Anh-hung-LLVT-Dong-Nai-T1

Anh-hung-LLVT-Dong-Nai-T1



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tập I
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI
3

1.4 Page 4

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
CHỦ BIÊN:
HUỲNH VĂN TỚI - NGUYỄN MINH HÙNG
BIÊN SOẠN, BIÊN TẬP:
Huỳnh Văn Tới - Nguyễn Thị Thùy Trang
THAM GIA BIÊN SOẠN:
Hà Thị Thanh Thúy, Đặng Thị Xuân Thắm, Phan Hoàng Oanh
ẢNH:
Tư liệu, Báo Đồng Nai, Báo Lao động Đồng Nai,
Bảo tàng Đồng Nai.
BÌA: Hồ Giáo
4

1.5 Page 5

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Lời mở
Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng. Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh
hùng, sản sinh nhiều anh hùng trong chiến đấu chống quân xâm lược,
dựng nước và giữ nước. Đến khi thực hiện cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, xuất hiện nhiều tấm gương anh hùng trong chiến đấu,
lao động vì độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình cho đất nước. Đó là
những anh hùng thời đại Hồ Chí Minh kết tinh phẩm chất tiêu biểu
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Theo thể chế của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
anh hùng trong lao động được đánh giá, ghi danh là Anh hùng Lao
động, anh hùng trong chiến đấu được tuyên dương là Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (AHLLVTND) là danh
hiệu vinh dự cao quí của Nhà nước phong tặng hoặc truy tặng cho
các cá nhân “có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục
vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành
với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách
mạng” và những tập thể “có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung
thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nội bộ đoàn kết tốt; tổ
chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh”(1).
Từ năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam và Hội Liên Việt chủ trương tổ chức Đại hội liên hoan anh hùng
và chiến sĩ thi đua để khích lệ và tuyên dương những tấm gương tiêu
biểu chiến đấu và lao động trong phong trào thi đua yêu nước. Đại hội
Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc Lần đầu tiên được tổ chức ngày
19/5/1952 tại Việt Bắc.
Đại hội đã nghe báo cáo và tuyên dương một số gương anh hùng
tiêu biểu, thống nhất tên gọi 2 danh hiệu: Anh hùng chiến đấu và
(1) Quy định của Luật Thi đua Khen thưởng, ngày 26/11/2003 (Điều 60).
5

1.6 Page 6

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Anh hùng lao động. Tại Đại hội, Tổng Thư ký Đảng Lao động Việt
Nam - Trường Chinh có bài phát biểu quan trọng “Thi đua ái quốc
với chủ nghĩa anh hùng mới”. Nội dung bài phát biểu của đồng chí
Trường Chinh đã nêu rõ quan điểm, chủ trương của Đảng và vai trò,
ý nghĩa của anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động trong phong
trào thi đua ái quốc với chủ nghĩa anh hùng cách mạng theo tư duy
mới. Bài phát biểu giải thích cội nguồn và đặc điểm của người anh
hùng mới: Anh hùng mới chỉ có thể, không có gì là “siêu nhân” hết.
Phong trào thi đua ái quốc là nguồn vô tận đẻ ra anh hùng mới và
cán bộ tốt. Người anh hùng mới là người có lập trường giai cấp rất
vững, luôn luôn phân biệt rõ ta và địch, bạn và thù, luôn luôn trung
thành với nhân dân, vì quần chúng nhân dân mà hy sinh phấn đấu,
có tinh thần phụ trách trước cơ quan lãnh đạo và trước quần chúng,
không vì lợi ích của cá nhân mình mà quên lợi ích của đoàn thể, của
nhân dân. Khi chiến đấu thì lấy tinh thần anh dũng mà tiêu diệt quân
thù, khi sản xuất và công tác thì lấy tư cách của người lao động,
người cán bộ, chủ nhân của nhà nước mà làm tròn nhiệm vụ. Đó là
những đức tính của anh hùng mới, anh hùng tập thể, khác hẳn anh
hùng của các thời đại cũ, anh hùng của giai cấp bóc lột hoặc các
anh hùng cá nhân.
Sau kỳ Đại hội lần thứ nhất, ngày 10/8/1952, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh 107/SL tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc
cho 7 chiến sĩ thi đua (gồm 4 Anh hùng quân đội: Nguyễn Quốc Trị,
Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu và Cù Chính Lan; và 3 Anh hùng lao
động: Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh) và Sắc lệnh
108/SL tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất cho 24
chiến sĩ thi đua.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, có thêm 2 lần tuyên dương Anh
hùng quân đội, vào ngày 31/8/1955 và ngày 7/5/1956. Tính đến năm
1970, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn tổ chức thêm 3 kỳ
Đại hội liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc, đã phong
tặng và truy tặng tổng cộng 289 cá nhân và 85 tập thể Anh hùng
(gồm cả Anh hùng quân đội và Anh hùng lao động).
6

1.7 Page 7

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Ở miền Nam, Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng
vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất được tổ chức từ ngày 2
đến ngày 6/5/1965 với gần 150 chiến sĩ thi đua khắp nơi về dự. Tại
Đại hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam và Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền
Nam quyết định tuyên dương 23 Anh hùng quân giải phóng, trong
đó có 2 phụ nữ (Tạ Thị Kiều và Nguyễn Thị Út), và 4 Anh hùng là
dân tộc ít người. Đại hội lần thứ hai diễn ra trong tháng 9 năm 1967,
phong tặng danh hiệu Anh hùng quân giải phóng thêm 47 cá nhân.
Ngày 15/1/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra Pháp lệnh về các danh hiệu vinh dự nhà nước: Anh hùng
lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Hai tháng sau đó,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư 34-TTg ngày 11/3/1970
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh. Theo đó, các danh hiệu vinh dự Nhà
nước về anh hùng được pháp điển hóa; danh hiệu Anh hùng quân đội
được chuyển thành danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
dân. Ở miền Nam, hướng theo Pháp lệnh 1970, tại Đại hội Anh hùng
và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần
thứ ba tổ chức vào năm 1973, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam cũng thay đổi danh hiệu Anh hùng quân
giải phóng thành danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng
miền Nam.
Sau khi đất nước thống nhất, 2 danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân ở miền Bắc và Anh hùng Lực lượng vũ trang giải
phóng miền Nam ở miền Nam thống nhất thành một danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo Pháp lệnh 1970, các danh hiệu vinh dự Nhà nước: Anh hùng
lao động và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xét và quyết định theo đề nghị của Hội đồng
Chính phủ. Theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng 2003,
Quyết định phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân do Chủ tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
7

1.8 Page 8

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nam ký theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Cá nhân được phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được cấp
bằng và Huy hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tập thể
được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
được cấp bằng, Huy hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và
cờ “Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.
Việc phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân trên cả nước, trong thời gian qua đã tạo ra động lực
tinh thần, niềm tin, và lòng tự hào ở cán bộ và nhân dân khắp các
lĩnh vực, các địa phương trong phong trào thi đua yêu nước; đã động
viên, biểu dương và truyền lửa cho các thế hệ, các tầng lớp nhân dân
học tập, noi theo, làm theo tấm gương của các cá nhân và tập thể anh
hùng, làm cho phẩm chất anh hùng nở hoa trong đời sống. Anh hùng
sẽ tiếp nối anh hùng.
Qua các đợt phong tặng và truy tặng, theo tổng hợp chưa thật đầy
đủ, ở Đồng Nai đã có 73(2) tập thể và 31 cá nhân được đón nhận danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Các cá nhân và tập thể
anh hùng đều có thành tích xuất sắc, tiêu biểu trong đấu tranh xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phẩm chất anh hùng của cá nhân và tập
thể đã được ươm mầm, nở hoa, tỏa sáng trong đời sống kháng chiến
chống xâm lược của Đảng bộ và quân dân Đồng Nai anh hùng. Các
tập thể anh hùng LLVTND xuất hiện khắp ở các mặt trận: Trung
ương, địa phương, bộ đội, du kích, đặc công, trinh sát, quân y, dân
y, tình báo, giao thông, thông tin liên lạc, tù chính trị. Có những đơn
vị hiện đã không còn phiên hiệu trong tổ chức nhưng thành tích anh
hùng vẫn là sức mạnh tinh thần trong đời sống (Chi đội 10 Chiến khu
Đ, Đại đội Lam Sơn, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 Đặc công U1, Đội
Trinh sát vũ trang Long Khánh và các đội du kích địa phương trong
kháng chiến...). Có đơn vị đặc biệt toàn nữ (Đội cối Xuân Lộc, còn
(2)Tại thời điểm biên soạn tập sách có 1 xã (xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất)
đang thẩm định hồ sơ đề nghị Chủ tịch Nước công nhận danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
8

1.9 Page 9

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
gọi là Đội nữ pháo binh huyện Xuân Lộc). Có tập thể được phong
tặng đủ các danh hiệu cao quí của Nhà nước: Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động, Đơn vị cấp huyện đạt chuẩn
nông thôn mới (huyện Xuân Lộc, thị xã Long Khánh). Các cá nhân
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cũng vậy, rất nhiều anh hùng
liệt sĩ, có liệt sĩ chưa qua tuổi 20 (Hồ Thị Hương, Lê A), có liệt sĩ
anh hùng là người thuộc dân tộc ít người (Điểu Cải), có anh hùng
là tình báo lỗi lạc (Trần Văn Trung), có những anh hùng là chiến sĩ
đặc công lừng danh (Nguyễn Tấn Vàng, Bùi Văn Hòa, Lê Bá Ước)...
Mỗi người là một bông hoa có hương sắc riêng trong vườn hoa anh
hùng lung linh nhiều màu sắc.
Tập sách Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Đồng Nai
này là tập I trong bộ sách Sáng ngời chất ngọc anh hùng được thực
hiện theo chủ trương của Tỉnh ủy và chỉ đạo của UBND tỉnh Đồng
Nai nhằm lưu giữ có hệ thống tư liệu về anh hùng lực lượng vũ trang
ở Đồng Nai, làm tài liệu nghiên cứu, giáo dục văn hóa lịch sử cách
mạng truyền đời, thiết thực chào mừng Biên Hòa - Đồng Nai 320
năm hình thành và phát triển.
Do mục đích chính trị xã hội phi lợi nhuận, Ban Biên soạn, biên
tập xin được phép tra cứu, sử dụng (có điều chỉnh cho phù hợp) hệ
thống tài liệu, hình ảnh của các cơ quan, đơn vị và cá nhân các tác
giả đã công bố.
Mặc dù đã nhiều cố gắng, nhưng Ban Biên soạn, biên tập vẫn
chưa tập hợp đầy đủ tài liệu về các tập thể và cá nhân anh hùng trong
tập sách này, nhiều thông tin sai lạc chưa kiểm chứng được, chất
lượng hình ảnh chưa cao, chưa phản ảnh đầy đủ các giá trị anh hùng
thực có của tập thể và cá nhân anh hùng. Kính mong các tập thể, cá
nhân anh hùng cùng gia đình và người thân lượng thứ cho những
thiếu sót không đáng có. Xin trân trọng ghi nhận ý kiến góp ý của
người đọc để có dịp bổ sung, bổ khuyết, nâng cao chất lượng tập
sách cho hoàn chỉnh.
HUỲNH VĂN TỚI
9

1.10 Page 10

▲back to top


2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


PHẦN 1
TẬP THỂ ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
11

2.2 Page 12

▲back to top


2.3 Page 13

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đội biệt động
Thị xã Long Khánh
Thị xã Long Khánh có vị trí chiến lược hết sức quan trọng: nằm trên
trục quốc lộ 1 cách Thành phố Hồ Chí Minh 80km đường bộ về phía
Đông Bắc; Tây Bắc giáp với tỉnh Lâm Đồng lên Tây Nguyên; phía Nam
thị xã giáp với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Do đó, từ năm 1965, địch từng bước tập trung xây dựng thị xã Long
Khánh thành một cứ điểm quân sự quan trọng thuộc tuyến phòng thủ thứ
3 ở phía Đông Bắc Sài Gòn. Địch tập trung nhiều căn cứ, hậu cứ quân
sự quan trọng, nhiều loại lực lượng: sư đoàn 18 bộ binh, thiết giáp, pháo
binh, bảo an, dân vệ, tình báo, cảnh sát... để đánh phá cách mạng.
Đội biệt động thị xã Long Khánh(1) được thành lập năm 1965 gồm 4
đồng chí, có những lúc đơn vị được bổ sung lực lượng nhưng thường
không quá 10 đồng chí. Đội có nhiệm vụ đánh địch trong nội ô, đánh các
chỉ huy sở, kho tàng hậu cứ địch đi đôi với nhiệm vụ diệt ác phá kìm,
đánh phá bình định, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân
dân địa phương. Chiến đấu trong một địa bàn phức tạp, lực lượng của
địch dày đặc với quân số đông, nhưng với quyết tâm cao nhất và cùng
với tinh thần mưu trí, dũng cảm, đội đã kiên trì bám trụ, xây dựng cơ sở
tạo địa bàn diệt địch với hiệu suất cao, hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu
tranh chính trị của nhân dân thị xã, được nhân dân tin yêu. Với phương
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
13

2.4 Page 14

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
châm luồn sâu, tạo bất ngờ và phương thức đánh của biệt động đặc công,
đội đã giành được nhiều thành tích xuất sắc.
Trong chiến công của Đội biệt động thị xã Long Khánh nổi bật là các trận:
Sau nhiều ngày điều nghiên, đêm 11/11/1967, đội biệt động gồm 6
đồng chí với vũ khí cá nhân, B40, vũ khí tự tạo đã bí mật tập kích vào
trận địa pháo của địch ngay sát sân bay(2) với nhiều lớp rào phòng thủ
dày đặc. Kết quả, đội đánh diệt 2 đại đội pháo binh, diệt 150 tên địch,
phá hủy 2 dãy nhà lính.
Đặc biệt từ năm 1969-1971, địch tập trung càn quét đánh phá lực
lượng cách mạng ác liệt bằng bom pháo, chất độc hóa học, biệt kích.
Dù phải luôn thay đổi căn cứ, đội vẫn tổ chức nhiều trận đánh vào các
cơ quan đầu não của địch trong nội ô, trong đó có trận đánh vào Bộ Chỉ
huy liên quân Việt - Mỹ nằm phía Đông Nam thị xã. Bộ Chỉ huy liên
quân Việt - Mỹ được bảo vệ chặt chẽ gồm nhiều lớp rào kẽm, gài mìn, hệ
thống lô cốt kiên cố, đèn pha chiếu sáng, xung quanh là các căn cứ của
sư đoàn 18 bộ binh, khu thiết giáp, an ninh quân đội... Đêm 19/11/1970,
6 chiến sĩ biệt động trang bị AK, B40, mìn định hướng ĐH10 dũng cảm
khéo léo vượt qua các vòng rào, lô cốt gác, các căn cứ địch bao quanh,
đột nhập và tiến công mãnh liệt vào Bộ Chỉ huy liên quân Việt - Mỹ.
Các chiến sĩ diệt 13 sĩ quan (từ đại úy đến đại tá), làm bị thương 5 tên
khác, phá hư 2 máy bay lên thẳng. Trận đánh thắng lợi đã làm đảo lộn
kế hoạch hành quân của địch, buộc chúng phải đưa lực lượng từ ngoài
vào trong để đối phó.
Đội biệt động thị xã Long Khánh còn tích cực đánh địch bên ngoài
nhằm bẻ gãy âm mưu bình định của địch ở các ấp ven thị xã Long
Khánh. Đêm 16/8/1972, đội chia làm 3 tổ chiến đấu tổ chức đánh đồn
và diệt lính tiếp viện tại ấp Bảo Vinh A. 5 giờ sáng 17/8/1972, ta nã pháo
vào đồn. Đến 7 giờ sáng, quân địch từ tiểu khu Long Khánh vào giải tỏa,
lọt vào ổ phục kích bằng mìn gài của đội. Đội tiến công diệt 1 trung đội
bảo an, tiêu hao 2 trung đội khác, làm 17 tên chết và 5 tên bị thương, bắt
1 tù binh, thu 2 súng và 1 máy thông tin.
Đêm 15/9/1972, Đội biệt động thị xã Long Khánh tổ chức đánh theo
(2) Sân bay Tiểu khu Long Khánh
14

2.5 Page 15

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phương thức đặc công vào đồn cầu Bốn Thước (bảo vệ đoạn đường sắt
Long Khánh - Bảo Chánh) của địch, cách thị xã 4km về phía Tây Bắc,
do 2 trung đội dân vệ đóng giữ. Sau khi bí mật vượt qua các chướng ngại
vật, lúc 24 giờ đội bắt đầu tiến công địch bằng lựu đạn. Đặc biệt là trong
trận đánh này, đội đã dùng vũ khí địch để đánh địch đạt hiệu quả cao,
hủy diệt hoàn toàn đồn cầu Bốn Thước, diệt 2 trung đội dân vệ gồm 26
tên, làm bị thương 5 tên, thu 5 súng (có 1 đại liên), 2 máy thông tin và
nhiều đồ dùng quân sự.
Trong chiến dịch Xuân Lộc, giải phóng thị xã Long Khánh, đội góp
phần lớn trong việc giải phóng các vùng ven thị xã, tạo địa bàn cho chủ
lực tiến công, làm nhiệm vụ trinh sát, dẫn đường bộ đội đánh các cơ
quan đầu não địch, giành thắng lợi.
Trong 10 năm chiến đấu liên tục, Đội biệt động thị xã Long Khánh
luôn luôn chủ động tiến công địch và tiến công mãnh liệt, giành nhiều
thắng lợi xuất sắc. Đội đã đánh 292 trận lớn, nhỏ, diệt và làm bị thương
4.491 tên địch, trong đó có 130 tên Mỹ, 145 sĩ quan các cấp, từ chuẩn úy
đến đại tá, diệt 104 tên cảnh sát các loại, 18 tên tình báo, 2 tên trưởng đồn,
6 tên bình định, 2 tên tề ấp ác ôn. Đội còn diệt gọn 1 đại đội pháo binh, 1
trung đội bảo an, 2 trung đội dân vệ, phá rã 3 đội phòng vệ dân sự; thu 24
súng các loại, 5 máy thông tin, 1 xe jeep, diệt 24 xe quân sự, phá hủy 1
khẩu pháo 175 ly, một máy ra đa, đốt 216 ngàn lít xăng, 1 nhà Bộ Chỉ huy
sở liên quân Việt - Mỹ, 5 dãy nhà của khu pháo, 1 đầu máy xe lửa, bắn rơi
3 máy bay lên thẳng, bắn cháy 3 chiếc khác (có 1 chiếc L19), đánh sập
11 lô cốt, nhà ở lính, diệt một đồn, san bằng 5 đồn (4 đồn cấp trung đội).
Trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ, đội đã kết nạp 19
đảng viên, 25 đoàn viên; đào tạo 3 cán bộ đại đội, 14 cán bộ trung đội,
16 cán bộ tiểu đội, 4 cán bộ chính trị; xây dựng được một đội biệt động
mật gồm 5 đồng chí. Đội đã được khen thưởng 12 Huân chương Kháng
chiến (1 hạng Nhất, 2 hạng Nhì, 9 hạng Ba), 5 năm liền đạt danh hiệu
Thành đồng Quyết thắng.
Ngày 3/6/1976, Đội biệt động thị xã Long Khánh được Nhà nước
và Chính phủ tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
15

2.6 Page 16

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội dân quân du kích
xã Bình Lộc
Xã Bình Lộc, nay là ấp Bình Lộc, xã Xuân Bình, huyện Xuân Lộc.
Bình Lộc cách thị xã Long Khánh 3km đường chim bay ở phía Đông
Nam hợp cùng 2 ấp Bảo Vinh, Suối Chồn thành một vành đai án ngữ
thị xã; phía Tây Nam là nông trường cao su; Đông và Đông Bắc giáp
rừng và các vườn cây ăn trái.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Bình Lộc là một trong
những cửa khẩu hậu cần của Thị ủy Long Khánh và Huyện ủy Xuân
Lộc; là địa bàn bám trụ và tiến công vào thị xã của lực lượng cách
mạng. Xác định đây là địa bàn trọng yếu của ta nên địch cố ra sức
đánh phá và đàn áp phong trào cách mạng ở Bình Lộc để bảo vệ các
cơ quan đầu não của chúng trong thị xã.
Tại Bình Lộc, địch đóng 3 đồn, 2 bót do 1 đại đội bảo an, 2 trung
đội dân vệ đóng giữ, ngoài ra còn có 1 đội phòng vệ dân sự và 1 bộ
máy tề ấp. Địch bố trí mạng lưới tình báo, gián điệp tại Bình Lộc dày
đặc để đánh phá cơ sở, phong trào cách mạng. Trong từng đợt, địch
tăng cường thêm sư đoàn 18 bộ binh và lữ đoàn dù 199 của quân đội
Mỹ.
Năm 1964, Đội dân quân du kích xã Bình Lộc(1) được thành lập
gồm 4 đồng chí. Tuy thành lập muộn so với các nơi khác, nhưng đội
dân quân du kích xã Bình Lộc hình thành vào thời điểm phong trào
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
16

2.7 Page 17

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cách mạng lên cao sau chiến thắng Bình Giã. Đội tập trung vào nhiệm
vụ diệt ác, phá kìm xây dựng cơ sở, đánh phá ấp chiến lược với sự hỗ
trợ của lực lượng tỉnh, huyện. Đến giữa năm 1965, hàng rào ấp chiến
lược tại Bình Lộc bị phá hoàn toàn, xã được giải phóng. Đội dân quân
du kích xã Bình Lộc phát triển với lực lượng hơn 1 tiểu đội.
Năm 1966, địch mở rộng thị xã Long Khánh nên đã tổ chức càn
quét, đánh phá Bình Lộc để lập vành đai trắng. Ngày 3/1/1967, địch
dùng xe ủi, xe quân sự càn sâu vào xã xúc tát dân địa phương đi, đồng
thời đưa dân di cư từ miền Trung vào thay thế để làm mất thế bám trụ
của cán bộ và du kích. Tuy gặp khó khăn, toàn đội du kích vẫn thực
hiện phương châm bám ấp, gần dân, vừa củng cố cơ sở vừa diệt ác
phá kìm.
Đêm 5 rạng ngày 6/12/1968, Đội dân quân du kích xã Bình Lộc
cùng bộ đội tỉnh (D445 tỉnh Bà Rịa - Long Khánh) tiến công bọn bình
định tại xã, san bằng 2 đồn địch, diệt 75 tên, đánh bại âm mưu “bình
định cấp tốc” của địch ở xã Bình Lộc.
Giai đoạn 1969-1971 là những năm khó khăn ác liệt nhất, nhưng
đội đã xây dựng được cơ sở và du kích mật bên trong, vẫn kết hợp
được lực lượng chiến đấu bên trong và bên ngoài, đánh địch có hiệu
quả. Tháng 7-1969, 1 nữ du kích mật Bình Lộc với 1 quả mìn định
hướng tự tạo ĐH.10 đã đánh diệt 25 tên địch, trong đó có 2 trung úy
và 4 tên chiêu hồi. Ngày 24/8/1969, đội bẻ gãy 1 trận càn vào xã của
lính sư đoàn 18, diệt 1 tiểu đội. Phong trào cách mạng phát triển mạnh
làm bọn tề xã ấp hoang mang, ban đêm đều trốn chạy vào thị xã.
Từ năm 1970, Đội dân quân du kích xã Bình Lộc còn mở rộng địa
bàn hoạt động vào nội ô thị xã Long Khánh, cùng với đội biệt động
và trinh sát vũ trang thị xã gây cho địch nhiều thiệt hại, diệt ác đúng
đối tượng, hỗ trợ phong trào đấu tranh của nhân dân thị xã, đập tan lời
huênh hoang của địch rằng “thị xã Long Khánh là nơi an toàn”.
Đêm 25/4/1970, 3 du kích mật Bình Lộc với 2 quả lựu đạn đã đánh
vào 1 quán ăn trong nội ô thị xã diệt 40 tên địch, trong đó có 2 đại úy,
3 tên bình định cùng bọn CIA Mỹ. Tháng 2/1971, bằng lối đánh biệt
động, 3 du kích mật Bình Lộc dùng lựu đạn đánh diệt 47 sĩ quan Mỹ
17

2.8 Page 18

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tại rạp hát Đồng Tâm.
Trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, Đội dân quân du kích
Bình Lộc đẩy mạnh hoạt động vũ trang diệt ác bên trong, đánh địch
bên ngoài tạo điều kiện cho nhân dân đấu tranh với địch. Tháng
5/1972, đội diệt trưởng ấp ác ôn tên Thơ ở địa điểm chỉ cách đồn giặc
200 mét, sự việc diễn ra giữa ban ngày khiến bọn ác ôn khác đều kinh
sợ. Tên trưởng ấp khác vừa vào thay thế cũng bị du kích diệt cùng 2
tên bình định khác. Cách mạng hoàn toàn làm chủ ở xã về đêm.
Tháng 9/1972, đội du kích kết hợp với cơ sở bên trong bao vây
địch trong các đồn bót, vừa tập kích, phục kích vừa phát loa binh vận,
kêu gọi địch ra hàng. Suốt 1 tháng, đội đã diệt 20 tên (có 1 thiếu tá),
phá hủy 1 xe jeep, bức rút 1 đồn, 2 bót do 1 đại đội bảo an và 2 trung
đội dân vệ đóng giữ. Lực lượng cách mạng đã giải phóng Bình Lộc
trong 2 tháng.
Với tinh thần tự lực, lấy vũ khí địch diệt địch, du kích Bình Lộc
dùng đầu đạn pháo 105 ly gắn ngòi nổ tự động để gài, đánh địch.
Ngày 1/12/1972, địch đi càn phát hiện, chúng vừa cắt dây nhấc trái
lên thì nổ, 1 trung đội 12 tên bị diệt gọn.
Kiên quyết đánh địch chống càn quét, lấn chiếm, đêm 19/12/1972
sau nhiều ngày nghiên cứu, đội dùng H20 cải tiến với bệ phóng
bằng cây và mối điện nổ chậm, phóng vào đồn địch từ vị trí chỉ
cách 80 mét, đánh sập 2 lô cốt mới xây, diệt 19 tên, hủy 1 cối 60 ly
và 1 đại liên.
Sau Hiệp định Paris năm 1973, Đội dân quân du kích Bình Lộc
vừa đánh địch lấn chiếm bên ngoài, vừa tổ chức diệt ác bên trong, bảo
vệ được vùng giải phóng. Trong 6 tháng đầu năm 1973, đội đã 15 lần
đánh địch, diệt và làm bị thương 81 tên, tiêu hao 1 đại đội bảo an số
812, 1 trung đội cảnh sát, diệt 2 nữ thám báo, bắt 1 tên gián điệp, thu
nhiều vũ khí. Song song với nhiệm vụ tấn công địch, đội tích cực góp
phần xây dựng vùng giải phóng ở xã vững chắc có từ 100 đến 200 gia
đình, có trường học và tủ thuốc phục vụ, ổn định được sản xuất và đời
sống nhân dân.
Tháng 2/1975, Thị ủy Long Khánh chủ trương gỡ đồn bót địch,
18

2.9 Page 19

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
giải phóng các xã ven, tạo địa bàn cho lực lượng chủ lực tiến công vào
thị xã. Đội du kích Bình Lộc kết hợp cơ sở bên trong tiến hành vây lấn
địch trong đồn bót; tổ chức từng tốp dân cho “di tản ngược” từ trong
rẫy ra, phao tin quân giải phóng chuẩn bị đánh đồn làm địch hoang
mang; sử dụng máy cày của dân cho nổ máy, giả làm xe tăng hù dọa
địch. Cuối tháng 3/1975, bọn bảo an, dân vệ ở Bình Lộc bỏ đồn, bót
rút chạy vào thị xã Long Khánh.
Chỉ tính trong 3 năm (từ năm 1970 đến tháng 6/1973), đội dân
quân du kích Bình Lộc đã tác chiến 150 trận diệt 930 tên địch các loại
(trong đó có 99 lính và sĩ quan Mỹ, 30 sĩ quan quân đội Sài Gòn từ
cấp úy đến cấp tá); diệt 32 tên tề xã, ấp, 34 tên cảnh sát, bình định; bắt
sống 10 tên gián điệp, tình báo; phá hủy 17 xe quân sự, thu nhiều vũ
khí đạn dược và đồ dùng quân sự; tháo gỡ 15 quả mìn, hàng trăm lựu
đạn để đánh địch; vận động 40 thanh niên tòng quân, phát triển thêm
nhiều đảng viên, đoàn viên.
Với thành tích đó, đội dân quân du kích xã Bình Lộc đã được tặng
thưởng 17 Huân chương Chiến công cho tập thể và cá nhân (gồm 6
Huân chương Chiến công hạng Nhì, 11 Huân chương Chiến công
hạng Ba); 1 cờ Mười năm vẻ vang; 1 cờ luân lưu về phong trào du
kích chiến tranh khá nhất năm 1972, 1 cờ Phạm Văn Cội; 13 Huy
hiệu dũng sĩ các loại; 50 bằng khen, giấy khen; 1 chiến sĩ thi đua cấp
quân khu.
Đáng chú ý, năm 1978 liệt sĩ Lê A, nguyên xã đội trưởng, đội
trưởng Đội dân quân du kích Bình Lộc, đã được truy tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Đặc biệt, tháng 6/1976, Đội dân quân du kích xã Bình Lộc vinh
dự được trao tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
19

2.10 Page 20

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội trinh sát vũ trang
Thị xã Long Khánh
Do có vị trí đặc biệt, thị xã Long Khánh trở thành một trong
những cứ điểm trọng yếu nhất thuộc phòng tuyến thứ 3 của địch ở
phía Đông Bắc Sài Gòn. Chúng ưu tiên tập trung lực lượng chính trị
và quân sự khá lớn nhằm bằng mọi giá giữ vững cửa ngõ yết hầu này.
Về chính trị, địch tăng cường bộ máy đàn áp, quản lý hành chính với
lực lượng mật vụ, cảnh sát, tập trung các tôn giáo, đảng phái phản
động để kìm kẹp nhân dân, đánh phá cách mạng. Về quân sự, chúng
bố trí lực lượng sư đoàn 18, thiết giáp, pháo binh, bảo an, dân vệ, tình
báo tiểu khu, cảnh sát dã chiến ở khắp nội ngoại ô thị xã.
Đội trinh sát lực lượng vũ trang thị xã Long Khánh(1) được chính
thức thành lập vào tháng 5/1968, sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân. Ban đầu đội chỉ có 2 đồng chí. Mặc dù lực lượng ít,
thiếu kinh nghiệm hoạt động nhưng đội đã kiên trì bám đất, bám dân,
tuyên truyền gây dựng cơ sở, lấy vũ khí địch để tự trang bị, táo bạo
đột nhập vào thị xã và các ấp vùng ven chủ động đánh địch, diệt ác
phá kìm, góp phần quan trọng đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính
trị trong quần chúng.
Tháng 7/1970, sau khi bổ sung thêm được 1 đồng chí, đội đã tổ
chức thắng lợi trận đánh tiêu diệt tên ác ôn tình báo khét tiếng quỷ
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
quyệt Phan Thanh Hoa giữa ban ngày ở gần ấp chiến lược Bảo Vinh
A. Ngày 12/10/1970, đội tổ chức tiêu diệt Nguyễn Văn Sơn, tên phản
bội đã chỉ điểm và tham gia bắt bớ, đánh phá cách mạng gây nhiều
tội ác, nợ máu đối với nhân dân. Thắng lợi của 2 trận đánh trên đã
làm cho bọn địch chùn lại, quần chúng thêm tin tưởng và sẵn sàng
giúp đỡ, tạo điều kiện cho đội hoạt động. Từ đây Đội trinh sát vũ
trang thị xã Long Khánh đã có cơ sở bám trụ ở vùng ven để xây dựng
bàn đạp, thọc sâu vào nội ô thị xã.
Từ tháng 11/1970, Đội tổ chức đánh sâu vào trong nội ô, tiêu diệt
nhiều sinh lực địch. Đêm 5/11/1970, 3 đồng chí của đội đã cải trang
vượt qua vành đai thị xã, dùng tạc đạn và súng đánh sập quán bar Ly
Ly diệt 11 tên địch gồm 2 đại úy Mỹ, 9 sĩ quan và ngụy quyền cấp
tỉnh của tỉnh Long Khánh(2). Sau một ngày ém quân lại, đêm mùng 5
đội tổ chức rút ra khỏi thị xã trở về đơn vị. Trên đường rút do bị lọt
vào ổ phục kích của địch, 2 đồng chí bị thương nặng đã tình nguyện
ở lại chiến đấu tiêu diệt thêm 11 tên gồm 1 đại úy Mỹ, 10 tên lính bảo
an và làm bị thương 10 tên bảo an khác.
Năm 1971, đội được bổ sung thêm tân binh và tiếp tục đẩy mạnh
hoạt động. Đội đã bắt sống, tiêu diệt, làm bị thương nhiều tên tình báo
CIA, ác ôn, bẻ gãy âm mưu bung ra lấn đất giành dân của địch. Địch
buộc phải co lại, hoang mang lo sợ, không dám tự do đi lại, ruồng bố,
càn quét như trước. Đội đẩy mạnh công tác binh vận, tuyên truyền
kêu gọi, hù dọa địch, đẩy mạnh công tác phát động quần chúng, xây
dựng cơ sở lộ và mật, hình thành một trận địa vững chắc chống tình
báo, gián điệp và sẵn sàng đấu tranh với địch. Phong trào quần chúng
lên mạnh. Đội vận động tổ chức thắng lợi cuộc biểu tình gồm 600
người phản đối địch bắn pháo bừa bãi vào rừng và rẫy của người dân.
Năm 1972, một bộ phận của đội đã anh dũng chiến đấu giành
được thắng lợi trong việc giáng trả địch càn quét lấn chiếm ở khu vực
Đông Nam thị xã. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đội đã góp phần
(2) Tỉnh Long Khánh được chính quyền Sài Gòn thành lập năm 1957.
21

3.2 Page 22

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
xứng đáng vào việc bao vây, tiến công và giải phóng hoàn toàn thị xã
vào ngày 21/1/1975, diệt và bắt sống 151 tên địch.
Tính đến tháng 4/1975, Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh
đã đánh 52 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến 681 tên địch (tiêu diệt
506 tên, làm bị thương 175 tên), trong đó hầu hết là bọn tình báo
CIA, tình báo phượng hoàng, mật vụ, cảnh sát, thám báo, an ninh,
quân đội, bảo an, bình định, bọn đội lốt tôn giáo, đảng phái phản
động, tề ấp ác ôn, bọn chiêu hồi có nợ máu với cách mạng và nhân
dân; phá hủy 3 khẩu pháo, 3 máy bay, 6 xe quân sự, 3 lô cốt, 5 toa và
2 đầu máy xe lửa; thu 7 xe gắn máy, xe đạp, 5 súng, 3 tạc đạn. Đội
cũng tổ chức xây dựng được 26 cơ sở mật, trong đó có 10 cơ sở hoạt
động trong hàng ngũ địch ở ty cảnh sát, chi cảnh sát, tề xã ấp, đảng
phái chính trị tôn giáo.
Ra đời chậm, lực lượng nhỏ, ít được đào tạo nghiệp vụ cũng như
trang bị vũ khí, lại hoạt động trên một địa bàn phức tạp và xung yếu
của địch, nhưng Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh đã vừa
chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, từng bước trưởng thành. Với tinh
thần cách mạng tiến công không quản gian khổ hy sinh, Đội đã chủ
động tự trang bị huấn luyện, liên tục đánh địch giành được những
thắng lợi quân sự có tác dụng to lớn, xây dựng được hệ thống cơ sở
cách mạng sâu rộng, góp phần đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính
trị ở thị xã lên cao.
Với những thành tích xuất sắc trên, Đội trinh sát vũ trang thị xã
Long Khánh đã được khen thưởng: 2 Huân chương Chiến công hạng
nhì; 1 Huân chương Chiến công hạng Ba; 1 Huân chương Chiến
công hạng Nhất; 8 bằng khen, giấy khen cấp tỉnh, huyện. Và năm
1976, đội được vinh dự đón nhận danh hiệu tập thể Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
22

3.3 Page 23

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đội dân quân du kích
xã Bảo Vinh
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bảo Vinh đối
với địch là một ấp ven của thị xã Long Khánh, còn với cách mạng
xã Bảo Vinh thuộc huyện Xuân Lộc.
Từ năm 1966, địch xây dựng thị xã Long Khánh thành một căn
cứ quân sự với nhiều đồn bót, hậu cứ quan trọng. Xã Bảo Vinh
được chuyển giao về thị xã Long Khánh do Thị ủy Long Khánh
chỉ đạo để xây dựng địa bàn đứng chân cho các lực lượng vũ trang
thị xã tiến công địch trong nội ô thị xã.
Thời điểm này, dân số Bảo Vinh khoảng 3 ngàn người, sống
trong 3 ấp A, B, C gồm nhiều thành phần dân tộc Kinh, Hoa,
Nùng, Chơ-ro, trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số; người dân hầu
hết đi làm rẫy. Dưới chế độ Sài Gòn do cuộc sống khổ cực, luôn bị
áp bức bóc lột nên người dân Bảo Vinh có tinh thần đấu tranh cao.
Xã Bảo Vinh nằm trên trục đường nối liền với thị xã Long
Khánh và căn cứ chiến đoàn 52 sư đoàn 18 của địch. Với cách
mạng, Bảo Vinh là nơi đứng chân, cửa khẩu hậu cần của Thị
ủy Long Khánh và Huyện ủy Xuân Lộc. Địch lấy Bảo Vinh làm
vành đai bảo vệ thị xã, ngăn chặn lực lượng cách mạng, do đó tập
trung lực lượng kìm kẹp và đánh phá Bảo Vinh rất ác liệt. Thường
xuyên, tại đây có 1 đại đội bảo an, 1 trung đội dân vệ, 1 đội dân vệ
và 1 bộ máy tề ấp. Ngoài ra, trong từng đợt địch còn tăng cường
quân chủ lực tiểu khu Long Khánh, sư đoàn 18, lữ đoàn dù 199
23

3.4 Page 24

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
của quân đội Mỹ vào đây càn quét với mức độ bom pháo dữ dội
nhằm đánh bật các lực lượng cách mạng ra khỏi địa bàn. Trong
suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Bảo Vinh luôn luôn ở thế
tranh chấp mạnh giữa ta và địch, có lúc xã được giải phóng.
Sau chiến thắng Bình Giã vào năm 1964, phong trào cách mạng
diễn ra khắp nơi trong tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Trong phong
trào chung đó, Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh(1) được thành lập
gồm 5 đồng chí, làm nòng cốt trong đấu tranh vũ trang, xây dựng
cơ sở, diệt ác phá kìm, phá ấp chiến lược, tạo địa bàn dừng chân
cho các lực lượng cách mạng tiến công vào thị xã Long Khánh
cũng như cơ quan đầu não của địch ở tiểu khu Long Khánh.
Đi đôi với hoạt động diệt ác phá kìm, Đội dân quân du kích xã
Bảo Vinh cũng phát động nhân dân phá ấp chiến lược. Đến cuối
năm 1965, ấp chiến lược xã Bảo Vinh bị phá tan, Bảo Vinh được
giải phóng, bọn tề ấp tan rã, bỏ chạy vào cả thị xã Long Khánh.
Năm 1966, lính Mỹ và lính sư đoàn 18 vào càn quét Bảo Vinh,
lập lại bộ máy tề ấp, củng cố đồn bót, ủi phá vườn tược, cây ăn
trái của nhân dân để lập vành đai trắng quanh thị xã Long Khánh.
Do xây dựng được cơ sở ở bên trong, có chi bộ mật lãnh đạo, Đội
dân quân du kích xã Bảo Vinh vẫn bám được ấp, dùng lối đánh sở
trường của mình là phục kích, gài mìn và trái gây cho địch nhiều
thiệt hại. Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh còn xây dựng xây
dựng được nhiều du kích mật bên trong để diệt ác phá kìm, làm
bọn địch co cụm lại.
Trong đợt tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968,
Bảo Vinh là căn cứ xuất phát của lực lượng vũ trang tỉnh, huyện
vào thị xã Long Khánh. Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh là lực
lượng trinh sát và dẫn đường cho bộ đội. Nổi bật trong đợt này,
Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh kết hợp cơ sở cách mạng tiến
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
24

3.5 Page 25

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
công 3 mũi, vận động một trung đội bảo an ở đồn Bảo Vinh A
mang súng trở về với nhân dân.
Sau năm 1968, địch chọn Bảo Vinh làm điểm tiến hành âm mưu
bình định cấp tốc, xúc tát dân địa phương ở Bảo Vinh đi nơi khác,
vừa đánh phá bằng bom pháo vừa kết hợp đánh biệt kích gài trái
trong rừng, trong vườn cây để ngăn chặn ta từ xa. Được cơ sở và
nhân dân tích cực giúp đỡ, đội nhiều lần bám ấp kết hợp với Đội
trinh sát vũ trang thị xã tổ chức đánh địch trên trục lộ giao thông,
chống địch ủi phá địa hình, cổ vũ được phong trào đấu tranh của
nhân dân. Đêm 22 rạng sáng 23/2/1969, Đội dân quân du kích xã
Bảo Vinh cùng Đội biệt động thị xã Long Khánh tấn công địch tại
đồn Bảo Vinh A, diệt 1 tên ác ôn trong ấp, mở thế kìm cho nhân
dân đấu tranh bung ra sản xuất.
Mũi tiến công của Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh do chi bộ
mật lãnh đạo đã liên tục đấu tranh, lúc tập trung, khi lẻ tẻ chống
địch bắn pháo, giết người, càn phá vườn, rẫy... Nổi bật là trong
cuộc chống bầu cử độc diễn ngày 3/10/1971, hơn 1 ngàn người
dân xã Bảo Vinh đã tham gia biểu tình chống bầu cử tại thị xã
Long Khánh, làm thất bại hoàn toàn cuộc bầu cử dân chủ giả hiệu
của địch.
Trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, Đội dân quân du kích
xã Bảo Vinh cùng nhân dân liên tục tấn công và nổi dậy. Tháng
4/1972, đội kết hợp đấu tranh binh vận của nhân dân đã bao bót,
vây ép địch tại đồn Bảo Vinh A và B, buộc chúng phải co cụm
vào đồn. Ngày 19/5/1972, đội cùng Đội biệt động thị xã dùng mìn
phục kích địch trên đường từ Bảo Vinh A ra thị xã, diệt 27 tên bảo
an, làm bị thương 5 tên khác, mở được thế kìm cho nhân dân, mở
được cửa khẩu hậu cần cho lực lượng cách mạng.
Vào đêm 26/10/1972, Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh với
16 đồng chí cùng 4 chiến sĩ biệt động kết hợp đấu tranh binh vận
bao vây, tấn công địch tại đồn Bảo Vinh A, do 1 đại đội bảo an
và 1 trung đội dân vệ đóng giữ. Địch phản kích quyết liệt, nhưng
25

3.6 Page 26

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
trước thế tiến công 3 mũi của ta, địch phải rút vào đồn cố thủ chờ
tiếp viện. Trong hơn 1 tháng, Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh
nhiều lần tập kích địch ban đêm, diệt hàng chục tên địch, kiểm
soát được xã. Địch còn trong đồn nhưng hoàn toàn bị cô lập.
Tháng 1/1973, thực hiện chủ trương “chồm lên chiếm lĩnh”
giành quyền làm chủ trước khi Hiệp định Paris được ký kết, Đội
dân quân du kích xã Bảo Vinh và Đội biệt động thị xã tổ chức tấn
công địch ở đồn Bảo Vinh A. Trên 1 ngàn người dân với băng cờ,
khẩu hiệu đã xuống đường hoan hô Hiệp định. Ta vây địch trong
đồn suốt 5 ngày đêm, phá rã hoàn toàn bộ máy tề ngụy ở xã Bảo
Vinh.
Với việc tấn công địch liên tục, Đội dân quân du kích xã Bảo
Vinh kiên quyết chống địch lấn chiếm, vi phạm Hiệp định; kết
hợp đánh phá bình định, diệt ác ôn, phá rã đội phòng vệ dân sự.
Từ năm 1973 đến năm 1975, Bảo Vinh là xã diễn ra tranh chấp
mạnh. Ban đêm địch co vào đồn, bọn tề ấp trốn chạy vào thị xã
Long Khánh.
Trong chiến dịch mùa khô 1974-1975, nhân dân Bảo Vinh đã
đóng góp hàng trăm tấn gạo cho lực lượng cách mạng. Tháng
12/1974, Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh có Đội biệt động hỗ
trợ thị xã đã tiến hành bao vây đồn Bảo Vinh B liên tục trong 3
tháng.
Cuối tháng 3/1975, bằng lực lượng 3 mũi giáp công, đội du
kích cùng nhân dân xã Bảo Vinh đã bứt rút địch ra khỏi các đồn
Bảo Vinh A, B, Suối Chồn, san bằng đồn bót địch tại xã. Giải
phóng xã Bảo Vinh, quân dân xã Bảo Vinh đã mở rộng địa bàn
đứng chân cho chủ lực miền, quân khu, tỉnh mở chiến dịch Xuân
Lộc giải phóng hoàn toàn thị xã Long Khánh.
Suốt 10 năm chiến đấu gian khổ và vẻ vang, Đội dân quân du
kích xã Bảo Vinh đã vượt mọi khó khăn, đạt những thành tích:
tác chiến trên 100 trận độc lập và phối hợp; loại khỏi vòng chiến
đấu 1.066 tên địch; diệt gọn 1 trung đội bảo an, 1 trung đội dân
26

3.7 Page 27

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vệ; đánh rã 2 đội phòng vệ dân sự, 1 đội phòng vệ xung kích; phá
hủy nhiều xe quân sự (có 2 xe tăng), thu nhiều đồ dùng quân sự;
kết hợp binh vận kêu gọi 1 trung đội bảo an trở về với cách mạng;
phát triển 12 đảng viên, 34 đoàn viên thanh niên...
Với những thành tích đó, Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh
được tặng thưởng: 4 Huân chương Chiến công hạng Nhì; 3 Huân
chương Chiến công hạng Ba; trong 3 năm 1969, 1970, 1971, đội
được công nhận là đơn vị Quyết thắng, giữ cờ luân lưu Phạm Văn
Cội. Đội còn nhận nhiều bằng khen, giấy khen, cho cá nhân và
cho tập thể.
Ngày 6/11/1978, Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh vinh dự
được trao tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
27

3.8 Page 28

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội du kích công nhân
Cao su Bình Sơn
Bình Sơn(1) nằm trên khu đồi đất đỏ, là một sở cao su thuộc Công
ty đồn điền Đất Đỏ của thực dân Pháp. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, Bình Sơn với địch là một ấp của xã Lộc An,
quận Long Thành; với cách mạng xã Bình Sơn do Ban Cán sự Cao
su Biên Hòa chỉ đạo. Hiện nay Bình Sơn là một xã thuộc huyện
Long Thành.
Với diện tích 20 km2 hầu hết trồng cao su, Bình Sơn nằm gọn
trong khu tam giác giáp với 3 huyện: Châu Thành (thuộc tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu, nay đã giải thể), Xuân Lộc, Long Thành, giữ trục lộ số
1, lộ 15 và lộ 2. Phía Bắc xã Bình Sơn giáp xã An Phước (An Lợi,
Phước Nguyên) xã này có căn cứ Nước Trong của Mỹ và Thái Lan.
Phía Nam xã Bình Sơn giáp lộ 15 (nay là quốc lộ 51). Phía Đông
giáp căn cứ Suối Răm của Mỹ. Phía Tây cách thị trấn Long Thành
10 km. Bình Sơn có đường 10 nối liền từ thị trấn Long Thành xuyên
dọc xã đến lộ số 2 (nay là quốc lộ 56), đường 25 (nay là đường tỉnh
769) từ Bình Sơn giáp quốc lộ 1 đoạn ngã ba Dầu Giây.
Trong kháng chiến chống Mỹ, dân số Bình Sơn hơn 2 ngàn người.
Hầu hết người dân là công nhân cao su, xuất thân là nông dân ở miền
Trung, miền Bắc. Dưới chế độ áp bức của tư bản thực dân Pháp, đời
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
28

3.9 Page 29

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
sống nhân dân Bình Sơn vô cùng tủi nhục và khổ cực. Đáng chú ý,
nhân dân Bình Sơn sớm được tiếp xúc với lý tưởng của Đảng (chi bộ
Đảng ở Bình Sơn thành lập năm 1944) do đó nhân dân có tinh thần
cách mạng triệt để, tinh thần yêu nước và tin vào sự lãnh đạo Đảng.
Bình Sơn là địa bàn đứng chân của các lực lượng Khu miền Đông,
tỉnh, huyện; căn cứ của Tỉnh ủy Biên Hòa, phân khu 4; là cửa khẩu
hậu cần của miền (đoàn 84), tỉnh; là bàn đạp để lực lượng cách mạng
tấn công địch ở căn cứ Nước Trong. Do đó, Bình Sơn trở thành nơi
tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Thường xuyên, tại đây địch có
1 đại đội bảo an và bộ máy gồm tề ấp, cảnh sát, bình định và bọn tâm
lý chiến. Từ năm 1966, ở Bình Sơn còn có 1 tiểu đoàn Mỹ, Thái Lan
vào đóng chốt để đánh phá bên ngoài, hỗ trợ cho bọn tề ngụy bình
định bên trong.
Trong kháng chiến, Bình Sơn luôn ở thế tranh chấp mạnh, phong
trào nhiều lúc gặp khó khăn, nhưng nhân dân vẫn một lòng tin tưởng
vào cách mạng. Nhiều lần xã được giải phóng. Phản ánh thế mạnh
của cách mạng, bọn địch còn gọi phía làng công nhân ở là “Hà Nội”.
Sau khi Trung ương Đảng (khóa II) ra Nghị quyết 15, Đội vũ
trang tuyên truyền Bình Sơn được thành lập gồm 5 đồng chí (2 nữ,
3 nam), là tiền thân của đội du kích công nhân cao su Bình Sơn sau
này. Với vũ khí thô sơ, Đội vũ trang tuyên truyền Bình Sơn tiến hành
tuyên truyền, kết hợp diệt bọn tề ngụy ác ôn trong ấp, hỗ trợ phong
trào nổi dậy của nhân dân Bình Sơn, Kho Bạc, An Viễn....
Tháng 1/1961, Đội vũ trang tuyên truyền Bình Sơn cùng công
nhân cao su nắm tình hình địch tại xã, đưa lực lượng vũ trang Khu(2)
về tiến công diệt trung đội bảo an đóng ở Bình Sơn, dùng xe lửa của
Sở cao su Bình Sơn đưa máy móc, nguyên liệu ra khu, lập công binh
xưởng. Bọn tề ngụy rệu rã bỏ chạy.
Đầu năm 1962, do lực lượng phát triển và yêu cầu của cách mạng,
đội vũ trang tuyên truyền Bình Sơn tách một bộ phận cho các sở
(2) Tiểu đoàn 800.
29

3.10 Page 30

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chung quanh. Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn chính thức ra
đời gồm 7 đồng chí, lấy phiên hiệu B20, thường được gọi là đội “Võ
Trang Giải Phóng Quân Thắng Lợi” (tên của 7 đồng chí ghép lại).
Trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt, Đội du kích công nhân cao
su Bình Sơn luôn luôn bám xã, bám dân, diệt ác, phá kìm, hỗ trợ tích
cực phong trào nhân dân chống và phá ấp chiến lược.
Tháng 1/1965, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn cùng Đội
vũ trang cao su 207 hóa trang thành công nhân, dùng xe của Sở cao
su Bình Sơn vận động từ lô cao su 6-10 tập kích trung đội biệt kích
A16 đóng tại sở vào giữa trưa, bắt sống 19 tên.
Cuối năm 1965, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn phối hợp
cùng Đại đội 207 tập kích đánh diệt trung đội bảo an đóng tại xã do
tên thượng sĩ Giai nổi tiếng ác ôn chỉ huy; đồng thời phát động nhân
dân toàn xã nổi dậy dùng xe ủi của đồn điền bang phá toàn bộ ấp
chiến lược, giải phóng hoàn toàn xã Bình Sơn, mở rộng cửa khẩu hậu
cần cho miền và khu.
Từ năm 1966, một bộ phận của lữ đoàn dù 199 của Mỹ vào đóng
tại Bình Sơn. Chúng tiến hành càn quét, lập lại ấp chiến lược bao
quanh xã. Bên ngoài rừng, địch kết hợp bắn pháo, vừa rải chất độc
hóa học vừa dùng xe cơ giới ủi phá cao su dọc đường 10 và rừng bìa
lô cao su 9-10 để phá địa hình bám trụ của du kích, dùng xe tăng vận
động ở bìa ấp chiến lược chống du kích xâm nhập.
Được chi bộ Đảng ủy Cao Su chỉ đạo, Đội du kích công nhân cao
su Bình Sơn kết hợp với Đoàn Thanh niên tổ chức thành lập Đội du
kích thiếu niên Bình Sơn (đầu tiên có 33 đội viên). Bằng lòng dũng
cảm, mưu trí, Đội du kích thiếu niên Bình Sơn đã nhiều lần dùng mìn
đánh diệt lính Mỹ, diệt xe cơ giới Mỹ ngay trong ấp, làm địch luôn
bị động. Ngoài ra, Đội du kích thiếu niên còn làm nhiệm vụ giao
liên, trinh sát cho cán bộ, du kích bên ngoài vào ấp. Nhiều đội viên
là dũng sĩ diệt Mỹ, diệt xe cơ giới.
Tháng 10/1967, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn cùng Đại
đội 207 bẻ gãy trận càn của Mỹ vào căn cứ ở Kho Bạc, diệt gọn 3
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tiểu đội lính Mỹ, bắn hạ 2 máy bay và 2 xe tăng. Song song đó, đội
còn vào ấp diệt ác, diệt bọn gián điệp, làm thất bại âm mưu bình định
bên trong của địch.
Năm 1969, lính Thái Lan (đồng minh của Mỹ) vào thay chân lính
Mỹ, chúng tăng cường đánh phá bên ngoài, xét hỏi gắt gao công
nhân đi làm ngoài lô cao su, cho xe tăng đi sau xe công nhân để kiểm
soát... Do xây dựng được cơ sở vững chắc bên trong, đội du kích
công nhân cao su Bình Sơn vẫn vào được bên trong kết hợp cùng du
kích mật vừa đánh diệt Thái Lan vừa đánh phá bình định. Trong 2
tháng 5 và 6/1969, đội đã đánh rã 2 đội bình định nông thôn ở Bình
Sơn, hỗ trợ cho công nhân và người dân liên tục đấu tranh với chính
quyền, quân đội Sài Gòn và bọn chủ đồn điền cao su.
Tháng 6/1970, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn cùng Đại
đội 207 bẻ gãy trận càn của quân đội Thái Lan vào căn cứ, diệt 50
tên. Bên trong, Đội du kích thiếu niên Bình Sơn sưu tầm mìn, trái,
nhiều lần đánh diệt lính Thái Lan và xe cơ giới của chúng, tạo điều
kiện cho công nhân đấu tranh chống sự kìm kẹp của lính Thái Lan.
Nổi bật là từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Đội du kích
công nhân cao su Bình Sơn không mơ hồ trước âm mưu, thủ đoạn
của địch và không ngừng tiến công vũ trang, đi đôi phát động nhân
dân đấu tranh chính trị, binh vận, buộc địch co cụm trong đồn, bót.
Địch liên tiếp điều hết đại đội bảo an này đến đại đội bảo an khác
(như: đại đội bảo an 452, 351, 347, 319, 376...) từ Long Thành vào
để kìm kẹp và đánh phá phong trào cách mạng Bình Sơn.
Đội du kích tạo thế chủ động chiến đấu bằng công sự, hố đinh,
hầm chông để vây đánh địch, kết hợp cơ sở rải truyền đơn, phát loa,
vận động nhân dân kéo lên đồn, bót đấu tranh (có cuộc trên 700
người tham gia) làm địch hoang mang phải hòa hoãn.
Bên cạnh đó, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn còn tổ chức
diệt ác ngay trong ấp, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. Trong 6
tháng đầu năm 1974, du kích tập kích, phục kích địch 11 lần, diệt và
làm bị thương 20 tên, phá hủy 2 xe GMC, tịch thu 2 xe dodge, ngăn
31

4.2 Page 32

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chặn được âm mưu địch phá ủi rừng của ta.
Từ ngày 16/3/1975, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn đã
đào công sự bao quanh đồn, bót giặc, liên tục vận động trên 700
công nhân đấu tranh buộc địch bỏ tua gác phía ngoài đồn. Đại đội
bảo an 376 co vào đồn. Đường 10 từ Bình Sơn ra Long Thành do
du kích kiểm soát.
Vào 1 giờ sáng 28/4/1975, trước khí thế tiến công của các lực
lượng cách mạng, địch càng hoang mang. Nắm thời cơ, Đội du kích
công nhân cao su Bình Sơn cùng nhân dân tiếp tục bao vây đánh
địch. Đại đội bảo an 376 rút chạy, ta bắt sống 26 tên (có 1 chuẩn úy)
thu 25 súng, giải phóng hoàn toàn Bình Sơn.
Trong 15 năm chiến đấu, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn
đã đánh diệt 189 tên (có 63 lính Mỹ và lính Thái Lan); bắn rơi 6 máy
bay, 12 xe quân sự; thu 50 súng các loại, gỡ 1.274 mìn, trái các loại,
thu 50 ngàn viên đạn, 4.615 kg thuốc nổ các loại; chế tạo 921 mìn
chống xe tăng…
Đội đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì;
12 Bằng khen, 32 Giấy khen; nhiều đồng chí được công nhận là dũng
sĩ diệt Mỹ, diệt Thái Lan, diệt xe cơ giới.
Ngày 6/11/1978, Đội du kích công nhân cao su Bình Sơn vinh
dự phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
32

4.3 Page 33

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đội dân quân du kích
xã Tam An
Tam An đi dễ khó về
Lính đi mất mạng, quan về mất lon
Đó là 2 câu ca dao quen thuộc của sĩ quan và binh lính chế độ
Sài Gòn đã từng đóng quân tại Tam An trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Xã Tam An thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, nằm giữa
2 đường số 12 và 21, địa bàn hầu hết là đồng lầy, sông rạch. Phía
Bắc Tam An giáp xã Tam Phước nối liền với Tổng kho Long Bình
của Mỹ; phía Tây giáp thị trấn Long Thành; phía Đông là lộ 15
(nay là quốc lộ 51) và Sở cao su Siph; phía Nam là đồng ruộng
nối liền đến sông Đồng Nai. Dân số xã trên 4 ngàn người, sống
bằng nghề làm lúa nước, trồng cây ăn trái... Nhân dân Tam An
có truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng đã
được xây đắp trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Tam An là địa bàn bám trụ chỉ đạo thường xuyên của Huyện
ủy Long Thành, là nơi đứng chân của lực lượng tỉnh, quân khu
và Đoàn 10 đặc công miền, lực lượng huyện Thủ Đức... để đánh
phá giao thông thủy, bộ và kho tàng của địch ở Thành Tuy Hạ. Do
đó, địch lấy Tam An làm điểm đánh phá ở huyện Long Thành để
đẩy lực lượng cách mạng ra xa, bảo vệ đường giao thông và kho
tàng của chúng. Địch thường xuyên bố trí tại xã 1 đại đội bảo an
33

4.4 Page 34

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
(từ năm 1974 địch tăng cường 1 tiểu đoàn), 1 trung đội dân vệ
đóng ở 2 bót 8 chốt; sát sông Đồng Nai có 3 chốt do 1 đại đội bảo
an đóng giữ. Bộ máy kìm kẹp có 8 cảnh sát, 4 bình định, tề xã ấp
tổng cộng 71 tên, 1 đội phòng vệ dân sự 28 tên, 1 đội phòng vệ
xung kích 6 tên; ngoài ra còn hơn 500 tên là đảng viên Đảng Dân
chủ của địch.
Đầu năm 1960, Đội dân quân du kích xã Tam An(1) hình thành
trong khí thế đồng khởi toàn huyện. Cuối năm 1960, đội tấn công
bót dân vệ Tam An, phát động nhân dân nổi dậy giải phóng 2 ấp
(trong 3 ấp của xã).
Từ năm 1963, địch dồn dân lập ấp chiến lược (dài 1km ngang
từ 200-400 mét). Đội dân quân du kích xã Tam An vẫn kiên trì
bám dân xây dựng cơ sở, vừa diệt bọn ác ôn bên trong vừa vận
động nhân dân phá ấp chiến lược để mở đường ra ngoài sản xuất.
Những tháng cuối năm 1964, qua kinh nghiệm chiến đấu ở
Phước An (thuộc huyện Nhơn Trạch), Đội dân quân du kích xã
Tam An xây dựng các ụ chiến đấu ở Tam An để bao vây địch.
Tháng 10/1964, du kích diệt chết 2 tên dân vệ ác ôn làm địch
hoang mang, nhân dân phấn khởi, đồng thời phát động phong trào
xây làng xã chiến đấu. 6 tháng đầu năm 1965, trong 6 ngày quân
dân ta đào được 15 mét địa đạo, rào 4.250 mét rào chiến đấu,
cắm 17 trụ sắt, giăng 21.250 mét kẽm gai, đào 39 hầm chông lớn
(ngang từ 20-25 mét). Với thế chiến đấu này, du kích và nhân dân
xã Tam An bẻ gãy các cuộc càn của địch vào xã, đồng thời tiến
công địch giải phóng xã. Đến cuối năm 1965, đội du kích xã xây
dựng thành 1 trung đội tổ chức được 1 đội du kích.
Đầu năm 1966, lữ đoàn dù 173 Mỹ càn vào xã hòng diệt đội du
kích, dọn đường cho quân đồng minh Thái Lan vào đóng quân,
hỗ trợ bọn ngụy xây dựng lại bộ máy kìm kẹp bên trong. Chúng
dùng bom, pháo và xe cơ giới ủi phá rừng để phá địa bàn bám trụ
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
34

4.5 Page 35

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
của lực lượng cách mạng.
Tuy gặp nhiều khó khăn, Đội dân quân du kích xã Tam An vẫn
kiên trì bám đất, bám dân, nắm chắc địch, vừa đánh diệt bọn lính
Mỹ, quân đội Sài Gòn, Thái Lan vừa xây dựng du kích mật bên
trong làm nhiệm vụ diệt ác phá kìm.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm
1968, Đội dân quân du kích xã Tam An gồm 12 đồng chí đã tiến
công địch trong ấp chiến lược, vận động nhân dân bao bót, bức
rút đồn bót giặc, giải phóng xã. Địch tăng cường 2 tiểu đoàn về
phản kích, đội dựa vào ụ chiến đấu và hầm chông, bãi mìn bố trí
sẵn đánh bật 7 đợt tấn công của địch, diệt 21 tên, trong đó có 2
cố vấn Mỹ.
Giai đoạn năm 1969-1971, địch dùng hàng đoàn máy bay lên
thẳng dàn hàng ngang quạt để dò tìm hầm bí mật của ta. Đội dân
quân du kích xã Tam An chỉ đạo du kích mật bên trong dùng vũ
khí tự tạo tiến công địch, buộc chúng phải bị động đối phó để lực
lượng trên về đánh tiêu diệt. Trong kế hoạch đánh phá bình định
năm 1970, đội sử dụng nội tuyến đánh rã hoàn toàn 2 đội phòng
vệ dân sự và xung kích của địch, cho đến ngày giải phóng chúng
không lập lại được. Bên cạnh đó, đội còn tích cực tham gia phong
trào bắn máy bay phá chiến thuật “quạt” của địch do huyện phát
động, kết quả đã bắn rơi 2 máy bay bằng vũ khí cá nhân.
Tháng 2/1972, Đội dân quân du kích xã Tam An cùng bộ đội
Huyện đánh bót Rẫy Thơm do 1 liên đội bảo an đóng giữ, làm
chết và bị thương hơn 11 tên, đánh sập 1 nhà lính. Đồng thời đội
còn kết hợp nhân dân dùng 3 mũi tiến công hù dọa làm địch hoang
mang, rút quân đóng trên đường 21 về co cụm phòng thủ. Tháng
6/1972, đội dùng mìn tự tạo đánh diệt 1 trưởng ấp và 2 tên bình
định ác ôn, làm rúng động bộ máy kìm kẹp của địch.
Vào đợt “chồm lên chiếm lĩnh” tháng 1/1973, đội cùng bộ đội
huyện tiến hành đánh địch trong ấp, bám trụ 5 ngày đêm, diệt 41
tên, đánh lui nhiều đợt phản công của địch.
35

4.6 Page 36

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Đội dân quân du kích xã
Tam An liên tục đánh địch phá tan âm mưu lấn chiếm vùng ta làm
chủ trước đó. Tháng 2/1973, đội chận đánh bọn bảo an lấn chiếm
tại bến xuồng, diệt 3 tên. Từ tháng 4 đến tháng 8/1973, vừa chống
lấn chiếm vừa đánh phá bình định, đội đã giải phóng 2 ấp, cùng
nhân dân xây dựng ấp chiến đấu đánh bại các cuộc lấn chiếm của
địch, diệt 14 tên.
Đầu năm 1974, đội du kích mật bên trong đánh diệt 9 tên tề xã
ấp, phá lỏng thế kìm của địch bên trong, hỗ trợ tích cực phong
trào đấu tranh của nhân dân.
Trong chiến dịch mùa khô 1974-1975, Đội dân quân du kích xã
Tam An tiến công cắt đứt hoàn toàn lộ 21. Đêm ngày 4 rạng sáng
5/1/1975, đội cùng tiểu đoàn 240 tỉnh Biên Hòa kết hợp với nhân
dân đấu tranh 3 mũi bao vây địch tại bót Rẫy Thơm. Sáng ngày
5/1, địch buông súng đầu hàng, ta bắt sống 16 tên, thu 16 súng.
Sau đó, đội còn bẻ gãy nhiều đợt phản kích của 2 tiểu đoàn bảo
an xuống chi viện cho bọn tại chỗ. Bộ máy ngụy tại xã tan rã, các
đồn bót còn lại đều bị cô lập.
Ngày 27/4/1975, trước thế tiến công của cách mạng, bọn lính
trong đồn bót xã hoang mang rút chạy. Đội cùng cơ sở kịp thời
truy kích, diệt 3 tên, bắt sống 72 tên, thu 53 súng các loại, phát
động nhân dân san bằng đồn bót, giải phóng hoàn toàn Tam An.
Hơn 10 năm chiến đấu, Đội dân quân du kích xã Tam An đã
đánh 64 trận, diệt 177 tên lính Mỹ, Thái Lan, lính Sài Gòn, bắt
sống 88 tên, diệt gọn 1 trung đội Mỹ với 32 tên, đánh rã 2 đội
phòng vệ dân sự và phòng vệ xung kích, thu 60 súng các loại,
bắn rơi 2 máy bay, bắn chìm 2 tàu bo bo, thu lượm 250 đầu đạn
pháo. Cùng lực lượng huyện, tỉnh, đội dân quân du kích xã Tam
An đã tác chiến 49 trận, diệt 218 tên, bắt sống 6 tên, có 3 tên
Mỹ, diệt 2 đồn, 10 xe quân sự (trong đó có 5 xe tăng), thu 75
súng (trong đó có 1 súng cối , 1 đại liên). Trong công tác sản
xuất từ năm 1972-1975, hàng năm đội sản xuất 80 giạ lúa, 50 kg
36

4.7 Page 37

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thịt, cá, hàng tấn rau màu các loại.
Đội đã được khen thưởng 4 Huân chương Chiến công, 3 Huân
chương Chiến công cho cá nhân, 20 bằng khen, 40 giấy khen, 1
du kích là chiến sĩ thi đua cấp quân khu.
Ngày 6/11/1978, Đội dân quân du kích xã Tam An được phong
tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
37

4.8 Page 38

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội dân quân du kích
xã Hưng Lộc
Xã Hưng Lộc(1) (huyện Thống Nhất) cách thành phố Biên Hòa
30km về phía Đông Bắc. Nằm giữa hai trục quốc lộ 1 và 20, xã
Hưng Lộc với diện tích hơn 10 km2 như một vành cung án ngữ hai
đoạn đường, giáp với Dầu Giây và xã Bàu Hàm 2.
Dân số ở xã hơn 10 ngàn người, hầu hết là dân di cư từ miền Bắc,
miền Trung vào sinh sống trong 4 ấp: Hưng Nghĩa, Hưng Nhơn,
Hưng Hiệp, Hưng Lộc. Từ năm 1974, địch lập thêm 2 ấp Hưng
Bình, Hưng Long. Người dân sinh sống bằng nghề làm ruộng, rẫy,
trồng các loại cây công nghiệp, cây ăn trái.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Hưng Lộc, nhất là ấp
Hưng Nghĩa, là địa bàn đứng chân quan trọng của lực lượng cách
mạng tỉnh Biên Hòa, cũng như khu miền Đông, là một hành lang
vận chuyển lương thực, vũ khí và đồ dùng quân sự của cách mạng
về thành phố Biên Hòa và Sài Gòn. Do đó, địch kìm kẹp và đánh
phá phong trào cách mạng tại đây rất ác liệt.
Cuối năm 1961, dưới sự chỉ đạo và tăng cường cán bộ của Ban
cán sự Long Khánh, tại Hưng Lộc đã xây dựng một tổ công tác
gồm 3 đồng chí làm nhiệm vụ tuyên truyền và xây dựng cơ sở cách
(1)Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
38

4.9 Page 39

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
mạng trong xã.
Tháng 2/1962, lực lượng vũ trang của Ban cán sự tổ chức diệt 1
tên trưởng ấp ác ôn, đồng thời tấn công diệt một bót Hưng Nghĩa,
rút được thanh niên đi tòng quân.
Tháng 4/1962, cơ sở xã phục vụ cho bộ đội tập kích địch ở ấp
Hưng Nghĩa, bắt sống 16 tên dân vệ, thu 13 súng. Bọn tề ấp đều bỏ
chạy, nhân dân bung ra phá tan ấp chiến lược Hưng Nghĩa (ngang
250m, dài 300m).
Từ năm 1966, lực lượng địch gồm: 1 đại đội bảo an, 1 đại đội
khác đóng ở nhà ga xe lửa, 1 trung đội dân vệ, 1 phân chi khu cảnh
sát do đại úy cảnh sát chỉ huy, 1 đội phòng vệ dân sự 50 tên. Ngoài
ra ở ấp Hưng Bình, địch thiết lập một cụm pháo với 2 khẩu 105 và
106 ly. Trong từng đợt đánh phá, địch tăng cường các đơn vị của sư
đoàn 18 bộ binh, lữ đoàn dù 119 Mỹ, sư đoàn 25 bộ binh Mỹ vào
càn quét.
Do tình hình dân cư tại xã phức tạp nên việc xây dựng và phát
triển lực lượng vũ trang địa phương gặp nhiều khó khăn. Năm 1968,
Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc hình thành gồm 8 đồng chí.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm
1968, Hưng Lộc là nơi tập kết và chuyển quân của phân khu 4 để
tiến công vào Sài Gòn. Năm 1968, địch biết Hưng Lộc là bàn đạp
của cách mạng nên ra sức đánh phá với kế hoạch bình định cấp tốc,
đưa hơn 100 tên bình định nông thôn vào xã vừa khủng bố vừa mị
dân, phân loại dân để kìm kẹp. Ngoài kết hợp với rải chất độc hóa
học, địch còn cho hàng trăm xe tăng, xe ủi từ quốc lộ 1, quốc lộ 20
và đường 25 càn vào ủi phá địa hình bám trụ của ta. Việc đi lại của
nhân dân bị địch kiểm soát nghiêm ngặt, căn cứ mất ổn định, phải
luôn thay đổi địa điểm.
Tuy khó khăn nhưng Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc vẫn
kiên trì bám trụ xây dựng cơ sở bên trong, tìm sơ hở của địch tổ
chức đột ấp lấy lương thực, phục kích đánh địch đi càn khủng bố
nhân dân. Ngày 5/6/1969, Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc kết
39

4.10 Page 40

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
hợp bộ đội huyện Trảng Bom tiến công bọn bảo an, dân vệ trong ấp
chiến lược Hưng Lộc, Hưng Thạnh, Hưng Nhơn, diệt 18 tên, làm bị
thương 37 tên, thu 8 súng, làm chủ 2 ấp Hưng Thạnh, Hưng Nhơn,
phát động hàng ngàn nhân dân nổi dậy phá hơn 2.500 mét kẽm gai,
xé cờ ngụy, phá tan trụ sở tề xã.
Trong đánh phá kế hoạch bình định của địch, được cơ sở bên
trong giúp đỡ, Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc vượt qua các
chốt của địch, diệt được 3 tên tề ác ôn trong ấp. Sau đó, đội tổ chức
nhiều trận đánh diệt địch bằng cách đánh biệt động bí mật, bất ngờ
diệt nhiều lính Mỹ và bọn ác ôn. Hoạt động vũ trang của đội du
kích đã góp phần phá lỏng thế kìm kẹp bên trong xã của địch.
Trong công tác phối hợp với bộ đội chủ lực đánh chống càn bên
ngoài, nhiều du kích dũng cảm bám trụ trong ấp dùng B40 diệt xe
tăng địch. Tại Bàu Nếp, 1 du kích xã bí mật đột nhập vào sân bay
dã chiến của Mỹ dùng lựu đạn diệt máy bay lên thẳng vừa hạ cánh.
Đồng thời, đội còn vận động nhân dân nhiều lần đấu tranh đánh
địch bắn pháo bừa bãi vào xóm ấp, chống ủi phá vườn cây...
Từ năm 1973-1975, tuy quân Mỹ đã rút hết nhưng bọn lính quân
đội Sài Gòn ngoan cố, dùng mìn, lựu đạn gài nhiều nơi, kết hợp
chiến lược tung biệt kích dày đặc trong rừng gây cho đội nhiều thiệt
hại, khó khăn. Bên trong ấp, bọn tình báo, tâm lý chiến truy lùng
đánh phá cơ sở cách mạng, dùng tiền bạc và các thủ đoạn tâm lý
chiến khác để gây chia rẽ, nghi kỵ trong nhân dân.
Trước tình hình đó, Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc phải
phân tán từng tổ nhỏ, lấy ấp Hưng Nghĩa làm địa bàn bám trụ hoạt
động, thường xuyên dùng mìn tự tạo đánh phá đoạn đường sắt đi
qua xã để cắt đứt đường vận chuyển của địch.
Tháng 5/1974, 5 du kích hóa trang vận động tập kích một chốt
địch đóng trên đồi cách quốc lộ 1 khoảng 70km, diệt 3 tên, thu 3
súng, 2 mìn clay-mo, sau đó rút về căn cứ an toàn.
Chuẩn bị vào đợt chiến dịch mùa khô 1974-1975, Đội dân quân
du kích xã Hưng Lộc đã tích cực tham gia công tác dân công, góp
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thành hoàn thành tuyến đường vận chuyển của cách mạng từ sông
Đồng Nai qua Cây Gáo, Bàu Hàm, Hưng Nghĩa, đường 1, đường
10, Bình Sơn qua Phước Thái ra lộ 15 về Nhơn Trạch. Hưng Nghĩa
được xây dựng thành kho trạm của lực lượng tỉnh, khu miền Đông
phục vụ chiến dịch.
Từ ngày 5/1/1975 đến 16/1/1975, Đội dân quân du kích xã Hưng
Lộc phối hợp cùng đại đội công binh Quân khu 7 tiến công khu trại
địch lấn chiếm sau Hiệp định Paris ở Hưng Nghĩa, phục kích đánh
xe trên đường 1, diệt 4 tên (có 3 sĩ quan từ đại úy đến trung tá), diệt
1 cụm quân địch trên đường 20, diệt và làm bị thương 32 tên, bắn
cháy 2 xe quân sự.
Tháng 2/1975, đội lại tổ chức đánh 1 trung đội dân vệ di chuyển
trên đường số 1 gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng, hỗ trợ mạnh
đến phong trào quần chúng đang trong khí thế sôi sục cách mạng.
Từ ngày 8 đến 21/4/1975, chủ lực đánh chiếm đường số 1, đoạn
từ Hưng Nghĩa đến ngã ba Dầu Giây, cắt đứt sự chi viện của địch
từ Biên Hòa, Trảng Bom lên Xuân Lộc. Trong thời điểm này, hơn
300 người dân từ các nơi chạy về Hưng Lộc, đội du kích cùng nhân
dân tổ chức giúp đỡ họ ổn định cuộc sống. Trong cơn hoảng loạn,
địch tập trung bắn pháo ác liệt vào 2 ấp Hưng Lộc, Hưng Nghĩa.
Đội cùng nhân dân vẫn bám trụ làm nhiệm vụ truy lùng bọn ác ôn,
tham gia phá đường, đắp mô hỗ trợ cho chủ lực quân khu tiêu diệt
địch trên 2 quốc lộ 1 và 20. Nổi bật, bằng 2 đầu đạn pháo 105 ly,
du kích Hưng Lộc gài đánh diệt 2 xe tăng địch tại ấp Hưng Nghĩa.
Ngày 28/4/1975, kết hợp 3 mũi, đội du kích cùng nhân dân nổi
dậy giải phóng hoàn toàn xã Hưng Lộc.
Trong quá trình chiến đấu, Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc
đã tác chiến 155 trận vừa độc lập vừa phối hợp với các đơn vị cấp
trên; diệt và làm bị thương hơn 1 ngàn địch (có 11 Mỹ, 24 tề điệp,
ác ôn, 10 sĩ quan quân đội Sài Gòn), bắt sống 55 tên; thu 100 súng
các loại; phá hủy 1 máy bay lên thẳng, 3 xe tăng, 1 đầu máy xe lửa
và 5 đoàn tàu quân sự của địch; đánh rã 2 đội phòng vệ dân sự; vận
động 150 thanh niên thoát ly tham gia kháng chiến; giúp đỡ gạo,
41

5.2 Page 42

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
lương thực cứu đói cho 100 gia đình; chữa bệnh cho 1.200 người;
giúp đỡ cho 200 gia đình xây cất lại nhà cửa bị bom pháo địch tiêu
diệt.
Đội cũng đã hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm đường dây giao liên,
cửa khẩu hậu cần cho tỉnh, huyện trên địa bàn xã.
Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc được tặng thưởng 3 Huân
chương Chiến công, 10 bằng khen, giấy khen. 2 năm 1968-1970,
đội đạt cờ luân lưu của tỉnh; năm 1974 đội đạt đơn vị danh hiệu
Quyết tâm chiến thắng.
Ngày 6/11/1978, Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc được Nhà
nước và Chính phủ phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
42

5.3 Page 43

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đội dân quân du kích
xã Phước An
Xã Phước An(1) thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trải
dài theo trục đường số 19, xã Phước An nằm trong khu vực lòng
chảo. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, phía Bắc xã Phước
An giáp chi khu Nhơn Trạch và kho đạn Thành Tuy Hạ; phía Nam
giáp sông Lòng Tàu - đường thủy chiến lược từ Lòng Tàu về Sài
Gòn; phía Đông giáp xã Phước Thọ cặp theo sông Thị Vải; phía
Tây là khu đồng bào theo đạo Thiên Chúa di cư từ miền Bắc vào
do địch bố trí.
Phước An là bàn đạp của cách mạng nhằm uy hiếp và tiến công
địch ở Thành Tuy Hạ, ngăn chặn sự chuyển vận đường thủy của
địch với Sài Gòn. Phước An có khu rừng sác thuận lợi cho ta trú,
ém quân, là căn cứ địa cách mạng suốt 2 thời kỳ kháng chiến.
Diện tích xã Phước An khoảng 8km2 gồm 4 ấp: Bà Bông,
Bà Trường, Vũng Gấm, Quới Thạnh, mật độ dân số thưa thớt,
chuyên nghề đánh lưới trên sông và làm củi. Nhân dân có truyền
thống yêu nước, cách mạng, kiên cường chiến đấu suốt 9 năm
chống Pháp.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phước An là trọng
điểm đánh phá, bình định của địch ở khu lòng chảo Nhơn Trạch.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
43

5.4 Page 44

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Từ năm 1960, địch xây dựng hệ thống đồn bót dọc đường 19 do
một tổng đoàn dân vệ 50 tên đóng giữ. Từ năm 1962, địch tăng
cường một trung đội bảo an; bên trong là bộ máy tề xã, ấp và cảnh
sát trên 20 tên. Từ năm 1966, nhân dân Phước An còn phải đối
đầu với quân Mỹ, quân đồng minh Thái Lan. Ngoài hàng rào ấp
chiến lược, địch sử dụng chất độc hóa học hủy diệt rừng sác, dùng
bom, pháo, xe cơ giới ủi phá địa hình, phá địa bàn bám trụ của lực
lượng cách mạng, cho từng đoàn máy bay trực thăng từ 3-5 chiếc
dàn hàng ngang quạt để phát hiện hầm bí mật của ta. Bên trong
xã, ấp bọn cảnh sát, bình định, tâm lý chiến liên tục ruồng bố, tiến
hành chiến tranh tâm lý gây chia rẽ, nghi kỵ trong nhân dân.
Năm 1960, Đội dân quân du kích xã Phước An hình thành làm
nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở. Tháng 10/1960
kết hợp lực lượng huyện và cơ sở nội tuyến, đội tập kích tổng
đoàn dân vệ tại chợ giữa ban ngày, thu 6 súng, đồng thời đẩy
mạnh đấu tranh chính trị binh vận, hù dọa làm địch hoang mang.
Liên tục trong năm 1961, Đội kết hợp vừa vũ trang tuyên truyền
vừa diệt ác làm rệu rã bộ máy tề xã. Ngày 20/10/1961, đội tổ chức
đào công sự, hầm hố vây lấn địch tại bót Gò Cát, đồng thời vận
động hơn 300 nhân dân đấu tranh kêu gọi địch buông súng. Ngày
24/10/1961, địch hoang mang bỏ đồn rút chạy, ta bắt sống 4 tên,
thu 7 súng, giải phóng hoàn toàn 2 ấp Bà Bông, Bà Trường.
Đầu năm 1962, Đội dân quân du kích xã Phước An nhiều lần
phục kích đánh diệt bọn bảo an, dân vệ đi càn quét buộc nhân
dân làm ấp chiến lược. Đồng thời, đội còn vận động nhân dân
đấu tranh quyết liệt chống địch rào ấp, gom dân. Năm 1963, địch
khoanh dân tại chỗ lập ấp chiến lược, xây dựng lại bót Gò Cát, tua
ở chợ để yểm trợ việc lập lại bộ máy tề xã ấp. Đội dân quân du
kích xã Phước An vẫn kiên trì bám sát địch, đánh địch đi tuần tiễu
mở đường, diệt nhiều tên làm chúng co lại trong đồn.
Cuối năm 1963, đội làm nòng cốt phát động nhân dân nổi dậy
phá hàng ngàn mét rào ấp chiến lược, xây dựng hầm chông, hố
44

5.5 Page 45

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đinh đánh địch đi càn. Đầu năm 1964, ta lại giải phóng 2 ấp Bà
Bông, Bà Trường sau khi địch tái chiếm, Đội dân quân du kích xã
Phước An phát triển lên 1 trung đội, vận động hàng chục thanh
niên thoát ly tham gia chiến đấu.
Tháng 5/1964, tại Phước An ta bắt đầu xây dựng ụ chiến đấu và
địa đạo để đánh địch lấn chiếm. Trong 2 năm 1964-1965, du kích
cùng nhân dân đóng góp trên 5 ngàn ngày công, xây dựng được 3
ụ chiến đấu liên hoàn nhau.
Tháng 9/1964, ụ chiến đấu đầu tiên hoàn thành tại ấp Bà
Trường. Địch điều tiểu đoàn 4 lính thủy đánh bộ cùng 1 tiểu đoàn
bảo an chia làm nhiều mũi càn vào để tiêu diệt ụ. Chỉ với 7 đồng
chí, du kích Phước An đã bám trụ, bố trí chông, mìn bẻ gãy nhiều
đợt xung phong của địch suốt nửa ngày. Địch rút lui mang theo 32
xác chết và bị thương, trong đó có 1 đại úy.
Thắng lợi của Đội dân quân du kích xã Phước An vừa hỗ trợ
phong trào đấu tranh của nhân dân, vừa chứng tỏ ưu thế của chiến
thuật ụ chiến đấu, như báo cáo của Bộ Chỉ huy Quân khu miền
Đông năm 1964 đã đánh giá: “…Đội dân quân du kích xã Phước
An (Biên Hòa) lực lượng kém hơn địch từ 20 đến 80 lần, vẫn cứ
đánh và giành thắng lợi”.
Ngày 1/7/1965, địch lại tổ chức cuộc càn quét quy mô lớn vào
Phước An với 1.600 quân chủ lực của sư đoàn 18 và bảo an do các
cố vấn Mỹ chỉ huy. Đội dân quân du kích xã Phước An chỉ có 14
đồng chí (có 2 y tá) đã bố trí trận địa chiến đấu mìn, chông quanh
ụ chiến đấu, Đội bẻ gãy nhiều đợt xung phong của địch. Đến 15
giờ ngày 3/7/1965, địch rút lui. Ta diệt 67 tên, làm bị thương 30
tên (có 4 cố vấn Mỹ), bắn rơi 1 máy bay lên thẳng. Qua thắng lợi
này hơn 10 đồng chí trong đội đã được kết nạp vào Đảng.
Phát huy thắng lợi này, ngày 9/7/1965, Đội dân quân du kích
xã Phước An kết hợp với đấu tranh binh vận của nhân dân tiến
hành vây địch ở bót Gò Cát. Ngày 10/7, đại đội bảo an đóng bót
Gò Cát bỏ chạy, xã Phước An lại được giải phóng.
45

5.6 Page 46

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tháng 3/1966, lữ đoàn dù của 199 của Mỹ càn vào Phước An
với 40 xe tăng ủi phá khu lòng chảo nhằm tiêu diệt đội du kích và
văn phòng Huyện ủy đóng tại đây. Dựa thế địa đạo, Đội dân quân
du kích xã Phước An dũng cảm đánh trả địch quyết liệt diệt 63 tên
Mỹ, bắn rơi 4 máy bay lên thẳng. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên
của đội du kích, khẳng định tinh thần chiến đấu kiên cường và sự
trưởng thành của đội.
Từ năm 1967, quân đồng minh của Mỹ là Thái Lan thuộc sư
đoàn Mãng Xà Vương, Hắc Báo thay nhau vào xây dựng căn cứ
Nước Trong, từ đó bung ra đánh phá vùng Nhơn Trạch, Long
Thành. Chúng đóng 3 cụm quân ở 3 ấp Bà Bông, Bà Trường,
Vũng Gấm, kết hợp với việc rải chất độc hóa học hủy diệt rừng
Sác, phá địa bàn bám trụ của du kích và đoàn 10 đặc công của
miền.
Với sở trường đánh phục kích, gài trái, hầm chông, bố đinh,
đội nhiều lần bẻ gãy các trận càn của quân Thái Lan, đánh diệt
chúng, có trận diệt gọn một tiểu đội Thái Lan tại miễu Ông Tùng,
hơn 20 tên lọt hầm chông, hố đinh, diệt 16 tên cán bộ bình định,
thu 8 súng, đánh bại âm mưu “bình định cấp tốc”, “bình định đặc
biệt” của chúng.
Từ năm 1969-1971, địch tăng cường và tập trung mọi phương
tiện hủy diệt rừng giồng và rừng sác ở Phước An, gây cho lực
lượng cách mạng rất nhiều khó khăn, thiếu đói. Đội du kích vẫn
kiên trì bám trụ dùng bom pháo lép của địch tự tạo vũ khí đánh
diệt 3 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, diệt nhiều sinh lực bộ
binh địch.
Trong 2 năm 1973-1974, phong trào đấu tranh của nhân dân ở
Phước An phát triển rộng. Ngày 19/5/1974, Đội dân quân du kích
xã Phước An hỗ trợ cho cơ sở tiến hành binh vận, đội phòng vệ
dân sự ấp Vũng Gấm nổi dậy trừng trị tên trưởng ấp ác ôn, thu 8
súng, bắt 6 tên khác; tiếp theo đội 4 lần tập kích vào đồn dân vệ
Vũng Gấm, diệt 4 tên, làm bị thương 12 tên khác, làm bọn tề ấp
46

5.7 Page 47

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xã khác lo sợ.
Trong khí thế cách mạng sôi nổi, tháng 3/1975, đội cùng nhân
dân dùng 3 mũi giáp công bao vây kêu gọi bọn lính ở Vũng Gấm
buông súng. Trong gần 2 tháng, đội bắn chết và bị thương 14 tên,
phá hủy 1 cầu, 1 cống trên đường 19, 4 xe gắn máy, thu 2 súng.
Cuối tháng 4/1975, đội làm nòng cốt phát động nhân dân trong
xã nổi dậy phá rã tề ngụy, giải phóng hoàn toàn xã Phước An.
Trong 15 năm liên tục chiến đấu, Đội dân quân du kích xã
Phước An đã đánh hàng trăm trận, diệt 282 tên địch, thu 54 súng
các loại, bắn rơi 2 máy bay, hủy 3 xe tăng thu gom hàng trăm bom
pháo lép tạo vũ khí đánh địch.
Đội dân quân du kích xã Phước An đã được khen thưởng: 1
Huân chương Chiến công hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công
hạng Nhì, 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, nhiều bằng khen,
giấy khen.
Ngày 6/11/1978, Đội dân quân du kích xã Phước An được Nhà
nước và Chính phủ tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân.
47

5.8 Page 48

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội dân quân du kích
xã Phú Hội
Xã Phú Hội(1) thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, từ xa xưa
đã nổi tiếng với những vườn cây ăn trái như chôm chôm, bưởi, sầu
riêng xanh ngát. Xã chạy dài theo trục đường số 17. Về phía Đông,
Phú Hội giáp rừng và xã Phước Thiền, phía Tây giáp xã Long Tân
với đồng ruộng mênh mông, phía Nam giáp rừng, sông Đồng Môn,
sông Lòng Tàu, rất thuận lợi cho giao thông ở phía Đông của xã.
Hầu hết người dân ở Phú Hội là dân địa phương sinh sống lâu đời
với nghề làm vườn, nghề trồng lúa nước. Nhân dân có truyền thống
yêu nước, đã đấu tranh kiên cường trong kháng chiến chống Pháp.
Đường 17 xuyên qua xã Phú Hội nối liền với kho đạn Thành Tuy
Hạ. Địch dùng đường này để chuyển vũ khí về Quân đoàn III của
chúng ở Biên Hòa, từ đó chi viện cho các tiểu khu quân sự ở chung
quanh. Sông Đồng Môn và Lòng Tàu là đường thủy chiến lược nối
liền với Vũng Tàu và Nhà Bè, Sài Gòn.
Với cách mạng, xã Phú Hội là địa bàn bám trụ của du kích xã,
lực lượng vũ trang huyện, tỉnh Biên Hòa, Đoàn 10 đặc công miền để
đánh địch và cắt đứt đường giao thông thủy, bộ của địch, tiến công
các chi khu Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ cùng các cơ quan đầu não
của địch ở Sài Gòn.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
48

5.9 Page 49

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Vì thế, xã Phú Hội là xã tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Địch
xây dựng tại đây 4 đồn, 3 chốt với trên 1 đại đội bảo an và dân vệ
đóng giữ. Bộ máy kìm kẹp có cảnh sát, bình định nông thôn và tề xã,
ấp. Có lúc chúng còn tăng cường lính của sư đoàn 18 xuống càn quét,
đánh phá. Từ năm 1966, quân dân xã Phú Hội còn phải đối đầu với
quân viễn chinh Mỹ và quân Thái Lan, đồng minh của Mỹ.
Tháng 8/1960, xã Phú Hội được chọn làm điểm diệt ác đầu tiên để
phát động phong trào kết hợp đấu tranh chính trị, vũ trang toàn huyện
và Đội dân quân du kích xã Phú Hội được thành lập.
Mở đầu cho phong trào toàn huyện, Đội dân quân du kích xã Phú
Hội đã tổ chức diệt tên trưởng ấp Phú Mỹ và phát động nhân dân
toàn xã nổi trống, mõ, đốt đuốc uy hiếp địch. Ta làm chủ ấp ban đêm,
huy động được hàng chục thanh niên tòng quân chiến đấu, phát triển
được cơ sở và phong trào cách mạng xã.
Từ năm 1962, Đội dân quân du kích xã Phú Hội tập trung vào
nhiệm vụ đánh địch càn quét bên ngoài, cùng lúc phát động nhân
dân chống địch dồn dân lập ấp chiến lược. Cuộc đấu tranh kéo dài
đến năm 1963, do không tát được dân nên địch phải khoanh dân tại
chỗ, tiến hành xây dựng hàng rào ấp chiến lược nhằm đánh bật đội
du kích.
Đội du kích xã vẫn kiên trì, từng lúc bám ấp, vừa phá ấp chiến
lược vừa vận động nhân dân cùng phá. Bên trong, ban đêm nhân dân
bí mật phá ấp, dùng lý lẽ đấu tranh chống địch không làm hại, vừa
quyên tiền mua kềm gửi ra cho bộ đội du kích phá ấp.
Cuối năm 1964, Đội dân quân du kích xã Phú Hội làm nòng cốt
cho phong trào ụ chiến đấu tại xã, phát triển thành địa đạo để bao vây
cô lập địch trong đồn, bót. Đầu tiên, đội xây dựng ụ chiến đấu ở bìa
rừng, sau đó phát triển rộng ra giáp xã Long Tân đánh diệt bọn bảo
an đi càn quét phía ngoài có kết quả. Đầu năm 1965, kết hợp 2 lực
lượng bên trong, bên ngoài kết hợp 3 mũi đấu tranh, Đội dân quân
du kích xã Phú Hội và nhân dân phát động phong trào phá ấp chiến
lược toàn xã, giải phóng hoàn toàn xã Phú Hội, tiến hành xây dựng
49

5.10 Page 50

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
làng xã chiến đấu.
Ngày 3/3/1966, một bộ phận lữ đoàn dù 199 của Mỹ càn vào Phú
Hội. Vận động theo địa đạo và dựa vào ụ chiến đấu, Đội dân quân
du kích xã Phú Hội liên tục phản công và tiến công địch suốt 2 ngày
đêm, bẻ gãy nhiều cuộc tiến công của địch, diệt 51 tên Mỹ. Phát huy
thắng lợi, đội tiếp tục củng cố công sự vây lấn, bứt rút bọn bảo an tại
đồn Phú Hội, tiếp tục giữ vững vùng giải phóng.
Từ năm 1967, địch dùng bom pháo hủy diệt rừng, kết hợp xe
tăng, xe ủi ủi tàn phá địa bàn, tăng cường lực lượng hành quân liên
tục phía ngoài, xây dựng lại ấp chiến lực, tăng cường bọn bình định
đánh phá bên trong gây cho lực lượng xã nhiều khó khăn. Bằng tư
tưởng tiến công, đội dân quân du kích xã Phú Hội đã đào hầm bí mật
để trụ lại, tìm mọi cách vào ấp diệt ác, phá kìm, đánh bọn bình định
bên trong.
Đầu tháng 7/1967, Đội tập kích đoàn bình định nông thôn tại xã,
diệt 2 tên đồn trưởng và phó, bắt sống 8 tên, thu 15 súng các loại, 2
máy thông tin và nhiều tài liệu, đánh bại âm mưu bình định của địch.
Ngày 19/7/1967, đội tổ chức phục kích đánh một tiểu đội Mỹ ngoài
ấp, diệt 4 tên thu 4 súng, 2 máy thông tin PRC 25. 2 mặt trận đánh
trong và ngoài này có tác dụng làm lỏng rã thế kìm của địch. Từ 16
giờ trở đi, bọn địch co cả vào đồn, không dám đi càn quét.
Từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm
1968, nhất là từ năm 1969 đến năm 1971, địch tập trung đánh phá
khu Lòng chảo Nhơn Trạch rất quyết liệt, trong đó có xã Phú Hội.
Có lúc trên không chúng tập trung từng đoàn máy bay lên thẳng dàn
hàng ngang quạt để tìm hầm bí mật của ta. Dưới mặt đất, địch cho
xe cơ giới ủi phá địa hình. Tuy gặp nhiều khó khăn, đội dân quân du
kích xã Phú Hội vẫn kiên trì bám trụ hầm bí mật, dùng B40 và mìn
tự tạo đánh diệt 10 xe tăng, xe ủi địch. Đồng thời, Đội chia làm nhiều
tổ nhỏ bí mật vào ấp diệt ác làm bọn tề rúng động, tạo điều kiện cho
nhân dân đấu tranh chống bắn pháo, đòi bồi thường thiệt hại, đòi về
đất cũ sản xuất.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, Đội dân quân du kích
xã Phú Hội liên tục tiến công địch. Nổi bật trong 2 ngày 30 và
31/12/1972, 13 du kích kiên cường bám trụ bẻ gãy nhiều đợt phản
kích của liên đội 32 bảo an, diệt 15 tên. Địch điên cuồng dùng máy
bay đến ném bom bừa bãi vào xã, hủy diệt 132 nhà dân. Đội vẫn liên
tục trụ bám giữ được thế làm chủ 2 ấp, đánh bại kế hoạch “tràn ngập
lãnh thổ” của địch.
Tham gia chiến dịch mùa khô 1974-1975, đội dân quân du kích xã
Phú Hội bí mật luồn sâu diệt bọn bình định, bọn tề xã ấp làm địch rất
lo sợ. Theo tinh thần chỉ đạo của Huyện ủy Nhơn Trạch là “xã giải
phóng xã, ấp giải phóng ấp”, tháng 4/1975 Đội dân quân du kích xã
Phú Hội đã phát triển lên 35 đồng chí. Ngày 27/4/1975, đội du kích
kết hợp 3 mũi tiến công địch ở bót dân vệ và trung tâm cộng đồng ở
xã. Ngày 28/4/1975, phối hợp với mũi tiến công của chủ lực, Đội dân
quân du kích xã Phú Hội phát triển đánh chiếm thêm 2 đồn, 4 chốt, 1
ụ ở ấp Đất Mới và ấp Phú Mỹ, cùng nhân dân truy lùng bọn tàn binh
địch, diệt 10 tên ác ôn, 3 bảo an, bắt sống 12 tên, thu 13 súng các loại,
nhiều đồ dùng quân sự, giải phóng hoàn toàn xã Phú Hội.
Trong 15 năm chiến đấu, Đội dân quân du kích xã Phú Hội đã tác
chiến độc lập và phối hợp được 1.250 lần; loại khỏi vòng chiến đấu
900 tên (có 200 Mỹ và Thái Lan); bắt sống 55 tên.
Đội đã được tặng thưởng 5 Huân chương Chiến công (2 hạng
Nhất, 2 hạng Nhì, 1 hạng Ba), 3 Huân chương Chiến công hạng Ba
cho cá nhân, 3 bằng khen, 6 đồng chí đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ,
1 đồng chí là Dũng sĩ diệt cơ giới Mỹ, 3 đồng chí là Chiến sĩ quyết
thắng, 7 đồng chí là Chiến sĩ thi đua, 18 giấy khen cho cá nhân.
Ngày 6/11/1978, đội dân quân du kích xã Phú Hội vinh dự được
Nhà nước và Chính phủ tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân.
51

6.2 Page 52

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội dân quân du kích
xã Thiện Tân
Xã Thiện Tân(1) là căn cứ huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hòa (cũ),
chạy dài theo trục đường số 24 phía hữu ngạn sông Đồng Nai, phía
Đông và Bắc giáp Chiến khu Đ, phía Tây Nam giáp sân bay quân sự
chiến lược Biên Hòa của Mỹ.
Diện tích xã trên 10km2, dân số trên 2 ngàn người, là địa phương
có truyền thống yêu nước đấu tranh cách mạng.
Thiện Tân là cửa ngõ ra vào Chiến khu Đ, một cửa khẩu hậu cần
của lực lượng cách mạng, đồng thời làm bàn đạp tiến công địch ở
sân bay Biên Hòa, Bộ Chỉ huy Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn. Do
đó, địch tập trung đánh phá, càn quét Thiện Tân rất ác liệt để bảo vệ
các cơ quan đầu não, các căn cứ, kho tàng quan trọng của chúng ở
Biên Hòa.
Lực lượng địch thường xuyên có 1 đồn do 1 đại đội bảo an đóng
giữ, 3 bót cấp trung đội ở Rạch Tôm, cầu Cây Khô, ấp Ông Hường
do 3 trung đội bảo an đóng giữ, 1 tiểu đội cảnh sát, 1 đội bình định
nông thôn cùng bộ máy tề xã, ấp ác ôn. Ngoài ra quân chủ lực sư
đoàn 18 và lữ đoàn dù 173 của Mỹ thường xuyên về hoạt động để
bảo vệ vòng ngoài sân bay Biên Hòa. Tại dốc Ông Hoàng, địch bố trí
1 cụm pháo có từ 9 đến 25 khẩu pháo để yểm trợ cho các cuộc hành
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
52

6.3 Page 53

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
quân của chúng.
Tháng 1/1960, Đội dân quân du kích xã Thiện Tân được thành
lập. Tháng 12/1960 và tháng 1-1961, địch mở 2 cuộc hành quân vào
xã. Đội đã chặn đánh địch tại cầu Cây Khô, diệt hơn 1 tiểu đội bảo
an, bẻ gãy mũi tiến quân của địch. Hai trận thắng đầu tiên của đội có
tác động cổ vũ rất lớn đến phong trào cách mạng ở xã, 62 thanh niên
ở xã đã tòng quân sau thắng lợi này.
Từ 1961-1965, khi Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt,
tuy lực lượng không nhiều nhưng Đội dân quân du kích xã Thiện Tân
luôn là lực lượng nòng cốt đi đầu trong việc đánh phá ấp chiến lược
của địch mở thế kìm cho nhân dân. Kết hợp với đấu tranh chính trị,
binh vận của nhân dân, đội đã 2 lần bao bót, bứt rút bót Cây Khô, bót
Rạch Tôm; phát động nhân dân bung ra phá ấp chiến lược của địch.
Nổi bật, đội du kích đã dũng cảm, mưu trí tiêu diệt tên đại úy tình báo
Sáu Tàng tại cầu Cây Khô, tác động mạnh và cổ vũ phong trào cách
mạng trong toàn huyện.
Từ năm 1966, đế quốc Mỹ mở rộng sân bay chiến lược Biên Hòa,
chúng tập trung xe cơ giới ủi phá địa hình, tổ chức các cuộc càn quét
quy mô lớn vào Thiện Tân nhằm đẩy các lực lượng cách mạng ra
khỏi xã, tiêu diệt cơ sở cách mạng bên trong, tạo một vành đai an
toàn cho sân bay và các căn cứ, kho tàng quân sự tại Biên Hòa.
Biết tin và dựa vào nhân dân, xây dựng cơ sở tình báo, hậu cần
vững chắc bên trong, Đội dân quân du kích xã Thiện Tân vẫn luồn
sâu vào ấp diệt ác phá kìm; dùng bom, pháo lép của địch chế tạo vũ
khí, đánh phá giao thông, diệt xe cơ giới, xe thiết giáp gây cho địch
nhiều thiệt hại.
Song song với diệt ác phá kìm, đánh địch bên ngoài, cán bộ và
du kích xã vẫn kiên trì bám trụ vận động nhân dân đấu tranh chống
địch bắn pháo vào xóm ấp, chống giết người bảo vệ quyền lợi của
nhân dân.
Ngày 6/6/1966, một đoàn xe địch gồm 3 chiếc thiết giáp M113 đi
càn quét từ Đại An trở về theo lộ 24. Đến đoạn ấp số 7, chúng lọt vào
53

6.4 Page 54

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ổ phục kích của Đội dân quân du kích xã Thiện Tân. Bằng B40 và
mìn tự tạo ĐH10, Đội dân quân du kích xã Thiện Tân đã diệt cả 3 xe
và 16 tên địch thuộc sư đoàn 18 bộ binh.
Trong 2 năm 1966-1967, tuy quân Mỹ bung ra đánh phá bên
ngoài, đội vẫn bí mật đột ấp diệt ác làm bọn lính tại chỗ và tề ngụy
co lại không dám lùng sục ban đêm.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân năm
1968, Thiện Tân là địa bàn đứng chân của lực lượng huyện. Đội dân
quân du kích xã Thiện Tân đã cùng bộ đội tiến công địch tại chi khu
Công Thanh(2), đồng thời tiến hành diệt ác, tuyên truyền vũ trang
trong các ấp.
Sau năm 1968, địch phản kích phong trào ở Thiện Tân ác liệt. Bên
ngoài chúng ném bom, bắn pháo, rải chất độc hóa học, cho xe cơ giới
ủi rừng, tung biệt kích địch đánh phá nhiều nơi trong rừng. Từ ngoài
căn cứ vào ấp chỉ 15 phút đường nhưng có lúc đội du kích đụng địch
đến 4-5 lần. Tuy vậy, đội vẫn bí mật bám trụ, vừa diệt ác, vừa làm
trinh sát cho bộ đội tỉnh, Đoàn 113 đặc công Miền đánh vào các mục
tiêu sân bay Biên Hòa, kho đạn Bình Ý...
Đêm 12 rạng 13/8/1968, địch mở cuộc hành quân cấp tiểu đoàn
gồm lính sư đoàn 18, biệt động quân với yểm trợ của 12 xe thiết giáp
vào ấp số 7, là ấp cơ sở cách mạng. Trong khi đó, đoàn hậu cần của
tỉnh Biên Hòa gần 150 đồng chí cán bộ đang triển khai công tác tải
lương thực tại xã. Địch chia làm nhiều mũi bao vây xã. Ý đồ của
chúng là dồn ta về hướng sông Đồng Nai để tiêu diệt. Vòng vây địch
ngày càng siết chặt.
Lúc này, Đội dân quân du kích xã Thiện Tân chỉ có 5 đồng chí
cùng với 5 bộ đội huyện đã dũng cảm đánh trả quyết liệt từ 3 giờ đến
4 giờ 30 sáng. Sau đó cả 10 đồng chí tập trung mở đường máu cho
đoàn rút. Đến 5 giờ sáng, toàn lực lượng rút về căn cứ an toàn, đồng
thời diệt 16 tên địch, trong đó có 4 cố vấn Mỹ, bắn cháy 2 xe tăng.
(2) Quận Công Thanh do chính quyền Sài Gòn thành lập năm 1963
54

6.5 Page 55

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong 3 năm 1969, 1970, 1971 là giai đoạn tình hình cách mạng
gặp khó khăn nhất, Đội dân quân du kích xã Thiện Tân đã xây dựng
được 10 hầm bí mật để bám trụ đánh địch. Nổi bật là tinh thần chủ
động tiến công sử dụng vũ khí tự tạo đánh địch của đội đạt hiệu quả
cao, trong đó có trận diệt 5 xe tăng và 2 tiểu đội Mỹ trên đường bảo
vệ vành đai sân bay Biên Hòa.
Tháng 11/1970, một đại đội lính thuộc sư đoàn 18 cùng bọn bảo
an tại chỗ mở 1 trận càn vào ấp Xóm Gò. Đội dân quân du kích xã
Thiện Tân có 6 đồng chí cùng 2 bộ đội tỉnh dùng mìn đánh diệt và
làm bị thương 20 tên, bẻ gãy trận càn của chúng. Cũng ngay trong
đêm đó, du kích xã bí mật vào ấp 7, diệt 5 tên tề ác ôn, thu 3 súng.
Tháng 1/1973, đội tổ chức tiến công địch, phát động nhân dân
ấp 7 nổi dậy giành quyền làm chủ, chiếm và kiểm soát ấp 1 ngày,
đánh bật 6 đợt phản kích của một đại đội địch, diệt và làm bị
thương 12 tên.
Trong chiến dịch mùa khô 1974-1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh
1975, Đội du kích kết hợp quần chúng liên tục vừa nổi dậy vừa tấn
công địch, kêu gọi chúng buông súng. Ngày 30/4/1975, đội cùng
nhân dân chiếm đồn bót địch, giải phóng hoàn toàn xã Thiện Tân.
Từ năm 1961-1975, Đội dân quân du kích xã Thiện Tân đã tác
chiến 130 trận lớn, nhỏ, diệt 1.950 tên lính quân đội Sài Gòn, 154
lính mỹ Mỹ, bắn cháy 7 xe tăng, xe thiết giáp, thu 105 súng các loại,
thu 2 tấn mìn, đạn, rải 10.500 truyền đơn các loại, phát động 4.500
lượt nhân dân đấu tranh chính trị.
Từ năm 1961-1968, đội đã diệt 17 tên tề xã ấp, cảnh sát, tình báo
ác ôn, đánh phá 20 lần cầu cống địch trên đường 24.
Đội đã được tặng thưởng: 5 Huân chương Chiến công hạng Ba, 10
bằng khen, 20 giấy khen.
Ngày 6/11/1978, Đội du kích xã Thiện Tân được Nhà nước và
Chính phủ tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực luợng vũ trang
nhân dân.
55

6.6 Page 56

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội phẫu thuật tiền phương (K20)
miền Đông Nam Bộ
Đội phẫu thuật tiền phương miền Đông Nam Bộ (K20) là một đơn
vị nhỏ, nhân viên phục vụ, phương tiện, dụng cụ, thuốc men thiếu
lại thường xuyên hoạt động ở vùng sâu, bị địch liên tục càn quét,
đánh phá. Nhưng cán bộ, y bác sĩ, nhân viên trong đội đã có quyết
tâm cao, tự lực tự cường, dũng cảm bền bỉ chịu đựng gian khổ ác liệt
đứng vững trên chiến trường vùng sâu bảo đảm tiếp nhận, cứu chữa
thương binh.
Đội hết sức coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, y bác sĩ, điều
dưỡng, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, có
quan điểm phục vụ tốt. Cả đội đã thực hiện tốt khẩu hiệu “Tất cả vì
thương binh, trước hết cho thương binh”. Tuy chỉ là một đội phẫu
thuật nhưng K20 đã làm tốt nhiệm vụ của một bệnh viện trên một địa
bàn vô cùng khó khăn, cứu chữa nhiều thương binh có vết thương
hiểm nghèo.
Đội đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng Ba,
1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, được tặng danh hiệu Đơn vị
Thành đồng Quyết thắng.
Ngày 10/2/1970, Đội phẫu thuật tiền phương miền Đông Nam
Bộ (K20) được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
56

6.7 Page 57

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trại Quản lý và Cải tạo phạm nhân K4
Công an tỉnh Đồng Nai
Trại Quản lý và Cải tạo phạm nhân K4 Công an tỉnh Đồng Nai
được thành lập từ tháng 6/1976. Nhiệm vụ chính trị của trại là
quản lý, giáo dục và cải tạo phạm nhân.
Số trại viên của trại lúc mới thành lập bao gồm phần lớn là bọn
phản động, gián điệp, tình báo, cảnh sát… đã bị Mỹ và chế độ
Sài Gòn nhồi nhét tư tưởng phản động (từ hơn 20 năm). Sau ngày
giải phóng 30/4/1975, những đối tượng được đưa vào trại để học
tập, cải tạo đều mang sẵn tư tưởng căm thù cách mạng sâu sắc
nên rất ngoan cố, tìm mọi cách chống phá không chịu lao động
cải tạo, thường tìm cách móc nối với bọn phản động bên ngoài
tuyên truyền kích động lôi kéo, hăm dọa một số trại viên tiến bộ
để tổ chức bạo loạn, cướp súng, giết cán bộ, phá trại. Đặc biệt là
từ khi xảy ra chiến tranh biên giới ở Tây Nam và phía Bắc, đồng
thời bọn Fulro gây ra một số vụ bạo loạn ở một số điểm trên địa
bàn Tây Nguyên, những đối tượng này càng nảy sinh hy vọng,
chờ thời cơ nổi dậy.
Trước tình hình khó khăn và phức tạp ấy, cán bộ, chiến sĩ của
đơn vị đã tìm mọi cách để thuyết phục các đối tượng học tập cải
tạo. Cụ thể như: kết hợp giam giữ với công tác xét hỏi, kết hợp
bản tự khai của trại viên với công tác xây dựng cơ sở nắm tình
hình, kết hợp trực tiếp giáo dục với việc dùng gia đình, thân nhân
tác động họ, kết hợp dùng bằng chứng phạm tội của những kẻ
57

6.8 Page 58

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chống đối với việc thường xuyên giáo dục đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cho xem phim,
sách báo, nghe đài, chơi thể dục thể thao, vận động sáng tác văn
học, nghệ thuật, lao động sản xuất… Nhờ vậy, mọi biểu hiện phản
động của những đối tượng cứng đầu, cố tình gây rối đều được cán
bộ, chiến sĩ của trại phát hiện đấu tranh kịp thời, xử lý đích đáng.
Từ đó, các trại viên đều yên tâm cải tạo, nên đã có 50% số trại
viên tiến bộ được tha trước niên hạn. Khi ra trại, 100% trại viên
được phổ cập văn hóa cấp THCS và có nghề nghiệp như: mộc,
rèn, nề, đan lát, may vá, điêu khắc, hội họa hoặc chăn nuôi, trồng
trọt. Một ngàn trại viên sau khi được tha đã làm đơn xin ở lại làm
công nhân cho trại. Hầu hết số trại viên được tha, đơn vị đều cử
cán bộ đi liên hệ các cơ sở sản xuất của Nhà nước, hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất để tiếp nhận họ vào làm việc. Thậm chí một số trại
viên do khó khăn về kinh tế, đơn vị đã trích tiền tàu xe, trợ cấp
tiền gạo, tặng một số tư liệu sản xuất để về nhà sinh cơ lập nghiệp,
do đó không có trại viên nào tái phạm tội lỗi.
Đi đôi với giáo dục chính trị, trại đã tổ chức cho các trại viên
tham gia sản xuất, dùng lao động để cải tạo. Trong sản xuất gặp
rất nhiều khó khăn trở ngại bởi nơi đây vốn là khu gia binh cũ
của quân đội Sài Gòn, nay biến thành trại giam, lại phải cải tạo
khu vực để có được các khu giam, buồng giam, nơi ăn, ở, chơi thể
thao, câu lạc bộ và các khu vực sản xuất cho từng loại tội phạm.
Khu vực đất sản xuất phần lớn là rừng và đồi đá, thời tiết lại thất
thường, tư liệu sản xuất, cây con, giống lại thiếu, nhất là vốn đầu
tư của Nhà nước mỗi năm lại cắt giảm trên 2 triệu đồng; đặc biệt
là lương thực, thực phẩm, quần áo, chăn màn, bát đũa, cuốc xẻng
để trang bị cho phạm nhân đều bị cắt giảm từ 70-80%.
Trước tình hình đó, đơn vị đã cử hàng chục cán bộ chiến sĩ đi
học các ngành nghề tại các trường đại học chuyên nghiệp, học ở
các xí nghiệp, hợp tác xã hoặc mời các chuyên gia về đơn vị để
giảng bài, nói chuyện, trực tiếp huấn luyện… Bên cạnh đó, đơn vị
58

6.9 Page 59

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xin thêm đất đai, quy hoạch sản xuất, phá vỡ 130 hécta đất canh
tác, lấy sản xuất nông nghiệp làm cơ sở cho việc phát triển thủ
công nghiệp, công nghiệp.
Do đó từ năm 1978, dù mỗi năm chỉ được Nhà nước đầu tư trên
2 triệu đồng nhưng đơn vị đã làm ra tổng sản lượng bình quân 69
triệu đồng. Đưa đàn gia súc từ chỗ có hơn 30 con các loại đến năm
1985 trên 300 con bò, hàng trăm ngàn con gà, vịt, lợn… Ngoài ra
còn khai thác và vận chuyển 73.200m3 gỗ, xây dựng 18840m2 nhà
giam, nhà ở, nhà ăn, hội trường, câu lạc bộ, đào đáp 320.080m3
đất đá để làm ao, nền nhà sản xuất, mỗi năm thu hoạch trên 10
ngàn tấn lương thực, mức ăn của trại viên từ 13kg/tháng tăng lên
19kg/tháng và từ 2 bữa ăn lên 3 bữa ăn/ngày, từ 1kg thịt lên 2kg
thịt, 4 kg cá, rau xanh/tháng; cung cấp hàng vạn bộ quần áo, chăn
màn, áo mưa, hàng vạn dụng cụ sản xuất; hàng năm các ngày lễ,
tết hoặc các trại viên ốm đau, lao động tích cực còn được tăng
khẩu phần ăn, thưởng vật chất và mỗi năm còn có lương thực dự
phòng cho 6 tháng năm sau.
Đặc biệt xuất sắc là tập thể cán bộ, chiến sĩ của trại đã cảm hóa,
giáo dục phạm nhân, mạnh dạn phát huy khả năng và sức lao động
của trại viên, đã xây dựng được 1 khu thắng cảnh du lịch gồm 6
hồ nuôi cá, 4 nhà 2 tầng trên hồ nước bằng gỗ quý được trang trí
rất mỹ thuật, đầy đủ tiện nghi và hệ thống vườn hoa, cây cảnh,
chuồng chim, chuồng thú… được các đoàn khách trong nước và
quốc tế đến tham quan khen ngợi.
Là nơi giam giữ tập trung nên mỗi phạm nhân khi đến trại đều
mang nhiều căn bệnh khác nhau, trong đó có các bệnh mãn tính,
hiểm nghèo. Trước khó khăn chung về thuốc chữa bệnh, nhất là
thuốc kháng sinh ngày càng bị cắt giảm, đơn vị đã biết khai thác
khả năng kỹ thuật đông y của trại viên, tổ chức trồng được nhiều
loại cây dược liệu, tự sản xuất 1 triệu viên thuốc các loại, 125kg
thuốc bột, 86.134 lít thuốc nước, tổ chức khám và điều trị tại chỗ
cho 134.479 lượt phạm nhân khỏi bệnh, không để phạm nhân chết
59

6.10 Page 60

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
vì bệnh tật.
Về xây dựng lực lượng, lúc mới thành lập trại chỉ có 2 đảng
viên, 38 cán bộ chiến sĩ mới tuyển, đến năm 1985 đã có 73 đồng
chí, có 1 Chi bộ Đảng và 4 Chi đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh.
Do làm tốt công tác chính trị tư tưởng nên cán bộ chiến sĩ đoàn
kết một lòng, yên tâm công tác, không có cán bộ chiến sĩ nào
sai phạm kỷ luật. Trại được công nhận là Đơn vị Quyết thắng 3
năm liền 1982-1983, được tặng nhiều bằng khen của Bộ Nội vụ,
UBND tỉnh và Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai.
Đặc biệt, năm 1985(2), Trại Quản lý và Cải tạo phạm nhân K4
Công an tỉnh Đồng Nai được Nhà nước và Chính phủ phong tặng
danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(2) Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nhà xuất bản
Đồng Nai, 1998.
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân thị xã Long Khánh
Thị xã Long Khánh(1) chính thức thành lập theo Quyết định số
97/2003/NĐ - CP ngày 21/8/2003 của Chính phủ trên cơ sở huyện
Long Khánh (đã chuyển giao một số xã để thành lập 2 huyện mới
Cẩm Mỹ và Thống Nhất). Thị xã Long Khánh cách thành phố Biên
Hòa trên 40km, phía Bắc giáp huyện Định Quán, phía Nam giáp
huyện Cẩm Mỹ, phía Đông giáp huyện Xuân Lộc, phía Tây giáp
huyện Thống Nhất.
Thị xã hiện có 15 đơn vị hành chính gồm 6 phường: Xuân Bình,
Xuân An, Xuân Hòa, Xuân Trung, Xuân Thanh, Phú Bình và 9 xã:
Bàu Hàm, Bảo Vinh, Bảo Quang, Suối Tre, Xuân Lập, Bàu Sen,
Xuân Tân, Hàng Gòn, Bình Lộc.
Trước năm 2003, Long Khánh có những thay đổi về đơn vị, địa
giới hành chính. Ngày 24/7/1957, chính quyền Sài Gòn ra Nghị định
131-BNV/HC/NĐ thành lập tỉnh Long Khánh gồm 2 quận: Xuân
Lộc (có 1 tổng Bình Lâm Thượng) và Định Quán (gồm 2 tổng Bình
Tuy và Tà Lài). Trong khi đó, đối với chính quyền cách mạng, sau
tháng 8/1945 và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, địa bàn
Long Khánh thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Biên Hòa. Trong kháng
chiến chống Mỹ, địa bàn Long Khánh thuộc tỉnh Long Khánh (1954-
1966); từ năm 1966-1971 thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Bà Rịa - Long
(1) Nguồn: Theo tư liệu của Lịch sử Đảng bộ thị xã Long Khánh.
61

7.2 Page 62

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Khánh; từ năm 1971-1973 thuộc huyện Xuân Lộc, phân khu Bà Rịa;
từ năm 1973-1975 thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Long Khánh vẫn là địa
bàn thuộc huyện Xuân Lộc. Năm 1991, huyện Long Khánh được
thành lập (trên cơ sở tách huyện Xuân Lộc thành 2 huyện Xuân Lộc
và huyện Long Khánh) và đến năm 2003 thì Long Khánh là thị xã.
Thị xã Long Khánh có vị trí quan trọng cả về quân sự, chính trị,
kinh tế. Đường quốc lộ 1 đi qua thị xã là con đường huyết mạch nối
liền ra miền Trung, miền Bắc, Long Khánh cũng là cửa ngõ án ngữ
phía Đông Nam để vào thành phố Biên Hòa và Sài Gòn. Liên tỉnh lộ
2 (nay là quốc lộ 56) từ thị xã Long Khánh qua huyện Cẩm Mỹ nối
liền với thị xã Bà Rịa xuống vùng ven biển Vũng Tàu. Tuyến đường
sắt Bắc - Nam đi ngang qua thị xã Long Khánh. Chính vì thế, trong
2 cuộc kháng chiến, đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ, chính
quyền Sài Gòn chú trọng xây dựng Long Khánh thành tuyến phòng
thủ vững chắc để bảo vệ trung tâm đầu não Sài Gòn.
Với đặc điểm là vùng đất đỏ phì nhiêu, màu mỡ, ngay từ đầu thế
kỷ XX giới tư bản thực dân Pháp đã triệt để thực hiện chính sách
khai thác thuộc địa ở Long Khánh, cướp khu vực đất đỏ vốn là nơi
sinh sống lâu đời của các dân tộc thiểu số bản địa để trồng và khai
thác cao su, bóc lột tài nguyên thiên nhiên lẫn sức lao động của
người dân.
Đến năm 1925, trên địa bàn Long Khánh đã có các công ty trồng
và khai thác cao su là: Công ty Đồn điền An Lộc, Đồn điền Cam
Tiêm, Công ty Cao su Đồng Nai, Công ty Đồn điền Suzannah, Công
ty Đồn điền Xuân Lộc, với tổng diện tích cao su là 7.331 hécta. Hầu
hết các công ty cao su đều mộ dân từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung
vào làm phu như: Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị… Việc mộ phu khai
thác cao su ở khu vực Long Khánh đã làm tăng số nhân khẩu ngụ cư
trên địa bàn. Chính sách khai thác cao su của tư bản thực dân Pháp
ở vùng đất đỏ Long Khánh làm xuất hiện đội ngũ công nhân cao su,
62

7.3 Page 63

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nhưng đây là tầng lớp lao động cực nhọc và có đời sống vô cùng tối
tăm. Mỗi ngày, phu cạo mủ phải làm việc không dưới 12 giờ đồng
hồ, bị bớt xén khẩu phần ăn, ở trong điều kiện chật hẹp, tồi tàn và ẩm
thấp mất vệ sinh, bệnh đau không được chữa trị, lại thường xuyên bị
đòn roi của cai, xu, sếp.
Bị áp bức đến cùng cực, công nhân đồn điền cao su ở Long Khánh
đã vùng lên đấu tranh để tự bảo vệ quyền sống của mình. Trong đó,
cuộc đấu tranh của công nhân Đồn điền Cam Tiêm năm 1926 gây
tiếng vang lớn. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu do chưa giác ngộ giai cấp,
chưa ý thức rõ về đoàn kết giai cấp, thiếu tính tập thể, những cuộc
đấu tranh của công nhân thường mang tính tự phát.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, đói rét, bệnh tật đã đưa người
nông dân ở Xuân Lộc - Long Khánh đến chỗ chết dần, chết mòn.
Nhiều trận dịch tả đã làm chết hàng trăm người. Nhiều buôn, sóc của
đồng bào dân tộc Chơ-ro, S’tiêng, sau trận dịch đã trở nên hoang tàn,
xơ xác không còn sót lại một bóng người. Đồng bào dân tộc Chơ-ro
cũng vùng lên chống lại chính sách cướp đất lập đồn điền của tư bản
thực dân Pháp. Cũng giống như cuộc đấu tranh của công nhân cao
su, đây chỉ là những phản kháng mang tính tự phát.
Cuối năm 1929, đầu năm 1930, các cơ sở cách mạng bắt đầu xuất
hiện trong các đồn điền cao su ở Xuân Lộc - Long Khánh. Các tổ
chức bí mật của Đảng được thành lập dưới các tên gọi: Xích vệ đội,
Công hội đỏ, Nông hội đỏ… Các đồng chí đảng viên còn tổ chức ra
các hội, đoàn công khai như: Hội tương tế, đội văn nghệ, đội thể dục
- thể thao… để tập hợp giác ngộ cách mạng cho quần chúng công
nhân và nông nhân lao động.
Sau khi Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Biên Hòa ra đời ở Tân
Triều(2) , phong trào cách mạng ở Xuân Lộc, đặc biệt khu thị trấn (tức
thị xã Long Khánh ngày nay) được nhen nhóm. Bước đầu, Đảng có
những hành động tích cực, các đảng viên nòng cốt (hạt giống cách
(2) Nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu.
63

7.4 Page 64

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
mạng) đã đi sâu vào các làng công nhân, các buôn, sóc… của đồng
bào dân tộc, các thợ thuyền và một số công chức, trí thức tiến bộ, gặp
gỡ bà con để tuyên truyền giác ngộ cách mạng, lôi cuốn công nhân
nhất là tầng lớp thanh niên vào các tổ chức hoạt động cách mạng.
Thông qua phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su
trong các đồn điền, các đồng chí đã lựa chọn ra những công nhân ưu
tú kết nạp vào Đảng. Đến cuối năm 1937, có 3 chi bộ được xây dựng
trong các đồn điền cao su Láng Lớn, Cam Tiêm, Hàng Gòn.
Giữa năm 1936, Ủy ban hành động của quận Xuân Lộc được
thành lập tại thị trấn Xuân Lộc(3), tổ chức được một hiệu sách ngay
trung tâm thị trấn Xuân Lộc để đem sách báo tiến bộ đến mọi tầng
lớp nhân dân trong quận, góp phần đắc lực vào việc tuyên truyền các
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, nhất là đội ngũ công
nhân trong các đồn điền cao su. Tờ báo Dân chúng, cơ quan ngôn
luận của Đảng lúc bấy giờ được nhân dân Xuân Lộc - Long Khánh
chuyền tay nhau đọc.
Tháng 2/1937, 15 đồng chí đảng viên của các xã trong thị trấn
và đồn điền cao su ở địa phương đã tổ chức hội nghị thành lập chi
bộ Đảng đầu tiên của quận Xuân Lộc tại Bàu Trâm(4). Sau hội nghị
thành lập Chi bộ Đảng ở thị trấn Xuân Lộc, có sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng, phong trào cách mạng của nhân dân địa phương ngày càng
dấy lên sôi nổi, rộng khắp. Các cuộc đấu tranh của công nhân cao su
nổ ra liên tục và ngày càng mạnh mẽ, không chỉ diễn ra trong phạm
vi một đồn điền mà có sự liên kết diễn ra cùng một lúc của nhiều
đồn điền với quy mô ngày càng lớn. Không chỉ vậy, các cơ sở cách
mạng còn tổ chức cho công nhân bí mật trừng trị những tên chủ Tây
khét tiếng gian ác. Qua những cuộc đấu tranh, công nhân cao su ngày
càng đoàn kết, ý thức giác ngộ và quyền lợi giai cấp ngày càng được
nâng lên, tính chất các cuộc đấu tranh ngày thêm quyết liệt. Trình
độ tổ chức đấu tranh cũng ngày được nâng cao. Qua đấu tranh, đội
(3) Khu cực chợ cũ thị xã Long Khánh ngày nay.
(4) Nay là phường Thanh Xuân, thị xã Long Khánh.
64

7.5 Page 65

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ngũ quần chúng công nhân giác ngộ cách mạng ngày càng đông đảo.
Liên minh công nông bắt đầu được hình thành. Lực lượng cách mạng
lớn dần lên tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền tháng 8/1945.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945, trong các đồn điền cao
su, bọn chủ sở một số bị Nhật bắt, một số trốn chạy về Sài Gòn, bọn
cai, xu ác ôn cũng không còn đất sống phải bỏ trốn. Bộ máy cai trị
của Nhật trong một thời gian ngắn chưa thể triển khai về được hết
các đồn điền cao su. Lợi dụng tình hình này, một số đồng chí đảng
viên mật trong các đồn điền cao su đã vận động công nhân tự đứng
ra quản lý đồn điền, phát hoang trồng lương thực giải quyết cái ăn;
tuyển chọn những thanh niên nòng cốt, khỏe mạnh trong công nhân
và nông dân các xã vùng ven thị trấn thành lập các đội tự vệ, lực
lượng xung kích, nhanh chóng xây dựng các tổ chức đoàn thể cách
mạng. Phong trào cách mạng của công nhân ở các đồn điền cao su
ngày càng phát triển, liên hệ mật thiết với phong trào cách mạng ở thị
trấn Xuân Lộc và các xã vùng nông thôn, hình thành thế liên kết hỗ
trợ nhau áp đảo hệ thống chính quyền tay sai của Nhật ở địa phương.
Tháng 5/1945, dưới sự lãnh đạo của các đảng viên và cán bộ cách
mạng, tổ chức Thanh niên Tiền phong được xây dựng hầu hết ở các
xã, vùng nông thôn trong quận và các đồn điền cao su, thu hút hàng
ngàn công nhân, nông dân, trí thức tham gia.
Ngày 28/8/1945, nhân dân Xuân Lộc - Long Khánh nổi dậy khởi
nghĩa cướp chính quyền. Lực lượng Thanh niên tiền phong quận
Xuân Lộc được một số mã tà làm nội ứng đã bao vây đồn bảo an -
một vị trí trọng yếu của chính quyền Nhật ở Xuân Lộc, nhanh chóng
hạ đồn tịch thu 26 khẩu súng các loại. Một đội dân binh tiến thẳng
vào dinh Quận trưởng Lê Thành Tường, nhận bàn giao toàn bộ hồ
sơ, ấn mộc. Chính quyền tay sai của phát xít Nhật ở Xuân Lộc bị giải
tán. Trước khí thế sôi sục, áp đảo của lực lượng cách mạng, toàn bộ
chính quyền của quân địch từ thị trấn Xuân Lộc đến nông thôn đều
lo sợ, hoang mang, tự tan rã nhanh chóng. Chỉ trong buổi sáng ngày
65

7.6 Page 66

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
28/8/1945, nhân dân đã hoàn toàn làm chủ tất cả các cơ quan, công
sở ở trung tâm quận lỵ Xuân Lộc. Ủy ban cách mạng lâm thời huyện
Xuân Lộc được thành lập. Dựa theo chương trình hoạt động của Mặt
trận Việt Minh, chính quyền cách mạng tuyên bố triệt phá toàn bộ hệ
thống chính quyền cũ; thực hiện quyền bình đẳng các dân tộc, bình
đẳng nam nữ; bãi bỏ các chính sách sưu thuế trước đây; tịch thu tài
sản của tư bản thực dân Pháp, tịch thu tất cả mọi cơ sở của chế độ cũ
để phục vụ lợi ích của nhân dân; tổ chức lực lượng vũ trang để bảo
vệ chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân. Tại các đồn
điền: An Lộc, Hàng Gòn, Bình Lộc, Cẩm Mỹ… các cơ sở cách mạng
nhanh chóng lãnh đạo công nhân thành lập các Ủy ban tự quản để
tạm thời lãnh đạo, điều hành các đồn điền.
Khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ở Long Khánh, các đội
Quốc gia tự vệ cuộc, dân quân tự vệ, công nhân chiến đấu hình thành
trong Cách mạng tháng Tám nhanh chóng được củng cố và không
ngừng được bổ sung, tăng cường thêm.
Ngày 30/10/1945, một tiểu đoàn quân Pháp có xe tăng, đại bác
tiến đánh dọc theo quốc lộ 1 về Long Khánh. Công nhân các đồn
điền cao su: Tân Lập, Suối Tre, Bình Lộc, Cấp Rang… đã chặt cây,
dựng vật cản, phục kích chặn đánh địch trên các tuyến giao thông.
Lực lượng cách mạng tự vệ chiến đấu ở Long Khánh kết hợp với đơn
vị Vệ quốc đoàn do đồng chí Dương Văn Hiền chỉ huy chặn đánh
địch tại Núi Tung, Núi Thị. Trong trận đánh này, quân dân Long
Khánh gây thiệt hại nặng nề cho địch, khiến chúng phải rút về Trảng
Bom. Hàng trăm công nhân chiến đấu đã hy sinh anh dũng. Ở khu
vực thị trấn và Đồn điền Bình Lộc, lực lượng cách mạng chống giặc
kiên cường. Dù bị tổn thất nặng, song ta đã buộc quân Pháp rút lui,
không thực hiện được ý đồ đánh chiếm thị trấn.
Cuối tháng 1/1946, quân Pháp tổ chức những trận đánh quy mô
lớn mở rộng lấn chiếm các địa phương phía Bắc của tỉnh Biên Hòa.
Sau nhiều lần thăm dò, ngày 26/1/1946, hơn 1.000 quân Pháp trang
bị vũ khí hiện đại, được sự hỗ trợ của thiết giáp, cơ giới theo hai
66

7.7 Page 67

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
hướng quốc lộ 20 và liên tỉnh lộ 2 (từ Bà Rịa lên) đánh chiếm Xuân
Lộc - Long Khánh và các đồn điền cao su. Ngay sau khi các phòng
tuyến của lực lượng cách mạng bao vây quân Pháp tại Sài Gòn -
Chợ Lớn bị vỡ, Xuân Lộc - Long Khánh là nơi nhiều lực lượng vũ
trang của miền Đông Nam Bộ, lực lượng vũ trang Nam Tiến rút về
đứng chân. Vì vậy, cuối tháng 1/1946, khi quân Pháp tấn công với
quy mô lớn vào Long Khánh, chúng đã vấp phải sự đánh trả quyết
liệt của quân dân Xuân Lộc cùng các lực lượng vũ trang đang đóng
quân tại đây. Trên các tuyến giao thông ở quốc lộ I, liên tỉnh lộ 2 và
các khu thị trấn, căn cứ Bàu Sầm, quân dân Xuân Lộc - Long Khánh
phục kích, lập chướng ngại vật ngăn chặn bước tiến của quân địch.
Các đơn vị vũ trang cách mạng, dân quân tự vệ chiến đấu quyết liệt,
nhưng do vũ khí thô sơ đã không ngăn được quân Pháp với hỏa lực
mạnh đã chọc thủng phòng tuyến của ta sau một ngày tấn công. Các
đơn vị vũ trang phải tổ chức rút lui để bảo toàn lực lượng. Lực lượng
vũ trang huyện trước tình thế nguy cấp rút về vùng Thọ Vực, sông
La Ngà. Quân Pháp đánh chiếm toàn bộ Xuân Lộc và các đồn điền
cao su.
Đầu tháng 3/1946, một số đồng chí trong Ủy ban huyện, lực lượng
Quốc gia tự vệ cuộc về trụ lại khu vực Rừng Lá . Thời gian này, trên
địa bàn Long Khánh các cơ sở bị đứt liên lạc, phong trào cách mạng
lâm vào tình thế khó khăn. Thực hiện lời kêu gọi tiêu thổ kháng
chiến của Mặt trận Việt Minh, nhân dân, công nhân cao su Xuân Lộc
- Long Khánh thực hiện vườn không nhà trống, chuyển thiết bị, máy
móc tài sản ra khu kháng chiến, đốt cháy các cơ sở, kho tàng của chủ
sở quyết không cho giặc sử dụng; thoát ly vào chiến khu và vùng căn
cứ cách mạng sinh sống. Số công nhân ở lại các đồn điền chưa đến
50% tổng số công nhân hiện có sau Cách mạng tháng Tám.
Đánh chiếm được Xuân Lộc, thực dân Pháp xây dựng ngay chính
quyền tay sai, đưa một lực lượng lớn quân đội về đóng giữ khu vực
trung tâm Long Khánh, lập chi khu quân sự, sở chỉ huy đặt tại Suối
Tre. Tại đây, địch bố trí thường trực một tiểu đoàn Lê Dương (lính
Pháp và lính châu Phi), một đơn vị tình báo. Bên cạnh các đồn bót
67

7.8 Page 68

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chính ở thị trấn Xuân Lộc và Suối Tre, chúng triển khai nhiều đồn
bót trên các trục lộ giao thông, các khu vực xung yếu. Mỗi đồn điền
đều có một trung đội đóng giữ, hỗ trợ bọn tư bản trong việc đàn áp
công nhân và khai thác cao su. Chính quyền tay sai của Pháp ở Long
Khánh ra sức xây dựng bộ máy tề ngụy, tổ chức mạng lưới chỉ điểm,
mật báo ác ôn kìm kẹp nhân dân. Tại thị trấn, địch xây dựng thêm
một trung đội ngụy binh để bảo vệ bộ máy chính quyền tay sai, lùng
bắt các cán bộ, đảng viên, người yêu nước, không cần xét xử.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy cử đoàn cán bộ về Long Khánh xây
dựng cơ sở Đảng để tiến đến thành lập Quận ủy. Lúc bấy giờ, một
số đảng viên ở Long Khánh đã về đứng chân hoạt động tại Rừng
Lá. Đoàn cán bộ của Tỉnh ủy nhanh chóng bắt liên lạc với các đảng
viên, cơ sở cách mạng tại địa phương để gây dựng lại phong trào đấu
tranh. Liên đoàn Cao su Nam Bộ cũng cử cán bộ về Xuân Lộc - Long
Khánh hoạt động và gầy dựng phong trào kháng chiến trong công
nhân cao su.
Nhờ vậy, phong trào đấu tranh ở Long Khánh tiến lên một
bước mới. Ở các xã vùng ven thị trấn Xuân Lộc, cơ sở cách mạng
nhanh chóng được móc nối, hình thành một hệ thống Công đoàn
bí mật trong các sở cao su, không chỉ bó hẹp trong công nhân mà
mở rộng ra với các nhóm du kích, tự vệ trên địa bàn Long Khánh.
Đến cuối tháng 8/1946, các sở cao su như: Hàng Gòn, Bình Lộc,
An Lộc… đều có những cơ sở cách mạng bám trụ và chỉ đạo trực
tiếp phong trào công nhân. Nhiều công nhân ưu tú được phát triển
thành những cán bộ nòng cốt tạo điều kiện thuận lợi tại chỗ cho
phong trào đấu tranh.
Cuối năm 1946, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy Chi đội
10, các quận quân sự chuyển thành các Ban công tác liên thôn, đặt
dưới sự chỉ huy trực tiếp của Chi đội 10 và lãnh đạo huyện Xuân
Lộc. Quốc vệ đội của huyện (lực lượng công an vũ trang) cũng được
thành lập. Để hỗ trợ phong trào kháng chiến ở Xuân Lộc, Chi đội 10
phân công Đại đội B với 2 trung đội: Trung đội 4 và Trung đội 6 hoạt
68

7.9 Page 69

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
động tại đây. Lực lượng cán bộ, chiến sĩ 2 trung đội này phần lớn là
công nhân các sở cao su ở khu vực Xuân Lộc - Long Khánh thoát
ly kháng chiến. Tháng 10/1946, phong trào đấu tranh của nhân dân
Xuân Lộc - Long Khánh phát triển mạnh. Cơ sở cách mạng tại các xã
vận động nhân dân đồng loạt nổi dậy xóa bỏ các ban tề, tước vũ khí
lính làng, lập lại chính quyền cách mạng ở 3 xã: Tân Lập, Bình Hòa,
Bình Lộc. Mỗi xã ta thu được 12 súng các loại và thành lập các đội
du kích. Vùng giải phóng ở Xuân Lộc được mở rộng, căn cứ huyện
Xuân Lộc được thành lập tại khu vực núi Chứa Chan. Hệ thống các
tổ chức chính quyền, đoàn thể ở Xuân Lộc được củng cố và phát
triển. Các đơn vị lực lượng vũ trang địa phương và cả đơn vị cấp trên
đóng trên địa bàn Xuân Lộc ngày càng được kiện toàn, trưởng thành.
Đến đầu năm 1947, phong trào kháng chiến ở Xuân Lộc - Long
Khánh được phục hồi và phát triển. Các cuộc đấu tranh của quân dân
Xuân Lộc - Long Khánh diễn ra sôi nổi và bằng nhiều hình thức đa
dạng: đấu tranh chính trị, đòi cải thiện dân sinh, đấu tranh phá hoại
kinh tế địch, đấu tranh vũ trang.
Tháng 6/1947, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định thành lập Đảng bộ
Xuân Lộc gồm 7 Chi bộ Đảng: Chi bộ cơ quan hành chính huyện,
Chi bộ Mặt trận, Chi bộ Công an, Chi bộ Nghiệp đoàn cao su của
huyện Xuân Lộc và Chi bộ các xã: Bảo Chánh, Rừng Lá, Bình Hòa.
Từ đây, Đảng bộ huyện Xuân Lộc hoàn chỉnh hệ thống tổ chức từ
huyện đến xã, sở và các đơn vị trực thuộc, lãnh đạo thống nhất cuộc
kháng chiến của nhân dân địa phương. Huyện ủy chỉ đạo các chi bộ
phải bám sát quần chúng, thông qua hoạt động kháng chiến, nòng cốt
là các đoàn thể để phát hiện và bồi dưỡng phát triển đảng viên, đảm
bảo sự lãnh đạo của Đảng một cách toàn diện. Tại các đồn điền cao
su, các tổ chức Công đoàn cơ sở được hình thành và hoạt động hiệu
quả. Đồn điền An Lộc, Bình Lộc là 2 nơi tổ chức Công đoàn phát
triển mạnh, thu hút nhiều công nhân tham gia.
Cùng với phong trào kháng chiến toàn quốc, phong trào đấu tranh
vũ trang của quân dân khu vực Xuân Lộc năm 1947 diễn ra quyết
liệt. Ngày 10/1, một bán đội vũ trang huyện được cơ sở mật tại Suối
69

7.10 Page 70

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tre dẫn đường đột nhập cơ sở An Lộc diệt 2 tên chủ người Pháp cực
kỳ tàn bạo với công nhân. Vùng Bình Lộc là địa bàn tranh chấp quyết
liệt giữa ta và địch. Tại đây, ta xây dựng căn cứ Định Quang, đồng
thời là địa bàn đứng chân hoạt động của tổ chức, đoàn thể kháng
chiến huyện và lực lượng vũ trang đại đội B (gồm trung đội 4 và
trung đội 6) của Chi đội 10. Quân Pháp thường tổ chức các cuộc càn
đánh phá căn cứ nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, bảo vệ các đồn
điền cao su phụ cận và cắt đứt tuyến liên lạc giữa Xuân Lộc - Long
Khánh với Chiến khu Đ. Thời gian này, tại sở cao su Bình Lộc, các
cơ sở cách mạng bám trụ hoạt động rất hiệu quả.
Từ tháng 4/1947, quân dân Long Khánh hỗ trợ lực lượng vũ trang
tỉnh tổ chức nhiều trận đánh giao thông đường sắt trên tuyến Bắc -
Nam đoạn đi qua địa bàn. Đây là một trong những tuyến giao thông
huyết mạch, thực dân Pháp sử dụng trong việc vận chuyển điều binh,
lương thực, sản phẩm mủ cao su từ Xuân Lộc - Long Khánh về Sài
Gòn đồng thời đưa lương thực, nhu yếu phẩm, vũ khí chi viện cho
các tỉnh Đông Nam Bộ và miền Trung. Điển hình là các trận Bảo
Chánh 1, Trảng Táo, Bảo Chánh 2, không chỉ tiêu hao sinh lực địch
mà còn thu về một số lượng đáng kể vũ khí, đạn dược. Cùng với hoạt
động vũ trang đánh địch, phong trào đấu tranh chính trị, đòi cải thiện
dân sinh ở Xuân Lộc, đặc biệt ở các đồn điền diễn ra quyết liệt với
nhiều hình thức.
Tháng 12/1947, các Ban Công tác liên thôn trước đây hợp nhất tổ
chức thành Huyện đội dân quân chịu sự lãnh đạo của Huyện ủy và là
thành viên trong Ủy ban Kháng chiến. Tại các xã thành lập xã đội
dân quân, đội du kích. Ở các đồn điền cao su, huyện thành lập đội vũ
trang tuyên truyền và du kích công nhân. Với việc hình thành Huyện
đội, xã đội, du kích, hoạt động của lực lượng vũ trang huyện Xuân
Lộc phát huy được sức mạnh chiến đấu, phát động được toàn diện
khả năng tham gia kháng chiến của quần chúng công nhân. Đảng bộ
huyện Xuân Lộc đã lãnh đạo phát huy được sức mạnh của nhân dân
địa phương, đưa phong trào kháng chiến phát triển mạnh. Hầu hết
các cơ quan, các xã vùng ven đều thành lập được các chi bộ Đảng
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
(mỗi chi bộ có từ 3-10 đảng viên). Lực lượng vũ trang của huyện
ngày càng trưởng thành và thu được nhiều thắng lợi lớn trong các
trận đánh giao thông trên địa bàn.
Tại Xuân Lộc và vùng liên tỉnh lộ 2 (Xuân Lộc- Bà Rịa) quân
Pháp xây dựng nhiều tháp canh theo chiến thuật De La Tour song
song với việc tập trung lực lượng càn quét để triệt phá nguồn lương
thực của kháng chiến, cắt đứt sự tiếp tế của quần chúng với căn cứ
cách mạng. Để đánh vào nguồn tiếp tế của cách mạng, quân Pháp mở
nhiều cuộc ruồng bố, càn quét phá hoại kinh tế của nhân dân. Nhiều
trận càn của địch kéo dài hàng tuần với nhiều trung đoàn lính. Bọn
lính dàn hàng ngang trên các cánh đồng lúa, hoa màu thẳng tay đập,
phá, nhổ sạch và đốt bỏ… gây cho ta nhiều khó khăn về lương thực.
Quyết tâm không để lương thực, hoa màu rơi vào tay giặc hoặc bị
chúng phá hoại, Huyện ủy Xuân Lộc tổ chức các hội gặt tập đoàn,
huy động cả lực lượng quân, dân, chính tập trung cùng đi gặt, thu hoa
màu. Lúa chín tới đâu thì gặt ngay rồi cất giấu. Nhờ vậy, quân dân
Long Khánh có đủ lương thực phục vụ nhu cầu cấp thiết hàng ngày
và cho các trận đánh lớn. Mặt trận bảo vệ mùa màng, lương thực ở
Xuân Lộc - Long Khánh cũng là một chiến trường cam go, ác liệt.
Trên các cánh đồng: Bình Lộc , Cây Da, Bảo Vinh, nhiều chiến sĩ đã
ngã xuống khi bảo vệ cho nhân dân thu hoạch lúa an toàn.
Cùng với cả nước kháng chiến, quân dân Xuân Lộc - Long Khánh
đã rút được nhiều kinh nghiệm quý báu về việc tăng cường sự thống
nhất lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền, về tổ chức xây dựng
lực lượng, phát triển các đoàn thể cứu quốc, thu hút và phát huy được
sức mạnh của toàn dân.
Những tháng đầu năm 1948, Huyện ủy, Huyện đội Xuân Lộc và
Liên đoàn Cao su huyện Xuân Lộc thực hiện nhiệm vụ của Tỉnh ủy
giao chuẩn bị công tác hậu cần cho trận đánh giao thông lớn. Tại địa
phương, tổ chức Đảng và chính quyền, đoàn thể phát động nhân dân,
công nhân góp lương thực. Cán bộ Mặt trận Việt Minh huyện, các
đoàn thể cứu quốc kết hợp Liên đoàn cao su vận động trong các đồn
71

8.2 Page 72

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
điền để thu mua lương thực. Ngày 1/3/1948, sau thời gian dài chuẩn
bị, các lực lượng vũ trang Xuân Lộc - Long Khánh theo chỉ đạo của
Huyện ủy, phối hợp Chi đội 10 đánh trận La Ngà, phục kích tấn công
đoàn xe quân sự Pháp trên quốc lộ 20 từ km104 đến 113. Kết quả, ta
phá hủy 59 xe quân sự, diệt 150 tên lính Lê dương, 25 sĩ quan Pháp.
Trong số này có Đại tá De Sérigné chỉ huy bán lữ đoàn Lê dương 13
và Đại tá Patruit, Phó tham mưu trưởng thứ nhất lực lượng Liên hiệp
Pháp ở Nam Đông Dương, bắt sống Trung úy Joeffrey, chỉ huy đại
đội hộ tống và nhiều tù binh khác, thu được nhiều chiến lợi phẩm.
Trận đánh đã gây được tiếng vang lớn cả về quân sự lẫn chính trị
và được Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tặng thưởng
Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Sau trận La Ngà, thực dân Pháp mở nhiều cuộc càn quét vào các
căn cứ Xuân Lộc - Long Khánh nhằm tiêu diệt lực lượng kháng
chiến. Nhiều đồn điền cao su ở Xuân Lộc biến thành trại lính. Quân
Pháp dùng kẽm gai rào làng, lập các tua, chốt gác bao vây các bìa lô
cao su, kiểm soát gắt gao mọi sự liên lạc giữa công nhân với kháng
chiến. Nhiều đồn điền cao su ở Xuân Lộc biến thành trại lính. Quân
Pháp dùng kẽm gai rào làng, lập các tua, chốt gác bao vây các bìa lô
cao su, kiểm soát gắt gao mọi sự liên lạc giữa công nhân với kháng
chiến. Bên cạnh lực lượng tình báo Pháp đóng tại Suối Tre trực tiếp
chỉ huy ruồng bố bắt bớ cán bộ, chiến sĩ cách mạng, bọn thám báo,
chỉ điểm tay sai hoạt động tích cực gây nhiều tổn thất cho phong trào
cách mạng tại địa phương. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, cơ sở cách
mạng bị giặc bắt, sát hại. Nhiều cơ quan, tổ chức của huyện Xuân
Lộc lần lượt chuyển đến các vùng khác trong và ngoài tỉnh đứng
chân để bảo toàn lực lượng trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù. Trên
chiến trường Xuân Lộc - Long Khánh chỉ còn Đại đội La Nha và đơn
vị công an vũ trang cùng một số ít cán bộ Công đoàn bám trụ, nhưng
phải luôn di chuyển và liên tục chống càn, lực lượng bị tiêu hao.
Trong tình hình đó, Huyện ủy Xuân Lộc thực hiện chỉ đạo của
Tỉnh ủy với chiến lược: đánh mạnh vào hậu phương địch, gây cơ
sở địch hậu, bóp hẹp vùng kiểm soát của chúng; phá hoại trọng tâm
72

8.3 Page 73

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kinh tế địch (cao su), cắt đường giao thông địch; mở rộng khu giải
phóng, kiến thiết căn cứ địa, dự trữ mùa màng của ta; tích cực phòng
địch, tiến hành địch ngụy vận, mở rộng công tác trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Huyện ủy Xuân Lộc cũng chủ trương vận động
một số đồng bào tại địa bàn Xuân Lộc về sinh sống tại các căn cứ
để giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời bảo vệ cho dân. Đội ngũ
công nhân Xuân Lộc - Long Khánh trong gian khổ, khó khăn vẫn
bằng nhiều hình thức ủng hộ kháng chiến.
Từ năm 1948-1950 là một giai đoạn đầy thử thách ác liệt đối với
nhân dân Xuân Lộc - Long Khánh. Trước sự tấn công, khủng bố tàn
bạo của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh cách mạng địa phương
gặp nhiều khó khăn do Huyện ủy chuyển về căn cứ Xuyên Phước
Cơ, không lãnh đạo trực tiếp phong trào quần chúng. Thế nhưng,
trong thử thách gian khổ đó, quân và dân Xuân Lộc - Long Khánh
vẫn một lòng hướng về Đảng, về cách mạng. Lực lượng vũ trang
thực hiện nhiều trận đánh tiêu diệt sinh lực địch, phá và bắt một số
gián điệp do địch cài cắm.
Từ năm 1951, Tỉnh ủy Thủ Biên (sáp nhập 2 tỉnh Biên Hòa và Thủ
Dầu Một) xác định Xuân Lộc - Long Khánh là vùng địch tạm chiếm,
từ đó chỉ đạo đội vũ trang tuyên truyền của huyện cần thực hiện 3
nhiệm vụ chính: vận động quần chúng (dân vận), vận động binh lính
địch (binh vận), đẩy mạnh chiến tranh du kích. Trong đó, lấy công
tác dân vận làm gốc. Chủ trương và phương châm thực hiện công tác
này đã mở một hướng hoạt động và chiến đấu hiệu quả cho Đảng bộ
huyện Xuân Lộc. Trong quá trình trở lại bám địa bàn, bám dân để
hoạt động, đội vũ trang tuyên truyền đã phải vượt qua rất nhiều khó
khăn gian khổ. Trước sự kiểm soát, bố phòng gắt gao của địch, cán
bộ, chiến sĩ của đội phải len lỏi, nằm rừng, chịu đói rét, để tiếp cận
quần chúng nhân dân. Có những thời gian, từng đội viên phải đào củ
mài, củ chụp ăn thay cơm; chỗ ở trong rừng phải di chuyển liên tục.
Sau một thời gian, các tổ đã dần dần bắt được liên lạc với các cơ sở
và trụ lại hoạt động trong các đồn điền. Mặc dù bị địch ruồng bố gắt
gao nhưng đường dây vận chuyển tiếp tế từ các đồn điền cao su ở
73

8.4 Page 74

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Xuân Lộc - Long Khánh vẫn được duy trì tới các căn cứ cách mạng.
Quân dân Xuân Lộc đã góp phần quan trọng trong việc kiến thiết nền
kinh tế kháng chiến do Tỉnh ủy Biên Hòa chủ trương tại các vùng căn
cứ. Cuối năm 1951, phong trào đấu tranh cách mạng của quân dân
Xuân Lộc - Long Khánh nhanh chóng được phục hồi và phát triển
lại. Tại các địa bàn, nhiều chi bộ Đảng được hình thành, mạng lưới
cơ sở được tổ chức lại.
Tiêu biểu cho sự phối hợp chặt chẽ và tiến công địch thắng lợi
trong năm 1951 là trận đánh yếu khu Trảng Bom ngày 20/7/1951,
trong đó có sự tham gia của Đội vũ trang tuyên truyền huyện Xuân
Lộc. Hơn 50 tên lính Lê dương chết tại trận, số còn lại chạy tán loạn
vào rừng; cán bộ, chiến sĩ, lực lượng công nhân cao su chở toàn
bộ máy móc, 10 khẩu đại liên, 50 súng trung liên, hàng trăm súng
trường đủ loại và hàng tấn đạn dược về Chiến khu Đ. Chiến thắng
Trảng Bom đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào kháng chiến ở Biên
Hòa - Bà Rịa, thúc đẩy phong trào công nhân phát triển mạnh ởcác
đồn điền.
Đến năm 1953, trên địa bàn Xuân Lộc - Long Khánh, thế và lực
của cách mạng ngày càng được củng cố, tăng cường. Từ vùng bị tạm
chiếm, nhiều xã ở Xuân Lộc - Long Khánh chuyển lên thành vùng
du kích dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ huyện. Lực lượng
vũ trang huyện và du kích chiến đấu các đồn điền ở Xuân Lộc - Long
Khánh liên tục đột kích tuyên truyền và tấn công địch, nhiều đồn bót,
tháp canh binh lính địch bỏ gác.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Quân dân
Xuân Lộc - Long Khánh cũng đẩy mạnh tiến công địch, mở thêm
vùng làm chủ cho đến ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Chín
năm trường kỳ kháng chiến thực dân Pháp là chặng đường đấu tranh
đầy thử thách gian khổ nhưng cũng rất hào hùng của quân dân Xuân
Lộc - Long Khánh. Với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần bất
khuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân địa phương đã đứng lên
74

8.5 Page 75

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chống lại kẻ thù xâm lược với lòng quyết tâm cao độ. Với vũ khí thô
sơ: giáo, mác, gậy tầm vông… nhân dân đã vượt qua bao khó khăn
để đương đầu với quân đội nhà nghề Pháp được trang bị vũ khí hiện
đại. Mặc dù có những giai đoạn lâm vào tình thế vô cùng khó khăn,
ác liệt nhưng quân dân Xuân Lộc - Long Khánh vẫn một lòng trung
kiên với Đảng, hướng về cách mạng để cùng nhau góp phần trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Genève, sau khi ta bàn giao địa bàn Xuân Lộc -
Long Khánh, địch nhanh chóng thực hiện việc thiết lập bộ máy chính
quyền. Là địa phương có phong trào đấu tranh phát triển mạnh trong
thời kỳ chống Pháp, ngay từ tháng 9/1945, công nhân các sở cao su
Xuân Lộc - Long Khánh đồng loạt bãi công đòi quyền lợi. Xứ ủy
Nam Bộ sau khi thành lập lại, Tỉnh ủy Biên Hòa (tỉnh Thủ Biên lại
tách thành 2 tỉnh biên Hòa và Thủ Dầu Một) đều cử một số cán bộ về
hoạt động ở khu vực các đồn điền cao su ở Xuân Lộc - Long Khánh
với nhiệm vụ xâm nhập, móc nối lại những đảng viên các cơ sở cũ
bên trong để tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ công nhân và lãnh đạo
phong trào đấu tranh. Các mục tiêu đấu tranh là nhằm đòi quyền lợi
dân sinh dân chủ, cải thiện đời sống cho công nhân, đòi thi hành
hiệp định, đòi tự do lập nghiệp đoàn, chống khủng bố… Đến cuối
năm 1954, Ban cán sự huyện Xuân Lộc được thành lập. Một số các
đồn điền cao su như An Lộc, Bình Lộc… đều xây dựng các chi bộ
Đảng. Tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lúc này khoảng trên 40
đồng chí. Chủ trương trong giai đoạn này là: Củng cố và kiện toàn
tổ chức, xây dựng mạng lưới cơ sở ở thị trấn, tập hợp tất cả các đồng
chí cán bộ kháng chiến 9 năm làm nòng cốt, tổ chức nhân dân, công
nhân cao su đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định Genève, đấu
tranh bảo vệ quyền lợi của quần chúng. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Huyện uỷ, chi bộ Đảng, phong trào cách mạng ở thị trấn Xuân
Lộc được nhen nhóm và bước đầu có những hoạt động tích cực.
Đầu năm 1955, với mục đích ngăn chặn phong trào công nhân và
ảnh hưởng “xu hướng cộng sản” ở Xuân Lộc - Long Khánh, địch xây
dựng hầu hết bộ máy chính quyền ở các đồn điền trước đây với mục
75

8.6 Page 76

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đích vừa kiểm soát hoạt động của giới đồn điền Pháp vừa theo dõi
phong trào đấu tranh của công nhân. Hệ thống đồn bót xung quanh
khu công nhân tập trung được xây dựng. Chúng tổ chức nhiều đơn vị
mật vụ, cảnh sát chuyên theo dõi, bắt bớ cán bộ cách mạng và những
người yêu nước, chống đối. Huyện ủy Xuân Lộc đã đề ra một số vấn
đề cần làm để giữ gìn lực lượng cách mạng, chủ trương bố trí cán
bộ, đảng viên vào trong dân, lãnh đạo đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho
quần chúng. Trên cơ sở lãnh đạo của Huyện ủy và được tăng cường
cán bộ của Ban Công vận Xứ ủy Nam Bộ, phong trào cách mạng ở
Xuân Lộc có điều kiện để phát triển. Quần chúng, công nhân dưới
sự lãnh đạo của cán bộ, đảng viên hăng hái tham gia các cuộc đấu
tranh chống chính quyền ngụy, đòi thi hành Hiệp định đình chiến,
đòi quyền lợi dân sinh.
Từ năm 1955 đến năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức
khủng bố phong trào cách mạng miền Nam một cách tàn bạo với
“quốc sách” tố cộng, diệt cộng. Địch điều về Xuân Lộc nhiều tiểu
đoàn quân đội phối hợp cùng cảnh sát, dân vệ, tề ngụy địa phương
lùng sục bắt bớ và gây nên bao cảnh thương tâm đối với quần chúng
nhân dân. Các khu căn cứ của ta thường xuyên bị càn quét và cài bọn
mật vụ theo dõi. Ở các sở cao su, chúng đưa những tên chỉ điểm trà
trộn vào nghiệp đoàn công nhân để nắm những cơ sở cách mạng và
đường dây liên lạc với cán bộ, đảng viên.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Biên Hòa đề ra chủ trương “điều
lắng”: chuyển vùng những cán bộ bị địch phát hiện không còn giữ
được thế hợp pháp trong dân. Chủ trương này đáp ứng nhiệm vụ của
giai đoạn đấu tranh chính trị: cán bộ, đảng viên hòa nhập được vào
dân, sống sát dân, vừa được dân che chở, bảo vệ, lại vừa lãnh đạo
quần chúng đấu tranh bảo vệ quyền lợi. Tuy đạt được những kết quả
đáng khích lệ trong công tác xây dựng, củng cố và phát triển lực
lượng nhưng phong trào cách mạng ở một số địa bàn huyện Xuân
Lộc chịu nhiều tổn thất nghiêm trọng trước các thủ đoạn đánh phá
tàn bạo của địch. Hàng loạt các cơ sở cách mạng bị triệt phá, nhiều
cán bộ, đảng viên bị địch bắt giam; một số khác phải đi lánh nơi khác
76

8.7 Page 77

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tránh sự lùng bố của kẻ thù. Đây cũng là tình hình chung của phong
trào cách mạng miền Nam lúc bấy giờ.
Tháng 4/1957, chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập tỉnh Long
Khánh gồm 2 quận: Xuân Lộc, Định Quán. Thị trấn Xuân Lộc là
tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh. Tại Long Khánh, địch mở hàng loạt
các cuộc tảo thanh, càn quét vào nương rẫy, căn cứ để truy lùng cán
bộ, đảng viên cách mạng, những người kháng chiến. Đường dây liên
lạc giữa cơ sở cách mạng tại địa phương với căn cứ bị gián đoạn. Tổ
chức mạng lưới cơ sở cách mạng từ huyện đến xã ở địa bàn Long
Khánh bị xóa trắng. Mặc dù phong trào bị chựng lại nhưng quần
chúng lao động, công nhân đồn điền vẫn tham gia hưởng ứng các
cuộc đấu tranh chính trị được phát động ở miền Đông Nam Bộ. Tiêu
biểu là cuộc đấu tranh của hàng ngàn người ở các tỉnh Biên Hòa, Bà
Rịa, Long Khánh biểu tình, phản đối chế độ hà khắc và đầu độc hơn
1.000 chiến sĩ, cán bộ, người yêu nước của ta ở nhà tù Phú Lợi vào
tháng 12/1958.
Trong giai đoạn 1956-1959, sự đánh phá khốc liệt của Mỹ - Diệm
ở Long Khánh đã gây nên những tổn thất nặng nề cho phong trào
cách mạng tại địa phương. Các chi bộ Đảng ở Long Khánh đều bị
phá rã. Thế nhưng, sự tàn bạo của kẻ thù vẫn không ngăn cản được
lòng yêu nước của người dân Long Khánh, mà trái lại càng thêm
nung nấu ý chí căm thù bọn đế quốc và tay sai bán nước. Dưới sự
chỉ đạo kịp thời của Liên Tỉnh ủy miền Đông và Tỉnh ủy Biên Hòa,
những thiếu sót trong hoạt động của phong trào cách mạng Long
Khánh dần được khắc phục.
Liên Tỉnh uỷ miền Đông bố trí lại chiến trường, chuyển địa bàn
Long Khánh về tỉnh Bà Rịa chỉ đạo, khôi phục cơ sở, chuẩn bị cho
phong trào đấu tranh trong tình hình mới. Cán bộ của Tỉnh ủy Bà Rịa
đã móc liên lạc được với một số đảng viên, cơ sở cách mạng trong
các đồn điền. Sau một thời gian hoạt động, một tổ Đảng tại đây được
xây dựng gồm 3 đồng chí và một đội tự vệ mật có 8 người, từ đó
bung dần ra hoạt động, tiếp tục xây dựng các cơ sở khác ở lộ 2 và
77

8.8 Page 78

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
các vùng phụ cận, vận động được nhiều thanh niên tham gia vào đội
vũ trang. Hai huyện của Long Khánh là Xuân Lộc và Định Quán đều
xây dựng được Đội vũ trang tuyên truyền, đặt căn cứ ở Rừng Lá. Ở
Long Khánh sau một thời gian đấu tranh chính trị cũng đã hình thành
được Đội vũ trang tuyên truyền.
Tháng 7/1960, Ban Cán sự Long Khánh được thành lập. Đến cuối
năm 1960, phong trào cách mạng ở Long Khánh đã vượt qua những
thử thách, khó khăn và nhanh chóng phát triển. Từ một vùng gần như
bị xoá trắng, phong trào cách mạng địa phương từng bước được khôi
phục, đặc biệt đã hình thành được Đội vũ trang tuyên truyền, hỗ trợ
cho phong trào nổi dậy diệt ác phá kìm của quần chúng, nhân dân.
Thời điểm này trên chiến trường Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh,
địch bố trí lại lực lượng, tổ chức biệt khu Phước Biên thuộc vùng III
chiến thuật. Biên Hòa - Long Khánh là cửa ngõ phía Đông Sài Gòn,
với hệ thống giao thông chiến lược, những căn cứ quân sự lớn, được
địch xác định nằm trong vùng ưu tiên bình định. Địch ráo riết tập
trung dồn dân lập ấp chiến lược ở Long Khánh để dễ bề kiểm soát
dân, cô lập và cắt đứt nguồn tiếp tế cho cách mạng. Địch liên tục mở
những cuộc hành quân càn quét, đốt phá nhà dân, cưỡng ép quần
chúng vào các khu tập trung. Tại các sở cao su, địch buộc chủ sở phải
gom công nhân về trung tâm đồn điền hoặc khu vực ấp chiến lược;
không được đóng thuế, ủng hộ tiền bạc, gạo thóc cho cách mạng.
Một số đồn điền như: Cẩm Mỹ, An Lộc, địch tổ chức thành các yếu
khu quân sự. Đời sống của công nhân nói chung và các tầng lớp nhân
dân sống trong các ấp chiến lược bị địch khống chế kìm kẹp gắt gao.
Tại thị xã Long Khánh, chính quyền địch hình thành một vành đai
kiểm soát dài gần 10km bao quanh với hàng chục bót, tháp canh. Bên
trong thị xã, ngoài các đồn bót kiên cố, chúng xây thêm nhiều lô cốt
lớn, nhỏ. Các cửa ngõ ra vào thị xã đều bị rào chắn bằng kẽm gai,
mở đóng theo quy định. Đồng thời, chúng tung biệt kích, thám báo
lẫn vào trong các ấp, khu dân cư hoạt động, đánh phá vùng ven thị
xã gần các căn cứ du kích như Bảo Vinh, Bình Lộc.
78

8.9 Page 79

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Lấy nhiệm vụ chống phá kế hoạch xây dựng ấp chiến lược làm
trọng tâm, căn cứ vào thực tiễn địa phương, Ban Cán sự tỉnh Long
Khánh đề ra nhiệm vụ trước mắt: mở rộng địa bàn đứng chân, phát
triển lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng, phát động nhân dân đấu
tranh dân sinh dân chủ, diệt ác phá kìm, mở vùng làm chủ. Ban Cán
sự tỉnh nhanh chóng bắt tay vào công việc kiện toàn cơ cấu tổ chức
để thúc đẩy và hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần
chúng. Cán bộ, đảng viên được phân công bám từng địa bàn xã, bám
chắc vào dân tuyên truyền, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá
kìm, chống địch gom dân, vận động thanh niên tham gia lực lượng
vũ trang và tổ chức những cơ sở nòng cốt trong dân để đấu tranh.
Đồng thời, lực lượng vũ trang của tỉnh Long Khánh được thành lập
gồm một trung đội. Bên cạnh đó, lực lượng du kích, các đội vũ trang
tuyên truyền các huyện: Xuân Lộc, Định Quán, vùng Cao Su từng
bước được xây dựng. Ở các đồn điền Hàng Gòn, Ông Quế và những
ấp ven thị trấn, nhiều cơ sở đã được chắp nối liên lạc, tạo điều kiện
cho các đơn vị vũ trang hoạt động sâu và có hiệu quả. Tuyến hành
lang liên lạc của ta từ Chiến khu Đ qua Long Khánh xuống Bà Rịa
được nối thông, tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh cách mạng
vùng nông thôn, đồn điền cao su phát triển.
Hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phá ấp
chiến lược, trong năm 1962, đội vũ trang tuyên truyền Long Khánh
đã tổ chức nhiều trận đánh táo bạo, dũng cảm, thu nhiều thắng lợi,
gây tiếng vang lớn và có tác dụng hỗ trợ cho quần chúng, công nhân
đấu tranh. Ngày 27/2, một bộ phận của Tiểu đoàn 800 (bộ đội Quân
khu 7) phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Long Khánh đánh địch
đóng dã ngoại tại địa điểm Tà Lú (núi Mây Tàu), thu 43 súng. Tháng
3/1962, Tiểu đoàn 800 đánh dinh điền Bình Phú, diệt 1 trung đội
địch, thu 27 súng.
Đến cuối năm 1962, mặc dù phong trào cách mạng ở Long Khánh
có bước phát triển nhưng chưa đồng bộ. Ấp chiến lược của địch bị
ta phá đi, phá lại nhiều lần nhưng chưa phá dứt điểm. Trên địa bàn
Long Khánh, địch đã xây dựng được 43 ấp chiến lược. Với hệ thống
79

8.10 Page 80

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
áp chiến lược dày đặc và việc củng cố các ban tề ngụy xuống từng
xã, ấp, đồn điền; tổ chức các đoàn thể tay sai… địch đã hình thành
một thế kìm kẹp gắt gao đối với quần chúng nhân dân Long Khánh.
Thế nhưng nhân dân Long Khánh vẫn một lòng hướng về cách mạng.
Phong trào góp tiền, góp gạo ủng hộ kháng chiến vẫn được phát động
ngầm trong ấp chiến lược ở Long Khánh và các xã vùng ven dưới
nhiều hình thức. Mỗi hạt gạo, viên thuốc, hàng tiếp tế… đều thấm
đượm ân tình của nhân dân, công nhân Long Khánh đối với cán bộ,
chiến sĩ cách mạng.
Ban Cán sự tỉnh Long Khánh xác định chống phá ấp chiến lược,
đánh bại chương trình bình định nông thôn của địch là công tác cấp
bách, đồng thời là nhiệm vụ lâu dài của quân dân địa phương, cần
phải kết hợp vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng, kết
hợp 2 lực lượng bên trong và ngoài ấp để đánh bại địch. Để phát
triển phong trào đấu tranh lên bước mới, thực hiện chủ trương của
cấp trên, Ban Cán sự tỉnh Long Khánh chỉ đạo: kết hợp 3 mũi: quân
sự, chính trị, binh vận để phá hỏng, phá rã, phá banh ấp chiến lược;
đẩy mạnh diệt ác phá kìm đánh bại âm mưu bình định nông thôn của
địch; ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển Đảng và cơ sở
quần chúng cách mạng. Một điều kiện thuận lợi cho phong trào địa
phương là Ban Công vận Khu ủy miền Đông đã cử một đoàn cán bộ
gồm 50 đồng chí tăng cường cho các đồn điền cao su ở Long Khánh.
Đến giữa năm 1963, hầu hết các địa bàn ở Long Khánh từ nội ô thị
xã đến các vùng ven, đồn điền cao su ta đều xây dựng được các cơ
sở, phát triển đảng viên, đoàn viên. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ ở Long
Khánh được bổ sung và ngày càng lớn mạnh. Mạng lưới cơ sở cách
mạng phát triển rộng khắp. Tất cả các ấp ở nội ô thị xã đều tổ chức
được những cơ sở trung kiên với nhiều vỏ bọc.
Nhờ vào chủ trương đúng đắn kịp thời, có sự chỉ đạo xuyên suốt
tập trung, năm 1963, mặc dù địch kiểm soát gắt gao, phong trào đấu
tranh vũ trang của quân dân Long Khánh vẫn diễn ra sôi động. Tháng
4/1963, lực lượng vũ trang Long Khánh tấn công ấp chiến lược Hưng
Nghĩa, bắt sống 13 tên tề ấp, 2 lính nghĩa quân, thu 13 súng các loại.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Từ thắng lợi và kinh nghiệm trong trận đánh này, ta nhanh chóng tổ
chức phá hàng loạt ấp chiến lược khác như: Bảo Vinh C, Bảo Vinh
A, Bảo Vinh B, Tân Phong, Bàu Sao, Bàu Sen… Cuối năm 1963, hầu
hết ở các ấp chiến lược bộ máy kìm kẹp của địch mất hết tác dụng.
Ban Cán sự tỉnh Long Khánh nhanh chóng bắt tay vào việc củng cố
hệ thống tổ chức và chỉ đạo phong trào đấu tranh. Đội ngũ cán bộ,
đảng viên, quần chúng ở Long Khánh kiên cường bền bỉ, duy trì, đẩy
mạnh các hình thức đấu tranh theo phương châm hai chân, ba mũi,
sử dụng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đánh địch bằng
ba mũi giáp công: chính trị - quân sự - binh vận, tấn công địch trong
tình hình mới với thế và lực phát triển mạnh nhưng không kém phần
ác liệt, gay go.
Đầu năm 1964, tại Long Khánh, chính quyền Sài Gòn nhiều lần
cải tổ bộ máy hành chính, lập thêm đồn bót, lực lượng lính tăng lên
48 trung đội dân vệ, 3 đại đội bảo an và một đại đội biệt kích.
Về phía ta, Ban cán sự tỉnh Long Khánh được kiện toàn. Dọc lộ
1 vùng cao su B, ta xây dựng được các đội công tác ở các phân sở
đồn điền, trong đó Đồn điền An Lộc đã thành lập đội vũ trang tuyên
truyền, từng bước trưởng thành, lớn mạnh, góp phần vào việc xây
dựng, phát triển lực lượng tại địa phương và của huyện. Nhiều thanh
niên công nhân ở An Lộc gia nhập vào du kích, bộ đội của huyện.
Những đội tự vệ mật được thành lập ở các ấp chiến lược từ trung tâm,
Cấp Rang, Suối Tre đến Núi Tung, Núi Đỏ. Đây là lực lượng quan
trọng của ta trong vòng vây ấp chiến lược và hoạt động đạt hiệu
quả: vừa nắm tình hình địch, vừa sẵn sàng phối hợp với lực lượng từ
ngoài về đánh đồn, ấp. Chi bộ Đảng bộ ở thị xã được thành lập nhằm
tập trung xây dựng lực lượng cả bên trong lẫn bên ngoài. Thông qua
số cơ sở nòng cốt từ trước, ta vận động rút tân binh, xây dựng mạng
lưới cơ sở theo lối xâu chuỗi ngăn cách. Bước đầu, ta hình thành
được một số tổ chuyên trách: phụ nữ, nông hội, thanh niên ở nhiều
ấp trong thị xã. Đội vũ trang tuyên truyền Long Khánh cũng ra đời
trong thời điểm này.
81

9.2 Page 82

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Năm 1964 đánh dấu bước trưởng thành mạnh mẽ của lực lượng
vũ trang Long Khánh. Ta mở nhiều trận đánh táo bạo vào hệ thống
chính quyền ngụy, đột kích vào ấp chiến lược hỗ trợ quần chúng
công nhân phá banh, phá rã thế kìm kẹp của địch. Ngày 4/1/1964,
đội vũ trang tuyên truyền Long Khánh tổ chức tấn công vào trụ sở
Hội đồng xã Xuân Lộc, nơi có một trung đội dân vệ canh phòng chặt
chẽ, ngoài ra còn có các lực lượng an ninh, cảnh sát hoạt động tuần
tra ngày đêm trong thị xã sẵn sàng tiếp ứng. Ta bắt gọn một tiểu đội
lính giữ đồn, thu 41 súng và 2 máy truyền tin.
Những tháng cuối năm 1964, quân dân Long Khánh tích cực
chuẩn bị cho công tác hậu cần chiến dịch lộ 2 (còn gọi là chiến dịch
Bình Giã). Đảng bộ, quân dân Long Khánh làm hết sức mình để bảo
đảm cho công tác dân công, vận tải vũ khí, đạn dược, cung cấp lương
thực góp phần cùng hậu cần Miền phục vụ cho các đơn vị tham gia.
Thắng lợi to lớn của chiến dịch Bình Giã có sự đóng góp rất lớn
của đội ngũ công nhân trên địa bàn Long Khánh trong việc đảm
bảo lương thực, dân công, giải quyết vận tải, hậu phương. Phát triển
thắng lợi của chiến dịch Bình Giã, quân và dân Long Khánh với sự
hỗ trợ của bộ đội chủ lực Miền đã nổi dậy tấn công địch, phá tan các
ấp chiến lược ngay sát thị xã Long Khánh và các khu vực trọng điểm
bình định của địch ở Bảo Vinh, Bình Lộc… tạo điều kiện thuận lợi
cho nhân dân bung ra sản xuất, làm ăn. Năm 1965, dưới sự lãnh đạo
của Ban cán sự Cao Su, công nhân vùng dậy phá thế kìm kẹp, giải
phóng một phần Đồn điền Bình Lộc, Đồn điền Ông Quế, An Lộc,
Dầu Giây… nâng lên thế tranh chấp mạnh giữa ta và địch.
Từ ngày 7/5/1965, Trung đoàn 4 (bộ đội chủ lực Quân khu) với sự
phối hợp của quân dân Long Khánh đã liên tiếp đánh địch và giành
thắng lợi lớn ở chi khu Định Quán, cắt đứt hoàn toàn và làm chủ
quốc lộ 20, địch phải dùng máy bay quân sự để tiếp tế từ Sài Gòn lên
Đà Lạt. Địch đưa lực lượng từ Long Khánh lên ứng cứu giành lại con
đường chiến lược quan trọng này. Trung đoàn 4 phục kích diệt địch
trên đoạn cây số 109 - 110 trên quốc lộ 20 gần cầu La Ngà. Ngày
15/5/1965, toàn bộ quân cứu viện của địch lọt vào trận địa La Ngà,
82

9.3 Page 83

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cả tiểu đoàn biệt động quân và một đại đội bảo an bị ta tiêu diệt, 26
xe tăng, xe quân sự bị bắn cháy. Ta tịch thu hơn 100 súng các loại.
Chiến sĩ ta gọi đây là chiến thắng “La Ngà 2”. Ngày 2/6/1965, Trung
đoàn 4 phối hợp với công binh phục kích đoàn xe lửa quân sự trên
đoạn Gia Huynh - Trảng Táo, diệt và làm bị thương hơn 1 trung đội
địch, thu 50 súng, phá hủy hệ thống đầu máy, toa tàu và đường ray,
gây cho địch tổn thất nặng, tuyến giao thông đường sắt Xuân Lộc -
Phan Thiết bị cắt đứt. Đêm 8 rạng ngày 9/6/1965, Trung đoàn 4, bộ
đội địa phương huyện Xuân Lộc tiếp tục tập kích vào yếu khu quân
sự và trung tâm huấn luyện của địch ở Gia Ray, tiêu diệt 3 đại đội hạ
sĩ quan ngụy, một đại đội bảo an và một trung đội dân vệ; tịch thu
150 súng các loại, 5 tấn đạn dược, 3 toa xe chở hàng quân sự, chiếm
lĩnh hoàn toàn yếu khu quân sự và trung tâm huấn luyện của địch,
giải phóng hơn 7.000 dân.
Cùng với các mũi tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội và du kích
các huyện Xuân Lộc, Định Quán liên tiếp tấn công địch khắp nơi,
hỗ trợ quần chúng nổi dậy giải phóng các xã nằm trên trục lộ số 1 từ
Gia Ray cho đến Rừng Lá. Các ấp Trà Tân 1, Trà Tân 2, 3 (lộ 3) cũng
hoàn toàn được giải phóng. Tiếp đó, các xã Bảo Chánh, Bảo Bình,
Suối Cát… cũng được giải phóng. Ta hoàn toàn làm chủ trục lộ 1 từ
Suối Cát đến Rừng Lá, Đá Mài (dài hơn 80km), mở rộng vùng căn
cứ ở Nam, Bắc lộ 1 và Đông Tây lộ 2, xây dựng cửa khẩu hậu cần,
thu mua lương thực phục vụ cách mạng. Phối hợp với thắng lợi vũ
trang đang diễn ra sôi nổi, từ giữa năm 1965, phong trào đấu tranh
chính trị của nhân dân, công nhân Long Khánh diễn ra sôi nổi làm
bọn lính ngụy hoang mang.
Ngày 5/5/1965, Lữ đoàn 173 Mỹ đổ bộ vào Vũng Tàu, sau đó
triển khai quân trên địa bàn Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh. Ở Long
Khánh, Mỹ đưa Tiểu đoàn pháo binh 33 về đóng quân tại căn cứ
Hòang Diệu, xây dựng căn cứ Trung đoàn kỵ binh thiết giáp cơ động
số 11 tại Suối Râm (lộ 2) đồng thời là căn cứ xuất phát của Lữ đoàn
173 Mỹ khi hoạt động ở Xuân Lộc, Long Khánh. Địch cũng xây
dựng Sở chỉ huy khu chiến thuật 33 tại thị xã Long Khánh, xây dựng
83

9.4 Page 84

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
sân bay, làm đường thông suốt từ sân bay thị xã đến Suối Râm. Mục
tiêu của Mỹ là xây dựng thị xã Long Khánh thành một đô thị, căn
cứ quân sự lớn. Lực lượng quân ngụy ở Long Khánh trước đã có Sư
đoàn 10, 13 đại đội bảo an, 48 trung đội dân vệ địa phương, nay thêm
lực lượng sĩ quan chỉ huy tham mưu, nhân viên CIA và quân Mỹ dày
đặc. Các tổ chức tình báo của địch tăng cường hoạt động, xây dựng
cơ sở.
Quân dân Long Khánh cùng với quân dân toàn miền Nam đứng
trước một thử thách mới: đối đầu trực tiếp với quân viễn chinh Mỹ
và các loại quân đồng minh của Mỹ. Ban Chấp hành Tỉnh ủy Long
Khánh chỉ đạo tích cực chuẩn bị địa bàn, tiếp tục củng cố và phát
triển lực lượng vũ trang, chính trị sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu.
Tỉnh ủy cũng xác định thị xã Long Khánh có vai trò, tính chất quan
trọng. Hoạt động cách mạng trong thị xã có tác dụng quan trọng
không chỉ với vùng nông thôn và vùng đồn điền, mà còn có ý nghĩa
đối với sự phối hợp trong khu vực tam giác Biên Hòa - Sài Gòn - Bà
Rịa, Vũng Tàu. Tỉnh ủy chỉ đạo phải coi trọng việc xây dựng các
cơ sở mật, tự vệ mật, đảng viên mật cùng lực lượng vũ trang bí mật
trong thị xã, đẩy phong trào cách mạng bên trong nội ô phát triển.
Tháng 8/1965, đội biệt động thị xã thành lập tại Rừng Tre thuộc
vùng ven thị xã. Trên chiến trường của tỉnh còn có sự hỗ trợ đắc lực
của các lực lượng vũ trang Quân khu miền Đông (Trung đoàn 4) và
một bộ phận quân chủ lực Miền, Sư đoàn 9. Ngày 23/11/1965, Sư
đoàn 5, sư đoàn chủ lực thứ 2 của Miền được thành lập gồm 2 trung
đoàn (Trung đoàn 4 và Trung đoàn 5) đứng chân hoạt động trên
địa bàn Bà Rịa - Long Khánh vừa tiêu diệt sinh lực địch vừa hỗ trợ
phong trào chiến tranh du kích ở địa phương. Cùng với sự phát triển
qui mô ngày càng lớn về tổ chức của bộ đội chủ lực Miền, Quân khu
trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Tỉnh đội Long Khánh cũng
đã xây dựng được một đại đội bộ đội tập trung, trang bị vũ khí đầy
đủ với hỏa lực chiến đấu tốt. Trình độ kỹ thuật, chiến thuật, tác chiến
ngày càng được nâng cao. Lực lượng du kích các xã, đồn điền cao
su đều phát triển, du kích mật và tự vệ mật có ít nhất là 1 bán đội du
84

9.5 Page 85

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kích hoặc 1 tổ.
Căn cứ của tỉnh Long Khánh được xây dựng ở khu vực Rừng
Lá. Căn cứ huyện Xuân Lộc ở khu vực Mây Tàu, Sông Ray. Cùng
với các đơn vị chủ lực Miền, Quân khu, Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đoàn
hậu cần 84 cũng về đứng chân hoạt động trên địa bàn Long Khánh.
Nhiều xã, đồn điền cao su ở khu vực Long Khánh trên tuyến lộ 2
được tổ chức thành cửa khẩu hậu cần của Đoàn 84 như: Bình Lộc,
Bảo Vinh, Cẩm Mỹ, Cẩm Đường… Tỉnh ủy đã mở nhiều lớp huấn
luyện chính trị cho các chi ủy, các bộ cơ sở nhằm quán triệt tình hình
mới, khẳng định quyết tâm đánh Mỹ.
Tháng 10/1965, đội tự vệ mật công nhân Sở cao su Hàng Gòn
dùng 2 lựu đạn diệt 2 quan thiết giáp Mỹ cùng một số sĩ quan Mỹ,
quân đội Sài Gòn trong lần đầu tiên chúng đi nghiên cứu địa hình để
đổ quân. Tháng 11/1965, bộ phận tiền trạm quân viễn chinh Mỹ cùng
đội thông tin với nhiều xe bọc thép và phương tiện máy móc hiện
đại đã bị đội biệt động thị xã Long Khánh bất ngờ tập kích bằng mìn
ngay tại tiểu khu Long Khánh, 60 lính Mỹ bị chết và bị thương, 4 xe
thiết giáp và máy móc thông tin bị phá hủy. Chỉ trong vòng 2 tháng
cuối năm 1965, đội biệt động thị xã đã đánh 6 trận, làm chết và bị
thương 120 tên địch hầu hết là quân Mỹ.
Việc tổ chức đánh địch ở thị xã Long Khánh kết hợp với các hoạt
động vũ trang chính trị trên địa bàn huyện Xuân Lộc không chỉ thể
hiện quyết tâm đánh Mỹ, mà còn góp phần mở thông con đường tiếp
tế từ Trung ương vào cửa biển Lộc An (Long Đất) về tới Chiến khu
Đ, các xã Bàu Hàm và Bảo Bình ở Xuân Lộc trở thành cửa khẩu hậu
cần trọng yếu tiếp tế lương thực, cho cả tỉnh và Quân khu.
Đầu tháng 4/1966, Mỹ đổ Lữ đoàn 199 bộ binh đóng chốt dã
ngoại dọc liên tỉnh lộ 2 nối Bà Rịa với Long Khánh, tung những toán
biệt kích thám báo thăm dò khu vực Ngãi Giao - Tầm Bó và tiến sâu
vào căn cứ của ta ở phía bắc Bình Giã. Mục tiêu của địch là tìm diệt
cơ quan và lực lượng của ta, đánh phá kho tàng của Đoàn hậu cầu 84
của Miền. Ngày 8 và 9/4/1966, máy bay Mỹ ném bom, bắn phá ác
85

9.6 Page 86

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
liệt vào khu vực Chòi Đồng, Suối Cả và khu vực bắc Núi Le, đồng
thời cho 1 tiểu đoàn càn quét vào Tầm Bó, căn cứ đứng chân của
Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5). Cũng trên địa bàn này, ngày 6/5/1966, Lữ
đoàn 2 thuộc Sư đoàn 1 Mỹ cùng 1 tiểu đoàn Úc, đại đội pháo Tân
Tây Lan mở cuộc hành quân vào vùng giải phóng ở lộ 2, vào Long
Phước căn cứ của Tỉnh ủy Bà Rịa. Giữa năm 1966, quân Mỹ, quân
chư hầu và ngụy quân triển khai tìm diệt, đánh phá, càn quét lấn
chiếm ở lộ 1. Sư đoàn 10 đánh chiếm ngã ba Ông Đồn. Lữ dù 173
Mỹ có Trung đoàn kỵ binh 11 thiết giáp hỗ trợ tiến hành càn quét khu
vực Xà Bang, Cẩm Mỹ, Rừng Quít, Bảo Bình, Bảo Liệt. Máy bay
phản lực cường kích liên tục ném bom bắn phá, các trận địa pháo 155
ly, 105 ly từ Suối Râm, thị xã, ngã ba Tân Phong bắn cấp tập vào các
trọng điểm bình định lấn chiếm và căn cứ của ta.
Từ đặc điểm của chiến trường, Tỉnh ủy Long Khánh đã quán triệt
quyết tâm của Trung ương Đảng, Trung ương Cục và Khu ủy miền
Đông, nhanh chóng triển khai lực lượng, phối hợp với các chiến
trường trọng điểm. Tỉnh ủy Long Khánh xác định nhiệm vụ trọng
tâm của các Đảng bộ là: quán triệt quyết tâm đánh Mỹ trong toàn
quân, toàn dân, xây dựng thực lực cách mạng nhất là lực lượng vũ
trang, bảo vệ vững chắc các căn cứ, phát triển du kích chiến tranh,
đặc biệt tăng cường đánh phá vào các kho tàng dự trữ của địch diệt
phương tiện chiến tranh và sinh lực cao cấp của chúng. Bám địa
bàn, kết hợp chặt chẽ phong trào đấu tranh ba mũi: vũ trang, chính
trị, binh vận, đấu tranh chống gom dân lập ấp chiến lược, chống bắn
pháo, chống bắt lính, kìm kẹp quần chúng, bảo vệ quyền lợi nhân
dân. Kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân
quân du kích.
Thực hiện nhiệm vụ này, các lực lượng vũ trang, chính trị Long
Khánh đã phối hợp với các lực lượng bộ đội chủ lực Quân khu và
Miền bước vào đợt chiến đấu mới đầy gay go thử thách và giành
được nhiều thắng lợi. Trên chiến trường Long Khánh, bộ đội chủ lực
Miền (2 trung đoàn 4 và 5 thuộc Sư đoàn 5), bộ đội địa phương và
du kích phải đối đầu với một lực lượng đông gấp nhiều lần. Ngày
86

9.7 Page 87

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
11/4/1966, qua nhiều lần nghiên cứu, Trung đoàn 4 đã tập kích tiêu
diệt 1 tiểu đoàn quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 199, loại khỏi vòng chiến
đấu 300 tên, thu 40 súng các loại tại căn cứ Rừng Quýt (suối Tầm
Bó). Ngày 18/6/1966, Trung đoàn 5 đã chặn đánh tiêu diệt Tiểu đoàn
1, Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn (có Trung đoàn 11
thiết giáp Mỹ yểm trợ), bắn cháy 16 xe cơ giới trong đó có 6 xe thiết
giáp M113, thu 8 súng các loại tại ngã ba Ông Đồn, Xuân Lộc. Ngày
16/11/1966, đội đặc công huyện Xuân Lộc do đồng chí Chín Phiền
chỉ huy cùng du kích cao su Hàng Gòn đưa tiểu đoàn pháo của Sư
đoàn 5 bộ binh pháo kích hậu cứ của Trung đoàn kỵ binh thiết giáp
11 Mỹ ở Suối Râm, phá hủy nhiều xe quân sự (xe vận tải và thiết
giáp), loại 150 tên Mỹ, làm tê liệt Trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ
trong một thời gian.
Các đội du kích cao su Cẩm Mỹ, Đội du kích đồn điền cao su
Ông Quế, đội vũ trang tuyên truyền Đồn điền cao su Bình Lộc cũng
tổ chức nhiều trận đánh địch ở cơ sở. Tại một số sở cao su, phong
trào đấu tranh kết hợp với quân chủ lực cũng đã diễn ra quyết liệt và
giành được nhiều thắng lợi. Đội biệt động thị xã Long Khánh đã diệt
bọn cảnh sát dã chiến, tập kích vào Tòa hành chính ngụy, tập kích
vào cơ quan tình báo CIA Mỹ (khu 33 chiến thuật), đánh vào xe địch
trong lúc chúng tập trung đi càn quét. Trong năm 1966, đội biệt động
thị xã đã đánh 7 trận lớn vào quân Mỹ, quân ngụy, loại 180 tên địch
khỏi vòng chiến đấu. Lực lương An ninh Long Khánh cũng kịp thời
phát hiện, đối phó, xử lý bọn gián điệp địch do dịch cài cắm, đồng
thời trinh sát, xác minh lần lượt bóc gỡ lưới tình báo của bọn an ninh
quân đội Long Khánh trong hàng ngũ của ta.
Cuối năm 1966, cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất
của Mỹ về cơ bản đã thất bại. Quân dân Long Khánh nói riêng và
quân dân miền Đông Nam Bộ nói chung vẫn giữ thế tiến công và
quyền chủ động trên chiến trường. Đế quốc Mỹ mở tiếp cuộc phản
công chiến lược mùa khô lần thứ 2 (1966- 1967), không chỉ tập trung
quân càn quét các vùng căn cứ cách mạng, dùng hóa chất khai hoang
hủy diệt cây trái, ruộng vườn, phá toàn bộ địa hình, gây khó khăn cho
87

9.8 Page 88

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
lực lượng cách mạng, mà ở vùng nôgn thôn chúng còn tăng cường ủi
phá địa hình, càn quét gom dân lập ấp chiến lược, xây dựng đồn bót,
bảo vệ giao thông, củng cố bộ máy tề ngụy ở cơ sở. Vùng đô thị, thị
xã, thị trấn, địch tăng cường bộ máy cảnh sát, công an, mật thám, chỉ
điểm theo dõi nhân dân, tuyên truyền, xuyên tạc cách mạng.
Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh chỉ đạo củng cố các huyện ủy,
các lực lượng vũ trang. Thị ủy Long Khánh chủ trương quyết tâm
bám trụ địa bàn, nhất là những địa bàn trọng điểm, bám dân, nhanh
chóng khôi phục lại các cơ sở mật, củng cố đội biệt động thị xã, các
đội du kích tự vệ mật làm cơ sở cho đánh phá bình định. Đẩy mạnh
hoạt động vũ trang, giữ vững căn cứ, từng bước khôi phục vùng
giải phóng và thế làm chủ các xã ấp. Thực hiện chỉ đạo của Thị uỷ,
đội biệt động thị xã đã liên tục tổ chức đánh địch để hỗ trợ phong
trào chống phá bình định. Tháng 1/1976, đội biệt động thị xã tập
kích vào cơ quan cố vấn Mỹ, loại hơn 20 tên Mỹ, trong đó có 15 sĩ
quan. Tháng 4/1967, đội biệt động đánh vào căn cứ thiết giáp ngụy,
diệt 72 tên; đánh vào hậu cứ Trung đoàn 43, Sư 18, diệt 53 tên, bắn
rơi 1 máy bay L19. Tháng 8/1967, một tổ biệt động gồm 3 đồng chí
đánh vào căn cứ Chiến đoàn 43, Sư đoàn 18. Ngày 11/11/1967, 6
đồng chí biệt động lại dùng ĐH 10 đánh 2 đại đội pháo địch ở sân
bay Long Khánh.
Trong năm 1967, đội biệt động thị xã Long Khánh đã đánh 14
trận, diệt và làm bị thương 650 tên địch. Đến cuối năm 1967, đội đã
phát triển với 23 đồng chí. Đội biệt động, với tinh thần gan dạ, dũng
cảm, thông minh, kỹ chiến thuật điêu luyện, tác chiến hiệu quả gắn
liền với công tác xây dựng cơ sở mật trong nội ô thị xã của Thị ủy
Long Khánh góp phần cho phong trào cách mạng địa phương phát
triển. Nhân dân thị xã Long Khánh và các vùng ven lộ 1, lộ 2, lộ 3
được cơ sở Đảng lãnh đạo, cũng tổ chức được nhiều đợt đấu tranh
chính trị chống Mỹ. Phối hợp với quân dân Xuân Lộc, bộ đội Sư
đoàn 5 Miền trong những tháng giữa năm 1976 cũng liên tục tổ chức
đánh địch ở Gia Ray, Trảng Táo, Bến Nôm, Định Quán, tiêu diệt
nhiều sinh lực địch. Hầu hết các chiến đoàn của Sư đoàn 10 quân đội
88

9.9 Page 89

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Sài Gòn đều bị thương vong lớn.
Đầu năm 1968, quyết định tổng tiến công và nổi dậy được phổ
biến đến cán bộ phụ trách địa phương Long Khánh, thị xã và đơn
vị. Công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương. Cuộc tổng công kích,
tổng khởi nghĩa ở Bà Rịa - Long Khánh diễn ra chậm hơn 1 ngày
so với mặt trận Sài Gòn, Biên Hòa. Tại thị xã Long Khánh, trước
giờ G, pháo binh địch từ căn cứ Sư 18 bắn vào điểm tập kết của Ban
chỉ huy mặt trận ở Bảo Vinh A. Rạng sáng 1/2/1968 (mồng 2 Tết
Mậu Thân), cuộc tổng tiến công vào thị xã Long Khánh bắt đầu.
Tiểu đoàn 440 và đội biệt động thị xã tiến công vào 3 mục tiêu: khu
33 chiến thuật, trụ sở CIA Mỹ, Tòa hành chính tỉnh Long Khánh.
Nhân dân thị xã Long Khánh đã xuống đường, tiếp lương tải đạn,
cùng bộ đội chiến đấu.
Sáng 2/2/1968, quân Mỹ đưa hơn 100 xe tăng từ căn cứ Suối Râm
theo lộ 2 xuống phản kích giải tỏa thị xã Long Khánh. Bộ đội ta lực
lượng ít hơn nhưng đã kiên quyết đào công sự bám trụ đánh phản
kích suốt một ngày trong nội ô thị xã, bắn cháy 12 xe tăng, diệt 70
tên. Đến 4 giờ sáng ngày 3/2/1968, Ban Chỉ huy cho lực lượng rút
khỏi thị xã Long Khánh để bảo toàn lực lượng. Trong vòng vây của
địch, các đơn vị phải phân tán từng tổ, vừa chiến đấu vừa tìm đường
ra. Tại mặt trận thị xã Long Khánh, ta hy sinh 28 đồng chí, 40 đồng
chí bị thương, 9 đồng chí bị địch bắt và mất tích.
Tại các sở cao su, đêm 1 rạng sáng 2/2/1968 (mùng 2 rạng mùng
3 Tết Mậu Thân), đồng loạt cùng thị xã, bộ đội và du kích cao su kết
hợp với tự vệ mật, có cơ sở binh vận trong bảo an, dân vệ đã tiến
công và nổi dậy chiếm các sở cao su. Kết hợp với lực lượng vũ trang
bên ngoài, ngay đêm đầu, ta đã chiếm các sở cao su Ông Quế, Hàng
Gòn, Suối Tre, An Lộc, Bình Lộc… làm chủ các sở, bao vây các đồn
bót lớn, phát loa hiệu triệu đồng bào, vận động binh lính địch. Tại
Suối Tre, du kích An Lộc cùng với công nhân nổi dậy làm chủ ấp
Suối Tre suốt 3 ngày đêm liền. Tại Bình Lộc, lực lượng vũ trang đồn
điền đã tiến công đồn Bình Lộc. Cuộc tiến công và nổi dậy ở đồn
89

9.10 Page 90

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
điền Bình Lộc đã diễn ra vô cùng gay go ác liệt từ mùng 5 đến mùng
10 Tết Mậu Thân với 3 đợt tiến công địch. Mặc dù không tiêu diệt
được đồn địch nhưng khí thế tiến công và nổi dậy của du kích, công
nhân địa phương đã làm cho tinh thần địch hết sức hoang mang.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân
dân Xuân Lộc, Long Khánh đã chia lửa cùng với các chiến trường,
góp phần cùng quân dân toàn miền Nam gây cho địch những tổn thất
nặng nề, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Với những
thắng lợi to lớn trên tất cả các mặt, năm 1968, thị xã Long Khánh
được Miền tuyên dương và công nhận là 1 thị xã có phong trào đô thị
khá nhất của các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Sau năm 1968, địa bàn đứng chân của Thị ủy, các lực lượng vũ
trang thị xã Long Khánh luôn bất ổn định, phải thường xuyên di
chuyển, gặp nhiều trở ngại trong chỉ đạo chiến đấu. Lực lượng vũ
trang thường xuyên thiếu lương thực, phải ăn lá rừng, củ rừng, bắp,
chuối, đậu xanh, đậu nành… Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh chủ
trương động viên các cơ quan, các đơn vị, lực lượng vũ trang kiên
cường bám trụ, chống càn, diệt địch.
Tháng 2/1969, đội biệt động thị xã Long Khánh 3 lần đột kích ấp
Tân Phú trong nội ô thị xã, đánh rã bọn tề ấp và phòng vệ dân sự,
thu 31 súng. Tháng 3/1969, đồng chí Lê A, đội du kích Bình Lộc
đã ném 2 tạc đạn vào bọn sĩ quan ngụy ở quán Ngọc Hương trong
thị xã Long Khánh, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 40 tên địch. Đêm
19/5/1969, đội biệt động, đội trinh sát vũ trang thị xã phối hợp với
Sư 5 Miền tấn công đồn Hoàng Diệu, phá hỏng các khẩu pháo lớn,
gây thiệt hại nặng phương tiện chiến đấu của địch.
Cùng lúc đó, trên hướng lộ 1 và lộ 2, lực lượng chủ lực cùng lực
lượng vũ trang địa phương huyện Xuân Lộc, Định Quán hoạt động
mạnh, căng kéo địch ra khỏi thị xã Long Khánh. Kết hợp với những
đòn tấn công của chủ lực, Thị ủy Long Khánh chỉ đạo đẩy mạnh kết
hợp ba mũi tấn công phá banh, phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của
địch trên địa bàn, bộ đội địa phương huyện phối hợp với du kích
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
các xã: Bảo Chánh, Suối Cát, Tân Phong, Bảo Vinh, Bảo Bình, Cẩm
Mỹ… ban đêm đột nhập ấp, phát động nhân dân diệt ác, tiến công phá
banh hàng rào ấp chiến lược, bức rút 1 đại đội bảo an, giải tán nhiều
toán phòng vệ dân sự. Đặc biệt nổi lên tinh thần chiến đấu kiên cường
của đội du kích Bình Lộc. Đội du kích Bình Lộc với những thành tích
chống càn, đánh địch đã trở thành đơn vị tiêu biểu trong phong trào
diệt ác, phá kìm do Khu ủy miền Đông Nam Bộ phát động.
Đầu năm 1970, địch lại liên tục mở các cuộc càn quét để thực hiện
bình định cấp tốc nhằm đánh bật lực lượng ta ra vùng thị xã Long
Khánh. Hướng bắc lộ 1, từ Xuân Lộc đến Mây Tàu là đường rút quân
của lính Mỹ, chúng sử dụng phi pháo đánh phá dữ dội, đồng thời tiến
hành chiến tranh tâm lý chiêu hồi, chiêu hàng. Tại các xã, ấp, địch
ráo riết tổ chức lại lực lượng phòng vệ dân sự và phòng vệ xung kích.
Trung ương Cục, Quân ủy Miền quyết định mở cuộc tấn công
Xuân Hè 1970 nhằm mở rộng vùng nông thôn, khôi phục vùng giải
phóng như thời kỳ trước Mậu Thân, làm thay đổi diện mạo chiến
trường, tạo thời cơ tiến lên giành thắng lợi cao nhất. Nhiệm vụ chủ
yếu của tỉnh Bà Rịa- Long Khánh là: kết hợp chặt chẽ du kích và lực
lượng chủ lực bên ngoài diệt đúng đối tượng, đánh bình định và yểm
trợ bình định phá rã các bộ máy kìm kẹp, đi đôi đẩy mạnh phong trào
quần chúng phá rã các hình thức kìm kẹp và xé rào bung ra sản xuất.
Bộ Tư lệnh T7 đã triệu tập hội nghị ở Rừng Lá và quyết định mở
chiến dịch Châu Đức trên địa bàn Bà Rịa - Long Khánh, Biên Hòa
mà trọng điểm là Long Khánh. Mục tiêu của chiến dịch nhằm tiêu
diệt sinh lực địch, củng cố theo đúng trên địa bàn đông bắc Sài Gòn,
hỗ trợ đắc lực cho các lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh du
kích chiến tranh phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch ở một số
xã ấp vùng nông thôn chiến lược. Bộ đội chủ lực của T7 gồm Trung
đoàn 4, Trung đoàn 33 và Tiểu đoàn 6 đặc công, phối hợp với lực
lượng vũ trang huyện Xuân Lộc, Cao Su, đánh địch trên 2 hướng
chính là quốc lộ 1 và liên tỉnh lộ 2.
Vượt qua mọi khó khăn gian khổ, Đảng bộ, quân và dân thị xã
91

