ro ở Vĩnh Thanh, huyện Châu Đức, Bà Ra - Vũng Tàu gọi như vậy.
(213[6]) Con r, con dâu gi cha mv, cha mchng.

48.7 Page 477

▲back to top


cháu họ (trai, gái): k'mol (khô, ur)
chắt: xne
chút: xnoach
Người Châu Ro không có từ tương đương với cụ (thân sinh ông bà), cố (thân
sinh cụ).
Con trai Châu Ro từ lúc còn nhỏ đã được người cha truyền lại và rèn luyện
đức tính dũng cảm qua các buổi săn bẫy thú: gài bẫy, bắn ná, phóng lao, sử dụng chà
gạc... Đứa nhỏ được tham gia các cuộc hội họp, cúng lễ, tang ma, cưới xin... của
cộng đồng, bộ tộc. Nó còn được mẹ dạy cách đan các loại gùi khác nhau.
Con gái Châu Ro được mẹ và các dì dạy nấu ăn, dẫn vào rừng hái lượm rau
quả rừng ăn được, tát cá... Nó còn được dạy cách dệt thổ cẩm làm váy. Qua các sinh
hoạt của cộng đồng, bé gái Châu Ro học dân ca (hò, hát), múa... và trưởng thành
dần.
II.3.3. Xưa kia, người đàn ông Châu Ro đóng khố (khô), đàn bà mặc váy
(xibut: chăn mặc), nửa thân trên ở trần như các dân tộc Nam Trường Sơn - Tây
Nguyên. Người ta lý giải bằng thành ngữ "tốt khoe, xấu che" (đối với phụ nữ), nhưng
thực ra vì họ quá nghèo không đủ quần áo mặc mà thôi! Khố đã biến mất từ lâu, đàn
ông Châu Ro đứng tuổi chỉ nghe nói chứ ít người thấy. Váy còn một ít ở Túc Trưng,
được phụ nữ mặc vào lúc múa hát văn nghệ, hoặc chụp ảnh. Đàn ông hay để đầu
trần, đàn bà cũng dùng nón; đồ trang sức ưa thích là chuỗi hạt cườm nhiều màu,
còn các loại vòng đồng và bạc đã bán hết từ lâu.
Người Châu Ro hút thuốc lá rê (yú, hăm, nao), phụ nữ cũng ăn trầu (mlu) với
cau (pa nơng, play xia). Thường ngày họ ăn cơm tẻ; gạo nếp là lương thực quý dùng
làm các loại bánh: piêng đinh (cơm lam nướng trong ống nứa), piêng puh (bánh dày
trộn mè) piêng chum (bánh tét)... Rượu quảng còn gọi là rượu ịt (xe tơm) là rượu cần
làm vào dịp ăn nhang lúa, cưới xin, ma chay, làm nhà... đòi hỏi thời gian chuẩn bị
khá lâu.
(Cách làm rượu quảng (xe tơm): gạo nếp lức hoặc gạo tẻ nấu chín đem rải ra
đệm cho nguội. Lấy lá cây cù đen (bun mai) lót ở thúng rồi đổ cơm vào ủ, phủ lá cù
đen lên trên cho kín. Để vài ngày, cơm lên meo, đem phơi nắng cho khô rồi đưa vào
cối giã nhỏ thành bột. Lấy vỏ cây dâu da rừng, vỏ cây bình linh đun lên chừng một
tiếng, để nguội rồi cho bột meo vào quậy kỹ, đều. Nút ché rượu bằng lá trung quân,
cho thêm nước và để nguội một thời gian cho lên men. Rượu cốt có màu trà nâu
đậm, đục, vị rượu lạt và hơi chua như bia. Người ta rút rượu cốt ra để cúng, rồi đổ
đầy nước lã đến miệng ché. Khi uống cắm các cần trúc nhỏ, mời khách hút rượu.
Rượu vơi đến đâu người ta đổ nước đầy thêm đến đó. Càng uống, rượu quảng càng
lạt. Có gia đình làm lễ ăn nhang chuẩn bị tới dăm ché rượu quảng. Khi rượu quảng

48.8 Page 478

▲back to top


lạt quá, người ta mua rượu đế (lăc) để cuộc nhậu vui có thể kéo dài, tình bà con, xóm
giềng càng thêm khắng khít).
II.3.4. Khi trai gái đã lớn, họ được tự do tìm hiểu nhau qua các buổi làm rẫy,
tát cá, đi săn... và các buổi cúng lễ, cưới xin. Đôi trai gái tìm nơi vắng vẻ để tâm sự
bước đầu. Rồi ban đêm, chàng trai đến nhà cô gái với nhánh lồ ô trên tay, đút cây vô
cửa hoặc chọc từ dưới sàn lên. Nếu cây được kéo vào là cha mẹ cô gái đã ngủ; nếu
cây bị đẩy ra là cha mẹ còn thức, hãy đợi đấy. Cửa mở ra, anh con trai vào ngủ cùng
cô gái, sớm hôm sau ra về, trước khi cả nhà dậy. Ba đêm liền như vậy mà người con
trai chưa nói gì đến cưới hỏi hoặc trao vật làm tin thì người con gái yêu cầu anh ta
để lại: áo, khăn, vòng... Cơ sở của tình yêu vẫn là "muôn thuở": hai bên mến nhau
vì nết chăm chỉ, người con trai thì săn giỏi và đan lát tài, con gái dệt giỏi, cũng có
đôi ưa thích nhau vì vẻ đẹp bề ngoài, về cách nói năng hoạt bát, linh lợi hoặc vì "nhà
bên kia" khá giả... Trong tình yêu, người con gái Châu Ro luôn luôn có mẹ và các dì
làm cố vấn; nếu mẹ không ưng thì cuộc sống tương lai của đôi vợ chồng trẻ có thể
gặp khó khăn. Kiểu tìm hiểu của nam nữ thanh niên Châu Ro khá xa lạ với người
Việt nhưng thật sự tự do. Trong kho từ vựng Châu Ro không có từ chỉ sự trinh tiết.
Cả chàng trai và cô gái đều nói chuyện với cha mẹ mình về mối quan hệ tình
cảm đó. Có sự khác biệt giữa các địa phương: ở Túc Trưng thì cha mẹ cô gái giữ
chàng trai ở lại rồi cho người đi mời cha mẹ anh tới để hai bên nói chuyện; trong khi
đó ở Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), cha mẹ cô gái chủ động qua nói chuyện
với bên đàng trai. Người Châu Ro vùng Bảo Chánh đi làm đám nói (hỏi vợ - lục xai)
cho con trai bằng cách nhờ mai mối. Ông mai có thể là họ hàng, cũng có thể là người
ngoài, song phải thạo giao tiếp, có khả năng đối đáp tốt. Sau khi ông mai trình bày,
cha mẹ cô gái màu mè chút đỉnh: "Con gái tôi còn dại lắm... ". Cuộc trao đổi giữa
hai bên kết thúc bằng việc ấn định ngày cưới, số lễ vật nhà trai phải mang sang vào
bữa đó (hơi khác người Việt là sính lễ mang sang trước ngày cưới). Ở Lý Lịch, cha
mẹ của đôi trai gái yêu nhau đến thăm nhà nhau. Cha mẹ chàng trai chú ý quan sát
bếp nhà cô gái có ngăn nắp, sạch sẽ không. Nếu bếp gọn gàng, điều đó chứng tỏ cô
gái siêng năng, biết việc bếp núc; đó là tiêu chuẩn của cô dâu tương lai. Cha mẹ họ
hàng cô gái thì chú ý xem các dụng cụ sản xuất, săn bắn của chàng trai: chà gạc, rìu,
ná, gùi... có đẹp, chắc chắn không, chàng có biết đan gùi không? Những vật dụng
trên có thể làm nổi bật phẩm chất chăm chỉ, dũng cảm, khéo léo... của anh, và tương
lai anh sẽ là người chồng tốt - trụ cột vững chắc của gia đình. Ở những nơi nhà gái
chủ động qua nhà trai nói chuyện hôn nhân thì họ mang theo: một lít rượu, một con
gà, 4 cặp bánh nếp, trầu cau, thuốc hút... Ở Lý Lịch, có gia đình đem theo lễ vật cưới
là: heo, trâu, chà gạt, ché rượu cần... Mỗi món gồm một đôi thì vợ chồng sẽ không
đơn côi lẻ bóng. Ở Túc Trưng, nhà gái qua nhà trai trước, mang theo rượu, gà vịt,
trầu cau, thuốc hút, một số bánh dày, 50 bánh tét nhỏ, 300 bánh ống... công bố để
hai bên biết về tình yêu của đôi trai gái. Trong lần gặp này, nhà trai thêm thắt rượu,

48.9 Page 479

▲back to top


gà vịt... để cuộc "nói chuyện" thêm xôm tụ và đi đến kết thúc vui vẻ. Nếu cha mẹ
chàng trai đã qua đời thì người cậu nhận thay.
Người Châu Ro cưới vào mùa khô, từ tháng chạp đến tháng ba âm lịch, là
lúc nông nhàn. Lúa đã nằm gọn trong kho, công việc nương rẫy chưa bận rộn. Mùa
mưa là mùa làm nương rẫy, người ta phải dốc hết sức lực và tận dụng thời gian để
lao động. Lúa trong kho đã vơi, ít ai dám nghĩ chuyện cưới xin. (Nhưng đến nay, do
cư trú xen kẽ với các dân tộc anh em khác, một số thanh niên Châu Ro tổ chức cưới
vào thời điểm mà gia đình họ thấy là phù hợp). Hôn nhân là niềm vui lớn trong cuộc
đời đôi lứa cần được làng xóm biết, có nhiều người dự càng tăng niềm vui cho chủ
nhà và cặp vợ chồng mới.
Nếu gia đình bên trai nghèo, bà con cùng dòng họ tùy khả năng, mỗi người
giúp một vài thứ: gạo, tiền, gà vịt... hoàn toàn tự nguyện không đòi hỏi về sau phải
đền đáp. Đây là nét phong tục tốt đẹp cổ truyền, ở dân tộc Châu Ro không có tình
trạng vì quá nghèo mà người con trai phải chịu cảnh cô đơn buồn khổ suốt đời.
Ngày làm đám cưới (lại xa piêng), họ đàng trai qua nhà gái và mang theo:
ché (tôh), rượu, gà vịt, heo, bánh nếp, trầu cau, thuốc hút, mùng mền, chiếu... Con
heo phải dắt, bà con kiêng cữ chỉ khiêng người chết, con vật lớn chết. Đám cưới kéo
dài suốt ngày, tới tận đêm khuya. Gia đình khá giả có thể đãi khách gần xa và họ
hàng thân quen hai ba ngày liền.
Ở Bảo Chánh trước đây, dẫn đầu họ nhà trai là thầy chang (katungđăp). Thầy
chang đàng gái chờ ở cửa, hát đón nhà trai bằng một bài dân ca cổ truyền (yalyau).
Trước khi đón nhà trai thì nhà gái đã làm cơm cúng ông bà. Khi hai họ yên vị, những
người tiếp tân đàng gái rót rượu quảng (rượu ịt xetơm) mời từng thành viên nhà trai
một ly nhỏ. Người đại diện mỗi bên lần lượt giới thiệu từ những người có vai vế nhất
tới người chót (trước hết là ông bà, cha mẹ, bác chú, cậu, dì, dượng, anh em, chị
em...) để chú rể, cô dâu được biết. Sau khi cúng vái bàn nhang (gô yang), chú rể và
dâu phải cúi lạy họ hàng 4 bên (họ nội nhà trai, họ ngoại nhà trai, họ nội nhà gái,
họ ngoại nhà gái) từ bậc cao nhất trở xuống, ông già đầu tộc làng, các vị chức sắc
trong làng (ông cả, ông sếp). Người ta trải chiếu và mền cho cặp vợ chồng trẻ nằm
dài mấy phút (có tính tượng trưng), sau đó họ quỳ gối đối mặt với nhau, một người
chuẩn bị rượu để chàng rể mời mỗi người bên nhà gái một ly, cô dâu mời mỗi người
nhà trai một ly... Đôi vợ chồng có thể phải quỳ dâng rượu suốt ngày tới khuya nếu
họ mạc đông và người được mời vừa nhâm nhi, vừa vui vẻ trò chuyện. Đến nay, việc
lễ tổ tiên còn duy trì, song việc lạy họ hàng 4 bên đã bớt đi hoặc bỏ hẳn.
Ông bà, cha mẹ, họ hàng đôi bên dặn dò 2 người ngắn gọn và có thể tặng
phong bao nhỏ. Mời rượu giáp vòng rồi, chú rể và cô dâu uống chung một ly rượu,
chàng uống trước, đó là lời giao ước chung sống trọn đời cùng nếm vị tình yêu nồng

48.10 Page 480

▲back to top


thắm và đắng cay. Hai bên họ hàng ăn uống, hát hò vui chơi, đánh đồng la (bộ cồng
chiêng 6 chiếc) suốt đêm, sáng hôm sau mọi người giải tán, chàng rể ở luôn bên vợ.
Tám ngày sau, dâu và rể cùng về nhà trai, mang theo gà vịt, rượu bánh, trầu
cau, thuốc hút... và một tiệc nữa lại diễn ra. Cô dâu về bên trai một tuần lễ thì hai vợ
chồng trẻ về ở hẳn bên gái. Cha mẹ chàng trai có thể cho một số tài sản: trâu, ché,
đồng la, mâm nồi, ruộng rẫy... Cho đến nay, tục bắt rể ít nhất ba năm còn khá phổ
biến trong cộng đồng người Châu Ro. Đó là nét bảo lưu tàn tích chế độ mẫu hệ. Song
ở những vùng người Châu Ro cư trú xen kẽ với người Việt, người Hoa thì khi cưới
cô dâu về ở luôn nhà chồng, với những nghi lễ thông thường của các cộng đồng dân
tộc Việt, Hoa.
Người Châu Ro có tục kiêng cữ không được gọi tên của ông bà, cha mẹ, chú
bác, cô dì dượng, anh chị - nghĩa là tất cả các bề trên hai bên - mà chỉ được gọi bằng
thứ, thí dụ: bác Hai, cô Ba, dì Tư... nếu không muốn bị bắt lỗi. Kêu thứ bậc kèm tên
bề trên bị coi là có thái độ bất kính, bị phạt vạ một lít rượu, một con vịt. Thậm chí
chàng rể đi tiêu, tiểu trong rừng cũng phải kín đáo không được để bên họ vợ thấy
nếu không sẽ bị bắt lỗi và bị phạt.
Trước kia, người ta thường gặp một gia đình có vài chàng rể cùng chung
sống, làm ăn cần mẫn. Họ chỉ ra ở riêng khi có khả năng bảo đảm cuộc sống, khai
phá nương rẫy riêng. Thảng hoặc chàng rể xích mích với cha mẹ vợ cũng ra ở riêng,
nhưng bị cộng đồng, làng xóm phê phán.
Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã bền vững trong xã hội Châu Ro. Hai
vợ chồng chung sống suốt đời, chồng đi đâu, vợ đi đó, sướng khổ có nhau. Mời
người đàn ông đi ăn nhang lúa, ăn cưới... phải mời luôn người vợ. Nếu sắp xảy ra
tình trạng ly hôn, họ hàng đôi bên phải họp lại xem xét, phân xử lỗi do ai gây ra. Ly
hôn bị cộng đồng phạt vạ nặng theo luật tục truyền miệng bằng: trâu, ché, đồng la là
những đồ vật xưa, quý, có giá trị bằng một con trâu trở lên. Thông thường, người
đòi ly hôn khó đáp ứng phạt vạ và khoản bồi thường do người bị ly dị đưa ra, nên
phần lớn lại quay về chung sống cùng nhau. Nếu ai có khả năng đáp ứng điều kiện
(phạt vạ và bồi thường) thì hai bên gia đình bàn bạc thỏa thuận. Sau khi nộp phạt và
bồi hoàn thì mỗi người được tự do, đối xử tốt với nhau, không gây hận thù.
Tục lệ Châu Ro cho phép trai gái tự do tìm hiểu, yêu đương; chuyện vợ chồng
bỏ nhau rất ít xảy ra.
Người Châu Ro không lấy vợ chồng cùng họ tộc, dù cách nhau vài đời,
coi đó là sự loạn luân, vi phạm luật tục cổ truyền. Hôn nhân không chỉ bó hẹp trong
tộc người Châu Ro, người ta thấy họ cũng kết hôn với người Việt, Mạ, Stiêng,
Khmer... Người Châu Ro lấy người Khmer cảm thấy gần gũi: "Chăm ngai, Sai mêch"
(Chăm xa, Miên gần).

49 Pages 481-490

▲back to top


49.1 Page 481

▲back to top


Cuốn Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam của Nguyễn Trắc Dĩ xuất bản
ở Sài Gòn năm 1972 và cuốn Đại gia đình dân tộc Việt Nam của Ngô Vĩnh Bình và
Nguyễn Khắc Tụng (Nhà Xuất bản Giáo dục - Hà Nội) viết về hôn nhân của người
Châu Ro cũng có một chi tiết: "... Ở người Châu Ro cũng có tục nếu vợ chết, người
chồng có thể lấy em vợ. Và người đàn bà lấy chồng lâu năm mà không có con thì có
quyền lấy thêm một người chồng nữa. Để tránh xích mích thường mỗi người chồng
ở một nhà". Đi điều tra điền dã tại các vùng đồng bào Châu Ro sống tập trung như
Túc Trưng, Bảo Chánh, Lý Lịch chúng tôi thấy không tồn tại tục hôn nhân chị em
vợ (sôrôrat) hoặc hôn nhân anh em chồng (lêvirat) như ba tác giả trên nêu. Hoặc giả
đó là nét phong tục quá xưa nay đã mờ hẳn trong tâm trí người đương đại?
Khi một cô gái lỡ có bầu, sẽ bị phạt nghiêm khắc. Cha mẹ, họ hàng cô đào
hố bắt cô nằm úp bụng xuống đó rồi đánh đòn để cô khai tên người tình. Họ sẽ bắt
anh ta lấy cô, nếu không sẽ bị phạt vạ bằng trâu, ché, đồng la... Ngày nay, bà con bắt
anh này nộp một số tiền để cô chuẩn bị sinh và nuôi con. Người con gái phải cúng
phạt bằng gà, rượu... mới được vào nhà người khác. Xã hội Châu Ro không phân
biệt đối xử với cô gái cả nể này cũng như đứa con hoang. Cô có thể lấy chồng khác
- tuy không thành văn bản tục lệ - thường là người đàn ông góa vợ. Đã có vợ, chồng
nếu mèo chuột với nhau có thể dẫn đến tình trạng đâm chém đổ máu và bị cộng đồng
làng xóm phạt vạ rất nặng.
II.3.5. Người phụ nữ Châu Ro sắp đến ngày sinh thì chồng làm một cái chòi
ở gần nhà, như chòi để lúa, đủ chỗ cho sản phụ nằm. Họ kiêng cữ không đẻ trong
nhà vì sợ ô uế, tổ tiên giận gây bệnh tật, làm ăn không được.
Bà con Châu Ro ở Lý Lịch bắt đầu làm nhà đẻ cho người phụ nữ mang bầu
tháng thứ bảy. Nhà để đẻ cách nhà ở chính chỉ từ 5 đến 10 m. Các cột nhà này phải
suông đuột, không có dây leo (mong cho sản phụ khi sinh đau bụng ít, đứa trẻ ra đời
dễ và ít bệnh tật). Nhà phải ở nơi quang đãng không có cây cối, gò mối; sản phụ nằm
xoay mặt ra cửa. Mỗi lần sinh đẻ, gia đình làm cho người phụ nữ một nhà đẻ khác
nhau, xong việc thì phá bỏ chứ không dùng cho lần sau. Thời gian nằm ở nhà đẻ
khoảng 9 ngày, việc cơm nước do người chồng lo hoặc do chị em giúp. Sau thời gian
này, sản phụ phải tắm rửa cẩn thận mới được về nhà chính của mình. (Nay nếu nơi
nào gần trạm xá hoặc nhà hộ sinh thì chị em tới đó sinh đẻ). Người chồng đi rước bà
mụ về và cắm cành lá cấm người lạ vào nhà thời gian này vì sợ ma quỷ phá phách,
làm trẻ quấy khóc, bệnh hoạn. Nếu người phụ nữ khó sinh, sẽ được cho uống một
vài chén thuốc lá rừng gồm: lá và rễ cây lấu, cây bông trang, mùa cua, dây vú bò...
thì đứa trẻ sổ dễ dàng như được chích một mũi thuốc kích thai. Người mẹ và đứa trẻ
sơ sinh được tắm nước lá rừng gồm: mục pu, ừng gâm, mùa cua (tâng cham)... mỗi
ngày 3 lần. Có nơi có tục cho sản phụ uống một ly nhỏ nước muối và ăn từng ít xôi
nếp một. Khi sản phụ đẻ con so được ăn nhiều thứ, mỗi thứ một vài miếng nhỏ, nếu
thức ăn nào làm đau bụng, khó chịu, tiêu chảy... thì có lá rừng trị liền (và sau đó phải

49.2 Page 482

▲back to top


cữ lâu ngày). Hằng ngày, sản phụ còn dằn bụng và uống thuốc lá rừng gồm: cút cu
(vót đũa), đồng hồ, chân chim, vú bò, mè (để làm tiêu cuống nhau và sổ cửa mình),
hồng quân (thơ thường quưn), từ bi (ừng gâm), sương sáo (sương plú), đoong xcâu...
Hầu như người đàn ông Châu Ro nào lớn tuổi cũng biết các bài thuốc dân tộc kích
sinh, lá để tắm, lá uống mau lại sức... Sản phụ thường nằm bếp than để chống lạnh.
Bảy ngày sau, hồi phục sức khỏe, một số chị đã đi làm thì gia đình bỏ cành lá cấm.
Người chồng làm thịt gà, nấu xôi làm mâm cỗ mời bà mụ tới khấn vái cho
đứa nhỏ mau lớn, không bị quỷ ám, không bệnh tật, đó là lễ tạ ơn bà mụ. Lễ vật
ngoài rượu, thịt gà, xôi nếp, trà, trầu cau, thuốc hút còn có một chiếc cà rá, một cây
đuốc dầu chai. Bà mụ đốt đuốc, quay tròn làm phép xóa bỏ ám ảnh con mắt ma quỷ
dòm ngó. Cúng xong, ngả ra ăn uống. Tên đứa trẻ có thể do cha mẹ hoặc bà mụ đặt,
nhưng nhất thiết không được trùng tên ông bà, chú bác... Trẻ được bảy, tám tháng
thì người mẹ lấy bốn, năm hạt gạo cho vào túi nhỏ nấu nhừ với thuốc lá rừng của
mẹ, cho nó uống vài lần để trẻ mau mạnh. Hằng năm, gia đình đều biếu bà mụ: gà,
trà, rượu... để tạ ơn.
II.3.6. Họ tin ma lai làm người ta bệnh tật xui xẻo, nên ai có ma lai sẽ bị cách
ly khỏi cộng đồng (xưa kia có thể bị giết chết). Chịu ảnh hưởng các tộc người khác,
họ tin các cây cổ thụ, hòn đá lớn đều có ma quỷ trú ngụ; cũng tin con người có 3 hồn
7 vía (hoặc 9, nếu là nữ) nên lúc cúng yang va hằng năm thầy chang hoặc bà bóng
sẽ lấy vía trả lại người trong nhà (sợ vía có thể đi lạc). Lu nước của gia đình phải
để hướng Đông, khi ngủ thì nằm đầu hướng Tây và không úp mặt, không co chân
(sợ không ăn nên làm ra). Họ cấm con nít la hét lúc bình minh hoặc chiều tà vì tin
rằng lúc đó ma quỷ đi săn, chúng tưởng là khỉ sẽ bắn mũi tên bệnh tật làm trẻ đau
ốm và có thể chết.
Người Châu Ro cũng như các dân tộc khác ở miền Đông Nam bộ mỗi khi
đau ốm thường nghĩ do một lực siêu nhiên nào đó gây ra. Bà con thường mời bà
bóng cúng chữa bệnh (ủa xà păm tăm bli). Thường ngày, bà bóng vẫn đi rẫy, làm
lụng chứ không thoát ly lao động. Bà bóng là một phụ nữ đặc biệt được thần linh ốp
vào, học truyền khẩu thuộc lòng các bài cầu cúng. Theo quan niệm của bà con, bà
bóng có thể gặp gỡ ông bà tổ tiên của bệnh nhân, trông thấy ma quỷ gây bệnh, là
người liên lạc giữa thế giới này với cõi vô hình. Khi bộ lục lạc rung lên theo nhịp
điệu, tiết tấu nhất định, đầu và thân bà bóng đảo liên tục, đó là lúc bà ta giao tiếp với
thần linh, ông bà tổ tiên hoặc ma quỷ, hiểu các vị đó đòi cúng thứ gì (gà? heo? trâu?).
Chủ nhà hỏi, bà bóng lấy một chén nước lã, đốt một nén nhang, huơ huơ vài vòng
trên chén nước, miệng lầm rầm cầu khấn, soi xem vì sao người đó bị bệnh và phải
trả lễ thứ gì. Tùy theo lời phán của bà bóng, chủ nhà phải giết gà vịt, dê, heo, hoặc
trâu cúng ông bà hoặc xin ma quỷ tha.

49.3 Page 483

▲back to top


Lễ cúng chữa bệnh thường làm ban đêm. Cúng một lần chưa khỏi, gia đình
người bệnh lại tới hỏi bà bóng, lại cúng nữa, lễ vật tăng lên từ gà vịt tới dê, heo hoặc
trâu. Bệnh kéo dài, gia đình người bệnh càng sốt ruột, muốn người bệnh chóng khỏi,
càng không quản tốn kém. Cuộc sống hàng ngày của người Châu Ro vốn đã eo hẹp,
lúa gạo trồng ra có hạn, gia súc ít ỏi, thì mỗi khi gia đình có người đau ốm, kinh tế
càng khó khăn. Việc cúng lễ khiến đàn gia súc nhỏ bé của mỗi gia đình khó trở thành
sản phẩm hàng hóa.
Trước ngày giải phóng, nhiều tu sĩ người Mỹ đến vùng đồng bào dân tộc
Châu Ro truyền đạo, một mặt dùng vật chất lôi kéo, mặt khác cho thuốc chữa bệnh
gây lòng tin với bà con; một số nhà thờ Tin Lành được xây cất, phục vụ ý đồ chính
trị sâu xa. Từ sau ngày giải phóng, ta mở rộng mạng lưới y tế xã, đẩy mạnh tuyên
truyền vệ sinh phòng bệnh nên đến nay, phần lớn đồng bào tin ở thuốc hơn tin vào
bà bóng cúng cho khỏi bệnh.
II.3.7. Vấn đề ma chay của người Châu Ro khá đơn giản, có nhiều nét tương
tự các dân tộc anh em khác ở miền Đông Nam bộ. Khi gia đình có người qua đời (do
già hoặc bệnh tật) bà con dòng họ và làng xóm đến chia buồn ngay. Gia đình người
chết cử người đi báo tin cho họ hàng ở xa về dự đông đủ, nếu không, sẽ bị trách móc
nặng nề. Thường thường, người cùng dòng họ ở tụ họp gần nhau nên việc báo tang
không mất thì giờ, hiếm có trường hợp thân nhân ở xa trên 100 km. Họ hàng tới
mang theo rượu, gà vịt, nhang, vàng mã... góp phần cúng người chết. Việc dùng
nhang và vàng mã rõ ràng chịu ảnh hưởng của người Việt, người Hoa... vì khi ăn
nhang lúa, người Châu Ro thường đốt vụn trầm (nay trầm hiếm, người ta đốt nhang
thay thế).
Nhà có ông bà, cha mẹ qua đời thì con trai, con gái, con rể, con dâu phải thức
sáng đêm biểu thị lòng thương nhớ người đã khuất, tối kỵ nằm ngủ. Người ta làm
mâm cơm cúng có đủ cơm, rượu, thịt, cá, trầu cau, thuốc hút, nhang, đèn cầy đặt ở
đầu sạp tử thi nằm. Áo người chết đang mặc cắt hết nút (khuy). Người Châu Ro
không chuẩn bị trước cỗ hàng (áo quan, hòm, quan tài). Một số người trong dòng họ
hoặc hàng xóm vác rìu vào rừng chọn cây mổ hòm. Nhà chủ chuẩn bị một mâm cơm
có đủ rượu thịt, trầu cau, thuốc hút... gánh theo làm lễ cúng xin cây. Một người lớn
tuổi đặt mâm cỗ cúng, khấn vái ngắn gọn dưới gốc cây xa cao, cây tung định chặt hạ
(các loại gỗ này mềm, thớ thẳng, đường kính trên 50 cm). Với cây rìu bén, tốp chặt
hạ chỉ ra tay chưa đầy một giờ thì cây đổ. Họ cắt một khúc dài hơn 2 m, dùng rìu và
nêm chẻ dọc thân cây thành 2 phần: phần mỏng 20 cm đẽo làm nắp trên, phần dưới
dày 30 cm dùng rìu moi ruột lõm xuống để đựng tử thi. Một tốp 5 người làm xong
hòm mất một buổi, xong cỗ cúng xin cây, họ khiêng hòm về nhà.
Xác chết liệm bằng tấm chăn người đó thường đắp rồi cho vào hòm. Người
ta dùng dây mây cuốn một số đai quanh hòm, xoắn lại, đóng nêm cho nắp và thân

49.4 Page 484

▲back to top


hòm khít rịt, trét khe hở giữa thân và nắp bằng đất sét hoặc xôi nếp giã nhuyễn nhằm
ngăn mùi hôi không bốc ra. Mặt ngoài hòm, có thể dán giấy hồng đơn. Nếu người
chết thuộc loại nghèo, đơn chiếc, họ hàng làng xóm ít không làm được hòm thì người
ta liệm xác vào chăn, ngoài bó chiếu, ngoài cùng nẹp bảy hoặc chín nẹp tre to cỡ bàn
tay đan kết bằng dây mây (kiểu cái cáng thương tự tạo thời kháng chiến) bó tròn lại
để khiêng đi chôn cho dễ. Bà con dòng họ hoặc hàng xóm giúp đỡ tang chủ một ít
rượu, gạo, gà vịt, tiền tùy lòng hảo tâm.
Xưa kia, người Châu Ro để người chết trong nhà ba hôm thì đem chôn. Họ
không lập nghĩa địa, nơi chôn thường do người sắp chết trăn trối, ở một góc rừng
vắng nào đó. Nếu không có lời dặn dò thì một người trong tang quyến khấn vái, gieo
quẻ bằng 2 đồng tiền, nếu một đồng ngửa, một đồng sấp thì sẽ chôn theo lời khấn.
Việc gieo quẻ chắc cũng chịu ảnh hưởng các dân tộc anh em sống xen kẽ gần đây,
và cũng chỉ ở vùng Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu) mới có việc này.
Sáu thanh niên cùng dòng họ (bây giờ là cùng xóm ấp) chia thành 3 cặp: 2
cặp khiêng 2 đòn ngắn ở đầu và cuối hòm, 1 cặp khiêng đòn dài dọc hòm, đi theo
hiệu chiêng đám ma. Người thân (vợ con, họ hàng...) đi theo sau, khóc lóc kể lể tới
khi hạ huyệt. Huyệt cũng không đào trước. Người nhà tang chủ gánh theo một mâm
cỗ đủ rượu thịt, trà thuốc... tới nơi định đào huyệt, xin keo thần rừng (yang bri), thần
đất cho gởi người chết rồi mới đào hố chôn cất, không cần chọn hướng. Người ta
đóng cọc đánh dấu phía đầu và chân. Cách nay vài chục năm, người Châu Ro cũng
làm nhà mồ (nhi cầm hoic) có hàng rào cây bao quanh, giống như các dân tộc Tây
Nguyên - Nam Trường Sơn. Nay nhà mồ không còn nữa, ở cạnh mộ gia đình để một
số chén, đũa, dĩa, chai lọ, tĩn... với ý nghĩa chia của cho người quá cố, dù sang thế
giới bên kia vẫn có vật dụng hàng ngày. Lúc trước, đồ chia của để nguyên, sau này
người ta đập vỡ, chọc thủng, quần áo cũ thì đốt và giải thích có đập và đốt như thế
người chết mới dùng được. Thực ra, biến tấu này nhằm chống lòng tham của một số
đi lượm đồ chia của về xài, cũng có thể do chịu ảnh hưởng tục đốt vàng mã của các
dân tộc anh em khác.
Xưa kia, người ta giết heo hoặc trâu để cúng tại mả, đầu và 4 chân con vật
chôn cùng người chết. Đưa đám xong, mọi người về nhà, ông đầu tộc rảy nước phép
rửa nhà người chết cũng như rảy lên người đưa đám để ma quỷ và hồn người chết
không ám, sau đó mọi người dự bữa cơm do chủ nhà đãi. Gia đình người chết đem
của cải của người chết ra cho mọi người coi rồi chia số của đó cho con cháu làm vật
kỷ niệm.
Qua ba ngày, gia đình ra đốt lửa sưởi ấm ngôi mộ. Người Châu Ro cũng mở
cửa mả vào ngày thứ bảy. Gia đình làm mâm cơm cúng có 7 (hoặc 9) viên cơm tròn,
7 (hoặc 9) miếng trầu cau, 7 (hoặc 9 hạt) nhúm muối, tùy theo người chết là nam hay
nữ - một chai rượu, một con gà, một bịch thuốc rê... mang ra mộ khấn vái xin người

49.5 Page 485

▲back to top


quá cố an nghỉ, đừng về quậy phá hoặc gây bệnh tật cho người trong nhà, phù hộ gia
đình làm ăn thuận lợi bằng anh bằng em trong làng xóm. Muốn biết liệu người chết
hoặc ma quỷ có quấy nhiễu gia đình hay không, một số nhà rải lớp tro ở vườn để
xem dấu chân ma quỷ. Chịu ảnh hưởng của các dân tộc anh em, nhiều gia đình Châu
Ro cũng rẫy cỏ, sửa sang mồ mả vào ngày 25 tháng chạp âm lịch. Họ làm mâm cơm
cúng ở mộ, có thắp nhang và khấn vái; ngày tất niên (29 hoặc 30 tháng chạp) cũng
cúng ông bà tổ tiên vào dịp Tết năm mới.
Ở Túc Trưng thì 3 ngày sau người ta cúng ở nhà "để cho nhà cửa được sạch
sẽ, con cháu khỏe mạnh và làm ăn khá giả". Hàng năm, họ không cúng người đã
khuất. Trong xóm ấp có người chết thì nhân đưa đám mà con cháu rẫy cỏ, vun đắp
mộ ông bà, cha mẹ... Nay đến 25 tháng chạp âm lịch, bà con cũng sửa sang mồ mả
như một số dân tộc khác. Trẻ con chết yểu thì làm tang đơn giản hơn nhiều, thường
chôn cất ngay trong ngày, số người đưa đám cũng ít.
Người chết bất đắc kỳ tử (chết có máu: chich priêng, pi dâng) như: thắt cổ,
tự vận, chết đuối, chết do đâm chém hoặc bom đạn, xe cán... thì người ta không
mang xác về nhà. Gia đình đánh chiêng ma, nhờ bà bóng, thầy chang trục hồn người
chết hỏi ma nào bắt. Người ta chôn cất gần nơi bị chết, nghi lễ đơn giản, không để
thây nằm lâu ở đó. Chủ nhà thường mời thầy chang cúng trút hồn (tr'âng b'ghi) để
mong trong nhà không có ai bị như thế nữa. Người chết trẻ có khi bị bấm lỗ tai, cột
ngón chân để sau này có đầu thai thì gia đình nhận biết.
II.3.8. Người Châu Ro thờ đa thần - tín ngưỡng nguyên thủy - có liên quan
mật thiết với nghề nông cổ truyền: yang va (thần lúa), yang bri (thần rừng), yang dal
(thần suối), yang re (thần rẫy), yang mơ (thần ruộng)... và một số thần linh ma quỷ
khác: yang nhi (thần nhà, thổ công), pach vri (quỷ sứ), chaq (đọc tr'á: ma lai)...
Phần đông người Châu Ro sống hoàn toàn bằng nghề nông cổ truyền nên tục
cúng yang va (yang: thần, va: lúa) đến nay vẫn còn nhiều nét đặc sắc. Khoảng tháng
11 âm lịch, mùa nương rẫy kết thúc, thóc lúa thu hoạch xong được phơi kỹ, cất vào
chòi hoặc bồ lúa (nhi va). Từ tháng chạp đến tháng ba âm lịch, bà con vô rẫy chặt
cây, phát cỏ. Từ rằm tháng ba, họ xem trời, lựa ngày nắng khô để đốt rẫy, chuẩn bị
trỉa hạt mùa tới. Đó là thời điểm cúng yang va. Cách nay dăm chục năm trước, người
Châu Ro còn ở nhà dài thì lễ cúng yang va mang tính tập thể kéo dài khoảng một
tuần lễ. Nay từng hộ nhỏ lần lượt cúng thì lễ hội này ở mỗi ấp có thể kéo dài cả
tháng, nhưng cũng chỉ gọn trong tháng ba.
Trước ngày cúng, chủ nhà xách chai rượu ịt đi mời họ hàng, chòm xóm.
(Khách đến dự đều chuẩn bị một chai rượu, có thể là rượu đế, và phong bao tiền
nhiều, ít tùy hảo tâm). Bữa trước khi cúng yang va, chủ nhà làm mâm cơm cúng mời
ông bà tổ tiên về ăn lễ cùng con cháu. Đêm cúng yang va, chủ nhà nhờ họ hàng, bè
bạn tới làm giúp. Lễ vật cúng nhang: hai con gà luộc (ở chòi lúa), hai con gà luộc

