LSDB xa Dai Phuoc

LSDB xa Dai Phuoc



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LÒCH SÖÛ
ÑANÛ G BOÄ XAÕ ÑAÏI PHÖÔÙC
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ ĐẠI PHƯỚC
LÒCH SÖÛ
ÑAÛNG BOÄ XAÕ ÑAÏI PHÖÔÙC
(1930 - 2020)
NHÀ XUẤT BẢN Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NHƠN TRẠCH
CỐ VẤN
Đ/c. Nguyễn Thế Phong
(UVTV Huyện ủy, Phó Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch)
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
Trưởng ban:
Đ/c. TrầnThanh Hoàng (HUV, Bí thư Đảng ủy xã)
Phó ban thường trực:
Đ/c. Phạm Thành Công (Thường trực Đảng ủy)
Thành viên:
- Đ/c. Trần Minh Hoàng (Phó Chủ tịch UBND)
- Đ/c. Trần Văn Hải (Chủ tịch UBMTTQ)
- Đ/c. Nguyễn Đức Kính (Chủ tịch Hội CCB)
- Đ/c. Trần Nam Hùng (Văn phòng Đảng ủy)
- Đ/c. Phạm Đại Phước (Phó Ban Tuyên giáo)
- Đ/c. Lê Thị Hồng Yến (Tài chính - Kế toán)
- Đ/c. Trần Xuân Kiệt (Văn hóa - Xã hội)
- Đ/c. Tô Văn Trọng (Thương binh - xã hội)

1.5 Page 5

▲back to top


BAN BIên soạn
- Đ/c. Phạm Thành Công (Thường trực Đảng ủy)
- Đ/c. Trần Minh Hoàng (Phó Chủ tịch UBND)
- Đ/c. Trần Văn Hải (Chủ tịch UBMTTQ)
- ThS. Phan Đình Dũng (Hội Khoa học Lịch sử Đồng Nai)
Tổ tư liệu
- Đ/c. Trần Nam Hùng (Văn phòng Đảng ủy)
- Đ/c. Phạm Đại Phước (Phó Ban Tuyên giáo)
- Đ/c. Tô Văn Trọng (Thương binh - xã hội)

1.6 Page 6

▲back to top


1.7 Page 7

▲back to top


Lôøi giôùi thieäu
Xã Đại Phước được thành lập khá sớm trong cơ cấu hành
chính của vùng đất Nhơn Trạch, Long Thành. Với địa thế thuộc
hạ lưu sông Đồng Nai, xã Đại Phước có môi trường tự nhiên
và đặc điểm đất đai, sông ngòi thuận lợi cho việc sản xuất nông
nghiệp, khai thác thủy sản. Từ thời khẩn hoang vùng Nhơn
Trạch, địa bàn Đại Phước hình thành những làng cổ với nhiều
lớp cư dân tụ cư. Khi hệ thống giao thông được mở, với vị trí
nối kết các địa bàn lân cận (Phú Hữu, Phú Đông, Phú Thạnh,
Long Tân, Long Trường), xã Đại Phước có những thuận lợi
trong phát triển thương mại. Đời sống tinh thần của cư dân
Đại Phước khá đa dạng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ cư dân
đến đây sinh sống, phản ánh qua những tập quán, phong tục,
thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là những yếu tố có những
tác động, ảnh hưởng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương qua các thời kỳ lịch sử.
7

1.8 Page 8

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, nhân dân
xã Đại Phước có truyền thống yêu nước và đấu tranh cách
mạng kiên cường. Từ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp đến
năm 1930, trong phong trào chung của Long Thành, vùng Đại
Phước là một trong những địa bàn hoạt động của hội kín yêu
nước. Từ khi Đảng thành lập tinh thần yêu nước của người dân
Đại Phước được soi sáng bởi đường lối đấu tranh cách mạng,
hướng đến mục tiêu giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của
tổ chức Đảng, quân và dân Đại Phước đã tham gia các phong
trào đấu tranh, nổi dậy giành chính quyền trong Cách mạng
Tháng Tám (1945), thực hiện 9 năm kháng chiến chống Pháp
(1945 - 1954), 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954
- 1975), cùng cả nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quân dân Đại Phước nỗ lực vượt qua những khó
khăn, thử thách để xây dựng quê hương, hướng đến mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trải qua những giai đoạn lịch sử, truyền thống văn hóa và
tinh thần yêu nước của quân, dân xã Đại Phước được bồi đắp,
tô thắm trong trang sử vàng xây dựng, bảo vệ đất nước trên
vùng đất Nhơn Trạch, Long Thành. Những thành tựu của xã
Đại Phước hôm nay trong phát triển kinh tế - xã hội là quá trình
nỗ lực không ngừng của khối đại đoàn kết toàn dân, được phát
huy trong thời đại mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng bộ
xã Đại Phước luôn phấn đấu, đúc kết những bài học quý giá,
8

1.9 Page 9

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
không ngừng hoàn thiện, nâng cao trách nhiệm, vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo địa phương xây dựng và phát triển theo hướng bền
vững.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai, Huyện ủy
Nhơn Trạch trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng,
Đảng bộ xã Đại Phước triển khai biên soạn Lịch sử Đảng bộ xã
từ năm 1930 đến năm 2020. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa thiết
thực, góp phần khắc họa lịch sử địa phương và đặc biệt từ khi
Đảng ra đời, lãnh đạo cách mạng trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng đất nước. Công trình Lịch sử Đảng bộ xã Đại
Phước (1930 - 2020) hoàn thành, là nguồn tài liệu quan trọng
để tuyên truyền, giáo dục về lòng yêu nước, truyền thống cách
mạng và qua đó nhận diện được giá trị di sản của thế hệ cha
ông, thêm lòng tự hào, tình yêu quê hương.
Khi thực hiện công trình này, địa phương có những thuận
lợi và khó khăn nhất định, song với nỗ lực của Ban Chỉ đạo,
Biên soạn, công trình Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 -
2020) đã hoàn thành. Nguồn tư liệu thực hiện công trình được
kế thừa từ các tài liệu đã công bố, xuất bản liên quan đến lịch
sử Đồng Nai, Long Thành, Nhơn Trạch và các đơn vị, cơ quan,
hồi ký của lão thành cách mạng, hồi cố tư liệu của nhân chứng
cũng như tư liệu khảo sát, điền dã. Đảng bộ xã Đại Phước chân
thành tri ân đến quý cơ quan, đơn vị, cá nhân... đã cung cấp,
hỗ trợ tài liệu và giới thiệu công trình “Lịch sử Đảng bộ xã Đại
9

1.10 Page 10

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Phước 1930 - 2020” đến với nhân dân địa phương và độc giả.
Trong quá trình thực hiện, công trình này không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Chúng tôi mong muốn nhận được
những đóng góp với tinh thần xây dựng để hoàn thiện hơn khi
có điều kiện tái bản.
TM. Ban Chấp hành Đảng bộ
Bí thư
Trần Thanh Hoàng
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


CHƯƠNG I
VÙNG ĐẤT - CƯ DÂN
VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
1. Địa lý và môi trường tự nhiên
Xã Đại Phước là một trong 12 đơn vị hành chính cấp xã của
huyện Nhơn Trạch. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 1.666.74ha
(chiếm 4% diện tích toàn huyện Nhơn Trạch). Đất đai của xã
Đại Phước hình thành trên trầm tích phù sa cổ của hệ thống
sông Đồng Nai. Địa bàn xã có vị trí địa lý về phía Tây Bắc của
huyện Nhơn Trạch:
- Phía Đông giáp xã Long Tân, Đông Nam giáp xã Phú
Thạnh (ranh giới tự nhiên là sông Cái).
- Phía Nam giáp xã Phú Đông
- Phía Tây giáp xã Phú Hữu
- Phía Bắc giáp phường Long Trường, thành phố Thủ Đức1
với ranh giới tự nhiên là sông Đồng Nai.
1  Trước đây thuộc Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2021, thành phố Thủ
Đức được thành lập, trên cơ sở của 3 quận: Thủ Đức, Quận 2 và Quận 9 - trực
thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
11

2.2 Page 12

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Xã Đại Phước thuộc vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo,
có nền nhiệt cao đều quanh năm, ít gió bão, không có mùa
đông lạnh, không có những cực đoan lớn về khí hậu. Thời tiết
thể hiện hai mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết
tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm
sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở xã khoảng 260C, nhiệt độ
trung bình cao nhất từ 260C - 280C (tháng 4); nhiệt độ trung
bình thấp nhất là 250C (tháng 12). Độ ẩm trung bình trong năm
từ 78 - 82%, trung bình tháng cao nhất đạt 93% và thấp nhất là
50%. Lượng mưa trong năm không đều, trung bình từ 1.800 -
2.000 mm. Địa hình của xã thuộc phía hạ lưu sông Đồng Nai,
tuy nhiên vẫn có một số khu vực thuộc vùng đồi thấp, nền cứng,
thuận lợi cho việc xây dựng. Những phần còn lại ở phía thấp,
nền đất yếu.
Hệ thống sông rạch của Đại Phước khá độc đáo, tập trung
ở vùng phía Đông và phía Bắc, gồm các nhánh của sông Cái
và sông Đồng Nai trong đó có sông Phước Lý, sông Sâu. Sông
Phước Lý nhỏ nhưng có tầm quan trọng trong việc tiêu thoát
nước cho cả khu vực Đại Phước, các vùng lân cận. Hệ thống
sông rạch trên địa bàn chịu sự tác động của thuỷ triều sông
Đồng Nai (có nước ngọt trong mùa mưa và nước lợ mùa khô).
Nhánh sông chính của Đồng Nai như bao bọc, làm ranh giới
của Đại Phước với các thành phố Thủ Đức, trong khi đó sông
Sâu tách dòng, chảy vào trong đất liền và sau đó uốn hình vòng
cung trở lại sông Cái tạo nên cù lao khá rộng được đặt tên Ông
Còn với đặc điểm sinh thái độc đáo ở hạ lưu sông Đồng Nai.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Các sông này có giá trị rất lớn trong việc cung cấp nước tưới
cho cây trồng, hệ thống thủy lợi Ông Kèo. Tài nguyên sông
nước trên địa bàn xã Đại Phước vừa là nguồn nước ngọt cung
cấp cho cư dân trong sinh hoạt, sản xuất các vùng lân cận; đồng
thời cũng là đường thủy khá quan trọng để đi vào các xã khác
Long Tân, Phú Thạnh, Phú Hữu.
Đập, cống Phước Lý xây dựng có chức năng điều hòa
nguồn nước, ngăn xâm nhập mặn, giữ đất để sản xuất trên địa
bàn xã Đại Phước và các vùng lân cận. Phần trong đê có nước
ngọt quanh năm do lấy nước ở cống Phước Lý và cống xả ở
Vĩnh Thanh, thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Nguồn nước ngầm tập trung vùng đồi gò, có trữ lượng khá lớn
và ở sâu. Tầng chứa nước có dày từ 80-90m có thể khai thác các
lỗ khoan lưu lượng từ 1.000 -1.500m3/ngày với chất lượng tốt
phục vụ cho sinh hoạt và các ngành khác. Vùng thấp có nguồn
nước ngầm bị nhiễm phèn và mặn không thể sử dụng cho sinh
hoạt. Thảm thực vật xã Đại Phước tương đối đa dạng theo vùng
đồng bằng và trung du chủ yếu là các cây trồng nông nghiệp
ngắn ngày và cây ăn quả. Trong đó, các vùng trồng lúa được
khai canh tác lâu năm là Cù lao Ông Còn, ấp Bến Cộ. Về chăn
nuôi, với môi trường đồng ruộng có diện tích rộng và mặt nước
sông rạch của hạ lưu sông Đồng Nai, xã Đại Phước thuận lợi
trong việc chăn nuôi gia cầm, thủy sản.
Tính đến năm 2020, xã Đại Phước có 3.629 hộ, 13.189
khẩu. Người Kinh chiếm đa số, có mặt hầu hết ở các khu dân
13

2.4 Page 14

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cư và một bộ phận người Hoa sinh sống tập trung ở khu vực
chợ cũ Đại Phước. Sau này, một số cư dân từ nơi khác đến cư
trú, sinh sống, làm việc nhưng chiếm số lượng không đáng kể.
Những lớp cư dân đầu tiên đến khai khẩn đã góp phần trong
việc hình thành những làng, thôn ban đầu, khai phá, canh tác
nông nghiệp và đánh bắt thủy sản. Cộng đồng người Hoa đến
sinh sống, cư trú đã có công trong việc hình thành thị tứ, buôn
bán ở Phước Lý. Xã Đại Phước có 3 ấp: gồm ấp Phước Lý có
2.777 hộ, 9.786 khẩu, ấp Bến Cộ có 852 hộ, 3.376 khẩu, ấp Cù
Lao trước có cư dân sinh sống nhưng hiện nay được quy hoạch
phát triển thành khu đô thị, trong quá trình giải tỏa, người dân
được tái định cư ở địa điểm khác.
2. Lịch sử hành chính
Qua các thời kỳ, xã Đại Phước có những thay đổi về địa
giới và thiết chế quản lý cấp trên. Trước năm 1994, diện tích
của xã khá rộng, bao gồm phần đất ấp Thị Cầu (nay thuộc xã
Phú Đông). Sự ổn định về địa giới bắt đầu từ tháng 9-1994
khi huyện Nhơn Trạch tái thành lập, tách ra từ huyện Long
Thành. Xã Đại Phước có 3 ấp: Phước Lý, Bến Cộ và Cù Lao
(tên thường gọi Cù lao Ông Còn).
Những nguồn tư liệu cho biết, trước Công nguyên, Đại
Phước thuộc vùng đất hạ lưu sông Đồng Nai (huyện Nhơn
Trạch) có những lớp cư dân sinh sống. Khảo cổ học đã phát
hiện, khai quật, thu thập nhiều công cụ lao động, đồ trang sức
bằng từ các chất liệu đá, gốm, gỗ, đồng... trên địa hình gò,
14

2.5 Page 15

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
giồng, ven rạch, vàm, ngọn ở Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Gò
Me... Từ thế kỷ I, trong xu thế hình thành các quốc gia, vương
quốc Phù Nam thành lập, phát triển hùng mạnh, địa giới mở
rộng tồn tại bao gồm cả vùng Nam Bộ cho đến thế kỷ thứ VII.
Sau đó, Phù Nam đi vào suy vong và vương quốc Chân Lạp
thay thế. Vùng đất Nam Bộ ngày nay, trong đó có Nhơn Trạch
trước thế kỷ XVI trong tình trạng hoang vắng, rừng rậm, sình
lầy và ít cư dân.
Do những biến động của xã hội, từ thế kỷ XVI, những di
dân người Việt từ xứ Ngũ Quảng đến khai khẩn, người Hoa
được chúa Nguyễn chấp thuận đến cư trú trên khu vực Đồng
Nai. Các di dân này đi từ vùng biển, theo cửa sông vào đất
liền lập làng, định cư và canh tác, buôn bán. Trên cơ sở này,
chúa Nguyễn đã từng bước thiết lập cơ sở hành chính. Năm
1698 đánh dấu sự kiện chính thức khi Thống suất Nguyễn Hữu
Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược vùng đất
phía Nam, thiết lập bộ máy hành chính. Sách Gia Định thành
thông chí viết như sau: “Mùa xuân năm thứ 8 Mậu Dần (1698),
thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn
Phúc Chu), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất
Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện
Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở thôn Phước Lư),
lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận
sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và
Kỷ lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc,
15

2.6 Page 16

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc bình
để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu
dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn, xã, phường,
ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng định
điền bạ tịch...”1. Đây là bước ngoặt có tính chất quan trọng thể
chế hóa bộ máy hành chính trên vùng đất Nam Bộ của chúa
Nguyễn với đơn vị phủ, huyện, trấn, dinh. Đại Phước thuộc địa
giới dinh Trấn Biên, huyện Phước Long, phủ Gia Định.
Nửa cuối thế kỷ XVIII, vùng đất Đồng Nai là địa bàn tranh
chấp giữa nhà Tây Sơn2 và chúa Nguyễn. Năm 1776, khi đánh
bại chúa Nguyễn, chiếm được Nam Bộ, Đông Định Vương
Nguyễn Lữ đổi dinh Trấn Biên thành Biên Trấn. Vùng đất Đại
Phước thuộc địa giới dinh Biên Trấn trong 2 năm. Đến năm
1788, chúa Nguyễn Ánh cai quản vùng đất Nam Bộ, chia phủ
Gia Định thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn
Định) và 1 trấn (Hà Tiên). Đầu thế kỷ XIX, Nam Bộ có những
thay đổi về hành chính khi vua Gia Long sắp đặt bộ máy hành
chính: Phủ Gia Định thành trấn Gia Định với các đơn vị trực
thuộc như trước (4 dinh, 1 trấn) và dưới có huyện, tổng, thôn
(xã, ấp, phường, lân...). Năm 1808, vua Gia Long tiếp tục đổi
trấn Gia Định là thành Gia Định, dinh Trấn Biên đổi thành trấn
1  Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, (bản dịch của Lý Việt
Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính), Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, tr.111-112.
2  Phong trào Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ
khởi xướng. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế năm 1788, mở ra triều đại Quang
Trung, tồn tại cho đến năm 1802.
16

2.7 Page 17

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Biên Hòa và các đơn vị huyện nâng lên cấp phủ, tổng nâng lên
cấp huyện, đặt thêm một số tổng, phân chia giới hạn căn cứ
trên diện tích đất đai, dân cư và địa thế. Vùng đất Đại Phước
gồm có thôn Phước Thạnh thuộc tổng Thành Tuy, huyện Long
Thành, phủ Phước Long (4 huyện: Phước Chánh, Bình An,
Long Thành, Phước An), trấn Biên Hòa, thành Gia Định. Thôn
Phước Thạnh được xác định về phía Đông giáp thôn An Phú,
Tân Tường, phía Tây và Nam giáp Lương Phước, rừng, phía
Bắc giáp thôn Tuy Thạnh, Bình Phú.
Huyện Long Thành lúc bấy giờ có địa giới khá rộng gồm
một số khu vực thuộc Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ, Bà
Rịa, một phần của thành phố Thủ Đức (Tp. Hồ Chí Minh) hiện
nay. Tổng Thành Tuy có địa giới “phía Đông giáp núi Nữ Ni
(Thị Vải), tổng An Phú, huyện Phước An đến cửa sông Ngã
Bảy (Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trao Trảo, tổng Long Vĩnh
cho đến sông Nhà Bè, Nam giáp Phước Bình Giang (sông Sài
Gòn); Bắc giáp các sách man ở rừng già cho đến sông Đồng
Môn1. Huyện Long Thành lúc bấy giờ gồm 2 tổng: Thành Tuy
(29 thôn, ấp) và Long Vĩnh (34 xã, thôn, phường, ấp). Vùng
Đại Phước gồm làng Phước Thạnh và là một trong 29 thôn ấp
của tổng Thành Tuy, huyện Long Thành.
Năm 1832, vua Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính
trên cả nước. Vùng Nam Bộ được chia thành 6 tỉnh: Phiên An
1  Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch, Huỳnh
Văn Tới hiệu đính), Nxb Tổng hợp Đồng Nai, tr.139.
17

2.8 Page 18

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
(năm 1836 đổi thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường, An
Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên (thường được gọi Nam Kỳ lục
tỉnh). Trấn Biên Hòa nâng lên thành tỉnh Biên Hòa, gồm 1
phủ Phước Long và 4 huyện Bình An, Long Thành, Phước An,
Phước Chánh (22 tổng, 285 xã, thôn). Vùng đất Đại Phước gồm
thôn Phước Thạnh - là một trong 13 thôn, ấp của tổng Thành
Tuy Hạ, huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa1. Sau khi phân định
lại các tỉnh trên cả nước, ở Nam Bộ, vua Minh Mạng cho gộp 2
tỉnh thành một hạt để quản lý. Tỉnh Gia Định và tỉnh Biên Hòa
nhập lại gọi là hạt Định - Biên; cùng với các hạt Long - Tường
(tỉnh Vĩnh Long và Định Tường), hạt An - Hà (tỉnh An Giang
và Hà Tiên). Năm 1837, tỉnh Biên Hòa đặt thêm phủ mới Phước
Tuy. Địa giới phủ Phước Tuy được xác định: “Ở xiên phía Nam
tỉnh thành 105 dặm, Đông cách Tây 111 dặm, Nam cách Bắc
120 dặm. Từ phủ lỵ qua phía Đông đến biển 24 dặm; Tây đến
biên giới huyện Nghĩa An phủ Phước Long 78 dặm; phía Nam
đến biển Cần Giờ 20 dặm; phía Bắc đến huyện Phước Chánh
phủ Phước Long 100 dặm2. Vùng đất Đại Phước thuộc tổng
Thành Tuy Hạ, huyện Long Thành, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên
Hòa, hạt Định - Biên.
1  12 thôn, ấp khác của tổng Thành Tuy Hạ bao gồm: thôn Bình Phú, thôn Hưng
Thạnh, thôn Long Hiệu, thôn Lương Phú Đông, ấp Mỹ Hội, thôn Phú Mỹ, thôn
Phước Kiển, thôn Phước Lai, thôn Phước Thành, thôn Tân Tường, thôn Tuy
Thạnh, thôn Vĩnh Tuy.
2  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, [5 tập, tập II: Địa lý, Xí nghiệp in
Đồng Nai, Nhà in Thông tấn xã Việt Nam, tr.250.
18

2.9 Page 19

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Thời Nam Kỳ thuộc Pháp, từ năm 1864, chính quyền thực
dân Pháp sắp đặt bộ máy hành chính, xóa bỏ hàng loạt các phủ,
huyện ở Nam Kỳ thành lập các Khu Thanh tra, gọi tên theo địa
danh đặt lỵ sở. Tỉnh Biên Hòa chia Biên Hòa thành 2 Tiểu khu
Biên Hòa và Bà Rịa. Tiếp theo, chia ba tỉnh miền Đông Nam
Bộ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) thành 13 Sở Tham biện.
Tỉnh Biên Hòa có 5 sở Tham biện gồm Biên Hòa, Thủ Dầu
Một, Bà Rịa, Long Thành, Bảo Chánh. Năm 1866, tỉnh Biên
Hòa chia làm 6 Địa hạt. Long Thành là một địa hạt cùng với
Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức, Bảo Chánh. Năm
1871, các Khu Thanh tra đổi tên thành hạt Tham biện. Thống
đốc Nam Kỳ ban hành nghị định xóa bỏ hạt Thanh tra Long
Thành, sáp nhập vào hạt Thanh tra Bà Rịa. Như vậy, giai đoạn
này, địa bàn Đại Phước thuộc tổng Thành Tuy, hạt Thanh tra Bà
Rịa nhưng chỉ trong thời gian ngắn lại nhập vào hạt Thanh tra
Biên Hòa. Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ chia toàn bộ Nam
Kỳ thành 4 khu vực hành chính, gồm 19 khu; trong đó vùng
Sài Gòn thành 5 khu: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà
Rịa và Sài Gòn. Mỗi khu vực có một số Tiểu khu tương đương
với một phủ hay một huyện thời Nguyễn. Trong thời gian này,
các đơn vị hành chính trước đó là xã, thôn, ấp đều gọi thống
nhất là làng. Hạt Tham biện Biên Hòa bao gồm địa giới của
huyện Phước Chánh và huyện Long Thành cũ (trừ tổng Long
Vĩnh Thượng chuyển qua hạt Tham biện Sài Gòn). Địa bàn Đại
Phước gồm làng Phước Thạnh và một phần các làng kế cận,
thuộc tổng Thành Tuy Hạ, hạt Tham biện Biên Hòa và sau đó
19

2.10 Page 20

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
trực thuộc khu Biên Hòa, vùng Sài Gòn. Vùng Sài Gòn lúc bấy
giờ chia 5 khu: Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và
Bà Rịa.
Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định,
đổi tất cả các đơn vị hành chính cấp Khu ở Nam Kỳ, gọi là tỉnh
và tồn tại cho đến năm 19451. Lúc bấy giờ, tỉnh Biên Hòa thuộc
Vùng Đông, gồm: Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu Một.
Trong thời kỳ chính quyền thuộc địa Pháp quản lý đến năm
1954, vùng đất Đại Phước còn có tên gọi là làng Phước Lý
có diện tích rộng, tổng Thành Tuy Hạ trực thuộc: huyện Long
Thành, tiểu khu Biên Hòa (1863 - 1864), sở Tham biện Long
Thành (1864 - 1871), hạt Thanh tra Bà Rịa (1871), hạt Tham
biện Biên Hòa, Khu Biên Hòa (1876), Địa hạt Long Thành
(1876 - 1899), tỉnh Biên Hòa (1900 - 1945). Năm 1939, tỉnh
Biên Hòa được chia thành 5 quận (Châu Thành, Long Thành,
Tân Uyên, Xuân Lộc, núi Bà Rá) và quận Long Thành có 3
tổng (Long Vĩnh Thượng, Thành Tuy Thượng, Thành Tuy Hạ).
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), về phía
cách mạng có sự thay đổi theo tình hình chỉ đạo đấu tranh. Từ
năm 1945 đến năm 1951, Long Thành là một huyện thuộc tỉnh
Biên Hòa. Từ tháng 6-1951 trở đi, Long Thành là một huyện
1  Thực thi từ ngày 1-1-1890. Nam Kỳ được chia thành ba miền, có 20 tỉnh, bao
gồm: miền Đông có các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa, miền
Trung có các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Vĩnh Long, Bến
Tre, Trà Vinh và Sa Đéc, miền Tây có các tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên,
Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
thuộc tỉnh Bà - Chợ (sáp nhập tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn). Cuối
năm 1954, tỉnh Thủ Biên chia tách thành tỉnh Biên Hòa, Thủ
Dầu Một, tỉnh Bà Chợ chia tách thành tỉnh Bà Rịa, Chợ Lớn.
Vùng đất Đại Phước có xã Phước Lý, Phước Lập thuộc huyện
Long Thành, tỉnh Biên Hòa (1945 - 1951) và thuộc tỉnh Bà
Chợ (1951 - 1954) và sau đó trực thuộc tỉnh Biên Hòa vào năm
1954.
Từ năm 1954 đến 1975, vùng đất Long Thành cũng có
nhiều sự thay đổi trong cơ cấu hành chính của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa. Ngày 26-10-1955, sau cuộc trưng cầu dân ý,
Ngô Đình Diệm thay Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính
phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền
Việt Nam Cộng hòa chia Nam Bộ thành 22 tỉnh và Đô thành Sài
Gòn. Tỉnh Biên Hòa có 4 quận (Châu Thành Biên Hòa, Long
Thành, Dĩ An, Tân Uyên). Xã Đại Phước có tên gọi chính thức,
thuộc tổng Thành Tuy Hạ, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa1.
Ngày 9-9-1960, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban
hành nghị định số 858-NV thành lập quận Nhơn Trạch của tỉnh
Biên Hòa. Theo nghị định này, quận Nhơn Trạch có hai tổng
Thành Tuy Trung, Thành Tuy Hạ. Tổng Thành Tuy Trung (gồm
các xã Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước
Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền) và tổng Thành Tuy Hạ (gồm các xã
Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thạnh,
1  . Nghị định số 140-BNV/HC/ND của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, chính phủ Việt Nam
Cộng hòa ngày 2-5-1957. Tỉnh Biên Hòa có 4 quận, 11 tổng, 84 xã.
21

3.2 Page 22

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Long Tân). Xã Đại Phước thuộc quận Long Thành (1955 -
1960), quận Nhơn Trạch (1960 - 1975) của tỉnh Biên Hòa. Giai
đoạn này, quận Nhơn Trạch có các xã: Đại Phước, Long Tân,
Nhơn Thạnh, Phú Hữu, Phú Hội, Phú Thạnh, Phước An, Phước
Khánh, Phước Lai, Phước Long, Phước Mỹ, Phước Thiền,
Phước Thọ, Vĩnh Thanh. Xã Đại Phước thời điểm này có diện
tích 9,2km2 và 5.871 nhân khẩu.
Về phía chính quyền cách mạng, tùy thuộc tình hình chỉ
đạo, lãnh đạo hoạt động, đấu tranh đã chia địa bàn Long Thành,
Nhơn Trạch trong từng giai đoạn:
- Thuộc huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa từ tháng 10-
1954 đến tháng 9-1960.
- Thuộc huyện Long Thành, tỉnh Thủ Biên từ tháng 9-1960
đến tháng 7-1961. Sau đó, tỉnh Thủ Biên tách thành 3 tỉnh: Thủ
Dầu Một, Biên Hòa và Phước Thành. Tỉnh Biên Hòa gồm các
huyện: Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch, thị xã Biên Hòa.
Thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa vào năm 1961 đến
tháng 3-1963.
- Thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Bà Biên1 tháng 3-1963 đến
tháng 12-1963 trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa (gọi
tắt là tỉnh Bà Biên).
1  Tháng 12-1966, tỉnh Bà Biên được thành lập trên cơ sở 3 tỉnh Bà Rịa, Long
Khánh, Biên Hòa và đến tháng 10-1967 thì giải thể, thành 3 các đơn vị: tỉnh Bà
Rịa - Long Khánh, Phân khu 4 và Biên Hòa U1.
22

3.3 Page 23

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
- Thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa từ tháng 12-
1963 đến năm 1966.
- Thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Bà Biên từ tháng 12-1966
đến tháng 10-1967. Lúc bấy giờ, tỉnh Long Bà Biên được thành
lập trên cơ sở 3 tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa.
- Thuộc Phân khu 4 từ tháng 10-1967 đến tháng 4-1971 và
Phân khu Bà Rịa từ tháng 5-1971 đến tháng 8-1972 và sau đó
thuộc tỉnh Biên Hòa cho đến tháng 6 -1973.
- Thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa nông thôn từ
tháng 6-1973 đến tháng 4-1975. Năm 1973, tỉnh Biên Hòa chia
thành thành phố Biên Hòa và tỉnh Biên Hòa nông thôn (các
huyện: Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch, Cao
su).
Sau ngày đất nước thống nhất, xã Đại Phước thuộc huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai cho đến năm 1994. Theo Nghị định
số 51-NĐ/CP của Chính phủ ngày 23-6-1994 về việc điều chỉnh
địa giới thuộc tỉnh Đồng Nai, trong đó huyện Long Thành được
chia tách thành hai huyện: Long Thành, Nhơn Trạch. Huyện
Nhơn Trạch có diện tích tự nhiên là 40.146ha và 101.882 nhân
khẩu. Xã Đại Phước thuộc huyện Nhơn Trạch cho đến nay.
3. Truyền thống văn hóa
Cư dân đến khai khẩn vùng Đại Phước khá sớm bởi đây là
vùng sông nước, thuận lợi cho việc đi lại, canh tác nông nghiệp
và đánh bắt thủy sản. Địa giới xã Đại Phước cùng với các xã
23

3.4 Page 24

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Phú Hữu, Phú Đông, Phước Khánh hiện nay gắn liền với những
thôn, làng, xóm, ấp được khai khẩn của người Việt, người Hoa.
Qua nhiều thời kỳ, các thôn làng được lập với nhiều tên gọi qua
những lần mở rộng, sáp nhập với những tên gọi có sự kế thừa
lẫn nhau. Các làng ở vùng phía Nam Nhơn Trạch, trong đó có
xã Đại Phước hiện nay từng có nhiều thôn làng thành lập sớm
nhưng bây giờ thuộc địa giới của các xã lân cận. Làng Phước
Lý có 4 ấp Rạch Giồng, Suối Ngang/Xoài Minh, Bến Đình,
Phước Thành/Rạch Vọp và làng Phước Thạnh/ Suối Nước có 4
ấp: Rạch Giồng, Bến Cộ, Bàu Sen, Cù lao Ông Còn.
Đặc điểm chung của những lớp cư dân khai khẩn ở Nam
Bộ: “Những người đi khai hoang thường theo đường thủy, chọn
những gò đất cao ráo, ven sông rạch để định cư. Những địa
điểm vừa thuận lợi giao thông, tránh được nạn ngập lụt và môi
trường thiên nhiên được ưu đãi nhiều mặt. Khi dân số phát triển
đông, cộng thêm dòng người mới đến, họ bắt đầu tiến sâu vào
đồng nội. Các thành viên trong làng thường có quan hệ huyết
thống, thân tộc, bạn bè và hệ thống chính quyền cũng mang tính
tự trị, tự quản”. Những làng cổ Nhơn Trạch có những đặc điểm
của làng cổ Nam Bộ. Bộ máy hành chính của làng xã Nam Bộ
được thể chế hóa bằng pháp lý qua Minh điều hương ước (ban
hành năm 1852 dưới triều vua Tự Đức có quy định:
- Khi có trên 200 dân đinh, khai khẩn trên 100 mẫu thì được
phép thành lập một thôn lớn, gọi là “xã”.
24

3.5 Page 25

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
- Khi có từ 50 đến 200 dân đinh, khai khẩn từ 50 đến 100
mẫu, được phép thành lập một thôn nhỏ, gọi là “thôn”.
Khi có khoảng 10 dân đinh, khai khẩn khoảng 10 mẫu thì
được phép thành lập một thôn nhỏ hơn, gọi là “ấp” (có khi gọi
là “giáp”, “lân”, “trại”, “lý”) .
Về bộ máy hành chính, khi hình thành một xã thì có năm
loại chức dịch: Một loại có thể xuất thân tầng lớp nghèo nàn chỉ
biết lấy công lao làm thành tích, thì được cử vào các chức vụ
thừa hành, giám sát, tuần tra, ...; Một loại xuất thân từ tầng lớp
có thể cử vào các chức vụ quản lý tiền bạc, tài sản; Một loại có
căn cơ lý lịch (con cháu các bậc có công khai hoang lập làng) có
thể được cử vào các chức vụ gìn giữ truyền thống địa phương;
Một loại xuất thân từ tầng lớp có học hành có thể được cử vào
các chức vụ giấy tờ bút mực, giáo dục, văn hóa; Các quan văn
võ khi hưu trí về làng được cử chức hương quan”, cố vấn các
mặt. Trong một xã có khoảng 30 nhiệm vụ: trưởng mục, hương
chủ, hương sư, hương chánh, hương quản, hương thân, hương
hào, thôn trưởng (xã trưởng), phó thôn, lý trưởng, biện đình,
biện lại, cai lân, cai tuần, trưởng ấp, cai bình, tham trưởng, cai
đình, trì sư, hương điền, chánh bái, hương lễ, hương ẩm, thủ
chỉ, thủ bổn, kế hiền. Để tránh rườm rà, thời đó cho phép mỗi
người kiêm năm ba chức vụ hoặc các đơn vị thôn ấp (nhỏ hơn
xã) được phép tùy nghi lược giản. Tuy không qui định cụ thể,
nhưng ở Nam Bộ khi được phép lập làng xã, thì việc đầu tiên là
đủ khả năng xây dựng các thiết chế: đình, chùa, miếu, võ. Mỗi
25

3.6 Page 26

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
xã (hay thôn) có một nhà vuông (nhà võ), mỗi ấp (hay lân) cũng
có một nhà võ là nơi hương chức làm việc, là trạm canh, nơi
hội họp dân làng dân ấp thờ tiên sư (bậc đàn anh trong xóm)1.
- Tập quán thờ tại gia
Cư dân ở địa phương theo tín ngưỡng truyền thống, duy trì
tục thờ Tổ tiên trong gia đình. Người sống bày tỏ sự tôn kính,
biết ơn, tưởng nhớ đến tổ tiên và thờ qua hình thức lập bàn
thờ trong nhà. Bàn thờ Tổ tiên được bài trí ở vị trí trung tâm,
thường ở gian chính giữa của ngôi nhà. Tục thờ Tổ tiên bày tỏ
lòng thành kính của người còn sống đối với các bậc ông bà, cha
mẹ trở lên khi họ đã qua đời, nối nhau nhiều đời. Một số gia
đình còn duy trì ngày giỗ, qua đó nhớ đến người đã mất, đồng
thời, những người trong dòng họ, người thân được mời đến
cùng tham dự. Đối với người chết, cư dân tổ chức tang lễ chu
đáo. Tùy theo vai thứ trong nhà, sau một thời gian, đưa bài vị,
di ảnh lên bàn thờ. Mỗi năm, vào tháng 12 âm lịch, còn có tục
Chạp mã (lo sửa soạn cho phần mộ những người thân) trước tết.
Trong năm, khi đón tết cổ truyền, trong nhà duy trì nghi thức
cúng mời tổ tiên về dự, cúng tiễn vào ngày mùng Ba âm lịch.
Ngoài việc thờ tổ tiên, cư dân Đại Phước tùy theo quan niệm
của cá nhân, trong nhà có bài trí một số thần linh khác: thần độ
mạng (Quan Âm, Phật Bà, Ngũ Hành, Quan Thánh), thần bếp,
thần tài, ông địa... Một số hộ gia đình còn thờ Trời với hình
1  Trương Ngọc Tường (2004), Làng cổ truyền Nam Bộ qua Minh điều hương
ước, trong sách Nam Bộ Đất và người của Hội Khoa học lịch sử TP.HCM, Nxb.
Trẻ, tr.63-68.
26

3.7 Page 27

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
thức bàn thờ Thiên (trước sân nhà), trang thờ trên vách chính...
Trong chu kỳ đời người, cư dân còn duy trì những nghi thức đối
với những mốc thời gian quan trọng với cá nhân: chào đời (có
những kiêng kỵ, cúng bà mụ, đầy tháng, thôi nôi), hôn nhân (lễ
nói, lễ hỏi, lễ cưới), khi cao tuổi (mừng thọ), qua đời (lễ tang)...
Tùy thuộc vào điều kiện gia đình, những nghi thức, lễ vật có
những giản lược so với trước nhưng vẫn duy trì một số lễ thức
theo truyền thống. Những cư dân có tôn giáo thực hiện các nghi
thức theo quy định giáo nghi, giáo lễ. Trong đời sống xã hội
hiện nay, có nhiều yếu tố tác động đến tập quán, sinh hoạt trong
các lễ nghi truyền thống trong gia đình.
- Thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo
Trên địa bàn xã Đại Phước, có một số thiết chế tín ngưỡng
dân gian, chủ yếu là miếu thờ mang tính cộng đồng. Miếu thờ
gắn liền với sự khai khẩn, lập làng của cư dân. Đối tượng thờ
chính là Bà Ngũ Hành, Bà Cố Hỷ và phối thờ một số đối tượng
khác, tùy theo tín niệm của cư dân tại chỗ.
+ Miếu Chùm Dừa thuộc ấp Phước Lý, xây dựng năm 1956
gần rạch Vàm Ròng. Trải qua hai lần trùng tu vào các năm
năm 1960, 2000. Kiến trúc miếu có dạng chữ tam () gồm:
thảo bạc, chánh điện, nhà khách. Khung kiến trúc được làm từ
những hàng cột gỗ, mái ngói âm dương, không có tường bao.
Đối tượng thờ chính là Ngũ Hành. Hàng năm, người dân tổ
chức lễ vía Bà Ngũ Hành vào ngày 18 và 19 tháng Giêng âm
lịch.
27

3.8 Page 28

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
+ Miếu Chùm Dầu được xây dựng trên 2000 năm, tọa lạc
tại tổ 49, ấp Phước Lý. Kiến trúc hiện tồn được trùng tu, tôn tạo
và mở rộng qua những năm về sau. Xưa, khu vực này có nhiều
cây dầu khá lớn. Tường xây bằng gạch, mái lợp tôn, nền gạch.
Đối tượng thờ là Bà Cố Hỷ. Trong năm, lễ Kỳ yên diễn ra vào
ngày 15,16 tháng Hai âm lịch. Ba năm đáo lệ, tại miếu có lệ cầu
an và diễn chặp Bóng rỗi. Trong khuôn viên miếu có bàn thờ
Mộc thần (gốc cây dầu lớn cao khoảng 3m), miếu Quan Thánh,
đàn thờ Thần Nông, miếu Phật Quan Âm, miếu Phật Di Lặc.
+ Miếu Vàm Ô xây dựng từ đầu thế kỷ XX, năm 1926 được
chuyển dời đến ấp Bến Cộ. Kiến trúc của miếu gồm thảo bạc,
chánh điện và nhà khách. Tường miếu xây gạch, mái tôn, nền
gạch. Đối tượng thờ chính là Bà Cố Hỷ (chữ Hán trong khung
kính). Hàng năm, người dân tổ chức vía Bà vào ngày 15 và 16
tháng Giêng âm lịch. Lễ vật cúng gồm đồ mặn và đáo lệ 3 năm
đáo lệ tổ chức cúng lớn như cúng thần Thành hoàng tại đình.
Tương truyền rằng xưa kia tại ngã ba Vàm Ô, sông nước mênh
mông, hàng ngày nhân dân trong vùng thường nhìn thấy có một
cặp ngỗng thần trắng phau bơi lội. Nhân dân địa phương cho
rằng đây là vùng đất thiêng nên cùng nhau lập miếu để thờ Bà
Cố Hỷ. Ngoài đối tượng thờ chính là Bà Cố Hỷ, miếu còn phối
thờ Thần Nông, bàn Thiên, Hậu Tổ và Đại Thụ. Hàng năm, tại
miếu tổ chức lễ Kỳ yên vào hai ngày 15, 16 tháng Giêng âm
lịch với nhiều nghi thức được duy trì, thu hút nhiều người tham
28

3.9 Page 29

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
dự. Ngày đầu tiên, Ban Quý tế chuẩn bị cho những việc lễ, tổ
chức cúng tiền hiền, hậu hiền vào buổi chiều. Nghi lễ chính vào
2 giờ sáng ngày thứ hai (Thỉnh sanh, Chánh bái). Lễ vật gồm
heo sống, gà xôi, hoa quả. Dân làng dâng cúng hoa, quả, mâm
vàng bạc, đồ trang sức. Định lệ ba năm tại miếu có diễn chặp
Bóng rỗi - Địa nàng.
+ Miếu bà Cù Lao xây dựng cách ngày nay khoảng một thế
kỷ, tọa lạc tại ấp Cù Lao. Vật liệu xây dựng bằng tường gạch,
mái ngói. Hiện nay, miếu tọa lạc trong khu quy hoạch dân cư
cao cấp, chưa có dân ở. Lễ Kỳ yên mỗi năm diễn ra vào ngày
16 tháng Giêng âm lịch.
+ Chùa Chánh Tâm xây dựng năm 2018, tọa lạc tại tổ 49,
ấp Phước Lý. Hàng năm, chùa tổ chức những lễ trọng liên quan
đến Phật giáo. Người dân đến lễ Phật, cầu nguyện vào các ngày
lễ trong tháng và lễ trọng hàng năm.
+ Chùa Pháp Hoa: trước đây được xây dựng bởi Nha Tuyên
úy của chế độ Việt Nam Cộng hòa nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo đối với các gia đình của những người lính làm
việc tại Thành Tuy Hạ vào khoảng năm 1966. Những ngày đầu
đất nước thống nhất, chính quyền cách mạng tiếp quản. Năm
1988, chùa được giao lại cho tổ chức Giáo hội Phật giáo của
huyện Long Thành. Hiện nay, chùa tọa lạc trên khu vực đất
rộng, phía trước là đường nhựa và giáp phía sau là sông. Tại
chùa, duy trì những nghi thức theo Phật giáo.
29

3.10 Page 30

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
+ Nhà thờ Phước Lý: Xây dựng năm 1885 với nguồn gốc
một số giáo dân từ Bến Gỗ, Tân Triều, Tân Khánh đến Phước
Lý định cư lập nghiệp. Nhằm đáp ứng cho sinh hoạt tôn giáo,
linh mục Đoàn Công Triệu, chánh xứ Mỹ Hội (xã Phú Hội hiện
nay) thành lập giáo họ Phước Lý (thuộc Giáo xứ Mỹ Hội). Một
nhà nguyện nhỏ, mái lá được dựng lên để giáo dân thực hiện
lễ nghi. Một thời gian sau, linh mục Henri Louis Lemée (Giáo
xứ Mỹ Hội) dời nhà nguyện đến vị trí hiện nay. Năm 1990,
cộng đoàn Phước Lý xây nhà thờ bằng gạch và mái ngói. Tháng
6-1935, Giáo xứ Phước Lý chính thức được thành lập. Nhà
thờ Phước Lý được xây dựng, mở rộng khang trang với thánh
đường, nhà xứ, nhà Giáo lý, nhà nữ tu. Nhà thờ tọa lạc trên
ngọn đồi cao, mặt tiền nhìn hướng Tây Nam. Trong năm, giáo
dân thực hành các các lễ nghi liên quan đến sự thờ phượng
Thiên Chúa.
Tại chợ cũ Đại Phước, trước đây tập hợp những người dân
tham gia buôn bán khá nhiều, là mạng lưới dịch vụ - thương
mại cho các xã lân cận. Mỗi năm, vào tháng Bảy âm lịch, người
dân tổ chức lễ cúng chợ với nghi thức cúng cầu an, xô giàn với
hình ảnh ông Tiêu rất độc đáo, thu hút nhiều người tham dự.
Nhiều người dân mưu sinh ở khu vực chợ tổ chức những mâm
cúng, tháp bánh... tạo nên nét sinh hoạt nhộn nhịp của khu thị
tứ. Khi quy hoạch chợ về địa điểm mới hiện nay, khu chợ cũ trở
thành địa bàn dân cư, vẫn còn những hộ dân buôn bán hai bên
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đường. Lễ hội không còn duy trì tại chợ cũ nhưng được tổ chức
tại khu chợ mới với quy mô không như trước đây.
*
Xã Đại Phước là địa bàn vùng thấp của sông Đồng Nai, gắn
với hệ thống sông rạch, là khu vực được người Việt khai khẩn,
lập làng khá sớm, trước hết là người Việt, sau đó là cộng đồng
người Hoa. Trải qua nhiều thời kỳ với các thể chế quản lý, xã
Đại Phước phát triển về dân cư, có những thay đổi về địa giới.
Năm 1994, sau khi tách ấp Thị Cầu thành lập xã Phú Đông, xã
Đại Phước ổn định địa giới, là đơn vị hành chính cấp xã thuộc
huyện Nhơn Trạch.
Cộng đồng dân cư xã Đại Phước đa dạng gắn với quá trình
phát triển, để lại những dấu ấn của làng xã, thiết chế tín ngưỡng,
tôn giáo, phong tục tập quán, đời sống kinh tế - xã hội... Trong
thời kỳ kháng chiến chống xâm lược, xã Đại Phước là địa bàn
tranh chấp, gắn liền với những phong trào yêu nước, đấu tranh
cách mạng kiên cường. Hiện nay, trong xu thế phát triển đô thị
của huyện Nhơn Trạch, tác động tích cực ở phía Đông vùng
đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, xã Đại Phước có những thuận
lợi trong quy hoạch, định hướng phát triển với sự đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, liên kết, thương mại dịch vụ, công nghiệp
hóa. Truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng và những lợi
thế về tiềm năng, xã Đại Phước có những chuyển biến tích cực
trong xây dựng địa phương.
31

4.2 Page 32

▲back to top


CHƯƠNG II
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC
ĐẾN Cách mạng Tháng Tám 1945
1. Phong trào yêu nước trước khi thành lập Đảng
Thời nhà Nguyễn, địa bàn Đại Phước thuộc thôn Phước
Thạnh của huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa. Nửa cuối thế
kỷ XIX trở đi, trước sức tấn công của Pháp vào Nam Bộ, triều
Nguyễn thất bại trong bảo vệ đất nước. Ngày 5-6-1862, triều
đình nhà Nguyễn ký với Pháp “Hoà ước hoà bình và hữu nghị”
(gọi tắt theo năm âm lịch là “Hoà ước Nhâm Tuất”) tại Sài
Gòn. Hoà ước gồm 12 điều khoản, nội dung chủ yếu là 3 tỉnh
miền Đông là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và đảo Côn
Lôn hoàn toàn thuộc chủ quyền của Pháp. Thực dân Pháp từng
bước thiết lập bộ máy quản lý ở các cấp hành chính, thực hiện
các đợt khai thác.
Sống trong cảnh cơ cực, bị áp bức, một số cuộc phản kháng,
khởi nghĩa của người dân đã nổ ra ở Nam Kỳ. Cuộc khởi nghĩa
của Trương Định (Trương Công Định) tác động mạnh đến người
dân Đông Nam Bộ, đặc biệt vùng Long Thành, Nhơn Trạch khi
địa bàn nối liền với vùng sông rạch phía Nam là khu vực hoạt
32

4.3 Page 33

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
động của nghĩa quân. Trương Định là Phó Quản cơ đồn điền
Gia Thuận (tỉnh Gia Định), sau được phong Phó Lãnh binh Gia
Định, đã chiêu mộ hàng ngàn nghĩa quân, lập căn cứ chống
Pháp ở Đông Nam Bộ. Sau năm 1862, do ba tỉnh Đông Nam
Kỳ bị cắt nhượng cho Pháp, ông được thăng chuyển Lãnh binh
An - Hà (An Giang, Hà Tiên). Hậu cứ của nghĩa quân ở vùng
Gò Công (nay thuộc Tiền Giang), Lý Nhơn (Cần Giờ - trước
thuộc Biên Hòa, sau thuộc Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí
Minh). Ông được phong tặng chức danh Bình Tây nguyên soái
trong nhiệm vụ chống Pháp. Nhiều nhân sĩ nửa cuối thế kỷ
XIX ở Nam Bộ quy tụ dưới cờ nghĩa Trương Định, trong đó có
Tri huyện Long Thành Đỗ Trình Thoại. Nghĩa quân đã tổ chức
nhiều trận đánh làm cho quân Pháp tổn thất. Năm 1863, quân
pháp tấn công căn cứ Lý Nhơn, Trương Định bị hại bởi thuộc
tướng là Huỳnh Công Tấn. Trương Định hy sinh nhưng nghĩa
quân các tỉnh thành hưởng ứng phong trào kháng Pháp tiếp tục
chiến đấu.
Những trận tấn công Pháp của nghĩa quân Nguyễn Trung
Trực ở Long An, Gia Định tác động đến phong trào kháng Pháp
tại miền Đông Nam Bộ, trong đó có khu vực Long Thành, Nhơn
Trạch. Trận phục kích chiến hạm L’spérance (Hy vọng) của
quân đội Pháp ở vàm Nhựt Tảo được triều đình Nguyễn ban
thưởng. Danh tiếng của Nguyễn Trung Trực vang lừng khắp
nơi, phạm vi hoạt động lan sang miền Đông Nam Bộ như Long
33

4.4 Page 34

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Thành, Phước Lý, Tân Uyên, Biên Hòa1. Sau khi thực dân Pháp
cơ bản bình định các phong trào yêu nước ở Nam Bộ, người dân
tham gia trong các tổ chức yêu nước, hoạt động bí mật, tránh sự
theo dõi của chính quyền thực dân - được gọi là hội kín.
Ở Biên Hòa có một số hội kín yêu nước hoạt động từ cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Năm 1885, hội kín ở Long
Thành do nhà sư Huyền Vi (Trần Văn Tấn) trụ trì chùa Giác
Lâm tổ chức, đã giết tri phủ Long Thành là Trần Bá Hựu. Chính
quyền thực dân Pháp bắt những thành viên của hội kín ở Long
Thành, xét xử tại tòa đại hình Bình Hòa (Gia Định), nhà sư
Huyền Vi bị kết án tử hình, các thành viên: Phạm Trung Báo
(Huỳnh Tấn Thanh), Nguyễn Văn Thượng, Lâm Văn Tôn khổ
sai, chung thân và các án khổ sai 20 năm, 1 án khổ sai 10 năm2.
Đầu thế kỳ XX, hội kín của cụ Đoàn Văn Cự phát triển rộng
từ vùng Thủ Đức lên Biên Hòa, lấy căn cứ tại Bưng Kiệu, Suối
Linh (khu vực phường Long Bình hiện nay). Hội kín chiêu mộ
những người yêu nước, sắm sửa vũ khí, tập luyện võ nghệ chờ
thời cơ đánh Pháp. Năm 1905, thủ lĩnh Đoàn Văn Cự làm lễ tế
và chuẩn bị cho nghĩa quân tấn công quân Pháp. Chính quyền
thực dân Pháp đưa quân bao vây căn cứ Suối Linh đàn áp. Đoàn
Văn Cự và các nghĩa quân chống trả và bị lính Pháp sát hại.
1  Nguyễn Văn Khoa (2001), Anh hùng kháng Pháp Nguyễn Trung Trực, Nxb.
Trẻ, TP.HCM, tr. 55-56.
2  Nhiều tác giả (2001) Địa chí Đồng Nai, tập 3 - Lịch sử, Xí nghiệp in Đồng Nai,
Nhà in Thông tấn xã Việt Nam, tr.192.
34

4.5 Page 35

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Đầu năm 1916, nghĩa quân của Lâm Trung trại tổ chức tấn
công các cơ sở của Pháp (trụ sở hội tề, thành Săng Đá, phá
khám đường). Đây là hội kín Lâm Trung trại được hình thành
ở Gò Mọi (nay thuộc vùng Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu) do
những người có chí khí, giỏi võ tập hợp lại, chiêu tập nghĩa
quân, tích trữ lương thực kháng Pháp. Sau cuộc nổi dậy của
hội kín, chính quyền thực dân truy lùng và dùng nhiều thủ đoạn
bắt những thủ lĩnh của hội đưa ra Tòa án binh xét xử. Theo bản
án của Tòa án binh ngày 27-4-1916, 66 thành viên của hội kín
Biên Hòa được xét xử và bị kết án: xử tử 9 người, xử tử vắng
mặt 8 người, khổ sai chung thân 11 người, 20 năm khổ sai 2
người, 10 năm tù 1 người1.
Các hội kín ở tỉnh Biên Hòa bị đàn áp nhưng đã cổ vũ cho
tinh thần yêu nước của người dân địa phương. Họ sẵn sàng
vùng dậy khi có cơ hội, dù bị đàn áp, không khuất phục bởi bản
án nặng nề của chính quyền thực dân. Vì vậy, khi hội kín yêu
nước, kháng Pháp do Phan Xích Long chủ trương, phát động
mạnh mẽ ở Sài Gòn, người dân vùng Nhơn Trạch, Long Thành
tiếp tục ủng hộ, tham gia. Năm 1913, Phan Xích Long cho in
truyền đơn kêu gọi Sài Gòn, Chợ Lớn nổi dậy chống Pháp và bị
mật thám Pháp bắt, kết án chung thân khổ sai.
Các xã ở Nhơn Trạch, Long Thành có tổ chức hội kín hoạt
động ở một số địa bàn với hình thức liên lạc bằng ám hiệu, mật
1  Trần Thái Bình (1998), Cuộc nổi dậy ở Biên Hòa năm 1916, Tạp chí Xưa &
nay, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, số 52B-6-1998), tr.17.
35

4.6 Page 36

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
hiệu với nhau hoặc tập trung với danh nghĩa của các hoạt động
tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng trên địa bàn (hội miếu, hội
đình). Vùng Nhơn Trạch, Long Thành có các tổ chức trong hội
kín hoạt động, chia theo cụm. Trong đó, vùng Đại Phước thuộc
cụm Phú Hữu, Phước Khánh, Giồng Ông Đông do cụ Nguyễn
Xuân Sáng phụ trách, điểm liên lạc tại Phú Hữu. Các cụm còn
lại gồm: Cụm Phước Thái, Long An, Long Phước do cụ Lê
Lưu Di phụ trách, điểm liên lạc tại đình Long Phước; cụm An
Hoà Hưng, Phước Tân, Tam Phước, Tam An, An Lợi do cụ
Phan Văn Tập phụ trách, điểm liên lạc tại đình Tam Phước;
cụm Phước Lộc, Phước Nguyên, Siph, Lộc An, Bình Sơn do
cụ Huỳnh Thanh Quang và Trần Nghĩa Khánh phụ trách, điểm
liên lạc tại khu Giàu Ba; cụm Phước Long, Phước Thọ, Phước
An do cụ Đặng Phùng chỉ huy, điểm liên lạc tại Phước An; cụm
Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiển do cụ Hồ Văn
Tĩnh lãnh đạo, điểm liên lạc tại Xóm Hố.
Để tránh sự theo dõi của chính quyền thực dân, thành viên
hội kín tập trung vào ngày miếu, đình tổ chức lễ cúng với sự
tham gia đông người. Việc liên lạc, xác định những thành viên
trong tổ chức hoặc ngầm báo cho biết tình hình qua các ám hiệu
cụ thể. Để nhận diện có phải là thành viên trong hội, khi gặp
nhau một người làm bộ bâng quơ, chỉ tay lên trời nói:“Mây vẫn
nặng nề”. Nếu là thành viên của hội sẽ hiểu, chỉ tay xuống đất,
trả lời: “Cơn giông sắp nổ”. Hoặc khi cần liên lạc, gặp nhau để
chuyển tải chủ trương thì hội viên mang theo cây dù với những
ám hiệu để biết: “Dù mang bên tả, đảng viên, Đi việc cơ mật
36

4.7 Page 37

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
nói riêng chủ nhà. Dù mang cái móc trở ra, Bàn sơ chút việc
ghé qua đi liền. Dù mang cái móc trở vô, Phải lo cơm nước với
đồ nghỉ ngơi”1.
Hội kín hoạt động tuyên truyền yêu nước, bày cho đông
đảo người nghèo cách chống sưu cao thuế nặng, chống sự bóc
lột của bọn chủ điền tham lam. Trung tuần tháng 2-1916, các tổ
chức hội kín ở các tỉnh Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa, Chợ
Lớn... kéo về Sài Gòn bí mật bố trí, tiếp cận các mục tiêu, trong
đó có khám đường Sài Gòn, nhằm giải cứu Phan Phát Long và
những người yêu nước bị giam cầm. Cùng với cuộc tấn công
phá khám lớn Sài Gòn, nghĩa quân ở các địa phương Nam Kỳ
cũng nổi dậy tấn công vào chính quyền Pháp. Sau khi làm thất
bại cuộc tấn công vào khám đường Sài Gòn, chính quyền thực
dân Pháp truy lùng, khủng bố mạnh mẽ các tổ chức hội kín yêu
nước ở Nam Kỳ. Những thành viên của hội kín tại Long Thành
như ông Tiều, ông Quý, ông Dệch bị Pháp bắt, một số thành
viên khác “mai danh ẩn tích” tránh sự truy lùng. Nhiều tổ chức
hội kín ở trên địa bàn tỉnh Biên Hòa tan rã. Những thành viên
của hội kín yêu nước ở Long Thành, Biên Hòa trong giai đoạn
này thể hiện lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất,
chấp nhận hy sinh để đánh đuổi kẻ thù xâm lược là thực dân
Pháp. Từ phong trào yêu nước, kháng Pháp của người dân vùng
Đại Phước là những yếu tố thuận lợi cho phong trào đấu tranh
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử đấu tranh Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr.65 (tư liệu của NNC Trần Hiếu Thuận/ Hoàng Thơ).
37

4.8 Page 38

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cách mạng khi tư tưởng vô sản được truyền vào các tầng lớp
nhân dân địa phương.
Từ năm 1926 đến năm 1930, tư tưởng vô sản được truyền
bá ở Sài Gòn và những tiểu tổ của Hội Thanh niên cách mạng
Việt Nam (gọi Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội) được
thành lập ở một số tỉnh Nam Kỳ, trong đó có Biên Hòa. Tháng
10-1926, các hội viên gồm Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn
Lợi được cử đến Sài Gòn xây dựng cơ sở. Bắt được liên lạc
và thu nhận các cơ sở của tổ chức Công hội bí mật của đồng
chí Tôn Đức Thắng, mạng lưới Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí Hội Nam kỳ và Sài Gòn phát triển nhanh
chóng, mạnh mẽ. Từ cuối năm 1926 cho đến vài năm sau, số
hội viên Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội các tỉnh Nam
Kỳ đã có khoảng hơn 500 người. Tại Biên Hòa, một số tiểu
tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội được xây
dựng ở đồn điền cao su Cam Tiêm (nay là nông trường cao
su Ông Quế), Đề pô xe lửa Dĩ An (trước thuộc tỉnh Biên Hòa,
nay thuộc tỉnh Bình Dương), đồn điền cao su Phú Riềng (trước
thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Phước).
Năm 1927, những người dân ở các xã Đại Phước, Phú Hữu,
Phú Thạnh, Long Tân, Phú Hội làm công nhân ở sở cao su Tân
Tường đoàn kết đấu tranh với giới chủ đòi tăng lương, chống
cúp phạt, được nghỉ ngày Chủ nhật và đuổi tên cai gian ác tại
đây. Công nhân đã cử đại diện đến nhà chủ sở và đưa yêu sách.
Chủ sở phải nhượng bộ và đáp ứng một số yêu cầu của công
38

4.9 Page 39

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
nhân. Đây là những hoạt động đấu tranh mang tính chất dân
sinh đầu tiên trong lực lượng công nhân ở các xã của Nhơn
Trạch. Từ môi trường này, người dân qua đội ngũ công nhân
được tuyên truyền về cách mạng. Trong công nhân làm việc ở
sở Tân Tường, Thành Tuy Hạ bắt đầu hình thành tổ chức Công
hội đỏ, truyền bá tư tưởng vô sản và tinh thần đoàn kết đấu
tranh của giai cấp công nhân. Đặc biệt, tại Phú Riềng, tháng
10-1929 thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng gồm 6
đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (Bí thư), Trần Tử Bình, Tạ, Hồng,
Hò, Doanh. Công nhân vùng đồn điền cao su, các sở làm ở đô
thị Biên Hòa, ở Sài Gòn đã nổ ra những cuộc đấu tranh với sự
hưởng ứng của quần chúng đòi dân sinh. Tinh thần cách mạng
vô sản được tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân.
2. Phong trào cách mạng từ khi thành lập Đảng (1930
- 1945)
Năm 1929, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản: Đông Dương
Cộng sản Đảng (tháng 8-1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng
8-1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 9-1929) hoạt
động, ảnh hưởng chung phong trào cách mạng vô sản. Nguyễn
Ái Quốc với tư cách là Đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản,
triệu tập hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
tại Hương Cảng (Trung Hoa). Hội nghị nhất trí việc hợp nhất
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và bầu Ban Chấp hành Trung
39

4.10 Page 40

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
ương lâm thời. Ngày 3-2-1930, đánh dấu sự kiện quan trọng
với lịch sử của Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập. Đây là bước ngoặt quan trọng cho phong trào đấu
tranh yêu nước của Việt Nam sau những phong trào đấu tranh
trước đó khởi xướng của nông dân, của các sĩ phu phong kiến
hay xu hướng tư sản thất bại.
Sau hội nghị hợp nhất, đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn
Thiệu được phân công về Nam Kỳ thống nhất các tổ chức Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Việc thành lập Đảng là bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta.
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng”1. Cuối tháng 2-1930, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bộ lâm
thời Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nam Kỳ được thành lập (gọi
là Xứ ủy) do đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư.
Tại Biên Hòa, có những sự kiện đấu tranh cách mạng liên
quan đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác động
đến các tầng lớp nhân dân. Công nhân đồn điền Phú Riềng dưới
sự chỉ đạo của chi bộ Đảng đã nổi dậy đấu tranh từ cuối tháng
1 đến ngày 6-2-1930, được gọi là “Phú Riềng Đỏ”, gây chấn
động cho chính quyền thực dân, có tác động tích cực cho các
phong trào đấu tranh ở Biên Hòa, miền Đông Nam Bộ.
1  Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.8.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Xã Đại Phước trong khu vực chung của quận Long Thành
có những ảnh hưởng từ phong trào cách mạng chung của tỉnh
Biên Hòa. Những người dân ở Đại Phước, Phú Hữu ngoài công
việc làm ruộng đã làm thuê ở các sở của giới chủ tư bản Pháp
(sở Tân Tường/còn gọi là sở Dừa), ở các công trình do chính
quyền thực dân xây dựng... Một số qua vùng Sài Gòn làm thợ
trong các hãng xưởng và được tuyên tuyên về cách mạng. Ông
Nguyễn Sanh Thành làm thợ trong hãng dầu Ănglê được ông
Bảy Dài tuyên truyền về giai cấp, đường lối cách mạng, tham
gia các cuộc đấu tranh dân sinh ở Sài Gòn1. Từ khi giác ngộ
cách mạng, ông Nguyễn Sanh Thành học thuộc lòng cuốn Điều
lệ Đảng Cộng sản Đông Dương và bí mật phổ biến đến những
người thân quen ở Đại Phước, Phước Lý, Phú Hữu, Phước
Khánh...
Làn sóng đấu tranh cách mạng ở Việt Nam sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam thành lập dâng cao. Cao trào Xô viết Nghệ
Tĩnh2 diễn ra mạnh mẽ với lực lượng công nhân, nông dân dưới
hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ, tấn công vào cơ quan
chính quyền thực dân ở địa phương. Ở Nam Kỳ, các cuộc bãi
công, đình công của công nhân và được sự hưởng ứng, ủng hộ
của nhiều tầng lớp nhân dân. Trước tình hình này, thực dân Pháp
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.29.
2  Xô Viết Nghệ - Tĩnh: phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân ở Nghệ
An, Hà Tĩnh giai đoạn 1930-1931. Cuộc đấu tranh dưới sự chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương thông qua Xứ ủy Trung Kỳ. Lực lượng cách mạng khi làm
chủ đã thành lập tổ chức nông hội (xã bộ nông) giống như hệ thống Xô viết của
Cách mạng Tháng Mười ở Nga. Thực dân Pháp đã đàn áp phong trào .
41

5.2 Page 42

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
và chính quyền tay sai tập trung đàn áp, khủng bố những người
cộng sản và tổ chức Đảng. Các đồng chí lãnh đạo của Trung
ương Đảng bị Pháp bắt, Xứ ủy Nam Kỳ tan rã. Xứ ủy Nam Kỳ
tái lập nhưng bị tan rã. Trong giai đoạn từ năm 1931 đến cuối
năm 1934, hoạt động của tổ chức Đảng trong ở Nam Kỳ lâm
vào tình thế khó khăn trước sự khủng bố trắng của chính quyền
thực dân. Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy
ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập lãnh
đạo, chỉ đạo phong trào trong nước như chức năng, trách nhiệm
của Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 3-1935, Đại hội đại
biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc), đề ra
ba nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng; Đẩy mạnh
cuộc vận động tập hợp quần chúng; Mở rộng tuyên truyền
chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ
cách mạng Trung Quốc... Đại hội thông qua Nghị quyết chính
trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận động quần chúng,
bầu Ban Chấp hành Trung ương do Lê Hồng Phong làm Tổng
Bí thư, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản
và đồng chí Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng
bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Sau thời gian khó khăn, phong trào cách mạng từng bước
được gây dựng lại ở Biên Hòa. Từ tháng 5-1933, đồng chí
Trương Văn Bang (Ba Bang) tiếp tục lập lại Xứ ủy Nam Kỳ và
cử cán bộ về các tỉnh móc nối, gây dựng cơ sở cách mạng. Tại
Biên Hòa, một số đảng viên sau thời gian tạm lánh trở lại hoạt
động. Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu được Liên
42

5.3 Page 43

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động tại Biên Hòa. Từ các cơ sở
này, chi bộ Đảng xã Bình Phước - Tân Triều được thành lập1.
Sự thành lập chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều đánh dấu sự
phục hồi phong trào cách mạng trên địa bàn Biên Hòa. Vùng
Nhơn Trạch - Long Thành, phong trào đấu tranh cách mạng
cũng bắt đầu nhen nhóm lại sau thời gian bị chính quyền thực
dân Pháp khủng bố.
Tháng 6-1936, có những biến động trong chính thể của
nước Pháp khi Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền,
thực thi một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa, trong đó có
Việt Nam. Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình
Việt Nam, cử Toàn quyền mới ở Đông Dương, thực thi một số
luật sửa đổi (luật bầu cử Viện Dân biểu, ân xá tù chính trị, nới
rộng quyền tự do báo chí...). Đảng Cộng sản Đông Dương tổ
chức hội nghị tháng 7-1936, đề ra đường lối và phương pháp
đấu tranh ở Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị tổ chức tại
Thượng Hải (Trung Quốc), do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì,
xác định: Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền
Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ
trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc
địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân
1  Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều gồm có các đồng chí: Hoàng Minh Châu
(Bí thư), Huỳnh Văn Phan (Phó Bí thư), Lưu Văn Viết, Lưu Văn Văn, Quách Tỷ,
Quách Sanh, Trần Minh Triết... Bình Phước - Tân Triều hiện nay thuộc địa bàn
xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Địa điểm thành lập chi bộ đã được
xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2001.
43

5.4 Page 44

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp
các hình thức công khai, hợp pháp và bất hợp pháp. Đồng thời,
hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân
phản đế Đông Dương. Tháng 3-1938 đổi thành Mặt trận Thống
nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông
Dương). Đảng kêu gọi thành lập các Ủy ban hành động để tập
hợp quần chúng đấu tranh chuẩn bị cho Đông Dương đại hội.
Ở Nam Kỳ, ngày 13-8-1936, Ủy ban lâm thời Đông Dương
Đại hội được thành lập tại Sài Gòn. Ở Biên Hòa thành lập Ủy
ban hành động do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa làm chủ tịch.
Các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nghĩa được Ủy
ban Đông Dương Đại hội phân công phụ trách Biên Hòa. Ủy
ban hành động tỉnh Biên Hòa phân công các đảng viên về Long
Thành, Nhơn Trạch phổ biến tài liệu, tuyên truyền vận động,
kêu gọi đấu tranh. Phong trào đã tập hợp, thức tỉnh nhiều người
trong các tầng lớp xã hội hưởng ứng, tham gia. Tại các địa bàn
cơ sở, nhà máy, xí nghiệp, giới chức và người lao động thành
lập các ủy ban hoạt động sôi nổi. Hàng loạt các tổ chức hội
đoàn ở các địa phương từ vùng đô thị Biên Hòa đến các vùng
nông thôn như: hội Ái hữu các ngành nghề, hội Tương tế của
nhiều giới, hội Chùa, hội Miếu, hội Lân, hội Cày, hội Cấy... thu
hút nhiều người tham gia. Những vấn đề “dân nguyện” như
giảm sưu, giảm tô, bãi bỏ thuế... được gửi đến chính quyền thực
dân. Qua các hoạt động này, phong trào cách mạng phục hồi,
phát triển, có lực lượng bồi dưỡng, tạo nên những cơ sở cốt cán,
kết nạp vào hàng ngũ Đảng.
44

5.5 Page 45

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí
Trương Văn Bang (Ba Bang, Ba Đen), nguyên Bí thư Xứ ủy
Nam Kỳ (1933-1934) đến Biên Hòa phát triển cơ sở, thành lập
Tỉnh ủy. Trên cơ sở chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều, Tỉnh
ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa thành lập đầu năm 1937 do đồng
chí Trương Văn Bang làm Bí thư. Các đồng chí Tỉnh ủy viên
gồm: Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Huỳnh
Văn Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ... Tỉnh ủy tiến hành công tác xây
dựng Đảng ở Biên Hòa với các bước phát triển mới, nhiều tổ
chức quần chúng được thành lập ở Long Thành như Công hội,
hội đoàn, trong đó có sở Ông Cố (Phú Hội), sở Tân Tường (Phú
Thạnh). Sự thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đã tác động
mạnh đến phong trào đấu tranh chung, có sự chỉ đạo từ trên
xuống cơ sở, các chi bộ đảng nhiều nơi thành lập.
Từ năm 1937 đến năm 1939, đấu tranh cách mạng diễn
ra rộng khắp cả ở vùng đô thị, vùng đồn điền cao su và nông
thôn, bằng cả phương thức vừa bí mật và công khai ở Nam
Kỳ. Cùng với tình hình chung, phong trào cách mạng ở Nhơn
Trạch - Long Thành bắt đầu đi vào chiều sâu. Một số đảng
viên của Xứ ủy Nam Kỳ được cử về Long Thành - Nhơn Trạch
hoạt động: Dương Bạch Mai (địa bàn Phước Lộc, Long An,
An Lợi, Phước Thiền); Nguyễn Văn Nghĩa (Nghĩa Xược), Hồ
Văn Đại (địa bàn đồn điền Siph, Bình Sơn, An Viễn); Trương
Văn Bang, Nguyễn Văn Lũy, Huỳnh Văn Ký (địa bàn Tam An,
Tam Phước, An Hòa); Hồ Văn Giàu (địa bàn Phước An, Phước
Thọ). Các đồng chí đảng viên đã giúp quần chúng nhân dân
45

5.6 Page 46

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản
và mục tiêu đấu tranh của cách mạng. Tinh thần yêu nước và
những hoạt động Đông Dương đại hội ở Biên Hòa khá sôi nổi,
tạo khí thế đấu tranh bằng nhiều hình thức khiến chính quyền
thực dân Pháp lo ngại.
Tình hình thế giới năm 1939 chuyển biến phức tạp đã tác
động đến Việt Nam và chính quyền thực dân Pháp ở Đông
Dương. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương,
chính quyền thực dân thay đổi Toàn quyền, thực hiện hàng loạt
chính sách nhằm vơ vét sức người, sức của cho chiến tranh.
Ngày 4-1-1940, Toàn quyền Đông Dương G. Catroroux tuyên
bố tại Hội đồng Chính phủ Đông Dương: “Chúng ta đánh toàn
diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu
tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được
yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền
không thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động
không chút thương tiếc1. Bộ máy chính quyền thực dân ở Đông
Dương được tăng cường, chúng ra những nghị định cấm tuyên
truyền cộng sản, lưu hành tài liệu cộng sản, giải tán các hội ái
hữu, nghiệp đoàn, tiến hành truy lùng bắt giam đảng viên cộng
sản, những người yêu nước. Những thành quả, quyền lợi của
nhân dân Việt Nam đấu tranh trong thời kỳ Đông Dương đại
hội thời kỳ Mặt trận dân chủ thực dân Pháp xóa bỏ, thủ tiêu.
1  Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2010), Đại cương lịch sử
Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr.802.
46

5.7 Page 47

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Khi Pháp đầu hàng phát xít Đức và phát xít Nhật đưa quân vào
Việt Nam vào tháng 9-1940. Phong trào đấu tranh cách mạng
Việt Nam tiếp tục bị đàn áp, đứng trước những khó khăn trong
tình cảnh “một cổ hai tròng” từ sự cấu kết của thực dân Pháp,
phát xít Nhật. Ở Biên Hòa, cán bộ, đảng viên thực hiện rút vào
hoạt động bí mật, một số bị bắt giam tại các nhà tù thực dân.
Tình hình cách mạng ở Việt Nam lâm vào khó khăn. Ở
Nam Bộ, ngày 6-11-1939, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị
(lần VI), tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) do đồng chí Bí
thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị nhấn mạnh việc củng cố
Đảng về mọi mặt, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ sang đấu tranh trực tiếp, từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp
pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp, thành lập Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, dự bị những điều kiện
bước đến bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Năm
1940, Xứ ủy Nam Kỳ1 họp bàn về khởi nghĩa, dự định tiến hành
vào đêm 22 rạng ngày 23-11-1940.
Khởi nghĩa Nam Kỳ có quyết định hoãn của Trung ương
Đảng nhưng ở các địa phương Nam Bộ không kịp nhận thông
1  Xứ ủy Nam Kỳ là tổ chức của Đảng thành lập năm 1930, đồng chí Ngô Gia
Tự làm Bí thư đầu tiên, lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng ở Nam Bộ. Xứ
ủy nhiều lần thay đổi trước sự khủng bố, đàn áp của thực dân Pháp. Sau khởi
nghĩa Nam Kỳ thất bại, Xứ ủy Nam Kỳ mất liên lạc với Trung ương Đảng. Từ
năm 1943 - 1945, hình thành 2 Xứ ủy với tên gọi: Tiền Phong, Giải Phóng. Ngày
15-10-1945, tại Cầu Vỹ (Mỹ Tho) diễn ra hội nghị thống nhất Xứ ủy, bầu đồng
chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư.
47

5.8 Page 48

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tin. Tại Biên Hòa, khởi nghĩa đã nổ ra mạnh ở Châu Thành,
Tân Uyên (nay thuộc Bình Dương) sau thời gian chuẩn bị, phát
động. Thực dân Pháp tiến hành đàn áp. Các cán bộ chủ chốt Lê
Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ bị bắt, đày ra nhà tù Côn Đảo, đồng
chí Huỳnh Liễng hy sinh, một số đồng chí khác bị bắt giam tại
nhà tù Tà Lài (nay thuộc huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai), Bà
Rá. Lực lượng vũ trang do đồng chí Nguyễn Văn Qùy (Chín
Quỳ) rút vào hoạt động bí mật vùng rừng núi Tân Uyên.
Sau khi phát xít Nhật đưa quân vào Đông Dương, từng bước
lấn ép thực dân Pháp. Những hiệp ước, hiệp định giữa Nhật và
Pháp năm 1941 tạo cho Nhật Bản có nhiều ưu đãi trên lãnh thổ
Đông Dương1. Nhật từng bước độc chiếm thị trường về kinh tế,
quân đội Nhật tự do đi lại và chính quyền thực dân Pháp cung
cấp các phương tiện chiến tranh, thiết lập các cơ sở quân sự,
đảm bảo những điều kiện hậu phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhận định: Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng
Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực
dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó
dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”2.
1  Hiệp định Tôkiô ngày 6-5-1941, Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt của Nhật Bản
về kinh tế, Hiệp định ngày 29-7-1941 có danh nghĩa “Phòng thủ chung Đông
Dương” quân đội Nhật Bản tự do đi lại và không hạn chế về số lượng; Hiệp định
quân sự ngày 8-12-1941, Pháp phải đảm bảo những điều kiện hậu cần cho quân
đội Nhật Bản.
2  Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập III, 1930 - 1945, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1995, tr.556.
48

5.9 Page 49

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Tại Long Thành, quân đội Nhật chia nhau đóng ở sở Bà
Đầm, khu căn cứ Nước Trong, nhà máy điện, khu Thái Thiện.
Để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, hằng ngày, quân Nhật
lùng bắt từ 300 - 400 người người đi làm xâu xây dựng sân
bay, đường xá, đồn bót. Người dân Long Thành thì trước cảnh
Pháp bắt lính, Nhật bắt phu. Những tên lính Nhật cũng ác độc
tàn bạo như lính Pháp. Người dân bị bắt đi phu làm việc cực
nhọc trong quá trình Nhật dựng sân bay Nước Trong (An Lợi)
và Gò Dầu (Phước Thái), làm đường ở Bến Gỗ, Hố Nai, Bà Rịa
nhiều tháng trời. Nhiều người bị bắt lao động hà khắc, phản
kháng thì bị đánh chết, bị bệnh không được điều trị phải bỏ
mạng khi bị trả về. Đời sống người dân Nhơn Trạch thời điểm
này vô cùng cơ cực. Hột lúa vùng đất giồng làm ra vất vả, lính
Nhật còn bắt dân đóng lúa hương lẫm, số lúa này chúng đem
đốt thay cho than để chạy máy. Không có gạo ăn, người dân
phải mót khoai lang, khoai mì, ăn độn rau các loại, nạn thiếu
đói xuất hiện ở Nhơn Trạch. Trước đây, người dân trồng bông
hoặc mua nguyên liệu (bông, chỉ) dệt vải (vải ta) nên nhà ng-
hèo thì vẫn sắm đủ quần áo để mặc vì giá rẻ. Khi Nhật chiếm
đóng, cấm không cho người dân được dệt vải, vận chuyển, mua
bán để tiêu thụ hàng từ Nhật chuyển sang. Người dân Nhơn
Trạch không có tiền mua vì giá đắt nên phải sử dụng bao bố,
bao tải làm quần áo. Bên cạnh thiếu ăn, thiếu mặc, trong sinh
hoạt cũng không có dầu để sử dụng. Người dân lấy hột trái mù
u, dừa ép làm dầu thắp. Đa số người dân vùng nông thôn ở
Long Thành, Nhơn Trạch sống trong cảnh đói kém, thiếu thốn,
49

5.10 Page 50

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cơ hàn1. Để hướng dân chúng ủng hộ, Pháp và Nhật sử dụng
nhiều chiêu bài tuyên truyền lừa dối, mị dân. Thực dân Pháp
tuyên truyền về chủ thuyết “Pháp - Việt đề huề”, tuyên truyền
về “Cần lao, Gia đình, Tổ quốc” để cùng nhau hợp tác, xây
dựng phát triển, không nên chống đối, phản kháng chính quyền.
Phát xít Nhật chủ trương thành lập khối “Đại Đông Á” kêu gọi
người dân bởi “đồng văn đồng chủng”, cùng “máu đỏ da vàng”
nên ủng hộ Nhật chống Pháp. Ở Long Thành, một số người
như Trần Quang Vinh, Nguyễn Văn Sót làm tay sai đắc lực cho
quân Nhật. Hoạt động cách mạng ở các địa phương tỉnh Biên
Hòa giai đoạn này lâm vào khó khăn, kéo dài đến năm 1943
khi chiến tranh thế giới có những biến chuyển giữa các khối
tham gia.
Nhằm huy động, tập hợp sức mạnh của quần chúng trong
công cuộc giải phóng dân tộc, tháng 5-1941, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tổ chức hội nghị lần thứ VIII2, nhận định
tình hình và xác định nhiệm vụ cách mạng là giải phóng dân
tộc của từng nước Đông Dương, chủ trương thành lập ở mỗi
nước một mặt trận. Việt Nam thành lập Việt Nam độc lập đồng
minh hội (gọi tắt Việt Minh) để tập hợp quần chúng, đoàn thể
cứu quốc. Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn
với đồng bào cả nước: “Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời”.
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch 1930
- 2015, Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.81 - 82.
2  Hội nghị tổ chức tại Pắc Bó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc - thay
mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì, diễn ra trong tháng 5 năm 1941.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Bản Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm có 44 điều cụ
thể để thực hiện hai điều cơ bản mà toàn thể đồng bào mong
ước là làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dân
Việt Nam được sung sướng tự do. Chương trình Việt Minh vừa
ích nước vừa lợi dân, nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng.
Cơ sở Việt Minh, hội Cứu quốc và các đoàn thể lần lượt được
xây dựng ở nhiều địa phương. Lúc bấy giờ, các phong trào đấu
tranh cách mạng ở Biên Hòa, Xuân Lộc, Long Thành... nổ ra
tập trung ở vùng đô thị, đồn điền. Vùng nông thôn Đại Phước,
Phú Hữu, Long Tân ở Nhơn Trạch giáp với khu vực Thủ Đức,
Sài Gòn, quần chúng nắm bắt tin tức biết được những cuộc đấu
tranh, hưởng ứng chống Pháp, Nhật.
Từ cuối năm 1942 trở đi, chiến tranh thế giới có những
chuyển biến có lợi cho khối Đồng Minh nhưng ở Đông Dương,
quân Nhật đẩy mạnh, lấn áp Pháp giành quyền kiểm soát. Nắm
bắt tình hình, từ ngày 25 đến ngày 28-2-1943, Hội nghị Thường
vụ Trung ương Đảng để bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất và xúc tiến khởi nghĩa vũ trang1. Trong năm 1943,
những tổ chức Đảng ở Nam Kỳ được thành lập từ các cán bộ,
đảng viên hoạt động ở Nam Bộ trước đây, trốn thoát ra từ nhà
tù thực dân cùng với những phái viên của Trung ương Đảng cử
vào gây dựng. Ban Cán sự miền Đông thành lập vào tháng 10-
1943, tác động tích cực đến hoạt động cách mạng trong công
1  Hội nghị diễn ra tại Võng La thuộc Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, nay là ngoại
thành Hà Nội. Đồng chí Trường Chinh là Bí thư Đảng.
51

6.2 Page 52

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nhân vùng đồn điền. Xứ ủy Nam Kỳ cử đồng chí Trịnh Văn
Dục (Ba Dục) đến hoạt động ở địa bàn Biên Hòa. Liên Tỉnh ủy
miền Đông phân công đồng chí Trịnh Văn Dục móc nối liên
lạc, xây dựng cơ sở trên địa bàn Long Thành. Để qua mặt sự
kiểm soát của chính quyền lúc bấy giờ, đồng chí Trịnh Văn Dục
cải trang hành nghề bán thuốc lào, nuôi ngựa, đánh xe ngựa...
đi khắp địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành nắm tình hình, tuyên
truyền về cách mạng, gây dựng cơ sở yêu nước, móc nối, xây
dựng tổ chức Đảng.
Tháng 3-1944, các đồng chí Lê Minh Định, Vũ Hồng Phô,
Lý Trần Hoan từ Ban Cán sự miền Đông gặp và trao đổi với
đồng chí Trịnh Văn Dục về tình hình chiến tranh thế giới, chủ
trương khởi nghĩa của Đảng và chuẩn bị cho việc thành lập chi
bộ Đảng tại chỗ theo chủ trương của Xứ ủy. Đồng chí Lê Minh
Định thay mặt Ban cán sự miền Đông giao trách nhiệm đồng
chí Trịnh Văn Dục làm bí thư và cử Vũ Hồng Phô (Vũ Khánh,
Sáu Khánh) và Lý Trần Hoan ở lại hỗ trợ. Đây là chi bộ Đảng
đầu tiên thành lập trên đất Long Thành. Sự thành lập chi bộ
Đảng tại Long Thành là bước chuẩn bị chu đáo có sự lãnh đạo
của Đảng cho phong trào đấu tranh trong tình hình mới, đặc biệt
gây dựng phong trào mạnh mẽ ở các đồn điền cao su và lan tỏa
trong quần chúng nhân dân. Sau khi chi bộ được thành lập các
đồng chí đảng viên đã tổ chức mở “Hội tiết kiệm” trong sở cao
su. Mỗi hội có từ 10 đến 15 người, mỗi tháng đóng một đồng,
không tính lãi. Số tiền góp được dồn cho một người chủ quán,
có nhiệm vụ tổ chức chi tiêu. Công nhân các sở cao su Tân
52

6.3 Page 53

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Tường, Ông Cố, Thành Tuy Hạ cũng thành lập các hội tương
trợ, hội tiết kiệm. Thông qua tổ chức hội tiết kiệm nên hội viên
tham gia bỏ những thói hư trong sinh hoạt trước đây như đánh
bài, rượu chè; đồng thời tiết kiệm được tiền, từng bước giác ngộ
tinh thần yêu nước. Chi bộ đảng tại Long Thành kết nạp thêm
những đảng viên: Mai Hiển Thái, Ba Tiễu. Đồng chí Trương
Văn Kỷ (Bảy Kỷ) là đảng viên hoạt động ở Phước Thiền về
sinh hoạt cùng chi bộ. Lực lượng phát triển, chi bộ phân công
từng đồng chí đảng viên đi vào các sở cao su tuyên truyền và
tổ chức được những người ưu tú làm nòng cốt1. Từ hoạt động
của chi bộ Đảng, những người yêu nước và cơ sở cách mạng
được đến với các địa bàn Đại Phước, Phú Thạnh, Phú Hữu,
Phước Khánh, Phước An, Phước Thọ ở Nhơn Trạch và các chi
bộ đảng tiếp tục được thành lập ở một số đồn điền cao su, nhà
máy. Trong thời gian này, Ban Cao su miền Đông cử đồng chí
Lê Đình Cự tổ chức Liên đoàn cao su tại Long Thành với mục
đích thống nhất chương trình hành động cách mạng. Liên đoàn
đã tổ chức “Nghiệp đoàn xe bò” gồm những phu chuyên chở
gỗ, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm cho các công trình của
quân Nhật. Đồng chí Trương Văn Kỷ phụ trách nghiệp đoàn
này, tuyên truyền anh em đấu tranh bằng hình thức lãn công, bỏ
trốn làm giảm nhân lực, chậm tiến độ xây dựng, gây khó khăn
cho địch.
1  BCH Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng đường
lịch sử, Nxb Đồng Nai, tr.37-38.
53