10.2 Page 92

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Long Khánh hoạt động tích cực phối hợp cùng các lực lượng vũ
trang Quân khu, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Châu Đức (từ ngày
26/3 đến tháng 7/1970), ngăn chặn có hiệu quả kế hoạch bình định
phát triển của địch trên địa bàn Long Khánh, đã giải phóng được 2
ấp: Bình Lộc, Suối Tre. Điểm nổi bật trong chiến dịch Châu Đức
trên chiến trường Long Khánh là lực lượng chủ lực T7 đã hỗ trợ có
hiệu quả cho bộ đội, du kích địa phương diệt ác ôn, phá rã nhiều bộ
máy kìm kẹp của địch, xây dựng được một số cơ sở cách mạng trong
vùng kiểm soát của chúng. Đảng bộ, quân và dân thị xã Long Khánh
đã được Bộ Tư lệnh Miền đánh giá cao, được Tỉnh ủy Bà Rịa - Long
Khánh khen ngợi, đó là nguồn động viên lớn để cho Đảng bộ, quân
dân thị xã tạo thế và lực mới, không ngừng tiến công địch trong mùa
mưa năm 1970.
Trong năm 1971, Phân khu ủy phân khu Bà Rịa đề ra nhiệm vụ
tập trung là: củng cố phát triển lực lượng, kết hợp chặt chẽ ba thứ
quân, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận
để đánh phá bình định, nhằm phá lỏng, phá rã thế kìm kẹp của địch
ở nông thôn; mở rộng vùng làm chủ, nâng thế tranh chấp, mở hành
lang căn cứ, tạo thế bám trụ vùng ven các thị xã, thị trấn, hỗ trợ cho
quần chúng đẩy mạnh đấu tranh.
Thực hiện chủ trương của Phân khu ủy, Bộ Tư lệnh Phân khu Bà
Rịa tập trung Trung đoàn 4 và Trung đoàn 33, tiểu đoàn 6 công binh
kết hợp với bộ đội địa phương mở đợt hoạt động vũ trang trên tuyến
lộ 2 và quốc lộ 20 nhằm củng cố, mở rộng địa bàn đứng chân, giữ
vững tuyến hành lang chiến lược Bà Rịa - Long Khánh về Chiến khu
Đ. Phân khu ủy và Bộ Tư lệnh Phân khu Bà Rịa thành lập Đoàn hậu
cần 500 để phối hợp cùng Đoàn hậu cần Miền 814 làm nhiệm vụ vận
chuyển vũ khí, hàng chiến lược từ Nam đường Hồ Chí Minh về phục
vụ chiến dịch, chiến đầu.
Mở đầu cho đợt hoạt động, đêm 15/6/1971, Đội biệt động thị xã
Long Khánh gồm 10 chiến sĩ bất ngờ tấn công bằng B40, thủ pháo
vào tiểu khu 33 tình báo ngụy đóng trên đường Hùng Vương, thị xã
92

10.3 Page 93

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Long Khánh. Trận đánh táo bạo, bất ngờ diễn ra trong 40 phút (từ
20 giờ đến 20 giờ 40 phút), ta diệt và làm bị thương 33 tên, bắn sập
1 lô cốt và 3 dãy nhà. Trận đánh đúng đối tượng là cơ quan chỉ huy
bình định của địch đã gây tiếng vang lớn. Trong lúc đó, Trung đoàn
4, Trung đoàn 33 kết hợp cùng với bộ đội huyện Cao Su tấn công hầu
hết đồn bót, trụ sở cảnh sát của địch dọc lộ 2 như: Hàng Gòn, Ông
Quế, Cẩm Mỹ… giải tán 7 đội phòng vệ dân sự của địch. Đến tháng
7/1971, ở thị xã Long Khánh, ta đã giành quyền làm chủ (có mức độ)
ở nhiều ấp như: Bảo Vinh A, Bảo Vinh B, Tân Thủy, Bình Lộc. Tính
cả huyện Xuân Lộc - Định Quán và thị xã Long Khánh, ta nâng thế
tranh chấp lên 16 ấp với 14.708 dân.
Đầu năm 1972, Bộ Tư lệnh phân khu Bà Rịa mở đợt cao điểm
15 ngày, lấy địa bàn huyện Xuyên Mộc - Long Đất làm điểm, vùng
Xuân Lộc, Cao Su là diện 1, vùng thị xã Long Khánh là diện 2.
Phục vụ cho đợt, Đoàn hậu cần 500 của phân khu đã tiếp nhận và
chuẩn bị hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực trên các khu vục căn cứ lộ
1, lộ 20 để đáp ứng yêu cầu chiến đấu của lực lượng. Các cơ sở cách
mạng tại thị xã Long Khánh đã thu mua nhiều hàng hóa, chuyển tải
lương thực cho địa phương.
Cuối tháng 1/1972, Bộ Tư lệnh phân khu Bà Rịa đưa Trung đoàn
33 đứng chân hoạt động ở khu vực Xuân Lộc. Nhiệm vụ của đơn vị
là kết hợp chặt chẽ với bộ đội huyện, du kích các xã, ấp đánh tiêu diệt
địch, hỗ trợ cho vùng trọng điểm của phân khu. Liên tục từ 28/1 đến
17/2/1972, Trung đoàn 33 của phân khu hoạt động trên một tuyến
rộng từ Cẩm Mỹ (lộ 2) lên Túc Trưng, Định Quán (lộ 20), Trung
đoàn đã tấn công nhiều đồn bót, chi yếu khu, căn cứ Chiến đoàn 48,
Chiến đoàn 52 Sư 18 ỡ Long Khánh. Trong đợt, đơn vị đánh thiệt hại
5 đại đội, 4 trung đội. Chiến đoàn 48, Chiến đoàn 52 quân đội Sài
Gòn lúng túng, bị động đối phó. Bộ đội K8, K9 huyện Xuân Lộc -
Định Quán cùng với biệt động, du kích các xã tấn công vào các trụ sở
tề xã, các tua bót, phá rã nhiều bộ máy tay sai địch ở Bình Phú, Bình
Lộc, Bảo Bình, Gia Kiệm, Túc Trưng, Cây số 116, 125.
93

10.4 Page 94

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Những thắng lợi to lớn, liên tiếp của quân và dân Xuân Lộc, thị xã
Long Khánh trong chiến dịch Nguyễn Huệ đã phá tan âm mưu bình
định lấn chiếm vùng giải phóng của địch. Các ấp ven thị xã Long
Khánh và 6 xã lộ 1 (huyện Xuân Lộc) trở thành ấp tranh chấp mạnh.
Sau Hiệp định Paris 1973, tại thị xã Long Khánh, địch tập trung
các lực lượng chủ lực kết hợp với bảo an, dân vệ mở các đợt tấn
công lấn chiếm đồng loạt các vùng làm chủ của ta. Ngoài Sư đoàn
18 quân đội Sài Gòn và các lực lượng yểm trợ Quân đoàn 3, địch bố
trí lực lượng: Tiểu đoàn 324 bảo an đóng quanh thị xã Long Khánh,
Đại đội cơ động 22 đóng ở Ông Quế. Chi khu Xuân Lộc có Liên đội
3.23 (gồm bốn đại đội: 642, 285, 415, 971) đóng từ Bàu Cá đến Căn
cứ 4; Liên đội 3/19 đóng ở Gia Ray. Chi khu Kiệm Tân có Liên đội
3/84 đóng tại Chi khu. Chu khu Định Quán có Liên đội 3/60 (gồm 6
đại đội: 412, 377, 219, 621, 318, 927) đóng tại chi khu.
Địch tập trung sư đoàn 18 (Chiến đoàn 43 ở lộ 1), Trung đoàn 22
thiết giáp ở lộ 20 và một bộ phận của Thiết đoàn 5 kết hợp phi pháo
cùng lực lượng bảo an dân vệ ở tiểu khu Long Khánh tập trung lấn
chiếm các vùng xung yếu do ta làm chủ, giữ các trục lộ giao thông
quan trọng như lộ 1, lộ 20, lộ 2, lộ 3, hỗ trợ cho bọn ngụy quyền cơ
sở đẩy mạnh công tác bình định. Cùng với lấn chiếm, địch thực hiện
ủi phá rừng và di dân.
Thị ủy Long Khánh chủ trương: dựa vào pháp lý của Hiệp định,
nắm vững chính sách của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, bằng mọi biện pháp tuyên truyền sâu rộng
trong cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, nghiêm chỉnh thi hành
Hiệp định Paris nhưng không mơ hồ ảo tưởng, kiên quyết trừng trị
địch vi phạm hiệp định, lấn chiếm vùng giải phóng. Kết hợp ba mũi
giáp công, ba lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị, trên cơ sở
pháp lý của hiệp định, buộc địch phải thi hành. Lực lượng vũ trang
hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị, sẵn sàng giáng trả địch những
đòn quyết định, giữ vững vùng giải phóng.
Trên lộ 2, khu vực gắn liền với thị xã Long Khánh, Bộ Tư lệnh
94

10.5 Page 95

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Quân khu 7 đã điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 4, đại bộ phận Trung
đoàn 33 về tăng cường cho 2 huyện Xuân Lộc, Châu Đức để giữ
vùng giải phóng. Tỉnh đội Bà Rịa - Long Khánh cũng đưa 2 tiểu đoàn
445 và 500 về tiếp ứng. Du kích các xã dọc lộ 2 đã đắp mô, gài trái
trên đường chặn giao thông địch. Các trận đánh đã diễn ra hết sức ác
liệt. Các lực lượng vũ trang đã thực hiện tổng cộng 227 trận đánh lớn
nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 952 tên, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn
3 Chiến đoàn 48 và nhiều đại đội, trung đội bảo an địch; phá huỷ 25
xe bọc thép, xe tăng; bắn rơi 8 máy bay.
Tháng 3/1974, Bộ Tư lệnh Quân khu phối hợp với lực lượng vũ
trang Bà Rịa - Long Khánh mở chiến dịch lộ 2, thực hiện mở mảng
mở vùng, thu hồi vùng giải phóng, tạo điều kiện cho nhân dân nổi
dậy diệt ác ôn. Để phối hợp với chiến dịch lộ 2, Tỉnh đội Bà Rịa –
Long Khánh chỉ đạo các lực lượng vũ trang thị xã Long Khánh đẩy
mạnh hoạt động đánh phá bình định, phá kìm diệt ác ở các xã để thu
hút địch. Đêm 27/3/1974, đội biệt động, đội trinh sát vũ trang thị xã
Long Khánh đồng loạt tiến công vào nhiều mục tiêu trong thị xã, diệt
22 sĩ quan cảnh sát, 1 trưởng ấp ác ôn, đồng thời các đồng chí cán
bộ binh vận đã tuyên truyền thuyết phục nhiều binh sĩ ngụy từ lộ 2
chạy về Long Khánh, giác ngộ, đưa tin tức, làm nội ứng cho ta, đồng
thời vận động được 110 lính ngụy đào, rã ngũ. Mùa khô 1973-1974
và mùa mưa 1974, trên chiến trường Xuân Lộc và Long Khánh, ta
tiến công địch liên tục giành lại thế chủ động chiến trường; phát triển
được thế đứng chân trên các địa bàn trọng yếu, nối thông hành lang
từ Chiến khu Đ xuống Long Khánh - Bà Rịa; tiêu diệt nhiều sinh lực
địch, phá rã bộ máy địch trên các vùng tranh chấp.
Đêm 10 rạng 11/12/1974, Thường vụ Huyện ủy Xuân Lộc trực
tiếp chỉ đạo du kích và nhân dân Bảo Chánh, bộ đội K8, tiểu đội nữ
súng cối bằng 3 mũi, huy động cả gia đình binh sĩ phát loa, bao vây,
tấn công bức rút đồn Bảo Chánh. Trung đội bảo an đồn bảo Chánh đã
ra hàng. Ta thu toàn bộ vũ khí trang bị, trong đó có 120 quả đạn cối
60 ly. Bảo Chánh là xã đầu tiên trong tỉnh, trong Quân khu sử dụng
lực lượng 3 mũi tấn công bức hàng đồn địch, mở đầu cho phong trào
95

10.6 Page 96

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
địa phương tự lực tự cường giải phóng xã ấp.
19 giờ tối ngày 29/1/1975, Đội biệt động thị xã Long Khánh gồm
tổ trưởng Hồ Thị Hương (bí số H5) và trinh sát Phùng Thị Thận (bí
số C8T) tổ chức đánh địch tại quán Song Nga. Sau khi đặt mìn và
định thoát ra ngoài, tổ trưởng Hồ Thị Hương bất ngờ nhận thấy bọn
cảnh sát đặc biệt và bọn an ninh quân đội rời quán trong lúc một số
gia đình thường dân lại vào quán. Sợ ảnh hưởng đến thường dân vô
tội, tổ trưởng Hồ Thị Hương quyết định quay vào vô hiệu hóa quả
mìn, nhưng mìn nổ làm chị hy sinh, trinh sát Phùng Thị Thận bị
thương nặng nhưng những người dân khác vẫn bình yên.
Ngày 17/3/1975, giai đoạn 2 của chiến dịch lộ 3 bắt đầu. Ta đồng
loạt đánh chiếm ngã ba Ông Đồn, núi Chứa Chan, diệt toàn bộ địch
ở Đồi 52. Ngày 18/3/1975, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 33 đã làm chủ
yếu khu quân sự Gia Ray, giải phóng ấp Gia Ray và cắt đứt lộ 3.
Đại đội K8 Xuân Lộc và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 4 cùng lực lượng
du kích tiến công địch ở các ấp: Suối Cát, Lều Xanh, Mai Thọ Bích,
Bình Phú… đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn bảo an số 332 và 324
lên ứng cứu, cắt đứt đoạn quốc lộ 1 dài trên 5 km. Đêm 20 rạng
21/3/1975, ta đồng loạt tiến công quét sạch địch, giải phóng ngã ba
Ông Đồn và núi Chứa Chan. Sau 4 ngày đêm chiến đấu (từ 17 đến
21/3), ta giải phóng tỉnh lộ 3 từ Trà Tân đến ngã ba Ông Đồn, đến
Căn cứ 5 giáp Bình Thuận, làm chủ các xã ấp trên quốc lộ 1. Trên
lộ số 2, ngày 21/3/1975, Tiểu đoàn 445 tỉnh Bà Rịa - Long Khánh
cùng lực lượng huyện Cao Su, du kích tiến công ba mũi giải phóng
các xã: Ông Quế, Cẩm Mỹ, Hàng Gòn, đưa lực lượng áp sát vào
phía Nam thị xã Long Khánh.
Ngày 30/3/1975, các ấp Bình Lộc, Bảo Vinh A, Bảo Vinh B, Suối
Chồn hoàn toàn giải phóng. Cửa ngõ phía Bắc thị xã Long Khánh đã
mở; tạo địa bàn đứng chân, triển khai để quân đoàn 4 tiến công vào
thị xã Long Khánh. Để chuẩn bị cho chiến dịch Xuân Lộc, ở tuyến
sau, các chiến sĩ kinh tài và cán bộ phong trào ở Xuân Lộc đã ngày
đêm vận động đồng bào ủng hộ lương thực, thuốc men cho cách
96

10.7 Page 97

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
mạng. Riêng tại vùng ven thị xã Long Khánh, đến đầu năm 1975, thị
uỷ và nhân dân đã chuẩn bị sẵn 7.500 tấn gạo, 17.000 ống thuốc cầm
máu, 43.000 lọ thuốc kháng sinh, 4.000kg bột ngọt và hàng chục
triệu đồng.
Địch quyết tâm giữ cho được Xuân Lộc - Long Khánh. Đến đầu
tháng 4/1975, quân ngụy ở Long Khánh có Sư đoàn 18 gồm 3 chiến
đoàn: Chiến đoàn 43 và 48 đóng tại hậu cứ hướng đông thị xã Long
Khánh, Chiến đoàn 52 đóng ở Kiệm Tân (lộ 20). Trung đoàn thiết
giáp số 5 có trên 100 xe tăng và thiết giáp, 9 tiểu đoàn bảo an và 3
đại đội biệt lập trực thuộc tiểu khu Long Khánh, cùng các lực lượng
cảnh sát và bộ máy kìm kẹp khác chốt giữ nhiều điểm quan trọng
trong thị xã.
Đúng 5 giờ 45 phút sáng ngày 9/4/1975, pháo chiến dịch 130 ly
của bắn cấp tập vào các tuyến phòng thủ trong thị xã Long Khánh,
mở màn chiến dịch Xuân Lộc. Xe tăng, bộ binh ở các hướng đồng
loạt tiến công. Mũi hướng bắc được các chiến sĩ biệt động và trinh
sát vũ trang Long Khánh dẫn đường, sư đoàn 1 (Sư 341) đánh chiếm
các mục tiêu ở Trung tâm thị xã. Tiếp đó, vào sáng 10/4 ta phát triển
chiếm được căn cứ biệt động quân và phía tây sân bay thị xã, phía tây
hậu cứ Chiến đoàn 43 Sư 18 ngụy.
Hướng Đông thị xã, do địa hình trống trải, Trung đoàn 12 Sư đoàn
7 gặp sự chống trả dữ dội của xe tăng địch, nhiều xe tăng bị bắn cháy,
nhiều đồng chí hy sinh trước khi vào được thị xã Long Khánh. Đơn
vị chỉ điểm được một phần hậu cứ Trung đoàn 43 ngụy. Ngày 10/4,
Bộ Tư lệnh chiến dịch phải tăng cường một bộ phận Trung đoàn 14
Sư đoàn 7 trên hướng này, đánh chiếm được phía đông hậu cứ Chiến
đoàn 52 quân đội Sài Gòn, đột phá vào hậu cứ Sư 18 và Chiến đoàn
7 không phát triển được vì bị thương vong (trên 300 đồng chí).
Hướng Tây thị xã, Trung đoàn 4 Sư đoàn 6 cùng du kích địa
phương tấn công chiếm ấp Trần Hưng Đạo, chặn viện binh địch tại
đèo Mẹ Bồng Con. Trung đoàn 33 đánh chiếm được ngã ba Dầu Giây
và thực hiện chốt chặn ở Hưng Lộc. Sư đoàn 6 tổ chức trận địa đánh
97

10.8 Page 98

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bật nhiều đợt phản kích của địch tại ngã ba Dầu Giây, hoàn thành
nhiệm vụ được phân công, giải phóng một đoạn quốc lộ 1 trên 10km.
Hướng Nam thị xã, Tiểu đoàn 445, bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa
- Long Khánh kết hợp Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 209 sư đoàn 7 đánh
chặn và tiêu hao nặng hai tiểu đoàn bảo an 348 và 234 từ Suối Cát
về giải tỏa thị xã, bắt nhiều tù binh, giải phóng ấp Bảo Toàn. Một bộ
phận Trung đoàn 209 chiếm và bám trụ được ở nam sân bay thị xã.
Sau một ngày đồng loạt tiến công từ các hướng, địch bị thiệt hại
nặng nề. Hệ thống bố phòng ở thị xã Long Khánh bị phá vỡ. Cờ giải
phóng tung bay trên các toà nhà: dinh Tỉnh trưởng, khu cố vấn Mỹ,
Ty cảnh sát, trụ sở tình báo CIA. Hậu cứ Sư đoàn 18 bị chọc thủng
một mảng.
Địch phát hiện ra ý đồ chiến thuật của ta, chúng lập tức điều chỉnh
lực lượng trong thị xã, điều Tiểu đoàn 1 Chiến đoàn 48 từ Tân Phong
về tiếp ứng cho thị xã. Tiểu đoàn 3 Chiến đoàn 48 ngừng giải tỏa lộ
1 về chốt tại Tân Phong. Chiến đoàn 52 từ Túc Trưng về Kiệm Tân.
Tiểu đoàn 2 Chiến đoàn 52 về tăng cường cho thị xã. Tiểu đoàn 1
Chiến đoàn 52 giải tỏa ấp Trần Hưng Đạo. Các tiểu đoàn bảo an
được chấn chỉnh, tăng cường phòng thủ hướng đông thị xã. Phi pháo
địch tăng cường đánh phá khốc liệt vào hậu phương ta ở mũi tiến
công hướng đông. Cùng với việc chấn chỉnh, điều động lực lượng
cố thủ và giải tỏa thị xã, Quân đoàn III ngụy dốc toàn bộ lực lượng
tăng cường cho Long Khánh. Chiến sự xảy ra vô cùng quyết liệt ở
trung tâm thị xã. Địch giãn bộ binh ra và dùng phi pháo oanh kích
huỷ diệt các mục tiêu ta đã chiếm được. Các loại máy bay: AD6, A7,
F5A liên tục ném bom, bắn hỏa tiễn, dùng máy bay vận tải C130 rải
bom tọa độ.
Hàng trăm thanh niên thị xã tình nguyện ở lại tham gia chiến đấu.
Đội biệt động mật trong thị xã tổ chức nhiều đội thanh niên xung kích,
thanh niên cờ đỏ... phục vụ chiến đấu bất chấp bom đạn của địch.
Ngày 11/4, Quân đoàn III quân đội Sài Gòn tăng viện cho Xuân
Lộc 1 chiến đoàn bộ binh (Chiến đoàn 8 Sư 5 từ Lai Khê về Bàu
98

10.9 Page 99

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Cá) và Lữ đoàn kỵ binh số 3 gồm 3 thiết đoàn, nhưng lực lượng này
bị Sư đoàn 6 chặn đứng tại Hưng Lộc. Ngày 12/4, ở hướng Tây, Sư
đoàn 6 cùng lực lượng du kích Dầu Giây, Trần Hưng Đạo tấn công
Tiểu đoàn 1 Chiến đoàn 52, diệt 2 đại đội, đánh thiệt hại nặng chi
đoàn xe bọc thép tại ngã ba Dầu Giây, ta làm chủ hoàn toàn ngã ba
Dầu Giây và đánh bật hầu hết các đợt phản kích từ hướng Nam lên
chi viện cho thị xã.
Hướng Đông và Bắc thị xã Long Khánh, chiến sự xảy ra ngày
càng quyết liệt. Địch tăng cường phi pháo oanh tạc các mục tiêu ta
đã chiếm và đánh vào phía sau đội hình tiến công của ta với trên 70
khẩu pháo và 50 phi vụ oanh kích. Đặc biệt, lúc 14 giờ ngày 12-4,
trước tình hình khẩn cấp, địch đã ném 2 quả bom CBU xuống cách
thị xã 800 mét về hướng Bắc. Đây là loại bom hơi ngạt lần đầu tiên
địch sử dụng đã làm cho hàng trăm chiến sĩ, đồng bào ta bị thương
vong. Thương vong mũi hướng Bắc của ta lên đến 1.100 người trong
ngày. Chiều 12/4, hàng trăm lần máy bay lên thẳng đổ Lữ đoàn 1 dù
xuống Nam ngã ba Tân Phong.
Trước tình huống khó khăn, đồng chí Trần Văn Trà (Tư lệnh Miền),
trực tiếp xuống Xuân Lộc nắm tình hình. Sau khi nghiên cứu, đồng
chí chỉ đạo thay đổi phương án tác chiến: Tạm thời rút lực lượng chủ
lực khỏi trung tâm thị xã để củng cố; sử dụng lực lượng dự bị mạnh
bất ngờ tiến công địch tiêu diệt Chiến đoàn 52 Sư 18 tại Kiệm Tân
và Dầu Giây, chiếm cao điểm Núi Thị, cô lập thị xã Long Khánh với
Biên Hòa. Bị cô lập, địch sẽ hoang mang, ta có điều kiện tung lực
lượng đánh địch bật khỏi thị xã. Đêm 12/4, thực hiện phương án tác
chiến mới của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Sư 7, Sư đoàn 1 mỗi đơn vị chỉ
để lại 1 tiểu đoàn chốt giữ các mục tiêu đã chiếm được, khẩn trương
củng cố trận địa và bàn giao toàn bộ cho lực lượng vũ trang Xuân
Lộc, cơ động chuyển thế trận.
3 giờ sáng 13/4, toàn bộ lực lượng chủ lực Quân đoàn 4 rút ra
ngoài thị xã. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang địa phương Xuân Lộc,
thị xã Long Khánh càng nặng nề, ác liệt hơn, tiếp tục bám trụ địa bàn
99

10.10 Page 100

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
làm nhiệm vụ chiến đấu trong thị xã Long Khánh. Hướng Nam thị
xã, ngay khi Lữ đoàn 2 dù của ngụy đổ xuống sân bay Long Khánh,
những loạt pháo kích của đội nữ pháo binh Xuân Lộc đã cấp tập nã
vào đội hình địch, diệt nhiều tên.
Liên tiếp từ ngày 9 đến 13/4, trên hướng Nam ngoại vi thị xã, tiểu
đoàn 445, Đại đội 41 và K8 Xuân Lộc chốt giữ khu vực xã Bảo Hòa,
Bảo Toàn, đẩy lùi các đợt phản kích của địch, tiến công ở cầu Gia
Liêu, Bảo Thị, bắt sống 117 tù binh, thu nhiều vũ khí, quân dụng của
địch. Sau đó, ta đặt 1 khẩu cối 82 ly và 1 khẩu 12,7 ly trên đỉnh núi
con Rắn, khống chế địch trong căn cứ Suối Râm.
Sau nhiều lần bị chặn đánh, Lữ đoàn 2 dù ngụy đến được đông
nam cầu Gia Liêu, nhưng bị ta chặn không liên lạc được với Sư 18.
Tại đây, các chiến sĩ Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 209 Sư đoàn 7, bị 2 tiểu
đoàn dù bao vây chặt, nhiều ngày liền chiến sự xảy ra vô cùng ác liệt,
gian khổ, đói khát... nhưng các đồng chí đã kiên cường bám trụ, mỗi
ngày đánh bật hàng chục lượt phản kích của địch, giữ thế chia cắt
giữa Lữ đoàn 2 dù với hậu cứ Sư 18.
Thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt Chiến đoàn 52 Sư 18, trong ngày 13
và 14/4, Trung đoàn 33 diệt gọn 1 tiểu đoàn của Chiến đoàn 52 và
1 chi đoàn xe thiết giáp tại ngã ba Dầu Giây, chiếm Núi Thị. Ngày
14/4, Trung đoàn 4 kết hợp bộ đội, du kích địa phương diệt gọn
hai tiểu đoàn của Chiến đoàn 52, một tiểu đoàn pháo binh, một chi
chi đoàn xe bọc thép, thu 12 khẩu pháo, bắt hàng trăm tù binh, giải
phóng chi khu Kiệm Tân. Chiến đoàn 52 Sư 18 của địch hoàn toàn
bị tan rã, tàn quân tháo chạy về Biên Hòa. Ta giải phóng hoàn toàn
quốc lộ 20, đồng thời cắt đứt quốc lộ 1 từ Trảng Bom, địch ở thị xã
Long Khánh hoàn toàn bị cô lập với Biên Hòa.
Ngày 16/4, Bộ Tư lệnh Quân đoàn III quân đội Sài Gòn vội vã
thành lập Bộ chỉ huy tiền phương đứng chân ở Trảng Bom trực tiếp
tổ chức phản kích lực lượng ta đang bao vây thị xã, nhưng tất cả các
mũi phản kích của chúng đều bị đẩy lui. Sư đoàn 6 cùng với Trung
đoàn độc lập 95b, bộ đội huyện Thống Nhất, du kích xã Hưng Lộc
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xây dựng trận địa dọc lộ 1, đẩy lùi các đợt phản kích của Chiến
đoàn 8 Sư 5 quân đội Sài Gòn và Thiết đoàn 315, bắn cháy hàng
chục xe tăng, diệt 2 tiểu đoàn, thu gần 100 súng các loại, tiếp tục
siết chặt vòng vây ở thị xã.
Ngày 16/4, tự vệ, du kích phối hợp với công nhân nổi dậy giải
phóng Sở cao su Bình Lộc. Ngày 19-4, ta giải phóng ấp Suối Tre.
Ngày 20/4, ta giải phóng Cấp Rang và An Lộc.
10 giờ đêm 20/4/1975, địch rút chạy khỏi thị xã Long Khánh
theo hướng liên tỉnh lộ số 2, qua cua chữ S. Hai chiếc xe GMC
bị cháy. Ta bắt sống trên 100 tù binh. Sau đó một tiếng, 1 đoàn xe
khác lại chạy qua đoạn đường phục kích của ta, bị Tiểu đoàn 445
chặn đánh ở đoạn Sở cao su Quang Minh. Đội hình địch bị ùn lại,
nhiều xe húc vào nhau. Các chiến sĩ Đại đội 41 xung phong ra bắt
sống hàng trăm tù binh, trong đó có Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh
trưởng tỉnh Long Khánh.
1 giờ sáng ngày 21/4/1975, quân ta vào tiếp quản thị xã Long
Khánh. Tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở Xuân Lộc bị đập tan,
cửa ngõ tiến vào Sài Gòn của đại quân ta được mở. Thị xã Long
Khánh hoàn toàn giải phóng, góp phần đưa quân chủ lực của ta tiến
về giải phóng Biên Hòa, Sài Gòn và kết thúc bằng thắng lợi của
Chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975.
Trong chiến dịch Xuân Lộc, ta tiêu diệt 2.056 tên, bắt sống 2.731
tên, tiêu diệt Chiến đoàn 52, đánh thiệt hại nặng Sư 18 và Lữ đoàn
dù số 1, phá hủy 48 xe quân sự và 1.500 súng (có 14 khẩu pháo).
Chiến thắng Xuân Lộc đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương
Thành đồng hạng Ba.
Sau ngày đất nước thống nhất, nhân dân và lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Long Khánh đã được phong tặng danh hiệu tập thể
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 385KT/
CTN do Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký ngày 20/10/1994.
101

11.2 Page 102

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân thị xã Biên Hòa
Biên Hòa(1) là thành phố công nghiệp và là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng
Nai, nằm ở khu vực Đông Nam Bộ, Việt Nam. Thành phố Biên Hòa
là đô thị loại I (từ 1/1/2016), là đầu mối giao thông quan trọng của
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có dòng sông Đồng Nai chảy qua,
cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 30km, cách thành phố Vũng
Tàu 90km. Biên Hòa là thành phố trực thuộc tỉnh có dân số đông
nhất cả nước tương đương với 2 thành phố trực thuộc Trung ương là
Đà Nẵng và Cần Thơ.
Thành phố Biên Hòa nằm ở phía Tây tỉnh Đồng Nai, phía Bắc
giáp huyện Vĩnh Cửu, phía Nam giáp huyện Long Thành, phía Đông
giáp huyện Trảng Bom, phía Tây giáp thị xã Tân Uyên, thị xã Dĩ An
tỉnh Bình Dương và quận 9 - Thành phố Hồ Chí Minh.
Với những di chỉ khảo cổ học đã được phát hiện, khai quật ở Bình
Đa vào năm 1979, Gò Me (phường Thống Nhất vào năm 1982),…
các nhà khảo cổ bước đầu xác định thành phố Biên Hòa đã từng là
điểm quần cư của người Đồng Nai xưa ở vào thời đại đồ đá mới
chuyển sang thời đại đồ đồng cách nay từ 2.500 đến 3.000 năm.
Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục do nhà sử học Lê Quý Đôn viết
vào thế kỷ 18 đã ghi rõ: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai từ cửa biển
(1) Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố Biên Hòa Wikipedia.
102

11.3 Page 103

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào là rừng rậm hàng
ngàn dặm…”. Thế kỷ 16, 17, đã có lưu dân Việt từ Đàng Ngoài đã
vào đây sinh sống.
Năm 1679, Trần Thắng Tài (tức Trần Thượng Xuyên) một lần di
thần nhà Minh (Trung Quốc), sau khi thất bại trong mưu đồ “bài Mãn
phục Minh” đã đưa 3.000 bộ tướng và gia đình theo đường biển xuôi
về phương Nam. Nhóm người hoa này đã được chúa Nguyễn Phúc
Tần cho phép định cư ở xứ Đồng Nai. Họ vào cù lao Phố cùng với
người Việt đã sinh sống ở đây từ trước, chung tay khai phá, xây dựng
nên làng xóm, biến nơi đây thành một phố cảng sầm uất, trên bến
dưới thuyền, tàu bè trong và ngoài nước đến trao đổi hàng hoá, mua
bán tấp nập. Trong gần một nửa thế kỷ, cù lao Phố là một thương
cảng, một đầu mối giao lưu hàng hoá quan trọng bậc nhất ở xứ Đàng
Trong. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức ghi: “...
Phố xá được kiến thiết, mái ngói tường vôi, lầu cao quá đôi tầng dọc
theo bờ sông liên lạc dài 5 dậm, chia và vạch làm 3 đường phố; phố
lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường nhỏ lót gạch
xanh; đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển
và ở sông đến đậu, có những xà lan, ấy là chỗ đại đô hội, những nhà
buôn bán to, duy ở đây là nhiều hơn”.
Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử chưởng cơ Lễ
Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng Trong. Ông
lập bản doanh tại Cù lao Phố và tiến hành việc tổ chức bộ máy hành
chánh, phân định làng, xã, lập sổ đinh,… chính thức đưa xứ Đàng
Trong vào bản đồ nước Đại Việt. Đông đảo người Việt từ Ngũ Quảng
(tức 5 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng
Đức - tức Thừa Thiên Huế), nhiều người có tài, vật lực được kêu gọi
vào vùng đất mới khai khẩn, sinh sống. Đây là đợt di dân có tổ chức
đầu tiên quy mô lớn từ các tỉnh trên vào khai phá và xây dựng cuộc
sống, định cư trên đất Đồng Nai. Xứ Đồng Nai được lập thành phủ
Gia Định gồm hai huyện Tân Bình (nay là Sài Gòn) và huyện Phước
Long (nay là Biên Hòa - Đồng Nai). Về quân sự, Nguyễn Hữu Cảnh
lập hai dinh: Dinh Trấn Biên ở huyện Phước Long và Dinh Phiên
103

11.4 Page 104

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trấn ở huyện Tân Bình. Các chúa Nguyễn đã ban hành chính sách
khẩn hoang rộng rãi, tạo điều kiện để nhân dân từ các nơi vào vùng
đất mới khai phá, góp phần làm vùng đất này càng phát triển.
Năm 1788, Nguyễn Ánh chia đất Gia Định làm 4 trấn gồm: Trấn
Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Dinh. Năm 1808, Trấn Biên đổi
thành trấn Biên Hòa, huyện Phước Long nâng lên thành phủ Phước
Long gồm 4 tổng: Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An.
Thành phố Biên Hoà bấy giờ là một phần của tổng Phước Chánh -
trung tâm của trấn Biên Hòa.
Trước khi bị thực dân Pháp đô hộ, Biên Hòa là trung tâm của toàn
bộ miền Nam với tên gọi Trấn Biên. Năm 1808, dinh Trấn Biên đổi
tên thành Trấn Biên Hòa. Năm 1832, Trấn Biên Hòa được đổi thành
tỉnh Biên Hòa.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, chính quyền nhân dân
tại Biên Hòa được xây dựng từ tỉnh đến cơ sở, đồng loạt thay thế bộ
máy cai trị do thực dân Pháp để lại. Khi ấy các cơ quan lãnh đạo tỉnh
Biên Hòa và quận Châu Thành vẫn đặt tại xã Bình Trước (trung tâm
tỉnh lỵ). Thực dân Pháp chiếm Biên Hòa (25/10/1945), chúng giữ
nguyên tổ chức hành chính, xã Bình Trước gồm có 5 khu, 8 ấp.
Trong kháng chiến chống Pháp, giữa năm 1948, nội ô tỉnh Biên
Hòa là nơi tập trung nhiều cơ quan, đơn vị chỉ huy đầu sỏ cùng rất
nhiều kho tàng của địch, cần bố trí lại địa bàn chiến đấu thích hợp để
phát huy khả năng tác chiến của lực lượng tại chỗ. Tỉnh ủy, Ủy ban
kháng chiến hành chánh tỉnh Biên Hòa chủ trương cho tách khu vực
nội ô tỉnh lỵ, thuộc quận Châu Thành (tức xã Bình Trước và một số
ấp, xã lân cận) để thành lập thị xã Biên Hòa - tương đương cấp huyện,
và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tỉnh. Các xã còn lại thuộc huyện Vĩnh
Cửu. Tháng 5/1951, khi tỉnh Thủ Biên thành lập, thị xã Biên Hòa
được tỉnh giao thêm một số xã thuộc huyện Vĩnh Cửu để làm bàn đạp
đứng chân hoạt động như Tam Hiệp, Hiệp Hòa, Tân Thành… cho
đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (tháng 7/1954).
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, năm 1957, chính quyền
104

11.5 Page 105

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Sài Gòn tổ chức tỉnh Biên Hòa gồm có 4 quận: Châu Thành, Long
Thành, Tân Uyên, Dĩ An, có 11 tổng, gần giống tổ chức trước đó của
thực dân Pháp.
Năm 1963, chính quyền Sài Gòn lập quận Công Thanh (gồm các
xã thuộc quận Châu Thành và Tân Uyên). Ngày 22/3/1963, tổ chức
quận Châu Thành thành quận Đức Tu gồm các xã: Bình Trước, Tam
Hiệp, Bùi Tiếng (Tân Mai), Hiệp Hòa, Tân Vạn, Bửu Long, Tân
Hạnh, Tân Ba, Long Bình và giữ đến tháng 4/1975.
Đối với cách mạng, từ 1954-1975, thị xã Biên Hòa là một đơn vị
chiến trường tương đương huyện. Tháng 9/1965, thị xã Biên Hoà
được Trung ương Cục tổ chức lại thành đơn vị ngang cấp tỉnh lấy
phiên hiệu là U1 (U một) bao gồm địa bàn thị xã Biên Hoà và huyện
Vĩnh Cửu. Đến tháng 10/1967, chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968, U1 được giao thêm huyện Trảng Bom
(nay là huyện Thống Nhất và huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai).
Từ tháng 5/1971 đến tháng 8/1972, thị xã Biên Hòa trực thuộc
phân khu 5 (phân khu Thủ Biên). Tháng 8/1972, Khu ủy miền Đông
được lập lại, các phân khu giải thể để lập lại các tỉnh. Thị xã Biên
Hòa là một đơn vị trực thuộc tỉnh Biên Hòa.
Đến tháng 6/1973, do tính chất quan trọng của vùng đô thị, Trung
ương Cục miền Nam quyết định tách tỉnh Biên Hoà thành hai địa bàn
chiến lược: Biên Hòa đô thị (gồm thị xã Biên Hòa và một số vùng
phụ cận); các huyện còn lại trong tỉnh thuộc Biên Hòa nông thôn.
Cũng từ đó, thị xã Biên Hòa được nâng lên thành thành phố Biên
Hòa cho đến ngày nay.
Tháng 1/1976, thành lập tỉnh Đồng Nai trên cơ sở một phần của
tỉnh Biên Hòa xưa, tỉnh lỵ đặt tại thành phố Biên Hòa (đô thị loại 3),
trực thuộc tỉnh Đồng Nai, gồm 11 phường: An Bình, Hòa Bình, Quang
Vinh, Quyết Thắng, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tân Mai, Tân Tiến, Thanh
Bình, Thống Nhất, Trung Dũng và 9 xã: Bửu Hòa, Bửu Long, Hiệp
Hòa, Hóa An, Long Bình Tân, Tân Hạnh, Tân Phong, Tân Thành,
Tân Vạn. Ngày 23/10/1978, chuyển 2 xã Hố Nai 1 và Hố Nai 2 thuộc
105

11.6 Page 106

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
huyện Thống Nhất về thành phố Biên Hòa quản lý và đổi thành 2
phường, giữ nguyên tên (Hố Nai 1 và Hố Nai 2). Ngày 17/1/1984,
chia phường Hố Nai 2 thành 2 phường: Tân Biên và Tân Hòa; hợp
nhất 2 xã: Bửu Long và Tân Thành thành xã Tân Bửu; chuyển 2 xã
Tân Phong và Tân Vạn thành 2 phường. Ngày 28/12/1984, chuyển
xã Bửu Hòa thành phường Bửu Hòa. Ngày 8/6/1988, chia phường
Tam Hòa thành 2 phường: Tam Hòa và Bình Đa. Ngày 10/5/1993,
thành phố Biên Hòa được công nhận là đô thị loại 2. Ngày 29/8/1994,
chuyển xã Tân Bửu thành phường Bửu Long; chuyển xã Long Bình
Tân thành phường Long Bình Tân; chia phường Tam Hòa thành 2
phường: Tam Hòa và Long Bình; thành lập phường Tân Hiệp trên cơ
sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của các phường Tam Hòa,
Tam Hiệp và Tân Tiến; chia phường Tân Phong thành 2 phường:
Tân Phong và Trảng Dài. Năm 1996, đổi tên phường Hố Nai 1 thành
phường Hố Nai.
Ngày 5/2/2010, thành phố Biên Hòa mở rộng địa giới hành chính
và sáp nhập 4 xã An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Tam Phước từ
huyện Long Thành. Ngày 30/12/2015, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 2488/QĐ-TTg công nhận Biên Hòa là đô thị loại
I trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Như vậy tính đến thời điểm này, Biên
Hòa là một trong 3 đô thị loại I ở khu vực Đông Nam Bộ, cùng với
thành phố Vũng Tàu và Thủ Dầu Một.
Hiện nay, thành phố Biên Hòa có 30 đơn vị hành chính trực thuộc,
trong đó gồm có 23 phường: An Bình, Bình Đa, Bửu Hòa, Bửu Long,
Hòa Bình, Hố Nai, Long Bình, Long Bình Tân, Quang Vinh, Quyết
Thắng, Tam Hòa, Tam Hiệp, Tân Biên, Tân Hòa, Tân Hiệp, Tân Mai,
Tân Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Thanh Bình, Thống Nhất, Trảng Dài,
Trung Dũng và 7 xã: An Hòa, Hóa An, Hiệp Hòa, Long Hưng, Phước
Tân, Tam Phước, Tân Hạnh.
Theo Nghị quyết số 153/NQ-HĐND ngày 14/1/2015, của Hội đồng
Nhân dân tỉnh Đồng Nai, đến năm 2020, thành lập thêm 4 phường
thuộc thành phố Biên Hoà, gồm 4 phường: Long Tân (tách ra từ
106

11.7 Page 107

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phường Long Bình), Tân Long (sáp nhập một phần các phường Long
Bình Tân, An Bình và Bình Đa), Bàu Hang (tách ra từ phường Tân
Phong) và Hố Cạn (tách ra từ phường Trảng Dài). Ngày 24/8/2018,
Thường trực HĐND thành phố Biên Hoà tổ chức kỳ họp thứ 9 để
thông qua các tờ trình về “Đề án thành lập thêm các phường trên địa
bàn thành phố đến năm 2020”. Theo đó, sẽ thành lập 6 phường, trên
cơ sở giữ nguyên hiện trạng, diện tích và dân số của 6 xã: An Hòa,
Hiệp Hòa, Hóa An, Phước Tân, Tam Phước và Tân Hạnh. Đề ánh của
thành phố Biên Hòa đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua. Vậy
thành phố Biên Hòa trong tương lai có tất cả 34 đơn vị hành chính
gồm 33 phường, 1 xã.
Thời điểm 2017, dân số thành phố Biên Hòa có 1.250.000 người,
nguồn gốc từ tứ xứ; trong đó, dân tộc thiểu số có 2.648 hộ với 11.946
người chiếm tỷ lệ 1.09% gồm 19 dân tộc: Hoa, Tày, Khmer, Dao,
Thái, Mường, Nùng, Chơ-ro, Giarai, H’Mông, Mạ, Thổ, Sán Chay,
Sán Rìu, S’Tiêng, Chăm, Êđê, Giáy, Cơh.
Đặc điểm dân cư thành phố Biên Hòa đa dạng là do đông đảo
người dân từ mọi miền của đất nước di cư đến đây sinh sống lao
động và làm việc. Về thành phần tôn giáo, bao gồm Phật giáo, Công
giáo, Tin Lành, Phật giáo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, Tịnh độ cư sĩ Phật
hội Việt Nam, Hồi giáo... Phần đông tín đồ Công giáo sống tập trung
đông ở các khu vực Đông và Đông Bắc thành phố tạo nên nét đặc
trưng tôn giáo nơi đây. Biên Hòa có tiềm năng to lớn về phát triển
kinh tế với nền đất lý tưởng, khí hậu thuận lợi cho việc xây dựng phát
triển công nghiệp, có nguồn tài nguyên khoáng sản với trữ lượng
khai thác đáng kể, nhất là tài nguyên khoáng sản về vật liệu xây
dựng, thuận lợi về nguồn cung cấp điện, có nguồn nước dồi dào đủ
cung cấp nhu cầu sản xuất và sinh hoạt (sông Đồng Nai), ngoài ra
nguồn nhân lực với trình độ cao đã tăng cường nguồn lực con người
cho yêu cầu phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Về cơ cấu kinh tế, năm 2017 công nghiệp - xây dựng chiếm
64,08%; dịch vụ chiếm 35,84% và nông lâm nghiệp chiếm 0,08%.
107

11.8 Page 108

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tính đến năm 2018, GDP/đầu người khoảng 4.500 USD. Thành phố
Biên Hòa cũng là trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước.
Biên Hòa có thế mạnh về công nghiệp và cũng là nơi đi tiên phong
trong lĩnh vực công nghiệp đầu tiên của cả nước với việc hình thành
sớm Khu kỹ nghệ Biên Hòa thời chế độ Sài Gòn, (năm 1963)(2), sau
giải phòng miền Nam 1975 phát triển thành Khu Công nghiệp Biên
Hòa 1.
Trên địa bàn thành phố Biên Hòa hiện có 7 khu công nghiệp: Khu
công nghiệp Biên Hòa 1/Bien Hoa I Industrial Zone 335 hécta, Khu
công nghiệp Biên Hòa 2/Bien Hoa II Industrial Zone: 365 hécta,
Khu công nghiệp Amata/Amata industrial park 674 hécta, Khu
công nghiệp Loteco/The Long Binh Industrial Zone Development:
100 hécta, Khu công nghiệp Agtex Long Bình/Agtex Long Binh
Industrial Park - AGTEX 28: 43 hécta, Khu công nghiệp Tam
Phước/Tam Phuoc Industrial Park: 323 hécta. Bên cạnh ngành công
nghiệp hiện đại, hiện thành phố đã quy hoạch và đang thực hiện
nhiều cụm công nghiệp truyền thống, thủ công mĩ nghệ như: Cụm
công nghiệp Gốm sứ Tân Hạnh: 32 hécta, Cụm công nghiệp Dốc 47
97 hécta, Cụm công nghiệp chế biến gỗ Tân Hòa: 39 hécta, Vùng
thủ công mỹ nghệ đá Bửu Long, Vùng sản xuất gốm Tân Vạn, Bửu
Long, Hiệp Hòa, Vùng sản xuất đồ gỗ và trang trí nội thất gồm Tân
Hòa, Tân Biên.
Dịch vụ tài chính ngân hàng cũng là thế mạnh do nhu cầu của phát
triển công nghiệp. Hằng năm tỷ trọng dịch vụ tài chính được nâng
dần và thay thế cho công nghiệp, bước khởi đầu cho một thành phố
phát triển của khu vực. Biên Hòa có hơn 39 hệ thống ngân hàng của
các ngân hàng trong nước, đủ dạng loại, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, với
hơn 51 chi nhánh (CN), 92 phòng giao dịch (PGD), 27 quỹ tiết kiệm
(QTK), trên 300 máy ATM.
(2) Ngày 21/5/1963, chính quyền Sài Gón ký sắc lệnh 49-KT thành lập Khu kỹ
nghệ Biên Hòa do Công ty quốc gia khuyếch trương các khu kỹ nghệ (Sonadezi)
quy hoạch.
108

11.9 Page 109

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành thương mại cũng là điểm sáng trong phát triển kinh tế,
với hệ thống Trung tâm thương mại, siêu thị lớn của Big C, Mega
Market, Co.op Mart, Lotte, Vincom Plaza... cùng một số hệ thống
siêu thị điện máy, nội thất lớn, cửa hàng điện tử, điện thoại máy tính
có uy tín cũng có mặt tại đây. Ngoài ra, các chợ truyền thống cũng
là nét đặc trưng nơi đây, nhiều chợ khá nổi tiếng như chợ Biên Hòa,
chợ Tân Hiệp, chợ Long Bình...
Nền nông nghiệp hiện đại theo sự phát triển đô thị, với việc cung
cấp rau xanh, sạch quy mô lớn cho thị trường thành phố Biên Hòa và
lân cận. Hệ thống rừng phòng hộ tại thành phố 1 triệu dân này đang
được chú trọng phát triển và bảo vệ vì đây là “lá phổi xanh” nằm rải
rác ở phường Tân Biên và xã Phước Tân. Về thủy sản, thành phố
cũng còn một vài phường xã ven sông có bè cá.
Biên Hòa là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước và là
cửa ngõ quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Thực tế,
thành phố Biên Hòa đang là đầu mối giao thông rất quan trọng của
cả nước, thuận tiện về giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng
không, đường thủy, có sân bay quân sự quan trọng (Sân bay Biên
Hòa), tương lai gần tiếp cận Sân bay Quốc tế Long Thành. Ga đường
sắt Biên Hòa là nhà ga truyền thống, điểm nhấn nối tuyến đường sắt
thống nhất Bắc - Nam. Trong quy hoạch vùng đô thị thành phố Hồ
Chí Minh, Chính phủ chú trọng đến sự phát triển, kết nối đô thị Biên
Hòa với các đô thị trong vùng, trọng điểm là kết nối với thành phố
Hồ Chí Minh. Nhiều dự án giao thông quan trọng đang dần được
thực hiện.
Do là trung tâm của tỉnh và gần Thành phố Hồ Chí Minh, nên các
trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp của Đồng Nai
hầu như đều nằm ở Biên Hòa (Đại học Đồng Nai, Đại học Lạc Hồng,
Đại học Công nghệ Đồng Nai, Đại học Nguyễn Huệ; Cao đẳng Kỹ
thuật Đồng Nai, Cao đẳng Y tế Đồng Nai, Cao đẳng Mỹ thuật Trang
trí Đồng Nai, Cao đẳng Công nghệ và quản trị Sonadezi, Cao đẳng
nghề Số 8...).
109

11.10 Page 110

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Thành phố Biên Hòa có rất nhiều trường phổ thông, dân lập các
cấp chất lượng cao, đầu ngành của tỉnh (Trường THPT chuyên Lương
Thế Vinh, Trường THPT Ngô Quyền, Trường THPT dân lập Lê Quý
Đôn, Trường Tiểu học Nguyễn Du, Trường THCS Trần Hưng Đạo,
Trưởng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm...).
Thành phố có 30 trạm y tế của 30 phường xã được xây dựng và
trang bị khá hiện đại phục vụ nhân dân tại các phường xã trong thành
phố và Trung tâm y tế thành phố Biên Hòa với hơn 800 giường bệnh.
Bên cạnh đó, một số bệnh viện lớn của nhà nước đã hình thành và phát
triển như: Bệnh viện đa khoa Đồng Nai 1400 giường, Bệnh viện đa
khoa Thống Nhất 1000 giường, Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai 850
giường, Bệnh viện Đa khoa Biên Hòa 100 giường, Bệnh viện Y dược
cổ truyền Đồng Nai 150 giường, Bệnh viện Da liễu Đồng Nai 100
giường, Bệnh viện phổi Đồng Nai 150 giường, Bệnh viện Đa khoa 7B
600 giường, Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 1.200 giường
Ngoài ra, có nhiều bệnh viện ngoài công lập đã hình thành và
đang ngày càng phát triển. Trung tâm phòng dịch và hệ thống phòng
bệnh trên địa bàn thành phố cũng được đầu tư đáp ứng yêu cầu phòng
bệnh trên địa bàn tỉnh.
Thành phố Biên Hòa có nhiều di tích văn hóa lịch sử cấp quốc
gia, cấp tỉnh: Chùa Ông, Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, Chùa Đại Giác,
Chùa Long Thiền, Đình Bình Quan, Đình Bình Quới, Chợ Biên Hòa,
Đình Tân Lân, Chùa Bửu Phong, khu Danh thắng Bửu Long, Thành
kèn Biên Hòa, Đền Hùng Vương phường Bình Đa...
Với thực tế và tiềm năng, thành phố Biên Hòa đang được định
hướng phát triển là đô thị trung tâm của các đô thị tương lai trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai đồng thời là đô thị vệ tinh của Thành phố
Hồ Chí Minh.
Thành phố Biên Hòa đã và đang phát triển trên cơ sở truyền thống
đấu tranh cách mạng trong kháng chiến chống quân xâm lược, cùng
cả nước giành lấy độc lập, tự do, hoàn bình, thống nhất cho dân tộc.
Nhân dân Biên Hòa có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm.
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trước khi có cách mạng, khi thực dân Pháp chiếm Biên Hòa, triều
đình Nguyễn đầu hàng nhân dân Biên Hòa hưởng ứng cờ khởi nghĩa
của Trương Định. Đầu thế kỷ XX, xuất hiện nhiều phong trào hội
kín chống Pháp, trong đó có hội kín do Đoàn Văn Cự chỉ huy, kiên
cường đánh pháp, cùng 16 nghĩa sĩ hy sinh 1905; hội kín Trại Lâm
Trung của những người yêu nước, năm 1916, vũ trang, giải phóng tù
nhân, 9 người bị xử tử ở Dốc Sỏi... Phong trào của sĩ phu yêu nước
khởi nghĩa vũ trang đến đầu thế kỷ XX thất bại do thiếu chính đảng
lãnh đạo. Phong trào đấu tranh của công nhân bắt đầu.
Phong trào công nhân đấu tranh ở Biên Hòa bắt đầu từ đầu thế kỷ
XX. Nhân tố cách mạng ở Biên Hòa khởi động từ khi xuất hiện bộ
phận công nhân các tuyến đường bộ, đường sắt, bắc qua các sông
rạch trên tuyến sông Đồng Nai, Nhà máy cưa xẻ gỗ do Blondel xây
dựng ở làng Tân Mai năm 1898, Công ty Biên Hòa kỹ nghệ lâm sản
(BIF) 1907… Phong trào công nhân Biên Hòa nhen được ngọn lửa
đấu tranh chống áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân nhưng do tự
phát nên chưa thành công. Đến khi có lý tưởng cách mạng do Đảng
Cộng sản khởi xướng, truyền thống đấu tranh cả nước nói chung, ở
Biên Hòa nói riêng mới có sức mạnh giải phóng dân tộc, giành độc
lập. Từ năm 1929, một số hạt nhân cách mạng (các đồng chí Ngô Gia
Tự, Châu Văn Liêm, Nguyễn Xuân Cừ, Nguyễn Đức Văn, Trần Thị
Đầy, Lê Quang Sung)… bí mật về hoạt động, tổ chức mạng lưới cơ
sở Đảng ở Biên Hoà. Ngày 28/10/1929, Chi bộ Đông Dương Cộng
sản Đảng được thành lập ở đồn điền cao su Phú Riềng (thuộc tỉnh
Biên Hòa) tác động trực tiếp đến trung tâm Biên Hòa. Ở thị xã Biên
Hòa, trong cao trào cách mạng chung của cả nước, nhiều thanh niên
trí thức tiến bộ đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng mới, ánh sáng cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Một số sớm giác ngộ đã đứng vào
hàng ngũ của Đảng, làm người chiến sĩ tiên phong đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc như các đồng chí: Nguyễn Văn
Nghĩa (tự Xược), Lưu Văn Viết (Tư Chà), Phạm Văn Khoai, Quách
Tỷ, Quách Sanh, Hồ Văn Đại, Phạm Văn Thuận.
Nhiều cơ sở cách mạng do Đảng lãnh đạo dần được xây dựng.
111

12.2 Page 112

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đặc biệt, ở 2 cơ sở công nghiệp là Nhà máy cưa BIF và Đề pô xe lửa
Dĩ An, mạng lưới cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh cách mạng của
công nhân phát triển mạnh, các đồng chí Châu Văn Liêm, Phạm Hữu
Lầu, Nguyễn Trọng Nhã được Đảng bố trí vào làm công nhân ở đây
để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, lãnh đạo công nhân đấu tranh. Tại
nhà máy cưa BIF, tổ chức Công hội đỏ được thành lập, kết nạp được
hàng chục công nhân cốt cán. Các đồng chí Nguyễn Trọng Nhã,
Nguyễn Văn Hợp (quê Nghệ Tĩnh, thư ký hãng cưa)… bằng nhiều
hình thức đã bí mật tuyên truyền giác ngộ cho anh em công nhân nhà
máy cũng như một số thanh niên lao động, nông dân ở các xóm ấp
lân cận như Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị…
Nhiều hoạt động cách mạng do cơ sở Đảng lãnh đạo thực hiện:
Rải truyền đơn ở Tân Mai đêm 28/4/1930; đình công của toàn bộ
công nhân hãng cưa BIF và Đề pô xe lửa Dĩ An nhân ngày Quốc tế
Lao động 1/5/1930, tiếp tục tổ chức một số cuộc đình công rải truyền
đơn ở nhà máy cưa BIF từ tháng 5 đến tháng 9/1930, đêm 2/7/1930
rải truyền đơn và treo cờ đỏ búa liềm trên tháp nước BIF để chào
mừng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam… Năm 1937, Tỉnh ủy
lâm thời Biên Hòa thành lập.
Từ năm 1935, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở Bình
Phước - Tân Triều khởi đầu vai trò lãnh đạo của Đảng ở Biên Hòa.
Năm 1937, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa thành lập. Từ đó, lòng dân
Biên Hòa giác ngộ cách mạng, theo Đảng, một lòng đấu tranh dưới
ngọn cở của Đảng. Ngày 27/8/1945, dưới sự lãnh đạo của tổ chức
Đảng, nhân dân Biên Hòa đã đứng lên giành chính quyền thành công.
Trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, trải qua hai thời kỳ
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân thành phố Biên Hòa
tuy sống trong vùng địch kiểm soát, bị kìm kẹp nặng, vẫn một lòng
hướng về cách mạng. Từ trong nội thành, nhân dân thành phố đã vận
động quyên góp nhiều lương thực, thuốc men, hàng hóa cần thiết để
chuyển ra các căn cứ kháng chiến Bình Đa, Hố Cạn, chiến khu Đ
cho lực lượng kháng chiến. Bên trong nội ô, nhiều cơ sở cách mạng
112

12.3 Page 113

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đã theo dõi nắm tình hình địch, phục vụ cho lực lượng vũ trang giải
phóng đánh vào các cơ quan chỉ huy, căn cứ, kho tàng quân sự của
địch. Trận tiến công tỉnh lỵ Biên Hòa đêm 1 rạng sáng 2/1/1946, là
trận đầu tiên ta tập kích vào một tỉnh lỵ ở miền Đông Nam Bộ. Trận
La Ngà (1/3/1948), cơ sở quân báo trong thị xã cung cấp nhiều tin
tức về địch, góp phần làm nên thắng lợi.
Trong thời kỳ chống Mỹ, quân dân thành phố Biên Hoà đã làm
nên những dấu son trong lịch sử với những sự kiện tiêu biểu: Cuộc
nổi dậy phá khám Tân Hiệp (2/12/1956); trận diệt Mỹ đầu tiên ở
Nhà Xanh (7/7/1959); trận pháo kích đầu tiên vào sân bay quân sự
của địch ở Biên Hòa (31/10.1964); xây dựng “vành đai đánh Mỹ”
để bám trụ và liên tục tiến công các cơ quan chỉ huy, căn cứ, kho
tàng quân sự như: Sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình (từ 1965-
1975); thực hiện hai cuộc tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968,
Xuân Kỷ Dậu 1969, và cuối cùng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử giải phóng thành phố, giải phóng miền Nam, cùng cả nước
giành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước.
Thành tích của Đảng bộ và quân dân Biên Hòa đã được Nhà nước
ghi nhận, tặng thưởng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân theo Quyết định số: 368/KT-CTN ngày 22/12/1994.
113

12.4 Page 114

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Hiệp Hòa
Xã Hiệp Hòa(1) thuộc thành phố Biên Hòa còn gọi là Cù lao Phố,
bốn bề sông nước vây quanh, cách trụ sở UBND thành phố Biên Hòa
khoảng 2km theo đường chim bay.
Xã Hiệp Hòa rộng khoảng 6,6km2 có tuyến đường sắt Bắc - Nam
và băng qua mỏm phía Tây cù lao bởi 2 cầu Rạch Cát và cầu Ghềnh
xây năm 1903 - nối đôi bờ sông Đồng Nai.
Năm 1859, Pháp đánh hạ thành Gia Ðịnh. Năm 1861, giặc tung
bộ binh và thủy quân đánh lên Biên Hòa. Cù lao Phố nằm trên đường
tiến quân của giặc nên trở thành điểm tựa chống giặc, cản trở làm
chậm bước tiến quân của chúng. Sau nhiều ngày quyết chiến, liên
quân Pháp - Tây Ban Nha mới chiếm được thành Biên Hòa. Năm
1879, Cù lao Phố từ 13 thôn được gom lại thành 3 làng: Nhứt Hòa,
Nhị Hòa và Tam Hòa. Rồi đến năm 1928, 3 làng trên lại sáp nhập lại
thành 1 làng có tên là Hiệp Hòa.
Trong 2 thời kỳ kháng chiến, một số người ở Hiệp Hòa đi thoát
ly kháng chiến, một số tạm lánh đi nơi khác, nhưng cũng có nhiều
người nơi khác đổi vùng đến hoạt động hoặc tránh khói lửa chiến
tranh đến đây làm ăn sinh sống. Tỷ lệ gia tăng cơ giới ở đây vào loại
cao so nhiều địa phương khác.
(1) Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai, Lịch sử và văn hóa Cù lao Phố, Nhà xuất bản Đồng
Nai, 1997; Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa, Lịch sử Đảng bộ thành phố
Biên Hòa, Nhà xuất bản Đồng Nai, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Nai, 1999.
114

12.5 Page 115

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Dưới ách đô hô của thực dân - phong kiến, cũng như bao người
dân các địa phương khác, người dân Hiệp Hòa phải chịu nỗi áp bức,
bóc lột khi phải đóng tiền thuế đinh và sưu dịch hà khắc. Mùa khô
năm 1941 do bị ức hiếp, ông Ray rình chém Hương giáo Việt lúc
sáng sớm ở Bình Tự, khi hắn đi xe đạp ngang qua.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngọn lửa cách mạng bùng
lên mạnh mẽ. Tại xã Hiệp Hòa, phong trào thanh niên nam nữ tham
gia dân quân du kích diễn ra sôi nổi, nhất là tại các ấp Bình Hòa,
Bình Quới, Bình Xương, Bình Kích. Mỗi ấp đều xây dựng được một
tiểu đội dân quân tự vệ vừa tập luyện quân sự, vừa tuần tra bảo vệ
xóm làng, vừa là lực lượng phát động các phong trào Tiêu thổ kháng
chiến, tuần lễ vàng, tuần lễ bạc, phong trào xóa mù chữ, bình dân
học vụ… Suốt đêm 24/8/1945, xã Hiệp Hòa do lực lượng cách mạng
làm chủ.
Những ngày cuối tháng 10/1945, mấy ngày trước khi giặc Pháp lên
Biên Hòa, Ủy ban Việt Minh quận rút về ấp Long Quới, xã Hiệp Hòa.
Sáng 25/10/1945, thực dân Pháp theo sau đoàn xe cơ giới của
quân đồng minh Anh - Ấn, theo đường quốc lộ 1 vượt cầu Ghềnh,
cầu Rạch Cát đánh chiếm thị xã Biên Hoà. Đội tự vệ xã Hiệp Hòa
phục kích gần đường ray (quãng chùa Đại Giác) nổ súng vào đoàn
xe thiết giáp đang tiến qua cầu Ghềnh. Địch dùng đại liên gắn trên xe
thiết giáp bắn trả, buộc tự vệ phải rút lui. Thực dân Pháp chiếm thị
xã Biên Hòa trong không khí vắng lặng, phần đông nhân dân tản cư
ra ngoại ô để “chạy giặc”.
Cuối tháng 12/1945, Khu bộ khu 7 quyết định tổ chức trận tập
kích vào tỉnh lỵ Biên Hòa. Dân quân tự vệ xã Hiệp Hòa phối hợp làm
nhiệm vụ giao liên, dẫn đường cho bộ đội tiến vào thị xã.
Ngày 25/1/1946 (nhằm ngày 23 tháng Chạp năm Ất Dậu), thực
dân Pháp mở cuộc càn vào cù lao Hiệp Hòa. Tên đội Thịnh ở ấp
Thành Hưng, làm tay sai từ ngày đầu Pháp trở lại) dẫn giặc Pháp
luồn vào từng ấp xóm, bắt đi gần 100 đàn ông trong xã đưa về giam
giữ ở khám đường Biên Hòa. Những người bị tình nghi Việt Minh
115

12.6 Page 116

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đều bị chúng đốt nhà. Chi bộ xã, Ủy ban và du kích xã Hiệp Hòa phải
vượt sông Đồng Nai về đứng chân ở Bình Đa, An Hảo, Bến đò Kho
(xã Tam Hiệp).
Ngày 19/12/1946, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị Toàn quốc kháng
chiến, nhân dân xã Hiệp Hòa được huy động phá đường quốc lộ.
Công tác phá hoại diễn ra hết sức quyết liệt: Đêm ta phá, ngày địch
sửa, ta lại phá… Vừa phá, vừa phải núp pháo địch từ bót Cây Đào,
nhà máy cưa BIF bắn xuống. Không ít cán bộ, nhân dân đã hy sinh
trên mặt trận phá hoại này. Cơ sở mật bên trong luôn tìm cách và tạo
thời cơ để lực lượng bên ngoài vào diệt địch.
Cuối năm 1947, xã Hiệp Hòa xây dựng được một tiểu đội du kích
thoát ly và từ một tiểu đội đến một trung đội dân quân tự vệ làm
nhiệm vụ diệt tề, trừ gian, bảo vệ nhân dân, trinh sát phối hợp các lực
lượng vũ trang tỉnh quận, biệt động… đánh địch. Du kích xã cũng
là nòng cốt trong phong trào phá hoại đường sá, cầu cống của địch
ở địa phương.
Tháng 7/1948, quận Châu Thành được đổi tên thành huyện Vĩnh
Cửu. Xã Hiệp Hòa lúc này thuộc huyện Vĩnh Cửu.
Từ cuối năm 1948, đầu năm 1949, tại xã Hiệp Hòa, bà Năm Hơn
- cơ sở của cách mạng, có em rể là đội Điển coi một trung đội Treize
deux ở gần trạm bơm máy cưa đã được tuyên truyền giáo dục. Mỗi
lần dẫn lính đi ruồng bố ở cù lao, anh Điển đều thông báo cho cơ
sở ta biết trước. Bọn lính càn, bố bắt dân cù lao, anh đều thả ra. Sau
này, do có kẻ xấu chỉ điểm, anh Điển bị địch điều về Bến Tre. Tại
bót Thành Hưng, Chi bộ Hiệp Hòa xây dựng được 2 nội tuyến là anh
Hai Lô và Ba Chắc.
Năm 1950, không triệt phá được chiến khu Bình Đa, địch chuyển
sang đánh phá ác liệt các vùng ven thị xã, trong đó có Hiệp Hòa
khiến bộ máy kháng chiến của xã phải phân tán, ly hương không bám
lại được trong dân.
Tháng 5/1951, thành lập tỉnh Thủ Biên. Xã Hiệp Hòa lúc này
thuộc thị xã Biên Hòa.
116

12.7 Page 117

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngày 6/3/1953, Hội nghị Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức tại chiến khu
Đ có nêu chủ trương vũ trang tuyên truyền khôi phục cơ sở ở Hiệp
Hòa, nối thông liên lạc với các xã hữu ngạn sông Đồng Nai của Đoàn
3.
Đêm 19/5/1953, tuy địch phòng thủ kiểm soát chặt các đường ra
vào thị xã, 7 chiến sĩ biệt động từ Bình Đa qua sông Đồng Nai về ém
quân ở Hiệp Hòa (vườn chùa Đại Phước). Cơ sở mật ấp Lân Thị đã
dẫn đường để đội biệt động vượt rào thép gai, đặt mìn FT vào các
bồn xăng. Do kỹ thuật mìn không nổ, trời lại gần sáng, 7 chiến sĩ biệt
động đã hoá trang lính quân đội Sài Gòn đi tuần về, bất ngờ nổ súng
diệt tên lính gác cổng, mở cửa cho tổ xung kích dùng bộc phá đánh
thẳng vào kho xăng. 2 triệu lít xăng của địch bị đốt cháy.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngày
20/7/1954, thực dân Pháp phải chấp nhận ký Hiệp định Genève kết
thúc chiến tranh, lập lại hoà bình trên toàn cõi Đông Dương, tôn
trọng độc lập và chủ quyền của Việt Nam.
Năm 1954, xã Hiệp Hòa tổ chức được chi bộ Đảng từ 10 đến 20
đảng viên, có mạng lưới cơ sở rộng khắp các ấp, xây dựng được
nhiều lõm chính trị “thanh khiết”, là địa bàn bám trụ hoạt động của
các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Thị ủy và Huyện ủy Vĩnh Cửu trong
nhiều năm liền. Thực hiện chủ trương của Đảng, hầu hết cán bộ,
đảng viên đều bám cơ sở sinh sống hợp pháp trong dân. Các tổ chức
đoàn thể trong kháng chiến chống Pháp trước đây đều giải thể, chỉ
còn lại tổ chức bí mật là Đoàn Thanh niên Lao động (gọi tắt là Đoàn
Thanh lao) vẫn duy trì và phát triển. Các tổ chức biến tướng của quần
chúng như: các hội ái hữu, các nghiệp đoàn, hội cày, hội cấy, hội nhà
vàng, hội đá banh, hội chùa, hội miễu… được thành lập, hoạt động
công khai nhằm tập hợp và giáo dục quần chúng, phát triển thực lực
cách mạng, thay cho các đoàn thể trước đây.
Tết Ất Mùi năm 1955, Tết hòa bình đầu tiên, nhiều hình thức vui
chơi như múa lân, đua thuyền, lễ đình, lễ miễu được tổ chức khắp
các xã, ấp. Đặc biệt cuộc diễu hành rước cộ đèn mừng Tết hoà bình
117

12.8 Page 118

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
của đồng bào Cù lao Phố thực sự trở thành một cuộc biểu dương lực
lượng to lớn, thu hút hàng ngàn quần chúng nhân dân trong xã và các
ấp lân cận tham gia. Sự kiện này tác động mạnh mẽ tư tưởng, tình
cảm của bà con, khơi gợi tinh thần yêu cầu và lòng tin tưởng vào
thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Một bước trong âm mưu phá hoại Hiệp định Genève, ngày
4/3/1956, Mỹ và chế độ Sài Gòn đơn phương tổ chức bầu cử quốc
hội bù nhìn. Tại xã Hiệp Hòa, nhân dân đấu tranh quyết liệt, bằng
những lời lẽ đanh thép, các má, các chị đã chất vấn, vạch mặt chính
quyền Sài Gòn tay sai, đòi địch phải tổ chức hiệp thương tổng tuyển
cử giữa hai miền.
Cuối năm 1956, Mỹ - Diệm tập trung lực lượng đánh phá cách
mạng, ban hành quốc sách “tố Cộng, diệt Cộng” trên toàn miền Nam.
Xã Hiệp Hòa là khu vực bám trụ, nơi đặt các cơ quan đầu não cách
mạng, đồng chí lãnh đạo của Tỉnh ủy, Thị ủy Biên Hòa. Dù địch
khủng bố hết sức ác liệt nhưng các gia đình cơ sở ở ấp Đá Hàn, xã
Hiệp Hòa như nhà anh Sơn, chị Bảy Lớn, Bảy Nhỏ, chị Hai… vẫn
đào hầm bí mật che giấu, nuôi dưỡng cán bộ bám trụ hoạt động.
Những lõm căn cứ giữa lòng nhân dân ở Hiệp Hòa vẫn luôn tồn tại,
biểu hiện mối gắn bó keo sơn, nghĩa tình của quần chúng nhân dân
đối với Đảng, với cách mạng.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện chủ trương điều lắng do công
tác chuẩn bị có phần sơ hở, thiếu sót, nên không ít cán bộ, đảng viên
bị gián điệp, chỉ điểm phát hiện bắt bớ, chém giết, tù đày. Đầu năm
1955, các đồng chí ở chi bộ xã Hiệp Hòa tổ chức diệt 2 tên gián điệp
của ty công an Biên Hòa đưa về xã để theo dõi tình hình, truy lùng
cán bộ đảng viên.
Sau chiến dịch Trương Tấn Bửu từ ngày 24/4/1957 đến ngày
20/11/1958, địch mở chiến dịch Nguyễn Trãi tiếp tục bắn giết, bắt
bớ, giam cầm hàng ngàn cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước.
Tuy vậy, hàng chục gia đình ở xã Hiệp Hòa vẫn là cơ sở kiên trung
của Đảng, là địa bàn bám trụ hoạt động của các đồng chí trong Tỉnh
118

12.9 Page 119

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ủy, Thị ủy Biên Hòa và Huyện ủy Vĩnh Cửu. Hàng trăm người má,
người chị ngày đêm tận tụy với công tác cách mạng, đấu tranh gian
khổ với kẻ thù để bảo vệ, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, những người
con ruột thịt của mình. Đặc biệt là các thiếu niên như: Tăng Kim
Phận, Nguyễn Thị Phụng, Lê Văn Lộc (Tám Quang) và hàng chục
thiếu niên khác ở xã Hiệp Hòa đã góp một phần không nhỏ công tác
nuôi giấu cán bộ, tiếp tế, giao liên. Các vị sư sãi ở chùa Đại Giác đã
giúp đỡ cán bộ xây hầm bí mật ngay trong khu lăng mộ của chùa để
bám trụ hoạt động. Những tấm lòng son sắt kiên trung đó của nhân
dân thị xã Biên Hòa đã giúp cán bộ, đảng viên giữ vững ý chí cách
mạng, vượt quan bao thử thách hiểm nguy, tiếp tục lãnh đạo nhân
dân đấu tranh quyết liệt với kẻ thù.
Khoảng thời gian 1957-1958, thực lực cách mạng trong toàn tỉnh
bị tổn thất nặng nề. Trong tình hình khó khăn phức tạp như vậy, việc
ổn định tư tưởng, tạo dựng lại niềm tin trong quần chúng nhân dân là
một vấn đề sống còn của cách mạng. Với quyết tâm cách mạng, tin
tưởng tấm lòng sắt son của dân đối với Đảng, các đồng chí đã vượt
qua những cam go, thử thách, từng bước gầy dựng lại cơ sở, khôi
phục phong trào. Đồng chí Nguyễn Đông Châu (Ba Cù) từ xã Hiệp
Hòa bị địch đánh trái phải chạy qua Tân Vạn và sau đó đào hầm bí
mật bám trụ ở khu vực Bàu Sấu, xã Hóa An. Hằng đêm bất chấp địch
phục kích ruồng bố, đồng chí vẫn tìm mọi cách luồn lách đến những
gia đình cơ sở để móc nối trở lại, kiên trì thuyết phục, giáo dục bà
con. Trước hành động kiên trung của đồng chí, quần chúng cơ sở đã
lấy lại được niềm tin và tiếp tục nhận công tác cách mạng, nuôi giấu
cán bộ hoạt động trong một thời gian dài.
Tháng 9/1960, tỉnh Thủ Biên được thành lập, xã Hiệp Hòa chuyển
giao về thị xã Biên Hòa.
Tại Biên Hòa từ tháng 1/1962, Mỹ và chế độ Sài Gòn bắt đầu tiến
hành triển khai thí điểm kế hoạch “bình định” lập “ấp chiến lược”.
Tháng 5/1962, địch thực hiện đồng loạt trên địa bàn tỉnh, trong đó
lấy xã Hiệp Hòa làm thí điểm thực hiện “quốc sách ấp chiến lược”,
119

12.10 Page 120

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dự định biến xã này thành “xã kiểu mẫu”. Xã Hiệp Hòa lúc này nằm
giữa vành đai dày đặc đồn bót lớn nhỏ của địch như: trại binh Trần
Quốc Toản, tỉnh đoàn bảo an, ty cảnh sát Biên Hòa… ngay giữa lòng
bót Thành Hưng luôn có một trung đội lính địch chốt đóng. Chúng
bỏ tiền kéo điện về, đưa các chuyên viên chăn nuôi và trồng trọt
xuống, đầu tư vốn, giống, phân bón, máy móc… để phát triển nông
nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân hòng mua chuộc lôi kéo bà con
theo chúng.
Để thực hiện kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược, bọn tề xã quy
định mỗi người dân phải đào một khúc hào dài 2m, gia đình nào cũng
phải nộp chông tre, cọc rào, dây kẽm. Các trưởng ấp, trưởng khóm
được phân công đôn đốc chịu trách nhiệm từng khu vực nhất định.
Các cơ sở mật ở xã Hiệp Hòa đã vận động nhân dân tìm mọi cách
chống lại. Nhiều gia đình viện cớ do làm ăn, đau yếu, không đi làm.
Số người bị thúc ép ra hiện trường thì làm qua loa, chiếu lệ. Con
hào đào nham nhở suốt nhiều tháng không thành. Số chông tre, cọc
rào gom lại cũng theo thời gian mục nát, thất thoát. Kế hoạch rào ấp
chiến lược của địch bị bỏ dở, nhất là từ sau khi Diệm - Nhu bị giết
(tháng 11/1963).
Xã Hiệp Hòa, một trong những chiếc nôi cách mạng của thị xã
Biên Hòa từ cuối năm 1961 đến đầu năm 1962, đã có hơn chục người
là đảng viên và cơ sở ra tù như: Bảy Hoa, Bảy Bê, Năm Cánh, Tám
Bông, Tám Quang, Ba Trơn, Chín Hùng, Ba Bảo, Năm Quắc, Ba
Thụ, Tư Kiệt, Ba Rè… nhiều người trong số đó tiếp tục hoạt động và
là những cán bộ, cơ sở cốt cán của thị xã sau này.
Ở những nơi mà địch “đánh hơi” được có cán bộ ta bám trụ hoạt
động, chúng tăng cường bọn chỉ điểm mật thám tổ chức mạng lưới
điệp báo ngầm để đánh phá phong trào cách mạng. Cơ sở mật sau
nhiều ngày tháng theo dõi, nắm tình hình đã bí mật tổ chức diệt tên
Buông - mật thám ở xã Hiệp Hòa.
Cùng với mũi đấu tranh vũ trang, trong phong trào đấu tranh chính
trị, Chi bộ xã Hiệp Hòa còn vận động nhân dân làm đơn kiến nghị,
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thu thập hơn 100 chữ ký gửi chính quyền Sài Gòn các cấp quận, tỉnh
phản đối việc cai tổng Cẩm chiếm đất của nhân dân để lập “trại canh
nông”. Trước sự kiên trì, đoàn kết đấu tranh của bà con, kế hoạch
chiếm đất của chúng bị thất bại.
Thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ tiếp tục
leo thang thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ. Để đảm bảo thực
hiện được nhiệm vụ kháng chiến, Tỉnh ủy tổ chức 4 cánh công tác.
Trong đó, cánh CZ2 do đồng chí Năm Thắng phụ trách, lấy Khánh
Vân (Tân Uyên) làm bàn đạp tiến vào các xã ngoại ô thị xã như: Bửu
Long, Tân Thành, Hiệp Hòa và các khu phố 1, 4, 5. Năm 1964, đồng
chí Đặng Văn Trơn xây dựng cơ sở ở Hiệp Hòa. Hàng chục hầm bí
mật được xây dựng trong nhà, ngoài vườn các cơ sở mật ở ấp Bình
Quang của xã tạo điều kiện cho các đồng chí bám trụ xây dựng thực
lực và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống bắt lính, chống khủng
bố đòi quyền lợi thiết thân. Tiếp đó, Đoàn Thanh niên thị xã bố trí
các đồng chí Nguyễn Thanh Tuyền (Năm Tuyền), Lê Văn Lộc (tức
Tám Quang) về bám trụ ở Hiệp Hòa tạo bàn đạp xây dựng cơ sở
trong giới thanh niên và học sinh mà điểm là Trường Trung học Ngô
Quyền.
Trong chiến lược mùa khô lần thứ hai 1966-1967, Tỉnh ủy bố trí
đồng chí Mười Bụng và nữ đồng chí Quý vào khu vực Hiệp Hòa, xây
dựng được lõm chính trị liên hoàn gồm 40 gia đình ở các khóm Bình
Kính, Thành Hưng, Tân Mỹ, Bình Tự, Bình Hòa, Long Quới, Bình
Quang, Hòa Quới, Bình Xương với nhiều hầm bí mật, trong đó nhà
má Lê Thị Sao có 8 hầm.
Chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm
1968, các đồng chí cấp ủy của xã Hiệp Hòa và nhiều cán bộ đều vào
trong nội ô củng cố các cơ sở, truyền đạt nhiệm vụ chuẩn bị vào đợt,
bố trí đoàn viên xung kích làm nhiệm vụ dẫn đường trinh sát cho
quân chủ lực, chuẩn bị lương thực, vũ khí… Việc vận chuyển vũ khí
đạn dược từ căn cứ bàn đạp Hưng Nghĩa vào nội ô được tiến hành
khẩn trương. Chị Nguyễn Thị Hai (vợ anh Bảy Huệ) và chị Sáu Nhỏ
121

13.2 Page 122

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
(Hương) vận chuyển được 4 đợt vũ khí, truyền đơn, khẩu hiệu vào
phường An Bình, xã Hiệp Hòa. Các chuyến hàng phải tổ chức nghi
trang nhiều cách để qua mắt địch như giấu trong các cần xé chở trái
cây, trong các bao than củi… Đến tối 30/1/1968, vũ khí cất giấu dưới
các hầm bí mật được chuyển lên lau chùi, phân phát cho đội vũ trang
tuyên truyền, đội biệt động và tự vệ mật để chờ lệnh xuất phát. Giờ
G ngày N thống nhất toàn Miền theo quy định mật của Bộ Chỉ huy
Miền vào đêm 30 Tết Mậu Thân 1968. Tại xã Hiệp Hòa và các vùng
ngoại ô khác, các cơ sở mật đã treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn kêu
gọi nhân dân nhưng không phát động được quần chúng nổi dậy.
Trong đợt tiến công và nổi dậy đợt 2 Xuân Mậu Thân, vào tháng
4/1968, đồng chí Châu Văn Hoàng (Bảy Hoàng) - Trưởng Ban Giao
liên công khai bố trí bà Bảy Ghe - giao liên công khai đưa đồng chí
Năm Hoa vào thị xã, về bám trụ tại nhà má Đặng Thị Thơ ở xã Hiệp
Hòa. Từ Hiệp Hòa, Bình Đa, đồng chí Năm Hoa triển khai nhiệm vụ
của U ủy cho các chi bộ mật bên trong và ven thị xã.
Năm 1969, Đội biệt động thị xã sau khi hoàn thành một số công
tác cũng đã vượt sông về bám trụ tại Cù lao Hiệp Hòa.
Cuối năm 1968 đến năm 1970, địch tăng cường bọn cán bộ bình
định nông thôn, tình báo, thiên nga, phượng hoàng,… để theo dõi,
rình mò, đánh phá cơ sở cách mạng ở xã Hiệp Hòa; sục sạo, xăm hầm
bí mật tìm nơi ẩn của cán bộ ta; đẩy mạnh “quân sự hóa nhân dân”
bằng tổ chức phòng vệ dân sự.
Thường vụ U1 giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tổ chức cho đội biệt
động vào bám trụ xã Hiệp Hòa. Cùng với Chi bộ xã Hiệp Hòa, đồng
chí Đặng Văn Trơn (Mười Bụng) trực tiếp giáo dục, xây dựng được
40 gia đình ở ấp Bình Quang, đào được 40 hầm bí mật trong nhà,
ngoài vườn, ngoài ranh tre… cho đội biệt động vào ở. Trong tình
hình khó khăn, địch ruồng càn, lùng sục, đồng bào ấp Bình Quang
vẫn đào hầm bí mật cho bộ đội, cán bộ vào bám trụ, thể hiện tấm lòng
yêu nước nồng nàn, giác ngộ cách mạng rất cao. Đội biệt động được
trang bị mạnh (AK, B40, B41, lựu đạn) đủ sức khi có lệnh là đánh
122

13.3 Page 123

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
được ngay. Thường vụ U1 bố trí một đài vô tuyến điện do đồng chí
Hiệp phụ trách, cơ yếu do đồng chí Sinh phụ trách, ở chung khu vực
với biệt động, hàng ngày báo cáo tình hình nội thành về để Thường
vụ U1 kịp chỉ đạo. Ban ngày đội biệt động trú ẩn ở hầm, tối lên hoạt
động vũ trang tuyên truyền diệt ác, trấn áp bọn phản cách mạng.
Sau Xuân Kỷ Dậu 1969, tên Tô Hoàng Thắng đội phó đội biệt
động đầu hàng giặc vào ngày 20/4/1969, dẫn đường cho tiểu đoàn
biệt động quân, bảo an, cảnh sát, dân vệ đánh vào Cù lao Phố. Lực
lượng biệt động đánh trả quyết liệt, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của
địch suốt 1 ngày, diệt nhiều địch, nhưng bị thương vong khá nặng.
Đồng chí Hiệp phụ trách đài vô tuyến điện, đồng chí Sinh cơ yếu
cũng tham gia đánh địch quyết liệt đến viên đạn cuối cùng, phá hủy
đài vô tuyến điện, đốt tài liệu và hy sinh anh dũng. Đồng chí Nguyễn
Thị Thanh Vân, Tỉnh ủy viên cùng ở chung hầm với biệt động, cùng
tham gia đánh địch và hy sinh. Số cán bộ, chiến sĩ ở hầm khác lợi
dụng sơ hở của địch thoát khỏi vòng vây của địch. Sau đó, địch bắt
những bà con nhà có hầm bí mật tra tấn, đánh đập dã man, tù đày,
nhưng tất cả đều giữ lòng yêu nước, không khuất phục kẻ thù, không
khai báo gì cho địch.
Sau vụ đánh vào Hiệp Hòa, địch tăng cường ruồng rập, đánh phá
vào các ấp ven xã Bình Trước. Chúng sử dụng bọn đầu hàng làm chỉ
điểm, nhìn mặt cán bộ và số cơ sở của ta bị chúng bắt; tăng cường
bọn tình báo, công an chìm theo dõi tìm kiếm cơ sở tại chỗ của ta.
Đến cuối năm 1969, lực lượng cách mạng ở Hiệp Hòa từng bước
khôi phục lại. Thường vụ U ủy chỉ đạo chi bộ xã Hiệp Hòa và các
đảng viên đơn tuyến phát huy tính chủ động xây dựng và phát triển
cơ sở mật, dựa vào quần chúng, lãnh đạo quần chúng chống địch bắt
lính, chống khủng bố, chống vơ vét hàng ngày, qua đó xây dựng cơ
sở.
Ngày 19/5/1970, đồng chí Ba Tùng và Ba Quyết về bám trụ ở
Hiệp Hòa. Từ Bình Đa, các đồng chí qua sông và bị bọn địch gác ở
xóm Bình Xương của xã Hiệp Hòa phát hiện. 18 giờ cùng ngày, địch
123

13.4 Page 124

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tổ chức hành quân vào Cù lao Hiệp Hòa, lục soát khui được hầm bí
mật, bắt đồng chí Ba Quyết. Cơ sở mật đã thông báo cho đồng chí Ba
Tùng và đề nghị chuyển chỗ. Đến 23 giờ, bị địch tra tấn, Ba Quyết
dẫn lính về khui hầm bí mật ở Hiệp Hòa, lấy được vũ khí cất giấu và
nhiều truyền đơn.
Năm 1971, phong trào nhân dân chống bầu cử tổng thống chính
quyền Sài Gòn diễn ra khá rộng. Các cơ sở mật ở Hiệp Hòa… hàng
ngày gợi ý quần chúng bàn bạc vạch mặt, công khai lên án Nguyễn
Văn Thiệu.
Năm 1972, nữ đảng viên Ba Xuân và ba chồng của đồng chí là
cơ sở cách mạng ở Bình Chuẩn, do bị lộ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một giới
thiệu với Thị ủy Biên Hòa về ấp Bình Tự, Bình Xương thuộc xã Hiệp
Hòa. Hai đồng chí đã xây dựng ấp Bình Xương thành lõm chính trị
cách mạng; tổ chức được tổ quần chúng, nắm được đội phòng vệ dân
sự, đưa được người của ta (anh Út) vào làm đội trưởng. Ban đêm đội
phòng vệ dân sự đi canh gác, nhưng nội dung cơ sở ta lái vào việc
bàn thời sự, giác ngộ chính trị, căm thù chế độ Sài Gòn và canh gác
bảo vệ dân.
Năm 1973, xã Hiệp Hòa xây dựng được các chi bộ mật, tổ Đảng
hoặc đảng viên hoạt động đơn tuyến. Lúc này, xã Hiệp Hòa có 3 lõm:
ấp Bình Xương có 10 gia đình; ấp Bình Quang có 20 gia đình; ấp Đá
Hàn có 10 gia đình.
Năm 1974, phong trào đấu tranh chống bắt lính, chống càn quét…
ở Hiệp Hòa diễn ra sôi nổi và liên tục. Ở xã Hiệp Hòa, địch chủ
trương thành lập một trung đội nữ phòng vệ dân sự. Cơ sở ta hướng
dẫn 3 chị em đang bị chúng cưỡng ép ghi tên vào tổ chức này cùng
vận động các chị em khác nhất định không đi canh gác, kéo lên đấu
tranh với bọn tề xã, phản đối chủ trương độc ác của chúng. Nhân dân
Hiệp Hòa đoàn kết, tìm mọi cách bảo vệ thanh niên trốn lính và lính
trốn. Bà con bàn bạc quyết tâm không cho địch bắt thanh niên đi lính
để chết trận oan uổng. Trong tháng 4 và 5/1974, địch tổ chức 3 lần
vây ráp nhưng chúng không bắt được một thanh niên nào. Phong trào
124

13.5 Page 125

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thanh niên trốn lính không để địch bắt lính được tổ chức canh gác,
thông báo rất kịp thời. Trong đấu tranh chống bắt lính, ta biết tranh
thủ binh sĩ địch đồng tình, làm hạn chế mức vây, ráp xã, ấp.
Trước tình hình quân đội Sài Gòn suy sụp nhanh chóng, chiều
31/3/1975, tại thủ đô Hà Nội, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và
quyết định tập trung toàn lực lượng để “giải phóng miền Nam trước
mùa mưa”. Sáng 10/4/1975, đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Thành
ủy làm việc với đồng chí Lê Thị Não, Thường vụ Thành ủy, Phạm
Văn Tốt cán bộ Thành ủy tại nhà chị Tư Huyền (vợ đồng chí Chín
Tỏ) tại Cù lao Phố để phổ biến Nghị quyết và giao nhiệm vụ xây
dựng các Ủy ban khởi nghĩa xã.
Ở phía Đông thành phố, đêm 27/4, tiểu đoàn pháo đặc công 174
và 1 đại đội của Đoàn đặc công 113 bí mật đánh chiếm cầu Hang,
cầu Ghềnh, cầu Mới, cắt đứt lộ 1, bảo vệ các cây cầu cho bộ đội chủ
lực tiến quân về Sài Gòn.
Ngày 28/4, tại cầu Ghềnh và cầu Mới (Hóa An), đại đội 7 (tiểu
đoàn 175) cùng một bộ phận của tiểu đoàn 3 đặc công chiến đấu kiên
cường. Các đồng chí đã giành đi giật lại với địch suốt cả ngày ở 2
cầu này. Địch dùng trực thăng, giang thuyền, bộ binh phản kích rất
ác liệt. Đại đội 7 chiếm được lô cốt ở cầu Ghềnh, treo cờ, bảo vệ cầu
không cho địch phá sập.
Từ ngày 28 và 29/4/1975, lực lượng biệt động, Ban An ninh, Ban
Công vận thành phố và các ngành được phân công từ hướng này phát
triển vào chiếm Hiệp Hòa và một số khu vực khác. Đến 10 giờ sáng
30/4/1975, lực lượng bên trong nội ô, ngoại ô thành phố Biên Hòa đã
giành được toàn bộ chính quyền của địch.
Với những thành tích trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Hiệp Hòa đã vinh
dự được phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân vào năm 1994.
125

13.6 Page 126

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Phòng Cảnh sát hình sự
Công an tỉnh Đồng Nai
Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Đồng Nai(1) thành lập tháng
2/1976, với chức năng tham mưu cho Ban giám đốc Công an tỉnh đề
ra chủ trương, kế hoạch, đồng thời tổ chức thực hiện và chỉ đạo lực
lượng cảnh sát hình sự toàn tỉnh tiến hành các biện pháp phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm hình sự, bài trừ tệ nạn xã hội, góp phần
giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, thời gian qua, đơn
vị đã lập được những chiến công xuất sắc.
Về công tác tham mưu, hướng dẫn và phòng ngừa tội phạm,
Phòng Cảnh sát hình sự đã đề xuất kế hoạch đấu tranh, truy quét bọn
tội phạm trộm cắp, cướp có vũ trang, hoạt động trên tuyến đường
sông và vùng giáp ranh với Thành phố Hồ Chí Minh, Sông Bé (cũ)
và các tỉnh khác như Bình Thuận, Lâm Đồng, đặc khu Vũng Tàu -
Côn Đảo (cũ)…; lập hồ sơ theo dõi 17.218 đối tượng hình sự, phát
hiện 815 nhóm đối tượng hình sự lớn nhỏ, trong đó, xử lý trước pháp
luật 246 đối tượng, lập hồ sơ đưa đi cải tạo 459 đối tượng, cưỡng bức
lao công 412 đối tượng; tập trung làm chuyển hóa cơ bản tình hình ở
các địa điểm phức tạp về hình sự như bến xe khách, công viên, ngã
ba Dốc Sỏi… Đặc biệt, đơn vị rất chú trọng đến công tác quản lý chặt
(1) Nguồn: Bộ Công an, Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Những
đơn vị cá nhân anh hùng công an nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội, 2002.
126

13.7 Page 127

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chẽ các đối tượng nhiều lần tái phạm, số đối tượng hoạt động chuyên
nghiệp và các ổ nhóm lớn.
Về đấu tranh trấn áp tội phạm, đơn vị đã điều tra làm rõ 15.573 vụ
án hình sự, bắt 21.232 đối tượng, trong đó có 17.486 đối tượng bắt
trong các vụ án lớn, triệt phá 86 băng cướp, 27 băng cướp giật, 658
băng trộm, thu hồi 23 súng, 14 lựu đạn, 148 xe máy, 200 lượng vàng
và nhiều tài sản khác. Điển hình là các vụ triệt phá vụ cướp giả trang
công an dùng 2 súng ngắn, 3 lựu đạn khống chế nạn nhân cướp nhiều
tài sản có giá trị. Sau 1 tháng điều tra, mai phục ở nhiều địa bàn phức
tạp, các chiến sĩ cảnh sát hình sự đã bắt gọn băng cướp 17 đối tượng,
làm rõ 16 vụ cướp do chúng gây ra.
Cuối năm 1985 đến đầu năm 1988, trên quốc lộ 51 thuộc các tỉnh
Đồng Nai, Sông Bé và Thành phố Hồ Chí Minh liên tiếp xảy ra các
vụ cướp có vũ trang, các đối tượng rất manh động sẵn sàng nổ súng
vào bất kỳ ai dám chống cự lại. Sau nhiều tháng bí mật mai phục,
đơn vị đã bắt gọn băng cướp “Bông hồng trắng” gồm 5 đối tượng thu
3 súng, 3 xe máy và nhiều tang vật khác…
Tháng 11/1992, nhóm cướp 4 đối tượng dùng súng khống chế cướp
toàn bộ số vàng của tiệm vàng Kim Mai và tiếp đó là tiệm vàng Kim
Kha thuộc thành phố Biên Hòa, cướp đi 50 lượng vàng, 1 ngàn USD,
100 ngàn đồng; khi chủ nhà hô hoán chống cự, đã bị chúng bắn trọng
thương. Chỉ trong vòng 30 tiếng đồng hồ, các chiến sĩ cảnh sát hình sự
đã phát hiện bắt giữ 4 tên cướp thu 2 súng ngắn, 10 viên đạn…
Tháng 7/1994, sau 14 ngày đêm điều tra khẩn trương và phối hợp
chặt chẽ với Công an tỉnh Sông Bé, Tây Ninh, Bình Thuận, Thành
phố Hồ Chí Minh… đơn vị đã bắt gọn toán cướp 5 tên do Nguyễn
Quốc Đạt cầm đầu dùng súng khống chế cướp xe du lịch của một số
cơ quan như Công ty Vinataxi, Bệnh viện đa khoa Quy Nhơn… thu
hồi 4 xe ô tô du lịch và nhiều tài sản trị giá 2 tỷ đồng. Ngoài ra, đơn
vị còn làm rõ 4 vụ cướp xe ô tô do băng cướp cực kỳ nguy hiểm của
tên Nguyễn Mạnh Tiến - nguyên là cảnh sát hình sự Cần Thơ bị sa
thải cầm đầu.
127

13.8 Page 128

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Từ năm 1986 đến năm 1995, Phòng Cảnh sát hình sự đã triệt phá
hàng trăm ổ chứa, ổ tệ nạn hoạt động quy mô lớn, bắt 1.018 gái mại
dâm, lập hồ sơ đi cưỡng bức lao động, chữa bệnh, học nghề… cũng
như bắt gọn đường dây ghi số đề lớn ở huyện Long Thành, thu được
100 triệu đồng; giải quyết triệt để một số tụ điểm mại dâm lớn, phối
hợp Công an Thành phố Hồ Chí Minh phá đường dây chuyên hoạt
động bán dâm với người nước ngoài, triệt phá 3 đường dây buôn
thuốc phiện… Tình hình trật tự an toàn xã hội của tỉnh đã có nhiều
biến chuyển, nhiều mặt khá ổn định, đóng góp quan trọng trong xây
dựng và phát triển kinh tế ở một tỉnh công nghiệp.
Về công tác xây dựng lực lượng, đơn vị thường xuyên chú trọng
công tác giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức trình độ
nghiệp vụ cho cán bộ chiến sĩ. Nội bộ đơn vị luôn đoàn kết thống
nhất, được xếp loại chi bộ trong sạch vững mạnh, 9 năm liền đạt
danh hiệu đơn vị Quyết thắng.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, Phòng Cảnh sát hình
sự Công an tỉnh Đồng Nai đã được Nhà nước tặng thưởng 1 Huân
chương Chiến công hạng Nhì, 2 bằng khen của Chính phủ, 2 bằng
khen của Bộ, 8 năm liền nhận cờ luân lưu của Bộ và UBND tỉnh, 3
bằng khen của Trung ương Đoàn.
Đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân vào ngày 3/8/1995.
128

13.9 Page 129

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Phú Hữu
Xã Phú Hữu(1) thuộc huyện Nhơn Trạch, nằm sát đoạn cuối của
sông Đồng Nai, cách ngoại ô Thành phố Hồ Chí Minh một dòng
sông. Do vị trí nằm cạnh kho bom Thành Tuy Hạ nên cả 2 thời kỳ
kháng chiến chống Pháp và Mỹ, xã Phú Hữu chịu chà xát nặng nề.
Diện tích của xã Phú Hữu khoảng 2.352 hécta, hầu hết là ruộng
lúa nước. Dân số xã khoảng 13.200 người. Xã có phong trào cách
mạng từ rất sớm. Đầu năm 1946 xã đã thành lập được chi bộ. Thời
chống Pháp, địa bàn xã là cơ sở đóng quân của bộ đội Bình Xuyên.
Thời chống Mỹ, địa bàn xã là cơ sở của Đoàn 10, bộ đội Nhà Bè,
Thủ Đức.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân xã
Phú Hữu đã tích cực đóng góp cho cách mạng về sức người lẫn sức
của, về vật chất lẫn tinh thần. Cụ thể, toàn xã có 296 gia đình là cơ
sở cách mạng. Đặc biệt gia đình má Hai ở Cầu Kê đã nuôi Đại đội
5 thuộc Đoàn 10 trong suốt 3 năm liền. Toàn xã có 250 mẹ tham gia
hội mẹ chiến sĩ. Đồng bào trong xã Phú Hữu đã đóng góp được 6.500
tấn lúa để nuôi bộ đội cán bộ, mua 2,5 triệu đồng công trái phiếu.
Toàn xã có 750 thanh niên lên đường nhập ngũ. Gần 300 thanh niên
nam nữ tham gia lực lượng du kích địa phương.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo, Huyện ủy Nhơn Trạch.
129

13.10 Page 130

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Suốt 2 thời kỳ kháng chiến đồng bào, du kích địa phương đã kết
hợp với bộ đội của trên tham gia đánh 537 trận diệt 1.068 tên địch
trong đó có 136 tên lính Mỹ, diệt 36 tên ác ôn, thu 1.076 súng các
loại, bắn chìm 1 tàu quân sự và 4 xuồng máy, bắn rơi 3 máy bay phá
hủy 7 xe quân sự.
Trong công tác binh vận, có 43 lính đem súng về hàng cách mạng.
Đồng bào trong xã Phú Hữu còn tổ chức gần 100 cuộc đấu tranh
chính trị, tham gia 10 ngàn ngày công phục vụ cho chiến đấu.
Với những thành tích trong chiến đấu trong 2 thời kỳ kháng chiến,
toàn xã Phú Hữu được cấp trên khen thưởng 42 Huân chương Chiến
sĩ giải phóng hạng Nhất, 63 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng
Nhì, 78 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Baa, 17 Huân chương
Chiến thắng, 68 Huân chương Chiến công, 35 Huân chương Chiến
sĩ vẻ vang.
Từ ngày hòa bình lập lại, đồng bào toàn xã đã tham gia lao động
xây dựng cuộc sống mới trong các tập đoàn sản xuất.
Năm 1994, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú Hữu được Nhà
nước phong tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Công an thành phố Biên Hòa
Công an thành phố Biên Hòa(1) được thành lập từ sau ngày
miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975. Quân số hiện nay
(đến năm 1995-NV) của đơn vị có 230 cán bộ, chiến sĩ được bố trí
công tác tại 26 phường, xã, 8 ban, đội nghiệp vụ với 338 sĩ quan,
99,7% có trình độ nghiệp vụ đại học và trung học.
Từ năm 1986 đến nay, cán bộ chiến sĩ Công an thành phố Biên
Hòa đã nỗ lực phấn đấu lập được nhiều thành tích, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ, đóng góp vào giữ gìn an ninh trật tự trên địa
bàn thành phố.
Về công tác giữ gìn an ninh chính trị, đơn vị đã chủ động phối
hợp lực lượng quân đội xây dựng thế trận an ninh quốc phòng,
xây dựng phương án phòng chống biểu tình gây rối, dập tắt bạo
loạn lật đổ, hằng năm có bổ sung hoàn chỉnh cho phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới, bố trí lực lượng an ninh ở các phường, xã
theo tuyến và địa bàn trọng điểm, chủ động xây dựng chuyên đề
quản lý Việt kiều và người nước ngoài. Tăng cường công tác nắm
tình hình hoạt động của các liên doanh hợp tác đầu tư, viện trợ
nhân đạo, tham quan du lịch nên đã kịp thời phát hiện và đề xuất
xử lý 8 đối tượng nhập cảnh trái phép, ngăn chặn 450 trường hợp
xuất cảnh trái phép; nhập hồ sơ quản lý trên 9 ngàn người gốc
(1) Nguồn: Bộ Công an, Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Những
đơn vị cá nhân anh hùng công an nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội, 2002.
131

14.2 Page 132

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Biên Hòa hiện nay định cư ở nước ngoài; quản lý tạm trú 3.225
lượt người nước ngoài và Việt kiều nhập cảnh… Qua đó, phát
hiện và ngăn chặn có hiệu quả 8 đầu mối hoạt động móc nối của
gián điệp liên quan đến an ninh quốc gia, đề xuất đưa vào kiểm
tra nghiệp vụ những đối tượng này.
Đối với chức năng tham mưu, Công an thành phố Biên Hòa
đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền có phương án bảo vệ an
ninh kinh tế, chống nội gián, bảo đảm sản xuất kinh doanh theo
đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước. Đồng thời đẩy mạnh công
tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực nội bộ, phối hợp với
các ngành làm trong sạch nội bộ; giúp các công ty củng cố đội
ngũ bảo vệ chuyên trách và hướng dẫn nghiệp vụ cho lực lượng
này. Do vậy, đã phát hiện và xử lý 47 vụ, bắt 55 tên xâm phạm
các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Đặc
biệt lực lượng Công an thành phố Biên Hòa đã bảo vệ an toàn
Đại hội Đảng các cấp và bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND, đề
xuất thanh loại 88 người không đủ tiêu chuẩn ứng cử vào đại biểu
HĐND các cấp.
Qua công tác tàng thư hồ sơ, Công an thành phố đã làm rất tốt
công tác quản lý đối tượng là quân đội, công chức của chế độ Sài
Gòn, các đối tượng tham gia các tổ chức phản động. Qua đó, làm
rõ và xử lý 21 tên kích động đa nguyên đa đảng, truyên truyền
chống đối chính quyền, vô hiệu hóa 20 đối tượng có liên quan đến
các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, như các tổ chức:
“Tân dân chủ”, “Liên minh hoàng gia Đại Việt”, “Mặt trận Việt
Nam tự do”, “Đại đặc xá quốc tế”; đề xuất xử lý 96 vụ hoạt động
tôn giáo trái phép, thu hồi 4 ngàn đầu sách và 2 ngàn kg tài liệu
có nội dung phản động…; ngăn chặn kịp thời âm mưu chống phá
của các lực lượng phản động đội lốt tôn giáo. Điển hình như: vụ
phát hiện lập hồ sơ vạch mặt 97 đối tượng liên quan đến tổ chức
phản động tại Dòng Đồng công cứu chuộc (năm 1987); ngăn chặn
kịp thời số linh mục, tu sĩ cực đoan lợi dụng việc Vatican phong
thánh để kích động gây rối an ninh trật tự và đòi ưu sách với chính
132

14.3 Page 133

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
quyền ở các vùng Công giáo (năm 1988); ngăn chặn giải quyết
vụ linh mục Tước, linh mục Thái, chức sắc và một số người trong
ban hành giáo xứ Thái Hiệp, xứ Bùi Hưng tổ chức trên 100 giáo
dân gây rối trật tự công cộng.
Ngoài ra, công an thành phố còn phối hợp với các ngành giải
quyết cơ bản những điểm nóng bức xúc về tranh chấp và mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong đó có 86 vụ mâu thuẫn tranh
chấp đất đai không để phát triển thành điểm nóng phức tạp.
Về công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội, Công an thành phố
Biên Hòa đề xuất với Thành ủy Biên Hòa thành lập Ban Chỉ đạo
chống tham nhũng và tiêu cực nội bộ, qua đấu tranh đã xử lý 409
vụ, thu hồi tài sản nhà nước trị giá hàng chục tỷ đồng; đề xuất
chủ trương và mở đợt tấn công truy quét tội phạm hình sự, tệ nạn
xã hội, chuyển hóa được nhiều địa bàn phức tạp; đấu tranh làm
rõ 5.260 vụ, bắt xử lý 6.128 tên, trong đó có 195 vụ trọng án,
triệt phá 155 băng ổ nhóm lưu manh chuyên nghiệp; bóc gỡ 233
vụ mại dâm, ma túy, cờ bạc. Bên cạnh đó, đơn vị còn vận động
được 258 đối tượng ra tự thú, lập hồ sơ đi tập trung cải tạo 899
đối tượng. Cán bộ, chiến sĩ trong toàn đơn vị đã không quản ngày
đêm bám sát địa bàn, dũng cảm mưu trí cương quyết tấn công tội
phạm, bảo vệ an toàn lực lượng và cuộc sống của nhân dân.
Trong phong trào phát động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, đơn vị đã phát động được 3.021 đợt gồm 1.414.000 lượt
người tham gia. Qua đó, quần chúng cung cấp 9.500 nguồn tin
có giá trị, giúp đơn vị chủ động đấu tranh có hiệu quả với những
hành vi phạm tội. Quần chúng cũng trực tiếp truy bắt giao công an
xử lý 989 đối tượng phạm pháp, thu tài sản trị giá 1 tỷ đồng, thu
gom giao nộp 228 khẩu súng và 2.032 quả lựu đạn.
Lực lượng công an đã tích cực phối hợp với các ban ngành, đoàn
thể, vận động giúp đỡ 3.259 gia đình chính sách, hộ nghèo với
tổng trị giá 1,5 tỷ đồng. Tổ chức hàng ngàn lớp học tình thương,
giúp trên 600 người nghèo thất học thoạt khỏi nạn mù chữ, đề
133

14.4 Page 134

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
xuất giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn đối tượng…
Qua phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc đã xuất
hiện nhiều mô hình tiên tiến, được Bộ Nội vụ và Ủy ban Trung
ương MTTQ Việt Nam đánh giá cao, phổ biến nhân rộng trong
toàn quốc. Đó là phường Quyết Thắng với phong trào vận động
toàn dân tham gia quản lý, giáo dục người lầm lỗi; phường Tân
Hòa với công tác vận động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh
trật tự tại vùng đạo giáo.
Về xây dựng lực lượng, trong những năm qua đơn vị 6 năm
liền (1989-1994) đạt danh hiệu đơn vị Quyết Thắng, là lá cờ đầu
trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc khối huyện
thị thành, nhiều năm liền là Đảng bộ trong sạch vững mạnh. 38
lượt đon vị, cá nhân được Bộ Nội vụ, UBND tỉnh tặng bằng khen.
Đơn vị được phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân ngày 3/8/1995(2).
(2) Có tài liệu khác ghi: 1985.
134

14.5 Page 135

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân
dân huyện Nhơn Trạch
Huyện Nhơn Trạch(1) nằm phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai, huyện
có 12 xã với diện tích 39.947 hécta, dân số là 104.487 người, hầu
hết là người Kinh (chiếm 99%).
Bao quanh phía Nam và Tây của huyện là hệ thống sông ngòi
chằng chịt, theo kênh mương chạy dẫn vào đất liền tạo nên hệ
thống giao thông đường thủy rất thuận lợi. Phía Bắc và Đông của
huyện có tỉnh lộ 17, tỉnh lộ 25 và tỉnh lộ 19 nối thành đường tròn
khép kín đi qua 10 xã, ôm trọn khu Lòng chảo, nối liền quốc lộ 51
nên giao thông đường bộ rất thuận lợi.
Huyện Nhơn Trạch được chọn để xây dựng căn cứ địa cách mạng
vì có những đặc điểm sau:
Huyện tiếp giáp với Rừng Sác, bằng đường thủy, dễ dàng thông
qua Quảng Xuyên - Cần Giờ và ra biển cả. Rừng Sác là vị trí quan
trọng về mặt quân sự của miền Đông Nam Bộ, ôm gọn sông Lòng
Tàu, là “cuống họng” về đường thủy từ Sài Gòn ra khỏi hải phận
quốc tế; là cửa ngõ của chiến khu Rừng Sác, là bàn đạp để tấn công
kho xăng Nhà Bè của địch, cũng như đánh phá tàu địch từ biển vào.
Huyện Nhơn Trạch lại có khu Lòng chảo rộng 110 km2, là rừng
Giồng với cây cối rậm rạp, chằng chịt, lợi thế cho việc đóng quân
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
135

14.6 Page 136

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
và thực hiện chiến tranh du kích. Nhơn Trạch lại áp sát Sài Gòn - cơ
quan đầu não của địch cả 2 thời kỳ, là cửa ngõ đi vào Sài Gòn từ
phía Đông Nam và trở thành bàn đạp cho lực lượng đặc công đánh
vào sào huyệt địch. Nhiều xã trong huyện có đồi, gò cao, cây rừng
bao phủ, thuận lợi cho việc phục kích theo dõi địch từ trên cao.
Đồng bào Nhơn Trạch hầu hết là dân thuần nông, vốn có truyền
thống yêu nước. Từ thời Cần Vương, có nghĩa quân Nguyễn Trung
Trực, Trương Công Định về đóng ở rừng sác và được đồng bào
giúp đỡ, bao bọc. Thời kỳ Pháp đô hộ, có phong trào Thiên Địa
Hội hoạt động chống Tây và đã chọn Nhơn Trạch là nơi đóng quân.
Được sự giúp đỡ, che chở và tham gia của người dân, Thiên Địa
Hội đã tổ chức nổi dậy phá khám Sài Gòn vào năm 1916, diệt tên
Tri phủ Trần Bá Hựu ở quận Long Thành diệt một số Tây Đoan,
Tây Sở, cường hào, ác bá.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa, huyện Nhơn Trạch sớm nhận ánh sáng
của phong trào cách mạng; từ năm 1937, Xứ ủy Nam kỳ đã cử đảng
viên về xây dựng cơ sở. Đến năm 1939 đã có những cơ sở Đảng ở
xã Long Thọ, Phước An, Hiệp Phước. Từ chỗ thành lập các nghiệp
đoàn, huyện tiến tới xây dựng phong trào Thanh niên Tiền Phong
và thành lập Mặt trận Việt Minh - lực lượng nòng cốt cho ngày
Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền 25/8/1945.
Về phía địch, từ năm 1939 giặc Pháp đã xây dựng kho bom
Thành Tuy Hạ lớn nhất miền Nam, lập cầu cảng Tuy Hạ để tàu lớn
ra vào. Từ năm 1955, Mỹ đưa Nhơn Trạch lên thành Yếu khu Tuy
Hạ tăng lượng bom đạn gấp nhiều lần so với thời Pháp, xây sân bay
dã chiến, bãi pháo 105 ly, quyết tâm đàn áp bằng được phong trào
cách mạng Nhơn Trạch.
Mặc dầu vậy, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng
bào Nhơn Trạch vẫn giữ vững là căn cứ địa cách mạng suốt 30 năm,
bảo vệ cơ sở Đảng an toàn giữ vững vị trí là bàn đạp để lực lượng
cách mạng tấn công Sài Gòn, cơ quan đầu não của địch. Phong trào
cách mạng ở Nhơn Trạch thực hiện phương châm Đảng với dân là
136

14.7 Page 137

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
một, tổ chức chiến tranh toàn dân, toàn diện, đảm bảo đoàn kết toàn
dân đánh bại cả Pháp và Mỹ cùng bọn lính chư hầu. Nhơn Trạch
cũng là địa phương đóng góp lương thực - thực phẩm nhiều nhất
tỉnh, tổ chức những trận đánh thắng lớn, làm phấn khởi lòng dân,
làm cho địch hoang mang, góp phần chiến thắng trong cả nước. Cụ
thể:
Giai đoạn năm 1945-1954, trong 9 năm kháng chiến chống Pháp
quân dân Nhơn Trạch đánh trên 5.870 trận lớn nhỏ; diệt 1.076 tên
địch (trong đó có 427 tên lính Pháp), diệt 103 tên ác ôn, phá hủy
13 xe quân sự (trong đó có 5 xe tăng), bắn chìm 2 tàu quân sự, 48
ghe thuyền máy; thu 1.504 khẩu súng các loại (trong đó có 1 đại
liên, 37 trung tiểu liên, 34 khẩu col) và hàng ngàn tấn đạn, lựu đạn.
Đồng bào Nhơn Trạch đóng góp hàng chục ngàn ngày công, tham
gia phục vụ chiến trường như: chặt tre làm cọc, cắm kín cánh đồng
Lớn, góp phần phá tan cuộc nhảy dù của giặc Pháp; đắp đập ngăn
sông, phá cầu cống, ngăn tàu bè của địch trên đường sông; phá
đường, đào hào làm hầm chông, đắp ụ ngăn xe cơ giới và góp phần
chống càn; tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến dịch,
vận chuyển vũ khí, lương thực, đào hầm nuôi lực lượng quân đội
chính quy. Huyện có 2.986 thanh niên tòng quân, bổ sung lực lượng
quân đội chính quy, có 4.635 thanh niên, phụ nữ tham gia lực lượng
du kích địa phương. Toàn huyện có 134 cán bộ, chiến sĩ tập kết ra
Bắc, 1.452 gia đình là cơ sở tin cậy của cách mạng.
Về của, đồng bào góp 283 chỉ vàng, 15 tấn đồng và sắt chủ yếu
là mâm, nồi, chậu, lư hương, chân đèn bằng đồng; ủng hộ 414 căn
nhà để cơ quan có chỗ làm việc; ủng hộ 154 ghe thuyền, 158 xe bò
và 12 cặp bò kéo để làm phương tiện chuyển vận, số lúa gạo ủng
hộ cách mạng hàng chục ngàn tấn. Trong 9 năm kháng chiến, đồng
bào đóng góp đầy đủ thuế nông nghiệp với số lượng hơn 120 ngàn
giạ lúa. Phong trào Hủ gạo nuôi quân có 1.250 gia đình thực hiện
đóng góp 1 kg gạo/tháng/hộ, tổng số gạo đã thu được 105 tấn.
Một số thành tích, trận đánh điển hình:
137

14.8 Page 138

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Ngày 27/10/1945, quân dân huyện Nhơn Trạch diệt 1 tiểu đội
lính Nhật khi chúng càn vào xã Hiệp Phước.
Tháng 3/1946, lực lượng du kích xã Long Thọ bao vây, diệt tiếp
viện, bức rút đồn Long Thọ. Cũng thời gian này, lực lượng du kích
xã Phước An bao vây, đánh phá, buộc địch phải rút khỏi đồn Gò
Cát.
Giai đoạn 1945-1946, lực lượng du kích của huyện đã đánh trên
200 trận, diệt 27 tên giặc Pháp, 153 ngụy quân, 9 tên ác ôn, 2 tên
chỉ điểm, phá 2 đồn lớn, 13 chốt dân vệ, phá hủy 2 xe quân sự, thu
37 súng các loại, nhiều đạn và lựu đạn.
Từ cuối năm 1947-1954, địch phải co cụm lại, phòng thủ và bị
đánh khắp nơi trên toàn huyện. Riêng đồng chí Nguyễn Kim Huy,
du kích xã Long Tân, một mình đánh 67 trận, diệt 67 tên địch, bằng
chiến thuật “bắn sẻ” nổi tiếng.
Năm 1947, lực lượng du kích liên thôn 12 qua công tác binh
vận đã đánh úp đồn Phú Hội, bắt sống toàn bộ trung đội địch thu
27 súng các loại, nhiều đạn và lựu đạn. Năm 1948, du kích xã Phú
Hữu phục kích chống càn, bẻ gãy cuộc càn, bắn chìm 2 ghe máy, 1
xuồng máy, diệt 23 tên giặc, thu 17 súng các loại; năm 1949, phá rã
4 hội đồng tề, bắt giáo dục 18 tên, diệt 6 tên ác ôn. Năm 1953, du
kích xã Đại Phước phá chốt dân vệ tại tua Bến Ngự, diệt 3 tên, bắt
sống 15 tên, thu 2 súng các loại.
Trận cầu Lò Rèn nổi tiếng trong toàn tỉnh diễn ra vào năm 1947,
du kích địa phương phối hợp với lực lượng Bình Xuyên (Chi đội 3,
Chi đội 4) và bộ đội Mai Văn Vĩnh phục kích tại cầu Lò Rèn thuộc
xã Long Thọ, tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi khi bọn chúng càn về
hướng xã Phước An, thu toàn bộ vũ khí, trong đó 3 khẩu trung liên
và 1 súng cối 60 ly.
Trận đánh tại ngã ba Long Điền trong năm 1948 làm địch khiếp
sợ, đồng bào trong huyện phấn khởi. Khi được tin giặc Pháp dùng
18 ghe thuyền máy chở gần 200 quân càn vào khu Long Điền, bộ
đội địa phương, du kích liên thôn 12 cùng với C.2775 chủ lực Miền
138

14.9 Page 139

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phục kích, đón đánh phá tan cuộc càn, bắn chìm 12 ghe, diệt 36 tên,
thu 32 súng các loại, trong đó có 2 khẩu trung liên.
Từ năm 1954-1975, trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ quân
dân Nhơn Trạch đánh 7.560 trận lớn nhỏ, diệt 2.405 tên địch, trong
đó có 423 tên lính Mỹ và Thái Lan, loại khỏi vòng chiến đấu 5.860
tên địch; phá hủy 96 xe quân sự, trong đó có 48 xe tăng, bắn chìm
13 tàu chiến, 64 ghe thuyền máy, bắn rơi 34 máy bay các loại, phá
hủy 1.090 ngàn tấn bom đạn, thu hàng chục ngàn tấn vũ khí.
Về sức người, trong kháng chiến chống Mỹ, đồng bào Nhơn
Trạch đóng góp hàng trăm ngàn ngày công phục vụ cho cách mạng
như: đào địa đạo, giao thông hào, hầm chông, ô ụ chiến đấu, làm
nhiệm vụ dân công hỏa tuyến vận chuyển vũ khí, lương thực - thực
phẩm, cáng thương… phá ấp chiến lược, phá đường, cầu cống,
ngăn sông. Toàn huyện có 3.520 thanh niên tòng quân nhập ngũ,
xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam, 6.147 thanh niên - phụ nữ
tham gia lực lượng chiến đấu ở địa phương, 1.825 gia đình đào
hầm, nuôi giấu cán bộ.
Về sức của, đồng bào đóng góp hàng trăm ngàn tấn lương thực
- thực phẩm để cung cấp cho bộ đội địa phương và bộ đội của trên
về, mua hàng chục triệu đồng tiền công trái phiếu ủng hộ cách
mạng.
Về công tác đấu tranh chính trị, trải qua thời kỳ chống Mỹ, đồng
bào Nhơn Trạch tổ chức trên 400 lần đấu tranh với nhiều hình thức:
tố cáo địch vi phạm Hiệp định về đình chiến; bắt phu, bắt lính, tố
cáo địch giết hại dân thường, phá hoại hoa màu, tài sản, tố cáo âm
mưu đồn dân lập ấp chiến lược, làm vành đai trắng, rải chất độc
hóa học…
Những cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu trong giai đoạn này
như:
Năm 1963: Địch rải chất độc hóa học, phá hủy trên 2 ngàn hécta
ruộng lúa, hoa màu. Đồng bào đã làm kiến nghị, chụp hình để có
tang chứng rồi lên Biên Hòa - Sài Gòn đấu tranh, đòi địch phải bồi
139

14.10 Page 140

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
thường thiệt hại. Mỗi đoàn gần 200 người.
Năm 1964, địch ném bom giết hại 536 thường dân ở ngã ba
Giồng Sắn(2), hàng ngàn đồng bào đã kéo nhau lên Sài Gòn đấu
tranh, tố cáo tội ác của địch đồng thời mời phóng viên chứng
kiến, viết bài đăng báo. Ngày mở cửa mã của những nạn nhân xấu
số bị địch giết hại, hàng chục ngàn đồng bào kéo về Giồng Sắn
- nơi xảy ra thảm họa nhằm tố cáo tội ác kẻ thù, để tang những
người bị giết hại.
Năm 1968, địch quyết tâm gom dân Xóm Hố (xã Phú Hội) vào
ấp chiến lược. Đồng bào kéo về quận lỵ đấu tranh; cử một đoàn về
Sài Gòn gặp Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ.
Cuối cùng địch phải chấp nhận yêu cầu, không dám gom dân.
Cũng trong năm 1968, địch pháo kích làm chết 1 cụ già và 1 em
nhỏ ở Phú Hội. Trên 200 người dân đã khiêng xác nạn nhân lên
quận đấu tranh. Địch phải xin lỗi, bồi thường nhân mạng, tổ chức
làm tang ma chôn cất. Đồng bào đi đưa ma rất đông để tố cáo tội
ác kẻ thù.
Về công tác binh vận, huyện cài người vào làm nội ứng phá 2
đồn, 8 bót, 5 tua và 24 chốt phòng vệ dân sự. Qua công tác này
đã phá rã 104 ấp chiến lược và làm cho 1.642 tên lính ngụy bỏ
súng với gia đình, một số đi theo cách mạng. Điển hình như ngày
01/11/1963, khi tướng lĩnh địch làm đảo chính giết Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, tinh thần binh lính địch hoang
mang. Qua công tác binh vận, tại Nhơn Trạch có 364 lính quân
đội Sài Gòn bỏ súng trốn về gia đình. Năm 1975, khi được tin lực
lượng cách mạng giải phóng Phước Long, Huế - Đà Nẵng, qua
công tác binh vận, 760 lính quân đội Sài Gòn bỏ trốn về gia đình,
một số xin theo cách mạng.
Một số thành tích, trận đánh điển hình trong kháng chiến chống
Mỹ:
(2) Thuộc xã Phú Đông.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Giai đoạn từ 1954-1959, địch khủng bố đẫm máu, bắt bớ trả thù
những người kháng chiến cũ. Đồng bào Nhơn Trạch đã tổ chức hơn
100 cuộc đấu tranh để đưa kiến nghị đòi hiệp thương tổng tuyển
cử, đấu tranh đòi chồng con bị địch bắt giam cầm, lợi dụng địch tổ
chức “Tố cộng” để tố cáo vạch mặt kẻ thù đã vi phạm Hiệp định
Genève, tổ chức phá cuộc trưng cầu dân ý của chính quyền Ngô
Đình Diệm.
Tại xã Phú Hội, lực lượng Bình Xuyên rút về rừng Sác, Huyện
ủy chỉ đạo dùng lực lượng Bình Xuyên để phá địch. Tháng 7/1955,
địa phương sử dụng lực lượng Bình Xuyên bao vây lấy đồn Phước
Thọ, bắt sống toàn bộ số dân vệ và vũ khí. Tại Phước Khánh,
diệt tên Lạc, tên Thái là 2 tên cảnh sát ác ôn, thu 2 súng. Ngày
23/10/1955, từ Rạch Bảy đã bắn 10 trái cối 61 về khu vực bầu cử
của chính quyền Ngô Đình Diệm tại Phước Lý; đồng bào lấy lý do
không an toàn, không đến nơi bỏ phiếu. Tại Vĩnh Thanh, sau khi
liên lạc được với người của ta cài vào trong đoàn di cư, đã vận động
bà con đấu tranh đòi trở về miền Bắc. Tại Long Tân, một đội du
kích lấy danh nghĩa Bình Xuyên diệt tên đại úy Cao Đài liên minh
Lê Thành Kham.
Ngày Quốc khánh của Diệm bị pháo kích (cối 61) của ta đặt tại
Long Thọ bắn về chi khu, diệt 2 lính, bị thương 5 tên, gây rối loạn.
Khi lực lượng Bình Xuyên ở khu rừng sác bị quân đội của Ngô
Đình Diệm tấn công, tan rã, huyện kịp thời vận động được một số
chiến sĩ trở về với cách mạng, thu được 2 máy thông tin lớn, 4 khẩu
cối 61, hàng chục tấn vũ khí.
Điểm hay của Nhơn Trạch là Huyện ủy đã phối hợp cùng Tỉnh
ủy, Ban binh vận Xứ vận động tiểu đoàn 3 Bình Xuyên do Võ Văn
Môn “ly khai” chế độ Ngô Đình Diệm, kéo về Rừng Sác đến Chiến
khu Đ và sau đó chuyển hóa thành lực lượng võ trang giải phóng.
Ở giai đoạn này, quân dân Nhơn Trạch đã vô hiệu hóa toàn bộ
âm mưu của địch khi chúng xây dựng chế độ độc tài trên mảnh đất
Nhơn Trạch; người dân Nhơn Trạch dù trong hoàn cảnh khó khăn
141

15.2 Page 142

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
vẫn giữ được tấm lòng son sắt với Đảng, với cách mạng.
Giai đoạn 1960-1964, mở đầu phong trào Đồng Khởi, dân và
quân Nhơn Trạch đã diệt 19 tên ác ôn ở các xã, điển hình là diệt
tên Mười Hiếm tại Phước An, phá rã 6 hội đồng tề, bắt giam giáo
dục trên 30 đối tượng. Sau đợt truy quét, bọn ác ôn tối không dám
về xã, bọn tề xã sợ hãi bỏ trốn về Biên Hòa, Sài Gòn. Tại Phước
Khánh, 23 dân vệ đã mang súng ra đầu thú, tự nguyện tham gia lực
lượng cách mạng. Nhiều tên ngụy quyền bắn tin ra xin cách mạng
tha chết, cần gì thì giúp ngay. Năm 1961, dựa vào hệ thống địa đạo,
du kích Phước An đánh tan cuộc càn của địch, diệt 2 xe tăng, bắn
rơi một trực thăng, diệt 21 tên. Tại Long Thọ, thông qua công tác
binh vận, huyện cài người làm nội ứng phối hợp du kích Long Thọ
đã phá đồn Long Thọ, diệt gọn trung đội dân vệ thu toàn bộ vũ khí.
Tại Phước An, để phá âm mưu xây dựng khu trù mật Hang Nai của
địch, huyện chỉ đạo phải phá băng được đồn Gò Cát, tiến tới bao
vây khu trù mật, bắn tỉa diệt lính bảo vệ, tổ chức quần chúng giữ
đất không cho khai phá, vận động những người đến bỏ về. Kết quả,
địch thất bại trong âm mưu này.
Năm 1963, du kích Phước An kết hợp với lực lượng C.240 (tỉnh
Biên Hòa) chặn đánh một đại đội lính bảo an, diệt 45 tên, bị thương
15 tên; thu 16 súng, 1 col, 1 khẩu M.79. Trong năm 1963-1964,
quân dân Nhơn Trạch phá rã 104 ấp chiến lược. Ở xã Phước Thiền,
địch phải làm đi làm lại ấp chiến lược tới 7 lần, xã Phú Hội tới 5
lần, xã Phú Hữu - Đại Phước làm tới 8 lần. Không xã nào trong
huyện, ấp chiến lược mà địch xây dựng tồn tại được 1 tháng.
Năm 1964, du kích Long Thọ kết hợp với C.240 chặn đánh bọn
dân vệ tại khu Miễu Mặt trăng diệt 27 tên thu 27 súng nhiều đạn và
lựu đạn. Năm 1965, du kích xã Long Tân kết hợp C.240 chặn đánh
bọn bảo an đi mở đường, diệt 23 tên, đốt 2 xe quân sự và thu 24
súng. Trong giai đoạn này, quân dân Nhơn Trạch phá tan âm mưu
xây dựng ấp chiến lược, xây dựng khu trù mật Hang Nai của địch,
xây dựng vững chắc khu an toàn Phước An, mở rộng vùng tự do,
142

15.3 Page 143

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xây dựng được nhiều “Lõm chính trị”, dồn địch vào thế bị động.
Giai đoạn 1965-1968, địch tiến hành chiến tranh cục bộ, quân
viễn chinh, lính chư hầu ồ ạt đỗ vào chiến trường Nhơn Trạch, tăng
cường hỏa lực đánh phá phong trào cách mạng. Năm 1966, lực
lượng C240 cùng du kích liên xã phá tan cuộc càn của Lữ đoàn dù
173 của Mỹ tại khu Lòng chảo, diệt tại trận 56 tên, đốt phá 3 xe
quân sự, bắn rơi một máy bay lên thẳng. Ngày 27/1/1966 du kích
liên xã, lực lượng C240 kết hợp với D.240 phá cuộc càn của Lữ
đoàn 119 Thủy quân lục chiến Mỹ tại khu Hang Nai. Trận đánh kéo
dài 7 ngày đêm, ta diệt 103 tên giặc, đốt phá 3 xe quân sự, bắn cháy
2 máy bay lên thẳng.
Năm 1967, du kích liên xã đã tấn công phá ấp Tân Sinh, Bến
Sắn (xã Phước Thiền) khi địch vừa khánh thành. Ta diệt tại chỗ vợ
chồng tên Quận trưởng Lê Kim Trọng và 1 cố vấn Mỹ, bắt sống
27 tên dân vệ thu toàn bộ vũ khí. Tháng 2/1967, du kích xã Phước
Khánh phục kích, dựa vào ụ chiến đấu giao thông hào, đẩy lùi một
cuộc càn của lính Mỹ, bắn chìm 2 ghe, diệt 13 tên.
Cũng trong năm 1967 du kích địa phương, bộ đội huyện cùng
C240 của tỉnh và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 của Khu miền Đông(3)
800 của Miền phá tan cuộc càn của địch gồm 2 sư đoàn, kéo dài 11
ngày đêm, diệt 167 tên giặc, đốt phá 5 xe quân sự, bắn cháy 6 máy
bay lên thẳng. Trận đánh diễn ra ngay trên địa đạo Phước An.
Năm 1968, du kích xã Phú Hữu kết hợp với Đoàn 10 đặc công
Rừng Sác phá tan cuộc càn của lính Mỹ, bắn cháy 1 máy bay lên
thẳng, bắn chìm 2 tàu bo bo diệt 7 lính Mỹ, bị thương 36 tên. Năm
1968, du kích xã Phước Khánh cùng lực lượng Đoàn 10 phá tan
cuộc càn, bắn cháy 2 máy bay, 1 thuyền máy, diệt 38 tên địch, trong
đó có 19 lính Mỹ. Tại Long Thọ, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 C240(4)
800 của Miền, D.240 của tỉnh cùng bộ đội, du kích địa phương
(3) Năm 1965, Tiểu đoàn 800 chuyển thành Tiểu đoàn 1, nòng cốt xây dựng Trung
đoàn 4.
(4) D240 đến năm 1972 mới thành tiểu đoàn
143

15.4 Page 144

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đánh bót Vườn điều, tiêu diệt 105 tên giặc Thái, thu nhiều vũ khí,
quân trang, quân dụng. Tuy nhiên trước đó, vào tháng 12/1967, ta
thất bại hoàn toàn tại chốt Vườn điều. Hàng trăm bộ đội hy sinh sau
này mới tìm được hài cốt.
Tổng kết trong giai đoạn này, quân dân Nhơn Trạch đối đầu với
quân viễn chinh Mỹ và đã đánh thắng kẻ địch, bảo vệ chiến khu
Phước An, giữ vững địa bàn huyện Nhơn Trạch là cơ sở, căn cứ địa
cách mạng, góp phần chiến thắng vào cuộc tổng tiến công và nổi
dậy mùa xuân 1968.
Giai đoạn 1969-1975 là thời kỳ căng thẳng nhất, địch dùng hơn
40 xe ủi, hàng trăm xe tăng, ủi trắng khu Lòng chảo. Trên không,
địch dùng máy bay ném bom bắn phá. Dưới sông, hàng trăm tàu
địch vây hãm. Quân dân Nhơn Trạch hạ quyết tâm: “Một tấc không
đi, một li không rời” quyết bám trụ đánh địch.
Ngày 8/5/1969, du kích xã Phú Hữu do đồng chí Nguyễn Quyết
Chiến (Sáu Chiến) chỉ huy dùng lối đánh giặc công, diệt gọn Trung
đội lính Mỹ đóng dã ngoại tại Vàm Ông Mai, thu 1 khẩu đại liên
và 10 súng AR15. Tháng 12/1969, đồng chí Sáu Chiến lại cùng du
kích xã Phú Hữu, diệt gọn trung đội lính Mỹ đóng tại Giồng Ông
Đông, thu 2 khẩu trung liên và 1 hòm đạn. Tại xã Long Thọ, Anh
hùng bắn sẻ Nguyễn Văn Vân là du kích xã từ năm 1965-1972 đã
diệt 101 tên địch. Năm 1969, đồng chí Nguyễn Văn Thơi, du kích
xã Phú Hữu dùng súng AK bắn rơi 1 máy bay Mỹ OH6.
Năm 1969, C240 của huyện được tăng cường hỏa lực, 1 khẩu
DKZ 75 và 1 khẩu 12 li 7, diệt bót nhà mồ Phú Mỹ, diệt 1 trung đội
dân vệ, bắt sống 7 tên thu toàn bộ vũ khí.
Tháng 10/1969, du kích xã Phước Thiền phục kích, diệt gọn đội
bình định áo đen gồm 8 tên, hóa trang bắn vào xe GMC bảo an, diệt
tên đại úy thu 8 súng, 1 máy PR 25 và 1 máy chữ.
Ngày 14/4/1972, đội đặc công Miền cùng đội đặc công Nhơn
Trạch đột nhập kho bom Thành Tuy Hạ phá hủy 75 ngàn tấn bom
đạn, diệt 15 tên, bị thương 25 tên. Ngày 13/8/1972 tiếp tục đánh
144

15.5 Page 145

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kho bom Thành Tuy Hạ lần thứ 2 phá hủy 10.578 tấn bom đạn,
đánh chìm 1 tàu, diệt 22 tên, bị thương 42 tên. Ngày 12/11/1972
tiếp tục đánh kho bom Thành Tuy Hạ lần thứ 3, bom nổ, lửa cháy
2 ngày đêm, phá hủy 50 ngàn tấn bom đạn. Ngày 13/12/1972, tiếp
tục đánh kho bom Thành Tuy Hạ lần thứ tư, làm 80% khu kho bom
bị phá hủy, 60% số bom đạn bị phá. Đây là chiến công lớn, đánh
trúng “dạ dày” của địch.
Năm 1971, du kích địa phương cùng với trung đoàn 4 chống càn,
diệt 2 đại đội bảo an, bắt sống tên Đại úy Tùng thu toàn bộ vũ khí
và 2 máy thông tin PRC.25. Năm 1973, Đặc công Đoàn 10 cùng
với đặc công huyện, từ Phước Khánh đã bí mật đột nhập kho xăng
Nhà Bè, đốt cháy 85% số lượng xăng dầu, ngọn lửa cháy suốt 2
ngày đêm.
Từ năm 1968-1974, Đoàn 10 cùng lực lượng địa phương đã 28
lần đánh tàu giặc trên sông Sài Gòn và sông Lòng Tàu, đánh chìm
3 tàu chiến lớn của Mỹ gồm: chiếc HOSSIS trọng tải 10 ngàn tấn,
chiếc EFFLO trọng tải 10 ngàn tấn, chiếc TOURIST ANAVAUS
trọng tải 12 ngàn tấn.
Năm 1975, huyện Nhơn Trạch được chọn là một trong những
hướng tiến về Sài Gòn, đồng bào phục vụ sư đoàn 325 (Quân đoàn
2) về lương thực - thực phẩm, giúp 100 ghe thuyền để đưa bộ đội
qua sông Long Tàu; cùng bộ đội đưa pháo 130 ly lên đồi Bình Phú -
Bình Tuy để bắn về Sài Gòn, khống chế sân bay Tân Sơn Nhất góp
phần vào chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Tổng kết giai đoạn này: quân dân Nhơn Trạch đánh bại hoàn toàn
giặc Mỹ xâm lược, giữ vững là căn cứ địa cách mạng là bàn đạp để
tấn công Sài Gòn, cơ quan đầu não của địch.
Giai đoạn 1975-1995, nét nổi bật trong 20 năm xây dựng và
sản xuất của huyện là: đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, các
ngành phát triển đều, đắp đường ra xã Phước Khánh, ngọt hóa đập
Ông Kèo, đưa điện vào vùng sâu, vùng xa. Nâng cấp giao thông
thủy bộ, xây cầu mới trên lộ 17, khai hoang 5 ngàn hécta, phục hóa
145

15.6 Page 146

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
2.400 hécta, phát triển 500 hécta ao hồ để nuôi tôm, cá xuất khẩu…
Về khen thưởng, qua 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp - chống
Mỹ, quân dân Nhơn Trạch được Chính phủ cách mạng lâm thời
miền Nam Việt Nam và Hội đồng Chính phủ tặng thưởng nhiều
huân huy chương các loại, gồm: 302 Huân chương Chiến sĩ giải
phóng hạng Nhất; 334 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì,
431 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba, 131 Huân chương
Chiến thắng; 333 Huân chương Chiến công; 309 Huân chương
Chiến sĩ vẻ vang cùng nhiều bằng khen của tỉnh và quân khu.
Năm 1996, quân và dân huyện Nhơn Trạch được trao tặng danh
hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
146

15.7 Page 147

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Định Quán
Định Quán(1) là một huyện miền núi nằm dọc theo tuyến quốc lộ
20, cách xa trung tâm thành phố Biên Hòa khoảng 80km và thành
phố Hồ Chí Minh khoảng 110km, ở phía Bắc tỉnh Đồng Nai. Diện
tích tự nhiên của huyện là 976,32 km² với dân số 194.340 người(2).
Phía Bắc và Đông Bắc giáp với huyện Tân Phú. Phía Nam giáp huyện
Thống Nhất, thị xã Long Khánh và huyện Xuân Lộc. Phía Đông giáp
huyện Đức Linh (tỉnh Bình Thuận). Phía Tây giáp huyện Vĩnh Cửu
và hồ Trị An. Huyện có con sông La Ngà là phụ lưu của sông Đồng
Nai (phía tả ngạn) chảy qua, có hồ nước nhân tạo là hồ Trị An với
32.000 hécta nối với các huyện Trảng Bom, Vĩnh Cữu, Thống Nhất.
Định Quán có địa hình gò đồi là chính, đất đỏ bazan phù hợp với
nhiều loại cây lương thực, cây công nghiệp như: cà phê, hồ tiêu, mía,
bắp, thuốc lá.
Có nhiều tài liệu ghi khác nhau về địa danh và lịch sử hành chính
Định Quán, phổ biến là Định Quán bắt đầu được sử sách định danh
từ 1836. Theo địa bạ triều Nguyễn, Định Quán là một thôn của tổng
Bình Tuy, huyện Phước Bình, tỉnh Biên Hòa. Đến năm 1845 Định
Quán vẫn thuộc tổng Bình Tuy huyện Phước Bình. Bản đồ ATLAS
năm 1908 có ghi địa danh Định Quán. Năm 1899, tổng Bình Tuy
(1) Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Định Quán và Wikipedia.
(2) Theo số liệu điều tra dân số năm 2009.
147

15.8 Page 148

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
nhập vào tỉnh Đồng Nai Thượng do Toàn Quyền Đông Dương lập.
Năm 1901, tỉnh Đồng Nai Thượng bị bãi bỏ nhưng đến năm 1920
được tái lập. Đến năm 1924, địa chí tỉnh Biên Hòa do người Pháp viết
có ghi tổng Bình Tuy gồm 7 làng: Định Quán, Cao Lang, Gia Canh,
Thuận Tùng, Túc Trưng, Vĩnh An. Từ năm 1945 - 1951 Định Quán
thuộc huyện Xuân Lộc của tỉnh Biên Hòa. Ngày 24/4/1957, Định
Quán trở thành một quận thuộc tỉnh Long Khánh do chính quyền
Sài Gòn thành lập, gồm 2 tổng: Tà Lài, Bình Tuy. Ngày 29/6/1957
một phần quận Định Quán (bờ trái sông La Ngà) cắt chuyển vào tỉnh
Bình Tuy (nay là huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận). Năm 1959,
chế độ Diệm lập tỉnh Phước Thành, một phần quận Định Quán (bờ
phải sông Đồng Nai) nhập vào tỉnh Phước Thành, tuy nhiên đến
năm 1965, tỉnh Phước Thành giải thể, đất đai trả lại cho các tỉnh
Biên Hòa, Bình Dương, Phước Long, Long Khánh như cũ. Cuối năm
1974, quận Định Quán gồm 4 xã: Định Quán, Đồng Hiệp, Phương
Thọ, Chánh Hưng.
Về phía chính quyền cách mạng, tháng 5/1971, có sự thay đổi về
tổ chức chiến trường, huyện Định Quán sát nhập cùng huyện Xuân
Lộc thuộc phân khu Bà Rịa. Tháng 10 năm 1973, Trung ương Cục
miền Nam lập tỉnh căn cứ Tân Phú gồm bốn huyện: Định Quán, Độc
Lập, Tân Uyên, Phú Giáo. Đến tháng 10/1974, chuyển hai huyện
Tân Uyên, Phú Giáo về tỉnh Thủ Dầu Một. Tỉnh Tân Phú còn lại
hai huyện Định Quán và Độc Lập. Năm 1976, tỉnh Tân Phú chuyển
thành huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (tỉnh mới thành lập do hợp nhất
3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy). Ngày 10 tháng 4 năm
1991 chia thành 2 huyện Tân Phú và Định Quán. Khi đó, huyện Định
Quán gồm thị trấn Định Quán và 6 xã: Phú Cường, Phú Hoa, Phú
Hòa, Phú Ngọc, Phú Túc, Suối Nho.
Ngày 23 tháng 6 năm 1994, địa giới huyện Định Quán có sự thay
đổi điều chỉnh như sau: Chia xã Phú Hoa thành 3 xã: Phú Lợi, Phú
Vinh, Phú Tân; chuyển giao ấp 7 có diện tích tự nhiên 1.369 hécta,
nhân khẩu 2851 thuộc xã Phú Ngọc sang xã Phú Túc quản lý. Chia
xã Phú Túc thành 3 xã mới: La Ngà, Túc Trưng, Phú Túc; chia xã
148

15.9 Page 149

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phú Ngọc thành 3 xã: xã Thanh Sơn, xã Ngọc Định, xã Phú Ngọc.
Chuyển giao 2.712 hécta diện tích tự nhiên và 6.434 nhân nhẩu của
thị trấn Định Quán sang xã Phú Ngọc quản lý; Chia thị trấn Định
Quán thành 2 đơn vị hành chính: xã Gia Canh và thị trấn Định Quán.
Hiện nay, hệ thống hành chính Định Quán gồm 1 thị trấn và 13 xã:
Gia Canh, La Ngà, Ngọc Định, Phú Cường, Phú Hòa, Phú Lợi, Phú
Ngọc, Phú Tân, Phú Túc, Phú Vinh, Suối Nho, Thanh Sơn, Túc Trưng.
Dân cư Định Quán gồm nhiều dân tộc sinh sống: Kinh, Thái, Hoa,
Tày, Khmer, Chơ-ro, Chăm, Ê Đê, Sán Dìu, Châu Mạ, nhưng chủ
yếu vẫn là dân tộc Kinh. Dân tộc Châu Mạ, Chơ-ro và S’tiêng được
xác định là dân tộc bản địa ở nơi đây.
Truyền thống cách mạng của huyện Định Quán gắn liền với lịch
sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên địa bàn
Xuân Lộc, Định Quán bao gồm cả huyện Tân Phú.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, bắt đầu trang sử mới. Từ những
phố chợ rải rác dọc quốc lộ 20 đến từng làng công nhân cao su, từng
làng đồng bào Thượng trong rừng sâu đều bừng lên không khí mới:
Độc lập và tự do. Ủy ban nhân dân cách mạng xã, Ủy ban công nhân
đồn điền, các tổ chức mật trận đoàn thể được thành lập, hối hả bắt tay
vào xây dựng xã hội mới. Tổ chức thanh niên tiền phong biến thành
tổ chức vũ trang cách mạng. Các đội viên tự vệ chiến đấu ngày đêm
ra sức luyện tập quân sự, tuần tra canh gác, giữ gìn thành quả cách
mạng vừa giành được. Nhưng niềm vui cuộc sống mới chưa lâu,
quân dân Định Quán cùng cả nước phải thực hiện cuộc chiến đấu
mới: Chống thực dân Pháp xâm lược tái chiếm.
Sau khi chiếm thị xã Biên Hòa, ngày 30/10/1945, quân Pháp kéo
lên chiếm đóng ngã ba Dầu Giây và từ đấy chúng tiếp tục chiếm
đánh thị xã Xuân Lộc. Tiếng súng kháng chiến của quân và dân Biên
Hòa, Xuân Lộc vang dội đến lòng dân Định Quán. Thị trấn Xuân
Lộc rơi vào tay quân xâm lược. Một số cán bộ đảng, chính quyền,
mặt trận Xuân Lộc (các đồng chí Ngô Ngọc Liên, Lê Văn Vận, Lê
Tiến…) rút về Thọ Vực, lan tỏa đến các làng ven sông La Ngà xây
149

15.10 Page 150

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dựng căn cứ, tổ chức lực lượng kháng chiến. Một số đồng chí (Ba
Xăng, Bảy Hùng, Bảy Hà…) len sâu vào các làng đồng bào dân tộc
Chơ-ro, Châu Mạ, Stiêng vận động đồng bào tham gia chống Pháp.
Thực hiện lời kêu gọi kháng chiến của Hồ Chủ Tịch và Ủy ban
kháng chiến Nam Bộ, các tầng lớp nhân dân địa bàn Định Quán
cùng với toàn tỉnh hăng hái tham gia hoạt động kháng chiến. Ấp Túc
Trưng gồm dăm chục nóc nhà dọc lộ 20 sớm thành lập các tổ chức
cách mạng. Ủy ban kháng chiến ấp được thành lập do Ba Trung làm
Chủ tịch, Nguyễn Ngọc Kiển làm Phó Chủ tịch, Nguyễn Thị Xưa
phụ trách phụ nữ kiêm Chủ tịch mặt trận Việt Minh. Tổ chức thanh
niên Tiền phong ấp củng cố thành đội vũ trang tự vệ khoảng 1 trung
đội do Ba Trung và Nguyễn Ngọc Kiển chỉ huy. Hầu hết thanh niên
trong ấp và đồn điều cao su Túc Trưng đều thamn gia đội tự vệ như
Giang Văn Đây, Lê Văn Cơ, Nguyễn Văn Kỳ, Nguyễn Văn Ngọc,
Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Cả, Tư Vơ, Ba Vạn, Ba Thái,
Năm Chính, Xoong, Toản, Xoa, Hữu, Cai Ty, Cai Kinh...
Sáng ngày 24/1/1946 quân Pháp bắt đầu tiến đánh những vị trí
trên đường 20. Một trung đoàn xe thiết giáp vừa đi vừa hung hăng
bắn pháo thông đường lên Đà Lạt. Cùng các lực lượng ở Võ Dõng,
Gia Tân, lực lượng tự vệ Túc Trưng dùng ét xăng, bẫy đá, tên ná lợi
dụng địa hình rừng rậm liên tục phục đánh. Từ ngã ba Dầu Giây lên
đến sông La Ngà, cây rừng bị chặt đổ ngổn ngang trên mặt đường.
Khí thế đánh giặc rất hăng hái. Nhiều tên địch ngồi trên xe trúng tên
độc. Nhưng do quá chênh lệch về lực lượng và vũ khí, các chiến sĩ
tự vệ chỉ quấy nhiễu chứ chưa ngăn được địch. Lần đầu tiên, cuộc
chiến đấu ngăn chặn đoàn thiết giáp của địch trên lộ 20 đem lại niềm
tin đánh giặc và thắng giặc của quân dân địa phương.
Hai tuần sau cuộc hành quân mở thông đường, giặc Pháp đưa
lực lượng trở lại chiếm đóng những vị trí quan yếu như ngã ba Dầu
Giây, Cây Gáo, Túc Trưng, cầu La Ngà. Riêng đồn Túc Trưng chúng
đóng một tiểu đoàn lính Âu Phi có trang bị hai khẩu pháo 105 ly làm
nhiệm vụ bảo vệ đồn điền cao su và đường giao thông. Từ các đồn,
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
quân địch tỏa ra lùng sục bắt bớ, bắn giết nhân dân quanh vùng, hỗ
trợ đắc lực cho việc lập lại bộ máy cai trị ở các xã ấp. Những tên
tay sai cũ nay thừa cơ ngóc đầu dậy cấu kết với địch ra sức áp bức,
khủng bố nhân dân.
Trước tình hình đó, nhân dân và lực lượng tự vệ địa phương vừa
khôn khéo đánh địch vừa củng cố gây dựng lực lượng chuẩn bị kháng
chiến lâu dài. Đồng bào Túc Trưng thực hiện tiêu thổ kháng chiến,
lực lượng tự vệ đốt nhà tên chủ và phó chủ sở đồn điền cao su, đồng
bào tự tay đốt cháy nhà cửa, hàng quán của mình rồi rút vào rừng, lập
rẫy, lập làng kháng chiến.
Tại Định Quán, cơ sở vận động được 2 người làm công trong
quán cơm bà Nhung là Thắng và Sĩ báo tin và tiếp tế lương thực,
thuốc men. Quán cơm trở thành nơi theo dõi nắm tình hình địch
và điểm tiếp tế cho các đơn vị bộ đội hoạt động ở khu vực Định
Quán. Nhiều cán bộ chiến sĩ của ta như Chín Sang, Tư Thiệt, Hưng...
thường xuyên đến đây liên hệ. Nhiều khi, anh em bộ đội kéo ra quán
cơm giữa buổi chiều. Tại đồn điền cao su Túc Trưng, công nhân tháo
máy móc lấy thùng đựng mủ, dao, chén nhôm gửi vào căn cứ xây
dựng binh công xưởng. Các anh chị Hòa, Bốn, Lùng lấy mủ cao su
gửi vào căn cứ để bộ đội đóng giày, làm xắc cốt, dây nịt, chiết lấy
dầu mủ cho bộ đội làm nhiên liệu thắp sáng. Chị Hiểu thư ký sở lợi
dụng cơ sở của chủ Tây, hàng tháng rút trong kho ra gạo, nước mắm,
sữa, giày cao su, vải… cho cơ sở ấp chợ dùng xe bò chở vào căn cứ.
Bọn địch kiểm soát gắt gao. Nhiều gia đình cơ sở bị chúng phát
hiện đánh đập bắn giết rất dã man. Trong đồn Túc Trưng, địch tổ
chức hẳn một ban chuyên làm nhiệm vụ theo dõi đánh phá các cơ
sở trong dân và căn cứ. Ban này có Ký Tuyết và cai Nhơn đặc biệt
nguy hiểm. Chúng chỉ điểm, bắt bớ và giết người không ghê tay. Mặc
dù vậy, phong trào đóng góp tiền của cho kháng chiến vẫn được giữ
vững. Trong những năm 1946 - 1947, Túc Trưng là một trong những
cơ sở quan trọng cung cấp hậu cần cho các cơ quan và bộ đội huyện.
Cuối mùa mưa năm 1946, lần đầu tiên lực lượng vũ trang tổ chức
151

16.2 Page 152

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tiến công đồn địch, ấy là đồn Túc Trưng. Một tiểu đội vũ trang của
ban công tác Liên thôn do Xoong, Tùng chỉ huy bí mật bao vây xung
quanh đồn phối hợp nội ứng, nổ súng tiến công, lính trong đồn đem
11 súng về căn cứ, theo cách mạng, sếp Tây trưởng đồn lủi trốn,
thoát chết.
Tháng 10/1947, trung đội 6 và trung đội 4 phối hợp với du kích
tại chỗ tổ chức đánh bót cầu La Ngà, diệt và bắt sống toàn bộ trung
đội địch, làm cho giao thông Sài Gòn - Đà Lạt bị tắc nghẽn một thời
gian. Cuối năm 1947, tổ chức đánh bót cầu La Ngà lần thứ hai, tiêu
diệt toàn bộ lính trong bót, tên Tây đen sếp bót thoát chết nhảy xuống
sông trốn về Định Quán. Thắng lợi của hai trận đánh bót cầu La Ngà
cuối năm 1947 là những trận diễn tập quan trọng cho chiến thắng La
Ngà lịch sử vào năm sau.
Sau thất bại ở chiến trường Việt Bắc thu đông 1947, đầu năm
1948, thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược, từ đánh
nhanh giải quyết nhanh sang đánh kéo dài, quay trở lại bình định
vùng đã chiếm đóng ở Nam Bộ, trong đó quốc lộ 20 trở thành một
trong những con đường huyết mạch của địch. Trước tình hình đó,
Khu ủy vả Bộ chỉ huy khu 7 chủ trương tấn công vào hậu phương
quân địch, cắt đứt những tuyến lộ giao thông của chúng. Thực hiện
chủ trương trên, bộ chỉ huy chi đội 10 quyết định đánh một trận giao
thông lớn trên quốc lộ 20, đoạn từ La Ngà đến Định Quán.
Từ tháng 11 năm 1947, việc điều nghiên, bố trí trận địa và chuẩn
bị điều kiện cho trận đánh bắt đầu. Đến giữa tháng 2/1948, đã huy
động được đủ số gạo cho 1.000 người ăn trong nửa tháng, trong đó
đồng bào Túc Trưng góp phần quan trọng trong vòng kiểm soát gắt
gao của địch. Kế hoạch chuẩn bị cho trận đánh đã hoàn tất. Hạ tuần
tháng 2, mật báo viên của ta từ Sài Gòn báo về: sẽ có một đoàn xe
quân sự chở một số cán bộ cao cấp của địch từ Sài Gòn lên Đà Lạt dự
hội nghị quân chính vào đầu tháng 3. Đêm 25 rạng sáng 26/2, Chi đội
10 và Liên quân 17 rời chiến khu Đ, hành quân về La Ngà. Các đơn
vị vũ trang địa phương phối hợp cũng hành quân chiếm lĩnh trận địa.
152

16.3 Page 153

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trận địa phục kích trải dài trên quãng La Ngà - Định Quán từ
cây số 104 đến cây số 113, thành ba mặt trận A, B, C. Lực lượng
vũ trang địa phương của Châu Thành, Xuân Lộc, Định Quán, Tân
Phú được giao nhiệm vụ đánh địch ở mặt trận A. Ngày 1/3/1948, từ
sáng sớm, đoàn xe khoảng 70 chiếc bắt đầu khởi hành từ Sài Gòn.
Đến đoạn đường từ Hố Nai trở đi, chúng phải thường xuyên dừng lại
dọn đường và bắn thị uy chống sự cản phá của du kích địa phương.
Du kích Võ Dõng, Túc Trưng tổ chức thành từng nhóm nhỏ chốt dọc
đường từ Dầu Giây lên La Ngà. Anh em lăn cây ngăn đường, phục
kích, bắn tỉa quấy nhiễu để đoàn xe vào trận địa đúng giờ dự kiến.
Đến 15 giờ 20 phút, đoàn xe lọt vào trận địa. Trận đánh diễn ra đúng
kế hoạch, tiêu hủy hoàn toàn 59 xe, diệt 25 sĩ quan Pháp, trong đó
có đại tá Đờ-xê-ri-nhê (DeSeringé) chỉ huy lữ đoàn lê dương thứ 13
và đại tá Pa-ruýt (Parust) phó tham mưu trưởng thứ nhất quân viễn
chinh Pháp ở Nam Đông Dương, trung úy Dép-fây (Joefrey) bị bắt
sống, 150 tên lính lê dương hộ tống thiệt mạng.
Lực lượng vũ trang Định Quán cùng các đơn vị tham gia trận đánh
đưa chiến lợi phẩm rút về căn cứ an toàn. Chiến thắng La Ngà gây
một tiếng vang lớn trong cả nước, rúng động nước Pháp, sôi động
thông tin Quốc tế. Qua đó, lực lượng Định Quán trưởng thành.
Giai đoạn 1949 - 1954, Định Quán tập trung nhiệm vụ giữ vững
địa bàn và chuyển hướng thế trận phong trào sang kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang.
Sau thảm bại La Ngà tháng 3/1948, địch tiến hành củng cố hệ
thống kìm kẹp, tăng cường khủng bố, đàn áp và bóc lột nông dân,
công nhân tại các xã ấp và đồn điền cao su dọc quốc lộ 20, tăng
cường lực lượng cho các đồn bót đã có, đóng thêm nhiều tháp
canh mới. Riêng bót Định Quán, số lính Sài Gòn lên đến một đại
đội, thường xuyên có từ 2 đến 3 sĩ quan Pháp. Tại Túc Trưng,
ngoài lính thường trực ở đồn, chúng xây dựng thêm một đại đội
lính BIF người Chơ-ro do 2 sĩ quan Pháp chỉ huy. Trong tháng
3/1948, bọn địch ở đồn Túc Trưng càn quét liên tục 12 ngày đêm
153

16.4 Page 154

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
từ Cây Gáo, Ruộng Nôm, Cây Xoài, Túc Trưng lên Định Quán,
thẳng tay đốt phá, bắn giết, nhiều cán bộ cơ sở lần lượt rơi vào
tay địch, như các chị Xưa, Ngổ, Hai Tới, vợ chồng anh Nguyễn
Văn Diệp - Điểu Ly. Chúng đưa các chị hết nhà tù này sang nhà
từ khác. Mặc dù bị đánh đập tra khảo rất dã man, các chị vẫn một
mực trung thành với Đảng, kiên quyết không khai báo, đầu hàng.
Mùa thu năm 1948, Xứ ủy Nam Bộ đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh mọi
mặt của cuộc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ căn cứ, củng cố lực
lượng vũ trang và các tổ chức đoàn thể, giữ vững địa bàn, chủ động
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh bại cán cuộc
càn quét của địch.
Thực hiện chủ trương của Xứ ủy, các lực lượng ở Định Quán
thường xuyên phối bộ đội chủ lực tổ chức các cuộc tập kích đánh bót,
phục kích các toán địch nhỏ lẻ thu nhiều chiến lợi phẩm. Phong trào
công nhân ở đồn điền Túc Trưng tạo nhiều chuyển biến mới. Nhiều
hình thức đấu tranh với chủ sở diễn ra hiệu quả, các chủ sở, cai thầu
đóng thuế ủng hộ kháng chiến. Chủ be, cai tổng Sang nhiều thế lực
ở Định Quán cũng phải tham gia.
Trong hai năm 1949 - 1950, trong điều kiện bị địch ráo riết đánh
phá và bao vây kinh tế ngặt nghèo, nhân dân và lực lượng vũ trang
Định Quán vẫn vững tin ở sự lãnh đạo của Đảng, củng cố xây dựng
các tổ chức kháng chiến đấu tranh chống càn quét khủng bố và bao
vây kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến tại địa phương, góp
phần giữ vững thế giằng co chung trên chiến trường toàn tỉnh.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, đội vũ trang tuyên truyền chia
thành từng tổ công tác đi xuống các ấp xây dựng cơ sở, trừng trị
những tên tay sai gian ác, địch ngụy vận và cùng du kích tại chỗ
chống càn. Đội đã phối hợp với du kích các ấp dọc quốc lộ 20 đánh
địch càn quét lấn chiếm và chủ động tiến công tiêu hao địch. Cuối
năm 1951, ta tiến công đồn Túc Trưng diệt gần 30 tên, đại úy Baro
- tên chỉ huy đồn không dám hống hách như trước nữa.
Bước sang năm 1953, thắng lợi liên tiếp trên chiến trường Nam
154

16.5 Page 155

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Bộ khiến giặc Pháp co cụm. Ngày 6/3/1953, hội nghị ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh Thủ Biên đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh du kích
chiến tranh, đẩy mạnh công tác địch ngụy vận và mở rộng vùng
giải phóng, chủ động tiến công địch, góp phần vào thắng lợi chung.
Chiến khu Đ được mở rộng tới Tà Lài. Bộ đội hành quân, vận tải
thuận lợi trên các tuyến đường quan trọng. Ở lộ 20, du kích bung ra
phá rối chặn đánh địch đi lại cả trong ban ngày, làm chủ tình hình
vào ban đêm. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève kết thúc chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Định Quán
chung vui thắng lợi cùng cả nước.
Giai đoạn 1954 - 1975, Định Quán cùng Nam Bộ kháng chiến
chống đế quốc Mỹ thay chân quân Pháp xâm lược. Chặng đường đầu
1954 - 1960 là chặng đường gian khổ đấu tranh chính trị, xây dựng
lại lực lượng kháng chiến trong tình hình mới chống âm mưu, thủ
đoạn mới.
Hiệp định vừa được ký kết, Tỉnh ủy Thủ Biên họp hội nghị bất
thường nhận định tình hình, bàn biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm
vụ cách mạng trong giai đoạn mới, chuyển từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị, nghiêm chỉnh thi hành hiệp định, chuyển quân
tập kết, đồng thời bố trí lực lượng ở lại tiếp tục đấu tranh. Định Quán
nằm trên tuyến đường chuyển quân tập kết từ các xã dọc quốc lộ 20
và hữu ngạn sông Đồng Nai về Hàm Tân, Xuyên Mộc. Nhân dân
Định Quán lưu luyến tiễn quân, đưa 2 ngón tay hẹn gặp lại sau hai
năm, không ngờ ly biệt đến hơn 20 năm.
Trong khi cách mạng nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, đế quốc
Mỹ dã tâm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, hất
cẳng Pháp, dựng chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm, đưa phái đoàn
cố vấn quân sự Mỹ điều hành chế độ Việt Nam cộng hòa. Chúng ra
sức huấn luyện, xây dựng bộ máy kềm kẹp tới các xóm ấp, đánh phá
phong trào cách mạng, tiêu diệt cán bộ kháng chiến, làm tan ra cơ sở
quần chúng cách mạng trong dân. Dọc quốc lộ 20, chúng thành lập
3 xã: Hòa Bình, Định Quán, Phương Lâm, khôi phục đồn điền Túc
155

16.6 Page 156

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trưng do công ty cao su Đồng Nai (LCD) quản lý, tổ chức một tổng
đoàn dân vệ chia thành các tiểu đội về đóng ở từng xã, đồn điền cao
su và xóm ấp biệt lập, xây dựng các đồn bót với số lính được trang bị
mạnh trên dọc quốc lộ và những điểm quan yếu về mặt quân sự như
Túc Trưng, Định Quán.
Tháng 1/1955, thực hiện nhiệm vụ của Xứ ủy, tỉnh Biên Hòa
tách khỏi Thủ Biên. Đến giữa năm 1955, huyện ủy Xuân Lộc thành
lập. Định Quán thuộc lãnh đạo của Huyện ủy Xuân Lộc. Từ năm
1955 trở đi, phong trào đấu tranh chính trị hợp pháp bắt dầu nhen
nhóm và dần dần lan tỏa khắp đồn điền và các xã. Tại đồn điền Túc
Trưng, công nhân nhiều lần đấu tranh với tên chủ sở Giordani đòi
tăng lương, giảm phần cây cạo, thực hiện các quyền dân sinh dân
chủ. Ở Túc Trưng, Định Quán, phong trào đấu tranh đòi địch thi
hành hiệp định cũng diễn ra sôi động, đòi chính quyền không trả
thù những người kháng chiến cũ, đòi bỏ lệ trình diện hàng ngày, đòi
địch phải thực hiện hiệp thương hai miền chuẩn bị tổng tuyển cử
thống nhất đất nước. Để chống trò hề ‘Trưng cầu dân ý” do Diệm
tổ chức ngày 25/10/1955, đồng bào tẩy chay, không đi bỏ phiếu.
Địch phải huy động dân vệ, công an đến từng nhà lừa bắt nhân dân
đến hòm phiếu. Nhiều người đã bí mật xé phiếu hoặc gạch tên xóa
tờ phiếu in ảnh Diệm.
Định Quán là vành đai của Chiến khu Đ, có nhiệm vụ xây dựng
địa bàn trọng yếu của Chiến khu Đ ven quốc lộ 20. Giặc Mỹ Ngụy
cũng xem Định Quán, Tân Phú là cửa ngõ của Chiến khu Đ nên tập
trung đánh phá ác liệt.
Theo chỉ thị của Xứ ủy, khu vực các xã vùng Chiến khu Đ phải
giữ vững địa bàn, tiếp tục thực hiện chức năng chức năng căn cứ
địa của chiến khu, cần xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng hậu
phương trực tiếp cho cuộc chiến đấu sắp tới. thực hiện chỉ đạo của
Xứ ủy, hàng loạt đơn vị vũ trang cách mạng của miền Đông được
hình thành (Đại đội 60, đại đội 50, đại đội 70, đại đội 250). Đây là
lực lượng chủ lực của quân dân miền Đông, tác động trực tiếp và
156

16.7 Page 157

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thường xuyên hỗ trợ, phối hợp với lực lượng vũ trang vùng Chiến
khu Đ, trong đó có Định Quán.
Đầu năm 1960, Tỉnh ủy Biên Hòa họp mở rộng triển khai thực
hiện nghị quyết 15 (tháng 1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng và nghị quyết của Xứ ủy. Tinh thần của nghị quyết đã thổi một
luồng sinh khí mới vào phong trào cách mạng trên toàn tỉnh, đưa
cuộc chiến tranh chống Mỹ Diệm chuyển sang một thời kỳ mới - thời
kỳ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.
Khắp các xã Bình Hòa, Định Quán, Phương Lâm, đồn điền cao
su, phong trào đấu tranh cách mạng đang bắt đầu có những chuyển
động mới. Ở Túc Trưng, tháng 2/1960, lực lượng cấp trên phối hợp
với cơ sở địa phương rải truyền đơn, gõ thùng thiếc, rầm rập đi lại
uy hiếp tinh thần địch. Bọn lính trong đồn nằm im không dám đối
phó. Trong phong trào đồng khởi toàn miền Nam bắt đầu năm 1960,
hoạt động nổi dậy phá kềm của nhân dân các xã đồn điền Túc Trưng,
Định Quán còn yếu, hiệu quả thấp, nhưng tinh thần đồng khởi lan
tỏa mạnh mẽ trên địa bàn Định Quán, đánh dấu sự kết thúc một thời
kỳ đen tối của cách mạng và mở đầu thời kỳ cách mạng chuyển sang
thế tiến công.
Giai đoạn 1960 - 1965 là giai đoạn mở vùng, phát triển phong
trào cách mạng ở Định Quán.
Cuối năm 1960, Ban cán sự huyện Xuân Lộc được chỉ định thành
lập. Đầu năm 1961, hai đội võ trang Bắc và Nam lộ 20 hợp nhất
thành đơn vị vũ trang tuyên truyền huyện Xuân Lộc - Định Quán.
Ngày 30/7/1960, lực lượng vũ trang miền Đông phối hợp địa phương
tiến công đại đội 10 bảo an quân đội Sài Gòn tại Lý Lịch, tác động
hứng khởi phong trào cách mạng ở Định Quán, Tân Phú. Nhận rõ
tầm quan trọng của địa bàn chiến lược Xuân Lộc - Định Quán, cuối
năm 1961, Khu ủy miền Đông cử đồng chí Phạm Lạc (Tư Lạc),
nguyên đại đội trưởng đại đội La Nha, đã từng lăn lộn chiến đấu
ở địa bàn này trong chín năm kháng chiến chống Pháp, trở về hoạt
động lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương.
157

16.8 Page 158

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đến giữa năm 1962, phong trào cách mạng các xã dọc theo lộ 20
mới bắt đầu có những bước chuyển biến. Những hoạt động vũ trang
tuyên truyền, diệt ác phá kềm của bộ đội tỉnh Long Khánh và quân
khu miền Đông khơi dậy khí thế cách mạng quanh vùng Xuân Lộc
- Định Quán.
Trong lúc phong trào cách mạng đang được nhen nhóm gây dựng
lại ở Định Quán, Mỹ và chế độ Sài Gòn bước vào thực hiện chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”. Định Quán là một trong những quận
“trọng điểm”. Các kế hoạch bố phòng, tăng quân, mở rộng đồn bót
được ưu tiên để bảo vệ quốc lộ 20 huyết mạch từ Sài Gòn lên Đà
Lạt, hàng chục cây số qua Định Quán. Trên địa bàn Định Quán, địch
tung lực lượng chủ lực kết hợp với bọn bảo an, dân vệ liên tiếp mở
các cuộc hành quân càn quét với quy mô lớn, khủng bố, bắt bớ, gom
dân vào các ấp chiến lược (khoảng 31 ấp chiến lược trên địa bàn
Định Quán).
Tháng 10/1962, đội vũ trang tỉnh do đồng chí Tư Lạc trực tiếp chỉ
huy tiến hành điều nghiên đồn dân vệ ở xã Túc Trưng, lập kế hoạch
táo bạo, mượn một chiếc xe be của dân, chở bộ đội hóa trang lính
bảo an, bất ngờ tấn công, bắt sống toàn bộ tiểu đội dân vệ, thu nhiều
vũ khí, quân trang, quân dụng. Năm này, Ban cán sự tỉnh chủ trương
chia Xuân Lộc - Định Quán thành 4 khu vực gọi là các H, Định Quán
thuộc khu vực H2. Mỗi H ngoài số cán bộ chủ chốt còn có khoảng
một trung đội võ trang. Lực lượng này làm nòng cốt để xây dựng
mạng lưới cơ sở và du kích các xã.
Đầu năm 1963, tỉnh tăng cường một số cán bộ về Túc Trưng hoạt
động. Các đồng chí Sáu Vịnh, Ma Lăng, Út Hồng, Sáu Biên, Ba
Ngàn... thuộc bộ phận H2 chuyển căn cứ về khu vực Bàu Nước Sôi
(Định Quán) để tạo bàn đạp hoạt động, vận động, xây dựng gia đình
dân tộc ở Gia Canh, Cao Cang, Thuận Tùng thành cơ sở đắc lực, nhờ
đó, trong một thời gian ngắn các đồng chí đã vận động thêm nhiều
tân binh, xây dựng thành trung đội vũ trang làm nòng cốt cho phong
trào địa phương.
158

16.9 Page 159

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Cùng thời gian này, du kích và nhân dân các xã huyện Định Quán
(H2) đồng loạt nổi dậy diệt ác, phá kềm, phá banh các ấp chiến lược
Thanh Giang, Thanh Bình, Phú Cát, Bàu Vòi... hình thành một vùng
giải phóng rộng lớn từ bờ bắc sông Đồng Nai cho đến Cây Gáo, Túc
Trưng, Bàu Hàm (tiếp giáp với lộ 1 và lộ 20), mở ra tuyến hành lang
thông suốt từ Chiến khu Đ về Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh.
Khi chiến dịch Bình Giã bắt đầu (ngày 2/12/1964) quân dân Định
Quán tham gia bằng nhiều hoạt động. Bộ đội huyện Định Quán cùng
du kích các xã bao vây đồn bót địch ở Túc Trưng, La Ngà, 110, Định
Quán, quấy nhiễu vận chuyển quân sự của địch, tổ chức hàng chục
đợt cuộc đột kích đánh bọn dân vệ, diệt ác ôn, phá ấp chiến lược.
Trên tuyến quốc lộ 20, đồng bào đã mưu trí vượt sự kiểm soát của
địch đưa vào căn cứ hàng chục tấn hàng gồm lương thực, thực phẩm,
vải vóc, thuốc men... phục vụ chiến dịch Bình Giã. Hàng chục nam
nữ thanh niên ở Xuân Lộc - Định Quán, phần lớn là con em đồng
bào dân tộc Chơ-ro, Châu Mạ, S’tiêng hăng hái gia nhập các đoàn
dân công vận tải vũ khí đạn dược, tải thương... Nhiều anh chị em đã
trở thành chiến sĩ trinh sát, giao liên dũng cảm, đưa đón cán bộ, các
đơn vị bộ đội vượt đồn bót giặc, qua lại lộ 20 đảm bảo bí mật an toàn.
Tham gia chiến dịch Đồng Xoài (đầu tháng 5/1965), bộ đội địa
phương Định Quán và du kích các xã liên tiếp tổ chức phục kích, đột
nhập, tập kích các đơn vị, các đồn bót của địch giành nhiều thắng
lợi lớn ở khu vực Ba Sa, chi khu Định Quán. Ta hoàn toàn làm chủ
quốc lộ 20, cắt đứt đường dây điện cao thế Đa Nhim, buộc địch phải
lập cầu không vận Sài Gòn - Đà Lạt. Địch quyết tâm giải toả đường
20, ngày 15/5/1965 địch đưa lực lượng bộ binh có xe tăng cơ giới
mở đường từ Long Khánh lên, lọt vào trận địa phục kích của trung
đoàn 4, một tiểu đoàn biệt động quân và đại đội bảo an bị tiêu diệt,
26 xe quân sự gồm cả xe tăng, xe thiết giáp bị bắn cháy. Bộ Tư lệnh
Miền đã tặng bộ chỉ huy trận đánh Huân chương quân công hạng Ba.
Trung đoàn 4 và bộ đội địa phương H2 (Định Quán) được quân khu
gửi điện khen.
159

16.10 Page 160

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tháng 9/1965 (rằm tháng 8 âm lịch) bộ đội huyện kết hợp với
du kích địa phương tiến công đại đội 623 bảo an đóng tại Túc
Trưng, diệt một tiểu đội, thu 23 súng các loại. Cùng thời gian
này tại xã 110, đội võ trang H2 do đồng chí Sáu Vịnh trực tiếp
chỉ huy đã tổ chức phục kích diệt được tên Trương Văn Phúc -
trung úy đồn trưởng ác ôn, thường dẫn lính đi lùng sục bắt bớ,
khủng bố nhân dân.
Cuối năm 1965, các xã Bến Nôm, Cây Gáo, Bảo Chánh, Bình
Lộc, Trà Tân 1, Trà Tân 2, một số ấp ở phía nam lộ 20 cơ bản đã
được giải phóng. Thực lực cách mạng bên trong và bên ngoài các
xã ven quốc lộ 20 đã lớn mạnh. Ở Túc Trưng, ngoài số cán bộ chủ
chốt, cán bộ phong trào của xã, lực lượng du kích phát triển được
hơn một tiểu đội. Mạng lưới cơ sở cốt cán bên trong được tổ chức
xây dựng vững mạnh, bước đầu hình thành được các tổ hội mẹ
chiến sĩ, các chi hội thanh niên, phụ nữ, nông dân trong các ấp. Ở
thị trấn Định Quán chi bộ bên ngoài phát triển được 6 đảng viên
do đồng chí Út Thiện phụ trách Bí thư. Đội biệt động thị trấn cũng
được thành lập, đồng chí Phương được cử làm đội trưởng. Các chi
bộ La Ngà, chi bộ cây số 116 cũng phát triển, mỗi nơi đều có từ một
bán đội đến một tiểu đội du kích.
Đến cuối năm 1965, phong trào đấu tranh ba mũi chính trị, quân
sự, binh vận của quân dân ở Định Quán lên cao. Hệ thống ấp chiến
lược kiên cố của địch dọc theo lộ 20 cơ bản bị phá rã. Các xã Túc
Trưng, La Ngà, 110, 116... mặc dầu chưa hoàn toàn giải phóng nhưng
cơ bản ta làm chủ về ban đêm. Các hoạt động vũ trang tuyên truyền
ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Giai đoạn 1965 - 1975 là giai đoạn 10 năm Định Quán phát triển,
đánh bại các chiến dịch tìm diệt, bình định của địch, thắng lợi trong
hoạt động xuân hè 1966, Mậu Thân 1968, góp phần tích cực trong
chiến dịch Xuân 1975 tiến đến giải phóng hoàn toàn miền Nam thống
nhất đất nước.
Từ năm 1966, Định Quán tạo nhiều chiến công trong đánh địch
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tìm diệt và bình định, mở rộng cửa khẩu hậu cần nuôi quân. Ngày
5/5/1965. lữ đoàn dù 173 Mỹ đổ bộ vào Vũng Tàu rồi được chuyển
về Biên Hòa. Tháng 9/1966, Mỹ đưa trung đoàn 11 thiết giáp lập
căn cứ tại Suối Râm (lộ 2 - Xuân Lộc). Ở Định Quán, một đại đội
lính Mỹ thuộc sư đoàn 199 đóng chốt ở đồi Lăng Xi (sát trung tâm
quận lỵ). Từng cụm quân Mỹ đóng căn cứ dã ngoại dọc theo quốc
lộ 20. Chúng thường xuyên phối hợp với quân đội Sài Gòn mở
nhiều cuộc hành quân càn quét, đánh phá vùng giải phóng La Ngà,
Định Quán, Phương Lâm.
Đầu năm 1966, Khu ủy miền Đông quyết định sát nhập hai tỉnh
Bà Rịa và Long Khánh thành tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Huyện
Định Quán thành lập trên cơ sở sát nhập H1 và H2, được Khu ủy
miền Đông và Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh tăng cường hàng chục
cán bộ chiến sĩ, đồng chí Ba Bộ sau đó là đồng chí Năm Cư được
cử làm Bí thư Huyện ủy. Huyện ủy củng cố các tổ chức ban ngành
đoàn thể để tăng cường cho việc chỉ đạo xây dựng cơ sở ở các xã;
củng cố lực lượng vũ trang làm nòng cốt đấu tranh. Hội Phụ nữ
huyện do đồng chí Nguyễn Thị Tâm (Hai Tâm) làm hội trưởng.
Đồng chí Năm Hòa được cử làm Bí thư Huyện đoàn thanh niên.
Các ban binh vận, ban dân tộc, đội công tác cao su của huyện cũng
được thành lập. Mỗi ban ngành của huyện đều có từ 3 đến 5 cán
bộ chuyên trách luôn bám sát cơ sở để chỉ đạo phong trào các xã.
Trọng điểm chỉ đạo của huyện là các xã Bình Lộc, Túc Trưng và thị
trấn Định Quán. Bộ đội địa phương huyện có một đại đội hơn 100
cán bộ chiến sĩ do các đồng chí Sáu Vịnh, Bảy Thành chỉ huy. Đội
trinh sát vũ trang thuộc ban an ninh huyện cũng được tổ chức gồm
5 chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Giới làm đội trưởng.
Huyện ủy có chủ trương: Tiếp tục củng cố, phát triển lực lượng
vũ trang, chính trị của bên trong và bên ngoài, đẩy mạnh phong trào
đấu tranh cách mạng ở địa phương theo phương châm ba mũi, giữ
vững các vùng giải phóng, vùng làm chủ, nhất là các cửa khẩu hậu
cần trên lộ 20. Tăng cường cán bộ về cho các xã yếu, thiếu, tập trung
khu vực đồng bào dân tộc, đồng bào di cư, chuyển phong trào các xã
161

17.2 Page 162

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
La Ngà, 125 lên thế tranh chấp mạnh, chuẩn bị chống địch càn quét
lấn chiếm...
Giữa năm 1966, bộ đội huyện và du kích xã 110 phục kích bọn
lính bảo an đi xúc tát dân ở đoạn cây số 107 diệt 1 tiểu đội và phá
hỏng một xe quân sự.Trên đoạn đường từ Dốc Mơ, Gia Kiệm đến
Túc Trưng, bác Chín Tào đã hàng chục lần đặt mìn đánh xe cơ giới,
đánh bọn địch đi hành quân càn quét, diệt hàng chục tên lính các
loại, trong đó có tên Trần Kinh Đô - tiểu khu trưởng tiểu khu Long
Khánh. Giữa năm 1968, bác Chín Tào bị thương, sau đó hy sinh để
lại niềm thương tiếc và cảm phục cho cán bộ chiến sĩ và nhân dân
trong huyện.
Đội biệt động thị trấn Định Quán xây dựng được cơ sở khá vững
chắc, có những hoạt động hiệu quả, nhiều lần hóa trang đột nhập vào
thị trấn diệt địch ngay giữa ban ngày. Trong hai năm 1966 – 1967,
diệt hơn 50 tên địch ngay sát quanh đồn bót của chúng. Du kích xã
Túc Trưng cũng liên tục tổ chức đánh bọn dân vệ đánh diệt nhiều
cảnh sát bình định ở các ấp Đức Thắng, Cây Xăng, gây cho địch
nhiều tổn thất.
Phong trào chiến tranh du kích phát triển trong huyện tạo điều
kiện cho bộ đội chủ lực tổ chức đánh diệt các đơn vị quân Mỹ, quân
đội Sài Gòn trên quốc lộ 20. Từ năm 1966, các lực lượng bộ đội chủ
lực quân khu, chủ lực Miền đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội huyện
và du kích các xã mở nhiều cuộc tập kích, phục kích đánh địch ở
Túc Trưng, La Ngà, Định Quán, cây số 123, 125... Nổi bật là trận
đánh ngày 21/7/1967 tại cua Chữ C (cột cây số 95, cách cầu La Ngà
khoảng 6km). Trung đoàn 5 (Sư đoàn chủ lực Miền), phục kích đoàn
xe cơ giới của trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ phá hủy hơn 40 xe tăng,
xe bọc thép, bắn rơi 3 máy bay diệt hàng chục lính Mỹ.
Quốc lộ 20 trở thành nỗi kinh hoàng đối với lính Mỹ và sư đoàn
18 Ngụy. Càng kinh hoàng, Mỹ ngụy càng tăng cường lực lượng và
vũ khí bảo vệ kỳ được tuyến đường xương máu nối Sài Gòn - Đà
Lạt này. Túc Trưng, Định Quán, Phương Lâm càng trở thành trọng
162

17.3 Page 163

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
điểm đánh phá. Dù vậy, năm 1966 - 1967, ở ven lộ 20, các đoàn hậu
cần 81, 84 của Miền vẫn liên tục hoạt động ở các cửa khẩu, có ngày
thu mua được hàng chục tấn gạo và các mặt hàng thiết yếu khác.
Các đoàn hậu cần của tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, hậu cần Quân khu
7, Quân khu 6... cũng bám địa bàn Định Quán, Túc Trưng thu mua
được nhiều hàng ở các cửa khẩu. Trong tiến công và nổi dậy năm
Mậu Thân 1968, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện ủy Định Quán khẩn
trương chuẩn bị đầy đủ các mặt cho đợt tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân 1968. Nhiệm vụ chủ yếu của huyện là củng cố, tăng
cường lực lượng bộ đội địa phương, huyện đội trinh sát vũ trang và
du kích các xã, rà soát và nắm chặt mạng lưới cơ sở mật bên trong
các xã ấp, chú trọng xây dựng các đội du kích mật, tạo được thế bám
trụ vững chắc trong nhân dân trước khi bước vào chiến dịch. Đi đôi
với hoạt động của lực lượng địa phương, các cửa khẩu trên địa bàn
huyện phối hợp đoàn hậu cần 84 Miền khẩn trương triển khai công
tác thu mua vận chuyển hàng, xây dựng các kho hậu cần, chuẩn bị
cho các đơn vị chủ lực tiến về hoạt động đánh địch ở Biên Hòa và
Bà Rịa - Long Khánh. Định Quán đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao.
Trong các đợt tiến công nổi dậy, Định Quán cũng hoàn thành
nhiệm vụ, chiến đấu dũng cảm, nhiều hy sinh, tổn thất, nhưng thắng
lợi vẻ vang. Cụ thể, đêm 1/2/1968, ở Định Quán, Túc Trưng, lực
lượng vũ trang huyện phối hợp các đơn vị chủ lực bắt đầu nổ súng
tiến công địch, trọng điểm là chi khu Định Quán và xã Túc Trưng,
làm chủ tình hình một ngày. Sau đó, đêm 6/3/1968, bộ đội huyện và
du kích tập kích bọn địch đóng dã ngoại ở ấp Chợ (Túc Trưng), làm
chủ khu vực Túc Trưng lần thứ 2. Chiều ngày 7/3/1968 địch phản
kích dữ dội, lực lượng ta hy sinh 3 đồng chí, 11 đồng chí khác bị
thương, Ban Chỉ huy ra lệnh rút khỏi trận địa.
Ngày 5/5/1968, quân dân Định Quán tiếp tục bước vào đợt 2 chiến
dịch với sự hỗ trợ phối hợp tác chiến của bộ đội chủ lực Miền. Rạng
sáng ngày 5/5/1968 bộ đội địa phương huyện và du kích xã nổ súng
tiến công vào yếu khu Túc Trưng. Cùng ngày bộ đội trung đoàn 4
163

17.4 Page 164

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
(Sư đoàn 5 bộ đội chủ lực) đánh địch trên lộ 20 (đoạn cây số 112)
diệt gọn tiểu đoàn 2 (trung đoàn 43, sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn).
Đêm 17/5/1968 trung đoàn 4 (Sư đoàn 5) lại tiếp tục cùng lực lượng
địa phương huyện tiến công chi khu Định Quán và đồn Suối Rắc
(Túc Trưng). Những trận tiến công này tuy ta diệt được nhiều sinh
lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng, nhưng bộ đội ta cũng
bị thiệt hại nặng (hơn 100 cán bộ chiến sĩ hy sinh và bị thương), bộ
đội huyện và du kích các xã cũng bị tổn thất đáng kể. Phong trào
cách mạng ở địa phương trong huyện bắt đầu bước vào thời kỳ khó
khăn gian khổ.
Những đòn tiến công và nổi dậy trong năm 1968 của quân dân
Định Quán vào những cơ quan đầu não của địch trên địa bàn huyện
đã đánh dấu một bước chuyển mạnh của phong trào cách mạng ở
địa phương, góp phần giành thắng lợi to lớn, cùng với nhân dân toàn
miền buộc Mỹ, Ngụy phải ngồi vào bàn đàm phán ở Paris..
Giai đoạn 1969 -1973 là những năm Định Quán khắc phục khó
khăn, vươn lên đánh bại các kế hoạch bình định của Mỹ và quân đội
Sài Gòn.
Sau Mậu Thân, chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ phá sản, từ
thế chủ động tìm diệt và bình định Mỹ buộc phải chuyển sang thế bị
động thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”. Từ cuối năm 1968, địch
tổ chức phản kích với kế hoạch bình định Lê Lợi nhằm đạt các mục
tiêu đánh phá cơ sở cách mạng bên trong các xã ấp, lập lại các ấp
chiến lược, cưỡng ép nhân dân thành lập tổ chức phòng vệ dân sự.
Song song, địch mở chiến dịch Nguyễn Trãi, đẩy mạnh chiến tranh
tâm lý, chiêu hồi, tung bọn tình báo Phượng Hoàng Thiên Nga về các
vùng nông thôn để gây chia rẽ, nghi ngờ trong lực lượng cách mạng,
lôi cuốn hồi chánh.
Bên ngoài, quân Mỹ kết hợp chủ lực quân Sài Gòn, bảo an tăng
cường các cuộc hành quân càn quét hòng tiêu hao và đẩy lùi quân
giải phóng ra xa các vùng đông dân, giành lại nông thôn quanh các
thị xã, thị trấn, bảo vệ các trục lộ giao thông quan trọng, phá các căn
164

17.5 Page 165

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cứ kho tàng dự trữ và các cửa khẩu của cách mạng. Mỹ từng bước
tăng cường trang bị, chuyển giao khí tài cho quân Sài Gòn. Chúng
rút quân từng bước, nhưng vẫn tăng cường độ đánh phá ngày càng ác
liệt nhằm bảo vệ đầu cầu và tuyến hành lang rút quân. Huyện Định
Quán là vùng tiếp giáp với khu 6 và Tây nguyên, nằm trên hành lang
giao thông chiến lược từ căn cứ miền Đông (khu A - chiến khu Đ) về
Bà Rịa - Long Khánh, cũng là địa bàn hoạt động của đoàn hậu cần
81, 84 (của hậu cần Miền) để tiếp nhận và thu mua hàng hóa, từ các
cửa khẩu trên quốc lộ 20 phục vụ cho bộ đội chủ lực ở miền Đông.
Chính vì vậy, địch ra sức đánh phá và bình định ở Định Quán.
Những tháng đầu năm 1969, địch liên tục càn quét vào căn cứ của
huyện xã. Tháng 4/1969, một đại đội thuộc lữ 199 Mỹ càn quét một
ngày một đêm vào căn cứ. Bộ đội huyện, đội an ninh vũ trang huyện,
du kích các cơ quan đã bố trí chống càn bằng trái tự tạo từ đầu đạn
105 ly, diệt 3 tên, ngăn chặn địch không vào được căn cứ. Liên tiếp
trong hai ngày 11 và 12/3/1969, tiểu đoàn 5 trung đoàn 174 đã tổ
chức đánh phục kích giao thông trên đường 20, đánh chặn viện binh
của địch, tiêu diệt hai chi đoàn xe thiết giáp 36 chiếc và 232 tên địch.
Đầu tháng 5/1969, Bộ Tư lệnh Sư 5 Miền lại tổ chức trận vận động
phục kích diệt bọn bình định từ Long Khánh lên lộ 20, tổng kết trong hai
ngày 8 và 9/5/1969 ta diệt và làm bị thương 770 tên (có hai tên thiếu tá
tiểu đoàn trưởng) đánh tiêu diệt và làm thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch,
bắn rơi hai máy bay, thu 30 súng các loại và 4 máy vô tuyến.
Tháng 6 năm 1969, đội du kích xã Túc Trưng do đồng chí Điểu
Cải - xã đội trưởng chỉ huy và đội an ninh vũ trang huyện (Cường và
Tiến) đã hóa trang thành lính sư 18 Sài Gòn, thực hiện lối đánh biệt
động, phục kích diệt 17 tên lính Sài Gòn tại chợ Túc Trưng.
Tháng 7 năm 1969 trong lúc đi tải lương thực, các đồng chí
Nguyễn Văn Bé, Điểu Cải, Tỉnh, Điểu Mặn... phát hiện một trực
thăng địch đang thả dù tiếp tế cho một toán quân Mỹ. Đồng chí Nu
và đồng chí Tân hỗ trợ cho đồng chí Mặn dùng B40 bắn rơi chiếc
trực thăng, diệt tên phi công và làm bị thương nhiều tên khác. Tháng
165

17.6 Page 166

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
7 năm 1969, đội an ninh vũ trang huyện do đồng chí Ngọc chỉ huy
cùng đồng chí Năm Đê và Điểu Cải lại bất ngờ hóa trang đột nhập
vào chợ dùng mã tấu diệt hai tên ác ôn khác.
Tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn Miền, đồng chí
Điểu Cải thay mặt đội du kích xã Túc Trưng, lên báo cáo về lối đánh
đặc công của đội biệt động. Đồng chí Ngọc đội trưởng an ninh vũ
trang huyện được Bộ Chỉ huy Miền ngợi khen và tặng thưởng một
khẩu tiểu liên.
Những tháng cuối năm 1969, phong trào đấu tranh tuyên truyền
chính trị, binh vận của huyện Định Quán phát triển khá đều. Tại thị
trấn Định Quán, đội biệt động do đồng chí Sáu Phương chỉ huy cùng
trinh sát huyện liên tục tiến công diệt ác ôn tại cây số 110, 116... mở
thế kềm cho quần chúng. Đội du kích xã Bến Nôm dùng mìn tự tạo
ĐH 10 đánh diệt 15 tên Mỹ, bẻ gãy trận càn vào căn cứ xã. Trong
những tháng cuối năm 1969, quân và dân Định Quán đã đánh địch
41 trận diệt 362 tên làm bị thương 22 tên, bắt sống 9 tên thu 4 súng.
Phong trào của huyện bước đầu vượt được khó khăn và có chuyển
biến phát triển.
Đầu năm 1970, địch sử dụng sư đoàn 18 ngụy, lữ đoàn 199, 173
Mỹ liên tục càn quét đánh phá vào tả ngạn, hữu ngạn sông Đồng Nai
dùng B52 ném bom hủy diệt ở vùng Bắc sông La Ngà, Suối Đá, Đồi
Dâu, núi Sa Bi... phá địa hình, kho tàng cách mạng. Mục tiêu của
địch là diệt quân chủ lực của Miền đang hoạt động ở địa phương, phá
các cửa khẩu hậu cần, tạo điều kiên cho Ngụy từng bước bình định
các ấp chiến lược. Địch lấy Bình Lộc, Túc Trưng, Định Quán làm thí
điểm của chương trình bình định ở địa phương, tung các đoàn cán
bộ bình định “Trường Sơn” xuống từng ấp thực hiện nhiều thủ đoạn
lừa bịp, mỵ dân, chia rẽ nội bộ, đánh phá cơ sở trong dân. Nhận rõ
âm mưu thâm độc của địch, huyện ủy Định Quán chỉ đạo cán bộ, du
kích huyện, xã phải tăng cường bám sát quần chúng, đẩy mạnh hoạt
động vũ trang tuyên truyền, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn bình
định và mua chuộc của địch.
166

17.7 Page 167

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngày 26/3/1970, Ban Cán sự và Bộ tư lệnh T7 mở đợt tiến công
xuân 1970 mang tên “chiến dịch CD” nhằm tiêu diệt sinh lực địch,
hỗ trợ các địa phương đánh phá bình định. Ban Cán sự T7 lấy Xuân
Lộc làm điểm, hướng Định Quán và quốc lộ 20 làm diện phối hợp.
Đúng dịp trung đoàn 43 sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn tổ chức càn
quét vào căn cứ của huyện ở bắc lộ 20 (cây số 94), đội trinh sát vũ
trang huyện phối hợp với bộ đội chủ lực chủ động tổ chức đánh địch
ngay bìa lộ cao su Túc Trưng, diệt một trung đội địch, trong đó có
1 trung úy quân đội Sài Gòn, lực lượng ta có 6 chiến sĩ bị thương,
đồng chí Trương Minh Ngọc được Ban Cán sự T7 tặng thưởng Huân
chương Giải phóng.
Túc Trưng là xã đông dân, nơi cung cấp nhiều của và người cho
cách mạng, nên địch bố phòng tương đối dày. Chúng thường xuyên
bắn pháo, gài mìn, trái trên các tuyến đường vào xã ngăn chặn dân
tiếp xúc quan hệ với kháng chiến. Hai cơ sở liên lạc Ngô Thị Tuyết
và Trần Thị Giàu của Chi bộ Túc Trưng trên đường liên lạc từ căn
cứ huyện về xã đã đạp phải mìn gài của địch ở ấp Cây Xăng, hy
sinh. Theo chỉ đạo của Huyện ủy, chi bộ xã, hội phụ nữ xã vận động
nhân dân đấu tranh. Hơn 100 đồng bào đã kéo lên vây hội đồng xã,
bắt đánh tên trung đội trưởng bảo an, đồng thời buộc địch phải bồi
thường cho hai người bị hại, đòi địch không được gài mìn trái để
nhân dân đi rẫy không thiệt hại. Đám tang hai chị Tuyết và Giàu
được tổ chức 2 ngày, bọn hội đồng xã và đồn bảo an phải cho người
đến viếng tang, xin lỗi gia đình nạn nhân, bồi thường cho người bị
hại và hứa sẽ gỡ mìn, trái cho bà con đi làm.
Ngày 5/5/1969 chú Ba Giám cơ sở cách mạng làm giao liên 2
xã Bến Nôm - Túc Trưng trên đường làm nhiệm vụ bị địch bắt, chú
kiên quyết không khai báo, bọn địch tức tối dùng mìn giết hại. Tấm
gương hy sinh của chú Ba Giám đã để lại niềm thương yêu kính
trọng trong lòng nhân dân Bến Nôm - Túc Trưng. Tháng 8/1970,
bọn bảo an, dân vệ từ yếu khu Túc Trưng tổ chức càn quét để dồn
dân ấp Đức Thắng ra quốc lộ 20. Nghe tiếng súng nổ, đồng chí Điểu
Cải cùng 3 du kích Được, Nam, Nghịch từ căn cứ vận động ra đánh
167

17.8 Page 168

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
địch ở đầu ngọn Suối Nho. Trên đường vận động, Điểu Cải cùng hai
đồng chí Nghịch, Được hy sinh, đồng chí Nam bị thương. Sự hy sinh
của các đội viên du kích xã Túc Trưng, trong đó có Điểu Cải - xã
đội trưởng người dân tộc Chơ-ro là một tổn thất cho phong trào ở
xã, huyện, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho nhân dân Định Quán.
Ngày 30/8/1995, Nhà nước đã truy tặng đồng chí Điểu Cải danh hiệu
cao quý: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tháng 3/1973, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh tách huyện Xuân
Lộc - Định Quán thành hai huyện Xuân Lộc và Định Quán. Tỉnh
ủy cử đồng chí Võ Tấn Vịnh (Sáu Vịnh) làm Bí thư Huyện ủy Định
Quán, đồng chí Phạm Bình làm Phó Bí thư kiêm Trưởng an ninh
huyện đóng tại rừng Gia Canh.
Trong chiến dịch mùa khô 1974 - 1975 và chiến dịch mùa Xuân
1975, Định Quán tích cực tham gia chiến dịch, thực hiện tốt mọi
nhiệm vụ được giao, là đơn vị cấp huyện giải phóng sớm nhất
(20/3/1975) góp phần vào trận thắng Xuân Lộc, tiến đến giải phóng
hoàn toàn miền Nam.
Cuối tháng 10/1974, Trung ương Cục quyết định thành lập tỉnh
Tân Phú. Tỉnh Tân Phú gồm hai huyện Định Quán và Độc Lập. Mục
đích là tạo bàn đạp và điều kiện cho các binh đoàn chủ lực tiến công
ở hướng đông Sài Gòn. Đồng chí Võ Tấn Vịnh (Sáu Vịnh) được cử
làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Thái Văn Thái là Phó Bí thư, đồng chí
Tư Bình là Tỉnh đội trưởng, đồng chí Phạm Văn Bình là Trưởng
Công an. Lực lượng vũ trang gồm có hai đại đội K9 (bộ đội huyện
Định Quán) và C 374 (bộ đội huyện Độc Lập).Nhiện vụ của tỉnh căn
cứ Tân Phú là chuẩn bị hậu cần cho các lực lượng vũ trang, xây dựng
bàn đạp phía Đông cùng các mũi tiến công vào giải phóng Sài Gòn.
Bước vào mùa khô 1974 - 1975, cục diện chiến trường toàn miền
có nhiều chuyển biến thuận lợi cho cách mạng. Bọn địch ở Tân Phú
đánh hơi được các hoạt động chuẩn bị địa bàn của cách mạng nên ra
sức tăng cường phòng thủ. Chúng điều tiểu đoàn 133 và một đại đội
cảnh sát dã chiến chi viện Định Quán.
168