49.6 Page 486

▲back to top


(cúng ông bà), một con gà luộc (ở rẫy tỉa lúa) với rượu ịt, trầu cau, bánh trái. Nhà
làm ăn trúng mùa thì giết heo. Xưa kia, khi còn ở nhà sàn dài, bà con có tục đâm trâu
tương tự các dân tộc anh em Tây Nguyên.
Bánh cúng gồm: piêng chum (bánh tét), piêng puh (bánh dày mè đen), bánh
ít, bánh ú, piêng đinh (cơm lam)... Người ta lấy hai cây tre non vót bông ở đầu cây
tượng trưng cho bông lúa; một cây dựng ở bàn thờ (gô yang), một cây đặt trên bồ
lúa (voh piêng va) hoặc trong chòi lúa (nhi va). Bàn thờ của người Châu Ro rất đơn
sơ, đặt mâm cúng gồm: thịt gà luộc, bánh rượu, trầu cau, miếng thịt heo sống. Riêng
mâm hứa trả vụ tới không có thịt gà mà có 15 cọng tre mỗi cọng xâu 7 miếng tim,
gan, lòng... đặt quanh miếng thịt heo sống, đầu heo sống, thịt gà sống cả con.
Trong khi người nhà và họ hàng chuẩn bị lễ vật cúng thì bà chủ nhà (mây va)
đeo gùi và vác chà gạt ra rẫy. Trên đường, bà chặt lấy một ngọn mía, một thân chuối
non, hai trái bầu khô (dành sẵn từ trước) cho vào gùi. Ở giữa rẫy, đã chừa lại một
bụi lúa mẩy hạt. Bà chủ nhà khấn vái một lúc rồi cắt bụi lúa cho vào gùi, đi thẳng về
chòi lúa. Bà đặt bụi lúa, ngọn mía, trái bầu, thân chuối vào đó, khấn khứa một hồi
nữa.
Từ 7 giờ tối tới nửa đêm, thầy chang (katung đăp) hoặc bà búp (xà păm) làm
lễ 3 lần:
- Lần đầu, thầy chang đọc lời thỉnh yang và ông bà tổ tiên về chứng kiến
lòng thành của chủ nhà, sau đó đập đầu một con gà chứ không cắt tiết như người
Việt rồi mổ thịt để cúng.
- Lần thứ nhì, bà búp khấn trả lễ mùa trước. Nếu năm vừa rồi, chủ nhà hứa
cúng heo mà năm đó trúng thì nay mổ heo tạ lễ; chẳng may mùa vụ thất bát thì chỉ
cúng con gà cũng được.
- Lần thứ ba, bà búp lên đồng, cùng chủ nhà khấn vái mong mùa tới yang và
ông bà cho được mùa thì sẽ trả lễ to.
Lễ cúng diễn ra trong tiếng dàn cồng chiêng 6 chiếc đánh theo nhịp điệu lúc
khoan thai, lúc dồn dập. Ban đêm thanh vắng, tiếng đồng la vang xa hàng km.
Bài khấn hứa của chủ nhà có tiết tấu nhịp nhàng, nội dung giống nhau nhưng
lời khác nhau tùy từng địa phương. Ông Thổ Hởi ở xã Bảo Chánh (Xuân Lộc) là
thầy cúng, đọc bài lai vung cầu khẩn:
"... ờ ớ bơn nơi, na cô mia rpap, na cô pap bờn yênh bươn nhai, muynh ênh
pơ zlah, là pah ênh lir, là pir ênh đang, là pang ênh yêt, pây xim yô tang, bay yang
yô blơ, an ênh ôp hut, ôp xa nơ gheh, đằn ôp đằn o, đằn poh đằn oh, đằn xa nơ
gheh..." (lược dịch nội dung: Kính cáo ông bà tổ tiên rõ, cha mẹ mang thai, cha mẹ

49.7 Page 487

▲back to top


sinh đẻ, con sắm lễ đãi ông bà tổ tiên, con không quên ông bà, mong ông bà cho con
làm ăn được mùa bằng anh bằng em, có ăn có uống...".
Ông Sáu Đồng - người Châu Ro ở Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu) đọc lời
khấn khác:
... Tơ yang pan yang cô bap, yang rêh yang ru, yang vu yang tênh,yang đêh
yang cô, u a ta yar; tơ yang pan yang cô bap, yang voh tơ nây, nar he ênh oh, nar
he ênh vah, nar he ênh toh, vơr nhai muynh vơr ta lep, tơ ne pan yang cô bap...”
(Lược dịch nội dung: Lạy trời, lạy ông bà tổ tiên, lạy chư thần khèn, tên ná,
thuốc độc, thần lúa, thần muối, lạy ma lai; hôm nay tôi khấn, tôi van vái, tôi trả hứa
cũ chứ không dám nói láo, nói gạt..."
Sau lời khấn vái, thày chang vảy ít gạo lên bàn thờ. Ba lượt lễ kết thúc, chủ
nhà làm tiệc đãi khách gần xa suốt ngày hôm sau. Người phụ nữ lớn tuổi nhất trong
gia đình chịu trách nhiệm cai quản chòi lúa (nhi va) gọi là mẹ lúa (mây va) uống li
rượu đầu tiên vì bà tiêu biểu cho sự cai quản, chăm sóc nhà dài, nương rẫy, chịu
đựng nhiều lo lắng với cộng đồng nhỏ bé. Đây là nét bảo lưu của chế độ mẫu hệ.
Mọi người ăn uống, hò hát, nhảy múa trong tiếng cồng chiêng "bồng bênh"
theo tiết tấu, nhịp điệu khác nhau. Ché rượu cần (tôh xe jro) được châm nước đầy,
miệng ché đặt một con cò tre làm cữ, cắm một số vòi hút. Chủ nhà mời một cò rượu
thì khách phải hút lượng rượu tương đương một chén ăn cơm. Rồi người ta châm
thêm nước lã cho mức rượu cần vừa chấm con cò. Một vị khách khác được mời...
Quá trình trên tiếp diễn. Mới đầu rượu đậm, càng về sau rượu càng lạt dần. Xóm ấp
sôi động, rộn ràng. Con trâu, con bò cũng được chủ cho ăn miếng bánh, uống li rượu
như để đền ơn khó nhọc.
Ngoài tục lệ cúng nhang lúa, người Châu Ro còn cúng rẫy trước khi dọn rẫy
cũ, phát rẫy mới. Lễ vật gồm: một con gà, một chai rượu, vài chiếc bánh nếp, một
chén gạo, một nhúm muối, vài miếng trầu cau... Bà con cúng tại đầu bờ, thắp nhang
khấn vái, rồi những người dọn rẫy ăn uống trước khi bắt tay vào công việc.
Khi lúa có đòng, người Châu Ro cúng lúa chửa (có bầu) tương tự người
Chăm. Lễ vật là: gà, rượu, trái cây (nhất thiết có trái me và khế chua là những thứ
phụ nữ mang bầu ưa thích), trầu cau...
Lúa bắt đầu chín, người Châu Ro tuốt lúa mới phơi khô và cho vào rang rồi
giã bằng chày tay (chày cối vùng đồng bào dân tộc). Gạo mới đem nấu cơm cúng;
nhất thiết không dùng gạo mua hoặc gạo ở rẫy người khác. Mâm cúng gồm: 1 muỗng
gạo mới, 8 chén cơm, 8 con cá, 1 chén mật ong, 2 ly rượu. Khách dự là bạn bè thân,
họ hàng, thầy chang (katungđăp) hoặc bà bóng (xàpăm). Mỗi khách dự đều mang
theo chai rượu biếu chủ nhà góp vào tiệc vui.

49.8 Page 488

▲back to top


Người Châu Ro cúng yang bri (thần rừng) vào trước mùa mưa, song không
ấn định thời gian cụ thể. Già làng đứng ra tổ chức cúng yang bri, mọi người trong
xóm ấp góp lễ vật: gạo, rượu, heo, gà, vịt, trầu cau, trái cây... Lễ vật bày dưới tán
cây to (thường là ở gốc cây dầu, cây đa, cây bằng lăng... ); vị già làng cầu suối cho
nhiều cá, rừng cho nhiều nai, mển, cây có nhiều chim, nhiều ong... Bài khấn dưới
đây thu thập ở xã Châu Pha (Bà Rịa - Vũng Tàu):
Đất đai dương trạch
Hoài đai dương trạch
Cây có lá xanh
Đá Trang, sông Xoài
Hòn Đại, hòn Lang
Trương Giác, Trương Hải
Trương Thiên vạn vị
Mới tạo thiên lập địa
Con người còn tối tăm non dại
Thưa thần linh
Nhờ ơn thần linh
Con trai ra con trai
Con gái cầm chày giã gạo
Con trai đi săn bắn ná
Thưa thần linh... (214[7])
Lời khấn này chắc chắn chịu ảnh hưởng lời khấn của thầy cúng Việt, nhưng
vẫn giữ bản sắc dân tộc thiểu số. Cúng xong, mọi người ăn uống rồi ra về.
Văn hóa dân gian của người Châu Ro khá phong phú. Dân ca, chuyện cổ tích
và huyền thoại được lưu truyền qua các thế hệ đều phản ánh: tình yêu, hiện thực sản
xuất lao động, tín ngưỡng vạn vật hữu linh... Chúng ta cần kịp thời tổ chức sưu tầm,
giữ gìn vốn quý này; chẳng bao lâu, nếu không thực hiện được, vốn tinh thần này sẽ
vĩnh viễn mất đi.
Người Châu Ro có một số dụng cụ âm nhạc cổ truyền: chiêng đồng, mõ gỗ,
trống, khèn bầu, sáo, kèn nhỏ, kèn ống lúa, đàn ống tre... Bộ chiêng đồng có 7 chiếc
(3 chiếc lớn tạo hòa âm, giai điệu, 4 chiếc nhỏ giữ nhịp) dùng trong lễ cúng nhang
(214[7]) Các dân tc thiu số ở Đồng Nai , - tài liệu đánh máy lưu trữ ở UBMTTQ Vit Nam tỉnh Đồng Nai.

49.9 Page 489

▲back to top


lúa, lễ cầu an, đám cưới... Xưa kia, chiêng đồng được dùng rộng rãi trong các buổi
sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, hòa giải xích mích. Tiếng chiêng trầm hùng vang xa
được bà con gọi nôm na là đồng la. Ngày nay, các xóm ấp Châu Ro hầu như không
còn bộ chiêng nào, ngoại trừ ở Túc Trưng và Lý Lịch (bộ chiêng Lý Lịch do Sở
VHTT Đồng Nai mua và giao cho bà con giữ, sử dụng).
Xưa kia, người Châu Ro tự dệt loại vải thô, hoa văn khá đặc sắc. Đến nay,
nghề dệt thổ cẩm thủ công hầu như biến mất vì vải dệt máy nhiều, rẻ, bán khắp nơi.
Từ sau ngày thống nhất đất nước tới nay, đã 20 năm trôi qua. Cuộc sống của
đồng bào Châu Ro có những biến đổi đáng kể. Với chương trình định canh định cư
của Nhà nước, tình trạng du canh, du cư giảm rất nhiều. Rút kinh nghiệm xây dựng
khu định canh định cư Tà Lài, cán bộ ta đã trưng cầu ý kiến đồng bào Châu Ro ở Lý
Lịch (xã Phú Lý) làm nhà theo lối cổ truyền được bà con hoan nghênh. Mô hình khu
định canh định cư Lý Lịch có những thành công nhất định và cần được triển khai ở
những nơi có điều kiện.
Sống xen kẽ với các dân tộc anh em, đồng bào Châu Ro tiếp thu được kinh
nghiệm làm lúa nước (ở những vùng có ruộng) đạt năng suất cao hơn trồng lúa trên
rẫy. Một số bà con ở Bảo Vinh, Xuân Thọ... đã đầu tư trồng cây ăn quả và cây công
nghiệp lâu năm có giá trị hàng hóa cao.
Trẻ em Châu Ro phần lớn đều đến trường tiểu học. Ở tỉnh, trong năm học
1995 - 1996 Trường phổ thông Dân tộc nội trú Đồng Nai có 232 học sinh Châu Ro
học từ cấp 2 đến cấp 3. Một số sinh viên Châu Ro được tỉnh cấp học bổng để có thể
theo học đến khi tốt nghiệp. Số đã tốt nghiệp đại học rất ít, đều được bố trí công tác.
Mạng lưới y tế xã góp phần đẩy lui bệnh tật của bà con và ngày nay khi bị
bệnh rất ít người cúng bái mà đưa người bệnh tới trạm xá và mua thuốc uống. Phụ
nữ sinh đẻ cũng ra trạm xá để bảo đảm mẹ tròn con vuông.
Hàng trăm công nhân các Nông trường cao su Cẩm Mỹ, Hàng Gòn có thu
nhập ổn định và cao hơn hẳn mức sống của nông dân. Bình quân lương hàng tháng
năm 1995 khoảng 700 ngàn đồng chưa kể tiền thưởng vượt năng suất. Nông trường
Cẩm Mỹ đã xây cất cho mỗi gia đình công nhân Châu Ro một căn hộ, công đoàn cơ
sở liên tục vận động, giáo dục bà con nếp sống mới sạch sẽ, gọn gàng. Các cặp vợ
chồng trẻ được hướng dẫn chu đáo để thực hiện KHHGĐ, tạo hạnh phúc đôi lứa...
Nhưng nhìn chung, do chưa dứt bỏ thói quen du canh, du cư, chưa được
hướng dẫn tốt cách làm kinh tế gia đình nên phần đông còn gặp khó khăn trong đời
sống. Ở Phước Bình (Long Thành), số hộ nghèo đói khoảng 80%. Đồng chí Điểu
Bảo - chủ tịch UBND xã Túc Trưng, đại biểu Quốc hội - cho biết: số gia đình bà con
Châu Ro thiếu đói cũng không dưới 80%. Nhiều hộ sang đất ở gần nhà đi làm rẫy ở

49.10 Page 490

▲back to top


rất xa nhưng vẫn chưa khá. Bà con không muốn vay vốn "xóa đói giảm nghèo" vì lo
vay rồi không có tiền trả...
Dân tộc Châu Ro ở Đồng Nai có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên
cường ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Điểu Xiển là đảng viên cộng
sản người Châu Ro từ đầu những năm 1940, sau đó trở thành một trong những đại
biểu Quốc hội VNDCCH khóa 1 (đã hy sinh ngay đầu năm 1946). Điểu Cải là Anh
hùng - liệt sĩ LLVTND được tuyên dương năm 1978. Hai xã Túc Trưng (huyện Định
Quán) và Phú Lý (huyện Vĩnh Cửu) có đông đồng bào dân tộc Châu Ro sinh sống,
đóng góp rất lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc suốt 2 thời kỳ kháng chiến được
tuyên dương Đơn vị anh hùng LLVTND. Các ông Sang Văn Mão và Điểu Bảo đã
và đang là đại biểu Quốc hội, đại diện cho các dân tộc ít người ở Đồng Nai.
Để giúp đồng bào Châu Ro giữ được bản sắc độc đáo của dân tộc mình, điều
cấp thiết là tìm mọi cách giúp bà con vượt qua đói nghèo triền miên, đồng thời, từng
bước giúp nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng mà đối tượng chính là đông đảo
thanh thiếu niên Châu Ro.
III. NGƯỜI MẠ:
III.1. Dân số và phân bố:
Dân tộc Mạ được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Chau Mạ (Chau: người, Mạ:
tên tộc người), Chê Mạ, Mạ Ngan (Ngan: chính dòng), Mạ Xôp (xôp: đá phiến, Mạ
Xôp: người Mạ ở vùng đá phiến, người Pháp phiên âm ìop), Mạ Tô (Tô: vùng thượng
nguồn sông Đồng Nai), Mạ Krung (Krung: vùng đồng bằng), Mạ Xrê (Xrê: ruộng,
Mạ Xrê: người Mạ làm ruộng), Mạ Hoang (Hoang: người Pháp xưa kia không kiểm
soát được). Một số sách báo cũ liệt các nhóm tộc người Jiroo (gọi đúng: Jro), Nôp,
Lạt, Kơho, Chéttô... vào dân tộc Mạ, thực ra các nhóm này thuộc các tộc người Jro
(Châu Ro), Kơho.
Nhà nước ta xác định dân tộc thiểu số dựa vào ba tiêu chuẩn cơ bản: đặc
điểm ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt - văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Theo Danh
mục thành phần dân tộc Việt Nam ban hành ngày 2 - 3 - 1979, người Mạ được gọi
bằng tên chính thức: dân tộc Mạ thuộc dòng Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer,
xưa kia chỉ có tiếng nói, chưa có chữ viết riêng. Tiếng nói của người Mạ và người
Kơho căn bản giống nhau, họ có thể học được chữ Kơho la tinh hóa được tạo ra chưa
lâu.
Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai năm 1996, số người Mạ toàn tỉnh
là 1848, xếp thứ 10 trong số hơn 40 dân tộc anh em. Họ tập trung đông nhất tại ấp
Hiếu Nghĩa (trước đây là ấp Trung Hiếu, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán):

50 Pages 491-500

▲back to top


50.1 Page 491

▲back to top


182 hộ với 923 nhân khẩu. Xã Tà Lài có 433 nhân khẩu, đông thứ nhì. Số còn lại rải
ra ở một số xã khác thuộc huyện Tân Phú như Phú Bình, Phú Sơn...
Người Mạ là một trong các cư dân bản địa. Xưa kia họ đã lập được Nggar
Chau Mạ (nước người Mạ), mà Bernard Bourotte gọi là công quốc Mạ (principauté
Mạ), đại khái ranh giới phía Nam là sông La Ngà (Đạ R'Nga), phía Bắc là vùng Đức
Trọng (Lâm Đồng), phía Đông giáp đồng bằng Bình Thuận, phía Tây giáp sông Bé
(tỉnh Bình Phước hiện nay). Nước người Mạ nằm trên phần lớn cao nguyên Di Linh
- Bảo Lộc, nửa phía Bắc huyện Định Quán và toàn huyện Tân Phú hiện nay.
Năm 1994 ngành khảo cổ khám phá thánh địa Cát Tiên (nằm ở hai bờ Bắc,
Nam sông Đồng Nai thuộc phạm vi hai tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai hiện thời) khẳng
định sự tồn tại của tiểu quốc này. Nó là trái độn giữa vương quốc Chămpa với xứ sở
người Stiêng, từng tồn tại khá lâu. Cũng có nhà nghiên cứu cho rằng tiểu quốc Mạ
chỉ là sự liên minh của nhiều bộ lạc, thị tộc. Cuối thế kỷ 17, tiểu quốc Mạ biến mất
chưa rõ vì nguyên nhân nào.
Trong phạm vi tỉnh Đồng Nai, trước Cách mạng tháng Tám 1945, người Mạ
sống tập trung ở địa điểm bây giờ là thị trấn Định Quán, các làng Thuận Tùng, Cao
Cang, Gia Canh và Tà Lài. Năm 1947 họ bị quân Pháp cưỡng bức tập trung về Trảng
Bom (huyện Thống Nhất bây giờ) nhằm bắt thanh niên Mạ đi lính ngụy - mà người
ta quen gọi là nh Thổ - để thực hiện âm mưu gây chia rẽ dân tộc, "dùng người Việt
đánh người Việt".
Nhưng không bao lâu bà con đấu tranh bỏ về quê cũ không chịu sống cảnh
cá chậu chim lồng.
III.2. Phương thức sản xuất:
III.2.1. Tương tự các dân tộc thiểu số Đông Nam bộ, phương thức canh tác
cổ truyền của người Mạ là làm nương rẫy du canh, "ăn rừng", " ăn nước trời" đậm
nét nguyên thủy.
Người Mạ gọi rẫy mì rì, mir; rẫy mới mì rì pơ, mđrih; rẫy cũ mì rì tệ,
mpuh. Khoảng tháng giêng âm lịch, những người cùng làng (bòn) kéo nhau đi tìm
đất, có vị già làng giàu kinh nghiệm sản xuất dẫn đầu. Họ "ăn rừng" ở nơi địa hình
tương đối bằng phẳng, sườn đồi dốc thoải, đất xám màu xẫm nhiều mùn, chất đất
dẻo... Thường thường bà con chọn rừng thứ sinh (xar) đất tốt, ẩm dễ khai phá hơn
các khu rừng nguyên sinh (rlau) hoặc rừng thưa (lac). Rừng thiêng (krông) khu rừng
già cây cao bóng cả, um tùm rậm rạp - là nơi ngự trị của các thần linh được coi là
rừng cấm.
Đi tìm đất rẫy, người Mạ cũng kiêng cữ như người Châu Ro; nếu gặp con cù
lần (đù gle), rắn sọc đen, sọc vằn, chồn, trăn... thì không làm. Chọn được vùng đất

50.2 Page 492

▲back to top


ưng ý, mỗi gia đình được chia một khoảnh, định mốc bằng các hòn đá lớn, gốc cây
to... Họ cũng có thể tự do đi tìm rừng để khai phá trồng tỉa theo ý riêng. Các gia đình
cùng bòn (làng) làm rẫy sát nhau, ranh giới giữa vùng rừng kế cận và khu rẫy của
bòn là các mốc thiên nhiên, được các bòn khác tôn trọng. Dân bòn tôn trọng quyền
chiếm hữu đất đai của mỗi gia đình, chưa từng có tranh chấp bất động sản vì đất rất
rộng mà người lại thưa. Xưa kia mỗi bòn Mạ có một chủ rừng (tôm bri) do dân cử,
dân nơi khác muốn đến săn bắn, đánh cá hoặc làm rẫy trong phạm vi đất đai của bòn
đều phải được tôm bri cho phép.
Lựa và phân xong rẫy, người ta dùng chà gạt (yơh: đọc yở) phát cỏ và bụi
cây nhỏ, dùng rìu (xuung) đốn cây lớn và vừa. Khoảng tháng hai, tháng ba âm lịch
khi cây và cỏ đã khô, họ lựa ngày ít gió để đốt rẫy. Mùa rẫy thực sự bắt đầu từ tháng
tư âm lịch khi trời lác đác mưa. Bà con cúng rẫy ngay nơi trồng tỉa với niềm ước
mong các thần linh (yang) và ông bà tổ tiên cho được mùa, ma quỉ không quậy phá
cây trồng, vật nuôi. Rẫy mới (mì rì pơ, mđrih) năm đầu trồng lúa cạn, năm sau trồng
lúa xen các hoa màu: bắp (tơ ngòi), dưa leo (play pung), bí (play bào), khoai mì
(mpuh blang), khoai lang, bông (đỉ)... theo hàng rạch cách nhau chừng 40 cm để dễ
dàng thu hoạch các sản phẩm vào các thời điểm khác nhau (bắp và đậu hái trước, rồi
đến dưa, bí, kế đến lúa và cuối cùng là khoai mì).
Người Mạ trồng các loài lúa: xương gà (kòi brao), bạc đầu bông (kòi lel),
gạo đỏ (kòi tràng), ba túc, tiu, nàng rá... nhưng loại lúa chính là lúa mẹ (kòi mẹ)
diện tích lớn nhất. Bà con cũng trồng lúa nếp (kòi mbar) ở ven đồi, song lúa tẻ chiếm
tỉ trọng tuyệt đối. Họ chỉ trồng bằng lúa giống do gia đình thu hoạch vì tin rằng như
vậy ông bà mới cho được mùa. Thực ra niềm tin này phản ánh tính tự cung tự cấp
cao độ của một nền nông nghiệp còn mang tính nguyên thủy.
Mỗi nương rẫy trồng quảng canh như vậy hai, ba năm thì bạc màu, họ bỏ hóa
bảy, tám năm cho lớp phủ thực vật phát triển trở lại rồi quay về khai phá thực hiện
chu kỳ trồng tỉa mới.
Từ khoảng năm 1957, đồng bào Mạ ở ấp Hiếu Nghĩa (thị trấn Định Quán)
khai phá cánh đồng ven ấp được hơn 50 ha ruộng, học cách trồng lúa của người Việt
sống gần đó. Cánh đồng Định Quán hồi đó đầy lau, sậy, điên điển... khá hoang vu.
Thoạt đầu chưa biết cày bừa, để làm đất, họ đóng cọc ở đầu bờ, buộc trâu bằng sợi
thừng dài rồi lùa xuống ruộng cho chúng quần nổi sình (bùn). Họ vơ cỏ cho sạch rồi
cấy. Sau đó họ học cách dùng cày, bừa (nhảr) bằng trâu song chưa bón phân (trâu,
bắc) vì sợ bẩn. Ở nơi không có trâu, bà con dùng cuốc lật đất rồi nhặt sạch cỏ. Kế
đến, họ dùng miếng ván lớn, nặng, buộc dây ở hai đầu ván cho hai người kéo; một
cây gậy tra vào giữa miếng ván như tay lái để người đi sau điều khiển. Cách trang
mặt ruộng này khá nặng nhọc, tốn lao động. Khi lớp bùn phẳng ở mặt ruộng hơi se
se, họ dùng gậy chọc lỗ tra lúa giống, tương tự trồng lúa rẫy.

50.3 Page 493

▲back to top


Để bảo vệ lúa khỏi bị chim và thú rừng phá, người ta làm chòi, ở đó luôn tới
khi thu hoạch mới quay về bòn.
Vào thập niên 80, Nhà nước có chủ trương lớn định canh định cư, giúp bà
con Mạ ở Tà Lài (huyện Tân Phú) mở mang thêm một số ruộng lúa nước (song song
với việc làm nhà cấp cho họ). Nhưng cho đến nay kí ức về cuộc sống du canh chưa
phai mờ trong tâm trí bà con, họ vẫn thích làm nương rẫy xa nhà.
III.2.2. Ngoài việc trồng tỉa là chính, mỗi gia đình Mạ thường chăn nuôi một
số gà vịt, một vài con heo giống địa phương thả rông - quen gọi heo Mọi (không có
ý miệt thị). Gia đình khá giả thì nuôi trâu, xưa kia có nhà nuôi tới vài chục con thả
ven rừng nên tính hoang dã cao, hung hãn. Người ta không làm chuồng mà chỉ cột
vào cọc, trâu ở ngoài trời dù nắng hay mưa. Chăn nuôi chưa trở thành ngành kinh tế
nông nghiệp làm ra sản phẩm hàng hóa, người Mạ chỉ dùng vật nuôi vào việc cưới
hỏi, ma chay hoặc cúng nông nghiệp, ít khi mang bán.
III.2.3. Những lúc nông nhàn rảnh rỗi, người Mạ cũng săn bắt thú rừng bằng
tên ná, mò ốc, tát cá (hoặc giã lá độc thả xuống khúc suối làm cá trúng độc nổi lên
mà vớt)... Lúc đi rừng, họ hái lượm măng tre, tìm mật ong và sáp, khai thác dầu chai
(để trét ghe xuồng) .
III.2.4. Gia đình nào cũng tự đan chiếu, các loài gùi (tùy cỡ nhỏ, to mà có tên
nơl, xờ, xa vài, xa bràng...) để dùng trong nhà. Xưa kia người Mạ nổi tiếng về nghề
dệt, họ trồng bông, kéo sợi và dùng loại khung dệt rất thô sơ để dệt một thứ vải thô
(thổ cẩm) làm chăn đắp, áo, váy, khố... với các hoa văn trang trí đẹp mắt. Cộng đồng
các dân tộc Đông Nam bộ khâm phục sự khéo léo, tinh tế của sản phẩm dệt Mạ. Bây
giờ nghề dệt cổ truyền của người Mạ bị vải dệt công nghiệp rẻ, đẹp, bền, hợp thời
trang lấn lướt.
Nghề rèn sắt đã mất, các dụng cụ sản xuất như: dao rựa (bra), cuốc, cày, bừa
(nhảr), liềm (mớ), rìu (xuung)... đều mua ở chợ do thợ rèn Việt làm ra.
Nền kinh tế tự cấp tự túc của người Mạ đang biến đổi dần trong quá trình
tiếp xúc, giao lưu với các dân tộc anh em. Chưa thấy người Mạ nào biết buôn bán
đúng nghĩa tuy đây đó có vài tiệm quán đơn sơ. Cho đến nay họ vẫn "ăn rừng", "ăn
nước trời" là chính nên cuộc sống vẫn đói nghèo triền miên. (Trong khi đó ở Lâm
Đồng, một số gia đình Mạ biết trồng cà phê, điều... khiến cuộc sống khá giả hẳn lên,
trong nhà có một số tiện nghi và cất nhà đúc đàng hoàng).
III.3. Cấu trúc gia đình, xã hội và phong tục tập quán:
III.3.1. Xưa kia, mỗi làng Mạ gọi là bòn thường có vài nóc nhà sàn gọi là hìu
đoòng, mỗi nóc nhà có thể dài dăm chục mét hoặc hơn. Sàn cách mặt đất từ 1 mét
đến 1,5 mét, khung nhà bằng cây căm xe (xir pẻ), gõ (xir tê), bằng lăng (xir pè),

50.4 Page 494

▲back to top


người ta cữ không làm bằng cây dầu. Các mối buộc bằng dây mây, không đục mộng
tra ngoàm nên bộ khung nhà không vững chãi lâu dài. Khung nhà bằng gỗ cây để
nguyên không bào (đôi khi đẽo sơ sơ), mái lợp tranh hay lá, sàn bằng tre nứa, vách
thưng chung quanh cũng bằng tre nứa. Nhà thường không cao, mỗi nhà sàn (hìu
đoòng) chung sống hàng chục gia đình cùng huyết thống.
Trong nhà không có giường, bàn ghế... người ta nằm ngủ, ngồi chơi, tiếp
khách... trên chiếu trải ở sàn nhà, cạnh bếp lửa gia đình. Mỗi nhà sàn dài có một hay
vài chòi lúa chung do một phụ nữ lớn tuổi quản lí, phân phối cho các gia đình nhỏ.
Chòi này thường có kích thước 2 m x 1,5 m sàn chòi lúa cách mặt đất hơn 1mét; chòi
lúa cất tách rời nhà dài (bà con tin rằng nếu cất lúa trong nhà ở thì bị xui, ông bà quở
trách gây đau ốm, bệnh tật...).
Lối sống tập thể cổ truyền đã thay đổi sau năm 1954 khi người Mạ bị dồn
vào các ấp chiến lược. Nhà sàn dài biến mất, mỗi gia đình nhỏ sống riêng biệt trong
căn nhà trệt lợp tranh hoặc tôn viện trợ Mĩ. Nhà nền đất khiến một số gia đình mua
sắm bàn ghế, giường... các gia đình nghèo thì làm sạp tre dài (thay cho giường). Có
nhà còn làm kho lúa nhỏ cạnh nhà, song số gia đình thu hoạch ít thóc thì đóng bao,
cất ngay trong nhà mình.
Xưa kia, việc tìm đất dựng nhà, cúng kiếng trước và sau khi làm nhà xong
cũng tương tự như các dân tộc Châu Ro, Stiêng... anh em sống gần đó.
III.3.2. Cũng như các dân tộc ít người ở Nam Trường Sơn - Tây Nguyên
khác, ông tộc trưởng (người đứng đầu nhà dài: chau đoòng) có nhiệm vụ cúng kiếng,
tham gia hòa giải mâu thuẫn nội bộ, tham gia xử phạt các thành viên mắc lỗi... Các
chau đoòng họp thành hội đồng già làng gồm thêm một số bô lão giàu kinh nghiệm
sản xuất, săn bắn, giỏi chỉ huy chiến đấu, thạo giao dịch đối ngoại. Nhưng từ thời
thuộc Pháp cơ cấu này không còn, thay vào đó là các chức sắc của hệ thống chính
quyền do Nhà nước thực dân đặt ra. Xã hội người Mạ ở Đồng Nai chưa phân hóa
giai cấp rõ rệt. Một số ít hộ có mức sống khá, có tài sản đáng giá như trâu, ché,
chiêng... còn phần đông thì đời sống vẫn nghèo đói, thiếu thốn, một số phải đi làm
mướn kiếm ăn hàng ngày.
III.3.3. Bản tính người Mạ thuần phác, hiền hòa, ít tranh chấp gây lộn. Họ
không đi buôn, không cần làm giàu, có gạo có tiền thì ăn và uống rượu, hết thì đi
làm nữa, thiếu tính toán phòng xa nên khi gia đình gặp tai biến hoặc bệnh tật thì phải
đi vay nặng lãi, bán trâu, sang ruộng rẫy...
III.3.4. Cách đây vài chục năm, khi còn nhà sàn dài, người mẹ, người vợ
quyết định mọi việc trong nhà. Con gái được quí trọng hơn con trai, nam thanh niên
lấy vợ thì ở nhà vợ và vai trò người cậu (anh mẹ) rất quan trọng trong việc giải quyết
các chuyện gia đình (thí dụ: cưới hỏi, ma chay...). Ngày nay gia đình nhỏ thay thế
gia đình lớn, chế độ theo dòng cha từng bước thắng thế, người đàn ông có bổn phận

50.5 Page 495

▲back to top


làm nuôi gia đình nên quyền hành cũng lớn, con trai trưởng được coi trọng. Khi đôi
lứa thanh niên lấy nhau, người con gái về nhà chồng làm ăn sinh sống (theo thỏa
thuận giữa đôi bên cha mẹ).
Trong quan hệ thân tộc, người Mạ có sự phân biệt khá rõ:
Cụ: kra
Anh chồng: vi pa klau
Ông: pàng kau
Anh vợ: vi pa ul
Cha: vàp
Chị: vi ul
Mẹ: mê
Chị chồng; vợ: vi pa ul.
Bác, chú, dượng: wa
Em: oh
Cụ ông: ôông kra
Em trai: oh klau
Cụ bà: mộ kra
Em gái: oh ul
Bà: pàng ul
Con: con
Cha chồng: vàp pa klau
Con trai: con klau
Cha vợ: vàp pa ul
Con rể: con ban
Mẹ chồng: mê pa klau
Con gái: con ul
Mẹ vợ: mê pa ul
Con dâu: con klai
Bác gái: wa ul
Cháu nội: xau (ông, bà gọi)
Cậu: cô inh (ở Tà Lài gọi là: o)
Cháu nội trai: xau klau
Mợ (vợ cậu): hìn
Cháu nội gái: xau ul
Cô, dì, thím mợ: mỉ, mí, bí (từng
Cháu (của bác, chú...):
vùng)
kmon
Chồng: bao klau
Cháu họ trai: kmon klau
Vợ: bao ul
Cháu họ gái: kmon ul
Anh: vi klau

50.6 Page 496

▲back to top


III.3.5 Trai gái Mạ lớn lên được tự do tìm hiểu, yêu đương qua các lần gặp
gỡ, tiếp xúc hoặc qua lao động. Tùy theo từng nơi, xã hội người Mạ không ngăn cấm
con cô con cậu tiến tới hôn nhân, song con chú con bác thì không được phép. Người
Mạ có những câu ca ngăn cấm tội loạn luân.
Vi phạm luật tục (nđrih, đrin) của cộng đồng, đôi trai gái bị phạt vạ nặng,
thậm chí có thể bị đuổi khỏi cộng đồng làng xóm.
Người Mạ không có quan niệm về trinh tiết, thiếu nữ Mạ có thể ngủ với
người yêu nhưng không được có bầu (tương tự người Châu Ro). Cô gái nào ít giao
du với đàn ông vẫn được dư luận xã hội đánh giá cao hơn. Nếu cô nào ăn ngủ với
chàng trai (chưa vợ) cũng không bị phê phán gì, song không được có vài người tình
cùng một lúc. Ít có cô gái Mạ mắc lỗi chửa hoang vì khi trai gái ưng nhau thì họ lấy
nhau. Nếu hai chàng trai cùng say mê một cô gái, họ thách đấu nhau bằng chà gạt,
ai thắng sẽ trở thành chồng.
III.3.6. Khi đôi trai gái ưng nhau, chàng trai thưa chuyện với cha mẹ mình,
được chấp thuận thì nhà trai đi làm đám nói (đám hỏi). Ông mai là bậc bề trên thuộc
họ gần (bác, chú, anh); nếu là bà con xa thì không được. Xưa kia chàng trai mặc
chiếc khố có tua đỏ, tay đeo nhiều vòng đồng, mái tóc cài lược sừng trâu, búi tóc
cắm hai lông chim trắng dài. Đến trước cửa nhà gái, đoàn nhà trai dừng lại. Chàng
trai cắm ngọn lao xuống đất, vai vẫn vác chà gạt, dao gài thắt lưng. Đã được thông
báo trước, cha cô gái (hoặc người cậu ruột) và một số họ hàng ra đón. Anh trình bày
mục đích cuộc viếng thăm (tuy cô gái đã cho cha mẹ biết).
Khi được nhà gái đồng ý, chàng thanh niên rút ngọn lao, cầm lấy bước vào
nhà, đến trước bàn thờ các yang và ông bà tổ tiên khấn vái rồi gác ngọn lao lên xà
nhà, để đó bảy ngày đêm. Hai họ chuyện trò, bàn bạc vui vẻ bằng dân ca theo lối nói
vòng vo dài dòng trong khi cùng nhau hút thuốc, ăn trầu, uống rượu... Thỏa thuận
xong xuôi, đàng trai ra về. Chàng thanh niên ở lại nhà gái, tham gia làm lụng mọi
việc trong nhà. Tuy đã làm đám nói song đôi trai gái không được chung sống trong
nhà cô gái. Muốn tâm sự, họ làm túp lều nhỏ xa bòn (làng) trong một góc rừng kín
đáo vắng vẻ và chung sống với nhau. Cô gái trang sức đẹp: đeo nhiều chuỗi vòng,
chuỗi hạt cườm hoặc vỏ ốc đẹp, búi tóc gài lược sừng có cắm con dao nhỏ cán sừng,
thắt lưng bằng tấm vải hẹp có hoa văn nhiều màu rực rỡ, váy dệt có hoa văn đẹp, có
chùm bông đỏ bằng vải để trang trí...
Trong đám nói, nhà trai đưa cho bên gái: 1 cái ché, 1 con gà đã làm thịt, một
số món trang sức: vòng, lược, chuỗi cườm đeo cổ và vài thứ cô gái yêu cầu từ trước.
Nhận sính lễ rồi mà cô gái muốn thoái hôn thì phải đền nhà trai: 1 con heo, 15 cái
ché. Anh con trai muốn từ hôn do không ưng cô gái nữa thì phải đền 1 con heo, 1
cái ché. Việc từ hôn, thoái hôn hiếm xảy ra vì họ muốn đôi trai gái cưới nhau.
Người Mạ có ngạn ngữ:

50.7 Page 497

▲back to top


Lưỡi mác phải có cán
Muốn ngủ phải có mền
Muốn cưới xin phải có cỗ bàn và trao vòng tay...
Ngày cưới, nhà trai mang sang nhà gái: tiền, gạo, rượu cần, ché rượu cần
(xáng đốốc), bộ chiêng (chinh), trâu, heo... như trước đây hai bên đã thỏa thuận.
Đám cưới làm bên nhà gái. Ông thầy cúng được mời tới làm lễ cúng ông bà tổ tiên,
cầu cho đôi vợ chồng trẻ chung sống tới già. Người ta mổ trâu, heo làm tiệc đãi
khách gần xa. Đám cưới ăn uống, ca hát suốt ngày đêm trong nhịp chiêng vang dội.
Trong buổi lễ, đôi vợ chồng trao vòng cho nhau và cùng ăn gan heo... Gia đình khá
giả thì đám cưới kéo dài vài ngày, nhưng thường chỉ một ngày đêm. Chàng rể ở luôn
nhà gái.
III.3.7. Nếu cô gái có bầu trước khi cưới, anh con trai muốn lấy, thì tổ chức
lễ cưới bình thường. Biết rõ tác giả của cái thai (không phải là chàng rể) thì người
đàn ông nọ phải nộp cho bòn: 1 con heo, 1 con dê để bòn cúng yang. Nếu đứa bé ra
đời trước khi cưới thì người này phải nộp 1 con trâu.
Trong xã hội Mạ, khi chế độ theo dòng mẹ suy giảm dần, và nhất là dưới chế
độ thực dân, đàn ông có thể lấy vài ba vợ. Thực ra thì chỉ các gia đình giàu có hoặc
các chức sắc trong bòn, trong tổng mới cưới vợ nhỏ bằng 1 con trâu.
Ở nhà vợ vài năm, người đàn ông muốn gia đình nhỏ của mình ra ở riêng
hoặc đưa vợ về gia đình cha mẹ mình thì phải nộp đủ lễ vật cho nhà vợ, nếu chưa đủ
thì phải tiếp tục làm để thanh toán số nợ còn thiếu.
Xã hội Mạ đang chuyển mạnh sang chế độ theo dòng cha, người phụ nữ về
nhà chồng thì quyền hành giảm nhiều. Người chồng chết thì gia tài do anh em ruột
hoặc con trai trưởng quản lý có tham khảo ý kiến của mẹ và vợ người đó. Lúc đó
người vợ có thể về nhà cha mẹ đẻ và phải nộp lại một phần của hồi môn trước đây
(theo thỏa thuận). Vợ chồng li dị thì con trai đầu ở với cha.
III.3.8.
Ăn ớt, rát họng
Ăn sả, rát yết hầu
Ngủ với vợ người khác, có chuyện!
Xã hội Mạ hiếm có chuyện ngoại tình. Theo luật tục (nđrih, đrin) truyền
miệng, có những cách xét xử khác nhau:
- Nếu chồng bắt quả tang vợ ngoại tình, có quyền giết chết người đàn ông
kia mà không mắc tội.