6.4 Page 54

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Sự mâu thuẫn giữa Pháp - Nhật ngày càng căng thẳng như
dự đoán tình hình của Đảng. Ngày 9-3-1945, Nhật thực hiện
đảo chính Pháp để thống trị Đông Dương. Một ngày sau, chính
quyền Pháp hoàn toàn đầu hàng Nhật ở Đông Dương gây nên
những xáo trộn từ bộ máy chính quyền, các chủ tư bản, quân
lính. Ở Biên Hòa, bộ máy chính quyền của tỉnh và các quận
của Pháp rơi vào tay Nhật và các tổ chức, đảng phái thân Nhật
đẩy mạnh các hoạt động. Trước tình hình mới, ngày 12-3-1945,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị ra chỉ thị:
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước1. Đảng nhận định việc Nhật đảo
chính Pháp tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng
điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi và xác định kẻ thù cần
đánh đuổi lúc này là phát xít Nhật, đưa ra khẩu hiệu “thành lập
chính quyền cách mạng nhân dân Đông Dương”. Chỉ thị chủ
trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ
với các hình thức tổ chức, phương pháp đấu tranh thích hợp và
nhanh chóng chuyển sang tổng khởi nghĩa giành chính quyền
khi có điều kiện.
Các địa bàn Long Thành, Xuân Lộc, Châu Thành... của tỉnh
Biên Hòa các tổ chức đảng phục hồi và khôi phục hoạt động khi
nhiều đảng viên, cán bộ chủ chốt trở về móc nối, liên lạc, phát
1  Hội nghị tổ chức tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh do Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì.
54

6.5 Page 55

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
triển mạng lưới. Trong lúc Pháp bị thất thế trước quân Nhật, các
tổ chức Đảng nhanh chóng đưa người vào làm chủ tình hình,
đặc biệt là bộ máy hội tề ở các xã tan rã, các đồn điền cao su
mà giới chủ bỏ trốn. Chính quyền thân Nhật ở Biên Hòa, Long
Thành được dựng lên với sự thay đổi về nhân sự nhưng chỉ tồn
tại trong một thời gian ngắn khi chính phủ Trần Trọng Kim tan
rã. Từ tháng 5-1945, các hoạt động cách mạng phát triển mạnh.
Xứ ủy Nam Kỳ (Tiền Phong) do đồng chí Trần Văn Giàu làm
Bí thư, thành lập lực lượng Thanh niên Tiền phong1, cử bác sĩ
Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh. Lực lượng Thanh niên Tiền
phong thu hút hàng triệu người tham gia ở Sài Gòn và các tỉnh,
trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, mục đích đánh đuổi
phát xít, tay sai.
Cuối năm 1944, các đồng chí Trịnh Văn Dục, Mai Hiển
Thái, Vũ Hồng Phô tổ chức được Quận bộ Việt Minh ở Long
Thành - tổ chức mặt trận cấp quận đầu tiên ở tỉnh Biên Hòa,
xây dựng thêm những cơ sở ở đồn điền Bình Sơn, An Viễn, thị
trấn Long Thành.
Tại Biên Hòa, lực lượng Thanh niên Tiền phong được
thành lập do Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lĩnh. Ở Long Thành,
lực lượng Thanh niên Tiền phong được tổ chức do thầy giáo
1  Lực lượng Thanh niên Tiền phong thành lập ngày 1-7-1945, tại Sài Gòn.
Một thời gian ngắn phong trào Thanh niên Tiền phong phát triển khá rầm rộ ở
Nam Kỳ. Đến trước khi Cách mạng Tháng Tám, Thanh niên Tiền phong đã có
1.200.000 đoàn viên ở 21 tỉnh thành Nam Bộ, trong đó có tỉnh Biên Hòa.
55

6.6 Page 56

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Nguyễn Văn Chỏi làm thủ lĩnh. Chi bộ Long Thành phân công
đồng chí Liêm, đồng chí Châu sát cánh cùng thầy giáo Chỏi
để nắm lực lượng. Đoàn Thanh niên Tiền phong địa bàn Nhơn
Trạch có lẽ bắt nguồn từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) gắn
với hoạt động của đồng chí Trần Thị Ba - đảng viên cộng sản
được cấp trên phái về Giồng Ông Đông năm 1945. Đồng chí
Trần Thị Ba vóc dáng thấp nhưng lanh lợi, nói chuyện giàu
sức thuyết phục nên tập hợp được nhiều thanh niên vùng Đại
Phước, Phú Hữu, Phú Thạnh, Phước Khánh tham gia vào lực
lượng Thanh niên Tiền phong ở địa phương1. Phong trào Thanh
niên Tiền phong khu vực Nhơn Trạch hoạt động sôi nổi. Tổ
chức Thanh niên Tiền phong được biên chế thành đội, mỗi đội
vài chục người nòng cốt, trang bị thô sơ, một số khẩu súng lấy
hoặc mua được của lính Pháp, còn lại là tầm vông, dây thừng,
giáo mác tự tạo. Nhiệm vụ của các đội là tuần tra canh gác
xóm làng, chống trộm cắp, cướp phá; hăng hái luyện tập quân
sự sẵn sàng chiến đấu để giải phóng dân tộc. Không khí sinh
hoạt của Thanh niên Tiền phong gian khổ nhưng sôi động bởi
tập đội hình, tiếng hát thúc giục tinh thần hăng hái từ bài hát
Lên đàng2. Người dân địa phương tích cực chăm lo hậu cần cho
Thanh niên Tiền phong. Ở xã Đại Phước có một số thành viên:
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch 1930
- 2015, Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.88 (ghi lại từ cụ Phạm Văn
Đạm, cán bộ Tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, xã Phú Thạnh, đã mất).
2  Bài hát Lên đàng của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, sáng tác năm 1944.
56

6.7 Page 57

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
ông Dương Văn Chất làm thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong địa
phương, ông Nguyễn Ngọc Sanh, Trương Văn Trung, Lê Văn
Ba (Tuôi), Đào Minh Xuân...1 là các thành viên nòng cốt.
Vào tháng 5-1945, nhằm kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu
tranh, khởi nghĩa, Liên Tỉnh ủy miền Đông tổ chức hội nghị tại
ấp Vĩnh Cửu, Tam Hiệp, Biên Hòa phổ biến tình hình và nhiệm
vụ cách mạng cho các tỉnh Đông Nam Bộ. Tháng 7-1945,
đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam kỳ tổ chức họp tại
chùa Tân Mai (Biên Hòa) với các đồng chí Hoàng Minh Châu,
Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Đặng Nguyên phổ biến chủ
trương gấp rút xây dựng, phát triển các tổ chức đoàn thể Việt
Minh, nắm chắc lực lượng Thanh niên Tiền phong, đoàn kết
đảng viên trong các nhóm khác nhau, phát triển lực lượng chính
trị, vũ trang và thống nhất hành động để kịp thời nắm bắt thời
cơ, thực hiện khởi nghĩa giành chính quyền.
3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Tình hình thế giới có những chuyển biến khi quân phát xít
thất thế trước khối Đồng Minh. Ngày 8-5-1945, phát xít Đức
đầu hàng không điều kiện. Ở châu Á, quân phiệt Nhật hạ vũ
khí đầu hàng ngày 24-8-1945 khiến lính Nhật ở Đông Dương
hoang mang, dao động. Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập
1  Ông Dương Văn Chất là chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Còn,
ông Nguyễn Ngọc Sanh là chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Mai Thị Sao, Trương
Văn Trung là chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Châu Thị Sao, ông Lê Văn Ba (Ba
Tuôi) là cha của ông Lê Văn Tâm, bí thư chi bộ mật ấp Phước Lý thời chống Mỹ.
57

6.8 Page 58

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
trước đó do vua Bảo Đại đứng đầu không có cơ sở đứng vững.
Quân đội các nước lấy danh nghĩa Đồng Minh kéo vào Đông
Dương giải giáp quân Nhật. Thời cơ để cách mạng thực thiện
tổng khởi nghĩa xuất hiện nhưng phải chạy nước rút trong tình
thế này. Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt
Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Hội nghị của
Đảng tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động
và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa và đưa ra 10 chính sách lớn
của Mặt trận Việt Minh. Ngày 16-8-1945, Tổng bộ Việt Minh
tổ chức đại hội ủng hộ chủ trương khởi nghĩa của Đảng, thông
qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, quyết định thành lập
Ủy ban giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Nhiều địa điểm nổ ra khởi nghĩa và giành thắng lợi, cổ vũ
mạnh mẽ cho cả nước đứng lên. Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa
tại thủ đô Hà Nội thắng lợi. Ngày 20-8-1945, Xứ ủy Nam Kỳ
tổ chức hội nghị tại Chợ Đệm (Long An) phổ biến kế hoạch
khởi nghĩa toàn miền. Ngày 23-8-1945, đồng chí Hoàng Minh
Châu chủ trì họp cùng các đồng chí Huỳnh Văn Hớn, Ngô Hà
Thành, Hồ Văn Giàu, Lê Nguyên Đạt, Đặng Nguyên, Hồ Văn
Đại... bàn khởi nghĩa giành chính quyền tại căn nhà số 2, dãy
phố Sáu Sử trong nội ô Biên Hòa. Hội nghị quán triệt nội dung
chỉ đạo của Xứ ủy, bàn bạc thống nhất và quyết định một số
việc cấp bách:
- Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa trước ở tỉnh lỵ,
phân công một số đảng viên về các quận huy động lực lượng
quần chúng về thị xã tham gia cướp chính quyền.
58

6.9 Page 59

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
- Trung lập hóa quân Nhật, giao cho đồng chí Hồ Văn Đại
và một số đồng chí khác vận động lính mã tà, lính thủ hộ... nộp
súng cho cách mạng, tránh xung đột vũ trang.
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng Minh
Châu phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban nhân dân cách
mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa.
- Giao trách nhiệm cho kinh lý Nguyễn Văn Tàng tiếp xúc
với tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý vận động y bàn giao chính
quyền cho cách mạng.
- Giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Ngọc Liệu và Nguyễn
Đình Ưu tổ chức đưa 500 người về tham gia khởi nghĩa ở Sài
Gòn.
- Huy động lực lượng xung kích trong nhân dân, Thanh
niên Tiền phong tự trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu
hiệu sẵn sàng nổi dậy biểu dương lực lượng cướp chính quyền.
Trên địa bàn Long Thành, chi bộ Đảng đã họp bàn, chỉ đạo
các lực lượng tuyên truyền, vận động công nhân lợi dụng lúc
địch đang hoang mang dao động, tìm cách giữ lấy súng, máy
móc trong các đồn điền, sở cao su của chủ Tây.
Tháng Tám năm 1945, binh lính Nhật và Pháp ở Nam Bộ
căng thẳng gay gắt khi chiến tranh thế giới tác động mạnh.
Phong trào Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn lan rộng ra các
các tỉnh, đặc biệt các địa bàn giáp ranh, trong đó có vùng quê
Đại Phước, Phú Hữu. Ông Nguyễn Sanh Thành tại địa phương
59

6.10 Page 60

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tham gia đoàn Thanh niên Tiền phong tại cầu Lò Đúc (Phú
Nhuận, Sài Gòn) liên lạc chặt chẽ với cô Trần Thị Ba (đảng
viên cộng sản được phái về Giồng Ông Đông hoạt động từ
đầu năm 1945), ông Phạm Văn Búp (ấp Ông Mai) gây dựng
tổ chức. Tại vùng Đại Phước cô Trần Thị Ba tuyên truyền cách
mạng, chuẩn bị cho việc tham gia nổi dậy khi thời cơ đến. Ông
Dương Văn Danh và một số người khác sớm giác ngộ, tham gia
cách mạng từ trước năm 1945, là một trong những người nhận
chỉ đạo và tổ chức cho người dân khởi nghĩa giành chính quyền
ở Đại Phước khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra.
Lúc bấy giờ, Ủy ban khởi nghĩa huyện Long Thành do các
đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái chủ trì
họp, phân công kế hoạch, địa bàn phụ trách, huy động công
nhân đồn điền, nhân dân các xã kéo về quận lỵ tham gia giành
chính quyền. Lúc 4 giờ chiều ngày 23-8-1945, xảy ra sự cố bất
ngờ ngoài kế hoạch. Ông Chín Lợi là đạo trưởng thuộc giáo
phái Cao Đài tại huyện Long Thành dẫn 200 người trang bị vũ
khí ập vào dinh quận Long Thành với ý định gây sức ép buộc
quận trưởng bàn giao chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa Long
Thành phân tích tình hình, thông báo trong toàn lực lượng đấu
tranh tuân thủ sự chỉ đạo của cách mạng.
Kế hoạch khởi nghĩa vẫn được tiến hành theo dự kiến. Lúc
6 giờ sáng ngày 24-8-1945, các đội xung phong nòng cốt là
Thanh niên Tiền phong của Chi bộ Long Thành, Bình Sơn đã
có mặt làm nhiệm vụ, canh gác ở các ngả đường trên quốc lộ
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
15, tỉnh lộ 17 và 19. Đặc biệt, xung quanh khu quận lỵ ở thị
trấn được bố trí rất nghiêm ngặt. Vào lúc đó, gần một trung
đội lính Nhật đóng ở sở Bà Đầm vẫn án binh bất động. Đến
7 giờ 30 phút đồng bào từ các xã như thác lũ kéo vào thị trấn
Long Thành. Đến 9 giờ, thị trấn Long Thành như sôi lên trong
biển người, cờ đỏ sao vàng, cờ vàng sao đỏ, tiếng hát, tiếng
hô khẩu hiệu vang lên dậy đất. Đúng 10 giờ gần 400 anh em
trong lực lượng xung phong có vũ khí chia làm hai cánh kéo
vào dinh quận. Tiếp đó Ban khởi nghĩa gồm 19 người do đồng
chí Trịnh Văn Dục dẫn đầu tiến vào văn phòng quận trưởng.
Lực lượng của địch lúc này chỉ còn 11 tên lính do đội Giám chỉ
huy, có vũ khí, nhưng không dám chống cự. Trong dinh quận
Long Thành, Chín Lợi cùng quận Hội sợ hãi, im lặng. Đồng chí
Trịnh Văn Dục nhân danh chính quyền cách mạng tuyên bố:
Kể từ giờ phút này chính quyền cũ phải chấm dứt hoạt động từ
huyện đến xã. Chính quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi
của nhân dân trong huyện bắt đầu làm việc. Quận trưởng Hội
của Long Thành phải giao toàn bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ
khí, thả hết các phạm nhân. Cách mạng là sự nghiệp của mọi
người, sẵn sàng khoan hồng cho tất cả những ai đã trót tham gia
chế độ cũ. Sau lời tuyên bố của đồng chí Trịnh Văn Dục, hàng
ngàn người nhất loạt hô vang: “Việt Nam độc lập muôn năm”,
“Chính quyền cách mạng muôn năm”. Quận Hội bàn giao cho
các đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa Long Thành. Trong lúc
đó, nhóm người của ông Chín Lợi rút lui. Sau khi giành được
chính quyền, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức với hơn 3.000
61

7.2 Page 62

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
người tham dự. Trong buổi mít tinh, đồng chí Trịnh Văn Dục
thay mặt Ban khởi nghĩa tuyên bố: “Kể từ giờ phút này chính
quyền cũ bị xóa bỏ. Chính quyền cách mạng huyện đại diện
cho giai cấp công nhân, nông dân trong huyện ra đời. Kể từ
nay nam nữ bình quyền, người dân sống bình đẳng, mọi người
sống hạnh phúc”. Ủy ban cách mạng lâm thời Long Thành ra
mắt đồng bào: Đồng chí Trịnh Văn Dục (Chủ tịch), ông Võ Văn
Truyện (Phó Chủ tịch). Những người tham dự vỗ tay hưởng
ứng, hô vang khẩu hiệu:”Việt Nam độc lập muôn năm”, “Mặt
trận Việt Minh muôn năm”. Giữa lúc ấy, phái đoàn cán bộ đại
diện cho Xứ ủy, miền Đông là các đồng chí Dương Bạch Mai,
Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp đến kịp dự lễ.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, một cuộc họp đảng
viên bầu Huyện ủy Long Thành bằng hình thức giơ tay biểu
quyết. Huyện ủy Long Thành được thành lập, gồm: Đồng chí
Trịnh Văn Dục: Bí thư; đồng chí Vũ Hồng Phô: Phó Bí thư;
đồng chí Trương Văn Kỷ: ủy viên Thường vụ và hai ủy viên:
Nguyễn Văn Phú, Lê Thành Liêm. Đến 17 giờ cuộc mít tinh
kết thúc. Tiếng hát, tiếng trống vang lên như không dứt của
những người tham dự trong không khí vui mừng náo nhiệt.
Người dân Long Thành được hồi sinh, trở thành người tự do
trong một nước độc lập sau hơn 80 năm trong chế độ thống trị
của thực dân Pháp và bị pháp xít Nhật bóc lột. Tin tức về “Việt
Minh” giành lấy chính quyền ở quận lỵ theo chân những đoàn
biểu tình từ thị trấn đến các xã, thôn như một luồng gió thổi
rất nhanh đến với mọi người. Mặc dù chưa thật hiểu nhiều về
62

7.3 Page 63

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Việt Minh, cách mạng nhưng những người dân lao động Long
Thành đều náo nức vui sướng tham gia vào sự kiện lịch sử ở địa
phương. Thanh niên Tiền phong mang cờ đỏ sao vàng, cờ vàng
sao đỏ kéo tới các nhà làng (nhà hội, nhà võ - nơi làm việc của
hội tề xã). Các tầng lớp nhân dân kéo đến nhà làng hò reo, hô
vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm” với niềm vui
lớn. Sáng sớm ngày 25-8-1945, với khí thế dâng cao, người dân
tiếp tục diễu hành với cờ, Thanh niên Tiền phong với gậy tầm
vông khắp các trục lộ 25, lộ 15, lộ 17 và lộ 19.
Ngày 25-8-1945, Ban Đồng Nai tổ chức đoàn người giương
cờ đỏ sao vàng từ khu vực cầu Cháy qua Giồng Ông Đông.
Ban Đồng Nai ban đầu quy tập khoảng 20 người, trang bị một
số súng, đóng ở miếu Bà Bào, gần ấp Xoài Minh, xã Phước Lý
cũ. Thành phần tham gia đa dạng, có các ông Nguyễn Văn Đọt,
một số người trong bộ máy của chính quyền trước Cách mạng
Tháng Tám (cò Hảo, cò Hòa...). Ban Đồng Nai gồm những
người ở Long Thành, hoạt động trên đất Long Thành nhưng
nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Ủy ban kháng chiến Nam Bộ ở Sài
Gòn, biệt lập với huyện ủy, Ủy ban lâm thời huyện Long Thành.
Ở vùng Đại Phước, Phú Hữu, người dân tập trung kéo đến
nhà hội của xã với khí thế hừng hực, hô vang khẩu hiệu, khiến
tổ chức chính quyền sợ hãi, không dám hoạt động. Các khẩu
hiệu được người dân hưởng ứng hô vang khắp các nẻo đường
đi qua: “Việt Nam độc lập đồng minh muôn năm”, “Hồ Chí
Minh muôn năm”, “Việt Minh tốt với dân”,... Trong tình thế
63

7.4 Page 64

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
dân chúng nổi dậy, quân Nhật tại căn cứ phòng không Giồng
Ông Đông rút chạy. Nhân cơ hội này, 300 thanh niên đã chiếm
lấy, làm hội quán hoạt động của lực lượng Thanh niên Tiền
phong. Lực lượng Thanh niên Tiền phong do ông Nguyễn Sanh
Thành làm Đoàn trưởng tích cực tham gia các hoạt động, luyện
tập chăm chỉ, tuần tra khắp các thôn xóm. Hoạt động của lực
lượng Thanh niên Tiền phong rất sôi nổi, được xem như lực
lượng vũ trang, có nhiều đóng góp trong việc bảo vệ lực lượng
cách mạng tại địa phương sau khởi nghĩa Cách mạng Tháng
Tám. Vũ khí của đoàn Thanh niên Tiền phong ít, thô sơ do các
thành viên tự sắm lấy. Mỗi thành viên trang bị gậy tầm vông vạt
nhọn, có cuộn dây thừng treo bên. Một số súng săn, súng hai
nòng (calip đui/donge) mua hoặc đổi được từ lính Nhật hoặc
một số người khác trang bị cho chỉ huy và thành viên chủ chốt.
Ở căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ, sau Tổng khởi nghĩa nổ ra,
quân Nhật đóng trại phía trong trong tinh thần hoang mang chờ
quân Đồng Minh giải giáp. Lực lượng cách mạng địa phương
đặt trạm gác bên ngoài. Mỗi khi lính Nhật đi qua trạm gác phải
đổi một số vũ khí như đạn, lựu đạn, súng cho lực lượng cách
mạng.
Sau bao năm trong cảnh áp bức, nô lệ và “một cổ hai tròng”
của quân Pháp - Nhật, nhân dân vùng Đại Phước, Phú Hữu
vui mừng vì quê hương độc lập. Cách mạng Tháng Tám thành
công, người dân tập trung trong khối đại đoàn kết của mặt trận
Việt Minh đã giành lấy được chính quyền. Ngày 2-9-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Ba Đình (Hà
64

7.5 Page 65

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Nội), thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Sài Gòn,
lễ Độc lập được Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ được tổ
chức. Đồng chí Trần Văn Giàu (Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, chủ tịch
Uỷ ban Hành chính Nam Bộ) thay mặt chính quyền cách mạng
tổ chức một cuộc mít tinh và diễu hành biểu dương lực lượng
toàn dân đoàn kết xung quanh chính quyền cách mạng. Trong
khí thế cách mạng của Nam Bộ những ngày đầu giành chính
quyền, người dân Đại Phước, Phước Lý, Giồng Ông Đông vui
mừng hưởng ứng tích cực các hoạt động của chính quyền cách
mạng.
65

7.6 Page 66

▲back to top


CHƯƠNG III
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1945 - 1954)
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, về phía chính quyền
cách mạng, có Ủy ban hành chính kháng chiến xã Phước Lập
(tập trung ở vùng Cù lao Ông Còn) và khu vực làng Phước Lý,
một phần của xã Phước Thành. Liên vùng Phước Lý, Phước
Lập, Phước Thành và Phú Hữu là địa bàn có phong trào hoạt
động nằm trong sự chỉ đạo chung của cách mạng quận Long
Thành, tỉnh Biên Hòa . Những ngày cuối tháng Tám năm 1945
diễn ra trong một không khí sôi nổi khi Việt Minh lãnh đạo,làm
cuộc cách mạng giành lấy chính quyền về tay nhân dân. Chính
quyền cách mạng quận Long Thành tổ chức nhiều hoạt động
thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Nhân dân Đại Phước
tham gia vào nhiều công tác do chính quyền cách mạng khởi
xướng; đặc biệt những cuộc mít tinh, diễu hành mừng đất nước
độc lập, không còn chế độ phong kiến, thoát khỏi ách đô hộ của
thực dân Pháp, sự cai trị của phát xít Nhật
1. Những ngày đầu kháng chiến (1945 - 1946)
Nhân dân Nam Bộ vui mừng đất nước độc lập chưa được
bao lâu thì thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược Việt
66

7.7 Page 67

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Nam lần thứ hai, tạo nên những vụ gây hấn với chính quyền
cách mạng. Dưới sự hỗ trợ của quân đội Anh với danh nghĩa
Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật, ngày 23-9-1945, quân
Pháp gây hấn ở Sài Gòn mở màn cho một loạt các động quân
sự tiến đánh vào chính quyền cách mạng ở Nam Bộ. Người dân
Đại Phước bước vào một cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo
của chính quyền cách mạng non trẻ.
Vào giữa tháng 9-1945, quân Nhật ở căn cứ Thành Tuy Hạ
buộc phải bàn giao quản lý cho thực dân Pháp theo ký kết của
khối Đồng Minh. Sáng ngày 20-9-1945, đại diện của quân Pháp
từ Sài Gòn đi bằng xuồng máy (bo-bo) theo hướng sông Sâu
vào Thành Tuy Hạ. Nắm được tin, đội vũ trang của Ban Đồng
Nai phục kích chặn đánh khi quân Pháp từ kho Thành Tuy Hạ
trở ra khiến chúng hoảng sợ, cho tàu chạy thoát khỏi trận địa.
Trong đêm, đội vũ trang cảm tử của Ban Đồng Nai đột nhập đốt
nhà máy mủ trong Thành Tuy Hạ. Hôm sau, Pháp điều một đại
đội đến bảo vệ việc tiếp quản căn cứ Thành Tuy Hạ.
Trước khi Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa được thành lập, Quận
ủy Long Thành trực tiếp xin ý kiến và nhận chỉ đạo của Xứ ủy
Nam Bộ về việc tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị,
củng cố chính quyền cách mạng. Được Xứ ủy Nam Bộ nhất trí,
đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, chỉ đạo việc vận động
xây dựng các tổ chức chính trị và đoàn thể từ huyện đến xã.
Chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp, tại nhà hội Bình Trước
67

7.8 Page 68

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
(xã Bình Trước, quận Châu Thành)1 vào ngày 23-9-1945, hội
nghị cán bộ tỉnh Biên Hòa được tổ chức dưới sự chủ trì của Hà
Huy Giáp (đại diện Xứ ủy Nam Kỳ). Hội nghị quyết định thành
lập Tỉnh ủy Biên Hòa do đồng chí Trần Công Khanh làm Bí thư
và đề ra nhiệm vụ trước mắt:
- Củng cố bộ máy hành chính tỉnh (do đồng chí Hoàng
Minh Châu làm chủ tịch, Đặng Nguyên và Huỳnh Văn Hớn -
Phó Chủ tịch, Phan Đình Công - phụ trách viên Quân sự, Ngô
Hà Thành - phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc, Nguyễn Văn Tàng
- thư ký).
- Cử các đoàn cán bộ của tỉnh đến các địa bàn thành lập
quận ủy (các quận Châu Thành, Tân Uyên, Long Thành, Xuân
Lộc).
- Xây dựng Mặt trận Việt Minh tập hợp các tầng lớp nhân
dân, tạo sức mạnh đoàn kết, huy động sức người, sức của cho
kháng chiến chống Pháp. Mặt trận Việt Minh tỉnh do đồng chí
Hồ Hòa làm Chủ nhiệm, Huỳnh Văn Lũy - Phó chủ nhiệm.
- Tổ chức trường huấn luyện quân sự, xây dựng lực lượng
vũ trang chuẩn bị kháng chiến. Tổ chức Thanh niên Tiền phong
và Thanh niên Cứu quốc của tỉnh hợp nhất do đồng chí Hoàng
Bá Bích làm Đoàn trưởng.
1  Nhà hội Bình Trước nay thuộc đường 30 tháng Tư, phường Thanh Bình, thành
phố Biên Hòa, được xếp hạng cấp quốc gia theo quyết định số 2307/QĐ của Bộ
Văn hóa, Thông tin và Thể thao ngày 30-12-1991.
68

7.9 Page 69

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Đến cuối tháng 9-1945, thực hiện chủ trương của Huyện ủy
Long Thành, vùng Đại Phước, Phú Hữu thành lập các tổ chức
đoàn thể cứu quốc tham gia trong Mặt trận Việt Minh. Cuối
tháng 10 năm 1945, được tăng thêm viện binh, quân Pháp tấn
công, phá vỡ vòng vây kháng chiến của chính quyền cách mạng
và bắt đầu tổ chức các cuộc tấn công vào các tỉnh lân cận Sài
Gòn. Khi mặt trận Sài Gòn bị vỡ trước sức tấn công của quân
Pháp, địa bàn Long Thành được nhiều đơn vị vũ trang rút về
đứng chân.
Từ mặt trận phía Nam ở Sài Gòn, theo lệnh của Tư lệnh
Dương Văn Dương, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên1 rút về đóng
quân khắp địa bàn Rừng Sác (khu vực Bà Trao đến Phước An,
từ Thái Thiện đến Tam An). Bình Xuyên là tên gọi lực lượng vũ
trang tự phát, tham gia chống Pháp xâm lược lần thứ hai, xuất
phát từ Sài Gòn (nay thuộc địa bàn Quận 8, TP.HCM). Dương
Văn Dương là thủ lĩnh của lực lượng vũ trang này khi thống
nhất các đơn vị Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm và
đặt tên Bình Xuyên.
Từ Thủ Đức, một đơn vị Cộng hòa vệ binh gồm 50 chiến
sĩ với 12 súng từ rút về Long Thành trong tình trạng chiến đấu
độc lập hết đạn, lương thực. Ủy ban lâm thời quận Long Thành
tiếp nhận và quyết định sáp nhập vào lực lượng Cộng hòa vệ
1  Sau khi đặc phái viên trung ương Nguyễn Bình vào tổ chức quân đội, Dương
Văn Dương được chỉ định làm Khu bộ phó Khu 7. Sau khi Dương Văn Dương mất
vào năm 1946, lực lượng Bình Xuyên bị phân hóa.
69

7.10 Page 70

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
binh địa phương, bố trí đóng quân tại Bến Cam (Phước Thiền).
Một đơn vị do Nguyễn Văn Du, Trịnh Công Tây chỉ huy gồm
hơn 70 người và 20 súng về đóng quân rải rác vùng Phước
Long, Bà Ký và Cầu Xéo; sau này bổ sung thêm toán vũ trang
do Nguyễn Văn Trực, Lê Văn Cảnh phụ trách và tự xưng “Đệ
nhị sư đoàn”1. Trong tình hình khó khăn chung, người dân Đại
Phước cùng với Long Thành tham gia tích cực trong các hoạt
động và đóng góp lương thực, thực phẩm phục vụ cho phong
trào nuôi quân. Với tinh thần tự lực tự cường, người dân Long
Thành phát động phong trào tiết kiệm, đóng góp lương thực,
thực phẩm để lo hậu cần cho các đơn vị vũ trang này. Người
dân không ngần ngại cho chính quyền cách mạng vay mượn tài
sản để phục vụ cho kháng chiến. Bộ đội đóng quân phân tán
trong nhà người dân. Mỗi xã cử nhiều người lo bếp ăn tập thể,
giao các phương tiện đi lại, chủ yếu ghe, xuồng cho bộ đội di
chuyển, xe bò để vận chuyển trang thiết bị, vũ khí.
Những lực lượng vũ trang rút từ các nơi về đứng chân
tại Long Thành; trong đó đơn vị tự xưng “Đệ nhị sư đoàn”
có nhiều thành phần chưa giác ngộ cách mạng hoàn toàn nên
nảy sinh một số trường hợp gây nên dư luận xấu trong quần
chúng nhân dân, ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Những
người chỉ huy Nguyễn Văn Du, Trịnh Công Tây, Nguyễn Văn
Trực, Lê Văn Cảnh có hành vi sợ giặc, xem thường cấp dưới,
1  Cộng hòa vệ binh là lực lượng vũ trang tham gia trong kháng chiến chống
Pháp ở Nam Bộ.
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
sách nhiễu người dân lại uy hiếp chính quyền cách mạng địa
phương, không tuân thủ theo lãnh đạo của tổ chức Đảng và bộ
máy hành chính cách mạng, lại cấu kết với những thành phần
chống đối hành xử theo tính chất quân phiệt. Sau nhiều lần cảnh
báo, chính quyền cách mạng Long Thành đã xử lý và giải thể
lực lượng tự xưng “Đệ nhị sư đoàn”.
Chính quyền cách mạng Long Thành vừa củng cố bộ máy
tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn định các vấn đề liên quan chính
sách, ổn định đời sống nhân dân. Chính sách ruộng đất cho
người dân được thực hiện ở các xã của quận Long Thành, gồm:
Đại Phước, Phú Hữu, Phú Thạnh, Long Tân, Tam An, Tam
Phước, Phước Nguyên, Long Phước. Khoảng 1.000ha ruộng
của chủ đất vắng mặt, chủ điền lớn hoặc phản động được chính
quyền cách mạng tịch thu, tạm cấp cho nhiều nông dân nghèo
không ruộng hoặc ít ruộng để canh tác. Đồng thời vận động một
số chủ điền ở các xã thực hiện giảm tô 25%, hủy nợ lưu khối
(nợ từ lâu không trả nổi) cho hàng ngàn người nghèo. Hưởng
ứng nhiệm vụ diệt “giặc dốt” của chính phủ cách mạng, ở Long
Thành, tùy vào điều kiện riêng mà các xã tổ chức cho người dân
tham gia “Bình dân học vụ” để biết đọc, biết viết. Phong trào
xóa mù chữ tạo nên sự phấn khởi của người dân vốn “đầu tắt
mặt tối” trong cảnh cơ hàn, lo đi làm để có cái ăn, nhiều người
rủ nhau đến các lớp học do các thầy giáo địa phương, cán bộ,
đảng viên đứng lớp. Sau các buổi học, người dân được hội phụ
nữ, thanh niên địa phương tổ chức biểu diễn văn nghệ, được
hòa trong không khí vui vẻ. Chính sách tạm cấp ruộng đất và
71

8.2 Page 72

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
xóa mù chữ của chính quyền cách mạng đến đời sống của tầng
lớp nông dân diễn ra trong thời điểm còn nhiều khó khăn đã tạo
nên niềm tin, sự đồng tình ủng hộ và hưởng ứng các phong trào
cách mạng phát động1.
Ngày 25-10-1945, quân Pháp tiến đánh tỉnh lỵ Biên Hòa.
Lực lượng vũ trang cách mạng rút về các khu vực khác để bảo
toàn quân và xây dựng căn cứ. Quân Nhật ở Long Thành vốn án
binh bất động trước đó thì bắt đầu hoạt động với các hành vi gây
hấn chính quyền cách mạng. Quân Anh, Ấn mang danh nghĩa
Đồng Minh giải giáp quân Nhật nhưng đã thỏa hiệp với Nhật,
dọn đường cho Pháp tiến đánh, mở rộng vùng chiếm đóng các
khu vực lân cận Sài Gòn ở miền Đông Nam Bộ. Trước sức tấn
công của địch, chính quyền cách mạng Long Thành chủ trương
rút về Phước Thiền (cơ quan Đảng), chùa Nước Nhĩ ấp Bến Sắn
(cơ quan hành chính) và các xã để bảo toàn lực lượng, bàn kế
hoạch chống quân Anh, Pháp, Nhật.
Trước tình hình Pháp đẩy mạnh đánh chiếm Nam Bộ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ vào ngày
29-10-1945, khẳng định: “Từ Nam chí Bắc đồng bào ta luôn
luôn sẵn sàng. Mấy triệu người như một, quyết tâm đánh tan
quân cướp nước. Không quân đội nào, không khí giới nào có
thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc...
1  Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họp phiên
đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xác định ngay nhiệm vụ lớn
trước mắt, là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
72

8.3 Page 73

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Trước nạn ngoại xâm, toàn thể quốc dân đã đoàn kết chặt chẽ
thành một khối kiên cố, thành một lực lượng thống nhất mà
không một đội xâm lăng nào đánh tan được”1. Ngày 25-11-
1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc, nhận định tình hình và định hướng cách mạng Việt
Nam. Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế
giới và trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ:
“Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”nêu rõ mục tiêu “dân
tộc giải phóng”, đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc
trên hết”; mọi hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu,
trước mắt “là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”2 Hưởng
ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Long
Thành đoàn kết, quyết tâm tin tưởng vào đường lối kháng chiến
của cách mạng ở địa phương. Cuối năm 1945, chính quyền
cách mạng Long Thành được củng cố. Đoàn Thanh tra chính trị
miền Đông do đồng chí Dương Bạch Mai làm trưởng đoàn về
kiểm tra tình hình kháng chiến Long Thành. Ủy ban nhân dân
huyện Long Thành được cải tổ gồm: đồng chí Trịnh Văn Dục,
Bí thư Huyện ủy, kiêm chức Chủ tịch huyện, Võ Văn Truyện
(tức Hoàng Việt Hà) giữ chức Phó Chủ tịch, đồng chí Trương
1  Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, tr.89.
2  Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tập 8, tr. 26-27.
73

8.4 Page 74

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Minh Kỷ, Phó Chủ tịch kiêm ủy viên Tư pháp, đồng chí Trịnh
Văn Kính - ủy viên Chính trị, đồng chí Huỳnh Văn Đạo - ủy
viên Quân sự, đồng chí Lương Văn Nho - ủy viên Tài chính,
Nguyễn Văn Hội - ủy viên Xã hội, Nguyễn Văn Thai - Thư ký.
Quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và tiến hành các hoạt
động mở rộng vùng chiếm đóng Long Thành. Quân Nhật sau
một thời gian án binh bất động đã bung ra hoạt động cướp bóc
ở một số địa bàn dọc các trục lộ của Long Thành và hỗ trợ
quân Pháp. Đầu tháng 11-1945, quân Nhật tổ chức bắt đồng
chí Trịnh Văn Dục (Bí thư kiêm chủ tịch Uỷ ban), đồng chí Đỗ
Hữu Phú (phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc) huyện Long Thành.
Nhân dân Đại Phước hưởng ứng kêu gọi của chính quyền cách
mạng huyện Long Thành tham gia cuộc mít tinh tuần hành
đấu tranh phản đối. Ngày 13-11-1945, khắp các ngả đường về
thị trấn Long Thành, quần chúng tham gia cuộc vận động của
Huyện ủy Long Thành. Hàng ngàn người dân xuống đường
kéo về thị trấn Long Thành. Cuộc biểu dương lực lượng của
quần chúng được tổ chức chặt chẽ, đầy đủ các tầng lớp nhân
dân: công nhân, nông dân, phụ nữ, tiểu thương, viên chức, tín
đồ của tôn giáo yêu nước tham gia... Nhiều khẩu hiệu đả đảo
lính Nhật, thực dân Pháp, đòi thả cán bộ cách mạng được quần
chúng giương cao trên đường tuần hành. Lính Nhật bố trí tại thị
trấn Long Thành, ngả đường vào Sở cao su Siph - nơi giam giữ
đồng chí Trịnh Văn Dục, Đỗ Hữu Phú. Đoàn biểu tình đến thị
trấn, lính Nhật giương súng, tuốt lê ngăn chặn. Hội Phụ nữ đi
đầu hô vang khẩu hiệu, xông vào đội hình lính Nhật, giằng súng
74

8.5 Page 75

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
và kêu gọi người dân tiến lên. Trước khí thế sôi sục của nhân
dân, lính Nhật phải giải quyết ôn hòa. Khi đoàn biểu tình đến
văn phòng sở Siph, lính Nhật rút vào bên trong cố thủ. Hoảng
sợ trước khí thế của người dân, quân Nhật cử người đàm phán.
Huyện cử đồng chí Vũ Hồng Phô dẫn đầu một phái đoàn vào
làm việc. Lợi dụng thời gian tạm nghỉ buổi trưa, tên đại tá chỉ
huy căn cứ đã tổ chức hai xe hộ tống bí mật đưa đồng chí Trịnh
Văn Dục, Đỗ Hữu Phú về Biên Hòa giao cho thực dân Pháp.
Khi biết tin hành động xảo trá của địch, những người tham gia
biểu tình tràn lên tấn công. Lực lượng vũ trang, thanh niên các
xã trong đoàn biểu tình với vũ khí thô sơ chuẩn bị cho cuộc
tiến công vào trụ sở địch. Lính Nhật được lệnh của chỉ huy đã
nổ súng uy hiếp tinh thần của đoàn biểu tình. Trước tình thế
đó, nhằm tránh đổ máu của quần chúng, bảo đảm lực lượng để
chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh tiếp, Ban chỉ huy cuộc biểu
tình phát lệnh rút quân. Các đoàn từ các xã lần lượt trở về địa
phương. Tuy không đạt được mục đích đòi địch thả hai cán bộ
cách mạng nhưng cuộc biểu dương sức mạnh với trên 1.500
người ở Long Thành đã làm cho kẻ thù khiếp sợ; quân Nhật
án binh bất động, không dám hung hăng lùng sục hành quân
vào các làng xã như trước. Đây là cuộc đấu tranh chính trị đầu
tiên sau Cách mạng Tháng Tám, có sự tham gia của nhân dân
Đại Phước với các tầng lớp nhân dân trên địa bàn Long Thành.
Cuộc đấu tranh tập hợp đông đảo lực lượng các đoàn thể Phụ
nữ, Nông hội, Phụ lão, Thanh niên, Phật giáo cứu quốc trên địa
bàn, thể hiện sự đoàn kết trong bảo vệ thành quả cách mạng, cổ
75

8.6 Page 76

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
vũ cho vùng Long Thành nói riêng và cả tỉnh Biên Hòa. Đồng
chí Bí thư Huyện ủy bị địch bắt là một tổn thất lớn của cách
mạng Long Thành.
Trước tình hình đánh phá của các thế lực tay sai, phản động
nhắm vào Đảng và chính quyền cách mạng non trẻ, Đảng Cộng
sản Đông Dương thực hiện phương châm sách lược, tuyên bố
tự giải tán để rút vào hoạt động bí mật1. Trong tình hình này, do
nhận thức chưa đầy đủ, trên địa bàn Long Thành không còn tổ
chức đảng sinh hoạt và là khó khăn cho phong trào đấu tranh.
Tuy nhiên, các đảng viên, người yêu nước vẫn tích cực hoạt
động trong mặt trận Việt Minh, đi sâu vào cơ sở vận động quần
chúng để tiếp tục đấu tranh. Vùng Đại Phước có sự chuẩn bị
cho việc kháng chiến. Đồng chí Trương Minh Kỷ (Bảy Kỷ) -
Huyện ủy viên được cử đến Phú Hữu gấp rút thành lập Mặt trận
Việt Minh, chính quyền và đoàn thể cứu quốc, sáp nhập Thanh
niên Tiền phong vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc, lập Đội Tự vệ
chiến đấu, có kế hoạch chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp.
Xã Đại Phước thành lập Uỷ ban Hành chính kháng chiến, nhiều
thành viên từ lực lượng Thanh niên Tiền phong tại địa phương
tiếp tục hoạt động cách mạng: Dương Văn Chất, Dương Văn
Danh, Dương Văn Chứa, Lê Văn Ba (Tuôi), Nguyễn Văn Lắm,
Dương Văn Hiền, ông Hai Cắm...
1  Nhằm duy trì vai trò lãnh đạo chính quyền cách mạng và nhân dân trong thời
kỳ vừa bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, vừa kháng chiến kiến quốc,
Đảng để một bộ phận công khai dưới danh hiệu Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác -
Lê nin ở Đông Dương, giữ phối hợp giữa hoạt động bí mật và công khai.
76

8.7 Page 77

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Ngày 19-12-1945, từ căn cứ Thành Tuy Hạ, quân Pháp tổ
chức càn quét ra vùng xung quanh. Đơn vị đi càn gồm 100 lính
kéo đến Cầu Cháy, bố trí một số súng cối hỗ trợ cho toán lính
tiến lên đường đất đỏ về hướng Giồng Ông Đông. Trên đường,
chúng nổi lửa đốt phá những nhà dân và bắt những gia súc, gia
cầm dân nuôi. Nhận tin báo, lực lượng tự vệ của địa phương bí
mật phục kích dưới ruộng lúa ven đường toán lính hành quân.
Khi những lính Pháp lọt vào địa hình phục kích, đội tự vệ nổ
súng, ném lựu đạn tấn công. Quân Pháp bắn trả tại chỗ và đội
súng cối từ cầu Cháy chi viện để giải thoát. Trận đánh làm hai
lính Pháp bị thương. Người dân địa phương vui mừng vì đội tự
vệ đã dũng cảm, tấn công vào cuộc hành quân của lính Pháp,
khiến chúng hoảng sợ. Đồng chí Trương Minh Kỷ (Huyện ủy
viên), Nguyễn Sanh Thành, Trần Thị Ba đến động viên tinh
thần chiến đấu của đội tự vệ.
Quân Pháp tại căn cứ Thành Tuy Hạ liên tiếp tổ chức càn
phá vùng xung quanh Phú Hội, Phú Thạnh, Long Tân, Tân
Tường (Phú Thạnh). Sau những tổn thất khi hành quân và nhằm
trấn áp sự chống đối của người dân, mỗi cuộc càn quét bố ráp,
lính Pháp thẳng tay bắn người, cướp của, đốt nhà và hãm hiếp
phụ nữ chúng bắt được. Ông Mười Ngãi đi kéo vó tôm về đến
đường bờ cộ giữa hai ấp Bến Cộ và Câu Kê bị lính Pháp bắn
chết, chị Nguyễn Thị Ngọc T. bị lính Pháp bắt, hiếp và sát hại
dã man. Tội ác của lính Pháp làm cho người dân vừa lo lắng và
căm tức, phẫn nộ.
77

8.8 Page 78

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Trước tình hình quân Pháp khủng bố, Mặt trận Việt Minh,
Ủy ban nhân dân cách mạng địa phương phát động phong trào
“Toàn dân tham gia bảo vệ sinh mạng và tài sản nhân dân”.
Phong trào được người dân hưởng ứng tích cực. Theo hồi ức
của ông Nguyễn Văn Thông: Cán bộ đoàn thể phân công nhau
về các ấp vận động dân quân du kích xã lập nhiều điểm gác.
Khi phát hiện lính Pháp đi vào thôn xóm bố ráp thì đánh mõ tre
báo động dây chuyền. Mỗi khi tiếng mõ “cốc, cốc, cốc...” vang
lên từ xóm nọ qua xóm kia, bà con lập tức chạy trốn ra bìa rạch,
ngoài đồng tránh hướng hành quân của địch. Khi nước cạn thì
người dân lội sông, rạch hay băng ruộng để tránh lùng bắt. Khi
con nước lớn thì ai có xuống ghe thì cả gia đình chèo vào rừng
rậm, ai không có thì tìm bờ bụi kín đáo ẩn nấp hoặc lội sông để
trốn. Một số nhà có ông bà lớn tuổi ở lại để ngăn chặn giặc đốt
phá nhà cửa, phá hoại tài sản gia đình. Nhân dân tham gia đắp
nền, làm chòi kín đáo cất giấu thóc lúa, đồ đạc trong các đám
bần, dừa nước ven sông rạch. Vì địa phương là vùng có mực
nước ngầm cao nên việc khoét đất làm hầm sẽ ngập nước vì vậy
người dân làm chòi là phổ biến. Sau khi lính Pháp càn qua, rút
về đồn thì người dân trở về nhà, xóm ấp. Cuộc sống của người
dân khi Pháp quay lại đánh chiếm cứ như thế, khiến người dân
sống trong cảnh vừa cơ cực, vừa luôn trong tâm thế đối phó
với địch lại thêm những nguy hiểm nơi đầm rạch nhiều cá sấu.
Đối với vùng Đại Phước, Phú Hữu cán bộ mặt trận, đoàn thể và
78

8.9 Page 79

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chính quyền cách mạng vẫn bám trụ hoặc đột nhập về để hoạt
động, gây dựng phong trào cách mạng1.
Trên bình diện quốc gia, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách
mạng để khẳng định địa vị pháp lý, chủ trương sớm tổ chức một
cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu để
bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Mặc dù
trong tình trạng quân Pháp tổ chức bình định, càn quét, tỉnh
Biên Hòa tuyên truyền đến người dân tham gia bầu cử Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 6-1-1946. Nhân
dân Đại Phước tham gia bầu cử trong niềm vui bởi đây là lần
đầu họ cảm nhận được địa vị công dân của một nước độc lập dù
trên quê hương còn giặc ngoại xâm. Để chuẩn bị cho bầu cử,
tại các làng xã, đội tự vệ đặt chốt canh gác ở các trục lộ để nắm
tình hình giặc càn, phá hoại, các đoàn thể tham gia tuyên truyền
vận động. Để ngăn cản quân Pháp hành quân, người dân tham
gia phá hoại cầu đường. Nhân dân hưởng ứng thể hiện tinh thần
ủng hộ cách mạng qua lá phiếu bầu của mình.
Tinh thần chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội khóa I vùng Đại
Phước diễn ra sôi nổi với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân
dân. Chính quyền cách mạng tổ chức chu đáo trong công tác
chuẩn bị. Theo hồi ký của đồng chí Nguyễn Văn Thông2, các
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.49.
2  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.56 - 58. Lúc bấy giờ ông
Nguyễn Văn Thông có tên là Nguyễn Chiến Lũy.
79

8.10 Page 80

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nhiệm vụ cách mạng và tuyên truyền cho hoạt động bầu cử
quốc hội như sau: Thành viên các đội Thiếu niên, Nhi đồng cứu
quốc lấy tôn thiếc làm loa, đi các địa bàn thông báo, kêu gọi
người dân tham gia. Nội dung như sau:
“Nghe đây, nghe đây... Ngày 2-9-1945, tại Thủ đô Hà Nội,
Hồ Chủ tịch thay mặt Chánh phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn
độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Nghe đây, nghe đây...
Ngày 20-9-1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh tổ chức bầu cử
Quốc hội khóa I trong cả nước. Vậy yêu cầu đồng bào trong xã
từ 18 tuổi trở lên đi bầu cử vào lúc 7 giờ sáng ngày 6-1-1946 tại
trụ sở Ủy ban nhân dân lâm thời xã ở ấp Nhà Thờ.
Nghe đây, nghe đây... Ngày 3-9-1945, Hội đồng Chính phủ
quyết định phát động trong toàn quốc chiến dịch tăng gia sản
xuất và cứu đói. Yêu cầu đồng bào trong ấp, xã tiếp tục trồng
thêm nhiều khoai, lúa, chăn nuôi thêm nhiều gia súc, gia cầm...
Nghe đây, nghe đây... Ngày 25-11-1945, Trung ương chỉ
thị nhiệm vụ cần kíp của chúng ta là củng cố chính quyền cách
mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống nhân dân”.
Ngày bầu cử không khí thật nhộn nhịp. Đội chúng tôi tiếp
tục phát loa nhắc nhở những ai chưa đi bầu hãy đi ngay để thực
hiện quyền công dân lần đầu mở ra cho tất cả mọi người”.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Trong sổ tay của ông Nguyễn Sanh Thành, một trong
những cán bộ từ thời tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám,
bám trụ hoạt động vùng Đại Phước, Phú Hữu ghi chép về bầu
cử: Ngày 6-1-1946, tiến hành bầu cử Quốc hội trong tình hình
giặc uy hiếp, nhưng kết quả có 90% cử tri tham gia bầu cử.
Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vừa tiếp tục tổ
chức phá đường, vừa bố trí canh phòng nghiêm ngặt bảo vệ tốt
cuộc bầu cử. Đồng bào rất phấn khởi. Tỉnh Biên Hòa có 3 đại
biểu trúng cử Quốc hội khóa I là Hoàng Minh Châu, Phạm Văn
Búng, Điểu Xiển1. Sau ngày bầu cử Quốc hội, thực hiện chỉ thị
của trên, các xã của huyện Long Thành bước vào đợt “tiêu thổ
kháng chiến” trước sức tấn công mạnh của thực dân Pháp trên
địa bàn toàn tỉnh Biên Hòa.
Địa bàn Đại Phước, Phú Hữu, thành lập tổ chức Mặt trận
Việt Minh: Ông Phạm Văn Lấm (Chủ tịch), Nguyễn Ngọc Vui
(ủy viên Quân sự), Nguyễn Sanh Thành (ủy viên Chính trị). Uỷ
ban nhân dân lâm thời gồm Lê Xuân Toản (Chủ tịch), Nguyễn
Văn Thôi (ủy viên Giao thông), Võ Văn Đủ (ủy viên Cảnh sát).
Tiếp theo, các đoàn thể Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Đội Thiếu niên nhi đồng cứu quốc
lần lượt được thành lập. Đội Tự vệ chiến đấu Đại Phước, Phú
Hữu thành lập gồm 40 thanh niên là các thành viên của Thanh
niên Tiền phong trước đó từ các ấp. Trong đó có những thành
1  Tháng 1-1946, các đại biểu tỉnh Biên Hòa trúng cử Quốc hội khóa I nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra Bắc họp. Trên đường đi, đồng chí Điểu Xiển bị Pháp
phục kích, hy sinh.
81

9.2 Page 82

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
viên: Nguyễn Văn Cát (đội trưởng), Trần Văn Sẵng, Trần Văn
Hiệp, Trần Văn Thiên, Nhiều, Hùng, Phát, Tứ, Sum, Kiểu... Cả
đội được trang bị 5 súng hai nòng, 1 súng trường, lựu đạn...
Ngày 25-1-1946, quân Pháp từ nhiều hướng tấn công Long
Thành. Từ Biên Hòa, một tiểu đoàn lính Âu Phi có xe tăng mở
đường rầm rộ theo lộ 15 tiến xuống với sự hỗ trợ của những
chiếc tàu theo sông Đồng Nai đổ quân vào Tam Phước, Tam
An, Long Tân. Từ Sài Gòn, một tiểu đoàn địch vượt bến phà
Cát Lái tấn công Long Thành ở hướng tây. Giặc Pháp đánh vào
Long Thành cả từ nhiều hướng tạo gọng kìm với ý định nhanh
chóng thôn tính địa bàn.
Tháng 2-1946, diễn ra trận đánh quân Pháp đầu tiên tại vàm
Ông Chuốt. Một tàu chiến chở quân Pháp càn vào vàm Ông
Chuốt thì đã bị lọt vào ổ phục kích của tự vệ xã dưới sự chỉ huy
của đồng chí Năm Trứ. Lực lượng vũ trang với vũ khí hạn chế,
sử dụng 2 trái AT, 3 tay súng với 145 viên đạn tấn công làm tàu
giặc bốc cháy, lính địch bỏ chạy. Kết quả trận đánh, ta tiêu diệt
14 địch, bắt sống 5 tên, thu 19 súng trường, 2 khẩu colt 45, 12
lựu đạn, 1 hòm đạn. Đây là chiến thắng đầu tiên của quân và
dân Phú Đông, củng cố niềm tin cho quần chúng chống Pháp,
cổ vũ tinh thần và bổ sung được một lượng lớn vũ khí đối với
lực lượng du kích xã tiếp tục chiến đấu1.
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Huyện Nhơn Trạch Anh hùng, Nxb Đồng
Nai, tr.76-77.
82

9.3 Page 83

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Quân dân Đại Phước cùng lực lượng vũ trang đứng chân
trên địa bàn Long Thành bước vào cuộc chiến đấu. Người dân
hỗ trợ, tiếp tế cho lực lượng vũ trang chặn đánh các mũi tiến
công của địch từ Cát Lái theo đường Phước Lý phối hợp với
lực lượng ở Thành Tuy Hạ tiến đến Long Tân khiến cho địch
tổn thất về nhân mạng và kế hoạch hành quân bị chậm lại. Do
hết số đạn dược nên bộ đội phải cắt rừng rút về Phước An. Mũi
thứ hai của địch theo lộ 19 tới Xoài Minh bị bộ đội Bình Xuyên
và giải phóng quân Long Thành chặn đánh. Với binh lực mạnh,
quân Pháp tiến đánh Long Thành và củng cố những nơi chiếm
được. Một số lực lượng vũ trang cách mạng theo lệnh Khu bộ
khu 7 rút khỏi Long Thành, để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến lâu dài. Trong các trận đánh với Pháp tái
chiếm Long Thành, lực lượng cách mạng gây cho chúng những
tổn thất: 100 lính Âu Phi bị chết, hàng trăm tên khác bị thương,
nhiều khí tài quân sự bị phá hủy. Lực lượng vũ trang cách mạng
cũng bị tổn thất với 300 đồng bào, cán bộ chiến sĩ hy sinh, gần
400 người bị thương, 20 chiếc ghe của liên quân Bình Xuyên
bị đánh chìm, ba kho gạo bị đốt cháy. Những trận Pháp càn
vào các khu dân cư ở Long Thành, chúng bắt người dân vô tội,
đánh đập dã man và bắt giam. Một số người dân phải rời khỏi,
đi tránh nạn khủng bố1.
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử đấu tranh Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch, Nxb. Đồng Nai, tr.125 - 126.
83

9.4 Page 84

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Quân Pháp liên tiếp mở các cuộc hành quân lùng sục ra
các vùng xung quanh cướp phá, lùng bắt cán bộ Việt Minh, bắt
lính và từng bước thành lập bộ máy xã tề nhằm ổn định khu
vực chiếm đóng. Liên lạc giữa các địa bàn Long Thành bị gián
đoạn và bị cắt đứt với tỉnh Biên Hòa bị cắt đứt. Trước sức tấn
công, chiếm đóng và kìm kẹp của quân Pháp, một số cán bộ
dao động, tổ chức đoàn thể, phong trào cách mạng dưới ở Đại
Phước và các xã của Long Thành lâm vào khó khăn.
Trước tình hình trên, huyện Long Thành chọn Phước An
làm căn cứ đứng chân hoạt động tiếp tục lãnh đạo phong trào
cách mạng địa phương. Địa bàn toàn huyện được tổ chức phân
chia thành những khu để củng cố, duy trì đấu tranh. Toàn huyện
chia làm 4 khu: Địa bàn Đại Phước, Phú Hữu, thuộc khu III
cùng với Phước An, Phước Khánh, Phước Thành và hai ấp
Xoài Minh, Ông Kèo do đồng chí Trịnh Minh Kính phụ trách1.
Cơ quan lãnh đạo từng khu được gọi là Khu ủy. Các Khu ủy
có trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong trào kháng
chiến theo địa bàn được phân công. Phương thức hoạt động của
khu ủy được quy định là lưu động, bám địa bàn, không cần trụ
sở. Mỗi khu được có một phân đội vũ trang từ lực lượng Giải
phóng quân của huyện đưa về. Hàng tháng các Khu trưởng chỉ
1  Các khu còn lại: Khu I gồm 7 xã trên trục lộ 17 từ Phước Thiền đến Phước Lý
do đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiển
tới Phước Thọ, do đồng Chí Huỳnh Văn Đạo và ông Võ Văn Truyện phụ trách;
Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 từ Thái Thiện tới Phước Tân, kể các sở
cao su; do đồng chí Lương Văn Nho phụ trách.
84

9.5 Page 85

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tập trung một lần ở Phước An để báo cáo và trao đổi công tác.
Việc thành lập các Khu ủy và giao quyền lãnh đạo toàn diện
cho khu ủy đã tạo nên một bước chuyển quan trọng cho phong
trào kháng chiến trong toàn huyện. Không những các lực lượng
phân tán hợp lý tránh được tổn thất mà với phương thức hoạt
động sáng tạo thông qua các khu ủy, huyện đã luôn bám được
xã, trực tiếp lãnh đạo từng xã và chủ động phát huy được thế
mạnh từng vùng.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí đóng
quân và từng bước thành lập bộ máy xã tề nhằm ổn định khu
vực chiếm đóng và bố trí đồn bót. Mỗi bót khoảng một trung
đội Âu Phi do một thiếu úy hoặc một trung úy Pháp chỉ huy.
Vùng Đại Phước, Phú Thạnh có vị trí gần kho hậu cần Thành
Tuy Hạ, quân Pháp thiết lập các tua, bót canh gác nghiêm ngặt
để bảo vệ. Từ tháng 2-1946, quân Pháp liên tiếp mở các cuộc
hành quân lùng sục ra các vùng xung quanh bình định, lùng bắt
cán bộ Việt Minh đồng thời đánh phá, cướp bóc, xua đuổi dân
chúng cùng với việc bắt lính khiến cho đời sống nhân dân ngột
ngạt. Tại ấp Phước Lý, giặc Pháp phục kích bắn chết đồng chí
Đào Văn Bảng - cán bộ Kinh tài của xã Đại Phước.
Trước tình hình khó khăn, huyện Long Thành vẫn cố gắng
duy trì các hoạt động trong vùng tự do. Lớp mặt trận Việt Minh
ở Phước An vẫn mở mỗi khóa 7 ngày cho cán bộ các xã và bộ
đội. Mặt khác, huyện chủ trương chia nhỏ một số xã lớn để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc liên lạc và lãnh đạo phong trào cơ
85

9.6 Page 86

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
sở. Cùng với các xã khác ở Long Thành, xã Phú Hữu chia thành
2 xã: Phú Hữu, Phước Thành. Địa bàn xã Đại Phước thuộc
phạm vi xã Phước Lập, một phần Phước Thành1. Đến đầu tháng
3-1946, chính quyền các xã bị tan rã trước đây từng bước được
củng cố. Các xã đều tập hợp được tự vệ chiến đấu dù số lượng
chưa nhiều nhưng đây là cơ sở gây dựng phong trào, bổ sung
lực lượng chiến sĩ cho bộ đội địa phương Long Thành.
2. Thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện (1947 -
1952)
Bối cảnh của đất nước trong năm 1946 đứng trước tình thế
nguy hiểm khi thực dân Pháp đưa quân từ Nam Bộ ra miền
Bắc Việt Nam thay quân đội của Tưởng Giới Thạch. Trước tình
thế này, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn
bước đi để giữ vững chính quyền còn non trẻ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày
6-3-1946. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hòa
đề tiến” vào ngày 9-3-1946, nêu rõ ý nghĩa của việc ký hiệp
định, đồng thời nhấn mạnh việc cảnh giác đề phòng, chuẩn bị
sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội ước. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Hiệp định sơ bộ với Chính phủ Pháp vào ngày 14-9-
1946, thỏa thuận một số điều khoản trong quan hệ kinh tế, văn
hóa giữa hai nước và đặc biệt là đình chỉ xung đột ở miền Nam
1  Các xã của Long Thành có sự phân chia như sau: Xã Phước Hiệp chia thành
Phước Long, Phước Thọ, xã Phước Kiển chia thành Phước Kiển, Phước Mỹ; xã
Phú Hội chia thành Phú Mỹ, Mỹ Hội; xã Long Phước chia thành Tuy Long, Tập
Phước; xã Phước Thiền chia thành Phước Thiền, Long Đức.
86

9.7 Page 87

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
để tiếp tục đàm phán. Tuy nhiên, với quyết tâm xâm lược Việt
Nam, Pháp đã bội ước và vi phạm những thỏa thuận đã ký kết.
Pháp dựng lên Chính phủ bù nhìn ở Nam Bộ, ra sức xây dựng
bộ máy chính quyền tay sai từ tỉnh xuống quận xã và tiếp tục
đẩy mạnh càn quét, khủng bố, tấn công vào lực lượng cách
mạng ở những vùng kháng chiến.
Tại Long Thành, Pháp tổ chức mở rộng địa bàn chiếm đóng.
Trên các hướng giao thông, quân Pháp dùng bộ binh càn quét
và thiết lập các đồn bót. Vùng lực lượng cách mạng trú đóng,
Pháp dùng máy bay rải truyền đơn, kêu gọi đầu hàng, giao nộp
vũ khí. Lực lượng cách mạng tổ chức đánh Pháp càn quét, gây
cho chúng những tổn thất nặng nề, trong đó tiêu biểu là trận
Lò Rèn1. Quyết tâm bình định, Pháp thực hiện chủ trương ba
sạch: “Đốt sạch, phá sạch, giết sạch”. Quân Pháp và lính tay sai
hành quân đến đâu là đốt nhà, bắn giết, cướp bóc một cách điên
cuồng, dã man. Đồng thời, cứ địa phương nào thành lập bộ máy
quản lý, Pháp sử dụng số hội tề cũ, con cái phú nông, địa chủ
và tăng cường bắt lính, tổ chức các đơn vị thân binh. Địa bàn
chiếm đóng được mở rộng, hệ thống đồn bót dựng lên nhiều
nhưng quân Pháp không khống chế được quần chúng. Thực
hiện chủ trương “Bất hợp tác với kẻ thù”, nhằm làm cho địch
mất chỗ dựa và tránh tổn thất cho đồng bào, các Khu ủy vận
1  Trận Lò Rèn (xã Long Thọ ngày nay) xảy ra vào tháng 3-1946, tự vệ xã được
sự hỗ trợ của người dân địa phương, phối hợp với Chi đội 3,4 của lực lượng Bình
Xuyên và bộ đội Mai Văn Vĩnh phục kích tấn công quân Pháp, tiêu diệt gọn 1 đại
đội Âu Phi thu toàn bộ vũ khí.
87

9.8 Page 88

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
động nhân dân dời sâu vào vùng tự do xây dựng xã, ấp chiến
đấu. Huyện ủy Long Thành chỉ đạo các Khu ủy, lực lượng vũ
trang thực hiện chủ trương tổng diệt tề và đẩy mạnh công tác
vũ trang tuyên truyền. Lực lượng bộ đội, tự vệ cuộc, tự vệ chiến
đấu tùy theo tình hình tại chỗ, điều nghiên, đột nhập giải tán các
ban hội tề xã, ấp. Phụ nữ các xã tham gia Hội mẹ chiến sĩ đông
đảo, lên hàng ngàn hội viên, tập trung chăm lo, giúp đỡ cho bộ
đội, góp phần tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa nhân dân và các
lực lượng vũ trang.
Sau 10 tháng mất liên lạc, giữa tháng 11-1946, Tỉnh ủy
Biên Hòa cử Phạm Văn Khoai đến Long Thành củng cố, chỉ
đạo Mặt trận Việt Minh. Tuyến liên lạc của Long Thành với
Biên Hòa được nối lại. Ủy ban nhân dân quận đổi thành Ủy ban
hành chính kháng chiến huyện. Tự vệ chiến đấu quân đổi thành
du kích xã.
Tháng 6-1946, Bộ Chi huy Khu 7 tổ chức hội nghị bàn về
thống nhất chỉ huy, tổ chức các lực lượng vũ trang, hình thành
các chi đội ở các tỉnh. Thực hiện chủ trương này, Vệ quốc đoàn
quận Long Thành và Vệ quốc đoàn Biên Hòa thống nhất thành
Chi đội 10 Biên Hòa. Vệ quốc đoàn quận Long Thành trở thành
Đại đội C của Chi đội 10 Biên Hòa1. Đại đội C gồm 3 trung
đội 6, 7, 8 do đồng chí Lương Văn Nho làm đại đội trưởng,
1  Lực lượng Chi đội 10 gồm: Đại đội A (các trung đội 1,2,3); Đại đội B (trung
đội 4,5,6), Đại đội C (trung đội 7,8). Ban Chỉ huy Chi đội 10: Huỳnh Văn Nghệ
(Chi đội trưởng), Huỳnh Văn Đạo, Nguyễn Văn Lung, Cao Minh Căng (Chi đội
phó), Phan Đình Công (Chính trị viên).
88

9.9 Page 89

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Nguyễn Văn Toàn làm Đại đội phó, Lưu Văn Phảng làm Chính
trị viên. Tháng 12-1946, theo chỉ đạo của tỉnh, các Khu ủy ở
Long Thành lần lượt giải thể, lực lượng vũ trang được củng
cố. Các Ban công tác liên thôn ở Long Thành được thành lập1.
Trong hệ thống liên thôn của tỉnh, Long Thành chia làm 4 Ban
liên thôn: 11, 12, 13, 14. Địa bàn Đại Phước cùng Phú Hữu,
Phước Khánh thuộc Liên thôn 13 do đồng chí Liên phụ trách.
Đội du kích liên thôn do ông Lê Xuân Lịch (chỉ huy trưởng),
ông Châu Thành Phát (Chỉ huy phó).
Các Liên thôn khác gồm: Liên thôn 11 gồm các xã dọc hai
bên lộ 15 từ Thái Thiện tới Phước Tân do đồng chí Nguyễn Văn
Xuất phụ trách); Liên thôn 12 (gồm các xã Long Điền2, Phước
Thiền, Phú Mỹ, Mỹ Hội và Long Tân do đồng chí Phạm Tự Do
phụ trách); Liên thôn 14 (gồm các xã Phước Kiển, Phước Lai,
Phước Long, Phước Thọ, Phước An do Nguyễn Trọng Trưởng
phụ trách). Mỗi ban công tác liên thôn có một trung đội du kích
tập trung, với nhiệm vụ vừa vận động nhân dân đóng góp ủng
hộ kháng chiến, vừa trừ gian diệt tề, đánh địch, đồng thời phối
hợp với các đơn vị bộ đội của trên về tác chiến ở địa phương.
1  Các Ban công tác Liên thôn: 1,2,3 thuộc địa bàn quận Tân Uyên; 4,5,6 thuộc
quận Châu Thành; 7 trước thuộc Tân Uyên, sau thuộc quận Sông Bé; 8 thuộc 1
phần quận Châu Thành và 1 phần Long Thành; 9 và 10 thuộc quận Xuân Lộc.
2  Do có sự khó khăn trong chỉ đạo phong trào, chính quyền cách mạng Long
Thành chia các xã với quy mô nhỏ hơn, gồm: Phước Hiệp chia thành 2 xã Phước
Long, Phước Thọ; Phước Kiển thành 2 xã Phước Kiển, Phước Mỹ; Phú Hữu
thành 2 xã Phú Hữu, Phước Thành; Phú Hội thành 2 xã Phú Mỹ, Mỹ Hội; Long
Phước thành 2 xã Tuy Long, Tập Phước; xã Phước Thiền tách thành lập thêm xã
Long Điền; xã An Hòa chuyển giao về quận Châu Thành (Biên Hòa ngày nay).
89

9.10 Page 90

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Ở các xã, Ban công tác xã được thành lập, trực tiếp chỉ huy các
đội du kích xã ấp. Đây hệ thống quân sự mới trên địa bàn Long
Thành, tham gia tích cực trong phong trào diệt tề, trừ gian, phá
hoại giao thông và kinh tế địch. Quân Pháp tiến hành khủng bố,
đánh phá cách mạng ở Long Thành. Ông Trương Văn Trung1
tham gia dân quân du kích Phước Thành, do chỉ điểm nên bị
địch bắt giam ở Thành Tuy Hạ một thời gian. Sau khi được
thả ra, ông trở về địa phương, làm cơ sở mật, tiếp tục hoạt
động. Tại Phú Hữu, khi chính quyền cách mạng họp thì Pháp
cho quân càn, bắt một số đồng chí lãnh đạo, trong đó có ông
Nguyễn Ngọc Sanh2. Lính Pháp tra tấn dã man và đưa ông đến
Cầu Cháy bắn chết, buộc đá thả trôi sông để uy hiếp tinh thần
đấu tranh của người dân.
Ngày 19-12-1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ và
nhân dân Việt Nam bị thực dân Pháp thẳng thừng cự tuyệt, đưa
quân tấn công Hà Nội. Để bảo vệ nền độc lập và chính quyền
cách mạng, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá của
nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập,
tự do: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta
1  Chồng bà Châu Thị Sang, mẹ của liệt sĩ Trương Vĩnh Phúc, được phong tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng vào năm 1996.
2  Chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Mai Thị Sao.
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng
lên!...”123. Nhân dân Long Thành cùng Nam Bộ đã đi trước
trong kháng chiến chống Pháp từ sau Cách mạng Tháng Tám.
Hưởng ứng lời kêu gọi, cả Nam Bộ tiếp tục cuộc kháng chiến
chống Pháp.
Đầu năm 1947, các cơ quan của huyện Long Thành: Ủy ban
hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể
dần ổn định nơi làm việc trong địa bàn xã Phước An. Chiến khu
Phước An và căn cứ du kích một số xã được thành lập.
Chiến khu Phước An được thành lập, đóng vai trò quan
trọng trong phong trào đấu tranh cách mạng Long Thành, hỗ
trợ cho phong trào đấu tranh của vùng Đại Phước, Phú Hữu.
Phước An là vùng đất ở phía Nam của huyện Nhơn Trạch, chiều
dài 13km, diện tích tự nhiên 10.997ha, nằm dọc theo tỉnh lộ 19,
thuận lợi để xây dựng căn cứ kháng chiến. Phía bắc là vùng
rừng giồng nhiều cây cối rậm rạp, nối liền với dải rừng Lòng
Chảo rộng lớn. Phía Nam là rừng Sác có diện tích rộng với rừng
ngập mặn, nhiều rạch, tắc chằng chịt gắn với đường thủy qua
các khu vực Nhà Bè, Sài Gòn, về hướng Gò Công, Tiền Giang,
Bến Tre hoặc Vũng Tàu. Với địa hình phức tạp và một số giao
thông thủy thuận lợi cũng như các trục giao thông đường bộ
chia cắt bên trong để liên lạc với các địa bàn khác trong và
ngoài Long Thành.
1  Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 534.
91

10.2 Page 92

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Trong căn cứ Phước An, trụ sở của các cơ quan là những
căn nhà lá dừa nước đặt ở những địa điểm thuận lợi cho việc đi
lại, liên lạc và tránh sự càn quét của địch. Ủy ban kháng chiến
huyện Long Thành đóng ở rừng Giồng, ấp Bàu Trường, xã
Phước An. Chủ tịch là đồng chí Trần Bình Khê, Phó Chủ tịch là
đồng chí Trần Khánh Dư, Chánh văn phòng là đồng chí Phạm
Đình Dũng, nhân viên đánh máy là đồng chí Nguyễn Thị Tuyết.
Trong khu vực căn cứ, một số lực lượng vũ trang cũng trú đóng:
đơn vị cơ động của tỉnh, của khu như Liên quân Hoàng Thọ
(chi đội 7, chi đội 6), bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn... Các cơ quan
chỉ huy và các đơn vị của Liên chi Bình Xuyên, quân y viện và
công binh xưởng ở phía Nam lộ 19. Sau này có bộ phận Quân
giới Nam Bộ từ miền Tây đến lập các phân xưởng sản xuất vũ
khí ở Đồng Ông Trúc. Căn cứ của các đơn vị đều được xây
dựng qui mô, có bến ghe, vọng gác, phòng tuyến chống địch,
bãi tập để huấn luyện quân sự. Chiến khu Phước An được xem
là vùng tự do, độc lập của cách mạng khi các khu vực đô thị lớn
ở Sài Gòn - Gia Định, Biên Hòa và thị tứ Long Thành bị địch
bình định, thiết lập bộ máy quản lý. Xây dựng khu căn cứ này
có sự đóng góp quan trọng của nhân dân ở Nhơn Trạch - Long
Thành, từ các hoạt động giao liên, tiếp tế, vận chuyển hàng
hóa, lương thực. Từ các đầu mối các cơ sở cách mạng ở các
xã xung quanh Phước An, các nguồn lương thực, thuốc men,
dụng cụ y tế, vũ khí... được tổ chức cung cấp cho căn cứ. Các
chiến sĩ tự vệ các xã được rút về tăng cường cho lực lượng vũ
trang cách mạng của huyện. Những cơ quan được bố trí trận
92

10.3 Page 93

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
địa, giao thông hào, tổ chức canh gác cẩn mật, chống địch càn
quét. Những khu vực bao quanh căn cứ như đồng Lớn, xóm
Ngọn, đồng Gò Cát và những khúc sông... được nhân dân đóng
cọc, làm rào ngăn chặn tàu địch, chống lính địch nhảy dù đột
nhập. Phong trào bảo vệ căn cứ cách mạng ở Phước An được
quần chúng tham gia tích cực. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là
những người gắn bó với chiến khu Phước An đã sáng tác: “...
Hàng trăm chiến sĩ đồng bào, Thi đua cắm cọc ngăn tàu trên
sông. Rừng cây vót nhọn thành chông, Lính chông đồng Lớn
đứng trông quân thù. Một hôm giặc Pháp nhảy dù, Chông cùng
du kích diệt thù trăm tên...1.
Bước chuyển toàn diện của phong trào kháng chiến nửa
đầu năm 1947 là điều kiện thuận lợi để củng cố và phát triển
Đảng bộ Long Thành. Tại chiến khu Phước An, Huyện ủy Long
Thành được thành lập. Bí thư Huyện uỷ là đồng chí Vũ Hồng
Phô. Tháng 9-1947, chính quyền huyện Long Thành được cải
tổ do yêu cầu và nhiệm vụ mới. Ủy ban hành chính kháng chiến
đổi tên thành Ủy ban kháng chiến hành chính. Đồng chí Lương
Văn Nho được chỉ định kiêm chức Chủ tịch huyện. Cuối năm
1947, theo chỉ thị của trên, hệ thống quân sự Liên thôn giải thể.
Quận đội bộ dân quân được thành lập trên cơ sở hợp nhất bốn
Ban công tác liên thôn do đồng chí Phạm Tự Do làm Quận đội
trưởng, đồng chí Hoàng Viễn Tri làm Chính trị viên. Các đội du
kích Liên thôn tập hợp thành hai trung đội, quân số hơn 100 vũ
khí thuộc lực lượng vũ trang của huyện. Các ban công tác xã
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.72-73.
93

10.4 Page 94

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
được thay bằng Ban chỉ huy xã đội, du kích được củng cố. Lực
lượng cách mạng xã Đại Phước bị tổn thất nhiều trước sự tấn
công, lùng bố gay gắt của quân Pháp. Vùng Cù lao Ông Còn,
có những lúc Pháp tổ chức cho 3 tàu theo sông Sâu đi càn đánh
phá, bố ráp, nã súng vào các lùm cây ven bờ và sau đó xua quân
tràn lên càn quét, đốt nhà, đập lu chứa nước ngọt, phá chòi, bắt
trâu, bò, gà vịt, đốt lúa của người dân vừa gặt xong. Nhà ông
Dương Văn Danh bị đốt phá nặng nề bởi giặc nghi ngờ tiếp tế,
và cho cách mạng làm cơ sở hoạt động1. Nhiều người trong gia
đình, dòng họ của ông Dương Văn Danh tham gia kháng chiến
chống Pháp. Trước sự đánh phá của Pháp, nhiều hộ dân trên Cù
lao Ông Còn phải đi lánh qua vùng Phước Lý, địa bàn xã Phú
Thạnh để sinh sống. Một số hộ dân bám trụ lại và tiếp tục canh
tác và làm cơ sở cách mạng.
Trong năm 1947, lực lượng cán bộ xã Đại Phước chịu nhiều
tổn thất. Tháng 4-1947, đồng chí Dương Văn Danh2 - Phó Chủ
tịch xã trên đường đi công tác bị lọt ổ phục kích của địch, hy
sinh. Chi bộ đảng tổ chức họp thì lính Pháp nổ súng tấn công
bất ngờ khiến đồng chí Lê Văn Sáng (Bí thư), Lê Văn Phải (bộ
phận Kinh tài)3,Trần Văn Bộ (Tự vệ xã) và 1 đồng chí khác hy
sinh. Các đảng viên khác tìm cách ra sông thoát khỏi vòng vây
1  Nhà ông Dương Văn Danh chính là cơ sở cách mạng từ đầu Cách mạng Tháng
Tám. Khi thanh niên địa phương gia nhập lực lượng Thanh niên Tiền phong, qua
Cù Lao luyện tập thì ở nhiều nhà dân khác, được nhà ông lo cho việc ăn uống.
2  Chồng của mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Xinh.
3  Đồng chí Lê Văn Sáng, Lê Văn Phải là con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn
Thị Ba.
94

10.5 Page 95

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
của địch. Tại Vàm Giồng ấp Phước Lý, quân Pháp đi càn bắn
chết Hồ Văn Ngà công tác trong đoàn dân công xã Đại Phước.
Đồng chí Đinh Văn Đăng - Tiểu đội trưởng của xã đội Đại
Phước tham gia hoạt động liên xã, bị địch phục bắn tại đồn Chợ
Quán của huyện Long Thành vào ngày 10-3-1947.
Từ năm 1948, phong trào du kích chiến tranh của Nhơn
Trạch - Long Thành phát triển mạnh. Tháng 1-1948, đại hội
Đảng bộ huyện lần đầu tiên được tổ chức tại chiến khu Phước
An. Huyện ủy do bầu cử dân chủ chính thức ra đời. Đồng chí
Vũ Hồng Phô được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Nhằm ngăn chặn
các cuộc hành quân của địch, huyện Long Thành phát động
phong trào “phá đường” được nhân dân các xã ven lộ hưởng
ứng rất sôi nổi. Nhân dân Đại Phước cùng các xã khác tham gia
tích cực phá các trục lộ trên địa bàn. Hai tuyến lộ 17, 19 trên địa
bàn Long Thành bị người dân phá từng đoạn khiến địch không
thể dùng xe cơ giới mà đi bộ hoặc xe ngựa. Các đoạn sông vùng
Đại Phước, Phú Hữu, nhân dân đóng cọc ngăn sông ở các vàm,
rạch gây khó khăn cho tàu địch khi càn quét.
Tháng 8-1948, đại đội chủ lực của trung đoàn 309 (đơn
vị vũ trang của Khu miền Đông, hoạt động trên địa bàn Long
Thành)1 tấn công đồn Phước Lý để mở hướng xâm nhập vào
yếu khu Thành Tuy Hạ. Tại đây, địch bố trí 1 đại đội lính. Sau
2 giờ chiến đấu, đại đội 2775 chủ lực không chiếm được đồn
nhưng tiêu diệt nhiều lính địch, thu được 20 khẩu súng. Trận
1  Gồm 2 tiểu đoàn và 4 đại đội độc lập.
95

10.6 Page 96

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Phước Lý được coi là một trận công đồn lớn trong kháng chiến
chống Pháp ở Long Thành, quân địch thối động, nhân dân phấn
khởi.
Phong trào tiết kiệm gạo mỗi khi nấu ăn như “Hũ gạo nuôi
quân”, “Hũ gạo kháng chiến” được nhiều hộ gia đình ở Đại
Phước tham gia, góp một lượng lương thực lớn cho cách mạng.
Trong phong trào chung Long Thành, các xã đã tham gia ủng
hộ lương thực cho cách mạng: 100% hộ gia đình trong chiến
khu Phước An, 250 hộ vùng tự do xã Tam Phước, 150 hộ xã
Tam An, 148 hộ xã Phước Khánh, 146 hộ ở xã Long Nguyên,
250 gia đình xã Thái Thiện, 256 gia đình xã Phú Hữu, 197 gia
đình xã Phước Thành, 70% số gia đình xã Phước Thiền, gần
200 hộ ở làng kháng chiến xã Long An. Nông dân Đại Phước
khi thu hoạch mùa màng, dùng ghe chở lúa ủng hộ cho căn cứ
ở Phước An. Sự phát triển toàn diện của phong trào kháng chiến
Long Thành trong năm 1948 đã xác lập thế liên hoàn, vững
chắc giữa các vùng tự do mà trung tâm là chiến khu Phước An.
Thanh niên ở Đại Phước, Phú Hữu được gia đình động viên
hăng hái tòng quân, trong 2 đợt đã có 130 thanh niên đăng ký.
Cùng với phong trào quần chúng, lực lượng vũ trang và dân
quân du kích, tuy mới được củng cố lại đã tổ chức tấn công giặc
bằng nhiều hình thức.
Ở Nam Bộ, thực dân Pháp thực hiện chính sách bình định,
tấn công đầu não chỉ huy kháng chiến, bao vây khu căn cứ và
tăng cường xây dựng đồn bót, tháp canh cùng các chiêu bài tâm
96

10.7 Page 97

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
lý chiến, tình báo, gián điệp chia rẽ người dân với cách mạng.
Bước vào năm 1949, phong trào cách mạng Long Thành đứng
trước những khó khăn, tổn thất. Hệ thống gián điệp của địch
cài cắm trong hàng ngũ lãnh đạo cấp huyện và các đoàn thể gây
thanh thế và gây nên những tác hại. Tên Nguyễn Quang Minh
“chui sâu, leo cao” tới chức Phó Bí thư huyện ủy, tên Lại Văn
Sang nắm giữ chức Trưởng Công an huyện và một hệ thống
chân rết ở trong chiến khu Phước An1. Từ những vị trí chủ chốt
trong lãnh đạo và các hoạt động chúng nắm giữ, tin tức của hoạt
động cách mạng bị lộ ra ngoài, một số cơ sở của ta bị phát hiện,
những cán bộ, đảng viên bị địch bắt, cơ sở ở các địa bàn bị đánh
phá và gây chia rẽ nội bộ. Nhưng hoạt động của bọn phản động
đã không thoát khỏi sự cảnh giác của nhân dân, cán bộ, đảng
viên Long Thành. Tỉnh ủy Biên Hòa đã chỉ đạo kịp thời trong
việc xử lý bọn gián điệp này và cơ sở của chúng, đập tan âm
mưu đánh phá cách mạng.
Trong khi đó, nhằm đánh phá căn cứ, phong trào cách mạng,
Pháp dùng lính trong lực lượng Cao Đài phản động đóng bót,
càn quét để phát hiện cơ sở cách mạng, kìm kẹp người dân. Chỉ
huy lực lượng Cao Đài phản động có tên trung tá Lê Thành
Kham đóng ở Phú Thạnh, Vệ úy Tư ở đồn Câu Kê, đội Sâm chỉ
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.134 - 138, cho biết mạng lưới gián điệp: Nguyễn
Thọ Phước trưởng Công an huyện, Đặng Văn Quang (Quang Trắng) phụ trách
Thanh niên huyện, Nguyễn Văn Quang, thư ký Công đoàn huyện và Thứ giữ chức
thư ký Nông hội, Lộc, Yểm ở hội Nông dân, Quốc, Sơn ở Huyện đội, Xá ở bộ phận
Thông tin, Võ Văn Truyện (tức Hoàng Việt Hà) (nguyên Chủ tịch huyện)...
97

10.8 Page 98

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
huy đội biệt kích ở bót Giồng Ông Đông. Đồng thời, địch sử
dụng chính sách chia rẽ nhân dân bằng hình thức kêu gọi người
theo đạo Cao Đài tập trung thành khu dọc lộ 17, gần với kho
Thành Tuy Hạ để tránh “hiểm họa Việt Minh”. Thực ra, đó là
âm mưu của giặc Pháp tăng cường lực lượng để đánh phá quân
dân kháng chiến. Cách mạng Long Thành có chủ trương vận
động đồng bào chung sống với Cao Đài để ủng hộ kháng chiến,
đồng thời bắt giữ trừng trị những tên gây tội ác với nhân dân.
Do nhận thức chưa đầy đủ, du kích, công an ở một số xã của
NhơnTrạch đã bắt và giết một số tín đồ trong đạo, gây nên tình
trạng căng thẳng trong các vùng tự do. Lợi dụng tình hình đó,
địch ra sức tuyên truyền “Việt Minh tảo thanh Cao Đài”, gây
bất mãn, thù oán giữa người có đạo và kháng chiến. Từ chỉ đạo
của tỉnh Biên Hòa, huyện Long Thành kịp thời chấn chỉnh sai
lầm trong công tác này.
Quân Pháp và chính quyền tay sai tăng cường tuần tra, tấn
công chia cắt, bao vây khu căn cứ Phước An với Rừng Sác,
vùng lân cận và nguồn tiếp tế. Lực lượng Bình Xuyên do Lê
Văn Viễn chỉ huy đầu hàng thực dân Pháp, quay lại đánh phá
cách mạng vùng Rừng Sác. Những cơ sở, hậu cần ở Đại Phước,
Phú Hữu, Phước Khánh bị uy hiếp, đốt cháy. Thực dân Pháp
đưa sĩ quan Jolet Suacot - Đại đội trưởng Đại đội 4 trung đoàn
22 (Regiment Injanteric Coloniale)1 đến Long Thành kiêm Chỉ
huy trưởng khu chi khu Long Thành. Quân địch sử dụng lực
1  Trung đoàn 22 RIC (Regiment-Ingianteric-Coloniale): lính thuộc địa.
98

10.9 Page 99

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
lượng biệt kích đột kích, bố ráp, bắn giết người tàn bạo nhằm
trấn áp phong trào hoạt động cách mạng. Tổn thất lực lượng
cách mạng của Đại Phước rất nhiều trước sự tấn công, bố ráp
của kẻ thù. Một số cán bộ ở vùng Đại Phước, Phú Hữu gồm
Dương Văn Minh và những người khác bị địch bắt đưa về
Thành Tuy Hạ thủ tiêu. Ngày 19-2-1948, anh Đặng Văn Tông1
- Đội phó du kích xã Phước Lý, Ban công tác liên thôn 13 đi
công tác đến ấp Long Điền xã Long Tân bị địch phục bắn, hy
sinh khi vừa 16 tuổi. Đồng chí Dương Văn Hiển2, tham gia cách
mạng từ lúc mới 15 tuổi, ban đầu làm giao liên sau đó là nhân
viên Công an xã Đại Phước, hy sinh trong trận đánh địch vào
ngày 28-12-1948. Anh Nguyễn Tấn Nghĩa3 là thanh niên trẻ,
thoát ly, tham gia tổ quân báo của xã đội, thu thập tin tức, bị
quân Pháp bắt khi dò la kho vũ khí Thành Tuy Hạ, giam tại bót
ở Catinat Sài Gòn 6 tháng. Ông Dương Văn Chất, Phó Chủ tịch
xã Phước Lập, kiêm Trưởng ban Kinh tài bị lính Cao Đài bắt
và thủ tiêu tại Cù lao Ông Còn trong một chuyến công tác. Anh
Huỳnh Văn Điều - giao liên của xã Phước Lập bị địch bắn chết
tại khu vực Thành Tuy Hạ. Anh Nguyễn Văn Thêu - làm Kiểm
soát ấp, hoạt động mật bị địch theo dõi bắn chết tại ấp Bến Cộ.
Vượt qua những khó khăn, hoạt động cách mạng ở Long
Thành từng bước phục hồi. Đầu năm 1949, Đại hội lần thứ nhất
Đảng bộ huyện Long Thành tổ chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp
1  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Tư, anh của liệt sĩ Đặng Văn Đại.
2  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Xinh, con của liệt sĩ Dương Văn Danh.
3  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Đặng.
99