17.9 Page 169

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngày 15/11/1974, Tỉnh ủy Tân Phú đã triệu tập hội nghị đánh
giá tình hình và đề ra phương hướng nhiệm vụ: “Tập trung chỉ
đạo mở rộng diện đánh phá bình định, đưa phong trào chính trị
binh vận lên, nắm chắc và sử dụng lực lượng vũ trang, kết hợp
chặt 3 mũi với pháp lý hiệp định, kiên quyết và liên tục tiến công
đánh bại cơ bản kế hoạch bình định di dân lấn đất của địch. Nhanh
chóng xây dựng vùng căn cứ giải phóng từng bước vững chắc,
tập trung và khẩn trương xây dựng, phát triển thực lực 3 mũi tạo
một bước nhảy vọt, ra sức động viên sức người, sức của nhằm
làm thay đổi tương quan tại chỗ, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu
thủ đoạn mới của địch, mở đồn bót, giải phóng xã, ấp và mở thế
tranh chấp mạnh 2/3 số ấp, giành trên 40.000 dân, đưa về vùng
giải phóng 12.000 dân. Tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi, để giành
được thắng lợi có ý nghĩa quyết định, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn...”.
Thực hiện nhiệm vụ Tỉnh ủy giao, đêm 7/12/1974, bộ đội K9,
trinh sát vũ trang, du kích xã, cán bộ chính trị tổ chức 3 mũi bao
vây đồn 125. Ngày 8/12/1974, bộ đội đặc công thủy đánh địch tại
cầu La Ngà. Ngày 15/12/1974, tại Túc Trưng, Bến Nôm, đại đội
374 tỉnh hỗ trợ cho địa phương tổ chức đánh địch trên quốc lộ 20,
diệt 5 tên, làm bị thương 12 tên, thu 2 súng.
Ngày 30/12/1974, để bảo vệ đường 20, địch điều chiến đoàn 43
sư đoàn 18 gồm 8 tiểu đoàn, 2 chi đoàn thiết giáp và một đại đội
trinh sát theo quốc lộ 20 đường Trà Cổ, Đồng Hiệp tiến lên giải
vây cho Hoài Đức, Võ Đắc. Tỉnh ủy Tân Phú ra chỉ thị 01 cho các
đơn vị vũ trang tỉnh phải phối hợp với lực lượng ở trên “vừa đánh
bình định, bung dân xây dựng các mặt của ta thật tốt, vừa đánh
bại chiến đoàn 43 địch”.
Trong các ngày 30 và 31 tháng 12, bộ đội tỉnh, K9 cùng trinh
sát vũ trang, du kích xã 125 bám sát và liên tục tập kích chiến
đoàn 43 từ km 2 đến km 7 đường Trà Cổ, diệt 60 tên, làm chậm
bước tiến của địch. Ngay trong ngày, bộ đội tỉnh và Quân khu 7
169

17.10 Page 170

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
phối hợp tập kích vào sở chỉ huy chiến đoàn 43 Ngụy ở cây số 125
buộc địch rút chạy về 116. Tại cây số 116, bộ đội K9 và du kích
116 tổ chức tập kích ban ngày vào sở chỉ huy mới của địch. Một
lần nữa địch tháo chạy về chi khu, sau đó, ngày 28/1/1975, toàn
bộ rút về Long Khánh.
Ngày 10/3/1975, quân giải phóng tiến công Buôn Mê Thuột
mở đầu chiến dịch Tây Nguyên cũng là mở đầu cho cuộc tiến
công chiến lược trên toàn miền Nam. Trung ương Cục và Bộ Chỉ
huy Miền đã nhận định: Chi khu Định Quán là điểm phòng thủ án
ngự đường 20, nếu ta chiếm được chi khu này, làm chủ đường 20
phối hợp với mặt trận đường 3, đường 1 sẽ mở được hành lang và
đường tiến công ở hướng Đông, thực hiện được ý đồ chiến lược
giải phóng Sài Gòn.
Từ nhận định này, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 điều sư đoàn 7 chủ
lực về hoạt động trên đường 20, phối hợp với lực lượng tỉnh Tân
Phú và quân khu tiến công giải phóng đường này, mở đường cho
chủ lực tiến về Long Khánh. Bộ Tư lệnh tiền phương mặt trận
đường 20 được thành lập do đồng chí Bùi Cát Vũ làm Tư lệnh,
đồng chí Ba Chắc Tỉnh đội trưởng Tân Phú làm Phó Tư lệnh,
đồng chí Sáu Lộc làm Tham mưu trưởng, đồng chí Sáu Vịnh làm
Chính ủy. Căn cứ chỉ huy sở mặt trận đóng tại Suối Son (tây lộ
20). Sư đoàn 7 có pháo binh Quân đoàn 4 yểm trợ tiến công giải
phóng chi khu Định Quán. Huyện Tân Phú huy động lực lượng vũ
trang địa phương gồm 2 đại đội K9 (thuộc Định Quán) và C374,
1 trung đội công binh, 1 trung đội trinh sát và du kích La Ngà đến
yếu khu Túc Trưng. Chi bộ mật Túc Trưng và các tổ binh vận huy
động trong nhân dân hơn 1 tấn gạo và 1.000 lít xăng dự trù phục
vụ cho chiến dịch. Các đồng chí Ba Xuân, Ba Đăng đảng viên mật
phụ trách nắm tình hình địch và liên lạc khi đợt tiến công nổ ra.
Ngày 17/3/1975, cuộc tiến công địch trên đường 20 bắt đầu.
Pháo binh sư đoàn 7 mở màn bằng hàng loạt pháo bắn tấp nập vào
chi khu, Phương Lâm, La Ngà, núi Tràn, đồi Lăng Xi cao điểm
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
112. 5 giờ 40 phút ngày 17 tháng 3, lực lượng ta tiến công vào chi
khu Định Quán. Dựa vào công sự, địch phản kích rất ác liệt. Cuộc
chiến đấu giằng co từ 5 giờ 40 phút đến 17 giờ cùng ngày, quân
ta chiếm được chi khu, khu chợ ở phía Nam, cắm cờ giải phóng
trên nóc sở chỉ huy chi khu, sau đó phát triển đánh địch ở từng
gộp đá. Đến 16 giờ, quân ta đánh chiếm được dinh quận trưởng,
bọn chúng phải chuyển chỉ huy sở ra các gộp đá để tiếp tục phản
kích. Đến tối quân ta chiếm được trận địa pháo, cao điểm 112 và
hai gộp đá cứ điểm của địch. 5 giờ 30 phút ngày 18/3, quân ta mở
cuộc tiến công đánh chiếm các căn cứ điểm ở các gộp đá còn lại.
Cuộc chiến đấu hết sức gian khổ vì địch có điểm cao và hầm hào
cố thủ vững chắc. Địch ngoan cố cho nổ kho đạn lớn hòng ngăn
chặn sức tiến công của quân ta để chờ viện quân. Nhưng mọi cố
gắng của chúng đều vô vọng. Tối ngày 20/3/1975, quân ta đánh
chiếm hoàn toàn chi khu Định Quán, bắt sống toàn bộ ban chỉ huy
chi khu Định Quán, trong đó có thiếu tá chánh chi khu trưởng
kiêm quận trưởng Định Quán, tên thiếu tá trưởng ty cảnh sát, tên
thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2, 4 đại úy và 50 lính.
Sau đó, bộ đội K9 được lệnh hành quân về xã 125 cùng với du
kích bao vây cô lập bức rút đồn 125, đến 23 giờ ngày 18/3/1975,
đồn 125 bị diệt, xã 125 hoàn toàn được giải phóng. 17 giờ ngày
20/3, quân ta tiến công đồn La Ngà, đánh thiệt hại đại đội bảo an
đóng giữ và bọn tân binh từ chi khu Định Quán về, bắt sống 60
binh lính và sĩ quan của chiến đoàn 43 quân đội Sài Gòn. Như vậy
chỉ trong ba ngày tiến công, đến ngày 20/3/1975, toàn bộ chi khu,
đồn bót của địch từ La Ngà đến Phương Lâm bị quét sạch. Khu
vực từ La Ngà đến Phương Lâm hoàn toàn được giải phóng. Yếu
khu Túc Trưng và toàn xã Túc Trưng cũng được giải phóng hoàn
toàn ngày 14/4/1975.
Như vậy, Định Quán là đơn vị cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai được giải phóng sớm nhất (20/3/1975) và nhanh nhất (3
ngày, bắt đầu từ 17/3). Cửa ngõ kiên cố Định Quán đã mở, tạo bàn
đạp và điều kiện thuận lợi cho quân chủ lực bao vây tiến công giải
171

18.2 Page 172

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
phóng thị xã Long Khánh, đập tan tuyến phòng thủ cuối cùng của
ngụy quyền, giành thắng lợi trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến
về giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Thành tích của các lực lượng thuộc địa bàn Tân Phú, Định
Quán được Đảng và Nhà nước ghi nhận, tặng thưởng cho nhiều
Huân, Huy chương, Bằng khen, Giấy khen các loại cho các cá
nhân, tập thể, gia đình có công với cách mạng; trong đó, một cá
nhân Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Liệt sĩ Điểu Cải,
30/8/1995), 1 tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (xã
Phú Túc, 1998), 57 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng. Nhàn dân và Lực
lượng vũ trang nhân dân huyện Định Quán được Chủ tịch Nước
quyết định phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân năm 1996.
172

18.3 Page 173

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Vĩnh Cửu
Vĩnh Cửu(1) là một huyện thuộc tỉnh Đồng Nai, vị trí ở phía
Tây Bắc tỉnh lỵ Đồng Nai, trải dài từ Vườn quốc gia Cát Tiên đến
thành phố Biên Hòa;có địa giới hành chính tiếp giáp các huyện
thuộc tỉnh Đồng Nai (Tân Phú, Định Quán, Trảng Bom, thành phố
Biên Hòa) cùng huyện Phú Giáo, Tân Uyên của Bình Dương và
huyện Đồng Phú của tỉnh Bình Phước. Huyện Vĩnh Cửu có diện
tích 1.092 km² và dân số là 124.912 người (năm 2009)(2).
Vĩnh Cửu là địa bàn cư trú lâu đời của người cổ xưa. Kết quả
khảo cổ cho thấy người cổ xưa đã sinh sống nơi đây với nền văn
minh thời đồ đá, kim khí, được chứng minh qua các hiện vật tìm
thấy ở ven sông Tân Triều, Cù Lao Rùa, Bình Thạnh, Thiện Tân,
Cẩm Vinh, Cây Gáo… niên đại sớm nhất cách đây 3.000-2.500
năm. Các hiện vật thuộc lớp văn hóa Óc Eo nhiều thời kỳ (thế kỷ
3 đến thế kỷ 10 SCN) cũng được tìm thấy nhiều nơi trên địa bàn
Vĩnh Cửu. Nhưng, chủ nhân của những nền văn hóa này đến nay
vẫn chưa có đủ lời giải tường minh.
Theo sử sách, trước thế kỷ 17, vùng đất thuộc huyện Vĩnh
Cửu ngày nay còn là một vùng đất rừng rậm hoang vu. Lê Quý
(1) Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Cửu và Wikipedia.
(2) Theo “Tổng quan dân số và nhà ở tỉnh Đồng Nai năm 2009” của Cục Thống
kê Đồng Nai, 2010.
173

18.4 Page 174

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đôn trong tác phẩm Phủ biên tạp lục viết vào thế kỷ 18, cho rằng
người Việt có mặt trên đất Vĩnh Cửu có lẽ vào thế kỷ 17. Họ là
những người nông dân phản kháng sự áp bức của chế độ phong
kiến và chống đối chiến tranh của hai tập đoàn Trịnh (phía Bắc)
và Nguyễn (phía Nam), nên đã tìm đến phương Nam để sinh sống.
Nhiều đợt di dân khác nhau với nhiều lý do khác nhau. Có thể họ
ngược các dòng sông lớn, dừng lại ở nơi đất lành; trong đó vùng
Bến Cá là một trong những địa phương sớm có người Việt đến lập
làng, khai khẩn.
Từ năm 1808, thời vua Gia Long (Nguyễn Ánh), vùng đất Vĩnh
Cửu thuộc tổng Phước Vinh, huyện Phước Chánh(3). Năm 1836,
vua Minh Mạng cho lập địa bạ các tỉnh để quản lý đất đai. Theo
địa bạ, huyện Phước Chánh từ 2 tổng tách thành 6 tổng(4). Địa bàn
huyện Vĩnh Cửu ngày nay thuộc hai tổng Chánh Mỹ Trung và
Chánh Mỹ Hạ.
Từ 1945 đến 1948, địa bàn Vĩnh Cửu ngày nay thuộc quận
Châu Thành. Ngoài các xã Bình Hòa, Bình Ý, Tân Triều, quận
Châu Thành còn bao gồm các xã Tân Hạnh, Tân Hiệp, Bình Trị,
Trảng Bom (cả Hố Nai, thuộc huyện Thống Nhất), Tam Hiệp,
Tân Phong, Tân Thành, Hóa An, Bửu Hòa, Tân Vạn, Hiệp Hòa
(nay thuộc thành phố Biên Hòa), Tân Hưng, An Hòa, Long Hưng,
Phước Tân (nay thuộc huyện Long Thành). Các xã Bình Phước,
Bình Thạnh, Lợi Hòa, Tân Phú, Bình Long, Thiện Tân, Tân Định,
Đại An, Trị An thuộc huyện Tân Uyên. Từ năm 1948 đến 1954,
huyện Vĩnh Cửu được thành lập. Địa bàn huyện gồm những xã kể
trên cộng thêm 7 xã: Bình Thạnh, Lợi Hòa, Tân Phú, Bình Long,
Thiện Tân, Tân Định, Đại An (của huyện Tân Uyên chuyển giao).
(3) Theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hòai Đức (viết năm 1820)
huyện Phước Chánh có hai tổng: Phước Vĩnh (46 thôn) và Chánh Mỹ (36 thôn).
(4) Sáu tổng là Chánh Mỹ Thượng, Chánh Mỹ Trung, Chánh Mỹ Hạ, Phước Vĩnh
Thượng, Phước Vĩnh Trung, Phước Vĩnh Hạ.
174

18.5 Page 175

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Với chính quyền Sài Gòn, từ năm 1945 đến 1963, địa bàn
huyện Vĩnh Cửu thuộc tổng Phước Vĩnh Trung của quận Châu
Thành gồm các xã: Tân Phong, Bửu Long, Bình Hòa, Bình Ý, Tân
Triều, Bình Phước, Bình Long, Lợi Hòa, Bình Thạnh, Tân Phú,
Thiện Tân, Tân Định, Đại An, Trị An (năm 1959, địch thành lập
tỉnh Phước Thành, trong đó có các xã: Bình Phước, Bình Thạnh,
Tân Phú, Lợi Hòa, Bình Long, Thiện Tân, Tân Định, Đại An, Trị
An). Năm 1963 đến 1975, chính quyền Sài Gòn lập huyện Công
Thanh gồm các xã Bình Ý, Bình Hòa, Tân Triều, Bình Phước,
Bình Long, Lợi Hòa, Tân Phú, Bình Thạnh, Thiện Tân, Tân Định,
Đại An, Trị An, Thái Hưng.
Với cách mạng kháng chiến, từ năm 1960, huyện Vĩnh Cửu
chuyển giao các xã Tân Vạn, Bửu Hòa, Tân Hạnh, Bình Trị, Tân
Hiệp về huyện Dĩ An, Lái Thiêu; các xã Tân Phong, Bửu Long,
Bửu Hòa, Hóa An, Hiệp Hòa, Tam Hiệp về cho thị xã Biên Hòa;
các xã An Hòa, Long Hưng, Phước Tân… về cho huyện Long
Thành; các xã Trảng Bom, Hố Nai về cho Ban cán sự di cư (sau là
huyện Trảng Bom, Thống Nhất). Huyện Vĩnh Cửu còn lại các xã
Trị An, Đại An, Tân Định, Thiện Tân, Tân Phú, Bình Thạnh, Bình
Ý, Bình Long, Lợi Hòa, Bình Phước Tân Triều, Bình Hòa, Bửu
Long, Tân Thành, Tân Phong.
Tháng 9/1965, huyện Vĩnh Cửu cùng thị xã Biên Hòa thuộc
tỉnh Biên Hòa (U1) gồm các xã: Bình Hòa, Bình Ý, Bình Phước,
Tân Triều, Bình Thạnh, Lợi Hòa, Tân Phú, Bình Long, Thiện Tân,
Tân Định, Đại An, Trị An. Tháng 5/1971, huyện Vĩnh Cửu nhập
huyện Trảng Bom bao gồm luôn các xã của huyện này. Tháng
10/1972 đến tháng 4/1975, huyện Vĩnh Cửu tái lập thuộc tỉnh
Biên Hòa (nông thôn), có địa giới hành chính như tháng 9-1965.
Ngày 23/12/1985, chuyển huyện Vĩnh Cửu thành thị xã Vĩnh
An. Thị xã Vĩnh An gồm 2 phường: Trị An, Cây Gáo và 11 xã:
Bình Hòa, Bình Long, Bình Thạnh, Bình Phước, Bình Y, Đại An,
Lợi Hòa, Tân Định, Tân Phú, Tân Triều, Thiện Tân; trong đó hai
175

18.6 Page 176

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
phường Trị An và Cây Gáo được thành lập trên cơ sở giải thể hai
xã Cây Gáo và Trị An và các lâm trường Mã Đà, Hiếu Liêm của
huyện Tân Phú cắt sang.
Ngày 12/2/1987, địa giới thị xã Vĩnh An có sự thay đổi, điều
chỉnh như sau: Sáp nhập ba xã Bình Phước, Bình Ý và Tân Triều
thành một xã lấy tên là xã Tân Bình. Sáp nhập hai xã Bình Long
và Lợi Hòa thành một xã lấy tên là xã Bình Lợi. Sáp nhập hai xã
Bình Thạnh và xã Tân Phú thành một xã lấy tên là xã Thạnh Phú.
Sáp nhập hai xã Đại An và xã Tân Định thành một xã lấy tên là xã
Tân An. Chia phường Cây Gáo thành hai đơn vị hành chính lấy
tên là phường Cây Gáo và xã Vĩnh Tân. Chuyển xã Phú Lý thuộc
huyện Tân Phú về thị xã Vĩnh An quản lý.
Đến cuối năm 1991, thị xã Vĩnh An có 2 phường: Cây Gáo,
Trị An và 8 xã: Bình Hòa, Bình Lợi, Phú Lý, Tân An, Tân Bình,
Thạnh Phú, Thiện Tân, Vĩnh Tân. Ngày 29/8/1994, huyện Vĩnh
Cửu được tái lập trên cơ sở giải thể thị xã Vĩnh An; đồng thời
giải thể 2 phường Cây Gáo và Trị An để thành lập thị trấn Vĩnh
An và xã Trị An. Huyện Vĩnh Cửu sau khi tái lập gồm có thị trấn
Vĩnh An và 9 xã: Bình Hòa, Bình Lợi, Phú Lý, Tân An, Tân Bình,
Thạnh Phú, Thiện Tân, Trị An, Vĩnh Tân.
Ngày 13/3/2003, thành lập xã Mã Đà trên cơ sở 40.078,47 hécta
diện tích tự nhiên và 6.595 nhân khẩu của thị trấn Vĩnh An; thành
lập xã Hiếu Liêm trên cơ sở 21.379,55 hécta diện tích tự nhiên và
3.870 nhân khẩu của xã Trị An. Như vậy, huyện Vĩnh Cửu có 1 thị
trấn và 11 xã, giữ nguyên trạng như hiện nay.
Huyện Vĩnh Cửu có nhiều lợi thế phát triển kinh tế xã hội.
Huyện có diện tích đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao với 65.921
hécta có trữ lượng gỗ lớn. Có hồ Trị An 32.000 hécta (trong địa
phận Vĩnh Cửu là 16.500 hécta) là nguồn nước phong phú phục
vụ cho thủy điện Trị An, tưới tiêu nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản. Có tiềm năng khoáng sản phong phú về chủng loại gồm kim
loại quý, nguyên liệu vật liệu xây dựng: cát, đá, keramzit cho sản
176

18.7 Page 177

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xuất bê tông nhẹ, puzlan và laterit nguyên liệu phụ gia cho xi
măng. Có các cảnh quan nổi tiếng như: Hồ Trị An, khu di tích lịch
sử văn hóa chiến khu Đ, các khu vườn ăn trái ven sông Đồng Nai
thuận lợi cho du lịch sinh thái - tham quan nghiên cứu.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, huyện Vĩnh Cửu có truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên
cường, lập nhiều chiến công oanh liệt. Vĩnh Cửu là địa bàn trọng
điểm của cách mạng trong xây dựng và bảo vệ căn cứ Chiến khu
Đ, cũng là trọng điểm vành đai sân bay Biên Hòa của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn. Cho nên, địch tập trung đánh phá. Cách mạng tập
trung xây dựng và bảo vệ. Chiến tranh ở địa bàn Vĩnh Cửu máu
lửa hơn nhiều nơi khác.
Huyện Vĩnh Cửu (lúc đó là quận Châu Thành, Biên Hòa), là cái
nôi của phong trào cách mạng tỉnh Biên Hòa; là mảnh đất tốt để
gieo cấy, vun trồng tư tưởng cách mạng, nhận thức cách mạng và
cách hình thức đấu tranh cách mạng. Nơi đây, đã khởi đầu nhiều
hoạt động đầu tiên của phong trào cách mạng ở tỉnh Biên Hòa (cũ):
Chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập đầu tiên ở Bình Phước - Tân
Triều năm 1935; tổ chức cách mạng trong học sinh đầu tiên “Liên
đoàn học sinh” thành lập ở Trường Tiểu học Bình Hòa cũng trong
năm 1935; Tỉnh ủy Lâm thời Đảng bộ tỉnh Biên Hòa đầu tiên được
thành lập sau hội nghị đảng viên tại xã Tân Triều, tháng 2/1937;
lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên là đội vũ trang gồm khoảng
35 người do đồng chí Huỳnh Liễng phụ trách, Trần Văn Quỳ chỉ
huy trưc tiếp, thành lập khoảng cuối tháng 7/1940; các Ủy ban
hành động của cách mạng đầu tiên cũng được thành lập trên địa
bàn của quận Châu Thành từ năm 1936, tổ chức nhiều hoạt động
sôi nổi: Xây dựng thư viện Bình dân đặt tại dốc Bà Bành, xã Bình
Ý; mít-tinh hơn 200 người dân dự tại Gò Dê, xã Bình Ý; mít tint kỷ
niêm ngày Quốc tế lao động 1/5/1937, tại gò Máy bay xã Bình Ý,
hơn 100 người dự. Xã Bình Ý thuộc tổng Phước Vĩnh Trung, quận
Châu Thành được xem là trung tâm hoạt động của Ủy ban hành
động cách mạng tỉnh Biên Hòa.
177

18.8 Page 178

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trong Cách mạng tháng Tám 1945, quận Châu Thành là nơi
khởi động, bộ phận nòng cốt trong lãnh đạo của Ủy ban Khởi
nghĩa do các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Ngô
Hà Thành lãnh đạo. Từ 15/8/1945, các hoạt động khởi nghĩa,
giành chính quyền thực sự đã diễn ra thành công ở hai tổng Phước
Vĩnh Trung, Phước Vĩnh Hạ.
Giai đoạn 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954) và 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược
(1954-1975), Đảng bộ và quân dân huyện Vĩnh Cửu chịu nhiều
mất mát hy sinh, đã kiên cường bám trụ địa bàn, phát huy tinh
thần tự lực tự cường, sáng tạo trong chiến đấu, kết hợp lực lượng
vũ trang địa phương với chủ lực, kết hợp 3 mũi đấu tranh đẩy lui
địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến lên đánh bại địch
hoàn toàn, góp phần vào thắng lợi chung, giải phóng miền Nam
thống nhất Tổ quốc.
Ngay khi quân Pháp được quân đồng minh hỗ trợ, trở lại tái
chiếm Nam Bộ, tối ngày 23/9/1945, hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại
nhà hội Bình Trước do đồng chí Hà Huy Giáp và đồng chí Dương
Bạch Mai chủ trì đã quyết định thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên
Hòa. Quận ủy Châu Thành được xây dựng (do đồng chí Hồ Văn
Leo làm Bí thư) với nhiệm vụ xây dựng căn cứ và chuẩn bị lực
lượng kháng chiến. Ủy ban nhân dân lâm thời quận Châu Thành
được xây dựng (do đồng chí Nguyễn Văn Long làm Chủ tịch),
phát động tuần lễ bạc trong toàn quận, cử người tham dự lớp
huấn luyện ở trại du kích Bình Đa - Vĩnh Cửu; phát động phong
trào bình dân học vụ “diệt giặc dốt”, chuẩn bị các phương án sản
xuất lương thực để “diệt giặc đói”, lập giải phóng quân quận Châu
Thành do Doãn Tiến Nghiệp, sau là Lê Văn Ngọc chỉ huy, hăng
hái tập luyện để kháng chiến. Khí thế của Đảng bộ và quân dân
quận Châu Thành sôi nổi, đầy quyết tâm, luôn sẵn sàng.
Ngày 25/10/1945, Quận ủy, Ủy ban nhân dân quận Châu Thành
rút về xã Bình Ý. Tháng 11/1945, thành lập Đội xung phong cảm
178

18.9 Page 179

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tử tại đình Bình Thảo gồm 40 thiếu niên dũng cảm. Thành tích
nổi bật ban đầu đội là: Đột nhập thị xã đánh diệt quân Anh - Ấn,
diệt ác trừ gian, nhiều lần xuất hiện ở ngã ba Vườn Mít diệt địch,
trong đó có tên quan tư De Rioncourt(5), phục kích chống càn, tạo
các chiến công vang dội ở các trận thắng Cây Đào, ngã ba Bình Ý.
Đêm 1 rạng sáng 2/1/1946, Vệ quốc đoàn Biên Hòa phối hợp
nhiều cánh quân, đột nhập vào trung tâm đầu não của giặc ở Biên
Hòa, tấn công vào thành Săng Đá, các bót gác ở cầu Gành, nhà
máy BIF, sở hiến binh, nhà ga, bưu điện, hãng dầu, nhà thông
tin làm cho giặc bất ngờ, khiếp đảm. Đó là hoạt động gây tiếng
vang để tổ chức bầu cử Quốc hội đầu tiên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa trên địa bàn. Trong ngày hội 6/1/1946, cử tri quận
Châu Thành nô nức đi bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên trong không
khí cờ hoa, an toàn. Cuối tháng 4/1946, tại hội nghị Bình Hòa,
Tỉnh ủy được củng cố.
Tháng 6/1946, thống nhất các lực lượng vũ trang tỉnh Biên
Hòa, lấy tên là Chi đội 10 do Huỳnh Văn Nghệ là Chi đội trưởng
Giải phóng quân quận Châu Thành trở thành đại đội B do đồng
chí Lê Văn Ngọc làm đại đội trưởng. Ngay sau được mang tên
mới, Đại đội B Chi đội 10 đã phối hợp chiến đấu, làm nên nhiều
chiến thắng làm nức lòng quân dân kháng chiến: Chặn địch chống
càn ở Đại An, diệt đồn Cây Gáo, bắt sống 2 sĩ quan Pháp (2/1947).
Lần đầu tiên ở Biên Hòa, bộ đội đã hạ đồn giặc chỉ với súng bộ
binh. Lần đầu tiên, quân dân quận Châu Thành vinh dự đón tiếp
đồng chí Lê Duẩn từ Trung ương theo đường giao liên của quận
về Chiến khu Đ lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Nam Bộ. Lần
đầu tiên, Tỉnh đội bộ quân dân Biên Hòa được thành lập (tháng
12/1947), Quận đội bộ dân quân Châu Thành cũng được thành lập
trên cơ sở sáp nhập hai Ban Công tác liên thôn 4 và 5.
(5) 55 năm thành phố Biên Hòa. Ban Tuyên giáo Thành ủy Biên Hòa xuất bản
năm 1988, trang 53.
179

18.10 Page 180

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Giữa năm 1948, quận Châu Thành được tổ chức thành 2 đơn
vị: thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu. Huyện Vĩnh Cửu gồm có
các xã: Bình Hòa, Tân Triều, Bình Ý, Trảng Bom, Bửu Long, Tân
Thành, Hóa An, Tân Vạn, Tân Phong, Bửu Hòa, Hiệp Hòa, Tam
Hiệp, Long Bình, Long Hưng, Tân Hưng, An Hòa, bao quanh
thị xã Biên Hòa. Lập thành tích chào mừng huyện Vĩnh Cửu,
tháng 7/1948, du kích Vĩnh Cửu lại phục kích ở Hố Cạn diệt lính
Commandos, chặn địch ở Hốc Ông Rớt…
Trong thời gian 1948 đến 1950, quân dân huyện Vĩnh Cửu sát
cánh cùng các đơn vị ở chiến khu Bình Đa, Bà Bao, Hố Cạn hoạt
động trong lòng địch, thực sự trở thành trung tâm văn hoá, sinh
hoạt kháng chiến khiến địch nhức nhối mà không làm gì được.
Từ năm 1950, Vĩnh Cửu càng trở thành địa bàn trọng yếu. Bộ
Tư lệnh Nam Bộ đã xác định vị trí chiến lược của Vĩnh Cửu: “Vĩnh
Cửu là bàn đạp của cách mạng tấn công vào thị xã, nơi trú quân
và dừng chân của các lực lượng, đường giao thông quan trọng từ
chiến khu Đ xuống Long Thành, Bà Rịa, là nguồn nhân vật lực
cung cấp cho kháng chiến”. Đảng bộ và quân dân huyện Vĩnh
Cửu có nhiệm vụ: “Giữ vững và xây dựng huyện Vĩnh Cửu thành
một căn cứ du kích” để giữ địa bàn chiến lược này. Huyện Vĩnh
Cửu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Thành tích nổi bật là tham gia
các trận đánh giao thông, đánh đồn Long Điềm vào tháng 6/1951,
diệt yếu khu Trảng Bom vào tháng 7/1951.
Từ năm 1952, huyện Vĩnh Cửu tập trung cho nhiệm vụ vượt
qua khó khăn bão lụt, phối hợp chiến trường chung giành thắng
lợi hoàn toàn. Tháng 10/1952, trận lụt Nhâm Thìn gây thiệt hại
lớn, gió to và nước sông Bé, sông Đồng Nai đột ngột dâng cao,
tràn cả vào bờ. Chiến khu Đ và các xã ven sông Đồng Nai thuộc
huyện Vĩnh Cửu bị chìm ngập trong bể nước mênh mông, có nơi
nước dâng cao đến 3 mét, 10 mét. Việc khắc phục thiệt hại cho
dân, cứu giúp cả đồn bót giặc đã khiến cho Đảng bộ và quân dân
cực kỳ vất vả. Nhờ lãnh đạo tốt, quân dân đoàn kết, quyết tâm
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cao; việc cứu đói, phòng bệnh đạt hiệu quả, sản xuất sớm khôi
phục, lương thực đảm bảo, niềm tin và khí thế cách mạng hào
hùng, tạo lực cho quân dân Vĩnh Cửu làm nên chiến thắng mới,
tiêu biểu như trận chiếm bót Cẩm Vinh (1953), đánh bại cuộc càn
quét qui mô vào Chiến khu Đ (1953).
9 năm kháng chiến kiên cường và gian khổ chống thực dân
Pháp xâm lược của quân và dân Vĩnh Cửu kết thúc thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, được tinh thần Cách mạng
tháng Tám động viên, quân dân Vĩnh Cửu đã không tiếc xương
máu, đóng góp sức người sức của xây dựng huyện thành một địa
bàn vùng ven vững chắc, góp công lớn trong việc vừa bảo vệ
Chiến khu Đ, vừa làm bàn đạp để lực lượng kháng chiến tiến công
địch ở vùng sâu và thị xã Biên Hòa, đánh các giao thông chiến
lược ở lộ 1, lộ 15, đường sắt Sài Gòn - Biên Hòa, Trảng Bom,…
đảm bảo hành lang giao liên chiến lược từ Chiến khu Đ mở xuống
Long Thành, Bà Rịa và ngược lại.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, huyện Vĩnh Cửu cùng
cả nước thăng trầm qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu 1954-
1959, niềm vui hòa bình không lâu, liền sau đó là cuộc đấu tranh
chính trị đòi dân sinh, dân chủ, đòi thi hành Hiệp định Genève.
Sau hội nghị mừng chiến thắng tại Nhà Nai, ngậm ngùi tiễn người
thân đi tập kết, vui chẳng tày gang, quân dân Vĩnh Cửu liền phải
đương đầu với cuộc chiến mới, âm mưu thủ đoạn mới.
Vĩnh Cửu là huyện có vị trí quan trọng vùng ven bao quanh
thị xã Biên Hòa, cửa ngõ vào Sài Gòn, đồng thời cũng là cửa ngõ
án ngữ Chiến khu Đ. Do đó, ngay từ đầu, chính quyền Mỹ Diệm
đã rất chú trọng đánh phá cả về quân sự lẫn chính trị, huy động
các lực lượng, thực hiện các thủ đoạn, âm mưu tàn độc nhất. Các
cuộc bắt bớ, khủng bố, tù đày, mua chuộc, dụ dỗ diễn ra thường
xuyên với mức độ thâm độc, tàn ác, tinh vi hơn bao giờ hết.
Cán bộ cách mạng được phân công ở lại vừa phải lẩn thoát thủ
đoạn của địch, vừa bám dân, xây dựng cơ sở, tiếp tục lãnh đạo
181

19.2 Page 182

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
quần chúng thực hiện cuộc đấu tranh mới. Niềm tin vào Đảng vào
thắng lợi của cách mạng vẫn còn ấm nồng nên ở địa bàn Vĩnh
Cửu sớm gầy dựng lại các cơ sở cách mạng trung kiên, tổ chức
nhiều hoạt động được quần chúng nhiệt thành tham gia: Công tác
binh vận làm rõ âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mít-
tinh tháng 10/1955 tại Cù lao Vịt, Bình Hòa; phong trào chống
trò bịp vận động bầu cử của Mỹ Diệm (tháng 2 và tháng 3/1956);
phong trào chống phá âm mưu chiến dịch Trương Tấn Bửu. Nhân
dân tận lòng nuôi giấu cán bộ, nhiều tấm gương hay như má Tám
Nghệ ở Cây Da (Tân Phú), má Tám ở Bàu Tre (Bình Long). Nhân
dân Vĩnh Cửu cũng chính là người nuôi giấu, giúp đỡ tù chính trị
thoát cuộc truy lùng của giặc, trở về với kháng chiến trong cuộc
phá khám Tân Hiệp ngày 2/12/1956.
Đến cuối năm 1959, cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng cơ bản
được củng cố; lãnh đạo cấp ủy được phân công bám địa bàn, vận
động quần chúng, tăng cường lãnh đạo Đảng ở vùng sâu, vùng
yếu, tổ chức quần chúng đấu tranh chống tố cộng, bắt bớ, hãm
hại người kháng chiến, chống chiếm đất mở rộng sân bay (1957),
buộc bồi thường thiệt hại cho dân (1958), bảo vệ quyền lợi dân
trồng mía, đấu tranh vạch trần âm mưu hãm hại tù chính trị ở Phú
Lợi 1959, chống luật 10/59 tàn ác. Huyện Vĩnh Cửu là địa bàn cơ
sở để biệt đội C250 diệt Mỹ ở Nhà Xanh 7/7/1959.
Khi Trung ương có Nghị quyết 15 về lãnh đạo cuộc đấu tranh
chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang ở Nam Bộ, quân dân huyện
Vĩnh Cửu tập trung thực hiện nhiệm vụ được giao: Củng cố tổ
chức, xây dựng vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh
chính trị. Tháng 9/1960, Trung ương Cục miền Nam quyết định
thành lập tỉnh Thủ Biên, huyện Vĩnh Cửu được tổ chức lại gồm
13 xã: Bình Hòa, Bình Ý, Bình Phước, Tân Triều, Lợi Hòa, Bình
Thạnh, Tân Phú, Bình Long, Thiện Tân, Tân Định, Đại An, Trị
An, Cây Gáo và thị trấn Trảng Bom. Các xã còn lại chuyển giao
về thành phố Biên Hòa. 100 thanh niên nam nữ các xã Bình Long,
Tân Phú, Lợi Hòa, Thiện Tân, Tân Định, Đại An, Trị An,… hăng
182

19.3 Page 183

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
hái ra chiến khu tham gia kháng chiến. Ngày 29/12/1960, tổ chức
mít-ting ở Thiện Tân mừng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam ra đời. Lực lượng vũ trang vừa được củng cố của
Vĩnh Cửu; phối hợp Tiểu đoàn 800 diệt Chi khu Hiếu Liêm (ngày
16/3/1961), thắng trận Lò Than, Bến Cá cuối năm 1961. Trải qua
thời kỳ từ 1954-1959, tuy gặp nhiều khó khăn trước kẻ thù hung
ác, có bạo lực, Đảng bộ và nhân dân huyện Vĩnh Cửu dù bị nhiều
thiệt hại, nhưng luôn luôn thể hiện được niềm tin vào lý tưởng
cách mạng, một lòng chở che cho cán bộ hoạt động. Nhiều đảng
viên bị bắt đã thể hiện khí tiết của người cộng sản. Lòng trung
thành đó lý giải vì sao khi có Nghị quyết 15, phong trào cách
mạng của huyện Vĩnh Cửu lại khôi phục và phát triển nhanh,
mạnh hơn nhiều nơi khác. Từ đấu tranh chính trị thuần túy, Đảng
bộ và quân dân Vĩnh Cửu chính thức bước vào cuộc đấu tranh vũ
trang giành nhiều thắng lợi quan trọng.
Từ sau đồng khởi 1960 đến 1965, quân dân Vĩnh Cửu cùng cả
nước đánh địch bình định, chống phá ấp chiến lược, mở rộng vùng
làm chủ. Thời gian này, các tổ chức nhân dân và các lực lượng vũ
trang trên địa bàn Vĩnh Cửu đều đã trưởng thành. Nhưng, âm mưu
và thủ đoạn của địch càng thêm quyết liệt, tăng cường đánh phá
với quy mô lớn và vũ khí chiến tranh hiện đại.
Tháng 11 năm 1961, kế hoạch Staley - Taylor, thực hiện chiến
lược Chiến tranh đặc biệt được thông qua. Vĩnh Cửu là địa bàn
vùng ven các hậu cứ lớn của địch ở Biên Hòa, nên chúng tập trung
chủ lực càn quét, mạnh nhất là ở vùng Trị An, Đại An, Tân Định,
Thiện Tân; địch mở những cuộc hành quân đánh phá vào các căn
cứ cách mạng, như cuộc hành quân “Mặt trời mọc” kéo dài đến
tháng 12/1962, đánh vào Chiến khu Đ, Hiếu Liêm, Đại An, Trị
An. Từ Thiện Tân lên Trị An, Cây Gáo, địch xây đồn, lập tua,
bót, tạo tuyến phòng ngự dọc sông Đồng Nai nhằm ngăn chặn lực
lượng cách mạng từ Chiến khu Đ qua hoạt động.
Tháng 4/1962, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị
183

19.4 Page 184

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
quyết về phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam: trong
đó trọng yếu là kiên quyết phá ấp chiến lược gom dân của địch, ra
sức mở rộng căn cứ địa. Vĩnh Cửu có vị trí chiến lược quan trọng.
Với địch là bàn đạp ngăn chặn lực lượng cách mạng và tiến công
vào Chiến khu Đ, vùng ven bảo vệ cơ quan đầu não miền Đông
ở thành phố Biên Hòa. Do đó, chúng sẽ tập trung lực lượng và
áp dụng các thủ đoạn thâm độc nhằm biến Vĩnh Cửu thành vùng
trắng, làm mất địa bàn của cách mạng, cắt đứt mối liên hệ giữa
kháng chiến với quần chúng nhân dân. Với cách mạng, Vĩnh Cửu
là vùng cung cấp nhân lực, vật lực cho tỉnh, bàn đạp tiến công
địch ở thị xã Biên Hòa, cửa ngõ án ngữ bảo vệ căn cứ Chiến khu
Đ, là đường hành lang vận chuyển chiến lược của Khu và các tỉnh
miền Đông Nam Bộ. Do vậy, cuộc đấu tranh giữa ta và địch sẽ hết
sức gay go, ác liệt. Nhưng ta có chỗ dựa vững chắc là nhân dân có
truyền thống cách mạng, có Huyện ủy, chi bộ, đảng viên một lòng
một dạ vì sự nghiệp cách mạng.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam, Đảng
bộ huyện Vĩnh Cửu lãnh đạo quán triệt đầy đủ phương châm,
phương thức vùng tranh chấp, vùng yếu, vùng sâu, tạo thế bám
trụ trong dân, giáo dục quần chúng đấu tranh, phát động nhiều
phong trào chống phá ấp chiến lược, nỗ lực sản xuất, chống đói,
nhiều lúc đào củ chụp nuôi quân. Tháng 7/1963, huyện chỉ đạo
củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền ở huyện và
cơ sở, huyện cũng chỉ đạo củng cố lại đội du kích ở các xã, mạnh
nhất là các đội du kích Trị An, Tân Phú, Lợi Hòa. Lực lượng vũ
trang phối hợp các đơn vị tổ chức đánh thắng: Trận Đại An (ngày
24/11/1963); giải phóng hoàn toàn, làm chủ đồn Trị An trong 28
ngày (ngày 2/2/1964), diệt đồn Kim Liên (ngày 3/2/1964), tạo thế
mở rộng Chiến khu Đ về phía Nam, tạo địa bàn cho các lực lượng
vũ trang vào hoạt động vùng sâu và tiến công cơ sở quân sự của
địch trong thị xã Biên Hòa; phối hợp tiểu đoàn 800 diệt đồn Cây
Gáo (tháng 7-1964), diệt Chi khu Hiếu Liêm (ngày 12/9/1964);
tham gia, phối hợp quân chủ lực tập kích bằng pháo vào Sân bay
184

19.5 Page 185

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Biên Hòa (ngày 31/10/1964). Ngoài ra, bộ đội Vĩnh Cửu còn chủ
động diệt đồn Bình Long (năm 1964).
Trong quá trình chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang huyện
Vĩnh Cửu trưởng thành nhanh chóng, bộ đội huyện phát triển
thành một đại đội mạnh, các xã đều có đội du kích bám sát cơ
sở sẵn sàng đánh địch. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ đều xây
dựng nòng cốt tận xã, ấp, tạo điều kiện cho đấu tranh chính trị,
binh vận và phục vụ chiến đấu. Đánh bại hệ thống ấp chiến lược
của địch ở Vĩnh Cửu. Đảng bộ và quân dân huyện đã triển khai
được thế trận mới. Quân dân Vĩnh Cửu dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Huyện ủy đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới hết sức
gian khổ và phức tạp: Bám địa bàn, phát triển chiến tranh nhân
dân tạo điều kiện tiến công địch, đánh vào các hậu cứ, kho tàng,
diệt phương tiện chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Vĩnh Cửu cũng là địa bàn “bàn đạp” để quân ta tiến công hang
ổ địch. Quân dân Vĩnh Cửu đã tạo điều kiện, trợ giúp về thông
tin, hậu cần để quân chủ lực đánh Sân bay Biên Hòa. Đêm 23
rạng sáng 24/8/1965, lực lượng Vĩnh Cửu cùng bộ đội miền đánh
bại cuộc hành quân vào Đại An ngày 11/11/1965 của lữ dù 173
Mỹ. Lần đầu tiên ở Biên Hòa, quân viễn chinh Mỹ bị đánh diệt ở
Gang Tói (Đại An), tạo niềm tin ta có khả năng thắng Mỹ; tháng
4/1966, tiếp tục phục kích diệt 47 lính Mỹ ngoài vòng rào sân bay
Biên Hòa. Bộ đội Vĩnh Cửu còn tấn công diệt địch ở đồn Đại An
do tên Tăng Văn Lùn (tức Ba Lùn) chỉ huy làm lung lay tinh thần
binh lính trong hệ thống đồn bót trên địa bàn.
Năm 1966, Đảng bộ huyện Vĩnh Cửu được Tỉnh ủy Biên Hòa
U1 giao nhiệm vụ… tích cực chuẩn bị lương thực, nắm tình hình
địch, phục vụ tin tức cho đặc công tiềm nhập nghiên cứu hậu cứ,
kho tàng địch. Nhờ có sự giúp đỡ, phối hợp của quân dân địa
phương, 2 giờ sáng ngày 22/6/1966, các chiến sĩ đặc công U1
do đồng chí Nguyễn Tấn Vàng, Nguyễn Văn Thái (Tư Già), Bùi
Văn Hòa chỉ huy đã vượt qua mọi chướng ngại phòng thủ, dùng
185

19.6 Page 186

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
mìn hẹn giờ đánh vào khu đồi 53 trong tổng kho Long Bình, phá
hủy 40.000 quả đạn pháo 155 ly của Mỹ chưa kịp đem đi gây tội
ác. Bốn tháng sau, đêm 26/10/1966, đặc công U1 bí mật vượt
nhiều lớp kẽm gai đột nhập kho Long Bình; đặt bom, phá hủy
125.000 quả đạn các loại. Tiếp theo, trong hai đêm 17/11/1966 và
9/12/1966, đặc công lại bí mật tập kích bằng mìn vào các khu kho
lớn ở đồi 53, phá hủy 228.6000 ngàn quả đạn pháo, rốc-két. Vào
lúc 2 giờ 45 phút ngày 4/2/1967, thêm một lần nữa, đại đội 2 đặc
công U1 do đồng chí Nguyễn Văn Thái chỉ huy đã bí mật dùng
mìn gắn kíp nổ hẹn giờ đánh đồng loạt vào 40 kho bom đạn trong
tổng kho Long Bình, phá hủy 800.000 quả đạn pháo 105, 155 ly.
Các chiến công liên tiếp đánh vào dạ dày của Mỹ ở tổng kho Long
Bình thuộc về các đơn vị đặc công. Nhưng, đơn vị chiến thắng
nào cũng nhớ đến tâm sức của quân dân Vĩnh Cửu; như ở ấp 7,
chi bộ Thiện Tân với 5 hầm bí mật cất giấu lương thực và vũ khí
cho đặc công tỉnh.
Đêm 11/5/1967, trung đoàn pháo 274 ĐKB từ Chiến khu Đ
hành quân về Tân Tịch xây trận địa pháo với 48 khẩu ĐKB. Bộ
đội huyện Vĩnh Cửu cũng lên đường, bố trí án ngữ dọc đường
Kiểm, Đồng Lách, tạo điều kiện cho đội cối tỉnh xây dựng trận
địa pháo tại đồi Bà Già (Kẻ Sặt - Hố Nai) với 2 khẩu ĐKZ 75. Chi
bộ Tân Phú, Bình Long tổ chức trận địa giả ở bờ sông Đồng Nai
để nghi binh. 1 giờ sáng ngày 12/5/1967, 50 khẩu ĐKB và ĐKZ
nã đạn vào sân bay Biên Hòa. Sân bay chìm trong biển lửa, 150
máy bay các loại bị phá hủy, nhiều sĩ quan phi công và kỹ thuật
Mỹ bị diệt.
Tham gia cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, lực lượng
huyện Vĩnh Cửu hành quân về địa điểm tập kết tại chùa Cao Đài
(Tân Phú) chờ lệnh hợp đồng theo tiếng pháo sân bay Biên Hòa.
Từ hướng Lò Thổi (Tân Phú) lực lượng huyện, đặc công tỉnh và
sư 5 tăng cường tiến công vào chi khu Công Thanh do một đại đội
bảo an đóng giữ. Đợt tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, huyện
Vĩnh Cửu hoàn thành nhiệm vụ được giao, thắng lợi về chính trị
186

19.7 Page 187

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nhưng nhiều hy sinh, tổn thất. Vĩnh Cửu là huyện chiếm lĩnh và
làm chủ dài ngày nhất so với các huyện trong tỉnh.
Ngày 5/4/1968, lực lượng Vĩnh Cửu cùng các đơn vị đóng
quân trên địa bàn đánh bại cuộc hành quân của lữ 1 thuộc sư 9 bộ
binh Mỹ càn vào Đại An. Như vậy, ngay khi quân viễn chinh Mỹ
đổ quân vào Biên Hòa, Vĩnh Cửu, Đảng bộ, quân dân huyện đã
xác định những khó khăn, thuận lợi để tạo thế trận đánh địch. Với
tinh thần bám trụ kiên cường, Đảng bộ, quân dân huyện Vĩnh Cửu
từng bước khắc phục khó khăn, giữ vững và phát triển được cơ sở
cách mạng, tạo điều kiện tích cực cho các lực lượng vũ trang tiến
công các cơ quan đầu não, sân bay Biên Hòa, kho Long Bình, diệt
nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và tay sai, góp
phần lớn trong việc hỗ trợ chiến trường chung đánh bại hai cuộc
phản công chiến lược mùa khô của địch.
Cuối năm 1968 đến 1973, địch tăng cường càn quét, đánh phá,
quyết tiêu diệt sinh lực của cách mạng sau sự kiện Mậu Thân.
Tình hình Vĩnh Cửu hết sức khó khăn. Lực lượng huyện Vĩnh
Cửu đã bị nhiều tổn thất. Lúc này, hầu hết các xã không còn chi
bộ, chỉ còn đảng viên lẻ (trừ Tân Phú, Tân Định, Thiện Tân). Du
kích xã nào còn nhiều là 1 tiểu đội (ở các xã Thiện Tân, Tân Định,
Đại An, Bình Long). Các xã khác ở vùng sâu không còn du kích,
bộ đội huyện phải tăng cường. Cán bộ chiến sĩ bám trụ phải ở hầm
chật chội, nóng nực, thiếu không khí, nhưng tất cả đều không ngại
gian khổ, quyết tâm bám lại để xây dựng cơ sở. Nhiều cán bộ hy
sinh anh dũng, như trường hợp ngày 16/1/1969, địch càn vào Lợi
Hòa, các đồng chí Thành, Phúc, Bảy Cúc, Nhung, Hùng, Dũng bị
lộ hầm ở Dõ Sa, địch gọi hàng, các đồng chí chiến đấu đến viên
đạn cuối cùng.
Tuy tình hình hết sức khó khăn, nhưng Huyện ủy Vĩnh Cửu vẫn
chỉ đạo cho các chi bộ tích cực xây dựng cơ sở, chuẩn bị phối hợp
với các lực lượng vũ trang tiến công địch. Ngày 20/5/1969, chi
bộ xã Tân Phú, Tân Định bí mật đưa tiểu đoàn 1 đặc công tỉnh về
187

19.8 Page 188

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tập kích bằng pháo vào chi khu Công Thanh và bót Rạch Đông.
Cả hai nơi, ta bắn sập 17 nhà lính, diệt 31 tên bảo an. Ngày 31/5/
1969, tiểu đoàn đặc công tỉnh tập kích vào cụm pháo Mỹ ở Bà Cô
(Thiện Tân), phá hủy 5 khẩu pháo. Cùng thời gian, đặc công đánh
vào cụm pháo Ba Dốc, phá hủy 2 khẩu pháo 155 ly; du kích dẫn
đường đưa 1 tổ đặc công dùng mìn, thủ pháo tiến công bọn lính
sư đoàn 18 và biệt động quân ở Tân Định, diệt 10 tên.
Đêm 7/6/1969, Chi bộ Tân Phú tổ chức cơ sở đưa đặc công
tỉnh về Gò Găng xây dựng trận địa pháo dã chiến. Từ đây, những
quả đạn H12 được cất giấu trước đã được phóng vào sân bay Biên
Hòa. Ba chiếc máy bay phản lực F.105 bị phá hủy, 2 giặc lái Mỹ
bị diệt, kho bom Bình Ý trúng đạn nổ tung. Sống trong vòng kìm
kẹp của địch, ra vào bị tra xét, đi lại bị khống chế nhưng lòng dân
Vĩnh Cửu vẫn hướng về cách mạng. Các má Tám, má Hai, chị
Bảy Hào, Út Sao, Tư Hoạch làm ruộng lúa ở Ông Tạ (Tân Định)
khi gặt lúa đập xong đều để lại ruộng một số lúa cho cách mạng.
Đêm 20/1/1970, pháo đặc công của tỉnh về ém tại Chân Chùa,
trời tối đen như mực, các chiến sĩ nhanh chóng lập bệ phóng. Đạn
ĐKB được đưa lên khỏi mặt đất. 24 giờ đêm, 20 quả đạn ĐKB
phát hỏa rót thẳng vào sân bay Biên Hòa. Nhiều tiếng nổ vang lên,
tám chiếc trực thăng bị bắn cháy, kho bom trong sân bay bị nổ
tung, cả sân bay Biên Hòa rực lửa suốt 3 tiếng đồng hồ.
Những năm tháng từ 1969 đến cuối năm 1971 là thời gian cực
kỳ gian khổ đầy thử thách của Đảng bộ và quân dân Vĩnh Cửu.
Tuy bị thiệt hại nhưng trải qua khó khăn đội ngũ cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ huyện nhà được tôi luyện càng thêm vững vàng,
kiên định. Đến tháng 12/1971, ta đã xây dựng được thế tranh chấp
ở 12 ấp trong huyện. Tuy ít, nhưng đây là cố gắng lớn của Đảng
bộ huyện. Một thắng lợi có ý nghĩa to lớn ở một địa bàn xung yếu
mà lực lượng địch đông gấp bội lực lượng cách mạng. Tin Đảng,
tin dân, được nhân dân một lòng nuôi dưỡng, chở che, lực lượng
huyện Vĩnh Cửu từng bước trụ lại và tạo thế giữ địa bàn tiến công
kẻ thù.
188

19.9 Page 189

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Vĩnh Cửu là địa bàn hình thành các đơn vị chủ lực của Miền.
Ngày 3/6/1972, Quân ủy Miền làm lễ thành lập trung đoàn đặc
công 113 tại suối Bà Hào (Chiến khu Đ). Đồng chí Nguyễn Thanh
Tùng (Chín Tùng) đưa một bộ phận trinh sát đặc công xuống
Thiện Tân chuẩn bị địa bàn cho tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn pháo
thực hiện kế hoạch tiến công Sân bay Biên Hòa. Theo chỉ đạo của
Huyện ủy, chi bộ mật Thiện Tân tổ chức 2 tổ nữ thanh làm nhiệm
vụ giao liên dẫn đường, thu lương thực cho trung đoàn 113. Việc
liên lạc giữa trung đoàn và chi bộ mật Thiện Tân được tổ chức
bằng hộp thư kín do đồng chí Ba Thanh, Bí thư chi bộ mật phụ
trách. Đêm 1/8/1972, sau 2 tháng thành lập, tạo thế đứng vững ở
Thiện Tân, tiểu đoàn 14 đặc công đã dùng ĐKB dội bão lửa vào
sân bay Biên Hòa, phá hủy, phá hỏng 74 máy bay các loại, diệt
hàng trăm Mỹ ngụy, phá 11 xe quân sự, 2 dàn ra đa, 2 kho xăng,
kho bom napal, 1 kho đạn, 1 kho lương thực, 2 kho thiết bị chiến
tranh. Đêm 31/8, tiểu đoàn 14 đặc công (trung đoàn 113) tiến
công lần 2 vào sân bay Biên Hòa, phá hủy 48 máy bay, diệt 50
Mỹ ngụy. Đêm 9/9/1972, được cơ sở mật ở Tân Phong dẫn đường,
tiểu đoàn pháo 174 (đoàn 113) bố trí trận địa ĐKB và hoả tiễn
H12 tại dốc Ông Hoàng.
8 giờ sáng 10/9, quả mìn có gắn đầu nổ hẹn giờ do nội tuyến
trong sân bay gài phát hỏa. Theo đúng kế hoạch hợp đồng, các
khẩu ĐKB và H12 từ dốc Ông Hoàng (lộ 24 Vĩnh Cửu) bắn cấp
tập vào các mục tiêu trong sân bay. 175 máy bay gồm phản lực
A37, vận tải C130 bị nổ tung, gần 70 lính Mỹ ngụy bị chết. Sân
bay Biên Hòa bị tê liệt 3 ngày liền.
Tháng 10/1972, tỉnh Biên Hòa được thành lập lại. Huyện Vĩnh
Cửu tách khỏi huyện Trảng Bom. Tháng 1/1973, theo chỉ thị của
Trung ương Cục và Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy Vĩnh Cửu chỉ
đạo các chi bộ tích cực chuẩn bị lương thực, băng, cờ, khẩu hiệu
và chuyển vũ khí, vào đợt “chồm lên chiếm lĩnh” để đánh bại âm
mưu “tràn ngập lãnh thổ”, giành dân, lấn đất của địch trước khi
có Hiệp định Paris. Điểm của huyện là xã Thiện Tân, diện là 2 xã
189

19.10 Page 190

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tân Định, Đại An. Đêm 26/1/1973, du kích xã Thiện Tân được
một tiểu đội đặc công (tiểu đoàn 9) hỗ trợ (gồm 16 tay súng) tiến
công đánh chiếm ấp 7 và ấp Ông Hường.
Hiệp định Paris (27/1/1973) đã được ký kết, đó là thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử đối với cách mạng nước ta. Theo Hiệp định, Mỹ phải
rút quân về nước. Nhưng Mỹ không từ bỏ dã tâm “Việt Nam hóa
chiến tranh”, vẫn tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế, cố vấn cho chế
độ tay sai ở Sài Gòn; đẩy mạnh lấn chiếm, lấy bình định nông thôn
làm biện pháp trung tâm đánh phá cách mạng, xóa thế da beo; phục
hồi kinh tế, phong tỏa kinh tế cách mạng. Quân dân Vĩnh Cửu chưa
kịp vui khi có Hiệp định ngừng bắn, lại phải đối phó với thủ đoạn âm
mưu mới lấm chiếm dành dân của ngụy quyền.
Ngày 11/2/1973, địch tiếp tục vi phạm Hiệp định, đẩy mạnh lấn
chiếm ở Vĩnh Cửu. Huyện ủy Vĩnh Cửu đã lãnh đạo đấu tranh thắng
lợi, đẩy lùi các cuộc càn lấn, ủi đất vi phạm Hiệp định của địch ở Đại
An, Bùng Binh (Thiện Tân), Đồng Lách (Tân Định),
Bước vào mùa khô 1974-1975. Huyện ủy Vĩnh Cửu quán triệt
Nghị quyết của Trung ương Cục và Nghị quyết của Tỉnh ủy, xác
định nhiệm vụ trọng tâm của huyện: Chuyển tranh chấp mạnh và giải
phóng 3 xã vùng 1, điểm là Đại An; chuyển tranh chấp 8 xã vùng 2
và 3, tập trung là 2 xã Bình Long, Lợi Hòa; thọc sâu xây dựng cơ
sở, du kích mật Tân Phú; đánh phá giao thông lộ 24, đường Kiểm,
phối hợp với đoàn 113 đánh các trận địa pháo, sân bay Biên Hòa. Từ
30/11 đến 5/12/1974, tất cả cấp ủy huyện, cán bộ lực lượng vũ trang
đều bám các xã chuẩn bị vào đợt. Đêm 7/12, cùng với toàn Miền,
toàn tỉnh, quân dân Vĩnh Cửu nổ súng tiến công địch.
Đêm 26/4/1975, Huyện ủy Vĩnh Cửu họp và nêu quyết tâm:
“Động viên toàn Đảng bộ, lực lượng vũ trang, bán vũ trang bằng lực
lượng 3 mũi tại chỗ, huy động cao nhất mọi cơ sở vật chất, kết hợp
lực lượng trên giải phóng toàn huyện…”. Điểm tập trung là Đại An,
sau đó phát triển tiến công xuống Tân Định, Thiện Tân, theo lộ 24
tiến chiếm chi khu Công Thanh. Các xã dùng lực lượng tại chỗ bao
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vây, tiến công và nổi dậy tự giải phóng xã, ấp.
Tình hình diễn ra hết sức nhanh chóng. Thắng lợi dồn dập từ các
mặt trận lộ 1, lộ 15 làm nức lòng quân dân Vĩnh Cửu. Ở các xã, đảng
viên, nòng cốt tích cực chuẩn bị lương thực, băng cờ, truyền đơn sẵn
sàng đón thời cơ mới.
Đêm 28/4/1975, pháo binh ta từ Hiếu Liêm dội cấp tập vào sân
bay Biên Hòa, quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn. Tiểu đoàn 9 đặc công
nhanh chóng triển khai tiến công vào căn cứ thiết giáp Hóc Bà Thức.
Ta hoàn toàn chiếm lĩnh căn cứ này, diệt 60 tên, bắt sống tên thiết
đoàn trưởng thiết đoàn 15 quân đội Sài Gòn. Cả tiểu đoàn bám trụ,
đánh bật nhiều đợt phản kích của 2 tiểu đoàn ngụy có xe tăng, máy
bay yểm trợ. Ngày 29/4/1975, lá cờ quyết thắng của tiểu đoàn hiên
ngang bay trên nóc nhà chỉ huy căn cứ Hóc Bà Thức. 1 giờ sáng ngày
30/4/1975, bộ đội huyện và du kích lần lượt giải phóng Tân Định,
Đại An, rồi tiến chiếm chi khu Công Thanh. Đoàn đặc công 113
tiến công chiếm giữ căn cứ thiết giáp Hóc Bà Thức. Huyện ủy Vĩnh
Cửu chỉ đạo lực lượng vũ trang huyện (C26) nhanh chóng hành quân
về kết hợp cùng du kích các xã dọc lộ 24 Tân Phú, Lợi Hòa, Bình
Thạnh, Bình Phước, Tân Triều, Bình Ý, Bình Hòa cùng quần chúng
nhân dân tấn công vũ trang kết hợp với binh vận, kêu gọi bọn địch
buông súng đầu hàng. Sáng ngày 30/4/1975, huyện Vĩnh Cửu hoàn
toàn được giải phóng, bộ máy chính quyền địa phương gồm 2.087
tên hoàn toàn tan rã. Lịch sử cách mạng huyện Vĩnh Cửu sang trang.
Ngay sau khi huyện nhà cùng miền Nam hoàn toàn giải phóng,
Đảng bộ huyện lãnh đạo toàn diện xây dựng chính quyền cách mạng,
khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, khôi phục
và phát triển sản xuất. Vượt qua nhiều khó khăn, Đảng bộ và nhân
dân Vĩnh Cửu đã đoàn kết, vững lòng, chung tay xây dựng và bảo
vệ đất nước, làm cho Vĩnh Cửu phát triển toàn diện như ngày hôm
nay. Với những thành tích ấy, năm 1996, Đảng bộ và nhân dân huyện
Vĩnh Cửu được Chủ tịch Nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
191

20.2 Page 192

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Phú Lý
Xã Phú Lý(1), huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai trước năm
1976 là xã Độc Lập; nằm ở phía Đông - Đông Bắc tỉnh Đồng
Nai cách trung tâm tỉnh (Biên Hòa) 60km và trung tâm huyện
Vĩnh Cửu 30km.
Trước năm 1945, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ;
ở xã Lý Lịch phần lớn là đồng bào dân tộc Chơ-ro sinh sống. Tuy
nhiên, ngoài số cán bộ, bộ đội công tác tại đây cũng có sự tiếp xúc
giữa đồng bào dân tộc Chơ-ro và người Kinh, do đồng bào dân
tộc bị các thế lực phong kiến tư sản dựa vào thực dân Pháp dùng
mọi thủ đoạn để bóc lột ép đồng bào làm thuê, ở đợ cho chúng.
Cũng có một số người Kinh không chịu được cảnh áp bức dã man
tàn bạo của giặc nên bỏ xứ, vào rừng sống cùng đồng bào dân tộc.
Nhiều người lao động đã phải ở đợ truyền đời, bị bắt đi phu, đi
lính, lao động khổ sai nơi “sơn cùng cốc thẳm”, nhiều người ngày
đi thì có, ngày về thì không, như ông Tám Hội, ông Hai Dử.
Ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh, “tức nước vỡ bờ” đó là
nguyên lý. Trong các cuộc đấu tranh tự phát của quần chúng nhân
dân chống lại bọn thực dân phong kiến, mọi người còn lưu truyền
câu chuyện cụ Huỳnh Văn Đó - già làng lúc đó, đã cầm rựa rượt
đuổi, chém bọn tay sai của đế quốc phong kiến vào xã bắt xâu.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Cửu.
192

20.3 Page 193

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhưng các cuộc đấu tranh đó cũng chỉ mang tính chất cá nhân tự
phát chưa có sự lãnh đạo của Đảng. Vào những năm 1937-1938,
thực dân bắt một số đồng bào trong xã, kinh cũng như dân tộc thiểu
số làm phu, làm xâu ở quốc lộ 20, ở nhà tù Tà Lài. Qua làm việc,
dân chúng tiếp xúc với các đồng chí tù nhân cộng sản bị giam cầm
tại đây, được giác ngộ, vận động nhau bỏ về không làm phu nữa,
như ông Ba Cần, ông Năm Kịp. Đó cũng chính là những hạt giống
đỏ mà cách mạng đã gieo vào trong lòng đồng bào các dân tộc
trong xã Lý Lịch. Do vậy, vào những năm 1940-1941 một số chiến
sĩ cộng sản vượt ngục như ông Trần Văn Giàu từ Tà Lài về Lý Lịch
đã được đồng bào trong xã như ông Nguyễn Văn Huỳnh, Nguyễn
Văn Chuyền... che giấu nuôi dưỡng. Tên Chín Lộng tay sai Pháp
dẫn lính về lục soát, dọa dẫm, mua chuộc đồng bào hòng bắt lại
các chiến sĩ cộng sản, đồng thời chia rẻ đồng bào với cách mạng.
Nhưng trước tinh thần kiên trinh, bất khuất của đồng bào kẻ địch
đã thất bại hoàn toàn.
Xã Phú Lý được xác định là vị trí chiến lược quan trọng của
chiến khu miền Đông Nam Bộ, là nơi che giấu, nuôi dưỡng lực
lượng cán bộ, căn cứ hoạt động của các lãnh đạo Khu ủy và Quân
khu trong việc tham mưu, hoạch định kế hoạch tổ chức các trận
đánh góp phần giành thắng lợi trong kháng chiến ở miền Đông.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trong cả nước,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hòa cùng khí thế
cả nước, đồng bào xã Lý Lịch được sự giúp đỡ của những chiến sĩ
Chi đội 10 Biên Hòa như Nguyễn Văn Tứ, Nguyễn Văn Luận…
đã kịp thời xây dựng chính quyền và các đoàn thể ở xã. Ông Hồng
Văn Hộ được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến của
Lý Lịch. Đó là Chủ tịch đầu tiên của chính quyền dân chủ nhân
dân xã Lý Lịch với nhiệm vụ chính là chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến chống Pháp lâu dài.
Tháng 1/1946, giặc Pháp theo đường sông lên đánh căn cứ cách
mạng ở khu vực Tân Uyên - Sông Bé (ngày nay). Dưới sự lãnh
193

20.4 Page 194

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đạo của chính quyền cách mạng, bà con dân tộc đã vận chuyển
lương thực, thực phẩm với hàng chục cây ná, hàng trăm mũi tên
vào căn cứ để góp phần đánh bại cuộc hành quân của Pháp và
tay sai. Đồng thời, tại xã, để củng cố địa bàn, chính quyền đã
bắt tên Huỳnh Văn Thôi tay sai của giặc Pháp giao cho chỉ huy
căn cứ xử lý. Tuy cuộc sống còn khó khăn, đồng bào luôn đứng
về cách mạng, nhịn phần mình để nuôi dưỡng cách mạng, nuôi
đoàn C (đội võ trang tuyên truyền đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ quốc
dân thiểu số Biên Hòa); để từ đây đoàn tỏa đi các nơi trong vùng
vận động đồng bào dân tộc làm cách mạng. Cùng với việc giúp
đỡ các lực lượng cách mạng, nhân dân trong xã còn hăng hái
thoát ly, tham gia du kích, tiêu biểu như các ông Nguyễn Văn
Ngộ, Hồng Văn Hà, Hổng Văn Lượng, Hồng Văn Hùng. Đồng
bào trong xã còn cưu mang các gia đình dân phu bỏ trốn lên Lý
Lịch; cuối năm 1946 có 10 hộ với 48 nhân khẩu đã được bà con
nuôi giúp; phần lớn trong số này lấy Lý Lịch làm quê hương,
tham gia vào đời sống kháng chiến, tại đây, có người đóng góp
hàng ngàn cây chông trong chiến dịch chống Pháp nhảy dù ở Mỹ
Lộc tháng 1/1947.
Từ một vài hạt giống đỏ qua thử thách, đến tháng 5/1947 Lý
Lịch đã có 6 đảng viên Đảng Cộng sản: Huỳnh Văn Dó, Hồng Văn
Hà, Hồng Văn Lượng, Huỳnh Văn Rạng, Hồng Văn Huế, Nguyễn
Văn Ngộ. Đó là cột mốc đánh dấu sự trưởng thành của xã và những
con người của Lý Lịch trong quá trình đi theo cách mạng.
Để xóa bỏ khu căn cứ của cách mạng, ngày 5/3/1947, Pháp đột
kích nhảy dù xuống Lý Lịch. Đồng bào và các cơ sở đã kịp thời
sơ tán phương tiện và tài sản quan trọng vào rừng sâu. Giặc tức
tối đốt nhà, giết trâu bò, heo gà của đồng bào; lương thực, thực
phẩm nuôi quân không hề bị ảnh hưởng. Nhờ vậy, nguồn lực địa
phương vẫn đảm bảo hậu cần cho bộ đội lập chiến công trong trận
thắng La Ngà lừng lẫy tháng 3/1948. Tuy không trực tiếp cầm
súng chiến đấu, nhưng cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, nhân dân xã
Lý Lịch đã ủng hộ lương thực, thực phẩm, mở đường vận chuyển
194

20.5 Page 195

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vũ khí, nuôi quân trước, trong và sau chiến thắng La Ngà. Sau
chiến thắng này, 7 cán bộ cốt cán của xã được rút lên huyện đội
công tác.
Bị thua đau trên nhiều chiến trường, trong đó có ở Lý Lịch,
kẻ địch lại tập trung quân mở một trận càn dữ dội, gồm hơn 1
trung đoàn Pháp, 2 tiểu đoàn quân sự Sài Gòn và quân ở các đồn
bót xung quanh, tập trung đánh phá các căn cứ cách mạng, trong
đó xã Lý Lịch là một trong những trọng điểm. Vào tháng 9 và
10/1951, ở xã, ngoài lực lượng chủ lực, xã có một tiểu đội vũ
trang dưới sự chỉ huy của đồng chí Hai Ngộ - xã đội trưởng. Tiểu
đội đã kiên cường bám dân chiến đấu, góp phần làm thất bại cuộc
càn quét của địch. Bị thất bại, bọn Pháp bắt 9 hộ dân đưa về Túc
Trưng để hòng lung lạc tinh thần và khai thác thông tin. Một lần
nữa, tấm lòng kiên trung một lòng theo Đảng, theo cách mạng của
đồng bào đã làm kẻ địch thất bại không thu được gì, cuối cùng số
người bị bắt mốc nối với cơ sở trốn được về với Lý Lịch.
Giai đoạn 1945-1954, cuộc sống của dân Lý Lịch vô cùng
khổ cực, thiếu thốn, kẻ địch bao vây phong tỏa khu căn cứ ngặt
nghèo, nhưng đồng bào vẫn dành lương thực, vật dụng nuôi giúp
tiểu đoàn võ trang tuyên truyền Sông Bé và tiểu đoàn vận tải 320
miền Đông. Tấm gương tiêu biểu trong hoạt động này là ông Sáu
Lượng và Hai Tây.
Cũng trong thời gian này, chính quyền nhân dân được củng
cố từ ấp đến xã. Ông Huỳnh Văn Rạng làm Chủ tịch xã.., Hội
“Thanh niên cứu quốc” ra đời và góp phần sản xuất nuôi quân,
giúp đỡ cách mạng. Lực lượng vũ trang của xã lúc này mỗi ấp có
một tiểu đội (5 ấp) do ông Nguyễn Văn Ngộ làm xã đội trưởng.
Như vậy, suốt thời gian 9 năm chống Pháp, căn cứ cách mạng Lý
Lịch ngày càng lớn mạnh, vững chắc, góp phần đánh bại thực dân
Pháp. Đồng thời, cũng 9 năm đó con người và các lực lượng xã Lý
Lịch cũng trưởng thành vượt bậc, giác ngộ lý tưởng cách mạng, một
lòng kiên trung theo cách mạng, không có ai làm tay sai cho địch.
195

20.6 Page 196

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Giai đoạn chống Mỹ cứu nước 1954-1975, theo thỏa thuận của
hiệp định Geneve phần lớn bộ đội cán bộ của ta tập kết ra miền
Bắc. Đồng bào Lý Lịch chỉ cử một người đi, số đông ở lại bám trụ
xây dựng quê hương, tiếp tục xây dựng căn cứ cách mạng, chấp
nhận hoạt động bí mật. Giai đoạn 7/1954 đến 7/1956, Lý Lịch là
trụ sở của Huyện ủy Sông Bé, do đổng chí Tạ Quang Lộc - Bí thư
Huvện ủy Sông Bé trực tiếp chỉ đạo.
Trước sự đàn áp của kẻ địch, một số cán bộ đảng viên ở các đô
thị đã rút lên Lý Lịch hoạt động (như đồng chí Lê Thanh, Chín
Quỳ). Tháng 12/1956, Lý Lịch cũng đón tiếp, trợ giúp một số tù
chính trị phá nhà lao Tân Hiệp lên hoạt động, như đồng chí Chín
Quận, Bảy Tấn...
Nhiều đồng bào trong xã được xét kết nạp vào Đảng. Tháng
7/1957, chi bộ Đảng của xã được thành lập do ông Năm Nổi
(Nguyễn Văn Nổi) làm Bí thư. Đây là một chi bộ độc lập đầu tiên
ở ở miền Đông Nam Bộ có nhiều đảng viên là đồng bào dân tộc
thiểu số. Cũng trong thời gian này, nhiều cơ quan đầu não của
miền Đông đóng quân ở Lý Lịch. Tháng 6/1958, Xứ ủy lập Ban
quân sự và Đảng ủy lực lượng vũ trang Miền - tiền thân của lực
lượng vũ trang Đông Nam Bộ, do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến,
Mai Chí Thọ lãnh đạo.
Được sự giúp đỡ nhiệt tình, đồng cam cộng khổ của đồng bào
xã Lý Lịch, các đơn vị bộ đội, các tổ chức Đảng được giữ vững
và phát triển, mặc dù có lúc phải ăn củ mài, củ chụp thay cơm. Để
bảo đảm an toàn bí mật căn cứ, các lực lượng trong xã phát hiện
và bắt giữ tên Ngọc - một ác ôn giả dạng người mua dầu cài vào
Lý Lịch thăm dò khu căn cứ, báo tin cho địch. Trước khí thế cách
mạng ngày càng phát triển, chính quyền Sài Gòn tìm mọi cách
ngăn chặn, bao vây khủng bố, mua chuộc hòng phá hại phong
trào của đồng bào Lý Lịch. Tháng 6/1959, chúng đưa 10.000 quân
càn quét Lý Lịch, đốt nhà, đốt lúa, bắn giết heo gà, tàn hại tất cả,
không từ thứ gì.
196

20.7 Page 197

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Vì Chiến dịch Trương Tấn Bửu vào tháng 6/1956, đầu năm
1960, Huyện ủy chuyển dần về Đồng Xoài - Sông Bé. Việc liên
lạc giữa Huyện ủy và xã gặp rất nhiều khó khăn, phải đối phó với
biệt kích địch và thú dữ ở rừng, mỗi lần đi họp huyện, có khi 5-7
ngày mới về đến xã. Để không mất liên lạc và kịp thời nhận chỉ
đạo của cấp trên, xã lập một tổ liên lạc gồm 4 đồng chí do đổng
chí Sáu Lượng làm tổ trưởng. Nhờ vậy, sự liên lạc giữa xã và
huyện ủy được thông suốt mấy năm liền. Qua đường dây giao
liên này, xã luôn nhận được chỉ đạo của huyện, tự tạo hàng trăm
ná, bẫy, vót hàng ngàn chông tre, đào hàng trăm mét hầm chiến
đấu, tạo nhiều hầm chông để bảo vệ thôn làng và căn cử cách
mạng. Đặc biệt, năm 1959-1960, với tinh thần cách mạng tiến
công, mặc dù thiếu gạo, đói cơm, các già làng họp lại quyết định
giao đồi Cả Chạng và kho lương thực dự trữ của đồng bào cho bộ
đội để nuôi quân. Tháng 10/1962, lính Sài Gòn nhảy dù xuống xã,
trúng vũ khí tự tạo của đồng bào, chết 5 tên, bị thương 3 tên, phải
bỏ dở cuộc càn quét. Du kích xã thu được 2 súng trường, nộp lên
trên, được trang bị lại một khẩu.
Sau trận này, căn cứ Lý Lịch được giữ vững, làm chỗ đóng
quân an toàn cho các đơn vị: U50; đoàn 81 814, C215, tiểu đoàn
14 pháo binh. Đồng bào Lý Lịch còn giúp đỡ vùng phụ cận Bàu
Phụng xây dựng lực lượng, nên lực lượng phối hợp ngày càng
đông, lớn mạnh, góp phần cùng dân, quân miền Đông đánh tan
hàng chục trận càn lớn nhỏ; tham gia cuộc tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968.
Thời kỳ 1969-1971, sau Mậu Thân 1968, Mỹ và tay sai tăng
cường đánh phá chiến khu cách mạng, một mặt dùng máy bay
ném bom, rải chất độc, bom cháy xuống các khu vực căn cứ, mặt
khác đưa quân (sư 1 kỵ binh bay Mỹ) đóng chốt khắp nơi, chia
cắt, bao vây, cô lập các căn cứ; như các chốt: Suối Boong, đồi
Bằng Lăng… Trong sự đùm bọc che chở của đồng bào, bộ đội vẫn
an toàn huấn luyện, dưỡng quân, chuẩn bị cho mỗi trận đánh; vừa
tiến công địch, vừa mở rộng vùng an toàn cho căn cứ.
197

20.8 Page 198

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đến năm 1972-1973, Lý Lịch trở thành vùng an toàn của chiến
khu Đ. Các cơ quan của Khu ủy miền Đông: Ban Chỉ huy, Ban
Kinh tài, Cục Hậu cần, Ban An ninh… lập căn cứ tại đây, được
đồng bào chia sẻ, đùm bọc trong tình quân dân cá nước. Có lần,
đồng bào tiếp cứu đoàn công tác chi viện từ miền Bắc khỏi vòng
phục kích của địch. Lần khác, 100 cán bộ, chiến sĩ đi công tác ở
Mây Tàu về bị bom bi dọc đường, lạc rừng được đồng bào phát
hiện, cứu sống, đưa về xã tịnh dưỡng rồi nối liên lạc trở về cơ
quan; trong đó có đồng chí Mười Thiện, Tư Hồ...
Qua các thời kỳ khó khăn và ác liệt, nhân dân xã Lý Lịch vẫn
một lòng hướng về cách mạng. Đồng bào thể hiện lòng thành với
cán bộ: “Xin các đồng chí nói với Đảng, Bác Hổ, đồng bào xã Lý
Lịch dù gian khổ đến mấy cũng xin theo cách mạng, theo bộ đội
đến cùng, thà chết trong rừng với bộ đội chứ nhất định không ra
vùng tạm chiếm”. Đó là lời hứa. là tấm lòng của đồng bào. Bằng
tinh thần kiên trung, cán bộ và nhân dân xã Lý Lịch đã bám trụ
giữ làng, phục vụ cách mạng góp phần giữ vững vùng chiến khu
an toàn.
Với những công lao đóng góp cho cách mạng ở thời kỳ này, xã
đã được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng
cờ luân lưu, được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam tặng Huân chương hạng Nhất cùng nhiều huân,
huy chương, danh hiệu dũng sĩ, bằng khen các loại cho các cá
nhân có thành tích trong xã.
Điểm lại, quá trình đấu tranh của xã Phú Lý có nhiểu nét đáng
chú ý: Lập xã tháng 9/1945 với gần 100 hộ, hơn 501 khẩu thuộc
huyện Đồng Nai - tỉnh Biên Hòa; 1951-1954 thuộc huyện Sông
Bé, tỉnh Thủ Biên; 1955-1959 thuộc tỉnh Biên Hòa. Năm 1959-
1965 thuộc Phước Thành. Năm 1965-1971 thuộc tỉnh Bà Rịa -
Long Khánh. Năm 1971-1972 thuộc phân khu Bà Rịa. Năm 1971-
1974 thuộc tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Năm 1974-1975 thuộc
huyện Độc Lập, tỉnh Tân Phú. Số người thoát lỵ làm cảch mạng,
198

20.9 Page 199

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chống Pháp có 15 người; chống Mỹ có 13 người. Gia đình diện
chính sách, 4 liệt sĩ; 11 thương binh. 13 người bị giết, bị bắt, chết
trong chiến tranh, 66 người bị thương, 5 người mất tích, 31 người
bị bắt.
Tài sản bị địch đốt phá, cướp, giết: Bị đốt 200 lượt nóc nhà; bị
đốt phá 96 tấn lương thực; bị cướp giết nhiều trân bò, gà lợn; bị
cướp phá 42 cái cồng chiêng, 310 cái ché…
Đồng bào thực hiện công trình tham gia kháng chiến: Tự tạo
khoảng 1.400.000 chông, bẫy; ná chiến đấu 150 cây; rào làng
21.00 mét; đào 1.500 mét giao thông hào, 200 công sự và hầm
tránh bom. Đồng bào đóng góp công sức khoảng 10.000 ngày
công, 30 tấn lương thực cho cách mạng, nuôi dưỡng, che giấu hơn
30 đơn vị với hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ.
Với thành tích ấy, Đảng bộ và nhân dân trong xã được tặng
thưởng: 1 cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam (năm 1961); 1 Huân chương hạng Nhất của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (năm 1968). Cán bộ
và nhân dân trong xã được tặng: 417 huân, huy chương các loại và
nhiều bằng khen, giấy khen, chứng nhận dũng sĩ cho các hộ, các
cá nhân có thành tích.
Sau năm 1975, xã Lý Lịch được phép gom dân lại, định cư
tại khu vực Tà Lài. Nhưng do tập quán của đồng bào, phần đông
không tập trung về Tà Lài mà vẫn bám địa bàn cũ, chỉ có khoảng
50 hộ dời về bên phải suối Samát lập ấp, lấy tên Lý Lịch, thuộc
huyện Tân Phú. Theo chủ trương về kinh tế mới, nhiều hộ người
Việt từ Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị ở Đồng Nai chuyển
cư đến Lý Lịch sinh sống, hình thành các cụm dân cư, phát triển
nhiều hoạt động sản xuất, dịch vụ. Năm 1977, đổi tên xã Lý Lịch
thành xã Phú Lý, thuộc huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Thời gian
này, đời sống của đồng bào trong xã căn bản còn nhiều khó khăn,
cuộc sống dựa vào nông nghiệp nhỏ lẻ, rất cơ cực, có lúc phải
ăn củ mì, củ mài, củ chụp thay cơm. Dần dần, bằng tinh thần bất
199

20.10 Page 200

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
khuất trong chiến đấu, đoàn kết giữa các dân tộc, sự quan tâm
giúp đỡ của tỉnh, huyện và lâm trường Vĩnh An.
Cuộc sống của đồng bào trong xã dần được cải thiện. Nhìn lại
quãng đường đã đi qua, từ 100 hộ đến thời điểm năm 2000, xã
có hơn 2.000 hộ với hơn 11.000 dân ở 9 ấp. Diện tích toàn xã là:
24.648 hécta, trong đó: có 1.055 hécta đất nông nghiệp, còn lại
19.038 hécta đất lâm nghiệp.
Đảng, Nhà nước quan tâm đã đầu tư xây 50 căn nhà cho đồng
bào dân tộc Chơ-ro có hoàn cảnh khó khăn, 2 căn nhà tình nghĩa
cho gia đình liệt sĩ. Xây và khoan, đào được 62 giếng nước sinh
hoạt, 2 trạm xá, một trường tiểu học, một trường THCS và hàng
chục phòng học lẻ ở các ấp. Hệ thống điện sinh hoạt, thắp sáng và
đường nội bộ được lan tỏa đến các ấp. Mô hình sản xuất thủ công
có lúc đã giải quyết việc làm cho hơn 200 lao động. Các chương
trình 327, xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho xã đặc biệt khó khăn
kết hợp việc thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu
số được kiên trì thực hiện trong nhiều năm, đạt kết quả tốt, cải
thiện được đời sống vật chất và tinh thần của người dân toàn xã;
xóa đói, căn bản giảm hộ nghèo, điều kiện học hành, chữa bệnh
trên địa bàn được nâng cao.
Xã Phú Lý được Nhà nước phong tặng danh hiệu tập thể Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 761/
KT.CTN ngày 29/1/1996.
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Bình Lợi
Xã Bình Lợi(1) thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Theo
tài liệu của Tòa bố Biên Hòa ngày 15-9-1923, tỉnh Biên Hòa có
17 tổng, 156 làng: làng Lợi Hòa (Võ Sa) có 2 ấp: Ấp chợ và ấp
Thạnh Hòa (Bàu Tre); làng Bình Ninh có 3 ấp: Ấp nhất, ấp nhì
(Gò Cầy), ấp ba thuộc tổng Phước Vĩnh Hạ. Từ 1949 đến 1954,
xã Bình Long và Lợi Hòa nhập lại thành xã Dân Chủ thuộc huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Thủ Biên. Đến ngày 2/5/1957, xã Bình Long, Lợi
Hòa thuộc quận Tân Uyên, Biên Hòa. Đến ngày 23/1/1959 xã
Bình Long, Lợi Hòa thuộc quận Tân Uyên, tỉnh Phước Thành.
Ngày 22/3/1963, thuộc tổng Thanh Quan, quận Công Thanh, Biên
Hòa. Ngày 12/2/1987, sáp nhập 2 xã này thành xã Bình Lợi thuộc
thị xã Vĩnh An.
Bình Lợi là một xã nông thôn với vị trí địa lý hình chữ C nằm
dọc bờ sông Đồng Nai khoảng 7km; có nhiều kênh, rạch đan xen;
nhiều vườn cây rậm rạp, địa thế hiểm trở; là vành đai quan trọng
bảo vệ chiến khu Đ, thuận lợi cho việc tiếp tế sức người, sức của
phục vụ chiến khu; và là nơi dễ ẩn náu cho cán bộ hoạt động; là
điểm trú quân đánh giặc của bộ đội huyện, tỉnh, miền. Từ khi mới
thành lập, bộ đội Chi đội 10 tạo cơ sở đứng chân vững vàng ở đây.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Cửu.
201

21.2 Page 202

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Bình Lợi có diện tích tự nhiên 1441 hécta, có 1 đồn điền cao su
của Pháp rộng khoảng 63 hécta (nay đã giải tỏa), thời điểm năm
2000 có tổng số dân 1127 hộ, 5.937 khẩu, đa số là người Kinh, cư
dân sống ổn định, lâu đời tại đây; chủ yếu bằng nghề nông, theo
phong tục thờ cúng ông bà.
Với vị trí quan trọng nêu trên, sau khi tái chiếm Nam Bộ, thực
dân Pháp đã xây dựng bót Cây Đào, bót Mỹ Quới và sau lập
thêm đồn số 10 và 2 tua (1 tại xã và 1 tại ấp Bình Minh - Bến
Đò). Chúng thường xuyên càn quét bằng đường bộ và đường thủy
nhằm dập tắt phong trào kháng chiến ở địa phương.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, chúng ra sức xây dựng
lực lượng, lập đồn bót với 2 trung đội bảo an tại chỗ; mở rộng
vành đai kiếm soát, lập ấp chiến lược, dồn dân nhằm chia cắt,
không chế phong trào cách mạng, xây dựng các toán phòng vệ
dân sự và tăng cường các hoạt động tình báo bình định. Lực lượng
hoạt động thường xuyên của chúng tại xã gồm 182 tên; thường
xuyên lùng sục, càn quét, khủng bố, bắt giết cán bộ cách mạng và
nhân dân, nhất là những người kháng chiến. Chúng sử dụng nhiều
thủ đoạn thâm độc như mua chuộc, lôi kéo, chia rẽ, khống chế,
đánh đập, đốt nhà gây áp lực tinh thần. Đặc biệt chúng thường
khủng bố, càn quét bằng xe tăng, máy bay; nhất là khi có lính Mỹ
và quân chư hầu xuất hiện, bọn chúng tăng cường thả bom, rải
chất độc hóa học hủy diệt sự sống nhằm thủ tiêu cách mạng.
Tội ác của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã không khống chế
được cách mạng mà còn làm cho quần chúng nhân dân thêm căm
thù, phản kháng. Qua đó, người Bình Lợi thấy rõ âm mưu của kẻ
thù, tìm đến con đường yêu nước, chống xâm lược, chống cái ác.
Được Đảng lãnh đạo, tuyên truyền cách mạng, một bộ phận nòng
cốt của Bình Lợi sớm giác ngộ, có nhận thức đúng đắn, quyết tâm
theo Đảng làm cách mạng, làm hạt nhân của phong trào đấu tranh
ở địa phương, tiêu biểu là Huỳnh Văn Lũy.
Đồng chí Huỳnh Văn Lũy nguyên quán ở Mỹ Quới (thuộc
202

21.3 Page 203

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa cũ) là người sớm được giác ngộ cách
mạng. Ông được phân công về xây dựng phong trào cách mạng
tại xã Bình Lợi. Vào năm 1936, ông cùng 3 thanh niên của xã
hình thành tổ chức cách mạng đầu tiên ở Bình Lợi, xây dựng lực
lượng cách mạng tại chỗ để lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
thực dân Pháp.
Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở xã Bình Lợi được thành lập
vào năm 1937, gồm 3 đảng viên, do đồng chí Huỳnh Văn Lũy làm
Bí thư. Có chi bộ Đảng lãnh đạo, người dân Bình Lợi được giác
ngộ cách mạng, tự giác tham gia phong trào kháng chiến chống
thực dân Pháp. Ban đầu là những phong trào đấu tranh đòi quyền
dân chủ, dân sinh; phát triển dần thành lực lượng kháng chiến
đấu tranh chính trị, đấu tranh võ trang. Người Bình Lợi tin Đảng,
theo Đảng, tham gia thực hiện mọi nhiệm vụ do Đảng lãnh đạo,
sẵn sàng đưa con em thoát ly tham gia cách mạng. Trong giai
đoạn đầu chống Pháp, toàn xã có 108 thanh niên tham gia các lực
lượng kháng chiến. Nhân dân đóng góp nhiều của cải vật chất
cho cách mạng, khoảng 1.700 giạ lúa, hàng chục đôi trâu, bò; 17
ghe, thuyền để vận chuyển lương thực, súng đạn. Giặc Pháp đàn
áp, ép dân vào đô thị, tách rời cách mạng; nhưng dân Bình Lợi
không nghe theo, nhiều gia đình vào căn cứ sản xuất tự túc, vừa
giải quyết đời sống gia đình vừa góp phần nuôi quân đánh giặc.
Tháng 11/1946, trận đánh đầu tiên do đồng chí Dương Hoàng
Sơn chỉ huy. Bằng mưu trí, sáng tạo; đồng chí Sơn đã tổ chức
phục kích bọn địch đi càn quét. Chờ địch lọt vào thế trận, tổ phục
kích bất ngờ nổ súng, diệt tại chỗ 8 tên, bắt sống 2 tên; thu 10
súng trường. Trận đầu thắng lợi bằng vũ khí thô sơ, tự tạo đã cổ
vũ tinh thần kháng chiến, làm cho giặc Pháp hoang mang, lo lắng.
Rút kinh nghiệm trận thắng đầu tiên, trận tiếp theo phục kích tại
khu vực 3 dốc (ông Hường), diệt gọn 1 tiểu đội lính Pháp, thu 8
súng. Hai trận đánh đã làm nức lòng quân dân địa phương.
Đối phó với phong trào cách mạng phát triển, giặc Pháp lập
203

21.4 Page 204

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đồn mới (đồn số 10) tại xã để kiểm soát khu vực và tăng cường
đàn áp. Lợi dụng cơ hội này, tổ chức cài cắm, đưa ông Lê Ngọc
Bạch (tức đồng chí Chín Hồng) và ông Lê Văn Phùng đi lính cho
Pháp làm nội ứng. Khi đồn số 10 vừa đi vào hoạt động, trang bị
súng ống đầy đủ; nội ứng cùng du kích phối hợp tiêu diệt đồn, thu
toàn bộ vũ khí đưa về căn cứ, gồm 14 súng và 2 thùng đạn.
Cuối năm 1951, lực lượng cách mạng Bình Lợi do đồng chí
Nguyễn Văn Chư chỉ huy, lại tổ chức đánh đồn Bình Ninh, diệt
10 tên Pháp, thu 6 súng.
Năm 1961 đồng chí Nguyễn Văn Bé chỉ huy lực lượng du kích
diệt tên Chừng ác ôn và 2 dân vệ. Năm 1962 đồng chí Nguyễn
Văn Chánh chỉ huy đánh đồn ấp 1 tại cua Bàu Tre diệt 6 tên, thu
6 súng. Cuối năm 1963 lực lượng du kích phối hợp với bộ đội
huyện do đồng chí Ba Thành chỉ huy đánh đồn Lợi Hòa, diệt 4 tên
(2 dân vệ, 2 phòng vệ).
Đồn Bình Long gồm 1 trung đội lính dân vệ do tên Đô làm
đồn trưởng; thường tổ chức nhiều cuộc càn quét gây nhiều tội ác
và nợ máu với nhân dân. Thực hiện chỉ đạo của chi bộ xã, ngày
12/9/1964, du kích xã (6 đồng chí) do xã đội trưởng Trần Văn
Nghĩa (tự Gạo) chỉ huy, có chi viện của lực lượng huyện đã đột
nhập, ém quân trong đồn địch. Sau khi địch đi càn quét về đồn do
chủ quan, không hề đề phòng, bị du kích nổ súng bất ngờ diệt 31
tên tại chỗ, bắt sống tên đồn trưởng ác ôn đưa về căn cứ xử lý, thu
toàn bộ vũ khí gồm 35 súng các loại và 20 băng đạn.
Cũng với cách đánh ấy, lúc 24 giờ ngày 25/12/1965 lực lượng
vũ trang Bình Lợi đánh chiếm thêm một đồn địch nữa tại xã, tiêu
diệt một trung đội địch; chết tại chỗ 24 tên, trong đó có tên đồn
trưởng (Rồng), 4 tên bị thương tẩu thoát, thu 30 súng các loại, 15
lựu đạn. Địch không kịp và không dám chi viện dù quận Công
Thanh cách đó khoảng 3km. Lực lượng Bình Lợi thắng trận rút
về căn cử an toàn.
Hai trận đánh mưu trí, táo bạo, bất ngờ ấy khẳng định lực lượng
204

21.5 Page 205

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vũ trang Bình Lợi đã trưởng thành, đủ sức đánh giặc và thắng
giặc; đồng thời làm cho địch khiếp sợ, không dám xem thường
sức mạnh của quân dân kháng chiến.
Tuy nhiên, với bản chất của quân xâm lược, giặc càng khiếp
sợ càng tăng cường bố ráp để trả thù. Chúng tổ chức một trận càn
quét với quy mô lớn vào địa bàn Bình Lợi tìm diệt các lực lượng
cách mạng đóng trên địa bàn. Trận càn có cố vấn Mỹ tham gia chỉ
huy, sử dụng các loại phương tiện chiến tranh hiện đại, gồm phi
pháo, trực thăng; huy động nhiều cánh quân, gồm cả thám báo
và bọn tề ngụy, chỉ điểm. Quân dân Bình Lợi đã đoàn kết, bám
đất trụ chiến đấu, đánh bại trận càn ấy. Trong các trận đánh, một
trận thắng lợi vang dội, đó là trận thiếu niên 13 tuổi Huỳnh Kim
Đồng đã mưu trí, dũng cảm dùng lựu đạn diệt tên cố vấn Mỹ tại
chỗ, làm bị thương 2 tên khác, trong đó có một sĩ quan Sài Gòn.
Huỳnh Kim Đồng được tuyên dương, được đưa về căn cứ, huấn
luyện trở thành chiến sĩ kiên trung, cho đến sau ngày giải phóng.
Trong thành tích của Đồng, trước khi diệt Mỹ, Đồng còn lừa thế
lấy được một khẩu súng carbin cùng 4 băng đạn nộp cho xã.
Về quân sự, quân dân xã Bình Lợi đã chủ động đánh 18 trận
lớn, nhỏ; gồm tập kích đánh đồn và chống càn; tiêu diệt 98 tên
địch; trong đó có 6 tên là giặc Pháp, 2 tên giặc Mỹ, 81 lính chư
hầu và tay sai, 9 tên ác ôn có nợ máu với nhân dân; trong số này
có 3 đồn trưởng, 5 cảnh sát, 1 tình báo mật vụ; thu được 98 súng
các loại, 61 lựu đạn. Đặc biệt, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, quân dân xã Bình Lợi đã bắt sống tên quận trưởng quận Tân
Uyên cùng 43 tên lính; thu được 30 súng các loại, 12 lựu đạn; phá
hủy 4 đồn bót và 3 trung tâm cộng đồng của địch.
Về chính trị, cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Lộc bền bỉ,
cam go có lúc đơn phương đương đầu với giặc, nhiều lúc kết hợp
đấu tranh chính trị, nhiều hình thức đấu tranh sinh động, thu nhiều
thắng lợi quan trọng, nhưng cũng nhiều mất mát đau thương,
nhiều người bị tù đày, tra tấn dã man, nhiều người đã ngã xuống.
205

21.6 Page 206

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Năm 1946, cuộc biểu tình từ xã xuống Bình Phước gồm 60
người tham gia, lần đầu tiên trực diện đòi giặc Pháp rút khỏi nước
Việt Nam và kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến.
Vào cuối năm 1961, giặc bắn pháo bừa bãi vào xóm làng làm
thiệt hại tính mạng và tài sản của nhân dân. Cơ sở vận động nhân
dân tổ chức biểu tình, gồm 20 cụ già kéo đến nhà Tổng Hiến đòi
không được bắn pháo vào xóm làng. Địch nhượng bộ, nhưng sau
đó tiếp tục bắn pháo bừa bãi. Cơ sở lại tổ chức cuộc biểu tình gồm
35 người, kéo đến dinh Tỉnh trưởng Biên Hòa đấu tranh kết quả
địch nhượng bộ không bắn pháo nữa. Đồng thời, cơ sở Bình Lợi
còn tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, in và rãi truyền đơn ở
các hương lộ trong xã và quanh khu vực đồn, bót gây hoang mang
cho địch.
Về binh vận, các tổ chức quần chúng đã phối hợp tuyên truyền,
vận động, kêu gọi binh lính quay về với cách mạng; đã cảm hóa 16
lính dân vệ, 50 phòng vệ dân sự trở về gia đình. Đặc biệt đã cài cắm
cơ sở vào lực lượng phòng vệ làm công tác binh vận, nắm thông
tin, phối hợp nội ứng; thuyết phục được 1 trung đội trưởng lính
địa phương giác ngộ cách mạng, lấy súng địch vào chiến khu theo
kháng chiến. Mặt khác, qua công tác giáo dục tuyên truyền chính
trị của ta, người dân Bình Lợi ngày càng giác ngộ sẵn sàng đưa
chồng, con, em mình thoát ly tham gia lực lượng chiến đấu. Trong
giai đoạn chống Mỹ, đã có 122 thanh niên lên đường tòng quân.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
ở xã Bình Lợi, có nhiều điển hình cá nhân và tập thể được nêu
gương. Có nhiều gia đình là cơ sở cách mạng tự giác đưa chồng,
con, em mình thoát ly tham gia cách mạng từ 2-3 người trở lên; có
trường hợp cả 3 người trong một gia đình hy sinh. Trong xã, có 5
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (Nguyễn Thị Biện, Huỳnh Thị Trâm,
Lê Thị Chí, Trần Thị Làm, Trương Thị Trọng) và 1 Anh hùng Lực
lượng Vũ trang nhân dân (đồng chí Nguyễn Văn Bình, đoàn 7701,
mặt trận 779).
206

21.7 Page 207

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Có những mẹ chiến sĩ tuổi đã ngoài 80 nhưng nuôi dưỡng cán
bộ cách mạng chu đáo, che giấu cơ sở khéo léo. Như mẹ Nguyễn
Thị Cục ngoài việc nuôi giấu cán bộ, hàng ngày mẹ tìm đủ cách ra
gặp cơ sở để báo tin tức, cung cấp tình hình địch, ngày nào không
đi được là bà không yên tâm. Mẹ Lê Thị Thảo đào hầm nuôi giấu,
che chở nhiều cán bộ ngay trong nhà, qua nhiều thời kỳ. Hiện nay
còn nhiều cán bộ do mẹ nuôi dưỡng sau giải phóng trở thành lãnh
đạo, như đồng chí Nguyễn Văn Đậm (nguyên là Huyện đội trưởng
huyện Vĩnh Cửu).
Trong đội du kích xã Bình Lợi, có đồng chí Trần Văn Nghĩa -
xã đội trưởng là tấm gương chiến đấu, hy sinh được tuyên dương
để toàn lực lượng học tập. Trong những lúc ác liệt, giặc ruồng bố
gắt gao nhất, đồng chí vẫn hiên ngang, bình tĩnh, mưu trí tổ chức
cho anh em đánh giặc, hoặc tiến công chiến thắng, hoặc thoát vây
an toàn; lúc nào đồng chí cũng là hạt nhân đoàn kết, là niềm tin
của toàn đội.
Năm 1969, trong lúc khủng bố càn quét trong xã Bình Lợi địch
phát hiện hầm bí mật, trong đó có 6 đồng chí cán bộ. Địch bao
vây, gọi hàng; nhưng 6 đồng chí thà chết không chịu hàng, phá
hủy vũ khí, thiêu hủy tài liệu, tiền bạc và anh dũng hy sinh; làm
cho địch khâm phục khí tiết của người cộng sản.
Trong lòng địch bị kìm kẹp gắt gao, một số cơ sở cách mạng
không sợ hy sinh xương máu, không sợ bị tù đày tra tấn, vẫn bí
mật hoạt động. Khi bị địch bắt giam, tra tấn, lưu đày vẫn kiên
trung với cách mạng, không đầu hàng, không khai báo cho địch.
Hiện ở xã Bình Lợi có 40 cựu tù chính trị đã giữ nguyên khí tiết
cách mạng trong nhà tù địch cũng như trong đời sống hiện thời.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước,
xã Bình Lợi cùng cả nước đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, trong vòng tay đoàn kết của nhân
dân, Bình Lợi không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh cách
mạng của ông bà đi trước, từng bước khắc phục hậu quả của chiến
207

21.8 Page 208

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tranh, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, góp phần xây dựng huyện Vĩnh Cửu phát triển toàn
diện như hôm nay.
Thành tích của Đảng bộ và quân dân Bình Lợi đã được Nhà
nước ghi nhận, tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quí: Tặng và truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho 5 mẹ anh hùng
trong xã; truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
dân cho liệt sĩ Nguyễn Văn Bình ở xã Bình Lợi; tặng nhiều huân,
huy chương các loại cho 62 cá nhân, tập thể và gia đình có công
với cách mạng. Xã Bình Lợi đã được Chủ tịch Nước phong tặng
danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo
quyêt định số 761/KT.CTN ngày 29/1/1996.
208

21.9 Page 209

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Trị An
Trị An(1) là một xã vùng sâu của huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai,
nằm cặp theo tả ngạn sông Đồng Nai và liên tỉnh lộ 24; phía Bắc và
Tây Bắc giáp xã Lạc An (nay thuộc huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình
Dương) và chiến khu Đ, phía Nam và Đông Nam giáp xã Tân An,
phía Đông là vùng rừng núi căn cử kháng chiến của huyện Vĩnh Cửu
và tỉnh Biên Hòa.
Trước đây, Trị An là một ấp thuộc làng Đại An, tổng Phước Vĩnh
Hạ. Xã Trị An được thành lập vào tháng 9/1956 trên cơ sở di chuyển
toàn bộ nhân dân ấp Bàu Phụng, xã Cộng Hòa (thuộc chiến khu Đ)
và các hộ dân sống rải rác trong vùng căn cứ kháng chiến về đây, lúc
đó gọi là xóm Bến Vịnh với khoảng 100 hộ dân, 500 khẩu, 95 gia
đình có người thân tham gia kháng chiến.
Khi thành lập xã, cư dân Trị An phần lớn là công nhân của các
sở cao su Dầu Tiếng, Thuận Lợi, Phú Riềng theo cách mạng kháng
chiến chống Pháp trong 9 năm trường kỳ. Đây là bộ phận ở chiến
khu, không tập kết ra Bắc theo Hiệp định Genève năm 1954.
Thời gian đầu thành lập xã, lợi dụng những khó khăn lúng túng
của địch, chi bộ Đảng chủ trương cài, cắm cán bộ, đảng viên vào bộ
máy chính quyền Sài Gòn ở địa phương, nắm nhiều vị trí quan trọng
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Cửu.
209

21.10 Page 210

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
như: Ủy viên tài chính, cảnh sát, đại diện xã, trưởng ấp, có cả trong
lực lượng dân vệ, thanh niên cộng hòa, phụ nữ liên đới...
Trên thực tế, cách mạng làm chủ tình hình trong thời gian 1954 -
1957, làm vô hiệu hóa ý đồ kềm kẹp của địch. Nhân dân được sống
tự do, xây dựng và phát triển các phong trào cách mạng.
Đến năm 1958, địch bắt đầu lôi kéo một số phần tử phản bội vào
việc bắt bớ, mua chuộc, khủng bố người kháng chiến. Nhiều cán bộ
bị bắt, bị tù đày, tra tấn dã man. Nhiều cơ sở bị đánh phá đến tan rã.
Các cơ sở mật bị lộ, bị truy bắt. Cuối năm 1959 đến đầu năm
1960, gần như toàn bộ cốt cán phải thoát ly vào rừng xây dựng căn
cứ kháng chiến.
Không tổ chức được người tại chỗ, địch tuvển dụng nhân viên bộ
máy Ngụy quyền và dân vệ từ xã khác như: Bình Thạnh, Tân Phú,
Đại An, Tân Định để hình thành bộ máy kềm kẹp. Tuy nhiên, thoạt
đầu, trước phong trào cách mạng Trị An, bộ máy do chính quyền
Ngụy dựng lên còn e dè, chưa dám bung ra hoạt động. Thực tế, địch
chỉ kiểm soát tình hình vào ban ngày. Ban đêm, các tổ chức đoàn
thể vẫn sinh hoạt, hội họp bình thường. Có lúc, địch qui định vào
ban đêm mỗi hộ phải treo đèn trước cửa nhà và phải đánh mỏ, đánh
thùng mỗi khi có Việt cộng về. Tương kế tựu kế, đêm nào các hộ dân
cũng treo đèn, khua thùng gõ mõ inh ỏi làm cho giặc điếc tai nhức
óc không biết thực hư thế nào. Lâu dần, rồi qui định ấy cũng nhàm
chán, không ai thực hiện nữa.
Công tác binh vận được chú trọng, thực hiện bằng nhiều hình
thức đa dạng, chủ yếu do các cơ sở mật tiến hành. Các cơ sở vừa
tuyên truyền lôi kéo gia đình ngụy quân, ngụy quyền; vừa tác động
trực tiếp vào tinh thần binh lính, qua đó ta nắm chắc được tình hình,
lôi kéo được một số nhận nhiệm vụ do tổ chức giao, một số bỏ hàng
ngũ địch theo quân kháng chiến, một số hoang mang, nghi ngờ nhau,
mâu thuẫn với nhau, thậm chí nổ súng đánh nhau, như trường hợp
của lính bảo an và quân biệt chính.
Trị An là vùng xung yếu cửa ngõ chiến khu Đ, là hành lang nối
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
liền vói nhiều vùng căn cử khác của cách mạng ở miền Đông nên
bằng mọi giá địch kềm giữ, khủng bố và đánh phá ác liệt. Được sự
chỉ đạo và hỗ trợ của lực lượng chủ lực miền, của tỉnh và của huyện,
quân dân xã Trị An dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng liên tục đấu
tranh giữ vững thế trận làm chủ, đã 3 lần tiến công đánh đuổi địch,
giải phóng toàn xã. Xã Trị An trở thành vùng giải phóng, là cơ sở hậu
cần cung cấp sức người, sức của một cách thuận lợi cho lực lượng vũ
trang của tỉnh và huyện. Trị An đảm bảo là hành lang an toàn cho bộ
đội chủ lực hành quân tiến công vào các căn cứ lớn của địch.
Cũng chính từ đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ nêu trên nên nhân
dân Trị An phải trải qua nhiều gian khổ, hy sinh và mất mất, hầu như
không gia đình nào không bị mất mát về người, về của. Hậu quả nặng
nề sau 20 năm hòa bình vẫn chưa khắc phục hết.
Nhiều thành tích và chiến công nổi bật của Đảng bộ và quân
dân Trị An được ghi nhận trong sử sách. Đầu năm 1959, thực hiện
Nghị quyết 15 của Trung ương, xã đã nhanh chóng xây dựng được
lực lượng du kích gồm 16 đội viên do đồng chí Hai Chuyền làm
xã đội trưởng.
Lực lượng vũ trang đầu tiên này đã hỗ trợ tích cực cho phong trào
đấu tranh chính trị của quần chúng và thực hiện chủ trương diệt ác
phá kiềm giành quyền làm chủ.
Ngày 16/3/1961, trong khi tiểu đoàn 800 của Khu miền Đông
tiến công tiêu diệt Chi khu Hiếu Liêm, Du kích Trị An được hỗ trợ
của lực lượng vũ trang huyện đã tập kích vào trụ sở tề ngụy và tiểu
đội dân vệ của địch, diệt 2 trưởng ấp là điểm chỉ, bắt sống 1 dân vệ,
thu 1 súng trường, giải phóng toàn xã lần thứ nhất, làm chủ được
3 ngày. Nhân dân Trị An vui mừng góp gạo, góp khoai ủng hộ bộ
đội mừng công.
Lo sợ trước việc mất vị trí tiền tiêu, ngày 18/3/1961, địch điều
động 1 trung đoàn thuộc sư đoàn 10 theo đường thủy và đường bộ
càn quét chiếm lại Hiếu Liêm và Trị An. Riêng đối với Trị An, chúng
tăng cường thêm 1 trung đội dân vệ về lập đồn tại đồi Trị An do tên
211

22.2 Page 212

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lê Văn Châu chỉ huy, ngoài ra còn một đại đội bảo an cũng thường
xuyên hành quân càn quét vào xã Trị An.
Đêm 4/12/1961, nhân kỷ niệm một năm thành lập Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chi bộ xã Trị An chỉ đạo du kích
phối hợp cơ sở mật rải truyền đơn từ trường học đến cầu Bà Bèn và
phục kích chờ địch đến. Sáng 5/12, bọn địch từ đồn Trị An bung ra
tuần tra. Trong lúc trung đội dân vệ ngơ ngác lượm truyền đơn, du
kích bất ngờ tấn công, diệt và làm bị thương 15 tên, thu 4 khẩu súng
các loại.
Từ đó, bọn lính hoảng sợ không dám đi xa đồn, thế làm chủ của
nhân dân mạnh lên. Thanh niên trong xã nô nức tham gia vào bộ đội,
có gia đình tham gia hai dến ba người; có những cặp vợ chồng trẻ
cùng thoát ly tham gia kháng chiến.
Từ 17/4/1962, Mỹ chuyển hướng chiến lược thực hiện chính sách
lập ấp chiến lược đi đôi với việc đẩy mạnh càn quét, tăng cường xây
dựng đồn, bót. Trên địa bàn xã, chúng đặt thêm các đồn như: Kiêm
Liên, Cầu 19, Cầu 20; chọn xã Đại An làm kiểu mẫu xây dựng ấp
chiến lược. Được sự chỉ đạo của huyện, xã đội Trị An đã tăng cường
nhiều đồng chí phối họp với C270 của huyện phục kích đánh bọn
bảo an tại Gò Chùa diệt và làm bị thương tại chỗ nhiều tên, tạo điều
kiện thuận lợi cho dân quân du kích xã Đại An gỡ mìn, phá hàng rào
ấp chiến lược.
Đến đầu năm 1963, địch xây dựng xong ấp chiến lược, tăng cường
các biện pháp kềm kẹp, kiểm soát, lục soát gắt gao, cấm đồng bào
mang lương thực khi đi làm ruộng rẫy, gây nhiều khó khăn cho việc
tiếp tế, nuôi quân.
Đến tháng 7/1963, với sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân và
các cơ sở mật, nhân dân tìm cách vượt qua kiểm soát của địch; tiếp
tế thường xuyên cho các lực lượng, xây dựng phong trào tiếp tục
phát triển. Huyện ủy mở khu tăng gia sản xuất lấy tên là A31, đội
du kích xã và nhiều đồng bào Trị An nhiệt tình ủng hộ tăng gia sản
xuất. Trong vài tháng, đã sản xuất nhiều khoai lúa, đánh bắt nhiều cá
212

22.3 Page 213

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tôm đủ cho bộ đội tiêu dùng, còn thừa đem phơi khô dự trữ. Đội du
kích Trị An lúc này mạnh hơn, đông hơn, quân số đến 20 người cùng
nhiều đội viên mật.
Công tác binh địch vận là một mũi tiến công quan trọng tại xã Trị
An. Lúc đó đồng chí Hai Trác là Bí thư chi bộ mật đã dùng ngay nhà
mình để làm trạm binh vận. Tại đây, cơ sở binh vận nắm được nội
tình của địch, lôi kéo được một số anh em binh sĩ Ngụy về với cách
mạng; và cũng từ đây bác Hai Trác đã khôn khéo ly gián, gây hiềm
khích để các lực lượng của địch mâu thuẫn với nhau; và chúng đã
nổ súng thanh toán nhau giữa lực lượng biệt chính đóng trong nhà
dân và bọn bảo an đóng trong đồn. Kết quả chúng chết 1, bị thương
2 tên, nhiều tên trong trung đội biệt chính phải bỏ trốn đi nơi khác.
Sau đó đồng chí Hai Trác hướng dẫn du kích truy tìm và bắt được 2
tên biệt chính.
Vào cuối năm 1963, Huyện ủy chỉ đạo đẩy mạnh việc đấu tranh
phá ấp chiến lược ở Đại An. Lúc này địch có 1 trung đội đóng tại đồn
Trị An. Lực lượng của Trị An nắm chắc tình hình địch, ráo riết chuẩn
bị thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, lên kế hoạch bao vây, bức rút, phá
hàng rào ấp chiến lượt, đưa dân về với khu vực kháng chiến.
Ngày 2/2/1964, lực lượng của huyện, tỉnh hỗ trợ cho xã thực hiện
chủ trương này. Chiều cùng ngày, chi bộ vận động hàng trăm đồng
bào đến chân đồn đòi cho con em về với gia đình. 2 giờ khuya, bộ đội
nổ súng tấn công vào đồn; nhân dân và du kích đốt phá các cầu, cưa
ngã các cây cổ thụ hai bên đường lộ 24, đắp mô cắt đứt đường giao
thông. Cùng đêm đó, 1 tổ du kích diệt tên Sáu Hùng ác ôn, đuốc được
đốt sáng rực khắp nơi, tiếng loa kêu gọi liên tục, bọn địch hoang
mang cực độ, nhiều tên liều lĩnh chạy khỏi đồn bị bộ đội bắn hạ. Đến
5 giờ sáng, bọn lính trên đồn bỏ hàng ngũ chạy tháo thân, bộ đội bắt
sống 10 tên; trong đó có cả vợ chồng đồn trưởng Lê Văn Châu, thu
20 súng các loại và nhiều quân trang khác.
Ngay sau đêm 3/2/1964, lực lượng huyện và du kích tiếp tục tiến
công đồn Kiêm Liên, bọn địch ở đây hoang mang rút chạy, lính ở các
213

22.4 Page 214

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đồn đóng trên các cầu 10, 20, 18 trên lộ 24 đều bỏ chạy về xã Đại An.
Nhân dân dùng kích xe be đội xập và đốt các cầu, cắt đứt giao
thông từ Đại An đến Trị An. Xã Trị An được hoàn toàn giải phóng lần
2. Tin vui truyền đi nhanh khắp huyện. Trị An giải phóng có ý nghĩa
mở rộng chiến khu Đ về phía Nam tạo địa bàn cho các lực lượng
thuận tiện tiếp cận hang ổ địch ở Biên Hòa.
Địch mất Trị An là mất một tiền đồn quan trọng hướng đến cửa
ngõ vào chiến khu Đ, đồng thời bị hở sườn trong phòng thủ của sân
bay và các căn cứ đầu não ở Biên Hòa.
Trị An trong mùa giải phóng không khí kháng chiến rất hồ hởi;
nam, nữ thanh niên nô nức vào du kích, bộ đội. Xã và huyện thêm
nhân lực để thực hiện chỉ thị của Huyện ủy về chống lấn chiếm của
địch. Kế hoạch chống giặc lấn chiếm được triển khai, quần chúng
nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, mọi người, mọi nhà tham gia đào
hầm, đào giao thông hào, vót chông, làm bẩy, gài lựu đạn, gài mìn...
Ngày 14/2 địch đổ quân chiếm lại đồn Kiêm Liên và tổ chức thám
báo thăm dò lực lượng của ta, chúng gặp trở ngại bởi hàng rào, bẫy
chông và trận địa mìn, lựu đạn của du kích và nhân dân. Ngày 30/2
địch ồ ạt đổ quân với sự yểm trợ của máy bay, xe tăng. Bộ đội huyện
và du kích xã chặn đánh quyết liệt suốt 4 tiếng đồng hồ gây cho
chúng nhiều thiệt hại. Nhưng do tương quan lực lượng quá chênh
lệch, ta chỉ có 1 tiểu đội lực lượng huyện và 2 tiểu đội du kích xã với
vũ khí thô sơ phải đương đầu với nhiều tiểu đoàn địch có máy bay, xe
tăng và phi pháo yểm trợ; cho nên, đến trưa ngày hôm đó, đồng chí
Hai Đậm huyện đội trưởng ra lệnh rút quân, giữ an toàn lực lượng.
Địch chiếm lại đồn Trị An, bố trí thêm 1 đại đội bảo an, 1 đại đội
biệt động quân chốt giữ và cố lập lại sự kiểm soát, nhưng chúng gặp
khó khăn lớn vì bọn tề ngụy không ai dám ra nhận việc, sợ bị nhân
dân trừng trị.
Được sống trong giải phóng, tự do 28 ngày, tuy không dài nhưng
đó là khoảng thời gian hiếm hoi, quý báu của nhân dân Trị An. Thời
gian đó các tổ chức quần chúng cách mạng như: Hội Phụ nữ, Hội Mẹ
214

22.5 Page 215

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chiến sĩ, Hội Thanh niên... được hình thành và phát triển, tình đoàn
kết gắn bó giữa dân và cách mạng được thể hiện vô cùng đẹp đẽ, đó
là những hình ảnh khó phai mờ trong mỗi người dân Trị An.
Đêm 16/9/1964, trận tiến công bao vây địch ở Trị An bắt đầu.
Nhân dân Trị An cùng bộ đội, du kích đào công sự dưới chân đồi.
Nhiều tên lính mon men ra khỏi đồn bị chiến sĩ ta bắn sẻ phải rút lui
vào đồn. Huyện đội cho chặt những cây lồ ô lớn ngụy trang thành
những khẩu ĐK75 để hù dọa địch.
Đúng 12 giờ đêm, Huyện ủy cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân cầm
duốc lồ ô chia làm nhiều hướng tuần hành quanh chân đồi. Đồn Trị
An bị bao vây bằng ánh đuốc rực sáng. Ban binh vận huyện dùng
loa phóng thanh liên tục kêu gọi binh lính trên đồn hãy buông súng
về với nhân dân. Bọn lính trên đồn Trị An hoang mang, bàn tán, xao
động; nhưng bọn chỉ huy vẫn ngoan cố ra lệnh cố thủ. Cuộc bao vây
kéo dài vài ngày, cán bộ, chiến sĩ nhiều đêm không ngủ, cặp mắt
quầng thâm nhưng hiện rõ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Trong
ánh đuốc sáng rực, bà con Trị An gánh bánh, gánh nước lên trận địa
tiếp tế cho cán bộ, bộ đội đông vui như ngày hội lớn.Vợ chồng Bác
Tám Kỷ mổ trâu dê, Hội Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sĩ nấu nhiều món ăn
cho lực lượng tiến công đồn. Đường lộ 24 lên đến Trị An bị cắt đứt,
hết đường cứu viện. Bọn lính trong đồn chỉ còn mong vào lương thực
tiếp tế từ máy bay thả dù. Đồn Trị An bị vây chặt, xã Trị An hoàn
toàn do cách mạng làm chủ.
Thế làm chủ của Trị An tạo diều kiện cho đoàn pháo binh miền
vượt sông Đồng Nai an toàn, bố trí trận địa pháo tiến công vào sân
bay Biên Hòa. Đêm 31/10/1964 trận tiến công vào sân bay Biên Hòa
bắt đầu. Trong 10 phút, sân bay Biên Hòa chìm trong biển lửa, 59
máy bay, trong đó có 17 máy bay ném bom chiến lược B57, Mỹ vừa
đưa sang, 1 kho đạn 105 ly, 1 kho xăng, 1 đài ra đa, 18 căn nhà bị phá
hủy, 239 tên lính Mỹ bị bỏ xác.
Chiến thắng sân bay Biên Hòa đầu tiên của quân và dân miền
Nam được thế giới bè bạn 5 châu và nhân dân cả nước khen ngợi.
215

22.6 Page 216

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Chiến thắng sân bay Biên Hòa làm nức lòng nhân dân Vĩnh Cửu và
lực lượng vây đồn Trị An. Đổng chí Hai Trác, Bí thư Chi bộ mật xã
Trị An có sáng kiến dùng xác chết của chó bỏ vào các giếng nước
quanh đồi Trị An để triệt hạ nguồn nước của bọn lính trong đồn.
Bị triệt nguồn nước uống, lương thực do máy bay thả xuống bị lực
lượng ta tịch thu, bọn lính đồn Trị An hoàn toàn bị cô lập, tinh thần
chúng hoang mang cực độ. Bọn chỉ huy quân đoàn 3 và tiểu khu Biên
Hòa điên cuồng cho máy bay oanh kích, bắn vào trận địa ta quvết
liệt. Nhưng mọi cố gắng của địch đều vô ích, 1 trực thăng và 1 máy
bay khu trục bị bắn hạ tại trận địa. Ngày 19/11/1964, sau 57 ngày
đêm bị bao vây, bọn bảo an đồn Trị An được máy bay trực thăng cấp
cứu, tháo chạy, 20 tên bảo an bị bắn hạ. Đồn Trị An bị diệt, xã Trị An
hoàn toàn được giải phóng lần thứ 3.
Giải phóng Trị An, quân và dân Trị An đã giữ và mở một hành
lang chiến lược từ chiến khu Đ xuống Long Thành, Bà Rịa nối liền
đường Hồ Chí Minh trên biển, tạo điều kiện tiếp nhận vũ khí chi viện
từ Trung ương vào miền Đông Nam Bộ, trước mắt là chiến dịch Bình
Giã đang nổ ra và giành thắng lợi.
3. Củng cố, xây dựng, giữ vững giải phóng làm cơ sở hậu cần tiếp
tục cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến,
Từ 19/11/1964, Trị An trở thành vùng giải phóng duy nhất của
huyện Vĩnh Cửu. Địch thường xuyên dùng máy bay, trọng pháo
bắn phá nhằm khống chế, cô lập xã Trị An với các vùng khác trong
huyện. Nhưng bằng mọi cách đấu tranh tạo thế công khai, nhân dân
vẫn liên hệ được với các xã khác. Một mặt, hoạt động mua bán, trao
đổi hàng hóa nhiều hình thức sinh động, đảm bảo hậu cần, một mặt
móc nối để gia đình các nơi đến thăm, tiếp tế cho các cán bộ, chiến sĩ.
Thời gian này, Trị An thực sự trở thành cơ sở hậu cần lớn của
cách mạng vùng miền Đông; nơi dừng chân dưỡng quân và tiếp nhận
lương thực, thực phẩm của nhiều đơn vị. Phong trào cách mạng của
Trị An lúc này vô cùng sôi nổi. Nhân dân vừa tăng gia sản xuất, vừa
tham gia xây dựng thế phòng thủ giữ vững vùng giải phóng, như đào
216

22.7 Page 217

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
giao thông hào, công sự chiến đấu, hầm tránh bom..., tham gia tuần
tra cảnh giác đề phòng tình báo, trinh sát địch thâm nhập.
Đế quốc Mỹ và tay sai biết rõ Trị An là căn cứ quan trọng của ta,
nhưng chúng không thể kiểm soát được vì nhân dân Trị An có truyền
thống kiên cường, bất khuất. Kẻ thù lộ rõ bản chất tàn ác, dã man khi
tháng 6/1965, cho máy bay đến ném bom hủy diệt xã Trị An. Chúng
xúc tát, cưỡng bách hơn 100 hộ dân đưa về các xã Bình Hòa, Bình
Ý, Tân Triều. Còn lại gần 30 gia đình cốt cán cách mạng đã cùng lực
lượng rút vào rừng sâu, kiên quyết không để bị gom ra vùng địch
kiểm soát; tiếp tục cùng chi bộ và bộ đội bám đất, bám làng, tăng gia
sản xuất phục vụ chiến đấu và tham gia chiến đấu.
Địch đánh phá hủy diệt ác liệt xã hầu như không còn một ngôi nhà
nào. Ban ngày nhân dân ẩn vào rừng làm rẫy, ban đêm về các chòi
nhỏ ven sông Đồng Nai và vàm Sông Bé tiếp tục sinh hoạt, động
viên nhau củng cố niềm tin, kiên quyết bám đất, làm chỗ dựa cho
lượng lượng vũ trang liên tục chiến đấu.
Như vậy, tuy địch đã hủy diệt trắng xã Trị An, nhưng chi bộ Đảng
đã lãnh đạo đội du kích và một bộ phận nhân dân kiên cường giữ
vững vị trí cửa ngõ chiến khu Đ bảo đảm hành lang nối liền Chiến
khu Đ với nhiều căn cử cách mạng góp phần vào sự thắng lợi chung
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng bào từ
các trại tập trung ở Bình Hòa, Bình Ý, Tân Triều nhanh chóng trở về
xã. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ lâm thời gồm 3 đồng chí, do đồng
chí Hai Trác làm Bí thư kiêm Chủ tịch, chính quyền nhân dân và các
đoàn thể cách mạng phát triển lớn mạnh. Nhân dân Trị An bắt tay vào
công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại quê hương.
Nhân dân phải san lấp hàng ngàn hố bom, tháo gỡ hàng ngàn
bom, mìn; chung tay bắt lại cầu, đắp lại đường, xây dựng trường
học, bệnh xá. Đồng bào thực hiện các giải pháp đổi công, hỗ trợ sản
xuất, giúp nhau làm nhà ở, khai hoang phục hóa, quyết tâm xây dựng
cuộc sống mới. Trong không khí hòa bình, thống nhất; Trị An vẫn
217

22.8 Page 218

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách của một huyện nghèo,
hậu quả chiến tranh nặng nề, nhân lực bị tổn hao trong kháng chiến,
tiềm lực kinh tế về rừng, dòng sông, lòng hồ tập trung cho nhu cầu
của quốc gia. Trị An tiếp tục hy sinh phần mình cho lợi ích chung
của đất nước.
Thời điểm năm 2000, xã Trị An có hơn 1.583 hộ với 3.850 khẩu.
Đảng bộ gồm: 52 đảng viên với bộ máy chính quyền và hệ thống các
đoàn thể vũng mạnh, Đảng bộ xã Trị An nhiều năm liền được công
nhận là đơn vị cơ sở trong sạch vững mạnh. Xã có diện tích tự nhiên
22.076 ha, trong đó đất canh tác nông nghiệp là 223 hécta, còn lại là
đất lâm nghiệp. Nhân dân sống chủ yếu bằng nông và lâm nghiệp.
Công nghiệp và dịch vụ có điều kiện phát triển.
Phát huy truyền thống tự lực, tự cường, xã cũng đã xây dụng được
02 trạm bom điện, hàng năm tăng vụ sản xuất được 100 ha, năng
suất lúa không ngừng tăng lên, năm 1976 lương thực bình quân đầu
ngưòi hàng năm là 70kg đến năm 1994 đạt 350kg/người. Xã cũng
đã có nhiều trạm hạ thế điện (do nhân dân tự đóng góp) để phục vụ
sản xuất và sinh hoạt; có hệ thông trường học, trạm xá đảm bảo yêu
cầu chăm sóc sửc khỏe và học tập của nhân dân. Các đối tượng chính
sách, gia đình liệt sĩ, thương binh và gia đình có công với cách mạng
được thường xuyên chăm sóc, giúp đỡ; đã xây dựng nhiều nhà tình
nghĩa cho các đối tượng chính sách có khó khăn về nhà ở; căn bản
xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ về vốn, giống, kỹ thuật cho nhiều hộ dân
nghèo vượt khó.
Tình hình an ninh trật tự luôn luôn được giữ vững. Công tác quân
sự địa phương luôn đạt thành tích khá. Đội quân dân du kích được
công nhận là đơn vị vững mạnh. Xã Trị An là đơn vị hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ.
Điểm lại thành tích của Đảng bộ và quân dân xã Trị An, có sự phát
triển liên tục, đồng bộ, toàn diện, cả về lượng và chất. Nổi bật nhất
là thành tích 3 lần tiến công nổi dậy giải phóng toàn xã 1961 - 1965;
từ tháng 6/1965-1975 xã trở thành căn cứ kháng chiến vững chắc của
218

22.9 Page 219

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
huyện và tỉnh. Số người thoát ly tham gia kháng chiến, chống Pháp:
125 người, chống Mỹ: 102 người. Toàn xã có 2 Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng, 62 liệt sĩ, 14 thương binh, 100 cựu tù chính trị. Nhân dân trong
xã bị tổn hại: 300 ngôi nhà và vườn tược bị đốt phá, hàng ngàn gia
cầm, gia súc bị cướp giết, hơn 240 tấn lương thực bị đốt phá. Dù bị
nhiều mất mát, hy sinh, nhân dân trong xã vẫn góp nhiều công sức
cho chiến đấu: Tự tạo hơn 2.800.000 chông, bẫy, tên ná; đào 2.500
mét giao thông hào, 350 công sự và hầm tránh bom; góp khoảng
20.000 ngày công và 50 tấn lương thực; nuôi dưỡng, che giấu 50 lượt
đơn vị với hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ.
Với những thành tích nêu trên, cán bộ và nhân dân trong xã đã
được tặng thưởng 320 huân, huy chương các loại; hàng ngàn bằng
khen, giấy khen, chứng nhận dũng sĩ các loại, 2 mẹ được tặng và truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (Trương Thị Tùng, Trần
Thị Lời).
Đảng bộ và quân dân xã Trị An vinh dự được Chủ tịch Nước
phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” theo
Quyết định số 761-KT-CTN ngày 29/1/1996.
219

22.10 Page 220

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân phường Thống Nhất
Phường Thống Nhất(1) thành phố Biên Hoà thành lập vào tháng
1/1976 trên cơ sở hợp nhất 3 ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị. Qua
công tác điều tra khảo cổ ở Gò Me cho thấy Thống Nhất là địa bàn
có người xưa sinh sống cách đây trên 2000 năm.
Miễu Ba Làng, Đình Bình Trước, chùa Thanh Long, chùa Ông
Tám không chỉ là cơ sở tín ngưỡng, thờ tự mà còn là những cơ sở gắn
bó với cách mạng trong hai cuộc kháng chiến ở Biên Hoà.
Phường Thống Nhất, là nơi sớm hình thành đội ngũ giai cấp công
nhân ở thành phố Biên Hoà gắn với việc xây dựng và phát triển Đồn
điền cao su (Esvinasse) và Nhà máy gỗ Tân Mai (BIF), nguyên là
xưởng chế biến gỗ do tư bản Pháp xây dựng năm 1897 và phát triển
thành nhà máy từ 1912. Đến năm 1930, đội ngũ công nhân đã phát
triển trên 300 người. Phong trào công nhân đấu tranh đòi dân sinh
dân chủ, đấu tranh chính trị yêu nước ở BIF khởi phát từ năm 1929
và liên tục phát triển trong những năm 30 thế kỷ 20 khi Uỷ ban hành
động Nhà máy BIF được thành lập tháng 8 năm 1936. Năm 1937,
Chi bộ Đảng Nhà máy cưa BIF được thành lập do đồng chí Trần
Hồng Đạo làm Bí thư. Phong trào đấu tranh của công nhân mở rộng
và kết hợp chặt chẽ với phong trào công nhân ở Sài Gòn và miền
(1) Nguồn: Tài liệu của Trần Quang Toại.
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đông. Nhà máy cưa BIF cũng là nơi treo cờ búa liềm đỏ hưởng
ứng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ tháng 11/1940. Cuộc khởi nghĩa không
thành, phong trào địa phương tạm lắng xuống.
Năm 1944, Chi bộ Đảng Nhà máy cưa BIF được xây dựng lại do
đồng chí Đặng Nguyễn làm Bí thư. Chi bộ đã vận động công nhân
đấu tranh lãn công gây chậm trễ kế hoạch giao gỗ đóng tàu cho phát
xít Nhật vào tháng 12/1944. Từ tháng 5/1945, tổ chức Thanh niên
Tiền phong được xây dựng ở nhà máy BIF và 3 ấp Lân Thành, Tân
Mai, Vĩnh Thị. Ngày 21/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng,
lực lượng Thanh niên Tiền Phong Nhà máy BIF và 3 ấp đã chiếm
nhà máy cưa, ga Biên Hoà, treo cờ đỏ sao vàng. Sáng 25/8/1945, ông
Ba Miều một cơ sở cách mạng lái xe lửa đưa công nhân và nhân dân
về tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn. Sau đó, ngày 27/8/1945,
công nhân BIF cùng nôn dân 3 ấp đã kéo về tỉnh lỵ Biên Hòa tham
gia giành chính quyền ở Biên Hòa.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nhà máy cưa BIF
trở thành trụ sở của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 22 Pháp và trụ
sở bọn phòng nhì (tình báo Pháp). Thời kỳ chống Mỹ, là trụ sở phái
đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG). Ba ấp Lân Thành, Vĩnh Thị, Tân
Mai trở thành địa bàn đứng chân của các lực lượng vũ trang, cán bộ
ra vào hoạt động trong tỉnh lỵ Biên Hoà. Phong trào thoát ly đi kháng
chiến và phong trào du kích chiến tranh phát triển khá mạnh ở Thống
Nhất. Công nhân BIF đã tháo gỡ máy móc thiết bị của nhà máy đưa
ra khu kháng chiến. Nhân dân 3 ấp Tân Mai, Lân Thành, Vĩnh Thị
là cơ sở giao liên, mua và chuyển rất nhiều hàng hoá cần thiết cho
kháng chiến (máy đánh chữ, giấy, pin, thuốc tân dược…).
Đặc biệt trong hai năm 1952 và 1953, cơ sở cách mạng ấp Lân Thị
đã hai lần phục vụ tin tức, tạo điều kiện để đội Công an vũ trang thị
xã Biên Hoà và đội biệt động tỉnh hai lần làm nổ tung kho xăng dầu
lớn nhất của Pháp ở đây.
Trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Mỹ, trước đánh phá ác liệt
của ngụy quyền trong chiến dịch Trương Tấn Bửu, các ấp Lân Thành,
221

23.2 Page 222

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Vĩnh Thị, Gò Me của phường Thống Nhất trở thành nơi đứng chân
và nuôi dưỡng nhiều cán bộ đảng của Bình Trước và thị xã Biên Hoà.
Tháng 5/1959, dưới sự chỉ đạo của Thị uỷ Biên Hoà, các cơ sở cách
mạng Huỳnh Thị Tơ, Phạm Thị Vết, Nguyễn Thị Xuân, Năm Lũy…
đã xây dựng hầm bí mật cho một phân đội vũ trang 250 Biên Hoà
về nghiên cứu và chuẩn bị trận đánh vào đoàn cố vấn quân sự Mỹ
(MAAG) đóng tại nhà máy BIF (nhân dân thường gọi là Nhà Xanh,
nay là địa điểm trường công nhân cơ điện Tân Mai).
Tối 7/7/1959, kỷ niệm 5 năm chấp chính của Ngô Đình Diệm,
phân đội biệt động dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Hoa
đã hóa trang bất ngờ tập kích vào Nhà Xanh. Hai cố vấn Mỹ Ovmand
và B.Buis đã bị dịêt. Đây là hai cố vấn Mỹ bị diệt đầu tiên ở miền
Nam và đứng đầu danh sách trên 58.000 lính Mỹ chết trận ở Việt
Nam được khắc trên bức tường tưởng niệm ở thủ đô nước Mỹ. Trận
đánh đã thể hiện ý chí chiến đấu và quyết tâm kháng chiến không chỉ
của lực lượng vũ trang cách mạng, mà còn có sự góp sức to lớn của
cơ sở cách mạng Lân Thị, Gò Me. Nguyễn Văn Hoa, người chỉ huy
trận tập kích và liêt sĩ Nguyễn Văn Huề (hy sinh trong trận đánh) đều
đã được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
Chiến tranh ác liệt, địch kìm kẹp, kiểm soát chặt, nhưng ở các ấp
Lân Thành, Gò Me, cơ sở ta đào được nhiều hầm bí mật nuôi dấu cán
bộ vào công tác trong nội thành.
Hai cơ sở địa phương là anh Hai Phước (Tống Phước Phước) và
Nguyễn Văn Hai (Hai Phước) đã cung cấp nhiều thông tin, hướng
dẫn trinh sát điều nghiên chuẩn bị cho trận pháo kích vào sân bay
Biên Hoà. Ngày 30/10/1964, sân bay Biên Hoà nổ tung. Trong thắng
lợi lớn đó có sự góp sức của nhân dân phường Thống Nhất. Tháng
2/1967, hai cơ sở Trần Văn Hai, Năm Lũy nghiên cứu tạo điều kiện
cho biệt động Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Văn Đạo (Sáu A) đặt
mìn hẹn giờ làm nổ tung 2 bồn dầu lớn và 2000 thùng phuy xăng ở
kho xăng dầu Biên Hòa.
222

23.3 Page 223

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Xuân Mậu Thân 1968, các cơ sở Phạm Thị Vết, Nguyễn Văn
Tiến, bà Hai Thai... đã đưa các đồng chí lãnh đạo Thị uỷ Biên Hoà
cùng đội biệt động vào ém trong nhà, trong hầm bí mật, đồng thời
cùng các cơ sở cách mạng khác chuyển và tiếp nhận nhiều vũ khí từ
căn cứ Hưng Lộc vào trong thị xã an toàn. Sau Mậu Thân 1968, địch
khủng bố rất ác liệt, nhiều cơ sở cách mạng ở Lân Thành, Gò Me bị
địch bắt tra tấn, nhưng tất cả cơ sở của địa phương đều giữ vững khí
tiết đồng thời xây dựng được “lõm cách mạng” ở Lân Thành, Gò Me,
Vĩnh Thị. Xuân Kỷ Dậu 1969, các cơ sở ở Lân Thành, Gò Me, Vĩnh
Thị một lần nữa lại hoàn thành nhiệm vụ chuyển vũ khí, đào hầm bí
mật, tạo điều kiện cho đội biệt động tấn công địch ở ga Biên Hoà, Ty
cảnh sát tỉnh Biên Hoà, phối hợp cùng chiến trường toàn tỉnh thực
hiện cuộc tổng tiến công góp phần vào thắng lợi chung toàn miền
Nam. Nhiều chiến sĩ cách mạng chiế đấu trong nội thành được cơ sở
ở các ấp Lân Thành, Gò Me, Vĩnh Thị che giấu giúp đỡ trở về đơn vị.
Từ 1970 đến 1975, trước sự kiểm soát đánh phá của địch, nhân
dân và cơ sở các ấp Lân Thành, Vĩnh Thị, Gò Me vẫn giữ được liên
lạc với cách mạng, đồng thời tạo nhiều điều kiện để phát triển cơ
sở trong nội thành. Ngày 30/4/1975, thực hiện lệnh khởi nghĩa của
Thành uỷ Biên Hoà cùng với nhân dân nội ô, các cơ sở cách mạng ở
Lân Thành, Gò Me, Vĩnh Thị đã nổi dậy truy lùng bọn ác ôn, chiếm
giữ cá trụ sở ấp, giải phóng hoàn toàn địa phương.
Qua hai cuộc kháng chiến gian khổ, nhiều hi sinh, các ấp Lân
Thành, Vĩnh Thị, Gò Me, nay là phường Thống Nhất thành phố Biên
Hoà đã có 113 liệt sĩ, 8 gia đình được công nhận gia đình có công với
cách mạng, 26 thương binh, 118 cán bộ, chiến sĩ, cơ sở cách mạng
được tặng thưởng các Huân, Huy hương của Đảng và Nhà nước.
Năm 1996, Đảng bộ và quân dân phường Thống Nhất vinh dự
đón nhận danh hiệu cao quý của Nhà nước: Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
223

23.4 Page 224

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Long Thọ
Xã Long Thọ(1) thuộc huyện Nhơn Trạch, nằm trên tỉnh lộ 19
chiều dài từ km 5 đến km 11. Phía Đông xã Long Thọ giáp xã
Long Phước, phía Tây ôm gọn căn cứ địa cách mạng là khu Lòng
Chảo, phía Nam giáp xã Phước An và phía Bắc giáp xã Hiệp
Phước.
Xã có diện tích 2302,19 hécta. Dân số toàn xã là 5189 nhân
khẩu, với 989 hộ, hầu hết là người Kinh, sống tập trung trong 5
ấp. Người dân trong xã chủ yếu sống bằng ngư nghiệp và nông
nghiệp; còn lại một số ít buôn bán nhỏ. Xã có 98% người dân theo
đạo Phật, thờ cúng gia tiên, nên địch khó dụ dỗ thành lập được
Hội đồng tề.
Xã Long Thọ có nhiều lợi thế về mặt quân sự như: Từ khu
Lòng Chảo, quân ta có thể tiến đánh địch rồi lại rút an toàn vào
khu Lòng Chảo bao la, địch không tài nào tìm ra tung tích. Về mặt
thủy chiến, từ mé sông Thị Vải, có thể tiến lên đánh địch, rồi lại
theo mé sông rút ra rừng Sác mênh mông. Toàn xã có 5 ấp, nối
nhau theo chiều dài 6km, theo thế trường xà, địch khó bao vây
toàn bộ, khống chế lực lượng của ta.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
224

23.5 Page 225

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Do có vị trí quan trọng nên địch bố trí nhiều quân và khí tài ở
Long Thọ. Cụ thể, giặc Pháp chiếm đóng 3 đồn tại các ấp: Bàu
Nâu, Suối Cạn, đình Phước Long. Mỗi đồn, địch bố trí gồm 1
trung đội lính thiện chiến đã qua luyện tập quân sự, trang bị cùng
số vũ khí như: 3 khẩu đại liên, 3 trung liên, 3 tiểu liên, còn lại là
súng trường và đạn dư thừa. Ngoài ra có xe tăng, máy bay, pháo
tầm xa yểm trợ. Trong khi đó, lực lượng du kích tại xã thời kỳ
này chỉ có 32 đồng chí, xuất thân là nông dân, chưa hề cầm súng
vũ khí, vũ khí phần lớn là lựu đạn, giáo mác, và 36 súng trường,
đạn cấp có hạn.
Đối với đế quốc Mỹ, tại xã Long Thọ, Mỹ chiếm đóng 5 đồn:
tại Vườn Điều có 1 tiểu đoàn Thái Lan, tại Đồng Tranh có 1 tiểu
đoàn xe tăng Mỹ và 3 đồn lính ngụy là: Bàu Nâu, Suối Cạn, đình
Phước Long. Số quân có lúc gần 2 ngàn lính, với lượng vũ khí: 12
đại liên, 18 trung liên, 54 tiểu liên, còn lại là súng trường tự động,
đạn dư thừa. Ngoài ra có xe tăng, máy bay, pháo tầm xa ở Bến
Sắn và pháo ở Thành Tuy Hạ hỗ trợ. Xét tương quan, lực lượng du
kích xã Long Thọ có 52 đồng chí, vũ khí có 36 khẩu súng trường,
đạn cấp theo định mức rất hạn chế.
Tuy vậy, là địa bàn trọng điểm nên xã Long Thọ được các cấp
lãnh đạo; các nhà quân sự chọn làm nơi đóng quân, như: Chi đội
1 và Chi đội 2 Bộ đội Bình Xuyên, Chi đội thuộc Bộ đội Thái
Nguyên, Đại đội Đô Lương, Fff, Chi đội 7 Đại đội Mai Văn
Vĩnh, Bộ đội Trương Văn Giàu, Bộ đội Hoàng Thọ. Từng thời
kỳ, có lúc quân số của trên về gần 2 ngàn, không còn nhà dân
nào là không có bộ đội. Người dân Long Thọ lo nơi ăn, chốn ở,
phục vụ như một đơn vị hậu cần với lòng mong mỏi là: “Bộ đội
ăn no, là đánh thắng”.
Khi Pháp chiếm đóng nước ta, ruộng đất bị bọn địa chủ, tay
chân của đế quốc chiếm gần hết, trong đó có tên địa chủ Cả Dị
cướp trên 300 hécta ruộng đất trong xã; ngoài ra còn nhiều tên
cướp từ 20 hécta - 50 hécta. Người nông dân suốt đời phải đi làm
225

23.6 Page 226

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
thuê, làm mướn cho địa chủ. Cuộc sống khổ cực làm cho người
dân Long Thọ căm thù giặc sâu sắc; ý thức dân tộc độc lập được
hun đúc suốt 84 năm đô hộ của thực dân Pháp. Lòng mong nước
duy nhất của người dân trong xã là phải đánh đuổi thực dân Pháp,
diệt bọn cường hào ác bá, đem lại cuộc sống thanh bình, hạnh
phúc cho đồng bào. Do đó, khi ông Tám Trụ, người lãnh đạo
phong trào Thiên Địa Hội tuyên truyền, phát động phong trào là
nhiều người dân ở xã Long Thọ tham gia ngay. Tuy nhiên do thiếu
chủ trương, đường lối đúng đắn nên phong trào Thiên Địa Hội chỉ
tồn tại từ năm 1916 đến năm 1927.
Khoảng đầu năm 1935, có ông Võ Văn Long, tức Ba Long,
người ấp Cái Vạn, làm nghề buôn trầu cau ở Cần Giuộc, Tân
An, qua mối quan hệ, ông đã kết bạn với ông Tư Một (tên thật là
Đáng) là đảng viên mật của Xứ ủy Nam kỳ và ông Ba Long, người
đầu tiên đem tài liệu cách mạng về tuyên truyền ở xã.
Thời gian này, đồng chí Trịnh Văn Dục nhận nhiệm vụ của
Xứ ủy Nam kỳ, bí mật về xã Long Thọ xây dựng cơ sở Đảng.
Tại xã Phước Thiền có ông Trương Văn Kỷ bí mật thành lập
Nghiệp Đoàn trong giới công nhân trí thức; nhưng sự thật là
tuyên truyền về chủ nghĩa Mác. Đến 1944 và đầu năm 1945,
nhiều người dân ở xã Long Thọ biết về chủ nghĩa Mác, về cuộc
Cách mạng tháng Mười Nga; về nhà nước dân chủ đầu tiên trên
thế giới. Nhiều thanh niên ở xã Long Thọ bí mật gia nhập tổ
chức “Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội” - tổ chức
do Đảng lãnh đạo. Đến đầu năm 1945, tổ chức này được bí mật
đổi tên là “Thanh niên xung phong” và lực trở thành nòng cốt
trong ngày tổng khởi nghĩa.
Khi được tin Hà Nội đã giành chính quyền vào ngày 19/ 8/1945
và Huế vào ngày 23/8, đồng bào Long Thọ náo nức chuẩn bị khởi
nghĩa, một khí thế cách mạng nổi lên rất mạnh nhất là phong trào
thanh niên Tiền Phong với vũ khí là tầm vông vạt nhọn ngày đêm
tập dợt.
226

23.7 Page 227

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Vào ngày 24/8/1945, các đồng chí Võ Văn Lương và Lê Tân
Châu bí mật về xã tổ chức, chuẩn bị vũ khí gồm tầm vông, giáo
mác, cờ cách mạng và khẩu hiệu, rồi tổ chức làm 3 đoàn để giành
chính quyền tại xã, tiến về huyện tham gia giành chính quyền,
tiến về thành phố tham gia giành chính quyền. Hầu hết đồng bào
Long Thọ tham gia trong ngày tổng khời nghĩa này, không phân
biệt trẻ, già, nam, nữ. Việc giành chính quyền tại xã gọn, nhẹ,
không gặp sự chống đối nào. Chính quyền thật sự về tay người
nông dân xã Long Thọ.
Ngày 25/8/1945, cách mạng giành lại chính quyền và thành lập
chính quyền tại xã. Đến ngày 28/8/1945 xã Long Thọ đã thành lập
xong Ủy ban Hành chính kháng chiến lâm thời.
Chính quyền dân chủ nhân dân vừa được thành lập chưa được
bao lâu thì ngày 23/12/1946, tiếng súng của giặc Pháp lại nổ ra
trên mảnh đất Nhơn Trạch. Âm mưu của thực dân Pháp là muốn
xâm chiếm nước ta một lần nữa. Nghe lời kêu gọi của Đảng, của
Bác Hồ, đồng bào Long Thọ lại đứng lên cùng toàn dân đi vào
cuộc kháng chiến trường kỳ đánh Pháp - đánh Mỹ.
Tháng 3/1948, Chi bộ Đảng xã Long Tân được thành lập. Kể
từ đó, đồng bào ra sức bảo vệ, không để cho địch đi sâu đánh phá.
Đến ngày đình chiến năm 1954, chi bộ dù có nhiều đồng chí hy
sinh, bị tù đày, nhưng vẫn được duy trì 63 đảng viên. Tập kết ra
Bắc 17 đồng chí. Số còn lại, vẫn bám trụ bí mật chỉ đạo phong
trào. Thời kỳ thực hiện điều lắng (4HBC) nhưng chi bộ Đảng đã
lập đường dây bí mật, liên lạc giữa Đảng và dân, nên mọi chỉ thị
của trên vẫn được thi hành.
Năm 1954-1960, đồng bào Long Thọ thực hiện bất hợp tác với
kẻ thù, như: Không nhận bất cứ một gia đình di cư nào (Bắc di cư
năm 1954) vì đây là âm mưu của địch, nhằm phân hóa đồng bào
trong xã phá cơ sở Đảng trong quần chúng. Đồng bào Long Thọ
biểu tình, đòi thực hiện Hiệp định Genève. Tổng tuyển cử, Hiệp
thương để thống nhất đất nước, tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý và
227

23.8 Page 228

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bầu cử của Diệm. Biểu tình phản đối khi Diệm ra Luật “10-59” và
thực tế là địch đã không thực hiện được tại xã Long Thọ.
Từ năm 1961-1967, đồng bào Long Thọ kiên quyết không đề
cho địch dồn dân thành lập ấp chiến lược. Khi địch dùng vũ lực
đàn áp dân, ép buộc phải vào ấp chiến lược, đồng bào lại làm nội
ứng để cùng lực lượng du kích nổi lên phá ấp chiến lược.
Đến năm 1967, thấy bị đồng bào phản đối quyết liệt và không
một ấp chiến lược nào tồn tại đến một tháng, nên từ đó địch đành
phải bỏ.
Trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp - chống Mỹ,
toàn xã Long Thọ đã có 415 gia đình là cơ sở của Đảng. Đồng bào
Long Thọ đã đưa 746 thanh niên lên đường nhập ngũ, gia nhập
quân đội chính quy, xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam, và đã
lập nhiều chiến công hiển hách, được phong tặng quân hàm cấp
cao trong quân đội. Đến ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải
phóng, toàn xã có 158 liệt sĩ, 132 gia đình liệt sĩ.
Trong phong trào dân công hỏa tuyến, xã Long Thọ thành lập
được 4 đội dân công hỏa tuyến, mỗi đội 35 người, luân phiên
làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm ra chiến
trường. Mỗi đợt từ 5 đến 10 ngày có lần lên tận chiến khu Đ, thời
gian cả tháng. Tổng số ngày công phục vụ công tác này là trên 8
ngàn ngày công.
Về phong trào dân công phục vụ địa phương, đồng bào Long
Thọ có nhiều đóng góp. Tiêu biểu như trong đợt cắm cọc, chống
cuộc nhảy dù của giặc Pháp xuống Đồng Lớn, âm mưu tiến vào
chiến khu Phước An, đồng bào Long Thọ đã đóng góp trên 3 ngàn
ngày công vào rửng lấy tre về vạt nhọn rồi ra cắm, với số cọc trên
10 ngàn cọc. Hay như trong thời kỳ chống chiến tranh đặc biệt
của Mỹ 1963-1965, theo kế hoạch của Huyện ủy; đồng bào Long
Thọ phá hủy lộ 19, con đường huyết mạch, từ km5 đến km11, xe
quân sự hoàn toàn không thể đi qua được, với số ngày công là
trên 10 ngàn ngày công, còn qua đường 15 phá đường cầu Mới,
228

23.9 Page 229

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Suối Cả và cầu Tám Trụ. Đồng bào Long Thọ còn đóng góp trên
5 ngàn ngày công, làm giao thông hào chiến đấu xung quanh xã
dài 280m. Đồng bào Long Thọ còn đóng góp trên 10 ngàn ngày
công, phục vụ phá ấp chiến lược, làm cho địch phải xây dựng đi,
xây dựng lại ấp chiến lược tới 58 lần. Đến năm 1967, địch không
còn khả năng để xây dựng nữa. Kế hoạch, âm mưu của địch sụp
đổ hoàn toàn.
Trải qua 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đồng
bào xã Long Thọ đóng góp số lượng rất lớn lương thực, thực
phẩm, hoặc của cải vật chất cho cách mạng.
Cụ thể, thời kỳ xây dựng công binh xưởng tại chiến khu Phước
An, Huyện ủy vận động, đồng bào Long Thọ đem vật dụng bằng
đồng, bằng sắt như: mâm, nồi, chậu, kể cả đồ thờ như lư hương,
chân đèn ủng hộ cách mạng với số lượng 12 tạ, để sản xuất vũ khí.
Suốt 30 năm, đồng bào Long Thọ làm nghĩa vụ đóng thuế nông
nghiệp với nhà nước với số lượng hàng trăm dạ lúa. Xã Long Thọ
còn thành lập Hội Mẹ Chiến sĩ vào năm 1947.
Trong phong trào Hủ gạo nuôi quân, thời chống Pháp có 278
gia đình thực hiện, thời chống Mỹ có 302 gia đình thực hiện. Với
chỉ tiêu khoảng 2kg gạo/hủ/tháng, suốt thời chống Pháp, đồng
bào Long Thọ đóng góp 54 tấn gạo, thời chống Mỹ đóng góp 86
tấn gạo cho cách mạng.
Vào thời kỳ gặp khó khăn về kinh tế, bộ đội của trên về nhiều
đột xuất, với lời kêu gọi của Huyện ủy, đồng bào xã Long Tân
ủng hộ 154.000 dạ lúa để kịp thời nuôi quân. Người dân còn mua
công trái phiếu lên đến 13 triệu đồng. (Giá vàng lúc đó 12 ngàn
đồng/lượng).
Để có phương tiện chuyển vận vũ khí, lương thực, đồng bào
Long Thọ ủng hộ 148 ghe thuyền, 72 xe bò với 12 cặp bò kéo
cho cách mạng. Ngày nào cũng có từ 5 đến 10 người chở bộ đội
qua sông.
Trong suốt 2 thời kỳ kháng chiến, với vị trí là vành đai bảo vệ
229

23.10 Page 230

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chiến khu Phước An; xã Long Thọ bị địch tàn phá nặng nề nhất,
có thời kỳ chúng đốt phá không còn một nóc nhà. Tổng cộng
qua 2 cuộc kháng chiến, toàn xã Long Thọ đã có 1.856 nóc nhà
đồng bào bị địch đốt phá. Có gia đình phải làm nhà đi, làm nhà
lại tới 4-5 lần. Nhiều gia đình ở gần đồn bốt địch đã phải chuyển
đi nơi khác.
Những tội ác điển hình của giặc như: Ngày 23/12/1946, giặc
Pháp nhảy dù xuống Đồng Lớn, âm mưu tiến vào chiến khu Phước
An, nhưng bị đánh phủ đầu, không thể tiến vào Phước An được.
Chúng tràn vào 2 ấp thuộc xã Long Thọ đốt 120 nóc nhà, bắn
thường dân, bắn chết bầy trâu gồm 93 con, bắt đàn bò 64 con làm
cho đồng bào 2 ấp này mất hết trâu bò cày kéo.
Ngày 16/7/1949, giặc Pháp càn vào xã, bị du kích đánh trả, diệt
tại trận 7 tên, làm bị thương 4 tên. Ngày hôm sau chúng càn tiếp
với số quân đông hơn, chúng đánh trả thù, đốt phá 260 nóc nhà
dân, bắn chết bà Hai Long, bà Ấm, ông Hai Tạo rồi ném xác vào
nhà cháy, để khủng bố tinh thần đồng bào.
Tàn ác hơn cả là giặc Mỹ đã rải chất độc phá hoại, hủy diệt 350
hécta vườn cây ăn trái, trên 500 hécta ruộng lúa, gồm 200 hécta
cây rừng thuộc Lòng Chảo.
Tháng 6/1950, trong 1 cuộc càn do tên Một Phước chỉ điểm,
địch bắn chết một lúc 5 người dân. Trong đó có anh Chót là
em ruột Chủ tịch xã và các anh Hai Thâu, Tám Sạn, Tám Hồi,
Hai Dẫm.
Tổng kết hai thời kỳ kháng chiến cứu quốc, quân dân Long Thọ
đã tổ chức đánh 1.195 trận lớn nhỏ, trong đó, đánh độc lập 904
trận (gồm chống càn, gài trái, diệt ác ôn, phá ấp chiến lược) và
đánh kết hợp là 291 trận.
Cụ thể, thời chống Pháp quân dân xã Long Thọ đã diệt 297 tên
giặc, trong đó có 103 tên giặc Pháp, bắt sống 8 tên, bắt sống cả
một Hội đồng tề, gồm 12 tên giải về trên, phá đồn Long Thọ 4 lần,
thu toàn bộ vũ khí, diệt 9 tên ác ôn, có nhiều nợ máu, binh vận 34
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tên lính Sài Gòn.
Trong thời chống Mỹ quân dân xã Long Thọ diệt 1.070 tên
giặc, trong đó có 38 giặc Mỹ, 182 tên giặc Thái, bắt sống 83 tên,
diệt đồn Long Thọ 7 lần, phá 58 lần ấp chiến lược, diệt 21 tên
ác ôn, có nhiều nợ máu, binh vận 28 tên lính ngụy, thu 438 súng
các loại, thu 3 máy PRC- 25, phá 3 xe tăng, 2 xe GMC, thu 1máy
rà mìn Thái Lan, bắn chìm 2 tàu bo bo, 7 ghe thuyền máy, trong
những trận càn của địch theo đường sông.
Trận đánh tiêu biểu của quân và dân Long Thọ phải kể đến là
vào năm 1947 trong một trận càn theo đường sông lợi dụng nước
lớn, Pháp định đổ quân lên Vàm Cây Khô, từ đó đánh úp vào phía
Nam của cơ quan của xã. Lực lượng du kích xã Long Thọ, lợi
dụng chiến hào, ô ụ chiến đấu đánh bại cuộc càng, diệt và làm bị
thương một số lính địch, bắn cháy 2 tàu của giặc. Trận đánh nổi
tiếng của lực lượng du kích Long Thọ, với 19 tay súng, đã quần
nhau với giặc suốt 5 tiếng đồng hồ.
Hay như trận đánh đồn Long Thọ vào tháng 8/1962, đồn địch
vào 1 trung đội, do tên Xá Cảnh sát làm trưởng đồn. Ban Chỉ huy
xã đội Long Thọ cài đồng chí Đặng và đồng chí Trợt vào trong
đồn làm nội ứng. Thông qua một bữa nhậu tạo cơ hội cho lực
lượng du kích xông vào đồn, diệt một số tên, bắt sống toàn bộ,
cả tên trưởng đồn, thu toàn bộ vũ khí. Trận đánh diễn ra trong 3
ngày, tạo tiếng vang lớn.
Trong trận đánh ngày 2/7/1966, giặc Mỹ càng về xã Long Thọ,
đến miễu Mặt Trăng thì lọt vào trận phục kích của du kích xã. Sau
tiếng nổ của 2 trái DH10, 1 xe bị lật, 1 xe bốc cháy, các chiến sĩ
đồng loạt nổ súng. Địch rút chạy diệt 13 tên giặc Mỹ. Sau trận này
đồng chí Kiên, đồng chí Duy được cấp bằng khen, Dũng sĩ diệt
cơ giới của tỉnh.
Tiếp đến, năm 1966 diễn ra trận bao bót đồn Long Thọ. Đồn
Long Thọ nằm cạnh lộ 19, gần trung tâm của xã, với số quân là 3
trung đội. Du kích xã tập trung bao vây, đêm tấn công, ngày bắn
231

24.2 Page 232

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tỉa, địch tấn công không được, rút không được, chúng phải cho
máy bay, thả lương thực thực phẩm. Sang ngày thứ bảy, địch phải
cho 1 tiểu đoàn đến đánh phá vây mới rút được bọn này về đồn
bỏ trốn.
Năm 1964, lính dân vệ thuộc một chốt quân sự của địch láng
đê, mở đường, chờ cho chúng tiến xa đồn, du kích xã tập trung
đánh chặn đường về, buộc phải chạy tản vào mé rừng. Lập tức
các chiến sĩ du kích quay trở lại tấn công thẳng vào chốt quân sự,
bắt sống toàn bộ lính còn lại và số súng đạn, phá tan chốt quân
sự địch.
Năm 1973, trong chiến dịch Diệt trừ bọn bình định áo đen, du
kích xã Long Thọ đã tập kích đánh tan đội Bình Định áo đen tại
nhà ông Sáu Hữu, diệt 5 tên.
Ngày 18/2/1975, du kích xã Long Thọ đã phục kích diệt gọn
tiểu đợi tuần tra của địch từ đồn Bến Sắn ra, diệt 13 tên, thu
13 súng.
Từ năm 1963-1972, tại xã Long Thọ có đồng chí Nguyễn Văn
Nhỏ, tự Bé Vân - được gọi là người du kích bắn sẻ. Với cây
trường bá bỏ, anh đã diệt 101 tên giặc. Đồng bào trong xã gọi anh
là anh hùng bắn sẻ hay gọi là anh hùng “101”.
Ngoài ra, quân dân Long Thọ còn có những trận đánh kết hợp
tiêu biểu như trận Cầu Lò Rèn diễn ra vào tháng 3/1946. Đây là
trận càn đầu tiên của giặc Pháp vào chiến khu Phước An. Lực
lượng của địch là một Đại đội Âu Phi. Lực lượng du kích Long
Thọ kết hợp với lực lượng bộ đội Mai Văn Vĩnh và Chi đội 4
thuộc lực lượng Bình Xuyên. Đã bố trí trận địa và mai phục tại
khu cầu Lò Rèn. Khi địch lọt vào mặt trận, theo tiếng kèn, toàn bộ
quân ta xông lên đánh giáp lá cà, áp đảo. Không đầy 30 phút, ta
tiêu diệt gọn đại đội Âu Phi của giặc, thu 1 súng cối 60 ly, 1 trung
liên, 4 tiểu liên và khẩu súng trường, 2 khẩu súng lục, nhiều đạn
dược, bắt sống 8 tên.
Hay như vào tháng 6/1946, giặc Pháp tổ chức cuộc càn lớn,
232

24.3 Page 233

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
âm mưu tràn qua Long Thọ để vào Phước An. Lực lượng của địch
gồm 2 đại đội. Lực lượng du kích xã, kết hợp với lực lượng Chi
đội do Mai Văn Vĩnh chỉ huy đã mai phục, bẻ gãy cuộc càn, diệt
28 tên và một số bị thương, bắn cháy 1 xe GMC. Trận đánh kéo
dài từ 10 giờ đến 23 giờ.
Trận tiêu diệt Mỹ tại khu vực miễu Ông Thiện diễn ra vào
tháng 10/1969, du kích Long Thọ kết hợp với D240 của tỉnh, phục
kích diệt 12 tên lính Mỹ. Số còn lại, hoảng sợ rút về quận.
Ngày 4/2/1975, du kích xã Long Thọ kết hợp với đoàn 10,
bao vây Phước Long - Phước Thọ, đồng thời phục kích diệt bọn
tiếp vận. Địch cho tiểu đoàn bảo an 340 xuống giải vây nhưng
lực lượng Đoàn 10 đẩy lùi. Hôm sau địch điều 2 tiểu đoàn, D318
chiến đoàn cơ giới và D258 biệt động quân, có máy bay yểm trợ
tràn xuống giải vây và rút số quân ở 2 đồn trên về quận. Đồn bỏ
trống. Trong đợt bao vây, chặn đánh đoàn tiếp viện của địch, du
kích xã và đoàn 10 diệt 67 tên, phá 5 xe quân sự.
Với những thành tích đạt được, ngày 31/3/1973, quân dân Long
Thọ, được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhì. Toàn
xã có 158 liệt sĩ, 7 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 2 Huân chương
Độc lập, 57 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất, 70 Huân
chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì, 84 Huân chương chiến
sĩ giải phóng hạng Ba, 35 Huân chương Chiến thắng, 50 Huân
chương Chiến công, 64 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, 135 Huân
chương các loại,182 Bằng khen các loại.
Đặc biệt, năm 1996, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long Thọ được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu tập
thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
233

24.4 Page 234

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Cán bộ và công nhân viên lực lượng
tự vệ Đồn điền cao su Bình Lộc
Xã Bình Lộc(1) thuộc thị xã Long Khánh, trước đây được gọi là ấp
Bình Lộc do nơi đây có cơ sở cao su Bình Lộc, một trong những đồn
điền cao su được lập ra sớm nhất ở miền Đông Nam Bộ.
Cũng như bao đồn điền khác, công nhân Đồn điền cao su Bình
Lộc đã bị bọn chủ ty bóc lột tận xương tủy. Đa số dân công từ miền
Bắc, miền Trung bị thực dân Pháp mộ làm phu ở các đồn điền cao su
với những đồng lương rẻ mạt và thường xuyên bị đánh đập tàn nhẫn,
hết sức dã man. Do đó, cuộc sống người dân rất khổ cực, nhiều người
bị thiệt mạng.
Xã Bình Lộc là một vùng căn cứ cách mạng với những căn cứ địa,
như: Cây Da, Đồi Mít, Đồi Xoài, Ruộng Tre… đã trải qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đội dân quân du kích xã Bình
Lộc năm 1996 được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân và anh hùng liệt sĩ Lê A.
Trong 2 cuộc kháng chiến, đặc biệt chống đế quốc Mỹ, dưới sự
lãnh đạo của Thị ủy Long Khánh, của Chi bộ được sự hỗ trợ của lực
lượng vũ trang, nhân dân Bình Lộc đã tổ chức 36 cuộc đấu tranh, 8
lần biểu tình, mit-tinh với hàng ngàn lượt người tham gia, đóng góp
sức người sức của cho kháng chiến thắng lợi hoàn toàn.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
234

24.5 Page 235

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Dưới sự lãnh đạo của Thị ủy, phong trào đấu tranh cách mạng ở
xã Bình Lộc được công nhân, che chở, tiếp tế lương thực, thuốc men.
Được sự chỉ đạo của Ủy ban kháng chiến và sự hướng dẫn của cơ
sở, trong Đồn điền cao su Bình Lộc đã tổ chức vận động công nhân
trong và ngoài đồn điền kết hợp nổi dậy đốt xe sở, đốt các kho mủ,
lấy nhiều máy móc và văn phòng phẩm. Đợt này 1.500 công nhân
cao su ở Bình Lộc thoát ly đến căn cứ kháng chiến. Bọn lính và cai
đồn điền không kịp trở tay, một số bị bắt trói, bị bắn hạ, toàn bộ cơ sở
đồn điền bị phá hủy, ta thu được 10 cây súng. Thắng lợi này đã làm
nức lòng quân dân trong tỉnh, tạo khí thế đấu tranh càng thêm sôi nổi.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân và lực lượng
vũ trang xã Bình Lộc diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Thành tích nổi
bật của xã Bình Lộc là ta đã xây dựng nhiều chi bộ mật, cơ sở mật
ngay trong lòng địch, hoạt động gần các cơ quan đầu não của địch,
nhưng vẫn luôn bảo đảm bí mật an toàn. Từ sự lãnh đạo của Thị ủy,
của các chi bộ mật, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Bình Lộc đã
đấu tranh giành nhiều thắng lợi hết sức vang dội qua từng giai đoạn
của phong trào đấu tranh cách mạng.
Toàn xã có 1.225 thanh niên lên đường và tham gia các lực lượng
vũ trang, đóng góp hơn 1.600 ngày công để đào hầm, hào, giao thông
phá ấp chiến lược, 2.200 ngày công làm nghĩa vụ hỏa tuyến tham gia
chiến dịch, vận chuyển vũ khí, tải thương, góp hàng trăm tấn lương
thực, thực phẩm cho cách mạng.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ, nhân dân ta và cán bộ
xã Bình Lộc đã phối hợp đánh 618 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 1.596
tên, trong đó có 42 lính Mỹ, bắt sống 79 tên, diệt 20 tề ấp, chỉ điểm
ác ôn, bắn cháy 1 máy bay, phá hư hại nhiều xe quân sự và bom đạn,
thu 412 súng các loại.
Toàn xã có 7 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 1 Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân, 39 thương binh và 230 gia đình chính sách, được
tặng thưởng nhiều Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động.
Sau ngày giải phóng, Đảng bộ và quân dân xã Bình Lộc nhanh
235

24.6 Page 236

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, bắt tay vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, áp dụng những tiến bộ khoa học vào đời
sống và sản xuất nhằm đưa xã Bình Lộc ngày càng đi lên về mặt kinh
tế và xã hội, vững mạnh về an ninh quốc phòng.
Với những thành tích trên, xã Bình Lộc được trao 4 Huân chương
Độc lập; 9 Huân chương Chiến công hạng Nhì; 17 Huân chương
Chiến công hạng Ba; 74 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì,
Ba về thành tích chống Mỹ cứu nước; 4 Huy chương hạng Nhất; 4
Huy chương hạng Nhì; 1 cờ 10 năm vẻ vang; 1 cờ luân lưu về phong
trào du kích chiến tranh khá nhất năm 1975; 1 cờ Phan Văn Cối; 23
Huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ các loại; 2 Bằng khen của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội; 1 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ trong
thời kỳ đổi mới; 1 cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ; 22 Bằng khen
của UBND tỉnh.
Năm 1996, cán bộ công nhân viên lực lượng tự vệ Đồn điền cao
su Bình Lộc được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu tập thể
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân(2).
(2) Theo Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển.
236

24.7 Page 237

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phòng Bảo vệ chính trị IV
Công an tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh có vị trí chiến lược, là cửa ngõ của thành phố
Hồ Chí Minh, trung tâm công nghiệp của các tỉnh, thành phía Nam.
Trước năm 1975, Đồng Nai có nhiều khu quân sự quan trọng của
địch như: sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Tổng kho Thành
Tuy Hạ, Bộ Tư lệnh quân đoàn 3, Công an miền Đông…
Năm 1975, chính quyền Sài Gòn sụp đổ làm tan rã 120 ngàn
binh lính, sĩ quan, công chức, đảng phái chính trị phản động. Đến
năm 1996, Đồng Nai còn 40.040 binh lính, 5.947 công chức Sài
Gòn, 1.319 tù tha về. Đồng Nai cũng là vùng đất tập trung nhiều tín
ngưỡng, tôn giáo với gần 800 ngàn tín đồ Thiên chúa giáo (trong
đó 95% giáo dân Bắc di cư). Trên 200 linh mục, hơn 2 ngàn tu sĩ, 3
ngàn nhà thờ và hàng trăm cơ sở đạo Thiên Chúa; trên 3 ngàn tăng ni
và 400 cơ sở tôn giáo của đạo Phật; có 20 mục sư và truyền đạo Tin
Lành; 20 chức sắc đạo Cao Đài với 10 ngàn tín hữu. Tỷ lệ tín đồ tôn
giáo ở Đồng Nai chiếm 63% dân số của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh có
140 ngàn người dân tộc thiểu số. Từ năm 1975-1985, trên địa bàn có
239 nhen nhóm chính trị phản động, trên một ngàn đối tượng tham
gia và hàng trăm đối tượng Fulro. Đặc biệt, sự chống đối của bọn
phản động núp bóng tôn giáo cấu kết với các loại đối tượng đã tạo
nên tình hình bất ổn về an ninh chính trị như: ám sát cán bộ, tấn công
trụ sở chính quyền xã ấp.
Thành phần cư dân Đồng Nai có đủ người ở các tỉnh thành trong
237

24.8 Page 238

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cả nước. Từ sau năm 1975 đến năm 1998, nhiều phần tử xấu chuyển
đổi địa bàn trà trộn về Đồng Nai, trong đó có một số đối tượng thuộc
các tổ chức phản cách mạng, che giấu lai lịch chui vào nội bộ xã ấp
của ta. Đồng Nai cũng là tỉnh có hàng ngàn người có quan hệ với tổ
chức, cá nhân ở nước ngoài, bọn phản động triệt để lợi dụng sự phức
tạp đó để thực hiện âm mưu phản cách mạng.
Sau năm 1975, Phòng Bảo vệ chính trị IV(1) (PA16) Công an tỉnh
Đồng Nai đã truy quét bắt 839 tên địch, lập danh sách, hồ sơ đăng
ký quản lý 45 ngàn tên binh lính, sĩ quan, công chức chế độ cũ, đảng
phái chính trị phản động, lập hồ sơ đề nghị tập trung cải tạo 349 đối
tượng, dập tắt 239 vụ nhen nhóm chính trị phản động, bắt 1.119 đối
tượng, kêu gọi ra tự thú 1.182 đối tượng; phối hợp với lực lượng vũ
trang và an ninh các địa phương diệt 62 cụm toán vũ trang, âm mưu
bạo loạn lật đổ chính quyền, chiếm đài phát thanh, trong đó có các
vụ lớn như: vụ ở núi Gia Ray, Rừng Lá, Sóc Lu, Tà Lài…; xóa sổ
17 mật khu, tiêu diệt 174 đối tượng, bắt 2.408 đối tượng. gọi ra hàng
1.830 đối tượng, thu 198 súng các loại; xóa sạch cơ sở Fulro trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bắt 1.275 đối tượng, gọi ra hàng
1.123 đối tượng, thu 29 súng các loại và nhiều vũ khí khác; ngăn
chặn 1.649 vụ vượt biên, trốn đi nước ngoài, bắt 36.011 người.
Đơn vị đã tham mưu nhiều định hướng nghiệp vụ, xử lý nhiều tình
huống nghiệp vụ chính xác, kịp thời, đúng chủ trương quan điểm của
Đảng, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn tổ chức thực hiện mô hình tự
quản, xây dựng vùng giáo an toàn. Tổ chức sơ kết, mở hội nghị thực
hiện Chỉ thị 11 của Bộ Nội vụ, thực hiện Kế hoạch 14 về xây dựng
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc vùng Thiên Chúa
giáo. Chú trọng công tác mạng lưới bí mật để đánh địch trước mắt và
lâu dài, đề xuất cho Ban Giám đốc hàng chục kế hoạch chống phản
động để làm tham mưu cho Bộ, cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ đạo ra
(1) Nguồn: Bộ Công an, Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Những
đơn vị cá nhân anh hùng công an nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội, 2002.
238

24.9 Page 239

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chủ trương đúng đắn, làm ổn định tình hình. Mở hội nghị tổng kết 10
năm chống phản động, lợi dụng tôn giáo, qua đó rút ra nhiều bài học
kinh nghiệm trong việc thực hiện đối sách và biện pháp nghiệp vụ,
tham mưu cho UBND tỉnh ra các văn bản quy định về hoạt động tôn
giáo như: Văn bản 569/UBT; 1799/UBT; 2151/UBT và được triển
khai cho tất cả các ngành, các cấp giáo ở địa phương. Những văn bản
trên được nhiều địa phương trong nước đến nghiên cứu, trao đổi và
cho đó là kinh nghiệm tốt. Những văn bản này được Ban Tôn giáo
Chính phủ phổ biến để các địa phương nghiên cứu tại hội nghị tập
huấn về công tác tôn giáo.
PA16 cũng phối hợp với Ban Tôn giáo tỉnh mở 4 lớp tập huấn
về công tác tôn giáo cho cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh, đến
cơ sở; cùng Ban Tôn giáo tổ chức hội thảo thử nghiệm về chương
trình đổi mới nội dung, hình thức hoạt động của các tổ chức quẩn
chúng vùng giáo, tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng tiêu cực của
bọn phản động cực đoan. Đề xuất với Ban Giám đốc Công an tỉnh
Đồng Nai mở hội nghị về đổi mới công tác phản gián trên lĩnh vực
đấu tranh phòng chống phản động (1986-1996). Tham mưu cho Tỉnh
ủy, UBND tỉnh, Ban Giám đốc quyết định chủ trương đúng đắn đối
với tôn giáo và các tình huống nghiệp vụ, góp phần bảo vệ vững chắc
chủ trương, quan điểm của Đảng, làm cho quần chúng có đạo tin
tưởng vào Đảng, vào chính quyền.
PA16 đã tổ chức tốt mạng lưới bí mật, nắm chắc tình hình, tham
mưu cho ban giám đốc chỉ đạo đấu tranh trấn áp, xử lý có kết quả
nhiều vụ việc lợi dụng và đội lốt tôn giáo nhằm mục đích phá hoại,
đồng thời tham mưu cho Ban Giám đốc và UBND tỉnh xử lý êm
nhiều điểm nóng trên địa bàn có liên quan đến tôn giáo.
Đồng Nai có trên 30 dân tộc với hơn 140 ngàn người tập trung
ở địa bàn niềm núi của tỉnh, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, dân
trí thấp.
PA16 đã lên danh sách để thường xuyên gặp gỡ các già làng,
trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng để qua đó tuyên truyền,
239

24.10 Page 240

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
vận động người dân không nghe theo kẻ xấu, đồng thời kiểm tra lại
hồ sơ tổ chức địch (Fulro) trước đây, bố trí lực lượng trinh sát là
người dân tộc cắm chốt tại địa bàn để chủ động xử lý tình tình khi
có sự cố xảy ra. Một số vụ như: vụ đồng bào Chăm - Hồi giáo tranh
chấp với nông trường cao su; vụ tranh chấp giữa đồng bào Chơ-ro
với một số đơn vị kinh tế ở Phước Thái - Long Thành… được đơn vị
giải quyết từ cơ sở, không để trở thành điểm nóng.
Đơn vị cũng thường xuyên phối hợp với Ủy ban MTTQ tỉnh thực
hiện tranh thủ những người có uy tín để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
đồng bào dân tộc nhằm ổn định tình hình địa bàn, chống âm mưu lợi
dụng của địch.
Phòng PA16 luôn tích cực tăng cường công tác giáo dục chính trị
tư tưởng cho tất cả cán bộ, chiến sĩ đảm bảo bản lĩnh chính trị vững
vàng, quan tâm đến đào tạo đội ngũ, 50% cán bộ, chiến sĩ có trình độ
đại học, cao đẳng. 100% cán bộ chỉ huy cấp đội trở lên có trình độ
đại học, có 30% trinh sát giỏi, 60% khá.
Đơn vị 11 năm liền đạt danh hiệu Quyết thắng, 4 năm liền được
tặng cờ khá nhất lực lượng phản gián toàn tỉnh, được tặng 1 Huân
chương Quân công hạng Ba, 2 Huân chương Chiến công, hàng chục
bằng khen của Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND tỉnh. Năm 1979, đơn
vị được Chủ tịch nước tặng lẵng hoa. Chi bộ PA16 liên tục đạt trong
sạch vững mạnh. Năm 1996, được Tỉnh ủy tặng cờ tổ chức cơ sở đạt
trong sạch vững mạnh 5 năm liền.
Đơn vị được phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân ngày 22/7/1998.
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Long Thành
Long Thành(1) là một huyện nằm ở phía Nam tỉnh Đồng Nai, có
diện tích 431,01km², cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 60km,
cách Biên Hòa 33km, cách Vũng Tàu 60km; phía Đông giáp huyện
Trảng Bom, huyện Thống Nhất và huyện Cẩm Mỹ, Phía Tây giáp
huyện Nhơn Trạch và Thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp thị xã
Phú Mỹ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, phía Bắc giáp thành phố Biên Hoà.
Long Thành là vùng đất có nhiều dấu vết của người tiền sử sinh
sống. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều di chỉ, hiện vật chứng minh
rằng người tiền sử là chủ nhân của các dụng cụ bằng đá ở Cái Vạn,
Cái Lăng (thuộc xã Long Thọ) ấp Rạch Chiếc (thuộc xã Phước Tân),
và một số nơi khác, có niên đại cách đây khoảng 3.000 đến 1.800
năm. Hiện vật văn hóa được hình dung qua kết quả khảo cổ, nhưng
chủ nhân văn hóa chưa được lý giải cụ thể. Theo Phủ biên tạp lục
của Lê Quý Đôn; đến thế kỷ XVI, xứ Đồng Nai vẫn là vùng đất tự
nhiên hoang sơ. Từ đầu thể kỷ XVII mới có dấu hiệu người Việt đến
sinh sống, làm ăn ở các làng cổ ven sông Thị Vải và sông Đồng Nai.
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn,
năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chưởng Cơ Nguyễn
Hữu Kính (tức Nguyễn Hữu Cảnh) vào làm Kinh lược sứ vùng đất
(1) Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành và Wikipedia
241

25.2 Page 242

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
phương Nam, lấy đất Đồng Nai thành lập phủ Gia Định gồm huyện
Tân Bình (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) và huyện Phước Long.
Lúc đó, Long Thành là một trong 4 tổng thuộc huyện Phước Long
(cùng các tổng khác: Phước Chính, Bình An, Phước An). Địa danh
Long Thành chính thức có từ đó.
Năm 1808, dinh Trấn Biên được đổi thành trấn Biên Hòa, huyện
Phước Long nâng thành phủ Phước Long, các tổng thuộc phủ Phước
Long nâng thành huyện. Tên huyện Long Thành bắt đầu từ đây.
Huyện Long Thành lúc bấy giờ gồm bốn tổng Long Vĩnh Thượng,
Long Vĩnh Hạ (tức tổng Bình Lâm), Thành Tuy Thượng, Thành Tuy
Hạ. Đến năm 1820, huyện Long Thành còn lại hai tổng Long Vĩnh
và Thành Tuy với 63 thôn, phường. Năm 1836, vua Minh Mạng cho
lập địa bạ các tỉnh Nam Bộ, huyện Long Thành gồm có 4 tổng Long
Vĩnh Thượng, Long Vĩnh Hạ, Thành Tuy Thượng, Thành Tuy Hạ
với 53 thôn, ấp, xã.
Năm 1837, tỉnh Biên Hòa đặt thêm phủ Phước Tuy thì huyện
Long Thành thuộc phủ Phước Tuy. Năm 1863, sau khi đánh chiếm
Biên Hòa và 3 tỉnh miền Đông, thực dân Pháp giữ lại các đơn vị hành
chính của nhà Nguyễn. Theo đó huyện Long Thành gồm 4 tổng,
58 làng, xã(2). Năm 1867, tỉnh Biên Hòa được chia làm 5 sở Tham
biện, trong đó có sở Tham biện Long Thành gồm 5 tổng Việt, 5 tổng
Thượng (tức tổng gồm người dân tộc thiểu số), 105 xã thôn.
Thời chế độ Việt Nam Cộng hòa, ngày 9/9/1960, tách một phần
đất quận Long Thành, lập quận Nhơn Trạch. Quận Long Thành gồm
8 xã: Tam Phước, Tam An, An Lợi, Phước Lộc, Thái Thiện, Long
Phước, Long An, Lộc An; quận lị là Phước Lộc. Cuối năm 1973
chính quyền Sài Gòn bắt đầu cho chuyển một số cơ sở của Trường
Bộ binh Thủ Đức đến căn cứ huấn luyện mới ở Long Thành. Long
Thành biến thành một căn cứ quân sự lớn trong lúc chiến tranh
(2) Bốn tổng là: Long Vĩnh Thượng, Long Vĩnh Hạ, Thành Tuy Thượng,
Thành Tuy Hạ.
242

25.3 Page 243

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Việt Nam. Công việc di chuyển trường đến năm 1974 thì hoàn tất,
nhưng được hơn một năm thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ và trường
bị giải thể.
Với chính quyền cách mạng, từ 1945-1951, huyện Long Thành
thuộc tỉnh Biên Hòa, tháng 5/1951 đến tháng 7/1954, thuộc tỉnh Bà
Rịa - Chợ Lớn. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phong trào kháng chiến
địa phương, tổ chức hành chính và chiến trường huyện Long Thành
nhiều lần được điều chỉnh: Từ 1954-1960 huyện Long Thành (bao
gồm cả Nhơn Trạch) thuộc tỉnh Biên Hòa. Cuối năm 1960, huyện
Long Thành được tách làm hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch,
huyện Long Thành gồm 1 thị trấn và 17 xã: Long Hưng, An Hòa,
Phước Tân, Tam Phước, An Lợi, Tam An, Phước Nguyên, Siph (Long
Đức), Phước Lộc (thị trấn), Long An, Long Phước, Phước Thái, Bàu
Cạn, Tân Hiệp, Lộc An, Bình Sơn, Cẩm Đường. Đến tháng 10/1966,
hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch sáp nhập thành huyện Long
Thành thuộc tỉnh Bà Biên. Từ tháng 10/1967 đến tháng 4/1971, huyện
Long Thành thuộc Phân khu 4. Từ tháng 5/1971 đến tháng 8/1972,
huyện Long Thành thuộc về phân khu Bà Rịa. Sau tháng 8/1972,
huyện Long Thành lại tách ra hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch
thuộc tỉnh Biên Hòa. Tháng 4/1975, sau ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch lại sáp nhập thành
huyện Long Thành thuộc tỉnh Biên Hòa.
Tháng 1/1976, huyện Long Thành (bao gồm cả huyện Nhơn
Trạch) thuộc tỉnh Đồng Nai vừa thành lập. Ngày 23 tháng 6 năm
1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 51/1994/NĐ-
CP chia huyện Long Thành thành 2 huyện là Long Thành và Nhơn
Trạch. Huyện Long Thành gồm thị trấn Long Thành và 18 xã.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chia xã Bình Sơn thành 2 xã: Bình An
và Bình Sơn; chia xã Phước Thái thành 2 xã: Phước Bình và Phước
Thái; chia lại xã Hòa Hưng thành 2 xã cũ: An Hòa và Long Hưng.
Ngày 5 tháng 2 năm 2010, theo Nghị quyết số 05/NQ-CP, điều chỉnh
toàn bộ 10.899,27 hécta diện tích tự nhiên và 92.796 nhân khẩu của
243

25.4 Page 244

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
các xã An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Tam Phước của huyện Long
Thành vào thành phố Biên Hoà quản lý.
Hiện nay(3), diện tích tự nhiên của huyện Long Thành có 43.101
héta, dân số hơn 200.000 người; 15 đơn vị hành chính trực thuộc,
gồm thị trấn Long Thành và 14 xã: An Phước, Bàu Cạn, Bình An,
Bình Sơn, Cẩm Đường, Lộc An, Long An, Long Đức, Long Phước,
Phước Bình, Phước Thái, Suối Trầu, Tam An, Tân Hiệp.
Huyện Long Thành có những lợi thế về mạng lưới giao thông
trên địa bàn huyện gồm đường bộ - đường thủy - hàng không. Hệ
thống đường giao thông quốc gia gồm các tuyến đường cao tốc đi
qua địa bàn Long Thành gồm: tuyến đường cao tốc Biên Hòa - Vũng
Tàu; tuyến đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành
- Dầu Giây; tuyến đường cao tốc Bến Lức - Nhơn Trạch - Long
Thành. Quốc lộ 51B được nâng cấp mở rộng đạt tiêu chuẩn cấp II,
chuyển giao quốc lộ 51A đoạn ngang qua thị trấn Long Thành cho
địa phương quản lý. Ngoài ra, các tuyến đường nội tỉnh đi qua Long
Thành trở thành huyết mạch ở ở địa bàn cũng được đầu tư trọng điểm,
gồm: Đường 769; tỉnh lộ Cụm cảng hàng không quốc tế Long Thành
- Cẩm Mỹ, nối với các tỉnh Nam Trung Bộ; đường 25B từ Quốc lộ
51 đi Nhơn Trạch; xây dựng tuyến đường tỉnh ở khu vực kho trung
chuyển miền Đông đi Biên Hòa. Hiện đang thực hiện dự án quốc gia
xây dựng cụm Cảng hàng không Quốc tế Long Thành với quy mô
diện tích 5.000 hécta, công suất 80-100 triệu lượt hành khách/năm,
đường 25C từ cụm cảng hàng không Quốc tế Long Thành đi Nhơn
Trạch sẽ được hoàn thành. Long Thành còn có lợi thế đường sông,
các bến tàu trên sông Đồng Nai, bến tàu Gò Dầu trên sông Thị Vải,
bến tàu Tam An… đang phát huy vai trò cầu nối giao thông đường
thủy và điểm nhấn du lịch sông nước trên địa bàn.
Huyện Long Thành có diện tích canh tác chiếm tỉ lệ 25%, đó là
nguồn lực kinh tế, có ưu thế về nông nghiệp với thế mạnh về vườn,
(3) Thời điểm 2016.
244

25.5 Page 245

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ruộng rẫy, chăn nuôi bò sữa. Từ năm 1990 đến nay, chuyển sang
phát triển ưu thế về công nghiệp, dịch vụ. Có 7 khu công nghiệp
được Chính phủ phê duyệt, đã và đang vận hành hiệu quả, gồm: Khu
công nghiệp An Phước 201 hécta; khu công nghiệp Gò Dầu: 210
hécta; khu công nghiệp Long Đức: 580 hécta; khu công nghiệp Long
Thành: 488 hécta; khu công nghiệp Lộc An - Bình Sơn: 498 hécta;
khu công nghiệp Phước Bình: 640 hécta; khu công nghiệp công nghệ
cao Amata Long Thành: 410 hécta. Ở địa bàn Long Thành hiện có
chi nhánh của 20 ngân hàng thương mại, 2 quỹ tín dụng nhân dân,
nhiều dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp
vốn đầu tư nước ngoài. Thị trường bất động sản sôi động. Dịch vụ
du lịch, trạm dừng chân ven quốc lộ thu hút khách. Hệ thống chùa
thanh lịch, di tích văn hóa là tiềm năng của du lịch tâm linh. Các
dạng bảo hiểm có nhiều cơ hội phát triển. Nhiều khu đô thị mới đã
qui hoạch khá hòan chỉnh, đang chờ cất cánh cùng sân bay Quốc tế
Long Thành.
Về văn hóa, huyện Long Thành có làng cổ Bến Gỗ còn giữ được
nhiều bản sắc cổ truyền, Lăng mộ lãnh binh Nguyễn Đức Ứng là
di tích quốc gia vừa được trùng tu, di tích quốc gia đình An Hòa
với kiến trúc độc đáo; nhà thờ Bến Gỗ, nhân chứng của tín ngưỡng
công giáo từ năm 1932. Bến Gỗ còn thể hiện được truyền thống đua
thuyền từ đầu thế kỷ XIX.
Về tín ngưỡng tôn giáo, Long Thành là địa bàn đa dạng văn hóa,
tín ngưỡng, nơi chung sống của nhiều cộng đồng dân cư, nhiều tôn
giáo, dân tộc. Đa số theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, mỗi làng
xưa đều có thiết chế đình miễu theo truyền thống người Việt; các tôn
giáo Phật giáo, Công giáo, đạo Cao Đài tịnh độ cư sĩ, Tin Lành …
đến với Long Thành căn bản bằng lòng nhân ái, khuyến thiện, yêu
chuộng hòa bình, chung lòng xây dựng và bảo vệ quê hương. Ngoài
cư dân người Việt, ở Long Thành còn có một số dân tộc ít người, như
người Chơ-ro ở ấp Phước Bình, xã Phước Thái, người Nùng ở Sa Cá
và người Chăm ở ấp Chùa (thuộc xã Bình Sơn).
245

25.6 Page 246

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Huyện Long Thành giàu thành tích kháng chiến. Khi thực dân
Pháp đánh chiếm Biên Hòa, Long Thành là trận địa chốt chặn của
lãnh binh Nguyễn Đức Ứng. Ngày 17 tháng 12 năm 1861, trước
sức tấn công của quân Pháp vào thành Biên Hòa, đại quân của
triều đình bỏ chạy. Một ngày sau khi khởi chiến, quân Pháp chiếm
thành Biên Hòa. Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy đoàn quân
tổ chức tuyến phòng thủ Ký Giang - Long Thành, bố trí lực lượng
ngăn chặn bước tiến của quân Pháp từ hướng Biên Hòa xuống Bà
Rịa; sáng ngày 21 tháng 12 năm 1861, bắt đầu trận chiến ác liệt với
quân Pháp, thế yếu, lãnh binh Nguyễn Đức Ứng bị thương nặng,
dân dã cứu chữa không thành, đã hy sinh cùng 27 nghĩa binh ngày
26 tháng 12 năm 1861. Tiếp theo, Long Thành là địa bàn hoạt động
của nghĩa quân Trương Định cho đến sau khi Trương Định hy sinh.
Trương Định mất, các hội kín tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó
khăn, tiêu biểu là thành tích diệt ác gian Trần Bá Hựu(4) năm 1881
của nhóm nhà sư Trần Văn Tấn.
Từ năm 1908 Long Thành xuất hiện các tổ chức hội kín gọi là
“Thiên Địa Hội” với mục tiêu tập hợp lực lượng chống Pháp, tổ
chức bí mật ở hầu hết các xã chia nhiều cụm (cụm Phước Thái,
Long An, Long Phước; cụm An Hòa Hưng, Phước Tân, Tam
Phước, Tam An, An Lợi; cụm Phước Lộc, Phước Nguyên, Siph,
Lộc An, Bình Sơn). Ngày 12/1/1916, lực lượng Thiên Địa Hội
ở Long Thành tham gia phá khám Sài Gòn, bị thất bại, các lãnh
đạo (ông Tiều, ông Quý, ông Dệch) bị địch bắt, giặc Pháp đàn áp,
phong trào suy yếu dần rồi tan rã.
Đến năm 1917, thực dân Pháp tiến hành tổ chức “Hiệp hội trồng
tỉa Đông Dương” để khai thác cao su, thành lập đồn điền cao su ở
khu đất đỏ Bình Sơn, An Viễng và lấy công nhân từ miền Bắc, miền
Trung vào làm phu công tra; tiếp theo đó là là một số sở cao su khác
ở An Lợi, An Hòa, Phước Thái. Chủ Tây và chủ ta áp bức bóc lột
(4) Là em của Việt gian Trần Bá Lộc, cả hai đều khét tiếng gian ác.
246

25.7 Page 247

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
công nhân, xuất hiện phong trào đấu tranh của công nhân cao su.
Tháng 5/1936, Đảng Cộng sản Pháp giành thắng lợi trong phong
trào Mặt trận Bình dân Pháp. Nắm thời cơ, Đảng Cộng sản Đông
Dương phát động phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương. Xứ ủy
Nam Bộ đã chỉ đạo thành lập các Ủy ban hành động ở các tỉnh thành.
Nguyễn Văn Nghĩa, Chủ tịch Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa phân
công các đảng viên về Long Thành, chú trọng khu vực thị trấn và
đồn điền cao su để tuyên truyền yêu nước, đấu tranh đòi dân chủ;
theo đó, các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nghĩa, Hồ Văn
Đại, Trương Văn Bang, Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Văn Ký về hoạt
động ở địa bàn Long Thành. Ánh sáng các mạng, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu được gieo mầm và nở hoa trong
quần chúng nhân dân, nhất là công nhân các đồn điền. Từ những năm
1936, nhân dân các xã Phước Lộc, Long An, Tam An, Tam Phước
đã bắt đầu tiếp thu tư tưởng cách mạng, tham gia mít-tinh, biểu tình
chống Pháp; đến năm 1937 bắt đầu có cơ sở Đảng.
Sau khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940, giặc Pháp đàn áp mạnh,
nhiều lãnh đạo cách mạng bị bắt, phong trào khắp nơi suy thoái,
nhưng phong trào công nhân ở Biên Hòa vẫn phát triển. Công nhân
Long Thành là nơi nuôi giấu cán bộ tốt nhất, thuận lợi cho việc khôi
phục phong trào.Tháng 9/1942, 200 công nhân sở cao su Bình Sơn
đấu tranh chống làm thêm giờ, đi bộ ra quận Long Thành, chủ sở cho
người đàn áp không xong, buộc phải xuống nước, nhượng bộ.
Tháng 3/1943, Xứ ủy Nam Bộ thành lập Ban Cán sự Cao su miền
Đông và cử đồng chí Trịnh Văn Dục (Ba Dục) về hoạt động ở Long
Thành, với nhiệm vụ là đi sâu xây dựng phong trào công nhân. Trong
một thời gian ngắn, cơ sở cách mạng ở Long Thành phát triển, Xứ
ủy quyết định thành lập Chi bộ Đảng do đồng chí Trịnh Xuân Dục
làm Bí thư, có hai đồng chí Vũ Hồng Phô và Lý Trần Hoan hỗ trợ.
Đây là Chi bộ Đảng đầu tiên ở Long Thành. Sau khi thành lập chi
bộ, phong trào đấu tranh cách mạng ở Long Thành được lãnh đạo,
phát triển thành cao trào; tổ chức nhiều hoạt động thiết thực được
247

25.8 Page 248

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
nhân dân ủng hộ, như Hội tiết kiệm trong sở cao su, có đến 17 tổ với
265 hội viên tham gia. Đây là tổ chức có ý nghĩa nhân văn, làm tăng
uy tín của cán bộ đảng viên, là nòng cốt để xây dựng các cơ sở cách
mạng trong vùng.
Đến tháng 5/1945, lực lượng Thanh niên Tiền Phong được tổ
chức ở Long Thành, phát triển rất mạnh. Ngày 15/8/1945 Nhật đầu
hàng đồng minh, thời cơ đã đến. Ngày 21/8/1945, tại Long Thành,
đồng chí Ba Dục giao nhiệm vụ chi bộ và các đoàn thể chuẩn bị chờ
lệnh khởi nghĩa. 6 giờ sáng 24/8/1945, các đội xung phong nòng cốt
là Thanh niên Tiền Phong của Chi bộ Bình Sơn, Long Thành kéo
ra quận, làm chủ các tuyến đường, đến 10 giờ, cùng các lực lượng
quần chúng khắp nơi kéo về quận với khí thể sôi nổi, buộc quận Hội
bàn giao chính quyền, đồng chí Ba Dục tuyên bố chính quyền Long
Thành về tay nhân dân. Ngay trong ngày 24/8/1945, một cuộc mít-
tinh với 3.000 ngàn người tham dự được tổ chức khí thế, Ủy ban
cách mạng lâm thời ra mắt đồng bào: Đồng chí Trịnh Văn Dục làm
Chủ tịch, đồng chí Võ Văn Truyện là Phó chủ tịch; Huyện ủy Long
Thành được thành lập, đồng chí Trịnh Xuân Dục làm Bí thư, đồng
chí vũ Hồng Phô là Phó Bí thư. Cách mạng tháng Tám 1945 ở Long
Thành diễn ra nhanh gọn, thắng lợi hoàn toàn, sớm hơn ở tỉnh 1 ngày.
Hôm sau, lực lượng quần chúng Long Thành được tổ chức thành đội
ngũ mạnh mẽ, tham gia giành chính quyền tỉnh ở Biên Hòa.
Cách mạng tháng Tám thành công chấm dứt 84 năm nô lệ tủi nhục
của người dân mất nước dưới ách thực dân nửa phong kiến, mở ra
một kỷ nguyên mới cho dân tộc nói chung, nhân dân Long Thành nói
riêng. Được hưởng không khí độc lập tự do chưa tròn tháng, quân
dân Long Thành cùng Nam Bộ phải bước và cuộc chiến đấu thực
dân Pháp tái chiếm Việt Nam để bảo vệ chính quyền non trẻ vừa
mới giành lại được. Ngay sau khi giành được chính quyền, Quận ủy
Long Thành, Ủy ban cách mạng lâm thời quận triển khai ngay các
nhiệm vụ chính trị, đặc biệt sáu nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã công bố: Diệt giặc dốt (văn hóa giáo dục), giặc đói (kinh tế đời
sống), giặc ngoại xâm (lực lượng vũ trang). Đến cuối tháng 9/1945,
248

25.9 Page 249

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lập xong các đoàn thể ở các xã, thành lập lực lượng vũ trang để sẵn
sàng kháng chiến.
Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Đảng bộ và quân dân Long Thành chịu nhiều gian khổ, hy
sinh, tạo được nhiều chiến công oanh liệt. Long Thành được xem
là một trong những đơn vị sớm tổ chức kháng chiến chống tái xâm
lược của thực dân Pháp, lập nhiều kỳ tích. Nhiều khóa huấn luyện vũ
trang đầu tiên tổ chức tại Trường Quân chính Long Thành (tháng 11
năm 1945). Thành lập đội “Cộng hòa vệ binh” đầu tiên với 11 khẩu
súng trường thu được sau khởi nghĩa. Tổ chức phục kích đánh giặc
Pháp đầu tiên ngày 20/9/1945 tại Thành Tuy Hạ. Ngày 28/10/1945,
dân quân Tam Phước, Phước Tân chặn đánh đoàn xe của Anh, Pháp
tại dốc 47, giặc bị cháy 1 xe, chết một số tên, khiến phải bỏ dở cuộc
hành quân. Tổ chức thành công, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
I ngày 6/1/1946 tại Long Thành với hơn 90% cử tri đi bầu. Tổ chức
chặn đánh, đẩy lùi các cuộc phối hợp càn quét qui mô lớn của giặc
Pháp vào cuối tháng 1/1946 (dịp Tết Mậu Tý). Bộ đội cùng nhân dân
bao vây, chặn đánh, diệt gọn một đại đội lính Âu Phi và giặc Pháp
tại trận đánh cầu Lò Rèn (nay thuộc xã Long Thọ) ngày 9/3/1946.
Sau thảm bại trận cầu Lò Rèn, giặc Pháp tăng cường đánh phá Long
Thành ác liệt, máy bay thả bom và phi pháo thảm sát đồng bào, làm
chết hàng chục người, phá sập hàng trăm ngôi nhà, Nhiều cuộc càn
quét liên tục, thực hiện phương châm tìm diệt “giết sạch, phá sạch,
đốt sạch”, gây nhiều tổn thất. Trong vùng cao su, bọn chủ sở trở lại.
Ở mỗi sở mọc lên một đồn lính có từ một tiểu đội đến một trung
đội Pháp. Các chòi, rẫy của công nhân trong rừng An Viễng - Bình
Sơn bị đốt phá. Công nhân bị lùa về sở bắt khai thác mủ. Người nào
không về bị bắn chết. Các khu ủy Thực hiện chủ trương “bất hợp tác
với kẻ thù”, vận động nhân dân dời sâu vào vùng tự do xây dựng xã,
ấp chiến đấu; đồng bào bớt tổn thất, giặc mất chỗ dựa vào dân. Theo
chủ trương này, hàng ngàn hộ dân đã di dời, lập 15 làng kháng chiến,
thi đua sản xuất để ủng hộ kháng chiến, như ở Bàu Lùng, ở xã Tam
Phước, Tam An. Bộ đội giúp dân làng kháng chiến vượt khó vì khan
249