50.8 Page 498

▲back to top


- Nếu vợ bắt quả tang chồng ngoại tình thì anh ta phải nộp cho bên vợ một
số lễ vật phạt vạ.
- Nếu chồng nghi ngờ vợ ngoại tình, có thể thách đấu lao với người tình của
vợ.
- Người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình phải nộp phạt cho chồng mình và
vợ người kia một số phạt vạ.
- Đàn bà ngoại tình với trai chưa vợ thì cả hai liên đới nộp cho người chồng:
1 con trâu, 1 bộ chiêng; nộp phạt vạ cho bòn: 1 con trâu hay 1 con dê, cúng con
đường ra rẫy 1 con vịt, con đường xuống suối lấy nước 1 con vịt, căn nhà xảy ra
chuyện ngoại tình 1 con heo hay 1 con dê, con đường đến nơi thờ thần linh 1 con dê
(phạt vạ rất nặng!).
Người phụ nữ không sửa lỗi này sẽ bị đuổi khỏi bòn, ra đi hai bàn tay trắng
theo luật tục Mạ. Khi bòn xảy ra một vụ ngoại tình thì trong tuần bảy ngày có hai
lần cả bòn ngưng mọi hoạt động, cắm cành lá cấm người lạ vào.
III.3.9 Khi một phụ nữ Mạ sắp sinh, gia đình dọn dẹp một góc nhà cho nằm.
Một người đi rước bà mụ đến đỡ đẻ. Nay chị em Mạ ra trạm xá hoặc nhà hộ sinh để
bảo đảm cho sản phụ và hài nhi được an toàn hơn.
Nếu sinh khó, gia đình cúng kiếng cầu cho mẹ tròn con vuông. Đứa trẻ ra
đời khoảng một tuần thì mẹ bồng ra suối tắm cho bé với ước mong bé luôn luôn
mạnh khỏe, ít bệnh tật (nhưng thực tế dễ làm trẻ sơ sinh nhiễm bệnh).
Hồi xưa, sản phụ được uống một bài thuốc khiến sức khỏe hồi phục nhanh.
Các cụ già Mạ cho biết bài thuốc đó đã thất truyền. Sản phụ hầu như không kiêng
cữ gì trong ăn uống như các dân tộc khác. Chừng ngoài mười ngày, người mẹ đã địu
con lên rẫy; chắc chắn khó mà chịu đựng nắng lửa mưa dầu, khiến tỉ lệ trẻ em Mạ tử
vong cao là điều dễ hiểu.
Người Mạ rất quí con gái - nét tàn dư chế độ theo dòng mẹ - nhiều bậc cha
mẹ thường sống với cô gái út. Khi bé gái ra đời, gia đình ăn mừng: giết heo, gà, uống
rượu cần... Đồng la vang xóm làng như muốn cả bòn, cả đất trời chung vui với bé.
Hài nhi ra đời, gia đình làm một số lễ cúng:
- Lễ tạ ơn bà mụ đỡ đẻ và đặt tên cho bé được tổ chức sau một tuần.
- Lễ cầu mong tổ tiên và các yang luôn giúp bé khỏe mạnh được tổ chức sau
nửa tháng và một tháng (nhà nghèo chỉ làm một lần).
Lễ vật đơn giản: một con gà, một chai rượu, trầu cau...
III.3.10. Xưa kia việc tang ma của người Mạ do từng gia đình lo liệu với sự
giúp đỡ của cả bòn. Trong nhà có người qua đời thì thân nhân chia nhau đi làm một

50.9 Page 499

▲back to top


số công việc: báo cho các chức sắc trong bòn, trong xã ; báo tin cho họ hàng và người
quen ở các bòn lân cận ; một số đàn ông vào rừng tìm cây để mổ hòm, khi chọn được
cây, phải cúng xin cây mới được chặt hạ... Hòm đưa về nhà qua cửa lớn (cửa chính
của nhà dài). Ba ngày sau, người quá cố được rửa ráy sạch sẽ rồi tẩm liệm đơn giản.
Xưa kia người chết được quàn hàng tháng nên đáy hòm có đục một số lỗ, phía dưới
có vò nhỏ hứng nước từ tử thi chảy ra (hàng ngày đem ra nghĩa địa đổ). Sau tang lễ
rút xuống một tuần, nay chỉ hai, ba ngày để bà con, họ hàng đến viếng tang (có ăn
uống, rượu chè). Tang ma kéo dài gây khó khăn cho các gia đình nghèo. Ngày nay
đám tang chỉ làm hai, ba ngày, cả ấp xúm lại giúp đỡ nên tổn phí giảm nhiều.
Hòm được khiêng ra đến nghĩa địa (một khu rừng âm u vắng vẻ xa bòn)
người ta dừng lại. Thày chang làm lễ cúng xin thần đất rồi đào huyệt. Chôn cất xong,
thày chang lại cúng nữa, mọi người mới ra về. Người chết được chia của theo phong
tục; tang gia đem một số vật dụng: chén, dĩa, li, chai thủy tinh...(xưa kia có cả chiêng,
ché, rìu, ná...) đặt lên mộ, tất cả đều đập vỡ. Người Mạ cho rằng: con người không
phải con chó, sống chết phải bằng nhau (cho nên người chết được chia của). Các tài
sản không bỏ ở mả thì chia cho các thân nhân (con cái, anh chị em ruột).
Những người đưa đám phải tẩy uế, không được vào nhà ngay. Người ở nhà
đun sẵn nồi nước lớn, cắt tiết gà vào đó. Từng người đưa đám được thân chủ lấy lá
ngải nhúng vào nồi nước tiết gà vẩy vào, và cầu khẩn âm hồn không làm hại người
nhà, người quen.
Bòn có đám ma, người ta kiêng cữ không đi rẫy một tuần bảy ngày. Ngôi
nhà có người chết bị bỏ, họ hàng cất ngôi nhà mới ở địa điểm gần nhà cũ.
Nếu ai chết bất đắc kì tử: tai nạn, bom đạn, thú dữ, rắn độc... thì người nhà
khâm liệm rồi chôn gần đó chứ không khiêng xác về gia đình làm ma chay.
III.3.11. Trái với vẻ ngoài thầm lặng, người Mạ có đời sống tâm linh phong
phú. Họ tin vạn vật hữu thần (Yàng): núi, rừng, tảng đá lớn, cây cối, sông suối... mỗi
vật thể này đều do một Yàng cai quản. Yàng có thể ban ơn, mang lại các điều tốt
lành, song cũng có thể giáng tai họa, do đó cần cúng lễ hàng năm.
Nđuh là vị thần tạo hóa cao nhất, sinh ra muôn loài, muôn vật; nhưng vì cao
nhất nên người Mạ có thái độ kính nhi viễn chi. Kri krông ngự trị ở vùng đất của bòn
(tương tự thổ thần của người Việt và Hoa). Yàng bri cai quản rừng rú (như thần sơn
lâm của ta). Yàng kòi (thần lúa) là vị thần rất quan trọng và gần gũi mọi nhà. Người
Mạ còn cúng thần núi, thần suối, thần lửa... và nhiều Yàng khác.
Là cư dân nông nghiệp cổ truyền, mỗi năm họ có nhiều lễ cúng. Người Mạ
ở ấp Hiệp Nghĩa (thị trấn Định Quán) coi ngọn núi Đang Kar gần đó là nơi linh
thiêng có chư thần cư ngụ nên xưa kia thường cúng Yàng bơ nơm vào cuối năm âm
lịch. Hồi đó núi có nhiều cây cao bóng cả và tre nứa um tùm. Cả cộng đồng cư dân

50.10 Page 500

▲back to top


Mạ trong ấp góp lễ vật, cử một già làng đọc lời khấn cầu phúc cho bòn. Người ta
làm lễ cúng thần rừng (yu xin bri) vào dịp Tết âm lịch tại nhà tôm bri - vị già làng
đại diện bảo vệ chủ quyền, đất đai nương rẫy và khu vực rừng thuộc phạm vi bòn -
Tôm bri cùng đàn ông trai tráng vào rừng thưa, chọn nơi làm rẫy mới (mì rì pơ). Họ
cúng thần rừng bằng gà, rượu, xôi, trầu thuốc...rồi mới chặt hạ cây to, cây nhỏ, phát
cỏ và lùm bụi, dây leo. Hai, ba tháng sau cây cỏ đã khô, họ cúng thần lửa (lở Yàng
ux) để thực vật cháy hết biến thành phân tro, đất thêm màu mỡ vụ tới. Bắt đầu mưa
vài trận, bà con làm lễ cúng hồn lúa (lở Yàng túyt kòi) tại rẫy trước khi chọc lỗ tỉa
hạt... Lúa vào đòng, bà con lễ tạ ơn lúa mẹ (yú tam nơn). Chủ nhà sửa soạn mâm đồ
cúng gồm: con gà luộc, rượu, chén cơm trầu cau, nhúm muối... và khấn:
Lở Yàng kòi, chèng ier đù nâm, lở Yàng kòi chắt tòm gòm ha tủ plây lay mùn
banh chât xô banh rô kòi banh glỏ banh xap anh đăn mà nu Yàng còn toong ti mà
chao toong ti mà gâp banh anh glơ rạp bxạp rịp banh chà nế bich cú là rụ iar, nụ
xìn anh gu...
"Hỡi thần lúa (tôi) đem con gà cúng xin thần lúa (cho) tốt gốc, tốt lá, cho có
dòng không bị khô, đừng có họ xít, đừng làm (tôi) đừng cho (tôi) ăn lạt. Xin thần lúa
cho con cái (tôi) đừng (phải) chìa tay ăn xin người ta, cho vợ (tôi) đừng đói ăn cực
khổ, đừng nghèo không có quần áo".
Một lời khấn tương tự được ghi bằng chữ Mạ la tinh hóa:
Lơh Yàng kòi cèng iăr do nơm, lơh Yàng kòi nbẵn chơt nbẵn ro trù kòi, nbẵn
jê gloh tài, ằn dăn Yàng kòi tong ntê mơ cau mơ tong ntê mơ gâp bòn he dê, dăn
Yàng sền gar ẵn...
"Tôi cúng thần lúa có đem theo gà một con, cúng thần lúa kể từ nay không
còn chết rụi nữa, xin đừng cho đói, xin thần lúa đưa tay che chở cho người khốn
khổ, nâng đỡ người cùng buôn làng, xin thần lúa về giúp cho... Lúa chắc hạt, bà con
lễ cúng yú rmul tin chắc được ăn".
Lễ hội nông nghiệp lớn nhất là hội mùa (nor he) cúng thần lúa (lở Yàng kòi)
(tương tự lễ ăn nhang yang va của người Châu Ro). Lễ cúng thần lúa (lở Yàng kòi)
diễn ra trong bòn từ tháng hai âm lịch đến tháng ba xưa kia theo từng nhà dài, sau
này theo từng gia đình nhỏ.
Người ta lấy hai cây tre non cao từ 2 đến 3 mét chẻ nhỏ ngọn làm 6 bông xòe
ra, chính giữa cây tre cắm chùm gai mây tượng trưng cho bông lúa. Hai cây tre này
chôn trước nhà, ở mỗi bông xòe ra gài một chén cơm nhỏ. Trên cây tre, các nhánh
có trang trí những hình vuông lớn với hoa văn hình học. Người Mạ ở Tà Lài thì trang
trí cây tre bằng hình tượng con dê cách điệu hóa (bằng lạt tre) hoặc các hình vuông
tròn...rất sinh động. Các ché rượu cần được bày ở gốc cây tre. Vào buổi tối, tùy khả

51 Pages 501-510

▲back to top


51.1 Page 501

▲back to top


năng mà gia chủ giết gà vịt, heo hoặc trâu để làm lễ cúng. Gia chủ tự cúng, không
mời thầy chang hoặc bà bóng như người Châu Ro.
Lời khấn vái có nhịp điệu, tiết tấu nhưng nội dung thật cụ thể và không có
tính van lơn như lời khấn vái của người Việt trong các lễ cúng lớn nhỏ.
Ông K' Linh ở Tà Lài đọc bài khấn như sau:
Ớ Yàng kòi anh lở kòi cành ghẻ âm nghèo khổ đa xang ghit anh ùi tơ ở ghể
ao xo ở ghể piêng xa ở ghể..Ớ Yàng kòi xìn anh âm rba rbập o vì mè vạp ở ghể con
đòi ớ Yàng xin anh đơ tàm yu tàm mà tùng mà quăng cành chnâm xin anh vì o vì vi
xo vi vụ anh gầm cho nhó xo xú anh cho gầm tôồng quăng đa xang ghịt anh ớ Yàng
đòong in.
Ớ Yàng kòi năm đô đoong kol anh le ghe kòi anh xa xunr xa ier xa đạ xa vê
anh xa mừng dự xnăm. Năm pơ mong Yàng kòi đoong kol anh lở kòi cành ghẻ tay vì
năm ieo. Ớ Yàng kòi banh lơ glỏ lơ xạp cành ghẻ kòi tiếp tục anh in. Ớ Yàng kòi xa
puêch xunr puêch đạ puêch vê xa anh in.
"Hỡi thần lúa, tôi làm lúa mong thoát khỏi nghèo khổ tội nghiệp, tôi chăn
không có, áo không có, không có cơm ăn. Xin thần lúa xem tôi sống nghèo khổ mồ
côi, cha mẹ anh em không có. Tôi xin thần coi tôi ăn nói, người ta tin nghe, coi tôi
như anh như em, thấy đầu (mặt) tôi họ cười vui vẻ, thấy mình tôi họ mừng, các quan
quyền thương hại tội nghiệp tôi, tôi cầu xin ông bà phù hộ tôi.
Xin thần lúa năm nay giúp đỡ tôi có lúa ăn thì tôi mừng ăn gà ăn vịt, ăn heo,
ăn dê cả năm. Mong năm mới thần lúa giúp tôi có nữa như năm rồi. Xin thần lúa
đừng làm tôi đói (xin thần) tiếp tục cho tôi lúa. Xin thần lúa ăn giùm thịt heo, gà vịt,
dê cho tôi".
Một lời khấn tương tự được ghi lại bằng chữ Mạ latinh hóa (hay Kơho):
Ơ Yàng kòi ẵn lơh kòi kỡn geh ơm sơ nê rơ bah, nđặc sơn git ẵn, phăn sù
phăn soh phăn sa ò geh mơ cau, ơ Yàng dăn Yàng dong ẵn ơm niăm mơ tùng mơ
kwăng kỡn nđặc sơn git ẵn.
Ơ Yàng kòi sơnăm do dăn dong ẵn geh kòi sa mơ cau, tua năm ẵn sa mơ
Yàng sa sur sa iăr, sa da, sa be, hở là sa chò hóp năm pa, năm pa ẵn lơh kòi kỡn
geh, ơ Yàng kòi mhẵn ai ẵn in sơ nê rơ bah tài, đi lah geh sa ẵn lơh Yàng ai sua, ai
da, ai be nàng sa mơ Yàng kòi...
"Hỡi thần lúa cho gia đình tôi làm lúa được mùa đời sống gia đình tôi bớt
khó khăn cực khổ, trước đây cơm ăn áo mặc không đủ như người ta xin thần lúa xót
thương tôi, xin thần lúa giúp tôi sống biết tôn trọng quan quyền thì quan quyền sẽ
thương lại tôi.

51.2 Page 502

▲back to top


Hỡi thần lúa, xin ban cho tôi làm đủ ăn như mọi người, nếu thường đủ ăn thì
gia đình tôi sẽ ăn mừng heo, gà, vịt, dê... cho một năm bội thu, xin thần lúa giúp gia
đình tôi đừng khổ cực, nếu hàng năm trúng mùa gia đình tôi sẽ luôn luôn mang các
con vật trên cúng thần lúa".
Ông K' Rau thuộc nhóm Mạ Xrê (đọc chệch thành Xaray) có lời khấn:
Ngay đao anh yôr hay anh ghẻ đù it xưnr anh yah Yàng kòi xa goh bèng la
yê xá ló năm anh lỏ tay ghẻ beng glỏ loh mì rì ghẻ piêng xa anh xưnr Yàng kòi xa
viêp xưnr yô đar nâm xa piêng bar anh ay Yàng kòi ừn xa ti năm pơ anh lỏ tay xăm
ghẻ tàm tú lù nam tàm pay đó ai kòi ưn xa đap đê hay k'puôn ay năm iar băt đầu
tuych tiên hay kpoh anh yòi đù it đạ yay Yàng kòi ưn xa tí hay kmât anh hào kòi ghẻ
kòi rhiêng anh ai đu it xưnr yah Yàng kòi ay Yàng kòi ưn xa anh lỏ tay xam ghẻ nơng
ghẻ piêng xa.
"Năm nay (tôi) uống mừng lúa (tôi) cúng heo cho thần lúa (mong bồ đựng
lúa ăn đừng hết, tới năm sau làm nữa (thì ) có nữa (mong thần lúa) đừng làm (tôi)
đói, (tôi làm rẫy) có cơm ăn (tôi) mời thần lúa ăn con heo, uống rượu, ăn cơm nếp,
tôi mừng thần lúa tôi ăn tới mùa mới, sang năm tôi làm lại có ba lần cho thần lúa
ăn, trước tháng tư cúng con gà, bắt đầu tháng bảy cúng thần con vịt, tháng mười tôi
cắt lúa trên một trăm giạ tôi cúng thần lúa con heo; năm nay thần lúa cho (tôi) ăn,
tôi làm nữa (để) lại có cơm ăn".
Ngày hôm sau, gia chủ đãi tiệc bà con và người quen. Nhà giàu đãi khách
hai, ba ngày liền. Nhà nghèo thì gọn một ngày. Số ché (xáng đôôc) rượu cần (rnòm)
ít nhất cũng vài ché trở lên, rượu cần được làm từ hàng tháng trước. Hết rượu cần
(rnòm), người ta uống thêm rượu đế (lăc). Trong lúc nhậu, người ta đánh cồng
chiêng, hát dân ca (yalyau). Bòn vang tiếng chiêng hàng tháng ròng. Phần lớn công
sức lao động cả năm tiêu phí vào dịp này.
Xưa kia người Mạ cũng có lễ đâm trâu như các tộc người Tây Nguyên vào
mùa cúng thần lúa. Cứ ba năm bòn lại làm lễ hiến sinh, có khi vài bòn gần nhau góp
làm chung. Nay lễ đâm trâu đã mất.
Khoảng ba năm dân trong bòn lại cùng nhau làm lễ cúng thần rừng (lở Yàng
bri). Mỗi nhà góp gạo, rượu, gà vịt... đem ra miễu lá đựng trên đường đi rừng làm lễ
cúng, mong Yàng bri cho bà con măng, dầu chai, mật ong... Tôm bri hoặc một già
làng có uy tín khấn vái. Cúng xong, người ta xúm nhau nấu nướng rồi cả bòn cùng
ăn uống vui vẻ trong tiếng cồng chiêng.
Đi săn được thú rừng, người ta cũng cúng Yàng bri. Săn được voi, cọp thì
cúng heo, săn được hươu, nai, min... cúng gà. Lỡ săn trượt người ta luộc trứng gà
cầu cho lần sau bắn trúng. Lời cúng Yàng bri mộc mạc:

51.3 Page 503

▲back to top


Anh nay đao anh ghẻ đù it rà rủa anh yah Yàng bri anh ay đù it xưnr anh ay
Yàng bri ưn xa anh tày ghẻ beng glỏ mẻ anh yòi tay xam gơ inh ghẻ beng glỏ mẻ...
"Tôi nay đi săn (nếu) tôi giết con voi tôi kiếm con heo cho thần rừng ăn, tôi
kiếm con nữa để thần rừng đừng làm (tôi) xui, nếu thần rừng cho sớm, tôi kiếm (heo)
sớm cho quí vị ăn, không làm tôi bị xui..."
Trước kia người Mạ tin rằng ma quỉ (chà) gây ra bệnh tật, đòi cúng quải. Bà
bóng, thầy cúng (chau cha năng) đến nhà bệnh nhân lên đồng, chữa bệnh. Không
dùng thuốc, chỉ cúng kiếng rất tốn kém, kết cục hao tốn heo gà mà không khỏi bệnh,
thậm chí có khi tử vong, khiến tử suất ở người Mạ rất cao. Hai bệnh phổ biến: sốt
rét và lao từng hoành hành ở xứ Mạ, ngoài ra còn một tỉ lệ người cùi nào đó. Đến
nay, bà con đã thôi cúng chữa bệnh, biết đi trạm xá, bệnh viện khám mỗi khi đau
ốm.
III.3.12. Người Mạ có một số kiêng cữ:
- Không đi gần các tảng đá lớn, sợ ma quỉ (chà) ám gây xui xẻo.
- Nhà có người bệnh (hoặc mới sinh đẻ) thường cắm cành lá tươi, cấm không
cho người lạ vào sợ họ mang theo bóng vía ma quỉ.
- Ra khỏi nhà mà chợt ớn lạnh hoặc sổ mũi, người ta quay về liền, sợ nếu
tiếp tục đi sẽ gặp điều không lành (thực ra có dấu hiệu chớm ốm đau thì quay về
chữa là rất hợp khoa học!).
- Kì đà, rắn mai gầm... vào nhà thì xui xẻo, không làm ăn được.
- Kiêng ăn thịt cọp vì cọp ăn người.
- Cữ thịt chó, chó chết trong nhà phải mang chôn và cúng gà vịt vì nó ăn
cơm gạo như người (bà con quí chó vì nó biết đi săn, quấn quít gắn bó với con
người). Chó chết ở rẫy, phải đền cho chủ rẫy; không dùng lúa ở rẫy đó làm giống
mà phải dùng giống mới.
- Không ăn đọt mây vì sợ cọp ăn trâu nhà mình...
Ngày nay đại bộ phận người Mạ ở Đồng Nai theo đạo Tin lành và Công giáo.
Tục lệ cổ truyền đã phôi pha nhiều.
Nền văn hóa dân gian Mạ đang mất mát khá nhiều vì lớp người già chết mà
lớp trẻ không kế thừa được. Các chuyện cổ, huyền thoại Mạ dần dần bị quên lãng.
Một số người già Mạ còn nhớ dân ca huyền thoại truyền thống yalyau, hát đối đáp
giao duyên trữ tình (tam pơt) và chỉ còn một vài già làng ở lứa tuổi bảy, tám mươi
còn nhớ luật tục truyền khẩu (nđrih, đrin). Các nhạc cụ: chiêng, đàn đinh đút không
còn được chơi phổ biến. Vào dịp lễ hội nông nghiệp (lở Yàng kòi), người ta chơi

51.4 Page 504

▲back to top


chiêng và múa bắt chước nhịp điệu nào đó mà vẫn gọi là múa Mạ theo yêu cầu của
du lịch hoặc để quay phim, chụp ảnh tư liệu.
Số học sinh Mạ học cấp 3 còn quá ít và chưa có ai tốt nghiệp đại học.
Là một trong các cư dân bản địa ở Đồng Nai, tuy chỉ có số lượng ít song
đồng bào Mạ có một số đóng góp vào quá trình lịch sử phát triển của vùng đất này.
Ngày nay, bà con đang cố gắng cùng với các dân tộc anh em xây dựng cuộc sống
mới văn minh hạnh phúc.
IV. NGƯỜI STIÊNG:
IV.1. Phân bố dân cư:
Stiêng là tên gọi chính thức của một dân tộc ít người mà địa bàn cư trú chính
ở các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh (và cả ở Campuchia); ngoài ra họ còn phân bố ở
Lâm Đồng, Đồng Nai. Các sách báo từ trước đến nay gọi tộc người này bằng nhiều
tên khác nhau: Xađiêng, Tàmun, Dalmer (đọc: Đanme), Bà Tô, Bù Đip, Bù Lach,
Ray, Bà Rá, Rong, Ah, Bù Le, Bù Lơ (người vùng cao), Bù Đek (người vùng thấp)...
Song Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam (2 - 3 - 1979) thống nhất gọi họ
là dân tộc Stiêng (còn viết là Xtiêng).
Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của Taberd (1838) ghi địa điểm thành
Xương tinh (âm Hán - Việt của Stiêng) nằm ven biên giới Nam Kì - Campuchia, đó
là thủ phủ của dân Stiêng. Tiếng nói của người Stiêng thuộc dòng Nam Á, nhóm
Môn - Khmer, có nhiều từ ngữ khá gần với tiếng Châu Ro, Mạ, Kơho... Người Stiêng
chưa có chữ viết, chỉ từ khi thực dân Pháp thống trị đất nước ta, một số học giả Pháp
mới phiên âm la tinh hóa tiếng Stiêng, thứ chữ này không phổ biến trong đồng bào.
Trong cộng đồng các dân tộc ở Đồng Nai, người Stiêng có 1185 nhân khẩu
(603 nữ) xếp thứ 12/40 dân tộc anh em. Bà con tập trung đông nhất ở xã Tà Lài
(huyện Tân Phú), 422 nhân khẩu. Xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) có 52 hộ với
275 nhân khẩu là nơi có đông người Stiêng. Các xã khác, huyện khác cũng có bà con
sinh sống song ở phân tán hơn, xen kẽ với các dân tộc anh em.
Người Stiêng ở Bù Chrap (xã Tà Lài) là nhóm dân bản địa suốt hai thời kì
kháng chiến một lòng đi theo cách mạng; khi địch càn quét gom dân thì họ vào rừng
chứ không chịu vào ấp chiến lược. Ngay từ năm 1861 khi thực dân Pháp mới đánh
chiếm tỉnh Biên Hòa lần đầu, người Stiêng đã kề vai sát cánh cùng người Việt, người
Mạ, người Châu Ro... đứng lên chống xâm lược khiến địch nhiều phen hoang mang
lo lắng, chịu nhiều tổn thất. Bà con Stiêng ở Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) và một
số nơi khác ở Đồng Nai vốn quê ở biên giới Bình Phước - Campuchia mới bị địch
gom đưa về đầu thập niên 70, nhất là trong đợt tiến công chiến lược xuân 1972 (chiến
dịch Nguyễn Huệ) của quân giải phóng ở khu Đông Nam bộ.

51.5 Page 505

▲back to top


IV.2. Phương thức sản xuất:
IV.2.1. Trồng trọt:
Xưa kia, tương tự các tộc ít người khác ở miền Đông Nam bộ, người Stiêng
làm nương rẫy du canh. Họ ăn nước trời, ăn rừng, đến mùa làm nương rẫy, bà con
dựng chòi tại đây để đỡ mất công đi lại, tiện chăm sóc lúa và hoa màu, xa nhà suốt
vụ trồng tỉa.
Rẫy gọi là miar, mir; rẫy mới là miar mây, rẫy cũ là miar puh. Đi chọn đất
làm rẫy là ông tộc trưởng tom yau (đứng đầu căn nhà dài gồm nhiều gia đình nhỏ)
và một số người lớn tuổi. Họ chọn bãi đất tương đối rộng, bằng phẳng, chất đất có
màu đen (nhiều mùn hữu cơ), có lồ ô mọc thì đó là đất tốt. Nếu đang phát hoặc đã
phát xong rẫy mà có con cù lần hoặc con trăn tới thì người ta bỏ ngay vì sợ xui: mùa
thất, bệnh tật ốm đau...
Tháng giêng, tháng hai âm lịch bà con bắt tay chặt hạ cây cối, phát sạch lùm
bụi và cỏ. Lúc đó bà con cúng làm đất rẫy với lời cầu khấn mộc mạc:
"Yang bri yang te nar ơi hây uynh mi lơ miar lơ klanh xac ê lơ par tanh ê lơ
tach yâng tach tây ghe lơ miar lơ bar ôi muôi coi an kmay đac xe pai iar an kmay
xa..."
"Hỡi thần rừng, thần đất, hôm nay tôi xin đất làm rẫy được tốt, xin các vị
đừng làm (tôi) bệnh, làm đứt chân đứt tay; (tôi) làm rẫy làm lúa mai mốt cho ông
bà có rượu, thịt gà ăn...”
Khoảng một, hai tháng sau cây cối bị chặt hạ khô đi. Khoảng từ giữa tháng
ba âm lịch, nhà nhà đốt rẫy. Khói bốc nghi ngút từng đám, thành cột lên bầu trời
quang quẻ cuối mùa khô.
Tháng tư âm lịch, khi trời bắt đầu mưa lác đác một số trận, nhắm có thể trồng
tỉa được, bà con cúng rẫy trước khi trồng tỉa. Lễ vật là gà, rượu, trầu cau, bánh nếp...
Chủ nhà khấn khứa ngắn:
"Yang boh yang bar nar ơu hay kzưr til xăm huon măt tac ria ê an rô rưt
tx'ưt um xăm huon râng ban khay ban xnăm..."
"Thưa các thần muối thần lúa, hôm nay tôi xuống giống (xin chư thần) cho
mọc rễ, đừng làm khô, chết thối, lên nhanh để kịp tháng kịp năm..."
Sau lễ cúng, bà con bắt đầu tỉa hạt. Một người đàn ông hai tay cầm hai gậy
vót nhọn (hoặc bịt sắt ở đầu nhọn) vừa đi vừa chọc lỗ theo khoảng cách 0,5 mét;
theo sau có hai phụ nữ lưng đeo gùi hạt giống, vừa bỏ hạt vừa lấy chân gạt đất phủ
kín hạt (để chim khỏi ăn). Các động tác này lặp đi lặp lại. Bà con vần đổi công tỉa
hạt và làm rẫy có tính tương trợ nguyên thủy: những người cùng dòng họ làm giúp
nhau thì không đòi hỏi có rượu trong bữa ăn. Khi cả sóc (bòn) cùng làm cho một hộ

51.6 Page 506

▲back to top


trong một ngày thì chủ nhà đãi cơm, rượu số người tham gia. Các hộ khá giả mời
đông người làm vào lúc thời vụ gấp gáp liền vài ba ngày thì ngày nào cũng đãi cơm,
rượu.
Nương rẫy của người Stiêng ngoài lúa là cây lương thực chính, thường trồng
xen: bắp, bầu bí, mướp, dưa leo, dưa gang, mè, thuốc lá, bông... Những cây này
thường trồng sát gò mối là nơi đất tốt hơn, cho thu hoạch khá.
Ở một số vạt đất ven suối, họ cũng làm ruộng lúa nước (xrê, xarai) với lối
canh tác thô sơ: dùng cuốc lật đất và băm nhỏ đất, chưa dùng phân bón ruộng.
Từ thập niên 80, thực hiện chủ trương định canh định cư, Nhà nước đầu tư
dựng nhà cửa ở Tà Lài (Tân Phú), khai phá ruộng cho bà con Stiêng làm, hướng dẫn
kỹ thuật trồng trọt tỉ mỉ. Đến nay, đồng bào đã biết làm ruộng, thu nhập có khá hơn.
Nhưng từ trong tiềm thức, người Stiêng chưa thoát khỏi phương thức sản
xuất nông nghiệp cổ truyền ăn rừng, ăn nước trời, tự cấp tự túc. Để tiến tới sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, chúng ta còn phải kiên trì vận động bà con thực hiện các biện
pháp kỹ thuật trồng trọt mới mong từng bước cải thiện đời sống đồng bào.
Người Stiêng trước kia thường trồng: lúa rẫy sớm (pa con tr'ây), lúa trễ (pa
xđôc), pa xà ông... là các loại lúa tẻ; lúa nếp có: nếp than (pa p'nhênh xơ uych, pa
p'nhênh)...
Công cụ lao động và dụng cụ gia đình thường dùng là:
- Rìu (xung) để chặt hạ cây lớn; chà gạt (via) phát bụi cây hoặc cỏ cao; rựa
(queo) cùng công dụng như chà gạt.
- Cuốc nhỏ (côr) và cuốc lớn (cuôc) để xới và lật đất; cày (ngal khmu)
bừa (rue); cào cỏ (krngoai) làm cỏ lúa; liềm (kniêu) cắt lúa; chày (rnay) và cối (pal)
dùng giã gạo, gùi (rnaanh) để mang lúa, bắp, hoa màu, củi...
IV.2.2. Chăn nuôi, săn bắn, đánh cá:
Mỗi gia đình Stiêng thường chăn nuôi một ít gà vịt, heo; gia đình khá giả thì
nuôi trâu. Chăn nuôi là sản xuất phụ, chưa có đầu tư gì về khoa học kỹ thuật, trước
đây chủ yếu dùng vào các lễ cúng khi vào mùa trồng tỉa, cúng chữa bệnh, đám cưới,
đám ma, mừng được mùa... chứ chưa có sản phẩm hàng hóa. Đến nay, tình hình đã
biến đổi, ở ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) có gia đình nhờ chăn nuôi heo đã
có thể xây nhà gạch chắc chắn.
Ngoài thời giờ làm nương rẫy, đàn ông Stiêng còn tranh thủ săn bắn thú rừng:
voọc, cheo, mển, nai, heo rừng... xưa kia còn săn bắn các thú lớn: voi, cọp, gấu...
Công cụ săn bắn là ná và tên độc. Cánh ná lớn dài bằng chiều cao thân người, khoảng
1,6 mét. Tên độc dài nửa mét, vót bằng lồ ô phơi khô, đầu nhọn hơ lửa cho cứng,
đuôi tên gắn mảnh lá buông nhỏ tam giác, thân tên có cạnh để phăng gió. Nay mũi

51.7 Page 507

▲back to top


tên gắn đầu đạn chì nhỏ làm tăng sức mạnh cắm vào con mồi. Người ta lấy rễ cây
dơ ué hoặc mủ cây xeo ngâm với dây leo xa cách dơ, dây la roi la poong bảy ngày
đêm, sau đó nấu cô đặc rồi đổ vào ống tre. Mũi tên nhúng vào hợp chất này trước
khi đi săn. Nếu người bị trúng tên độc thì có hai cách giải độc: ăn bí đao hoặc uống
nước cua giã sống. Cần giải độc càng sớm càng tốt vì để lâu chất độc ngấm vào máu
thì khó chữa.
Vào mùa khô, bà con thường bắt cá dưới suối bằng cách lấy rễ cây tầm đàng
hoặc trái buông giã nát rồi thả xuống khúc suối. Cá trúng độc nổi lên, người ta lấy
rổ vớt. Cách đánh cá bằng cây độc làm chết cá nhỏ trước tiên, do đó nguồn lợi này
nhanh cạn kiệt.
IV.2.3. Nghề thủ công:
Gia đình nào cũng tự đan các loại gùi lớn, nhỏ khác nhau dùng vào việc vận
chuyển: lúa, hoa màu, rau, củi... Nghề dệt vải, chăn... xưa kia tương đối phổ biến ở
phụ nữ Stiêng, song hầu như biến mất từ lâu. Người Stiêng cũng có tiếng về nghề
rèn, nay nghề này đã mai một.
IV.3. Cấu trúc gia đình, xã hội và phong tục tập quán:
IV.3.1. Cấu trúc xã hội Stiêng:
Người Stiêng gọi làng là sóc, bòn, . Mỗi sóc, bòn, bù xưa kia có vài dãy
nhà dài hoặc vài chục ngôi nhà nhỏ. Do phương thức sản xuất du canh du cư nên vị
trí sóc, bòn, bù không cố định.Tới nay, tình hình trên đã thay đổi hoàn toàn do Nhà
nước tiến hành định canh định cư, chấm dứt tình trạng đốt phá rừng làm rẫy bừa bãi.
Mỗi nhà dài có một tộc trưởng (tom yau) ít quyền hành: tiếp khách, cúng lễ
thần linh. Từ thời thuộc Pháp, công việc hành chánh do chủ làng gọi là ông cả, ông
sếp đảm nhận; bây giờ ủy ban xã đảm đương giải quyết các mối bất hòa nội bộ, xét
xử các vụ trộm cắp... Các cụ già thường được hỏi ý kiến vì các cụ am hiểu, nhiều
kinh nghiệm sống. Tuy chưa phân hóa giai cấp rõ nhưng xã hội Stiêng trước kia có
thể chia làm ba hạng:
- Các nhà khá giả có nhiều chiêng, ché, ghè rượu (xrung), trâu bò...
- Phần đông là các hộ bình thường.
- Đik (hay đek) là tôi đòi, người ở; đó là tù binh hoặc người mắc nợ không
trả nổi phải đi ở. Nay loại đik không còn.
Cũng như các dân tộc ít người khác, người Stiêng có tinh thần đoàn kết tương
trợ cao. Một gia đình có công việc gì, cộng đồng sẵn sàng tham gia giúp đỡ giải
quyết. Mổ thịt con trâu, chủ nhà đem chia cho bà con dòng họ và chòm xóm cùng
sóc. Khách tới sóc được tiếp đãi niềm nở, được lo chỗ ăn chỗ nghỉ chu đáo.