10.10 Page 100

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
của đồng chí Phạm Hùng (Uỷ viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ).
Ban Chấp hành được bầu gồm: Vũ Hồng Phô (Bí thư), Trần
Bình Khê, Trương Minh Kỷ, Nguyễn Sanh Thành và Lê Hữu
Tài (Lê Hữu Thướu)...1 Các cơ quan, đoàn thể xã, huyện nhanh
chóng ổn định. Tháng 7-1949, tại chiến khu Phước An, huyện
Long Thành tổ chức đại hội “Luyện quân tập công” trong một
tuần lễ. Hàng trăm thanh niên của huyện đăng ký tòng quân,
nhập ngũ. Hội nông dân, Phụ nữ các xã vận động quần chúng
đóng góp hơn 3.000 giạ lúa phục vụ bộ đội, du kích.
Trong tình hình chung của cả nước trong chống Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “Tổng động viên nhân vật lực”
với khẩu hiệu “ Tất cả cho tiền tuyến để chiến thắng giặc Pháp
xâm lược và Mỹ can thiệp” vào ngày 12-2-1950. Trung ương
Đảng ra Nghị quyết về đẩy mạnh công tác Thanh vận phát triển
mặt trận Thanh niên rộng rãi để một mặt huy động, tập hợp và
tổ chức tất cả lực lượng thanh niên yêu nước tham gia đấu tranh
chống giặc. Trên tinh thần đó, Tỉnh ủy Biên Hòa động viên lực
lượng thanh niên trẻ trong các cơ quan, ban ngành tham gia bộ
đội, mặt khác đưa lực lượng nòng cốt của các đơn vị bộ đội
tỉnh về khu để thành lập chủ lực tập trung, rút du kích xã lên
xây dựng bộ đội, đưa dân quân tự vệ lên làm du kích. Hệ thống
Huyện đội bộ dân quân giải thể và thành lập Huyện đội Long
Thành do đồng chí Nguyễn Văn Toàn làm Huyện đội trưởng,
1  Cuối năm 1949, đồng chí Vũ Hồng Phô về Tỉnh ủy Biên Hòa, đồng chí Năm
Trị (Năm Hà) được phân công làm Bí thư. Đến giữa năm 1950, đồng chí Ngô
Tiến làm Bí thư.
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đồng chí Nguyễn Văn Xuất làm Huyện đội phó. Hai trung đội
du kích tập trung hợp nhất thành lập bộ đội địa phương lấy tên
là trung đội Trần Phú1. Bộ đội Trần Phú của huyện sau này được
điều lên chủ lực tỉnh nên huyện rút du kích xã lên thành lập lại
lực lượng địa phương lấy tên là đại đội Hồ Văn Long với quân
số 140 chiến sĩ. Lúc này, Ban Đại diện trung đoàn 397 ở Long
Thành giải tán, rút hết về trung đoàn2. Tương quan lực lượng
quân sự giữa ta và địch có thay đổi. Lực lượng vũ trang trong
huyện không còn giữ được thế áp đảo, không có mặt ở mọi nơi,
không đánh địch chủ động và đều khắp như trước. Ngày 15-3-
1950, chiến sĩ Dương Văn Chứa - công an xã Phước Lập bị địch
đi càn bắn chết tại Rạch Bảy (nay thuộc xã Phú Hữu).
Từ cuối năm 1950 đầu năm 1951, được sự tăng cường viện
trợ của đế quốc Mỹ quân Pháp đẩy mạnh công cuộc bình định,
tăng cường đánh phá ác liệt trên chiến trường Nam Bộ. Tình
hình chiến trường Biên Hòa bị chia cắt, căng thẳng. Vùng căn
cứ, lương thực, thực phẩm, vũ khí ở Long Thành phục vụ cho
kháng chiến thiếu hụt trầm trọng. Khi lực lượng vũ trang chủ
lực ở Long Thành điều chuyển, địch tăng cường hành quân tấn
công. Tổ chức Đảng cơ sở, vùng du kích rất đông đảng viên
nhưng thường bị xáo trộn. Nhiều nơi, cán bộ, đảng viên không
1  Trần Phú (1904 - 1931) là Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
2  Tháng 10-1949, do yêu cầu chiến trường, 2 trung đoàn 309 (ở Long Thành) và
307 (ở Bà Rịa) sáp nhập thành trung đoàn 397. Lực lượng vũ trang 309 ở Long
Thành phần lớn rút về Bà Rịa, chỉ để lại một bộ phận gần 300 cán bộ, chiến sĩ
gọi là “Ban Đại diện trung đoàn 397”.
101

11.2 Page 102

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
còn hoạt động hoặc theo quần chúng ra vùng tạm chiếm. Người
dân bị gom vào các khu tập trung gần lộ giao thông, gần đồn
bót, bị địch kềm kẹp gắt gao. Phong trào đấu tranh Long Thành
gặp nhiều khó khăn, vùng tự do bị thu hẹp lại. Chiến khu Phước
An bị địch lấn chiếm. Giặc Pháp tăng cường bố ráp thúc ép số
dân bỏ làng trước đây trở về làng. Ở Đại Phước có khoảng 30
hộ phải nhổ chòi trở lại vòng kềm kẹp của địch. Chính quyền và
lính địch hăm dọa, khủng bố những gia đình này thường xuyên.
Khi tình nghi ai có liên hệ với cách mạng, địch bắt lên bót
hạch hỏi, đánh đập, khảo tra. Gia đình bà Nguyễn Thị Đặng1
bị địch gây khó dễ nhiều nhưng nhờ khôn khéo, giỏi ứng xử bà
không bị phát hiện liên lạc với cách mạng. Để tránh địch thúc
ép, chồng bà là ông Nguyễn Văn Trụ và con trai Nguyễn Tấn
Nghĩa thoát ly kháng chiến. Ông Nguyễn Văn Trụ công tác ở
Ủy ban Kháng chiến hành chính xã Phước Lý. Gia đình vẫn bí
mật đóng góp nuôi giấu du kích xã hoạt động.
Ngày 11-2-1951, Đảng tổ chức đại hội lần thứ hai tại xã
Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Chủ tịch Hồ Chí Minh
được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được
bầu lại làm Tổng Bí thư. Sau thời gian hoạt động bí mật, Đảng
quyết định ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động
Việt Nam, ra nghị quyết đẩy mạnh mọi mặt công cuộc kháng
chiến đến thắng lợi cuối cùng, quyết nghị thống nhất Mặt trận
1  Bà Nguyễn Thị Đặng sau này được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng.
102

11.3 Page 103

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Việt Minh - Liên Việt lấy tên gọi là Mặt trận Liên hiệp quốc dân
Việt Nam; gọi tắt là Mặt trận Liên Việt. Ở Nam Bộ, Trung ương
Cục miền Nam tổ chức lại chiến trường. Toàn Nam Bộ tổ chức
hai phân liên khu: miền Đông và miền Tây.
Tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một sáp nhập thành tỉnh Thủ
Biên; tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn sáp nhập thành tỉnh Bà Rịa - Chợ
Lớn (thường gọi là Bà Chợ). Địa bàn Đại Phước cùng với các xã
của huyện Long Thành trực thuộc tỉnh Bà Chợ, trong sự chỉ đạo
của Phân Liên khu miền Đông. Trước những diễn biến gay go
của phong trào kháng chiến Long Thành, Thường vụ Tỉnh ủy Bà
Chợ chỉ đạo: “Long Thành là một địa bàn chiến lược, một vùng
căn cứ, một chiến khu quan trọng của vùng Sài Gòn - Chợ Lớn.
Phong trào Long Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt.
Bằng giá nào cũng phải ổn định cho được chiến trường Long
Thành để đảm bảo chỗ đứng của tỉnh”1. Thời gian này, địch tiếp
tục càn quyét, bố ráp nhiều địa bàn ở xã Đại Phước. Ngày 5-6-
1951, địch phục kích tại cù lao rạch sông Tam Sĩ bắn chết đồng
chí Nguyễn Văn Si - ủy viên văn hóa xã Phước Lập.
Đầu tháng 7-1951, Huyện ủy Long Thành được kiện toàn,
đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) làm Bí thư, đồng chí
Trần Bình Khê giữ chức Chủ tịch huyện, đồng chí Lê Phải
làm Chính trị viên huyện đội, đồng chí Nguyễn Tiến Lãng làm
trưởng Công an huyện, đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb Đồng Nai, tr.146.
103

11.4 Page 104

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Tuyên huấn và đồng chí Nguyễn Sanh Thành chủ tịch Mặt trận
Liên Việt.
Cuối năm 1951, bộ đội Hồ Văn Long sau huấn luyện và
củng cố được đưa trở lại địa bàn huyện Long Thành chiến đấu.
Có cơ sở vũ trang, huyện thực hiện chủ trương chia khu, đưa
cán bộ về phụ trách đồng thời phân tán lực lượng vũ trang huyện
theo khu chủ yếu làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền. Địa bàn
Long Thành được chia thành 5 khu1. Địa bàn Đại Phước, xã
Phú Hữu, Phước Thành, Phước Khánh, do đồng chí Nguyễn
Sanh Thành phụ trách.
Do chuyển được phương thức hoạt động đúng hướng, bám
được dân, tình hình kháng chiến Long Thành dần ổn định. Tuy
nhiên, tình hình địa bàn vẫn nhiều khó khăn khi Pháp bổ sung
thêm lực lượng lính Hòa Hảo, cùng với lính Cao Đài và biệt
kích tăng tuần tra, kềm kẹp nhân dân. Cơ quan cách mạng phải
di chuyển nhiều nơi, lưu động trong thời gian dài tránh sự tấn
công, lùng ráp. Một số cơ sở cách mạng bị cắt đứt, không còn
liên lạc. Tổ chức Đảng ở Đại Phước, Phú Hữu trước kia khá
1  Các Khu khác gồm: Khu I (các xã Phước Nguyên, An Lợi, Tam An, Phước
Tân do đồng chí Lê Phải và đồng chí Nguyễn Văn Xuất phụ trách); Khu II (các
xã Phú Mỹ, Mỹ Hội, Phước Thiền, Long Tân do đồng chí Trần Bình Khê, đồng
chí Tám Thạch phụ trách); Khu III (các xã Bình Thạnh, Phước An, Phước Long,
Phước Thọ do thường trực Huyện ủy và Ủy ban phụ trách); Khu IV (các xã Thái
Thiện, Phước Kiển, Phước Lai, Long An, Tuy Long, Tập Phước thuộc khu IV do
Huyện đội phụ trách); Thị trấn Long Thành, các xã Lộc An, Bình Sơn, An Viễn,
Siph thành một khu do đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách kiêm chính trị viên
Biệt động đội.
104

11.5 Page 105

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đông đến năm 1952 chỉ còn 4 đảng viên gồm Phạm Văn Búp
(Bí thư), Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Ngọc Sánh, Nguyễn
Ngọc Dễ và hai quần chúng có cảm tình là Tống Văn Hiếu,
Nguyễn Ngọc Năm. Đội du kích còn 5 thành viên, trang bị một
cây súng. Đồng chí Phạm Văn Búp khi bám trụ trong hầm bí
mật bị địch bắt, tra tấn dã man rồi thủ tiêu.
Từ tháng 3-1952, lực lượng cách mạng ở Đại Phước, Phú
Hữu thành lập những tổ bí mật thực hiện tiêu diệt Việt gian
trên địa bàn. Một tổ công tác bí mật được cử vào ấp Giồng Ông
Đông bắt Mười T. đền tội vì chỉ điểm cho giặc sát hại đồng chí
Phạm Văn Búp, Nguyễn Ngọc Dễ trước đó. Trước sự khủng
bố của địch, một số người như U.M, V.T.L., Đ.V.M1 đầu hàng
nhưng nhất quyết không dẫn giặc tấn công căn cứ. Vào lúc 1 giờ
sáng ngày 30-4-1952, một tổ du kích đặt mìn tiêu diệt tiểu đội
lính càn quét ở Giồng Sắn. Nhiều cơ sở cách mạng, người dân
ở Đại Phước tham gia hỗ trợ cách mạng như bà Sáu Gấm, ông
bà Ba Đóc, ông Năm Ề, vợ chồng Chín Đức (ấp Cầu Kê), bà
Nhiều, vợ chồng Bảy Ngọt, ông bà Bảo, ông bà Mai Văn Năm,
ông bà Hai Trí... (ấp Bến Cộ, chợ Phước Lý). Vùng lân cận Phú
Hữu có các gia đình của trùm Chụp, Chín Kính, Hai Đôi, Chín
Ráng (ấp Giồng Ông Đông), vợ chồng Ba Thẩn, vợ chồng Năm
Xem (xóm Bến Bạ).2 Hội Mẹ chiến sĩ của Đại Phước do má
Sáu Ngữ phụ trách cùng với các mẹ Phan Thị Nho và Lê Thị
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.93-94.
2  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch 1930
- 2015, Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.151-152.
105

11.6 Page 106

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Tư (mẹ Tư Phú) làm tốt công tác binh vận, vừa bảo vệ vợ con
lính vừa khuyên nhủ, tuyên truyền cho 3 lính biệt kích mang
súng ra đầu hàng (năm 1952) và 2 nhân viên chính quyền địa
phương bỏ hàng ngũ về Sài Gòn, 23 lính địa phương quân rời
hàng ngũ để không chống lại nhân dân. Tháng 5-1952, đồng chí
Trần Văn Măng1 - người con của Đại Phước thoát ly, tham gia
vào lực lượng huyện Long Thành, anh dũng hy sinh trong trận
quyết tử để bảo vệ căn cứ tại Thái Thiện, Gò Dầu. Ngày 10-10-
1952, đồng chí Võ Quang Minh - Xã đội trưởng Đại Phước hy
sinh tại Rạch Rợp khi bị địch phục kích.
Tỉnh Biên Hòa nói riêng và miền Đông Nam Bộ chịu hậu
quả của cơn bão lụt nặng nề. Từ vùng chiến khu Đ đến các vùng
dân cư khác, ở Long Thành cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Sự
thiếu hụt lương thực cho các vùng căn cứ, người dân lâm vào
cảnh thiếu đói. Tình hình hoạt động của phong trào kháng chiến
gặp nhiều thử thách ở các địa bàn. Vượt qua những gian nan,
các cơ quan huyện Long Thành tập trung về Rừng Sác và khu
vực rừng giồng hoạt động, nắm giữ phong trào chung của địa
phương. Theo chủ trương của huyện, một số cán bộ trong đơn
vị vũ trang được đưa về nắm du kích xã. Các xã gây dựng lại
đội du kích, đẩy mạnh công tác tiêu diệt Việt gian, hỗ trợ quần
chúng. Trong phong trào sản xuất, đóng góp lương thực cho
kháng chiến, tháng 12-1952, vùng lúa Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh được mùa. Nhờ có lực lượng vũ trang bảo vệ
1  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Huệ.
106

11.7 Page 107

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tốt mùa màng, đồng bào phấn khởi thu hoạch và đóng góp cho
kháng chiến tới 23 ngàn giạ lúa.
3. Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1953
- 1954)
Phong trào kháng chiến chống Pháp ở Long Thành phát
triển mạnh, nhân dân tin tưởng vào cách mạng thành công.
Những cuộc vận động, tuyên truyền trong dân chúng được tập
hợp. Người dân không còn hoang mang như thời gian trước.
Tiếng súng tiến công của lực lượng vũ trang vang lên, tấn công
địch ở nhiều địa bàn Long Thành, hỗ trợ mạnh mẽ cho công tác
địch vận1. Tại Đại Phước, anh Nguyễn Văn Thanh (Tư Ù) được
giao làm tự vệ mật trong ấp Bến Cộ, phát triển được hai thành
viên: Mai Văn Rỗ, Đào Văn Tố, cùng theo dõi tình hình địch và
phục vụ dẫn đường cho cán bộ khi công tác. Chiều ngày 1-10-
1953, Nguyễn Văn Tư được kết nạp Đoàn tại một gò cặp bên
sông, ven cánh đồng lúa Bến Cộ. Xã Đại Phước có thêm một tổ
tự vệ mật do Nguyễn Văn Thanh làm tổ trưởng.
Tháng 12-1953, Thành Tuy Hạ bị pháo kích, lính sở Thành
Tuy Hạ bị tấn công, 15 tên chết và bị thương. Du kích xã Đại
Phước phối hợp với xã Phú Hữu phá chốt dân vệ tại tua Bến
Ngự, diệt 3 tên, bắt sống 15 tên, thu 2 súng các loại.
1  Trong năm 1953, nhiều trận đánh địch ở Long Thành nổ ra: Tháng 4, cách
mạng tấn công lính tuần tiễu đường Phước Long-Phước Lai, tấn công đồn Phước
Lai bị đánh; Tua Bến Ngự (Phú Hữu) bị bộ đội và du kích liên xã tiêu diệt. Tháng
7, du kích xã phối hợp với đặc công tỉnh đột nhập vào khu dồn dân Bàu Trường,
Phước An, tiêu diệt toàn bộ trung đội lính.
107

11.8 Page 108

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Lúc bấy giờ, xã Đại Phước, Phú Hữu thuộc Khu III của
huyện Long Thành. Huyện chỉ đạo cán bộ, đảng viên tăng
cường bám trụ để chỉ đạo phong trào đấu tranh. Cán bộ huyện
gồm Nguyễn Sanh Thành, Nguyễn Tri Phương, Trần Văn Thiên,
Đào Minh Lý, Nguyễn Chiến Lũy về hoạt động ở ấp Bến Cộ
tại nhà các cơ sở cách mạng Mai Văn Trí, Mai Văn Năm, Đào
Văn Bảo, Đào Văn Sang. Được nhân dân che chở, cán bộ hoạt
động thuận lợi để tuyên truyền, vận động nhiều người đóng
góp lương thực, tiền cho kháng chiến. Nhiều thanh thiếu niên
ở được tuyên truyền trở thành lực lượng cốt cán cho nhiệm vụ
cách mạng như Lê Văn Cơ, Trần Văn Thời, Trần Văn E, Mai
Văn Hai, Đoàn Thanh Dự, Trần Thị Kim Khanh, Nguyễn Thị
Thắm...
Cuối tháng 8-1953, đồng chí Nguyễn Chiến Lũy, Lê Hiền
tập hợp hàng chục ghe người dân vùng Đại Phước, Phú Hữu
tại tắc Hai Lô, sông Cây Tràm vào ban đêm để phổ biến tin tức
về cách mạng, động viên cho anh em tòng quân xây dựng lực
lượng du kích. Từ đồn Giồng Ông Đông, một toán biệt kích
do đội Sâm dẫn đầu tuần tra bằng xuồng đã phát hiện. Mặc dù
đồng chí Lê Hiền có lựu đạn trong tay để tấn công vào lính địch
nhưng để đảm bảo tính mạng bà con, đồng chí đã ngưng lại, lặn
xuống sông thoát ra ngoài. Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy nhanh
trí nhảy qua xuồng lính, chộp mạnh cột chèo lái làm xuồng lật
úp, khiến bọn lính hoảng hốt vất súng, nhảy vội xuống nước.
Trong cơn hỗn độn đó, các ghe người dân giải tán.
108

11.9 Page 109

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Hoạt động cách mạng của khu III mạnh nhưng cũng gặp
những tổn thất. Ngày 17-11-1953, lính Cao Đài của Lê Thành
Kham ở Phú Thạnh phối hợp với bọn “lính kín” mở cuộc bao
vây ấp Bến Cộ bắt một số cán bộ cách mạng. “Lính kín” được
dân gọi là Việt gian, chúng thường ăn mặc quần tây, áo sơ mi,
đội nón lá buông, dắt theo súng đi rảo trong làng và theo dõi
những người hoạt động cách mạng. Khi ăn mặc như vậy, “lính
kín” rảo vào làng, nghe ngóng thông tin khiến người dân ít
nghi ngờ. Lính địch chặn mé sông, các ngã rẽ, đột vào nhà ông
Đào Văn Bửu bắt đồng chí Nguyễn Sanh Thành, Mai Văn Trí.
Ông Đào Văn Bửu là cơ sở cách mạng cũng bị bắt, tất cả đưa
về giam tại kho đạn Thành Tuy Hạ. Nhà ông Đào Văn Bửu
bị địch đốt cháy. Các đồng chí Nguyễn Chiến Lũy, Nguyễn
Tri Phương, Đào Minh Đáng vượt vòng vây, ra rạch sông trốn
thoát sự truy lùng của địch. Địch tra tấn, bày trò chiêu dụ đồng
chí Nguyễn Sanh Thành để khai thác thông tin nhưng thất bại.
Giam giữ một thời gian, địch dùng chiêu “Thả con săn sắt bắt
con cá rô” khi biết rõ đồng chí Nguyễn Sanh Thành là cán bộ
của huyện, có nhiều người thân tham gia kháng chiến. Địch hy
vọng khi dùng cách thả đồng chí Nguyễn Sanh Thành ra, đưa
về nhà và theo dõi bắt các đồng chí khác và người thân khi liên
lạc trở lại. Thế nhưng, âm mưu của chúng không thành. Trong
thời gian địch ruồng bố gắt gao, một số cán bộ huyện đến hoạt
109

11.10 Page 110

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
động vùng Đại Phước, Phú Hữu sau này bị địch tìm cách bắt
bớ, giam cầm, tra tấn, sát hại1.
Trên chiến trường cả nước, lực lượng cách mạng tổ chức
nhiều chiến dịch quân sự, chủ động tấn công vào quân đội Pháp
và chính quyền tay sai. Những tháng đầu năm 1954, thắng lợi
của cách mạng trên khắp các chiến trường đã có ảnh hưởng
sâu sắc tới phong trào kháng chiến Long Thành. Song song với
hoạt động vũ trang, công tác địch vận được đẩy mạnh. Ngày
7- 4-1954, Tiểu đoàn 300 của lực lượng vũ trang cách mạng tổ
chức chống Pháp càn quét, tiêu diệt tên sĩ quan khét tiếng tàn ác
Jolet Suacot. Tin Jolet Suacot bị đền tội đã gây một tiếng vang
lớn, đem lại niềm vui cho nhân dân Long Thành. Tội ác dã man
và những hậu quả khủng khiếp của chúng gây ra ở Long Thành
kéo dài trong một thời gian dài. Trên chiến trường Long Thành,
lực lượng cách mạng chuyển sang thế áp đảo địch. Du kích các
xã phát triển mạnh. Lực lượng biệt kích của địch hoảng sợ và
không dám bung ra càn quét như trước. Hội tề ở các xã hoang
mang, lính co lại trong các đồn bót.
Cách mạng Việt Nam từng bước giành những thắng lợi quan
trọng trong kháng chiến chống Pháp; đặc biệt chiến dịch Điện
Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu,
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb Đồng Nai, tr.115 - 118. Địch thả đồng
chí Nguyễn Sanh Thành vào ngày 21-1-1954. Ngày 17-3-1954, đồng chí Nguyễn
Tri Phương bị lính Cao Đài bao vây, bắn gãy tay ở Vàm Ông Chuốc (xã Phú
Hữu), giam qua nhiều nhà tù, được trao trả sau năm 1954. Đồng chí Lê Văn Trí
bị địch bắt ở sông Ông Kèo, chặt đầu bêu bên cầu Mười Huỳnh.
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chấn động địa cầu” đã góp phần quan trọng buộc thực dân Pháp
phải ngồi vào bàn đàm phán và ký kết hiệp định lập lại hòa bình
ở Đông Dương. Ngày 8-5-1954, một ngày sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, diễn ra Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh
Đông Dương khai mạc ở Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ). Quân dân Long
Thành cùng tỉnh Biên Hòa, Nam Bộ từng đã trường kỳ kháng
chiến suốt chín năm qua đón nhận tin chiến thắng trong niềm
vui lớn vào thắng lợi của cách mạng. Trong khi đó, chính quyền
thực dân Pháp và tay sai phản động hoang mang, thất vọng.
Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết1.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, quân dân Đại Phước
gánh chịu nhiều hy sinh nhưng vẫn trung kiên với cách mạng.
Tham gia Nam Bộ kháng chiến, cùng cả nước trường kỳ chống
Pháp, quân dân Đại Phước góp phần trong thắng lợi chung.
Trang sử vàng chống Pháp của Long Thành ghi dấu ấn của
người dân yêu nước, du kích, cán bộ, đảng viên trên nhiều mặt
trận diệt ác, phá kềm, đóng góp lương thực, binh vận và tấn
công trực diện vào kẻ thù. Nhân dân Đại Phước vui mừng và
mong chờ những nội dung trong Hiệp định Giơ-ne-vơ được thi
hành, lệnh ngưng bắn được thực hiện chấm dứt chiến tranh,
mong chờ thống nhất đất nước. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ
1  Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định: Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; Pháp rút quân khỏi ba nước Đông
Dương; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam, tháng 7-1956, tổng
tuyển cử tự do để thống nhất Việt Nam.
111

12.2 Page 112

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
hoạt động ở Đại Phước được lệnh tập trung về chiến khu Xuyên
Phước Cơ (Xuyên Mộc - Bà Rịa) chuyển quân tập kết ra Bắc
theo tinh thần của Hiệp định. Thế nhưng, đế quốc Mỹ từng
bước can thiệp thành lập chính quyền tay sai, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới. Một số cán bộ, đảng viên từng hoạt
động tại Đại Phước, Long Thành được bố trí ở lại, cùng với
nhân dân địa phương tiếp tục bước vào cuộc chiến mới trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
112

12.3 Page 113

▲back to top


CHƯƠNG IV
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 - 1975)
1. Đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh vũ trang (1954
- 1960)
Sau 9 năm cùng Nam Bộ, cả nước kháng chiến chống Pháp,
người dân xã Đại Phước vui mừng khi Hiệp định về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết vào
ngày 21-7-1954. Theo Hiệp định, Việt Nam tạm thời chia làm
hai miền với ranh giới quân sự là vĩ tuyến 17. Đến tháng 7-1956,
hai miền Nam Bắc của Việt Nam sẽ thực hiện Tổng tuyển cử để
thống nhất. Ở miền Bắc, chính quyền cách mạng tiếp quản Thủ
đô Hà Nội, lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền
Nam là vùng vẫn còn quân Pháp cho đến tạm chiếm. Những
cán bộ, chiến sĩ cách mạng ở miền Nam chuyển quân tập kết ra
miền Bắc hay bố trí ở lại hoạt động. Địa bàn Đại Phước trong
thời điểm này thuộc huyện Long Thành trực thuộc tỉnh Bà Chợ
(sáp nhập 2 tỉnh Bà Rịa, Chợ Lớn trước đó vào năm 1951) của
Trung ương Cục miền Nam. Nhân dân Đại Phước hy vọng với
việc ngừng bắn, quê hương sẽ không còn chiến tranh, được tự
do.
113

12.4 Page 114

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Với âm mưu xâm lược Việt Nam, chia cắt đất nước ta lâu
dài, đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, từng bước
thực hiện việc hất cẳng thực dân Pháp, dựng chính quyền
bù nhìn để biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Tháng
7-1954, đế quốc Mỹ từng bước đưa Ngô Đình Diệm về miền
Nam giữ chức thủ tướng Quốc gia Việt Nam (do cựu hoàng Bảo
Đại làm Quốc trưởng được Pháp hậu thuẫn, thành lập từ năm
1949). Đây là những bước đi để đế quốc Mỹ hỗ trợ Ngô Đình
Diệm xây dựng bộ máy chính quyền thân Mỹ, từng bước thành
lập quân đội tay sai, tiến hành khủng bố phong trào cách mạng
miền Nam.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng thảo luận về nhiệm
vụ cách mạng trong hội nghị lần thứ VII, nhận định: “Đế quốc
Mỹ đã trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân ta
và chỉ rõ “cần tập trung mũi nhọn tấn công vào đế quốc Mỹ,
bọn hiếu chiến Pháp và bọn tay sai của chúng, tiến hành củng
cố hòa bình, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra nghị quyết về “Tình hình nhiệm
vụ mới và chính sách của Đảng”, Nghị quyết nêu rõ: “ ...nhiệm
vụ đấu tranh giải phóng của nhân dân ta chưa phải đã hoàn
thành, cuộc đấu tranh ái quốc không vì đình chiến mà kết thúc,
cuộc đấu tranh đó còn đang tiếp tục nhưng phương thức đấu
tranh cần phải thay đổi...Đảng phải lãnh đạo nhân dân miền
114

12.5 Page 115

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, cải thiện dân
sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập1.
Nhằm giữ phong trào cách mạng ở miền Nam, chính quyền
cách mạng chủ trương và thực hiện bố trí một số cán bộ, chiến
sĩ ở lại tiếp tục bám dân, hoạt động. Những cán bộ của Long
Thành không đi tập kết, trở lại địa bàn; trong đó có đồng chí
Đoàn Văn Kỉnh về Gò Keo, Giồng Ông Đông, Nguyễn Chiến
Lũy, trở lại Câu Kê, Vườn Trúc ở Đại Phước, Phú Hữu. Lính
địch ở địa phương lúc bấy giờ vẫn còn nhưng hoang mang, co
lại trước tình thế cách mạng đang lên. Nắm giữ trong tay giấy
tờ của Ban Liên hiệp đình chiến Việt - Pháp được cấp ở Xuyên
Mộc, các đồng chí cẩn trọng trong đi lại, sinh hoạt tránh sự phát
hiện của địch. Một số đồng chí ở địa phương bị địch bắt giam
trước đây như Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thị Kim Huê (y tá
huyện đội Long Thành) được Pháp trao trả và trở lại hoạt động
trên địa bàn xã Đại Phước, Phú Hữu. Cán bộ, chiến sĩ và những
cơ sở cách mạng ở Đại Phước âm thầm hoạt động. Lúc bấy giờ,
đồng chí Nguyễn Văn Tư làm bí thư liên xã Đại Phước, Phú
Hữu.
Thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới, đế quốc Mỹ hỗ trợ Ngô Đình Diệm gây dựng thanh thế.
Ngày 26-10-1955, sau cuộc trưng cầu dân ý, Ngô Đình Diệm
1  Học viện Quân sự cao cấp (1980)Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954
- 1975, những sự kiện quân sự. Nxb. Quân đội nhân dân, tr.11-12.
115

12.6 Page 116

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
thay Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính phủ Việt Nam Cộng
hòa ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm đứng
đầu thực thi nhiều hành động phá hoại hiệp định, mua chuộc,
lôi kéo và trấn áp các lực lượng vũ trang chống đối, những
người yêu nước và đặc biệt nhắm vào phong trào cách mạng ở
miền Nam. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đấu tranh trong tình
hình mới, Trung ương Cục miền Nam chia lại chiến trường, các
tỉnh được thành lập trên cơ sở trước năm 1951. Địa bàn Long
Thành trước đây thuộc tỉnh Bà Chợ được đưa lại trực thuộc
tỉnh Biên Hòa1. Huyện ủy Long Thành được chỉ định gồm các
đồng chí Trần Bình Khê (Quyền Bí thư), đồng chí Hai Lãng
(Phó Bí thư), đồng chí Tám Thạch (ủy viên Thường vụ), Mai
Hiển Thái (Ba Thái), Tám Tánh, Sáu Phong (ủy viên) và xây
dựng căn cứ bí mật ở Rừng Sác, địa bàn xã Phước Thọ. Huyện
ủy Long Thành tổ chức cán bộ, chiến sĩ tập huấn, nắm bắt được
chủ trương của Tỉnh ủy, của huyện về việc tạo mọi điều kiện
đưa cán bộ, đảng viên vào bên trong xã, ấp bám dân, bí mật xây
dựng cơ sở lâu dài cho cách mạng, phát động quần chúng bung
về đất cũ, chống địch khủng bố người kháng chiến cũ, đòi địch
thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ... Cuối tháng 9-1954, gần 200
cán bộ ở các xã của huyện Long Thành được tổ chức học tập,
nắm kỹ chủ trương, phương thức hoạt động.
1  Tỉnh Biên Hòa được thành lập lại trên cơ sở tỉnh Thủ Biên chia tách như trước
năm 1951: Thủ Dầu Một và Biên Hòa.
116

12.7 Page 117

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Đầu tháng 12-1954, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh)
được Tỉnh uỷ Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư Huyện uỷ Long
Thành. Tháng 1-1955, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện
Long Thành được tổ chức. Hội nghị đánh giá tình hình và đề
ra chủ trương: Kiện toàn cơ sở Đảng ở tất cả các xã, nơi nào
trống, xây dựng chi bộ. Tiếp tục tuyên truyền hiệp định, vận
động nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng các tổ chức quần
chúng hợp pháp. Huyện ủy Long Thành phân công các đồng
chí ủy viên về từng địa bàn chỉ đạo trực tiếp. Đồng chí Tư Lộc
đến phụ trách địa bàn Phước Lý, Phú Hữu, Phước Khánh1. Giữa
tháng 5-1955, đồng chí Vũ Hồng Phô đưa các đồng chí Phạm
Văn Thuận (Ba Thuận) - Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa (phụ
trách binh vận), đồng chí Nguyễn Duy Đán - cán bộ binh vận
của Xứ ủy Nam Bộ đến Bến Cộ. Các đồng chí triển khai nhiệm
vụ chi bộ Đảng lãnh đạo đấu tranh chính trị, xây dựng thực lực
và cơ sở trong lòng địch đồng thời hướng dẫn cách đối phó với
lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn ở Rừng Sác. Thông qua
những buổi họp hội, cán bộ, đảng viên lồng vào nội dung tuyên
truyền thắng lợi Hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng thời từng bước xây
dựng cơ sở cách mạng. Lần lượt các xã đều xuất hiện hội đình,
hội chùa, hội tương hữu, vạn cấy... để tập hợp quần chúng. Khi
1  Lúc bấy giờ, Phước Lý bao gồm cả Đại Phước. Các địa bàn khác ở Long
Thành được phân công: đồng chí Út Mười Hai (Út Vồ) đến vùng Tam An, An
Lợi; đồng chí Ba Đông phụ trách địa bàn Long An, Long Phước; đồng chí Tám
Tánh đến xã Phú Hội, Long Tân; đồng chí Mai Hiển Thái (Ba Thái) phụ trách
vùng đồn điền cao su; đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định) về địa bàn Phước An,
Phước Thọ...
117

12.8 Page 118

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chính quyền địch truy hỏi những nhà có cán bộ chiến sĩ, đảng
viên kháng chiến trước đây, quần chúng đấu tranh, đưa khẩu
hiệu “Không được trả thù người kháng chiến cũ” được quy định
trong hiệp định.
Địa bàn Long Thành trở nên phức tạp khi chính quyền Sài
Gòn tấn công lực lượng vũ trang trong đó có đội ngũ Bình
Xuyên do Lê Văn Viễn làm thủ lĩnh, tìm đến Rừng Sác đứng
chân hoạt động. Ban địch vận Xứ ủy Nam Bộ cử đồng chí
Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) đến Long Thành, phối hợp lãnh
đạo địa phương thực hiện công tác binh vận với lực lượng Bình
Xuyên. Tại Long Thành, đồng chí Vũ Hồng Phô liên lạc và đưa
đồng chí Nguyễn Trọng Tâm đến nhà đồng chí Nguyễn Văn
Thông, bám trụ ấp Bến Cộ nắm tình hình. Một số đơn vị trong
lực lượng Bình Xuyên bị tấn công, ngã về phía cách mạng,
được hướng dẫn rút về căn cứ, chịu sự quản lý của cách mạng.
Một số vũ khí của lực lượng Bình Xuyên khi rút chạy, được
quân dân Long Thành thu gom, trang bị cho địa phương1. Khi
chính quyền Sài Gòn thực hiện tấn công lực lượng Bình Xuyên,
Huyện ủy Long Thành chỉ đạo cho các xã tích cực liên hệ, vận
động lực lượng Bình Xuyên để phân hóa hàng ngũ chỉ huy, lôi
kéo những phần tử tiến bộ về với cách mạng; đồng thời vận
động binh lính Bình Xuyên tiêu diệt ác ôn tại địa phương.
1  Nửa quân số còn lại tiểu đoàn 3 do Bảy Môn chỉ huy được các đồng chí Tư
Thái, Mười Thọ đưa về căn cứ Suối Cả của tỉnh Biên Hòa. Một bộ phận tàn quân
khác cũng thuộc tiểu đoàn 3 do Mười Đôi, Tư Đại chỉ huy chạy về núi Thị Vải
được Huyện ủy Long Thành nắm.
118

12.9 Page 119

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Vùng Đại Phước có Châu Văn Phú là con của bà Lê Thị Tư
(Tư Nhiễu). Chồng bà Lê Thị Tư bị Pháp sát hại thả sông Ông
Kèo. Châu Văn Phú bị bắt đi lính bảo an Nhà Bè và đưa làm
đồn phó Phước Khánh. Được các cơ sở vận động, tuyên truyền
tinh thần yêu nước, trả thù cho cha, Châu Văn Phú có cảm tình
với cách mạng, hẹn cơ hội tham gia. Năm 1955, Phú vẫn còn
phục vụ trong sắc lính của chính quyền địch.
Cuối tháng 6-1955, đồng chí Vũ Hồng Phô, Hai Thắng (Ủy
viên thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa) đến Bến Cộ, cho chủ trương
nội tuyến Châu Văn Phú làm binh biến rồi kéo đơn vị ra rừng.
Theo kế hoạch, đơn vị Phú ra căn cứ sở Dừa1, mang danh lính
Bình Xuyên và Huyện ủy trực tiếp lãnh đạo toàn diện. Thông
qua hai cơ sở là mẹ Phan Thị Nho, mẹ Lê Thị Tư, đồng chí
Nguyễn Chiến Lũy gặp trực tiếp nắm tình hình, thống nhất với
Phú kế hoạch bức rút đồn Phước Khánh, diệt đội Lạc và thoát
ly vào căn cứ. Đội Lạc là người gây nhiều nợ máu với nhân
dân và bắn giết một số cán bộ kháng chiến ở địa phương; trong
đó có đồng chí Trần Văn Thê (Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến
hành chính xã Phước Thành), Nguyễn Lương Hựu (xã Phước
Khánh). Sau nhiều lần trao đổi, bàn bạc và chuẩn bị và được
chấp thuận của Huyện ủy Long Thành, đồng chí Nguyễn Chiến
Lũy được ủy nhiệm phụ trách kế hoạch.
1  Sở Dừa vốn là đồn điền trồng dừa do một linh mục người Pháp lập ở vùng
Phước Khánh từ cuối thế kỷ XIX, diện tích hơn 250ha, kinh doanh không thành
công. Địa bàn này được lực lượng cách mạng chọn làm căn cứ hoạt động.
119

12.10 Page 120

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Từ ngày 22-9-1955, các đồng chí Nguyễn Chiến Lũy,
Nguyễn Văn Thoàng, Lê Văn Thời, Mai Văn Mai sử dụng ba
chiếc xuồng đến điểm hẹn thống nhất thời gian bên ngoài tấn
công vào, bên trong có Châu Văn Phú làm nội ứng để diệt đội
Lạc. Đúng 1 giờ ngày 23-9-1955, trong đồn, Châu Văn Phú
châm lửa đốt đồn và cùng chị Kim, anh Chín Kỵ và binh lính
mang 54 súng ra điểm hẹn. Tên đội Lạc bị bắt và được đưa ra
xử lý. Qua cơ sở Lê Văn Cơ hướng dẫn, Châu Văn Phú cùng
số lính trong đồn được đưa tới căn cứ Sở Dừa (Phước Khánh),
tuyển một số anh em vào hàng ngũ cách mạng.
Nhằm tăng cường cho lực lượng vũ trang của huyện, Huyện
ủy Long Thành rút một số đồng chí ở các địa phương: Nguyễn
Văn Sơn (xã Long Tân), Mười Tuồng (xã Phú Hội), Chín Nhẫn
(xã Phước Nguyên), Tạ Nông (xã Phước Thọ), Mười Hương
(xã Tam An) bổ sung cho đơn vị của Châu Văn Phú, thành
lập chi bộ do đồng chí Nguyễn Văn Sơn làm Bí thư. Chi bộ
được Thường vụ huyện Long Thành trực tiếp chỉ đạo toàn diện,
mang danh nghĩa của Bình Xuyên để hoạt động. Nhiệm vụ diệt
ác, phá đồn ở Long Thành đem lại nhiều thắng lợi.
Trên địa bàn Long Thành, Nhơn Trạch, chính quyền Sài
Gòn bố trí một bộ phận đồng bào theo đạo Công giáo ở miền
Bắc di cư vào Nam đến định cư. Vùng Phước Lý (Đại Phước),
Ông Kèo bao quanh phía Nam của khu Lòng Chảo, tổng kho
Thành Tuy Hạ và Phước Khánh được bố trí khoảng 4.000
người. Trong khi đó các trại tại Kim Liên Sơn trong vành đai
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
thị trấn Long Thành khoảng 3.000 người. Thực tế, việc chính
quyền địch lấy đất của người dân địa phương để lập trại đưa
đồng bào di cư đến, kèm theo những chính sách gọi là “ưu đãi”
như cấp đất, khoanh vùng, cấp đồ dùng, vật dụng, làm nhà,
cho tự do khai phá rừng Giồng, rừng Sác... nhằm thực hiện âm
mưu tạo ra một vành đai bảo vệ những khu vực quan trọng của
chính quyền Sài Gòn, đồng thời tạo sự chia rẽ trong nhân dân
để thuận lợi kiểm soát, đánh phá phong trào cách mạng.
Chính quyền Sài Gòn dấn bước thêm vào hành động phá
hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ bằng kế hoạch tổng tuyển cử riêng
lẻ bầu cử Quốc hội lập hiến ở miền Nam Việt Nam. Trước bầu
cử, ở Long Thành, chính quyền địch giăng biểu ngữ, áp phích,
phát loa ủng hộ tổng thống Ngô Đình Diệm, kèm theo ảnh quần
áo, máy cày... với cách tuyên truyền ủng hộ chính quyền Việt
Nam Cộng hòa là hướng đến tương lai “văn minh, cơm ngon,
áo đẹp”. Bộ máy các xã tổ chức kiểm tra hộ khẩu lập sổ gia
đình, làm thẻ cử tri thay giấy thông hành, tạo thế kiểm soát chặt
chẽ những gia đình kháng chiến. Trước tình hình đó, Huyện ủy
Long Thành chủ trương phát động phong trào chống phá bầu
cử của chính quyền Sài Gòn. Các tổ thanh niên xã ra căn cứ
chi bộ đóng ở Rừng Sác nhận truyền đơn, giấu trong các thùng
đựng đường đem về tuyên truyền. Truyền đơn có nội dung “Đả
đảo bầu cử bất hợp pháp”, “Mỹ Diệm phải thực hiện Hiệp định
Giơ-ne-vơ. Phải thực hiện tổng tuyển cử”... được rải khắp xóm,
tới sát nhà hội đồng xã. Ngày 23-10-1955, lực lượng cách mạng
từ Rạch Bảy bắn 10 trái cối 61 về khu vực bầu cử của chính
121

13.2 Page 122

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
quyền Ngô Đình Diệm tại Phước Lý để nhân dân lấy lý do
không an toàn nên không tham gia bỏ phiếu.
Ở miền Nam, sau cuộc trưng cầu dân ý có tính chất độc diễn,
vào ngày 26-10-1955, Ngô Đình Diệm lên thay Quốc trưởng
Bảo Đại, ra tuyên cáo thành lập Việt Nam Cộng hòa, lấy danh
nghĩa tổng thống theo Hiến ước tạm thời. Chính quyền Ngô
Đình Diệm tiến hành thanh trừng các lực lượng vũ trang giáo
phái thân Pháp trước đó gồm Hòa Hỏa, Cao Đài, Bình Xuyên,
chống đối chính quyền Sài Gòn để thống nhất, xây dựng quân
đội. Ở Long Thành, nhân sự trong tổ chức bộ máy chính quyền
cấp huyện của địch thay đổi, các xã được củng cố đội ngũ trong
hội tề trước đây được đào tạo theo chủ trương đánh phá cách
mạng.
Lực lượng cách mạng ở Đại Phước vẫn duy trì, bám dân
hoạt động. Cuối tháng 11-1955, tên Lê Thành Kham (đại úy),
Ký Hải là những tên ác ôn, hay tổ chức quấy nhiễu nhân dân ở
Xoài Minh bị lực lượng Châu Văn Phú phục kích, đánh mìn làm
lật xe, tiêu diệt trên chặng đường từ Thành Tuy Hạ về Phước
Lý. Những tên gây tội ác với nhân dân tại địa phương bị trừng
trị thích đáng đã làm cho binh lính địch khác chùn tay trong
những vụ đàn áp, cướp phá nhân dân. Tại địa phương, địch tiến
hành truy lùng gay gắt các đảng viên, cơ sở cách mạng chúng
nắm được thông tin. Các anh Nguyễn Văn Thanh1, Mai Văn
Rỗ, Đào Văn Tố là những tự vệ mật hoạt động cách mạng trước
1  Nguyễn Văn Thanh sau này được điều động làm Đại đội trưởng Đại đội 240.
122

13.3 Page 123

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đó, thoát ly kháng chiến, gia nhập vào lực lượng vũ trang do
Châu Văn Phú chỉ huy.
Ngày 4-3-1956, chính quyền địch ở Long Thành tổ chức
bầu cử. Địch điều quân lính rải khắp các xã, cảnh sát chìm được
cài theo dõi các khu vực bầu cử vì lo sợ bị lực lượng vũ trang
cách mạng tấn công. Hội đồng xã chạy đến từng nhà thúc người
dân đi bỏ phiếu. Người dân được tuyên truyền chống phá bầu
cử bằng cách không tham gia, nếu buộc phải đi bỏ phiếu thì làm
phiếu rách, gạch, xóa phiếu lung tung để phiếu hư, không hợp
lệ. Bằng những thủ đoạn mị dân, chính quyền Sài Gòn tuyên
bố bầu cử thành công. Ngày 6-4-1956, Quốc hội của Việt Nam
Cộng hòa ra hiến pháp. Sau khi đánh bại các lực lượng vũ trang
chống đối, chính quyền Sài Gòn tăng cường lực lượng chính trị
ở các thiết chế cấp xã toàn miền Nam để quyết tâm đẩy lùi tận
gốc các phong trào cách mạng trong quần chúng. Trong tình
hình chung, ban hội tề ở xã thuộc Long Thành được thay thế
bằng hội đồng xã, có lực lượng cảnh sát. Thành phần trong hội
đồng tập trung là bọn ác ôn, địa chủ và đặc biệt là một số cán bộ
kháng chiến cũ mà địch dụ dỗ, lôi kéo với mục đích vừa khống
chế các gia đình kháng chiến vừa làm mất uy tín cách mạng
trong nhân dân. Dân vệ được xây dựng, mỗi xã 1 tiểu đội trang
bị vũ khí đầy đủ.
Bộ máy tố cộng được địch đẩy mạnh hoạt động từ huyện
xuống xã ấp để phát hiện, truy lùng cán bộ, chiến sĩ “bám trụ”
trong dân. Địch đẩy mạnh các phong trào “Cách mạng quốc
gia” gồm các đoàn thể để hoạt động chống cộng như: “Thanh
123

13.4 Page 124

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
niên cộng hòa”, “Phụ nữ cộng hòa”. Các gia đình có người
tham gia kháng chiến bị địch thường xuyên theo dõi, khám xét,
truy vấn. Lực lượng công dân vụ, cảnh sát, chỉ điểm theo dõi
gắt gao người dân có tư tưởng chống đối chính quyền Sài Gòn,
đặc biệt những gia đình có người tham gia cách mạng trước
đây.
Chính quyền Sài Gòn thực hiện chính sách chống cộng khắp
miền Nam. Tại Long Thành, địch mở lớp “Tố Cộng”, xuyên tạc
nội dung hiệp định, vu khống cộng sản cướp công kháng chiến,
cướp công chống Pháp, nói xấu chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, kêu gọi tri ân Ngô Đình Diệm và chính nghĩa quốc
gia. Hoạt động tố cộng, phát truyền đơn tổ chức rộng khắp.
Chúng lợi dụng một số đồng bào di cư bị mua chuộc, một số
người từng tham gia kháng chiến nay đầu hàng xuyên tạc, tác
động tâm lý để người dân tin theo mà “ly khai cộng sản”. Một
thủ đoạn thâm hiểm là địch tổ chức xé cờ Đảng cho người nào
ủng hộ chính quyền Sài Gòn. Một không khí ngột ngạt bao
trùm các xóm ấp. Trước tình thế này, Huyện ủy Long Thành chỉ
đạo cho các lực lượng vũ trang đẩy mạnh công tác tuyên truyền
trong quần chúng. Vào cuối tháng 6-1956, đơn vị vũ trang do
Châu Văn Phú, Đào Thanh Xuân phụ trách mang danh nghĩa
Bình Xuyên xâm nhập vào ấp Thị Cầu, ngã ba Vườn Chuối
tuyên truyền chủ trương, đường lối cách mạng. Đơn vị đụng độ
với lực lượng dân vệ do đội Ngân chỉ huy. Trong trận đánh với
địch, Châu Văn Phú bị thương, ra lệnh cho toàn đội rút nhanh
qua sông, một mình ôm súng và số đạn chiến đấu, ngăn cản
124

13.5 Page 125

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
địch. Anh chiến đấu và dành viên đạn cuối cùng cho cá nhân,
hy sinh anh dũng, không để địch bắt sống.
Sự kìm kẹp từ chính quyền cấp xã và các hoạt động chống
cộng rộng khắp, trên nhiều lĩnh vực của chính quyền Sài Gòn
làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng tại địa phương. Một
số cán bộ, đảng viên ở Đại Phước bị địch càn quét, bắt giam
trong hệ thống nhà tù của chính quyền Sài Gòn, nếm những
đòn tra tấn dã man, những chiêu dụ dỗ, mua chuộc. Đồng chí
Nguyễn Chiến Lũy bị địch bắt đưa về bót Catinat tại Sài Gòn.
Vùng Long Thành, nhiều cơ sở cách mạng bị địch bắt giam,
gia đình bị quấy phá, chèn ép bằng nhiều thủ đoạn. Trong tình
hình khó khăn chung do chính quyền Sài Gòn đàn áp, sự kiện
nổi dậy phá khám ở Trung tâm cải huấn Biên Hòa đã cổ vũ cho
quân dân cách mạng. Sau thời gian chuẩn bị, vào lúc lúc 17
giờ 40 phút chiều ngày 2-12-1956, cán bộ, đảng viên và những
người yêu nước trong nhà lao Tân Hiệp đã phá khám và thoát ra
khỏi nhà lao. Những cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở Long Thành
theo hướng Trị An, sau đó về Bà Rịa và quay trở lại hoạt động
ở địa phương. Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy, cán bộ hoạt động ở
xã Đại Phước, Phú Hữu là thành viên tích cực của chi ủy cộng
sản hoạt động bí mật tổ chức phá khám Biên Hòa1. Một số nữ
1  Sau thời gian chuẩn bị, lúc 17 giờ 40 phút chiều ngày 2-12-1956, cuộc phá
khám diễn ra. Chính quyền địch tổ chức truy kích sau đó làm một số cán bộ, chiến
sĩ hy sinh. Kết quả có 462 cán bộ, đảng viên, người yêu nước thoát khỏi nhà giam.
Địa điểm nhà lao Tân Hiệp nay thuộc phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa,
được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994.
125

13.6 Page 126

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chiến sĩ cách mạng sau khi thoát khỏi nhà tù, theo hướng Long
Thành, được cơ sở cách mạng giúp đỡ, vượt các chốt địch, qua
ngã chợ Đại Phước, trở lại vùng đô thị Sài Gòn.
Bước sang năm 1957, chính quyền Sài Gòn tăng cường tấn
công phong trào cách mạng miền Nam. Thực hiện chủ trương
Đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, địch mở chiến dịch
đánh vào cách mạng ở miền Đông Nam Bộ. Vùng Long Thành,
lính địch liên tục càn quét, lùng sục các địa bàn. Đây cũng là
thời gian chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt đầu thực hiện
chính sách Cải cách điền địa ở miền Nam. Trên địa bàn Long
Thành, số ruộng đất mà địch “tịch thu” phần lớn là đất đã được
chính quyền cách mạng phân chia cho nông dân trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp và một phần đất bỏ hoang mà nông
dân khai phá, canh tác.
Vùng Đại Phước, Phước Lý, Phú Hữu, Phước Khánh trồng
lúa với diện tích khá lớn của nhân dân bị chính quyền Sài Gòn
tiến hành tịch thu. Nông dân mất ruộng đất trong khi đó một
tầng lớp địa chủ mới dưới chính sách của Việt Nam Cộng hòa.
Huyện ủy Long Thành chủ trương đẩy mạnh tuyên truyền trong
nhân dân, giới địa chủ, đồng thời vận động nhân dân chống
“Xáo canh, tăng tô” và “Giữ nguyên canh, tăng cường đoàn kết
nông thôn”. Các đồng chí Huyện ủy viên phụ trách các khu vực
đi sâu cơ sở, tổ chức cuộc gặp gỡ với từng địa chủ trong vùng,
giải thích và báo rõ cho họ biết ruộng của dân phải để cho dân
làm, động viên họ góp phần chống cải cách điền địa và giảm tô
126

13.7 Page 127

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
cho nông dân. Đồng thời, vận động nông dân đấu tranh không
giao đất. Ở Cù lao Ông Còn có 300 mẫu địch định tổ chức
đo đạc để thu hồi từ người dân. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ
Phước Lý, Phú Hữu, đồng bào tập trung ngăn chặn, quyết giữ
đất trước những tổ đo đạc do chính quyền phân công thực hiện.
Trước tinh thần đấu tranh kiên quyết của người dân, từ lý lẽ đến
dùng sức lực ngăn cản, địch phải bỏ việc đo đất ở đây.
Nhằm giữ thế hoạt động, vừa chống chính quyền Sài Gòn
thực hiện cải cách điền địa, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo đẩy
mạnh việc nắm tề xã, dân vệ và phát động dân “Thanh khiết
xóm ấp” để tạo điều kiện thuận lợi cho việc “điều lắng” và hoạt
động xây dựng cơ sở cách mạng. “Thanh khiết xóm ấp” tức là
làm trong sạch xóm ấp, tuy không diệt ác, nhưng cô lập, bưng
tai, bịt mắt, cắt đứt các nguồn tin làm mất tác dụng của bọn chỉ
điểm do thám ở địa phương. Đối với những người ở bên ngoài
tới thám sát, dò la, theo dõi, đồng bào thực hiện ba không:
“không biết, không nghe, không thấy”. Phong trào này được
nhân dân hưởng ứng, lan rộng trong nhiều xóm ấp nên hình
thành các lõm chính trị ở nhiều xã.
Nhiều nơi, địch giăng khẩu hiệu có nội dung đe doạ, trấn áp
tinh thần người dân như: “Việt Cộng là bán nước”, “Diệt Cộng
là yêu nước”, “Tố Cộng là yêu nước”, “Tri ân Tổng thống Ngô
Đình Diệm”... Hiểu được sự lừa mị của địch, nhân dân Đại
Phước, Phước Khánh lưu truyền bài vè cho trẻ em đọc “Thiếu
nhi là cháu Bác Hồ. Ai thèm làm cháu thằng Ngô bao giờ”.
127

13.8 Page 128

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Người dân bí mật phá, bỏ những khẩu hiệu địch tuyên truyền,
thậm chí còn sửa lại cho khác nghĩa. Trên đường lộ ở cầu Phước
Khánh có một khẩu hiệu lớn “Diệt Cộng là yêu nước” thì bị
dùng sơn đen đánh dấu sắc lớn, đậm trên chữ “yêu”. Người dân
đi chợ bàn tán và đọc “Diệt Cộng là yếu nước” khiến cảnh sát
tức tối và hạ khẩu hiệu xuống.
Sự tăng cường hệ thống kìm kẹp bên trong kết hợp với đánh
phá căn cứ cách mạng của địch làm cho hoạt động cách mạng ở
Long Thành cuối năm 1959 trở nên căng thẳng. Ở các ấp, ngụy
quyền phân chia hộ dân và dán bảng trước nhà dân thành từng
loại: “Gia đình cộng sản”, “Gia đình có quan hệ với cộng sản”,
“Gia đình theo quốc gia”, “Gia đình không có quan hệ gì” làm
dấu hiệu để tiện cho việc theo dõi. Chính quyền địch tổ chức
loại hình tự quản “Ngũ gia liên bảo” để kiểm soát chặt. Cứ 5
gia đình thì có một người làm liên gia trưởng chịu trách nhiệm
về an ninh xã, ấp và thực hiện nghĩa vụ của hội đồng giao. Vì
vậy, những biến động nhỏ trong mỗi liên gia hay có người lạ
xuất hiện thì phải thông báo ngay cho chính quyền. Nếu trong
liên gia không cung cấp thông tin thì bị quy kết “thông đồng với
cộng sản”, bị hạch sách, làm khó. Thời gian này, cán bộ, đảng
viên khó có thể vào vùng dân cư để tuyên truyền, hoạt động.
Trên địa bàn xã Đại Phước, cán bộ, đảng viên phân chia các
khu vực theo địa bàn ấp đến bám trụ hoạt động theo hình thức
bán hợp pháp, tìm cách vận động người dân đấu tranh gồm các
đồng chí Đào Minh Chánh (Ba Lịnh), Lê Văn Tâm, Đào Văn
Chỉ, Nguyễn Đức Thắng, Đào Minh Thanh... Đồng chí Đào
128

13.9 Page 129

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Minh Chánh làm Bí thư chi bộ, chủ trương đẩy mạnh xây dựng
cơ sở để bám trụ hoạt động, thực hiện “diệt ác phá kềm”.
Chính quyền Sài Gòn đánh mạnh vào phong trào cách mạng
trên toàn miền Nam. Một số cán bộ, đảng viên mất tinh thần,
không chịu được gian khổ đã đầu hàng địch. Năm 1959, Trần
Xuân Hà (Hà Tư,Tư Trần), Bí thư Huyện ủy Long Thành đầu
hàng địch, gây nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng. Một số
cán bộ, đảng viên bị Trần Xuân Hà chỉ điểm, dẫn quân lính trực
tiếp đến bắt hay lấy cớ thực hiện nhiệm vụ để địch phục kích.
Trên địa bàn xã Đại Phước, từ vùng Cù lao Ông Còn đến Phước
Lý, Bến Cộ một số cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng bị gián
điệp bắt giam, bỏ tù. Trong vòng 3 tháng cuối năm 1959, gần
300 cán bộ đảng viên và cơ sở ở Long Thành đã bị địch bắt1.
Tháng 5-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội
nghị lần thứ 15, kiểm điểm tình hình trong nước từ khi ký kết
Hiệp định Giơ-ne-vơ và đề ra đường lối cách mạng của cả nước,
của miền Nam. Trong nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam là Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người
cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh... Nhiệm vụ trước mắt là đoàn
kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược
1  Trần Xuân Hà được tỉnh điều từ Tân Uyên (Thủ Dầu Một) về làm Bí thư Huyện
ủy Long Thành tháng 3-1958.
129

13.10 Page 130

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay
sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân
tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các
quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững
hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà...; phương pháp tiến
hành đấu tranh ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền
về tay nhân dân1.
Đầu năm 1960, ở Nam Bộ, sự kiện Đồng Khởi ở tỉnh Bến
Tre đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng. Ngày 17-1-
1960, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bến Tre, nhân dân các xã
Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày nổi
dậy đánh đồn bót, diệt ác ôn, giải tán chính quyền địch, giành
lấy quyền làm chủ thôn xã. Lực lượng tham gia đông đảo là phụ
nữ, nên được gọi là “Đội quân tóc dài”. Cuộc nổi dậy lan ra toàn
huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre, trở thành cao trào “Đồng khởi”
như nước vỡ bờ nổ ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi
ở miền Trung Trung Bộ tác động đến phong trào đấu tranh cách
mạng, đặc biệt là vùng nông thôn. Cả miền Nam có 2.627 xã,
người dân đã giành quyền tự quản ở 1.383 xã. Số dân ở vùng
giải phóng khoảng 5,6 triệu người. Xứ ủy Nam Bộ kịp thời chỉ
đạo Đảng bộ các địa phương tăng cường xây dựng lực lượng
vũ trang và hoạt động vũ trang, hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt
ác, phá kìm. Để thúc đẩy hơn nữa các hoạt động đấu tranh vũ
trang, Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương tiến hành một cuộc tiến công
1  Hội nghị 15 diễn ra vào 2 đợt: đợt 1 vào tháng 1/1959, đợt 2 vào tháng 7/1959.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
quân sự nhằm gây tác động mạnh trên chiến trường, đồng thời
lấy vũ khí của địch trang bị cho các đơn vị vũ trang cách mạng.
Ngày 26-1-1960, Ban Quân sự Liên tỉnh miền Đông phối hợp
với quân và dân Tây Ninh tổ chức trận tập kích căn cứ Tua Hai1
và giành thắng lợi. Những sự kiện trên tác động mạnh mẽ tới
phong trào cách mạng Long Thành.
Tháng 2-1960, Thường vụ Huyện ủy Long Thành đã phân
tích tình hình và quyết định: Xây dựng lực lượng vũ trang đánh
địch. Chủ trương xây dựng lực lượng du kích để đấu tranh
nhanh chóng được truyền về đến các xã. Giữa tháng 3-1960,
Tỉnh uỷ Biên Hòa cử đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc)
xuống Long Thành củng cố phong trào. Triển khai Nghị quyết
15, Huyện ủy Long Thành chia vùng và phân công các đồng chí
là Huyện ủy viên xuống phụ trách. Địa bàn Long Thành chia
thành 4 vùng:
- Các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Phú Thạnh,
Long Tân thuộc vùng IV do đồng chí Nguyễn Văn Thông (tên
là Nguyễn Chiến Lũy thời kỳ kháng Pháp, Hai Thông), Tư
Liềm phụ trách.
- Vùng I gồm các xã từ Phước Nguyên, Tam An đến xã Tam
Phước, Phước Tân do các đồng chí Út Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba
Tấn phụ trách.
1  Trận đánh Tua Hai, cách mạng diệt 76 quân địch, bắt, giáo dục và thả tại chỗ
hơn 400 quân, thu gần 1.500 khẩu súng các loại. Đây là thắng lợi đầu tiên của
lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, châm ngòi cho cao trào Đồng khởi ở
miền Đông Nam Bộ.
131

14.2 Page 132

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
- Vùng II gồm các xã từ Long An đến Phước Thái do các
đồng chí Ba Đông, Mười Thọ phụ trách.
Vùng III: Từ xã Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiển đến xã
Phước An, Vĩnh Thanh do đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định)
phụ trách.
Mỗi vùng căn cứ vào tình tình thực tế, chia thành hai hoặc
ba cụm nhỏ để triển khai Nghị quyết 15. Từng xã tổ chức được
lực lượng du kích từ 3 đến 5 đồng chí. Huyện ủy đã đề ra các
biện pháp cụ thể: Vận động đồng bào cho con em tham gia lực
lượng vũ trang; dựa vào quần chúng tốt, vận động những gia
đình binh sĩ của địch trở về với cách mạng; thống kê tội ác của
địch, trên cơ sở đó phát động quần chúng đứng lên đấu tranh;
tung tin hù dọa, đồng thời thực hiện tiến công binh vận để làm
rã đội ngũ của địch; phân loại ác ôn, trên cơ sở đó có kế hoạch
những tên nào phải diệt, tên nào bắt để giáo dục. Huyện ủy còn
thành lập Ban diệt ác và cử các đồng chí Mười Nông, Nguyễn
Văn Bền (Bảy Bền) phụ trách.
Đầu tháng 3-1960, đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định) móc
nối cơ sở rút tân binh, đào vũ khí chôn giấu từ thời kỳ Bình
Xuyên, xây dựng lực lượng vũ trang đánh địch. Chủ trương
xây dựng lực lượng du kích đấu tranh nhanh chóng được truyền
về các xã. Ở xã Đại Phước, đội du kích tổ chức diệt tên Nghĩa
thuộc hàng ác ôn, gây nhiều tổn thất cho hoạt động cách mạng.
Tên Nghĩa được chính quyền địch đưa về thay thế cho tên cảnh
sát Ngân tại Đại Phước, Phú Hữu. Thời gian đầu phụ trách cảnh
132

14.3 Page 133

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
sát, Nghĩa chỉ huy quân lùng sục bắt đồng chí Đào Văn Chỉ và
tuyên bố bắt tiếp đồng chí Nguyễn Tri Phương là những cán bộ
cách mạng bám dân hoạt động. Lực lượng cách mạng cử người
theo dõi và nắm quy luật đi lại của tên Nghĩa để tìm cách tiêu
diệt. Đội du kích bố trí mật phục trên đoạn đường tên này đi
xe máy từ ấp Xoài Minh về Đại Phước. Vào lúc xẩm tối, một
du kích giả làm người đi đường vác cây chuối tiếp cận xe tên
Nghĩa khi chạy trên đường, cố ý va vào làm cho ngã. Các thành
viên mật phục nhanh chóng xông ra diệt Nghĩa, thu vũ khí, rút
đi an toàn. Tên Nghĩa bị tiêu diệt được người dân lan tin nhanh
chóng, khiến những tên ác ôn khác hoảng sợ, lo lắng bị cách
mạng trừng trị.
Ngày 9-9-1960, chính quyền Sài Gòn cải tổ đơn vị hành
chính, thành lập quận Nhơn Trạch (quận lỵ đặt tại xã Phú Thạnh),
thuộc tỉnh Biên Hòa trên cở sở chia tách từ địa phận quận Long
Thành1. Theo nghị định số 858-NV của chính quyền Sài Gòn,
quận Nhơn Trạch có hai tổng Thành Tuy Trung, Thành Tuy Hạ.
Xã Đại Phước cùng Phú Hữu, Phú Thạnh, Phước Khánh, Vĩnh
Thạnh, Long Tân thuộc tổng Thành Tuy Hạ. Tổng Thành Tuy
Trung gồm các xã Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước
Lai, Phước Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền. Quận trưởng là trung
úy Lê Thiện Phước.
1  Quận Long Thành gồm các xã ven theo quốc lộ 15 từ An Hòa Hưng đến xã
Phước Thái và các xã theo liên lộ 25 từ xã Lộc An đến xã Bình Sơn; Quận trưởng
là Nguyễn Viễn.
133

14.4 Page 134

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Với mục đích tạo thuận lợi cho chỉ đạo phong trào cách
mạng phù hợp với chiến trường, Huyện ủy Long Thành chủ
trương thành lập Ban cán sự Huyện ủy Nhơn Trạch. Lãnh đạo
Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: đồng chí Võ Văn Định (Bí thư),
đồng chí Nguyễn Văn Thông (Phó Bí thư), đồng chí Phạm Minh
Chính, Nguyễn Văn Liềm (ủy viên Thường vụ), các Huyện ủy
viên: Trần Văn Thọ (Mười Thọ), Nguyễn Thanh Vân (Ba Vân),
Nguyễn Văn Sơn. Căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch đặt tại rừng
Xóm Hố, gần sở Ông Cố, xã Phú Hội.
Tỉnh Biên Hòa tăng cường cho Nhơn Trạch - Long Thành
một tiểu đội vũ trang, trong đó có các chiến sĩ chiến đấu trong
đơn vị vũ trang của địa phương trước đây: Nguyễn Văn Sơn,
Đoàn Danh Dự, Dương Văn Mai (tức Hai), Bảy Phú, Tạ Nông
được điều đến Bà Rịa, Tây Ninh và quay trở lại địa bàn quen
thuộc chiến đấu. Đơn vị có đầy đủ vũ khí, huyện rút thêm một
số cán bộ, thanh niên các xã, ấp lên thành lập đơn vị vũ trang
huyện và dự định lấy phiên hiệu 19-5 (Ngày sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh).
Tháng 11-1960, trong chính quyền Sài Gòn, đại tá Nguyễn
Chánh Thi tổ chức đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình
Diệm, nhưng thất bại. Tại Nhơn Trạch, địch chỉ thị “không
được đem quân ra khỏi đồn bót. Tạm ngừng tất cả những cuộc
hành quân”. Nhân cơ hội tình hình địch mâu thuẫn, Huyện ủy
Nhơn Trạch chỉ đạo cán bộ xuống các xã tuyên truyền về đường
134

14.5 Page 135

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
lối, chính sách của Đảng và phát động quần chúng nổi dậy phá
ách kìm kẹp của giặc. Một trận đánh làm nức lòng quân dân
Nhơn Trạch được tổ chức ngày 16-11-1960. Nắm tin tức một
trung đội thuộc Tổng đoàn dân vệ được cử đến trấn an hội tề tại
Phước An, lực lượng cách mạng cải trang thành “sắc lính Bảo
an” tấn công vào nhà hội vào sáng sớm, đốt tài liệu, thu sáu
súng khiến bọn lính không kịp đối phó. Sau trận đánh này, lực
lượng vũ trang huyện chính thức lấy tên là 19 tháng 5.
Địa bàn Đại Phước và Phú Hữu có hơn 300 đồng bào cùng
du kích trong một đêm phá rã hai chốt dân vệ ở Rạch Miễu,
Rạch Bảy, diệt 7 tên dân vệ, 1 tên ác ôn, thu 3 súng và 1 thùng
lựu đạn. Phong trào diệt ác, phá kìm ở Nhơn Trạch, Long Thành
được phát động, đem lại thắng lợi, tạo thêm sự phấn khởi trong
nhân dân. Ngày 20- 12-1960, tại căn cứ cách mạng ở Tây Ninh,
Mặt trận giải phóng miền Nam thành lập đã tác động mạnh mẽ
đến cách mạng miền Nam Việt Nam. Với chương trình hành
động 10 điểm, mặt trận chủ trương đoàn kết các tầng lớp nhân
dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, đoàn thể tôn giáo
khác nhau, không phân biệt xu hướng chính trị để kháng chiến
chống Mỹ.
2. Kết hợp đấu tranh chính trị, vũ trang làm phá sản
quốc sách “Ấp chiến lược” (1961 - 1965)
Phong trào Đồng Khởi và những thắng lợi liên tiếp của quân
dân cách mạng trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ thực
135

14.6 Page 136

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, lấy “Ấp chiến lược”1
làm quốc sách, hy vọng chính quyền Sài Gòn sẽ chuyển sang
thế tiến công, giành lại thế chủ động hòng “bình định” xong
miền Nam trong vòng 18 tháng. Tiến hành“Chiến tranh đặc
biệt”, đế quốc Mỹ đề ra kế hoạch Xtalây-Taylo với 3 biện pháp
chiến lược:
- Tăng cường xây dựng lực lượng quân ngụy, dùng lực
lượng quân ngụy mạnh do cố vấn Mỹ chỉ huy, được một số đơn
vị quân Mỹ yểm trợ, áp dụng chiến thuật cơ động bằng máy bay
lên thẳng và xe thiết giáp nhanh chóng đập tan lực lượng cách
mạng lúc còn đang nhỏ, yếu.
- Giữ vững thành thị, xây dựng bộ máy kìm kẹp ngụy quyền
thật mạnh để ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị của quần
chúng, khống chế, dập tắt các cuộc đấu tranh cách mạng ở nông
thôn, bình định đồng bằng, lập ấp chiến lược.
- Ra sức phong tỏa biên giới, kiểm soát ven biển, cắt đứt sự
chi viện từ miền Bắc, cô lập cách mạng miền Nam.
Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp để
đánh giá tình hình miền Nam sau khi Đồng Khởi và vạch ra
1  Ấp chiến lược là một kinh nghiệm mà địch rút ra từ chương trình “khu Trù
mật” “ấp Dinh điền”. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập Ủy ban liên bộ
gồm Quốc phòng, Nội vụ, Tổng nha cảnh sát, Nha chiến tranh tâm lý để chỉ đạo
thực hiện Quốc sách ấp chiến lược, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lập “Ủy ban viện trợ
ấp chiến lược” do Truchcart làm chủ tịch. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh giá
chương trình này có tính chất “xương sống” trong các phương cách bình định ở
miền Nam Việt Nam.
136

14.7 Page 137

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng
miền Nam. Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh hơn nữa cuộc
đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên
song song với đấu tranh chính trị; tiến công địch cả 2 mặt chính
trị và quân sự. Phải ra sức xây dựng lực lượng chính trị và quân
sự, xây dựng và mở rộng căn cứ địa, tạo điều kiện và nắm mọi
thời cơ để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm. Quân ủy Trung
ương và Ban Thống nhất giúp Trung ương chỉ đạo công tác
quân sự ở miền Nam, quyết định kiện toàn Trung ương Cục
miền Nam, các cấp uỷ, tăng cường cán bộ, tăng cường tiếp tế
các phương tiện, vũ khí, tài chính và mở rộng giao thông liên
lạc với miền Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện Nhơn Trạch đẩy
mạnh phong trào đấu tranh kết hợp quân sự và chính trị. Hàng
loạt các trận đột kích diệt ác của lực lượng vũ trang diễn ra ở
các xã. Trên địa bàn Đại Phước, Phú Hữu, đồng chí Nguyễn
Văn Thông và thanh niên Phạm Văn Lố, Trần Văn Thời và
Nguyễn Văn Thoàng (cơ sở cách mạng) bàn kế hoạch diệt tên
Phạm Văn Tư (thám báo của yếu khu, kho đạn Thành Tuy Hạ)
trong đơn vị của thượng sĩ Liễu chỉ huy. Bốn người đột nhập
trừng trị Phạm Văn Tư và tiêu diệt, phát loa “sẽ trừng trị bất
kỳ kẻ nào ngoan cố làm tay sai cho địch”, ra lệnh giải tán tề
ấp Giồng Ông Đông. Ngày 9-10-1961, lực lượng vũ trang của
huyện Nhơn Trạch tổ chức trận đánh vào chốt dân vệ ở Giồng
Ông Đông. Tổ trinh sát gồm các đồng chí Thể, Nhân và Hoàng
bị địch phục kích. Tình hình bất lợi vì Hoàng bị bắt, tra tấn
137

14.8 Page 138

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
làm lộ kế hoạch. Đồng chí Ba Sĩ được lệnh đi nắm tình hình
nhưng không bắt liên lạc với tổ trinh sát. Khoảng 10 giờ đêm
lực lượng cách mạng đi bằng 5 ghe, đến cầu Mười Huỳnh lọt
vào ổ phục kích của địch phải vừa chống trả và rút lui, 5 chiến
sĩ bị thương, 1 người hy sinh, 1 người bị bắt.
Trên địa bàn Nhơn Trạch, chủ trương diệt ác được đẩy
mạnh. Những trận diệt ác ở các xã đã tác động cổ vũ cho phong
trào lan rộng, người dân tin tưởng vào lực lượng kháng chiến.
Ở xã Đại Phước, vũ trang cách mạng tiêu diệt tên Tố (mật
báo viên chuyên dò la tin tức cách mạng) tại Cầu Giữa và cựu
trưởng ấp Bến Cộ là Trương Tỉ, bắt ông Qưỡn (ấp Câu Kê) dựa
vào lính và cảnh sát đông nhưng bị cách mạng dẫn ra đồng,
nêu tội ác và xử lý. Vùng Phú Hữu, tên Hai Giò dù cạnh nhà
y có tiểu đội lính yếu khu kho đạn Thành Tuy Hạ đóng cũng
không thoát khỏi sự trừng trị của tổ vũ trang tuyên truyền đột
nhập, tiêu diệt. Du kích xã Phước Khánh tiêu diệt tên Khánh,
giải tán tề các ấp Chợ, ấp Đạo, ấp Đèn Xanh. Xã Phước An có
tên Mười Hiếm đội lốt hành nghề đầu nậu xây dựng nhưng tổ
chức mạng lưới tình báo cho địch bị diệt. Ở xã Phú Hội diệt
tên Lưu chỉ điểm vùng lộ 17... Trong khi đó, cuộc đấu tranh
của đồng bào xã Long An1 huyện Long Thành thắng lợi cổ vũ
1  Ngày 16-8, gần 100 đồng bào xã Long An kéo về quận Long Thành đấu tranh
đòi địch không được bắn pháo bừa bãi vào xóm làng, phải bỏ lệnh giới nghiêm,
để người dân vào cánh đồng Sở Hoàng sản xuất. Cuộc đấu tranh được nhân dân
xã Lộc An, Long Phước hưởng ứng. Ngày 18-8, gần 400 đồng bào của 3 xã chia
làm hai đoàn, một đoàn về quận, một đoàn về tỉnh đấu tranh. Cuộc đấu tranh này
giành được thắng lợi với những yêu sách do nhân dân đưa ra.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
mạnh cho nhân dân đấu tranh với chính quyền địch. Đồng bào
các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phú Hội... hưởng ứng, nổi dậy đấu
tranh. Những tên ác ôn còn lại trong bộ máy và quân lính chính
quyền địch ở một số nơi không dám hung ác như trước đối với
người dân địa phương. Năm 1961, những trận tiến công liên tục
của lực lượng vũ trang cách mạng Nhơn Trạch, làm cho chính
quyền địch ở Nhơn Trạch vào thế bị động.
Chính quyền Sài Gòn thành lập Ủy ban liên bộ gồm Quốc
phòng, Nội vụ, Tổng nha cảnh sát, Nha chiến tranh tâm lý để chỉ
đạo thực hiện quốc sách ấp chiến lược. Hỗ trợ cho chủ trương
này, ở Sài Gòn, Mỹ thành lập “Ủy ban viện trợ ấp chiến lược”
do Truchcart làm chủ tịch và đánh giá việc thực hiện ấp chiến
lược là “xương sống” để bình định phong trào cách mạng miền
Nam. Thực hiện chủ trương của đế quốc Mỹ, Ngô Đình Diệm
ban hành sắc lệnh xây dựng Ấp chiến lược trên toàn miền Nam.
Chính quyền địch thực hiện gom dân để lập ấp chiến lược
ở các xã của Nhơn Trạch. Tùy tình hình và đặc điểm của mỗi
xã, địch xây dựng kế hoạch đánh phá liên tục các địa bàn cư
dân đang sinh sống phải rời bỏ, dễ dàng gom vào trong ấp chiến
lược. Những địa điểm được chọn thiết lập các ấp chiến lược ở
xây dựng đội ngũ quản lý và bố phòng chặt chẽ. Địch thực hiện
3 hình thức thiết lập ấp chiến lược ở Nhơn Trạch: Cư dân tại
địa bàn tại chỗ được quản lý gắt gao gọi là “kìm dân”; cư dân
từ nơi khác đưa vào ấp chiến lược gọi là “tát dân” và ấp chiến
lược đặc biệt gồm những đồng bào di cư trước đây. Trên địa
139

14.10 Page 140

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
bàn Đại Phước có 3 ấp chiến lược: Bến Cộ, Phước Lý và Thị
Cầu. Các ấp chiến lược được thiết lập với sự bố phòng, canh
gác nghiêm ngặt. Phía ngoài ấp chiến lược trồng các hàng rào
tre dày, tiếp theo là những lớp hàng rào kẽm gai. Các cổng ra
vào của ấp được canh gác cẩn mật. Ban ngày, người dân trong
ấp được ra vào để làm ăn với sự theo dõi chặt chẽ. Người lạ
muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát, khám xét gắt gao. Mọi
trường hợp xâm nhập từ bên ngoài vào dễ bị phát hiện. Trong
ấp, địch thành lập những tổ chức Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ
cộng hòa để nắm tình hình, theo dõi những hoạt động của người
dân cùng với những mật vụ, chỉ điểm. Tất cả những ấp chiến
lược đều nằm trong một xã dưới quyền chỉ đạo của hội đồng tề
gồm xã trưởng, ấp trưởng, dân vệ, cảnh sát, thám báo, điệp báo
làm nhiệm vụ bên trong. Bên ngoài ấp chiến lược được bố trí
những bót bảo vệ. Để hỗ trợ cho việc xây dựng ấp chiến lược,
địch tăng cường càn quét đánh phá, gom dân và rải quân đóng
thành nhiều đồn bót ven theo các lộ trên địa bàn và dọc ven
theo sông trên địa bàn. Đồng thời, địch bố trí 2 điểm đặt pháo
105 ly tại Bến Sắn (xã Phước Thiền), chi khu Nhơn Trạch để nã
pháo yểm trợ cho lính lần xúc tát dân vào ấp chiến lược. Lực
lượng lính được tăng cường gồm 2 tiểu đoàn và xây dựng thêm
4 trung đội địa phương quân với với Bộ Chỉ huy đặt tại quận lỵ
ở xã Phước Thạnh.
Khi địch tăng cường kìm kẹp, xã Đại Phước chưa thể hình
thành khung có cán bộ nắm phong trào như các xã khác nên lực
lượng xã Phú Hữu phụ trách, choàng gánh. Những cơ sở nòng
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
cốt có gia đình bà Phan Thị Nho, Đào Văn Lịnh, Dương Văn
Sinh lợi dụng thế hợp pháp và nửa hợp pháp, đẩy mạnh việc
giáo dục, tổ chức, và vận động quần chúng đấu tranh trực diện
chống địch khủng bố, chống bắt lính, chống kìm kẹp; đồng thời
rút một số thanh niên xây dựng tổ vũ trang bám địa bàn, giúp
các xóm ấp thuộc xã Đại Phước duy trì phong trào.
Tháng 2-1962, đồng chí Võ Lực Lượng được điều về
Tỉnh ủy Biên Hòa nhận nhiệm vụ mới. Huyện ủy Nhơn Trạch
được sắp xếp củng cố: Đồng chí Nguyễn Văn Thông (Bí thư),
Nguyễn Văn Liềm (Tư Liềm) giữ chức Phó Bí thư thường trực,
Phạm Minh Chính (Uỷ viên Thường vụ, Trưởng ban Binh vận),
Nguyễn Văn Sơn (Uỷ viên Thường vụ, Huyện đội trưởng) và
các ủy viên: Trần Văn Nhiệm (Mười Thọ), Nguyễn Thanh Vân
(Ba Vân), Nguyễn Văn Bền (Bảy Bền), Nguyễn Văn Quang,
Lê Văn Sanh. Lực lượng vũ trang của huyện chỉ có đơn vị 19/5
gồm 2 trung đội do đồng chí Hai Sơn chỉ huy. Lực lượng đảng
viên ở Nhơn Trạch mỏng, một số xã vẫn chưa có chi bộ.
Đầu tháng 3-1962, Ban Thường vụ huyện ủy Nhơn Trạch
họp bàn và quyết định những chủ trương quan trọng trong chỉ
đạo phong trào đấu tranh, kiện toàn lực lượng và phát triển
toàn diện lực lượng với “thế mới, lực mới”, bám trụ và bảo vệ
địa bàn Lòng Chảo song song với bám trụ xã, ấp để hoạt động.
Quân dân Nhơn Trạch tiếp tục tiến công địch bằng ba mũi giáp
công vũ trang, chính trị và binh vận nhằm phá lỏng, phá rã tiến
tới phá ấp chiến lược. Đồng thời phát huy quyền làm chủ của
141

15.2 Page 142

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nhân dân, phát triển lực lượng cả bên trong lẫn bên ngoài ấp.
Khi phát động nhân dân phá ấp chiến lược, chú ý thu toàn bộ
cọc sắt, kẽm gai để xây ô, ụ chiến đấu gắn với phong trào “bao
vây, uy hiếp đồn bót” địch. Huyện ủy Nhơn Trạch tiến hành kế
hoạch đào địa đạo bám trụ địa bàn, địa điểm chọn là khu rừng
tre xã Phước An1. Đồng chí Lê Văn Tâm (Mười Tâm) được
giao chỉ huy đội 20 người thực hiện. Việc đào địa đạo có nhiều
khó khăn và đội phải chia làm nhiều tổ thực hiện cùng với hàng
trăm lượt cán bộ đảng viên của các cơ quan huyện ủy, mặt trận,
đoàn thể... luân phiên nhau. Địa đạo có dạng hình chữ Z, mỗi
đoạn dài 100m, cao 1,8m, rộng 0,8m. Từ mặt đất, cửa địa đạo
sâu thẳng đứng từ 5m đến 7m rồi mới đào ngang. Cửa địa đạo
thường mở trong những bụi tre có chùm chằng chịt để tránh
sụt lở.
Sáng ngày 18-5-1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch khai mạc, có gần 30 đoàn đại biểu xã, cơ
quan, ban ngành với 250 đại biểu. Đại hội diễn ra tại khu căn
cứ cao su gần bìa rừng Đồng Lớn ở khu Lòng Chảo. Đại hội
xác định dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân toàn huyện đoàn
kết một lòng, quyết tâm góp phần cùng quân dân cả nước đánh
đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền
1  Nay thuộc ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, khu vực cạnh đền thờ liệt
sĩ huyện Nhơn Trạch. Đến cuối năm 1964, hệ thống địa đạo dài 1,5km. Sau năm
1975, hệ thống địa đạo không còn nguyên vẹn, còn lại 200m, được quan tâm
trùng tu, tôn tạo. Ngày 19-1-2001, hệ thống địa đạo được Bộ Văn hóa - Thông
tin xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia (Quyết định số 04/2001/QĐ-BVHTT).
142

15.3 Page 143

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại hội bầu Ủy ban Mặt trận Dân tộc
giải phóng huyện Nhơn Trạch gồm 13 người: ông Ngô Quang
Thanh (đại diện giới tư sản dân tộc, Chủ tịch Mặt trận)1, Nguyễn
Văn Bền (Thư ký Nông hội huyện, Phó Chủ tịch), Nguyễn Văn
Thông (đại diện Đảng Nhân dân cách mạng huyện, Phó Chủ
tịch), Võ Văn Công (Bí thư huyện đoàn, Tổng thư ký). Xã Đại
Phước có ông Nguyễn Văn Đôi (pháp danh Thích Đạt Minh,
trụ trì chùa Lớn xã Đại Phước) tham gia cùng các ủy viên khác:
Nguyễn Tâm (Hội trưởng Phụ nữ huyện), Đỗ Thị Thanh Vân
(phụ trách công nhân), Phạm Văn Ngươn/Minh Chính (Trưởng
ban Binh vận), Nguyễn Đắc Cầu (linh mục nhà thờ Phú Hội),
Nguyễn Minh Trí (đại diện giới học sinh)... Đại hội thông qua
Lời kêu gọi toàn thể đồng bào ở Nhơn Trạch vùng lên liên tục
phá toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch, giành chính
quyền, làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người, sức của phục
vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp cách mạng quê hương.
Đầu mùa mưa 1962, văn phòng Huyện ủy Nhơn Trạch dời
về ấp Xóm Hố, xã Phú Hội, hoạt động trong hệ thống hầm bí
mật của nhà bà Phan Thị Mỵ. Huyện ủy chỉ đạo nhân rộng
việc đào hầm bí mật ở các xã vùng bị kềm kẹp gắt gao như Đại
Phước, Phước Khánh, các xã dọc trục đường 17 và vùng Lòng
Chảo để bám trụ công tác, chiến đấu. Những cơ sở nòng cốt ở
Đại Phước thực hiện đào hầm bí mật: ở ấp Bến Cộ (1 hầm), ấp
1  Sau này, ông Ngô Quang Thanh làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam tỉnh Biên Hòa.
143