25.10 Page 250

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
hiếm nước, thiếu lương thực, hỗ trợ đồng bào tổ chức lượng lượng
đánh giặc giữ làng.
Trong vòng tháng 4, các lực lượng vũ trang phối hợp đánh địch
nhiều trận ở Phước Nguyên, Phước Long, Phước Tân, Thái Thiện,
diệt 2 xe cơ giới, hai trung đội Pháp, bắt sống hai sĩ quan Anh và 12
tên hội tề cũ rắp tâm đầu hàng chỉ điểm cho địch. Cuối tháng 4/1946,
Chi đội 7 mưu trí đánh chiến bót Tam Phước. Tháng 6 năm 1946, bức
giặc Pháp phải rút khỏi bót Phước An, quân giải phóng làm chủ các
vùng giải phóng. Tháng 9/1946, Chi đội 6 và giải phóng quân khu 4
đánh nhiều trận trên đường 15 diệt 8 xe quân sự và 2 trung đội Âu
Phi. Đêm 30/9/1946, chỉ trong một đêm, lực lượng nổi dậy giải tán
toàn bộ ban hội tề ở 28 xã, làm lung lay, tan rã cơ sở của địch trong
toàn huyện, giặc Pháp phải rút một loạt đồn bót ở Ông Kèo, Thái
Thiện, Bà Ký, Phước Lý, Phước Thành.
Giặc Pháp co cụm, quân dân Long Thành mở rộng vùng giải
phóng, củng cố lực lượng. Ủy ban nhân dân quận đổi thành Ủy ban
hành chính kháng chiến huyện. Tự vệ chiến đấu quân đổi thành du
kích xã. Thành lập 4 Ban công tác liên thôn. Giải phóng quân Long
Thành trở thành Đại đội C của Chi đội 10 Biên Hòa gồm 3 trung đội
do đồng chí Lương Văn Nho làm Đại đội trưởng.
Đến ngày 19/12/1946, khi toàn quốc bước vào kháng chiến chống
thực dân Pháp theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Long
Thành cùng Nam Bộ đã có một năm trưởng thành về mọi mặt. Từ
năm 1947, Long Thành cùng cả nước thực hiện cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện. Bước đầu, vừa xây dựng vừa phát triển chiến
tranh du kích. Ủy ban hành chính kháng chiến huyện chỉ đạo xây
dựng các khu căn cứ ở Phước An, Bà Ký, Thái Thiện,Tam Phước,
Tam An; xây dựng phong trào kháng chiến toàn diện ở cơ sở, nhất là
trong công nhân cao su; khởi động các phong trào phá hủy các công
trình kinh tế, quân sự, giao thông của giặc.
Ngày 5/5/1947 tại chiến khu Phước An, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết
định thành lập Đảng bộ huyện Long Thành, chỉ định đồng chí Vũ
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Hồng (tức Vũ Hồng Phô) làm Bí thư Huyện ủy, thống nhất lãnh
đạo, chỉ đạo kháng chiến trên địa bàn huyện; một tháng sau, Huyện
ủy Long Thành thành lập 4 chi bộ Đảng ở cơ sở, kết nạp 50 đảng
viên mới. Cũng trong tháng 6/1947, Huyện ủy mới thành lập đã chỉ
đạo thực hiện thành công cuộc chống càn qui mô lớn của địch vào
các căn cứ chiến khu, nhất là việc cắm cọc ngăn tàu giặc ở Phước
An. Ngày 14/7/1947, Đại đội C phối hợp liên thôn 11 tạo nên chiến
thắng Bàu Cá. Tháng 8/1947, tập kích tiêu diệt đồn Hêlêna bảo vệ
dân kháng chiến ở Bàu Lùng; kết hợp nội tuyến đột nhập vào hang
ổ địch đánh bót Bến Gỗ. Tổ chức kỷ niệm 2 năm ngày Quốc khánh
2/9/1945 đồng bộ ở các vùng kháng chiến với khí thế mạnh mẽ vươn
lên tiến công địch. Tháng 12/1947, thực hiện chủ chương thống nhất
chỉ huy quân đội và xây dựng 3 thứ quân, hệ thống Ban công tác liên
thôn giải thể, hợp nhất 4 Ban công tác liên thôn thành lập Quận đội
bộ dân quân huyện, các đội du kích liên thôn hợp thành đội du kích
huyện, các ban công tác xã được thay bằng ban chỉ huy xã đội, công
tác tình báo được chú trọng.
Từ năm 1948, Long Thành phát triển cuộc kháng chiến toàn dân
toàn diện. Mở đầu bằng Đại hội Đảng bộ huyện lần đầu tiên, tổ chức
tại chiến khu Phước An tháng 1/1948. Sau đại hội, Huyện ủy tập
trung chỉ đạo phát triển phong trào du kích, củng cố, xây dựng các
chiến khu theo hướng toàn diện, thống nhất lãnh đạo các lực lượng
huyện và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tỉnh. Dưới sự lãnh
đạo của Huyện ủy mới được bầu cử, du kích và dân quân ở các khu
kháng chiến thể hiện bản lĩnh, trưởng thành trong kháng chiến, tổ
chức ngăn chặn, đánh bại nhiều cuộc càn lớn của giặc, như ở Long
Điềm, Long An, Thái Thiện, Tuy Long, Tập Phước. Liên đoàn cao
su huyện Long Thành đã được thành lập, lãnh đạo các cuộc chống
phá âm mưu bóc lột công nhân của giới chủ; đêm 22/1/1948, công
nhân các sở An Viễng, Bình Sơn, Đất Đỏ đồng loạt phóng hỏa đốt
đồn điền, công nhân kéo ra vùng kháng chiến, giặc đàn áp bắn chết 6
người, cuộc đấu tranh kiên trì kéo dài trong nhiều năm. Các công tác
khác: Phá cầu, làm chủ đường 15; diệt ác trừ gian, thanh trừng nội
251

26.2 Page 252

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
gián; hoạt động của hội đồng canh nông, hũ gạo nuôi quân, các tuần
lễ đồng, tuần lễ kim khí; ngày hội tòng quân, bình dân học vụ, chống
mù chữ… được lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt, tạo khí thế thi đua ái
quốc sôi nổi, góp phần xây dựng và phát triển kháng chiến toàn diện,
toàn dân tham gia; gần như, mỗi làng kháng chiến là một trung tâm
văn hóa kháng chiến.
Từ đầu năm 1950, cả nước thực hiện Chỉ thị “chuẩn bị cho tổng
phản công” của Trung ương. Quân dân Long Thành bước vào một
cuộc vận động lớn, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: lương thực, hoạt
động vũ trang, dân công, vũ khí, bố phòng trận địa, kế hoạch phối hợp
tác chiến… Riêng về hoạt động vũ trang, du kích 2 xã Tam Phước,
Tam An phối hợp với Đại đội Lam Sơn đánh thắng một trận có tiếng
vang lớn, diệt tên Utini - Trưởng đồn Tam An khét tiếng hung ác.
Trong đợt huy động cho tổng phản công đầu năm 1950, Long Thành
đã đóng góp được một phần xứng đáng công sức, nhân lực, vật lực
cho cuộc chiến đấu trên chiến trường chung của Biên Hòa.
Sau giai đoạn tổng phản công, từ đầu năm 1951, địch đánh phá
quyết liệt để giành lại quyền kiểm soát địa bàn. Phong trào kháng
chiến trong huyện gặp nhiều khó khăn. Nhiều vùng tự do rơi vào tay
giặc. Tình hình chiến trường đòi hỏi phải bố trí và tổ chức lại. Huyện
ủy chuyển hướng lãnh đạo, giai đoạn 1951 - 1954 tập trung chống
lấn chiếm, khôi phục phong trào kháng chiến, tiến đến giành thắng
lợi toàn diện góp phần vào thắng lợi chung.
Tháng 5/1951, Trung ương Cục miền Nam tổ chức lại chiến
trường, tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một hợp thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh
Bà Rịa và Chợ Lớn sáp nhập thành tỉnh Bà Rịa-Chợ Lớn (thường
gọi là Bà Chợ), huyện Long Thành thuộc tỉnh Bà Chợ. Tỉnh ủy Bà
Chợ chỉ đạo: Long Thành là một địa bàn chiến lược, một vùng căn
cứ, một chiến khu quan trọng trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Phong
trào Long Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt. Bằng giá
nào cũng phải ổn định cho được chiến trường Long Thành để đảm
bảo chỗ đứng của tỉnh. Tháng 7/1951, hội nghị Huyện ủy có một ý
252

26.3 Page 253

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nghĩa rất quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt của phong trào kháng
chiến Long Thành, triển khai việc thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy Bà
Chợ. Toàn huyện bám đất giữ làng, củng cố lực lượng, khôi phục
phong trào, khắc phục khó khăn, nghiên cứu địch, kết hợp các mũi,
phối hợp các lực lượng đánh địch, giành thắng lợi từng phần tiến đến
thắng lợi toàn diện.
Bước sang năm 1952, tình hình có chuyển biến bất thường,
chiến trường vừa bớt khó khăn thì lại thêm khó khăn mới do bão
lụt Nhâm Thìn (tháng 10/1952). Nhờ có lực lượng vũ trang hỗ trợ
bảo vệ tốt mùa màng, cuối năm1952, bão lụt đã qua, vùng lúa ở
địa bàn Long Thành, Nhơn Trạch được mùa, đồng bào phấn khởi
thu hoạch, có lúa đóng góp cho kháng chiến (khoảng 480 tấn), góp
phần cho tỉnh cứu trợ.
Đầu năm 1952, các lực lượng phối hợp đánh trận làm nổ tung máy
bay Moran, diệt 1tên quan năm Pháp và làm bị thương một quan năm
khác, khiến kẻ thù tức tối, khiếp sợ; làm nức lòng quân dân kháng
chiến, tạo niềm tin để đánh giặc và thắng giặc ở những trận tiếp theo.
Cuối năm 1953, ở các vùng dồn dân đều có phong trào nhân dân đấu
tranh đòi về làng cũ làm ăn. Nhiều lõm chính trị được hình thành. Từ
cuối năm 1953, Long Thành cùng cả nước phối hợp chia lửa chiến
trường để Trung ương mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954.
Ngày 7/4/1954, quân dân Long Thành đánh bại một cuộc càn lớn
vào Phú Mỹ, Thái Thiện, diệt được tên ác ôn Suacot cao số, các tên
khác co vòi. Từ đầu tháng 5/1954, trên chiến trường Long Thành
cách mạng đã chuyển sang thế áp đảo địch. Ngày 7/5/1954, đúng
lúc chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Huyện ủy Long Thành chỉ
đạo các lực lượng huyện tăng cường hoạt động vũ trang và tuyên
truyền sâu vào các vùng địch tạm chiếm, đánh diệt bót Bà Trường.
Ngày 1/8/1954, lệnh ngừng bắn theo Hiệp định Genève thực thi,
Long Thành dừng ngay kế hoạch đánh 2 đồn Thái Thiện, Phước Thọ
đã vạch xong từ tháng trước. Từ tháng 8/1954, thi hành hiệp định
Genève, cán bộ, chiến sĩ Long Thành lần lượt chuyển sang vùng căn
253

26.4 Page 254

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cứ Xuyên Phước Cơ (Bà Rịa) để tập kết ra Bắc, một bộ phận cán bộ,
đảng viên từ huyện ủy viên trở xuống được chọn lọc ở lại.
Chín năm kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược
kết thúc. Đó là chín năm Đảng bộ, Chính quyền và quân dân
huyện Long Thành đã thể hiện được ý chí quyết tâm chiến đấu,
vượt qua biết bao khó khăn, thử thách có lúc tưởng chừng không
vượt qua được. Trên một địa bàn chiến lược nhiều phức tạp, Đảng
bộ Long Thành với những chủ trương đúng đắn, đã thống nhất
được lực lượng vũ trang, phát triển cơ sở chính trị làm nòng cốt
xây dựng bộ đội, du kích, phát triển được phong trào du kích
chiến tranh; phát huy được sức mạnh nhân dân, đảm bảo một phần
quan trọng hậu cần tại chỗ; đồng thời phối hợp chặt chẽ với các
lực lượng vũ trang tỉnh, khu. Điểm sáng là Đảng bộ, quân dân
đã xây dựng thành công căn cứ kháng chiến với thế liên hoàn từ
rừng Giồng xuống rừng Sác, đảm bảo thế đứng chân cho các lực
lượng; xây dựng được khối đoàn kết quân dân chính, thống nhất
ý chí và hành động…
Niềm vui của miền Nam không trọn vẹn. Với âm mưu xâm
lược Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ đã ra sức
phá hoại Hiệp định Genève. Tháng 7/1954, Mỹ đưa Ngô Đình
Diệm về miền Nam làm thủ tướng rồi lật đổ Bảo Đại lên Tổng
thống, xây dựng bộ máy chính quyền thân Mỹ, thành lập quân đội
tay sai, tiến hành khủng bố phong trào cách mạng miền Nam bằng
nhiều thủ đoạn thâm độc. Nam Bộ phải bước vào cuộc kháng
chiến mới gian khổ hơn.
Trong giai đoạn 1954 - 1975, quân dân Long Thành cùng Nam
Bộ tiếp tục chịu đựng mất mát, hy sinh, hành cuộc chiến đấu
chống đế quốc Mỹ xâm lược thay chân thực dân Pháp. Cuộc chiến
đấu chia nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu 1954 - 1961, là giai đoạn
đấu tranh chính trị, bước đầu xây dựng lại lực lượng vũ trang.
Người dân Long Thành phải đương đầu với âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của Mỹ và tay sai. Nhiều người bị giết, bị bắt, bị tra tấn,
254

26.5 Page 255

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tù đày (như như cai Hoàng, cai Ruệ, cai Tiền, cai Minh, xu Văn ở
Chi bộ Bình Sơn). Một số bị ly gián, mua chuộc, lôi kéo vào con
đường tội lỗi. Nhưng các chiến dịch tố cộng, diệt cộng khủng bố
dân dân của địch không lung lạc được ý chí cách mạng của người
Long Thành. Nhiều cán bộ đã bị rơi đầu trước máy chém lê khắp
nơi của Diệm, nhưng một người ngã xuống, nhiều người đứng lên
tiếp nối. Nhiều phong trào được nhen nhóm chống các trò mỵ dân
của chế độ Sài Gòn tay sai. Ngày 2/12/1956, anh em tù chính trị
nổi dậy phá khám Trung tâm Cải huấn Biên Hòa (Biên Hòa), hơn
100 người thoát về hướng Long Thành, được bà con Long Thành
bảo bọc, trong đó có các đồng chí: Hai Phê, Hai Thông, Tám
Phương, Ba Yển, Tư Phương, Sáu Bê…
Năm 1956, Lực lượng vũ trang Long Thành được lập lại, ban
đầu có 40 cán bộ chiến sĩ do Ba Phú chỉ huy. Tháng 9/1957, ở
Bình Sơn, phát triển được 4 đảng viên mới, thành lập được chi bộ,
có đảng viên hoạt động đơn tuyến. Một số nơi như Bình Sơn, Tam
Phước, Long Phước… thành lập Chi đoàn Thanh niên lao động.
Đầu năm 1959, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo nhân dân đấu
tranh chống việc xây dựng khu trù mật Hang Nai, cuối cùng,
kế hoạch lập khu trù mật Hang Nai của địch phải bỏ dở. Ngày
31/10/1959, Trần Xuân Hà (Hà Tư, Tư Trần), Bí thư Huyện ủy ra
đầu hàng địch, gây nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng Long
Thành. Gần 300 cán bộ đảng viên và cơ sở bị bắt, nhiều chi bộ, cơ
sở bị đánh phá đến tan rã. Sự tàn bạo của kẻ thù đã làm tăng thêm
sự phẫn nộ của nhân dân. Không có con đường nào khác, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân Long Thành từ những ngày tháng
đấu tranh chính trị chuyển lên vũ trang đánh địch.
Từ đầu năm 1960, phong trào cách mạng ở Long Thành chuyển
thế đấu tranh vũ trang, giành quyền làm chủ. Tháng 7/1959, Trung
ương Đảng ban hành Nghị quyết 15 mở ra phong trào kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang đã tạo nên một niềm phấn
khởi to lớn trong cán bộ, nhân dân. Do đứt liên lạc sau khủng
255

26.6 Page 256

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bố 1959, giữa tháng 3/1960 Long Thành mới được quán triệt,
triển khai thực hiện Nghị quyết 15. Nghị quyết 15 được triển khai
muộn, nhưng tinh thần Nghị quyết đã sớm đi vào phong trào. Địa
bàn Long Thành được chia thành 4 vùng, vùng chia thành nhiều
cụm, mỗi vùng có một lãnh đạo Huyện ủy được phân công phụ
trách, có tổ chức Đảng lãnh đạo, có đảng viên làm hạt nhân, có các
tổ chức nhân dân gây phong trào, có lực lượng vũ trang làm nòng
cốt. Mỗi vùng đều có kết hoạch kết hợp đấu tranh vũ trang với
đấu tranh chính trị, phối hợp các lực lượng vũ trang vùng, huyện,
tỉnh để chiến đấu trên địa bàn. Huyện ủy còn ra chủ trương, biện
pháp cụ thể: Vận động đồng bào cho con em tham gia lực lượng
vũ trang; dựa vào quần chúng tốt, vận động những gia đình binh
sĩ của địch trở về với cách mạng; thống kê tội ác của địch, trên cơ
sở đó phát động quần chúng đứng lên đấu tranh; tung tin hù dọa,
đồng thời thực hiện tiến công binh vận để làm rã đội ngũ của địch.
Bên cạnh những cuộc đấu tranh chính trị, diệt ác trừ gian thắng
lợi, Huyện ủy chỉ đạo mở những đợt tấn công vào hang ổ địch.
Đêm 19/10/1960 lực lượng huyện phối hợp xã tập kích đánh chốt
dân vệ ở xã Long An. Một bộ phận đột kích vào nhà xã Vàng, diệt
tên Hà ác ôn, thu 7 súng, phá rã hai tiểu đội dân vệ. Đầu tháng
11/1960, bao vây uy hiếp bót Bình Sơn để phá rã âm mưu càn
quét, tìm diệt của địch vào Lòng Chảo. Quận trưởng Long Thành
đành bỏ kế hoạch càn vào khu Lòng Chảo, vội vã điều một đại đội
giải cứu Bình Sơn. Cùng thời gian đó, lực lượng vũ trang huyện
bao vây đánh phá đồn Tam An, phá rã 2 chốt dân vệ ở Xóm Quán,
Xóm Hố, Chùa Lớn, bắt và diệt 3 tên ác ôn.
Ở cả 4 vùng, mỗi vùng đều có những trận đánh thắng giòn giã,
nhiều chiến công không kể xiết, góp phần vào thắng lợi chung.
Đầu tháng 7/1961 Trung ương Cục miền Nam quyết định tách
tỉnh Thủ Biên ra thành hai đơn vị tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Biên
Hòa. Huyện Long Thành thuộc chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa.
Ngày 16/8/1961, gần 100 đồng bào xã Long An được chi bộ lãnh
256

26.7 Page 257

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đạo tổ chức đấu tranh đòi địch không được bắn pháo bừa bãi
vào xóm làng, bỏ lệnh giới nghiêm, cho dân vào cánh đồng Sở
Hoàng sản xuất. Quận trưởng Long Thành cứng rắn, muốn đàn
áp, nhưng cuối cùng đuối lý. Ngày 22/6/1962 thêm một cuộc đấu
tranh chính trị nữa, có sự phối hợp các lực lượng nhân dân ở các
xã Bình Sơn, Tam An, An Lợi, khiến cho địch lúng túng.
Trải qua thời kỳ đấu tranh chính trị, thử thách và khó khăn từ
1954 tới 1961, mặc dù gặp không ít tổn thất hy sinh, nhưng nhân
dân Long Thành đã luôn giữ vững niềm tin vào Đảng. Bằng cuộc
nổi dậy đầu năm 1960, thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ
15, phong trào cách mạng Long Thành đã nhanh chóng được khôi
phục và phát triển. Đó cũng là cơ sở để toàn quân, toàn dân trong
huyện vững vàng bước vào thời kỳ tiến hành chiến tranh cách
mạng góp phần cùng toàn miền Nam lần lượt đánh bại mọi âm
mưu chiến lược mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Giai đoạn 1961 - 1965 là giai đoạn Long Thành cùng miền Nam
3 mũi giáp công, làm phá sản “Ấp chiến lược”, từng bước đánh
bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn. Khởi đầu cam go là cuộc đấu tranh chống phá ấp chiến lược.
Ngày 17/4/1962, Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh xây dựng ấp
chiến lược trên toàn miền Nam, với 3 hình thức: để dân tại chỗ
“hình thức kìm dân”, gom dân các nơi lại “hình thức tát dân” và
ấp chiến lược đặc biệt ở vùng đồng bào di cư năm 1954. Trong
lúc gom dân xây dựng ấp chiến lược, địch đã dựng nhiều đồn bót,
tăng cường quân lực để bảo vệ ấp chiến lược; đã thực hiện âm
mưu rải chất độc hóa học trên toàn miền Nam, nhằm phá hoại hoa
màu của dân, ép dân phải vào vùng chúng kiểm soát, mục đích
đánh vào cơ sở hậu cần của cách mạng.
Huyện ủy chỉ đạo các lực lượng quần chúng khối mặt trận
đoàn thể có kế hoạch phá tan âm mưu ấp chiến lược của địch.
Ngày 16/1/1962 Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng huyện Long
Thành được tổ chức trong hai ngày tại Phước An, gần 150 đại
257

26.8 Page 258

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
biểu dự, bầu ra 11 ủy viên, ông Ngô Văn Thập, đại biểu tư sản dân
tộc làm Chủ tịch. Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời đã lãnh đạo
các lực lượng yêu nước, chống ngoại xâm, lần lượt đánh bại mọi
âm mưu mị dân của địch, kế hoạch ấp chiến lược ở Long Thành
đến năm 1965 thì phá sản.
Từ đầu tháng 1/1964, địch đưa các đơn vị bộ binh thuộc sư
đoàn 10 về Long Thành chuẩn bị tổ chức những trận càn lớn vào
khu đông và tây lộ 15, vùng ven lộ 17, 19 để tiêu diệt căn cứ
xuất quân của cách mạng, cứu nguy cho tình thế ở khu vực Long
Thành - Nhơn Trạch, nơi mà địch cho là “vùng ven đô” quan
trọng của chính quyền Sài Gòn. Nhiều cuộc càn lớn cũng được
thực hiện ở những địa bàn khác. Trước tình hình chuyển biến của
chiến trường, tỉnh Bà Biên lại được tách ra làm 2 tỉnh: Biên Hòa
và Bà Rịa. Tỉnh ủy Biên Hòa chuyển về đóng căn cứ tại ngọn Suối
Cả thuộc huyện Long Thành, Huyện ủy Long Thành chuyển một
bộ phận về khu rừng Tam An. Lực lượng vũ trang huyện được
củng cố và bổ sung, thành lập đại đội 240 trực thuộc tỉnh, gồm 3
trung đội, với 130 chiến sĩ, vũ khí được trang bị đủ mạnh. Với lực
lượng này, huyện Long Thành đã phối hợp với nhiều đơn vị tỉnh
(như phối hợp chiến dịch Bình Giã, mở rộng vùng giải phóng)
đánh bại các cuộc càn quét, góp phần làm thất bại chiến tranh đặc
biệt của Mỹ Ngụy. Rất nhiều chiến công anh hùng đã được ghi
trong sử sách.
Giai đoạn 1965 - 1968, Long Thành cùng cả nước tập trung
đánh quân viễn chinh Mỹ và chư hầu, làm thất bại âm mưu chiến
tranh cục bộ của Mỹ Ngụy. Trong giai đoạn này, quân dân Long
Thành đã phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, đúc kết bài
học kinh nghiệm trong chiến đấu, quyết tâm đánh Mỹ và thắng
Mỹ, tạo thế tấn công, giữ vững vùng làm chủ.
Đầu tháng 5/1965, lữ đoàn lính dù Mỹ mang phiên hiệu 173
xuất hiện, đồn trú tại tổng kho Long Bình (Biên Hòa) và khu căn
cứ Nước Trong (Long Thành). Tiếp theo, các đơn vị lính Mỹ được
258

26.9 Page 259

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
trang bị vũ khí hiện đại, lập căn cứ đóng quân ở ven sông Lòng
Tàu, sông Đồng Nai, Thành Tuy Hạ, Bình Sơn, Dốc Thái, Vườn
Điều, chùa Nước Nhĩ, Bến Sắn, Phước Hòa, chi khu Long Thành.
Tổng kho Long Bình, sân bay Biên Hòa và kho Thành Tuy Hạ
được tuyên bố là khu vực bất khả thâm nhập. Các lực lượng vũ
trang Long Thành, Biên Hòa hỗ trợ cho lực lượng đặc công 3 lần
làm nổ tung tổng kho Long Bình, ba lần đốt cháy kho bom Thành
Tuy Hạ, 4 lần dội bão lửa vào sân bay Biên Hòa, làm thủng dạ dày
chiến tranh của Mỹ, làm tê liệt bộ não chiến tranh của giới cầm
quyền, làm kinh động trái tim của quân hiếu chiến.
Huyện ủy Long Thành chỉ đạo xây dựng thế chiến đấu phải
đứng vững trên địa bàn, tấn công địch liên tục bằng ba mũi giáp
công. Thông qua những trận đánh Mỹ, Huyện ủy Long Thành đã
rút ra kết luận: Chủ yếu lính Mỹ dựa vào vũ khí hiện đại. Loại
máy bay B52 và pháo bầy với phương thức sử dụng của địch
trên chiến trường Long Thành chỉ áp dụng được ở những trận địa
không có lính Mỹ, nếu ta áp sát địch, nắm thắt lưng Mỹ mà đánh
thì B52 và pháo bầy trở nên vô tác dụng. Kết luận của Huyện ủy
Long Thành rất phù hợp với thông báo của Tỉnh đội và Tỉnh ủy
Biên Hòa “Mỹ tuy đông, có đầy đủ vũ khí nhưng có nhiều nhược
điểm, không quen địa hình, hành quân đến đâu là kết hợp phi pháo
bắn phá. Lính Mỹ chỉ tiến theo một đường thẳng. Vì vậy phải áp
sát địch mà đánh, sẽ bảo toàn lực lượng của ta”. Quân dân Long
Thành đã mưu trí, sáng tạo, linh hoạt trong từng trận đánh, giữ
vững địa bàn làm chủ, góp phần đánh bại chiến tranh cục bộ của
địch. Trong Lịch sử Đảng bộ Long Thành, đã nêu rõ mục đích, ý
nghĩa và thắng lợi của từng trận đánh.
Ngày 7/10/1967, Trung ương Cục quyết định giải thể khu miền
Đông, thành lập 5 phân khu để chuẩn bị cho cuộc tiến công nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968. Phân khu 4 gồm cao su Bình Sơn, các
huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Duyên Hải, Thủ Đức, quận 9 và
quận 1 (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Chấp hành chỉ thị
của Phân khu 4, quân dân Long Thành đã hăng hái chiến đấu,
259

26.10 Page 260

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chuẩn bị cho đợt tấn công vào mùa xuân năm 1968. Tất cả cho
ngày tổng tấn công. Ban quân lương của huyện đã thu về hàng
ngàn giạ lúa, hàng chục triệu đồng để chuẩn bị cho đợt xuống
đường.
Đêm giao thừa (31/1 và rạng sáng 1/2/1968) tiếng pháo Tết nổ
ran, tiếng súng của quân dân huyện Long Thành đồng loạt cùng
với đồng bào miền Nam tấn công quân địch trên khắp các chiến
trường. Trong 3 đợt xuống đường năm Mậu Thân, quân dân Long
Thành đã hoàn thành mục tiêu dội pháo vào Chi khu Long Thành,
đồng loạt tiến công và nổi dậy làm chủ các xã trong một thời gian,
chặn đánh các đợt phản kích và càn quét của địch, đã liên tục đánh
địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề. Mặc dù có nhiều tổn
thất trong các đợt tiến công, nhưng quân dân Long Thành đã góp
phần xứng đáng cùng toàn Miền, đẩy Mỹ và tay sai lao nhanh đến
sụp đổ và làm cho Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ và tay
sai bị phá sản hoàn toàn. Giai đoạn 1969 - 1975, Long Thành kiên
quyết bám trụ, giữ vững phong trào cách mạng, tham gia chiến
dịch Nguyễn Huệ, cùng miền Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí
Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trong chiến dịch mùa Xuân 1975 lịch sử, quân dân Long Thành
góp công ở tất cả các mặt trận, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao. Đến chiều 29/4/1975, các trận đánh trên địa bàn huyện đều
thặng lợi, ngụy quân, ngụy quyền tiếp tục trình diện; hơn 700 tàn
binh nguyên vẹn quân trang quân dụng trình diện ở Bình Sơn. Lực
lượng này có thể đánh chiếm cả xã Bình Sơn, nhưng cở sở làm tốt
công tác binh vận và chính sách cánh mạng nên số hàng binh này
an lòng trở về với gia đình. Đến 15 giờ, tại thị trấn Long Thành,
tên Ách Phước - Bí thư đảng Dân chủ, Võ Văn Năng - Chánh văn
phòng, Lê Bá Bửu - Quận đoàn trưởng ra trình diện.
15 giờ 30 phút, tiểu đoàn 348 của địch (ở đồn Phước Thái bại
trận trốn ở cổng gỗ Bình Lâm) cho người về xin đầu hàng. Gần
400 lính Sài Gòn đầu hàng được đồng bào xã Lộc An tiếp quản.
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Các lực lượng ta tiếp tục truy quét tàn binh địch.
Đến 17 giờ, theo báo cáo các xã gửi về ở Long Thành, Nhơn
Trạch, lực lượng cách mạng đã tiêu diệt 680 tên địch (trong đó
180 là lính bảo an), bắt sống 708 tên. Địch ra trình diện 4.598 tên,
trong đó có nhiều sĩ quan các cấp (2 đại tá, 9 trung tá, 14 thiếu tá,
265 cấp úy). Ta thu được nhiều chiến lợi phẩm. Riêng số phương
tiện chiến tranh thu được gồm: 13 khẩu pháo 105 ly, 3 khẩu 155
ly, 6 khẩu cối 81 ly, 13 khẩu cối 60 ly, 8 khẩu 12 ly 7, 1 kho đạn,
bom, 40 tàu xuồng, 2 xe tăng M41, 2 xe M113, bắn rơi 5 máy bay,
thu và phá hủy 25 xe quân sự. Súng bộ binh thu được 5.885 khẩu,
25 máy vô tuyến.
Long Thành giải phóng hoàn toàn. Đồng bào di tản từ phía
rừng Cao Thái, khu vực cô nhi viện, các căn cứ lần lượt kéo về thị
trấn, các xã. Một không khí phấn khởi, tươi vui trên gương mặt
của nhiều người dân mong chờ ngày độc lập. Trong khi đó, trên lộ
25 hướng từ Bình Sơn lên, nhiều đoàn xe chở bộ đội, xe kéo pháo,
xe hậu cần từng chiếc nối đuôi chạy qua thị trấn Long Thành đến
ngã ba Cầu Xéo qua tỉnh lộ 17 tiến về Nhơn Trạch, bến phà Cát
Lái để tiếp tục hướng tấn công vào Sài Gòn - thủ phủ cuối cùng
của chính quyền Sài Gòn đang từng cơn hấp hối.
Không giờ ngày 29/4/1975, quân giải phóng bắt đầu từ nhiều
hướng tấn công Sài Gòn. Ngày 30/4/1975, Sài Gòn giải phóng.
Long Thành hòa trong niềm vui chung của cả nước.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước của Đảng bộ và quân dân Long Thành trong 30 năm đúc
kết một bài học về nghệ thuật phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn diện,
làm hành trang để Đảng bộ và quân dân Long Thành bước vào
cuộc đấu tranh mới không kém cam go thử thách: Huy động sức
mạnh tổng hợp toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, cùng cả
nước đi lên thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
261

27.2 Page 262

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trên địa bàn huyện Long Thành, nhiều tập thể đã được phong
tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”:
Xã Tam An (6/11/1978), xã Bình Sơn (6/11/1978), xã Long
Phước (20/12/1994), xã An Phước (29/1/1996), xã Tam Phước
(29/1/1996), xã Phước Thái (29/1/1996), xã Long An (8/4/2000),
xã An Hòa (8/4/2000), Đồn điền cao su Ông Quế (8/4/2000); 201
mẹ đã được Chủ tịch Nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng.
Thành tích của Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân
dân huyện Long Thành được Nhà nước ghi nhận, xét tặng danh
hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 2/8/1998.
262

27.3 Page 263

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân thị trấn Trảng Bom
Địa danh Trảng Bom(1) đã đi vào lịch sử trong 2 cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Qua từng thời kỳ cách mạng,
quân và dân Trảng Bom đã đóng góp nhiều xương máu, sức người,
sức của, góp phần cùng cách mạng đi đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Thị trấn Trảng Bom chính thức được thành lập vào ngày
31/8/1994 trên cơ sở xã Trảng Bom cũ thời kháng chiến chống
Pháp - chống Mỹ.
Diện tích tự nhiên của thị trấn Trảng Bom vào năm 1996 là khoảng
910 hécta. Phía Bắc thị trấn Trảng Bom giáp xã Sông Trầu, phía Nam
giáp xã Đồi 61, phía Tây giáp xã Quảng Tiến và phía Đông giáp xã
Tây Hòa.
Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, thị trấn Trảng Bom có
3 ấp với 2.500 người dân, đến kháng chiến chống đế quốc Mỹ có
khoảng 6 ngàn dân. Dân cư trước Cách mạng Tháng Tám chủ yếu là
công nhân được mộ phu từ miền Bắc, miền Trung vào khai thác gỗ,
trồng cao su cho thực dân Pháp.
Thị trấn Trảng Bom có vị trí địa lý quan trọng, là cửa ngõ phía
Đông của Biên Hòa - Sài Gòn - chiến khu Đ, trấn giữ 7km quốc lộ 1,
8km đường sắt Bắc-Nam, đường điện cao thế Đa Nhim, đường thông
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Trảng Bom
263

27.4 Page 264

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tin liên lạc Bắc - Nam đi qua. Vì vậy, trong cả 2 cuộc kháng chiến,
thị trấn Trảng Bom là vùng tranh chấp căng thẳng, quyết liệt trên các
mặt trận kinh tế, quân sự, chính trị.
Tại địa bàn thị trấn Trảng Bom, Pháp và Mỹ xây dựng yếu khu
Trảng Bom để bảo vệ mục tiêu quân sự và kinh tế. Địch liên tục bộ trí
1 tiểu đoàn đóng giữ và thường xuyên tăng cường quân hỗ trợ, trang
bị đầy đủ vũ khí, có cả xe tăng, pháo, máy bay hỗ trợ. Ngoài ra địch
còn xây dựng hệ thống tình báo, mật vụ, bọn tề xã - ấp, bình định
nông thôn, cảnh sát chìm - nổi… để đánh phá phong trào cách mạng.
Phong trào cách mạng ở địa phương phải xây dựng nhiều lần do
địch đánh phá rất ác liệt. Song ta luôn đẩy mạnh công tác dân vận,
xây dựng cơ sở diệt ác, phá kìm, khai hoang vùng yếu, tạo địa bàn
tiếp tế cho chiến khu cách mạng, mở đường thông qua vùng sông
Buông, sông Cả xuống Long Thành - Nhơn Trạch, khi có thời cơ tạo
bàn đạp tấn công cơ quan đầu não của địch ở Biên Hòa và Sài Gòn.
Ngay từ năm 1908, thực dân Pháp đã khai thác kinh tế ở Trảng
Bom bằng hình thức phá rừng lấy gỗ, trồng cây cao su lấy mủ - một
sản phẩm có giá trị - đem về nước Pháp. Nhân lực để chúng bóc lột,
khai thác kinh tế chủ yếu là mộ phu từ miền Bắc, miền Trung vào, có
những cuộc bắt phu rộng lớn và nhiều chết chóc, gây nhiều đau khổ
cho nhân dân. Đời sống công nhân cao su vô cùng cực khổ, làm việc
dưới đòn roi, cực nhọc từ sáng đến chiều, điều kiện ăn ở tồi tệ, bệnh
phù nề, sốt rét, thiếu vi chất… hằng ngày cướp đi nhiều sinh mạng
của công nhân cao su. Khổ cực, vất vả là vậy, nhưng sau 3 năm làm,
người công nhân cũng không có tiền, quần áo…
Ngày 1/1/1939, nhân dân Trảng Bom, chủ yếu là công nhân cao
su đã bãi công đòi cải thiện đời sống. Tháng 7/1943, hơn 400 công
nhân cạo mủ, úp thúng nghỉ làm, đấu tranh đòi yêu sách và đã giành
thắng lợi.
Từ năm 1940 - 1943, đã có cán bộ cách mạng vào hoạt động trong
các sở cao su, xây dựng phát triển cơ sở cách mạng. Đến năm 1944,
chi bộ đầu tiên ở sở củi Trảng Bom được thành lập.
264

27.5 Page 265

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Cuối năm 1944, phát xít Nhật đặt kế hoạch khai thác 150 ngàn m3
gỗ để đóng tàu chiến tại sở củi. Chi bộ Trảng Bom đã chỉ đạo công
nhân bí mật phá đường ray, lật đổ, làm hư đầu máy tàu lửa, làm chậm
kế hoạch cung cấp gỗ cho phát xít Nhật. Đến tháng 5/1945, tổ chức
thanh niên Tiền Phong được thành lập. Ngày 24/8/1945, công nhân
hoàn toàn làm chủ ở sở cao su Trảng Bom. Đến sáng 25/8/1945, với
giáo mác, gậy, tầm vông, tên ná, người dân theo tàu lửa về Sài Gòn
cướp chính quyền.
Tuy nhiên, chỉ được một thời gian ngắn, vào ngày 23/9/1945, thực
dân Pháp nổ súng tái xâm lược Sài Gòn. Các ban tự quản sở củi, sở
cao su Trảng Bom với chủ trương Tiêu thổ kháng chiến đã chặt cao
su, phá công sở, chuyển lương thực, thực phẩm, máy móc lên Xuân
Lộc ủng hộ bộ đội Nam tiến.
Tháng 10/1945, thực dân Pháp xây dựng yếu khu Trảng Bom, ra
sức bắt bớ, đâm giết, chống phá cách mạng. Phong trào cách mạng
tạm thời lắng xuống nhưng lòng căm thù giặc đã tạo thành ngọn lửa
âm ỉ không tắt trong lòng nhân dân và công nhân cao su Trảng Bom.
Đầu năm 1945, cơ sở cách mạng ở sở cao su Trảng Bom được tổ
chức, xây dựng lại.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954,
phong trào đấu tranh ở thị trấn Trảng Bom có Đảng lãnh đạo, kết
hợp đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, công tác binh vận, làm
suy yếu sinh lực địch, gây cho địch nhiều tổn thất lớn. Trảng Bom
tiếp tục cung cấp người, lương thực, thuốc men cho cách mạng.
Nhân dân, công nhân cao su Trảng Bom vượt mọi khó khăn gian
khổ đóng góp cho kháng chiến. Là hậu cứ cơ sở của cách mạng
trong vùng bị địch chiếm, quân và dân Trảng Bom đã tiêu diệt 280
lính Pháp, hơn 200 lính Sài Gòn, lật đổ 2 đoàn tàu, thu 200 súng các
loại, trong đó có 80 súng trung liên, 2 đại liên, hàng chục tấn gạo,
quân trang, quân dụng…
Một số trận đánh tiêu biểu của quân dân thị trấn Trảng Bom trong
kháng chiến chống thực dân Pháp:
265

27.6 Page 266

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
2 giờ sáng 14/7/1947, quân dân thị trấn Trảng Bom phối hợp với
Chi đội 10 Biên Hòa đã tổ chức chặn đánh đoàn xe lửa khu vực
Trảng Bom - Bàu Cá, tiêu diệt tại chỗ 200 tên lính Pháp, phá hủy 2
đoàn tàu lửa, hàng trăm súng các loại, 3 máy vô tuyến, hàng chục tấn
gạo và quân trang, quân dụng. Cùng với Đại đội C và bộ đội Châu
Thành, quân dân Trảng Bom đã cầm chân địch tăng viện trợ khi ta
tấn công vào 2 đoàn tàu lửa.
Ngày 22/4/1950, tổ chức cách mạng ở Trảng Bom lại phối hợp với
đội chuyên phục kích đường sắt tại ga, phá hủy 2 toa xe, tiêu diệt 20
tên lính Lê dương.
Ngày 11/8/1950, ta tổ chức chặn đánh tàu vận chuyển gỗ từ sở
củi về Biên Hòa, tiêu diệt tên đội trưởng ác ôn người Pháp và 5
Việt gian.
Để tiêu diệt yếu khu Trảng Bom, từ tháng 5/1951, Tỉnh đội Thủ
Biên đã triển khai cử tiểu đội trinh sát kết hợp với cơ sở là quán cơm
của chị Hai Sẩm - nơi bọn lính trong yếu khu thường ra ăn. Hằng
ngày chị thường mang cơm cho tên thông dịch viên, có thể nắm hoạt
động, cách bố trí, phòng thủ của địch.
Đúng 16 giờ ngày 20/7/1951, 75 chiến sĩ được hóa trang thành
công nhân cạo mủ tấn công bất ngờ khi bọn địch đang chơi thể thao.
Trận này, ta tiêu diệt tại chỗ hơn 50 lính lê dương, số còn lại bỏ chạy.
Ta hoàn toàn làm chủ yếu khu. Tổ chức cơ sở được sự giúp đỡ của
công nhân sở cùng bộ đội thu gom chiến lợi phẩm gồm: máy móc,
súng đạn, trong đó có 1 đại liên, 50 trung liên, sau đó đưa về chiến
khu Đ an toàn. Trận đánh này tạo tiếng vang lớn, làm địch sa sút tinh
thần, đưa địch vào thế phòng ngự.
Tháng 12/1952, Tỉnh ủy Thủ Biên quyết định tách xã Trảng Bom
khỏi huyện Vĩnh Cửu. Đội vũ trang tuyên truyền Trảng Bom được
thành lập gồm 34 đồng chí. Nhiệm vụ của đội là hợp hoạt động vũ
trang và tuyên truyền chính trị, xây dựng cơ sở ở Trảng kết Bom và
sở cao su. Thời điểm này, Công đoàn tỉnh cũng cử cán bộ về xây
dựng cơ sở ở Vườn Ngô.
266

27.7 Page 267

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đầu năm 1953, ta có nhiều cơ sở giúp đỡ lương thực thực phẩm
cho đội vũ trang tuyên truyền hoạt động. Đội hoạt động mạnh mẽ,
gây cho địch tổn thất và hoang mang trong hàng ngũ binh lính địch.
Đến cuối năm 1954, Mỹ hất cẳng Pháp nhảy vào chiến trường
miền Nam, xây dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại
hiệp định Genève. Mỹ đã đưa gần 1,5 triệu người từ miền Bắc vào
miền Nam. Trảng Bom cũng là nơi định cư của đồng bào di cư.
Thời điểm 1954-1969, bằng các chiến dịch: Trương Tấn Bửu, tố
cộng, diệt cộng, địch khủng bố những người theo cách mạng, tăng
cường bộ máy kìm kẹp, đàn áp dã man, lê máy chém đi khắp miền
Nam. Ở yếu khu Trảng Bom, địch tăng cường xây dựng lại, tăng
thêm quân, đặt 2 trận địa pháo 105 ly, tăng cường các chốt ngăn chặn
sự tiếp tế của nhân dân vào chiến khu Đ.
Trong khi đó, ta chấp hành hiệp định Genève, một số đảng viên
tập kết ra Bắc, số còn lại bám trụ trong dân, đào hầm bí mật, cất giấu
tài liệu, chuyển vùng đổi tên và tìm cách liên hệ với nhau, chờ chỉ
đạo cấp trên. Năm 1958, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống.
Đến tháng 2/1961,Tỉnh ủy đưa cán bộ về xây dựng cơ sở ở Trảng
Bom, tạo bàn đạp đứng chân mở tuyến hành lang liên tục từ Vĩnh
Cửu xuống Long Thành; đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang.
Tháng 6/1961, tại ga Trảng Bom đã xây dựng được 1 tiểu đội vũ
trang tuyên truyền, kết nạp được 5 đảng viên, xây dựng chi đoàn
thanh niên lao động.
Trong năm 1961, lực lượng vũ trang xã Trảng Bom kết hợp với
bộ đội tỉnh, tổ chức đánh địch ở Lâm Viên - Trảng Bom, thu 3 súng
và nhiều đạn dược.
Thời điểm này, Trảng Bom thuộc sự quản lý của Tỉnh ủy Biên
Hòa, phong trào từng bước được khôi phục, xây dựng được mạng
lưới cơ sở khá mạnh. Nguồn lương thực phục vụ cho các cơ quan cấp
tỉnh, đơn vị bộ đội đóng quân ở sông Buông, suối Cả, phần lớn do
công nhân cao su, nhân dân Trảng Bom ủng hộ tiếp tế.
Đầu năm 1962, quân dân Trảng Bom kết hợp với C240 Biên Hòa
267

27.8 Page 268

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tập kích vào yếu khu Trảng Bom, diệt gần 1 trung đội địch, tạo thế
cho nhân dân trong vùng nổi dậy diệt ác - phá kìm.
Tiếp đến, ngày 15/4/1964, lực lượng vũ trang địa phương phối
hợp với C240 chặn đánh đoàn tàu chở nhiên liệu, lương thực giữa
Trảng Bom và Hố Nai, phá hủy đốt cháy hơn 100 tấn xăng dầu
của địch.
Trên mặt trận chính trị - binh vận giai đoạn 1960-1965 ở Trảng
Bom cũng có những phát triển thuận lợi, là thắng lợi có ý nghĩa quan
trọng. Tiêu biểu như chủ đồn điền đóng thuế khai thác cho mặt trận,
chi bộ và tổ chức công đoàn bí mật lãnh đạo công nhân tổ chức nhiều
cuộc biểu tình đòi dân sinh, dân chủ. Tháng 6/1965, hàng trăm công
nhân cao su Trảng Bom thống nhất phối hợp với công nhân đồn điền
khác kéo nhau lên Sài Gòn giương cao biểu ngữ đòi tăng lương, trả
đủ gạo 25kg/tháng/người… buộc tổng liên đoàn lao động chế độ Sài
Gòn phải chấp thuận. Do làm tốt công tác vận động tuyên truyền nên
đa số nhân dân vào rẫy làm chòi sản xuất, không ở ấp chiến lược, tạo
điều kiện thuận lợi để tiếp tế cho cách mạng.
Năm 1965, Mỹ triển khai kế hoạch chiến tranh cục bộ. Trảng Bom
cách Biên Hòa 20km về phía Đông, là nơi xung yếu nên chúng tập
trung xây dựng các công trình phòng thủ, bố trí 1 tiểu đoàn lính Mỹ
thuộc lữ đoàn 173 án ngữ tại đồn cầu số 6 - đường Trảng Bom đi Cây
Gáo, ngăn chặn lực lượng từ chiến khu Đ tiến về Trảng Bom.
Trong đợt tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đêm
31/1/1968, sau hàng loạt phá nã vào sân bay Biên Hòa làm hiệu lệnh,
lực lượng vũ trang Trảng Bom có sự giúp đỡ của bộ đội huyện cùng
lúc tấn công ty cảnh sát ở ngã ba Cây Gáo, diệt gọn 1 tiểu đội địch.
Khi tấn công đồn Trảng Bom do 1 đại đội địch chốt giữ, do địch có
hỏa lực mạnh, công sự kiên cố, ta không chiếm lĩnh được, nhưng đã
chặn địch từ Long Khánh xuống, bắn cháy 4 xe tăng. Nhân dân, công
nhân cao su tiếp tế cơm, nước tận công sự đắp mộ dựng chướng ngại
vật, ngăn xe cơ giới từ Biên Hòa - Long Khánh xuống tăng viện.
Nhân dân Trảng Bom còn diệt tên xã trưởng Quang ác ôn, bắt tên
268

27.9 Page 269

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tình báo đội lốt nhà tu ở Suối Đá. Đợt tiến công vào yếu khu Trảng
Bom năm 1968 tạo điều kiện căng kéo, dàn mỏng lực lượng địch ở
Biên Hòa - Long Khánh.
Từ năm 1969, Mỹ thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.
Ở Trảng Bom, chúng bố trí tiểu đoàn 352 bảo an, tiểu đoàn của lữ
đoàn 33 biệt động quân. Ngoài ra chúng củng cố các đội bảo an, dân
vệ, lập các toán phòng ngự xung kích, xây dựng thêm các đồn bót,
các tua ở ấp và xã.
24 giờ ngày 22/2/1969, tại Trảng Bom, bộ đội huyện phối hợp với
đội Công binh 25 tỉnh cùng độ pháo nữ Trảng Bom tấn công yếu khu
Trảng Bom. Sau 2 giờ tiêu diệt gần hết 2 đại đội bảo an, chỉ còn sống
sót 15 tên.
Những trận đánh liên tiếp vào yếu khu Trảng Bom đã cổ vũ rất lớn
phong trào quần chúng đánh phá bình định, diệt ác phá kìm. Nhân
thắng lợi của Sư đoàn 5 đánh thiệt hại 2 trung đoàn của sư đoàn 18 bộ
binh của chế độ Sài Gòn, Chi bộ Trảng Bom chỉ đạo cho cơ sở mật
tổ chức cho từng nhóm dân bàn tán về thất bại của địch, đồng thời
tuyên truyền chủ trương, chính sách của mặt trận giải phóng, làm cho
gần 20 dân vệ, lính bảo an đào ngũ. Đi đôi với binh vận, phong trào
đấu tranh chống bắn pháo vào làng, vào rẫy của nhân dân Trảng Bom
diễn ra rộng khắp, buộc chúng bồi thường thiệt hại.
Tháng 6/1969, du kích và cơ sở đã rải 400 tờ truyền đơn trên
tuyến quốc lộ 1, trên cờ cách mạng dọc quốc lộ, có là cờ treo sát
trung tâm huyện 3 ngày sau chúng mới gỡ xuống được.
Cuối năm 1969-1970 là thời kỳ địch đánh phá căn cứ, ngăn chặn
phong tỏa gắt gao về kinh tế đã gây khó khăn cho cách mạng về
lương thực và thông tin liên lạc. Nhờ công tác nội tuyến bám trụ phá
bình định, chi bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Trảng Bom bằng
mọi cách vẫn tiếp tế cho cách mạng.
Từ tháng 5/1971, ta khôi phục và chuyển thế phong trào cách
mạng với chủ trương “chồm lên chiếm lĩnh”. Đêm 26 rạng sáng
27/1/1973, bộ đội huyện, du kích Trảng Bom cùng trung đoàn 33 tấn
269

27.10 Page 270

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
công yếu khu Trảng Bom, đẩy lùi 11 đợt phản công của địch ta tiếp
tục làm chủ đến ngày 28/1/1973. Chúng dùng máy bay pháo kích tấn
công. Để tránh thiệt hại cho dân đêm 29/1/1973, ta rút lui. Nhân dân
Trảng Bom còn đấu tranh đòi địch bồi thường thiệt hại nhà hư, cấp
tôn sửa nhà…
Từ năm 1973, lính viễn chinh Mỹ rút hết nhưng vẫn còn cố vấn
Mỹ. Ở Trảng Bom, chúng vẫn chủ trương đánh chiếm đất, vùng giải
phóng. Du kích và bộ đội huyện luôn tìm cách đánh phá địch. Du
kích mật diệt nhiều tên tình báo, trong đó có tên Mít và Biết ở Vườn
Ngô, trừng trị tên Bằng chiêu hồi chống phá cách mạng.
Ngày 21/4/1975, phòng tuyến của địch ở Xuân Lộc bị đập tan,
sư đoàn 18 chế độ Sài Gòn chạy về Trảng Bom củng cố lại 3 chiến
đoàn án ngữ quốc lộ 1, lập tuyến phòng thủ cuối cùng án ngữ vào
Biên Hòa.
Sáng 27/4/1975, Tiểu đoàn 563 của Sư đoàn 341, tức Sư đoàn 1
Quân đoàn 4 mở đợt tấn công vào yếu khu Trảng Bom. Toàn bộ quân
địch ở yếu khu Trảng Bom bị tiêu diệt, số khác chạy về Suối Đĩa bị
Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 341 đón bắt sống 2 ngàn tên, phá hủy 100 xe.
Trảng Bom được giải phóng hoàn toàn lúc 9 giờ ngày 27/4/1975. Sư
đoàn 18 chế độ Sài Gòn bị xóa sổ hoàn toàn.
Như vậy, trong suốt 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, quân
dân Trảng Bom đã tổ chức đánh độc lập, phối hợp với lực lượng của
trên đánh hơn 200 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 30 lính Mỹ, 353 lính
của chế độ Sài Gòn, bắt sống 2 ngàn tên khác, bắn cháy 8 xe tăng,
phá hủy hơn 100 xe quân sự, lật đổ 2 toàn tàu lửa, đốt cháy hơn 100
tấn xăng dầu, tiêu diệt 16 tên ác ôn, giữ vững được cửa khẩu thiết yếu
của vùng căn cứ cách mạng chiến khu Đ.
Về đấu tranh chính trị, suốt 21 năm chống Mỹ, quân dân Trảng
Bom tổ chức 50 cuộc biểu tình với nội dung chống gom dân, xây
dựng ấp chiến lược, đấu tranh chống bắt lính, đòi bồi thường, tăng
gạo, tăng lương, đòi dân sinh, dân chủ…
Về đấu tranh binh vận, quân dân thị trấn Trảng Bom lôi kéo 276
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lính bỏ hàng ngũ của địch, đặc biệt năm 1975, khi giải phóng đã có
hơn một ngàn lính chế độ Sài Gòn bỏ ngũ chạy trốn.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhân dân toàn thị trấn
đóng góp ủng hộ 40 lượng vàng và 24.948kg lương thực, hơn 200 tấn
gạo, thuốc men, muối… Toàn thị trấn cũng có 120 thanh niên tham
gia lực lượng bộ đội chủ lực, 200 thanh niên, phụ nữ tham gia các
lực lượng vũ trang địa phương, ủng hộ trên 13 ngàn ngày công phục
vụ chiến đấu…
Với thành tích trong 2 cuộc kháng chiến vệ quốc, thị trấn Trảng
Bom có 2 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 321 cán bộ, chiến sĩ được tặng
thưởng huân, huy chương. Đặc biệt, nhân dân và lực lượng vũ trang
thị trấn Trảng Bom đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Tập thể
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân vào năm 1998.
271

28.2 Page 272

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Tân An
Tân An(1) là một xã thuộc huyện Vĩnh Cửu, nằm cặp theo tả ngạn
sông Đồng Nai và tỉnh lộ 24, kéo dài 7km từ cầu Rạch Đông đến cầu
19, phía Bắc giáp xã Trị An, phía Nam giáp xã Thiện Tân, phía Đông
là rừng chiến khu xưa, phía Tây giáp xã Lạc An (nay thuộc huyện
Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
Xã Tân An được định danh từ năm 1878, thuộc Tổng Phước Vĩnh
Hạ, trước 1948 thuộc quận Châu Thành - Biên Hòa. Từ năm 1948, do
yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, địa bàn xã thuộc huyện
Tân Uyên, năm 1951 thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Thủ Biên. Năm
1963 chính quyền Sài Gòn thành lập quận Công Thanh, xã thuộc
tổng Thanh Phong, quận Công Thanh, tỉnh Biên Hòa. Từ sau ngày
30/4/1975 đến nay, xã Tân An gồm xã Tân Định và xã Đại An hợp
nhất thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đổng Nai.
Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, toàn xã chưa tới 100 hộ
dân. Đến năm 1953, thực dân Pháp gom dân từ Thường Tân, Tân
Mỹ, Lạc An vùng chiến khu Đ tập trung ở khu Đại An và rải rác
trong xã khoảng 80 hộ. Năm 1954, theo làn sóng di cư, một số giáo
dân miền Bắc vào cư trú, lập thêm ấp Thái An với 62 hộ. Trong thời
kỳ chống đế quốc Mỹ, toàn địa bàn xã có gần 200 hộ. Từ sau giải
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Cửu.
272

28.3 Page 273

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phóng đến nay, cư dân ở mọi miền đất nước về đây sinh sống, lập
nghiệp, thời điểm năm 2000, xã Tân An có trên 1.550 hộ dân với trên
7.628 khẩu (chưa kể số dân tạm trú).
Xã Tân An có một vị trí chiến lược quan trọng, là cửa ngõ của
chiến khu Đ, là căn cứ địa cách mạng; là bàn đạp của các lực lượng
cách mạng tiến đánh vào sân bay quân sự Biên Hòa, Bộ Tư lệnh
Quân đoàn III, tiểu khu Biên Hòa và các kho đạn, kho xăng, dầu
quan trọng như: kho Bình Ý, Tổng kho Long Bình.
Giặc Pháp, Mỹ và tay sai cũng xem Tân An là vùng trọng yếu nên
bố trí nhiều đồn bót, nhiều lực lượng trú đóng, có lúc quân số hơn
cả 1 sư đoàn. Giữa địch và quân cách mạng luôn ở thế cài răng lược.
Địch thường xuyên càn bố, đánh phá căn cứ cách mạng, tìm diệt bắt
bớ cán bộ, nhân dân tra khảo dã man, tù đày hoặc thủ tiêu.
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tân An là vùng hậu cần cung cấp
lương thực, nhu yếu phẩm thiết yếu cho huyện, tỉnh, quân chủ lực và
cả chiến khu Đ.
Địa bàn Tân An luôn được Đảng bộ các cấp quan tâm đến việc
tổ chức xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị. Công tác binh vận
được đẩy mạnh, đa dạng. Tháng 12 năm 1964, chi bộ Đảng đầu tiên
ở địa phưong được thành lập do đồng chí Ba Chữ làm Bí thư. Năm
1959, chi bộ mật được thành lập do đồng chí Lương Văn Lý (Ba Bề),
tiếp theo là Mười Dê làm Bí thư. Tổ chức Đảng trong thời kỳ đánh
Mỹ ác liệt từ năm 1968 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng do
đồng chí Lê Minh Tánh (Ba Tánh), Nguyễn Văn Tâm (Út Tâm) làm
Bí thư, kiêm xã đội trưởng.
Tháng 5/1945, Đội Thanh niên Tiền Phong xã được thành lập,
làm nòng cốt trong việc sản xuất nuôi quân, học chữ quốc ngữ, tòng
quân giết giặc.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập
không bao lâu, giặc Pháp tái chiếm, quân và dân xã Tân An thực
hiện tiêu thổ kháng chiến. Cây hai bên tỉnh lộ 24 được đốn ngã chặn
đường, cầu Rạch Đông, Rạch Lăng, 17, 18, 19 bị phá sập, đường 24
273

28.4 Page 274

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bị tê liệt hoàn toàn. Dân tiêu hủy nhà cửa, vào vùng kháng chiến, sản
xuất tự túc, nuôi dưỡng cách mạng, tổ chức đánh Pháp.
Năm 1946, Phân đội 4 do đồng chí Nguyễn Chức Sắc chỉ huy kết
họp với lực lượng quân sự liên thôn 8 do đồng chí Năm Lê chỉ huy
lập nhiều căn cứ ở xã Tân An, cùng dân quân du kích đánh Pháp
nhiều trận ở hóc Thầy Tổng, cầu 17, 18, 19, 20 và Đồng Chùa làm
tiêu hao nhiều lực lượng địch.
Sau khi tái chiếm địa bàn, quân Pháp lặp lại đồn bót, trọng
điểm là đồn Rạch Đông, bố trí một trung đội lính Âu Phi đóng giữ,
thường kết hợp với lính Lê dương ở Cây Đào (Thạnh Phú), nhà
máy cưa (Biên Hòa) ruồng bố, bắn phá nhà dân, đột kích vào căn
cứ cách mạng.
Ngày 8/12/1946, du kích xã Tân An kết hợp cùng Đại đội Trần
Quốc Tuấn phục kích tại cầu Rạch Lăng diệt 1 xe Dodge, 1 trung đội
Pháp, thu 30 súng các loại.
Ngày 8/12/1946, Đại đội Lam Sơn, trung đội Lê Hồng Phong kết
hợp với một bộ phận Chi đội 10 cùng dân quân du kích xã Tân An
phục kích tại hố Ông Sách, chặn đánh 1 tiểu đoàn Pháp từ Trảng
Bom đến, diệt gọn 80 tên, thu 100 súng và nhiều loại đạn dược.
Ngày 14/8/1949, lực lượng du kích xã và Tiểu đoàn 303 Chi
đội 10, Tiểu đoàn Trần Quốc Tuấn kết hợp với lực lượng huyện do
đồng chí Nguyễn Văn Quảng chỉ huy chặn đánh quân Pháp ở đồng
Chó Ngáp nay là Hốc Ông Rốt, bắt sống 8 tên lính Âu Phi, 3 lính
Tây trắng, thu 22 súng, trong đó có 1 súng cốì và 1 súng trung liên.
Những tên địch bị bắt được đưa về xã Lạc An cảm hóa, giáo dục rồi
tha về, nhờ vậy, sau này nhiều lính Âu Phi ở đồn Rạch Đông ôm súng
vượt sông Đồng Nai xin theo cách mạng.
Năm 1954, quân và dân xã Tân An thực hiện cuộc vận động đóng
góp công sức, lúa gạo, tiền của góp phần vào chiến dịch Điện Biên
Phủ. Sau Hiệp định Genève, cùng cả nước chung vui thắng lợi chưa
lâu, quân dân Tân An lại cùng miền Nam bước vào cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược thay chân quân Pháp với âm mưu và
274

28.5 Page 275

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thủ đoạn tinh vi hơn.
Tháng 7/1954, Ngô Đình Diệm đưa 146 giáo dân miền Bắc vào
Tân An, lập ra ấp Thái An để cắt đứt đường liên lạc, tiếp tế cho căn
cứ cách mạng; củng cố chính quyền tay sai, lập 7 đồn bót từ cầu
Rạch Đông đến cầu 19, tổ chức các tiểu đội dân vệ, cảnh sát, đảng
cần lao nhân vị, thanh niên cộng hòa, phụ nữ liên đới, rải mật vụ, mật
thám đội lốt công dân vụ ruồng bố truy diệt cán bộ, tổ chức đánh phá
cơ sở cách mạng.
Trước tình hình đó, Huyện ủy tổ chức lại các cơ sở mật, các đoàn
thể chính trị, tiến hành công tác binh ngụy vận, vận động nhân dân
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi quyền dân chủ, dân
sinh. Tháng 4/1956 quân và dân xã Tân An chống bầu cử Tổng thống
chế độ Sài Gòn bằng cách không đi bầu và rải truyền đơn kêu gọi
binh lính chế độ Sài Gòn hãy về với cách mạng.
Từ tháng 7/1956, địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu truy lùng
cơ sở mật của ta. Chi bộ Đảng cài cắm đảng viên, cán bộ vào bộ máy
ngụy quyền như đại diện xã, các ủy viên, các trưởng ấp và các đoàn
thể như phụ nữ, thanh niên, nông dân. Nhiều thanh niên xã Tân An
thoát ly vào rừng kháng chiến và vận động nhiều anh em khác theo
cách mạng.
Ngày 2/12/1956, đồng chí Chín Tâm lãnh đạo phá khám Tân Hiệp
- Biên Hòa. Có 120 cán bộ cách mạng về đến Khu Giang Rế, Giồng
Lầu. Trong đó có các đồng chí Ba Nguyễn, Huỳnh Tấn Phát, Phạm
Chánh Trực được dân xã Tân An che giấu, nuôi dưỡng, sau đó được
cán bộ mật xã Tân An đưa về chiến khu Đ an toàn.
Cuối năm 1959, đầu năm 1960, thực hiện Nghị quyết 15 của Trung
ương Đảng, chi bộ Đảng được củng cố, xây dựng được lực lượng du
kích, đến đầu năm 1960, Chi đội có 13 đồng chí, do đồng chí Bí thư
Sáu Hải trực tiếp chỉ đạo; con em ở Tân An thoát ly trên 40 người.
Đêm 2/4/1960, đồng chí Hai Tuôi - Xã đội trưởng Tân An cùng 2
đồng chí khác đột nhập vào đồn Đại An lấy được nhiều tài liệu quan
trọng, đồng chí Hai Tuôi anh dũng hy sinh. Cùng lúc nhân dân xã
275

28.6 Page 276

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tân An tổ chức đốt phá giấy tờ quan trọng ở trụ sở Tân Định gây cho
địch nhiều hoang mang, lo sợ.
Thời gian này, tên Bảy Chiểu ác ôn làm gián điệp, chỉ điểm, ta
phát hiện kịp thời, tiêu diệt hắn ở gò Bà Miên, bến Hàn Cát. Ở đồn
Đại An có tên đồn trưởng dân vệ Trương Phước Dẩn (Tây lai) ác ôn,
ta gởi thư hẹn giờ bắt, hắn sợ quá, bỏ trốn lên huyện Tân Uyên.
Cuối năm 1961, du kích Tân An và bộ đội huvện phối hợp phục
kích tại Lò Than, khu Đại An, đánh thiệt hại nặng trung đội người
Miên do tên trung úy Danh chỉ huy. Cuối năm 1962, ban đêm ta tổ
chức đốt cầu Rạch Đông, Rạch Lăng, giật sập cầu 17, 18, 19 hoàn
toàn làm chủ phía Bắc xã Tân An. Địch hoảng sợ, đại diện xã bỏ đi
tu, ủy viên cảnh sát - tài chính tự ý bỏ về nhà làm ruộng, tiếp tế cho
cách mạng.
Từ ngày 17/4/1962, chính quyền Sài Gòn lấy xã Tân An lập ấp
chiến lược kiểu mẫu. Chúng gài mìn, lựu đạn ở hàng rào, dồn dân
vào trong ấp chiến lược, cô lập căn cứ cách mạng với dân xã Tân An,
cắt dường tiếp tế giao liên của ta. Chúng đưa tên Văn Ba (Ba Lùn) và
Sáu Tàng - tình báo Mỹ là hai tên ác ôn khét tiếng kềm kẹp nhân dân
Tân An, thường tổ chức đánh phá căn cứ cách mạng.
Trước tình hình đó đồng chí Mười Đê - Bí thư chi bộ mật theo dõi
nắm tình hình báo cáo về căn cứ. Ngày 10/6/1962 bộ đội huyện C270
do đồng chí Hùng B cùng lực lượng xã tổ chức đánh trung đội bảo
an tại Gò Chùa, diệt và làm bị thương 6 tên. Ngày 18/7/1963, đồng
chí Ba Pon - huyện đội phó kết hợp với dân quân xã bất ngờ tấn công
đồn Đại An, địch hoảng sợ bỏ đồn, vứt súng đạn, lội qua sông Đồng
Nai trốn chạy.
Ngày 24/11/1963, Chi bộ xã Tân An vận động nhân dân thu gom
rơm rạ, bó lại thành từng bó, tẩm dầu, chất quanh hàng rào ấp chiến
lược dài 3km, đương đêm châm lửa, cả hàng rào cháy rực, binh lính
bỏ chạy tán loạn. Chỉ sau vài giờ, ấp chiến lược xã Tân An biến thành
tro bụi, nhân dân xã Tân An vô cùng phấn khởi trước thắng lợi này.
Từ đó ta giữ thế làm chủ, công tác binh địch vận và đấu tranh
276

28.7 Page 277

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chính trị được tăng cường. Đồng chí Nguyễn Văn Thơ (Hai Thơ)
cán bộ cơ sở được cách mạng cài vào hàng ngũ địch, được tổ chức
giao nhiệm vụ gài mìn diệt tên ác ôn Ba Lùn, mìn nổ, tên Ba Lùn bị
thương nặng, nhiều tên khác đào ngũ. Sau đó đổng chí Nguyễn Văn
Thơ làm nội ứng đánh úp gây thiệt hại nặng trung đội do tên Ba Lùn
chỉ huy. Tên Ba Lùn bị cấp trên quở trách, chuyển đi nơi khác.
Quân và dân xã Trị An làm chủ tình hình địa bàn đã tạo điều kiện
cho pháo binh Miền vượt sông Đồng Nai an toàn, tiến xuống đóng
quân ở Trảng Cháy, Chân Chùa xã Tân An, lúc 23 giờ 30 phút ngày
30/10/1964, tiến công công vào sân bay quân sự Biên Hòa. Sau 10
phút, sân bay chìm trong biển lửa, diệt 59 máy bay, trong đó có 17
chiếc loại ném bom chiến lược B57 của Mỹ vừa đưa sang, 1 kho đạn
105 ly, 1 kho xăng, 1 đài rada, 18 căn nhà bị cháy và 239 tên Mỹ lính
và tay sai chết tại trận. Chiến thắng này làm nức lòng quân dân cả
nước. Phong trào cách mạng lúc này vô cùng sôi nổi. Quân và dân
Tân An tích cực sản xuất tiếp tế lúa gạo cho quân giải phóng, năm
1964: 8.300 giạ, năm 1965:18.200 giạ; cùng nhiều thuốc men, vật
dụng khác. Tiêu biểu cho sự đóng góp này là các ông bà: Ba Lu, Tư
Hoạch, Út Chót, Hai Quăn, Tư Việt, Ba Nọ, Tư Xẩu, bà Bảy Hảo....
Giai đoạn 1965-1968, Mỹ chủ trương thực hiện kế hoạch “chiến
tranh cục bộ”; ở Tân An, địch chiếm lại trục lộ 24 và bình định vùng
này. Tên ác ôn khét tiếng Sáu Tàng lục soát tìm kiếm hầm bí mật,
truy tìm cán bộ, bắt bớ người dân tra tấn dã man. Sau, tên này phải
đền tội ở cầu Cây Khô, xã Thiện Tân.
Ngày 24/8/1965, tiểu đoàn 304 pháo binh Miền đóng quân an toàn
ở vùng Ông Tạ, Từ Bi kết hợp với pháo binh quân khu tiến công lần
2 vào sân bay Biên Hòa giành thắng lợi lớn: Phá hủy 22 bồn dầu,
30 xe ô tô bị đốt cháy, 300 sĩ quan và lính Mỹ ngụy bỏ mạng. Cùng
lúc, đồng chí Nguvễn Văn Thơ tổ chức nội ứng phối hợp lực lượng
du kích đánh đồn Tân An, diệt 6 tên, thu 6 súng, trong đó có 1 súng
trung liên và một số quân dụng khác.
Ngày 5/4/1968, Lữ đoàn I, sư đoàn 9 Mỹ có chiến xa yểm trợ
277

28.8 Page 278

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đóng ở Giồng Xoài xã Tân An cùng với trực thăng bố càn vào căn
cử của ta ở Hốc Bà Thi, Gò Dưa. Tiểu đoàn 2 đặc công kết hợp lực
lượng huyện và quân dân xã Tân An chặn đánh diệt 4 xe tăng; 1 trực
thăng bị trúng đạn chao đảo rồi rớt ở bến đò Đại An.
Sau trận Tết Mậu Thân năm 1968, địch đưa trung đoàn 33, sư
đoàn 18 quân đội Sài Gòn đóng ở Tân An, 1 đại đội chốt từ Giồng
Xoài qua miễu Tân Định. Chi bộ xã cử đồng chí Lâm Thị Nhung
(Tư Nhung) đưa tiểu đoàn 1 đặc công tỉnh cùng lực lượng dân quân
du kích xã dùng mìn tập kích, đánh thẳng vào các chốt diệt gọn đại
đội này.
Giai đoạn 1970 - 1972, địch tăng cường lực lượng, quyết đánh bật
các lực lượng bám trụ ra khỏi vành đay sân bay Biên Hòa, và các yếu
khu quân đoàn 3, kho đạn Bình Ý, tổng kho Long Bình. Chúng dùng
100 xe ủi, 7 xe tăng và 1 tiểu đoàn bảo an ý định ủi con đường từ Đồi
Mỹ ở Tân An qua Hố Nai - Biên Hòa, cắt ngang khu căn cứ Tỉnh ủy
Biên Hòa. Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, các lực lượng ta phải giữ vững
địa bàn, bảo vệ căn cứ. Ngày 13/2/1971, du kích xã có 06 đồng chí
được 1 tiểu đội đặc công hỗ trợ dùng mìn và B49 ngày đêm đánh
địch tại cẩu 17, diệt 1 xe tăng, làm chết 6 tên, bắt sống 4 tên. Công
xưởng của tỉnh, huyện tự tạo bom mìn từ bom pháo lép của địch
đánh lại địch, gây cho chúng tổn thất nặng nề, làm hư hại nhiều xe
ủi. Chúng tức tối, bắt dân từ Hố Nai và một số xã khác vào rừng hạ
cây thay máy ủi. Chi bộ cử các đồng chí Ba Cuộc, Ba Lương, Năm
Đường giả dân đi lấy củi khéo léo giải thích và vận động bà con bỏ
về. Đến tháng 6/1971, âm mưu phá rừng của chúng bị chặn đứng, 2
xe tăng, 5 xe ủi bị phá hủy, một số xe ủi khác bị tịch thu, bọn địch
phải rút khỏi Tân An.
Đầu năm 1972, địch đánh phá ác liệt, lập đồn đồi Mỹ, đồi Ông Tá
(Đại An) giao cho tiểu đoàn 327 bảo an đóng giữ. Bốn khẩu pháo 105
ly ngày đêm bắn vào nhà dân và căn cứ cách mạng. Lính Sư đoàn
18, 25, biệt động quân, biệt kích thám báo tăng cường ruồng bố; lính
phượng hoàng đánh hơi truy tìm hầm che giấu cán bộ. Lực lượng ta
278

28.9 Page 279

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vẫn kiên cường bám trụ, nhân dân vẫn tiếp tế lương thực, thuốc men,
cung cấp tin tức, tải đạn giúp quân giải phóng.
Trong giai đoạn tiến công và nổi dậy từ năm 1973- 30/4/1975,
không khí cách mạng ở Tân An sôi động. Nhiều chiến công được
thực hiện. Đêm 26/1/1973, lực lượng du kích đã cùng bộ đội huyện
và một bộ phận của đội đặc công 113 bao vây địch ở ấp Thái An gây
cho chúng thiệt hại nặng. Cùng lúc, tại ấp Tân Định I, một trung đội
bộ đội huyện và du kích xã đánh tan 1 tiểu đoàn địch, làm chúng thiệt
hại nặng, tinh thần rệu rã, nhiều tên đào ngũ.
Sau Hiệp định Paris, địch cố tình vi phạm Hiệp định, thường hành
quân lấn đất dành dân, tiếp tục đánh phá khu căn cứ cách mạng, đưa
quân bình định áo đen lấn vào xóm ấp, dành từng tấc đất của dân.
Ngày 5/4/1973, một trung đội thám kích của tiểu khu Biên Hòa càn
vào Hốc Ông Tạ. Hôm sau, đặc công phối hợp với du kích xã Tân An
chặn đánh, chúng bị trúng 4 trái mìn chế tạo từ cối 81 ly, một nửa số
quân thương vong, buộc phải rút lui.
23 giờ 10 phút ngày 5/12/1974, du kích Tân An phối hợp với bộ
đội huyện tiến công dồn dập lực lượng dân vệ ở đồn Đại An, phá hủy
3 lô cốt, diệt tên cảnh sát Bênh từ Biên Hòa vừa chuyển đến. Ngày
8/12/1974, du kích xã và bộ đội huyện cùng tiểu đoàn 6 đặc công
đánh chiếm 23 nhà lính ở ấp Bình Chánh, diệt 15 tên dân vệ, cơ sở
trong xã rải truyền đơn cảm hóa được tên đồn trưởng Tư Nước giải
tán đội phòng vệ, bọn tề ngụy và cảnh sát bỏ chạy.
Tại ấp Tân Định, ta tiến công đại đội 347 bảo an, diệt 5 tên, làm
bị thương 2 tên khác.
Cuối năm 1974, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, lực lượng dân quân
du kích xã luôn bám sát đánh các đồn bót dọc tỉnh lộ 24, cầu rạch
Đông bị giật sập, địch hoang mang lo sợ bỏ cả súng đạn tìm đường
chạy trốn.
Cùng với khí thế tiến công, nổi dậy của cả nước, quân dân Tân An
hăng hái tham gia chiến dịch “Hồ Chí Minh” lịch sử. Đêm 28/4/1975,
pháo binh ta bán vào sân bay Biên Hòa dồn dập, địch rút chạy khỏi
279

28.10 Page 280

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
các đồn bót dọc lộ 24, quân trang, quân dụng ngổn ngang. Dân quân
du kích do đồng chí Lê Minh Tánh, Nguyễn Văn Tâm chỉ huy kết
hợp với bộ đội huyện do đồng chí Nguyễn Văn Bảo (Tám Bảo) chỉ
huy phục kích đánh diệt gọn 01 trung đội thám kích ở ấp Tân Định.
Lúc 1 giờ sáng ngày 30/4/1975, lực lượng du kích địa phương cùng
bộ đội huyện Vĩnh Cửu do đồng chí 5 Sĩ chỉ huy đã đánh chiếm Ủy
ban hành chánh và các đồn bót địch tại xã. Đến 9 giờ sáng cùng ngày,
xã Tân An được giải phóng. Quê hương Tân An kể từ đây sạch bóng
quân thù, sang trang sử mới.
Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân xã
Tân An đã trung thành với Đảng, kiên cường chiến đấu, chịu nhiều
mất mát hy sinh, đóng góp của cải, tâm sức, xương máu vào công
cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tại địa phương, đã
có 449 người thoát ly gia đình trực tiếp tham gia kháng chiến, 2 Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng, 86 liệt sĩ, 17 thương bệnh binh, 109 gia đình
có công với cách mạng. Nhà nước ghi công những thành tích, chiến
công vẻ vang đó, đã trao tặng 254 Huân chương, 272 Huy chương
các loại và 223 bằng khen, giấy khen cho các tập thể và cá nhân ở
Tân An có thành tích tiêu biểu. Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân
dân xã Tân An được Chủ tịch Nước phong tặp danh hiệu tập thể Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 424/KT-CTN
ngày 22/8/1998.
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Tân Bình
Theo tài liệu lưu trữ(1), địa bàn Tân Bình(2) là vùng đất sớm có
người định cư thuộc Tỉnh Biên Hòa xưa. Từ thế kỷ XIX, Tỉnh Biên
Hòa có 17 tổng, 156 làng, trong đó: làng Tân Triều Đông (xứ Cù lao)
có 3 ấp: Long Hòa, Tân Xuân, Tân Vinh; làng Tân Triều Tây (xứ
Cù lao) có 3 ấp: Cẩm Vinh, Tân Đức, Tân Thành thuộc tổng Phước
Vĩnh Trung; làng Bình Phú có 2 ấp: Bình Lục, Long Phú và làng
Bình Thảo có 02 ấp: Bình Định (chợ Bến Cá), Bình An (xóm Bún
thuộc tổng Phước Vĩnh Hạ). Đến ngày 2/5/1957 xã Tân Triều, Bình
Ý (tổng Phước Vĩnh Hạ) thuộc quận Tân Uyên - Biên Hòa. Đến ngày
23/1/1959 xã Bình Phước thuộc quận Tân Uyên, tỉnh Phước Thành.
Đến ngày 22/3/1963, Tân Triều, Bình Phước, Bình Ý thuộc tổng
Thanh Quan, quận Công Thanh - Biên Hòa.
Sau ngày thống nhất đất nước, ngày 12/2/1987, chính quyền Nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sáp nhập 3 xã Tân Triều, Bình
Phước, Bình Ý thành xã Tân Bình thuộc Thị xã Vĩnh An, tỉnh Đồng
Nai Lúc đó, xã Tân Bình có diện tích tự nhiên 1.098 héctaa, với dân
số 8.515 người.
(1) Tài liệu của Tòa bố Biên Hòa ngày 15/9/1923.
(2) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Cửu.
281

29.2 Page 282

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trong tầm nhìn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
Tân Bình là một xã vùng ven khu quân sự trọng yếu của Pháp lẫn
Mỹ và tay sai, phía Đông giáp xã Thạnh Phú (là trung tâm huyện lỵ
Công Thanh), phía Tây giáp xã Bình Hòa, phía Nam giáp sân bay
quân sự Biên Hòa.
Với cách mạng, Tân Bình là địa bàn vùng ven của căn cứ cách
mạng, cửa ngõ vào Chiến khu Đ, bàn đạp để các lực lượng cách
mạng tiếp cận, tấn công vào đầu não của địch. Cách mạng và địch
đều coi đây là địa bàn chiến lược, quyết bố trí lực lượng để làm chủ
tình hình, vừa phòng vệ vừa tiến công.
Tân Bình là một trong những trung tâm của phong trào cách
mạng, nơi sản sinh, nuôi dưỡng, và đào tạo nhiều đảng viên Cộng
sản kiên cường, hạt nhân lãnh đạo đấu tranh, kháng chiến ở miền
Đông; như đồng chí Phạm Văn Thuận quê ở Bình Ý (Bí thư Tỉnh
ủy Biên Hòa từ năm 1948 đến năm 1951), đồng chí Nguyễn Văn
Trị quê ở Bình Phước (Khu ủy viên miền Đông) và nhiều cán bộ
cốt cán khác như Ngô Bá Cao, Lê Thị Trừ, Hồ Văn Đại, Phan Văn
Đính, Trần Minh Triết...
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào năm
1930, nhiều phong trào đấu tranh của công nhân (như ở Sở cao su
Phú Riềng, công nhân Nhà máy cưa Tân Mai), nhiều cuộc mít-tinh,
nhiều cuộc tuyên truyền về cách mạng trong nước và thế giới… đã
tác động trực tiếp, khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân Tân
Bình, nhất là đối với thanh niên học sinh yêu nước; trong đó có Lưu
Văn Viết ở Bến Cá (Bình Phước). Đồng chí Lưu Văn Viết (Bí danh
Tư Chà) là người thanh niên yêu nước, đảng viên Đảng Cộng sản
Đông Dương, người cộng sản đầu tiên mang ánh sáng cách mạng
đến với nhân dân huyện Châu Thành - Biên Hòa.Tại quê nhà, đồng
chí đã giác ngộ và kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương 2 đồng
chí Lưu Văn Văn (tức 9 Văn) và đồng chí Tư Phan (ở Tân Triều).
Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu quê ở Trà Vinh được
liên tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động tại Biên Hòa, bắt liên lạc với
282

29.3 Page 283

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đồng chí Tư Chà, thành lập Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều, do
đồng chí Hoàng Minh Châu làm Bí thư, đồng chí Tư Phan làm Phó
bí thư, cùng các đảng viên Lưu Văn Văn, Lưu Văn Viết, Quách Tỷ,
Quách Sanh, Trần Minh Triết. Đây là Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên
ở Biên Hòa, là hạt nhân nòng cốt để lãnh đạo phong trào cách mạng,
xây dựng Đảng, phát triển thành Tỉnh ủy Biên Hòa sau này.
Ngay sau khi thành lập, Chi bộ đã phân công 2 đồng chí Hoàng
Minh Châu và Quách Sanh tổ chức Liên đoàn học sinh ở Trường
Tiểu học Bình Hòa, Bình Phước, Bình Ý, Tân Phong, Tân Triều.
Tiếp đó, qua các hình thức hoạt động bóng đá, vui chơi, cắm trại thu
hút nhiều thanh thiếu niên tham gia. Trong các lần sinh hoạt, liên
đoàn học sinh đã khéo léo lồng ghép những mẩu chuyện về đồng chí
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, phổ biến sách báo bí mật
để khơi dậy lòng yêu nước trong thanh niên, lên án các hành động áp
bửc nhân dân của bọn tề, tổng mà tiêu biểu là Cai tổng Thạch ở Bình
Long để giáo dục tinh thần đấu tranh cách mạng cho thanh niên.
Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5/1935, Liên đoàn học
sinh đã tổ chức rải truyền đơn ca ngợi tinh thần đấu tranh giai cấp
công nhân ở Bình Hòa, Bình Ý, Bình Thạnh. Qua đó một số thanh
niên ưu tú trưởng thành, trong đó có đồng chí Phạm Văn Thuận (ở
Bình Ý) Nguyễn Văn Trị (ở Bình Phước) được đứng vào hàng ngũ
của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Mùa hè năm 1936, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Mặt
trận Dân chủ Đông Dương. Ngày 13/8/1936 Ủy ban trù bị Đông
Dưong đại hội thành lập tại Sài Gòn, chỉ đạo thành lập Ủy ban hành
động ở các tỉnh. Đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa (tự Xược) sinh sống
tại Bình Ý lúc đó đang hoạt động trong nhóm báo La-tua (đấu tranh)
sớm phổ biến chỉ thị nầy tại địa phương, cùng các đồng chí Phạm
Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Huỳnh Văn Tủy quyết định thành lập
Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa, cơ sở đóng tại Bình Ý.
Trong một thời gian ngắn, nhiều Ủy ban hành động xã được thành
lập (như ở Bình Ý, Bình Phước, Tân Triều…). Ủy ban hành động
283

29.4 Page 284

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tân Triều gồm có Hai Diệp, Tư Phan, Năm Ông. Ủy ban hành động
Bình Phước gồm: Hai Đặng, Ba Phát, Tư Điệu, Tư Sinh, Quách Tỷ,
Quách Sanh, Chín Văn. Một thư viện bình dân được lập nên tại dốc
Bà Bành (Bình Ý) để hàng đêm nhân dân (nhất là thanh niên) đến
đây đọc báo, nghe đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đọc và dịch báo từ
tiếng Pháp.
Đầu năm 1937, một cuộc họp các đảng viên 2 huyện Châu Thành
và Tân Uyên được tổ chức tại nhà Năm Ông (Tân Triều). Tại cuộc
này, Tỉnh ủy Biên Hòa lâm thời được thành lập do đồng chí Trưong
Văn Bang làm Bí thư, các đồng chí Trần Minh Triết, Tư Phan, Lê
Văn Tôn (Năm Tôn), Huỳnh Liểng (Hai Liểng), Nguyễn Hồng Kỳ
(Ba Cờ) làm Tỉnh ủy viên.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Hội Lương hữu ở Bình Ý, Tân
Triều, Bình Phước công khai hoạt động, liên đoàn xe ngựa ở Bình Ý,
Bình Phước, Lọi Hòa đi vào hoạt động nhằm chống lại sự áp bức của
bọn thuế quan. Đến giữa năm 1937, thành lập chi bộ Bình Ý gồm các
đồng chí Phạm Văn Lạc, Huỳnh Văn Kiềm, Nguyễn Thị Hậu, Phạm
Xuân Lép, Phạm Văn Bương; lập chi bộ Bình Phước gồm đồng chí
Quách Tỷ, Quách Sanh, Chín Văn; chi bộ Tân Triều gồm Phạm Văn
Thuận, Trần Minh Triết, Tư Phan, Năm Ông.
Các chi bộ Đảng cơ sở đã lãnh đạo xây dựng phong trào thanh
niên tiền phong, sớm lập nhiều tổ chức ở Bình Ý, Bình Phước, Tân
Triều làm lực lượng nòng cốt tham gia giành chính quyền Cách mạng
tháng Tám 1945 ở Biên Hòa.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà độc lập không được
bao lâu thì cuộc kháng chiến chống quân Pháp tái chiếm bùng nổ.
Nhân dân Tân Bình hưởng ứng lời kêu gọi của quận ủy Châu Thành
phát động tuần lễ vàng, tuần lễ bạc ủng hộ cho kháng chiến. Nhiều
gia đình ở Bình Ý, Bình Phước, Tân Triều ủng hộ cả bộ lư đồng quí
giá; nhiều má, người chị ủng hộ cả dây chuyền, bông tai kỷ vật cho
kháng chiến.
Thanh niên Tân Bình theo lời kêu gọi của Đảng, tập họp thành
284

29.5 Page 285

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nhóm, tham gia tập luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chính quyền,
các đoàn thể tổ chức nhiều cuộc mit-tinh, ca hát cổ vũ tinh thần cách
mạng; các hoạt động bình dân học vụ chống dốt, sản xuất tự túc
chống đói, rèn luyện đội ngũ chống ngoại xâm được triển khai hoạt
động đa dạng, sôi nổi.
Quân Pháp dần tái chiếm từng khu vực. Tội ác của chúng không
sao kể xiết. Chúng tổ chức nhiều cuộc khủng bố, càn quét vào làng,
bắt giết dân lành, hãm hiếp phụ nữ, truy diệt cán bộ, cướp phá tài
sản của dân. Trong một lần ruồng bố, tại Tân Triều chúng bắn giết
7 cán bộ Việt Minh, tại Bình Phước xả súng giết hại cùng lúc 18 gia
đình, tại ngã ba Bình Thảo sát hại anh Lục cán bộ công an, tại Bình
Ý thảm sát nhiều cán bộ đồng bào ta. Chị Sen, một đội viên công
an bị Pháp bắt, bị chúng tra tấn đánh dã man, treo chị lên, xẻo từng
miếng thịt; nhưng chị đã không khuất phục, không một lời khai báo,
lẫm liệt hy sinh. Nhiều người khác bị bắt, bị đày đọa qua các nhà tù,
nhiều người không có ngày về. Giặc càng gieo tội ác, quân dân Tân
Bình càng thêm chí căm thù, gia tăng tinh thần đấu tranh, thêm sức
mạnh trong chiến đấu.
Với lòng căm thù giặc được nung nấu, quân dân Tân Bình tổ
chức nhiều hoạt động diệt ác, trừ gian, chống càn, bảo vệ làng xã.
Lúc 5 giờ sáng 13/8/1948 du kích mai phục diệt tên ác ôn Tây Sút
sếp bót Tân Xuân khi hắn trên đường dẫn quân càn quét qua cầu
Bến Cá. Tên Tây Sút bị bắn hạ, đồng bọn tháo chạy tán loạn, người
dân Tân Bình hả dạ, thêm quyết tâm và lòng tinh đánh giặc và
thắng giặc. Bọn tề tổng trong vùng hoảng sợ, co rúm trong đồn, 4
tháng liền sau đó không dám ruồng bố, dân làng đi lại, tiếp tế cho
kháng chiến dễ dàng.
Tháng 3/1953, Huyện đội Vĩnh Cửu chủ trương tập kích diệt bót
Cẩm Vinh ở Tân Triều. Đồng chí Tiếp - Huyện đội trưởng trực tiếp
trinh sát, điều nghiên, lên kế hoạch tác chiến. Bót Cẩm Vinh nằm
cạnh bờ sông Đồng Nai gồm 3 lô cốt, do 2 trung đội batidan đóng
giữ, có nhiệm vụ cắt đường giao liên của ta từ Chiến khu Đ vào thị
285

29.6 Page 286

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
xã Biên Hòa. Thực hiện trận đánh gồm có 1 trung đội biệt động của
tỉnh, 2 trung đội bộ đội huyện và lực lượng du kích xã. Du kích Tân
Bình có nhiệm vụ chặn địch ở Lợi Hòa, không cho chúng từ bót Cây
Đào kéo xuống và ngăn địch ở ngã ba Bình Ý không cho chúng từ
sân bay Biên Hòa tăng viện.Trận đánh diễn ra ác liệt, kéo dài trong
một ngày. Bộ đội huyện Vĩnh Cửu nổ tiến công từ hướng Tây Bắc
đồn địch, chúng chống trả quyết liệt, đồng chí Tiếp bị thương nhưng
gượng đau ôm mìn FT và bê ta xông thẳng vào tiêu diệt lô cốt lớn
nhất của địch, đồng chí Tiếp anh dũng hy sinh, tạo được cửa mở cho
đồng đội tiến công, chiếm lĩnh mục tiêu. Bót Cẩm Vinh bị thiệt hại
nặng, một trung đội lính bị diệt gọn, toàn bộ vũ khí và quân trang bị
tịch thu, tinh thần số còn sống bị sụp đổ.
Các lực lượng tham gia đánh bót có thiệt hại nhỏ (đồng chí Tiếp
hy sinh), rút quân an toàn. Trên đường về căn cứ, khi vượt qua Sở
cao su Ông Phủ (Bình Ý), quân ta phát hiện trung đội biệt kích tiểu
khu Biên Hòa ruồng bố. Phương án đánh địch được triển khai nhanh,
lực lượng chia làm 3 mũi, đội biệt động đánh đổ mặt địch, bộ đội
huyện, du kích xã đánh xuyên hông, trận tao ngộ chiến diễn ra bất
ngờ, địch trở tay không kịp, trung đội biệt kích của địch bị diệt gọn.
Trận thắng bót Cẩm Vinh gây tiếng vang lớn trong huyện và tỉnh,
nhân dân vùng tạm chiếm vô cùng phấn khởi, bọn tề ngụy trong vùng
lo sợ, hoang mang, uy thế cách mạng được nâng cao, các đoàn quân
dân chính Đảng hành quân, vận chuyển, bám trụ, xây dựng cơ sở trên
địa bàn được nhiều thuận lợi.
Bên cạnh hoạt động vũ trang, Chi bộ Đảng ở Tân Triều, Bình
Phước, Bình Ý còn tổ chức nhiều cuộc mít-tinh lớn, rải truyền đơn
tuyên truyền cho nhân dân hiểu được đường lối và lý tưởng của cách
mạng, vạch trần âm mưu nham hiểm của giặc; xây dựng nhiều cơ sở,
vận động các phong trào sản xuất, đóng góp nuôi quân.
Trong kháng chiến chống Pháp quân và dân Tân Bình đã phối hợp
các lực lượng đánh 12 trận đánh lớn nhỏ, gồm: diệt đồn, đánh địch
càn quét, diệt ác trừ gian, tiêu diệt trên 60 tên giặc trong đó có 24 tên
286

29.7 Page 287

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
giặc Pháp, trừng trị 6 tên ác ôn có nợ máu với nhân dân, thu được
nhiều vũ khí, phá hủy hoàn toàn một đồn giặc.
Song song với đánh địch bằng quân sự, các cuộc đấu tranh chính
trị tại địa bàn Tân Bình cũng đạt nhiều thắng lợi. Có 17 cuộc biểu
tình, mít-tinh lớn nhỏ được tổ chức với trên 800 lượt người tham gia,
kết quả đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống bắn giết, đốt quá, bãi bỏ
sưu cao thuế nặng… khiến địch phải thua cuộc, nhân nhượng; nhiều
đợt mit-tinh, học tập tuyên truyền cổ vũ cho phong trào cách mạng
thể hiện được tinh thần yêu nước và khí thế cách mạng của nhân dân.
Là địa bàn trung tâm của cách mạng, nơi hoạt động thường xuyên
của Tỉnh ủy Biên Hòa, công tác địch vận được thực hiện thường
xuyên, đạt nhiều kết quả tốt, phá rã nhiều đơn vị trong hàng ngũ địch,
cảm hóa hơn 100 người buông súng về với nhân dân. Qua tuyên
truyền của Đảng, hầu hết người dân trong vùng thấm nhuần được
mục tiêu lý tưởng của Đảng, tích cực hưởng ứng các cuộc vận động
cách mạng, xây dựng được trên 15 cơ sở nuôi dưỡng, che giấu cách
mạng, cài cắm vào trong hàng ngũ địch nhiều cơ sở nắm và cung cấp
tin tức cho cách mạng, vì thế các trận công đồn địch đều được điều
nghiên kỹ, lên phương án nội ứng ngoại công tạo thuận lợi rất lớn
cho bộ đội ta đánh thắng quân thù.
Sau Hiệp định Gernève (1954), Tân Bình là một trong những
chiến trường rất hết sức ác liệt, địch tăng cường kiểm soát hành quân
càn quét, chà đi sát lại, nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng tạo vành
đai trắng cho sân bay Biên Hòa. Với tinh thần bất khuất, quân và
dân Tân Bình đã kiên trì bám trụ, xây dựng lại lực lượng cách mạng,
diệt ác phá kềm, giữ vững địa bàn, tiếp tế lương thực thuốc men cho
kháng chiến.
Năm 1955 đến năm 1959, nhiều cuộc mít-tinh lớn do đồng chí Võ
Châu Lang tổ chức tại Tân Triều - Bình Phước, tập họp trên 500 lượt
người tham gia, nhằm tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng,
vạch trần âm mưu thâm độc của địch, chống phá các trò mỵ dân của
Mỹ Diệm. Nhiều phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh
287

29.8 Page 288

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
vũ trang được khơi động. Hoạt động diệt ác trừ gian có tác động tư
tưởng làm cho nhân dân Tân Triều tin tưởng vào khả năng của cách
mạng và kẻ địch lo lắng, run sợ trước sức mạnh của nhân dân. Bởi
vậy, các tên ác ôn như xã Phổ, sáu Hoài ở Tân Triều, Bảy Xây ở Bình
Ý ra mặt làm tay sai cho giặc, gây nợ máu với dân đã phải đền tội.
Những năm 1960, lược lượng cách mạng ở Tân Bình ngày càng
được củng cố. cơ sở cách mạng được gầy dựng lại đều khắp ở cả 3
khu vực Tân Triều, Bình Ý, Bình Phước. Các đơn vị vũ trang ở Bến
Cá, Bình Ý lập được nhiều chiến công tạo thanh thế cho cách mạng.
Năm 1967, lực lượng cách mạng ở Tân Bình bước vào giai đoạn
cao trào, các chi bộ Đảng hoạt động mạnh, các tổ chức đoàn thể
được mở rộng. Giặc đối phó với tình hình này đưa về Tân Triều 3
đại đội biệt kích Mỹ, 2 Đại đội Hòa Hảo, lập bót miễu Ngói, phối
hợp nhiều lực lượng, tổ chức nhiều đợt càn quét hòng bóp chết lực
lượng cách mạng. Xác định âm mưu của giặc, không để bọn chúng
kịp trở tay, Huyện ủy chủ trương quân ta chủ động tiến công. Đồng
chí chí Đặng Minh Châu cùng 2 đồng chí cảm tử mở đầu bằng một
trận đánh mưu trí, dũng cảm. Lúc 2 giờ khuya 12/9/1967, sau khi
đột nhập gài 3 trái mìn ĐH.10 hướng vào bót địch, mìn nổ, tổ cảm
tử nổ súng, bọn giặc hoảng sợ chạy tán loạn, 3 tên chết tại chỗ, 12
tên khác bị thương, tổ cảm tử rút lui an toàn. Hôm sau, địch bỏ đồn,
chạy về quận Công Thanh. Trận thắng này làm nức lòng mọi người,
làm vang động thành tích diệt đồn của quân dân Tân Bình, đánh dấu
sự trưởng thành của lực lượng kháng chiến, chứng minh lực lượng
nhỏ bé nhưng mưu trí và dũng cảm có thể đánh Mỹ và thắng Mỹ, vì
thế không sợ Mỹ.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực
lượng của xã do đồng chí Ba Kiệp (Bí thư chi bộ) chỉ huy, nòng cốt
là các đồng chí Tấn, Hon, Gôm, Quý đã tổ chức đánh mìn cầu Bến
Cá làm địch co rúm lại trong các đồn bót. Hòa cùng khí thế tiến
công và nổi dậy đồng loạt của cách mạng, lực lượng quân dân Tân
Bình cùng bộ đội huyện tiến đánh Chi khu Công Thanh, làm chủ
288

29.9 Page 289

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tình hình 3 ngày đêm.
Địch phản công dữ dội. Ta chống phản công kiên cường. Trong
một trận đánh, một mình đồng chí Kiệp với 9 viên đạn đã diệt được
9 tên giặc Mỹ, thu 1 súng M.16, khiến số còn lại phải tháo chạy bằng
trực thăng.
Đợt tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân thắng lợi, nhưng lực lượng
Tân Bình nhiều tổn thất, hy sinh, bước vào giai đoạn khó khăn, vừa
chống phản kích vừa gầy dựng lực lượng để trường kỳ chiến đấu,
vừa giúp các đơn vị chủ lực đóng quân trên địa bàn vượt khó. Một
phân đội của Sư đoàn 5 do đồng chí Trần Văn Phân chỉ huy rút về
chiến khu ngang qua địa bàn, các tổ chức cơ sở của Tân Bình đã tiếp
tế lương thực, thuốc men, đào hầm che giấu lực lượng.
Biết được địa phương là bàn đạp tiến công của quân cách mạng
trong đợt tổng tiến công Xuân Mậu Thân, ngày 27/2/1968 Mỹ tổ
chức một trận càn lớn vào địa bàn Tân Triều gồm có máy bay, xe
tăng và 2 tiểu đoàn lính ngụy. Trước tình thế cấp bách và khó khăn
do tương quan lực lượng chênh lệch, các lực lượng vũ trang đóng
quân trên địa bàn Tân Bình hạ quyết tâm chống càn, phối hợp đánh
địch. Lực lượng chủ lực cùng với lực lượng du kích tại chỗ đã triển
khai đánh địch một cách kiên cường và bằng nhiều hình thức linh
hoạt. Qua một ngày đêm chiến đấu, lực lượng ta đã chọc thủng thế
bao vây của giặc. Kết quả chiến đấu, đã bắn cháy 4 xe tăng tại chỗ,
làm thiệt hại 2 chiếc khác và bị thương nhiều lính Sài Gòn, tiêu diệt
15 lính Mỹ. Lực lượng ta nhờ phân tán từng cụm và có hầm trú ẩn,
dựa vào địa thế và trợ giúp của dân nên ít thiệt hại và rút quân về căn
cứ an toàn.
Qua trận đánh này nhiều tài sản của nhân dân bị thiệt hại nặng
nề, nhưng tinh thần cách mạng của quân và dân Tân Bình càng được
nâng cao, một lòng một dạ cùng cách mạng, càng ra sức đùm bọc che
giấu nuôi dưỡng lực lượng, không sợ mất mát hy sinh.
Là một địa bàn xung yếu, quân và dân Tân Bình vừa đấu tranh vũ
trang, vừa đấu tranh chính trị, vừa tổ chức cơ sở mật. Từ năm 1969
289

29.10 Page 290

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đến 1971 là thời điểm khó khăn ác liệt nhất, địch càn quét dữ dội,
nhiều gia đình là cơ sở che giấu nuôi dưỡng cách mạng, như bà út
Chơn, bà Ba Trâm, bà Mưòi Hảo ở Tân Triều, Bà Xòm, Bà Sạch, Bà
Điểm ở Bình Phước. Nhiều gia đình ở Bình Ý bị địch bắt đánh đập
dã man, nhưng vẫn không khai báo cơ sở cách mạng, nhiều bà mẹ,
nhiều cán bộ hoạt động trên địa bàn đã hy sinh anh dũng làm tròn sứ
mạng lịch sử của mình với khí tiết của người Cộng sản.
Tuy sống trong sự kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn, nhưng nhân
dân Tân Bình lúc nào cũng huớng về cách mạng, nhớ đến Bác Hồ,
tháng 2/1974 gởi tặng 4 cây bưởi đặc sản quê hương để góp phần vào
vườn cây lăng Bác.
Mùa Xuân 1975, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, trực tiếp là đồng
chỉ Mười Nhu về xây dựng cơ sở để tổ chức đón tiếp lực lượng cách
mạng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; ở Tân Triều có bà út
Chơn, ông Bảy Hòa, ông Tư Nồi, ông Năm Lợt và một số người
khác bí mật may cờ cách mạng, chuẩn bị điều kiện tiếp quản Biên
Hòa. Lúc 10 giờ trưa 29/4/1975, lá cờ giải phóng tung bay trên cột
cờ trụ sở xã Tân Triều đánh dấu Tân Bình trang sử mới: Giải phóng,
hòa bình, thống nhất. Sự kiện quan trọng đó đã áp đảo tinh thần bọn
giặc góp phần làm tan rã hàng loạt các đơn vị quân ngụy đóng ở Tân
Uyên, Công Thanh, Rạch Đông, nhờ đó lực lượng cách mạng tiếp
quản chi khu Công Thanh được thuận lợi không gây thương vong
mất mát.
Như vậy, qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tuy là địa bàn
xung yếu bị địch kiểm soát, đàn áp dã man, có nhiều lúc phong trào
cách mạng trên địa bàn tạm lắng, nhưng với tinh thần kiên cường, bất
khuất, quân dân Tân Bình đã thể hiện sức mạnh tổng họp góp phần
thắng lợi trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc; có nhiều
đồng chí trưởng thành từ Tân Bình trở thành hạt nhân của phong trào
cách mạng trên địa bàn tỉnh trong kháng chiến cũng như trong lãnh
đạo xây dựng và phát triển đất nước.
Tổng hợp, trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ và chế độ tay sai,
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
quân dân Tân Bình phối hợp các lực lượng đã tham gia 8 trận đánh
lớn nhỏ trên địa bàn, gồm đánh đồn, chống càn, phục kích... tiêu diệt
24 tên giặc Mỹ và trên 50 tên lính quân đội Sài Gòn, đốt cháy tại chỗ
4 xe tăng, làm thiệt hại 2 chiếc khác, diệt 6 tên ác ôn nợ máu với dân,
thu 20 súng các loại. Về chính trị, đã tổ chức 12 cuộc biểu tình lớn
nhỏ với trên 1.000 lượt người tham gia, thảy đều thắng lợi; kết quả
làm cho giặc hoang mang lo sợ, co cụm trong các đồn bót, bớt đi hoạt
động phá hoại cách mạng, áp bức nhân dân. Về binh vận, công tác
tuvên truyền ngày càng thấm sâu vào tư tưởng của nhân dân, nhiều
gia đình tham gia cách mạng bằng nhiều hình thức khác nhau, vừa
công khai vừa bí mật, đưa con em tham gia kháng chiến, nuôi dưỡng
che giấu cán bộ, các cơ sở đã vận động được 120 binh lính dân vệ bỏ
ngũ về với gia đình, trong số đó nhiều người được cảm hóa và tham
gia hoạt động cho cách mạng.
Qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, 123 người con ưu tú
của Tân Bình đã hy sinh, 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 12 thương
binh, 24 gia đình nhiều công lao với cách mạng. Nhân dân và Lực
lượng Vũ trang nhân dân xã Tân Bình được Nhà nước phong tặng
danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân theo Quyết
định số 424/KT-CTN ngày 22/8/1998.
291

30.2 Page 292

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Xuân Tân
Xã Xuân Tân(1) được thành lập năm 1976, Phía Bắc giáp phường
Phú Bình (thị xã Long Khánh), phía Nam giáp xã Hàng Gòn (thị xã
Long Khánh), phía Tây giáp xã Bàu Sen (thị xã Long Khánh) và phía
Đông giáp xã Xuân Định (huyện Xuân Lộc).
Xã Xuân Tân được chia làm 3 ấp nhỏ, gồm: Nông Doanh, Tân
Phong và Cẩm Tiên. Trên địa bàn xã có ngã ba Tân Phong, là nút
giao huyết mạch giữa quốc lộ 1 và quốc lộ 56. Do đây là địa bàn vô
cùng trọng yếu, địch xây dựng ở xã Xuân Tân các tuyến phòng thủ
vững chắc với hệ thống đồn bót dày đặc.
Xã có diện tích tự nhiên khoảng 1.060,27 hécta. Dân số thống kê
năm 2011 là 2.272 hộ với 9.350 người. Từ thuở khai hoang mở cõi,
lưu dân vùng ngũ Quảng vào, người Minh Hương sang và cư dân
khắp nơi đổ về cùng cư dân bản địa sống quần tụ, đầm ấm xây dựng
lập ấp. Trên địa bàn xã có di tích “Mộ Cự thạch Hàng Gòn” được xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Vốn có lòng yêu nước nồng nàn nên trong những năm trước Cách
mạng tháng Tám, người dân Long Khánh nói chung và người dân
xã Tân Phong(2) nói riêng đã hưởng ứng nghĩa quân đứng lên chiến
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Thị ủy Long Khánh.
(2) Lúc này, xã Tân Phong chưa được đổi tân thành Xuân Tân.
292

30.3 Page 293

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đấu. Tiêu biểu là tham gia nghĩa quân của Bình Tây Đại nguyên soái
Trương Định.
Không chịu được sự áp bức bóc lột, một cảnh hai tròng của thực
dân và phong kiến, nông dân, công nhân cao su trong xã phẫn uất và
phản kháng mãnh liệt. Mở đầu là cuộc đấu tranh của đồng bào Chơ-
ro chống lại chính sách cướp đất lập đồn điền của tư bản Pháp. Tuy
bị địch đàn áp dã man nhưng phong trào đấu tranh cũng tạo được
tiếng vang, làm địa chỉ hoảng sợ và được Tổng Công đoàn Pháp lên
tiếng ủng hộ. Ngày 25/10/1927, toàn quyền Đông Dương buộc phải
ký nghị định về lao động.
Có thể thấy, những năm 1926-1929, hình thức đấu tranh của công
nhân cao su trong xã chủ yếu là tự phát, do những người cùng cảnh
ngộ bị áp bức đến cùng cực không chịu đựng được nữa đã cùng nhau
đứng lên đấu tranh đòi dân sinh dân chủ. Trong những cuộc đấu
tranh, bên cạnh những yêu sách về kinh tế xuất hiện những yêu sách
về chính trị: chống đánh đập, chống chửi mắng và yêu cầu được đối
xử như con người. Dần dần tính tự phát của công nhân giảm đi và
các cuộc đấu tranh có tổ chức, quy mô và có sự lãnh đạo chặt chẽ
hơn, nhất là từ sau khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày
3/2/1930.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh ở Long Khánh,
nhất là vùng cao su diễn ra ngày càng sôi nổi, bài bản. Trong giai
đoàn từ năm 1935 đến trước tháng 8/1945, người dân chủ yếu đấu
tranh đòi dân sinh dân chủ, kết hợp đấu tranh chính trị, nuôi dưỡng
lực lượng vũ trang chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Trong năm 1945, Đội du kích xã Tân Phong được thành lập và
huấn luyện ngày đêm. Đội đã dũng cảm đánh địch, lập nhiều thành
tích vẻ vang.
Ngày 28/8/1945 là ngày lịch sử trọng đại, đáng ghi nhớ của công
nhân Hàng Gòn. Từ tờ mờ sáng, người dân Hàng Gòn đồng loạt
xuống đường với khí thế hành quân ra trận. Thanh niên Tiền Phong,
tự vệ, công nhân… với đội hình chỉnh tề, vũ khí tự tạo trên tay mang
293

30.4 Page 294

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
theo cờ, khẩu hiệu kéo về thị trấn Xuân Lộc, cùng đơn vị bạn cướp
chính quyền. Một bộ phận lực lượng vũ trang địa phương được giao
nhiệm vụ cùng đơn vị bạn bao vây dinh, ép tên Quận trưởng Xuân
Lộc Lê Thanh Trường nộp toàn bộ hồ sơ, con dấu cho cách mạng. 10
giờ sáng hôm đó, lực lượng cách mạng đã hoàn toàn làm chủ Xuân
Lộc. Đến 14 giờ cùng ngày, công nhân Hàng Gòn cùng các đồn điền
khác kéo nhay về thị trấn Xuân Lộc dự mitting biểu dương lực lượng
chưa từng có với 1 vạn người tham dự cùng cờ đỏ sao vàng của Tổ
quốc được giương cao trong niềm hân hoan.
Ngay sau khi tham gia cướp chính quyền ở huyện, chính quyền
cách mạng xã Hàng Gòn được thành lập.
Phong trào du kích ở Tân Phong những năm 1945 gắn liền với
việc đào hầm chông, hố đinh chống giặc bảo vệ xóm làng của nhân
dân. Có gia đình đào 5-6 hầm, ít nhất là 2-3 hầm. Phong trào đào hầm
chông, hố đinh của người dân khiến địch hết sức sợ hãi mỗi khi đi
càn. Có lần trong một đợt càn của địch vào xã chỉ với 1 hầm chông
dài 2m, rộng 1,5m, sâu hơn 2m đã làm sập bẫy 3 tên lính Pháp, khiến
chúng bị thương.
Ngày 23/9/1945, Pháp nổ súng tái chiếm Sài Gòn. Ngày
30/10/1945, một tiểu đoàn Pháp được 2 xe tăng mở đường tiến đánh
Xuân Lộc. Nhân dân, công nhân tự vệ chiến đấu ở Đồn điền Hàng
Gòn cùng các đơn vị bạn và bộ đội Nam tiến chặn đánh địch quyết
liệt, gây cho chúng nhiều thương vong, hạn chế bước tiến của địch.
Nhân dân, công nhân tự vệ Hàng Gòn chấp hành triệt để chủ trương
tiêu thổ kháng chiến, thực hiện vườn không nhà trống.
Ngày 26/1/1946, hơn một ngàn quân Pháp có thiết giáp, cơ giới,
đánh chiếm thị trấn Xuân Lộc và các đồn điền cao su. Ta lập phòng
tuyến chắn địch tại Tân Phong - Hàng Gòn, chiến đấu quyết liệt suốt
3 ngày, diệt 16 tên.
Tháng 6/1946, 3 xe tuần tiễu của địch mở đường bị du kích Tân
Phong - Hàng Gòn chặn đánh. Du kích Tân Phong còn nhiều lần phối
hợp với du kích liên thôn tấn công vào đồn điền cao su Hàng Gòn,
294

30.5 Page 295

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thu nhiều lương thực, máy móc và vũ khí, đồng thời làm tốt công tác
phá hoại giao thông trên quốc lộ 1.
Ngày 10/10/1947, du kích Tân Phong hóa trang thành lính Cao
Đài, dưới sự chỉ huy của Trưởng ban công tác quân sự LT10 - Tư
Ước, đã đột nhập vào chợ Xuân Lộc diệt tên chánh tổng Bình Lâm
Thượng (Liên Khắc Trương) giữa ban ngày gây hoang mang cho
địch. Du kích Tân Phong phối hợp chặt chẽ với các xã khác từng
bước mai phục tiêu diệt sinh lực địch, khiến chúng sợ hãi.
Trong khí thế tìm địch mà đánh, tháng 2/1948, du kích Tân Phong
cùng lực lượng huyện phục kích đánh Pháp ở cầu Gia Liêu, diệt 2 tên
lính Pháp, 5 tên Việt gian, thu 3 súng trường.
Ngày 1/3/1948, đội du kích Tân Phong và một số dân công xã
được điều động tham gia đánh giao thông chiến ở La Ngà gây chấn
động dư luận trong và ngoài nước, khiến 59 xe quân sự của Pháp bị
tiêu diệt, 150 lính Lê dương hộ tống phải bỏ xác, 25 sĩ quan Pháp,
trong đó có 2 đại tá chết. Đây là trận đánh giao thông lớn nhất ở
Đông Nam Bộ lúc bấy giờ, là thắng lợi của sự phối hợp chặt chẽ giữa
bộ đội và nhân dân, công nhân các sở cao su dọc quốc lộ 1, 20.
Trong năm 1948, lực lượng vũ trang và nhân dân xã Tân Phong
kết hợp với xã khác dùng 2 con voi kéo, phá đường sắt ở Bảo Chánh
làm đoàn tàu của địch bị lật đổ.
Tháng 5/1951, địa bàn Hàng Gòn - Xuân Tân được bố trí 1 đội vũ
trang tuyên truyền. Từ những năm 1953 trở đi, ta có những đợt phối
hợp vũ trang mạnh mẽ trên khắp chiến trường. Đội vũ trang tuyên
truyền huyện Xuân Lộc nhiều lần kết hợp với đội tự vệ Hàng Gòn -
Xuân Tân phục kích đánh địch trên tuyến quốc lộ từ Xuân Lộc về Bà
Rịa, gây cho địch nhiều tổn thất. Con lộ 2 trở thành con lộ lo âu, sợ
hãi thường xuyên đối với địch.
Trên mặt trận phá hoại về kinh tế, thời kháng chiến chống Pháp ta
cũng thu nhiều thắng lợi. Đáng kể là năm 1947, thực hiện chủ trương
Mặt trận cao su chiến, công dân cao su Xuân Tân hưởng ứng tích
cực, góp phần làm suy yếu địch và phát triển lực lượng của ta. Chẳng
295

30.6 Page 296

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
hạn như: công nhân Đồn điền cao su Cẩm Mỹ chặt 30 hécta, vạt vỏ
180 hécta cao su, phá 120 ngàn chén đựng mủ; công nhân Đồn điền
cao su Hàng Gòn phá 70 hécta cao su, 28 ngàn chén đựng mủ. Đội
du kích Tân Phong do đồng chí Lê Văn Vận chỉ huy chớp nhoáng tấn
công kho mủ Hàng Gòn, giết chết tên Pháp xếp bót, 8 tên Việt gian,
thu 1 súng trung liên, 8 súng trường, nhiều đạn dược, đốt cháy hơn
100 tấn mủ.
Đến cuối năm 1949, công nhân cao su trong xã thay đổi phương
thức phá hoại cao su theo chỉ thị của Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn.
Theo đó, từ chặt cây, vạt vó cây, công nhân chuyển qua đốt mủ thành
phẩm, đổ mủ xuống đất hoặc chôn mủ, đập chén, phá kiềng, phá
dụng cụ sản xuất, đình công, phục kích thiêu hủy các đoàn xe chở mủ
cao su từ đồn điền về Sài Gòn…
Ngoài ra trong kháng chiến chống Pháp, còn có mặt trận đấu tranh
chính trị và binh vận do đội quân tóc dài thực hiện cũng đạt được
những thắng lợi vô cùng to lớn.
Tóm lại, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954, nhân
dân và lực lượng vũ trang xã Xuân Tân đánh hơn 30 trận, diệt 12 tên
lính Pháp, 28 tên Việt gian, thu 21 súng các loại, đốt trên 100 tấn mủ
cao su, phá 100 hécta cao su, vạt vỏ 180 hécta cao su, đạp trên 30
ngàn chén đựng mủ, tổ chức hơn 40 lượt bãi công, 22 lần đấu trang
chính trị, gọi hàng, bỏ ngũ 32 binh sĩ địch, tiếp tế cho cách mạng 100
tấn gạo, lương thực, thực phẩm, vải vóc, thuốc men, 82 người dân
trong xã tham gia cách mạng cùng hàng trăm người dân đi dân công
phục vụ chiến đấu.
Đến giai đoạn 21 năm kháng chiến chống Mỹ, Đảng bộ Long
Khánh tập trung xây dựng phong trào công nhân cao su, xây dựng
khối đoàn kết công nhân, nông dân, lao động thành thị, củng cố căn
cứ địa cách mạng, phát triển lực lượng kết hợp 3 mũi giáp công: quân
sự - chính trị - binh vận.
Trên địa bàn xã Xuân Tân, các cơ sở cách mạng được xây dựng
ngay trong lòng địch. Ở Tân Phong có các đồng chí: Nguyễn Thị
296

30.7 Page 297

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Năm, Đặng Văn Lịch, Chín Vận, Quang, Sáu Lâm. Khu người Hoa
có các đồng chí Trương Văn Thắng, Sáu Phúc. Khu người Chơ-ro có
đồng chí Kiển. Ở Hàng Gòn có anh Hoàng, bác Năm Cam…
Trong khi đó, với luận điệu Cộng sản lũng đoạn nghiệp đoàn,
địch thẳng tay đàn áp công nhân cao su. Từ năm 1958-1959, hàng
trăm công nhân các đồn điền cao su ở Long Khánh bị bắt, tra tấn và
sát hại. Nhiều cơ sở cách mạng và quần chúng công nhân bị địch
thủ tiêu. Dã man hơn, địch bắt giết đồng chí Hai Phong rồi bêu đầu
tại ngã ba Tân Phong.
Có thể nói trong giai đoạn 1956-1959, sự đánh phá khốc liệt của
Mỹ-Diệm ở Long Khánh đã gây nên những tổn thất nặng nề cho
phong trào cách mạng tại địa phương. Thế nhưng, sự tàn bạo của
kẻ thù vẫn không ngăn cản được ý chí cách mạng và lòng căm thù
ngùn ngụt của quân dân địa phương.
Đầu năm 1960, Chi bộ xã Tân Phong được thành lập gồm các
đồng chí: Nguyễn Văn Bằng (Tư U), Hai Phụ, Hai Bích. Trong đó
đồng chí Nguyễn Văn Bằng làm Bí thư chi bộ để lãnh đạo phong
trào cách mạng tại địa phương. Lực lượng du kích được xây dựng
gồm 20 người. Thời gian này, phong trào cách mạng ở Tân Phong
được khôi phục và phát triển, mở ra thời kỳ chuyện tiếp từ thế tiến
công tiêu diệt địch, đấu tranh chính trị đơn thuần lên đến đấu tranh
chính trị - vũ trang.
Đầu năm 1961, ta tấn công đồn bảo an ở Cẩm Mỹ, tạo thế thuận
lợi để xây dựng phong trào ở Hàng Gòn, Suối Cả, Tân Phong. Tháng
4/1961, du kích Cẩm Mỹ ra đời, lực lượng du kích Tân Phong,
Hàng Gòn có 12 đồng chí. Cơ sở cách mạng từng bước được phát
triển trong các dân tộc Kinh, Chơ-ro, Hoa… ngay trong lòng địch.
Trong khi đó, sau kế hoạch Staley-Taylor đứng trước nguy cơ
phá sản hoàn toàn, Mỹ - Diệm chuyển sang thực hiện kế hoạch mới,
dự kiến lập 12 ngàn ấp chiến lược trên toàn miền Nam nhắm vào
cả 3 mục tiêu: chính trị - quân sự - xã hội. Trong đó, địch quan tâm
hơn cả là mục tiêu quân sự nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng.
297

30.8 Page 298

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Địa bàn Tân Phong - Long Khánh có vị trí chiến lược phía Đông
Bắc Sài Gòn nên được chính quyền Sài Gòn xếp loại ưu tiên trong
số kế hoạch gom dân, lập ấp.
Ngày 8/3/1962, địch mở chiến dịch Mặt trời mọc đánh vào các
tỉnh Đông Nam Bộ thực hiện kế hoạch bình định, gom dân lập ấp
chiến lược. Tại Tân Phong, địch xây dựng thành ấp chiến lược kiểu
mẫu, bố trí những đơn vị thiện chiến kết hợp với bọn tề, lính chế độ
Sài Gòn, tình báo, chỉ điểm, ác ôn… tập trung đánh phá phong trào
cách mạng ở Tân Phong và các xã lân cận.
Trong tình thế đó, công tác cấp bách và cũng là nhiệm vụ
lâu dài của quân dân địa phương là phá ấp chiến lược, đánh bại
chương trình bình định nông thôn của địch, kết hợp vũ trang đấu
tranh chính trị của quần chúng, kết hợp lực lượng trong và ngoài
ấp đánh địch.
Ở Tân Phong, phong trào đấu tranh của nhân dân chống địch lập
ấp chiến lược diễn ra vô cùng ác liệt. Nhân dân Tân Phong vùng
lên đấu tranh chống gom dân, lập ấp, không cho địch ủi hào, đắp
đê. Địch dỡ nhà ban ngày, thì ban đêm, dân cất lại. Địch đốt nhà,
dân chất chòi để ở, thì dân kiên cưởng bám trụ địa bàn, cương quyết
một tấc không đi, một ly không dời. Khi phong trào phát triển, nhân
dân và lực lượng vũ trang xã Tân Phong đột nhập đốt ấp chiến lược
Bùng Binh, phá hỏng ấp chiến lược kiểu mẫu Tân Phong.
Dịp này, một số cơ sở cách mạng ở Tân Phong tác động khoét
sâu mâu thuẫn giữa bọn bảo an và phòng vệ dân sự, làm tan rã toàn
bộ phòng vệ dân sự ở đây. Khi địch tiếp tục xây dựng lại ấp chiến
lược Tân Phong, công nhân cao su trong các đồn điền Hàng Gòn -
Cẩm Mỹ chặt cây làm vật cản không cho địch ủi hào, đắp đê. Ban
ngày địch dỡ nhà, ban đêm dân cất nhà. Địch tức tối đốt nhà, dân
cất chòi, làn để ở, kiến quyết bám trụ địa bàn.
Trong vòng 3 tháng, từ tháng 3/1963 đến 6/1963, Tiểu đoàn
800 của Quân khu 7 hỗ trợ lực lượng vũ trang huyện, du kích địa
phương đồng loạt tấn công, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân
298

30.9 Page 299

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nổi dậy phá banh 3 ấp chiến lược ở Tân Phong, Bàu Sao, Bàu Sen.
Tháng 2/1964, bộ đội Long Khánh và du kích Tân Phong đánh
Sở cao su Hàng Gòn, diệt 2 dân vệ, thu 7 súng, 3 tên dân vệ đầu
hàng mang nộp cho ta 3 khẩu súng trường, ta bắt vợ chồng chủ sở
Etteo đưa ra Cẩm Mỹ, tuyên truyền nói rõ chủ trương, chính sách
của Đảng, yêu cầu chủ sở đóng thuế cho cách mạng. Kết quả, Etteo
nộp cho ta 3,5 triệu đồng. Thắng lợi này mở đầu cho việc thu thuế
của ta đối với các sở cao su An Lộc, Dầu Giây, Bình Lộc, sở 97…
đóng thuế cho cách mạng được 52 triệu đồng.
Tháng 4/1965, Mỹ đưa quân viễn chinh và đồng minh ồ ạt vào
miền Nam Việt Nam thực hiện kế hoạch tìm - diệt. Tại Long Khánh,
máy bay Mỹ điên cuồng ném bom, bắn phá vào căn cứ cách mạng
từ Suối Râm, thị xã đến ngã ba Tân Phong. Trên mặt trận chính
trị, bọn chủ sở duy trì đồng lương chết đói, cấp gạo không đủ tiêu
chuẩn, lính chế độ Sài Gòn bắn phá bừa bãi vào vườn, phá hoại
mùa màng, phá hoại sản xuất. Tại ngã ba Tân Phong, địch dùng mọi
cách tra tấn cực hình các đồng chí bị bắt để đàn áp, làm nhụt ý chí
chiến đấu của quân dân địa phương. Song quân dân Tân Phong với
niềm tin sắt đá vào cách mạng đã kiên cường đấu tranh, giành nhiều
thắng lợi trên các lĩnh vực: quân sự - binh vận - chính trị.
Tại ấp chiến lược kiểu mẫu Tân Phong, địch dùng mọi hình thức
đàn áp nhân dân hòng cô lập dân với Đảng và lực lượng vũ trang
địa phương, nhưng vẫn có nhiều cơ sở cách mạng vẫn hình thành và
hoạt động. Nhân dân trong xã đào nhiều hầm bí mật để nuôi giấu,
che chở tiếp tế cho cán bộ hoạt động nằm vùng. Như gương chị Mai
Thị Nhỏ thường xuyên tiếp tế cho lực lượng cách mạng. Khi phát
hiện, địch tra tấn chị đến chết đi sống lại nhưng chị vẫn kiên trung
không một lời khai báo. Các đồng chí Nguyễn Thị Năm, Đặng Thị
Lịch vận động quần chúng khuyên nhủ gia đình binh lính chế độ
Sài Gòn trở về với cách mạng. Lực lượng ta còn đến tận bệnh viện
thăm hỏi lính của chế độ Sài Gòn bị thương, vạch rõ âm mưu của
địch, khoét sâu mâu thuẫn giữa các đơn vị thuộc chế độ Sài Gòn.
299

30.10 Page 300

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Năm 1965, trên 500 công nhân cao su Cẩm Mỹ - Hàng Gòn cùng
hàng trăm công nhân các đồn điền An Lộc, Bình Lộc kéo lên trụ sở
Tổng Công đoàn Lao động ở Sài Gòn đòi trả đủ 25kg gạo/tháng,
tăng lương từ 37 lên 45 đồng. Cuộc đấu tranh này đã được công
nhân miền Đông Nam Bộ, các nghiệp đoàn công nhân miền Nam
ủng hộ rộng rãi.
Ở Tân Phong, chi bộ xã lãnh đạo trên 150 người dân xã Tân
Phong, 500 người dân Bảo Bình kéo thẳng đến Tòa hành chánh của
chế độ Sài Gòn đòi tự do đi lại, làm ăn, chống bắt lính. Đến 17 giờ,
địch phải đáp ứng yêu sách của người dân.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thuân 1968,
cuộc tổng tiến công vào thị xã Long Khánh bắt đầu từ rạng sáng
1/2/1968. Tại các sở cao su, đêm 1, rạng sáng 2/2/1968 (mùng 2
rạng sáng mùng 3 Tết), bộ đội và du kích cao su phối hợp với tự
vệ mật, dân vệ tiến công chiếm các sở cao su Ông Quế, Hàng Gòn,
Suối Tre, An Lộc, Bình Lộc. Công nhân cao su Hàng Gòn, Cẩm
Mỹ nổi dậy làm chủ các sở, vây đồn phá bót địch, kêu gọi địch đầu
hàng. Du kích Tân Phong đột nhập đánh hội đồng xã Thới Giao, thu
1 máy truyền tin, 3 súng và một số tài liệu quan trọng.
Năm 1971, du kích Tân Phong phục kích tấn công trung đội biệt
kích 70 tại Bàu Môn diệt 4 tên, bắt sống 3 tên, thu 3 súng.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ rút về nước, chế độ Sài
Gòn thực hiện âm mưu giành dân, lấn đất, tăng cường các đơn vị
thiện chiến, xây dựng Tân Phong thành lớp cứng của tuyến phòng
thủ Xuân Lộc.
Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt này, thanh niên trong xã Tân
Phong hăng hái gia nhập lực lượng cách mạng, cơ sở ta phát triển
nhanh chóng, gồm 2 đại đội 201A và 201B, quân số gồm 50 đồng
chí. Trong phong trào đấu tranh, nổi bật vào năm 1973, đồng chí
Nguyễn Thị Năm, Đặng Thị Lịch thuyết phục làm tan rã trung đội 8
gồm 32 tên, thu 18 súng tại chi khu Xuân Lộc. Hay như năm 1972,
cách mạng làm tan rã trung đội biệt kích 70, thu 7 súng. Ta cũng
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
khoét sâu mâu thuẫn giữa bảo an và phòng vệ dân sự, làm cho 1
phòng vệ dân sự bỏ trốn, không cầm súng cho giặc…
Năm 1973, tại ngã ba Tân Phong, địch xây dựng chi khu Xuân
Lộc để bảo vệ tỉnh lỵ Long Khánh, kiểm soát huyết lộ 1 và lộ 2,
có thể là căn cứ để bung ra đánh phá cách mạng. Tại đây, địch bố
trí 1 đại đội bảo an, 3 trung đội dân vệ, 3 trung đội biệt kích, cùng
bọn tình báo, gián điệp, ác ôn… khét tiếng. Trên đồi Tân Phong,
địch bố trí 1 trận địa pháo, 1 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn biệt động
quân 52, chiến đoàn 48 thuộc sư đoàn 18 ngụy. Tại khu vực Đồi
Rìu, địch bố trí 1 tiểu đoàn Thái Lan. Tại ấp Tân Phong, địch xây
dựng thành ấp chiến lược kiểu mẫu, với ngoài cùng là hào sâu đầy
chông nhọn, trên bờ là đê cao 1-1,5m, trước mặt đê là hàng rào kẽm
gai, dưới kẽm gai là bãi mìn, sau cùng là lớp kẽm gai kết hợp với
tre gai dày đặc… địch chỉ chừa 2 cửa ra vào, kiểm soát gắt gao khi
người dân đi - về.
Tháng 5/1973, du kích Tân Phong cùng đại đội 201A bao vây,
bứt rút đồn Ông Quế, làm tan rã 1 đại đội bảo an, 1 trung đội dân vệ
và tề xã ấp, bẻ gãy mũi tiếp viện của tiểu đoàn 244 chế độ Sài Gòn,
mở đường vận chuyển khí tài từ Sông Nhạn về Bàu Cá.
Từ năm 1974-1975, Đại đội 201C thuộc huyện cao su đã phối
hợp du kích 2 xã Hàng Gòn và Tân Phong đánh cho địch co cụm lại
vừa làm công tác tuyên truyền quần chúng. Trong những năm tháng
ác liệt nhất, du kích xã cùng đại đội 201 luôn nêu cao tinh thần khắc
phục khó khăn, tự lực tự cường, đảm bảo đánh độc lập chiến đấu tốt
19 trận, ngoài ra còn hợp đồng với đơn vị bạn chiến đấu nhiều trận,
diệt 165 tên địch, làm bị thương 100 tên, thu 1 đại liên, 4AR15, 2
máy PRC 25, 15 trái mìn mo, 750 đạn nhọn, phá hủy 7 đại liên, 2 xe
Jeep, 2 nhà lính. Với thành tích trên, Đại đội 201 được Ban Chỉ huy
Tỉnh đội Bà Rịa - Long Khánh tặng danh hiệu Quyết chiến - Quyết
thắng năm 1974-1975.
Những năm này, xã có đồng chí Năm Quốc, người con ưu tú của
Hàng Gòn với chiến thuật đánh nhanh, chớp nhoáng, táo bạo, xuất
301

31.2 Page 302

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
quỷ nhập thần khiến cho kẻ địch khi nghe đến đều khiếp sợ. Trong
một đợt công tác, đồng chí bị vướng mìn do địch gài và hy sinh.
Từ năm 1974, đầu năm 1975, tình hình giữa ta và địch trên chiến
trường Xuân Lộc ở thế giằng co ác liệt.
Tháng 4/1974, địch ở tỉnh lỵ Long Khánh điên cuồng đánh phá
ác liệt hòng giữ đồn Ông Quế. Ta lên phương án tác chiến là phục
kích, vận động tổ chức du kích đánh khóa đầu, bộ đội huyện phối
hợp đánh chia cắt địch tại lô cao su sân bay Ông Quế. Kết quả trận
này, ta tiêu diệt và làm bị thương 50 tên địch, thu 1 đại liên cùng
nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Ta nhanh chóng giải phóng
đồn Ông Quế, tạo hành lang cho bộ đội chủ lực vận chuyển vũ trí
tiếp cận quốc lộ 1, bao vậy Long Khánh, mở thế tấn công bao vây
cô lập tỉnh lỵ Long Khánh.
Với khí thế tấn công, Đại đội C201 huyện Cao Su phối hợp du
kích Tân Phong tấn công đồn Hàng Gòn và các đồn trên quốc lộ 56,
giải phóng Hàng Gòn. Khi địch tăng viện tiểu đoàn 243 và 36 khẩu
pháo giải vây cho khu vực Ông Quế, Sông Nhạn, thì đại đội 201A
cùng du kích Tân Phong đánh chặn, diệt 36 tên, thu 1 đại liện, phá
hủy 3 khẩu pháo, thu 42 súng.
Tháng 9/1974, đại đội 201A và du kích Tân Phong phối hợp
đánh trung đội biệt kích 70, trung đội 41, diệt 13 tên, bắt sống 2
tên, thu 12 súng.
Tháng 2/1975, ta tiếp tục tấn công tua 61, đồn Hàng Gòn, buộc
địch tháo chạy. Ta làm chủ lộ 56, Ông Quế đến đồi 6, sau đó phối
hợp với bộ đội chủ lực đánh tiểu đoàn chi viện cho chi khu Tân
Phong, tiêu hao nhiều sinh lực địch.
Ngày 19/4/1975, du kích Tân Phong cùng Đại đội 201A huyện
và sư đoàn 7 đánh địch rút chạy trên quốc lộ 56. Suốt 24 giờ chiến
đấu ta phá rã toàn bộ lực lượng địch, địch tháo chạy tán loạn.
Qua 12 ngày đêm chiến đấu ngoan cường với kẻ thù, quân dân
Xuân Tân cùng lực lượng quân khu 7, Tỉnh đội Bà Rịa - Long
Khánh và lực lượng vũ trang địa phương đã đập tan tuyến phòng thủ
302

31.3 Page 303

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Xuân Lộc, mở đường tiến về giải phóng Sài Gòn ngày 30/4/1975.
Tổng quan trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân và lực lượng
vũ trang xã Xuân Tân đánh phối hợp 19 trận, 102 trận độc lập tác
chiến, diệt 151 lính chế độ Sài Gòn, 152 lính Mỹ, thu 229 súng các
loại, phá hủy 34 pháo 105 ly, 34 máy bay, trên 150 xe cơ giới, bắt
sống 21 tên, bứt rút 2 đồn, phá rã 3 trung đội địch, 2 toán phòng
vệ dân sự, giết 18 ác ôn, 43 lần đấu tranh chính trị, 18 lần binh vận
cảm hóa 89 binh sĩ lầm đường, giao nộp 31 súng ủng hộ cách mạng.
Trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, xã Xuân Tân
có 112 người tham gia cách mạng, 68 người đã hy sinh, 2 Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng.
Với những thành tích trên, năm 1998, nhân dân và Lực lượng vũ
trang nhân dân xã Xuân Tân được Nhà nước phong tặng danh hiệu
tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
303

31.4 Page 304

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Xuân Lập
Xuân Lập(1) là xã mới được định danh thuộc thị xã Long Khánh
sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, với địa giới bao gồm các
xã Tân Lập, An Lộc và một phần của xã Dầu Giây trước đây.
Diện tích tự nhiên của xã khoảng 8.400 hécta, phía Bắc của xã
Xuân Lập giáp xã Xuân Bình, phía Nam giáp xã Xuân Đường và xã
Xuân Tân, phía Đông giáp thị trấn Xuân Lộc và phía Tây giáp xã
Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất. Xuân Lập là vùng đất đỏ bazan, khí
hậu ôn hòa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70km và thành phố Biên
Hòa 40km về phía Đông Bắc.
Xã Xuân Lập là đầu mối giao thông nối liền hệ thống giao thông
quan trọng: như tuyến đường sắt, quốc lộ 1, quốc lộ 20. Xã là 1
trong những địa bàn có đông lực lượng và là chiến trường tiêu diệt
địch, nơi đây là mảnh đất có thể đánh, lùi có thể giữ, là hành lang
giao thông tiếp nhận cho Nam Bộ. Xã còn là hành lang chiến lược,
rất thuận lợi trong giao lưu kinh tế - văn hóa - xã hội và địa bàn có
ý nghĩa chiến lược về kinh tế - quốc phòng trong công cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ trước đây cũng như trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Năm 1945, dân số xã Xuân Lập có trên 5 ngàn người, đa phần
là công nhân cao su, chiếm tỷ lệ gần 20% của toàn quận Xuân Lộc
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Thị ủy Long Khánh.
304

31.5 Page 305

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lúc bấy giờ. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, dân số ở đây
giảm đi một ít, hàng trăm thanh niên trai tráng thoát ly tham gia bộ
đội, một số gia đình công nhân vào vùng kháng chiến, đồng bào
dân tộc cũng dời sâu vào các khu căn cứ. Đến thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, dân cư ngày một tăng lên. Nhân dân xã Xuân Lập có
truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất, trong bất
cứ hoàn cảnh nào, vào các thời điểm ác liệt nhất của các cuộc chiến
tranh, nhân dân xã vẫn phát huy truyền thống quý báu: “Đảng tin
dân, dân tin Đảng”.
Trong kháng chiến chiến chống thực dân Pháp, tháng 7/1945,
các tiểu tổ Việt Minh - tổ chức thanh niên Tiền Phong do Đảng bí
mật lãnh đạo được xây dựng ở An Lộc và Tân Lập. Các đồng chí
Trần Văn Kiểu, Lê Văn Rô, Lê Ưu, Lê Sắc Nghi… là cán bộ chủ
chốt của phong trào. Các đội vũ trang tự vệ, du kích ở Dầu Giây,
Tân Lập, Suối Tre, Núi Tung, Núi Đỏ được củng cố, sẵn sàng lên
đường chiến đấu với quân thù. Các hội đoàn kháng chiến ở xã như:
thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, Hội mẹ chiến sĩ trong xã
ngày càng lớn mạnh, nhân dân một lòng một dạ sắc son theo Đảng.
Lực lượng quân sự của trên có các đơn vị bộ đội Nam tiến, bộ đội
miền Đông thường xuyên phối hợp với lực lượng địa phương tổ
chức đánh địch.
Lúc này, lực lượng địch đông, vũ khí trang bị hiện đại hơn ta.
Sau khi chiếm lại Tân Lập, An Lộc, tiến đến đâu chúng chốt quân
dựng đồn bót đến đó, tập hợp bọn tay sai phản động, lập các ban hội
tề thống trị bóc lột nhân dân. Tuy vậy địch cũng có rất nhiều điểm
yếu như: cuộc chiến tranh phi nghĩa không được nhân dân thế giới
ủng hộ, tinh thần hoang mang dao động… ta triệt để khai thác các
điểm yếu này để đánh địch.
Về đấu tranh quân sự, ngày 30/10/1945, một tiểu đoàn Pháp có
cả xe tăng, máy bay, đại bác đánh chiếm Tân Lập - An Lộc - Cáp
Rang - Suối Tre… bộ đội vệ quốc đoàn, bộ đội Nam tiến, lực lượng
tự vệ địa phương đã phục kích đánh địch quyết liệt, tiêu diệt gần
305

31.6 Page 306

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
100 tên, thu 58 súng các loại, bị tổn thất nặng nề giặc Pháp phải rút
quân về Trảng Bom. Thắng lợi này làm nức lòng bộ đội và nhân
dân các xã quanh vùng.
Ngày 18/12/1946, du kích xã Xuân Lập với vũ khí bằng dao,
gậy gộc đã táo bạo phục kích ở Bàu Hàm diệt 10 tên lính ngụy,
thu 10 súng.
Ngày 14/3/1946, bộ đội phối hợp với du kích - tự vệ cải trang
thành lính Pháp đi tuần rồi bất ngờ tập kích vào đồn Tân Lập, ta diệt
1 trung đội lính của chế độ Sài Gòn, phá đồn thu hồi 28 súng.
Phong trào diệt ác để hạn chế sự lộng hành của các tên ác ôn được
phát triển, điển hình vào đêm 1/1/1947 ta tổ chức diệt tên Ách Chi Ê,
ngày 7/6/1947 phục kích diệt tên Piebatit, ngày 1/9/1948 du kích đột
nhập diệt tên sếp Lui ở làng 97…
Mũi đấu tranh chính trị và binh vận thường xuyên kết hợp với
quân sự tiến hành 3 mũi giáp công tạo nên sức mạnh tổng hợp trong
các trận đánh địch. Ngày 19/8/1947 nhân dân, công nhân ở ấp 97 -
Cáp Rang - Tân Lập - An Lộc tổ chức xuống đường biểu tình đưa yêu
sách cho bọn chủ Tây đòi tăng lương, bớt giờ làm, đồng thời treo cờ
Tổ quốc, băng rôn, biểu ngữ ủng hộ kháng chiến. Bọn địch hoảng sợ
phải chấp nhận yêu sách.
Tháng 2/1948, hàng ngàn công nhân, nhân dân xuống đường đấu
tranh đòi dân sinh dân chủ. Qua công tác binh vận, ta xây dựng được
94 cơ sở nội tuyến để phục vụ cho công tác binh địch vận. Trong 2
năm 1951-1952, ta vận động được 124 binh lính trở về với chính
nghĩa, một số tham gia bộ đội, du kích. Ngày 25/2/1950, nhờ cơ sở
binh vận mật báo, ta đã tập kích đồn Tân Lập diệt gọn đồn.
Tóm lại, trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp 1945-1954,
nhân dân xã Xuân Lập đoàn kết một lòng, kiên trì kháng chiến. Người
dân gom góp hàng trăm tấn gạo, thực phẩm rồi vận chuyển ra rừng
nuôi bộ đội. Lực lượng vũ trang địa phương đã độc lập, phối hợp với
lực lượng trên tổ chức đánh 52 trận lớn, nhỏ diệt 198 tên, thu 164
súng các loại, làm rã ngũ 102 binh lính địch, diệt ác 19 tên, tổ chức 6
306

31.7 Page 307

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lượt đấu tranh chính trị, phối hợp với quân sự, binh vận.
Phát huy truyền thống 9 năm kháng chiến chống Pháp, nối bước
thế hệ cha anh tham gia thời kỳ tiền khởi nghĩa, bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ nhân dân và Lực lượng vũ trang xã Xuân
Lập tiếp tục chiến đấu và phục vụ chiến đấu lập nhiều thành tích
xuất sắc to lớn.
Gắn với việc bảo vệ quyền lợi của mình ở các đồn điền cao su,
đế quốc Mỹ coi Xuân Lập là 1 trong những vùng chiến lược quân
sự nên tập trung xây dựng các tổ chức đảng phái phản động ở địa
phương, tổ chức lực lượng bảo an đoàn, tiến hành xây dựng các
lực lượng thanh niên chiến đấu, dân vệ, cảnh sát là phát triển rộng
khắp mạng lưới mật vụ trong xã, ấp, lập hệ thống đồn bót dày
đặc cắm sâu trong các vùng căn cứ kháng chiến. Trong đó, địch
tiếp tục đóng chốt ở đồi Ship, núi Đầu Tây, đồi Núi Thị… các cao
điểm hết sức quan trọng, có vị trí chiến lược địch dung để quan
sát và bắn phía ta. Ngoài ra lữ đoàn 199 Mỹ, trung đoàn II thiết
giáp Mỹ, sư đoàn 18 bộ binh của chế độ quân đội Sài Gòn thường
xuyên tổ chức các cuộc càn quét, bắn phá vào căn cứ ta, gây cho
nhiều tổn thất cho cách mạng.
Thời kỳ này, xã Xuân Lập có Nông trường cao su An Lộc, là
nơi có phong trào chiến tranh du kích và đấu tranh của công nhân
cao su mạnh mẽ nhất miền Nam Trung Bộ, là địa bàn có nhiều
căn cứ kháng chiến, các đơn vị đứng chân của Huyện Cao Su, lực
lượng của trên như E3, Q4, D6 đặc công… thường xuyên phối
hợp chặt chẽ với nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương tổ
chức các đợt truy quét đánh địch.
Tổ chức Đảng ở Xuân Lập được củng cố vào năm 1945 để lãnh
đạo nhân dân đấu tranh đánh địch. Lực lượng vũ trang địa phương
ban đầu chỉ có 1-2 tổ, sau này phát triển thành các đội để tổ chức
đánh địch.
Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và lực lượng vũ
trang xã Xuân Lập, công nhân cao su ST bắt đầu phát triển từ cuối
307

31.8 Page 308

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
năm 1954, đầu năm 1955. Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy Xuân Lộc
đã về An Lộc - Tân Lập hoạt động lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Chỉ trong thời gian ngắn, các chi bộ vùng đồn điền Tân Lập - An
Lộc đều được tổ chức trở lại.
Từ tháng 7/1956, Ngô Đình Diệm tiến hành khủng bố, đàn áp
dã man nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng với ý đồ thâm độc
“Thà bắt lầm, giết lầm còn hơn bỏ sót”, nhiều đồng chí cán bộ,
đảng viên sa vào tay giặc bị bắt bớ, tù đày, mạng lưới tổ chức cách
mạng trong xã bị tổn thất nghiêm trọng.
Đến cuối năm 1961, xã Tân Lập thành lập đội vũ trang tuyên
truyền gồm 3 đồng chí. Trong đó, ở ấp Bàu Sen đồng chí Bùi Đức
Phụ, cán bộ của huyện Xuân Lộc, xây dựng một số cơ sở, các anh
Nghĩa (Bự), anh Thọ tổ chức được 1 tổ tự vệ. Ở ấp Tân Thủy, gia
đình bà Sì Sắc Múi là cơ sở cách mạng nòng cốt ở khu vực này.
Phong trào cách mạng ở An Lộc - Tân Lập hồi phục nhanh chóng,
nhân dân đã nối lại được liên lạc với Đảng, phong trào cách mạng
từng bước được khơi dậy, những tổn thất hy sinh cũng không làm
cho nhân dân Tân Lập - An Lộc chùn bước, sắt son một lòng theo
Đảng đến cùng, sẵn sàng lao vào cuộc chiến đấu mới, quyết vùng
dậy diệt ác phá kềnh giành quyền làm chủ quê hương.
Đến năm 1963, địch cơ bản hoàn thành địch bắt đầu xúc tiến
việc gom dân lập vào các ấp chiến lược như: Phú Mỹ, Tân Thủy,
Suối Hôn, Bàu Sen, Núi Tung, Núi Đỏ…
Quyết tâm phá ấp chiến lược của giặc, mở thế phong trào đấu
tranh cho quần chúng, mở đầu phong trào phá ấp chiến lược ở xã
Xuân Lập là trận đánh vào ấp chiến lược Bàu Sen, Bàu Sao vào
năm 1963. Tự vệ mật ấp Suối Tre diệt tên Thị Bưởi, một tay sai
hoạt động đắc lực trong tổ chức “Thanh niên Cộng hòa”. Tháng
3/1963 đội công tác cao su do đồng chí Ba Hồng Tâm phụ trách
phối hợp với lực lượng du kích xã Tân Lập tổ chức tiêu diệt tên
Danh trưởng ấp ác ôn ở Cáp Rang. Cũng trong năm 1963, được cơ
sở binh vận báo cho tình hình bọn tề ấp chiến lược Hưng Nghĩa
308

31.9 Page 309

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kéo nhau đi xem hát, đội vũ trang phối hợp với lực lượng vũ trang
tỉnh đưa 2 tiểu đội bí mật cắt rào trong ấp đến 22 giờ. Các chiến
sĩ đồng loạt hành động bắt sống 13 tề ấp, 2 tên gác cổng thu 12
súng. Về sau địch bỏ luôn ấp này.
Những hoạt động của ta ở Tân Lập - An Lộc trong những cuối
năm 1963 đã làm cho bọn tề địa phương lo sợ, lực lượng dân vệ
ban đêm co cụm lại. Một số chân tay không dám lộng hành như
trước. Thực lực trong 2 xã ngày càng được củng cố và phát triển,
ở Suối Tre ta đã có Chi bộ A (ở bên ngoài) và Chi bộ B (ở bên
trong), Chi bộ An Lộc cũng được tổ chức, ở Núi Đỏ có đảng viên
đơn tuyến hoạt động. Từ năm 1965, Ban Cán sự Sếch Xông H97
được thành lập do đồng chí Sáu Mai làm Bí thư và đồng chí Lê
Hữu làm Xã đội trưởng.
Tháng 10/1964, thực hiện theo chủ trương của trên, công nhân
cao su đồn điền An Lộc tích cực chuẩn bị công tác hậu cần cho
chiến dịch Bình Giã hàng tấn gạo, thuốc men và các vật dụng
khác, bí mật chuyển ra căn cứ góp phần vào sự thắng lợi của chiến
dịch, đánh bại chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ và chế độ
Sài Gòn.
Ngày 14/12/1965 lực lượng du kích xã do đồng chí Hai Thanh
trực tiếp chỉ huy kết hợp với đội tự vệ mật bên trong đột nhập vào
ấp Suối Tre bắt 3 lính nghĩa quân, giải tán đội phòng vệ dân sự,
thu 10 súng các loại.
Sáng sớm 18/7/1965, đội công tác huyện cao su do đồng chí
Tư Trung chỉ huy kết hợp với du kích xã Tân Lập bất ngờ đột
kích ấp Trần Hưng Đạo bắt gọn tề ấp, thu 2 súng cac-bin, 1 thùng
đạn, 1 máy truyền tin, đồng thời vận động một số binh lính về với
nhân dân. Từ giữa năm 1965-1966, lực lượng vũ trang trong các
xã Suối Tre, Sếch Xông H-97 nhiều lần đột nhập vào các ấp Suối
Tre, Núi Tung, Cáp Rang… để diệt nhiều tên ác ôn như đội Thiện,
đội Thi, tên Trọng Ích, tên Lễ trưởng ấp…
Tháng 8/1966, đội vũ trang Cao Su do đồng chí Ba Hồng Tâm,
309

31.10 Page 310

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tư Đường chỉ huy kết hợp với du kích ấp chiến lược Trần Hưng
Đạo tấn công địch thu 15 súng.
Đến ngày 16/11/1966 du kích xã Tân Lập phục vụ dẫn đường
đội đặc công huyện Xuân Lộc là 1 tiểu đoàn pháo binh sư 5, tập
kích đánh phủ đầu bọn lính Mỹ ở căn cứ Suối Râm, diệt hơn 100
tên lính Mỹ, phá hủy nhiều xe tăng thiết giáp. Trận đánh thắng
lợi lớn này làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ nhân dân toàn tỉnh Bà
Rịa - Long Khánh.
Năm 1967, Chi bộ xã Tân Lập được tăng cường thêm các đồng
chí Tư Tô, Chín Mão… Đồng chí Bùi Đức Phụ làm Bí thư liên
xã Tân Lập - An Lộc. Trong 2 năm 1966-1967, phong trào cách
mạng ở xã vẫn phát triển, thanh niên tham gia kháng chiến ngày
càng đông, phong trào Hủ gạo nuôi quân, tiền ủng hộ kháng chiến
vẫn được chuyển ra rừng nuôi cán bộ, bộ đội, du kích.
Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, cán
bộ chiến sĩ đội vũ trang An Lộc - Tân Lập nổ sung tiến công các
đồn bót địch ở xã Suối Tre, Bàu Sen, Tân Thủy… Quần chúng
nhân dân hoàn toàn làm chủ xã, ấp. Đêm 19/5/1968 vào đợt 2 của
chiến dịch, du kích An Lộc tiến công đồn Sira ở Suối Tre do bọn
bảo an đóng giữ giết 5 tên, thu 5 súng.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ và chế độ Sài Gòn chuyển hướng
chiến tranh, đánh phá liên tục vào các căn cứ của xã. Cuộc đọ sức
giữa ta và địch diễn ra vô cùng gay go ác liệt. Lực lượng ta tuy
có tiêu hao mất mát, song đầu năm 1969 các chi bộ xã được củng
cố. Tháng 3/1969, du kích xã kết hợp với đội vũ trang Cao Su
đánh, chiếm hội đồng xã Tân Lập, diệt 4 tên lính bảo an. Tháng
5/1969, một đại đội đơn vị E33 phối hợp với du kích xã Tân Lập
đánh chiếm ấp Phú Mỹ, ta làm chủ ấp suốt đêm, hỗ trợ cho mũi
đấu tranh chính trị du kích xã An Lộc tổ chức nhiều trận diệt ác.
Tháng 5/1970 được cơ sở phục vụ tin tức, đồng chí xã đội
trưởng Ba Châu cùng một số đồng chí khác cải trang làm lính biệt
động quân, táo bạo đột nhập ấp Suối Tre diệt tên Nhứt xã trưởng
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
An Lộc và 5 lính bảo an, thu 5 súng.
Sáng 15/5/1970, một tiểu đoàn quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 199
đổ quân càn quét khu vực Bàu Sao, Suối Hôn, các đồng chí trong
Đảng ủy Huyện Cao Su cùng 1 tiểu đội đặc công và du kích tham
gia chiến đấu, kết quả 40 tên lính Mỹ bị diệt tại chỗ.
Tháng 7/1970, tiểu đoàn 6 đặc công phối hợp với du kích xã
tập kích các trường huấn luyện biệt kích ở Núi Thị diệt hơn 100
tên địch, phá hủy 5 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng.
Tháng 11/1970, được cơ sở phục vụ tin tức, du kích xã phối
hợp với 1 tiểu đội đặc công tổ chức đánh đồn Suối Tre, ta diệt và
làm bị thương hoàn toàn 1 trung đội lính bảo an ở đây.
Đêm 2/10/1971, du kích ấp Suối Tre tổ chức phục kích bọn lính
bảo an đi tuần diệt 4 tên, thu 4 súng. Tháng 12/1971 được sự hỗ
trợ của bộ đội trung đoàn 4, du kích xã Tân Lập và tự vệ xã diệt
34 tên địch và bắn cháy 3 xe tăng. Với các trận đánh địch, diệt ác,
phá kềm trong năm 1970-1971, xã Tân Lập được Chính phủ lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương
Chiến công hạng Ba.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, chế độ Sài Gòn lập tức
phá hoại, vạch kế hoạch bình định lấn chiếm lãnh thổ. Tại xã Tân
Lập - An Lộc, chúng thực hiện kế hoạch càn quét lấn chiếm ở bên
ngoài đồng thời phân loại đối tượng, thẳng tay đán áp phong trào
chính trị bên trong.
Về phía ta, đầu năm 1973, các chi bộ xã Tân Lập - An Lộc đều
được kiện toàn tổ chức, cán bộ và nhân dân trong xã khẩn trương
chuẩn bị xuống đường cắm cờ, giữa đất, giữ dân. Khi Hiệp định
Paris ký kết, ta tiếp tục thực hiện chủ trương kết hợp chặt chẽ 3
mũi đấu tranh: vũ trang, chính trị, binh vận ngăn chặn các hoạt
động phá hoại của địch.
Ngày 20/1/1973, ở ấp Suối Tre, cuộc chiến đấu, tranh chấp
vùng kiểm soát giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, bọn lính tổ
chức lực lượng dập tắt các loa truyền thanh binh vận của ta. Du
311

32.2 Page 312

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
kích xã kiên quyết trừng trị đích đáng, nổ sung diệt 1 tên làm bị
thương 2 tên.
Tháng 7/1973, du kích xã phối hợp với 1 tiểu đội đặc công
đánh đồn dân vệ xã Xuân Lập, diệt 3 tên. Tiếp đó, được cơ sở
phục vụ tình hình, du kích xã diệt một số tay sai ác ôn để hạn chế
sự lộng hành của chúng, phong trào đấu tranh với địch bung ra
ngoài sản xuất. Dựa vào pháp lý của Hiệp định, bà con đấu tranh
với địch bung ra ngoài sản xuất, công tác binh vận cũng được đẩy
mạnh, bà con các ấp Suối Tre, Tân Thủy - Phú Mỹ, vận động được
hàng chục lính bảo an, dân vệ bỏ ngũ trốn về với gia đình.
Trong 2 năm 1973-1974, phong trào cách mạng ở xã phát triển
khá toàn diện, các tổ chức cách mạng, mạng lưới cơ sở được xây
dựng hầu hết trong xã, thế làm chủ ngày càng mở rộng, nhân dân
tích cực ủng hộ đóng góp sức người, sức của ủng hộ kháng chiến
ngày càng nhiều.
Ngày 9/4/1975, chiến dịch tấn công tuyến phòng thủ của địch
ở thị xã Long Khánh, cánh cửa thép phía Đông Bắc Sài Gòn, bắt
đầu. Hợp đồng với giờ phút lịch sử này, nhân dân và lực lượng vũ
trang xã Xuân Tân phối hợp với bộ đội chủ lực bắt đầu nổ súng
tiến công các đồn bót, các cụm quân địch đóng trên địa bàn xã,
nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng địa bàn là cản, kéo, chia cách
địch, dẫn đường cho bộ đội, phục vụ chiến đấu.
Ở hướng Tây ấp Trần Hưng Đạo, được du kích dẫn đường, từ
ngày 10/4/1975 bộ đội sư đoàn 6 nổ súng tấn công diệt 2 đại hội
thuộc chiến đoàn 52 của chế độ Sài Gòn, bắn cháy 1 số xe bọc
thép - Trung tâm An Lộc. Lực lượng du kích xã vẫn bám chắc địa
bàn, cùng bộ đội địa phương huyện bao vây cầm chân địch, cán
bộ xã, cơ sở bên trong vận động quần chúng nổi dậy làm chủ ấp.
Công nhân cao su bám nhà máy và các cơ xưởng của đồn điền,
không để cho địch phá hoại, bọn địch ở Núi Thị - Phú Mỹ- Bàu
Sen và trung tâm An Lộc vẫn ngoan cố chống trả quyết liệt, lực
lượng chủ lực địa phương vừa đánh vừa làm công tác binh vận,
312

32.3 Page 313

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
làm sa sút tinh thần binh lính, nhiều đơn vị tan rã nhanh chóng, ta
vận động hàng trăm binh lính, dân vệ đào rã ngũ.
Sáng 20/4/1975, chốt địch cuối cùng ở Núi Thị bị lực lượng
chủ lực ta tiêu diệt. Toàn quân địch ở các ấp đều bỏ chạy tán loạn,
các ấp Suối Tre, Phú Mỹ, Bàu Sen, Cáp Rang, Trung Tâm, Tân
Thủy đều được giải phóng. Ngày 21/4/1975, Xuân Lộc hoàn toàn
giải phóng, cánh cửa thép phía Đông Bắc Sài Gòn đã mở toang,
nhân dân Tân Lập, An Lộc khấp khởi mừng quê hương sạch bóng
quân thù.
Về đấu tranh chính trị và binh vận, thực hiện chủ trương của
Đảng, các chi bộ tập trung lãnh đạo công nhân đấu tranh đòi dân
sinh dân chủ, đòi địch thi hành các điều khoản của Hiệp định
Genève. Trong thời điểm từ đầu năm 1955-1957, phong trào đấu
tranh của nhân dân, công nhân cao su An Lộc sôi động nhất trong
toàn miền Đông Nam Bộ. Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh diễn ra
ngày 25/11/1954, ngày 1/5/1955 và ngày 7/7/1956 đòi dân sinh
dân chủ, đòi Mỹ Diệm thi hành Hiệp định Genève. Các cuộc đấu
tranh này ta đã giành lấy những thắng lợi nhất định.
Cùng với mũi đấu tranh vũ trang, phong trào đấu tranh chính
trị của nhân dân Tân Lập - An Lộc được đẩy mạnh, hàng trăm
đồng bào chia làm nhiều nhóm, nhiều đợt tổ chức thành đoàn kéo
lên đồn địch, ra thị xã Long Khánh đấu tranh đòi chúng để cho bà
con ra rẫy sản xuất, không được bắn pháo bừa bãi vào nhân dân.
Phối hợp với 2 mũi đấu tranh quân sự - chính trị , mũi binh địch
vận cũng thu nhiều kết quả, chủ trương của Đảng là phối hợp chặt
chẽ với 3 mũi giáp công vừa đấu tranh với địch vừa tuyên truyền
tin chiến thắng. Mặt khác các chị nữ thanh niên thường xuyên
khéo léo tác động tinh thần binh lính địch, một số anh em binh
sĩ của chế độ Sài Gòn đã giác ngộ xin tình nguyện mang súng ra
rừng tham gia kháng chiến. Má Đào Thị Tân ở Núi Đỏ cảm hóa
được 1 trung sĩ và 2 lính bảo an bỏ ngũ về với gia đình, má Lê Thị
Diệp ở Suối Tre vận động được 20 dân vệ cầm súng về với nhân
313

32.4 Page 314

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dân. Trong những năm 1966-1967, ta vận động được gần 100 binh
sĩ, dân vệ về với nhân dân.
Tháng 9/1969, đồng chí Phó ban Binh vận tỉnh Nguyễn Trọng
Vỹ cùng đồng chí Ba Nhân kết hợp cùng bộ đội huyện do đồng
chí Ba Hồng Tâm chỉ huy, du kích xã Xuân Lập đánh chiếm đồn
dân vệ Tân Thủy thu toàn bộ vũ khí và bắt tề, ấp xã. Bà Ba Tân
Thủy có nhiều công lao trong việc nuôi dưỡng, tiếp tế lương thực
cho ta, con bà là cơ sở nội tuyến của ta để diệt đồn này.
Phong trào đấu tranh chính trị diễn ra thường xuyên trong các
ấp, xã. Từ giữa năm 1970, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, một
phong trào chính trị được dấy lên ở 2 xã, công nhân đấu tranh đòi
cấp 700 gram gạo/ngày, nông dân đòi tề ngụy được ra rẫy sản xuất
hoa màu, các mẹ, các chị còn làm đơn kéo lên Hội đồng tỉnh Long
Khánh đòi được tự do đi lại mua bán thực phẩm, gạo… Dù khó
khăn gian khổ, nhân dân một lòng một dạ theo Đảng đến cùng,
bà con mang cơm nén thật chặt trong các lon guygo để tiếp tế cho
bộ đội, du kích. Nhiều má cùng với cơ sở khác giả dạng người đi
xúc hến, mò cua… bên ngoài khoác áo mưa, bên trong giấu gạo,
thuốc men tiếp tế cho bộ đội, du kích.
Công tác binh vận và chính trị từ năm 1973-1975 được đẩy
mạnh phát triển, mùa khô năm 1975 bộ đội và du kích xã bằng 3
giáp công kết hợp tiến công địch ở nhiều nơi làm hoang mang sa
sút thinh thần binh lính địch, nhiều đơn vị tan rã, góp phần giành
thắng lợi trong đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Tóm lại, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân
dân và Lực lượng vũ trang xã Xuân Lập đã độc lập, phối hợp với
chủ lực miền, tỉnh đánh trên 20 trận lớn và trên 150 trận nhỏ, bắt
sống 150 tên tại chỗ, thu hồi hơn 300 súng, diệt 2 xe jeep Mỹ và
bắn rơi trực thăng, cùng với lực lượng chủ lực loại khỏi vòng
chiến đấu 644 tên địch, thu 98 súng, diệt 5 xe thiết giáp, làm rã
ngũ hàng trăm binh lính trở về với chính nghĩa, đoàn tụ với gia
đình, diệt ác 32 tên, trong đó gồm những tên xã trưởng ác ôn, tình
314

32.5 Page 315

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
báo ngụy, tổ chức 16 lần đấu tranh chính trị kết hợp với công tác
binh vận và quân sự,
Trong suốt 21 năm chống Mỹ cứu nước, mảnh đất Tân Lập, An
Lộc ngày trước, xã Xuân Lập ngày nay có 67 liệt sĩ, 2.924 người
tham gia kháng chiến tại chỗ, tòng quân thoát ly tham gia cách
mạng chống Mỹ 124 người, tiếp tế 198 tấn gạo phục vụ kháng
chiến, ngoài ra còn cung cấp nhiều thực phẩm thuốc men.
Với những thành tích trong 2 cuộc kháng chiến vệ quốc, xã
Xuân Lập được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng Nhì,
2 Huân chương Chiến công hạng Ba, Huân chương Lao động, 3
Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba. Toàn
xã có trên 150 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ - chống Pháp
hạng Nhất, Nhì, Ba của cá nhân; trên 100 Huân chương Chiến
công Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba của cá nhân, trên 50 Huân
chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba của cá nhân; trên 300
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; 6 Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng (kể cả Suối Tre)(2)
Đặc biệt, vào năm 1998, nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Xuân Lập thị xã Long Khánh được Nhà nước, Chính phủ phong
tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(2) Số liệu do thị xã Long Khánh cung cấp vào năm 1996.
315

32.6 Page 316

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Tà Lài
Tà Lài(1) là xã vùng sâu, vùng xa của huyện Tân Phú, nằm cách
trung tâm huyện khoảng 17km, có diện tích tự nhiên là 2791,30 ha;
phía Đông giáp xã Phú Lập và xã Núi Tượng, phía Tây giáp Lâm
trường La Ngà, phía Nam giáp xã Phú Thịnh và phía Bắc giáp Vườn
quốc gia Cát Tiên; đất nông nghiệp đạt 87% tổng diện tích đất; 90%
dân số xã sản xuất nông nghiệp; có 1.938 hộ dân với 7.409 khẩu. Địa
bàn được phân thành 5 ấp (ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4 và ấp 5); có 12 dân
tộc anh em sinh sống với hơn 31% dân số là đồng bào dân tộc thiểu
số (trong đó có 2 dân tộc bản địa là Châu Mạ và S’tiêng với 357 hộ,
1.227 khẩu).
Xã Tà Lài được thành lập sau khi tách ra từ xã Phú Lập vào ngày 1
tháng 9 năm 1994, được chia làm 07 ấp nằm dọc theo hai bên hương
lộ Tà Lài. Đảng bộ và nhân dân xã Tà Lài được Chủ tịch Nước phong
tặng danh hiệu là tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào
ngày 22/8/1998.
Bia tưởng niệm nhà ngục Tà Lài được gắn liền với địa danh của
xã, là một di tích được UBND huyện Tân Phú xây dựng vào năm
2000, là nơi để ghi nhớ công ơn của các chiến sĩ cách mạng lão thành
như: đồng chí Trần Văn Giàu, đồng chí Tô Ký, đồng chí Dương
(1) Nguồn: Đảng ủy xã Tà Lài, do Ban Tuyên giáo Huyện ủy Tân Phú cung cấp.
316

32.7 Page 317

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Quang Đông, đồng thời cũng để ghi nhận những đóng góp của bà
con dân tộc Châu Mạ, S’tiêng trong hai thời kỳ kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Bia ghi dấu sự kiện vượt ngục Tà Lài, là một
công trình kiến trúc độc đáo, phản ánh truyền thống đấu tranh hào
hùng của quân dân Đồng Nai nói riêng, Nam bộ nói chung dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đây là “địa chỉ đỏ” góp phần trong việc tuyên
truyền, giáo dục về tinh thần yêu nước có ý nghĩa thiết thực đối với
người dân, đặc biệt với thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX), thực dân Pháp cho mở
tuyến đường 323, từ km 125 (quốc lộ 20) vào Tà Lài, Lý Lịch, Bù
Cháp đến Đồng Xoài và đặt tên là đường 323, nhằm thực hiện chính
sách cai trị vùng đồng bào Thượng và khai thác tài nguyên rừng.
Sau Nam Kỳ khời nghĩa (23/11/1940), thực dân Pháp cho xây dựng
khu rừng núi Tà lài thành một nhà tù lớn (Căng Tà Lài) để giam cầm
những người đảng viên cộng sản, người yêu nước. Tháng 3/1941,
đồng bào dân tộc Chơ-ro Tà Lài đã giúp đỡ, tạo điều kiện phương
tiện giúp đồng chí Dương Quang Đông, Trần Văn Giàu, Tô Ký...
vượt ngục Tà Lài trở về Sài Gòn hoạt động, xây dựng cơ sở, khôi
phục phong trào cách mạng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám
thành công.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng bào Bù
Cháp cùng với đồng bào dân tộc thiểu số ở Võ Dõng, Lý Lịch đều
bất hợp tác với giặc. Đồng bào tham gia phong trào “phá hoại để
kháng chiến”, thoát ly tham gia bộ đội, du kích, về rừng căn cứ xây
dựng làng xã chiến đấu, tiếp tế ủng hộ nuôi quân. Đặc biệt, trong
đồng bào dân tộc S’tiêng ở Bù Cháp đã xây dựng được chi bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo đồng bào kháng chiến, chi bộ lúc
đầu thành lập có đồng chí K’Lư. Nhiều đồng bào dân tộc S’tiêng đã
trở thành chiến sĩ trinh sát dũng cảm của tiểu đoàn vận tải chiến lược
320 (thuộc Phân liên khu miền Đông). Cùng với đồng bào dân tộc
ở Võ Dõng, Lý Lịch và công nhân cao su đồn điền Túc Trưng, đồng
bào S’tiêng, Bù Cháp đã góp nhiều lương thực, tạo điều kiện để chi
317

32.8 Page 318

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đội 10 Biên Hoà chuyển quân bí mật từ chiến khu Đ về quốc lộ 20
làm nên chiến thắng La Ngà vang dội (ngày 01/3/1948) “Chiến khu
Đ còn, Sài Gòn mất”. Đó cũng là nỗi ám ảnh lo sợ của chính quyền
Sài Gòn. Chính vì thế, ngay thời kỳ đầu chống Mỹ, địch đã tổ chức
nhiều chiến dịch, nhiều cuộc hành quân càng quét vào Mã Đà, vùng
Bù Cháp, Lý Lịch để truy lùng lực lượng cách mạng, phá sản xuất
của ta. Đồng bào dân tộc Bù Cháp, Tà Lài trong suốt 30 năm chiến
tranh giải phóng luôn bám rừng, bám cách mạng, đói, no cùng cán
bộ, chiến sĩ, vừa chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu (trong 30 năm
kháng chiến đồng bào S’tiêng có 16 đảng viên, 2 huyện uỷ viên, 4
liệt sĩ, 2 dũng sĩ diệt Mỹ. Năm 1976 xã Bù Cháp được Quốc hội tặng
thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhì).
Cuộc sống mới bắt đầu từ cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại lan
toả khắp xóm, ấp, buôn, sóc của đồng bào Thượng ở ẩn trong thung
sâu, tất thảy đều tưng bừng phấn khởi một bầu không khí mới “độc
lập và tự do”. Ủy ban nhân dân cách mạng xã, các tổ chức Mặt trận
và đoàn thể được thành lập hối hả bắt tay vào xây dựng xã hội mới.
Tổ chức thanh niên Tiền Phong biến thành tổ chức vũ trang cách
mạng, các đội tự vệ chiến đầu ngày đêm luyện tập quân sự, tuần tra
canh gác bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.
Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/1945 trôi đi nhanh chóng.
Nguy cơ một cuộc chiến tranh mới đang kéo đến gần. Và, tiếng súng
gây hấn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân
Pháp nổ ra ở Sài Gòn cùng với lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến
Nam Bộ như làn gió mới thổi về Bù Cháp, Tà lài. Thực hiện lời kêu
gọi của Hồ Chủ Tịch và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, đồng bào dân
tộc ở Bù Cháp náo nức chuẩn bị kháng chiến, Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến là Prai; Điểu Khuynh làm Phó chủ tịch; K’Tiêng, K’Lư, K’Rét,
K’Liêng, K’Coong, K’Lướt, K’Loa, K’Tang... là những đội viên cốt
cán trong 2 đội tự vệ mang tên Đaklắc và Kakba.
Trong kháng chiến, nhà đồng chí K’Lư, K’Ba ờ Bù Cháp là nơi
tập kết lương thực, thực phẩm để lực lượng trên về lấy. Được sự giúp
318

32.9 Page 319

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đỡ của trung đội 4, trung đội 6, du kích Bù Cháp trưởng thành rõ
rệt, nhiều lần độc lập tác chiến thu kết quả tốt. Tiểu đội Đaklắc Bù
Cháp chặn đánh một cuộc càn quét của địch từ Tà Lài xuống diệt 1
tên Pháp, 1 tên lính ngụy, thu 2 súng (trận chống càn kéo dài từ 7 giờ
sáng đến 11 giờ trưa một ngày cuối năm 1946).
Sau thất bại trong trận đánh phục kích giao thông La Ngà
(1/3/1948), cay cú phục thù, quân Pháp điên cuồng mở cuộc phản
kích vào chiến khu Đ và các khu vực chúng phán đoán còn lực lượng
của ta đang ẩn nấp. Sáng 5/3, Pháp dùng máy bay đổ quân xuống Bù
Cháp, để truy kích đường rút lui của quân ta. Bọn này điên cuồng
lùng sục khắp các khu vực từ Bù Cháp xuống Lý Lịch. Không tìm
được lực lượng vũ trang của ta, chúng ra sức bắn phá, thiêu đốt nhà
cửa của đồng bào trong các buôn sóc. Du kích Bù Cháp cùng với du
kích Lý Lịch đã gài bẫy đá và bắn tỉa bằng tên ná tẩm thuốc độc diệt
3 tên, làm bị thương 1 tên quan Pháp.
Năm 1948, Huyện uỷ cử cán bộ về trực tiếp giác ngộ, bồì dưỡng,
và kết nạp cho những cốt cán tại cơ sở. Ngay trong năm 1948, đồng
chí K’Lư, K’Tiêng, Điểu Khuynh ở Bù Cháp được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Việt Nam và thành lập chi bộ riêng. Đó là những cán bộ,
những du kích kiên trung một lòng một dạ đi theo Đảng và có những
cống hiến xuất sắc trong nhiệm vụ làm nòng cốt, đầu tàu gương mẫu
trong phong trào ở địa phương. Phong trào từng bước được phục hồi
và phát triển trở lại, tháng 3/1949 du kích Bù Cháp đã tập kích bót
Tà Lài diệt 2 lính, thu 3 khẩu súng trường.
Vào thời gian năm 1949 trở đi, cùng với các xã trong vùng kháng
chiến, đồng bào Bù Cháp vừa xây dựng làng chiến đấu chống càn và
bảo vệ căn cứ, vừa tích cực tăng gia sản xuất, góp phần xây dựng nền
kinh tế vùng độc lập. Dọc theo bờ sông Đồng Nai ruộng rẫy trồng
cây lương thực, cây hoa màu của đội, của cơ quan và của đồng bào
trải xanh ngút ngát. Quân địch ra sức phá hoại sản xuất của chúng ta.
Kết hợp cùng bộ đội, du kích Bù Cháp chia thành từng bộ phận đảm
nhiệm các vùng chiến đấu, canh gác bảo vệ sản xuất, thu hoạch mùa
319

32.10 Page 320

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
màng, đồng bào đã cắm chông, gài lựu đạn, chặt cây làm hàng rào
không cho địch vào khu vực sản xuất.
Từ cuối năm 1951, Chiến khu Đ được xây dựng thành căn cứ
của Nam Bộ. Đồng bào Bù Cháp giờ đây đảm nhiệm nhiệm vụ
nặng nề hơn về xây dựng và bảo vệ căn cứ.
Ngay từ đầu năm 1951, quân Pháp liên tục tổ chức các cuộc
càn quét quy mô lớn vào chiến khu Đ, chúng thường tổ chức lực
lượng từ Quốc lộ 20 đánh tạt ngang qua sông Đồng Nai vào phía
Đông chiến khu. Trong một trận chống càn ở Madagui đầu năm
1952, du kích Bù Cháp cùng bộ đội tiểu đoàn 303 tiêu diệt 2 xe
tăng địch.
Tháng 5/1952, Bộ tư lệnh Phân liên khu miền Đông thành lập
tiểu đoàn vận tải 320, làm nhiệm vụ chuyển tiếp hàng hoá chi
viện cho Trung ương và khu 5 về chiến khu Đ, giữ vững đường
dây liên lạc với Trung ương. Cùng với đồng bào Lý Lịch, Võ
Dõng, Định Quán đồng bào đã tham gia vận tải chuyến hàng
từ La Gi, La Gòn, Hàm Tân, Xuyên Mộc, vượt qua Quốc lộ 1,
Quốc lộ 20, sông Đồng Nai về chiến khu Đ. Đường đi dài 200
- 300km xuyên qua rừng thẳm, sông sâu, nhiều thanh niên đồng
bào quen lội rừng, qua suối, gùi hàng trên lưng vận tải rất xuất
sắc. Nhiều đồng bào đã anh dũng ngã xuống trên tuyến đường
vận tải do bị địch phục kích, bị mìn gài hoặc pháo cầm canh của
địch và bị bệnh tật, đói rét. Nhưng các chuyến hàng vẫn được
vận chuyển về đến nới an toàn, đóng góp thầm lặng của họ đã
tạo điều kiện cho tiểu đoàn 320 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
“tiếp máu” cho chiến trường Nam Bộ trong những năm cuối
cùng của cuộc chiến tranh.
Tháng 10/1952, một trận lụt lớn chưa từng có ập đến miền
Đông Nam Bộ. Trận lụt gây nên hậu quả nặng nề, tại Bù Cháp,
nửa đêm nước sông Đồng Nai dâng lên đột ngột cuốn trôi toàn
bộ nhà cửa, tài sản, trâu bò, hoa màu của đồng bào; có 27 người
không chạy kịp bị cuốn phăng theo dòng nước xoáy. Sau lũ,
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đồng bào cùng bộ đội sửa chữa, xây dựng lại nhà cửa ổn định
nơi ở, mặt khác tích cực tìm củ mì còn sót lại, hái rau rừng,
măng tre, đào củ chụp ăn thay cơm. Đồng bào Bù Cháp còn đi
đào củ mài, củ chụp để nuôi bộ đội trong chiến khu, tổ chức
trồng các loại cây lương thực ngắn ngày, cây hoa màu để chống
đói và cảnh giác địch càn quét nhân lúc ta gặp khó khăn. Sau 3
tháng sản xuất và chiến đấu chống càn bảo vệ sản xuất, đến cuối
1952 đầu năm 1953, nạn đói đã được đẩy lùi. Bước sang 1953,
thắng lợi liên tiếp của ta trên chiến trường Bắc Bộ, thượng Lào,
Trung và Nam Bộ đã dẫn tới những thay đổi quan trọng về so
sánh lực lượng giữa ta và địch. Do phải bị động rút quân ứng
phó các chiến trường khác, lực lượng của địch co cụm lại. Chiến
khu Đ ngày càng được mở rộng tới Tà Lài, tuyến đường vận tải
thông suốt, bộ đội đi lại dễ dàng, đồng bào Bù Cháp, Tà Lài rất
phấn khởi vui mừng.
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève kết thúc chiến tranh, lập
lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa cách mạng Việt Nam
bước sang thời kỳ mới. Chiến tranh kết thúc, nhưng tình hình
còn hết sức phức tạp, các đơn vị vũ trang phải tập kết chuyển
quân ra miền Bắc. Cán bộ, đảng viên phải ở lại phải chuyển hình
thức đấu tranh. Trong giai đoạn này, cán bộ xã đội Bù Cháp cùng
với tổ công tác võ trang tuyên truyền, bộ đội tỉnh đào hầm chôn
cất vũ khí, tài liệu cẩn thận để phòng địch phá vỡ Hiệp định
Genève. Đồng bào dân tộc thiểu số ở tản mác khắp nơi trong
rừng nay được vận động về sống tập trung ở Bù Cháp.
Tháng 1/1955, thực hiện chỉ thị của Xứ ủy, tỉnh Biên Hoà tách
khỏi tỉnh Thủ Biên, Ban Cán sự Đảng Xuân Lộc được thành lập,
phân công về các xã để móc nối với các đảng viên cũ thành lập
chi bộ địa phương. Xã Bù Cháp và Lý Lịch được thành lập chi
bộ gồm 3 đồng chí do đồng chí Ba Thiên làm Bí thư. Sang đầu
năm 1956 các cơ sở chính trị trong quần chúng được xây dựng,
hệ thống cơ sở trung kiên, nòng cốt như Má Ú Lon, K’Tiên ở
321

33.2 Page 322

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Bù Cháp.
Đầu năm 1957, theo chỉ thị của Xứ uỷ, khu vực Bù Cháp,
vùng Chiến khu Đ trong kháng chiến chống Pháp giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng trong nhiệm vụ, đảm nhiệm chức năng căn
cứ địa, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương trực
tiếp cho cuộc chiến đấu sắp tới. Quá trình xây dựng lực lượng vũ
trang, đồng bào Bù Cháp đã đóng góp không nhỏ cho cách mạng
trong cuộc chiến chống Mỹ - Diệm.
Từ sau Hiệp định Genève, một bộ phận anh em kháng chiến
do đồng chí Chín Quì - một cán bộ quân sự am hiểu địa bàn rừng
núi Chiến khu Đ - chỉ huy đã về Bù Cháp, Bàu Phụng, Lý Lịch...
để tồn tại và tổ chức sản xuất chờ chỉ thị của trên. Đồng bào Bù
Cháp đã tham gia giúp đỡ, che chở, hàng loạt gia đình được xây
dựng trở thành cơ sở cách mạng, trở thành nơi nuôi dưỡng, che
chở làm liên lạc cho các cơ quan kháng chiến và đơn vị bộ đội.
Sang đầu năm 1957, tại địa bàn Bù Cháp trở thành địa bàn
đứng chân hoạt động giữ đất, giữ dân, tạo địa bàn đứng chân
lâu dài cho lực lượng vũ trang và cơ quan lãnh đạo miền Đông.
Trong những năm đầu gây dựng lực lượng, đồng bào dân tộc
Chơ-ro, S’tiêng đã góp sức xây dựng căn cứ, tham gia kháng
chiến. Chi bộ Bù Cháp đã vận động đồng bào mở rộng sản xuất,
phát rẫy trồng mì khắp các triền rừng. Trong một thời gian ngắn,
đồng bào Bù Cháp đã trồng được 30 hécta khoai mì ủng hộ bộ
đội, đồng thời hướng dẫn bộ đội trồng lúa rẫy.
Phát hiện căn cứ của ta, từ cuối năm 1958, địch cho sư đoàn
5 ngụy liên tục tổ chức các đợt càn quét vào Sa Mách, Bù Cháp,
Lý Lịch. Chúng ra sức đốt phá lán trại của căn cứ, phá kho lúa
của bộ đội, bắn giết trâu bò của đồng bào. Đồng bào Bù Cháp
vẫn một lòng thuỷ chung với cách mạng, tích cực cùng bộ đội
xây dựng và bảo vệ căn cứ. Do địch càn quét liên miên, một bộ
phận đồng bào Bù Cháp chuyển lên phía Bắc, khu vực Bù Na,
Bù Tôn lập rẫy sinh sống. Cơ quan lãnh đạo cùng C59 phải liên
322

33.3 Page 323

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tục chuyển dịch căn cứ, công tác sản xuất gặp nhiều khó khăn,
tình hình thiếu gạo, thiếu muối diễn ra từng ngày một. Bộ phận
đồng bào Bù Cháp còn lại đã chỉ cho bộ đội C59 đào củ chụp
ở đồi Bằng Lăng ăn thay cơm. Đông bào tổ chức đi tìm đào củ
ủng hộ bộ đội, người 30kg, người 20kg. Sang đầu năm 1959 hơn
100 đồng bào Bù Cháp, Lý Lịch cùng bộ đội C59 lên Bù Tôn thu
hoạch lúa. Đây là số lúa do đồng bào Bù Cháp tránh càn lên sản
xuất từ cuối năm 1958. Việc góp củ chụp, củ mì, gạo, lúa cho bộ
đội trong lúc mình còn thiếu ăn là hình ảnh cao quý nặng tình cá
nước, tình quân dân, biểu thị tấm lòng yêu thương và thuỷ chung
rất mực của đồng bào Bù Cháp. Số củ chụp, củ mì và hàng tấn
thóc thu hoạch ở Bù Tôn đã góp phần giải quyết được nạn đói
cho cơ quan lãnh đạo miền Đông và bộ đội C59 trong những
tháng cuối năm 1958 và đầu năm 1959.
Tháng 1/1959, Ban Chấp hành Trương ương Đảng Lao động
Việt Nam ra Nghị quyết 15. Nghị quyết vừa ra đời thì phong trào
đồng khởi, vũ trang nổi dậy trên khắp miền Nam. Ở các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, nhất là khu vực ven Chiến khu Đ, nhiều
xã nhân dân đã nổi dậy diệt ác phá kiềm giành quyền làm chủ.
Cùng với các xã thuộc huyện Độc Lập (vùng Chiến khu Đ), dưới
sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là các đồng chí cán bộ người
kinh như Ba Dục, Bảy Phú, Hai Hồng... các xã Bù Cháp 1, Bù
Cháp 2 đã tiến hành xây dựng các làng xã chiến đấu. Đồng bào
dân tộc S’tiêng ở Bù Cháp sát cánh bên nhau tăng gia sản xuất
ủng hộ kháng chiến, góp công sức nuôi cán bộ cách mạng trong
những ngày đầu kháng chiến. Ngay từ những năm 1960 - 1961
Mỹ Diệm đã tiến hành ủi phá rừng, khai hoang vào sâu hai phía
Nam và Bắc lộ 20. Chúng mở các tuyến đường từ Đồng Xoài (lộ
14) đến bờ sông Đồng Nai, từ Tà Lài đi Vĩnh An nhằm chuyển
quân đánh phá Chiến khu Đ. Để tăng cường chốt chặn và đánh
phá cách mạng, địch tập trung mở rộng và xây dựng thêm hàng
chục đồn bót lớn nhỏ, trong đó bót Tà Lài thường xuyên có 1 đại
đội lính bảo an trấn giữ. Chúng liên tục càn quét gom đồng bào
323

33.4 Page 324

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dân tộc về xây dựng ấp chiến lược ở Lợi Tân Định Quán, triệt
phá các cơ sở kinh tế vùng căn cứ, rải quân chốt chặn khống chế
cửa ngõ phía Đông Chiến khu Đ.
Cuối năm 1963, du kích Bù Cháp cùng với bộ đội chủ lực
quân khu đã mở nhiều đợt tiến công vào các đồn bót địch, gây
cho chúng nhiều tổn thất. Đến năm 1964, chúng buộc phải rút
bỏ các đồn bót ở khu vực này. Hệ thống ấp chiến lược ở Tà Lài
cũng như ở ven sông Đồng Nai bị phá bỏ hoàn toàn.
Khu vực xã Bù Cháp và xã Tà Lài là nơi căn cứ địa, nơi đóng
quân của các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương (K9,
C374, D800) và các đoàn hậu cần của tỉnh, của miền Đông Nam
Bộ (814). Trong chiến dịch giải phóng miền Nam năm 1975, Tà
Lài là nơi tập kết và vận chuyển quân, vũ khí, khí tài... từ Chiến
khu Đ, vượt sông Đồng Nai tiến ra 125 để thực hiện nhiệm vụ
giải phóng Chi khu Định Quán, góp phần vào công cuộc giải
phóng miền Nam 30/4/1975.
Trong suốt 2 cuộc kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, đồng bào dân tộc S’tiêng ở Bù Cháp, Châu Mạ ở Tà
Lài luôn một lòng một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng, luôn
sát cánh cùng bộ đội chiến đấu, làm nhiệm vụ phục vụ chiến
đấu, che chở cho bộ đội, cho cách mạng trong lúc khó khăn ác
liệt nhất.
Trước năm 1975, ở khu vực km 15 có số người đạo Hoà Hảo
vào khai phá khoảng 20 hécta rừng để làm rẫy, lập chùa và tên
xóm Chùa có từ ngày đó. Sau ngày miền Nam giải phóng, số dân
theo đạo Hoà Hảo trên có biểu hiện chống đối chính quyền cách
mạng như tổ chức tập hợp đạo hữu tại bờ sông Đồng Nai, treo cờ
“Việt Nam Cộng hòa” và hô các khẩu hiệu chống cộng, nên nhà
nước đã bắt số người này đi cải tạo vì cho là có liên quan đến
phản động (ông Năm To ở Phú Thịnh và ông Tám Mỹ biết việc
này). Năm 1975, gia đình bà Sáu (ngoại ông Mẫm) vào canh tác
trên diện tích đất này cho đến ngày nay.
324

33.5 Page 325

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Năm 1976, Nhà nước tiến hành xây dựng khu kinh tế mới Tà
Lài và đặt tên là đường Tà Lài. Phân chia thành 3 khu: Khu A từ
km 11 đến km 14, Khu B từ km 14 đến km 15, Khu C từ km 15
đến km 17 và cho xây dựng nhà cặp theo hai bên trục lộ Tà Lài.
Ngày 19 tháng 1 năm 1976, khu kinh tế mới Tà Lài tiếp nhận hộ
dân từ quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh lên lập nghiệp
và lần lượt thêm 5 đợt đã đưa tổng số dân lên kinh tế mới là 519
hộ với 2.732 khẩu (con số thống kê năm 1977 khi thành lập xã),
bố trí ở Khu A và lần lượt nhiều đợt bố trí ở các Khu B và Khu C.
Ban Điều hành kinh tế mới lúc này do đồng chí Lư Nhiên (Bảy
Nhiên) làm Trưởng Ban Điều hành, đồng chí Nguyễn Hữu Bích
(Tám Bích) làm Phó Ban Điều hành phụ trách an ninh, đồng chí
(Tư Kiệt) làm thư ký... Thời gian này nhân dân được Nhà nước
cấp cho mỗi hộ một căn nhà tranh, 20m đất mặt tiền, cấp lương
thực, thực phẩm, cuốc, xẻng, dao phát... Ban Điều hành kinh tế
mới đã chỉ đạo nhân dân khai phá rừng phía sau nhà trở ra để lấy
đất trồng trọt, ban đầu chủ yếu trồng bắp, khoai mì..., đồng thời
thành lập các tổ vần đổi công nhằm tương trợ lẫn nhau trong
sản xuất. Mặt khác, nhân dân phải vào rừng lấy măng tre, săn
bắt thú rừng và đánh bắt cá trên các bàu hoang, khe suối để bổ
sung cho bữa ăn hàng ngày. Thời gian này rừng rú hoang sơ, cá
và thú rừng rất nhiều như: heo rừng, nai, khỉ, voọc, cheo, chồn,
nhím...; các loài cá nước ngọt như: cá lóc, trê, rô, sặc, ốc bưu
đen, ốc gạo... và rau muống nhiều vô số kể. Người dân chỉ cần ra
sau nhà là có thể săn bắt được thú rừng, vào các bàu hoang, khe
suối đều có thể bắt được cá, bắt ốc, hái rau muống.
Khoảng tháng 2/1977, Nhà nước giải thể khu kinh tế mới, sáp
nhập khu vực này với khu vực Tà Lài, Bù Cháp thuộc huyện Độc
Lập (nay là ấp 4 xã Tà Lài) để thành lập xã Phú Lập, gồm 5 ấp.
Lấy khu A làm ấp 1, khu B ấp 2, khu C ấp 3, khu Tà Lài ấp 4.
Dân số ban đầu có 550 hộ với khoảng 3.000 nhân khẩu (trong đó
đồng bào dân tộc S’tiêng ở Bù Cháp và khu Phước Sang trên 50
hộ). Chi bộ Đảng được thành lập để lãnh đạo nhân dân. Trong
325

33.6 Page 326

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
thời gian này, nhà nước không còn trợ cấp đầy đủ như trước nữa,
chủ yếu chỉ cấp muối.
Nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống nhân
dân, chi bộ Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiếp tục khai hoang, mở
rộng diện tích ngoài 300m trở ra và cho khai phá khu vực Láng
Bồ (nay là ấp 4 xã Tà Lài), đồng thời thành lập 03 tập đoàn sản
xuất nông nghiệp, gồm: tập đoàn 1 ở ấp 1, tập đoàn 2 thuộc ấp
2, tập đoàn 3 thuộc ấp 3, để phát triển sản xuất lương thực, đảm
bảo cuộc sống cho nhân dân, đồng thời bước đầu thực hiện mô
hình kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đảng và Nhà nước đề ra. Tuy
nhiên, do nhân dân kinh tế mới quen với lối sống thành thị, chưa
có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp nên không tự túc
đảm bảo cuộc sống. Mặt khác, vào năm 1978 cả nước rơi vào
dịch hoạ rầy nâu, ở Phú Lập rầy nâu đã làm hư hại toàn bộ mùa
màng của nhân dân địa phương, nhân dân thiếu đói phải ăn rau,
chuối, khoai mì, cá, ốc, thú rừng và đi làm thuê ở địa phương
(xã Phú Lộc, nay là xã Phú Thịnh) để kiếm sống, số khác bỏ về
Thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến năm 1979 số hộ dân kinh tế
mới bỏ đi là 55 hộ với 420 khẩu. Vào thời điểm này, nhà ông
Út Sẽ (Chủ tịch Ủy ban nhân xã) có trồng hơn 1 hécta khoai mì,
đây là nguồn lương thực cứu đói quan trọng trong thời gian này.
Về tình hình an ninh chính trị: thời gian năm 1977, với sự
lãnh đạo của chi bộ Đảng (trực tiếp là đồng chí Nguyễn Công
Đức Bí thư Chi bộ), trung đội du kích xã (người dân tộc S’tiêng
ở ấp 4) còn triệt phá nhóm Fulro ở Tà Lài do K’Rùn, K’Liếp,
K’Tân cầm đầu; tiêu diệt nhóm Fulro gồm 5 tên từ Lâm Đồng
lẩn trốn về ẩn náu.
Tháng 9 năm 1977, trung đội du kích xã phối hợp với bộ đội
huyện và tiểu đoàn 45 của Tỉnh đội bao vây tiêu diệt toán tàn
quân do Lý Phá Sáng cầm đầu ở đảo Bàu Kiên (nay thuộc xã
Phú Thịnh); sau một ngày, một đêm giao tranh ta đã tiêu diệt tại
chỗ 21 tên, số bị bắn chết chìm và bỏ trốn trên 20 tên, bắt sống 2
326

33.7 Page 327

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tên chạy trốn về xã Phú Hòa, qua đó góp phần giữ vững an ninh
chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và góp phần chung
vào việc truy quét tàn quân, phản động còn lẩn trốn phá hoại.
Từ cuối năm 1979, dân cư từ 125 (xã Phú Lộc cũ), 115 (xã
Phú Hòa huyện Định Quán) ồ ạt vào khai phá rừng (ở khu vực
ấp 5, 6 ngày nay) để làm rẫy và trồng các loại cây hoa màu như:
Đậu nành, bắp, dưa leo, cà tím, thuốc lá... nhưng đã bị chính
quyền bắt xử lý nên đất bị bỏ hoang. Năm 1981, huyện đã giao
diện tích đất trên cho các đơn vị bộ đội thuộc Quân khu 7 như:
Đơn vị Phòng Không, Trường Quân chính Quân khu 7 (khu vực
Bàu Sấu), Quận đội Quận 4 (khu vực chùa Cao Đài), Huyện đội
Tân Phú (khu vực bàu Ba Còn), sau đó do sản xuất không hiệu
quả nên các đơn vị bỏ đất hoang hoá, chính quyền xã đã thu hồi
và lần lược giao lại cho nhân dân để sản xuất.
Năm 1981 trở đi, dân di cư tự do từ các tỉnh phía bắc như:
Hà Nam Ninh, Cao Bằng và các tỉnh miền Tây Nam Bộ như:
Tiền Giang, Bến Tre và nhân dân trong huyện và tỉnh như: Phú
Lộc, Phú Hòa, Long Khánh... cũng tràn vào tìm kiếm đất để
lập nghiệp, đưa những kinh nghiệm sản xuất từ các nơi đến để
phát triển kinh tế tại địa phương, từ đó thúc đẩy kinh tế - xã
hội của địa phương phát triển mạnh mẽ và đa dạng, sản phẩm
nông nghiệp tăng đáng kể về số lượng và chủng loại như: lúa,
bắp, đậu nành, thuốc lá, cà phê, hồ tiêu... Đây là thời kỳ Đảng
lãnh đạo nhân dân tích cực xây dựng các tập đoàn sản xuất nông
nghiệp và áp dụng khoán 100 đối với nông nghiệp - nông dân.
Toàn xã xây dựng được 17 tập đoàn sản xuất nông nghiệp; cửa
hàng thu mua lương thực, thu mua nông sản cũng được công ty
lương thực, công ty thương mại của huyện đầu tư xây dựng; các
hàng quán dịch vụ cũng được mở mang phát triển phục vụ nhu
cầu cho nhân dân.
Tháng 11/1988, với chủ trương giải thể Xí nghiệp Liên hiệp
600 và thành lập các xã khu vực phía Bắc huyện Tân Phú, Phú
327

33.8 Page 328

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lập được cắt một phần đất khoảng trên 100 hécta để thành lập
xã Núi Tượng.
Năm 1991, tuyến đường giao thông vào xã Núi Tượng qua xã
Nam Cát Tiên được khai thông, giao thông thuận lợi, giao lưu
hàng hoá bắt đầu phát triển. Đảng bộ xã đã tiến hành vận động
nhân dân hiến đất để xây dựng chợ xã, từ đó thương mại dịch vụ
bắt đầu có bước phát triển.
Giai đoạn từ năm 1991-1993, do bị bao vây cấm vận, các
nước phe xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ, không còn sự hỗ trợ từ bên
ngoài nên xã nhà cũng bị ảnh hưởng rất lớn, sản xuất đình đốn,
hàng hoá sản xuất tiêu thụ không được, nhân dân gặp không ít
khó khăn.Về an ninh trật tự trong giai đoạn từ năm 1980 trở đi,
do dân cư từ nhiều nơi đến lập nghiệp, lai lịch không rõ ràng nên
việc quản lý nhân hộ khẩu cũng gặp không ít khó khăn, là nơi
các phần tử xấu, bọn tội phạm gây án từ các nơi cũng về đây ẩn
náu; tình hình quản lý rừng lỏng lẽo, nên nạn khai thác gỗ quý
như: gõ đỏ, cẩm lai, bằng lăng... ở rừng Nam Cát Tiên (khu vực
Tà Lài) rất phổ biến. Lúc này, lực lượng công an, xã đội kết hợp
với lực lượng công an huyện, huyện đội và các lực lượng công
an các tỉnh khác đã kết hợp phá nhiều vụ án, bắt nhiều đối tượng
tội phạm chính trị, hình sự, Fulro lẩn trốn trên địa bàn và phối
hợp với lực lượng kiểm lâm rừng cấm Cát Tiên bắt giữ nhiều đối
tượng vào rừng cấm khai khác thác gỗ trái phép và thu về nhiều
hàng trăm m3 gỗ các loại.
Về công tác Đảng: Tháng 3/1977, Chi bộ Đảng cũng được
thành lập, đồng chí Nguyễn Công Đức làm Bí thư, đồng chí
Đinh Văn Sẽ làm Phó bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng
chí K’Bôn làm Phó chủ tịch Ủy Ban Nhân dân xã, đồng chí
Huỳnh Văn Nu làm Trưởng Công xã, đồng chí K’Bố làm xã
đội trưởng, đồng Phạm Văn Dự là thư ký UBND. Chi bộ Đảng
tiến hành củng cố các ngành, đoàn thể, đồng thời lãnh đạo nhân
dân tăng gia sản xuất ổn định cuộc sống. Thời gian từ cuối năm
328

33.9 Page 329

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
1979 đến đầu năm 1980 có đồng chí Huỳnh Xuân Cảnh, Phan
Văn Phú... và nhiều đảng viên từ sư đoàn 600 (đơn vị hậu cần
Quân khu 7) như: đồng chí Nguyễn Anh Điện, Lê Hồng Biên,
Nguyễn Công Minh, Phan Tấn Ngọc, Phạm Văn Trường, Đặng
Ngọc Xuân, Dõ Văn Dân, Nguyễn Hồng Luông, Trần Văn Ne,
Nguyễn Quốc Hớn... (các đồng chí sau này giữ các chức vụ quan
trọng của xã) cũng về đây lập nghiệp, tập trung ở bờ sông Đồng
Nai nên gọi là khu Gia Đình thuộc khu ấp 5. (nay là ấp 5 xã Tà
Lài), góp phần tăng thêm số đảng viên của Chi bộ lên và thành
lập Đảng bộ.
Qua kỳ đại hội Đảng từ năm 1977 đến 1994, Đảng bộ đã lãnh
nhân xã Phú Lập đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao cuộc
sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một đi lên, diện
mạo địa phương từng bước được thay đổi đáng kể, niềm tin của
nhân dân đối với vai trò của Đảng và Nhà nước được nâng cao.
Hệ thống chính trị được củng cố kiện toàn, đủ sức thực hiện tốt
vai trò tham mưu cho Đảng trong công tác vận động quần chúng.
Đến ngày 1 tháng 9 năm 1994 xã Tà Lài được tách ra từ xã
Phú Lập lấy ranh giới tại km số 14. Nhân dân Tân phú, đặc biệt
là đồng bào các dân tộc Chơ-ro, S’tiêng, Châu Mạ nay thuộc xã
Tà Lài; từ ngày có Đảng gieo mầm cách mạng đã một lòng một
dạ đi theo Đảng đến cùng. Họ đã từng cắt máu ăn thề “không
ăn cơm hai nồi, không ở hai lòng, mãi mãi là con cháu cụ Hồ”.
Ngay từ năm 1941, đồng bào dân tộc ở đây đã tận tình giúp đỡ
các chiến sĩ cộng sản vượt ngục Tà Lài trở về Sài Gòn khôi phục
phong trào cách mạng lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa
giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm1945.
Đến Tà Lài hôm nay, mọi người dễ dàng nhận ra sự thay đổi
rõ rệt của xã anh hùng. Những căn nhà đơn sơ ngày nào đã được
thay thế bởi những căn nhà mới xây khang trang theo kiến trúc
hiện đại. Những công trình công cộng như Trung tâm văn hóa,
Trung tâm học tập cộng đồng, trường học, trạm y tế đã được xây
329

