LSDB TT Hiep Phuoc

LSDB TT Hiep Phuoc



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LÒCH SÖÛ ÑAÛNG BOÄ
THÒ TRAÁN HIEPÄ PHÖÔÙC
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
LÒCH SÖÛ ÑANÛ G BOÄ
THÒ TRANÁ HIEÄP PHÖÔÙC
(1930 - 2020)
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
BAN CHỈ ĐẠO
1.  Đ /c Dương Văn Em
- UVTV, Bí thư Đảng ủy:
Trưởng ban
2.  Đ /c Nguyễn Tấn Xuân
- Thường trực Đảng ủy:
Phó ban Thường trực
3.  Đ/c Trần Văn Hà
- Phó BT ĐU, Chủ tịch UBND:
Phó ban
4.  Đ /c Nguyễn Tấn Phong
- ĐUV, Phó Chủ tịch HĐND:
Thành viên
5.  Đ /c Nguyễn Văn Chính
- Chủ tịch UBMTTQVN thị trấn:
Thành viên

1.5 Page 5

▲back to top


TỔ THƯ KÝ
1.  Đ /c Đoàn Lê Khương
- Phó ban BTG ĐU:
Tổ trưởng
2.  Đ/c Trương Thị Nghĩa Bình
- CB VP Đảng ủy:
Thành viên
3.  Đ/c Cáp Thị Thương
- Công chức VP - Thống kê:
Thành viên
4.  Đ/c Đinh Văn Huyền
- Công chức VHXH:
Thành viên
5.  Đ /c Võ Hồng Danh
- Công chức KTTC:
Thành viên
BIÊN SOẠN
Huỳnh Văn Tới (Chủ biên)
Phan Đình Dũng
Hà Thị Thanh Thúy
BIÊN TẬP KỸ THUẬT
Phan Hoàng Oanh

1.6 Page 6

▲back to top


1.7 Page 7

▲back to top


Mở Đầu
Nhơn Trạch là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển
cùng lịch sử Biên Hòa - Đồng Nai hơn 320 năm, dưới triều Nguyễn
thuộc tổng Thành Tuy Hạ (huyện Long Thành), năm 1960 thuộc
quận Nhơn Trạch, từ ngày 1.9.1994 tách ra từ huyện Long Thành,
thành huyện Nhơn Trạch trực thuộc tỉnh Đồng Nai như hiện nay.
Trong đó, thị trấn Hiệp Phước là một trong 12 đơn vị hành chính
của huyện Nhơn Trạch, và là thị trấn duy nhất của huyện.
Hiệp Phước hình thành từ những làng cổ của Nhơn Trạch:
Mỹ Khoan, Phước Lai, Phước Kiểng, không chỉ có bề dày về văn
hóa mà còn có truyền thống yêu nước từ lâu đời. Người dân Hiệp
Phước bình dị hiền hòa, cần cù, yêu lao động nhưng khi đứng
trước những nguy cơ thiên tai, địch họa đã một lòng đoàn kết
đấu tranh, không quản ngại hy sinh gian khó. Vì vậy, lịch sử của
Hiệp Phước gắn liền và không thể tách rời với lịch sử của vùng
đất Long Thành - Nhơn Trạch, cũng như của tỉnh Biên Hòa/ Đồng
Nai và của cả nước.
Nhân dân Hiệp Phước cũng như người dân huyện Nhơn Trạch
với truyền thống yêu nước đã tham gia chiến đấu chống thực dân
Pháp ngay khi chúng nổ súng xâm lược tỉnh Biên Hòa (12.1861),
đã hướng theo ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ
khi tổ chức Đảng hình thành, ra đời ở Long Thành - Nhơn Trạch
7

1.8 Page 8

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
(1944), và dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng nhau giành chính
quyền về tay nhân dân trong cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945,
một lòng bền bỉ suốt 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp,
đế quốc Mỹ xâm lược. Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại,
Hiệp Phước tiếp tục dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng hàn gắn
vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, xây dựng địa phương
giàu đẹp, đem lại ấm no hạnh phúc cho người dân.
Trong quá trình triển khai nghiên cứu, biên soạn, chúng tôi đã
tổ chức nhiều đợt khảo sát thực tế, hội thảo, hội nghị nhân chứng
lịch sử để tiếp cận với sự thật lịch sử. Ý kiến đầy trách nhiệm của
các cấp ủy, các đồng chí nguyên là lãnh đạo qua các thời kỳ, các
nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử đã được
trân trọng tiếp thu, thể hiện trong chính văn. Những vấn đề còn
tồn nghi, chưa thẩm định được xin ghi nhận để tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung. Tài liệu được công bố của các công trình nghiên
cứu lịch sử liên quan được khảo cứu cẩn trọng, dẫn nguồn cụ thể,
những chỗ còn khác biệt có ghi chú để tường minh.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng “Lịch sử Đảng bộ thị trấn Hiệp
Phước 1930 - 2020” chắc hẳn không tránh được những thiếu sót
ngoài mong muốn. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của
bạn đọc để công trình được hoàn chỉnh hơn trong lần tái bản.
Xin chân thành cám ơn đồng chí, đồng bào, cơ sở cách mạng,
nhân chứng lịch sử và các nhà khoa học đã góp phần hoàn thành
quyển sách này.
Dương Văn Em
Bí thư Đảng ủy thị trấn Hiệp Phước
8

1.9 Page 9

▲back to top


Chương I
TỔNG QUAN VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Thị trấn Hiệp Phước nằm về hướng Đông Bắc huyện Nhơn
Trạch, cách trung tâm huyện 6km, có diện tích 18,83km², dân số
năm 2020 là 43.253 người, mật độ dân số đạt 2.297 người/km².
Thị trấn Hiệp Phước có vị trí địa lý tiếp giáp huyện Long
Thành và các xã của huyện Nhơn Trạch như sau:
- Phía Đông giáp các xã: Long An và Long Phước của huyện
Long Thành.
- Phía Tây giáp các xã: Phước Thiền, Phú Hội và Long Tân
của huyện Nhơn Trạch.
- Phía Nam giáp các xã: Long Thọ và Phước An của huyện
Nhơn Trạch.
- Phía Bắc giáp thị trấn Long Thành của huyện Long Thành.
Địa bàn thị trấn Hiệp Phước hiện nay vốn trước đây là hai
xã Phước Lai và Phước Kiểng1 thuộc huyện Long Thành. Ngày
1  Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về cách viết Phước Kiểng hay Phước
Kiển. Có ý kiến cho là Phước Kiểng, vì đây là từ đọc trại từ chữ Cảnh; đọc trại và
viết thành kiểng; một số văn bàn xưa cũng viết là Kiểng. Tuy nhiên cũng có ý cho
9

1.10 Page 10

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
17.1.1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 12-HĐBT,
sáp nhập hai xã Phước Lai và Phước Kiển thành một xã lấy tên là
xã Hiệp Phước. Ngày 23.6.1994, Chính phủ ban hành Nghị định
số 51/1994/NĐ-CP, theo đó xã Hiệp Phước chuyển sang trực thuộc
huyện Nhơn Trạch vừa tái lập. Ngày 10.5.2019, Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành Nghị quyết số 694/NQ-UBTVQH14 (có hiệu
lực từ ngày 1.7.2019), chuyển xã Hiệp Phước thành thị trấn Hiệp
Phước.
Thị trấn Hiệp Phước được chia thành 5 khu phố: Mỹ Khoan,
Phước Mỹ, Phước Kiển, Phước Lai, Phước Hiệp.
2. Địa hình, địa mạo
Địa hình thị trấn Hiệp Phước tương đối bằng phẳng, có xu
hướng thấp dần từ hướng Tây Bắc sang Đông Nam và chia làm
hai dạng chính:
- Dạng địa hình cao, bằng phẳng: nằm ở khu vực phía Tây của
thị trấn, độ dốc từ 3-80. Vùng này có tầng địa chất vững chắc, địa
hình cao, thích hợp trồng các loại cây công nghiệp dài ngày như
điều, cao su và các loại cây ăn trái, hoặc cũng thích hợp bố trí các
khu dân cư, xây dựng các công trình công nghiệp; trong thực tế
hiện nay khu vực này đã được xây dựng các nhà máy, khu công
nghiệp.
- Dạng địa hình thấp: phân bổ ở khu vực phía Đông thị trấn,
thích hợp để trồng lúa; và trong thực tế, trước đây là diện tích lúa.
là Phước Kiển, do địa phương trước đây tên là Phước Kiến, sau đó vì lý do nào
đó đọc trại lại là Kiển; một số văn bản hành chính sau này cũng viết thành Phước
Kiển. Vì thế, địa danh này đôi lúc sẽ là Phước Kiểng, cũng có lúc là Phước Kiển.
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Nhìn chung, qua nghiên cứu về cấu tạo địa chất, địa mạo cho
thấy địa hình của huyện Nhơn Trạch nói chung và thị trấn nói
riêng được hình thành và phát triển từ kỷ nguyên Trias - Jura -
Creta, chịu ảnh hưởng đồng thời của đới nâng Đà Lạt và đới sụt
lún của Đồng bằng sông Cửu Long từ Creta - Miocen đến nay. Sự
phát triển của địa hình Đồng Nai có đặc trưng cơ bản là nâng cao
và san bằng, riêng vùng Long Thành - Nhơn Trạch do chịu nhiều
ảnh hưởng sụt lún với những tích tụ trầm tích dày vì vậy tạo nên bề
mặt thềm bằng phẳng, thoát nước tốt. Về địa tầng, địa bàn huyện
Nhơn Trạch cũng như thị trấn Hiệp Phước thuộc hệ Trias, thống
trung, bậc Anizi1, đồng dạng với các vùng phụ hệ tầng dưới như
ở Bửu Long. Khảo sát thực tế cho thấy, mặt cắt vùng Nhơn Trạch
gồm cuội kết, tảng kết hiển lộ từ Tây Nam Bửu Long đến mép
sông Đồng Nai, rõ nét ở Hang Nai. Cuội có kích thước thay đổi
từ 3-5-10cm, độ mài tròn trung bình, độ chọn lọc kém, có thành
phần đa khoáng: sạn kết tuf andesit, granodiorit - biotit porphyry,
granit có biotit hạt vừa, đá phiến sét serisit - silic nhiễm oxyt sắt.
Ở vùng Nhơn Trạch còn có hiện tượng phụ hệ tầng giữa phủ lên
phụ hệ tầng dưới, biểu hiện bởi mặt cắt có các tập cát kết tuf riolit
màu xám có cấu tạo khối rất cứng chắc và thêm nhiều thành phần
khoáng chất đặc thù của phụ hệ tầng giữa.
Về địa hình, Nhơn Trạch thuộc loại địa hình tích tụ dạng có
nhiều bãi bồi, được cấu tạo bởi nhiều cuội sỏi, cát hoặc cát bột,
sét bột bở rời, có khi dày đến một vài mét. Bãi bồi vùng Nhơn
Trạch thường thấp, phân bổ giữa hoặc ven lòng sông rạch, lộ rõ
giữa mùa khô hoặc khi triều xuống. Đây là nguồn vật liệu dồi dào
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai, 2001, trang 8, trang 45.
11

2.2 Page 12

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cho xây dựng. Trong đó, một phần vùng Hiệp Phước thuộc vùng
đất phù sa cổ được thành tạo trong thế Pleistocen (thế Canh Tân)
trở về trước, có cao trình dao động từ 10-25cm, có mạch ngầm
nước ngọt tạo cho vùng đất luôn có độ ẩm khá cao; một phần
diện tích khác của Hiệp Phước nằm trong vùng có địa hình thuộc
loại phù sa mới song khá khô ráo, địa hình cao vừa phải - là vùng
trung gian chuyển tiếp giữa vùng cao phù sa cổ và vùng đất thấp
trũng phù sa mới (ở phía Nam huyện Nhơn Trạch), trên bề mặt
có những đụn cát hoặc bãi bồi được thành tạo trong thời Holocen
(thời Toàn Tân), từ khoảng 12.000-11.000 năm đến nay.
Về phân vùng địa mạo, Hiệp Phước thuộc vùng đồng bằng
đồi thềm, đồng dạng với cả vùng Biên Hòa - Long Thành. Vùng
này có đặc điểm hạ tích tụ và nâng yếu, rửa trôi - xâm thực; tạo
thềm bậc IV, III, II và I từ Pleistocen giữa đến Holocen.
Các bậc thềm tuy có độ cao khác nhau, nhưng lại liên kết với
nhau trên cơ sở các bề mặt cùng nguồn gốc, cùng được nâng lên,
rửa trôi là chủ yếu và xâm thực. Theo hướng Tây Tây Nam, chúng
thấp dần theo góc nghiêng chung < 10. Theo hướng Nam, Đông
Nam bề mặt bị chia cắt bởi các thung lũng xâm thực sâu 10-30m,
sườn dốc 3-100, cách nhau 5-7-10km. Bề mặt nằm ngang và gần
ngang là phổ biến, chiếm đến 85-90% diện tích của Hiệp Phước,
do vậy vùng này có nền vững, thích hợp để xây dựng và phát triển
đô thị, khu công nghiệp1. Trên thực tế, tại Hiệp Phước một phần
diện tích đất đã được sử dụng để xây dựng các khu công nghiệp
Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 5 và khu đô thị mới.
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 64 - 65.
12

2.3 Page 13

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
3. Đất đai
Đất đai1 vùng Nhơn Trạch có địa hình bằng phẳng, độ cao
0-20m so mực nước biển, phần lớn có độ dốc < 8-15 độ. Cấu tạo
đất Nhơn Trạch đa phần là đất phù sa cổ; cũng có hệ trầm tích
Holocen bao gồm cát biển, trầm tích đầm lầy biển và phù sa sông
suối hình thành các loại đất cát (Arenosols), đất phù sa (Fluvisols)
và đất phèn (Thionic Fluvisols). Vùng đất phổ biến nhóm đất này
chịu tác động của thủy triều, có độ chua (PH) từ ít đến vừa và
cao; đặc điểm là giàu mùn, đạm, kali nhưng nghèo lân, nên ở nơi
không hoặc ít phèn, thuận cho trồng lúa nhiều vụ hoặc trồng cây
ăn trái, hoa màu, rau củ.
4. Hệ thống sông suối
Hệ thống sông suối có ảnh hưởng khá quan trọng trong sự
phát triển của vùng Hiệp Phước, đặc biệt là con kênh Bà Ký. Đây
là kênh đào dài 4,5km nối liền sông Thị Vải và sông Đồng Môn,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và giao thông
đường thủy (chủ yếu là ghe, thuyền) giữa Hiệp Phước, Phước
Thiền, Phú Hội với các địa phương lân cận. Chưa thấy văn bản
chính thức hay tư liệu nào về thời điểm ra đời của kênh Bà Ký,
nhưng theo truyền khẩu trong dân gian thì kênh Bà Ký có thể
được hình thành từ thời các chúa Nguyễn.
Về mặt nông nghiệp, kênh Bà Ký đưa nguồn nước ngọt cung
cấp cho các ruộng lúa nước tại các xã Long An (huyện Long
Thành), Phước Thiền, Hiệp Phước cũng như cung cấp nguồn lợi
thủy sản cho người dân. Do không bị ảnh hưởng trực tiếp của thủy
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai, 2001, trang 143 - 157.
13

2.4 Page 14

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
triều nên vùng đất Hiệp Phước không bị nhiễm mặn, thích hợp với
trồng lúa nước, hoa màu, cây ăn trái. Ở các ruộng, rạch, suối là nơi
tập trung sinh sống của các loài thủy sản nước ngọt như cá trê, cá
lóc, có rô, tôm càng... Theo thống kê năm 2010, đất sông suối và
mặt nước chuyên dùng ở Hiệp Phước chiếm 17,04 hecta, trong đó
đất nuôi trồng thủy sản chiếm 2,13 hecta.
Về mặt giao thông, sự ra đời của kênh Bà Ký đã thu ngắn
khoảng 1/3 đoạn đường từ Hiệp Phước, Phước Thiền, Phú Hội
đến sông Thị Vải, từ đó có thể qua sông Gò Da, sông Lòng Tàu
để ra sông Đồng Nai rồi xuôi về các tỉnh miền Tây và ngược lại.
Kênh Bà Ký có thể nói là một trong những tuyến giao thông huyết
mạch trong sự phát triển thương nghiệp của các vùng Hiệp Phước,
Phú Hội, Phước Thiền xưa kia.
Ngoài ra, trên địa bàn Hiệp Phước còn có kênh tiêu Hiệp
Phước (dài 3,9km), suối Đồng Hu (dài 1,6km), suối Cạn (dài
2,4km).
5. Khí hậu
Khí hậu Hiệp Phước mang đặc điểm chung của huyện Nhơn
Trạch thuộc phương Nam, vùng Gia Định, ứng với quẻ Ly; theo
Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức1: Là vùng gần
biển, thấy trước mặt trời mới mọc, thường ấm, bắt đầu mưa vào
tháng 3 Âm lịch, mưa chính vào mùa hạ; “mưa to nghiêng vò mà
đổ”, cơn mưa to lắm chỉ vài giờ là tạnh, trở lại nắng; tháng 7 có
mưa ngâu dầm dề ít ngày, không lạnh; rõ rệt hai mùa mưa nắng.
1  Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, Tập I “Tinh dã chí”, Trịnh Hoài
Đức, bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Đồng Nai, 2005.
14

2.5 Page 15

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Do khí trời nóng, đất ẩm thấp nên khi mưa, khí biển tác động
thành ra sấm chớp, có thể hại chết người và vật.
Theo Địa chí Đồng Nai1, khí hậu ở Nhơn Trạch thuộc “khí
hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo”, có độ dài ban ngày ít thay
đổi, trung bình 12 giờ 47 phút/ ngày; thời gian nắng trung bình
4 - 9,5 giờ ngày (chiếm 45 - 65% độ dài ban ngày), cả năm có
khoảng 2.500 đến 2.860 giờ nắng; bức xạ luôn dương, trị số hàng
năm 70 - 74 kkcal/cm2. Hằng năm, Nhơn Trạch chịu tác động của
3 hệ thống gió mùa châu Á, trong đó rõ rệt nhất là gió mùa hạ (gió
mùa Tây Nam), gió mùa Ấn Độ Dương (cũng thuộc gió mùa Tây
Nam), gió mùa Nam Thái Bình Dương. Hệ thống gió mùa này tác
động làm cho thời tiết thiên về nóng, ẩm, có mưa nhiều đầu mùa,
thi thoảng có giông nhẹ, ít bão, không lạnh. Khí hậu như vậy là ôn
hòa, tốt cho vạn vật; thuận cho con người sinh sống và phát triển
sản xuất.
6. Sinh cảnh, động - thực vật
Vùng Hiệp Phước xa xưa đã từng có những khu rừng nguyên
sinh, hay còn gọi là rừng già cổ thụ với các loài động thực vật
gồm đủ các nhóm phổ quát và nhóm có tính đặc thù. Rừng giồng
ở đây thuộc hệ rừng lá rộng thường xanh ẩm nhiệt đới, đặc điểm
là cây họ dầu chiếm ưu thế, vượt tán, thành chòm, thành cụm hoặc
lán; gồm nhiều cây “họ hàng” như: Dầu song nàng, dầu rái, sao
đen, chai, vên vên. Bên cạnh các loài cây họ dầu còn có các cây
gỗ mọc hỗn giao, có loại quí hiếm như gõ, trắc, cẩm lai, giáng
hương; thường là các loài cây phổ quát như bình linh, bằng lăng,
cám, săng máu...
1  Địa chí Đồng Nai, Tập II, NXB Đồng Nai, 2001, trang 73 - 98.
15

2.6 Page 16

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Rừng giồng có cấu trúc phức hợp, nhiều tầng, ít nhất là 5
tầng: Tầng vượt tán (gồm cây gỗ trên 40 m); tầng ưu thế sinh thái
(cây gỗ cao từ 20-30m); tầng dưới tán (gồm cây mọc rải dưới tán
rừng, cao dưới 15m); tầng cây bụi (gồm các loại cây thấp nhỏ,
cao 2-8m); tầng thảm tươi (tầng thấp nhất, gồm cây, cỏ dưới 2m).
Trong mỗi tầng rừng đều có các loài phụ sinh họ đậu, họ dây leo
nương theo cây cỏ cùng phát triển. Ở tầng thảm tươi, tại một số
nơi dân địa phương còn gieo trồng thêm thơm (dứa), trà và một số
loại cây khác để khai thác, sử dụng. Hiện nay do tốc độ đô thị hóa,
Hiệp Phước không còn nhiều diện tích rừng, chỉ còn những chòm
cây dầu, sao ở một số đình, miễu và khu công cộng.
Về động vật, rừng giồng Hiệp Phước trước đây có nhóm động
vật phổ quát như cọp, beo, nai, mển, heo rừng, nhím, khỉ, kỳ đà,
chim, rắn... Nhiều động vật không xương thuộc hệ côn trùng cũng
rất phong phú, ấn tượng trong đời sống (như đom đóm, kiến,
mối...). Nhưng hiện nay rất nhiều loài động vật đã không còn.
7. Hệ thống giao thông
Hầu như toàn bộ 5 khu phố của thị trấn Hiệp Phước đều nằm
dọc theo lộ 19, nay là đường Hùng Vương. Trước đây, lộ 19 cùng
với lộ 17 là hai tuyến giao thông quan trọng của Nhơn Trạch. Từ
lộ 19 có thể đến các xã Long Thọ, Phước An - chiến khu kháng
chiến của huyện Nhơn Trạch; đi tiếp đến lộ 17 để đến các xã
Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phú Thạnh (nơi đặt chi khu
Nhơn Trạch và kho đạn Thành Tuy Hạ), từ đó có thể đến xã Đại
Phước hoặc xã Vĩnh Thanh rồi theo đường thủy qua Sài Gòn; đi
ra quốc lộ 15 (sau này là quốc lộ 51) rồi từ đó về Long Thành,
16

2.7 Page 17

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Biên Hòa, Sài Gòn hoặc xuống Bà Rịa, Vũng Tàu. Chính vì vậy,
trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ta
và địch đấu tranh dữ dội, ác liệt để giành quyền chiếm đóng, kiểm
soát trục lộ 19.
Sau ngày đất nước thống nhất, huyện Nhơn Trạch đầu tư mở
rộng đường 25B, sau này là đường Tôn Đức Thắng, có đoạn đi
qua địa bàn thị trấn Hiệp Phước. Đường Tôn Đức Thắng cắt ngang
đường Hùng Vương, là trục giao thông chủ yếu từ các khu công
nghiệp trên địa bàn huyện ra quốc lộ 51, hiện nay đã được đầu tư
mở rộng thành hai làn đường riêng biệt. Ngoài ra, trên địa bàn thị
trấn Hiệp Phước còn có đường Trần Phú nối các khu công nghiệp
Nhơn Trạch 6, Nhơn Trạch 5 và Nhơn Trạch 2 với đường Hùng
Vương; đường Nguyễn Ái Quốc có điểm đầu là đường Nguyễn
Hữu Cảnh (xã Long Tân), điểm cuối là đường Hùng Vương (xã
Long Thọ), trong đó một phần tuyến đường đi qua địa bàn thị trấn
Hiệp Phước đã tăng thêm tính kết nối giao thông cho địa phương.
II. ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Quá trình hình thành và thay đổi về hành chính
Từ đầu Công nguyên đến thế kỷ VII, vùng đất Đồng Nai nằm
trong vòng ảnh hưởng của vương quốc Phù Nam. Sau khi Phù
Nam diệt vong, từ thế kỷ VII trở đi vùng đất này phụ thuộc vào
vào vương quốc Chân Lạp, kế đó trở thành vùng tranh chấp giữa
Chân Lạp và Chămpa. Tuy nhiên, trong thực tế vùng đất này còn
hoang hóa, phần lớn là rừng rậm và sình lầy, thú rừng sống thành
đàn, dân cư rất thưa thớt.
Từ năm 1620, cuộc hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn với vua
Chân Lạp Chey Chetta II, một ít người Việt đã được phép đến sinh
17

2.8 Page 18

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
sống, định cư ở vùng đất Nhơn Trạch trong đó có Hiệp Phước,
nhưng thời điểm này chưa có địa danh hành chính.
Cột mốc hành chính quan trọng được nhắc đến là năm 1698
khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn vào kinh lý
phương Nam. Thời điểm này, số dân toàn khu vực Đồng Nai -
Gia Định (cả phương Nam thời ấy) đã lên đến 40 vạn hộ, đất đai
khai phá rộng đến ngàn dặm. Nguyễn Hữu Cảnh đã thiết lập hệ
thống hành chính, đặt miền đất mới thành phủ Gia Định, gồm hai
huyện Tân Bình (đặt dinh Phiên Trấn) và Phước Long (đặt dinh
Trấn Biên). Trong đó, huyện Phước Long có địa giới hành chính
rất rộng, bao gồm các tỉnh phía Đông sông Sài Gòn ngày nay như:
Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,
Bà Rịa - Vũng Tàu và một phần tỉnh Bình Thuận. Vùng đất Nhơn
Trạch thuộc địa bàn dinh Trấn Biên, huyện Phước Long.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, giành vương
quyền, lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long. Ngày 12 tháng Giêng niên
hiệu Gia Long thứ 7 (năm 1808), phủ Gia Định được đổi tên là
thành Gia Định, các dinh đổi thành trấn, trong đó dinh Trấn Biên
đổi thành trấn Biên Hòa, huyện Phước Long được nâng thành phủ.
Sách Gia Định Thành thông chí1 của Trịnh Hoài Đức (viết
khoảng năm 1820), kê chi tiết các đơn vị hành chính của trấn
Biên Hòa. Theo đó, trấn Biên Hòa gồm một phủ (Phước Long),
bốn huyện (Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An), tám
tổng (Phước Vinh, Chánh Mỹ, Bình Chánh, An Thủy, Long Vĩnh,
1  Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB
Đồng Nai, 2005.
18

2.9 Page 19

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Thành Tuy, An Phú, Phước Hưng) và 307 xã, thôn, phường. Vùng
đất Nhơn Trạch thuộc tổng Thành Tuy (mới đặt).
Tổng Thành Tuy được mô tả: Phía Đông giáp núi Nữ Ni (tức
núi Thị Vải) thuộc tổng An Phú (huyện Phước An) đến cửa sông
Ngã Bảy (còn có tên gọi là Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trao
Trảo (thuộc tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành) cho đến sông
lớn Nhà Bè; Nam giáp Phước Bình giang (tức sông Sài Gòn); Bắc
giáp các sách man ở rừng già cho đến sông Đồng Môn1.
Trong 29 thôn của tổng Thành Tuy2, có những tên thôn ứng
với địa bàn Nhơn Trạch: Vĩnh Xương, Mỹ Khoan, Phước Lộc,
Phước Thành, Phú Mỹ An, Phước Lợi An, Phước Kiển, Phước
Lai. Như vậy, những địa danh thôn thuộc địa bàn Hiệp Phước hiện
nay được biết đến đầu tiên là: Mỹ Khoan, Phước Lai, Phước Kiển.
Tất nhiên, khi đã có địa danh thì các đơn vị hành chính này đã
được hình thành trước đó, có thể đã được định danh từ thời Chúa
Nguyễn Phúc Chu năm 1698 bởi đây là những làng cổ hình thành
từ rất sớm ở vùng đất Nhơn Trạch, nhưng cho đến nay chưa thấy
văn bản chính thức nào về những địa danh này trước thời điểm
Gia Định Thành thông chí được biên soạn.
Năm 1832, trấn Biên Hòa được đổi thành tỉnh Biên Hòa. Theo
Địa bạ tỉnh Biên Hòa năm 1836, tỉnh Biên Hòa cũng gồm 1 phủ,
4 huyện như trước đó, nhưng số tổng đã nâng từ 8 lên 22 tổng; số
1  Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 139.
2  29 thôn, ấp của tổng Thành Tuy gồm: Vĩnh An, Vĩnh Xương, Mỹ Khoan,
Phước Lộc, Phước Thành, Phú Mỹ An, Phước Lợi An, Phước Kiểng, Phước Lai,
Long Tạo, Long Thuận, Phước Hòa Đông, Phú An, Phú Hòa, Long Hưng, Hương
Mỹ, Lý Nhơn, Vĩnh Hưng, Lương Phước, Lương Phước Đông, Phước Thạnh, An
Thuận, An Phước, Long Đức, Mỹ An, Long Hiệu.
19

2.10 Page 20

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thôn, xã, phường giảm từ 307 còn 285 là do sáp nhập một số thôn,
xã nhỏ1. Trong đó, tổng Thành Tuy được chia thành hai tổng, là
tổng Thành Tuy Thượng (gồm 12 thôn) và tổng Thành Tuy Hạ
(gồm 13 thôn, ấp). Vùng đất Nhơn Trạch, trong đó có Hiệp Phước
thuộc địa bàn tổng Thành Tuy Hạ (huyện Long Thành). 13 thôn,
ấp có tên ứng với địa bàn Nhơn Trạch, gồm: Thôn Bình Phú, thôn
Lương Phú Đông, thôn Hưng Thạnh, ấp Mỹ Hội, thôn Long Hiệu,
thôn Phú Mỹ, thôn Phước Kiển, thôn Phước Thạnh, thôn Vĩnh
Tuy, thôn Phước Lai, thôn Tân Tường, thôn Phước Thành, thôn
Tuy Thạnh. Thời ấy, việc phân định thôn, làng, xã chưa chặt chẽ,
xóm ấp cũng thế. Người ta gọi không phân biệt làng, thôn, xã; có
khi thôn lớn hơn xã.
Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm hai tỉnh miền Đông
của Nam Kỳ. Tỉnh Biên Hòa thất thủ, rơi vào tay giặc Pháp. Ngày
9.5.1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất, nhượng đứt cho
Pháp ba tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Thời điểm này,
tuy triều đình Huế cắt đất giao cho giặc, nhưng lòng dân và các sĩ
phu, nghĩa binh yêu nước không phục. Vì thế, bước đầu thực dân
Pháp phải lo ổn định các vùng tạm chiếm, tạm thời giữ nguyên
các đơn vị hành chính của triều đình nhà Nguyễn như trước đây,
tuy nhiên cũng có một số điều chỉnh và gieo cấy nhân sự để thực
hiện ý đồ xâm chiếm.
Tháng 1.1863, soái phủ Nam Kỳ xác định tỉnh Biên Hòa gồm
hai phủ, bốn huyện như cũ, các thôn được đổi thành làng. Riêng
tổng Thành Tuy Hạ có 21 làng, xã (tăng tám làng, xã so với năm
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai. 2001, trang 248.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
1836). Thời này, vùng đất Nhơn Trạch thuộc tổng Thành Tuy Hạ,
huyện Long Thành, phủ Phước Tuy.
Năm 1864, Đô đốc Lagrandière1 chia ba tỉnh miền Đông của
Nam Kỳ thành bảy tiểu khu chỉ huy, trong đó tỉnh Biên Hòa chia
thành hai tiểu khu: Biên Hòa và Bà Rịa. Việc phân chia lãnh thổ
này chủ yếu phục vụ ý đồ quân sự của giặc Pháp.
Đến năm 1865, thực dân Pháp bắt đầu ổn định sự cai trị tại ba
tỉnh miền Đông của Nam Kỳ, đã chia ba tỉnh này thành 13 sở tham
biện (tương đương cấp tỉnh). Tỉnh Biên Hòa có năm sở tham biện,
gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo Chánh.
Tháng 6.1866, tỉnh Biên Hòa lại chia thành sáu địa hạt (tương
đương cấp quận), gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức,
Bình An, Bảo Chánh. Ngày 5.6.1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị
định chia địa bàn Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính (Circon-
scriptions Administratives) tương đương với một phủ hay một
huyện của thời nhà Nguyễn, mà người dân thường gọi là Tham
biện hay Tòa bố. Tất cả các xã, thôn, ấp cũ đều gọi thống nhất là
làng (Villages). Hạt Tham biện Biên Hòa gồm phần đất huyện
Phước Chánh và huyện Long Thành cũ (trừ tổng Long Vĩnh Hạ)
thuộc về khu vực hành chính I, tức Sài Gòn. Các thôn Mỹ Khoan,
Phước Lai, Phước Kiển lúc này đều gọi là làng. Ngày 23.3.1876,
làng Phước Lai được chia thành hai làng: phần nằm về phía Bắc
vẫn gọi là Phước Lai, phần ở phía Nam gọi là Phước An. Ngày
26.3.1879, làng Phước Lai lại chia thành hai làng: Phước Lai và
Phước Long. Như vậy, thôn Phước Lai xưa được chia thành ba
1  Đô đốc Hải quân Pháp Pierre-Paul Marie de La Grandière từng giữ cương vị
Thống soái Nam Kỳ giai đoạn 1863-1864 và 1866-1868.
21

3.2 Page 22

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
đơn vị hành chính riêng: Phước Lai, Phước An và Phước Long.
Điều này cho thấy, làng Phước Lai cũ có địa giới hành chính khá
rộng lớn.
Sau một vài thay đổi nữa của nhà cầm quyền Pháp, đến năm
1887, theo phân định của chính quyền Pháp, cả Nam Kỳ có 22
sở tham biện. Ngày 20.12.1899, nhà cầm quyền Pháp đổi tên sở
tham biện thành tỉnh. Tên gọi tỉnh Biên Hòa chính thức xuất hiện
từ đây.
Theo Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu1, sau nhiều lần
thay đổi về hành chính, đến thời điểm 1878, tỉnh Biên Hòa có
17 tổng, 158 làng; trong đó có tên 17 làng thuộc tổng Thành Tuy
Thượng và Thành Tuy Hạ ứng với vùng đất Nhơn Trạch: 1. Mỹ
Khoan (có 1 xóm Chùa Ông); 2. Phước Kiển (Chợ Dường), có
Xóm Trên, Xóm Dưới; 3. Phước Lộc có 6 ấp: Phước Hòa (Trường
Dầu), Phước An (Đồng Môn), Phước Hưng (Quán Tre), Phước
Vinh (Xóm Bứng), Phước Thạnh (Trảng Mè), Phước Phong (Gò
Me); 4. Phước Lai (Chợ Dỏ), có 1 ấp Phước Hưng (Xóm Chùa);
5. Phước Long (Chợ Mới), có ấp Ông Thiện; 6. Phước Thiền có 5
ấp: Phước Thuận (Bến Cam), Phước Hòa (Bến Sắn), Phước Tân
(Xóm Trầu), Phước Lợi (chợ Quán), Long Điền (Đồng Điền); 7.
Phước Thọ có 4 xóm: Đồng Lớn, Bàu Nâu, Lão Hợi, Suối Cang;
8. Long Hiệu (Bến Lẫm), có ấp Long Hòa (vàm Đồng Môn), Xóm
Hàng; 9. Lương Thiện (Rạch Ông Mai) có 4 ấp: Thành Hòa (Rạch
Cá), Rạch Bãi, Rạch Miểu, Rạch Miểng Sành; 10. Mỹ Hội (Hòn
Một) có ấp Mỹ Thành (Gian Lò) và Xóm Bàu Cá; 11. Phú Mỹ
1  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Tập I, NXB Thế giới, 2016.
22

3.3 Page 23

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
(Bến Cam); 12. Phước An (Rạch Cóc) có 6 ấp: Bàu Bông (Hang
Nai), An Cẩm, Bình Quới, Quới Thạnh, Ba Doi, Tân Lập (Bà
Hào); 13. Phước Khánh (Rạch Ông Thuộc) có 5 ấp: Đông Thạnh
(Đá Hàn), Phước Xuân Trung, Phước Thạnh (Rạch Chà Là Lớn),
Phước Hòa (Rạch Chà Là Bé), Tây Khánh (Ngã Ba Đồng Tranh);
14. Phước Lương (Cảnh Dương) có 3 ấp: Rạch Cá, Rạch Ông
Đông, Rạch Ông Chuốc (Cát Lái); 15. Phước Lý (Ông Kèo) có
4 ấp: Rạch Giồng, Suối Ngang (Xoài Minh), Bến Đình, Phước
Thành (Rạch Dọp); 16. Phước Thạnh (Suối Nước) có 4 ấp: Rạch
Giồng, Bến Cộ, Bàu Sen, Cù Lao Ông Cồn; 17. Tân Tường (Rạch
Chại) có 2 ấp: Vĩnh Tuy, Bình Phú và 2 xóm Bà Vách, Rạch Kè.
Ngày 30.12.1909, một nghị định của chính quyền thuộc địa
trích bảy làng của tổng Thành Tuy Hạ đổi thành thuộc tổng Thành
Tuy Thượng, gồm: Phước Thọ, Phước Kiển, Mỹ Khoan, Phước
Lý, Phước Lai, Phước Thiện, Long Điền. Từ thời điểm này, địa
bàn Hiệp Phước thuộc tổng Thành Tuy Thượng. Ngày 19.11.1927
lại có sự sáp nhập các làng thuộc tổng Thành Tuy Thượng như
sau: làng Phước Long sáp nhập với làng Phước Thọ thành làng
Phước Hiệp, nhưng không lâu sau lại tách ra với tên gọi như cũ;
làng Phước Lộc nhập với làng Phước Nguyên thành làng Phước
Lộc Xã; làng Tam Thiện nhập với làng Phước Thái thành làng
Thái Thiện; làng Phước Kiển nhập với làng Mỹ Khoan thành làng
Phước Mỹ, làng Tuy Long nhập vói làng Tập Phước thành làng
Long Phước; làng Long Thuận nhập với là An Lâm thành làng
Long An. Như vậy, thời điểm này địa bàn Hiệp Phước có hai làng
là Phước Mỹ và Phước Lai. Đến năm 1939, các làng đổi thành
xã, tổng Thành Tuy Thượng gồm tám xã: Long An, Phước Mỹ,
23

3.4 Page 24

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Phước Lai, Phước Lộc, Phước Thiền, Thái Thiện, Long Phước,
Phước Hiệp.
Trong giai đoạn từ khi thực dân Pháp bắt đầu đặt nền móng
cai trị từ năm 1864 đến năm 1945, các làng, xã của tỉnh Biên Hòa
nhiều phen nhập, tách1.
Về phía chính quyền kháng chiến, từ năm 1948 các quận đều
được đổi gọi là huyện, trong khi phía địch vẫn gọi là quận, như
trường hợp của quận Long Thành và sau này có thêm quận Nhơn
Trạch. Tháng 5.1951, Trung ương Cục miền Nam phân chia lại
chiến trường Nam Bộ thành Phân liên khu miền Đông Nam Bộ và
Phân liên khu miền Tây Nam Bộ, lấy sông Tiền làm ranh giới, bố
trí lại các tỉnh cho phù hợp. Theo đó, tỉnh Biên Hòa và tỉnh Thủ
Dầu Một hợp nhất thành tỉnh Thủ Biên; Bà Rịa và Chợ Lớn thành
tỉnh Bà - Chợ. Lúc này, huyện Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch)
thuộc tỉnh Bà - Chợ.
Dưới chế độ Sài Gòn, giai đoạn từ tháng 7.1954 đến tháng
4.1975 có nhiều thay đổi hành chánh, theo hướng chia nhỏ địa bàn
để dễ cai trị. Từ cuối năm 1956, tỉnh Biên Hòa tách ra, thêm tỉnh
Long Khánh (lập 2 quận Xuân Lộc và Định Quán thuộc tỉnh Long
Khánh). Từ năm 1957 đến năm 1972, tỉnh Biên Hòa luôn có thay
đổi hành chính về tổng, quận, xã (năm 1963 bỏ cấp tổng).
Ngày 9.9.1960, quận Nhơn Trạch được thành lập trên cơ sở
tách ra từ quận Long Thành, theo Nghị định 858 - NV của chính
quyền Ngô Đình Diệm. Quận mới Nhơn Trạch gồm 2 tổng: Thành
Tuy Trung (mới lập do tách từ tổng Thành Tuy Thượng) và Thành
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai 2001.
24

3.5 Page 25

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Tuy Hạ; với 12 xã: Phú Hội, Phước Thọ, Phước Long, Phước
Lai, Phước Mỹ, Phước Thiền (thuộc tổng Thành Tuy Trung), Phú
Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Long
Tân (thuộc tổng Thành Tuy Hạ). Thời điểm này, xã Phước Mỹ
gồm hai ấp: ấp Hai và ấp Ba với tổng diện tích là 800 hecta; xã
Phước Lai cũng có hai ấp: ấp A và ấp B với tổng diện tích là
1.000 hecta. Như vậy, địa bàn thị trấn Hiệp Phước ngày nay tương
đương với địa bàn của hai xã Phước Mỹ và Phước Lai với tổng
diện tích là 1.800 hecta.
Về phía chính quyền cách mạng, từ tháng 7.1954 đến tháng
4.1975 do yêu cầu của chiến trường, cũng có nhiều thay đổi. Tháng
5.1955, tỉnh Thủ Biên tách thành hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu
Một như cũ. Tháng 9.1960, lập lại tỉnh Thủ Biên từ Biên Hòa và
Thủ Dầu Một như trước. Sau đó, lập tỉnh Long Khánh tách từ một
phần tỉnh Biên Hòa (từ tháng 10.1960 đến tháng 3.1963). Tháng
7.1961, tỉnh Biên Hòa tách thành ba tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một
và Phước Thành. Từ ngày 3.12.1963, ba tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa,
Long Khánh nhập lại thành tỉnh Bà - Biên. Từ tháng 12.1963 đến
tháng 12.1966, lại tách tỉnh Bà - Biên thành hai tỉnh Biên Hòa và
Bà Rịa - Long Khánh.
Trong giai đoạn này, từ năm 1954-1960, vùng đất Nhơn Trạch
vẫn thuộc huyện Long Thành. Cuối tháng 12.1960, Tỉnh ủy quyết
định tách Long Thành ra hai huyện, lập huyện Long Thành và
huyện Nhơn Trạch (gồm các xã như phân định của chính quyền
Diệm).
Từ tháng 1.1965, Tỉnh ủy chia Biên Hòa thành hai đơn vị
trực thuộc tỉnh: Thị xã Biên Hòa (gọi là U1) và Biên Hòa nông
25