15.4 Page 144

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Cù Lao (1 hầm), ấp Phước Lý (5 hầm) nuôi giấu cán bộ, chiến
sĩ. Cán bộ và du kích bám trụ thực hiện trừng trị diệt ác, phá
kìm, vận động nhân dân phá ấp chiến lược.
Trên chiến trường miền Nam, khi thực hiện tát dân, gom
dân xây dựng ấp chiến lược và đánh phá cơ sở cung cấp hậu
cần của cách mạng, chính quyền Sài Gòn thực hiện rải chất
độc hóa học nhằm phá hoại hoa màu của dân, ép dân phải vào
vùng chúng kiểm soát. Tại tiểu khu Biên Hòa địch đã công bố
kế hoạch “2R-63” và Long Thành làm nơi rải thí điểm. Địch
cho máy bay C47 từ Biên Hòa mang theo chất độc rải xuống
những địa điểm đã được xác định trong kế hoạch. Những vườn
cây trái ở Phú Hội, An Lợi bị chất độc làm cho hư hại rất nhiều.
Nhân dân Nhơn Trạch, Long Thành tiến hành cuộc biểu tình
với quy mô lớn phản đối. Sáng ngày 20-6-1962, đồng bào Đại
Phước, Phú Hữu tập trung tại khu chợ gần bến thuyền đi về xã
Vĩnh Thanh. Gần 200 người dân từ Phước Khánh, Giồng Ông
Đông dùng thuyền đi đến tham gia. Một số bà con ở ấp Ông
Kèo, ấp Xoài Minh, ấp Nhà Máy thuộc xã Vĩnh Thanh hưởng
ứng. Khoảng 7 giờ, đoàn người kéo về quận lỵ tại Phú Thạnh.
Trên đường đi đồng bào mang khẩu hiệu “Rải chất độc hóa học
là phá hoa màu của dân, là giết dân”, “Phải bồi thường tính
mạng tài sản cho dân”, Phải thống nhất đất nước”. Chính
quyền địch điều một trung đội bảo an xuống ngăn chặn. Lính
địch được điều đến chặn dân, giải tán tại ngã ba gần lối rẽ vào
nhà thờ Đại Phước. Người dân biểu tình không hề nao núng,
tiến lên đấu tranh trực diện. Má Tám Ứng đại diện đoàn biểu
144

15.5 Page 145

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tình nói: “Chúng tôi cày cấy trồng trọt, các ông rải chất độc
làm cho chết hết lúa, hoa màu, như vậy là các ông giết dân rồi.
Chúng tôi lên hỏi quận trưởng xem lời tuyên bố của ông ta như
thế nào, khi ông về làm quận trưởng ở đây nào là thực hiện
dân sinh, dân chủ, nào là hạnh phúc, ấm no vậy rải chất độc có
đúng với lời ông ta không?”. Đồng bào các xã của Nhơn Trạch
được vận động hưởng ứng để tham gia, tạo lực lượng đông
đảo đấu tranh. Đoàn biểu tình của nhân dân ngày càng đông và
quyết liệt hô lớn đòi Quận trưởng Nhơn Trạch là Trương Bảo
Thiện phải đối thoại với dân. Trước khí thế của người dân biểu
tình, lính và nhân viên, bảo vệ chạy trốn, thối lui. Ban đầu,
Quận trưởng Trương Bảo Thiện lánh mặt, cho Võ Văn Loài
(Chánh văn phòng) ra tiếp. Đồng bào không chịu, làm dữ, đe
doạ sẽ đấu tranh mạnh hơn, buộc tên quận trưởng phải ra tiếp
dân. Trước lý lẽ đanh thép của đồng bào, quận trưởng Nhơn
Trạch giải thích, chối quanh và hứa sẽ đưa vấn đề lên tỉnh, đền
bù tài sản của dân và không rải chất độc hóa học. Đồng bào đưa
3 bản kiến nghị với hàng ngàn chữ ký tố cáo tội ác của địch.
Phấn khởi trước thắng lợi của cuộc biểu tình, ngay đêm hôm đó
đồng bào các xã ở Nhơn Trạch nổi dậy phá hủy hàng ngàn mét
giao thông hào, rào kẽm gai ở các ấp chiến lược, phát loa kêu
gọi bọn lính, bọn dân vệ về với cách mạng.
Ngày 26-12-1962, tin tức từ cơ sở nội tuyến, lúc 5 giờ sáng,
lực lượng vũ trang huyện - đơn vị 19/5 và du kích Đại Phước
hóa trang, đột nhập tấn công ấp chiến lược Bến Cộ vào sáng
sớm. Lực lượng cách mạng bắt tên cảnh sát Hường và bọn dân
145

15.6 Page 146

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
vệ trong ấp, thu 23 súng các loại và toàn bộ đạn dược, lựu đạn.
Những lính dân vệ được tuyên truyền giáo dục và tha về, riêng
tên Hường ác ôn bị xử lý trước đông đảo bà con, bản án găm tại
cổng ấp chiến lược. Trong năm 1962, một số thanh niên ở Đại
Phước gia nhập lực lượng cách mạng trong khi địch tăng cường
bắt lính, ép dân vào các khu ấp để kiểm soát.
Đầu năm 1963, trên địa bàn Nhơn Trạch, địch tăng cường
ném bom, bắn pháo, càn quét, đưa bọn bình định về củng cố
ấp chiến lược. Địch thực hiện bình định tại chỗ những vùng đã
chiếm đóng, đồng thời tấn công vào địa bàn xuất quân của Việt
Cộng. Địa bàn các xã ven lộ 17, 19 bị địch chà xát, tát dân”,
bắn phá liên tục một cách thô bạo để gom dân.
Tháng 3-1963, Trung ương Cục miền Nam và Khu ủy miền
Đông quyết định sáp nhập Biên Hòa - Bà Rịa lấy tên là tỉnh
Bà Biên. Sau khi sáp nhập, tỉnh điều cán bộ về các huyện để
trực tiếp chỉ đạo phong trào. Tại Nhơn Trạch, huyện ủy phân
công từng đồng chí xuống từng xã để chỉ đạo ở cơ sở. Trước
tình hình địch có thể tăng cường lực lượng và mở chiến dịch
đánh vào vùng căn cứ của cách mạng, đặc biệt khu Lòng Chảo,
Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương phá tỉnh lộ 19 để cản đường
tiến quân xe quân sự địch. Trong những trận đánh địch càn
quét, lực lượng cách mạng bị tổn thất. Ngày 8-7-1963, du kích
Dương Văn Sáu xã Đại Phước1 hy sinh.
1  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Xinh, con của liệt sĩ Dương Văn Danh,
em trai của liệt sĩ Dương Văn Hiền.
146

15.7 Page 147

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Giữa tháng 8-1963, địch tổ chức nhiều mũi tấn công với
quy mô lớn tấn công vào lực lượng cách mạng Nhơn Trạch, tập
trung vào căn cứ Lòng Chảo. Từ hướng Thủ Đức, địch dùng xe
lội nước và xà lan vượt sông Long Điền tràn vào ấp An Định,
cướp thuyền của dân rồi tràn về phía Gò Me, Xóm Hố. Nhiều
cánh quân địch càn quy mô vào khu vực Lòng Chảo và Rừng
Sác, Bào Bông, Bà Trường, Đồng Lớn. Quân dân Nhơn Trạch
chống trả quyết liệt khiến địch bị tổn thất và phải rút quân. Sau
thắng lợi chống càn, lực lượng vũ trang huyện phối hợp với du
kích xã tấn công nhiều bót lính. Đêm ngày 16-10-1963, 5 đồn
ở Phước Lý, Phước Thọ, Phú Hội, Phước Khánh, Ông Kèo bị
tấn công.
Từ khi thực hiện quốc sách ấp chiến lược, chính quyền Sài
Gòn đứng trước làn sóng đấu tranh mãnh liệt của nhân dân
miền Nam. Trong khi đó, nội bộ chính quyền địch xảy ra lục
đục nội bộ. Đêm ngày 1 rạng sáng ngày 2-11-1963, một nhóm
tướng lĩnh của quân đội thực hiện cuộc đảo chính lật đổ chế độ
Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Diệm (Tổng thống), Ngô Đình
Nhu (cố vấn cấp cao) bị thủ tiêu khiến chính quyền địch ở các
nơi hoang mang. Tại Nhơn Trạch, chính quyền địch và quân
lính ở các địa bàn co cụm và chờ tình hình tiếp theo của nhóm
đảo chính. Sau đó, nhóm đảo chính thành lập Hội đồng Quân sự
ở miền Nam. Tại quận Nhơn Trạch, địch đưa Lê Thiện Phước
thay cho Trương Bảo Thiện. Lợi dụng lúc địch thay đổi nhân sự
chính quyền, nội bộ khủng hoảng, Huyện ủy Nhơn Trạch phát
động phong trào “Tranh thủ thời cơ tấn công địch giải phóng
147

15.8 Page 148

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
xã”. Theo tỉnh lộ 17, từ Phước Thiền đến bến phà Cát Lái, địch
rút đi 2 đồn, 3 chốt quân sự, 11 ấp chiến lược bị tan rã. Người
dân làm công tác binh vận tuyên truyền cho một số tề ấp ở địa
phương, nhà có người thân tham gia kháng chiến không nên
làm khó người dân. Đồng thời, cũng cảnh báo cho tề ấp ở địa
phương biết không nên đàn áp, bắt bớ người dân, nếu không
sẽ chịu sự trừng trị của cách mạng như những tên ác ôn khác.
Lực lượng du kích Đại Phước và các địa bàn lân cận, từ Sở Dừa
đột kích, đẩy mạnh phong trào diệt ác phá kềm. Khu vực Cù
lao Ông Còn, Bến Cộ, Phước Lý các tên ác ôn không dám lộng
hành và đàn áp, gây khó cho người dân.
Cuối năm 1963, trước tình hình chuyển biến của chiến
trường và chuẩn bị cho quá trình đấu tranh, tỉnh Bà Biên được
chia tách thành Biên Hòa và Bà Rịa như trước. Lúc này, Tỉnh
ủy Biên Hòa chuyển về căn cứ đóng tại Suối Cả thuộc địa bàn
huyện Long Thành. Huyện ủy Nhơn Trạch chuyển một bộ phận
từ khu Bào Bông về Xóm Hố thuộc xã Phú Hội. Huyện ủy phát
động phong trào thi đua đóng góp sức người sức của cho tiền
tuyến. Hưởng ứng phong trào của huyện đề ra, hàng trăm thanh
niên xung phong lên đường làm nghĩa vụ. Nhiều xã đóng góp
lương thực thực phẩm vượt chỉ tiêu đề ra.
Trong báo cáo cho biết, trong năm 1963, quân Giải phóng
và người dân miền Nam đã phá hoàn toàn 2.895 ấp chiến lược
trong số 6.164 ấp được lập, số còn lại đã bị phá đi phá lại 5.950
lần ấp. Quân Giải phóng giành quyền làm chủ ở 12.000 thôn
trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, gồm hơn 5 triệu dân
148

15.9 Page 149

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha trên
tổng số 3,5 triệu ha ruộng đất đã về tay nông dân; hơn 23.000
thanh niên miền Nam đã gia nhập quân Giải phóng. Hàng nghìn
ấp chiến lược đã biến thành làng chiến đấu, hệ thống Ấp chiến
lược bị sụp đổ đến 4/51. Trong thắng lợi chung của cách mạng
miền Nam đánh phá chiến lược của chính quyền Sài Gòn, có
sự đóng góp của quân dân Đại Phước của Nhơn Trạch. Quân
dân Nhơn Trạch phá rã 104 ấp chiến lược: xã Phước Thiền,
địch phải làm đi làm lại ấp chiến lược tới 7 lần, xã Phú Hội tới
5 lần, xã Phú Hữu - Đại Phước làm tới 8 lần, nhưng không xã
nào trong huyện, ấp chiến lược do địch xây dựng tồn tại được
1 tháng. Ngày 9-4-1964, đồng chí Nguyễn Văn Lời - Bí thư xã
Đại Phước hy sinh tại ấp Bến Đình (nay thuộc xã Vĩnh Thanh).
Giữa năm 1964, Đại đội 240 của tỉnh Biên Hòa và tiểu đoàn
800 của Quân khu miền Đông chuyển về đứng chân tại vùng
Nhơn Trạch, Long Thành với mục đích hỗ trợ cho địa phương
bao vây tấn công địch. Nhiều trận tấn công của Đại đội 240
phối hợp với lực lượng du kích các xã đánh địch, mở mảng và
mở các lộ, tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở Nhơn Trạch
phát triển. Thực hiện chủ trương của Hội đồng cung cấp tỉnh2
1  Hồ Khang (2011), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam - biểu
tượng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ
quốc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân (nguồn http://tapchiqptd.vn/, truy cập ngày
21/2/2022).
2  Hội đồng Cung cấp tỉnh Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Văn Thông làm chủ
tịch, Huỳnh Văn Đậm (Hai Đậm) làm Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Tiểu ban dân
công, Mười Cơ làm Trưởng Tiểu ban lương thực, Lê Kim (Sáu Kim) làm ủy viên...
149

15.10 Page 150

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cung ứng lương thực phục vụ bộ đội chủ lực đánh địch, mở cửa
khẩu vùng căn cứ, huyện Nhơn Trạch thành lập Hội đồng cung
cấp lương thực do đồng chí Nguyễn Văn Xuân làm chủ tịch.
Trong sự kìm kẹp của địch, việc ra vào các ấp chiến lược bị tra
xét gắt gao nhưng cơ sở cách mạng vẫn tìm nhiều cách tiếp tế,
chuyển hàng ra căn cứ. Vào những đợt thu hoạch lúa, những
phụ nữ Đại Phước vừa đi làm vừa vận động cơ sở, những người
có cảm tình với cách mạng ở Bến Cộ, ấp Chợ đóng góp kinh tài
cho huyện ủy, nuôi quân. Những đóng góp của người dân được
các mẹ chuyển đến căn cứ bằng nhiều cách vượt qua các chốt
chặn, sự theo dõi của địch như lấy cớ, đi chợ, thăm người thân,
đi đánh bắt cá...
Tháng 9-1964, xảy ra một sự kiện lớn đối với nhân dân
Nhơn Trạch, đó là chính quyền địch thực hiện cuộc thảm sát dã
man vào người dân tại ngã ba Giồng Sắn - đầu mối giao thông
đường thuỷ giữa sông Ông Kèo, Ông Mai và Thị Vải (còn có tên
gọi là Vàm Xoắn). Địa điểm này tập trung nhiều ghe xuồng của
người dân địa phương và các vùng Long Thành, Bình Khánh,
Nhà Bè, Bến Tre, Long An trao đổi hàng hoá. Trong chiến dịch
bình định của chính quyền Sài Gòn những vùng bao quanh Sài
Gòn, quân đội đã bắn phá dữ dội các địa bàn ven sông giáp với
vùng Nhơn Trạch để triệt hạ các vùng được xem là có thể cung
cấp hậu cần cho cách mạng. Địch nghi ngờ địa điểm ngã ba
sông Giồng Sắn là nơi lực lượng cách mạng tập trung những
hoạt động tuyên truyền, thu mua lương thực, thực phẩm... cho
vùng căn cứ tại khu Lòng Chảo, Rừng Sác nên chọn tấn công.
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Từ khoảng 4 giờ chiều ngày 27-9-1964, người dân các ở
Đại Phước, Giồng Ông Đông, Phú Hữu, Vĩnh Thanh, Phước
Khánh đi kiếm củi, giăng câu tập trung về bến ngã ba Giồng
Sắn1 như thường lệ thì bị địch tấn công. Máy bay địch xuất hiện
hàng chục đợt, mỗi đợt 3 chiếc tiếng động cơ gầm rú dữ dội.
Những chiếc máy bay thả bom xuống chỗ hơn 200 ghe xuồng
neo đậu, nhiều người dân tập trung gây nên cảnh hỗn loạn nơi
bến sông. Những cột khói đen cuồn cuộn bốc lên, những cột
nước dâng cao hàng chục mét rồi dập xuống bắn tung toé làm
cho ghe xuồng lật úp, bị vỡ ra thành từng mảnh. Một số người
dân bị bom chết tại chỗ. Những người còn lại chạy lên bờ tìm
nơi trú ẩn bị máy bay quần theo tấn công bắn giết. Sau đợt thả
bom, quân đội Sài Gòn còn cho pháo từ Nhà Bè bắn qua cấp tập
làm cho số người chết và bị thương càng tăng lên. Bến Giồng
Sắn trở nên hoang tàn, tang tóc. Hàng trăm ghe xuồng bị bom
đạn giặc phá tan tành. Tổng cộng có 536 thường dân chết và rất
nhiều người khác bị thương, trong đó có 108 người dân tại Đại
Phước, Phú Hữu làm nghề chài lưới. Cuộc giết hại dã man đối
với nhiều người dân vô tội tại Giồng Sắn ở Nhơn Trạch bị báo
chí giải phóng và báo chí Sài Gòn và một số báo chí trên thế
giới lên án mạnh mẽ.
1  Địa điểm Ngã ba Giồng Sắn trước đây, một phần thuộc địa phận xã Phú Hữu,
xã Đại Phước, Phước Khánh, nay thuộc xã Phú Đông, được xếp hạng di tích cấp
tỉnh theo quyết định số 5160/QĐ-CT.UBT của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai,
ngày 22/10/2004.
151

16.2 Page 152

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Quang cảnh ở bến sông Giồng Sắn trong và sau cuộc tấn
công thảm sát của quân đội Sài Gòn luôn ám ảnh và là nỗi kinh
hoàng cho người dân. Theo ông Nguyễn Văn Lầu, người may
mắn sống sót trong vụ tấn công của địch cho biết: Gia đình tôi
đang đậu ghe ở Giồng Sắn ăn bữa cơm chiều. Bỗng, chúng tôi
nghe tiếng máy bay gầm rú dữ dội trên bầu trời ngay trên đầu
và chỉ trong chốc lát, hàng loạt bom đạn thả xuống các ghe
thuyền neo đậu ở đây. Không kịp trở tay, tôi vội nhào tới ôm
đứa con 5 tuổi đang ăn cơm chạy lên bờ. Trên ghe, vợ tôi ôm
đứa con gái mới bốn tháng tuổi chạy lên không kịp bị rớt xuống
sông ướt đẫm mình mẩy. Nhưng rồi, với mọi cố gắng khi phải
đối đầu với giây phút sinh tử, cuối cùng cả gia đình tôi cũng lên
được bờ sông, chạy thoát lên lộ, về khu dân cư. Được một lát,
không còn nghe thấy tiếng bom đạn, tôi quay lại ghe để lấy thẻ
căn cước. Đến nơi, trước mắt tôi là thảm cảnh thật hãi hùng:
Các ghe thuyền bị nhấn chìm hoặc bị phá tan tành trôi lềnh
bềnh trên mặt sông. Xác người nhiều vô kể nằm ngổn ngang
trên bờ, dưới nước, máu nhuộm đỏ cả một khúc sông dài. Chưa
kịp hoàn hồn, thì tôi lại nghe tiếng máy bay quay trở lại. Lúc
đó, tôi còn nhìn thấy nhiều trẻ em đứng núp dưới gốc các cây
bần ven sông, dáng người chúng co ro, những ánh mắt sợ hãi
tột cùng, tôi chưa kịp tiếp cận chúng thì hàng loạt máy bay lại
tiếp tục ném bom xuống sông. Tàn bạo hơn, chúng còn nã pháo
vào những người còn sống sót đang tìm cách chạy thoát trên bờ.
Hàng trăm người tưởng rằng thoát khỏi vụ thảm sát đã phải ngã
quỵ giữa đường. Đứa con gái 4 tháng tuổi của tôi bị ngất lịm
152

16.3 Page 153

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
trên tay mẹ vì bị nước thấm lạnh, nhờ hơi ấm của bà con thay
phiên nhau ôm cháu cùng chạy nạn nên mới sống. Sáng hôm
sau, tôi quay lại Giồng Sắn để lấy tài sản, trước mắt tôi là một
thảm cảnh đau thương, lạnh lẽo. Xác người nằm chết rải rác
khắp nơi, mùi máu tanh nồng nặc khắp bến sông dù con nước
lớn đêm qua cũng không thể cuốn trôi đi hết. Các ghe, thuyền
làm kế sinh nhai của hàng trăm gia đình bị nhấn chìm, cháy và
bể vụn. Tiếng khóc và ánh mắt của trẻ thơ tìm mẹ, tìm cha thật
xót xa... Nhìn vào những gốc cây bần ven sông đã bị gãy đổ,
xơ xác vì bom, đạn pháo; tôi chợt nghĩ, không biết lũ trẻ chiều
qua đứng núp ở đó còn sống hay không? Gia đình tôi may mắn
được sống sót, nhưng bom đạn đã phá tan tành chiếc ghe chở
mướn - tài sản duy nhất của gia đình tôi, vì thế chúng tôi phải
rời bỏ quê hương đi nơi khác tìm kế sinh nhai”1.
Bà Lê Thị Năm nhớ lại: “Trên bầu trời là máy bay, bom,
đạn; bên dưới là những chiếc xuồng nhỏ bé với nhiều phụ nữ và
trẻ em. Bom rơi, đạn lạc khiến nhiều người chết, nhiều người bị
thương, đau xót vô cùng. Tiếng kêu khóc thảm thiết hòa trong
tiếng rên la, vậy mà từng tốp máy bay Mỹ vẫn đuổi theo những
người dân trong tay không có một tấc sắt đang cố lê lết, dìu dắt
nhau chạy trốn trong vô vọng dưới làn bom đạn độc ác của kẻ
thù...2.
1  Nguyễn Văn Lầu, ngụ tại phường Thạnh Mỹ Lợi (Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh) -
nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát.
2  Nhân chứng Lê Thị Năm (85 tuổi), nhà ở ấp Giồng Ông Đông.
153

16.4 Page 154

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Ông Phạm Văn Hai là một trong những người có mặt tại
bến sông Giồng Sắn sau vụ thảm sát kể: Một cảnh tượng thật
kinh hoàng, xuồng ghe bể tan tành, ván trôi lênh đênh khắp
nơi. Máu loang đỏ cả một khúc sông. Xác người nằm chồng lên
xác người. Có những người bị bom đạn cắt mất đầu, mình mẩy,
chân tay, nên không thể nhận diện được. Chứng kiến cảnh này,
tôi và nhiều người đã bị khủng hoảng tinh thần...”1.
Ông Nguyễn Văn Thành là những người dân đến để hỗ trợ,
giúp cho người dân sau đợt thả bom của giặc: Chúng tôi chống
xuồng đi tìm những người bị thương đang nằm dưới nước, trên
mé sông, trong các đám cỏ, trong khu rừng, bụi cây... để đưa
đi cấp cứu. Người bị thương nhiều lắm, chúng tôi phải tích cực
làm việc đến gần sáng mới không còn nghe tiếng người kêu rên
nữa. Suốt đêm ấy và mấy ngày sau, các xã: Phú Hữu, Phước
Khánh, Vĩnh Thanh, Đại Phước... chìm trong tang tóc; thảm
cảnh thật vô cùng tang thương, đau xót. Ngã ba sông Giồng
Sắn vắng hẳn xuồng, ghe đi lại. Người dân địa phương cũng
không ai xuống sông mò cua, ốc, bắt cá như thường ngày. Sang
đến ngày thứ ba sau vụ thảm sát, mùi hôi thối từ những xác
chết chưa được chôn cất bốc lên nồng nặc. Đội thanh niên tình
nguyện của xã Phú Hữu được cử đi thu gom xác chết tìm nơi an
táng, đảm bảo vệ sinh môi trường”2.
1  Phạm Văn Hai (81 tuổi), nhà ở ngã ba Giồng Sắn (ấp Bến Đình).
2  Ông Nguyễn Văn Thành (75 tuổi), ngụ tại ấp Bến Đình.
154

16.5 Page 155

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Ông Nguyễn Văn Xiềm là một trong những người trực tiếp
tham gia cứu nạn kể lại: Lúc đó tôi đang làm ruộng, nghe tiếng
bom nổ phía sông Ông Kèo liền cùng với bà con chạy tới. Nhìn
thấy cảnh tượng đó, ai nấy thất kinh hồn vía vì cả một khúc sông
nhộn nhịp vậy mà lúc ấy tan hoang hết. Không chiếc thuyền,
ghe nào còn nguyên. Người chết la liệt, rất nhiều thi thể không
còn nguyên vẹn, thân thể bị chia cắt, văng tan nát khắp nơi.
Những người bị thương thì rên la thảm thiết. Dân trong xóm
chúng tôi túa ra, chèo xuồng tìm những người bị thương, còn
sống đưa vô bờ để đưa đi cứu chữa; có người vừa đưa được vào
bờ thì tắt thở. Chúng tôi chỉ tập trung cứu vớt những người bị
thương, những người chết chờ sáng đem đi chôn cất. Tới sáng
hôm sau, mọi người lấy lưới giăng nguyên khúc sông để vớt
xác người. Phải vớt mấy ngày trời vì số người chết rất nhiều,
nhiều thi thể không còn nguyên vẹn vì bị trúng đạn pháo. Thân
nhân nạn nhân tập trung trên bờ để nhận xác người thân, kêu
khóc vang trời nghe thật đứt ruột gan và cũng có nhiều người
không tìm được xác vì thi thể đã tan nát hết. Những người xấu
số ấy, ai có thân nhân thì được đưa về chôn cất, ai không có
thân nhân thì dân làng chúng tôi cứ thấy chỗ nào có đất trống
thì đem chôn, thậm chí sau này phải chôn nhiều xác trong đám
lúa vì không còn chỗ. Vì đột ngột quá, lại không có thời gian
chuẩn bị nên việc chôn cất các nạn nhân cũng rất sơ sài, chỉ
đào khoảng 5 đến 7 tấc đất, đủ khuất xác người rồi chôn xuống.
Nhiều xác chết chìm dưới sông, ba ngày thì nổi lên lập lờ trên
mặt nước. Một số xác chết tìm thấy ở sâu trong rừng Sác, trên
155

16.6 Page 156

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
ngọn cây, hoặc bị nhét chặt vào kẽ tàu dừa nước bên sông.
Đáng sợ nhất là những bộ phận cơ thể người bị bom đạn cắt
phá nằm rải rác khắp nơi, chúng tôi không thể nào thu gom hết
được... Hồi ấy, ngoài một số người dân địa phương và các vùng
lân cận đến tìm xác người thân còn nhận dạng được đem về
nhà chôn cất, còn phần lớn nạn nhân của vụ thảm sát đều được
chôn lấp sơ sài tại các nghĩa địa ở xã Phú Hữu. Ban đầu, chính
quyền ngụy còn đưa hòm xuống cho người dân chôn cất từng
người một. Sau xác chết tìm được nhiều quá, họ đã bỏ mặc. Bà
con địa phương chỉ còn cách đào lỗ rồi đưa 5-6 xác xuống chôn
chung một mộ...1.
Ngay sau vụ thảm sát của địch tại Giồng Sắn, huyện uỷ
Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu tình với hơn 1.000 người
tham gia, phản đối hành động sát hại dân lành của chính quyền
Sài Gòn tại Nhơn Trạch, Biên Hòa và Sài Gòn. Ngày 28-9-
1964, nhân dân làm lễ tưởng niệm các nạn nhân bị thảm sát
tại bến sông Giồng Sắn và sau đó chia thành các đoàn tiến đến
quận lỵ Nhơn Trạch, hướng về tỉnh Biên Hòa và lên Sài Gòn.
Đoàn biểu tình lên án tội ác của địch, đòi chính quyền địch phải
bồi thường tính mạng, tài sản cho đồng bào. Huyện ủy Nhơn
Trạch chỉ đạo chuẩn bị chu đáo, phân công cụ thể từ những
người có trách nhiệm cầm băng rôn, khẩu hiệu, trả lời nếu địch
hỏi, chuẩn bị hậu cần, dự phòng cứu thương... Ở Phú Đông, có
1  Theo ông Nguyễn Văn Xiềm sinh năm 1918 (đã qua đời năm 2011), ngụ tại ấp
Bến Đình - một trong những người trực tiếp tham gia cứu nạn người dân ở Giồng
Sắn sau vụ thảm sát của địch.
156

16.7 Page 157

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
má Sáu Ngữ, Tám Ứng cùng nhiều bà con tham gia với nhân
dân ở Nhơn Trạch, Long Thành. Đội hình đấu tranh chính trị
được sắp xếp theo thứ tự: Những người đi đầu là thân nhân
của những nạn nhân, một số gia đình các binh sĩ có người thân
cũng bị sát hại. Chủ trương của huyện ủy Nhơn Trạch là để cơ
sở làm tốt công tác binh vận thì cho lực lượng này và gia đình
binh sĩ cùng tham gia nhằm tránh sự đàn áp, bắt bớ của địch.
Nếu địch thẳng tay đàn áp đội ngũ tham gia biểu tình, có gia
đình binh sĩ thì sẽ gây dư luận đối với chính quyền Sài Gòn, đối
với binh lính, và cơ sở cách mạng có thể qua đó tuyên truyền,
làm tốt công tác binh vận để lôi kéo họ không phục vụ cho địch.
Lực lượng nòng cốt tham gia biểu tình là cơ sở cách mạng hoạt
động hợp pháp và quần chúng nhân dân. Trong đoàn biểu tình
có một số đảng viên hoạt động hợp pháp để lãnh đạo cuộc đấu
tranh và kịp thời ứng phó khi có đàn áp. Ba đoàn biểu tình theo
hướng mục tiêu, đem theo khẩu hiệu “Phản đối hành động giết
hại dân lành hàng loạt của Mỹ - ngụy”... tuần hành. Trên đường
đi, các đoàn nhận được nhiều sự ủng hộ của nhân dân, tiếp tế
nước uống, lương thực, thực phẩm; một số người đã nhập theo
đoàn biểu tình tiến về Sài Gòn.
Cuộc biểu tình đấu tranh của nhân dân huyện Nhơn Trạch
về vụ việc lên án thảm sát Giồng Sắn kéo dài ba ngày, tuy chưa
đạt được được kết quả nhưng cũng làm chính quyền địch thối
động, chúng viện cớ theo kiểu “ném bom nhầm”. Chúng không
dám đưa quân đàn áp và phải hứa xem xét những yêu cầu của
đồng bào. Sau này, chính quyền địch tìm mọi cách chối tội và
157

16.8 Page 158

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
làm giảm những số lượng nạn nhân, mức độ thiệt hại trong vụ
thảm sát, và tìm cách đẩy trách nhiệm, kỷ luật đối với sĩ quan
cấp ở Yếu khu Thành Tuy Hạ. Điều này phản ánh trong báo cáo
của Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Biên Hòa: Theo giám
định tại chỗ, Đại úy Nguyễn Văn Minh là một sĩ quan quân cụ
kém về tình báo và chiến thuật nên thiếu thám sát kỹ lưỡng để
biết địch hay dân mà vì quá lo Yếu khu bị tấn công nên vội vã
xin thẳng Thiếu úy Sơn - Sĩ quan trực Đại diện không quân
tại Vùng 3 Chiến thuật điều máy bay đến oanh kích mà không
thông qua hệ thống chỉ huy lãnh thổ của Biệt khu Phước - Biên
và Tiểu khu Biên Hòa... Yếu khu Thành Tuy Hạ hoàn toàn chịu
trách nhiệm trong vụ này... Tỉnh trưởng Biên Hòa đề nghị “Xin
đền bồi nhân mạng bằng quỹ cứu trợ và bồi thường của Bộ
Quốc phòng: 5.000$00 cho mỗi người tử thương; 3.000$00 cho
người bị thương nặng; 2.000$00 cho những người bị thương
nhẹ; bồi thường cho 20 nghe lớn nhỏ và 10 xuồng chở củi bị
bắn chìm ước lượng 750.000$00...
Ngay sau vụ thảm sát Giồng Sắn, các cơ quan thông tấn của
cách mạng đã đã đưa tin tố cáo tội ác của quân đội Sài Gòn.
Ngày 4-10-1964, Thông tấn xã Giải phóng đã ra tuyên bố kịch
liệt lên án Mỹ - Khánh1 thực hiện thảm sát người dân vô tội,
1  Mỹ - Khánh: Tức đế quốc Mỹ đã hậu thuẫn cho bộ máy chính quyền Việt Nam
Cộng hòa lúc bấy giờ do tướng Nguyễn Khánh nắm quyền sau cuộc đảo chính
chính phủ của Ngô Đình Diệm. Nguyễn Khánh làm thủ tướng (tháng 2/1964),
Quốc trưởng (tháng 8-1964), Chủ tịch Hội đồng Quốc gia và Quân lực kiêm
Tổng tư lệnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa (tháng 10/1964). Ông Nguyễn Khánh
bị đưa làm đại sứ lưu động ở nước ngoài vào tháng 2/1965.
158

16.9 Page 159

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
ra bản tuyên bố nhấn mạnh “Chúng tôi kêu gọi đồng bào Biên
Hòa và đồng bào cả nước hãy nhất tề đứng lên, hãy kiên quyết
hành động để trả lời cho bọn cướp nước và bán nước biết rằng:
Không một thế lực tàn bạo nào, không một hành động khủng bố
dã man nào có thể khuất phục được nhân dân ta, một dân tộc có
đầy đủ dũng khí và sức mạnh, một dân tộc anh hùng, một dân
tộc chưa hề cúi đầu khuất phục trước bất cứ một bạo lực nào.
Hiện nay, bọn xâm lược Mỹ và tay sai đang đứng trước nguy
cơ sụp đổ; chế độ thống trị tàn bạo của chúng đang như cây
gỗ mục đứng trước cơn bão táp cách mạng của nhân dân ta...
Đồng bào ta, chiến sĩ ta hãy tiếp tục tiến lên với khí thế mạnh
mẽ, quyết tiêu diệt nhiều sinh lực định hơn nữa, quyết giành
những thắng lợi to lớn, to lớn hơn nữa. Chúng tôi kêu gọi nhân
dân yêu chuộng tự do và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân
tiến bộ Mỹ hãy nghiêm khắc lên án hành vi xâm lược đầy tội ác
của bọn hiếu chiến Mỹ và bè lũ tay sai, hãy có những biện pháp
cấp bách nhằm ngăn chặn những hành động dã man của chúng,
hãy tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa, oanh liệt của
nhân dân miền Nam anh hùng”.
Ngày 5-10-1964, Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin, cật lực
tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy đối với thường dân trong vụ thảm
sát Giồng Sắn. Đài Giải phóng đưa tin: Ban Thường vụ Ủy
ban Mặt trận Giải phóng miền Đông Nam Bộ đã họp phiên bất
thường để nghe báo cáo về việc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ném
bom, bắn pháo thảm sát đồng bào trên sông Ông Kèo thuộc tỉnh
Biên Hòa. Hội nghị đã quyết định ra tuyên bố “tố cáo tội ác của
159

16.10 Page 160

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Mỹ - ngụy” và phát động một đợt đấu tranh chống đế quốc Mỹ
và ngụy quyền sài Gòn.
Ngày 6-10-1964, báo Nhân Dân (số 3841) đưa tin về tội
ác dã man của quân đội Sài Gòn, lên án đế quốc Mỹ và chế độ
Sài Gòn gây tội ác cực kỳ man rợ tại Giồng Sắn ở Nhơn Trạch.
Trong thời gian này, Đại tá Hà Văn Lâu - Trưởng Phái đoàn
liên lạc ta đã gửi điện khẩn tới Đại sứ M.A.Ra-man (Chủ tịch
Ủy ban Quốc tế ở Việt Nam) kịch liệt phản đối quân đội Mỹ
và quân đội Việt Nam Cộng hòa đã gây ra vụ tàn sát cực kỳ vô
nhân đạo đối với đồng bào Giồng Sắn. Nội dung bức điện nêu
rõ: Đây lại thêm một vụ thảm sát mới bằng bom đạn cực kỳ vô
nhân đạo đối với nhân dân Nam Việt Nam do bọn xâm lược
Mỹ và chính quyền tay sai gây ra mà không một người nào có
lương tri trên thế giới có thể dung thứ được... và yêu cầu Ủy
ban Quốc tế nghiêm khắc lên án vụ tàn sát, có biện pháp buộc
Mỹ - Khánh phải cứu chữa gấp những người bị thương, bồi
thường thiệt hại cho gia đình các nạn nhân, chấm dứt mọi hành
động khủng bố, tàn sát, đảm bảo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm
1954 được thi hành nghiêm chỉnh ở Nam Việt Nam.
Ngày 10-10-1964, báo Nhân dân (số 3845) tiếp tục đưa tin:
Các đoàn đại biểu nhân dân miền Bắc kịch liệt phản đối Mỹ -
Khánh gây ra vụ thảm sát tại Giồng Sắn. Các tổ chức ở miền
Bắc Việt Nam như Đảng Dân chủ, Hội Liện hiệp Thanh niên,
Đoàn Thanh niên lao động, Hội Liên hiệp sinh viên, Hội phổ
biến Khoa học kỹ thuật Việt Nam và Ban Đấu tranh chống đế
quốc Mỹ và tay sai khủng bố những người trí thức ở miền Nam
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Việt Nam đã ra tuyên bố kịch liệt lên án Mỹ và tay sai gây ra vụ
thảm sát. Các bản tuyên bố nêu rõ: Toàn thể nhân dân miền Bắc
quyết biến căm thù thành hành động, đẩy mạnh phong trào thi
đua “mỗi người làm việc bằng hai”, luôn luôn sẵn sàng tay cày,
tay súng, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ
cách mạng giải phóng miền Nam, đập tan mọi hành động xâm
lược của đế quốc Mỹ.
Qua những thông tin này, các đoàn nhà báo nước ngoài (Đài
BBC, đài Malina/Philippin, nhà báo Mỹ) nắm bắt được thông
tin và trực tiếp xuống hiện trường ghi nhận hình ảnh, thu thập
thông tin công khai cho cả thế giới cùng biết về vụ thảm sát
đẫm máu, dã man ở Giồng Sắn. Nhiều tờ báo ở các nước như
An-giê-ri, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Cuba... đã đưa tin, lên án
vụ thảm sát của Mỹ và chính quyền tay sai Sài Gòn. Ngày 19-
10-1964, Ủy ban toàn Cuba đoàn kết với nhân dân Việt Nam
ra tuyên bố tố cáo trước dư luận thế giới những tội ác tày trời
mà bọn Mỹ - Khánh đã gây ra ở Nam Việt Nam: bắn đại bác
vào chùa Núi Sập (Long Xuyên); ném bom, bắn phá nhà thờ
An Khánh (Bến Tre); đàn áp các cuộc biểu tình của nhân dân
các tỉnh Bình Định, Phú Yên; ném bom, bắn phá trên sông Ông
Kèo (tỉnh Biên Hòa)... Nội dung tuyên bố khẳng định đanh
thép: Những tội ác của Mỹ ở miền Nam Việt Nam mà không
một người văn minh nào có thể tưởng tượng được, đã xúc phạm
đến lương tâm của mọi người trên thế giới và là một sự thử
thách đối với nhân loại. Nó phơi trần bộ mặt thật của đế quốc
Mỹ trước dư luận thế giới.
161

17.2 Page 162

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Biên Hòa, Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch liên tiếp mở các đợt phát động nông dân nhằm
nâng cao tinh thần cách mạng, cùng với lực lượng vũ trang chủ
lực trong tấn công, làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt
của Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam. Huyện
ủy Nhơn Trạch nêu cao quyết tâm toàn đảng bộ, toàn dân, toàn
quân trong huyện kiên trì liên tục đánh phá “quốc sách” ấp
chiến lược, chương trình “Bình định nông thôn”, các âm mưu
“dồn dân bắt lính”, vơ vét sức người sức của địch rộng khắp.
Trên chiến trường Biên Hòa, phối hợp với các kế hoạch tấn
công địch và thể hiện quyết tâm trả thù cho dân lành Giồng Sắn
bị thảm sát, lực lượng cách mạng tổ chức phát động đánh địch.
Vào ngày 31-10-1964, lực lượng cách mạng tấn công vào
sân bay Biên Hòa1. Sau thời gian điều nghiên và nắm thông tin
từ cơ sở nội ứng, Đoàn Pháo binh Miền phối hợp với lực lượng
cách mạng Biên Hòa nã pháo tập kích. Đồng chí Lương Văn
Nho (Hai Nhã), Nguyễn Văn Bứa (Hai Hồng Lâm) chỉ huy trận
đánh. Địch tổn thất nặng nề với 59 máy bay bị phá huỷ (trong
đó có 21 máy bay B57, 11 máy bay AD6, 1 máy bay do thám
U2), 2 kho đạn lớn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát, 18 căn trại
lính bị phá huỷ, 253 tên địch bị thương và chết. Trận đánh sân
1  Sân bay Biên Hòa là sân bay quân sự của chính quyền Sài Gòn, rộng khoảng
49km2 với 2 đường băng dài 3.600m, 1.000m. Hệ thống phòng thủ sân bay nhiều
tầng lớp rào, canh gác cẩn mật và có hệ thống ra đa, chỉ huy liên lạc hiện đại.
Bên trong sân bay có 6 khu vực rộng chứa từ 170 đến 190 máy bay và khu làm
việc của 500 sĩ quan, phi công, nhân viên kỹ thuật và binh lính Mỹ.
162

17.3 Page 163

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
bay Biên Hòa làm rúng động giới quân sự Mỹ và chính quyền
tay sai, chúng xem đây là một “thảm họa” đáng xấu hổ trước
sức tấn công của quân cách mạng. Nhắc đến thắng lợi của trận
đánh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh (bút danh Chiến sĩ) đã ca ngợi
trên báo Nhân Dân (số 3878, ngày 12-11-1964): “Uy danh lừng
lẫy khắp năm châu, Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu, Thành đồng
trống thắng lay Lầu trắng. Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Báo Nhân dân của cách mạng đã đăng tải: Mười ngày trả thù
cho đồng bào Phú Hữu (Biên Hòa), tức sự kiện Giồng Sắn, trên
chiến trường miền Nam, lực lượng cách mạng đã tổ chức 30
trận, tiến công và bức địch rút 25 đồn, diệt trên 750 tên địch,
thu 184 súng.
Cuối năm 1964, Huyện ủy Nhơn Trạch đóng tại Hang Nai
để chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương. Khu vực này có
giao thông hào, có đường địa đạo. Từ trong căn cứ có thể theo
đường địa đạo vượt ra ngoài rừng Giồng, xung quanh căn cứ có
hàng rào chiến đấu và hầm chông. Tháng 11-1964, Quân ủy và
Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1964
-1965 tấn công vào khu vực Bình Giã, Thạnh Đức, cách Sài
Gòn về phía Đông khoảng 70km (sau gọi là chiến dịch Bình
Giã)1. Mục đích của chiến dịch diệt bộ phận sinh lực địch, phá
kế hoạch bình định trọng điểm của chính quyền Sài Gòn tại đây,
hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh
1  Chiến dịch chia làm 2 đợt: đợt 1 từ ngày 2 đến ngày 17-12-1964 và đợt 2 từ
ngày 27-12-1964 đến ngày 3-1-1965.
163

17.4 Page 164

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chiến tranh du kích, mở rộng vùng căn cứ. Địa bàn Nhơn Trạch,
Long Thành được chọn là hướng thứ yếu với nhiệm vụ đóng
góp lương thực, thực phẩm, đưa người tham gia chiến dịch,
đánh vào kho bom Thành Tuy Hạ, thu hút lực lượng địch và
chặn đánh địch trên quốc lộ 15. Nhơn Trạch phát động phong
trào phục vụ chiến dịch Bình Giã với việc đóng góp lương thực
và phát động thanh niên tham gia du kích, tòng quân. Quân
giải phóng tấn công vào mục tiêu địch, giành thắng lợi lớn, gây
cho địch tổn thất nặng nề cả về quân số và trang thiết bị quân
sự, đánh bại chiến thuật “trực thăng vận, thiết xa vận” của địch
trên chiến trường. Quân chủ lực của Miền phối hợp với bộ đội
chủ lực của Khu miền Đông và lực lượng vũ trang địa phương
đánh rã nhiều sắc lính của địch, phá tan ấp chiến lược kiểu mẫu.
Thắng lợi chiến dịch Bình Giã cổ vũ lớn cho phong trào đấu
tranh của quân dân Nhơn Trạch. Huyện ủy Nhơn Trạch phát
động phong trào đẩy mạnh phá và bao bó đồn bót của địch. Qua
dư luận nhân dân, một số tề ấp, xã trưởng ở Đại Phước được
tuyên truyền vận động có cảm tình của cách mạng, giúp ích cho
các hoạt động tại địa phương.
Trên địa bàn xã Đại Phước, chính quyền địch thành lập 2
ấp chiến lược tại Bến Cộ: khu ấp Chùm Dừa (Phước Lý) và
Bến Cộ. Hàng rào chông, kẽm gai giăng đầy với sự tuần tra,
kiểm soát của các sắc lính. Lực lượng cách mạng nhiều lần tổ
chức đột kích, tấn công vào các đồn, toán lính tuần tra, canh
gác. Hai ấp chiến lược này đến năm 1965 bị phá rã. Thực hiện
164

17.5 Page 165

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với nhiều hoạt động quân sự,
được Mỹ hỗ trợ nhưng chính quyền Sài Gòn đã thất bại, không
đạt được mục tiêu, lại bị thất bại nặng nề trong những trận tấn
công của quân cách mạng. Từ cuối tháng 3-1965, đế quốc Mỹ
đưa binh lính vào chiến trường miền Nam Việt Nam cùng với
lực lượng đồng minh, tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ”. Quân dân Đại Phước, Nhơn Trạch tiếp tục bước vào cuộc
chiến đấu, đối diện sắc lính từ nước ngoài tham chiến ở miền
Nam Việt Nam.
3. Đấu tranh mở vùng, tạo thế thực hiện Tổng tiến công,
nổi dậy xuân Mậu Thân (1965 - 1968)
Trên chiến trường miền Nam, lực lượng cách mạng giành
được những thắng lợi quan trọng, làm cho Mỹ, chính quyền Sài
Gòn tổn thất và lâm vào những tình thế khó khăn. Đế quốc Mỹ
leo thang chiến tranh, thực hiện “Chiến tranh cục bộ” với mục
tiêu “Tìm và diệt” lực lượng cách mạng theo ba giai đoạn trong
vòng 2,5 năm1. Ở Biên Hòa, đầu tháng 5-1965, lữ dù Mỹ mang
phiên hiệu 1732 đặt chân đến Biên Hòa. Bộ phận chỉ huy địch
đặt ở Tổng kho Long Bình và khu căn cứ Nước Trong.
1  Ngày 6-4-1965, Mỹ công bố “Hành động An ninh quốc gia” số 328, thông báo
Tổng thống Mỹ Johnson quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
với ba giai đoạn từ năm 1965 đến cuối năm 1967.
2  Tháng 5-1965, Lữ đoàn dù 173 vào Biên Hòa, đồng thời đổ bộ toàn bộ Sư
đoàn Bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) vào miền Đông Nam Bộ, đóng căn cứ Dĩ An, phía
Bắc Sài Gòn. Ngày 17-7-1965 triển khai 14 tiểu đoàn quân chiến đấu Mỹ vào
miền Nam Việt Nam.
165

17.6 Page 166

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Trước tình thế quân đội Mỹ tham chiến, Trung ương Cục
miền Nam đánh giá, phân tích tình hình và chỉ đạo cho cách
mạng miền Nam tiếp tục giữ thế tấn công. Đầu tháng 4-1965,
Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức cho cán bộ và nhân dân học tập
“Nghị quyết đánh Mỹ” của Trung ương Đảng. Cán bộ huyện
được phân công xuống các xã triển khai tinh thần nghị quyết,
đồng thời chỉ đạo phải bổ sung thêm quân số cho lực lượng du
kích các xã, tăng cường huấn luyện quân sự, chuẩn bị cho cuộc
đấu tranh đầy khó khăn.
Được Mỹ đổ quân hỗ trợ, chính quyền Sài Gòn đề ra kế
hoạch “Bình định cấp tốc”. Nhơn Trạch là một trong ba địa bàn
trọng điểm mà Tiểu khu Biên Hòa chọn thực hiện. Binh lính
ở Nhơn Trạch đắc ý và hy vọng có những chỗ dựa vững chắc
để đánh phá lực lượng cách mạng. Chính quyền địch tiến hành
phân loại xã, ấp theo A, B, C theo thực tế kiểm soát của chúng
(loại A: địa bàn địch có thể làm chủ cả ngày lẫn đêm; loại B:
địch chỉ làm chủ được ban ngày và một số ấp ban đêm; loại C:
chỉ làm chủ được ban ngày). Địch điều về địa bàn Nhơn Trạch,
Long Thành 7 đoàn công tác mang danh nghĩa “Đoàn cán bộ
xây dựng nông thôn”. Đây là thủ đoạn của chính quyền địch,
sử dụng lực lượng bám sát sinh hoạt các vùng dân cư theo dõi,
thu thập tin tức, kiểm tra dân số thường xuyên. Qua bám sát
địa bàn, địch mong muốn sẽ phát hiện cơ sở cách mạng, cán
bộ, đảng viên hoạt động trong quần chúng hoặc sự liên lạc giữa
nhân dân và căn cứ. Đồng thời, qua những sinh hoạt chung,
166

17.7 Page 167

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
địch tuyên truyền gây sự chia rẽ trong nhân dân, ngăn chặn sự
đoàn kết ủng hộ đấu tranh của người dân với chính quyền.
Mặc dầu tình hình kềm kẹp của chính quyền địch càng gắt
gao nhưng quân dân Nhơn Trạch kiên cường bám trụ căn cứ
Lòng Chảo và xây dựng cơ sở, liên lạc trong các vùng tranh
chấp. Lực lượng cách mạng trong khu Lòng Chảo tổ chức
nhiều trận chống địch càn quét. Ngày 25-8-1965, binh lính Mỹ
tấn công khu Lòng Chảo. Từ 7 giờ sáng, pháo địch từ Bến Sắn,
Phước Hòa cấp tập vào xóm ấp gần khu đường ủi các xã Phước
Lai, Phú Hội, Long Tân. Máy bay phản lực của địch đến cắt
bom. Đơn vị 245 cùng du kích 3 các xã lân cận đánh chặn. Lính
Mỹ chia làm hai ngả tiến theo tỉnh lộ 17 và đường ủi đến bao
vây tấn công nổng Gò Cao. Dựa vào đường địa đạo, vị trí trên
cao, các chiến sĩ dùng ĐH10 cho nổ ngăn chặn từ xa và bắn
súng vào đội hình địch từ phía dưới. Ba lần địch xông lên đều bị
đánh bật lại, nhiều lính địch bị chết, bị thương. Địch cho pháo
từ Bến Sắn, từ Thành Tuy Hạ bắn đến liên tục và máy bay tiếp
tục dội bom hỗ trợ. Với hỏa lực mạnh, đến 2 giờ chiều, địch tập
trung tấn công cả ba mặt, mặt chủ yếu từ lộ 17 lên có xe tăng
yểm trợ vào được căn cứ. Trận đánh càng về chiều càng gay
go quyết liệt, bộ đội chiến sĩ gài mìn lối vào địa đạo rồi rút về
cánh đồng Cà Phê. Trận tấn công này địch có 56 tên chết, nhiều
người bị thương. Sáng ngày 26-8, địch cho 6 máy bay đến ném
bom xuống khu vực trận địa và phá hoại hệ thống địa đạo, giao
thông hào.
167

17.8 Page 168

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Tháng 11-1965, anh Nguyễn Văn Tròn1 - chiến sĩ Đại đội
240 bị địch phục kích, hy sinh. Địch đem thi thể anh ra Cát
Lái, Phước Lương và lân cận... để tìm cách bắt người thân khi
ra nhận xác. Bà Nguyễn Thị Ớn dù thương con nhưng nén nỗi
đau, âm thầm chịu đựng để tiếp tục làm cơ sở cách mạng. Cuối
cùng, địch đem xác anh Tròn chôn ở gần khúc sông Lòng Tàu.
Bước sang năm mới 1966, Lữ đoàn 199 Thủy quân lục chiến
Mỹ từ Phú Xuân (Nhà Bè) được điều đến Nhơn Trạch, Long
Thành thay cho Lữ đoàn dù 173. Địch bung ra chiếm đóng ở
một số vị trí trên các trục lộ, tổ chức càn quét. Sau những ngày
tạm ngưng bắn trong tết, địch tổ chức tấn công quy mô lớn vào
khu căn cứ Lòng Chảo, Hang Nai từ nhiều hướng. Cuộc chiến
đấu ác liệt, giằng co giữa hai bên kéo dài một tuần. Dẫu bị tổn
thất nhưng khu căn cứ cách mạng vẫn được giữ vững. Về phía
địch, có 167 tên xâm lược Mỹ chết, nhiều tên bị thương, 6 trực
thăng bị bắn rơi, 5 xe tăng bị bốc cháy. Địch chỉ phá được một
số ô, ụ giao thông hào ở phía bên ngoài và ở một số ấp xung
quanh. Trước sức tấn công của địch, chà đi xát lại nhiều lần
khiến vùng căn cứ gặp nhiều khó khăn. Một số cá nhân tham
gia trong lực lượng quân báo, y tế và du kích không chịu nổi
gian khổ bỏ căn cứ. Địch tiếp tục tăng quân đến Nhơn Trạch,
Long Thành và các máy ủi để chia cắt, xúc tát các xã xung
quanh khu Lòng Chảo.
1  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ớn.
168

17.9 Page 169

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Không thực hiện được ý đồ tát dân, địch chuyển sang đánh
phá địa hình, cho máy bay rải chất độc hóa học. Lữ đoàn 199
Thủy quân lục chiến Mỹ chuyển kế hoạch không tổ chức càn
lớn mà tập trung trực thăng, đổ quân tấn công địa điểm khi
nghi vấn có “Việt Cộng trú đóng”. Sự đánh phá của địch làm
cho công tác dự trữ hậu cần cách mạng không duy trì ở vùng
sâu mà chuyển gởi trong dân. Ban Quân lương của huyện phải
phân chia người phụ trách từng vùng để thu và chuyển đến từng
đơn vị. Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo khi địch tập trung tổ chức
những cuộc càn lớn thì ta tạm tránh để bớt thương vong nhưng
phải tìm sơ hở của địch, nghiên cứu thật chắc chắn, tập trung
đánh phá vào những nơi giặc không chuẩn bị rồi nhanh chóng
phân tán.
Phối hợp với các trận đánh Mỹ và quân lính địch, Huyện ủy
Nhơn Trạch chỉ đạo phải diệt ác ôn, tình báo, điệp báo để phá
kế hoạch “chụp điểm” đồng thời phải diệt các sắc lính thực hiện
bình định, phá âm mưu dồn dân, ép dân vào ấp Tân Sinh1. Bao
quanh mỗi ấp Tân Sinh là hào rộng 3m, đáy 2m, sâu hơn 1,5m.
Bờ đê đất cao khuất tầm mắt của một người. Ngoài hào là các
vòng rào kẽm gai được cài mìn và lựu đạn. Do tính chất của
chiến trường Nhơn Trạch, Long Thành càng ác liệt, đến trung
1  Ấp Tân Sinh ra đời trong chính sách bình định nông thôn của chính quyền Sài
Gòn và nhanh chóng được triển khai ở miền Nam Việt Nam từ năm 1964. Đây
là một loại hình dồn dân lập ấp kiểu mới mà Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng
hòa xem là một chính sách rất quan trọng, một biện pháp bình định kế thừa quốc
sách “Ấp chiến lược” trước đó đã thất bại trong chiến lược Chiến tranh đặc biệt.
169

17.10 Page 170

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tuần tháng 4-1966, Ban Chỉ huy Miền quyết định thành lập Đặc
khu Rừng Sác với ký hiệu T-101 (sau đổi là Đoàn 10) do đồng
chí Lương Văn Nho làm Chỉ huy trưởng. Địa bàn hoạt động
của Đoàn 10 gồm 9 xã: lấy xã Phú Hữu và Phước Khánh làm
căn cứ để đánh phá tàu giặc trên sông Lòng Tàu và tiến đánh
quân cảng Nhà Bè, lấy xã Phước An, Phước Thọ làm cửa khẩu
để lấy lương thực, thực phẩm, nước ngọt và kết hợp tấn công
giặc trên vùng Lòng Chảo. Trong thời gian này, phong trào đấu
tranh của xã Đại Phước có sự chỉ đạo, hỗ trợ từ Đặc khu Rừng
Sác, là chỗ dựa của Đoàn 10 đặc công, cách mạng vùng Thủ
Đức, xã Phú Thạnh. Khi lực lượng vũ trang cách mạng điều
nghiên, tấn công vào Thành Tuy Hạ, lực lượng cách mạng xã
Đại Phước đều phối hợp, tổ chức phương tiện và hướng dẫn,
cung cấp thông tin bằng nhiều phương thức. Hướng tấn công
Thành Tuy Hạ đều qua địa bàn Đại Phước và hướng rút ra qua
xã Phước An.
Đầu tháng 10-1966, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam
chủ trương sáp nhập 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa
lấy tên là tỉnh Long Bà Biên. Huyện Long Thành, Nhơn Trạch
được sáp nhập lại gọi là huyện Long Thành. Đồng chí Nguyễn
Văn Thông làm Bí thư Huyện ủy. Tỉnh ủy đã chọn huyện Long
Thành làm điểm mở vùng. Để tăng cường lực lượng vũ trang
1  Đặc khu Rừng Sác gồm 10 xã thuộc địa bàn rộng lớn của huyện Nhơn Trạch
của tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa, Gia Định. Diện tích khoảng 600km2, phía Đông
giáp đường 15, phía Tây giáp sông Sài Gòn, phía Bắc giáp đường 19, phía Nam
giáp biển Đông.
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
cho Long Thành mở vùng, một trung đội của huyện được sáp
nhập vào Đại đội 240 của tỉnh đóng trên địa bàn huyện (Đại đội
240 có tới 4 trung đội). Huyện ủy chỉ thị cho các xã phải tăng
cường bổ sung lực lượng du kích, lập danh sách để tiếp nhận,
bổ sung nguồn vũ khí từ huyện.
Với mục tiêu đánh phá cơ quan đầu não cách mạng miền
Nam, địch thực hiện kế hoạch “chụp điểm” nhưng không hiệu
quả nên chuyển sang kế hoạch “Hai gọng kìm”. Quân lực của
Việt Nam Cộng hòa được giao bảo vệ vùng hậu cứ, quân viễn
chinh Mỹ đánh phá vùng rừng, căn cứ cách mạng. Năm 1967,
địch điều quân thêm về Nhơn Trạch, Long Thành trong đó có
binh lính Thái Lan trong đồng minh quân sự của Mỹ ở Đông
Nam Á can dự vào chiến trường miền Nam Việt Nam. Lữ đoàn
Mãng Xà của Thái Lan tập trung càn quét, đánh phá vào lực
lượng cách mạng vùng đồn điền cao su và theo lộ 17 xuống
các vùng Nhơn Trạch. Trước sự kìm kẹp và đánh phá vào nhân
dân, Huyện ủy Long Thành phát động du kích tổ chức trừng trị
những tên ác ôn.
Từ kinh nghiệm mở vùng hoạt động ở Bình Sơn, Huyện ủy
Long Thành chỉ đạo tập trung mở vùng gồm các xã Đại Phước,
Phú Thạnh, Vĩnh Thanh. Hỗ trợ cho công tác xây dựng phong
trào mở vùng, Đại đội 240 được điều về khu vực này. Được
đồng chí Dương Văn Tài cung cấp tình hình, đơn vị 240 tổ chức
đột kích vào bót Cầu Cháy. Tại đây, địch bố trí 1 trung đội cảnh
sát dã chiến, 1 tiểu đội tình báo viễn địa do trung sĩ Văn chỉ huy.
171

18.2 Page 172

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Kế hoạch đề ra là phá đồn và diệt bằng được tiểu đội tình báo.
Phương thức tác chiến là phải đánh nhanh rút nhanh vì nơi đây
gần chỗ địch đóng. Đúng 10 giờ đêm, ta bắn 4 trái B40 vào gian
nhà lính ở. Bị đánh bất ngờ, lính địch chạy tán loạn, các chiến sĩ
tấn công. Trận đánh đem lại kết quả với 16 tên cảnh sát dã chiến
bị bắt, tiểu đội tình báo bị diệt 3 tên và bị thương 9 tên. Tên Văn
chỉ huy chạy trốn, lọt cầu rơi xuống sông thoát chết. Tiểu đội
tình báo viễn địa bị xóa phiên hiệu. Sau trận này trung sĩ Văn
cạo đầu trốn vào chùa Đại Phước tu hành. Hai đêm sau trận phá
đồn Cầu Cháy, Đại đội 240 bao vây tấn công phá chốt dân vệ
khu chợ Đại Phước. Chốt dân vệ có 2 tiểu đội địa phương quân
đóng giữ. Các chiến sĩ nổ súng tấn công, giật sập chòi gác, quân
lính hoảng loạn bỏ trốn. Trưa ngày 17-12-1966, một toán địch
càn vào ấp Phước Lý. Quần chúng chưa kịp báo tin nên đồng
chí Ngọc - xã đội trưởng tìm cách ẩn nấp ở gò mả sau đình. Tên
thiếu úy Liệt phát hiện, dẫn 1 tốp lính bao vây với âm mưu bắt
sống. Chờ cho địch đến gần, đồng chí Ngọc nổ súng, tiêu diệt
ngay 3 tên, trong đó có tên thiếu úy Liệt. Những tên lính còn
lại tháo chạy về sau rồi gọi quân tiếp viện. Đồng chí Ngọc gài
1 trái lựu đạn rồi rút xuống men theo suối luồn về căn cứ. Nửa
giờ sau, 1 đại đội địch ập đến, bao vây khu gò mả. Không thấy
bắn trả, địch lùng sục và vướng mìn nổ làm chết 2 tên, 3 tên bị
thương. Sau trận đánh này, đồng chí Ngọc được Quân khu tặng
bằng khen. Đoàn 10 Rừng Sác tặng anh 1 khẩu súng trường.
Ngày 2-5-1967, Thường vụ Khu ủy miền Đông ra quyết
định số 12/QĐ/K chỉ định Ban Chấp hành Huyện ủy Long
172

18.3 Page 173

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Thành gồm 15 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Thông giữ
chức Bí thư. Đồng chí Trương Văn Bông - Bí thư chi bộ Đại
Phước là ủy viên chính thức1. Ngày 5-6-1967, lực lượng du kích
Đại Phước, Phú Hữu phối hợp với bộ đội Nhà Bè dưới sự chỉ
huy của đồng chí Nguyễn Quyết Chiến (Sáu Chiến) tiến đánh
một tiểu đoàn Mỹ khi chúng tổ chức càn vào ấp Giồng Ông
Đông. Lợi dụng địa hình kênh rạch, lực lượng cách mạng luồn
lách chia cắt đội hình của địch tiêu diệt 8 tên lính Mỹ, làm bị
thương nhiều sinh lực địch, bắn cháy 1 máy bay lên thẳng. Đêm
26 rạng sáng ngày 27-10-1967, sau thời gian theo dõi, đánh dấu
vị trí đóng quân dã ngoại của lính Mỹ, đồng chí Nguyễn Quyết
Chiến, đồng chí Tám Tâm dùng bùn non ở rạch bôi toàn thân,
chống sự đánh hơi của chó bẹc-giê tiếp cận đội hình địch lấy 2
khẩu M16, gài trái nổ rồi trở ra. Mìn nổ làm chết 9 lính Mỹ và
1 số bị thương, làm đội hình lính Mỹ hoảng sợ bỏ chạy.
Tháng 10-1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải
thể Khu miền Đông, thành lập 5 phân khu chuẩn bị nhiệm vụ
đấu tranh cho giai đoạn mới. Địa bàn xã Đại Phước trực thuộc
Phân khu 4. Phân khu 4 bao gồm các địa bàn huyện: Cao su
Bình Sơn, Long Thành, Nhơn Trạch, Cần Giờ, Nam Thủ Đức,
1  Các đồng chí khác trong Ban Chấp hành Huyện ủy Long Thành: Đồng chí
Châu Văn Lồng (Phó Bí thư), Minh Chính, Nguyễn Quang Hạnh (Ủy viên thường
vụ) và các ủy viên: Huỳnh Văn Sang, Dương Văn Thà, Nguyễn Văn Sanh, Trần
Trung Tấn, Thành Minh, Nguyễn Văn Hà, Nguyễn Văn Đức, Trần Văn Nhiệm
(Mười Thọ), Nguyễn Nghi Phát, Nguyễn Văn Bền.
173

18.4 Page 174

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Quận 1, Quận 9 Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Văn Chiến (Mười
Chiến) được cử làm Bí thư, đồng chí Lê Quang Chữ - Phó Bí
thư, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) - ủy viên thường
vụ, đồng chí Lương Văn Nho - Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Hải
(Tám Hải) - phụ trách an ninh. Huyện Long Thành lại được
tách ra làm 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Huyện ủy
Nhơn Trạch do đồng chí Nguyễn Văn Thông làm Bí thư, đồng
chí Nguyễn Văn Quyết làm Huyện đội trưởng, đồng chí Năm
Minh làm Huyện đội phó. Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định
điều về một số du kích bổ sung cho lực lượng vũ trang huyện;
đồng thời thành lập đội biệt động gồm 16 chiến sĩ do đồng chí
Học làm Tổ trưởng, đồng chí Đấu Cỏ làm Tổ phó.
Tình hình Nhơn Trạch rất căng thẳng bởi địch tăng cường
tấn công vào căn cứ cách mạng với mức độ, quy mô lớn và càn
quét, đốt phá xóm ấp. Trong tinh thần chuẩn bị cho đợt tấn công
vào mùa xuân năm 1968, Phân khu 4 đã điều thêm quân số, vũ
khí về Long Thành và chỉ đạo cho địa phương chuẩn bị dự trữ
lương thực. Giữa tháng 1-1968, đồng chí Nguyễn Trọng Tân
(Hai Lực), nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông, được cử làm đặc
phái viên của Trung ương Cục đến triển khai nhiệm vụ và kế
hoạch Phân khu ủy phân khu 4 và Đặc khu Rừng Sác.
Đêm giao thừa Tết âm lịch năm 1968, theo kế hoạch đã ấn
định, quân dân toàn miền Nam nổi dậy cùng với các cuộc tấn
công của lực lượng cách mạng. Ở Nhơn Trạch, các chiến sĩ Đại
đội 240 do đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai trực tiếp
174

18.5 Page 175

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chỉ huy tiến công chi khu, bốt địch tại nổng Nhà Thờ diệt 20
lính bảo an và cảnh sát, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đoàn 10
dùng pháo bắn vào chi khu Nhơn Trạch và kho bom Thành Tuy
Hạ. Du kích các xã hỗ trợ nhân dân nổi dậy bao vây tấn công
đồn địch trên các trục lộ. Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác
mục tiêu tấn công đồn giặc ở Giồng Ông Đông. Tại đồn, quân
lính bố trí thường trực 1 đại đội sắc lính Bảo an. Lực lượng vũ
trang trên địa bàn chuẩn bị với tinh thần cao độ chờ lệnh tiến
công địch. Nhiều đơn vị vũ trang bố trí, áp sát mục tiêu, đặc
biệt các ấp chiến lược để tấn công, hỗ trợ quần chúng nổi dậy.
Chuẩn bị đánh đồn địch Giồng Ông Đông, đồng chí Lê Bá Ước
(Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác) bí mật vào dân nắm tình
hình hoạt động của lính. Qua thông tin, đồng chí biết chỉ huy
đồn là Chuẩn úy Sáu - quê Bến Tre. Đồng chí Lê Bá Ứớc cùng
người dân tiếp cận đồn địch, thực hiện công tác binh vận.
Kế hoạch bao vây đồn được triển khai bằng các mũi trinh
sát và xung kích, tiếp cận mục tiêu. Trước khi đánh, đồng chí
Lê Bá Ước làm công tác binh vận, kêu gọi trực tiếp từ loa phát
vào phía đồn: “Chuẩn úy Sáu, tôi biết rõ anh quê ở Bến Tre và
đang chỉ huy lực lượng bảo an ở đây. Ngày Tết cổ truyền, cha
mẹ và vợ con anh đang mong đợi. Hiện nay, cách mạng đang
tổng tiến công mãnh liệt ở mọi nơi, anh hãy buông súng và đưa
lính ra đầu hàng ngay, chúng tôi không tiến công đồn. Bằng
không, tất cả sẽ bị tiêu diệt”. Lính trong đồn nghe nội dung kêu
gọi liên tục, gọi luôn tên của chỉ huy đồn, ban đầu im phăng
phắc. Sau đó, bắt đầu nao núng. Một số lính bỏ đồn, thoát ra
175

18.6 Page 176

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cánh đồng chạy trốn trong đó có chỉ huy đồn cũng tham gia bỏ
chạy. Trong đồn, vẫn còn chỉ huy phó và nhiều lính nổ súng
về phía các đồng chí phát loa. Đồng chí Tám Sơn (Trung đoàn
trưởng Đoàn 10) phát lệnh tấn công đồn. Chiến sĩ dùng DKZ
75 và súng máy 12,7 đồng loạt nổ súng vào mục tiêu. Hai mũi
xung kích áp phá hàng rào, tiêu diệt các lô cốt và lính địch. Lính
địch dùng đại liên từ hầm ngầm phản kích. Hai chiến sĩ trinh
sát hy sinh, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Nở - Chủ nhiệm
trinh sát Trung đoàn. Chỉ huy Trung đoàn hội ý, trước tình thế
bất lợi về vũ khí và chống trả của địch, tạm thời rút lực lượng
ra nhưng phải cử chiến sĩ bí mật tiếp cận, tiêu diệt ổ đại liên
của địch từ hầm ngầm. Đồng thời, tránh sự tiếp viện từ xa bằng
pháo của địch. Đồng chí Tám Sơn ra lệnh lui quân. Lúc bấy giờ
khoảng 4 giờ sáng ngày mùng 3 tháng Giêng âm lịch. Khoảng
30 phút sau, Mỹ cho pháo kích dữ dội xuống khu vực xung
quanh đồn và đưa quân chi viện giải cứu đồn Giồng Ông Đông.
Trước khi lui quân, các chiến sĩ đặc công của Trung đoàn áp sát
cho nổ lựu đạn ở hầm ngầm dập tắt ổ đại liên của địch. Trận tấn
công đồn Giồng Ông Đông không chiếm được mục tiêu nhưng
phá hủy và tiêu diệt sinh lực địch khá nhiều1.
Sau những bất ngờ trước sự nổi dậy của quần chúng và
tấn công của lực lượng cách mạng, chính quyền Sài Gòn phản
1  Hoàng Thành (2013), Tết Mậu Thân diệt đồn Giồng Ông Đông, Báo Đồng Nai
số thứ Tư, ngày 602-2013 (ghi theo lời kể của đồng chí Đại tá Lê Bá Ước - Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân nhân, nguyên Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 10
- Đặc công Rừng Sác).
176

18.7 Page 177

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
công. Trên chiến trường chung của miền Nam, lực lượng quân
giải phóng bị tổn thất và rút ra khỏi các mục tiêu. Đối phó với
nổi dậy tấn công của quân cách mạng, địch điều thêm quân về
Nhơn Trạch gồm Tiểu đoàn 345 bảo an, Tiểu đoàn 58 Biệt động
quân, 15 xe tăng và 60 xe ủi, âm mưu càn quét đánh phá các xã
ven lộ 17.
Chấp hành sự chỉ đạo của Phân khu ủy, sau khi rút kinh
nghiệm qua đợt tấn công lần thứ nhất, Huyện ủy Nhơn Trạch
lên kế hoạch và chuẩn bị bước vào đợt hai (đầu tháng 5-1968),
đợt ba (đầu tháng 8-1968)1. Các hoạt động của chiến dịch nổi
dậy, tấn công trong năm 1968 tập trung vào đầu não quân lính
Mỹ, Việt Nam Cộng hòa vùng đô thị và các mục tiêu trọng
điểm. Do nhiều yếu tố tác động, nhất là tính bất ngờ không còn,
chủ quan trong đánh giá tình hình nên đợt 2 và 3 đã không đem
lại hiệu quả và gây nên những tổn thất về quân số. Lực lượng
du kích diệt tên G. hoạt động thám báo của địch tại Cù lao Ông
Còn. Trong một số trận đánh càn, một số cơ sở cách mạng, lực
lượng du kích xã hy sinh, bị địch bắt: Đội viên du kích Nguyễn
Văn Hương2 bị địch bắt, đày ra nhà tù Côn Đảo; đồng chí Mai
Văn Lẹ, Đào Văn Rắc (Xã đội phó) bị tàu địch bắn khi công tác
tại cầu Mười Huỳnh (xã Vĩnh Thanh); Nguyễn Văn Thanh - Xã
1  Các đợt trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân của cách mạng
phát động như sau: Đợt 1 từ ngày 30-1 đến ngày 28-3, đợt 2 từ ngày 5-5 đến ngày
15-6 và đợt 3 từ ngày 17-8 đến ngày 30-9-1968.
2  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Đồng. Anh được trao trả năm
1973 và trở về tiếp tục hoạt động, hy sinh năm 1974.
177

18.8 Page 178

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
đội phó bị pháo địch bắn, hy sinh ở Cù lao Ông Còn; du kích
Nguyễn Văn Kế bị địch phục bắn tại ấp Thị Cầu, anh Nguyễn
Văn Thành - đội viên dân công hỏa tuyến hy sinh khi uống
nguồn nước độc của địch cài tại ấp Cù Lao; Tiểu đội trưởng xã
đội Nguyễn Văn Của bị trực thăng địch bắn trong đợt tấn công
ở Rạch Vọp, sông Ông Kèo.
Về hình thái chiến trường, cả ba đợt trong Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân 1968 góp phần quan trọng trong chiến lược
chung, quân dân cách mạng đã đánh bồi liên tiếp, đập tan ý chí
xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải
tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành viên chính thức
tham gia hoà đàm tại Paris. Những thắng lợi này góp phần cho
ta thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội nghị Paris. Những trận
tấn công của quân dân Nhơn Trạch trong các đợt nổi dậy đã gây
cho địch nhiều thiệt hại ở địa phương, cùng cách mạng miền
Nam làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ,
chính quyền Sài Gòn. Từ kế hoạch chủ động đưa quân đội Mỹ
cùng lực lượng đồng minh vào chiến trường miền Nam Việt
Nam để “Tìm diệt”, “Bình định”, địch đã chuyển thế “Quét và
giữ” sau đó.
Ngày 10-5-1968, Phân khu ủy Phân khu 4 có quyết định
tách huyện Long Thành thành huyện Long Thành và Nhơn
Trạch. Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: Đồng chí Nguyễn Công
178

18.9 Page 179

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Hạnh (Quyền Bí thư), đồng chí Phan Minh Chính (Phó Bí thư),
đồng chí Dương Văn Thà (Huyện đội trưởng), các ủy viên
Thường vụ: đồng chí Lê Văn Sanh, đồng chí Nguyễn Văn Hà;
các Huyện ủy viên: đồng chí Nguyễn Văn Bền, Nguyễn Văn
Sơn, Phạm Minh Lý, Nguyễn Thị Nữ, Huỳnh Văn Tám, Lê Văn
Đạt. Huyện ủy chỉ đạo quân dân tiếp tục bám trụ chiến trường
bằng mọi cách, liên tục tiến công tiêu diệt Mỹ, Thái, lính Sài
Gòn, phân công cán bộ phụ trách từng khu vực cụ thể, chỉ đạo
tập trung mở vùng yếu ở Đại Phước, Vĩnh Thanh.
Những trận tấn công địch táo bạo của vùng Phú Hữu, giáp
với Đại Phước được duy trì. Ngày 3-6-1968, khi chi bộ xã đang
họp tại căn cứ Sở Dừa với sự tham dự của 2 đồng chí cán bộ cấp
trên. Địch dùng bằng tàu chiến và 2 xuồng máy càn vào. Đồng
chí Nguyễn Quyết Chiến cùng chiến sĩ du kích bố trí phục kích.
Khi địch tiến vào trận địa, các đồng chí điểm hỏa mìn ĐH10 làm
tàu địch bốc cháy. Lính địch tràn lên tiến vào cứ, 18 chiến sĩ nổ
súng tấn công quyết liệt buộc địch thối lui. Trận đánh địch càn
giành thắng lợi lớn với 34 lính địch bị diệt, 1 tàu chiến bị cháy,
bảo đảm an toàn cho cán bộ, chiến sĩ. Tháng 7-1968, Nguyễn
Quyết Chiến dẫn đội du kích xã tiến công trung đội lính Mỹ ở
ngã ba Giồng Sắn. Đêm ngày 29-12-1968, đồng chí Nguyễn
Quyết Chiến tiếp tục chỉ huy đội du kích tấn công trung đội
lính Mỹ đóng trong nhà ông Năm Tàu ở ấp Giồng Ông Đông1.
1  Nguyễn Quyết Chiến được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam tuyên dương là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1969.
179

18.10 Page 180

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Trong đấu tranh chính trị, các cơ sở cách mạng vận động người
dân, hưởng ứng tích cực. Khi địch ném bom vào khu dân cư
làm sập 18 căn nhà, làm chết 7 người dân, đồng bào tổ chức chở
xác nạn nhân lên quận đấu tranh biểu tình buộc địch phải bồi
thường thiệt hại nhà cửa và tính mạng cho nhân dân.
4. Bám trụ đấu tranh, giữ vững phong trào, tiến lên giải
phóng (1969 - 1973)
Dồn sức tấn công và hy vọng đánh bại lực lượng cách mạng
nhưng Mỹ, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thất bại, 2 chiến
lược quan trọng bị phá sản. Cuộc nổi dậy Tổng tiến công xuân
Mậu Thân (1968) của quân dân cách mạng khiến Mỹ, chính
quyền Sài Gòn chuyển sang chiến lược ”Việt Nam hoá chiến
tranh”1 ở miền Nam Việt Nam. Đây là thủ đoạn thâm độc của
Mỹ để từng bước tránh những tổn thất về binh lực trên chiến
trường và thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người
Việt”. Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường binh lực với mục
đích giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Nam, thực
hiện các kế hoạch bình định nhằm đánh phá mạnh phong trào
cách mạng. Trên địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành, binh lính
Úc tiến hành các cuộc càn quét lại địa bàn, tạo nên thế tranh
1  Mỹ chủ trương từng bước “Phi Mỹ hóa” trong chiến tranh ở Việt Nam, rút
dần quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam để giảm thiểu tổn thất, giữ uy tín; đồng
thời duy trì, hỗ trợ, tăng cường giữ thế và lực cho quân đội Việt Nam Cộng hòa
để đối đầu với lực lượng cách mạng Việt Nam, giữ thế cho chính quyền Sài Gòn
và tranh thủ thời gian tạo ra sự giằng co ổn định để Mỹ kéo dài tình thế, giữ thế
mạnh trong đàm phán với Việt Nam.
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chấp giữa cách mạng và địch hết sức căng thẳng. Quân lính Mỹ
được bố trí hàng trăm cụm lính tạo thế vừa bao vây lực lượng
cách mạng mở vùng hoạt động, vừa chia cắt các khu dân cư,
ngăn chặn các đường dây tiếp tế đến căn cứ.
Huyện Nhơn Trạch đẩy mạnh công tác binh vận trong các
sắc lính gồm Mỹ, Úc, Thái Lan và binh lính người Việt trong
quân đội Việt Nam Cộng hòa trên địa bàn. Ta rải hơn hai trăm
ngàn truyền đơn viết bằng các thứ tiếng Anh, Thái, Việt vạch rõ
chiến tranh xâm lược của Mỹ là phi nghĩa, gây tội ác với nhân
dân Việt Nam, nêu rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
là chính nghĩa. Truyền đơn kêu gọi binh sĩ Sài Gòn buông súng
về nhà làm ăn, lính Mỹ và Thái chống lệnh hành quân bằng
mọi cách, đấu tranh đòi về nước để khỏi chết vô nghĩa... Cơ sở
cách mạng ở các xã Nhơn Trạch làm công tác binh vận trực tiếp
đến các gia đình binh sĩ địch. Nhiều gia đình đã kêu gọi những
người thân đi lính cho quân đội Sài Gòn đào ngũ.
Trên chiến trường miền Nam, Mỹ bắt đầu thực hiện dần
việc rút quân. Ở Nhơn Trạch, trước khi thực hiện rút quân, lính
Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ráo riết thực hiện kế hoạch bình
định cấp tốc, tổ chức càn quét, đánh phá với quy mô lớn. Địch
sử dụng cả 3 lực lượng gồm lính địa phương, chủ lực, quân
Mỹ và đồng minh liên tục mở các cuộc hành quân càn quét từ
cấp trung đội đến cấp trung đoàn. Địch sử dụng mọi hình thức,
thủ đoạn đánh phá, ruồng bố, càn quét kết hợp với phi pháo kể
cả máy bay chiến lược B52 và rải chất độc hóa học hủy diệt
181

19.2 Page 182

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
địa hình, nhằm phá nát bàn đạp đứng chân của lực lượng cách
mạng. Cường độ chiến tranh ngày càng ác liệt. Đây là thời kỳ
mà địch coi là thời cơ “Tiến lên phía trước” để đẩy lực lượng
cách mạng ra khỏi các địa bàn mục tiêu. Ở mỗi xã đều có một
cảnh sát do sĩ quan cấp úy (thiếu úy, trung úy) từ quận đưa
xuống chỉ huy. Cán bộ bình định được tăng cường, ngoài ra
ở mỗi xã còn bố trí lực lượng Phượng hoàng “39” (Tình báo
tin tức) và một số địa phương quân nội tuyến. Vùng cư dân
và căn cứ cách mạng bị chia cắt bởi địch tuần hành và chà xát
nhiều lần, các tuyến đường giao thông quan trọng lập nhiều bót
kiểm soát. Đường dây vận tải vũ khí, lương thực của cách mạng
thường bị gián đoạn. Xã đứt liên lạc với huyện, huyện đứt liên
lạc với Phân khu, Phân khu đứt liên lạc với Trung ương Cục.
Huyện uỷ Nhơn Trạch và lực lượng chủ lực phải thực hiện việc
phân tán để bảo toàn lực lượng. Cán bộ, chiến sĩ tản ra thành
tổ nhỏ, đào hầm bí mật để trú nấp trong điều kiện không móc
nối được với cơ sở, người dân, lương thực không có. Sau một
thời gian, chi bộ chủ trương bám trụ vào dân để giữ phong trào,
vận động nhà dân nuôi giấu cán bộ. Một số cơ sở cách mạng
gồm ông Mai Văn Năm, ông Đào Văn Bửu (Ba), bà Bảy Có,
ông Mai Văn Tri (Hai) tại ấp Phước Lý bất chấp hiểm nguy, dù
địa bàn có tề xã nhiều, gần Thành Tuy Hạ lính tuần tra thường
xuyên vẫn đào 5 hầm bí mật trong nhà. Ban ngày, cán bộ trú ẩn
dưới hầm, ban đêm hoạt động tuyên truyền đến quần chúng và
tham gia các cuộc đột kích diệt ác.
182

19.3 Page 183

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Tháng 1-1969, chi bộ xã Đại Phước bị tổn thất khi đồng
chí Lê Văn Chuộng - Phó Bí thư hy sinh tại ấp Bến Cộ. Ở xã,
ấp của Nhơn Trạch, ngoài lực lượng dân vệ, địch thành lập
nhân dân tự vệ. Đồng thời, địch tiến hành kiểm tra phân loại
nhà dân ra các hạng A, B, C để theo dõi, kềm kẹp (Loại A: gia
đình binh sĩ, gia đình ác ôn còn hoặc bị cách mạng diệt; loại
B: trung lập, không theo quốc gia và không cảm tình cộng sản;
loại C: có người thân theo cộng sản, kháng chiến hoặc nghi là
cách mạng). Chúng dán từng bảng ngay tại nhà tạo nên sự ngột
ngạt, nghi kỵ giữa người dân với nhau. Ngày 23-3-1969, đồng
chí Bùi Văn Thành - Xã đội phó Đại Phước bị địch phục kích
bắn chết tại ấp Ông Kèo (xã Vĩnh Thanh).
Tháng 6-1969, Ban Chấp hành Phân khu 4 họp kiểm điểm
tình hình, bổ sung kế hoạch tiến công địch. Đồng chí Lê Đình
Nhơn được Trung ương Cục chỉ định làm Bí thư Phân khu ủy
Phân khu 4. Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo cho lực lượng vũ
trang bám dân đánh địch giữ vững các địa bàn, đứng chân đẩy
mạnh đấu tranh chính trị, nhân dân bám đất đẩy mạnh sản xuất.
Trước tình hình khó khăn về vũ khí, Huyện uỷ Nhơn Trạch
phát động các xã tìm nguồn cung cấp để chuyển đến Binh công
xưởng ở căn cứ Rừng Sác. Khu căn cứ Lòng Chảo ở Nhơn
Trạch bị địch tập trung lực lượng, phương tiện đánh phá ác liệt.
Trong tình hình ác liệt của chiến trường, tin Chủ tịch Hồ
Chí Minh mất đến với quân dân Nhơn Trạch. Huyện ủy Nhơn
Trạch không tổ chức hội nghị được vì lực lượng phân tán. Trong
183

19.4 Page 184

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
lúc rừng Lòng Chảo vẫn ầm ĩ tiếng bom, đạn của địch, Thường
trực Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo cho các chi bộ tuỳ theo hoàn
cảnh của từng nơi mà tổ chức lễ truy điệu. Chính quyền địch
cho cảnh sát tăng cường đi tuần tra các khu dân cư để nắm tình
hình và ngăn không cho tụ tập để hướng về lãnh tụ của cách
mạng ở địa bàn. Lòng dân Nhơn Trạch hướng về Bác Hồ bằng
nhiều cách mà bọn địch không thể tìm được lý do tra vấn hay
bắt bớ, làm khó. Người dân đốt nhang trên bàn thờ trong nhà
liên tục trong nhiều ngày để tưởng nhớ Bác Hồ. Nhiều người tự
may băng tang đeo trên áo. Đặc biệt, tại đình Phú Mỹ, dù bót
địch đóng nhiều lính nhưng người dân hướng về Bác Hồ bằng
cách riêng mà địch không phát hiện. Các bô lão Chín Xuân,
Nguyễn Văn Liệp (Tám Liệp), Nguyễn Văn Nương bàn với
nhau thờ hương linh của Bác ở đình làng. Bác Chín Phương
làm nghề thầy thuốc, giỏi chữ Nho chọn 3 câu trong cổ văn
(Kinh thi), khắc lên thành ba bức hoành phi, đưa vào đình. Ba
bức hoành phi treo riêng biệt, cùng hàng ngang ở cột đình, mỗi
chữ đầu ghép lại hợp thành Hồ Chí Minh: Hồ nhiên như thiên,
Chí vọng thâm ân, Minh hoài hậu đức. Người dân khi vào đình
trong các lễ ở đình, âm thầm đốt nhang, tưởng nhớ Bác Hồ1.
Trong những ngày để tang Bác, Huyện ủy Nhơn Trạch phát
động một phong trào biến đau thương thành hành động cách
mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày đầu tháng 9, Đại đội 240 và du
1  Đình Phú Mỹ thuộc xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, được UBND tỉnh Đồng
Nai xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật (QĐ số 3525/QĐ.UBND ngày
10-10-2005).
184

19.5 Page 185

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
kích các xã đã liên tục đánh nhiều trận ở Phú Hữu, Phước Thọ,
Long Phước... diệt hơn 40 tên địch. Mỗi trận đánh dù lớn hay
nhỏ hoặc chỉ gây một tiếng nổ lúc này đều mang một ý nghĩa
rất lớn, khẳng định lực lượng cách mạng xã vẫn bám được xã,
lực lượng huyện vẫn bám được địa bàn huyện và tinh thần đánh
giặc vẫn được duy trì.
Tháng 10-1969, một số cán bộ, đảng viên hoạt động tại Đại
Phước bị bắt. Địch bất ngờ bao vây các khu hầm bí mật, “móc
hầm” bắt được đồng chí Đào Minh Thanh - Bí thư và 8 cán bộ
khác. Đồng thời, chúng cũng bắt giam hơn 20 cơ sở cách mạng,
03 gia đình tại các ấp Bến Cộ, Phước Lý do có chỉ điểm từ Thủ
Đức sang. Đồng chí Đào Minh Thanh bị giam giữ, đưa ra nhà
tù Côn Đảo đến năm 19751.
Đầu năm 1970, chính quyền địch tăng cường bắt lính. Ở
Nhơn Trạch bằng nhiều thủ đoạn, địch bắt 946 thanh niên đi
lính (trong đó có 300 thanh niên là học sinh trung học Long
Thành, 114 thanh niên làng Cô nhi) và 2.302 người phải tham
gia lực lượng phòng vệ dân sự; trong đó có 327 phụ nữ. Ngày
21-2-1970, địch sử dụng 200 lượt máy bay trực thăng, hơn
250 xe tăng, xe ủi và phi pháo yểm trợ cho lực lượng quân từ
nhiều hướng tấn công mạnh khu Lòng Chảo. Sau nhiều ngày
trụ chiến, Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định dời toàn bộ các cơ
1  Năm 1975, cách mạng giải phóng Côn Đảo, đồng chí Đào Minh Thanh được
tự do, trở về địa phương và nhận công tác do tỉnh phân công tại Công ty Cao su
Đồng Nai.
185