51.8 Page 508

▲back to top


Nửa cuối thế kỉ 19, thực dân Pháp đánh chiếm miền Đông Nam bộ, người
Stiêng tỏ rõ tinh thần bất khuất chống xâm lược liên tục. Một số tên thực dân bị giết
ở vùng này vào nhiều thời điểm khác nhau khiến sách báo cũ đánh giá: người Stiêng
nóng nảy, hiếu chiến...
IV.3.2. Cấu trúc gia đình:
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, chế độ theo dòng mẹ của người Stiêng
ở tỉnh Biên Hòa cũ (nay là Đồng Nai) dần dần bị chế độ theo dòng cha thay thế. Suốt
hai thời kỳ kháng chiến, bà con Stiêng ở Bù Chrap, Tà Lài đi theo cách mạng thì quá
trình này càng được đẩy nhanh, hiện nay chỉ còn một số tàn dư trong cuộc sống.
Xưa kia bà con ở nhà dài, mỗi sóc có vài căn nhà dài. Nhưng suốt ba mươi
năm chiến tranh ác liệt, phải di chuyển, tránh né địch nhiều lần nên nhà sàn dài biến
mất. Từ đầu những năm 80, thực hiện chính sách định canh định cư, Nhà nước làm
nhà cho bà con, mỗi gia đình một căn nhà. Nay chỉ những cụ già ở lứa tuổi bảy, tám
mươi còn hình dung được căn nhà sàn dài truyền thống của dân tộc mình.
Cho đến năm 1983 ở ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) vẫn còn dăm
căn nhà sàn dài của nhóm đồng bào Stiêng từ Bình Phước về cư trú. Mỗi căn dài
khoảng hai, ba chục mét với cột gỗ, mái tranh, sàn và vách bằng tre nứa đan thành
liếp. Sàn nhà cao khoảng 0,8 mét đến 1,5 mét, đầu nhà có thang gỗ ba, bốn bậc không
tay vịn để lên xuống. Căn nhà không trổ cửa sổ nên dù bên ngoài nắng lóa mắt mà
trong nhà vẫn tối mờ mờ. Mỗi căn nhà chia làm một số khoang, mỗi khoang một gia
đình nhỏ cư ngụ có chiếc bếp nhỏ đắp đất lên sàn nhà (để chống cháy). Khoang nọ
cách khoang kia một bức liếp nứa nhỏ. Ngoài chiếc bếp, khoảng trống trên sàn nhà
trải chiếu lùng, đó là nơi ngồi chơi, ăn uống, ngủ nghỉ của cả gia đình. Những căn
nhà trệt khác trong ấp có sạp tre dài cỡ hai chiếc giường (làm chỗ ngồi chơi và ngủ)
là nét bảo lưu của sàn nhà dài truyền thống.
Xưa kia, khi chế độ theo dòng mẹ còn thịnh hành, người ta cất chòi lúa cạnh
nhà dài; một người phụ nữ lớn tuổi coi sóc và phân phát lúa gạo cho mỗi gia đình
nhỏ, thành viên của dòng họ. Bà con tin rằng nếu cất thóc lúa trong nhà ở thì bị xui,
ông bà tổ tiên quở phạt. Nay mỗi gia đình nhỏ thu hoạch không bao nhiêu, sau khi
phơi khô quạt sạch, bà con đóng bao và cất thóc lúa ở một góc nhà.
Đến nay (1997), cả ở Tà Lài và ấp 4 Xuân Hưng không còn căn nhà dài nào.
Bây giờ người cha trong gia đình quyết định mọi việc sau khi bàn bạc với người mẹ.
Con cái theo họ cha, chàng trai cưới vợ về nhà mình...
Thuật ngữ quan hệ thân tộc của người Stiêng (ở Xuân Hưng và Tà Lài)
- cụ: rung
- dượng: đeh

51.9 Page 509

▲back to top


- cụ ông: iau rung
- cậu: côinh (Stiêng ở Xuân Hưng)
- ông: iau
- mợ: uay, uôi (Stiêng ở Xuân Hưng)
- cụ bà: iai rung
- ego
- ông nội: iau klau
- anh: em, iêm
- ông ngoại: iau ur
- anh trai: em klau
- bà: iau
- em: oh
- bà nội: iau klau
- em trai: oh đơ klau
- bà ngoại: iau ur
- em gái: oh đơ ur
- cha: mom
- em trai vợ: oh klau xai ur
- cha chồng: mom pâu
- em gái vợ: oh xai ur
- cha vợ: mom ur
- chị: em
- mẹ: mây
- chị gái: em ur
- mẹ chồng: mâypâu
- con: con
- mẹ vợ: mây ur
- con trai: con klau
- bác: ma đeh
- con gái: con đơ ur
- bác gái: tih, mây cuống
- cháu: mon
- chú, cậu: ma
- cháu trai: mon klau
- cô, dì: têh, ming
- cháu gái: mon đơ ur
IV.3.3. Cưới xin:
Trai gái lớn lên được tự do tìm hiểu nhau trong các buổi lao động hay tiếp
xúc trong các cuộc gặp gỡ sinh hoạt của cộng đồng. Người con gái Stiêng biểu lộ
tình cảm của mình qua các bài hát đối đáp giao duyên, nếu muốn khước từ, cô trả
lời ngụ ý đã có chồng. Chàng trai say mê cô gái nào phải tốn công khéo léo hỏi
những người sống gần để xem điều đó có đúng không. Nếu cô gái chưa hứa hẹn cùng
ai, anh chàng tìm dịp mời cô uống rượu chung rồi mượn ống điếu cô đang hút để
mình hút tiếp. Lúc trả lại, thấy cô không nhồi thuốc mới thì có thể yên tâm. (Nếu cô

51.10 Page 510

▲back to top


phì bã thuốc rồi nhồi thuốc mới thì hết hi vọng). Chàng trai tiếp tục gây cảm tình
bằng cách tặng cô nắm thuốc hút. Rồi chàng trai Stiêng rủ cô ra khỏi nhà để trò
chuyện tâm tình. Khi sắp cúng nhang lúa, dân làng vào rừng kiếm măng, cá, thịt thú
rừng... thì anh theo cô, giúp cô tìm kiếm thức ăn và tiếp tục trò chuyện tâm sự. Khi
cô gái hoàn toàn đồng ý, hai người dắt nhau ra chòi ở rẫy - không xa nhà bao nhiêu
- chung sống. Người Stiêng không có quan niệm khe khắt về trinh tiết như người
Việt.
Mỗi lần gặp gỡ anh lại tặng cô một món kỷ niệm: chuỗi cườm, vòng, nhẫn
(bằng đồng). Trong thời gian quen biết, lỡ cô gái mang bầu và chàng trai chỉ chơi
bời thôi, khi bị sóc tra hỏi, cô gái khai ra, anh chàng bị phạt ché, tô... Nếu cô gái đã
có người ăn hỏi mà còn lang chạ, bị bắt quả tang thì gia đình anh kia bị phạt trâu,
ché, tô... nặng hơn.
Khi cô gái đồng ý làm vợ, chàng trai báo với cha mẹ, nhờ ông mai - người
lớn tuổi trong họ hoặc người có uy tín khác - đem rượu, gà vịt và con heo nhỏ đến
nhà cô gái. Nếu đằng gái bằng lòng (mà thường thường là bằng lòng), hai bên bàn
bạc thỏa thuận về sính lễ và ngày cưới. Đây là buổi dạm hỏi (bê đop bê beng: bỏ
hàng rào thưa), nhà trai mang qua: 1 lít rượu, 1 chuỗi hạt cườm, 1 bộ quần áo, 1áo,
1 chăn.
Đám nói thật sự (bêr nôp, pai hăn ôp: rượu đi hỏi, thịt đi hỏi) thì nhà trai
mang qua nhà gái: con heo 50 kg, 20 lít rượu, tô chén dĩa (10 chiếc mỗi thứ), 2 mâm
nhôm, 1 ché rượu, 7 vòng đồng, 1 hộp trầu cau bằng đồng, rìu, dao, chà gạt...
Sính lễ cũ ở vùng Bình Phước khá nặng:
- 1 đik (nô lệ)
- 1 xrung ( ché cổ)
- 1 thanh đao
- 1 con dao tốt
- 1 djiri (vò cổ)
- 1 chiêng
- 7 cái tĩn đựng nước.
- 1 niêng (váy dài 2 mét)
- 1 tô đồng, 10 tô lớn, 20 tô nhỏ
- 1 vòng đồng, 1 cuộn chỉ
- 2 chuỗi cườm
- 1 con trâu đãi tiệc cả làng

52 Pages 511-520

▲back to top


52.1 Page 511

▲back to top


- 3 con heo (1 cúng thần rừng, 1 cúng thần đất, 1 cho hai năk mha (người làm
chứng) Ngày nay sính lễ được qui ra tiền; nếu đằng trai nghèo không nộp đủ sính lễ
thì phải ở và làm cho nhà vợ để trừ nợ.
Ngày làm bêr nôp, pai hăn ôp mỗi bên chọn một người làm chứng (năk mha)
thạo cầu khấn. Đôi trai gái đứng trước bàn thờ đằng gái cùng hai họ nghe các người
làm chứng đọc lời khấn khứa thần linh và tổ tiên ông bà về chứng kiến, ban sự may
mắn hạnh phúc cho cặp vợ chồng trẻ. Cúng xong, ông năk mha đằng trai buộc chỉ
cổ tay cô dâu; ông năk mha đằng gái buộc chỉ cổ tay chàng rể. Sợi chỉ buộc cổ tay
có giá trị thiêng liêng như nhẫn cưới đôi tân hôn theo đạo Công giáo. Đôi vợ chồng
trẻ được họ hàng và người dự mừng tiền làm vốn, bắt đầu tạo dựng cơ nghiệp mới.
Lễ cưới kéo dài khoảng một tiếng thì xong. Khách khứa vui vẻ ăn uống, ca hát, đánh
chiêng, nhảy múa suốt ngày đêm.
Sau này khi có điều kiện, đôi vợ chồng (có thể đã có con cháu đầy đàn) tổ
chức đám cưới lại (bê rung pai rung) (rượu giống, thịt giống) đãi nhà gái trâu, heo.
Đến đây mới kết thúc một đám cưới Stiêng đúng theo phong tục đích thực.
Tục lệ Stiêng cho phép con cô, con cậu ruột có thể lấy nhau. Thời thuộc
Pháp, một số nhà giàu Stiêng lấy hai, ba vợ. Muốn có vợ nhỏ, người chồng phải
được sự thỏa thuận của vợ cả. Nếu vợ cả không tán thành, người chồng có thể li dị
và đòi lại sính lễ. Li dị nhau mà người đàn bà đi lấy chồng khác thì phải trả đủ tổn
phí cho chồng cũ.
Ngày nay đàn ông làm chủ gia đình song người phụ nữ vẫn được tôn trọng;
thường thì người chồng hỏi ý kiến mẹ và vợ trước khi quyết định một việc gì quan
trọng trong nhà.
Ở đồng bào Stiêng, tục lệ cưới chị em vợ (sororat) hoặc anh em chồng
(levirat) đã mờ nhạt. Vợ chết, người chồng có thể lấy em gái vợ song không được
lấy chị vợ; chồng chết, người vợ có thể lấy em trai chồng chứ không được lấy anh
chồng. Làm không đúng sẽ bị phạt vạ nặng. Luật tục Stiêng có một số ngoại lệ:
chồng chết, vợ được đi lấy chồng khác; nếu chồng còn sống nhưng chưa nộp đủ sính
lễ thì tiếp tục ở nhà vợ làm trừ nợ cho đủ, nếu hai vợ chồng cưới nhau lâu mà chưa
có con thì chồng được lấy vợ khác...
Việc trừng phạt tội ngoại tình có sự phân biệt đối xử. Người đàn bà Stiêng
mắc lỗi:
- Ngoại tình với người đàn ông quen trong rừng thì chị và anh ta bị phạt vạ
1 con heo, 1 ghè rượu.
- Ngoại tình với người lạ thì mức phạt vạ gấp đôi.

52.2 Page 512

▲back to top


- Ngoại tình ngay trong nhà thì người đàn ông phải trả cho người chồng 1
con trâu, 1 con heo lớn và 1 ché rượu nộp cho làng. Người vợ bị đánh đòn để răn đe.
Nếu tái phạm, chị ta sẽ bị li dị và gia đình hoặc người tình phải bồi hoàn sính lễ đám
cưới trước đây. Nếu người tình không trả đủ thì phải làm tôi tớ (đik) trừ nợ.
- Người chồng đi ngoại tình chỉ bị phạt nhẹ một con gà.
IV.3.4. Sinh đẻ:
Xưa kia, khi vợ sắp đến ngày sinh, người chồng cất một chòi tranh cho vợ ra
ở đó. Sản phụ chuyển bụng thì chồng hoặc người nhà đi rước bà mụ về đỡ đẻ. Người
ta vào rừng tìm một số lá rừng, rễ cây rừng (theo bài thuốc dân gian truyền miệng)
đem về nấu tắm cho sản phụ và hài nhi. Vài ngày sau, người mẹ có thể bồng đứa bé
ra suối tắm theo phong tục cổ truyền.
Từ lúc đứa bé sinh ra, gia đình cắm cành lá cấm không cho người lạ vào nhà,
vào chòi vì kiêng cữ ma quỉ theo người tới thăm sẽ gây bệnh cho sản phụ, hài nhi.
Sau một tuần bảy ngày, người chồng đưa vợ con về nhà, làm lễ cúng: mừng đứa trẻ
ra đời thấy ánh mặt trời, thấy cha mẹ, mong cho bé luôn luôn khỏe mạnh chóng lớn.
Lễ vật là con gà, chai rượu, trầu cau, bánh nếp... Đồng thời chủ nhà trả công bà mụ
tùy khả năng của gia đình.
Nếu đứa con đầu lòng sinh ra chẳng may chết non thì gia đình kiêng ăn thịt
mển và chim cu một thời gian dài dăm, bảy tháng.
Sau mười ngày nằm cữ, sản phụ có thể đi làm. Ngày nay phụ nữ Stiêng sinh
đẻ ở trạm xá xã (hoặc nhà hộ sinh), được hướng dẫn chăm sóc đúng vệ sinh và chỉ
đi làm khi sức khỏe phục hồi hoàn toàn. Việc tắm suối cho đứa bé đã bỏ vì dễ làm
bé bị bệnh dẫn đến tử vong.
IV.3.5. Ma chay:
Khi trong gia đình người Stiêng có ai qua đời, người nhà một mặt báo tang,
mặt khác giết gà (nhà khá giả giết heo) mời bà con trong sóc và họ hàng gần xa về
dự lễ tang.
Một số người khỏe mạnh mang theo con gà, lít rượu và trầu cau vào rừng
chọn cây dầu chai hoặc gõ đỏ có đường kính đủ lớn, sau khi cúng xong thì hạ cây,
cắt hai khúc (mỗi khúc dài gần 3 mét), dùng rìu mổ khúc cây rỗng như chiếc thuyền
độc mộc để làm cỗ hàng (quan tài).
Thi hài được chùi rửa sạch sẽ, liệm vải trắng rồi đặt vào hòm. Trước đây,
hòm để trong nhà tám ngày (nay chỉ hai, ba ngày) để họ hàng và người quen đến
khóc lóc chia buồn nhờ người chết chuyển lời của họ đến các người thân đã qua đời.
Một số gia đình có thể không đến dự vì kiêng kị do khác bộ tộc, khác yang, hoặc

52.3 Page 513

▲back to top


trước kia bị bắt làm tôi tớ (đik) tuy đã hòa nhập với cộng đồng mới song vẫn giữ tín
ngưỡng cũ, yang cũ của bộ tộc mình.
Trước khi đưa đám, gia chủ làm mâm cơm cúng rồi khiêng hòm đi. Họ mang
theo con gà, chai rượu ra tới nghĩa địa làm lễ cúng thần đất xin chỗ chôn cất rồi mới
đào huyệt.
Chôn cất xong, tùy gia cảnh mà tang chủ cúng mả bằng heo hay trâu. Mả đắp
cao, người Stiêng cũng có tục chia của cho người chết, một số vật dụng: tên ná, gùi,
chà gạt, rựa, tĩn... đặt bên mả.
Đắp điếm xong, những người đưa đám ù té chạy về nhà vì sợ ma quỉ ám.
Một người lấy lông gà bôi vào cục đá, miếng sắt rồi quẹt vào chén tiết gà, thoa lên
tay chân người đưa đám như muốn xóa sạch mọi dính líu với người quá cố. Sau đó
mọi người mới được vào nhà.
Cả sóc không đi làm một tuần bảy ngày, không đến nhà có người chết. Căn
nhà có người chết được dời đi ít nhất 1 mét - vì là nhà tranh cột cây nên việc dời n
cũng dễ - Chồng chết, vợ cắt tóc ngắn; vợ chết, chồng cạo trọc hàm ý để tang.
Ba ngày sau, gia đình người quá cố cúng mở cửa mả là lễ cúng cuối cùng (do
chịu ảnh hưởng phong tục một số dân tộc anh em). Người Stiêng không cúng giỗ
hàng năm. Chỉ khi nào gia đình có người đau ốm, đi coi bói, thấy nói do ông bà gây
ra bệnh thì mới cúng và sửa sang đắp lại mộ.
IV.3.6. Tín ngưỡng:
Người Stiêng tin rằng vạn vật hữu thần và ông bà tổ tiên có thể giúp người
ta gặp hên làm ăn may mắn hoặc tránh bị xui xẻo làm ăn thất bát, bệnh tật.
Mỗi sóc có một miếu nhỏ thờ neak tà đó là ngẫu tượng nhỏ bằng gỗ, đá -
Miếu đặt ở một gốc cây lớn tại ngã ba, ngã tư của sóc mà dân thường qua lại. Theo
một số nhà nghiên cứu thì neak tà là vị thần Khmer mà người Stiêng vay mượn trong
quá trình giao lưu. Trong cuốn sách Người Việt gốc Miên (1969), Lê Hương ghi một
số neak tà như neak tà tức: thủy thần, neak tà phnom: thần núi, neak tà prey: thần
rừng, neak tà xre: thần ruộng, neak tà prek: thần sông, neak tà đam pô: thần cây đa,
neak tà popue tuk: thần bọt nước, neak tà krapum chuuk: thần gương sen... Người
Stiêng thờ thần mặt trời, thần sấm sét cai quản đất đai, thần mặt trăng coi sóc việc
gặt hái và cây cối... ngoài ra cũng tin rằng có một số ác thần và ma quỉ. Lỡ chặt củi
cạnh gò mối hoặc ngồi dưới gốc cây cao to mà về nhà sau đó bị bệnh thì người ta
san phẳng gò mối, chặt hạ cây đó.
Sóc thường có bà bóng (mây gruh) coi bói. Nếu gia đình có chuyện bất
thường thì đi coi bói; bà bóng phán thần, ma qủi hoặc ông bà quở phạt thì bà chủ

52.4 Page 514

▲back to top


mời bà bóng tới cúng. Mây gruh nhảy nhót theo nhịp chiêng, hoa tay muá chân theo
nhịp đồng thời hát lời cầu khấn.
Khi sóc có nhiều người đau ốm, người ta góp rượu thịt, gạo tổ chức chung
tại miếu thờ neak tà. Cúng xong, mọi người ăn uống rồi giải tán. Lễ cúng neak tà
không theo hạn định nào.
Là cư dân nông nghiệp cổ truyền, người Stiêng có một số lễ cúng nông
nghiệp hàng năm:
- Đầu năm âm lịch, họ tổ chức cúng veha cầu cho cộng đồng được bình an,
mùa màng tươi tốt. Mọi nhà góp lễ vật rồi cùng ăn uống. Một số nhà nghiên cứu cho
rằng lễ cúng veha chịu ảnh hưởng của người Khmer. Lễ này tương tự lễ kì yên của
người Việt (chỉ khác là lễ kì yên ở Đồng Nai thường tổ chức vào tháng mười một
âm lịch).
- Bắt đầu phát nương rẫy,người ta làm lễ cúng thần đất.
- Khi chọc lỗ tỉa lúa, người ta làm lễ cúng thần lúa.
- Tháng tám âm lịch trổ đòng, mọi nhà đều cúng xin mùa màng tốt tươi, chắc
ăn. Khi lúa chín, người ta cúng cơm mới.
- Người Stiêng tin mỗi con suối, mỗi khúc sông đều có thần cai quản nên khi
đánh được mẻ lưới đầu tiên, sẽ làm lễ cúng pha bào (hình thức trả lễ thần sông suối).
- Từ tháng chạp âm lịch trở đi, sau khi xong lúa và lúa đã ở trong kho, người
Stiêng làm lễ cúng thần lúa (khuôl bra bar) tương tự lễ ăn nhang lúa của người Châu
Ro. Tùy gia đình, người ta mổ gà, mổ heo hoặc trâu ăn uống, hát hò vui vẻ ít nhất
một ngày. Đây là lễ hội nông nghiệp lớn nhất của đồng bào Stiêng. Cách đây dăm
chục năm, người ta tổ chức đâm trâu như các dân tộc Tây Nguyên, nay hầu như
không còn.
Bài khấn lễ cúng khuôl bra bar ở Xuân Hưng như sau:
- Bra te bra tung bra brang, khuôl bra miar ban bar khuôl bra bar cơt chăp
cơm nơt ban ban boh ra pa riêng piêng đâm piêng rơ klâu đi xru pooc goong đi
goong pooc đic pooc đic rloong pooc goong rlêc kêch ba riêng câp xnăm pan piêng
cơt kra pan ba cơt co boh pan boh cơt tmau lơ pcau pan cơt pur tul chim xơr cơt
đang hoic pan khuưn tât kche rme tât kranh lanh kêi tât luych tât pul đuk mây kla
kla mây klu khuôl tu đac nhu tuar xu hê đuk nhul rxal hê đuk ch'ôm mai veng đuk
xêr po bôông klôông po riêng piêng poh chmam hê đuk le le a tơm klơm a chuông
đinh puar yuông đa vih a ma đac ya a ghiêu hê đac hê đuôl khuôl đu buôc lơ pôông
khuôl yu chuông rinh khuôl bra miar kban ya khuôl bra bra kban cơt chap cơm nơt
pan xơr nuc xac lac bic...

52.5 Page 515

▲back to top


"Tôi xin thần đất, mời thần rẫy (cho) được lúa, mời thần lúa về chứng kiến
tôi được lúa đầy đồng, cơm thừa cơm nguội (ăn dư dả thả giàn) mua được chiêng,
một sào sắm được tôi tớ, không thiếu nợ, năm nào cũng thu hoạch nhiều lúa, được
cơm cháy ăn không vơi, được muối như đá không mòn, lúa nhiều như gò đất, nuôi
heo được nhiều, được giàu tới già răng rụng, lúc nào cũng lanh lợi, cây trồng luôn
luôn tươi tốt. Xin ông bà chứng kiến giùm lời khấn vái (tôi) kêu xin thần suối thần
núi, lời khấn vái này xin chư thần làm sao kết được như nhện chăng tơ. Các lễ vật
(tôi) sẽ dâng bảy gang cơm, tất cả cá gà rượu chè xin cúng chư thần: rượu bên tay
mặt, thịt bên tay trái xin dâng quí thần. Gia đình cầu xin chư vị chứng kiến, dùng đủ
và cho chúng tôi ăn ngon ngủ yên..."
Người Stiêng có một số kiêng cữ:
- Đã chọn xong đất làm rẫy hoặc đã phát xong rẫy, nếu gặp rắn, xương rắn,
con cù lần, con kì đà thì người ta kiên quyết bỏ không làm.
- Lập sóc mới, cấm người lạ bảy ngày đầu không được vào, dấu hiệu: chăng
dây ngang đường và buộc cành lá xanh làm hiệu. Cũng cấm mang vào sóc các ghè
đựng rượu (xruung). Ai vi phạm bị phạt nặng. Trong thời gian bảy ngày dân sóc
kiêng ăn thịt heo, gà và rau cải. Họ dựng cột buộc trâu chuẩn bị làm lễ lập sóc mới.
Đàn ông ngủ toàn bộ trong rừng.
- Thấy chim két bay qua, họ cho là sóc sắp bị tiến công.
- Vào sóc, khách phải gặp trưởng sóc trước tiên. Không được vào nhà người
bệnh vì có thể mang cái chết cho người này.
- Nhà sàn dài mới dựng xong thì bảy ngày đầu phải nấu ăn ở gầm sàn, sau
đó mới được nấu ăn ở bếp gia đình. Trước cửa ngôi nhà thường treo tổ ong vò vẽ để
trấn ma quỉ.
- Chó chết thì phải ăn thịt hoặc quăng đi. Không được chôn vì chỉ người mới
được chôn; nếu chôn chó chết thì nhà đó sẽ mất một người.
- Một số nhà kiêng ăn con cá héc, lươn (pen đôông), cá sấu (kara vâư), tôm
(paira tu) và một số cây: đọt mây cát (tầm oong), môn nước (pe puôl), bí đao...
- Người nào bị hắt hơi (nhảy mũi) không được ra khỏi nhà ngay, nếu ra sẽ
gặp ác quỉ (nếu giải thích theo khoa học thì cơ thể không khỏe cần ở nhà).
- Heo, gà chỉ sinh ba con thì không nuôi, tốt nhất mang bán. Gà không vào
chuồng ban đêm thì hôm sau đem thịt để tránh tai họa cho chủ...
IV.4. Văn hóa nghệ thuật:
Trước đây một số huyền thoại, cổ tích Stiêng được sưu tầm, viết thành sách
tiếng Việt và tiếng Pháp. Nhưng hiện nay số người Stiêng nhớ các truyện của dân

52.6 Page 516

▲back to top


tộc mình không nhiều. Các bài cúng lễ bị quên dần, nhất là trong cộng đồng người
Stiêng theo đạo Tin Lành.
Nhạc cụ của người Stiêng có bộ chiêng đánh trong các dịp cúng lễ, múa hát.
Ngoài ra họ có cây đàn đinh đut bằng lồ ô dài khoảng 50 cm, tước 6 sợi cật bên
ngoài, các sợi này căng lên nhờ hai con ngựa tre nhỏ ở đầu các sợi dây. Người ta
dùng phần mềm của đầu ngón tay bật các sợi dây để tạo nên các âm thanh khác nhau,
dùng đệm khi ca hát. Đàn đinh đut có âm thanh rất nhỏ, chỉ dùng cho cá nhân hoặc
nhóm nhỏ vài ba người.
Từ ngày giải phóng tới nay, người Stiêng ở Đồng Nai đã định canh định cư,
cuộc sống đã có nhiều thay đổi: trẻ em đi học nhiều, mặt bằng dân trí nâng cao từng
bước, đời sống vật chất cải thiện dần, bà con có ý thức tiết kiệm hơn xưa... Đó là
những tiến bộ đáng mừng trong quá trình hòa nhập của đồng bào với cộng đồng các
dân tộc anh em khác đang cùng nhau chung sống thuận hòa.
V. NGƯỜI KƠHO:
V.1. Dân số và phân bố:
Dân tộc Kơho (có sách báo viết là K'ho, Kaho) là một trong 54 dân tộc ở Việt
Nam, phân bố thành dải dài từ Nam Khánh Hòa, Lâm Đồng, Tây Bình Thuận tới
Bắc Đồng Nai, nhưng tập trung đông nhất ở Lâm Đồng.
Cộng đồng dân tộc Kơho có nhiều nhóm:
- Xrê (Srê):tập trung đông nhất ở cao nguyên Di Linh
- Nôp (còn gọi Tơ Nôp, Tơ La, Tala): ở phía Nam cao nguyên Di Linh, dọc
đường 6 đi về Phan Thiết.
- Cơ Don (còn gọi là Cơ Dòn, Queyon) ở Đông Nam Di Linh và Tây Bình
Thuận.
- Chil: sống ở cao nguyên Di Linh và Lâm Viên, gốc là Mnông đã hòa nhập
khá lâu với dân Kơho.
- Lạt (có sách báo viết Lach): sống tập trung ở phía Bắc Đà Lạt.
- T'ring (Tơrinh) sống thành một dải từ Tây Nam Khánh Hòa, huyện Đơn
Dương (Lâm Đồng).
Sống xen kẽ và giao lưu chặt chẽ với các dân tộc Mạ và Mnông anh em nên
một số nhóm Kơho khó phân biệt với hai dân tộc trên, nhất là về tiếng nói. Ngay ở
Đồng Nai, khi được hỏi, một số bà con lúc nhận mình là người Kơho, lúc lại nhận là
Mạ, khiến cho công tác điều tra thống kê dân số gặp khó khăn.

52.7 Page 517

▲back to top


Cũng như các tộc người ở Nam Tây Nguyên - Đông Nam bộ, dân tộc Kơho
thuộc dòng Nam Á, nhóm Môn - Khmer. Người Kơho là một trong các cư dân bản
địa sinh sống lâu đời ở phía Bắc tỉnh Đồng Nai. Năm 1996, người Kơho có 646 nhân
khẩu (324 nữ) xếp thứ 13 về dân số trong cộng đồng các dân tộc ít người của Đồng
Nai. Bà con sống tập trung ở huyện Tân Phú 462 người thì riêng xóm Là Ủ, ấp Phú
Kiên, xã Phú Bình (Tân Phú) có 76 hộ với 413 nhân khẩu (208 nữ)... Ngoài ra người
Kơho còn rải rác ở các huyện Long Khánh, Định Quán...
V.2. Sinh hoạt kinh tế:
Người Kơho là cư dân nông nghiệp cổ truyền, xưa kia họ chuyên "ăn rừng",
"ăn nước trời". Lúc đó họ sống du canh du cư như các dân tộc ít người anh em khác
trong vùng. Chu trình làm rẫy là chu trình khép kín: họ trồng hai, ba năm rồi bỏ hóa
đất đai từ bảy, tám năm tới mười năm cho đất phục hồi độ màu mỡ, lại quay về khai
thác tiếp. Các già làng, trưởng tộc cầm đầu từng họ, từng nhóm dân làng tiến hành
chọn đất phát rẫy (mua brê) vào tháng giêng âm lịch. Đến tháng ba âm lịch cây cỏ
chặt hạ đã khô, họ đốt rẫy (chu mir). Đến tháng tư, bắt đầu mùa mưa, người ta tỉa
hạt (tut kòi).
Rẫy gọi là mir rẫy mới khai phá để trồng vụ đầu là mir pa, rẫy cũ đã trồng là
mir jao. Nếu bắt đầu phát rẫy mà gặp trăn, chồn, rùa núi, phủ hầu... thì người ta bỏ
không làm vì sợ xui xẻo, điềm xấu.
Công cụ làm nương rẫy gồm: chà gạt (joăh: đọc gioẻ), rựa (bra) rìu (xung),
cây chọc lỗ (crmul đọc chrơmun), ống tỉa hạt (ding tut đọc tinh tut)...
Trước khi phát rẫy, bà con làm lễ cúng (boh brê) cầu xin thần rừng cho làm
ăn được mùa, đất đai tốt, phát rẫy thuận lợi, đốt rẫy sạch sẽ.
Tiếp đó, đến cúng dọn rẫy (rơ yau) cầu xin khi tỉa hạt thì lúa sớm nảy mầm,
mưa thuận gió hòa, công việc làm ăn suôn sẻ mọi bề...
Từ sau ngày giải phóng đến nay, do yêu cầu bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường
sinh thái, diện tích nương rẫy ngày càng thu hẹp, bà con dân tộc Kơho lại sang
nhượng nương rẫy cho người mới tới nên đến nay hầu như bà con không làm nương
rẫy mấy.
Đối với một số nương rẫy tương đối bằng phẳng và ở nơi thấp, bà con chuyển
thành ruộng khô (xrê răn) canh tác liên tục nhiều năm với kỹ thuật dùng cuốc (jơ
leng) để cuốc phơi đất diệt cỏ (po ụ is, đọc is là iz) rồi cuốc trở đất và băm nhỏ đất
rơ loh ụ. Những gia đình có trâu bò, có cày (lơ war) và bừa (xkam) thì người ta tiến
hành cày khô (lơ òr xrê răn) khi có một vài trận mưa đầu mùa (trổ mìu bồ xnam).
Mưa đã thấm đầy ruộng người ta dùng bừa trang phẳng mặt ruộng và làm đất nhuyễn
rồi xạ lúa. Ở những chân ruộng sình (xrê bo) và ruộng lầy thụt (xrê lơgơl), người ta

52.8 Page 518

▲back to top


không thể dùng trâu bò cày bừa mà dùng trâu giẵm cho nổi sình, vơ hết cỏ rồi dùng
bàn trang (lơ pan tơring ù do trâu kéo) để trang phẳng ruộng (lơ kơr xrê). Loại ruộng
sình, ruộng lầy thụt không thể xạ trực tiếp xuống mà phải làm theo các công đoạn:
gieo mạ, nhổ mạ (buih tơ nih) và cấy lúa (tăm kòi), làm cỏ (lơ nỵhơt xtê ya nỵhơt
đọc là nhơhơt)...
Các công cụ làm ruộng của người Kơho gồm: chà gạt (joăh), cuốc (jơ leng),
xẻng (bìa), cày (lơ war), bừa (xkam), cào cỏ (njar), bàn trang ruộng (lơ pan tơring
ù)...
Các nghi lễ làm ruộng cũng tương tự cách lễ cúng khi làm rẫy, mỗi làng xóm
thường cùng tiến hành vào một thời điểm. Các già làng chịu trách nhiệm đứng ra tổ
chức và bà con trong làng đều đóng góp: rượu, gà, vịt, cơm nếp... tùy theo khả năng
từng gia đình. Vào lúc tiến hành các nghi lễ nông nghiệp này, mọi người phải kiêng
kị không ăn các con: trăn, rắn, chó, chồn, kì đà, rùa núi... Những con vật này lỡ chết
tại khu vực ruộng, rẫy thì người ta bỏ vài chục mét vuông không trồng tỉa. Nếu
những con vật này chết trong nhà thì đó là điềm không lành, điều tối kị.
Khi lúa đang thì con gái mọc xanh tốt, bà con cúng lúa xanh kiăp măh cầu
mong lúa tươi tốt, làm đòng chắc hạt. Việc cúng này do từng nhà làm đơn sơ thôi.
Lúa chín nửa bông, bà con làm lễ cúng lúa chín nỵô rơ mul (nỵô đọc là nhô)
tương tự người Việt cúng cơm mới để tạ ơn các thần đã cho một vụ thu hoạch và cầu
xin cho việc gặt hái thuận lợi, thóc về đến nhà không hao hớt.
Như vậy, một chu kỳ nông nghiệp đã hoàn thành trong khoảng chín mười
tháng.
- Lịch của người Kơho như sau:
Tháng giêng : kơnhai đul Tháng bảy
: kơnhai por
Tháng hai
: kơnhai bar Tháng tám
: kơnhai ph'am
Tháng ba
: kơnhai pe
Tháng chín
: kơnhai xin
Tháng tư
:kơnhai poan Tháng mười
: kơnhai jơt
Tháng năm :kơnhai pram Tháng mười một : kơnhai jơt đul
Tháng sáu
: kơnhai prau Tháng mười hai : kơnhai jơt bar
Lịch của người Kơho lấy từ lịch của người Việt (lịch âm dương) nhưng mùa
vụ thì căn cứ trời mưa nên có năm bà con làm ruộng rẫy sớm nếu trời mưa sớm; khi
mưa trễ thì mùa vụ lui lại. Những lúc nông nhàn, người ta đánh cá ở sông suối với

52.9 Page 519

▲back to top


các dụng cụ: chài (jal), chĩa (cràng đọc là chràng), vó (ju), rổ vớt (nrir), nơm (jrut),
lờ (pàm), đăng (xrọ), cần câu (đàr) (với kỹ thuật câu cặm (ping kai) và câu giăng (rơ
nòng), ống trúm (ding dung đọc tinh tung). Ở các khúc suối nhỏ ít nước, người ta tát
(xạt ka) hoặc dùng cây độc (krao ka) để bắt. Hai thứ cây độc (proh) (kơ tanh)
mọc hoang trong rừng, người ta lấy lá, thân, hạt của chúng đem giã nát rồi thả xuống
suối, cá trúng độc nổi lên, bà con dùng rổ mà vớt.
Nhìn số lượng các loại dụng cụ đánh cá, người ta thấy dân Kơho thành thạo
với nghề phụ này, chắc hẳn nghề đánh cá một thời là nguồn cung ứng thực phẩm
quan trọng của họ.
Xưa kia, người ta cúng suối không phải mong thần suối cho nhiều cá ăn. Đối
với người Kơho, con suối là tượng trưng cho loài rắn mang lại những điều không
may cho con người, cúng suối là cầu xin ma quỉ không ám con người gây ra bệnh
tật, cầu cho người bệnh chóng khỏi. Việc cúng suối chỉ tiến hành khi làng xóm có
người mắc bệnh, lễ vật sơ sài, có khi chỉ là cầu khấn miệng mà thôi.
Khi rừng còn bao phủ khắp vùng cư trú của người Kơho thì săn bắn là nguồn
thu nhập đáng kể của họ. Các dụng cụ săn bắn khá phong phú: ná (xơna), tên (kon
na, lao crèng đọc chrèng), bẫy (dă đọc yá), bẫy thòng lọng để xiết cổ thú vật (dă
ko), bẫy xiết chân thú vật (dă jăn), bẫy đâm (tơ o là một loại mang cung, bẫy có
nhiều ngọn lao nhọn)...
Người Kơho thường săn bắt các loài thú: khỉ, heo rừng, nai, mển, chồn... Họ
kiêng không giết, không ăn thịt, không đem về nhà con trăn; rắn cũng ít người ăn,
có thể giết nhưng không được đem vào nhà...
Người Kơho thường đi săn tập thể, có dùng chó săn. Khi săn bắt được một
con thú, thì tùy to nhỏ mà có cách chia khác nhau:
- Thường thường, người bắn được con vật sẽ hưởng cái đầu, còn thịt thì chia
đều cho các thành viên tham gia cuộc săn.
- Nếu con vật lớn, thì chia đều cho cả làng, các người đi săn được nhiều hơn
một chút.
- Nếu con thú nhỏ thì người ta băm nhỏ, dùng chén chia đều phần thịt cho
các thành viên đi săn.
- Nếu con thú quá nhỏ (con nhím, con sóc chẳng hạn), người ta nấu lên, mọi
thành viên ăn chung một bữa đầy vui vẻ.
Chó săn không được tính như một thành viên, không ưu đãi, chỉ được đối xử
như thường ngày (nghĩa là được cho ăn xương thừa). Khi săn được con thú lớn:
hươu, nai, heo rừng, min... người ta làm lễ cúng Yang rừng hoi Yang brê tạ ơn thần

52.10 Page 520

▲back to top


rừng. Đi săn không được gì, người ta tranh thủ bắt cá, hái rau rừng: đọt mây và rau
ria là hai thứ lúc nào trong rừng cũng có.
Từng gia đình chăn nuôi heo, gà vịt, trâu bò... chủ yếu dùng vào các lễ cúng,
chứ chưa làm ra sản phẩm hàng hóa. Số gia súc ít, lại chăn thả tự do nên năng suất
chăn nuôi nói chung thấp, chỉ đáp ứng được nhu cầu rất khiêm tốn.
Lúc no đủ người Kơho thường ăn ba bữa một ngày: sáng, trưa, chiều. Cơm
tẻ (piêng ngan) là lương thực chính, thực phẩm lấy từ sản phẩm hái lượm, đánh cá
hoặc săn bắn. Gạo nếp được nấu cơm nếp (piêng bar) hoặc xôi, bánh dùng trong các
ngày lễ, cúng... (hoặc khi thích ăn).
Người ta uống nước suối là chính. Ở các ấp Kơho, chưa có giếng đào. Khi đi
rừng, ở những chỗ khô khan hiếm nước, bà con thường chặt dây leo lấy nước uống
(xe jroh). Trong các dịp cúng lễ, rượu là thức uống truyền thống. Rượu đế (ơ lac)
thường phải mua, rượu cần (rơ nàm) do bà con tự làm.
Người Kơho làm rượu cần theo hai công đoạn:
- Ủ men (kanh)
Gạo (tẻ hoặc nếp) đem ngâm khoảng một ngày cho mềm rồi vớt ra cho ráo
nước. Lấy lá rừng (nô tơ klo đọc: nhô tơ klo) rửa sạch, phơi ráo nước rồi đem giã
chung với gạo đã ngâm cho thật nhuyễn. Lấy khối bột nhão nhồi thành bánh tròn
dẹp hoặc làm thành nắm tròn cỡ nắm tay, để gần bếp lửa cho khô dần dần. Con men
phát triển trong cục bột, người ta không đem phơi nắng sợ men kém phát triển, làm
rượu lạt.
- Hầm rượu (cài rượu)
Nấu cơm gạo tẻ hoặc nếp tùy khả năng mỗi nhà. Cơm hơi nhão để dễ trộn
với men rượu khi đã nguội. Người ta thêm vỏ trấu sạch theo tỉ lệ thích hợp rồi cho
tất cả vào ché, lèn thật chặt.
Tro bếp trộn nhão (với nước) dùng để bịt kín miệng ché. Cất ché rượu vào
một góc nhà.
Ché rượu để khoảng một tháng thì gạo lên men đầy đủ, khi gỡ bỏ lớp tro hàn
miệng, bên trong bốc mùi thơm nồng nàn. Uống sớm hơn thì rượu chưa ngon.
Người ta lấy lá cỏ tranh hoặc lá tre chèn kín miệng ché để trấu không nổi lên.
Một số ống hút (bằng tre nhỏ) cắm sâu vào ché, người ta chuẩn bị cho tiệc vui. Rượu
cần (rơ nàm) thoạt đầu có màu nâu đục, khi uống đổ thêm nước lã cho tới miệng
ché. Khi nào nước lã xuống tới đáy ché thì rươụ lạt, người ta thôi không uống tiếp
(và chuyển sang ché mới hoặc uống rượu đế).