33.10 Page 330

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dựng hoàn chỉnh và đặc biệt là đang xây dựng cầu treo Tà Lài
nhằm phục vụ cho nhu cầu đi lại cho nhân dân trong xã. Tuyến
đường trục chính dẫn vào xã được nhựa hóa làm thay đổi bộ mặt
nông thôn nơi đây. Các tuyến đường liên ấp cũng tiếp tục được
làm mới, nâng cấp và mở rộng, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu
thông thương và đi lại của người dân trên địa bàn.
Có được như ngày hôm nay, đồng bào các dân tộc ở Tà Lài đã
phải chịu bao gian khổ, bởi đây là một phần của Chiến khu Đ.
Trong hai cuộc kháng chiến, cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
đã trút bom đạn xuống vùng đất này nhằm cắt đứt nguồn tiếp
tế cho cách mạng. Nhưng bà con ở Tà Lài vẫn một lòng một dạ
theo Đảng, theo Bác Hồ để làm cách mạng. Phương châm “cơm
không ăn hai nồi, không ở hai lòng” vẫn được đồng bào ở Tà Lài
gìn giữ đến ngày hôm nay.
Những điều được ghi trong văn bản chỉ là một phần của lịch
sử Tà Lài. Trong ký ức của đồng bào, còn nhiều thuộc lịch sử
của trí nhớ. Theo lời kể của các nhân chứng, thời kỳ chống Mỹ,
vào khoảng năm 1970, vùng đất khu vực ấp 4 xã Tài Lài là khu
vực 3/7 xã của huyện Độc lập, tỉnh Tân Phú (do cách mạng thành
lập) gồm các xã: Bù Cháp 1, Bù Cháp 2, Tà Lài. Nơi đây là vùng
căn cứ địa cách mạng, có các dân tộc S’tiêng và Châu Mạ sinh
sống. Về cơ sở đảng và đảng viên lúc bấy giờ như sau: Xã Bù
Cháp 1: Ông K’Lư làm Bí thư chi bộ Đảng, sau đó ông chuyển
về huyện làm Phó chủ tịch huyện, ông K’Mon (Mon lớn, hay
còn gọi là Hai Mon) thay ông K’Lư làm Bí thư, ông K’Bôn làm
Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban Hành chính xã, ông K’Bố làm Xã
đội trưởng, ông K’E làm Xã đội phó, năm 1974 chuyển về huyện
làm Phó phòng Công an huyện. Xã Bù Cháp 2: Ông K’Ung (Út
Ung), K’Gang, K’Soi, ông K’Nanh, ông K’Rét, ông K’Bin. Xã
Tà Lài: Ông K’Gõ, ông K’Rao (Ba ka Rao), ông K’Dơi.
Ông K’Bôn cho biết thêm, lúc đó xã Phước Sang nằm ở khu
vực suối Đập Lúa, Bàu Sấu, ông Nguyễn Công Đức làm Bí thư,
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ông Tám Lâm làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính, và ông Hiệp -
đảng viên, đây là 3 đảng viên đầu tiên của xã Phước Sang lúc
bấy giờ, sau này chuyển thành ấp Phước Sang, nay thuộc ấp 4
Tà Lài.
Ông K’Gõ có kể lại, vào khoảng năm 1971 - 1972, đã bắn
trúng một máy bay trực thăng HU và rơi về hướng Láng Bồ (ấp
7, Tà Lài, nhưng thông tin này không sát thực vì sau giải phóng
máy bay vẫn còn, nếu bị bắn rơi giai đoạn Mỹ còn ở Việt Nam
thì chúng sẽ cho cứu hộ đem máy bay về) nhưng không ai tin,
sau này ông K’Bôn với một số người vào Láng Bồ và tìm thấy
chiếc máy bay ấy, tại hiện trường có 4 sọ người và xương người
chết tại đó.
Trong kháng chiến, ông K’Bôn và các đồng chí cán bộ, đảng
viên và nhân dân các xã thuộc huyện Độc lập tham gia tải đạn,
tải gạo, tham gia đánh đồn bót địch ở Bù Đăng, Bù Na.
Nói về huyện Độc lập thuộc tỉnh Tân Phú, U 50 Quân khu 7
gồm có 7 xã: Bù Cháp 1, Bù Cháp 2, Tà Lài, Bù Đăng, Lý Lịch,
Bàu Phụng, Phước Sang. Ông Ba Dục làm Bí thư Huyện uỷ,
ông Bảy Phú làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện, ông K’Lư
làm Phó chủ tịch huyện, ông Chín Cương làm Trưởng Công an
huyện, ông K’Bố làm Phó phòng Công an huyện. Với những
thành tích trên, nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tà
Lài được phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân(2).
(2) Nguồn: Biên Hòa - Đồng Nai 300 hình thành và phát triển, Nhà xuất bản Đồng
Nai, 1998.
331

34.2 Page 332

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Thạnh Phú
Thạnh Phú(1) là một xã đang phát triển năng động của huyện Vĩnh
Cửu, tỉnh Đồng Nai, được thành lập ngày 12/2/1987 trên cơ sở sáp
nhập hai xã Tân Phú và Bình Thạnh. Trước đây, Bình Thạnh và Tân
Phú là 2 làng thuộc tổng Phước Vĩnh Hạ.
Theo tài liệu của Tòa bố Biên Hòa ngày 15/9/1923, đến ngày
2/5/1957 Bình Thạnh, Tân Phú thuộc quận Tân Uyên, Biên Hòa.
Đến ngày 23/1/1959 xã Tân Phú, Bình Thạnh thuộc quận Tân Uyên,
tỉnh Phước Thành. Đến ngày 22/3/1963 Bình Thạnh, Tân Phú thuộc
tổng Thanh Phong, quận Công Thanh. Theo quản lý của chính quyền
cách mạng, trước năm 1948, Bình Thạnh, Tân Phú thuộc quận Châu
Thành, từ năm 1948, thuộc huyện Vĩnh Cửu.
Thạnh Phú có vị trí Đông giáp phường Tân Phong, Tây giáp xã
Tân Bình, Nam giáp sân bay Biên Hòa và Bắc giáp bờ tả ngạn sông
Đồng Nai; diện tích tự nhiên là 1.355 hécta; thời điểm năm 2000, dân
số có 1.500 hộ với 8.070 khẩu, phần đông là người Kinh, sống lâu
đời ở địa phương, theo tục thờ cúng ông bà, một số ít theo đạo Phật
và đạo Cao Đài.
Do Thạnh Phú có địa thế tiếp giáp sân bay Biên Hòa, trải dài
theo bờ sông Đồng Nai, có những cánh rừng chồi rậm rạp và đồn
điền cao su hàng trăm hécta nên địa bàn thuận lợi cho các lực
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Cửu.
332

34.3 Page 333

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lượng cách mạng xây dựng cơ sở bám sát cơ quan đầu não của
địch; cũng là địa bàn trọng điểm địch tập trung đánh phá hòng bảo
vệ vành đai đầu não Biên Hòa.
Thời Pháp, giặc lập một chi khu nằm ở trung tâm xã (Quartier
Tân Phú), có đài quan sát cao trên ngọn Cây Dầu để kiểm soát diện
rộng, không chế người dân đi lại làm ăn. Lại có lực lượng biệt kích
Commando thường xuyên lùng sục, truy lùng cộng sản, tra xét người
lạ vào ra nhằm bảo vệ tầm xa các cơ quan trọng yếu của chúng ở
Biên Hòa.
Thời Mỹ, chính quyền Mỹ và tay sai năm 1963 lập chi khu
Công Thanh, giao một đại đội lính bảo an 462 và đội dân vệ ngày
đêm ruồng bố, kiểm soát gắt gao nhằm bảo vệ sân bay Biên Hòa
và Bộ Tư lệnh Quân đoàn III, đồng thời làm bàn đạp tấn công
Chiến khu Đ.
Đối với cách mạng, Thạnh Phú là vành đai bảo vệ Chiến khu Đ
nên dù kẻ địch có tập trung lưng lượng đến đâu, thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt đến thế nào, cách mạng vẫn kiên quyết bám trụ, bám
dân để xây dựng lực lượng đánh địch, tạo thời cơ tấn công vào
sân bay Biên Hòa và Bộ Tư lệnh Quân đoàn III, đầu não và dạ
dày của giặc.
Với ý đồ nêu trên, giặc Pháp đã khống chế khu vực bằng bót
Cây Đào và 4 đồn bót lớn khác cùng với 1 tháp canh De La Tour.
Chúng thường xuyên tung quân vào xã càn quét, bắt bớ, khủng bố
nhằm dập tắt phong trào kháng chiến của quân và dân ta. Chúng
dùng những tên tay sai đắc lực tại địa phương theo dõi, kiểm soát
các gia đình có chồng, con, cha, anh tham gia kháng chiến. Nhiều
gia đình bị giặc bắt, bị giam cầm, tra tấn dã man. Đặc biệt, có tên
Tây lai khát máu, ác ôn tên là “Tây Ga” chuyên giết người, cắt cổ
bỏ vào bao bố, đem đầu người để trên gốc cây sau chợ Cây Đào
để thị uy, làm lung lạc linh thần của người theo cách mạng. Lại có
tên Nguyễn Văn Phước (Phước Tây lai) chuyên hãm hiếp phụ nữ.
Chuyện đốt phá nhà cửa, bắn giết đồng bào dã man, dỡ nhà dân
333

34.4 Page 334

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đem về chợ Cây Đào xây dựng đồn bót, lùa bắt trâu, bò, heo, dê
gà, vịt, đem về giết thịt… diễn ra hàng ngày.
Trước những hành động dã man ấy, nhân dân xã Thạnh Phú
nung nấu căm thù; chán ghét cuộc sống bị áp bức, kìm kẹp; nghe
theo Đảng, giác ngộ cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt
trận Việt Minh, tham gia kháng chiến chống Pháp, tạo nên Cách
mạng tháng Tám và chiến thắng 1954.
Dù địch dù đã dùng mọi cách, chẳng những không khống chế
được phong trào cách mạng mà còn gây thêm lòng căm thù, oán
hận của dân ta. Vì vậy phong trào cách mạng được quần chúng
nhân dân Thạnh Phú ủng hộ, ngày càng lớn mạnh.
Xã Thạnh Phú có ông Phạm Văn Khoai tức Phạm Cương Quyết,
người Thạnh Phú, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động
bí mật bí mật từ những năm 1930, là hạt giống đỏ của phong trào
kháng chiến chống thực dân Pháp từ trước 1945. Ông là Tỉnh ủy
viên Tỉnh Đảng bộ Biên Hòa, cùng với các ông Nguyễn Văn Ký,
Phạm Văn Thuận và Hồ Văn Đại lãnh đạo các phong trào kháng
Pháp ở Biên Hòa. Ông Phạm Văn Khoai đã tuyên truyền, giáo dục
một số ngưòi yêu nước thành lập Ủy ban hành động bí mật gầy
dựng các phong trào cách mạng đầu tiên ở Thạnh Phú.
Ngay sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ năm 1945, các tổ chức và
phong trào cách mạng đầu tiên tại địa bàn Thạnh Phú được hình
thành, dần phát triển. Tổ chức Đảng địa bàn Thạnh Phú lãnh đạo
công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân sẵn sàng
tham gia đánh giặc cứu nước. Người dân Thạnh Phú giác ngộ
cách mạng, ủng hộ công cuộc chuẩn bị kháng chiến bằng cách
đóng góp sức người, sức của, ra sức rèn vũ khí thô sơ như dao
kiếm, lựu đạn (bằng gang) tại khu Lò Thổi (nay thuộc ấp 2 xã
Thạnh Phú).
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Đảng bộ và quân dân
địa bàn Thạnh Phú đã chiến đấu kiên cường, tạo nhiều trận thắng
vang dội, lịch sử ghi công.
334

34.5 Page 335

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Tháng 11/1945, lực lượng địa phương chặn đánh địch tại khu
vực ngã ba Cây Đào khi quân Pháp mở cuộc càn quét quy mô từ
hướng Biên Hòa dọc theo liên tỉnh lộ 24 đến trung tâm xã. Địch
dùng xe bọc thép đi đầu, dùng lưới kẽm bao bọc quanh xe quân
sự để cản lựu đạn ném vào. Tổ du kích mưu trí dùng móc sắt cột
vào quả lựu đạn, và đồng chí Trần Ngươn Xôi đã ném hai quả lựu
đạn có cột móc sắt, lựu đạn vướng vào lưới kẽm nổ tung, diệt xe
địch, diệt 11 tên và 20 tên khác bị thương, gồm quân Anh - Ấn.
Thắng lợi ban đầu đã tạo niềm tin, du kích địa phương có thể
đánh giặc, thắng giặc bằng vũ khí thô sơ, tự tạo. Tháng 12/1946,
du kích xã phối hợp với trung đội 6 thuộc Chi bộ đội 310 do đồng
chí Huỳnh Ngọc Đấu chỉ huy, tiến công tiêu diệt lô cốt cầu Ông
Hường, diệt 1 tiểu đội lính Pháp, thu 5 súng và phá hủy 1 xe bọc
thép. Cũng trong năm 1946, du kích xã phối hợp với Ban Công
tác liên khu 2 đánh đồn Tân Phú gây cho địch nhiều tổn thất.
Tháng 3/1947, du kích xã phối hợp trung đội 4 của Chi đội 310
do đồng chí Nguyễn Ngọc chỉ huy, tấn công vào bót Cây Đào, đốt
phá các nơi giặc chiếm đóng. Tháng 11/1947, du kích xã phối hợp
với ban công tác liên khu 2 và BI thuộc 310 tấn công vào đơn vị
pháo binh của địch gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Ngày 30/8/1948, du kích xã phối hợp với Đại đội Bắc Sơn do
đồng chí Năm Quảng chỉ huy, phục kích diệt được tên Phước Tây
lai tại khu Cây Quéo. Tên Phước xảo quyệt, ngụy trang, ngồi đánh
xe bò, nhờ du kích am hiểu đã nhận dạng đúng là Phước, hắn bị
diệt ngay từ loạt đạn đầu tiên. Kết quả trận đánh tốt, ta thu gọn và
làm chủ trận địa, thành công này có tác dụng răn đe cho những tên
ác ôn khác, mang lại sự phấn khởi cho nhân dân.
Ngày 26/6/1948, lực lượng du kích xã tổ chức đánh địch tại
trường Bà Bành (ngã ba Tân Phong) diệt tên Hồng Sơn - đầu tộc
đạo Cao Đài ác ôn và 8 tên khác, thu 6 súng các loại. Năm 1949,
lực lượng du kích xã phối hợp đại đội 308 và đại đội Nguyễn Văn
Nghĩa đánh bót Cây Dầu, tiêu diệt toàn bộ đại đội Commando
335

34.6 Page 336

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
gồm 90 tên.
Năm 1952, lực lượng du kích đã đánh bót Cây Đào tiêu diệt 1
trung đội lính Pháp và 1 tên ác ôn khét tiếng.
Tháng 11/1953, lực lượng du kích xã phối hợp với đại đội Lam
Sơn đánh trận Miễu Bà gây cho địch nhiều tổn thất. Ngoài ra
trong chiến dịch diệt ác phá kìm ta đã tiêu diệt 3 tên ác ôn (Việt
gian) gồm 1 tên cai tổng và 2 tên hương quản.
Tổng kết giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn
1945-1954, Đảng bộ và quân dân địa bàn Thạnh Phú thắng lợi
toàn diện về quân sự, chính trị và công tác binh địch vận.
Về quân sự, quân dân Thạnh Phú đã tham gia đánh 11 trận, tiêu
diệt 157 tên địch, bao gồm: 42 tên giặc Pháp, 101 tên lính chư
hầu (Anh - Ấn) 14 tên tay sai, trong đó có 6 tên ác ôn có nhiều nợ
máu với nhân dân, thu 11 súng các loại và phá hủy 1 xe bọc thép.
Về chính trị, các cuộc vận động quần chúng nhân dân nổi dậy
tạo được sức mạnh tổng hợp của nhân dân, khiến địch thất bại
nhiều mặt. Năm 1945, nhân dân khu Lò Thổi đập phá các nơi
chiếm đóng của giặc. Năm 1947, ta vận động nhân dân phá cầu
cống số 10 để ngăn chặn đường tiến quân của giặc.
Về công tác binh vận, cơ sở cách mạng Thạnh Phú đã cảm hóa
một lính Pháp mang 1 đại liên và 1 súng trường, từ chi khu Tân
Phú vượt sông Đồng Nai, về Chiến khu Đ, gia nhập đại đội Lam
Sơn.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng bộ và quân dân
Thạnh Phú chịu nhiều mất mát đau thương hơn, đấu tranh gian
khổ hơn, và chiến đấu chiến thắng oanh liệt hơn.
Sau khi thất bại ở Điện Biên Phủ, giặc Pháp ký kết hiệp định
Genève trao trả quyền độc lập, tự do cho đất nước ta. Niềm vui
chưa tròn tháng, đế quốc Mỹ thay chân Pháp, dựng chính phủ Ngô
Đình Diệm, thực hiện âm mưu “diệt cộng”.
Đế quốc Mỹ thay chân Pháp, rút bài học kinh nghiệm từ Pháp,
336

34.7 Page 337

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
dựng chính quyền tay sai, thực hiện chiến tranh xâm lược kiểu
mới, tinh vi hơn, thâm độc hơn. Đối với xã Thạnh Phú, Mỹ và
tay sai dựng nhiều đồn bót, lập bộ máy kìm kẹp tuyển dụng từ địa
phương, dùng thủ đoạn mua chuộc, khủng bố và chiến tranh tâm
lý chia rẽ dân với cách mạng; lê máy chém tận diệt người tham
gia kháng chiến; khi cần, huy động cả máy bay, xe tăng, trọng
pháo, chất độc hóa học sẵn sàng hủy diệt sự sống vùng kháng
chiến.
Chúng mở các chiến dịch mị dân bình định nông thôn, tâm lý
chiến, chiến dịch phượng hoàng… ngày đêm ra sức đánh phá cách
mạng. Các gia đình có chồng, con, cha, anh tham gia cách mạng
hoặc những ai bị chúng tình nghi đều bị đánh dấu trên sổ gia đình
để theo dõi, kìm kẹp, quản lý chặt chẽ. Chúng bố trí lực lượng
bảo an, dân vệ rải đều trong các xóm ấp. Đặc biệt có một căn cứ
giặc Mỹ bố trí gần khu vực Ba Dốc cách chi khu Công Thanh 1km
gồm một tiểu đoàn pháo, một trung đoàn tăng 45 chiếc. Chúng mở
rộng vành đai kiểm soát, dồn dân vào ấp chiến lược để khống chế,
cách ly dân với phong trào cách mạng.
Sau Tết Mậu Thân (1968), Mỹ và chính quyền Sài Gòn điên
cuồng dùng xe tăng, máy bay oanh kích thảm sát dân lành ở ấp
Cây Da, rất nhiều người chết; người địa phương không bao giờ
quên thảm cảnh tang thương này.
Với truyền thống bất khuất chống ngoại xâm, quân và dân xã
Thạnh Phú quyết không chịu khuất phục dưới ách thống trị của
giặc. Thạnh Phú đi vào cuộc trường kỳ chống đế quốc Mỹ, lập
nhiều chiến công lẫy lừng. Có thể kể đến một số trận thắng tiêu
biểu.
Tháng 6/1961, du kích xã phối hợp lực lượng liên xã đánh địch
tại cầu Bà Tiểng, diệt 2 tên địch làm bị thương 1 tên, thu 2 súng.
Tiếp theo, lực lượng du kích Thạnh Phú xã do đồng chí Nguyễn
Văn Dậm (Hai Đậm) chỉ huy phối hợp với với lực lượng huyện
đánh địch tại cua Lòng Nước (thuộc Tân Phú) tiêu diệt 6 tên, thu
337

34.8 Page 338

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
6 súng. Cũng trong năm 1961, du kích xã phối hợp cùng lực lượng
cấp trên tổ chức đánh địch tại khu vực Miễu Ông (ranh giới giữa
Bình Thạnh và Bình Ý) diệt 5 tên địch, thu 3 súng.
Năm 1963, du kích xã phối hợp, với lực lượng huyện Tân Uyên
do đồng chí Út Nọ, huyện đội trưởng Tân Uyên chỉ huy, phục kích
đánh địch tại khu vực Cây Cầy ngăn chặn địch phá cao su với âm
mưu mở rộng sân bay Biên Hòa, kết quả diệt 5 tên địch.
Năm 1964, lực lượng du kích xã phối hợp cùng lực lượng cấp
trên đánh vào chi khu Công Thanh gây cho địch nhiều tổn thất,
làm cho chúng hoang mang. Ngày 30/10/1964, lực lượng du kích
xã do đồng chí Sáu Dên chỉ huy phối hợp cùng lực lượng cấp trên
dẫn đường cho đội pháo H80 Miền pháo kích vào sân bay Biên
Hòa gây cho địch thiệt hại nặng.
Tháng 6/1966, đồng chí Nguyễn Văn Nhứt, du kích xã hoạt
động trong lòng địch được phân công theo dõi và gài 1 quả lựu
đạn M26 trên đường đi càn của giặc Mỹ ở khu rừng Gò Găng, kết
quả diệt 2 tên giặc Mỹ.
Tháng 4/1967, nhằm đánh phá chương trình bình định xây dựng
nông thôn và sự tuyên truyền của địch ở chi khu Công Thanh,
đồng chí Nhứt và đồng chí Bừa (du kích xã) được giao nhiệm vụ
phá hủy chiếc xe chiếu phim, khiến địch sợ hãi, phải dừng chương
trình; qua đó, cảnh báo đồng bào không nghe theo sự tuyên truyền
của địch.
Tháng 7/1967, Ban Chỉ huy xã đội giao nhiệm vụ cho đồng chí
Nhứt (tổ du kích mật) theo dõi nắm bắt tình hình bố trí lực lượng
cùng đường đi nước bước của địch, sau đó đồng chí lãnh nhiệm
vụ đặt mìn ĐH6 diệt 2 tên địch trên đường chúng đi phục kích về.
Ngày 1 tháng 2 năm Mậu Thân 1968, vào lúc 0 giờ đêm 30 Tết,
lực lượng du kích xã Thạnh Phú phối hợp với du kích xã Lợi Hòa,
Bình Hòa và bộ đội huyện Vĩnh Cửu, gồm 2 trung đội có vũ trang
súng P40, P41 và cối 61,81y tấn công vào chi khu Công Thanh,
suốt 5 ngày. Lực lượng của địch ngoài lính bảo an, dân vệ tại chi
338

34.9 Page 339

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
khu còn có sự yểm trợ của trung đoàn tăng từ căn cứ của giặc Mỹ
tại Ba Dốc và quân Mỹ từ Biên Hòa kéo lên chi viện. Nhưng quân
ta chiến đấu kiên cường, anh dũng, diệt được tên Vũ Văn Tiên -
quận trưởng kiêm chi khu trưởng chi khu Công Thanh và hàng
trăm tên khác vừa chết, vừa bị thương, trong đó có 19 giặc Mỹ,
bắn cháy 4 xe tăng.
Bị thua đau, địch phản kích, dùng máy bay rải xăng bột hủy
diệt hàng trăm căn nhà của đồng bào tại khu Cây Da, bị quân ta
bắn rơi 2 chiếc trực thăng.
Năm 1969, du kích xã phối họp cùng lực lượng cấp trên đánh
địch tại khu rừng chồi Gò Miễu, diệt 25 tên, thu 2 súng. Sau đó,
du kích xã phục kích bắn tỉa diệt 2 tên địch, 1 tại tua Cây Sao và 1
tại vườn Bà Trì. Cũng trong năm 1969, du kích xã phối hợp cùng
lực lượng cấp trên đánh địch tại căn cứ Ba Dốc phá hủy 3 trọng
pháo của địch và làm tê liệt 3 khẩu khác.
Trong diệt ác, phá kìm, du kích Thạnh Phú đã dũng cảm đột
nhập 3 lần vào ban ngày cách chi khu Công Thanh chừng 100m,
để diệt những tên ác ôn có nợ máu với dân. Cụ thể, đồng chí Sáu
Dên đã phục kích tiêu diệt tên Nhuận là tên chiêu hổi chỉ điểm tại
khu vực Lò Rèn; tổ du kích mật kết hợp với du kích xã phục kích
diệt 4 tên án ôn khác gồm: 1 tên tình báo chi khu, 1 tên tình báo
đặc biệt, 1 tên tình báo biệt kích Mỹ và 1 tên chiêu hồi chỉ điểm.
Ngày 30/4/1975, nghe tin quân đội Sài Gòn thảm bại ở các
chiến trường, địch ở các đồn bót địa bàn Thạnh Phú hoảng hốt,
buông súng, bỏ chạy hỗn loạn. Nắm thời cơ này, du kích địa
phương phối hợp với nhau tấn công chiếm chi khu Công Thanh,
thu toàn bộ cơ sở vật chất, súng ống, đạn dược cùng một số tài
liệu quan trọng.
Như vậy, trong kháng chiến chống Mỹ, tuy lực lượng của xã
không cân sức với địch nhưng nhờ mưu trí, dũng cảm trong chiến
đấu, được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân, cùng với sự phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của nhiều đơn vị, các trận đánh lớn nhỏ
339

34.10 Page 340

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đều mang lại kết quả thắng lợi vẻ vang.Với ý chí quyết thắng, và
tinh thần bất khuất, Đảng bộ và quân dân xã Thạnh Phú đã vượt
qua những khó khăn, gian khổ góp phần cùng cả nước đánh bại đế
quốc Mỹ xâm lược và tay sai.
Tổng kết cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, xã Thạnh Phú
thắng lợi toàn diện.Về quân sự, quân dân xã Thạnh Phú đánh tổng
cộng 10 trận, tiêu diệt 113 tên địch; gồm 21 tên giặc Mỹ, 102 tên
lính tay sai, trong đó có 4 tên có nợ máu nhân dân, diệt 19 lính
Mỹ cùng hàng trăm tên tay sai khác bị thương; phá hủy 4 xe tăng,
bắn rơi 2 máy bay trực thăng, phá hủy 6 đại pháo và thu hàng trăm
súng các loại.
Về chính trị, năm 1962, vận động 135 thanh niên san bằng các
bờ ấp chiến lược tại hai điểm, 1 tại khu vực vườn chôm chôm và
1 tại ấp Cây Gõ (Gò Bà Đạo). Tháng 10/1965, cơ sở vận động 24
nông dân đấu tranh bằng cách đón đầu 5 chiếc xe tăng của địch
chạy càn làm hư lúa khiến địch phải nhượng bộ. Năm 1968, cơ sở
vận động 45 đồng bào tổ chức đấu tranh đòi về làng cũ để chăm
sóc ruộng vườn, tiện việc sản xuất, bên cạnh đó đấu tranh đòi bồi
thường nhân mạng, đấu tranh đòi ngưng bắn phá bừa bãi, buộc
địch bồi thường nhà cửa bị chúng bắn phá, đốt cháy. Địch phải
nhượng bộ bồi thường hơn 100 căn nhà, cho đồng bào đi lại sản
xuất.
Về binh vận, đã cảm hóa được hàng trăm binh sĩ địch bỏ súng
trở về với gia đình, làm tan rã 2 trung đội dân vệ và 1 đại đội
phòng vệ xung kích. Tổ chức 16 lần rải truyền đơn vừa kêu gọi
binh lính địch bỏ súng, vừa tác động tâm lý gây hoang mang cho
địch. Giáo dục được nhiều gia đình giác ngộ đưa chồng, con, em
mình thoát ly tham gia cách mạng.
Từ trong kháng chiến, nhiều gương điển hình được biểu dương
nhiều gia đình là cơ sở cách mạng đã tự giác đưa chồng con, em
mình thoát ly tham gia cách mạng từ hai, ba người, thậm chí có
trường họp 5 người trong một gia đình tham gia kháng chiến.
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong tổng số 106 gia đình liệt sĩ có 11 gia đình có 2 liệt sĩ, và
3 bà mẹ được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Có những bà mẹ đã ngoài 60 tuổi đã nuôi dưỡng, che giấu
cán bộ cách mạng trong lòng địch như mẹ Huỳnh Thị Chàm, mẹ
Nguyễn Thị Ngoi, mẹ Lê Thị Bồn, mẹ Phạm Thị Biên, mẹ Nguyễn
Thị Ngân, mẹ Lê Thị Ngài. Hàng ngày các mẹ tìm đủ mọi cách
gặp gỡ cách mạng để cung cấp tin tức về tình hình địch, tiếp tế
lương thực, thuốc men. Ngoài ra mẹ Lê Thị Bồn còn đưa 2 con
thoát ly và 1 con cùng mẹ hoạt động bí mật, đào hầm che giấu cán
bộ cách mạng. Trong chiến đấu có nhiều đồng chí rất dũng cảm,
điển hình như đồng chí Phạm Văn Kiệp, trong trận đánh năm Mậu
Thân, lúc địch đang hủy diệt khu Cây Da, đồng chí đã ém quân
tại gò Bà Đạo, khi máy bay địch phát hiện chúng đổ quân định
tiêu diệt ta, đồng chí chờ địch đến gần, một mình nổ súng bắn
chết 9 tên Mỹ bằng khẩu súng carbin. Giặc không tiến vào được
nên dùng lựu đạn ném vào gây thương tích cho đồng chí. Sau đó,
đồng chí được đồng đội đưa về căn cứ và hy sinh trong trận đánh
ác liệt 7 ngày đêm với Mỹ. Đồng chí Kiệp được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ...
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoàn
toàn độc lập, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Thạnh Phú cùng cả nước từng bước đi lên xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Thời kỳ đầu giải phóng, xã Thạnh Phú còn có những khó khăn
nhất định do hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài. Tình hình kinh
tế xã hội lúc bấy giờ rất phức tạp, đời sống rất khó khăn, một số
ít bọn tay sai phản động còn thực hiện âm mưu tuyên truyền gây
chia rẽ giữa chính quyền cách mạng với nhân dân, lén lút vũ trang
nhằm chống phá chính quyền non trẻ. Nhưng mọi mưu đồ của kẻ
địch đều được nhân dân phát hiện và dập tắt kịp thời.
Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính quyền Thạnh Phú
cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết, chung tay xây dựng quê
341

35.2 Page 342

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
hương, góp phần tạo nên sự phát triển toàn diện, đồng bộ như
ngày hôm nay.
Thành tích cả Đảng bộ và quân dân Thạnh Phú đã được Nhà
nước ghi nhận, tặng thưởng 102 Huân chương Kháng chiến Nhất,
Nhì, Ba và 30 Huy chương Kháng chiến Nhất, Nhì, Ba cho các
cá nhân và tập thể, gia đình có thành tích tham gia kháng chiến.
3 bà mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng (Nguyễn Thị Phàm, Trần Thị Răng, Nguyễn Thị Dành).
Theo Quyết định của Chủ tịch nước số 203/KT-CTN ngày
11/6/1999, nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Thạnh
Phú vinh dự đón nhận danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
342

35.3 Page 343

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Phước Khánh
Phước Khánh(1) là một xã thuộc vùng Rừng Sác, địa bàn cuối cùng
phía Tây Nam của huyện Nhơn Trạch, như là một hòn đảo giữa bốn
bề sông nước. Phía Đông xã Phước Khánh giáp rạch Ông Kèo, phía
Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp bưng ruộng xã Phú
Đông, phía Nam giáp sông Lòng Tàu, Cần Giờ. Diện tích tự nhiên
của xã là 3.680 hécta, trong đó diện tích cấy lúa là 2.124 hécta còn
lại là vùng bưng, dừa nước, sình lầy, ngập mặn quanh năm, ẩm thấp.
Dân số trong thời chống Pháp là gần 2.300 người, thời kỳ chống Mỹ
là 867 hộ, với 5.759 người.
Người dân xã Phước Khánh theo 3 tôn giáo, có 1 nhà thờ Thiên
Chúa với 280 hộ theo đạo, với 1.157 giáo dân, 1 thánh thất Cao Đài
với 99 hộ theo đạo có 155 tín đồ, có 1 chùa với 50 Phật tử quy y, còn
lại là hình thức tín ngưỡng dân gian như: đình, miếu, thờ cúng ông
bà. 85% người dân làm nông nghiệp; thương nghiệp, buôn bán nhỏ,
thuê mướn chiếm 15%.
Phước Khánh kênh rạch chằng chịt nhưng nguồn nước ngọt không
có, người dân phải đi 8 đến 10km qua xã Vĩnh Thanh, Đại Phước
mới chở được nước về. Trong giai đoạn chống Pháp và Mỹ, Phước
Khánh cách kho xăng Nhà Bè 2km, cách tổng kho Thành Tuy Hạ
8km và Thành phố Hồ Chí Minh 8km.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
343

35.4 Page 344

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trong hệ thống sông ngòi, Lòng Tàu là con sông lớn nhất cắt rừng
sác thành 2 khu Đông và Tây nối sông Nhà Bè ra tận biển Đông.
Chiều rộng và độ sâu của sông Lòng Tàu rất thuận lợi cho tàu lớn đi
lại. Vì thế từ lâu sông Lòng Tàu đã trở thành đường thủy quan trọng
từ biển vào Sài Gòn của Pháp và Mỹ.
Đặc khu Rừng Sác là yết hầu của thủ đô Sài Gòn, nếu địch chủ
động và khống chế được thủy lộ quốc tế Lòng Tàu thì đương nhiên
tiềm lực chiến đấu của ta trên cả 3 bình diện: chính trị, quân sự, kinh
tế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi vậy, Mỹ đã xây thêm 3 đồn
trong xã, có 2 trung đội nghĩa quân B62, B63 chốt giữ. Phía Nam căn
cứ hải quân, đặc khu Rừng Sác, có sân bay lên thẳng, 1 trận địa pháo
6 khẩu, khu vực yếu điểm của tổng kho xăng dầu bố trí một đại dội.
Dọc sông Lòng Tàu có 1 đại đội 908 tại khu rừng sác. Nhà Bè tăng
cường đưa sang tiểu đoàn biệt động quân số 6, lính sư đoàn 18, Biệt
khu Thủ đô và Đại đội viễn thám thường xuyên thay nhau ruồng bố,
càn quét...
Do vị trí chiến lược quan trọng, tháng 4/1966 Bộ Chỉ huy Miền
quyết định thành lập Đặc khu Rừng Sác là một khu quân sự đặc biệt
rộng 710km2. Đây là khu vực tập hợp 10 xã của nhiều tỉnh, trong đó
có 2 xã Phú Hữu và Phước Khánh của huyện Nhơn Trạch.
Lực lượng đứng chân của ta trong kháng chiến chống Pháp có
trung đoàn 300, bộ đội địa phương Cần Giờ, Trung đoàn 307. Từ
năm 1966 đến 1975, có Bộ Chỉ huy nhẹ, đại đội 5, 1, 2, 3 của đoàn
10 đặc công Rừng Sác.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hơn 90% nhân dân Phước
Khánh lam lũ với đồng ruộng, than củi, nghèo khó nhưng tâm hồn
phóng khoáng, tinh thần giàu lòng yêu nước. Nơi đây có phong trào
yêu nước sớm nhất tỉnh với danh nghĩa là Thiên Địa Hội vào năm
1908 do cụ Nguyễn Xuân Sang phụ trách. Từ những năm 1940, có
nhiều cán bộ cách mạng từ Sài Gòn chạy về Phước Khánh tránh sự
khủng bố của thực dân Pháp, được đồng bào giúp đỡ, che chở. Lực
lượng Thanh niên Tiền Phong được xây dựng năm 1945 bởi thủ lĩnh
344

35.5 Page 345

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đọt (đồng chí Thanh Ba, nay là Thiếu tướng).
Ngày 25/8/1945, mặc dù ở khá xa, biệt lập so với các xã khác trong
huyện nhưng được tin Việt Minh cướp chính quyền thì ở xã Phước
Khánh cũng tổ chức cướp chính quyền thắng lợi. Chính quyền cách
mạng được thành lập, đủ các ban ngành có từ 5 đến 7 người.
Cuối năm 1946, đồng chí Lâm Văn Tám người xã Phước Khánh
được kết nạp vào Đảng. Đến tháng 10/1948, Chi bộ xã được thành
lập gồm 4 đồng chí. Năm 1950 kết nạp 34 đồng chí đưa tổng số đảng
viên toàn xã lên 38 đồng chí (có 33 chính thức, 5 dự bị).
Từ đầu năm 1946, Hội Mẹ chiến sĩ xã Phước Khánh tổ chức xây
dựng phong trào Hủ gạo nuôi quân, có 145 gia đình hưởng ứng sôi
nổi. Chỉ tính từ năm 1947-1951 xã đã góp được 36 ngàn lít gạo.
Phong trào đóng thuế nông nghiệp và tự nguyện nuôi quân tại nhà
cũng rất sôi nổi. Từ năm 1946-1951, trung bình hàng năm đồng bào
đóng từ 10-20 tấn lúa về cấp trên và hàng tấn gạo nuôi bộ đội tại xã.
Hơn 100 gia đình đã đóng góp nhiều lư nhang, chân đèn và đồ
dùng quý bằng đồng được cất giữ lâu đời trong tuần lễ vàng, tuần lễ
bạc. Sau 1 tuần, 8 ngàn kg đồng được chuyển cho công binh xưởng
đúc vũ khí.
Hàng tháng, các mẹ, các chị đều lo gạo, tiền, thuốc men đi thăm
bộ đội và thương binh. Mỗi lần đi, đoàn có từ 10-40 người. Có lần
gặp địch, các chị phải lội sình, vác ghe, đồ đạc đi cả 4-5km mới tới
được. Tuy có trở ngại nhưng các chuyến thăm anh em vẫn thường
xuyên được tổ chức, ngoài tình yêu thương chăm sóc, đùm bọc dành
cho chiến sĩ, thương binh, người dân Phước Khánh còn rất hào hiệp
với các địa phương khác. Đầu năm 1946, đồng bào ở Xuân Lộc bị
đói, Phước Khánh đã cử đoàn cán bộ lên thăm hỏi, chia sẻ, đón 25 hộ
70 người về xã để chăm lo, giúp đỡ tạo điều kiện cho họ sinh sống.
Khi bão lụt năm Thìn 1952 hoành hành, địch lại tăng cường phong
tỏa, chặn hầu hết các ngã đường sông, đường bộ không thể qua lại
được. 36 cán bộ xã và huy động hơn 50 người dân đào một con
mương bí mật xuyên qua rừng Chà Là cắt sông Sở Dừa dài hơn 2km
345

35.6 Page 346

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
trong suốt 1 tháng trời để đưa 23 ngàn giạ lúa về chiến khu Phước
An. Người dân trong xã cũng tham gia mua công trái phiếu ủng hộ
Chính phủ 1.250.000 đồng.
Trong phong trào Tiêu thổ kháng chiến, nhân dân xã Phước Khánh
đã tự phá 150 căn nhà, có 50 căn nhà kiên cố. Đồng bào giáo dân
cũng kiến nghị chính quyền xin tự triệt hạ hệ thống phụ của nhà thờ.
Nhờ vậy mà quân Pháp khi chiếm đóng ở đây xây dựng đồn bót
chậm hơn so với các xã lân cận.
Toàn xã có 260 thanh niên tòng quân (19 nữ, 30 là thanh niên công
giáo). Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ nữ phối hợp với các đoàn thể của xã
5 lần tổ chức gần 1 ngàn lượt người lên Thành Tuy Hạ yêu cầu chống
bắn pháo và càn quét bừa bãi; từ năm 1951-1954, vận động 20 tề, xã
và hàng trăm binh sĩ bỏ ngũ về sinh sống với gia đình.
Lực lượng du kích xã được thành lập sau ngày cướp chính quyền,
1 tiểu đội gồm 12 đồng chí trang bị 1 súng phun lửa, 1 súng 2 nòng,
còn lại là mác, mã tấu. gậy tầm vông. Đến năm 1948, đội du kích
được trang bị đủ súng, làm nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền, trấn
áp bọn tạo phản, giữ địa bàn, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đưa rước
cán bộ… Trong thời kỳ chống Pháp quân, dân Phước Khánh đã tổ
chức đánh gần 200 trận, diệt 167 tên, thu hơn 100 súng, hàng trăm
lựu đạn.
Ngày 20/3/1947, 1 đại đội Pháp và lính Cao Đài từ Bình Khánh
càn sang, 9 du kích phối hợp với lực lượng chi đội 3 chặn đánh. Khi
ghe địch vừa tới, ta nổ súng và ném lựu đạn, bắn chìm 1 thuyền, diệt
16 tên, thu 10 súng, bẻ gãy cuộc càn.
Tháng 3/1948, địch tổ chức càn lớn vào Phước Khánh. Du kích
và lực lượng của trên đã chia làm nhiều tổ, chốt, chặn chia cắt địch
ra nhiều hướng tiêu diệt. Bị đánh bất ngờ địch tháo chạy, bỏ lại 6 xác
chết, ta thu 5 súng, bảo vệ được 5 ngàn giạ lúa cho huyện.
Cuối năm 1948 du kích Phước Khánh phối hợp với du kích Phú
Hữu bao vây bức hàng 2 đồn địch ở rạch Miễu và Miễng Sành (xã
Phú Hữu) trong suốt 2 tháng liền, buộc địch phải rút khỏi đồn.
346

35.7 Page 347

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Sau hiệp định Genève năm 1954, cán bộ, đảng viên trong xã đi
tập kết, chỉ còn lại 1 đồng chí bám giữ xây dựng phong trào. Đến
tháng 12/1956, 10 đồng chí trong số tù chính trị phá khám Tân Hiệp
ở Biên Hòa về Phước Khánh được đồng bào che chở nuôi giấu. Đây
là những cán bộ kiên trung, là nòng cốt cho phong trào cách mạng
ở xã. Năm 1960, Chi bộ Đảng xã Phước Khánh được thành lập có 6
đảng viên. Năm 1961 xã phát triển thêm 1 Chi bộ B (hoạt động hợp
pháp) gồm 4 đồng chí. Trong thời kỳ ác liệt nhất (1966-1972) có lúc
chi bộ chỉ còn 3 đồng chí, nhưng vẫn không dời địa bàn.
Bằng cách đánh nhỏ, lẻ, chủ yếu là diệt ác, thám báo chỉ điểm, gài
trái, mìn du kích Phước Khánh để tạo thế cho các đơn vị thuộc đoàn
10 đặc công Rừng Sác đứng chân làm nhiệm vụ trọng yếu. Quân và
dân Phước Khánh đã đánh 508 trận, diệt 426 tên có 34 lính Mỹ, 24
ác ôn) loại 65 tên, bắt sống 2 tiểu đội, gọi hàng 134 tên, rã hơn 100
tên, thu 412 súng, 3 máy thông tin PRC10, 1 máy PRC25, hàng trăm
mìn trái, hàng ngàn đạn các loại, bắn cháy 2 máy bay trực thăng, phá
và bắn chìm 26 tàu xuồng quân sự (do đoàn 10 đánh).
Tháng 4/1963, du kích đã cùng với 40 thanh niên trong xã chỉ
trong 1 đêm đã phá 3 cầu, cắt đứt đường giao thông trên bộ, hỗ trợ
cho đồng bào trong 3 tháng liên tục 9 lần phá ấp chiến lược, phá
banh hơn 3km rào kẽm gai của 2 ấp chiến lược, buộc địch phải bỏ
xây dựng.
Tháng 5/1964, lực lượng du kích chặn đánh một trung đội địch đi
càn, diệt 3 tên, thu 4 súng, bẻ gãy cuộc càn.
Ngày 27/2/1966, địch từ Nhà Bè càn qua. Du kích Phước Khánh
do xã đội trưởng Hòa chỉ huy, ém quân ở khu vực trại vịt nhà bác
Tám, để cho toán địch vô bắt vịt và mất cảnh giác, ta nổ súng, cả tiểu
đội địch bị diệt, ta thu 4 súng ga-răng, 2 súng cac-bin, 24 lựu đạn,
từ đó đón đánh bọn càn quét vào ấp 1, 2. Được tin 8 du kích Phước
Khánh chặn đánh cả đại đội địch, Bí thư Huyện ủy Nguyễn Văn
Thông ra tận nơi tổ chức rút kinh nghiệm trận đánh, quyết định tặng
lại 2 khẩu súng cac-bin mà du kích đã thu được.
347

35.8 Page 348

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tháng10/1966, 2 du kích dùng trái phục kích bọn lính Mỹ đi càn,
diệt 6 tên Mỹ.
Ngày 21/7/1967, từ khu Nhà Bè địch càn sang Phước Khánh. Chúng
đổ quân bằng trực thăng, du kích xã cùng với Đoàn 10 chia làm 4 tổ
chiến đấu. Dựa vào ô, giao thông hào, lực lượng đã chiến đấu suốt từ 9
giờ đến 16 giờ cùng ngày, diệt 38 tên (có 19 lính Mỹ), bắn cháy 2 máy
bay trực thăng, thu 2 súng M16, 1 súng col 45 ly.
Tháng 8/1967, du kích phục vụ cho Đoàn 10 đánh chìm 1 tàu lớn
chở vũ khí trên sông Lòng Tàu giữa ban ngày.
Cũng trong tháng này, du kích chuyển 11 khẩu ĐKB từ sát sông
Nhà Bè về ấp Miễng Sành, bố trí canh gác, giữ bí mật cho trận đánh.
Trận đánh này, ta bắn trúng kho xăng Nhà Bè cháy suốt 16 tiếng
đồng hồ.
Tháng 3/1973, 2 tiểu đội địch đột nhập vào căn cứ du kích chỉ còn
5 đồng chí (có 2 nữ) vì anh em đi công tác chưa về. Do phát hiện
trước, các đội viên du kích chủ động tấn công, địch rút lui bỏ lại 4
xác chết, ta thu 40 súng.
Về đấu tranh chính trị - binh vận, quân dân xã Phước Khánh lấy
phương châm: chính trị binh vận kết hợp với vũ trang, diệt ác, phá
kìm, làm lỏng sự kìm kẹp của địch, phải giữ được địa bàn, dân cư,
giữ địa bàn cho Đoàn 10 đứng chân. Nội dung đa dạng, phong phú,
hình thức thì tế nhị, sâu lắng, không tổ chức theo quy mô lớn với
năm, ba trăm người rầm rộ trương cờ, biểu ngữ đi đấu tranh như các
xã khác.
Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ nữ xã thường xuyên thăm hỏi, viếng,
giúp đỡ các gia đình binh sĩ, kể cả sĩ quan chế độ Sài Gòn khi có hữu
sự. Hàng ngàn bức thư thăm hỏi của người dân, dòng tộc, xóm làng
gởi cho binh sĩ, sĩ quan, cả với nhà chức trách để thăm hỏi, khích lệ,
kiến nghị yêu sách, nhằm nới lỏng sự kìm kẹp, ruồng bố của địch.
24 tên ác ôn bị diệt, ấp chiến lược 9 lần bị phá, gọi hàng 134
tên, hơn 100 tên rã ngũ, hơn 200 thanh niên trốn lính là kết quả của
công tác chính trị, kết hợp với binh vận. Ngoài ra, còn có một số
348

35.9 Page 349

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thành tích điển hình trong công tác chính trị, binh vận kết hợp ở
Phước Khánh như:
Tháng 3/1955, có một cuộc di dân lớn về Long Thành, cư dân đã
lên đến 7 ngàn người ở thị trấn Long Thành và Đại Phước, đông nhất
là Phước Khánh 4 ngàn người. Việc di dân kèm theo những “chính
sách” gọi là ưu đãi của chính quyền Ngô Đình Diệm để lung lạc gây
chia rẽ giữa dân di cư và dân địa phương như: cấp đất, lập trại, cấp
giống, vật nuôi, đồ dùng, vật dụng... Nắm được ý đồ của địch, ta vận
động giáo dân ở địa phương làm nòng cốt đấu tranh đòi quyền lợi
như: nhà ở, nước uống... Cuối năm 1955, địch phải đưa số dân này về
xã Vĩnh Thanh, là địa phương lúc đó còn thưa thớt người.
Trung thu năm 1955, Ngô Đình Diệm cũng bày trò gửi thơ cho
thiếu nhi thì Phước Khánh xuất hiện bài vè:
Thiếu nhi là cháu Bác Hồ
Ai thèm làm cháu thằng Ngô bao giờ.
Rồi câu vè đó cứ râm ran truyền đi, đến tai “Ông” Diệm và từ
Trung thu sau “Ông” không viết thư nữa.
Trên cầu Phước Khánh, địch giăng một khẩu hiệu lớn “Diệt cộng
là yêu nước” thì sáng hôm sau chữ yêu được thêm dấu sắc, địch tức
tối phải tháo xuống.
Quân dân Phước Khánh còn tổ chức cuộc binh biến, lấy đồn
Phước Khánh năm 1955 rất ngoạn mục. Đồn Phước Khánh do Trung
úy Lạc làm Trưởng đồn, Tư Thức (là con liệt sĩ của 1 gia đình trong
chống Pháp) làm Đồn phó. Bà Phan Thị Nho, má của đồng chí Bí thư
Huyện ủy Nguyễn Văn Thông quen biết với má của Tư Thức đã dùng
kế ly gián, loan tin cho lính trong đồn tin tối mật: Trung úy Lạc đã
có danh sách gửi lên trên, phần đông lính trong đồn là Bình Xuyên
chui vô để lợi dụng thời cơ nổi dậy, má của Tư Thức là người cầm
đầu. Tư Thức kêu Trung úy Lạc sang phòng mình bàn công việc, Lạc
không biết qua liền thì bị Tư Thức kết liễu bằng 1 viên đạn và tuyên
bố với binh sĩ Trung úy Lạc định tạo phản đã bị trừng trị, anh em
ai muốn theo cách mạng thì theo, không thì về nhà làm ăn. Gần 50
349

35.10 Page 350

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
binh sĩ ta tuyển được 21 anh em, còn cho về nhà làm ăn, ta thu súng
54 súng. Huyện ủy sau đó điều đồng chí Nguyễn Minh (5 Ninh) đội
trưởng đội du kích sang làm phó, thành lập lực lượng giáo phái Bình
Xuyên, do Tư Thức là trưởng. Lực lượng này sau tham gia đánh đồn
Long Tân, đánh chốt địch ở chợ Đại Phước, trận đánh này Tư Thức
hy sinh.
Mô hình Hủ gạo nuôi quân được duy trì đến ngày giải phóng.
Từ 145 gia đình đã lên tới 416 gia đình, chỉ trong 15 năm (1960-
1975) nhân dân đã đóng góp được 21.200 lít gạo, 30 ngàn giạ lúa
chuyển về huyện và tỉnh. Năm 1963, địch phong tỏa gắt gao đường
vận chuyển. Một lần nữa, cán bộ và nhân dân xã lại đào tát một con
mương từ rạch Miễu, qua Sở Dừa đến Phú Hữu để chuyển 25 ngàn
giạ lúa về trên.
Đối với bộ đội Đoàn 10, từ năm 1966-1975, mỗi ngày đồng bào
Phước Khánh đã cung cấp lương thực cho gần 300 cán bộ và chiến
sĩ, số lương thực phục vụ đoàn 10, ước tính 22.680kg gạo, nhân dân
còn làm tốt thu đảm phụ bằng lúa trong 10 năm được 360 tấn.
Phục vụ chiến dịch Mậu Thân 1968, nhân dân đã đóng góp cho bộ
đội và du kích 2 triệu đồng tiền mặt, mua 1,2 triệu đồng lương thực,
thực phẩm, thuốc men, ủng hộ 300 con vịt.
Lực lượng thường xuyên của xã có từ 5-12 đồng chí bổ sung cho
lực lượng của huyện. Trong chống Mỹ có gần 200 thanh niên được
bổ sung về trên, xã thành lập tổ dân, tổ giao liên, tải đạn, lương thực,
thực phẩm, đưa đón cán bộ, đơn vị đi làm nhiệm vụ, huy động gần
30 ngàn lượt người đào kênh mương để chuyển lương thực về trên.
Xã cũng thành lập tổ thu lượm bom đạn lép. Hằng tháng có ghe của
huyện xuống chở, hoặc anh em cắt đường vận chuyển về trên hoặc
chuyển cho Đoàn 10 chế tạo thành thủy lôi để đánh tàu. Bom đạn lép
mà xã thu lượm được hàng trăm trái, góp một phần không nhỏ trong
việc tự tạo trái để đánh giặc.
Một số người dân ở Phước Khánh có đóng góp tiêu biểu cho cách
mạng như: Linh mục Nguyễn Văn Hầu (Tự Hiệu), má 6 Nhiều, anh
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Văn Ba (Ba chày mổ), anh Nguyễn Văn Ninh, ông Lâm
Văn Tám, gia đình ông Phan Văn Long, má út Ràng, gia đình ông
Nguyễn Văn Cự, gia đình ông Trần Văn Cảnh, gia đình Chú 7 Độ ,
chị Ba Cầm (Nhụy) anh Phan Văn Hòa, vợ chồng anh Sô, chị 9 Mi,
anh 6 Lô, chị Tới, chị Huệ…
Với địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Địch cố giữ, ta quyết
đánh, cuộc chiến ở đây diễn ra quyết liệt, từng ngày từng giờ, kể từ
năm 1966 khi bộ đội Đoàn 10 về đứng chân trên vùng đất này.
Địch cho rằng không một điểm xuất quân nào khác ngoài Phú
Hữu, Phước Khánh, Rạch Lá... Do đó, địch thường xuyên dùng lực
lượng đặc khu, liên đoàn biệt động quân số 6, càn quét, chà đi xát lại
nhiều lần. Pháo binh thường xuyên bắn cấp tập cả giờ đồng hồ, B52
rải thảm. Bom đạn, pháo, cày xới, đào khoét làm mặt đất biến dạng
mà đến nay vẫn chưa san lắp được. Bom phát quang, chất độc hóa
học đã hủy diệt hàng trăm hécta lúa, hoa màu, vườn tược, hàng ngàn
hécta rừng sác bị tàn phá nặng nề, phá hoại hệ sinh thái của rừng.
Tháng 9/1966, Nha cảnh sát Đô Thành thông báo treo thưởng 10
ngàn đồng cho nhân viên nào bắt được hoặc giết được 1 “Việt cộng”.
Ủy ban hỗn hợp Sài Gòn, Trung tá Nguyễn Văn Luận, giám đốc
cảnh sát cũng ra thông báo: “đồng bào tự tay hạ sát hoặc chỉ cho cơ
quan an ninh bắt được 1 tên Việt cộng thưởng từ 50-100 ngàn đồng”,
hoặc “ai tiếp tế cho Việt cộng 1 lít gạo cũng bị tử hình”. Về mùa khô,
chúng phong tỏa các tuyến đường, triệt nguồn nước ngọt. Đêm đến,
trên các sông rạch, tàu, xuồng địch thường xuyên thả để phục kích,
thế là chạm súng. Những trận đánh lấy nước ngọt cũng trở nên quyết
liệt. Địch càn vào căn cứ, làng xóm chúng đập phá lu, hủ, bồn đựng
nước. Giọt nước mùa khô quý như giọt máu. Địch đã gây tổn thất lớn
đến cách mạng.
Thế nhưng, quân dân xã Phước Khánh vẫn kiên cường chiến đấu.
Trước tiên phải nhắc đến sự hy sinh to lớn của bộ đội Đoàn 10. Đặc
biệt là đại đội 5 đơn vị đặc công của Bộ được điều từ miền Bắc vào
quân số 130 đồng chí, vượt Trường Sơn đã hy sinh 10 đồng chí, đến
351

36.2 Page 352

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tây Ninh được chia làm 2 đơn vị lấy ký hiệu 5A và 5B là đơn vị đặc
công thủy. 5A được chuyển về Vũng Gấm, Nhơn Trạch, 5B về Sài
Gòn. “Gia đình” 5A đứng chân trên địa bàn Phước Khánh được nhân
dân rất tin yêu, giúp đỡ chở che như chính những đứa con ruột thịt
của mình. Đến tháng 4/1971, 5A chỉ còn đủ mâm cơm 6 đồng chí,
rồi đến các chiến sĩ C1, C2, C3 của Đoàn 10 cũng bị tổn thất nhiều.
Thiệt hại của nhân dân thì tăng lên gấp bội, hơn 1 ngàn căn nhà
bị phá sập hoặc cháy trụi, có nhiều gia đình bị đốt phá nhiều lần.
200 thường dân vô tội bị chúng sát hại, trong đó có 40 phụ nữ và em
nhỏ, hơn 6 ngàn giạ lúa bị cướp, bị cháy, trên 200 trâu bò, hàng ngàn
gà vịt bị địch bắn chết hoặc cướp mất, hàng ngàn hécta ruộng bị bỏ
hoang hóa. Hàng trăm người dân bị địch tình nghi, bắt giữ, giam cầm
đánh đập rất dã man, ở đủ các nhà tù, nhiều người trở thành tàn phế,
rất thương tâm, như: má con chị 9 Tiến đều bị tù, khi cách mạng giải
phóng nhà tù, 2 má con chỉ gặp nhau trong phút chốc rồi chị trút hơi
thở cuối cùng khi tuổi đời chưa tròn 20...
Suốt trong 2 cuộc kháng chiến đánh Pháp và Mỹ, lòng dân Phước
Khánh luôn hướng theo Đảng và Bác Hồ kính yêu, tin tưởng thắng
lợi nên một tấc không đi, bám đất, bám làng, chiến đấu sản xuất.
Về quân sự quân dân xã Phước Khánh đánh trên 700 trận, có 100
trận phối hợp với bộ đội đoàn 10, các đơn vị của trên, diệt 593 tên, có
34 lính Mỹ, 24 ác ôn, thám báo, thu 562 súng các loại, gọi hàng 134
tên, bắt sống 50 tên, loại 65 tên, rã gần 300 tên, bắn cháy 2 máy bay
trực thăng, phá và đánh chìm 35 tàu xuồng quân sự, có 1 tàu trọng tải
trên 10 ngàn tấn, thu hàng ngàn đạn các loại…
Hũ gạo nuôi quân của người dân trong góp được 57.200 lít, gạo
cung cấp cho đoàn 10 được 30.260 lít; lúa đẩm phụ góp 1.650 tấn,
lúa tự nguyện đóng góp được 1.720 tấn, mua công trái phiếu được
1.250.000 đồng, góp 8 ngàn kg đồng, huy động trên 30 ngàn lượt
ngày công, 3 lần đào mương để tạo đường vận chuyển lương thực vũ
khí, đạn dược, đào 300m giao thông hào, đắp 95 ô ụ chiến đấu.
Thanh niên tòng quân là 360, bổ sung cho trên và xây dựng lực
352

36.3 Page 353

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lượng xã. Rất nhiều các đồng chí trưởng thành, giữ chức vị cao của
Đảng và Nhà nước (1 trung tướng, 1 thiếu tướng, 2 thiếu tá, 3 tỉnh
ủy viên).
Toàn xã có 114 gia đình liệt sĩ, 6 gia đình có công, 3 bà mẹ Việt
Nam Anh hùng.
Vào năm 1973, quân dân xã Phước Khánh được Tư lệnh Miền
tặng Huân chương Giải phóng hạng Ba; xã còn được tặng 36 Huân
chương Giải phóng hạng Nhất, 18 Huân chương Giải phóng hạng
Nhì, 38 Huân chương Giải phóng hạng Ba; 12 Huân chương Chiến
thắng; 39 Huân chương Chiến công; 28 Huân chương Vẻ vang; Đội
5 thuộc Đoàn 10, 3 lần tuyên dương Anh hùng (các năm 1972, 1973,
1975); danh hiệu Thành đồng Quyết thắng (năm 1968 - 1969); 2 liệt
sĩ được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (đồng
chí Xê, Dần).
Đặc biệt, năm 2000 nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã
Phước Khánh được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu tập
thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
353

36.4 Page 354

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và lực lượng vũ trang
nhân dân xã Long Tân
Xã Long Tân(1) nằm phía Tây Bắc của huyện Nhơn Trạch, phía
Đông giáp xã Phú Hội, phía Tây giáp xã Phú Thạnh, phía Nam
giáp xã Phước An, phía Bắc được bao bọc bởi dòng sông Đồng
Nai, bên kia bờ sông là huyện Thủ Đức (nay là quận 9, Thành phố
Hồ Chí Minh).
Xã nằm dọc 2 bên liên tỉnh lộ 25A (trước kia là liên tỉnh lộ 17)
dài 5km. Tổng diện tích tự nhiên 3.537 hécta, là xã rộng thứ 2 của
huyện Nhơn Trạch, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 2.609
hécta chủ yếu là trồng lúa và hoa màu.
Dân số toàn xã hiện có 6.919 người với 1.379 hộ gia đình,
hầu hết là người tại chỗ lâu đời, chủ yếu sống bằng nghề nông
chiếm 85%. Trước đây, xã có Sở cao su Tân Tường được thành
lập từ thời Pháp thuộc nên có 1 bộ phận dân cư trong xã làm công
nhân cao su. Đến nay, Sở Tân Tường đã được sát nhập vào Nông
trường cao su Thành Tuy Hạ, diện tích cao su trên địa bàn xã có
350 hécta và số dân trong xã là công nhân cao su có 400 người.
Dân cư còn lại trong xã sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau
như: đánh bắt thủy sản, tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
Long Tân có vị trí chiến lược khá quan trọng đối với huyện
Nhơn Trạch: xã có diện tích lớn, trải dài theo trục lộ 17 - liên tỉnh
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
354

36.5 Page 355

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lộ quan trọng để vận chuyển vũ khí, lương thực, quân đội từ Long
Thành về, từ Sài Gòn lên; xã lại nằm trong vành đai (cách 5km)
của tổng kho bom đạn Thành Tuy Hạ - kho đạn lớn nhất miền
Nam thời Pháp và thứ 2 ở miền Nam thời Mỹ.
Địa hình xã phức tạp: phía Bắc đồng ruộng giáp sông Đồng Nai
là con đường thủy huyết mạch, vượt qua sông là đất Sài Gòn. Phía
Nam là rừng giồng mênh mông nối liền với chiến khu Phước An
là một vùng căn cứ nổi tiếng Long Thành - Nhơn Trạch trong cả
2 thời kỳ kháng chiến.
Với địa hình như vậy, Long Tân là nơi rất thuận lợi cho việc trú
quân, là điểm xuất phát cho những trận đánh kho bom đạn, đánh
tàu giặc trên sông và các đồn bót quanh vùng. Do đó, trong cả 2
thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, xã Long Tân luôn là lõm căn cứ
của các đơn vị bộ đội, du kích, của các cơ quan Huyện ủy. Nhiều
năm liền đầu thời kỳ kháng chiến Long Tân còn giữ được vị trí
là vùng tự do của kháng chiến, vùng giải phóng của cách mạng.
Lực lượng vũ trang trên địa bàn xã trong thời kỳ chống Pháp,
ngoài các lực lượng tự vệ dân quân, du kích xã còn có các đơn vị
cơ động của công an xung phong huyện, của các chi đội và trung
đoàn chủ lực thường xuyên qua lại. Trong giai đoạn chống Mỹ,
bên cạnh du kích Long Tân còn có đại đội huyện C240 và các đơn
vị thuộc Đoàn 10 đặc công Rừng Sác.
Về phía địch, do biết rõ vị trí quan trọng của xã nên cả trong
2 thời kỳ Pháp, Mỹ xâm lược, chúng đều tìm mọi cách đánh phá
phong trào cách mạng ở địa phương, xây dựng tề xã và mạng lưới
gián điệp, chỉ điểm để khống chế đồng bào trong xã, xây dựng
đồn bót xung quanh để khống chế đường di chuyển của ta. Khi
không vào được xã, địch bắn pháo cả ngày đêm để quấy rối, tổ
chức nhiều đợt càn quét thọc sâu đốt nhà, giết người, rải chất độc
hóa học phá hoại cây cối hoa màu, sử dụng xe tăng, xe ủi phá rừng
căn cứ.
Vào thời kỳ ác liệt, cao điểm là những năm 1969-1972, địch
355

36.6 Page 356

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đóng trong địa bàn xã tới 9 đồn. Mỗi đồn 1 trung đội lính địa
phương quân, nghĩa quân; 1 phân chi khu 12 lính và sĩ quan; l
cuộc cảnh sát 12 tên, 1 đoàn bình định xây dựng nông thôn. Ngoài
ra còn có các chốt Mỹ 2 tiểu đoàn và chốt lính Thái Lan 2 tiểu
đoàn hòng đánh tan rã các lực lượng vũ trang và phong trào cách
mạng của nhân dân Long Tân.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở xã Long Tân
đã nhen nhóm những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột.
Năm 1927, công nhân Sở cao su Tân Tường trong xã đoàn kết
đấu tranh với chủ Tây đòi tăng lương, chống cúp phạt, đòi nghỉ
chủ nhật và đuổi tên cai gian ác của đồn điền. Công nhân cử
đại diện đến tận nhà chủ sở gửi yêu sách, kết quả chủ Tây phải
nhượng bộ. Từ đó trong công nhân cao su Long Tân đã có cơ sở
Công hội đỏ hoạt động.
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, một số cơ sở mật của Đảng
ở Sài Gòn bị lộ chạy về Long Tân, đã được đồng bào trong xã cưu
mang, giúp đỡ, che giấu và các đồng chí tiến hành tuyên truyền
cách mạng cho giới trẻ trong xã, tạo đà cho phong trào thanh niên
Long Tân phát triển sau Cách mạng tháng Tám.
Ngày 24/8/1945, cùng với toàn huyện, nhân dân Long Tân
vùng lên nhanh chóng giành chính quyền. Ngày 25/8/1945, hàng
trăm thanh niên và các tầng lớp nhân dân trong xã hăng hái xung
phong lên Sài Gòn tham gia cướp chính quyền.
Trong khí thế cách mạng sôi nổi, phong trào thanh niên Long
Tân phát triển mạnh mẽ, Đoàn thanh niên Tiền Phong của xã
nhanh chóng hình thành, chỉ trong 2 ngày xã tập hợp được 180
thanh niên vào tổ chức tham gia mọi mặt hoạt động phục vụ cách
mạng, bảo vệ thôn xóm. Ngày 16/9/1945 cùng với thanh niên các
xã trong huyện, những thanh niên đầu tiên của Long Tân đã tự
nguyện đăng ký lên đường tòng quân.
Thực hiện phong trào toàn dân ủng hộ kháng chiến, ngay từ
cuối năm 1945 đồng bào Long Tân đóng góp cho cách mạng hàng
356

36.7 Page 357

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ngàn giạ lúa. Phong trào Hủ gạo nuôi quân được hầu hết người
dân trong xã thực hiện trong suốt những năm 1946-1948, chuyển
đến các đơn vị bộ đội hàng trăm tấn gạo. Nhiều cơ sở vượt qua sự
kiểm soát của địch mua, tiếp tế quần áo, thuốc men cho bộ đội.
Để phá hoại kinh tế địch, nhằm vào cơ sở khai thác của các
chủ đồn điền Pháp, nhân dân đã huy động hàng trăm công chặt
phá, vạt vỏ cao su, đập chén mủ, nhổ máng mủ làm cho hàng chục
ngàn cây cao su không khai thác được.
Hưởng ứng lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến, đầu năm 1947
đồng bào Long Tân huy động hàng trăm ngày công dùng đục sắt
chặt đứt chiếc cầu sắt lớn trên lộ 17 qua xã. Hàng trăm gia đình
chặt vườn cây, dỡ nhà, cất giấu lương thực lúa gạo dời về chiến
khu Phước An. Phong trào đào đường, đắp ụ chiến đấu cản bước
tiến của giặc Pháp diễn ra sôi nổi trong suốt các năm 1948-1949.
Nhân dân trong xã góp hàng vạn ngày công chặt gỗ lớn trong
rừng về trồng cọc xen với hầm hố trên một vành đai dài 5km từ
ranh giới Long Tân - Phú Hội đến Phú Thạnh, đào gần 100 hầm
lớn chống chiến xa, đặt hố chông, gài lựu đạn góp phần giữ vững
vùng tự do ở 2 ấp Long Hiệu, Vĩnh Tuy trong nhiều năm liền.
Trong tuần lễ đồng năm 1948, hầu hết các gia đình trong xã có
đồ đồng đều đem ra đóng góp cho cách mạng. Toàn xã đã chuyển
hàng tấn đồng, nhiều tấn gang, sắt về chiến khu.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân trong xã Long Tân
đưa hơn 100 con em lên đường nhập ngũ. Điển hình trong phong
trào tòng quân cứu nước là 1 nhóm nhỏ ở ấp Bình Phú chỉ có 34
hộ dân hầu hết làm ở Sở cao su, một số làm rẫy và nghề tự do, chỉ
trong 2 năm 1945-1946 đã có 31 thanh niên nhập ngũ, có 13 liệt
sĩ trong thời kỳ chống Pháp.
Sự đóng góp hy sinh to lớn của nhân dân Long Tân góp phần
làm nên những chiến công trong kháng chiến chống Pháp. Cụ thể
sau Cách mạng tháng Tám thắng lợi, từ phong trào thanh niên tiền
phong, xã Long Tân đã xây dựng được lực lượng dân quân chiến
357

36.8 Page 358

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đấu. Đến năm 1946, mỗi ấp của xã đều có một tiểu đội dân quân,
toàn xã có l trung đội du kích do đồng chí Phạm Tự Do chỉ huy.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, du kích xã Long Tân
vừa chiến đấu độc lập, vừa phối hợp tác chiến với các lực lượng
chủ lực đã đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương nhiều
tên địch Pháp, ngụy, phá tề trừ gian hàng chục tên, hỗ trợ tích cực
cho phong trào quần chúng, giữ vững vùng tự do trong nhiều năm.
Ngày 25/1/1946, quân Pháp tấn công Nhơn Trạch, trận đầu dân
quân Long Tân cùng bộ đội đánh Pháp, trên suốt đoạn đường qua
xã, diệt hàng chục tên lính Âu Phi.
Tháng 4/1946, du kích Long Tân và các xã xung quanh phối
hợp với bộ đội các chi đội vệ quốc đoàn đánh liên tiếp nhiều trận
tiêu diệt 2 trung đội Pháp, bắt sống 2 tên sĩ quan, phá hủy 2 xe
quân sự.
Đầu năm 1947, 2 trung đội lính Commando Thành Tuy Hạ càn
vào ấp Long Hiệu. Lực lượng liên thôn 12 và du kích xã phục kích
trên đường lộ diệt 3 tên, làm bị thương 5 tên, buộc địch phải rút
quân.
Trong năm 1948, bằng những trận chống càn trong và ngoài
địa bàn xã, du kích Long Tân phối hợp bộ đội huyện diệt và làm
bị thương hơn 20 tên giặc, thu 13 súng trong đó có 1 trung liên.
Đặc biệt là trận đánh tàu mủ cao su tại rạch Cui trên sông Đồng
Môn vào đầu năm 1948. Lúc này, đường bộ bị phá, giặc Pháp phải
dùng thuyền để chở mủ cao su. Đoàn thuyền của địch gồm 14
chiếc, có 2 trung đội lính yểm trợ. Đội du kích xã cùng đại đội C
Trung đoàn 310 Biên Hòa đứng chân ở Long Thành đã phục kích,
bất ngờ nổ súng đánh chìm tại chỗ 7 thuyền, diệt 7 tên lính. Địch
hoảng sợ rút chạy, quân ta đốt cháy 7 chiếc còn lại. Đoàn thuyền
địch bị phá hủy hoàn toàn.
Năm 1949, du kích xã đã đánh nhiều trận chống địch càn phá
hoại mùa màng, thu lại nhiều ghe lúa và 50 con trâu trả lại cho
dân. Trong đó, có trận Cầu Ván ở giáp xã Phú Thạnh, mặc dù địch
358

36.9 Page 359

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lên 1 đại đội Cao Đài, ta chỉ có 1 trung đội địa phương và đội du
kích xã, nhưng bằng lối đánh bất ngờ, ta đã diệt được 7 tên, làm
bị thương 10 tên địch, phá vỡ cuộc càn.
Liên tục trong 2 năm 1948-1949, quân giặc càn vào Long Tân
đều bị du kích cùng bộ đội, công an xung phong đánh bật ra.
Chúng không sao vào được vùng tự do Long Tân mà chỉ bắn cối,
pháo từ các bót xung quanh vào xã quấy phá sinh hoạt của nhân
dân.
Công tác diệt tề, trừ gian ở Long Tân rất mạnh trong những
năm đầu chống Pháp khiến cho địch không lập được tề xã suốt
4 năm liền. Nhân vật nổi lên như một huyền thoại là đồng chí
Nguyễn Kim Quy (Ba Quy) quê ấp Long Hiệu, Long Tân. Đồng
chí là chiến sĩ có tài diệt ác, trừ gian, đánh giặc nổi tiếng cả vùng
Nhơn Trạch. Tháng 4/1946, đồng chí Ba Quy bắt sống 6 tên tề xã
Mỹ Hội, thu 6 súng đưa về chiến khu. Các năm 1948-1949, đồng
chí trực tiếp thọc sâu trừng trị, cảnh cáo, thu súng, giáo dục hàng
chục tên tề xã, ấp ở Long Tân và các xã lân cận. Một mình 1 súng
2 nòng, đạn tự chế lấy, đồng chí Ba Quy đi khắp vùng Lòng Chảo
diệt tề, đánh giặc bằng lối đánh thông minh táo bạo, diệt và làm
bị thương nhiều lính Pháp địa phương khiến binh lính địch đã có
câu truyền tụng “Gặp Ba Quy là rỗ mặt”. Địch treo giải thưởng rất
lớn cho cái đầu của anh. Đồng chí Nguyễn Kim Quy đã được kết
nạp vào Đảng năm 1948 tại Chi bộ xã Long Tân và hy sinh tháng
7/1952 do bị lính Cao Đài phục kích tại ấp Long Hiệu.
Trong kháng chiến chống Mỹ, phong trào quần chúng và đấu
tranh chính trị ở Long Tân diễn ra sôi nổi. Thực hiện âm mưu chia
cắt nước ta lâu dài, sau khi đình chiến năm 1954, Mỹ - Diệm đánh
phá ác liệt phong trào cách mạng của quần chúng ở Nhơn Trạch,
trong đó có xã Long Tân.
Các đảng viên được Đảng phân công ở lại địa phương vẫn tiếp
tục bám trụ địa bàn tiếp tục hoạt động. Đầu năm 1958, Chi bộ
Đảng xã Long Tân được thành lập lại với 4 đảng viên, xây dựng
359

36.10 Page 360

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
căn cứ trên rừng Giồng, tổ chức bám quần chúng xây dựng cơ sở,
truyền đơn qua cơ sở được chuyển đến đồng bào trong xã và xã
Phú Thạnh công nhân cao su ở Thành Tuy Hạ.
Do đó, sau ngày đồng khởi, phong trào đấu tranh chính trị và
ủng hộ cách mạng của nhân dân trong xã được phát triển nhanh
chóng, mạnh mẽ. Phong trào Hũ gạo nuôi quân tiếp tục được
nhiều hộ dân trong xã hưởng ứng, mỗi tháng chuyển cho bộ đội từ
200-300kg gạo, liên tục trong nhiều năm. Công tác binh vận được
tổ chức dưới nhiều hình thức như: các bà mẹ vận động con đào
ngũ, hội phụ nữ rải truyền đơn vào đồn địch kêu gọi binh lính bỏ
súng về làm ăn. Đồng bào có ruộng làm riêng cho du kích, cung
cấp lúa gạo cho anh em 2 năm liền.
Ngày 13/6/1961, địch càn vào Lòng Chảo, du kích xã cùng bộ
đội 195 tương kế, tựu kế đột kích phá tan chốt dân vệ ở ấp Long
Hiệu.
Năm 1963, cơ sở xã làm công tác binh vận, kêu gọi được 15
dân vệ ở đồng Long Tân làm nội ứng, tạo điều kiện cho du kích
tiến công đồn diệt 8 tên, gọi hàng 19 tên, thu 35 súng các loại.
Ngày 5/7/1964, Đại đội 240 của huyện cùng du kích xã phục
kích trên lộ 17 diệt 2 xe quân sự và 14 tên địch, trong đó có 1
thiếu úy ngụy và 1 tên ác ôn của yếu khu Tuy Hạ. Trong năm này
tại trận đánh ở Vàm Ông Huê, du kích và bộ đội đã bắn chìm 4 tàu
địch, diệt 18 tên lính ngụy.
Những năm 1962-1964, địch ra sức đàn áp phong trào quần
chúng trong xã, dồn dân lập ấp chiến lược dựng tề xã, ấp kìm kẹp
song nhân dân Long Tân không khuất phục. Các cơ sở mật phục
vụ du kích, bộ đội đánh nhiều trận thọc sâu thắng lợi, diệt hơn 10
tên ác ôn, chỉ điểm, giải tán tề xã. Từ tháng 3/1965, được sự hỗ
trợ của lực lượng vũ trang, đồng bào Long Tân tổ chức được hàng
chục đợt phá ấp chiến lược, mỗi đợt có từ 100-150 người tham
gia. Đến cuối năm 1965, các ấp chiến lược của địch trong xã đều
bị phá tan, 3 trung đội dân vệ của địch tan rã. Trong khí thế sôi
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nổi đó, hàng chục thanh niên Long Tân thoát ly vào căn cứ tham
gia kháng chiến.
Trong 2 năm 1964-1965, nhằm hỗ trợ cho phong trào phá ấp
chiến lược của đồng bào trong xã, du kích Long Tân đã nhiều lần
táo bạo thọc sâu vào lòng địch diệt ác, phá kìm, giải tán hội đồng
xã ấp và diệt hơn 10 tên ác ôn, điệp báo và bình định.
Giữa năm 1965, được cơ sở cung cấp tin tức, du kích Long Tân
và bộ đội 240 phục kích 1 tiểu đội lính nghĩa quân tại ấp Long
Hiệu, tiêu diệt 6 tên, thu 5 súng tiểu liên.
Trong năm 1966, du kích Long Tân và C240 của huyện đánh
2 trận thắng giòn giã, trong đó trận Bến Trảng (ấp Long Hiệu) ta
diệt 42 lính Cao Đài, bắt sống 1 tên, thu 22 súng các loại, có 1
đại liên và 3 trung liên. Trận tập kích đồn Long Hiệu, nhờ có cơ
sở nội tuyến, quân ta tiến công địch vào giữa đêm, diệt và làm bị
thương 9 tên, bắt sống 8 tên, thu 17 súng. Những trận đánh trong
năm 1966 đã làm binh lính, chính quyền Nhơn Trạch rất lo sợ.
Như vậy, trong những năm 1965-1966, Long Tân trở thành
vùng giải phóng. Chúng bắn pháo vào xã, tổ chức càn quét bắt
hàng chục người giam giữ đưa lên khám Chí Hòa, đày ra Côn Đảo
nhưng nhân dân Long Tân vẫn đấu tranh mạnh, liên tiếp tổ chức
hàng chục cuộc đấu tranh từ 30-50 người kéo lên đồn, lên quận lỵ
Nhơn Trạch đòi chúng không được bắn pháo vào nhà cửa, vườn
tược, đòi bồi thường hư hao cây trái và nhà dân. Nhân dân trong
xã còn tham gia gần ngàn ngày công đào đường, phá cầu cống,
đắp ụ ngăn chặn giao thông trên lộ 17, đi dân công tải thương, tải
đạn cho bộ đội đánh giặc.
Trong đợt tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968,
nhiều quần chúng trong xã dùng ghe chở bộ đội qua sông đánh
giặc. Có hàng trăm gia đình chà gạo từ 50-100 lít (khoảng 80kg)
dự trữ cùng thực phẩm, muối để tiếp tế cho bộ đội. Chị em phụ nữ
tổ chức được nhiều đợt thăm, tặng quà cho bộ đội, thương binh
động viên chiến sĩ đánh giặc.
361

37.2 Page 362

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tháng 2/1968, sau khi nghiên cứu năm quy luật hoạt động
đường sông của tàu giặc, du kích Long Tân cung cấp tin và phối
hợp 1 phân đội của bộ đội Đoàn 10 đặc công Rừng Sác phục kích
đánh tàu tải đạn của Mỹ ở khu vực rạch Ông Cuôi, ấp Vĩnh Tuy,
đánh chìm 3 tàu, 8 xà lan, 8 ngàn tấn bom, đạn các loại và thu 1
ngàn trái cối 81 của địch. Tiếp đó, cũng tại ấp Vĩnh Tuy, du kích
cùng bộ đội 240 của huyện đánh địch càn quét diệt 35 tên, làm bị
thương 17 tên, bắt sống 1 tên.
Đặc biệt, những năm 1969-1971 là giai đoạn cực kỳ ác liệt ở
huyện Nhơn Trạch, địch sử dụng tới cấp trung đoàn quân viễn
chinh Mỹ, quân chư hầu Thái Lan, nhiều tiểu đoàn quân Sài Gòn
bình định, bảo an, dân vệ dày đặc cùng máy bay và hàng chục xe
tăng, xe ủi triệt phá rừng Lòng Chảo. Song Xóm Hố - Long Tân
vẫn là căn cứ của lực lượng vũ trang và các cơ quan huyện. Dưới
sự giúp đỡ đùm bọc của nhân dân Long Tân, bất chấp bom đạn,
ác liệt, tổn thất, căn cứ Xóm Hố vẫn tồn tại, bộ đội, cơ quan vẫn
bám trụ cho đến đầu năm 1971 mới dời về Phước An.
Đầu năm 1969, tại ấp Bình Phú, đội biệt động huyện cùng du
kích phục kích xe chở lính tiếp viện cho đồn cầu sắt trên lộ 17,
diệt 25 tên trong đó có 2 tên Mỹ, phá hủy l xe GMC.
Trong các đợt chống càn quyết liệt đầu năm 1971 để bảo vệ căn
cứ Xóm Hố, dù lực lượng của địch đông gấp nhiều lần, song du
kích xã, bộ đội huyện vẫn liên tục đánh địch nhiều trận bằng các
hình thức tập kích, phục kích xung quanh căn cứ diệt hàng chục
tên địch, phá hủy 1 xe tăng và 1 xe ủi.
Năm 1972, đã phục vụ cho đoàn 10, đánh chìm 3 tàu địch cùng
12 ngàn tấn đạn dược tại Vàm Cá Mấu, Rạch Sơn, Ông Huê sông
Đồng Nai.
Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của lực lượng vũ trang xã,
cùng tấm lòng kiên trung của đồng bào Long Tân, qua giai đoạn
ác liệt, đến tháng 1/1975, Long Tân lại được huyện chọn làm căn
cứ đứng chân để chỉ đạo chiến dịch mùa khô. Đầu tháng 4/1975,
362

37.3 Page 363

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Long Tân giải phóng được 3 ấp và ngày 27/4/1975, khi các đơn vị
chủ lực tiến qua xã tấn công Sài Gòn, đồng bào và du kích Long
Tân đồng loạt tiến công, nổi dậy giải phóng hoàn toàn quê hương.
Long Tân là xã sớm có truyền thống đấu tranh cách mạng từ
những năm 20 đầu thế kỷ. Dưới truyền thống đó, trải qua 30 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân
dân Long Tân đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, tổn thất
một lòng theo Đảng đến cùng, không ngừng đóng góp sức người
sức của cho cách mạng, cho kháng chiến.
Tính chung trong 2 cuộc kháng chiến nhân dân trong xã đóng
góp hàng vạn giạ lúa, hàng trăm tấn gạo để nuôi cán bộ, bộ đội,
tham gia hàng chục ngàn ngày công phục vụ kháng chiến, đào
đường, phá cầu, lập ụ chiến đấu, đào hầm ngăn xe giặc, phá ấp
chiến lược và phục vụ bộ đội đánh giặc, đã tự phá dỡ nhà cửa,
chặt phá hàng ngàn cây ăn trái để tiêu thổ kháng chiến, đóng góp
hàng ngàn kg đồng, gang, sắt cho bộ đội đúc súng đạn, tổ chức
hàng trăm cuộc đấu tranh chính trị với địch, tiễn đưa con em của
mình lên đường tòng quân cứu nước, trong đó 120 người con
ưu tú của xã đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Những hy sinh đóng góp to lớn đó của nhân dân Long Tân góp
phần quan trọng để Long Tân có một vùng lớn căn cứ của huyện
trong suốt thời kỳ chiến tranh.
Lực lượng vũ trang xã Long Tân sớm được thành lập trong cả
thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Tuy lực lượng không nhiều lại
phải luôn đương đầu với một kẻ thù mạnh và đông đảo là quân
Pháp, quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu Thái Lan, quân đội Sài
Gòn được trang bị đầy đủ vũ khí cả máy bay, xe tăng, pháo binh,
cùng mạng lưới tề, điệp ác ôn dày đặc nhưng các chiến sĩ dân
quân du kích xã luôn phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
không sợ hy sinh tổn thất, không ngừng tiến công địch. Lực lượng
vũ trang xã Long Tân đánh hơn 1 ngàn trận lớn nhỏ khi độc lập,
khi phối hợp cùng bộ đội tiêu diệt hàng trăm tên địch cả Mỹ, tay
363

37.4 Page 364

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
sai Thái Lan, thu hơn 100 súng các loại, đánh chìm hàng chục
tàu, thuyền của địch, phá hỏng hàng chục ngàn tấn bom, phá hủy
nhiều xe quân sự, xe tăng của chúng.
Với những thành tích vẻ vang của 2 cuộc kháng chiến, xã Long
Tân đã có 6 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng, 87 gia đình được công nhận là gia đình liệt sĩ.
Toàn xã được tặng thưởng 375 huân, huy chương, trong đó có 12
Huân chương Chiến công, 65 Huân chương Chiến sĩ giải phóng,
31 Huân chương Chiến thắng, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang.
Đặc biệt, vào năm 2000, nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân
dân xã Long Tân đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu tập thể
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
364

37.5 Page 365

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Phú Đông
Xã Phú Đông(1) có diện tích tự nhiên 2.172 hécta, nằm ở hướng
Tây - Tây Nam của huyện Nhơn Trạch. Địa bàn xã có vị trí chiến
lược rất quan trọng, phía Bắc giáp xã Đại Phước, phía Nam giáp xã
Phước Khánh và căn cứ Rùng Sác, phía Đông giáp căn cứ quân sự
kho bom Thành Tuy Hạ, phía Tây giáp sông Nhà Bè, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Về dân số, trước năm 1975 xã có trên dưới 1 ngàn hộ với khoảng
5 ngàn khẩu. Nhân dân trong xã sống bằng nghề nông là chủ yếu.
Địa hình xã là một vùng lòng chảo khép kín, phía Bắc có tỉnh lộ
25A chạy sát thông qua Sài Gòn, đi Bà Rịa - Vũng Tàu; phía Tây có
7km đường thủy đi hướng Biên Hòa - Đồng Nai và chảy ngược vào
quân cảng Sài Gòn, xuôi ra cửa biển Vũng Tàu. Có hương lộ 319 đi
qua suốt chiều dài của xã.
Trong xã có hệ thống kênh rạch chằng chịt thông ra sông Nhà Bè
và vùng căn cứ Rừng Sác, phía Đông gần trung tầm xã là vùng đất
cao dễ quan sát khống chế toàn xã. Có 2 hướng tiếp giáp với căn cứ
quân sự lớn của địch (Quân cảng Nhà Bè - Kho bom Thành Tuy Hạ),
2 hướng tiếp giáp với căn cứ Rừng Sác và vùng kháng chiến của ta.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
365

37.6 Page 366

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Với địch, chúng xác định địa bàn xã là vành đai chiến lược để bảo
vệ Sài Gòn về phía Đông Nam và các căn cứ hậu cần kỹ thuật quân
sự của chúng (quân cảng Nhà Bè, kho bom Thành Tuy Hạ), là hướng
ngăn chặn chủ yếu sự chi viện của ta cho căn cứ Rừng Sác vào vùng
kháng chiến Lòng chảo Nhơn Trạch và Biên Hòa.
Trong khi đó, do địa bàn xã có rừng rậm và hệ thống kênh rạch,
dân cư đông sống tập trung, nên lực lượng cách mạng dễ xâm nhập,
trà trộn đi lại đồng thời trú ém cơ động lực lượng, tổ chức các trận
đánh nhỏ lẻ gây tổn thất và nguy hiểm cho địch. Xã Phú Đông còn là
hậu phương chi viện sức người sức của cho căn cứ Rừng Sác, vùng
kháng chiến lòng chảo Nhơn Trạch, là bàn đạp cho lực lượng ta tổ
chức tiến đánh vùng ven Sài Gòn và các căn cứ quân sự của địch.
Đối với địch, xã Phú Đông cũng là địa bàn quan trọng có chiến
lược về quân sự nên địch bố trí đông lực lượng và đầy đủ các quân
binh chủng, nhưng phần lớn là ta tác chiến với hải quân, lục quân,
quân chư hầu của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Lực lượng địch thường
xuyên từ 2-3 tiểu đoàn mỗi hướng. Thời điểm căng thẳng, địch huy
động lực lượng cấp trung đoàn và có lúc lên tới sư đoàn đóng quân
trên địa bàn xã Phú Đông.
Về đấu tranh vũ trang, trong suốt 2 thời kỳ kháng chiến, quân và
dân Phú Đông luôn phải đối đầu và tác chiến với các đối tượng lực
lượng địch đông và có vũ khí trang bị hiện đại.
Tổng kết trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân và lực lượng
vũ trang xã Phú Đông phối hợp với bộ đội đặc công thủy đánh 17
trận, phối hợp với bộ đội Nhà Bè đánh 15 trận, chủ yếu phá kho xăng
Nhà Bè, cùng bộ đội Thủ Đức tổ chức 12 trận đánh chống càn; độc
lập tác chiến 165 trận như: gài trái, phục kích, bao đồn giặc. Kết quả,
quân dân xã Phú Đông đã tiêu diệt 340 tên, trong đó có 24 tên lính
Pháp, bắn chìm 1 tàu quân sự, 4 thuyền máy, bắn cháy 1 xe quân sự
thu 158 súng các loại, 2 hòm đạn, 43 lựu đạn.
Kháng chiến chống Mỹ, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú
Đông phối hợp với Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đánh 29 trận trên
366

37.7 Page 367

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
sông Lòng Tàu; phối hợp với bộ đội Nhà Bè đánh kho xăng 17 trận;
phối hợp với D240 tỉnh, C240 huyện đánh 56 trận; phối hợp với bộ
đội Thủ Đức đánh 24 trận, độc lập tác chiến như gài trái, phục kích,
phá ấp chiến lược, diệt ác ôn 346 trận. Kết quả đã diệt 568 tên, trong
đó có 186 tên Mỹ, 9 tên Thái Lan, 36 tên ác ôn, thu 274 súng các loại,
trong đó có 3 đại liên, 7 trung liên, 12 tiểu liên, 1 súng cối, 170 lựu
đạn, 96 hòm đạn, 3 máy thông tin PRC25, 2 máy PRC10, bắn chìm 1
tàu, 6 thuyền máy, bắn cháy 3 máy bay lên thẳng, phá hủy 3 xe thiết
giáp M113, 4 xe GMC.
Về đấu tranh chính trị, do nằm trong vùng kiểm soát của địch nên
đồng bào Phú Đông bị địch đàn áp nặng nề, khắc nghiệt, dã man.
Trước tình hình đó, nhân dân xã liên tục đứng lên đấu tranh, biểu tình
chống lại sự đàn áp của địch từ tự phát đến tự giác và trở thành phong
trào rộng rãi trong toàn xã. Nhân dân trong xã đã tiến hành thành lập
ban lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ và
quyền con người trong toàn xã. Ban lãnh đạo gồm một số cụ ông, cụ
bà dưới sự phụ trách chung của cụ ông Võ Văn Hảo và cụ bà Chín
Ngư. Khi xảy ra vấn đề, ban tổ chức huy động nhân dân kéo đi đấu
tranh với chính quyền địa phương.
Thời kỳ chống Pháp, nhân dân trong tổ chức 13 lần đấu tranh biểu
tình phản đối viếc phá hoa màu, bắn vào thôn xóm đòi dân sinh - dân
chủ, buộc địch phải bồi thường tài sản và tính mạng, kết hợp với du
kích xã sau mỗi lần đấu tranh là tiến hành rải truyền đơn vạch mặt
kẻ thù, kêu gọi đoàn kết chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp
và tay sai.
Thời kỳ chống Mỹ, chỉ trong năm 1956, toàn xã đã có 500 đồng
bào kéo về quận lỵ Nhơn Trạch đấu tranh chống trưng cầu dân ý,
làm cho cuộc vận động trưng cầu dân ý của địch tại xã Phú Đông bị
thất bại.
Năm 1964, má Sáu Ngữ và má Tám Ứng dẫn đầu đoàn biểu tình
khoảng 1 ngàn người tập trung kéo về Sài Gòn biểu tình phản đối
địch ném bom giết hại 536 người tại ngã ba Giồng Sắn, trong đó có
367

37.8 Page 368

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
108 người dân của xã làm nghề chài lưới bị chết một cách vô tội.
Cuộc biểu tình đấu tranh này gây tiếng vang lớn trong và ngoài địa
phương, buộc địch phải mang tiền bồi thường đến từng gia đình có
người thân bị giết hại.
Năm 1964-1965, đồng bào tổ chức kéo về quận lỵ Nhơn Trạch
đấu tranh tố cáo địch rải chất độc hóa học làm hư hại hoa màu với
hàng ngàn chữ ký trong đơn và kèm theo những tấm ảnh chụp cụ thể,
buộc tên quận trưởng phải nhượng bộ giảm 50% số thuế.
Năm 1968, địch ném bom vào khu dân cư làm sập 18 căn nhà chết
7 người dân, đồng bào tổ chức chở xác nạn nhân lên quận đấu tranh
biểu tình buộc địch phải bồi thường thiệt hại nhà cửa và tính mạng
cho nhân dân.
Trong công tác binh vận, Đảng ủy xã bấy giờ giao nhiệm vụ này
cho Hội Mẹ chiến sĩ do má Sáu Ngữ phụ trách, giao cho Đoàn Thanh
niên, Phụ nữ đảm trách mục tiêu vừa bảo vệ vợ con lính vừa khuyên
nhủ, vừa hù dọa. Kết quả, năm 1952 có 3 lính Commando mang súng
ra đầu hàng, trong đó 1 tên người ở xã, 1 tên ở Hố Nai. Năm 1953,
có 2 nhân viên chính quyền địa phương bỏ hàng ngũ về Sài Gòn, 23
lính địa phương bỏ trốn. Năm 1963, khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính
và bị giết khiến địch hoang mang, tổ binh vận xã đã viết thư kêu gọi
địch trong các ấp chiến lược, có 16 tên dân vệ đào ngũ, tạo điều kiện
cho du kích phá ấp tịch thu 14 súng các loại.
Trong phong trào diệt ác phá kìm, nhân dân Phú Đông bằng sự
mưu trí, dũng cảm, thông minh, trong 2 kỳ kháng chiến, đã trừng trị
36 tên ác ôn, trong đó có những tên khét tiếng bị trừng trị như: Hai
Giồ, Tư Nở, Tư Cúp, Ba Thức, Sáu My.
Địch âm mưu xây dựng ấp chiến lược nhằm “tát nước bắt cá”,
giành đất, kiểm soát nhân dân ngăn chặn lực lượng cách mạng trà
trộn dựa vào dân để hoạt động cũng như xây dựng cơ sở hậu phương
chi viện cho căn cứ và vùng kháng chiến. Trong suốt 13 năm, địch
đã xây dựng trên địa bàn xã 4 ấp chiến lược nhưng cứ xây xong là bị
ta phá liền, địch làm đi làm lại nhiều lần. Đến năm 1973, địch không
368

37.9 Page 369

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
còn khả năng xây dựng ấp chiến lược trên địa bàn xã.
Về xây dựng cơ sở, chi viện sức người, sức của cho cách mạng,
mặc dù địa bàn xã bị địch kìm kẹp chặt nhưng trong suốt 30 năm
kháng chiến, xã Phú Đông vẫn là cơ sở của cách mạng là địa bàn
đóng trú ém quân của Trung đoàn 10 đặc công thủy, Đại đội Nhà Bè,
đại đội Thủ Đức.
Đồng bào Phú Đông giữ vững truyền thống yêu nước, ngoài việc
công khai đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, nhân dân địa phương còn
là nơi cung cấp sức người, sức của và là hậu phương lớn của căn cứ
Rừng Sác, các vùng kháng chiến thuộc khu lòng chảo Nhơn Trạch.
Trong 2 thời kỳ kháng chiến, nhân dân xã đã vận động trên 430
lượt thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ quê hương. Tiêu biểu là:
gia đình má Chín Ngư có 3 con, gia đình má Năm Thơm có 4 con, gia
đình má Bảy Tròn có 4 con, gia đình má Sáu Lạt có 3 con, gia đình
má Sáu Nguyệt có 6 người con… tất cả đều đi bộ đội.
Trong 2 cuộc kháng chiến, đồng bào trong xã đã đóng góp cho
cách mạng 390 tấn lương thực, phong trào Hũ gạo nuôi quân được
duy trì suốt những năm từ 1961 đến 1974, 372 hộ đã đóng góp được
2.100kg gạo.
Trong công tác xây dựng Đảng và chính quyền, ngày 22/12/1946,
chi bộ Đảng đầu tiên của xã được thành lập gồm 3 đồng chí, lãnh
đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược
và bọn phản động. Đến năm 1954, tổng số đảng viên toàn xã có 37
đồng chí. Sau năm 1954 có 14 đồng chí đi tập kết, 18 đồng chí đi
điều lắng, bám trụ hoạt động bí mật tại địa phương là 5 đồng chí. Đến
năm 1963 số đảng viên trong xã bắt đầu được củng cố, phát triển; sau
ngày miền Nam giải phóng 30/4/1975, tổng số đảng viên toàn xã là
43 đồng chí. Trong quá trình hoạt động có 26 đồng chí đảng viên hy
sinh, 9 đồng chí bị bắt cầm tù, 4 đồng chí bí thư chi đảng bộ hy sinh
trong các thời kỳ.
Tháng 2/1946 diễn ra trận đánh quân Pháp đầu tiên tại vàm Ông
Chuốt. Một tàu chiến chở quân Pháp càn vào vàm đã bị lọt vào ổ
369

37.10 Page 370

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
phục kích của du kích xã, dưới sự chỉ huy của đồng chí Năm Trứ tấn
công địch bằng 2 trái AT, 3 tay súng với 145 viên đạn còn lại là giáo
mác, tầm vong. Khi điểm hỏa tàu giặc bị bốc cháy, lính địch bỏ chạy
tháo mạng.
Kết quả ta tiêu diệt 14 địch, bắt sống 5 tên, thu 19 súng trường, 2
khẩu colt 45, 12 lựu đạn, 1 hòm đạn. Đây là chiến thắng đầu tiên của
quân và dân xã, gây tiếng vang lớn, củng cố tạo niềm tin trong đồng
bào, lực lượng du kích xã có thêm vũ khí để tiếp tục đánh địch.
Tháng 3/1967, lực lượng du kích xã phối hợp với bộ đội Nhà Bè
dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Quyết Chiến (Sáu Chiến) tiến
đánh một tiểu đoàn Mỹ khi chúng tổ chức càn vào ấp Giồng Ông
Đông. Lợi dụng địa hình kênh rạch, lực lượng của ta luồn lách chia
cắt đội hình của địch trận đánh kéo dài từ 10 giờ-14 giờ, ta tiêu diệt
7 tên lính Mỹ, làm bị thương nhiều sinh lực địch, bắn cháy 1 máy
bay lên thẳng.
Trận đánh táo bạo vào đêm 26 rạng sáng 27/10/1967, sau khi theo
dõi đánh các vị trí đóng quân dã ngoại của bọn Mỹ, đồng chí Sáu
Chiến cùng đồng chí Tám Tâm dùng bùn non ở sông rạch bôi vào
khắp mình cải trang chống sự phát hiện của chó bẹcgiê. Bằng sự táo
bạo mưu trí, 2 đồng chí bò vào đội hình địch lấy được 2 khẩu M16,
gài trái nổ rồi bò ra. Khi trái phát nổ, ta diệt tại chỗ 9 tên lính Mỹ và
1 số bị thương, bọn Mỹ còn lại hoảng sợ bỏ chạy.
Ngày 3/6/1968, khi chi bộ xã đang họp tại Sở Dừa có 2 đồng chí
cán bộ cấp trên về dự. Đang họp, bọn địch càn đến bằng tàu chiến và
2 xuồng máy. Bằng sự mưu trí, dũng cảm, đồng chí Sáu Chiến cùng
anh em chiến sĩ du kích tiếp cận địch bố trí vị trí phục kích. Khi địch
tiến vào trận địa, ta tiến hành điểm hỏa mìn ĐH10 làm tàu địch bốc
cháy. Với 18 tay súng chiến sĩ ta đã kiên quyết chống trả địch buộc
phải rút chạy. Kết quả, ta tiêu diệt 34 tên bắn cháy 1 tàu chiến, bảo
vệ các đồng chí cấp trên rút ra an toàn.
Ngày 14/6/1972, du kích xã phối hợp với Đoàn 10 đặc công thủy,
tổ chức đánh vào kho xăng Nhà Bè với 26 trái cối 82 đã trúng bồn
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xăng bốc cháy phá hủy của địch 10 triệu lít xăng, dầu.
Với lòng căm thù giặc sâu sắc, Đảng bộ và nhân dân xã Phú Đông
kiên trì bám đất, bám làng, xây dựng cơ sở chính quyền cách mạng,
anh dũng kiên cường vượt qua mọi gian khổ ác liệt liên tục tiến công
địch, đấu tranh giành độc lập góp phần quan trọng và tích cực trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Toàn xã
có 15 thương binh, 1 bệnh binh, 106 gia đình chính sách, 76 gia đình
liệt sĩ, 35 gia đinh có công với cách mạng.
Trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại, Đảng ủy, chính quyền, nhân
dân và lực lượng vũ trang xã Phú Đông được Đảng, Nhà nước khen
tặng: 82 Huân chương Quân công kháng chiến; 680 Bảng Gia đình
vẻ vang; 7 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 1 Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân…
Năm 2000, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Đông
được Nhà nước phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân.
371

38.2 Page 372

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lực lượng giao bưu thông tin liên lạc
tỉnh Đồng Nai
Cuối năm 1954, Xứ ủy Nam bộ và Liên Tỉnh ủy miền Đông quyết
định tách Thủ Biên, lập lại hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Lúc
này ở tỉnh Biên Hòa, lực lượng giao liên(1) hầu như phải xây dựng lại
mới với nhiệm vụ: Xây dựng cơ sở trong dân để làm căn cứ cho Tỉnh
ủy đến ở và làm việc, luôn có điểm dự bị để di chuyển khi bị lộ; xây
dựng một hệ thống giao liên công khai, đi lại hợp pháp để đưa đón
cán bộ và đi thư về liên Tỉnh ủy, xuống các Huyện ủy.
Từ năm 1955, cơ quan của Tỉnh ủy Biên Hòa dời căn cứ tới đâu,
ban giao liên phải chuyển các trạm đầu mối theo tới đó để phục vụ
kịp thời cho Tỉnh ủy chỉ đạo phong trào.
Những năm 1958-1959, Tỉnh ủy về đóng ở xã Hiệp Hòa, nhiều gia
đình ấp Đá Hàn là cơ sở nuôi chứa cán bộ do Ban Giao liên xây dụng
để liên lạc và đón cán bộ khi về Tỉnh ủy làm việc.
Tháng 5/1955, giao liên Biên Hòa đưa thành công đồng chí
Nguyễn Trọng Tâm, cán bộ binh vận của Xứ ủy về Long Thành,
tìm cách liên lạc với nhóm Bình Xuyên ly khai; từ cơ sở giao liên là
nhà chị Mười Ánh Tuyết ở Nhơn Trạch, các đồng chí Vũ Hồng Phô,
Nguyễn Văn Thông đưa đoàn cán bộ phụ trách binh vận vận động
được trung tá Võ Văn Môn, tham mưu trưởng Bình Xuyên, đồng ý
(1) Nguồn: Lịch sử Bưu điện Đồng Nai, NXB Đồng Nai, tái bản, 2000.
372

38.3 Page 373

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đưa tiểu đoàn 3 Bình Xuyên về hợp tác với cách mạng chống chính
quyền Ngô Đình Diệm.
Tháng 8/1955, Ngô Đình Diệm mở chiến dịch Hoàng Diệu
đánh vào Rừng Sác, giao liên của ta hướng dẫn, đưa lực lượng
này vượt lộ 15 thoát vòng vây của địch về khu Hắc Dịch, rừng
Xuyên Mộc và sau đó về Chiến khu Đ an toàn.
Tháng 12/1956, trong cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp, mẹ Tạ
Thị Lộc làm giao liên quan hệ giữa Đảng ủy trong nhà tù với Ban
binh vận Xứ ủy và Tỉnh ủy Biên Hòa tạo đường dây liên lạc, chỉ
đạo từ ngoài vào trong nhà tù Tân Hiệp, góp phần thúc đẩy chủ
trương phá khám. Khi cuộc phá khám nổ ra theo kế hoạch ngày
2/12/1956, trên 462 cán bộ chiến sĩ cách mạng bị giam giữ ở nhà
tù Tân Hiệp thoát ra, chia làm nhiều đoàn đi về nhiều hướng để
phân tán sự truy bắt của địch. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị giam
là người địa phương đã cùng người dân làm giao liên dẫn đường
đưa một số đoàn về địa phương, hoặc ra vùng căn cứ an toàn.
Từ năm 1958, giặc đánh phá cách mạng ráo riết hơn. Nhiều
cơ sở cách mạng và đường dây giao liên bị phá vỡ. Nhưng nhờ
biết dựa vào dân, được dân che chở nên rất nhiều cán bộ của ta
đã thoát hiểm, tồn tại hoạt động trong lòng địch. Nhiều cán bộ
giao liên thể hiện tinh thần, ý chí cách mạng, sự kiên định và lòng
trung thành với lý tưởng cách mạng khi rơi vào tay kẻ thù: như
anh Phụng, tổ trưởng giao liên bí mật, bị bọn phản bội chỉ điểm
cho công an ngụy bắt, tra tấn dã man. Anh không khai báo nên bị
đày ra Côn Đảo và hy sinh. Hay anh Út Đen (tức Trúng) bị địch
chặn bắt ở cầu Ghềnh (xã Hiệp Hòa). Địch không khai thác được
nên đày ra Côn Đảo và sau đó anh hy sinh.
Năm 1959, Ngô Đình Diệm ban hành luật 10/59 đặt Cộng sản
ra ngoài vùng pháp luật, lê máy chém đi khắp nơi. Tình hình căng
thẳng hơn bao giờ hết. Ngày 20/8/1959, tên Ba Chánh, Trưởng
Ban giao liên công khai tỉnh Biên Hòa dẫn giặc về bắt Bí thư Tỉnh
ủy, hàng loạt cán bộ, đảng viên cơ sở cốt cán ở Vĩnh Cửu, Tân
373

38.4 Page 374

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Uyên, cùng nhiều người trong hệ thống giao liên công khai do hắn
xây dựng. Chỉ tính từ tháng 5 đến tháng 9/1959, bọn phản bội dẫn
địch về bắt trên 300 cán bộ, đảng viên, đoàn viên và cơ sở cốt cán
ở Long Thành, Vĩnh Cửu, Tân Uyên và thị xã Biên Hòa, trong đó
có hàng chục anh chị em trong đường dây giao liên công khai.
Tiếp đó, ngày 31/10/1959, tên Hà Tư (Bí thư Huyện ủy Long
Thành) phản bội ra hàng giặc, hắn đã khai báo và dẫn địch về bắt
rất nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng cốt cán đã từng công tác
chung, từng bảo vệ nuôi dưỡng hắn. Ngày 2/11/1959, trời vừa
chạng vạng tối, 2 giao liên Trần Văn Bi (tức Bảy Thuyền) và Lê
Văn Bê đi lấy thư thì bị bắt. Đồng chí Trần Văn Bi chiến đấu anh
dũng nhưng biết không sống được, tự bứt ruột, hy sinh vào sáng
3/11/1959. Đồng chí Lê Văn Bê bị địch bắt giam…
Tháng 9/1960, Xứ ủy Nam Bộ và Liên Tỉnh ủy miền Đông sáp
nhập 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên. Giao
liên 2 tỉnh nhập lại thành Ban Giao liên tỉnh Thủ Biên, đóng căn
cứ tại Cây Khế, rừng Vĩnh Lợi, xã Vĩnh Tân (lúc đó thuộc huyện
Châu Thành, nay thuộc thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Nhiệm
vụ trước mắt của Ban Giao liên Thủ Biên là tổ chức đưa cán bộ,
nhân viên, chiến sĩ của các cơ quan đơn vị của tỉnh Thủ Dầu Một
từ căn cứ Sở Bác Vật qua Chiến khu Đ, căn cứ mới của tỉnh.
Hàng đoàn cán bộ từ 5-7 người đến vài chục người lần lượt được
chuyển sang địa điểm mới. Lúc này, lực lượng địch trên đường 16
còn mạnh, anh em đưa đường phải ngụy trang cẩn thận, không để
lộ dấu chân, dấu dép nhiều người, ngày nghỉ, đêm hành quân. Tuy
vất vả, song tất cả đều đến nơi an toàn. Một cuộc chuyển quân
tương đối rầm rộ mà vẫn giữ được bí mật là một thắng lợi lớn của
giao liên, được Tỉnh ủy khen ngợi.
Đầu năm 1961, Ban Giao liên đã dẫn đường cho tiểu đoàn 500
Quân khu phối hợp với lực lượng vũ trang đại phương quận Châu
Thành tấn công bọt Bến Xoài. Trận đánh không thành công. Địch
còn cố thủ trong một lô cốt để chờ chi viện. Đêm đó, anh em giao
374

38.5 Page 375

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
liên dẫn bộ đội băng qua đường 13 về xã An Điền (Nam Bến Cát).
Đến nơi an toàn. Sáng hôm sau địch truy kích bị ta đón đánh gây
nhiều thương vong.
Tháng 7/1961, Thường vụ Xứ ủy tách Thủ Biên thành các tỉnh:
Biên Hòa, Phước Thành, Bình Dương. Ban Giao liên tỉnh Thủ
Biên giải thể để hình thành Ban Giao liên tỉnh Biên Hòa; Ban
Giao liên tỉnh Bình Dương; Ban Giao liên tỉnh Phước Thành.
Trước đó, năm 1959, do sự phản bội của một số đối tượng, cơ
sở của Đảng bộ Biên Hòa, đặt biệt là ở Vĩnh Cửu, Long Thành và
thị xã Biên Hòa gần như mất trắng. Năm 1960-1961, tuy thực lực
cách mạng đã xây dựng lại được nhưng chỉ vỏn vẹn có 7-8 người.
Đến năm 1962, tình hình chung tương đối ổn định, công việc
của ngành giao liên trôi chảy, bộ máy phát triển khá. Tuyến hành
lang liên tỉnh của ta từ chiến khu Đ (T1) qua Xuân Lộc (Biên
Hòa) về Bà Rịa, Vũng Tàu được nối thông. Phong trào cách mạng
vùng nông thôn, vùng đồn điền cao su được phát triển khá, tổ
chức cơ sở được xây dựng lại ở nhiều nơi.
Đến cuối năm 1962, Ban Giao liên tỉnh Biên Hòa đóng tại Suối
Cả huyện Long Thành. Với số lượng nhân viên ngày càng tăng
thêm, Ban hoàn chỉnh văn phòng ban và ba trạm tỉnh.
Tháng 3/1963, Trung ương Cục miền Nam quyết định sáp nhập
2 tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa thành tỉnh Bà Biên. Song tỉnh Bà Biên
không tồn tại lâu, do việc sáp nhập tỉnh không tính toán kỹ nên
gây trở ngại cho chỉ đạo phong trào ở Biên Hòa. Khu ủy quyết
định giải thể tỉnh Bà Biên vào tháng 12/1963.
Thời kỳ này, Ban Giao liên đổi tên thành Ban Giao bưu vận,
với nhiệm vụ nặng nề hơn. Trước chỉ đưa rước khách, vận chuyển
công văn, sách báo, thì lúc này đảm trách thêm nhiệm vụ vận tải
hàng chiến lược (chủ yếu là nhận hàng A chi viện theo đường biển
từ Bến Tre lên Cần Giờ qua Rừng Sác, vượt lộ 15 qua Hắc Dịch
về Chiến khu Đ). Giao bưu Biên Hòa có nhiệm vụ chuyển vũ khí
từ Hắc Dịch về giao cho trạm Khu ở Bắc sông Đồng Nai (chiến
375

38.6 Page 376

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
khu Đ) để chuyển về Trung ương Cục (R), đồng thời tiếp nhận
hàng từ Khu về cung cấp cho Biên Hòa, Bà Rịa. Anh em gọi đó là
hàng “Ông Cụ”, có nhiều loại, rất phong phú, từ vũ khí đến thuốc
men, lương thực… từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền
Nam (B2), theo đường 559.
Ban Giao bưu vận của tỉnh vận động thêm tân binh, tăng cường
cho các trạm, mua thêm xe đạp cải tiến thành xe thồ. Mỗi chuyến
đi tải hàng từ 3 đến 5 xe, mỗi xe thồ được từ 120-150 kg hàng,
do 1 hoặc 2 người phụ trách một xe. Những năm 1963-1964, địch
chưa phát hiện nên anh em đi lại tương đối dễ dàng, dùng xe thồ
từ Hắc Dịch đến Nam quốc lộ 1, từ đó chuyển sang tải bằng vai.
Nhân viên giao bưu có cả nam lẫn nữ. Công việc nặng nhọc, cực
khổ và nguy hiểm hơn, song mọi người đều vui vẻ, phấn khởi vì
tiếp nhận được hàng càng nhiều càng tăng cường sức mạnh chiến
đấu cho lực lượng kháng chiến, góp phần cho bộ đội đánh lớn,
địch thua to.
Trước tình hình địch tăng cường đánh phá, hàng chiến lược
vận tải về trên không kịp phải có chỗ bí mật để cất giấu tạm thời,
do đó cán bộ, chiến sĩ của ngành giao bưu có thêm nhiệm vụ đào
địa đạo.
Tháng 9/1965, Trung ương Cục quyết định nâng thị xã Biên
Hòa lên thành đơn vị tương đương cấp tỉnh, lấy mật hiệu là U1.
Thường vụ Tỉnh ủy U1 ủy quyết định thành lập Ban Giao bưu vận
U1 có trách nhiệm tổ chức các trạm đầu mối để nối thông tin liên
lạc giữa Tỉnh ủy với Khu ủy, với Vĩnh Cửu và các cơ sở trong nội
thành Biên Hòa.
Từ 1965-1967, đường dây Hưng Lộc vào thị xã Biên Hòa hầu
hết dùng lực lượng chị em phụ nữ có giấy tờ và thế làm ăn hợp
pháp để che mắt địch. Nhờ cơ sở quần chúng ở Hưng Lộc rất tốt
và cán bộ giao liên công khai của ta hoạt động khéo che giấu nên
đường dây này đã phục vụ rất đắc lực cho Tỉnh ủy trước và sau
Mậu Thân.
376

38.7 Page 377

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Để xây dựng lực lượng nội thành, Tỉnh ủy tiến hành tổ chức 4
cánh công tác thọc sâu vào nội thành và các vùng ven thị xã Biên
Hòa với mật danh CZ1, CZ2, CZ3 và CZ4. Mỗi cánh có một cấp
ủy viên phụ trách, có cán bộ chính trị, vũ trang, đoàn thể.
Bằng đường dây giao liên công khai, từ cơ sở bàn đạp Hưng
Lộc, giao liên Tỉnh ủy U1 đưa nhiều đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy
và cán bộ vào hoạt động trong thị xã .
Nhờ tổ chức và bố trí các cánh đột nhập vào vùng ven và nội ô
hoạt động đến cuối năm 1965 đầu năm 1966, các chi bộ Đảng ở
các xã ven và các cơ sở ở khu phố nội ô đều được củng cố.
Chính từ bàn đạp Hưng Lộc, đường dây giao liên công khai
của ta đưa các đồng chí Phạm Văn Hùng (Chín Hùng), Nguyễn
Thanh Sơn (Ba Sơn)… về Bình Đa thành lập chi bộ Đảng năm
1967; xây dựng được nhiều cơ sở mật và hầm bí mật ở các ấp Lân
Thành, Vĩnh Thị, xóm Gò Me (phường Thống Nhất), ở Hiệp Hòa,
Bửu Hòa, Bình Đa, tạo điều kiện cho nhiều chiến sĩ biệt động, cán
bộ bám trụ xây dựng thực lực và lãnh đạo quần chúng đấu tranh
chống bắt lính, đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, chuẩn bị các kế
hoạch tấn công địch.
Ngoài ra, ở khu vực Khu kỹ nghệ Biên Hòa, Tỉnh ủy U1 còn
đưa đồng chí Nguyễn Thị Thu Hồng (vợ đồng chí Bảy Huệ) giao
liên công khai của ta vào sống hợp pháp, phối hợp với đồng chí
Sáu Bình (Nguyễn Hòa Bình) tập hợp và phát triển cơ sở trong
các nhà máy, xí nghiệp…
Năm 1966-1967, quân và dân Biên Hòa kết hợp chặt đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, kết hợp giữa đấu tranh và xây
dựng lực lượng, Tỉnh ủy U1 tạo được nhiều lõm chính trị bên
trong, tổ chức được các bàn đạp tiến công vào thị xã, gây cho
Mỹ nhiều tổn thất lớn như: pháo kích vào sân bay Biên Hòa đêm
28/2/1966, các trận đánh vào Tổng kho Long Bình đêm 22/6/1966
phá hủy hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ...
Tại địa bàn Long Khánh, năm 1964 Ban Giao bưu tỉnh Long
377

38.8 Page 378

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Khánh chỉ có hơn 10 người, nhiệm vụ là nối thông liên lạc về Khu
ủy miền Đông Nam Bộ và các huyện của tỉnh theo mật danh H1,
H2, H3 và H4. Nổi bật trong giai đoạn này là anh Điểu Quẹo là
người dân tộc Chơ-ro. Năm 1960, anh vào ngành giao liên và luôn
hoàn thành tốt nhiệm vụ, không sợ khó khăn, gian khổ và ác liệt,
3 năm liền là chiến sĩ thi đua cấp tỉnh. Tháng 2/1969, trong một
trận chống càn bảo vệ đường dây, anh và các đồng đội diệt được
12 tên Mỹ, làm bị thương nhiều tên khác, cả tổ đều được Tỉnh đội
trưởng ký quyết định công nhận là dũng sĩ diệt Mỹ. Năm 1969,
anh hy sinh.
Đến tháng 10/1966, 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa và Long Khánh
nhập lại, lấy tên là tỉnh Bà Biên. Giao thông liên lạc đường bộ từ
Bà Biên xuống các huyện, từ huyện xuống các xã gặp khó khăn,
nhưng bộ máy giao liên, cán bộ chiến sĩ giao liên vẫn bám đường,
cắt rừng luồn lách đi thư, giúp cấp ủy chỉ đạo kịp thời, đưa đón
cán bộ an toàn.
Khi Mỹ triển khai chiến tranh đặc biệt, chủ trương của ta là
lách tránh địch là chính để bảo vệ và giữ hành lang. Khi địch
chuyển sang thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ, khẩu hiệu
và hành động của người chiến sĩ giao bưu là “đánh địch mà đi,
mở đường mà tiến”, xác định “hành lang là chiến trường, trạm là
trận địa, hành trình là chiến công”. Khẩu hiệu đó thể hiện được tư
tưởng tiến công và quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ giao bưu trong
công tác đảm bảo đường dây.
Tháng 3/1966, lữ đoàn dù 199 Mỹ có phi pháo và 40 xe tăng
yểm trợ bao vây càn quét khu căn cứ Lòng chảo huyện Nhơn
Trạch, bộ đội địa phương huyện C240 và lực lượng du kích địa
phương, đội bảo vệ của văn phòng Huyện ủy cùng giao liên huyện
Nhơn Trạch bám trụ chiến đấu liên tục 7 ngày đêm, bắn rơi 4 máy
bay trực thăng, bắn cháy 4 xe tăng và diệt 69 tên Mỹ, buộc chúng
phải rút lui.
Cuối năm 1967, Trung ương Cục miền Nam có quyết định bố
378

38.9 Page 379

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
trí lại các chiến trường, giải thể Khu ủy miền Đông, thành lập 5
phân khu, tạo thành 5 mũi nhọn chuẩn bị tấn công vào Sài Gòn,
trung tâm đầu não của Mỹ và chế độ Sài Gòn.
Tại địa bàn U1, trong thời điểm 1965-1966, song song với
nhiệm vụ luân chuyển thư từ, báo chí, Ban Giao bưu U1 còn
được Tỉnh ủy giao thêm nhiệm vụ tổ chức vận chuyển vũ khí,
hàng chiến lược. Ban xuống Tân Định (Vĩnh Cửu) mua 2 đôi bò
và 2 chiếc xe thùng để vận chuyển hàng chiến lược từ Bà Rịa lên
(tiếp nhận từ Trảng Bom đưa về bờ sông Đồng Nai). Công việc
rất nặng nề và nguy hiểm. Nhưng từ khi bắt đầu cho đến khi kết
thúc, Ban Giao bưu U1 hoàn thành nhiệm vụ một cách toàn vẹn
và an toàn.
Đối với đường dây giao liên công khai liên lạc trong nội thành
Biên Hòa, từ năm 1965 đã được củng cố và xây dựng khá vững
chắc. Mỗi cánh bám trụ trong thị xã Biên Hòa trong thời kỳ này
đều có giao liên công khai. Mỗi đơn vị chiến đấu, mỗi chi bộ mật
nội thành đều có giao liên riêng để xâu về đầu mối. Nhờ cách tổ
chức này, Tỉnh ủy luôn nắm được tình hình trong nội thành, công
tác chỉ đạo được nhanh chóng hơn, sâu sát hơn.
Các giao liên công khai đều được huấn luyện cách nghi trang
thư từ bằng nhiều cách như: giấu công văn trong đầu tóc, trong lai
áo, nghi trang trong hộp sữa, hộp bánh, trái bí, trái mít… để qua
mắt địch. Mỗi giao liên công khai đều có sáng kiến riêng rất độc
đáo, kể cả khi đưa cán bộ vào thành hoặc dẫn cán bộ từ nội thành
ra căn cứ đều có chuẩn bị sẵn lý lẽ, ám hiệu để khi đi đường đảm
bảo được an toàn.
Khi cuộc tổng tiến công Mậu Thân bùng nổ vào ngày
31/1/1968, lực lượng giao bưu vận Biên Hòa U1 góp phần rất
tích cực vào việc phục vụ cho Bộ chỉ huy Tiền phương, cho các
cánh đột nhập vào Biên Hòa, vào thành phố Sài Gòn - Gia Định
để nắm cơ sở, truyền đạt nhiệm vụ và bố trí lực lượng xung
kích dẫn đường cho bộ đội chủ lực khi đánh vào thành phố, dẫn
379

38.10 Page 380

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đường rút ra khi được lệnh.
Ở Biên Hòa U1, nhờ thực hiện việc bám trụ xây dựng cơ sở nội
thành và xây dựng hệ thống giao liên công khai tốt trong những
năm 1966-1967, nên đến đầu năm 1968 bằng đường giao liên
công khai đã chuyển thành công vào nội thành 4 đợt hàng gồm vũ
khí và truyền đơn, khẩu hiệu vào phường An Bình, xã Hiệp Hòa;
đưa các đồng chí lãnh đạo Thị ủy và nhiều chiến sĩ biệt động vào
bám trụ ở ấp Lân Thành, Gò Me và Núi Đất; đưa cán bộ, điện báo
viên và máy vô tuyến điện vào cất giấu, trụ tại nhà anh Hai Tiến
để phục vụ chiến dịch…
Khi cuộc tiến công nổ ra, giao liên công khai phát huy tác dụng
tốt trong việc dẫn đường cho lực lượng vũ trang tấn công địch và
rút lui an toàn khi có lệnh. Đặc biệt em Lê Minh Tâm (15 tuổi,
con má Bảy Vết) dũng cảm mưu trí dẫn đường cho 20 chiến sĩ biệt
động đang trụ tại Trường trang trí mỹ thuật Đồng Nai vượt vòng
vây của địch, rút về xóm Cây Chàm (phường Hòa Bình) để vượt
sông Đồng Nai về Hóa An an toàn.
Tại mặt trận Phân khu 4, Ban Giao bưu của Phân khu 4 sau khi
được thành lập, công việc chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân rất khẩn trương. Cả bộ máy giao bưu được
huy động để liên tục đưa người và hàng ra tuyến trước, từ Nhơn
Trạch và xã Tam An (Long Thành) qua Thủ Đức.
Chiều 29/1/1968, Thường vụ Phân khu ủy tổ chức đưa một số
cán bộ lãnh đạo của Phân khu vào nội thành Sài Gòn bằng đường
giao liên công khai, để chỉ đạo lực lượng nội thành, phối hợp khi
bên ngoài đánh vào thành phố.
Đúng 30/1/1968, giao liên của Phân khu với tất cả phương tiện
ghe máy, xuồng chèo tập trung chuyển quân qua xã Tam An, ấp
Truông Tre tiến vào các mục tiêu được phân công. Đúng giờ G
đêm giao thừa Tết Mậu Thân (31/1/1968), quân ta đồng loạt tổ
chức tấn công. Trong những ngày đầu tấn công địch, những chiếc
xe gắn máy đuôi tôm của giao bưu phân khu 4 hoạt động liên tục
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cả ngày lẫn đêm trên sông Đồng Nai, liên tục đưa lực lượng bộ
đội và dân công, tải lương thực, vũ khí đạn dược phục vụ tuyến
trước, đồng thời chở thương binh, cán bộ đi công tác về tuyến
sau. Qua khoảng 10 ngày bị động đối phó, địch mở những cuộc
phản kích cực kỳ ác liệt ở cả 3 vùng chiến lược. Trên đường sông,
số ghe máy ít ỏi của giao bưu lần lượt bị đánh chìm không sót
một chiếc; ghe chèo tay đi âm thầm trong đêm cũng không qua
được canô, xuồng máy có vũ trang và máy bay trực thăng của
địch. Biện pháp cuối cùng để qua sông là phải bằng sức người lội
qua. Thời điểm đó, mỗi lần qua sông, qua lộ, ai nấy đều thấy rõ
cái chết gần kề, nhưng anh chị em giao bưu xác định giao bưu là
mạch máu của kháng chiến, luôn dũng cảm hoàn thành nhiệm vụ
hết ngày này sang ngày khác.
Ở khu vực Long Thành, Nhơn Trạch sau đợt 1 cuộc tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch phản kích rất dữ dội,
nhưng các chiến sĩ giao liên của Phân khu và huyện kiên cường
dũng cảm vượt bom pháo địch, bảo đảm công tác đi thư và vận
chuyển vũ khí về vùng ven đô (Thủ Đức) để phục vụ cho bộ đội
ta bám trụ tấn công địch. Đầu tháng 3/1968, lữ đoàn dù 199 Mỹ
cho nhiều tốp trực thăng đổ quân xuống khu vực vàm Bà Chèo
(Đồng Môn) bao vây tấn công vào một tổ giao liên của ta đang
trên đường làm nhiệm vụ đưa xuồng vũ khí xuống Thủ Đức. Với
ý chí quyết tâm diệt địch và bảo vệ chuyến hàng, giao liên mở
đường cho đồng đội rút khỏi vòng vây.
Ở thị xã Biên Hòa, ngày 21/4/1969, Tô Hoàng Thắng, Đội phó
Đội biệt động đầu hàng địch, dẫn địch về đánh Đội biệt động đang
bám trụ ở ấp Bình Quang, xã Hiệp Hòa, bắt một số quần chúng
cơ sở tra tấn dã man, nhiều cán bộ chiến sĩ ta hy sinh. Sau vụ này,
đường hành lang giao liên công khai của ta bị tê liệt, một số chị
em bị lộ phải chuyển vùng, một số phải tạm nằm im nghe động
tĩnh.
Trước tình hình đó, đến giữa năm 1970, Ban giao bưu U1 xây
381

39.2 Page 382

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dựng lại được 3 trạm bàn đạp, tổ chức và móc nối lại được một số
giao liên công khai ra vô nội thành.
Từ năm 1972 đến đầu năm 1975, Ban Giao liên thị ủy Biên
Hòa, một mặt không ngừng củng cố đường dây giao liên căn cứ,
giữ vững liên lạc về tỉnh, về Khu và xuống các huyện; một mặt
tăng cường củng cố tổ chức hệ thống giao liên công khai từ các
bàn đạp đi vào thị xã, phục vụ cho các đồng chí cấp ủy đang bám
trụ hoạt động trong nội thành. Chỉ tính riêng trong 3 năm (1971-
1973), Ban Giao bưu U1 xây dựng được 7 trạm bàn đạp, với trên
20 giao liên công khai, bộ máy của Ban tại căn cứ Bàu Hàm được
tăng cường và củng cố với 10 giao liên.
Từ năm 1970-1975, hệ thống giao liên công khai của Biên Hòa
tuy có một số bị bắt hoặc hy sinh, nhưng tất cả anh chị em đều giữ
vững khí tiết, không có ai khai báo và làm lộ đường dây.
Một đặc điểm đáng lưu ý trong hệ thống giao liên công khai
của thị xã Biên Hòa thời kỳ này là ngoài hệ thống giao liên công
khai do ngành giao bưu tổ chức, cấp ủy còn có giao liên công khai
đưa rước Thường trực cấp ủy vô ra nội thành/ Đường dây giao
liên công khai do các ban ngành trực thuộc cấp ủy tổ chức khi vào
nội ô bám trụ hoạt động đều có giao liên riêng. Tất cả đan xen, hỗ
trợ cho nhau như những mạch máu tuần hoàn trong cơ thể, giúp
cấp ủy thường xuyên nắm được tình hình, chỉ đạo phong trào, xây
dựng thực lực và tổ chức đánh địch khi có thời cơ.
Cũng có những đường dây do cấp ủy trực tiếp tổ chức và giao
lại cho ngành giao bưu quản lý sử dụng hoạt động từ 1967 đã tồn
tại đến ngày giải phóng. Cụ thể, từ năm 1967, cấp ủy trực tiếp
giao nhiệm vụ vận động quần chúng, xây dựng lực lượng cách
mạng tại chỗ, vừa tổ chức một trạm giao liên công khai ở chợ
Biên Hòa để tiếp nhận thư từ, báo chí, truyền đơn của Thị ủy từ
bàn đạp Bàu Hàm về thị xã và ngược lại. Những chị em nằm trong
đường dây này hầu hết là đảng viên trung kiên, quần chúng cốt
cán đã kinh qua nhiều thử thách nên rất đáng tin cậy, trong đó nổi
382

39.3 Page 383

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
bật là đường dây Phạm Văn Lương đặt ở chợ trái cây Biên Hòa.
Tuy xuất thân lao động nghèo, quanh năm làm ăn vất vả, tự kiếm
sống, nhưng khi được giao nhiệm vụ các anh chị luôn thể hiện
tinh thần dũng cảm, mưu trí qua mắt địch, nhiều lần đưa truyền
đơn, súng đạn, thuốc nổ, kíp nổ từ căn cứ bàn đạp vào nội thành,
phục vụ cho lực lượng biệt động của ta bám trụ ở Hiệp Hòa và
khu vực khác trong thành phố.
Trong thực hiện nhiệm vụ, cũng có những đồng chí không may
mắn như đồng chí Nguyễn Thị Tuyết, nhân viên giao liên công
khai của Thành ủy bị địch chặn bắt ở Tân Phong ngày 31/3/1975.
Chúng đánh đập tra tấn hết sức dã man, chị vẫn không khai báo
một lời. Sau đó, địch đưa chị về Trảng Bom lén lút thủ tiêu.
Tháng 5/1971, Trung ương Cục chủ trương giải thể Ban Cán sự
T7, giải thể phân khu 4, huyện Long Thành, Nhơn Trạch của Biên
Hòa nhập với Bà Rịa thành lập phân khu Bà Rịa. Biên Hòa, U1
nhập với phân khu 5 thành phân khu Thủ Biên. Lúc này có Ban
Giao bưu phân khu Bà Rịa và Ban Giao bưu phân khu Thủ Biên.
Năm 1972, giao bưu phân khu Bà Rịa, ngoài nhiệm vụ chuyên
môn, còn phục kích diệt được một tiểu đội lính Sào Gòn đi tuần
tiễu, thu toàn bộ vũ khí trên đường 20 gần cây số 96. Lần khác,
nhờ đồng bào thông báo tin chính xác, giao bưu bắt được một tên
công an, đủ giấy tờ, khai thác được những tài liệu quan trọng.
Tháng 10/1972, Trung ương Cục miền Nam thành lập lại Khu
ủy miền Đông, giải thể phân khu Bà Rịa, lập lại tỉnh Bà Rịa-Long
Khánh, nhập Biên Hòa nông thôn với U1 thành tỉnh Biên Hòa.
Ban Giao bưu tỉnh Biên Hòa cũng tổ chức lại các trạm.
Từ năm 1969-1972, trạm giao bưu sông Là Ngà (Định Quán)
và trạm giao bưu B3 (trạm cuối của tỉnh Bà Rịa-Long Khánh
đóng ở bờ Bắc sông Đồng Nai để móc với trạm 27 của T1) vẫn
ngày đêm túc trực đưa hàng ngàn dân công và bộ đội qua sông ra
mặt trận và chuyển tải thương binh về tuyến sau. Ngoài ra, trạm
còn có nhiệm vụ giao nhận khách, thư từ với trạm 27, và móc với
383

39.4 Page 384

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
trạm B4 bên kia quốc lộ 20, một tuyến đường đầy máu và nước
mắt. Dù thường xuyên thiếu đói, bệnh tật, thiếu thuốc men, ăn
củ rừng, rau rừng để đi liên lạc, nhưng các chiến sĩ giao liên của
ta vẫn giữ vững tay súng vai bồng quyết tâm “đánh địch mà đi,
mở đường mà tiến”, thà hy sinh chớ nhất định không để mất liên
lạc. Trước năm 1966, trạm có 2 tiểu đội cán bộ chiến sĩ giao liên
nhưng đến cuối năm 1969 chỉ còn lại 5 anh chị em. Nhiều anh chị
em đã lần lượt ra đi không trở về.
Từ tháng 3/1975, tại mặt trận Định Quán, lực lượng giao bưu
của Tân Phú ngày đêm đưa đường cho bộ đội, “chạy” thư phục vụ
cho Tỉnh ủy và Bộ Chỉ huy tiền phương, nối liên lạc về Khu ủy.
Khi chiến dịch bùng nổ, đến lúc bộ đội ta hoàn toàn giải phóng
Định Quán, Tân Phú ngày 20/3/1975, lực lượng giao liên của
tỉnh và huyện tuy ít, nhưng tất cả đều phấn khởi, dũng cảm lao
vào công tác phục vụ chiến đấu. Mặc cho bom pháo địch không
ngớt đánh phá hành lang, cố giải tỏa bao vây và tấn công của ta,
chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt, nhưng giao liên và đài thông tin
vô tuyến điện của Tân Phú giữ vững mạch máu thông tin liên lạc,
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cuối tháng 4/1975, trên chiến trường Long Thành và Nhơn
Trạch, lực lượng của Ban Giao liên huyện phục vụ rất đắc lực cho
tiền tuyến. Ngày 26/4/1975 lực lượng giao liên của huyện Nhơn
Trạch dẫn đường, đưa quân đoàn 2 và C240 của tỉnh vượt đồn
Cầu Mới, đánh chiếm thị trấn Phước Thiền làm bàn đạp đưa tiểu
đoàn pháo 130 ly của ta xuống Long Tân, Phú Hội.
Cùng đêm 26/4/1975, quân ta nổ pháo vào các cứ điểm của
địch ở Biên Hòa. Sáng 27/4/1975, ta làm chủ thị trấn Long Thành,
bộ phận giao bưu tỉnh Biên Hòa đóng ở Nhơn Trạch, Long Thành
vào tiếp quản trụ sở Bưu điện địch tại Long Thành trong ngày
27/4/1975.
Đúng 11 giờ 30 ngày 30/4/1975, đoàn cán bộ của khu miền
Đông và thị xã vào tiếp quản toàn bộ thị xã Biên Hòa. Riêng lực
384

39.5 Page 385

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lượng thông tin, giao bưu khu và thị xã tiếp quản nguyên vẹn Bưu
điện tỉnh Biên Hòa.
Hơn 20 năm chiến đấu cực kỳ gian khổ, ngành Giao bưu Biên
Hòa, Bà Rịa - Long Khánh, Tân Phú vượt qua những hy sinh mất
mát, vừa chiến đấu mở đường, nối thông các tuyến hành lang, các
tuyến giao thông, đảm bảo sự chỉ đạo của cấp ủy đối với các chiến
trường và phong trào cơ sở; vận chuyển một khối lượng lớn hàng
chiến lược của Trung ương chi viện cho chiến trường; đồng thời
góp phần to lớn trong việc động viên, nâng cao tinh thần chiến
đấu cho cán bộ, chiến sĩ các cấp thông qua những lá thư gia đình.
Tính từ 1960-1975, chỉ riêng Giao bưu Biên Hòa có 31 đồng chí
hy sinh (chưa tính huyện, xã), trong đó có một cán bộ cấp đại đội,
10 cán bộ cấp trung đội. Số hy sinh chiếm tỷ lệ gần phân nửa quân
số của Ban.
Lực lượng giao bưu thông tin liên lạc Đồng Nai được phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết
định số: 160/KT-CTN ngày 28/4/2000.
385

39.6 Page 386

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân tỉnh Đồng Nai
Lực lượng vũ trang nhân dân Đồng Nai(1) ra đời từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh và được nhân dân che chở nuôi dưỡng, lực lượng vũ trang
3 thứ quân ở Đồng Nai lần lượt hình thành và gắn liền với các
phong trào cách mạng của nhân dân, gắn liền với từng bước đi của
lịch sử miền Đông Nam Bộ, lịch sử dân tộc.
Trên những chặng đường phát triển, trải qua muôn ngàn khó
khăn ác liệt, đối đầu không cân sức với nhiều đơn vị sừng sỏ của
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cùng quân chư hầu và bè lũ tay sai,
nhưng lực lượng vũ trang Đồng Nai vừa chiến đấu, vừa xây dựng
trưởng thành vững chắc trong sự thương yêu đùm bọc của nhân
dân từ rừng núi, nông thôn, đồng bằng đến các đô thị, cuối cùng
đã giành thắng lợi vẻ vang.
Đồng Nai là tỉnh của miền Đông Nam Bộ, vùng đất chuyển tiếp
giữa Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, được Trung
ương xác định là địa phương nằm trong khu vực trọng điểm kinh
tế phía Nam.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai, Đề cương tuyên truyền 70 năm
ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Đồng Nai (15/5/1946 - 15/5/2016),
tháng 3/2016.
386

39.7 Page 387

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng Nai phía Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp tỉnh
Bình Dương, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh; phía Đông
giáp tỉnh Bình Thuận; phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Diện tích tỉnh Đồng Nai là 5.903,94 km2. Tỉnh hiện có 11 đơn
vị hành chính gồm 9 huyện: Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc,
Nhơn Trạch, Long Thành, Thống Nhất, Trảng Bom, Cẩm Mỹ,
Vĩnh Cửu, thành phố Biên Hòa và thị xã Long Khánh. Toàn tỉnh
có 171 xã, phường, thị trấn. Dân số trên 2.759.673 người với 31
dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 92,8%. Có 6 tôn giáo chính
chiếm hơn 65% dân số. Thành phố Biên Hòa là đô thị loại 1, là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đầu mối giao thông
quan trọng của tỉnh và miền Đông Nam Bộ.
Đồng Nai có lịch sử hình thành 320 năm tính từ thời điểm
Nguyễn Hữu Cảnh vào xây dựng bộ máy hành chính vào năm
1698.
Từ năm 1861, chính quyền thực dân Pháp tổ chức lại địa lý
hành chính tỉnh Biên Hòa, gồm: tỉnh Đồng Nai hiện tại và tỉnh
Bình Phước, một phần tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí
Minh.
Từ sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đến tháng
5/1951, tỉnh Biên Hòa gồm tỉnh Đồng Nai hiện tại, tỉnh Bình
Phước, một phần tỉnh Bình Dương.
Từ tháng 5/1951 đến tháng 7/1954, 2 tỉnh Biên Hòa và Thủ
Dầu Một sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên bao gồm: tỉnh Đồng Nai,
tỉnh Bình Dương, tỉnh Bình Phước, quận Thủ Đức, quận 2, quận
9 (thành phố Hồ Chí Minh), nhưng không có huyện Long Thành
(vì chuyển về tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn).
Từ năm 1957, chính quyền Sài Gòn thành lập tỉnh Long Khánh
(gồm các huyện Xuân Lộc, Long Khánh, Định Quán, Tân Phú
và một phần phía Bắc huyện Thống Nhất ngày nay). Năm 1959,
chính quyền Sài Gòn lại chia cắt thành lập tỉnh Phước Thành, bao
gồm cả vùng căn cứ Chiến khu Đ (tức có một phần đất của huyện
387

39.8 Page 388

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Tỉnh Biên Hòa có các huyện Long
Thành, Nhơn Trạch, Dĩ An, Tân Uyên, sau có thêm quận Kiệm
Tân, Đức Tu (từ năm 1963).
Do yêu cầu nhiệm vụ của kháng chiến tỉnh Biên Hòa nhiều lần
tách nhập với các tỉnh Thủ Dầu Một, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh.
Các tên gọi của tỉnh và các tên gọi có liên quan đến địa giới của
tỉnh thời kỳ này là: Biên Hòa, Long Khánh, Thủ Biên, Bà Biên,
Bà Rịa - Long Khánh, U1 (đơn vị chiến trường ngang cấp tỉnh,
thành lập tháng 9/1965 gồm thị xã Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu;
tháng 10/1967 có thêm huyện Trảng Bom) Phân khu 4, phân khu
Thủ Biên, tỉnh Tân Phú.
Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, tháng
1/1976 tỉnh Đồng Nai được thành lập. Năm 1978, đưa huyện
Duyên Hải về thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1991,
tách 3 huyện ven biển: Xuyên Mộc, Châu Thành, Long Đất về
thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Đồng Nai còn có địa lý
hành chính như ngày nay.
Do việc tách nhập cùng các chiến trường khác, nên lực lượng
vũ trang tỉnh nhiều lần phải sắp xếp, củng cố cả về Ban Chỉ huy
quân sự tỉnh (Tỉnh đội), về bố trí lực lượng, địa bàn đứng chân tác
chiến… Cụ thể, sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Biên
Hòa hình thành nhiều tổ chức vũ trang do những người yêu nước
thành lập như: Giải phóng quân quận Châu Thành (Quận ủy Châu
Thành - Biên Hòa), Vệ quốc đoàn Biên Hòa (Huỳnh Văn Nghệ),
Cộng hòa vệ binh, sau là Vệ quốc đoàn Long Thành (Huỳnh Văn
Đạo, Lương Văn Nho)… Để thống nhất lãnh đạo chỉ huy các lực
lượng kháng chiến trong tỉnh, theo chỉ đạo của Khu ủy Bộ Tư lệnh
Khu, ngày 15-5-1946, Tỉnh ủy Biên Hòa triệu tập Hội nghị quân
sự toàn tỉnh tại Xóm Đèn (thuộc xã Tân Hòa, huyện Tân Uyên,
nay là huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) và quyết nghị 2
vấn đề lớn: Thống nhất các lực lượng vũ trang gồm du kích trại
huấn luyện Sở Tiêu; Giải phóng quân quận Châu Thành; Vệ quốc
388

39.9 Page 389

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đoàn Biên Hòa, lấy tên Vệ quốc đoàn Biên Hòa; xây dựng chiến
khu Đ thành căn cứ kháng chiến của tỉnh.
Sự kiện ngày 15/5/1946 là một trong những mốc son quan trọng
đánh dấu sự ra đời của lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai. Từ đây,
lực lượng vũ trang Biên Hòa được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
thống nhất của Đảng; mở ra thời kỳ mới xây dựng và phát triển
lực lượng vũ trang của tỉnh từ trên xuống huyện, xã, từng bước
hình thành 3 hình thức vũ trang trong tỉnh, đảm bảo sự lãnh đạo,
chỉ huy thống nhất, tạo sức mạnh để lực lượng vũ trang thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ làm nòng cốt trong kháng chiến.
Tháng 10/1945, khi thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm Biên
Hòa, lực lượng vũ trang cùng nhân dân Đồng Nai kiên quyết, anh
dũng đứng lên kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn bỡ ngỡ
của buổi đầu đánh giặc, lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu
anh dũng tiêu hao nhiều sinh lực địch, ngăn chặn giặc mở rộng lấn
chiếm, tạo điều kiện củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng
căn cứ địa kháng chiến, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cuộc
kháng chiến lâu dài.
Từ tháng 8/1945 đến tháng 12/1947 là giai đoạn hình thành,
thống nhất lực lượng vũ trang Biên Hòa, chiến đấu góp phần
đánh bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân. Sau
Hội nghị Quân sự tại Xóm Đèn vào ngày 15-5-1946, đồng chí
Huỳnh Văn Nghệ với tư cách Ủy viên quân sự tỉnh đã thống nhất
lực lượng Giải phóng quân quận Châu Thành và Biên Hòa thành
Vệ quốc đoàn Biên Hòa - cơ sở để thành lập Chi đội 10 Biên
Hòa vào tháng 6/1946 (bao gồm cả Vệ quốc đoàn Long Thành).
Để tạo điều kiện cho Chi đội 10 hoạt động, Ban Chỉ huy Chi
đội quyết định thành lập quận Quân sự (cuối năm 1946 chuyển
thành các Ban công tác liên thôn) làm chân rết cho Chi đội 10
cơ động chiến đấu.
Sự ra đời của Chi đội 10 Biên Hòa, các quận Quân sự, Ban
công tác liên thôn là một sáng tạo trong hình thành và phát triển
389

39.10 Page 390

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
lực lượng vũ trang địa phương miền Đông Nam Bộ. Sự kiện này
quan trọng bởi là bước đệm hình thành 3 loại hình vũ trang: tập
trung, địa phương, du kích dân quân - là cơ sở hình thành ba thứ
quân sau này.
Giai đoạn 1948-1951 là thời kỳ phát triển mới của lực lượng vũ
trang Biên Hòa. Phong trào du kích phát triển, lực lượng vũ trang
địa phương cùng hệ thống dân quân phát triển ba thứ quân từng
bước được hình thành. Đặc biệt nổi bật là chiến công giao thông
đường bộ, chống càn bảo vệ căn cứ và trên nền chiến tranh du
kích phát triển, lực lượng vũ trang Biên Hòa lần đầu tiên đánh hạ
tháp canh De La Tour (tên của viên sĩ quan Pháp đã nghĩ ra cách
xây dựng tháp canh để phòng thủ) làm xuất hiện cách đánh đặc
công và kỹ thuật đặc công.
Về tổ chức lực lượng vũ trang, Chi đội 10 Biên Hòa phát triển
lên thành Trung đoàn 310 với 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn Lê Lợi,
Tiểu đoàn Quốc Tuấn, Tiểu đoàn Quang Trung với 2.200 quân.
Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ là Trung đoàn trưởng (sau là đồng chí
Nguyễn Văn Lung), đồng chí Võ Cương là Chính trị viên. Đến
tháng 10/1949, theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Nam Bộ, các trung
đoàn sáp nhập thành đơn vị lớn chuẩn bị cho “Tổng phản công”.
Trung đoàn 301 (Thủ Dầu Một) và Trung đoàn 310 (Biên Hòa)
sáp nhập thành Liên Trung đoàn 301-310 tác chiến trên địa bàn
Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Chiến khu Đ… Các tỉnh đội, huyện đội,
xã đội đều được tăng cường củng cố về tổ chức và lực lượng. Bộ
đội địa phương huyện được hình thành (như Đại đội Lam Sơn -
Vĩnh Cửu, Đại đội Lê Hồng Phong - Long Thành…).
Từ năm 1951 đến tháng 7/1954, theo yêu cầu tổ chức chiến
trường, 2 tỉnh Thủ Dầu Một - Biên Hòa hợp nhất thành tỉnh Thủ
Biên. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ từ khu trưởng về làm Tỉnh đội
trưởng Thủ Biên. Đơn vị vũ trang chủ lực của tỉnh là Tiểu đoàn
303, mỗi huyện đều có đại đội địa phương, hoặc đội vũ trang
tuyên truyền (với những vùng địch tạm chiếm như Xuân Lộc hay
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đô thị như thị xã Biên Hòa). Tỉnh Thủ Biên còn có đội Biệt động
tỉnh có hoạt động ở các thị xã, thị trấn. Tăng cường kết hợp vũ
trang tuyên truyền với xây dựng cơ sở kháng chiến trong thị xã,
thị trấn. Đánh đồn, bót, tháp canh, làm nòng cốt khôi phục phát
triển du kích chiến tranh, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ
(Đông Xuân 1953-1954) góp phần đánh bại thực dân Pháp buộc
chúng ký Hiệp định Genève (ngày 20/7/1954).
Lực lượng vũ trang tỉnh có một số trận đánh tiêu biểu nổi tiếng
trong kháng chiến chống Pháp như trận tập kích đầu tiên vào các
cơ sở đóng quân của thực dân Pháp ở trung tâm tỉnh lỵ Biên Hòa.
Tiếng súng tập kích vào thị xã Biên Hòa nổ vào lúc quân địch
bất ngờ nhất, 0 giờ ngày 1 rạng ngày 2/1/1946. Lực lượng tham gia
trận tập kích gồm Vệ quốc đoàn Biên Hòa, Giải phóng quân Châu
Thành, Liên chi đội 2, 3 Bình Xuyên và Giải phóng quân liên quận
Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tập kết về các vị trí áp sát xung
quanh thị xã trên các hướng Tân Phong, Hóa An, Bình Đa.
Ta đồng loạt nổ súng vào thành Kèn nơi đóng quân của lính
Pháp, các bót gác ở đầu cầu Ghềnh, nhà máy cưa BIF, Sở hiến
binh, khu vực nhà bưu điện, nhà ga, hãng dầu, nhà thông tin và
các công sở khác. Cả thị xã chìm trong tiếng nổ và lửa khói. Tác
giả Nguyễn Văn Quảng, chiến sĩ của phân đội 4 Vệ quốc đoàn
Biên Hòa, người trực tiếp tham gia cuộc tập kích mô tả: “Khắp
bầu trời thị xã như sôi lên sùng sục pha lẫn sấm sét. Lửa cháy
sáng rực. Súng nổ rền trời, lúc đạn đệm theo tiếng nổ ùng ình như
pháo đại. Những nơi ta định đến đều đến được, trừ một số hầm
nhà cố thủ của bọn địch, ta kiểm soát gần hết thị xã. Gần sáng,
quân ta rút về khói đen còn dựng cốt giữa lòng thị xã. Tiếng súng
còn lại lác đác nổ. Một đám tù binh Việt gian được trói dẫn lếch
thếch theo đoàn quân…”. Do tương quan lực lượng chênh lệch,
lại thiếu vũ khí và kinh nghiệm chiến đấu, quân ta sau khi tiến
công và làm chủ nhiều nơi trong thị xã đã buộc phải rút lui để bảo
toàn lực lượng.
391

40.2 Page 392

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trận tập kích thị xã Biên Hòa đầu năm 1946 có ý nghĩa lịch
sử quan trọng, không ngừng góp phần đập tan luận điệu tuyên
truyền xuyên tạc của địch, góp phần cổ vũ tinh thần kháng chiến
của nhân dân Biên Hòa nói riêng mà còn đánh dấu bước phát triển
mới của lực lượng vũ trang cách mạng. Lần đầu tiên, Vệ quốc
đoàn tỉnh Biên Hòa chiến đấu trong đội hình phối hợp nhiều lực
lượng với quy mô lớn, chiến đấu vận động tiến công tại địa bàn đô
thị. Đó là cuộc tập dượt trong quá trình các đơn vị vũ trang Biên
Hòa tiến tới xây dựng thành lực lượng tập trung thống nhất và tiến
hành những trận đánh lớn trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.
Liên tiếp trong 2 ngày 20 và 22/1/1946 quân Pháp tổ chức các
đoàn tàu chiến theo sông Đồng Nai tiến lên Tân Uyên. Các phân
đội vệ quốc đoàn Biên Hòa tổ chức trận địa phục kích ở 2 bên
bờ sông, thả neo bè cây giữa dòng để buộc tàu địch chạy sát mép
nước, sau đó dùng lựu đạn và súng trường bắn hạ địch. Kết quả
trong 2 trận phục kích, bộ đội Huỳnh Văn Nghệ bắn hỏng 1 tàu,
tiêu diệt và làm bị thương 30 tên địch.
Ngày 24/1/1946 quân Pháp huy động một lực lượng lớn có
phối hợp thủy lục không quân gồm 4 ngàn quân, 4 máy bay, 4 tàu
và nhiều xe cơ giới tiến công lên căn cứ Tân Uyên. Các phân đội
Vệ quốc đoàn Biên Hòa cùng đơn vị bảo vệ căn cứ khu 7 đã bí
mật xây dựng trận địa phục kích và chiến đấu anh dũng mưu trí,
linh hoạt. Trận đánh diễn ra từ 6 giờ sáng đến 17 giờ cùng ngày.
Quân ta tiêu diệt 220 tên địch, đốt cháy 6 xe cam-nhông, bắn chìm
2 tàu chiến đấu, thu nhiều vũ khí, đạn dược; sau đó rút về căn cứ
an toàn. Đây là trận chống càn lớn đầu tiên của Vệ quốc đoàn
Biên Hòa.
Trận phục kích giao thông La Ngà trên Quốc lộ 20 ngày
1/3/1948 cũng được đánh giá là trận đánh điển hình về lối đánh
vận động chiến.
Sáng 1/3/1948, đúng như tin tình báo của ta, đoàn xe địch gồm
70 chiếc xuất phát sớm từ Sài Gòn. Vừa qua khỏi thị xã Biên Hòa,
392

40.3 Page 393

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đoàn xe phải dừng lại nhiều lần để khắc phục chướng ngại vật do
du kích bố trí hoặc để đối phó với hoạt động bắn tỉa của bộ đội và
du kích trên từng chặng. Đến khu vực La Ngà thì trời đã ngã chiều
(chậm nhiều giờ so với kế hoạch), đoàn xe vừa hành quân vừa bắn
thị uy vào 2 bên đường.
Gần 15 giờ, những chiếc xe đi đầu lần lượt đi qua trận địa phục
kích khu vực C, rồi khu vực B. Đúng 15 giờ 2 phút, chiếc thiết
giáp mở đường vào đúng chỗ gấp khúc ngoặt trái của khu vực
phục kích A, 3 quả địa lôi gài sẵn đã nổ hất tung chiếc xe thiết
giáp cùng 2 xe chở lính hộ tống. Viên chỉ huy đoàn xe cùng bộ
phận thông tin chết tại chỗ. Mất liên lạc vô tuyến, các bộ phận xe
phía sau vẫn tiếp tục nối đuôi nhau tiến lên và dồn đống tại khu
vực trận địa A. Các chiến sĩ đại đội B cùng quốc vệ đội Xuân Lộc
dùng hỏa lực diệt tiếp chiếc xe chở lính hộ tống thứ 3 và đồng loạt
xông ra mặt đường, quân địch bị tê liệt hoàn toàn.
Tại khu vực B, các xe địch lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng
nan, lúng túng chống đỡ. Các chiến sĩ của ta chủ động tiến công
áp đảo địch ngay từ đầu, đốt cháy 28 xe, tiêu diệt 55 tên lính hộ
tống.
Tại khu vực C, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Sau 10 phút
giao tranh, các chiến sĩ đại đội A phá hủy 16 xe chở lính, vô hiệu
hóa 13 xe vận tải và diệt một số tên địch. Số còn lại dạt xuống
phía Đông Quốc lộ 20 và chạy lui về đồn La Ngà. Cùng lúc ấy, tốp
cuối cùng có xe thiết giáp hộ tống vừa tới trận địa phục kích, gặp
sức tiến công mãnh liệt của ta, vội quay trở lui về phía La Ngà.
Trận đánh kết thúc lúc 15 giờ 57 phút.
Trận La Ngà là chiến thắng quân sự lớn nhất của lực lượng bộ
đội tập trung ở miền Đông Nam Bộ tính từ đầu cuộc kháng chiến
đến thời điểm đầu năm 1948. Đoàn xe quân sự gồm gần 70 chiếc
bị đánh tan. 59 chiếc bị thiêu hủy. Quân ta đã tiêu diệt tại chỗ
150 lính lê dương hộ tống, 25 sĩ quan chỉ huy (trong đó đại tá De
Sérigné chỉ huy bán lữ đoàn Lê dương số 13, đại tá Pathuis, Phó
393

40.4 Page 394

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tham mưu trưởng thứ nhất quân viễn chinh Pháp ở Nam Đông
Dương, thiếu tá chỉ huy khu Hóc Môn và đại úy trưởng phòng xe
hơi hộ bộ tham mưu quân viễn chinh), bắt sống trung úy Joeffrey
chỉ huy đội hộ tống, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.
Chiến thắng La Ngà gây chấn động sâu sắc trong dư luận
trong nước, và nước Pháp. Quốc hội Pháp chất vấn Chính phủ
về trận La Ngà, viên Đại tá Talles chỉ huy trưởng khu vực Đồng
Nai Thượng tự tử. Số tù hàng binh được thả và hành khách đi
theo đoàn xe, trong đó có nhiều trí thức, doanh nghiệp Pháp sau
đó đã tuyên truyền rộng rãi về cuộc kháng chiến chính nghĩa của
Việt Minh.
Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên (Tân Uyên, Biên Hòa) ngày
19/3/1948 cũng là một trong những trận đánh nổi tiếng của lực
lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa lúc ấy.
Đêm 18 rạng 19/3/1948, Tổ du kích Tân Uyên gồm 4 chiến sĩ
và 1 cơ sở mật tổ chức đánh tháp canh cầu Bà Kiên trên tỉnh lộ
16. Vũ khí mang theo gồm 1 súng, 10 lựu đạn (1 của Mỹ, 9 tự tạo)
và 1 thang tre (dùng để hái trầu mượn của dân). Trận đánh diễn ra
đúng như phương án tập luyện. 3 chiến sĩ xung kích: Trần Công
An, Hồ Văn Lung, Trần Văn Nguyên leo lên thả lựu đạn qua lỗ
châu mai vào cả trong 3 tầng tháp. Bên ngoài du kích Nguyễn Văn
Ai cầm súng gác ở đầu cầu sẵn sàng bắn chi viện và Trần Văn Hỏi
(cơ sở mật) giữ cửa mở. Kết quả, tuy tường tháp không đổ nhưng
cả 11 tên lính bị tiêu diệt. Ta thu 8 súng và 20 lựu đạn.
Chiến thắng cầu Bà Kiên gây tiếng vang lớn, có giá trị lịch sử
quan trọng, là trận đầu tiên trong điều kiện chưa có vũ khí du kích
Tân Uyên (Biên Hòa) phá được tường tháp. Cách đánh bí mật tiếp
cận mục tiêu của du kích địa phương là cơ sở để Bộ Tư lệnh miền
Đông nghiên cứu về vũ khí, về kỹ thuật, tổ chức, trang bị cho bộ
đội thực hiện nhiệm vụ đánh tháp canh, đánh bại chiến thuật De
La Tour. Kỹ thuật đánh tháp canh hình thành từng bước, là sự
đóng góp của lực lượng vũ trang Biên Hòa. Sau trận đánh cầu Bà
394

40.5 Page 395

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Kiên ngày 19/3/1948, Bộ Tư lệnh miền Đông tổ chức hội nghị
bàn chuyên đề đánh tháp canh, nghiên cứu chế tạo loại vũ khí có
khả năng đánh áp sát, phá được tường tháp canh cho bộ đội tỉnh.
Ngày 23/3/1950, lực lượng vũ trang Biên Hòa ra quân đồng
loạt đánh 50 tháp canh dọc các quốc lộ 14, 13, tỉnh lộ 16, các tháp
canh thủng lỗ nhưng không sập. Công binh xưởng tiếp tục nghiên
cứu cải tiến mìn FT (phá tường), tăng cường mìn (Bêta). Ngày
19-4-1950, tháp canh Vàm Giá (quốc lộ 14) bị đánh sập hoàn toàn
bằng vũ khí FT và Bêta với kỹ thuật tiếp cận bí mật mục tiêu,
đánh bất ngờ… Kỹ thuật đánh tháp canh đã được Bộ Tư lệnh Nam
Bộ tuyên dương, những chiến sĩ đánh tháp canh được gọi “Bộ đội
Đặc công”. Đơn vị đại đội Nguyễn Văn Nghĩa (Tân Uyên) được
công nhận là đơn vị đặc công đầu tiên.
Từ năm 1950, kỹ thuật đặc công được phổ biến trong toàn tỉnh,
về miền Tây Nam Bộ, ra miền Trung cực Nam Trung Bộ và ra cả
miền Bắc. Ngoài đặc công đánh bộ, lực lượng vũ trang tỉnh còn
xuất hiện đặc công đánh thủy…
Kỹ thuật đánh tháp canh được phổ biến góp phần làm thất bại
chiến thuật De La Tour của Pháp ở miền Đông, góp phần hình
thành kỹ thuật và lực lượng bộ đội đặc công. Ngày 19/3/1967,
Bác Hồ ký sắc lệnh thành lập binh chủng Đặc công đặc biệt tinh
nhuệ, lấy ngày 19/3, ngày đánh tháp canh cầu Bà Kiên, làm ngày
truyền thống của binh chủng. Đây là đóng góp tiêu biểu, xuất sắc
của phong trào du kích chiến tranh Biên Hòa nói chung và lực
lượng vũ trang nói riêng cho phong trào giải phóng dân tộc của
đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh đó phải kể đến trận đánh tiêu diệt yếu khu Trảng
Bom ngày 20/7/1951. Chiều 20/7/1951, lực lượng tham gia trận
đánh hành quân đến vị trí tập kết đúng quy định. 16 giờ, theo
thường lệ, 2 xe cam-nhông chở 75 công nhân (do 25 chiến sĩ đại
đội Nguyễn Văn Nghĩa, cán bộ chiến sĩ đại đội 55 tiểu đoàn 303
và đội Biệt động tỉnh Thủ Biên hóa thân) đi làm về từ Bàu Cá
395

40.6 Page 396

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chạy về hướng Trảng Bom. 16 giờ 15 phút, bọn lính trong Chi khu
tỏa ra sân banh đá bóng. 2 xe cam-nhông chạy tới ngang cổng chi
khu bất ngờ dừng lại. Bộ đội nhanh chóng nhảy ra khỏi xe, giết
tên gác cổng và xông vào dùng bộc phá đánh các lô cốt, chiếm xe
bọc thép. Cùng lúc trong tiếng kèn đồng giục giã, Đại đội 60 ào
lên đánh chiếm các vị trí trong Khu trung tâm, Đại đội Lam Sơn
đánh chiếm đồn lính Pat-tidan cạnh sân banh. Bị bất ngờ, quân
địch trong chi khu và ngoài sân banh không kịp chống trả bỏ chạy
toán loạn.
Sau 30 phút chiến đấu, quân ta tiêu diệt 50 lính Âu Phi, bắt
sống 50 tên khác, phá hủy 1 xe tăng, thu 200 súng các loại (trong
đó có 3 đại liên, 6 trung liên, 2 súng cối 81 ly) hàng chục tấn đạn
dược, lương thực, thực phẩm và 5 ngàn đồng tiền Đông Dương.
Các chiến sĩ dùng xe Cam-nhông chở toàn bộ chiến lợi phẩm về
Chiến khu Đ an toàn.
Chiến thắng Trảng Bom gây tiếng vang lớn trên chiến trường
Biên Hòa và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tiểu đoàn 303 chỉ sau
một thời gian ngắn củng cố, đã lập một chiến công xuất sắc. Đây
là trận đánh lớn của bộ đội tập trung tỉnh kể từ sau chiến thắng La
Ngà năm 1948.
Sau khi ký Hiệp định Genève năm 1954, thực hiện chủ trương
tập kết bộ đội ra Bắc, lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai giải thể.
Tỉnh chỉ còn lại những cán bộ chính trị và một ít cán bộ quân sự,
hoạt động bí mật, bán công khai lãnh đạo quần chúng đấu tranh
dân sinh - dân chủ, đòi thi hành Hiệp định Geneve, chống khủng
bố người kháng chiến, gia đình cách mạng, trong tình hình địch
tiến hành xây dựng bộ máy đàn áp, khủng bố phong trào do cộng
sản lãnh đạo.
Điểm nổi bật ở Biên Hòa là biết lợi dụng mâu thuẫn nội bộ và
mâu thuẫn chính trị ở Sài Gòn để xây dựng cơ sở, trong đó có
việc đưa Tiểu đoàn 3 do Võ Văn Môn chỉ huy (thuộc lực lượng
Bình Xuyên chống chính quyền Ngô Đình Diệm) bị lùng quét từ
396

40.7 Page 397

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Rừng Sác về Chiến khu Đ để từng bước bổ sung và chuyển hóa
thành lực lượng vũ trang cách mạng. Bí mật xây dựng lực lượng
vũ trang, ta dùng danh nghĩa Bình Xuyên để vũ trang tuyên truyền
hỗ trợ phong trào quần chúng đấu tranh chính trị (như chống bầu
cử Quốc hội).
Từ tháng 7/1957, Tỉnh ủy Biên Hòa bí mật xây dựng Đại đội
250 (C250) sau chuyển về liên tỉnh miền Đông. Cùng lúc, vùng
Chiến khu Đ hình thành nhiều đơn vị vũ trang như C50, C9 hoạt
động cùng với danh nghĩa lực lượng Bình Xuyên. Các lực lượng
vũ trang tổ chức đánh Minh Thạch, Lò Than..., chống địch phá
rừng, phá Chiến khu Đ.
Điểm nổi bật thời kỳ này là một bộ phận vốn là lực lượng vũ
trang của Biên Hòa tham gia đoàn C200 (do đồng chí Nguyễn
Trọng Tâm làm chỉ huy) từ cuối năm 1959 đến đầu năm 1960, soi
đường từ Chiến khu Đ theo hướng Bắc để nối thông liên lạc với
đoàn B90 mở đường từ miền Bắc vào theo đường bộ. 2 đoàn gặp
nhau vào ngày 31/10/1960 tại vàm Dak R’tik (nay thuộc tỉnh Đắc
Nông) - đường Nam Bắc, đường Trường Sơn mở ra nối từ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa đến Chiến khu Đ.
Trong giai đoạn Đồng Khởi 1960-1965, về tổ chức chiến
trường có tỉnh Biên Hòa và tỉnh Long Khánh (địch có tỉnh Phước
Thành). Lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa có đại đội địa phương
240 (C240), tỉnh Long Khánh có bộ đội địa phương, đại đội du
kích Cao su sau Đồng Khởi 1960 cũng được thành lập. Vào tháng
2/1961, thành lập Tiểu đoàn 500 sau đổi thành 800 Quân khu (chủ
lực đầu tiên miền Đông) hoạt động ở Chiến khu Đ, Biên Hòa, Bà
Rịa. Sau đó đến năm 1964, có 2 trung đoàn chủ lực Miền đứng
chân là Q761 và Q762. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang giai
đoạn này là mở rộng căn cứ Chiến khu Đ; đánh phá ấp chiến lược,
mở vùng giải phóng (đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt).
Một hoạt động vũ trang của D800 cùng địa phương đánh địch
ở Tân Uyên, Vĩnh Cửu. Trong đó, phải kể đến trận đánh diệt tiểu
397

40.8 Page 398

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
khu Phước Thành (ngày 19/8/1961) mở rộng Chiến khu Đ, đánh
bại âm mưu chia cắt đánh phá căn cứ của địch; trận đánh diệt chi
khu Hiếu Liêm vào năm 1964, trận dùng 3 mũi bao vây bứt rút
đồn Trị An, mở rộng chiến khu Đ về phía Nam, mở hành lang giao
liên từ Chiến khu Đ vượt sông Đồng Nai về Biên Hòa xuống Bà
Rịa - Long Khánh.
Phong trào chiến tranh nhân dân phát triển trong toàn tỉnh, lấy
lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt để kết hợp 3 mũi.
Nắm thời cơ địch làm đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình
Diệm, nội bộ rối ren, ta mở đợt tiến công đánh phá ấp chiến lược,
giải phóng nhiều xã, ấp dọc lộ 24, lộ 16, quốc lộ 15, lộ 17, 19
(Long Thành - Nhơn Trạch) và liên tỉnh lộ 2, lộ 1 (Xuân Lộc).
Trận tập kích bằng pháo đầu tiên vào sân bay chiến lược quân
sự Biên Hòa của đoàn pháo binh U80, phá hủy nhiều máy bay
phương tiện chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn vào ngày
31/10/1964.
Trong chiến dịch Đông Xuân 1964-1965, Tiểu đoàn 800 Quân
khu, Đại đội 240 Biên Hòa mở một loạt trận đánh giao thông trên
quốc lộ 15 (Quốc lộ 51 ngày nay) thu hút địch để chiến dịch Bình
Giã giành thắng lợi lớn.
Trong giai đoạn 1965-1968, thực hiện chiến lược Chiến tranh
cục bộ, quân viễn chinh Mỹ vào trực tiếp làm nhiệm vụ tìm diệt,
hỗ trợ quân đội Sài Gòn thực hiện kế hoạch bình định. Mỹ mở
rộng sân bay Biên Hòa, mở rộng kho bom Thành Tuy Hạ, xây
dựng tổng kho Long Bình, căn cứ Hốc Bà Thức…
Trong khi đó vào tháng 9/1965, Trung ương Cục lập tỉnh Biên
Hòa (U1) gồm huyện Vĩnh Cửu, thị xã Biên Hòa (vào tháng 10-
1967 có thêm huyện Trảng Bom). Tỉnh đội U1 do đồng chí Trần
Công An làm tỉnh đội trưởng. Ngoài ra còn có 2 Đại đội Đặc công,
Đại đội 238 đứng chân đồi Giang Tói (Đại An - Vĩnh Cửu). Các
huyện đều có đại đội vũ trang, nhiệm vụ của tỉnh Biên Hòa U1 là
đánh diệt các phương tiện chiến tranh Mỹ và tay sai các cơ quan
398

40.9 Page 399

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đầu não, diệt sinh lực địch hỗ trợ chiến trường chung và phong
trào đô thị. Do Biên Hòa, Long Khánh là chiến trường quan trọng,
lực lượng vũ trang khu tăng cường Trung đoàn 4.
Tháng 4/1966, Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền thành lập
Đặc khu Rừng Sác gồm 10 xã của Nhơn Trạch, Cần Giờ với
nhiệm vụ chặn sông Lòng Tàu - cửa ngõ địch từ Biển Đông vào
miền Nam, vào Sài Gòn. Tư lệnh là đồng chí Lương Văn Nho.
Lực lượng vũ trang Đặc khu Rừng Sác sau chuyển thành Đoàn 10
đặc công Rừng Sác.
Trong cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Biên
Hòa, Long Khánh, lúc ấy Biên Hòa có sự tham gia của Sư đoàn 5,
đặc công Biên Hòa, đơn vị pháo tên lửa 274. Ta đánh sân bay Biên
Hòa, tổng kho Long Bình, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, thực hiện
tiến công nổi dậy làm chủ nhiều nơi dài ngày như: Công Thanh
(Vĩnh Cửu), Bình Sơn (Long Thành). Long Khánh ngoài D445 có
thêm D440, tấn công Tiểu khu Long Khánh và nhiều điểm trong
thị trấn. Đặc biệt, cuộc tổng tiến công nổi dậy năm 1968 ở Biên
Hòa có ý nghĩa lớn, chia lửa với Sài Gòn và các đô thị lớn. Cuộc
tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968 góp phần buộc Mỹ ngồi vào
bàn đàm phán Paris, làm thất bại chiến lược Chiến tranh cục bộ
và từng bước xuống thang chiến tranh.
Giai đoạn từ 1969-1972 là thời kỳ sau Mậu Thân, Mỹ bắt đầu
xuống thang nhưng vẫn thực hiện càn quét, đẩy lực lượng cách
mạng ra xa đô thị, tiến hành bình định cấp tốc. Trong những năm
bị địch phản kích ác liệt, nhất là thời kỳ 1969-1971, trên chiến
trường Biên Hòa lực lượng vũ trang và nhân dân Đồng Nai đã
phải chịu đựng sự đánh phá khốc liệt của kẻ thù: Bom B52 đánh
phá rải thảm liên tục, pháo bầy, trực thăng, phản lực ném bom,
bắn phá, chất độc hóa học, bom đạn của kẻ thù hủy diệt môi
trường, địa hình, cùng những cuộc hành quân càn quét của bộ
binh, biệt kích Mỹ, ngụy, Úc, Thái Lan, làm cho chiến trường
Biên Hòa - Long Khánh bị chia cắt, không còn một nơi nào được
399

40.10 Page 400

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
gọi là an toàn. Cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang khi trú
quân phải đào hầm, ngủ hầm lúc hành quân thường bị địch phục
kích gây thương vong, tổn thất…
Nhưng với quyết tâm không để mất dân, mất đất, các lực lượng
vũ trang của tỉnh đã kiên trì bám trụ, phát huy tinh thần tự lực,
tự cường, sáng tạo gắn chặt với quần chúng. Nhờ bám trụ mà tấn
công được giặc, nhờ bám trụ mà bảo toàn được lực lượng và chiến
trường Đồng Nai thời kỳ nào, lúc nào cũng vang tiếng súng tấn
công. Bám trụ đã trở thành một khoa học quân sự độc đáo, thể
hiện ý chí, nghệ thuật quân sự của Đảng bộ, quân dân Đồng Nai
trong chiến tranh giải phóng dân tộc, nhất là trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Biên Hòa mở đầu năm Kỷ Dậu bằng cuộc tiến công Xuân 1969.
Lực lượng vũ trang Biên Hòa gồm đặc công, biệt động phối hợp
Sư đoàn 5 tiến công vào các mục tiêu trong thành phố Biên Hòa:
Ty Cảnh sát, ga xe lửa, kho Long Bình. Biên Hòa là tỉnh gần như
duy nhất ở miền Đông thực hiện đúng chỉ đạo của Trung ương
Cục và Bộ Tư lệnh Miền về tiến công Xuân Kỷ Dậu 1969. Điều
đáng quý là cho dù địch càn quét ác liệt các vùng căn cứ đặc biệt
khu vực Long Thành, Nhơn Trạch, Rừng Sác bao nhiêu thì lực
lượng vũ trang địa phương tỉnh, huyện, xã đều bám trụ đánh địch
bấy nhiêu.
Ngày 18/3/1970, Mỹ bật đèn xanh cho Thủ tướng Lol Nol lật
đổ Quốc vương Sihanuc tại Campuchia, mở rộng chiến tranh ra
Đông Dương nhưng đây cũng là thời cơ để phong trào cách mạng
miền Nam khôi phục và phát triển.
Miền Đông mở chiến dịch CD1970, đánh địch ở lộ 3, lộ 2 thu
hồi vùng giải phóng, đồng thời, đẩy mạnh hoạt động võ trang biệt
động ở thị xã, thị trấn…, tập kích vào các căn cứ quân sự, trại
huấn luyện của địch…
Từ tháng 3/1972, các lực lượng vũ trang tham gia chiến dịch
Nguyễn Huệ. Đặc biệt ở Long Thành, Bình Sơn, Trung đoàn 4
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cùng Tiểu đoàn 240 Biên Hòa đánh tiêu diệt nhiều đơn vị Bảo
an, Sư đoàn 18 ở Bình Sơn - Long Thành, hỗ trợ phong trào phát
triển, khôi phục vùng giải phóng và làm chủ.
Ngày 3/6/1972, Bộ tư lệnh Miền thành lập đoàn Đặc công 113
ở Mã Đà, trên cơ sở 2 Tiểu đoàn Đặc công của Biên Hòa (U1).
Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng làm Đoàn trưởng. Đơn vị đã tổ
chức tập kích sân bay chiến lược Biên Hòa và tổng kho Long
Bình, gây cho địch thiệt hại nặng, hỗ trợ chiến trường toàn miền,
góp phần thắng lợi quân sự buộc Mỹ ký Hiệp định Paris ngày
27/1/1973.
Giai đoạn đầu năm 1973, tuy có lựng khựng sau Hiệp định
Paris nhưng khi có Nghị quyết số 21-NQ/TW, Nghị quyết số 12-
NQ/TW của Trung ương Cục miền Nam (tháng 1/1974), phong
trào cách mạng nói chung, hoạt động lực lượng vũ trang có bước
phát triển mới.
Về tổ chức, vào tháng 10/1973, Trung ương Cục miền Nam
thành lập tỉnh căn cứ Tân Phú nối liền với Chiến khu Đ mở rộng
nhằm chuẩn bị một bước có cơ sở xây dựng hành lang, tuyến hậu
cần bảo đảm cho các binh đoàn chủ lực Miền hoạt động ở miền
Đông.
Tháng 7/1974 Quân đoàn 4 thành lập (gồm sư đoàn 341- tức Sư
đoàn 1, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 6 Quân khu 7 phối thuộc và Trung
đoàn 95b). Nhiệm vụ là đánh địch bình định, lấn chiếm khôi phục
vùng làm chủ trước ngày ký Hiệp định Paris. Đặc biệt phong trào
đánh địch trong thị xã phát triển, nhất là ở thị xã Long Khánh của
biệt động.
Năm 1974, Bộ Tư lệnh Quân khu mở chiến dịch lộ 2 thu hồi
vùng giải phóng.
Mùa khô 1973-1974 và mùa mưa 1974 chiến sự diễn ra hết sức
ác liệt, lực lượng vũ trang địa phương có sự hỗ trợ đắc lực của bộ
đội Quân khu mở được vùng đứng chân tương đối vững chắc, giữ
được hành lang quan trọng nối liền từ Chiến khu Đ qua lộ 20 về
401

41.2 Page 402

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
lộ 1, lộ 15; xây dựng phát triển cơ sở, mở vùng làm chủ cho quần
chúng, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho bước phát triển trong mùa
khô 1974-1975.
Mùa khô 1974-1975, chuẩn bị cho kế hoạch giải phóng theo
chỉ đạo của Trung ương, lực lượng vũ trang tăng cường hoạt động
đánh địch trên lộ 1, lộ 20. Ta đánh bức rút địch từ căn cứ 1 đến
căn cứ 5 (từ Rừng lá Xuân Lộc ra Hàm Tân), giải phóng lộ 1. Thời
gian này xuất hiện nhiều điển hình dùng 3 mũi bức rút, buộc địch
đầu hàng, tiêu biểu là trận bức đồn Bảo Chánh đầu năm 1975.
Bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Biên Hòa
đã tiến hành nhanh việc quán triệt tình hình, nhiệm vụ quan trọng
trước mắt. Yêu cầu chung là “Nắm lấy thời cơ địch đang tan rã,
khẩn trương tập trung mọi lực lượng vũ trang, bán vũ trang và quần
chúng tấn công quét sạch địch trong các chi khu, căn cứ: Long
Thành, Nhơn Trạch, Khu kho Thành Tuy Hạ, căn cứ Nước Trong,
kho Long Bình, yếu khu Trảng Bom, Chi khu Công Thanh… và
toàn bộ bộ máy kìm kẹp của địch từ ấp, xã, huyện, tỉnh”.
Trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975, Biên Hòa là chiến
trường nóng bỏng. Xuân Lộc được địch xây dựng thành “cánh
cửa thép” án ngữ hướng Đông Bắc Sài Gòn. Sau 12 ngày đêm (từ
ngày 9/4 đến 21/4/1975) quyết chiến, quân đoàn 4 và vũ trang Bà
Rịa - Long Khánh đã đập tan cánh cửa này vào ngày 21/4/1975 để
đại quân ta tiến vào giải phóng Biên Hòa, Sài Gòn.
Trước khi Chiến dịch Xuân Lộc nổ ra, lực lượng vũ trang địa
phương đã làm chủ quanh thị xã Long Khánh, chuẩn bị địa bàn
cho Quân đoàn 4.
Đặc biệt từ ngày 14/4 đến 17/4/1975, Sư đoàn 6 cùng lực lượng
địa phương diệt Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 ở Dầu Giây cùng với
lực lượng vũ trang Tân Phú giải phóng Tân Phú, Định Quán, cắt
đứt lộ 20, lộ 1, cắt sự chi viện của địch từ Quân đoàn 3 (Biên Hòa)
lên, đánh chiếm các cao điểm Núi Thị, Con Rắn buộc địch ở Xuân
Lộc rút chạy theo đường lộ 2.
402

41.3 Page 403

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong thành phố Biên Hòa, từ ngày 9/4/1975, đồng chí Phan
Văn Trang, Bí thư Thành ủy Biên Hòa, theo đường giao liên công
khai vào nội thành triển khai kế hoạch tiến công và nổi dậy giải
phóng thành phố. Thành ủy chỉ đạo thành lập các Ủy ban khởi
nghĩa ở nội ô và các xã ven khu kỹ nghệ Biên Hòa, chuẩn bị băng
cờ, khẩu hiệu, loa phát thanh; tổ chức cơ sở mật nắm được 9 đội
phòng vệ dân sự, biến tổ chức này thành lực lượng cùng với nhân
dân nổi dậy giành chính quyền khi thời cơ đến.
Đêm 29/4, Ủy ban khởi nghĩa Bình Trước đã vận động quần
chúng, tự vệ mật phá nhà lao tỉnh Biên Hòa, giải thoát hàng trăm
tù nhân. 6 giờ sáng 30/4, đảng viên mật của chi bộ chợ Biên Hòa
là Trương Thị Sáu được cơ sở mật là nội tuyến của ta trong biệt
động quân bảo vệ đã hạ cờ ba que, kéo cờ Mặt trận ở cột cờ Dinh
tỉnh trưởng Biên Hòa. Cùng thời gian, các cơ sở mật bên trong
đã thượng cờ Mặt trận ở Dinh Tư lệnh Quân đoàn 3 (nay là Nhà
Thiếu nhi Đồng Nai), Chi khu Đức Tu, giải phóng hoàn toàn Khu
kỹ nghệ Biên Hòa. 10 giờ 30, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Biên Hòa
cùng Trung đoàn 5, Sư đoàn 6 tiến vào Tòa hành chánh Biên Hòa
trước rừng người và cờ hoa chào đón 2 bên đường Trịnh Hoài Đức
(nay là đường 30/4).
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, lực lượng vũ trang
Đồng Nai có một số trận đánh tiêu biểu. Một trong số đó là trận
tập kích vào trụ sở Đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) ở Tân Mai
(Biên Hòa) vào đêm 7/7/1959, diệt 2 cố vấn quân sự Mỹ đầu tiên
trên chiến trường miền Nam.
Đêm 5/7/1959 từ Chiến khu Đ, cán bộ, chiến sĩ bộ phận đại
đội 250 về đến Gò Cây Trâm Muối, xã Tân Phong. Đêm 6-7, ta
ém quân ở vạt rừng chồi Gò Me, ấp Lân Thành cách nhà máy cưa
BIF (Nhà Xanh) vài trăm mét. 19 giờ ngày 7/7/1959, các chiến sĩ
và lực lượng tự vệ mật thị xã đã triển khai đội hình, tiếp cận các
mục tiêu đã định. 19 giờ 15 phút trận tập kích bắt đầu, sau hơn
10 phút nổ súng tiến công, ta đã tiêu diệt 2 tên cố vấn Mỹ và bắn
403

41.4 Page 404

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bị thương một số tên khác. Đây được coi là 2 quân nhân Mỹ chết
trận đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam (sau năm 1954).
Trận đánh diễn ra chớp nhoáng, tất cả các đơn vị địch đều không
kịp trở tay, kể cả số lính bảo vệ nằm sát cư xá. Theo phương án
đã vạch sẵn, bộ đội ta rút về Chiến khu Đ an toàn. Các tự vệ mật
cũng nhanh chóng phân tán về các địa điểm tập kết, giấu vũ khí,
thay đổi trang phục trở lại cuộc sống bình thường của người dân
thị xã.
Trận đánh phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) đóng tại nhà
máy cưa BIF (Biên Hòa) là trận đánh Mỹ đầu tiên của quân dân
miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Kế đến là trận đánh Phước Thành diễn ra đêm 17 rạng sáng
18/9/1961. Lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Phước Thành gồm
1 trung đội của tỉnh, 1 trung đội huyện Phú Giáo, 2 tiểu đội huyện
Tân Uyên và du kích các xã làm nhiệm vụ chặn viện, phá hoại,
nghi binh và phối hợp đánh nhỏ với mặt trận chính. Sau 1 giờ 30
phút chiến đấu, Tiểu đoàn 800 tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn
lực lượng chiếm đóng gần 2 ngàn tên gồm: 1 tiểu đoàn biệt động
quân, 1 tiểu đoàn bảo an, 1 chi đội thiết giáp, 1 đại đội pháo 105
ly, 1 đại đội bảo an, 1 đại đội cảnh sát dã chiến, 1 đại đội dân vệ.
Trận đánh đã tiêu diệt hoàn toàn Tiểu khu Phước Thành, Chi khu
Phú Giáo cùng toàn bộ bộ máy hành chính của địch, thu trên 4.l00
súng các loại và rất nhiều quân trang, quân dụng, giải thoát gần
300 tù chính trị.
Những ngày tiếp theo, phát huy chiến thắng Phước Thành, các
lực lượng vũ trang địa phương tỉnh tiếp tục bao vây, tấn công
địch, mở rộng Chiến khu Đ.
Đặc biệt, trận pháo kích bằng pháo đầu tiên vào sân bay quân
sự Biên Hòa ngày 30/10/1964 của Đoàn U80 (sau này là Đoàn
Pháo binh Biên Hòa) là chiến công vang dội của quân dân trong
tỉnh. Trận đánh này có sự phối hợp của đội trinh sát biệt động thị
xã Biên Hòa, bộ đội du kích huyện Vĩnh Cửu và cơ sở mật phục
404

41.5 Page 405

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vụ, hướng dẫn đường, xây trận địa tại Hốc Bà Thức (Tân Phong)
cách sân bay Biên Hòa 1.000 mét về phía Đông Bắc.
23 giờ 30 ngày 31/10/1964, pháo cối ta bắt đầu cấp tập bắn vào
sân bay Biên Hòa. Chỉ trong vòng 15 phút, 130 quả đạn cối rơi
gọn và chính xác xuống các mục tiêu, phá hủy 59 máy bay, trong
đó có 21 máy bay B57, loại máy bay tối tân của Mỹ lúc bấy giờ
mới đưa từ Philippin sang chuẩn bị gây tội ác ở miền Bắc, 11 máy
bay ADD6, 1 máy bay do thám U2, diệt và làm bị thương 293 tên
địch, tiêu hủy và làm nổ tung 2 kho bom đạn lớn, 1 kho xăng, 1
đài quan sát và 18 trại lính. Địch không kịp phản kích, lực lượng
ta rút về căn cứ an toàn.
Chiến thắng của trận đánh sân bay Biên Hòa làm nên một chiến
công mang tầm vóc lịch sử, gây cho không quân Mỹ một “sự kiện
chưa có tiền lệ”, “một tổn thất ngang với những tổn thất tồi tệ
nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai” (trích quyển Giải phẫu
một cuộc chiến tranh của Gabriel Kolko).
Đây là trận đánh táo bạo, bất ngờ, lần đầu tiên pháo binh Miền
tận dụng yếu tố bí mật, kết hợp với lực lượng địa phương và
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân luồn sâu vào lòng
địch, dùng lực lượng nhỏ đánh mục tiêu lớn và quan trọng, đồng
thời khắc phục có hiệu quả những hạn chế, nhược điểm của vũ khí
đạn dược, cơ động nhanh chóng, bám sát mục tiêu, bắn tập trung,
đạt hiệu suất cao, mở đầu cho những trận pháo kích, tập kích vào
các vị trí mục tiêu chiến lược quan trọng của quân Mỹ và quân
đội Sài Gòn sau này, trong đó có thể chỉ sử dụng pháo mang vác.
Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng
đã tổ chức lễ trao tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng
Nhất - Huân chương cao nhất của lực lượng vũ trang lần đầu tiên
được tặng thưởng ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, phần thưởng lớn nhất cho Đoàn U.80 pháo binh Miền.
Bác Hồ kính yêu với bút danh Chiến sĩ đã viết thơ ca ngợi chiến
thắng sân bay Biên Hòa:
405

41.6 Page 406

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu
Thành đồng trống thắng lay lầu trắng
Điện Biên Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Ngay sau khi được báo tin chiến thắng, Ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam gửi điện khen
các đơn vị tham dự trận đánh sân bay Biên Hòa: “…Chiến thắng
sân bay Biên Hòa là một hành động tuyệt vời của quân dân ta,
phục thù cho 500 đồng bào ở sông Ông Kèo và liệt sĩ Nguyễn
Văn Trỗi vừa bị giặc Mỹ và tay sai giết hại. Chiến thắng sân bay
Biên Hòa đã gây phấn khởi to lớn trong quân dân ta, đồng thời
gây hoang mang khiếp sợ cho bọn xâm lược và bọn tay sai bán
nước…”.
Chiến thắng sân bay Biên Hòa là bước nhảy vọt quan trọng
về chất lượng và hiệu suất chiến đấu, là cái mốc đánh dấu sự
khởi đầu cho lối đánh hết sức độc đáo của pháo binh: lối đánh
độc lập, bí mật thọc sâu đánh hiểm, dùng ít đạn mà hiệu suất cao
và rút lui an toàn. Chiến thắng Biên Hòa còn cho những kinh
nghiệm quý về tổ chức chỉ huy, xây dựng quyết tâm chiến đấu,
hiệp đồng giữa pháo binh và bộ binh, giữa bộ đội chủ lực và
bộ đội địa phương, dân quân du kích, giữa quân, dân và khẳng
định: mọi hệ thống phòng thủ của địch dù kiên cố và canh phòng
nghiêm ngặt đến đâu, ta cũng đều có thể vượt qua và giáng cho
địch những đòn chí mạng.
Trận đánh vào Tổng kho liên hợp quân sự Long Bình ngày
22/6/1966 và loạt trận trong tháng 10, 11, 12/1966 cũng là thắng
lợi lớn của quân dân trong tỉnh.
Vào lúc 2 giờ sáng 22/6/1966 các chiến sĩ Đại đội 2, Đặc công
U1 do đồng chí Nguyễn Tấn Vàng, đồng chí Nguyễn Văn Thái
(Tư Già) chỉ huy đã dũng cảm, mưu trí vượt qua mọi chướng ngại
phòng thủ của địch, dùng mìn có gắn kíp hẹn giờ đánh vào Tổng
kho liên hợp Long Bình, phá hủy 40 ngàn quả đạn pháo 155 ly
406

41.7 Page 407

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chưa kịp đem đi gây tội ác của Mỹ.
Trận đánh đầu tiên vào kho Long Bình thắng lợi, hủy diệt một
lượng đạn pháo lớn của địch đã hỗ trợ đắc lực và kết hợp cùng
các chiến trường đánh bồi cuộc phản công chiến lược mùa khô
lần thứ 1 của đế quốc Mỹ. Thắng lợi này đã tác động rất lớn đối
với phong trào cách mạng ở Biên Hòa và Sài Gòn, có tác dụng
hỗ trợ và cổ vũ tinh thần đánh Mỹ của quân và dân ta trên các
chiến trường.
Cũng trong năm này, Đặc công Đoàn 10 đặc công Rừng Sác
đánh chìm tàu Victory trên sông Lòng Tàu ngày 23/8/1966. Trên
địa bàn Rừng Sác, Biên Hòa, Đoàn 10 đặc công với sở trường
đánh sông nước bố trí các trận địa pháo DK75, súng máy 12,7mm
và trận địa thủy lôi, thực hiện ý định “Liên tục tấn công 7 ngày
trên sông Lòng Tàu”. Ngày 23/8/1966, bằng thủy lôi K5 - một
loại thủy lôi sừng chạm của Liên Xô - đơn vị đã đánh chìm chiếc
tàu hậu cần Baton Rouge Victory 10 ngàn tấn của Mỹ. Trên tàu
gồm có 45 thủy thủ, 100 chiếc thiết giáp M113, 3 máy bay phản
lực và một khối lượng lương thực đủ cho 1 sư đoàn Mỹ sử dụng
trong 1 tháng.
Chiến công này mở màn cho hàng loạt trận đánh thắng lợi sau
này của Đoàn 10 xuất phát từ địa bàn Rừng Sác - Nhơn Trạch, cổ
vũ cả nước khí thế quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược; thể
hiện ý chí quyết tâm đó là không chỉ tiến công địch trên Lòng Tàu
mà còn đánh vào các quân cảng, kho tàng, căn cứ quân sự Mỹ;
một trận “đánh bồi” cuộc phản công mùa khô thứ nhất của Mỹ,
đồng thời đánh vào “dạ dày” của chúng trong khi chuẩn bị cuộc
phản công mùa khô thứ 2.
Tiếp theo đó là trận đánh của Trung đoàn đặc công 113, kết
hợp nội tuyến tấn công kho Long Bình đêm 13/8/1972 vào sân
bay Biên Hòa.
Nhờ Thị ủy Biên Hòa giúp đỡ, cơ sở nội tuyến trong sân bay
Biên Hòa đã cung cấp tin và sơ đồ sân bay cho Đoàn 113 để lên
407

41.8 Page 408

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
sa bàn, chuẩn bị phương án tác chiến. Đêm 1/8/1972, Tiểu đoàn
14 pháo đặc công đã bắn ĐKZ vào sân bay Biên Hòa, phá hỏng
74 máy bay các loại, phá hủy 13 xe quân sự, 2 dàn ra-đa và nhiều
thiết bị chiến tranh khác.
Trước đó, đồng chí Nguyễn Văn Thái (Tư Già), Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 2 đặc công U1 Biên Hòa, cùng đồng đội đã
nghiên cứu cao điểm 53 trong tổng kho Long Bình. Các đồng
chí đã tìm ra một con đường bí mật có thể đột nhập vào kho một
cách an toàn, từ đó lên kế hoạch đánh kho Long Bình được đơn
vị chuyển giao cho Đoàn 113 khi đoàn được thành lập. Cao điểm
53 rộng 1,5km, dài 2,5km gồm 18 dãy với 200 gian chia thành ba
khu kho, mỗi khu có sáu dãy cách nhau 100 mét, nhà nọ cách nhà
kia 60 mét, các kho bom, đạn có cửa thép dày 10 mm, có khóa sắt
điều khiển bằng điện. Phương án tác chiến là đặc công dùng cưa
cắt khóa, đặt mìn có kíp nổ hẹn giờ vào kho.
Đêm 13/8/1972, Đoàn 113 tổ chức 57 cán bộ, chiến sĩ chia làm
2 mũi đột nhập vào khu kho 53. Đêm đó đúng kỳ hạn địch mở cửa
các kho để xả hơi, nên cửa kho không khóa, một cơ hội thuận lợi
cho đặc công nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ. 108 khối thuốc
nổ hẹn giờ được các chiến sĩ đặt vào các kho (cách 1 kho đặt 1
trái). 4 giờ ngày 14/8/1972, toàn bộ khu kho cao điểm 53 bị nổ
tung 130 dãy kho với 150.000 tấn bom, đạn bị phá hủy, nhà lính
bị sập hoàn toàn.
Sau trận đánh trên, Mỹ bắt đầu bàn giao sân bay Biên Hòa cho
Sư đoàn 6 không quân quân đội Sài Gòn để chuẩn bị rút về nước.
Sân bay Biên Hòa tiếp nhận thêm nhiều loại máy bay mới và tổ
chức các lớp huấn luyện kỹ thuật cho sĩ quan không quân Sài Gòn
để tiếp nhận bàn giao của Mỹ.
Đại úy Nguyễn Văn Thôn, sĩ quan quân khí của không quân
Sài Gòn từ miền Trung về tập huấn kỹ thuật tại sân bay Biên Hòa.
Anh là cơ sở nội tuyến của Ban Binh vận Trung ương Cục miền
Nam với mật danh H16. Được Ban Binh vận Miền bàn giao, Thị
408

41.9 Page 409

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ủy, Thị đội Biên Hòa đặt kế hoạch dùng nội tuyến kết hợp với lực
lượng vũ trang bên ngoài theo phương châm bí mật và bảo vệ an
toàn cho cơ sở bên trong.
Binh công xưởng thị đội Biên Hòa đã cưa bom, lấy thuốc chế
tạo thành kíp nổ hẹn giờ, dùng cơ sở bí mật trong sân bay chuyển
vào cho H16 để gắn vào quả bom dưới cánh máy bay trong khu
kho của sân bay. Kế hoạch khẩn trương hoàn thành thật chính xác.
Khoảng 9 giờ ngày 10/9/1972, quả bom phát nổ. Cùng lúc từ
dốc Ông Hoàng, Tiểu đoàn 14 pháo đặc công (Đoàn 113) bắn
pháo vào sân bay để đánh lạc hướng địch. Sân bay Biên Hòa ngập
trong khói lửa. 175 máy bay A37, C130 bị nổ tung, nhiều sĩ quan,
nhân viên kỹ thuật của địch bị chết. Sân bay Biên Hòa bị tê liệt
suốt 7 ngày liền.
Trong 2 ngày 11 và 12/9/1972, các hãng thông tấn phương Tây
AP, AFP thừa nhận: “Đối phương (tức quân giải phóng) đã gây
thiệt hại ghê gớm nhất. Trận pháo kích vào sân bay Biên Hòa có
giá trị ngang với một trận tập kích bằng máy bay chiến lược”.
Trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (từ năm
1975 đến nay), cùng với các ban, ngành, đoàn thể trong hệ thống
chính trị của địa phương; Đảng bộ, Lực lượng vũ trang tỉnh luôn
chú trọng quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng, Quân khu 7, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, vận dụng linh hoạt,
sáng tạo đường lối quân sự, đường lối ngoại giao, thống nhất ý chí
và hành động hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, cụ thể
như nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, triệt phá tổ chức Fulro và
tiêu diệt các nhen nhóm phản động, bảo vệ thành quả cách mạng,
góp phần xây dựng cuộc sống mới.
Sau ngày giải phóng, phía chế độ cũ ra trình diện 94.307 người
trong đó có khoảng 4 ngàn sĩ quan cấp úy, tá và tướng. Còn lại
86.749 đối tượng chiếm khoảng 45% chưa ra trình diện, chủ yếu
là những sĩ quan ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân, các sắc lính
409

41.10 Page 410

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
nguy hiểm, cảnh sát đặc biệt. Các thế lực chống phá cách mạng
lợi dụng vùng tôn giáo phức tạp để dễ ẩn náu, trọng điểm là khu
vực Hố Nai, Dầu Giây, Kiệm Tân, Phương Lâm… Các khu rừng
rậm ở Định Quán, Xuyên Mộc, Gia Ray… cũng là những địa bàn
tốt để những đối tượng này co cụm xây dựng căn cứ, tổ chức lực
lượng để chống phá cách mạng. Bước sang năm 1977, sau nhiều
nỗ lực truy quét tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội trên
địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Lúc này tổ chức phản động nổi lên 3
lực lượng chính, là: lực lượng Fulro gồm vài chục sĩ quan và binh
lính chế độ cũ, bị đánh dạt từ Lâm Đồng xuống Đồng Nai; lực
lượng tàn quân do tên Lý Phá Sáng cầm đầu; lực lượng tàn quân
do tên Vinh Sơn cầm đầu.
Cả 3 lực lượng phản động nói trên đều nằm trên địa bàn Định
Quán, Tân Phú, Long Khánh (phía Đông và Tây lộ 20). Riêng
huyện trọng điểm Tân Phú có 15 toán vũ trang khoảng 310 tên.
Đầu năm 1977, lực lượng Fulro bị lực lượng vũ trang Lâm Đồng
truy quét mạnh đã dạt xuống Đồng Nai, hoạt động chủ yếu ở địa
bàn Tân Phú, nhất là các xã Phú Túc, Phú Hòa, Phú Lâm (nay
thuộc huyện Định Quán). Từ cuối năm 1976 các đối tượng phản
động này đã hình thành Mặt trận giải phóng Fulro, thậm chí vẽ cả
mẫu cờ Mặt trận. Bị lực lượng của ta truy quét gay gắt, đến cuối
thập niên 80 những toán tàn quân địch ẩn náu trong rừng kể cả lực
lượng Fulro đều bị ta phá rã.
Ngoài việc phải duy trì một lực lượng lớn quân thường trực, tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật làm nghĩa vụ quốc tế Campuchia, ta
đã phối hợp chặt chẽ giữa công an với các ngành, giữa cấp tỉnh,
huyện, xã với Quân khu và Bộ Quốc phòng để đánh địch rất hiệu
quả. Cụ thể đã phá tan hàng chục toán tàn quân địch trong rừng,
diệt và bắt hàng trăm tên; phá tan 30 nhen nhóm, tổ chức phản
động của địch. Đây là chiến công lớn đánh tan ý đồ gây dựng lực
lượng của địch thời kỳ quan trọng nhất 1976-1985, làm cho chúng
không thể thực hiện được âm mưu toan tính phá hoại trước mắt
và lâu dài, góp phần to lớn trong nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh,
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
an toàn xã hội. Ta vượt qua những khó khăn gay gắt về mọi mặt
của xã hội những năm cuối thập niên 80 để cùng cả nước bước
vào thời kỳ mới, thời kỳ đổi mới toàn diện trên phạm vi cả nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta kết thúc
được 2 năm, miền Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng đang phải
khắc phục hậu quả chiến tranh, tình hình kinh tế, xã hội chưa ổn
định thì ở Campuchia bọn phản động Pol Pot - Ieng Sary tiếp tục
gây ra chiến tranh ở biên giới Tây Nam (Việt Nam - Campuchia).
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, ngày 5/1/1978, Bộ Chỉ
huy Quân sự tỉnh Đồng Nai được giao 2 nhiệm vụ chính: Một là,
tổ chức một Tiểu đoàn bộ binh trang bị đầy đủ vũ khí, có khả năng
chiến đấu cao, chi viện cho tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Dương
và Bình Phước) trực tiếp làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên
giới. Hai là, tổ chức một lực lượng bao gồm cả bộ đội và thanh
niên xung phong cùng các phương tiện, vật chất sang xây dựng
tuyến phòng thủ ở khu vực Bù Đốp tỉnh Sông Bé.
Từ năm 1978-1985, quân tình nguyện Việt Nam nói chung,
Đồng Nai nói riêng liên tục phối hợp với lực lượng vũ trang cách
mạng Campuchia tổ chức hàng trăm đợt truy quét, đánh phá các
căn cứ của địch ở rừng sâu. Đồng thời, phát động quần chúng phát
hoang cải tạo địa hình, ngăn chặn không cho địch đưa lực lượng
về bám gần dân. Tháng 8/1985, tỉnh Đồng Nai có liệt sĩ Bùi Văn
Bình (sinh năm 1955 tại thành phố Biên Hòa) và đồng chí Nguyễn
Văn Bình (sinh năm 1959, tại Vĩnh An) được Đảng và Nhà nước
tuyên dương, phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân vì có nhiều thành tích tổ chức, xây dựng lực lượng và
trực tiếp chỉ huy chiến đấu diệt nhiều sinh lực địch trong nhiệm
vụ truy quét các lực lượng phản động, giúp bạn giữ vững chính
quyền, từng bước ổn định tình hình mọi mặt…
Đảng bộ chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Nai đã có sự giúp
đỡ chí tình, vô tư, kịp thời đối với nước bạn Campuchia của trên
các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài sự giúp
411