3.6 Page 26

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thôn (gồm các huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu và khu
vực Trảng Bom). Đến tháng 10.1967, Trung ương Cục quyết định
giải thể Khu 7, lập các phân khu; Long Thành, Nhơn Trạch thuộc
Phân khu 4 (địa bàn Phân khu 4 gồm cả vùng cao su Bình Sơn,
sở SIPH và một số xã Nam Thủ Đức). Đến tháng 5.1971, huyện
Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) được nhập về Phân khu Bà
Rịa - Long Khánh. Cho đến khi lập lại tỉnh Biên Hòa và tỉnh Bà
Rịa Long Khánh (tháng 10.1972), Long Thành, Nhơn Trạch mới
trở lại thuộc tỉnh Biên Hòa. Khi tỉnh Biên Hòa được tách làm hai,
lập “thành phố Biên Hòa” và “tỉnh Biên Hòa nông thôn”, Nhơn
Trạch thuộc địa bàn của tỉnh Biên Hòa nông thôn cho đến ngày
thống nhất đất nước.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, Trung ương Cục có Quyết định số 16/QĐ.75 ngày 20.9.1975
giải thể các khu, phân khu, sáp nhập một số tỉnh thành các tỉnh
mới. Theo đó, đầu năm 1976, các tỉnh Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa
- Long Khánh được hợp nhất, lấy tên là tỉnh Đồng Nai. Tỉnh Đồng
Nai gồm một thành phố Biên Hòa, một thị xã Vũng Tàu, chín
huyện: Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành,
Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc, Duyên Hải. Trong đó Nhơn
Trạch và Long Thành được nhập lại thành huyện Long Thành,
gồm 26 xã và một thị trấn. Đến năm 1984, hai xã Phước Lai và
Phước Kiển sáp nhập, lấy tên là xã Hiệp Phước. Như vậy, tên gọi
Hiệp Phước xuất hiện từ năm 1984. Theo các bô lão, tên gọi Hiệp
Phước là hai Phước (Phước Lai và Phước Kiển) hiệp (hợp) lại.
Ngày 23.6.1994, Chính phủ có Nghị định 51/CP chia huyện
Long Thành thành hai huyện mới: Long Thành và Nhơn Trạch.
26

3.7 Page 27

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
11 xã trực thuộc huyện Nhơn Trạch gồm: Phước Thiền, Phú Hội,
Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước, Phước An, Phước Khánh, Vĩnh
Thanh, Long Thọ, Hiệp Phước, Phú Hữu. Ngày 29.8.1994, xã Phú
Hữu được tách thành hai xã: Phú Hữu và Phú Đông, huyện Nhơn
Trạch có 12 xã như hiện nay. Ngày 10.5.2019, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 694/NQ-UBTVQH14 (có hiệu
lực từ ngày 1.7.2019) chuyển xã Hiệp Phước thành thị trấn Hiệp
Phước. Đây là thị trấn đầu tiên của huyện Nhơn Trạch.
2. Dân cư
Dân cư ở Hiệp Phước mang đặc điểm chung của dân cư xứ
Đồng Nai: Hình thành và phát triển trong một thời gian dài, chủ
yếu bắt đầu từ thế kỷ XVII, do nhiều đợt chuyển cư từ xứ Bắc, xứ
Trung; chung sống với nhau theo quan hệ họ hàng, làng xóm hoặc
nhu cầu sản xuất; phát triển cả hai hướng tự nhiên và cơ học.
Cột mốc đánh dấu dân cư ổn định ở Nhơn Trạch cũng như
Hiệp Phước là sự kiện Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ
thống hành chính tại Đồng Nai vào năm 1698, cùng với những
chính sách khuyến khích khẩn hoang mở đất, đã mở đầu cho các
cuộc di dân có tổ chức vào miền đất mới. Từ năm 1698 đến nay có
nhiều đợt chuyển cư từ miền Bắc, miền Trung vào xứ Đồng Nai
(bao gồm cả Nhơn Trạch), có thể kể ra như sau:
Một là, cuộc di dân khẩn hoang theo chủ trương của các Chúa
Nguyễn, vua Nguyễn từ các tỉnh miền Trung (nhất là vùng Ngũ
Quảng) đến Nam Bộ để khai khẩn đất đai, mở mang bờ cõi. Các
đợt di dân này diễn ra từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Cư dân
Hiệp Phước trước đây hình thành chủ yếu từ lớp di dân này.
27

3.8 Page 28

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hai là, các đợt di dân mộ phu đầu thế kỷ XX do các chủ đồn
điền người Pháp đưa dân nghèo từ các tỉnh miền Bắc vào làm
công nhân tại các đồn điền cao su. Các cuộc di dân này làm xuất
hiện tầng lớp công nhân cao su quanh vùng các sở cao su Tân
Tường và sở Ông Cố. Ba là, đợt di dân đồng bào Công giáo các
tỉnh miền Bắc vào Nam theo chủ trương của chính quyền Pháp
- Diệm sau Hiệp định Genève 1954. Hai hình thức di dân này ở
Hiệp Phước không phổ biến.
Bốn là, các cuộc chuyển cư trong kháng chiến, gồm các cư
dân Tây Nam Bộ tránh các cuộc càn quét, khủng bố của giặc,
theo nhịp chèo đến cư trú, làm ăn và tiếp tục chiến đấu ở vùng đất
Nhơn Trạch.
Năm là, các đợt chuyển cư hồi kết do cán bộ tập kết miền
Bắc trở về sau thống nhất đất nước, mang theo gia đình và kết
nối người thân muốn lập nghiệp vùng đất mới. Cũng phải kể đến
lớp người là cán bộ các ngành từ miền Bắc được tăng cường, chi
viện cho hệ thống chính trị để hỗ trợ việc khắc phục hậu quả chiến
tranh, khôi phục sản xuất, tổ chức đời sống mới ở Nhơn Trạch.
Về quy mô dân số, chưa có bản kê cụ thể về số lượng cư dân
Hiệp Phước từng thời kỳ. Theo Địa phương chí tỉnh Biên Hòa
năm 1971, số dân của xã Phước Mỹ (gồm Phước Kiển và Mỹ
Khoan) là 3.095 người, trong đó ấp Ba là 1.196 người, ấp Hai là
1.899 người; số dân xã Phước Lai là 3.152 người, trong đó ấp A
là 1.571 người, ấp B là 1.581 người. Như vậy, tổng số dân địa bàn
Hiệp Phước thời điểm năm 1971 là 6.247 người.
Từ thành lập xã Hiệp Phước năm 1984 đến lúc thành lập
huyện Nhơn Trạch năm 1994, kinh tế xã vẫn phụ thuộc chủ yếu
28

3.9 Page 29

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
vào nông nghiệp nên tình trạng tăng dân số không có nhiều biến
động. Sau năm 1994, xã Hiệp Phước phát triển theo hướng công
nghiệp - thương mại - dịch vụ, các công ty, xí nghiệp nước ngoài
đầu tư trên địa bàn xã ngày càng nhiều, không chỉ tạo việc làm
cho người dân địa phương mà còn thu hút lao động từ nơi khác
đến ngày càng nhiều, dẫn đến việc tăng nhanh dân số cơ học.
Năm 1994, toàn xã có 1.887 hộ gia đình với 9.618 nhân khẩu,
tỷ lệ tăng dân số là 0,6% so với năm 1971. Đến năm 2000, dân số
xã Hiệp Phước lên đến 2.315 hộ với 11.201 nhân khẩu, tỷ lệ tăng
dân số là 1,2%. Năm 2007 dân số của xã là 3.284 hộ với 14.916
nhân khẩu, tỷ lệ tăng dân số là 1,3%. Trong đó, lao động tạm
trú 8.754 người, tăng gấp 4 lần so với năm 2006 (lao động tạm
trú trong năm 2006 là 2.169 người). Năm 2018 dân số của Hiệp
Phước là 38.645 người, mật độ dân số là 2.052 người/km². Số
người lao động chiếm trên 60% dân số của xã.
Các số liệu trên cho thấy tỷ lệ tăng dân số hằng năm của xã
Hiệp Phước ngày càng có xu hướng phát triển, đặc biệt là từ sau
khi hai khu công nghiệp Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 5 và khu đô
thị mới hình thành trên địa bàn xã, thu hút ngày càng nhiều người
dân từ địa phương khác đến làm việc, sinh sống.
3. Đời sống sản xuất
Từ lúc khẩn hoang mở đất, người dân Hiệp Phước sống trong
môi trường nông nghiệp, nông thôn, sản xuất chủ yếu là nông
nghiệp lệ thuộc tự nhiên; đến sau Cách mạng Tháng Tám 1945
thì vừa sản xuất vừa đấu tranh bảo vệ quê hương. Từ sau ngày
30.4.1975, trong điều kiện đất nước hòa bình, thống nhất, Hiệp
29

3.10 Page 30

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Phước cùng cả huyện, tỉnh và cả nước tập trung khắc phục hậu
quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, xây dựng phát triển nông
thôn, đổi mới tư duy kinh tế, thu hút đầu tư, phát huy lợi thế địa
phương, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động,
giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng cao tỉ trọng công nghiệp xây dựng
và dịch vụ; từng bước đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội;
làm thay đổi về chất diện mạo nông thôn và đời sống nhân dân,
sớm đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới.
Do điều kiện địa lý, địa hình, môi trường sinh thái nhiều thuận
lợi nên hoạt động kinh tế của người dân Hiệp Phước khá đa đạng.
Mặt khác, cũng giống như những làng người Việt khác, do đặc
tính tự cung tự cấp nên cộng đồng cư dân làng Hiệp Phước hầu
như tiến hành các hoạt động kinh tế có thể hỗ trợ lẫn nhau nhằm
tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Phần lớn cư dân làng Hiệp Phước xưa làm nghề nông, trồng
trọt và chăn nuôi, số còn lại làm nghề thủ công hoặc buôn bán, hay
cũng có khi kết hợp giữa các nghề với nhau.
Trong trồng trọt, cư dân Hiệp Phước chủ yếu tập trung sản
xuất ruộng nước và rẫy. Theo số liệu thống kê năm 2005, diện
tích đất sản xuất nông nghiệp toàn xã là 418,37 hecta, trong đó đất
trồng lúa nước là 276,14 hecta, đất rẫy là 51,35 hecta, đất trồng
cây lâu năm là 90,82 hecta.
Theo Gia Định Thành thông chí: Tổng Thành Tuy thuộc huyện
Long Thành đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng thích
hợp ở đây là dưa, đậu phộng và khoai lang. Ruộng sớm thì tháng
5 (âm lịch) gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 11 gặt. Ruộng muộn thì
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tháng 6 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 12 gặt. Dưa1 thì tháng Giêng
trồng, tháng 8 thu hoạch. Đậu phộng tháng 4 trỉa, tháng Chạp thu
hoạch. Khoai lang tháng 3 giâm, tháng 10 dỡ củ2.Ngoài ra, nông
dân còn trồng nhiều các loại hoa màu, như: bầu, bí, mướp, khổ
qua, đậu đũa.
Cũng như các vùng khác ở Nhơn Trạch, trước đây ở Hiệp
Phước phổ biến là cấy lúa một vụ, thường là giống lúa dài ngày,
một vụ mất 5-6 tháng (từ tháng 5, tháng 6 âm lịch đến tháng 11, 12)
mới thu hoạch. Giống lúa truyền thống bà con Hiệp Phước thường
gieo cấy là: Nàng Dày, Nàng Trúc, Nàng Hương, Nàng Co, Nàng
Bè, Nàng Phịch, Nàng Tây, Sóc Leo, Đốc Sậu, Cuống Trầu, Đàn
Bè, Tàu Bàu, Đàn Êm... Tùy theo loại đất mà nông dân chọn giống
lúa phù hợp, như khu vực đất thấp thì chọn giống lúa Nàng Tây;
đất triền suối trồng giống lúa Đốc Sậu, Cuống Trầu; vùng đất sâu
trồng giống lúa Nàng Phịch, Đàn Bè; đất phèn trồng giống lúa Tàu
Bàu, Đàn Êm. Trong đó các giống lúa Nàng Hương, Nàng Trúc
cho gạo thơm, dẻo nên rất được ưa chuộng. Vì cấy lúa một vụ nên
ăn tết xong là nông dân bắt đầu cày ruộng, phơi ải đất trong một
tháng, sau đó bắt đầu các công đoạn như gieo mạ, cấy, làm cỏ, bón
phân, chăm sóc... Sau này người dân Hiệp Phước dần chuyển sang
các giống lúa ngắn ngày (3 tháng), năng suất cao, kháng sâu bệnh,
từ đó nông dân trồng 2-3 vụ lúa/năm, gồm: Đông Xuân (từ tháng
1  Có thể là dưa gang. Ngày nay, vùng Nhơn Trạch vẫn nổi tiếng về các giống dưa
gang ngon, bán dọc theo quốc lộ 51 và đường Tôn Đức Thắng. Tuy nhiên, dưa
gang mà trồng đến 7 tháng mới thu hoạch lại có vẻ cũng chưa hợp lý, hoặc có thể
giống dưa gang cách đây 2 thế kỷ không giống dưa bây giờ, thời gian gieo trồng
và thu hoạch kéo dài.
2  Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 194.
31

4.2 Page 32

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
11 đến tháng 1), Hè Thu (tháng 3 đến tháng 7), vụ mùa (tháng 7 đến
tháng 11).
Diện tích đất rẫy ở Hiệp Phước chủ yếu phân bố ở khu vực
phía Bắc, là vùng đất cao trước kia là rừng được người dân khai
phá. Đất rẫy phần lớn là loại đất cát pha cằn cỗi, không có khả
năng giữ nước, mặt đất không bằng phẳng, độ phì nhiêu kém
không thích hợp trồng lúa nên người dân trồng các loại cây lương
thực thích hợp đất khô như: mì, bắp, đậu, mía, thơm, điều và cả
cây thuốc lá. Đây là những loại cây trồng truyền thống và là thế
mạnh của vùng Hiệp Phước. Thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng,
khu vực canh tác này của người dân Hiệp Phước bị chúng chiếm
đoạt, lập thành các nông trường hay đồn điền mà chúng gọi là sở
thơm, sở điều, sở mía... Chúng bắt người dân bị mất đất phải làm
tất cả mọi việc, từ trồng cây, chăm sóc, thu hoạch trong các sở này,
trả công rẻ mạt, bị bóc lột thậm tệ trên ngay mảnh đất chính cha
ông mình để lại. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, chính
quyền cách mạng đem số đất này chia lại cho người dân canh tác,
sản xuất.
Đặc biệt, Hiệp Phước xưa nổi tiếng là vùng trồng cau. Hầu
như nhà nào ở Hiệp Phước cũng trồng cau, nhà ít nhất cũng có
vài chục cây cau, nhà nhiều thì trồng đến vài trăm cây. Nơi đây
có những gốc cau tuổi đời hơn trăm năm. Hiệp Phước trồng chủ
yếu là cau xiêm, thân cây to, trái cũng to, được xếp hạng là loại
ngon nhất vùng Nam Bộ, lại phù hợp với thổ nhưỡng của địa
phương. Ban đầu khi mới lập làng, cau được trồng theo bờ ranh
đất, chủ yếu để sử dụng trong gia đình, làng xóm, dùng không hết
mới đem đi bán để thêm chút thu nhập, nhưng do giống cau Hiệp
32

4.3 Page 33

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Phước được ưa chuộng nên dần trở thành nguồn lợi kinh tế cao
chỉ sau trồng lúa. Cau tươi lẫn cau khô vùng Hiệp Phước rất được
ưa chuộng, mở rộng ra đến khu vực Bà Rịa và Sài Gòn - Chợ Lớn.
Đến năm 1956 khi chợ An Đông ở Sài Gòn được xây dựng, nơi
đây có những quầy hàng chuyên kinh doanh cau Hiệp Phước và
các địa phương lận cận như Phú Hội, Phước Long, Phước Thiền.
Chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của người dân làng Hiệp Phước. Hệ thống thực vật phong
phú là điều kiện cho chăn nuôi gia súc ở đây sớm phát triển. Do
sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, rất cần sức kéo cũng như phân
bón ruộng nên từ lâu vùng Hiệp Phước đã phát triển chăn nuôi
trâu bò. Trước kia hầu như gia đình nào ở Hiệp Phước cũng nuôi
trâu bò từ 2-3 con trở lên, những nhà có nhiều ruộng đất thì nuôi
trâu bò thành bầy hàng chục con. Bên cạnh đó, nhà nào cũng nuôi
heo và gia cầm như gà, vịt; vịt được nuôi theo thời vụ gắn liền với
lúc thu hoạch lúa để tranh thủ nguồn thức ăn, tận dụng lúa rơi rớt
ở các cánh đồng lúa vừa gặt. Theo thống kê năm 2006, xã Hiệp
Phước có tổng đàn gia súc, gia cầm là 5.210 con, trong đó trâu bò
chiếm 580 con, heo 1.830 con, gà vịt là 2.800 con.
Ngoài sản xuất nông nghiệp, người dân Hiệp Phước còn làm
nhiều ngành nghề thủ công để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tự
cung tự cấp mang tính khép kín. Làng có rất nhiều nghề thủ công
như: mộc, rèn, làm guốc, làm thực phẩm (bún, bánh các loại, nem
chua), chế biến cau, chế biến thuốc lá... cung cấp cho nhu cầu thiết
yếu của người dân. Có những ngành nghề nổi tiếng trong vùng
như: làm bún, nem chua, chế biến cau.
33

4.4 Page 34

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Do vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội, Hiệp Phước không
có chợ làng, người dân Hiệp Phước trao đổi buôn bán tại chợ của
các làng lân cận: Phước Thiền, Phước Thái, Phú Hội hoặc đi chợ
Long Thành, chợ Bà Rịa. Với tuyến giao thông thủy từ cửa biển
vào cửa sông Thị Vải rồi vào kênh Bà Ký nối thông sông Đồng
Môn, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, người dân Hiệp Phước buôn
bán, trao đổi hàng hóa với lái buôn miền Tây. Những mặt hàng
người Hiệp Phước bán đi là sản phẩm được sản xuất tại làng như:
gia súc, gia cầm, trầu cau, thuốc lá, bắp, mì; mua về chủ yếu là
hàng tiêu dùng: vải, quần áo, các loại mắm cá, gia vị (đường,
muối, nước mắm, dầu ăn)... Tuy nhiên, yếu tố kinh tế hàng hóa
của Hiệp Phước chỉ diễn ra trên quy mô nhỏ lẻ, người mua bán
ở dạng “bán hàng xén”, người sản xuất thì “lấy công làm lời”.
Dù vậy, việc lưu thông, luân chuyển hàng hóa cũng góp phần cải
thiện đời sống người dân.
Từ khi xã Hiệp Phước bước vào giai đoạn chuyển hóa làng
thuần nông nghiệp lên công nghiệp, thương mại, dịch vụ và nông
nghiệp, đời sống kinh tế xã hội hoạt động ở Hiệp Phước phát triển
rất nhanh. Công nghiệp dần chiếm tỉ trọng lên đến 40% cơ cấu
kinh tế của địa phương với sự ra đời của các khu công nghiệp
Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 5, không chỉ đem lại nguồn lợi cho
cho ngân sách địa địa phương, giải quyết việc làm cho người dân
mà còn biến vùng Hiệp Phước hoang sơ trước đây thành khu đô
thị mới với hàng chục ngàn lao động từ các nơi đổ về. Từ đó, kéo
theo sự phát triển của mảng thương nghiệp - dịch vụ với nhiều
ngành nghề mới ra đời như: sửa chữa vật dụng gia đình, xe cộ
máy móc, cắt uốn tóc, gia công trang trí nội thất, bách hóa tổng
34

4.5 Page 35

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
hợp... Phát triển mạnh mẽ nhất là dịch vụ cho thuê trọ, kinh doanh
ăn uống, giải trí. Đến cuối năm 2006, cả xã có 406 cơ sở cho thuê
phòng trọ bao gồm cả ký túc xá và nhà nghỉ với 3.850 phòng, đáp
ứng nhu cầu thuê trọ của 9.200 công nhân. Đây là loại hình dịch
vụ mới đem lại nguồn thu nhập ổn định và hiệu quả cao cho người
dân Hiệp Phước.
4. Văn hóa xã hội
Cư dân tứ xứ tụ hội, sinh sống ở Nhơn Trạch - Đồng Nai từ
rất sớm. Người Việt đến Hiệp Phước huy động vốn liếng văn hóa
mang theo từ bản xứ vào việc tổ chức đời sống ở vùng đất mới,
có sự thích ứng để hài hòa với môi trường tự nhiên và nếp sống
của cư dân bản địa, thể hiện rõ nét ở tổ chức làng xã, tập quán, tín
ngưỡng và sinh hoạt văn học nghệ thuật.
Về làng xã:
Hiệp Phước được hình thành trên cơ sở hợp nhất ba làng: Mỹ
Khoan, Phước Kiển, Phước Lai, đều là những xã thuần nông và
sống quần tụ với nhau, có cơ cấu tổ chức và quan hệ xã hội trong
làng xã giống nhau nên hương ước đều như nhau. Hương ước là
loại hình văn hóa độc đáo của làng xã truyền thống Việt Nam, bao
gồm quy ước về các hoạt động, hành vi ứng xử của các cá nhân
đối với cộng đồng. Hương ước đóng vai trò tích cực, bảo lưu và
giữ gìn truyền thống tốt đẹp trong làng xóm, nêu cao tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong đời sống cộng
đồng.
Các làng ở Hiệp Phước xưa kia tổ chức theo dòng họ, nghề
nghiệp, quê quán. Dân cư ở đây sinh sống qua nhiều đời, có ảnh
hưởng phong tục tập quán của người miền Bắc, miền Trung và
35

4.6 Page 36

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thậm chí có cả người Hoa trong quá trình sống cộng cư (dù sau
này số người Hoa ở Hiệp Phước chuyển hết về Phước Thiền).
Hương ước của các làng Hiệp Phước được lập ra dựa trên quyền
lợi, trách nhiệm của mỗi thành viên trong làng nhằm duy trì trật tự
của làng. Trong đó, nội dung chính của hương ước các làng Hiệp
Phước là những quy ước liên quan đến cơ cấu tổ chức và các quan
hệ xã hội trong làng, gồm thiết chế tổ chức trong làng, chức năng,
quyền hạn và lề lối làm việc của các thành viên, như: Ban Hội tề là
cơ quan có toàn quyền tối cao trong các mặt sinh hoạt của làng; bộ
máy hội tề là đại diện cho nhà nước phong kiến, chịu trách nhiệm
quản lý về dân số (hộ tịch, hộ khẩu), thu thuế, triển khai các công
việc trong làng (ma chay, cưới hỏi). Hương ước của các làng Hiệp
Phước cũng quy định nam giới trong làng từ 40 tuổi trở lên, có uy
tín, đạo đức thì có thể được bầu vào Ban Hội tề hoặc Ban Quý tế
đình; riêng làng Mỹ Khoan có bổ sung quy định được bầu cả nữ
giới, kể cả phụ nữ góa chồng. Làng căn cứ vào địa vị, ngôi thứ,
phẩm hàm, chức tước, học vấn và tài sản để bầu người vào Ban
hương chức. Những người có chức sắc cao trong làng thì nghĩa
vụ, đóng góp cũng nhiều hơn người khác. Làng Mỹ Khoan còn có
quy ước là là gia đình tổ chức đám cưới phải báo cho làng; trong
lễ cưới, hai ông Hương cả và Hương hào sẽ đại diện đứng ra làm
hôn thú cho cô dâu chú rể. Khi gia đình có tang thì ông Hương cả
có nhiệm vụ cắt cử bốn vị trong Ban Hội tề đại diện cho làng túc
trực ở đám tang cũng như thay mặt tang chủ tạ ơn Ban đại diện
của các làng khác đến phúng viếng.
Các làng quy ước lập ra đội tuần canh để bảo vệ xóm làng,
ngăn cấm trộm cáp, ngăn chặn những hành vi quan hệ bất chính,
36

4.7 Page 37

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
con cái bất hiếu với cha mẹ, ông bà. Khi có sự cố về trộm cắp, an
ninh thì đội tuần canh hoặc người có việc đánh ba hồi trống để
báo động; khi phát hiện người nơi khác đến chết bất đắc kỳ tử thì
đánh trống liên hồi để tụ tập dân làng, sau đó làng xuất công quỹ
để mai táng người xấu số. Các làng cũng có quy ước về việc thờ
cúng, tâm linh như cúng đình, thờ Phật, nghi lễ liên quan đến sản
xuất nông nghiệp (lễ Bá cốc, lễ Hạ điền, lễ Thường tân hay còn
gọi là lễ Cơm mới...). Các hình thức xử phạt khi vi phạm Hương
ước cũng được quy định rõ ràng, người vi phạm bị xử phạt bằng
tiền, hiện vật (xôi gà, đầu heo, trâu bò, rượu), hoặc bị đánh đòn,
đóng trăn...
Ban Hội tề mỗi làng ở Hiệp Phước gồm 12 vị: Hương cả
(còn gọi là ông Cả), Hương chủ, Hương sư (là ba vị trưởng lão,
chức sắc cao nhất làng), Hương trưởng (Chủ tịch hội đồng dân
biểu), Hương chánh (phụ trách tài chính), Hương giao (phó xã
trưởng), Xã (xã trưởng), Hương hào (phụ trách sổ bộ, như chánh
văn phòng), Hương thân (hộ tịch: khai sinh, khai tử), Hương quản
(phụ trách an ninh, tư pháp), Trưởng (trưởng ấp), Trùm (phó ấp).
Ban Hội tề của làng Mỹ Khoan từ năm 1900 đến 1945 như
sau:
- Hương cả: Phạm Văn Lòng, Nguyễn Văn Đàn, Cả Lễ.
- Hương chủ: Nguyễn Văn Khải.
- Hương sư: Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Cúc.
- Hương trưởng: Nguyễn Văn Huề.
- Hương Chánh: Đặng Văn Tiểu.
- Hương giáo: Phan Văn... (cha ông Năm Phổ).
37

4.8 Page 38

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Xã: Phạm Văn Trừ (con ông Cả Phạm Văn Lòng), Nguyễn
Văn Cho, La Văn Ruốc.
- Hương hào: Trần Văn Hải.
- Hương thân: Đỗ Văn Sện, Lê Văn Khuê, Trần Văn Hổ.
- Hương quản: Đỗ Văn Hai, Trần Văn Cam.
- Trưởng: Trần Văn Mót.
- Trùm: Lại Văn Điện.
Ngoài những vị hương chức, làng Mỹ Khoan còn có gia đình
Tri phủ Sóc Trăng Lê Văn An, gia đình Tổng Lê Văn Khương (em
ông Lê Văn An) và Tổng Phàn làm Chánh tổng của tổng Chánh
Mỹ Thượng (quận Long Thành) - là những chức vụ cao của làng
xã trước đây.
Ban Hội tề của làng Phước Kiển từ năm 1945 trở về trước ghi
nhận được gồm:
- Hương cả: Bùi Văn Vĩnh, Vương Văn Trưởng (Cả Năm),
Nguyễn Văn Ngân.
- Hương chủ: Nguyễn Văn Thiền (Ba Déo).
- Hương hào: Nguyễn Văn Biền.
- Hương thân: Phạm Văn Thượng.
- Hương quản: Phan Văn Ngọ, Nguyễn Văn Khỏe, Nguyễn
Văn Na.
- Hương sư: Võ Văn Tư (Đình Tư).
- Xã: Lê Văn Khảnh.
Mỗi làng đều có nhà hội là nơi để Ban Hội tề làm việc, sinh
hoạt, hội họp (như trụ sở Ủy ban nhân dân xã hiện nay), có đình
38

4.9 Page 39

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
làng là nơi cộng đồng tín ngưỡng thờ thần, thành hoàng của làng
mình.
Về trang phục:
Cư dân Hiệp Phước có tiến trình phát triển trang phục giống
như người dân Nam Bộ xưa.
Trang phục chủ yếu của nam, nữ vùng Hiệp Phước xưa kia
là áo cánh ngắn vải bâu cổ thấp, không tay, tay liền hoặc tay nối,
xẻ vạt như kiểu của cư dân vùng Ngũ Quảng. Nam giới mặc quần
ngắn đến gối, có khi đóng khố; quần phụ nữ dài hơn đôi chút, thắt
lưng bằng dây vải hoặc dây cỏ; nút áo dùng nút thắt, lưng quần
dùng dây vải luồn qua rồi rút lại. Nhìn chung, trang phục của hầu
hết người dân Hiệp Phước nói riêng và người Nam Bộ nói chung
có xu hướng tiết kiệm, màu sắc đơn điệu, phần lớn thiên về màu
tối như nâu sẫm, đen, được nhuộm từ lá cây bàng, vỏ trâm bầu sau
đó ngâm bùn để được bền chắc.
Người Hiệp Phước cũng chuộng ăn trầu theo tập quán chung
của người Việt, do vậy trang phục thường thêm túi vải để đựng
trầu cau và đồ dùng ăn trầu như như ống ngoáy, bình vôi; túi trầu
của nam giới gọi là hổ phệ, nằm ở ngang lưng hoặc trước bụng; túi
trầu của phụ nữ buộc ở thắt lưng hoặc ruột ngựa, hoặc cũng có khi
tất cả được cho vào bọc nhỏ cột lại rồi lận vào lưng quần; các vị
sư sãi, trí thức thì đeo túi trầu có thêu hoa văn gọi là hà bao. Đàn
ông, phụ nữ Hiệp Phước phần lớn đi chân không, hoặc mang dép
là bằng mo cau; khi đi xa người dân thường mang theo nhiều dép
mo cau vì rất mau hư hỏng; người khá giả, điền chủ, quan lại thì
mang guốc vông. Để che đầu nam phụ lão ấu đều sử dụng nón lá.
39

4.10 Page 40

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đến khoảng thế kỷ XVIII, XIX, các thành phần trí thức, quan
lại, nho sinh ở Hiệp Phước thường ăn mặc chỉnh tề trong trang
phục áo dài đen, quần trắng, bới tóc, đầu đội khăn đóng, chân đi
hài hoặc mang guốc vông. Áo dài của phụ nữ tà dài hơn nam giới.
Sang đầu thế kỷ XX, trang phục người dân Hiệp Phước có nhiều
thay đổi. Áo dài thường chỉ sử dụng trong các ngày quan trọng
như đình đám, lễ lạt, ngày thường mọi người mặc áo bà ba. Thay
cho túi trầu là hai túi to may ở vạt áo, cũng dùng để đồ lặt vặt. Lúc
này đã có nút nhựa, nút bóp thay cho nút thắt. Nam nữ đều mặc
áo bà ba, nhưng kết cấu áo có khác nhau. Thời điểm này nam nữ
thanh niên ở Hiệp Phước vẫn còn bới tóc, phụ nữ cài thêm trâm,
lược. Đặc biệt, người dân Hiệp Phước rất ưa sử dụng khăn rằn, coi
như trang phục không thể thiếu, đa chức năng, có thể dùng quấn
đầu che nắng, quấn cổ giữ ấm, lau mồ hôi khi lao động mệt nhọc.
Gia đình khá giả bắt đầu sử dụng dù che mưa nắng.
Đến khoảng gần giữa thế kỷ XX, đàn ông Hiệp Phước bắt đầu
chuyển qua Âu phục, bỏ búi tóc và chuyển sang hớt tóc ngắn.
Về ẩm thực:
Do thời khí của hai mùa mưa nắng, sản vật phong phú, đa
dạng nên thức ăn và cách ăn của người Hiệp Phước cũng đa dạng.
Thức ăn được chọn lựa tươi ra tươi, khô ra khô, ăn để no, ăn để
giao đãi, còn để phòng chữa bệnh; nhiều rau, nhiều cá và thủy
sản; dùng nhiều gia vị, phối hợp nhiều thức, món với nhau, nhiều
cách chế biến, khi thì chế biến công phu, lúc thì tận hưởng hương
vị tự nhiên.
Như những cư dân thuộc nền nông nghiệp lúa nước, người
Hiệp Phước xem lúa gạo là nguồn lương thực chính. Ngoài cơm,
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
cháo, gạo còn được chế biến thành các dạng thực phẩm khác nhau
như: bún, bánh canh, hủ tiếu, bánh tráng, bánh ướt; đặc biệt là các
loại bánh như bánh ít, bánh ú, bánh tét, bánh xèo, bánh căn, bánh
khọt... rất phong phú. Khoai mì, khoai lang, bắp trồng nhiều ở
Hiệp Phước cũng là nguồn lương thực phụ quan trọng, được chế
biến thành các món ăn đa dạng. Nhờ có con kênh Bà Ký cùng
các con rạch, suối nhỏ trên địa bàn cung cấp các loại cá sông, cua
đồng, tôm tép, người dân Hiệp Phước chế biến các món ăn từ cá
như kho tiêu, kho ngót, om, chiên, nấu canh, ngoài ra còn làm cá
khô, mắm cá đồng, mắm nêm để tích trữ sử dụng dần. Là vùng
trồng lúa nên Hiệp Phước không thể thiếu món chuột đồng, ếch,
rắn... cung cấp dinh dưỡng dồi dào. Hiệp Phước tuy không có
nhiều vườn cây trái ăn trái rộng như các vùng khác, nhưng xung
quanh nhà vẫn trồng các loại trái cây hợp thổ nhưỡng như xoài,
chôm chôm, sầu riêng, bưởi vừa để dùng trong gia đình vừa dùng
đi tiệc giỗ, đám hoặc bán kiếm thêm thu nhập.
Trước đây đời sống khó khăn, người Hiệp Phước phần lớn
một ngày chỉ ăn hai bữa: bữa sáng khoảng 8 giờ và buổi chiều
khoảng 16 giờ, bữa trưa chỉ là ăn phụ vì thường đi làm việc ngoài
đồng đến chiều mới về. Sau này khi kinh tế phát triển, cuộc sống
khá giả người Hiệp Phước ngoài hai bữa cơm chính còn ăn điểm
tâm sáng, chủ yếu là bún, mì phở, hủ tiếu, bánh mì, bánh cuốn...
Gần kề với làng trà Phú Hội nổi tiếng “nước Mạch Bà, trà Phú
Hội” nên người Hiệp Phước cũng thích uống trà. Ở Hiệp Phước,
để giữ độ nóng cho bình trà người dân dùng trái dừa khô lớn khéo
léo lấy ruột ra sao cho vỏ còn nguyên để đặt bình trà vào giữ
nhiệt. Ngoài trà lá, người dân còn uống các loại trà giải nhiệt khác
41

5.2 Page 42

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
như trà lá dứa, trà đậu đen, trà gừng. Nam giới Hiệp Phước cũng
thường uống rượu, không chỉ trong các dịp lễ tết, hiếu hỉ, đám tiệc
mà ngày thường cũng có thói quen tụ nhóm uống rượu.
Ăn trầu là tập quán, thói quen từ bao đời của người dân Việt.
Người Hiệp Phước cũng vậy, thích ăn trầu, nam nữ đều ăn. Đến
sau năm 1945, thói quen này mới dần bỏ bớt, đến nay thì chỉ còn
ông già bà cả mới ăn trầu. Đặc biệt, có lẽ vì Hiệp Phước trồng
được thuốc lá nên người Hiệp Phước xưa rất ưa thích hút thuốc,
cả nam giới lẫn phụ nữ. Dân trong làng tự cuốn thuốc điếu để
hút, quấn bằng giấy học trò viết chữ, sau này mới có giấy quyến
để quấn.
Về phương tiện đi lại:
Trên địa bàn Hiệp Phước ngoài hệ thống kênh Bà Ký và một
số rạch nhỏ thì không có sông rạch lớn nên giao thông chủ yếu của
người dân vẫn đường bộ. Xưa kia đây là vùng nông thôn, không
có đường lát gạch mà chỉ có đường đất đỏ, phương tiện đi lại của
người dân là đi bộ, người khá giả thì có võng, xe kéo, xe bò, xe
ngựa.
Dân làng phần lớn là người nghèo, nên chỉ có đi bộ. Khi làm
đồng, lao động, người dân đi chân không; đi buôn bán hoặc đi đâu
xa một chút thì mang dép mo cau nhà tự làm, nhưng loại này rất
mau hư hỏng; đi dự đám tiệc, lễ lạt, giỗ quải, cúng đình chùa mới
mang guốc. Trong làng trước kia có ông Tư Thinh là thợ mộc, nổi
tiếng với tay nghề làm guốc vông, cả làng đều chuộng. Người khá
giả ở Hiệp Phước không sử dụng kiệu mà dùng võng, kiệu cần
bốn người khiêng còn võng chỉ cần hai người, lấy đoạn tre già xỏ
qua hai đầu võng rồi khiêng. Người giàu có, quan lại, điền chủ thì
42

5.3 Page 43

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thích dùng xe kéo hoặc xe bò, xe ngựa, lúc xe đạp ra đời cũng có
một số người ưa chuộng, nhất là thanh niên, nhưng những phương
tiện này khá đắt tiền chỉ có nhà giàu mới mua nổi.
Đến khoảng thập niên 60, xe bò, xe ngựa trở nên phổ biến,
không còn quá đắt đỏ như trước nên giới bình dân khi đi xa thường
sử dụng, nhất là khi cần vận chuyển hàng hóa. Xe ngựa ở Hiệp
Phước có bánh xe to, sàn xe thấp, trên nóc có mui che mưa nắng,
kiểu dáng như loại xe thổ mộ thường thấy ở miền Đông Nam Bộ.
Xe bò, xe ngựa khi đi đêm phải treo đèn.
Sau này khi lộ 19, lộ 17 và lộ 15 được nhựa hóa thì có xe lam
xuất hiện làm phương tiện đi lại chung của người dân. Một số nhà
khá giả thì sắm xe máy, thậm chí có cả ô tô.
Về nhà ở:
Xưa kia ở Hiệp Phước có quan niệm người chưa quá tuổi “tam
thập nhi lập” (tức 30 tuổi) mà dựng nhà thì hậu vận không bền,
làm ăn không khá, gia đạo không hưng thịnh. Vì vậy người Hiệp
Phước phải qua tuổi 30 mới xây dựng nhà.
Những năm trước Cách mạng Tháng Tám 1945, mỗi hộ gia
đình ở Hiệp Phước thường sống trong một khoảng đất riêng tách
biệt nhau. Nhà ở tại Hiệp Phước chủ yếu là dạng nhà xây dựng
trên mặt đất, gò cao, cận sông hoặc cận lộ; gần gũi, hài hòa với
thiên nhiên, tuân theo các nguyên tắc: chuộng hướng Đông, Nam,
quay mặt ra sông, ruộng, vườn, ngõ không vào thẳng cửa chính;
sân trước rộng rãi, bằng phẳng thường dùng để phơi lúa, sân sau
cũng rộng thường tận dụng nuôi gia cầm, “chuối sau, cau trước”
(chuối trồng ở sân sau, cau trồng ở sân trước); hầu như nhà nào
cũng làm hàng rào cây bằng các loại cây bản địa như chè cát, dâm
43

5.4 Page 44

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
bụt hoặc cây quít đại; nhà dù hẹp cũng cố gắng có chỗ bày hoa
kiểng, nhiều nhà còn bày hòn non bộ trước gian chính để tránh
ánh mắt dòm ngó của người khác; các công trình phụ (chuồng bò,
chuồng heo, bếp, nhà vệ sinh...) thường ẩn trong những tàng cây,
vừa kín đáo, lịch sự vừa mát mẻ.
Gia đình nghèo, người bình dân thường ở nhà tranh tre, vách
đất hoặc nhà lá (lá dừa), những nơi thôn rẫy chưa ổn định thì dựng
tạm chòi lá hoặc chòi tranh. Làng Hiệp Phước xưa cũng có nhiều
nhà lợp mái bằng rơm, dựng vách bằng đất trộn rơm, trấu, có thể
có thêm mật mía để tăng thêm độ bền chắc. Gia đình khá giả, có
điều kiện hay điền chủ, quan lại xây dựng nhà ngói vách ván bổ
kho; khi tiếp xúc kỹ thuật châu Âu có một số gia đình khá giả xây
nhà gạch mái ngói, mái tôn hoặc nhà bê tông mái bằng (mái đúc).
Mái ngói được lợp theo kiểu âm dương hai lớp.
Năm 1998, Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí
Minh phối hợp với Trường Đại học nữ Chiêu Hòa (Nhật Bản) tổ
chức khảo sát nhà cổ trong toàn tỉnh Đồng Nai. Qua đợt khảo sát,
xác định cả tỉnh có 401 ngôi nhà đủ tiêu chí công nhận là nhà cổ,
có niên đại xây dựng từ 100 năm trở lên; trong đó huyện Nhơn
Trạch có 132 nhà, chiếm tỉ lệ 32,9%. Xã Hiệp Phước được nhận
định là địa phương còn bảo tồn, gìn giữ nhiều nhà cổ nhất trong
toàn tỉnh với 89 ngôi nhà cổ, vượt qua cả hai làng cổ Phú Hội,
Phước Thiền (đều có 16 nhà). Qua nghiên cứu cũng cho thấy làng
Hiệp Phước xưa có sự phân hóa giàu nghèo rất rõ nét thông qua
tình trạng nhà ở.
Theo kiến trúc xây dựng, nhà ở của người Hiệp Phước gồm
các kiểu chính: Nhà xông, nhà chái, nhà sắp đọi, nhà sắp đọi biến
44

5.5 Page 45

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thể thành nhà chữ Nhị, nhà chữ Tam; nhà chữ Đinh (Đinh thuận,
Đinh nghịch). Xét về kỹ thuật, có thể phân loại theo nhà rường,
nhà rội (nhà nọc ngựa: biến thể của nhà rội).
Không gian sinh hoạt trong nhà thường phân bổ thành hai
phần: Các thành viên trong gia đình sinh hoạt ở nhà sau (nhà
bên). Nhà trước (nhà trên) là nơi thờ phượng, tiếp khách. Khách
thân, sơ, sang, hèn đều được tiếp ở nhà trước. Bàn thờ gia tiên đặt
ở sát vách, ngang cây đòn giông nhà ở gian giữa. Đối diện là bàn
khách (bàn dài hoặc bàn tròn). Hai bên là bộ ván ngựa để khách
nghỉ ngơi. Tùy độ sang hèn mà tủ thờ, ván ngựa bằng gỗ quí
hay gỗ thường, cũng tùy giàu nghèo mà bày thêm các vật trang
trí khác. Những nhà khá giả thường treo nhiều liễn đối, hoành
phi sơn son thếp vàng, có tủ bày đồ cổ, quí hiếm. Người Hiệp
Phước thích đặt hoành phi có đại tự “ĐỨC LƯU PHƯƠNG” hoặc
“PHÚC LỘC THỌ”; thích các cặp đối “Tổ công phụ đức thiên
niên thạnh. Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh”, hoặc “Tiền tài như
phấn thổ. Nhơn nghĩa tợ thiên kim”; số lượng hoành phi, cặp đối
như trên chiếm phần lớn.
Nhà cổ cũng là nét đẹp văn hóa, thể hiện giá trị của người
Việt. Các nhà cổ tiêu biểu ở Hiệp Phước độ trăm tuổi trở lên,
được xây dựng theo lối kiến trúc phổ quát ở địa phương, nhưng
mỗi nhà đều chăm chút về mỹ thuật, vật liệu xây dựng, bày trí nội
thất, phối cảnh, nhất là bàn thờ tổ tiên tạo cho ngôi nhà có giá trị
riêng trong vẻ đẹp chung. Vì vậy mà các thế hệ tiếp nối của gia
đình xem đó là vô giá, cố gắng giữ gìn để tồn tại trong thời nông
thôn mới, đô thị hóa.
45