53 Pages 521-530

▲back to top


53.1 Page 521

▲back to top


Người uống ngụm rượu cần đầu tiên là vị già làng hoặc chủ nhà. Nếu là lễ
cúng thần lúa (loh Yang koi đọc: lở Yàng kòi) thì bà mẹ lúa được khai mạc ché rượu
đầu tiên.
Thứ tự uống: già làng - khách - người lớn - thanh niên.
Một lễ cúng lớn hoặc một đám cưới lớn có thể dùng đến hàng chục ché rượu
cần (loại ché cao trên 1 mét).
Người Kơho có vài nghề thủ công xưa kia khá phát triển song bây giờ lụi tàn
dần. Nghề rèn đã biến mất, các công cụ lao động bằng sắt đều được mua ở chợ. Nghề
dệt mang tính tự cấp tự túc trong nội bộ cộng đồng chứ không có sản phẩm hàng hóa
nào để bán. Bà con còn dệt váy (tanh ôi), dệt áo (tanh xo kroh)... và nhà nào cũng
dệt chiếu (tanh bil) bằng một loại lá rừng, đan gùi (tan xah)... Có mấy loại gùi: gùi
lớn (xah dong), gùi nhỏ (xah dit đọc tit), gùi cao (xah poh), gùi trang trí (xah bôt),
gùi có lỗ (xah bài đọc: vài)... dùng vào các công việc khác nhau.
Cách nay hơn nửa thế kỉ, đàn ông Kơho thường đóng khố (tron), mặc áo
hoặc cởi trần, trên đầu có lúc cột chiếc khăn nhỏ. Nam giới không cà răng căng tai
(bằng khúc ngà voi hoặc khúc gỗ quí), tay đeo vòng đồng búi tó cài chiếc lông chim
chèo bẻo (căp xoh pling). Một số ông già buộc sợi dây ngang bụng, trên sợi dây cài
từ ba đến năm chiếc lục lạc (bơ liêm) nhỏ, khi đi lại tạo nên tiếng nhạc vui tai.
Phụ nữ Kơho mặc váy (bơn) có hoa văn, áo và quấn khăn (jră) trên đầu. Búi
tóc thường cài chiếc lược sừng trâu và con dao nhỏ cán cong (pis cut đọc: piz chut),
nhiều cô trang điểm thêm chiếc lông chim pling vào các dịp lễ hội. Đồ trang sức của
phụ nữ phong phú hơn nam giới, ngoài lục lạc đính vào gấu váy để tạo âm thanh vui
tai và làm căng chiếc váy làm tăng tính thẩm mĩ, còn có: vòng đồng (kòng tê), chuỗi
hạt (nỵong đọc: nhong), kiềng (vòng cổ kòng soạn), bông tai (bơ no), nhẫn (xơ biat),
nhẫn cưới (xơ biat tom bau)... Vòng đồng đeo tay (kòng tê) là vật thiêng liêng tượng
trưng cho sự thủy chung, là chứng tích của tình yêu nồng thắm. Lục lạc cũng được
đính vào một số vật tùy thân có giá để khi lỡ rơi rớt cũng dễ tìm (do âm thanh phát
ra).
V.3. Tổ chức xã hội, gia đình và các phong tục tập quán:
V.3.1. Tổ chức xã hội:
Bòn (làng) là đơn vị cư trú cơ bản của người Kơho. Mỗi làng gồm vài căn
nhà dài (hìu jòng); mỗi căn nhà dài là một dòng họ (tum) cư ngụ. Đứng đầu căn nhà
dài là vị tộc trưởng (jơ na). Mỗi căn nhà dài có hàng chục gia đình cùng quan hệ
huyết thống. Mỗi gia đình nhỏ ở một, hai gian và các gian chỉ ngăn cách sơ sài bằng
tấm liếp tre, nứa. Người ta ăn uống, ngồi chơi, tiếp khách và ngủ ngay trên sàn nhà,
gần bếp lửa của mỗi gia đình.

53.2 Page 522

▲back to top


Mỗi nhà sàn dài có một chòi lúa ở cách đó chừng dăm, bảy mét do một mẹ
lúa cai quản và phân phối cho từng gia đình nhỏ.
Đứng đầu bòn là vị chủ làng (kuang bòn) có uy tín rất cao, được mọi người
tuân phục. Dọc đường 20, từ km 133 trở đi, xưa kia một số bòn ở gần nhau đã tổ
chức thành liên bòn do kuang bòn có thế lực nhất đứng đầu. Thời thuộc Pháp, kuang
bòn còn là chức sắc do nhà cầm quyền bổ nhiệm nên càng có thế lực.
Do chiến tranh kéo dài, các nhà sàn dài bị phá hủy, người dân Kơho bị xúc
tát vào các ấp chiến lược chuyển sang ở nhà trệt nhỏ theo từng gia đình nhỏ. Lối
sống tập thể cổ truyền bị phá vỡ hoàn toàn.
Xã hội Kơho chưa phân hóa sâu sắc giàu nghèo, tuy mỗi bòn đều có một vài
hộ nhiều trâu, ché, chiêng hơn những gia đình khác.
Ngày nay, nhìn chung đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn. Người
Kơho đã có đại biểu trong các cơ quan, đoàn thể ở cơ sở ấp, xã.
V.3.2. Gia đình:
Từ chế độ theo dòng mẹ, ngày nay, gia đình nhỏ Kơho do người cha, người
chồng làm chủ vì họ có trách nhiệm làm lụng để nuôi cả nhà. Con trai trưởng được
coi trọng.
Thuật ngữ quan hệ thân tộc hiện nay của người Kơho ở Đồng Nai như sau:
- Cụ ông: kuang kra
- Anh rể: bi bơr tâu
- Cụ bà: pang kra
- Chị gái: bi ur
- Ông: ông
- Em gái: oh ur
- Ông nội: ông kra bặp
- Em dâu: ban
- Bà nội: mọ kra bặp
- Em trai: oh klau
- Bà: mọ
- Em rể: bơr tâu
- Ông ngoại: ông kra me
- Anh chồng: bi bao klau
- Bà ngoại: mọ kra me
- Anh vợ: bi bao ur
- Cha: bặp
- Chị chồng: bi ur bao klau
- Mẹ: me
- Em gái vợ: oh ur đăh bao ur

53.3 Page 523

▲back to top


- Bác: woa dòng
- Em gái chồng: oh ur bao klau
- Chú: woa oh
- Em trai chồng: oh bao klau
- Cô: me loh
- Anh vợ: bi bao ur
- Cậu: kôn
- Chị vợ: poh bi ur
- Cha chồng: poh bặp
- Chị dâu: bi ban
- Mẹ chồng: poh me
- Em trai vợ:oh klau ur
- Bác trai: poh mi
- Con trai: kon klau
- Thím: me êt
- Con gái: kon ur
- Dượng: woa oh
- Con dâu: ban kon
- Dì: me jông
- Con rể: bơ tâu kon
- Cha vợ: poh bặp ur
- Cháu: sao
- Mẹ vợ: poh me ur.
- Cháu nội: sao đăh bặp
- Bác gái: bi ur dòng
- Cháu ngoại: sao đăh ur
- Chồng: bao klau
- Chắt: xê
- Vợ: bao ur
- Chắt nội: xê bặp
- Anh trai: bi klau
- Chắt ngoại: xê ur
V.3.3. Cưới xin:
Từ xa xưa, nam nữ thanh niên được tự do yêu đương, tìm hiểu nhau. Chàng
thanh niên thường lớn hơn bạn gái vài tuổi, chủ động tìm hiểu để đi tới hôn nhân.
Đôi trai gái được tự do gặp gỡ trò chuyện, tâm sự song không được ăn nằm với nhau.
Người con gái lỡ có bầu với bạn trai thì vẫn được làm đám cưới, nhưng phải nộp cho
bòn một món phạt vạ khá nặng.
Trước khi đi đến quyết định cưới xin, nam nữ thường tặng nhau một số vật
kỉ niệm: vòng, nhẫn, chuỗi hạt đeo cổ... các kỉ vật này được trình cho cha mẹ đôi
bên biết.
Một đám cưới của người Kơho thường trải qua những lễ sau đây:

53.4 Page 524

▲back to top


- Lễ coi mắt (đám nói):
Nhà gái chủ động đến coi mắt gia đình bên trai (ít khi có chuyện ngược lại).
Ông bà mai (kòn ma, kòn gùng) là người có tuổi, biết ăn nói, dẫn đầu đoàn nhà gái
qua đàng trai. Khi vào nhà, ông, bà mai đi đầu rồi lần lượt theo thứ tự tuổi tác lớn,
nhỏ. Gia đình nhà trai lo làm tiệc, giết gà vịt, làm rượu cần để đãi khách. Hai bên trò
chuyện, bàn bạc, đi đến thỏa thuận về sính lễ rồi ấn định ngày cưới.
Khác với người Việt, người Hoa... nhà trai Kơho có quyền đòi sính lễ của
nhà gái: chiêng (phèng la), ché, trâu bò, heo, gà vịt, chăn, áo quần... Từ cha mẹ
chồng tương lai tới anh chị em chồng đều có quyền ra giá đòi sính lễ. Sau cuộc bàn
bạc dài dòng, nhà gái đòi giảm mức lễ vật, hai bên đi đến thống nhất. Nếu đàng gái
không chấp nhận mức đòi hỏi (quá cao) của nhà trai thì đám cưới sẽ không thành,
nhưng chuyện này ít xảy ra vì cả hai bên nói chung đều biết điều. Nếu đàng trai đi
coi mắt nhà gái (hiếm khi có) thì nhà gái có quyền đòi hỏi sính lễ, hồi môn.
- Lễ cưới:
Đúng ngày đã định, nhà trai đến rước dâu. Hôn lễ cử hành có sự chứng giám
của ông bà mai, bà con họ hàng đôi bên. Hai bên lo chuẩn bị đồ đạc, nhất là vòng
đồng. Hai chiếc vòng đồng đặt trên hai dĩa gạo đặt sát nhau trên bàn thờ. Sau khi lễ,
ông bà mai nhà trai đeo vòng vào tay cô dâu, ông bà mai đàng gái đeo vòng vào tay
chú rể. Việc đeo vòng có ý nghĩa đặc biệt: sau này đôi vợ chồng đó có trục trặc gì
thì các ông bà mai có trách nhiệm hòa giải hoặc giải quyết hậu quả.
Phong tục Kơho cấm kị các cuộc hôn nhân cùng dòng họ:
- Con chú con bác không được lấy nhau.
- Con bạn dì không được lấy nhau.
Nếu vi phạm, phải bỏ làng mà đi nơi khác hoặc phải chết để chấm dứt mối
quan hệ bất chính. Song con cô con cậu có thể lấy nhau.
Ở người Kơho vẫn còn tục sororat và lêvirat. Nếu vợ chết mà chồng còn trẻ,
anh ta có thể lấy chị hoặc em của vợ mình (nếu được đồng ý). Nếu chồng chết, người
vợ có thể lấy anh hoặc em trai chồng. Việc lấy chị em vợ hoặc anh em chồng nhằm
giữ của cải gia đình khỏi lọt ra ngoài. (Riêng việc lấy anh em chồng, theo luật tục là
có tội lớn, vì để giữ vợ cũ và gia sản cho con cái đành chấp nhận phạm tội trên, phải
cúng đầu heo để giải tội).
Ngoại tình là tội rất nặng không thể tha thứ.
Người đàn bà có chồng đi ngoại tình với trai chưa vợ thì chồng hoặc gia đình
chồng có thể giết hay phạt vạ nặng, tới 10 cặp ché lớn hay 10 con trâu, bò qui định
ngang giá với 2 mạng người. Cặp ngoại tình này phải quì gối trước nhà chồng, lạy
xin các già làng, các bậc lớn tuổi, họ hàng và chồng. Nếu được người chồng và mọi

53.5 Page 525

▲back to top


người đồng ý thì người vợ mới trở lại chung sống với chồng; ngược lại thì chị ta phải
ra đi với hai bàn tay trắng. Quá hơn nữa, chồng và gia đình chồng có thể giết cả đôi
phạm tội mà không bị khép tội.
Người đàn bà có chồng đi ngoại tình với người đàn ông có vợ thì phải lạy
xin cả đôi bên. Bên chồng của người đàn bà ngoại tình có quyền giải quyết trước,
sau đó mới tới bên vợ của người đàn ông ngoại tình. Cách xử lí tương tự như cách
đã nêu trên.
Nếu đôi ngoại tình bỏ trốn khỏi bòn, già làng cử người thân của cặp ngoại
tình đi tìm bằng được, đưa về xử lí theo luật tục.
Vụ ngoại tình dù bị phát giác lúc nào, ở bất cứ nơi nào cũng đều phạt vạ nặng
như nhau. Đặc biệt vụ ngoại tình xảy ra ở nhà đàn bà có chồng là điều tối kị, phạt vạ
nặng, có thể xử chết.
Hoang thai cũng là tội lớn đối với người Kơho. Người con gái chưa chồng
mà có bầu (không cưới xin) sẽ bị đuổi ra khỏi cộng đồng. Gia đình cô gái phải cúng
xin, sau ba năm cô ta mới được về làng. Trong thời gian bị đuổi đi, cô gái đơn độc
ở ngoài rẫy tự lo liệu mọi sinh hoạt, người làng xa lánh không ai giao du.
Anh chàng nếu nhận con thì được cưới cô gái. Trong lễ cưới (cô gái lỡ có
bầu và có con), ngoài các nghi thức chung, người chồng phải dắt vợ lòn dưới sợi chỉ
đen - dây gùi - chăng cách mặt đất khoảng 1 mét ở ngang cửa, liên tục bảy lần dưới
sự chứng kiến của ông bà mai và hai họ.
Nếu cô gái chửa hoang kiện mà anh con trai không nhận thì làng tổ chức ăn
thề. Người ta đun một nồi nước sôi, thả cặp nhẫn vào đó. Sau khi vị già làng làm lễ
cúng thần, chàng trai và cô gái cho tay vào lấy chiếc nhẫn ra. Nếu ai trung thực thì
được thần linh che chở, sẽ an toàn vô sự (?), còn kẻ tà ý sẽ phỏng và bị phạt vạ rất
nặng, kể cả khoản chi phí cúng thần linh và bồi hoàn cho làng tới chứng kiến.(Anh
con trai bị kiện mà không chịu tham gia lễ thề nguyền "nhúng tay vào nước sôi" sẽ
bị "thư" đến chết). Sau khi nhúng tay vào nước sôi, anh bị phỏng phải về ăn ở với
cô gái, chịu trách nhiệm nuôi con. Người Kơho kể lại tục lệ này như truyền thuyết,
chớ từ lâu lắm rồi không thấy lễ thề nguyền nữa.
Hai vợ chồng do bất hòa (hay vì lí do nào đó) nếu thuận tình li dị thì "đường
ai nấy đi", không bị phạt vạ.
Nếu một bên không thuận li dị thì được quyền phạt vạ người muốn li hôn...
Nhận xét: xưa kia chắc quan hệ trước hôn nhân của người Kơho cũng phổ
biến như các dân tộc anh em thuộc ngữ hệ Môn - Khmer sống gần đó. Luật tục trở
nên nghiệt ngã với phụ nữ từ khi chế độ theo dòng mẹ lụi tàn, chế độ theo dòng cha
dần dần chiếm ưu thế.

53.6 Page 526

▲back to top


V.3.4. Sinh đẻ:
Khác với các dân tộc anh em bản địa, phụ nữ Kơho sinh đẻ ngay tại nhà
mình. Chồng và các thành viên khác có trách nhiệm lo săn sóc sản phụ.
Nơi nghỉ ngơi của sản phụ phải yên tĩnh, kiêng các tiếng động mạnh dội tới.
Khi sắp sinh, gia đình đón bà mụ có kinh nghiệm, mát tay để đỡ cho bé ra đời suôn
sẻ, sau này hay ăn chóng lớn, mạnh khỏe. Sản phụ ăn cháo với muối, cá khô kho
mặn, kiêng ăn mỡ; uống một chút rượu và uống thuốc lấy từ cây rừng cho chóng hồi
phục sức khỏe. Chị nằm sưởi bằng bếp than ít bữa để chống lạnh. Hai vợ chồng phải
kiêng cữ không ăn nằm với nhau trong ba tháng liền.
Sinh bé được bảy ngày, gia đình cúng đặt tên (poh kah mat) với lễ vật là dê,
gà vịt, rượu... Các già làng, ông bà, bà mụ, bạn bè... được mời dự lễ đều có món quà:
áo, quần, vòng, nhẫn... mừng bé.
Già làng hoặc ông nội đặt tên cho bé và tên không trùng với người trong bòn
vừa chết, tên những người trong dòng họ: ông bà, chú bác, dì dượng...
Ngày hôm sau - tức ngày thứ tám sau khi bé ra đời - gia đình làm lễ tạ ơn
bà mụ. Lễ vật gồm: tiền, quần áo, chăn mền, gà vịt..., bà mụ có quyền chọn một vài
thứ, có tính cách lấy tượng trưng.
V.3.5. Tang ma:
Trong nhà có người qua đời, thân nhân phải báo tin cho dân làng và họ hàng
xa gần được biết.
Một số người khỏe mạnh được cử vào rừng làm lễ xin cây để làm hòm. Khi
chọn được cây tung hoặc cây bông lau (gỗ nhẹ, thớ thẳng, mềm) vừa ý, người ta đặt
ba cục than đỏ xuống gốc, cầu xin thần rừng (yang brê) cho phép chặt hạ không bị
ma quỉ cản phá. Người ta dùng rìu cắt hai khúc cây, mỗi khúc dài khoảng hơn hai
mét, rồi khoét mổ hòm và nắp. Xong xuôi, cỗ hòm được khiêng về nhà. Thi hài được
lau rửa trước khi khâm liệm.
Hai, ba ngày sau, người ta làm lễ đào huyệt. Người ta cũng đặt ba cục than
cháy đỏ xuống nơi định đào huyệt, cầu xin thần rừng ngăn không cho ma qủi tới phá,
người chết được yên nghỉ tại đó. Huyệt mộ đào sâu khoảng 1,5 mét trước ngày đưa
đám.
Người Kơho chôn người chết vào lúc sáng sớm. Ngôi mả làm nhà mồ đơn
giản bằng lá. Người chết được chia của, mấy thứ quí giá thì đặt trong hòm, những
thứ khác: chai, ché, gùi... thì đập vỡ và rắc trên mộ. Người chết được chia phần tài
sản bằng với phần của người còn sống (thí dụ: gia đình có sáu người thì người quá
cố được chia một phần sáu tài sản). Đưa đám trở về, mọi người sau khi tẩy uế theo
tục lệ, được mời dự bữa cơm trước khi ai về nhà nấy.

53.7 Page 527

▲back to top


Bảy ngày sau, người nhà ra thăm mộ, sửa sang phần mộ lần đầu cũng là lần
cuối cùng. Lúc này hồn người chết đã về cõi khác.
Sau khi thăm mộ, về nhà gia đình làm cỗ cúng để cầu cho linh hồn người
chết yên nghỉ, đồng thời tạ ơn bòn và thông báo cho bòn biết đợt lễ tang của gia đình
đã kết thúc.
Trong vòng bảy ngày, gia đình có người chết không được đến nhà người
khác, không làm rẫy...
Tuy không có tục lệ để tang như người Việt nhưng luật tục Kơho qui định
sau ba năm thì chồng (hoặc vợ) mới được tái giá.
Trong trường hợp gia đình có người chết bất đắc kì tử (tai nạn, chết ở sông
suối, chết vì bom rơi đạn lạc...) thì gia đình phải kiêng ba năm mới được tới nhà
người khác. Có khi cộng đồng bòn đuổi gia đình đó ra ở một góc rừng xa làng trong
ba năm; hết kì hạn, gia đình đó làm lễ cúng mới được trở về bòn, đến chơi với mọi
nhà.
V.3.6. Một số lễ cúng:
- Cúng thần đất (loh Yang ụ, đọc: lở Yàng ụ)
Người ta cúng thần đất khi tìm xong đất làm nương rẫy. Lễ cúng tiến hành
trước khi chặt cây, phát bụi, nhằm cầu xin thổ thần cho làm ăn thuận lợi, hoa màu
và lúa trồng tốt tươi, thóc gạo đầy chòi lúa, mọi người luôn mạnh chân khỏe tay.
Các lễ vật gồm: dê, gà vịt, rượu cần.... Vị già làng hoặc trưởng tộc, chủ hộ
cầu khấn, van vái chư thần cùng ông bà, tổ tiên.
- Lễ rửa chân trâu (rao jơng rpuh).
Trâu quần cho ruộng lầy nổi sình, đất bùn nhuyễn ra giúp cho việc cấy lúa
dễ dàng. Khi xong công đoạn này, người ta làm lễ rửa chân trâu chủ yếu mang tính
hình thức (cầu xin, van vái) đơn giản và không cần lễ vật. Từ nay, con trâu được
nghỉ ngơi thoải mái không còn lao động vất vả nữa.
- Cúng lúa sắp làm đòng:
Lúa đang thì con gái lên xanh tốt, sắp sửa có đòng thì người ta làm lễ cúng
cầu cho mùa màng tươi tốt, thu hoạch nhiều. Lễ vật: gà vịt, dê, rượu... và cúng tại
nương rẫy hay bờ ruộng.
- Cúng lúa chín:
Tạ ơn các thần đã cho một vụ thu hoạch tốt đẹp. Người ta cúng ngay tại
ruộng, rẫy với lễ vật là gà vịt, rượu...
- Cúng thần lúa: (loh Yang koi đọc: lở Yàng kòi)

53.8 Page 528

▲back to top


Là lễ cúng trọng thể, tương tự tục ăn nhang của người Châu Ro. Sau khi thu
hoạch xong xuôi, từng dòng họ (nay thì từng hộ) làm lễ cúng thần lúa. Người ta lập
bàn thờ, trang trí cây tre vót bông ở đỉnh tượng trưng cho bông lúa, một cây có bông
bằng vải kết hoa, Bàn thờ có: cốm dẹp, bánh chưng, bánh dày, củ khoai môn, bộ đồ
lòng con vật cúng, li rượu cần, đọt mây... Từ bàn nhang, có hai sợi chỉ treo xuống
bình rượu cần để dẫn đường.
Người ta cúng tại chòi lúa trước, sau đó mới làm lễ cúng trong nhà (có đọc
lời cầu khấn, van vái, tạ ơn và hứa trả vụ sau...). Sau lễ cúng, tiệc được dọn ra đãi
khách trong tiếng cồng chiêng vang dội. Lễ cúng thần lúa trước kia kéo dài vài ba
ngày.
- Lễ đâm trâu: (nỵo sa rpuh đọc: nhô xa rơpú)
Là một lễ hội trọng thể trong các dịp: cầu an cho làng xóm hoặc kết nghĩa
giữa các làng.
Trên một bãi đất rộng của bòn, người ta dựng một cây cột cao (nđăh) có bông
tre và một cột thấp (kơrơng) để cột con trâu hiến tế. Trâu được cột vào đó trước một
ngày.
Khoảng bảy giờ sáng, lễ đâm trâu bắt đầu.
Nếu là cúng cầu an cho làng xóm thì vị già làng lãnh trách nhiệm đâm trâu.
Nếu là lễ kết nghĩa thì người bạn kết nghĩa sẽ đâm trâu.
Dụng cụ để đâm trâu là một ngọn giáo sắc cả hai lưỡi (lưỡi giáo hình búp
đa). Người đâm lựa thế, đâm một nhát từ hông trâu bên trái xuyên vào tim. Con vật
gục ngay xuống và người ta bôi máu trâu lên một số vật: bông tre, hòn đá thờ của
dòng họ...
Nếu là đâm trâu để cầu an thì thịt trâu đem làm tiệc đãi cả bòn. Nếu đâm trâu
kết nghĩa thì con vật được xẻ đôi, mỗi bên lấy một nửa làm tiệc đãi khách, họ hàng
cùng hưởng. Bên kia sẽ làm lễ đâm trâu mời vào dịp khác.
Ngày trước, bà con Kơho làng Là Ủ (nay là ấp Phú Kiên, xã Phú Bình)
thường cúng miễu tại khu Bàu nước sôi (nay là khu vực Công ty nước khoáng Đa
Kai). Hàng năm, bà con cúng dê hay trâu, nay tục lệ này không còn (cùng với các lễ
cúng nông nghiệp khác). Bà con đã theo đạo Tin Lành.
- Lễ cúng yang rừng (hoi yang brê).
Khi săn được thú lớn hay nhiều thú nhỏ, người ta cúng tạ ơn thần rừng. Lễ
vật là thịt thú săn được. Số người tham dự ít, dăm mười người của cuộc săn mà thôi.
Người ta cúng tại rừng, nấu nướng xong thì ăn tại chỗ, không mang thức ăn về mà
chỉ mang phần thịt sống về thôi.

53.9 Page 529

▲back to top


V.3.7. Đời sống tâm linh:
Cũng như dân tộc Mạ, người Kơho tin rằng có một vị thần cao nhất là Nđu
(như Thượng đế). Nhưng bà con thường cúng vái những vị thần ở cấp thấp hơn, gần
gũi hơn: thần đất, thần rừng, thần lúa, thần núi, thần sông...
Bà bóng (jơnăng) không phải là người chuyên nghiệp gọi hồn, làm bùa. Bà
ta vẫn tham gia lao động bình thường, chỉ khi gia đình nào có người đau ốm mới
rước về để cầu cúng xin lành bệnh. Bà bóng gọi hồn tổ tiên, ông bà về giúp đỡ con
cháu mau bình phục.
V.4. Văn hóa nghệ thuật:
Người Kơho xưa kia có bộ nhạc cụ khá phong phú: đàn tre (cing kơ diês đọc
chinh kơ tiêx), sáo hai lỗ (am pre), kèn bầu (buât), kèn môi (tồng), kèn lúa (kơ
woao)... Bộ chiêng chỉ đánh trong các lễ hội cưới xin.
Về vốn văn nghệ, người Kơho có nhiều điệu hát: hát giao duyên (đơs crih
woar giữa đôi nam nữ hay đôi người già), kể luật tục (đơs crih jal jơ nau jiao), kể
chuyện xưa (jal jơ nau jiao), hát ru con (crih bơ điay kòn), hát lúc ân ái (đam bơ
in)...
Nhiều vốn quí đang mai một dần, may ra chỉ một số ít cụ già Kơho nhớ lại ít
nhiều mà thôi.
Là một cộng đồng dân tộc không đông song ngày nay người Kơho ở Đồng
Nai từng bước đi lên, cố gắng xây dựng cuộc sống mới đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu.
VI. NGƯỜI HOA:
VI.1. Nguồn gốc, phân bố và dân số:
Trước đây, ở Đồng Nai cũng như toàn miền Nam, người Hoa được gọi bằng
nhiều tên khác nhau: người Hoa, người Việt gốc Hoa, người Hán, người Hoa Nùng,
người Khách, người Minh hương, Hoa kiều...
Chúng ta thống nhất gọi theo Danh mục thành phần dân tộc Việt Nam là dân
tộc Hoa. Cần tránh những danh xưng không chính xác:
- Người Hoa Nùng: Hoa và Nùng là hai dân tộc ít người khác nhau, gọi gộp
làm một thì không đúng (ngôn ngữ Tày - Nùng khác ngôn ngữ Hán).
- Hoa kiều: trong thực tế Nhà nước ta đối xử với người Hoa như một thành
viên bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; họ được hưởng mọi quyền
lợi và phải thực hiện mọi nghĩa vụ công dân Việt Nam. Họ không phải là người mới
tới tạm trú mà đã làm ăn sinh sống lâu dài tại đây.

53.10 Page 530

▲back to top


- Việt gốc Hoa: là lối nói của sách báo chế độ cũ có thể gây hiểu lầm Nhà
nước ta cưỡng bức đồng hóa dân tộc Hoa với dân tộc Việt.
- Tàu, Chệt, Khách: là lối gọi nôm na.
Người Hoa ở Đồng Nai gồm nhiều nhóm cư dân Trung Hoa đến đây vào các
thời điểm khác nhau. Nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình
xin tị nạn chính trị, được đưa vào lập nghiệp ở vùng Cù Lao Phố năm 1679 theo lệnh
chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) là nhóm đến sớm nhất mà sử sách ghi chép rõ. Còn
nhiều đợt người Hoa đến sau, vào nhiều thời điểm khác nhau, họ dần dần hòa nhập
với cộng đồng các dân tộc khác khá nhanh. Đến nay, phần lớn số thanh niên Hoa
không còn nói được tiếng mẹ đẻ, ngoại trừ một số người già.
Tổng số người Hoa ở Đồng Nai năm 1996: 103.540 nhân khẩu (48.778 nữ)
là dân tộc ít người đứng vị trí thứ nhất trong cộng đồng hơn 40 dân tộc thiểu số tại
đây. Huyện Định Quán đông người Hoa nhất: 34.842 nhân khẩu (16.191 nữ) trong
đó xã Phú Lợi đông người Hoa nhất tỉnh: 12.187 nhân khẩu. Huyện Thống Nhất
đông thứ nhì: 20.549 người (9.855 nữ) trong đó xã Bàu Hàm tập trung tới 6.367 nhân
khẩu. Huyện Xuân Lộc đứng thứ ba: 19.472 nhân khẩu (9.196 nữ); huyện Long
Khánh có 10.931 người Hoa; huyện Tân Phú có: 8.932 người; thành phố Biên Hòa
có: 5.496 người; huyện Vĩnh Cửu có: 1.483 người; huyện Long Thành có: 1.407
người và huyện Nhơn Trạch ít nhất: 428 người.
VI.2. Các hình thái kinh tế:
Người Hoa đến làm ăn sinh sống lâu đời ở Đồng Nai cư trú ở khắp nơi: thị
trấn, thị tứ, nông thôn. Họ làm đủ mọi loại nghề khác nhau:
- Người bang Quảng thường mở quán ăn và tiệm chạp phô (tạp hóa).
- Người Tiều (Triều Châu) buôn bán vặt, chế biến trà, gánh nhuộm rong, bán
xe đẩy (thạch, các thứ giải khát, bột chiên...), trồng rau...
- Người Thượng Hải và Phúc Kiến buôn đồ sắt, trồng răng...
- Người Hẹ bán thuốc bắc, làm nghề đục đá ở Bửu Long, mở lò gạch, lò gốm
ở Tân Vạn, Hóa An... Hàng trăm gia đình người Hoa làm nghề đục đá ở phường Bửu
Long nay phải bỏ nghề do không được phép khai thác đá núi Bửu Long và các vùng
lân cận (để bảo vệ di tích thắng cảnh); nay chỉ còn khoảng một chục hộ tạc tượng,
làm cột đèn trang trí, cối, bia đá...
Thủa ban đầu mới tới, họ chỉ có đôi quang gánh, sẵn sàng làm đủ mọi thứ
lao động nặng nhọc. Do tính cần cù chịu cực, do tính toán kĩ, được đồng hương tới
trước giúp đỡ vốn liếng và mách bảo kinh nghiệm... lần hồi phần đông khấm khá
lên, một số ít trở thành giàu có. Những người Hoa sống ở thị trấn, thị tứ, thành phố
nói chung thạo nghề buôn bán và nghề thủ công.