42.2 Page 412

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đỡ mọi mặt cả tinh thần, vật chất cho bạn, chỉ tính riêng về quân
sự, Đồng Nai đã lần lượt cử sang Campuchia 4 Tiểu đoàn, 5 Đại
đội cấp huyện với quân số trên 3 ngàn người (không tính các lực
lượng cán bộ, chiến sĩ bổ sung lẻ). Trong 10 năm sát cánh chiến
đấu công tác cùng với các đơn vị tình nguyện Quân khu 7 và lực
lượng vũ trang nhân dân tỉnh bạn, quân tình nguyện tỉnh Đồng
Nai đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, đã cùng bạn
chiến đấu hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu 13.828 tên
địch, thu 1.574 súng các loại. Đồng thời, còn triển khai trên 10
ngàn ngày công giúp nhân dân bạn sản xuất, chống úng, hạn, làm
đường vào các phum, sóc, sửa sang nhà cửa, trường học, bệnh
viện ở nhiều nơi.
Tỉnh Đồng Nai còn huy động 12 đợt với 10.845 lượt người
sang giúp Campuchia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới phía
Tây. Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cao đẹp ấy đã có
446 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 891 đồng chí bị thương trên đất
nước Campuchia. Với những thành tích to lớn trong công tác giúp
bạn, quân tình nguyện Đồng Nai đã được Nhà nước Việt Nam và
Campuchia tặng nhiều phần thưởng cao quý.
Trong thực hiện vai trò quản lý nhà nước về quốc phòng - an
ninh và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, Đồng Nai đã
tập trung quán triệt và thực hiện tốt các Nghị quyết, Chỉ thị Đại
hội Đảng các cấp, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX),
Nghị quyết số 28-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng (khóa XI)
về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; chủ động tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương.
Thường xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn
dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn
dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng
thủ tỉnh, huyện vững chắc; tăng cường quản lý nhà nước về quốc
phòng; đồng thời, tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an
412

42.3 Page 413

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ninh cho các đối tượng; giáo dục quốc phòng an ninh cho nhân
dân, nhất là thế hệ trẻ; xây dựng lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quân
đội, địa phương…
Chăm lo xây dựng và nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là
chất lượng chính trị của lực lượng vũ trang tỉnh. Xây dựng lực
lượng vũ trang tỉnh có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành
tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, sự nghiệp đổi mới đất
nước và tỉnh nhà. Có nhiều giải pháp đột phá nâng cao chất lượng
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; phối hợp với các lực lượng trong
hệ thống chính trị xử lý tốt các tình huống phức tạp; góp phần giữ
vững ổn định chính trị, an ninh trật tự trên địa bàn.
Thực hiện tốt chức năng đội quân công tác; làm tốt công tác
dân vận; thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “lực lượng vũ
trang chung sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào hành trình
“Quân đội chung tay vì sức khỏe cộng đồng”, giúp dân xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng cơ sở chính trị địa phương, nhằm củng cố
vững chắc quan hệ đoàn kết quân dân, giữ vững phẩm chất “Bộ
đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Tiếp tục thực hiện chặt chẽ hiệu quả các Nghị quyết của Đảng
về công tác xây dựng Đảng; nhất là Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII, Cuộc vận động và Chỉ thị số 03-CT/TW của
Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI) về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay và quan điểm, đường lối, chủ trương, biện pháp xây dựng
Đảng, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; tập trung
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; gắn
với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI)
về tiếp tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh; thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động Phát
huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ
Hồ”, xây dựng Đảng bộ quân sự tỉnh trong sạch vững mạnh, lực
413

42.4 Page 414

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
lượng vũ trang tỉnh vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao.
Với những thành tích và chiến công trong xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Lực lượng vũ trang
Đồng Nai vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng(2):
Về tập thể: 2 Huân chương Sao vàng (nhân dân và Lực lượng
vũ trang Bà Rịa - Long Khánh năm 1968, nhân dân và Lực lượng
vũ trang Đồng Nai năm 2000), 1 Huân chương Hồ Chí Minh,
1 Huân chương Quân công hạng Nhất, 13 Huân chương Thành
đồng Tổ quốc, 26 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba;
3 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc (1 hạng Nhất, 2 hạng Ba); 65 đơn
vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.
Về cá nhân: 8 Huân chương Độc lập, 149 Huân chương Quân
công (các hạng), 5.243 Huân chương Quân kỳ quyết thắng, 4.491
Huân chương Chiến công (các hạng), 36 Huân chương Chiến
công Giải phóng, 18.199 Huân chương Chiến sĩ giải phóng, 258
Huân, Huy chương Chiến thắng, 6.706 Huân chương Chiến sĩ
vẻ vang (các hạng), 1.662 Huy chương Chiến sĩ Giải phóng (các
hạng), 1.670 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc, 1.050 Huân chương
Hữu nghị, 1.035 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 29 Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân Đồng Nai được Chủ
tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phong tặng
danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày
28/4/2000.
(2) Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai cung cấp, đến tháng 3/2016.
414

42.5 Page 415

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Tiểu đoàn 240
Tiểu đoàn 240(1) tỉnh Biên Hòa tiền thân là Đại đội 240, thành
lập từ tháng 7/1961 (khi tách tỉnh Thủ Biên thành tỉnh Biên Hòa
và Thủ Dầu Một) với 40 cán bộ, chiến sĩ lấy từ Đại đội 380 tỉnh
Thủ Biên.
Địa bàn chiến đấu thường xuyên của Tiểu đoàn 240 bao gồm
các huyện Vĩnh Cửu (giáp Chiến khu Đ), Long Thành, Nhơn
Trạch (giáp chiến khu Rừng Sác và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh).
Đây là chiến trường trọng yếu với các đường giao thông chiến
lược như: quốc lộ 1, quốc lộ 15, các tỉnh lộ 24, 17, 19, sông Lòng
Tàu, kho bom Thành Tuy Hạ…
Đối tượng tác chiến thường xuyên của đơn vi bao gồm: bộ máy
chính quyền tay sai, lính bảo an, dân vệ, bình định nông thôn,
cảnh sát, sư đoàn 18 bộ binh, các đơn vị chủ lực của quân đội Sài
Gòn như: biệt động, nhảy dù, lính thủy đánh bộ. Từ năm 1965,
đơn vị trực tiếp tác chiến với quân viễn chinh Mỹ (Lữ đoàn dù
173, Lữ đoàn bộ binh 199, Sư đoàn Mãng xà vương Thái Lan, một
bộ phận quân Úc từ Bà Rịa lên).
Hình thành từ cao trào Đồng khởi, trong 15 năm hình thành và
chiến đấu, Tiểu đoàn 240 đã liên tục bám trụ, cơ động trên các
chiến trường tỉnh Biên Hòa, giữ vững quan điểm tư tưởng tiến
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai.
415

42.6 Page 416

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
công, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền,
diệt ác phá kìm hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị quần chúng;
đánh chống càn bảo vệ căn cứ; đánh phá ấp chiến lược, phối hợp
chủ lực tác chiến trong các chiến dịch lớn; làm nòng cốt trong tiến
công và nổi dậy giải phóng địa phương trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng.
Trong những năm 1961-1964, Đại đội 240 (sau thành Tiểu
đoàn 240) đã 2 lần dùng phương thức kết hợp vũ trang, binh vận,
đấu tranh chính trị của quần chúng bao vây bứt rút, bứt hàng đồn
bảo an ở đồn Trị An, mở rộng vùng giải phóng giáp Chiến khu Đ.
Đại đội 240 liên tục đánh định chống càn quét, bảo vệ căn cứ.
Cụ thể như ngày 8 và 9/11/1964, với hệ thống ô ụ chiến đấu, Đại
đội 240 đánh bại cuộc càn của 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 2
đại đội bảo an có cố vấn Mỹ chỉ huy vào căn cứ Lòng Chảo (xã
Phước An, huyện Nhơn Trạch). Tháng 6/1966, đơn vị bám trụ
đánh bại cuộc càn của Lữ đoàn dù 173 Mỹ có máy bay, xe tăng,
pháo binh yểm trợ bảo vệ căn cứ Suối Cả (xã Bình Sơn, huyện
Long Thành). Ngày 23/12/1966, C240 bám trụ đánh bại cuộc càn
của 1 tiểu đoàn quân chư hầu Thái Lan vào căn cứ Suối Cả, diệt
trên 100 tên. Ngày 14/7/1969, đơn vị bám trụ địa bàn khu Lòng
Chảo (Phước An) đánh bại cuộc càn quy mô lớn của quân Mỹ,
Thái Lan có máy bay, 45 xe tăng, xe ủi ở trảng Đồng Lớn, Hang
Nai, Vũng Gấm…
C240 liên tục đánh diệt đồn bót, đánh phá ấp chiến lược kết
hợp vũ trang tuyên truyền mở vùng giải phóng xây dựng cửa
khẩu hậu cần cách mạng. Đáng chú ý như năm 1962 tiêu diệt đồn
Siph, đồn Bình Sơn, mở rộng vùng giải phóng ở các đồn điền cao
su An Viễn, Siph, Helena, Bình Sơn, mở rộng cửa khẩu hậu cần
Bình Sơn (lộ 1, 15 và liên tỉnh lộ 2). Năm 1962, đơn vị phối hợp
du kích các xã bao bó địch trong đồn bót, phát động nhân dân nổi
dậy phá khu trù mật Phước An, giải phóng nhiều ấp thuộc các xã
Phước An, Phước Thọ, Phước Long (lộ 19), Phú Hội, Phú Mỹ,
416

42.7 Page 417

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phước Thiền, Long Tân (lộ 17). Trận đánh diệt 2 đại đội bảo an
vào ngày 27/9/1972 ở Hang Nai, Phước An.
C240 liên tục đánh giao thông địch trên quốc lộ 15, 17, 19 tiêu
diệt nhiều phương tiện thiết bị chiến tranh của địch, cắt đứt giao
thông của chúng. Như trong tháng 11 và tháng 12/1964, đợt hoạt
động thu hút địch phối hợp với chiến dịch Bình Giã (1964-1965),
đơn vị cùng tiểu đoàn 800 Quân khu 7 đẩy mạnh đánh giao thông
lộ 15, từ Tam Phước đến Quán Chim - Phước Thái (giáp Bà Rịa),
diệt 26 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, diệt làm bị thương
278 tên, thu nhiều vũ khí các loại.
Trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu
Thân năm 1968, C240 tiến công chi khu Long Thành, Nhơn Trạch,
pháo kích gây thiệt hại nặng kho bom Thành Tuy Hạ, phối hợp
với du kích các xã phát động quần chúng nổi dậy bao vây đồn bót,
đã giải phóng và làm chủ xã Bình Sơn 8 ngày đêm, giải phóng và
làm chủ ấp Vũng Gấm (Phước An) 10 ngày đêm.
Tiểu đoàn 240 liên tục bằng nhiều hình thức tác chiến phá hủy
nhiều bom, đạn của địch trong kho bom Thành Tuy Hạ. Cụ thể,
bằng cách đánh đặc công, đêm 10/4/1972, đơn vị phá hủy 3 dãy
nhà, 4 ụ dã ngoại, phá hủy 72 tấn bom đạn. Đêm 12/8/1972, một
tổ đặc công của tiểu đoàn 240 tiến công kho bom Thành Tuy Hạ,
phá hủy 10.578 tấn đạn, bom, mìn các loại, đánh chìm 1 tàu.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tiểu đoàn 240 Biên Hòa liên
tục tấn công diệt các đồn bót địch trên lộ 17, 19, đồng thời phát
động quần chúng nổi dậy tấn công chính trị, binh vận bao vây đồn
bót, chốt địch, giải phóng các xã lộ 17, 19, giải phóng các Chi
khu Long Thành, Nhơn Trạch, tiếp quản kho bom Thành Tuy Hạ,
đồng thời tạo điều kiện cho Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 vượt
sông tiến về giải phóng Sài Gòn.
Sau ngày giải phóng, Tiểu đoàn 240 tiếp tục hoàn thành nhiệm
vụ tuyên truyền, vận động đồng bào vùng có đạo Công giáo, tiêu
diệt nhiều nhóm tàn quân chống phá cách mạng ở Suối Đĩa, Trảng
417

42.8 Page 418

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Bom… góp phần bảo vệ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ở địa phương.
Trong 15 năm chiến đấu, Tiểu đoàn 240 Biên Hòa đã đánh 502
trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 2.597 lính quân đội Sài
Gòn, 357 lính Mỹ, 115 lính Thái, bắt sống 720 lính quân đội Sài
Gòn, thu 756 súng các loại, phá hủy 16 xe tăng, 82 xe quân sự, 16
xe ủi, bắn rơi 7 máy bay trực thăng, diệt 8 đồn cấp trung đội, 83
bót, diệt gọn 14 đại đội, 85 trung đội của quân đội Sài Gòn, diệt
1 trung đội lính Mỹ, đánh tiêu hao 2 tiểu đoàn Mỹ, 1 tiểu đoàn
lính Thái.
Với những thành tích tiêu biểu trên, năm 2012, Tiểu đoàn 240
được Nhà nước phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân.
418

42.9 Page 419

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đại đội Lam Sơn, Trung đoàn 310
Ngày 27/3/1948, thực hiện chỉ thị của Khu bộ trưởng Khu 7 về
việc xây dựng trung đoàn, toàn Chi đội 10 phát triển thành Trung
đoàn 310. Trung đoàn 310 biên chế cụ thể gồm:
- Đại đội A phát triển lên Tiểu đoàn Lê Lợi gồm 3 đại đội khinh
binh: Đại đội Thái Nguyên (Trung đội 1); Đại đội Đống Đa (Trung
đội 2); Đại đội Chi Lăng (Trung đội 3).
- Đại đội B phát triển lên Tiểu đoàn Quốc Tuấn gồm 3 đại đội
khinh binh: Đại đội Lạc An (Trung đội 4); Đại đội Bắc Sơn (Trung
đội 5); Đại đội La Nha (Trung đội 6).
- Đại đội C phát triển lên Tiểu đoàn Quang Trung gồm 3 đại đội
khinh binh: Đại đội Đô Lương (Trung đội 7); Đại đội Lam Sơn
(Trung đội 8); Đại đội Bàu Cá (Trung đội 9 thiếu).
Từ trong thực tiễn của cuộc chiến tranh vệ quốc, từ những tổ chức
tiền thân là Trung đội 5, Đại đội B (Biên Hòa) và Trung đội 8, Đại
đội C (Long Thành), Đại đội Lam Sơn(1) được hình thành và lấy ngày
27/3/1948 là ngày thành lập.
(1) Nguồn: Ban Liên lạc truyền thống cựu chiến binh Đại đội Lam Sơn, Lịch sử
Đại đội Lam Sơn (8-1945 - 7-1954), Nhà xuất bản Đồng Nai, 2002.
419

42.10 Page 420

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đại đội Lam Sơn gánh trọng trách nặng nề vì đứng chân hoạt
động ở địa bàn chiến lược: khu vực Biên Hòa, giáp ranh Sài Gòn,
Vĩnh Cửu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: là cửa ngõ của Chiến khu
Đ; có các trục đường giao thông chiến lược quan trọng nối liền ra các
tỉnh miền Trung và tỏa xuống miền Tây Nam Bộ như: quốc lộ 1, lộ
15, đường sắt, đường sông Đồng Nai, đường sông Lòng Tàu, đường
lộ 24 áp sát vành đai căn cứ Chiến khu Đ...
Từ những lực lượng nòng cốt ban đầu là các thanh niên yêu nước
ở các làng xã; sinh viên học sinh ở các trường học, công nhân cao
su, thợ máy, các ngành nghề thủ công; đồng bào các dân tộc, một
số binh lính, sĩ quan của quân đội thuộc địa Pháp và quân đội Nhật
Bản..., càng về sau, lực lượng tăng cường, bổ sung cho Đại đội Lam
Sơn càng được nâng cao hơn về chất lượng, kinh nghiệm tác chiến,
kỹ thuật chiến đấu. Đó là những đơn vị: bộ đội Đô Lương, bộ đội
Bắc Sơn, bộ đội La Nha, bộ đội địa phương Lê Hồng Phong, cán
bộ huyện, dân quân du kích ở các xã... Và qua đó, thành phần tham
gia đại đội phong phú: thanh niên nông dân, công nhân cao su, công
nhân BIF, viên chức, học sinh, lớp nghèo thành thị, thanh niên dân
tộc Chơ-ro, Châu Mạ, S’tiêng, Khơ me...
Nhiệm vụ của Đại đội Lam Sơn rất nặng nề và phạm vi hoạt động
rất lớn, trên địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng. 5 nhiệm vụ cơ
bản có mối liên hệ mật thiết với nhau mà Đại đội Lam Sơn phải làm
tròn là:
- Đánh đồn bót và đánh chống càn quét của địch bảo vệ căn cứ,
các cơ quan đầu não kháng chiến ở địa phương, bảo vệ nhân dân và
mùa màng;
- Tự lực cánh sinh, lấy vũ khí địch ở mọi nơi mọi lúc, trong mọi
điều kiện tự trang bị cho mình;
- Đánh giao thông và bảo vệ các đoàn cán bộ Trung ương vào
Chiến khu Đ và các đoàn vận tải lương thực, súng đạn của quân ta
về đến nơi an toàn;
- Công tác vận động quần chúng yêu nước tham gia kháng chiến
420

43 Pages 421-430

▲back to top


43.1 Page 421

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
và vận động binh lính địch bỏ hàng ngũ đi theo cách mạng;
- Xây dựng lực lượng dân quân du kích tại chỗ và tham gia diệt
ác phá kìm.
Qua quá trình hoạt động và chiến đấu trực diện với địch, cán bộ,
chiến sĩ Đại đội từng bước trưởng thành vững vàng về chính trị, tinh
thần, được thể hiện qua các trận đánh đồn bót, đánh phục kích, đánh
chống càn... Thực hiện tốt công tác dân vận, địch vận đã hỗ trợ đắc
lực vào các kết quả hoạt động cũng như thành tích trong chiến đấu
của Đại đội. Về nhiệm vụ tác chiến, đại đội thực hiện tốt 2 nhiệm vụ
cơ bản: phối hợp (phối hợp giữa bộ đội cấp trên, bộ đội liên huyện,
bộ đội trong huyện) và độc lập chiến đấu.
Một trong những trận đánh tiêu biểu của Đại đội Lam Sơn là vào
ngày 10/10/1948, Đại đội Lam Sơn cùng một số đơn vị bạn cùng
tiểu đoàn đã đánh bại trận càn của hàng ngàn quân Pháp từ Biên Hòa
xuống sở cao su Hàm Rồng (Tân Hưng - Long Bình Tân hiện nay),
cuộc chiến diễn ra ác liệt từ 7 giờ đến 11 giờ. Tiếp đó, trong ngày 23
và 25/10/1948, đơn vị tiếp tục đánh bại hai trận càn với lực lượng cỡ
đại đội vào căn cứ Bình Đa. Đến cuối tháng 10-1948, Đại đội Lam
Sơn và các đơn vị bạn trong tiểu đoàn do đồng chí Lương Văn Nho
trực tiếp chỉ huy phục kích đánh đoàn xe 7 chiếc kéo be có lính lê
dương địch ở chi khu Trảng Bom hộ tống. Kết quả ta làm chủ tình
hình, phá 7 xe và thu được nhiều vũ khí, địch bị thiệt hại nặng.
Ngày 23/6/1949, Đại đội Lam Sơn tham gia trận phục kích của
Tiểu đoàn trên đường số 1 cách nội ô thị xã Biên Hòa khoảng 6km
(gần bệnh viện Tâm thần) do đồng chí Đinh Quang Ân chỉ huy.
Trận đánh diễn ra quyết liệt, ta tiêu diệt khoảng 50 tên địch. Tính
riêng trong 6 tháng đầu năm 1949, Đại đội chuyên môn đánh đường
sắt của Biên Hòa do đồng chí Hoàng Phùng Đức chỉ huy đánh 15
trận làm hỏng 13 đầu máy xe lửa hiệu Pacific trên tuyến đường sắt
Biên Hòa - Trảng Bom; có trận diệt 150 tên lính lê dương hộ tống.
Các đường giao thông lộ 1, 15, 16, 24 bị đào phá, đắp vật cản và cắt
đứt liên tục. Lực lượng bảo vệ căn cứ Chiến khu Đ, Chiến khu Rừng
421

43.2 Page 422

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Sác, Chiến khu Bình Đa đã bẻ gãy nhiều cuộc hành quân đánh phá
của địch và đặc biệt đã phá vỡ tổ chức gián điệp của giặc ở Long
Thành, Tỉnh đội Biên Hòa.
Ngày 11/2/1950, một bộ phận của Đại đội Lam Sơn do đồng chí
Nguyễn Văn Phòng và đồng chí Châu phụ trách phối hợp với du kích
Tam Hiệp đặt một trái FT tại cầu Ông Tửu (Tam Hiệp). Ta diệt gọn 1
xe chở tiểu đội sĩ quan Pháp thực tập đi thực tế. Cả xe và vũ khí trung
liên, tiểu liên, súng trường đều bị nát, cháy vụn.
Ngày 30/3/1950, Đại đội Lam Sơn dự trận phối thuộc giao thông
chiến trên đường Sài Gòn - Đà Lạt. Đại đội phụ trách khu vực C, có
liên pháo 20 ly hỗ trợ. Sau trận đánh, quân ta phá hủy 29 xe của địch.
Ngày 22/4/1950, 2 trung đội của Đại đội Lam Sơn phục kích đánh
địch trên đường xe lửa từ Sài Gòn đi Phan Thiết. Do có tình huống
bất ngờ không đúng theo kế hoạch vì ta dự định đánh bọn đi tuần và
làm đường nhưng lại đụng đoàn xe lửa quân sự Pháp từ Nha Trang
về, đường sửa được đến đâu xe chạy đến đó, buộc ta phải đánh cả
bọn tuần tiễu sửa đường và đoàn xe lửa. Trận chiến diễn ra ác liệt
tại đoạn đường sắt Trảng Bom. Sau 30 phút nổ súng dữ dội, quân ta
xung phong làm chủ tình hình, diệt 20 tên địch trong đó có một quan
hai Pháp (trung úy), phá hỏng một đầu máy xe lửa, đốt 2 wa-gong
(toa xe). Chiến thắng trên đã gây tiếng vang lớn ở đô thành và những
vùng bị tạm chiếm, kẻ địch vô cùng cay cú.
Giữa đêm 24/4/1950, tại căn cứ Bình Đa, Đại đội Lam Sơn được
lệnh hành quân cấp tốc đến Đại An để đánh địch tấn công Chiến
khu Đ bằng đường bộ và đường sông. Cùng với du kích tập trung
Lê Hồng Phong huyện Vĩnh Cửu và du kích 2 xã Định Tân, Đại An,
Đại đội phối hợp bố trí trận địa đón địch. Lúc 11 giờ, quân Pháp theo
sông Đồng Nai bằng tàu đổ bộ vào mặt trận của ta. Tất cả đồng loạt
nổ súng, tiêu diệt 12 tên địch, thu được một số vũ khí và đồ dùng
quân sự, bảo vệ được căn cứ Huyện ủy và không để địch tấn công
vào chiến khu.
Vào các ngày 11 và 23/6/1950, khoảng 100 quân Pháp và lính Pat-
422

43.3 Page 423

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ti-dan tấn công vào Bình Đa. Trung đội 2 thuộc Đại đội Lam Sơn đón
đánh địch ở An Hảo, Gò Cầy. Ở Xóm Hốc, một bộ phận do đồng chí
Phùng phụ trách dùng chiến thuật bắn chim sẻ đánh địch. Địch chưa
lọt được vào căn cứ phải rút lui. Ngày 27/6/1950, được bọn gián điệp
dẫn đường, địch nghi binh đánh bọc hậu vào sau lưng bộ đội ta. Được
du kích huyện do đồng chí Cân, đồng chí Thưởng phụ trách phối hợp,
ta đánh trả địch quyết liệt, phá vỡ cuộc tập kích của địch.
Sáng 30/6/1950, Pháp tập trung cả thủy, lục, không quân mở cuộc
càn lớn vào chiến khu Bình Đa. Các đơn vị bộ đội lặng lẽ rút ra ngoài,
chỉ còn cán bộ đại đội, Trung đội 3, tổ trinh sát và du kích xã bám
địa hình luồn lách tránh giao chiến với địch. Đến đêm, ta tổ chức
đánh quấy rối nhiều cụm quân địch đóng dã ngoại. Vào 8 giờ ngày
1/7/1950, địch rút khỏi Bình Đa sau khi nổ súng giết hơn 80 trâu bò
của nhân dân. Chiến khu Bình Đa vẫn giữ vững.
Ngày 30/8/1950, Đại đội Lam Sơn phối hợp với bộ đội huyện
Vĩnh Cửu (bộ đội Lê Hồng Phong, phát triển từ du kích tập trung lên)
tấn công bót Bến Gỗ do 1 trung đội thân binh Cao Đài đóng giữ, diệt
và bắt sống 1 trung đội này.
Chiều 4/10/1950, Đại đội Lam Sơn gồm 3 trung đội do đồng chí
Dương Ngọc Tân, Trần Bá Thạnh, Duy, Nhất phụ trách theo yêu cầu
của địa phương phối hợp với du kích hai xã Tam An, Tam Phước
phục kích cách bót Tam An khoảng 250 mét giết chết 7 tên lính,
trong đó có tên Chà đen Utini, đồn trưởng Tam An, một tên sếp bót
khét tiếng tàn bạo, ác ôn và lợi hại trong vùng. Ta bắt được 1 tù binh,
thu 1 nòng súng Bren, 1 súng trường Mas và một số đạn. Riêng tên
tù binh, khi giải về Bình Đa phía bộ đội làm công tác giáo dục tư
tưởng rồi tha cho về. Trận diệt tên Utini tạo được tiếng vang lớn. Uy
tín của Đại đội Lam Sơn càng được nâng cao. Đồng bào ven lộ 15
rất phấn khởi.
Ngày 17/11/1950, Đại đội Lam Sơn và Đại đội Lê Hồng Phong
phục kích trên đoạn đường xe lửa Trảng Bom - Cây Gáo đánh bọn đi
tuần đường sắt, diệt 4 tên địch, thu 1 nòng súng trung liên và một số
423

43.4 Page 424

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
quân trang, quân dụng.
Rút kinh nghiệm trận Trảng Bom - Cây Gáo, vài ngày sau đó, đơn
vị của Đại đội Lam Sơn do các đồng chí Nguyễn Văn Phòng, Dương
Minh Hên, Đào Tiến Thưởng chỉ huy thực hiện đánh tiêu diệt 1 tiểu
đội lính Âu Phi ở ga Hố Nai đi Trảng Bom thu 1 trung liên, 2 tiểu liên
mituyn và 4 súng trường mas, bắt 2 tù binh, diệt 4 tên, 4 tên khác bị
thương được bộ đội tha tại chỗ, số còn lại bỏ chạy. Với 2 tên tù binh
bắt được, ta đưa về căn cứ Phước Cang giáo dục tư tưởng sau đó thả
cho về.
Đầu tháng 2/1951, sau khi giặc tấn công Chiến khu Đ, càn quét
qua Đại An, Đại đội Lam Sơn độc lập phục kích giặc cách Trảng
Bom khoảng 1km bắt được 7 xe chở hàng trong đoàn công-voa từ
Sài Gòn đi Đà Lạt.
Trong suốt năm 1950 và những tháng đầu năm 1951, Đại đội Lam
Sơn liên tục chủ động mở các cuộc phục kích, tấn công vào đồn bót
địch, đánh phá phương tiện chiến tranh, phá hoại các tuyến đường
giao thông huyết mạch của địch, bảo vệ an toàn vùng căn cứ.
Cũng bắt đầu từ những năm 1949-1950 trở đi, Đại đội Lam Sơn
còn đảm đương nhiệm vụ rất nặng nề: vừa phải tổ chức lực lượng
để cơ động tác chiến theo yêu cầu, đồng thời chủ động bảo vệ cán
bộ và hàng hóa từ ngoài vào. Đây là vấn đề rất nan giải vì phải đi
qua những tuyến đường huyết mạch trọng yếu là quốc lộ 1, quốc lộ
15 (quốc lộ 51 hiện nay), đường sắt. Để hoàn thành nhiệm vụ, các
chiến sĩ Đại đội Lam Sơn mà đặc biệt là bộ phận trinh sát thường
xuyên cắt rừng hướng dẫn đoàn đi an toàn. Trong suốt thời gian dài,
Đại đội đã bảo vệ Đoàn vận tải D320 của Khu vận chuyển vũ khí,
đưa đón cán bộ từ Trung ương vào qua khu vực Bình Đa lên Đại An
về Chiến khu Đ, về Bà Rịa, xuống miền Tây an toàn. Đặc biệt, Đại
đội Lam Sơn còn có công lớn trong việc bảo vệ chuyến vận chuyển
binh công xưởng Nam Bộ từ Hắc Dịch về Chiến khu Đ an toàn. Từ
tháng 5/1952, khi thành lập Tiểu đoàn vận tải 320, Đại đội Lam Sơn
vẫn thường xuyên hỗ trợ cho hoạt động của đơn vị này trên cả một
424

43.5 Page 425

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đoạn đường dài từ Bến Gỗ qua đường 15, qua đường xe lửa, đường
số 1, về bến đò Đại An.
Một trận đánh tiêu biểu khác là trận đánh tiêu diệt bót Long Điềm
diễn ra ngày 11/6/1951 do đồng chí Bùi Cát Vũ chỉ huy. Tham gia
có các đồng chí Trần Bá Thạnh, Dương Minh Hên, Dương Ngọc Tân
và 2 trung đội của Đại đội Lam Sơn cùng 2 tiểu đội của biệt động
tỉnh Biên Hòa vào bố trí ém quân trước mặt tiền đồn Long Điềm. 11
giờ ngày 11/6, bọn địch trong đồn kéo nhau đi ăn cơm. Ta tổ chức 2
người cầm cờ đỏ sao vàng khi nghe phát lệnh “xung phong” thì xông
vào và thổi tu huýt báo hiệu, 2 trung đội bộ đội thực hành tiến công.
Tên lính gác còn lại trên gác chuông nhà thờ dùng súng trung liên
bắn xối xả và bị bộ đội Lam Sơn hạ gục nhanh chóng. Tên đồn phó bị
bộ đội ta bắn gục ngay bàn làm việc. Bọn lính bỏ chạy tán loạn. Trận
đánh chỉ diễn ra trong vòng 10 phút, quân ta chiếm được bót và an
toàn, không chiến sĩ nào bị thương vong. Trận đánh thắng lợi nhanh
gọn làm cho bọn địch xung quanh đều hoang mang, phá được sức ép
của địch với Chiến khu Bình Đa. Ta thu được 1 súng cối 81, 3 tiểu
liên Xten, 3 trung liên FM và 43 súng trường Anh, bắt sống một số
tên lính nhưng bộ đội phóng thích tại chỗ. Trận đánh đồn Long Điềm
diễn ra chớp nhoáng, là kết quả của công tác dân vận, địch vận của
các chiến sĩ Đại đội Lam Sơn, sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng
bộ binh và biệt động.
Năm 1951, Đại đội Lam Sơn tham gia cùng lực lượng vũ trang
tỉnh tiêu diệt yếu khu Trảng Bom. Hơn 16 giờ ngày 20/7/1951, hai xe
cam - nhông của sở đá từ Bàu Cá về Trảng Bom chở 75 chiến sĩ biệt
động và bộ đội tỉnh hóa trang công nhân sở đá. Khoảng 16 giờ 45,
bọn lính trong chi khu ra sân banh đá bóng, cũng vừa lúc 2 xe cam
-nhông chở công nhân dừng ngang cổng chi khu. Địch chưa kịp ra
hỏi, Đội biệt động nhanh chóng bắn hạ tên lính gác cổng, xông vào
dùng bộc phá đánh các tháp canh và lô cốt, chiếm xe bọc thép. Trong
tiếng kèn đồng giục giã, Đại đội 60 thuộc Tiểu đoàn 303 tỉnh từ bìa
rừng nhanh chóng vận động phối hợp cùng biệt động đánh chiếm các
vị trí trong khu trung tâm. Cùng lúc, Đại đội Lam Sơn nổ súng đánh
425

43.6 Page 426

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chiếm đồn lính cạnh sân banh. Bị bất ngờ, bọn địch trong chi khu
và ngoài sân banh bỏ chạy tán loạn. Chỉ trong vòng 30 phút, quân ta
làm chủ tình hình, tiêu diệt 50 tên lính Âu Phi, bắt sống 50 tên khác,
thu 200 súng trong đó có 3 đại liên, 6 trung liên, 2 súng cối 81 ly và
hàng chục tấn đạn dược, lương thực thực phẩm, hơn 100.000 đồng
tiền Đông Dương và một số USD và phá hủy 2 xe bọc thép. Chiến lợi
phẩm được chiến sĩ dùng xe chở về Chiến khu Đ an toàn. Đến 5 giờ
ngày 21/7/1951, toàn bộ lực lượng tham gia trận đánh rút về căn cứ
an toàn. Suốt mấy ngày đêm sau đó, ta hoàn toàn làm chủ yếu khu
quân sự Trảng Bom. Trong trận đánh này, 2 chiến sĩ Đại đội Lam Sơn
hy sinh, 2 đồng chí khác bị thương. Trận đánh yếu khu Trảng Bom
thắng lợi đã gây tiếng vang lớn, cổ vũ mạnh tinh thần đấu tranh của
quân dân Biên Hòa, phá được mũi đột kích của địch vào vùng độc
lập ở Đại An, Định Tân. Các chiến sĩ Đại đội Lam Sơn đã đóng góp
tích cực cho trận đánh giành được thắng lợi từ việc điều nghiên đến
phối hợp tác chiến.
Tính đến cuối năm 1951, Đại đội Lam Sơn đánh tổng cộng 54 trận
gồm 16 trận chống càn, 23 trận phục kích, 3 trận pháo kích, 4 trận
đánh cứ điểm, 8 trận đánh giao thông(2).
Tình hình chiến đấu càng khó khăn hơn khi vào đêm 18/10/1952,
một cơn bão lớn ập vào khu vực miền Đông làm nước sông Đồng
Nai, Sông Bé dâng cao, tràn cả vào bờ. Chiến khu Đ và các xã ven
sông Đồng Nai thuộc huyện Vĩnh Cửu chìm ngập trong bể nước.
Cùng thời điểm ấy, Đại đội bộ đội địa phương Lam Sơn đứng
chân tại xã Đại An tổ chức đóng bè chuối, bè gỗ suốt mấy ngày đêm
liên tục đưa đồng bào đến các khu vực an toàn tại đồi Bà Văn; tổ
chức một bộ phận khẩn trương đào khoai mì, cắt lúa đang chìm dần
trong dòng nước lũ để cứu đói cho dân; phối hợp tổ chức đột nhập
đồn địch thu các loại vũ khí, gạo, thức ăn...
(2) Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai (1945-1995), NXB Quân đội nhân
dân - Hà Nội 1999, trang 111.
426

43.7 Page 427

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Lúc này lương thực vô cùng khan hiếm, dịch bệnh xảy ra
nghiêm trọng. Thừa lúc ta gặp khó khăn, địch đẩy mạnh hoạt
động càn quét vào vùng căn cứ; bao vây kinh tế; tuyên truyền
chiêu dụ cán bộ kháng chiến… Đỉnh điểm là đầu năm 1953, Pháp
tăng cường lực lượng đánh phá ác liệt vào vùng căn cứ cách mạng
liên tục trong 52 ngày đêm. Ở Đại An, Lạc An, Định Tân, địch
cho máy bay rà sát trút bom bắn phá để diệt lực lượng kháng
chiến. Thời điểm này, địch đánh chiếm căn cứ Bình Đa.
Đại đội Lam Sơn một mặt giải quyết vấn đề lương thực, hậu
cần, một mặt phải thường xuyên đánh trả các đợt càn quét của
địch cả đường bộ lẫn đường sông.
Đầu năm 1953, địch mở trận càn lớn với quy mô cấp tiểu đoàn.
Chúng chia thành nhiều mũi tấn công vào Đại An kết hợp với
máy bay kêu gọi bộ đội đầu hàng. Trung đội 1 và Trung đội 3
thuộc Đại đội Lam Sơn đánh trả địch quyết liệt, bắn trúng 1 máy
bay Jong-ke của địch đang bay dọc theo bờ sông để ném bom na-
pan. Vấp phải sự đánh trả quyết liệt của bộ đội, bọn địch vô cùng
hoang mang.
Đại đội Lam Sơn thường xuyên chặn đánh địch trên đường giao
thông để lấy lương thực, vũ khí, quân nhu, tự trang bị cho mình và
giải quyết phần nào vấn đề khó khăn lương thực cho nhân dân và
các cơ quan trong vùng căn cứ. Qua đó, tinh thần đoàn kết, đùm
bọc nhau giữa quân, dân, chính, Đảng ngày càng chặt chẽ, khăng
khít. Trong một trận đánh đáng ghi nhớ ở đường số 1 do các đồng
chí Lưu Công Hưng (bấy giờ là Đại đội trưởng Đại đội Lam Sơn),
đồng chí Tân, Hên, Hồng... thực hiện, ta đánh đoàn xe của địch
gồm 1 chiếc chở gạo và bột gạo, hai chiếc xe còn lại chở học viên
sĩ quan địch, thu toàn bộ lương thực, một số vũ khí.
Tháng 12/1953, trận đánh bót Cẩm Vinh nằm dọc sông Đồng
Nai do 2 trung đội bộ đội Lam Sơn được sự hỗ trợ của 1 trung đội
biệt động tỉnh và 2 trung đội địa phương huyện Tân Uyên phục
kích chặn địch ở Lợi Hòa và ngã ba Bình Ý, không cho chúng từ
427

43.8 Page 428

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Cây Đào hay sân bay Biên Hòa tăng viện. Trận đánh diễn ra trong
tình hình cực kỳ khó khăn do sau trận lụt kỷ lục, mỗi chiến sĩ ta
trước khi vào trận đánh chỉ được 2 chén cháo.
Một đêm tháng 12/1953, các chiến sĩ Lam Sơn nổ súng tiến
công địch ở hướng Tây Bắc. Phát hiện lực lượng ta, địch phản
công quyết liệt, quân ta không xông vào được. Trung đội trưởng
Tiếp tuy đã bị thương vẫn dồn sức ôm mìn FT xông thẳng vào
đánh sập lô cốt chính rồi sau đó hy sinh cho đồng đội xông lên.
Địch bị thu hút ở phía trước, đội biệt động tỉnh nhanh chóng tiến
công vào phía sau bót. Ta tiêu diệt 1 trung đội giặc, thu toàn bộ
vũ khí và rút lui; cùng thời điểm này, bộ đội Tân Uyên diệt bót
Miễu Ngói (Lợi Hòa).
Do địch ruồng kích án ngữ, đường rút lui của quân ta từ Cẩm
Vinh rất khó khăn. 5 giờ sáng hôm sau, trên đường rút về Đại
An, đến sở cao su Ông Phủ (Bình Ý) thì đụng trung đội biệt kích
Pa-ren đi ruồng kích. Lực lượng ta chia làm 3 mũi: Đội biệt động
đánh vỗ mặt, bộ đội Lam Sơn đánh xuyên hông làm địch không
kịp trở tay. Ta tiêu diệt hoàn toàn Trung đội biệt kích tiểu khu
Biên Hòa, giải thoát 6 đồng chí của ta bị bọn chúng bắt được.
Trận đánh bót Cẩm Vinh thắng lợi và trung đội biệt kích ác ôn
Pa-ren bị bộ đội ta tiêu diệt đã tạo tiếng vang lớn, làm bọn địch
ở Vĩnh Cửu và thị xã Biên Hòa rúng động.
Trong tháng 4/1954, Đại đội Lam Sơn tiến công đánh địch ở
bót Rạch Đông, Cây Đào, áp sát bót Bà Miêu (Bình Long - Lợi
Hòa), đánh địch tuần ruồng, phục kích trên đường giao thông...
đánh diệt 183 tên, bị thương 15 tên, kêu hàng 5 tên, bắn cháy 3 xe
tăng thiết giáp, 1 xe GMC, 1 xe cam-nhông, 2 xe Jeep, thu nhiều
vũ khí.
Cuối năm 1954, hầu hết cán bộ, chiến sĩ Đại đội Lam Sơn được
tổ chức trong đội hình Trung đoàn Thủ Biên lên đường tập kết ra
miền Bắc.
Đại đội Lam Sơn được hình thành, phát triển và tồn tại đến kết
428

43.9 Page 429

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Kết quả
hoạt động của Đại đội Lam Sơn đã góp phần không nhỏ vào thắng
lợi chung của quân và dân miền Đông Nam Bộ, của quân và dân
cả nước trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp
xâm lược.
Với những thành tích đã đạt được, tháng 8/2013, Đại Đội Lam
Sơn được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân.
429

43.10 Page 430

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tiểu đoàn 1 - Đặc công U1 Biên Hòa
Nhằm cứu vãn tình thế chế độ tay sai ở Sài Gòn đang lâm vào
cơn khủng hoảng chính trị triền miên, Mỹ buộc phải đổ quân vào
miền Nam làm nhiệm vụ đối đầu trực tiếp với quân giải phóng
miền Nam(1).
Tháng 4/1965, Nhà Trắng đưa 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào
miền Nam thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược. Ngày 17/4/1965,
Tổng thống Mỹ thông qua 3 giai đoạn và kế hoạch “Tìm diệt” của
Thống tướng Westmoreland ở miền Nam; bằng quyết định này, đế
quốc Mỹ chính thức thực hiện Chiến tranh cục bộ ở Việt Nam, bộ
mặt xâm lược của Mỹ ở miền Nam đã lộ nguyên hình.
Ngày 5/5-1965, Lữ đoàn 173 Mỹ đổ bộ vào cảng Vũng Tàu,
chuyển về đóng ở sân bay Biên Hòa và căn cứ Hốc Bà Thức (Tân
Phong). Ngày 1/6/1965, 1 tiểu đoàn lính Úc và 1 đại đội pháo Tân
Tây Lan cũng được đưa đến Biên Hòa trước khi về đóng chốt tại Bà
Rịa vào năm 1966.
Vừa đặt chân tới Biên Hòa, quân Mỹ và quân Úc lập tức mở
những cuộc hành quân càn quét phía Tây Bắc thị xã, mục đích của
chúng là “tìm và diệt” hoặc đẩy lực lượng cách mạng ra xa để bảo
vệ và mở rộng các căn cứ quân sự, sân bay Biên Hòa, tổng kho Long
Bình… đồng thời triển khai nhanh quân Mỹ và phương tiện chiến
tranh hiện đại tại miền Nam.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
430

44 Pages 431-440

▲back to top


44.1 Page 431

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Từ đầu năm 1965, Mỹ cho hãng thầu xây dựng RMK-BRJ tuyển
dụng hàng ngàn lao động người Việt phục vụ cho việc mở rộng khu
kỹ nghệ Biên Hòa và xây dựng Tổng kho Long Bình thành kho hậu
cần lớn nhất ở miền Nam. Bên trong thị xã, địch đặt nhiều cơ quan
chỉ huy, như: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3; cơ quan đặc cảnh miền Đông
và cơ quan tình báo Mỹ (CIA) ở miền Đông; lập Bộ Tư lệnh dã chiến
2 (Mỹ)… Để bảo vệ những cơ quan này, địch thiết lập ở vùng ven thị
xã và phía ngoài các căn cứ lớn như: trại Bạch Đằng, căn cứ Hóc Bà
Thức, căn cứ Nước Trong (Long Thành), căn cứ Dĩ An (Thủ Đức)…
Quận Đức Tu (Sài Gòn thành lập năm 1963) là trung tâm của tỉnh
lỵ (tức thị xã Biên Hòa lúc bấy giờ). Địch củng cố lại bộ máy kìm
kẹp, tăng cường đồn bót bảo an, dân vệ, lập trạm gác, trạm kiểm soát
trên các tuyến đường từ ngoài vào thị xã như: lộ 16, lộ 24, quốc lộ 1,
quốc lộ 15; bộ máy công an, cảnh sát chìm, nổi được bố trí dày đặc
ở nội và ngoại ô để lùng sục đánh phá cơ sở cách mạng. Mật độ dày
quân Mỹ và tay sai với đủ các sắc lính trong và ngoài thị xã tăng lên
rất nhanh, có thể bình quân cứ 5 người dân có 1 tên lính.
Với thế bố trí đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã biến thị xã Biên
Hòa thành một thị xã “quân sự hóa”, vừa là một hậu phương trực
tiếp, một tuyến phòng thủ ở phía Đông Bắc Sài Gòn, một cơ quan chỉ
huy đánh phá cách mạng ở miền Đông Nam Bộ, chúng huênh hoang
cho rằng nơi đây là căn cứ an toàn, Việt cộng không thể xâm nhập
và tồn tại được.
Trong lúc đó, do chính sách bình định gom dân của dịch, nhân
dân lao động các vùng ven, các huyện bị đổ xô vào thị xã ngày càng
đông, trở thành đội quân thất nghiệp để cho bọn cai thầu Mỹ và bọn
tư sản, “ôm chân” chúng tha hồ bóc lột sức lao động.
Sân bay Biên Hòa, một trong những sân bay quan trọng nhất của
Mỹ ở miền Nam Việt Nam, có diện tích 40km2 với 2 đường băng dài
3.600m và 1.000m; bên trong chia thành 6 khu vực từ 170 đến 190
máy bay cùng đậu; lực lượng địch thường có mặt trên 2 ngàn tên
gồm: lái máy bay, nhân viên kỹ thuật, binh lính Mỹ, lính Sài Gòn bảo
431

44.2 Page 432

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
vệ sân bay, 1 đại đội pháo, 1 đại đội xe tăng, 2 tiểu đoàn lính dù và
thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn quân khuyển (chó berger) gồm 100
con; sân bay có hệ thống chỉ huy, liên lạc hiện đại; hệ thống phòng
thủ sân bay kiên cố bao gồm nhiều lớp hàng rào kẽm gai với chiều
dày 1.000m; dưới các lớp rào chúng còn đặt nhiều loại mìn, pháo
sáng mà chỉ cần 1 con vật bò ngang qua chạm mạch chúng có thể
phát hiện ngay; xung quanh vòng rào, cứ 100m có 1 lô cốt, có lính
canh giữ; ban đêm, sân bay được rọi sáng bằng hệ thống đèn pha cực
mạnh. Cạnh sân bay là Sở chỉ huy Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn;
vòng ngoài sân bay còn có căn cứ Hốc Bà Thức và nhiều đơn vị đóng
quân dã chiến để bảo vệ an toàn sân bay.
Từ căn cứ này, không quân Mỹ Sài Gòn mang bom đạn đi
phục vụ các cuộc càn quét và gây nhiều tội ác với đồng bào toàn
miền Nam.
Từ năm 1965 đến năm 1966, quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào
Biên Hòa ngày càng đông. Tuy nhiên, với những chiến thắng ở Biên
Hòa, Bình Giã, Đồng Xoài, chiến trường miền Đông có những bước
chuyển động mới: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh đã tiêu diệt, tiêu
hao sinh lực chủ yếu của địch, phá được ấp chiến lược, mở rộng và
nối liền nhiều vùng căn cứ và kiểm soát của ta. Phong trào chiến
tranh du kích phát triển, lực lượng vũ trang sẵn sàng đánh địch, thực
hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 20/7/1965: “Dù đế
quốc Mỹ có tăng thêm 10 vạn, 20 vạn quân Mỹ, thậm chí nhiều hơn
nữa, dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa,
chúng ta cũng cương quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.
Trung ương Cục miền Nam xác định: khống chế, tiêu diệt nhiều
sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ ở Biên Hòa sẽ có tác dụng
to lớn, hỗ trợ tích cực cho chiến trường toàn miền. Tháng 1/1965,
Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị mở rộng tại Lò Gò (Tây
Ninh). Hội nghị khẳng định: Quân ta cơ bản làm thất bại chiến lược
Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ, đồng thời nêu bật 2 khả năng
phát triển của cách mạng miền Nam và nhiệm vụ của toàn Đảng,
432

44.3 Page 433

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
toàn quân và toàn dân trước tình hình mới.
Trung ương Cục cũng xác định khả năng thứ hai là: Mỹ sẽ đổ
quân trực tiếp xâm lược miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ. Với
khả năng này, thị xã Biên Hòa sẽ có một vị trí quan trọng, trở thành
căn cứ quân sự lớn của Mỹ và chư hầu ở miền Đông Nam Bộ, một
hậu phương trực tiếp của chính quyền Sài Gòn.
Cũng trong tháng 1/1965, Bộ Chỉ huy Miền điều động đồng chí
Trần Công An (Hai Cà) về Biên Hòa phụ trách Thị đội trưởng. Đồng
chí là cán bộ quân sự lâu năm - một trong những đồng chí sáng tạo
ra cách đánh đặc công thời kỳ chống Pháp ở Biên Hòa. Cùng về thị
xã còn có 50 cán bộ, chiến sĩ (trong đó có một số cán bộ, chiến sĩ đặc
công) quê ở Biên Hòa hoặc trước đây đã cùng chiến đấu trên chiến
trường này. Lực lượng này được giao nhiệm vụ chủ yếu là nhanh
chóng xây dựng phát triển lực lượng, huấn luyện nâng cao trình độ
kỹ thuật chiến đấu, cách đánh đặc công, xây dựng bàn đạp tiến công
các cơ quan chỉ huy đầu não địch; đánh 2 mục tiêu sân bay Biên Hòa,
Tổng kho hậu cần Long Bình và hỗ trợ phong trào quần chúng đánh
phá bình định, phát triển chiến tranh nhân dân ở các địa phương.
Ngày 2/2/1965, Thị ủy Biên Hòa họp triển khai nhiệm vụ do Trung
ương Cục và Khu ủy miền Đông chỉ đạo. Hội nghị quyết định: xây
dựng, củng cố các cơ sở vùng ven và trong nội ô thị xã, tạo bàn đạp
cho lực lượng vũ trang tiến công vào các cơ quan đầu não, các căn
cứ, sân bay kho tàng của Mỹ và tay sai. Đối với lực lượng vũ trang,
Thị ủy quyết định thống nhất lực lượng đặc công gồm: đội biệt động
thị xã Biên Hòa, 1 trung đội bộ đội địa phương huyện Vĩnh Cửu gồm
có 28 cán bộ, chiến sĩ (trong số này có 3 đồng chí đặc công đã qua
đào tạo ở trường Quân khu, từng kinh qua chiến đấu) cùng lực lượng
Trung ương Cục tăng cường, bố trí thành 3 chốt đặc công với các địa
bàn bám trụ và các mục tiêu tác chiến như sau:
Chốt 1: Do đồng chí Nguyễn Văn Thanh phụ trách chốt trưởng,
đồng chí Nguyễn Văn Thu chốt phó; lấy Tân Phong, Thiện Tân làm
địa bàn đứng chân để xây dựng cơ sở, tạo bàn đạp tiến công vào sân
433

44.4 Page 434

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bay Biên Hòa và quân đoàn 3.
Chốt 2: Do đồng chí Nguyễn Tấn Vàng làm chốt trưởng, đồng chí
Nguyễn Văn Thái làm chốt phó; lấy Long Bình Tân, Phước Cang,
Hưng Lộc làm bàn đạp xây dựng cơ sở, tạo điền kiện tiến công vào
Kho liên hợp Long Bình và cầu xa lộ Đồng Nai.
Chốt 3: Do đồng chí Nguyễn Văn Hải làm chốt trưởng, đồng chí
Huỳnh Văn Thanh làm chốt phó, bám tại Hóa An và Bình Trị. Sau
Tết Mậu Thân năm 1968, chốt 3 chuyển về làm nòng cốt lực lượng
vũ trang huyện Vĩnh Cửu. Riêng bộ phận do đồng chí Chín Tiên chỉ
huy, tiếp tục bám địa bàn tại Hóa An và Bình Trị.
Tháng 12/1965, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (khóa III) ra
Nghị quyết khẳng định lại quyết tâm đánh Mỹ và khả năng thắng
Mỹ. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 12, tháng 2/1966, Quân ủy
trung ương đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược, trong đó có 3
phương thức được bộ đội đặc công không ngừng hoàn thiện đạt hiệu
suất cao là:
Phương thức 1: Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay,
hải cảng, cơ quan đầu não địch.
Phương thức 2: Triệt phá các đường giao thông thủy, bộ quan
trọng, tạo ra thế bao vây chia cắt địch.
Phương thức 3: Đẩy mạnh hoạt động quân sự ở các đô thị, từ
hình thức tác chiến nhỏ kết hợp đấu tranh chính trị, làm công tác dân
vận, địch vận, quân báo đến tác chiến lớn, kết hợp tiến công và khởi
nghĩa.
Tháng 1/1966, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược mùa
khô lần thứ nhất. Địch tập trung quân Mỹ và tay sai, chư hầu Úc càn
quét vào các khu căn cứ ở miền Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt quân
chủ lực cách mạng.
Lúc này D1, D2 - đặc công U1 Biên Hòa đã làm tốt nhiệm vụ kết
hợp lực lượng vũ trang của địa phương củng cố phát triển các cơ sở
nội tuyến và vùng ven đẩy mạnh công tác đấu tranh chính trị, tổ chức
tiến công vũ trang diệt ác, phá kìm, xây dựng bàn đạp từ vùng ven
434

44.5 Page 435

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đến nội ô, tạo điều kiện phối hợp với vũ trang bên ngoài, tạo vành đại
tiến công tiêu hao sinh lực và phương tiện chiến tranh cao cấp của
Mỹ và tay sai trong thị xã.
Đầu năm 1965 chốt 1 thuộc Tiểu đoàn 1 - đặc công U1 Biên Hòa
được giao nhiệm vụ bám địa bàn, nắm tình hình địch tại xã Thiện
Tân, vào cuối năm 1965 có tổ chức những trận đánh nhỏ tiêu biểu
như: cùng cơ sở bám nắm phương thức hoạt động của địch, tổ chúc
phục kích đánh địch tuần tra tại Sở cao su Ông Phủ bằng 2 trái mìn
định hướng, diệt trên 30 tên Mỹ.
Tháng 1/1966, Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo trực tiếp cho đội đặc
công Biên Hòa bằng mọi cách phải đánh vào căn cứ kho tàng, sân
bay của địch để phối hợp với chiến trường chung. Đây là nhiệm vụ
quan trọng và khó khăn, vì lúc này địch bố trí lại cách phòng thủ
trong sân bay: ngoài Tiểu đoàn 57 bảo an và Lữ đoàn dù 173 Mỹ bảo
vệ vòng ngoài còn có 5 lớp rào đôi bằng kẽm gai, 2 hàng rào “carô”,
ở giữa là các bãi có gài đủ các loại mìn, các ụ chứa máy bay (mỗi
ụ chứa 6 chiếc) có đèn pha sáng rực xung quanh; từ ngoài nhìn vào
không thể thấy các ụ này.
Đội trinh sát đặc công Biên Hòa do đồng chí Trần Văn Cao chỉ
huy, được lệnh đột nhập sân bay nghiên cứu thực địa. Trong 1 đêm
Tết Bính Ngọ năm 1966, 4 đồng chí vượt qua các bãi mìn và các lớp
kẽm gai từ hướng Tây để vào sân bay. Qua thực tế quan sát tại chỗ,
các đồng chí đã bổ sung thêm nhiều điểm vào phương án tác chiến
cho trận tập kích.
0 giờ ngày 23/2/1966, 33 khẩu ĐKB và 4 khẩu pháo, cối nã hàng
trăm quả đạn, hỏa tiễn vào sân bay, thị xã Biên Hòa bị chấn động
mạnh bởi những tiếng nổ liên tục từ trong sân bay, 125 máy bay các
loại, trong đó có nhiều chiếc phản lực bị tan xác; hàng trăm tên sĩ
quan và phi công Mỹ bị đền tội, đường băng sân bay bị hỏng nặng
đến 5 ngày sau máy bay mới cất cánh được.
Chiến thắng sân bay một lần nữa khẳng định phương thức tác
chiến đạt hiệu quả cao: kết hợp lực lượng của trên với cơ sở nội
435

44.6 Page 436

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tuyến của Thị ủy tổ chức.
Tháng 8/1966, tổ chức 1 tổ gồm 4 đồng chí luồn sâu vào hậu
cứ địch dùng 2 trái mìn định hướng đánh cháy 2 chiếc máy bay
trực thăng vũ trang trong máy bay có đạn hỏa tiễn nên cùng phát nổ
phóng phá hủy liên hoàn 40 kho đạn.
Phát huy thắng lợi mùa khô, các lực lượng vũ trang Miền, từ tháng
5 đến tháng 11/1967, Tiểu đoàn 1 - đặc công U1 Biên Hòa, đội biệt
động thị xã liên tục tấn công vào các cơ quan đầu não, căn cứ quân
sự địch bằng nhiều hình thức.
Đêm 3/2/1967, trong lúc bọn Mỹ mở cuộc càn ở Tây Ninh thì Đại
đội 1, Tiểu đoàn 1, Đặc công U1 Biên Hòa từ bàn đạp Bình Trị, Hóa
An vượt sông, mở màn cho cuộc tiến công mới, các đồng chí dùng
mìn hẹn giờ khéo léo bí mật, áp sát vào các bồn chứa xăng dầu ở phía
Tây Nam sân bay, sau khi rút ra an toàn mìn kích nổ thiêu hủy 10
triệu lít nhiên liệu của Mỹ phục vụ chiến tranh.
Ngày 12/5/1967, đoàn 274 ĐKB Miền phối hợp đại đội 1 đặc
công U1 Biên Hòa pháo kích sân bay Biên Hòa phá hủy 150 máy
bay các loại.
Ngày 5/11/1967, đại đội 1 tiếp tục pháo kích sân bay phá hủy 6
máy bay địch; cuối mùa mưa năm 1967 một tổ đặc công dùng mìn
định hướng tiêu diệt 20 tên Mỹ trên đường đi tuần tra.
Cũng trong tháng 11/1967, đơn vị tổ chức 1 tổ trinh sát đặc công
đánh vào Tỉnh đoàn bảo an đóng tại căn cứ (nay là khu làm việc
Tỉnh ủy Đồng Nai và kho xăng dầu 18 cầu Rạch Cát, phường Quyết
Thắng). Ta đánh sập 3 căn nhà, diệt 25 tên bảo an (riêng 2 bồn thuộc
kho xăng dầu 18 có lưới B40 bao quanh nên đạn B40 phát nổ). Sau
trận đánh toàn bộ tổ rút an toàn ra ngoài.
Những thắng lợi này có ý nghĩa lịch sử khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh
chiến lược Chiến tranh cục bộ ở miền Nam lên đỉnh cao nhất. Loạt
trận đánh này thể hiện sự dũng cảm, mưu trí, sáng tạo và quyết tâm
cao của đặc công U1 Biên Hòa, được Bộ Chỉ huy Miền tặng thưởng
Huân chương Quân công hạng Nhì.
436

44.7 Page 437

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Tiếp theo là trận đánh lúc giao thừa Xuân Mậu Thân năm 1968,
phát huy cách đánh sáng tạo của đặc công, thể hiện những tấm gương
anh hùng và hành động anh hùng. Theo đồng chí Phan Văn Trang,
nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, nguyên Phó chính ủy Mặt trận
Biên Hòa lúc ấy, chiều 30 Tết Mậu Thân năm 1968 tại bìa rừng Sông
Mây (Trảng Bom) sau khi quán triệt lần cuối mục đích, ý nghĩa của
trận đánh, các lực lượng tham gia chiến dịch nhận lệnh hành quân
tiến về các mục tiêu đã được vạch trước. Đúng giờ giao thừa 0 giờ
đêm 30 Tết nhằm ngày 31/1/1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy
của quân và dân ta đã diễn ra đồng loạt ở 36/44 tỉnh của miền Nam
Việt Nam. Cuộc tổng tấn công đã thực sự làm rung chuyển Nhà
Trắng và Lầu Năm Góc, làm đảo lộn hoàn toàn thế chiến lược của
Mỹ, đẩy địch vào thế bị động, bế tắc trên chiến trường, buộc Mỹ phải
xuống thang chiến tranh, tìm một giải pháp thương lượng hòa bình
với ta tại bàn đàm phán.
Tại mặt trận Biên Hòa, đúng vào giờ G đêm 30 tết, pháo tên lửa
ĐKB của Trung đoàn 274, pháo binh Miền bắt đầu nổ súng báo hiệu
cho cuộc tổng công kích. Trên 100 quả đạn liên tục bắn phá vào sân
bay Biên Hòa, gây thiệt hại nặng cho sân bay, khiến máy bay địch
không thể cất cánh được.
Đại đội 1 đặc công U1 Biên Hòa và Trung đoàn 4 chủ lực Miền
đồng loạt nổ súng, đánh chiếm một góc sân bay Biên Hòa. Do lạ
địa hình nhiều đơn vị của Trung đoàn 4 bị lạc đội hình, không vào
được sân bay. Địch tổ chức phản công, máy bay lên thẳng Mỹ từ Bộ
Tư lệnh dã chiến 2, từ sân bay Tân Sơn Nhất cất cánh lên phản kích
mãnh liệt; các đơn vị xe tăng Mỹ từ Hóc Bà Thức kéo lên hàn kín
các lối ra.
Lúc này, cả Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 đặc công U1 Biên Hòa vừa
chống trả máy bay, vừa phải đánh trả lực lượng bộ binh, xe tăng
địch đang dần siết vòng vây, lực lượng ít, đại đội phải bám trụ
dùng thủ pháo dù ném thẳng vào những chiếc máy bay còn nằm
trên sân (thủ pháo dù và pháo của ta dội vào đã phá hủy 120 máy
437

44.8 Page 438

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bay các loại của địch).
Cuộc chiến đấu cuộc chiến lúc này diễn ra vô cùng ác liệt; Đại đội
1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phát triển vào khu cư xá của bọn
giặc lái và chuyên viên kỹ thuật Mỹ, diệt và làm bị thương hàng trăm
tên, nhưng sau đó hầu hết cả tập thể đại đội 1 đã anh dũng hy sinh,
chỉ còn 2 đồng chí vượt ra khỏi sân bay trở về.
Sau 1 ngày đêm tiến công quyết liệt ở mặt trận Biên Hòa, Trảng
Bom; Hưng Lộc, Dầu Giây; Long Thành; Nhơn Trạch và tại chi khu
Công Thanh huyện Vĩnh Cửu, các lực lượng vũ trang giải phóng đã
tiêu diệt gần 10 ngàn quân Mỹ, tay sai phá hủy và làm hư hỏng 120
máy bay, hàng chục xe tăng, 127 kho bom, đạn và nhiều phương tiện
chiến tranh của địch.
Tiếp sang đợt tấn công lần 2 Mậu Thân năm 1968, thị xã Biên Hòa
vẫn được xác định là một trong những trọng điểm ở miền Đông Nam
Bộ. Ta có thuận lợi là giữ được cơ sở mật ở nội ô, nhưng không còn
yếu tố bất ngờ với địch, chúng đã thay đổi kế hoạch phòng thủ, tăng
cường tuần tra kiểm soát gắt gao. Về phía ta, lực lượng Sư đoàn 5 và
đặc công U1 Biên Hòa bị giảm sút sau đợt 1 tiến công. Theo số liệu
tổng kết, sư đoàn 5 bị thương vong khoảng 1.600 chiến sĩ, lực lượng
Đặc công U1 Biên Hòa bị thương vong khoảng 500 đồng chí.
Trước khi tiến công đợt 2, Bộ Chỉ huy Miền quyết định cử 2 cánh
trinh sát vào thị xã để nghiên cứu thực địa nhưng cả 2 cánh đều
không thành công. Cánh thứ nhất do đồng chí Hai Riêng phụ trách
nghiên cứu đánh cầu mới (Hóa An), vì không bảo đảm được phương
châm bí mật, địch phát hiện truy quét lực lượng ta đã anh dũng chiến
đấu chống trả quyết liệt và hy sinh ở Tân Hiệp. Cánh thứ 2 do đồng
chí Tư Rao và đồng chí Chín Tiên (Đặc công U1 Biên Hòa) cũng bị
máy bay địch phát hiện bắn hy sinh.
Trong giai đoạn này địch tiếp tục tăng cường hai Tiểu đoàn 57 và
58 bảo an cùng bọn biệt động quân sư đoàn 18 án ngữ dọc bờ sông
Đồng Nai ngăn chặn bộ đội chủ lực từ của ta từ Chiến khu Đ qua.
Ngoài ra, địch còn ra sức tăng cường phòng thủ các cơ quan đầu não
438

44.9 Page 439

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
các căn cứ quân sự trong thị xã; các tua, chốt gác quanh thị xã đều
được bọn chúng đặt trong tình trạng báo động thường xuyên, bọn
công an chìm, bọn cán bộ bình định ra sức lùng sục các khu phố các
ấp ven thị xã.
Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định điều Sư
đoàn 5 của Miền chuyển hướng hoạt động lên quốc lộ 20 để thu hút
và tiêu hao sinh lực của sư đoàn 5; dùng đặc công và pháo binh đánh
vào các căn cứ, kho tàng Mỹ, phối kết hợp các cơ sở mật, lực lượng
quần chúng trong thị xã diệt ác phá kìm, mở rộng bàn đạp xây dựng
các khu vực lõm chính trị bí mật, bền vững.
Vào đợt 3 năm Mậu Thân (tháng 8/1968), tại thị xã trong các ngày
22, 23 và 30/8, pháo binh Miền phối hợp với đặc công U1 Biên Hòa
tiếp tục tiến công vào sân bay, kho Long Bình và Bộ Chỉ huy dã
chiến 2 (Mỹ), diệt nhiều phương tiện chiến tranh của định như: Máy
bay, bom đạn, kho xăng dầu…
Có thể nói chiến dịch tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
của quân dân thị xã Biên Hòa với tương quan lực lượng ta ít hơn Mỹ
và tay sai nhiều lần, nhưng với quyết tâm cao ta đã làm tiêu hao rất
lớn về sinh lực và phương tiện, nhiên liệu, vật chất chiến tranh của
chúng những trận đánh đã trở thành sự kiện vang dội trong và ngoài
nước, góp phần cùng toàn Miền buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào
bàn hội nghị Paris, đánh dấu bước phá sản hoàn toàn của chiến lược
Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Từ năm 1969-1972, Tiểu đoàn 1, Đặc công U1 Biên Hòa xây dựng
lại thế và lực với những trận đánh tiêu biểu. Trong đó vào cuối năm
1968, đầu năm 1969, đế quốc Mỹ quay sang thực hiện chiến lược
Chiến tranh phi Mỹ hóa rồi Việt Nam hóa chiến tranh với “xương
sống” là kế hoạch bình định để giành lại quyền chủ động trên chiến
trường, từng bước rút quân Mỹ về nước. Trên chiến trường thị xã,
địch tập trung đánh phá cách mạng trên hai lĩnh vực: vùng căn cứ bàn
đạp và vùng ven nội ô thị xã. Ở vùng căn cứ Trảng Bom, Hưng Lộc
(ấp Hưng Nghĩa), Mỹ và tay sai kết hợp cả bom (do máy bay B52
439

44.10 Page 440

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
rải thảm), chất độc hóa học để phá địa hình căn cứ cách mạng với
tổ chức các cuộc càn quét liên tục bằng bộ binh, xe tăng tìm diệt lực
lượng cách mạng của thị xã, các cơ quan chỉ huy, hậu cần, giao liên
của Thị ủy. Lính biệt kích Mỹ, Sài Gòn được tung vào hoạt động đều
đặn các cụm rừng căn cứ. Trong các khu phố nội ô và các vùng ven,
địch tăng cường cảnh sát lục soát. Bọn công an, tình báo, phượng
hoàng, điềm chỉ… được tung ra các nơi, từ khu dân cư lao động tập
trung đông dân đến dọc các tuyến đường từ ngoài vào thị xã. Địch
“quân sự hóa” nhân dân bằng tổ chức phòng vệ dân sự, bắt thanh
niên từ 15 tuổi trở lên phải vào tổ chức quân dự bị, tổ chức từng đợt
đưa đi học ở Vũng Tàu; sách báo, đài truyền thanh tuyên truyền cho
“Tinh thần anh dũng của các chiến sĩ quốc gia” và huênh hoang cho
rằng là đã “hoàn toàn vãn hồi an ninh, trật tự ở thị xã” và “đã đẩy Việt
cộng ra khỏi thị xã”.
Tại các căn cứ quân sự, hậu cần quan trọng của địch trong thị xã:
Sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, căn cứ Hốc Bà Thức…,
địch đều thay đổi quy luật phòng thủ, tăng thêm hàng rào kẽm gai,
các bãi mìn, chó berger, thay đổi các đơn vị canh gác để đề phòng các
tổ chức binh vận và nội tuyến của ta.
Sau đợt tiến công lần thứ 3 Mậu Thân, Tỉnh ủy U1 và Thị ủy Biên
Hòa họp đánh giá tình hình thị xã. Thị ủy khẳng định cuộc tiến công
và nổi dậy ở thị xã góp phần cùng toàn Miền và cả nước giành thắng
lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, Thị ủy cũng kiểm điểm
nghiêm khắc những thiếu sót, khuyết điểm.
Tháng 11/1968 tại căn cứ Bàu Hàm (phía Nam sông Đồng Nai)
đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy U1 và đồng chí Trần Công
An, Tỉnh đội trưởng triển khai Nghị quyết của Trung ương Cục về
mở đợt tiến công và nổi dậy Xuân Kỷ Dậu (năm 1969) cho các huyện
ủy và thị ủy Biên Hòa. Để đảm bảo thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh
ủy; Thị ủy đã chuẩn bị cơ sở vật chất, vũ khí, đạn, thuốc nổ tập kết
bí mật bên trong thị xã, chuẩn bị địa bàn bám trụ trong thị xã, hầm bí
mật, củng cố đường dây giao liên, hoàn chỉnh kế hoạch tiến công và
440

45 Pages 441-450

▲back to top


45.1 Page 441

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nổi dậy Xuân Kỷ Dậu…
Để giành thắng lợi về mặt chiến lược, giữ thế mạnh trên bàn đàm
phán Hiệp định Paris, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung
ương Cục miền Nam quyết định bố trí lại chiến trường, mở các đợt
tiến công đánh bồi, đánh nhồi vào mùa xuân 1969. Tham gia đợt tiến
công này, ở chiến trường Biên Hòa, Long Khánh và Phân khu 4 có
các lực lượng: Sư đoàn 5 chủ lực miền, lực lượng Tiểu đoàn 1 và
Tiểu đoàn 2, Đặc công U1 Biên Hòa, Trung đoàn 33, Trung đoàn 4
cùng các lực lượng vũ trang địa phương.
Theo kế hoạch, đúng giờ G (2 giờ sáng) ngày N (23/2/1969), các
lực lượng của ta đồng loạt nổ súng tiến công địch theo các mục tiêu
đã định. Sư đoàn 5 cùng với Tiểu đoàn 1 Đặc công U1 đánh sân bay
Biên Hòa và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Quân khu 3; Trung đoàn 4
và Trung đoàn 33 đánh vào tổng kho Long Bình; Tiểu đoàn 2 Đặc
công U1 đánh khu kho đồi 50-53 Long Bình; Đội biệt động thị xã
Biên Hòa cùng Đại đội 25, Sư đoàn 5 tấn công vào Ty Cảnh sát Biên
Hòa; Tiểu đoàn 4 tăng cường của Miền đánh vào trại tù binh suối Săn
Máu; bộ đội 2 huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom cùng du kích các xã phá
ấp chiến lược dọc lộ 24, lộ 1. Trong nội ô, thị ủy Biên Hòa chỉ đạo
Ban Công vận thị ủy dùng cơ sở mật, tự vệ mật gây nổ bên trong khu
kỹ nghệ để hỗ trợ quần chúng diệt ác ôn bên trong thị xã.
Cuộc tiến công mùa xuân 1969 của quân dân miền Nam và quân
dân Biên Hòa - Long Khánh nói chung và Tiểu đoàn 1 đặc công U1
Biên Hòa nói riêng đã gây cho địch nhiều thiệt hại, tạo thêm thế và
lực cho ta đấu tranh với địch trên bàn đàm phán.
Qua đợt tiến công Xuân Kỷ Dậu, tuy đạt được nhiều thắng lợi
nhưng một lần nữa ta lại bộc lộ lực lượng và cơ sở mật bên trong, lực
lượng thị xã bị thiệt hại; lực lượng bên ngoài và vùng ven không kịp
củng cố. Đó là nguyên nhân gây nên tình trạng khó khăn kéo dài sau
này ở thị xã Biên Hòa.
Bước sang năm 1970, tình hình thị xã vẫn còn vô cùng khó khăn,
phức tạp. Lực lượng bên ngoài căn cứ phải đối phó thường xuyên
441

45.2 Page 442

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
với bom, đạn, biệt kích địch hàng ngày hàng giờ. Giao liên từ căn cứ
về nội ô không qua nổi quốc lộ 1 và quốc lộ 20 vì bị địch phục kích
án ngữ; các đồng chí cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn
2 - Đặc công U1 Biên Hòa liên tiếp chịu đựng cảnh thiếu nước, thiếu
lương thực, thuốc men phòng bệnh trị bệnh nên nhiều cán bộ, chiến
sĩ thiếu dinh dưỡng, bị bệnh, sức chiến đấu bị giảm sút nhưng tinh
thần lúc nào cũng sẵn sàng đánh địch đi càn quét để bảo vệ căn cứ.
Tháng 5/1971, Trung ương Cục quyết định bố trí lại chiến trường,
tập trung cho công tác đô thị, tạo thế và lực mới. Về lực lượng vũ
trang Tỉnh đội từ 2 Tiểu đoàn biên chế lại còn 2 Đại đội đặc công: 1
đại đội phụ trách kho Long Bình (mỗi đại đội chia thành nhiều mũi);
1 đại đội pháo phụ trách sân bay Biên Hòa, 1 trung đội phụ trách thị
xã; quân số chung là 217 đồng chí.
Buộc phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán để tìm
lối thoát khỏi cuộc chiến trong danh dự, nhưng Mỹ vẫn tìm cách để
thực hiện đàm phán trên “thế mạnh”. Thực hiện ý đồ này, Mỹ và
quân đội Sài Gòn dồn sức mở các cuộc hành quân càn quét quy mô
lớn nhằm vào quân ta.
Nhận thức rõ âm mưu của Mỹ, Bộ Chính trị hạ quyết tâm “phải
đánh cho quân Mỹ thua đau hơn nữa, đánh cho ngụy quân, ngụy
quyền phải sụp đổ để giành trên bàn hội nghị những cái mà ta
đã giành được trên chiến trường”. Để biến quyết tâm thành hiện
thực, ta chủ động đẩy mạnh các hoạt động quân sự, đánh bại các
cuộc hành quân càn quét của Mỹ và quân đội Sài Gòn bằng việc
mở cuộc tiến công chiến lược 1972 trên quy mô lớn, với 3 chiến
dịch tiến công hiệp đồng binh chủng trên 3 hướng: Quảng Trị, bắc
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Từ cuối tháng 3/1972, chiến dịch Nguyễn Huệ nổ ra và giành
thắng lợi trên toàn chiến trường, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần của quân
và dân thị xã Biên Hòa. Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Cục và
Quân ủy Miền, xác định vị trí chiến lược của thị xã Biên Hòa, ngày
3/6/1972, Bộ Tư lệnh quyết định thành lập Đoàn đặc công 113, đơn
442

45.3 Page 443

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vị lúc này đứng chân tại núi Bùng Binh (giáp ranh giữa Tân Phong
và xã Thiện Tân) do đồng chí Chín Tùng làm Trung đoàn trưởng,
đồng chí Hai Thuận làm Chính trị viên, 2 Đại đội đặc công U1 Biên
Hòa được gắn vào biên chế Trung đoàn, mang phiên hiệu Tiểu đoàn
1. Nhiệm vụ của Trung đoàn là tiến công liên tục vào các căn cứ đầu
não, căn cứ quân sự, kho tàng Mỹ, ngụy ở thị xã Biên Hòa, chủ yếu
là sân bay Biên Hòa và Tổng kho Long Bình; hỗ trợ cho địa phương
diệt ác, phá kìm, đánh phá âm mưu bình định của địch.
Góp phần chung trong những chiến công vang dội ở chiến trường
miền Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 thực hiện nhiệm vụ
vừa tiến công vào các kho tàng, căn cứ địch vừa đẩy mạnh diệt ác,
phá kìm, đấu tranh chính trị bên trong thị xã, đẩy mâu thuẫn giữa
địch với nhân dân càng lên cao, có lợi cho cách mạng.
Ngày 7/1/1972, Tiểu đoàn 1 cùng lực lượng vũ trang Phân khu
Thủ Biên, được cơ sở của thị xã giúp đỡ, đánh nổ tung 2 kho đạn lớn
ở Bình Ý (Tây Bắc sân bay Biên Hòa) hủy diệt 10 tấn đạn và rốc-két.
Đêm 1/8/1972, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn đặc công 113 đã dùng
pháo ĐKB đánh vào sân bay Biên Hòa, phá hỏng 74 máy bay các
loại và 13 xe quân sự.
Sau trận đánh đêm 13/8/1972 làm thủng dạ dày quân Mỹ ở kho
Long Bình; ngày 9/9/1972 trong đội hình chiến đấu chung Tiểu đoàn
1 Trung đoàn đặc công 113 đã được cơ sở mật ở Tân Phong dẫn
đường Tiểu đoàn 14 pháo đặc công bố trí trận địa ĐKB và hỏa tiễn
H-12 tại dốc Ông Hoàng, cũng là lúc đồng chí H16 gắn quả mìn định
giờ vào 1 quả bom trong kho, 3 giờ 45 ngày 10/ 9/-1972 một tiếng nổ
lớn từ trong sân bay vang lên, theo đúng kế hoạch hiệp đồng hỏa lực
cùng lực lượng đặc công của ta xung phong tiến công, sân bay Biên
Hòa chìm trong biển lửa, từng cột khói đen bốc cao lên không trung:
làm nổ tung 175 máy bay phản lực A37 và máy bay vận tải C130,
làm sân bay tê liệt hoạt động trong 3 ngày.
Bị thất bại liên tiếp về mặt quân sự trên khắp các chiến trường
vào năm 1972, đặc biệt là bị thua đau trong chiến dịch 12 ngày đêm
443

45.4 Page 444

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
dùng B.52 đánh phá thủ đô Hà Nội và các mục tiêu quan trọng khác
ở miền Bắc, Nixon buộc phải xuống thang chiến tranh, ký kết Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và
rút hết quân Mỹ về nước.
Trải qua giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1972) Tiểu
đoàn 1, Đặc công U1 Biên Hòa tiêu diệt hơn 400 tên Mỹ, 25 tên bảo
an và nhiều tên ác ôn, chỉ điểm; đẩy mạnh diệt ác, phá kìm, đấu tranh
chính trị, xây dựng cơ sở mật bên trong thị xã; phá hủy hơn 692 máy
bay các loại; 13 xe quân sự; trên 70 dãy nhà kho; hàng trăm tấn đạn
rốc-két, 3 dãy nhà và trên 30 triệu lít nhiên liệu; phá hủy, làm hư
hỏng nặng liên tiếp nhiều đường băng trong suốt giai đoạn (1965-
1972). Đơn vị hy sinh, thương vong khoảng 300 đồng chí.
Với những thành tích trên, Tiểu đoàn 1 Đặc công U1 Biên Hòa
được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; nhiều Huân
chương Chiến công và bằng, giấy khen, danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.
Tháng 9/2014(2), Tiểu đoàn 1 Đặc công U1(3) Biên Hòa được Nhà
nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân.
(2) Có tài liệu ghi: 2016.
(3) Lưu ý: Từ 1-3-1972, Đặc công U1 không còn vì trở thành D1 đặc công của
Trung đoàn 113 - Biên Hòa chỉ còn đội biệt động.
444

45.5 Page 445

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Tiểu đoàn 2 - Đặc công U1 Biên Hòa
Long Bình là nơi đặt kho hậu cần lớn nhất của quân viễn chinh
Mỹ ở miền Nam, nơi dự trữ đủ các loại bom đạn đưa từ Mỹ sang để
mang đi đánh phá phong trào cách mạng toàn miền Nam.
Địch cho ủi phá khu vực Long Bình Tân và Tam Hiệp để xây dựng
các dãy kho và đưa vào sử dụng từ cuối năm 1965, cả khu vực kho
rộng hơn 40km2, nằm sát trục lộ 15 và xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn,
cách Sài Gòn về phía Bắc 20km, thành phố Biên Hòa 7km về hướng
Đông. Trong tổng kho Long Bình có Bộ Tư lệnh dã chiến II Mỹ, Bộ
Tư lệnh hậu cần số 1 của Mỹ; lực lượng Mỹ và tay sai thường xuyên
có 2 ngàn tên.
Tổng kho Long Bình tổ chức phòng thủ chặt chẽ, bao bọc xung
quanh từ 7-12 lớp rào kết hợp gài mìn trái. Các lô cốt cách nhau
30-40m, nằm cách lớp rào cuối cùng từ 40-50m. Bên trong có nhiều
tuyến hào nối các lô cốt, đường đi, lối lại ngang dọc, 2 bên đường
đều rải hàng rào kẽm gai.
Hai khu kho quan trọng trong tổng kho là khu kho đồi 50 và đồi
53, có 18 dãy nhà kho với khoảng 200 gian chia làm 3 khu (mỗi khu
6 dãy), mỗi dãy cách nhau 100 mét, các nhà cách nhau 60 mét. Nhà
kho xây hình khối chữ nhật (30m x 25m x 5,5m), cửa thép có khóa
sắt, xung quanh có ụ đất dày 4-5 mét.
Ngày 2/2/1965, Thị ủy Biên Hòa đã họp triển khai nhiệm vụ do
Trung ương Cục và Khu ủy miền Đông chỉ đạo. Hội nghị đã quyết
định: xây dựng, củng cố các cơ sở vùng ven và trong nội ô thị xã, tạo
445

45.6 Page 446

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bàn đạp cho lực lượng vũ trang tiến công vào các cơ quan đầu não,
các căn cứ, sân bay kho tàng của Mỹ. Đối với lực lượng vũ trang,
Thị ủy quyết định thống nhất lực lượng đặc công gồm: đội biệt động
thị xã Biên Hòa, một trung đội bộ đội địa phương huyện Vĩnh Cửu
gồm có 28 cán bộ, chiến sĩ (trong số này có 3 đồng chí đặc công đã
qua đào tạo ở trường Quân khu, đã từng kinh qua chiến đấu) cùng lực
lượng Trung ương cục tăng cường, bố trí thành 3 chốt đặc công với
các địa bàn bám trụ và các mục tiêu tác chiến như sau:
Chốt 1: Do đồng chí Nguyễn Văn Thanh phụ trách làm chốt
trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thu làm chốt phó; lấy Tân Phong,
Thiện Tân làm địa bàn đứng chân để xây dựng cơ sở, tạo bàn đạp tiến
công vào sân bay Biên Hòa và quân đoàn 3.
Chốt 2: Do đồng chí Nguyễn Tấn Vàng làm chốt trưởng, đồng chí
Nguyễn Văn Thái làm chốt phó; lấy Long Bình Tân, Phước Cang,
Hưng Lộc làm bàn đạp xây dựng cơ sở, tạo điền kiện tiến công vào
Kho liên hợp Long Bình và cầu xa lộ Đồng Nai.
Chốt 3: Do đồng chí Nguyễn Văn Hải làm chốt trưởng, đồng chí
Huỳnh Văn Thanh làm chốt phó, bám tại Hóa An và Bình Trị. Sau
Tết Mậu Thân, Chốt 3 chuyển về làm nòng cốt lực lượng vũ trang
huyện Vĩnh Cửu. Riêng bộ phận do đồng chí Chín Tiên chỉ huy, tiếp
tục bám địa bàn tại Hóa An và Bình Trị.
Tháng 12/1965, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (khóa III) đã ra
nghị quyết khẳng định lại quyết tâm đánh Mỹ và khả năng thắng
Mỹ. Thực hiện nghị quyết Trung ương 12, tháng 2/1966, Quân ủy
Trung ương đã đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược trong đó
có 3 phương thức được bộ đội đặc công không ngừng hoàn thiện đạt
hiệu suất cao là:
Phương thức 1: Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay,
hải cảng, cơ quan đầu não địch.
Phương thức 2: Triệt phá các đường giao thông thủy, bộ quan
trọng, tạo ra thế bao vây chia cắt địch.
Phương thức 3: Đẩy mạnh hoạt động quân sự ở các đô thị, từ
446

45.7 Page 447

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
hình thức tác chiến nhỏ kết hợp đấu tranh chính trị, làm công tác
dân vận, địch vận, quân báo đến tác chiến lớn, kết hợp tiến công
và khởi nghĩa.
Những trận đánh tiêu biểu của Tiểu đoàn 2(1) - Đặc công U1 Biên
Hòa như vào tháng 1/1966, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến
lược mùa khô lần thứ nhất. Địch tập trung quân Mỹ và tay sai, chư
hầu Úc càn quét vào các khu căn cứ ở Miền Đông Nam Bộ nhằm tiêu
diệt quân chủ lực cách mạng.
Lúc này Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 - đặc công U1 Biên Hòa đã làm
tốt nhiệm vụ kết hợp lực lượng vũ trang của địa phương củng cố phát
triển các cơ sở nội tuyến và vùng ven đẩy mạnh công tác đấu tranh
chính trị, tổ chức tiến công vũ trang diệt ác, phá kìm, xây dựng bàn
đạp từ vùng ven đến nội ô, tạo điều kiện phối hợp với vũ trang bên
ngoài, tạo vành đại tiến công tiêu hao sinh lực và phương tiện chiến
tranh cao cấp của Mỹ và tay sai trong thị xã.
Để phối hợp với chiến trường chung, đánh bại hai cuộc phản
công chiến lược mùa khô của đế quốc Mỹ (1965-1966; 1967-1968),
Tỉnh đội Biên Hòa U1 chỉ đạo đặc công U1 Biên Hòa liên tục tiến
công vào kho Long Bình. Phương châm đánh là táo bạo, chắc, đánh
bồi, phá hủy bom đạn, phương tiện chiến tranh của địch. Tiêu biểu
là các trận:
Ngày 22/6/1966, 6 chiến sĩ đặc công chia làm 3 tổ: Tổ 1 do
Nguyễn Tấn Vàng làm tổ trưởng, tổ 2 do Nguyễn Văn Thái làm tổ
trưởng, tổ 3 do Bùi Văn Hòa làm tổ trưởng, vượt rào và chướng ngại
vật tiếp cận khu kho đồi 53 đặt mìn có gắn kíp nổ hẹn giờ bằng đồng
hồ. Đến sáng 23/6, khu kho đồi 53 bắt đầu nổ, toàn bộ khu kho trùm
trong khói lửa. Các phương tiện cứu hỏa của địch đều bất lực. Trận
đánh gây thiệt hại nặng cho địch, hủy diệt 40 ngàn quả đạn pháo các
loại của Mỹ.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
447

45.8 Page 448

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đêm 26/10/1966, tổ đặc công của Đại đội 2 gồm 6 đồng chí:
Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Văn Tư, Bùi Văn Hòa, Trịnh Văn Thoàn,
Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Văn Rô, từ bàn đạp Hưng Lộc đã bí mật
luồn sâu vào kho Long Bình. 8 quả mìn hẹn giờ được áp sát vào các
kho 50, gồm 8 cụm chứa các loại pháo, rốc-két, bom… Lúc 20 giờ,
tổ đặc công cho điểm hỏa, một tiếng nổ dậy đất vang lên, tiếp theo
sau là nhiều loạt tiếng nổ lớn liên tục. Những cụm khói đen khổng
lồ xen kẽ với những chùm lửa xanh đỏ bao phủ cả khu vực Long
Bình. Không một máy bay lên thẳng hay xe cứu hỏa nào dám đến
cứu chữa, 8 kho bom đạn của Mỹ bị nổ tung; 125 ngàn quả đạn pháo,
rốc-két, bom bị phá hủy, 3 dãy nhà kho bị sập, 250 lính Mỹ gác kho
bị chết.
Báo Nhân dân số ra ngày 29/10/1966 đã ca ngợi chiến thắng Long
Bình, cho đây là một trận chiến táo bạo, tài tình, đánh thủng dạ dày
của Mỹ; chính quyền Mỹ cũng phải công khai thừa nhận sự bất lực.
Khi được hỏi vì sao Việt cộng đánh vào Long Bình mà vẫn không
biết, viên tướng chỉ huy kho Long Bình buồn rầu trả lời: “Nếu tôi
biết thì tôi đã là họ rồi”.
Nỗi kinh hoàng chưa dứt, kho Long Bình còn ngổn ngang, bọn
Mỹ cấp tốc dựng thêm hàng rào các tua chốt phòng thủ xung quanh
kho Long Bình, kể cả tăng cường chó berger và bổ sung các phương
tiện điện tử nhằm phát hiện mục tiêu từ xa. Thế nhưng, địch vẫn
không ngăn được hoạt động của những chiến sĩ đặc công Biên Hòa
với quyết tâm thực hiện lệnh chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Miền: “phải
đánh và đánh liên tục vào kho bom đạn Long Bình”.
Đêm 17/11/1966, tổ đặc công gồm 6 chiến sĩ do đồng chí Tư Già
chỉ huy vượt qua các hàng rào kiên cố và các chốt gác, lọt sâu vào
khu đồi 53. Khu này gồm nhiều dãy kho, mỗi dãy cách nhau 20m,
các chiến sĩ ta có sáng kiến: cứ cách 1 kho đặt 1 quả mìn vừa tiết
kiệm mà vẫn đạt hiệu quả, 4 quả mìn hẹn giờ được đặt vào 4 dãy nhà
kho lớn nhất. Đúng 24 giờ, kho Long Bình lại tiếp tục rực lửa. Toàn
bộ khu kho 53 bị hủy diệt (gồm 127 kho), 154 ngàn quả đạn pháo
448

45.9 Page 449

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
105, 155, 175 ly bị nổ tung cùng một lúc, làm tan xác 1 trung đội lính
Mỹ bảo vệ. Tiếng nổ và lửa bốc cháy kéo dài suốt mấy ngày liền làm
chấn động cả thị xã và các vùng lân cận.
Đêm 9 rạng sáng 10/12/1966, đặc công U1 Biên Hòa lại tiến công
vào kho Long Bình, 2 dãy nhà kho với 74 ngàn quả đạn bị phá hủy.
Cuối năm 1966, Tiểu đoàn 2 Đặc công U1 Biên Hòa bí mật tiến
công 3 lần vào tổng kho Long Bình, hủy diệt 353 ngàn đạn pháo và
các loại bom của địch. Loạt trận đánh này thể hiện sự dũng cảm, mưu
trí, sáng tạo và quyết tâm cao của đặc công U1, được Bộ Chỉ huy
Miền tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì.
Đêm 3/2/1967, đặc công U1 Biên Hòa lại đột nhập khu kho đồi
53 đặt mìn hẹn giờ. 2 giờ 45 sáng 4/2/1967, quả mìn hẹn giờ đầu tiên
nổ, sau đó là tiếng nổ của 3 quả mìn còn lại, mỗi quả nổ cách nhau 3
phút. Tiếng nổ vang rền suốt 30 tiếng đồng hồ, kích thích dây chuyền
làm nổ tung 40 dãy kho bom đạn rốc-két, đại bác, phá hủy 80 ngàn
quả đạn pháo các loại khác của Mỹ.
Hiệu quả của trận đánh rất lớn. Theo tin tình báo, do thiệt hại ở
tổng kho Long Bình, quân Mỹ đã bỏ dở 2 cuộc hành quân ở miền
Tây Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (trung bình mỗi cuộc hành quân,
địch dùng đến 21 ngàn quả pháo). Đài BBC nhận định: “Việt cộng đã
đánh thủng dạ dày của quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam”.
Dư âm chiến thắng Long Bình còn vang dội, tiếp tục sau đó qua
1 tháng nghiên cứu, lực lượng đặc công Tiểu đoàn 2 đã lên được
phương án tác chiến đánh kho xăng Biên Hòa, đến tháng 3/1967 đơn
vị cử 2 đồng chí Sáu An và Sáu Châu bí mật vượt qua các chốt gác
của bọn bảo an Vĩnh Thị, vượt đường rầy xe lửa đột nhập vào trong
kho, quả mìn hẹn giờ được đặt ép sát vào bồn chứa xăng lớn nhất.
Trưa hôm sau mìn nổ, từng cuộn khói đen bốc cao, tiếng còi báo
động, tiếng xe hú inh ỏi chạy đến tiếp cứu làm náo động cả thị xã. 2
bồn xăng và 2 ngàn phuy xăng đã bị đốt cháy.
Trong trận đánh lúc giao thừa Xuân Mậu Thân năm 1968, đồng chí
Phan Văn Trang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, nguyên Phó chính
449

45.10 Page 450

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ủy Mặt trận Biên Hòa lúc ấy cho biết vào chiều 30 Tết Mậu Thân 1968
tại bìa rừng Sông Mây (Trảng Bom), sau khi quán triệt lần cuối mục
đích, ý nghĩa của trận đánh, các lực lượng tham gia chiến dịch nhận
lệnh hành quân tiến về các mục tiêu đã được vạch trước.
Đúng giờ giao thừa 0 giờ đêm 30 Tết nhằm ngày 31/1/1968, cuộc
tổng tấn công của quân và dân ta đã diễn ra đồng loạt ở miền Nam
Việt Nam. Cuộc tổng tấn công đã thực sự làm rung chuyển Nhà
Trắng và Lầu Năm Góc, làm đảo lộn hoàn toàn thế chiến lược của
Mỹ, đẩy địch vào thế bị động, bế tắc trên chiến trường, buộc Mỹ phải
xuống thang chiến tranh, tìm một giải pháp thương lượng hòa bình
với ta tại bàn đàm phán.
Sáng mùng 1 Tết (tức ngày 1/2/1968), ở khu vực Long Bình, Tiểu
đoàn 2, Trung đoàn 5 và đặc công Sư đoàn 5 tấn công vào bãi đậu
trực thăng của Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh dã chiến II Mỹ, phá hủy nhiều
máy bay trực thăng.
Trong khi đó ở hướng Bắc tổng kho Long Bình, 1 đại đội của Tiểu
đoàn 2 đặc công U1 Biên Hòa do đồng chí Trần Văn Thái chỉ huy đã
đột nhập vào kho Long Bình ở cao điểm 53, dùng thuốc nổ phá hủy
127 dãy nhà kho chứa bom, đạn của Mỹ. Tiếng nổ và đám cháy trong
trận đánh kéo dài nhiều ngày liền làm chấn động thị xã Biên Hòa và
các vùng lân cận.
Sau 1 ngày đêm tiến công quyết liệt ở mặt trận Biên Hòa, Trảng
Bom; Hưng Lộc, Dầu Giây; Long Thành; Nhơn Trạch và tại chi khu
Công Thanh (huyện Vĩnh Cửu), các lực lượng vũ trang giải phóng
tiêu diệt gần 10 ngàn quân Mỹ-ngụy, phá hủy và làm hư hỏng 120
máy bay, hàng chục xe tăng, 127 kho bom, đạn và nhiều phương tiện
chiến tranh của địch.
Có thể nói cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1968, quân
dân miền Nam nói chung, cũng như Biên Hòa, Long Khánh nói riêng
gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, trận đánh trở thành sự kiện vang
dội trong và ngoài nước, là đòn báo hiệu sự thất bại thảm hại không
gì cứu vãn nổi của quân xâm lược Mỹ trên chiến trường Việt Nam.
450

46 Pages 451-460

▲back to top


46.1 Page 451

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Cuối năm 1968, đầu năm 1969, đế quốc Mỹ quay sang thực hiện
chiến lược chiến tranh phi Mỹ hóa rồi Việt Nam hóa chiến tranh với
“xương sống” là kế hoạch bình định để giành lại quyền chủ động trên
chiến trường, từng bước rút quân Mỹ về nước. Trên chiến trường thị
xã, địch tập trung đánh phá cách mạng trên 2 lĩnh vực: vùng căn cứ
bàn đạp và vùng ven nội ô thị xã. Ở vùng căn cứ Trảng Bom, Hưng
Lộc (ấp Hưng Nghĩa), Mỹ và tay sai kết hợp cả bom (do máy bay
B52 rải thảm), chất độc hóa học để phá địa hình căn cứ cách mạng
với tổ chức các cuộc càn quét liên tục bằng bộ binh, xe tăng tìm diệt
lực lượng cách mạng của thị xã, các cơ quan chỉ huy, hậu cần, giao
liên của Thị ủy. Lính biệt kích Mỹ và tay sai được tung vào hoạt
động đều đặn các cụm rừng căn cứ. Trong các khu phố nội ô và các
vùng ven, địch tăng cường cảnh sát lục soát. Bọn công an, tình báo,
phượng hoàng, điểm chỉ… được tung ra các nơi, từ khu dân cư lao
động tập trung đông dân cho đến dọc các tuyến đường từ ngoài vào
thị xã. Địch “quân sự hóa” nhân dân bằng tổ chức phòng vệ dân sự,
bắt thanh niên từ 15 tuổi trở lên phải vào tổ chức quân dự bị, tổ chức
từng đợt đưa đi tập huấn ở Vũng Tàu; sách báo, đài truyền thanh
tuyên truyền cho “Tinh thần anh dũng của các chiến sĩ quốc gia” và
huênh hoang cho rằng là đã “hoàn toàn vãn hồi an ninh, trật tự ở thị
xã” và “đã đẩy Việt cộng ra khỏi thị xã”.
Tại các căn cứ quân sự, hậu cần quan trọng của địch trong thị xã:
Sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, căn cứ Hốc Bà Thức… địch
đều thay đổi quy luật phòng thủ, tăng thêm hàng rào kẽm gai, các
bãi mìn, chó berger, thay đổi các đơn vị canh gác để đề phòng các tổ
chức binh vận và nội tuyến của ta.
Sau đợt tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân lần thứ 3, Tỉnh
ủy U1 và Thị ủy Biên Hòa họp đánh giá tình hình thị xã. Thị ủy
khẳng định cuộc tiến công và nổi dậy ở thị xã góp phần cùng toàn
Miền và cả nước giành thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Tuy
nhiên, Thị ủy cũng kiểm điểm nghiêm khắc những thiếu sót, khuyết
điểm. Tháng 11/1968 tại căn cứ Bàu Hàm (phía Nam sông Đồng
Nai) đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư U ủy và đồng chí Trần Công
451

46.2 Page 452

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
An, Tỉnh đội trưởng triển khai Nghị quyết của Trung ương Cục về
mở đợt tiến công và nổi dậy Xuân Kỷ Dậu 1969 cho các Huyện ủy
và Thị ủy Biên Hòa. Để đảm bảo thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy,
Thị ủy đã chuẩn bị cơ sở vật chất bên trong thị xã, chuẩn bị địa bàn
bám trụ trong thị xã, hầm bí mật, củng cố đường dây giao liên, hoàn
chỉnh kế hoạch tiến công và nổi dậy Xuân Kỷ Dậu.
Để giành thắng lợi về mặt chiến lược, giữ thế mạnh trên bàn đàm
phán Paris, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền
Nam quyết định bố trí lại chiến trường, mở các đợt tiến công đánh
bồi, đánh nhồi vào mùa xuân 1969. Tham gia đợt tiến công này, ở
chiến trường Biên Hòa, Long Khánh và Phân khu 4 có các lực lượng:
Sư đoàn 5 chủ lực miền, lực lượng Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 - Đặc
công U1 Biên Hòa, Trung đoàn 33, Trung đoàn 4 cùng các lực lượng
vũ trang địa phương.
Theo kế hoạch, đúng giờ G (2 giờ) ngày N (23/2/1969), các lực
lượng của ta đồng loạt nổ súng tiến công địch theo các mục tiêu đã
định. Ở khu vực Long Bình, pháo binh Miền và của T7 dội trúng
nhiều mục tiêu bên trong, nhưng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 33
cùng đại bộ phận Tiểu đoàn 2 đặc công Biên Hòa bị địch chặn đánh
từ bên ngoài, không vào được. Trung đoàn 4 và Trung đoàn 33 phải
chuyển sang đánh diệt bọn lính Thái Lan ở Long Thành; duy nhất
chỉ có Đại đội 9 - Tiểu đoàn 2 đặc công lọt vào được trong khu vực
kho, đơn vị nhanh chóng tiến công vị trí các kho đồi 53, hàng chục
dãy kho bom đạn và nhiên liệu phát nổ dữ dội, lửa cháy sáng rực
một góc trời. Địch dùng 1 trung đoàn xe tăng bít kín các lối ra vào
kho Long Bình; trên không máy bay trực thăng vũ trang của địch
vừa rọi đèn pha, vừa phản kích ác liệt xuống trận địa, Đại đội 9 bị
bao vây trong khu kho đã phân tán thành từng tổ, tiểu đội, lợi dụng
địa hình, địa vật đánh trả địch quyết liệt, nhưng do lực lượng không
cân sức, đại đội 9 đặc công đánh địch đến viên đạn, hơi thở cuối
cùng, chỉ còn 2 đồng chí thoát được ra ngoài. Với thành tích trên,
Đại đội 9 đặc công và đồng chí Bùi Văn Hòa đã được Ủy ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam truy tặng danh hiệu
452

46.3 Page 453

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Anh hùng các Lực lượng vũ trang nhân dân.
Cuối năm 1969, 2 đồng chí: Ba Đấu và Chiến là đặc công U1 Biên
Hòa được tự vệ mật xã Tam Hiệp dẫn đường, tiến công kho đạn quân
Quân đoàn 3. Nhờ sự hỗ trợ của 2 tổ tự vệ mật ở An Hảo và Bình Đa,
2 đồng chí vượt qua nhiều lớp rào kẽm gai, dùng mìn đánh nổ tung
kho xăng dầu và bon đạn địch. Hàng tấn đạn và hàng triệu lít xăng
tại đây bị nổ suốt 4 ngày liền. Những cuộc tiến công mùa xuân 1969
của quân dân miền Nam và quân dân Biên Hòa - Long Khánh nói
chung và Tiểu đoàn 2 đặc công U1 Biên Hòa nói riêng đã gây cho
địch nhiều thiệt hại, tạo thêm thế và lực cho ta đấu tranh với địch trên
bàn đàm phán.
Đêm 12/8/1972, Tiểu đoàn 2 - Đặc công U1 Biên Hòa cử 11 tổ bí
mật tiếp cận mục tiêu, tất cả các cửa kho đều bị ta phá khóa đặt thuốc
nổ trong các kho, sau đó từng tổ di chuyển ra khỏi kho an toàn và
xóa xong mọi dấu vết. 2 giờ 30 sáng 13/8/1972, từ kho Long Bình,
những tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cả khu vực hàng chục km2
sáng rực, những cụm khói lớn bao trùm cả khoảng không gian mênh
mông; tiếng còi báo động liên hồi rú lên inh ỏi; tiếng nổ kéo dài suốt
2 ngày đêm, làm chấn động cả thị xã Biên Hòa và thành phố Sài
Gòn. Các đội cứu hỏa của Mỹ hoàn toàn bất lực. Mãi đến 2 ngày
sau, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh vùng 3 chiến thuật
mới dám ngồi trực thăng thị sát cảnh đổ nát ngổn ngang và trơ trụi
của khu kho 534:800 ngàn tấn đạn, 1 triệu thùng đạn M-79, 600 tấn
mìn định hướng, 325 tấn thuốc nổ, 1 triệu lít xăng dầu hoàn toàn bị
phá hủy, gần 200 tên lính Mỹ gác kho bị tan xác. Trận tiến công kho
Long Bình lần này đánh làm thủng vào dạ dày quân Mỹ-ngụy. Trước
sự thiệt hại quá lớn này, Tư lệnh Quân đoàn 3 phải ra lệnh “tiết kiệm
bom pháo tối đa”, mỗi khẩu pháo trong toàn quân đoàn chỉ được
phép bắn 3 quả đạn/ngày.
Bị thất bại liên tiếp về mặt quân sự trên khắp các chiến trường
vào năm 1972, đặc biệt là bị thua đau trong chiến dịch 12 ngày đêm
dùng B.52 đánh phá thủ đô Hà Nội và các mục tiêu quan trọng khác
453

46.4 Page 454

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ở miền Bắc, Tổng thống Nixon buộc phải xuống thang chiến tranh,
ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam và rút hết quân Mỹ về nước.
Trải qua giai đoạn kháng chiến chống Mỹ (1965-1972), Tiểu đoàn
2 - Đặc công U1 Biên Hòa phá hủy hơn 345 kho chứa bom đạn;
587.114 quả đạn pháo các loại và rốc-két; trên 800 ngàn tấn đạn; 600
tấn mìn định hướng 325 tấn thuốc nổ; nhiều bồn xăng và phuy xăng,
dầu chứa hàng triệu lít nhiên liệu. Tiêu diệt trên 500 tên Mỹ; Nhiều
phương tiện vận tải, chiến tranh của Mỹ. Lực lượng đơn vị thương
vong khoảng hơn 200 đồng chí.
Với những thành tích trên, Tiểu đoàn 2, Đặc công U1 Biên Hòa
được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân chương
Quân công hạng Nhì; nhiều Huân chương Chiến công và bằng, giấy
khen, danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Đặc biệt, tháng 9/2014(2), Tiểu
đoàn 2, Đặc công U1 Biên Hòa được Nhà nước phong tặng danh hiệu
tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(2) Có tài liệu ghi: 2016.
454

46.5 Page 455

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Chi đội 10, tỉnh Biên Hòa
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công ở Sài Gòn - Gia
Định, mở đầu công cuộc xâm lược nước ta lần thứ 2.
Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn dân đoàn kết bảo vệ quốc gia” của
Xứ ủy, Ủy ban nhân dân Nam Bộ, nhân dân cùng các lực lượng vũ
trang ở Sài Gòn - Gia Định thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, bất hợp
tác với thực dân Pháp, “…nắm chắc vũ khí trong tay, xông lên đánh
đuổi thực dân Pháp cứu nước, cuộc kháng chiến bắt đầu”. Lúc này
trên địa bàn tỉnh Biên Hòa có 3 tổ chức vũ trang yêu nước là: Giải
phóng quân quận Châu Thành, Vệ quốc đoàn Long Thành, Vệ quốc
đoàn Biên Hòa(1).
Cuối tháng 4/1946, Hội nghị cán bộ Biên Hòa ở cù lao Vịt (Tân
Triều) ra quyết nghị về việc thống nhất lãnh đạo của Đảng với lực
lượng vũ trang. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ, Chỉ huy Vệ quốc đoàn
Biên Hòa, được cử làm Ủy viên quân sự tỉnh Biên Hòa.
Tháng 5/1946, đồng chí Huỳnh Văn Nghệ triệu tập Hội nghị Quân
sự tỉnh Biên Hòa tại Xóm Đèn (xã Tân Hòa). Hội nghị ra Nghị quyết
về 2 vấn đề: nhập Giải phóng quân quận Châu Thành với Vệ quốc
đoàn Biên Hòa thành đơn vị vũ trang thống nhất của tỉnh, lấy tên
là Vệ quốc đoàn Biên Hòa; xây dựng căn cứ kháng chiến lấy tên là
Chiến khu Đ.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
455

46.6 Page 456

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tháng 6/1946, Bộ Chỉ huy Khu 7 mở Hội nghị quân sự toàn khu.
Ngay trong tháng này, Vệ quốc đoàn Biên Hòa và Vệ quốc đoàn
quận Long Thành thống nhất lại, thành lập Chi đội 10 Biên Hòa.
Chi đội 10 Biên Hòa được tổ chức thành 3 đại đội phiên hiệu A,
B, C với quân số 1.100 người. Ban Chỉ huy Chi đội 10 gồm Chi đội
trưởng Huỳnh Văn Nghệ, Chi đội phó Huỳnh Văn Đạo. Sau đó, đồng
chí Đạo được Khu tăng cường về làm Chi đội trưởng Chi đội 16 Bà
Rịa; đồng chí Nguyễn Văn Lung từ Long Thành về làm Chi đội phó
Chi đội 10; đồng chí Cao Minh Căng là Chi đội phó. Chính trị viên
là Phan Đình Công.
Các Ban của chi đội 10 gồm: Ban Quản trị, Ban Quân nhu, Ban
Quân trang, Ban Quân y, Ban Sanh sản tự túc, Ban Trinh sát liên lạc
(sau đó đổi tên Chi quân báo), Binh công xưởng (của Khu 7), Kho
vũ khí, Văn phòng chi đội, Thư ký Ban Chỉ huy.
Những chiến sĩ của Chi đội 10 xuất thân từ nhiều thành phần: đại
đa số là nông dân, công nhân trong các đồn điền cao su, trong nhà
máy cưa BIF, một số nhà máy công nghiệp ở Sài Gòn, thanh niên
yêu nước từ các miền của đất nước tập hợp về; một số ít từng là công
chức Pháp, sĩ quan, binh lính Lê dương của Pháp, của Nhật đã giác
ngộ và tình nguyện tham gia chiến đấu với bộ đội Việt Minh
Chi đội 10 Biên Hòa thành lập trong điều kiện thực dân Pháp về
cơ bản đã kiểm soát các vùng đô thị, thị trấn, lấn chiếm nhiều vùng
nông thôn, trong đó xây dựng một số đồn bót ngay trong căn cứ
Chiến khu Đ, đồng thời nhiều thanh niên xuất thân nông dân, công
nhân, học sinh từ các vùng tạm chiếm thoát ly ra căn cứ xin gia nhập
bộ đội. Việc tiếp tế nuôi quân, việc nắm tình hình địch để bộ đội hoạt
động gặp nhiều khó khăn.
Để góp phần giải quyết những khó khăn trên, đồng chí Huỳnh
Văn Nghệ có sáng kiến xây dựng các quận quân sự, hoạt động trong
các vùng liên xã, có các nhiệm vụ: Tự xây dựng tổ chức, mỗi quận
hình thành một tiểu đội du kích tập trung trở lên. Ban đầu Chi đội cấp
cho mỗi quận quân sự từ 1 đến 3 khẩu súng trường, sau đó tự trang bị
456

46.7 Page 457

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
bằng súng cướp được của địch. Tổ chức ở mỗi xã 1 tiểu đội du kích
bán tập trung, khi cần mới tập trung, trang bị vũ khí tự tạo. Trinh sát
nắm tình hình địch, báo cáo cho Ban Chỉ huy chi đội; đảm đương
nhiệm vụ tổ chức địa bàn cho chi đội hoạt động đánh địch và cùng
chi đội chiến đấu. Vận động các viên chức hội tề, binh lính ngụy và
gia đình làm việc cho ta, trừng trị bọn tề ngụy, Việt gian ngoan cố,
phản động ác ôn. Tạm thời làm thay nhiệm vụ chính quyền ở cơ sở,
thu thuế trong nhân dân, tiếp nhận sự ủng hộ của nhân dân chuyển
về chi đội nuôi quân.
Ban Chỉ huy Chi đội 10 Biên Hòa bước đầu tổ chức được 9 quận
quân sự, sau này còn thành lập thêm quận quân sự 10.
Như vậy với việc xây dựng các quận quân sự, Ban Chỉ huy Chi
đội 10 Biên Hòa đã thể hiện tính chủ động sáng tạo trong hoạt động,
xây dựng được chân rết bên dưới cho chi đội hoạt động thuận lợi
hơn. Bước đầu, tỉnh Biên Hòa xây dựng được 3 hình thức vũ trang từ
tỉnh xuống quận, xã, tiền thân của 3 thứ quân sau này.
Chi đội 10 Biên Hòa hình thành cũng là lúc thực dân Pháp cơ
bản kiểm soát được vùng thị xã, thị trấn, xây dựng các bộ máy tề ở
huyện, xã, tổ chức hệ thống đồn bót cả ở đô thị, nông thôn và các
đồn điền cao su. Đơn vị đứng chân chiến đấu trên một chiến trường
rộng trên 11 ngàn km2, địa hình vừa có rừng núi, đồng bằng, đô thị,
sông rạch khá chằng chịt, với nhiều lộ giao thông quan trọng gồm cả
đường bộ, đường thủy và đường sắt.
So sánh tương quan lực lượng giữa thực dân Pháp và lực lượng
vũ trang kháng chiến ở Biên Hòa mà nòng cốt là Chi đội 10, rõ ràng
có sự chênh lệch về quân số. Tuy nhiên, hoạt động của Chi đội 10
có nhiều thuận lợi: cán bộ, chiến sĩ am hiểu địa thế chiến trường; sự
lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ; quần chúng nhân dân thông qua
các đoàn thể cách mạng đã ủng hộ nhiệt tình, đồng thời cũng là tai
mắt của kháng chiến. Ngoài căn cứ Chiến khu Đ, đơn vị còn có căn
cứ Rừng Sác ở vùng ngập mặn cận biển và một hệ thống những căn
cứ du kích áp sát thị xã Biên Hòa.
457

46.8 Page 458

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Điều quan trọng hơn, Ban chỉ huy chi đội bố trí được các đại đội,
trung đội đứng chân ở những vùng trọng điểm của tỉnh, trong đó đại
đội A chủ yếu ở khu vực căn cứ và quận Tân Uyên (hữu và tả ngạn
sông Đồng Nai); đại đội B (2 trung đội) đứng chân hoạt động khu
vực thị xã Biên Hòa (quận Châu Thành, quận Xuân Lộc, nơi địch có
nhiều cơ sở khai thác cao su, hệ thống giao thông quan trọng như lộ
1, lộ 20 đường 15, đường sắt); Đại đội C đứng chân ở khu vực quận
Long Thành án ngữ lộ 15 từ Biên Hòa đi Bà Rịa, tuyến sông Thị Vải,
Lòng Tàu nối với biển Đông, có kho bom đạn Thành Tuy Hạ. Thế
triển khai của chi đội còn mở rộng hơn nhờ tổ chức được các quận
quân sự, hình thành thế chân rết ở cơ sở hoạt động có hiệu quả.
Ngày 14/9/1946, Chính phủ ta ký với Pháp bản tạm ước. Quân
Pháp ở Biên Hòa rút một số đơn vị bộ binh đi chuẩn bị mở rộng
chiến tranh xâm lược ra cả nước; rút bỏ một số đồn bót chúng đóng
sâu trong căn cứ ta ở Tân Uyên, Long Thành. Vùng căn cứ kháng
chiến được khôi phục và mở rộng; bộ máy Đảng, Chính quyền được
củng cố. Các đội du kích ở quận và cơ sở tiến hành diệt ác ôn, trấn áp
tề điệp, làm chủ được xã ấp, việc xây dựng cơ sở kháng chiến phát
triển, hệ thống giao thông mở rộng, tạo điều kiện tiếp tế lương thực,
hàng tiêu dùng cho bộ đội.
Lúc này, Ban Chỉ huy Chi đội 10 Biên Hòa quyết định chuyển
các quận quân sự thành các ban công tác liên thôn, có đội du kích
tập trung, tiền thân của các quận đội dân quân sau này. Dưới các ban
công tác liên thôn là các ban công tác xã có du kích xã (tiền thân các
xã đội). Các ban công tác liên thôn là tổ chức quân sự giúp việc cho
Ủy ban hành chính quận, nhưng do Ban chỉ huy Chi đội 10 chỉ huy
và quyết định về kế hoạch hoạt động.
Đến cuối năm 1946, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa hình thành 3 hình
thức tổ chức vũ trang: các đại đội tập trung của chi đội; các đội du
kích tập trung của ban công tác liên thôn; du kích các xã - là cơ sở
để xây dựng 3 thứ quân ở địa phương sau này. Trong lúc đó, ở trong
thị xã, Ban Chỉ huy chi đội chuyển các tổ ám sát làm nhiệm vụ diệt
458

46.9 Page 459

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
trừ ác ôn thành các ban công tác thành - tiền thân của Đội biệt động
Biên Hòa sau này.
Trận tập kích đầu tiên của Chi đội 10 diễn ra vào đúng 2 giờ
sáng 1/1-1947. Ban công tác liên thôn đưa các chiến sĩ binh công
xưởng với khẩu cối 81 ly vừa chế tạo từ hướng Bửu Long vào Sở
Cải xây dựng trận địa. Cùng lúc Trung đội 5 từ bến đò An Hảo vượt
sông Đồng Nai vào ém quân ở khu vực Đài Kỷ niệm, đột nhập đốt
cháy phòng thông tin của địch ở chợ Biên Hòa và rải truyền đơn của
Việt Minh kêu gọi nhân dân nội thành tham gia ủng hộ kháng chiến.
Trung đội 1 phục kích ở khu vực chòm mã Ngã ba Dốc Sỏi chặn viện
binh Pháp từ sân bay ra. 15 quả đạn cối 81 ly đã bắn vào thành Kèn
của Pháp, gây nổ và tạo thành những cột lửa cao cháy sáng rực một
góc thành. Cùng lúc, phòng thông tin ở chợ Biên Hòa bị thiêu rụi,
trạm canh trước dinh tỉnh trưởng Biên Hòa bị tấn công và đốt cháy.
Nhân dân Biên Hòa vô cùng phấn khởi.
Trung tuần tháng 1/1947, Ban Chỉ huy Chi đội nhất trí chọn quốc
lộ 1 làm mục tiêu tiến công các đoàn xe giao thông địch, đặc biệt
đường sắt Bắc - Nam đoạn qua quận Xuân Lộc là mục tiêu chính.
Ngày 18/1/1947, thực dân Pháp với lực lượng khoảng 2 ngàn quân
tấn công vào Chiến khu Đ. Nhờ bố phòng và cảnh giác cao, đại đội
A phối hợp cùng các Ban công tác liên thôn ngăn chặn địch có hiệu
quả, tiêu diệt nhiều bộ binh địch, đặc biệt bãi cọc chống nhảy dù ở
khu vực trảng trống phát huy hiệu quả cao. Trận càn của Pháp bị bẻ
gãy, ta thu nhiều vũ khí, máy thông và nhiều vải dù của địch.
Ban Chỉ huy giao nhiệm vụ cho đại đội B nghiên cứu kết hợp
cùng Ban công tác liên thôn 9 và 10, thực hiện trận đánh, chọn đồn
Bình Lộc nằm trong đồn điền cao su Bình Lộc do 1 trung đội Lê
dương đóng giữ, có công sự kiên cố. Một đêm đầu tháng 2/1947,
Trung đội 4 và Trung đội 6 để lại 2 phân đội chặn viện bên ngoài, bí
mật vào tiếp cận bao vây đồn Bình Lộc. Toàn bộ bọn lính trong đồn
đều bị bất ngờ. Ta bắt sống toàn ban chỉ huy đồn, tên chủ sở đồn điền
và binh lính, thu toàn bộ súng. Toàn bộ địch đều được ta khoan hồng
459

46.10 Page 460

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
tha cho về nhà. Đồn Bình Lộc bị san bằng.
Trong trận đánh giao thông đường sắt Bảo Chánh diễn ra vào trưa
19/5/1947, lực lượng tham gia trận đánh gồm Đại đội B với 2 trung
đội 4 và 6 phối hợp cùng du kích 2 Ban công tác liên thôn 9 và 10.
Đoàn xe lửa của địch chạy vào trận địa phục kích. Quả địa lôi phát
nổ buộc đoàn xe dừng lại. Bộ đội ta từ cánh rừng 2 bên đường xe
lửa vận động ra chiếm các toa tàu. Bọn lính hộ tống trên các toa tàu
không kịp phản ứng, một số bị tiêu diệt, một số ôm súng chạy vào
rừng, chạy ngược về hướng Xuân Lộc, một số đầu hàng tại chỗ. Trận
ra quân đầu tiên ở Bảo Chánh thắng lợi hoàn toàn.
Ở trận Trảng Táo diễn ra vào tháng 6/1946, tham gia trận đánh
gồm Đại đội B và du kích 2 Ban công tác liên thôn 9 và 10. Khi đoàn
xe lửa vừa đến, địa lôi nổ các chiến sĩ từ 2 cánh rừng kéo mạnh dây
đã cột vào đường ray, nhưng các toa đè trên đường ray sức kéo không
đủ lực. Khi bánh xe của đầu toa sau vừa ra khỏi đầu nối đường ray,
các chiến sĩ dùng sức kéo mạnh, đường ray bật ra. 2 toa xe sau lọt
khỏi đường ray nhưng vẫn chạy thêm một đoạn nữa đến khúc cua
thì lật nhào, đoàn tàu phía trước vẫn chạy luôn về ga Gia Huynh. Bộ
đội ta truy kích theo, dùng lựu đạn đánh diệt toa tàu chở bọn lính hộ
tống. Toa còn lại, ta tịch thu 2 khẩu súng đại liên, 10 tấn gạo và nhiều
đồ hộp thịt, cá.
Trong trận đánh ở Bảo Chánh lần thứ 2, nắm được ý đồ của thực
dân, Ban Chỉ huy Chi đội 10 chỉ đạo chặn đánh đoàn tàu đi sau, bố
trí lực lượng ngăn chặn không cho đoàn tàu đi trước quay lại ứng
cứu. Để tạo bất ngờ cho địch, Ban Chỉ huy Chi đội cho bộ đội quay
lại bố trí trận địa ở Bảo Chánh, nơi đoàn xe địch bị ta đánh vào tháng
5-1947. Khi đoàn tàu lửa vào trận địa, đầu xe thứ nhất vừa qua, từ
điểm chỉ huy quan sát, đại đội trưởng đại đội B ra lệnh phát hỏa. Quả
địa lôi 50 cân Anh nổ lớn. Chiếc đầu máy xe lửa bị hất tung lên và
rơi xuống đất kéo theo một tiếng vang rất lớn. Bộ đội ta từ bìa rừng
vận động ra thì thấy đoàn tàu lửa đang chạy thục mạng về hướng Gia
Ray, còn đoàn tàu thứ 2 thì dừng lại cách trận địa trên 200 mét. Lúc
460

47 Pages 461-470

▲back to top


47.1 Page 461

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đó, ta mới phát hiện chiếc đầu máy bị nổ tung là đầu máy đẩy của
đoàn tàu đi trước. Bộ đội được lệnh vận động theo bìa rừng tiếp cận
tấn công đoàn tàu đi sau. Từ 2 bên ta-luy trên cao (cách đường ray
4-5 mét), hỏa lực ta bắn cấp tập vào 2 toa bọc thép hộ tống, để bộ đội
luồn dưới làn đạn xung phong lên các toa xe đánh địch. Bất ngờ, cả
đoàn xe địch chuyển động rồi chạy ngược về hướng Dầu Giây. Bộ
đội ta buộc phải nhảy xuống để rút vào rừng. Trong trận này, ta chỉ
diệt được 1 đầu máy xe lửa, chiến lợi phẩm thu được không nhiều.
Trận đánh ở Bàu Cá diễn ra vào ngày 14/7/1947 đúng ngày Quốc
khánh nước Pháp (14/7), gây tiếng vang chính trị rất lớn. Binh công
xưởng Chi đội 10 chế tạo từ 2 quả bom 50 cân Anh thành 2 quả địa
lôi kích nổ bằng điện để phục vụ trận đánh. Lực lượng ta bố trí 2 trận
địa A và B trên tuyến đường đường sắt đoạn Bàu Cá. 12 giờ trưa,
đoàn tàu thứ nhất lọt vào trận địa A. Quả địa lôi nổ tiêu diệt đầu máy
tàu. Bộ đội ta xung phong, nổ súng tiêu diệt 200 tên bao gồm bọn
lính hộ tống (có 1 đại úy chỉ huy) và lính tăng viện ra chiến trường
Trung, Bắc; thu được 1 khẩu trung liên, 14 tiểu liên, 40 súng trường,
5 súng ngắn và 3 máy truyền tin vô tuyến, cùng nhiều lương thực
thực phẩm. Ở mặt trận B, đoàn tàu thứ 2 chưa vào trận địa nhưng
nghe tiếng nổ nên dừng lại và chạy ngược về hướng Trảng Bom.
Trong trận phục kích giao thông La Ngà (1/3/1948) Ban Chỉ huy
trận đánh gồm: Nguyễn Văn Lung, Chi đội phó Chi đội 10 làm Chỉ
huy trưởng, Đinh Quang Ân, Lê Văn Ngọc, Hoàng Minh Chánh Chỉ
huy phó, Võ Cương chính trị viên.
Trước đó, vào cuối tháng 11/1947, Đại đội B xây dựng 1 phân đội
trinh sát đặc biệt, lấy chiến sĩ của Ban công tác liên thôn 9 trước đây
làm nòng cốt. Đầu tháng 1/-1947, phân đội lên đường xuyên rừng,
vượt suối đi La Ngà bám sát đoạn đường quốc lộ 20, quan sát, ghi
chép từng chuyến xe, từng đoàn xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt và từ Đà
Lạt trở về Sài Gòn để điều nghiên trận địa. Qua đó, phân đội trinh
sát đặc biệt phát hiện 20 hécta lúa của đồng bào dân tộc làm nhưng
chưa thu hoạch do thực dân Pháp đã gom dân đi. Phân đội tuyển
461

47.2 Page 462

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chọn thêm 19 thanh niên địa phương tình nguyện tham gia lực lượng
ra sức chăm sóc, thu hoạch 20 hécta lúa, đóng cối giã lúa, dần sàng
thành gạo đưa vào kho dự trữ. Lượng gạo đủ cho khoảng 1.000 quân
dùng trong 1 tuần lễ được bố trí ở ven suối Sa Sả và vàm ngã ba sông
La Ngà - Đồng Nai. Về lương thực, các chiến sĩ đánh bắt rất nhiều cá
ướp muối phơi khô gần 500kg; xẻ thịt 6 con trâu, cắt khúc luộc nước
muối phơi khô; hàng chục thùng phuy nước được bố trí cặp những
con đường bí mật cho bộ đội dùng... Vấn đề lương thực cho Chi đội
cơ bản được giải quyết. Bên cạnh đó, chính quyền và Mặt trận Việt
Minh huyện Xuân Lộc cũng cử cán bộ vào các sở cao su Bình Lộc,
Túc Trưng vận động công nhân cao su ủng hộ kháng chiến…
Sau khi giải quyết được vấn đề lương thực, hậu cần và nắm quy
luật của địch trên quốc lộ 20, Ban Chỉ huy đề ra kế hoạch tác chiến,
trong đó quyết định lực lượng tham gia trận phục kích gồm có: Ban
Chỉ huy Chi đội 10 và cơ quan chỉ huy tất cả 27 đồng chí; huy động
quân số gồm 2 đại đội của Chi đội 10 với 360 chiến sĩ; 3 trung đội
của Liên quân 17 gồm 154 chiến sĩ. Địa điểm phục kích được chọn
tại quãng đường La Ngà - Định Quán, từ cây số 104 đến cây số 113,
bố trí làm ba trận địa C, B, A nối tiếp nhau…
Để thực hiện kế hoạch này, Ban Chỉ huy chi đội giao nhiệm vụ
cho trung đội 5 (Đại đội B) phối hợp cùng du kích và dân quân 2
quận Châu Thành và Xuân Lộc triển khai nhiệm vụ phá và ngăn
đường từ đoạn Hố Nai (quốc lộ 1) lên ngã ba Dầu Giây và từ Dầu
Giây ngược lên theo quốc lộ 20 bằng cách đào đường, đắp vật cản,
chặt cây mở miệng sẵn khi đoàn xe đến thì ngã đổ ra đường; bố trí
du kích bắn tỉa quấy rối tiêu hao, bắt đoàn xe địch phải dừng nhiều
lần để giải tỏa chướng ngại vật trên đường dẫn đường, tinh thần căng
thẳng đồng thời buộc đoàn xe địch đến La Ngà phải chậm từ 2 đến
3 giờ đồng hồ.
Ngày 26/2/1948, Chi đội 10 và Liên quân 17 hành quân xuất
phát từ Chiến khu Đ vượt sông Đồng Nai để tiến về hướng quốc
lộ 20. Các chiến sĩ thuộc phân đội trinh sát đặc biệt sau khi hoàn
462

47.3 Page 463

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thành nhiệm vụ thì chuẩn bị hậu cần cho trận đánh, trở thành
những chiến sĩ trinh sát dẫn đường cho các lực lượng về vị trí tập
kết. Phân đội mở các con đường bí mật, hoặc bẻ cò các cây ven
đường cho bộ đội hành quân. Những đoạn đường rừng, sình lầy
chiến sĩ đi qua, các chiến sĩ phân đội đặc biệt là người đi sau cùng
phải xóa dấu vết không cho địch phát hiện.
Ngày 29/2, Chi đội 10 và Liên quân 17 đã chiếm lĩnh trận địa đảm
bảo an toàn và bí mật trên 3 mặt trận A, B, C. Các chiến sĩ tổ chức
đào công sự chiến đấu. Chiến sĩ thông tin thì hối hả rải hàng chục
ngàn mét dây điện thoại, xuyên rừng rậm nối liền chỉ huy sở với các
trận địa. Các chiến sĩ binh công xưởng đưa những quả địa lôi chôn ở
3 trận địa. Lợi dụng đặc điểm của quãng đường là các đàn voi thường
qua lại để lại những bãi phân lớn, thế là các chiến sĩ chôn địa lôi xong
lấy ngay phân voi đắp lên trên để ngụy trang. Đặc biệt địa lôi ở trận
địa A là rất quan trọng vì là quả địa lôi khóa đầu chặn đứng cả đoàn
xe địch, đồng thời là tiếng nổ phát lệnh tấn công địch. Đồng chí Bùi
Cát Vũ, Giám đốc binh công xưởng và công nhân kỹ thuật trực tiếp
đi kiểm tra từng quả một, từ cách lắp kíp nổ, đến cách đặt, cách chôn,
quyết tâm giật quả nào chắc nổ quả ấy.
Đến tối 29/2 rạng sáng 1/3/1948, mọi kế hoạch chuẩn bị, bố trí
chiến trường của Chi đội 10 trên 3 mặt trận đều đã hoàn thành, sẵn
sàng chiến đấu khi có lệnh.
Cùng trong đêm 29/2/1948, đội du kích tập trung huyện Châu
Thành mang cuốc, xẻng, dao, súng lên quốc lộ 1 quãng từ Hố Nai
lên ngã ba Dầu Giây. Du kích huyện Xuân Lộc phụ trách đoạn từ
Dầu Giây trở lên quốc lộ 20. Các chiến sĩ mở miệng cây ven đường
từng đoạn một, sau đó cho ngã lăn ra đường khi đoàn xe địch sắp
đến, đắp các mô kết hợp chà cây trên đường; bố trí đội hình bắn tỉa
quấy rối địch...
Đúng như tin tình báo từ trong nội thành cung cấp, đoàn xe gồm
69 chiếc chở nhiều sĩ quan cấp cao cùng các nhà tư sản ở Sài Gòn,
khởi hành từ 5 giờ sáng đi Đà Lạt và qua Biên Hòa. Đoàn xe địch
463

47.4 Page 464

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
vượt cầu Gành, cầu Rạch Cát, dừng nghỉ khoảng 10 phút ở ngã ba
Kỷ niệm sau đó xuất phát rời thị xã Biên Hòa. Khi đến Hố Nai, đoàn
xe phải dừng nhiều lần để cho bọn lính hộ tống lắp hố thông đường,
cột dây kéo những đoạn cây lăn trên đường, dò mìn xem Việt Minh
có ngụy trang trong những chòm cây không, quay lại đối phó với
du kích bắn tỉa vào các xe đi đoạn cuối... Liên tục phải đối phó với
chướng ngại trên đường, với du kích bắn tỉa, quấy rối, bọn địch trong
đoàn xe rất bực bội, căng thẳng thần kinh, mệt mỏi vì không thể đảm
bảo thời gian như đã định.
Mãi đến quá trưa 1/3, đoàn xe địch mới bắt đầu đến ngã ba Dầu
Giây rẽ sang quốc lộ 20. Gần 15 giờ, chiếc thiết giáp đi đầu mới tới
La Ngà. Đoàn xe dừng lại để viên chỉ huy đoàn xe vào cứ điểm La
Ngà hỏi tình hình, đồng thời điện cho đại tá Talès, chỉ huy khu vực
Đồng Nai Thượng đề nghị cho đoàn xe nghỉ lại ở La Ngà vì trời
chiều không thể đến Đà Lạt trước khi trời tối. Talès trả lời rất dứt
khoát: “Không được, phải tiếp tục đi ngay, đây là khu vực đã bình
định rồi”. Tên chỉ huy đoàn xe vẫn nghi ngờ, điện xin cho quân hộ
tống từ Đà Lạt xuống đón đoàn. Lần này Talès quát lên: “Đi ngay!”.
Cả đoàn xe lại chuyển bánh.
Trên đường đi, bọn lính hộ tống không ngừng bắn ầm ầm 2 bên
đường, nhất là ở những đoạn đường quanh co, khúc khuỷu nhằm trấn
tĩnh tinh thần bọn sĩ quan và hành khách đi trong đoàn. Bọn địch
không ngờ những phát đạn loạn xạ của chúng lại báo hiệu cho ta biết
trước để chuẩn bị chiến đấu.
15 giờ 2 phút, trận địa C báo cáo về chỉ huy sở: 3 xe chở lính hộ
tống khoảng hơn 1 trung đội, rồi đến một tốp 11 chiếc khác vừa xe
quân sự vừa 1 ô tô buýt chở hành khách. Tốc độ đoàn xe 30km/giờ,
khoảng cách các xe trên dưới 100 mét. Chưa có triệu chứng gì tỏ ra
địch đã biết có quân phục kích. Chúng bắn rất bừa bãi... bộ đội ta vẫn
ẩn nấp kín đáo.
Trận địa B kế tiếp báo cáo: địch đang tiến qua trận địa B. Trong xe
jeep có nhiều sĩ quan, đã trông thấy 1 đại tá và 1 tên thiếu tá.
464

47.5 Page 465

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Địch tiến vào trận địa, đoàn xe uốn mình tiến lên trườn qua những
cung đường quanh co, khúc khuỷu, bụi cuốn mù mịt.
15 giờ 12 phút, Ban chỉ huy ra lệnh, những quả địa lôi ở trận địa
A phát nổ làm chấn động cả núi rừng. Chiếc thiết giáp đi đầu đang
xuống dốc đoạn cua quẹo bị địa lôi hất bổng lên khỏi mặt đất, lao
thêm khoảng 10m nữa rồi nằm bẹp dí trên đường. Trong 3 chiếc xe
chở lính đi sau thì có 2 chiếc trúng địa lôi ngã lật nhào, nhiều lính
chết trong đó có tên chỉ huy đoàn xe và tên phụ trách máy thông tin.
15 giờ 14, địa lôi trận địa C nổ. Núi rừng như chuyển mình. Tiếng
bộ đội ta hô “xung phong”, làm bọn địch đang mệt mỏi thêm khiếp
vía kinh hồn, vứt súng đạn, xô đẩy nhau nhảy ra khỏi xe chạy dạt
sang phía đông quốc lộ 20, phần lớn bị hỏa lực ta bắn hạ.
Ở trận địa A, xe địch ngã đổ ngổn ngang. Bộ đội ta nổ súng và xung
phong mãnh liệt, địch hoàn toàn bị tê liệt không kịp phản ứng, nhiều
tên đưa tay đầu hàng. Trong số địch bị chết có nhiều sĩ quan: Đại tá
De Sérigné, Chỉ huy bán lữ đoàn Lê dương thứ 13 (13è DBLE); đại
tá Patruit, Phó tổng tham mưu trưởng thứ nhất của quân Pháp ở Nam
Đông Dương; thiếu tá chỉ huy khu vực quân sự Hóc Môn; đại úy
Jean Couvreur, Trưởng phòng xe hơi trong Bộ Tổng tham mưu quân
đội Pháp ở Đông Dương...
Ở trận địa B, bộ đội ta xung phong, tập trung hỏa lực bắn vào 4 xe
chở lính hộ tống, dùng đạn lửa bắn vào các xe vận tải quân sự. Bọn
địch rối loạn hàng ngũ không kịp chống trả, 28 xe địch bị diệt gọn
trong vòng 5 phút, 56 tên địch chết.
Ở trận địa C, bộ đội ta xung phong chiếm được 3 xe chở lính, 13
xe vận tải quân sự. Tốp đi sau cùng của đoàn xe nổ súng bắn trả khá
quyết liệt, kết quả 31 tên lính chết trên mặt đường nhưng một số xe
quay đầu chạy ngược về La Ngà.
Đến 15 giờ 57, trận đánh kết thúc, đoạn đường dài hơn 10km trên
quốc lộ 20 lửa khói vẫn còn bốc cao, thỉnh thoảng vang lên những
tiếng nổ lớn phát ra từ các xe quân sự của địch bị cháy, từ những
bánh xe bị cháy nổ.
465

47.6 Page 466

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Gần 17 giờ, 3 chiếc máy bay của Pháp lên ứng cứu, nhưng do trận
địa trải dài, địch cũng không làm gì được, chỉ gầm rú hòng uy hiếp
ta, hơn nữa chúng còn bị thu hút vào các trận địa giả (ta đốt những
đống lửa lớn) ở phía Đông Quốc lộ 20. Máy bay địch chỉ bắn loạn xạ
một lúc thì quay đầu rút ngay.
Nửa đêm, viện binh địch từ Đà Lạt xuống và từ Sài Gòn, Biên
Hòa lên đến được khu vực La Ngà. Chiến trường còn loang mùi
thuốc súng, khói lửa với 59 xác xe quân sự cháy trơ khung sắt và 150
xác địch chết ngổn ngang trên đường.
Kết quả trận phục kích giao thông La Ngà, Chi đội 10 phá hủy
59/70 chiếc xe quân sự Pháp; diệt 150 lính Pháp, 25 sĩ quan Pháp
trong đó có 1 đại úy, 1 thiếu tá, 2 đại tá. Bộ Tư lệnh Quân đội nhân
dân Việt Nam đã gửi điện khen và tặng thưởng Huân chương Quân
công hạng Nhì cho Chi đội 10 trong trận thắng La Ngà.
Ngay sau khi trận đánh kết thúc, bộ đội ta rút về tập trung ở khu
vực Suối Cát; cùng đi có 270 tù binh và hành khách đi cùng đoàn xe.
Một số binh lính địch bị thương không đi được và khoảng 50 thường
dân đa số là người già, trẻ em, người tu hành... Ban Chỉ huy cho tập
trung về chỉ huy sở, tất cả được cấp cơm vắt, cá khô, nước uống và
chăm sóc vết thương. Sau khi được giải thích về chủ trương chính
sách của Chính phủ, Việt Minh, ta cho phóng thích 50 người này về
trước. Đồng thời thông qua số người này loan tin cho người dân ở
Sài Gòn biết tất cả những thường dân cùng đi trong đoàn xe và một
số binh lính Pháp bị bắt sẽ được Việt Minh cho trở về nhà.
Thật cảm động khi diễn ra cuộc chia tay giữa hành khách và bộ
đội, một dì Phước tháo xâu chuỗi thánh giá của mình choàng lên cổ
trung đội trưởng Lê Ngọc Sinh, chắp tay lẩm bẩm: “Cầu Chúa ban
phước lành cho chiến sĩ Việt Nam”. Chính tư cách người chiến sĩ
cách mạng, với địch thì chiến đấu kiên cường, nhưng với nhân dân
thì chân tình thân ái cảm hóa được nhân dân, cả đối với những người
tu hành vốn xa lạ với kháng chiến.
Đêm 1/3/1948, trong số 219 người thành viên đoàn xe được bộ
466

47.7 Page 467

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đội đưa về Suối Cát, người Việt, Ấn Độ, Hoa, Pháp đều có cả, trong
đó có một số trí thức người Pháp, một số thanh niên nam nữ, sinh
viên học sinh trong nội thành. Trong ánh lửa bập bùng giữa rừng đại
ngàn, bộ đội, cán bộ quân y, cấp dưỡng đến thăm hỏi từng người một,
cung cấp lương thực, nước uống. Người dân nội thành đặc biệt lớp
trẻ lần đầu tiên tiếp xúc với thiên nhiên hùng vĩ, tiếp xúc với những
bộ đội kháng chiến hiền lành, chân thực thực sự khâm phục thái độ
ân cần của cán bộ, chiến sĩ ta. Một số thanh niên trong thành bất ngờ
gặp lại những người bạn học xưa xếp bút nghiên lên đường chiến
đấu ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, nay
trở thành những cán bộ chỉ huy, những chiến sĩ kiên cường, rắn rỏi.
Chuyện kháng chiến làm cho bà con thêm khâm phục ý chí và nhân
cách người chiến sĩ cách mạng.
Ban Chỉ huy Chi đội 10 định tổ chức buổi chia tay liên hoan
văn nghệ, nhưng nhận được tin quân Pháp đang chuẩn bị phản
kích và văng vẳng đã nghe tiếng súng của chúng từ hướng quốc lộ
20. Buổi liên hoan không thành. Cuộc chia tay giữa bộ đội Chi đội
10 và bà con ngay bờ sông Đồng Nai - nơi chiến sĩ gọi là bến Tâm
giao thật bịn rịn. Nắm cơm, cá khô, phần ăn của bộ đội nhường
cho bà con hành khách không chỉ là lương thực, mà trở thành món
quà có ý nghĩa trước lúc đoàn hành khách qua sông trở lại quốc
lộ 20 về Sài Gòn.
Sáng sớm 2/3/1948, hàng loạt tờ báo tiếng Việt xuất bản ở nội
thành đều đưa tin về trận đánh thắng La Ngà với những hàng tít lớn:
“Một trận phục kích lớn lao chưa từng có!”, “90% đoàn xe có lính hộ
tống bị Việt quân hủy diệt”, “Đại tá De Sérigné chỉ huy bán lữ đoàn
Lê dương thứ 13 tử trận”, “150 binh sĩ thiệt mạng, trong đó có một
số mất tích”...
Từ đại lộ đến ngõ hẻm, bến xe, tiệm cà phê, hủ tíu, chợ, nhà hàng
đâu đâu người dân cũng bàn tán trao đổi về trận La Ngà với lòng
khâm phục. Các chủ hãng xe đò ở Sài Gòn đều bảo nhau không nên
cho xe khách đi cùng các đoàn xe quân sự Pháp kẻo bị “họa lây” như
467

47.8 Page 468

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ở La Ngà. Phòng thông tin Sài Gòn chật ních người, đa phần là giới
tư bản, người Pháp đến nghe ngóng về số phận thân nhân họ có trong
số 150 sĩ quan, binh lính chết trận La Ngà hay không.
Từ khi trở lại xâm lược nước ta đến thời điểm 1948, có lẽ thực
dân Pháp chưa từng bị thua đau như ở trận La Ngà ngày 1/3/1948.
Bọn Pháp ở Sài Gòn trong các bản tin, báo cáo của mình về chính
quốc vẫn cố tình bưng bít thất bại này. Thế nhưng, chết trong trận La
Ngà lại có Đại tá De Sérigné, thuộc dòng dõi quý tộc Pháp, nên được
thực dân tổ chức lễ tang theo nghi thức long trọng nhất tại nhà thờ
Đức Bà Sài Gòn và xác được đưa về Pháp bằng máy bay. Ngay sau
đó, nhiều câu hỏi đặt ra với Quốc hội nước Pháp rằng cần xem xét
lại báo cáo của những tên tướng chỉ huy ở Nam Bộ: vì sao đã tuyên
bố bình định xong Nam kỳ, lại có thể xảy ra trận thua đau ở La Ngà?
De La Tour, chỉ huy quân Pháp ở Nam Bộ (1947-1949) cho điều tra
sự thật, quy tội cho Đại tá Tales tại sao không cho quân tăng cường
sớm từ Đà Lạt để cả đoàn xe bị tiêu diệt. Quá lo sợ trách nhiệm, Đại
tá Tales đã tự sát.
Trong trận La Ngà, trung úy người Pháp Joeffrey bị thương ở
chân, thay vì phải cưa chân thì quân y Chi đội 10, trực tiếp là bác
sĩ Võ Cương đã chăm sóc, điều trị giữ cho hắn nguyên lành. Vợ và
con của viên trung úy này được ta phóng thích đầu tiên cùng 50 hành
khách về Sài Gòn trước đó. Và vài tháng sau, Ban Chỉ huy Chi đội
10 cử nữ y tá Lương Ngọc Tương cùng cán bộ quân y trao trả trung
úy Jorffrey tại chi khu Cây Đào (huyện Vĩnh Cửu). Cả vợ chồng viên
trung úy trước sự chăm sóc chu đáo và tinh thần nhân đạo của bộ đội
Việt Minh không chỉ nhận ra chính nghĩa của quân kháng chiến, mà
còn lớn tiếng phê phán cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Vợ của viên trung úy Jorffrey nói: “Từ trước tôi chỉ biết về quân
đội Việt Nam qua các tờ báo Caravelle và báo Sài Gòn (Journal de
Saigon). Nhưng nay tôi mới thấy rõ sự thật. Chính chồng tôi cũng đã
nói với tôi: “Anh không có cảm tưởng rằng mình là một tù binh, họ
cứu chữa cho anh rất tận tâm, như đối với người bạn thân của họ; họ
rất nhân đạo và yêu chuộng hòa bình”.
468

47.9 Page 469

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Còn nhà báo Raoul Miche, cựu chủ bút tờ báo Bạn Dân (Ami du
peuple) người “chết hụt” trong trận La Ngà, khi trở về Sài Gòn, được
bạn bè hỏi đã tuyên bố: “Chúng mình cần nói đúng sự thật, mà sự
khác hẳn những gì chúng ta đã từng viết”.
Phát biểu của 2 chứng nhân sống sau trận đánh La Ngà không
phải ngẫu nhiên. Đó chính là phát biểu phản ánh kết quả thực tế mà
họ đã nhìn, đã chứng kiến tận mắt hành động anh dũng, quả cảm và
tinh thần nhân đạo, kỷ luật chiến trường của bộ đội ta trong trận La
Ngà. Phát biểu khẳng định của những nhân chứng người Pháp có sức
mạnh cảm hóa tư tưởng binh lính Pháp còn hơn cả súng đạn.
Trong một trận đánh ở Đồng Lách (Vĩnh Cửu) tháng 8/1948, 14
lính Lê dương Pháp đã ra hàng tại trận, vì không muốn chết cho
cuộc chiến phi nghĩa của Pháp và tin vào lòng nhân đạo của kháng
chiến. Tháng 8/1948, 2 lính Pháp ở bót Rạch Đông (Vĩnh Cửu) ban
đêm đã vượt sông Đồng Nai mang theo một khẩu súng đại liên, một
súng trung liên sang Chiến khu Đ xin hàng. Họ nói: “Chúng tôi chán
ghét chiến tranh, muốn ra hàng nhưng sợ bị giết. Nay, qua việc quân
Việt Minh thả người bị bắt ở La Ngà, chúng tôi biết Việt Mình rất
nhân đạo không như bọn chỉ huy quân Pháp nói láo, nên có điều kiện
chúng tôi ra hàng”.
Trong cuộc họp quân sự toàn Khu 7 ngày 28/3/1948, Bộ Tư lệnh
Khu đã đánh giá: “Đánh trận La Ngà ta đã thắng lợi cả về quân sự
lẫn chính trị, thắng lợi về quân sự là lớn, nhưng thắng lợi về chính
trị còn lớn hơn. Các chiến sĩ La Ngà không những đã anh dũng đánh
giặc mà còn biết làm công tác tuyên truyền rất khéo léo. Bằng những
hành động thực tế của mình đã làm cho nhân dân tin tưởng, quý mến,
kẻ thủ phải khiếp sợ và khâm phục. Trận La Ngà chứng tỏ bộ đội
Khu 7 nói chung, bộ đội Biên Hòa nói riêng có bước trưởng thành
về nhiều mặt”.
Đêm 2/3/1948, tại Suối Cát (Xuân Lộc) khi chia tay tiễn đoàn
hành khách trở về Sài Gòn, Chi đội phó Nguyễn Văn Lung, người
trực tiếp chỉ huy trận phục kích La Ngà, lệnh cho các chiến sĩ chi
469

47.10 Page 470

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đội nhanh chóng lên đường hành quân vượt sông, vượt rừng nhanh
chóng trở về Chiến khu Đ. Với quyết tâm cao nhất, dù còn đang mỏi
mệt sau trận đánh nhưng tốc độ hành quân của lực lượng rất cao.
Nếu khi đi, đoạn đường từ Chiến khu Đ đến La Ngà mất 3 ngày, thì
khi hành quân ngược lại đơn vị chỉ mất 2 ngày đêm. Thực dân Pháp
không thể ngờ tốc độ hành quân của bộ đội ta nhanh đến thế, vậy là
cuộc truy kích của địch không thành.
8 giờ 30 sáng 5/3/1948, thực dân Pháp cho 3 máy bay khu trục lên
quần đảo bắn phá vào Chiến khu Đ, sau đó 5 chiếc máy bay vận tải
thả quân nhảy dù xuống Đất Cuốc. Đồng thời, địch cho 1 ngàn bộ
binh từ nhiều hướng có tàu chiến trên sông, và xe cơ giới trên bộ bao
vây tấn công vào Chiến khu Đ.
Nhờ có chuẩn bị trước, trung đội còn lại của đại đội A chủ động
phân tán, phối hợp với dân quân du kích các xã và cơ quan trong căn
cứ đánh tỉa, thu hút địch, tạo điều kiện cho lực lượng mới trở về có
thêm thời gian dưỡng sức, bố trí đội hình đánh địch.
Trong 2 ngày 5 và 6/3, địch lùng sục nhưng không gặp sự chống
trả lớn, lại bị dân quân du kích bắn tỉa diệt trên 60 tên. Mờ sáng
7/3, bộ đội ta bắt đầu mở các trận tập kích vào bọn địch. Tại dốc
Bà Nghiêm (xã Tân Hòa), trung đội 7 của Đại đội C diệt 20 tên, thu
nhiều vũ khí và quân trang quân dụng. Địch cứ lùng sục, nhưng quân
ta khi phân tán, lúc tập trung, khi ẩn khi hiện, buộc chúng phải căng
thẳng đối phó, số binh lính bị diệt, bị thương ngày một nhiều.
Sau 8 ngày càn vào Chiến khu Đ, quân Pháp chết và bị thương
trên 100 tên, phải rút lui. Không tiêu diệt được lực lượng kháng
chiến, quân Pháp bắn giết 20 thường dân vô tội, trong đó có 7 phụ nữ
và 3 trẻ em. Chúng đốt sạch nhà dân, giết hơn 100 trâu bò và đốt 500
giạ lúa của dân cùng trụ sở các cơ quan.
Thật ra ý đồ chính của bọn chỉ huy quân Pháp ở Nam Bộ khi càn
vào Chiến khu Đ còn nhằm đánh lạc hướng dư luận, đặc biệt là dư
luận trong Quốc hội và Chính phủ Pháp sau trận La Ngà khi Bộ Tổng
Tham mưu quân viễn chinh Pháp ra thông báo: đang truy kích ráo
470

48 Pages 471-480

▲back to top


48.1 Page 471

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
riết gây thiệt hại cho Việt Minh. Thậm chí chúng trắng trợn còn báo
cáo sai sự thật: đã giải thoát được một số quân lính Pháp và thường
dân bị bắt trong trận La Ngà…
Có thể thấy, điểm nổi bật của Chi đội 10 Biên Hòa là hầu hết cán
bộ chỉ huy từ chi đội đến đại đội, trung đội, phân đội từ đầu chưa
từng được học tập trong một trường quân sự nào có tính chất chính
quy. Họ trưởng thành bởi lòng yêu nước, quyết tâm kháng chiến,
thông qua việc xác định đặc điểm chiến trường, thông qua thực tiễn
chiến đấu trên chiến trường và thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng
bộ, Bộ Tư lệnh Khu 7 giao cho.
Ban Chỉ huy Chi đội 10 có nhiều ý tưởng sáng tạo độc đáo trong
tổ chức lực lượng và chỉ huy chiến đấu. Chỉ hơn 4 tháng sau khi thực
dân Pháp quay lại đánh chiếm Nam Bộ, kiểm soát các đô thị, thị xã,
thị trấn, bộ đội Biên Hòa cùng các lực lượng vũ trang bạn đã tổ chức
tập kích vào trung tâm tỉnh lỵ Biên Hòa, nơi đặt nhiều cơ quan chỉ
huy của Pháp ở miền Đông Nam Bộ, quả là một ý tưởng táo bạo, một
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng.
Chi đội 10 Biên Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ là bộ đội chủ lực
Khu 7, nòng cốt cho phong trào du kích chiến tranh ở địa phương.
Với những thành tích trên, Chi đội 10 đã được Nhà nước phong
tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào
tháng 9/2014.
471

48.2 Page 472

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội cối huyện Xuân Lộc
Do yêu cầu cấp bách cần phát triển về hỏa lực để yểm trợ cho bộ
binh, Đội cối Xuân Lộc(1) được thành lập sau Mậu Thân năm 1968.
Đây là một trong những đơn vị hỏa lực nữ chiến đấu đầu tiên ở miền
Đông Nam Bộ; phối hợp, độc lập tác chiến tiêu diệt nhiều kho tàng,
trận địa, căn cứ, phương tiện chiến tranh, sinh lực địch trên địa bàn
đứng chân.
Hình thành từ Trung đội trợ chiến của huyện, năm 1969 đội thành
lập chi bộ Đảng và chính thức đi vào hoạt động, ban đầu có 13 đồng
chí, với biên chế gồm 2 khẩu cối 82 ly và 2 khẩu cối 60 ly, có nhiệm
vụ đảm bảo chiến đấu độc lập và hợp đồng tác chiến với bộ binh.
Nhân sự và vũ khí ít ỏi nhưng ngay từ khi mới thành lập đội đã chiến
đấu 16 trận, tiêu diệt 14 tên lính Mỹ, 73 tên lính quân đội Sài Gòn,
phá hủy làm hư hại 1 dãy nhà, 2 đại liên, thu 2 máy PRC 25, đẩy lùi
1 trận càn của 1 đại đội lính quân đội Sài Gòn.
Năm 1970, địch tung lực lượng càn quét đánh phá khắp nơi trên
địa bàn huyện. Đơn vị được lệnh phối hợp cùng các đơn vị bộ đội địa
phương bẻ gãy âm mưu tâm lý chiến và trực tiếp đánh bại các đợt càn
của địch; kết quả đã đánh 19 trận, tiêu diệt 100 tên Mỹ, 87 tên lính
Sài Gòn, làm thiệt hại 2 dãy nhà, hư 2 lô cốt, 1 pháo 175mm, 1 pháo
105mm, 1 đại liên, 1 đầu máy và 2 toa xe lửa, đẩy lùi 1 đại đội địch.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
472

48.3 Page 473

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Với những chiến công vang dội trên tất cả các đồng chí trong đơn vị
đều được công nhận là Dũng sĩ diệt Mỹ.
Năm 1971, một phần huyện Xuân Lộc chia tách thành thị xã Long
Khánh và sát nhập phần còn lại của huyện Xuân Lộc vào huyện Định
Quán thành lập huyện Xuân Lộc - Định Quán. Đơn vị củng cố lại tổ
chức, biên chế, sau đó tiếp tục hoạt động. Với đặc điểm chiến đấu ở
địa bàn rộng hơn, thời gian di chuyển đơn vị nhiều và phức tạp hơn,
nhưng bằng mọi biện pháp, ý chí quật cường, đơn vị đã cố gắng nỗ
lực đảm bảo được yêu cần yểm trợ cho bộ binh chiến đấu. Trong năm
này, đơn vị đánh được 9 trận, diệt 81 tên trong đó có 4 tên lính Mỹ,
làm thiệt hại 3 dãy nhà, 2 khẩu pháo 155 ly và 1 máy bay trực thăng.
Tiêu biểu là trận đánh ngày 1/11/1971. Trên đường từ căn cứ 12
thuộc huyện Định Quán hành quân về Túc Trưng, đến đoạn núi Tùng
Còn thì đội bị máy bay trực thăng địch phát hiện. Chúng quần đảo,
bắn xối xả vào đội hình. Lúc này đồng chí Thu bị thương nặng, trước
diễn biến đầy cam go đồng chí Thu đã nói: “Chị em nhanh chóng đi
đi, tôi không thể sống được đâu, đừng vì tôi mà hy sinh cả đơn vị,
hãy bỏ tôi lại đây”. Lúc này, đồng chí đội trưởng lệnh cho toàn đơn
vị thay nhau cõng đồng chí Thu chạy vượt ra ngoài làn đạn, còn lại
một mình mưu trí dũng cảm lợi dụng địa hình, địa vật ngắm bắn máy
bay địch. Kết quả một máy bay trực thăng bốc cháy rớt xuống bên
kia núi, 4 tên Mỹ ngồi trên máy bay đều chết.
Năm 1972, đơn vị chiến đấu được 18 trận, diệt 148 tên ngụy, phá
hư 1 dãy nhà, 1 súng cối, 2 lô cốt, bứt rút 1 đồn lính. Trong đó, nổi
bật là trận đánh vào đêm 1/4/1972, đơn vị trinh sát của huyện đánh
vào đồn 116 Định Quán, theo nhận định của lãnh đạo trong trận đánh
này nhất định sẽ có thương vong, địch sẽ họp bàn cách giải quyết,
nên Đội cối được lệnh phải bắn vào Chi khu Định Quán lúc địch
đang họp. Ngay trong đêm 30/3/1972, đơn vị với ý chí quyết tâm cao
độ hành quân không ngừng nghỉ về km114, bí mật đào công sự đến
khoảng 24 giờ đêm thì xong, sau đó phân công tổ chức gác và nghỉ
ngơi. Đến 6 giờ sáng theo quan sát thấy địch có dấu hiệu tập trung
473

48.4 Page 474

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đông để bàn việc giải quyết trận địa 116, đơn vị bất ngờ khai hỏa với
8 quả đạn cối 82 ly đã bắn chính xác vào Chi khu Định Quán - nơi
địch đang tập trung, làm chết 18 tên trong đó có 1 thiếu tá, 1 đại úy,
3 tên ở Phòng II, 1 trưởng ấp, thiệt hại 2 kho đạn, 2 dãy nhà quân sự.
Về phía ta đã bảo vệ an toàn cho lực lượng trinh sát rút về hậu cứ,
đơn vị bảo toàn lực lượng. Trận đánh đã tạo được tiếng vang lớn gây
hoang mang lo sợ cho địch bởi chúng tưởng rằng lực lượng chủ lực
của ta đã về địa phương. Riêng đơn vị được cấp trên khen thưởng
Chuẩn bị đón Xuân 1973, cấp trên có lệnh tất cả các lực lượng vũ
trang của huyện phải đồng loạt tiến công để hỗ trợ cho phái đoàn cấp
cao của ta đàm phán tại Hội nghị Paris. Lực lượng K8 và Trinh sát
huyện được lệnh đánh chiếm Gia Ray (nay thuộc xã Xuân Trường);
Đội cối Xuân Lộc được chia làm 2 tổ, tổ cối 60mm cùng đơn vị bộ
binh đánh chiếm Gia Ray (10 ngày đêm), tổ cối 82mm đào công
sự với cơ số đạn là 40 quả có nhiệm vụ bắn kiềm chế đồn dân vệ
và Trung đoàn 52 của địch. Những quả đạn ngay từ đợt đầu tiên đã
rơi trúng đồn dân vệ làm chết bị thương một số tên, trong đó có xã
trưởng bị thương nặng, hư hại 2 dãy nhà hội đồng xã, 1 khẩu cối 81
ly. Trong 2 trận này, thắng lợi lớn nhất của ta là đã thể hiện cho địch
thấy sức mạnh của lực lượng giải phóng, về binh lực ta ngang bằng
với chúng, về chiến thuật ta hơn chúng một bậc.
Năm 1973, đơn vị chiến đấu 20 trận, tiêu diệt 267 tên lính, phá
hỏng 1 súng cối, 2 đại liên, 1 trung liên, 2 đầu máy xe lửa, 4 toa xe
lửa. Đơn vị còn sản xuất 1 hécta lúa 2 vụ, thu 9.740 kg lúa.
Từ đầu tháng 7 đến 31/10/1973, đơn vị cối Xuân Lộc đã pháo kích
vào đội hình địch 13 trận lớn nhỏ, tiêu diệt 98 tên trong đó có 1 trung
úy và một số khác bị thương, phá hủy 3 đầu máy xe lửa, 2 lô cốt.
Năm 1974, đơn vị đã chiến đấu 25 trận, tiêu diệt 80 tên, bứt rút 2
đồn, 16 tên lính ra hàng, bắt 2 tù binh, đẩy lùi 2 đại đội. Ngoài ra đơn
vị còn sản xuất 1 hécta lúa 2 vụ và 1 hécta bắp, thu 8.700kg lúa và
2.650kg bắp, tự túc một phần lương thực cho đơn vị theo yêu cầu của
Ban Chỉ huy Huyện đội. Cũng trong năm này ta quyết tâm giành dân
474

48.5 Page 475

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lấn đất với địch hình thành thế da beo, qua các trận ta tiêu diệt được
21 tên địch, gây hoang mang, hoảng loạn buộc địch phải bỏ đồn tháo
chạy, phá tan kế hoạch xây dựng nông trường của chúng.
Năm 1975 cho đến ngày giải phóng Xuân Lộc, đơn vị chiến đấu
được 24 trận, tiêu diệt 42 tên lính ngụy, phá hỏng 2 xe tăng, 2 pháo
105, 4 máy PRC 25, 2 đại liên, tiêu hao 2 đại đội ngụy, đầy lùi 1
trung đội bắt 2 tù binh.
Trong gần 7 năm chiến đấu, đơn vị đã tham gia tác chiến được
144 trận, trong đó phối hợp đơn vị bạn 70 trận, độc lập chiến đấu 74
trận. Qua những trận chiến đấu đơn vị đã tiêu diệt được 771 tên lính
Sài Gòn, 134 tên lính Mỹ (trong đó có 1 phi công), phá hư 5 lô cốt, 3
xe tăng, 3 pháo 155, 3 pháo 105, 2 súng cối, 6 đại liên, 1 trung liên,
3 đầu xe lửa, 6 toa xe lửa, bắn rơi 1 máy bay, thu 4 máy PRC 25;
bứt rút 3 đồn, bắt địch ra hàng 16 tên, bắt sống 2 tù binh, làm tiêu
hao 2 đại đội, chống càn đẩy lùi 3 đại đội và 1 trung đội địa phương.
Trong đó có những chiến dịch đơn vị tham gia nhiều ngày đêm như:
chiến dịch đẩy mạnh chiến đấu tại chiến trường để lực lượng Chính
phủ cách mạng giành thắng lợi trong đàm phán tại Paris; chiến dịch
chống lấn chiếm lại đường sắt; chiến dịch giành dân lấn đất giải
phóng từng phần các ấp, xã trong huyện, chiến dịch giải phóng quốc
lộ 1 để tiến tới Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền
Nam thống nhất đất nước.
Với những thành tích trên, Đội cối Xuân Lộc đã được tặng thưởng
1 Huân chương Chiến công hạng Ba và 1 Bằng khen, 1 Cờ thi đua
quyết thắng. Đặc biệt, vào tháng 9/2014, Đối cối Xuân Lộc đã được
Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
475

48.6 Page 476

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Thiện Tân
Thiện Tân(1) là một xã của huyện Vĩnh Cửu, trải dài trên trục lộ
768 tả ngạn sông Đồng Nai, phía Đông - Đông Bắc giáp huyện Tân
Uyên (tỉnh Bình Dương), phía Bắc giáp xã Tân An, phía Tây - Tây
Nam giáp xã Thạnh Phú và thành phố Biên Hòa.
Xã Thiện Tân trước năm 1975 có diện tích khoảng 1 ngàn hécta,
dân số khoảng 2 ngàn người. Từ sau năm 1975 đến nay, xã Thiện Tân
có trên 900 hộ với 4.700 nhân khẩu với diện tích tự nhiên 2245,79
hécta.
Thiện Tân có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong hai cuộc
kháng chiến, là một trong những cửa ngõ ra vào Chiến khu Đ, căn cứ
địa cách mạng, là nơi đứng chân của các đơn vị chủ lực, nơi cung cấp
hậu cần và là hành lang chiến lược của lực lượng cách mạng.
Xã Thiện Tân là vùng tranh chấp giữa ta và địch, nên địch ra sức
càn quét, đánh phá, chà xát, tranh chấp rất ác liệt để bảo vệ cơ quan
đầu não, căn cứ, kho tàng của chúng ở Biên Hòa. Quân và dân Thiện
Tân đã kiên cường bám trụ, làm tốt nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ
chiến đấu, nhiệm vụ hậu cần: cung cấp lương thực, thuốc men, đồ
dùng và cung cấp tin tức cho cách mạng.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
476

48.7 Page 477

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống Pháp dưới
sự lãnh đạo của chi bộ Đảng Thiện Tân, quân và xã Thiện Tân góp
phần giành chính quyền ở Biên Hòa năm 1945 góp phần vào thắng
lợi kháng chiến chống Pháp.
Năm 1954, xã Thiện Tân thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa
do đồng chí Mai Sơn Việt phụ trách, chỉ đạo đưa cán bộ về bám tại
xã. Tại Thiện Tân, đồng chí Năm Khiết (Năm Ca, hay còn gọi là
Năm Được), Bí thư Chi bộ bám dân xây dựng cơ sở mật như: cô
Chín Hương, bác Hai Phô… Cùng Huyện ủy Vĩnh Cửu, Chi bộ xã
lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Genève,
tự do đi lại làm ăn, chống bố ráp và không đi xây dựng khu trù mật
Khánh Vân… Địch càng khủng bố truy lùng cán bộ, quân và dân xã
Thiện Tân (nhất là ở ấp 6, ấp 7) càng một lòng kiên trung che giấu,
nuôi giấu cán bộ.
Cán bộ, nhân dân và du kích xã Thiện Tân đã cung cấp nhiều sức
người, sức của cho cách mạng. Trong suốt cuộc kháng chiến chống
Mỹ, nhân dân và du kích xã Thiện Tân phối hợp tác chiến nhịp nhàng,
chặt chẽ cùng lực lượng vũ trang huyện và đặc công Miền 113, vừa
chiến đấu vừa không ngừng xây dựng cơ sở cách mạng trong lòng
địch làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh vũ trang, tham gia chống
càn quét chiến đấu bảo vệ cơ quan huyện ủy, tỉnh ủy, bảo vệ căn cứ
Bùng Binh, mở hành lang tạo bàn đạp tiến công vào các xã vùng sâu
và thành phố Biên Hòa.
Từ năm 1961 đến năm 1975, nhân dân và lực lượng du kích xã
Thiện Tân phối hợp tác chiến 130 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 154
lính Mỹ, 1.950 lính Sào Gòn, 17 tên tề xã ấp, cảnh sát, tình báo ác
ôn, bắn cháy 7 xe tăng, thu 105 súng các loại, thu 2 tấn bom mìn các
loại, đánh phá 20 lần cầu cống trên lộ 768, rải hàng trăm ngàn truyền
đơn, phát động 4.500 lượt nhân dân đấu tranh chính trị.
Từ năm 1958-1975, nhiều cô bác là chủ ruộng đã giúp đỡ, ủng
hộ cách mạng về lương thực, thuốc men, đào hầm bí mật nuôi giấu
cán bộ… như: gia đình bác Hai Phô, bác Sang, Ẩn, Bông, cô Liên,
477

48.8 Page 478

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tại, Bê, Méo, Tiểu, Thanh, bác Cheo. Má Bảy Dòn dũng cảm, mưu
trí qua mắt địch, bảo vệ an toàn cho cán bộ, chiến sĩ. Các đội viên
mật do đồng chí Ba Thanh xây dựng: Thanh, Ren, Hồng Tâm, Hồng
Hạnh, Hồng Loan, Hồng Năm, Kim Oanh, Xuân… là những thanh
niên ưu tú của quê hương Thiện Tân sẵn sàng cống hiến, hy sinh cho
quê hương và độc lập cho dân tộc. Đồng chí Năm Khiết, Hai Vân, Ba
Thanh… là những cán bộ cách mạng kiên cường bám trụ Thiện Tân,
xây dựng cơ sở, chiến đấu với địch không ngại gian khổ.
Để giữ bàn đạp Thiện Tân, huyện ủy cử nữ đồng chí Hai Vân,
làm Bí thư kiêm Xã đội trưởng xã Thiện Tân. Đồng chí Hai Vân
trưởng thành từ phong trào cơ sở, rất được cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân tin yêu. Với lòng nhiệt tình, gan dạ, đồng chí luôn đi đầu trong
mọi công tác và là đồng đội gần gũi các chiến sĩ trinh sát đặc công
113 khi đi nghiên cứu các mục tiêu. Các đảng viên mật ở Thiện
Tân đã dũng cảm bám trụ, bám dân chiến đấu, xây dựng phong trào
cách mạng ở Thiện Tân… là những tấm gương âm thầm mà làm
nên những chiến công.
Ở Thiện Tân đội du kích, cán bộ được bộ đội đặc công 113 hỗ trợ
bám ấp tiến hành vũ trang tuyên truyền. Tại ấp 7 chi bộ Thiện Tân đã
xây dựng được 5 hầm bí mật, cất giấu lương thực và vũ khí. Tuy Mỹ
- ngụy đóng chốt kiểm soát chặt chẽ nhưng nhân dân ấp Ông Hường,
ấp 7 vẫn bám địch, dùng đèn ra hiệu để cán bộ ra vào ấp.
Ngày 6/6-1966, một đoàn gồm 3 chiếc thiết giáp M113 của Sư đoàn
18 đi càn từ Đại An về đã lọt vào ổ phục kích của lực lượng vũ trang
xã và đặc công Biên Hòa, lực lượng ta đã tiêu diệt 3 xe và 16 tên địch.
Những năm 1966-1967 quân Mỹ và tay sai bung ra đánh phá ác
liệt, nhưng đội du kích vẫn bí mật đột ấp, diệt ác, phá kìm làm bọn
tề, xã ấp tại chỗ co cụm không dám lùng sục vào ban đêm, ta giành
quyền làm chủ tại các ấp 6, ấp 7.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968,
Thiện Tân là địa bàn đứng chân của lực lượng huyện, tỉnh cùng phối
hợp lực lượng vũ trang xã diệt ác, tuyên truyền vũ trang trong các ấp
478

48.9 Page 479

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
6, ấp 7, ấp Ông Hường.
Sau Tết Mậu Thân địch tiến hành phản công vào Thiện Tân rất ác
liệt, bên ngoài chúng ném bom, bắn pháo, rải chất độc hóa học cho
xe cơ giới ủi phá rừng, tung biệt kích đánh phá căn cứ. Lúc bấy giờ,
xã Thiện Tân, Tân Định là vùng tranh chấp mạnh, địch đóng 2 trung
đội bảo an do tên Sáu Tàng chỉ huy thường dẫn lính luồn sâu vào
rừng và căn cứ ta để đột kích đánh phá cách mạng. Vô cùng nham
hiểm, tên ác ôn Sáu Tàng đã gây cho phong trào tại chỗ nhiều tổn
thất, khó khăn. Để mở thế kìm kẹp cho vùng 1, đồng chí Mai Sơn
Việt, Bí thư Huyện ủy về Thiện Tân chỉ đạo xã phải bằng mọi cách
tiêu diệt tên này. Sau nhiều lần trinh sát, dùng cơ sở mật bên trong và
lên phương án tiêu diệt tên Sáu Tàng, ngày 18/3/1968, 2 anh Thanh
và Ren - đội viên đã dũng cảm mưu trí tiêu diệt tên tình báo Sáu Tàng
tại cầu Rạch Tôm sau đó thoát ly theo du kích xã. Tên Sáu Tàng bị
tiêu diệt khiến bọn tề xã ấp trong huyện rúng động, hoang mang; ta
tạo được thế bám trụ vững chắc tại Thiện Tân, Tân Định, Đại An, tác
động và cổ vũ phong trào cho toàn huyện.
Tháng 5/1967 thực hiện chủ trương bám địch, bám địa bàn, Huyện
ủy chọn Thiện Tân xây dựng cơ sở, lực lượng vũ trang, cơ sở vận
động lương thực phục vụ cho tỉnh và các lực lượng vũ trang về bám
địa bàn để đánh địch ở sân bay Biên Hòa, Quân đoàn 3, tổng kho
Long Bình. Hoạt động các lực lượng bám trụ trên địa bàn Thiện Tân
diễn ra như công khai vào ban đêm. Biết được ý đồ của ta, đêm 12
rạng 13/9/1968, địch mở cuộc hành quân cấp tiểu đoàn tiến công vào
ấp 7 (gồm lính sư đoàn 18, biệt động quân, 10 xe thiết giáp) là ấp cơ
sở cách mạng. Địch chia làm nhiều mũi tấn công vào xã với ý đồ dồn
ta vào hướng sông Đồng Nai để tiêu diệt. Trong khi đó, ta có 120
đồng chí gồm du kích, bộ đội và cán bộ các ban, ngành huyện, tỉnh
đang triển khai công tác tải lương thực tại ấp 7. Một tổ vũ trang được
tập hợp do đồng chí Tám Bảo chỉ huy (gồm 2 đồng chí thuộc Tỉnh
đội, nữ đồng chí Hai Vân, 1 đồng chí du kích xã và đồng chí Tám
Bảo) đã mưu trí dũng cảm đánh trả quyết liệt từ 3 giờ đến 4 giờ 30
sáng để mở đường máu đưa đồng đội về căn cứ Bùng Binh an toàn,
479

48.10 Page 480

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
một bộ phận còn lại bám lại trong hầm bí mật. Trận này địa phương
diệt được 64 tên, trong đó có 6 tên Mỹ, bắn cháy 2 xe tăng, ta giữ thế
làm chủ ban đêm ở ấp 7.
Tháng 4/1969, quân Mỹ càn từ Bùng Binh vào xóm Gò lục soát
từng nhà dân. Lúc này tại cơ sở nhà bà Bảy Dòn có các đồng chí Hai
Xê, Thanh, Ren đang ém sau bồ lúa và quyết tâm chiến đấu đến cùng
không để địch bắt sống. Bọn Mỹ tay lăm lăm súng lùng sục từng nhà,
bà Bảy ngồi giả vờ lể gai tay trước nhà, tỉnh táo thản nhiên chào bọn
Mỹ khiến chúng không nghi ngờ và bỏ đi.
Những năm 1969, 1970, 1971, địch đánh phá ta ác liệt, nhân dân
Thiện Tân đã đào 10 hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ và du
kích xã để bám trụ đánh địch.
Cuối năm 1970, cấp ủy xã Thiện Tân quyết định thành lập 1 chi
bộ mật do đồng chí Ba Thanh làm bí thư, đảng viên gồm các đồng
chí: Khen, Sáu Khởi, Bảy Hem, Năm Kích, Nguyệt và một số đội
viên gồm: Hồng Tâm, Hồng Hạnh, Kim Oanh, Hồng Loan, Hồng
Năm, Xuân… đã sản xuất, vận động lương thực, thuốc men… móc
ráp chặt chẽ với chi bộ bên ngoài tạo một mạng lưới thông tin liên lạc
nắm tình hình địch, đưa đón cán bộ, bộ đội vào ấp vận động, tuyên
truyền và đưa lương thực ra ngoài an toàn. Ấp 7 trở thành cửa khẩu
hậu cần, một bàn đạp quan trọng. Bọn địch vào đây không bị nhân
dân đấu tranh cũng bị du kích chận đánh nên chúng kiên dè gọi đây
là “ấp AK”.
Từ năm 1972-1973, lực lượng dân quân, du kích xã sử dụng vũ
khí tự tạo chủ động phối hợp với lực lượng tỉnh, huyện tổ chức nhiều
cuộc tiến công đánh địch có trận ta tiêu diệt 5 xe tăng, 2 tiểu đội Mỹ
khi đi càn quét bảo vệ vành đai sân bay Biên Hòa.
Chi bộ mật tạo điều kiện cho Trung đoàn đặc công 113 bám ấp,
từ căn cứ Bùng Binh đột nhập sân bay Biên Hòa điều nghiên, vẽ
bản đồ, lên sa bàn chuẩn bị tiến công địch. Đêm 1/8/1972, tiểu
đoàn 14 pháo đặc công đã dội bão lửa vào sân bay Biên Hòa tiêu
diệt 74 máy bay các loại, 571 tên Mỹ, 13 xe quân sự, 2 dàn ra đa,
480

49 Pages 481-490

▲back to top


49.1 Page 481

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
2 kho xăng, 1 kho bom na-pan, 1 kho đạn, 1 kho lương thực, 2 kho
thiết bị chiến tranh. Đêm 31/8/1972, Tiểu đoàn 14 thuộc Trung
đoàn 113 đặc công tiếp tục tấn công lần thứ 2 vào sân bay Biên
Hòa phá hủy 12 máy bay, tiêu diệt 50 tên Mỹ và tay sai.
Đầu năm 1973, thực hiện chủ trương: “Các chi bộ tích cực chuẩn
bị lương thực, băng cờ, khẩu hiệu và chuyển vũ khí vào đợt chồm
lên chiếm lĩnh đánh bại âm mưu giành dân lấn đất của địch”, Huyện
ủy chọn Thiện Tân làm điểm, 2 xã Tân Định, Đại An làm diện. Đêm
26/1/1973, du kích xã được 1 tiểu đội đơn vị đặc công 113 hỗ trợ đã
tấn công đánh chiếm ấp Ông Hường, ấp 7. Chi bộ đã đẩy mạnh công
tác dân vận, binh địch vận, phát động nhân dân nổi dậy giành quyền
làm chủ. Chi bộ mật tiếp tục lãnh đạo xây dựng cơ sở, kiên trì bám
đất, bám ấp phát động nhân dân nổi dậy treo cờ, địch co cụm, ta hoàn
toàn làm chủ ấp vào ban đêm. Ngày 27/1/1973, địch phải ký Hiệp
định Paris và rút toàn bộ quân viễn chinh Mỹ khỏi Việt Nam.
Trong chiến dịch mùa khô 1974-1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh
1975 nhân dân và lực lượng du kích xã Thiện Tân đã liên tục vừa nổi
dậy, vừa tiến công, vừa kêu gọi địch buông súng đầu hàng. Ở Vĩnh
Cửu, do tác động của chiến trường chung, địch tại các đồn bót trên lộ
768 bắt đầu rút chạy. Cùng các xã trong huyện, sáng 30/4/1975 lực
lượng du kích và nhân dân xã Thiện Tân đã đánh chiếm đồn bót, trụ
sở địch giải phóng hoàn toàn xã. 9 giờ sáng 30/4/1975, huyện Vĩnh
Cửu hoàn toàn giải phóng.
Năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
thực hiện chỉ thị của cấp trên chi bộ Đảng và nhân dân xã Thiện Tân
đã phối hợp cùng bộ đội huyện, tỉnh làm nhiệm vụ quân quản, trấn áp
bọn tàn quân tại rừng Thiện Tân, tổ chức cho số binh lính, nhân viên
chính quyền Sài Gòn học tập, cải tạo tại chỗ, lập lại trật tự xã hội,
bắt tay vào xây dựng chính quyền cách mạng lâm thời, từng bước tổ
chức, ổn định đời sống nhân dân, đẩy mạnh gia tăng sản xuất. Chỉ
sau mấy năm giải phóng, công cuộc kiến thiết quê hương đã có nhiều
tiến bộ, nhân dân được chia ruộng đất để sản xuất. Từ phong trào
481

49.2 Page 482

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bình dân học vụ để diệt giặc dốt đến tham gia làm thủy lợi đều được
nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được chi bộ
xã quan tâm lãnh đạo, mỗi đảng viên đều phát huy tính tiên phong
trong công tác, có tính chiến đấu cao, xây dựng Đảng kết hợp xây
dựng phong trào hợp tác hóa trong nông nghiệp, mỗi cán bộ, đảng
viên là tấm gương cho nhân dân noi theo. Vận động và tổ chức
thực hiện đường lối nông nghiệp, nông thôn phát triển toàn diện.
Đảng bộ và chính quyền chăm lo đời sống các gia đình chính
sách, gia đình có công với cách mạng. Đến năm 2009, xã đã phát
triển được 7 chi bộ với 74 đảng viên. Đảng bộ xã nhiều năm liền
đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, Đảng bộ vững
mạnh toàn diện, được Huyện ủy tặng 7 giấy khen tập thể, Ban Tổ
chức Tỉnh ủy tặng 1 bằng khen cá nhân.
Về kinh tế, từ những năm 1979-1994, thực hiện các nghị quyết
của Đảng bộ huyện, xã Thiện Tân tiếp tục coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, giai đoạn đầu tập trung công tác cải tạo nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xây dựng các tổ đoàn kết sản xuất,
tập đoàn sản xuất, hợp tác hoá mua bán, tại hầu hết các ấp của xã.
Từ năm 1986 khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, trên các
lĩnh vực kinh tế - xã hội của có nhiều chuyển biến tích cực. Các
nghị quyết Đại hội của Đảng bộ xã tập trung cho nhiệm vụ kinh
tế - xã hội và tập trung mở rộng phát triển sản xuất nông nghiệp,
đưa sản xuất nông nghiệp đi vào ổn định, nâng cao dần đời sống
đại bộ phận nhân dân của xã.
Với tổng diện tích tự nhiên của xã 2.245,79 hécta, diện tích lúa
vụ mùa hàng năm từ năm 2001-2005 là 950 hécta, đạt năng suất
đạt 40 tạ/hécta; diện tích vụ hè - thu là 150 hécta, năng suất đạt
40 tạ/hécta, diện tích vụ đông - xuân là 350 hécta, năng suất đạt
50 tạ/hécta. Trong đó, diện tích và sản lượng lúa đông xuân tăng
đáng kể từ 256 hécta/năm 1995 lên 350 hécta năm 2005. Theo
hướng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong
482

49.3 Page 483

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
xã có xu hướng phát triển sản xuất công nghiệp, sản xuất nông
nghiệp giảm dần.
Các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như bưởi, xoài, nhãn…
được bà con nông dân trồng mới, thay dần vườn tạp bằng vườn
chuyên canh. Đến nay, có 25 hécta vườn chuyên canh cao su, 34
hécta bưởi. Công tác trồng rừng và chương trình 327 đã được
nhân dân mạnh dạn đầu tư. Ngoài cây tràm, bạch đàn bà con còn
đầu tư trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như: cao su, dầu,
sao…
Chăn nuôi cũng được cũng được người dân đầu tư và phát triển
mạnh, hiện đàn trâu có 719 con; có 1 trang trại chăn nuôi theo
hướng công nghiệp 500 con, nhiều hộ nông dân đang phát triển
theo quy mô bán công nghiệp như gà thả vườn, vịt để, vịt siêu thịt,
đàn heo… phát triển khá ổn định.
Lĩnh vực sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá. Trên địa bàn
có 51 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 6 lò gạch, 4 cơ sở
dịch vụ thương mại; 3 nhà máy xay xát; 2 đơn vị có vốn đầu tư
nước ngoài, đã giải quyết việc làm cho 362 lao động có việc làm.
Giao thông nông thôn được chú trọng, đến nay hầu hết các ấp
đều có đường giao thông liên ấp đã rải nhựa nóng, xã đã đầu tư,
nâng cấp, sửa chữa 11,1km đường giao thông nông thôn với giá
trị gần 10,4 triệu đồng.
Trên lĩnh vực giáo dục, năm 1976 xã chỉ có 1 trường tiểu học,
đến nay toàn xã có 4 cấp trường học: 2 trường mẫu giáo với 13
giáo viên, 8 lớp, với 195 học sinh; có 2 trường tiểu học với 20
giáo viên, 10 lớp, với 292 học sinh; 1 trường THCS với 15 giáo
viên, 8 lớp học, 308 học sinh với đầy đủ dụng cụ đảm bảo cho
công tác dạy, học. Chất lượng học tập ngày càng được nâng cao,
tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp đạt từ 95-97%. Xã thiện Tân đã
đạt chuẩn quốc gia về công tác xóa mù chữ và phổ cập tiểu học,
THCS và phổ cập giáo dục phổ thông đã góp phần đưa sự nghiệp
giáo dục ở địa phương ngày càng phát triển.
483

49.4 Page 484

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trên lĩnh vực y tế và dân số kế hoạch hóa gia đình, hầu hết các
chương trình y tế cộng đồng đều được triển khai có hiệu quả, có 1
trạm y tế, có 4 cán bộ, công nhân viên được đầu tư trang bị thiết
bị y tế đã đảm nhận việc chăm sóc tốt sức khoẻ nhân dân. Chương
trình dân số kế hoạch hóa gia đình được thông qua đội ngũ cộng
tác viên, các chương trình truyền thông lồng ghép nên hàng năm
có 120 người dùng các biện pháp tránh thai đạt nhiều kết quả khả
quan bằng nhiều biện pháp và hình thức, góp phần hạ tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên còn dưới 1,2%.
Những năm qua, Đảng bộ và chính quyền xã đã luôn quan tâm
đến chính sách xã hội, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho cán bộ hưởng chính sách và nhân dân trong xã. Đến
nay đã công nhận 12 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Xã có 72 gia đình
liệt sĩ, trong đó có 25 liệt sĩ thời trong chống Pháp, 61 liệt sĩ thời
trong chống Mỹ, quy tập 47 hài cốt liệt sị về nghĩa trang huyện;
đã xây dựng được 9 ngôi nhà tình nghĩa.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, đến năm 2009,
xã Thiện Tân cơ bản xóa được hộ đói, còn lại 12 hộ nghèo. Bằng
nguồn vốn vay khác nhau, hàng năm xã kiến nghị và giới thiệu
cho 7 lượt hộ dân vay 18,4 triệu đồng từ nguồn ngân sách phục vụ
người nghèo và giới thiệu trên 34 lao động có việc làm. Xã không
còn hộ chính sách thuộc diện nghèo.
Trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng được đầu tư
như điện, đường, trường, trạm. Trung tâm văn hóa được đầu tư
xây dựng mới với tổng kinh phí 1,75 tỷ đồng. Đến năm 2009, có
trên 98% số hộ sử dụng điện thắp sáng và sinh hoạt, nhiều tiện
nghi phục vụ đời sống văn hoá tinh thần được nâng lên.
An ninh - quốc phòng được giữ vững, chỉ tiêu giao quân hàng
năm đều đạt. 2 lực lượng công an, quân sự được tổ chức chặt chẽ
với nhân sự ổn định. Xã có 3 ấp đã tổ chức được 25 tổ nhân dân,
gồm 50 người, 3 đội dân phòng với 6 tổ và 18 đội viên dân phòng
góp phần hỗ trợ lực lượng công an, dân quân, du kích xã giữ gìn
484

49.5 Page 485

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
an ninh, trật tự và an toàn xóm, ấp.
Để tăng cường đội ngũ cán bộ xã, nhất là số cán bộ trẻ theo
hướng kế thừa, Đảng bộ luôn quan tâm công tác bồi dưỡng, đào
tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng cán bộ các nhiệm kỳ.
Đảng bộ đã cử 20 học lý luận chính trị; 9 học chuyên môn, nghiệp
vụ. Từ năm 1986 đến 2009, có 66 lượt cán bộ, đảng viên xã được
đào tạo, bồi dưỡng nên cơ bản ổn định về nhân sự Đảng, chính
quyền và các đoàn thể.
Với những thành tích trên, nhân dân và lực lượng vũ trang xã
Thiện Tân đã được tặng thưởng 5 Huy chương Chiến công hạng
Ba, nhiều bằng khen, giấy khen… Ngày 6/11/1978, Đội du kích
xã Thiện Tân vinh dự và tự hào được Nhà nước và Chính phủ
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Năm 2012, nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Thiện
Tân được Nhà nước phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
485

49.6 Page 486

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Chiến sĩ cách mạng
nhà lao Tân Hiệp
Nhà laoTân Hiệp(1) nay thuộc phường Tân Tiến - nơi tiếp giáp
giữa nội ô với các phường ngoại ô thành phố Biên Hòa. Phía Đông
nhà lao Tân Hiệp giáp với cụm dân cư của phường; Tây giáp rạch
Đồng Tràm; Nam giáp đường xe lửa Bắc - Nam; Bắc giáp quốc lộ 1
và một nhánh nhỏ của rạch Đồng Tràm.
Khi phát - xít Nhật đảo chính thực dân Pháp để độc chiếm Đông
Dương ngày 9/3/1945, bộ máy thống trị của Pháp tại Biên Hòa hoàn
toàn lọt vào tay quân Nhật. Lúc bấy giờ tại ấp Tân Hiệp, Nhật dựng
lên một đồn nhỏ để bảo vệ chiếc cầu bắc qua rạch Đồng Tràm và
đoạn quốc lộ 1 ngang qua thị xã Biên Hòa. Khi thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta lần thứ hai ngày 23/9/1945, chúng nới rộng đồn
Tân Hiệp thành một trại giam tù binh chiến tranh. Thời Mỹ - Diệm,
nơi đây trở thành một trong 6 nhà tù lớn nhất của chúng ở miền Nam.
Nhà lao Tân Hiệp - hay theo cách gọi của chính quyền sài Gòn là
“Trung tâm Huấn chính Biên Hòa” - nằm trên một khu đất cát hình
chữ nhật, địa hình ẩm thấp, có tổng diện tích là 3.600m2, dài 20m,
chiều rộng là 180m. Tuy diện tích của nhà tù không rộng, nhưng có
lúc số tù nhân bị chúng giam giữ tại đây lên đến gần 3 ngàn người.
Nhất là từ sau tháng 7/1956, khi chiến dịch Trương Tấn Bửu mở
(1) Nguồn: Hồ Văn Sơn (chủ biên), Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp (02-12-
1956), Nhà xuất bản Đồng Nai, 1994.
486

49.7 Page 487

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
màn, đánh vào phong trào cách mạng ở Đông Nam bộ, các trại giam
mỗi lúc mỗi đông thêm. Đến trước ngày 2/12/1956, nhà tù Tân Hiệp
có 1.872 người bị giam giữ. Phần lớn trong số này là những người
yêu nước và các chiến sĩ cộng sản bị chúng bắt qua các trận càn quét
lớn nhỏ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, đưa về đây để điều
tra, phân loại trước khi đưa qua các nhà tù khác ở đất liền hoặc đày
ra Côn Đảo, Phú Quốc…
Trong chế độ ngục tù của Mỹ - Diệm, ngoài các cực hình tra
tấn dã man tàn bạo để lung lạc ý chí của người cộng sản, chúng còn
áp dụng chủ thuyết thực dụng để đánh vào tâm lý và tình cảm của
những người đang bị giam cầm. Với thủ đoạn trên, thỉnh thoảng địch
có lung lạc được một số người nhẹ dạ, nhưng tuyệt đại bộ phận cán
bộ và đảng viên cộng sản cũng rất dè dặt và chờ có tiếng nói, chủ
trương của Đảng.
Trước tình hình trên, số cán bộ và đảng viên trong nhà tù Tân
Hiệp thấy cần phải có một tổ chức Đảng để lãnh đạo và thống nhất
chủ trương hành động của những chiến sĩ cộng sản trong tù, lãnh
đạo quần chúng đấu tranh với địch khi bị chúng đàn áp, đồng thời
tiếp tục giáo dục và động viên ý chí chiến đấu của đảng viên, cán bộ
trong nhà tù không để bị địch phân hóa, mua chuộc bằng thủ đoạn
xảo quyệt qua chủ thuyết thực dụng của chúng.
Chính vì thế khi đợt tù chính trị đầu tiên được đưa về nhà lao Tân
Hiệp, các đảng viên cộng sản tìm cách liên lạc với nhau, tập hợp lại
thành một tổ chức Đảng trong nhà tù. Buổi đầu chỉ hình thành cấp
chi bộ cơ sở và cử ra Ban Chi ủy để trực tiếp lãnh đạo những đảng
viên, cán bộ đang ở tại trại giam Tân Hiệp giữ gìn khí tiết cộng sản
và tiếp tục đấu tranh với địch ngay tại nhà tù.
Tại cuộc họp đầu tiên, Chi ủy nhận định nhiệm vụ của tổ chức
Đảng trong nhà tù Tân Hiệp, cụ thể là các đồng chí trong Ban Chi ủy
phải giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên giữ vững khí tiết cộng sản
và tinh thần đấu tranh cách mạng, chống lại việc học tố cộng, chống
chào cờ “ba que” và bằng mọi hình thức, phương pháp đấu tranh để
487

49.8 Page 488

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
biến nhà tù của đế quốc thành nơi thử thách và rèn luyện ý chí, bản
lĩnh của người chiến sĩ cộng sản.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm ở nhà tù Tân Hiệp nhưng nhiều
đồng chí ta đã liên lạc được với đơn vị cũ và tổ chức Đảng từ bên
ngoài thông qua thân nhân đi thăm nuôi hàng tuần, tổ chức được hộp
thư và đường dây liên lạc với bên ngoài.
Sự chỉ đạo của Xứ ủy, của Ban Binh vận Xứ ủy và các nguồn
thông tin từ bên ngoài đưa vào, đã giúp cho Đảng ủy nhà tù Tân Hiệp
có cơ sở nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình hình một cách có cơ
sở khoa học. Từ đó, Đảng ủy lãnh đạo thắng lợi các cuộc đấu tranh
trong nhà tù, giúp các đồng chí ta giữ vững khí tiết cách mạng, nâng
tinh thần đấu tranh với địch trong nhà tù mà đỉnh cao là chủ trương
và tổ chức thực hiện thành công cuộc nổi dậy phá khám.
Cụ thể, về mặt công khai, Chi ủy chủ trương tổ chức đưa một số
đảng viên và quần chúng trung kiên ra làm đại diện cho anh chị em
tù chính trị ở trại giam Tân Hiệp. Không chấp nhận để cho địch chỉ
định và cài người của bọn chúng vào làm đại diện cho tù nhân trong
trại. Kết quả là địch phải chịu theo sự đề cử của ta, để cho tù nhân tự
quản việc gia đình vào thăm nuôi, và thông qua đó các đồng chí ta
có điều kiện liên lạc được với tổ chức Đảng từ bên ngoài, nắm thêm
được tình hình nhất là chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ lúc bấy giờ.
Qua gia đình má Tạ Thị Lộc ở hẻm Cây Me - nội ô thị xã Biên Hòa,
đồng chí Nguyễn Trọng Tâm bắt được liên lạc với Ban Binh vận Xứ
ủy Nam Bộ.
Có được sự lãnh đạo của Chi ủy, anh chị em tù nhân là cán bộ,
đảng viên có chỗ dựa vững chắc về tinh thần và thống nhất các hành
động đấu tranh trong nhà tù như: chống chào cờ, chống học tố cộng.
Vì vậy các cuộc họp học tập tố cộng và chào cờ do địch tổ chức đều
rất nhạt nhẽo và chỉ có một số người dự là số tù nhân giáo phái và
số quần chúng mà Chi ủy chưa nắm được nguồn gốc cũng như quá
trình bị địch đưa về đây.
Khi nắm được sinh hoạt ở nhà tù, Chi ủy lấy mục tiêu đấu tranh
488

49.9 Page 489

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho anh chị em tù nhân chính
trị. Bằng phương pháp hòa dịu và tế nhị, thông qua Ban đại diện của
nhà tù, tranh thủ từ tên giám đốc đến bọn giám thị để tổ chức các lớp
học văn hóa, các buổi sinh hoạt thể thao và văn nghệ trong nhà tù
nhằm có điều kiện tập hợp số anh em ta lại để sinh hoạt và giáo dục
nội dung đấu tranh với địch.
Xây dựng lại được Chi bộ, tổ chức lại được Chi ủy trong nhà
tù là một thắng lợi lớn của những đảng viên và cán bộ cách mạng
bị địch bắt và giam giữ tại đây. Từ đó, Chi ủy lãnh đạo và thống
nhất được phong trào đấu tranh ở nhà lao Tân Hiệp, vừa theo dõi
và chăm sóc được đời sống tinh thần và vật chất của anh chị em tù
nhân trong trại giam.
Đầu tháng 5/1956, Chi ủy bí mật tiến hành tổ chức lễ kỷ niệm
ngày sinh lần thứ 66 của Bác Hồ. Theo kế hoạch là tranh thủ thế hợp
pháp, thông qua các đại diện công khai để tổ chức các hoạt động văn
nghệ, thể thao trong trại giam. Công tác chuẩn bị khá chu đáo và
khẩn trương thì một tình huống mới xảy ra, Chi ủy phải nhanh chóng
thay đổi kế hoạch và chỉ đạo thực hiện đấu tranh với địch. Ngày
13/5/1956, cai thầu nhà bếp cho anh chị em ăn cơm hẩm, khô mục…
Đầu tiên, tù chính trị phản đối. Cuộc đấu tranh nổ ra với quy mô toàn
trại. Một tiểu đoàn lính được vũ trang có cả xe vòi rồng được điều
đến nhà tù ngay trong đêm để ra tay đàn áp.
Trời đã sụp tối, qua sự sắp xếp của Ban Chi ủy, các anh chị đại
diện của các trại lần lượt lên phát biểu. Hầu hết binh lính được tăng
cường đến đàn áp thấy cuộc đấu tranh trong không khí hòa dịu và lời
lẽ rất có lý có tình nên chúng lờ đi, không làm theo lệnh của cấp trên.
Sau đó, chúng đề nghị tù nhân chính trị ai về trại nấy. Chi ủy nhận
định cuộc đấu tranh đã đạt yêu cầu và bí mật ra lệnh cho anh chị em
tuần tự về trại.
Hôm sau chúng trả đũa, ra lệnh bắt số anh chị em tham gia đấu
tranh ngày hôm trước đem dồn hết vào trại G. Chi ủy một mặt chỉ
đạo tiếp tục tranh thủ lính bảo an để chúng không có thái độ căng
489

49.10 Page 490

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
thẳng, mặt khác chỉ đạo anh chị em còn lại đấu tranh phía ngoài trại
để làm áp lực. Thông qua các đường dây liên lạc là những gia đình đi
thăm nuôi, ta vận động hàng trăm gia đình tập hợp trước cổng nhà tù
dù chưa phải đến ngày thăm nuôi, để gây không khí náo động từ bên
ngoài. Bên trong, thông qua các đại diện của trại, ta tuyên bố tù nhân
chính trị sẽ tuyệt thực. Các biện pháp đấu tranh do Chi ủy lãnh đạo
đều có kết quả ngay. Ngày 19/5, chúng phải tự giải tán cuộc đàn áp.
Ngay sau khi kết thúc cuộc đấu tranh, Chi ủy bí mật họp rút kinh
nghiệm và chỉ đạo lập tổ chức “Chiếu vàng” nhằm giúp đỡ anh chị
em trong tù không có thân nhân đến thăm nuôi. Anh chị em nào có
thân nhân gửi đồ đạc, thực phẩm, thuốc men vào thăm nuôi thì trích
lại một phần để riêng ở một góc trại, dành để san sẻ cho số anh chị
em không có điều kiện này. Tổ chức “Chiếu vàng” càng làm cho tù
nhân trong trại đoàn kết gắn bó mật thiết và tin tưởng nhau hơn, sẵn
sàng hưởng ứng và làm theo các chủ trương mà Chi ủy đã phát động.
Việc hình thành được Đảng bộ trong nhà tù Tân Hiệp là bước
ngoặt có ý nghĩa quan trọng với hầu hết cán bộ, đảng viên và những
người yêu nước bị địch bắt giam giữ tại đây, để có sự lãnh đạo và
phương pháp đúng đắn, mỗi khi cần đấu tranh trực diện với địch
trong nhà tù, thống nhất được chủ trương và có kế hoạch chặt chẽ
nhằm đấu tranh với địch để giành thắng lợi.
Có sự lãnh đạo của Đảng ủy, phong trào đấu tranh của tù chính trị
tại nhà tù Tân Hiệp rõ ràng đã chuyển sang một bước mới với chất
lượng cao hơn vì đã có tổ chức và có kế hoạch hành động thống nhất.
Trong thời gian địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu, từ ngày
15/7/1956 trở đi, tù nhân trong nhà lao Tân Hiệp ngày càng đông.
Từ thực tế này và xuất phát từ nguyện vọng, mong muốn của một
số đồng chí đảng viên trong tù, nhất là số đồng chí trước đây hoạt
động ở lực lượng vũ trang, khi biết được có Bản Tuyên bố của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về Hiệp định Genève,
Đảng ủy nhà lao Tân Hiệp đã thống nhất vạch ra chủ trương phá
khám để các đồng chí ta sớm trở về tiếp tục hoạt động cách mạng.
490

50 Pages 491-500

▲back to top


50.1 Page 491

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Chủ trương này được thảo luận trong Đảng ủy rất kỹ và đi đến
thống nhất kế hoạch hành động.
Đường dây liên lạc giữa Đảng ủy nhà lao Tân Hiệp với Ban Binh
vận Xứ ủy được giữ vững đến tháng 10/1956. Xứ ủy đồng ý chuyển
liên lạc giữa Đảng ủy nhà lao đến Tỉnh ủy Biên Hòa, nhưng một tình
huống ngẫu nhiên lại xảy ra. Do có tình báo chỉ điểm nên nữ đồng
chí Tư Long đưa đồng chí Út Trắng - người liên lạc của Tỉnh ủy Biên
Hòa vừa lên đến đầu cầu Ghềnh thì bị địch phát hiện và đồng chí Út
Trắng sa vào tay giặc nên Đảng ủy nhà lao không bắt liên lạc được
với Tỉnh ủy Biên Hòa.
Đến tháng 11/1956, mọi kế hoạch nổi dậy phá khám Tân Hiệp
xem như cơ bản hoàn thành. Đảng ủy hạ quyết tâm thực hiện chủ
trương đề ra. Khoảng 300 đảng viên được tuyển chọn đều là những
người còn đủ sức khỏe, sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới khi
thời cơ đến.
Kế hoạch hành động là chiều thứ bảy 1/12/1956 khi địch đánh kẻng
báo giờ cho tù nhân vào trại thì cuộc nổi dậy phá khám sẽ bắt đầu.
Ngay chiều 1/12, bất ngờ có xe chở bọn chỉ huy Đặc cảnh miền
Đông (PSE) và rất nhiều lính chạy vào cổng nhà tù. Kế hoạch nổi
dậy phá khám được Đảng ủy chỉ đạo dời lại, tiến hành tiếp vào chiều
chủ nhật 2/12/1956.
Sau buổi cơm chiều, đúng 17 giờ 40, đài phát thanh Sài Gòn phát
chương trình cổ nhạc, tù nhân tập trung ngồi trước cửa trại vừa nghe
nhạc và đợi giờ vào trại.
17 giờ 40, tất cả các đồng chí trong lực lượng xung kích không ai
bảo ai đều ở tư thế sẵn sàng, các tổ xung kích áp sát những mục tiêu
được phân công. Mọi hoạt động của lực lượng chủ công đến giờ phút
này vẫn giữ được hoàn toàn bí mật.
Quan sát tình hình quanh trại giam, đúng như nhận định của Đảng
ủy. Giờ giao điểm đổi gác của lính canh là lúc địch có nhiều sơ hở.
Mặt khác, cuộc nổi dậy phá khám đúng vào ngày chủ nhật, thời điểm
binh lính địch có phần chểnh mảng hơn ngày thường. Toàn bộ lính
491