5.6 Page 46

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Một số nhà cổ tiêu biểu ở Hiệp Phước như:
- Nhà cổ Phan Văn Cải: Là công trình nhà ở còn bảo lưu được
tính nguyên vẹn so với lúc tạo lập. Tất cả hạng mục trong nhà như
nhà trên, nhà ngang, nhà bếp, khuôn viên vườn nhà cho đến đồ
trang trí, đồ dùng sinh hoạt... đều được giữ gìn gần như nguyên
vẹn, thể hiện được truyền thống văn hóa của vùng đất, con người
Nam Bộ. Nhà chính rộng khoảng 186m2, tọa lạc trong khuôn viên
đất 2.500m2. Nhà thiết kế dạng chữ Đinh thuận, nền cao 20cm lót
gạch tàu, mái ngói âm dương, riêng nhà trên có 36 cây cột bằng
gõ đỏ đường kính trên 30cm, 6 cây hàng cột giữa cao nhất lên đến
5,5m, đòn tay, rui mè đều làm bằng cây bằng lăng, chạy gờ nổi, vì
kèo tạo dáng cong thanh thoát, cuối mỗi đoạn kèo tạc đẽo lá dung
vươn dài làm nhịp đỡ đoạn kèo phía sau, đuôi kèo chạm trổ hình
đuôi cá vươn dài.
Theo lời kể của gia đình, nhà do ông Phan Văn Truyện xây
dựng năm 1880. Ông Truyện chỉ là một nông dân bình thường
trong làng, nhờ siêng năng chịu khó, cần cù và biết tích lũy nên
dần dành dụm được tiền dựng nhà, sau đó các thế hệ con cháu giữ
gìn, tu bổ và mua sắm thêm nhiều vật dụng để ngôi nhà thêm bề
thế. Đến đời cháu là ông Phan Văn Đượng làm Hương cả của làng
thì gia đình đã được xếp hạng phú gia nên bổ sung khá nhiều đồ
cổ, tất cả đều được giữ gìn nguyên vẹn cho đến nay. Trong đó, nổi
bật là ba bộ tủ thờ chạm trổ, cẩn xà cừ các đề tài: mai - điểu, tùng
- lộc, vinh quy bái tổ, tuồng tích xưa; 11 bức hoành phi, 8 cặp liễn
đối sơn son thếp vàng, cẩn xà cừ công phu; những chiếc bình gốm
cổ do ông Phan Văn Đượng sưu tầm...
46

5.7 Page 47

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Nhà cổ Phạm Văn Lẹo: Nhà được ông Phạm Văn Lúa xây
dựng năm 1890. Tương tự như ông Phan Văn Truyện, ông Lúa
cũng là nông dân bình thường, nhờ cần cù tích lũy mà tạo dựng
được ngôi nhà kiên cố, bề thế từ túp lều tranh ban đầu. Theo lời
kể của gia đình, nhà xây dựng trong suốt hai năm mới hoàn thành,
đích thân ông Lúa đến vùng Bàu Cạn (Long Thành) để chọn các
loại cây quý như gõ đỏ, gõ hương, cẩm lai, mật để dựng nhà và
làm dụng cụ gia đình, lên tận Bửu Long (Biên Hòa) để chọn từng
tảng đá xanh kê cột, làm cối xay. Nhà thiết kế dạng chữ Đinh có
diện tích khoảng 200m2 (chưa kể nhà dưới và công trình phụ)
trong khuôn viên rộng 1.500m2, nền bằng đá ong cao 30cm, mái
ngói âm dương, cũng có 36 cây cột bằng gõ đỏ đường kính lên đến
35cm, cửa chính bằng gõ được chạm trổ công phu. Tuy nhiên, nhà
không có hệ thống hoành phi, câu đối như nhà ông Phan Văn Cải.
- Nhà cổ Nguyễn Văn Lình: Nhà do ông Nguyễn Văn Lình
xây dựng từ năm 1940, tuy có niên đại ngắn nhưng ngôi nhà là
một dạng tiêu biểu cho nhà cổ vùng Nhơn Trạch. Ông Lình cũng
là điển hình nông dân cần cù dựng nghiệp. Nhà dựng trong hai
năm, do ông Lình tự tay chọn cây gỗ quý ở vùng Long Khánh và
đá xanh vùng Bửu Long, cùng với đội ngũ thợ miền Tây 10 người
được chủ nuôi cơm ngày ba bữa, tính công hằng ngày. Nhà thiết
kế kiểu sắp đọi, nhà chính diện tích 180m2, nhà phụ khoảng 40m2,
diện tích khuôn viên nhà 1.000m2. Móng nhà gia cố bằng xà cừ
và đá ong cao 30cm, lót gạch tàu, mái ngói âm dương, hệ thống vì
kèo bằng gỗ bằng lăng, chạm trổ công phu theo các mô típ quen
thuộc.
47

5.8 Page 48

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Nhà cổ Lê Thành Tôn: Nhà được xây dựng năm 1880, do
ông cố của chủ gia hiện nay xây dựng, nhưng gia đình không còn
ai nhớ về quá trình tạo dựng cũng như lịch sử của ngôi nhà. Nhà
thiết kế dạng chữ Đinh, diện tích 240m2, nền đá ong, mái ngói
âm dương, có đến 50 cây cột bằng gõ đỏ, hoa văn được chạm trổ
thủng trên hai cánh én nhà theo nguyên tắc đối xứng, rất mỹ thuật.
Nhà còn giữ được nguyên bộ bàn thờ chạm trổ công phu cùng
các đồ tự khí, hệ thống hoành phi, liễn đối sơn son thếp vàng và
cẩn xà cừ, Tuy nhiên, một số cây cột đã bị mục nát, thay thế bằng
cột gạch, nền nhà dưới do bị bong tróc nên lót thay thế bằng gạch
men, hàng hiên hai bên chái cũng bị dỡ bỏ do hư hỏng bởi thời
gian và mối mọt.
Về văn hóa nghệ thuật:
Văn hóa nghệ thuật là thành quả lao động sáng tạo của người
Nhơn Trạch nói chung và Hiệp Phước nói riêng, được hình thành
trong quá trình tích hợp, cộng sinh của người Việt gốc Trung Bộ,
Bắc Bộ với cư dân bản địa, phản ánh và cải biến theo sự phát triển
kinh tế xã hội ở địa phương; rõ nét ở văn hóa nghệ thuật dân gian,
ít sản phẩm văn hóa nghệ thuật bác học và chuyên nghiệp.
Là địa bàn của ba ngôi làng cổ hợp lại, trải qua quá trình
hình thành, tạo dựng hàng trăm năm, Hiệp Phước cũng tích lũy
được không ít các loại hình văn học dân gian mang màu sắc địa
phương, như: chuyện kể dân gian, ca dao, hát ru, hò vè...
Chi hội Văn nghệ dân gian tỉnh Đồng Nai sau nhiều năm
nghiên cứu, điền dã đã ghi nhận được ba câu chuyện kể dân gian
có liên quan đến các địa danh, di tích của vùng Hiệp Phước. Nổi
bật là câu chuyện về cây vên vên ở làng Phước Lai (hiện nay cây
48

5.9 Page 49

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
không còn nữa)1. Một chuyện khác cũng được nhiều người lớn
tuổi ở Hiệp Phước biết và kể lại, đó là chuyện cây cốc. Hiện nay
cây cốc thiêng này cũng không còn. Ở làng Phước Lai còn có
câu chuyện về Thần Hổ. Xưa kia nơi này có một ngôi miếu thờ
Thần Hổ, rất linh thiêng. Trước khi cúng đình làng, người dân địa
phương đều sửa lễ vật cúng Thần Hổ vào ngày 19.4 âm lịch hằng
năm. Lễ vật cúng gồm mấy lá sớ gói trong giấy hồng đơn, một đầu
heo sống (thủ vĩ). Sau khi trình cúng tại miếu, lễ vật được đem ra
ngoài rừng để. Nếu qua hôm sau mà thủ dĩ mất, tờ sớ mới viết mất
nhưng tờ sớ của năm ngoái xuất hiện trên mâm thì người dân tin là
Thần Hổ đã về chứng lễ. Nếu thủ vĩ không mất, dân làng phải đem
đầu heo về, lại cúng đầu heo mới; nếu sau ba ngày đêm mà thủ vĩ
vẫn còn nguyên tức là năm đó Thần Hổ không chứng, không nhận
lễ vật, người dân phải đem sớ đốt đi và đem đầu heo chôn2.
Thơ ca dân gian lưu truyền ở Hiệp Phước khá phong phú. Đó
là lời ca đọng lại từ những khúc hát trữ tình, lâu dần thành câu nói
cửa miệng. Một số bài ca dao có nguồn gốc từ vùng Thuận Quảng,
theo hành trang của người Việt đến Hiệp Phước, lưu truyền bằng
hình thức truyền khẩu qua rất nhiều thế hệ rồi nghiễm nhiên trở
thành “tài sản” của vùng đất mới.
Một trong những bài ca dao khá phổ biến ở Hiệp Phước là:
Chim đa đa đậu nhánh đa đa/ Chồng gần không lấy mà lấy chồng
xa/ Mai sau cha yếu mẹ già/ Bát cơm không ai đỡ, kỷ trà không
ai dưng.3
1  Theo lời kể của ông Phan Văn Tòng, ngụ ấp Hai xã Hiệp Phước.
2  Theo lời kể của ông Lê Hiệp Nầy, ngụ ấp Bốn xã Hiệp Phước.
3  Theo bà Quách Thị Nối, ngụ ấp Bốn xã Hiệp Phước.
49

5.10 Page 50

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hò, đặc biệt là hò cấy khá phong phú ở Hiệp Phước - một
làng cổ thuần nông. Ở Hiệp Phước, một diện tích ruộng đất lớn
thuộc sở hữu của gia đình Tri phủ Lê Văn An và vài địa chủ khác,
vì thế việc cấy, gặt đều khoán cho các vạn cấy, tức những người
thầu chuyên tập hợp lao động đi làm thuê. Khi thuê người, các
vạn cấy đều chú ý lựa chọn vài người biết hò, nhất là hò đối đáp
để bớt phần mệt nhọc lúc làm việc. Một trong những bài hò mang
màu sắc địa phương là: Tiếng trống chùa Long Tân vội đổ hòa với
tiếng chuông chùa Long Hương/ Hỡi người thương ở lại, gái hiền
lương em chân dời.
Tục ngữ, phương ngôn:
Người Hiệp Phước kế tục vốn tri thức và tiếng nói của cha
ông ở nguyên quán hợp với cuộc sống rộng mở và tinh thần lạc
quan cho nên đúc kết kinh nghiệm sống bằng tục ngữ, phương
ngôn lưu truyền trong cộng đồng. Đó là những kinh nghiệm trong
việc sản xuất từ việc dự báo thời tiết, mùa vụ đến việc chọn giống
nuôi trồng, hoặc khái quát về giới thiệu sản vật địa phương.
Nghệ thuật diễn xướng:
Ở Hiệp Phước không thấy có làn điệu dân ca nào đặc thù
nhưng lại có gần như đủ giọng dân ca của xứ Trung, xứ Bắc, quan
họ, ca Huế, ví dặm. Các bà má ở đây đều biết hát ru. Các bài hát
ru quen thuộc đều có tính biểu cảm và tính giáo dục.
Trong đó, lý là hình thức diễn xướng những câu hát ngắn,
ngẫu hứng thành làn điệu. Theo ký ức của người cao tuổi1, ngoài
1  Theo tài liệu sưu tầm của nhóm Huỳnh Văn Tới, Huỳnh Ngọc Trảng, Phan
Đình Dũng, năm 1998.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
các bài lý phổ biến ở Nam Bộ, Nhơn Trạch từng có bài Lý Nhơn
Trạch, âm điệu thế nào không rõ, chỉ còn lại phần lời không
đầy đủ:
Gạo Đàng Ngoài: Bảy tiền một bát
Gạo Đàng Trong: Bảy bát một tiền
Anh không tin thì anh vô Nhơn Trạch mà coi
Có quân tập trận có chòi bắn bia
Có con ngựa hồng mao tiền mao hậu
Quan võ thầy đầu đội mão đai.
Bên cạnh đó, kể vè cũng là nghệ thuật diễn xướng quen thuộc
của người Hiệp Phước. Đó là hình thức diễn xướng tự sự bằng
lối “nói vãn” có gõ nhịp hoặc không gõ nhịp, nhằm thể hiện các
bài vè, truyện thơ, tích tuồng thuộc nằm lòng. Ở Hiệp Phước xưa
lưu truyền nhiều bài vè. Có những bài vè quen thuộc (nguyên bản
hoặc dị bản) lưu truyền cả nước, như: Vè Chàng Lía, vè Thông
Chánh, vè Con cút, vè Bài tới, vè Con gái lấy thợ câu cua, vè Nói
ngược, vè Nói dóc, vè Trăm thứ bánh. Có những bài vè ứng tác tại
địa phương kể về các sự việc đáng chú ý trong đời thường, như:
Bài vè Bạch Nhạn,Vè dạy vợ1, Vè say rượu2, Vè đám cưới3, Vè nói
ngược, Vè bài cào...
Hiệp Phước cũng thịnh hành Đờn ca tài tử, là dạng sinh hoạt
của các nhóm theo nghiệp đờn ca bài bản tài tử có nguồn gốc từ
nhạc sư Ba Đợi (Nguyễn Quang Đại) phổ biến ở Nam Bộ từ đầu
1  Theo lời kể của bà Tư Nhưng ở ấp Năm xã Hiệp Phước.
2  Theo lời kể của ông Lưu Văn Nổi, ngụ ấp Bốn xã Hiệp Phước.
3  Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Xuyện ở ấp Hai xã Hiệp Phước.
51

6.2 Page 52

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thế kỷ XX. Ở Hiệp Phước xưa có nhiều người theo học các thầy
đờn ca tài tử tại Sài Gòn, Cần Đước về lập nhóm, sắm nhạc, họp
thành ban nhạc, đờn ca các bài bản cổ điển. Hầu như làng nào
cũng có những nhóm đờn ca tài tử, có lúc do chiến tranh nên đứng
trước nguy cơ mai một, nhưng đến nay đã được khôi phục mạnh
mẽ, thường tổ chức biểu diễn tại địa phương hoặc giao lưu với
nhiều nơi khác.
Tín ngưỡng dân gian:
Người Hiệp Phước đa số có nguồn gốc từ vùng Ngũ Quảng và
Đàng Ngoài vào lập làng, sớm nhất từ khoảng cuối thế kỷ XVII
đầu thế kỷ XVIII. Vào quê mới, lưu dân mang theo phong tục tập
quán, tín ngưỡng của quê cũ. Trong đó, đình miếu là nơi thể hiện
rõ nét hoạt động tín ngưỡng, chiếm vị trí quan trọng, giúp người
dân thêm niềm tin vượt qua khó khăn nơi vùng đất mới.
Ba làng cổ Mỹ Khoan, Phước Kiểng, Phước Lai đều có đình.
Chưa có tư liệu thành văn nào ghi chép về niên đại xây dựng các
đình. Dân làng truyền khẩu: Xưa kia có hai anh em ông Đinh
Văn Khê (còn gọi là Hống) quê ở Thanh Hóa vào vùng Hiệp
Phước ngày nay sinh sống, khai lập cơ nghiệp; người anh ở vùng
Phước Lai, cùng dân làng lập nên đình Phước Lai và sau này trở
thành Tiền hiền được thờ tại đình; người em cùng dân chúng khẩn
hoang khai phá vùng Phước Kiểng đã cùng nhau vận động xây
đình cho làng, ban đầu gọi là đình Phước Kiến, sau vì lý do kiêng
cữ, phạm húy nào đó mà gọi trại ra là Phước Kiển, sau đó ông
cũng được tôn là Tiền hiền và thờ tại đình.
Về đình Mỹ Khoan, các vị cao tuổi trong làng cho rằng đình
được xây dựng năm 1812, trùng tu năm 1842. Đình có sắc phong
52

6.3 Page 53

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
của vua vào năm Tự Đức ngũ niên (năm 1853), nên từ đó suy
ra đình phải có trước thời điểm sắc phong khá lâu mới đủ tính
thiêng. Cũng theo các cụ bô lão, đình thờ Thành hoàng bổn cảnh,
có phối thờ ông Tiền hiền Đào Văn Tiềm là người có công đưa lưu
dân đến đây lập làng.
Như bao đình làng Nam Bộ khác, ban đầu các đình xây dựng
khá đơn sơ nhằm đáp ứng tín ngưỡng của người dân trong buổi
đầu khai phá, lập làng. Trải qua thời gian, khi đời sống người dân
ngày càng khá giả hơn mới đóng góp xây dựng, tu bổ thêm cho
đình có diện mạo như hiện nay. Các đình đều được xây dựng trên
vị trí cao ráo theo đúng phong thủy, mặt chính hướng ra lộ để
người dân thuận tiện đến lễ bái. Khuôn viên đình nào cũng được
trồng nhiều cây sao, dầu là loại cây bản địa, qua thời gian đã trở
thành những cổ thụ che bóng mát cho ngôi đình. Về kết cấu tổng
thể, các đình đều có nhà võ ca, võ quy, chánh điện, nhà khách, bố
trí theo dạng sắp đọi tạo thành một quần thể. Phía trước đình đều
có khoảng sân rộng để có thể tập trung đông người, có bức bình
phong Ông Hổ, có miếu bên phải thờ Ngũ hành nương nương;
riêng đình Phước Lai có thêm miếu thờ Bạch mã thái giám. Xung
quanh chánh điện các đình có thờ Thần Hổ, Thần Nông, Thổ Địa,
nhà bia liệt sĩ. Đình nào cũng được lợp ngói âm dương như những
ngôi nhà trong làng, mái xòe ra bốn phía theo mặt dốc nghiêng,
tạo nên nét cổ kính. Hiện chỉ còn đình Mỹ Khoan còn giữ nguyên
các cấu kiện bằng gỗ, các đình còn lại do hư hỏng nên đã thay một
số cột gỗ bằng cột gạch.
Về bài trí trong đình, xưa kia đình Phước Kiển có một long
đình trong chánh điện rất đẹp, một chiêng đồng khi đánh vang rất
53

6.4 Page 54

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
xa, tương truyền do ông Đào Trí Phú cúng, nhưng đã bị mất trong
giai đoạn Pháp xâm lược. Trước đây các đình đều có bàn thờ bằng
gỗ, đồ tự khí bằng đồng, hoành phi, liễn đối đều bằng gỗ, viết
chữ Hán, sơn son thếp vàng vừa uy nghiêm vừa lộng lẫy, nhưng
trải qua chiến tranh tàn phá, có đình bị đốt, có đình bị quân Pháp
chiếm làm đồn bót nên hầu hết các hiện vật quý bị mất, sau này
dân làng có bổ sung nhưng không còn được như trước, yếu tố gốc
của hiện vật không còn đảm bảo. Trừ đình Mỹ Khoan giữ được
khá nhiều các bức hoành phi cổ, liễn đối chữ Hán, các đình khác
đều là tạo mới sau này, ngay cả các bục thờ gỗ cũng thay bằng
bục xi măng, các liễn đối ở nhà võ ca, võ quy cũng là đúc xi măng
chạm nổi chữ rồi sơn lên.
Theo tập tục, các đình ở Hiệp Phước hằng năm đều tổ chức
cúng Kỳ yên cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Mỗi
đình có ngày cúng lễ Kỳ yên riêng. Đình Phước Kiển cúng ngày
12 tháng Chạp, đình Phước Lai cúng ngày 11 tháng Chạp, đình
Mỹ Khoan cúng ngày 16.11 âm lịch. Nghi thức tế lễ các đình đều
giống nhau, cả ba đình đều giữ y lệ từ xưa truyền lại là cúng đình
có thể biểu diễn đờn ca tài tử hay múa lân nhưng không thỉnh hát
bội, chưa có lý giải chính xác nào về điều này.
Hiện nay đình Mỹ Khoan còn giữ được sắc phong của vua Tự
Đức, lưu giữ tại nhà của ông Nguyễn Văn Chép, thành viên Ban
Quý tế. Sắc làm bằng giấy kim tiên, nội dung như sau:
Sắc Mỹ Khoan thành hoàng chi thần, nguyên tặng Bảo an,
Chánh trực, Hựu thiện chi thần, Hộ quốc tí dân, nhẫm trữ linh
ứng.
54

6.5 Page 55

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Tứ kim, phi ứng cảnh mệnh, miễn niệm thần hưu, khả gia tặng
Bảo an Chánh trực Hữu thiện Đôn ngưng chi thần.
Nhưng chuẩn Long Thành huyện, Mỹ Khoan phủ, y cựu phụng
sự thần. Kỳ tương hựu bảo ngã lê dân.
Khâm tai!
Tự Đức ngũ niên, thập nhất nguyệt, nhị thập cửu nhật.
Tạm dịch nghĩa như sau:
Sắc phong thần Thành hoàng làng Mỹ Khoan, nguyên trước
đây đã được ban tặng là thần Bảo an, Chánh trực, Hựu thiện.
Thần luôn bảo vệ đất nước, che chở nhân dân, từng biểu hiện
nhiều điều linh ứng.
Trẫm nay vâng mệnh trời, lòng luôn ghi nhớ công đức. Thần
khả gia tặng là thần Bảo an, Chánh trực, Hựu thiện, Đôn ngưng.
Vẫn chuẩn y cho phủ Mỹ Khoan, huyện Long Thành theo lệ
cũ phụng sự thần.
Thần khá tiếp tục giúp đỡ, bảo hộ cho con dân.
Năm Tự Đức thứ Năm, ngày 29 tháng 11 Âm lịch (nhằm ngày
14.1.1853 Dương lịch).
Miếu (hay miễu) cũng là một trong những cơ sở tín ngưỡng
quan trọng, không thể thiếu trong tâm linh người Việt. Hiệp Phước
có bốn ngôi miếu: miếu Chòm Dầu, miếu Cầu Ngang ấp Một,
miếu Ông, Miếu Bà (ở Phước Lai). Các miếu đều có diện tích
nhỏ, xây dựng đơn giản, riêng miếu Ông và miếu Bà xây dựng
chung trong một khuôn viên. Miếu Ông và Miếu Bà trên thượng
lương có chạm nổi chữ Hán: Tự Đức nhị niên tuế thứ Kỷ Dậu
trọng đông nguyệt nhị thập cốc kính tạo (Được tạo vào ngày 20
55

6.6 Page 56

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
tháng trọng đông năm Kỷ Dậu, đời Tự Đức thứ Hai (năm 1849)).
Miếu bà Chòm Dầu trước kia do bà Phan Thị Kỷ hiến 6 sào đất để
lập miếu ở ấp Phước Lộc, huyện Long Thành, sau này mới dời về
Hiệp Phước. Miếu Cầu Ngang không rõ năm xây dựng.
Đối tượng thờ chính của các miếu đều là Ngũ hành nương
nương: Kim đức thánh phi, Mộc đức thánh phi, Thủy đức thánh
phi, Hỏa đức thánh phi, Thổ đức thánh phi. Ngoài ra, các miếu
còn phối thờ Thiên Y A Na, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc, Ông
Hổ, Tả ban, Hữu ban. Các miếu có ngày cúng riêng: miếu Chòm
Dầu cúng ngày 22 tháng Chạp, miếu Cầu Ngang cúng ngày 2.2
âm lịch, miếu Ông và miếu Bà cúng ngày 19.4 âm lịch. Nghi thức
cúng miếu là giống nhau.
Người Hoa có mặt ở Hiệp Phước khá sớm nhưng ở số ít, ban
đầu sinh sống chủ yếu ở khu vực ấp Một xã Hiệp Phước và xã
Phước Thiền, nhưng sau dần chuyển hết về Phước Thiền. Khoảng
năm 1895, đồng bào người Hoa trong khu vực góp công góp của
xây dựng miếu Quan Thánh - vị thần trong tín ngưỡng của người
Hoa. Miếu Quan Thánh mang đặc trưng chung của miếu người
Hoa ở Nam Bộ: mái lợp ngói ống, trên nóc mái có gắn các tượng
gốm, tường xây gạch, trụ cột, ngạch cửa bằng đá xanh, hệ thống
cột chính vuông bằng gỗ, kèo được cách điệu bằng những ô văn
hình học. Miếu trải qua hai lần trùng tu vào năm 1990 và 2001.
Ngoài thờ Quan Thánh, miếu còn thờ Thiên Hậu nương nương là
vị nữ thần của người Hoa. Vía Ông diễn ra vào ngày 24.6 âm lịch,
lễ cúng Kỳ yên ngày 16.11 âm lịch, lễ ngày Quan Thánh thăng
thiên là 13 tháng Giêng. Hiện người Hoa không còn sinh sống ở
56

6.7 Page 57

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Hiệp Phước, Ban trị sự miếu là người ở thị trấn Long Thành và xã
Phước Thiền.
Về tôn giáo, ở Hiệp Phước có hai tôn giáo chính là đạo Phật
và đạo Cao Đài. Phần lớn người dân Hiệp Phước theo tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, chỉ có khoảng 4,1% dân số theo đạo Phật, 2,1%
dân số theo đạo Cao Đài.
Đạo Phật hình thành ở Hiệp Phước từ lúc nào không rõ, hiện
trên địa bàn có bốn ngôi chùa (ba chùa theo hệ phái Bắc tông và
một chùa theo hệ phái Nam tông) gồm: chùa Phước Hưng, chùa
Quang Mỹ, Chùa Long Hoa và chùa Phước Quang. Trong đó, căn
cứ vào kiến trúc, nền móng bằng đá ong và hệ thống cột, rui mè
gỗ còn sót lại mà suy đoán rằng chùa Phước Hưng ở Phước Lai có
niên đại lâu đời nhất, có thể từ lúc mới lập làng. Theo lời kể của
các bậc cao niên trong làng, chùa Phước Hưng trước đây rất lớn,
toàn bộ vật liệu đều bằng gỗ, mái ngói âm dương, có nhiều tượng
bằng gỗ mít tạc rất mỹ thuật. Nhưng do chiến tranh, chùa bị tàn
phá chỉ còn lại một số cột kèo, tượng Phật, đến năm 2007 còn bị
trộm mất một số hiện vật quý như đại hồng chung, chuông gia trì,
lư hương, tượng Phật Địa Tạng. Hiện chùa đã được trùng tu khang
trang nhưng những hiện vật quý xưa kia còn lại khá ít ỏi.
Chùa Quang Mỹ có diện tích khoảng 600m2 tọa lạc trong
khuôn viên rộng gần 2 hecta, do ông Tri phủ Lê Văn An và vợ
là bà Nguyễn Thị Lâu tạo dựng năm 1925. Ban đầu chùa chỉ có
Chánh điện và Hậu tổ xây bằng gạch thẻ tô vôi, ô dước, móng
bằng đá xanh, nền lót gạch tàu, mái lợp ngói âm dương. Sau các
lần trung tu vào năm 1990, 1993, chùa có thêm giảng đường và
một số công trình khác. Trước chùa có tượng Quan Âm đặt lộ
57

6.8 Page 58

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thiên, xung quanh trồng nhiều cây cảnh, cổ thụ mát mẻ. Trong
chùa có tượng thờ Thích Ca Mâu Ni, Quan Công, Ngọc Hoàng,
Tam thế Phật bằng gỗ mít, ngoài khoác y dát vàng, một đại hồng
chung đúc năm 1926. Phía sau chùa là khu mộ cổ của ông bà Tri
phủ. Chùa trải qua các đời trụ trì: Hòa thượng Hoằng Đạo, cư sĩ
Cả Hiền, Hòa thượng Thích Chí Hảo, ni sư Thích Nữ Như Thuận.
Chùa Long Hoa thuộc làng Mỹ Khoan do bà Hai Hồng xây
trên đất nhà năm 1970, cho cha là ông Phan Văn Phạn trụ trì. Ban
đầu chùa khá nhỏ theo kiểu tu tại gia, hai năm sau được xây dựng
thêm, tu bổ thường xuyên đến nay khá khang trang, được Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai công nhận. Chùa có diện tích
xây dựng khoảng 290m2, khung nhà bằng sắt, mái lợp tôn, tường
xây, cột bê tông. Chánh điện bài trí đơn giản, thờ Tam thế Phật
bằng xi măng, phía trước đặt đại hồng chung. Buổi tối một số phật
tử thường đến đây niệm kinh. Chùa do Đại đức Thích Huệ Đức trụ
trì, cùng hai cư sĩ chăm lo hương khói, phật sự.
Chùa Phước Quang là ngôi chùa duy nhất ở Hiệp Phước thuộc
hệ phái Nam tông, do gia đình Đại đức Thích Chơn Quang xây
dựng năm 1999. Ban đầu chùa chỉ là am nhỏ để Đại đức tu trì, đến
năm 2003 xây dựng thêm nhà Tổ, sau đó xây thêm Chánh điện,
được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai công nhận năm
2006. Hằng năm chùa tổ chức lễ Dâng y vào ngày 17.10 âm lịch,
nhiều phật tử trong vùng đến tham dự.
Đạo Cao Đài ra đời ở Hiệp Phước năm 1957, do một số chức
sắc của Hội Thánh Tiên thiên Tòa thánh Châu Minh (tỉnh Bến
Tre) về vùng Hiệp Phước xây dựng ngôi Thánh tịnh và bắt đầu
truyền đạo. Thánh tịnh lấy tên là Ngọc Linh, thuộc hệ phái Cao
58

6.9 Page 59

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đài Tiên thiên. Từ năm 1958 đến năm 1960, Chánh điện Phật
mẫu được xây dựng gồm hai tầng, kế bên là nơi nghỉ ngơi của nữ
phái, năm 1960 xây dựng đền thờ Đức Chí tôn, năm 2007 trùng
tu một số hạng mục. Đến nay Thánh tịnh Ngọc Linh có diện tích
khoảng 300m2, tọa lạc trong khuôn viên rộng 1.250m2; được thiết
kế hai tầng lầu, nền lót gạch hoa. Trong kiến trúc của thánh tịnh
có điểm khác biệt với thánh thất Cao Đài Tây Ninh: thánh tịnh chỉ
có một tòa nhà nằm sâu so với trục lộ, còn thánh thất gồm hai tòa
nhà song song và nằm cặp theo sát trục lộ. Khi mới hình thành ở
Hiệp Phước, số lượng tín đồ Cao Đài tương đối ít ỏi, những năm
sau đó dần tăng lên.
Trạm y tế Hiệp Phước: Trước năm 1975, trên địa bàn Hiệp
Phước có 2 trạm y tế, đó là Trạm y tế Phước Lai và Trạm y tế
Phước Kiển. Năm 1994 khi xã Hiệp Phước ra đời trên cơ sở sáp
nhập 2 xã Phước Lai và Phước Kiển, Trạm y tế Phước Lai trở
thành Trạm y tế xã Hiệp Phước, còn Trạm y tế Phước Kiển làm
nơi hoạt động của Trung tâm y tế huyện. Thời điểm đó, Trạm y
tế Hiệp Phước có 3 phòng: phòng sinh, phòng sơ cấp cứu, phòng
trực với diện tích 80m2. Từ năm 1997 đến năm 2003, Trạm y tế xã
dời về khu phố Mỹ Khoan. Từ năm 2003 Trạm y tế xã Hiệp Phước
được đầu tư xây dựng mới tại khu phố Phước Kiển, đối diện với
trụ sở Ủy ban nhân dân xã, với tổng diện tích 328m2, có 14 phòng
chức năng, 5 giường bệnh. Trạm hiện có 8 biên chế, thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe cho cán bộ và nhân dân, đồng thời
làm công tác phòng chống dịch trên địa bàn.
Trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Hiệp Phước: Năm 1984,
xã Hiệp Phước được thành lập trên cơ sở sáp nhập xã Phước Lai
59

6.10 Page 60

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
và xã Phước Kiển. Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Phước Kiển trở
thành trụ sở của Ủy ban nhân xã Hiệp Phước. Do cơ sở vật chất
của Ủy ban xã ngày càng xuống cấp, năm 1998, địa phương đã
đầu tư xây dựng lại. Trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Hiệp Phước
hiện tọa lạc tại khu phố Phước Kiển, nhiều lần được nâng cấp và
xây mới thêm các phòng làm việc.
Các cơ sở giáo dục: Trước năm 1975, trên địa bàn Hiệp
Phước chỉ có 2 trường tiểu học, đó là Trường Tiểu học Phước
Kiển và Trường Tiểu học Phước Lai. Sau ngày đất nước thống
nhất, địa phương thành lập Trường Mẫu giáo Phước Kiển. Năm
1994, trên địa bàn Hiệp Phước có thêm cấp 2 nhưng không thành
lập trường cấp 2 riêng mà thành lập Trường Phổ thông cơ sở Hiệp
Phước (gồm cấp 1 và cấp 2) và 1 trường mẫu giáo (có 3 cơ sở ở
ấp Một, ấp Hai và ấp Bốn). Năm 1997 đến nay, địa phương xây
dựng thêm 2 trường mầm non. Hiện nay, thị trấn Hiệp Phước có 5
trường, cụ thể như sau:
Trường Tiểu học Phước Lai: được tách ra từ Trường Tiểu học
Hiệp Phước vào ngày 1.7.2015 theo Quyết định số 2360/QĐ của
Ủy ban nhân dân huyện Nhơn Trạch. Trường Tiểu học Phước Lai
được xây mới tại khu phố Phước Lai. Từ khi thành lập đến nay
nhà trường luôn hoàn thành nhiệm vụ phổ cập tiểu học đúng độ
tuổi trên địa bàn.
Trường Trung học cơ sở Hiệp Phước được thành lập theo
Quyết định số 213/QĐ.TC ngày 1.8.1997 của Sở Giáo dục - Đào
tạo tỉnh Đồng Nai trên cơ sở chia tách từ Trường Phổ thông cơ sở
Hiệp Phước thành 2 trường: Tiểu học Hiệp Phước và Trung học
cơ sở Hiệp Phước.
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Trường Trung học cơ sở Hiệp Phước được xây dựng trên diện
tích đất 10.000m2, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Q.722435. Vị trí sơ khai của trường là khu vườn tràm nằm
ở phía sau trung tâm học tập cộng đồng, cơ sở vật chất của trường
được xây dựng đầu tiên là những phòng học cấp 4. Khi mới chia
tách, trường có 14 lớp với 657 học sinh. Đến năm 2006, trường
được xây thêm 10 phòng học cao tầng, năm 2015 trường được tiếp
tục đầu tư xây dựng giai đoạn 2 với đầy đủ khối phòng học, khu
hiệu bộ, các phòng chức năng khác, trang bị thiết bị, đồ dùng dạy
học. Năm 2019 trường được phê duyệt dự án đầu tư xây dựng mở
rộng theo Quyết định số 5888/ QĐ-UBND ngày 31.10.2019 trên
diện tích đất là 4.131 m2 gồm một dãy lầu 4 tầng với 20 phòng học
và đã được đưa vào sử dụng vào tháng 1.2022. Trường được công
nhận đạt chuẩn Quốc gia theo Quyết định số 1098/QĐ-UBND
ngày 14.3.2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai; được công
nhận trường trung học cơ sở đạt chuẩn chất lượng giáo dục mức
độ 3 vào năm 2018 theo Quyết định số 479/QĐ -SGDĐT ngày
3.5.2018. Hiện nay trường có 1.866 học sinh với 46 lớp. Tổng số
cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường là 95 người, trong đó
có 84 giáo viên trực tiếp giảng dạy, 75% giáo viên có trình độ đại
học, 23,8% giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm và 1,2% giáo
viên có trình độ thạc sĩ. Trường có chi bộ Đảng với 51 đảng viên.
Trường Mầm non Hiệp Phước được xây dựng năm 2005.
Trường có 3 điểm với tổng diện tích 5.770m2. Trường có 15 lớp,
hằng năm chiêu sinh 430 trẻ. Nhiều năm liền trường đạt danh hiệu
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, năm 2020 trường được tặng Bằng
khen của Thủ tướng.
61

7.2 Page 62

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Trường Mầm non Phước Hiệp được thành lập tháng 7.2013,
có diện tích 1.600m2, gồm 4 phòng học, 2 văn phòng, 1 bếp ăn.
Tháng 9.2016 tiếp nhận cơ sở 2 cải tạo từ Trường Tiểu học Hiệp
Phước, gồm 5 phòng học, 1 phòng chức năng, 1 bếp ăn, diện tích
1.004m2.
Trường Tiểu học Hiệp Phước được tách ra từ Trường Phổ
thông cơ sở Hiệp Phước từ năm học 1997-1998 theo Quyết định
số 213/QĐ-TC của Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Đồng Nai ngày
1.8.1997, đặt tại địa điểm ấp Hai (nay là khu phố Phước Mỹ).
Trường có 37 lớp với 1.332 học sinh (gồm 1 điểm chính, 2 điểm
phụ ở ấp Bốn và ấp Năm). Năm học 2015-2016, Trường Tiểu học
Hiệp Phước được tách ra thành hai trường: Trường Tiểu học Hiệp
Phước và Trường Tiểu học Phước Lai. Trước năm học 2018-2019
trường có 16 phòng học với diện tích 4.723,6m2. Năm học 2019-
2020, trường được xây thêm 6 phòng học. Hiện tại trường có tất
cả 22 phòng học với diện tích 5.223,6m2.
Danh nhân Hiệp Phước xưa:
- Đào Trí Phú: Ở xã Hiệp Phước hiện còn lưu truyền chuyện
kể về danh nhân Đào Trí Phú. Đào Trí Phú1 hiệu là Giới Tử, sinh
tại làng Phước Kiểng, không rõ năm sinh, mất năm 1854. Ông nội
ông là Thị giảng học sĩ Đoan lượng. Sử liệu triều Nguyễn Đại Nam
thực lục có ghi chép sự kiện liên quan đến Đào Trí Phú. Ông học
giỏi, thi đỗ cử nhân năm Minh Mạng lục niên (1825), làm quan to
dưới ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, từng làm đến
chức Thị lang, Tham tri bộ Hộ, nhiều công lao nhưng cũng lắm
1  Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, 2004, tr.94-95.
62

7.3 Page 63

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thăng trầm. Tháng 8 năm Minh Mạng thứ 19 (năm 1838), do ông
có nhiều công lao với triều đình nên cha ông được vua cáo tặng
hàm Trung nghị Đại phu Thái bộc tự khanh, thụy hiệu là Hiến
Tịnh; mẹ ông cũng được cáo tặng Tam phẩm Thục nhân. Về cuối
đời, ông bị tai họa bởi những sự kiện rối ren dưới triều Tự Đức.
Về cái chết của ông có nhiều giả thuyết, đa phần đều cho rằng bị
triều đình nhà Nguyễn giết hại, nhưng không thấy tư liệu chính
thức nào đề cập nên đến nay vẫn xếp vào diện tồn nghi. Công đức
của Đào Trí Phú được người đời truyền tụng là một người tài đức
vẹn toàn, người con hiếu thảo; di cảo còn lại của ông là hai bài
văn bia khắc dựng ở mộ của thân phụ và thân mẫu ở thị trấn Hiệp
Phước.
Sau khi ông Đào Trí Phú mất một thời gian, người dân làng
Phước Kiểng lập bàn thờ ông tại đình làng, mỗi lần cúng đều thỉnh
di vật của ông là bộ triều phục cùng bằng sắc vua ban mang lên
đình để bái vọng. Trước năm 1945, chính quyền Pháp cử Quận
trưởng quận Long Thành tên là Thục (không rõ họ) đến gia đình
hậu duệ ông là ông Đào Văn Nghi, yêu cầu giao ra bộ triều phục
rồi đưa cho gia đình 20 đồng bạc Đông Dương. Theo gia đình ông
Nghi kể lại, khoảng năm 1956-1957 có nhìn thấy bộ triều phục
này ở Viện Bảo tàng quốc gia Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch
sử Thành phố Hồ Chí Minh, số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm,
phường Bến Nghé, Thành phố Hồ Chí Minh), nhưng sau này thì
không còn thấy nữa. Các bằng sắc của ông Đào Trí Phú cũng bị
cháy mất khi giặc Pháp đốt nhà. Hằng năm, gia tộc cúng giỗ ông
vào ngày 10.4 âm lịch.
63

7.4 Page 64

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Nguyễn Tiết Trinh: Ông là người gốc miền Trung, không
rõ nguyên quán, là người đồng tông với ông Nguyễn Công Trứ.
Khi vào phương Nam sinh sống, ông lấy vợ là người làng Phước
Kiểng, sau đó lập nghiệp tại đây. Là người có tài, ông được tiến cử
lên triều đình, vua phong làm Hùng dõng tướng quân và bổ nhiệm
thủ thành Bà Rịa. Năm 1861, Pháp tấn công và nã pháo dữ dội
vào thành Bà Rịa, quân nhà Nguyễn vũ khí thô sơ không chống
chọi được, mất thành nên ông bị triều đình triệu về Huế để trị tội.
Biết ra đi là chết, ông cho thân tín đưa thư về Phước Kiểng dặn
dò hậu sự với con là Nguyễn Văn Chí, sau đó uống thuốc độc tự
vẫn. Quan khâm sai thương tình, cho phép gia đình mang thi thể
ông về mai táng, hiện phần mộ còn tại xã Long An, huyện Long
Thành.
Kiến trúc mộ cổ:
Là làng cổ, trên địa bàn Hiệp Phước cũng có nhiều mộ cổ, bởi
quan niệm “sống có nhà, thác có mồ” ăn sâu vào tâm thức người
dân. Qua khảo sát cho thấy những ngôi mộ cổ ở Hiệp Phước phản
ánh rất rõ điều kiện kinh tế, địa vị xã hội người mất cũng như
phong tục tập quán của địa phương. Người giàu có, khá giả thì
xây mộ nguy nga bằng đá hoa cương, đá ong, mộ hình voi phục
cầu kỳ, trang trí hoa sen, bình phong, cổng vòm tam quan; người
nghèo thì mộ đất đơn sơ.
Một trong những ngôi mộ cổ tiêu biểu ở Hiệp Phước là mộ
song thân ông Đào Trí Phú. Khu mộ rộng khoảng gần 60m2, tường
bao bằng đá ong dày 45cm kết nối với nhau bằng chất liệu ô dước
quý hiếm thời ấy; có cổng tam quan, hai trụ búp sen, bình phong.
Mộ có hình voi phục, nằm song song nhau, phía đầu hai ngôi mộ
64