19.6 Page 186

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
quan ban ngành ra khỏi để tránh tổn thất và tiếp tục bám dân,
móc nối liên lạc với các xã và phân khu, có kế hoạch chỉ đạo tấn
công địch từ phía Nam. Quân địch tiến hành phá ủi với quy mô
lớn để lực lượng cách mạng không còn thuận lợi để đứng chân.
Trong chiến dịch đánh phá khu Lòng Chảo, địch cũng gánh lấy
những tổn thất từ những trận đánh của lực lượng cách mạng 43
xe tăng, xe ủi bị phá hủy, 20 máy bay bị bắn rơi. Hàng trăm lính
địch bị diệt.
Cuối năm 1970, đồng chí Dương Văn Tài (Ba Tài) sau thời
gian bị địch bắt giam, được trả tự do đã trở lại Đại Phước tiếp
tục hoạt động cách mạng, gây dựng cơ sở ở Phước Lý, Bến Cộ,
Cù lao Ông Còn. Lúc bấy giờ, chi bộ chọn Cù lao Ông Còn làm
trụ điểm, các địa điểm giáp các ấp Đại Phước làm chỗ dựa để
phối hợp chặt với tổ chức cách mạng xã Phú Hữu. Ba chi bộ B ở
Phước Lý, Bến Cộ, Cù lao Ông Còn được gây dựng lại, mỗi chi
bộ có 3 đảng viên. Mỗi địa bàn có 5 đến 7 thanh niên nòng cốt.
Qua công tác vận động, tuyên truyền, một số thành viên trong
lực lượng tự vệ của địch trở thành tự vệ mật của cách mạng địa
phương. Đồng thời, cách mạng gây dựng các tổ chức Nông hội,
Thanh niên, Phụ nữ trong nhân dân. Tại chợ Phước Lý, một
số tiểu thương đã ủng hộ cách mạng bằng cách mua giúp hoặc
bán rẻ hàng hóa, thông qua người thân, cơ sở chuyển đến cách
mạng. Qũy đóng góp nuôi quân được đa số tiểu thương chợ
Phước Lý ủng hộ. Các thành viên tham gia tổ chức nông dân,
phụ nữ, thanh niên đóng quỹ hàng tháng (nguyệt liễm), thực
186

19.7 Page 187

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hiện đảm phụ nông nghiệp... đóng góp tiền, gạo, lúa chuyển về
căn cứ cho cách mạng.
Từ cuối năm 1970 đến đầu năm 1971, chiến trường trên
huyện Long Thành khốc liệt. Lực lượng cách mạng của xã Đại
Phước bị tổn thất. Du kích Huỳnh Văn Cu đi công tác tại xã
Bình Sơn trúng pháo kích hy sinh vào tháng 12-1970. Ngày
3 -2-1971, anh Dương Văn Nghĩa - giao liên xã Đại Phước
hy sinh trong chuyến công tác đến khu vực vườn cao su Qưới
Thạnh. Ngày 14-5-1971, du kích Phan Văn Lợi hy sinh trong
trận đánh địch càn quét vào ấp Bến Cộ.
Tháng 5-1971, Bộ Chỉ huy Miền bố trí lại chiến trường.
Phân khu 4 sáp nhập với tỉnh Bà Rịa - Long Khánh thành Phân
khu Bà Rịa - Long Khánh1. Địa bàn của Phân khu Bà Rịa - Long
Khánh khá rộng, gồm 3 thị xã: Long Khánh, Bà Rịa, Vũng
Tàu và các huyện Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Châu
Đức, Long Đất, Xuyên Mộc, Cao Su, Thủ Đức, Duyên Hải.
Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước thuộc sự chỉ đạo của Phân khu
Bà Rịa - Long Khánh. Ngày 21-7-1971, trong một trận đánh
địch càn ở ấp Phước Lý, đội viên du kích Đào Văn A, Phạm
Văn Đường2 hy sinh, anh Nguyễn Văn Cu - trong chuyến công
tác đến đồng Ông Trúc xã Long Tân, bị địch tập kích hy sinh.
1  Phân khu Bà Rịa - Long Khánh gồm 3 thị xã: Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu
và các huyện: Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Châu Đức, Long Đất, Xuyên
Mộc, Cao Su, Thủ Đức, Duyên Hải.
2  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Châu, em của liệt sĩ Đào Minh Trung.
187

19.8 Page 188

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Sau một thời gian chịu đựng địch đánh phá ác liệt, nhiều
tổn thất, phong trào đấu tranh cách mạng Nhơn Trạch có những
bước chuyển tích cực. Năm 1972, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo
tập trung củng cố xây dựng lực lượng, giải quyết vấn đề lương
thực. Huyện ủy Nhơn Trạch thành lập ban vận động thanh niên
do đồng chí Sáu Báu (Trưởng ban Tuyên giáo) làm Trưởng ban,
đồng chí Dương Minh Ngà, cán bộ thanh niên, làm Phó ban.
Huyện chọn căn cứ Phước An làm nơi tổ chức học tập quân sự
chính trị cho thanh niên, hình thành khung huấn luyện lấy tên là
Đại đội 241 do đồng chí Hai Bền làm Đội trưởng, đồng chí Tư
Hồng làm Chính trị viên. Chủ trương được triển khai kỹ xuống
tận cơ sở nên chỉ trong vòng 2 tháng đầu năm 1972, nhiều xã đã
rút được tân binh xây dựng đội du kích về bổ sung cho huyện.
Bốn thanh niên xã Đại Phước tham gia lực lượng vũ trang là
Đào Thanh Chiến (Út Bầu), Đào Thế Chì, Võ Văn Sử (Mười
Sử), và Hoàng đổi tên thành Lập, Trường, Chiến, Đấu.
Trong thời gian này, trên địa bàn của Nhơn Trạch, chính
quyền Sài Gòn cũng điều chuyển, bố trí quân lính khá dày đặc
với nhiều sắc lính, án ngữ, chiếm đóng các địa điểm quan trọng.
Khu vực sông Sâu, Cù lao Ông Còn thuộc Đại Phước bố trí 1
đại đội lính trong thế liên hoàn với chi khu Nhơn Trạch và các
xã lân cận.
Đầu tháng 3-1972, Huyện ủy Nhơn Trạch tiếp nhận đội đặc
công thuộc Trung đoàn 16 Đoàn 429, đặc công Miền đến hoạt
động ở địa phương và hai lần tổ chức tấn công Thành Tuy Hạ.
188

19.9 Page 189

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Trung đội 31 nằm trong đội hình X2 (tức Đại đội 240) sau 3
lần nghiên cứu mục tiêu, chia thành 2 mũi tấn công kho bom
Thành Tuy Hạ, phá huỷ hơn 10.000 tấn đạn pháo, gây tiếng
vang lớn và cổ vũ tinh thần đấu tranh của huyện Nhơn Trạch.
Ngày 14-6-1972, du kích Đại Phước, Phú Hữu phối hợp với
Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác tổ chức đánh kho xăng Nhà Bè.
Từ trận địa bố trí, Đoàn 10 đã nã 26 trái cối 82 làm cho kho
xăng Nhà Bè bốc cháy, phá hủy của địch khoảng 10 triệu lít
xăng, dầu. Phong trào tấn công địch, đặc biệt diệt ác phá kềm
được đẩy mạnh. Đến tháng 6-1972, quân dân cách mạng Nhơn
Trạch diệt hơn 100 tên địch, hàng chục tên ác ôn bị trừng trị, bị
bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ dân sự bị phá rã. Dưới sự chỉ
đạo của cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng tham gia làm nòng
cốt trong 43 cuộc đấu tranh chính trị với mức độ khác nhau,
làm cho chính quyền địch đối phó vất vả và phải đáp ứng một
số yêu cầu người dân, công nhân đưa ra. Trong những lần đột
kích đánh địch, diệt ác có sự phối hợp chặt chẽ của chi bộ mật
tại chỗ cùng chi bộ A ngoài cứ cùng đơn vị vũ trang cách mạng.
Các kế hoạch tùy theo từng địa bàn được trao đổi thông tin với
nhau theo cách thuận lợi nhất, không để địch phát hiện. Tại ấp
Phước Lý, Bến Cộ, cơ sở cách mạng dùng ngọn dừa nước làm
hộp thư trao đổi tin tức. Ngọn dừa nước tuy nhỏ, ngắn nhưng
1  Đội gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Đơ (Đội trưởng), Phan Xuân Nghĩa (chính
trị viên), Nguyễn Hữu Hòa, Nguyễn Văn Vận, Long, Tình, Ly. Sau này, bổ sung
đồng chí Võ Nhất Quyết (Đại đội phó Đại đội 240 làm đội trưởng), đồng chí Ba
Thành (cán bộ xã Phú Mỹ) phụ trách hậu cần.
189

19.10 Page 190

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cứng cáp. Loại chim Chẽ chặt thường đục ngọn làm ổ nằm trọn
trong đó. Cơ sở mật và chi bộ, đơn vị ngoài cứ cử người tìm
đến “tọa độ” theo mật ước mà nhận lấy thư từ hay thông tin cần
thiết. Các đơn vị vũ trang cần trang bị phương tiện thông qua đó
để cơ sở mật chuẩn bị và cẩn trọng xem xét tình hình. Mỗi lần
đột ấp, tiếp cận mục tiêu, cơ sở cách mạng chuẩn bị sẵn, chỉ dẫn
đầy đủ, có dấu hiệu ngầm để những người tham gia nhận biết
tránh sự theo dõi, thám báo hoặc lộ thông tin. Có những trận
đột kích, vào chiều tối, cơ sở để xuồng, chèo và một số phương
tiện theo cách bố trí với dấu hiệu ngầm. Lực lượng vũ trang đột
nhập nhìn biết, theo thông tin chỉ dẫn thực hiện. Nếu có sự xáo
trộn nào ngoài dấu hiệu thì phòng tránh. Tùy theo tình hình, sau
mỗi trận đánh vào mục tiêu địch, trên đường thoát về căn cứ,
lực lượng cách mạng có thể để lại phương tiện tại vị trí cũ hoặc
giấu đi, đánh lạc hướng để địch không thể điều tra tin tức hay
liên lụy đến cơ sở cách mạng.
Tháng 7-1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí Phạm
Thanh Lý, quyền Bí thư Huyện ủy1 triệu tập hội nghị, thảo luận
và xác định, phân loại địa bàn để có những đối sách thích hợp
trong việc đánh phá bình định của địch. Vùng Đại Phước, Phú
Hữu, Phước Khánh, Phú Thạnh cần đánh phá bình định kết hợp
với yêu cầu phát động quần chúng, cơ sở binh vận trong lực
lượng phòng vệ dân sự. Chú ý xây dựng cơ sở và nắm nghĩa
quân cùng dân vệ để phá lỏng, phá rã bộ máy kềm kẹp của địch.
1  Thay đồng chí Phạm Minh Chính, Bí thư Huyện ủy hy sinh vào năm 1971.
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Các vùng khác của Nhơn Trạch gồm: Các xã Phú Hội, Long
Tân, Phú Mỹ và Phước Thiền xác định là vùng trọng điểm số 1
đánh phá bình định nông thôn. Yêu cầu đặt ra là lực lượng hoạt
động công khai phải làm chủ cả ban đêm và ban ngày, đánh phá
bình định cần đi đôi với xây dựng và phát triển lực lượng cách
mạng. Các xã Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiển
là trọng điểm thứ 2 cần sử dụng nội tuyến kết hợp với lực lượng
vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt các đoàn bình
định nông thôn. Riêng vùng Vĩnh Thanh là nơi có đông đồng
bào miền Bắc di cư, phần lớn theo đạo Thiên Chúa thì bố trí
một số cán bộ có kinh nghiệm để vận động người dân bung ra
trồng trọt ở vùng Bàu Sen, Hang Nai. Nhơn Trạch tuy có nhiều
khó khăn nhưng hoàn toàn có khả năng theo tình hình của mỗi
vùng để đánh phá chương trình bình định của địch, phát động
nông dân, ngư dân bám ruộng đồng trồng tỉa, bám sông rạch
đánh bắt cá tôm. Chú ý bố trí đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ
nhân dân làm ăn ở những cánh đồng rộng của huyện.
Đầu tháng 9-1972, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông tổ
chức hội nghị, quyết định những vấn đề quan trọng, trong đó có
sử dụng toàn bộ lực lượng thực hiện nhiệm vụ giành dân lấn đất
với địch trong mùa khô 1972 - 1973; giải thể các phân khu, lập
lại Khu ủy miền Đông, lập lại tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa - Long
Khánh. Huyện Nhơn Trạch thuộc sự chỉ đạo của tỉnh ủy Biên
Hòa. Trên chiến trường miền Nam, lực lượng cách mạng lớn
mạnh, chính quyền Mỹ - Việt Nam Cộng hòa lâm vào khủng
hoảng.
191

20.2 Page 192

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Ngày 20-10-1972, Tổng thống Ních-xơn của Hoa Kỳ thỏa
thuận với chính phủ cách mạng về Hiệp định Paris1 sẽ được
ký chính thức vào ngày 31-10-1972. Trước những biến chuyển
tình hình có lợi cho cách mạng, Tỉnh uỷ Biên Hòa chỉ đạo phải
giữ vững những vùng đất đã giải phóng và mở rộng vùng tranh
chấp. Đảng bộ và quân dân Nhơn Trạch thực hiện đợt “Chồm
lên chiếm lĩnh”. Huyện ủy Nhơn Trạch đã tăng cường cán bộ
và lực lượng quyết tâm chiếm lĩnh 7 xã 11 ấp, giải phóng 2 ấp.
Mỗi xã có hàng trăm quần chúng giúp đỡ lực lượng cách mạng
đào hầm, công sự để bám dân phát động đấu tranh. Nhiều nơi,
quần chúng nổi trống mõ, phát loa kêu gọi binh sĩ làm cho lính
biệt kích đêm bỏ chạy. Thế nhưng, chính quyền địch vẫn ngoan
cố và tổ chức đánh phá ác liệt những tháng cuối năm. Từ ngày
31-10 đến ngày 2- 10-1972, ở Nhơn Trạch, Long Thành địch
điên cuồng tàn phá 456 nhà, trên 3.000 giạ lúa, làm 6 người
chết, 12 bị thương, trên 20 mẫu vườn bị hư hỏng.
Cuối năm 1972, chính quyền Mỹ không chịu ký kết Hiệp
định Paris như đã thỏa thuận. Được trên chỉ đạo nhằm tránh sự
phản kích của địch, Huyện ủy Nhơn Trạch điều lực lượng giãn
ra khỏi các mục tiêu, đồng thời tăng cường thế trận toàn diện
sẵn sàng đánh địch phản kích và nhanh chóng chớp thời cơ
khi thuận lợi. Huyện đẩy mạnh công tác binh vận, hướng dẫn
1  Nội dung của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Ngày 13-5-1968 được xem là ngày bắt đầu chính thức đàm phán giữa đại diện
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bộ trưởng Nguyễn Xuân Thủy) và
Phái đoàn Mỹ (Ha-ri-man).
192

20.3 Page 193

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tổ chức cho nhân dân bung về vườn, ruộng cũ sinh sống. Lực
lượng cách mạng bám dân phát động đấu tranh chính trị đồng
thời với những trận đánh của lực lượng vũ trang, các sắc lính,
cảnh sát địch hoang mang lo sợ, dao động, không dám bung ra
càn quét rộng như trước. Những chuyển động trên chiến trường
chung, thế và lực lượng cách mạng Nhơn Trạch đã được mở,
chuẩn bị cho một giai đoạn tiến công giải phóng quê hương.
5. Tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương (1973 -
1975)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của cách mạng Việt Nam
giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực và
trên các mặt trận. Vừa đấu tranh ngoại giao vừa giành thắng lợi
quân sự trên chiến trường, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lâm vào
tình thế bất lợi. Chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của
Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về “Quyết tâm mở cuộc
phản công chiến lược trên toàn miền Nam, đánh bại cơ bản
chương trình bình định nông thôn của địch, hỗ trợ đắc lực cho
cuộc hội đàm tại Hội nghị Paris”. Đặc biệt, trên chiến trường
miền Đông Nam Bộ, chiến dịch Nguyễn Huệ1 của lực lượng
vũ trang cách mạng đã tạo thế uy hiếp mạnh đối với chế độ Sài
1  Chiến dịch Nguyễn Huệ do tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh, Trần Độ làm
Chính ủy. Thời gian chia làm 3 đợt: Đợt 1 (từ ngày 1-4 đến ngày 5-5-1972), đợt
2 (từ ngày 16-5 đến ngày 10-9-1972), đợt 3 (từ ngày 1-10-1972 đến ngày 19-
1/1973). Quân giải phóng loại khỏi vòng chiến đấu 13.000 lính địch (bắt 5.381),
thu 282 xe quân sự, 45 khẩu pháo, hơn 6.000 súng các loại, bắn rơi và phá hủy
hơn 600 máy bay.
193

20.4 Page 194

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Gòn. Thắng lợi của chiến dịch Nguyễn Huệ ở Đông Nam Bộ đã
tiêu diệt sinh lực quân đội Sài Gòn, giải phóng một vùng rộng
lớn ở Tây Bắc Sài Gòn, tạo thế đứng chân cho bộ đội chủ lực,
tạo điều kiện cho nhân dân các địa phương nổi dậy đánh phá
bình định. Trước tình thế bất lợi trên chiến trường miền Nam,
thất bại trong tấn công không kích phá hoại miền Bắc và dư
luận thế giới lên án, Mỹ buộc phải thực hiện những thỏa thuận
trước đó với Việt Nam và đi đến ký kết Hiệp định Paris. Theo
tinh thần của hiệp định: Ngày 27-1-1973, đúng 7 giờ sáng (giờ
Hà Nội, 8 giờ sáng giờ Sài Gòn), cờ mỗi bên cắm chỗ nào thì
khu vực ấy thuộc sự kiểm soát bên đó. Với điều khoản này,
về phía chính quyền Sài Gòn và phía cách mạng, mỗi bên tùy
theo địa bàn, khu vực đã chiếm giữ thì tiến hành cắm cờ. Vào
lúc sáng sớm ngày 27-1, chi bộ Đại Phước, Phú Hữu vận động
thanh niên cắm cờ Mặt trận giải phóng ở nhiều địa điểm ở các
cánh đồng Cù lao Ông Còn, Phước Lý, Vàm Ô, Bến Cộ. Chính
quyền địch Nhơn Trạch phát hiện cờ cắm nhiều nơi, tổ chức
bắn phá và cho lính càn đến lấy cờ, sau đó bắn pháo cấp tập.
Sự đan xen các khu vực, địa bàn trước giờ thi hành khi được
thực hiện cắm cờ xác định sẽ hình thành “thế da beo” giữa chính
quyền địch và cách mạng. Thế nhưng, để giữ “thế da beo” với
địa bàn rộng hơn, cả chính quyền địch và phía cách mạng tìm
cách ứng phó. Địch điều chiến đoàn 48 thuộc sư đoàn 18 từ
Biên Hòa đến Nhơn Trạch âm mưu giành dân, cắm cờ. Máy bay
của địch thay nhau ném bom, dọn đường cho xe tăng bộ binh
tràn vào các thôn xóm. Huyện ủy Nhơn Trạch thông báo đến
194

20.5 Page 195

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
nhân dân, chỉ thị cho các lực lượng vũ trang tổ chức tấn công
địch. Lực lượng vũ trang huyện tổ chức dồn địch, đánh địch,
bao vây chống địch lấn chiếm, hỗ trợ đồng bào cắm cờ, giữ đất,
giữ làng. Từ quận Nhà Bè của Sài Gòn, địch đổ quân tràn vào
xã Phước Khánh, Giồng Ông Đông và 2 tiểu đoàn từ hướng
Thủ Đức sang kết hợp với lính quận Nhơn Trạch, lấn ra các xã
ở vùng Lòng Chảo, vùng ven sông Đồng Môn. Nhằm giữ quận
lỵ Nhơn Trạch và Thành Tuy Hạ, Phước Khánh, Giồng Ông
Đông, địch sử dụng chiến đoàn 316, 1 đại đội biệt động quân, 1
đại đội bảo an, 1 đại đội biệt kích thủ đô và củng cố 8 trung đội
dân vệ. Trên sông Lòng Tàu, sông Đồng Môn, địch đưa thêm về
3 Giang đoàn tuần tra liên tục. Tại ấp Phước Lương, địch xây
dựng 3 trạm ra-đa 15, 17 và 19. Với số quân được tăng lên gấp
2 lần, địch tổ chức đánh phá bên ngoài bằng những thủ đoạn
“hàng quân tràn ngập lãnh thổ” để nhằm xóa “thế da beo”, đẩy
mạnh cường độ chiến tranh. Địch đưa Thiếu tá Huỳnh Văn Phú
(thuộc quân đội Cao Đài Tây Ninh) làm Quận trưởng và tiến
hành lập vành đai Nhơn Trạch, Quảng Xuyên1 nhằm bảo vệ Sài
Gòn. Trong các trận đánh địch, một số du kích, chiến sĩ của Đại
Phước hy sinh trên địa bàn và các chiến trường. Anh Nguyễn
Văn Vàng2, tham gia du kích xã Đại Phước và gia nhập bộ đội
1  Quận Quảng Xuyên gồm 4 xã An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn và Tam
Thôn Hiệp, được chính quyền Sài Gòn thành lập ngày 29-1-1959 trực thuộc tỉnh
Phước Tuy (Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay), trực thuộc tỉnh Biên Hòa (Đồng Nai
ngày nay) năm 1960, trực thuộc tỉnh Gia Định (TP. Hồ Chí Minh ngày nay) năm
1965. Hiện nay, thuộc huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.
2  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Nho, em của liệt sĩ Nguyễn Thị Kim Dung.
195

20.6 Page 196

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
đơn vị 19/5 của huyện, chuyển làm Thư ký Văn phòng Phân
khu ủy Bà Rịa hy sinh ở địa bàn Cẩm Mỹ.
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn vẫn tiến hành chính sách trong chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, không tuân thủ các điều khoản thỏa
thuận. Địch tăng cường bộ máy kìm kẹp, quân sự hóa bộ máy
hành chính các cấp. Quân lính địch tăng cường lấn chiếm, bình
định, càn quét khiến ta mất dần những lõm, khu vực phân chia
theo thế “da beo” trên địa bàn. Tháng 2-1973, Huyện ủy Nhơn
Trạch tiến hành tổ chức cho các đơn vị học tập chỉ thị, nghị
quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa về “Tập trung chỉ đạo đánh phá
bình định, phát triển phong trào làm chủ xã, ấp trên khắp nông
thôn”. Nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ này là chống lấn chiếm,
phá bình định, tăng cường công tác chính trị, binh vận, vạch
trần chính sách mỵ dân của địch. Được tin nội tuyến báo về
địch tấn công, Huyện ủy Nhơn Trạch chuyển địa điểm họp và
lên kế hoạch cho Đại đội 240 phối hợp du kích xã phục kích.
Khoảng 9 giờ, khi lính lùng sục vào thì lực lượng vũ trang tấn
công, diệt 9 tên, bắt 7 tên, thu 17 súng các loại. Ngày 3-5-1973,
đồng chí Võ Văn Hoà, đội phó vũ trang của xã Đại Phước được
phân công hoạt động tại vùng Phước Khánh, lọt vào ổ phục
kích của địch, hy sinh ở khu vực Sở Dừa.
Tháng 6-1973, Trung ương Cục miền Nam thực hiện một
số điều chỉnh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Thị xã
196

20.7 Page 197

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Biên Hòa tách ra và do Trung ương Cục miền Nam trực tiếp
chỉ đạo. Các huyện Long Thành, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Nhơn
Trạch, Duyên Hải, Dĩ An, Tân Uyên sáp nhập thành tỉnh Biên
Hòa nông thôn. Đầu tháng 9-1973, Quân khu họp rút kinh
nghiệm và đề ra trọng tâm trong thời kỳ này là: “Chống lấn
chiếm, cùng một lúc, phá bình định”. Sau đó có nghị quyết 21
của Trung ương Cục chỉ đạo việc phá bình định. Tỉnh Biên Hòa
chọn Nhơn Trạch, Long Thành làm điểm cho công tác “Chống
lấn chiếm, cùng một lúc, phá bình định” theo tinh thần nghị
quyết của Trung ương Cục miền Nam. Huyện ủy Nhơn Trạch
phát động phong trào “Tìm diệt bình định áo đen” coi những
tên này nguy hiểm như những tên ác ôn có nhiều nợ máu và
lực lượng vũ trang tập trung tấn công đồn bót, đón đánh bọn
địch phục kích trên các lộ giao thông. Trong những trận đánh
giữa quân lính Việt Nam Cộng hòa và lực lượng vũ trang cách
mạng xã Đại Phước, một số đồng chí hy sinh anh dũng: đồng
chí Cao Văn Tư - du kích xã hy sinh (ngày 13-6-1973), đồng
chí Cao Thị Dung - y tá trong chuyến công tác liên xã, bị địch
phục kích, hy sinh tại rạch Mã, Sở Dừa xã Vĩnh Thanh (ngày
16-12-1973).
Bước sang năm 1974, trên địa bàn Nhơn Trạch, quân lính
địch được bổ sung, điều động, bố trí chốt chặn trên các kho
tàng, trục lộ quan trọng. Theo tỉnh lộ 19 từ ngã ba đường ủi
Phước Lai đến phía Nam Cù lao Ông Còn, địch đưa Chiến đoàn
48, thuộc Sư 18 chốt giữ vùng Xoài Minh, Vũng Gấm, Xóm
Cháy, đồng Mu Rùa. Tiểu đoàn 315 về bãi pháo Bến Sắn và
197

20.8 Page 198

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
rải quân ra nhiều địa điểm. Tiểu đoàn 349 về đóng dọc theo
sông Đồng Môn. Một đại đội từ Rừng Sác về đóng ở xã Phước
Khánh. Nhằm tạo thế đánh địch, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo
tạo thế liên vùng gồm 3 xã thành 1 vùng, có 1 Huyện ủy viên
chỉ đạo trực tiếp chống bình định, chống lấn chiếm, bảo vệ
rừng. Trong một chuyến công tác phối hợp với Đoàn 10 Rừng
Sác, đồng chí Nguyễn Văn Thành1, giữ chức Xã đội trưởng Đại
Phước, hy sinh khi tấn công địch tại bót Cầu Cháy ấp Ông Kèo
vào ngày 12-9-1974.
Tình hình chung trên chiến trường miền Nam nói chung,
tỉnh Biên Hòa và Long Thành năm 1974 đã chuyển biến tích
cực. Phong trào đấu tranh cách mạng ở Nhơn Trạch chuyển
thế tấn công địch. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, huyện Nhơn
Trạch tổ chức học tập chỉ thị và thông báo kế hoạch chiến dịch
mùa khô. Trọng tâm của chiến dịch là đánh bại cơ bản âm mưu
bình định lấn chiếm của địch, giành dân, giành quyền làm chủ
của quần chúng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang để
giành ưu thế trên chiến trường. Phương hướng phấn đấu mùa
khô 1974 - 1975 kết hợp đấu tranh vũ trang, chính trị và binh
vận. Mục tiêu chuyển các ấp xã vùng tranh chấp lên thế tranh
chấp mạnh và vùng giải phóng. Chuyển vùng địch kềm, vùng
di cư, vùng di dân, thị trấn, thị tứ thành vùng tranh chấp với
nhiều mức độ khác nhau. Xây dựng các cơ sở đoàn thể quần
chúng, phát triển đảng viên đảm bảo lãnh đạo phong trào. Mở
1  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Bộn (quê Phú Hữu).
198

20.9 Page 199

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đầu chiến dịch mùa khô, Tỉnh đội Biên Hòa điều động Tiểu
đoàn 240 sang vùng trọng điểm Nhơn Trạch, phối hợp với du
kích các xã tấn công địch.
Ngày 6-12-1974, Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức lễ xuất
quân, mở màn chiến dịch thắng lợi: 9 ấp của 3 xã được giải
phóng; trên 6 ngàn dân giành được quyền làm chủ. Tình thế
cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn mới. Huyện ủy Nhơn
Trạch nhận định đây là thời cơ thuận lợi nhất để bao vây, tấn
công địch. Lực lượng vũ trang đánh địch, hỗ trợ đồng bào trên
các mặt trận đấu tranh. Nhân dân Đại Phước ủng hộ cách mạng
bằng hình thức đóng góp tiền, hàng hóa, lúa gạo chuẩn bị cho
cách mạng về căn cứ chuẩn bị lương thực cho bộ đội. Các hộ
gia đình tham gia đoàn thể cách mạng đóng góp 3 đến 5 lít gạo
mỗi tháng thông qua “Hũ gạo nuôi quân”, đóng góp tiền mỗi
tháng. Các hộ gia đình buôn bán chợ Phước Lý gom nhận tiền
gửi cho cơ sở cách mạng chuyển đi.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Trung cương Cục, Khu ủy
và Quân khu ủy miền Đông về chuẩn bị cho thời cơ cách mạng,
Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa họp quyết định: Phát động tư
tưởng tiến công giải phóng quê hương trong toàn đảng, toàn
quân, toàn dân dựa vào lực lượng 3 mũi tại chỗ là chủ yếu và
hình thành các Ban Quân quản để thành lập Uỷ ban cách mạng
lâm thời sau ngày giải phóng. Địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành
có vị trí quan trọng đặc biệt ở hướng Đông Sài Gòn cần được
tăng cường lực lượng vũ trang, cán bộ chỉ đạo từ huyện đến cơ
199

20.10 Page 200

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
sở để công kích, khởi nghĩa từng phần, khi thời cơ cho phép,
kịp thời đồng loạt tiến công, giải phóng từng mảng, từng huyện.
Trong năm 1974, từ chủ trương chuẩn bị cho thời cơ tấn
công địch giải phóng quê hương, đồng chí Dương Văn Tài - Bí
thư chi bộ phổ biến chủ trương: Vận động người thân và nhân
dân có con em đi lính rời bỏ hàng ngũ, trở về. Trên địa bàn xã
Đại Phước, nhân dân thu đảm phụ nông nghiệp và các nguồn
ủng hộ cách mạng được khoảng 150 giạ lúa. Các cơ sở cách
mạng thực hiện công tác binh vận khá hiệu quả với hàng chục
lính địch bỏ ngũ, đem vũ khí về giao nộp cho cơ sở cách mạng.
Tổ chức chi bộ xã Đại Phước và các bí thư chi bộ mật trên địa
bàn bám sát tình hình tại chỗ, tập hợp đội ngũ lính rời ngũ,
tuyên truyền cùng những thanh niên địa phương được gần trung
đội chuẩn bị cho các đợt chiến đấu trên địa bàn khi có thời cơ.
Trong tháng 12-1974, lực lượng cách mạng tấn công địch
đều khắp trên địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành, cổ vũ mạnh mẽ
và tạo thế thuận lợi cho phong trào đấu tranh. Những trận đánh
ác liệt nổ ra giữa cách mạng và địch, giằng co. Ở Đại Phước,
Đoàn 10 đặc công phối hợp với du kích tổ chức đánh hai trận
vào đồn địch. Trận thứ nhất kéo dài 3 ngày đêm, các chiến sĩ
dùng B40 bắn sập chòi canh, vọng gác, diệt và làm bị thương
nhiều lính địch. Trận tấn công thứ hai đánh phá hệ thống nhà
máy đèn gần cầu Đại Phước, phá sập chiếc cầu dài 70m và tiêu
diệt lính địa phương quân chốt đầu cầu.
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Trên chiến trường, những chiến thắng của quân Giải phóng
đã làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa lâm vào thế bị động.
Lực lượng vũ trang chủ lực và địa phương Nhơn Trạch tấn
công địch trải rộng trên khắp địa bàn thu nhiều thắng lợi. Đặc
biệt, tháng 1-1975, quân giải phóng tấn công và làm chủ thị
xã Phước Bình, tỉnh Phước Long ở Đông Nam Bộ. Thắng lợi
này làm cho tinh thần binh lính ở các nơi, trong đó có địa bàn
Nhơn Trạch hoang mang. Lực lượng cách mạng địa phương
vui mừng, tin tưởng thắng lợi của cách mạng đang đến gần.
Những ngày đầu tháng 4-1975, nhiều nơi bộ đội, du kích tấn
công địch và chiếm lĩnh địa bàn. Nhân dân địa phương tham gia
tích cực trong việc đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến.
Tuyến phòng thủ Xuân Lộc được chính quyền Việt Nam Cộng
hòa và cố vấn quân sự Mỹ dựng nên làm bức tường thép bảo
vệ thủ phủ Sài Gòn bị quân cách mạng đập tan1. Quân lính địch
từ Xuân Lộc, Long Khánh tan rã, bỏ chạy hướng về Sài Gòn
qua hướng Long Thành, Nhơn Trạch trong tình trạng hỗn loạn.
Tranh thủ thời cơ khi lính địch hoang mang, hỗn loạn qua địa
bàn, huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo rải truyền đơn, kêu gọi chính
quyền địch, binh lính Việt Nam Cộng hòa mang súng trở về
với cách mạng, lập công chuộc tội. Trên địa bàn, tại một số xã,
1  Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thiết lập tuyến phòng thủ Xuân Lộc, tăng
cường quân lực quyết tâm bảo vệ thủ phủ Sài Gòn. Sau 12 ngày đêm tấn công
(từ ngày 9-4 đến ngày 21-4-1975), lực lượng cách mạng đập tan tuyến phòng thủ
này, mở toang cánh cửa tiến về Sài gòn từ hướng Đông Bắc. Chính quyền tỉnh
Long Khánh tan rã, quân lính Sài Gòn tại đây tháo chạy theo các hướng về Vũng
Tàu, Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Hố Nai.
201

21.2 Page 202

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
trong đó có Đại Phước, nhiều sắc lính đã bỏ ngũ, đem súng giao
nộp cho cơ sở cách mạng. Tuy nhiên, nhằm bảo vệ cho thủ phủ
Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tăng cường quân lính
đến địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành. Nhân dân ven lộ 17,19
qua Nhơn Trạch bị địch bắt làm công không trong việc đắp ụ,
đào hào để nhằm phòng thủ sức tiến công của quân cách mạng.
Chiều ngày 20-4-1975, đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh
mặt trận phía Đông đã nhận được bức điện khẩn của Đại tướng
Văn Tiến Dũng trong chỉ đạo thực hiện giải phóng Sài Gòn
“Ngày 28, 29 phải chiếm bằng được Nhơn Trạch, vị trí phía
Đông Nam Sài Gòn để đặt pháo 130 li bắn vào sân bay Tân Sơn
Nhất và các mục tiêu quân sự”.
Trên tỉnh lộ 17, Tiểu đoàn 240 đánh chiếm Phước Thiền,
giữ và bảo vệ cầu, hỗ trợ cho các xã Phú Hội, Long Tân nổi
dậy. Cơ quan Huyện ủy Nhơn Trạch đóng ở Xóm Hố, Phú Hội.
Huyện ủy theo dõi, chỉ đạo sát sao từng bước tiến trong thời
gian nổi dậy giải phóng quê hương. Những hướng tiến quân
của lực lượng cách mạng tiến về Nhơn Trạch phối hợp với lực
lượng vũ trang địa phương, sự nổi dậy của quần chúng. Tình
hình ở Nhơn Trạch trong tình trạng tranh chấp ác liệt giữa cách
mạng và quân địch đang trong cơn khốn quẫn đánh phá. Ngày
15-3-1975, 3 lính bảo an ở đồn Phước Lý mang súng ra nộp cho
du kích, xin được về gia đình.
Theo hướng Nhơn Trạch, Trung đoàn 101, Trung đoàn 95
trợ chiến có 12 xe tăng hỗ trợ tiến vào lộ 17. Trung đoàn 95 theo
202

21.3 Page 203

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hướng lộ 19, cắt qua Phước An, Vĩnh Thanh tham gia bao vây,
tấn công kho bom Thành Tuy Hạ. Trung đoàn 101 theo đường
17 tiến về tấn công chi khu Nhơn Trạch. Lúc bấy giờ, Huyện
ủy Nhơn Trạch nhận được nhiệm vụ qua điện khẩn: “Chuẩn bị
100 ghe thuyền để đưa bộ đội qua sông Đồng Nai. Chọn nơi
đặt pháo cho Quân đoàn 2 bắn vào Sài Gòn”. Huyện ủy Nhơn
Trạch liền hội ý chớp nhoáng và đã chọn các điểm đặt pháo:
nổng nhà thờ Phú Hội, nổng Giang Lò, đồi Bình Phú, đồi Bình
Tuy.
Ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Sư đoàn
325 của Quân đoàn 2 với mục tiêu tấn công vào chi khu Long
Thành, chi khu Nhơn Trạch và yếu khu kha hậu cần Thành Tuy
Hạ để vượt phà Cát Lái tiến vào Sài Gòn.
Ngày 27-4-1975, trên tỉnh lộ 17, Trung đoàn 101 tiến đến
khu vực ấp Bến Sắn gặp sự chống trả của địch quyết liệt. Trung
đoàn 101 bao vây và dùng pháo tấn công, diệt phá đồn, giải
phóng xã Phước Thiền. Các xã dọc theo trục lộ nối tiếp nhau
vùng lên giải phóng. Đồng bào, du kích xã nổi dậy giải phóng.
Chỉ trong 1 đêm, có 219 tên lính ra trình diện, nộp súng và 173
tên bị bắt sống. Nhân dân Nhơn Trạch hỗ trợ, tiếp tế cho lực
lượng pháo binh của Quân đoàn 2 kéo pháo 130 li chuẩn bị
trận địa tấn công vào các mục tiêu ở Sài Gòn. Huyện ủy Nhơn
Trạch chỉ đạo Tiểu đoàn 240 hành quân gấp về Vĩnh Thanh,
bao vây chặn đường rút chạy của địch. Đến 14 giờ cùng ngày,
đoàn quân giải phóng gồm 6 xe tăng, 8 xe bọc thép có bộ binh
203

21.4 Page 204

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
yểm rợ, tiến về chi khu Nhơn Trạch. Khi vừa qua khỏi địa hạt
xã Long Tân, nơi tiếp giáp với quận lỵ Nhơn Trạch, lợi dụng
địa hình từ trên dốc cao, địch dùng M-72, đại liên bắn xuống và
máy bay địch đến cắt bom buộc phải quay lại tại Xóm Hố, xã
Phú Hội. Ban Chỉ huy quyết định đưa bộ binh lên tấn công địch
trước sự chống cự của binh lính địch tại quận lỵ Nhơn Trạch.
Ngày 28-4-1975, thế trận vẫn còn giằng co quyết liệt giữa
các mũi tiến công giữa quân Giải phóng và địch tại các mục tiêu
quan trọng của huyện Nhơn Trạch. Sư đoàn 325, sau khi bàn
giao Long Thành tiếp tục tiến về tỉnh lộ 17. Chiến trường Nhơn
Trạch vẫn còn căng thẳng. Vào buổi chiều, trước sức tấn công
mãnh liệt của quân Giải phóng, quân lính địch từ chi khu Nhơn
Trạch tháo chạy hoảng loạn về phía Cát Lái. Uỷ ban Quân quản
Nhơn Trạch được thành lập để kịp thời lãnh đạo gồm: Đồng
chí Phạm Văn Đạm (Ba Đạm) làm Chủ tịch, Năm Thành (Phó
Chủ tịch), các ủy viên: Trần Trọng Nhân (Tư Nhân), Phạm Văn
Duyên, Năm Hải, Sáu Dân, Sáu Báo, Nguyễn Thị Thanh Vân,
Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm.
Trung đoàn 101 bao vây quận lỵ Nhơn Trạch. Trung đoàn
95 vẫn chưa chiếm được kho bom Thành Tuy Hạ. Kho vũ khí
Thành Tuy Hạ được địch bảo vệ với các vành đai bố phòng
nghiêm ngặt (14 lớp rào, lực lượng đóng chốt xen kẽ, 3 tuyến
gác: lô cốt, lộ chiến thuật, gác trong). Ngoài lực lượng bố phòng
vòng trong, địch còn điều và sử dụng lực lượng bên ngoài bảo
vệ trong một phạm vi rộng: Hướng Nam lộ 19, mỗi ấp chiến
204

21.5 Page 205

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
lược bố trí 1 trung đội dân vệ, 1 trung đội bảo an và 1 hệ thống
thám báo mạnh. Hướng Đông Nam có đồn Vũng Gấm, chốt 2
trung đội dân vệ, 1 đại đội bảo an, 2 súng cối 81 làm nhiệm vụ
an ninh lộ trình lộ 19 gần khu vực kho. Hướng Tây là 2 chốt ở
đầu sở quận và bót Mười Huỳnh gồm 2 trung đội. Hướng Bắc
có bến cảng và sông Sâu thuộc phạm vi tuần tiễu của Giang
đoàn 16 (gồm 18 tàu chạy thường xuyên từ Nhà Bè qua Cát Lái
đến kho Long Bình). Trên Cù lao Ông Còn, đối diện với kho
địch dựng 3 bót, mỗi bót 1 trung đội 14 tên. Hướng bắc 3km là
chi khu Nhơn Trạch với lực lượng cơ động 2 đại đội bảo an, có
nhiều xe, trang bị mạnh, sẵn sàng cơ động ứng cứu cả hai trục
lộ 19 và 17. Tại Rạch Miễu gần Cát Lái, địch bố trí 3 trực thăng,
3 pháo 105, tại An Thít 2 pháo 105 thường xuyên bắn phá khu
vực phía Tây và Nam của kho1.
Chuẩn bị cho những trận đánh vào mục tiêu lớn, hậu cần
của Quân đoàn 2 chuyển đến địa bàn Phú Hội, Long Tân. Hàng
trăm người dân Đại Phước và lân cận tình nguyện tham gia
công tác tiếp tế lương thực, phục vụ hậu cần cho bộ đội. Ngày
29-4-1975, quân Giải phóng tổng lực tấn công địch ở Nhơn
Trạch. Từ các trận địa, vào lúc 4 giờ sáng, pháo của Quân đoàn
2 khai hỏa kho bom Thành Tuy Hạ chìm dưới làn đạn pháo. Các
chiến sĩ dùng B40, B41, phá nốt những lô cốt còn lại. Số quân
địch còn lại rút xuống hầm ngầm. Xe tăng cùng bộ binh của
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.464-465.
205

21.6 Page 206

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Quân đoàn 2 tràn lên. Các chiến sĩ Trung đoàn 101 tiến vào giải
phóng quận lỵ Nhơn Trạch vào lúc đó là 8 giờ 10 phút. Trong
những trận đánh vào mục tiêu địch, một số chiến sĩ, du kích hy
sinh. Vào lúc 10 giờ, xã Đại Phước được giải phóng. Lúc sáu
giờ chiều, chi bộ mật Phước Lý tổ chức cắm cờ giải phóng tại
Cổng Đỏ, lực lượng tự vệ mật cắm cờ ở khu vực ngã ba ấp Bến
Cộ. Đêm 29 rạng sáng 30-4-1975, trong không khí sôi sục giải
phóng Nhơn Trạch, đồng chí Dương Văn Tài1 - Bí thư chi bộ
Đại Phước đang thực hiện nhiệm vụ tại Bến Cộ trúng đạn hy
sinh. Một tổn thất lớn đối với chi bộ xã Đại Phước trước thời
điểm chiến thắng lịch sử của đất nước.
Đến 11 giờ cùng ngày, Ủy ban Quân quản cùng cán bộ,
nhân dân vào tiếp quản quận lỵ Nhơn Trạch. Nhơn Trạch hoàn
toàn giải phóng. Mặt trận hướng Đông - Nam Sài Gòn được
mở. Lực lượng cách mạng trên đà chiến thắng, những cánh
quân Giải phóng từ hướng Long Thành, Nhơn Trạch chuẩn bị
cho những trận đánh tiến về cứ điểm cuối cùng, quan trọng
của chính quyền Sài Gòn. Tại xã Đại Phước, đồng chí Lê Văn
Tâm - Bí thư chi bộ mật Phước Lý được Uỷ ban quân quản giao
nhiệm vụ ghi chép danh sách lính rã ngũ, giao nộp vũ khí trên
địa bàn. Những người lính nộp vũ khí được Ban quân quản đeo
băng đỏ trên tay để trở về với gia đình. Số vũ khí sau đó được
chuyển giao về Ban quân quản huyện Nhơn Trạch.
1  Con của mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Còn, Huyện ủy viên Nhơn Trạch.
206

21.7 Page 207

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Ngày 30-4-1975 đi vào lịch sử của dân tộc. Những cánh
quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Quân đội Việt Nam Cộng
hòa tan rã. Tổng thống Dương Văn Minh của chính quyền Sài
Gòn tuyên bố hạ vũ khí đầu hàng, bàn giao chính quyền cho
cách mạng. Sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ và chính quyền
tay sai, người dân Đại Phước vui mừng lớn trước thắng lợi của
cách mạng. Vượt qua những khó khăn, gian khổ, quân dân Đại
Phước cùng cách mạng ở Nhơn Trạch, cả nước hoàn thành mục
tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đất nước được
thống nhất, quân dân Đại Phước cùng hòa trong niềm vui lớn
của dân tộc ngày đại thắng của Xuân 1975 - kết thúc thắng lợi
cuộc đấu tranh đầy gian khổ, tô thắm trang sử chống ngoại xâm
của quê hương.
207

21.8 Page 208

▲back to top


CHƯƠNG V
THỜI KỲ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC,
XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 1985)
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống
nhân dân (1975 - 1979)
Hai mươi mốt năm kháng chiến chống Mỹ với nhiều gian
lao, thử thách và hy sinh, cách mạng Việt Nam hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc với chiến thắng Xuân 1975. Ngày
30-4-1975, hai miền Nam - Bắc của đất nước được thống nhất.
Hòa trong thắng lợi chung của đất nước, quân dân xã Đại
Phước vui mừng bước vào thời kỳ độc lập, tự do, cùng bắt tay
xây dựng chế độ xã hội mới. Tình hình Nhơn Trạch có nhiều
biến động do nhiều yếu tố xã hội tác động thời kỳ hậu chiến.
Người dân tham gia cách mạng, hoạt động ở vùng căn cứ trở về
địa phương. Một số người dân hoảng loạn tránh bom đạn trong
chiến tranh quay lại nhà cửa của mình. Một bộ phận người dân
tại chỗ có người thân tham gia quân lính, làm việc cho chính
quyền Việt Nam Cộng hòa trước đây lo lắng khi chính quyền
cách mạng quản lý. Đồng thời, một bộ phận người dân từ các
208

21.9 Page 209

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
nơi khác, đặc biệt vùng đô thị Sài Gòn trước những biến động
xã hội, tản về các xã của huyện Nhơn Trạch, trong đó có các ấp
ở Đại Phước tạm trú.
Nhằm ổn định tình hình từ buổi đầu quản lý chính quyền ở
các địa phương, Khu ủy Miền Đông chỉ đạo các tỉnh và huyện
thành lập các Uỷ ban Quân quản để quản lý địa bàn. Tại Nhơn
Trạch, Uỷ ban Quân quản huyện Nhơn Trạch thành lập gồm
các đồng chí: Phạm Văn Đạm (Chủ tịch), Năm Thành (Phó Chủ
tịch). Các ủy viên gồm: Trần Trọng Nhân, Nguyễn Thị Thanh
Vân, Phạm Văn Duyên, Sáu Báu, Năm Khôi, Năm Hải, Sáu
Dân, Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm. Tại các xã của Nhơn Trạch,
Ban Quân quản hình thành, gồm những cán bộ, du kích và cơ
sở cách mạng triển khai quản lý địa bàn. Một số nhiệm vụ cấp
thiết Ban Quân quản tiến hành ổn định xã hội, chính trị và tuyên
truyền đường lối chính sách của Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính sách hòa hợp, hòa
giải dân tộc, tạo sự tin tưởng, đồng thuận trong xây dựng quê
hương.
- Kêu gọi quần chúng tham gia bảo vệ chính quyền cách
mạng, tiếp tục sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục hậu quả
chiến tranh: chôn cất người chết do chiến tranh, thu gom vũ khí,
chất nổ trên địa bàn.
- Kêu gọi những quân nhân, những người tham gia vào bộ
máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa trình diện giao nộp vũ
khí, tài liệu để hưởng chính sách khoan hồng của cách mạng.
209

21.10 Page 210

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
- Các Ban ngành của chính quyền Quân quản quan tâm
chăm lo cho người dân, cứu chữa người bị nạn trong chiến
tranh, vận động nhân dân góp tiền, của giúp đỡ những gia đình
khó khăn.
- Lực lượng bộ đội, du kích tập trung tổ chức tuần tra, canh
gác, bảo vệ chính quyền cách mạng, tài sản chung.
Nhằm trang bị cho cán bộ tham gia công tác quản lý, Uỷ
ban Quân quản tổ chức cho cán bộ học tập 5 nhiệm vụ chính
trong thời kỳ đầu giải phóng: Khẩn trương xây dựng, củng cố
chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động; Truy quét tàn binh, trấn áp những đối tượng phản
cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự; Đẩy mạnh sản xuất, khôi
phục kinh tế, tổ chức lưu thông phân phối lương thực, thực
phẩm, hàng hóa; Xóa bỏ sản phẩm phi văn hóa, đồi trụy, tập
trung xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội; Đẩy mạnh tuyên truyền, củng cố mở rộng mặt trận đoàn
kết dân tộc.
Ban Quân quản xã Đại Phước được thành lập trên cơ sở
những cán bộ, đảng viên hoạt động tại địa phương trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, bám trụ cho đến sau tháng 4-1975:
Đồng chí Lê Đức Nhuận (ấp Bến Cộ) làm chủ tịch cùng các
thành viên Chín Thắng, Nguyễn Thị Hồng (ấp Cù Lao), Lê Văn
Tâm (ấp Phước Lý), Lê Văn Nhọn... đã góp phần quan trọng
trong việc tiếp quản, quản lý địa bàn cơ sở cho đến cuối năm
1975. Đồng chí Lê Văn Tâm ban đầu phụ trách tiếp nhận vũ khí
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
trên địa bàn. Số lượng vũ khí là các loại súng, vật liệu nổ được
nhiều người trong chế độ trước giao nộp, người dân thu gom
trên địa bàn. Đồng chí Trương Tư Minh1 làm Xã đội trưởng của
Đại Phước.
Dù vẫn còn những khó khăn nhưng chính sách hòa hợp,
hòa giải dân tộc của cách mạng đã tác động lớn đến đại bộ phận
nhân dân. Ở xã Đại Phước, những người đi lính, tham gia bộ
máy chính quyền thời Việt Nam Cộng hòa trình diện, khai báo
theo lệnh thông báo của chính quyền cách mạng. Trên cơ sở
phân loại, Ban Quân quản huyện quyết định các hình thức học
tập, cải tạo phù hợp cho từng đối tượng tại địa phương hoặc tập
trung.
Những đoàn thể cách mạng tại xã được thành lập, phát động
người dân tham gia tích cực các phong trào thu gom, giao nộp
vũ khí, đạn dược, chất nổ, các phương tiện máy móc phát hiện,
trình báo những phần tử chống phá cách mạng. Hội Phụ nữ, chi
đoàn Thanh niên vận động và tham gia tích cực khai hoang,
tăng gia sản xuất, tuần tra bảo vệ. Nhằm khôi phục sản xuất,
huyện Nhơn Trạch thành lập các đội tháo gỡ bom mìn để mở
rộng diện tích cho người dân canh tác. Người dân Đại Phước
tham gia nhiều ngày công, tích cực hỗ trợ công tác tháo gỡ bom
mìn, phục vụ hậu cần. Trong thành quả chung của toàn huyện,
1  Đồng chí Trương Tư Minh thoát ly kháng chiến khá sớm, tham gia lực lượng
vũ trang, đánh trận Bình Giã, bị địch bắt, sau được trao trả tại Lộc Ninh năm
1972. Sau năm 1975 trở về địa phương tham gia hoạt động chính quyền cách
mạng.
211

22.2 Page 212

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
cuối năm 1975 quân dân Long Thành phá, gỡ 12.764 loại mìn,
thu gom 8.112 lựu đạn các loại, giải phóng 37 vị trí, mở rộng
1.290.000m²... có sự đóng góp của người dân Đại Phước. Trong
công tác này, có những hy sinh, tổn thất về nhân mạng trong
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ của đội tháo gỡ bom mìn. Đời sống của
người dân từng bước ổn định dù tình hình vẫn còn khó khăn.
Vụ mùa trong năm, người dân đã cấy 12.693ha ruộng, khai
phá thêm 7.000ha ruộng hoang hóa, 350ha rẫy xuống giống,
khôi phục 665ha vườn1. Ngoài ra, nhằm đảm bảo nguồn sức
kéo trong canh tác của người dân, tại các xã, đặc biệt vùng
làm ruộng ở Đại Phước, huyện thành lập một số điểm thú y để
phòng ngừa bệnh cho gia súc của người dân.
Tình hình phân phối nguồn lương thực, thực phẩm trong
những tháng cuối năm 1975 ở Nhơn Trạch có những khó khăn.
Việc giao thương, buôn bán bị đình trệ dẫn đến khan hiếm hàng
hóa. Toàn xã Đại Phước, các khu ấp tập trung sản xuất, khu ấp
Phước Lý buôn bán sầm uất trước đây cũng bị khan hiếm hàng
hóa. Ngành nội thương huyện Long Thành mở các cửa hàng ở
trung tâm tại xã để phân phối các mặt hàng thiết yếu. Khu chợ
Đại Phước có cửa hàng do nhà nước quản lý, cung cấp nguồn
hàng, dù hàng hóa không nhiều nhưng đã góp phần giải quyết
những nhu cầu cấp thiết phục vụ đời sống người dân.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.561, 559.
212

22.3 Page 213

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Đời sống văn hóa mới ở xã được chính quyền cách mạng
quan tâm, vận động người dân không thực hiện các hành vi mê
tín, triệt để trừ bỏ các tệ nạn xã hội. Chủ trương xây dựng xã hội
mới theo đường lối cách mạng được tuyên truyền sâu rộng đến
người dân. Người dân hưởng ứng, không tàng trữ những sách
báo mang tính chất phản động, đồi trụy, giao nộp cho chính
quyền để tiêu hủy.
Những khó khăn thời kỳ quân quản ở Nhơn Trạch được
khắc phục với sự nỗ lực của bộ máy chính quyền, tinh thần
cách mạng của người dân. Một số địa bàn của Nhơn Trạch đứng
trước những khó khăn về kinh tế cũng như tình hình chính trị,
đặc biệt trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng. Tình hình
an ninh, trật tự ở Đại Phước chưa được ổn định, trong đó có
số người là binh lính của chế độ Sài Gòn từ các nơi đến tạm
trú nhưng không trình diện, khai báo bởi nghi ngại, sợ bị bắt
giam. Một số phần tử bị tác động về tư tưởng, với tâm lý sợ bị
“trả thù nặng nề” do các đối tượng chống đối cách mạng tuyên
truyền, rồi bị gây sức ép, tham gia các tổ chức chống phá chính
quyền. Ủy ban Quân quản huyện Nhơn Trạch điều động cán
bộ vũ trang làm nòng cốt, tổ chức xây dựng và ổn định bộ máy
chính quyền. Đồng thời, bộ phận an ninh của huyện tổ chức
các cụm an ninh liên xã (3-4 xã hình thành một cụm an ninh),
để nắm tình hình, giữ gìn trật tự. Ở các ấp của Đại Phước được
bố trí chiến sĩ công an và hình thành các tổ an ninh nhân dân
làm nòng cốt xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Những
đối tượng, phần tử xấu gây hại cho chính quyền cách mạng
213

22.4 Page 214

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
phân loại, xử lý bằng biện pháp hành chính và giáo dục. Trong
tình hình khó khăn chung của miền Nam sau ngày đất nước
thống nhất, huyện Nhơn Trạch thực hiện những chủ trương của
cách mạng để xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới, nền văn
hóa mới. Tinh thần cách mạng dâng cao trong quần chúng, các
phong trào thu hút nhiều người tham gia, những chính sách,
chủ trương đúng đắn, kịp thời góp phần ổn định tình hình và
đời sống của người dân.
Vào tháng 9-1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa III) đề ra nghị quyết về
nhiệm vụ chiến lược của nước ta trong tình hình mới: Hoàn
thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến
hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Để
thực hiện nhiệm vụ, cần phải: Xây dựng chính quyền cách mạng
nhân dân ở các cấp để nhanh chóng ổn định chính trị và trật tự
xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng,
đủ sức làm nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội; Trấn áp phản cách mạng, Xóa bỏ giai cấp tư sản
mại bản và các tàn dư của giai cấp địa chủ phong kiến; Khôi
phục và phát triển sản xuất, giải quyết nạn thất nghiệp do chế
độ cũ để lại; giải quyết tốt các vấn đề lưu thông, tín dụng, tài
chính, ngân hàng, tiền tệ; Phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, xã
hội; Tăng cường công tác xây dựng Đảng.
214

22.5 Page 215

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Thực hiện nhiệm vụ cách mạng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai,
tháng 1-1976, huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch sáp nhập,
lấy tên là huyện Long Thành. Xã Đại Phước thuộc huyện Long
Thành. Lúc bấy giờ, cơ cấu hành chính của huyện gồm: Thị trấn
Long Thành và các xã: Tam An, Lộc An, Long An, An Phước,
An Lợi, An Hòa, Long Tân, Long Phước, Phước Thái, Phước
Tân, Phước Thọ, Phước Nguyên, Phước Kiển, Phước Thiền,
Phước Thọ, Phước Khánh, Phước Lai, Phước Long, Long
Hưng, Tân Hiệp, Ship, Bình Sơn, Suối Trầu, Cẩm Đường, Bàu
Cạn, Đại Phước,Vĩnh Thanh, Phú Hội, Phú Hữu, Phú Thạnh.
Dân số toàn huyện trên 200.000 người, có diện tích lớn nhất
tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ.
Ủy ban Quân quản huyện Long Thành bàn giao công tác
quản lý cho chính quyền địa phương. Trên cơ sở thành lập
huyện, Huyện ủy Long Thành hình thành. Đồng chí Nguyễn
Văn Thông (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được cử làm
Bí thư, đồng chí Phạm Thanh Lý - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện. Hoạt động của văn phòng Huyện ủy
có 25 đồng chí. Trên toàn huyện có 24 chi bộ cơ sở cấp xã với
326 đảng viên. Ngày 1-7-1976, Hội nghị thành lập Đảng bộ
Long Thành được tổ chức. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ huyện gồm 34 đồng chí (5 ủy viên dự khuyết). Đồng chí
Nguyễn Văn Thông được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy
Long Thành, đồng chí Lương Văn Tấn - Phó Bí thư thường trực,
đồng chí Nguyễn Văn Xuân - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban
nhân dân, đồng chí Phạm Thanh Lý giữ chức vụ Phó Chủ tịch
215

22.6 Page 216

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Ủy ban nhân dân huyện. Nghị quyết đại hội xác định “Nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, củng cố chính quyền với tinh thần
tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo, đưa địa phương phát triển
nông nghiệp, công nghiệp theo phương thức sản xuất mới”1.
Tại xã Đại Phước, chính quyền cách mạng lâm thời được thành
lập do đồng chí Chín Thắng làm chủ tịch, sau này được bầu làm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Về tổ chức Đảng, chi bộ do đồng
chí Nguyễn Thị Hồng (hoạt động cách mạng, Bí thư chi bộ B
trước đây ở ấp Cù Lao) làm Bí thư. Những đảng viên của chi
bộ B (hoạt động mật trước đây) và chi bộ A (thoát ly vào căn
cứ) ở lại địa phương tham gia sinh hoạt trong chi ủy. Trong chi
bộ A hoạt động trước đây tại xã Đại Phước, sau giải phóng, một
số đảng viên được giao nhiệm vụ ở các địa phương, đơn vị, cơ
quan trên địa bàn huyện, tỉnh2.
Trong năm 1976, đất nước có những sự kiện quan trọng sau
khi thống nhất. Đảng bộ huyện chỉ đạo, lãnh đạo địa phương
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị quan trọng. Trong đợt bầu cử
Quốc hội khóa VI nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người
dân Đại Phước tích cực tham gia trong tổng số 97% cử tri Long
Thành thực hiện bầu cử. Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thành lập đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nhân dân Đại Phước bước vào thời kỳ đất nước
1  Trích Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ huyện Long Thành tháng 7 năm 1976, tài
liệu Ban Tuyên giáo Huyện ủy Long Thành.
2  Đồng chí Đào Minh Thanh (bị địch bắt năm 1969, giam tại nhà tù Côn Đảo,
trở về năm 1975) được phân công tại Công ty Cao su Đồng Nai.
216

22.7 Page 217

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
cùng thực hiện nhiệm vụ xây dựng Xã hội chủ nghĩa. Về giáo
dục, trên cơ sở của trường Trung học tỉnh hạt Đại Phước được
xây dựng từ năm 1972, chính quyền cách mạng trưng dụng làm
trường Cấp 2 xã Đại Phước, duy trì việc học tập cho học sinh
địa phương.
Trên lĩnh vực kinh tế, với nhiệm vụ “Đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm là sản xuất lương thực”,
huyện tiến hành chia 8 cụm phát triển phong trào Tập đoàn sản
xuất và Hợp tác xã theo đặc điểm từng địa bàn. Xã Đại Phước
có ấp Thị Cầu thuộc Cụm 1 (cùng với xã Vĩnh Thanh, Phú
Hữu) xây dựng Hợp tác xã điểm nông nghiệp và các ấp khác
thành lập tập đoàn sản xuất1. Tại xã Đại Phước, hình thành 15
tập đoàn sản xuất với cơ sở thống kê diện tích, nông cụ, máy
móc, kỹ thuật và nhân khẩu cùng với bộ phận chuyên trách.
Ấp Cù Lao có 7 tập đoàn, chuyên về canh tác lúa phù hợp
với đặc điểm thổ nhưỡng. Tập đoàn 1 có 68 hộ, diện tích 62
héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Nguyễn Văn Lắm (Tập
đoàn trưởng), Đào Văn Báo (Tập đoàn phó) và Dương Văn
Khai (Thư ký). Tập đoàn 2 có 41 hộ, diện tích 38 héc ta, gồm
bộ phận chuyên trách: Nguyễn Văn Mậu (Tập đoàn trưởng),
1  Các Cụm khác gồm: Cụm 2 (xã Phước Thiền, xã Long Tân, xã Phú Hội);
Cụm 3 (xã Phước Kiển, xã Phước Lai, xã Phước Long, xã Phước Thọ); Cụm 4
(xã Long Phước, xã Tân Hiệp, xã Phước Thái, xã Tân Thành); Cụm 5 (Thị trấn
Long Thành tập trung cải tạo Công thương nghiệp, xã Long An, xã Lộc An, xã
Suối Trầu, xã Cẩm Đường); Cụm 6 (xã Tam An, xã Phước Nguyên, xã An Lợi);
Cụm 7 (xã Phước Tân, xã An Hòa, xã Long Hưng); Cụm 8 (Nông trường Cao su
Bình Sơn, Siph).
217

22.8 Page 218

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Dương Văn Cục (Tập đoàn phó) và Nguyễn Văn Ái (Thư ký).
Tập đoàn 3 có 52 hộ, diện tích 47 héc ta, gồm bộ phận chuyên
trách: Lê Văn Mới (Tập đoàn trưởng), Dương Văn Chồn (Tập
đoàn phó) và Nguyễn Văn Mẹo (Thư ký). Tập đoàn 4 có 57
hộ, diện tích 51 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Dương Văn
Thành (Tập đoàn trưởng), Lưu Kim Phền (Tập đoàn phó) và
Tô Hướng Thiện (Thư ký). Tập đoàn 5 có 68 hộ, diện tích 53
héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Dương Văn Di (Tập đoàn
trưởng), Nguyễn Văn Hiển (Thư ký). Tập đoàn 6 có 45 hộ, diện
tích 43 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Trần Văn Đầy (Tập
đoàn trưởng), Lê Văn Như (Tập đoàn phó) và Đoàn Văn Hóa
(Thư ký). Tập đoàn 7 có 52 hộ, diện tích 48 héc ta, gồm bộ phận
chuyên trách: Nguyễn Văn Xinh (Tập đoàn trưởng), Trần Văn
Đực (Tập đoàn phó) và Nguyễn Văn Đen (Thư ký).
Ấp Bến Cộ có 2 tập đoàn, tập trung canh tác lúa và trồng,
khai thác cói. Tập đoàn 1 có 46 hộ, diện tích 54 héc ta, gồm bộ
phận chuyên trách: Đào Văn Mây (Tập đoàn trưởng), Trần Văn
Phát (Tập đoàn phó) và Đào Văn Ni (Thư ký). Tập đoàn 2 có
53 hộ, diện tích 47 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Phan Văn
Hoa (Tập đoàn trưởng), Nguyễn Văn Hai (Tập đoàn phó) và Lê
Văn My (Thư ký).
Ấp Thị Cầu thành lập 4 tập đoàn, tập trung canh tác cây lúa,
hoa màu, cây mì. Tập đoàn 1 có 28 hộ, diện tích 21 héc ta, gồm
bộ phận chuyên trách: Nguyễn Văn Bảnh (Tập đoàn trưởng),
Bùi Văn Hạng (Tập đoàn phó) và Lê Văn Cho (Thư ký). Tập
đoàn 2 có 57 hộ, diện tích 47 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách:
218

22.9 Page 219

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Lê Văn Thắng (Tập đoàn trưởng), Lý Văn Trang (Tập đoàn
phó) và Nguyễn Văn Đức (Thư ký). Tập đoàn 3 có 34 hộ, diện
tích 16,32 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Nguyễn Xuân
Dương (Tập đoàn trưởng), Thân Văn Sỏi (Tập đoàn phó) và
Hoàng Văn Thương (Thư ký). Tập đoàn 4 có 43 hộ, diện tích
33 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Phạm Văn Hai (Tập đoàn
trưởng), Phạm Văn Phúc (Tập đoàn phó) và Nguyễn Văn Hai
(Thư ký).
Ấp Phước Lý có 2 tập đoàn, canh tác lúa và trồng, khai
thác cói. Tập đoàn 1 có 45 hộ, diện tích 45 héc ta, gồm bộ phận
chuyên trách: Cao Văn Tòng (Tập đoàn trưởng), Trần Ngọc
Đông (Tập đoàn phó) và Võ Văn Đúng (Thư ký). Tập đoàn 2
có 38 hộ, diện tích 36 héc ta, gồm bộ phận chuyên trách: Trần
Văn Rớt (Tập đoàn trưởng), Thái Văn Bê (Tập đoàn phó) và
Nguyễn Thị Son (Thư ký).
Mỗi tập đoàn hình thành tổ chức điều hành và thực hiện
theo chủ trương chung của huyện Long Thành trong các giao
ước sản xuất, nhiệm vụ, quyền lợi được cung ứng tạo điều kiện
sản xuất và nghĩa vụ về chỉ tiêu nông sản giao nộp cho nhà
nước.
Tháng 6-1977, Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ
I đề ra nhiệm vụ: Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động để tiến hành cải tạo nông nghiệp, trọng tâm là đẩy
mạnh sản xuất lương thực; kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây
dựng, lấy xây dựng là chủ yếu; cải tiến một bước lưu thông
219

22.10 Page 220

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
phân phối, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa; không ngừng củng
cố an ninh quốc phòng, trật tự xã hội.
Huyện Long Thành được Trung ương chọn làm điểm xây
dựng và cải tạo nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Huyện tiến hành điều tra, thống kê nguồn lao động,
diện tích canh tác và thực hiện quy hoạch tổng thể để tiến hành.
Một số xã được huyện chọn tập trung đẩy mạnh phong trào hợp
tác hóa, phong trào thủy lợi, khai hoang và cải tạo đồng ruộng
để làm cơ sở tiến hành cho việc triển khai kế hoạch phát triển
sản xuất lớn. Cùng với hướng phát triển của huyện Long Thành
trong cải tạo nông nghiệp, xã Đại Phước cử cán bộ học tập từ
mô hình Hợp tác xã Đất Mới của xã Long Phước trong kinh
nghiệm xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất
lớn để áp dụng cho địa phương.
Trên mặt trận nông nghiệp áp dụng biện pháp kỹ thuật,
thâm canh, chọn giống mới, đầu tư phân bón, tiếp tục đẩy mạnh
khai hoang, thủy lợi... đã tạo cơ sở cho những chuyển biến tích
cực. Toàn huyện khai hoang phục hóa 2.000 héc ta nâng diện
tích gieo trồng cây lương thực trong từng năm tăng lên. Từ năm
1979 đến năm 1981, đạt 95.000 héc ta (tăng 17% so với giai
đoạn 1976-1977). Một số vùng chuyên canh cây công nghiệp,
hoa màu được hình thành. Các xã ven sông Đồng Nai, dọc theo
lộ 15 của huyện tăng vụ mùa trong năm, đạt năng suất cao.
Công tác cải tạo nông nghiệp ở Long Thành được đẩy mạnh với
sự thành lập 170 tập đoàn sản xuất và 1 hợp tác xã. Phong trào
làm ăn tập thể phát triển nhưng chưa toàn diện. Qua hoạt động,
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
có 63 tập đoàn sản xuất (03 tập đoàn sản xuất tiên tiến, 40 tập
đoàn sản xuất khá, 20 tập đoàn sản xuất trung bình và yếu) và
02 hợp tác xã duy trì hoạt động. Phương thức sản xuất tập thể
đem lại sự mới mẻ cho người dân, được tuyên truyền vận động
trong chủ trương xây dựng xã hội mới, đem lại những hiệu quả.
Trong nông nghiệp, nguồn phân bón cho cây trồng quan trọng
thế nhưng, trong tình hình chung của miền Nam sau giải phóng
nhiều năm, phân bón phục vụ sản xuất thiếu. Tỉnh Đồng Nai
phát động các hợp tác xã và đoàn thể chung tay tạo nguồn phân
bón xanh. Huyện Long Thành phát huy vai trò lá cờ đầu trong
phong trào làm phân bón của tỉnh, đoàn viên và thanh niên
nông thôn thường xuyên có nhiều hình thức khai thác nguồn
phân tại chỗ, năm nào cũng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu làm
phân bón. Nhân dân xã Đại Phước được vận động cải thiện làm
phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Toàn huyện Long Thành huy động tập trung 22.698 lượt đoàn
viên, thanh niên ủ được 50.511 tấn phân xanh. Đoàn viên và
các tổ chức hội xã Đại Phước có đóng góp chung trong thành
quả của tỉnh đạt 567.206 lượt đoàn viên, thanh niên tham gia
làm được 68.114,5 tấn phân bón các loại, gấp 3,5 lần so với chỉ
tiêu đề ra, góp phần khắc phục một bước khó khăn về phân bón
cho đồng ruộng1. Xã Đại Phước, Vĩnh Thanh trở thành những
điểm sáng tiêu biểu trong phong trào làm phân bón phục vụ
1  Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đồng Nai, Lịch sử Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên tỉnh Đồng Nai 1930 - 2000,
tr.93.
221

23.2 Page 222

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nông nghiệp năm 1978 của huyện Long Thành. Đồng thời, các
tập đoàn sản xuất của xã Đại Phước duy trì hoạt động đều, hiệu
quả của huyện và tỉnh.
Tình hình khó khăn chung về lương thực vẫn còn những
bất ổn, buôn bán đình trệ, huyện Long Thành từng bước thực
hiện các mô hình phân phối lưu thông để ổn định đời sống nhân
dân. Mạng lưới cửa hàng bách hóa của ngành thương nghiệp
huyện được hình thành đến trung tâm các xã. Xã Đại Phước với
đặc điểm của khu thị tứ, nhiều hộ dân buôn bán ở ấp Phước Lý
thành lập hợp tác xã mua bán có tính chất phục vụ liên vùng.
Nguồn hàng được cung cấp theo chỉ tiêu, kế hoạch phân phối
của thương nghiệp huyện và nhân dân địa phương. Bước đầu,
khâu phân phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu đến
với người dân dù chưa được toàn diện. Đến đầu năm 1979,
mạng lưới phân phối hàng hóa của huyện được quy hoạch, góp
phần bình ổn giá cả thị trường. Các cửa hàng mang tính chất
tư nhân được quản lý và điều hòa qua sản xuất. Hợp tác xã Đại
Phước trực thuộc hệ thống phân phối quốc doanh với 12 hợp
tác xã, 3 cửa hàng và 1 công ty cấp 3 của huyện Long Thành.
Lĩnh vực y tế được quan tâm ngay từ khi huyện được giải
phóng với sự hỗ trợ của đơn vị quân y đóng trên địa bàn huyện.
Khi được bàn giao, huyện đầu tư sửa chữa, nâng cấp cơ sở
vật chất khám chữa bệnh. Bệnh viện huyện sửa chữa, mở rộng
tăng số giường và trang bị thiết bị y tế. Đội ngũ cán bộ y tế
được tăng cường (02 y sĩ, 01 dược sĩ, 01 y tá), đã khám chữa
bệnh cho 62.913 lượt người, chữa trị 2.968 bệnh nhân. Ở các xã
222

23.3 Page 223

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đều thành lập các Ban Y tế, quá trình khám chữa bệnh kết hợp
Đông - Tây y phục vụ được nhu cầu chữa bệnh cho nhân dân
trong tình hình khó khăn. Cơ sở y tế của xã Đại Phước trưng
dụng nhà vắng chủ, cải tạo làm nơi khám, chữa bệnh, có thầy
thuốc phụ trách. Người dân địa phương được tuyên truyền và
tích cực tham gia phong trào xây dựng nếp sống mới, thi đua
giữ gìn vệ sinh, phòng chống bệnh. Năm 1979, toàn huyện có
20 trạm y tế, 13 nhà hộ sinh. Các cơ sở này đã góp phần chăm
lo sức khỏe, khám chữa bệnh cho 11.764 lượt người. Xã Đại
Phước có phong trào y tế phát triển mạnh với các đơn vị thị trấn
Long Thành, Phú Hữu, Tam Phước, Phú Hội, Phước An, Phước
Khánh, Bình Sơn.
Tình hình của đất nước gặp nhiều khó khăn trong đó có khu
vực biên giới Tây Nam giáp với Campuchia. Lực lượng Khmer
Đỏ tổ chức nhiều cuộc xâm lấn biên giới Việt Nam, giết hại
dân thường ở các tỉnh Tây Ninh kéo dài xuống An Giang. Thực
hiện nghĩa vụ quốc tế hỗ trợ Campuchia bảo vệ thành quả cách
mạng và giữ vững sự ổn định của đất nước, Việt Nam tổ chức
phản công tập đoàn phản động Pôn-pốt. Huyện Long Thành
có Đại đội 17 lên đường làm nghĩa vụ quốc tế. Ngày 12-12-
1978, Đảng bộ và nhân dân Long Thành đưa tiễn Đại đội 171
lực lượng tập trung huyện lên đường chiến đấu trên đất nước
Campuchia. Cùng với lực lượng quân sự của tỉnh Đồng Nai,
một số thanh niên của xã Đại Phước tham gia nghĩa vụ quân sự,
1  Ban Chỉ huy Đại đội gồm các đồng chí: Nguyễn Thái Học (Đại đội trưởng),
Nguyễn Văn Phối (Đại đội phó), Đặng Văn Hai (Chính trị viên).
223

23.4 Page 224

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chiến đấu bảo vệ đất nước bạn. Năm 1976, xã Đại Phước tuyển
60 thanh niên lên đường tham gia nghĩa vụ quân sự. Đây là năm
tuyển quân của địa phương có số lượng đông đảo. Những năm
kế tiếp, mỗi năm, xã Đại Phước tiến hành 2 cuộc tuyển quân,
phục vụ cho yêu cầu bổ sung lực lượng chiến đấu của huyện
Long Thành. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam
và nghĩa vụ quốc tế ở chiến trường Campuchia, có những người
thanh niên từ xã Đại Phước trưởng thành, được rèn luyện, trở
thành nguồn cán bộ sau này khi hết nghĩa vụ, trở về công tác
tại địa phương: Nguyễn Văn Phơi, Trần Thành Trai, Châu Văn
Lộc... Một số chiến sĩ của xã Đại Phước chiến đấu anh dũng, hy
sinh trong thời gian ở chiến trường Campuchia: Nguyễn Anh
Kiệt, Đinh Quốc Cường...
Năm 1979, Trung Quốc đưa quân đánh phá biên giới phía
Bắc của đất nước. Chủ động trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất
nước trước hành động xâm lược của kẻ thù, phòng ngừa kẻ thù
xâm lấn hướng biển, nhân dân Đại Phước được tuyên truyền
rộng rãi nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đóng góp
chung của huyện Long Thành trong xây dựng phòng tuyến an
ninh bờ biển của tỉnh Đồng Nai. Lúc bấy giờ, địa giới của tỉnh
Đồng Nai khá rộng với bờ biển kéo dài từ giáp ranh tỉnh Bình
Thuận đến Bà Rịa - Vũng Tàu và vùng Duyên Hải (huyện Cần
Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Bằng nhiều biện pháp,
tỉnh Đồng Nai đã làm tốt xây dựng và quản lý khu vực biên giới
Tây Nam và bờ biển phía Nam theo Chỉ thị số 169/CP của Hội
đồng Chính phủ.
224

23.5 Page 225

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Tình hình an ninh của địa phương trong giai đoạn 1976
- 1979 đứng trước những khó khăn. Nguồn cán bộ trong bộ
máy nhà nước của địa phương còn thiếu. Địa bàn Đại Phước
cùng với Vĩnh Thanh, Phú Thạnh, Phước Khánh, Giồng Ông
Đông là những điểm nóng về trật tự xã hội. Vì vậy, huyện Long
Thành tăng cường lực lượng an ninh để xây dựng, bảo vệ chính
quyền, thành lập các Cụm an ninh liên xã và Ban Công an khu
vực, Tổ an ninh nhân dân. Xã Đại Phước hình thành Ban Chỉ
huy xã đội, biên chế lực lượng du kích từ 1 tiểu đội đến trung
đội, các ấp hình thành lực lượng dân quân, các cơ quan có lực
lượng tự vệ. Tiêu biểu trên mặt trận bảo vệ chính quyền, huyện
Long Thành dập tắt tổ chức phản động mang tên “Việt Nam
phục quốc”1. Đây là tổ chức có nhiều cơ sở hoạt động ở các địa
phương khác như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Sông
Bé, Đồng Nai. Vùng Đại Phước, Phú Hữu nhiều vùng đất rộng,
dân cư thưa, sông rạch nhiều, kế cận vùng đô thị Sài Gòn nên
những nhóm phản động chọn làm nơi tập kết, tổ chức hoạt động
chống phá cách mạng với mạng lưới chân rết ở nhiều nơi.
Sự nỗ lực của người dân Đại Phước trong sản xuất nông
nghiệp cho tới cuối năm 1979 đã đem lại những kết quả chung
của địa phương. Bình quân toàn huyện Long Thành trong sản
xuất lúa đạt từ 2,5 tấn/ha đưa tổng lương thực lên 201.000 tấn
1  Địa bàn Long Thành, Nhơn Trạch có nhiều tổ chức hoạt động phản cách
mạng: Mặt trận quốc gia toàn lực giải phóng miền Nam, Mặt trận Cứu nguy dân
tộc, Mặt trận Giải phóng dân tộc, Mặt trận Việt tiến, Đảng Dân chủ, Đảng Cấp
tiến, Đảng Cần lao nhân vị, Quốc dân đảng, Đảng Phi long...
225

23.6 Page 226

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
quy lúa, bình quân đầu người đạt 337kg/năm. Đời sống nhân
dân ở nhiều xã bước đầu ổn định sau thời gian khủng hoảng về
lương thực. Điểm nhấn quan trọng của huyện Long Thành vào
năm 1980 khi giải quyết khó khăn về đời sống nhân dân, tự
cung cấp lương thực và hoàn thành nghĩa vụ, chỉ tiêu về lương
thực đối với tỉnh.
Năm năm đầu sau khi đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo
của tổ chức đảng, quản lý điều hành của chính quyền, nhân dân
Đại Phước đã vượt những khó khăn, thử thách cùng thực hiện
những mục tiêu của huyện Long Thành đề ra trong từng giai
đoạn cụ thể: Phát triển nông nghiệp theo phương thức sản xuất
mới (1976 - 1977); Cải tạo nông nghiệp, trọng tâm là sản xuất
lương thực, kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng, lấy xây
dựng là chủ yếu, cải tiến một bước lưu thông, phân phối, phát
triển y tế, giáo dục, văn hóa... (1977 - 1979). Trong quá trình
này, nhân dân xã Đại Phước đã thâm canh, tăng vụ, mở rộng
diện tích sản xuất, đẩy mạnh thủy lợi, tăng năng suất... trong
sản xuất và xây dựng hợp tác hóa trên lĩnh vực nông nghiệp.
Cải tạo công thương nghiệp trên địa bàn Đại Phước chủ yếu tập
trung tại ấp Phước Lý, nơi tập trung có nhiều hộ gia đình buôn
bán và nắm giữ nhiều phương tiện lao động, thuê người làm
tuân thủ theo các quy định nhà nước. Trong cải tạo công thương
nghiệp, một số hộ gia đình tuân thủ theo biện pháp với các quy
định của nhà nước. Trước năm 1980, về cơ bản, cải tạo công
thương nghiệp trên địa bàn Đại Phước hoàn thành.
226

23.7 Page 227

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
2. Vượt qua khó khăn, tạo nguồn lực phát triển địa
phương (1980 - 1985)
Từ năm 1979, xã Đại Phước xây dựng và phát triển địa
phương trong định hướng nhiệm vụ chung của huyện Long
Thành trở thành huyện nông nghiệp, công nghiệp và pháo đài
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; trong đó nhấn mạnh nâng cao vai trò
lãnh đạo cấp ủy, khả năng của chính quyền và vai trò của đoàn
thể. Đồng thời, phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
của nhân dân lao động, tập trung toàn bộ nguồn lực đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm là sản xuất lương
thực, thực phẩm.
Tổ chức cấp ủy của xã Đại Phước có những thay đổi về
lãnh đạo. Từ năm 1978, đồng chí Dương Văn Xinh (cán bộ
hoạt động trước năm 1975 tại địa phương), tham gia công tác
tại địa phương từ sau ngày giải phóng, được bầu làm Bí thư chi
bộ. Các đồng chí trong chi ủy gồm Huỳnh Văn Vang, Lê Văn
Tâm... Chính quyền xã được kiện toàn nhân sự theo chỉ đạo
của cấp ủy và phân công công tác. Từ năm 1982, đồng chí Lê
Văn Tâm được bầu làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Văn Vang làm
Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Năm 1984, đồng
chí Huỳnh Văn Vang được huyện phân công nhiệm vụ Chủ tịch
Hội Nông dân huyện Long Thành. Năm 1985, đồng chí Đào
Văn Chỉ được bầu làm Bí thư, đồng chí Châu Văn Lộc - Phó Bí
thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Cấp ủy gồm các đồng chí:
Lê Hoàng Mậu, Nguyễn Thành Tới, Tạ Quốc Hùng.
227

23.8 Page 228

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Trên mặt trận nông nghiệp, huyện đã chỉ đạo mạnh dạn
áp dụng các biện pháp kỹ thuật, thâm canh, chọn giống đầu tư
phân bón, phòng trừ sâu bệnh, phát triển thêm nhiều hệ thống
thủy lợi, do đó năng suất tăng. Các tập đoàn sản xuất của Đại
Phước đẩy mạnh canh tác trên diện tích nông nghiệp và đem
lại hiệu quả. Dù năng suất không cao do vùng đất bị nhiễm
mặn nhưng đã đem lại những kết quả đáng khích lệ so với cách
thức làm theo cách cũ. Năm 1981, tập đoàn ấp Bến Cộ có vụ
mùa đạt 3,6 tấn/ha. Về cải tạo công thương nghiệp, thực hiện
chỉ đạo cấp trên, xã Đại Phước thực hiện ở ấp Phước Lý, khu
vực có nhiều hộ gia đình trong diện điểm. Địa phương vận
động tuyên truyền đường lối, chính sách của nhà nước để người
dân tham gia trong xu hướng phát triển chung của toàn huyện
Long Thành. Cùng với khu vực thị trấn Long Thành, ấp Phước
Lý hoàn thành cải tạo công, thương nghiệp trong định hướng
nền kinh tế quốc doanh, do nhà nước quản lý, điều hành. Toàn
huyện Long Thành có 7 cơ sở quốc doanh đầu tiên gồm: cơ khí,
cơ giới, may mặc, trại mộc, nhà máy xay xát, nhà máy nước,
sản xuất xà phòng thu hút 75 công nhân và 05 tổ hợp lao động
tập thể làm mộc, ván xuất khẩu, đan lát.
Nhân dân khu vực Cù lao Ông Còn, Bến Cộ có lợi thế sông
rạch, hành nghề đánh bắt thủy sản được vận động tham gia tổ
đoàn kết để khai thác thủy sản. Cấp xã lập danh sách các hộ
đăng ký, quản lý các phương tiện đánh bắt, đầu tư vốn, nhiên
liệu cùng khai thác theo chủ trương của huyện Long Thành (17
tổ đoàn kết, 5 tập đoàn ngư dân), góp phần tăng năng suất đánh
228

23.9 Page 229

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
bắt thủy sản. Phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trên diện tích
lớn trồng lúa của Cù lao Ông Còn, ấp Bến Cộ, xã đã huy động
hàng ngàn lượt người dân tham gia đắp bờ bào ngăn xâm nhập
mặn, đào ao chứa nước ngọt. Khu vực ấp Thị Cầu tập trung
trồng hoa màu, trong đó cây mì có diện tích nhiều nhất. Chính
quyền xã huy động lực lượng làm nghĩa vụ lao động công ích
tại địa phương, tham gia nhiều ngày công, tinh thần lao động
tích cực hình thành nên tuyến đê bao khu vực Tập đoàn sản
xuất Thị Cầu. Tuyến đê bao này đem lại hiệu quả, góp phần
ngăn mặn vào diện tích đất, chuyển sản xuất 1 vụ thành 2 vụ,
kết hợp chăn nuôi thủy sản tạo thu nhập cho tập đoàn.
Xã Đại Phước làm tốt công tác đóng góp nghĩa vụ thuế cho
huyện Long Thành và quỹ phúc lợi tập thể. Công tác cải tạo
nông nghiệp, củng cố quan hệ sản xuất mới tính đến năm 1985
toàn huyện Long Thành đã xây dựng được 3 hợp tác xã, 8 liên
đoàn tập đoàn, 319 tập đoàn sản xuất đạt 80% tổng diện tích
và hộ nông dân vào làm ăn tập thể. Bồi dưỡng, đào tạo 1.500
cán bộ quản lý kinh tế cho các tập đoàn và hợp tác xã được tỉnh
công nhận là huyện đã hoàn thành cơ bản công tác cải tạo nông
nghiệp theo phương thức sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1982, một số thanh niên của Đại Phước tham gia
vào công trình xây dựng thủy điện Trị An - đây là công trình
trọng điểm của đất nước ở miền Nam, khu vực xây dựng trên
địa bàn miền núi phía Bắc tỉnh Đồng Nai với sự tham gia của
hàng trăm ngàn lượt lao động. Trong niềm vui chung của huyện
229