50.2 Page 492

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
trực trong thời điểm này chỉ còn 12 tên.
Lúc này là mùa đông, trời nhá nhem tối. Một số đồng chí trong
các tổ xung kích mình trần, mặc quần đùi đi đi lại lại bên ngoài sân
trại và tiếp cận các mục tiêu. Số tù nhân ở các trại D, E, G là những
anh em đã được phổ biến trước, đều đứng hoặc ngồi trước cửa thấp
thỏm chờ giờ hành động.
17 giờ 30, khi tên lính trực vừa đánh kẻng báo cho tù nhân vào
trại, thì tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp cả trại.
Các mũi xung kích nhanh chóng tiến thẳng đến các mục tiêu đã
được phân công. Tổ xung kích xông thẳng vào kho vũ khí (tức mục
tiêu số 1) bắt trói tên trưởng toán gác và dùng dao khống chế tên này,
lấy toàn bộ vũ khí ở đây. Bọn lính ở phòng kế bên hốt hoảng bỏ chạy
tán loạn. Cùng lúc đó, các tổ khác xông thẳng đến nhà tên giám đốc
Tính. Vợ hắn la hoảng, tên công an tài xế chạy đến ứng cứu bị anh
em ta đánh gục phải bò lê ra ngoài tìm nơi ẩn trốn sau nhà. Một bộ
phận xung kích khác xông thẳng vào văn phòng trại giam. Tại đây,
tên thượng sĩ Nguyễn Văn Huề chỉ huy bảo an đang ngồi ở bàn giấy,
chưa kịp phản ứng gì đã bị anh em ta bắt trói. Đồng chí Tám Thạch
và một vài đội viên xung kích nhanh chóng dùng xẻng chặt đứt dây
điện thoại ở nhà tên giám đốc Tính và văn phòng trại giam, không
cho chúng gọi quân tiếp cứu.
Phải mất mấy phút sau, cánh cửa cổng mới mở được. Anh em từ
các trại D, G, E ào ạt tuôn ra cửa. Trước làn sóng người tràn ra như
nước vỡ bờ, tên lính gác Nguyễn Văn Hai đang đứng ngoài cổng
chính giương súng bắn một phát, lập tức bị một đồng chí quật ngã và
đoạt lấy súng. Dòng người tuôn ra cửa mỗi lúc một đông. Có một số
anh chị em không được phổ biến trước, khi thấy tình hình như vậy
cũng vội vàng chạy theo. Cánh cổng chính của trại giam thay vì khi
mở phải kéo vào, nhưng trong lúc vội vàng anh em ta lại cố sức đẩy
ra nên chỉ mở được một cánh, còn cánh kia chỉ hé được một phần. Do
đó có sự ùn tắc, chen lấn gây trở ngại trên đường thoát ra, có một số
anh em phải công kênh nhau nhảy vọt qua hàng rào. Có người giẫm
492

50.3 Page 493

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phải cọc sắt, gạch đá, dây kẽm gai… bị thương. Một không gian sôi
sục trong tiếng hô xung phong vang dội, tiếng gọi nhau, tiếng chân
chạy rầm rập của hàng trăm người.
Trong 15 phút đầu, lực lượng xung kích của ta hoàn toàn làm chủ
tình hình. Bọn chỉ huy trại giam và toàn bộ lính canh gác bị bất ngờ,
vô cùng hốt hoảng, chỉ lo bảo toàn mạng sống nên chưa có hành
động chống trả.
Đảng ủy chủ trương là không giết một tên lính nào của địch, nhằm
hạn chế việc khủng bố, trả thù của chúng đối với những người còn ở
lại hoặc không ra được. Và phải đến hơn 15 phút sau, địch mới hoàn
hồn, vội vã nổ súng phản kích, lên tháp canh dùng trung liên bắn xối
xả ra hướng cổng trại, ngoài sân banh, ngoài lộ 1.
Theo kế hoạch của ta thì khi đã dứt điểm hoàn toàn các mục tiêu
bên trong, lực lượng xung kích nhanh chóng rút ra ngoài triển khai
chốt chặn ở 2 đầu đường, dùng súng đã cướp được nã vào các tháp
canh số 1 và số 2, khống chế 2 khẩu trung liên đặt ở 2 tháp canh này
để bảo vệ anh chị em tiếp tục chạy thoát.
Song thực tế, do ùn tắc vì số người cùng lúc ra quá đông ngoài
dự kiến nên không thực hiện được phương án trên. Mặt khác, trong
hoàn cảnh bí mật tuyệt đối, việc phổ biến kế hoạch tác chiến cũng
gặp nhiều khó khăn, thiếu cụ thể, nên khi phát lệnh, nhiều tổ xung
kích lại cùng đánh một điểm. Tuy vậy, tất cả các mục tiêu chính như:
kho súng, nhà giám đốc, văn phòng trại giam, lực lượng ta đều vào
được và khống chế bọn địch từ những phút đầu.
Khi tiếng súng của địch nổ vang trước cổng vẫn còn một bộ phận
lực lượng xung kích gồm các đồng chí Nguyễn Chiến Lũy (tức Hai
Thông), Phạm Văn Rô, Tân, Thức… đang vận động chạy về phía sau
trại E, dùng súng bắn kiềm chế địch ở tháp canh nhằm hút hỏa lực
của chúng về phía sau trại giam, để cho anh chị em đang đổ dồn ở
phía trước cổng có điều kiện chạy thoát qua quốc lộ 1.
Vài phút sau, tiếng súng thưa dần. Các đồng chí nhận định là bọn
địch ở tháp này sắp hết đạn, là cơ hội để nhanh chóng rút ra ngoài.
493

50.4 Page 494

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lúc này, đồng chí Phạm Văn Rô bị trúng đạn và hy sinh.
Trước 2 làn đạn bắn xối xả của địch, số anh em ta chạy ra sau bị
trúng đạn, bị thương và hy sinh khá nhiều. Gần 30 đồng chí vừa hy
sinh, vừa bị thương nặng nằm trước cổng trại, bên ngoài sân banh và
ven bờ suối. Đồng chí Dương Tử Giang cũng bị thương nặng và cố
bò đến bờ suối thì hy sinh, trên tay còn ghì chặt cây đàn ghi ta. Tên
Lộc - công an mật, tài xế của giám đốc Tính, sau khi hoàn hồn, hắn
xách tiểu liên phóng ra lộ một và sân banh bắn chết 8 đồng chí của ta
đã bị thương đang nằm rải rác bên ngoài.
Lúc này, đồng chí Tư Sanh, đại diện công khai của tù nhân ở nhà
tù, do sức khỏe yếu, được Đảng ủy phân công ở lại. Khi cuộc vượt
ngục nổ ra, đồng chí đã chạy qua nhà tên Hít nằm tại đó để giữ thế
hợp pháp, đồng thời tìm cách tác động để kiềm chế, không để tên này
hung hăng chạy ra ngoài gây thêm tội ác.
Cuộc nổi dậy phá khám của tù nhân diễn ra trong vòng 40 phút.
Đến 18 giờ 30, toàn bộ số tù binh còn lại bị địch gom vào các trại,
cho binh lính canh giữ nghiêm ngặt.
Do điện thoại ở nhà tù bị cắt đứt, tên phó giám đốc trại giam phải
chạy bộ đến Bộ Tư lệnh sư đoàn dã chiến số 4 để cấp báo và xin
cứu viện. Gần 1 giờ sau cuộc nổi dậy, chúng mới báo động được
đến các nơi trong thị xã. 19 giờ, lính sư đoàn dã chiến 4 mới đến
được trại giam cùng với bọn bảo an, hiến binh lo ổn định lại tình
hình tại trại giam.
Trong bóng đêm dằng dặc, quang cảnh trại giam sau cuộc nổi dậy
vượt ngục của anh chị em tù nhân đã trở nên xơ xác, được một không
khí ngột ngạt. Hơn 1 ngàn tù nhân còn lại ở các trại trong tâm trạng
vừa mừng vừa lo. Mừng vì biết rằng thêm nhiều đảng viên, cán bộ
trung kiên được ra bên ngoài là nguồn lực bổ sung cho phong trào
cách mạng trong thời kỳ đen tối. Lo là lo không biết rồi đây, số phận
của những người còn lại sẽ như thế nào. Bên ngoài trại giam vẫn còn
thi thể của 22 đồng chí ta hy sinh, 6 đồng chí bị thương nặng nằm
rải rác ngay trước cổng trại, ở sân banh và ven bờ suối Đồng Tràm.
494

50.5 Page 495

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Khi được bọn chỉ huy trại giam cấp báo, Tư lệnh sư đoàn dã chiến
số 4, Tiểu khu trưởng Tiểu khu Biên Hòa, Trưởng ty công an, Trưởng
ty hiến binh, Tỉnh đoàn trưởng bảo an… vội vã kéo nhau đến hiện
trường và cùng phối hợp lực lượng tổ chức hành quân truy kích, gom
số bị thương (cả ta lẫn địch) chở vào Bệnh viện Biên Hòa cấp cứu và
lấy khẩu cung.
19 giờ 30, tên giám đốc công an Nam Phần cùng với tên thiếu
trưởng Mai Hữu Xuân, tư lệnh chiến dịch Trương Tấn Bửu đến xem
xét tình hình, ra lệnh cho các lực lượng quân sự, công an các tỉnh,
quận, nhất là quanh khu vực Biên Hòa như Trảng Bom, Châu Thành
(nay là huyện Vĩnh Cửu) triển khai lực lượng chốt chặn các nơi, hành
quân truy kích tù nhân vượt trại giam. Mặt khác chúng chỉ đạo cho
Ty hiến binh Biên Hòa điều tra các vụ vừa xảy ra liên quan đến cuộc
nổi dậy của tù nhân.
Để đảm bảo bí mật nên kế hoạch vượt ngục không được phổ biến
rộng và cặn kẽ. Vì vậy, khi thoát ra được bên ngoài, phần lớn anh
em hoàn toàn bị động, nhất là về phương hướng. Một bộ phận không
định được hướng đi. Trong hàng giờ liền, vẫn loanh quanh ở khu
rừng Tân Phong. Một vài nhóm lẻ tẻ, ngay từ đầu đã bị phân tán, tự
lực tìm đường về các nơi đã biết, số anh em này đều là người Biên
Hòa. Mặc dầu có những hạn chế nhất định trong công tác tổ chức
nhưng cơ bản là phần lớn anh em vượt ra ngoài đều bám được đoàn
chính. Trước sự truy quét của địch, những người vượt ngục phân
ra thành nhiều đoàn, tốp tìm đường trở về cơ sở cách mạng ở Bà
Rịa, Long Thành, Thủ Đức, tốp tìm đường về căn cứ Chiến khu Đ...
Đường về căn cứ cách mạng biết bao gian khổ, hiểm nguy, lớp bị
địch bao vây, truy lùng; lớp bệnh đau, thiếu lương thực, anh em phải
luồn rừng, băng suối để trở về, nếm trải vô vàn ác liệt, hy sinh.
Những cơ sở cách mạng tại Biên Hòa khi hay tin có tù nhân vượt
ngục đã sẵn sàng tìm mọi cách giúp đỡ để anh em khắc phục khó
khăn được trở về với cách mạng. Đó là những bà má, những người
chị ở xã Thiện Tân, Tân Định, Thường Lang, Lạc An… thuộc 2
495

50.6 Page 496

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
huyện Tân Uyên, Vĩnh Cửu, các xã thuộc huyện Long Thành, Xuân
Lộc, công nhân cao su An Viễn, Trảng Bom, Bình Sơn. Sự giúp đỡ
cho các đoàn đi có khi là thông tin có địch truy kích, hoặc chỉ là lon
gạo nấu cháo đỡ lòng cho anh em trên đường đi, vẫn thể hiện được
tấm lòng quý báu. Tấm lòng của người dân là lòng tin vào cách
mạng, là nguồn động viên, cổ vũ các đồng chí vượt qua mọi trở ngại
để trở về với cách mạng.
Bên cạnh đó, cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp diễn ra trong thời
điểm Mỹ - Diệm đang triển khai chiến dịch Trương Tấn Bửu đánh
phá ác liệt phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Đông Nam bộ. Hệ
thống cơ sở Đảng ở các tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa… bị
tổn thất khá nặng nề. Vì vậy việc tổ chức đưa đón anh em vượt ngục
trở về gặp nhiều khó khăn và phức tạp bội phần. Trong suốt 1 tháng
trời, địch huy động mọi lực lượng, tổ chức hàng chục cuộc hành
quân càn quét, tảo thanh hầu hết các địa phương thuộc các tỉnh Đông
Nam bộ, tập trung là vùng Chiến khu Đ, chiến khu Hắc Dịch, vùng
núi rừng Xuân Lộc - Định Quán…
Bọn trùm mật vụ và công an, cảnh sát ở Sài Gòn đã gởi thông
báo đi khắp các tỉnh, thúc giục bọn tay sai tại chỗ khẩn trương truy
quét, lùng sục để bắt lại số tù nhân vượt. Theo tài liệu của chúng để
lại sau này, ta sưu tầm được thì đến cuối tháng 12-1956, chúng bắt
lại khoảng 95 đồng chí. Hầu hết các đồng chí bị địch bắt lại là do bị
lạc đường hoặc do bị kiệt sức không còn đi nổi, số khác bị bọn phản
động điểm chỉ cho địch bao vây đuổi bắt.
Mặc dù gặp nhiều tổn thất, hy sinh, nhưng cuộc nổi dậy phá khám
ở nhà lao Tân Hiệp chiều 2/12/1956 là một chiến công vô cùng to
lớn. Tất cả 462 đồng chí, trong đó có 2 nữ đã thoát khỏi sự giam
cầm, đày đọa ở nhà tù Mỹ-Diệm, trở về với Đảng, với nhân dân. Số
vũ khí lấy được của địch gồm: 71 khẩu súng các loại (2 trung liên, 2
tiểu liên Thompson, 10 tiểu liên Mat 49, 23 súng trường Mas 36 và
một số đạn dược) góp phần trang bị cho lực lượng vũ trang ở các tỉnh
Đông Nam Bộ trong những ngày đầu chuẩn bị đồng khởi. Nhìn lại
496

50.7 Page 497

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lịch sử kháng chiến ở miền Nam trong những ngày đồng khởi năm
1960, nhiều đơn vị vũ trang của ta còn sử dụng vũ khí thô sơ như
dao, mã tấu, các loại súng tự tạo, mới thấy hết sự đóng góp vô cùng
quý giá của những khẩu súng được mang ra từ nhà lao Tân Hiệp.
Trên mặt trận đấu tranh này, cuộc nổi dậy và vượt khám Tân Hiệp
ngày 2/12/1956 là một chấm son chói lọi, là sự nối tiếp truyền thống
đấu tranh kiên cường của Đảng và của nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng ủy trong nhà lao, gần 500 cán bộ, đảng viên Cộng sản bị
kẻ thù giam giữ tại đây đã lập nên kỳ tích anh hùng, tự nổi dậy phá
khám, cướp súng địch trở về với Đảng, với nhân dân. Trong lịch sử
của dân tộc và lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, đây là
cuộc nổi dậy phá khám để tự giải phóng có quy mô lớn nhất, đưa
được số lượng lớn cán bộ nòng cốt của Đảng trở về với cách mạng
và cướp được số lượng vũ khí lớn nhất.
Năm 2018, tập thể Chiến sĩ cách mạng nhà lao Tân Hiệp được
Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân.
497

50.8 Page 498

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội công binh xưởng quân giới
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đội Công binh
xưởng quân giới(1) thuộc thị đội Long Khánh có chức năng chế tạo
vũ khí cung cấp tại địa bàn cho các lực lượng vũ trang thị xã Long
Khánh, các huyện trong tỉnh đánh địch, tận dụng bom pháo của
địch rồi chế tạo để đánh địch, tham gia nhiều trận đánh, đóng góp
sức người, sức của góp phần giải phóng quê hương Long Khánh
anh hùng.
Địa bàn Long Khánh thuộc vùng Đông - Bắc cửa ngõ Sài Gòn.
Đây là tiêu điểm chiến lược mà ta và địch đều thấy rõ, địch đã xây
dựng ở Long Khánh một bộ máy chính trị lẫn quân sự hoàn chỉnh,
với nhiều đơn vị tinh nhuệ, có kinh nghiệm tác chiến như: Bộ Chỉ
huy hành quân Việt - Mỹ, Bộ Tư lệnh sư đoàn 18, tiểu khu tình báo,
các trận địa pháo, sân bay…
Từ đặc điểm tình hình trên, theo yêu cầu nhiệm vụ, vũ khí của trên
cung cấp không đủ để đánh địch, hơn nữa tận dụng bom pháo lép của
địch, ta có thể chế tạo để đánh địch rất thuận lợi, nên ngày 2/3/1970
được sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh và sự giúp đỡ
của quân giới tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, 3 đồng chí Lâm Hoàng Hải,
Trần Văn Phú và Phạm Hùng Chiến được điều động về thành lập Đội
Công binh xưởng quân giới thuộc Thị đội Long Khánh, do đồng chí
Lâm Hoàng Hải làm đội trưởng.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Thị ủy Long Khánh.
498

50.9 Page 499

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong lúc địch càn quét ác liệt, các đơn vị quân giới tỉnh và các
huyện không sản xuất được vũ khí để cung cấp cho chiến trường,
nhưng riêng đội Quân giới thị xã vận dụng chiến tranh nhân dân, hỗ
trợ, giúp đỡ và che chở để sản xuất vũ khí. Đội có nhiệm vụ chuyên
sưu tầm bom đạn và trực tiếp xuống tận địa bàn vùng ven phát động
phong trào quần chúng và các lực lượng vũ trang thị xã để sưu tầm
bom đạn, pháo lép của địch, lợi dụng chòi, rẫy để hợp pháp tiếng
động và khói bếp, ruộng của nhân dân cưa, đục chế tạo vũ khí. Đội
có nhiều năm chuyên sản xuất ĐH, Bazômin, mìn chống tăng, lựu
đạn, thủ pháo và các loại vũ khí khác cung cấp cho các lực lượng vũ
trang trong tỉnh.
Về tổ chức, khi mới thành lập Đội Công binh xưởng quân giới có
3 đồng chí cán bộ khung và 15 đồng chí thợ hàn, thợ gò, thợ rèn. Đến
năm 1973, đội có 28 đồng chí và đầu năm 1975, đội có 35 đồng chí.
Đội công binh xưởng quân giới đã khắc phục khó khăn để sản
xuất, chế tạo vũ khí kết hợp với tác chiến đánh địch. Sau khi thành
lập, Đội đã thực hiện được những thành tích nổi bật. Trong đó phải
kể đến trận đánh chống càn đầy cam go và ác liệt diễn ra vào ngày
8/6/1971. Địch dùng trực thăng đổ bộ 1 đại đội biệt kích Mỹ xuống
cánh đồng ruộng Chác, đột kích vào khu vực bìa rừng gần Văn phòng
Thị đội tại căn cứ Út Lan (có 18 gia đình cơ sở cách mạng). Khi phát
hiện địch, Đội Công binh xưởng quân giới phối hợp với Thị đội ở
lại chặn đánh địch để bảo vệ thương binh, phụ nữ, người già lui về
phía sau. Đến trưa gần hết đạn, Đội phân công 1 đồng chí băng lửa
đạn để liên lạc với Đội biệt động chi viện. Cùng lúc này, 2 chiếc trực
thăng của địch quần đảo, kèm theo 1 đại đội biệt kích Mỹ, địch bắn
pháo liên tục. Đội Công binh xưởng quân giới vẫn chống trả quyết
liệt, đến 14 giờ với 1 trái lựu đạn Đội tiêu diệt khẩu đại liên và một
số tên địch, làm cho chúng rối loạn đội hình. Lúc này có khoảng 20
lính Mỹ đang triển khai đội hình chặn đánh; Đội phân công 1 đồng
chí lợi dụng địa hình đánh 2 trái lựu đạn, kết hợp với các loại vũ khí
khác đồng loạt tiêu diệt địch, bắn máy bay, trận càn của địch thất
bại. Kết quả trận này, ta tiêu diệt 34 tên biệt kích Mỹ làm bị thương
499

50.10 Page 500

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
17 tên, bắn rơi 2 máy bay, phía ta 1 đồng chí hy sinh, 1 đồng chí bị
thương. Sau trận này, Đội Công binh được Tỉnh đội tặng Bằng khen.
Tiếp đó, vào tháng 8/1971, trong điều kiện hết sức khó khăn, gian
khổ Đội nghiên cứu để chế tạo “bệ phóng bom bay”. Nhận thấy mô
hình này rất phù hợp với chiến trường địa phương nên tranh thủ, kết
hợp với du kích Bảo Vinh, Đội huy động 15 đồng chí sưu tầm bom
pháo làm thử nghiệm 2 bệ 105 ly và 1 bệ phóng 155 ly tại ruộng
Nhím. Ngày 25/8/1971, để thực nghiệm “bệ phóng bom bay”, Đội
tổ chức đánh đồn Bảo Vinh B. Đồn này được địch xây dựng kiên
cố hình tam giác mỗi cạnh khoảng 25m, bờ đê cao 3m, lô cốt canh
gác, dưới bờ đê là hầm ngầm bê tông cốt thép địch sinh hoạt ở dưới
hầm. Qua đo đạc cự ly, ta phóng vào đồn 3 bệ pháo 105 ly, sau đó,
ta phóng tiếp 2 bệ nữa khiến địch hoang mang ra đầu hàng, có nhiều
tên thốt lên với dân: “Việt cộng nó bắn vũ khí gì mà kinh quá!”. Kết
quả trận này, ta đã bức rút được đồn Bảo Vinh B, bắt 20 tên, thu 20
súng AR15.
Trận đánh tiêu biểu khác diễn ra vào tháng 11/1971, Đội Công
binh xưởng quân giới dùng vũ khí tự tạo tập kích vào căn cứ Hoàng
Diệu tiêu diệt 10 tên Mỹ, phá hủy 1 khẩu pháo 105 ly, 1 khẩu pháo
155 ly và 1 kho xăng của địch. Tiếp đó vào tháng 12/1971, Đội Công
binh xưởng quân giới dùng 2 bệ phóng tự tạo tập kích vào căn cứ
Hoàng Diệu, diệt và làm bị thương 20 tên Mỹ, phá hủy 1 pháo 155
ly, 1 pháo 175 ly.
Thời điểm này, ta phát huy được vũ khí hạng nặng là đạn 105 ly,
155 ly bắn bằng bệ gỗ, hơn nữa bom pháo lép của địch có khắp nơi,
các rẫy, ruộng, vườn, được các tầng lớp nhân dân thu gom lại. Loại vũ
khí này hoàn toàn là của địch, nên Đội Công binh xưởng quân giới thu
gom chế tạo tại địa bàn cách căn cứ đồn bót của địch khoảng 2-3km,
chỉ cần ba lô đựng cưa, đục, 5-7 giờ sau là có hàng trăm kg vũ khí để
giáng xuống đầu địch. Cách làm này rất đơn giản nhưng đánh địch
hiệu quả cao, tiết kiệm được sức người, sức của, tránh được thương
vong, bảo tồn được lực lượng. Nhân dân thị xã Long Khánh hồ hởi
500

51 Pages 501-510

▲back to top


51.1 Page 501

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phấn khởi và tin tưởng, dấy lên phong trào tìm bom pháo lép của địch
đánh lại địch. Thực hiện khẩu hiệu: “Ngày không giờ, tuần không
thứ”, đội tích cực sưu tầm chế tạo, nghiên cứu trận địa rồi đi đánh.
Đội Công binh xưởng quân giới kết hợp với Đội biệt động, Đội
trinh sát vũ trang, các đội du kích đi đánh liên tục không có thời gian
nghỉ ngơi vì đánh loại vũ khí này không ai thay thế được, chỉ người
có chuyên môn và đánh có kinh nghiệm thì hiệu quả đem lại mới cao
và không trúng vào dân. Quy trình đánh căn cứ đồn bót nào cũng đều
có Đội Công binh xưởng quân giới. Nhiều trận đánh sân bay co, ta
thu gom đạn pháo của địch để đánh địch, tập kết đạn pháo, mở đầu
pháo ra bỏ, khoan lổ, đóng bệ gỗ, làm đầu gỗ để gắn kíp nổ. Khi tổ
chức đi đánh, phía ta đều có lực lượng khiêng vác: cứ 1 trái 105ly
một người vác, 1 trái 155ly có 2 người khiêng. Do đó, có trận đánh
ta huy động cả đơn vị hơn 20 đồng chí. Ngoài ra nếu đánh nhiều bệ
thì huy động thêm số dân trốn lính và lính trốn cùng đi ra đến gần
trận địa khoảng 1000m, ta tổ chức dò mìn vì khoảng này địch hay gài
mìn. Đến cách đồn địch 400m, ta tập kết vũ khí và cho 1 số anh em
về trước, còn lại 3-5 đồng chí đo đạc cự ly định vị tầm, hướng, rồi
đào hố chôn thuốc thiết kế bệ phóng chấm điện đề-pa bệ phóng rồi
rút về, “bệ phóng bom bay” tự động nổ bay đúng mục tiêu diệt địch.
Như trận ở Bình Lộc từ ngày 10 đến 15/2/1972, Đội Công binh
xưởng quân giới dùng pháo bệ bắn vào 2 đồn, diệt 81 tên, làm tiêu
hao nặng 1 đại đội bảo an và 1trung đội cảnh sát đặc biệt, bắt sống
tên trưởng ấp ác ôn, thu 25 súng AR15 và các thiết bị khác.
Hay trận đánh ngày 19/4/1972, Đội Công binh xưởng quân giới
đánh tập kích vào các cơ quan đầu nảo Sư đoàn 18 chế độ Sài Gòn.
Hệ thống bố phòng ở đây kiên cố, bề ngoài bao bọc hàng rào lò xo,
cứ một đoạn chúng lại gài mìn, đèn pha cực sáng. Đúng 19 giờ 15,
toàn đội hóa trang đột nhập vào khi vực vào cách vành đai khoảng
500m, sau đó đánh 3 bệ pháo diệt và làm bị thương 36 tên, phá nổ 1
kho đạn, rồi rút lui an toàn.
Trong chiến dịch Nguyễn Huệ từ tháng 4 đến tháng 9/1972, Đội
501

51.2 Page 502

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
công binh xưởng quân giới phối hợp cùng đội du kích, biệt động,
trinh sát dùng pháo bệ đánh liên tục các ấp ven thị xã cô lập các đồn
bót, nâng thế làm chủ của quần chúng lên một bước mới.
Tại Bảo Vinh A, ngày 19/8/1972, Đội Công binh xưởng quân giới
cùng đội biệt động phục kích ngay trên đường Long khánh đi Bảo
Vinh A. Trong trận đánh có sự phối hợp chặt chẽ này, từ 5 giờ sáng,
2 bệ phóng của Đội Công binh xưởng quân giới câu vào đồn làm
một số chết và 1 tên bị thương. Địch chở 2 xe viện binh GMC tới,
đưa tên lính bị thương lên thị xã cấp cứu, đi trước là 1 trung đội bảo
an, đi sau là 1 tiểu đội dân vệ. Chúng đi rồng rắn, đợi đến khi chúng
lọt vào khoảng giữa 2 mũi phục kích, Đội đồng loạt nổ súng, 2 trái
mìn ĐH10 phát hỏa ngay giữa đội hình địch. 2 tổ xung phong chiếm
lấy mặt đường, khẩu B40 điểm chỉ trúng đích, dập tắt ổ đại liên viện
binh từ thị xã vào. Sau 15 phút chiến đấu, địch tung quân đến bao
vây, 1 đồng chí trong Đội bị thương, đạn sắp hết nên Đội tìm cách
rút lui an toàn. Kết quả đã xóa sổ 1 trung đội bảo an, chết tại chỗ 39
tên trong đó có 2 tình báo tiểu khu, 5 tên khác bị thương, thu được
5 súng AR15, phá hủy 1 đại liên, 1 máy bộ đàm. Qua trận đánh này,
quần chúng rất phấn khởi, phá được thế kiềm kẹp, chiếc cầu nối giữa
vùng ven với thị xã được thành lập.
Từ ngày 28 đến 31/1/1973, 1 tiểu đoàn biệt động quân và 2 đại đội
địch càn vào lấn chiếm Bảo Vinh A; Đội Công binh xưởng quân giới
và các lực lượng vũ trang địa phương bao vây cô lập đồn bằng 2 bệ
pháo 105ly, phát loa kêu gọi, bắn tỉa, cắm cờ băng rôn, khẩu hiệu rải
truyền đơn. Biết địch từ Long Khánh sẽ chi viện cho đồn bằng hướng
này, Đội công binh xưởng quân giới thiết kế 2 bệ phóng khi thấy địch
tràn xuống, đội phát hỏa, bắn một số loạt súng trường rồi rút về, Đội
di chuyển đội hình qua phía Bắc (Ruộng Hời) nơi có sẵn 1 bệ phóng.
Khi địch nghe Đội đã rút, chúng tràn xuống thu dọn thương vong,
Đội Công binh xưởng quân giới đánh phủ đầu 1 bệ phóng. Bệ phóng
thứ 2 nằm phía Tây Nam, chờ cho địch chủ quan nghĩ là đội đã rút,
đến chiều khi xe lấy thương và địch thu dọn chiến trường, Đội khai
hỏa bệ này. Kết quả trận này ta tiêu diệt 150 tên địch, làm chủ hoàn
502

51.3 Page 503

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
toàn Bảo Vinh A.
Cũng thời điểm này địch có những đại đội đặc nhiệm hay đi càn
quét có thể nghe “hơi” là chúng đi ruồng bố càn quét khống chế tra
hỏi nhân dân, nhất là đại đội của tên Ngộ, vốn là trinh sát đặc công
của ta đã đầu hàng địch. Chúng rất rành chiến thuật của ta, ở địa bàn
B3 ta tập trung dân tổ chức mít-tinh, mừng ngày thành lập Đảng.
Đến 8 giờ sáng hôm sau, chúng dẫn đại đội vào gỡ cờ băng rôn, thu
truyền đơn, ta đánh 1 bệ phóng làm chết bị thương 8 tên địch. Trận
thứ 2 cũng gần địa điểm này, hình thức như trên để mừng sinh nhật
Bác; chúng cũng dẫn đại đội vô tại điểm, ta đánh phủ đầu 2 bệ, kết
quả làm chết và bị thương 24 tên.
Từ tháng 6 đến tháng 7/1973, địch tập trung lực lượng khôi phục
đường sắt từ Long Khánh đi Gia Ray về miền Trung nhằm là kiểm
soát vùng chuyên chở vũ khí và quân lính chi viện cho đồi E52 Gia
Ray; Lộ 3 Bảo Chánh, Ông Đồn, Suối Cát. Ngoài các đơn vị, địa
phương địch tập trung lực lượng mạnh của các đại đội đặc nhiệm,
cảnh sát dả chiến, Sư đoàn 18… chúng còn điều động thêm liên đoàn
biệt động quân và 1 tiểu đoàn bảo an từ Bình Dương lên để tuần tra
và chốt giữ. Đội Công binh xưởng quân giới phối hợp với lực lượng
trên địa bàn thị xã Long Khánh dùng toàn pháo bệ, pháo gài đánh
22 trận diệt 176 tên, làm bị thương 56 tên, phá hủy 5 đầu máy và 12
toa xe lửa.
Đầu tháng 7/1973, nhận nhiệm vụ đánh 1 đại đội địch ở cầu 8
thước, Đội Công binh xưởng quân giới dùng 2 trái pháo 105 ly chế
đầu nổ bằng ống tre thử nghiệm để gài đánh. Đúng như dự tính, địch
đi mở đường, nổ chết 21 tên, 7 tên bị thương, phá hủy 1 đầu máy và
6 toa xe lửa.
Ngày 15/7/1973 qua nghiên cứu, Đội Công binh xưởng quân giới
thấy địch thường hoạt động theo quy luật: khi hành quân, đến gần
cầu thì xe lửa dừng lại, bố trí 1 tiểu đội đi đến cầu dò xét, số còn lại
ngồi dưới lùm cây nghỉ mát. Đội Công binh xưởng quân giới gài bẫy
pin dây điện, trái pháo 105 ly khoan thêm 1 lổ để cho kíp điện vào.
503

51.4 Page 504

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhưng bộ nổ thật bằng ống tre đang nằm trong trái pháo. Khi chúng
phát hiện pin, dây điện chúng gỡ lần theo dây điện lôi kíp ra, chúng
nghĩ đã an toàn. Tên vác pháo hí hửng, cả đại đội đang nghỉ mát dưới
lùm cây, từ trên vai tên địch thả xuống trái pháo nổ làm chết và bị
thương gần 70 tên, trong đó có tên đại đội trưởng.
Cầu 4 thước địch làm và ta phá liên tục, nên chúng cho 1 trung
đội chốt trên cầu, dùng lòng đường xe lửa làm công sự vì hai bên là
ruộng, ta khó mà đánh bằng đặc công. Ngày 28/7/1973, đi nghiên
cứu thấy cầu cao hơn ruộng khoảng 2m địa hình toàn là ruộng không
có điểm để đào hố thiết kế bệ phóng nên Đội có có sáng kiến dùng
ny-lông, áo mưa gói thuốc nổ an toàn mối nối dây điện chôn dưới
ruộng, cắt bớt dây chuyền nổ, áng chừng nổ chụp trên đầu khoản 5
- 10m. Thiết kế lắp đặt xong 20 giờ15 ngày 29/7/1973 phát hỏa như
dự tính, làm chết 33 tên, 1 tên bị thương, bắn hoảng được mấy trái
M79 rồi chết luôn. Đến 24 giờ, trực thăng được pháo binh yểm trợ
chúng mới lấy được xác.
Tháng 2/1973 được tin địch khôi phục đường sắt, Đội dùng mìn,
thuốc nổ phá hủy tất cả cầu cống trên tuyến đường sắt từ Long Khánh
đi Gia Ray. Đêm 26 rạng sáng 27/11/1973, Đội Công binh xưởng
quân giới dùng pháo bệ đánh chiếm 4 ấp. Tháng 12/1973, một bệ
phóng vào Khu thiết đoàn 5 kỵ binh nằm trong Sư đoàn 18 thuộc nội
ô thị xã làm 51 tên chết và bị thương, 5 giờ sáng chúng đang tập thể
dục, ta dùng bệ phóng vào ngay sân tập, phá hủy 4 xe tăng và nhiều
nhà cửa kho tàng. Lúc này Đội Công binh xưởng quân giới chế ngòi
nổ hẹn giờ và cũng thử nghiệm khi thiết kế lắp đặt xong ta về cứ nghỉ
ngơi an toàn, ngoài trận địa đến giờ tự nổ đưa pháo vào mục tiêu đã
định, tránh được thương vong khi địch phản pháo (trước đây ta kéo
dây điện để phát hỏa, địch phản pháo).
Ngày 19/2/1974, Đội Công binh xưởng quân giới huy động 15
đồng chí dùng bệ pháo tập kích vào đồn, đánh thiệt hại nặng 1đại
đội bảo an, bắt sống 1 tên thám báo. Đêm 27/3/1974, Đội Công binh
xưởng quân giới phối hợp với đội biệt động, trinh sát, tự vệ mật
504

51.5 Page 505

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đồng loạt tấn công nhiều mục tiêu trong nội ô, diệt 22 tên cảnh sát, 1
trưởng ấp ác ôn, 2 phòng vệ dân sự.
Từ ngày 9 đến 12/12/1974, Đội Công binh xưởng quân giới với
trên 30 đồng chí dùng bệ pháo diệt và làm bị thương 103 tên, trong
đó có nhiều sĩ quan cấp úy, cấp tá. Ngày 24/5/1974, đội biệt động,
trinh sát, Đội Công binh xưởng quân giới dùng bệ pháo đánh sâu
vào nội ô diệt 122 tên, nổ tung 1 kho đạn, diệt thêm 27 tên. Ngày
15/1/1975, Đội Công binh xưởng quân giới đột sâu vào sân bay dùng
1 bệ pháo diệt 8 tên sĩ quan, nhân viên kỹ thuật, phá hủy 3 máy bay.
Trong 2 ngày 18 và 19/3/1975, Đội đánh 13 bệ, đầu tiên phóng
vào đồn 3 bệ đồng thời phát loa kêu gọi địch buông súng đầu hàng,
địch không trả lời. Đến 5 giờ sáng, ta phóng vào 5 bệ dồn dập tiếp tục
kêu gọi bọn địch, trong đồn hoang mang không dám bắn trả nhưng
cũng không chịu đầu hàng. Tiếp tục đến bệ thứ 13, chúng hoảng hốt
bỏ đồn chạy trốn. Đến chiều 19/3, ta phát động quần chúng, dùng
cuốc, xẻng vào để ban đồn thì pháo đã ban lấp hết cả các cửa hầm
ngầm mái tole che cửa hầm, miếng nào cũng thủng như cái rổ. Quần
chúng nhân dân vác cuốc xẻng ra về hò reo vui mừng vì vĩnh viễn
xóa sổ đồn. Kết quả trận này, ta tiêu diệt 10 tên, 1 diệt ổ đại liên, 1
súng cối.
Từ ngày 27 đến ngày 31/3/1975, Đội Công binh xưởng quân giới
dùng bệ phóng pháo san bằng 4 đồn Bình Lộc, Suối Chồn, Bảo Vinh
A và B và cầu 4 thước, giải phóng các ấp vùng ven, cửa ngõ phía
Bắc thị xã Long Khánh đã mở, tuyến phòng thủ ven thị xã đã bị đập
tan mở đường cho đại quân ta vào giải phóng Long Khánh vào ngày
21/4/1975.
Sau ngày 21/4/1975, đơn vị tham gia giữ tù binh, gỡ hơn 2.200
trái mìn chống tăng, thu gom hơn 1.500 tấn bom đạn các loại để nhân
dân đi lại làm ăn sản xuất, trinh sát phục vụ cho lực lượng diệt và bắt
sống 1 tiểu đoàn tàn quân hoạt động vùng sông La Ngà, Gia Kiệm,
Bảo Vinh. Cuối năm 1975, đơn vị giải thể, các đồng chí trong đơn vị
tiếp tục tham gia trong quân đội và chuyển ngành.
505

51.6 Page 506

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Như vậy, Đội công binh xưởng quân giới đã độc lập đánh hơn 45
trận diệt và làm bị thương hơn 1 ngàn tên địch, 82 tên Mỹ, bắn rơi và
phá hủy 8 máy bay, 9 khẩu pháo 105 ly, 155 ly và 175 ly, 9 xe tăng,
2 kho đạn các loại, 1 kho xăng, đánh sập 24 lượt cầu cống, diệt 1 đại
úy an ninh, 1 thám báo, 8 sĩ quan nhân viên kỹ thuật, 62 sĩ quan cao
cấp và cảnh sát, 1 số tên ác ôn.
Ngoài ra, Đội Công binh xưởng quân giới phối hợp với đội biệt
động, trinh sát, các đơn vị du kích, lực lượng mật đánh địch 35 trận
tiêu diệt 271 tên lính ngụy, 25 tên lính Mỹ, phá hư 3 lô cốt, 1 xe tăng,
1 pháo 155, 2 pháo 105, 12 súng cối, 4 đại liên, 1 trung liên, thu 2
máy PRC 25, bứt rút 3 đồn, bắt địch ra hàng 14 tên, bắt sống 2 tù
binh, làm tiêu hao 1 đại đội.
Với nhiệm vụ chính là sản xuất các loại vũ khí cung cấp cho các
lực lượng trong thị xã, tỉnh, Đội Công binh xưởng quân giới sưu
tầm hơn 3 ngàn trái bom pháo lép của địch cưa đục tháo gỡ lấy hơn
5 ngàn kg thuốc nổ, chế tạo các loại mìn tự tạo hơn 1.200 trái, 215
khối thuốc nổ loại 4,2 kg TNT dùng làm bệ phóng bom bay, đánh cầu
cống, lô cốt, sản xuất hơn 1 ngàn thủ pháo lựu đạn, mìn hẹn giờ, 146
bệ phóng 105 ly và 155 ly, san bằng 6 đồn, phá huỷ 3km đường sắt,
phá huỷ 5 đầu máy xe lửa có 12 toa.
Đội Công binh xưởng quân giới đã tự tìm tòi phát minh, sáng tạo,
cải tiến 1 trái đạn cối cưa bỏ phần đuôi cho vào lon gigô là thành trái
mìn 1 ống tre, 1 cục pin, 1 kíp điện, trở thành loại vũ khí diệt cả trăm
tên địch. Đội còn chế bộ phận bệ phóng hẹn giờ, tránh được thương
vong khi địch phản pháo, sáng kiến đem bao tải đi theo khi thiết kế
bệ phóng. Như khi đi nghiên cứu thì chất đất cứng nhưng khi đào hố
thì đất mềm, thoạt đụng đá phải lấy đất nơi khác bỏ vào bao tải chất
lên phía sau hoặc phía trên để tăng cường lực đẩy cho bệ và không
bị kích thích nổ bệ tại chỗ. Đội còn sáng kiến lấy ny-lông bọc thuốc
thiết kế bệ dưới ruộng nước.
Đặc điểm của bệ phóng bom bay, bệ bằng gỗ, gắn một 1 bệ 1 trái
pháo 155 ly nặng 45kg, pháo 105 ly mỗi trái nặng 15kg, 3 trái thiết
506

51.7 Page 507

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kế cho 1 bệ, cự ly bay vào mục tiêu khoảng 400m. Khi xuống mục
tiêu chia thành hình tam giác, trái này cách trái kia khoảng 30m. Loại
bom pháo của địch từ 50kg đến 500-700kg, ta cưa mở lấy thuốc chế
các loại mìn, còn dưới 50kg ta làm vũ khí đánh địch. Loại vũ khí này
chủ động bất ngờ đánh phủ đầu, sang bằng tiêu diệt bất cứ đồn nào
của địch. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975, kho
vũ khí Đội quân giới còn hơn 300 trái pháo 105 ly và 155 ly.
Đội cũng làm tốt công tác binh vận khi vận động được 48 lính
bỏ hàng ngũ địch trốn ra rẫy ruộng làm ăn, 24 thanh niên đến tuổi
trốn lính vào bổ sung cho các lực lượng. Vận động hàng trăm gia
đình ở các vùng ven, Đội Công binh xưởng quân giới đi đến đâu
cũng được sự, che chở bảo vệ và cũng là đội quân sưu tầm bom
pháo lép khắp các vùng, có nhiều gia đình có chồng con em đang
làm việc hay cầm súng cho địch mà chính vợ con họ vẫn quý mến
che chở và góp phần thu gom bom pháo, nhân dân tham gia chở
bom pháo lép của địch bằng máy cày, máy xới, xe bò, xe đạp vào
cho Đội làm vũ khí đánh địch.
Với những thành tích trên, Đội công binh xưởng quân giới được
tặng 8 bằng khen của Tỉnh đội, cá nhân 21 Bằng khen của Tỉnh đội,
52 Giấy khen của Thị đội Long Khánh, 3 năm liền (1972, 1973,
1974) đạt Cờ luân lưu Quyết thắng của tỉnh.
Ngày 27/4/2012, Đội công binh xưởng quân giới được Nhà nước
phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
507

51.8 Page 508

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Bàu Hàm 2
Tháng 11/1971, xã Bàu Hàm 2(1) chính thức được thành lập thuộc
huyện Thống Nhất. Lúc này, xã gồm 3 ấp: Ngô Quyền, Nguyễn Thái
Học và Lê Lợi. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ấp Lê Lợi
được sát nhập về xã Gia Kiệm. Đến đầu năm 1978, xã Bàu Hàm 2
tiếp nhận thêm 3 ấp của xã Dầu Giây là: Trần Cao Vân, Phan Bội
Châu và ấp Lộ 25.
Xã Bàu Hàm 2 có diện tích đất tự nhiên là 2.018,33 hécta. Phía
Bắc xã Bàu Hàm 2 giáp xã Bàu Hàm và xã Quang Trung. Phía Nam
giáp xã Lộ 25 - Long Thành, phía Đông giáp xã Xuân Thạnh, phía
Tây giáp xã Hưng Lộc.
Địa bàn xã Bàu Hàm 2 nằm trên hành lang nối liền Nam Bộ - cực
Nam Trung Bộ - Nam Tây Nguyên. Quốc lộ 1 nối liền Nam - Bắc đi
ngang qua xã; quốc lộ 20 từ ngã ba Dầu Giây lên Lâm Đồng đi Tây
Nguyên… Xã có tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy qua do thực dân
Pháp xây dựng vào đầu năm 1897 nhằm tiến hành khai thác thuộc địa
lần thứ nhất với quy mô lớn. Trong 2 thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, xã Bàu Hàm 2 là vùng tạm chiếm, thường
xảy ra các cuộc chiến đấu quyết liệt giữa nhân dân ta và quân địch.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Thống Nhất.
508

51.9 Page 509

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Địa hình xã có những bờ suối rậm rạp, chằng chịt, giúp cách mạng
hoạt động thuận lợi trong việc che mắt quân thù, che giấu cán bộ. Đây
cũng là nơi nhân dân ta cất giấu, cung cấp lương thực, thực phẩm cho
nhiều đơn vị bộ đội và du kích địa phương qua hai cuộc kháng chiến.
Dân số xã Bàu Hàm 2 thời Pháp thuộc chủ yếu từ sở cao su, có
khoảng 2.500 nhân khẩu. Thời kỳ Mỹ - Thiệu có khoảng 4.700 nhân
khẩu. Từ sau ngày đất nước thống nhất, dân cư xã Bàu Hàm 2 gồm
có nhiều thành phần dân tộc, tôn giáo, đa số người dân là người
lao động chân tay cần cù, sáng tạo, chịu khó nghiên cứu, tìm hiểu
kinh nghiệm trong sản xuất, giàu lòng yêu nước, đồng lòng cùng với
chính quyền địa phương xây dựng xã Bàu Hàm 2 ngày càng phát
triển, giàu đẹp.
Từ thời kỳ chống Pháp, ngọn lửa đấu tranh tự phát đầu tiên của
nhân dân xã Bàu Hàm 2 - Dầu Giây được nhen nhóm qua từ những
cuộc đình công, đấu tranh phản đối chống sự áp bức, bóc lột của bọn
chủ sở Tây, cộng với sự đánh đập tàn ác hà khắc của bọn cai, su.
Dưới hình thức thành lập tổ chức Công đoàn đến những cuộc nổi dậy
của giai cấp công nhân, nhất là công nhân cao su, cùng các tầng lớp
nhân dân theo tiếng gọi của Đảng với những chiếc gậy tầm vông vạt
nhọn, lưỡi lê, mã tấu nhất tề đứng lên kháng chiến chống thực dân
Pháp giành thắng lợi.
Trong kháng chiến chống Mỹ, địa bàn xã Bàu Hàm 2 - Dầu Giây
luôn nằm trong vùng địch tạm chiếm. Giai đoạn từ năm 1968-1970,
địch đánh phá ác liệt nhất, kìm kẹp và phong tỏa về kinh tế gắt gao
nhất, là giai đoạn khó khăn nhất của phong trào cách mạng tỉnh Biên
Hòa. Phong trào cách mạng ở xã Bàu Hàm 2 gặp nhiều khó khăn
tưởng chừng không vượt qua nổi. Từ một xã “trắng” không có tổ
chức Đảng, là xã yếu của huyện lúc bấy giờ, năm 1966, Huyện ủy đã
nhận định đúng tình hình và có giải pháp kịp thời để tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng bằng cách thành lập chi bộ, để có Đảng lãnh đạo
trực tiếp, tăng cường thêm cán bộ về ấp, xã để xây dựng phong trào.
Chỉ trong vòng 3 năm, phong trào đã phát triển khá mạnh. Địa bàn
509

51.10 Page 510

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
xã thực sự trở thành là “bàn đạp”, là hành lang giao thông liên lạc tin
cậy của tỉnh Biên Hòa (U1) với chiến khu Đ.
Đa số những người dân của xã Bàu Hàm 2 tham gia lực lượng
du kích kháng chiến tại địa phương, tham gia tiếp tế, làm sơ sở mật
phục vụ cách mạng, một số phải xa nhà đi vào căn cứ, mật khu để bổ
sung lực lượng cho kháng chiến. Được sự đùm bọc, giúp đỡ, che chở
của nhân dân Bàu Hàm 2, phong trào cách mạng vẫn luôn tồn tại và
phát triển, nhân dân địa phương đã có nhiều đóng góp to lớn về sức
người, sức của để làm nên chiến thắng lịch sử vào ngày 30/4/1975,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Từ những thành tích trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Bàu Hàm 2 vinh dự
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân theo Quyết định của Chủ tịch Nước số: 203/KTCTN ngày
11/6/1999.
510

52 Pages 511-520

▲back to top


52.1 Page 511

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Long An
Xã Long An(1) thuộc huyện Long Thành, nằm giữa xã An Hòa và
xã Phước Thái trên trục quốc lộ 51. Phía Đông xã Long An giáp xã
Suối Trầu, phía Tây giáp xã Long Thọ và Hiệp Phước (huyện Nhơn
Trạch), phía Nam giáp xã Long Phước, phía Bắc giáp 2 xã Lộc An,
Bình Sơn và thị trấn Long Thành.
Tổng diện tích tự nhiên của xã là 3.383,97hécta. Xã nằm tiếp giáp
trung tâm huyện lỵ, cách nơi địch đặt chi khu quân sự không đầy
1km. Xã có quốc lộ 51, đường chiến lược xuyên qua, có rừng Đồng
Nghệ thuận lợi cho đóng quân, ém quân của ta trong kháng chiến.
Địa hình xã Long An khá bằng phẳng, có xu hướng thấp dần theo
hướng Bắc Nam.
Địch xem Long An là vành đai bảo vệ chi khu quân sự Long
Thành, quyết tâm biến Long An thành nơi hậu địch vững chắc không
có cách mạng.
Phía ta xem xã Long An như tiền đồn để tiếp cận nắm tình hình
địch để đánh vào cơ quan đầu não của địch ở chi khu quân sự Long
Thành. Xã Long An có vị trí chiến lược khá quan trọng trong 2 thời
kỳ kháng chiến, không những về quân sự mà cả về mặt hậu cần.
Góp phần cho những thắng lợi của cách mạng miền Nam, vùng đất
(1) Nguồn: Lịch sử Đảng bộ xã Long An 1930-2015, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2016.
511

52.2 Page 512

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Long Thành là nơi đánh bại các lực lượng quân sự nổi tiếng của Hoa
Kỳ như: sư I Anh cả đỏ, lữ đoàn dù 173, sư đoàn 199 thủy quân lục
chiến, quân lính chư hầu Thái Lan, Úc. Rừng Suối Cả, khu Vườn
Điều, Helena, Bình Sơn, Tam An, Tam Phước, Long An, Phước
Thọ… trở thành những địa danh làm các kẻ xâm lược tham chiến tại
Long Thành khiếp sợ.
Xã Long An có 9 thành phần dân tộc cộng cư. Theo số liệu thống
kê của xã vào tháng 11/2011, tổng dân số của xã là 3.604 hộ gia đình
với 14.938 nhân khẩu. Dưới thời đế quốc phong kiến, đời sống của
nhân dân xã Long An đói khổ vì cảnh bóc lột tận xương tủy. Ruộng
đất hầu hết bị cướp đoạt để xây dựng đồn điền cao su nên người dân
hầu như phải đi làm thuê cho địa chủ, thực dân. Từ cuộc sống khổ
cực nước mất, nhà tan nên lòng yêu nước, ý thức độc lập dân tộc
được khơi dậy, người dân Long An sớm giác ngộ cách mạng.
Theo dòng lịch sử, thời Cần Vương có nghĩa quân Nguyễn Trung
Trực, Trương Công Định về đóng quân luôn được nhân dân xã Long
An tham gia, giúp đỡ, bao bọc. Khi ánh sáng của cách mạng soi đến,
nhân dân phấn khởi tin theo và sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
Năm 1908, phong trào yêu nước Thiên Địa hội tràn về Long
Thành. Ở hầu hết các xã đều có tổ chức Thiên Địa hội và được chia
ra từng cụm. Cụm Phước Thái, Long An, Long Phước do cụ Lê Lưu
Di phụ trách đặt tại đình Long Phước.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa, Long Thành là trận địa
chốt chặn, sau là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Trương Định.
Trương Định mất, các hội kín tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó khăn,
tiêu biểu là thành tích diệt ác gian Trần Bá Hựu năm 1881 của nhóm
nhà sư Trần Văn Tấn.
Từ những năm 1936, nhân dân các xã Phước Lộc, Long An, Tam
An, Tam Phước bắt đầu tiếp thu tư tưởng cách mạng tham gia mít-
tinh, biểu tình chống Pháp.
Năm 1936, nhân dân các xã Phước Lộc, Long An, An Lợi, Phước
512

52.3 Page 513

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thiền, Tam An, Tam Phước, Phước An, Long Thọ... dưới sự lãnh đạo
của các đảng viên cộng sản như: Trương Văn Bang, Hồ Văn Giàu,
Hồ Văn Đại, Huỳnh Văn Lũy... tổ chức nhiều cuộc mít-tinh, đưa dân
nguyện đòi giảm sưu thuế, đòi các quyền tự do dân chủ.
Xã Long An là có phong trào cách mạng rất sớm. Từ năm 1943,
Xứ ủy Nam kỳ đã cử đồng chí Phạm Văn Dục về xây dựng cơ sở
cách mạng đầu tiên tại nhà cố Thiếu tướng Lương Văn Nho ở ấp Xóm
Trầu, xã Long An. Từ những cơ sở quần chúng, tiến tới thành lập các
nghiệp đoàn và xây dựng phong trào “Thanh niên Tiền Phong”, xây
dựng cơ sở Đảng ở địa phương.
Sau Cách mạng tháng Tám giành chính quyền vào ngày 25/8/1945,
chỉ trong 2 tháng, tại xã Long An đã xây dựng và thành lập chính
quyền cách mạng, Ủy ban kháng chiến hành chính là cơ quan đầu
não của xã, lãnh đạo toàn thể phong trào của địa phương. Bên cạnh
là các hội, đoàn cứu quốc ra đời như: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân,
Phụ lão, Thiếu nhi.
Cũng sau Cách mạng tháng Tám, về lực lượng vũ trang, xã thành
lập 1 trung đội dân quân du kích xã với 4 khẩu súng, giáo, mác, tầm
vông với khí thế cao trào cách mạng. Đội nữ dân du kích xã Long
An khoảng mấy chục người kết hợp với lực lượng Thiếu niên tiền
phong, bộ đội đi đào hầm, đào đường quốc lộ 15, chặt phá cao su tại
nông trường cao su Bình Sơn. Đến tháng 7/1946, công an xã Long
An được thành lập. Chính quyền cách mạng khẳng định, vũ khí sắc
bén nhất lúc này là con tim, lá gan và bộ óc của đồng bào, nhất định
không thể để cho địch khống chế, kìm kẹp, biến mảnh đất Long An
thành công cụ cho địch sử dụng.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhân dân Long An đã tổ
chức nhiều cuộc biểu tình, đấu tranh lớn nhỏ bao gồm: kéo quân
lên quận đấu tranh phản đối việc bắt phu, bắt lính, đấu tranh đòi bồi
thường hoa màu, nhà cửa do địch ném bom, càn phá; tố cáo kẻ thù
sát hại thường dân, đấu tranh với địch để cày cấy ở đồng Xóm Gốc,
Xóm Trầu, Bàu Giao.
513

52.4 Page 514

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trong đấu tranh binh vận, dân quân trong xã tổ chức nhiều lần
gặp thân nhân binh lính địch để phân tích, khuyên nhủ, kêu gọi bỏ
ngũ về với gia đình. Bí mật xây dựng lực lượng cơ sở mật len lỏi vào
tổ chức, vào đồn địch làm nội ứng để nắm tình hình địch, biết trước
những trận càn quét của địch để xây dựng kế hoạch đánh địch. Kết
quả công tác này đã phục kích, tiêu diệt tại trận 2 tên, bị thương 1 tên
và 19 tên chỉ điểm giả danh thương buôn vào ấp Xóm Trầu để nắm
tình hình ta. Ta còn phát động nhân dân phá hoại cơ sở kinh tế địch
như: huy động hơn 50 xe bò vào đồn điền Pháp ở Bình Sơn lấy mũ
bành, chén đựng mủ cao su…
Về công tác hỗ trợ xây dựng phong trào quần chúng, kết hợp với
các ngành Phụ nữ, Thanh niên phát động phong trào tiết kiệm hũ gạo
nuôi quân để tiếp tế cho bộ đội, phát động thanh niên tổ chức việc
canh gác, tòng quân, vận chuyển và cất dấu lương thực, tham gia
đánh phá các cơ sở kinh tế, phá cầu, đào lộ. Cụ thể: huy động nhân
dân đem hơn 50 xe bò vào đồn điền của Pháp tại Bình Sơn lấy mũ
bành, chén đựng mủ, nhằm phá kinh tế của chúng. Lãnh đạo nhân
dân đấu tranh với địch cho cày, cấy ở các cánh đồng như: Xóm Gốc,
Xóm Trầu, Bàu giao. Trong thời gian này, số lúa của nhân dân đóng
góp và đóng thuế lên đến 300 giạ.
Trong 9 năm kháng chiến, quân và dân xã Long An tổ chức đánh
độc lập, kết hợp với lực lượng vũ trang của trên đánh 172 trận. Trong
đó, có 13 trận đánh phá đồn bót, 56 trận chống phá càn quét, 103
trận gài trái, bắn xẻ, diệt 47 tên địch, thu 35 súng các loại, phá hủy
1 xe quân sự. Toàn xã có 180 thanh niên tòng quân nhập ngũ, 213
thanh niên, phụ nữ tham gia lực lượng vũ trang địa phương, công tác
ở chính quyền địa phương. Nhân dân đã đóng góp hàng ngàn ngày
công để tham gia diệt giặc như: phá đường, phá đồn bót, phá hoại
cơ sở kinh tế, vận chuyển lương thực, biểu tình… và đóng góp trên
300 giạ lúa, xe bò làm phương tiện vận chuyển, nhà cửa và nhiều
vật dụng khác phục vụ kháng chiến. Trong kháng chiến, đóng góp
xương máu là to lớn nhất, có 72 đồng chí được công nhận là liệt sĩ,
trong đó có 4 đảng viên (3 chính thức và 1 dự bị).
514

52.5 Page 515

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong thời kỳ chống Mỹ, địch luôn tăng cường vũ khí, xây dựng
chi khu Long Thành, thiết lập đồn bót trên quốc lộ 51 và những nơi
hiểm yếu. Chúng mở chiến dịch Trương Tấn Bửu, ra luật 10/59, hô
hào “Bắc tiến”, tăng cường đôn quân, bắt lính, dồn dân, lập ấp thực
hiện âm mưu “tát nước bắt cá”, xây dựng tổ chức “Ngũ gia liên bảo”
để xiết dân, “kế hoạch ZR-63” (rải chất độc khai quang màu da cam)
và chọn Long Thành, Nhơn Trạch làm thí điểm để tiêu diệt hoa màu
của dân và đánh vào hậu cần cách mạng...
Để phá bỏ âm mưu của địch, Chi bộ xã Long An kịp thời vận động
đồng bào, biến những buổi học “Tố cộng” thành buổi chất vấn kẻ thù
vì không thực hiện Hiệp thương tổng tuyển cử. Đồng bào cũng kiên
quyết không cho con em tham gia những hoạt động của địch, tìm
cách về Sài Gòn, Biên Hòa khai tăng tuổi để trốn quân dịch. Tổ chức
để đồng bào biểu tình, chống đối bắt phu, bắt lính. Tổ chức rải truyền
đơn tố cáo những hành động vi phạm của địch… Trong giai đoạn
1954-1959, địch không tổ chức nổi phong trào “Cách mạng quốc
gia” tại xã Long An, toàn xã không không một ai tham gia phong
trào “Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới”. Luật 10/59 địch đưa ra,
nhưng tại xã Long An, địch cũng không thực hiện được.
Tổng kết thành tích 21 năm kháng chiến chống Mỹ, quân dân xã
Long An đã đánh 756 trận lớn nhỏ, diệt ác phá kìm, phá ấp chiến
lược, gài trái, đặt hầm chông, hầm đinh, chống càn, bắn trả, diệt ác
ôn, phá đồn bót. Trong đó, có 205 trận kết hợp với lực lượng của
trên; diệt 509 tên địch, trong đó có 300 tên giặc Thái; diệt 28 tên ác
ôn, bắt sống 57 tên địch, trong đó có 2 lính Mỹ, 2 lính Đại Hàn; phá
hủy 11 xe bọc thép, 6 xe GMC; thu 462 súng các loại, gần 2 tấn đạn
và lựu đạn.
Về đấu tranh chính trị trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đồng
bào Long An tổ chức 164 cuộc đấu tranh chính trị, trong đó có nhiều
đợt đấu tranh lên quận, lên tỉnh Biên Hòa, điển hình là các cuộc đấu
tranh diễn ra vào tháng 5/1960, hơn 70 đồng bào Long An kéo về
quận đấu tranh đòi địch phải bồi thường thiệt hại do địch bắn pháo
515

52.6 Page 516

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
kích vào xóm. Năm 1961, hơn 200 đồng bào kéo về chi khu Long
Thành, sau đó kéo tiếp về Biên Hòa đấu tranh đòi về ấp cũ, không
chịu ở trong ấp chiến lược. Năm 1962, hơn 100 đồng bào làm đơn
kéo về huyện tố cáo việc xúc tát dân làm mất tài sản, buộc địch phải
bồi thường thiệt hại.
Về đấu tranh binh vận trong kháng chiến chống Mỹ, quân dân xã
đã cài người làm nội ứng, nắm tình hình, hoàn cảnh của bọn ngụy
quân, qua đó gửi thư khuyên nhủ. Kết quả đã có 186 lính rời hàng
ngũ về với gia đình, một số về nhà và tham gia cách mạng. Đặc biệt
những thời kỳ nội bộ địch rối ren như lúc anh em Diệm - Nhu bị đảo
chính, gần 100 lính quân đội Sài Gòn bỏ trốn ra với cách mạng.
Đóng góp sức người, sức của tính chung trong 2 thời kỳ kháng
chiến, đồng bào đã cho 243 con em lên đường nhập ngũ, 465 thanh
niên, phụ nữ tham gia lực lượng địa phương. Đóng góp trên 400 ngày
công phục vụ chiến trường như dân công hỏa tuyến, đào hầm hào,
hố chông, hố đinh, làm hầm bí mật, phá đường, phá cầu cống. Trên
2000 ngày công cho việc phá ấp chiến lược. Trên 10.000 ngày công
vào việc di chuyển vào sâu xây dựng làng chiến đấu.
Trải qua chiến tranh, mặc dù phải di chuyển rời ấp, chuyển làng
gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng đồng bào Long An vẫn thắt
lưng, buộc bụng đóng góp cho cách mạng 552 tấn gạo, trên 10 ngàn
giạ lúa, mua công, trái phiếu trên 1 triệu đồng.
Một số trận đánh tiêu biểu của quân dân xã Long An:
Ngày 19/10/1960, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy về việc phá một
số đồn bốt của địch, quân dân xã tập trung đánh chốt dân vệ ở xã Long
An. Một bộ phận phục kích tại cống Bà Lễ nhằm chặn đường tiếp viện
của địch từ thị trấn đến và chắn địch từ chốt cầu Hưu vào. Khoảng 22
giờ ngày 19/10, các chiến sĩ ta bao vây, nổ súng bắn vào đồn. Cùng lúc
đó, gần 300 đồng bào đổ ra đánh trống, đánh mõ hô khẩu hiệu. 2 tiểu
đội của địch bị đánh bất ngờ, lại thấy 4 phía đều có tiếng hô vang động
nên sợ hãi bỏ đồn chạy mất. Các chiến sĩ ta xông vào dùng xăng đốt
trụi trụ sở và nhà căn tin của địch. Trận đánh thắng lợi, phá tan chốt
516

52.7 Page 517

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
dân vệ đốt cháy trụ sở hội đồng tề, đồng bào xã Long An rất phấn khởi.
Phong trào diệt ác phá kìm sôi nổi hầu khắp xã Long An.
Hay trận đánh vào tháng 8/1961, du kích xã đột nhập vào cơ sở
địch tại ấp 1, phá sập 1 trạm gác và cơ sở truyền tin của địch, diệt 12
tên lính quân đội Sài Gòn, thu 12 súng, 1 máy đánh chữ và toàn bộ
hồ sơ, tài liệu tuyên truyền của địch.
Đầu tháng 2/1963, nội tuyến nằm trong quận Long Thành khai
thác được ở trung úy Sa (Liên toán trưởng, phó ban điều hành quân
lực) về kế hoạch tập trung quân càn vào căn cứ Phước An. Huyện đội
Long Thành liền chỉ đạo phải phá cuộc càn này. Mờ sáng 5/2/1963,
khi quân địch vừa ra khỏi thị trấn, lực lượng du kích và bộ đội huyện
cũng đã hành quân luồn rừng, ém tại khu Giàu Ba, cách chốt quân
sự Liên Kim Sơn khoảng 400 mét. Khi địch tiến vào lộ 19, gần đến
miếu Ông Thiện lối rẽ vào chợ Phước Long, thì tại quận lỵ Long
Thành lực lượng cách mạng nổ súng tấn công đồn Liên Kim Sơn lúc
này chỉ còn 1 tiểu đội, vì phải rút đi tham gia trận càn. Thấy súng
nổ, bộ đội và du kích đông, bọn địch hoảng hốt bỏ chạy, lực lượng
cách mạng nhanh chóng chiếm đồn, đồng thời nổ súng vào chi khu.
Bọn lính trong chi khu chỉ còn lại 2 trung đội không dám ra, chỉ núp
trong những lỗ châu mai bắn ra ngoài loạn xạ. Các chiến sĩ ta giật cờ
ba que xuống, treo cờ cách mạng lên và nổi lửa đốt cháy nhà ngang,
phá sập chòi canh rồi nhanh chóng rút theo đường cũ về căn cứ. Địch
đang hành quân trên tỉnh lộ 19 được tin báo khấn cấp: “Việt cộng
tấn công dinh quận trưởng, tất cả phải về ngay để đối phó” phải vội
vã trở về. Cuộc càn quét vào căn cứ Phước An của địch bị phá sản
nhanh chóng.
Trung tuần tháng 4/1964, nổi tiếng trong giai đoạn này là du kích
địa phương bố trí phục kích diệt tên Tám Kham, một tên ác ôn mật
thám của tiểu khu Biên Hòa đưa về xã Long An. Tên Tám Kham nhà
ở Xóm Gốc (xã Long An). Địch lại điều tên Bích, tên này tỏ ra hung
hãn hơn hẳn tên Kham. Được đồng bào theo dõi báo, lực lượng du
kích lại phục kích diệt tên Bích tại một sòng bạc ở ấp 2. Sau trận này,
517

52.8 Page 518

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
5 tên Hội đồng xã sợ hãi bỏ trốn.
Tháng 11/1964, Quân ủy Miền quyết định mở chiến dịch Bình
Giã, đã chọn Long Thành - Nhơn Trạch làm mặt trận thứ yếu. Nhiệm
vụ đóng góp lương thực, thực phẩm, đưa người tham gia chiến dịch
và chặn đánh giặc trên quốc lộ 15. Đánh vào kho bom Thành Tuy
Hạ, tổng kho Long Bình. Trên địa bàn Long Thành, lực lượng vũ
trang cách mạng tổ chức nhiều trận tấn công vào quân địch. Ngày
15/11/1964, Tiểu đoàn 800 Quân khu miền Đông có du kích địa
phương dẫn đường phục kích đánh chặn đoàn xe cơ giới của địch từ
Biên Hòa về Vũng Tàu, phá hủy tại trận 12 xe (trong đó có 4 xe thiết
giáp), tiêu diệt gần 100 tên địch, thu 52 súng các loại. Ngày 16/11,
đại đội 240 cùng du kích 3 xã Long An, Long Phước, Phước Thái
đón đánh và diệt toàn bộ đại đội 3 thuộc tiểu đoàn 52 của sư đoàn 10
ngụy tại km68, phá 2 xe GMC thu toàn bộ vũ khí.
Ngày 17/12/1964 tiểu đoàn 800 lại cùng du kích các xã Long An,
Long Phước, Phước Thái phục kích đón đánh đoàn xe địch từ Bà Rịa
về. Khi đến Quán Chim, đoàn xe của địch ùn lại vì vướng ô ụ chiến
đấu, cùng lúc đó mìn nổ, súng từ 2 phía bắn lên nhiều xe của địch bị
bốc cháy, 1 máy bay của địch đến tiếp cứu bị du kích xã Long Phước
bắn rơi. Trận đánh kéo dài gần 3 tiếng đồng hồ, các chiến sĩ ta diệt
tại trận 50 tên, bắt sống 22 tên, phá 7 xe quân sự, bắn rơi 1 máy bay.
Đầu năm 1965, địch đưa về xã đoàn bình định số 9, cùng 2 Trung
đội lính nghĩa quân âm mưu xây dựng “Trung tâm cộng đồng phát
triển” tại ấp 1. Được đồng bào cung cấp tình hình, lực lượng du
kích xã kết hợp với lực lượng vũ trang huyện tổ chức tấn công, phá
rã cộng đồng, diệt 28 tên lính nghĩa quân, 5 tên bình định. Sau trận
đánh, bọn này sợ hãi rút hết về Biên Hòa, bỏ ý định xây dựng trung
tâm cộng đồng tại xã Long An.
Ngày 5/7/1965, lữ đoàn dù 173 Mỹ đổ quân xuống Rạch Ruột
Ngựa, âm mưu bắt gọn cơ quan đầu não của huyện. Lúc này du kích
xã Tam An có hơn chục tay súng, cùng với 4 đồng chí trinh sát của
huyện do đồng chí Ba Liêm chỉ huy đón đánh địch. Để dọn đường,
518

52.9 Page 519

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
địch cho pháo bắn vào khu vực Bến Bàu, Xóm Hố, Chùa Lớn và
thôn An Định. Tiếp đó, quân Mỹ tiến sâu vào căn cứ. Khi những tên
lính Mỹ còn cách các chiến sĩ 30 mét thì cùng một lúc, ta cho nổ 4
trái mìn tự tạo ĐH10 vào đội hình địch. Bị đánh bất ngờ, một số lính
Mỹ bị diệt tại chỗ. Những tên sống sót chạy dạt ra hai bên đường. Từ
trên đồi cao, các chiến sĩ ta nhả đạn. Bọn địch bỏ chạy về phía sau
để chống trả và gọi pháo từ Long Thành bắn chi viện, cho máy bay
phản lực đến cắt bom xuống trận địa. Lính Mỹ càn tiến theo đường
cũ. Các chiến sĩ ta lại cho nổ ĐH10 ngăn chặn và nổ súng đánh bật
chúng lại. Suốt từ 7 giờ đến 16 giờ, 5 lần lính Mỹ xông lên vẫn không
vào được căn cứ của ta. Cuối cùng, chúng phải gọi máy bay đến ném
bom hủy diệt xung quanh trận địa để lấy xác đồng bọn mang đi. Trận
đầu quân dân Long Thành đánh Mỹ càn quét thắng lợi, diệt tại trận
37 tên đã gây được tiếng vang rất lớn, kịp thời động viên và giải tỏa
mối băn khoăn, lo lắng của một số đồng chí và đồng bào “Liệu có
đánh được Mỹ không?”.
Địch đưa về xã 1 tiểu đoàn lính Thái Lan đóng tại đồn Hêlêna với
âm mưu khống chế đoạn đường lớn từ Bình Sơn nối tiếp với quốc
lộ 51 tại cổng An Lâm, và địch còn đưa về 1 trung đội bảo an để
hỗ trợ cho đoàn bình định áo đen thực hiện chương trình “Tái thiết
nông thôn”. Tại đồn Helena, địch cho xây dựng bãi pháo 105mm và
đưa về đây một bán đội xe bọc thép. Từ đồn Helena, bọn lính Thái
tung ra càn quét, đánh phá bừa bãi vào xóm làng. Chi bộ xã cùng lực
lượng vũ trang quyết tâm tiêu diệt bọn này. Chỉ trong vòng 2 tháng
đầu năm 1967, lực lượng du kích xã đã tổ chức đánh 27 trận, liên tục
gài trái, bắn trả, đột kích phá tan cơ sở tái thiết của địch, diệt 58 lính
ngụy, 3 tên ác ôn, bắt sống 7 tên, trong đó có 2 kỹ sư xây dựng người
Mỹ, 2 kỹ sư sửa chữa máy bay người Nam Triều Tiên, thu 53 súng
các loại và 2 máy thông tin quân sự. Năm 1968, du kích xã phục vụ
cho Trung đoàn 4 đánh phá đồn Thái Lan tại Helena, diệt và làm bị
thương 300 tên lính Thái, bắn rơi 1 máy bay trực thăng.
Trận đánh vào 17 giờ 30 ngày 26/4/1975, pháo của sư đoàn 325
đặt tại cánh đồng Sở Hoàng thuộc xã Long An bắn vào chi khu Long
519

52.10 Page 520

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Thành. Loạt đạn đầu nổ ở khu Cầu Xéo và khu Bàu Cá. Loạt đạn
thứ hai nổ trúng bãi pháo 105 ly và khu chợ. Loạt đạn thứ ba đánh
trúng chi khu và dinh quận lỵ. Gần 700 trái pháo dập xuống làm 3
tiểu đoàn lính địch chạy tán loạn. Nhà lầu của quận trưởng Hà Văn
Sáu trúng đạn làm y bị thương ở đùi. Gần 2 trung đội địch bị chết
và bị thương. Địch phản ứng cho pháo bắn từ Bến Sắn, từ Phước
Hóa về chặn đường 25 hướng Lộc An lên. Lập tức pháo của sư đoàn
325 được điều chỉnh hướng bắn. Ta nã 2.000 trái pháo trong khoảng
45 phút diệt bãi pháo Phước Hoà, Bến Sắn khiến chúng im bặt. Về
hướng Nam, đại đội 27 cùng du kích xã Long An gọi hàng 2 trung
đội dân vệ, thu toàn bộ súng, giải phóng xã. Trong lúc sư đoàn 304
tấn công khu căn cứ Nước Trong thì đại đội 27 kết hợp du kích địa
phương tấn công địch ở đập nước Long An. Địch bỏ chạy ra chốt
đóng ở ngã ba Cầu Hưu. Các chiến sĩ ta tiến ra bao vây rồi phát loa
gọi hàng. Gần một trung đội địch mang súng ra nộp, một số chạy vào
ấp Thái Lạc.
Với khí thế cách mạng thành công, Đảng bộ và nhân dân xã Long
An tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, nêu cao ý chí tự lực,
tự cường, đoàn kết một lòng nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến
tranh, tranh thủ những thuận lợi mới, bắt tay mạnh mẽ vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa
rất quan trọng trên các lĩnh vực.
Từ những thành tích, ngày 28/4/2000, Chủ tịch Nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định số 160/KT-CTN, phong
tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho
nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Long An.
520

53 Pages 521-530

▲back to top


53.1 Page 521

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Long Phước
Xã Long Phước(1) thuộc huyện Long Thành, nằm 2 bên quốc lộ
51, Biên Hòa xuống Bà Rịa - Vũng Tàu, có chiều dài từ km63 đến
km69. Xã cách thị trấn Long Thành 17km, cách Bà Rịa 35km, cách
sông Thị Vải 6km.
Diện tích tự nhiên của xã là 4.285 hécta, sau giải phóng diện tích
của xã còn 3.018 hécta.
Địa bàn xã Long Phước là vùng đất thấp, lại có con sông Cả bắt
nguồn từ huyện Xuân Lộc vùng đất Bazan chảy ngang qua suối đem
phù sa màu mỡ tạo thành những cánh đồng lúa tươi tốt. Nhiều chỗ
đất quá thấp tạo thành các bưng lớn, bưng nghê, bưng Bàu Trâm rộng
trên 7 hécta là nguồn tôm cá tự nhiên sinh sản.
Phía Đông xã Long Phước nay là xã Bàu Cạn là dãy rừng già nối
Bình Sơn, An Viễn về Chiến khu Đ. Phía Tây giáp xã Phước Long,
Phước Lai (Long Thọ - Hiệp Phước). Phía Nam giáp xã Phước Thái,
Rừng Sác. Phía Bắc giáp xã Long An.
Trong kháng chiến chống Pháp, toàn xã có 130 hộ trên 3.000 nhân
khẩu. Đến kháng chiến chống Mỹ, xã có 1070 hộ với 6.400 khẩu.
Do địa hình khá phức tạp có sông, lộ lẫn bưng, ruộng, rừng già,
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Long Thành.
521

53.2 Page 522

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
rừng sác lại là khu vực lúa của huyện Long Thành (cũ), nên Long
Phước trở thành căn cứ cách mạng, kho bãi hậu cần của huyện. Vì
vậy trong suốt 2 cuộc kháng chiến, địa bàn xã có nhiều đơn vị chủ
lực của Miền, khu, Tỉnh, huyện đứng chân như: Vệ quốc Đoàn, chi
đội 2-3, đến thời kháng chiến chống Mỹ có Trung đoàn 4, Đại đội
240, Tiểu đoàn 240, hậu cần FK4, hậu cần tỉnh Biên Hòa. Trong
suốt thời gian kháng chiến chống Mỹ, Long Phước là huyết mạch
giao thông từ Chiến khu Đ qua Long Phước sang rừng Lòng chảo,
Rừng Sác.
Địch cũng thấy đây là địa bàn quan trọng nên đã cho xây ở đây
nhiêu đồn bót, căn cứ có tầm cỡ lớn.
Cụ thể, thực dân Pháp đã cho ủi làm 1 đường giao thông bộ mặt
lộ 6m từ ấp Phước Hòa qua Bà Ký sang Long Thọ, xây 3 đồn Hàng
Dương, Bót Mới, Phước Hòa, 3 tua Suối Cả, Nhà Mát, km68.
Còn đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở rộng và xây kiên
cố mở thêm 1 căn cứ hành quân của Mỹ ở Phước Hòa, có sân bay
thường xuyên có máy bay trực thăng cơ động, 1 trận địa pháo 6 khẩu
cỡ từ 105-175 ly, sẵn sàng nhả đạn và oanh kích vào khu căn cứ phía
Đông, Tây lộ.
Một căn cứ dã chiến của Thái Lan thường có lD Mỹ, 1D Thái. Các
bót có từ trung đến 10 lính quân đội Sài Gòn canh giữ, ở 3 ấp mỗi ấp
điều có 1 toán dân vệ kết hợp phòng vệ dân sự, bọn thám sát, bình
định, canh nông thường xuyên càn bố, chốt chặn, đánh phá liên tục.
Ngoài các lực lượng địch đồn trú tại xã, có lúc địch điều đến 3D
Mỹ về chốt tại suối Cả yểm trợ cho đợt ủi phá địa hình, sư đoàn Hắc
Báo Thái Lan đặc biệt các đợt xuống thang rút quân của Mỹ kéo dài
15-20 ngày, xe quân sự, các sắc lính 179, Lữ đoàn 173, sư đoàn Anh
cả đỏ, nối dài từ cấu Xéo (thị trấn) đến cầu sông Cả Long Phước, để
hỗ trợ cao các đợt rút quân. B52 rải thảm, bom, pháo bắn tấp nập,
có những đêm hàng ngàn quả pháo trút xuống phía Đông và Tây lộ
của xã.
Địch đã sử dụng cả 100 xe ủi trắng thành vành đai lực lượng, lính
522

53.3 Page 523

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Úc từ Bà Rịa thường xuyên tràn lên phục kích. Tại Bàu Nai, lính Úc
đã trầm mình dưới bàu, cả thân hình trét đầy sình chỉ để hở 2 mẳt,
súng gác lên cây Mai.
Địch dùng mọi thủ đoạn với tiềm lực quân sự phòng thủ ở đây
nhằm đánh bật lực lượng cách mạng, phá khu căn cứ, phá bao tử
“lương thực của ta”, làm bàn đạp đánh chiếm các xã ven lộ cắt đứt
đường giao thông sang Nhơn Trạch, Rừng Sác, song chúng đã thất
bại thảm hại.
Năm 1946 xã thành lập 1 chi bộ 5 đảng viên, là chi bộ được thành
lập sớm của huyện. Chi bộ xã Long Phước luôn giữ vững vai trò lãnh
đạo phong trào cách mạng ở địa phương, trong những giai đoạn ác
liệt 1950-1953; 1954-1960; 1969-1972 có lúc chi bộ còn 2 đảng viên
nhưng vẫn kiên quyết bám trụ, bám địa bàn, bám dân, bám phong
trào, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, đặc biệt thời kỳ Hai Tân, Bí thư
Huyện ủy ra đầu hàng, đã bắt bớ xóa nhiều cơ sở cách mạng ở các
xã, riêng có Long Phước vẫn bảo vệ được Đảng, không đồng chí nào
bị bắt. Trong suốt cuộc kháng chiến đã có 37 đảng viên hy sinh, có 4
đồng chí là Bí thư, 42 đảng viên bị bắt, cầm tù.
Năm 1945, xã Long Phước thành lập Ủy ban kháng chiến lâm thời,
lực lượng võ trang của xã có 38 thành viên, trang bị súng trường, 5
lựu đạn, 1 mìn, còn lại là gậy tầm vông, mã tấu. Suốt 9 năm chống
Pháp, lực lượng thường xuyên có 1 trung đội, trong chống Mỹ, có
năm lực lượng lên tới 150 người, đến cuối năm 1974 lực lượng có 3
trung đội, trang bị vũ khí khá mạnh, 1 M79, 3 đại liên, còn lại tiểu
liên đủ sức hỗ trợ cho quần chúng phá kìm kẹp, phá đồn bót, giải
phóng xã mình.
Tổng quan trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Long Phước với nhiều
lối đánh như: gài trái, bắn tỉa, diệt ác... và phối hợp lực lượng trên,
đã đánh 167 trận, tiêu diệt 730 tên, trong đó có 23 lính Pháp, 59 lính
Mỹ, 121 lính Thái Lan, 33 ác ôn, bình Định, cảnh sát, bắt sống 6 tên
có 2 lính Mỹ.
523

53.4 Page 524

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Qua các trận đánh, quân dân trong xã đã thu 1.027 súng các loại,
có 3 đại liên, 6 trung liên, súng cối 60, 1 pháo 105, 3 máy PRC 25,
bắn chìm và cháy 2 tàu quân sự Bo Bo, phá hủy và bắn cháy 30 xe
quân sự, có 2 xe tăng, 6 xe ủi, 14 xe GMC, 2 xe bờ lu, bắn rơi 2 máy
bay trực thăng, phá sập 2 cầu, 3 cống, phá sập 3 đồn, 2 tua, ấp chiến
lược địch dựng lên đổ xuống 6 lần đến năm 1973 ấp chiến lược ở xã
bị phá rã hoàn toàn.
Một số trận đánh tiêu biểu của quân dân xã Long Phước trong hai
thời kỳ kháng chiến:
Trận đánh Pháp đầu tiên của xã thắng lợi, nhân dân rất phấn khởi,
đóng góp lương thực, thực phẩm, cho con em tòng quân là trận đánh
Pháp ở cầu Sông Cả diễn ra vào ngày 25/1/1946. Lính Pháp từ Long
Thành mở cuộc càn vào xã theo quốc lộ 51. Nắm được hướng tiến
quân của địch, lực lượng du kích xã chọn cầu Sông Cả là điểm phục
kích, vì địa thế ở đây thuận lợi, dọc sông cây cối um tùm, mặt cầu
nhỏ, địch tới đây buộc phải cho xe chạy chậm. Khi xe chở lính Pháp
lọt vào trận địa, du kích cho nổ mìn, rồi đồng loạt nổ súng, xông ra
chiếm lĩnh trận địa. Bị một đòn như trời giáng, bọn giặc hoảng loạn
bỏ chạy. Trận đánh diễn ra mau lẹ, trong khoảng 20 phút kết quả phá
hủy 2 xe Bù Lu, 19 tên địch chết tại chỗ, ta bắt sống 5 tên, thu 36
súng các loại. Số súng ta thu được, trang bị cho xã 12 súng còn lại
rút về huyện.
Hay như trận kết hợp võ trang, binh vận phá ấp chiến lược ấp Đất
Mới diễn ra vào ngày 15/11/1963. Xã tổ chức thành 2 mũi tiến công.
Một mũi là lực lượng võ trang với cán bộ binh vận tổ chức bao vây
bót Hàng Dương, áp đảo, khống chế gọi hàng toán dân vệ. Một mũi
là lực lượng thanh niên, nông dân mang theo dao, cuốc, kìm, búa phá
ấp chiến lược, cắt phá hàng trăm mét rào kẽm, lấp hào, phá sập chòi
canh. Bị khống chế, cả toán dân vệ ra đầu hàng, nộp 11 súng. Ấp
chiến lược Đất Mới bị phá tan, kế hoạch lập ấp của địch bị thất bại.
Quân dân trong xã Long Phước còn đánh phối hợp với Đại đội
240 của huyện. Trận đánh ngày 17/1/1966, lực lượng du kích và 1 bộ
524

53.5 Page 525

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phận của đại đội 240 đang trụ ở đập nước Long Phước. 1 toán lính
Mỹ thuộc sư đoàn Anh Cả đỏ càn vào đường 9 Hỷ. Lực lượng triển
khai chông càn, 4 trái ĐH 10 được triển khai hướng địch tiến. Đợi
lúc địch lọt vào trận địa phục kích, 4 trái ĐH 10 được điểm hỏa nổ
cùng 1 lúc, đồng loạt các chiến sĩ nổ súng bắn thẳng về phía địch.
Bị đánh bất ngờ, bọn lính hốt hoảng rút chạy, để lại 57 xác chết. Lợi
dụng cơ hội các chiến sĩ rút gọn về trảng Bằng Lăng còn kéo theo
con chó berger cùng chung số phận với chủ nó. Trận đánh Mỹ đầu
tiên của lực lượng du kích với huyện đã xóa đi tư tưởng: thấy lính
Mỹ đô con, có tiềm lực quân sự mạnh, hành quân chớp nhoáng thì
ngán ngại trong chiến đấu, sợ đụng lính Mỹ, không còn ám ảnh ở
một số cán bộ và chiến sĩ.
Ngoài ra, có thể kể đến trận đánh lính Thái đầu tiên bằng vũ khí
tự tạo của du kích. Trung tuần tháng 9/1967, 1 tiểu đoàn lính Thái
đổ xuống khu vực ấp Phước Hòa xây dựng cụm chỉ huy mang tên
“Hy Răng”. Từ Ban Chỉ huy, lính Thái bung ra lùng sục, đánh phá.
Huyện tổ chức thành công các đội vành đai diệt Thái thì được chỉ
thị của Phân khu ủy, phân khu 4 phát động đợt thi đua diệt lính Thái
lập thành tích chào mừng 3 ngày lễ lớn của dân tộc. 2 tổ du kích của
2 xã Phước Thái - Long Phước vừa nhận được 4 trái ĐH 10 do quân
giới huyện Long Thành sản xuất bằng bom đạn lép của địch mà anh
em thu về. 2 tổ chọn thế trận thuận lợi trên quốc lộ 51 gài 4 trái
theo hướng vòng cung, bí mật vòng dây điện ém sẵn. Khi 1 đoàn
xe chở lính Thái từ hướng Bà Rịa về, anh em chờ cho 4 xe chở lính
Thái đi cuối thì điểm hỏa. Nhưng lúc về chúng không theo đội hình
sáng đi, phải đánh 4 cóc điện cùng bấm 1 lúc. 1 tiếng nổ xé trời, 3
xe quân sự bị phá, 38 tên Thái bị diệt, anh em rút gọn về căn cứ.
Trận đánh giặc Thái đầu tiên này bằng vũ khí tự tạo có tiếng vang
lớn, bom đạn lép được thu hồi nhiều tạo thành phong trào mót, tầm
bom đạn lép của địch.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lượng du kích xã độc lập
tác chiến, phối họp với lực lượng trên tổ chức tác chiến, diệt ác, phá
kìm tới 477 trận, còn nhiều trận chiến đấu oanh liệt như: trận đánh
525

53.6 Page 526

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cụm Thái ở Hy Răng (km67) vào đêm mùng 5 tết năm 1968 diệt 83
tên, bắn rơi 2 máy bay trực thăng, bắn cháy 1 xe tăng. Hay trận phục
kích diệt gọn 1 trung đội địa phương quân thuộc C452 của Chi khu
Long Thành vào tháng 9/1968. Hay trận đánh ngày 25/12/1972 đánh
bọn ruồng bố, tiêu diệt cả đại đội địch, thu 48 súng, phá hủy 3 xe
quân sự, bắn cháy 1 trực thăng…
Về đấu tranh chính trị ở xã Long Phước không tổ chức đơn điệu
mà kết hợp chặt giữa binh vận, chính trị, võ trang nên những cuộc
đấu tranh đều giành thắng lợi. Nếu đi sâu, suy nghĩ mới thấy hết cái
tế nhị của người dân Long Phước. Chẳng hạn cuối năm 1969 đầu
năm 1970 địch cho lực lượng gom tát dân Bà Ký vào Vũng Lương -
Xóm gò để lập ấp. Bị sức ép quân sự mạnh, đồng bào cũng phải vào
nhưng hầu hết đều chẳng mang theo đồ đạc, rồi lấy cớ về lấy. Đã về
rồi thì bà con ở luôn. Người dân bảo nhau làm hầm, nếu địch càn là
trốn, chúng vô chỉ thấy nhà trống, đóng cửa cho là bỏ đi làm ăn nơi
khác. Ý đồ gom tát dân vào Vũng Lương bị thất bại.
Ngày 10/4/1971, chúng cho xây dựng Trung tâm cộng đồng phát
triển ở Phước Hòa và gom được 1 số gia đình vào lực lượng võ trang,
xã bí mật đột nhập dùng mìn phá sập căn nhà của tên đồn trưởng,
2 gian nhà kho, 1 dãy nhà lính, 1 chòi canh, 6 dãy nhà nhỏ chứa xi
măng, sắt, thép, vật liệu xây dựng, diệt 7 tên canh giữ tuyên truyền
kêu gọi bà con bỏ trung tâm, nếu không có khi bị chết lây. Đêm
31/4/1971 trung tâm bị phá nổ hoàn toàn.
Trong 2 cuộc kháng chiến từ 1945-1975, nhân dân trong xã Long
Phước tổ chức 200 cuộc biểu tình, đấu tranh chính trị với địch từ 30-
1.500 người đã giành thắng lợi.
Trong phong trào diệt ác, phá kìm, giành đất, làm chủ địa bàn của
dân và quân xã Long Phước diễn ra rất quyết liệt. Địa hình của xã
được tổ chức thành 3 ấp: Đất Mới, Bà Ký, Phước Hòa, địch chỉ lập
được ấp chiến lược ở 2 ấp: Phước Hòa, Đất Mới. Riêng ấp Bà Ký
trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và đối đầu với cuộc chiến
tranh đặc biệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, vẫn là vùng tự do, là
526

53.7 Page 527

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
căn cứ của cách mạng, là cái gai chọc vào mắt địch.
Chúng nhiều lần tổ chức lực lượng càn quét, gom bắt nhưng điều
thất bại, cứ sau mỗi lần càn lại khiêng về 5-7 tên chết. Bằng quân sự
không được chúng chuyển sang hù dọa, tâm lý, chúng dùng loa đặt ở
ngã ba nhà Mát lệnh cho bà con hạn chót 3 ngày phải dời ra 2 ấp Đất
Mới, ấp Phước Hòa, nếu không chúng dùng phi pháo hủy diệt. Khi
địch điều xe chở 7 tên tâm lý chiến xuống để lừa mị dân đã lãnh trọn
1 trái mìn ĐH 10 của du kích gài sẵn, kế hoạch gom bắt lại thất bại,
còn 2 ấp bị phá nhiều lần.
Bằng quân sự, bằng hù dọa, tâm lý nhưng vẫn không gom được
dân Bà Ký, địch cho bắn pháo phá hủy nhà cửa, vườn tược, nhân dân
quyết không chịu vào ấp chiến lược, rồi bàn nhau làm hầm ở ngay
trong nhà, trong vườn mua bao cát về làm nấp hầm chống phi pháo,
hầm tránh pháo trong nhà được xuất hiện ở xã và được nhiều xã khác
làm theo…
Đến năm 1973 ấp chiến lược ở xã bị phá hoàn toàn, địch không
lập lại được nữa. Đến tháng 12/1974, 2 ấp được giải phóng hơn 2
ngàn dân giành được quyền làm chủ.
Hỗ trợ cho nhân dân, lực lượng đẩy mạnh công tác diệt ác, phá
kìm, 30 tên ác ôn bị đền tội, có những tên khét tiếng như: Vên ấp
Phước Hòa, tên Bông ấp Đất Mới, tên Khuya, tên Phòng khu Nhà
Mát, tên Kịch. Trong đó tên Triệu được điều từ Phước Thái về chưa
đầy 1 tháng đã bắt 23 người để tống tiền. Chị Năm Nê cơ sở đã dụ
Triệu ra quán chị, trong quán 2 du kích đã ém sẵn buộc tên Triệu
phải đền tội.
Song song với mũi đấu tranh chính trị, kết hợp võ trang, diệt ác
phá kìm, mũi binh vận cũng hoạt động rất mạnh, làm tan rã ngay
trong hàng ngũ địch, bỏ đơn vị về nhà làm ăn, giao nộp vũ khí cho
cách mạng, những binh sĩ gia đình gần đồn, bót địch, thì trốn ra sông,
rạch. Ở rạch Trũng, có cả 100 thanh niên trốn lính, lính trốn làm cho
bọn chỉ huy hoang mang không dám bung ra càn quét, lùng sục, bị
tấn công thì co cụm tan rã.
527

53.8 Page 528

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tiêu biểu cho mũi binh vận ngay trong những ngày đầu Đồng
Khởi, ta chưa có vũ khí để trang bị cho lực lượng, đồng chí ba Công
cán bộ mật cùng ông năm Dạ binh vận được 3 dân vệ là Trung, Oanh,
Quý mang 3 súng ra cách mạng.
Năm 1963, lực lượng ta bao vây bót Hàng Dương gọi hàng cả 1
toán dân vệ thu 11 súng. Năm 1964, binh vận được 9 binh sĩ địch (do
mình gài) mang 9 súng ra cho xã, được bổ sung cho du kích. Năm
1968, làm rã cả 1 toán dân vệ. Năm 1971, vô hiệu quá cả ban tề xã,
có cả xã trưởng và ban tề ấp Bà Ký lấy 32 khẩu súng.
18 giờ 15 ngày 25/4/1975 trận địa pháo Phước Hòa bị lực lượng
ta pháo kích. Lực lượng du kích trên bứt rút đồn Hàng Dương, chốt
quân sự Nhà Mát, Đất Mới, làm địch hoang mang bỏ chạy theo quốc
lộ 51 qua Đông lộ chạy về Bình Sơn rồi đầu hàng cách mạng. Sáng
26/4/1975 Long Phước được hoàn toàn giải phóng.
Về đóng góp của nhân dân cho cách mạng, trong thời kỳ chống
Pháp, đã góp 166 tấn gạo, 3.200kg nguyên liệu đồng, 157.700 đồng
mua trái phiếu, 1.200 ngày công dân công hỏa tuyến, 3.500 lượt
dân công phục vụ xay, giả vận chuyển lương thực, thực phẩm, phá
đường, phá ấp chiến lược. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ số
lương thực đóng góp cho cách mạng tăng lên gấp bội, số lúa thu mỗi
năm là 30 tấn, số lúa đóng góp cho cách mạng đã lên đến 360 tấn.
Thời kỳ ác liệt, sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968, địch càn bố, kiểm soát gắt gao. Chúng quy định người
dân 15 ngày mới được đem lúa đi chà, những người ăn gạo chợ phải
đem theo sổ gia đình và chỉ được mua 5 lít. Chúng quy định người
nông dân 7 giờ mới được ra đồng, 15 giờ phải về, không được cất
chòi ngoài ruộng. Chúng còn thường xuyên dùng máy bay trực thăng
tuần tiễu, nếu nông dân về trễ là trực thăng rà xuống hốt cả người lẫn
lúa về quận, bắt xã lên nhận về.
Do vậy các đơn vị đứng chân gặp rất nhiều khó khăn, nhiều đơn
vị phải đào củ chụp, ăn rau rừng, song cực nhất vẫn là thương binh,
ngày chỉ được 1 bữa cháo loãng. Trong hoàn cảnh này, đồng bào
528

53.9 Page 529

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Long Phước đã có sáng kiến đổi đồng, toàn bộ lúa Long Phước chín
được cắt đập chuyển vào căn cứ hết, người dân về lấy lúa ở các xã
khác, để lúa được chuyển gọn về trên. Xã thành lập Ban Kinh tài
gồm 12 đồng chí, được huyện hỗ trợ một lực lượng bảo vệ mùa
màng, nên số lúa của xã thu hoạch trong 5 năm từ 1970-1974 là
1.524 tấn. Từ sáng kiến của xã, huyện đã chỉ đạo thêm cho các xã
ven căn cứ, do vậy đã bảo đảm được lương thực, thực phẩm cho cách
mạng. Đến ngày giải phóng khu vực Suối Sâu, Bình Sơn căn cứ của
tỉnh còn hàng trăm tấn lúa.
Toàn xã có 124 thanh niên tham gia lực lượng du kích địa phương,
86 thanh niên nam, nữ làm nhiệm vụ dân công hỏa tuyến. Xã còn
đưa 465 thanh niên tòng quân bổ sung cho lực lượng của huyện và
chủ lực.
Không có chiến công nào mà không đổi bằng mồ hôi, nước mắt,
bằng lòng dũng cảm dám xả thân hy sinh vì sự nghiệp cách mạng,
bằng một phần xương thịt, bằng máu, bằng cả tính mạng con người.
Trong cả 2 thời kỳ kháng chiến, toàn xã Long Phước có 133 liệt
sĩ đã hy sinh, 400 dân thường chết vô tội, 600 nóc nhà bị đốt phá,
tại ấp Bà Ký có gia đình bị đốt 3 lần, 279 gia đình được công nhận
là cơ sở nuôi giấu cán bộ, bộ đội, hàng trăm người bị bắt bớ, tù đày,
đánh đập rất dã man, có những lần chúng xúc đi cả ấp như ấp Bà Ký.
Có thể kể đến sự kiện năm 1970 lính quận cho xe xuống bắt 1 lúc 50
người tội là liên quan đến Việt cộng, chúng đem về giam tại quận, 1
tuần chúng mới thả. Bị tù đày, đánh đập song người dân Long Phước
vẫn sắt son với Đảng, với cách mạng, không hề khai báo, có rất nhiều
tấm gương nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng như: gia đình chú
Năm Bích bị địch bắt giải về Biên Hòa đánh đập tàn nhẫn nhưng
nhất định không khai, đến khi chúng thấy chú sắp chết nó chở trả về
và bắt bà Năm thế, giam cầm đánh đập đến khi 2 mắt bà Năm mù nó
mới thả về. Anh Năm Danh bị địch đánh đập rất dã man, không lấy
được cung chúng lôi anh ra ngã ba Bà Ký bắn để uy hiếp đồng bào.
Gia đình má Lê Thị Ngưu có 4 người con đều là liệt sĩ, bọn tề, xã
529

53.10 Page 530

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
trưởng đến hù dọa, có lần tên ách Rô đã dẫn lính đến nhà má đập phá
và xúc đi của má 100 giạ lúa…
Với những thành tích trên, năm 1964 xã Long Phước được Hội
đồng Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba với thành
tích đóng góp lương thực, thực phẩm cho chiến dịch Bình Giã. Năm
1971, Bộ Chỉ huy Miền tặng Huân chương Chiến công hạng Ba cho
xã Long Phước vì có thành tích trong bám đất, bám dân, bám phong
trào, diệt ác, phá kìm. Năm 1985, xã được tặng Huân chương Lao
động hạng Ba vì thành tích trồng cây phát triển nông nghiệp. Xã
còn được nhận lẵng hoa Bác Tôn tặng năm 1975 vì có đóng góp sức
người, sức của cho cách mạng.
Về cá nhân, toàn xã có 15 đồng chí được trao tặng Huân chương
Chiến thắng, 45 đồng chí được trao tặng Huân chương Chiến công,
33 đồng chí được trao tặng Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng
Nhất, 42 đồng chí được trao tặng Huân chương Chiến sĩ Giải phóng
hạng Nhì và 54 đồng chí được trao tặng Chiến sĩ Giải phóng hạng
Nhì hạng Ba. 29 đồng chí được trao Huân chương Chiến sĩ vẻ vang,
452 gia đình được trao tặng Bằng gia đình Vẻ vang, 131 gia đình
được trao tặng Bằng Tổ quốc ghi công.
Đặc biệt, vào năm 1994, nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân
dân xã nhân dân Long Phước được trao tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân.
530

54 Pages 531-540

▲back to top


54.1 Page 531

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân xã Phú Túc
Xã Phú Túc(1) được thành lập tháng 8/1994 trên cơ sở chia tách
từ xã Phú Túc cũ theo Nghị định số 51/CP ngày 23/6/1994 của
Chính phủ.
Phú Túc là xã miền núi thuộc huyện Định Quán, phía Đông giáp
xã Suối Nho, phía Tây giáp xã Phú Cường, Nam giáp xã Suối Nho
và Xuân Thiện huyện Thống Nhất, Bắc giáp xã Túc Trưng. Dân số
13.782 khẩu, chia thành 10 ấp, có 9 dân tộc sinh sống, có 4 tôn giáo
chính là Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài chiếm 70%,
số còn lại theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà. Đại đa số nhân dân sống
bằng nghề nông nghiệp chiếm 56%, còn lại là các ngành nghề khác
như thương mại, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Túc đã
hy sinh xương máu, đóng góp nhiều sức người, sức của góp phần
quan trọng để cánh mạng giành thắng lợi hoàn toàn. 43 năm sau ngày
thống nhất đất nước, Phú Túc tiếp tục vững bước đi lên trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, niềm vui chưa trọn vẹn,
giặc Pháp sau khi chiếm Biên Hòa tiếp tục lấn ra các vùng lân cận
(1) Nguồn: Đảng ủy xã Phú Túc.
531

54.2 Page 532

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đông Nam Bộ, Ủy Ban Kháng chiến kêu gọi nhân dân bất hợp tác
với địch, rời bỏ nhà cửa, đốt bỏ tài sản trước khi sơ tán ra khu kháng
chiến. Đại đa số nhân dân ra khu kháng chiến, ra sức xây dựng vùng
tự do, ủng hộ của cải, thực phẩm nuôi quân, tham gia vào các lực
lượng vũ trang cách mạng.
Thực dân Pháp phải tuyển mộ công nhân các tỉnh miền Trung
bổ sung thay thế người theo kháng chiến, nhưng với công tác tuyên
truyền vận động của cán bộ cách mạng, nhiều cuộc đình công, bãi
công, biểu tình vẫn nổ ra đòi bọn thực dân Pháp phải đáp ứng các
nhu cầu dân sinh lúc đó.
Lực lượng du kích xã được thành lập, cùng với Ban Liên lạc thôn
9, kết hợp với Trung đội 4, Chi đội 10, vừa tiến công vũ trang, vừa
kêu gọi binh lính ở bót đồn điền quay về làm ăn và theo kháng chiến,
đã có 12 lính bỏ về làm ăn và theo cách mạng. Năm 1947, du kích
xã và ban công tác liên lạc thôn 9 đã tập hợp được hàng trăm người,
tiêu biểu là trận diệt gọn 1 tiểu đội địch và dùng búa, cưa sắt phá sập
cầu La Ngà. Ngày 1/3/1948 lực lượng xã tham gia công tác chuẩn
bị, tạo điều kiện để Chi đội 10 tiến công đoàn xe của Pháp làm nên
chiến thắng La Ngà vang dội, trong thời kỳ đầu đánh Pháp ở Đông
Nam Bộ.
Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phú Túc luôn phát huy tinh
thần yêu nước chống ngoại xâm trong suốt thời kỳ đấu tranh chống
thực dân Pháp tiếp đến thời kỳ chống Mỹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng ý
chí tự lực, tự cường, tinh thần dũng cảm, kiên quyết đấu trang bền bỉ,
đặt trọn niềm tin vào tất thắng, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân
dân xã Phú Túc đã mưu trí, dũng cảm, sử dụng nhiều lối đánh sáng
tạo như phục kích, cải trang… làm cho bọn địch luôn kinh hoàng,
khiếp sợ. Nhân dân và lực lượng vũ trang vừa tham gia xây dựng căn
cứ và vừa góp phần hỗ trợ nhân dân trong sản xuất đời sống, trong
đấu tranh biểu tình chính trị với địch, đồng thời kết hợp với công tác
binh vận lôi kéo nhiều sỹ quan, binh lính ngụy trở về với nhân dân,
532

54.3 Page 533

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cung cấp vũ khí cho ta, đẩy mạnh các hoạt động diệt ác, phá kềm và
kết hợp với các đơn vị bạn, bộ đội chủ lực tiêu diệt, đánh bại, tiêu
hao nhiều sinh lực địch.
Từ năm 1954-1975, Lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân xã
Phú Túc đã kết hợp với bộ đội huyện, tỉnh và bộ đội chủ lực tham
gia đánh gần 120 trận lớn nhỏ, trong đó tấn công tập kích đồn bót,
tua quân sự 28 trận, chống địch đi càn trên 164 trận, đánh giao thông
lớn 5 trận (vào các năm 1965,1967,1973), còn lại là bắn tỉa, gài trái,
gài mìn, diệt ác ôn. Qua đó, đánh tan tác, tiêu diệt 11 tiểu đoàn thuộc
sư đoàn 18 lính Sài Gòn, diệt 72 lính Mỹ và chư hầu, 18 tên ác ôn,
bình định, cảnh sát; thu hơn 300 khẩu súng các loại, phá hủy hơn
68 xe quân sự các loại, 12 xe tăng bọc thép, bắn rơi 1 máy bay trực
thăng (đồng chí Điểu Mận bắn) và 1 máy bay L19 ( Anh hùng Điều
Cải bắn).
Cùng với đấu tranh quân sự, quân và dân xã Phú Túc dưới sự lãnh
đạo của Đảng, luôn tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị, hỗ trợ đấu
tranh quân sự, để thực hiện phương châm đấu tranh tấn công liên tục
trên tất cả các mặt trận của Đảng. Nhân dân xã Phú Túc sống trong
vòng kềm cặp dầy đặc của địch, bị bóc lột hà khắc, bị đàn áp nặng nề,
nên những cuộc đấu tranh diễn ra rất quyết liệt. Ngay từ những ngày
đầy kháng chiến chống thực dân Pháp và suốt 21 năm đương đầu đế
quốc Mỹ và ngụy quân, quần chúng nhân dân và các cơ sở chính trị
(nhất là Hội Phụ nữ) mở ra hơn 150 cuộc đấu tranh chính trị lớn nhỏ,
chống địch bắt lính, bắt phu, chống gom dân lập ấp chiến lược, tố cáo
tội ác của địch, tố cáo việc rãi chất độc hóa học làm cho người, gia
súc gia cầm và cây trồng chết hàng loạt.
Từ năm 1954-1968, nhiều cuộc đấu tranh chính trị diễn ra liên tục
trên địa bàn. Đồng bào thường xuyên tập hợp lực lượng, thường là
40-50 người, có lúc lên đến 200 người kéo đến trụ sở Hội đồng xã,
đồn lính Cây Xăng, đòi quyền lợi dân sinh, đòi tự do cư trú, tự do
đi lại làm ăn. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu như
chống gài mìn, sớm gở mìn cho dân đi sản xuất, chống càn phá cây
533

54.4 Page 534

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
trồng, hoa màu tại ấp cây xăng. Qua các cuộc đấu tranh, các tổ chức
hội, đoàn, quần chúng nhân dân từng bước được củng cố, hoạt động
mạnh mẽ nhất là Chi Hội Phụ nữ xã.
Ngày 7/3/1968, hàng trăm bà con xã Phú Túc đã xuống đường,
dựng chướng ngại vật, đào phá quốc lộ 20, đập tan trụ sở xã ngụy
quyền xã Bình Hòa, để hỗ trợ lực lượng vũ trang tiến công địch trong
đợt tổng tiến công mùa xuân năm 1968.
Trong những năm 1970-1972, phong trào đấu tranh chính trị của
quần chúng nhân dân trong vùng địch tạm chiếm (ấp Đức Thắng,
Cây Xăng, Chợ) dâng cao. Chi bộ mật và cơ sở cách mạng đã vận
động bà con kiên trì thực hiện nhiều cuộc đấu tranh chống gài mìn
trên nương rẩy, buộc địch phải chỉ chỗ gài mìn, để bà con tránh. Nhờ
đó, nhân dân phát hiện các bãi mìn để báo lại cho du kích gỡ, có thêm
vũ khí đánh giặc. Cùng với đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị,
quân và nhân dân xã Phú Túc thường xuyên tổ chức nhiều cuộc đấu
tranh binh vận, kêu gọi lính địch ra đầu hàng, bỏ vũ khí về làm ăn
sinh sống lương thiện với gia đình. Trong đánh Mỹ, diệt ngụy, quân
và dân xã Phú Túc đã thực hiện vận động được tổng cộng hơn 450
dân quân tự vệ, lính ngụy trở về với cách mạng, trở với với gia đình
làm ăn lương thiện, trong đó có 43 lính Sài Gòn mang theo vũ khí
về cho cách mạng. Để làm suy sụp ý chí của bọn phản động tay sai
và phá thế kìm kẹp của địch, lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phú
Túc thường xuyên nêu cao phong trào diệt ác, phá kềm. Đội du kích
xã phối hợp với nhân dân tiêu diệt 18 tên ác ôn khét tiếng và 2 tên
điệp báo của địch.
Cùng với phong trào diệt ác, trừ gian, nhân dân xã Phú Túc đã đập
tan âm mưu xây dựng ấp chiến lược của địch nhằm “tách cá ra khỏi
nước”, giành đất, giành dân “địch dã”, chúng xây dựng ấp chiến lược
cả xã với nhiều cửa ra vào nhưng không được ổn định, đều bị quần
chúng nhân dân phá sạch, đến năm 1973 địch không còn khả năng
làm ấp chiến lược nữa.
Cũng tính từ năm 1963 đến năm 1975, xã Phú Túc có trên 350
534

54.5 Page 535

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thanh niên tham gia cách mạng, xung phong vào bộ đội tỉnh, huyện,
trong số đó đã có nhiều chiến sỹ hi sinh anh dũng. Với lòng yêu nước
căm thù giặc, nhiều gia đình nuôi dưỡng, che chở cán bộ cách mạng,
góp nhiều tiền của, lương thực cho cách mạng (điển hình là bà Ổn,
ông Trực). Trong xã, có hơn 137 cơ sở cách mạng chính thức và hơn
300 cảm tình cách mạng. Trong kháng chiến chống Mỹ, Chi bộ A
(thành lập năm 1960 - 1968), Chi bộ B (thành lập năm 1965-1968)
của Đảng có 16 đảng viên (do các đồng chí Nguyễn Văn Rập, Lê
Hữu Đằng làm Bí thư, Phó Bí thư) đã tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo hoạt
động cách mạnh tại địa phương; các đồng chí Ba Mai, Hai Tiếp, Ba
Xuân, Ba Đăng… đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng, giúp bộ
đội để đánh địch, giành nhiều thắng lợi.
Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng thống nhất đất nước, nhân dân và lực lượng vũ
trang nhân dân xã Phú Túc không ngừng phát huy truyền thống
anh hùng cách mạng, tích cực xây dựng địa phương ngày càng phát
triển, giàu mạnh.
Kể từ sau ngày thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước các cấp, trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của
địa phương, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới, xã Phú Túc từng bước thay đổi, đổi mới, hiện nay cơ
sở hạ tầng nông thôn được chỉnh trang, xây dựng mới khang trang,
địa bàn xã có 3 trường học ( mầm non, tiểu học, trung học cơ sở) đều
đạt chuẩn quốc gia, Trạm Y tế được xây dựng mới đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, các trục chính đường giao thông
nông thôn được nâng cấp thành bê tông xi măng, bê tông nhựa nóng
đáp ứng việc đi lại vận chuyển hàng hóa ở địa phương.
Thực hiện cơ chế chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cây trồng
vật nuôi nhằm xây dựng nền kinh tế hàng hóa, hoạt động theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN, đến nay địa bàn xã có 801 hécta cao
su, trong đó cao su tiểu điền 165 hécta, 776 hécta điều, 405 hécta cây
ăn trái…, có trên 30 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, năng suất
535

54.6 Page 536

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cây trồng ngày càng tăng, chất lượng ngày càng đáp ứng yêu cầu của
thị trường. Thương mại dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp ngày càng
phát triển, chợ mới được xây dựng lại khang trang, thông thoáng,
sạch đẹp đáp ứng nhu cầu mua bán của các tiểu thương, và người
tiêu dùng. Đời sống của nhân dân không ngừng nâng lên, ước tính
đến cuối năm 2018 thu nhập bình quân đầu người của xã là 58 triệu
đồng/ người/ năm.
Ghi nhận công lao của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Phú
Túc qua các thời kỳ, ngày 22 tháng 8 năm 1998, Chủ tịch Nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng nhân dân và Lực
lượng vũ trang nhân dân xã Phú Túc danh hiệu tập thể Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước theo
Quyết định số 424 KT/CTN.
Đến cuối năm 2015 xã Phú Túc đã được UBND tỉnh công nhận xã
đạt chuẩn nông thôn mới, và hiện đang tiếp tục xây dựng nông thôn
mới nâng cao, phấn đấu đến cuối năm 2018 đạt chuẩn nông thôn mới
nâng cao.
536

54.7 Page 537

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhân dân và Lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Xuân Lộc
Xuân Lộc(1) là một huyện thuộc tỉnh Đồng Nai. Trước Cách
mạng tháng Tám 1945 và trong kháng chiến chống Pháp, Xuân
Lộc là một huyện của tỉnh Biên Hòa, bao gồm cả địa bàn của cả 3
huyện: Tân Phú, Xuân Lộc, Thống Nhất ngày nay; quận lỵ đặt tại
làng Xuân Lộc. Năm 1957 chính quyền Ngô Đình Diệm cắt Xuân
Lộc khỏi tỉnh Biên Hòa, lập tỉnh Long Khánh với 3 quận: Định
Quán, Xuân Lộc, Kiệm Tân. Để thuận tiện cho đấu tranh chống
địch, chính quyền cách mạng cũng tổ chức tỉnh Long Khánh và
chia địa bàn ra nhiều huyện: Xuân Lộc, Định Quán, Cao Su và thị
xã Long Khánh, về sau còn thêm huyện Thống Nhất. Về địa danh
hành chính cấp tỉnh, có lúc Long Khánh là tỉnh riêng, có lúc Long
Khánh nhập với Bà Rịa thành tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, hoặc
nhập với cả Biên Hòa thành tỉnh Long Bà Biên.
Sau khi tỉnh Đồng Nai thành lập năm 1976, huyện Xuân Lộc
thuộc tỉnh Đồng Nai, gồm thị trấn Xuân Lộc và 14 xã: Xuân Bảo,
Xuân Bình, Xuân Định, Xuân Đường, Xuân Hiệp, Xuân Hòa,
Xuân Hưng, Xuân Lập, Xuân Phú, Xuân Tâm, Xuân Tân, Xuân
Thành, Xuân Thọ, Xuân Trường.
Huyện Xuân Lộc nằm phía Đông tỉnh Đồng Nai, cách Thành
phố Hồ Chí Minh 80km về phía Đông - Đông Bắc, cách bờ biển
(1) Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Xuân Lộc, biên soạn năm 1985.
537

54.8 Page 538

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ở phía Nam 40km đường chim bay, phía Đông giáp tỉnh Bình
Thuận, Nam giáp 2 huyện Xuyên Mộc, Châu Thành (tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu), Tây giáp huyện Long Thành, huyện Thống Nhất, Bắc
giáp huyện Tân Phú.
Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc - Nam chạy qua địa bàn huyện
Xuân Lộc từ đông sang tây. Quốc lộ 56 từ ngã ba Tân Phong trên
quốc lộ 1 chạy theo hướng nam - tây nam về Bà Rịa và Long Hải,
liên tỉnh lộ 3 từ ngã ba Gia Ray (xã Xuân Trường) trên Quốc lộ 1
đi thị trấn Võ Đắc, huyện Đức Linh (tỉnh Bình Thuận).
Bước vào thế kỷ 20, thực dân Pháp bắt đầu khai thác kinh tế,
tài nguyên ở tỉnh Biên Hòa. Năm 1904, Pháp làm xong đường
xe lửa Sài Gòn - Xuân Lộc, đến năm 1910 đường xe lửa ra đến
Mường Mán (tỉnh Bình Thuận). Từ đó, nhiều xóm làng bắt đầu
hình thành dọc theo tuyến đường sắt. Năm 1906, các đồn điền cao
su bắt đầu xuất hiện ở Xuân Lộc, sớm nhất là Công ty đồn điền
cao su Đông Dương (người dân thường gọi là sở SIPH), kế đến
là Công ty đồn điền cao su Xuân Lộc. Để có hàng trăm hécta đất
đỏ liền khoảng để trồng cao su, thực dân Pháp đã đuổi người các
dân tộc thiểu số bản địa sinh sống hàng bao đời nay rời bỏ vùng
đất màu mỡ, dời buôn làng đến những vùng đất xám, đất trắng.
Không chỉ vậy, các công ty cao su còn bắt người dân tộc thiểu
số làm xâu không công trong những đồn điền trên chính mảnh đất
của mình trước đây. Hàng loạt đồn điền cao su mọc lên ở Xuân
Lộc, như: An Lộc, Bình Lộc, Dầu Giây, Cam Tiên, Túc Trưng,
Cây Gáo, Trảng Bom, Hàng Gòn. Để trồng và khai thác cao su,
các chủ đồn điền mộ dân phu là giới nông dân cùng cực ở các tỉnh
miền Bắc, miền Trung như: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Thừa Thiên - Huế, Nghệ An, Hà Tĩnh, Nam Định...
Từ sự phát triển của các đồn điền cao su, ngoài công nhân cao su
còn có một số người dân từ các nơi khác đổ về huyện Xuân Lộc,
ngoài sinh sống về nông nghiệp như làm rẫy, làm ruộng, còn tham
gia các hoạt động dịch vụ như buôn bán, làm be (khai thác gỗ).
538

54.9 Page 539

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Điều này khiến dân số cơ học của huyện tăng nhanh chóng. Năm
1910, dân số huyện Xuân Lộc khoảng 5.000 người, đến năm 1945
đã lên đến 30.000 người, trong đó có 20.000 người là công nhân
cao su.
Trong giai đoạn từ năm 1945-1975, Xuân Lộc tiếp nhận nhiều
đợt di dân nên dân số tiếp tục tăng nhanh chóng. Năm 1954, có
khoảng 30.000 đồng bào Thiên Chúa giáo di cư từ miền Bắc được
đưa tới định cư ở Bình Lộc, Túc Trưng, Bảo Định, Gia Kiệm. Từ
năm 1959-1970 địch liên tục “hốt” dân ở các vùng giải phóng,
vùng “trắng”, cộng thêm đồng bào các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên
- Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận do tránh địch khủng
bố đã vào lập nghiệp trên 12.000 gia đình với khoảng 50.000
người. Chính quyền Sài Gòn khi lập các căn cứ quân sự, dân
sự tại Xuân Lộc cũng góp phần đưa hàng chục ngàn gia đình và
người thân của binh sĩ, nhân viên về sống ở đây. Đến năm 1972,
dân số ở Xuân Lộc lên tới 172.000 người.
Trong thực tế xây dựng và tiến hành chiến tranh cách mạng,
Xuân Lộc là một địa bàn có ý nghĩa chiến lược.
Xuân Lộc là một căn cứ hậu phương của chiến tranh cách mạng
của miền Đông Nam Bộ. Khi quân Pháp đánh chiếm Đồng Nai,
Gia Định vào năm 1961-1862, Phó đề đốc Lê Quang Tiên của
triều đình Nguyễn đã lập đồn ở Long Giao, Suối Rết để chống
trả sự tấn công của Pháp. Trong cuộc chiến đấu chống Pháp của
Bình Tây đại tướng quân Trương Định, nghĩa quân Trương Định
cũng lập căn cứ tại vùng Giao Loan, Rừng Lá của huyện Xuân
Lộc. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp và Mỹ của quân dân
Đồng Nai, núi Chứa Chan và khu Rừng Lá trở thành căn cứ địa
cách mạng. Căn cứ Khu ủy miền Đông cũng nhiều lúc được đặt ở
Xuân Lộc tại đồi Mặt Trăng, núi Mây Tàu. Xuân Lộc còn là khu
vực bàn đạp cho các lực lượng vũ trang chính quy tiến đánh địch,
làm nên các chiến thắng La Ngà, Bình Giã, Đồng Xoài, Xuân Lộc
lừng lẫy.
539

54.10 Page 540

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Xuân Lộc là đầu mối giao thông, là hành lang chiến lược
là một địa bàn cơ động lực lượng và cũng là chiến trường tiêu
diệt địch lớn. Là vùng trung du nằm ở địa đầu Nam Bộ, Xuân Lộc
là đầu mối giao thông nối liền với cực Nam Trung Bộ, với Tây
Nguyên và với khu vực biển Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là mảnh đất
tiến có thể đánh, lùi có thể giữ, có thể sử dụng là hành lang giao
thông tiếp vận cho Nam Bộ cũng như chuyển vận từ biển vào khu
vực miền Đông và ngược lại.
Chính vì vị trí chiến lược này, trước đây quân Pháp coi Xuân
Lộc là đất quân sự ngăn chặn cách mạng tiến về Sài Gòn. Tương
tự, quân đội Mỹ và Sài Gòn cũng tập trung quân dày đặc tại đây
để giữ phòng tuyến Xuân Lộc. Một điều rất rõ ràng là năm 1975
khi các quân đoàn chủ lực cùng nhân dân Xuân Lộc đập tan tuyến
án ngữ vững nhất của địch ở đây thì cửa ngõ vào giải phóng Sài
Gòn - Gia Định đã nhanh chóng mở ra.
Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị nước ta, ở Xuân Lộc,
chính quyền thực dân trao cho bọn chủ sở cao su quyền sinh sát,
quyền cai trị trong các đồn điền. Ở đây không có một thứ luật
pháp nào cả nào ngoài thứ luật pháp dã man của bọn chủ đồn
điền. Công nhân phải làm việc đầu tắt mặt tối, mỗi ngày làm từ
12-13 giờ trong điều kiện làm việc khắc nghiệt, điều kiện sống rất
tồi tệ trong khi đồng lương nhận được lại rất ít ỏi. Trong số công
nhân cao su làm việc tại các đồn điền ở Xuân Lộc, tỷ lệ người
chết về bệnh tật, nhất là bệnh sốt rét, lên đến 26,9%. Đặc biệt,
chúng thường tìm cách gây hiềm kích, nghi kỵ chia rẽ giữa đồng
bào dân tộc thiểu số bản địa và công nhân; tổ chức hoặc khuyến
khích tổ chức nhiều sòng bạc, tiệm hút, tiệm rượu để bóc lột, tha
hóa công nhân.
Công nhân cao su và các tầng lớp dân nghèo khác chiếm hơn
95% dân số ở Xuân Lộc. Sống dưới 3 tầng áp bức bóc lột của tư
bản, thực dân, địa chủ phong kiến, đời sống bần cùng nhân dân
Xuân Lộc không có con đường nào khác là vùng dậy đấu tranh
540

55 Pages 541-550

▲back to top


55.1 Page 541

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đánh đổ đế quốc và tay sai.
Trước khi Đảng ra đời, ở Xuân Lộc đã có nhiều cuộc đấu tranh
tự phát của công nhân ở các đồn điền cao su và nông dân ở địa
phương, những cuộc đấu tranh tự phát đó đều bị dìm trong máu.
Từ năm 1930-1931, đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam
Bộ đã cử các đồng chí Nguyễn Xuân Cừ, Nguyễn Đức Văn... về
xây dựng cơ sở Đảng tại các đồn điền cao su và các buôn làng
đồng bào dân tộc thiểu số ở Xuân Lộc. Các đồng chí đã tuyên
truyền đường lối của Đảng thông qua những câu truyện nghĩa
hiệp, những tấm gương yêu nước, yêu dân tộc của các vị cách
mạng tiền bối, tập hợp nhân dân trong các tổ chức hợp pháp: Hội
tương tế, hội ái hữu, hội đồng hương... trên cơ sở đó lựa chọn
những hội viên ưu tú để kết nạp vào Đảng.
Tháng 2/1937, hội nghị thành lập chi bộ Đảng ở Xuân Lộc
được tổ chức tại xã Bàu Trâm(2). Sau hội nghị này, các tổ chức
cách mạng ở Xuân Lộc phát triển, hình thành được các tổ, hội ở
thị trấn Xuân Lộc và các sở cao su. Qua đó đã tập hợp được hàng
trăm quần chúng tham gia. Phong trào cách mạng từ năm 1937 trở
đi dấy lên mạnh mẽ ở Xuân Lộc. Ở các sở cao su An Lộc, Cẩm
Mỹ, Túc Trưng, Hàng Gòn, Ông Quế, Bình Lộc... và các hãng,
trại khai thác gỗ, phong trào đấu tranh của công nhân và nông
dân lao động đòi dân sinh, dân chủ chống cúp phạt, đánh đập, đòi
được phát gạo trắng, mùng mền phát triển mạnh.
Những cuộc đấu tranh của công nhân trong các đồn điền cao su
ở Xuân Lộc trong suốt những năm 1940-1945 diễn ra ngày càng
mạnh mẽ. Trong thời gian này, khẩu hiệu đấu tranh kinh tế gắn
liền với khẩu hiệu đấu tranh chính trị. Các cuộc đấu tranh đều
được tổ chức chu đáo và có sự phối hợp giữa các đồn điền, giữa
công nhân và nông dân. Tổ chức đoàn thể bí mật trong các đồn
điền ngày càng phát triển. Uy tín các đồng chí cán bộ cách mạng
(2) Nay thuộc thị xã Long Khánh.
541

55.2 Page 542

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
ngày một nâng lên. Qua đấu tranh, đội ngũ quần chúng công nhân
giác ngộ cách mạng ngày một thêm đông đảo. Liên minh công
nông bước đầu được hình thành. Lực lượng cách mạng lớn dần
lên, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc vận động cách mạng khởi nghĩa
giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh
vô điều kiện. Được tin này, binh lính Nhật ở Xuân Lộc vô cùng
hoang mang, lo sợ. Số rút chạy về Sài Gòn, Biên Hòa, số co cụm
lại trong các đồn bót. Ở các sở cao su ngay từ khi Nhật đầu hàng
đồng minh, quần chúng công nhân dưới sự lãnh đạo của các đồng
chí cán bộ cách mạng đã đứng dậy làm chủ đồn điền. Lực lượng
thanh niên Tiền Phong là lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ bảo vệ
trật tự trị an ở các sở.
Sáng 28/8/1945, lực lượng Thanh niên tiền phong thị trấn Xuân
Lộc đã tước vũ khí địch ở đồn Xuân Lộc, yêu cầu quận trưởng
Lê Thành Tường giao nộp toàn bộ hồ sơ, ấn, mộc cho cách mạng.
Đến 10 giờ sáng, cách mạng đã hoàn toàn làm chủ tất cả các cơ
quan, công sở ở trung tâm quận lỵ Xuân Lộc.
Ngày 6/01/1946, các cử tri ở Xuân Lộc tham gia cuộc Tổng
tuyển cử bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Đồng chí Điểu Xiển, người dân tộc Chơro ở Xuân Lộc
được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Ngày 25/10/1945, có quân Anh và đồng minh mở đường, quân
Pháp phá vòng vây Sài Gòn, chiếm Biên Hòa rồi đánh ra Xuân
Lộc, chiếm quốc lộ 1 và quốc lộ 20. Từ cuối tháng 2/1946, Xuân
Lộc bị địch chiếm lại. Các chủ Tây trở về làm chủ tại các sở cao
su, lập cả đồn lính tại đây. Chính quyền nhân dân huyện bị tê
liệt, chính quyền các xã tan rã, quân đội không còn. Cơ sở có tổ
chức của cách mạng bị đánh tan tác. Địch lập lại bộ máy cai trị từ
huyện đến xã, móc nối những tên tay sai cũ, lập lại các ban tề, tổ
chức lính huyện, lính làng để khủng bố nhân dân.
Kể từ đó, quân dân huyện Xuân Lộc bắt đầu bước vào cuộc
542

55.3 Page 543

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kháng chiến chống thực dân Pháp. Công nhân các đồn điền cao
su đều chống giặc. Chưa kể thanh niên đã gia nhập quân đội theo
bộ đội đi chiến đấu, số thanh niên công nhân còn lại kéo vào rừng
tìm bộ đội, tổ chức lực lượng, tổ chức du kích đánh địch, chủ sở
và lính ở các đồn điền. Nhân dân Xuân Lộc vẫn bí mật tiếp tế và
bảo vệ cán bộ và nhóm thanh niên công nhân vũ trang bám các
vùng địa hình ở lại địa phương.
Với sự hỗ trợ của Tỉnh ủy, cán bộ Đảng, Mặt trận, cán bộ quân
sự Xuân Lộc chủ động gây dựng lại cơ sở và lực lượng. Cơ sở mật
của cách mạng xây dựng lại nhanh chóng trong nhiều xã, cả trong
các ban, tề, trong lính tráng. Tháng 10/1946, chỉ trong một đêm
cơ sở cách mạng vận động nhân dân kết hợp với nhân mối trong
chính quyền địch đồng loạt nổi dậy, phá bỏ các ban tề, tước vũ
khí lính tráng, lập lại chính quyền và xây dựng đội du kích ở 3 xã:
Tân Lập, Bình Hòa, Bình Lộc. Ở phía Rừng Lá, quân dân Xuân
Lộc xây dựng cơ sở cách mạng ở Bảo Chánh, Thọ Vực, Võ Đắc.
Cuộc nổi dậy từ 3 xã và vùng Bảo Chánh, Thọ Vực phát triển sang
các xã trong huyện. Căn cứ cách mạng ở vùng núi Chứa Chan
cũng được xây dựng.
Nhiều toán thanh niên, du kích cao su tập hợp nhau lại do đồng
chí Nguyễn Văn Tùng và đồng chí Tư Xường chỉ huy. Thanh niên
công nhân Lê Sắc Nghi tham gia đội du kích đã cùng đồng chí
Tư Xường đột nhập sở Suối Tre, đánh úp và diệt được tên chủ
sở, lấy 1 súng sáu. Được sự hướng dẫn của đồng chí Huỳnh Văn
Nghệ, Chỉ huy trưởng Chi đội 10, đội du kích chuyển thành Ban
Công tác liên thôn 9. Nhóm thanh niên vũ trang ở quanh vùng thị
trấn chuyển thành Ban Công tác liên thôn 10, hoạt động trong thị
trấn và vùng ven. Mỗi ban công tác liên thôn có trên 20 người, 10
súng, có 1 súng tiểu liên. Trên cơ sở đó, Quốc vệ đội huyện thành
lập do đồng chí Lê Văn Vận trực tiếp làm đội trưởng.
Thời kỳ này, Chi đội 10 phân công Trung đội 6 và Trung đội 4
hoạt động ở Xuân Lộc. Các chiến sĩ vốn là công nhân các sở cao
543

55.4 Page 544

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
su Xuân Lộc bỏ đồn điền đi chiến đấu. Đến cuối năm 1946, cơ sở
cách mạng được xây dựng lại ở các sở cao su, các xã và thị trấn,
lực lượng huyện phát triển, được lựa chọn, và đã có kinh nghiệm
công tác và chiến đấu. Đội ngũ cán bộ nói chung phần lớn đã
được sàng lọc trong những tháng khó khăn.
Theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch và
thực hiện triệt để khẩu hiệu “Tiêu thổ kháng chiến” của Mặt trận
Việt Minh, hàng ngàn đồng bào thị trấn Xuân Lộc chuyển ra vùng
kháng chiến, tự tay đốt nhà mình. Tại các sở cao su, công nhân
phá các cơ sở máy móc, đưa máy móc, hóa chất vào căn cứ cách
mạng xây dựng công binh xưởng. Mặt khác, ta phá giao thông
địch. Đêm đến nhân dân, bộ đội kéo ra phá đường quốc lộ.
Từ đầu năm 1947, vấn đề lương thực nuôi quân gặp khó khăn.
Nhân dân huy động xe trâu, xe bò đi Bàu Lâm chở gạo cho bộ đội
nhưng gặp khó khăn vì giặc chặn đường, có lần chúng cướp cả
một đoàn 20 xe bò. Trước tình hình đó, Đảng bộ Xuân Lộc phát
động phong trào sản xuất tự túc sôi nổi trong nhân dân. Địch lại
tập trung phá hoại mùa màng, thóc lúa. Để bảo vệ nguồn lương
thực, Huyện ủy Xuân Lộc tổ chức các “Hội gặt tập đoàn” huy
động cả dân, quân chính tập trung đi gặt, lúa chín tới đâu thu
hoạch xong tới đấy, gặt tới đâu giấu tới đó.
Trên chiến trường cả huyện, cuộc chiến đấu phát triển với sự
trưởng thành của các đơn vị. Trung đội 6 do đồng chí Vũ chỉ huy
thường hóa trang bất ngờ diệt đồn bót, đánh vào quân địch ở thị
trấn, ở trung tâm cao su, đốt nhà cửa, trụ sở chúng mới dựng lên.
Bọn địch ở Xà Bang, Dầu Giây, Suối Râm không tránh khỏi đòn
trừng trị của trung đội. Ở phía Bắc và phía Đông huyện, Trung
đội 4 đánh cho quân địch phải phục và sợ. Tháng 10/1946, trung
đội 4 đánh phá đồn điền Bình Lộc, diệt và bắt gọn quân lính bảo
vệ, bắt sếp sở cùng những tên phản động thu một cối 60 ly, 5 tiểu
liên, 30 súng trường. Đồng thời 500 công nhân nổi dậy đốt xe sở,
kho mủ cao su, lấy máy móc, chở lương thực thuốc men ra căn cứ
544

55.5 Page 545

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kháng chiến.
Quốc gia tự vệ cuộc, Quốc vệ đội của huyện lúc này tạo được
nhiều cơ sở mật trong vùng địch, trong hàng ngũ của địch và lấy
được nhiều súng đạn từ binh lính địch. Nhờ vậy lực lượng công
an huyện sớm lắm được tình hình địch kịp báo cho Trung đội 4,
Trung đội 6 biết mà chuẩn bị cách đối phó. Sự đoàn kết gắn bó
sống chết, giúp đỡ lẫn nhau giữa trung đội 4, trung đội 6 với quốc
vệ đội, công an huyện tạo điều kiện cho bộ đội và công an huyện
hoàn thành tốt các nhiệm vụ chiến đấu.
Hai trận đánh nổi tiếng của quân dân Xuân Lộc trong giai đoạn
này là trận Bảo Chánh 1 và trận Trảng Táo. Trong trận Bảo Chánh
1 vào tháng 4/1947, Đại đội B Xuân Lộc gồm 3 trung đội 4, 5,
6 đánh một đoàn xe lửa địch. Lần đầu tiên ta dùng mìn điện do
xưởng Chi đội 10 chế tạo bằng đạn pháo 75, diệt cả đoàn xe lửa;
thu được một số súng trong đó có 1 đại liên. Tiếp đó là trận Trảng
Táo tháng 5/1947, bộ đội gồm trung đội 5 và 6 từ núi Chứa Chan
hành quân 1 ngày tới trận địa phục kích. Trận này ta không dùng
mìn mà tháo ốc đường ray rồi dùng dây kéo chệch khi xe sắp qua.
Đoàn xe lửa bị đứt làm đôi, đoạn đầu chạy về đến ga Gia Huynh,
đoạn sau lao theo đường ray kéo chệch, chạy qua chỗ bộ đội phục
kích 1km mới bị đổ. Lập tức bộ đội xung phong chạy đuổi theo
diệt địch, ta thu được 2 đại liên, 20 súng trường và tiểu liên và
1 toa xe có 100 bao gạo. Rút kinh nghiệm, quân dân Xuân Lộc
sau đó liên tiếp có nhiều trận đánh Pháp hiệu quả, như trận Bảo
Chánh 2 và tháng 6/1947, trận Bàu Cá ngày 14/7/1947.
Ngày 13/11/1947, Xứ ủy Nam Bộ quyết định tổ chức phát triển
dân quân, lập phòng dân quân Nam Bộ. Tỉnh đội bộ dân quân
Biên Hòa thành lập tại Xuân Lộc, các ban công tác liên thôn 9 và
10 hợp nhất lại, tổ chức thành Huyện đội dân quân, chịu sự lãnh
đạo của Huyện ủy và nằm trong Ủy ban kháng chiến huyện. Lực
lượng vũ trang ở cấp huyện là đội du kích tập trung gồm các chiến
sĩ ở hai ban công tác chuyển sang. Mỗi xã đều thành lập đội du
545

55.6 Page 546

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
kích xã và tổ chức dân quân. Ở các sở cao su cũng tổ chức dân
quân và đội du kích. Với tinh thần và phương pháp tổ chức mới,
Huyện ủy phát huy được năng lực hoạt động toàn diện về công tác
và chiến đấu của lực lượng vũ trang tổ chức, và huy động được
sức chiến đấu bảo vệ địa phương của nhân dân và du kích.
Ngày 1/3/1948, quân dân Xuân Lộc phối hợp với Chi đội 10
đánh thắng trận La Ngà trên Quốc lộ 20, gây tiếng vang lớn, cổ vũ
mạnh mẽ phong trào kháng chiến xây dựng phát triển lực lượng
vũ trang ở Xuân Lộc, ở miền Đông, đánh dấu bước phát triển mới
tiến lên đánh lớn của bộ đội Nam Bộ. Phối hợp với lực lượng vũ
trang, phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh ở các sở cao
su. Công nhân đấu tranh đòi tăng lương, bớt giờ làm, đòi khoán
công, khoán việc tự quản lý, bớt có lính đi kèm.
Sang năm 1951, địch tập trung đánh phá lấn chiếm vào chiến
khu Đ, chiếm đóng các lõm căn cứ ta, tạo những “vùng trắng”
không có dân để cô lập phong trào kháng chiến. Vùng giải phóng
ở Xuân Lộc chỉ còn vùng rừng cây, rừng lá từ Gia Ray ra suối
Đá Bạc. Đảng bộ Xuân Lộc định hướng cán bộ, chiến sĩ tuyên
truyền vũ trang Xuân Lộc phân tán về cơ sở, vào các sở cao su.
Hoạt động vũ trang của các đội công tác nhằm phục vụ xây dựng
cơ sở và phong trào đấu tranh chính trị của công nhân. Phối hợp
với công nhân, các đội cảnh cáo những tên chỉ điểm, trừng trị
những tên tay sai gian ác. Các đội hướng dẫn các cơ sở vận động
binh lính ngụy làm việc cho ta, hoặc vác súng ra rừng theo kháng
chiến. Năm 1951, đội vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc đánh địch
và đốt lò xông sở Tân Phong, cảnh cáo những chủ sở cao su không
chịu nộp thuế cho kháng chiến, các chủ sở cao su đều tuân theo,
nộp thuế đầy đủ.
Đồng thời các đội vũ trang công tác liên tiếp đánh địch trên
các đường giao thông; trên đường xe lửa, các quốc lộ 1 và 20,
góp phần ngăn chặn giao thông vận tải của địch. Năm 1951, đội
đã phối hợp cùng bộ đội tỉnh Bà Chợ đánh diệt 1 đoàn xe địch
546

55.7 Page 547

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ở Trảng Táo lấy 2 trung liên, nhiều súng đạn và lương thực. Đội
vũ trang công tác A và B đồn điền An Lộc đã vận động và lãnh
đạo nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân trong sở, diệt
một số tay sai địch, đánh một xe lửa ở dốc Mẹ Bồng Con. Tháng
5/1951, đội vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc nhận nhiệm vụ phân
tán bớt quân địch ở Trảng Bom và chặn quân chi viện từ Xuân
Lộc đến Trảng Bom, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 303 cùng đội
vũ trang tuyên truyền thị xã Biên Hòa bất ngờ tập kích tiêu diệt
hơn 1 đại đội địch ở Trảng Bom, phá hủy xe bọc thép án ngữ, thu
nhiều vũ khí đạn dược.
Việc đóng tài chính của toàn huyện Xuân Lộc lên cấp trên mỗi
năm một phát triển, và đều vượt yêu cầu của tỉnh. Xuân Lộc cùng
Lái Thiêu dẫn đầu các huyện trong tỉnh Thủ Biên về cung cấp tài
chính cho tỉnh.
Năm 1952, Trung ương đã có điều kiện chi viện lớn về vũ khí
cho Nam Trung Bộ. Hàng ngàn tấn vũ khí đã được Tiểu đoàn
320 chuyển vận từ Hàm Tân qua Xuân Lộc đến Chiến khu Đ qua
đường xe lửa, quốc lộ 1, quốc lộ 20. Địch tăng cường lực lượng
để vây, ngăn chặn, nhưng quân dân Xuân Lộc, công nhân cao su
các sở đã hết sức cảnh giác, bảo vệ tiểu đoàn, không ngừng giữ
bí mật cho tiểu đoàn và luôn tìm cách đánh lạc hướng bọn địch đi
tuần tiễu, góp phần giúp Tiểu đoàn 320 hoàn thành nhiệm vụ có
tính chất chiến lược này.
Trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, ở Xuân Lộc ta liên
tục đánh địch trên các đường giao thông quan trọng là quốc lộ 1
và quốc lộ 20, gây thiệt hại và trở ngại cho giao thông của địch
ở 2 con đường huyết mạch. Chúng phải điều lực lượng về đóng
dầy đặc trên 2 quốc lộ nói trên để bảo vệ vận chuyển, dồn quân,
rút quân. Ở các sở cao su công nhân tiến hành đấu tranh chính
trị giành từng bước thắng lợi đối với địch. Các đội vũ trang công
tác cùng chi bộ Đảng và cơ sở công đoàn trong các sở chuẩn bị
lực lượng tiến công diệt địch, vận động binh lính địch, giành lại
547

55.8 Page 548

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cơ sở. Huyện Xuân Lộc đang chuẩn bị tiến công mạnh để chuyển
vùng thì Hiệp định Geneve về ngừng bắn lập lại hòa bình ở Đông
Dương được ký kết.
Suốt chín năm kháng chiến, nhân dân Xuân Lộc vững tin ở
Đảng, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, đoàn kết bất khuất, kiên trì
chiến đấu, vượt muôn trùng khó khăn, cùng miền Đông “gian lao
mà anh dũng” góp phần với cả nước giành thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Theo quy định của Hiệp định đình chiến, Xuân Lộc nằm trong
khu vực chuyển quân tập kết 80 ngày. Hầu hết cán bộ chiến sĩ
trong đội vũ trang tuyên truyền của huyện lên đường tập kết với
tinh thần hết sức khẩn trương. Chuyển sang giai đoạn cách mạng
mới, Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức học tập cho số cán bộ đảng viên
được phân công ở lại trước khi bố trí về các địa phương, chỉ rõ
tình hình đấu tranh nhất định sẽ vô cùng phức tạp, yêu cầu mỗi
đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng, không được tách rời quần chúng
trong mọi hoạt động, phải giữ vững khí tiết người Cộng sản. Cuối
năm 1954, Tỉnh ủy quyết định xây dựng tổ chức của Đảng ở Xuân
Lộc cho phù hợp tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới, trước mắt là thành lập Ban Cán sự huyện Xuân Lộc. Các
đồng chí trong Ban Cán sự huyện Xuân Lộc móc nối số đảng viên
được phân công ở lại và đến cuối năm 1954 đã xây dựng được 3
chi bộ Đảng là: chi bộ thị trấn, chi bộ Gia Ray và chi bộ Rừng Lá.
Ở Xuân Lộc lúc này số lượng cán bộ, đảng viên tương đối
mỏng so với các nơi khác. Tỉnh ủy và Ban Công vận Xứ ủy đã
tăng cường nhân lực cho địa phương. Sau hơn một năm xây dựng,
tổ chức Đảng ở Xuân Lộc được kiện toàn từ cơ sở cho đến huyện.
Mạng lưới đảng viên phát triển tương đối rộng khắp ở các xã và
các sở cao su. Đến đầu năm 1956 trong toàn huyện Xuân Lộc đã
xây dựng được 10 chi bộ với hơn 40 đảng viên. Dưới sự lãnh đạo
của Huyện uỷ và các chi bộ Đảng, phong trào đấu tranh chính trị
548

55.9 Page 549

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
đòi dân sinh, dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử phát triển sôi
nổi trong hai năm 1955-1956.
Trong thời gian đầu, toàn bộ hệ thống cai trị của thực dân Pháp
trước đây vẫn là công cụ đàn áp nhân dân. Tổ chức tình báo của
Pháp (CR) đóng ở Suối Tre (An Lộc) trong những ngày còn lại
vẫn tiếp tục chống phá cách mạng, khủng bố đồng bào bảo vệ
quyền lợi của tư bản thực dân ở các đồn điền cao su. Từ năm 1955
trở đi chính quyền Ngô Đình Diệm dần đưa các tên tay sai trung
thành với chủ mới vào các cương vị chủ chốt ở Xuân Lộc. Song
song với việc lập các hội đồng tề, chúng mở đường sá, bố trí đồng
bào di cư dọc theo các trục lộ giao thông quan trọng và sâu trong
các khu căn cứ cách mạng. Âm mưu của địch lúc ấy là biến mấy
vạn đồng bào di cư từ miền Bắc vào Xuân Lộc thành cơ sở hậu
thuẫn chính trị. Mặt khác, chúng chọn những tên phản động nhất
và đưa vào bộ máy tề ngụy xã ấp và lực lượng cảnh sát mật vụ
để đánh phá cách mạng ở địa phương. Cùng với việc xây dựng
hệ thống chính quyền các cấp, chính quyền Ngô Đình Diệm tập
trung xây dựng các tổ chức đảng phái phản động ở địa phương
như “Đảng Cần lao”, “Phong trào Cách mạng quốc gia”.
Tại các xã ấp, chúng quy từ 5-10 gia đình vào thành 1 liên gia
và cài mật vụ để khống chế người dân. Chúng phân loại dân, lập
danh sách để theo dõi, bắt bớ số cán bộ kháng chiến cũ và các gia
đình cơ sở cách mạng. Chúng gấp rút tổ chức chức lực lượng bảo
an đoàn thay thế bọn thân binh do Pháp tổ chức trước đây, đồng
thời tiến hành xây dựng lực lượng dân vệ, cảnh sát từ cơ sở đến
tỉnh nhất là phát triển rộng khắp mạng lưới mật vụ trong các xã
ấp. Chúng ráo riết bắt lính, tổ chức đoàn bảo an tỉnh Long Khánh
gồm có 5 đại đội , mỗi xã có một xã đoàn dân vệ từ 30-40 tên. Hệ
thống đồn bót được mở rộng dọc theo các trục lộ 1, lộ 20, lộ 2-3
và cắm sâu trong các vùng căn cứ của kháng chiến trước đây như
Cẩm Đường, Cẩm Mỹ, Gia Ray, Võ Đắc, Rừng Lá... từ đó ra sức
khủng bố, dồn ép nhân dân. Chúng tổ chức thành lập một số dinh
điền như: dinh điền Bình Phú, dinh điền Thừa Đức... để gom đồng
549

55.10 Page 550

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bào vào các khu tập trung đồng thời bóc lột sức lao động của bà
con ta. Một số ngụy quân ngụy quyền có thế lực ở Sài Gòn, Biên
Hòa cũng lần lượt về Xuân Lộc chiếm đất lập vườn trồng cà phê,
trồng cây ăn trái... ruộng và đất Xuân Lộc dần dần rơi về tay bọn
địa chủ và tư sản mới. Những quyền lợi kinh tế do cách mạng đã
đem lại cho nông dân Xuân Lộc trong kháng chiến chống Pháp bị
xóa bỏ bằng các chính sách “cải cách điền địa” mị dân của Mỹ -
Diệm với các thủ đoạn thâm độc về chính trị, quân sự, kinh tế và
văn hóa.
Trước âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
nhân dân ta không khoanh tay ngồi yên mà là bước vào một thời
kỳ đấu tranh mới. Nhân dân Xuân Lộc tiến hành đấu tranh theo
khẩu hiệu chung của cách mạng miền Nam lúc đó là: “hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ chuyển hướng đấu tranh vũ trang,
đấu tranh chính trị đòi thực hiện hiệp định đình chiến củng cố hòa
bình thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống
nhất, chống khủng bố, bảo vệ những quyền lợi của quần chúng
đã giành được trong kháng chiến”. Ban Cán sự huyện Xuân Lộc
đã móc nối sắp xếp, tổ chức lại đội ngũ cán bộ đảng viên ở địa
phương, hoạt động hợp pháp kết hợp với bí mật. Toàn bộ các đồng
chí trong ban cán sự và đảng viên đều đi vào sống hợp pháp trong
dân.
Tại thị trấn Xuân Lộc, trong những tháng cuối năm 1954 và
đầu năm 1955, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng
phát triển mạnh. Chi bộ Đảng đã lãnh đạo quần chúng liên tục
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève, tổ chức rải truyền đơn,
kẻ biểu ngữ, tố cáo Mỹ - Diệm vi phạm hiệp định. Phong trào đấu
tranh trong các sở cao su phát triển mạnh, nhiều đồng chí cán bộ
trong Huyện ủy tập trung họat động hợp pháp và bí mật tại Suối
Tre và Bình Lộc.
Từ đầu năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu tiến
hành khủng bố, càn quét, bắt và thủ tiêu một số cán bộ và quần
550

56 Pages 551-560

▲back to top


56.1 Page 551

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
chúng cách mạng. Điểm đánh phá đầu tiên của chúng là thị trấn
Xuân Lộc. Đến cuối 1955, chi bộ thị trấn bị đánh tan rã, hầu hết
các đồng chí đảng viên bị địch bắt. Tuy nhiên, ở các sở cao su ta
vẫn còn lực lượng nòng cốt và phong trào đấu tranh vẫn diễn ra
quyết liệt, từ đó dần xây dựng lại cơ sở trong đô thị. Đặc biệt, lợi
dụng thời điểm địch xây dựng bộ máy, ta cài cắm được một số
đồng chí. Nhờ có chủ trương đúng đắn và sự lãnh đạo sâu kịp thời
của Huyện ủy Xuân Lộc, chỉ trong vòng hơn 2 năm 1954-1955,
Xuân Lộc từ một vùng yếu trở thành một huyện có cơ sở Đảng
tương đối rộng khắp, có phong trào đấu tranh chính trị phát triển.
Giữa năm 1957, Tỉnh ủy cử một số đồng chí Tỉnh ủy viên về
tăng cường cho Xuân Lộc. Cuối năm 1960, Ban Cán sự Xuân Lộc
được thành lập. Một tiểu đội của lực lượng C40 được bố trí về
khu vực Rừng Lá thành lập Đội vũ trang tuyên truyền Xuân Lộc.
Được đồng bào dân Chơ-ro ủng hộ vừa giúp sản xuất lương thực,
thực phẩm vừa thông báo tin tức, đội làm công tác vũ trang tuyên
truyền tổ chức nhiều trận diệt ác phá kìm để đưa phong trào lên
và tích cực phát triển lực lượng, xây dựng cơ sở. Một số tổ Đảng
cũng được thành lập ở các đồn điền cao su.
Tháng 12/1961, Ban Cán sự tỉnh Long Khánh cũng ra đời ở căn
cứ Rừng Lá. Ban cán sự chủ trương thâm nhập vào quần chúng,
tiếp tục móc nối số đảng viên và cơ sở thời chín năm kháng chiến
chống Pháp, lấy vũ trang tuyên truyền, diệt ác làm đòn xeo để phát
triển phong trào, tích cực xây dựng lực lượng, phát trển mạng lưới
cơ sở Đảng rộng khắp các xã, lấy thị xã Long Khánh làm trọng
điểm “khai hoang”, từ đó mở rộng diện tích ra các xã ven. Tại thị
xã Long Khánh, Bảo Vinh, Bình Lộc, Tân Phong, một số cán bộ
cách mạng ở các địa phương khác bị địch khủng bố trong thời kỳ
1954-1959 đã tạm lánh về Xuân Lộc sinh sống và tìm cách móc
nối với nhau để hoạt động. Bước đầu các đồng chí tập hợp được
một tổ công tác và đã liên lạc móc nối được với Ban Cán sự tỉnh
Long Khánh.
551

56.2 Page 552

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Mở màn cho phong trào diệt ác phá kìm ở thị trấn xã, tháng
1/1962, các đồng chí đã tổ chức diệt tên Tri trưởng ấp Suối Rết
ngay tại thị xã. Tiếp đó, tháng 2/1962, được cơ sở hỗ trợ, đồng chí
Tư Lạc, Trưởng Ban quân sự huyện, hóa trang làm quận trưởng
(ngụy) Xuân Lộc trực tiếp dẫn 1 tiểu đội đột nhập ấp Bảo Vinh
B, bắt gọn 21 tên tề ngụy đang họp bàn kế hoạch gom dân lập ấp,
chống phá cách mạng. Ngày 27/2/1962, một bộ phận lực lượng
D500 phối hợp với lực lượng Xuân Lộc (Long Khánh) tập kích
tiêu diệt gọn 1 đại đội biệt động quân đang đóng dã ngoại ở Tà Lú
(Mây Tàu) để chuẩn bị đánh Bàu Lâm. Cuộc hành quân của địch
bị bẻ gãy, ta thu được 43 súng (có 3 trung liên).
Tháng 3/1962, được cơ sở bên trong báo cáo tình hình địch,
đội vũ trang tuyên truyền đột kích vào dinh điền Bình Phú thu 27
súng, phá đồn và rút lui an toàn. Với những thắng lợi này bước
đầu ta bẻ gãy mưu đồ xây dựng và củng cố bộ máy tề ngụy của
địch ở xã ấp, mở rộng thế làm chủ của ta đến các vùng ven thị
xã. Từ đó phong trào đấu tranh cách mạng ở Xuân Lộc được khơi
dậy mạnh mẽ với những hoạt động diệt ác phá kìm ngày càng sôi
động ở khắp nơi làm thối động mạnh bọn ngụy, quân ngụy quyền
địa phương, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền
làm chủ đấu tranh quyết liệt chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè
lũ tay sai.
Thời điểm địch thực hiện các kế hoạch “bình định”, “gom dân
lập ấp chiến lược”, mấy tháng liền địch liên tục tổ chức bắn phá,
càn bố, xua đuổi, nhân dân các xã Bảo Chánh, Gia Ray, Cẩm
Đường, Bảo Vinh, Bình Lộc và nhiều xã, ấp khác ở phía Nam lộ
1. Nhưng người dân các địa phương vẫn kiên quyết bám rẫy, bám
vườn không chịu dời nhà vào ấp chiến lược. Ngày 8/3/1962, địch
mở chiến dịch “Mặt trời mọc” đánh vào các đồn điền cao su để
gom dân lập ấp chiến lược. Công nhân các đồn điền cao su Hàng
Gòn, Suối Tre, Cẩm Mỹ, Bình Lộc, Dầu Giây... liên tục đấu tranh
giành giật với địch từng tấm tôn, tấm lá, tay không chọi với báng
súng của địch, chặt cây làm vật cản xe, không cho giặc cày ủi
552

56.3 Page 553

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nương vườn. Địch đưa lính tới dỡ nhà, hôm sau công nhân lợp
lại. Địch đốt nhà, công nhân và đồng bào lại che chòi, dựng lán
để ở... Bằng nhiều cách, dù phải đổ máu đồng bào các xã ấp cùng
công nhân các sở cao su được các đội vũ trang hỗ trợ đã trì hoãn
và chống lại, không để cho địch gom vào trong các ấp chiến lược.
Phong trào diệt ác, chống phá địch gom dân tiếp tục lan rộng ra
các xã Bảo Chánh, Bảo Bình, Bảo Vinh, Bình Lộc, Gia Ray, Gia
Kiệm, Cây Gáo, Suối Tre, Dầu Giây, Cẩm Mỹ.
Đến đầu năm 1963, mặc dù bị quần chúng khắp nơi đấu tranh
quyết liệt, bọn địch vẫn ra sức cưỡng bức thực hiện “quốc sách ấp
chiến lược”. Ở Xuân Lộc, địch thành lập nhiều loại hình ấp chiến
lược khác nhau: nông thôn, thị xã và vùng cao su. Với vùng nông
thôn, địch gom dân, xúc tát dân các nơi về rồi cưỡng bức đào hào
sâu 2 mét, dưới hào cắm chông nhọn; dựng rào cao 1 mét, hàng
rào vừa có tre chẻ vừa cắm cọc sắt rồi căng giây kẽm gai. Ở thị
xã Long Khánh, bao quanh thị xã là môt vành đai ấp chiến lược
dài gần 10 kilômét với hàng chục bót gác, tháp canh. Nội ô thị xã
ngoài các đồn bót kiên cố còn có những lô cốt lớn, nhỏ bằng xi
măng, cốt sắt nửa chìm nửa nổi. Các lối ra vào thị xã đều bị rào
chặn bằng kẽm gai, xung quanh là bãi mìn, lựu đạn, chỉ chừa 2
cổng lớn dọc trên tuyến quốc lộ 1, đóng mở theo giờ quy định.
Còn các ấp chiến lược ở đồn điền cao su, địch gom các gia đình
công nhân vào trung tâm đồn điền để dễ kiểm soát, gia đình có
thân nhân theo cách mạng thì ở ngoài sát hàng rào để “làm bia”
nếu như phía cách mạng tấn công.
Cùng với gom dân lập ấp chiến lược địch tổ chức hệ thống
kiểm soát, kìm kẹp với những đồn bót trạm gác khắp các trục lộ
giao thông. Bọn biệt kích, thám báo lẫn lút trong các ấp chiến
lược hoạt động quấy phá những vùng gần căn cứ cách mạng. Thị
xã Long Khánh và vùng ven Bảo Vinh, Bình Lộc là nơi địch quy
tụ mạng lưới tình báo, chỉ điểm đông đảo nhất để bắt bớ người
dân và cán bộ cách mạng.
553

56.4 Page 554

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Từ khi địch tiến hành lập ấp chiến lược cuộc sống của đồng
bào, cán bộ chiến sĩ Xuân Lộc gặp khó khăn nhiều mặt. Liên lạc
giữa đồng bào với cán bộ, chiến sĩ nhiều nơi bị gián đoạn do địch
kiểm soát gắt gao. Ban Cán sự Long Khánh đã kịp thời chỉ đạo
phong trào trong toàn huyện các chủ trương kết hợp 3 mũi quân
sự chính trị, binh vận phá lỏng, phá rã, phá banh ấp chiến lược,
đẩy mạnh diệt ác phá kìm, đánh bại âm mưu “bình định nông
thôn” ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển Đảng và cơ
sở quần chúng cách mạng. Phong trào diệt ác phá ấp chiến lược
đã diễn ra sôi động khắp nơi.
Chỉ trong vòng 3 tháng, từ tháng 3 đến tháng 6/1963, được
lực lượng vũ trang của khu hỗ trợ, lực lượng vũ trang huyện và
du kích địa phương đã đồng loạt tiến công phối hợp nổi dậy của
quần chúng phá banh 3 ấp chiến lược Bảo Bình 1, Bảo Bình 2,
Bảo Bình 3 và các ấp chiến lược ở Tân Phong, Bàu Sao, Bàu Sen.
Ở các sở cao su Cẩm Mỹ, Dầu Giây, An Lộc, phong trào diệt ác
phá ấp chiến lược cũng diễn ra quyết liệt.
Kết hợp với phá ấp chiến lược, bộ đội địa phương tập kích đồn
Bảo Chánh diệt một trung đội dân vệ thu 20 súng; đột kích vào
đồn Túc Trưng và hội đồng xã bắt sống 1 trung đội dân vệ, thu 51
súng các lọai, 2 máy may và nhiều quân trang, quân dụng. Tại thị
xã Long Khánh, đội vũ trang tuyên truyền Long Khánh đã đánh
vào trụ sở Hội đồng xã Xuân Lộc. Tháng 2/1964, lực lượng vũ
trang tỉnh Long Khánh phối hợp với lực lượng địa phương tấn
công vào sở cao su Hàng Gòn, qua trận này hầu hết các chủ sở cao
su ở Xuân Lộc đều đóng thuế cho mặt trận, số tiền thu được hơn
52 triệu đồng, một số ta nhận tại chỗ, còn phần lớn ta cho phép
các chủ sở được nộp qua đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ở Pháp.
Tháng 3/1964, Mỹ đưa ra kế hoạch mới Johnson - McNamara,
tuyên bố sẽ “bình định miền Nam trong vòng 2 năm”, tăng thêm
viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn để đánh phá phong trào cách
554

56.5 Page 555

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
mạng miền Nam. Ở Xuân Lộc, địch củng cố lại bộ máy kìm kẹp,
lập thêm đồn bót, tăng thêm đến 48 trung đội dân vệ, thêm 3 đại
đội bảo an và một đại đội biệt kích cho các ấp.
Huyện ủy Xuân Lộc chủ trương: tiếp tục đẩy mạnh họat động
vũ trang, diệt ác, phá kìm, phá rã, phá banh ấp chiến lược bẻ gẫy
âm mưu “bình định” của giặc, tạo thế thuận lợi cho quần chúng
bung ra sản xuất. Tháng 6/1964, bộ đội Xuân Lộc đánh vào ấp
chiến lược Đồng Hiệp (Túc Trưng), bắt sống trên 10 tên tề ngụy,
thu 10 súng, ấp chiến lược Đồng Hiệp bị phá banh. Trong trận
này, bộ đội Xuân Lộc được tặng thưởng Huân chương Giải phóng
hạng ba.
Từ tháng 1/1964, Xuân Lộc tích cực chuẩn bị công tác hậu cần
cho chiến dịch Bình Giã. Suốt thời gian của chiến dịch, bộ chỉ
huy đóng ở Xuân Lộc. Đảng bộ, quân và dân Xuân Lộc đã làm
hết sức mình để bảo đảm cho công tác vận tải vũ khí, đạn dược,
cung cấp lương thực, góp phần cùng hậu cần miền phục vụ bộ đội
ăn no đánh thắng.
Phối hợp mũi tiến công chặn địch ở chiến trường Long Khánh,
ngay từ ngày đầu chiến dịch (5/12/1964) được sự hỗ trợ của lực
lượng vũ trang tỉnh và khu, quân dân Xuân Lộc đã liên tục tiến
công địch trên dọc tuyến quốc lộ 1, giải phóng Cẩm Đường và
dinh điền Thừa Đức, Bình Phú, thu hơn 200 súng, 13 thùng đạn,
1 máy PRC10 bắt sống nhiều tên địch. Đội vũ trang tuyên truyền
của huyện phối hợp với du kích và dân địa phương đã xây dựng
Thừa Đức thành xã chiến đấu. Bộ đội địa phương Xuân Lộc cũng
bao vây bức rút 1 trung đội dân vệ ở đồn Bảo Chánh, thu được
nhiều lương thực và quân dụng. Đây là lần thứ 3 đồn này bị đánh
phá sau khi chúng mới vừa củng cố lại. Việc bức rút đồn và phá
ấp chiến lược Bảo Chánh đã mở được thế kìm kẹp cho dân. Cán
bộ chiến sĩ ra vào hoạt động dễ dàng. Với chiến công này, bộ đội
địa phương Xuân Lộc được thưởng Huân chương Chiến công giải
phóng hạng ba. Cuối tháng 12/1964, trong trận phục kích Rừng
555

56.6 Page 556

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lá, bộ đội địa phương Xuân Lộc chặn bắt được 11 xe gạo trên 100
tấn của địch chở từ Xuân Lộc đi Phan Thiết.
Ngày 3/1/1965, chiến dịch Bình Giã kết thúc đợt 2, thắng lợi
to lớn đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quân dân Xuân Lộc. Được sự
hỗ trợ của trung đoàn 271, 272 (Miền), Đội vũ trang tuyên truyền,
du kích địa phương và đồng bào nổi dậy phá tan các ấp chiến
lược Phò Tri, Cẩm Mỹ, Bảo Định, Suối Cát… Du kích các xã ven
như Bảo Vinh, Bình Lộc cũng tiến công đánh địch diệt nhiều tên
ác ôn, đưa phong trào đấu tranh của các xã này thành những xã
tranh chấp mạnh giữa ta và địch. Địch ở thị xã Long Khánh bị ta
uy hiếp nặng.
Ngày 8/5/1965, ngay giữa nội ô thị xã Long Khánh, bộ đội địa
phương Xuân Lộc đã đặt mìn đánh sập một phần tòa hành chính
tỉnh Long Khánh và cũng là “bản doanh” của bọn chỉ huy Trung
đoàn 43 (sư đoàn 10).
Từ đêm 7/5 đến ngày 14/5/1965, các mũi tiến quân của Trung
đoàn 4 của Xuân Lộc liên tiếp giành thắng lợi ở Tà Lài, Ba Sa,
chi khu Định Quán, phá hỏng nặng và giành quyền làm chủ quốc
lộ 20, buộc địch phải lập “cầu không vận Sài Gòn - Đà Lạt”. Tiểu
khu Long Khánh hốt hoảng báo động và tức tốc chuyển quân ứng
cứu. Trung đoàn 4 phục kích diệt địch trên đoạn cây số 109 - 111
quốc lộ 20 gần cầu La Ngà. Ngày 15/5/1965, toàn bộ quân cứu
viện của địch từ Long Khánh lên lọt vào thế trận của các chiến
sĩ Trung đoàn 4. Cả tiểu đoàn biệt động quân và 1 đại đội bảo an
lần lượt bị tiêu diệt, chỉ còn 20 tên hàng binh trong đó có tên tiểu
đoàn phó biệt động quân. Trên tuyến đường dài 2 km xác giặc la
liệt, 26 xe quân sự gồm cả xe tăng, xe thiết giáp bị bắn cháy, lật
đổ. Ta thu hơn 100 súng các lọai. Các chiến sĩ miền Đông gọi đây
là “Chiến thắng La Ngà 2”. Bộ Tư lệnh Miền đã tặng Bộ Chỉ huy
chiến dịch Huân chương Quân công hạng Ba. Trung đoàn 4 được
Bộ Tư lệnh quân khu gởi điện khen.
Ngày 2/6/1965, Trung đoàn 4 phối hợp với công binh phục
556

56.7 Page 557

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kích đoàn xe lửa quân sự trên đoạn Gia Huynh - Trảng Táo, diệt
và làm bị thương hơn 1 trung đội địch thu 50 súng. Tại Xuân Lộc,
phối hợp với mũi tiến công trong chiến dịch Đồng Xoài, quân và
dân Xuân Lộc đã liên tiếp đánh địch ở khắp các chiến trường, hỗ
trợ cho đồng bào nổi dậy giải phóng nhiều xã ấp trên quốc lộ 1
từ Đá Mài (Bình Tuy) tới Gia Ray, Rừng Lá, Suối Cát, các ấp Trà
Tân 1, Trà Tân 2 (ở lộ 3), Bảo Bình (lộ 2) và các sở nhỏ như Xà
Bang, Bảo Chánh … Đặc biệt trận tập kích vào yếu khu Gia Ray
đêm 8 rạng ngày 9/6/1965, Trung đoàn 4, bộ đội Xuân Lộc và du
kích địa phương đã tiêu diệt 3 đại đội ngụy và khung huấn luyện
1 đại đội bảo an, 1 trung đội dân vệ, 30 tên bị bắt sống. Ta tịch thu
150 súng và 5 tấn đạn các loại, 3 toa xe lửa chiến lợi phẩm; đồng
thời chiếm lĩnh một yếu khu quan trọng của địch trên quốc lộ 1,
giải phóng hơn 7.000 dân. Tháng 10/1965 được cấp trên hỗ trợ,
quân và dân Bảo Chánh, Bình Lộc đã nổi dậy tiến công địch, giải
phóng xã, giành quyền làm chủ.
Mặc dù cuộc chiến đấu còn gay go khốc liệt, nhưng vào lúc
này từ Bàu Lâm, Phước Bửu lên tới Xà Bang giáp Cẩm Mỹ là một
tuyến giải phóng hoàn toàn. Con đường tiếp tế từ biển vào Lộc
An về tới Khu đều vận chuyển bằng ô tô. Riêng trên đoạn đường
dọc theo quốc lộ 1 từ Suối Cát ra đến Rừng Lá, đội vũ trang tuyên
truyền đã đón có ngày hàng 300-400 lượt xe đò để tuyên truyền
thắng lợi của cách mạng. Hai cửa khẩu Bàu Hàm và Bảo Bình ở
Xuân Lộc trở thành trung tâm tiếp tế hậu cần trọng yếu, cung cấp
lương thực, thực phẩm, thuốc men, đồ quân dụng cho cả tỉnh và
quân khu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đến cuối năm 1965, quân và dân
Xuân Lộc đã đánh bại “Quốc sách ấp chiến lược” và kế hoạch
“bình định nông thôn” của địch, giải phóng phần lớn nông thôn
trong huyện. Quân đội Mỹ và quân một số nước chư hầu đã tăng
cường ồ ạt vào miền Nam, đồng thời Mỹ sử dụng không quân và
hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc ác liệt trên
quy mô lớn. Ở Xuân Lộc, Mỹ đưa tiểu đoàn pháo binh 33 đóng tại
557

56.8 Page 558

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
căn cứ Hoàng Diệu, đưa trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11 chốt
ở Suối Râm, lữ đoàn dù 173 Mỹ đặt căn cứ ở Biên Hòa, nhiều lần
đổ quân xuống Xuân Lộc đóng tại Suối Râm. Mỹ xây dựng thị xã
Long Khánh thành căn cứ quân sự. xây dựng sở chỉ huy khu chiến
thuật 33. Sĩ quan chỉ huy tham mưu, nhân viên CIA Mỹ dày đặc.
Lực lượng quân ngụy ở Xuân Lộc trước đã có sư đoàn 10, 13 đại
đội bảo an, 48 trung đội dân vệ địa phương.
Tỉnh ủy Long Khánh định hướng: xây dựng địa bàn đứng chân
vững chắc, bám trụ lại chống càn. Ra sức xây dựng lực lượng vũ
trang, chính trị, đẩy mạnh tấn công bằng “2 chân, 3 mũi”, thọc
sâu đánh các chỉ huy sở, bộ chỉ huy hành quân, các căn cứ, làm
rối loạn hậu phương địch, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị.
Kiên quyết đánh bại âm mưu tìm diệt bên ngoài của địch, bẻ gãy
âm mưu bình định vùng ven, thọc sâu diệt ác phá kìm, tạo điều
kiện để quần chúng bung ra sản xuất. Tỉnh ủy cũng coi trọng xây
dựng cơ sở mật, tự vệ mật, đảng viên mật cùng lực lượng vũ trang
của thị xã.
Tháng 8/1965, đội biệt động thị xã thành lập tại Rừng Tre thuộc
thị xã, với 8 đội viên, trang bị 4 súng. Đến năm 1966, đội hanh
chóng tăng cường, chọn các chiến sĩ trung thành, gan dạ, mưu trí,
lanh lẹ phát triển thành 2 tiểu đội 14 người. Tháng 10/1965, đội
dùng lựu đạn diệt 2 sĩ quan thiết giáp Mỹ cùng một số sĩ quan
ngụy. Tháng 11/1965, Đội đặt mìn ngay cạnh xe Mỹ diệt gần 60
tên địch phần lớn là lính Mỹ, phá hủy 4 xe thiết giáp và thông tin.
Chỉ trong 2 tháng cuối năm 1965, đội biệt động đã đánh 6 trận
diệt 120 tên địch, hầu hết là Mỹ. Trong năm 1966, đội biệt động
đã đánh 7 trận đáng kể vào quân Mỹ, quân ngụy diệt 180 tên địch,
như diệt bọn cảnh sát dã chiến, tập kích vào tòa hành chính ngụy,
tập kích vào cơ quan tình báo CIA Mỹ tại Xuân Lộc, đánh vào xe
địch khi chúng tập trung đi càn quét…
Bộ đội địa phương Xuân Lộc cùng đại đội 203 Long Khánh
cũng tổ chức đánh trả nhiều trận càn lớn của quân Mỹ, gây nhiều
558

56.9 Page 559

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
thiệt hại cho địch, như: ngày 27/2/1966, Trung đoàn 4 diệt tiểu
đoàn 3 thuộc Trung đoàn 15 sư 10 ngụy ở Võ Đắc; ngày 30/6/1966,
trung đoàn 5 cùng đại đội địa phương Xuân Lộc, du kích Gia Ray
phục kích đánh một chiến đoàn quân ngụy của sư đoàn 10 tại
ngã ba Ông Đồn, Suối Cát, tiêu diệt gọn quân địch gồm 1 tiểu
đoàn bộ binh, 1 chi đoàn 16 xe M113, thu toàn bộ vũ khí; ngày
16/11/1966, đội đặc công huyện Xuân Lộc cùng Đội du kích cao
su Hàng Gòn đưa tiểu đoàn pháo của sư đoàn bộ binh 5 pháo kích
hậu cứ trung đoàn kỵ binh của địch, phá hủy 140 xe vừa vận tải,
vừa thiết giáp, diệt 150 tên Mỹ…
Trong năm 1967, đội biệt động đánh 14 trận diệt 650 tên địch;
vào cuối năm 1967, đội biệt động thị xã Long Khánh đã phát triển
lên 23 đồng chí. Ngày 21/7/1967, trung đoàn 5 phục kích một
đoàn xe cơ giới của trung đoàn kỵ binh thiết giáp Mỹ cột số 95
trên quốc lộ 20, cách cầu La Ngà 6km, phá hủy 45 xe M-113 và
M41, bắn rơi 3 máy bay, thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự.
Với chiến công oanh liệt diệt 1 đoàn cơ giới 48 xe tăng và thiết
giáp ở Nam cầu La Ngà, trận này được nêu danh là “La Ngà 3” và
được tặng thưởng Huân chương Quân công.
Ngày 2/4/1967, được du kích Hàng Gòn báo cáo tin tức tình
hình về căn cứ địch ở Suối Râm, trung đoàn 274 DKB Quân khu
đã tổ chức pháo kích vào căn cứ Suối Râm - nơi có trung đoàn kỵ
binh thiết giáp 11 Mỹ và lữ dù 173. Ta diệt và làm bị thương hàng
trăm lính Mỹ, phá hủy cả trăm xe quân sự (phần lớn là xe tăng,
thiết giáp) phá hủy 34 máy bay lên thẳng, 30 khẩu đại bác. Đây là
đòn nặng nề đánh vào quân Mỹ ở căn cứ Suối Râm.
Nhân dân thị xã Long Khánh và các vùng ven lộ 1, lộ 2, lộ 3
cũng phối hợp, liên tục tổ chức các đợt đấu tranh chính trị chống
Mỹ. Công tác binh vận dựa trên cơ sở nhân dân thị xã và vùng
ven, được tác động của các hoạt động quân sự và đấu tranh chính
trị của nhân dân, của thanh niên học sinh đã làm cho quân ngụy
hoang mang đào rã ngũ. Ta tạo được nhiều nòng cốt trong lòng
559

56.10 Page 560

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
địch. Cuối năm 1967, Đảng ủy Cao Su qua kiểm điểm tình hình,
đã đánh giá hoạt đông của các Chi bộ Cẩm Mỹ, Suối Tre, Ông
Quế, Hàng Gòn, Dầu Giây đều giữ vững và phát triển. Bộ đội và
du kích Cao Su lớn mạnh hơn trước.
Đầu năm 1968, quyết định tổng tiến công và nổi dậy mới được
phổ biến đến cán bộ phụ trách thị xã Long Khánh và các địa
phương, đơn vị. Công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương. Lực
lượng tiến công thị xã gồm tiểu đoàn 2, đội biệt động, tự vệ du
kích mật cùng lực lượng chính trị quần chúng. 2 giờ sáng mồng 2
Tết Mậu Thân, cuộc tiến công của quân và dân Xuân Lộc vào thị
xã Long Khánh bắt đầu. Một mũi đánh vào khu chiến thuật 33,
trụ sở CIA, tiểu khu diệt một loạt sĩ quan Mỹ. Một mũi khác đánh
vào khu thông tin, nhà tên tỉnh trưởng và nhà tên tư lệnh sư đoàn
10 ngụy. Đại đội pháo cối thì dồn dập nã vào tiểu đoàn pháo binh
nguỵ ở sát sân bay, diệt cả 2 đại đội pháo, phá hỏng nặng 6 khẩu
pháo địch. Đồng thời ta pháo kích vào khu thiết giáp, kiềm chế
xe cơ giới ngụy không cho xuất kích. Đồng loạt cùng thị xã, bộ
đội và du kích cao su kết hợp với tự vệ mật, có nhân mối binh vận
trong các bảo an, dân vệ và tề, tiến công và nổi dậy chiếm các sở
cao su. Kết hợp trong ngoài, ngay đêm đầu ta chiếm các sở Ông
Quế, Hàng Gòn, Cẩm Mỹ, Suối Tre.
Lần đầu tiên chỉ với bộ đội địa phương và lực lượng chính trị
quần chúng ta đã đánh chiếm phần lớn thị xã, tiêu diệt nhiều sinh
lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ ngụy. Cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân và dân Xuân Lộc đã giành
thắng lợi lớn, góp phần vào cơn bão lớn của cả cuộc tổng tiến
công và nổi dậy toàn miền, làm lung lay cao độ ý chí xâm lược
của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải thay đổi chiến lược chiến tranh,
và vào bàn hội nghị Paris.
Đầu năm 1968, Đảng bộ Xuân Lộc, Long Khánh quyết định tổ
chức đội trinh sát vũ trang thuộc ban an ninh thị xã. Hàng trăm
thanh niên trong thị xã và vùng ven thoát ly tham gia cách mạng
560

57 Pages 561-570

▲back to top


57.1 Page 561

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
vào bộ đội địa phương và chủ lực. Cuộc tiến công của quân và dân
Xuân Lộc tiếp diễn liên tục trong nội ô thị xã và vùng ven. Tháng
8/1968, cùng một lúc ta tiến công nhiều nơi ở thị xã Long Khánh
làm tê liệt hoàn toàn tiểu khu trong một ngày, đồng thời bao vây
căn cứ trung đoàn kỵ binh thiết giáp Mỹ ở Suối Râm. Tiếp đó, ta
lại tiếp tục tiến công, đánh thiệt hại hậu cứ trung đoàn 43 sư đoàn
18 nguỵ cùng bộ chỉ huy quân Mỹ ở thị xã. Ta tiêu diệt lần thứ
2 trường huấn luyện Gia Ray và diệt nhiều đồn bảo an, dân vệ ở
các nơi khác. Ngày 1/10/1968, 6 chiến sĩ biệt động tập kích vào
khu pháo binh 181 ngụy vừa xây dựng lại sau Tết Mậu Thân, với
ĐH10 ta đã phá hủy cả 6 khẩu pháo 155 và 105 ly, tiêu diệt gần
hết cả 2 đại đội 150 tên địch gồm lính và sĩ quan. Đêm 5 rạng
6/10/1968, lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp cùng du kích tiến
công san bằng 2 đồn diệt gọn 75 tên địch tại Bình Lộc. Đội biệt
động thị xã cũng đánh 38 trận, diệt và làm bị thương 713 tên địch
trong đó có 27 sĩ quan, 25 Mỹ, 19 cảnh sát ác ôn.
Tháng 2/1969, đội biệt động thị xã Long Khánh đã đột ấp Tân
Phú (nội ô) đánh rã bọn tề ấp và phòng vệ dân sự, thu 21 súng.
Tháng 3/1969, du kích Lê A ở Bình Lộc đã ném 2 tạc đạn vào bọn
sĩ quan nguỵ ở quán Ngọc Hương, giết chết và bị thương hơn 40
tên. Đêm 19/4/1969, đội biệt động, đội trinh sát vũ trang thị xã
phối hợp với Sư 5 (Miền) tấn công đồn Hoàng Diệu, phá hư các
khẩu pháo lớn, gây thiệt hại nặng cho địch. Ngày 25/5/1969, sư
đoàn 5 tập kích vào chi khu Gia Ray, bắn cháy 4 xe tăng, diệt 30
tên địch. Liên tiếp từ ngày 8 đến 30/5/1969 Trung đoàn 5, 9, 10
và 174 (sư 5) chủ lực Miền tiến công địch ở Tầm Bung, Suối Cát,
ngã ba Ông Đồn… tiêu diệt chiến đoàn 45 (sư 10 nguỵ), 1 đại đội
của chiến đoàn 52, đánh tiêu hao 1 tiểu đoàn khác.
Tại các xã Bảo Chánh, Suối Cát, Tân Phong, Bảo Vinh, Bảo
Liệt… được sự hỗ trợ của lực lượng trên bộ đội địa phương Xuân
Lộc và du kích các xã đã liên tiếp tiến công địch phá hàng rào “ấp
chiến lược” bức rút một đại đội bảo an, giải tán nhiều toán “phòng
vệ dân sự”, giặc Mỹ càn vào Bình Lộc, đội du kích đã anh dũng
561

57.2 Page 562

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đánh trả, diệt gần 1 trung đội. Du kích xã Bảo Chánh cùng ĐH -10
đánh rơi 1 máy bay HUIS của Mỹ.
Đầu năm 1970, địch liên tục mở các cuộc càn quét để “bình
định cấp tốc”, nhằm đánh bật lực lượng ta ra ngoài. Hướng Bắc lộ
1, từ Xuân Lộc đến Mây Tàu (giáp Bình Thuận) là đường Mỹ rút
quân, chúng sử dụng phi pháo đánh phá dữ dội, rải chất độc hóa
học xuống các căn cứ của ta, đồng thời tiến hành “chiến tranh tâm
lý” chiêu hồi, chiêu hàng.
Ngày 2/3/1970, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bà Rịa Long
Khánh và sự giúp đỡ của công trường huyện, công binh xưởng
thị xã Long Khánh được thành lập. Nhiệm vụ ban đầu của xưởng
là chế tạo mìn ĐH cung cấp cho các đội trinh sát, đội biệt động
thị xã. Sự ra đời của công binh xưởng thị xã đã sôi nổi dấy lên
phong trào truy tìm đạn pháo lép của địch đưa về cho xưởng. Từ
mìn ĐH, xưởng đã phát triển làm thêm bệ phóng pháo và sản xuất
hàng loạt cung cấp rộng rãi ra nhiều xã trong huyện.
Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã kịp cử một đồng chí trong
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Xuân Lộc để bám sát địa phương
chỉ đạo phong trào. Một số đơn vị vũ trang của Miền, Khu cũng
nhanh chóng được điều về đứng chân phối hợp hoạt động với lực
lượng vũ trang địa phương huyện, xã. Ở các lõm Tân Phú, Phú
Thạnh (nội ô) ta đã nhanh chóng đưa lực lượng vào trụ trong thị
xã Long Khánh, vận động quần chúng tiếp tế, tích trữ lương thực,
thuốc men, xây hầm đưa vũ khí vào nội ô chuẩn bị thời cơ đánh
địch. Các đội trinh sát vũ trang, đội biệt động thị xã, du kích vừa
chiến đấu vừa củng cố lực lượng.
Đêm 25/4/1970, 3 du kích mật Bình Lộc đánh tạc đạn vào tiệm
ăn Ba Thế (nội ô thị xã) làm chết và bị thương hơn 40 tên sĩ quan
Mỹ ngụy, trong đó có 2 đại uý Mỹ, 5 tên chỉ huy “bình định”. Đội
du kích Bình Lộc được thưởng Huân chương Chiến công hạng
Nhì. Ba chiến sĩ du kích tham gia trận đánh được thưởng Huân
chương Chiến công hạng Ba. Đêm 30/4/1970, du kích và hàng
562

57.3 Page 563

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
trăm đồng bào Suối Cát đã nổi dậy đốt vỏ xe, làm vật chướng
ngại chận giao thông, đốt đuốc, bao vây đồn do một trung đội bảo
an đóng giữ, tuyên truyền binh vận, cô lập địch bên trong. Phối
hợp với mũi đấu tranh chính trị và binh vận từ tháng 4 đến tháng
7/1970, được sự hỗ trợ của trên, du kích các xã, bộ đội địa phương
và trinh sát vũ trang thị xã đã tiến công, kết hợp với đồng bào bên
trong phá lỏng rã hàng ngàn mét rào và hàng trăm cọc sắt ấp chiến
lược ở Bảo Bình, Suối Tre, Tân Phong, Bảo Vinh A, Bảo Vinh B,
Suối Chồn, Gia Ray, Suối Cát diệt một số tề điệp ác ôn. Tại Bình
Lộc, Trung đoàn 4 (khu) phối hợp với du kích đã tiến công đồn
dân vệ. Sau đó áp dụng chiến thuật “công đồn”, chặn đánh viện
binh địch liên tiếp nhiều đợt trong ngày từ 9 giờ tối đến 9 giờ sáng
hôm sau diệt gần một tiểu đoàn gồm lính bộ (sư 18) và biệt động
quân, ngoài ra còn bắt được nhiều tù binh thu một số súng, Trung
đoàn 4 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba.
Đêm 5/11/1970, Đội biệt động thị xã Long Khánh đánh vào
quán Ly Ly (nội ô thị xã) diệt 11 tên Mỹ, 1 tên tỉnh đoàn trưởng
bình định kiêm phó ty chiêu hồi tỉnh Long Khánh, 1 tên phó chi
cảnh sát Xuân Lộc, đại úy tình báo khu 33 chiến thuật và 3 tên
cảnh sát đặc biệt. Hai đội viên Ngọc, Xuân hy sinh trong trận này
được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Hai, còn đội viên
Thọ được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Ba. Hai
tuần lễ sau, đội biệt động thị xã Long Khánh đánh vào Bộ Chỉ
huy hành quân Việt - Mỹ ở phía Đông Nam nội ô thị xã. Kết quả,
ta diệt 13 sĩ quan Mỹ, nguỵ từ đại úy đến đại tá, ít nhất 5 tên khác
bị thương, 2 máy bay lên thẳng hỏng nặng, nhiều cơ sở bị hư hại.
Đến tháng 7/1971, trên toàn huyện ta đã giành quyền làm chủ
(có mức độ) ở nhiều ấp: Bảo Bình 1, Bảo Bình 2, Bảo Vinh A, Bảo
Vinh B, Suối Cát, Trung Lương, Trung Nghĩa, Tân Thủy, Bình
Lộc, 110, 116, 125 (Định Quán). Nâng ấp tranh chấp mạnh lên
16 ấp với 14.708 dân, trong đó có 1.054 cơ sở, 6 chi bộ (39 đảng
viên), có 15 ấp tranh chấp ngang với 18.587 dân, 272 cơ sở, 1 chi
bộ (8 đảng viên). Chỉ còn lại 25 ấp loại yếu trong đó có 159 cơ
563

57.4 Page 564

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
sở, 6 đảng viên lẻ. Các chi bộ Bảo Vinh, Bao Liệt đã nhanh chóng
vận động đưa nhiều đồng bào về đất cũ sản xuất. Tại các vùng
cao su trong huyện, sau khi quân Mỹ rút đi, công nhân các đồn
điền Cẩm Mỹ, Hàng Gòn, Dầu Giây… đã chớp thời cơ đấu tranh,
ra khỏi các trại tập trung, phá rào ấp chiến lược, diệt một số tên
ác ôn. Phong trào đấu tranh của công nhân được phục hồi nhanh
chóng. Các cơ sở bên trong cũng như bên ngoài được móc nối lại.
Để gây sức ép buộc địch phải đàm phán tại Hội nghị Paris, đêm
30 rạng 31/3/1972, các xã ở phía Nam - Bắc lộ 1, lộ 20 Xuân Lộc
- Định Quán và một số xã vùng đồn điền cao su đã kết hợp 3 mũi
giáp công đánh địch, phá đồn, bót, phá ấp chiến lược. Đồng bào
6 xã điểm trên quốc lộ 1 đã nổi dậy đánh mõ, gióng chuông nhà
thờ, đốt lửa, xây vật chướng ngại, xuống đường, trương băng cờ,
hô khẩu hiệu, phát loa tuyên truyền 10 chính sách của Mặt trận.
Hàng trăm đồng bào các ấp Việt Kiều, Suối Cát nổi dậy bắt tề ấp,
cảnh sát ác ôn. Du kích và đồng bào chia thành nhiều toán bao vây
đồn địch, làm binh vận, Bọn địch hoảng loạn bỏ chạy, nhiều toán
phòng vệ dân sự vất súng tan rã. Đồng bào và du kích ở lộ 20 đã
tranh thủ phát loa tuyên truyền thắng lợi của cách mạng.
Trong khi đó, trên mặt trận vũ trang ngay ngày đầu ta bức rút 4
vị trí của địch, Trường Sơn, Cầu Mối, Bảo Bình, Gia Lào và cầu
Nam Hà, đồng thời hỗ trợ quần chúng ở các nơi này nổi dậy giải
phóng các ấp Nam Hà, Bảo Liệt, Bảo Bình 2, thanh niên hăng hái
tình nguyện thoát ly tham gia chiến đấu. Trung đoàn 33 trên trục
lộ 1 đánh tiêu hao nặng liên đội bảo an ở đồn Lạc Sơn, bức rút
đồn Gia Lào. Tại thị xã Long Khánh, K8 và biệt động đã phối hợp
đánh vào nhiều cơ quan đầu não địch, phá nổ kho đạn của sư đoàn
18 ngụy. Đến tháng 11/1972, ta giải phóng 4 ấp Bảo Bình 1, Bảo
Bình 2, Bình Lộc và Bảo Vinh. Vận động đưa hơn 8.000 đồng bào
Bình Phú, Suối Cát, Bảo Bình, Bình Lộc bung về đất cũ sản xuất,
mở rộng thêm trên 300 hécta và xây dựng lực lượng du kích bảo
vệ ấp giải phóng. Tại các vùng cao su, du kích địa phương đã diệt
ác phá kìm, mở thế hoạt động trên tuyến dài từ Dầu Giây, Hàng
564

57.5 Page 565

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Gòn, tới Tân Lập, Cẩm Mỹ.
Khi địch vi phạm Hiệp định Paris, Huyện uỷ Xuân Lộc chủ
trương: dựa vào pháp lý của hiệp định, nắm vững chính sách của
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
bằng mọi biện pháp tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ đảng
viên, chiến sĩ và nhân dân, nghiêm chỉnh thi hành hiệp định Paris
nhưng không mơ hồ ảo tưởng… Kiên quyết trừng trị địch vi phạm
hiệp định, lấn chiếm vùng giải phóng. Kết hợp 3 mũi giáp công,
3 lực lượng. Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, trên cơ sở pháp lý của
hiệp định, buộc địch phải thi hành. Lực lượng vũ trang hỗ trợ đắc
lực cho đấu tranh chính trị, sẵn sàng giáng trả địch những đòn
quyết định, giữ vững vùng giải phóng ở thế “da beo”.
Ở Gia Ray, du kích phối hợp với một tiểu đội bộ đội địa phương
K8, với 24 tay súng chống lại 2 tiểu đoàn bảo an lấn chiếm. Ở
Bình Lộc, chưa đầy một tháng quân và dân ta đánh 15 trận, diệt
81 tên, tiêu hao nặng đại đội bảo an 872 và một trung đội cảnh
sát, thu nhiều súng đạn và các trang bị khác. Công tác binh vận
lúc này càng được đẩy mạnh phát triển. Nhân dân, cán bộ dựa vào
chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và thắng lợi của cách
mạng đẩy mạnh tuyên truyền vận động. Tác dụng rõ rệt nhất là
vận động các gia đình binh ngụy, từ đó tác động, bắt mối đưa hàng
trăm binh lính về với nhân dân, hoặc đào rã ngũ, làm tan rã nhiều
tổ chức dân vệ, phòng vệ dân sự.
Ngày 26/3/1974, tại cánh rừng cao su phía Đông xã Cẩm Mỹ,
Sở Chỉ huy tiền phương Quân khu 7 tấn công đồn Kim Long khởi
đầu cho Chiến dịch lộ 2 gồm có các đơn vị: Trung đoàn 33, Trung
đoàn 4, Tiểu đoàn 18 đặc công, Tiểu đoàn 24 cao xạ, Tiểu đoàn
22 pháo mặt đất và bộ đội địa phương huyện Cao Su, huyện Xuân
Lộc, du kích xã Cẩm Mỹ. Hơn 10 ngày chiến đấu quyết liệt, ta
giải phóng đoạn lộ 2 (từ Kim Long đến sở Bà Cùi) diệt hơn 600
địch trong đó có tên đại tá, bắt sống 17 tên thu trên 200 súng, bắn
cháy 16 xe tăng, 17 máy bay, đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn
565

57.6 Page 566

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bảo an 326, 372, 324.
Hiệp đồng chi viện cho lộ 2, đêm 27 tháng 3, biệt động đội
trinh sát vũ trang Long Khánh đồng loạt tiến công nhiều mục
tiêu trong thị xã diệt 22 sĩ quan cảnh sát, 1 trưởng ấp ác ôn. Song
song đó, các đồng chí cán bộ binh vận tuyên truyền thuyết phục,
nhiều binh sĩ địch từ lộ 2 chạy về Long Khánh, giác ngộ, đưa tin
tức làm nội ứng cho ta, đồng thời vận động 110 lính ngụy đào, rã
ngũ. Chiến dịch lộ 2 đã thực hiện “mở mảng” trên vùng “tam giác
sắt” (lộ 1 - lộ 2 - lộ 15), vùng giải phóng Bà Rịa - Long Khánh
được nối liền.
Tháng 5/1974, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 quyết định
mở đợt hoạt động phía nam lộ 1 để phối hợp với chiến trường
toàn miền. Huyện Xuân Lộc tập trung lực lượng phối hợp chiến
đấu. Rạng sáng ngày 23/5, mũi tấn công chủ yếu của đợt hoạt
động phía Nam lộ 1 bắt đầu. Một bộ phận Trung đoàn 4 tiến công
vào giải phóng Bảo Bình 2. Cuối tháng 5/1974, ấp 2 và ấp 3 xã
Bảo Bình được giải phóng cho đến ngày toàn thắng. Đêm 10 rạng
ngày 11/12/1974, du kích và nhân dân xã Bảo Chánh, K8 huyện
đội, bằng 3 mũi giáp công đã bức hàng đồn Bảo Chánh, mở đầu
cho phong trào địa phương tự lực tự cường giải phóng xã ấp.
Thắng lợi đó đã được phổ biến rút kinh nghiệm trong lực lượng
vũ trang toàn khu.
Đầu năm 1975, bộ đội địa phương và du kích Xuân Lộc đồng
loạt tiến công địch ở nhiều nơi. Những trận đánh liên tiếp diễn ra
ở trung tâm thị xã Long Khánh, ở phía tây bắc, đông nam thị xã.
1 giờ sáng ngày 17/3/1975, Chiến dịch lộ 3 mở màn với sự tham
chiến của Sư đoàn 6 bộ binh có 2 Trung đoàn (C33 và C4), các
tiểu đoàn đặc công, pháo binh của quân khu và lực lượng vũ trang
Xuân Lộc. Ba mục tiêu chính của chiến dịch (đồi 52, ngã ba Ông
Đồn, núi Chứa Chan) đồng loạt bị tấn công. 5 giờ 30 sáng ngày
17/3, ta đã làm chủ đồi 52.
K8 huyện cùng du kích giải phóng Suối Cát và cùng tiểu đoàn
566

57.7 Page 567

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
3, trung đoàn 4 đánh chặn viện. Ngày 17/3, ta diệt gọn 1 đại đội
của tiểu đoàn bảo an 324. Ngày 20 tháng 3, K8 cùng Tiểu đoàn 3,
Trung đoàn 4 lại tiêu diệt 2 đại đội tiểu đoàn bảo an 332 từ Bình
Phú lên tiếp viện cho ngã ba Ông Đồn. Đêm 20 rạng 21/3, ta đồng
loạt tiến công quét sạch địch giải phóng ngã ba Ông Đồn và núi
Chứa Chan. Sau 4 ngày đêm chiến đấu (từ 17 đến 21 tháng 3). Ta
giải phóng lộ 3 (từ ngã ba Ông Đồn đến Trà Tân 2). Ngày 21/3,
tiểu đoàn 445 của tỉnh cùng lực lượng huyện Cao Su giải phóng
xã Ông Quế. Cũng thời gian này du kích Bảo Bình cùng 50 quần
chúng bức rút một chốt địch ở ấp Nam Hà. Du kích Bảo Định
cùng 40 đồng bào bức rút địch ở Mai Thọ Bích, tua Mã Tráng. Từ
21/3 đến ngày 2/4, nhân dân và du kích các xã dọc đường số 1 từ
ngã ba Ông Đồn đến căn cứ 5 phối hợp với bộ đội sư đoàn 6, quét
sạch địch trên tuyến đường này, giải phóng toàn bộ xã ấp.
5 giờ 30 sáng 9/4/1975, chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ
Long Khánh bắt đầu với sự tham gia của các lực lượng bộ đội chủ
lực, lực lượng vũ trang Bà Rịa - Long Khánh và K8 Xuân Lộc,
Đội trinh sát vũ trang Long Khánh và lực lượng đồng bào hỗ trợ.
Các chiến sĩ nữ tự vệ Long Khánh dẫn đường cho bộ binh sư đoàn
1 lần lượt đánh chiếm các mục tiêu: Tòa hành chính, dinh tỉnh
trưởng, tiểu khu… Sau 1 ngày đồng loạt tấn công từ các hướng,
ta đã tiêu diệt, đánh thiệt hại nhiều sinh lực của địch ở hầu hết các
mục tiêu; phá hủy một số hệ thống bố phòng quan trọng của địch.
Cờ giải phóng đã phất phới bay trên các toà nhà: ty cảnh sát, dinh
tỉnh trưởng, khu cố vấn Mỹ, trụ sở tình báo CIA. Ngày 10/4, Tiểu
đoàn 7, Trung đoàn 33, Sư đoàn 6 cùng du kích ấp Trần Hưng Đạo
tiến công phân chi khu quân sự Dầu Giây, đến 17 giờ ta hoàn toàn
làm chủ mục tiêu và giữ vững trận địa. Tiểu đội súng cối Xuân
Lộc liên tục pháo kích vào Chỉ huy sở hành quân của Tiểu đoàn 3
chiến đoàn 48 ở Tân Phong và các tiểu đoàn bảo an ở Bình Phú,
Suối Cát.
Ngày 11/4, địch tổ chức phản công. Quân đoàn 3 ngụy tăng
viện cho Long Khánh một chiến đoàn bộ binh (chiến đoàn 8 sư
567

57.8 Page 568

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
5 từ Lai Khê về Bàu Cá) và lữ đoàn kỵ binh số 3 gồm 3 thiết
đoàn. Công tác sơ tán nhân dân được Đội biệt động vũ trang Long
Khánh triển khai, nhưng hàng trăm thanh niên thị xã tình nguyện
ở lại tham gia chiến đấu.
14 giờ ngày 12/4, ngụy quyền Sài Gòn đã sử dụng 2 quả bom
CBU 55 ném xuống Xuân Lộc cách thị xã 800 mét về hướng Bắc.
Với loại vũ khí tàn bạo này, quân ngụy đã gây cho hàng trăm
chiến sĩ, đồng bào ta bị thương vong, song các mũi tiến công vẫn
phát triển. Các đội sơ phẫu của ta được đặt ngay tại nhà đồng bào
trong thị xã. Thương binh được băng bó rồi được lực lượng tự vệ,
du kích, thanh niên cờ đỏ đưa trở về tuyến sau. Từ tuyến sau, đạn,
lương thực, thực phẩm lại theo thanh niên tự vệ Xuân Lộc ra trận
địa.
3 giờ sáng 13/4, toàn bộ lực lượng bộ đội chủ lực rút ra ngoài
thị xã để đón đánh quân chi viện của địch. Nhiệm vụ của lực
lượng vũ trang địa phương Xuân Lộc càng nặng nề, ác liệt hơn,
tiếp tục làm nhiệm vụ chiến đấu trong thị xã. Hướng nam thị xã,
ngay khi lữ đoàn 2 dù ngụy đổ xuống nam sân bay, những trận
pháo kích của Đội nữ pháo binh Xuân Lộc K8 đã dội xuống đầu
chúng diệt nhiều tên địch. Liên tiếp từ ngày 9 đến ngày 13/4, tiểu
đoàn 445, đại đội 41 và K8 chiến đấu giải phóng Bảo Hòa, Bảo
Toàn, cầu Gia Liêu, Bảo Thị; bắt 117 tù binh, thu 13 máy thông
tin và hàng chục khẩu súng các loại.
16 giờ ngày 14/4, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95b đã phối hợp
với du kích các ấp: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Kiệm Tân,
Hưng Lộc tấn công, đập tan chiến đoàn 52 sư 18 ngụy, diệt gọn 1
tiểu đoàn pháo binh, 1 chi đoàn cơ giới, 2 tiểu đoàn bộ binh, thu
12 khẩu pháo 105 ly, 155 ly, bắt hàng trăm tù binh, giải phóng chi
khu Kiệm Tân. Tên đại tá Dũng, chiến đoàn trưởng chiến đoàn 52
và số tàn quân sống sót chạy về Biên Hòa. Ngày 17/4, bộ đội sư
đoàn 6 cùng du kích địa phương đã đánh tan chiến đoàn 8 và thiết
đoàn 315 diệt gọn 1 tiểu đoàn, tiêu hao nặng 1 tiểu đoàn khác, bắn
568

57.9 Page 569

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
cháy nhiều xe tăng, thu gần 100 súng.
Huyện ủy Cao Su thực hiện chủ trương: tranh thủ thời cơ, du
kích, tự vệ hỗ trợ công nhân chiến đấu và nổi dậy giải phóng các
sở, ấp cao su. Bằng mọi biện pháp thu hồi, bảo quản tốt trang thiết
bị, vật tư máy móc, nhất là những phương tiện vật tư quan trọng.
Ngày 16/4, ta giải phóng sở Bình Lộc. Ngày 19/4, giải phóng ấp
Suối Tre. Ngày 20/4, giải phóng Cốc Rang và An Lộc.
2 giờ sáng ngày 21/4, đoàn xe 70 chiếc của quân ngụy ở Long
Khánh tháo chạy qua lộ 2, bị lực lượng thị xã địa phương Bà Rịa -
Long Khánh chặn đánh. 2 chiếc xe GMC bị cháy. Ta bắt sống trên
100 tù binh. Sau đó 1 tiếng, đoàn xe 60 chiếc của địch lại chạy
qua đoạn đường phục kích của ta, bị tiểu đoàn 445 và K8 chặn
đánh, bắt sống nhiều tù binh trong đó có đại tá Phúc tỉnh trưởng
Long Khánh cùng bọn sĩ quan phụ tá. Đến 8 giờ sáng, lực lượng
ngụy quân, ngụy quyền Long Khánh tháo chạy và tan rã hoàn
toàn, Xuân Lộc hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng Xuân Lộc đã
đuợc Chính phủ tặng Huân chương Thành đồng hạng Ba.
Sau khi giải phóng Xuân Lộc, các chiến sĩ biệt động, cơ sở mật
thị xã Long Khánh, lại cùng các chiến sĩ giải phóng Quân đoàn 4
tiến về Biên Hòa và Sài Gòn, quét sạch kẻ thù nơi sào huyệt cuối
cùng, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Với những chiến công xuất sắc, nhân dân và lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Xuân Lộc đã được tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 203KT/CTN do Chủ
tịch nước Trần Đức Lương ký ngày 11/6/1999.
569