7.5 Page 65

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
là hai tấm bia đá, chân đế trang trí hoa văn, trên bia là bài văn do
chính ông Đào Trí Phú viết vào năm đầu Thiệu Trị, tháng 10 năm
Tân Sửu (1841). Hiện khu mộ đã bị hư hại khá nhiều, bia đá bị vùi
lấp chỉ còn một nửa.
Một khu mộ cổ tiêu biểu nữa là mộ ông bà Tri phủ Lê Văn An,
nằm phía sau chùa Quang Mỹ. Đây là khu mộ bằng đá xanh duy
nhất ở Hiệp Phước. Công trình điêu khắc khá mỹ thuật, mang đậm
dấu ấn kiến trúc đầu thế kỷ XX. Tổng diện tích khu mộ là 70m2,
nền chân móng cao 50cm, bao quanh là hàng rào song sắt, có bậc
tam cấp. Mộ có bức bình phong được thiết kế như ngôi nhà hai
tầng, mái ngói ống, giữa hai tầng mái là các họa tiết rồng mây uốn
lượn, tường bao (uynh thành) bằng đá chạm nổi họa tiết rồng mây
cách điệu vươn mình chầu về bức bình phong; cửa mộ, sân bái
đình, bình phong tiền, trụ đá chạm sen... nơi nơi tinh xảo.
Hai ngôi mộ cũng mang hình voi phục, tạc nổi hình mây uốn
lượn, dưới chân chạm nổi hoa văn quyển thư. Bia mộ bà có chạm
hình chim phượng trong tư thế bay kéo theo hoa văn dây lá, bia
mộ ông chạm hình đầu, đuôi, thân rồng kết nối hoa văn dây lá.
Trước sân bái đình có bình phong đá cũng chạm khắc hình rồng
chầu mặt trời và hoa văn dây lá, giữa là bức tranh tùng lộc chạm
khắc tỉ mỉ, sống động. Khu mộ còn có khắc nhiều câu đối chữ
Hán. Theo ni sư Thích Nữ Như Thuận trụ trì chùa Quang Mỹ, Tri
phủ Lê Văn An người làng Mỹ Khoan, làm quan phủ ở Sóc Trăng
và kết duyên với bà Nguyễn Thị Lâu tại đây. Khi ông phủ mất, bà
về Mỹ Khoan mua ruộng đất, xây dựng chùa Quang Mỹ với tâm
nguyện làm nơi yên nghỉ cho chồng, khi bà mất người thân cũng
chôn bà tại đây theo di nguyện. Khoảng năm 1980, khu mộ ông bà
65

7.6 Page 66

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
bị kẻ gian đào trộm, tuy được phát hiện nên không mất gì nhưng
cũng bị hư hại, nhà chùa đã tu sửa lại như hiện trạng ban đầu.
Trên địa bàn Hiệp Phước còn khu mộ khá lạ, mang màu sắc
huyền bí, đó là khu mộ đen. Tổng diện tích khu mộ khoảng 70m2,
phía trước có hàng rào đá ong. Mộ được xây bằng đá ong và gạch
thẻ phủ vôi, mật mía, nền đá ong, có tường thành bao quanh cao
70cm, dày 40cm, có bình phong được trang trí trên mặt, giá đỡ,
hai bên có hai con lân chầu, có sân bái đình, tường thiết kế như
quyển thư có khắc âm câu đối, họa tiết dây lá, hình người nhưng
đã lu mờ. Khu mộ có hai ngôi mộ nằm song song, trên là mái che
giả đắp bằng hợp chất dạng như mái ngói lưu li. Những người
trong dòng tộc họ Lại ở Hiệp Phước cho biết chủ nhân ngôi mộ là
ông tổ của dòng họ, nhưng người dân địa phương thấy mộ có màu
đen (hợp chất phủ bên ngoài bị oxy hóa thành màu đen) nên gọi
là khu mộ đen, đồng thời còn có lời đồn cho rằng chủ nhân ngôi
mộ khi sống giàu có, lúc chết có chôn theo hai người mọi da đen
để làm thần giữ của, nhiều người vào những đêm tối trời còn nghe
tiếng người khóc ở đây nên rất sợ hãi. Trong thực tế, đến nay con
cháu dòng họ Lại vẫn thường xuyên hương khói, chăm chút bảo
quản khu mộ, hằng năm con cháu tề tựu cúng quải, tưởng nhớ tổ
tiên.
66

7.7 Page 67

▲back to top


Chương II
TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
ĐẤU TRANH ĐẾN KHỞI NGHĨA
GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1945
I. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH
1. Ngăn chặn thực dân Pháp xâm lược
Năm 1859 là cột mốc ghi dấu cuộc sống thanh bình của người
Gia Định - Biên Hòa chuyển sang giai đoạn bất an vì gót giày xâm
lược của thực dân Pháp.
Theo chính sử, quân Pháp tấn công Gia Định năm 1859, tính
từ ngày 10.2 khi bắt đầu nổ súng tấn công đồn Vịnh Tào (pháo
đài Bảo Thắng) ở Vũng Tàu, 7 ngày sau quân Pháp mới đến được
mục tiêu Gia Định vì phải vượt qua 12 đồn, bảo bố trí ở tuyến
sông Lòng Tàu và sông Sài Gòn, do quân lính cùng dân binh địa
phương quyết chiến cản bước quân thù. Các bô lão địa phương
có người còn nhớ chuyện tiền nhân kể về các trận đánh ven
sông ngăn chặn bước chân xâm lược Pháp, trong đó có các trận
quyết liệt ở pháo đài Lương Thiện, pháo đài Tả Định ở địa bàn
Nhơn Trạch.
2. Các phong trào chống Pháp trước khi có Đảng lãnh đạo
Sau khi chiếm đóng Gia Định, quân Pháp đánh chiếm Biên
Hòa ngày 18.12.1861, sau đó đưa quân tiến đánh Long Thành.
67

7.8 Page 68

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Khoảng 9 giờ sáng ngày 26.12.1861, cánh quân do đại tá Diégo
chỉ huy tiến vào Long Thành để hướng về mục tiêu Bà Rịa. Khi
quân địch kéo đến khu vực ấp Bà Ký thì bị quân triều đình và
quân nghĩa dũng Long Thành1 do Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng
chỉ huy dựa vào hệ thống lũy Ký Giang và sông Đồng Môn chặn
đánh. Quân địch dùng vũ khí tối tân áp đảo. Nghĩa quân dũng cảm
đánh giặc bằng gươm giáo, kéo dài trận đánh đến 2 giờ chiều, dù
nhiều thương vong nhưng vẫn giữ được trận địa. Đến khi Pháp
có quân tiếp viện do đại tá Leprite vượt sông Đồng Nai kéo đến,
Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng bị thương nặng, không qua khỏi, hy
sinh ngày 27.12.1861. Dân làng thương cảm, đưa ông cùng 27
nghĩa sĩ về khu đất cao ở Long Thuận (nay thuộc xã Long Phước
huyện Long Thành) lập mộ, hàng năm cúng giỗ, nay còn di tích2.
Nhiều dân binh ở địa bàn Phước Thiền, Phước Kiểng tham gia
đánh trận, một số gia đình ở Hiệp Phước còn lệ giỗ nhưng không
nhớ rõ họ tên.
Cuộc kháng cự của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng thất bại,
nhưng phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp ở Long Thành
- Biên Hòa không chấm dứt. Người Nhơn Trạch - Long Thành
hưởng ứng theo cờ nghĩa kháng chiến chống Pháp do ông Nguyễn
Ngọc Hớn (1820-1862) lãnh đạo. Khi quân Pháp chiếm Gia Định,
ông Nguyễn Ngọc Hớn dẫn con trai lớn là Nguyễn Ngọc Sang
tham gia nghĩa quân chống Pháp. Ông được phong chức Quân
1  Trước năm 1960, địa bàn Nhơn Trạch thuộc huyện Long Thành nên khi nói
đến Long Thành giai đoạn này bao gồm cả Nhơn Trạch
2  Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa quân đã được Bộ Văn hóa - Thông tin
xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 2754/QĐ-BT ngày
15.10.1994.
68

7.9 Page 69

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trấn đồn Mồng Gà (nay thuộc ấp Ký Mỹ, xã Trường Bình, huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An), có tham gia trận tập kích đánh đắm
tàu Primôghê ở vàm Đồng Môn Biên Hòa năm 1861. Trong trận
đụng độ ngày 26.12.1861 nghĩa quân nghênh chiến với một cánh
quân Pháp do viên đại tá Lơ Brít (Le Brides) chỉ huy. Lực lượng
và trang bị đôi bên quá chênh lệch, hai ông sa vào tay giặc. Bị tra
khảo dã man, khi giặc thả ra thì ít lâu sau ông Nguyễn Ngọc Hớn
từ trần giữa năm Nhâm Tuất (1862). Cha mất, con trai là Nguyễn
Ngọc Sang tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp mong trả
thù nhà nợ nước. Ngày 5.6.1862, triều đình Huế ký kết hòa ước
giao các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa cho Pháp, lòng
dân không thuận, tôn Trương Định làm Bình Tây Đại Nguyên
soái, dựng cờ, mộ quân, xây dựng căn cứ kháng chiến. Nguyễn
Ngọc Sang đem quân ứng nghĩa về với Trương Định, tham gia
nhiều trận đánh ở các tỉnh miền Đông, góp phần tạo nên các chiến
thắng ở Lý Nhơn, Gò Công trao trảo, Rừng Lá, lũy Ký Giang.
Sau khi Trương Định hy sinh, phong trào kháng Pháp tàn lụi dần;
cuối năm 1864, ông Nguyễn Ngọc Sang lui về ẩn cư tại xóm Bến
Bạ, làng Lương Thiện, cưới vợ, sống đời thường dân, nhưng vẫn
canh cánh tấm lòng ưu dân ái quốc, qua đời năm 1890. Nhiều
người Hiệp Phước cùng dân binh Long Thành theo nghĩa quân
Nguyễn Ngọc Hớn suốt cuộc kháng chiến, nhưng sự việc chỉ nghe
qua lời kể mơ hồ của người cao tuổi ở địa phương, không văn tự
xác tín.
3. Hội kín/Thiên địa hội
Khởi nghĩa vũ trang bị dập tắt, hoạt động diệt ác bị khủng bố,
người Nhơn Trạch - Long Thành chuyển sang hoạt động bí mật,
69

7.10 Page 70

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
tổ chức Hội kín dưới danh nghĩa Thiên địa hội. Thiên địa hội xuất
hiện ở địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành từ năm 1908 theo phong
trào Hội kín ở Nam Kỳ, mục đích chung là lật đổ chính quyền
thực dân, tôn Phan Xích Long làm hoàng đế. Tổ chức Hội kín /
Thiên địa hội ở Nhơn Trạch - Long Thành không chặt chẽ lắm
nhưng có mặt ở hầu hết các xã, chia làm nhiều cụm; trong đó:
Cụm Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiểng: Do cụ Hồ
Văn Tĩnh lãnh đạo, điểm liên lạc tại Xóm Hố.
Cụm ở Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiểng có
nhiều hoạt động nổi trội, đông hội viên, có nội quy sinh hoạt bài
bản. Nòng cốt là các thành viên: Nguyễn Văn Nguyên (sinh 1885)
Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Sáng, Cả Tập, Cả Công, Tư
Lân... Hội kín hoạt động suốt một dải từ Lương Thiện, Phước Lý,
Phước Khánh, Bình Quới tới Phước An, tuyên truyền yêu nước,
bày cho đông đảo người nghèo cách chống sưu cao thuế nặng,
chống sự bóc lột của bọn chủ điền tham lam. Trụ sở lúc đầu đặt
tại hốc Cây Da thuộc xã Phú Hội. Sau thấy họp ở đây không được
tiện, dễ bị lộ nên tổ chức quyết định xây dựng một miễu ở gò cao
giáp ranh xã Long Tân và Phú Hội, dưới hình thức là miễu Bà,
người địa phương gọi tên là miễu Thiên địa hội.
Sau sự kiện ngày 12.1.1916, lực lượng Thiên địa hội ở Long
Thành tham gia phá khám Sài Gòn bị thất bại, quân Pháp ra sức
lùng bắt và đàn áp phong trào. Các ông Tiều, ông Quý, ông Dệch
bị địch bắt. Các hội viên khác mai danh ẩn tích. Phong trào Hội
kín/ Thiên địa hội ở Phước Thiền, Phước Kiểng cũng như ở toàn
địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành tan rã.
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
4. Phản kháng áp bức
Từ khi thực dân Pháp toàn quyền cai quản Nam Kỳ, đời sống
của người dân Hiệp Phước ngày càng cơ cực, tủi nhục trong vòng
nô lệ.
Người dân Hiệp Phước sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Thời
xưa khi khẩn hoang lập làng, ai có sức bao nhiêu thì khai phá bấy
nhiêu nên ruộng đất sở hữu tư nhân trong các hộ, dòng tộc khá
lớn. Đến khoảng thế kỷ XIX, đất đai ở Hiệp Phước có một số lớn
tập trung trong tay các địa chủ, như gia đình Tri phủ Lê Văn An
có đến gần 300 mẫu đất ở Mỹ Khoan, còn lại ít có gia đình nông
dân nào sở hữu số lớn ruộng đất. Phần lớn các hộ nông dân chỉ có
từ 1-2 sào ruộng, một số có ruộng nhiều hơn cũng chỉ từ 5-6 sào.
Hộ ông Mười Lé ở Phước Lai trước năm 1945 có được 1 mẫu đất
ruộng đã được xem là nhiều. Sở dĩ ruộng đất ở Hiệp Phước phân
tán manh mún như thế là do tập quán chia đất cho con trai khi ra
riêng. Sống bằng nghề nông nên người dân Hiệp Phước rất cần
sức lao động, nhất là nam giới. Nhà nào có nhiều con trai tới mùa
cấy, gặt thì ít khi phải nhờ bà con láng giềng phụ vần công, giảm
được chi phí, nhưng bù lại lúc con trai cưới vợ, lập gia đình riêng
thì phải chia đất, vì thế theo thời gian diện tích ruộng đất sở hữu
tư nhân cứ thấp dần.
Không đủ đất để canh tác, nhiều người phải đi làm thuê làm
mướn, hoặc mướn ruộng của địa chủ, tới mùa nộp tô. Cả một mùa
lúa gieo cấy, trồng tỉa cực nhọc, đến mùa gặt lúa phải đem cho
trâu đạp, phơi khô, quạt sạch xong mới được nộp tô. Ở một số nơi,
tỷ lệ nộp tô có khi lên đến 50%/vụ, nhưng trong thực tế còn cao
71

8.2 Page 72

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
hơn bởi chủ điền thường đong lúa theo kiểu “trừ hao”. Riêng ở
Hiệp Phước, có lẽ truyền thống nâng đỡ nhau, đạo nghĩa đối nhân
xử thế trong cộng đồng lưu dân thời khẩn hoang mở cõi vẫn còn
lưu giữ nên tỷ lệ nộp tô ở đây có “nhẹ nhàng” hơn, chỉ khoảng 30-
35%. Như gia đình của ông Lê Văn An, tương truyền tổ tiên xưa
kia cũng là nông dân nghèo, nhờ có ông An học hành giỏi giang,
đỗ đạt cao nên sau này làm quan đến Tri phủ Sóc Trăng, em trai
Lê Văn Khương và cháu trai Lê Văn Phàn cũng làm đến Tổng
chánh của quận Long Thành, vì thế gia đình ông dạy bảo nhau tu
nhân tích đức, hiếu thuận cha mẹ, đối xử nhân nghĩa với người
trong làng. Ruộng của gia đình ông ở Hiệp Phước ngoài số tự thuê
mướn nhân công cày cấy, số còn lại cho người ít ruộng trong làng
thuê chỉ thu tô 30%, là mức tô hiếm thấy thời điểm đó.
Tuy nhiên, mức tô 30% hay 35% đều là gánh nặng của nông
dân. Năm 1955 để “lấy lòng” người dân Nam Bộ vốn đã được
Việt Minh chia ruộng đất trước đó trong thời kỳ chín năm, chính
quyền Ngô Đình Diệm đã ban hành Dụ số 2 ngày 8.11.1955 quy
định lại mức thu tô (giá thuê đất) tối đa mà điền chủ được áp dụng
là từ 10-15% trên số lúa thu hoạch đối với ruộng làm một mùa/
năm; từ 15-25% cho ruộng 2 mùa/năm1. Điều này cho thấy, trước
năm 1945, mức thu tô của địa chủ ở Hiệp Phước thực tế lên đến
từ 50-70%/ năm (ruộng 2 vụ). Năm nào lúa trúng, nông dân đong
thóc nộp tô xong, may mắn lắm mới đủ lúa ăn đến năm sau. Năm
nào thất mùa thì phải nợ chủ điền.
1  Trong khi đó, ở miền Bắc, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có Sắc
lệnh số 49-SL ngày 18.6.1949, quy định từ năm 1950 thuế điền thổ thu một số
thóc tương đương với 6% hoa lợi tính theo năng suất.
72

8.3 Page 73

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Những nhà có ruộng đất không phải nộp tô cho địa chủ thì
phải nộp thuế cho chính quyền thuộc địa. Theo quy định, mức
thuế tư điền (tức thuế ruộng) ở Nam Bộ có 3 hạng tùy theo chất
lượng, mỗi mẫu ruộng đóng thuế từ 0,74-2,1 đồng. Nhưng trong
thực tế, phần lớn các loại ruộng đều phải đóng theo mức “nhất
đẳng điền” là 2,1 đồng/mẫu. So với năng suất và giá lúa thời đó,
mức thuế trên chiếm từ 9-25,4% thu nhập của nông dân. Đáng chú
ý, chính quyền Pháp còn tìm cách bóc lột tận cùng người dân bằng
quy định đơn vị mẫu nhỏ lại. Dưới thời Tự Đức nhà Nguyễn, một
mẫu ruộng xấp xỉ gần 5.000m2 (người dân gọi là mẫu ta). Từ năm
1897, thực dân Pháp quy định mỗi mẫu chỉ còn có 3.600m2 (dân
gọi là mẫu tây), nên trên thực tế mức thuế ruộng tăng hơn so với
diện tích đất.
Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa đặt ra nhiều loại thuế
làm cho đời sống người dân lâm vào cảnh bi đát. Cũng giống như
các địa phương khác trong cả nước, hàng năm vào tháng 5 âm
lịch, thanh niên trai tráng ở Hiệp Phước phải đóng thuế thân. Mỗi
người đàn ông gọi là tráng đinh (18 tuổi trở lên), theo quy định
mỗi năm phải đóng đến 4-5 đồng thuế thân. Đến sau năm 1930,
thuế thân tăng lên 6,3 đồng/năm. Ai không có tiền đóng thì bị làng
lính bắt trói, đóng trăn cả tuần lễ, đánh đập cho tới chừng nào có
đủ để nộp mới tha. Vì vậy, tới “mùa” thu thuế thân ai cũng nơm
nớp, cứ nghe chó sủa rộ là đàn ông trai tráng ở Hiệp Phước những
ai chưa đủ tiền đóng thuế thân lại tìm cách chạy trốn, phần lớn là
kéo nhau chạy vào rừng giồng, đến tối mới dám về nhà. Nhưng
trốn cũng chỉ là giải pháp tạm thời, muốn yên ổn làm ăn sau cùng
73

8.4 Page 74

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cũng phải chạy vạy, vay mượn, có khi là vay bạc nặng lãi để nộp
thuế, nợ chồng thêm nợ.
Ngoài thuế thân, người nông dân còn phải nộp thuế ruộng,
rẫy, thuế vườn. Có nhà trồng được mấy sào hoa màu như: bầu,
bí, mướp... cũng phải đóng thuế, sản phẩm làm ra nhiều khi bán
không đủ nộp thuế. Các loại phương tiện vận chuyển, như ghe, xe
bò cũng phải nộp thuế. Chính quyền thuộc Pháp quy định mỗi con
bò kéo xe phải có giấy “bề chỉ” (còn gọi là bài chỉ), một dạng như
“căn cước” của bò: màu gì, xá gì, rất kỹ lưỡng. Khi qua mỗi đồn
bót, trạm gác của chúng phải trình giấy bề chỉ, nếu không có sẽ bị
phạt rất nặng, có khi còn bị tịch thu cả bò lẫn xe. Đi đêm, mỗi xe
bò đều phải treo hai cây đèn phía trước và sau xe theo quy định,
giống như ô tô bây giờ phải có đèn trước và sau, nếu không cũng
sẽ bị phạt nặng.
Nhà cầm quyền Pháp còn ra sức tịch thu đất để mở đồn điền.
Ở Hiệp Phước, thực dân Pháp cấu kết với một số địa chủ là người
Pháp chiếm đất của người dân hai làng Phước Kiểng và Phước
Lai, biến thành các đồn điền chuyên canh gọi là Sở thơm, Sở điều,
Sở mía. Dân làng trở thành người làm công chăm sóc cây trồng
ngay trên đất của chính mình với đồng lương rẻ mạt.
Năm 1929, quân Pháp bắt đầu xây dựng kho bom Thành
Tuy Hạ. Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày
31.12.1907, mỗi năm người dân nước ta phải đi xâu “làm việc
hàng tỉnh” 8 ngày, nếu không đi xâu thì phải đóng “tiền chuộc”
từ 0,1-0,5 đồng/ngày (tùy theo việc). Nhưng trong thực tế, người
dân Nhơn Trạch đều phải đi làm phu không công ít nhất 15 ngày/
năm, công việc nào là chặt cây, phá bụi, san bằng các gò, nỗng,
74

8.5 Page 75

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đào ô đắp ụ để chứa bom, khiêng vác vật liệu xây dựng. Kho đạn
Thành Tuy Hạ xây dựng 4 năm mới xong. Tiếp đó, đến năm 1939,
Pháp xây dựng đồn Giồng Ông Đông, người dân địa phương cũng
phải đi làm phu xây dựng. Đến lúc Nhật nhảy vào chiếm đóng,
người dân lại phải đi phu xây dựng sân bay Nước Trong (An Lợi)
và Gò Dầu (Phước Thái). Hiệp Phước trong tình trạng chung của
cả nước, người dân phải chịu một cổ hai tròng (thực dân Pháp
và phát xít Nhật). Ai sống trong thời gian này mới biết chế độ
hà khắc của thực dân - phát xít tàn bạo như thế nào. Người dân
bị khủng bố tinh thần lẫn đời sống vật chất; sưu cao, thuế nặng,
thiếu thốn đủ thứ: Khi đau bệnh, không thuốc thang; nhà không
dầu thắp đèn (phải đốt đèn bằng dầu phộng, mù u, dầu chai); vải
không đủ mặc vì bị cấm dệt vải, phải mua vải nhập từ Nhật giá rất
đắt, dân không có tiền mua vải nên đành phải may quần áo bằng
vải bao bố, từ đó chịu trận với rận rệp, nhiều cặp vợ chồng chỉ có
một quần dài bằng vải, ai có việc ra ngoài đường mới mặc. Thanh
niên bị bắt đi làm xâu vài ba tháng mới được về; làm xâu xa tận
Bà Rịa, Hố Nai, Bến Gỗ, cực khổ trăm bề.
Không chỉ vậy, chính quyền thuộc địa còn có nhiều quy định
hà khắc đối với người dân Hiệp Phước nói riêng cũng như Nhơn
Trạch nói chung: 5 nhà chỉ được có một con dao dùng để phát rẫy,
không được mua bán vải ta (vải do người dân tự dệt) nếu phát hiện
ai mua bán bông vải (nguyên liệu để dệt vải) sẽ bị tịch thu... Vì thế
đời sống người dân rất khó khăn, cơ cực.
Nhà cầm quyền Pháp còn chủ trương “ngu dân”. Từ năm
1929-1932, toàn huyện Long Thành chỉ có một trường dạy đến
lớp một đặt ở Phước Thiền, một trường dạy đến lớp 2 ở xã Phước
75

8.6 Page 76

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Lộc. Có hai cha con cầm đèn đi hỏi cả hai ấp Bến Cam, Bến Sắn
không ai nhận ra mặt chữ. Hầu hết người dân mù chữ, thất học.
Một ít thanh thiếu niên được học ở các trường làng đặt ở các cơ sở
thờ tự (như Chùa Ông ở Hiệp Phước, đình Ông Mai ở Phú Hữu)
được các thầy giáo như Phạm Văn Hinh, Nguyễn Hảo Văn ngoài
việc dạy chữ còn truyền lửa về đạo nghĩa, lòng yêu nước và tinh
thần dân tộc.
Tức nước ắt có lúc vỡ bờ, người dân Nhơn Trạch - Long
Thành ngầm có sự phảng kháng trong lòng, mong đợi một điều
gì đó làm thay đổi kiếp sống tủi cực, u tối đang đè nặng cuộc đời.
5. Phong trào công nhân cao su
Từ năm 1862, Thống đốc Nam Kỳ Bô-na (Louis Adolphe Bo-
nard) đã có chủ trương “sung công” đất vô chủ, thực ra là chiếm
đoạt ruộng đất, mở đường cho chính sách khai thác thuộc địa, lập
các đồn điền nông nghiệp, trong đó lợi nhuận cao là đồn điền cao
su. Năm 1906, trồng thử 1.000 gốc cao su ở trang trại Dầu Giây.
Năm 1908, Công ty Cao su Les caoutchous du Donai (LCD) ra
đời. Tiếp theo là hàng loạt công ty đồn điền cao su được thành lập
ở Biên Hòa. Năm 1917, thực dân Pháp thành lập Hiệp hội trồng
tỉa Đông Dương để khai thác cao su; đầu tư tối đa để mở rộng
phạm vi trồng cao su. Chỉ sau một thời gian ngắn, tư bản Pháp đã
mở thêm Công ty Societe Indochinoise plantation d’heveas, gọi
tắt là Siph, do vợ chồng hầu tước Charle Rivieas des Lasune trông
coi. Sau đó, hàng loạt đồn điền cao su khác đã ra đời trên địa bàn
Long Thành, như: sở Abôrati, sở De La, sở tư Trần Quang An, sở
Helena, sở Rơvec tiga, sở De George, sở Nguyễn Dưỡng, sở Péra.
Tại xã Phú Thạnh, do thổ nhưỡng thích hợp với sự phát triển
76

8.7 Page 77

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
của cao su nên một số cố đạo người Pháp đã đứng ra lập sở cao
su Tân Tường, có thời điểm lên đến 3.399 hecta - một con số cực
kỳ lớn so với điều kiện làm việc đầu thế kỷ XX; đồng thời lập
thêm sở cao su ở xã Phú Hội, người dân gọi là sở Ông Cố. Lúc
mới thành lập, các đồn điền cao su thuê người dân địa phương phá
rừng, phát hoang trồng cao su. Rừng khu vực Long Thành - Nhơn
Trạch thời kỳ này còn rậm rạp, nhiều chướng khí, không ít người
đã phải bỏ mạng vì nạn cây đè, bị rắn độc cắn, thú dữ chụp, hoặc
bị sốt rét, dịch bệnh. Biết bao mồ hôi, nước mắt, máu xương của
người dân Nhơn Trạch đã đổ ra để khai hoang, trồng nên những
vườn cao su bạt ngàn ấy.
Ở Hiệp Phước, có một số người vì không có ruộng đất nên
đi làm công nhân cho các sở cao su. Làm công nhân, nhưng đời
sống người dân cũng không khấm khá hơn bởi công việc nặng
nhọc, đồng lương rẻ mạt. Lương công nhân cạo mủ mỗi ngày 32
xu. Công nhân đứng máy lương 40 xu. Những công nhân chưa đủ
18 tuổi được phát cho một thẻ gọi là “thẻ nhau”, mỗi ngày lãnh
12 xu. Lương phụ nữ thấp hơn nam giới, chỉ khoảng 30 xu hoặc
thấp hơn. Nghỉ ngày nào là cắt lương. Mắc bệnh không được cấp
thuốc. Lao động nặng nhọc, bệnh tật sốt rét, phù thủng làm nhiều
người chết.
Từ khi có tầng lớp công nhân cao su ra đời và khi Pháp cho
dời kho đạn Thị Nghè về Thành Tuy Hạ, công nhân cao su và
người làm công thợ cho Pháp có dịp là tiếp xúc với những người
cách mạng như ông Bảy Dài, được nghe dẫn giải về truyền thống
yêu nước của dân ta, về giai cấp công nhân, về Đảng Cộng sản
Đông Dương. Qua phong trào tham gia diễn thuyết, đình công,
77

8.8 Page 78

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
một số người dân Hiệp Phước cùng công nhân Nhơn Trạch tiếp
nhận được nhiều lý luận mới mẻ về cách mạng, về Đảng. Cuốn
Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương âm thầm phổ biến cho nhiều
người, từ người biết chữ lan truyền trong dân, từ người nhiều chữ
đến người ít chữ. Người dân hiểu ra: bọn địa chủ, bộ máy hội tề,
chính quyền thực dân là nguồn gốc của áp bức bóc lột bạo tàn.
Muốn thoát khỏi cảnh ngựa trâu bóc lột đó, muốn người cày có
ruộng, thì nông dân phải kề vai sát cánh với công nhân để lật đổ
toàn bộ giai cấp thống trị cũ, dựng xây cuộc đời mới.
Tại Nhơn Trạch lúc này chưa có tổ chức Đảng, nhưng những
cuộc nổi dậy của công nhân cao su và người dân Long Thành đã ít
nhiều tác động đến nhận thức của người dân ở Hiệp Phước. Hiệp
Phước dù không có sở cao su, số người dân đi làm công nhân cũng
ít, nhưng với tính lân cận cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ phong
trào của công nhân cao su.
Sau khi các phong trào yêu nước chống Pháp từ vũ trang đến
hội kín trước đó đều đã thất bại, từ đây một phong trào yêu nước
mới mẻ đang mở ra. Lòng dân Nhơn Trạch cũng như Hiệp Phước
đang như đồng khô trong nắng dữ, chờ ngọn lửa cách mạng để
bùng cháy, thiêu rụi ách đô hộ của thực dân, phát xít và chế dộ
phong kiến.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
1. Đảng ra đời, gầy dựng phong trào cách mạng
Ngày 3.2.1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ sự kiện
vô cùng quan trọng này, phong trào đấu tranh của người dân Long
Thành - Nhơn Trạch nói chung chuyển sang một giai đoạn mới,
giai đoạn có Đảng lãnh đạo.
78

8.9 Page 79

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Ở tỉnh Biên Hòa, đầu năm 1935, Chi bộ Đảng Bình Phước -
Tân Triều thành lập do Hoàng Minh Châu làm Bí thư, đồng chí
Huỳnh Văn Phan làm Phó Bí thư, các đảng viên là: Lưu Văn Viết,
Lưu Văn Văn, Quánh Tỷ, Quách Sanh, Trần Minh Triết, Phạm
Văn Khoai. Đó là chi bộ Đảng đầu tiên ở tỉnh Biên Hòa.
Sau khi Ủy ban lâm thời Đông Dương Đại hội1 được thành lập
tại Sài Gòn (ngày 13.8.1936), ở Biên Hòa thành lập Ủy ban hành
động2 để vận động và điều hành phong trào cách mạng. Chủ tịch
Ủy ban hành động tỉnh phân công các đảng viên về Long Thành,
Nhơn Trạch để tuyên truyền yêu nước, đấu tranh đòi dân chủ.
Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều đã lãnh đạo các Ủy ban
hành động phát động các phong trào kêu gọi quần chúng hưởng
ứng cuộc vận động vì tự do, dân chủ, áo mặc, cơm ăn. Nhiều tổ
chức đoàn thể hình thành, nhiều cuộc míttinh đã diễn ra. Cuối năm
1936, đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang, Ba Đen), nguyên Bí
thư Xứ ủy Nam Kỳ (1933-1934) được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử
về Biên Hòa để vận động thành lập Tỉnh ủy, phát triển cơ sở đảng.
Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập đầu năm 1937,
đồng chí Trương Văn Bang được cử làm Bí thư.
Có Tỉnh ủy lãnh đạo, cùng với tình hình chung, phong trào
cách mạng ở Nhơn Trạch - Long Thành bắt đầu đi vào chiều sâu.
Từ tháng 9.1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Thực
dân Pháp khủng bố các phong trào đấu tranh cách mạng, tịch thu
tài sản của các tổ chức, hội đoàn, nghiêm cấm các cuộc hội họp,
1  Gồm Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Trân,
Võ Công Tồn.
2  Cả Nam Kỳ có khoảng 600 Ủy ban hành động.
79

8.10 Page 80

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lùng bắt người đứng đầu các Ủy ban hành động. Trung ương Đảng
đã kịp thời thay đổi hình thức đấu tranh, rút vào hoạt động bí mật.
Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ thị cho các tổ chức, cán bộ chuyển từ hoạt
động công khai sang bí mật và bán hợp pháp. Năm 1940, phát xít
Nhật nhảy vào Đông Dương. Tại Long Thành, quân đội Nhật chia
nhau đóng ở sở Bà Đầm, khu căn cứ Nước Trong, khu Thái Thiện.
Hằng ngày chúng lùng bắt từ 300-400 người đi làm xâu1 xây dựng
sân bay, đồn bót. Thực dân Pháp cấu kết với Nhật ra sức đàn áp
nhân dân ta. Người dân lâm vào cảnh một cổ hai tròng. Pháp bắt
lính, Nhật bắt phu. Lính Nhật ác độc, tàn bạo như lính Pháp. Đời
sống người dân Nhơn Trạch thời điểm này vô cùng cơ cực. Hạt
lúa làm ra vất vả, chịu đủ thứ thuế má, lính Nhật còn bắt dân đóng
lúa hương lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay cho than để chạy
máy. Không có gạo ăn, người dân phải mót khoai lang, khoai mì,
ăn độn rau cỏ các loại, nạn thiếu đói xuất hiện ở Nhơn Trạch.
Quân Nhật cấm không cho người dân được dệt vải hay mua
bán, vận chuyển vải, bông vải cũng như các vật liệu, thiết bị liên
quan. Nhiều người phải lấy bao bố, bao tải làm quần áo mặc. Vải
bao bố mặc vừa ngứa, vừa xót, nhưng trong tình thế túng cùng
người dân cũng phải cam chịu. Ăn ở trong hoàn cảnh thiếu vệ sinh
nên đã sinh ra dịch rận. Trong làng trong xóm hầu như ai cũng có
rận, trị hoài không hết. Không chỉ thiếu cơm ăn, áo mặc, mà dầu
thắp sáng cũng không có, vì trong thời kỳ chiến tranh cả Pháp lẫn
Nhật đều cần nhiên liệu phục vụ chiến trường. Tình cảnh nhân
dân cơ cực không sao kể xiết.
1  Làm xâu, một hình thức lao động bắt buộc, tự túc về lương thực trong quá
trình lao động.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Tháng 9.1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp tại xã Tân Xuân (Hóc
Môn, Gia Định), phân tích tình hình, dự báo thời cơ khởi nghĩa,
giao Ban Thường vụ Xứ ủy ra lệnh khởi nghĩa Nam Kỳ vào đêm
22.11.1940. Khởi nghĩa Nam Kỳ bị thất bại. Địch khủng bố rất ác
liệt, phong trào chìm lắng, tổ chức tan vỡ. Người dân Hiệp Phước
tham gia các hoạt động chở che, nuôi giấu cán bộ cách mạng ẩn
náu để gầy dựng lại phong trào.
Đầu năm 1943, Ban cán sự miền Đông cử đồng chí Trịnh
Văn Dục (Ba Dục) về quận Long Thành hoạt động. Đến cuối năm
1944 đồng chí đã tổ chức quân bộ Việt Minh đầu tiên của tỉnh
ở quận Long Thành, xây dựng được mạng lưới cơ sở Việt Minh
trong các đồn điền cao su, lập được Chi bộ Đảng ở cơ sở Bình Sơn
do đồng chí Vũ Hồng Phô (tức Vũ Khánh) làm Bí thư1. Đồng chí
Trịnh Văn Dục hóa trang lúc thì làm nghề bán thuốc lào, khi thì
đánh xe ngựa, khi thì làm người bán dạo, đi khắp địa bàn Nhơn
Trạch - Long Thành để móc nối, xây dựng cơ sở đảng. Người dân
thường gọi đồng chí là “Thầy Ba thuốc lào”, “Thầy Ba xe ngựa”.
Đồng chí Ba Dục dành nhiều thời gian tìm hiểu và tiếp xúc với
công nhân và cả cai, xu trong các đồn điền, dần dần tuyên truyền,
thuyết phục và giáo dục được nhiều người giác ngộ cách mạng.
Thông qua những anh em quen biết đồng chí Ba Dục đã nắm
được tình hình ở các sở và tạo ra một mối quan hệ rộng rãi trong
công nhân. Tiếp đó, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) được
Đảng cử về hoạt động ở làng Đất Đỏ (Bình Sơn) cùng đồng chí
1  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập 1,
NXB Đồng Nai, 1997, trang 48.
81

9.2 Page 82

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Ba Dục xây dựng cơ sở cách mạng ở địa bàn Nhơn Trạch - Long
Thành. Từ đó, những hạt giống đỏ của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã được gieo cấy, nảy mầm ở đất lành Nhơn Trạch, trong đó có
Hiệp Phước.
2. Xây dựng cơ sở đảng, phát triển phong trào cách mạng
Từ cuối năm 1942, tình hình thế giới và trong nước có nhiều
diễn biến quan trọng. Chiến tranh thế giới II vào giai đoạn quyết
liệt. Mâu thuẫn Nhật - Pháp sâu sắc. Cuối tháng 2.1943, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng có chủ trương mở rộng Mặt trận
thống nhất và đẩy mạnh việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Tháng
10.1943, Xứ ủy Nam Kỳ được tái lập (gọi là Xứ ủy Tiền phong)
do đồng chí Trần Văn Giàu làm Bí thư. Xứ ủy cử nhiều cán bộ
đi khắp nơi, bám cơ sở để liên lạc, móc nối, phục hồi các tổ chức
đảng địa phương. Đồng chí Lê Minh Định được Ban cán sự miền
Đông giao việc về Long Thành (tháng 3.1944), xây dựng và phát
triển cơ sở đảng ở Long Thành. Đồng chí Định thay mặt Ban Cán
sự miền Đông chỉ định đồng chí Trịnh Văn Dục làm Bí thư và
cử đồng chí Vũ Hồng Phô và Lý Trần Hoan hỗ trợ. Đây là chi
bộ Đảng đầu tiên ở địa bàn Long Thành. Chi bộ nhanh chóng kết
nạp thêm nhiều đảng viên mới, đưa đồng chí đảng viên đang hoạt
động vùng Phước Thiền là Trương Minh Kỷ (Bảy Kỷ) về sinh
hoạt cùng Chi bộ Long Thành, trên cơ sở đó tiếp tục phát triển
đảng ở địa bàn Nhơn Trạch.
82

9.3 Page 83

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
III. THAM GIA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1.Tổ chức lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa
Đúng như dự báo, ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm
lĩnh bộ máy chính quyền Pháp, làm chủ hệ thống quản lý của
Pháp.
Ứng biến với tình hình mới, ngày 12.3.19451, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta”. Trung ương Đảng chủ trương thay đổi hình thức
tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền khởi
nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Thực tế, từ chiều 10.3.1945, quân Pháp chính thức đầu hàng
Nhật trên toàn Đông Dương. Quan Tây, chủ Tây bị lính Nhật bắt,
quản thúc. Một số chạy về Sài Gòn ẩn náu, một số trốn vào rừng.
Bộ máy hội tề ở xã tan rã, các sở cao su vắng chủ. Các tổ chức
đảng cơ sở đưa người của ta đứng ra làm chủ tình hình.
Nhật dựng lên chính phủ Trần Trọng Kim làm bù nhìn, được
vài tháng thì đổ vỡ. Ngày 16.3.1945, Nhật đưa Nguyễn Văn
Quý, nguyên Quận trưởng Tân Uyên làm Tỉnh trưởng Biên Hòa.
Ở Long Thành, Quận Hội thân Nhật được đưa về thay Quận
Phục, chưa kịp ổn định tổ chức thì chính phủ Trần Trọng Kim đã
sụp đổ.
Phong trào đấu tranh của quần chúng được củng cố, rộ nở
khắp nơi. Nổi bật là phong trào Thanh niên Tiền phong. Thanh
1  Có tài liệu ghi: Đêm 9.3.1945.
83

9.4 Page 84

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
niên Tiền phong được thành lập tại Sài Gòn vào ngày 21.4.19451
do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Phong
trào. Từ trung tâm Sài Gòn, Thanh niên Tiền phong nhanh chóng
lan tỏa khắp Nam Kỳ, trong đó tỉnh Biên Hòa là nơi sớm có tổ
chức Thanh niên Tiền Phong giàu sức sống do thầy giáo Huỳnh
Thiện Nghệ chỉ huy (tháng 5.1945)2.
Ở quận Long Thành, trong tháng 5.1945, lực lượng Thanh
niên Tiền phong được tổ chức do thầy giáo Nguyễn Văn Chỏi làm
thủ lĩnh, với sự tham gia chỉ huy của nhiều đảng viên gạo cội. Lực
lượng tham gia Thanh niên Tiền phong Long Thành phát triển rất
mạnh, lan tỏa nhanh, đều khắp ở các xã và đồn điền cao su, quy tụ
được nhiều thành phần thanh niên tham gia. Chi bộ Long Thành
phân công đồng chí Liêm, đồng chí Châu sát cánh cùng thầy giáo
Chỏi để nắm lực lượng.
Đoàn Thanh niên Tiền phong địa bàn Nhơn Trạch có lẽ bắt
nguồn từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) gắn với hoạt động của
đồng chí Trần Thị Ba - đảng viên cộng sản được cấp trên phái về
xứ Giồng Ông Đông hồi đầu năm 1945. Phong trào Thanh niên
Tiền phong ở Hiệp Phước hoạt động sôi nổi, đều khắp cùng toàn
địa bàn khu vực Nhơn Trạch; tổ chức Thanh niên Tiền phong được
biên chế thành đội, mỗi đội vài mươi người nòng cốt, trang bị thô
sơ, chỉ vài khẩu súng lấy được hoặc mua được của lính Pháp, còn
1  Có tài liệu ghi Thanh niên Tiền phong được thành lập tháng 5.1945. Cũng có
tài liệu ghi thành lập trong tháng 7.1945.
2  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập 1,
NXB Đồng Nai, 1997, trang 50.
84