54 Pages 531-540

▲back to top


54.1 Page 531

▲back to top


Nhóm người Tiều thạo nghề trồng rau, họ thường ở thị trấn, thị tứ - nơi tập
trung dân cư, tiêu thụ nhiều thực phẩm trong đó có rau xanh.
Nhóm người Hoa từ miền Bắc di cư vào đây sau hiệp định Genève 1954 phần
đông chuyên nghề ruộng rẫy vì họ vốn là nông dân. Đến Biên Hòa và Long Khánh
(cũ), vì không có ruộng, họ chuyển qua làm nương rẫy. Từ km 118 đến km 125 trên
Quốc lộ 20 vào khoảng trước năm 1968, rừng rậm um tùm còn mọc sát quốc lộ, dân
cư thưa thớt. Đất đỏ bazan màu mỡ đã thu hút mạnh mẽ đông đảo người Hoa tới phá
rừng làm nương rẫy. Họ giỏi về trồng tỉa đậu tương và thuốc lá, hai loại cây công
nghiệp ngắn ngày có giá trị cao, cũng đòi hỏi kĩ thuật cao.
Công cụ trồng trọt phổ biến và đơn giản là chiếc cuốc bàn lưỡi to dùng để lật
đất, xới đất và làm cỏ ở nơi đất đỏ xen đá cứng. Từ trước ngày giải phóng, một số
hộ người Hoa có khả năng đã mua máy cày lớn, máy xới nhỏ để làm đất trên các
nương rẫy, cuối vụ thì các loại máy nói trên được dùng chuyên chở sản phẩm thu
hoạch.
Hàng năm, người Hoa trồng hai vụ đậu tương. Vụ đầu làm vào sau Tết âm
lịch. Khoảng tháng hai ta, họ làm đất, xới cỏ, để khô rồi đốt. Do có kinh nghiệm
quan sát thời tiết, họ thường gieo hạt vào đúng một tuần trước khi có những cơn mưa
đầu mùa. Hạt giống nằm dưới lớp đất mỏng gặp mưa sẽ nảy mầm, từ đó trở đi mưa
đều thì cây mọc mạnh. Nếu để có mưa mới tra hạt thì cây mọc không đều, không tốt.
Bà con giải thích là "mưa làm đất lạnh đi". Đứng về góc độ khoa học, có thể giải
thích sơ lược như sau: trời mưa làm đất mặt ngậm nước khác nhau. Gieo hạt vào nơi
đất vón cục, rễ cây non sẽ kém phát triển; nắng vài bữa cục đất khô đi, cây non không
sống nổi. Còn gieo hạt dưới lớp đất tơi xốp ẩm đều, cây mọc đều hơn.
Vụ đậu tương thứ nhất thu hoạch đúng lúc mưa nhiều nên phơi khó khăn.
Mùa đậu tương thứ nhì bắt đầu vào tháng 8 dương lịch, lúc xảy ra "hạn bà
chằn" (khoảng cuối tháng sáu âm lịch). Thu hoạch xong vụ đầu, bà con cuốc xới đất
để đất se đi ít bữa. Gieo hạt xong, mưa ngâu liên tục làm hạt nảy đều và tốt.
Tháng 9 dương lịch, họ bắt đầu trồng thuốc lá. Trước đây giống thuốc lá nâu
- làm thuốc rê - khá phổ biến, nhưng vì giá thấp nên dần dần ít trồng. Bà con trồng
ngày càng nhiều giống thuốc lá sợi vàng, thu hoạch theo kiểu tỉa lá vàng rồi đưa vào
lò sấy. Thuốc lá sợi vàng có giá cao hơn, dùng chế biến thuốc lá điếu.
Cây thuốc lá con hoặc trồng riêng, hoặc trồng xen đậu tương. Đến tháng 12
dương lịch, cây con đã lớn, chịu được khô hạn, chỉ cần sương đêm cũng đủ cho nó
sinh trưởng.
Những năm gần đây, nhiều bà con người Hoa phát triển cây cà phê, tiêu và
điều ở nhiều nơi trong tỉnh. Nhiều hộ trở nên giàu có nhờ làm ăn đúng thời điểm các
loại cây này có giá trên thị trường.

54.2 Page 532

▲back to top


VI.3. Tổ chức xã hội, gia đình và một số nét phong tục tập quán:
Khi nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên cầm đầu vào định cư ở đất
Đồng Nai, họ lập xã Thanh Hà - mà vị trí, phạm vi của xã này khá mơ hồ, đại thể
vùng đất này kéo dài từ Bến Gỗ, Cù Lao Phố tới chợ Biên Hòa bây giờ - Việc lập xã
này phát xuất từ việc quản lí nhân khẩu và thu thuế cho nhà cầm quyền hồi đó (ít
nhất là từ sau năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức hành chính vùng đất Đồng
Nai - Gia Định).
Thời thuộc Pháp, để tiện việc kiểm tra, theo dõi số người Hoa ở tỉnh Biên
Hòa cũ, nhà cầm quyền cho người Hoa ở đây lập thành các bang: bang Quảng, bang
Phúc Kiến, bang Tiều, bang Hẹ (gồm người Hẹ, người Hồ Nam, Hồ Bắc, người Hải
Nam...). Mỗi bang có một trưởng bang đứng đầu gọi là ông bang, có phó bang giúp
việc, do các thành viên của bang bầu ra (và được chính quyền sở tại chấp nhận) theo
nhiệm kì bốn năm. Hết nhiệm kỳ, nếu các trưởng và phó bang vẫn làm tốt và có uy
tín sẽ tái đắc cử. Nhiệm vụ của bang là: thu tiền thuế thân hai năm một lần, ai đóng
đủ sẽ được cấp sổ thông hành để tiện việc giao dịch, đi lại làm ăn (nếu người Hoa
nào không có giấy tờ sẽ bị trục xuất). Một số người Hoa quá nghèo không có khả
năng đóng thuế thân, các ông trưởng và phó bang sẽ đóng cho. Ngoài ra, các trưởng
phó bang có nhiệm vụ đề đạt tâm tư, nguyện vọng của dân Hoa lên chính quyền sở
tại.
Bang trưởng trong thực tế có quyền hạn lớn và đều là những người giàu có.
Gia đình người Hoa mang tính chất phụ hệ gia trưởng sâu sắc. Tộc trưởng
xưa kia có quyền uy nhất định đối với các thành viên trong dòng họ. Ngày nay, tình
hình đã thay đổi nhiều, người giàu thường có uy thế hơn tộc trưởng
Trong quan hệ họ hàng, có điểm khác người Việt: nếu cùng trang lứa (con
chú, con bác, con dì) thì ai sinh trước được làm anh, chị; người sinh sau là em.
Gia đình người Hoa xưa kia là gia đình lớn, có khi mấy thế hệ cùng chung
sống. Nếu năm thế hệ cùng sống dưới một mái nhà (ngũ đại đồng đường) thì gia
đình đó được coi là đại phúc. Nay gia đình nhỏ thay thế gia đình lớn, số gia đình ba
thế hệ cùng sống chung không nhiều. Trong nhà, người cha hoặc người chồng làm
chủ, quyết định mọi việc lớn, nhỏ. Ảnh hưởng lễ giáo Khổng Mạnh tuy đã mờ nhạt
nhưng vai trò người cha, người chồng, người con trai cả vẫn khá rõ. Khi chia gia tài
cho các con thì người con cả thường được nhiều hơn vì anh ta phải cúng giỗ tổ tiên.
Trước đây, con gái Hoa ít được học hơn con trai, ngày nay tình hình đã thay
đổi, họ được học hành ngang nam giới, tham gia nhiều công tác xã hội, dần dần tiến
tới sự bình đẳng nam nữ thực sự.
Cách nay vài chục năm, người ta thấy hiện tượng: con gái người Hoa thường
chỉ lấy chồng Hoa; trong khi đàn ông Hoa lấy vợ các dân tộc khác khá phổ biến. Sở

54.3 Page 533

▲back to top


dĩ có tình hình trên là do: lúc đó số phụ nữ Hoa ít hơn nam giới, cũng có thể do chịu
ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng dân tộc lớn... Ngày nay hôn nhân Hoa - Việt, Hoa - các
dân tộc khác là phổ biến.
Theo phong tục tập quán cũ, trai gái cùng họ (thí dụ họ Trần, họ Lý họ
Trương...) không được lấy nhau vì người Hoa cho là cùng ông tổ, là anh em một nhà.
Người thuộc hai họ kết nghĩa cũng không được lấy nhau. Con cô con cậu ruột nhưng
khác họ có thể lấy nhau. Chuyện quạt ước trâm thề giữa đôi bên cha mẹ hẹn gả con
cho nhau từ lúc còn nhỏ hoặc chưa sinh đã đi vào dĩ vãng.
Ngày nay tục tảo hôn đã biến mất. Nam nữ thanh niên Hoa cưới xin ở độ tuổi
trưởng thành; chế độ một vợ một chồng là phổ biến, bền chặt. Cưới hỏi là kết quả
của việc tự do tìm hiểu giữa đôi trai gái, song ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng môn đăng
hộ đối, nhất là về tài sản.
Lễ cưới của người Hoa ngày nay tương tự người Việt, thường chia làm hai
giai đoạn. Khi đôi trai gái ưng nhau và được hai gia đình chấp thuận thì người ta so
tuổi rồi nhà trai nhờ người làm mai đi dạm hỏi, làm đám nói (lễ ăn hỏi). Ông bà mai
và cha mẹ cô gái thỏa thuận về sính lễ, ngày cưới. Trong số lễ vật cưới của người
Tiều thường có trái cau duy nhất tượng trưng người con gái là vợ một người; cũng
có cô dâu về nhà chồng cặp cây mía biểu thị hạnh phúc ngọt ngào. Người Quảng thì
làm bánh bò nổi (pha cú) hoặc tục lệ ăn chè ỷ (như bánh trôi viên tròn) tượng trưng
cho sự viên mãn, con đàn cháu đống. Đám cưới diễn ra ở từng bên nhà trai, nhà gái;
nhà gái đãi khách bữa trước, nhà trai đãi khách bữa sau; cũng có thể đôi bên đãi
khách chung một ngày. Đám cưới ngày nay đơn giản hơn trước rất nhiều; nhiều lễ
tiết đã bỏ: cô dâu khi về nhà chồng không khóc (xưa kia ra khỏi nhà cha mẹ đẻ, cô
dâu phải khóc lóc kể lể công ơn sinh thành; "Khốc như thiếu nữ vu qui nhật" dịch
nghĩa: "Khóc như thiếu nữ đi lấy chồng"...). Tặng phẩm được thay bằng phong bao
giúp đôi vợ chồng trẻ có món vốn nho nhỏ khi bắt đầu cùng nhau chung sống. Cô
dâu rót nước, rót rượu mời gia đình bên chồng biểu thị sự kính trọng, rót nước mời
chồng đêm tân hôn biểu thị lòng chung thủy phục tùng.
Việc ma chay của người Hoa ở Đồng Nai dần dần có nhiều nét tương tự
người Việt ở địa phương. Họ quan niệm người ta sống gửi, chết về (để sang thế giới
bên kia, hoặc lên cõi nát bàn, hoặc bị sa địa ngục). Một đám tang gồm nhiều bước:
báo tang, phát tang, khâm liệm, phúng điếu, đưa đám chôn cất, lễ mở cửa mả... Người
Hoa di cư (năm 1954) ở vùng nông thôn báo tang bằng cách cho thổi tù và sừng trâu
hoặc phèng la theo tiết tấu nhất định. Ở thành phố, thị xã, thị trấn, lúc đưa đám, ngoài
ban nhạc ngũ âm, đối với tang chủ khá giả, có địa vị xã hội, người ta thấy có một số
ban nhạc tây (có đám tới bốn, năm ban nhạc). Không phải là tang chủ thuê các ban
nhạc này, mà do các thân bằng cố hữu góp vào để tiễn đưa người quá cố, làm không
khí bớt thê lương. Dăm năm trước, khi pháo chưa bị cấm, gia đình có người già qua

54.4 Page 534

▲back to top


đời đốt pháo rộn rã và không khóc lóc (như để mừng người chết được giải thoát khỏi
mọi khổ đau trên đời).
Người thuộc bang nào chôn cất ở nhị tì (nghĩa địa) bang đó. Nhị tì thường
xây cổng lớn ghi rõ tên bang, bên trong có nhà nghĩa từ, có nghĩa đường bài vị người
quá cố, có cây long khán thờ thổ thần. Trước đại chiến thế giới thứ hai (1939 - 1945)
nhiều người Hoa ở bang Quảng cải táng bốc cốt thân nhân mang về quê cha đất tổ ở
Trung Quốc, xây phần mộ. Mồ mả người Hoa thường xây nấm lớn mong có tính
cách trường tồn. Hàng năm người thân tổ chức sửa sang mồ mả vào cuối tháng chạp
âm lịch và vào tiết thanh minh (cuối tháng hai ta).
Trong đời sống tâm linh, người Hoa coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, "uống
nước nhớ nguồn". Bàn thờ tổ tiên đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà, với chiếc lư
hương, cặp chân nến và một số bài vị. Mỗi nhà - nhất là người buôn bán - đều thờ
thổ địa, thần tài ở cùng một trang thờ đặt sát đất. Họ cũng có những trang thờ: Cửu
Thiên huyền nữ, Quan Thánh đế quân, Tiền hậu địa chủ tài thần, thờ Bát quái... Các
nhà buôn có miếng giấy dán ở cửa ra vào thờ thổ công, hàng tháng cúng cô hồn hai
lần vào ngày mùng hai và mười sáu âm lịch.
Mỗi năm, người Hoa có một số lễ trọng vào ngày 14 tháng giêng âm lịch (lễ
Thượng nguyên), ngày hai mươi tám tháng hai (lễ Thanh minh), ngày 5 tháng năm
(tưởng nhớ Khuất Nguyên), rằm tháng bảy (lễ Vu lan, Trung nguyên), rằm tháng
tám (Trung thu), ngày 9 tháng chín (Trùng cửu), rằm tháng mười (Hạ nguyên).
Khi xa xứ tha phương, cộng đồng người Hoa lo kiến tạo một số công trình
phục vụ: đền chùa, trường học, nhà thương. Ở Đồng Nai họ dựng chùa Ông thờ
Quan công ở Cù Lao Phố (dân thường gọi là Thất phủ Quan Võ cổ miếu, sách Gia
Định Thành thông chí viết là miếu Quan Đế xây dựng từ năm 1684); chùa này cúng
Quan công ngày 24 tháng sáu âm lịch, cúng Kim Hoa nương nương ngày 17 tháng
tư và cúng bà Thiên Hậu ngày 23 tháng ba. Chùa Ông ở Phước Thiền (huyện Nhơn
Trạch) và chùa Ông (thị trấn Xuân Lộc, huyện Long Khánh) đều cúng lễ ngày 12
tháng ba; chùa Ông (phước Thiền) còn lễ kì yên ngày 16 tháng 11... Quan công
tượng trưng cho trung cang nghĩa khí, trung nghĩa thiên thu, là khuôn vàng thước
ngọc của tình bạn, tình anh em kết nghĩa. Do đó nhiều gia đình người Hoa cũng thờ
tranh Quan công trong nhà, trang thờ đặt ở nơi trang trọng. Chùa Bà thờ bà Thiên
Hậu ở Bửu Long, hàng năm lễ cúng tổ chức vào ngày 13 tháng ba âm lịch. Người ta
đến đây cầu mong làm ăn phát tài, đi đường gặp nhiều may mắn; nếu ai được như
lời cầu xin thì họ làm lễ tạ ơn rất hậu. Ba năm, nơi đây làm lễ lớn một lần. Ai đến
chùa này nếu tinh ý sẽ thấy bà Thiên Hậu được thờ ở bàn thờ bên trái nhìn từ ngoài
vào. Bàn thờ chính giữa thờ ba pho tượng: Uất Trì Cung (tổ sư nghề làm đá), Lỗ Ban
(ông tổ nghề mộc) và Ngũ Đinh (ông tổ nghề rèn). Lễ cúng Ngũ đăng tổ sư từ ngày
10 đến 13 tháng sáu. Cả ngôi chùa được xây bằng phiến đá - nguyên liệu tại chỗ -

54.5 Page 535

▲back to top


càng khẳng định: chùa Bà thoạt đầu là ngôi miếu thờ các tổ nghề thủ công, sau này
người ta thờ thêm bà Thiên Hậu để thu hút khách hành hương. Chùa Bà thoạt đầu có
tên là miếu Tổ Sư song cái tên này đã bị quên. Các câu đối trong chùa hầu như không
nói bao nhiêu về Bà, mà chủ yếu ca tụng nghề. Đình Tân Lân (gần chợ Biên Hòa)
thờ Trần Thượng Xuyên cúng ngày 26 tháng mười. Phụng Sơn tự ở thành phố Biên
Hòa thờ Quảng Trạch tôn vương, hàng năm cúng lễ hai lần vào các ngày 22 tháng
hai và 22 tháng tám. Mỗi khi cúng, người Hoa đều có dàn nhạc lễ phụ họa các nghi
thức. Tục bán đấu giá đèn lồng ở các đền chùa của người Hoa rất đặc sắc: vài năm
mỗi đền chùa tổ chức bán một lồng đèn, ai trả giá cao nhất sẽ thắng, số tiền ấy dùng
vào việc cúng tế hoặc việc công ích và được quản lí chặt chẽ (do một ban trị sự được
cộng đồng cử ra). Người mua là nhà giàu mong được các thần phù hộ cho gia đình
mình thêm phúc, lộc, thọ, khang, ninh...
Để giữ gìn tiếng nói và chữ viết là bản sắc văn hóa dân tộc, người Hoa thường
mở các trường lớp dạy chữ và tiếng Hoa. Ở thành phố Biên Hòa trước kia có Trường
Dục Đức (nay đổi là Trường Hùng Vương); nguồn kinh phí xây dựng do tiền công
đức của chùa và do các Mạnh Thường quân đóng góp. Ở thị trấn Xuân Lộc có trường
Quang Trung cũng do người Hoa đóng góp xây dựng nên. Để làm kinh tế, người ta
xây một số căn phố rồi cho mướn, lấy tiền đó trả cho các thầy cô giáo dạy chữ Hoa
(ở Biên Hòa, bang Quảng có 10 căn, ở thị trấn Xuân Lộc có 8 căn). Như vậy các
chùa nuôi các trường.
Ở tỉnh Biên Hòa (cũ), vì cộng đồng người Hoa không đông nên chưa đủ khả
năng mở nhà thương riêng như ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Các thế hệ người Hoa đã cùng các dân tộc anh em góp phần xây dựng đất
Đồng Nai từ khá lâu đời. Trong hai thời kỳ kháng chiến vừa qua, đồng bào Hoa đã
góp một phần xương máu, của cải vào sự nghiệp giải phóng dân tộc vĩ đại. Ngày
nay, cộng đồng người Hoa lại kề vai sát cánh cùng hơn bốn chục dân tộc ít người
trong tỉnh ra sức xây dựng cuộc sống mới, đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu, ngày càng ấm
no, hạnh phúc, công bằng, văn minh.
VII. NGƯỜI CHĂM:
VII.1 Dân số và phân bố:
Dân tộc Chăm được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Chàm, Chiêm Thành,
Hời, Chămpa, Chà Và Ku... nhưng Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam do
Tổng cục thống kê ban hành ngày 2 - 3 - 1979 thống nhất gọi là dân tộc Chăm. Ngôn
ngữ của họ thuộc dòng Nam Đảo (Malayô - Pôlinêxia), họ phân bố rộng rãi từ miền
Nam Trung Bộ (hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận) tới miền Tây Nam bộ (Châu Đốc,
tỉnh An Giang), Campuchia (do đó có tên Khmer Ixlam), Thái Lan, Malaixia, đảo
Hải Nam (Trung Quốc).

54.6 Page 536

▲back to top


Theo sử cũ, dưới thời nhà Lê, vào năm 1471, Trà Toàn - vua Chăm - bị đánh
bại, vương quốc Chămpa suy vong khiến một bộ phận người Chăm phải dạt vào
miền Tây Nam bộ, sang Campuchia và nhiều nơi khác.
Người Chăm ở miền Tây Nam bộ (cũng như ở Campuchia, Thái Lan,
Malaixia...) do tiếp xúc mật thiết với người Mã Lai, Ấn Độ nên đã theo đạo Ixlam,
họ còn được gọi là Chăm Ixalam. Họ tiếp thu một số từ ngữ Á rập, Mã Lai; trong
khi đó người Chăm ở Nam Trung Bộ tiếp thu một số từ ngữ Việt do mối giao lưu
Chăm - Việt lâu đời.
Người Chăm ở Đồng Nai hiện nay có nguồn từ Châu Đốc, Sài Gòn, Tây
Ninh, Campuchia (dạt về năm 1970 khi Lon Nol lên cầm quyền ở đó). Họ bị chế độ
Sài Gòn gom đưa về ấp 4 xã Xuân Hưng (huyện Xuân Lộc) ngày 19 - 9 - 1972. Sau
hiệp định Paris, địch âm mưu dùng số đồng bào này vào việc khai quang địa bàn,
tranh chấp lấn chiếm vùng giải phóng, phong tỏa ngăn chặn lực lượng ta từ vùng núi
Chứa Chan xuống vùng núi Mây Tàu. Chúng trả cho mỗi ha rừng khai phá 70 ngàn
đồng tiền Sài Gòn, gỗ và than củi bán được là khoản thu nhập thêm không nhỏ của
nhiều hộ gia đình. Mới về Xuân Hưng song người Chăm đã có liên hệ với cách mạng.
Nhiều người tham gia bảo vệ, tiếp tế, nuôi giấu lực lượng cách mạng bám trụ địa
phương.
Năm 1996 toàn tỉnh có 1848 nhân khẩu Chăm thì riêng ấp 4 xã Xuân Hưng
có 1.503 người, số còn lại ở rải rác khắp tỉnh.
VII.2 Vấn đề làm ăn sinh sống:
Tháng 9 - 1972 khi mới về ở Xuân Hưng, bà con người Chăm làm than củi
là chính. Họ khai hoang được nhiều ruộng đất; khi cây rừng đã cạn, đại bộ phận
chuyển sang làm ruộng, trồng lúa, khoai, đậu...
Thổ nhưỡng Xuân Hưng là đất thịt pha cát ít mùn, độ phì không cao. Việc
canh tác hoàn toàn trông chờ "nước trời" trong mùa mưa. Còn vào mùa khô kéo dài
sáu tháng, do ở đây không có công trình thủy lợi nào, bà con không thể trồng tỉa gì.
Nếu có hồ chứa nước như ở các nơi khác, bà con có thể tăng vụ, trồng tỉa thêm một
số hoa màu: rau, dưa... Máy móc nông nghiệp có ít, bà con dùng sức người và sức
trâu bò là chính vào việc cày bừa làm đất. Phân trâu bò và gia súc khác được tận
dụng để bón ruộng khiến năng suất lúa, khoai, đậu, rau... đạt mức từ trung bình trở
lên so các xã khác trong huyện.
Hơn hai mươi năm qua, do thiếu đói nên nhiều hộ Chăm đã sang nhượng
khoảng 150 ha đất cho doanh nghiệp tư nhân Lý Thái Thuận (để kinh doanh trồng
điều và tre) và một số ruộng đất khác cho những người mới tới gần đây.

54.7 Page 537

▲back to top


285 hộ trong tổng số 323 hộ Chăm (bằng 88,2%) có ruộng đất sản xuất, một
số hộ chỉ có 0,3 ha, trung bình là 0,6 ha/hộ, nhưng cũng có một số hộ có trên dưới 2
ha. Kĩ thuật canh tác, mùa vụ của người Chăm ở Xuân Hưng đều theo tập quán sản
xuất của dân địa phương.
5 hộ trồng cà phê và 1 hộ chạy xe đò có mức thu hoạch cao.
Đại bộ phận người Chăm ở Xuân Hưng có mức sống trung bình, 75 hộ (bằng
23,2%) thuộc diện xóa đói giảm nghèo, hàng ngày phải đi làm mướn hoặc nhặt phân
trâu bò gom lại bán cho người trồng tỉa.
Đạo Ixlam cho con heo là loài dơ bẩn nên người Chăm ở Xuân Hưng không
nuôi heo; chỉ nuôi trâu bò, dê, gà vịt...
Năm 1994, thực hiện dự án 61, Nhà nước cấp cho bà con Chăm 100 con bò
sinh sản nhằm phát triển đàn bò ở địa phương. Nhưng do thiếu đói bà con đã bán
hầu hết để mua gạo ăn; đến đầu năm 1997 chỉ còn 11 con (sinh sản được 6 con bê),
mua trâu thay thế song đàn trâu bò của bà con cũng chỉ có 21 con.
VII.3 Xã hội, gia đình, phong tục tín ngưỡng:
Về mặt xã hội, ông giáo cả (hakim hakem) là người lãnh đạo tinh thần của
cộng đồng người Chăm, ông phải giỏi giáo lí đạo Ixlam, làu thuộc kinh sách; trước
kia được dân bầu và giữ chức vụ này suốt đời, nay được bầu theo nhiệm kì vài năm.
Ông phó giáo cả (naêp) cũng là người giỏi giáo lí, chuyên dạy kinh Qur'an cho trẻ
em. Mỗi tổ nhân dân có ông tổ trưởng (ahly). Các vị này nếu không được tín nhiệm
(do uống rượu hoặc mắc lỗi nặng) thì bị bãi miễn, cộng đồng bầu người khác. Xưa
kia các vị này và hội đồng bô lão có toàn quyền giải quyết cả việc đạo lẫn việc đời.
Nay việc đời do đại biểu ấp, cán bộ HĐND, MTTQ, UBND xã giải quyết. Tuy vậy
vai trò của ông giáo cả vẫn rất lớn. Ai phạm các điều cấm: đĩ điếm, uống rượu, đánh
bạc, trộm cắp, cho vay nặng lãi... thì có thể bị ông giáo cả phạt từ 50 đến 100 roi ở
nơi công cộng.
Đạo Ixlam đặt ra lịch Hồi; lịch chia năm ra 12 tháng thì 6 tháng có 30 ngày
và 6 tháng có 28 ngày, mỗi tuần có 7 ngày. Mỗi năm của lịch Hồi có 348 ngày, lịch
này dùng trong các ngày lễ của người theo đạo Ixlam. Ông giáo cả (hakim) và ông
phó giáo cả (naêp) nắm rất vững lịch này để tiến hành các nghi lễ của đạo trong năm
(vì lịch Hồi không khớp với dương lịch cũng như lịch âm dương của chúng ta).
Trong khi người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận theo đạo Bàlamôn và đạo
Hồi cũ còn chịu ảnh hưởng sâu sắc chế độ theo dòng mẹ thì người Chăm Ixlam ở
Đồng Nai đã xác lập chế độ theo dòng cha từ lâu. Trong gia đình, người cha và người
chồng có nhiều quyền hành. Con cái mang họ cha. Ông Youssov Ossamain (đọc:

54.8 Page 538

▲back to top


Yuxố Ôxman) - thường gọi là Xốc Man - có con gái tên là Ossamain Sophiah (đọc:
Ôxman Xôphi - á), và con trai đặt tên Ossamain Soleh (đọc: Ôxman Xôlế)...
Việc đặt tên cho đứa trẻ do ông giáo cả (hakim) hoặc (naêp) đảm nhận theo
quy định của kinh Qur'an. Đứa trẻ sinh vào buổi nào, ngày nào trong tuần thì phải
đặt tên là gì? Tên cha đặt trước tên đứa trẻ khiến mọi người không lầm lẫn được.
Tên nam giới thường là: Muhamad, Halim, Issamael, Ossamain, Yacob, Abdullah,
Ibrahim, Youssov, Ismail, Ahmet, Abdel, Hariff, Mahli, Karim... Tên nữ giới thường
là: Tima, Saroh, Fatimah, Khotichah, Maymanah, Aminah, Mariyam, Marien,
Saynop, Rokeh, Maysum, Abidah... Đây là các tên thường gặp trong các cộng đồng
Ixlam với những biến thể, từ vùng Bắc Phi, Trung Cận Đông, Trung Á, Đông Nam
Á...
Trong quan hệ thân tộc, người Chăm ở Xuân Hưng chưa phân biệt chặt chẽ:
- Cụ ông: ôông
- Chị: chi long ca may
- Ông nội, ông ngoại: - Em trai: tei kei (thêm từ chỉ thứ tự)
ôông ca may
- Cụ bà, bà: mây, may
- Em gái: tei ca may (thêm từ chỉ thứ tự)
- Bà nội, bà ngoại: mây ca may - Em rể: tei rany
- Cha: ya
- Em dâu: tei rany ca may
- Mẹ: mạ
- Con trai: mị kei
- Bác: wa
- Con rể: mị matau
- Chú, cậu, dượng: míu
- Con gái: mị ca may
- Chú chồng, chú vợ, thím, mợ: - Con dâu: mị matau ca may
míu la cay
- Cha chồng, cha vợ: tăm ha - Cháu trai: ca muôn
- Mẹ chồng, mẹ vợ: - Cháu trai họ: ca cho
tăm ha ca may
- Bác chồng, bác vợ: hòa la cay - Cháu gái: tạ cho
- Cô: mạ
- Cháu gái họ: tạ cho

54.9 Page 539

▲back to top


- Anh: chi long kei
(thứ mấy thì thêm từ chỉ thứ tự)
Theo luật tục Ixlam, phụ nữ phải sống kín đáo, riêng biệt, không tiếp khách
đàn ông nếu nhà chỉ có một mình. Nam nữ không ngồi chung chiếu. Các thiếu nữ từ
15 tuổi trở lên phải đội khăn che kín mặt khi ra đường. Mỗi cô gái hoặc phụ nữ đều
được cả cộng đồng lưu ý quan sát khi người đó ra khỏi nhà. Trai gái Chăm chưa
được tự do tìm hiểu, yêu đương. Ngày nay cởi mở hơn, qua tiếp xúc mà họ quen biết
nhau thì phải tiến tới hôn nhân - tuy việc bà mẹ chú ý quan sát các thiếu nữ để tìm
vợ cho con trai vẫn là chính - với đủ năm điều kiện:
- Người phối ngẫu phải là tín đồ đạo Ixlam.
- Trong buổi lễ cưới phải đủ mặt dâu, rể.
- Hai người đều trưởng thành, đủ trí khôn.
- Cha vợ chấp thuận chú rể.
- Trao đủ tiền dẫn cưới cho cô dâu.
Người Chăm tổ chức đám cưới tương tự các dân tộc anh em. Sau khi so tuổi,
nhà trai làm đám nói (ploh panuôic: lễ dứt khoát lời nói) gồm cha mẹ, bà con, hàng
xóm có uy tín và ông (ahly: tổ trưởng) mang một mâm hoa quả và lễ vật qua nhà
gái để trao đổi chuyện trò. Vài bữa sau, nhà gái - với thành phần tương tự - mang
một mâm bánh và hoa quả qua nhà trai đáp lễ. (Trong đám nói, nếu cha mẹ vắng mặt
vì lí do bận việc thì ông bà mai (ôn/mụ maha) thay mặt cũng được).
Trước ngày cưới khoảng một tháng, nhà trai đem tiền chợ và vải, áo, chăn
mền cho nhà gái (theo thỏa thuận giữa đôi bên).
Lễ cưới (la khah) tiến hành theo hai bước:
- Ngày dựng việc hay lễ nhóm họ (hagây pađưng barik): cả hai đàng nhà trai
và nhà gái đều trang hoàng nhà cửa đẹp đẽ, song bên gái lộng lẫy rực rỡ hơn vì có
phòng hoa chúc của đôi tân lang, tân giai nhân. Chàng rể ăn mặc trang phục dân tộc
như một hadji đi hành hương ở thánh địa Mecca (Arap Xêut). Cô dâu ăn mặc và
trang sức lộng lẫy như một tiểu thư. Hai người ngồi trên ghế lễ xong, mỗi bên được
ôn uôk, mụ uôk hướng dẫn và làm lễ ở hai nơi khác nhau. Một bô lão khấn vái, đọc
kinh Qur'an; những người chung quanh đọc theo và chúc tụng chú rể, cô dâu. Xong
nghi lễ này, chú rể mới được gọi là pa nganh tanh la kei, cô dâu được gọi là pa
nganh tanh ca mây.
Tối ngày dựng việc, chú rể và cô dâu đều tiếp bè bạn đến chúc tụng. Đặc biệt
những cô gái cấm cung theo tục lệ vào dịp này được gia đình đưa đến tham dự.

54.10 Page 540

▲back to top


Những bà mẹ các chàng trai thường có mặt trong dịp này để tìm hiểu, lựa con dâu
tương lai.
- Ngày cưới hay ngày đưa rể (hagây he): vào buổi sáng hôm sau, nhà trai đưa
rể sang nhà gái. Đi đầu là ông hakim hay ahly, một số bô lão rồi đến ông bà mai,
chàng rể và bạn bè thân thuộc.
Đến nơi, họ nhà trai được nhà gái đón tiếp nồng nhiệt. Sau khi hai họ uống
nước, hút thuốc, ăn trầu thì lễ cưới bắt đầu. Ông hakim hay ahly đọc xong kinh
Qur'an, cha vợ (tăm ha) - hoặc người đại diện họ gái đặt vào tay con rể (mị matau)
và nói một câu đại ý: "Ba bằng lòng gả con gái cho con với số tiền là...". Câu nói có
tính nghi thức kinh điển này phản ánh tục lệ xưa coi hôn nhân là mua bán. Nay
UBMTTQ xã đề nghị sửa lại thành lời cầu chúc hai con hạnh phúc trăm năm.
Sau đó mọi người chúc mừng, trao tặng phẩm hoặc tiền phong bao cho cô
dâu chú rể rồi vào tiệc vui vẻ. Tiệc cưới của người Chăm ở Đồng Nai không có bia,
rượu (vì phạm luật cấm của đạo Ixlam).
Chú rể sống với cô dâu trong phòng hoa chúc và ở lại nhà vợ; đây là tàn dư
phong tục xưa kia khi chế độ theo dòng mẹ còn thịnh hành. Tùy theo sự bàn bạc giữa
hai nhà, chàng rể ở bên vợ lâu hay mau, hoặc có thể ra ở riêng sống tự lập do hai bên
thỏa thuận. Bây giờ, sau đám cưới thường cô dâu về ở bên chồng.
Theo kinh Qur'an và luật tục Ixlam, vợ chồng không được li dị nhau. Trong
thực tế, người Chăm Ixlam vẫn có chuyện li dị, người chồng li hôn dễ hơn vợ rất
nhiều. Nếu người chồng có bằng cứ vợ mình trò chuyện, giao tiếp với người đàn ông
khác khi mình vắng nhà, anh ta có thể lấy đó để thưa với ông giáo cả (hakim) mà xin
li dị vợ. Người vợ có thể xin li dị với lí do người chồng không quan tâm nuôi nấng
vợ con, tất nhiên phải được cộng đồng thẩm định...
Đạo Ixlam cho phép đàn ông lấy tới bốn vợ (với điều kiện kinh tế của anh ta
cho phép nuôi chừng ấy vợ con). Hiện nay ở Xuân Hưng, hầu hết đều một chồng
một vợ. Tội ngoại tình bị trừng phạt nặng. Người phụ nữ theo luật tục có thể bị chôn
sống, bị ném đá cho tới chết hoặc bị cột vào con bò đi bêu riếu khắp làng. Người đàn
ông bị phạt roi và tiền. Nay ta vận động bỏ luật tục hà khắc này.
Khi có người chết, người Chăm ở Xuân Hưng tiến hành chôn cất như nhiều
dân tộc anh em khác. Gia đình có người hấp hối thì người ta báo cho ông giáo cả
(hakim), ông naêp và cộng đồng. Người thân đọc kinh Qur'an cầu cho người sắp chết
được cứu rỗi.
Thi hài được tắm rửa sạch sẽ, nam giới được tẩm liệm bằng 12m vải trắng,
nữ giới thì 16m. Ông giáo cả (hakim) hay phó giáo cả (naêp) tới đọc kinh Qur'an cầu
siêu cho người quá cố. Thân nhân không khóc lóc, kể kể than vãn làm mất vẻ nghiêm
trang u buồn của đám tang. Thường thì thi hài chỉ quàn trong nhà một ngày rồi đem

55 Pages 541-550

▲back to top


55.1 Page 541

▲back to top


chôn với nghi lễ đơn giản. Xác đặt trên một cái cáng (hanh đu tấm ván trên có mui
che như mui ghe) và do sáu hoặc tám người khiêng. Người đưa ma đi lặng lẽ sau
hanh đu, không tiếng khóc than, không kèn không trống, thỉnh thoảng dừng lại một
chút để linh hồn người quá cố nhìn lại quê hương, nơi sinh sống đầy tình cảm quyến
luyến. Đến huyệt đào sẵn, sâu khoảng 1,6m khoét lõm về phía Đông, người ta đặt
xác theo tư thế nằm nghiêng, mặt ngoảnh hướng Tây (về phía thánh địa Mecca), sau
đó úp miếng ván mau mục nhất rồi lấp bằng mặt đất. Hai đầu mộ đặt hai viên đá
hoặc bia để đánh dấu. Tối hôm đưa đám, gia đình tang chủ và bà con quen biết tập
hợp ở thánh đường đọc kinh cầu siêu, sau đó cùng nhau dùng chung bữa cơm.
Từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 40, mỗi ngày hai lần: vào lúc mặt trời vừa
mọc và lúc mặt trời sắp lặn, gia đình phải có người ra mộ đọc kinh tưởng nhớ người
quá cố (nếu không có ai, có thể thuê người đọc kinh, không được bỏ). Các ngày thứ
ba, thứ bảy, thứ bốn mươi và một trăm ngày, gia chủ mời ông giáo cả (hakim) làm
lễ cầu hồn. Ngoài ra, gia chủ không còn phải làm thêm lễ cúng gì khác. Gia đình
không có bàn thờ để thờ cúng những thế hệ đã qua đời. Hàng năm, họ có thể cúng
giỗ và phải nhờ người thạo kinh Qur'an tới đọc kinh cầu siêu.
Người Chăm Ixlam có các lễ trọng:
- Lễ bắt buộc vào thứ sáu hàng tuần (chum at), vào lúc 5 giờ chiều. Tín đồ
Ixlam nếu đi làm công, thường xin nghỉ và làm bù chủ nhật.
Thánh đường của người Chăm ở Xuân Hưng xây cất năm 1973 còn gọi là
chùa (mosjid, xâm kí) làm đơn giản. Trong thánh đường, có một bộ phận trông giống
tủ thờ nhưng không có vật gì; cạnh tủ treo áo dài và cây gậy của ông giáo cả (hakim)
dùng hành lễ. Bà con cho rằng niềm tin vào Đức Olloh (hay Allah) là tuyệt đối nên
không cần ảnh tượng thờ. Nền thánh đường trải nhiều chiếu để tín đồ quì đọc kinh.
Ngay ở cửa thánh đường, có một hồ (bồn) nước sạch lớn. Mỗi tín đồ trước
khi làm lễ, phải tẩy uế (xâm bayăng), khoát nước rửa (theo thứ tự) ba lần: mặt, tai,
đỉnh đầu, tay, chân. Lúc này không ai nói chuyện. Người ta bước chân phải vào
thánh đường. Người vào chào: "Axalam alâycum", những người có mặt bên trong
đáp lại đồng thanh: "Alâycum axalam"...
- Lễ Mâu lut vào ngày 12 tháng 3 lịch Hồi, kỉ niệm ngày sinh của đấng
Muhammed, nhà sáng lập đạo Ixlam.
- Lễ Ramađan là tháng nhịn hay tháng ăn chay, liên tục từ ngày 1 đến 30
tháng 9 lịch Hồi. Ban ngày, người ta không ăn, không uống, không hút thuốc, không
nuốt nước miếng. Từ lúc mặt trời lặn, mọi người mới ăn uống bình thường. Tháng
Ramađan đặt ra để tưởng nhớ thời kỳ gian khổ nhất của cố giáo chủ Muhammed khi
phát triển đạo Ixlam. Mọi người không đi làm; nhưng bây giờ bà con lao động bình

55.2 Page 542

▲back to top


thường. Phụ nữ có thai, trẻ em, người già, người bệnh được phép ăn uống bình
thường.
- Lễ bố thí (roya phik trok) vào ngày 1 tháng 10 lịch Hồi. Mọi người ăn Tết
một ngày sau tháng nhịn, họ thăm viếng nhau, chúc nhau sức khỏe và xin tha thứ
mọi lỗi lầm. Vào ngày này, người Chăm Ixlam có tục lệ bố thí 2% số lúa làm ra cho
người neo đơn, mất sức lao động, trẻ mồ côi, người tu hành già cả, vợ chồng trẻ mới
cưới... Mỗi hộ bố thí (zacat) cho một vài đối tượng dưới sự chứng kiến của ông giáo
cả.
- Lễ hành hương thánh địa Mecca (roja hadji). Mỗi tín đồ Ixlam đi hành
hương đến Mecca trước ngày 10 tháng 12 lịch Hồi, sẽ được tặng danh hiệu hadji
vinh dự. Ai cũng mong ít nhất một lần trong đời hành hương đến Mecca và nhận
danh hiệu vẻ vang đó.
Hiện nay, người Chăm ở Đồng Nai đang kề vai sát cánh cùng các dân tộc
anh em, ra sức lao động cần cù, xây dựng cuộc sống mới ngày càng ấm no, hạnh
phúc.
VIII. NGƯỜI MƯỜNG:
VIII.1 Nguồn gốc, dân số và phân bố:
Theo ý kiến các nhà nghiên cứu và căn cứ nhiều tài liệu khoa học khác nhau,
ngày nay người ta nhận định tương đối thống nhất: người Mường và người Việt là
cư dân bản địa Việt Nam; tổ tiên người Mường và người Việt là người Lạc Việt, chủ
nhân nền văn hóa Đông Sơn nói riêng, nền văn minh sông Hồng nói chung.
Người Mường cư trú thành vệt dài từ các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình,
Ninh Bình tới Thanh Hóa, nhưng tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình.
Danh từ Mường thực ra để chỉ một địa phương, một vùng, một khu vực qui
mô rộng hẹp khác nhau (như: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường
Động, Mường Ống là các mường nổi tiếng của đồng bào). Nay danh từ này trở thành
tên gọi chính thức của một dân tộc ít người. Bà con còn tự gọi là: Mol, Muan... có
nghĩa là người.
Về phương diện nhân chủng, người Mường thuộc dòng Nam Á, tiểu chủng
Môngôlôit phương Nam, nhóm Việt - Mường.
Đồng bào Mường từ miền Bắc di cư tới Đồng Nai (lúc đó là tỉnh Long
Khánh) từ sau hiệp đinh Genève tháng 7 - 1954, được đưa về định cư tại ấp Ân Lập,
xã Bình Hòa (nay là xã Phú Túc, huyện Định Quán). Quê hương bà con ở hai tỉnh
Hòa Bình và Phú Thọ.