57.10 Page 570

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
570

58 Pages 571-580

▲back to top


58.1 Page 571

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
PHẦN 2
CÁ NHÂN ANH HÙNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
571

58.2 Page 572

▲back to top


58.3 Page 573

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Văn Quang
Đồng chí Nguyễn Văn Quang(1) tự Sên, đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Kinh,
sinh năm 1944, quê xã Phước Lai, huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai. Khi được tặng danh
hiệu anh hùng, đồng chí là tiểu đội trưởng Đại
liên Đại đội 1, Tiểu đoàn 445 Bà Rịa - Long
Khánh.
Sinh trưởng trong 1 gia đình bần nông có mối thù sâu sắc với
thực dân, địa chủ, năm 1964 đồng chí xung phong gia nhập lực
lượng vũ trang. Trong vòng 3 năm (từ năm 1964 đến năm 1967),
đồng chí Nguyễn Văn Quang đã tham gia 20 trận đánh, diệt 180
tên địch (trong đó có 73 tên Mỹ, 25 tên Úc), diệt 1 xe tăng M41,
1xe Jeep, thu 27 súng các loại và 2 máy thông tin. Đặc biệt trận
đánh đầu tiên vào tháng 5/1965 tại An Ngãi(2), đồng chí đã diệt 4
tên, thu 1 trọng liên và 1 máy thông tin của địch. Trong trận Đá
Giăng(3) diễn ra vào tháng 1/1966, đồng chí diệt 15 tên, lấy 3 trung
liên. Trong trận sông Cầu(4) vào tháng 5/1966, dù một mình bị
địch bao vây nhưng đồng chí vẫn kiên cường đánh lui 8 đợt xung
phong của địch...
Trong chiến đấu, đồng chí Nguyễn Văn Quang là chiến sĩ kiên
cường, cực kỳ gan dạ, chủ động tiến công mãnh liệt, tiêu diệt
địch, thu vũ khí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong mọi mặt
công tác, đồng chí luôn luôn cần mẫn đi đầu, đoàn kết thương yêu
tận tình giúp đỡ đồng đội, được toàn thể cán bộ, chiến sĩ quý mến.
(1) Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh hùng,
Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
(2) An Ngãi nay thuộc huyện Long Điền tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
(3) Đá Giăng nay thuộc thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
(4) Sông Cầu thuộc xã Bình Ba, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
573

58.4 Page 574

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đồng chí đã được khen thưởng 1 huân chương chiến công
giải phóng hạng ba, 3 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ
cấp ưu tú, 1 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt cơ giới. Ngày
17/9/1967, đồng chí Nguyễn Văn Quang đã được ủy Ban Trung
ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng
thưởng Huân chương Giải phóng hạng Ba và danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1967(5).
(5) Nguồn: Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng
Nai, 1998.
574

58.5 Page 575

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Quyết Chiến
Đồng chí Nguyễn Quyết Chiến(1), là đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh năm 1942, quê
xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Khi được tặng danh hiệu anh hùng, đồng chí là
xã đội trưởng Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch.
Vào lực lượng dân quân xã năm 1965, đồng
chí Nguyễn Quyết Chiến đã liên tục chiến đấu và chiến đấu dũng
cảm, mưu trí trực tiếp đánh và chỉ huy dân quân xã đánh hơn 100
trận, diệt hàng trăm tên địch và thu trên 20 súng các loại. Đặc biệt
trận đánh ngày 5/6/1967, đồng chí thu được 8 súng và diệt gần 1
trung đội Mỹ. Trong 1 trận đánh vào tháng 12/1967, đồng chí lấy
được 4 súng, diệt 20 tên. Trận ngày 20/8/1968, một mình đồng chí
lấy được 1 khẩu đại liên của địch và cùng đồng đội diệt 40 tên Mỹ.
Trưởng thành từ một dân quân lên xã đội trưởng, đồng chí luôn
luôn là tấm gương sáng chói về ý chí tiến công cách mạng, về tinh
thần chiến đấu cực kỳ dũng cảm, mưu trí, táo bạo; luôn nêu cao trách
nhiệm xây dựng lực lượng dân quân địa phương, góp phần đẩy mạnh
phong trào toàn dân đánh giặc, phục vụ đắc lực cho bộ đội chủ lực
đứng chân hoạt động ở địa bàn phía đông Sài Gòn.
Đồng chí đã được khen thưởng 3 Huân chương Chiến công giải
phóng (1 hạng Nhất, 1 hạng Nhì, 1 hạng Ba). Ngày 20/12/1969,
đồng chí Nguyễn Quyết Chiến được Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân năm 1969(2).
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
(2) Nguồn: Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng
Nai, 1998.
575

58.6 Page 576

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Bùi Văn Hòa
Anh hùng liệt sĩ Bùi Văn Hòa(1) sinh năm
1940 có tên khai sinh là Bùi Văn Đực, quê ở
huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Xuất thân từ một gia đình nghèo ở xã Nhị
Bình, quận Châu Thành (tỉnh Tiền Giang), sớm
mồ côi mẹ nên Đực phải đi giữ trâu mướn từ
thuở 15 tuổi. Năm 1961, khi 21 tuổi, Bùi Văn Đực đầu quân vào bộ
đội miền Đông, đổi tên thành Bùi Văn Hòa, lúc đầu ở đơn vị U50,
Hậu cần Miền, sau được điều lên đơn vị chiến đấu, ở đơn vị chốt 2
(đại đội 2) đặc công do đồng chí Nguyễn Tấn Vàng chỉ huy. Tại đây,
ông được huấn luyện kỹ thuật đặc công.
Có một thân hình cao lớn, rắn chắc, sức lực dẻo dai, tính tình vui
vẻ, sống chan hòa, đoàn kết yêu thương đồng đội; Bùi Văn Hòa còn
là người hăng hái, dũng cảm, gan dạ phi thường không nề hà khó
khăn, nguy hiểm, nhiệm vụ nào cũng quyết tâm hoàn thành.
Bùi Văn Hòa nhanh chóng được chọn vào Đội trinh sát đặc công
Biên Hòa. Ngay từ đầu năm 1966, sau khi Mỹ vừa xây dựng xong
Tổng kho liên hợp quân sự Long Bình “bất khả xâm phạm”, Bùi
Văn Hòa là một trong những chiến sĩ đặc công đầu tiên nhận lệnh
của Tỉnh đội trưởng Trần Công An đột nhập vào để trinh sát. Bùi Văn
Hòa đã khôn khéo, gan dạ vượt qua nhiều lớp hàng rào, bãi mìn và
cả một hệ thống tuần tra rất hiện đại của quân đội Mỹ, tự tay gỡ từng
loại nhãn hiệu, mã số của các loại vũ khí chứa ở từng kho đạn mang
về báo cáo cho Tỉnh đội trưởng Hai Cà.
Liên tiếp trong nhiều trận đánh vào căn cứ Long Bình, Bùi Văn
Hòa đều là một trong những mũi nhọn chủ công. Đặc biệt Bùi Văn
Hòa là luôn sáng tạo, ứng biến kịp thời trong những tình huống phức
tạp khác nhau, trong đó có việc kịp thời đề xuất phương án luồn ra
(1) Nguồn: website Thư viện tỉnh Đồng Nai (http://www.thuviendongnai.gov.vn/).
576

58.7 Page 577

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
phía sau lưng địch, đặt mìn xen kẽ giữa các kho để hình thành thế nổ
dây chuyền tạo hiệu quả lớn...
Ông đã tham gia chiến đấu nhiều trận, lập được nhiều chiến công.
Đặc biệt, trong đội hình đặc công, ông đã cùng đồng đội trực tiếp
tham gia 3 trận đánh lập chiến công lớn:
Ngày 16/6/1966, nghiệp đoàn Nhà máy giấy Cogido đã lãnh
đạo toàn thể 700 công nhân đình công chiếm xưởng. Chủ Nhà máy
Cogido cùng Tỉnh trưởng tỉnh Biên Hòa thuộc chính quyền Sài Gòn
Trần Văn Hai đến tận nơi điều đình, nhưng thất bại. Ngay sau đó, Ty
cảnh sát Biên Hòa đưa 2 đại đội cảnh sát dã chiến có xe vòi rồng đi
theo để đàn áp cuộc đấu tranh. Cuộc đình công kéo dài nhiều ngày.
Báo chí tiến bộ ở Sài Gòn đồng loạt đưa tin, gây tiếng vang lớn.
Để hỗ trợ phong trào đấu tranh của công nhân Biên Hòa, Tỉnh đội
U1 quyết định tấn công vào Tổng kho Long Bình. Đêm 22/6/1966,
một tổ đặc công của đại đội 2 thị xã Biên Hòa gồm 6 đồng chí:
Nguyễn Tấn Vàng, Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Văn Hóa, Trịnh Văn
Thoàn, Phạm Văn Hòa, Nguyễn Văn Rô. Trong đó, đồng chí Nguyễn
Tấn Vàng làm mũi trưởng, Nguyễn Văn Thái làm mũi phó. Tổ chia
làm 3 nhóm được Bùi Văn Hòa dẫn đường, từ bàn đạp Hưng Lộc đã
bí mật đã vượt qua 3 lớp hàng rào kẽm gai, đột nhập vào cao điểm
50, kho Long Bình. 8 quả mìn hẹn giờ được đặt vào 8 kho đạn pháo
105 ly gồm 8 cụm chứa các loại đạn pháo, rốc-két, bom; hẹn 20 giờ
cho điểm hỏa.
Đúng giờ, một tiếng nổ dậy đất vang lên, tiếp theo là nhiều loạt
tiếng nổ lớn liên tục làm rung chuyển cả thị xã Biên Hòa và đô thành
Sài Gòn. Những cụm khói đen khổng lồ xen kẽ với những chùm lửa
xanh đỏ bao phủ cả khu vực Long Bình. Không một máy bay lên
thẳng hay xe cứu hỏa nào dám đến cứu chữa. 8 kho bom đạn của Mỹ
bị nổ tung. 125 ngàn quả đạn pháo, rốc-két, bom bị phá hủy, 3 dãy
nhà kho bị sạm, 250 tên Mỹ gác kho bị chết.
Ngay sáng sớm hôm sau, ngày 23/6/1966, đích thân Nguyễn
Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia chế độ Sài Gòn cùng
577

58.8 Page 578

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
với Tỉnh trưởng Biên Hòa phải đến Nhà máy Cogido để “dàn xếp”
cuộc đấu tranh. Hầu hết yêu sách của công nhân được giải quyết.
Bộ Tư lệnh Miền ra quyết định tặng thưởng Huân chương Quân
công hạng Ba cho đại đội 2 đặc công U1. 4 chiến sĩ được thưởng
Huân chương Chiến công, trong đó có trinh sát đặc công Bùi Văn
Hòa (khi ấy 26 tuổi).
Trận đánh đã gây chấn động dư luận trong nước và thế giới. Báo
Nhân dân số ra ngày 29/10/1966 đã ca ngợi chiến thắng Long Bình,
cho đây là trận đánh táo bạo, tài tình, đánh thẳng vào “dạ dày” của
Mỹ. Bác Hồ đã gửi thư khen ngợi.
Trận tiếp theo diễn ra vào đêm 17/11/1966, tổ đặc công gồm 6
chiến sĩ do đồng chí Tư Già chỉ huy, trong đó có đồng chí Bùi Văn
Hòa, đã vượt qua các hàng rào kiên cố và các chốt gác của Mỹ lọt
vào khu kho đồi 53.
Các chiến sĩ có sáng kiến cứ cách một kho đặt 1 quả mìn hẹn giờ.
4 quả mìn hẹn giờ đã được đặt vào 4 dãy kho lớn nhất. Đúng 24 giờ,
khu kho Long Bình lại nổ đỏ trời. Toàn bộ khu kho đồi 53 bị sụp đổ.
154 ngàn quả đạn pháo 105 ly, 155 ly, 175 ly bị nổ tung, cả trung đội
Mỹ bảo vệ tan xác.
Trận thứ ba diễn ra vào đêm 9 rạng sáng 10/12/1966, đồng chí Bùi
Văn Hòa lại tham gia đội hình đặc công U1, tấn công vào khu kho
Long Bình. Quân ta phá hủy 2 dãy nhà kho, làm nổ tung 74 ngàn 6
trăm quả đạn pháo của địch.
Năm 1969, Bùi Văn Hòa được đi dự Đại hội anh hùng chiến sĩ thi
đua toàn miền Nam lần thứ nhất.
Một ngày mùa khô năm 1970, Bùi Văn Hòa được giao nhiệm vụ
dẫn đường cho đơn vị pháo 120 ly của Trung đoàn pháo binh 75 Biên
Hòa tập kích vào Tổng kho Long Bình. Tới trạm Cờ Đỏ, các đồng chí
đã bị địch phục kích. Bùi Văn Hòa và đồng đội hy sinh.
Theo thống kê, trong khoảng thời gian Bùi Văn Hòa tham gia
chiến đấu, ông đã có 9 lần cùng đồng đội đánh vào căn cứ Tổng kho
Long Bình. Bùi Văn Hòa và lực lượng đặc công Biên Hòa đã phá hủy
578

58.9 Page 579

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
hơn 1,2 triệu quả bom, đạn các loại, 3.500 thùng thuốc nổ, 47 xe cơ
giới, tiêu diệt 705 tên lính Mỹ và lính của quân đội Sài Gòn.
Với những chiến công và những cống hiến của ông cho cách mạng,
ngày 10/2/1970(2), Bùi Văn Hòa được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Bùi Văn Hòa, liệt sĩ cách mạng, Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân, nguyên bộ đội đặc công Biên Hòa trong kháng chiến
chống Mỹ, người con đất Đồng Nai đã anh dũng hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc, nhưng những chiến công của ông, tinh thần chiến
đấu bất diệt của ông đã để lại niềm tiếc thương vô cùng đối với đồng
đội, đồng bào, thế hệ trẻ tương lai luôn ghi nhớ công ơn của ông và
quyết tâm học tập noi gương ông, sống và chiến đấu xây dựng và bảo
vệ quê hương đất nước.
Sau năm 1975, tên Bùi Văn Hòa được đặt tên cho một con đường
nối từ đường Nguyễn Văn Trị với đường Cách mạng tháng Tám. Sau
đó, năm 2007, theo quy hoạch tên đường của thành phố Biên Hòa,
UBND thành phố Biên Hòa đã quyết định lấy tên Bùi Văn Hòa đặt
tên cho một con đường thuộc Khu công nghiệp Biên Hòa 2 (khu
vực thuộc Tổng kho Long Bình trước đây, dài 5km, nối đường Võ
Nguyên Giáp với xa lộ Hà Nội), nơi in đậm dấu ấn chiến công năm
xưa của anh hùng liệt sĩ Bùi Văn Hòa.
(2) Nguồn: Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng
Nai, 1998. Có tài liệu ghi: 1978.
579

58.10 Page 580

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trần Văn Chín
Đồng chí Trần Văn Chín(1), đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, dân tộc Kinh, sinh năm
1946, quê xã Hàm Liên, huyện Hàm Thuận, tỉnh
Bình Thuận. Khi được tặng danh hiệu Anh hùng,
đồng chí là Đại đội phó, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn
4 Đồng Nai.
Gia nhập quân đội năm 1966, đến năm 1971 đồng chí đã tham
gia 63 trận, phụ trách đơn vị diệt hàng ngàn tên địch. Riêng đồng
chí diệt 95 tên (trong đó có 51 tên Mỹ), bắn rơi 1 máy bay, thu 4
súng và nhiều đồ dùng quân sự. Đặc biệt ở trận đánh Tầm Bo tháng
6/1966, đồng chí bị thương, tự băng bó, tiếp tục chiến đấu, diệt gần
chục tên địch. Trong trận Kim Long vào tháng 4/1967, đồng chí diệt
gần 30 tên địch. Trận đánh sân bay Biên Hòa, bị lạc nên phải nhịn
đói 4 ngày, đồng chí vẫn cõng thương binh tìm về đơn vị. Trận ngày
6/6/1970, đồng chí chiến đấu bẻ gãy 4 đợt tiến công của địch, bắn rơi
1 máy bay bằng súng bộ binh.
Trong hoàn cảnh nào, đồng chí Trần Văn Chín vẫn luôn luôn tỏ ra
là một cán bộ có bản lĩnh, gan dạ, kiên quyết tiến công và tiến công
địch mãnh liệt giàu lòng nhân ái thương yêu đồng chí, đồng đội,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Đồng chí đã được khen thưởng 3 Huân chương Chiến công Giải
phóng (1 hạng Nhì, 2 hạng Ba), 3 lần được bầu là Chiến sĩ Thi đua,
55 Bằng và Giấy khen. Ngày 19/5/1972, đồng chí Trần Văn Chín
được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
580

59 Pages 581-590

▲back to top


59.1 Page 581

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phạm Văn Cán
Anh hùng Phạm Văn Cán(1) sinh năm 1952,
dân tộc Kinh, quê ở xã Minh Tân, huyện Phú
Xuyên, tỉnh Hà Tây. Khi được tuyên dương
anh hùng, đồng chí là đảng viên, trung sĩ,
chiến sĩ lái xe dắt, đại đội 11, Đoàn 26, Phòng
kỹ thuật Bộ Tư lệnh Thiết giáp Miền.
Tháng 9/1972, Phạm Văn Cán cùng đơn vị hành quân 2.000km
vào chiến trường Đông Nam bộ, anh không ngại khó khăn, gian
khổ, hy sinh, vượt qua bom đạn ác liệt do máy bay địch bắn phá,
cứu kéo được 73 lượt chiếc xe tăng, xe thiết giáp sa lầy, đổ hoặc
chết máy trên đường hành quân. Từ tháng 5/1973 đến tháng
4/1975, Phạm Văn Cán làm nhiệm vụ dắt xe tăng, xe thiết giáp
trong chiến đấu. Anh đã tham gia 3 chiến dịch, cứu kéo được 40
chiếc xe về tới nơi an toàn. Trong chiến dịch Bến Cát từ tháng 5
đến tháng 9/1974, trời mưa nhiều, đường lầy lội, địch bắn phá ác
liệt, Phạm Văn Cán vẫn bất chấp gian nguy để hoàn thành nhiệm
vụ. Có lần, giữa hỏa lực dày đặc của địch, anh vẫn bình tĩnh lái xe
vào sát căn cứ địch (100m), cứu kéo được một xe tăng ra ngoài.
Cả chiến dịch, anh cứu kéo được 18 chiếc xe tăng về sửa chữa,
khôi phục lại, tiếp tục chiến đấu. Trận đánh quận lỵ Chơn Thành
(Bình Long) tháng 4/1975, có 2 xe tăng của ta bị hỏng nằm sát
trận địa địch, nguy cơ sẽ bị chúng cướp xe hoặc phá hủy, Phạm
Văn Cán dũng cảm mở nắp xe, nhô ra ngoài vừa lái vừa quan sát
tránh bãi mìn, thà hy sinh chứ không để xe và đồng đội bị thương,
anh đã cứu được 2 xe tăng về an toàn, cổ vũ cho đồng đội xông
lên tiêu diệt địch.
Trong thành tích nổi bật của Phạm Văn Cán, đồng đội gọi anh
là người chiến sĩ cứu hộ tăng thiết giáp gắn liền với những câu
chuyện về các trận đánh thắng bằng xe tăng trên chiến trường
(1) Nguồn: Những anh hùng đất Đồng Nai, tập I, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2000.
581

59.2 Page 582

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
miền Đông oanh liệt.
Tháng 5/1971, học xong năm thứ ba khoa Chế tạo máy Trường
đại học Bách khoa Hà Nội loại giỏi, Phạm Văn Cán được tuyển
vào bộ đội tăng - thiết giáp ở tuổi 21.
Suốt chặng hành quân dài 5 tháng từ Bắc vào Nam, anh cứu
kéo, sửa chữa được nhiều xe hỏng hóc. Vì vậy anh được bầu chiến
sĩ thi đua, dự hội nghị thi đua binh chủng ở Lộc Ninh. Sau đó các
đơn vị tăng thiết giáp B.2...
Cuối năm 1973, Cán tham gia trận đánh Bù Bông. Trận đánh
diễn ra rất ác liệt. Một mình lái xe đặc chủng, Cán kéo được chiếc
xe tăng K63 và T56 bị hư hỏng về nơi an toàn, thu 7 xe thiết giáp
M113 của địch.
Kiểm điểm bình xét thành tích sau chiến dịch, anh Cán được đề
nghị cấp trên thưởng Huân chương Chiến công giải phóng.
Đầu tháng 12/1972, Tiểu đoàn 21 và đại đội 6 (của Tiểu đoàn
20) thiết giáp B.2 phối thuộc trung đoàn bộ binh đánh sân bay
Nhân Cơ gần thị xã Gia Nghĩa (tỉnh lỵ tỉnh Quảng Đức). 19 giờ
ngày 4/12 từ khu tập kết Bù Bông khá xa, xe đặc chủng theo công
binh dẫn đường, xuyên cánh rừng le tiến vào cửa mở. Le mọc dày
đặc xòa ra cà sàn sạt vào thước ngắm khẩu trọng liên 12.8 ly làm
trầy tróc lớp mạ.
Tăng thiết giáp ta tiến công theo 2 mũi. Đại đội 6 có khoảng 10
xe đánh từ phía Đông, tức là hướng Đà Lạt tới.
Xe đặc chủng đi với mũi Tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp (do anh
Khuê chỉ huy). Lúc bộ đội đặc công nổ súng, địch bắn pháo sáng,
cả bầu trời khu vực trắng lóa, mọi vật nhìn rõ như ban ngày. Vừa
từ rừng ra, xe anh Cán đụng bãi be toàn các khúc gỗ tròn chờ vận
chuyển về Sài Gòn chế biến. Anh Cán nghe tiếng nổ lụp bụp trên
trời, chớp chớp xanh lét.
Từ trong xe, anh Cán thấy một xe K.63 cháy. Thêm một chiếc
T.54 bị bắn đứt xích. Xe Cán quay vào móc cáp vào xe và móc sợi
cáp thứ nhì vào bộ xích đứt. Kéo xe đứt xích rất khó, bên không
582

59.3 Page 583

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
còn xích, dàn bánh đỡ lún sâu xuống, bụng xe cà trịt mặt đất, lực
ma sát cực lớn. Bình thường, chỉ cần vài phút đã giải quyết xong,
nhưng anh phải đánh vật với chiếc T.54 này mấy giờ liền mới
đưa ra được ven rừng. Một số chiến sĩ bộ binh hy sinh, anh Cán
và anh em đưa lên thùng xe mang ra, đúng chính sách và kỷ luật
chiến trường.
Chỉ trong đêm nay, bộ đội ta dứt điểm Nhân Cơ vì ở đây địch
phòng thủ yếu hơn Bù Bông. Ta mất 2 xe, xe đặc chủng rút vào
rừng kéo theo xe hỏng để sửa tạm. Chiếc T.54 không có xích dự
trữ, thiếu một số mắt xích hỏng vì trúng đạn. Anh Cán và đồng đội
sáng tạo: chỉ gắn xích vào ba bánh đỡ (đáng lẽ đủ thì xích gắn trên
5 bánh). Giáo trình đã học không cho phép làm như vậy: xe sẽ đi
lệch, hai bên lún không đều nhau... Nhưng cứ đúng bài bản thì chỉ
có cách vứt xe đi, mà chúng ta thì đang rất thiếu quả đấm thép.
Khoảng tháng 5/1974, đầu mùa mưa, Tiểu đoàn 22 tăng thiết
giáp B.2 (mới từ miền Bắc vào) phối thuộc Sư đoàn 9 mở chiến
dịch lộ 7 ngang ở khu vực Bến Cát - Rạch Bắp. Trung ương Cục
và Quân ủy Miền chủ trương phá vỡ tuyến phòng ngự trung gian,
kìm chân lính chủ lực ngụy tại Sài Gòn, ngăn chặn ý đồ địch đưa
quân bình định vùng ven Sài Gòn và lấn chiếm Lộc Ninh - vùng
giải phóng của ta.
Trong trận đánh này, Cán cùng xe đặc chủng đã cứu kéo được
nhiều xe tăng và chiến sĩ chiến đấu trong trận.
Ban Chỉ huy chiến dịch đánh giá tổ cán bộ, chiến sĩ xe đặc
chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Anh Cán được thưởng Huân
chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
Là đối tượng Đảng đã lâu, nay Đảng bộ Phòng kỹ thuật Cục
Hậu cần B.2 gửi hồ sơ lý lịch anh Cán xuống để Đảng bộ Tiểu
đoàn 22 kết nạp. Anh được vinh dự đứng trong đội ngũ tiên phong
của giai cấp và dân tộc ngày 6/6/1974.
Mùa khô 1974-1975, tổ xe đặc chủng của Cán tham gia nhiều
chiến dịch, trận đánh lớn ở Dầu Giây, Chơn Thành, sau chuyển
583

59.4 Page 584

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
qua bộ phận kỹ thuật chuyên sửa xe thiết giáp của Bộ Tư lệnh
Miền.
Thiếu úy Phạm Văn Cán trực tiếp chiến đấu ở chiến trường B.2
khoảng một năm rưỡi, cứu kéo khoảng 20 xe của ta thu được hàng
chục tăng thiết giáp của địch trong mưa bom bão đạn. Chiến công
anh lập được có phần đóng góp xương máu của nhiều đồng đội:
trinh sát dẫn đường tiếp cận, công binh gỡ sạch mìn, cán bộ cấp
trên chỉ huy đúng...
Với những thành tích đạt được, đồng chí đã được tặng thưởng 2
Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, được tặng 4 Bằng
khen và Giấy khen. Ngày 15/1/1976, Phạm Văn Cán được Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
584

59.5 Page 585

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trần Văn Trung
Anh hùng Trần Văn Trung (còn có tên là
Nguyễn Văn Trung, Phạm Văn Thành, Phạm
Xuân Ẩn) dân tộc Kinh, quê ở thị xã Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai, sinh năm 1927 tại Nhà thương
điên Biên Hòa (nay là Bệnh viện Tâm thần
Trung ương II). Khi được tuyên dương Anh
hùng, anh là đảng viên, trung tá, cán bộ tình
báo thuộc Bộ Tham mưu Miền.
Trần Văn Trung(1) nhập ngũ tháng 10/1945, ở Rạch Giá, tái ngũ
đầu năm 1952. Kể từ năm 1952-1975, suốt 23 năm đồng chí chiến
đấu trong mặt trận thầm lặng giữa hang ổ kẻ địch, nhiều gian nan
hiểm nguy, đã chiến thắng trong mọi tình huống, góp công lớn lao
trên mặt trận tình báo trong sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc
Mỹ xâm lược. Trong vỏ bọc ký giả, Phạm Xuân Ẩn đã cung cấp kịp
thời nhiều tài liệu nguyên bản của địch có giá trị lớn cho cách mạng,
lập nhiều thành tích xuất sắc. Để có ngày chiến thắng, bên những
chiến công vẻ vang của đồng đội cầm súng chiến đấu, còn có biết
bao chiến công thầm lặng của những người con ưu tú như Trần Văn
Trung - những cán bộ tình báo. Đồng chí luôn giữ nếp sống giản dị,
trong sạch, có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Sống và làm việc với địch,
Trần Văn Trung vẫn luôn luôn giữ vững lòng trung thành với Đảng,
kiên định tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng, tin tưởng vào tương
lai ngày mai của đất nước.
Với thành tích ấy, Trần Văn Trung được tặng thưởng 4 Huân
chương Chiến công giải phóng (1 hạng Nhất, 2 hạng Nhì, 1 hạng
Ba), Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quân công hạng
Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ Vẻ vang hạng Nhất,
(1) Nguồn: Những anh hùng đất Đồng Nai, tập I, NXB Đồng Nai, 2000.
585

59.6 Page 586

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nhì, Ba; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng; 6 lần được bầu là Chiến
sĩ thi đua; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; được Nhà nước tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15/1/1976.
Trần Văn Trung với tên là Phạm Xuân Ẩn được xem là người
anh hùng huyền thoại trên mặt trận không có tiếng súng. Các ký
giả nổi tiếng của hãng thông tấn Reuters và các tờ báo tên tuổi như
tuần báo Times, nhật báo New York Herald Tribune, nhật báo The
Chritian Science Monitor đều nhìn nhận như vậy. Các nhà đầu tư
Pháp, Mỹ, Đài Loan, Nhật, Hàn tỏ ra “mê tín” vị cựu ký giả Phạm
Xuân Ẩn vốn có sở trường đưa ra những dự đoán chính xác về thời
thế của chế độ Sài Gòn. Sau ngày 30/4/1975 người ta mới thực sự
biết được ký giả lỗi lạc Phạm Xuân Ẩn chính là nhà tình báo chiến
lược “Cộng sản nằm vùng”. Những CIA “gộc” như Frank Snepp và
các chính khách, học giả nổi tiếng như: Edward G.Landel, William
Colby, Zalin Grant… đều có mối quan hệ thân tình hoặc có nhiều
trang viết trân trọng đối với ký giả Phạm Xuân Ẩn. Thomas A.Bass
(Báo Người New York) nhận xét: “Anh là một người bị xẻ đôi có
lòng trung chính cao độ, một người sống với sự giả dối nhưng lại nói
toàn sự thật”. Mai Chí Thọ đánh giá: “Phạm Xuân Ẩn là người đầu
tiên chúng tôi gởi anh sang Mỹ để học biết cái văn hóa của những
người thay thế Pháp làm kẻ thù của chúng tôi... Phạm Xuân Ẩn là
một người hoàn hảo cho công tác này. Đó là một việc làm thành công
lớn của chúng tôi... Phạm Xuân Ẩn có được những nguồn tin tốt nhất
và được phép tiếp cận các thông tin mật. Sau chiến tranh, chúng tôi
phong tướng cho Phạm Xuân Ẩn và danh hiệu Anh hùng Quân đội
Nhân dân. Không cần phải nói thêm những chi tiết gì nữa, chỉ điều
ấy thôi cũng đủ nói lên tầm quan trọng của những gì Phạm Xuân Ẩn
đã làm cho quê hương của anh”.
Trong hồ sơ đề nghị phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân cho Phạm Xuân Ẩn, lãnh đạo Tổng cục II - Bộ Quốc
phòng có ghi: “Đồng chí Trần Văn Trung (tên hoạt động ký giả là
Phạm Xuân Ẩn), Trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam, liên tục hoạt
động trong vùng địch kiểm soát, luôn luôn nêu cao tấm gương về
586

59.7 Page 587

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, lạc quan tin tưởng vào thắng lợi
cuối cùng. Trong những tình huống hết sức khó khăn, phức tạp, đồng
chí vẫn tích cực chủ động tiến công địch, bám chắc địa bàn, mưu trí
sáng tạo. Đồng chí đã thu thập phân tích chiến lược và cung cấp kịp
thời kế hoạch quân sự và tài liệu quan trọng khác phục vụ đắc lực
cho việc nắm địch về chiến lược và trong các chiến dịch lớn tạo điều
kiện cho lực lượng của ta đánh bại mọi mưu đồ, thủ đoạn thâm độc
của kẻ thù”.
Vào giữa năm 1999, nhân kỷ niệm ngày Nhà báo Việt Nam, Anh
hùng Trần Văn Trung được mời về Biên Hòa để nói chuyện về kỷ
niệm làm báo trong lòng địch với những đồng nghiệp trẻ ở quê hương.
Khi được hỏi về nỗi niềm nghề nghiệp, ký giả lỗi lạc trả lời hóm
hỉnh: “Có hai thứ “tình” khó kể trong lúc làm nhiệm vụ, đó là công
tác tình báo và... tình yêu!”. Đúng là, về công tác tình báo, phải bảo
mật tuyệt đối; về tình yêu cũng phải kín tiếng để tránh bị khai thác.
Ít ai biết, chuyện tình của ông đối với người bạn đời Hoàng Thị Thu
Nhạn cũng đượm màu “đặc biệt” như công tác của ông. Sau kết hôn,
cô gái xứ lụa Hà Đông chỉ được chung sống với chồng 5 ngày rồi
ngậm ngùi chia tay, mỗi người về với nhiệm vụ thầm lặng của mình.
Cởi mở với các nhà báo trẻ, Anh hùng Trần Văn Trung mới vui
miệng kể về người cha của mình và thời gian sống ở Biên Hòa. Cha
ông là một công chức trắc địa người Việt Nam xông xáo và tận tâm
với công việc, lại giao du rộng nên rất được quan chủ tỉnh và các
công chức Pháp ở Biên Hòa nể trọng. Trắc địa sư là công chức được
giao phụ trách việc đo đạc, định hạng ruộng đất, đồn điền, thời ấy,
đất đai cả một vùng miền Đông màu mỡ đang được khai phá nên ai
cũng muốn cầu cạnh, làm thân. Khi biết vợ của viên trắc địa sư sắp
đến ngày sinh nở, vị giám đốc của Nhà thương điên Biên Hòa có lời
mời bà vào nơi mà nhà cầm quyền thực dân Pháp tự hào là khu điều
trị bệnh tâm thần lớn nhất Đông Dương có bác sĩ người Pháp trực
tiếp đỡ đẻ. Chào đời ở một nơi như vậy, nên tấm giấy khai sanh của
Trần Văn Trung cũng khác thường vì những người chứng sinh toàn
là các quan đốc tờ Tây. Cái giấy khai sanh độc đáo này cùng với bản
587

59.8 Page 588

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
lý lịch “ngon lành” có cha là trắc địa sư, công chức cao cấp của Pháp,
trở thành loại “thông hành” có giá trị để sau này Trần Văn Trung
được thuận lợi trong bước đầu đến với nghề báo và tình báo.
Cách mạng tháng Tám thành công, như bao thanh niên Việt Nam
yêu nước khác, chàng trai 18 tuổi Trần Văn Trung háo hức tham gia
vào thanh niên Tiền Phong. Trung vốn được theo cha đi khắp Nam
Bộ, cám cảnh dân lành bị áp bức bóc lột, bất nhẫn với cảnh bất công
nên mặc dù được học trường Tây, mức sống kiểu Tây nhưng Trung
quyết không để bị Tây hóa. Khi tắm mình trong không khí độc lập tự
do, Trung hiểu ra con đường phải chọn, nghe lời hiệu triệu của Việt
Minh, đem hết nhiệt huyết tuổi thanh xuân phục vụ kháng chiến.
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đội viên thanh niên
Tiền Phong tỉnh Cần Thơ Nguyễn Văn Trung được chọn đi đào tạo
ở Trường Quân sự Thanh Trị. Kết thúc khóa huấn luyện quân sự đầu
tiên với loại xuất sắc, Nguyễn Văn Trung trở thành một chiến sĩ Vệ
quốc đoàn tham gia đánh giặc khắp bưng biền miền Tây Nam Bộ.
Với bản lý lịch thuận lợi, năm 1946 anh bộ đội Nguyễn Văn Trung
được lệnh trả lại súng để về Sài Gòn làm nhiệm vụ khác. Tổ chức
giao cho Trung về thành và tìm mọi cách xin vào làm ở Sở Quan
thuế Sài Gòn, đây là nơi rất thuận tiện để anh có thể nắm được và kịp
thời báo cho cách mạng về tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài
quân sự và quân đội viễn chinh do Pháp đưa từ mẫu quốc sang Việt
Nam và từ Việt Nam về Pháp. Nguyễn Văn Trung không khó khăn
gì để trở thành một công chức trong sở quan thuế Sài Gòn. Từ đây,
mọi thứ hàng hóa, khí tài được nhập từ Pháp qua đều có báo cáo đưa
về Bộ Chỉ huy Quân sự Miền. Tín hiệu mà người chiến sĩ quân báo
Nguyễn Văn Trung đang hoạt động lặng lẽ, âm thầm ở Sài Gòn nhận
lại được là những trận công đồn, những trận giao thông chiến mà bộ
đội miền Tây và miền Đông đã đốt phá, tịch thu, hủy diệt nhiều sinh
lực, vũ khí của địch.
Nhận thấy công việc của mình thầm lặng quá, trong khi khắp các
chiến trường đang âm vang tiếng súng đuổi giặc năm 1951, Nguyễn
588

59.9 Page 589

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Văn Trung làm đơn gởi về đơn vị xin cho mình được ra chiến trường
cầm súng. Nguyện vọng của Trung là được chiến đấu ngay trên mảnh
đất quê hương mình. Trung khao khát được tham gia Vệ quốc đoàn
của Huỳnh Văn Nghệ lừng danh đang làm cho giặc Pháp điên đảo.
Đầu năm 1952, Nguyễn Văn Trung nhận được thư của bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch - nguyên là thủ lĩnh thanh niên Tiền Phong trước đây,
đang là Ủy viên của Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ trực
tiếp mời ra chiến khu đang tạm đóng tại Đất Cuốc. Lần này, Nguyễn
Văn Trung cũng không được phân công cầm súng chiến đấu mà được
động viên để nhận một nhiệm vụ thâm nhập trung tâm đầu não quân
sự của giặc ở Sài Gòn. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Trung là phải
bằng mọi cách khai thác các mối quan hệ sẵn có để tiếp cận cho được
Bộ Tổng hành dinh quân đội liên hiệp Pháp. Cái “mác” học trường
Tây, giấy khai sinh do Tây cấp, con của một cựu trắc địa sư tên tuổi,
đã tạo nhịp cầu cho người chiến sĩ quân báo trở thành nhân viên tham
mưu tin cậy trong Bộ Chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp.
Quân Pháp liên tục thất bại trên chiến trường Đông Dương, Mỹ
từ viện trợ quân sự ban đầu cho Pháp đã trực tiếp can thiệp vào
Việt Nam với ý đồ thay chân thực dân Pháp. Anh nhân viên tham
mưu người Việt Nam có cái nhìn chiến lược về quân sự Nguyễn Văn
Trung đã lọt vào cặp mắt xanh của trung tướng Edwar G.Lansdale,
Trưởng nhiệm sở CIA và Trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ
(US. MAAG) ở Sài Gòn. Đã nắm được ý đồ can thiệp của Mỹ vào
Việt Nam, nên sau khi được báo cáo của Nguyễn Văn Trung, các
đồng chí Mười Hương, Năm Xuân, Tư Hùng ... quyết định giao cho
anh nhiệm vụ mới: bám sát nhóm cố vấn Mỹ MAAG. Để bảo đảm
an toàn tuyệt đối cho đường dây hoạt động tình báo chiến lược đơn
tuyến này, tổ chức bố trí cho Nguyễn Văn Trung một “hòm thư sống”
mà anh chỉ được biết với tên là một phụ nữ gốc Long An gọi “chị
Ba”. Thông qua chị Ba, Trung nhận chỉ thị của cấp trên và báo cáo
phân tích của ngành tình báo chiến lược căn cứ trên mọi tin tức mà
mình thu thập được.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, giữa lúc cán bộ, bộ đội
589

59.10 Page 590

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
chuẩn bị xuống tàu tập kết ra miền Bắc, thì Nguyễn Văn Trung lại
trở thành người cộng sự của phái bộ quân sự Mỹ tại Sài Gòn (Sài
Gòn Military Mission) thường xuyên đến văn phòng hoặc nhà riêng
để gặp gỡ Đại tá CIA Ed Lansdale, Thiếu tá Lou Conien, Trung úy
Rufus Philyes chỉ huy một nhóm tình báo Mỹ ở Sài Gòn đang tìm
cách củng cố chế độ Ngô Đình Diệm, tiêu diệt các giáo phái đối lập
cùng các thế lực ảnh hưởng Pháp.
Năm 1955, phái bộ cố vấn quân sự Mỹ chính thức thay Pháp để
đứng ra huấn luyện và xây dựng “Quân đội Quốc gia Việt Nam”,
Nguyễn Văn Trung được cố vấn Mỹ đề nghị tham gia soạn thảo các
tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần. Đặc
biệt, Nguyễn Văn Trung được Mỹ và Bộ Tổng tham mưu “Quân đội
Việt Nam Cộng hòa” tham gia phái bộ thành lập bộ khung của 6 sư
đoàn bộ binh đầu tiên của “Quân đội Việt Nam Cộng hòa” vốn thành
phần nhân sự ban đầu là sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính người Việt
trong quân đội liên hiệp Pháp trước đó, để lại. Nguyễn Văn Trung
còn được giao hợp tác với Mỹ chọn lựa sĩ quan trẻ có “tinh thần quốc
gia”, có triển vọng rồi kiểm tra trình độ Anh ngữ để đưa sang Mỹ đào
tạo. Trong số 25 sĩ quan người Việt được đưa qua Trường tham mưu
và chỉ huy (Command and General Staff ở căn cứ Fort Leavenuorth,
Kansas City) để dự khóa huấn luyện tham mưu và chỉ huy trong 10
tháng, có Nguyễn Văn Thiệu (sau này là Trung tướng, Tổng thống
chế độ Sài Gòn), Trần Ngọc Châu (sau đó là Trung tá Tỉnh trưởng
Kiến Hòa, dân biểu quốc hội Sài Gòn) ...
Thực hiện một chủ trương chiến lược hoàn toàn mới mẻ trong
toàn bộ các cuộc chiến tranh xâm lược trước đây ở Việt Nam của nhà
tình báo lão luyện Ed Lansdale vốn cũng xuất thân là nhà báo; đầu
năm 1957, được giải ngũ, Nguyễn Văn Trung chuẩn bị mọi thủ tục
giấy tờ đi Mỹ học làm nghề báo chí, đồng thời học hỏi văn hóa Mỹ,
hiểu tâm lý người Mỹ ...
Trước ngày lên đường sang Mỹ, Nguyễn Văn Trung được các
đồng chí cấp trên căn dặn là phải cố gắng học cho thật giỏi. Đây cũng
590

60 Pages 591-600

▲back to top


60.1 Page 591

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
là cơ hội hiếm có để có điều kiện phát triển kiến thức, mà quan hệ với
cấp trên, tiếp xúc với các cơ quan đầu não của địch thực hiện nhiệm
vụ tình báo chiến lược.
Sau 2 năm du học ở Mỹ, Nguyễn Văn Trung về Việt Nam và được
mời làm thông tấn viên cho Hãng Thông tấn Reuters. Ký giả Phạm
Xuân Ẩn được Mỹ đưa đi đào tạo về nước lại làm cho hãng thông
tấn của Anh và về sau là các báo Mỹ và giao du khá rộng rãi với các
cơ quan quân sự, tình báo, thông tin Mỹ cùng quan chức cao cấp
Phủ Tổng thống, cơ quan Đặc ủy tình báo, Tổng nha cảnh sát quốc
gia, Bộ tổng tham mưu nên các chính khách, tướng tá của chế độ Sài
Gòn hết sức quý trọng, đều nghi Phạm Xuân Ẩn là người của CIA.
Cũng cần biết là các phe phái quân nhân cầm quyền ở Sài Gòn, tuy
đều “thần phục” dưới bàn tay đạo diễn của Mỹ nhưng luôn hục hặc,
tìm cách hất cẳng nhau... do đó, “ông nhà báo gốc CIA” trở thành
nhân vật đáng nể mà phe phái nào trên chính trường Sài Gòn cũng
muốn tranh thủ để vừa đón được ý đồ của quan thầy Mỹ vừa nghe
ngóng địch tình. Nhờ vậy, các buổi tiệc ngoại giao của chính giới Sài
Gòn đều luôn có mặt Phạm Xuân Ẩn. Vị ký giả điềm đạm này còn là
khách mời của các chính khách tên tuổi ở Sài Gòn trong những buổi
họp mặt ở các khách sạn Cravelle, Majectic... và được các cấp chỉ
huy an ninh tình báo cũng như các tướng tư lệnh quân nhảy dù, thủy
quân lục chiến, biệt động quân, tư lệnh vùng tiếp đón nồng hậu, lê la
khắp các vũ trường tráng lệ nhất Sài Gòn lúc bấy giờ như QueenBee,
Tự Do, Rite, Đêm Màu Hồng...
Qua những mối giao du đó, ký giả Phạm Xuân Ẩn lại càng nổi
tiếng về những tin tức nóng hổi tính thời sự của tình hình miền Nam
Việt Nam. Đặc biệt Phạm Xuân Ẩn còn có những bài báo chính xác
các diễn biến thuộc nội tình chính giới Sài Gòn - nơi mà báo chí
phương Tây cho rằng “Đảo chính xảy ra như ăn cơm bữa”, nên rất
được các đồng nghiệp nước ngoài kính nể. Một loạt các tờ báo tên
tuổi trên thế giới như như tuần báo Times, nhật báo New York Herald
Tribune, Người hướng dẫn Thiên Chúa giáo... mời Phạm Xuân Ẩn
làm đặc phái viên tại Sài Gòn. Các nguồn tin thu thập được càng mở
591

60.2 Page 592

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
rộng cũng có nghĩa là những bản báo cáo và phân tích tuyệt mật của
Nguyễn Văn Trung qua hòm thư “chị Ba” được chuyển vào R càng
phong phú, kịp thời. Với một khả năng phân tích, phán đoán nhạy
bén, sắc sảo để kịp đưa ra trước công luận những bài báo ấn tượng,
tạo thành tên tuổi cho ký giả huyền thoại Phạm Xuân Ẩn, người
chiến sĩ tình báo chiến lược cũng đã có những lần bị “tai nạn nghề
nghiệp” suýt làm ảnh hưởng đến chuyện lớn.
Theo lời kể của Phạm Xuân Ẩn, có một lần đại sứ Mỹ Federic
Nolting đến khánh thành một đường băng mới trong phi trường Tân
Sơn Nhất. Trước đó, Phạm Xuân Ẩn đã được một cô bạn người Mỹ
làm thư ký ở Tòa Đại sứ Mỹ cung cấp cho bài phát biểu đã được ngài
Đại sứ sửa tay hẳn hoi. Yên chí, Ẩn đưa tin trước để qua mặt các
đồng nghiệp. Không ngờ hôm đó, Nolting không đọc nguyên văn bài
phát biểu đã sửa và sáng hôm sau lại nghe tin đưa qua đài VOA khác
đi, ông ta nổi giận lệnh cho bộ phận an ninh ở Tòa Đại sứ Mỹ phải
tìm cho ra “lỗ rò rỉ tin nội bộ” này. Bọn tay chân của an ninh Mỹ tìm
tới điều tra rất dữ, nhưng Phạm Xuân Ẩn vẫn khôn khéo bảo vệ được
nguồn tin của mình.
Cũng theo lời kể của thiếu tướng anh hùng, một lần khác, có tin
đồn là Henry Cabot Lodge sắp qua thay Đại sứ Federic Nolting.
Phạm Xuân Ẩn liền đến một nhà hàng sang trọng “La Cigale” mà
các quan chức Mỹ và các nhà ngoại giao cũng như ký giả nước ngoài
hay đến để moi tin thẩm tra lời đồn đoán này. Ngồi được một lát thì
ký giả thấy ông bí thư trẻ của Đại sứ Nolting thường ngày ăn mặc rất
chỉnh tề, nhưng hôm ấy mặc áo chim cò dẫn một cô gái người Việt
đi ăn. Ẩn lên tiếng hỏi, được trả lời: Chỉ còn một tuần lễ nữa hắn ta
sẽ trở về nước, hôm nay đi xả hơi một chút. Với kinh nghiệm nghề
nghiệp Phạm Xuân Ẩn nhanh chóng về văn phòng đưa tin Đại sứ
Federic có thể được thay thế trong vòng một tuần lễ nữa. Tin này làm
Nolting bực tức, còn Ngô Đình Nhu thì đùng đùng nổi giận lệnh cho
Đặng Đức Khôi làm ở Phủ Tổng thống Diệm cho bác sĩ Trần Kim
Tuyến gọi Phạm Xuân Ẩn đến để điều tra. Biết là sẽ có chuyện rầy
rà với Nhu, Phạm Xuân Ẩn liền đến gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến để
592

60.3 Page 593

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
nhờ “bảo vệ nguồn tin”.
Để hoạt động tình báo giữa hang hùm miệng rắn suốt 23 năm mà
vẫn không lộ, thậm chí đến ngay sau những ngày đất nước vừa giải
phóng, chính quyền địa phương đã khẩn cấp báo với Ủy ban quân
quản là phải bắt ngay “tay CIA gộc còn nằm lại để thực hiện kế
hoạch hậu chiến”, đồng chí Nguyễn Văn Trung đã tuân thủ phương
pháp bảo mật hết sức chặt chẽ, đến mức phải chịu đựng sự hoài nghi,
phân biệt ửng xử của “đằng mình”. Câu hỏi Phạm Xuân Ẩn - Anh là
ai? Mãi đến khi Nhà nước công bố Quyết định phong danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho ông vào năm 1976, câu hỏi
ấy mới được trả lời minh bạch. Trân Văn Trung mất ngày 20/6/2006
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Anh hùng, Thiếu tướng Trần Văn Trung là nhà tình báo tài năng
và bản lĩnh nhưng lại vô cùng khiêm nhường, bình dị, có quan hệ
rộng mở với bạn bè, đồng nghiệp, có đời sống chan hòa trong gia
đình và cộng đồng. Thành tích và cuộc sống của ông đã trở thành
nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật,
theo đó đi vào lòng người. Cuốn sách Điệp viên hoàn hảo của Larry
Berman gây chấn động dư luận là một trong những tác phẩm nói về
Anh hùng Trần văn Trung.
593

60.4 Page 594

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Điểu Văn Cải
Liệt sĩ Điểu Văn Cải(1), dân tộc Chơ-ro, sinh
năm 1948, trong một gia đình bần nông tại ấp
Đức Thắng, xã Túc Trưng (nay là xã Phú Túc)
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Khi hy sinh,
Điểu Văn Cải là Xã đội trưởng xã Túc Trưng.
Điểu Văn Cải có biệt danh là “Kòn Trô” (du
kích trẻ con). Tuổi thơ của anh gắn liền vùng quê miền núi mà người
dân Chơ-ro luôn trong cảnh đói nghèo, sợ hãi với kinh hoàng của
tiếng súng, của những vụ khủng bố ác liệt, nỗi khổ nhục trong những
năm tháng quê hương bị xâm lược.
Năm 6 tuổi, anh đã theo cha lên nương trỉa bắp trồng đậu. Hàng
ngày, anh phải đi qua những lô cốt đen ngòm, trước cặp mắt dò xét
của bọn lính gác. Đêm về, phải chui vào trong căn nhà tôn nóng hầm
hập. Năm lên 8 tuổi, anh được cha giao cho việc chăn bò, ở đây anh
cùng đám bạn trong làng chơi trò đánh trận giả, chia thành 2 phe, phe
ta và phe giặc để cho quen sau này lớn lên ra trận tham gia chiến đấu
như những người anh, người chị. Trong lúc tham gia chơi, anh gặp
một người anh làm cách mạng giao cho nhiệm vụ mang một ống trúc
bên trong có đựng tài liệu quan trọng gửi cho một cán bộ đang hoạt
động trong làng. Với sự nhanh trí và lòng dũng cảm, anh đã vượt
qua được sự lục xét của bọn lính địa phương khi kiểm tra người về
ấp qua cổng làng, đó là nhiệm vụ đầu tiên trong đời mình được anh
hoàn thành xuất sắc.
Là người dân tộc ít người sống trong thời buổi chiến tranh, cuộc
sống khổ cực nên Điểu Cải không được đi học. Tuy nhiên, sau ngày
hoàn thành nhiệm vụ được giao, anh được các đồng chí cách mạng
đến nhà động viên đi học chữ.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985 và website Thư viện tỉnh Đồng Nai. (http://www.
thuviendongnai.gov.vn/ ).
594

60.5 Page 595

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Quá trình lớn lên, nhìn thấy cảnh đàn áp, phá hoại, dân lành và cha
mẹ mình bị bắt bớ nên anh đã xin vào đội du kích để trực tiếp cầm
súng đánh giặc.
Năm 1965 anh chính thức tham gia hoạt động cách mạng tại Túc
Trưng và là thành viên của đội du kích địa phương.
Ngày 27/2/1966, anh được kết nạp Đảng nhân dân Cách mạng
(Đảng Cộng sản Việt Nam). Trong thời kỳ bám đất, bám dân hoạt
động, Điểu Cải luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Là Xã đội trưởng
đội du kích Bình Hòa, anh cùng với đội du kích Túc Trưng tổ chức
nhiều trận đánh vào quân thù, gây cho chúng nhiều tổn thất. Tiêu
biểu là các trận đánh:
Trận thứ nhất diễn ra vào đầu năm 1968, địch phát hiện được căn
cứ của đội du kích nên nã pháo bắn phá để dọn đường cho bộ binh
Mỹ càn quét. Điểu Cải (lúc này đang là Xã đội trưởng) được giao
phụ trách cùng 6 du kích phối hợp với đơn vị bộ đội phục kích tại
khu rừng Suối Nho. Cuộc giao tranh quyết liệt từ sáng đến tối, lực
lượng của ta đã tiêu diệt được 30 tên lính Mỹ và lính quân đội Sài
Gòn, làm bị thương 20 tên khác.
Trận thứ hai diễn ra vào tháng 6/1968, một mình anh Cải với khẩu
AK đã bắn rơi một máy bay đi thám thính trên trục quốc lộ 20 làm
chết 2 lính Mỹ; tháng 11/1968 anh lại bắn rơi 1 máy bay khác tại cây
số 91, rơi xuống Gia Kiệm làm chết 5 tên Mỹ.
Trận thứ ba diễn ra tháng 9/1968, anh Điểu Cải tự xung phong
một mình (trong nhóm du kích 3 người) cài 3 trái mìn chống tăng khi
biết kế hoạch hành quân của địch qua khu vực này. Đúng như nhận
định, lần lượt 3 xe thiết giáp M113 hành quân qua khu vực trên trúng
mìn và nổ tung làm chết 24 lính Mỹ lính quân đội Sài Gòn.
Trận thứ tư, Điểu Cải cải trang, 3 lần trà trộn vào ấp chiến lược
Cây Xăng, dùng lựu đạn và súng AK tự tay tiêu diệt 24 tên lính…
Trận thứ năm vào tháng 6/1969, phát hiện địch dùng mìn mo để
cài trên đường lộ đá từ xã Túc Trưng đi vào Tam Bung nên anh đã
bí mật cho du kích cảnh giới, còn mình tự bò vào gỡ bỏ, cài hướng
595

60.6 Page 596

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
khác. Đến hôm sau, bọn Mỹ và tay sai đi kiểm tra, anh đã chập điện
cho nổ mìn, làm chết tại chỗ 12 tên, bị thương 7 tên, thu được 2 súng.
Sau đợt này, anh được chọn cử tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua
cấp miền. Tại Đại hội anh tiếp tục được bầu chọn vào phái đoàn
Những đứa con ưu tú của miền Nam ra thăm quê Bác Hồ và miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Nhưng ngày 22/10/1969, trong một trận đánh
với kẻ thù tại địa phương, anh Cải đã hy sinh anh dũng sau khi đã
hoàn thành nhiệm vụ.
Đồng chí Điểu Văn Cải tham gia cách mạng năm 17 tuổi, phấn
đấu từ chiến sĩ du kích trở thành xã đội trưởng. Qua 4 năm chiến đấu
(từ năm 1965 đến 1969), Điểu Cải đã tham gia 125 trận đánh lớn
nhỏ, bắn chết 142 tên Mỹ và tay sai, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng của
địch bằng súng K44, bắn cháy 3 xe thiết giáp M113. Ngoài ra, anh
còn tìm được bom đạn địch, tự chế tạo thành vũ khí để đánh lại địch;
phát động phong trào quần chúng xây cơ sở để nắm tin tức và giải
quyết lương thực cho đơn vị; động viên 22 thanh niên địa phương
tham gia lực lượng du kích chiến đấu.
Với những thành tích ấy, anh đã được thưởng 4 Huân chương
Chiến công Giải phóng (1 hạng Nhất, 1 hạng Nhì, 2 hạng Ba), 4 lần
là Chiến sĩ thi đua và nhiều bằng khen, giấy khen. Liệt sĩ Điểu Văn
Cải được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
theo Quyết định số 587/KT-CTN ngày 30/8/1995(2).
Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc của quê hương, tên anh
được chọn đặt cho một trường THPT ở huyện Định Quán. Năm
2014, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Định Quán cũng đã nhờ họa sĩ
Võ Tấn Thành tạo dựng lại chân dung anh theo lời kể và mô tả của
những người đã từng quen biết anh. Viết về anh hùng Điểu Văn Cải,
nhà văn Nguyễn Một có tác phẩm truyện ngắn Điểu Cải - Người anh
hùng của dân tộc Chơ-ro.
(2) Có tài liệu khác ghi: Ngày 6/11/1978.
596

60.7 Page 597

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Lê A
Lê A(1) là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
sinh năm 1953 trong một gia đình nông dân ở
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Khi hy sinh,
đồng chí là Xã đội trưởng đội du kích xã Bình
Lộc, huyện Xuân Lộc, tỉnh Bà Rịa-Long Khánh
(nay là tỉnh Đồng Nai).
Đầu năm 1963, nằm trong kế hoạch chống cộng, chính quyền Ngô
Đình Diệm đưa hàng vạn dân vào vùng Đức Linh (Bình Thuận). Gia
đình Lê A ở trong số đó. Đầu năm 1965, huyện Đức Linh được giải
phóng nhưng ngay cuối năm đó, địch mở cuộc hành quân tái chiếm,
gia đình Lê A lại dạt vào xã Bình Lộc (Long Khánh), là nơi có phong
trào phát triển mạnh trong kháng chiến chống Mỹ.
Vào Bình Lộc với hai bàn tay trắng, hầu hết các gia đình mới đến
đều phải đi làm thuê cho những chủ rẫy. Nhà nghèo, đông anh em,
nên ngay từ sớm Lê A phải đi làm phụ giúp cha mẹ nuôi các em.
Người còi cọc đen đúa, A không nề hà nơi đầu vườn cuối rẫy, làm
mọi việc chủ thuê mướn: Dọn cỏ, đốt cây, trĩa bắp, hái trái...
Thời gian sống trong vùng giải phóng tuy ngắn ngủi và dù còn
ít tuổi nhưng những ý nghĩ và tình cảm tốt đẹp về chính quyền giải
phóng đã thấm đậm vào anh. Anh còn thuộc những bài hát các anh
giải phóng dạy cho những buổi sinh hoạt thiếu nhi “Ai yêu Bác Hồ
Chí Minh hơn các em nhi đồng…”. Chỉ biết Bác Hồ qua tấm ảnh
trong cuốn sổ của anh chỉ huy đơn vị giải phóng quân trong ấp, Lê A
mong sẽ được gặp Bác, sẽ được đi học, không phải chạy bom chạy
đạn, làm thuê làm mướn nữa. Gia đình sẽ có cái ăn cái mặc, cha mẹ
thảnh thơi tuổi già. Anh nghĩ, “Nhưng muốn tới ngày đó thì phải
đánh đuổi Mỹ, đánh đổ tay sai. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị
anh hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985 và tư liệu do Thị xã Long Khánh cung cấp.
597

60.8 Page 598

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
của mình. Ai cũng đóng góp được phần mình cho cách mạng…”.
Các anh bộ đội ngày xưa trong vùng giải phóng Thuận Hải và anh
Ba Mai bây giờ khi gặp A đi làm cỏ thuê ở các rẫy cũng nói như vậy.
Năm 1969, khi tròn 16 tuổi, Lê A giác ngộ cách mạng và tham gia
vào đội du kích xã Bình Lộc. Lê A trở thành một trong những cơ sở
mật trẻ nhất của đội. Dò la hoạt động phòng bố của địch đóng trong
3 đồn ở xã, phát hiện những toán tuần tiễu của chúng, đem tin của
cán bộ xã đến các cơ sở, đến các tiểu đội du kích… là việc làm của
Lê A những năm tháng ấy.
Nơi đội du kích trú quân là một khu rừng thưa, pháo dập nham
nhở, cách xóm nhà dân chừng 3-4km đường chim bay. Những
chiếc võng mắc rải rác dưới những lùm cây rậm. Những buổi chiều,
luồng khói nghi ngút từ những thân cây bị đốt cháy đổ ngổn ngang
quyện vào màn sương chiều sầm sậm đem lại vẻ lãng mạn bi tráng.
Ủy ban, chi bộ xã cùng đóng trong cứ, “Quân đâu thì dân đấy”. Xã
còn có hàng chục cái cứ dự trữ. Thấy động là di chuyển rất lẹ. Bữa
ăn trưa của cán bộ, du kích thường là phần cơm của bà con đi làm
rẫy để dưới đáy giỏ hoặc đâu đó theo địa chỉ đã định. Gạo muối,
thuốc men và những vật dụng tiếp tế khác cũng vậy. Bọn địch trong
ấp kiểm soát rất gắt gao. Rẫy xa, trưa đồng bào không về mà làm
thông tầm đến chiều, bọn chúng cho phép mang cơm đi nhưng
không được mang quá tiêu chuẩn của mình, vì ngăn ngừa bà con
tiếp tế cho du kích.
Tháng 3/1969, trận đánh tiệm kem Ba Thế (tức quán Ngọc Hương,
nơi bọn sĩ quan Mỹ và tay sai ưa đến ăn chơi) là trận đầu tiên của
cuộc đời du kích của Lê A. Năm đó, Lê A mới 16 tuổi, người ốm
nhom, đen đúa nên trông anh chỉ bằng đứa trẻ 13-14. Để điều nghiên
kỹ càng, những ngày trước khi tác chiến, Lê A cùng với Tiết - 1 đồng
đội của anh - lên nhà người cậu của Tiết ở gần đó, lân la theo dõi tiệm
kem. Đường tấn công, đường rút lui đã trù liệu sẵn. 19 giờ, màn đêm
Xuân Lộc sánh đặc màu cà phê đen. Lê A và Tiết, mỗi người cầm
một ổ bánh mì vừa đi vừa ăn, men theo đường đi đến phía sau tiệm
598

60.9 Page 599

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
kem Ba Thế. Hai người đi đảo một vòng, chờ cho người dân ra khỏi
tiệm kem, Lê A và Tiết liệng trái lựu đạn M26 vô tiệm. Hai tiếng nổ
vang lên. Hơn 40 tên sĩ quan Mỹ và tay sai thương vong. Lê A và Tiết
chạy ra đến đầu đường thì bị cảnh sát bắt. 1 ngày 1 đêm bị giam trong
bót, bọn cảnh sát hết dụ dỗ đến dọa nạt, hai người nhất quyết không
nhận. Không có chứng cứ, bọn chúng phải thả hai anh.
Cuối năm 1970 sau khi đánh tiệm kem Ba Thế, thấy địch bắt đầu
để ý theo dõi, cấp ủy xã quyết định rút anh về bộ phận du kích mật.
Anh trở thành một đội viên xuất sắc của đội du kích, nổi bật về sự
mưu trí, dũng cảm. Đúng một năm sau (tháng 10/1971), Lê A được
đề bạt là Xã đội phó xã Bình Lộc. Khi ấy, anh vừa tròn 17 tuổi. Đội
du kích do Luyến làm xã đội trưởng và Lê A là xã đội phó của Bình
Lộc rất trẻ, lớn nhất là Luyến mới 20, còn lại khoảng 16, 17 tuổi; nhỏ
nhất là mấy em ở bộ phận mật 13, 14 tuổi. Ngày ít nhất đội đánh 4
trận. Ngày nhiều nhất đánh hàng chục trận. Bọn giặc ở Bình Lộc bị
phục kích liên miên, chúng rất sợ và căm thù đội du kích. Cái đầu
của đội trưởng, đội phó đội du kích được chúng treo giá đến hàng
chục ngàn đồng.
Khó mà kể hết những chiến công của Lê A và đội du kích xã Bình
Lộc. Cùng với Luyến, Một và một số đội viên du kích can trường
khác, Lê A đã tung hoành trong hang ổ địch, đánh nhiều trận táo bạo
khiến kẻ thù vừa tức tối, vừa run sợ khi nghe đến đội du kích. Những
năm ấy, thị xã Long Khánh, xã Bình Lộc, xã Bảo Vinh và cả huyện
Xuân Lộc, vòng trong vòng ngoài nhan nhản các sắc lính của Sài
Gòn, thế mà ở Bình Lộc - nơi chỉ cách thị xã Long Khánh chưa đầy
3km vẫn tồn tại một đội du kích hiên ngang hoạt động, làm kẻ thù
kinh hoàng, bạt vía.
Tháng 8/1971, anh Lê A chỉ huy một tổ du kích phục kích đánh
địch cách bót Bình Lộc khoảng 50m, dùng mìn định hướng phá hủy
1 xe địch, diệt tại chỗ 6 tên lính, làm bị thương 3 tên và thu 6 súng
các loại.
Sau khi xã đội trưởng Luyến hy sinh, tháng 4/1972, Lê A được
599

60.10 Page 600

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đề bạt Xã đội trưởng. Trong một trận đột kích vô ấp anh bị thương,
cánh tay trái dính đạn được chữa lành nhưng để lại dị tật. Lê A vẫn
xông pha chiến đấu. Trận thắng giòn giã và cũng là trận cuối cùng
trong cuộc đời Lê A là trận phục kích trước cửa đồn lớn sáng sớm
30/6/1972(2). Thời điểm này, đại đội bộ đội địa phương huyện vừa
được thành lập, muốn có một trận thắng mở đầu để lấy khí thế. Ban
Chỉ huy Huyện đội giao cho đồng chí Sáu Quân - Huyện đội phó
kiêm Đại đội trưởng bộ đội địa phương cùng với Ban Chỉ huy xã đội
Bình Lộc trực tiếp điều nghiên, lên kế hoạch tác chiến. Lực lượng
tham gia nòng cốt là đội du kích Bình Lộc. Bấy giờ ở Bình Lộc, bọn
lính Sài Gòn đóng đồn ở 3 vị trí, lớn nhất là đồn trung tâm với một
đại đội bảo an trấn giữ. Hàng ngày cứ đúng 5 giờ sáng, địch cho một
trung đội đi từ cổng đồn ra vườn xoài bà Bảy lùng sục và nghỉ tại
đó tới sẩm tối mới về. Kế hoạch lúc đầu tổ du kích định phục kích
ở vườn xoài, sau thấy nên chọn thời điểm chúng vừa từ đồn ra, mắt
nhắm mắt mở chủ quan không đề phòng là tấn công hiệu quả nhất;
vậy là, chọn điểm phục kích ở đoạn đầu của con đường từ đồn qua
trạm thông tin.
Ngay từ tối hôm trước, du kích và bộ đội địa phương chia thành
4 mũi đã ém sẵn vào các vị trí trên bờ đê. Mờ sáng hôm sau, khi cả
trung đội địch đã lọt hắn vào nơi phục kích, 2 trái ĐH ở mũi khóa đầu
do Xã đội trưởng Lê A phát hỏa. Tiếp theo là 2 trái mìn Claymo của
mũi khóa cuối của Xã đội phó Một chỉ huy cũng nổ chặn đường rút
về của địch. Bọn giặc dạt về bên đường. Đội du kích từ trong hàng
rào bùng nhùng bắn đứt dây kẽm nhào ra. AK, tiểu liên cực nhanh,
M79 thủ pháo nổ dồn dập. Đội du kích tấn công và làm chủ được đồn
Bình Lộc, diệt 14 tên, thu 6 súng(3). Bọn giặc đóng trong đồn cách
đó chỉ hơn trăm mét dồn cả vào trong lô cốt, không dám ra ứng cứu.
(2) Có tài liệu ghi là ngày 26/6/1972.
(3) Có tài liệu ghi là tiêu diệt 21 lính ngụy trong đó có tên trung đội phó, thu 17
súng các loại.
600

61 Pages 601-610

▲back to top


61.1 Page 601

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Từ Long Khánh, địch chi viện, tấn công giành lại đồn. Trước tình thế
hiểm nguy, Lê A tình nguyện trụ lại cản địch để đồng đội rút lui, bảo
toàn lực lượng. Khi lệnh rút được phát ra, xã đội phó Một nhào về
chỗ Lê A thì anh không còn nữa. Trên vầng trán thanh xuân của tuổi
19 một mảnh đạn cắm ngập còn rỉ máu. Anh là người hy sinh duy
nhất của trận đánh.
Lê A là một chiến sĩ cách mạng xuất sắc. Anh tham gia chiến đấu
trực tiếp và chỉ huy 113 trận đánh địch và lập nhiều thành tích xuất
sắc. Riêng trong chiến đấu, một mình Lê A đã tiêu diệt 143 tên địch,
trong đó có 46 sĩ quan và bọn ác ôn khét tiếng, 13 lính Mỹ, thu 7
súng, phá hủy 4 xe quân sự địch, gỡ 167 quả mìn và lựu đạn gài trong
đồn địch.
Đồng chí Lê A là biểu tượng của tinh thần chiến đấu và chiến đấu
với hiệu quả cao, hết lòng vì mọi người, đoàn kết khiêm tốn, được
đồng đội và nhân dân tin yêu, mến phục. Trong 2 năm, Lê A được
thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Ba, 3 Bằng khen, 11 Giấy
khen và 2 năm liền là Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh. Một thành tích đáng
tự hào trong những năm anh tham gia kháng chiến chống Mỹ trên
quê hương Bình Lộc, Long Khánh.
Liệt sĩ Lê A được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 587/KT-CTN ngày
30/8/1995(4).
(4) Có nhiều tài liệu khác ghi: Ngày 6/11/1978.
601

61.2 Page 602

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Hồ Thị Hương
Hồ Thị Hương(1) là đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam, sinh ngày 20/7/1954 tại xã Bình
An, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, trong một
gia đình nghèo đông em nên phải vất vả từ nhỏ.
Khi hy sinh, đồng chí là đội viên đội trinh sát
vũ trang thị xã Long Khánh, tỉnh Bà Rịa - Long
Khánh (nay thuộc tỉnh Đồng Nai).
Năm 1963, khi Hồ Thị Hương lên 9 tuổi, ông Hồ Ngâm - cha của
Hồ Thị Hương đưa gia đình vào Long Khánh lập nghiệp. Hàng ngày,
Hương một buổi đi học, còn một buổi giúp mẹ buôn gánh, bán bưng
kiếm sống. Do bệnh tật, mẹ Hương qua đời, cô thay mẹ phụ cha
nuôi gia đình. Khi chiến tranh đến hồi khốc liệt nhất, cả miền Nam
sục sôi khí thế đánh giặc. Lính Mỹ và lính Sài Gòn nhan nhản trên
đường phố Long Khánh. Những cuộc bắt bớ, giết người và gương
hy sinh của chiến sĩ, nhân dân ngày một khắc sâu trong lòng căm thù
giặc của cô gái trẻ. Đầu tháng 8/1970, tròn 16 tuổi, Hồ Thị Hương
xin tham gia hoạt động cách mạng, trở thành đội viên đội trinh sát
vũ trang thị xã Long Khánh. Bất kỳ nhiệm vụ nào, dù gian khổ, khó
khăn đến đâu, Hồ Thị Hương cũng hoàn thành xuất sắc.
Thị xã Long Khánh những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX
là tỉnh lỵ của tỉnh Long Khánh, nơi mà quân địch xem là cửa ngõ
có vị trí chiến lược phía Đông Bắc để bảo vệ các căn cứ quân sự
quan trọng ở vùng 3 - đô thị Biên Hòa và thủ phủ Sài Gòn. Tại Long
Khánh, ngoài những căn cứ quân sự, địch bố trí hệ thống đồn bót, các
sắc lính khá nhiều để bảo vệ cửa ngõ chiến lược và ngăn chặn sức
tiến công của quân cách mạng tại địa phương Bà Rịa - Long Khánh.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên),Đồng Nai những đơn vị
anh hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985, và tư liệu do Ban Tuyên giáo Thị ủy Long
Khánh cung cấp.
602

61.3 Page 603

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong bối cảnh, nhiều cơ sở cách mạng trong nội ô hầu như bị mất
trắng, cán bộ nội thành phải rút ra căn cứ, Hồ Thị Hương trong 2
năm đã xây dựng được 16 cơ sở cách mạng hoạt động hiệu quả và
phát triển được phong trào thanh niên phụ nữ, góp phần tích cực
trong việc diệt ác, phá kìm ở địa phương. Từ những cơ sở cách mạng
xây dựng và thực tế điều nghiên của mình, Hồ Thị Hương đã cung
cấp nhiều thông tin quan trọng cho đội trinh sát vũ trang thị xã Long
Khánh và tham gia các trận đánh địch táo bạo trong lòng thị xã khiến
chúng tổn thất nặng nề.
Năm 1973, Hương đã tổ chức 1 cuộc biểu tình lớn có trên 1.800
người tham gia đấu tranh quyết liệt với tên tỉnh trưởng Long Khánh
đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Cuối năm 1973, Hồ Thị Hương được điều về đội trinh sát vũ
trang. Với mật danh H25, Hồ Thị Hương đã dũng cảm cùng các đội
viên đặt mìn tiêu diệt hàng loạt sĩ quan, cố vấn và cảnh sát, lính địa
phương tại các nhà hàng, quán bar trong thị xã Long Khánh khiến
cho bọn giặc hoảng vía, kinh hồn.
Nổi bật là trận đánh vào quán ăn Hoàng Diệu ngày 13/12/1974,
nơi bọn thám báo sư đoàn 18 thường tụ tập. Quán Hoàng Diệu ở ngay
sát sư đoàn 18, lại được canh phòng rất nghiêm ngặt, nhưng nhiều
lần đi lại làm quen với chủ quán, Hương cùng đồng chí Thọ đến quán
ăn kem, Thọ giả vờ đùa cợt với bọn thám báo, còn Hương mưu trí
lẻn vào quán đặt mìn định giờ dưới gầm 1 bàn ăn. Sau 15 phút, mìn
nổ, diệt tại chỗ 32 tên và làm bị thương nhiều tên khác. Tiếng la thét,
khói lửa làm chấn động một góc trời thị xã Long Khánh.
Đầu năm 1975, Thị ủy chỉ thị tiếp tục đánh mạnh diệt ác, phá kìm.
Đội trinh sát vũ trang lại nghiên cứu cách đánh mới có hiệu quả mà
bảo toàn được lực lượng. Ngày 7/1/1975, được các đồng chí trong
đội trinh sát hỗ trợ, Hồ Thị Hương đem mìn đặt vào quán bar Ngọc
Hương, nơi bọn tình báo Phủ Đặc ủy, và cảnh sát thường tụ tập ăn
nhậu. Khi bọn địch đến chật quán bar thì mìn nổ, diệt tại chỗ tên
quận phó ác ôn và 40 tên cảnh sát đặc biệt, cảnh sát dã chiến.
603

61.4 Page 604

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đêm 29 rạng sáng 30/1/1975, Hương được phân công cùng nữ
đồng chí Thận đánh bọn cảnh sát đặc biệt tại quán ăn Song Nga, do
1 tên an ninh quân đội Sài Gòn kinh doanh. Sau khi kiểm tra vũ khí,
thực tập phương án tác chiến thận trọng, Hồ Thị Hương và đồng chí
Thận hành động. Trận đánh này diệt và làm bị thương một số tên
cảnh sát đặc biệt; Hồ Thị Hương anh hũng hy sinh.
Ngày 11/6/1978(2), Hồ Thị Hương được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày nay, trên Tượng đài chiến thắng Long Khánh nằm uy nghi
và sừng sững bên vệ đường quốc lộ 1 ngang qua trung tâm thị xã, có
hình tượng Anh hùng, liệt sĩ Hồ Thị Hương đang cầm súng, một cánh
tay chỉ hướng về Sài Gòn.
(2) Có tài liệu ghi ngày 12/8/1980.
604

61.5 Page 605

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trần Văn Nuôi
Trần Văn Nuôi(1), đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam, sinh năm 1938, quê xã Ngũ Lạc,
huyện Cầu Ngang, tỉnh Cửu Long (nay thuộc
tỉnh Trà Vinh). Khi hy sinh, anh là Đại đội phó
Đại đội, Tiểu đoàn 525, Công binh bộ đội địa
phương tỉnh Bà Rịa - Long Khánh.
Gia nhập quân đội từ năm 1962 đến trước lúc hy sinh, Trần Văn
Nuôi đã tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu trên 100 trận. Riêng
đồng chí đã diệt 293 tên địch (trong đó 127 tên Mỹ, Úc), bắn rơi 4
máy bay, bắn cháy 24 xe (có 9 xe tăng), đánh sập 4 lô cốt. Đặc biệt
là trận tháng 2/1968 cùng đơn vị diệt 30 tên, bắt 4 tên, thu súng, phá
hủy 7 xe tăng. Đồng chí còn tìm nhặt được 5 quả bom 1.500kg, 137
đầu đạn đại bác, gỡ 257 quả mìn của địch để chế tạo mìn, lựu đạn
trang bị cho bộ đội đánh giặc. Đồng chí đã anh dũng hy sinh trong
trận chiến đấu ngày 20/12/1970.
Đồng chí Trần Văn Nuôi luôn luôn nêu cao tinh thần tích cực tiến
công địch, chủ động, mưu trí sáng tạo, là tấm gương sáng về chấp
hành kỷ luật, đoàn kết thương yêu đồng đội hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ.
Đồng chí đã được tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công giải
phóng (1 hạng Nhất, 5 hạng Nhì, 1 hạng Ba) và nhiều Bằng khen,
Giấy khen. Ngày 6/11/1978 liệt sĩ Trần Văn Nuôi được truy tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
605

61.6 Page 606

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Dương Văn Thì
Dương Văn Thì(1) sinh năm 1936, là người
con thứ bảy trong một gia đình nông dân ở xã
Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Em trai thứ tám của ông là Dương Văn Thôi,
tham gia du kích tại xã nhà, là liệt sĩ.
Năm 1959, Dương Văn Thì vào du kích,
hoạt động bí mật ở địa phương. Trong bối cảnh chính quyền Diệm
đàn áp, khủng bố gắt gao người kháng chiến, Dương Văn Thì
vượt qua mọi kìm kẹp của bọn tề điệp do thám, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ, nắm tình hình địch, phục vụ cho cấp ủy địa phương,
lãnh đạo Đồng khởi 1960 làm thất bại cuộc chiến tranh cảnh sát
đơn phương của bè lũ Mỹ - Diệm. Trong những ngày bừng bừng
khí thế cách mạng ấy, đồng chí đã vận động nhân dân và 9 thanh
niên vào lực lượng vũ trang, đóng góp trên 500 giạ lúa và tiền bạc
để mua sắm dụng cụ cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc.
Để hạ uy thế của địch trong chủ trương diệt ác, phá kìm, Dương
Văn Thì đã diệt được 2 tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân.
Tháng 4/1966, Dương Văn Thì nhập ngũ, vào bộ đội địa
phương huyện Thủ Đức, chiến đấu trên mảnh đất ven đô hướng
Đông Bắc Sài Gòn. Cùng với đồng đội, đồng chí được giao
nhiệm vụ kiên trì bám trụ địa bàn, xây dựng lực lượng, cùng với
anh em du kích và các đơn vị tập trung của cấp trên phối hợp
chiến đấu giữ được vùng căn cứ Bưng 6 xã, nỗ lực duy trì thế áp
sát trung tâm chỉ huy chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ và tay
sai ở Sài Gòn, luôn chủ động tấn công theo yêu cầu chung của
Quân khu Sài Gòn - Gia Định.
(1) Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
606

61.7 Page 607

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trong những tình huống gay go, Dương Văn Thì luôn nêu cao
tinh thần sẵn sàng chiến đấu, mưu trí đối phó với kẻ thù. Một lần
trên đường công tác, bị máy bay địch phát hiện quần đảo bám sát,
đồng chí xử trí nhạy bén, kịp thời bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay
do thám, bảo vệ an toàn cho 2 đồng chí Huyện ủy Thủ Đức trước
khi các máy bay địch đến đánh phá.
Năm Mậu Thân 1968, trong 2 đợt tập kích chiến lược, Dương
Văn Thì lúc bấy giờ là trung đội trưởng bộ đội địa phương đã liên
tục đánh mìn chặn các xe địch trên xa lộ, chuẩn bị chiến trường,
nắm các mục tiêu phục vụ các đơn vị cấp trên tấn công địch.
Sau đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, địch phản kích dữ dội trên các
hướng ven đô. Thủ Đức là trọng điểm càn quét, bắn phá của Mỹ
và quân chủ lực của chế độ Sài Gòn; theo đó bọn bảo an, dân vệ
ra sức càn quét, tạo nhiều khó khăn cho việc bám trụ, hậu cần,
tiếp tế của ta. Trong tình hình đó, Dương Văn Thì có nhiều tháng
tạm đứt liên lạc với quân khu, vẫn động viên anh em nêu cao tinh
thần tự lực cánh sinh, vừa vận động nhân dân thu mua lương thực
giúp cho các đơn vị bạn nuôi quân trên 30 đồng chí, vừa tích cực
thu gom bom pháo lép tự tạo ra các loại mìn trái, lựu đạn, cạm
bẫy, vừa cùng với du kích chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ
địa hình, ổn định thế đóng quân, phát triển không ngừng các lõm
du kích bao vây cô lập và vô hiệu hóa các đồn chốt địch rải khắp
vùng Bưng 6 xã.
Tháng 4/1970, so sánh lực lượng giữa ta với địch, Dương Văn
Thì tổ chức một trận đánh giữa ban ngày, chỉ huy 1 tổ thọc sâu ra
xa lộ, lợi dụng tâm lý chủ quan của giặc, bắn cháy 1 xe bọc thép
M.113, tiêu diệt 5 tên Mỹ.
Khi địch điều xe ủi đất, ủi phá vườn tược, cây trái của đồng bào
để xây dựng khu thương phế binh Sài Gòn, Dương Văn Thì đã chỉ
huy 7 đồng chí bí mật luồn đánh bại Đại đội địch đóng sâu trong
ấp Tây Hòa thu được một máy thông tin PRC.10. Sau đó, đồng chí
dẫn 1 tổ mang mìn vào giữa đội hình địch từ giữa cụm đóng quân
607

61.8 Page 608

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
của chúng đánh ra. Địch bất ngờ, bị động. Ta diệt được12 tên và
làm bị thương nhiều tên khác; tuy không thu được súng nhưng
anh em rút lui an toàn, gieo cho địch nỗi khiếp sợ, hoang mang.
Tháng 4/1971, địch chủ trương đánh rộng ra, tiến hành một
cuộc càn về hướng Bưng 6 xã, rìa ấp phía Nam Phước Long.
Những trái mìn du kích cài đặt đều không nổ. Dương Văn Thì quả
cảm lên kiểm tra và thay kíp nổ. Cuối cùng trái nổ làm 13 lính địa
phương chết và bị thương.
Trong một trận đánh khác, đến giờ nổ súng thì bị lộ, tình huống
xấu đi và nguy hiểm, Dương Văn Thì cương quyết vẫn đánh và
đích thân mang lựu đạn xông lên trước, một mình tập kích để
động viên đơn vị vào trận. Trận ấy diệt 7 tên địch, thu được 1 quả
mìn claymore (định hướng).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Dương Văn Thì nhận
lệnh đưa Đại đội 2 bộ đội địa phương của huyện về nhập với công
binh, đặc công nước, đặc công bộ và D4, hình thành lực lượng
tấn công chiếm giữ cầu Sài Gòn. Suốt ngày 28/4/1975, địch phản
kích dữ dội với trực thăng, tàu FOM, bộ binh và thiết giáp. Trận
đánh diễn ra ác liệt, từ 3 giờ đến 19 giờ. Quân ta có 6 chiến sĩ hy
sinh và 8 chiến sĩ bị thương. Dương Văn Thì bị thương, hết đạn,
địch lại tăng viện 1 đại đội tập kích từ phía sau, tiến hành 9 đợt
tấn công, tình thế thật ngặt nghèo. Dương Văn Thì bình tĩnh, cho
gom hết đạn của địch, dùng lần lượt 5 khẩu đại liên thu được của
chúng, giữ vững trận địa, diệt 13 tên địch, bắt giữ 2 tù binh.
Suốt quá trình chiến đấu, Dương Văn Thì đã trực tiếp chỉ huy
và tham gia chiến đấu 125 trận, diệt và làm bị thương 258 tên,
trong đó có 7 tên ác ôn, bắn rơi và phá hủy 3 máy bay lên thẳng,
bắn cháy 5 xe quân sự (có 2 thiết giáp M113), bắn chìm 2 tàu
xuồng chiến đấu, thu 3 máy VTĐ (2PRC 25, 1PRC 10) và 45 súng
các loại. Riêng Dương Văn Thì đã diệt 63 tên địch (trong đó có 25
tên Mỹ, 2 tên ác ôn), đánh cháy 1 xe M113 và xe ủi đất địa hình.
Đồng chí Dương Văn Thì được trao Huân chương Kháng chiến
608

61.9 Page 609

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
hạng Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Ba; 2 Huân chương
Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ
Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy hiệu Hồ Chí Minh; Huy
hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh; 2 Huy chương Toàn thắng; 4 lần
đạt danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng cấp 2, cấp 3; Danh hiệu dũng
sĩ xung kích; 9 Bằng khen và 1 Giấy khen; Chiến sĩ thi đua Quân
khu Sài Gòn - Gia Định năm 1969.
Đồng chí Dương Văn Thì được Nhà nước phong tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vào ngày
6/11/1978. Khi được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam, đồng chí Thì là đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, cấp bậc Trung úy, Đại đội trưởng bộ đội địa
phương Thủ Đức. Ngày 27/8/1988, đồng chí từ trần, cấp bậc lúc
này là Thiếu tá Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
609

61.10 Page 610

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nguyễn Thanh Tùng
Nguyễn Thanh Tùng(1) sinh năm 1933, dân
tộc Kinh, quê ở xã Hảo Đước, huyện Châu
Thành, tỉnh Tây Ninh. Khi được tuyên dương
Anh hùng, đồng chí là đảng viên, Trung tá,
Chỉ huy phó Đoàn đặc công 429, Quân khu 7.
Năm 1948, mới 15 tuổi, đồng chí đã hăng
hái tham gia hoạt động cách mạng, sau đó đi bộ đội Sivôtha Lào
kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, đồng chí tập kết ra miền Bắc
và làm Tiểu đội trưởng Trinh sát của Tiểu đoàn 196 Sư đoàn 338.
Năm 1959, đồng chí chuyển về Tiểu đoàn Trinh sát 74, Cục 2 Bộ
Tổng tham mưu và được cử đi học Trường sĩ quan Lục quân.
Tháng 4/1961, Nguyễn Thanh Tùng nhận nhiệm vụ đi B (về
miền Nam), công tác tại Đại đội 21 của Trung đoàn 2, một trong
số rất ít đơn vị chủ lực đầu tiên của miền Nam trong kháng chiến
chống Mỹ. Tháng 10/1964 do yêu cầu của chiến trường, Phòng
Quân báo của Bộ Tham mưu Miền đóng ở R (căn cứ Trung ương
Cục) Tiểu đoàn Trinh sát số 46 được thành lập. Nguyễn Thanh
Tùng được giao làm chính trị viên phó, sau đó là Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 46. Đồng chí đã chỉ huy tiểu đoàn tham gia nhiều chiến
dịch lớn như: Chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài, Bàu Bàng, đánh
bại cuộc hành quân Junction City… đến cuộc tổng tiến công và
nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đơn vị do Nguyễn Thanh Tùng chỉ
huy luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trong chiến dịch Đồng Xoài, Nguyễn Thanh Tùng chỉ huy đơn
vị luồn sâu đánh bất ngờ tiêu diệt đồn tiền tiêu, là một trung tâm
truyền tin của địch trên đỉnh núi Bà Rá (cao 824m). Đồng thời,
tiêu diệt lực lượng của địch đến chi viện. Quan trọng nhất là quân
ta đã chiếm cao điểm Bà Rá và đặt đài quan sát, theo dõi điều tra
(1) Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai (https://www.dongnai.gov.vn)
610

62 Pages 611-620

▲back to top


62.1 Page 611

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
tình hình hoạt động quân sự của địch trong cuộc chiến tranh.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Tiểu
đoàn Trinh sát 46 đã tổ chức chiến đấu và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, bảo vệ an toàn cho sở chỉ huy và các đồng chí lãnh đạo
của Bộ Tư lệnh Miền ở tiền phương. Đơn vị có nhiệm vụ điều tra
khảo sát đặt Sở Chỉ huy tiền phương ở vùng ven Sài Gòn (Rạch
Tra, Gò Môn); truyền đạt mệnh lệnh của Tư lệnh tiền phương cho
chỉ huy các đơn vị thọc sâu vào hậu cứ của quân địch.
Năm 1969, Nguyễn Thanh Tùng được điều về làm Phó phòng
Đặc công Miền. Đồng Chí xây dựng kế hoạch và trực tiếp chỉ huy
bộ đội đặc công đánh thắng 2 trận liên tiếp vào căn cứ Tếch-ních,
Bình Long là Sở Chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 1 “Anh Cả đỏ”
và căn cứ đóng quân của Lữ đoàn 1 kỵ binh bay của Mỹ.
Trận thứ nhất vào đêm 12/5/1969, quân ta diệt 1.106 tên Mỹ,
phá hủy 21 máy bay, 105 xe quân sự, 20 khẩu pháo và quân ta
đánh nhồi vào đêm 6/6/1969 tiêu diệt trên 1 ngàn tên Mỹ, phá hủy
12 máy bay, san bằng 30 lô cốt, 50 hầm ngầm, đốt cháy 3 nhà kho
chứa quân trang, quân dụng.
Tháng 6/1972, Nguyễn Thanh Tùng được cấp trên giao nhiệm
vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn Đặc công 113 (Đoàn 113).
Đồng chí đã chỉ huy đơn vị đánh hai trận lớn, lập chiến công oanh
liệt làm chấn động trong nước và thế giới. Đêm 2/8/1972 đơn vị
đã bí mật, bất ngờ tập kích vào sân bay Biên Hòa phá hủy 74 máy
bay, 2 dàn ra đa, 1 kho bom, diệt hàng trăm tên lính Mỹ và tay sai.
Đặc biệt, ông đã nhận chỉ thị của đồng chí Trần Văn Trà, Tư lệnh
Quân giải phóng miền Nam: “Dù trường hợp nào cũng phải đánh
cho được Tổng kho Long Bình… Cắt được dạ dày của chúng thì
chúng phải ký hiệp định Paris”. Và đêm 13/8/1972, Trung đoàn
do ông chỉ huy đã tấn công Tổng kho Long Bình phá hủy 150
ngàn tấn bom đạn, gần 1 triệu lít xăng, diệt trên 100 tên địch.
Từ năm 1973-1996, Nguyễn Thanh Tùng được cấp trên giao
đảm nhận các trọng trách như: Phó Tư lệnh đoàn Đặc công 27, Sư
611

62.2 Page 612

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đoàn trưởng Sư đoàn 5, Sư đoàn 310 Quân khu 7…, được phong
hàm Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng
Nai, đại biểu Quốc hội khóa VIII và IX. Năm 1997, ông được
nghỉ hưu và sau đó nhiều năm làm Chủ tịch Hội Cựu chiến tỉnh
Đồng Nai.
Với các thành tích xuất sắc, dũng cảm, mưu trí lập được nhiều
chiến công oanh liệt trong chiến đấu và chỉ huy chiến đấu chống
Mỹ cứu nước, Nguyễn Thanh Tùng được tặng thưởng 5 Huân
chương Chiến công Giải phóng, 3 lần là Dũng sĩ. Ngày 6/11/1978,
Nguyễn Thanh Tùng được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân.
612

62.3 Page 613

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Lê Duy Chín
Lê Duy Chín(1), bí danh Thúy Sơn, đảng
viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng chí
sinh năm 1930, trong 1 gia đình nông dân tại
xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ
Tĩnh. Khi được tuyên dương anh hùng, đồng
chí là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 76 Công
binh bộ đội địa phương tỉnh Đồng Nai.
Tình nguyện gia nhập quân đội năm 1951, đồng chí đã anh
dũng trực tiếp chiến đấu chống thực dân Pháp trên nhiều vùng
chiến trường miền Bắc và chiến trường bạn. Trong 7 năm, đồng
chí đã tham gia đánh 16 trận lớn nhỏ, hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 1964 đến
năm 1975, đồng chí đã chiến đấu và chỉ huy chiến đấu trên chiến
trường Biên Hòa. Chỉ tính riêng năm 1969 và nửa năm 1970,
tiểu đoàn 76 công binh do đồng chí phụ trách đã diệt 2 ngàn tên
địch (có 1.400 tên Mỹ và chư hầu), phá 320 xe quân sự (có hơn
200 xe tăng, bọc thép), 18 đồn bót, 36 cầu, 9 ngàn mét đường
sắt, 540 mét đường bộ, bắn rơi 2 máy bay. Hơn 20 năm, đồng
chí đã tham gia chiến đấu nhiều trận, trong đó có các trận đánh
lớn như: cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm
1968, chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí
Minh năm 1975.
Gần 30 năm tại ngũ, đồng chí Lê Duy Chín luôn luôn là tấm
gương sáng về phẩm chất đạo đức cách mạng, kiên định vững
vàng trong mọi gian khổ, cam go, hăng hái chiến đấu và chiến
đấu cực kỳ dũng cảm, lập được nhiều thành tích xuất sắc.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
613

62.4 Page 614

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tính đến năm 1975, đồng chí đã được tặng thưởng 4 Huân
chương Chiến công Giải phóng (1 hạng Nhất, 3 hạng Ba), 3 Huân
chương Chiến sĩ vẻ vang, 1 danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng, 1
danh hiệu Dũng sĩ diệt xe cơ giới, 10 lần đạt danh hiệu là Chiến
sĩ thi đua, 9 Bằng, Giấy khen. Ngày 6/11/1978, đồng chí Lê Duy
Chín được vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân do Nhà nước phong tặng.
614

62.5 Page 615

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Văn Huệ
Nguyễn Văn Huệ(1), tự Bông, là đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh năm 1935 trong
một gia đình nông dân tại ấp Bình Đa, xã Tam
Hiệp, nay là phường An Bình, TP. Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai. Khi tuyên dương, đồng chí là
Thượng úy, Trưởng ban hậu cần thuộc Bộ Chỉ
huy quân sự tỉnh Đồng Nai.
Nhập ngũ từ năm 1960, đồng chí Nguyễn Văn Huệ, liên tục
hoạt động trong lĩnh vực quân giới, làm nhiệm vụ sản xuất mìn,
lựu đạn, thủ pháo phục vụ cho các lực lượng vũ trang chiến đấu.
Tính đến năm 1975, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều chức vụ khác
nhau, như: Trưởng ban Hóa chất Xưởng Quân giới quân khu
miền Đông, Xưởng trưởng Xưởng Quân giới Quân khu 5, Xưởng
trưởng Xưởng Quân giới phòng hậu cần Quân khu 7. Đồng chí
đã cùng đồng đội lấy được 12 tấn thuốc nổ, 120 tấn kim loại từ
vũ khí địch để sản xuất mìn, lựu đạn, vận chuyển 300 tấn vũ khí
phục vụ chiến trường.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở cương vị công tác nào, đồng chí
vẫn luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, chủ động,
vượt mọi khó khăn gian khổ để lao động sáng tạo với tinh thần
anh dũng quên mình. Đồng chí đã khắc phục mọi thiếu thốn về
nguyên vật liệu cũng như điều kiện làm việc, tìm kiếm tận dụng
những phương tiện của địch để chế tạo vũ khí, nghiên cứu tìm tòi
chế tạo thành công nhiều vũ khí tự tạo đáp ứng tốt nhu cầu chiến
trường. Đồng chí còn đào tạo nhiều cán bộ quân giới, ổn định đời
sống, bảo vệ xưởng an toàn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
được giao.
(1) Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh hùng,
Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
615

62.6 Page 616

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng
Ba, 3 Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, 10 danh hiệu Dũng sĩ, 7
danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 15 Bằng, Giấy khen. Ngày 6/11/1978
đồng chí Nguyễn Văn Huệ vinh dự được phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
616

62.7 Page 617

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trương Văn Hải
Trương Văn Hải(1) sinh năm 1947, dân tộc
kinh, quê ở xã tân Vạn, thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai. Đồng chí nhập ngũ vào tháng
2/1966. Khi hy sinh đồng chí là thiếu úy đội
trưởng K17, biệt động Sài Gòn, đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1966 đến năm 1974, Trương Văn Hải hoạt động ở vùng
ven Sài Gòn. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội, đồng chí
đã tham gia 30 trận đánh, chỉ huy đơn vị diệt nhiều địch, có trận
diệt gọn 1 trung đội. Riêng đồng chí diệt 65 tên, phá hủy nhiều
phương tiện chiến tranh của địch.
Trận đánh ngày 1/1/1973, Trương Văn Hải chỉ huy 1 tổ đánh
vào trận địa pháo Liên Trường, phá hủy 2 khẩu pháo, 1 hầm đạn,
1 dàn ra-đa, diệt 40 tên (có 1 thiếu tá quân đội Sài Gòn).
Trận đánh ngày 10/1/1973, Trương Văn Hải chỉ huy đội đánh
vào trận địa pháo Liên Trường lần thứ 2, diệt 60 tên địch.
Tháng 8/1973, địch cho 1 tiểu đoàn vào xã Tăng Nhơn Phú,
tuy địch đông gấp nhiều lần nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh chỉ
huy đội dùng súng bộ binh bố trí trận địa mìn đánh địch, diệt
hơn 30 tên, bẻ gãy cuộc càn, hạn chế được nhiều thiệt hại cho
xã. Ngày 18/3/1974, Trương Văn Hải đã hy sinh trong khi đang
làm nhiệm vụ.
Đồng chí có phẩm chất tốt, hết lòng yêu thương đồng đội. Có
lần tuy bản thân bị thương, vết thương bị nhiễm trùng nhưng đồng
chí vẫn cố dìu một đồng chí bị thương khác về tới đơn vị.
(1) Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tập 5, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, năm 1995.
617

62.8 Page 618

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trương Văn Hải đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến
công Giải phóng hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công giải
phóng hạng Nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.
Ngày 6/11/2978, Trương Văn Hải được Chủ tịch Nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân.
618

62.9 Page 619

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trần Đối
Trần Đối (còn có tên là Khoa), sinh năm 1933,
tại xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam. Khi được tuyên dương anh hùng, đồng
chí là đảng viên, cấp bậc trung tá, chức vụ trung
đoàn trưởng eBB24, sư đoàn BB5, Quân khu 7.
Từ tháng 9/1963 đến cuối cuộc kháng chiến
chống Mỹ, đồng chí chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên và Nam
Bộ. Đồng chí đã trải qua các cương vị từ đại đội trưởng đến trung
đoàn trưởng. Trong chiến dịch sông Sa Thầy (hè năm 1967) Trần Đối
chỉ huy hai tiểu đoàn, diệt và làm bị thương gần 1.000 tên địch chủ
yếu là lính Mỹ. Tháng 11/1967, trong chiến dịch Đắk Tô, Trần Đối là
trung đoàn phó trực tiếp chỉ huy một tiểu đoàn đã diệt gọn hai đại đội
Mỹ và góp phần cùng đơn vị bạn diệt hai tiểu đoàn Mỹ khác.
Xuân 1968, là Trung đoàn trưởng, Trần Đối chỉ huy đơn vị vận
động tấn công kết hợp chốt, diệt gọn hai đại đội Mỹ trong các trận
đánh Chư Tăng Kra, Ngọc Kam Liệt. Tháng 4/1972, vừa mới vào
chiến trường Nam Bộ, Trần Đối đã chỉ huy đơn vị tấn công tiêu diệt
căn cứ địch ở Xa Mát và cùng đơn vị bạn vây ép buộc địch ở căn cứ
Thiện Ngôn phải tháo chạy. Đơn vị do Trần Đối chỉ huy đã góp phần
diệt chiến đoàn 49 Sài Gòn, chọc thủng tuyến phòng thủ của địch ở
phía Tây Sài Gòn. Hai năm 1973 và 1974, Trần Đối chỉ huy trung
đoàn đánh địch ở Mỹ Tho diệt 4 tiểu đoàn địch, san bằng hơn 30 đồn
bốt, mở ra vùng giải phóng Bắc Cái Bè, sau đó Trần Đối đưa trung
đoàn thọc sâu đánh địch ở Gò Công gây cho địch nhiều tổn thất.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công Giải
phóng hạng Ba, 1 huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì, 2
Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba.
Ngày 6/11/1978 Trần Đối được Nhà nước tặng danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
619

62.10 Page 620

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trịnh Xuân Thiều
Trịnh Xuân Thiều(1) sinh năm 1947, dân tộc
Kinh, quê ở xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh
Thanh Hóa. Khi được tuyên dương anh hùng,
đồng chí là đảng viên, chính trị viên đại đội đặc
công, Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 316,
Quân khu 7.
Năm 1967, Trịnh Xuân Thiều 21 tuổi, đang học Trường trung cấp
thủy lợi Thanh Hóa sơ tán ở huyện Thiệu Hóa. Ty Thủy lợi Thanh
Hóa còn thiếu 6 chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự. Qua tuyển chọn, Trịnh
Xuân Thiều và các chiến sĩ mới trúng tuyển gia nhập Sư đoàn 338.
Đơn vị hành quân đêm từ Thiệu Hóa lên Ngọc Lạc. Vai đeo chiếc ba
lô ngụy trang cành lá chất mấy viên gạch, lần đầu tiên họ hiểu thế
nào là rèn luyện chuẩn bị đi chiến đấu. Tại đây, mọi người học điều
lệnh trong 1 tuần rồi nhằm thẳng phương Nam vào chiến trường.
Hành trang của người lính hồi đó rất đơn giản: Chiếc mũ cối, 2 bộ
kaki Tô Châu, tăng, võng, 1 khẩu AK và vài băng đạn, 1 ruột tượng
gạo... Ngày nghỉ, đêm đi để tránh máy bay địch trên đoạn đầu đường
mòn Hồ Chí Minh huyền thoại, Thiều và đồng đội lần lượt đặt chân
qua các địa danh nổi tiếng: Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), phà Long
Đại (Quảng Bình), Bến Hải... Càng đi về phía Nam, mức độ ác liệt
của chiến tranh càng phơi bày rõ. Không xóm làng nào nguyên vẹn,
không cánh đồng nào không có vết tích hố đạn bom. Nhiều địa điểm
hố bom chồng lên nhau ken dày như mắt sàng. Máy bay địch đêm
ngày vần vũ quần đảo khống chế hòng làm chủ bầu trời.
Từ tháng 3/1968 đến cuối năm 1974, Trịnh Xuân Thiều làm
nhiệm vụ đánh tàu địch ở Trị Thiên, Nam Bộ và giúp cách mạng
Campuchia. Đồng chí đã chỉ huy đánh chìm 7 tàu, có 1 tàu trọng tải
8.000 tấn.
(1) Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai (https://www.dongnai.gov.vn).
620

63 Pages 621-630

▲back to top


63.1 Page 621

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đêm 18/5/1972, Trịnh Xuân Thiều và 1 đồng chí nữa đánh tàu tại
cảng Phnôm Pênh (Campuchia). Ở đây địch phòng thủ rất chặt chẽ,
tuần tiễu, bắn pháo sáng liên tục, anh vẫn động viên đồng đội cùng
mình tìm cách lọt vào cảng, lựa thế đặt khối thuốc nổ đánh chìm 2
tàu địch (1 tàu vận tải, 1 tàu tuần tiễu).
Ngày 4/8/1972, Trịnh Xuân Thiều đánh cảng Phnôm Pênh lần
thứ hai, tuy gặp khó khăn hơn lần trước vì địch tăng cường phòng
thủ, phải bơi xa 20km mới tới mục tiêu. Anh đã đưa cả tổ vào
đúng như phương án, riêng Thiều cùng 1 đồng đội đánh chìm
chiếc tàu 8.000 tấn.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến năm 1978,
Trịnh Xuân Thiều là Chính trị viên đại đội 11, anh đã góp phần
tích cực xây dựng đơn vị làm tốt công tác truy quét tàn binh
địch, bảo vệ trị an, tuyên truyền vận động quần chúng chấp hành
nghiêm túc các chính sách, kỷ luật được nhân dân tín nhiệm.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải
phóng hạng Nhì, 2 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng
Ba, nhiều Bằng và Giấy khen. Ngày 6/11/1978, Trịnh Xuân Thiều
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
621

63.2 Page 622

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tống Viết Dương
Tống Viết Dương(1), đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam, dân tộc Kinh, sinh năm 1924
trong một gia đình nông dân, quê xã Phong Lạc,
huyện Trần Văn Thời, tỉnh Minh Hải (nay thuộc
tỉnh Cà Mau). Khi được tặng danh hiệu anh hùng
đồng chí là Trung tá tham mưu trưởng Bộ Tư
lệnh Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí nguyên là Đại tá phó chỉ huy
trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai.
Tham gia cách mạng từ năm 1954, đồng chí liên tục công tác
trong các đơn vị tình báo, đặc công, biệt động trên các chiến trường
Nam Bộ và chiến trường bạn.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí đã chỉ huy đơn
vị đánh nhiều trận thu được nhiều thắng lợi to lớn. Tiêu biểu là:
Trận đánh sân bay và trường huấn luyện cảnh sát, bình định Vũng
Tàu từ ngày 13/6/1966, đồng chí Tống Viết Dương cùng đồng đội đã
phá hủy 37 chiếc máy bay, diệt 500 tên địch;
Ở trận đánh sân bay Bô-chen-tông (Campuchia) vào đêm
21/1/1971, đồng chí Tống Viết Dương cùng đồng đội đã phá hủy
toàn bộ sân bay với 105 máy bay các loại, 10 ngàn tấn bom đạn và
diệt trên 1 ngàn tên địch; trận đánh phá toàn bộ căn cứ Cầu Nước.
Trong đêm 25/4/1974, đồng chí cùng đồng đội diệt 200 tên.
Trận đánh hậu cứ trung đoàn 13 sư 18 của địch vào đêm 21/8/1974,
đồng chí cùng đồng đội diệt trên 500 tên và phá hủy 8 xe tăng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tống Viết Dương Phó tư lệnh Sư
đoàn 27 đặc công, chỉ huy đơn vị đánh chiếm đầu cầu xa lộ Đồng Nai
rồi cùng với đoàn xe tăng Lữ đoàn 203 thiết giáp tiến thẳng vào dinh
Độc Lập lúc 11 giờ 25 phút ngày 30/4/1975.
(1) Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1985.
622

63.3 Page 623

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Nam Bộ, lúc bí mật, lúc
công khai, đồng chí luôn luôn là tấm gương sáng ngời về tinh thần
tích cực tiến công địch, gan dạ, mưu trí, dũng cảm, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành và hoàn thành cực kỳ xuất sắc.
Với thành tích trên, Tống Viết Dương đã được tặng thưởng 1 Huân
chương Chiến công hạng Ba, 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì,
3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, 1 Huy hiệu thành đồng Tổ quốc,
2 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ và phi cơ, 3 danh hiệu Dũng sĩ quyết
thắng và nhiều Bằng, Giấy khen. Ngày 6/11/1978, đồng chí vinh dự
đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
623

63.4 Page 624

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lương Văn Xuân
Lương Văn Xuân(1) sinh năm 1959, dân tộc
Thái, quê ở xã Lũng Cao, huyện Bá Thước,
tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 4/1978. Khi
được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là
Thượng sĩ, Trung đội phó bộ binh Đại đội 7,
Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 209, Sư đoàn 7 Bộ
binh, Quân đoàn 4, đoàn viên Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Từ tháng 8/1978 đến tháng 8/1980, Lương Văn Xuân chiến
đấu ở chiến trường Tây Nam, tham gia đánh 30 trận. Trong chiến
đấu đồng chí nêu cao tinh thần tích cực tấn công địch, dũng cảm,
ngoan cường, có tính quyết đoán trong những tình huống khó
khăn. Bản thân đồng chí diệt 27 tên địch, bắt 3 tên, thu 14 súng
các loại, đặc biệt, trận đánh ngày 20/11/1978, đơn vị Lương Văn
Xuân bị địch bắn mạnh không phát triển tấn công được, một số
bị thương vong. Trước tình huống khó khăn, đồng chí chủ động
đề xuất ý kiến vượt qua cánh đồng trống chiếm địa hình có lợi
để kiềm chế và thu hút hỏa lực địch, tạo thuận lợi cho đơn vị
xung phong diệt gọn địch. Riêng đồng chí diệt 3 tên, thu 2 súng.
Trận đánh ngày 20/2/1979, khi đánh địch ở khu vực Đông
- Nam thị xã Kông Pông Xpư, đơn vị bị thương vong một số;
Lương Văn Xuân đã bình tĩnh dìu thương binh xuống chiến hào
rồi xông ra chặn địch. Đồng chí linh hoạt luôn di chuyển vị trí,
sử dụng nhiều lọại vũ khí diệt địch. Hành động dũng cảm của
Lương Văn Xuân đã cổ vũ mọi người hăng hái chiến đấu. Kết
quả trận này ta đã bẻ gãy 5 đợt tấn công của địch giữ vững trận
địa, bảo vệ an toàn thương binh. Riêng đồng chí đã diệt 14 tên,
thu 4 súng.
(1) Nguồn: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tập 6, Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, 1996.
624

63.5 Page 625

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng chí Lương Văn Xuân luôn khiêm tốn, gương mẫu chấp
hành chính sách, kỷ luật chiến trường tốt, được đồng đội tin yêu.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng
Nhì, 6 Bằng và Giấy khen, 2 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ
giữ nước.
Ngày 28/8/1981, Lương Văn Xuân được Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
625

63.6 Page 626

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Bùi Văn Bình
Bùi Văn Bình(1) sinh năm 1955, dân tộc Kinh,
quê ở xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh
Sông Bé (cũ) nay là tỉnh Bình Dương, nhập ngũ
tháng 10/1978. Khi hy sinh, đồng chí là Thiếu
úy, Trợ lý tham mưu Tiểu đoàn 14 Bộ binh, Đoàn
7701, Mặt trận 779, Quân khu 7, đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Năm 1965, khi Bùi Văn Bình 10 tuổi, cha là Bùi Văn Thôn mất
trong đêm đánh sân bay Biên Hòa. Là con út trong gia đình, Bùi
Văn Bình càng được cả nhà thương yêu nhiều hơn. Những năm đầu
đi học, Bùi Văn Bình học Trường Tiểu học Nguyễn Du, đến năm
gần giải phóng, cậu học sinh Trường Trung học Ngô Quyền - Bùi
Văn Bình đã cao lớn và mạnh mẽ như một chàng trai độ tuổi bẻ gãy
sừng trâu.
Về bối cảnh chính trị từ giữa năm 1976, giới cầm quyền PonPot
Iengsari ngày càng bộc lộ rõ bản chất hiếu sát, thực hiện chính sách
chia rẽ, gây hận thù dân tộc và đối đầu với Việt Nam, chúng ngang
nhiên tiến hành các hoạt động xâm lấn chủ quyền Việt Nam ở biên
giới Tây Nam, ngay sau khi miền Nam vừa hoàn toàn giải phóng.
Quân Ponpot đã đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích thăm dò, dọn
đường cho cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới bằng cuộc đột nhập
vào kho vũ khí của ta ở Tây Ninh, tăng cường trinh sát, tuần tiễu dọc
theo biên giới, đồng thời cho lực lượng nhỏ (cấp tiểu đội, trung đội)
bí mật thọc sâu vào đất ta để gài mìn, lùa bắt trộm trâu bò, giết hại
cán bộ, chiến sĩ ta.
Thậm chí quân Ponpot còn đào và dời cả cột mốc biên giới tại
các khu vực Gò Dầu, Cà Tum, rồi đưa dân Campuchia sang xâm
(1) Nguồn: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tập 6, nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, 1996.
626

63.7 Page 627

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
canh tại các vùng Mộc Bài, Khuốt, Vát Xa, Tà Nốt, Tà Đạt (thuộc
tỉnh Tây Ninh). Nghiêm trọng hơn trong hai ngày 25/2 và 3/3/1976,
quân Ponpot bất ngờ tấn công vào đồn biên phòng số 7 và số 8 ở
Buphtrăng. Số vụ xâm lấn ngày càng tăng trên địa bàn Quân khu 7,
năm 1975 diễn ra 18 vụ, năm 1976 tăng gấp 9 lần, 171 vụ trên 82
điểm vào sâu trong lãnh thổ của ta đối diện với quân khu 203, còn
gọi là Quân khu Đông của Pônpốt!
Năm 1978, Bùi Văn Bình 23 tuổi, là cán bộ Đoàn Thanh niên,
đối tượng Đảng ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai. Tháng
10/1978, anh nhập ngũ và được đơn vị bổ sung cho Quân khu 7,
tham gia thành lập Tiểu đoàn 14, bộ đội địa phương Tây Ninh. Trong
đơn vị có nhiều chiến sĩ mang tên Bình nên đồng đội yêu quý Bùi
Văn Bình gọi anh là Bình méo, Bình lực sĩ... Anh to con, rất khỏe,
nhưng rất hiền, vui tính đến độ hài hước.
Bùi Văn Bình về mặt trận 779, đúng vào dịp Quân khu 7 đã
tham gia 15 tháng chiến đấu lập chiến công rực rỡ (25/9/1977 đến
20/12/1978) đẩy lui quân Ponpot-Iengsari sang bên kia bên giới hàng
chục km, giải phóng hoàn toàn 3 huyện Tà Nung, Mimết, Snoul thuộc
Kông Pông Chàm mở ra vùng giải phóng đầu tiên của “Mặt trận giải
phóng dân tộc cứu nước Campuchia” rộng 1.300km2 làm điểm tựa
cho bước phát triển mới của cách mạng Campuchia.
6 năm làm lính tình nguyện giúp bạn Campuchia, từ năm 1979
đến ngày 25/1/1984 (lúc hy sinh), Bùi Văn Bình đã nêu cao tinh thần
dũng cảm, mưu trí, dù khó khăn ác liệt thế nào cũng kiên quyết hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Đồng chí đã tham gia 5 chiến dịch, trận đánh nào
đồng chí cũng đi trước điều tra nắm tình hình địch, đề xuất phương
án tác chiến tốt, giúp cho tiểu đoàn hạ quyết tâm, giành thắng lợi. Có
nhiều trận đánh tiêu biểu đáng nhớ của Bùi Văn Bình.
Trận đánh ở Sông Pốt diễn ra vào tháng 5/1980, Bùi Văn Bình
cùng 15 chiến sĩ tham gia truy đuổi và tiêu diệt một trung đội lính
Pônpốt. Trang bị của tiểu đội Bùi Văn Bình gồm 1B40, 1M79, 15
khẩu AK, và lựu đạn. Trận này đã bắn hết 2 thùng đạn M.79 (120
627

63.8 Page 628

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
quả), 4 quả B. 40. Khi đến đúng tọa độ ven sông báo có địch, lại
chẳng có ai. Nóng quá, lính phóng xuống sông. Từ những bụi cây
trên bờ, AK nổ ran tằng tằng hai phát một điểm xạ. Đồng chí Bùi
Văn Bình hô đồng đội nằm xuống, ra lệnh đánh vỗ mặt, thọc sườn
xé tan đội hình địch. Truy đuổi bọn chúng khoảng 2km, trời sụp tối
rất nhanh, Bùi Văn Bình cho anh em làm công sự qua đêm mai đánh
tiếp. Sáng hôm sau theo hướng cũ sục tìm, 9 giờ quân ta gặp địch,
cài răng lược đánh nhau đến 13 giờ. Khí thế tiến công hăng hái, lính
ta nổ súng như bắp rang. Bùi Văn Bình cùng đồng đội phá kho gạo,
muối rồi rút theo bờ sông về căn cứ. Ở trận này, ta diệt 20 tên và làm
60 tên bị thương.
Trận đánh ngày 25/1/1984 tại Phum Bông Sang Khao (giáp ranh
huyện Ba Rài và San Túc), đồng chí Bùi Văn Bình khi đó là trợ lý
tham mưu tác chiến của tiểu đoàn 14. Anh nhận nhiệm vụ chỉ huy
một bộ phận gồm 12 chiến sĩ Việt Nam và 5 dân quân Campuchia đi
về nhánh sông bên phải để bám sát địch.
Không phát hiện ra địch, Bùi Văn Bình cho bộ đội đi tiếp 500
mét nữa thì phát hiện dấu vết 6 người rẽ lên bờ vô rừng. Anh nhanh
chóng ra lệnh tấn công, ngay phát đầu tiên gặp địch các anh đã tiêu
diệt 3 tên. Bọn địch cụm lại, bắn rất mạnh bằng nhiều loại vũ khí.
Lúc này một nửa đơn vị đã hy sinh và bị thương. Lợi dụng các gò
mối, các cây đổ, Bùi Văn Bình và đồng đội tiếp cận địch, bằng điểm
xạ chính xác Bùi Văn Bình tiêu diệt thêm 3 tên nữa. Khi đồng chí
Bùi Văn Bình quay lại, đạn đại liên, B40 của địch đã đốt cháy phát
quang cả vạt rừng. Phía sau anh chỉ còn duy nhất chiến sĩ bộ đàm bị
thương nặng đang lết theo anh. Bùi Văn Bình ném liên tiếp 3 trái lựu
đạn, tiến lên sau gò mối, bình tĩnh sử dụng 3 loại vũ khí: B40, AK,
RPD và ném lựu đạn về phía hàng trăm tên địch đang xông tới. Biết
chỉ còn một mình Bùi Văn Bình, bọn địch đợi anh bắn hết đạn và kêu
gọi đầu hàng bằng tiếng Việt. Bùi Văn Bình đứng dậy khỏi gò mối,
với khẩu AK đã giương lê, rồi từng bước tiến về phía địch.
Nhiều tên lính Pônpốt buông vũ khí bỏ chạy, chỉ có tên chỉ huy
628

63.9 Page 629

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
mặc áo bà ba đen khăn rằn quấn trên đầu, đoạt khẩu AK bắn chết
những tên lính bỏ chạy, rồi hướng nòng súng về phía đồng chí Bùi
Văn Bình nhắm mắt sợ hãi nghéo cò cho nổ những viên đạn còn lại...
Đồng chí Bùi Văn Bình khựng người lại, lưỡi lê khẩu AK cắm
xuống đất, một tay anh nắm băng đạn đã hết đạn, tay kia đặt trong
vòng cò súng, lồng ngực đẫm máu tựa trên báng súng. Bọn địch bỏ
chạy. Những đồng đội đi tìm anh vẫn thấy anh đứng vững trong tư
thế ấy…
Gương chiến đấu dũng cảm của đồng chí có tác dụng động viên
cổ vũ mọi người hăng hái noi theo. Nhân dân 18 xã của huyện Ba
Rài (nơi đồng chí Bình công tác), vô cùng thương tiếc, đã làm lễ cầu
phước (theo phong tục tập quán địa phương) để tưởng nhớ đến người
chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã anh dũng hy sinh vì nghĩa vụ
quốc tế.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng
Ba. Ngày 29/8/1985, Bùi Văn Bình được Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
629

63.10 Page 630

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nguyễn Trọng Tâm
Nguyễn Trọng Tâm(1) sinh năm 1927, dân tộc
Kinh, quê ở xã Yên Quang, huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định. Khi được tuyên dương anh hùng,
đồng chí là đảng viên, cán bộ nghỉ hưu.
Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn
Trọng Tâm là Trưởng Ban binh vận thành phố
Nam Định. Năm 1954, đồng chí được điều vào Nam hoạt động
hợp pháp, làm công tác binh vận. Đồng chí góp công lớn trong
công tác địch vận, vận động Tiểu đoàn 3 (Bình Xuyên) do Võ
Văn Môn chỉ huy ở Rừng Sác, từng bước đưa lực lượng này về
Mã Đà Chiến khu Đ, chuyển hóa thành lực lượng cách mạng.
Tháng 10/1955, Nguyễn Trọng Tâm bị địch bắt, chúng tra tấn
rất dã man, nhưng Nguyễn Trọng Tâm vẫn giữ vững ý chí cách
mạng.
Trong tù, đồng chí đã móc nối với bên ngoài để hoạt động, đã
tổ chức, chỉ huy anh em cướp súng, phá nhà tù Tân Hiệp - Biên
Hòa giành thắng lợi, giải thoát được gần 500 cán bộ ta bị địch
bắt. Nguyễn Trọng Tâm đã góp phần xây dựng lực lượng vũ
trang đầu tiên của miền Đông Nam Bộ. Đồng chí đã chiến đấu
và chỉ huy chiến đấu nhiều trận, diệt được nhiều địch, thu nhiều
vũ khí đạn dược và phương tiện chiến tranh của chúng.
Trận đánh đầu tiên của đơn vị tiêu diệt chi khu Hiếu Lâm
đã diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, thu gần 100 súng,
trên 20 máy bộ đàm và hơn 10 tấn đạn. Đồng chí còn xây dựng
cơ sở đầu tiên cho phong trào binh vận miền Đông Nam Bộ và
chỉ đạo thí điểm thành công phá ấp chiến lược bằng 3 mũi giáp
công. Công tác binh vận đã phục vụ cho việc xây dựng cơ sở ém
(1) Nguồn: Thư viện tỉnh Đồng Nai, mục Danh nhân anh hùng trên đất Đồng Nai
(http://www.thuviendongnai.gov.vn).
630

64 Pages 631-640

▲back to top


64.1 Page 631

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
lực lượng vũ trang xuống vùng sâu hoạt động sau Tết Mậu Thân
năm 1968. Tháng 3/1974, Nguyễn Trọng Tâm là Ủy viên Kinh
tài phụ trách thương nghiệp khu miền Đông.
Ngày 30/8/1995, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm được Nhà nước
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
631

64.2 Page 632

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Nguyễn Văn Bình
Nguyễn Văn Bình(1) sinh năm 1959, dân tộc
Kinh, quê ở xã Hòa Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai, nhập ngũ tháng 9/1978. Khi được
tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Trung úy,
Đại đội trưởng Đại đội 4 bộ binh, tiểu đoàn 3
đoàn 7701, mặt trận 779, Quân khu 7, đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1979 đến năm 1985, Nguyễn Văn Bình liên tục hoạt động
trên đất Campuchia. Đồng chí đã chiến đấu 35 trận, chỉ huy đơn vị
diệt hàng trăm tên địch. Riêng đồng chí diệt 10 tên, bắt 3 tên, thu 15
súng.
Tháng 5/1981, được tin báo 150 tên địch đi cướp thóc gạo của
nhân dân, Nguyễn Văn Bình chỉ huy tiểu đội nhanh chóng vận động
5 km bao vây bám sát địch. Thấy lực lượng ta ít, địch vừa chống trả
quyết liệt vừa rút vào rừng. Đồng chí dẫn đầu đơn vị đuổi đánh, diệt
được một số tên. Riêng Nguyễn Văn Bình bắt 1 tên, thu 1 súng AK
và 100 viên đạn. Bọn địch hoảng sợ bỏ chạy. Trận đánh thắng, đã bảo
vệ an toàn tính mạng tài sản của nhân dân.
Tháng 7/1981, Nguyễn Văn Bình chỉ huy 1 tổ 5 người phục kích
địch. Mặc dù đã 6 ngày dưới trời mưa không thấy địch, một số anh
em đề nghị cho rút, đồng chí đã động viên mọi người kiên trì chờ đợi.
Đến ngày thứ 7, 15 tên địch chia làm 2 tốp, tốp đi đầu 5 tên, tốp sau
10 tên mò vào trận địa phục kích của Nguyễn Văn Bình. Đồng chí
chờ địch đến gần mới nổ súng. Thấy lực lượng ta ít, chúng bắn lại dữ
dội Nguyễn Văn Bình chỉ huy đơn vị kiên quyết đánh trả. Trận này
tổ Nguyễn Văn Bình diệt 4 tên, số địch còn lại bỏ chạy.
(1) Nguồn: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tập 6, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, 1996,
632

64.3 Page 633

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Sau đó ít ngày, Nguyễn Văn Bình chỉ huy 10 người phối hợp với
15 bộ đội Campuchia bao vây truy quét địch, 10 ngày liền trên hành
lang biên giới Campuchia - Thái Lan. Đồng chí luôn dẫn đầu đơn vị
lùng sục địch ở từng gốc cây, bụi rậm, diệt 5 tên, bắn bị thương nhiều
tên, thu 5 súng và một số đồ dùng quân sự. Riêng đồng chí diệt 2 tên,
thu 2 súng, địch hoảng sợ bỏ chạy về bên kia biên giới Thái Lan.
Trong những lần chiến đấu phối hợp với bạn, đồng chí luôn nhận
khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn. Chấp hành tốt kỷ luật
chiến trường, được bạn tin yêu.
Nguyễn Văn Bình được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công.
Ngày 29/8/1985, Nguyễn Văn Bình được Chủ tịch Nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
633

64.4 Page 634

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trần Công An
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền
Đông Nam Bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng
là một chiến trường rất khốc liệt. Trên mảnh
đất thân yêu này, cuộc đọ sức của quân dân ta
với quân thù xâm lược diễn ra ác liệt từng ngày.
Trong cuộc chiến đấu vệ quốc gian khổ ấy, đã
xuất hiện nhiều anh hùng sẵn sàng xả thân để bảo vệ quê hương,
trong đó có Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Công An,
một trong những tấm gương tiêu biểu của vùng đất Đồng Nai, người
đã để lại nhiều tình cảm đặc biệt trong lòng cán bộ và nhân dân địa
phương, đặc biệt ông là tấm gương chiến đấu dũng cảm và sáng tạo
ra cách đánh đặc công đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ.
Trần Công An(1), tên khai sinh là Trần Văn Kìa, sinh năm 1920,
ông còn có bí danh khác là Hai Cà. Ông là Đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam, thoát ly theo cách mạng từ những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, người con ưu tú của vùng đất Tân Uyên
(tỉnh Bình Dương), luôn nung nấu trong lòng một ý chí giải phóng
quê hương.
Vốn là một nông dân cày ruộng, nhà nghèo, căm thù bọn giặc
Pháp chiếm đóng, khủng bố cướp tài sản của nhân dân, chúng đã bắn
gãy tay mẹ của đồng chí, lòng căm thù lại bốc cao, nhất định phải tìm
cách diệt địch để trả thù cho gia đình, bà con thôn xóm. Trần Công
An đã tập luyện đêm ngày, nghiên cứu cách đánh thế nào mà quật
ngã được bọn Tây to béo hơn mình.
Ngày 24/12/1946, tên giặc Pháp từ đồn Tân Ba xuống Thạnh Hội,
Trần Công An bí mật, bất ngờ luồn ra phía sau ôm giò tên Pháp quật
ngã xuống đất, dùng 2 sợi dây thừng trói thúc ké và trói cổ tên giặc,
lấy khẩu súng trường với 200 viên đạn giao cho khu quân sự huyện
(1) Nguồn: Những anh hùng đất Đồng Nai, tập 1, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2000.
634

64.5 Page 635

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Tân Uyên. Hai Cà khởi đầu đánh Tây bằng việc tay không bắt địch,
lấy súng địch, thắng lợi làm cho chàng trai trẻ thêm tự tin, hăng hái.
Những tháng đầu năm 1948(2), sau thất bại trong chiến dịch Việt
Bắc), thực dân Pháp chuyển hướng chiến lược từ “đánh nhanh thắng
nhanh” sang đánh lâu dài và tiến hành bình định ráo riết ở Nam bộ.
Ngoài âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh và dùng người Việt
giết người Việt”, Pháp đẩy mạnh càn quét vùng căn cứ kháng chiến.
Lúc đó, Pháp xây dựng một loạt hệ thống phòng thủ bằng tháp canh,
đồn bót dọc theo các lộ giao thông nhằm chia cắt, khống chế liên lạc
đường bộ của ta; dùng tháp canh như một biện pháp để lấn sâu vào
các vùng căn cứ kháng chiến. Thực dân Pháp thường gọi đó là chiến
thuật De la Tour.
Hệ thống tháp canh gây cho kháng chiến rất nhiều khó khăn, đặc
biệt về giao liên, vận chuyển. Tường tháp dày, chiến trường miền
Đông Nam Bộ bấy giờ lại chưa có vũ khí phá tường tháp từ xa,
việc tiếp cận vào tháp cũng khó khăn bởi xung quanh tháp địch phát
trống địa hình, khi phát hiện có sự biến thì dùng lựu đạn ném từ trên
xuống. Bộ Chỉ huy Khu 7 xác định phá tháp canh, đánh bại chiến
thuật De la Tour là nhiệm vụ quan trọng của lực lượng vũ trang miền
Đông. Nhiệm vụ này được triển khai trong toàn lực lượng vũ trang
các tỉnh thuộc Khu 7 trong đó có Tỉnh đội Biên Hòa. Mặc dù vô cùng
khó khăn, phức tạp như vậy, nhưng khi nhận lệnh của Ban Chỉ huy
Huyện đội Tân Uyên giao phải đánh thắng tháp canh cầu Bà Kiên để
mở đầu cho các trận đánh tháp canh tiếp theo, Trần Công An nhận
nhiệm vụ chỉ huy một tổ đánh bót cầu Bà Kiên trên lộ 16 - ấp Mỹ
Chánh, xã Phước Thành (nay là xã Thạnh Phước, huyện Tân Uyên).
Với quyết tâm cao, đội du kích huyện Tân Uyên được nhân dân
giúp đỡ đã tiến hành nghiên cứu tháp canh cầu Bà Kiên, nghiên cứu
quy luật giờ giấc canh gác của bọn lính, cách bố phòng và địa hình
chung quanh. Đội du kích đã xây dựng mô hình tháp canh trong căn
(2) Nguồn: Báo Bình Dương điện tử, 19/3/2013.
635

64.6 Page 636

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cứ, tiến hành thực tập nhiều lần cách đột nhập vào tường tháp mà
địch không hay biết. Về cách đánh, lãnh đạo đội du kích đề ra: Sau
khi bí mật tiếp cận tường tháp canh, áp chiếc thang cây (mượn được
từ người dân) leo lên rồi dùng lựu đạn ném vào các lỗ châu mai ở cả
3 tầng để diệt địch.
Đêm 18, rạng sáng 19/3/1948, lần đầu tiên dân quân du kích
huyện Tân Uyên do Trần Công An chỉ huy cùng các du kích Trần
Văn Nguyên, Hồ Văn Lung đã bí mật tiến công tháp canh cầu Bà
Kiên. Nhờ luyện tập thuần thục nên việc tiếp cận tháp hoàn toàn bí
mật, địch trong tháp không phát hiện được gì. Cả 3 đồng chí leo lên
thang ném lựu đạn vào trong tháp, diệt 10 tên địch, thu 8 súng. Với
chiến thắng tháp canh cầu Bà Kiên, qua rèn luyện và thử thách, ngày
7/5/1948 Trần Công An vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trận đánh đầu tiên vào tháp canh cầu Bà Kiên là một bước ngoặt
cho cách đánh mới trên chiến trường lúc bấy giờ. Nó thể hiện tinh
thần ý chí quyết tâm của du kích Tân Uyên, những chiến sĩ xuất
thân từ nhân dân; thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa quân và dân địa
phương trong việc chuẩn bị trận đánh. Điều này cho thấy cách đánh
đặc công là sự sáng tạo trong chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trận
đánh này mở đầu cho một cách đánh mới trên chiến trường, đó là
cách đánh bí mật tiếp cận muc tiêu, phát triển thành cách đánh đặc
công bộ, đặc công thủy, đặc công biệt động, một cách đánh độc đáo
của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngày 19/3/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập
binh chủng đặc công. Chiến thắng cầu Bà Kiên ngày 19/3 được chọn
làm ngày truyền thống của binh chủng đặc công. Bác Hồ tặng cho
Binh chủng Đặc công 4 câu:
“Đặc biệt tinh nhuệ
Anh dũng tuyệt vời
Mưu trí táo bạo
Đánh hiểm thắng lớn”
636

64.7 Page 637

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Năm 1950, Trần Công An cùng với các đồng chí trong Đại đội
Nguyễn Văn Nghĩa đánh diệt tháp canh cầu Bà Kiên lần thứ 2 và chỉ
huy đánh sập tháp canh Vàm Vá. Sau đó, cách đánh đặc công được
phổ biến, vận dụng, chiến thắng khắp nơi liên tục bay về trên mọi
miền Tổ quốc.
Từ năm 1954 đến năm 1961, đồng chí Trần Công An tập kết ra
Bắc, từ Tiểu đoàn trưởng đồng chí lên làm Trung đoàn trưởng 656,
đưa trung đoàn về huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình tổ chức đơn vị sản
xuất. Trở về miền Nam năm 1960, đồng chí Trần Công An được Bộ
Tư lệnh Miền quyết định sang làm đoàn phó U50 - đơn vị chịu trách
nhiệm sản xuất đảm bảo hậu cần, bảo vệ Chiến khu A (Chiến khu
Đ mở rộng). Trong ba năm, đoàn hậu cần U50 đã cung cấp đầy đủ
lương thực thực phầm bảo đảm cho chiến dịch Đồng Xoài và Bình
Giã toàn thắng.
Đồng chí Trần Công An đã lãnh đạo U50 phát triển mạnh mẽ và
nhanh chóng, quân số từ 500 chỉ trong năm đã lên đến 5 ngàn cán
bộ, chiến sĩ. Diện tích U50 quản lý tổ chức sản xuất gần 1.500 hécta
ở các khu vực Mã Đà, suối Dạt, Bà Téc, Bàu Đá. Các đơn vị thuộc
U50 vươn đến các chốt Đồng Xoài, Bù Đăng, Tà Lài, bờ Sông Bé,
Bù Khiêu, từ Bù Na đi Bù Chắp nối liền với căn cứ Tây Nguyên.
Đường thứ 2 từ Mã Đà đi qua suối dạt đi Long An, mở rộng lên Tây
Ninh và nối tiếp Tây Nam Bộ.
Đồng chí Trần Công An đã lãnh đạo U50 tổ chức sản xuất, bảo vệ
và quản lý khối lượng lương thực lớn, thường xuyên có trong kho dự
trữ trên 1 ngàn tấn gạo, phát động phong trào thi đua trong cán bộ
chiến sĩ trồng 1 ngàn hécta mì. Đồng chí cùng với Ban Chỉ huy đoàn
tổ chức chỉ huy 1 mô hình liên hoàn giữa rừng, có đủ các bộ phận
quân nhu, quân y, quân khí, vận tải… Đoàn đã dựa vào sức dân là
chính, thường xuyên tổ chức thu mua gạo từ vùng yếu lên bờ sông,
huy động trên 100 chiếc xe bò chở lương thực thực phẩm phục vụ bộ
đội, có 1 đoàn ô tô tải mạnh, số người vận chuyển hàng bằng xe thồ
và các phương tiện thô sơ khác đông đúc, liên tục. Ngoài phục vụ
637

64.8 Page 638

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
cho các trung đoàn chủ lực miền, còn đảm bảo cung cấp lương thực
hơn 20 ngàn người, trên 7 tuyến trạm giao liên trong năm. Đoàn
hậu cần U50 đã cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm bảo đảm cho
chiến dịch Đồng Xoài, Bình Giã toàn thắng.
U50 là đơn vị hậu cần có quy mô lớn, sản xuất chiến đấu ở căn cứ
rộng lớn, địch đánh phá liên tục, dội bom đêm ngày, phục kích liên
miên, nhưng không làm cán bộ chiến sĩ lùi bước.
Tại hội nghị sơ kết công tác cục hậu cần miền tháng 12/1964, các
đồng chí Trần Văn Trà và Lê Đức Anh chỉ thị cho các đơn vị trong
toàn miền học tập và làm theo đồng chí Trần Công An, tên “Hai Cà”
(do đồng đội đặt) - cũng xuất hiện từ đó mà 5000 chiến sĩ hậu cần
U50 tỏa ra khắp các nẻo đường chiến đấu và công tác, cũng rất vinh
dự mang tên thân mật, ấm cúng là “Bộ đội Hai Cà”.
Tháng 2/1965, Bộ Tư lệnh Miền điều động ông Hai Cà (lúc ấy là
Đoàn trưởng Đoàn U50, đơn vị hậu cần Miền) về Biên Hòa giữ chức
Thị đội trưởng Biên Hòa.
Địch bị thất bại nặng nề trong Chiến tranh đặc biệt, đầu tháng
5/1965, Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Vào đêm 23 rạng
24/8/1965, đồng chí Hai Cà và đồng chí Trần Mân đã chỉ huy đánh
đòn phủ đầu lần thứ 2 vào sân bay quân sự ở Biên Hòa.
Tháng 9/1965, Trung ương Cục quyết định sáp nhập Biên Hòa và
huyện Vĩnh Cửu thành một đơn vị chiến trường ngang cấp tỉnh gọi
là U1 và chỉ định đồng chí Hai Cà làm Tỉnh đội trưởng U1. Ngay sau
khi được thành lập, Đặc công U1 chọn tổ chức trận đánh mở màn vào
Tổng kho Long Bình.
Đêm 22/6/1966, ông Hai Cà đã trực tiếp chỉ huy 2 đại đội đặc
công, tự cải tiến và sử dụng mìn hẹn giờ đánh vào khu kho liên hợp
Long Bình, phá hủy trên 40 ngàn tấn bom đạn của Mỹ và chế độ Sài
Gòn, khiến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc rúng động.
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12/1966, Đại đội 2
Đặc công U1 đã 3 lần liên tiếp đánh vào khu kho Long Bình, phá hủy
hàng trăm ngàn tấn bom đạn của chúng.
638

64.9 Page 639

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Bước vào chuẩn bị chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968, Tỉnh
đội trưởng U1, Phó tư lệnh mặt trận Trần Công An và đồng chí Phan
Văn Trang nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa U1, phó chính ủy mặt
trận cùng với các đồng chí khác hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
đã đưa 250 thương binh ra khỏi vòng vây của địch.
Vào năm 1968, người con trai trưởng của ông Hai Cà là Đại đội
trưởng Trần Văn Cao nhận lệnh ông đột nhập vào sân bay Biên Hòa
điều nghiên tổ chức trận đánh bị vướng mìn, mất hết một chân. Chưa
hết nỗi đau vì thương tật của con, ông Hai Cà nhận tiếp hung tin
người con trai thứ mới 16 tuổi Trần Văn Mum đã hy sinh mất xác
khi được giao nhiệm vụ đưa tổ thông tin điện đài đến sở chỉ huy tiền
phương, lúc trở về bị lọt vào ổ phục kích của địch. Trong thời gian
này, mẹ của ông ở quê nhà mỏi mòn trông ngóng tin con, cháu đã qua
đời. Nhưng vượt qua những nỗi đau mất mát ấy, ông vẫn hoàn thành
xuất sắc trọng trách của một người lính, người chỉ huy nơi chiến trận.
Nói về công trạng chỉ huy chiến đấu của ông trong những chiến
công oanh liệt ở sân bay Biên Hòa, khu tổng kho Long Bình, chống
càn và bám dân xây dựng cơ sở thì rất nhiều. Chỉ riêng trận tháng
9/1972, đơn vị ông phối hợp với lực lượng bạn bí mật vượt 20 lớp
rào các loại, đột nhập tận đường băng và trong tích tắc cho nổ tung
127 máy bay các loại. Với những chiến công xuất sắc đó, đơn vị
đã được tặng thưởng nhiều huân chương quân công và chiến công
các hạng.
Tháng 6/1972, đồng chí Hai Cà là cố vấn trung đoàn đặc công 113
đứng chân hoạt động ở Biên Hòa. Năm 1973,
Những năm tiếp theo, đồng chí Trần Công An được phân công trở
lại hậu cần với cương vị tư lệnh đoàn 600, chỉ huy góp phần bảo đảm
cho toàn chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng trên mảnh đất miền Đông
đầy hào khí Đồng Nai này.
Đồng chí Trần Công An được Chủ tịch Nước tuyên dương Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 23/10/1996.
Cuộc đời của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Công
639

64.10 Page 640

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
An vô cùng phong phú, một con người cách mạng luôn đặt lợi ích
của đất nước, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, đạp bằng mọi khó
khăn, gian khổ để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng và tổ
chức giao cho. Sau màu áo vinh quang bao năm cống hiến sức người,
tuổi đời cho sự nghiệp cách mạng, ở thời bình ông cũng không ngơi
nghỉ, tận tình lo nhà ở cho hàng chục người có công với nước, hàng
chục căn nhà tình nghĩa và hàng trăm đồng chí có việc làm ổn định.
Ông có một cuộc sống giản dị, đơn sơ, có nghĩa có tình, luôn luôn
quan tâm giúp đỡ bà con làng xóm.
Ông mất năm 2008, sau đó UBND tỉnh Đồng Nai đã quyết định
đặt tên đường tại nơi ông sinh sống Khu A42, phường Trung Dũng,
thành phố Biên Hòa, Đồng Nai là đường Trần Công An nhằm để
tưởng nhớ người anh hùng của quê hương Đồng Nai, một thời vinh
quang, một thời lẫy lừng. Việc đặt con đường mang tên ông cũng
đồng thời góp phần thiết thực trong công tác giáo dục truyền thống
đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam để tưởng nhớ về một
tấm gương dũng cảm, sáng tạo trong lối đánh, mưu trí trong đấu
tranh, sống hết mình vì đồng chí, đồng đội.
640

65 Pages 641-650

▲back to top


65.1 Page 641

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Huỳnh Tấn Minh
Đại tá Huỳnh Tấn Minh(1), tên thường gọi
là Tư Minh, dân tộc Kinh, sinh năm 1940, quê
quán xã Long Xuyên, huyện Bến Cát, tỉnh
Bình Dương. Sinh ra và lớn lên trên quê hương
có truyền thống cách mạng, từ nhỏ, đồng chí
đã tham gia làm chiến sĩ giao liên của huyện
đội Bến Cát, chuyên làm nhiệm vụ dẫn đường cho lực lượng vũ
trang hành quân trong rừng, nắm tình hình hoạt động của địch,
vận động nhân dân tham gia phong trào cách mạng ở địa phương.
Năm 1960, đồng chí chỉ huy một tổ trinh sát diệt 2 tên trưởng
ấp ác ôn khét tiếng ở xã Long Xuyên. Với thành tích chiến đấu
này, Huỳnh Tấn Minh vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng
Cộng sản Việt Nam và được đề bạt làm chính trị viên liên đội du
kích xã.
Năm 1961, đồng chí cùng 2 du kích xã bắn rơi 1 máy bay HU-
1B của Mỹ, diệt 11 tên dịch. Năm 1963, đồng chí được đề bạt làm
Phó ban an ninh huyện Bến Cát, phụ trách 5 xã. Đây là vùng căn
cứ cách mạng, nơi đứng chân của các đơn vị chủ lực nên địch tập
trung đánh phá ác liệt bằng phi cơ, phi pháo và liên tục tổ chức
những cuộc càn quét với quy mô lớn. Đồng chí đã chỉ đạo ban an
ninh các xã phát hiện, xử lý hàng chục tên mật báo viên của địch.
Cuối năm 1963, Tư Minh cùng đoàn công tác cơ sở phối hợp
với tiểu đoàn 800 quân chủ lực miền Đông chiến đấu, tiêu diệt
2 đơn vị bảo an huyện Long Thành, 1 liên đội dân vệ địch gồm
100 tên, giúp các địa phương củng cố lực lượng nòng cốt của
cách mạng.
(1) Nguồn: Những đơn vị, cá nhân anh hùng công an nhân dân, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, Hà Nội, 2002.
641

65.2 Page 642

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Năm 1965, Huỳnh Tấn Minh được phân công làm Phó Ban
An ninh thị xã Biên Hòa, sau đó là Ủy viên Ban An ninh tỉnh
Biên Hòa kiêm Trưởng ban An ninh thị xã Biên Hòa. Dù thời kỳ
này, tình hình an ninh chính trị thị xã Biên Hòa hết sức phức tạp,
nhưng đồng chí đã chỉ huy lực lượng an ninh bám trụ kiên cường,
bảo vệ an toàn khu căn cứ và một số vùng giải phóng. Do nắm
chắc địa bàn, đồng chí đã đề xuất cấp trên đặt một số súng cối 81,
kết hợp với lực lượng của miền, pháo kích về phía sân bay Biên
Hòa. Kết quả đã phá hủy được 68 máy bay, 8 giàn hỏa tiễn, 22 bồn
xăng dầu, 40 xe ô tô và diệt gần 300 tên địch.
Năm 1967, đồng chí đã chỉ huy lực lượng an ninh vũ trang
chiến đấu diệt 15 tên địch, chặn đứng 1 đội quân Thái Lan đang
tổ chức càn quét tại xã Phước Hòa.
Cuối năm 1970, trong lúc cơ quan Thị ủy đang họp thì một đơn
vị bộ binh Mỹ bao vây, tấn công. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị phối
hợp với lực lượng biệt động chiến đấu diệt 150 tên địch, bắn cháy
2 trực thăng. Lực lượng ta không bị tổn thất, đặc biệt đã bảo vệ an
toàn cuộc họp Thị ủy.
Sau giải phóng, trong khoảng thời gian từ năm 1978-1979, trên
cương vị là Phó công an thành phố Biên Hòa, phụ trách an ninh,
đồng chí đã chỉ đạo các lực lượng trinh sát mở nhiều đợt tấn công
chính trị bắt đưa đi cải tạo 1 ngàn tên đang lẩn trốn, cải tạo tại
chỗ 2.300 tên khác. Đặc biệt đã khám phá 7 tổ chức phản động,
thu nhiều bạc giả và 10 lạng vàng, chặn đứng được ý đồ phá hoại
của chúng.
Trong 2 năm 1979-1980, mặc dù bị xử oan trong vụ án Mười
Vân, đồng chí vẫn kiên trì đấu tranh cho lẽ phải, viết 9 bản kiến
nghị Trung ương và các cấp kêu oan, yêu cầu làm rõ. Cuối cùng,
lẽ phải đã chiến thắng, đồng chí được phục hồi quyền lợi.
Năm 1989, đồng chí được đề bạt làm Trưởng Công an thành
phố Biên Hòa, trong tình hình nội bộ có nhiều phức tạp, đơn vị
nhiều năm yếu kém, một số cán bộ bi quan xin chuyển đi nơi
642

65.3 Page 643

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
khác. Trước tình hình trên, bằng sự kiên trì, đi sâu nghiên cứu tìm
hiểu nguyên nhân yếu kém và tìm biện pháp khắc phục, củng cố
tổ chức, quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ, xử lý kỷ luật và
động viên, khen thưởng kịp thời… đồng chí Huỳnh Tấn Minh dần
dần đã đưa đơn vị đi vào nề nếp, hoàn thành vượt bậc, từ nhiều
năm yếu kém đến luôn dẫn đầu toàn tỉnh về thành tích các mặt
chiến đấu công tác và xây dựng đơn vị.
Về an ninh chính trị, đồng chí đã tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền thành phố hàng năm ra chỉ thị, nghị quyết về công tác an
ninh, tổ chức đối thoại với các tổ chức tôn giáo, từng bước làm
chuyển biến cơ bản tình hình an ninh trật tự trong vùng tôn giáo.
Vì vậy, từ chỗ vốn là một trong những địa bàn phức tạp nhất các
tỉnh phía Nam về tôn giáo, dần dần tình hình thành phố Biên Hòa
khá ổn định. Công tác an ninh đã phục vụ đắc lực và có hiệu quả
cho khu công nghiệp Biên Hòa phát triển.
Trên cương vị là thường trực Ban Chỉ đạo thực hiện Chỉ thị
135/HĐBT, đồng chí đã có nhiều đóng góp trong việc huy động
sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành tham gia giữ gìn trật
tự an toàn xã hội. Công an thành phố đã liên tục mở các cuộc tấn
công truy quét tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, hầu hết các địa bàn
trọng điểm này đã trở thành địa bàn ổn định và an toàn.
Là một cán bộ chỉ huy có tính quyết đoán cao, có tác phong
sâu sát, cụ thể nên nhiều vụ án hình sự phức tạp, đồng chí Huỳnh
Tấn Minh đều tham gia chỉ huy. Trước năm 1989, tỷ lệ khám phá
án đạt 50% nay lên tới 75%, riêng trọng án đạt 90%, nhiều băng
cướp và ổ nhóm chuyên nghiệp bị xóa sổ.
Trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, đồng chí
đã cùng tập thể chỉ huy, đầu tư nhiều công sức xây dựng, củng cố
và phát động phong trào quần chúng, đặc biệt là ở vùng tôn giáo.
Một số cơ quan, xí nghiệp, phường xã trước đây có phong trào
yếu, nay đã trở thành khá, có phường được đi báo cáo điển hình
toàn quốc.
643

65.4 Page 644

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Huỳnh Tấn Minh phụ trách Công an thành phố 6 năm liền
(1989-1994) đạt danh hiệu Quyết thắng, 5 năm liền (1989-1993)
giữ vững lá cờ đầu phong trào Vì An ninh Tổ quốc khối huyện,
thị; 89 lượt đơn vị - cá nhân đạt Quyết thắng; 129 lượt đơn vị,
291 lượt cá nhân được Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND tỉnh tặng
bằng khen.
Với những thành tích xuất sắc nêu trên, Huỳnh Tấn Minh đã
được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhất, 1 Huân
chương Quyết thắng hạng Nhất, 1 Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ, 1 Huy chương Vì thế hệ trẻ, 6 năm liền là Chiến sĩ
Quyết thắng, 4 Bằng khen của Bộ Nội vụ và UBND tỉnh. Ngày
19/1/1996(2), đồng chí Huỳnh Tấn Minh được phong tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(2) Có tài liệu khác ghi: 29/1/1996.
644

65.5 Page 645

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đỗ Văn Thi
Đỗ Văn Thi(1) (tức Út Một) sinh năm 1921,
dân tộc Kinh, quê ở xã Hiệp Hòa, thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Khi hy sinh, đồng chí
là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng
Công an thị xã Biên Hòa (nay là thành phố Biên
Hòa), tỉnh Đồng Nai.
Đỗ Văn Thi được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng bảo vệ nội bộ,
trừ gian và đánh địch khi có thời cơ. Đội bảo vệ do Đỗ Văn Thi chỉ
huy đã nhiều lần mưu trí, dũng cảm đánh nhiều trận và diệt nhiều
tên địch.
Vào ngày lễ Quốc khánh nước Pháp 14/7/1941(2), chính quyền
tỉnh Biên Hòa có tổ chức nhiều trò vui và đua tài ở khu nhà mát
đối diện với Tòa Bố (vị trí tại khu vực Trụ sở khối Nhà nước hiện
nay). Người đoạt được giải nhất bơi lội là một thanh niên cao lớn
tên Đỗ Văn Thi. Tên tỉnh trưởng người Pháp vừa trao giải thưởng,
Thi ngậm vào miệng phóng cái ào xuống sông Đồng Nai lội luôn
một hơi về nhà ở Cù lao Hiệp Hòa. Đỗ Văn Thi là người bơi lội
giỏi có tiếng ở Biên Hòa mà cho đến nay chưa ai thực hiện được.
Không chỉ nổi tiếng vì lội giỏi, cậu con trai út của gia đình ông Cả
Nhượng giàu có nhất nhì ở ấp Bình Tự trên Cù lao Phố, Hiệp Hòa
còn là người “có học” và sớm tỏ ra là bậc đàn anh, thủ lĩnh đối với
đám trai trẻ trong làng.
Có đến 12 anh chị em, Đỗ Văn Thi là con thứ 11 nên được gọi
là út Một và được cho sang Bình Trước để học ở trường duy nhất
thời bấy giờ tại Biên Hòa là Ecole Primaire Complementar (nay là
(1) Nguồn: Những đơn vị, cá nhân anh hùng công an nhân dân, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, Hà Nội, 2002.
(2) Theo Bùi Thuận, Ký ức về anh hùng Đỗ Văn Thi, Cổng thông tin điện tử tỉnh
Đồng Nai (https://www.dongnai.gov.vn/)
645

65.6 Page 646

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Trường tiểu học Nguyễn Du). Cha của Thi, ông Đỗ Văn Nhượng,
tuy đứng ra làm Hương Cả trong làng nhưng rất thương người nghèo
và tích cực ủng hộ Việt Minh bằng cách giao trâu bò đưa vào vùng
kháng chiến. Bà Cả (Nguyễn Thị Giàu) mẹ của Thi thì tiếp tế gạo,
nếp… Riêng Út Thi lại tập họp nam nữ thanh niên trong làng để dạy
chữ Quốc ngữ và truyền bá lối sống mới lành mạnh.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân Biên
Hòa đứng lên giành chính quyền, được sự dìu dắt của các đồng
chí Ba Ký (Nguyễn Văn Ký), Ba Thu (Phạm Văn Thuận), Đỗ Văn
Thi tham gia vào lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc. Nhờ có uy tín
của một đàn anh thủ lĩnh, tổ chức Quốc gia tự vệ cuộc do Một Thi
lãnh đạo đã thu hút đông đảo thanh niên hăng hái tham gia. Đỗ
Văn Thi nhanh chóng trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào cách
mạng ở xã Hiệp Hòa rồi lan nhanh ra khắp quận Châu Thành (lúc
ấy gồm một phần Biên Hòa, Tân Uyên, Dĩ An ngày nay).
Sau khi Pháp tái chiếm Biên Hòa, được sự chỉ đạo của Xứ ủy
Nam Kỳ, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, các lực lượng
cách mạng của tỉnh tạm thời rút dần ra chiến khu Bình Đa và Tân
Uyên. Riêng các lực lượng cách mạng của quận Châu Thành vẫn
đứng chân tại Hiệp Hòa. Quận ủy và Ủy ban cách mạng lâm thời
quận Châu Thành họp bàn và giao Đỗ Văn Thi đứng ra tổ chức
đội tự vệ để làm nhiệm vụ bảo vệ các đoàn thể kháng chiến, đồng
thời diệt ác trừ gian, ngăn cản kế hoạch lập tề của giặc.
Thế là ngay trên đất Cù lao Phố, nơi giặc Pháp vừa tái chiếm
xong thị xã Biên Hòa và đang mở rộng việc chiếm đóng các vùng
phụ cận, một tiểu đội tự vệ gồm toàn những thanh niên dũng cảm,
sục sôi lòng yêu nước ra đời, thực hiện mệnh lệnh của Trung ương
là gây rối địch, kìm chân chúng, để đồng bào miền Bắc, miền
Trung có đủ thời gian chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến.
Đồng chí Nguyễn Bình - Khu bộ trưởng khu 7 đưa ra chủ
trương: Mở đợt hoạt động quân sự ngay tại nội ô thị xã Biên Hòa
để khích lệ tinh thần kháng chiến của nhân dân. Đêm 1 rạng sáng
646

65.7 Page 647

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
ngày 2/1/1946, tiểu đội tự vệ của Đỗ Văn Thi phối hợp cùng lực
lượng quốc vệ đoàn bí mật lội qua sông Đồng Nai tràn lên thị xã
Biên Hòa đồng loạt nổ súng vào các chốt lính, tháp canh... đặc
biệt bắn cháy trạm thôngtin ở chợ Biên Hòa.
Trận đầu tiên đánh Pháp ở Nam Bộ sau khi chúng tái chiếm
Việt Nam tuy không gây cho bọn xâm lược sự thương vong đáng
kể nhưng đã làm nức lòng đồng bào cả nước và tên tuổi của tiểu
đội tự vệ “ông Một” nổi lên như tấm gương sáng về lòng gan dạ,
dũng cảm. Và nhờ thế “đội tự vệ ông Một” được vinh dự chọn bảo
vệ cuộc bầu cử Quốc hội của chế độ nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa lần đầu tiên được tổ chức tại vùng giải phóng tỉnh Biên
Hòa vào ngày 6/1/1946. Còn những tên tay sai của giặc Pháp rất
sợ “tự vệ ông Một” sẽ bất ngờ xuất hiện, nên chúng có phần co
cụm hoạt động.
Thực hiện sắc lệnh số 23/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc
thành lập Nha Công an vụ, tháng 4/1946, quốc vệ cuộc Biên Hòa
được đổi tên thành Ty Công an Biên Hòa. Đồng chí Nguyễn Văn
Ký được Khu ủy miền Đông chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm
Trưởng Ty Công an. Ty Công an Biên Hòa rút đồng chí Đỗ Văn
Thi về giao nhiệm vụ thành lập đại đội Quốc vệ đội (tức công an
võ trang).
Đội “Quốc vệ đội” của Một Thi quy tụ được 30 thanh niên
dũng cảm, nhưng chỉ có 4 súng mút và một ít lựu đạn, còn lại là
gậy gộc, dây thừng… Đơn vị được đưa về đóng quân ở ngọn sông
Buông trong chiến khu Bình Đa. Thế nhưng, bên cạnh nhiệm vụ
bảo vệ các đoàn thể kháng chiến, bảo vệ chiến khu... Một Thi còn
chỉ huy Quốc vệ đội đi diệt ác trừ gian bằng những hành động
xuất quỷ nhập thần, làm cho địch không còn dám ra vùng tự do.
Cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Ký, Đinh Văn Nay, Một Thi
đã vận động được một thân binh Pháp ở bót Tân Vạn đem khẩu
trung liên FM đầu bạc ra hàng…
Vào cuối năm 1946, trong một lần đi về Cù lao Phố, Một Thi
647

65.8 Page 648

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
bị bọn lính ở bót Hiệp Hòa bắt được. Mừng rỡ, bọn giặc liền đưa
“ông Một” ra bờ sông Đồng Nai định bắn chết rồi thả trôi sông.
Không ngờ, Một Thi nhảy xuống sông trốn thoát.
Tiếp đó, bằng mưu trí hết sức độc đáo của mình, Một Thi đã
phối hợp với Chi đội 16 biến 2 hàng binh người Đức giả làm 2 sĩ
quan Pháp (vừa bị Việt Minh bắt được) đem giao cho sếp bót Đờ
La ở Tam An (huyện Long Thành), rồi bất ngờ khống chế bắt sống
cả 12 tên giặc trong bót, tịch thu 13 khẩu súng trang bị thêm cho
Quốc vệ đội đoàn.
Giữa năm 1947, nhận được lệnh của lãnh đạo Ty Công an Biên
Hòa là phải trừng trị bọn thân binh Cao Đài ở đồn Bến Gỗ, thường
giả dân chài để đi cướp bóc, Một Thi cho Quốc vệ đội phục kích
tại ngã ba Tắc Mậu. Lọt vào ổ phục kích của Quốc vệ đội, bọn
thân binh Cao Đài phải bỏ xuồng nhảy xuống sông trốn đi. Quốc
vệ đội lại thu được 12 khẩu súng, trong đó có 3 tiểu liên Militel.
Có thêm vũ khí, quân số Quốc vệ đội nhanh chóng tăng lên đến
50 người, nên phải chia thành 2 trung đội. Trung đội 1 do Một
Thi chỉ huy lại nhận thêm nhiệm vụ nặng nề hơn là phối hợp với
bộ đội Lam Sơn và bộ đội Chi Lăng đánh địch trên địa bàn trải
rộng: Biên Hòa, Vĩnh Cửu và Xuân Lộc. Lính “ông Một” đánh
đâu thắng đó. Giặc Pháp thua đau, giận dữ tung bọn mật thám, tề
điệp truy lùng Đỗ Văn Thi ráo riết, chúng còn tăng cường khủng
bố gia đình “ông Một” đang sinh sống tại Cù lao Phố. Sau khi biết
Một Thi lại vừa đánh bót Helena và uy hiếp bót ngã ba Máy cưa
- trung tâm đóng quân của bọn Pháp ở thị xã Biên Hòa, bọn giặc
qua Cù lao Hiệp Hòa bắt người anh thứ tám của Một Thi là Tám
Ní (tên thật là Đỗ Văn Phú - vốn cũng là công an mật nằm vùng)
để tra khảo tung tích Một Thi. Người chiến sĩ công an này không
một lời khai báo, nên bị bọn giặc giận dữ đem nhốt trong bót miếu
Thành Hưng rồi nửa đêm 8/12/1947 đâm anh lòi ruột, quăng xác
xuống sông Đồng Nai.
Thêm nỗi thù nhà, Một Thi càng đánh hăng. Quốc vệ đội của
648

65.9 Page 649

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
“Ông Một” hết phá đồn Bến Gỗ lại đánh bót Tân Ba, diệt cả tên
trung úy sếp bót người Pháp và 4 tên thân binh người Miên nổi
tiếng hung ác.
Đêm 30 Tết năm 1948, tên Nhái - người Pháp lai sếp bót Hiệp
Hòa đóng ở cạnh cầu Rạch Cát dẫn lính tuần tra đến nhà mẹ Một
Thi. Vừa hỏi, tên Nhái vừa xông vào nhà và kêu người anh thứ
mười của Một Thi là Đỗ Văn Danh mà tên sếp bót này biết rõ
không có làm gì khác ngoài việc cày bừa, trồng tỉa nuôi cha mẹ
già. Tên Nhái lấy giấy tờ của Đỗ Văn Danh, bảo ngày mai ra trình
diện ở bót.
Ông Danh lấy cớ là mùng 1, mùng 2 Tết không ai làm việc, nên
đến sáng mùng 3, mới ra bót Hiệp Hòa trình diện. Tên Nhái giận
dữ bắt ông Danh nhốt luôn, không ngờ đêm ấy có nhóm du kích
về Cù lao bắn phá, sếp Nhái nói là “ông Một” về cứu anh trai nên
đem ông Danh, đang ở tuổi 30, chưa có vợ con, ra sân đồn cắt cổ
rồi thả xác xuống sông Đồng Nai.
Lo sợ, bà Cả Nhượng liền tìm cách cho đứa cháu nội trai duy
nhất là Đỗ Văn Tiền (con trai ông Đỗ Văn Phú) trốn vào chiến
khu.
Tháng 3/1952, được cơ sở giúp đỡ, Đỗ Văn Thi cùng Lê Văn
Cơ chỉ huy đơn vị, dùng bộc phá làm nổ tung kho xăng hơn 1 triệu
lít, gây thiệt hại nặng cho địch.
Vào đầu những năm 50, giặc Pháp được tăng viện phản kích
ác liệt. Một số cán bộ lãnh đạo của thị xã Biên Hòa dao động tinh
thần ra hàng giặc. Trong đó có Trưởng công an thị xã Nguyễn
Trung Chánh. Tên Ba Chánh đã khai báo và chỉ đường cho giặc
bắt rất nhiều cán bộ và ép làm cho nhiều người khác phải ra đầu
hàng. Bọn Pháp đã tập họp những tên phản bội lại thành toán biệt
kích đồ đen (Groupe Noir) và giao cho tên Hoàng - nguyên là xạ
thủ súng máy của bộ đội Lam Sơn làm trưởng toán.
Bọn Groupe Noir bám sát “ông Một” hướng đến 5.000 đồng
tiền Đông Dương treo thưởng cho ai bắt hoặc giết Đỗ Văn Thi.
649

65.10 Page 650

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tháng 10/1952, Đỗ Văn Thi đã bị bọn chỉ điểm và biệt kích
bắn chết trong khi anh đang làm nhiệm vụ tại cơ sở nay thuộc
phường Long Bình, thành phố Biên Hòa. Gương chiến đấu mưu
trí, dũng cảm của Đỗ Văn Thi đang giữ chức vụ Đoàn trưởng
đoàn vũ trang tuyên truyền của thị xã Biên Hòa (gọi tắt là VT3),
đã để lại cho đồng bào, đồng đội lòng khâm phục và niềm tiếc
thương vô hạn.
Đỗ Văn Thi được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 587/KT-CTN ngày
30/8/1995(3).
(3) Có tài liệu khác ghi: Ngày 22/7/1998.
650

66 Pages 651-660

▲back to top


66.1 Page 651

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Văn Huề
Nguyễn Văn Huề(1) sinh năm 1931, dân tộc
Kinh, quê ở xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai. Khi hy sinh, đồng chí là chiến sĩ đặc
công thuộc đơn vị 250 đặc công chủ lực Miền.
Ngày 7/7/1959, một phân đội đặc nhiệm gồm
6 người, trong đó có Nguyễn Văn Huề, nhận
nhiệm vụ đánh Mỹ đầu tiên tại Nhà Xanh ở Biên Hòa.
Nhà Xanh là trụ sở được quân Pháp sử dụng làm Sở Chỉ huy tiểu
khu Biên Hòa. Chính quyền Sài Gòn sử dụng biệt thự Nhà Xanh
làm cư xá cho đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG: Mission Army
American Group) tại Biên Hòa vì chúng cho rằng đây là địa điểm
được bảo vệ cẩn thận. Khu vực Nhà Xanh lúc bấy giờ rộng hơn 1
hécta, được rào chắn bảo vệ bởi nhiều lớp dây kẽm gai, nằm trong
thế bảo vệ nghiêm ngặt, được địch đánh giá là địa điểm an toàn lý
tưởng. Phía Đông, cách 5km là trại lính Trần Quốc Toản; phía Bắc
và Tây Bắc, cách 1km là Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 và sân bay quân sự
Biên Hòa; phía Tây, cách hơn 1km là Ty cảnh sát, tòa Hành chánh
tỉnh, bót cầu Rạch Cát… phía Nam là xóm Gò Me và sông Đồng Nai.
Khu Nhà Xanh có 2 cổng sắt lớn, lính bảo an thay nhau canh gác liên
tục. Bên phải cổng, địch bố trí kho súng. Kế cận những lớp hàng rào
bảo vệ phía tây là trại gia binh của đơn vị lính bảo vệ.
Với sự yểm trợ của một số tổ tự vệ mật, đơn vị nghiên cứu tình
hình địch, chọn đúng ngày Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên ghế Thủ
tướng (7/7/1959) thực hiện nhiệm vụ. Tổ chiến đấu cải trang như
một toán lính tuần tiễu từ Gò Me đi thẳng vào cư xá, các chiến sĩ đặc
công nhanh chóng áp sát cư xá đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG).
Tổ của Nguyễn Văn Huề chia thành 3 nhóm; Huề và 1 đồng đội
(1) Nguồn: Thư viện tỉnh Đồng Nai, (http://www.thuviendongnai.gov.vn/)
651

66.2 Page 652

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
mang mìn theo lối cửa hông, đặt vào phòng chính. Đột nhiên, đèn
bật sáng, sợ lộ, các anh phải hành động gấp. Không để địch kịp phản
ứng, đối phó, Nguyễn Văn Huề đã dũng cảm chấp nhận hy sinh, lệnh
cho đồng đội “kích nổ”. Tiếng nổ mạnh làm rung chuyển khu vực
cư xá, diệt 2 cố vấn Mỹ là: thiếu tá Bael Buis và trung sĩ Chester
Ovmand tại chỗ, bắn bị thương đại úy Howard B. Boston. Đó là 2
người lính Mỹ “đầu tiên chết trận trong kỷ nguyên Việt Nam”(2).
Nguyễn Văn Huề hy sinh, 5 đồng đội của anh quét tiểu liên vào
chỗ có tiếng kêu gào rên la của Mỹ, rồi rút an toàn. Phối hợp nhịp
nhàng với tổ đánh cư xá, bên ngoài các đồng chí khác nổ súng kìm
chân địch, bảo vệ các chiến sĩ đặc công rút ra. Trận đánh diễn ra
không đầy 15 phút, làm địch không kịp trở tay.
Tiếng súng diệt Mỹ nơi đây đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào cách
mạng miền Nam phát triển rộng khắp. Đồng thời, đây là đòn cảnh
báo bọn can thiệp Mỹ nếu chúng lấn sâu can thiệp vào miền Nam
Việt Nam. Người dân Biên Hòa vô cùng tiếc thương và cảm phục
hành động quả cảm của người chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Huề.
Ngày 28/4/2000, Nguyễn Văn Huề được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(2) Từ dùng của nhà báo Staley Karnod đăng trên Tạp chí Tribune Internationale
Hevald ngày 11/7/1983
652

66.3 Page 653

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phạm Hạnh Phúc
Thượng tá Phạm Hạnh Phúc(1) sinh ngày
6/10/1947, quê quán tại xã Cẩm Thăng, huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Đồng chí nguyên là
Trung đội trưởng D6 Đặc công, chiến đấu tại
chiến trường B2, miền Đông Nam Bộ.
Những năm 1965, Tổng thống Mỹ Lyndon B.
Johnson phát động chiến lược Chiến tranh cục bộ tại Việt Nam với
mục đích tiêu diệt chủ lực đối phương, bình định miền Nam, đẩy
mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô lớn.
Trong bối cảnh ấy, miền Bắc mỗi người làm việc bằng 2, thanh
niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang, dốc sức chi viện miền Nam
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ý thức được trách
nhiệm trước lịch sử dân tộc, năm 1967, chàng trai Phạm Hạnh Phúc
đang là sinh viên năm thứ 3 ngành kiến trúc đã xếp bút nghiên, đèn
sách để nhập ngũ.
Từ tháng 6/1967 đến tháng 10/1967, đồng chí Phạm Hạnh Phúc
là hạ sĩ, tiểu đội trưởng C3 - D3 - F338. Từ tháng 10/1967 đến tháng
12/1967, đồng chí là Trung sĩ, tiểu đội trưởng D3 - Đoàn 2265.
Nhắm thẳng chiến trường xốc tới, Phạm Hạnh Phúc cùng đồng đội
ngược dòng sông Gianh - Quảng Bình đổ bộ lên biên giới Việt - Lào,
xuyên suốt đường Trường Sơn về căn cứ Miền, xuống chiến trường
B2 - miền Đông Nam Bộ. Sau hơn 3 tháng đi bộ, leo đồi, vượt sông
suối, vượt đèo, vượt trọng điểm đầy gian khổ, hy sinh nhưng đầy khí
phách vẻ vang.
Từ tháng 1/1968 đến tháng 5/1971, Phạm Hạnh Phúc là Thượng
sĩ, D6 đặc công B2 miền Đông Nam Bộ. Thời điểm năm 1969, đồng
chí được cử đi tập huấn kỹ thuât đặc công ở B2 tỉnh Long - Bà - Biên.
Sau khi hoàn thành khóa tập huấn, đến tháng 1/1972, đồng chí được
(1) Nguồn: Thông tin do nhân vật cung cấp.
653

66.4 Page 654

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
giao nhiệm vụ trung đội phó, mũi phó trung đội trinh sát D6 đặc công
B2 miền Đông Nam Bộ. Một tháng sau, đồng chí trở thành Trung
đội trưởng của đơn vị này. Từ tháng 3/1973 đến 30/4/1975, đồng
chí Phạm Hạnh Phúc là Trung đội trưởng Trung đội trinh sát D6 đặc
công Biên Hòa B2, miền Đông Nam Bộ.
Những năm tháng hoạt động, công tác, chiến đấu trên địa
bàn Long - Bà - Biên, đồng chí Phạm Hạnh Phúc đã tham gia
ba chiến dịch lớn trên Chiến trường B2 miền Đông Nam Bộ:
chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, chiến dịch Nguyễn Huệ - mùa
hè đỏ lửa năm 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Xuất
phát từ những căn cứ: Chiến khu Đ, chiến khu Rừng Sác - Nhơn
Trạch, Suối Tre, Bàu Cạn, Suối Cả, Bình Sơn, đến căn cứ núi
Minh Đạm, Châu Đức (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)… đồng chí
Phạm Hạnh Phúc đã tham gia hàng chục trận đánh lớn, nhỏ,
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ chiến đấu của một mũi trưởng
trinh sát đặc công - Tiểu đoàn 6 đặc công, góp phần cống hiến
vào những chiến công của đơn vị. Vào ngày 17/12/1972, đồng
chí vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Trải qua những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh,
lạt muối đói cơm, nắng núi, mưa ngàn, đồng chí Phạm Hạnh
Phúc luôn khắc ghi sâu đậm về ký ức, cuộc đời của những người
lính máu xương pha trộn tình người, tình đồng chí, đồng đội.
Chính vì thế, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
đảm nhận nhiệm vụ trợ lý chính sách, phụ trách về công tác
chính sách đối với liệt sĩ và mồ mả liệt sĩ thuộc Phòng Chính
trị, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai, Phạm Hạnh Phúc luôn
xem đó là vinh dự và là nhiệm vụ thiêng liêng. Đồng chí nghỉ
hưu năm 2007, nhưng trái tim người lính “Bộ đội Cụ Hồ” không
ngơi nghỉ.
Cụ thể, riêng năm 1989, đồng chí tham gia quy tập 237 hài
cốt liệt sĩ ở Chiến khu Đ, 193 mộ liệt sĩ hy sinh trên tuyến biên
654

66.5 Page 655

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
giới Tây Nam. Từ năm 1990 đến năm 1997, đồng chí góp phần
hoàn thành cơ bản việc quy tập hài cốt tất cả liệt sĩ hy sinh
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên
địa bàn tỉnh (500 mộ) và liệt sĩ làm nghĩa vụ quốc tế hy sinh ở
Campuchia (467 mộ).
Với những thành tích đạt được, đồng chí Phạm Hạnh Phúc
được tặng thưởng: 2 Huân chương Chiến công hạng Ba, 1 Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba, 3 Huân
chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba, 3 Huân chương
Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba, 1 Huy hiệu Dũng sĩ
diệt xe tăng cấp hai, và nhiều Huy hiệu khác. Đồng chí Phạm
Hạnh Phúc được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân theo quyết định số 396/QĐ.CTN do Chủ tịch
Nước ký ngày 2/7/2002.
655

66.6 Page 656

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Lê Bá Ước
Đại tá Lê Bá Ước(1) nguyên quán ở Quảng
Bình, sinh quán ở Gò Quao, Rạch Giá vào năm
1931; tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi, góp
sức thiếu niên trong Cách mạng tháng Tám
1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, tập
kết ra Bắc, rồi vượt Trường Sơn về Nam. Đồng
chí từng là Chính ủy, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 10 Đặc công
Rừng Sác anh hùng; tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh với cương
vị Chính ủy Sư đoàn 2 Đặc công. Từ năm 1976, đống chí được giao
nhiệm vụ Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai,
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai khóa III và IV.
Năm 1994, đồng chí hưởng chế độ nghỉ hưu, nhưng hoạt động vẫn
còn “máu lửa” với tâm huyết của một cựu chiến binh, hội viên Hội
Văn học Nghệ thuật Đồng Nai.
Cuộc đời của Lê Bá Ước(2) có thể cô đọng trong hai chữ “người
lính”. Nhưng là người lính đời thường ở cung bậc phi thường. Phi
thường không phải ở thành tích nhiều Huân, Huy chương Chiến công
rộn ràng ngực áo, ở Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng và danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; mà ở phẩm giá của một người
lính - bộ đội Cụ Hồ với ý chí, tấm lòng và nghĩa cử được đồng chí,
đồng đội và nhân dân yêu quý.
Đời lính của Lê Bá Ước như huyền thoại: Chiến công nối chiến
công, vào sinh ra tử; tiếp nối sự sống của liệt sĩ; hạnh phúc riêng gắn
với nỗi đau chung; chan hòa rượu lạt tình nồng; giặc sợ, dân tin; tên
gọi “Bảy Rừng Sác” thân thương, nồng ấm.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
(2) Theo: Người hùng tử, anh hùng bất tử, Báo Đồng Nai, 19/10/2016
656

66.7 Page 657

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nhắc đến Đại tá Lê Bá Ước (Bảy Ước) không thể không nhắc đến
những chiến công vang dội đã làm nên lịch sử - người được mệnh
danh là “pho sử sống”, từng là “linh hồn” của đặc công Rừng Sác
anh hùng.
Ngày 15/4/1966, Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác ra đời. Rừng
Sác là một vị trí chiến lược quan trọng, bàn đạp hiểm yếu tiến công
vào sào huyệt, đầu não Mỹ và tay sai tại Sài Gòn từ hướng Đông
Nam. Sau trận Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta vào mùa
xuân năm 1968, địch bao vây, đánh phá ác liệt Rừng Sác vào những
năm 1969 - 1970 - 1971. Chính thời gian này, Lê Bá Ước là Trung
đoàn trưởng kiêm Chính ủy Trung đoàn 10 đặc công, được các đồng
chí thương yêu xem là “Anh cả Rừng Sác”. Đồng chí tham gia chỉ
huy đánh thắng nhiều trận vang dội như đánh kho bom thành Tuy
Hạ, đốt cháy kho xăng Nhà Bè, pháo kích kiểu đánh đặc công 70 trận
vào dinh Độc lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân Sài Gòn.
Tính từ năm 1966-1973, Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác đã tổ
chức đánh 740 trận lớn nhỏ, tiêu diệt 6.200 tên địch. Đánh cháy và
chìm 356 tàu, thuyền chiến đấu; đánh chìm tại các bến cảng 145 tàu
vận tải quân sự và bắn cháy, chìm trên sông Lòng Tàu hơn 100 chiếc
vận tải quân sự khác và bắn rơi 23 máy bay lên thẳng. Với những
chiến công vang dội đó, Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác đã được
tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang ngày 23/9/1973.
Đầu năm 1974, Lê Bá Ước được thăng quân hàm Trung tá, là
Chính ủy Sư đoàn 2 đặc công. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, Sư đoàn 2 đặc công Miền đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ đánh
chiếm giữ những đầu cầu trọng yếu và mở cửa cho 5 Quân đoàn chủ
lực tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Năm 1978, ông chỉ huy đơn vị bộ đội địa phương tham gia
chiến đấu đánh Pôn Pốt bảo vệ nhân dân ở tuyến biên giới Lộc
Ninh - Bù Đốp…
Hoàn thành nhiệm vụ trở về, Đại tá Lê Bá Ước tham gia lãnh đạo,
chỉ huy lực lượng vũ trang Đồng Nai và nhiều công tác ở địa phương.
657

66.8 Page 658

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tâm tình của một cựu chiến binh thời bình: son sắt, thủy chung, nặng
nghĩa tình đồng đội; lập bàn thờ hương khói cho hơn 800 liệt sĩ đặc
công Rừng Sác, bôn ba khắp nơi tìm hài cốt liệt sĩ; kết nối nghĩa tình,
chăm lo đời sống cho gia đình đồng đội đã hy sinh. Niềm thương
nhớ và lòng tự hào về đơn vị, về đồng đội thôi thúc ông đúc kết kinh
nghiệm, kết tinh giá trị để giáo dục truyền thống cho đời sau. Các
công trình: Đền liệt sĩ Nhơn Trạch, di tích Căn cứ Cần Giờ, di tích
Địa đạo Phước An và nhiều công trình đền ơn đáp nghĩa khác đều in
đậm dấu ấn của Đại tá Lê Bá Ước. Hình ảnh cựu binh đặc công Rừng
Sác Lê Bá Ước với bộ quân phục rực rỡ huân, huy chương và chất
giọng Nam bộ hào sảng đã gieo hạt, đốt lửa truyền thống trong lòng
biết bao lớp người, nhất là với thanh thiếu niên.
Đại tá cũng tham gia sáng tác nhiều thơ, văn, hồi ký… và là hội
viên Hội Văn học - Nghệ thuật Đồng Nai. Đặc biệt Hồi ký Một thời
Rừng Sác ra đời như một lời tri ân, một nén tâm nhang mà Đại tá
tưởng nhớ đến những chiến sĩ đặc công đã anh dũng chiến đấu hy
sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tại chiến khu Rừng
Sác. Những trang viết Một thời Rừng Sác (trọn bộ 2 tập) làm rõ thêm
giá trị hy sinh của hai ngàn liệt sĩ, trong đó có đến 860 liệt sĩ là cán
bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 10.
Đại tá Lê Bá Ước nguyên là Tỉnh ủy viên; Đại biểu HĐND tỉnh
khóa III, IV; nguyên Chỉ huy phó Chính trị Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
Đồng Nai. Ông đã được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý của
Đảng, Nhà nước: Huân chương Quân công hạng Nhì; Huân chương
Chiến thắng hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huân
chương Chiến công hạng Ba; Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng
Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Chiến sĩ vẻ vang Nhất, Nhì, Ba; Huân
chương Quân kỳ Quyết thắng; Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng. Đại tá Lê
Bá Ước được Chủ tịch Nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân năm 2012.
658

66.9 Page 659

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phạm Văn Lạc
Phạm Văn Lạc(1), tên thường gọi Tư Lạc,
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí
sinh năm 1915, quê quán tại Hùng Cường, Kim
Động, tỉnh Hải Hưng. Cấp bậc, chức vụ khi từ
trần vào năm 1989 là Đại tá, Phó chỉ huy trưởng
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai.
Đồng chí Phạm Văn Lạc đã góp nhiều công lao cho phong trào
cách mạng ở Bà Rịa - Long Khánh. Trong 2 cuộc kháng chiến, đồng
chí luôn bám sát cơ sở. Có những thời điểm phong trào và cơ sở cách
mạng ở Xuân Lộc - Long Khánh bị đánh phá, khủng bố ác liệt, song
với bản lĩnh kiên trì, đồng chí đã trực tiếp xuống các sở cao su, các
vùng nông thôn, bản làng người dân tộc từ Túc Trưng, Định Quán,
Bình Lộc cho đến Gia Ray, Gia Huynh, Trảng Táo, Mây Tàu để
móc nối xây dựng lại cơ sở, vận động thanh niên đi bộ đội, du kích.
Nhờ thế, phong trào cách mạng từng bước đi lên. Đồng chí có độ
dày thành tích trong kháng chiến, từ một chiến sĩ anh nuôi của Chi
đội 10, trong kháng chiến chống Pháp là Đại đội trưởng Đại đội La
Nha (sau trận đánh La Ngà 1/3/1948). Trong kháng chiến chống Mỹ,
đồng chí tham gia đoàn mở đường Trường Sơn (559), về làm Bí thư
Ban cán sự Long Khánh, Tỉnh đội trưởng Long Khánh, Tỉnh đội phó
tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Phó tư lệnh phân khu Bà Rịa, Tỉnh đội
trưởng tỉnh Bà Rịa - Long Khánh.
Đồng chí Tư Lạc đã vận dụng hết sức tài tình về chiến thuật, cách
đánh, nhất là hóa trang đánh địch, đây là cách đánh sở trường của
đồng chí Tư Lạc. Thực tiễn các trận đánh do đồng chí Tư Lạc chỉ
huy, như: ấp Bảo Vinh B; Hội đồng tề Xuân Lộc; ấp chiến lược Hưng
Nghĩa… khi sử dụng cách hóa trang đánh địch đã mang lại hiệu suất
chiến đấu rất cao, giải quyết chiến trường nhanh gọn, cầm chắc phần
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh cung cấp thông tin.
659

66.10 Page 660

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
thắng trong tay, tỷ lệ hy sinh, thương vong của ta rất ít. Trong đánh
đế quốc Mỹ, đồng chí luôn vận dụng tốt 3 mũi giáp công: chính trị,
quân sự, binh vận nên đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí đã chiến đấu và
chỉ huy chiến đấu trên 450 trận lớn nhỏ, kết quả diệt và bị thương
4.200 tên, thu 2.995 súng các loại và phương tiện quân sự khác; phá
banh, làm rả 52 đồn, 11 ấp chiến lược của địch, kêu gọi 1.520 binh
lính đào bỏ ngủ, xây dựng 66 cơ sở binh địch vận, giải phóng một
vùng rộng lớn với 42 ngàn dân, phát triển được trên 200 đảng viên
và 1.200 cơ sở cách mạng. Đồng chí đã quan tâm chú trọng xây dựng
lực lượng vũ trang từ một lực lượng nhỏ bé ban đầu, sau này trở
thành một lực lượng hùng mạnh (cả bộ đội địa phương và du kích)
đủ sức để đánh thắng kẻ thù. Đồng chí còn vận động đóng góp cho
cách mạng trên 55 triệu đồng, 425 tấn gạo góp phần bảo đảm công
tác hậu cần kháng chiến.
Đồng chí Tư Lạc còn có công lớn trong việc mở đường đưa đoàn
đi B bắt liên lạc với Chiến khu Đ. Vượt qua nhiều khó khăn gian khổ,
song đồng chí đã đưa đoàn đến vị trí an toàn, những thành viên của
đoàn sau này trở thành những hạt nhân phong trào cách mạng ở chiến
trường miền Nam.
Đồng chí Phạm Văn Lạc đã được tặng Huân chương Độc lập
hạng Ba; Huân chương Quân công hạng Nhì; Huân chương Chiến
công hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Chiến thắng hạng Nhì; Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương
Quyết thắng hạng Nhì; Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc; Huân chương
Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ
vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
Tháng 9/2014, đồng chí Phạm Văn Lạc được phong tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
660

67 Pages 661-670

▲back to top


67.1 Page 661

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Tấn Vàng
Nguyễn Tấn Vàng(1) sinh năm 1934; quê
quán ở xã Thường Phước, huyện Hồng Ngự, tỉnh
Đồng Tháp; thường trú tại phường Trung Dũng,
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đồng chí
nguyên là Chuẩn úy, Chốt trưởng Chốt 2, Tiểu
đoàn 2, Đặc công U1 Biên Hòa.
Đồng chí tham gia cách mạng năm 1947. Tháng 10/1954, đồng
chí được phân công tập kết ra Bắc tham gia các lớp đào tạo văn hóa,
nghiệp vụ, kết nạp Đảng năm 1955. Tháng 8/1964, đồng chí cùng
Đoàn 623 vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu; trải qua các chức
vụ tiểu đội trưởng, trung đội trưởng; luôn hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Cụ thể, đồng chí Nguyễn Tấn Vàng đã góp nhiều công lao cho
phong trào cách mạng ở thị xã Biên Hòa, vận dụng hết sức tài tình
về chiến thuật, cách đánh, nhất là cách đánh đặc công, mưu trí sáng
tạo, có những sách kiến cải tiến kỹ thuật, như: Tự tạo đồng hồ hẹn
giờ nổ chậm, cải tiến kết hợp một số bộ phận ĐH 10 và thủ pháo dù
để đánh hủy diệt kho... Đây là cách đánh sở trường của đồng chí,
qua đó nói lên được tính gan dạ, mưu trí, dũng cảm, táo bạo và cũng
chính là một trong những điểm thể hiện chất anh hùng của đồng chí
Nguyễn Tấn Vàng.
Trong suốt giai đoạn 1965 - 1972 của kháng chiến chống Mỹ,
đồng chí đã chiến đấu và chỉ huy chiến đấu cùng Chốt 2, Tiểu đoàn
2, Đặc công U1 Biên Hòa, góp sức chung với cả nước bằng nhiều
thành tích xuất sắc.
Tiêu biểu là trận đánh đêm 28/10/1966, đồng chí đã chỉ huy và
trực tiếp tiến công 3 lần (lần 2 tháng 11, lần 3 tháng 12) vào tổng kho
Long Bình, hủy diệt 353 ngàn đạn pháo và các loại bom của địch.
(1) Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
661

67.2 Page 662

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Loạt trận đánh này thể hiện sự dũng cảm, mưu trí, sáng tạo và quyết
tâm cao của đặc công U1, được Bộ Chỉ huy Miền tặng thưởng Huân
chương Quân công hạng Nhì.
Đáng chú ý, trong trận đánh đêm 3/2/1967, đồng chí lại đột nhập
khu kho đồi 53 đặt mìn hẹn giờ. 2 giờ 45 sáng 4/2/1967, quả mìn hẹn
giờ đầu tiên nổ, sau đó là tiếng nổ 3 quả mìn còn lại, mỗi quả nổ cách
nhau 3 phút. Tiếng nổ vang rền suốt 30 tiếng đồng hồ, kích thích dây
chuyền làm nổ tung 40 dãy kho bom đạn rốc-két, đại bác, phá hủy
80 ngàn quả đạn pháo các loại khác của Mỹ. Hiệu quả của trận đánh
rất lớn; theo tin tình báo: Do thiệt hại ở kho Long Bình, bọn Mỹ đã
bỏ dở 2 cuộc hành quân ở miền Tây Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ
(trung bình mỗi cuộc hành quân, địch dùng đến 21 ngàn quả pháo).
Đài BBC nhận định : “Việt cộng đã đánh thủng dạ dày của quân viễn
chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam”.
2 trận đánh năm 1966-1967 đồng chí đã được Bác Hồ điện trực
tiếp khen ngợi, bằng khen cấp U, Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú (250 tên
Mỹ); sau giải phóng được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân Huy
chương cao quý khác.
Vào tháng 9/2014, đồng chí Nguyễn Tấn Vàng được phong tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
662

67.3 Page 663

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Văn Lân
Đồng chí Nguyễn Văn Lân sinh năm 1938 tại
Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội; hiện thường trú
tại phường Long Bình Tân, Biên Hòa, Đồng Nai;
nhập ngũ tháng 2/1960, nghỉ hưu tháng 12/1988,
vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1966, Huy
hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Với 28 tuổi quân, đồng chí đã trải qua nhiều cương vị công tác,
từ cán bộ tiểu đội trưởng, đại đội trưởng, Tiểu đoàn phó, tiểu đoàn
trưởng, phó Tham mưu trưởng Trung đoàn và đã trực tiếp tham gia 6
chiến dịch lớn: Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Junction City của
Mỹ trên địa bàn Đông Nam Bộ (từ tháng 2/1967 đến tháng 4/1967);
Chiến dịch Mậu Thân năm 1968; Chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972,
Chiến dịch Nam Tây Nguyên năm 1973, Chiến dịch Phước Long
năm 1974, Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Trong các chiến dịch
trên Nguyễn Văn Lân đã chỉ huy đánh nhiều trận, trong đó có 3 trận
tiêu biểu.
Tháng 11/1973, trên cương vị Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 14, đồng
chí đã chỉ huy trực tiếp đánh trận Nội ở Yếu khu Bù Bông, tiêu diệt
và bắt sống hơn 700 tên địch, thu nhiều vũ khí trang bị, chiến lợi
phẩm, làm chủ trận địa góp phần mở rộng hành lang chiến lược trong
Chiến dịch Nam Tây Nguyên ngày 4/11/1973.
Tháng 1/1975, trên cương vị Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 78, đồng
chí đã chỉ huy đơn vị đánh trận Bù Na (tỉnh Phước Long), tiêu diệt
hơn 300 tên địch, làm chủ trận địa và giải phóng hơn 20km Quốc lộ
14 từ Đồng Xoài đến Bù Đăng góp phần giải phóng tỉnh Phước Long
ngày 6/1/1975.
Trên cương vị Phó Tham mưu trưởng, Trung đoàn 429 (nay là
Lữ đoàn Đặc công 429), Binh chủng Đặc công, đồng chí đã chỉ huy
chiến đấu 4 ngày đêm ở hướng Nam Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ
Chí Minh. Kết quả đã tiêu diệt Chi khu cảnh sát Quận 8 (Ký Thúc Ôn)
663

67.4 Page 664

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cùng với lực lượng địa phương
giải phóng quận 8 vào lúc 10 giờ ngày 30/4/1975.
Từ năm 1977-1988, đồng chí công tác tại Học viện Lục quân với
cương vị là Phó khoa Hóa học, sau đó là cán bộ tác chiến Quân đoàn
5 tại Lạng Sơn trong chiến tranh biên giới phía Bắc. Tháng 12/1988
đồng chí được nghỉ hưu với quân hàm Trung tá, nguyên Phó Tham
mưu trưởng Trung đoàn 429 (nay là Lữ đoàn 429), Binh chủng Đặc
công đứng chân tại huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.
Khi về với đời thường, đồng chí tiếp tục tham gia công tác tại địa
phương, với cương vị là Bí thư Đảng bộ bộ phận Khu phố; Trưởng
Ban Tuyên giáo Đảng ủy; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Long
Bình Tân. Trên cương vị nào đồng chí cũng luôn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước và xây dựng bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đã
vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng: 1 Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất; 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba; 3
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương
Chiến sĩ Giải phóng; 3 lần Dũng sĩ Quyết thắng; 2 danh hiệu Chiến
sĩ thi đua; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; 4 Bằng khen của UBND
tỉnh Đồng Nai.
Đồng chí Nguyễn Văn Lân vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân được Chủ tịch Nước ký ngày 30/8/2018.
664

67.5 Page 665

▲back to top


CÁ NHÂN ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
PHỤ LỤC ẢNH
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
665

67.6 Page 666

▲back to top


67.7 Page 667

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đội viên nữ
Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh.
Cựu Chiến binh Đội trinh sát vũ trang thị xã Long Khánh
trong màu áo lính, 19/5/2018.
667

67.8 Page 668

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đội viên du kích xã Phú Hội.
668

67.9 Page 669

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Quyết định phong danh hiệu AHLLVTND
cho Nhân dân và LLVTND thị xã Biên Hòa
(Số 368/KT - CTN ngày 22/12/1994).
Thành phố Biên Hòa đón nhận danh hiệu AHLLVTND,
ngày 29/12/1994 (Có đồng chí Nguyễn Văn Linh,
nguyên Tổng Bí thư TW Đảng tham dự).
669

67.10 Page 670

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đồng chí Võ Chí Công, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
thăm di tích lịch sử cách mạng Chiến khu Đ
trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, 1997.
Huyện Vĩnh
Cửu đón nhận
danh hiệu
AHLLVTND,
1996.
670

68 Pages 671-680

▲back to top


68.1 Page 671

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng bào Chơ-ro xã Lý Lịch giã gạo nuôi quân,
chuẩn bị Tết Mậu Thân 1968.
Đồng chí Lê
Minh Trí,
điện báo viên.
671

68.2 Page 672

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đồng chí Giang Thanh Trà, Trưởng ban Thông tin T1 báo cáo
Tổng kết năm 1974.
Đội công binh xưởng quân giới thị đội Long Khánh
sản xuất vũ khí tự tạo.
672

68.3 Page 673

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng thăm già làng Năm Nổi -
Bí thư Chi bộ Đảng đầu tiên của xã Lý Lịch, Chiến khu Đ,
31/8/2008.
673

68.4 Page 674

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đồng chí Đỗ Mười, cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam cùng lãnh đạo thị xã Long Khánh chụp
ảnh lưu niệm tại tượng đài chiến thắng Xuân Lộc, năm 2002.
674

68.5 Page 675

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thị xã Long Khánh đón nhận danh hiệu AHLLVTND, năm 1994.
Lực lượng vũ trang nhân dân thị xã Long Khánh trước giờ ra trận.
675

68.6 Page 676

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Xã Tà Lài đón mừng danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân, 6/11/1998.
676

68.7 Page 677

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng chí Trương Mỹ Hoa, Phó Chủ tịch Nước gắn huy hiệu
Anh hùng LLVTND lên lá cờ truyền thống của tỉnh Đồng Nai.
Tỉnh Đồng Nai đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND,
(tháng 12/2000).
677

68.8 Page 678

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tiểu đoàn 240 đón danh hiệu AHLLVTND, 18/12/2012.
Tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ Tiểu đoàn 240
tại tượng đài Bình Sơn, 18/12/2012.
678

68.9 Page 679

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Cán bộ, chiến sĩ Đại đội Lam Sơn họp mặt truyền thống
tại huyện Vĩnh Cửu, 1997.
Tri ân anh hùng, liệt sĩ Đại đội Lam Sơn tại bia tưởng niệm
Khu công nghiệp Biên Hòa 1, 27/3/2013.
679

68.10 Page 680

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 Đặc công U1 đón nhận danh hiệu
AHLLVTND, 8/4/2016.
Ký ức truyền thống Chi đội 10.
680

69 Pages 681-690

▲back to top


69.1 Page 681

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đội cối Xuân Lộc đón nhận danh hiệu AHLLVTND, 31/8/2012.
Niềm vui của đội viên và người thân của
Đội cối Xuân Lộc anh hùng.
681

69.2 Page 682

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Xã Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu đón danh hiệu
AHLLVTND, 1/9/2012.
682

69.3 Page 683

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng chí Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch Nước
dự kỷ niệm 60 năm ngày phá khám Nhà lao Tân Hiệp, 2016.
683

69.4 Page 684

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Ngày 8/10/2018, Đại tá Huỳnh Thanh Liêm triển khai Kế hoạch
“Lễ đón nhận danh hiệu AHLLVTND” của tập thể chiến sĩ cách
mạng Nhà lao Tân Hiệp, dự kiến vào ngày 2/12/2018.
Ký giả Phạm Xuân Ẩn (Trần Văn Trung) phỏng vấn tướng 3 sao,
Tư lệnh vùng 3, năm 1968.
684

69.5 Page 685

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Trần Văn Trung (Phạm Xuân Ẩn) tiếp kiến Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, năm 2004.
Quyết định tặng danh hiệu AHLLVTND cho liệt sĩ Điểu Cải,
số 587/KT-CTN ngày 30/8/1995.
685

69.6 Page 686

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Quyết định tặng danh hiệu AHLLVTND cho liệt sĩ Lê A,
số 587/KT-CTN ngày 30/8/1995.
Quyết định tặng danh hiệu AHLLVTND cho Đỗ Văn Thi,
số 587/KT-CTN ngày 30/8/1995.
686

69.7 Page 687

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Chân dung Điểu Cải do Võ Tấn Thành phục hiện theo lời kể
của nhân chứng.
Lê Bá Ước chỉ huy chiến sĩ đặc công Rừng Sác.
687

69.8 Page 688

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Đại tá Lê Bá Ước thăm lại cơ sở năm xưa tham gia trận đánh
đốt cháy kho bom Thành Tuy Hạ, 1972.
Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình trao danh hiệu AHLLVTND
cho đồng chí Huỳnh Tấn Minh.
688

69.9 Page 689

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Đồng chí Huỳnh Văn Tới - Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam
tỉnh Đồng Nai cùng lãnh đạo huyện Vĩnh Cửu thăm Anh hùng
LLVTND Lê Duy Chín, 7/11/2018.
689

69.10 Page 690

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
DANH SÁCH
TẬP THỂ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
STT
Tên tập thể anh hùng
1 Đội biệt động thị trấn Long Khánh
2 Đại đội dân quân du kịch xã Bình Lộc
3 Đội trinh sát võ trang thị xã Long Khánh
4 Đội dân quân du kích xã Bảo Vinh
5 Đội du kích cao su Bình Sơn
6 Đội dân quân du kích xã Tam An
7 Đội dân quân du kích xã Hưng Lộc
8 Đội dân quân du kích xã Phước An
9 Đội dân quân du kích xã Phú Hội
10 Đội dân quân du kích xã Thiện Tân
11 Bệnh xá k20 - phân khu 4
12 Trại quản lý cải tạo phạm nhân k4 công an
tỉnh Đồng Nai
13 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Long Khánh
14 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
thị xã Biên Hòa
15 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Hiệp Hòa
16 Phòng Cảnh sát hình sự công an tỉnh Đồng Nai
17 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phú Hữu
18 Công an thành phố Biên Hòa
20 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Nhơn Trạch
21 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Định Quán
Năm
phong tặng
1976
1976
1976
1978
1978
1978
1978
1978
1978
1978
1985
1994
1994
1994
1995
1994
1995
1996
1996
Trang
13
16
20
23
28
33
38
43
48
52
56
57
61
102
114
126
129
131
135
147
690

70 Pages 691-700

▲back to top


70.1 Page 691

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
22 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Vĩnh Cửu
1996
173
23 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phú Lý
1996
192
24 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Bình Lợi
1996
201
25 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Trị An
1996
209
26 Nhân dân và lực Lượng vũ trang nhân dân
phường Thống Nhất
1996
220
27 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long Thọ
1966
224
28 Cán bộ, công nhân viên lực lượng tự vệ Đồn
1996
234
điền cao su Bình Lộc
28 Phòng Bảo vệ chính trị IV (PA38) công an
tỉnh Đồng Nai
1998
237
30 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Long Thành
1998
241
31 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
thị trấn Trảng Bom
1998
263
32 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Tân An
1998
272
33 Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã
1998
281
Tân Bình
34 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Xuân Tân
1998
292
35 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Xuân Lập
1998
304
36 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Tà Lài
1998
316
37 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Thạnh Phú
1999
332
38 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phước Khánh
2000
343
39 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long Tân
2000
354
691

70.2 Page 692

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
40 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phú Đông
41 Lực lượng Giao bưu Thông tin liên lạc
tỉnh Đồng Nai
42 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
tỉnh Đồng Nai
43 Tiểu đoàn 240
44 Đại đội Lam Sơn, Trung đoàn 310
45 Tiểu đoàn 1, Đặc công U1
46 Tiểu đoàn 2, Đặc công U1
47 Chi Đội 10, tỉnh Biên Hòa
48 Đội cối huyện Xuân Lộc
49 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Thiện Tân
50 Chiến sĩ cách mạng Nhà lao Tân Hiệp
51 Đội Công binh xưởng quân giới thị đội
Long Khánh
52 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Bàu Hàm 2
53 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long An
54 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long Phước
55 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phú Túc
56 Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Xuân Lộc
2000
365
2000
372
2000
386
2012
415
8/2013
419
9/2014
430
9/2014
445
9/2014
455
1/1996
472
2012
476
2018
486
2012
498
1999
508
2000
511
1994
521
1998
531
1999
537
692

70.3 Page 693

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
DANH SÁCH
CÁ NHÂN ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
STT
Họ và tên
1 Nguyễn Văn Quang
2 Nguyễn Quyết Chiến
3 Bùi Văn Hòa
4 Trần Văn Chín
5 Phạm Văn Cán
6 Trần Văn Trung
7 Điểu Cải
8 Lê A
9 Hồ Thị Hương
10 Trần Văn Nuôi
11 Dương Văn Thì
12 Nguyễn Thanh Tùng
13 Lê Duy Chín
14 Nguyễn Văn Huệ
15 Trương Văn Hải
16 Trần Đối
17 Trịnh Xuân Thiều
18 Tống Viết Dương
19 Lương Văn Xuân
20 Bùi Văn Bình
21 Nguyễn Trọng Tâm
22 Nguyễn Văn Bình
23 Trần Công An
24 Huỳnh Tấn Minh
25 Đỗ Văn Thi
26 Nguyễn Văn Huề
Năm
phong tặng
1967
1969
10/2 /1970
19/5/1972
12/1975
1976
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1978
6/11/1981
29/8/1985
30/8/1985
29/8/1985
23/10/1996
19/1/1996
22/7/1998
24/8/2000
Trang
573
575
576
580
581
585
594
597
602
605
606
610
613
615
617
619
620
622
624
626
630
632
634
641
645
651
693

70.4 Page 694

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
27 Phạm Hạnh Phúc
28 Lê Bá Ước
29 Phạm Văn Lạc
30 Nguyễn Tấn Vàng
31 Nguyễn Văn Lân
2/7/2002
653
2012
656
2014
659
2014
661
30/8/2018
663
694

70.5 Page 695

▲back to top


TẬP THỂ ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
MỤC LỤC
- Lời mở
5
- Phần 1: Tập thể Anh hùng LLVT nhân dân
11
- Phần 2: Cá nhân Anh hùng LLVT nhân dân
573
- Phần 3: Phụ lục ảnh
665
695

70.6 Page 696

▲back to top


SÁNG NGỜI CHẤT NGỌC ANH HÙNG
Tập 1: ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai,
Sở Thông tin và Truyền thông Đồng Nai,
Huỳnh Văn Tới - Nguyễn Minh Hùng
(chủ biên)
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GĐ-TBT. BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PGĐ. TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập: Võ Thị Thanh Hiếu
Biên tập kĩ thuật: Nguyễn Văn Lừng
Trình bày: Nguyễn Hường
Sửa bản in: Thanh Hiếu
Bìa: Hồ Giáo
In: 1.000 bản. Khổ: 16 x 24 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Số XNKHXB: 4365-2018/CXBIPH/1- 445/ĐoN, Cục Xuất bản, In
và Phát hành xác nhận ngày: 26/11/2018, Quyết định xuất bản số: 28/
QĐA-ĐoN, do NXB Đồng Nai cấp ngày: 07/12/2018.
In xong và nộp lưu chiểu: quý 1/2019.
696