9.5 Page 85

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
lại là tầm vông, dây thừng, giáo mác tự tạo. Nhiệm vụ của các đội
là tuần tra canh gác xóm làng, chống trộm cắp, cướp phá trong
làng; hăng hái luyện tập quân sự sẵn sàng chiến đấu để giải phóng
dân tộc. Không khí sinh hoạt của Thanh niên Tiền phong gian khổ
nhưng rất vui, đêm đêm sân tập rầm rập bước chân “một hai... một
hai”, rộn ràng tiếng nói cười, vang vang tiếng hát Lên đàng và lời
ca Tiếng gọi thanh niên.
Ở Phước Lai, người vận động, kêu gọi thành lập đội Thanh
niên Tiền phong là cô Lê Thị Đầy (còn gọi là Kim Thanh), người
trong làng thường gọi là cô Sáu Đầy. Gia đình cô không giàu có
nhưng sống rất đạo đức, nhân nghĩa, bản thân cô Sáu Đầy thường
xuyên giúp đỡ bà con xóm làng, người cơ nhỡ, ai có việc ngặt cô
khẳng khái giúp tiền, gạo, công sức không chút nề hà, nên mọi
người đều quý mến, tin phục, thậm chí có những nhà xảy ra xung
đột cũng tìm đến cô nhờ phân giải. Vì vậy khi cô hô hào thành lập
đội Thanh niên Tiền phong, hầu hết thanh niên trai tráng trong làng
đều tham gia, nổi bật có các anh như: Huỳnh Văn Lâm, Huỳnh
Văn Lộc, Ngô Văn Tắc, Nguyễn Văn Na, Đào Văn Nhã, Phạm
Văn Liều, Đoàn Văn Lọt, Đoàn Văn Cho, Phan Văn Để, Huỳnh
Văn Diệu, Huỳnh Ngọc Cẩn, Đào Văn Mừng, Lâm Văn Nguyên,
Lê Văn Cang, Lê Văn Lời (Tư Lời), Mười Tàng, Võ Văn Xèo
(Bảy Xèo), Chín Cưng, Ba Đông, Ba Đãi... Đặc biệt, trong số các
đội viên Thanh niên Tiền phong của Phước Lai còn có các chị: Võ
Thị Chắm, Bùi Thị Đang. Ở Phước Kiển có các anh Nguyễn Văn
Hồng và Từ Văn Văn là những người sớm giác ngộ cách mạng,
đứng ra vận động thành lập Đội Thanh niên Tiền phong, thu hút
thanh niên trong làng tham gia như: Trần Tấn Công, Nguyễn Văn
85

9.6 Page 86

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hựu, Trần Văn Diệm, Lâm Văn Huệ, Nguyễn Văn Biên, Mã Văn
Bình, Phạm Văn Hiếu (Thi), Huỳnh Văn Ngô, Nguyễn Văn Xi,
Nguyễn Tuất, Trần Tấn Lộc, Đổng Văn Cầm, Nguyễn Văn Chơi,
Đào Văn Kẹo, Trần Công Đương, Huỳnh Ngọc Ẩn; nữ đội viên
Thanh niên Tiền phong là chị Lê Thị Cung. Các đội viên vác tầm
vông vạt nhọn, vai đeo cuộn dây thừng, ban ngày tập luyện quân
sự, ban đêm tập võ nghệ, khí thế rất hăng say.
Cùng với các tổ chức hội, đoàn thể được Đảng gầy dựng, lãnh
đạo, phát triển về đấu tranh chính trị; tổ chức Thanh niên Tiền
phong ra đời kịp lúc, trở thành tổ chức có vũ trang thô sơ để làm
nòng cốt sẵn sàng cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chánh quyền.
Người dân Hiệp Phước bao lâu nay sống trong áp bức, tủi cực nên
nhanh chóng đón nhận luồng gió mới cách mạng với hy vọng sẽ
được đổi đời, thoát kiếp nô lệ.
2. Tham gia tổng khởi nghĩa, giành chính quyền
Năm 1945, tình hình thế giới thuận lợi cho phong trào cách
mạng. Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Đức. Đức thất trận
và đầu hàng Đồng minh ngày 7.5.1945. Nhật hoàng tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện. Từ Nam vĩ tuyến 16, quân Nhật sẽ bị quân
Đồng minh giải giới bởi quân đội Anh. Lính Nhật ở Đông Dương
lâm vào hoảng loạn.
Trong bối cảnh ấy, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị toàn
quốc ở Tân Trào ngày 13.8, xác định thời cơ đã đến, hạ quyết tâm
lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa. Mệnh lệnh tổng khởi nghĩa của
Trung ương, lời kêu gọi của Việt Minh và tin thắng lợi từ Thái
Nguyên lan nhanh toàn quốc, rạo rực lòng dân.
86

9.7 Page 87

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, ngày 23.8.1945, tại xã
Bình Trước, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp bàn kế
hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Hội nghị
đã bàn bạc thống nhất và quyết định một số việc cấp bách. Việc
cấp bách hàng đầu là: Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa
trước ở tỉnh lỵ, phân công một số đảng viên về các quận huy động
lực lượng quần chúng về thị xã tham gia cướp chính quyền; huy
động lực lượng xung kích trong nhân dân, Thanh niên Tiền phong
tự trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu hiệu sẵn sàng nổi dậy
biểu dương lực lượng cướp chính quyền.
Ngày 21.8.1945, tại Long Thành, đồng chí Trịnh Văn Dục
giao nhiệm vụ cho các đồng chí trong chi bộ chuẩn bị khởi nghĩa.
Từ sáng ngày 23.8.1945, tình hình chuẩn bị khởi nghĩa sôi động.
Ủy ban khởi nghĩa quận Long Thành do các đồng chí Trịnh Văn
Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái chủ trì họp, phân công chuẩn
bị kế hoạch huy động công nhân cao su, nhân dân các xã kéo về
quận lỵ tham gia giành chính quyền trong ngày 24.8.1945. Các tổ
chức đoàn thể ở địa bàn Hiệp Phước nhận lệnh, tổ chức đội ngũ,
sẵn sàng.
Từ 6 giờ sáng ngày 24.8.1945, các đội xung phong nòng cốt
là Thanh niên Tiền phong ở Long Thành có mặt làm nhiệm vụ
tại các vị trí được phân công với mục tiêu là phong tỏa khu vực
xung quanh quận lỵ. Các ngã đường trên quốc lộ 15, tỉnh lộ 17
và 19 đều có đội viên Thanh niên Tiền phong canh gác, làm chủ
tình hình; Đội Thanh niên Tiền phong của Phước Lai, Phước Kiển
87

9.8 Page 88

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhận nhiệm vụ canh gác trên lộ 19 đoạn qua địa bàn mình. Khí thế
của các đội Thanh niên Tiền phong khiến một trung đội lính Nhật
đóng ở sở Bà Đầm hoang mang lo sợ nên án binh bất động. Từ 7
giờ 30 phút, đồng bào từ các xã, các đồn điền theo đội hình có tổ
chức kéo về quận lỵ Long Thành, trong đó có rất đông người dân
Phước Lai, Phước Kiển bởi vì từ Hiệp Phước đến quận lỵ Long
Thành giao thông thuận lợi, các đoàn thể chuẩn bị chu đáo.
Đến 9 giờ, thị trấn Long Thành như sôi lên trong biển người,
rừng cờ phấp phới, tiếng hát vang trời, tiếng hô dậy đất, khí thế
như thác lũ. Đúng 10 giờ, lực lượng xung phong nòng cốt gồm
400 người chia thành hai mũi kéo vào dinh quận, tạo đội hình bảo
vệ cho Ủy ban Khởi nghĩa vào gặp quận trưởng. Ban Khởi nghĩa
gồm 19 người do đồng chí Trịnh Văn Dục dẫn đầu hiên ngang tiến
vào. Đồng chí Ba Dục nhân danh chính quyền cách mạng tuyên
bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền cũ phải chấm dứt hoạt động
từ quận đến xã. Chính quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi
của nhân dân trong quận bắt đầu làm việc. Quận trưởng thay mặt
chế độ cũ phải giao toàn bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ khí, thả
hết các phạm nhân. Cách mạng là sự nghiệp của mọi người, sẵn
sàng khoan hồng cho tất cả những ai đã trót tham gia chế độ cũ”.
Sau lời tuyên bố của đồng chí Dục, hàng ngàn người nhất loạt
hô vang: “Việt Nam độc lập muôn năm. Chính quyền cách mạng
muôn năm”1.
1  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930-2015), NXB Đồng Nai 2015,
trang 68.
88

9.9 Page 89

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Quận Hội ngoan ngoãn xin từ chức; bàn giao hết hồ sơ sổ
sách, kho tàng, vũ khí theo yêu cầu. Đạo trưởng Chín Lợi mặt như
chàm đổ, lặng lẽ cùng bộ hạ lẻn ra cửa sau chuồn mất.
Ngay sau khi tiếp nhận chính quyền, cuộc mít tinh mừng thắng
lợi diễn ra tại quận lỵ, hơn 3.000 người tham dự, có phái đoàn cán
bộ đại diện Xứ ủy miền Đông gồm các đồng chí Dương Bạch Mai,
Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp cùng dự. Trong buổi mít tinh, đồng chí
Trịnh Văn Dục thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa tuyên bố: “Kể từ giờ
phút này chính quyền cũ bị xóa bỏ. Chính quyền cách mạng quận
đại diện cho giai cấp công nhân, nông dân trong huyện ra đời. Kể
từ nay nam nữ bình quyền, người dân sống bình đẳng, mọi người
sống hạnh phúc1. Sau đó Ủy ban Cách mạng lâm thời quận Long
Thành được giới thiệu và ra mắt đồng bào, gồm: Chủ tịch Trịnh
Văn Dục, Phó Chủ tịch Võ Văn Truyện và các ủy viên. 17 giờ,
cuộc mít tinh kết thúc trong tiếng hô vang trời: “Việt Nam độc lập
muôn năm! Mặt trận Việt Minh muôn năm!”.
Ở Hiệp Phước, khi được lệnh cướp chính quyền, người dân
mừng như mở hội, hăng hái tham gia. Thanh niên được huy động
vây nhà việc, bắt hội tề bàn giao sổ sách, giải tán hội tề, làm chủ
tình hình. Ban hội tề các xã lặng lẽ tự giải tán, cử người đem hồ sơ
sổ sách tới nhà làng giao cho Thanh niên Tiền phong. Không một
nơi nào có sự phản ứng của chính quyền cũ. Khí thế cách mạng
sôi nổi và mạnh mẽ của nhân dân làm cho số địa chủ, tề xã hoảng
1  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930-2015), NXB Đồng Nai 2015,
trang 69.
89

9.10 Page 90

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
sợ, tự nguyện liên lạc với chính quyền cách mạng xin được lập
công bằng cách đóng góp lương thực, thực phẩm và tham gia tiếp
tế cơm nước cho các đoàn thể của xã mình. Trong ngày 25.8, Ủy
ban Cách mạng lâm thời quận phân công từng đoàn cán bộ đến
các xã hướng dẫn nhiệm vụ xây dựng chính quyền cách mạng cơ
sở, thu lại các ấn mộc của chính quyền cũ, quản lý công sở, phong
tỏa tài sản bọn Nhật còn ở trong quận. Ủy ban nhân dân lâm thời
các xã lần lượt hình thành.
Trong ngày 25.8, thực hiện chủ trương của Ủy ban Cách mạng
lâm thời quận, dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh và Thanh
niên Tiền phong, hàng ngàn nông dân các xã và công nhân các
đồn điền cao su ở quận được tổ chức kéo về tỉnh lỵ Biên Hòa
tham gia giành chính quyền ở tỉnh. Các lực lượng khắp nơi từ
Bình Sơn, An Viễng, Ship, Phước Lộc, Thanh Nguyên, An Lợi,
Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phước An, Phước Thọ, Phước
Long, Phước Lai, Phước Kiển theo các lộ 15, 17, 19 hội về Biên
Hòa đúng hẹn, khí thế mạnh mẽ, không khí sôi động; giành chính
quyền ở quận Long Thành thành công.
Sự kiện thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ năm 1859 tạo một
bước ngoặt trong đời sống của người dân Nhơn Trạch nói chung
và Hiệp Phước nói riêng, chuyển từ cuộc sống an bình sang đời
sống đấu tranh chống ngoại xâm. Khi triều đình Huế ký hiệp ước
dâng 3 tỉnh miền Đông, rồi cả Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân
Pháp, lòng dân hướng theo cờ nghĩa, như của nghĩa quân Trương
Định, của các hội kín như Thiên địa hội, tìm mọi cách tham gia
vào các cuộc vũ trang chống quân xâm lược Pháp. Nhiều người
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đã thầm lặng hy sinh. Đến khi các cuộc khởi nghĩa vũ trang bị
dập tắt nhưng lòng dân không tắt, vẫn âm ỉ mong chờ. Năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mang đến luồng gió mới, phương
pháp đấu tranh mới, lòng yêu nước của người dân Hiệp Phước
được thổi bùng lên, cùng với cả quận, cả tỉnh, cả nước vùng dậy
theo Đảng chống thực dân Pháp, lập nên nhiều thành tích. Đến
năm 1945, người dân Hiệp Phước được sự lãnh đạo của Đảng
tham gia cướp chính quyền, xóa bỏ gông xiềng, đổi đời, vui hưởng
không khí độc lập tự do.
91

10.2 Page 92

▲back to top


Chương III
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1946 - 1954)
I. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP TÁI CHIẾM
1. Cùng Nam Bộ quật khởi
Sau Cách mạng Tháng Tám, tình hình đất nước có thuận lợi
cơ bản: Nhân dân đã giành quyền làm chủ, gắn bó với chế độ;
nước ta có Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, tình thế đặt ra nhiều khó khăn: Ngoại xâm và nội phản
âm mưu phá hại chính quyền cách mạng non trẻ; quân Đồng minh
dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước ta; quân Nhật vẫn còn
chiếm đóng ở các căn cứ chờ giải giáp mong bắt tay quân Đồng
minh để chống phá cách mạng. Nhiều thành phần nội phản đang
tìm cơ hội để làm tay sai. Trong bối cảnh ấy, chính quyền cách
mạng chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu, đời sống
nhân dân khó khăn, thực lực về kinh tế, tài chính mỏng manh, thế
nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Đương đầu với khó khăn, chính quyền cách mạng non trẻ ở
Nam Bộ quyết bảo vệ thành quả cách mạng, chuẩn bị bước vào
giai đoạn mới. Ngay sau khi giành được chính quyền, Quận ủy
92

10.3 Page 93

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Long Thành, Ủy ban Cách mạng lâm thời quận nhanh chóng triển
khai sáu nhiệm vụ cấp bách mà Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã công bố: Một là, diệt giặc đói; hai là chống giặc dốt; ba là tổng
tuyển cử; bốn là thực hành CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH; năm là
bỏ thuế bóc lột, cấm thuốc phiện; sáu là đoàn kết lương giáo.
Ủy ban công bố bãi bỏ thuế thân, giảm tô tức, tịch thu ruộng
đất của bọn địa chủ phong kiến cấp cho dân nghèo để sản xuất.
Trước mắt, Ủy ban chỉ đạo tịch thu các kho lương thực của đồn
điền, bò nuôi của sở để giải quyết vấn đề lương thực cho công
nhân và hỗ trợ đồng bào nghèo; đồng thời tổ chức, động viên
công nhân khai phá rừng làm rẫy, trồng cây lương thực. Những
chính sách này giải quyết ngay những khó khăn trước mắt, đồng
thời đáp ứng được mong muốn của nhân dân nên được bà con ủng
hộ tích cực. Nhờ vậy, trên địa bàn Long Thành tuy còn khó khăn
nhưng không xảy ra tình trạng thiếu đói.
Trước khi Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa được thành lập1, Quận
ủy Long Thành trực tiếp xin ý kiến và nhận chỉ đạo của Xứ ủy
Nam Bộ về việc tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị,
củng cố chính quyền cách mạng. Được Xứ ủy Nam Bộ nhất trí,
đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô chỉ đạo việc vận động
xây dựng các tổ chức chính trị và đoàn thể từ huyện đến xã. Đầu
tháng 9.1945, Mặt trận Việt Minh quận Long Thành được thành
lập, Chủ nhiệm là ông Nguyễn Văn Chỏi (tức thầy giáo Chỏi)
1  Sau Hội nghị Bình Trước đêm 23.9.1945 Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa mới
thành lập.
93

10.4 Page 94

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nguyên Đoàn trưởng Thanh niên Tiền phong Long Thành; đồng
chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) Phó Bí thư Quận ủy làm Phó Chủ
nhiệm; đồng chí Lê Trân Châu, đảng viên là ủy viên. Các đoàn thể
cứu quốc được thành lập gồm: Hội Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên
Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ lão Cứu quốc, Thiếu nhi Cứu
quốc. Ngoài ra Mặt trận còn vận động thành lập tổ chức Công
giáo Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc. Như vậy, bộ máy lãnh đạo
Đảng, Chính quyền và các đoàn thể cách mạng của Long Thành
hình thành sớm hơn nhiều nơi khác trong tỉnh.
Đến cuối tháng 9, bộ máy chính quyền và đoàn thể ở các xã cơ
bản thành lập xong. Mỗi đoàn thể có Ban chấp hành từ 5-7 người,
hội viên tham gia rất đông. Nhiều xã hầu như người dân nào cũng
tham gia đoàn thể. Nhờ đó, phong trào tăng gia sản xuất đóng góp
giúp đỡ kháng chiến trong toàn huyện được đẩy mạnh. Quận ủy
Long Thành liên lạc thường xuyên với Xứ ủy, nhanh nhạy nắm
chắc được diễn biến tình hình ở Sài Gòn và các nơi khác, dự đoán
thực dân Pháp sẽ quay trở lại xâm lược, do vậy tích cực chủ động
xây dựng lực lượng vũ trang để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nhân
dân. Quận ủy Long Thành chú trọng công tác tuyên truyền, động
viên thanh niên tham gia công tác bảo vệ đất nước, bảo vệ nền
độc lập non trẻ vừa giành được. Các xã nhanh chóng thành lập
dân quân tự vệ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ủy ban lâm thời
xã, mỗi đội dân quân xã có từ 30-36 đội viên, đội dân quân ấp có
từ 10-20 người.
Ở xã Phước Kiển, chính quyền cách mạng cũng được thành
lập. Anh Nguyễn Văn Hồng giữ nhiệm vụ Bí thư Chi bộ, Chủ
94

10.5 Page 95

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nhiệm Mặt trận Việt Minh; anh Từ Văn Văn làm Phó Chủ tịch Ủy
ban cách mạng lâm thời, anh Phạm Văn Hiếu (Thi) là Phó Công
an xã, anh Trần Tấn Công là Ủy viên quân sự, Nguyễn Văn Hựu
là Trưởng ban Tiếp tế, Huỳnh Ngọc Ẩn là Thư ký Nông hội, anh
Trần Công Đương phụ trách Quân báo, chị Lê Thị Cung là Thư ký
Ban Chấp hành Phụ nữ xã.
Tại Phước Lai, người dân bầu anh Phạm Văn Liều làm Chủ
tịch Ủy ban cách mạng lâm thời, anh Lê Văn Cang là Ủy viên
quân sự, chị Trần Thị Tắng là Trưởng ban Chấp hành Phụ nữ
xã, chị Võ Thị Chắm là Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ xã, anh
Huỳnh Văn Diệu là Trưởng ban Tiếp tế.
Nhìn chung, chính quyền cách mạng mới thành lập ở Phước
Kiển, Phước Lai đều đầy đủ các ban, đoàn thể. Đặc biệt, không ai
lãnh tiền lương, tiền công hay thù lao, ngược lại, mọi người đều
ăn cơm nhà lo việc nước nhưng lại làm việc rất hăng hái. Mặt trận
và các đoàn thể phân công, tổ chức nhiều toán đi vận động nhân
dân thực hiện các mặt công tác do xã phân công.
Ban đầu, các đội dân quân xã chưa có vũ khí, hầu hết đều chỉ
trang bị tầm vông vạt nhọn. Một ít xã có được vài khẩu súng do
Ban hội tề giao nộp lúc Tổng khởi nghĩa thành công. Các đội viên
dân quân tìm cách trao đổi lương thực với lính Nhật đã bị giải
giáp để lấy vũ khí. Ở căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ, sau Tổng
khởi nghĩa lính Nhật vẫn ở trong trại, nhưng ta đặt trạm gác phía
bên ngoài. Mỗi lần lính Nhật muốn đi qua trạm gác, phải đổi đạn
dược, lựu đạn, có khi cả súng, nên dần dần trang bị của đội Dân
95

10.6 Page 96

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
quân các xã Phú Thạnh, Đại Phước, Long Tân khá đầy đủ so với
một số địa phương khác. Vũ khí được cất giữ ở Sở Ngựa1, một số
chuyển bớt cho quận.
Ngày 14.9, Quận ủy và Ủy ban tổ chức một cuộc mít tinh với
đông đủ đại biểu và Thanh niên Cứu quốc các xã, phát động tinh
thần toàn dân cứu nước. Sau cuộc mít tinh, gần 100 thanh niên
hăng hái ghi tên tòng quân. Từ 16.9 đến 21.9 đã có 77 thanh niên
tự nguyện lên quận tập trung. Đội “Cộng hòa vệ binh” đầu tiên
của Long Thành được thành lập với 11 khẩu súng trường thu được
của lính mã tà sau khởi nghĩa, còn lại là tầm vông, giáo mác. Ở
hai xã Phước Kiển, Phước Lai, nhiều thanh niên hăng hái tòng
quân, như các anh: Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Văn Xi, Đổng
Văn Cầm, Ngô Văn Tắc, Nguyễn Văn Na, Đào Văn Nhã...
Rạng sáng ngày 23.9.1945, quân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài
Gòn, chính thức tái xâm lược Việt Nam. Hưởng không khí độc
lập chưa tròn tháng, nhân dân Sài Gòn, Gia Định cùng nhân dân
Nam Bộ bước vào giai đoạn kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp xâm lược lần thứ hai.
Ngay trong đêm 23.9.1945, hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa
được tổ chức tại nhà hội Bình Trước, do đồng chí Hà Huy Giáp,
Xứ ủy viên chủ trì. Hội nghị đã chủ trương xây dựng Trường huấn
luyện du kích Vĩnh Cửu nhằm đào tạo cán bộ quân sự cho tỉnh,
đồng thời chủ trương tiến hành “tiêu thổ kháng chiến” và nhiều
1  Nơi Pháp nuôi ngựa để cưỡi trong khu vực Thành Tuy Hạ và các vùng lân cận,
do thời đó hiếm xe cơ giới.
96

10.7 Page 97

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
biện pháp để chuẩn bị kháng chiến. Đồng chí Trần Công Khanh
được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, Hoàng Minh Châu làm Phó
Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Tại Long Thành lúc bấy giờ hừng hực khí thế sẵn sàng chiến
đấu. Ở các xã địa bàn Nhơn Trạch, ngày nào cũng vậy, từ sáng
sớm tới sẩm tối lúc nào cũng vang dậy tiếng bước chân đi đều,
tiếng hô “Một! Hai!” của các chiến sĩ Cộng hòa vệ binh. Anh em
tập đội ngũ, tập tháo ráp, sử dụng súng, tập các động tác cơ bản
trong chiến đấu, tập võ thuật, đánh dao, bắn ná.
Để tăng cường sức mạnh quân sự, Quận ủy chủ trương thống
nhất các lực lượng vũ trang; đến cuối tháng 10, toàn bộ lực lượng
vũ trang của Ban Đồng Nai đã sát nhập về quận. Ngày 23.10.1945,
Quận ủy Long Thành cử đồng chí Trương Minh Kỷ, Huyện ủy
viên, về Phú Hữu bàn bạc với đồng chí Trần Thị Ba gấp rút làm
một số việc: Thành lập Mặt trận Việt Minh, chính quyền và đoàn
thể cứu quốc, sáp nhập Thanh niên Tiền phong vào Đoàn Thanh
niên Cứu quốc, lập Đội Tự vệ chiến đấu, có kế hoạch chuẩn bị bầu
cử Quốc hội khóa I ngày 6.1.1946; có kế hoạch đánh địch bảo vệ
dân gắn với việc “tiêu thổ kháng chiến”.
Thời điểm này, chính quyền cách mạng còn non trẻ ở quận
Long Thành phải đối mặt với nhiều khó khăn. Bên ngoài, thực
dân Pháp chuẩn bị tấn công tái chiếm Long Thành. Bên trong, vừa
phải lo củng cố bộ máy tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn định các
vấn đề liên quan chính sách, ổn định đời sống nhân dân.
97

10.8 Page 98

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Ở Hiệp Phước, do không có tình trạng địa chủ tập trung nhiều
ruộng đất (trước kia có những địa chủ nhiều ruộng đất như gia
đình Tri phủ Lê Văn An, nhưng sau này con cháu dần dần sa sút,
bán bớt ruộng đất, đến năm 1945 các địa chủ không còn tích tụ
ruộng đất nhiều) nên không có chia đất ruộng cho dân, song chính
quyền cách mạng đã tuyên bố tịch thu đất đai thuộc các Sở thơm,
Sở điều, Sở mía mà bọn địa chủ thực dân cướp của người dân
trước đây, trả lại cho các hộ nông dân bị mất đất. Người dân Hiệp
Phước vô cùng phấn khởi, càng thêm tin tưởng vào chính quyền
cách mạng, ai cũng phấn khởi, hăng hái sản xuất, học tập, tham
gia công tác đoàn thể góp phần xây dựng quê hương, bảo vệ chính
quyền.
Phong trào xóa mù chữ diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở các xã.
Buổi tối, người dân từ già đến trẻ thường rủ nhau đến lớp, chăm
chỉ học tập, không khí rất vui vẻ. Ở Hiệp Phước, các lớp bình dân
học vụ xóa mù chữ cho người dân được tổ chức ở các đình Phước
Lai, Phước Kiển, Mỹ Khoan, thanh niên nam nữ, ông già bà cả
kéo nhau đến học rất đông. Ở chợ Phước Thiền, nơi dân Hiệp
Phước thường đến mua bán, thanh niên giăng các biểu ngữ ngay
đầu chợ, ai đọc được mới được vào chợ. Vì vậy mọi người đều cố
gắng học để không bị mù chữ, mắc cỡ với bà con xóm làng.
Ngày 23.9.1945, thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn. Ngay
trong đêm này, hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa diễn ra tại Nhà
hội Bình Trước1 do đồng chí Hà Huy Giáp, thay mặt Xứ ủy chủ
trì; chủ trương xây dựng Trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu để
1  Nay là Nhà truyền thống thành phố Biên Hòa.
98

10.9 Page 99

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đào tạo cán bộ quân sự cho tỉnh; thống nhất các nội dung chuẩn bị
kháng chiến, tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”.
Nghị quyết của Tỉnh ủy khẩn trương được triển khai. Nhơn
Trạch - Long Thành hừng hực khí thế sẵn sàng chiến đấu. Khi
mặt trận Sài Gòn - Gia Định tan vỡ, nhiều lực lượng kháng chiến
ở Sài Gòn kéo về đứng chân ở Long Thành. Long Thành phát
sinh nhiệm vụ hậu cần, các đoàn thể vận động đồng bào đóng
góp lương thực, thực phẩm, vật phẩm thiết yếu; chị em phụ nữ
vận chuyển, nấu nướng, chăm sóc sức khỏe cho từng bộ phận; tổ
chức bếp ăn tập thể cho vài trăm người mỗi ngày, liên tục trong
cả tháng.
Cuối tháng 9, một đơn vị Cộng hòa vệ binh gồm 50 chiến sĩ
với 12 súng từ vùng giáp ranh Sài Gòn - Thủ Đức rút về Long
Thành trong tình trạng chiến đấu độc lập hết đạn, lương thực. Ủy
ban lâm thời quận Long Thành tiếp nhận và quyết định sáp nhập
vào lực lượng Cộng hòa vệ binh quận, bố trí đóng quân tại Bến
Cam (Phước Thiền).
Một đơn vị do Nguyễn Văn Du và Trịnh Công Tây chỉ huy
gồm hơn 70 người và 20 súng về đóng quân rải rác vùng Phước
Long, Bà Ký và Cầu Xéo. Lại thêm một toán vũ trang do Nguyễn
Văn Trực và Lê Văn Cảnh cầm đầu về sát nhập cùng bộ phận
của Tây, Du và tự xưng là “đệ nhị sư đoàn”1. Thành phần của các
đơn vị này phức tạp; chiến sĩ gồm thanh niên công nhân, nông
dân, học sinh yêu nước, nhưng chỉ huy thuộc tầng lớp trung lưu,
1  Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Ủy ban hành chính Nam Bộ tại Sài Gòn
thành lập 4 đơn vị Cộng hòa vệ binh.
99

10.10 Page 100

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lính cũ của Nhật, Pháp nên cách sinh hoạt và tinh thần chiến đấu
không đồng bộ. Bốn tên Tây, Du, Trực, Cảnh bộc lộ hành vi sợ
giặc, xem thường lính, sách nhiễu dân nên nhiều chiến sĩ chán
ghét, lần lượt bỏ đệ nhị sư đoàn, gia nhập các đơn vị khác. Mặc dù
được quân dân Long Thành đón nhận, tiếp tế, nhưng nhóm Trực,
Cảnh, Tây, Du ngày càng thể hiện bản chất thổ phỉ, nhiều lần
cướp bóc, tống tiền, cưỡng bức đồng bào; uy hiếp chính quyền xã;
không chịu sự lãnh đạo của Quận ủy và Ủy ban hành chính quận;
lại còn cấu kết với Lương Văn Tương, đội Giám âm mưu tạo riêng
quyền lực quân phiệt. Chúng tùy tiện bắt thanh niên Trần Trọng
Nghĩa, vu oan, rạch bụng tử hình tại chợ quận; lộng hành trong bắt
bớ, chiếm đoạt tài sản của dân; lại có âm mưu uy hiếp, bắt cóc Bí
thư Quận ủy. Sau nhiều lần cảnh báo, dàn xếp, thuyết phục không
thành, cuối tháng 10.1945, Quận ủy và Ủy ban hành chính quận
Long Thành quyết định giải tán lực lượng đệ nhị sư đoàn; bắt
giam 5 tên Tây, Du, Trực, Cảnh, Giám; mở phiên tòa công khai
tại sân banh Phước Thiền, tử hình tại chỗ Tây, Du, Trực, Cảnh; tên
Giám được khoan hồng, chạy về Sài Gòn. Vụ án xử 5 tên lãnh đạo
đệ nhị sư đoàn làm trong sạch lực lượng vũ trang, củng cố lòng tin
của quân dân Long Thành đối với Chính phủ kháng chiến.
Cuối tháng 10.1945, Long Thành được tỉnh Biên Hòa tăng
cường 11 cán bộ quân sự vừa tốt nghiệp Trại huấn luyện du kích
Vĩnh Cửu với 11 khẩu súng trường. Đây là những cán bộ quân
sự cách mạng chính quy đầu tiên của quận. Số cán bộ quân sự
này đã được giao nhiệm vụ tổ chức xây dựng trường quân chính;
lớp huấn luyện quân chính đầu tiên được khai giảng ở Hang Nai
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
(Phước An) giữa tháng 11.1945, 16 học viên là cán bộ dân quân
các xã, ấp trong toàn quận tham dự. Đến thời điểm này, toàn bộ
lực lượng vũ trang Long Thành hợp thành hệ thống thống nhất do
Quận ủy lãnh đạo.
Cũng trong những ngày cuối tháng 10.1945, các lực lượng vũ
trang kháng chiến trong nội thành lần lượt rút về các vùng nông
thôn để bảo toàn lực lượng, chiến đấu lâu dài. Tư lệnh Dương Văn
Dương đưa bộ đội Bình Xuyên về đóng quân khắp dải Rừng Sác
Long Thành, từ Bà Trao đến Phước An và từ Thái Thiện đến Tam
An. Long Thành có thêm hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ với nhiều vũ
khí, máy móc được trang bị từ các công binh xưởng. Quân số tăng
nhưng nguồn lực hậu cần chưa kịp chuẩn bị, Long Thành gặp khó
khăn, cử đồng chí Võ Văn Truyện về tỉnh báo cáo tình hình, xin
chi viện, nhưng tỉnh còn khó khăn hơn, Long Thành phải nỗ lực
tự quản.
Ngày 10.10.1945 Quận ủy quyết định triệu tập hội nghị cán
bộ quân dân chính Đảng tại đình Phước Kiển để hạ quyết tâm,
bàn giải pháp thực hiện chủ trương “tự lực, tự cường” của Tỉnh
ủy. Kết luận hội nghị, đồng chí Trương Minh Kỷ kêu gọi quân
dân Long Thành triệt để thi hành chỉ thị của tỉnh bằng sức lực của
quần chúng ở địa phương. Tinh thần của hội nghị được quán triệt
trong toàn quận. Nhiều sáng kiến, nhiều giải pháp được triển khai
thực hiện. Phong trào tiết kiệm, đóng góp nuôi quân được phát
động sôi nổi. Dân tin tưởng cho chính quyền kháng chiến vay,
mượn tài sản để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến. Bộ đội đóng
quân phân tán trong dân được dân nuôi, nhường chỗ làm việc,
101

11.2 Page 102

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhường phương tiện đi lại. Bộ tư lệnh Bình Xuyên đóng trong nhà
đồng bào được dân phục vụ bếp ăn tập thể. Mỗi xã đều tổ chức
từ 30 đến 40 người hỗ trợ cán bộ, chiến sĩ. Ở tất cả các xã đều có
hình thức vận động đóng góp nuôi quân; đồng bào tích cực hưởng
ứng, lương giáo, giàu nghèo đều tham gia; có người đóng góp
hàng trăm giạ lúa, hàng ngàn đồng tiền mặt để nuôi quân. Đồng
bào ở Phước Long, Phước Thiền, Phước Lai, Phước Kiển, Long
Tân, Phú Hội ủng hộ xe bò cho bộ đội vận chuyển. Trong “tuần lễ
vàng”, nhiều phụ nữ đã tháo cả cà rá, bông tai ủng hộ kháng chiến.
Trong các đợt “tuần lễ đồng”, nhiều gia đình hiến cả lư hương,
chân đèn thờ cúng trong nhà. Phong trào tự túc tự cường ở Long
Thành được nhân dân ủng hộ nên thành công, gia tăng nội lực cho
kháng chiến.
Ngày 25.10.1945 quân Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa.
Quân Nhật ở Long Thành vốn án binh bất động từ khi chính
quyền về tay nhân dân, nay giương súng gây áp lực nhằm giải tán
lực lượng kháng chiến; nói là để bảo vệ quốc lộ 15 cho xe Đồng
minh xuống Bà Rịa, Vũng Tàu; kỳ thực đó là âm mưu thỏa hiệp
của quân Đồng minh Anh, Ấn dọn đường cho thực dân Pháp mở
rộng vùng chiếm đóng. Trước tình hình này, Quận ủy chuyển về
xã Phước Thiền, Ủy ban hành chính đóng tại chùa Nước Nhĩ, ấp
Bến Sắn; chủ trương sơ tán bộ máy lãnh đạo kháng chiến về các
xã; Phước Kiểng, Mỹ Khoan, Phước Lai trở thành vành đai bảo vệ
các cơ quan lãnh đạo của quận.
Quận ủy, Ủy ban hành chính quận Long Thành từ Phước Thiền
chuyển về chùa Quang Mỹ (Phước Kiển). Đồng chí Dương Bạch
Mai - Trưởng đoàn thanh tra chính trị miền Đông về kiểm tra tình
102

11.3 Page 103

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
hình kháng chiến ở Long Thành. Sau kiểm tra, Ủy ban hành chính
quận được cải tổ. Đồng chí Trịnh Văn Dục, Bí thư Quận ủy, kiêm
chức Chủ tịch Ủy ban hành chính quận. Phó Chủ tịch là Võ Văn
Truyện (tức Hoàng Việt Hà). Đồng chí Trương Minh Kỷ là Phó
Chủ tịch kiêm ủy viên tư pháp.
Vào lúc 1 giờ đêm ngày 11.11.1945, lính Nhật còn trú đóng ở
đồn binh Phước Kiển đột nhiên1 tổ chức bắt cóc đồng chí Bí thư
Quận ủy Trịnh Văn Dục và Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc Đỗ Hữu
Phú. Đây là động thái gây hấn với chính quyền cách mạng.
Sáng ngày 12, Quận ủy Long Thành tổ chức một cuộc họp
khẩn cấp do đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) chủ trì, quyết
định tổ chức biểu tình toàn quận đòi Nhật phải trả hai đồng chí
Dục và Phú. Sau cuộc họp, cán bộ tỏa ngay về các xã, vận động
người dân tham gia biểu tình. Trước sự trở mặt trắng trợn của bọn
Nhật, người dân Nhơn Trạch, Long Thành ai cũng phẫn nộ.
Mờ sáng ngày 13.11.1945, khắp các ngã đường trong huyện
đã rầm rập những bước chân người. Hơn 4.000 công nhân cao su
Bình Sơn - An Viễng và đồng bào Lộc An theo lộ 25 đi ra. Gần
5.000 người thuộc các xã dọc lộ 15 từ Thái Thiện, Tuy Long, Long
An dồn lên, từ Bến Gỗ, Phước Tân, Tam Phước, An Lợi, Tam An,
Thanh Nguyên dồn xuống. Hơn 5.000 đồng bào Ông Kèo, Phước
An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiển theo lộ 19,
Phước Thành, Long Tân, Phú Thạnh, Mỹ Hội cũng theo tỉnh lộ
17 hội nhau tại Phước Thiền rồi tiến thẳng vào thị trấn. Xã nào
cũng có đoàn tham gia biểu tình, có cán bộ xã tổ chức hướng dẫn.
1  Theo lệnh của chỉ huy Đồng minh Anh - Ấn.
103

11.4 Page 104

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đến thị trấn Long Thành thì gặp bọn lính Nhật cản đường, giựt
băng rôn, níu kéo người cầm cờ, tìm cách cản bước đoàn biểu
tình. Đoàn biểu tình giằng co với lính Nhật, đoàn người xông ào
lên, giặc lui ta tiến, lấy số đông áp đảo, khí thế như nước lũ; lính
Nhật yếu thế, lùi bước, rồi nhảy lên xe chạy đi. Đoàn người kéo
đến cổng Gà, một tốp lính Nhật đang ngồi dưới gốc cao su đứng
bật cả dậy, chĩa súng lên trời nổ nhiều phát đe dọa để đoàn biểu
tình dừng bước, nhưng đoàn người vẫn xông tới, tràn vào cổng,
bọn Nhật chặn không được nên mới chịu tiếp chuyện. Chúng nói
rằng đã đưa ông Dục, ông Phú về Biên Hòa rồi, nếu tiếp tục tràn
vào chúng sẽ nổ súng. Anh Hưởng phiên dịch; đồng chí Vũ Hồng
Phô hội ý lãnh đạo rồi lệnh cho đoàn kết thúc biểu tình, lúc đó hơn
12 giờ trưa.
Đồng chí Bí thư Quận ủy bị địch bắt là một tổn thất lớn của
cách mạng Long Thành. Ngay sau đó, địa phương thực hiện
phương châm sách lược của Trung ương: “Đảng Cộng sản Đông
Dương tuyên bố tự giải tán”, nhưng thực chất là rút vào hoạt động
bí mật1. Theo chỉ thị của trên, Đảng bộ Long Thành không còn tổ
chức sinh hoạt, lại thêm một khó khăn mới. Nhưng với tinh thần
của người cộng sản, các đảng viên vẫn tích cực hoạt động phát
huy vai trò của Mặt trận Việt Minh các cấp, lãnh đạo đi sâu vào cơ
sở vận động quần chúng. Nhờ vậy phong trào kháng chiến trong
quận vẫn phát triển mạnh mẽ. Thời điểm đó, một số xã thuộc địa
bàn Nhơn Trạch chưa có chi bộ Đảng nên sự lãnh đạo của Đảng
1  Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày
25.11.1945, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - trích văn kiện tập II - NXB sách
giáo khoa Mác - Lênin, trang 14.
104

11.5 Page 105

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thông qua vai trò của Mặt trận Việt Minh và các đảng viên kỳ cựu.
Như ở Hiệp Phước, Phước Kiển đã có chi bộ Đảng nhưng Phước
Lai chưa có, mọi sự lãnh đạo của Đảng ở Phước Lai là thông qua
Mặt trận Việt Minh của xã.
Đến tháng 11.1945, cuộc vận động ủng hộ Chính phủ nuôi
quân vẫn sôi nổi, phát triển khắp nơi. Lương thực, thực phẩm
cung cấp cho bộ đội không thiếu. Công binh xưởng có nhiều đồ
đồng do dân đóp góp để chế tạo vũ khí. Các xã Tập Phước, Bà Ký,
Tam An, Phú Hữu, Phú Hội, Phước Khánh, Phước Thọ, Phước
Long, Phước Lai, Phước Kiển, Phước Thiền là những đơn vị thực
hiện tốt phong trào. Đời sống nhân dân còn nghèo khó, nhưng qua
phong trào, nổi lên nhiều tấm gương tiêu biểu của các mẹ, các chị.
Như ở Phước Lai có mẹ Nguyễn Thị Hương, Phạm Thị Trừ, Phạm
Thị Bánh, Dương Thị Phụ, Phạm Thị Niềm, Nguyễn Thị Cửu;
Phước Kiển có các mẹ Ngô Thị Huyền, Trần Thị Cẩm, Đào Thị
Ngọt, Hồ Thị Sùng, Nguyễn Thị Dính, Lý Thị Vĩnh, Huỳnh Thị
Đâu... Sự đóng góp của mỗi gia đình ít hay nhiều, bằng cách này
hay cách khác đều toát lên tinh thần ủng hộ kháng chiến, tin tưởng
chính quyền kháng chiến, ấm tình quân dân cá nước.
Ở mặt trận chống giặc dốt, phong trào xóa mù chữ được phát
động gắn với công cuộc xây dựng đời sống mới, nhiều lớp học
bình dân được tổ chức bằng nhiều hình thức, việc dạy và học ở
mọi nơi. Hầu hết các xã đều tổ chức được các lớp học quốc ngữ;
người nhiều chữ dạy người ít chữ. Khắp nơi đều có khẩu hiệu
“toàn dân biết chữ”. Trong thanh niên có phong trào “ai mù chữ
không được lấy vợ lấy chồng”. Các bài ca cách mạng được phổ
105

11.6 Page 106

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
biến rộng rãi. Không khí trong làng xã rộn ràng tinh thần thi đua,
thi đua học chữ gắn với thi đua sản xuất.
Ở lĩnh vực huấn luyện vũ trang, đến giữa tháng 11.1945,
trường quân chính quận đã tổ chức hai khóa huấn luyện quân sự
cho hơn 100 cán bộ xã, và lớp cứu thương cho 50 học viên với mô
hình tủ thuốc cứu thương ở mỗi xã. Đây là kết quả đầy cố gắng
của trường quân chính quận trong điều kiện ban đầu còn trất nhiều
khó khăn. Trong thời gian này, Trung đội Giải phóng quân đầu
tiên của Long Thành được chính thức thành lập từ các lực lượng
Cộng hòa vệ binh của quận, quân số 200 người; vũ khí gồm 92
khẩu súng các loại, 150 lựu đạn và hơn 1000 viên đạn. Trung đội
có một xưởng vũ khí nhỏ với 15 người chế tạo được bom mìn thô
sơ. Lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc (tiền thân của công an) cũng
được củng cố, bổ sung nhân lực và trang bị, tăng cường công tác
vũ trang, tuyên truyền, xây dựng mạng lưới cơ sở với phương
châm “dựa vào bộ đội và đoàn thể để phát triển lực lượng”. Ở
Hiệp Phước, nhiều thanh niên đã gia nhập lực lượng như: Lâm
Văn Huệ, Mã Văn Bình, Đào Văn Kẹo, Huỳnh Văn Ngô (Phước
Kiển); Huỳnh Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Cảnh (Phước Lai).
Tuy đã được thống nhất, nhưng thành phần các lực lượng vũ
trang vẫn chưa thuần nhất. Do thành phần xuất thân và nguồn gốc
tạo lập khác nhau, nhiều bộ phận chưa gắn kết với nhau. Có nhiều
nhóm hợp lại từ giang hồ hảo hán, chưa giác ngộ chính trị, thích
hành động theo cách riêng, gây phiền nhiễu nhân dân và chính
quyền địa phương. Trường hợp của Ba Nhỏ là điển hình, cần phải
xử lý để an lòng dân, chấn chỉnh quân phong quân kỹ.
106