23.10 Page 230

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
sau những năm tháng khó khăn, ngày 10-12-1982 đại hội III của
Đảng bộ huyện Long Thành khai mạc. Trong thành quả chung
của huyện, xã Đại Phước đã đóng góp cùng với các địa phương
khác qua những thành quả triển lãm về thành tựu nông nghiệp,
công - thương nghiệp và phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Tại đại hội, Đảng bộ huyện Long Thành đánh giá tình hình của
huyện trong những năm qua còn nhiều khó khăn nhưng các đơn
vị, các ngành và nhân dân đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường,
tinh thần làm chủ vượt qua nhiều khó khăn trở ngại. Trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội đã đạt được những mục tiêu cơ bản. Về
kinh tế ổn định từng bước đời sống nhân dân đó là kết quả vận
dụng sáng tạo các nghị quyết của Đảng và là tiền đề để bước
đi tiếp vững chắc hơn. Xã Đại Phước có những thành quả được
ghi nhận khi nông nghiệp phát triển, khai thác tốt diện tích trên
hai vùng đất Cù lao Ông Còn và Bến Cộ trong canh tác, năng
suất lúa và ấp Thị Cầu tranh trồng hoa màu. Đồng thời, khu chợ
Phước Lý phát triển theo chiều hướng tích cực của trao đổi,
buôn bán. Qũy tín dụng nhân dân ngoài nguồn vốn của ngân
hàng huyện đầu tư, có sự huy động của các hộ dân, hỗ trợ cho
người dân làm ăn hiệu quả, không gây thất thoát và linh hoạt
trong điều hành, quản lý. Tuy nhiên, với đặc điểm của trục giao
thông liên vùng, địa bàn rộng, tình hình trật tự còn phức tạp với
những vụ việc vi phạm pháp luật, gây mất trật tự xã hội.
Lĩnh vực văn hóa - thông tin được duy trì với hệ thống
đài truyền thanh của xã, hệ thống loa ở các khu dân cư. Chính
sách, chủ trương và thông tin địa phương được truyền thông
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đến người dân. Các phong trào văn nghệ được duy trì, đặc biệt
phối hợp với các đơn vị cấp trên của huyện, tỉnh khi tổ chức
những hoạt động mang tính sự kiện chào mừng ngày lễ lớn
của đất nước, bầu cử. Về giáo dục, hệ thống trường lớp của địa
phương được duy trì để phục vụ giảng dạy, học tập. Năm 1984,
trường Cấp 2 xã Đại Phước đổi tên thành Trường Phổ thông cơ
sở Đại Phước.
Công tác thương binh, xã hội của xã Đại Phước được duy
trì thường xuyên, chăm sóc đối tượng chính sách, hậu phương
quân đội, tiến hành điều tra, thống kê, lập hồ sơ những người
hoạt động, có công với cách mạng, liệt sĩ, quy tập hài cốt liệt
sĩ. Trong thời kỳ kháng chiến, nhiều cán bộ, đảng viên, chiến
sĩ, du kích, giao liên, cơ sở cách mạng... của địa phương, của
huyện, tỉnh và các đơn vị khác hy sinh trên địa bàn không tìm
thấy thi hài, nơi chôn cất. Xã Đại Phước đã làm tốt nhiệm vụ
này, góp phần trong thành tích chung của huyện Long Thành
khi được nhận phần thưởng cao quý Huân chương Lao động
hạng Ba của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chính
sách Thương binh, xã hội1.
Trong năm 1985, khi thực hiện chính sách kinh tế Giá -
lương - tiền qua việc đổi tiền lần thứ 3 sau năm 1975, những tin
đồn lan truyền làm cho người dân địa phương lo lắng. Nhiều
1  Huyện Long Thành giải quyết kịp thời chính sách đền ơn đáp nghĩa, hậu
phương quân đội, quy tập 1.476 hài cốt liệt sĩ, xây dựng quỹ thương binh xã hội
tại 18 xã, xây dựng 08 nhà tình nghĩa, 22 nhà tặng gia đình liệt sĩ.
231

24.2 Page 232

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
hộ dân sợ mất giá trị, hoang mang về định mức được đổi, mệnh
giá tiền mới. Chính quyền xã Đại Phước tuyên truyền rộng rãi
đến cư dân tham gia. Một số trường hợp, chính quyền và hộ dân
phải thỏa thuận giải quyết thỏa đáng từ số lượng tiền đổi của hộ
gia đình, theo nhân khẩu và tình trạng tiền cũ, rách nát. Trong
trao đổi, mua bán hàng hóa, lượng tiền mệnh giá thấp không
đáp ứng khi sử dụng cũng gây những khó khăn do tình hình lạm
phát cao. Việc đổi tiền ở địa phương diễn ra thuận lợi. Trong
chủ trương góp phần xây dựng mua tạo nguồn quỹ quốc gia qua
hình thức trái phiếu nhà nước, chính quyền xã Đại Phước vận
động người dân thực hiện đạt kế hoạch của huyện giao.
*
Mười năm sau ngày đất nước được thống nhất, cấp ủy và
chính quyền xã Đại Phước đã nỗ lực, góp phần trong phát triển
chung của huyện Long Thành. Trên địa bàn xã, những nhiệm
vụ của thời quân quản, bảo vệ chính quyền cách mạng buổi
ban đầu đem lại kết quả, dù còn nhiều khó khăn. Trong tình
hình chung đất nước bị cấm vận, bao vây của các thế lực thù
địch, phản cách mạng, cũng như trong tình trạng chiến tranh
bảo vệ biên giới, nhân dân Đại Phước đã vượt qua những khó
khăn, tham gia các phong trào tăng gia sản xuất nông nghiệp,
đẩy mạnh công tác thủy lợi, đánh bắt thủy sản... để ổn định đời
sống. Những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước được
tuyên truyền rộng rãi, kêu gọi được sự ủng hộ của quần chúng.
Bên cạnh sự hỗ trợ của huyện Long Thành, đội ngũ đảng viên,
232

24.3 Page 233

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
cán bộ tại địa phương được trưởng thành từ kháng chiến, các
phong trào địa phương, được rèn giũa qua công tác thực tế, tiếp
tục có những cống hiến trong quá trình xây dựng xã Đại Phước,
của huyện Nhơn Trạch: Nguyễn Văn Phơi, Thái Thiện Châu,
Nguyễn Thành Hoàng, Trần Văn Nén, Huỳnh Văn Nay, Huỳnh
Văn Vang... Cấp ủy và chính quyền xã Đại Phước có vai trò
quan trọng trong lãnh đạo, quản lý và điều hành địa phương.
Dẫu vậy, nhiều khó khăn, thử thách và bài học kinh nghiệm
được đặt ra cho địa phương từ cơ chế bao cấp, rút ra những bài
học kinh nghiệm quý báu trong sự định hướng phát triển của
đất nước trong thời kỳ mới.
233

24.4 Page 234

▲back to top


CHƯƠNG VI
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA
(1986 - 2000)
1. Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng (1986- 1994)
Chặng đường 10 năm sau ngày đất nước thống nhất, Việt
Nam đạt được những thành quả trong xây dựng xã hội trong
tình hình nhiều khó khăn, khủng hoảng. Thực tế xã hội đặt ra
nhiều vấn đề trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước. Qúa
trình xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn 1975
đến 1985 được tổng kết, đánh giá và rút ra những bài học kinh
nghiệm, đề ra những quyết sách lớn nhằm đưa đất nước vượt
qua khủng hoảng, vững bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Năm
1986, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi mới cho đất nước.
Trên tinh thần đổi mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần
thứ IV đã phân tích thành tựu trên các lĩnh vực trong giai đoạn
1981 - 1985, nghiêm khắc phê bình và tự phê bình, nhận diện
rõ những yếu kém và nguyên nhân gây khó khăn, cản trở xu
thế phát triển của địa phương. Đại hội khẳng định phải đổi mới
234

24.5 Page 235

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tư duy kinh tế, đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ,
đổi mới phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc và đề ra phương
hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế của Đồng Nai giai đoạn 1986
- 1990: “Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế Đồng Nai theo cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý; phát triển nông nghiệp một cách
toàn diện, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, lương thực
là trọng tâm theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa. Phát huy các
mũi nhọn: Công nghiệp chế biến, nông sản xuất khẩu và công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, giải quyết tích cực có hiệu
quả thiết thực ba chương trình về lương thực thực phẩm, hàng
tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu. Tiếp tục nhiệm vụ cải tạo
xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới; xây dựng cơ
chế quản lý mới, nhất là quản lý kinh tế mới, phát huy quyền
chủ động sản xuất, kinh doanh ở cơ sở, xây dựng đảng bộ vững
mạnh mọi mặt”.
Bước vào năm 1986, huyện Long Thành có những thuận
lợi: Giữ vững ổn định chính trị, kiên định theo con đường xã
hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống đoàn kết, tự lực tự cường.
Đảng bộ huyện đoàn kết, đội ngũ cán bộ, đảng viên có tinh thần
trách nhiệm, trưởng thành từ thực tiễn xây dựng địa phương.
Những thành tựu của nhân dân Long Thành đã tạo nên cơ sở,
tiền đề quan trọng trên nhiều lĩnh vực được kế thừa, phát huy.
Huyện Long Thành tiếp tục được xác định là địa bàn trọng
điểm sản xuất lương thực của tỉnh. Đảng bộ huyện Long Thành
235

24.6 Page 236

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tổ chức đại hội lần thứ IV1, xác định phương hướng, nhiệm vụ
trong giai đoạn mới: “Tiếp tục quy hoạch lại sản xuất, bố trí sử
dụng lao động, ruộng đất phù hợp với tình hình, đặc điểm của
địa phương, với cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp (nông nghiệp
bao gồm lâm nghiệp, ngư nghiệp) nhằm phát triển sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân, an ninh quốc phòng, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa”.
Xã Đại Phước có ấp Thị Cầu, Cù Lao, Bến Cộ với đặc điểm
tự nhiên của vùng nông thôn, hoạt động kinh tế chủ yếu của
cư dân là nông nghiệp. Địa bàn và dân cư ấp Phước Lý thuận
lợi cho việc buôn bán với cơ sở chợ được hình thành khá lâu.
Địa bàn ấp Cù Lao và Bến Cộ đất rộng phù hợp với khai thác
đất đai, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, chi bộ xã
và chính quyền quan tâm xây dựng hệ thống thủy lợi, ngăn
chặn xâm nhập mặn, bảo đảm nguồn nước ngọt để người dân
thuận lợi trong chuyển đổi vật nuôi, cây trồng và tăng vụ trong
sản xuất. Trong chính sách kinh tế chung của đất nước, xã Đại
Phước chú trọng những chương trình lớn của quốc gia: lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng.
Về tổ chức chi bộ xã Đại Phước, trong giai đoạn từ năm
1986 đến năm 1989, những đồng chí giữ chức Bí thư gồm:
Đào Văn Chỉ (từ năm 1985 đến năm 1989), đồng chí Châu
Văn Lộc giữ chức Phó Bí thư, kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân
1  Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành tổ chức từ ngày 16 đến ngày 19-9-1986.
236

24.7 Page 237

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
(từ năm 1989 đến năm 1991). Năm 1991, đại hội bầu đồng chí
Châu Văn Lộc giữ chức Bí thư, Dương Văn Nhơn làm Phó Bí
thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Lúc bấy giờ, chi bộ xã
Đại Phước trực thuộc Đảng bộ huyện Long Thành. Năm 1994
khi thành lập lại huyện Nhơn Trạch, chi bộ xã Đại Phước trực
thuộc Đảng bộ huyện Nhơn Trạch. Các đồng chí ủy viên trong
tổ chức đảng địa phương gồm: Lê Hoàng Mậu, Nguyễn Thành
Tới, Tạ Quốc Hùng, Dương Văn Khanh.
Hai năm đầu thời kỳ đổi mới của đất nước, xã Đại Phước
tập trung khắc phục những khó khăn, bất cập để từng bước xây
dựng địa phương. Chủ trương đổi mới về kinh tế tạo nên động
lực nhưng cần có những bước đi thích hợp với đặc điểm của
địa phương. Vấn đề đặt ra cho cấp ủy và chính quyền xã Đại
Phước lựa chọn những giải pháp phù hợp để nguồn lực ở địa
phương được phát huy khi chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 1988 đến năm 1990, Đảng bộ huyện Long Thành
xác định mục tiêu, phương hướng: “Tiếp tục đổi mới tư duy,
đổi mới tổ chức cán bộ, làm trong sạch nội bộ Đảng, nhà nước,
làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội; đẩy mạnh sản xuất phát
triển, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng
trên cơ sở tập trung vào ba chương trình kinh tế lớn: Lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” và tạo
237

24.8 Page 238

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
điều kiện cho người dân thực hiện khoán theo Nghị quyết 10
của Trung ương trong nông nghiệp, sản xuất phát triển1. Thực
hiện định hướng và mục tiêu này, xã Đại Phước tiến hành thống
kê và tập trung vào chương trình kinh tế lớn của đất nước, của
huyện Nhơn Trạch. Trên cơ sở đường lối đổi mới hai năm trước,
các thành phần kinh tế của địa phương tham gia tích cực vào
chương trình của xã.
Từ tổng kết thực tế của Trung ương trong tổ chức lại sản
xuất và cải tạo xã hội chủ nghĩa nông nghiệp trước đổi mới,
nhiều nơi không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất nhất định
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, không nắm vững đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội
của từng vùng, chủ quan, nóng vội trong cải tạo, gò ép nông
dân vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, áp dụng máy móc những
hình thức tổ chức và quản lý, thiếu chính sách khuyến khích
kinh tế gia đình, chưa có chính sách sử dụng đúng đắn kinh
tế cá thể, kinh tế tư nhân... chương trình Khoán 102 của Trung
ương đã tạo nên động lực cho người dân địa phương tích cực
sản xuất. Trong kết quả chung của huyện Long Thành, phong
trào vận động nông dân làm ăn tập thể ngày một chắc chắn
1  Thực hiện chủ trương đổi mới về kinh tế của Đại hội VI, trên cơ sở tổng kết
thực tiễn, ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số 10-NQ/
TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Nghị quyết nêu rõ quan điểm cơ
bản của Đảng về quản lý nông nghiệp: Coi hợp tác xã như đơn vị kinh tế tự quản,
hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với hợp tác xã.
2  Ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TW về Đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp.
238

24.9 Page 239

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hơn, 2 hợp tác xã, 49 tập đoàn đã nhận khoán có triển vọng tốt.
Đồng thời đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, huyện phát triển
song song các ngành nghề khác như lâm nghiệp, thủy sản, công
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, y tế, giáo
dục... huyện còn tập trung vốn đầu tư xây dựng cơ bản, xây
dựng các công trình phúc lợi, bệnh viện, nghĩa trang liệt sĩ, nhà
trẻ, trường học, lò đường, máy xay xát, nhà máy nước đá. Mở
rộng đường sá cầu cống nhằm phục vụ cho sản xuất, bảo đảm
đi lại cho nhân dân.
Các tập đoàn sản xuất Đại Phước từ năm 1988 từng bước
giải thể, mở ra hướng tích cực thúc đẩy lao động sản xuất theo
chủ trương khai thác nhiều nguồn lực, khoán sản phẩm. Vấn đề
giải quyết ruộng đất cấp cho thành viên tập đoàn sản xuất ở Đại
Phước có những thuận lợi và không để lại tranh chấp. Trước
đây, từ vận động chủ trương đến thực hiện cụ thể, nhiều hộ gia
đình tự nguyện, tuân thủ chấp thuận phần đất dôi dư theo định
mức nhân khẩu để các thành viên khác sử dụng canh tác. Khi
giải thể tập đoàn, các thành viên, hộ gia đình được “chia đất”
canh tác từ chủ trương chung của nhà nước tự nguyện giao trả
đúng diện tích, vị trí đất đã nhận. Sự giải quyết ổn thỏa này
không xảy ra tình trạng tranh chấp, kiện tụng, tạo nên dư luận
tốt, không gây bất ổn xã hội cho địa phương. Trên nguồn đất
được giao trả lại như trước đây, nhân dân địa phương với tinh
thần chủ động, có động lực, tiến hành canh tác, sản xuất, góp
phần trong nguồn lương thực từ địa phương. Các cơ sở kinh tế
thương nghiệp của xã và các hộ kinh doanh tại khu vực chợ Đại
239

24.10 Page 240

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Phước linh hoạt trong nguồn hàng cung ứng cho nhu cầu của
địa phương và các vùng lân cận.
Từ tháng 11-1991, Đảng bộ huyện Long Thành tổ chức đại
hội, xác định nhiệm vụ và mục tiêu giai đoạn 1991 - 1995:
“Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo đường lối của
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của các tổ chức
Đảng và chính quyền, phát huy vai trò tích cực của các đoàn
thể quần chúng, động viên nhân dân đoàn kết; phát triển kinh
tế toàn diện theo cơ cấu nông công nghiệp và dịch vụ gắn phát
triển kinh tế với phát triển các sự nghiệp văn hóa, y tế, kế hoạch
hóa dân số, chăm lo giáo dục và đào tạo, chăm sóc đời sống
nhân dân, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh, ổn định
chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội”1. Cơ cấu kinh tế của
huyện được xác định:
- Nông nghiệp: Tập trung khai thác tốt nhất nguồn đất đai,
lao động để phát triển toàn diện, mang tính chất sản xuất hàng
hóa ở chiều sâu, ổn định cơ cấu, diện tích cây trồng, phát triển
ngành chăn nuôi (gia súc, gia cầm, thủy sản) trong mô hình
kinh tế gia đình mang tính chất công nghiệp, tạo hàng hóa đáp
ứng nhu cầu các vùng công nghiệp và địa phương.
- Công nghiệp: Gắn với quy hoạch các vùng, cụm dân cư,
khuyến khích các thành phần kinh tế và tập trung phát triển
công nghiệp chế biến (lương thực, nông sản) và sản phẩm khai
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ IV (nhiệm kỳ 1991 -
1995).
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
thác cung ứng vật liệu xây dựng tạo ra nhiều hàng hóa phục vụ
sản xuất, xuất khẩu và đời sống. Đồng thời gắn kết kế hoạch
phát triển của tỉnh, các ngành công nghiệp Trung ương và nước
ngoài đầu tư trên địa bàn để phát triển công nghiệp của huyện
với quy mô nhỏ và dịch vụ công nghiệp là chủ yếu.
- Dịch vụ: Mở rộng các ngành làm dịch vụ, phục vụ kịp
thời các yêu cầu sản xuất và đời sống. Trước hết, đảm bảo giao
thông, bưu điện, cơ khí sửa chữa, dịch vụ vật tư nhà nước, dịch
vụ cho công nghiệp tỉnh, Trung ương, nước ngoài đầu tư trên
địa bàn huyện. Trong tình hình khó khăn, xã Đại Phước đã linh
hoạt và chủ động từ nguồn vốn xã hội để thành lập nhà máy
chạy dầu diezen để phục vụ cho nhu cầu về điện khu vực Phước
Lý. Hoạt động của nhà máy đem lại hiệu quả cho người dân địa
phương từ năm 1992 đến năm 1994. Tuy nhiên, trong quá trình
quản lý, điều hành còn có những hạn chế nên sau này nhà máy
đã ngưng hoạt động.
Những định hướng phát triển của huyện Long Thành, xã
Đại Phước từ thực tế của địa phương đã thực hiện theo chủ
trương và kế hoạch, từng bước định hướng phát triển có tính
chiến lược, đặt cơ sở nền tảng cho phát triển mang tính công
nghiệp hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn. Tuy
nhiên, với phần lớn diện tích là đất nông nghiệp, địa phương
đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại và thương
nghiệp khi cơ sở khu chợ được duy trì. Nguồn đất ở địa phương
với diện tích lớn nhưng hệ thống giao thông còn hạn chế nên
241

25.2 Page 242

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
địa phương kêu gọi sự đầu tư có tính chiến lược để phát triển
theo hướng công nghiệp từ quy hoạch của huyện và các ngành.
Trong thành quả chung của huyện Long Thành, cơ sở vật
chất có những chuyển biến tích cực. Về hệ thống giáo dục, năm
1992, trường cấp 1-2 Đại Phước được tách thành 2 trường cấp I
và cấp II. Từ năm học này, trường chính thức mang tên Trường
Trung học cơ sở Đại Phước, đáp ứng nhu cầu học tập cho địa
phương và các xã lân cận. Hệ thống đường giao thông được
quan tâm sửa chữa. Một số cầu cống, công trình chống xâm
nhập mặn được tu sửa; đặc biệt kho dự trữ lương thực tại xã Đại
Phước được xây dựng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, xã Đại Phước có
những chuyển biến tích cực. Vùng đất nông nghiệp được khai
thác hiệu quả. Chợ Đại Phước phát triển hệ thống dịch vụ với
nguồn hàng hóa dồi dào bởi chính sách phục vụ hàng thiết
yếu, đáp ứng nhu cầu cho nhân dân cả vùng giáp ranh của địa
phương.
2. Tiến hành sự nghiệp Công nghiệp hóa (1994 - 2000)
Sau 8 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, năm
1994, huyện Nhơn Trạch được tái thành lập trên cơ sở tách ra
từ huyện Long Thành. Sự kiện tái thành lập huyện Nhơn Trạch
trên cơ sở những thành quả đạt được và định hướng phát triển
của tỉnh trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa
đối với vùng đất Long Thành, Nhơn Trạch phù hợp với tình
hình mới.
242

25.3 Page 243

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Huyện Nhơn Trạch phía Đông giáp huyện Long Thành
(Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Nhà Bè, phía Bắc giáp huyện
Thủ Đức, và phía Nam giáp huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí
Minh) và huyện Châu Thành (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Tổng
diện tích tự nhiên của huyện Nhơn Trạch gồm 40.146ha, trong
đó đất nông nghiệp chiếm 17.657ha, đất lâm nghiệp chiếm
12.023ha, đất chuyên dùng có 940ha, đất dân cư có 1.472ha và
các loại khác có 8.054ha. Tổng số dân có 101.882 người với
17.948 hộ. Mật độ dân số 254 người/km2. Diện tích đất nông
nghiệp bình quân 1.733m2/người. Về cơ cấu hành chính, huyện
Nhơn Trạch có các đơn vị trực thuộc, gồm 11 xã: xã Đại Phước,
xã Phước Thiền, xã Phú Hội, xã Long Tân, xã Phú Thạnh, xã
Phú Hữu, xã Phước Khánh, xã Vĩnh Thanh, xã Phước An, xã
Long Thọ, xã Hiệp Phước1. Ngày 25-8-1994, Tỉnh ủy và Ủy
ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chính thức tổ chức lễ bàn giao giữa
hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày 1-9-1994, huyện
chính thức đi vào hoạt động.
Về địa giới của xã Đại Phước có sự thay đổi khi ấp Thị Cầu
được tách ra để thành lập xã mới Phú Đông2. Xã Đại Phước còn
3 ấp: Phước Lý, Bến Cộ, Cù lao (Ông Còn), bắt đầu đi vào hoạt
động với đơn vị hành chính cấp trên là huyện Nhơn Trạch. Tổ
1  Nghị định số 51 - CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 23-6-1994 về việc điều chỉnh địa giới huyện, xã thuộc tỉnh Đồng Nai.
2  Xã Phú Đông được thành lập trên cơ sở ấp Thị Cầu của xã Đại Phước, ấp
Giồng Ông Đông của xã Phú Hữu. Xã Phú Đông chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 4-9-1994 theo nghị định 109/CP của Chính phủ ngày 29-8-1994 của Chính
phủ.
243

25.4 Page 244

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chức đảng, bộ máy chính quyền và các đoàn thể được tiếp tục,
kế thừa của giai đoạn trước. Một số nhân sự của cấp ủy, chính
quyền của xã Đại Phước được điều động, hỗ trợ cho xã Phú
Đông mới thành lập.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
+ Hoạt động, công tác Đảng
Năm 1996, chi bộ xã Đại Phước tiến hành đại hội. Đồng chí
Dương Văn Nhơn được giao trọng trách giữ chức Bí thư, đồng
chí Thái Thiện Châu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân.
Các đồng chí ủy viên gồm: Phan Văn Đạo, Lê Hoàng Mậu,
Nguyễn Thành Tới, Tạ Quốc Hùng, Dương Văn Khanh.
Sau đại hội, Chi ủy xã lãnh đạo và thực hiện công tác giáo
dục chính trị tư tưởng đối với đảng viên, cán bộ, quần chúng.
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6, lần 2, về xây dựng,
chỉnh đốn đảng, cấp ủy xã xem là trọng tâm hàng đầu để đảng
viên kiên định lập trường, không dao động và tổ chức đảng
được kiện toàn. Những nghị quyết của tổ chức đảng các cấp,
chương trình hành động được triển khai. Đảng viên và tổ chức
trực thuộc đã nhận xét, đánh giá theo tinh thần phê bình và tự
phê bình. Công tác phát triển đảng được duy trì, đạt chỉ tiêu đề
ra trong mỗi năm. Công tác kiểm tra đảng thực hiện trên nhiều
lĩnh vực, phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm,
chấn chỉnh và kiện toàn các tổ chức cơ sở. Xã Đại Phước có 41
đảng viên (05 đảng viên dự bị), được công nhận đạt Trong sạch
vững mạnh.
244

25.5 Page 245

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
+ Bộ máy chính quyền
Hoạt động của hội đồng nhân dân xã duy trì. Các kỳ họp
được nâng cao về chất lượng, tập trung về những giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trong tình hình
khó khăn chung, một số đại biểu chưa phát huy khả năng vai
trò, xin thôi nhiệm vụ. Hoạt động ủy ban từng bước đi vào nề
nếp, tập trung thực thi các nhiệm vụ theo nghị quyết của cấp
ủy, hội đồng nhân dân đề ra. Nhân sự bộ máy được kiện toàn từ
cấp xã, ấp. Quy chế dân chủ được phổ biến rộng rãi đến cơ sở.
Cán bộ được quy hoạch theo tiêu chí, quy định. Những trường
hợp được quy hoạch được cử học tập bồi dưỡng theo vị trí công
tác để đáp ứng yêu cầu: trình độ chuyên môn về tài chính, kỹ
năng quản lý nhà nước, trình độ trung cấp lý luận chính trị và
các khóa bồi dưỡng ngắn hạn.
+ Hệ thống chính trị, đoàn thể
Cấp ủy đảng, mặt trận và đoàn thể luôn tăng cường công tác
tuyên truyền, triển khai nghị quyết, quy chế, chương trình hành
động... đến đoàn viên, hội viên, quần chúng nhân dân. Khối dân
vận hoạt động hiệu quả phản ánh qua tổ chức, chế độ làm việc
và kết quả trong từng năm. Qua đó, sức mạnh của các tầng lớp
nhân dân, đoàn thể được huy động, tham gia các phong trào
phát động ở địa phương.
Mặt trận tỉnh góp phần hiệu quả trong phổ biến quy chế dân
chủ đến địa bàn dân cư, lấy ý kiến đóng góp, tiếp xúc của cử tri
với đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Mặt trận đa
245

25.6 Page 246

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
dạng trong hoạt động, phối hợp, ký kết liên tịch với các đơn vị,
đoàn thể tuyên truyền đúng đối tượng, huy động sức dân tham
gia các chương trình quốc gia (phòng chống tội phạm, tệ nạn
ma túy, quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng đời sống
văn hóa...).
Tổ chức các đoàn thể chính trị ở địa phương phát huy được
hội viên trong lĩnh vực phụ trách, vận động. Đoàn Thanh niên
kết nạp được lực lượng trẻ và tổ chức các khóa đào tạo, nâng
tổng số lên hơn 200 người với 8 chi đoàn trực thuộc. Hội Liên
hiệp thanh niên có trên 2.000 hội viên, 14 tổ chi hội, tích cực
giúp đỡ các trường hợp khó khăn, tìm kiếm việc làm ổn định,
khởi nghiệp. Phong trào Tuổi trẻ tham gia giữ nước được đoàn
viên, thanh niên hưởng ứng, thể hiện qua tinh thần tự nguyện,
hăng hái tham gia nghĩa vụ quân sự. Hội Nông dân thực hiện
hỗ trợ nhiều hộ gia đình vay vốn sản xuất, chăn nuôi... đồng
thời tổ chức các lớp tập huấn phổ biến kiến thức, kỹ thuật thu
hút hàng trăm lượt người tham dự. Hội Phụ nữ tổ chức nhiều
hoạt động thiết thực, gắn với quyền lợi của hội viên. Toàn xã có
hơn 1.500 hội viên, tích cực tham gia các hoạt động, phong trào
phát động. Hội phối hợp tổ chức tuyên truyền, tập huấn cho
hội viên nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe, nuôi dạy con
cái, năng lực và phương pháp hỗ trợ giúp nhau làm kinh tế gia
đình, thực hiện kế hoạch hóa gia đình... Hội thành lập nhiều tổ
phụ nữ tương trợ, tiết kiệm cùng góp vốn cho hội viên vay cải
thiện đời sống gia đình. Hội Cựu chiến binh đi vào hoạt động
với nhân lực kiện toàn từ Ban Chấp hành, duy trì chế độ sinh
246

25.7 Page 247

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hoạt, gắn kết hội viên trong các phong trào địa phương, gắn với
địa bàn dân cư. Hội viên được hỗ trợ vay vốn giải quyết việc
làm, vượt khó, ổn định cuộc sống. Các hội Chữ thập đỏ, Người
cao tuổi với sự tham gia của nhiều hội viên, tổ chức nhiều hoạt
động mang tính thiện nguyện, kết quả thiết thực và ý nghĩa
nhân văn trên địa bàn. Nhiều đợt khám, chữa bệnh, phát thuốc
miễn phí được Hội Chữ thập đỏ tổ chức cho hàng ngàn lượt
người dân địa phương. Nhiều hội viên cao tuổi được hỗ trợ,
giúp đỡ khi gia đình có tang sự. Các hội viên tích cực tham gia
phong trào ở cơ sở trong công tác xây dựng đời sống văn hóa,
vận động gia đình văn hóa, gương sáng gia đình “Ông bà mẫu
mực, con cháu thảo hiền”.
- Lĩnh vực kinh tế
Trên lĩnh vực nông nghiệp, diện tích đất trong canh tác
khoảng 1.300ha, không tăng so với giai đoạn trước. Diện tích
canh tác lúa nước đạt 825ha, tập trung ở ấp Bến Cộ, ấp Cù Lao.
Sản xuất có những thuận lợi khi hệ thống kênh mương được
đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật, chọn giống mới, hỗ trợ vốn.
Tuy nhiên, thời tiết khô hạn kéo dài đã ảnh hưởng đến năng
suất, bình quân 3,2 tấn/ha, góp phần tổng thu hoạch nông sản
đạt vượt chỉ tiêu. Trên kết quả nghiên cứu, trung tâm khuyến
nông tỉnh đầu tư 5 địa điểm thí nghiệm về giống mía Roc 18 ở
khu vực Ông Kèo với diện tích 2,5ha. Tại khu vực ấp Cù Lao,
xây dựng điểm trình diễn giống lúa Bắc thơm với diện tích 5ha.
Trong chăn nuôi, nhiều hộ dân duy trì, tổng đàn gia súc trên địa
247

25.8 Page 248

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
bàn đạt: 125 con trâu, 1.627 con heo, 3.335 con gà, 1.300 con
vịt. Phòng dịch bệnh trên vật nuôi được duy trì. Một số hộ dân
tận dụng mặt nước ao hồ tự nhiên nuôi tôm, cá với diện tích
36ha; trong giai đoạn này, có 21ha nuôi tôm càng xanh đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Chợ Đại Phước được nâng cấp, tạo thuận
lợi cho buôn bán, trao đổi hàng hóa cho xã và các khu vực
lân cận.
Lĩnh vực xây dựng cơ bản khởi sắc với việc đầu tư của nhà
nước ở các công trình công cộng và người dân cải thiện môi
trường cư trú, làm việc. Hệ thống giao thông của xã được cải
thiện, đường liên ấp được người dân góp hàng ngàn ngày công,
tu sửa theo chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm. Một số
tuyến đường được lập hồ sơ dự án trình thẩm định, đầu tư (ấp
Phước Lý: 03, ấp Bến Cộ: 02, ấp Cù Lao: 01. Tuyến đê chống
ngập lụt, đảm bảo khu vực đất sản xuất ở ấp Cù Lao, Vàm Ô,
Phước Lý được nhân dân thực hiện. Kênh mương thoát nước
dài hàng ngàn mét ở ấp Bến Cộ, Phước Lý và dọc trục lộ 25 A
được nạo vét. Toàn xã có trên 800 hộ sử dụng điện.
Công tác quản lý đất đai được tiến hành thường xuyên với
nhu cầu sử dụng, chuyển đổi của người dân ngày càng nhiều
(chứng nhận quyền sở hữu, thừa kế, thuê, mua bán...). Tổng
quỹ đất công của xã được xác định 161.756m2, trong đó xã
quản lý 4.982m2, cá nhân quản lý 35.859m2, các tổ chức quản
lý 120.915m2. Công tác cấp chứng nhận quyền sử dụng đất đạt
hiệu quả trên 1.560 giấy. Chính quyền xã điều tra, xác nhận giải
quyết đền bù cho nhiều hộ dân thiệt hại do thực hiện các công
248

25.9 Page 249

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
trình điện khu vực Phú Mỹ, Nhà Bè và thiệt hại từ cống Phước
Lý. Nguồn ngân sách của xã Đại Phước mỗi năm thu đạt chỉ
tiêu và đáp ứng nhu cầu, yêu cầu các hoạt động của địa phương.
Đặc biệt, trong nhiệm kỳ, qua các kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội địa phương, có sự đóng góp tích cực của người dân trên
nhiều lĩnh vực.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Về văn hóa, xã có đài truyền thanh được đầu tư với cơ sở
vật chất, trang thiết bị gồm hệ thống dây, loa, máy tăng âm...
đưa vào hoạt động. Đài phát thanh thực hiện biến chủ trương,
chính sách của Đảng, nhà nước và thông tin của địa phương đến
với người dân với số giờ truyền thông tăng cùng với các loại
hình tuyên truyền qua băng rôn, khẩu hiệu. Trong các sự kiện
chính trị, xã phối hợp với các đơn vị của huyện, tỉnh tổ chức các
hoạt động biểu diễn văn nghệ, chiếu phim phục vụ quần chúng.
Phong trào văn nghệ của địa phương phát triển tốt, tham gia
tích cực các hội diễn, hội thi cấp huyện. Từ sự hỗ trợ của tỉnh,
hoạt động văn nghệ của địa phương được đầu tư trang thiết bị:
ampli, loa thùng, đà, trống... Phong trào thể thao của huyện
khởi sắc với các hoạt động đa dạng. Xã Đại Phước thành lập
các đội bóng đá, bóng chuyền, việt dã, võ cổ truyền, cờ tướng...
ở các độ tuổi, tổ chức thi đấu giao hữu, tham gia các đợt thi đấu
liên xã, huyện. Tại địa phương, hình thành khu biểu diễn phục
vụ văn nghệ, cải lương, chiếu phim video, phục vụ nhu cầu giải
trí của người dân địa phương. Tuy nhiên, vẫn có những hạn
249

25.10 Page 250

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chế, tồn tại: thư viện của xã không có định suất về thủ thư nên
không hoạt động, xã chưa có khu luyện tập thể dục - thể thao,
một số điểm kinh doanh dịch vụ giải trí vi phạm pháp luật...,
vẫn còn xảy ra một số vụ việc mang tính chất mê tín, dị đoan.
Nhìn chung, trong xây dựng đời sống văn hóa, xã Đại Phước
thu được những kết quả đáng khích lệ. Số hộ dân đăng ký thực
hiện nếp sống văn hóa, gia đình văn minh từng năm tăng lên và
đạt tỷ lệ cao trong bình xét.
Ngành giáo dục thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học. Đội ngũ
giáo viên của các trường tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn
được tăng cường về số lượng và trình độ đáp ứng yêu cầu. Số
học sinh qua từng năm tăng, kết quả và thành tích học tập đạt tỷ
lệ ở các mức cao về lên lớp, tốt nghiệp. Trường mẫu giáo hoạt
động, thu hút được phụ huynh gửi con em vào và đáp ứng được
nhu cầu chăm lo ở độ tuổi mầm non. Xã Đại Phước hoàn thành
chương trình phổ cập tiểu học và tiến hành phổ cập trung học
cơ sở.
Trạm y tế của xã hoạt động, phục vụ thăm khám, chăm sóc
sức khỏe ban đầu cho người dân. Nhân lực của trạm được bố
trí 5 người, thêm định suất về hộ sinh, có tổ thuốc nam để hỗ
trợ trong khám, điều trị bệnh. Khi cấp trên sáp nhập với phòng
khám khu vực từ xã Phú Thạnh chuyển đến với xã Đại Phước
với tính chất khu vực (bao gồm Đại Phước, Phú Thạnh, Phú
Đông, Phú Hữu), đội ngũ thầy thuốc được tăng cường có 12
người, trong đó có 1 bác sĩ, số gường bệnh 10. Hoạt động khám
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chữa bệnh được duy trì, đáp ứng cho người dân tại chỗ. Địa
phương kết hợp với y tế của huyện, tiến hành các chương trình
tiêm chủng mở rộng, kiểm tra phòng dịch, an toàn thực phẩm,
phòng chống dịch bệnh. Phong trào kế hoạch hóa gia đình hoạt
động hiệu quả thông qua đội ngũ cộng tác viên và hội viên
phụ nữ. Nhiều gia đình cam kết thực hiện các biện pháp phòng
tránh (triệt sản, đặt vòng, sử dụng thuốc ngừa thai, sử dụng bao
cao su), không sinh con thứ 3. Phong trào y tế cộng đồng được
đẩy mạnh, trong đó có hoạt động phát quang, phòng dịch, tẩm
mùng chống muỗi gây sốt rét duy trì 2 lần mỗi năm do đặc thù
môi trường vùng thấp, sông rạch, nhiều loại côn trùng.
Chính sách đối với gia đình có công cách mạng, đền ơn
đáp nghĩa được xã duy trì. Từ nguồn quỹ vận động, xã tiến
hành xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương và hỗ trợ, trợ
cấp khó khăn với tổng kinh phí một trăm triệu đồng. Các đối
tượng, gia đình chính sách được tham gia các hoạt động về
nguồn do huyện tổ chức. Xã tiếp tục thực hiện lập hồ sơ các đối
tượng chính sách theo quy định: liệt sĩ, thương bệnh binh, bà
mẹ Việt Nam anh hùng, đề nghị tặng thưởng huân, huy chương.
Chương trình giải quyết việc làm (Chương trình 120) góp phần
giải quyết cho hàng trăm lượt lao động tại địa phương khi giới
thiệu vào làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn Nhơn
Trạch. Tại xã, hình thành mô hình dự án nuôi thủy sản (tôm
càng xanh) đối với các hộ gia đình. Các chương trình xã hội:
Vệ sinh nước sạch môi trường, xóa đói giảm nghèo, tặng thẻ
251

26.2 Page 252

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí, học bổng cho học
sinh vượt khó... đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho các hộ dân
theo quy định.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Trật tự xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn được đảm
bảo. Lực lượng xã đội, công an kiện toàn về tổ chức và phối
hợp chặt chẽ trong công tác, tiến hành tuần tra, truy quét các
loại tội phạm, phòng ngừa tệ nạn xã hội. Là địa bàn liên xã có
đường bộ, đường thủy kết nối với nhiều địa phương, trên địa
bàn xã vẫn còn những vụ vi phạm pháp luật, tai nạn giao thông,
trộm cắp, trong đó có những đối tượng từ nơi khác đến gây ra.
Đơn vị chức năng đã xử lý theo quy định và chuyển giao một số
vụ đến các cấp có thẩm quyền. Mạng lưới tổ an ninh nhân dân
phát triển với 66 tổ. Công tác quản lý nhân khẩu được duy trì,
tình hình địa bàn dân cư được ổn định. Về tuyển quân và xây
dựng lực lượng dân quân xã, ấp mỗi năm đều đạt chỉ tiêu theo
tỷ lệ dân số. Tổ chức và lực lượng dân quân với biên chế đầy đủ
trên địa bàn các ấp. Nhà nước và các đoàn thể phối hợp chung
trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo ở địa phương thực thi theo quy định.
*
Nhiệm kỳ 1996 - 2000, xã Đại Phước có những bước chuyển
biến tích cực, đạt những chỉ tiêu trong phát triển kinh tế - xã hội
đại hội đã đề ra. Tuy nhiên, nhìn chung trong xu thế phát triển,
chất lượng và hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
252

26.3 Page 253

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
của địa phương. Một số vấn đề nảy sinh trong phát triển, đặc
biệt là ô nhiễm môi trường là một trong những thách thức liên
quan, tác động trực tiếp đến đời sống của người dân. Tổng kết,
đánh giá quá trình lãnh đạo của cấp ủy trên nhiều phương diện,
cấp ủy xã Đại Phước nhận diện những hạn chế, nguyên nhân và
rút ra những bài học kinh nghiệm để đưa địa phương tiến lên
trong nhiệm kỳ 5 năm, đầu thế kỷ XXI với bối cảnh, tình hình
xã hội vừa thuận lợi và thách thức khi đất nước bước vào xu thế
hội nhập phát triển.
253

26.4 Page 254

▲back to top


CHƯƠNG VII
THỜI KỲ HỘI NHẬP,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG THÔN
(2000 - 2010)
Thập niên đầu thế kỷ XXI, với những cơ hội mở ra đối với
đất nước trong thời kỳ hội nhập phát triển, trong định hướng
phát triển của Nhơn Trạch trở thành đô thị, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, xã Đại Phước đã phát huy
sức mạnh quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
xã và quản lý, điều hành của chính quyền địa phương thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo phương hướng đặt ra
và giữ vững trật tự xã hội, an ninh - quốc phòng.
1. Thời kỳ hội nhập phát triển (2000 - 2005)
Sau 5 năm thực hiện kế hoạch giai đoạn trước năm 2001, cơ
cấu kinh tế của địa phương có những chuyển biến: ngành nông
nghiệp và dịch vụ đóng vai trò chủ đạo, công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguồn thu nhập chính của
người dân vẫn là nông nghiệp và dịch vụ. Trong định hướng
phát triển của Nhơn Trạch đô thị, nguồn lao động phi nông
nghiệp tăng lên góp phần nâng cao dần tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ.
254

26.5 Page 255

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Năm 2005, toàn xã có 1.531 hộ gồm 8.116 khẩu (trong đó
nam 3.935, nữ 4.181). Về đời sống có 30% hộ có mức sống khá
giả, 67,5% có mức sống trung bình, 2,5% hộ nghèo. Về trình
độ dân trí, xã đã được trên công nhận hoàn thành phổ cập trung
học cơ sở và đang làm các thủ tục đề nghị công nhận hoàn thành
phổ cập bậc trung học. Nguồn lao động có 4.982 người (chiếm
61% dân số), trong đó lao động nông nghiệp 2.695 người (tỷ lệ
54%), lao động ngành nghề (tỷ lệ 46%). Tỷ lệ lao động trong độ
tuổi có việc làm 4.076 người (tỷ lệ 82%), lao động chưa có việc
làm ổn định có 459 người (tỷ lệ 9%), còn lại 447 người không
có việc làm (tỷ lệ 10%).
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
+ Hoạt động, công tác Đảng
Tại đại hội lần thứ I, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại Phước
nhiệm kỳ 2001 - 2005 được bầu gồm các đồng chí: Trần Văn
Nam giữ chức Bí thư, Phạm Quốc Hợp giữ chức Phó Bí thư và
các ủy viên: Phạm Thành Công, Lương Hữu Ích, Võ Văn Đúng,
Bùi Công Đáng, Võ Hồng Thêm.
Đảng bộ chú trọng nâng cao chất lượng học tập, quán triệt
đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng cho
toàn thể cán bộ đảng viên, đoàn viên và quần chúng nhân dân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng bộ huyện Nhơn Trạch,
lần thứ I của Đảng bộ xã có 100% đảng viên học tập. Đảng bộ
xã Đại Phước xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực
hiện và thực hiện nghiêm kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật, đấu
255

26.6 Page 256

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng cán bộ, đảng viên và quần chúng. Nhằm đảm bảo
chất lượng học tập, Đảng bộ không ngừng cải tiến nội dung,
hình thức học tập. Qua học tập, đảng viên, cán bộ nâng cao
bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng, sự
nghiệp đổi mới của đất nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền Chủ nghĩa xã hội. Trong nhiệm kỳ, Thường trực Đảng
ủy duy trì chế độ giao ban tuần với Thường trực Hội đồng nhân
nhân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban mặt trận của địa phương, kịp
thời nắm bắt tình hình, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ. Đảng bộ xã tiến hành sơ, tổng kết: 10 năm thực hiện
quy chế dân chủ; nghị quyết xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; 5 năm thực hiện chính sách
đại đoàn kết dân tộc, công tác dân tộc, tôn giáo; 5 năm công tác
đoàn và phong trào thanh thiếu niên; cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, 15 năm thực
hiện Di chúc của Bác; 3 năm mô hình Đảng bộ lãnh đạo thực
hiện công tác khoa giáo. Đảng bộ xã Đại Phước được kiện toàn.
Đến năm 2005, Đảng bộ có 6 chi bộ với 55 đảng viên.
+ Bộ máy chính quyền
Quy chế dân chủ được thực hiện tốt, người dân tham gia
trao đổi trong xây dựng qui ước, hương ước, đóng góp ý kiến.
Trong nhiệm kỳ, địa phương chủ động và phối hợp với các cơ
quan, đơn vị cấp trên, cùng đoàn thể tuyên truyền, vận động, tổ
chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, bầu
cử hội đồng nhân dân 3 cấp có 5.894 cử tri, đạt tỷ lệ 100%. Đối
256

26.7 Page 257

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
với hội đồng nhân dân xã, có 39 ứng cử viên và kết quả bầu
đạt 27 đại biểu theo quy định, số lượng. Các đại biểu hội đồng
nhân dân duy trì chế độ làm việc, phát huy chức năng theo luật
định, góp phần trong xây dựng những nghị quyết phát triển
địa phương và giám sát hoạt động chung đối với bộ máy chính
quyền.
Từ kinh nghiệm và đúc kết bài học, bộ máy ủy ban xã Đại
Phước được kiện toàn, sắp xếp và bố trí hợp lý, việc điều hành
quản lý của nhà nước có kế hoạch và hiệu quả, hoàn thành các
chỉ tiêu kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Biên chế
trong bộ máy từng bước ổn định và thực hiện chế độ theo quy
định để khuyến khích, động viên trong thực hiện nhiệm vụ1.
Chính quyền xây dựng quy chế hoạt động, phân công, phân
nhiệm từng lĩnh vực, từng cá nhân phụ trách, đảm bảo thời gian
làm việc theo qui định. Năm 2005, bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả được thành lập, làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng
chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Thực hiện cơ chế “Một cửa” tại
địa phương đáp ứng nhu cầu cải cách lề lối làm việc, giải quyết
thủ tục hành chính đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
+ Hệ thống chính trị, đoàn thể
Chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đoàn thể được
nâng cao. Hoạt động của mặt trận, đoàn thể hiệu quả, đem lại
1  Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 10-10-2003 về cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn; nghị định số 121/NĐ-CP ngày 21-10-2003 của Chính phủ về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
257

26.8 Page 258

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
những thành quả tích cực, được đánh giá, xếp loại vững mạnh.
Những hoạt động nổi bật gắn với quần chúng, địa bàn dân cư
được tổ chức: Ra quân làm vệ sinh môi trường, làm đường giao
thông nông thôn, khám bệnh cấp thuốc miễn phí, đối thoại với
nhân dân về tình hình kinh tế - xã hội, công tác giải tỏa, đền bù
tái định cư ... Mặt trận xã phối hợp các cơ quan, đơn vị, cơ sở
ấp phát động nhiều đợt phong trào thi đua yêu nước, tổ chức
học tập chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước (đấu tranh
phòng chống tội phạm trên địa bàn dân cư, thực hiện “4 giảm”,
“4 xây, 4 xóa” có 5.678 lượt người tham gia. Vận động các tổ
chức, cá nhân, đơn vị đỡ đầu 6 gia đình chính sách hàng tháng.
Cuộc vận động “Vì người nghèo” qua 16 đợt với 30 tập thể,
200 cá nhân đóng góp hơn 2 tỷ đồng mang ý nghĩa sâu sắc,
góp phần chăm lo người nghèo, hộ nghèo, tạo điều kiện thoát
nghèo. Trong những sự kiện chính trị, dịp lễ ở địa phương, xã
tặng 3.640 phần quà, khám bệnh cấp thuốc miễn phí cho 863
lượt người, xây dựng 42 căn nhà tình thương, tặng 242 suất học
bổng. Trong công tác tuyên truyền và vận động nhân dân tham
gia thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, mặt trận tổ chức được 387 cuộc với hơn
9.675 lượt người tham dự.
Hội Nông dân tổ chức triển khai những chính sách liên
quan, luật pháp liên quan (nghị quyết về Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; Luật Đất đai, chế độ hỗ trợ, bồi thường, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất...) cho 10.990 lượt đến hội viên
tham gia. Hội có 407 hội viên. Ban Chấp hành hội hoạt động
258

26.9 Page 259

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tích cực, xây dựng 3 dự án vay vốn quỹ quốc gia giải quyết việc
làm, hỗ trợ thủ tục cho 599 hộ vay vốn sản xuất, kinh doanh với
số tiền trên 25 tỷ đồng.
Chi đoàn, Hội Liên hiệp thanh niên tổ chức phong trào
Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ giữ nước thu hút đoàn viên
tham gia tích cực. Dự án 120 về giải quyết việc làm đem lại ý
nghĩa thiết thực đối với tuổi trẻ, đặc biệt bộ đội xuất ngũ. Cùng
với tổ chức nhân sự lãnh đạo, Đoàn, hội quan tâm xây dựng chi
đoàn vững mạnh, tổ chức tuyên truyền giáo dục truyền thống
123 đợt, thu hút trên 15.800 lượt đoàn viên, hội viên, thanh niên
tham gia. Trong 5 năm, chi đoàn có 248 đoàn viên, Hội Liên
hiệp thanh niên có 722 thành viên. Những hoạt động của thanh
niên đa dạng: Dân vận, Vệ sinh môi trường, Tháng thanh niên,
Chiến dịch Mùa hè xanh và các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể dục thể thao, hội trại tòng quân nhập ngũ. Từ lực lượng
đoàn viên ưu tú, chi đoàn giới thiệu 27 đoàn viên cho đội ngũ
trung kiên, phấn đấu vào Đảng.
Hội Phụ nữ thực hiện tốt các phong trào thi đua và chương
trình công tác. Trong nhiệm kỳ, hội đã hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống, nuôi dạy con
cái, tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình... Qua phong trào đã
phát triển 401 hội viên, nâng tổng số hội viên lên 978 người.
Hội được đánh giá là đơn vị Vững mạnh.
Hội Cựu Chiến binh có 56 hội viên, là lực lượng nòng cốt
trong phong trào quần chúng ở địa phương. Hội viên phát huy
259

26.10 Page 260

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tinh thần hăng hái, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng,
chính quyền, giúp hội cải thiện đời sống về vật chất và tinh
thần. Từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, các cựu binh được
hỗ trợ vay 447.200.000 đồng sản xuất, chăn nuôi, ổn định đời
sống. Hội được đánh giá là lá cờ đầu trong phong trào hội của
huyện Nhơn Trạch.
Công đoàn xã được thành lập, có 31 đoàn viên, đi vào hoạt
động, phát huy được vai trò, chức năng tại địa phương, hỗ trợ
chính quyền trong nhiệm vụ và bảo đảm quyền lợi chính đáng
cho người lao động. Hoạt động công đoàn thể hiện tính dân chủ
qua hội nghị cán bộ. viên chức góp ý kiến xây dựng cơ quan,
phát động phong trào thi đua làm việc đạt hiệu quả cao.
Hội Chữ thập đỏ không ngừng phát triển, chất lượng hoạt
động nâng cao. Các chi hội, tổ hội phát huy được chức năng
trong các hoạt động phong phú, kịp thời: cứu trợ, chăm sóc sức
khoẻ nhân dân, cấp học bổng, đỡ đầu gia đình chính sách, cứu
trợ hoàn cảnh khó khăn, thiệt hại do thiên tai, bão lụt.
Hội Người cao tuổi tổ chức những hoạt động hữu ích đối
với hội viên, thực hiện cuộc vận động “Tuổi càng cao trí càng
sáng, nêu gương sáng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hội tham
gia giúp đỡ 42 cụ đau bệnh có hoàn cảnh khó khăn và hỗ trợ
tích cực công tác hoà giải phát sinh ở khu dân cư. Hội Người
cao tuổi có 677 hội viên, nhiều năm liền được công nhận đạt
Vững mạnh.
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
- Lĩnh vực kinh tế
Đại hội Đảng bộ xã Đại Phước xác định cơ cấu kinh tế của
địa phương trong 5 năm đầu thế kỷ XXI: Nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ và thương mại và tổ chức quy hoạch
phân vùng để sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
phù hợp, có giá trị kinh tế cao. Tổng diện tích gieo trồng của
xã đạt 1.300ha, tăng vòng quay sử dụng đất lên 2 lần, năng
suất bình quân từ 3,2 đến 3,5 tấn/ha, cải tạo đất trồng lúa 1 vụ
lên sản xuất 2 đến 3 vụ. Mỗi năm, các vụ lúa có diện tích canh
tác đều vượt chỉ tiêu đề ra. Vụ sản xuất lúa Đông Xuân trong
các năm đạt diện tích tăng dần so với kế hoạch: năm 2001 đạt
146/146ha, năm 2002 đạt 205/200ha, năm 2003 đạt 320/275ha,
năm 2004 và 2005 đều đạt 668/668ha. Trong canh tác vụ Hè
Thu vượt chỉ tiêu đề ra: năm 2001 đạt 450/400ha, năm 2002
đạt 610/410ha, năm 2003 và năm 2004 đạt 668/668ha; riêng
năm 2005 đạt 433/668ha (65% kế hoạch) đề ra. Ngoài lúa, diện
tích trồng sen của xã trong mỗi năm đạt 15 ha và 7 ha các loại
cây ăn trái. Cây sen tiếp tục được thâm canh và trở thành một
nguồn thu nhập của các hộ gia đình. Cơ giới hóa nông nghiệp
được tăng cường từ các hộ dân có nguồn vốn, đầu tư, mua sắm
phục vụ cho canh tác với 127 loại máy móc, tăng 68 chiếc so
với năm 2000.
Trong chăn nuôi, địa phương chú trọng thực hiện tiêm
phòng ngừa cho gia súc gia cầm đúng định kỳ nên không có
xảy ra dịch bệnh. Đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt và hàng
261

27.2 Page 262

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
năm đều được tăng lên. Về các loại, tổng số lượng thống kê:
năm 2001 có 16.430 con, năm 2002 có 26.119 con, năm 2003
có 27.250 con, năm 2004 do ảnh hưởng dịch cúm gia cầm nên
đàn gia súc gia cầm của xã duy trì ở mức 16.200 con.
Về nuôi thủy sản, chính quyền vận động nhân dân sử dụng
nước ao hồ nuôi tôm cá các loại với tổng diện tích 25ha (năm
2001 đưa vào sử dụng 15ha, năm 2002 có 19ha, năm 2003 có
23ha, năm 2004 có 25ha, năm 2005 đưa vào sử dụng 29ha).
Trong nuôi trồng thủy sản, nhân dân tập trung loại có giá trị
kinh tế và đầu tư kỹ thuật, phương pháp khoa học: nuôi tôm
càng xanh 21ha, nuôi cá các loại 8ha. Hình thức tập thể trong
nuôi thủy sản được hình thành với mô hình kinh tế hợp tác gồm
15 hộ nuôi tôm càng xanh trên diện tích 5,70ha, đặt nền tảng cơ
sở để thành lập hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp.
Từ sự hỗ trợ của trung tâm Khuyến nông tỉnh, địa phương
duy trì, tổ chức các đợt tập huấn cho nông dân trên lĩnh vực
nông nghiệp. Công tác bảo vệ cây trồng, vật nuôi được duy trì,
tổ chức thăm đồng thường xuyên nên phát hiện kịp thời sâu
bệnh trên cây trồng, hướng dẫn cho nông dân các biện pháp
phòng trừ sâu bệnh, phối hợp cùng hội Nông dân, trạm Khuyến
nông, trạm Bảo vệ thực vật huyện phòng trừ sâu bệnh, sử dụng
thuốc sinh học làm giảm nguy cơ dịch phá hoại. Qua tập huấn,
duy trì công tác chăm sóc trong trồng trọt, chăn nuôi, nhiều hộ
dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi
góp phần tăng năng suất, sản lượng, nguồn thu nhập và ổn định
kinh tế.
262

27.3 Page 263

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Từ nhiều nguồn vốn, từ ngân sách cấp trên và của địa
phương, vận động xã hội hóa, xã Đại Phước được trên đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng xã, ấp và công trình giao thông nông
thôn, công trình thủy lợi, hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý
nhà nước (trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân xã, văn phòng
làm việc cho 3 ban ấp). Các tuyến đường giao thông trên địa
bàn được xây dựng mở rộng, nâng cấp. Ấp Bến Cộ có 4 đường
nông thôn được đầu tư trên 46 triệu thi công vào năm 2001.
Hai đường giao thông ở địa bàn ấp Phước Lý thi công vào
năm 2002. Bờ bao chống ngập và nhiễm phèn ở ấp Bến Cộ,
Cù Lao được đầu tư gia cố với kinh phí khoảng 51 triệu đồng.
Năm 2003, 6 đường giao thông ở các ấp của xã được thi công
với chiều dài 1.019m (ấp Phước Lý 3, Bến Cộ 2, Cù Lao 1,
có 2 đường bê tông xi măng). Năm 2004, thi công 5 đường
đi nông thôn (ấp Phước Lý: 4, ấp Bến Cộ: 1, có 1 đường bê
tông xi măng) với tổng kinh phí 234.331.000 đồng. Năm 2005,
thực hiện 2 công trình đường nông thôn với kinh phí thực hiện
81.900.000 đồng, nguồn vốn nhân dân đóng góp.
Quản lý đất đai của xã được duy trì trong tình hình có
những biến động với công tác quy hoạch phát triển theo định
hướng đô thị của huyện Nhơn Trạch. Công tác cấp phát giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoàn thành chỉ tiêu với được
1.652/1.652 (đạt 100%). Công tác thống kê, điều tra, xác minh
trong diện quy hoạch, giải tỏa được thực hiện chặt chẽ; đặc biệt
khi ấp Cù Lao tiến hành xây dựng dự án đô thị du lịch với quy
mô lớn, hiện đại. Ngày 5-4-2005, Cù lao Ông Còn với diện tích
263

27.4 Page 264

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
khoảng 750ha được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư Dự
án Khu đô thị mới du lịch sinh thái1. Các đơn vị thực hiện dự án
phối hợp với chính quyền địa phương tiến hành đền bù (Công
ty DIC đền bù 266/500ha, công ty Nhật Quang 48/200ha. Số
hộ được đền bù 498/735 hộ (đạt 67,75%) với tổng kinh phí
gồm 113.669.208.000 đồng. Diện tích đất trên địa bàn xã có
nhiều lợi thế và được tiến hành giới thiệu, kêu gọi đầu tư: Nhận
quyết định qui hoạch Khu dân cư Đại Lộc với diện tích 35ha,
giới thiệu 2.650m2 mở rộng nhà máy nước Đại Phước, 800m2
xây dựng chốt dân phòng Bến Cộ và Phước Lý, 500m2 xây
dựng văn phòng ban ấp Phước Lý, 30.000m2 xây dựng chợ mới
Phước Lý.
Hàng năm, địa phương đảm bảo công tác thu chi ngân sách
đối với hoạt động sự nghiệp hành chính, tiết kiệm để xây dựng
cơ bản và mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý.
Nguồn kinh phí của địa phương đầu tư xây dựng cơ sở phục vụ
cho các bộ phận, đơn vị của chính quyền: công an, ủy ban và
trang thiết bị khoa học, công nghệ. Nguồn thu ngân sách nhà
nước hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu2. Các nguồn thu xã hội
1  Ngày 5-6-2003, UBND tỉnh Đồng Nai đã có Quyết định số 1667/QĐ.CT.UBT
về việc chấp thuận chủ trương và giới thiệu địa điểm cho Tổng công ty cổ phần
Đầu tư phát triển (DIC) lập thủ tục đầu tư dự án với diện tích khoảng 550ha (Dự
án Đại Phước). Đến ngày 15-11-2004, UBND tỉnh Đồng Nai đã có Quyết định
số 5510/QĐ.CT.UBT về việc thu hồi 4.561.399m2 đất để DIC thực hiện Dự án
Đại Phước. Thủ tướng Chính phủ có văn bản số 371/TTg-CN, ngày 5/4/2005 cho
phép đầu tư Dự án Khu đô thị mới du lịch sinh thái.
2  Thu ngân sách thu các năm: năm 2001 đạt 1.888.250.000/1.625.000.000 đồng;
năm 2002 đạt 1.275.241.655/888.454.000 đồng; năm 2003 đạt 2.053.441.332/
1.337.346.000 đồng; năm 2004 đạt 2.176.338.220/ 1.461.921.000 đồng.
264

27.5 Page 265

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hoá mặc dù chưa đạt chỉ tiêu nhưng hàng năm đều tăng, đáp
ứng cho nhu cầu đầu tư giao thông nông thôn, lao động công
ích. Tổng thu công trình điện được: 1.301.150.000 đồng, giải
quyết cho 1307/1380 hộ nằm trên trục đường dây có điện sử
dụng, so với hộ trên trục đường dây có điện đạt 94% (có 172 hộ
khu vực ấp Cù Lao không có điện), còn lại 73 hộ chưa có điện
do sinh sống ở xa trục đường dây nên không thể kéo điện được,
số hộ toàn xã chỉ đạt 84%. Đồng thời, địa phương được huyện,
tỉnh đầu tư hệ thống chiếu sáng công cộng dọc theo trục đường
chính của xã.
Trong vay vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, địa phương và
ngân hàng nông nghiệp huyện phối hợp xét duyệt cho 1.982
lượt hộ với tổng số tiền quay gần 15 tỷ đồng. Người dân được
tiếp cận nguồn vốn từ ngân sách nhà nước với thủ tục thuận lợi,
qua đó hạn chế được tình trạng cho vay nặng lãi trong xã hội.
Nhiều hộ dân sử dụng nguồn vốn hiệu quả.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Hoạt động thông tin được xã duy trì thường xuyên, có
nguồn cán bộ phụ trách. Các chủ trương, chính sách của đảng,
nhà nước và thông tin liên quan của địa phương được tuyên
truyền, phổ biến kịp thời đến người dân bằng nhiều hình thức
khẩu hiệu, băng rôn và hoạt động của đài truyền thanh. Mạng
lưới đài truyền thanh của xã được phủ khắp trên địa bàn phục
vụ thông tin cho 95% hộ dân, hàng ngày phát thanh 3 buổi.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
265

27.6 Page 266

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
được phát động trên các ấp, 2 ấp Bến Cộ và Phước Lý được
công nhận Ấp văn hóa, ấp Cù Lao tiếp tục phấn đấu thực hiện.
Công tác vận động thực hiện Nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa duy trì và có nhiều hộ đăng ký tham gia thực hiện. Tỷ lệ hộ
dân đăng ký tham gia tăng phản ánh tính tích cực và hiệu quả
của công tác tuyên truyền: Năm 2001 có 1.345/1.532 hộ (đạt
88%), năm 2002 có 1.532/ 1.548 hộ (đạt 99%), năm 2003 có
1.486/ 1.531 hộ (đạt 97%), năm 2004 có 1.496/ 1.531 hộ (đạt
98%), năm 2005 có 1.460/ 1.525 hộ (đạt 96%). Hoạt động kiểm
tra trên lĩnh vực văn hóa được tiến hành hiệu quả, góp phần làm
môi trường dịch vụ kinh doanh đi vào nề nếp. Trong 5 năm tổ
chức kiểm tra 76 đợt, phát hiện và chấn chỉnh hoạt động 14 vụ.
Tệ nạn mại dâm, ma túy trên địa bàn xã được ngăn chặn.
Xã Đại Phước quan tâm thực hiện các mục tiêu đề ra trong
lĩnh vực giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Cơ sở vật chất trường học được đầu tư xây
dựng, sửa chữa, đảm bảo đủ lớp học, phòng học. Đội ngũ giáo
viên được tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, đáp
ứng yêu cầu đổi mới công tác giảng dạy. Hàng năm, duy trì
vận động gia đình đưa con em trong độ tuổi đi học; đặc biệt
trẻ em trong độ tuổi vào cấp 1 đạt 100%. Kết quả lĩnh vực
giáo dục được phản ánh qua tỷ lệ ở mức cao về học sinh lên
lớp, tốt nghiệp các cấp: năm 2001 (lên lớp đạt 98%, tốt nghiệp
đạt 99%); năm 2002 (98%, 98%); năm 2003 (99%, 99%); năm
2004 (98%, 98%); năm 2005 (98%, 97%).
266

27.7 Page 267

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Hoạt động y tế của địa phương đảm bảo nhu cầu khám chữa
bệnh, chăm sóc cho nhân dân. Hàng năm, có sự phối hợp chặt
chẽ giữa bộ phận y tế cùng các đơn vị, ban ngành trong tuyên
truyền, vận động người dân tham gia các phong trào. Đội vệ
sinh phòng dịch huyện thực hiện phun ngừa mầm bệnh trên địa
bàn, ngăn ngừa dịch bệnh. Chương trình y tế cộng đồng được
thực hiện thường xuyên, trong đó, tiêm chủng cho trẻ em và
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hàng năm đều đạt từ 98% - 100%.
Công tác quản lý kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm đối với
các hộ buôn bán hàng rong được duy trì và chấn chỉnh kịp
thời, không để xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm, bán hàng
hóa gây ô nhiễm. Công tác truyền thông lồng ghép thực hiện
chương trình dân số được phối kết hợp đồng bộ giữa trạm y tế
và Ban Dân số - gia đình - trẻ em từ tuyên truyền vận động, tư
vấn kế hoạch hoá gia đình và các biện pháp phòng tránh thai
hiện đại. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình hàng năm đạt
chỉ tiêu và tỷ lệ dân số của xã tăng dưới 1,2%.
Xã Đại Phước làm tốt công tác giải quyết chế độ chính
sách cho gia đình thương binh liệt sĩ, hộ gia đình nghèo. Qua
các nguồn quỹ, đóng góp, địa phương tiến hành sửa chữa nhà
và trợ cấp khó khăn đột xuất cho gia đình chính sách. Trong 5
năm, địa phương xây dựng 12 căn nhà tình nghĩa, 54 căn nhà
tình thương cấp cho hộ nghèo khó khăn, sửa chữa 24 căn nhà
cho gia đình người có công. Công tác xóa đói giảm nghèo được
thực hiện hiệu quả, bằng các hình thức thành lập các tổ vay vốn
từ ngân hàng phục vụ người nghèo cải thiện kinh tế gia đình. Ở
267

27.8 Page 268

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
địa phương có 180 hộ thoát nghèo, số hộ nghèo giảm còn 42 hộ.
Chính quyền giới thiệu, giải quyết hồ sơ đối với 2.171 lao động,
trong đó lao động ở các công ty, xí nghiệp 1.651 lao động. Từ
nguồn quỹ quốc gia về giải quyết việc làm tại chỗ, có 520 lao
động theo chương trình 120 với 6 dự án.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Từ năm 2000 đến 2005, lực lượng công an xã ổn định về tổ
chức, trình độ nghiệp vụ cán bộ, chiến sĩ nâng lên. Trong 5 năm
ngành quân sự thường xuyên được củng cố, xây dựng, đảm bảo
quân số lực lượng thường trực và dân quân chiến đấu, tổ chức
huấn luyện quân sự hàng năm cho lực lượng dân quân xã ấp và
làm tốt công tác tuyển quân. Trong 5 năm, chỉ tiêu tuyển quân
đạt tỷ lệ 100% với 51 thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
(năm 2001: 7 thanh niên, năm 2002: 4 thanh niên, năm 2003:
12 thanh niên, năm 2004: 11 thanh niên, năm 2005: 17 thanh
niên). Đội ngũ an ninh giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra,
giữ vững được tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội. Công tác quản lý tốt di biến động nhân hộ khẩu, kiểm tra
phát hiện và xử lý kịp thời các đối tượng cư trú bất hợp pháp.
Toàn xã xảy ra 154 vụ vi phạm, liên quan đến 220 đối tượng.
Trên địa bàn xã, đường liên xã dài, phương tiện giao thông
nhiều và ý thức của một bộ phận tham gia kém để xảy ra 129
vụ tai nạn giao thông, trong đó có 16 vụ nghiêm trọng. Nhiều
vụ vi phạm luật giao thông được điều tra, xử lý.
Trong 5 năm, ngành thanh tra - tư pháp đã từng bước được
củng cố, thành lập các tổ hòa giải ở các ấp, giải quyết kịp thời
268

27.9 Page 269

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
các đơn từ khiếu nại của nhân dân, không có đơn vượt cấp. Cơ
quan nghiệp vụ nhận tổng cộng 128 đơn gồm tranh chấp ranh
giới đất, hợp đồng dân sự, ly hôn và giải quyết thành 88 đơn,
chuyển về trên 40 đơn, không có trường hợp tồn đọng. Tổ chức
thanh tra 11 cuộc về các nội dung chi trả trợ cấp cho gia đình
hưởng chính sách, nguồn vốn xóa đói giảm nghèo, quỹ xã hội,
các nguồn thu do nhân dân đóng góp.
2. Thực hiện Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (2005
- 2010)
Đại hội Đảng bộ xã lần thứ II đã đề ra phương hướng mục
tiêu trong nhiệm kỳ 2005 - 2010 là: “Bám sát quy hoạch của
huyện, khai thác các nguồn lực đầu tư cho phát triển, động viên
các tầng lớp nhân dân để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn, chuyển đổi có hiệu quả cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, đẩy mạnh hoạt động thương mại dịch vụ đảm
bảo giải quyết các nhu cầu xã hội đặt ra”.
Năm 2010, dân số toàn xã có 1.914 hộ gồm 8.577 khẩu. Xã
có 3 ấp: Phước Lý, ấp Bến Cộ và ấp Cù Lao; đặc biệt ấp Cù Lao
có địa thế bao bọc bởi sông tạo nên hệ sinh thái độc đáo đang
được quy hoạch phát triển khu du lịch sinh thái. Đời sống kinh
tế của người dân với tỷ lệ 30% hộ khá, 65,73% có mức sống
trung bình, 4,27% hộ nghèo. Xã Đại Phước hoàn thành và giữ
vững chuẩn phổ cập các cấp (tiểu học, trung học cơ sở và trung
học phổ thông). Trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, có những thuận
lợi và cả khó khăn, Đảng bộ xã Đại Phước đã lãnh đạo chính
269

27.10 Page 270

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
quyền, mặt trận, các đoàn thể chăm lo phát triển kinh tế, xây
dựng kết cấu hạ tầng, giữ vững an ninh, quốc phòng, thực hiện
thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng bộ.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
+ Hoạt động, công tác Đảng
Tại đại hội lần thứ II, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại Phước
nhiệm kỳ 2010 - 2015 được bầu gồm các đồng chí: Lê Hoàng
Tuấn giữ chức Bí thư, Trần Văn Nam giữ chức Phó Bí thư và
các ủy viên Phạm Thành Công, Võ Văn Đúng, Thái Thiện
Châu, Nguyễn Thành Phú, Dương Hồng Thắm, Huỳnh Nhật
Quang, Trần Nam Hải. Trong nhiệm kỳ, có những biến động về
nhân sự lãnh đạo cấp ủy. Đồng chí Lê Hoàng Tuấn giữ chức Bí
thư đến năm 2008 và đồng chí Trần Thành Trai đảm nhiệm đến
hết nhiệm kỳ. Đồng chí Trần Văn Nam giữ chức Phó Bí thư đến
năm 2006 được điều về huyện và đồng chí Lương Tấn Thanh
thay đến cuối nhiệm kỳ.
Trong nhiệm kỳ, nhằm phát huy năng lực, sức mạnh của tổ
chức, đảng viên trong công tác, Đảng ủy thành lập Ban chỉ đạo
và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là trọng tâm. Mỗi
cán bộ, đảng viên phải có ý thức tự giác về dân chủ, làm gương
nêu cao trách nhiệm lãnh đạo, thực hiện phát huy dân chủ. Khi
xây dựng nghị quyết, Đảng ủy đều đưa nội dung thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở vào chương trình công tác năm, gắn việc
thực hiện với nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính
trị, mối quan hệ giữa đảng, chính quyền với nhân dân.
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng
được tổ chức học tập, quán triệt kịp thời đối với cán bộ đảng
viên, đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. Tỷ lệ tham
gia đạt tỷ lệ 99% trở lên (ngoại trừ đảng viên thuộc diện miễn
sinh hoạt, công tác). Mô hình Đảng bộ xã lãnh đạo công tác
khoa giáo ở địa phương hiệu quả với nhân sự bộ phận tuyên
giáo được kiện toàn. Công tác tuyên giáo triển khai quán triệt,
tuyên truyền chú trọng đến nắm bắt kịp thời dư luận xã hội.
Toàn xã có 57 tổ nhân dân sinh hoạt đều đặn. Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”1 được
triển khai cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực tham
gia. Đảng ủy tiến hành sơ kết 3 năm thực hiện cuộc vận động
học tập này gắn với các hoạt động thiết thực. Trong cuộc thi
cảm nhận về Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có 105 bài
tham gia phản ánh nhận thức sâu sắc, tình cảm thiêng liêng và
ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; trong đó có 5 bài
tham gia vòng chung khảo cấp huyện. Hội thi kể chuyện tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong đoàn viên, hội viên được
phát động. Qua cuộc vận động, tạo được sự chuyển biến tích
cực về hành động trong nhiệm vụ chính trị, tu dưỡng đạo đức,
lối sống, nhiều tập thể và cá nhân điển hình làm theo. Ban Chỉ
đạo xã khen thưởng cho 6 tập thể và 15 cá nhân có thành tích
xuất sắc. Cán bộ, đảng viên tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo
1  Ngày 7-11-2006, đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh ký ban hành Chỉ thị
06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”.
271

28.2 Page 272

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
của Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất nước, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân sự trong
nhiệm kỳ của tổ chức đảng có những biến động ở nguồn cán bộ
chủ chốt. Nhân sự Uỷ ban kiểm tra của Đảng bộ được củng cố,
kiện toàn chức danh chủ nhiệm, phó chủ nhiệm.
Hệ thống chính trị ở địa phương được củng cố toàn diện.
Đảng bộ quan tâm công tác đào tạo cán bộ, đảng viên và xây
dựng kế hoạch chuẩn hóa trình độ chính trị, chuyên môn, tạo
nguồn lực con người cho địa phương trong giai đoạn tiếp theo.
Trong 5 năm, Đảng bộ cử 11 cán bộ nâng cao trình độ chuyên
môn bậc cử nhân ở các lĩnh vực (7 cán bộ ngành hành chính
công, 3 cán bộ ngành hành chính, 1 cán bộ ngành văn hóa); 10
cán bộ học hệ trung cấp (5 cán bộ hệ lý luận chính trị, 2 cán bộ
ngành quân sự, 3 cán bộ ngành công an) và 27 người học sơ cấp
chính trị do huyện Nhơn Trạch tổ chức. Ngoài ra, có 8 đồng chí
tự túc học nâng cao kiến thức (7 đồng chí ngành kinh tế luật, 1
đồng chí tài chính - kế toán).
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ duy trì. Hoạt động kiểm
tra, giám sát của đảng được xây dựng kế hoạch và chủ động,
linh hoạt trong thực hiện. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các hoạt
động giúp cho Đảng bộ xã giải quyết hiệu quả các vấn đề nảy
sinh trong tổ chức, lãnh đạo chung. Đảng ủy đã kiểm tra độc lập
và phối hợp cùng cấp trên thực hiện đúng chức năng, chức trách
và quy định. Một số trường hợp đảng viên vi phạm được xử lý
kỷ luật: 1 đồng chí cấp ủy viên bị kiến nghị cấp trên thi hành
hình thức cách chức (vi phạm quản lý tài chính), 1 đồng chí cấp
272

28.3 Page 273

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
ủy viên mức cảnh cáo (buông lỏng quản lý), 1 đảng viên bị khai
trừ (vi phạm đạo đức lối sống). Ngoài ra, Đảng bộ xã tiến hành
kỷ luật khiển trách 3 đảng viên và kiểm điểm phê bình, nhắc
nhở 2 đảng viên. Những trường hợp đảng viên sau thi hành kỷ
luật đều tiến bộ, không có dấu hiệu tái phạm.
Trong suốt nhiệm kỳ, Đảng bộ xã phát huy vai trò lãnh đạo
của tập thể, nâng cao vai trò lãnh đạo. Các chi bộ trực thuộc
từng bước lớn mạnh về mọi mặt. Tỷ lệ phát triển đảng hàng
năm trên 10% so với số đảng viên đầu năm. Đảng bộ xã phát
triển 38 đảng viên mới. Nguồn dự bị cho đảng bộ được xây
dựng chất lượng từ lý lịch chính trị đến trình độ chuyên môn,
bản lĩnh trong đội ngũ trung kiên có 25 người. Đến năm 2010,
Đảng bộ có 8 chi bộ với 81 đảng viên.
+ Bộ máy chính quyền
Hội đồng nhân dân xã thực hiện tốt vai trò là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, hoạt động của thường trực hội đồng,
các đại biểu đảm bảo theo luật định. Công tác tổ chức cho cử
tri tiếp xúc với đại biểu (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp)
thực hiện nghiêm túc. Các ký họp, ban hành các nghị quyết
đều đúng trình tự, thẩm quyền, phù hợp với nhiệm vụ chính trị
ở địa phương. Công tác kiểm tra, giám sát của hội đồng nhân
dân bám sát thực tiễn, hoạt động của chính quyền trong quản
lý, điều hành trên các lĩnh vực, nhiệm vụ xây dựng địa phương.
Bộ máy của ủy ban nhân dân xã được sắp xếp, bố trí hợp
lý việc điều hành quản lý theo kế hoạch. Trong nhiệm kỳ, có
273

28.4 Page 274

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
những thay đổi trong cán bộ chủ chốt của chính quyền: thay đổi
cán bộ lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch phụ trách lĩnh
vực văn hóa, xã hội và trưởng công an xã. Các chỉ tiêu kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng do huyện giao đều hoàn
thành. Cải cách hành chính duy trì, đem lại hiệu quả trong chấn
chỉnh lề lối làm việc của bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ theo cơ
chế “một cửa”. Trong cơ chế làm việc theo tuần, xã thực hiện
làm việc ngày thứ Bảy theo quy định để thuận lợi giải quyết
những thủ tục hành chính.
+ Hệ thống chính trị, đoàn thể
Khối vận luôn được Đảng bộ quan tâm củng cố, kiện toàn
và phân công một ủy viên thường trực Đảng ủy phụ trách. Chất
lượng hoạt động của mặt trận, đoàn thể nâng cao, thực hiện
tốt tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các
phong trào, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình,
đối tượng diện chính sách, dân nghèo. Cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” quy tụ
và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thu
hút sự quan tâm và hiệu quả của các tổ chức thành viên, nhân
dân, mang lại hiệu quả nhiều mặt. Kết quả hoạt động hàng năm
trong khối đều đạt vững mạnh, đóng góp hoàn thành các nhiệm
vụ của địa phương.
Mặt trận phối hợp với chính quyền, thành viên, phát huy
vai trò hạt nhân trong tập hợp các tầng lớp nhân dân, tạo được
sự đồng thuận trong xã hội, thúc đẩy các phong trào thi đua yêu
274

28.5 Page 275

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
nước. Tổ chức cơ sở của mặt trận ở khu dân cư hoạt động hiệu
quả. Ban công tác mặt trận, thanh tra nhân dân các ấp cùng các
tổ nhân dân đã tham gia hòa giải thành công 85% số vụ việc
tại địa bàn. Hoạt động của mặt trận xã 5 năm được công nhận
vững mạnh.
Công đoàn xã tổ chức và đi vào hoạt động được 5 năm,
hoạt động nề nếp, gắn liền với bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
người lao động, cùng chính quyền thực hiện chính sách, chế độ
kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho công đoàn viên phát huy
năng lực, hoàn thành nhiệm vụ. Cơ cấu đầy đủ thành phần: Ban
Chấp hành, Thanh tra và 31 công đoàn viên.
Hội Nông dân quan tâm công tác xây dựng, củng cố tổ chức
vững mạnh, phát triển và nâng cao chất lượng hội viên. Toàn xã
có 3 chi hội, 787 hội viên (tỷ lệ chiếm 81,89% so với tổng số đối
tượng trong độ tuổi, 322 hội viên nòng cốt (tỷ lệ 40,91% trên
tổng số hội viên). Các phong trào được hội đẩy mạnh: Nông
dân sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giỏi; Đoàn kết giúp nhau xóa
đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng... đặc biệt, nông dân
được phát động thi đua tham gia tích cực trong xây dựng nông
thôn mới ở địa phương.
Tổ chức Đoàn thanh niên phát triển, tập hợp được lực lượng
đoàn viên, qua đổi mới các hoạt động đa dạng, phù hợp với
tâm tư, khát vọng của giới trẻ. Hai phong trào Thanh niên lập
nghiệp, Tuổi trẻ giữ nước thu hút thanh niên địa phương, xây
275

28.6 Page 276

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
dựng dự án 1201 giải quyết việc làm cho thanh niên, bộ đội xuất
ngũ. Tổ chức Đoàn tích cực tham gia công tác vận động thanh
niên tình nguyện thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đoàn xã có 5 chi
đoàn, 299 đoàn viên (tăng 51 đoàn viên so với năm 2005, tỷ lệ
9,59% so với tổng số đối tượng trong độ tuổi, 140 đoàn viên
nòng cốt - tỷ lệ 46,82% trên tổng số đoàn viên).
Hội Phụ nữ thực hiện tốt phong trào thi đua, các chương
trình trọng tâm của Trung ương hội: Hỗ trợ Phụ nữ phát triển
kinh tế; Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh
phúc; Chính sách bình đẳng nam - nữ; Tích cực học tập, lao
động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc’’. Hội hỗ trợ hội
viên phát triển kinh tế hiệu quả với việc thành lập 34 tổ phụ
nữ tiết kiệm, giới thiệu 988 hội viên vay vốn từ ngân hàng hỗ
trợ người nghèo tự tạo việc làm gần 2,4 tỷ đồng; tổ chức 8 tổ
ngành, nghề giải quyết việc làm, góp phần ổn định cuộc sống
gia đình. Tuyên truyền pháp luật và chính sách liên quan phụ
nữ được hội phối hợp tổ chức với sự tham gia 5.462 lượt hội
viên. Trong nhiệm kỳ, hội phát triển 431 hội viên, nâng tổng số
hội viên là 1.409 người.
Hội Cựu Chiến binh tích cực tham gia các phong trào ở địa
phương, là lá cờ đầu của huyện Nhơn Trạch trong hoạt động.
Các hội viên vừa tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước với giới
1  Quỹ Quốc gia về việc làm của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh (nguồn vốn 120), hỗ trợ đoàn viên thanh niên có cơ hội được vay vốn phát
triển kinh tế, mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm, tăng thêm thu nhập.
276

28.7 Page 277

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
trẻ, thể hiện ý chí kiên cường, nêu gương giúp hội viên vươn
lên trong cuộc sống. Hội viên được hỗ trợ vốn, gần 500 triệu
đồng, giúp nhau trong sản xuất, chăn nuôi, thoát nghèo. Hội có
55 hội viên.
Tổ chức Hội Chữ thập đỏ cùng các chi hội, tổ hội có nhiều
hoạt động thiết thực: vận động khám, chữa bệnh miễn phí; cấp
học bổng cho học sinh nghèo; đỡ đầu gia đình chính sách, cứu
trợ thiên tai bão lụt... Số hội viên tăng lên và đến năm 2010
có 456 hội viên (182 hội viên nòng cốt). Trong nhiệm kỳ, Hội
được đánh giá hoàn thành Xuất sắc nhiệm vụ.
Hội Người cao tuổi với những hoạt động ý nghĩa, nêu gương
về đạo đức, ứng xử gia đình, xã hội và qua các phong trào, tham
gia tích cực vận động công tác khuyến học. Hội có 588 hội
viên, sinh hoạt ở 5 chi hội các ấp Phước Lý, Bến Cộ, Cù Lao.
- Lĩnh vực kinh tế
Mục tiêu phát triển kinh tế của Đại Phước với cơ cấu thương
mại - dịch vụ - nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được đẩy
mạnh, tập trung tăng dần tỷ trọng trên từng lĩnh vực phù hợp
với đặc điểm của địa phương. Thương mại - dịch vụ tiếp tục
phát triển nhanh cùng với sự phát triển tiểu thủ công nghiệp.
Năm 2010 có 713 hộ hoạt động trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ với nhiều ngành nghề đa dạng, tăng gần 3,5 lần so với
năm 2005. Tuy nhiên, sự tăng trưởng số hộ trong thương mại,
dịch vụ chỉ đạt tỷ lệ 41% chưa đạt mục tiêu đề ra là 60% số hộ.
Toàn xã có 2 điểm kinh doanh xăng dầu với nguồn vốn đầu tư
277

28.8 Page 278

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
tại chỗ. Chính quyền xã vận động doanh nghiệp tư nhân Huỳnh
Minh xây dựng khu chợ mới và khu phố thương mại nhằm thay
thế khu chợ cũ do quy hoạch lộ giới giao thông. Khu chợ mới
cơ bản hoàn thành, thực hiện sắp xếp tiểu thương kinh doanh
ổn định. Khu phố thương mại được thi công. Đáp ứng nhu cầu
của người dân đến sinh sống, làm việc tại địa phương, có 8 hộ
kinh doanh nhà trọ gồm 65 phòng. Về kinh doanh ngành vận
tải, có 8 chủ đầu tư tập trung phương tiện chuyên chở hàng
hóa, vận chuyển hành khách theo chuyến và hợp đồng đưa đón
công nhân, học sinh. Trong hệ thống giao thông công cộng liên
huyện, tuyến xe buýt Cát Lái - Long Thành đi qua địa bàn xã
giải quyết một phần nhu cầu đi lại của người dân.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp tiếp
tục đà giảm nhằm đáp ứng cho nhu cầu quy hoạch, phát triển
các khu du lịch sinh thái. Tổng diện tích gieo trồng năm 2005
là 1.300ha đến năm 2010 còn 367ha, chiếm 24% trong cơ cấu
kinh tế (vượt chỉ tiêu tỉ lệ nông nghiệp xuống còn 40%). Năng
suất, sản lượng gieo trồng hàng năm của địa phương đạt chỉ
tiêu. Địa phương phối hợp với các cơ quan chuyên môn, tập
huấn cho nhân dân chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi bằng
những hoạt động đa dạng, hiệu quả (áp dụng khoa học kỹ thuật,
kỹ thuật chăm sóc, công tác phòng ngừa dịch bệnh...). Đàn gia
súc của xã chăn nuôi theo hộ gia đình duy trì ở mức 1.270 con,
đàn gia cầm ở mức 9.600 con. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp có
sự tăng trưởng vượt trội với 241 hộ, tăng gấp 20 lần so với năm
2005 (12 hộ), chiếm 13% hộ toàn xã.
278