55.3 Page 543

▲back to top


Năm 1996, tổng số người Mường ở toàn tỉnh Đồng Nai là 2.673 (có 1340
nữ), trong đó huyện Định Quán đông nhất, 2.016 nhân khẩu; xã Phú Túc tập trung
tới 1.328 nhân khẩu (ở ba ấp Tân Lập, Bình Hòa, Cầu Ván). Số còn lại ở rải rác các
huyện: Xuân Lộc 306 người, Tân Phú 138, Vĩnh Cửu 75, Thống Nhất 68...
VIII.2 Sinh hoạt kinh tế:
Người Mường ở Đồng Nai chủ yếu sống bằng nghề nông. Số hộ buôn bán
và làm các nghề khác không đáng kể. Họ biết làm ruộng từ lâu đời, định canh định
cư. Cây trồng quan trọng nhất là lúa nước.
Ngay khi mới tới định cư ở ấp Ân Lập (nay đổi thành ấp Tân Lập) bà con bắt
tay khai hoang cánh đồng Chóoc rộng hàng trăm mẫu - lúc đó là đất bỏ hóa trong
phạm vi làm rẫy hưu canh của người Châu Ro cư ngụ tại các ấp Đồng Xoài và Đức
Thắng ở bên kia Quốc lộ 20 - Cách nay hơn bốn mươi năm, cánh đồng này còn nhiều
cây rất to, cây nhỡ, bụi rậm phủ kín và một số lõm cỏ tranh mọc xen cây bụi. Bà con
người Mường kiên nhẫn đốn cây, phát bụi và cỏ, san đất... trong nhiều năm liền, đã
biến cánh rừng này thành cánh đồng tương đối bẳng phẳng trồng tỉa được.
Đất đai ở đây là đất pha cát, pha sét và đất thịt, các thửa ruộng có độ cao thấp
không đều nên việc đắp bờ giữ nước tốn nhiều công sức thủa đầu. Cả vùng không
có sông suối, việc làm ruộng hoàn toàn trông chờ trời mưa. Trước kia, bà con chỉ
trồng một vụ mùa; nay nhờ đưa khoa học kĩ thuật vào, có chỗ làm được hai vụ: đông
xuân và hè thu song diện tích lúa đông xuân không lớn.
Kĩ thuật trồng lúa của bà con tương tự như người Việt sống bên cạnh, gồm
nhiều khâu: khi bắt đầu có mưa thì cày vỡ một, hai lần, bừa và nhặt sạch cỏ, gieo
mạ, cấy, làm cỏ, bón đón đòng... Cho đến nay, hầu như mọi việc lao động đều bằng
sức người, sức trâu bò là chính tuy bà con đã mua sắm được dăm chiếc máy cày,
máy xới và một số máy bơm... để giảm nhẹ nặng nhọc.
Bộ công cụ làm ruộng gồm: cày, bừa, cuốc, xẻng, liềm, gầu, dao, cào cỏ...
Để đạt năng suất cao, bà con tận dụng phân bắc, phân chuồng bón ruộng, đồng thời
cũng dùng nhiều phân hóa học.
Ngoài lúa, bà con còn trồng rau xanh, cà, bí, đậu xanh... Một số hộ có rẫy xa
nhà đã trồng cà phê, điều, bắp, đậu...
Gia đình nào cũng chăn nuôi ít nhiều gia súc: trâu, bò, heo, gà vịt (gà vịt
thường nuôi ở rẫy xa nhà để tránh dịch bệnh và phá hoại vườn hàng xóm). Chăn nuôi
đang trên đà trở thành ngành sản xuất hàng hóa, tạo nguồn thu nhập thêm cho mọi
nhà.
Một số người đánh cá trên sông La Ngà vào lúc nông nhàn.
Các nghề thủ công: dệt, rèn... không tồn tại nữa.

55.4 Page 544

▲back to top


Việc hái lượm: rau rừng, củ quả, cua ốc... ngày càng ít.
Nhìn chung mức sống của đồng bào chưa cao; không còn hộ đói nhưng số
hộ nghèo cần được trợ giúp xóa đói giảm nghèo khoảng trên dưới 30%.
VIII.3. Tổ chức xã hội, gia đình và phong tục tập quán:
VIII.3.1. Tổ chức xã hội:
Xưa kia, người Mường cư trú thành xóm quêl, làng xã, mường (có mường
rộng bằng dăm, bảy xã; có mường chỉ gồm một xã). Đứng đầu mường là các chức:
lang, đạo, thổ ti (tùy địa phương) có thế lực, có quyền hành rất lớn.
Từ năm 1954, người Mường (ở Hòa Bình và Phú Thọ) di cư vào ấp Ân Lập
làm ăn, chế độ lang đạo không còn. Ruộng đất do gia đình nào khai phá thì thuộc
quyền sở hữu của nhà đó.
Ở Đồng Nai hiện nay, người Mường có đại biểu trong các cơ quan HĐND,
UBND và trong các đoàn thể UBMTTQ, phụ nữ, thanh niên xã, ấp.
VIII.3.2 Tổ chức gia đình:
Người Mường theo chế độ phụ hệ từ lâu. Thường thường họ sống theo gia
đình nhỏ, nhưng cũng có nhà có tới ba thế hệ chung sống thuận hòa. Người cha,
người chồng, người con trai cả có vai trò quan trọng trong gia đình.
Khi cha chết, người con trai cả được thừa kế toàn bộ gia sản song cũng có
trách nhiệm dựng vợ, gả chồng cho các em chưa yên bề gia thất và lo việc cúng giỗ
tổ tiên, ông bà, cha mẹ...
Cha mẹ có thể chia của cho các con thứ, trích từ phần tài sản riêng của mình,
việc phân chia này mang tính tượng trưng là chính.
VIII.3.3 Cưới hỏi, sinh đẻ:
Xưa kia khi chế độ lang đạo thịnh hành, giữa lang và dân có sự cách biệt
nghiêm ngặt. Dân không được phép lấy con gái nhà lang. Ngược lại, lang được lấy
con gái nhà dân làm vợ lẽ (tuy cưới trước). Vợ cả nhà lang phải thuộc dòng lang.
Khi lang lấy vợ, cả mường phải đóng góp vào lễ cưới này.
Ngày nay, nam nữ thanh niên Mường ở xã Phú Túc (Định Quán) được tự do
hôn nhân, không còn phân biệt giàu nghèo. Khi đôi nam nữ có tình cảm với nhau,
họ phải nói cho cha mẹ mình rõ. Các bậc cha mẹ tiến hành so tuổi, nếu hợp thì đồng
ý cho đôi trẻ lấy nhau. Nếu kị tuổi, hai người đành ngậm ngùi chia tay nhau. Tuy
không còn tình trạng "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" như xưa, song ý kiến các bậc
sinh thành vẫn có trọng lượng nhất định. Hiếm thấy có đôi trai gái nào dám vượt rào,
trái ý mẹ cha, chỉ làm theo ý mình.

55.5 Page 545

▲back to top


Đôi trai gái cùng họ nội không được phép lấy nhau, ngay cả hôn nhân con
cô con cậu cũng ít xảy ra. Nếu ai làm trái sẽ bị phạt vạ nặng (trâu, heo) theo luật tục
của cộng đồng. Người Mường có thể lấy vợ lấy chồng là người các dân tộc khác.
Trình tự một cuộc hôn nhân có nhiều nét tương đồng các dân tộc anh em
chung sống xen kẽ. Trước hết là lễ chạm ngõ, ông bà mai và các thân nhân chàng
trai qua nhà gái, mang theo hai chai rượu, một cơi trầu để thưa chuyện với đàng gái.
Sau đó ít lâu là lễ hỏi (đám nói), nhà trai mang sang: tiền, đồ trang sức và một số vật
dụng theo yêu cầu của nhà gái. Chọn được ngày lành tháng tốt, hai bên tổ chức đám
cưới. Mỗi nhà đều làm tiệc đãi khách, cũng có khi hai bên thống nhất đãi khách
chung. Nhà trai đi đón dâu, tới cửa nhà gái nếu có chăng dây thì phải lì xì chút đỉnh
mới được vào nhà.
Ngoài các đồ sính lễ cùng rượu, trầu cau... nhà trai phải mang theo hai cây
mía. Khi rước dâu, nhà gái mang về nhà trai hai cây mía khác. Các thứ bánh trong
đám hỏi và đám cưới đều không có nhân, chỉ toàn nếp. Rước dâu, số người phải
chẵn, người ta kiêng kị số lẻ. Cô dâu về nhà chồng theo tục lễ cũ, mang theo con dao
nhọn nhỏ cắm một lát gừng (thầy cúng đã khoán trừ tà). Trước khi lễ tơ hồng, ông
bà mai đưa cho đôi vợ chồng trẻ các miếng trầu hai bên têm sẵn để họ ăn rồi người
ta coi bã trầu đoán hậu vận.
Việc vái lạy ông bà, cha mẹ đôi bên, lễ tơ hồng, lễ nhị hỉ (lại mặt) vẫn được
một số gia đình duy trì.
Trong đám cưới, thường thì cô dâu về ở nhà chồng. Xưa kia, ngay sau đám
cưới cô lại về nhà cha mẹ đẻ, ba ngày sau nhà chồng sang đón. Cũng có một ít gia
đình không có con trai thì tổ chức cưới rể. Chàng rể đâm đòn rất có giá trị vì anh ta
về ở nhà vợ song vẫn giữ họ của mình, khi cha mẹ vợ qua đời, anh nghiễm nhiên trở
thành chủ gia đình, thừa hưởng tài sản cha mẹ vợ để lại.
Vấn đề ngoại tình ít xảy ra trong xã hội Mường, và bị xử phạt nặng (trâu,
heo), dư luận cộng đồng lên án nghiêm khắc.
Khi người phụ nữ Mường mang thai, họ tuân theo nhiều kiêng cữ: không dự
đám tang, không ăn chuối dính đôi, không đến các nhà sàn có cột chống phụ, không
ăn thịt chó, lươn, gà trống... Khi sinh đẻ, họ ăn cơm muối tiêu, thịt gà mái tơ, uống
nước đái trẻ con, uống nước lá vông hay lá vang để tiêu độc... Bé gái sơ sinh được
đeo vòng vàng hay bạc tùy từng gia đình.
Đứa trẻ ra đời được bảy ngày thì gia đình đặt tên cho bé. Theo tục lệ cũ,
người ta thường đặt cái tên xấu xí để tà ma không để ý, gây bệnh tật và điều không
may cho bé. Một tháng sau, gia đình cúng vía cho trẻ. Một năm sau, làm lễ cúng thôi
nôi.

55.6 Page 546

▲back to top


Cha mẹ, anh chị nói với bé bằng ụn (thằng ụn, con ụn) đầy âu yếm cũng như
người Việt miền Nam gọi bằng cưng.
Khi con trai đến tuổi 17, con gái 12 thì gia đình cúng mụ, trả ơn bà mụ che
chở đứa trẻ từ khi sơ sinh đến lúc bước vào tuổi trưởng thành.
VIII.3.4 Tang ma:
Khi một gia đình có cha già mẹ héo, con cái lập tức đi báo tin ngay cho các
già làng, bố làng. Các cụ cho nổi trống (khác với người Nùng cho thổi tù và, ở một
số nơi người Hoa và người Việt cho đánh chiêng) mời các chức việc trong làng tới
bàn việc phân công và huy động đóng góp gạo, tiền tương thân tương ái với nhà có
tang. Một bộ phận được phân công đi đào huyệt, một bộ phận được cắt cử chuẩn bị
khiêng đòn đám ma, những người khác lo việc tiếp tân...Trong cộng đồng Mường,
gia đình có tang dù nghèo hay rất nghèo đều được làng xóm tận tình giúp đỡ tang lễ
đàng hoàng.
Thày mo coi giờ, định việc lau rửa, khâm liệm thi hài - thường sau khi chết
ba, bốn tiếng. Bàn thờ người chết dựng cây mía cả ngọn, mỗi bữa đều cúng cơm.
Thày mo thường làm lễ từ xẩm tối trở đi, tùy theo địa vị vai vế người chết mà thày
có bài cúng phù hợp. Hồn ma theo lời hát cúng mà phiêu diêu ngắm cảnh quê hương
rồi lên trời gặp tổ tiên, được phán xét (tốt, xấu) rồi lại ngược về nghĩa địa nhưng
không được về nhà. Hai, ba ngày sau, tổ chức đưa đám. Tương tự người Việt, con
trai/con gái người chết đội mũ rơm/mũ mấn, mặc áo dài xô không viền gấu, các anh
chị em hay cháu chắt chít khăn tang màu trắng. Con, cháu ruột nằm lót đường ở cửa
để quan tài khiêng qua bên trên. Con trai thì cầm dao đi rừng, con gái cầm quạt và
ống nước bằng bương, vẫn theo sau thày mo và quan tài ra nghĩa địa. Ống nước đặt
ở phía chân mả. Người Mường Hòa Bình để một vài ống nước, còn người Mường
Phú Thọ thì phải đủ nam bảy ống, nữ chín ống dùng vào lễ mở cửa mả (nay thay
bằng bình để nước cúng). Trước, số thanh niên trai tráng được phân công khiêng
quan tài từ nhà ra tới nghĩa địa; nay bà con ở Phú Túc đã sắm được xe tang. Đám
tang nào cũng có ban nhạc với đàn cò (nhị), sáo, trống...
Chôn cất được vài ngày, tang chủ làm lễ mở cửa mả, một trăm ngày sau lại
làm lễ trăm ngày. Đủ ba năm chín tháng mười ngày, gia đình làm lễ đoạn tang (hết
tang), những bộ quần áo tang đem đốt bỏ. Người Mường có tục cải táng như người
Việt ở miền Bắc. Sau một số năm chôn cất, khi có điều kiện, gia đình bốc mộ người
chết, lấy hài cốt chuyển sang tiểu sành và đem chôn lại ở địa điểm khác (có xem
ngày giờ cẩn thận). Nấm mồ cải táng mới là ngôi mộ vĩnh viễn.
VIII.3.5 Đời sống tâm linh, tín ngưỡng và các lễ hội:
Người Mường phần lớn chỉ thờ cúng tổ tiên - các bậc sinh thành. Hàng năm,
mỗi gia đình đều cúng giỗ người đã khuất với thái độ tôn kính. Người con trai cả

55.7 Page 547

▲back to top


phải đảm đương nhiệm vụ nặng nề này (vì anh ta được thừa hưởng phần gia sản lớn
nhất). Mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên ở vị trí trang trọng giữa nhà.
Nhiều nhà có bàn thờ thổ địa ở một nơi cao, phía tay phải bàn thờ gia tiên.
Một số bà con đi chùa lễ Phật vào các ngày rằm, mùng một âm lịch song số
tín đồ đạo Phật thực sự trong đồng bào Mường không nhiều lắm.
Một năm, người Mường có bốn lễ liên quan đến nông nghiệp:
- Lễ khai hạ (hạ nêu) vào ngày 7 tháng giêng âm lịch, chấm dứt lễ Tết cổ
truyền.
- Lễ hạ điền vào tháng ba âm lịch, khi trời sắp mưa, bà con chuẩn bị bước
vào vụ cày cấy trong năm.
- Lễ thượng điền vào tháng bảy âm lịch, sau khi bà con làm cỏ xong xuôi,
cầu mong Trời phù hộ cho lúa tốt, mùa màng bội thu.
- Lễ cơm mới vào tháng mười âm lịch, khi lúa chín được gặt.
Ba lễ: hạ điền, thượng điền, cơm mới được tổ chức tại các miếu ở các xóm
(ở Hòa Bình và Phú Thọ thì cúng ở đình); trong đó lễ cơm mới lớn nhất. Mỗi gia
đình cử một, hai người tham gia, đóng góp gạo và tiền đầy đủ. Mỗi lễ cúng này
thường chỉ làm một buổi.
Trước hết, thày mo và già làng xin âm dương rồi thày mo đọc lời khấn vái.
Sau đó dân ấp theo thứ tự: già trước trẻ sau, nam trước nữ sau, lần lượt từng người
vào vái lạy trước ba bàn thờ trong miếu, mỗi bàn thờ lạy bốn lạy. (Mỗi miếu có ba
bàn thờ: chính giữa thờ thổ thần, hai bên thờ các tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai
canh - nghĩa là thờ tất cả các vị có công tạo dựng làng xóm đã quá cố). Lễ cúng kéo
dài chừng hai, ba giờ, từ chín giờ sáng tới trưa thì kết thúc bằng bữa tiệc tập thể. Xét
theo mặt nào đó, các lễ cúng nói trên có tác dụng đoàn kết, gắn bó cộng đồng vào
những dịp họp mặt đông đảo này.
Xưa kia, phụ nữ không được tham gia cúng đình hoặc miếu, bây giờ nam nữ
đã bình đẳng ở chốn đình trung.
VIII.4 Văn nghệ dân gian:
Tuy xa quê hương bản quán hơn bốn mươi năm, song cộng đồng người
Mường ở xã Phú Túc vẫn giữ được nhiều nét bản sắc văn hóa, văn nghệ dân gian
của dân tộc mình. Kho tàng này cần được khai thác, giữ gìn vì nó góp phần làm
phong phú văn hóa Đồng Nai.
Vào dịp lễ hội, bà con thường đánh chiêng có núm, một bộ đủ gồm bảy đến
chín chiếc kích cỡ khác nhau, mỗi chiếc có tên gọi riêng. Chiếc lớn nhất gọi là đàm,
chiếc thứ nhì gọi là chàm... Ngày nay ở Phú Túc chỉ mấy người già mới biết đánh

55.8 Page 548

▲back to top


chiêng theo các bài bản: bông trắng bông vàng, đi đường leo dốc... Chiêng đánh theo
tiết tấu, nhịp điệu khác nhau tạo nên nhạc điệu lúc trầm hùng, lúc bay bổng. Chiêng
được chơi vào các lễ hội, ngày Tết.
Sáo, nhị, trống... chỉ dùng trong đám tang.
Trò chơi ném đúm (ném còn) ở Phú Túc xưa kia được tổ chức vào dịp Tết,
nay đã mất khoảng mười năm. Vào dịp Tết âm lịch, trên bãi đất trống, người ta chôn
cây cột cao, đỉnh cột có vòng tròn nhỏ. Nam nữ đứng ở hai bên bãi, ném cho nhau
trái đúm - chiếc túi nhỏ vuông, bên trong có nhồi đủ nặng, đính tua vải để ném đi dễ
dàng - Ném đúm giúp cho trai gái bày tỏ tình cảm với nhau: chàng trai để ý cô gái
nào thì ném đúm cho cô đó (và ngược lại). Người được ném mà không bắt được và
ném trả thì phải phạt một đồ vật, thí dụ: chiếc khăn... Nếu chàng trai ném trái đúm
mà cô gái tỏ ra hờ hững thì biết là nên thôi đi. Tới ngày hạ nêu (mùng bảy tháng
giêng) hai bên trả lại cho nhau các món bị phạt, và nếu có tình ý với nhau thì câu
chuyện sẽ tiến xa hơn; ngược lại, hai người chuyện trò qua loa và chấm dứt ở đó.
Một số bà già Mường còn thuộc nhiều câu hát ví, rang thường, bộ mẹng, ru
con, đồng dao... ca ngợi tình mẹ con, ca ngợi lao động sản xuất, lời tỏ tình thắm
thiết...
Truyện kể Mường phong phú, một số nhằm giải thích và trình bày kinh
nghiệm chống thú dữ.
Các bài lễ ca do các ông mo (thày cúng) và bà mợi (bà bóng) đọc và hát trong
đám tang, cúng ma, cầu vía... cũng còn được lưu giữ.
Tuy số dân không đông, song từ ngày đất nước thống nhất, đồng bào Mường
ở Đồng Nai đã góp một phần công sức vào việc xây dựng cuộc sống mới ngày càng
ấm no, hạnh phúc, đoàn kết chặt chẽ với các dân tộc anh em để đưa tỉnh ta trở thành
tỉnh giàu mạnh với xã hội công bằng, văn minh.
IX. NGƯỜI NÙNG:
IX.1 Nguồn gốc, dân số và phân bố:
Người Nùng là một dân tộc ít người phân bố chủ yếu ở vùng Việt Bắc: Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, và cũng có ở Bắc
Giang, Quảng Ninh. Khu tự trị Choang (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) cũng có người
Nùng. Xét nguồn gốc, một bộ phận người Nùng là cư dân bản địa thuộc nhóm Bách
Việt đã hòa vào với người Tày; còn bộ phận hiện nay được gọi là Nùng, là bộ phận
di dân từ tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) sang làm ăn sinh sống khoảng mười đời, hai
trăm năm nay và nay đã hòa vào cư dân bản địa.

55.9 Page 549

▲back to top


Người Nùng chia thành nhiều nhóm địa phương: Nùng Khen lài (mặc áo có
ống tay ráp vải khác màu), Nùng Hu lài (đội khăn chàm có nhiều chấm trắng), Nùng
Slử tỉn (mặc áo ngắn chấm mông)... Nùng An (quê châu An Kết), Nùng Inh (quê châu
Long Anh), Nùng Lòi (quê châu Hạ Lôi), Nùng Cháo (quê Long Châu), Nùng Phàn
Slình (quê châu Vạn Thành)... Người Nùng sử dụng ngôn ngữ Tày - Thái thuộc dòng
Nam Á.
Người Nùng tới đất Đồng Nai cư trú từ sau hiệp định Genève 1954 trong đó
một bộ phận là lính sư đoàn 5 của Voòng A Sáng. Họ thuộc nhiều nhóm khác nhau.
Mới đầu sư đoàn 5 Nùng đóng ở vùng Bình Thuận, sau mới chuyển về Đồng Nai. Ở
vùng đất mới, họ không còn phân biệt các nhóm địa phương (như ở quê cũ) mà đã
cố kết, hòa vào nhau, giữ được những điểm chủ yếu đồng nhất, còn khác biệt ít bộc
lộ rõ.
Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai năm 1996, cả tỉnh có 12279 nhân
khẩu Nùng (trong đó có 5827 nữ) xếp thứ nhì trong tổng số hơn 40 dân tộc ít người
(sau người Hoa). Địa phương nào trong tỉnh cũng có người Nùng song họ có số
lượng đông nhất ở huyện Xuân Lộc 4540 người (2222 nữ), huyện Thống Nhất ít hơn
một chút 4486 người (2088 nữ)... và ít nhất là huyện Nhơn Trạch: 10 người (7 nữ).
Ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất tập trung 331 hộ với 1068
nhân khẩu là nơi người Nùng sống đông đảo nhất.
IX.2 Hoạt động kinh tế:
Phần lớn người Nùng ở Đồng Nai làm nghề nông là chính, số làm nghề buôn
bán dịch vụ, tiểu thủ công không nhiều.
Xưa kia ở quê cũ họ phân bố ở các thung lũng nhỏ hẹp vùng đồi núi thấp, ít
ruộng nên làm nương rẫy là chính.
Vào nửa cuối thập niên 50, đến vùng đất mới Đồng Nai - lúc đó thuộc hai
tỉnh Biên Hòa, Long Khánh còn nhiều đất đai hoang hóa, họ ra sức khai phá rừng và
đất rừng. Thoạt tiên họ áp dụng lối đao canh hỏa chủng nguyên thủy làm nương rẫy
nên cũng du canh khi đất trồng bạc màu. Nhưng dân cư ngày càng đông, đất trồng
trở nên hiếm hoi dần, từng bước họ buộc phải thâm canh nương rẫy để trồng các loại
hoa màu: bắp, khoai lang, khoai mì, đậu... và các cây công nghiệp ngắn ngày: đậu
tương, thuốc lá... Từ sau ngày giải phóng, nhiều hộ người Nùng ở các huyện Thống
Nhất, Long Khánh, Xuân Lộc, Định Quán... đầu tư vốn, mở vườn trồng cà phê, tiêu,
điều... nên có thu nhập hơn hẳn các hộ chỉ trồng lúa hoặc hoa màu.
Ở những nơi địa hình tương đối bằng phẳng, bà con khai phá thành ruộng
lúa và trồng hoa màu. Nơi nào sẵn có nguồn nước thì họ trồng hai vụ lúa, nơi không
có suối thì chỉ làm một vụ lúa nhờ trời mưa.

55.10 Page 550

▲back to top


Tình trạng du canh ở đồng bào Nùng thực sự chấm dứt khi luật 034/67 của
chính quyền Sài Gòn ban hành năm 1967 (công nhận và bảo vệ ruộng đất của đồng
bào thiểu số, thực hiện chính sách khuyến nông "Người cày có ruộng"). Kể từ đó, bà
con đầu tư vốn mua máy cày, máy xới, máy bơm... mua phân hóa học, dùng các
giống cây trồng và vật nuôi năng suất cao.
Do giao lưu chặt chẽ rộng rãi với người Việt, người Hoa và đặc biệt do tích
lũy kinh nghiệm sản xuất nương rẫy từ lâu đời, người Nùng biết tính thời gian chuẩn
xác khi bắt đầu gieo trồng các loại cây. Bà con các dân tộc khác sống xen kẽ đã làm
theo người Nùng và đạt kết quả tốt, ít khi bị mất giống cây trồng hoặc phải tỉa đi tỉa
lại tốn công vô ích. Từ phương thức làm ăn quảng canh, ngày nay người Nùng trở
thành nhà nông biết thâm canh nên đạt năng suất cao đối với các loại cây trồng. Các
sản phẩm nông nghiệp thường được bán cho người Hoa thạo nghề buôn bán hơn.
Người Nùng chăn nuôi nhiều loại gia súc: trâu để lấy sức kéo và phân bón,
heo lấy thịt và phân, gà vịt... Xưa kia người ta chăn nuôi theo lối thả rong, ngày nay
bà con làm chuồng xây cất cẩn thận và dọn rửa thường xuyên. Bà con hiểu rõ: thả
rong dễ làm gia súc, gia cầm bị dịch bệnh.
Chăn nuôi hiện nay vẫn còn ở qui mô nhỏ gia đình, chưa trở thành ngành sản
xuất riêng, vẫn là ngành phụ của trồng trọt.
Người Nùng vốn có một số ngành nghề truyền thống khá nổi tiếng: dệt, rèn.
Nhưng ở Đồng Nai các ngành nghề này của đồng bào đã bị mai một từ khi họ tới
định cư.
Về ăn uống, người Nùng có những nét gần người Hoa hơn người Việt. Lương
thực chính của họ là gạo tẻ, mỗi ngày bà con ăn hai bữa cơm với canh và các món
chiên xào chứ hiếm khi ăn đồ luộc. Trước đây vào buổi sáng họ ăn cháo loãng với
món mặn; bây giờ họ chọn thức điểm tâm theo khẩu vị và túi tiền. Phần đông kiêng
cữ thịt chó, thịt mèo.
Về trang phục, người ta không thấy có sự khác biệt nào với người Việt. Chiếc
áo Nùng màu chàm với tay áo rộng, thân áo chấm ngang mông không tồn tại từ ngày
bà con vào sống ở vùng đất mới này.
IX.3 Nhà cửa:
Nhà cửa của người Nùng có nét khác biệt so với nhà của người Việt hoặc
dân tộc anh em khác sống xen kẽ.
Ở khu vực Bàu Xéo (xã Sông Trầu, huyện Thống Nhất), nhà của đồng bào
Nùng san sát nhau như hình ống, không có vườn, vách nhà này liền vách nhà kế bên.
Đại thể căn nhà hình chữ nhật, có hai mái xuôi về hai phía trước và sau. Từ hai đầu
đòn dông có kèo, vì; nhà khá giả thì vách lợp tôn; nhà nghèo thì vách phên hoặc trát

56 Pages 551-560

▲back to top


56.1 Page 551

▲back to top


đất lợp tranh. Mái sau thường dài hơn mái trước; bếp có thể làm liền hoặc lui về phía
sau một ít tùy từng gia đình. Chuồng trại ở sâu về phía sau nữa.
Ở ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2 thì nhà cửa mang nét kiến trúc Việt càng rõ
hơn. Đó là những ngôi nhà ba gian hai chái, nhà bếp và chuồng gia súc ở phía sau
không dính líu với nhà ở. Vật liệu xây dựng là gạch ngói, xi măng, tôn...
Kiểu nhà sàn không thấy có ở nơi nào trong tỉnh.
Nhiều gia đình khá giả làm nhà lầu đúc hiện đại, trang trí nội thất đắt tiền.
Ở Bàu Xéo, Tây Hòa..., kiểu quần cư "ấp chiến lược" khá rõ nét.
Khi làm nhà, đồng bào thường đến nhờ thầy mo (thày cúng) xem giúp ngày
giờ xây cất, nhất là lúc dựng cây đòn dông. Nhà day mặt về hướng địa hình thấp hơn
hoặc hướng Tây, không nhất thiết mặt tiền hướng đường lộ. Có lẽ đây là tàn dư của
cách chọn hướng nhà xưa kia - khi người Nùng cư trú ở vùng đồi núi thì lưng nhà
quay về sườn đồi, mặt tiền hướng về đường đi thường ở chân đồi.
IX.4 Gia đình và tổ chức xã hội:
Gia đình dân tộc Nùng ở Đồng Nai hiện nay là gia đình nhỏ theo dòng cha.
Thường thì một gia đình gồm cha mẹ và các con. Cũng có một số gia đình chung
sống ba thế hệ: ông bà, cha mẹ và các con.
Người đàn ông, người cha, người chồng và con trai trưởng có nhiều quyền
hành trong nhà, chính họ quyết định mọi việc lớn nhỏ - tất nhiên cũng trao đổi tham
khảo ý kiến người mẹ hoặc vợ.
Người cha, người chồng thường được gọi theo tên con trai cả hoặc con gái
lớn (nếu không có con trai).
Việc phân chia tài sản của cha mẹ thường "ưu tiên" cho con trai cả vì anh
này phải lo cúng giỗ tổ tiên, ông bà... Con gái thường chỉ được món hồi môn khi đi
lấy chồng, tuy nhiên cũng có người được cha mẹ chia cho một phần tài sản.
Trong dòng họ, người Nùng xưng hô theo tập tục người Việt phía Bắc: ông
bà, bác chú, dượng, cô, thím, mợ, cậu, dì... những ai thuộc vai lớn hơn cha mẹ thường
được kêu bằng bác. Một số dòng họ có tục gọi những ai sinh trước là anh chị mà
không cần kể đến thứ bậc dòng anh, dòng em (tương tự cách xưng hô của người
Hoa). Xưa kia vai trò người trưởng tộc được coi trọng, nay đã rất mờ nhạt. Người
Nùng cũng như người Hoa coi những ai cùng họ, ví dụ họ Trần, họ Lý họ Trương...
là đồng tộc, là gần gũi thân thiết (không được lấy nhau)
Cộng đồng người Nùng ở xã Bàu Hàm 2 tổ chức "hội hiếu" chuyên lo việc
tang ma (tương tự hội bảo thọ). Trong xóm ấp có người qua đời thì hội hiếu đứng ra
lo mọi việc giúp gia chủ. Mỗi hội viên đóng hai kg gạo (hoặc số tiền tương đương).

56.2 Page 552

▲back to top


Hội sẽ phân công người làm các việc: tiếp tân, đào huyệt, khiêng quan tài, nấu nướng
phục vụ tang chủ...
IX.5. Cưới xin:
Trai gái Nùng ngày nay hoàn toàn tự do tìm hiểu nhau để tiến tới hôn nhân.
Nếu đúng tuổi kết hôn do pháp luật qui định thì họ đăng kí tại UBND xã, phường
rồi làm đám cưới với các thủ tục nghi thức thông thường. Tảo hôn hầu như không
thấy có ở Đồng Nai. Người Nùng rất coi trọng chữ trinh. Khi đôi thanh niên đã ưng
nhau, họ báo cáo với cha mẹ đôi bên. Người ta cũng đi coi bói, so tuổi... và phần lớn
các cặp nam nữ đều tiến tới cưới xin, ít có trường hợp phải chia tay vì khắc tuổi.
Đám nói và lễ cưới tiến hành tương tự người Việt. Có đôi nét khác biệt đáng
chú ý:
- Nếu người em lập gia đình trước anh chị thì trong ngày cưới, người em lấy
miếng vải đỏ khoác lên vai hay ngực của anh chị hàm ý: anh chị sẽ không lỡ thì, mất
duyên. Miếng vải đó sẽ đặt trên bàn thờ, một năm sau lấy xuống, bỏ đi.
- Con dâu được xem như bán đứt cho nhà chồng, vì vậy việc thách cưới có
nơi còn nặng. Anh con trai ở rể (do nhà gái không con trai) thì được giảm, có khi
không phải bỏ tiền làm đám cưới. Anh này sẽ ở nhà vợ suốt đời, được hưởng gia tài
của cha mẹ vợ và phải lo cúng bái cho bên vợ. (Xưa kia, có anh còn phải đổi theo
họ vợ, ít ra thì con cái mang họ vợ).
- Trong buổi rước dâu, nhà trai thường chọn những người mà gia đình song
toàn đi chẵn, có lớn có nhỏ. Lúc rước dâu, xe chở cô dâu phải tiến, lùi ba lần ngụ ý:
để cô dâu chào tiễn biệt gia đình và dòng họ mình. Trên đường đi, gặp trắc trở gì,
người ta kiên nhẫn giải quyết với thái độ hoan hỉ, không nôn nóng. Thí dụ: gặp người
chắn ngang đường xin tiền thì người ta cho liền, nếu gặp sự cố thì chờ xong mới đi.
- Cô dâu về nhà trai, sau khi làm lễ gia tiên thì bưng khay trầu rượu, mời họ
hàng theo thứ tự trên dưới. Người được mời đều có món quà nhỏ (tiền, vàng) mừng
cô dâu, chú rể với lời chúc mừng hoặc khuyên nhủ. Trong các đám cưới hiện nay,
khi cô dâu, chú rể đi chúc rượu sẽ được tặng phong bao như tục lệ chung. Gia chủ
sẽ ghi số tiền mừng để sau này sẽ có dịp đáp lại tương xứng.
- Cô dâu ở lại nhà chồng, suốt ba ngày sau đám cưới không ra khỏi nhà (kể
cả đi chợ). Ngày thứ tư là lễ nhị hỉ (lại mặt) thì cặp vợ chồng mới về thăm gia đình
và họ hàng bên vợ.
Ngày nay hôn nhân ngoại tộc dần dần tăng lên. Người Nùng bây giờ lấy vợ,
lấy chồng khác dân tộc không còn là điều hiếm hoi, đó là kết quả của quan hệ giao
lưu, đan xen giữa các cộng đồng tộc người.