11.7 Page 107

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Ba Nhỏ tên thật là Lê Văn Khôi, trước Cách mạng Tháng Tám
cầm đầu một băng nhóm ở Xóm Củi, nhanh chóng trở thành tay
anh chị giang hồ, tham gia đánh giặc Pháp tại mặt trận Thị Nghè -
Bà Chiểu - Cầu Bông; gia nhập lực lượng Bình Xuyên, xưng danh
bộ đội cách mạng. Ỷ thế có công, Ba Nhỏ tập hợp nhóm quân bản
tính lưu manh làm nhiều điều bạo ngược. Khi kéo quân về hội
nhập các lực lượng kháng chiến ở Long Thành, nhóm Ba Nhỏ cấu
kết cùng nhóm lưu manh Tư Cò Đá (trước đây hoạt động ở vùng
Bưng Sáu Xã, nay thuộc thành phốThủ Đức) nhũng nhiễu nhân
dân, giết người không ghê tay. Ai chống lại là bị bọn chúng chụp
mũ là Việt gian rồi sát hại. Nhóm Ba Nhỏ lộng hành không chỉ
làm cho quần chúng nhân dân bất bình, mà còn khiến nhiều người
hiểu sai về quân đội cách mạng. Mặc dù đã được nhắc nhở, giáo
dục, Ba Nhỏ vẫn ngang ngược, không thay đổi. Chính quyền cách
mạng quyết định trừng trị.
Nhận đơn tố cáo Ba Nhỏ, Khu bộ trưởng Khu 7 là Nguyễn
Bình trực tiếp xử lý, thuyết phục các thủ lĩnh Bình Xuyên: Ba
Dương, Hai Vĩnh, Tám Mạnh, Năm Hà, Mười Lực đồng ý mở
phiên tòa xử tội Ba Nhỏ. Nơi mở phiên tòa được chọn là chùa
Phước Hưng (xã Phước Lai). Bộ đội Liên chi 2, 3 Bình Xuyên của
Dương Văn Dương được phân công làm nhiệm vụ bảo vệ phiên
tòa. Đây là nhóm nòng cốt trong bộ đội Bình Xuyên, có kỷ luật
nghiêm minh và tổ chức tốt.
Theo phương án do Bộ chỉ huy Liên chi 2 và 3 triển khai,
lực lượng bảo vệ phiên tòa gồm 2 vòng trong và ngoài. Vòng
ngoài có 3 trung đội, trong đó 1 trung đội của bộ đội Phú Xuân
có tăng cường trọng liên 13,2 li chốt chặn ở ngã ba Phước Long
107

11.8 Page 108

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
(nay thuộc xã Long Thọ), cách nơi xử án 1,5 km về hướng Đông
Nam; 1 trung đội thuộc bộ đội Tư Huỳnh cũng được tăng cường
trọng liên 13,2 li bố trí đội hình dọc hai bên lộ 19, đoạn chạy qua
làng Phước Mỹ; 1 trung đội thuộc bộ đội Chín Hiệp triển khai lực
lượng tại Bàu Chai, cách khu vực xử án 1km về phía Tây; ngoài
ra còn bố trí 1 tiểu đội thuộc Ban trinh sát tiến hành kiểm soát
chặt con kênh Bà Ký, đoạn từ Phước Thiền (phía Tây Bắc) đến
đồn điền Butier (phía Đông Nam, dài 4km). Ở vòng trong bố trí
1 trung đội vệ binh, có nhiệm vụ tổ chức kiểm soát, tuần tra chặt
khu vực xung quanh chùa Phước Hưng. Bên cạnh đó, một số cán
bộ chỉ huy Ban trinh sát và Ban tình báo được phân công theo dõi
và kịp thời có biện pháp ứng phó với những tình huống bất trắc.
Nhân chứng có dự xem phiên tòa1 cho biết: Phiên tòa công
khai mở vào đầu tháng 12.1945. Trung tướng Nguyễn Bình là
chánh án, mặc áo xá xẩu màu xám ngồi giữa; hai bên là Ba Dương
và Tám Mạnh. Tham dự phiên tòa còn có đại diện Khu bộ Khu 7,
Ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Biên Hòa, tỉnh Bà Rịa, quận
Thủ Đức, quận Long Thành và Ty Công an tỉnh Bà Rịa cùng các
vị cao tuổi ở địa phương, các chi đội trưởng và chỉ huy trưởng các
đơn vị bộ đội đóng trên các địa bàn phụ cận. Phiên tòa có luật sư
bào chữa. Các bước tuyên đọc cáo trạng, luật sư biện hộ đọc lời
bào chữa được tiến hành đúng thể thức. Sau khi nghe tòa luận tội
và phân tích tác hại, Ba Nhỏ nhận tội.
Nguyễn Bình thay mặt tòa tuyên án, nêu rõ những nội dung
Ba Nhỏ đã phạm các tội:
1  Đồng chí Phan Thị Chi, sinh năm 1926, đảng viên 70 năm tuổi Đảng, ở xã
Long Thọ.
108

11.9 Page 109

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Khủng bố đồng bào, làm giảm lòng tin của đồng bào đối với
lực lượng vũ trang kháng chiến, làm mất thanh danh của Vệ quốc
đoàn.
- Coi thường chủ trương, đường lối, chính sách và các nghị
quyết của Chính phủ Trung ương, của thượng cấp. Dùng bạo lực
uy hiếp, khủng bố chính quyền và các đoàn thể cách mạng ở địa
phương.
- Thoái thác nhiệm vụ chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Khi
địch tiến công, không tổ chức chiến đấu mà bỏ chạy.
Xét trong lúc nước nhà lâm nguy, kháng chiến đang gặp nhiều
khó khăn, phức tạp, để giữ vững niềm tin của nhân dân vào cách
mạng, đặng tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh
kháng chiến, tòa tuyên án: Tử hình.
Ba Nhỏ xin được nói lời cuối cùng: “Tội tôi làm tôi xin chịu,
cám ơn anh Ba (tức Nguyễn Bình) đã chỉ dạy cho tôi. Xin anh Ba
cho tôi một đặc ân, được tự xử lấy mình”. Nguyễn Bình đồng ý,
ra lệnh cho một cán bộ đưa khẩu súng ngắn cho Ba Nhỏ. Ba Nhỏ
nhận khẩu súng rồi nhìn đám đông, nói: “Các bạn hãy lấy tôi làm
gương. Xin đừng đi con đường của tôi”. Nói xong, Ba Nhỏ tay
phải cầm báng súng, tay trái vuốt ve nòng súng. Mọi người nín
thở, lo lắng cho ba vị quan tòa nhưng Nguyễn Bình vẫn bình tĩnh.
Ba Nhỏ từ từ nâng súng lên đầu, ngang vành tai, bóp cò. Súng nổ,
Ba Nhỏ gục xuống tắt thở. Xác Ba Nhỏ được đưa vào chiếc hòm
gỗ để sẵn, khâm liệm đàng hoàng, đưa đi chôn cất. Phiên tòa xử
Ba Nhỏ nghiêm minh, được dân chúng đồng tình, quân dân Long
Thành càng tin yêu chính quyền cách mạng.
109

11.10 Page 110

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Về công tác chuẩn bị bầu cử Quốc hội, nhiệm vụ được triển
khai từ cuối tháng 9, theo lộ trình từng bước đến tháng 11 công
việc ngày càng khẩn trương, mục tiêu ngày bầu cử 6.1.1946 đến
gần. Ngay sau khi đoàn đại biểu quận được tỉnh tập huấn, việc
triển khai ở quận được thực hiện đồng bộ, rộng khắp; vừa giáo dục
nhận thức về bầu cử dân chủ, phổ biến thể lệ, vừa tuyên truyền
vận động đồng bào đi bầu. Trong hai tháng liên tục, Mặt trận Việt
Minh phân công cán bộ lặn lội tuyên truyền khắp các xóm ấp,
khu ở của đồng bào. Các đoàn thể Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ
Cứu quốc, Nông hội Cứu quốc tổ chức nhiều buổi học tập, tuyên
truyền trong đoàn viên, hội viên của mình. Hình thức tuyên truyền
thô sơ giản đơn nhưng có chiều sâu ở tấm lòng của người dân đối
với Chính phủ Cụ Hồ. Việc bầu cử mới mẻ, còn nhiều ngỡ ngàng
nhưng người dân tiếp thu nhanh vì đó là điều hệ trọng, là khát
vọng ngàn đời của người dân mong có nhà nước độc lập, tự do,
dân chủ: lần đầu tiên người dân Việt Nam được đi bầu cử.
Công tác chuẩn bị kỹ lưỡng nên việc bầu cử ở Long Thành
thành công. Trong vòng vây của thực dân Pháp, mặc cho bom
rơi đạn nổ, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I ngày 6.1.1946
được thực hiện với tinh thần phấn khởi, không khí náo nhiệt như
ngày hội lớn. Tất cả các xã ở Long Thành, trong đó có Phước Lai,
Phước Kiển, đều có hơn 90% cử tri lần đầu sử dụng quyền công
dân của mình bầu ra đại biểu nhân dân của chính mình. Đại biểu
Quốc hội ở tỉnh Biên Hòa trúng cử 3 đồng chí gồm: Hoàng Minh
Châu (tức Nguyễn Thành Vĩ), Phạm Văn Búng1 và Điểu Xiển.
1  Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930-1995, Nxb. Đồng Nai.
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Sau bầu cử là các cuộc mít tinh mừng thắng lợi, biểu dương
lực lượng, tinh thần, tình cảm của quân dân Long Thành cùng cả
nước hướng về Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Chống lấn chiếm vùng kháng chiến
Quân dân Long Thành đã góp phần vào thắng lợi của cả nước
bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với thắng lợi này, công cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã có Nhà nước hợp hiến điều hành, có Chính
phủ thống nhất chỉ huy, làm tăng uy thế chính nghĩa và tính pháp
lý trên thế giới. Kết quả bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà
nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng
trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc,
giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Kết quả thắng lợi của bầu cử Quốc hội là đóng góp của cả
nước và cả nước cùng ra sức bảo vệ thành quả ấy, trong đó có sự
góp phần của quân dân Long Thành. Từ đây, công cuộc kháng
chiến của quân dân Long Thành bước sang một giai đoạn mới
với tư thế mới. Sau bầu cử thắng lợi, Quận ủy xác định nhiệm vụ
trọng tâm tiếp theo là tăng cường lãnh đạo, củng cố các tổ chức
Đảng ở cơ sở, mở rộng mặt trận đoàn kết toàn dân, phát triển lực
lượng vũ trang thống nhất, đánh thắng mọi cuộc càn quét, lấn
chiếm của địch.
Trước thành quả đạt được của cách mạng, thực dân Pháp
càng lo lắng, càng điên cuồng tổ chức nhiều cuộc hành quân đánh
chiếm vùng kháng chiến. Long Thành đang là vùng độc lập, là
111

12.2 Page 112

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cái gai trước mắt và là hiểm họa lâu dài buộc quân Pháp tập trung
quân lực để đánh chiếm. Từ Biên Hòa, quân Pháp tổ chức cuộc
hành quân nhiều mũi theo các hướng sông Lòng Tàu, lộ 17, 19 và
quốc lộ 15 hòng bao vây, chia cắt, tiêu diệt các lực lượng kháng
chiến, chiếm đóng Long Thành. Đoán biết ý đồ của địch, Quận ủy
lãnh đạo toàn hệ thống xây dựng kế hoạch chiến đấu, thực hiện
“tiêu thổ kháng chiến”, chiến tranh nhân dân, kết hợp lối đánh du
kích với chủ động tiến công địch. Ở các xã, đồng bào tự dỡ nhà
rút vào rừng lập làng kháng chiến. Các tổ thanh niên tình nguyện
cùng dân quân tháo dỡ công sở, đình miễu, cất giấu tài sản công
quyết không để địch chiếm giữ biến thành công cụ tấn công quân
kháng chiến. Vì vậy, những nơi giặc Pháp chiếm được gần như
vườn không nhà trống, không còn gì để cướp phá, không có thóc
lúa để làm quân lương.
Sau bầu cử Quốc hội, Long Thành chuẩn bị đón Tết Bính Tuất
1946, tết độc lập đầu tiên của dân tộc, nhưng luôn cảnh giác với
quân Pháp. Cảnh giác không thừa. Ngày 20.1.1946 nhằm 18 tháng
Chạp, quân Pháp bắt đầu nổ súng. Mờ sáng ngày 25.1.1946, đúng
vào lúc đồng bào chuẩn bị đưa ông Táo về Trời thì tiếng súng tấn
công của giặc Pháp lại nổ vang. Tàu giặc qua ngõ căn cứ Thành
Tuy Hạ chạy dọc theo sông Đồng Nai, đổ quân vào khu vực Tam
Phước, Tam An, Long Điền, Long Tân, Phú Thạnh, đồng thời bắn
đại bác lên bờ hỗ trợ cho bộ binh. Từ Sài Gòn, một tiểu đoàn khác
vượt bến phà Cát Lái tấn công Long Thành ở phía Tây. Giặc Pháp
đánh vào Long Thành cả từ ba hướng với ý định nhanh chóng
thôn tính địa bàn chiến lược này. Gần trưa, quân Pháp chiếm được
thị trấn Long Thành, đặt cối 60 li và 81 li bắn dọc theo quốc lộ 15.
112

12.3 Page 113

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Sau đó chúng tiếp tục tấn công để hợp quân với các cánh khác.
Một mũi quân giặc theo lộ 15 đến ấp Bà Ký (xã Long Phước) thì
phải cụm lại vì bị chặn đánh quyết liệt suốt từ Long An xuống.
Mũi thứ hai của địch tiến theo phía Tây quốc lộ 15 xuống tỉnh
lộ 17, tới Bến Cam cũng phải quay lui, co cụm lại tại xã Phước
Thiền vì bị chặn đánh, thương vong lớn. Trên đoạn đường từ ngã
ba Cầu Xéo đến Bến Cam, quân Pháp đã tổn thất hàng chục tên.
Không tiến được, chúng đặt súng cối tại chợ Phước Thiền bắn
liên tục vào các xã xung quanh. Buổi trưa và buổi chiều, máy bay
phóng pháo đến ném bom, bắn phá các xã dọc lộ 19. Nhiều đám
cháy bùng lên ở Phước Kiển, Phước Lai, Phước Long.
Cánh quân từ Cát Lái qua chia làm hai mũi. Mũi thứ nhất
theo đường Phước Lý, phối hợp với lực lượng đổ quân ở khu
vực Thành Tuy Hạ tiến đến Long Tân, thì đụng đơn vị bộ đội
đóng ở khu vực này. Bộ đội cùng dân quân ba xã Long Tân, Phú
Thạnh, Phú Hội chặn đánh giặc cả ngày 25.1.1946. Địch chết và
bị thương gần một đại đội, nhưng quân ta cũng hết đạn. Bộ đội
phải cắt rừng về Phước An trong đêm. Sáng hôm sau quân Pháp
tiến tới Phú Hội thì co cụm lại. Mũi thứ hai theo lộ 19 tới Xoài
Minh bị bộ đội Bình Xuyên do Dương Văn Dương chỉ huy cùng
giải phóng quân Long Thành chặn đánh. Suốt ngày 25.1, quân
Pháp tiến được không đầy 10 cây số. Đến sáng 26.1, chúng phải
rút lui ở một số nơi, nhưng quyết chiếm bằng được một số khu
vực xung yếu quanh căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ.
Chiều ngày 26.1, tiếng súng lắng dần. Hai ngày chiến đấu ác
liệt ở Long Thành trôi qua. Quân Pháp chiếm được nội thị Long
Thành và một số nơi xung yếu quanh Thành Tuy Hạ, chịu tổn thất
113

12.4 Page 114

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lớn nhưng vẫn chưa đạt mục đích yêu cầu. Quân ta chiến đấu anh
dũng, chặn địch trên tất cả các mũi, làm chủ được vùng nông thôn,
bảo vệ được các căn cứ, làm thất bại âm mưu chia cắt của địch, có
một số thương vong nhưng đạt được thắng lợi cơ bản về tinh thần
kháng chiến, nghĩa tình quân dân và phối hợp các lực lượng. Địch
bị giáng đòn nặng nề, hơn 100 tên lính Âu Phi bị chết, gần 100 tên
khác bị thương, nhiều khí tài bị phá hủy. Quân ta cũng thiệt hại
lớn: 300 đồng bào, cán bộ chiến sĩ hy sinh, gần 400 người khác
bị thương, 20 chiếc ghe của liên quân Bình Xuyên bị đánh đắm,
ba kho gạo (mỗi kho 5 tấn) bị cháy. Ở một số xã như Phú Thạnh,
Long Tân, Bình Thạnh, khi quân Pháp đổ bộ vào làng thì phần lớn
người dân, trong đó chủ yếu là người già và trẻ em đã đi tránh nạn,
nhưng chúng bộc lộ bộ mặt dã man tàn ác của quân cướp nước,
bắn giết bừa bãi đồng bào vô tội còn ở lại, đốt cháy cả trăm căn
nhà của người dân.
Tại Sở chỉ huy bộ đội Bình Xuyên ở Phước An, một cuộc họp
gồm các đồng chí lãnh đạo huyện và các đơn vị bộ đội trong quận
được tổ chức, dưới sự chủ trì của Tư lệnh Dương Văn Dương. Hội
nghị đã đánh giá cao tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu của
bộ đội, chính quyền và nhân dân trong quận, đồng thời phổ biến
lệnh của Khu bộ trưởng Nguyễn Bình: chuyển một bộ phận bộ đội
Bình Xuyên về chiến trường Bến Tre.
Chấp hành mệnh lệnh của Khu bộ Khu 7, sau ngày 26.1, các
đơn vị bộ đội từ các xã dọc đường 15, 17 và 19 lần lượt rút về
Phước An, tổ chức lại lực lượng, tách riêng một bộ phận trang bị
gọn nhẹ lên đường đi Khu 8, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Dương
Văn Dương. Bộ đội ra đi trong lúc tình hình đang căng thẳng,
114

12.5 Page 115

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nhưng quận vẫn đảm bảo cung cấp được 20 ghe lớn chở quân, 6
tấn gạo và 20 ngàn đồng Đông Dương cho các đơn vị chiến đấu.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí đóng
quân các nơi chúng mới chiếm được. Tại thị trấn Long Thành,
chúng xây dựng một đồn lớn gọi là chi khu quân sự gồm một đại
đội Âu Phi do tên đại úy Rebone chỉ huy. Chúng đưa Tô Hàm từ
Biên Hòa về làm quận trưởng hành chánh để tổ chức chính quyền
bù nhìn trong huyện. Ở An Lợi, Tam An, Phước Nguyên, Phước
Lý, Phú Thạnh, Phú Hội, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai,
Phước Kiển, Bà Ký, Phước Thiền địch đều đóng bót. Mỗi bót
khoảng một trung đội Âu Phi do một thiếu úy hoặc một trung úy
Pháp chỉ huy.
Sau khi có chỗ đóng quân, từ thượng tuần tháng 2.1946, địch
liên tiếp mở các cuộc hành quân lùng sục ra các vùng xung quanh
cướp phá đồ đạc của dân, lùng bắt cán bộ Việt Minh, bắt lính và
từng bước thành lập bộ máy tề xã nhằm ổn định khu vực chiếm
đóng. Chính quyền kháng chiến non trẻ tại các xã Phước Tân,
Tam An, An Lợi, Phước Nguyên, Phước Lý, Phú Thạnh và thị trấn
Long Thành vừa mới thành lập hầu như tan rã, chỉ còn một vài
đồng chí trung kiên bám trụ. Lực lượng Bình Xuyên phải chuyển
công binh xưởng vào sâu trong khu Rừng Sác. Một số đơn vị nhỏ
vẫn đóng trong khu vực Lòng Chảo. Các cơ quan quận cũng rút về
các xã dọc lộ 19 từ Phước Lai đến Phước An. Tại Phước Lai, một
đội viên Quốc gia tự vệ cuộc xã đã ngã xuống trong trận chống
càn lấn chiếm của quân Pháp, đó là đội viên Đào Văn Mừng, hy
sinh ngày 6.1 âm lịch (7.2.1946), lúc ấy mới 21 tuổi, đang chuẩn
bị cưới vợ.
115

12.6 Page 116

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Trong khi lực lượng vũ trang Bình Xuyên của Dương Văn
Dương chuyển xuống Bến Tre thì địch lấn ra chiếm đóng Phước
An, Phước Thọ; cuối tháng 4.1946 chúng đóng tua 8 ấp Cầu Sắt.
Quân số địch ở đây không đông, mỗi lần càn bố chúng thực hiện
“ba sạch”: Đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Đội Quốc gia tự vệ cuộc
hai xã Phước Lai, Phước Kiển đã kiên cường chống trả những
trận càn của địch, nhiều người đã nằm xuống trong lúc bảo vệ
mảnh đất quê hương: hai đội viên Lâm Văn Nguyên và Nguyễn
Văn Biên cùng hy sinh ngày 15.6.1946, Phạm Văn Thu hy sinh
ngày 16.7.1946, Đoàn Văn Cho hy sinh ngày 16.9.1946. Phước
Lai cũng tổn thất người Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc Lê Văn Cang
vào ngày 16.6.1946. Anh Đoàn Văn Lọt đã thay thế nhiệm vụ làm
Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc, chỉ huy các đội viên tiếp tục kiên
cường chống càn.
Phong trào diệt ác trừ gian manh nha ở một số nơi khiến địch
dù chiếm đóng nhưng không lập được bộ máy tề xã. Quận Long
Thành rút một số cốt cán đội tự vệ chiến đấu các xã, thành lập bộ
đội địa phương tập trung. Cấp trên dự báo: các lực lượng tỉnh tăng
cường về huyện Long Thành hoạt động khá đông, sớm muộn gì
địch cũng rút khỏi vùng ta. Đúng như dự báo, do hoang mang lo
sợ, sáng 20.6.1946 địch rút bỏ tua 8. Nhân dân trong vùng kéo đến
đập tan tua 8, phá hủy cầu sắt. Theo đó, các tua bót địch ở Phước
An, Phước Thọ, Ông Kèo, Xoài Minh cũng rút chạy. Quân ta làm
chủ một vùng rộng lớn từ rừng Giồng đến Rừng Sác bao la.
3. Củng cố, phát triển lực lượng kháng chiến
Quân Pháp chiếm đóng Long Thành, tăng cường bố phòng giữ
vị trí quan trọng, đóng đồn bót khắp nơi để kiểm soát các tuyến
116

12.7 Page 117

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
lộ. Quận ủy chỉ đạo cố gắng duy trì các hoạt động trong vùng tự
do. Lớp Mặt trận Việt Minh ở Phước An vẫn mở mỗi khóa huấn
luyện dài 7 ngày cho cán bộ các xã và bộ đội. Mặt khác, quận chủ
trương chia nhỏ một số xã lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
liên lạc và lãnh đạo phong trào cơ sở. Theo đó, các xã được chia:
Phước Hiệp chia thành 2 xã Phước Long, Phước Thọ; Phước Kiển
thành 2 xã Phước Kiển, Phước Mỹ; Phú Hữu thành 2 xã Phú Hữu,
Phước Thành; Phú Hội thành 2 xã Phú Mỹ, Mỹ Hội; Long Phước
thành 2 xã Tuy Long, Tập Phước; Phước Thiền thành 2 xã Phước
Thiền và Long Đức.
Cùng với việc chia xã, Ủy ban quận cho đào số súng mà
Nguyễn Tam Nguyên chôn giấu trước đây, nhanh chóng tập hợp
lại lực lượng giải phóng quân, giao cho Huỳnh Văn Đạo làm trung
đội trưởng, Nguyễn Văn Lung làm trung đội phó, biên chế thành
ba phân đội. Lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc được củng cố lại và
tổ chức thêm một công binh xưởng của ngành tại Phước An.
Ngày 20.2.1946, các đồng chí lãnh đạo quận tổ chức một cuộc
họp tại Phước Long, phân tích tình hình và quyết định chia địa
bàn Long Thành thành 4 khu1 để thuận tiện trong việc chỉ đạo, liên
lạc. Các khu phân chia như sau:
- Khu I gồm 7 xã dọc lộ 17 từ Phước Thiền tới Phước Lý, do
đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách.
- Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiển, Phước Lai tới
Phước Thọ, do đồng chí Huỳnh Văn Đạo và Võ Văn Truyện phụ
trách.
1  “Khu ủy” là tên cơ quan lãnh đạo từng khu vực do huyện tự phân chia trong
năm 1946.
117

12.8 Page 118

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Khu III gồm 4 xã thuộc Rừng Sác: Phước An, Phước Khánh,
Phước Thành, Phú Hữu và hai ấp Xoài Minh, Ông Kèo (thuộc
Phước Lý), do đồng chí Trịnh Minh Kính phụ trách.
- Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 từ Thái Thiện tới
Phước Tân, kể cả các sở cao su do đồng chí Lương Văn Nho phụ
trách.
Cơ quan lãnh đạo các khu được gọi là Khu ủy. Các Khu ủy có
trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong trào kháng chiến
trên địa bàn (và làm cả nhiệm vụ chính quyền cơ sở). Phương thức
hoạt động của Khu ủy được quy định là cơ động, bám địa bàn,
không cần trụ sở. Mỗi tháng các Khu trưởng chỉ tập trung một lần
ở Phước An để báo cáo và trao đổi công tác.
Hội nghị Phước Long còn đề ra chủ trương xây dựng và củng
cố lực lượng tự vệ chiến đấu các xã. Giải phóng quân Long Thành
được phân về mỗi khu một phân đội, phối hợp với Đội Quốc gia
tự vệ cuộc bảo vệ Khu ủy, hỗ trợ xã xây dựng lực lượng để đánh
địch.
Việc thành lập các khu và giao quyền lãnh đạo toàn diện cho
Khu ủy là một chủ trương xử lý tình thế phù hợp, đã tạo nên một
bước chuyển quan trọng cho phong trào kháng chiến trong toàn
quận. Các lực lượng phân tán hợp lý tránh được tổn thất. Thông
qua các Khu ủy, Quận ủy đã luôn bám sát tình hình địa phương,
trực tiếp lãnh đạo từng xã và chủ động phát huy được thế mạnh
từng vùng.
Sự có mặt thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo quận và
lực lượng giải phóng quân trên mọi địa bàn đã có tác dụng động
viên và hỗ trợ rất lớn cho phong trào quần chúng ở các xã. Chỉ
118

12.9 Page 119

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trong một thời gian ngắn cuối tháng 2, đầu tháng 3.1946, chính
quyền các xã bị tan rã trước đây lại được củng cố.
Trận phản công đầu tiên của ta là trận đánh tại cầu Lò Rèn1 (ấp
Hai, Phước Long) và cũng là trận nổi tiếng trong toàn tỉnh diễn
ra vào ngày 9.3.1946 do bộ đội Mai Văn Vĩnh thuộc lực lượng
Bình Xuyên (Chi đội 3, Chi đội 4) phối hợp với lực lượng Quốc
gia tự vệ cuộc địa phương thực hiện. Bảy lính Pháp và Việt bị
chết tại chỗ, một xe GMC bị phá hủy. Thắng lợi đã khởi động tinh
thần không sợ giặc Pháp, có thể đánh thắng quân Pháp trong quân
dân ta.
Tháng 5.1946, Hội nghị Quân sự tỉnh Biên Hòa tổ chức tại
Chiến khu Đ và quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang Biên
Hòa. Vệ quốc đoàn Châu Thành sáp nhập với Vệ quốc đoàn Biên
Hòa do Huỳnh Văn Nghệ làm chỉ huy. Lúc này, Vệ quốc đoàn
Long Thành còn hoạt động độc lập. Tháng 6.1946, Khu 7 mở Hội
nghị Quân sự toàn khu, quyết định thống nhất các lực lượng vũ
trang mỗi tỉnh và tổ chức thành Chi đội. Tại Biên Hòa, Vệ quốc
đoàn Long Thành sáp nhập vào Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Từ đây,
lực lượng vũ trang yêu nước tại Biên Hòa hình thành Chi đội 10.
Ban Chỉ huy Chi đội gồm: đồng chí Huỳnh Văn Nghệ - Chi đội
trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Lung - Chi đội phó và đồng chí
Phan Đình Công - Chính trị viên.
Quân số của Chi đội 10 trên 2.000 người, được tổ chức thành
ba đại đội với phiên hiệu A, B, C. Đại đội C gồm hai trung đội 7,8
do đồng chí Lương Văn Nho chỉ huy hoạt động ở địa bàn Long
1  Theo lời kể của nhân chứng Phan Thị Chi, sinh năm 1926, xã Long Thọ.
119

12.10 Page 120

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Thành. Một số thanh niên Hiệp Phước đã gia nhập Chi đội 10,
chiến đấu dũng cảm ở các mặt trận, như: Ngô Văn Tắc, người xã
Phước Lai, chiến sĩ Đại đội C, hy sinh ngày 12.4 âm lịch (ngày
12.5.1946) tại khu vực suối Đá Vàng, xã Long An; Nguyễn Văn
Xi, người xã Phước Kiển, Trung đội phó Trung đội 6 Đại đội C;
Nguyễn Văn Na, chiến sĩ Đại đội C hy sinh ngày 8.12.1948; Đổng
Văn Cầm, Trung đội trưởng Trung đội 6 Đại đội C, hy sinh ngày
1.10.1950 tại ngã ba Bến Gỗ, xã An Hòa... Các anh đều hy sinh
khi tuổi còn rất trẻ, hầu hết chưa lập gia đình, chưa có vợ con.
Đến tháng 11.1946, đội tự vệ chiến đấu các xã được bổ sung
lực lượng, đổi thành đội dân quân du kích xã. Trong mấy tháng
địch tạm chiếm, cán bộ, chiến sĩ tự vệ và nhân dân bước đầu được
trui rèn thử thách trong máu lửa.
Ở Hiệp Phước, dù quân Pháp đóng bót ngay trên lộ 19, cán
bộ phong trào của các xã Phước Lai, Phước Kiển như Huỳnh Văn
Lâm, Huỳnh Văn Diệu, Nguyễn Văn Hựu vẫn tìm cách qua được
sự theo dõi của địch, nhận tiếp tế, ủng hộ của người dân chuyển
về Chiến khu Phước An. Nhưng hoạt động trong vòng vây của
địch, sự mất mát, tổn thất là không thể tránh khỏi. Tháng 6.1946,
ông Huỳnh Văn Diệu, Trưởng Ban Tiếp tế của xã Phước Lai bị
địch bắt trong lúc vận động mua lương thực cho bộ đội. Chúng
đánh đập, tra tấn ông dã man nhưng ông kiên quyết không khai,
bị đưa về Khám đường Biên Hòa. Trong thời gian bị giam cầm
tại đây, ông cùng các bạn tù đấu tranh và bị địch bí mật thủ tiêu
ngày 1.7.1946. Ở địa phương, ông Huỳnh Văn Lâm đã thay thế
ông Diệu tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Ngày 10.12.1946, trinh sát
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
lực lượng Công an xã Phước Lai là anh Nguyễn Văn Cảnh cũng
hy sinh khi chống càn.
Sau 16 tháng quật khởi, quân dân Hiệp Phước đã sát cánh
cùng cả quận, cả tỉnh, cả Nam Bộ đương đầu với âm mưu của
thực dân Pháp, ngăn cản bước chân tái xâm lược, xây dựng cơ
sở Đảng, thống nhất các lực lượng vũ trang, mở rộng mặt trận
Việt Minh, phát động phong trào quần chúng, tổ chức các hoạt
động kháng chiến, chiến đấu anh dũng gây tổn thất lớn cho quân
thù, hoàn thành các nhiệm vụ Xứ ủy, Tỉnh ủy giao, thực hiện tốt
công tác bầu cử Quốc hội. Đến thời điểm tháng 12.1946, căn bản
các nhiệm vụ đều hoàn thành, tạo thế và lực cùng cả nước bước
vào giai đoạn toàn dân kháng chiến theo lời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
II. CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN,
TOÀN DIỆN
Sau khi những nỗ lực đàm phán với thực dân Pháp để cứu vãn
hòa bình không thành, sáng ngày 20.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho truyền thanh “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nội
dung đã chuẩn bị từ đêm trước. Lời kêu gọi như tiếng kèn xung
trận làm nức lòng quân dân cả nước: Chúng ta muốn hòa bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa. Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai
121

13.2 Page 122

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Tiếng kèn xung trận ấy thôi thúc quân dân Long Thành vốn
đã đi được một chặng đường dài chống thực dân Pháp nay hòa
nhịp cùng cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện. Nhiệm vụ của
Đảng bộ Long Thành lúc này là tiếp tục lãnh đạo toàn Đảng bộ,
chính quyền, mặt trận, lực lượng vũ trang củng cố tổ chức, huy
động các nguồn lực xây dựng đời sống kháng chiến, căn cứ kháng
chiến, nâng cao thực lực chiến đấu, đánh bại âm mưu của địch,
bảo vệ quê hương, chia lửa với chiến trường cả nước.
1. Góp phần xây dựng, bảo vệ căn cứ kháng chiến
Phước An
Thực hiện nhiệm vụ được Tỉnh ủy giao, Quận ủy chủ trương
xây dựng địa bàn, bố trí lại lực lượng cho phù hợp tình hình mới.
Theo hệ thống chỉ huy lực lượng vũ trang, Long Thành tổ chức
4 liên thôn mang số 11, 12, 13, 14. Phước An được xem là địa
bàn có ý nghĩa chiến lược. Từ tháng 12.1946, Phước An đã là nơi
đứng chân của các cơ quan quận Long Thành và nhiều đơn vị
thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn, Nhà Bè, Thủ Đức.
Phước An là vùng đất ở phía nam của huyện Nhơn Trạch, nằm
dọc theo tỉnh lộ 19 trên chiều dài 13km, diện tích tự nhiên 10.997
hecta, địa hình phức tạp trở thành căn cứ kháng chiến của huyện
và nhiều đơn vị của tỉnh, khu. Do tính chất chiến lược của vùng
đất này, ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ,
lực lượng Bình Xuyên đã chọn Phước An làm căn cứ đóng quân
của liên quân Hoàng Thọ, Chi đội 7, Chi đội 6, bộ đội Sài Gòn -
Chợ Lớn.
122

13.3 Page 123

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa về xây dựng căn
cứ kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh, tháng 1.1947, Ủy
ban hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể
quận Long Thành đã về đứng chân xây dựng căn cứ ở Phước An.
Các cơ quan chỉ huy và các đơn vị của liên chi Bình Xuyên kể cả
quân y viện và công binh xưởng, cũng chuyển về đóng quân ở nam
lộ 19, trong Rừng Sác Phước An, Ba Doi (Phước Đức). Sau đó,
khoa Quân giới Nam Bộ được Bộ Tư lệnh Nam Bộ điều từ miền
Tây về lập các phân xưởng sản xuất vũ khí ở Đồng Ông Trúc.
Căn cứ của các đơn vị đều được xây dựng qui mô, có bến ghe,
vọng gác, phòng tuyến chống địch, bãi tập để huấn luyện quân
sự. Ủy ban kháng chiến quận Long Thành đóng ở rừng Giồng, ấp
Bà Trường, xã Phước An. Chủ tịch là Trần Bình Khê. Gần một
trăm cơ quan lớn nhỏ các quận, các xã của Long Thành, Thủ Đức,
nhiều đơn vị bộ đội (như bộ đội Hoàng Thọ, bộ đội Quân khu 7)
đóng ở rừng Giồng ven hai trục lộ 17 và 19 quanh Lòng Chảo từ
Phước Thiền, Long Tân, Phú Hội đến Phước Kiển, Phước Lai dài
tới Phước Thọ, Phước An, Bình Thạnh. Cán bộ, chiến sĩ Phước
Lai, Phước Kiển thường xuyên ra vào Phước An để công tác, hội
họp, học tập; người dân hai xã thì đưa hàng hóa, lương thực, thực
phẩm, thuốc men vào căn cứ kháng chiến.
Cuối năm 1947, phong trào cắm cọc chống Tây nhảy dù và
ngăn tàu giặc trên sông phát triển sâu rộng. Hàng ngàn lượt nam
nữ thanh niên, cán bộ chiến sĩ, dân quân du kích và nhân dân quận
Long Thành thi đua cắm cọc khắp các cánh đồng: đồng Lớn, đồng
Xóm Ngọn, đồng Gò Cát... Quân dân Phước Lai, Phước Kiển
cũng như các xã quanh “thủ đô kháng chiến” Phước An cũng nâng
cao tinh thần cảnh giác, ý thức bảo vệ căn cứ.
123

13.4 Page 124

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
2. Củng cố lực lượng, phát triển phong trào chiến tranh
du kích
Từ đầu năm 1947, dù đã tăng cường quân sự nhưng địch vẫn
chưa thể chiếm đóng hoàn toàn được quận Long Thành, phạm vi
quản lý của chính quyền và các ban hội tề do Pháp dựng lên chưa
rộng, kể cả tại một số vùng địch tạm chiếm. Đến giữa năm 1947,
địch tiến hành gom dân về quanh các đồn bót và trục lộ giao thông
quốc lộ 15, tỉnh lộ 17, tiến hành càn quét liên tục. Chính quyền
kháng chiến vận động nhân dân chống lại, đòi trở về đất cũ sản
xuất. Tuy nhiên, với sự kiểm soát, lùng sục gắt gao của địch, tuyến
đường liên lạc giữa Long Thành với tỉnh Biên Hòa bị cắt đứt,
liên lạc giữa xã với huyện, xã với xã rất khó khăn. Nguyễn Tam
Nguyên, Trung đội trưởng Giải phóng quân Long Thành và một
số người dao động trong đơn vị chôn súng, trốn đi nơi khác sinh
sống. Nguyễn Văn Chỏi, Chủ nhiệm Việt Minh bỏ chạy. Những
phần tử là con cháu hội tề, phú nông và một số cán bộ trong Ủy
ban hành chánh các xã, ấp mất tinh thần cũng bỏ việc, lánh đi nơi
khác.
Ở Phước Kiển, một tổn thất lớn đến với phong trào kháng
chiến của xã: Đồng chí Nguyễn Văn Hồng, Bí thư Chi bộ, Chủ
nhiệm Mặt trận Việt Minh xã trên đường đi công tác đã lọt ổ phục
kích của địch, hy sinh ngày 17.1.1947 tại rừng Phước Kiển; cùng
đi chung có anh Lâm Văn Huệ, liên lạc viên Công an xã, cũng hy
sinh. Trước đó 5 ngày, Trưởng ban Tiếp tế của xã Phước Kiển là
Nguyễn Văn Hựu trúng phục kích hy sinh tại khu vực này. Phó
Công an xã Phước Lai là anh Phạm Văn Hiếu (Thi) cũng hy sinh
ngày 2.6.1947 khi chiến đấu. Ở Phước Lai, anh Huỳnh Ngọc Cẩn
124

13.5 Page 125

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
là người địa phương, vào lực lượng Công an quận Long Thành từ
năm 1946, bị địch phục kích hy sinh ngày 5.1.1947 tại khu vực
Phước Lai. Tuy nhiên, dù phong trào kháng chiến gặp nhiều khó
khăn, quân dân Phước Lai, Phước Kiển vẫn kiên cường chiến đấu,
nhiều thanh niên vẫn tiếp tục tham gia kháng chiến, trong đó có
chị Huỳnh Thị Diệp1 được giao nhiệm vụ Ủy viên Ban Chấp hành
Phụ nữ xã Phước Lai. Ngày 12.2.1948, đồng chí Huỳnh Thị Diệp
được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Thực hiện chủ trương cổ điển “dùng người Việt đánh người
Việt”, thực dân Pháp dùng bọn Cao Đài phản động đóng bót ở Cát
Lái, Câu Kê, Phú Thạnh, Long Tân. Tàu địch tăng cường kiểm
soát sông Lòng Tàu nhằm chia cắt các căn cứ kháng chiến, phá
thế liên hoàn với chiến khu Rừng Sác và cao nhất là đẩy mọi lực
lượng kháng chiến ra khỏi địa bàn huyện Long Thành để tăng
cường bảo vệ đầu não Sài Gòn. Các lực lượng thủy quân Pháp,
đặc cảnh miền Đông P.S.E. kết hợp máy bay và lính các đồn bót
Nhà Bè, Phú Xuân càn bố sâu vào các sông rạch Rừng Sác.
Địch tập trung đẩy mạnh hoạt động tình báo, cài cắm gián điệp
vào lực lượng kháng chiến đóng trên địa bàn Long Thành. Chúng
nắm được lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn và Tư Huỳnh. Tên
Nguyễn Quang Minh chui sâu, leo lên tới chức Phó Bí thư Huyện
ủy, tên Sáu Sang (Lại Văn Sang) leo lên chức Ủy viên thường vụ
Huyện ủy, Trưởng Công an quận Long Thành. Hệ thống gián điệp
này có mưu đồ lật đổ và tiêu diệt lực lượng cách mạng Chiến khu
Phước An. Năm 1949, Tỉnh ủy Biên Hòa phát hiện được, kịp thời
1  Huỳnh Thị Diệp là con của liệt sĩ Huỳnh Văn Diệu và Bà mẹ Việt Nam anh
hùng Dương Thị Phụ.
125