28.9 Page 279

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Căn cứ quy hoạch chung của huyện, xã Đại Phước tiến
hành quản lý, thực hiện nhiệm vụ và kiến nghị điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất đai trong từng giai đoạn, trong đó có đề án
khu hành chính và điểm dân cư nông thôn phù hợp với tình
hình phát triển. Chính quyền phối hợp với các cơ quan cấp trên,
tổ chức kiểm tra tình hình sử dụng đất, xây dựng cơ bản trên
địa bàn và các ngành thực hiện tốt đền bù, giải phóng bàn giao
mặt bằng các dự án. Sáu dự án được phê duyệt ở địa phương
đã triển khai với tổng diện tích thu hồi 692,53ha và giới thiệu
225ha cho một số dự án khác.
Trong xây dựng cơ bản, xã hoàn thành 9 công trình phục
vụ cho hoạt động của địa phương: Văn phòng khối văn hóa xã
hội, văn phòng một cửa, nhà trực công an, nhà trực quân sự, sân
thể thao, văn phòng ban ấp Bến Cộ, hàng rào ban ấp Phước Lý,
đường thoát nước Trường Trung học cơ sở Đại Phước, hệ thống
loa không dây của đài truyền thanh xã... với tổng kinh phí gần
1,6 tỷ đồng. Từ sự hỗ trợ của huyện, xã tiến hành xây dựng mới
hội trường xã với sức chứa 200 chỗ ngồi. Mạng lưới điện hạ
thế trên địa bàn phát triển từng năm, hệ thống điện chiếu sáng
hình thành ở hầu hết các khu dân cư. Số hộ sử dụng điện tăng từ
1.307 hộ năm 2005 lên 1.942 hộ năm 2010 (tỷ lệ 100% số hộ).
Mạng lưới thông tin liên lạc tiếp tục phát triển với trên 1.080
máy điện thoại các loại (tỷ lệ 12,5 máy/100 dân).
Phong trào xã hội hóa xây dựng giao thông nông thôn đem
lại những kết quả tốt. Xã thực hiện nâng cấp, sửa chữa 27 tuyến
279

28.10 Page 280

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
đường nông thôn với phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm” (21 tuyến đổ bê tông, 6 tuyến đắp sỏi đỏ) tạo thuận
lợi trong việc đi lại, vận chuyển cho nhân dân. Công tác bảo vệ
môi trường luôn được quan tâm. Hợp tác xã Nhơn Hòa được
ký kết thực hiện thu gom rác thải trên địa bàn. Các hộ dân và
khu dân cư được tuyên truyền và vận động đăng ký thu gom
rác. Thông qua các hội, đoàn, xã Đại Phước tổ chức, phát động
ra quân hưởng ứng ngày Môi trường thế giới, được người dân
hưởng ứng tích cực trong dọn dẹp vệ sinh dọc theo trục lộ 769,
kênh rạch và địa điểm công cộng. Những trường hợp vi phạm
môi trường được phát hiện, xử lý và ngăn ngừa.
Sự ổn định và phát triển của những lĩnh vực kinh tế trên địa
bàn đã góp phần cho nguồn thu của địa phương hàng năm bình
quân 20% (vượt chỉ tiêu 202%). Ngân sách đảm bảo các nhiệm
vụ chi cho hoạt động chung.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Thông tin tuyên truyền ở địa phương được đảm bảo kịp
thời vừa phục vụ trong hoạt động của địa phương và nâng cao
đời sống tinh thần của người dân với đa dạng nguồn tin: truyền
thông về chủ trương, chính sách, đường lối, sự kiện đến các
chương trình văn nghệ, tiếp âm phát thanh từ các đài trung
ương, tỉnh... Hoạt động văn hóa văn nghệ - thể dục thể thao
duy trì bằng nhiều hình thức phong phú, thu hút được nhiều
người tham gia. Xã tuyên truyền mạnh cuộc vận động rèn luyện
thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại. Phong trào rèn luyện sức
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
khỏe trong nhân dân được phát động, với tỷ lệ 40% người dân
địa phương tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.
Ngoài ra, xã còn lập được các đội bóng đá, bóng chuyền, bơi
lội, cờ tướng, tham gia thi đấu giao hữu, tham gia cuộc vận
động rèn luyện thân thể cấp huyện. Cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được các ngành, các ấp
nỗ lực phát động thực hiện rộng khắp 3/3 ấp trong toàn xã.
Hàng năm có 100% ấp đăng ký xây dựng Ấp văn hóa, và 2/3 ấp
được công nhận. Người dân đăng ký xây dựng gia đình văn hóa
đều đạt tỷ lệ 100%/ tổng số hộ, cuối năm xét đạt 98% số hộ trở
lên đạt chuẩn. Công tác kiểm tra, quản lý các điểm kinh doanh
dịch vụ văn hóa được thực hiện thường xuyên, các cơ sở dịch
vụ chấp hành theo quy định.
Từ năm 2005 đến năm 2010, ngành giáo dục xã đã thực hiện
tốt các phong trào thi đua Dạy tốt - học tốt và được đầu tư xây
dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục
có những bước tiến ổn định, bước đầu đạt được những thành
tích: hàng năm có 100% trẻ em trong độ tuổi vào lớp một, tỷ lệ
duy trì sĩ số học sinh cấp tiểu học đạt 99,5%; cấp trung học cơ
sở đạt 98%, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và
tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99%. Xã Đại Phước được công
nhận hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục 3 cấp (tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thông).
Năm 2007, phòng khám khu vực đặt tại xã Đại Phước giải
thể. Xã Đại Phước xây dựng trạm y tế mới và biên chế 2 bác
281

29.2 Page 282

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
sĩ, 4 y sĩ đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho
nhân dân. Được hỗ trợ từ ngành cấp trên, mỗi tuần trạm được
tăng cường 1 bác sĩ về tham gia khám chữa bệnh 2 lần. Chương
trình y tế quốc gia được triển khai và hiệu quả, các chỉ tiêu đều
đạt và tăng mỗi năm. Số người đến khám chữa bệnh bình quân
tăng 10% hàng năm. Nhằm phòng ngừa dịch bệnh, phối hợp
với công tác tuyên truyền, vận động người dân giữ gìn vệ sinh,
bảo vệ môi trường được địa phương triển khai: Diệt muỗi, diệt
lăng quăng ở khu dân cư, các hộ gia đình. Công tác kiểm tra
vệ sinh an toàn thực phẩm duy trì theo định kỳ. Trước nguy cơ
dịch bệnh báo động trong tình hình chung của đất nước như
bệnh sốt xuất huyết, sốt rét, cúm H5N1, các đơn vị y tế tỉnh,
huyện hỗ trợ, phối hợp với xã tiến hành phòng chống dịch bệnh
hiệu quả. Ở địa phương không để xảy ra dịch sốt xuất huyết,
hạn chế ảnh hưởng dịch cúm trên gia cầm, gia súc. Tỷ lệ hộ
sử dụng nước sạch trên địa bàn xã đạt tỷ lệ 98%, số hộ có nhà
vệ sinh hợp vệ sinh đạt tỷ lệ 95% trên tổng số hộ dân toàn xã.
Chương trình dân số, gia đình và trẻ em thực hiện toàn diện,
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được chăm sóc sức khỏe, thai sản.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của địa phương ở tỷ lệ 1% dân số, tỷ
lệ trẻ em tiêm đủ 6 loại vắc xin và uống vitamin A hàng năm
đều đạt 100%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từng năm (từ
6,5% năm 2005 xuống còn 4,5%).
Chính sách về lao động, xã hội được chỉ đạo và thực hiện
kịp thời. Xã Đại Phước được công nhận làm tốt công tác thương
binh - liệt sỹ và người có công. Việc chăm lo cho các đối tượng
282

29.3 Page 283

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chính sách được quan tâm thường xuyên. Trong 5 năm, qua các
nguồn kinh phí nhà nước, vận động, địa phương sửa chữa 13
nhà tình nghĩa (78 triệu đồng), xây dựng 42 nhà tình thương
(gần 86 triệu đồng) trao tặng gia đình chính sách, hộ nghèo.
Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” có sự đóng góp được trao tặng 650
triệu đồng, được sử dụng trong các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ
mang ý nghĩa nhân văn đối với gia đình, đối tượng chính sách ở
địa phương. Nhân lực lao động trong độ tuổi ở địa phương tăng
và trở thành vấn đề cần giải quyết để tạo sự ổn định xã hội cũng
như cải thiện kinh tế hộ gia đình. Xã thực hiện các thủ tục theo
quy định, giới thiệu việc làm cho nhiều người có nhu cầu tại
các công ty, xí nghiệp trên địa bàn huyện. Địa bàn xã có 3.379
lao động trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương
mại và dịch vụ (chiếm 80% số người trong độ tuổi lao động).
Từ các chương trình vay vốn xóa đói giảm nghèo, quỹ quốc
gia giải quyết việc làm, ngân hàng nông nghiệp, mỗi năm giải
quyết trên 100 lượt hộ vay vốn kinh doanh, sản xuất (bình quân
4 tỷ đồng/năm). Chương trình nhân dân giúp nhau làm kinh tế
và chính sách kích cầu của chính phủ đã góp phần tạo điệu kiện
cho 78 hộ ở địa phương thoát nghèo. Năm 2010, số hộ nghèo
của xã còn 86 hộ (tỷ lệ 4,27%, giảm 4% từ 139 hộ năm 2005).
Đây là nỗ lực lớn của xã Đại Phước trong thực hiện công tác
giảm nghèo.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của địa phương
được giữ vững trong nhiều năm liền từ chỉ đạo của Đảng ủy đối
283

29.4 Page 284

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
với công tác an ninh, quốc phòng trong tình hình mới. Trên địa
bàn, không có vụ việc phức tạp xảy ra, điểm nóng về an ninh
xã hội. Những nội dung quan trọng về an ninh quốc gia: “Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (nghị quyết Trung
ương 8, khóa IX), “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
công an trong tình hình mới” (nghị quyết 40-NQ/TW của Bộ
Chính trị), “Tăng cường công tác đảm bảo an ninh quốc gia
trong tình hình mới” (Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, khóa
X) được quán triệt trong lực lượng cán bộ, chiến sĩ. Công tác
quốc phòng được tập trung lãnh đạo, điều chỉnh, bổ sung các kế
hoạch sẵn sàng chiến đấu và thực hiện tốt các đợt diễn tập theo
kế hoạch của huyện, tỉnh trong bảo vệ mục tiêu, địa bàn. Lực
lượng dân quân được củng cố, bổ sung đạt tỷ lệ 1,44% dân số);
trong đó đảng viên đạt 11,29%, đoàn viên đạt 38,37%. Nguồn
quân nhân dự bị động viên được huy động, quản lý, đảm bảo
kế hoạch huấn luyện. Công tác tuyển quân hàng năm đạt chỉ
tiêu 100% thanh niên làm đơn tình nguyện thi hành nghĩa vụ
quân sự. Từ năm 2007, chất lượng thanh niên thi hành nghĩa
vụ quân sự nâng lên với việc kếp nạp đảng viên, đoàn viên.
Chính quyền thực hiện hiệu quả chính sách hậu phương quân
đội, quan tâm giới thiệu việc làm cho 40 quân nhân xuất ngũ.
Hàng năm địa phương đều tổ chức thăm viếng, tặng quà các gia
đình có con, em tại ngũ, quân nhân xuất ngũ có hoàn cảnh khó
khăn... Nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân
dân trên địa bàn xã được ổn định.
284

29.5 Page 285

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Nhằm ngăn ngừa và chủ động bảo vệ an ninh xã hội trước
những tác động của tình hình thế giới, sự phá hoại của các thế
lực phản động, địa phương chủ động xây dựng các phương án
phòng chống biểu tình, gây rối, bạo loạn. An ninh nông thôn
được quan tâm trong hoạt động bảo vệ, triển khai các dự án trên
địa bàn, tạo điều kiện đầu tư hoạt động hiệu quả.
Ngày 12-10-2006, một vụ cướp táo bạo tại tiệm vàng Kim
Hồng ở khu thị tứ của xã. Hai tên cướp dùng súng bắn chết ông
T.Đ. chủ tiệm vàng, người vợ bị thương. Trên đường trốn chạy,
hai tên cướp bắn bị thương một người dân. Vụ án làm chấn
động dư luận bởi hậu quả và sự liều lĩnh của toán cướp. Công
an xã Đại Phước báo tin cho công an các xã lân cận ngăn chặn
đường trốn chạy của các tên cướp. Công an tỉnh Đồng Nai chỉ
đạo phá án, phối hợp với công an huyện Nhơn Trạch, lực lượng
công an, dân quân các xã tổ chức lập chốt chặn, truy bắt. Hai
tên cướp bị bắt tại Xóm Gốc, xã Long An cùng với vũ khí. Tiếp
tục điều tra, công an tỉnh đã tóm gọn những tên đồng phạm tại
xã Đại Phước, xã Phú Đông. Toán cướp gồm những thành viên
mới ra tù, liên kết, lên kế hoạch cướp tiệm vàng ở một số địa
phương và gây án tại xã Đại Phước. Với tội ác gây ra, 3 tên có
vai trò chủ mưu trong vụ cướp bị kết án tử hình, chung thân,
tù giam. Việc truy bắt thành công toán cướp góp phần mang
lại niềm tin cho người dân, ổn định tình hình an ninh, trật tự
địa bàn1. Trong 5 năm, ở địa phương xảy ra 147 vụ phạm pháp
1  Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2012), Biên niên sự kiện lịch sử Công an
tỉnh Đồng Nai (1996 - 2010), Nxb. Công an nhân dân, tr.290-295.
285

29.6 Page 286

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
hình sự với 353 đối tượng. Các vụ vi phạm được điều tra, nắm
bắt và xử lý hiệu quả. Lực lượng an ninh phối hợp với đoàn thể
giáo dục cảm hóa nhiều đối tượng có tiền án, mãn hạn tù, giúp
hòa nhập cộng đồng và sống có trách nhiệm, có ích cho xã hội.
Góp phần trong bảo vệ an ninh, chính quyền và hệ thống
chính trị, hội đoàn tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật
bằng nhiều hình thức đa dạng: qua hệ thống phát thanh, truyền
thông nhân các sự kiện, báo cáo chuyên đề, các cuộc thi tìm
hiểu trong nhà trường, sinh hoạt tổ nhân dân..., nâng cao nhận
thức và ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Ở cấp ấp, các
tổ hòa giải được củng cố. Hội đồng hòa giải, được tập huấn
nghiệp vụ, xây dựng quy chế hoạt động và giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo. Trong 5 năm, xã nhận tổng cộng 180 đơn, tổ
chức hòa giải đạt 100% số đơn.
*
Với những nỗ lực và phát huy tinh thần toàn dân trong thực
hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, Đảng bộ xã Đại Phước đã lãnh
đạo địa phương đạt được những thành tựu qua 2 nhiệm kỳ đầu
thế kỷ XXI. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng có những bước chuyển đổi theo hướng tích cực. Mặc
dầu thời tiết không thuận lợi do hạn hán, thiên tai, dịch bệnh
nhưng năng suất, sản lượng, diện tích cây trồng đều đạt theo
kế hoạch. Mạng lưới giao thông nông thôn, hệ thống thông tin
viễn thông, đường điện hạ thế trên địa bàn được nâng cấp, phủ
kín khắp địa bàn tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao
286

29.7 Page 287

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
lưu phát triển kinh tế. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội luôn giữ vững. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
được cải thiện. Hoạt động của hệ thống chính trị không ngừng
được củng cố, kiện toàn và có những bước tiến bộ nhất định.
Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể
và quần chúng nhân dân được gắn bó chặt chẽ. Từ kết quả thực
thực hiện trong nhiệm kỳ, Đảng bộ xã Đại Phước tổng kết và
đánh giá, tìm những giải pháp khắc phục trên những lĩnh vực
còn hạn chế. Với tiềm năng của địa phương về thương mại dịch
vụ, du lịch đã và đang hình thành, chuyển biến theo định hướng
phát triển, Đảng bộ xã đặt ra những mục tiêu trong xây dựng
địa phương trong tình hình mới.
287

29.8 Page 288

▲back to top


CHƯƠNG VIII
THỜI KỲ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI, ĐÔ THỊ HÓA
(2010 - 2020)
1. Phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa (2010 - 2015)
Thập niên đầu của thế kỷ XXI, cùng cả nước và huyện Nhơn
Trạch hội nhập và phát triển, xã Đại Phước đạt được những
thành tựu trên nhiều lĩnh vực với sự nỗ lực lớn của Đảng bộ,
bộ máy chính quyền và quần chúng nhân dân. Bước vào giai
đoạn mới, trước những cơ hội thuận lợi và cả những khó khăn
thách thức, Đảng bộ xã Đại Phước rút ra những kinh nghiệm
quý báu để tiếp tục lãnh đạo địa phương xây dựng, phát triển
địa phương theo hướng bền vững, hoàn thành những mục tiêu
đề ra; thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia trong xây
dựng Nông thôn mới.
Từ năm 2010, huyện Nhơn Trạch tập trung huy động các
nguồn lực, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của huyện để
phát triển kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, phát triển Nhơn
Trạch theo hướng đô thị và trở thành một trong các trung tâm
công nghiệp, thương mại - dịch vụ, du lịch, giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ của tỉnh, của vùng trọng điểm kinh tế
288

29.9 Page 289

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
phía Nam, xã Đại Phước xác định phương hướng phát triển
địa phương. Tháng 4-2010, trên nền tảng kế thừa và phát huy
thành quả và từ thực tiễn địa phương, Đảng bộ xã Đại Phước
lần thứ III đưa ra phương hướng, mục tiêu phấn đấu giai đoạn
2010 - 2015: “Phát triển theo hướng cơ cấu kinh tế thương mại
- dịch vụ - nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Phấn đấu đến
năm 2015, Đại Phước là xã có nền thương mại - dịch vụ phát
triển, đảm bảo giải quyết các nhu cầu xã hội đặt ra, từng bước
phát triển hệ thống dịch vụ dựa trên thế mạnh và tiềm năng
của xã; tập trung chuyển đổi nông nghiệp theo hướng sản xuất
nông nghiệp đô thị theo Nghị quyết 09-NQ/HU của Huyện ủy,
đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn, tạo thêm việc làm mới cho người lao động, từng
bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Thực
hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, ngăn
chặn có hiệu quả tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí; đẩy lùi
tiêu cực, bài trừ các tệ nạn xã hội. Tích cực thực hiện cải cách
bộ máy nhà nước, tăng cường hiệu lực, hiệu quả vai trò quản
lý nhà nước, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, có phẩm chất đạo đức lối sống trong sáng; tiếp tục
thực hiện và tổng kết cuộc vận động ‘Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh’; “Nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ đáp ứng
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra”1.
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Đại Phước lần thứ III, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
289

29.10 Page 290

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
+ Hoạt động, công tác đảng
Tại đại hội lần thứ III, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại
Phước nhiệm kỳ 2010 - 2015 được bầu gồm các đồng chí: Trần
Thành Trai giữ chức Bí thư, Võ Văn Đúng giữ chức Phó Bí
thư và các ủy viên: Phạm Thành Công, Huỳnh Nhật Quang, Lê
Quang Chính, Cao Hữu Thái, Dương Hồng Thắm, Nguyễn Thị
Anh Thư, Trần Nam Hải.
Với phương châm “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ đáp ứng ngang
tầm với yêu cầu nhiệm vụ chính trị”, Đảng ủy xã đẩy mạnh
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho đảng viên và tổ chức từng bước đổi mới nội dung
và phương pháp làm việc. Học tập quán triệt nghị quyết, chỉ
thị của đảng tổ chức kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác với sự tham gia của đảng viên (tỷ lệ 99%),
đoàn viên, hội viên (tỷ lệ 70%) ở địa phương. Các chi bộ trực
thuộc đều xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực
hiện và sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, chủ động bổ sung các
giải pháp phù hợp thực tế. Đảng bộ thực hiện mô hình Đảng bộ
lãnh đạo công tác khoa giáo, sử dụng bản tin nội bộ, phương
tiện phát thanh, báo cáo viên, tuyên truyền viên giúp cho cán
bộ đảng viên, quần chúng nhân dân nâng cao nhận thức, tinh
thần cảnh giác cách mạng, chống các luận điệu xuyên tạc “Âm
mưu diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đảng thực hiện đoàn kết và mỗi đảng viên, cán bộ nêu gương
tính tiên phong gương mẫu, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng. Qua học tập và thực hiện các phong trào vận động, đảng
viên và quần chúng nhân dân địa phương nhận thức sâu sắc
hơn về vai trò của Đảng lãnh đạo trong công cuộc xây dựng đất
nước. Đảng bộ xã tiếp tục thực hiện chỉ thị 03 của Trung ương
về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”1. Cán bộ, đảng viên có chuyển biến mạnh mẽ về ý thức
rèn luyện đạo đức, tinh thần trách nhiệm, đạo đức trong nhiệm
vụ, ngăn chặn suy thoái và nỗ lực trong công tác được giao.
Nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công tác cán bộ thực hiện đúng qui trình và đảm bảo trong
tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, luân
chuyển, kiểm tra, quản lý. Trong nhiệm kỳ, có những thay đổi
về tổ chức, nhân sự cán bộ lãnh đạo của Đảng bộ xã, bộ máy
nhà nước và các cơ quan, đoàn thể. Chi bộ Y tế của xã thành
lập, giải quyết 3 trường hợp ra khỏi tổ chức theo nguyện vọng
của bản thân ở chi bộ Phước Lý, Bến Cộ. Do yêu cầu điều động,
bổ nhiệm cán bộ của huyện Nhơn Trạch, Đảng ủy xã Đại Phước
đề nghị Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện
chuẩn y thay đổi vị trí chức danh Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch
Hội đồng nhân nhân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở địa phương.
1  Ngày 14-5-2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký Chỉ thị 03-CT/TW về
“Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”.
291

30.2 Page 292

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Xã tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch nguồn cán bộ lãnh đạo,
quản lý giai đoạn 2013 - 2015. Xã tiếp nhận cán bộ và sự phân
công của cấp huyện trong bộ máy chính quyền. Một số chức
danh lãnh đạo cơ quan công an, khối vận, vị trí chuyên môn của
ủy ban, mặt trận, hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên thay đổi để phù
hợp với tiêu chuẩn, công tác luân chuyển. Hàng năm, cán bộ,
đảng viên đều được đánh giá phân loại, phân tích chất lượng.
Công tác đào tạo bồi dưỡng được Đảng ủy quan tâm, đảm bảo
đạt chuẩn theo yêu cầu về trình độ chính trị, chuyên môn. Học
tập nâng cao về chính trị, xã có 2 đồng chí học cao cấp, 16 đồng
chí học trung cấp, 22 đồng chí học sơ cấp. Về chuyên môn, xã
cử 7 đồng chí học cử nhân Hành chính công, 3 đồng chí học
cử nhân hành chính, 2 đồng chí học cử nhân Luật, 1 đồng chí
học cử nhân ngành Văn hóa, 5 đồng chí học trung cấp ngành
công an, 2 đồng chí học trung cấp ngành quân sự. Về bồi dưỡng
nghiệp vụ, xã có 105 lượt cán bộ tham dự các lớp ngắn hạn.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã xây dựng ban hành qui chế làm
việc, xây dựng chương trình làm việc toàn khóa, định kỳ và ban
hành nghị quyết vừa mang tính bao quát, toàn diện, có trọng
tâm, trọng điểm để lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả. Các thành viên
trong Thường vụ, Ban Chấp hành được phân công phụ trách
các chi bộ, lĩnh vực. Hoạt động kiểm tra, giám sát duy trì theo
định kỳ và linh hoạt theo yêu cầu, nhiệm vụ ở tất cả các lĩnh
vực, nhiệm vụ: từ thành viên lãnh đạo trong cấp ủy, đảng viên
chấp hành quy định, điều lệ, thực hiện nhiệm vụ, phẩm chất
chính trị và đạo đức, lối sống,... Đảng ủy và Uỷ ban kiểm tra tổ
292

30.3 Page 293

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chức kiểm tra kịp thời, đúng đối tượng, đúng vụ việc và phối
hợp Uỷ ban kiểm tra huyện ủy kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối
với 7 đảng viên. Kỷ luật về mặt đảng được thực thi theo đúng
quy định với các trường hợp vi phạm (1 trường hợp cách chức
và 1 trường hợp khiển trách Đảng ủy viên, 2 đảng viên mức
cảnh cáo). Các chi bộ trực thuộc duy trì công tác kiểm tra, giám
sát thường xuyên. Qua thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám
sát đã góp phần quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ
chức, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hành dân chủ,
giữ vững kỷ cương, kỷ luật, phòng ngừa ngăn chặn sự suy thoái
về chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên.
Công tác phát triển đảng hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu,
có 47 đảng viên mới trong nhiệm kỳ, được thực hiện chặt chẽ
theo quy định trong bảo vệ chính trị nội bộ về xác minh, thẩm
tra lý lịch, hồ sơ và bảo đảm tiêu chuẩn, nguyên tắc. Đến năm
2015, Đảng bộ xã Đại Phước có 10 chi bộ trực thuộc với 126
đảng viên.
+ Bộ máy chính quyền
Chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân có nhiều
chuyển biến, phương thức, nội dung hoạt động từng bước được
đổi mới, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân. Trong nhiệm kỳ, tổ chức 10 kỳ họp, ban hành 39 nghị
quyết về nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, ngân
sách, xây dựng cơ bản, thực hiện nông thôn mới,... Các nghị
quyết thể hiện được “ý đảng, lòng dân”, bám sát chủ trương
293

30.4 Page 294

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nhiệm vụ của Ban Chấp hành Đảng bộ xã, vừa phù hợp với ý
chí nguyện vọng của đa số cử tri. Hoạt động giám sát đi vào
thực chất trên nhiều lĩnh vực đối với bộ máy quản lý, điều hành:
34 cuộc giám sát độc lập và kết hợp với hội đồng nhân dân
huyện đối với hoạt động chính quyền; tiếp 86 lượt công dân,
ghi nhận những yêu cầu, phản ánh liên quan bồi thường giải
tỏa, tái định cư, vệ sinh môi trường, nước sinh hoạt, tệ nạn xã
hội... Địa phương tổ chức tiếp xúc cử tri được 74 đợt với đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp với 4.215
lượt cử tri tham dự, tiếp nhận những nguyện vọng, kiến nghị,
giải pháp từ quần chúng: thực hiện phương thức, chính sách
bồi thường, giải toả, tái định cư, vấn đề tội phạm, dân sinh, môi
trường.
Hoạt động của bộ máy chính quyền đi vào nề nếp với công
tác cải cách hành chính được chú trọng. Thực hiện công tác rà
soát, kiểm tra, thẩm định văn bản qui phạm pháp luật theo định
kỳ, kịp thời hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật do
ủy ban nhân dân xã ban hành. Trong 5 năm qua, chính quyền
địa phương ban hành 3.258 văn bản, trong đó có: 34 văn bản
quy phạm pháp luật, 1.285 quyết định hành chính và các văn
bản khác. Văn bản được xây dựng, ban hành đúng thẩm quyền,
thể thức, nội dung phù hợp với qui định của pháp luật và tình
hình thực tế địa phương. Xã Đại Phước thực hiện cơ chế “một
cửa” và “một cửa liên thông” tạo thuận lợi để người dân thực
hiện các thủ tục hành chính, góp phần nâng cao hiệu quả quy
chế dân chủ, nhân dân thực hiện giám sát đối với các cơ quan
294

30.5 Page 295

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
nhà nước. Bộ phận “một cửa” nhận và giải quyết, trả kết quả
28.136/28.138 hồ sơ trên tất cả các lĩnh vực (đạt tỷ lệ 99,99%);
“một cửa liên thông” với huyện có 452 hồ sơ, đã giải quyết hồ
sơ đến hạn 431/531 hồ sơ (tỷ lệ 100%).
Công tác cán bộ thực hiện đúng qui trình và đảm bảo trong
tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, luân
chuyển, kiểm tra, quản lý. Sau bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm
kỳ 2011 - 2016, nhân sự lãnh đạo ủy ban có những thay đổi và
tiếp nhận đồng chí từ huyện Nhơn Trạch điều động giữ chức vụ
Phó Chủ tịch.
Ủy ban nhân dân phát huy được vai trò quản lý, điều hành
đúng chức năng, theo quy định. Trong quá trình hoạt động,
chính quyền thực hiện tốt quy chế phối hợp mặt trận và các
đoàn thể tham gia giám sát xây dựng chính quyền. Bộ máy
chính quyền địa phương được sắp xếp theo yêu cầu của nhà
nước, theo hướng tinh gọn, chất lượng cán bộ, viên chức có
năng lực, trình độ. Đội ngũ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị, phẩm chất
chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống... và nêu cao tinh thần
sẵn sàng nhận và thực hiện hoàn thành công việc được giao.
+ Hệ thống chính trị, đoàn thể
Khối vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội tiếp tục từng bước đổi mới về nội dung và phương thức
hoạt động, phát huy vai trò trong tuyên truyền, vận động, đoàn
kết quần chúng, cầu nối trong mối liên hệ giữa đảng, nhà nước
295

30.6 Page 296

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
với nhân dân tạo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa
phương. Tổ chức mặt trận, đoàn thể không ngừng củng cố, kiện
toàn và nâng cao chất lượng hoạt động, qua đó các phong trào
thi đua yêu nước được tham gia tích cực của nhân dân, hội viên.
Trong thực hiện chính sách xã hội, các phong trào Đền ơn đáp
nghĩa, quỹ Vì người nghèo đem lại kết quả, ý nghĩa thiết thực
trong hỗ trợ gia đình, đối tượng chính sách, các hộ khó khăn và
gắn kết cộng đồng trong tinh thần tương thân, tương ái. Hướng
đến mục tiêu xây dựng Nông thôn mới, nguồn lực xã hội hóa
được phát huy mạnh mẽ từ nhân dân, các tổ chức tư nhân, mạnh
thường quân trong xây dựng, sửa chữa, nâng cấp hệ thống giao
thông nông thôn, bảo vệ môi trường, vận động toàn dân tham
gia xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư... Hội Phụ nữ xã tập
hợp hội viên đông đảo và tổ chức hoạt động đa dạng, hiệu quả
trong phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, giỏi việc nước,
đảm việc nhà, vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình... Hội
Nông dân tham gia tích cực trong hỗ trợ hội viên sản xuất, kinh
doanh giỏi, áp dụng khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn
nuôi. Hội Cựu Chiến binh gương mẫu và phát huy truyền thống
bộ đội, vận động thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đoàn
và Hội thanh niên ở địa phương có những hoạt động phù hợp,
khuyến khích, động viên khởi nghiệp, làm kinh tế, đóng góp
sức trẻ trên nhiều lĩnh vực. Một số hội đoàn theo chức năng đã
làm tốt công tác tập hợp hội viên, gắn kết hỗ trợ và tham gia
những phong trào, nhiệm vụ của xã.
296

30.7 Page 297

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Mặt trận, đoàn thể là chỗ dựa vững chắc, đáng tin cậy của
cấp ủy, chính quyền trong tập hợp sức mạnh quần chúng, đồng
thời chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân thông qua
các cuộc tiếp xúc, lắng nghe ý kiến. Trên địa bàn xã, thông qua
các phong trào đoàn thể, đã tập hợp 1.794 quần chúng vào tổ
chức, nâng tổng số đoàn viên, hội viên được 6.812 người (tỷ
lệ 83,31% đối tượng tập hợp); trong đó số hội viên nòng cốt
có 3.573 người, (tỷ lệ chiếm 52%). Hàng năm Khối vận, mặt
trận và các tổ chức đoàn thể được đánh giá xếp loại Trong sạch
vững mạnh. Trên địa bàn xã số đồng bào có tôn giáo Công giáo,
Tin Lành, Phật giáo, Cao Đài chiếm 22,2% dân số. Công tác
tôn giáo được duy trì, tín hữu và các tổ chức tôn giáo hoạt động
theo quy định nhà nước “Tốt đời, đẹp đạo”, tham gia các phong
trào thi đua yêu nước.
- Lĩnh vực kinh tế
Từ định hướng cơ cấu kinh tế đặt ra từ năm 2010, xã Đại
Phước tăng dần tỷ trọng thương mại - dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp và giảm dần tỷ lệ nông nghiệp. Kinh tế của địa phương
tăng trưởng ổn định, chuyển dịch đúng hướng. Thương mại
- dịch vụ phát triển nhanh cùng với đẩy mạnh ngành tiểu thủ
công nghiệp. Năm 2010 có 561 hộ kinh doanh đến năm 2015
đạt 848 hộ (tăng 53,56%, chiếm tỷ lệ 70%). Trên địa bàn xã,
hình thành chợ mới và khu phố thương mại thay thế khu chợ
cũ. Chợ và khu phố thương mại hoạt động ổn định, được xem
là chợ đầu mối cung cấp, trung chuyển hàng hóa cho các xã
297

30.8 Page 298

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
lân cận. Từ sự hỗ trợ của tỉnh, dự án Lifsap1 tại địa phương tập
trung nâng cấp cải tạo khu buôn bán thực phẩm tươi sống an
toàn, hợp vệ sinh phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Những dự án đầu tư sân golt, khu du lịch sinh thái trên địa bàn
xã đã góp phần thu hút nguồn khách, thúc đẩy tỷ trọng trong
phát triển dịch vụ. Xã phối hợp với huyện, các cơ quan chức
năng duy trì kiểm tra phòng ngừa, ngăn chặn hàng gian, hàng
giả, hàng kém chất lượng, hàng chưa qua kiểm dịch... nâng chất
lượng của ngành thương mại - dịch vụ, đảm bảo quyền lợi cho
người kinh doanh và tiêu dùng.
Diện tích đất nông nghiệp của xã giảm dần hàng năm để
phục vụ các dự án được phê duyệt quy hoạch từ các cấp trong
định hướng phát triển của huyện Nhơn Trạch. Từ 376ha gieo
trồng năm 2010 đã giảm xuống 140ha năm 2015. Tổng diện
tích gieo trồng năm 2010 là 367ha thì đến năm 2015 chỉ còn
140ha; chiếm tỷ lệ 15% trong cơ cấu kinh tế so với đầu nhiệm
kỳ là 25%. Công trình đắp đê ngăn triều cường và nước mặn
xâm nhập khu vực Vàm Ô ấp Bến Cộ từ nguồn ngân sách
huyện Nhơn Trạch đầu tư đem lại lợi ích thiết thực cho nhân
dân, trong đó nông dân canh tác 3 vụ lúa/năm đạt hiệu quả kinh
tế. Sự chuyển biến tích cực thể hiện từ năng suất, sản lượng
1  Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh ngành chăn nuôi và an toàn thực
phẩm (Lifsap) được Ngân hàng Thế giới tài trợ một phần kinh phí, cộng thêm
nguồn vốn đối ứng của Chính phủ, nguồn đóng góp của tư nhân, được triển khai
thực hiện tại 12 tỉnh, thành trong cả nước. Tại Đồng Nai, dự án chia 2 giai đoạn:
2010-2015 và 2016-2018.
298

30.9 Page 299

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tăng khi lĩnh vực nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật
hiệu quả dù diện tích thu hẹp. Xã Đại Phước phối hợp các đơn
vị chuyên môn về khuyến nông, bảo vệ thực vật của huyện tập
huấn, tuyên truyền, phổ biến, chuyển giao về kiến thức khoa
học, phương pháp phòng ngừa dịch bệnh, cách thức bảo vệ cây
trồng, vật nuôi cho 220 lượt nông dân. Trong chăn nuôi, các hộ
dân duy trì số lượng gia súc, gia cầm. Trên địa bàn xã thực hiện
tốt công tác tiêm phòng dịch bệnh cho gia súc, gia cầm theo
định kỳ nên không xảy ra dịch bệnh.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển với sự tăng
dần của các hộ gia đình. Năm 2015 có 266 hộ phát triển tiểu
thủ công nghiệp với sự đa dạng trong ngành nghề (năm 2010
có 168 hộ). Các ngành nghề gia công cơ khí, kỹ nghệ sắt, sản
xuất gia công các sản phẩm đồ mộc truyền thống hoạt động ổn
định, đem lại thu nhập kinh tế, giải quyết việc làm và đáp ứng
nhu cầu đời sống nhân dân địa phương.
Nguồn thu ngân sách được tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt,
đúng quy định và quản lý, khai thác hiệu quả. Hàng năm, thu
ngân sách hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu, trong năm 2015
thu ngân sách vượt dự toán 140%. Quản lý và điều hành ngân
sách theo đúng quy định, kinh phí được cân đối, đảm bảo phục
vụ các nhiệm vụ của địa phương theo kế hoạch. Xã thực hiện
chi tiết kiệm hàng năm từ 20 đến 30% và phục vụ tăng lương
theo lộ trình. Ngoài ra, ngân sách nhà nước thông qua các ngân
299

30.10 Page 300

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
hàng, các quỹ hỗ trợ1 đã tạo thuận lợi cho 2.430 lượt hộ vay với
số tiền trên 70 tỷ đồng để phát triển sản xuất, kinh doanh ổn
định cuộc sống.
Cơ sở hạ tầng của địa phương được đầu tư xây dựng, sửa
chữa, nâng cấp. Mạng lưới điện hạ thế đến các địa bàn dân cư,
hệ thống điện chiếu sáng được lắp đặt hầu hết ở các trục đường
chính của xã. Năm 2011, số hộ sử dụng điện của xã đạt tỷ lệ
100%. Nguồn vốn của ngân sách nhà nước của tỉnh, huyện đầu
tư nhiều công trình thiết yếu phục vụ dân sinh: nâng cấp và
cải tạo đường Lý Thái Tổ trên địa bàn xã, đường Chùm Dầu,
đường nhánh rẽ Vàm Ô, hệ thống mương thoát nước đường
Hùng Vương, xây mới trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia,
xây mới Hội trường Nhà văn hoá xã và các công trình phụ.
Phong trào xã hội hóa giao thông được đẩy mạnh, thực hiện
nâng cấp, sửa chữa 19 tuyến đường giao thông nông thôn với
chiều dài 3km. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng
làm, tổng kinh phí thực hiện đầu tư cho giao thông của xã đạt
4.038.511.000 đồng (nhân dân tham gia đóng góp 800 triệu
đồng, ngân sách tỉnh và huyện hỗ trợ 2,7 tỷ đồng).
Phát triển mô hình kinh tế tập thể, xã Đại Phước thành lập
hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (10 thành viên, vốn điều lệ 2 tỷ
đồng) và tổ kinh tế hợp tác vệ sinh môi trường (7 thành viên,
vốn điều lệ là 800 triệu đồng do Hội Cựu Chiến binh quản lý).
1  Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng
Chính sách xã hội, quỹ CEP (Trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm).
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Hoạt động có doanh thu ổn định, giải quyết việc làm và tạo
thêm dịch vụ cho địa phương.
Công tác quy hoạch được xã quan tâm để phù hợp với thực
tiễn và quy hoạch phát triển. Địa phương tiến hành điều chỉnh
quy hoạch giai đoạn năm 2010 - 2015: chuyển mục đích sử
dụng nguồn đất hàng năm sang đất ở khu dân cư, quy hoạch các
điểm khu dân cư nông thôn, kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất
hàng năm. Song hành với quy hoạch, xã tổ chức quản lý đất đai
các dự án, khu quy hoạch và xác nhận nguồn gốc đất, phục vụ
các giải pháp đền bù, hỗ trợ và thu hồi đúng quy định. Từ năm
2010, trên địa bàn xã triển khai quy hoạch 5 dự án với tổng diện
tích thu hồi 43,75ha. Công tác vệ sinh môi trường được tuyên
truyền sâu rộng để nhân dân nhận thức, từ bỏ tập quán cũ, tham
gia các hoạt động để bảo vệ môi trường. Các khu dân cư, các hộ
gia đình có tỷ lệ số hộ dân trên 90% tham gia xử lý thu gom rác
thải sinh hoạt; trong đó 80% thông qua tổ hợp tác vệ sinh môi
trường thành lập tại địa phương.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của xã Đại Phước
trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 là xây dựng Nông thôn mới trong
chương trình mục tiêu quốc gia. Xã Đại Phước thực hiện đề án
xây dựng nông thôn mới với sự thành lập và kiện toàn Ban Chỉ
đạo, Ban quản lý và Ban vận động xã, Ban phát triển các ấp và
phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đồng chí phụ trách ở mỗi
lĩnh vực. Quần chúng nhân dân được tuyên truyền, tạo sự đồng
thuận cao, cùng góp phần xây dựng nông thôn mới theo các tiêu
301

31.2 Page 302

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chí. Xã Đại Phước hoàn thành và duy trì được 17 tiêu chí; 2 tiêu
chí về cơ sở vật chất cho giáo dục và quy chuẩn chính trị cho
cán bộ, đảng bộ tiếp tục phấn đấu hoàn thành.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Các thiết chế văn hóa của địa phương: Trung tâm văn hóa
xã, nhà văn hoá ấp được đầu tư, phục vụ nhu cầu sinh hoạt, vui
chơi, giải trí cho người dân. Hệ thống đài truyền thanh phổ biến
thông tin kịp thời đến các địa bàn xã với định kỳ tiếp âm các đài
tỉnh, huyện và phát thông tin của địa phương. Những sự kiện
chính trị quan trọng của đất nước, tỉnh, địa phương được tuyên
truyền rộng rãi. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, phong trào thể
dục thể thao của xã có nhiều tiến bộ. Đời sống văn hóa tinh thần
người dân được cải thiện qua các hoạt động phong phú, đa dạng
do địa phương tổ chức cũng như các đơn vị nghệ thuật cuả tỉnh,
huyện hỗ trợ trong những sự kiện, nhiệm vụ chính trị. Nhân dân
hưởng ứng tham gia tích cực phong trào xây dựng gia đình văn
hoá, ấp văn hóa. Công chức, viên chức phấn đấu thực hiện xây
dựng cơ quan văn minh. Số hộ đạt gia đình văn hóa tăng dần
từng năm, tỷ lệ trên 98%. Cơ quan văn minh đạt tỷ lệ 100%.
2/3 ấp đạt danh hiệu Ấp văn hóa. Mỗi năm, xã tổ chức tốt ngày
hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư, quần chúng tham
gia bảo vệ an ninh Tổ quốc và phối hợp hoạt động văn nghệ,
thể thao phục vụ người dân. Phong trào thể thao của xã chuyển
biến tích cực, toàn xã có 47% nhân dân và học sinh tham gia
luyện tập thể dục bằng nhiều hình thức. Từ những nhân tố tiêu
302

31.3 Page 303

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
biểu, xã cử chọn những vận động viên tham gia các giải thi đấu
thể dục thể thao của huyện.
Với mục tiêu xây dựng, đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học
tập và đồng thời đáp ứng các tiêu chí trong kế hoạch xây dựng
nông thôn mới, xã chú trọng trong đầu tư cho cơ sở vật chất
ngành giáo dục. Từ nguồn ngân sách địa phương, hỗ trợ của
cấp trên và xã hội hóa, cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị
được tập trung đầu tư đạt chuẩn. Về nhân lực, đội ngũ cán bộ
quản lý, giáo viên được đào tạo 100% và trên chuẩn đạt 70%.
Đội ngũ giáo viên nâng cao chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ
qua tập huấn, bồi dưỡng, áp dụng công nghệ trong giảng dạy.
Chất lượng học sinh được nâng cao phản ánh qua nhiều mặt.
Tỷ lệ huy động học sinh ra lớp hàng năm đạt 100%; học sinh
giỏi cấp huyện, tỉnh tăng qua các kỳ thi; học sinh khá, giỏi đạt
52,7%; học sinh bỏ học, học sinh lưu ban giảm từ 2% năm 2010
xuống còn dưới 0,3%, học sinh đậu vào các trường trung học,
cao đẳng, đại học tăng hàng năm.
Địa phương hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi;
phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục
trung học cơ sở. Công tác đảng, đoàn, đội duy trì và hoạt động
ban đại diện hội cha mẹ học sinh hỗ trợ cho giáo dục hiệu quả.
Trường Tiểu học được tỉnh công nhận đạt chuẩn quốc gia. Hội
khuyến học thành lập 46 tổ khuyến học, số hộ đạt gia đình hiếu
học là 1.790/3.022 hộ. Hàng năm, hội khuyến học duy trì các
chương trình tiếp sức sinh viên, tặng học bổng cho học sinh
303

31.4 Page 304

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
nghèo vượt khó. Trung tâm học tập cộng đồng hoạt động duy trì
các lớp bồi dưỡng, đào tạo cho người dân có nhu cầu về tin học,
võ thuật, pháp luật, giáo dục giới tính, khuyến nông, khuyến
công có trên 1.000 lượt người tham gia. Điểm cung cấp thông
tin khoa học công nghệ của xã giúp cho người dân những thông
tin bổ ích trong học tập, sản xuất, kinh doanh.
Hoạt động y tế của địa phương duy trì thường xuyên. Trạm
y tế được biên chế 1 bác sỹ và 6 y sĩ. Trang thiết bị thiết yếu
trong khám chữa bệnh tuyến cơ sở được đầu tư đáp ứng công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các chương trình y tế quốc
gia được thực hiện tốt. Chương trình tiêm vắc xin phòng 7 bệnh
cho trẻ em mỗi năm đạt tỷ lệ 100%. Y tế của địa phương khám
và điều trị cho 51.096 lượt người dân. Ngoài các hoạt động
định kỳ, địa phương tổ chức 8 đợt với đoàn y, bác sỹ ở bệnh
viện trong và ngoài tỉnh khám và phát thuốc miễn phí cho 1.527
lượt bệnh nhân nghèo, gia đình chính sách. Công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền, vận động, góp phần
trong giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0.92%. Xã Đại Phước
giữ vững chuẩn quốc gia về y tế.
Cùng với sự nỗ lực của địa phương trong chăm lo cho đối
tượng, gia đình chính sách theo đúng chế độ, các tầng lớp nhân
dân duy trì hiệu quả, ý nghĩa thiết thực các phong trào Đền ơn
đáp nghĩa, Uống nước nhớ nguồn”... Qua nhiều nguồn kinh phí
đóng góp, vận động, xã xây dựng và sửa chữa 14 căn nhà tình
nghĩa cho gia đình chính sách; xây và sửa chữa 10 căn nhà cho
304

31.5 Page 305

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
đối tượng có công với cách mạng. Ngoài ra, nhân dịp các ngày
lễ, tết... xã tổ chức vận động nguồn quỹ tặng các gia đình chính
sách, hộ nghèo, khó khăn. Công tác chăm lo cho các đối tượng
bảo trợ xã hội được địa phương quan tâm, trợ cấp, giúp đỡ 300
trường hợp thuộc diện trẻ mồ côi, khuyết tật, người già neo
đơn, người cao tuổi.
Xã Đại Phước thực hiện nhiều giải pháp trong đảm bảo an
sinh xã hội, cải thiện nâng cao thu nhập, đời sống người dân:
đào tạo nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo, bảo hiểm xã
hội, trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, thực hiện chính sách nhà ở cho người dân, chăm lo các
đối tượng chính sách, người có công... Giải quyết việc làm cho
người lao động trong độ tuổi trở thành yêu cầu lớn của xã khi
lao động nông nghiệp giảm có nhu cầu tìm việc làm phù hợp.
Xã tổ chức 4 lớp đào tạo nghề tại địa phương cho 170 lao động,
giới thiệu 3.000 lao động có việc làm tại các công ty xí nghiệp.
Chương trình giảm nghèo của xã được ưu tiên trong chính sách
xây dựng nông thôn mới. Từ nguồn vốn ngân hàng chính sách
xã hội, quĩ vì người nghèo tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn
phát triển sản xuất, hỗ trợ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình.
Quỹ “Vì người nghèo” vận động được 450 triệu đồng, xây
dựng 14 căn, sửa chữa 8 căn nhà tình thương tặng hộ nghèo.
Hộ nghèo của xã giảm từ 152 hộ năm 2010 còn 28 hộ năm 2015
chiếm tỷ lệ 0,72%.
305

31.6 Page 306

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Xã Đại Phước có vị trí kết nối nhiều địa phương, khu vực
giáp ranh rộng, đường thủy nhiều vẫn đảm bảo an ninh của địa
phương được ổn định. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ học tập, bồi
dưỡng nâng cao nghiệp vụ, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia,
nắm bắt được chiến lược bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình
hình mới. Cấp ủy quán triệt quan điểm, nhiệm vụ quân sự quốc
phòng của Đảng trong tình hình mới đối với lực lượng an ninh,
vũ trang. Nền an ninh quốc phòng toàn dân được đảm bảo, có
sự phốp hợp, kết hợp chặt chẽ trật tự an toàn xã hội và phát triển
kinh tế đi đôi với củng cố an ninh quốc phòng.
Lực lượng cán bộ, chiến sĩ duy trì chế độ trực sẵn sàng
chiến đấu, tổ chức thực hành diễn tập và chủ động điều chỉnh
bổ sung kế hoạch bảo vệ mục tiêu, phương án tác chiến phù hợp
với điều kiện đặc điểm tình hình của địa phương. Hàng năm,
xã thực hiện tốt việc xây dựng huy động lực lượng dự bị động
viên tham gia huấn luyện đạt 100% quân số. Lực lượng dân
quân được xây dựng vững mạnh, rộng khắp đạt 1,2% trên tổng
số dân. Chất lượng của lực lượng dân quân được nâng lên, tỷ lệ
đảng viên 8,5%, đoàn viên 90%, đảm bảo công tác huấn luyện
thường xuyên với phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững
chắc”. Từ công tác tuyên truyền, vận động của các cấp ngành,
đoàn thể, thanh niên tự nguyện và tuân thủ lệnh gọi nhập ngũ.
Số lượng tuyển quân hàng năm của địa phương luôn đạt 100%.
Chính sách hậu phương quân đội, công tác dân vận của lực
lượng vũ trang thực hiện hiệu quả.
306

31.7 Page 307

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Công an xã thực hiện tốt công tác bảo vệ nội bộ, an ninh văn
hóa, an ninh tư tưởng, an ninh nông thôn. Các kế hoạch phòng
chống tội phạm, ngăn ngừa tệ nạn xã hội, lập lại trật tự an toàn
giao thông... tuyên truyền rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân,
triển khai trên các địa bàn. Từ nghiệp vụ và thông tin nhân dân,
lực lượng công an đã đấu tranh có hiệu quả và chủ động phòng
ngừa, kiềm chế sự gia tăng đối với một số loại tội phạm nguy
hiểm, tội phạm ma túy và tai nạn giao thông. Trong xử lý phạm
pháp hình sự, trên địa bàn xảy ra 115 vụ, 88 vụ tai nạn giao
thông được xử lý. Vừa sử dụng biện pháp đấu tranh ngăn chặn,
xã tổ chức 184 đợt phát tờ tin pháp luật, vận động quần chúng
tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc. Quần chúng đã cung cấp 176
nguồn tin, trong đó có 101 nguồn tin có giá trị, giúp công an
điều tra làm rõ 101 vụ thu hồi tài sản trả lại cho người bị hại.
Cấp ủy chỉ đạo và các đơn vị công an, quân sự, ban ngành, đoàn
hội ký liên tịch hỗ trợ và phát huy quần chúng nhân dân tham
gia tích cực bảo vệ an ninh từ cơ sở đem lại hiệu quả.
Hoạt động tư pháp duy trì. Chính quyền nhận và giải quyết
180/180 đơn các loại, hòa giải thành 170 đơn, hòa giải không
thành chuyển cấp trên tiếp tục giải quyết 10 đơn. Các tổ hòa
giải ở 3 ấp hoạt động hiệu quả, trong 5 năm đã giải quyết 26/32
đơn, tỷ lệ hòa giải thành đạt 81,25%. Công tác tổ chức tuyên
truyền pháp luật trực tiếp với người dân với 132 buổi có trên
5.218 lượt người tham dự.
307

31.8 Page 308

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Chặng đường 5 năm đẩy mạnh và hướng đến xây dựng
nông thôn mới, bên cạnh những thành quả đạt được, xã Đại
Phước vẫn có những hạn chế trên một số lĩnh vực: Thương
mại - dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và
thế mạnh khi địa phương phát triển mang tính chất thị tứ, nối
liền các trục giao thông thủy, giao thông bộ nội huyện và liên
vùng với Thành phố Hồ Chí Minh. Trên lĩnh vực nông nghiệp,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm; kinh tế tập thể
hình thành song chất lượng hiệu quả chưa cao. Chất lượng hoạt
động của phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao còn
hạn chế. Trung tâm học tập cộng đồng hoạt động chưa đi vào
chiều sâu. Vấn đề giải quyết việc làm còn nhiều khó khăn nhất
định do trình độ học vấn, tay nghề của người lao động còn hạn
chế. Tình hình tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, tiến trình
đô thị hóa nhanh, gia tăng dân số cơ học.
Trong công tác vận động quần chúng, một số đoàn thể chậm
đổi mới phương thức tập hợp hội viên tham gia tổ chức. Sự
phối hợp, kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữa các đơn vị, cơ
quan chưa đồng bộ. Đảng bộ xã nhận diện được những hạn chế
trong công tác lãnh đạo địa phương thực hiện nhiệm vụ chính
trị, kinh tế và xã hội. Một số cán bộ, đảng viên trong đảng bộ
còn vi phạm và chịu kỷ luật ở mức cao. Những hạn chế trong
lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ ở địa phương của Đảng bộ xã Đại
Phước có những yếu tố khách quan tác động trong một số lĩnh
vực: quy hoạch và thực hiện các dự án kéo dài, chưa triển khai
308

31.9 Page 309

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
và công tác đền bù, giải tỏa triển khai chậm, đời sống nhân dân
xáo trộn, dẫn đến khiếu nại. Nguồn vốn đầu tư trong phát triển
hạ tầng kỹ thuật ở địa phương chưa đảm bảo. Sản xuất và chăn
nuôi của người dân chưa ổn định bởi giá cả vật tư, nguyên liệu
cao, giá nông sản sau thu hoạch thấp... Bênh cạnh đó, sự biến
động về nhân sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, lãnh đạo chính
quyền đã tác động đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ trên địa bàn. Những nguyên nhân, thực trạng của địa
phương qua nhiệm kỳ được Đảng bộ xã phân tích, đánh giá, rút
kinh nghiệm: Công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước
một số mặt còn lúng túng, chưa sâu sát, thiếu kiên quyết, sự
phối hợp giữa các ngành, hệ thống chính trị có lúc thiếu đồng
bộ, khối đại đoàn kết toàn dân chưa phát huy cao. Trong nhiệm
kỳ, đội ngũ cán bộ chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền có sự
thay đổi lớn về nhân sự, năng lực lãnh đạo ở một số tổ chức
trực thuộc chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Vai trò Đảng
bộ xã cần được phát huy mạnh mẽ trong sự lãnh đạo toàn diện
địa phương và nỗ lực phấn đấu thực hiện phát triển địa phương
trong giai đoạn tới.
2. Xây dựng Nông thôn mới, phát triển đô thị (2015 -
2020)
Đại hội Đảng bộ xã Đại Phước lần thứ IV đã xác định
phương hướng tổng quát giai đoạn 2015 - 2020: “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng;
Đoàn kết xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh;
309

31.10 Page 310

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Đảm bảo an sinh xã hội; Chăm lo phát triển kinh tế; Giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; Nâng cao chất lượng
xã đạt chuẩn quốc gia về Nông thôn mới1.
Từ tình hình thực tiễn, Đảng bộ xã đề ra nhiệm vụ trong
phát triển cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng Thương mại
- dịch vụ - nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng và phấn đấu
đến năm 2020, Đại Phước là xã có tỷ trọng thương mại - dịch
vụ phát triển. Những chỉ tiêu cụ thể trên từng lĩnh vực được đặt
ra để Đảng bộ và nhân dân thực hiện: Thu nhập bình quân đầu
người đến cuối năm 2020 đạt 58 triệu đồng trở lên, thu ngân
sách trên địa bàn hàng năm vượt chỉ tiêu. Hoàn thành 19/19 tiêu
chí xây dựng nông thôn mới trong năm 2015. Chống tái nghèo,
phấn đấu đến năm 2020 hộ nghèo còn dưới 1%. Tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên dưới 1%. Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 98,5%. Duy trì
chuẩn phổ cập các bậc học đúng độ tuổi và xây dựng trường
Trung học cơ sở, trường Mẫu giáo đạt chuẩn quốc gia. Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể được đánh giá TSVM đạt 95%,
không có tổ chức yếu kém; tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ
chức đạt trên 88%, trong đó hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam
đạt trên 78%, đoàn viên thanh niên đạt 68%. Tỷ lệ đoàn viên,
hội viên tham gia sinh hoạt đạt 80% trở lên. Đảng bộ xã giữ
vững danh hiệu Đảng bộ từ Trong sạch vững mạnh và cao hơn,
trên 80% chi bộ trực thuộc đạt Trong sạch vững mạnh, không
có chi bộ yếu, kém; trên 30% chi bộ Trong sạch vững mạnh
1  Văn kiện đại hội Đảng bộ xã Đại Phước lần thứ IV, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
tiêu biểu, phấn đấu 100% đảng viên được đánh giá Hoàn thành
nhiệm vụ, có trên 85% đạt Hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
+ Hoạt động, công tác Đảng
Đại hội lần thứ IV đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại
Phước nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm các đồng chí: Huỳnh Nhật
Quang giữ chức Bí thư, Hồ Văn Thắng giữ chức Phó Bí thư và
các ủy viên: Phạm Thành Công, Võ Thanh Hoàng, Lê Quang
Chính, Cao Hữu Thái, Dương Hồng Thắm, Nguyễn Thị Anh
Thư, Phạm Đại Phước. Nhiệm kỳ IV, tổ chức cấp ủy xã Đại
Phước có những biến động về nhân sự. Đồng chí Trần Thanh
Hoàng được chỉ định tham gia Ban Chấp hành, giữ chức Phó
Bí thư từ năm 2018 đến năm 2019 thay cho đồng chí Hồ Văn
Thắng (2015 - 2017). Năm 2019, đồng chí Bí thư Huỳnh Nhật
Quang được điều đến công tác tại xã Long Tân, đồng chí Trần
Thanh Hoàng giữ chức Bí thư đến cuối nhiệm kỳ. Đồng chí
Dương Chí Hùng tham gia Ban Chấp hành, giữ chức Phó Bí
thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (2019 - 2020).
Với trách nhiệm lãnh đạo toàn diện, Đảng bộ xã Đại Phước
xác định “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng; Đoàn kết xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch vững mạnh” ngay từ đầu nhiệm kỳ để thực hiện nhiệm vụ
xây dựng, phát triển địa phương một cách đồng bộ, mạnh mẽ để
đạt được những mục tiêu đề ra. Ngay sau đại hội nhiệm kỳ 2015
- 2020, Đảng ủy xây dựng ban hành quy chế, chương trình làm
311

32.2 Page 312

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
việc toàn khóa và định kỳ trong năm, tháng, tuần cụ thể. Nghị
quyết ban hành kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, nhiệm
vụ trọng tâm của địa phương. Trong chỉ đạo điều hành luôn tạo
sự đoàn kết thống nhất cao, thể hiện rõ ý thức tổ chức kỷ luật,
tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách. Cấp ủy và tổ chức cơ sở trực thuộc từng bước đổi
mới và đạt nhiều kết quả tích cực, tập trung thực hiện cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn đảng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng
và tổ chức.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức
cách mạng tiếp tục duy trì xuyên suốt. Học tập, quán triệt các
nghị quyết, chỉ thị, đường lối, chính sách của đất nước luôn
có trên 99% đảng viên và 80% đoàn viên, hội viên. Đảng bộ
và các chi bộ thực hiện tốt Chỉ thị 05 của Trung ương về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”1, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong nhận thức
và thực hiện nhiệm vụ. Công tác tổ chức cán bộ đã tạo được sự
chuyển biến về nhận thức và cách làm, thể hiện qua cụ thể hóa
nghị quyết TW 5 (khóa X) về “Tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”;
nghị quyết Hội nghị TW 6 (khóa X) về “Nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ đảng viên” thành chương trình hành động. Ban
1  Ngày 15-5-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Chỉ thị 05-
CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”...
312

32.3 Page 313

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Chấp hành Đảng bộ xã giữ được vai trò hạt nhân chính trị, trung
tâm đoàn kết, phát huy trách nhiệm của tập thể về công tác cán
bộ. Công tác tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí,
sử dụng, luân chuyển, kiểm tra, quản lý và thực hiện chính sách
đối với cán bộ thực hiện theo quy định, quy trình. Hàng năm tất
cả cán bộ, đảng viên đều được đánh giá, phân loại.
Công tác cán bộ được quan tâm củng cố, thực hiện luân
chuyển thay đổi các chức danh chủ chốt trong tổ chức đảng,
hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, mặt trận và các đoàn thể.
Quy hoạch cán bộ nguồn thực hiện tốt và bổ sung quy hoạch
cán bộ đối với giai đoạn 2020 - 2025. Các chi bộ trực thuộc tổ
chức thành công đại hội. Nguồn đào tạo bồi dưỡng đối với đội
ngũ kế cận đảm bảo đạt chuẩn theo yêu cầu về trình độ chính
trị, chuyên môn. Cán bộ, đảng viên được tạo điều kiện học tập,
bồi dưỡng về chính trị (có 3 đảng viên học cao cấp, 8 đảng viên
học trung cấp, 18 đảng viên học sơ cấp), chuyên môn (5 đồng
chí học cử nhân, 2 đồng chí trung cấp công an, 2 đồng chí trung
cấp quân sự) và nghiệp vụ (105 lượt).
Đảng uỷ xây dựng kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát
tổ chức, cấp ủy viên, đảng viên, trên nhiều mặt theo quy định
(chấp hành điều lệ, nghị quyết, chỉ thị và đạo đức lối sống, thực
hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, trách nhiệm của người đứng
đầu tổ chức cơ quan, đơn vị trong công tác phòng, chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí...). Uỷ ban kiểm tra
Đảng ủy thực hiện tốt chức năng độc lập và phối hợp với tổ
chức đảng cấp huyện trong thực hiện xử lý kỷ luật. Mặc dù có
313

32.4 Page 314

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
những kết quả tốt trong nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của cấp ủy,
Ban Chấp hành và đa số đảng viên nhưng vẫn có một số trường
hợp bị xử lý kỷ luật do những vi phạm (khiển trách 1 cá nhân do
buông lỏng trong lãnh đạo quản lý đất đai, 2 vi phạm sinh con
thứ 3 và cảnh cáo 1 cá nhân do không tham mưu kịp thời trong
công tác quản lý đất công). Qua công tác kiểm tra, giám sát
đã góp phần giữ nghiêm kỷ luật, ngăn ngừa vi phạm và giữ sự
đoàn kết thống nhất, thực hiện dân chủ trong đảng. Hàng năm,
cấp ủy đều tổ chức tổng kết và xây dựng nghị quyết chuyên đề
về công tác phát triển đảng viên và trong nhiệm kỳ đã kết nạp
được 47 đảng viên mới. Đến năm 2020, Đảng bộ xã Đại Phước
có 9 chi bộ, gồm 191 đảng viên.
+ Bộ máy chính quyền
Hội đồng nhân dân tiếp tục phát huy vai trò và nâng cao chất
lượng hoạt động, thực hiện tốt giám sát trong phát triển kinh tế
- xã hội, an ninh - quốc phòng. Trên cơ sở phân tích tình hình,
Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016 - 2021 ban hành 58 nghị
quyết, nội dung bám sát chủ trương nhiệm vụ của Đảng bộ xã,
phù hợp với nhiệm vụ phát triển địa phương. Trong nhiệm kỳ,
hội đồng tổ chức tiếp xúc 74 đợt với tổ đại biểu Quốc hội, đại
biểu cấp tỉnh, huyện, xã với 5.129 lượt cử tri tham dự. Những
vấn đề cử tri địa phương quan tâm trong các lĩnh vực được
các cấp giải trình và đề xuất các ngành hữu quan giải quyết.
Thường trực và các ban tổ chức giám sát 23 cuộc và kết hợp với
cấp huyện giám sát công tác quản lý hành chính nhà nước trên
314

32.5 Page 315

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
địa bàn. Nhân sự trong bộ máy chính quyền xã được sắp xếp
và bố trí hợp lý. Điều hành quản lý nhà nước của địa phương
được xây dựng kế hoạch. Hàng năm, chính quyền hoàn thành
các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng do
huyện giao, phát huy được vai trò quản lý, tích cực cải cách thủ
tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Quy chế dân chủ được thực thi, vận dụng phản ánh qua nhiều
hoạt động công khai bộ thủ tục hành chính, các khoản thu phí,
lệ phí, tạo thuận lợi cho tổ chức, nhân dân trong việc giám sát
đối với các cơ quan nhà nước. Bộ phận cơ chế “một cửa” nhận
và giải quyết 24.087/24.087 hồ sơ trên tất cả các lĩnh vực (tỷ lệ
100%). Trong quá trình hoạt động, ủy ban nhân dân thực hiện
tốt quy chế phối hợp, tạo điều kiện mặt trận, đoàn thể giám sát
xây dựng chính quyền. Bộ máy chính quyền được sắp xếp theo
tinh gọn, đáp ứng tiêu chuẩn và vị trí việc làm. Đội ngũ cán bộ
được tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ phù hợp và tạo nguồn quy hoạch phát triển.
+ Hệ thống chính trị, đoàn thể
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đại Phước tiếp tục được
mở rộng và gắn kết chặt chẽ, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân từng bước được nâng lên. Liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức không
ngừng được tăng cường và phát huy, giữ vai trò nền tảng trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã.
Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo Khối vận, Mặt trận Tổ quốc và các
315

32.6 Page 316

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
đoàn thể đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Vai trò
của mặt trận, các đoàn thể được phát huy, phong trào hành động
cách mạng đi vào chiều sâu. Những nghị quyết, quyết định, quy
định quan trọng của Đảng: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”,
Quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”, “Quy định về giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”1,
“Về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội” được
quán triệt trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Công
tác vận động quần chúng gắn với cuộc vận động “Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được
đẩy mạnh, tạo nên sự nhất trí cao và ý thức trách nhiệm chung
trong tập hợp quần chúng nhân dân. Đội ngũ cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị, đoàn thể được chuẩn hóa 100% trình độ
chuyên môn, chính trị từ trung cấp đến đại học. Chất lượng hoạt
động, các phong trào thi đua yêu nước được nhân dân hưởng
ứng với sự vào cuộc mạnh mẽ trong vận động, tuyên truyền của
hệ thống chính trị. Trong nhiệm kỳ, Khối vận tham mưu cho
Đảng ủy tổ chức 07 cuộc đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy,
1  Ngày 2-2-2018 của Ban Chấp hành Trung ương ban hành “Quy định về giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối
với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ
chốt và cán bộ, đảng viên”(Quy định số 214-QĐ/TW).
316

32.7 Page 317

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
chính quyền với nhân dân, kết quả có 856 lượt người tham dự,
có 58 ý kiến đóng góp hữu ích cho địa phương trên nhiều lĩnh
vực cần quan tâm, giải quyết. Mặt trận xã tổ chức 7 đợt giám sát
về thực hiện giao thông nông thôn, xây dựng sửa chữa trường
học, thực hiện chế độ gia đình chính sách, hộ nghèo, thực hiện
nghĩa vụ quân sự. Nhiều phong trào được tổ chức đoàn thể phát
động, đi vào chiều sâu, có tác động tích cực; gồm: phong trào
“Xây dựng cán bộ, công chức trung thành, sáng tạo, tận tụy,
gương mẫu” của công đoàn xã; “Nông dân tham gia xây dựng
nông thôn mới nâng cao” và “Nông dân sản xuất kinh doanh
giỏi” của Hội Nông dân; “Phụ nữ tích cực học tập, lao động,
sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” của Hội Liên hiệp Phụ
nữ; “ 4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” và “4
xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ tổ
quốc” của Đoàn Thanh niên; “Cựu Chiến binh gương mẫu” của
Hội Cựu Chiến binh; “Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gắn với một
địa chỉ nhân đạo” của Hội Chữ thập đỏ; “Toàn xã hội chăm sóc
và phát huy vai trò người cao tuổi”, “Tuổi cao gương sáng” của
Hội Người cao tuổi; “Xây dựng gia đình, dòng họ hiếu học”
của Hội Khuyến học; “Vì tiếng cười trẻ thơ” của Hội thân nhân
kiều bào xã1. Những gương người tốt điển hình trong các phong
trào của địa phương được nêu gương, khen thưởng kịp thời:
ông Trần Văn Bến (Tư Trên) có thành tích giúp đỡ hộ nghèo, hỗ
trợ công trình giao thông nông thôn, ông Trương Tánh là thầy
1  Từ tháng 4-2016, Hội Thân nhân kiều bào xã cấp phát suất ăn sáng hàng ngày
cho học sinh nghèo tại Trường Tiểu học Đại Phước với số tiền trên 150 triệu đồng.
317

32.8 Page 318

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
thuốc khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo,
bà Huỳnh Thị Thanh Tùng giúp đỡ học sinh khó khăn...
Mặt trận của địa phương xây dựng kế hoạch tham gia xây
dựng nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao xã hội hóa
giao thông được 12 tuyến đường với kinh phí hơn 4 tỷ đồng
(người dân đóng góp gần 1 tỷ đồng). Các tổ chức, mạnh thường
quân đóng góp chăm lo sự nghiệp giáo dục, trao tặng học bổng
cho học sinh nghèo 102 triệu. Khối dân vận kết hợp đoàn thể
vận động nhân dân tham gia mô hình “Tuyến đường nông thôn
mới “Sáng - xanh - sạch - đẹp”, thắp sáng 23 ngõ hẻm, trồng
cây xanh, cây cảnh tạo mỹ quan đường giao thông. Thông qua
các phong trào hành động, đoàn thể của xã Đại Phước tập hợp
1.280 quần chúng vào tổ chức, nâng tổng số đoàn viên, hội viên
đạt 7.140 người (tỷ lệ 91,84% đối tượng tập hợp); trong đó, có
4.048 hội viên nòng cốt (tỷ lệ 56,69%). Hàng năm, Khối vận,
mặt trận và các đoàn thể được xếp loại trong sạch vững mạnh.
Sự hoạt động năng nổ của các tổ chức trong mặt trận đã đem lại
hiệu quả cao trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tính tích
cực trong phát động phong trào ở địa phương.
- Lĩnh vực kinh tế
Xã Đại Phước chú trọng và ưu tiên trong các chính sách,
đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế theo cơ cấu Thương mại -
dịch vụ - nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng. Đến năm 2020,
cơ cấu này đã chuyển dịch đúng hướng và đạt được những mục
tiêu đặt ra. Thương mại - dịch vụ chiếm tỷ lệ từ 70% thì đến
318

32.9 Page 319

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
năm 2020 đạt 75% trong cơ cấu kinh tế. Sự phát triển này có
những thuận lợi từ vị trí địa lý và sự hình thành khu chợ và
khu phố thương mại xã đã đầu tư trong giai đoạn trước. Một
số dịch vụ du lịch phát triển trên khai thác tiềm năng sinh thái
đặc trưng, thu hút khách du lịch, tạo nên nguồn cung và cầu,
tăng mạnh các dịch vụ đáp ứng. Cù lao Ông Còn với vị thế độc
đáo trên địa bàn xã được quy hoạch với dự án cao cấp sân golt,
cảnh quan sông nước tạo điều kiện dịch vụ phát triển cao cấp.
Bên cạnh đó, xã là điểm trung chuyển các nguồn lao động đi và
đến các nơi làm việc nhiều nên hình thành dịch vụ xe đưa rước,
cung ứng nhu cầu vận tải. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tiếp tục
phát triển, với các ngành nghề dân dụng, gia dụng hỗ trợ trong
sinh hoạt, sản xuất, tiêu dùng của nhân dân địa phương.
Năm 2020, quy hoạch dự án chiếm một phần lớn diện tích
đất trên địa bàn, diện tích sản xuất nông nghiệp còn 120ha,
giảm từ 17% xuống còn 10% trong cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp
đạt hiệu quả trong sản lượng, năng suất thu hoạch từ chính sách
và áp dụng khoa học kỹ thuật, công tác phòng ngừa dịch bệnh
thực hiện tốt. Từ nguồn ngân sách huyện đầu tư và khen thưởng
xã đạt nông thôn mới, xã thực hiện hệ thống tuyến mương thoát
nước và xây dựng tuyến đê bao chống triều cường xâm nhập
mặn khu vực Vàm Ô - Bến Cộ dài 1.800m.
Hệ thống cơ sở vật chất cầu, đường, trường, trạm, chợ, các
thiết chế văn hóa của địa phương được khang trang từ nguồn
tập trung đồng bộ trong xây dựng nông thôn mới: xây dựng
mới trường Mầm non, sửa chữa nâng cấp trường Trung học cơ
319

32.10 Page 320

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
sở, trường Tiểu học với kinh phí trên 75 tỷ đồng. Ngân sách
nhà nước và nguồn kinh phí trong phong trào xã hội hóa giao
thông nông thôn góp phần quan trọng trong xây dựng, nâng cấp
giao thông trên địa bàn xã: Xã làm mới 4 con đường; nâng cấp,
sửa chữa 11 tuyến đường (huyện 3 tuyến, xã 8 tuyến) dài gần
3,5km với kinh phí thực hiện 3,2 tỷ đồng. Công tác vệ sinh môi
trường được quan tâm thực hiện với việc hình thành các tổ hợp
tác, thu gom rác thải sinh hoạt tập trung qua hợp tác xã dịch vụ
môi trường Đại Tiến. Người dân được vận động đăng ký thực
hiện thu gom rác thải trên 99% số hộ. Chính quyền địa phương
phát động 20 đợt ra quân vệ sinh môi trường được nhiều tầng
lớp nhân dân, tổ chức đoàn, hội hưởng ứng, thu gom trên 15
tấn rác thải.
Công tác quy hoạch được thực hiện với nhiều dự án; tiêu
biểu với 5 dự án với tổng diện tích thu hồi 43,75ha gồm: Dự
án mở rộng nhà máy nước (0,25ha), Công ty cổ phần đầu tư
Bái Tử Long (8ha), Khu tái định cư Đại Lộc 2 (5,5ha), Công ty
Trách nhiệm Hữu hạn Thảo Điền (27ha), Công ty Nhơn Thành
(3ha).. Ngoài ra, một số địa điểm được giới thiệu đầu tư cho
một số doanh nghiệp: Công ty Tín Nghĩa (130ha), Công ty
Trách nhiệm Hữu hạn Hai Dung (55ha), Công ty Bảo Cường
(96ha), Công ty Đất Ngọc (4,5ha), Công ty Gia Bảo (4,6ha).
dự kiến Khu hành chính xã (5ha). Trong quy hoạch của xã Đại
Phước, ấp Cù lao Ông Còn được giải tỏa trắng dân cư để đầu tư
các dự án quy hoạch cao cấp.
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Ngân sách của địa phương qua thu chi nghĩa vụ trên các
lĩnh vực hàng năm đều đạt, vượt chỉ tiêu và điều hành thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, cân đối đảm bảo chi thường
xuyên, phục vụ các nhiệm vụ chính trị theo kế hoạch.
Trong nhiệm kỳ, tỷ trọng thương mại - dịch vụ, tiểu thủ
công nghiệp tăng dần, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm và xây
dựng phát triển trên cơ sở quy hoạch. Kinh tế địa phương tăng
trưởng ổn định, cơ cấu chuyển dịch đúng định hướng.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao phát triển, công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm, giảm nghèo
đạt được những kết quả quan trọng, đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ nét. Đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân được nâng lên, các hoạt động văn nghệ, thể thao
phong phú, đa dạng với nhiều hội thi, hội thao được tổ chức,
phục vụ nhân dân trong dịp lễ, tết, sự kiện chính trị. Các phong
trào trong xây dựng văn hóa: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh”, “Xây dựng ấp văn hóa, gia đình
văn hóa, cơ quan văn hóa” đi vào chiều sâu, tác động tích cực.
Trong đó, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh” được cụ thể hóa bằng các nội dung
xây dựng: Ấp văn hóa; Gia đình văn hóa lồng ghép với chương
trình 04 giảm ở khu dân cư; Xây dựng “Xã văn hóa” gắn với
xây dựng nông thôn mới nâng cao; Mô hình nhà trọ văn hóa
được thành lập, hoạt động hiệu quả. 2/3 ấp duy trì đạt chuẩn Ấp
321

33.2 Page 322

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
văn hóa (ấp Cù lao Ông Còn giải tỏa dân cư). Số hộ đạt chuẩn
Gia đình văn hóa tăng dần từng năm, tỷ lệ 99,78% số hộ dân.
Ngày hội “Đại đoàn kết toàn”, “Quần chúng tham gia bảo vệ
an ninh Tổ quốc” đem lại ý nghĩa và hiệu quả gắn kết nhân
dân tham gia xây dựng, nâng cao trách nhiệm với địa phương.
Nhiều năm liền xã Đại Phước được công nhận là xã lành mạnh
không có tệ nạn mại dâm. Hoạt động thể thao được duy trì, phát
động trong nhân dân. Những giải thi đấu, giao hữu về thể thao ở
xã, ấp tổ chức và tham gia hội thao cấp huyện. Toàn xã có 47%
số dân tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên. Trung
tâm văn hóa xã, Nhà văn hoá ấp hoạt động tích cực, phục vụ
nhu cầu cho người dân. Đài truyền thanh xã duy trì hoạt động,
đảm bảo nguồn thông tin đến nhân dân.
Sự nghiệp giáo dục chuyển biến tích cực, thực hiện tốt công
tác dạy và học, đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa giáo dục, huy
động được nhiều nguồn lực đầu tư cho giáo dục, tập trung nâng
cao chất lượng học tập đi đôi với giáo dục đạo đức cho học sinh.
Đội ngũ thầy cô giáo đều được chuẩn hóa cơ bản đạt chuẩn và
trên chuẩn. Cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị được tập
trung đầu tư: Trường Mầm non được xây mới, trường Tiểu học,
Trung học cơ sở được nâng cấp; 3 trường đều đạt chuẩn quốc
gia. Chất lượng giảng dạy nâng cao với việc ứng dụng công
nghệ thông tin. Những thành quả tiêu biểu: Tỷ lệ huy động học
sinh ra lớp hàng năm đạt 100% và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm
sau cao hơn năm trước. Số lượng học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh
đều tăng. Học sinh khá, giỏi đạt tỷ lệ 52,7%, học sinh bỏ học,
322

33.3 Page 323

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
học sinh lưu ban giảm từ 0,8% năm 2015 xuống còn dưới 0,3%
năm 2020. Xã Đại Phước được công nhận hoàn thành phổ cập
mầm non cho trẻ 5 tuổi. Công tác phổ cập được công nhận và
duy trì ở 3 cấp học; trung tâm học tập cộng đồng thường xuyên
duy trì hoạt động, công tác khuyến học khuyến tài được chú
trọng. Hội khuyến học trong 5 năm qua xây dựng và ra mắt
51 tổ khuyến học. Sinh viên, học sinh khó khăn được trao học
bổng và xây dựng nhà khuyến học với số tiền trị giá trên 2 tỷ
đồng. Trung tâm học tập cộng đồng hoạt động có nhiều tiến bộ,
hàng năm mở các lớp tuyên truyền pháp luật, giáo dục giới tính,
tập huấn khuyến nông, các lớp võ thuật trên 1.200 lượt người
tham gia. Năm 2017, Tập thể Trường Tiểu học được Thủ tướng
chính phủ tặng Bằng khen. Năm 2019, Trường Trung học cơ
sở của xã được nhận danh hiệu Lá cờ đầu ngành Giáo dục tỉnh
Đồng Nai.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được thực hiện
tốt, các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng, cơ sở vật
chất, trang thiết bị vật tư được đầu tư nâng cấp. Trạm y tế có
biên chế bác sĩ ổn định, mạng lưới y tế, cộng tác viên y tế ấp
hoạt động đạt hiệu quả, đảm bảo đủ điều kiện thực hiện nhiệm
vụ phòng bệnh và khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác
chăm sóc bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, phòng chống
suy dinh dưỡng trẻ em đạt chỉ tiêu.
Chính sách xã hội được duy trì thường xuyên, theo đúng
chế độ, kịp thời. Nhiều hoạt động của các cấp ủy, chính quyền
323

33.4 Page 324

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
và hệ thống chính trị, đoàn hội trong công tác thăm hỏi, chăm
sóc, tặng quà đối tượng, gia đình chính sách. Trên địa bàn xã
không còn hộ chính sách thuộc diện nghèo. Con em các gia
đình chính sách đều được hưởng các chế độ ưu đãi của nhà
nước, người tàn tật, đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em
mồ côi được chăm lo giúp đỡ kịp thời. Công tác giảm nghèo
được triển khai thực hiện bằng nhiều giải pháp và đạt nhiều kết
quả. Nguồn quỹ Vì người nghèo được vận động với kinh phí
mỗi năm tăng, hỗ trợ tích cực trong thực hiện chính sách của
địa phương. Thông qua các phong trào đoàn kết tham gia phát
triển kinh tế, tích cực giúp nhau giảm nghèo bền vững, nâng
cao đời sống, khuyến khích làm giàu chính đáng có hơn 247
lượt hộ nghèo, hộ khó khăn được các hộ khá, hộ giàu cho vay
không tính lãi với số tiền 328 triệu đồng. Cùng với sự hỗ trợ
của nhà nước, các cấp, các ngành đã hỗ trợ, khuyến khích hộ
nghèo tích cực làm kinh tế gia đình, tăng thu nhập. Những hộ
nghèo, khó khăn về nhà ở được trao nhà tình thương. Tỷ lệ hộ
nghèo của địa phương từ 1,67% năm 2015 xuống còn 0,21%
năm 2020. Chính quyền địa phương giới thiệu việc làm và thực
hiện các giải pháp lồng ghép hỗ trợ vay vốn của ngân hàng, vốn
vay ủy thác của các đoàn thể, giải quyết cho hơn 1.500 lao động
có việc làm ổn định, ổn định đời sống. Các tầng lớp nhân dân,
không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo được vận động,
phát huy tinh thần đoàn kết, chung tay, góp sức xây dựng địa
phương.
324

33.5 Page 325

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Lực lượng quân sự xã duy trì chế độ trực sẵn sàng chiến
đấu, tổ chức thực hành diễn tập và chủ động điều chỉnh bổ
sung kế hoạch phòng thủ và phương án tác chiến phù hợp với
điều kiện đặc điểm tình hình địa phương. Hàng năm thực hiện
tốt việc xây dựng huy động lực lượng dự bị động viên tham
gia huấn luyện đạt 100% quân số. Lực lượng dân quân được
xây dựng vững mạnh, rộng khắp, đạt 1,2% trên dân số, được
huấn luyện thường xuyên. Tuyển quân hàng năm của xã luôn
đạt chỉ tiêu và chất lượng nâng cao. Cấp ủy, chính quyền và
đoàn thể cùng phối hợp thực hiện chính sách hậu phương quân
đội. Công tác dân vận của lực lượng vũ trang được tổ chức với
nhiều hình thức đa dạng, chung tay làm đường giao thông, bảo
vệ môi trường, thăm hỏi cựu chiến binh, gia đình chính sách...
mang ý nghĩa và phát huy tình quân, dân.
Lực lượng công an xã triển khai phát động phong trào
thi đua trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội của địa
phương với 2 phong trào tiêu biểu: Vì An ninh Tổ quốc, Học
tập thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân và Công
an nhân dân vì nước quên thân vì dân phục vụ. Cán bộ, chiến
sĩ quán triệt đường lối chính sách trong tình hình mới của đất
nước và nâng cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Các
phương án phòng chống tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu
niên, các biện pháp lập lại trật tự trên lĩnh vực an toàn giao
thông được triển khai hiệu quả góp phần trong đảm bảo an ninh
325

33.6 Page 326

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Lực lượng công an
nắm bắt thông tin kịp thời, đấu tranh và chủ động phòng ngừa,
kiềm chế sự gia tăng đối với một số loại tội phạm nguy hiểm,
tội phạm ma túy và tai nạn giao thông, phạm pháp hình sự.
Trong 5 năm, ở địa phương xảy ra 89 vụ phạm pháp hình sự,
83 vụ vi phạm giao thông. Xã phát động 142 đợt quần chúng
tham gia bảo vệ an ninh, Tổ quốc và nhận 89 nguồn tin có giá
trị, giúp công an điều tra làm rõ 46 vụ thu hồi tài sản trả lại cho
người bị hại trị giá trên 480 triệu đồng. Hàng năm, xã tổ chức
ngày hội quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tuyên dương và
nhân rộng những cá nhân điển hình. Mô hình Tổ tự quản về an
ninh trật tự hoạt động hiệu quả.
Chính quyền thực hiện công tác tiếp dân, ghi nhận ý kiến,
nguyện vọng theo quy định, tiếp 194 lượt công dân, (trong
đó, chủ tịch tiếp 68 lượt, cán bộ tư pháp tiếp 126 lượt). Qua
các đợt tiếp dân, giúp chính quyền nắm bắt được vấn đề, xác
minh hòa giải kịp thời không để tồn đọng kéo dài và không có
đơn vượt cấp. Tổng số đơn nhận và giải quyết 23/23 đơn các
loại, hòa giải thành 20 đơn (tỷ lệ 87%), hòa giải không thành
chuyển cấp trên tiếp tục giải quyết 3 đơn. Tổ hòa giải ở địa bàn
ấp hoạt động hiệu quả. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật triển khai sâu rộng với sự phối hợp của nhiều đơn vị, cơ
quan, hội đoàn có trên 4.420 lượt người tham dự. Công tác đấu
tranh phòng chống tham nhũng được Đảng bộ tập trung lãnh
đạo đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm qua không có cán bộ vi
phạm phải bị xử lý kỷ luật liên quan đến tham nhũng, lãng phí.
326

33.7 Page 327

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Lực lượng an ninh, quân sự và mặt trận, đoàn hội thực hiện ký
kết liên tịch vận động quần chúng tham gia phòng chống tội
phạm, bảo vệ an ninh Tổ quốc, củng cố nâng chất lượng tổ an
ninh trật tự ở địa bàn dân cư.
*
Những nỗ lực của Đảng bộ và quần chúng nhân dân đã
đem lại những kết quả trong chặng đường xây dựng nông thôn
mới của địa phương. Trên cơ sở kế thừa từ khi xây dựng của
nhiệm kỳ 2010 - 2015, năm 2016 xã Đại Phước được tỉnh công
nhận đạt chuẩn Nông thôn mới. Phát huy thành quả này, xã Đại
Phước nỗ lực và phấn đấu hoàn thành đạt chuẩn Nông thôn
mới nâng cao vào năm 2018. Qua triển khai thực hiện chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới thì các cơ sở
hạ tầng điện, đường, trường, trạm, chợ, trung tâm văn hóa được
tập trung đầu tư đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế
phát triển, cơ sở vật chất, hạ tầng từng bước được cải thiện theo
hướng tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được
nâng cao. Đây là thành quả lớn để xã Đại Phước phát triển theo
hướng bền vững, là niềm tự hào và trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Đảng bộ xã nhận diện những hạn chế,
tồn tại trong quá trình lãnh đạo từ những yếu tố cả chủ quan,
khách quan: Trong hoạt động của nhà nước, công tác quản lý
đất đai, quy hoạch, xây dựng chưa chặt chẽ, xảy ra trường hợp
lấn chiếm đất công, xây dựng trái phép. Tình trạng lấn chiếm
hành lang, lộ giới gây cản trở ùn tắc giao thông cục bộ chưa
327

33.8 Page 328

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
giải quyết triệt để. Tình hình an ninh, xã hội tiềm ẩn nhiều yếu
tố phức tạp, vẫn còn những hạn chế trong công tác phòng ngừa.
Chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đoàn thể chưa
phát huy triệt để ngang tầm với nhiệm vụ, phản biện xã hội
chưa đi vào chiều sâu. Trong đội ngũ đảng viên vẫn còn những
trường hợp vi phạm phải xử lý kỷ luật.
Bước vào giai đoạn mới, Đảng bộ xã Đại Phước đúc kết
những bài học kinh nghiệm: Củng cố năng lực lãnh đạo của
Đảng bộ, xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Tăng cường sự đoàn kết thống
nhất trong cấp ủy, phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương. Duy trì nghiêm
túc việc tự phê bình và phê bình, quan tâm công tác xây dựng
Đảng gắn với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đảng bộ xã làm tốt công
tác cán bộ, rèn luyện đội ngũ đảng viên đủ bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Vận
dụng đường lối, chủ trương, chính sách một cách năng động
sáng tạo phù hợp với tình hình thực tế địa phương, mang tính
khả thi cao. Đảng bộ xã thông qua bộ máy nhà nước, hệ thống
chính trị phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân, chăm lo bảo vệ
lợi ích chính đáng và tập trung giải quyết kịp thời những bức
xúc ở địa bàn khu dân cư, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
ở cơ sở thực sự vững mạnh. Tăng cường, nâng cao hiệu quả
328