56.3 Page 553

▲back to top


Người phụ nữ sinh con tại nhà chồng (và thường sinh tại trạm xá hoặc nhà
hộ sinh, bệnh viện để bảo đảm mẹ tròn con vuông khi sinh nở). Trong tháng đầu tiên
sau khi ở cữ, sản phụ ít ăn đồ kho, kiêng ăn cá mà thường dùng các món thịt hầm
với gừng, rượu (cho ấm bụng, dễ tiêu). Người Nùng không kiêng cữ gì khi nhà có
phụ nữ sinh đẻ.
IX.6. Tang ma:
Khi gia đình có người qua đời, một người đến nhà thày mo để xem ngày giờ
tẩm liệm, động quan, di quan, chôn cất...Để báo tin buồn cho cộng đồng, người ta
đánh cồng (chiêng có núm) theo một điệu bi ai.
Thi hài thường đặt nằm dưới đất. Khi tẩm liệm, con cháu và người thân phủ
phục quanh quan tài. Trước khi chôn cất, những người chịu tang phải túc trực quanh
quan tài, không đi xa trừ các trường hợp đặc biệt: đau ốm, làm vệ sinh cá nhân...
Người chịu tang phải ăn chay cho đến khi chôn cất xong mới ăn mặn (có thịt, cá)
bình thường.
Mỗi khi có người tới phúng điếu, hội hiếu lại cử nhạc với cồng, trống, đàn...
(hoặc cử nhạc lễ cúng). Bạn hữu, người thân tới viếng được phát vòng dây tang đeo
tay, bây giờ lệ này không phổ biến. Tiền phúng điếu được một người ghi chép cẩn
thận vào sổ tang (như ở đám cưới).
Thày mo đến đọc kinh, cầu khấn (bằng tiếng Nùng) đưa hồn người chết về
xum họp với tổ tiên, đồng thời mong hồn phù hộ gia đình, dòng họ, xóm làng được
mọi sự yên vui. Thày mo có mang theo bàn thờ tổ, gia chủ mang gạo, trái cây đặt
lên bàn thờ tổ. Cúng xong, thày được hưởng các lễ vật của tang chủ, ngoài ra còn
được thêm thịt heo, tiền công và một con gà nhỏ còn sống.
Cũng như người Việt, người Hoa, trong đám tang thì người chịu tang là vợ
con, anh chị em, cháu. Người chồng không phải để tang vợ. Chồng chết, người vợ
không được theo ra huyệt mộ. Thày mo xem tuổi các người chịu tang, ai hợp tuổi
(với người quá cố) mới được đưa quan tài ra đến mộ.
Khi đưa đám, từ một đến ba người thân nhất phải nằm ngửa hoặc phủ phục
để quan tài khiêng qua ba lần, gọi là "lót đường". Nhiều gia đình làm nhà táng bằng
giấy phủ được quan tài và mua ngựa giấy, vàng mã... đốt tại huyệt mộ để người chết
có nhà ở, có ngựa cưỡi và có tiền bạc tiêu xài ở thế giới bên kia.
Con gái thì làm cây tiền bằng giấy cắt dán, khi đưa đám vừa lắc cây tiền vừa
khóc. Tới huyệt mộ, sau khi chôn cất và đốt nhà táng, vàng mã thì cũng đốt luôn cây
tiền.

56.4 Page 554

▲back to top


Một người con gái khác gánh các đồ dùng thường ngày của người quá cố ra
để gần huyệt rồi chạy trốn, chừng nào chôn cất xong mới lại có mặt (người ta không
giải thích vì sao lại có hành động này).
Khi chôn cất xong, những người chịu tang tháo bỏ hết tang phục cho vào
gánh hoặc giỏ xách đem về. Cuối năm, gia đình xả tang (dù người chết vào lúc xa
hay cận Tết) cho hết u buồn của năm cũ, để năm mới được bình yên vui vẻ. Làm lễ
xả tang phải mời thày mo đến cúng và đọc kinh, sau đó đốt hết tang phục.
Trong nhà có người qua đời thì mọi vật dụng trên bàn thờ tổ tiên đều bỏ đi
hết (vì tổ tiên không giữ được cho người đó thì không cúng). Chôn cất xong, người
ta lại mua các vật dụng khác để tiếp tục cúng kiếng (thí dụ: bát nhang, lô chén nước,
chân nến...)
Cũng như người Việt ở miền Bắc, người Nùng chôn cất (hung táng) người
chết bằng mả đất. Sau ba năm, họ cải táng, nhờ thày mo xem ngày giờ bốc mộ, lấy
cốt rửa sạch rồi cho vào tiểu sành hoặc vò, đem chôn chỗ khác. Cải táng xong, người
ta mới xây ngôi mộ lâu dài.
Nếu con cháu làm ăn vẫn khá thì gia đình đó chưa cải táng, nếu làm ăn sút
kém thì mới di dời mộ bằng cách cải táng, có nhờ thày xem mạch đất với mong ước
sẽ phát.
IX.7. Đời sống tâm linh:
Phần đông người Nùng ở Đồng Nai hiện nay vẫn thờ cúng tổ tiên là chính.
Số người theo các tôn giáo khác không nhiều. Các ông bà già thường đi chùa lễ Phật
vào ngày mùng một hoặc ngày rằm âm lịch.
Trong mỗi gia đình, nơi trang trọng nhất, dễ thấy nhất (vì ở giữa nhà) có bàn
thờ tổ tiên tương tự như bàn thờ của người Việt hoặc người Hoa. Bàn thờ này có thể
được bày cỗ mặn vào các dịp cúng kiếng. Phía trên bàn thờ tổ tiên có trang thờ Phật
Quan Thế Âm bồ tát, chỉ có nhang và nước, hoa... Ly, tách, dĩa, bát nhang, chân
nến... trên bàn thờ chỉ rửa mỗi năm một lần bằng nước lá bưởi (có mùi thơm) vào
chiều 29 hay 30 tháng chạp vì người ta không muốn động đến bàn thờ, làm kinh
động sự bình yên của tổ tiên.
Ở cửa ra vào có nhà có bàn thờ thần thổ công, nhưng nay ít thấy. Nhiều nhà
tuy không buôn bán cũng thờ thần tài với niềm hi vọng tăng gia sản xuất, chăn nuôi
được suôn sẻ, nông sản làm ra bán có giá.
Vào dịp Tết, người Nùng mua giấy lì xì màu đỏ in trang kim dán trước cửa
ra vào mong được hên trong mọi việc làm ăn. Việc dán giấy lì xì có thể là do họ chịu
ảnh hưởng của người Hoa.

56.5 Page 555

▲back to top


Ở bếp, người ta cũng thờ ông Táo nhưng không có lệ cúng ông Táo chầu
Trời ngày 23 tháng chạp. Người ta cấm kị việc nấu thịt chó, mèo, trâu ở bếp vì sợ
xui. Các món thức ăn để cúng nhất thiết không được dùng thịt các loại gia súc nói
trên.
Hàng năm, người Nùng ở Đồng Nai còn giữ một số ngày cúng lễ:
- Cúng Tết cổ truyền vào các ngày từ mùng 1 đến mùng 4 Tết để tổ tiên ông
bà cùng về xum họp, phù hộ cho con cháu.
- Lễ cúng rằm tháng giêng âm lịch, vào dịp này các người lớn tuổi thường đi
chùa lễ Phật.
- Lễ cúng thanh minh vào mùng 3 tháng 3 âm lịch, vào dịp này con cháu đi
sửa sang phần mộ của ông bà và người thân đã khuất.
- Lễ cúng mùng 5 tháng năm âm lịch.
- Lễ cúng ruộng vào mùng 6 tháng sáu âm lịch, làm ngay ở ruộng.
- Lễ cúng rằm tháng bảy xá tội vong nhân và cúng cô hồn.
- Lễ cúng trung thu vào rằm tháng tám, nay có gia đình không làm.
- Lễ cúng tất niên vào ngày 29 hay 30 tháng chạp, đón tổ tiên ông bà về ăn
Tết cùng con cháu.
Dù giàu, dù nghèo vào những ngày này mỗi gia đình ít nhất cũng làm mâm
cơm cúng. Các gia đình thường làm thịt lạp (thịt heo ba chỉ ướp rượu, tiêu, muối...
rồi phơi khô bằng cách treo ở bếp) để ăn dần vào sau Tết.
Mỗi xóm, ấp Nùng đều có ngôi miếu thờ Thổ công (vị thần quản lí đất đai
địa phương). Miếu tương đối nhỏ, có thể được xây gạch lợp ngói, cũng có miếu làm
đơn giản bằng cây lợp tranh. Miếu có bàn thờ với bát nhang, đèn dầu, lư hương, bình
bông...
Miếu ông Công ở xã Bàu Hàm 2 tiến hành cúng lễ vào ngày mùng 2 Tết
tương tự lễ cúng kì yên của người Việt. Mỗi gia đình đóng một số tiền để làm cỗ
cúng miếu. Mỗi gia đình đều mang đến một mâm lễ vật gồm: một con gà luộc, vàng
mã, hoa quả... Thày mo tiến hành khấn vái, đọc bài cúng bằng tiếng dân tộc, sau đó
đàn ông từng nhà lần lượt vào vái. Lễ cúng miếu ông Công chỉ nam giới được tham
dự; gia đình nào không có đàn ông thì phải nhờ một người đàn ông mang lễ vật tới
cúng.
Khi buổi lễ kết thúc, lễ vật nhà ai được hoàn trả về nhà nấy, số nam giới tham
gia dự tiệc chung.
Lễ cúng vào 16 tháng tám âm lịch cũng làm tại miếu, là lễ cúng khi đã hoàn
thành cơ bản việc trồng tỉa vụ mùa, chỉ còn chờ thu hoạch.

56.6 Page 556

▲back to top


Thày mo và bà then là nhân vật quan trọng trong đời sống tâm linh của người
Nùng. Khi làm việc gì (xây cất nhà cửa, dựng vợ gả chồng, làm đám ma...) người ta
đều đến nhờ thày xem lịch, tính toán ngày giờ sao cho công việc diễn ra tốt đẹp,
mang lại may mắn cho gia chủ.
Thày mo được học chữ Hán và nôm Nùng, các bài khấn cúng và thành thạo
nghi thức cúng lễ. Thày không thoát li sản xuất. Là trung gian giữa các vị thần và
con người, biết việc cát hung, giúp tránh việc xui nên thày mo được cộng đồng kính
trọng. Ở ấp Ngô Quyền hiện có thày Hải Việt Nam từng học làm thày mo từ hồi còn
nhỏ, có con dấu gỗ (mộc triện) do vị sư phụ truyền cho từ lúc còn ở ngoài Bắc, mới
được lập bàn thờ tổ trong nhà mình.
Bà then chuyên làm nhiệm vụ xem bói, giải hạn, cúng chữa bệnh... Bà then
thuộc nhiều bài hát then, được ơn trên cho làm nghề. Nhà cũng có bàn thờ tổ và cây
đàn tính ba dây để phụ họa, đệm cho các bài then cúng chữa bệnh thường tiến hành
vào ban đêm (hoặc cúng bà mụ cho trẻ em, hoặc lễ sinh nhật...)
Người Nùng có một số cấm kị:
- Phụ nữ không tham dự các lễ cúng ở nơi công cộng.
- Tháng giêng người ta không ăn, không cúng thịt vịt và trứng các loại.
- Ngoài hai ngày 29, 30 tháng chạp và mùng 3 tháng ba, người Nùng không
dãy cỏ ở mả.
- Làm nhà, sửa nhà, lập bàn thờ, chuyển bàn thờ phải mời thày mo chứ không
được tự ý làm.
- Họ rất sợ ma gà - loại ma quấy phá làm hại người và gia súc.
Tuy dân không đông, song trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, một số đồng
bào Nùng đã giúp đỡ cách mạng bằng cách ủng hộ, mua bán giùm những thứ cách
mạng cần. Ngày nay, cộng đồng người Nùng cũng đóng góp một phần vào việc xây
dựng kinh tế - xã hội để thực hiện một xã hội ngày càng giàu mạnh, công bằng, văn
minh trên đất Đồng Nai.
ẢNH
Làng của đồng bào dân tộc ít người ở Đồng Nai xưa.
ẢNH
Nhà dài làng Mạ

56.7 Page 557

▲back to top


ẢNH
Người Mạ ở Chứa Chan
ẢNH
Người Mạ bẫy cọp
ẢNH
Người Mạ tạo ra lửa từ hai hòn đá.
ẢNH
Rượu “ịch”
ẢNH
Thiếu nữ Mạ xưa
ẢNH
Thiếu nữ Mạ nay.
ẢNH
Lễ hội đâm trâu của người Mạ ở Tà Lài, Tân Phú, năm 1998
ẢNH
Dấu vết “chia của cho người chết” bỏ mả của người dân tộc hiện còn ở vùng
Định Quán.
ẢNH
Nghề dệt của đồng bào Mạ được khuyến khích phát triển
ẢNH

56.8 Page 558

▲back to top


Đội cồng chiêng của người Mạ ở Hiệp Nghĩa.
ẢNH
Đồng bào dân tộc làm đồ gốm và chèo xuồng bắt cá trên sông La Ngà (Ảnh
chụp năm 1930).
ẢNH 1
1- Đồng bào Mường ở xã Phú Túc.
2, 3, 4 - Vật dụng của người Mường: Bừa (2), Ốp bắt cá (3), Dao, giỏ (4)
ẢNH 1
1- Nhà đồng bào dân tộc Châu Ro ở ấp Sơn Thọ (xã Xuân Thọ, huyện Xuân
Lộc).
ẢNH 2
2- Nhà đồng bào Châu Ro ở Lý Lịch.
ẢNH 3
3- Trang sức của phụ nữ người Stiêng ở Bù Cháp (Tài Lài, Tân Phú).
ẢNH 1
1- Kiến trúc mái đình người Hoa
ẢNH 2
2- Trường tiểu học Hoa văn (Ecole Chinoise) ở Biên Hòa trong trận lụt năm
Thìn (1952).
ẢNH 3
3- Chùa Ông (xã Hiệp Hòa, Biên Hòa) ngôi chùa Hoa đầu tiên ở Nam bộ.

56.9 Page 559

▲back to top


Phụ lục ảnh của bộ ĐỊA CHÍ ĐỒNG NAI do BÙI QUANG HUY biên soạn
từ ảnh tư liệu và của các tác giả:
Nguyễn Đại Phúc, Phan Dẫu, Phan Huy Dũng, Huỳnh Thái, Huỳnh Tới, Bùi
Quang Huy, Lưu Thuận Thời, Đình Dũng, Yên Tri, Nguyễn Văn Thơi, Tôn Hoàn...
Vì lý do kỹ thuật và trình bày, tên tác giả ảnh không thể chú thích dưới mỗi
ảnh.
Chúng tôi mong sự thông cảm của các tác giả (B.T)
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
001. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị, Trần Tấn Vĩnh: Ca dao dân
ca Nam bộ, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1984.
002. Bộ văn hóa giáo dục: Chương trình trung học niên khoá 1972 - 1973, Hiện đại xb.,
Sài Gòn, 1972.
003. Bình Nguyên Lộc: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc -
Thịnh Ký xb., 1996.
004. Bùi Thiết: Từ điển hội lễ Việt Nam, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1993.
005. Bùi Xuân Mỹ, Bùi Thiết, Phạm Minh Thảo: Từ điển lễ tục Việt Nam, Nxb. VHTT,
Hà Nội, 1996.
006. C. Mác, Ănghen, Lênin: Về văn học - nghệ thuật, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1977.
007. Cục thống kê tỉnh Đồng Nai: Các niên giám thống kê
008. Các tập Địa chí Biên Hòa 1901, 1924; Địa phương chí tỉnh Biên Hòa, tỉnh Long
Khánh, Phước Tuy năm 1969, 1971, 1973.
009. Cao Huy Đỉnh: Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội,
1974.
010. Cao Tự Thanh: Một số đặc điểm của Nho giáo ở Gia Định, Tạp chí Văn hóa - nghệ
thuật, số 12 - 1995.
011. Cao Tự Thanh: Nho giáo ở Gia Định, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1996.
012. Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục, Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962.
013. Cao Xuân Dục: Quốc triều hương khoa lục, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1994.
014. Cục Lưu trữ nhà nước, Đại học Huế, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và giao
lưu văn hóa: Mục lục châu bản triều Nguyễn, Nxb. Văn hóa, 1998.

56.10 Page 560

▲back to top


015. Cửu Long Giang và Toan Ánh: Người Việt đất Việt, Nam chi tùng thư, Sài Gòn,
1967.
016. Christophoro Borori: Xứ Đàng Trong 1621, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1998.
017. Chu Quang Trứ: Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb. Thuận Hóa, 1996.
018. Dương Kinh Quốc: Việt Nam: những sự kiện lịch sử 1945 - 1958, Nxb. KHXH, Hà
Nội, 1981, 1982, tập 1 và 2.
019. Diệp Đình Hoa: Làng Bến Cá xưa và nay, Nxb. Đồng Nai, 1998.
020. Diệp Đình Hoa: Làng Bến Gỗ xưa và nay, Nxb. Đồng Nai, 1995.
021. Đàm Văn Chí: Lịch sử văn hóa Việt Nam - sinh hoạt trí thức, Nxb. Trẻ, 1992.
022. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, tái bản, Nxb. Thuận Hóa, 1992.
023. Đào Duy Anh: Hán Việt tự điển, tái bản, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.
024. Đào Duy Anh: Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, Khoa sử
trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 1992.
025. Đỗ Bang: Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn - những vấn
đề đặt ra, Nxb. Thuận Hóa, 1998.
026. Đỗ Bang (chủ biên): Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1884,
Nxb. Thuận Hóa, 1997.
027. Đỗ Thị Hảo, Mai Ngọc Chúc: Các nữ thần Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1993.
028. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 1996.
029. Đinh Gia Khánh: Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb. KHXH, Hà Nội,
1989.
030. Đinh Gia Khánh: Tục thờ mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam
- tạp chí Văn học 5 - 1992.
031. Đinh Gia Khánh: Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á,
Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.
032. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên: Văn học dân gian, Nxb. Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, tập 1 (1972), tập 2 (1973).
033. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên): Lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện đại, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1994.
034. Đinh Gia Khánh: Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của văn hóa Việt
Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995.
035. Đinh Xuân Lâm (chủ biên): Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ
20, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997.
036. Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải: Nghiên cứu Việt Nam - một số vấn đề lịch sử -

57 Pages 561-570

▲back to top


57.1 Page 561

▲back to top


kinh tế - xã hội - văn học, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1998.
037. Fascicle (L.): Monographie de la province de Bien Hoa, 1901, bản dịch của Nguyễn
Yên Tri, tài liệu đánh máy.
038. Hà Nhật Thăng, Đào Thanh Âm: Lịch sử giáo dục thế giới, Nxb. Giáo Dục, 1997.
039. Hà Văn Cầu: Phong tục Việt Nam, cưới gả và tuổi vợ tuổi chồng, Nxb. Hội nhà văn,
1992.
040. Hồ Hữu Nhựt: Phong trào đấu tranh chống Mỹ của giáo chức, học sinh, sinh viên
Sài Gòn, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1984.
041. Hồ Ngu Thụy: Tam khôi bị lục, Bộ giáo dục, Trung tâm học liệu xb., Sài Gòn, 1968.
042. Hoàng Thơ: Lược khảo truyện Thủ Huồng, tài liệu đánh máy, 1995.
043. Huỳnh Lứa: Vài nét về cuộc di chuyển dân cư và khai thác những vùng đất mới ở
Đồng Nai - Gia Định trong các thế kỷ 17, 18 - tạp chí NCLS, số 3 - 1978.
044. Huỳnh Lứa (chủ biên): Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, Nxb. TP. Hồ Chí Minh,
1985.
045. Huỳnh Ngọc Trảng: Địa Nàng, chặp Bóng, tuồng Nam bộ, Nxb. TP. Hồ Chí Minh,
1992.
046. Huỳnh Ngọc Trảng: Hát sắc bùa Phú Lễ, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.
047. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc: Tượng mục đồng, Nxb. Văn hóa, 1996.
048. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường: Nghìn năm bia miệng (2 tập), Nxb. TP.
Hồ Chí Minh, 1994.
049. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Hồ Tường: Đình Nam bộ, tín ngưỡng
và nghi lễ, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1994.
050. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Hồ Tường, Xuân Vũ, Lữ Huỳnh
Phụng: Ông Địa, tín ngưỡng và tranh tượng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1994
051. Huỳnh Tới: Đền Hùng vương ở Biên Hòa, Nxb. Đồng Nai, 1993.
052. Huỳnh Tới: Lễ Hội Dinh Cô - tạp chí Văn hóa dân gian, số 1 - 1996.
053. Huỳnh Tới (biên soạn và chỉnh lý): Truyện dân gian Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai,
1994
054. Huỳnh Tới (chủ biên): Người Châu Ro ở Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, 1997.
055. Huỳnh Tịnh Của: Đại Nam quốc âm tự vị, bản in của Công ty phát hành sách TP.
Hồ Chí Minh, 1988.
056. Huỳnh Thao: Chặp Địa - Nàng, hát Bóng Rỗi ở Đồng Nai, tạp chí VHNT, số 3 -
1996.
057. Kiều Văn Chương, Lê Thanh Hoàng Dân: Các vấn đề giáo dục, Trẻ xb., Sài Gòn,
1971.

57.2 Page 562

▲back to top


058. Lê Anh Dũng: Con đường tam giáo Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1994.
059. Lê Anh Dũng: Quan Thánh xưa và nay, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1995.
060. Lê Thị Thanh Hòa: Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802
- 1884, Nxb. KHXH, 1988.
061. Lê Trọng Ngoạn, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý: Lược khảo và tra cứu về học
chế, quan chế ở Việt Nam từ 1945 trở về trước, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1997.
062. Lê Trung Hoa: Họ và tên người Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1992.
063. Lê Trung Vũ (chủ biên), Lê Hương Kỳ, Nguyễn Hương Liên, Nguyễn Quang Lê:
Tết cổ truyền người Việt, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1996.
064. Lê Trung Vũ, Lưu Kiếm Thanh, Nguyễn Hồng Dương: Nghi lễ đời người, Nxb.
VHDT, Hà Nội 1996.
065. Lê Văn Hưu: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993, tập I.
066. Lê Văn Kỳ: Tìm hiểu một số ý nghĩa về tục thờ Thành hoàng không có sắc phong qua
truyền thuyết, lễ hội, tạp chí VHDG, số 4 - 1993.
067. Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng: Khảo cổ Đồng Nai, Nxb. Đồng
Nai, 1991
068. L.M. Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Nxb. Hiện đại, Sài Gòn, 1959,
quyển I.
069. Lê Xuân Quang: Thờ thần ở Việt Nam (tập 1, tập 2), Nxb. Hải phòng, 1996.
070. Lư Nhất Vũ, Lê Giang: Tìm hiểu dân ca Nam bộ, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1983.
071. Lư Nhất Vũ, Lê Giang: Dân ca Sông Bé - Sở VHTT Sông Bé, 1991.
072. Lương Văn Lựu: Biên Hòa sử lược - 3 tập - tác giả xb.
073. Mạc Đường: Xã hội người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 1994.
074. Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (15 tập), Nxb. Thuận Hóa,
Huế, 1993.
075. Ngô Đức Thịnh (chủ biên): Đạo mẫu ở Việt Nam - tập 1,2, Nxb. VHTT, Hà Nội,
1996.
076. Ngô Đức Thịnh (chủ biên): Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 1993.
077. Ngô Đức Thọ: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919, Nxb. Văn học, 1993.
078. Ngô Văn Doanh, Vũ Quang Thiện: Những phong tục lạ ở Đông Nam Á, Nxb. VHTT,
Hà Nội, 1996.
079. Nguyễn Đăng Duy: Văn hóa tâm linh Nam bộ, Nxb. Hà Nội, 1977.
080. Nguyễn Đăng Thục: Lịch sử tư tưởng Việt Nam (6 tập), tái bản, Nxb. KHXH, 1992.

57.3 Page 563

▲back to top


081. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) - Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám 1945, Nxb. Giáo dục, 1996.
082. Nguyễn Đình Đầu: Tổng kết nghiên cứu Địa bạ Nam kỳ lục tỉnh, Nxb. TP. Hồ Chí
Minh, 1994.
083. Nguyễn Ái Quốc: Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975.
084. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường: Văn hóa và cư dân vùng đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990.
085. Nguyễn Duy Hinh: Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1996.
086. Nguyễn Hiền Đức: Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1996.
087. Nguyễn Khắc Viện: Bàn về đạo Nho, Nxb. Thế giới - Hà Nội, 1993.
088. Nguyễn Liên Phong: Nam kỳ phong tục nhân vật diễn ca, bản in của nhà in Phát
Toán, Sài Gòn, 1909.
089. Nguyễn Phương Thảo: Văn hóa dân gian Nam bộ, những phác thảo, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 1994.
090. Nguyễn Phan Quang: Góp thêm tư liệu Sài Gòn - Gia Định từ 1945 - 1954, Nxb.
Trẻ, 1998.
091. Nguyễn Phan Quang: Việt Nam cận đại - những sử liệu mới, Nxb. TP. Hồ Chí Minh,
1998, tập 2.
092. Nguyễn Phong Nam (chủ biên): Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn,
Nxb. Giáo dục, 1997.
093. Nguyễn Quy Thắng: Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. VHTT, 1993.
094. Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Lứa, Trần Hồng Liên: Những ngôi chùa ở Nam bộ,
Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1994.
095. Nguyễn Quang Ngọc: Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998
096. Nguyễn Sĩ Giác (phiên âm và dịch nghĩa): Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb. TP. Hồ
Chí Minh, 1993.
097. Nguyễn Thanh Nhân: Đóng góp một nền giáo dục dân chủ Việt Nam trong tương
lai, Minh Tâm xb., Sài Gòn, 1969.
098. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Trình Bày
xb., 1968.
099. Nguyễn Thế Anh: Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa Thiêng xb., 1970.
100. Nguyễn Thế Long: Nho giáo ở Việt Nam - giáo dục và khoa cử, Nxb. giáo dục, 1995.
101. Nguyễn Thiệu Lâu: Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mau, 1994.
102. Nguyễn Văn Cường: Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong
kiến, Nxb. Giáo dục, 1998.

57.4 Page 564

▲back to top


103. Nguyễn Văn Mại: Việt Nam phong sử, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb., Sài
Gòn, 1972.
104. Nguyễn Yên Tri: Địa lý Đồng Nai lớp 9 - Sở giáo dục - đào tạo Đồng Nai, 1993.
105. Nhất Thanh: Đất lề quê thói, tái bản, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.
106. Nhiều tác giả: Đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
VHTT, Hà Nội, 1995.
107. Nhiều tác giả: Đồng Nai 20 năm xây dựng và phát triển, Nxb. Đồng Nai, 1996.
108. Nhiều tác giả: Đồng Nai di tích văn hóa, Nxb. Đồng Nai, 1993.
109. Nhiều tác giả: Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb. Đồng
Nai, 1998.
110. Nhiều tác giả: Dạy và học trong những năm Nam bộ kháng chiến (1945 - 1954), Nxb.
TP. Hồ Chí Minh, 1995.
111. Nhiều tác giả: Hào khí Đồng Nai - (Thư mục; tập I, II), Thư viện Đồng Nai, 1991.
112. Nhiều tác giả: Hội nghị hội thảo về lễ hội, Vụ VHQC và TV, Hà Nội, 1993.
113. Nhiều tác giả: Một số tôn giáo ở Việt Nam, Ban tôn giáo dục Chính phủ, Hà Nội,
1993.
114. Nhiều tác giả: Một số vấn đề KHXH ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. KHXH, Hà
Nội, 1982.
115. Nhiều tác giả: Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
Viện KHXH và Ban tôn giáo TP. Hồ Chí Minh xb., 1998.
116. Nhiều tác giả: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, 1978,
tập I và II.
117. Nhiều tác giả: Người Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, 1995.
118. Nhiều tác giả: Những vấn đề xã hội thời Nguyễn (Kỷ yếu hội nghị về triều Nguyễn),
Nxb. KHXH, Hà Nội, 1995.
119. Nhiều tác giả: Sài Gòn xưa và nay, Nxb. Trẻ và Tạp chí Xưa và Nay, 1998.
120. Nhiều tác giả: Truyện cổ dân gian Phú Khánh, Nxb. Phú Khánh, 1988.
121. Nhiều tác giả: Văn hóa dân gian, những phương pháp nghiên cứu, Nxb. KHXH, Hà
Nội, 1991.
122. Nhiều tác giả: Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. VHDT,
Hà Nội, 1993.
123. Nhiều tác giả: Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ - ngụy, Nxb. Văn hóa,
Hà Nội, 1979.
124. Nhiều tác giả: Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội,
1983, tập I và II.

57.5 Page 565

▲back to top


125. Nhiều tác giả: Về tôn giáo (tập I), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1994.
126. (Như Hiên) Nguyễn Ngọc Hiền: Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai
sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ XVII, tái bản, Nxb. Đồng Nai, 1995.
127. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu: Đại Nam địa dư toàn biên, Viện sử học và Nxb.
Văn hóa, Hà Nội, 1997.
128. Phan Đại Doãn: Cách "tạo thần" và tôn giáo người Việt, tạp chí Dân tộc học, số 4 -
1990.
129. Phan Đại Doãn, Nguyễn Văn Tường...: Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn,
Nxb. Thuận Hóa, 1998.
130. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí (tập I, II, III), tổ phiên dịch Viện sử
học Việt Nam dịch và chú giải, tái bản, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1992.
131. Phan Kế Bính: Việt Nam phong tục, Sài Gòn, 1970.
132. Phan Khanh: Bảo tàng, Di tích, Lễ hội, Nxb. Thông tin, Hà Nội, 1992.
133. Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong, Khai Trí xb., Sài Gòn, 1970.
134. Phan Ngọc: Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1994.
135. Phan Thúc Trực: Quốc sử di biên, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb., Sài
Gòn, 1972, tập thượng.
136. Phan Trọng Báu: Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb. KHXH, 1994.
137. Phạm Côn Sơn: Gia lễ xưa và nay, Nxb. Đồng Tháp, 1996.
138. Phạm Duy: Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam, Hiện Đại xb., Sài Gòn, 1972.
139. Phạm Minh Hạc: Mười năm đổi mới giáo dục, Nxb. Giáo dục, 1996.
140. Phạm Tất Dong: Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995.
141. Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1994.
142. Phùng Thanh Quang: Lạc quan trên miền Thượng, Tòa giám mục Đà Lạt, 1973.
143. Quách Tấn: Xứ trầm hương, Lá Bối xb., 1970.
144. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện tiền biên (Cao Tự Thanh dịch và
giới thiệu), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1995.
145. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (bản dịch của Phạm Trọng
Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính), tái bản, Nxb. Thuận Hóa, 5 tập, 1992.
146. Quốc sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế,
1998, tập I.
147. Roger Gal: Lịch sử giáo dục, Trẻ xb., Sài Gòn, 1971.
148. Sơn Nam: Đất Gia Định xưa, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1984.
149. Sơn Nam: Đình miễu và lễ hội dân gian, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.

57.6 Page 566

▲back to top


150. Sơn Nam: Bến Nghé xưa, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1984.
151. Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tái bản, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh,
1994.
152. Sơn Nam: Văn Minh miệt vườn, tái bản, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1992.
153. Sở giáo dục - đào tạo: Tài liệu lưu trữ.
154. Tô Ngọc Thanh: Vai trò niềm tin trong đời sống văn hóa dân gian cổ truyền, tạp chí
Văn học, số 5 - 1992.
155. Tô Ngọc Thanh: Về vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn, tạp chí
VHNT, số 9, 10 - 1996.
156. Tô Vũ: Âm nhạc cổ truyền Nam bộ, tạp chí VHNT, số 3 - 1996.
157. Tôcarép (X.A): Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng (bản dịch
của Lê Thế Thép), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
158. Tôn Thị Điệp: Cù Lao Phố từ thế kỷ XII - XVIII (Báo cáo khoa học), tài liệu đánh
máy.
159. Tạ Chí Đại Trường: Thần người và đất Việt, Văn nghệ xb., California, USA, 1989.
160. Thạch Phương, Đoàn Tứ (chủ biên): Địa chí Bến Tre, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991.
161. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh: Văn hóa dân gian người
Việt ở Nam bộ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1992.
162. Thạch Phương, Lê Trung Vũ: 60 lễ hội Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1995.
163. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (chủ biên): Địa chí Long An, Nxb. Long An,
Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990.
164. Thích Viên Thành: Phật Bà chùa Hương, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1996.
165. Thu Linh, Đặng Văn Lung: Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb. Văn hóa, Hà Nội,
1984.
166. Toan Ánh: Nếp cũ, con người Việt Nam, tái bản, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.
167. Toan Ánh: Nếp cũ, hội hè đình đám, quyển thượng và quyển hạ, tái bản, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh, 1992.
168. Toan Ánh: Nếp cũ, tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng và quyển hạ, tái bản, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh, 1992.
169. Toan Ánh: Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1993.
170. Trương Thìn (chủ biên): Hội hè Việt Nam, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1990.
171. Trương Thìn (chủ biên), Nguyễn Chí Bền, Tôn Thất Bình, Nguyễn Minh San:
Văn hóa phi vật thể xứ Huế, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1996.
172. Trần Đại Vinh: Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1995.
173. Trần Đình Hượu: Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hóa, 1996.

57.7 Page 567

▲back to top


174. Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học trung cận đại, Nxb. Văn hóa thông tin, 1995.
175. Trần Bạch Đằng (chủ biên): Địa chí Sông Bé, Nxb. tổng hợp Sông Bé, 1991.
176. Trần Hồng Liên: Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ - Việt Nam từ thế
kỷ XVII đến 1975, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993.
177. Trần Hồng Quân (chủ biên): 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945
- 1995), Nxb. Giáo dục, 1995.
178. Trần Lâm Biền: Chùa Việt, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1996.
179. Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1996.
180. Trần Quốc Vượng: Cái chung và cái riêng trong sự phát triển nền văn hóa Việt Nam,
Tạp chí Dân tộc học, số 4 - 1986.
181. Trần Quốc Vượng: Lễ hội: một cái nhìn tổng thể, Tạp chí VHDG, số 1 - 1986.
182. Trần Quốc Vượng: Suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số
1 - 1980.
183. Trần Quốc Vượng: Xứ Thanh: vài nét về lịch sử văn hóa, Tạp chí VHNT, số 4 -
1994.
184. Trần Từ: Dân chủ làng xã, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 - 1991.
185. Trần Thanh Nam (chủ biên): Sơ thảo 30 năm giáo dục miền Nam (1945 - 1975),
Nxb. Giáo dục, 1995.
186. Trần Thanh Phương: Cửu Long địa chí, Nxb. Cửu Long, 1989.
187. Trần Thanh Phương: Minh Hải địa chí, Nxb. Mũi Cà Mau, 1985.
188. Trần Trọng Kim: Nho giáo, Bộ giáo dục, Trung tâm học liệu xb., 1971, quyển
thượng và hạ.
189. Trần Văn Giáp (chủ biên): Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội,
1971, 1972, tập I và II.
190. Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến Cách mạng
Tháng Tám, Nxb. KHXH, Hà Nội, (tập I: 1973, tập II: 1975).
191. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên): Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tập 3, 1990.
192. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên): Địa chí văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tập 1 (1987), tập 2 (1990).
193. Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí (tập thượng, trung, hạ), bản dịch của
Nguyễn Tạo, Nha văn hóa Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb., Sài Gòn, 1972.
194. Trịnh Thi Tấn, Nguyễn Minh Nhựt, Phạm Tuấn: Sài Gòn từ khi thành lập đến
giữa thế kỷ XIX, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1998.
195. Tuần lý Huỳnh Khắc Dụng: Sử liệu Việt Nam, Nha văn hóa, Bộ quốc gia giáo dục
xb., tập số 1, năm 1959.

57.8 Page 568

▲back to top


196. Vương Hồng Sển: Sài Gòn năm xưa, tái bản, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992.
197. Viện KHXH tại TP. Hồ Chí Minh và Bảo tàng lịch sử TP. Hồ Chí Minh: Những
vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn, Nxb. KHXH, 1995.
198. Viện KHXH tại TP. Hồ Chí Minh: Góp phần tìm hiểu lịch sử văn hóa 300 năm Sài
Gòn - TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, 1998.
199. Viện sử học: Đại Việt sử ký tục biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991.
200. Viện triết học: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991.
201. Viện triết học: Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1994.
202. Võ Long Tê: Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam, Nxb. Tư Duy, Sài Gòn, 1965,
cuốn I.
203. Vũ Khiêu: Nho giáo xưa và nay, Nxb. KHXH, 1991.
204. Vũ Ngọc Khánh: Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945, Nxb. Giáo dục,
1985.
205. Vũ Ngọc Khánh: Tín ngưỡng làng xã, Nxb. VHDT, Hà Nội, 1994.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: NẾP SỐNG VẬT CHẤT.................................................
CHƯƠNG II: TẬP QUÁN – TÍN NGƯỠNG...........................................
CHƯƠNG III: VĂN HỌC NGHỆ THUẬT..............................................
CHƯƠNG IV: THẾ DỤC - THỂ THAO..................................................
CHƯƠNG V: GIÁO DỤC –ĐÀO TẠO.....................................................
CHUƠNG VI: BÁO CHÍ............................................................................
CHƯƠNG VII: Y TẾ..................................................................................
CHƯƠNG VIII: CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI..........................................
ĐỊA CHÍ ĐỒNG NAI
TẬP V: VĂN HÓA – XÃ HỘI
Chịu trách nhiệm xuất bản:
ĐẶNG TẤN HƯỚNG

57.9 Page 569

▲back to top


Biên tập:
BÙI QUANG HUY
Sửa bản in:
VŨ ĐỨC TÚ
DƯƠNG TẤN BỬU
TRẦN HUY ANH
Bìa và phụ bản ảnh:
HỒ VĂN GIÁO
Trình bày và chế bản:
PHAN VĂN TÚ