13.6 Page 126

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
chỉ đạo đập tan âm mưu nham hiểm nói trên. Ta tổ chức quét sạch
bọn phản động cài cắm vào hàng ngũ cách mạng, bắt và xử tử hình
Việt gian tại đồng Xóm Ngọn, xã Phước An có hàng ngàn đồng
bào tham dự. Một số tên khác cũng bị xử lý thích đáng.
Ở rừng Giồng Lòng Chảo, bọn gián điệp mặc quần áo như bộ
da cọp rằn ri hoạt động ban đêm hòng ngăn cán bộ, bộ đội, nhân
dân đi lại, hội họp, công tác. Năm 1949, bọn Bảy Viễn cầm đầu
số Bình Xuyên phản động đầu hàng thực dân Pháp. Quen thuộc
địa bàn Rừng Sác, bọn này đánh phá ta rất ác liệt. Thực dân Pháp
đưa tên quan ba Xuy-a-cô (Jolet Suacot), đại đội trưởng Đại đội
4 Trung đoàn 22, khét tiếng là ác ôn về làm chỉ huy trưởng khu
Long Thành cho đến Hắc Dịch, Châu Pha.
Giặc Pháp ra sức củng cố, phát triển lực lượng vũ trang Cao
Đài. Chỉ huy lực lượng Cao Đài phản động là trung tá Lê Thành
Kham đóng ở Phú Thạnh, vệ úy Tư đóng đồn Câu Kê, đội Sâm
chỉ huy một đội com-măng-đô ở bót Giồng Ông Đông, tên ký
Hải, thông ngôn cho tên quan La-oọc ở kho đạn Thành Tuy Hạ.
Đồn Cao Đài mọc lên ở nhiều xã. Lính Cao Đài hoạt động mạnh
và ngang ngược hơn cả Pạt-ti-san (lính do quân đội Pháp thành
lập). Khi càn quét, chúng mang theo thuổng sắt xăm tìm đồ đạc
đồng bào chôn giấu, đem theo vợ con mang gùi, mang gánh, gặp
gì cướp nấy, xúc lúa, dỡ nhà. Ta có chủ trương vận động đồng bào
chung sống với Cao Đài để ủng hộ kháng chiến, đồng thời bắt giữ
trừng trị những tên đầu sỏ gây tội ác.
Công tác diệt tề trừ gian được đẩy mạnh trong toàn huyện
dưới nhiều hình thức, mạnh nhất là ở các xã ấp tạm chiếm ven
vùng tự do. Các ban hội tề thường nhận được thư của Mặt trận
126

13.7 Page 127

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Việt Minh kêu gọi nghỉ việc, giải tán hoặc tản cư ra vùng tự do.
Thư đưa tới nhà từng hội tề. Người lừng chừng được giáo dục.
Những tên ngoan cố đều bị trừng trị. Ở Phước Lai có tên Việt
gian, tên là Hon. Tên Hon thường rình mò những gia đình có
người thân đi kháng chiến, lùng sục bắt bớ cán bộ cách mạng. Các
anh tự vệ cuộc bèn gọi hắn vào răn đe rồi cho về. Sau đó, tên Hon
dẫn lính ở bót Bà Ký đến bao vây nhà má Hai Kiển để bắt các anh,
nhưng các anh cảnh giác nên đã rời khỏi nhà má Hai Kiển từ trước
đó. Sau trận càn bắt hụt này, tên Hon tiếp tục rình mò các gia đình
cơ sở cách mạng ở Phước Lai, Phước Long. Năm 1950, các đội
viên Đội du kích Phước Lai đã tổ chức diệt tên này.
Từ năm 1948, phong trào tạm cấp ruộng đất và thực hiện giảm
tô diễn ra đều khắp các xã. Bà con vui mừng đẩy mạnh sản xuất,
đóng góp hàng năm vài chục ngàn giạ lúa ủng hộ kháng chiến.
Chính việc tạm cấp ruộng đất cho nông dân nghèo có ý nghĩa sâu
xa suốt hai thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dài ba
thập niên. Ở Hiệp Phước, người dân có sở hữu ruộng đất đều tích
cực đóng góp nuôi quân, ủng hộ kháng chiến.
Do công tác tuyên truyền tốt, hàng trăm thanh niên nam nữ
các địa phương hăng hái đi thoát ly vào các cơ quan, tham gia du
kích xã và xung phong tòng quân. Dưới sự chỉ huy của Huyện ủy,
người dân cùng nhau chặt phá cao su các sở đồn điền, gây nhiều
thiệt hại cho bọn chủ thực dân. Để chặn xe tăng, thiết giáp và cam
nhông (xe tải quân sự) nhà binh, bà con phá cầu trên lộ 15 nhất là
đoạn từ Long An, Long Phước xuống tới Phước Thái, Thái Thiện;
cầu Hưu, cầu Sông Cả đều bị phá sập. Nhiều đoạn đường tráng
nhựa phẳng lì trên quốc lộ 15 trở thành hố sâu chặn xe địch lưu
127

13.8 Page 128

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thông. Một số đoạn trên lộ 17, 19 cũng bị phá banh bằng với mặt
ruộng.
Dọc theo lộ 17, mặc dù giặc Pháp đóng hai bót ở Phước Thiền,
hai bót ở Mỹ Hội, nhưng Bến Cam, Bến Sắn, Phú Mỹ, Xóm Hố
vẫn được coi là vùng tự do. Bộ đội, công an xung phong qua lại
đóng quân thường xuyên.
Năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc (cuối năm 1947), chiến
lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp bị thất bại.
Chúng chuyển hướng quay về thực hiện bình định Nam Bộ với
chủ trương “dùng người Việt giết người Việt”, tăng cường xây
dựng đồn bót, tháp canh và các hoạt động tâm lý chiến, tình báo,
gián điệp. Chúng cũng tiến hành ruồng bố, lùng bắt cán bộ kháng
chiến đưa về giam cầm, tra khảo. Ở Phước Lai, chị Võ Thị Chắm
là Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ xã trên đường đi công tác từ
Phước An về ngang xã Long Thọ gặp phục kích của địch, bị bắn
chết ngay tại chỗ. Năm đó chị Chắm mới 22 tuổi, chưa lập gia
đình.
Năm 1948 là năm khởi đầu cho thời kỳ phát triển mạnh của
phong trào du kích chiến tranh của huyện Long Thành, Chiến khu
Phước An được củng cố và phát triển toàn diện.
Từ đầu năm 1948, dọc theo lộ 17, lộ 19, tuy đồn bót giặc
vẫn còn, nhưng các hoạt động của cán bộ, các lực lượng vũ trang
không gặp nhiều khó khăn, thế làm chủ của nhân dân vẫn giữ
được. Các tổ chức chính quyền, đoàn thể, mặt trận được củng cố,
hoạt động tốt. Phong trào mạnh dần, giặc bớt hung hăng, chúng
rút bỏ bót Phước Thọ, bót chùa Bà Ký, chỉ còn đóng bót Phước
Long. Ở vùng Hiệp Phước địch cũng rút bớt lính, bỏ bót Phước
128

13.9 Page 129

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Lai nhưng vẫn còn giữ bót Phước Kiển. Tuy nhiên, đến thời điểm
thu hoạch lúa vụ Đông Xuân 1948, địch vẫn cho quân về Hiệp
Phước càn quét hòng ngăn cản người dân thu hoạch, có lương
thực tiếp tế cho kháng chiến. Đội du kích hai xã Phước Lai, Phước
Kiển hợp đồng tác chiến, phân công nhau túc trực ở ruộng để bảo
vệ người dân. Trong đụng độ với địch, Xã đội trưởng du kích
Phước Lai Đoàn Văn Lọt1 và Xã đội trưởng du kích Phước Kiển
Trần Tấn Công2 đều hy sinh anh dũng khi bảo vệ dân. Đoàn Văn
Lọt là vị xã đội trưởng thứ hai của Phước Lai hy sinh chỉ trong ba
năm của cuộc kháng chiến chống Pháp. Chỉ trong vòng sáu tháng
sau đó, vùng Hiệp Phước tổn thất thêm các thanh niên: Phạm Văn
Ngữ, Bạch Văn Bàng; chiến sĩ Huyện đội Long Thành Nguyễn
Văn Chơi, người xã Phước Kiển, hy sinh tại Chiến khu Phước An
khi chiến đấu chống càn; Mã Văn Bình, Công an Phước Kiển, hy
sinh tại rừng Phước Kiển khi đang trên đường công tác...
Vùng giải phóng lúc này được mở rộng dần, liền lạc từ ấp
Bà Ký đến Phước Thái, từ ấp Một Phước Long đến Phước An.
Hoạt động càn quét của giặc khuôn hẹp lại, thưa dần đi. Công
tác phá đường để ngăn giặc được phát động. Đến giữa năm 1948,
các đoàn thể khối mặt trận đều được củng cố ổn định. Chị Lê Thị
Đầy, người Phước Lai, là Trưởng Ban Chấp hành Phụ nữ xã Long
Phước, được trên rút về công tác ở huyện, nhận nhiệm vụ Ủy viên
Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Long Thành. Đầu
năm 1949, Phụ nữ huyện mở lớp tập huấn chính trị - quân sự, thời
gian một tháng cho cán bộ trưởng, phó phụ nữ các xã; giảng viên
1  Xã đội trưởng Phước Lai Đoàn Văn Lọt hy sinh ngày 18.1.1948.
2  Xã đội trưởng Phước Kiển Trần Tấn Công hy sinh ngày 6.2.1948.
129

13.10 Page 130

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
có chị Khanh, chị Phi ở tỉnh về báo cáo chuyên đề. Dịp này, nữ
đồng chí Lê Thị Đầy được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng.
3. Đấu tranh chống chiếm đóng, bao vây
Đầu năm 1949, Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ huyện Long
Thành khai mạc với gần một trăm đại biểu, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy gồm:
Bí thư Sáu Khánh (Võ Hồng Phô), Trần Bình Khê, Trương Minh
Kỷ, Nguyễn Sanh Thành và Lê Hữu Tài (Lê Hữu Thướu) là những
đồng chí hoạt động trước Cách mạng Tháng 8.1945. Đây là một
sự kiện lịch sử quan trọng của Đảng bộ huyện Long Thành.
Sáng ngày 19.6.1949, hai chiếc máy bay khu trục ném bom,
bắn phá bừa bãi vào trường học ở căn cứ kháng chiến và xóm có
bộ đội đóng quân ở Bình Quới, Bình Thạnh. Hai ngôi trường bị
bắn nát, thầy Nguyễn Văn Sưa hy sinh tại trường. Thầy Nguyễn
Văn Tao và mấy chục học trò kịp chạy ra hầm trú ẩn. Trưa hôm ấy,
hàng chục xe cam-nhông chở đầy bọn lính lê dương và lính ngụy
từ hướng cầu Sắt lộ 19 đổ quân lùng sục các xóm, ấp. Các chiến
sĩ đại đội vệ binh dàn trận, trụ trong công sự và các liếp cau. Đại
liên, súng cối, súng trường anh em hờm sẵn chờ địch. Đúng theo
dự kiến, đội hình chúng lọt vào thế trận bày trước của ta. Mìn nổ,
súng bộ đội nhả đạn ở cự ly gần. Rồi tiếng súng vang dậy góc trời,
không phân biệt bên nào, kéo dài suốt một tiếng đồng hồ. Gần
trưa, địch tháo chạy tán loạn mang theo gần trăm tên chết hoặc
bị thương. Bên ta, đồng chí Nguyễn Văn Lẽ và đồng chí Nguyễn
Văn Bề hy sinh. Ở Phước Lai có Trưởng Ban Chấp hành Phụ nữ
xã là chị Trần Thị Tắng cũng hy sinh.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Cuối năm 1949, thực dân Pháp càng tăng cường công tác bình
định ở Nam Bộ nói chung và Biên Hòa - Long Thành nói riêng.
Giặc Pháp tổ chức lại lực lượng quân sự trong toàn huyện. Tại chi
khu, địch đóng hai đại đội: một đại đội chính quy gồm 120 lính,
phần đông là người dân tộc (thường gọi là lính Thổ), một đại đội
Pạt-ti-san 120 lính, trang bị hỏa lực mạnh. Pháo binh chi khu được
tăng cường 1 khẩu 105 ly. Các bót Phước Thiền, Phước Long,
Siph, Hêlêna... mỗi nơi 2 trung đội, trong đó có 1 trung đội chính
quy do sĩ quan Pháp chỉ huy. Bên cạnh đó, thực dân xây dựng
nhiều bót lính Cao Đài cấp trung đội, có nơi cấp đại đội.
Từ giữa tháng 5.1950 trở đi, Chiến khu Phước An bị địch lấn
chiếm. Thực hiện chiến thuật Đờ la Tua (De Latour), chúng đóng
nhiều tua, bót dọc theo trục lộ 19 ở các xã Phước Kiển, Phước Lai,
Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Bình Thạnh. Như vậy, chỉ
sau hơn 2 năm tự do, người dân Phước Lai lại bị đồn bót của quân
Pháp kềm kẹp. Cán bộ, chiến sĩ ở Phước Lai hoặc từ địa phương
khác ngang qua Phước Lai để vào Chiến khu Phước An phải tìm
cách tránh né tai mắt địch. Nhưng dù vậy, liên lạc vẫn được giữ
vững. Từ Phước Lai, ông Huỳnh Văn Lâm là cán bộ Ban Tiếp tế
của Ủy ban hành chánh kháng chiến xã vẫn liên tục ra vào Chiến
khu Phước An để báo cáo tình hình, vận chuyển lương thực, thuốc
men, tài liệu. Có lần bọn địch ập vào nhà ông Lâm, lục soát khắp
nơi và tìm thấy bó tài liệu giấu ở mái nhà, vợ ông Lâm là bà
Nguyễn Thị Cửu1 vờ nói là chồng đi làm ăn xa, bản thân không
1  Mẹ Nguyễn Thị Cửu có chồng và 5 người con tham gia kháng chiến, trong đó
3 con hy sinh được công nhận liệt sĩ là: Huỳnh Ngọc Minh, Huỳnh Ngọc Sơn,
Huỳnh Ngọc Quang. Bản thân mẹ cũng là cơ sở cách mạng. Mẹ Cửu được truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
131

14.2 Page 132

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
biết chữ, gặp giấy ngoài đường thì lượm về nhóm lửa chớ không
biết đó là giấy gì. Thấy nhà chỉ có người phụ nữ ốm yếu với mấy
đứa trẻ nheo nhóc, bọn lính kêu mẹ Cửu khi nào chồng về thì phải
lên đồn trình báo. Mẹ Cửu vâng dạ rồi bỏ qua.
III. ĐẤU TRANH CHỐNG LẤN CHIẾM, GIỮ VỮNG VÀ
MỞ RỘNG ĐỊA BÀN LÀM CHỦ, GÓP PHẦN KẾT THÚC
THẮNG LỢI 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
1. Bố trí lại chiến trường, củng cố lực lượng kháng chiến
Đầu năm 1951, địch bắt đầu xúc tiến mạnh việc giải tỏa lộ
15, quốc lộ chiến lược đã bị ta cắt đứt từ năm 1946. Chúng đưa
công binh về khôi phục lại các cầu cống bị sập, đắp lại một phần
đường sá và tổ chức việc bảo vệ từng đoạn đường bằng các tháp
canh; địch tăng cường càn quét, đánh phá căn cứ của huyện, nhất
là bọn lính Comando hay đột kích bất ngờ gây thiệt hại cho du
kích các xã.
Phước Lai cũng tổn thất nặng, Chủ tịch Ủy ban hành chánh
kháng chiến xã Phạm Văn Liều bị trúng phục kích của lính com-
mando, hy sinh. Người Chủ tịch xã đầu tiên của Phước Lai là
người ham học hỏi, sớm giác ngộ cách mạng, thuộc lớp cán bộ
tiền khởi nghĩa của địa phương, đóng góp nhiều công sức cho
cách mạng trong những ngày đầu gian nan lập chính quyền mới.
Khi Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra, anh đã 25 tuổi, cha mẹ hối
thúc cưới vợ nhưng anh cứ hẹn lần lữa, bảo đợi vài năm nữa đánh
đuổi xong giặc Pháp cướp nước rồi sẽ lập gia đình. Kháng chiến
kéo dài, anh cứ tất bật việc chung mãi cho đến lúc hy sinh. Người
kế nhiệm anh làm Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến xã
Phước Lai là Trần Văn Kiệm cũng hy sinh sau đó 7 tháng khi vừa
132

14.3 Page 133

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
mới cưới vợ, chưa kịp có mụn con nào. Đồng chí Lê Văn Lời (Tư
Lời) được cử làm Bí thư Chi bộ xã Phước Lai. Ông Huỳnh Văn
Đát (Bảy Đát), một thân sĩ của địa phương là Chủ tịch Ủy ban
hành chánh kháng chiến.
Trước tình hình giặc đánh phá khu vực rừng giồng ác liệt,
nhiều cơ quan, đoàn thể dời xuống Sở Dừa ở Bàu Bông, phân tán
cán bộ về bám dân các xã. Tháng 5.1951, Trung ương Cục miền
Nam tổ chức lại chiến trường. Toàn Nam Bộ tổ chức hai phân liên
khu miền Đông và miền Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Tỉnh
Biên Hòa và Thủ Dầu Một sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh Bà
Rịa và Chợ Lớn sáp nhập thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (thường
gọi là Bà Chợ). Huyện Long Thành thuộc tỉnh Bà Chợ. Trước
những diễn biến gay go của phong trào kháng chiến Long Thành,
Thường vụ Tỉnh ủy Bà Chợ chỉ đạo:
“Long Thành là một địa bàn chiến lược, một vùng căn cứ, một
chiến khu quan trọng trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Phong trào
Long Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt. Bằng giá nào
cũng phải ổn định cho được chiến trường Long Thành để đảm bảo
chỗ đứng của tỉnh”. Trên cơ sở đánh giá đó, Tỉnh ủy Bà Chợ quyết
định tăng cường cán bộ cho huyện.
Đồng chí Nguyễn Trọng Cát được điều về làm Bí thư Huyện
ủy Long Thành. Các cơ quan huyện di chuyển nhiều địa điểm
trong vùng Rừng Sác: Xóm Bà Riêu (Phước Thái), đồng Ông Trúc,
tắc Le Le, Vũng Gấm (Phước An), tắc Rạch Lá (Bình Thạnh).
Ngày 20.9.1951, bằng một cuộc càn quét lớn có bộ binh, hải quân,
không quân phối hợp, giặc Pháp đã chiếm được Phước An và xây
133

14.4 Page 134

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
dựng đồn bót. Tình hình Long Thành - Nhơn Trạch càng trở nên
khó khăn hơn.
Sau những đợt càn bố của giặc, lực lượng địa phương và cơ
sở cách mạng bị tổn thất. Ở Phước Lai, chị Bùi Thị Đang, Trưởng
Ban Chấp hành Phụ nữ xã bị địch bắt, đưa về bót Long Thành tra
tấn đến chết. Hàng loạt cán bộ lãnh đạo chủ chốt xã Phước Lai
hy sinh trong một thời gian ngắn khiến phong trào cách mạng địa
phương có lúc chùng lắng.
Nhưng đến vụ mùa 1952-1953, quân dân Long Thành vẫn đẩy
mạnh phong trào xây dựng cơ sở các ấp vận động bà con đóng góp
nuôi quân. Hưởng ứng vận động của Việt Minh, ai cũng sẵn sàng
đóng góp tiền bạc, lúa gạo cho kháng chiến, có người nuôi cán bộ
trong nhà. Bà con dân nghèo một lòng một dạ theo cách mạng. Ở
Phước Lai, mẹ Nguyễn Thị Hương với tay nghề bán thuốc tễ rong
đã qua mắt địch đi khắp nơi mua thuốc men, lương thực, thực
phẩm, đóng góp tài chính cho cách mạng. Con trai lớn của mẹ
Hương là Đặng Văn Thép, sinh năm 1930, là đội viên Đội du kích
xã Long Thọ, hy sinh ngày 2.11.1947 trong một trận chống càn ở
khu Long Thọ, khi đó anh mới 17 tuổi. Nén nỗi đau mất con, mẹ
Hương vẫn tiếp tục giúp đỡ, hỗ trợ phong trào kháng chiến vì mẹ
tin rằng chỉ khi mọi người đồng lòng cùng nhau góp công, góp
của mới có thể đánh đuổi được quân xâm lược. Ở Phước Kiển, mẹ
Hồ Thị Sùng dù nhà rất nghèo lại còn phải cưu mang người con
nuôi là Đỗ Văn Mỹ mồ côi cả cha lẫn mẹ do bị Pháp bắn chết,
cũng ráng chắt mót gởi gạo gởi tiền cho cách mạng.
Từ tháng 12.1952 đến tháng 2.1953 phong trào quần chúng
lên cao, tích cực góp phần hoàn thành bảo vệ mùa màng, động
134

14.5 Page 135

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
viên thanh niên ra rừng xây lại đội du kích; ủng hộ sáng kiến “bám
dân xây dựng cơ sở”.
2. Khắc phục thiên tai, bảo vệ mùa màng
Ngày 20.10.1952 bắt đầu trận lũ lịch sử Nhâm Thìn ở Long
Thành. Lũ lụt xảy ra ở Biên Hòa sớm hơn hai ba ngày. Tại chòm
mả Gò Nai, có cây bần to bị ngã rạp, các cây khác vặn mình trong
giông bão tơi bời, nước dâng cao dần mênh mông như biển cả.
Cơn bão đi qua, nước rút cạn dần. Lúa đồng xanh lại, xuồng ghe
đi lại bình thường.
Huyện ủy lãnh đạo thực hiện kế hoạch bảo vệ mùa màng sắp
tới, phân công cốt cán chịu trách nhiệm từng cánh đồng, chọn địa
điểm là các gò cao để ban đêm tập trung lúa thu lúc ban ngày. Số
lúa này giao cho đoàn vận chuyển của huyện chở đi. Lúa cánh
đồng nào chín tới đâu, bà con gặt tới đó. Ta vận động chủ ruộng
giao nộp, lúa để ở bờ, đến tối cán bộ và cơ sở mật vác xuống
xuồng chở tới gò hoang chọn trước, từ khuya tới gần sáng giao
cho đoàn vận chuyển Khu III. Địch càn quét cánh đồng này, ta
sang cánh đồng khác, tối đến ta tiếp tục vận chuyển lúa.
Đầu tháng 1.1953, hai đồng chí người Phước Kiển là Huỳnh
Văn Ngô - Công an viên huyện Long Thành và Trần Tấn Lộc - cán
bộ Mặt trận Liên Việt huyện hy sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ mùa
màng. Phước Kiển cũng gặp nhiều tổn thất khi đồng chí Từ Văn
Văn, Phó Chủ tịch xã hy sinh tại Phước An ngày 10.1.1953; Trần
Công Đương, tổ trưởng tổ quân báo xã Phước Kiển thì bị địch
phục kích bắn trọng thương, đưa về bót Phước Thiền tra tấn đến
chết ngày 25.1.1953.
135

14.6 Page 136

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Công tác bảo vệ mùa màng duy trì trong gian khó, cuối vụ
tổng kết huy động được hàng trăm ngàn giạ lúa và hàng chục ngàn
đồng (ở nơi thu lúa khó khăn, dân đóng tiền) chở về huyện và tỉnh
an toàn. Đồng bào Phước Lai, Phước Kiển cũng tích cực đóng góp
tiền, gạo, các cán bộ phong trào xã như ông Huỳnh Văn Lộc liên
tục đi về nhận đóng góp của bà con để chuyển cho cách mạng.
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo năm đó, số lúa của Nhơn Trạch đóng
góp cho kháng chiến là thắng lợi to lớn của đường lối chiến tranh
nhân dân do Đảng lãnh đạo. Hàng vạn nông dân được giáo dục,
phát động tư tưởng nên giác ngộ cách mạng, có niềm tin vững
chắc, đội ngũ cốt cán mật được tăng cường cả về số và chất lượng.
3. Cùng cả nước tiến công địch, kết thúc kháng chiến
Từ năm 1953, trên phạm vi cả nước và Đông Dương, quân
dân ta tiến công thực dân Pháp như vũ bão và chiến thắng nở rộ
khắp nơi: Liên khu V, miền Đông Nam Bộ, mở màn trận Thượng
Lào Điện Biên. Cuối tháng 8.1953, đồng chí Lê Hiền, cán bộ an
ninh huyện đi các xã tập hợp, phổ biến tin chiến thắng các chiến
trường đến người dân, động viên đồng bào tiếp tục cho con em
tòng quân để xây dựng lực lượng du kích.
Ngày 7.4.1954, Tiểu đoàn 300 của lực lượng vũ trang khi tổ
chức chống trận quét của quân Pháp đã tiêu diệt được tên quan ba
Jolet Suacot. Tin Suacot đền tội đã gây tiếng vang lớn, mang lại
niềm vui cho người dân Long Thành - Nhơn Trạch bởi những tội
ác dã man, khủng khiếp mà tên này gây ra cho nhân dân ta trong
những năm qua đã khiến ai cũng phẫn nộ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954, thực dân Pháp
phải tuyên bố thua trận, chấm dứt mộng tái chiếm và đặt ách đô
136

14.7 Page 137

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
hộ ở nước ta. Ngày 20.7.1954, Hiệp định Genève về đình chiến
ở Đông Dương đã được ký kết, và sau đó ngày 1.8.1954, lệnh
ngưng bắn được thực hiện.
Tin Hiệp định Genève được ký kết tạo nên một không khí
phấn khởi to lớn trong toàn huyện. Ngay trong thời gian chưa có
lệnh ngưng bắn, đồng bào vẫn tìm mọi cách truyền nhau tin tức,
báo chí về nội dung Hiệp định. Các cuộc mít tinh mừng hòa bình,
mừng thắng lợi Hiệp định do các đội vũ trang tuyên truyền tổ
chức trong các ấp xã vẫn được đông đảo đồng bào đến dự. Ở Rừng
Sác, mỗi lần tổ chức nói chuyện ngoài sông, chỉ cần treo một tấm
nilon, cắm cờ, treo ảnh Bác và thắp ngọn đèn lên là ghe của đồng
bào tấp nập đổ tới. Binh lính địch được ban địch vận, thông qua cơ
sở, gặp gỡ tuyên truyền, gửi truyền đơn nắm được nội dung Hiệp
định, nhiều người bỏ trốn về nhà làm ăn sinh sống.
Kể từ trung tuần tháng 8.1954, thi hành Hiệp định Genève,
cán bộ chiến sĩ Long Thành lần lượt chuyển sang vùng căn cứ
Xuyên Phước Cơ (Bà Rịa). Tại đây, sau khi được học tập, quán
triệt tinh thần Hiệp định, Huyện ủy đã chọn lọc một bộ phận cán
bộ, đảng viên từ Huyện ủy viên trở xuống ở lại. Số anh em đi tập
kết hầu hết là thuộc lực lượng vũ trang huyện, xã.
Trong những ngày cuối tháng 8 và đầu tháng 9.1954, không
khí Long Thành - Nhơn Trạch nhộn nhịp. Các xã đều cử đoàn đại
biểu mang theo quà của nhân dân gửi tặng bộ đội, hàng ngàn lượt
đồng bào, bà con thân nhân của cán bộ, chiến sĩ cũng tìm mọi
cách sang Xuyên Phước Cơ đưa tiễn con em quê hương mình lên
đường tập kết.
137

14.8 Page 138

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Ở Nhơn Trạch nhiều cán bộ, chiến sĩ lên đường tập kết, một
số đồng chí nhận nhiệm vụ ở lại, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
cam go sau này. Ở Hiệp Phước cũng có nhiều cán bộ, chiến sĩ
đi tập kết, như: Hoàng Viễn Tri (Bảy Tri), Năm Yềm, Tư Đảnh,
Hai Thiệt, Hai Bắc... Các đồng chí: Lê Thị Đầy, Lê Văn Lời, Ba
Đông, Bùi Văn Chơn (Phước Lai), Huỳnh Ngọc Ẩn, Lê Thị Cung,
Nguyễn Văn Cường (Phước Kiển) nhận nhiệm vụ ở lại quê hương
để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến mới theo dự báo của cấp trên.
***
Hưởng không khí độc lập tự do ngắn ngủi, quân dân Hiệp
Phước đã cùng quê hương Nhơn Trạch - Long Thành lại tiếp tục
sự nghiệp kháng chiến chống sự tái chiếm Nam Bộ của thực dân
Pháp. Với sức mạnh của chính quyền non trẻ, tổ chức đảng còn
mỏng manh, đảng viên chưa nhiều, Nhơn Trạch nói chung và Hiệp
Phước nói riêng đã trường kỳ gian khổ tham gia kháng chiến, tạo
nhiều thành tích.
Giặc Pháp quyết tâm chiếm đóng Long Thành, xây dựng và
phát triển căn cứ Thành Tuy Hạ cùng hệ thống đồn bót để trấn
áp, hòng bao vây, chia cắt, tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Tổ
chức đảng, mặt trận đoàn thể và lực lượng quần chúng của Hiệp
Phước - Nhơn Trạch vẫn kiên cường bám trụ ngay trong lòng địch
cùng cả nước kháng chiến toàn dân, góp phần tạo nên thắng lợi
của Hiệp định Genève năm 1954.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Chương IV
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
I. TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẾN ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ KẾT HỢP ĐẤU TRANH VŨ TRANG
1. Củng cố tổ chức đảng, đoàn thể
Hiệp định Genève (ngày 20.7.1954) về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương là một thắng
lợi lớn của dân tộc Việt Nam. Theo tinh thần Hiệp định, thực dân
Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
dân tộc Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời,
tháng 7.1956 sẽ tiến hành hiệp thương và tổng tuyển cử thống
nhất đất nước.
Với âm mưu xâm lược đất nước ta, tháng 7.1954 Mỹ đưa Ngô
Đình Diệm về nước lập chính phủ bù nhìn, xây dựng hệ thống
chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng có chủ trương mới.
Tháng 10.1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập. Xứ ủy quyết định
thành lập Liên Tỉnh ủy miền Đông do đồng chí Phan Đức làm Bí
thư. Xứ ủy xác định quân thù chính hiện nay là đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai; nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam là: Gìn
139

14.10 Page 140

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
giữ củng cố hòa bình, tranh thủ thực hiện tự do dân chủ, cải thiện
dân sinh, đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève, tiến
tới thực hiện thống nhất, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
trong cả nước; Xứ ủy chủ trương: Động viên toàn thể nhân dân
đấu tranh bắt buộc, nhân dân phải đấu tranh bắt buộc đối phương
phải thực hiện đúng đắn Hiệp định đình chiến, thực hiện quyền tự
do dân chủ, bộ máy chính quyền của đối phương. Phương châm
hành động cách mạng trong tình hình mới: Phải nắm vững nguyên
tắc bí mật, công khai và bán công khai. Kết hợp công tác bí mật
với công tác công khai. Cơ sở bí mật là cơ sở căn bản của quần
chúng để mở rộng phong trào1.
Cuối năm 1954, để phù hợp với tình hình mới, Xứ ủy Nam
Bộ và Liên Tỉnh ủy miền Đông quyết định tách tỉnh Thủ Biên, lập
lại hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Thường vụ Liên Tỉnh ủy
chỉ định đồng chí Phạm Văn Thuận làm Bí thư, đồng chí Huỳnh
Văn Lũy, Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa. Tỉnh Biên Hòa gồm thị xã
Biên Hòa và 5 huyện nông thôn. Tỉnh ủy Biên Hòa phân công các
đồng chí chủ chốt, trong đó đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh)
làm Bí thư Huyện ủy Long Thành.
Lực lượng cách mạng trong các xã sau tập kết được củng cố,
hầu hết các xã trong tỉnh đều có đảng viên. Một số xã trong vùng
căn cứ xây dựng chi bộ có đến 20-30 đảng viên. Nhiều xã ở các
huyện có chi bộ từ 5 đến 10 đảng viên. Vùng yếu, thị xã, thị trấn
có chi bộ từ 3-5 đảng viên và có xã có đảng viên lẻ, có xã còn
trắng. Các đoàn thể cách mạng trong thời kỳ này chỉ còn lại tổ
1  Báo cáo Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 10.1954.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chức Đoàn Thanh niên Lao động. Xã Phước Lai thuộc vùng yếu,
có 4 đảng viên mật là Tám Đổng, Tư Lời, Ba Đông, Mười Trong,
trong đó đồng chí Ba Đông ban đầu nằm trong danh sách đi tập
kết, nhưng sau khi đến Xuyên Phước Cơ thì đồng chí bí mật nhận
nhiệm vụ ở lại.
Lường trước âm mưu thâm độc của kẻ thù, Tỉnh ủy Biên Hòa
có nghị quyết quy định tổ chức hoạt động của các cán bộ Đảng từ
tỉnh, huyện, xã phải thực hiện đúng nguyên tắc bí mật, công khai,
bán công khai. Mỗi cán bộ được bố trí công tác ở đâu đều phải tạo
việc làm hợp pháp, hòa mình trong dân, xây dựng cốt cán quần
chúng, qua đó mà tuyên truyền, vận động tổ chức, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh. Xây dựng các tổ chức công khai, bán công khai
và lợi dụng tổ chức tự nhiên đã có của quần chúng, đưa đảng viên
vào nắm để tập hợp, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi dân sinh
dân chủ, bảo vệ quyền lợi của quần chúng.
Tỉnh ủy đề ra chủ trương đấu tranh cách mạng trong giai đoạn
mới: Các cán bộ bố trí ở lại phải bám trụ trong dân, tạo thế công
khai hợp pháp, dựa vào pháp lý của Hiệp định Genève để lãnh
đạo quần chúng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh dân chủ, đòi hiệp
thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước; bảo vệ cán bộ, bảo vệ
tính mạng và tài sản, quyền lợi của nhân dân, chống chiến dịch
bắt bớ khủng bố của cán bộ kháng chiến cũ (điều 14C Hiệp định).
Tỉnh ủy chỉ đạo các cuộc đấu tranh dù nhỏ hay lớn, đều phải đấu
tranh thủ lôi kéo gia đình binh sĩ thành ngòi pháo trong các cuộc
đấu tranh, đấu tranh phải có lý có lẽ và đúng mực. Thời kỳ này,
Tỉnh ủy chủ trương xây dựng người đưa vào làm nội tuyến trong
141

15.2 Page 142

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lòng địch, xây dựng chọn người đưa vào làm tề (xã trưởng, ấp
trưởng), đưa người vào dân vệ, bảo an, chủ lực của địch1.
Ngày 2.9.1954, đoàn cán bộ huyện Long Thành không đi tập
kết, từ Xuyên Mộc trở lại địa bàn huyện. Ba ngày sau, số cán bộ ở
lại được tổ chức học tập tình hình mới, nhiệm vụ mới và nội dung
Hiệp định Genève. Số cán bộ được học tập không nhiều, Phước
Lai có các cán bộ: Tám Đổng, Tư Lời, Mười Trong; Phước Kiển
có hai cán bộ: Lê Thị Cung (cán bộ phụ nữ xã), Huỳnh Ngọc Ẩn
(Thư ký Nông hội xã). Lớp học tổ chức tại huyện, thời gian một
tuần, do các anh Tám Thạch, Sáu Phô hướng dẫn. Học xong, cán
bộ xã nào về lại bám dân xã đó, tập trung công tác tuyên truyền,
giải thích cho quần chúng tốt để vận động xây dựng cơ sở cách
mạng, chuẩn bị cho tổng tuyển cử.
Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về làm Thủ tướng Chính phủ
bù nhìn ngày 7.7.1954. Pháp bị hất cẳng khỏi miền Nam Việt Nam
sau khi Hiệp định Genève ký kết. Các phần tử thân Pháp lần lượt
bị loại bỏ khỏi các cấp chính quyền từ trung ương xuống cơ sở.
Để thâu tóm mọi quyền lực trong tay thủ tướng và gia đình, Ngô
Đình Diệm một mặt mua chuộc những ai có thể mua chuộc như
Trịnh Minh Thế (Cao Đài), Năm Lửa (Hòa Hảo), một mặt ra lệnh
cho tay chân mở chiến dịch Hoàng Diệu dẹp các giáo phái Bình
Xuyên của Lê Văn Viễn, Hòa Hảo của Ba Cụt, Cao Đài của Phạm
Công Tắc... Tiếng súng râm ran ở vùng cầu chữ Y (Sài Gòn) - nơi
cát cứ của Bảy Viễn, vọng về rõ mồn một. Địch bắt dân treo khẩu
1  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập II,
NXB Đồng Nai, 2000, tr 7-9.
142

15.3 Page 143

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
hiệu “Ủng hộ chính phủ quốc gia do Thủ tướng Ngô Đình Diệm
lãnh đạo”.
Người Hiệp Phước có hình thức phản ứng rất khôn khéo. Ở
Phước Lai, ông Ba Đãi đi ngoài đường cầm “loa” làm bằng mo
cau kêu to: “Hiệp định nói có hai năm thôi nha bà con, hai năm
thôi, nhớ nha”. Bọn hương chức hội tề ở đây lúc này còn hoang
mang chưa biết tình hình ra sao nên giả vờ không hay biết, để mặc
cho ông Ba Đãi đi khắp nơi kêu gọi.
Về tâm trạng của người dân kháng chiến, khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, tinh thần cán bộ cũng như phong trào
quần chúng bùng lên khí thế mạnh mẽ. Khi giặc Pháp tái chiếm,
có một số người dao động bỏ kháng chiến ra vùng tạm chiếm làm
ăn, đa số cán bộ ta tạm lắng; nhưng khi phong trào lên, cơ sở được
củng cố thì cán bộ, quần chúng lại bùng dậy, tiếp tục sự nghiệp
cách mạng. Còn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì khác
hẳn, bắt đầu với tình hình mới, phương pháp mới, nhiệm vụ mới,
vô vàn khó khăn. Lòng dân nhiều lo lắng, từ chỗ ta có chính quyền,
đoàn thể, bộ đội, nay không còn tổ chức nào, chỉ còn một vài cán
bộ không vũ khí, không căn cứ cách mạng, chỉ bám dân mà sống,
đợi ngày tổng tuyển cử theo tinh thần Hiệp định. Ngược lại, phía
chính quyền của Diệm có quân đội đông đảo, vũ khí được trang
bị tận răng, lại đủ trò dụ dỗ, đủ kiểu tuyên truyền đe dọa, đàn áp
quyết diệt tận gốc “Việt Minh”. Trước tình hình ấy, cán bộ ta trong
tình thế hoạt động bí mật, âm thầm ra sức tuyên truyền, giải thích
cho dân hiểu rõ tình hình và âm mưu của địch, dựa vào cơ sở tốt
làm nòng cốt mở rộng dần trong các xóm ấp. Cán bộ ta quen dần
143

15.4 Page 144

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
với nhiệm vụ mới, chia thành nhóm nhỏ sinh hoạt theo tổ tam tam,
vận động, hướng dẫn quần chúng dựa trên quyền lợi của mình
đấu tranh chống bắt dân vô tội, chống bắt lính, đòi thi hành Hiệp
định đình chiến - tổng tuyển cử, chống các trò tuyên truyền bầu cử
của Diệm.
Bước đầu, tổ chức được cơ sở làm nhiệm vụ giao liên nối liên
lạc giữa các xã với huyện và tỉnh. Trong đó, nhà má Hai Kiển ở
Phước Long là đầu mối liên lạc giữa huyện và xã, nhiều lúc giao
liên tỉnh cũng đến nhà má Hai. Ở Phước Lai, nhà má Nguyễn Thị
Hương với vỏ bọc bán thuốc tễ, nhà ông Huỳnh Văn Lộc tiếp tục
là nơi liên lạc, ẩn náu của cán bộ cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo của tỉnh, tháng 4.1956, Huyện ủy thành lập
Ban Binh vận, chủ trương tăng cường gài người vào chính quyền
ngụy để tạo thế lâu dài và trước mắt là hạn chế sự đánh phá ở cơ
sở. Nữ đồng chí Lê Thị Đầy được giao nhiệm vụ binh vận ở xã
Phước Lai. Đồng chí Lê Thị Đầy cùng với một số cơ sở nòng
cốt của ta cứ đến từng nhà, rỉ rả phân tích cho bà con thấy ý đồ
không thi hành Hiệp định, không thực hiện tổng tuyển cử của
chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu hất cẳng thực dân Pháp để
chiếm miền Nam của đế quốc Mỹ; khi bọn tề ngụy đến từng nhà
rà soát thanh niên trong độ tuổi để bắt quân dịch, các cơ sở của ta
lại rỉ tai về âm mưu dùng người Việt để đánh người Việt của của
bọn đế quốc. Cứ như thế, phong trào cách mạng dần được nhen
nhóm lại trong lòng người dân Phước Lai, Phước Kiển.
Đầu tháng 6, đồng chí Sáu Phong, Phó Bí thư Huyện ủy đi
nhận Chỉ thị 4 của Trung ương về. Nội dung chính của chỉ thị này
144

15.5 Page 145

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
là điều lắng mai phục, đưa đảng viên vào quần chúng để bảo vệ
lực lượng và xây dựng cơ sở trong quần chúng. Việc triển khai chỉ
thị 4 ở Long Thành bước đầu có khó khăn. Hầu hết cán bộ đảng
viên đều lo lắng. Một số không muốn ra dân vì sợ địch bắt. Tuy
vậy, sau hai tháng quán triệt từ Huyện ủy tới cơ sở, các cán bộ
đảng viên vẫn chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Đảng, lần lượt
ra dân tạo thế hợp pháp xây dựng phong trào. Chỉ riêng cấp ủy
huyện vẫn giữ bán công khai để nắm và chỉ đạo phong trào toàn
huyện. Ở Hiệp Phước, hai chị Lê Thị Đầy và Lê Thị Cung nhờ
là phụ nữ, ít bị địch chú ý nên ngay từ năm 1954 đã đánh tiếng
là đi làm ăn xa nay trở về sinh sống, tạo được thế hợp pháp, còn
các đồng chí nam tìm cách ở nhờ nhà bà con họ hàng, hoặc lánh
về bên nhà vợ như đồng chí Bùi Văn Chơn; các đồng chí Tư Lời,
Ba Đông thì về sống ở Long Phước để tránh tai mắt bọn tề ngụy.
Từ đầu tháng 12.1954, đồng chí Vũ Khánh (tức Vũ Hồng Phô)
được Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư Huyện ủy Long
Thành thay cho đồng chí Trần Bình Khê được điều động về Khu
nhận nhiệm vụ mới. Tháng 1.1955, tại căn cứ Rừng Sác ở Phước
Thọ, Hội nghị Ban Chấp hành huyện Đảng bộ Long Thành được
tổ chức. Hội nghị đánh giá tình hình của địa phương và đề ra chủ
trương: Tiếp tục tuyên truyền thắng lợi của Hiệp định, vận động
nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng các tổ chức quần chúng hợp
pháp; kiện toàn cơ sở Đảng ở tất cả các xã.
Huyện ủy phân công các đồng chí ủy viên về từng địa bàn chỉ
đạo trực tiếp, xây dựng phong trào đấu tranh: đồng chí Út Mười
Hai (tức Út Vồ) phụ trách khu vực Tam An, An Lợi; đồng chí Ba
145