33.9 Page 329

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hoạt động kiểm tra, giám sát trong tổ chức, đảng viên để khắc
phục những hạn chế, xây dựng tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch vững mạnh.
3. Quy hoạch và định hướng phát triển bền vững (2020
- 2025)
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, đặc biệt thành quả
xây dựng Nông thôn mới, Đảng bộ và nhân dân xã Đại Phước
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong xu thế của cả
huyện Nhơn Trạch, trong định hướng quy hoạch của tỉnh Đồng
Nai và tầm nhìn mở rộng về phía Đông của đô thị Thành phố
Hồ Chí Minh.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại Phước nhiệm kỳ V (2020
- 2025) do đồng chí Trần Thanh Hoàng làm Bí thư, Dương Chí
Hùng - Phó Bí thư và các ủy viên: Phạm Thành Công, Nguyễn
Thị Anh Thư, Trần Nam Hải, Trần Minh Hoàng, Trần Văn Hải,
Đặng Đình Bình, Lê Huỳnh Anh, Phạm Đại Phước, Nguyễn
Thành Phi. Đảng bộ xã Đại Phước xác định mục tiêu:“Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng; Đoàn kết xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững
mạnh; Chăm lo phát triển kinh tế; Giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội; Nâng cao chất lượng xã đạt chuẩn quốc
gia nông thôn mới nâng cao, tiến tới xây dựng nông thôn mới
kiểu mẫu”1.
1  Đảng bộ xã Đại Phước (2020), Tài liệu Báo cáo chính trị tại đại hội nhiệm kỳ
V, giai đoạn 2020 - 2025, Văn phòng Đảng ủy xã Đại Phước.
329

33.10 Page 330

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Đảng bộ xã Đại Phước tiếp tục lãnh đạo thực hiện xây dựng
theo hướng cơ cấu kinh tế “Thương mại - Dịch vụ - Tiểu thủ
công nghiệp - Nông nghiệp”. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2025,
xã Đại Phước là xã có tỷ trọng thương mại - dịch vụ ở mức độ
cao, từng bước phát triển hệ thống dịch vụ dựa trên thế mạnh và
tiềm năng của xã; tập trung chuyển đổi nông nghiệp theo định
hướng sản xuất nông nghiệp đô thị, đẩy mạnh phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tạo thêm việc
làm mới cho người lao động, từng bước nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ
cơ sở, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy cao
độ quyền làm chủ của nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn
tham nhũng, quan liêu, lãng phí; đẩy lùi tiêu cực, bài trừ các tệ
nạn xã hội. Tích cực thực hiện cải cách bộ máy hành chính nhà
nước, tăng cường hiệu lực, hiệu quả vai trò quản lý nhà nước,
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Phát huy những kết quả trên từng lĩnh vực, đại hội Đảng bộ
khóa V đề ra những mục tiêu cụ thể và các giải pháp thực hiện.
- Xây dựng Đảng bộ và các chi bộ trực thuộc vững mạnh
cả ba mặt “chính trị, tư tưởng và tổ chức”. Tiếp tục thực hiện
tốt công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, thường xuyên giáo dục chính
trị, tư tưởng, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Thực hiện
công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ, phấn đấu luôn giữ vững
100% cán bộ, đảng viên thuộc diện quy hoạch và nguồn dự bị
đảm bảo đạt chuẩn, trên chuẩn theo quy định. Công tác quy
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
hoạch cán bộ gắn với đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển phù hợp.
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ ngang tầm với nhiệm
vụ đề ra. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình xây dựng Đảng bộ thật sự trong sạch
vững mạnh.
Đối với chính quyền, Đảng ủy xã chỉ đạo nâng cao chất
lượng đại biểu và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hội đồng
nhân dân, tăng cường vai trò trong lãnh đạo, kiểm tra, giám sát
hoạt động của hệ thống chính quyền. Với bộ máy nhà nước,
tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn hoạt động, bộ
phận “một cửa” giải quyết nhanh, gọn thủ tục hành chính cho
nhân dân. Tổ chức tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân và giải quyết đơn từ khiếu
nại của công dân nhanh chóng, kịp thời.
Hệ thống chính trị, đoàn thể kiện toàn tổ chức, thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ, tập hợp lực lượng nhân dân trong khối
đại đoàn kết. Tăng cường mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ giữa
tổ chức đảng và chính quyền. Động viên đoàn viên, hội viên và
quần chúng nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua
yêu nước. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, mở rộng và đẩy
mạnh các cuộc vận động toàn dân đồng thuận, chung sức thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ trực tiếp
của nhân dân theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát”.
331

34.2 Page 332

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
- Về thương mại - dịch vụ, tăng cường biện pháp tiêu thụ
nông sản, hàng hóa cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án du lịch
sinh thái, xây dựng các khu dân cư phù hợp với quy hoạch.
Đồng thời, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản
xuất, kinh doanh, tập trung cho kinh tế hợp tác. Trên địa bàn
xã, hình thành các loại hình hợp tác xã thương mại - dịch vụ đa
ngành nghề (vận tải, cung ứng vật tư trang thiết bị). Từng bước
nâng cao tỷ trong thương mại dịch vụ trong cơ cấu kinh tế địa
phương.
- Đối với nông nghiệp, tài nguyên môi trường, vận động
nhân dân tận dụng diện tích nông nghiệp sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao.
Thực hiện tốt việc tuyên truyền để áp dụng khoa học, định
hướng giống cây trồng, vật nuôi, quan tâm và kịp thời phòng
ngừa dịch bệnh, hướng đến hiệu quả kinh tế cao.
- Quản lý tốt đất đai, bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng
tài nguyên hiệu quả, trọng tâm sản lượng cát, nguồn nước.
Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hạ
tầng, phúc lợi: cơ sở công, hệ thống đường giao thông, trường
học các cấp. Tập trung thu có hiệu quả các nguồn thu xã hội
hóa, bảo đảm ngân sách điều tiết cho hoạt động.
- Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, tiếp tục nâng cao chất
lượng, đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa, đầu tư xây dựng cơ sở
332

34.3 Page 333

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
vật chất phục vụ dạy và học. Đảm bảo chất lượng giáo viên các
cấp đạt chuẩn. Duy trì vững chắc kết quả phổ cập ở 3 cấp học
đúng độ tuổi.
- Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hoạt động văn hóa,
thông tin và thể thao, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ cho người
dân. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước hoạt động văn hóa,
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Phấn đấu đạt tỷ lệ
cao trong xây dựng đời sống văn hóa, vận động nhân dân tham
gia phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô
thị văn minh”.
- Quan tâm các hoạt động y tế, phấn đấu xây dựng cơ sở
và nhân lực đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh, chăm sóc sức
khỏe cho người dân. Duy trì hiệu quả và kịp thời các công tác
phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện
tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
dưới 1%.
- Lĩnh vực lao động, thương binh xã hội: Thực hiện các
biện pháp đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động địa
phương. Chăm lo tốt cho các đối tượng chính sách, thực hiện
đầy đủ các chế độ đối với người có công. Tiếp tục phấn đấu
giảm tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tiêu chí của tỉnh.
- Giữ vững thế trận an ninh, quốc phòng toàn dân. Kiện
toàn bộ máy chỉ huy lực lượng công an, quân sự. Hoàn thành
chỉ tiêu giao quân hàng năm. Đảm bảo dân quân cấp xã, ấp về
333

34.4 Page 334

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
lực lượng đạt 1,33% so với dân số, giáo dục chính trị, huấn
luyện, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ hiệu quả. Thực hiện tốt
chính sách hậu phương quân đội. Đẩy mạnh hoạt động của tổ
nhân dân, đội dân phòng, mạng lưới công an, đảm bảo trật tự
xã hội.
334

34.5 Page 335

▲back to top


KẾT LUẬN
Cho đến đầu nhiệm kỳ V (2020 - 2025), Đảng bộ xã Đại
Phước đã đạt những thành quả quan trọng trong xây dựng, phát
triển địa phương. Dấu ấn được thể hiện qua sự chung tay, góp
sức từ khối đại đoàn kết toàn dân, sự lãnh đạo của cấp ủy, quản
lý điều hành của nhà nước trong thực hiện mục tiêu quốc gia:
được công nhận Nông thôn mới (năm 2016) và hoàn thành khá
sớm mục tiêu phấn đấu Nông thôn mới nâng cao (năm 2018).
Thành tựu này là kết quả của một chặng đường nỗ lực không
ngừng và là niềm tự hào của Đảng bộ, nhân dân xã Đại Phước
trong tiến trình xây dựng quê hương theo mục tiêu của Đảng:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong truyền thống văn hóa, xã Đại Phước được thành lập
với những thôn làng xưa trong quá trình khai khẩn vùng đất
Nhơn Trạch, Đồng Nai. Qua những thời kỳ, cộng đồng các cư
dân đã đến sinh sống, góp phần tạo nên những sắc thái văn hóa
đa dạng. Với đặc điểm địa lý của vùng sông nước hạ lưu sông
Đồng Nai, những cư dân xã Đại Phước đã linh hoạt, thích nghi
với môi trường tự nhiên, khai thác nguồn lợi từ canh tác lúa
nước với cánh đồng Bến Cộ, Cù lao Ông Còn, đánh bắt thủy
335

34.6 Page 336

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
sản trên sông Phước Lý, sông Cái... Nguồn tri thức của cộng
đồng trong sinh kế và các thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo được
xây dựng... trở thành những giá trị di sản, xuyên chảy trong đời
sống tinh thần của cư dân. Đồng thời, là điểm giao thoa, kết nối
qua đường thủy, đường bộ, xã Đại Phước trở thành trung tâm
thị tứ của cả vùng đối với các địa bàn phía Tây Bắc thuộc huyện
Nhơn Trạch và cả vùng giáp ranh bên kia sông hiện nay thuộc
thành phố Thủ Đức, đô thị Sài Gòn. Tính chất năng động và
kinh tế hàng hóa với mạng lưới dịch vụ - thương mại từ chợ Đại
Phước xưa và khu chợ mới ngày nay là lợi thế để địa phương
phát huy trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong phong trào yêu nước, nhân dân xã Phước Thái là
địa bàn có những cư dân hưởng ứng tích cực chống lại ách áp
bức, các phong trào yêu nước mang tính chất “hội kín” ở Long
Thành, Thủ Đức, Biên Hòa. Tinh thần yêu nước được phát huy
trong phong trào đấu tranh cách mạng từ khi tổ chức Đảng
được thành lập, kéo dài xuyên suốt qua hai thời kỳ kháng chiến
chống Pháp (1945 - 1954), chống Mỹ (1954 - 1975). Với địa
thế của vùng vành đai các đô thị, Cù lao Ông Còn đã đi vào
truyền thống cách mạng từ buổi đầu kháng Pháp của cả vùng
Đông Sài Gòn và Nam Biên Hòa. Đây có thể xem là căn cứ địa
của lực lượng Thanh niên Tiền phong trong Cách mạng Tháng
Tám, nơi che chở cho cán bộ, người yêu nước hoạt động trước
sự truy lùng, đàn áp của kẻ thù và cũng là nơi cung cấp, tiếp
tế cho phong trào cách mạng trong lịch sử chống ngoại xâm.
Là địa bàn mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa thiết lập công
336

34.7 Page 337

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
sở quản lý cùng với hệ thống bộ máy kềm kẹp gắt gao nhưng
lòng dân Đại Phước vẫn hướng về cách mạng. Trong những
điều kiện khó khăn, người dân vẫn đào hầm nuôi giấu cán bộ,
động viên người thân tham gia thoát ly kháng chiến, tiếp tế cho
bộ đội, du kích... không ngại gian khổ, tù đày và cả mất mát,
hy sinh. Thắng lợi của cách mạng trong sự nghiệp giải phóng
đất nước khỏi ách xâm lăng ở Nhơn Trạch có sự đóng góp rất
lớn của người dân Đại Phước. Đó là sức mạnh của lòng dân để
cách mạng “bám trụ”, phát động phong trào và chung tay thực
hiện nhiệm vụ vì mục tiêu cao cả: Độc lập, tự do và hạnh phúc.
Trong thời kỳ đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân xã Đại Phước tiếp tục sự nghiệp xây dựng quê
hương hướng đến mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Dầu có những giai
đoạn thăng trầm bởi tác động từ nhiều yếu tố, nguyên nhân, xã
Đại Phước đã khắc phục và phát huy thế mạnh, tiến lên thực
hiện những mục tiêu trong từng giai đoạn cụ thể, góp phần
chung trên nhiều lĩnh vực đối với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Chặng đường từ một xã thuần nông và có lợi thế của khu
thị tứ, xã Đại Phước đã định hướng, quy hoạch phát triển phù
hợp, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; đặc biệt từ khi
đất nước thực hiện Đổi mới. Vượt qua những khủng hoảng thời
kinh tế bao cấp, tập trung trước năm 1986, xã Đại Phước tiến
hành sự nghiệp công nghiệp hóa (1991 - 2000), Hiện đại hóa
nông thôn (2001 - 2010), Xây dựng Nông thôn mới, đô thị hóa
(2015 - 2020), Hoàn thành Nông thôn mới kiểu mẫu, phát triển
theo hướng bền vững (2020 - 2025). Hiện nay, cơ cấu kinh tế
337

34.8 Page 338

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
của Đại Phước chuyển dịch theo hướng “Thương mại, Dịch vụ,
Tiểu thủ công nghiệp, Nông nghiệp”.
Những thành quả đạt được trong xây dựng, phát triển xã
Đại Phước có những nguyên nhân khác nhau và bên cạnh đó
vẫn còn những hạn chế trên một số lĩnh vực. Với vai trò lãnh
đạo toàn diện ở địa phương, Đảng bộ xã Đại Phước đã không
ngừng kiện toàn, nâng cao vai trò lãnh đạo trong từng nhiệm
kỳ để thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an
ninh, quốc phòng... Qua từng nhiệm kỳ, tổng kết và đánh giá,
Đảng bộ xã Đại Phước đúc kết những bài học kinh nghiệm quý
giá để tiếp tục lãnh đạo địa phương trong thời kỳ mới, hội nhập
sâu rộng, phát triển bền vững.
Vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ luôn được khẳng
định và duy trì thường xuyên, bám sát nghị quyết, nắm bắt kịp
thời, sâu sắc thực tiễn địa phương để lãnh đạo, chỉ đạo. Đảng
bộ xã nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tăng cường
sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật.
Các cấp ủy được kiện toàn, xây dựng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức. Thành viên Ban Chấp hành Đảng bộ phải
làm gương, tiên phong, đáp ứng yêu cầu của tổ chức về bản
lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ được
phân công.
Sự đoàn kết nội bộ trong toàn Đảng bộ cần được duy trì.
Mỗi cán bộ lãnh đạo, đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện
bản thân, trau đồi đạo đức, tuân thủ điều lệ, quy định của Đảng.
338

34.9 Page 339

▲back to top


Đảng bộ xã Đại Phước
Trong lối sống, quan hệ với quần chúng nhân dân, thực thi
nhiệm vụ luôn duy trì nghiêm túc ý thức phê bình và tự phê
bình để góp phần tu dưỡng bản thân, nâng cao trách nhiệm,
hiệu quả công tác.
Trong công tác cán bộ, Đảng bộ quan tâm và chủ động,
hoạch định có tính chiến lược để hình thành đội ngũ cán bộ
đảng viên đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực.
Có sự chuẩn bị chu đáo, tạo nguồn nhân lực cho địa phương
và làm tốt theo quy trình từ đánh giá, quy hoạch, đào tạo bồi
dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, phát huy những ưu thế,
khả năng của cán bộ, đảng viên.
Các công tác đảng cần được duy trì thường xuyên, đảm
bảo chất lượng, khách quan trong tổng kết, đánh giá và đề xuất
những giải pháp thiết thực, hiệu quả trong khắc phục, hạn chế
những vi phạm, tạo động lực cho tổ chức, đảng viên phấn đấu.
Chương trình, kế hoạch hành động của Đảng bộ xã cần chủ
động, linh hoạt và năng động sáng tạo phù hợp với tình hình
thực tế ở địa phương. Nghị quyết của Đảng bộ trong xây dựng,
phát triển địa phương được cụ thể hóa và có tính khả thi.
Vai trò của Đảng bộ xã lãnh đạo toàn diện địa phương nhưng
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Thông
qua bộ máy quản lý nhà nước, hệ thống chính trị, đoàn thể của
địa phương chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân vững mạnh.
339

34.10 Page 340

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước (1930 - 2020)
Với mục tiêu đề ra trong giai đoạn 2020 - 2025, xã Đại
Phước có những thuận lợi trên cơ sở nền tảng đạt được từ quá
trình đổi mới; đặc biệt những thành quả trong xây dựng Nông
thôn mới. Trong xu thế hội nhập, kết nối liên vùng với những
cơ hội mở ra cũng như những thách thức trong môi trường khu
vực, thế giới nhiều biến động, đòi hỏi Đảng bộ xã Đại Phước
không ngừng kiện toàn, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức,
đáp ứng những yêu cầu trong thời kỳ mới. Từ tinh thần yêu
nước đến truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường được
hun đúc qua nhiều thời kỳ, sức mạnh của quần chúng dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ được phát huy, đem lại thành công trong
sự nghiệp xây dựng quê hương phát triển mang tính bền vững.
Cùng với xu thế phát triển của huyện Nhơn Trạch, Long Thành
và định hướng phát triển của tỉnh Đồng Nai thuộc vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, xã Đại Phước sẽ có hệ thống cơ sở
vật chất khang trang, hiện đại và nhân lực chất lượng, tạo nên
những nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển kinh tế địa
phương gắn với nâng cao đời sống văn hóa của người dân, đưa
quê hương đi lên, đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc./.
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


HÌNH ẢNH CÁC ĐỒNG CHÍ THAM GIA
TỔ CHỨC ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN XÃ ĐẠI PHƯỚC
(xếp theo thời gian)
Đồng chí Lê Văn Tâm
Bí thư chi bộ B,
ấp Phước Lý trước 1975
Phó Bí thư (1975 -1982),
Bí thư (1982 - 1985)
Đồng chí Châu Văn Lộc
Phó Bí thư (1985 -1991),
Bí thư (1991 -1995)
Đồng chí Dương Văn Nhơn
Phó Bí thư (1991 -1995),
Bí thư (1995-1996)
Đồng chí Thái Thiện Châu
Phó Bí thư (1996 - 2001)
341

35.2 Page 342

▲back to top


Đồng chí Phạm Văn Hợp
Phó Bí thư (2001 - 2005)
Đồng chí Trần Thành Trai
Bí thư (2008 - 2011)
Đồng chí Võ Văn Đúng
Phó Bí thư (2010 - 2014)
Đồng chí Huỳnh Nhật Quang
Bí thư (2011 - 2019)
342

35.3 Page 343

▲back to top


Đồng chí Hồ Văn Thắng
Phó Bí thư (2014 - 2018)
Đồng chí Trần Thanh Hoàng
Phó Bí thư (2018 - 2019),
Bí thư (2019 - nay)
Đồng chí
Dương Chí Hùng
Phó Bí thư
từ năm 2019
đến tháng 1/2023
Đồng chí
Trần Minh Quân
Phó Bí thư
từ tháng 2/2023
Đồng chí
Phạm Thành Công
Thường trực Đảng ủy
(2001- 2020)
343

35.4 Page 344

▲back to top


HÌNH ẢNH BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
XÃ ĐẠI PHƯỚC
Mẹ Phan Thị Nho
(1916 - 2016)
Mẹ Nguyễn Thị Bộn
(1920 - 2005)
Mẹ Nguyễn Thị Huệ Mẹ Nguyễn Thị Ớn
(1911 - 2007)
(1911 - 1993)
Mẹ Võ Thị Út
(1921 - 1988)
344

35.5 Page 345

▲back to top


HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG XÃ ĐẠI PHƯỚC
Bản đồ vùng Thành Tuy Hạ năm 1883 và địa giới
xã Đại Phước (màu đỏ) thuộc huyện Nhơn Trạch hiện nay.
Địa giới xã Đại Phước và đồ án quy hoạch
phát triển nối kết liên vùng.
345

35.6 Page 346

▲back to top


Xã Đại Phước nhận quyết định
đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao năm 2018.
Các đại biểu tham dự hội nghị nhân chứng
trong quá trình biên soạn Lịch sử Đảng bộ xã Đại Phước.
346

35.7 Page 347

▲back to top


Hội nghị thẩm định lịch sử xã Đại Phước
do Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại Phước nhiệm kỳ 2020 - 2025.
347

35.8 Page 348

▲back to top


Đảng viên tham gia bầu cử tại đại hội
Đảng bộ xã Đại Phước nhiệm kỳ 2020 – 2025.
Hội nghị tổng kết nhiệm vụ quốc phòng
của xã Đại Phước.
348

35.9 Page 349

▲back to top


Lễ phát lệnh nhập ngũ cho thanh niên
tham gia nghĩa vụ quân sự ở địa phương.
Địa phương khen thưởng, tuyên dương
cá nhân có thành tích trong công tác an ninh, quốc phòng.
349

35.10 Page 350

▲back to top


Lãnh đạo xã thăm, động viên lực lượng
An ninh tuần tra địa bàn.
Tổng kết, khen thưởng trong lĩnh vực
giáo dục xã Đại Phước.
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


Mặt trận xã tặng xe đạp cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Mặt trận xã tặng học bổng cho học sinh vượt khó, học giỏi.
351

36.2 Page 352

▲back to top


Học sinh ra quân tham gia tích cực phong trào thi đua.
Xã Đại Phước tổ chức gặp mặt, tặng quà người cao tuổi.
352

36.3 Page 353

▲back to top


Tổ chức thăm hỏi nhân ngày hội Đại đoàn kết dân tộc.
Trao tặng nhà Đại đoàn kết dân tộc cho người dân.
353

36.4 Page 354

▲back to top


Lễ bàn giao nhà Tình thương cho người dân ở địa phương.
Chính quyền địa phương tổ chức
tặng nhà Đồng đội cho Cựu chiến binh.
354

36.5 Page 355

▲back to top


Xã Đại Phước tặng quà đối tượng chính sách
nhân kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ.
Xã Đại Phước tổ chức thăm tu sĩ trên địa bàn.
355

36.6 Page 356

▲back to top


Xã Đại Phước tổ chức thăm chức sắc tôn giáo trên địa bàn.
Xã Đại Phước tham gia chiến dịch Thanh niên tình nguyện.
356

36.7 Page 357

▲back to top


Hội, đoàn tuổi trẻ địa phương tham gia vệ sinh môi trường.
Tuổi trẻ Đại Phước tham gia
trồng cây xanh, bảo vệ môi trường.
357

36.8 Page 358

▲back to top


Người dân dọn vệ sinh khu dân cư.
Nhân dân tham gia tích cực
công tác bảo vệ môi trường, đường phố.
358

36.9 Page 359

▲back to top


Trường Trung học cơ sở xã Đại Phước.
Trạm y tế xã Đại Phước.
359

36.10 Page 360

▲back to top


Trung tâm văn hóa xã Đại Phước.
Khu tái định cư Đại Lộc trên địa bàn xã.
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Khu chợ cũ và đường Lý Thái Tổ qua địa bàn xã.
Khu chợ mới Đại Phước.
361

37.2 Page 362

▲back to top


Đồ án quy hoạch trên Cù lao Ông Còn, xã Đại Phước.
Một công trình xây dựng trên Cù lao Ông Còn.
362

37.3 Page 363

▲back to top


Mộc góc bờ sông trên quy hoạch xây dựng ở Cù lao Ông Còn.
Miếu bà Cố Hỷ, xã Đại Phước.
363

37.4 Page 364

▲back to top


Chùa Pháp Hoa, xã Đại Phước.
Nhà thờ Phước Lý, xã Đại Phước.
364

37.5 Page 365

▲back to top


LÃNH ĐẠO CẤP ỦY, Ban Chấp hành ĐẢNG BỘ
XÃ ĐẠI PHƯỚC CÁC THỜI KỲ
STT HỌ VÀ TÊN
CHỨC VỤ
CHI BỘ (thời kỳ kháng chiến chống Pháp)
1 Lê Văn Sáng
Bí thư (hy sinh 1947)
2 Phạm Văn Búp
Bí thư liên xã Đại Phước, Phú
Hữu
CHI BỘ (thời kỳ kháng chiến chống Mỹ)
1 Nguyễn Văn Tư
Bí thư liên xã Đại Phước, Phú
Hữu
2 Đào Minh Chánh Bí thư chi bộ A 59 - 60
3 Đào Minh Thanh 1961
4 Nguyễn Văn Lời Bí thư 1964
5 Đào Ngọc Dũng Bí thư (1964)
6 Trương Văn Bông Bí thư (1967)
7 Lê Văn Chuộng Phó Bí thư 1969
8 Lê Văn Tâm
Bí thư chi bộ B - ấp Phước Lý
9 Nguyễn Thị Hồng Bí thư chi bộ B - ấp Cù Lao
10 Dương Văn Tài
Hy sinh 1975
CHI BỘ 1975 - 1978
1 Nguyễn Thị Hồng Bí thư
2 Lê Văn Tâm
Phó Bí thư
365

37.6 Page 366

▲back to top


CHI ỦY (nhiệm kỳ 1977 - 1982)
1 Dương Văn Xinh Bí thư
2 Lê Văn Tâm
Phó Bí thư
CHI ỦY (nhiệm kỳ 1982- 1985)
1 Lê Văn Tâm
Bí thư
2 Huỳnh Văn Vang 1984 (Chuyển về huyện)
CHI ỦY (nhiệm kỳ 1985 - 1991)
1 Đào Văn Chỉ
Bí thư
2 Châu Văn Lộc
Phó Bí thư
3 Lê Hoàng Mậu
Ủy viên
4 Nguyễn Thành Tới Ủy viên
5 Tạ Quốc Hùng
Ủy viên
CHI ỦY (nhiệm kỳ 1991 - 1995)
1 Châu Văn Lộc
Bí thư
2 Dương Văn Nhơn Phó Bí thư
3 Lê Hoàng Mậu
Ủy viên
4 Dương Văn Khanh Ủy viên
5 Nguyễn Thành Tới Ủy viên
CHI ỦY (nhiệm kỳ 1996 - 2001)
1 Dương Văn Nhơn Bí thư
2 Thái Thiện Châu Phó Bí thư
366

37.7 Page 367

▲back to top


3 Phan Văn Đạo
Ủy viên
4 Lê Hoàng Mậu
5 Nguyễn Thành Tới
6 Tạ Quốc Hùng
7 Dương Văn Khanh
BCH ĐẢNG BỘ XÃ KHÓA I (nhiệm kỳ 2001 - 2005)
1 Trần Văn Nam
Bí thư
2 Phạm Quốc Hợp Phó Bí thư
3 Phạm Thành Công Uỷ viên Thường vụ
4 Lương Hữu Ích
Uỷ viên
5 Võ Văn Đúng
Uỷ viên
6 Bùi Công Đáng
Uỷ viên
7 Võ Hồng Thêm
Uỷ viên
BCH ĐẢNG BỘ XÃ KHÓA II (nhiệm kỳ 2005-2010)
1 Lê Hoàng Tuấn
Bí thư (2005 - 2008)
2 Trần Thành Trai Bí thư (2008 - 2010)
3 Trần Văn Nam
Phó Bí thư (2005 2006)
4 Lương Tấn Thanh Phó Bí thư (2007 2009)
5 Phạm Thành Công Uỷ viên Thường vụ
6 Võ Văn Đúng
Uỷ viên
7 Thái Thiện Châu Uỷ viên
367

37.8 Page 368

▲back to top


8 Nguyễn Thành Phú Uỷ viên
9 Dương Hồng Thắm Uỷ viên
10 Huỳnh Nhật Quang Uỷ viên
11 Trần Nam Hải
Uỷ viên
BCH ĐẢNG BỘ XÃ KHÓA III (nhiệm kỳ 2010-2015)
1 Trần Thành Trai Bí thư (2010 - 2011)
2 Huỳnh Nhật Quang Bí thư (2011 - 2015)
3 Võ Văn Đúng
Phó Bí thư (2010 - 2014)
4 Hồ Văn Thắng
Phó Bí thư (2014 - 2015)
5 Phạm Thành Công Uỷ viên Thường vụ
6 Lê Quang Chính Uỷ viên
7 Cao Hữu Thái
Uỷ viên
8 Dương Hồng Thắm Uỷ viên
9 Nguyễn Thị Anh Thư Uỷ viên
10 Trần Nam Hải
Uỷ viên
BCH ĐẢNG BỘ XÃ KHÓA IV (nhiệm kỳ 2015-2020)
1 Huỳnh Nhật Quang Bí thư (2015 - 2019)
2
Trần Thanh Hoàng
Bí thư (2019 - 2020)
Phó Bí thư (2018 - 2019)
3 Hồ Văn Thắng
Phó Bí thư (2015 - 2018)
4 Dương Chí Hùng Phó Bí thư (2019 - 2020)
5 Phạm Thành Công Uỷ viên Thường vụ
368

37.9 Page 369

▲back to top


6 Võ Thanh Hoàng Uỷ viên
7 Lê Quang Chính Uỷ viên
8 Cao Hữu Thái
Uỷ viên
9 Dương Hồng Thắm Uỷ viên
10 Nguyễn Thị Anh Thư Uỷ viên
11 Phạm Đại Phước Uỷ viên
BCH ĐẢNG BỘ XÃ KHÓA V (nhiệm kỳ 2020-2025)
1 Trần Thanh Hoàng Bí thư
2 Dương Chí Hùng Phó Bí thư - CT/ UBND
3 Trần Minh Quân
Phó Bí thư - CT/ UBND (Từ
2/2023)
4 Phạm Thành Công Uỷ viên Thường vụ
5 Nguyễn Thị Anh Thư Uỷ viên
6 Trần Nam Hải
Uỷ viên
7 Trần Minh Hoàng Uỷ viên
8 Trần Văn Hải
Uỷ viên
9 Đặng Đình Bình Uỷ viên
10 Lê Huỳnh Anh
Uỷ viên
11 Phạm Đại Phước Uỷ viên
12 Nguyễn Thành Phi Uỷ viên
369

37.10 Page 370

▲back to top


DANH SÁCH BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
XÃ ĐẠI PHƯỚC
A. DANH SÁCH BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
(xếp theo năm nhận danh hiệu)
Stt
Họ và tên
1 Nguyễn Thị Bộn
2 Nguyễn Thị Huệ
3 Nguyễn Thị Ớn
4 Nguyễn Thị Đống
5 Châu Thị Sang
6 Trương Thị Hai
7 Nguyễn Thị Còn
8 Đỗ Thị Tiên
9 Lê Thị Châu
10 Nguyễn Thị Bảy
11 Phạm Thị Điểu
12 Nguyễn Thị Chọn
13 Đặng Thị Tỉnh
14 Phan Thị Nho
15 Lê Thị Xinh
16 Mai Thị Sao
17 Nguyễn Thị Út
18 Võ Thị Út
19 Đào Thị Huyền
20 Nguyễn Thị Năm
21 Nguyễn Thị Ba
Năm sinh
1920
1911
1911
1913
1920
1928
1908
1918
1919
1920
1912
1915
1919
1916
1912
1915
1920
1921
1921
1914
1877
Liệt sĩ
3
1
1
1
1
1
2
2
2
2
3
2
2
2
2
2
2
2
2
2
2
Thời gian
1994
1994
1994
1994
1996
2002
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2014
2015
2018
2018
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


B. TƯ LIỆU BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Bộn
Mẹ Nguyễn Thị Bộn sinh năm 1920 tại xã Phú Hữu, Long
Thành, Đồng Nai. Mẹ và chồng, ông Nguyễn Văn Tiết có mười
hai người con (chín trai, ba gái). Thời lực lượng vũ trang chống
Pháp - Vệ quốc đoàn hoạt động mạnh ở Long Thành, gia đình
mẹ Nguyễn Thị Bộn có nhiều đóng góp lương thực, nuôi quân.
Ba người con trai của mẹ tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và hy sinh:
- Anh Nguyễn Minh Chừng, nhập ngũ ngày 13-3-1962,
chức vụ Trung đội phó, thuộc Tỉnh đội Biên Hòa. Anh Chừng
hy sinh vào ngày 1-1-1967 trong trận đánh với địch, nay chưa
tìm được mộ.
- Anh Nguyễn Văn Tiến (sinh năm 1948) nhập ngũ vào
tháng 8-1963 thuộc Đại đội 1, huyện Long Thành, cấp bậc
Trung sĩ, chức vụ Tiểu đội trưởng. Anh Tiến hy sinh trong trận
chống địch càn, bảo vệ vùng bám trụ tại Bến Trảng, Bến Đá,
Vĩnh Cửu, Đồng Nai vào tháng 4-1968.
- Anh Nguyễn Văn Thành vừa tròn 15 tuổi, tham gia cách
mạng vào tháng 2-1967. Sau này, anh Thành làm Xã đội trưởng
xã Đại Phước. Ngày 12-9-1974, anh Thành hy sinh trong trận
đánh bót Cầu Cháy tại ấp Ông Kèo xã Vĩnh Thanh khi phối hợp
với Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác. Anh được Nhà nước phong
tặng Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì, Huân chương
Chiến công hạng Ba. Mộ của anh cũng chưa tìm thấy.
371

38.2 Page 372

▲back to top


Trong hoạt động cách mạng tại địa phương, chính quyền
địch bắt và đánh đập mẹ nhiều lần nhưng mẹ vẫn kiên trung,
hướng về cách mạng. Mẹ được trao tặng Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba. Năm 1994,
mẹ Nguyễn Thị Bộn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17-12-1994. Mẹ qua đời vào ngày 15-3-2005.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Huệ
Mẹ Nguyễn Thị Huệ sinh năm 1911 ở làng quê Đại Phước.
Lớn lên, mẹ lập gia đình với ông Trần Văn Chơi và về làng lân
cận Phú Hữu sinh sống. Trong phong trào đấu tranh chính trị ở
địa phương, mẹ tích cực tham gia.
Năm 1947, người con trai duy nhất của mẹ là anh Trần Văn
Măng tham gia bộ đội chống Pháp. Năm 1950, giặc càn đánh
phá ác liệt, huyện đoàn Long Thành từ Phước An phải dời về
Gò Dầu. Tại đây, trong một trận chống địch càn ở khu vực
Thái Thiện, anh Trần Văn Măng hy sinh vào tháng 5-1952. Mẹ
Nguyễn Thị Huệ không hay tin con mất nhiều năm và chưa tìm
thấy mộ, chỉ nhận được giấy báo tử về người con trai duy nhất.
Năm 1978, sau khi ông Trần Văn Chơi qua đời, mẹ Nguyễn
Thị Huệ chuyển về Đại Phước sống cùng cháu dâu. Mẹ được
địa phương xây nhà tình nghĩa và nhận sự phụng dưỡng. Mẹ
và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập
hạng Ba vào năm 1985. Năm 1994, mẹ Nguyễn Thị Huệ được
Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo
Quyết định số 394/KTCTN. Mẹ qua đời ngày 29-8-2007.
372

38.3 Page 373

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ớn
Mẹ Nguyễn Thị Ớn sinh năm 1911 tại xã Đại Phước - vùng
quê giàu truyền thống cách mạng của Long Thành - Nhơn
Trạch. Mẹ lập gia đình và có người con trai duy nhất là anh
Nguyễn Văn Tròn. Khi anh Tròn còn sơ sinh, cha anh bị Pháp
bắn chết. Mẹ Nguyễn Thị Ớn sống trong cảnh đơn chiếc, vất vả
nuôi con.
Anh Nguyễn Văn Tròn tham gia vào đơn vị Đại đội 240 của
huyện Long Thành, trực tiếp chiến đấu, chống giặc trên quê
hương. Đại đội 240 di chuyển nhiều địa điểm một cách cơ động
để tấn công các mục tiêu địch và tránh sự càn quét, đánh phá.
Trong căn cứ của huyện, anh Nguyễn Văn Tròn lập gia đình,
khi sinh con, anh chuyển cháu về cho mẹ nuôi nấng để tiếp tục
hoạt động.
Tháng 11-1965, anh Nguyễn Văn Tròn hy sinh tại Giồng
Ông Đông khi bị địch phục kích. Địch đưa xác anh ra tại Cát
Lái, Phước Lương để “dụ” người thân ra nhận để tìm cách
bắt bớ, khủng bố các gia đình có người tham gia cách mạng.
Thương con, mẹ nén lòng chịu đựng nỗi đau lớn để bảo vệ cho
phong trào cách mạng. Địch đem xác anh Tròn chôn ở gần khúc
sông Lòng Tàu. Mẹ lẳng lặng ghi nhớ chỗ chôn để sau này có
dịp bốc mộ về nhưng sau này tìm không được vì địa điểm đã
sạt lở. Mẹ Nguyễn Thị Ớn sống với cháu nội Nguyễn Văn Đầy
và qua đời năm 1993. Năm 1994, mẹ được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN.
373

38.4 Page 374

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Đống
Mẹ Nguyễn Thị Đống sinh năm 1913 tại xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Sau khi lập gia đình, năm
1941, mẹ Đống sinh được một người con trai duy nhất và đặt
tên là Nguyễn Văn Hương. Mẹ tần tảo nuôi cho con trai khôn
lớn, vui mừng khi con yên bề gia thất.
Năm 1968, vợ anh Nguyễn Văn Hương sinh con trong khi
anh đã lên đường tham gia lực lượng vũ trang, chiến đấu ở
chiến trường, xa nhà. Ở nhà, người vợ sinh con gái và đặt tên
Nguyễn Thị Hai. Chiến tranh ngày càng ác liệt, anh Nguyễn
Văn Hương chưa ghé về thăm nhà, thăm vợ và đứa con gái yêu
dấu.
Trong một trận đánh ác liệt với địch tại xã Bình Sơn, huyện
Long Thành, anh Nguyễn Văn Hương hy sinh ngày 23-9-1974.
Mẹ Nguyễn Thị Đống sống cùng con dâu và cháu nội, qua đời
ngày 5-7-1994 (âm lịch). Hiện mẹ đang được người cháu nội
thờ phụng. Năm 1994, mẹ Nguyễn Thị Đống được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo quyết định
số 194 KT/CTN.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Châu Thị Sang
Mẹ Châu Thị Sang sinh năm 1920, quê ở xã Phú Hữu. Khi
lập gia đình với ông Trương Văn Trung, mẹ về làm dâu ở xã Đại
Phước. Gia đình mẹ có người con trai duy nhất là anh Trương
Vĩnh Phúc, sinh năm 1944.
374

38.5 Page 375

▲back to top


Ngay trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ông Trương Văn
Trung tham gia Thanh niên Tiền phong bảo vệ chính quyền cách
mạng. Khi quân Pháp đánh chiếm Nhà Bè, Cát Lái và kho bom
Thành Tuy Hạ, chúng bắt những người hoạt động cách mạng.
Ông Trương Văn Trung bị Pháp bắt giam một thời gian. Sau khi
được thả ra, ông Trung tiếp tục hoạt động mật cho cách mạng.
Năm 1966, anh Trương Vĩnh Phúc trong độ tuổi chính quyền
Sài Gòn bắt đi lính. Các cơ sở cách mạng tuyên truyền và anh
giác ngộ, được các anh Năm Thà, Huỳnh Đức Thắng tổ chức
xuống vùng căn cứ Rừng Sác Phước An vào ngày 7-3-1966.
Anh Trương Vĩnh Phúc gia nhập Đại đội 245 của địa phương,
cơ động chiến đấu trên địa bàn Long Thành, Nhơn Trạch. Mẹ
Châu Thị Sang bị bệnh nặng qua đời ngay năm 1966.
Chiến tranh khốc liệt khi địch tổ chức nhiều đợt đánh phá
căn cứ cách mạng của huyện Long Thành, Nhơn Trạch sau
cuộc Tổng tiến công, nổi dậy xuân Mậu Thân của cách mạng.
Anh Trương Vĩnh Phúc cùng đơn vị Đại đội 240 cơ động chiến
đấu suốt hai phía đông và tây lộ 15. Ngày 8-3-1970, Tiểu đội
trưởng Trương Vĩnh Phúc hy sinh trong khi chiến đấu ở Vườn
Huệ - nơi giáp ranh hai xã Long Tân, Phú Hội.
Mẹ Châu Thị Sang được Nhà nước truy tặng danh hiệu vinh
dự Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 814/KTCTN
ngày 24-4-1996. Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2000.
375

38.6 Page 376

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Trương Thị Hai
Mẹ Trương Thị Hai sinh năm 1927 tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Khi đến tuổi lập gia đình, mẹ lập
gia đình với ông Nguyễn Văn Sy - người cùng xã.
Trước cảnh quê hương bị kẻ thù xâm lược, mẹ Trương Thị
Hai động viên chồng tham gia kháng chiến chống Pháp. Chiến
tranh ác liệt và chồng mẹ hy sinh. Mẹ tần tảo nuôi con trong
cảnh khó khăn. Khi con đến tuổi trưởng thành và lập gia đình,
mẹ Trương Thị Hai động viên thoát ly kháng chiến. Người con
trai Trương Đình Oai (sinh năm 1947) tham gia chiến đấu và
hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Mẹ Trương Thị Hai
sống với người cháu nội Trương Thị Liên và qua đời sau đó.
Mẹ Trương Thị Hai được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 280 KT/CTN ngày 23-
5-2002.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Còn
Mẹ Nguyễn Thị Còn sinh năm 1908, nguyên quán tại xã
Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ lấy chồng
là ông Dương Văn Chất, sinh được 4 người con (2 trai, 2 gái).
Ông Dương Văn Chất hoạt động cách mạng từ trước Cách
mạng Tháng Tám 1945, làm thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong,
hạt nhân nòng cốt cho phong trào khởi nghĩa ở xã. Khi chính
quyền về tay nhân dân, ông Dương Văn Chất là Chủ tịch ủy
ban đầu tiên của xã Phước Lập (Cù lao Ông Còn). Kháng chiến
376

38.7 Page 377

▲back to top


chống Pháp nổ ra, gia đình mẹ Còn đóng góp sức người sức
của cho cách mạng. Ông Dương Văn Chất làm Chủ tịch Ủy ban
hành chính kháng chiến xã. Mẹ Còn tham gia Hội Mẹ chiến sĩ,
tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men, nuôi giấu cán bộ, đưa
tin. Năm 1949, quân Pháp đưa lính Cao Đài đóng bót ở một số
nơi như Phú Thạnh, Câu Kê, Giồng Ông Đông đánh phá phong
trào kháng chiến. Trong chuyến công tác, ông Dương Văn Chất
bị lính phục kích, bắt và đem thủ tiêu.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mẹ Nguyễn Thị Còn
tiếp tục làm cơ sở cho cách mạng, tiếp tế, nuôi giấu cán bộ.
Nhiều cán bộ hoạt động bí mật tại vùng Thủ Đức và địa phương
được mẹ nuôi giấu, bảo vệ. Con trai mẹ là anh Dương Văn Tài
(sinh năm 1938) thoát ly theo cách mạng, là Huyện ủy viên, Bí
thư xã Hiệp Phước (nay là thị trấn Hiệp Phước). Đêm 29 rạng
sáng ngày 30-4-1975, trong không khí sôi sục giải phóng Nhơn
Trạch, quân quân giải phóng tiến vào giải phóng Sài Gòn, anh
Dương Văn Tài hy sinh tại ấp Bến Cộ, xã Đại Phước.
Sau ngày đất nước thống nhất, mẹ sống cùng gia đình con
trai Dương Văn Khang. Mẹ Nguyễn Thị Còn mất vào ngày
6-4-2007, được truy tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất
(Quyết định 1924 ngày 12-11-2012). Năm 2014, mẹ Nguyễn
Thị Còn được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
(Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26-9-2014 của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
377

38.8 Page 378

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Đỗ Thị Tiên
Mẹ Đỗ Thị Tiên sinh năm 1918, tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ thành lập gia đình, có ba người
con trai. Hai người con trai tham gia vào lực lượng cách mạng
trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
- Anh Phan Văn Lợi hy sinh tháng 4-1971.
- Anh Phan Văn Rồi hy sinh ngày 14-5-1971.
Trong cùng một năm, hai người con hy sinh, mẹ Đỗ Thị
Tiên nén đau thương, chịu đựng nhưng trong lòng tự hào vì các
con đã cống hiến cho cách mạng, đất nước. Những ngày cuối
đời, mẹ Tiên sống cùng người con trai Phan Văn Đạo. Mẹ Đỗ
Thị Tiên mất ngày 2-5-2001 (âm lịch). Mẹ Đỗ Thị Tiên được
Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26-9-2014.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Châu
Mẹ Lê Thị Châu sinh năm 1919, tại xã Mỹ Thủy, Sài Gòn
(nay là phường Cát Lái, Thành phố Thủ Đức). Mẹ có hai người
con trai tham gia kháng chiến chống Mỹ.
- Anh Đào Minh Trung tham gia bộ đội, chức vụ Trung đội
phó, hy sinh vào đầu tháng 2-1968 tại trận đánh Hàng Xanh
trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân.
- Anh Đào Văn A, sinh năm 1954, là đội viên du kích, hy
sinh ngày 21-7-1971 tại xã Đại Phước.
378

38.9 Page 379

▲back to top


Khi các con tham gia kháng chiến, mẹ Lê Thị Châu đào
hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ cách mạng và cung cấp thuốc
men, lương thực cho cách mạng. Với những đóng góp cho cách
mạng trong sự nghiệp chống xâm lược, mẹ Lê Thị Châu được
Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng
Nhất (Quyết định số 18/KT-HĐNN ngày 25-8-1987). Gia đình
mẹ Lê Thị Châu chuyển đến ấp Phước Lý, xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai và qua đời vào ngày 2-11-2008.
Năm 2014, mẹ Lê Thị Châu được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng (Quyết định số 2393/QĐ-CTN)
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Bảy
Mẹ Nguyễn Thị Bảy sinh năm 1920 tại xã Vĩnh Thanh,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất ngày 30-7-1966.
Hiện tại, người con thứ 6 của mẹ là ông Nguyễn Văn Bảy lo
việc thờ cúng mẹ tại ấp Phước Lý, xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ có chồng và con trai tham gia kháng chiến chống Mỹ
cứu nước: Ông Nguyễn Văn Lời (sinh năm 1920), hy sinh năm
1964, anh Nguyễn Văn Phước, hy sinh ở khu vực Suối Cả,
huyện Long Thành năm 1968.
Mẹ Nguyễn Thị Bảy được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
379

38.10 Page 380

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Phạm Thị Điểu
Mẹ Phạm Thị Điểu sinh năm 1912 tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Dòng họ của mẹ có nhiều người
tham gia khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ. Mẹ lập gia đình với
ông Mai Văn Trí. Mẹ qua đời vào ngày 1-4-1955.
Trong kháng chống Pháp, gia đình mẹ Phạm Thị Điểu tham
gia đóng góp sức người, sức của, nuôi giấu, làm liên lạc cho
cán bộ cách mạng ở địa phương. Gia đình mẹ có những người
con tham gia kháng chiến chống Mỹ: Mai Văn Hai (Mai Văn
Trét, Mai Văn Rỗ), Mai Thị Liễu, Mai Văn Mực. Trong đó, anh
Mai Văn Mực hy sinh ngày 4-10 (âm lịch) ở khu vực xã Long
Tân trong một trận càn quét của địch. Anh Mai Văn Hai bị địch
phục kích khi tải vũ khí tại xã Bình Sơn (huyện Long Thành)
cùng với 28 đồng đội vào tháng 3-1975. Ba người cháu nội của
mẹ là Mai Văn Lẹ, Mai Văn Mên, Mai Thị Dung (con của liệt
sĩ Mai Văn Hai) hy sinh năm 1968. Người cháu Mai Văn Mên
hy sinh khi tham gia tấn công sân bay Biên Hòa. Người con dâu
của mẹ là Trương Thị Bê (vợ liệt sĩ Mai Văn Hai) được phong
là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Hiện tại, người con trai duy nhất
còn lại là ông Mai Văn Gấu đang thờ cúng mẹ tại quê nhà ở ấp
Phước Lý, xã Đại Phước.
Năm 2014, mẹ Phạm Thị Điểu được Nhà nước truy tặng
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại Quyết định số
2393/QĐ-CTN ngày 26-9-2014.
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Chọn
Mẹ Nguyễn Thị Chọn sinh năm 1915 tại xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời vào ngày 4-11-
1971 (âm lịch). Hiện tại, con út của mẹ là Cao Văn Út đang thờ
phụng mẹ tại ấp Phước Lý, xã Đại Phước.
Mẹ Nguyễn Thị Chọn có 2 con là liệt sỹ trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ trên địa bàn huyện Nhơn Trạch: Anh Cao Nam
Tư (sinh năm 1943), hy sinh trong trận chống địch càn quét tại
vàm Ông Kèo năm 1968; Chị Cao Thị Dung (sinh năm 1955)
hy sinh trong trận đánh địch ở vàm Rạch Mã, cầu mới Phước
Khánh vào năm 1973.
Năm 2014, mẹ Nguyễn Thị Chọn được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng (Quyết định số 2393/QĐ-
CTN).
- Mẹ Việt Nam anh hùng Đặng Thị Tỉnh
Mẹ Đặng Thị Tỉnh sinh năm 1919 tại xã Phước Vân, huyện
Cần Đước, tỉnh Long An. Mẹ Đặng Thị Tỉnh sinh được 3 người
con. Hai con trai của mẹ tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và hy sinh.
- Anh Trần Văn Quang, sinh năm 1945, đội viên đội võ trang
Nguyễn Văn Trỗi của Thành đoàn Sài Gòn. Anh hy sinh trong
trận đánh địch càn quét ở xã Long Khuê, huyện Cần Đước, tỉnh
Long An vào tháng 4-1967.
381

39.2 Page 382

▲back to top


- Anh Trần Văn Lớn, sinh năm 1948, hy sinh ngày 25-11-
1965 trong trận đánh địch ở Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Mẹ qua đời ngày 7-4-1976. Hiện tại, con ruột của mẹ, ông
Trần Văn To, đang thờ phụng mẹ tại ấp Cù Lao, xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Ngày 26-9-2014, mẹ Đặng
Thị Tỉnh được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Nho
Mẹ Phan Thị Nho sinh năm 1916 tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Lúc 16 tuổi, mẹ lập gia đình với
ông Nguyễn Sanh Thành - một người hoạt động cách mạng khá
sớm ở địa phương (Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện Long
Thành). Chồng đi công tác nhiều ngày, mẹ vừa làm lụng vất vả
nuôi con, dạy con về tinh thần yêu nước.
Thời chống Pháp, gia đình mẹ là nơi giúp đỡ, nuôi giấu
chiến sĩ vệ quốc đoàn, cán bộ cách mạng, đóng góp, tiếp tế cho
kháng chiến. Người con trai của mẹ Nguyễn Chiến Lũy sớm
tham gia kháng chiến lúc mới 12 tuổi, trở thành cán bộ lãnh
đạo phong trào kháng chiến ở Long Thành, Biên Hòa. Năm
1954, Hiệp định Genève ký kết, ông Nguyễn Sanh Thành tập
kết ra miền Bắc, mẹ tiếp tục bám trụ quê hương Đại Phước
nuôi con, làm giao liên, tiếp tế, tham gia đấu tranh chính trị của
xã, huyện. Mẹ Phan Thị Nho là hạt nhân nòng cốt, dũng cảm
đi đầu, dùng lý lẽ đấu tranh với địch. Địch biết gia đình mẹ có
382

39.3 Page 383

▲back to top


chồng, con tham gia kháng chiến, nhiều lần bắt bớ, đánh đập,
khảo tra nhưng mẹ vẫn kiên định với cách mạng. Năm 1955 mẹ
Phan Thị Nho làm công tác binh vận, vận động được một số
lính địch theo cách mạng, tổ chức làm binh biến đốt đồn Phước
Khánh, diệt tên đội Lạc ác ôn, thu nhiều vũ khí. Những người
con của mẹ: Nguyễn Thị Kim Dung (sinh năm 1943), Nguyễn
Văn Vàng (sinh năm 1954) thoát ly hoạt động cách mạng. Các
con dâu, con rể tiếp nối truyền thống gia đình tham gia kháng
chiến. Các người con của mẹ hy sinh trong kháng chiến chống
Mỹ:
- Chị Nguyễn Thị Kim Dung, y tá, hy sinh cùng 11 đồng đội
trong trận máy bay Mỹ ném bom, tấn công căn cứ quân y tại
rạch Cái Tròn (xã Long Phước, huyện Long Thành) vào ngày
5-9-1971.
- Anh Nguyễn Văn Vàng (con trai út của mẹ), thoát ly ngày
27-1-1970, làm du kích xã Đại Phước, sau đó vào bộ đội thuộc
Đơn vị 19/5, rồi chuyển làm Thư ký Văn phòng Phân khu ủy
Bà Rịa. Anh Nguyễn Văn Vàng hy sinh tại chiến trường huyện
Cẩm Mỹ vào ngày 26-1-1973.
Mẹ Phan Thị Nho qua đời vào ngày 7-4-2016. Mẹ Phan Thị
Nho được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến
hạng Nhì (Quyết định số 18/KT-HĐNN ngày 25-8-1987), được
phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng ngày 26-9-
2014 tại Quyết định số 2392/QĐ-CTN.
383

39.4 Page 384

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Xinh
Mẹ Lê Thị Xinh sinh năm 1910 tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ kết hôn với ông Dương Văn
Danh (sinh năm 1899), sinh được 5 người con. Ông Dương Văn
Danh sớm giác ngộ, tham gia cách mạng từ trước năm 1945, là
một trong những người nhận chỉ đạo và tổ chức cho người dân
khởi nghĩa giành chính quyền ở Đại Phước trong thời kỳ Cách
mạng Tháng Tám.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông Dương
Văn Danh là Phó Chủ tịch xã Đại Phước. Tháng 4-1947, ông
Dương Văn Danh hy sinh trên đường đi công tác bị địch phục
kích. Chồng mất, mẹ Lê Thị Xinh nuôi dạy con, đóng góp cho
cách mạng. Con trai mẹ là Dương Văn Hiển (sinh năm 1930),
tham gia cách mạng từ lúc mới 15 tuổi. Ban đầu, anh làm giao
liên sau đó là nhân viên Công an xã Đại Phước. Anh Dương
Văn Hiển hy sinh ngày 28-12-1948.
Trong kháng chiến, mẹ Lê Thị Xinh vừa nuôi dạy các con,
vừa tiếp tục đóng góp, tiếp tế cho cách mạng trong tình hình
khó khăn, địch kiểm soát gắt gao. Anh Dương Văn Sáu (sinh
năm 1945) khi 16 tuổi, thoát ly tham gia du kích xã Đại Phước.
Anh hy sinh ngày 8-7-1963.
Mẹ Lê Thị Xinh qua đời vào ngày 22-4-1984. Năm 2014,
mẹ Lê Thị Xinh được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
384

39.5 Page 385

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Mai Thị Sao
Mẹ Mai Thị Sao sinh năm 1905, nguyên quán tại xã Phú
Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Dòng họ Mai có truyền
thống yêu nước, tham gia các phong trào hội kín, khởi nghĩa
chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 16 tuổi, mẹ lập gia đình
với ông Nguyễn Ngọc Sanh cùng làng. Mẹ sinh 10 lần, nhưng
chỉ nuôi lớn được 5 người con (2 trai, 3 gái).
Vùng Phú Hữu, lính Pháp khi đi càn rất tàn ác. Năm 1944,
gia đình mẹ cùng người dân trong làng đi đám cưới bằng ghe,
khi tới bến Vàm Ô (rạch Ông Mai), lính Pháp trên bờ xả súng
bắn khiến nhiều người bị thương. Con gái út là Nguyễn Thị
Tím trúng đạn chết. Chồng của mẹ sớm giác ngộ cách mạng,
tham gia lực lượng Thanh niên Tiền phong ở địa phương, nổi
dậy giành chính quyền vào tháng Tám 1945 tại Phú Hữu và
Long Thành. Sau đó, ông Nguyễn Ngọc Sanh thoát ly gia đình,
tham gia chống Pháp, giữ chức Trưởng Công an xã Phú Hữu.
Cuối năm 1946, ông Sanh họp ở xã thì lính Pháp đi càn, vây
bắt. Ông Sanh yểm trợ cho đồng đội rút trước, tìm cách thoát
ra sau thì bị Pháp bắn và bắt, tra tấn dã man. Không khai thác
thông tin về Việt Minh từ ông Sanh, chúng đưa ông đến cầu
Cháy (xã Đại Phước, đường đi đến Giồng Ông Đông) bắn chết,
buộc đá thả sông. Gia đình mẹ nghe tin, chèo ghe dọc theo sông
trong hai ngày mới vớt được xác ông đem chôn.
Cả nhà dặn lòng một lòng theo cách mạng, phục vụ kháng
chiến để trả thù cho người thân, cùng mọi người đánh đuổi quân
thù. Vì vậy, trong hoàn ảnh khó khăn thế nào, mẹ và những
385

39.6 Page 386

▲back to top


người thân luôn dành dụm gạo thóc, tiền bạc tiếp tế cho cách
mạng, làm giao liên đưa tin, nuôi giấu cán bộ. Hai người con
trai lớn của mẹ là Nguyễn Ngọc Tánh (sinh năm 1922), Nguyễn
Ngọc Yển (sinh năm 1924) đều thoát ly theo kháng chiến. Anh
Nguyễn Ngọc Tánh, hy sinh năm 1951. Anh Nguyễn Ngọc Yển
tiếp tục tham gia kháng chiến chống Mỹ. Do bệnh nặng, mẹ
Mai Thị Sao mất ngày 6-10-1955. Năm 2014, mẹ Mai Thị Sao
được truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Út
Mẹ Nguyễn Thị Út sinh năm 1920 tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trong thời kỳ kháng chiến chống
kẻ thù xâm lược, gia đình mẹ tham gia các công việc phục vụ
cho cách mạng.
Mẹ Nguyễn Thị Út động viên hai người con trai tham gia
chiến đấu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Anh Hồ Văn
Dũng (sinh năm 1939), là đội viên du kích chiến đấu tại địa bàn
xã Long Tân, hy sinh năm 1964, anh Hồ Minh Hoàng (sinh năm
1941) hy sinh năm 1967 cũng tại địa bàn xã Long Tân. Những
ngày cuối đời, mẹ Út sống cùng người con trai là Đào Minh Hổ.
Mẹ Nguyễn Thị Út mất ngày 13-3-1985 (âm lịch). Với những
công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy tặng danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số
2393/QĐ-CTN, ngày 26-9-2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
386

39.7 Page 387

▲back to top


- Mẹ Việt Nam anh hùng Võ Thị Út
Mẹ Võ Thị Út sinh năm 1921 tại xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Là một người có lòng yêu nước, mẹ đã
tham gia làm công tác dân vận, tiếp tế lương thực, thuốc men
từ trong ấp chiến lược ra ngoài rừng cho bộ đội. Các con trưởng
thành, mẹ động viên tham gia chiến đấu chống giặc. Mẹ có 2
người con trai hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ: anh Đào
Văn Rắc (sinh năm 1949), hy sinh tại địa bàn Rạch Mương, xã
Phước Khánh vào tháng 3-1968; Anh Đào Văn Rích (sinh năm
1947), hy sinh tại xã Phước Thọ vào tháng 12-1969.
Sau chiến tranh, mẹ sống cùng với người con trai là Đào
Văn Ni tại ấp Bến Cộ, xã Đại Phước và qua đời ngày 26-2-1988
(âm lịch). Năm 2014, mẹ được người con trai là Đào Văn Ni
thờ phụng. Mẹ Võ Thị Út được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo quyết định số 2393/QĐ-CTN.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Đào Thị Huyền
Mẹ Đào Thị Huyền sinh năm 1921 tại xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Sinh sống trên mảnh đất giàu
truyền thống yêu nước, mẹ tham gia phục vụ cách mạng, đóng
góp lương thực, tài chính và làm giao liên, vận chuyển cho căn
cứ.
Gia đình mẹ có nhiều người con tham gia hoạt động cách
mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ba người con của
mẹ tham gia kháng chiến. Anh Đào Minh Sang trước đây là
387

39.8 Page 388

▲back to top


Huyện đội phó Huyện đội Long Thành, Đào Minh Đáng (đi tập
kết và mất ở miền Bắc) và Đào Minh Mão (đã hy sinh).
Hai người con hy sinh trong các trận đánh giặc trên quê
hương Long Thành, Rừng Sác: Anh Bùi Văn Thành hy sinh ở
cầu Mười Huỳnh, Rừng Sác vào ngày 23-3-1968. Anh Bùi Văn
Tàng, hy sinh trong trận đánh ở khu vực cầu Nước Trong, xã
Tam An, huyện Long Thành ngày 24-4-1972. Cả hai liệt sỹ vẫn
chưa tìm thấy mộ.
Mẹ Đào Thị Huyền qua đời vào ngày 4-2-2006. Hiện tại,
người con gái Bùi Thị Đường đang thờ phụng mẹ ở ấp Phước
Lý, xã Đại Phước. Năm 2015, mẹ Đào Thị Huyền được truy
tặng mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng (quyết định số
2679/QĐ-CTN).
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Ba
Mẹ Nguyễn Thị Ba sinh năm 1877, tại ấp Bến Cộ, xã Đại
Phước, huyện Nhơn Trạch. Gia đình mẹ sinh sống bằng nghề
nông lâu đời ở địa phương. Nhà đông con, ít ruộng đất nên
cuộc sống gia đình nhiều vất vả. Mẹ lập gia đình với ông Lê
Văn Đó cùng quê, sinh hạ 8 người con, nhưng chỉ nuôi sống
được 4 người. Hai con trai là Lê Văn Sáng (sinh năm 1905), Lê
Văn Phải (sinh năm 1907), hai con gái là Lê Thị Nhiêu, Lê Thị
Triệu.
Hai người con trai của mẹ đều tham gia cách mạng trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Anh Lê Văn Sáng là Bí thư
388

39.9 Page 389

▲back to top


xã Đại Phước, còn anh Lê Văn Phải làm Kinh tài. Năm 1947,
chi bộ xã Đại Phước đang họp thì quân Pháp đi càn, tấn công.
xả súng, ném lựu đạn vào nơi họp. Anh Lê Văn Sáng, Lê Văn
Phải và 2 đồng chí trong chi bộ đều hy sinh. Tin về hai anh hy
sinh làm gia đình mẹ đau buồn. Chồng mẹ mất 1 năm sau đó.
Mẹ gắng sức chịu đựng, sống cùng con gái và nuôi các cháu
nội. Ngày 26-1-1952 (âm lịch), mẹ Nguyễn Thị Ba qua đời.
Sau ngày đất nước thống nhất, hai người con trai của mẹ được
công nhận liệt sĩ. Năm 2018, mẹ Nguyễn Thị Ba được truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 454/
QĐ-CTN ngày 26-3-2018.
- Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Năm
Mẹ Nguyễn Thị Năm sinh năm 1914, tại ấp Phước Lý, xã
Đại Phước, huyện Nhơn Trạch. Trong 2 cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, cùng với những người yêu nước, mẹ Nguyễn Thị
Năm đã có nhiều đóng góp cho cách mạng.
Mẹ Nguyễn Thị Năm có hai người con trai hy sinh trong
kháng chiến: Liệt sĩ Lê Văn Chuộng (bằng Tổ quốc ghi công
số YM.164c, ngày 1-8-1977) và liệt sĩ Lê Ngọc Ánh (bằng Tổ
quốc ghi công số 2H.496b, ngày 7-10-1977).
Mẹ Nguyễn Thị Năm qua đời năm 1996. Hiện con gái Lê
Thị Bằng thờ cúng mẹ tại ấp Phước Lý, xã Đại Phước. Năm
2018, mẹ Nguyễn Thị Năm được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 454/QĐ-CTN.
389

39.10 Page 390

▲back to top


DANH SÁCH LIỆT SĨ XÃ ĐẠI PHƯỚC
Stt
Họ và tên
1 Dương Văn Chất
2 Dương Văn Tài
3 Cao Thị Dung
4 Cao Văn Tư
5 Đào Minh Trung
Năm Tham gia
sinh CM
1907 8/2/1945
1938 1960
1956 16/12/1972
1943 11/1968
1944 26/10/1964
Đơn vị
Ban Kinh tài
xã Đại Phước
Chi bộ
Đại Phước
Y tá
xã Đại Phước
Xã đội
Đại Phước
C1 Tiểu đoàn 4,
Thủ Đức
6 Đào Văn A
1954 20/5/1971
Xã Đại Phước
7 Mai Văn Hai
1931 15/12/1955 Tỉnh đội Biên Hòa
8 Mai Văn Mực
1941 15/4/1961
Đại đội 240
9 Mai Văn Lẹ
1956 2/1967
Xã đội Đại Phước
10 Mai Thị Mọi
1950 8/1967
Đại đội 240
11 Nguyễn Minh Chừng 1937 13/3/1962 Tỉnh đội Biên Hòa
12 Nguyễn Văn Thành 1952 2/1967
Xã đội Đại Phước
13 Nguyễn Văn Tiến 1948 8/1963 Huyện đội Long Thành
14 Huỳnh Thị Sen
1950 8/1968
Ban Binh vận
Phân khu 4
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


15 Nguyễn Văn Thanh
16 Lê Văn Chuộng
17 Lê Ngọc Ánh
18 Nguyễn Văn Tròn
19 Nguyễn Văn Cu
20 Lê Văn Kiêu
21 Nguyễn Văn Cảm
22 Phạm Văn Phương
23 Trương Ngọc Hận
24 Võ Văn Toàn
25 Dương Văn Sáu
26 Dương Văn Chứa
27 Nguyễn Văn Si
28 Trương Đình Oai
29 Phạm Văn Đường
30 Lê Văn Gắt
31 Phạm Xuân Bình
32 Đào Văn Sót
33 Đào Văn Khuê
1938 4/1966
Xã đội Đại Phước
1932 10/3/1963 Chi bộ Đại Phước
1941 20/10/1963
Đại đội 240
1941 3/1962
Xã Phú Hữu
1950 1968
Xã Đại Phước
1952 1966
Xã Long Tân
1950 29/3/1698 H. Nhơn Trạch
1945 20/2/1964
Ban Tuyên huấn
Nhơn Trạch
1949 1/1965
Xã đội Đại Phước
1945 10/2/1967 Xã đội Vĩnh Thanh
1943 7/1962
Xã đội Long Tân
1918 3/1945
Ban Công an
xã Phước Lập
1920 19/8/1945 Ủy ban xã Phước Lập
1947 4/3/1968 Huyện đội Nhơn Trạch
1950 16/4/1965
Xã Đại Phước
1943 5/1962
Xã Phú Hữu
1956 3/3/1972
Đại đội 240
1944
1937
12/1964
10/1957
Tiểu đoàn 4
Huyện uỷ Xuân Lộc,
Long Khánh
391

40.2 Page 392

▲back to top


34 Nguyễn Văn Kế
35 Võ Văn Hoà
36 Phan Thị Cân
37 Đào Văn Bảng
38 Dương Văn Nghĩa
39 Nguyễn Văn Lời
40 Nguyễn Văn Phước
41 Phạm Văn Tươi
42 Trần Văn Tiền
43 Trần Văn Hích
44 Phan Văn Rồi
45 Phan Văn Lợi
46 Hồ Minh Hoàng
47 Hồ Văn Ngà
48 Đặng Văn Thọ
49 Lê Văn Minh
50 Huỳnh Văn Cu
51 Võ Văn Đực
1948 12/1966
Xã Đại Phước
1957
1951
6/1972
10/1968
Xã đội Đại Phước công
tác Phước Khánh
Xã Phước Thái
1905 4/1945 Ủy ban xã Đại Phước
1953 2/1967
Xã Đại Phước
1920
1942
4/1958
4/1960
Xã Vĩnh Thanh
(xã Phước Lý)
Đại đội 240
1938 14/4/1962
Đại đội 240
1950 1962
Khu ủy Phân khu 4
1937 1964
Xã Long Trường
1947 11/5/1966
1947 12/10/1968
Đại đội 1
huyện Long Thành
Xã Đại Phước
1940 7/1964
Xã Đại Phước
1918 11/1945
Xã Đại Phước
1917 1945
Xã Phú Thạnh
1950 1/1969
Đại đội 240
Long Thành
1949 7/1968
Xã Đại Phước
1942 10/1962 Đại đội 1, D2 - Miền
392

40.3 Page 393

▲back to top


52 Huỳnh Văn Thắng
53 Lê Xuân Lịch
54 Lê Văn Lượng
55 Hồ Văn Dũng
56 Đào Văn Rích
57 Đào Văn Rắc
58 Bùi Văn Thành
59 Bùi Văn Tàng
60 Huỳnh Văn Điều
61 Nguyễn Văn Thêu
62 Đinh Văn Đăng
63 Nguyễn Văn Của
64 Huỳnh Văn Ất
65 Nguyễn Văn Lộn
66 Đào Ngọc Dũng
67 Trương Vĩnh Phúc
68 Lê Văn Sơn
69 Lê Văn Đực
1923 23/9/1945
1916 12/1945
1944 20/10/1964
1942 1/61963
1942 20/10/1963
1947 6/8/1964
1946 2/1967
1944 4/4/1966
1912 1945
1917 1945
1924 25/8/1945
1951 1/1967
1922 11/1945
1947 1964
1945 10/1964
1944 7/3/1966
1931 3/1947
1942 6/1963
C3, chi đội 7 Trung
đoàn 307
Trung đoàn 310
Thủ Đức
Xã Long Tân
Đại đội 240
Xã Đại Phước
Xã Đại Phước
Đại đội 240
Xã Phước Lập
Trưởng ban
kiểm soát ấp
Tiểu đội trưởng
Tiểu đội trưởng
Cán bộ công an
Du kích xã
Long Trường
Bí thư chi bộ
Tiểu đội trưởng
Thanh niên
Cứu quốc xã
Tiểu đội phó
393

40.4 Page 394

▲back to top


70 Hồ Văn Điệu
1945 1/1966
Chiến sỹ
71 Nguyễn Đức Lơ
1950 1971
Xã đội trưởng
72 Võ Quang Minh
1924 1945
Xã đội trưởng
73 Nguyễn Văn Bang 1945 11/1960
Du kích xã
74 Nguyễn Văn Hương 1941 10/1968 Chiến sỹ Ban hậu cần
75 Đoàn Trọng Minh 1915 1945
Chủ tịch xã
76 Phạm Văn Bộ
1946 17/2/1962
Du kích xã
77 Trần Văn Vọng
1914 19/8/1945
Đội viên
78 Lê Thị Ba
1929 1945
Chi đoàn trưởng
phụ nữ xã
79 Trần Văn Thá
1939 1963
80 Nguyễn Văn Vàng 1954 6/1972
Thư ký Phân khu
81 Trần Văn Măng
1930 1947
CB. Thanh niên
82 Đặng Văn Mừng
1926 4/1962
Xã đội trưởng
83 Nguyễn Anh Điệp 1966 8/1984
Chiến sỹ
84 Đinh Quốc Cường 5/1960 3/1987
Chiến sỹ
85 Trần Văn Lớn
1947 1963
86 Lê Văn Sáng
1906 8/1945
Chủ tịch xã
87 Trần Văn Bộ
1915 8/1946
Đội viên tự vệ
88 Lê Văn Phải
1913 10/1945
Ban kinh tài
394

40.5 Page 395

▲back to top


89 Đặng Minh Chánh
90 Nguyễn Văn Thành
91 Nguyễn Thanh Toàn
92 Trần Văn Hiếu
93 Phan Văn Mạo
94 Nguyễn Văn Trừ
95 Nguyễn Ngọc Sanh
96 Dương Văn Danh
1947
1945
1929
1915
1937
1942
1901
1910
1961
10/1967
1/1961
1945
6/1957
5/1960
8/1945
1945
Trung đội trưởng
Dân công
Trung đội trưởng
Phó ban Công an xã
Đại đội trưởng
Trung đội trưởng
Cán bộ Kinh tài
Phó Chủ tịch UBND
395

40.6 Page 396

▲back to top


DANH SÁCH CÁ NHÂN
THAM GIA KHÁNG CHIẾN XÃ ĐẠI PHƯỚC
Stt
Họ và tên
1 Lê Văn Trọng
2 Lê Thị Hoa
3 Đào Thị Huệ
4 Đỗ Hùng Phương
5 Hùynh Văn Rớt
6 Cao Văn Tòng
7 Lê Hòang Mậu
8 Nguyễn Minh Tâm
9 Dương Văn Di
10 Nguyễn Thị Út
11 Hứa Kim Húc
12 Đào Thị Cúc
13 Đào Thị Lạc
14 Phạm Thị Ánh
15 Nguyễn Thị Hòa
16 Đào Thị Lãm
17 Hồ Thu Hà
18 Trần Văn Tư
19 Nguyễn Văn Mậu
Năm sinh
1947
1945
1946
1940
1933
1943
1947
1951
1930
1930
1918
1956
1950
1944
1939
1936
1927
1941
1940
Hồ sơ
KC 1744
KC-1L 1473
KC-1L 1474
KC -1L 1475
KC-1L 1476
KC -1L3183
KC -1L 3184
KC-1L 3185
KC -1L 8809
HS 562
HS 563
HS -564
HS -565
HS -566
HS -567
HS -568
HS -569
HS -570
HS -571
396

40.7 Page 397

▲back to top


20 Đào Thị Đỏ
21 Trần Thị Nguyên
22 Mai Thị Liên
23 Hùynh Văn Bưởi
24 Trần Văn sáng
25 Đặng Thị Châu
26 Dương Thị Mua
27 Đào Thị Vàng
28 Trần Văn Phút
29 Lê Thị Chót
30 Thái Thiện Phước
31 Hùynh Văn Chà
32 Đỗ Thị Thơ
33 Phạm Thị Trực
34 Lê Văn Đệ
35 Nguyễn Thị Bộn
36 Trần Văn Hòa
37 Lê Thị Ba
38 Đào Thị Bòn
39 Dương Thị Bòn
40 Hồ Văn Thanh (Thân)
41 Phạm Thị Ngữ
42 Trần Thị Nhỏ
1948
1928
1952
1933
1942
1924
1948
1951
1931
1932
1911
1919
1913
1907
1904
1920
1919
1906
1948
1949
1920
1923
1924
HS - 572
HS -573
HS -574
HS - 575
HS -576
HS -578
HS -579
HS -580
HS -581
HS -582
HS - 583
HS - 584
HS -585
HS - 586
HS -587
HS - 588
HS - 589
HS -590
HS -591
HS -592
HS -593
HS -594
HS - 595
397

40.8 Page 398

▲back to top


43 Lê Thị Lương
44 Nguyễn Văn Hải
45 Dương Văn Khanh
46 Võ Văn Ban
47 Hồng Thị Chức
48 Võ Văn Hiến
49 Hán Bá Tăng
50 Nguyễn Thị Sô
51 Nguyễn Văn Xem
52 Lê Thị Truyền
53 Nguyễn Văn Tao
54 Đào Thị Huyền
55 Trần Phong Sắc
56 Nguyễn Thị Thành
57 Đỗ Thị Bẩy
58 Nguyễn Thị Láng
59 Trần Thị Điền
60 Đào Thị Chính
61 Mai Văn Trị
62 Đào Thị Luyến
63 Đào Văn Cây
64 Trần Ngọc Minh
65 Nguyễn Tri Phương
398
1924
1942
1932
1914
1941
1945
1926
1926
1941
1916
1921
1921
1920
1940
1929
1942
1922
1940
1937
1910
HS -596
HS -837
HS -838
HS -839
HS - 840
HS -10728
KC -1L 10257
HS -1606
HS -1607
HS -1608
HS -1609
HS -1610
HS -1611
HS - 1612
HS -1613
HS -1614
HS -1615
HS - 1616
HS -1617
HS -1618
HS -1619
HS -37
HS -38

40.9 Page 399

▲back to top


66 Nguyễn Văn Toản
67 Võ Thị Riện
68 Trần Thị Tánh
69 Mai Văn Dũng
70 Lâm Văn Minh
71 Đào Văn Thắng
72 Lưu Thị Lại
73 Nguễyn Văn Sanh
74 Lê Văn Nói
75 Trần Văn Đực
76 Dương Thị Lành
77 Dương Văn Đâu
78 Phạm Thị Cường
79 Lê Văn Dành
80 Hùynh Công Thất
81 Lâm Thị Thơm
82 Phan Thị Chiếu
83 Thái Văn Chiểu
84 Võ Văn Lọng
85 Lê Thị Muộn
86 Lê Thị Tầu
87 Dương Thị Bảy
88 Nguyễn Thị Đông
1952
1942
1950
1947
1943
1954
1937
1939
1930
1922
1928
1908
1936
1944
1919
1919
1938
1927
1949
1951
1935
1944
1926
KC -1L 10258
HS -2663
HS- 10724
HS -10725
HS -10726
HS -10727
HS - 2826
HS -2827
HS -2828
HS -2829
HS-2830
HS - 2831
HS -2832
HS - 2833
HS -2834
HS - 2835
HS - 2836
HS - 2861
3467
3468
3469
3470
3471
399

40.10 Page 400

▲back to top


89 Đòan Thị Hên
90 Phạm Thị Hường
91 Lê Thị Khế
92 Lê Văn Kỉnh
93 Trương Văn Biện
94 Đào Văn Em
95 Nguyễn Thanh Tâm
96 Đào Minh Xuân
97 Nguyễn Văn Hóa
98 Nguyễn Thị Sức
99 Nguyễn Thị Mạnh
100 Nguyễn Văn Đại
101 Lư Thị Bán
102 Nguyễn Thị Út
103 Hồ Thị Chạy
104 Lê Văn Mẩn
105 Nguyễn Thị Còn
106 Nguyễn Thị Tám
107 Vương Văn Khánh
108 Lại Thị Minh
1934
1925
1930
1920
1941
1958
1949
1939
1952
1945
1956
1942
1943
1948
1946
1936
1902
1953
3472
3473
3474
3475
12002
12003
12004
4815
KC/12816
KC/13055/CM
3790
3789
3788
3786
3787
KC.12939
3879
3880
3881
KC.13330
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1997), Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập I,
Nxb. Đồng Nai.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1998), Tổng kết
công tác binh vận tỉnh Đồng Nai trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước 1954 - 1975, Nxb. Đồng Nai.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1986), Đồng
Nai 30 năm chiến tranh giải phóng 1930 - 1975, Nxb. Đồng
Nai.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long
Thành những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Lịch
sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930 - 1975, Nxb. Tổng hợp
Đồng Nai.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa (1999),
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Biên Hòa, Nxb. Đồng Nai.
7. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Nai
(2005), Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Đồng Nai 1930 - 2000,
Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
401

41.2 Page 402

▲back to top


8. Ban Chỉ đạo lễ Kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa -
Đồng Nai (1998), Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và
phát triển, Nxb. Đồng Nai.
9. Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử
Công an tỉnh Đồng Nai 1975 - 1995 (tập III), Nxb. Công an
nhân dân.
10. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa Thông tin Thể
thao Đồng Nai (1996), Những Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh
Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai (1992), Đồng Nai
những trận đánh điển hình trong chiến tranh giải phóng 1945
- 1975, tập 1, Nxb. Đồng Nai.
12. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử
Công an tỉnh Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945
- 1954, Nxb. Công an nhân dân.
13. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử
Công an tỉnh Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước 1954 - 1975, Nxb. Công an nhân dân.
14. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Biên niên
sự kiện lịch sử Công an tỉnh Đồng Nai 1996 - 2010, Nxb. Công
an nhân dân.
15. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 (2016), Từ
điển Quân khu 7, Nxb. Quân đội nhân dân.
402

41.3 Page 403

▲back to top


16. Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử biên niên 1975
- 1996, Nxb. Công an nhân dân.
17. Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ
quốc gia (2021), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu địa bạ
triều Nguyễn, [tập IV: Nam Kỳ], Nxb. Hà Nội.
18. Phan Đình Dũng, Nguyễn Thanh Lợi (2010), Hỏi đáp
về Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
19. Đảng bộ huyện Long Thành (2015), Lịch sử Đảng bộ
huyện Long Thành, Nxb. Đồng Nai.
20. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Huyện Nhơn Trạch
anh hùng, Nxb. Đồng Nai.
21. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch, Nxb. Đồng Nai.
22. Đảng ủy Công an tỉnh Đồng Nai (2017), Lịch sử Đảng
bộ Công an tỉnh Đồng Nai 1945 - 2000, Nxb. Công an nhân
dân.
23. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2005),
Công an Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1945 - 1954, Nxb. Công
an nhân dân.
24. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2005),
Công an Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1954 - 1975, Nxb. Công
an nhân dân.
403

41.4 Page 404

▲back to top


25. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai (2015),
Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Đồng Nai 1945 - 2010, Nxb.
Đồng Nai.
26. Hồ Sơn Đài, Trần Quang Toại (1985), Đồng Nai những
đơn vị anh hùng, Nxb. Đồng Nai.
27. Hồ Sơn Đài chủ biên, Đỗ Tầm Chương, Nguyễn Quang
Hữu (1997), Lịch sử chiến khu Đ - Hào khí Đồng Nai, Nxb.
Đồng Nai.
28. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, [bản
dịch của Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính], Nxb.Tổng
hợp Đồng Nai.
29. Học viện Quân sự cao cấp, Ban Tổng kết kinh nghiệm
chiến tranh (1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước -
những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân.
30. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Đoàn Đặc
công 113 với Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Quân đội nhân dân.
31. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Tiểu đoàn
240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Tổng
hợp Đồng Nai.
32. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ
(2005), Lịch sử Khởi nghĩa Nam Kỳ (tái bản), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
404

41.5 Page 405

▲back to top


33. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông
Nam Bộ (2003), Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam bộ lãnh
đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 -
1975), Nxb. Chính trị Quốc gia.
34. Hội Khoa học lịch sử Đồng Nai (2013), Địa danh Hành
chính, Văn hóa, Lịch sử Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
35. Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai (2018), Lịch sử phong
trào Nông dân và Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai 1930 - 2015,
Nxb. Đồng Nai.
36. Hồ Sĩ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ Văn Sen (1998),
Lịch sử Việt Nam 1945 - 1975, Nxb. Mũi Cà Mau.
37. Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, [tập I: Tổng
quan, tập II: Địa lý, tập III: Lịch sử, tập IV: Kinh tế, tập V: Văn
hóa - xã hội], Xí nghiệp in Đồng Nai, Nhà in Thông tấn xã Việt
Nam.
38. Tỉnh ủy Đồng Nai (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai 1975 - 2000, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
39. Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb. Đồng Nai.
40. Huỳnh Văn Tới, Nguyễn Minh Hùng (2019), Bà mẹ
Việt Nam anh hùng tỉnh Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
41. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Nguyễn Trí Nghị
(2015), Di tích danh thắng Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
405

41.6 Page 406

▲back to top


42. Trần Quang Toại (chủ biên), Hồ Sơn Đài, Trần Toản,
Nguyễn Quang Hữu, (1991), Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Phú,
Nxb. Đồng Nai.
43. Trần Quang Toại (chủ biên 2013), Địa danh hành chính
văn hóa lịch sử Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.
44. Ngô Đăng Tri (2012), 82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam
- những chặng đường lịch sử 1930 - 2012, Nxb. Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội.
45. Robert (1924), Địa chí tỉnh Biên Hòa [Lê Tùng Hiếu -
Nguyễn Văn Phúc biên dịch, 2015], Nxb. Đồng Nai.
46. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (2001), Việt Nam - Đồng Nai
trăm năm nhìn lại, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
47. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai
(2005), Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai từ
1930 - 2000, Xí nghiệp in Đồng Nai.
48. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn
(2010), Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục
Việt Nam.
49. Các báo cáo, văn kiện của xã Đại Phước, Văn phòng
Đảng ủy xã Đại Phước.
50. Tài liệu nhân chứng của đồng chí Lê Văn Tâm/Lê Văn
Trọng (lão thành cách mạng).
406

41.7 Page 407

▲back to top


MỤC LỤC
Lời giới thiệu...........................................................................7
CHƯƠNG I.
VÙNG ĐẤT - CƯ DÂN VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
1. Địa lý và môi trường tự nhiên............................................ 11
2. Lịch sử hành chính.............................................................14
3. Truyền thống văn hóa.........................................................23
CHƯƠNG II.
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC
ĐẾN Cách mạng Tháng Tám 1945
1. Phong trào yêu nước trước khi thành lập Đảng..................32
2. P hong trào cách mạng từ khi thành lập Đảng
(1930 - 1945)......................................................................39
3. Cách mạng Tháng Tám năm 1945......................................57
CHƯƠNG III.
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954)
1. Những ngày đầu kháng chiến (1945 - 1946)......................66
2. Thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện
(1947 - 1952)......................................................................86
3. N hững năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp
(1953 - 1954)....................................................................107

41.8 Page 408

▲back to top


CHƯƠNG IV.
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 - 1975)
1. Đ ấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh vũ trang
(1954 - 1960).................................................................... 113
2. Kết hợp đấu tranh chính trị, vũ trang làm phá sản
quốc sách “Ấp chiến lược” (1961 - 1965)........................135
3. Đấu tranh mở vùng, tạo thế thực hiện Tổng tiến công,
nổi dậy xuân Mậu Thân (1965 - 1968).............................165
4. B ám trụ đấu tranh, giữ vững phong trào, tiến lên
giải phóng (1969 - 1973)..................................................180
5. Tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương
(1973 - 1975)....................................................................193
CHƯƠNG V.
THỜI KỲ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC,
XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 1985)
1. K hắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống
nhân dân (1975 - 1979).....................................................208
2. Vượt qua khó khăn, tạo nguồn lực phát triển địa phương
(1980 - 1985)....................................................................227

41.9 Page 409

▲back to top


CHƯƠNG VI.
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA
(1986 - 2000)
1. Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng (1986- 1994).....234
2. Tiến hành sự nghiệp Công nghiệp hóa (1994 - 2000)......242
CHƯƠNG VII.
THỜI KỲ HỘI NHẬP,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG THÔN
(2000 - 2010)
1. Thời kỳ hội nhập phát triển (2000 - 2005).......................254
2. Thực hiện Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
(2005 - 2010)....................................................................269
CHƯƠNG VIII.
THỜI KỲ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI, ĐÔ THỊ HÓA
(2010 - 2020)
1. Phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa (2010 - 2015)......288
2. X ây dựng Nông thôn mới, phát triển đô thị
(2015 - 2020)....................................................................309
3. Q uy hoạch và định hướng phát triển bền vững
(2020 - 2025)....................................................................329

41.10 Page 410

▲back to top


KẾT LUẬN.........................................................................335
PHỤ LỤC............................................................................341
Hình ảnh các đồng chí lãnh đạo tổ chức Đảng, chính quyền
xã Đại Phước........................................................................341
Hình ảnh Bà mẹ VNAH xã Đại Phước.................................344
Hình ảnh hoạt động của xã Đại Phước................................345
Danh sách các đồng chí lãnh đạo tổ chức Đảng, Ban Chấp
hành Đảng bộ xã..................................................................365
Danh sách, tư liệu các Bà mẹ VNAH xã Đại Phước............370
Danh sách Liệt sĩ, những người tham gia kháng chiến........390
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................401
MỤC LỤC...........................................................................407

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ ĐẠI PHƯỚC (1930 - 2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ xã Đại Phước
Mã ISBN: 978-604-42-0410-9
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Ngô Thị Huyền
Biên tập kĩ thuật: Nguyễn Văn Lừng
Trình bày:
Hoàng Phương
Sửa bản in:
Ngô Thị Huyền
Bìa:
Hoàng Phương
....................................................................................................
In: 200 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn -
134/8 Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Số xác nhận ĐKXB: 420 – 2024 / CXBIPH / 2 – 44 / DoN, Cục
Xuất bản, In và Phát hành xác nhận ngày: 01/02/2024, Quyết
định xuất bản số: 08/QĐA-NXBĐN, do NXB Đồng Nai cấp
ngày: 03/07/2024. In xong và nộp lưu chiểu: quý 3/2024.
....................................................................................................

42.2 Page 412

▲back to top


Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh - Phát hành: 946 521 - 946 530
Email: dongnainxb@gmail.com