15.6 Page 146

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đông phụ trách địa bàn Long An, Long Phước; đồng chí Tám
Tánh phụ trách xã Phú Hội, Long Tân; đồng chí Mai Hiển Thái
(Ba Thái) phụ trách vùng đồn điền cao su; đồng chí Tư Lộc về
Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý, Phú Thạnh; đồng chí Võ Văn
Lượng (Tư Định) phụ trách địa bàn Phước An, Phước Thọ... Tại
Phước Lai, đồng chí Lê Văn Lời tiếp tục giữ nhiệm vụ Bí thư chi
bộ. Ở Phước Kiển, đồng chí Nguyễn Văn Cường được giao trọng
trách Bí thư chi bộ, gọi là trọng trách vì lúc này số cán bộ ở Phước
Kiển rất mỏng, bọn tề ngụy lại hung hăng, việc gầy dựng phong
trào nơi này sẽ lắm gian nan.
Phong trào đưa dân về làng cũ được đẩy mạnh. Hàng trăm
hecta ruộng đất ven sông Đồng Nai, Đồng Môn thuộc xã Tam
Phước, Tam An, Long Điền, Long Tân bị bỏ hoang trong suốt
những năm chiến tranh giờ đây tấp nập người về canh tác. Nhiều
hộ dân vốn nghi ngại cất nhà ven lộ 17, lộ 19 giờ cũng dời cả
xuống các khu vườn an tâm sinh sống, làm ăn. Các khu dồn dân
trước đây trống vắng dần. Thị trấn Long Thành là nơi tập trung
khá đông dân trước đây cũng thưa hơn do nhiều người trở về
quê cũ sinh sống. Các vùng đất hoang vắng ở Long Thành trong
những năm tháng chiến tranh ác liệt bắt đầu được nhân dân về
khai hoang, dựng nhà. Chợ, trường học trong các xã, ấp được
dựng lại.
Trong tình hình đó, Huyện ủy chủ trương xây dựng các tổ
chức quần chúng hợp pháp nhằm tập hợp lực lượng, tăng cường
tuyên truyền, giáo dục nhân dân và đấu tranh khi cần thiết. Các
xã đều xuất hiện hội đình, hội chùa, hội lương hữu, hội banh mỗi
146

15.7 Page 147

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
hội đều có đảng viên làm nòng cốt và thu hút hàng trăm hội viên.
Đông nhất là các hội mang màu sắc tín ngưỡng dân gian.
Các cán bộ kháng chiến được đưa vào lãnh đạo các tổ chức
quần chúng để hướng dẫn hoạt động. Hội viên tùy hảo tâm, tài lực
của mình đóng góp tiền cho hội làm quỹ sinh hoạt. Hình thức vạn
cày, vạn cấy trong nông dân hay ca, kíp trong công nhân đã tạo
nên sự gắn bó, sự tương thân tương trợ trong hội viên giúp nhau
tăng gia, sản xuất. Các hội hoạt động công khai, nhưng bên trong
phong trào cách mạng đã bước đầu hình thành các đoàn thể thanh
niên, phụ nữ, nông dân có Ban cán sự, có đóng hội phí hàng tháng.
Thông qua các hội đoàn quần chúng, các chi bộ tập hợp được
quần chúng, tuyên truyền làm thất bại âm mưu gây mất đoàn kết
của địch. Tại những buổi họp hội, cán bộ, đảng viên lồng vào nội
dung tuyên truyền thắng lợi Hiệp định Genève, đồng thời từng
bước xây dựng cơ sở, giương cao khẩu hiệu đấu tranh: “Không
được trả thù người kháng chiến cũ”, “Thực hiện điều 14C của
Hiệp định”.
2. Lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, thi
hành Hiệp định Gienève
Từ tháng 3.1955, chính quyền tay sai Sài Gòn bắt đầu bố
trí một bộ phận đồng bào ở miền Bắc di cư vào Nam vào Long
Thành. Chỉ trong vòng 4 tháng, số đồng bào di cư đã lên tới trên
7.000 người và hình thành các trại định cư ở Liên Kim Sơn vòng
ngoài thị trấn, ở Phước Lý, Ông Kèo bao quanh phía nam Lòng
Chảo, tổng kho Thành Tuy Hạ và đông nhất là ở Phước Khánh
147

15.8 Page 148

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
với gần 4.000 người. Thực tế cho thấy, việc chính quyền địch lấy
đất của người dân địa phương để lập trại đưa đồng bào di cư đến,
kèm theo những chính sách mị dân như cấp đất, khoanh vùng, cấp
đồ dùng, vật dụng, làm nhà, cho tự do khai phá rừng Giồng, rừng
Sác nhằm thực hiện âm mưu tạo ra một vành đai bảo vệ những
khu vực quan trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm; đồng thời
tạo nên sự mâu thuẫn giữa người miền Nam người miền Bắc, chia
rẽ tôn giáo, tín ngưỡng giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo ở địa
phương. Đây là một âm mưu thâm độc của địch nhằm chia rẽ khối
đại đoàn kết của nhân dân ta.
Trong năm đầu nắm chính quyền, Ngô Đình Diệm tiến hành
thanh trừng các lực lượng vũ trang giáo phái thân Pháp và chống
đối chính quyền Sài Gòn để thống nhất, xây dựng quân đội tay sai
thân Mỹ. Đầu tháng 5.1955, gần 4.000 quân của lực lượng Bình
Xuyên do Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) cầm đầu sau hơn một tháng
chống cự với quân đội Sài Gòn, đã rút về Rừng Sác của Long
Thành với ý đồ biến vùng này thành căn cứ chống chính quyền
Ngô Đình Diệm lâu dài. Các đơn vị của lực lượng Bình Xuyên
đóng rải trong các xóm ấp Rừng Sác1. Tình hình an ninh trật tự
của huyện Long Thành mất ổn định khi lực lượng Bình Xuyên
tràn về. Nhiều người dân vô tội bị lính Bình Xuyên giết người
cướp của, ghe thuyền của dân chài bị cướp giật, nhiều người bị
bắt đi làm không công để xây dựng căn cứ cho quân Bình Xuyên.
1  Tiểu đoàn 3 của Võ Văn Môn (Bảy Môn) đóng dọc địa bàn Phước An, Phước
Thọ. Đài phát thanh đặt trên tàu do Lại Hữu Sang phụ trách ngày ngày chạy từ
sông Ông Kèo ra sông Lòng Tàu bêu xấu, khiêu khích đánh nhau với quân đội
Diệm. Đại đội Bình Xuyên do Ba Phú chỉ huy đóng ở Phước Khánh.
148

15.9 Page 149

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Thậm chí, ở một số xã, quân đội Bình Xuyên đòi thành lập chính
quyền riêng.
Trước tình hình đó, Huyện ủy Long Thành đề nghị về Tỉnh ủy
Biên Hòa và Xứ ủy cho hướng giải quyết vấn đề đối với quân lính
Bình Xuyên và vấn đề dân di cư do địch đưa đến. Song song đó,
nhằm ổn định tình hình của địa phương, hạn chế những tổn thất do
chúng gây nên đối với nhân dân, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo
cho các xã có lực lượng Bình Xuyên đóng tích cực liên hệ, vận
động để phân hóa hàng ngũ chỉ huy, lôi kéo những phần tử tiến bộ
về với cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, đồng bào các
xã, các gia đình có lính Bình Xuyên đóng đã đối xử tốt hơn với
lực lượng này và tạo điều kiện cho sự tiếp xúc giữa cán bộ của ta
với chỉ huy, binh lính. Công tác vận động đối với lực lượng Bình
Xuyên đã đem lại những kết quả đáng kể. Vừa vận động, ta vừa
đưa người của cách mạng vào hàng ngũ Bình Xuyên. Lợi dụng sự
mâu thuẫn giữa quân Bình Xuyên và quân lính Diệm, ta vận động
binh lính Bình Xuyên tiêu diệt một số tên ác ôn tại địa phương.
Ban Địch vận Xứ ủy Nam Bộ đã cử đồng chí Nguyễn Trọng Tâm
(Bảy Tâm), về Long Thành liên lạc với Huyện ủy.
Tháng 8.1955, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm, Vũ Khánh (Bí
thư Huyện ủy Long Thành), Mười Thọ đã tổ chức cho đồng chí
Võ Văn Khánh (Bảy Khánh), Xứ ủy viên dự khuyết đại diện Xứ
ủy Nam Bộ, đồng chí Phạm Văn Thuận (Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa)
theo đường hợp pháp về Phước Thọ, dự kiến gặp Ban chỉ huy
Bình Xuyên làm việc. Nhưng đó cũng là thời gian chính quyền
Sài Gòn mở cuộc tổng tiến công trong chiến dịch “Hoàng Diệu”
149

15.10 Page 150

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
đánh vào Rừng Sác để tiêu diệt lực lượng Bình Xuyên do Lê Văn
Viễn cầm đầu1. Quân Bình Xuyên bị quân của chính quyền Diệm
đánh tan. Chỉ huy Bình Xuyên là Lê Văn Viễn bỏ chạy ra Vũng
Tàu rồi sang Pháp.
Nhân thời cơ này, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa,
Quận ủy Long Thành đã nhanh chóng nắm các đơn vị Bình Xuyên
trước đây có xu hướng ngã theo cách mạng. Bảy Môn cùng một
nửa tiểu đoàn 3 được các đồng chí Tư Thái, Mười Thọ dẫn đường
vượt lộ 15 về căn cứ Suối Cả của tỉnh, gia nhập lực lượng cách
mạng.
Từ năm 1955 trở đi, chính phủ Ngô Đình Diệm bắt đầu thi
hành chính sách tố Cộng, huy động mọi lực lượng quân sự, an
ninh, hành chính, tình báo, thông tin tuyên truyền... nhằm đàn áp
những người tham gia kháng chiến chống Pháp trước đây với tên
gọi là Việt Minh. Chúng tiến hành phân loại các gia đình trong
xã: gia đình có người làm việc cho chính quyền quốc gia, gia đình
làm ăn bình thường không có quan hệ với bên nào, gia đình có
người đi tập kết, gia đình có người tham gia kháng chiến trước
đây, gia đình có người là cán bộ cách mạng, đảng viên... Với từng
loại gia đình, địch có cách ứng xử khác nhau, trong đó chúng tận
lực o ép, dọa dẫm, khủng bố những gia đình có người thân tham
gia kháng chiến, làm cách mạng, đảng viên. Việc phân loại này đã
gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong người dân. Địch bắt các gia
đình phải theo dõi hàng xóm của mình, nếu có người lạ đến liên
1  Ngày 2.1.1955 Ngô Đình Diệm tuyên bố mở chiến dịch “Hoàng Diệu” truy
kích, tàn quân Bình Xuyên rút về Rừng Sác.
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
lạc cho dù không phải “Việt Cộng” cũng phải báo cho trưởng ấp
biết, nếu không sẽ bị gây khó dễ vì cho rằng có quan hệ với “Việt
Cộng nằm vùng”. Gia đình nào không tố cáo Việt Cộng nếu bị
phát hiện sẽ kết tội liên đới.
Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng khiến nhiều cán bộ kháng
chiến cũ ở Phước Kiển sa vào tay địch: Hoàng, Bảy Bùng, Tú,
Năm... Đồng chí Tư Lời phải rút về khu vực Bến Chợ (thuộc xã
Long Phước), đồng chí Ba Đông về Bà Ký (cũng thuộc xã Long
Phước). Trước đó, đồng chí Sáu Đầy đang là Ủy viên Ban Chấp
hành Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện được đưa về làm cán bộ binh
vận xã Phước Lai. Thời gian đầu, các đồng chí chấp hành chủ
trương của Huyện ủy, vận động tuyên truyền người dân đấu tranh
đòi thi hành Hiệp định, chống cuộc bầu cử vi phạm Hiệp định
của Ngô Đình Diệm, gầy dựng cơ sở cách mạng. Các đồng chí
đã gian nan từng chút một trong công tác vận động quần chúng.
Người dân Hiệp Phước trong khó khăn gian khổ vẫn một lòng với
cách mạng. Những cán bộ thời kháng chiến chống Pháp được ta
bắt liên lạc đã sẵn sàng hoạt động trở lại, như Huỳnh Văn Lâm,
Huỳnh Văn Lộc, Lê Văn Nuôi; các gia đình cơ sở cách mạng
trước đó nay lại tiếp tục cùng chống Mỹ, như gia đình ông Ba Đãi,
ông Bảy Xèo, ông Bảy Chu, ông Hai Thái, bà Nguyễn Thị Nớt,
bà Nguyễn Thị Dính, bà Dương Thị Phụ, bà Nguyễn Thị Hương,
bà Lý Thị Vĩnh...
Năm 1956, địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu đánh vào
phong trào cách mạng miền Đông. Bọn chỉ điểm, do thám ở huyện
Long Thành hoạt động mạnh, một số tên rất lợi hại như Mười
151

16.2 Page 152

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hiếm (Phước An), Lưu, Bảy Sĩ, Bảy Nhỏ, Mum (Phú Hội), Chín
Đối (Phước Thọ). Ở Phước Lai, Phước Kiển, nhiều tên tề ngụy ác
ôn cũng bắt đầu ngóc đầu hoành hành, rình mò chỉ điểm, bắt bớ
người kháng chiến cũ và người có cảm tình cách mạng, thậm chí
bức hiếp cả những người dân vô tội để tống tiền, điển hình như
Phạm Văn Sáng, Trưởng ấp B xã Phước Lai; Mười Phương, tay
chân của tên Đại úy Chín Trớn, ác ôn khét tiếng khu vực Long
Thành - Nhơn Trạch1; Phạm Minh Sang, Trung đội trưởng nghĩa
quân ở Phước Lai... Chúng còn tổ chức các lực lượng “Thanh niên
Cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới” nhằm theo dõi, chỉ điểm khi cán bộ
ta về bắt liên lạc với dân. Cuộc sống người dân Hiệp Phước cũng
như vùng Long Thành - Nhơn Trạch lúc bấy giờ thật ngột ngạt.
Năm 1959 Ngô Đình Diệm ký ban hành Luật số 91, thường
được gọi là “Luật 10/59” để đàn áp cách mạng và phong trào yêu
nước. Hàng vạn cán bộ, đồng bào yêu nước đã bị chúng bắt bớ,
giam cầm, khảo tra, giết hại. Năm 1958, đồng chí Huỳnh Ngọc
Ẩn, Thư ký Nông hội xã Phước Kiển bị địch bắt, đày ra Côn Đảo,
bị chúng tra tấn đến chết ngày 22.7.1960. Đồng chí Bùi Văn Chơn
là cán bộ mật, sau năm 1954 về sống ở Phước Lai nhưng sau đó
bị lộ nên thoát ly ra căn cứ ở rừng Phước Lai; năm 1959 khi trên
đường từ căn cứ đến nhà ông Huỳnh Văn Lộc ở ấp B để nhận tiếp
tế, đồng chí Chơn lọt vào ổ phục kích của địch, hy sinh.
Dù khó khăn, phong trào cách mạng vẫn bám rễ được trong
lòng dân, nhất là các gia đình có con, em, người thân đi kháng
1  Mười Phương sau này bị lực lượng cách mạng diệt chung trong trận xử tên
Chín Trớn.
152

16.3 Page 153

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chiến. Nhiệm vụ của các cán bộ hoạt động bí mật tại các xã lúc
này là phải dựa vào quần chúng để làm nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục, xây dựng và tập hợp quần chúng, trong đó cơ bản là
các gia đình nghèo, bị địch áp bức phải đi theo hoặc làm việc cho
chúng để giác ngộ họ theo cách mạng. Để hạn chế sự kềm kẹp của
địch ở những vùng yếu, đồng thời hỗ trợ cho phong trào thanh
khiết ở các xã mạnh, Huyện ủy chủ trương đưa lực lượng vũ trang
tuyên truyền vào hoạt động.
Mùa mưa năm 1957, địch cướp 300 hecta đất của chính quyền
cách mạng cấp cho gần 300 hộ dân nghèo ở cù lao Ông Cồn trước
đây, mục đích lập vành đai trắng bảo vệ kho đạn Thành Tuy Hạ.
Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ, hai bà: Phan Thị Nho1 và Phạm Thị
Hoa đã vận động và tổ chức bà con nông dân đấu tranh bảo vệ
ruộng đất. Trên 300 nông dân, trong đó hơn phân nửa là phụ nữ
xông đến bao vây địch. Chị em quyết tâm “sẵn sàng thí mạng, chứ
không để mất đất”. Có chị em tranh thủ khuyên giải con, em đi
lính đứng về phía nhân dân. Cuối cùng, bọn địch phải rút lui.
Những chủ trương đúng hướng của Huyện ủy đã tạo thế cho
phong trào cách mạng trong toàn huyện từng bước đi lên. Đầu
năm 1958, Long Tân thành lập lại chi bộ gồm bốn đảng viên, có
căn cứ ở rừng Giồng nằm trên địa bàn xã. Truyền đơn qua cơ sở đã
rải được vào Phú Thạnh, tới tay công nhân sở cao su Thành Tuy
Hạ. Hai xã Phước Lai, Phước Kiển dù nằm hoàn toàn trong vùng
1  Mẹ của đồng chí Nguyễn Văn Thông, năm 2014 được phong tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
153

16.4 Page 154

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
địch chiếm đóng cũng đều có chi bộ.
3. Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng
Tình hình chiến trường ở Nam Bộ từ giữa năm 1959 đã có
hàng loạt cuộc đấu tranh vũ trang như Minh Thạnh (Tây Ninh);
Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một); Gò Quản Cung, Gò Măng Ða (Ðồng
Tháp); Tà Lốc, Tà Léc (Bình Ðịnh); Tam Ngân (Bình Thuận);
Nóc Ông Tía, Trà Bồng (Quảng Ngãi); Biên Hòa có trận đánh diệt
Mỹ ở Nhà Xanh ngày 7.7.1959, Long Thành đã có lực lượng vũ
trang mang danh nghĩa Bình Xuyên đánh nhiều trận diệt ác phá
kìm. Thực tế và yêu cầu chung của Nam Bộ là được chủ trương
của Trung ương Đảng chuyển sang giai đoạn mới được đấu tranh
vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị.
Tháng 1.1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp mở rộng
lần thứ 15, đã xác định con đường phát triển của cách mạng miền
Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng ở miền Nam;
xác định mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở miền Nam
và miền Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới,
nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước
nhà. Ngày 15.7.1959, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng được thông qua và phổ biến. Nghi quyết 15 xác định
nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền
Nam; trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay
sai của đế quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương thức đấu
tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết
hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; dự kiến xu hướng
phát triển từ khởi nghĩa của nhân dân tiến lên cuộc đấu tranh vũ
154

16.5 Page 155

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trang trường kỳ. Ðây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử đã đáp
ứng đúng đòi hỏi của thực tế, đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng
chỉ đạo đấu tranh cách mạng, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển
đi lên của cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng,
phải chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang, là ngọn lửa thắp sáng
cao trào đồng khởi trên quy mô lớn ở Nam Bộ.
Nghị quyết đã được Đảng bộ và nhân dân miền Nam đón nhận
trong với niềm vui khôn tả. Tỉnh ủy Biên Hòa nhanh chóng triển
khai Nghị quyết trong toàn Đảng bộ. Huyện ủy Long Thành tiếp
nhận Nghị quyết với quyết tâm chính trị cao, vừa phổ biến, học
tập vừa triển khai các phương án lãnh đạo xây dựng, phát triển lực
lượng vũ trang trong tình hình mới.
Tại Nhơn Trạch, từ cuối năm 1959, chính quyền Sài Gòn ủi
phá địa hình làm con đường cấp phối trải sỏi từ ngã ba Phước
Lai băng ngang Lòng Chảo trổ ra gần cầu Vũng Gấm, Hang Nai;
người dân gọi con đường này là đường ủi Phước Lai. Mục tiêu
của địch là xây dựng khu trù mật1 Hang Nai để chia cắt địa bàn
kháng chiến theo kiểu khoanh vùng tát nước bắt cá, lấy đây làm
thí điểm để lập thêm các ấp chiến lược khác, hòng đẩy lực lượng
cách mạng ra khỏi Lòng Chảo. Mặt khác, chúng bố trí dân Công
giáo di cư từ miền Bắc vào sinh sống dọc theo lộ 19 tại Vĩnh
Thanh thành vành đai ngăn chặn, bảo vệ cho chúng từ Đại Phước
đến khu trù mật Phước An.
Năm 1959, tại Long Thành có một số cán bộ, đảng viên do
1  Hình thức tập trung dân vào khu kiểm soát ở miền Nam mà Mỹ Diệm học kinh
nghiệm từ Mã Lai.
155

16.6 Page 156

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
không chịu đựng được gian khổ của địch nên đã mất tinh thần,
ra đầu hàng địch, trong đó nguy hiểm nhất là tên Hà Tư1, Bí thư
Huyện ủy Long Thành. Ngay khi vừa ra đầu hàng, tên phản bội
này đã trở mặt chỉ điểm cho địch lùng bắt, sát hại rất nhiều cán bộ
đảng viên và cơ sở của ta.
Ngày 9.9.1960, chính quyền Ngô Đình Diệm tách quận Long
Thành thành 2 quận: Long Thành và Nhơn Trạch2. Tuy nhiên,
phong trào hoạt động cách mạng hai địa bàn này vẫn là một. Trụ
sở quận lỵ Nhơn Trạch xây dựng tại xã Phú Thạnh, ngoài chi khu
Nhơn Trạch địch còn xây dựng thêm một số căn cứ hành chính,
quân sự khác.
Cuối năm 1960, Tỉnh ủy Biên Hòa có chủ trương tách huyện
Long Thành thành hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Trong
đó, Ban cán sự Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: Bí thư Võ Văn Định,
Phó Bí thư Nguyễn Văn Thông, hai Ủy viên Thường vụ Phạm
Minh Chính và Nguyễn Văn Liềm: các Huyện ủy viên Mười Thọ
(Trần Văn Thọ), Ba Vân (Nguyễn Thanh Vân), Nguyễn Văn Sơn.
Căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch đặt tại rừng Xóm Hố, gần sở Ông
Cố, xã Phú Hội. Tại đây, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) đã
thay mặt Tỉnh ủy truyền đạt Nghị quyết 15 cho các đồng chí trong
Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch, mở ra phong trào kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang nhằm củng cố lực lượng,
1  Hà Tư hay còn gọi là Trần Xuân Hà, Hà Trần, do Tỉnh ủy điều động từ Tân
Uyên, Thủ Dầu Một về làm Bí thư Huyện ủy Long Thành từ tháng 3.1958.
2  Quận Nhơn Trạch gồm 14 xã: Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai,
Phước Kiển, Phú Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Long Tân.
156

16.7 Page 157

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chuẩn bị đồng khởi trong thời gian tới.
Cuối tháng 2.1960 Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch họp tại
Xóm Hố (Phú Hội) phân tích tình hình và quyết định: Phải cầm
súng, phải chiến đấu; phân công cán bộ đi cơ sở triển khai thực
hiện Nghị quyết 15.
Để triển khai Nghị quyết 15, Huyện ủy chia vùng và phân
công từng Huyện ủy viên xuống phụ trách. Vùng I: các xã từ
Phước Nguyên, Tam An đến xã Tam Phước, Phước Tân là các
đồng chí Út Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba Tấn. Vùng II gồm các xã:
từ Long An đến Phước Thái là các đồng chí Ba Đông, Mười Thọ.
Vùng III gồm các xã: Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiển đến
xã Phước An, Vĩnh Thanh là đồng chí Tư Định. Vùng IV từ các
xã: Long Tân, Phú Thạnh đến xã Phước Khánh, do các đồng chí
Nguyễn Văn Thông và Nguyễn Văn Liềm phụ trách. Thực hiện
chỉ đạo của Huyện ủy, đầu tháng 3.1960, Đồng chí Võ Văn Lượng
(Tư Định) về Phước An móc nối cơ sở rút tân binh, đào vũ khí
chôn giấu từ thời kỳ Bình Xuyên, xây dựng lực lượng vũ trang
đánh địch. Chủ trương xây dựng lực lượng du kích để đấu tranh
nhanh chóng được truyền về các xã.
Tại Hiệp Phước, dọc theo lộ 19 chính quyền Ngô Đình Diệm
lập hai đồn Phước Lai nằm ở khu vực Cống Lớn1 và đồn Phước
Kiển nằm bên cạnh đình Phước Kiển để kiểm soát người dân, o
1  Chủ đất khu vực đồn Phước Lai trước kia là của ông Năm Đáng, hiến để xây
đồn. Sau năm 1975, đồn bị san bằng, người dân dần xây dựng nhà ở, không còn
dấu tích. Khoảng thập niên 1990, gia đình ông Năm Đáng có làm đơn gởi Ủy ban
nhân dân xã Phước Lai xin lại đất, nhưng do không có căn cứ giải quyết nên xã
không chấp thuận.
157

16.8 Page 158

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
ép và dập tắt phong trào cách mạng. Từ khi huyện cho chủ trương
xây dựng lực lượng vũ trang, Đội du kích xã Phước Lai được tái
lập. Nhiều thanh niên Phước Lai đã tham gia đội du kích, như:
Huỳnh Ngọc Minh (Xã đội trưởng), Trần Minh Đức (Xã đội phó),
Đặng Văn Sang, Nguyễn Văn Đương, Phạm Hiếu Nghĩa, Phan
Văn Bẳng, Nguyễn Văn Bảnh (Hai Cang)... Đội du kích xã Phước
Kiển cũng ra đời, gồm: Phạm Văn Quới (Xã đội trưởng), Võ Văn
Đông, Nguyễn Văn Dương, Đặng Văn Đủ...
Cuối năm 1960, đồng chí Lê Thị Đầy bị bọn địch ở đồn Phước
Lai bắt do bị chỉ điểm. Đồng chí bị chúng tra tấn dã man nhưng
không hề khai báo, địch đưa đi giam giữ ở Trại giam Phú Lợi
(Bình Dương). Đội du kích Phước Lai được sự chấp thuận của cấp
trên, quyết định phải diệt trừ những tên Việt gian đã nhiều lần chỉ
điểm dẫn đến một số cán bộ của ta bị bắt, giết hại.
Cũng trong năm này, Bí thư Chi bộ xã Phước Lai Lê Văn Lời
hy sinh tại Bến Chợ (xã Long Phước) do trúng pháo địch. Long
Phước lúc bấy giờ được xem như “vùng giải phóng”, cán bộ ta
sinh sống xen lẫn trong dân vì địch không dám đóng đồn ở đây,
nhưng do vậy chúng thường xuyên tung biệt kích vào càn quét
đồng thời cho pháo bắn vô tội vạ ở khu vực này. Đồng chí Lê
Văn Lời là cán bộ tiền khởi nghĩa, từng tham gia cuộc Cách mạng
Tháng Tám và suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, không
đi tập kết mà được cấp trên giao nhiệm vụ ở lại để gầy dựng cơ
sở cách mạng ở quê hương. Đồng chí hy sinh là tổn thất lớn của
phong trào cách mạng Phước Lai.
158

16.9 Page 159

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Sau khi đồng chí Tư Lời hy sinh, đồng chí Huỳnh Văn Bửu,
người Phước Lai, được cử làm Bí thư Chi bộ xã. Thời điểm này,
tình hình Phước Lai khá căng thẳng do bọn tề, ngụy ngo ngoe,
ngóc đầu hoành hành trở lại. Vì thế, huyện đánh giá cần phải có
cán bộ là người địa phương, không chỉ thông thạo địa hình mà còn
quen thuộc con người để nhanh chóng gầy dựng lại cơ sở cách
mạng, đẩy mạnh phong trào kháng chiến. Đây là chủ trương đúng
của Huyện ủy Nhơn Trạch, từ những hạt nhân nòng cốt này mà
phong trào kháng chiến vẫn phát triển bền bĩ trong suốt giai đoạn
chống Mỹ, kể cả những lúc thật gian khổ.
Đồng chí Huỳnh Văn Bửu và Đội du kích Phước Lai xây dựng
khu căn cứ của địa phương ở rừng Phước Lai. Gọi là căn cứ, thực
chất chỉ là dãy lán lợp lá, bên trong có bàn dài và hai chiếc ghế dài
dành ngồi họp, được anh em đóng bằng cây rừng. Thời đó vùng
Nhơn Trạch ai đi thoát ly kháng chiến đều thủ sẵn chiếc võng để
ngủ cho cơ động, ít có ngủ giường hay ván. Các cán bộ và anh
em du kích Phước Lai được dân nuôi, ở gần dân nên được tiếp tế
lương thực, thực phẩm thường xuyên, không bị đói, nhưng lại gặp
khó khăn về nguồn nước. Cùng là xã Phước Lai, nhưng khu vực
ấp B có nhiều mạch nước ngầm, ngay cả mùa khô chỉ cần đào sâu
xuống chừng 1 mét là nước trào ra lênh láng, ngọt lịm; trong khi
đó ở vùng rừng Phước Lai phải đào đến 12 mét mới thấy nước. Vì
thế nhiều khi cán bộ, chiến sĩ ở căn cứ Phước Lai phải đi xa để tải
nước về dùng.
Xã Phước Kiển xây dựng căn cứ ở rừng Ông Ách. Cũng giống
như rừng Phước Lai, rừng Phước Kiển nhiều nơi không có nguồn
159

16.10 Page 160

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nước, có lúc đào đến 20 mét vẫn chưa có nước, mọi người phải
đi xuống khu mả đen hoặc đi xa hơn nữa, sang Bến Sắn (Phước
Thiền) hay Phú Hội để tải nước. Nước ở đây quý như vàng, có
khi phải đổi bằng máu nên mọi người chỉ dùng để nấu ăn và uống,
việc tắm giặt phải tranh thủ khi gặp nguồn nước. Đời sống kháng
chiến trong khu căn cứ Phước Lai, Phước Kiển rất khó khăn, gian
khổ nhưng những người con Hiệp Phước bằng ý chí kiên cường,
tinh thần đấu tranh anh dũng đều tìm cách vượt qua.
4. Diệt ác phá kềm, cùng miền Nam đồng khởi
Cùng với đấu tranh chính trị, theo chỉ đạo của Khu, Tỉnh ủy
chỉ định Huyện ủy Nhơn Trạch phải xây dựng lực lượng vũ trang
để kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị, binh vận; trước mắt
tập trung 12 thanh niên địa phương đưa về trên học tập đào tạo
vào tháng 7.1957.
Sau trận Tua Hai, Bộ chỉ huy Miền đã cử đồng chí Huỳnh Văn
Phú chỉ huy 12 chiến sĩ là con em Nhơn Trạch với 12 súng về tăng
cường xây dựng vũ trang huyện. Đoàn đến căn cứ Huyện ủy vào
tháng 3.1960 (lúc này Văn phòng Huyện ủy ở hào cao su Phước
Thọ - Phước An). Trước đó, Huyện ủy đã phát động và tổ chức
được một số thanh niên ở các xã, được gia đình tự nguyện đưa đi
kháng chiến. Như vậy, lực lượng vũ trang đầu tiên của huyện có
quân số 29 người, hình thành trung đội vũ trang 19.5 (còn gọi là
195). Trong đó, đồng chí Huỳnh Văn Phú - Chỉ huy trưởng; đồng
chí Đoàn Danh Dự - Chỉ huy phó; đồng chí Võ Văn Định - Bí thư
Huyện ủy kiêm Chính trị viên. Đơn vị tổ chức thành ba tiểu đội.
Đồng chí Nguyễn Trọng Cát cho ý kiến: “Khi nào đơn vị lập được
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chiến công khi đó mới chính thức mang phiên hiệu 19.5”. Để có
phiên hiệu, đơn vị quyết chí lập công, ba trận đầu tiên đều thắng.
Trong hai năm 1960-1961, hoạt động của lực lượng 19.5 tạo
nhiều thắng lợi gây tiếng vang, thúc đẩy phong trào cách mạng
phát triển với ba mũi giáp công vũ trang, chính trị, binh vận; ba
vùng tranh chấp: Vùng mạnh, vùng yếu, vùng sâu/vùng xa. Qua
đó, các cơ sở nội tuyến và gia đình binh sĩ được hỗ trợ tinh thần,
tăng thêm sức mạnh trong ba mũi giáp công thắng lợi. Sở trường
của lực lượng 19.5 là vận dụng cách đánh thọc sâu vào vùng yếu,
vùng sâu để lực lượng vũ trang tiếp tục tuyên truyền tạo thế cho
cơ sở quần chúng, cho du kích, đẩy mạnh hoạt động. Thắng lợi
của đơn vị 19.5 tạo phấn khởi, niềm tin trong thanh niên. Đồng
bào mừng vui hưởng ứng phong trào vận động tòng quân, không
chỉ đưa con em đi chiến đấu mà còn ủng hộ gạo, tiền bạc nuôi
quân. Ở Phước Lai, thanh niên Trần Văn Sang (Hai Sang, con của
ông Huỳnh Văn Lâm, cơ sở cách mạng tại Phước Lai) qua vận
động, giới thiệu của đồng chí Huỳnh Văn Bửu, ngày 5.1.1961
cũng chính thức thoát ly, gia nhập lực lượng 19.5. Đơn vị của
đồng chí Trần Văn Sang do đồng chí Hai Sơn làm Đại đội trưởng.
Ở mặt công tác diệt ác trừ gian, lực lượng vũ trang 19.5 đã
cảnh cáo, xử tội nhiều ác gian gây thanh thế cho quân giải phóng.
Một tên chiêu hồi là cán bộ kháng chiến chống Pháp ở Phước
Long, sau về Phú Mỹ, bị mua chuộc, làm tay sai đắc lực cho giặc,
chỉ hầm cho giặc bắt chị Khánh Phương (cán bộ tỉnh), đón bắt anh
Tư Thái trên đường đi công tác, và nhiều đồng chí khác nữa. Tên
này tội ác rõ ràng, lực lượng vũ trang cử người đến tận nhà, đọc
bản án và trừng trị.
161

17.2 Page 162

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Ở Phước An, ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt chống
gom dân vào khu trù mật. Ở các xã Tam An, Phước Nguyên, Bình
Sơn, Long Phước (huyện Long Thành), phong trào diệt ác phá
kềm diễn ra sôi nổi, đều khắp. Thanh niên tham gia du kích và
tòng quân đi bộ đội giải phóng phát triển mạnh. Cơ sở bên trong
được củng cố vững chắc và đông hơn trước nhiều. Phong trào nổi
dậy ở các địa phương kế cận có tác động qua lại rất mạnh, thắng
lợi ở một nơi thúc đẩy các nơi khác xốc tới.
II. BA MŨI GIÁP CÔNG, GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI
ÂM MƯU “ẤP CHIẾN LƯỢC” VÀ “CHIẾN TRANH ĐẶC
BIỆT”
1. Phong trào Đồng khởi, phá “Ấp chiến lược”, mở rộng
vùng giải phóng
Tháng 1.1961, Ban Chấp hành Huyện ủy Nhơn Trạch họp
nhằm kiểm điểm, ổn định tình hình tách huyện và phương hướng
hoạt động cả năm, bàn thảo xây dựng kế hoạch và phân công trực
tiếp diệt ác phá kìm mạnh mẽ hơn, giành quyền làm chủ rộng hơn
ở các ấp xã, kiến nghị về tổ chức lực lượng cán bộ an ninh cấp xã.
Ở Phước Lai, ta bắt hai tên gián điệp, chỉ điểm đưa về trại tạm
giam ở Rừng Sác Bà Ký, sau đó nhận được lệnh cấp trên áp giải
hai tên này về tỉnh để khai thác vì đây là hai tên nguy hiểm. Giai
đoạn này, trong khu vực Rừng Sác Bà Ký có một trại tạm giam
của lực lượng Công an, gọi là trại tạm giam nhưng thực chất chỉ
là lán trại lợp lá, sau này lá bị rách thì che tạm bằng nilon, sạp ngủ
đóng bằng cây chà là, bốn bề không có vách. Trạm có ba người,
Trưởng trạm là đồng chí Mười Đức, người Phước Thọ, hai nhân
162

17.3 Page 163

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
viên là Trần Văn Sang (từ lực lượng 19.5 chuyển qua) và Nguyễn
Văn Bảnh (Ba Cang), đều là người Phước Lai.
Đầu tháng 7.1961, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên
Thường vụ, Trưởng ban binh vận huyện Nhơn Trạch được Huyện
ủy quyết định về làm phó đoàn chỉ đạo vùng IV, thay cho đồng chí
Nguyễn Văn Thông nhận quyết định đi học lớp cán bộ an ninh do
R mở, lên đường đầu tháng 8.
Trong thời gian này (tháng 7.19611) Đại đội 240 được thành
lập với 40 cán bộ, chiến sĩ lấy từ Đại đội 380 tỉnh Thủ Biên;
do đồng chí Phạm Văn Thương làm Đại đội trưởng; đồng chí
Nguyễn Văn Bảo làm Đại đội phó; đồng chí Nguyễn Văn Bé làm
Chính trị viên; cán bộ, chiến sĩ có 42 đồng chí tổ chức làm hai
trung đội thiếu, đóng quân và hoạt động trên địa bàn khu Lòng
Chảo huyện Nhơn Trạch; từ tháng 10.1972 phát triển thành Tiểu
đoàn 240. Nhiều lớp thanh niên của Phước Lai, Phước Kiển thoát
ly tham gia cách mạng, gia nhập lực lượng 240, như: Trần Văn
Lập2 nhập ngũ năm 1961; Huỳnh Ngọc Sơn3, em trai của Xã đội
trưởng Phước Lai Huỳnh Ngọc Minh, vào 240 năm 1962; Đặng
Văn Đức4, em của du kích Đặng Văn Sang, nhập ngũ 240 năm
1963; Trần Công Thắng, Dương Văn Thạch, Ngô Phi Long...
Trong đó, chiến sĩ Trần Công Thắng nhập ngũ C240 năm 1962
1  Có tài liệu ghi: Tháng 1.1961.
2  Con trai duy nhất của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nớt.
3  Con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Cửu.
4  Con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Hương. Mẹ Hương có ba
người con hy sinh trong kháng chiến: Đặng Văn Thép, Đặng Văn Sang, Đặng
Văn Đức.
163

17.4 Page 164

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lúc mới 17 tuổi, là chiến sĩ được cấp trên, đồng đội đánh giá rất
quả cảm, kiên cường trong chiến đấu. Trong một trận chống địch
đột kích tại Phước An, Thắng được giao giữ khẩu B40, địch đột
kích vào và chiếm công sự, Thắng kịp thời đánh một quả B40 là
địch bị bật ra, góp phần cùng đơn vị chiến đấu thắng lợi. Sau trận
đánh, anh em đánh giá, khen ngợi đó là quả “B40 vàng”, Thắng
hành động kịp thời, dũng cảm và linh hoạt.
Tháng 6.1962, C240 cùng D800 của Quân khu phối hợp Đội
du kích Phước Lai và Phước Thọ nghiên cứu tìm cách đánh đồn
Phước Lai. Trước đó nhiều ngày, bộ đội chủ lực phối hợp với đội
du kích 2 xã Phước Lai, Phước Thọ tổ chức điều nghiên quy luật
đi lại, làm việc của bọn lính dân vệ đóng tại đây. Đồn có khoảng
1 trung đội dân vệ khoảng 30 tên đóng giữ, ban ngày chúng kéo
nhau ruồng bố khắp nơi, tối co cụm về đồn ngủ. Bọn này rất
nghênh ngang, hống hách, thường ức hiếp người dân trong vùng.
Sau khi điều nghiên kỹ, nhận thấy có khả năng, lực lượng ta quyết
định đánh đồn. Đêm đó, khi các đơn vị đã ém xung quanh cổng
đồn chờ đến giờ hẹn, thì bỗng dưng phía trước cổng đồn có trái
mít rụng đánh đùng xuống mái tôn, bọn lính hoảng hốt nhốn nháo
kêu nhau “coi chừng Việt cộng tấn công”. Tuy có sự cố bất ngờ
xảy ra, nhưng các chiến sĩ ra hiệu cho nhau, bình tĩnh phục tiếp.
Sau khi xem xét xung quanh không thấy có “Việt cộng”, bọn lính
càu nhàu kéo nhau vào đồn. Đợi thêm một thời gian thấy trong
đồn êm ắng, lực lượng ta mới ra lệnh tiến công. Bị “bất ngờ” lần
thứ hai, toàn bộ trung đội lính dân vệ trong đồn bị ta bắt sống, áp
giải đưa về đồng Mu Rùa ở Phước An. Trận này ta hy sinh một
đồng chí.
164

17.5 Page 165

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Các xã vùng thuộc khu vực Lòng Chảo, nhất là Phước An,
liên tục diệt ác phá kìm. Địch bung ra càn quét, bình định các xã.
Lực lượng ta khá đông nhưng trang bị vũ khí không đủ. Do vậy
cán bộ phải bám vào ấp lãnh đạo cốt cán đẩy mạnh phong trào đấu
tranh chống khủng bố, chống bắt lính, tiếp tục củng cố và phát
triển cơ sở mật trong ấp. Lực lượng công khai (cán bộ, du kích) ở
mỗi xã tự phát triển vũ khí thô sơ như súng trường, súng ngựa trời,
mìn, hố đinh, bàn chông. Xây dựng căn cứ ở địa phương phải có
hàng rào chiến đấu bảo vệ, nếu địch vào thì tiêu hao, tiêu diệt. Mặt
khác, các cán bộ được phổ biến kinh nghiệm là hạn chế đi lại trên
sông rạch để tránh bị địch phục kích. Tất cả anh em cán bộ, du
kích các xã được quán triệt đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất
vũ khí thô sơ, lập hàng rào chiến đấu. Chỉ trong thời gian ngắn,
các đội du kích đã làm được súng ngựa trời, súng trường tuy bắn
từng viên một nhưng tầm sát thương không thua kém súng địch
bao nhiêu.
Tháng 4.1962, địch ráo riết thực hiện kế hoạch Staley Taylor.
Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương xây dựng ấp
chiến lược, xem đây là xương sống của chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt”. Tất cả các lực lượng của địch đều bung ra, vừa đánh phá
phong trào cách mạng, vừa xây dựng ấp chiến lược để “tát nước
bắt cá”, cách ly nhân dân ra khỏi phong trào cách mạng. Nhơn
Trạch được chọn là trọng điểm xây dựng ấp chiến lược của tỉnh
lỵ Biên Hòa. Ở quận Nhơn Trạch, địch chọn hai xã Phú Thạnh
và Vĩnh Thanh là “điểm” để xây dựng ấp chiến lược. Mặc dù
xây dựng điểm chưa xong, địch vẫn tiến hành xây dựng một loạt
165

17.6 Page 166

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
các ấp chiến lược ở các xã ven theo lộ 19 và lộ 17. Ở Phước Lai,
Phước Kiển, địch cũng ráo riết xây dựng ấp chiến lược. Ấp chiến
lược bên ngoài quây bằng mấy vòng rào kẽm gai, có cổng gác,
người dân ra vào phải khai báo, khám xét; buổi tối thì đóng cổng
“nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Địch còn bắt các gia đình trong ấp
đều phải trang bị mõ tre, nếu có người lạ vào ấp phải gõ mõ tre
báo động. Ta vận động dân chống đối, vì nếu để địch xây dựng ấp
chiến lược thành công sẽ rất khó khăn cho phong trào cách mạng
khi mọi hoạt động ra vào ấp chiến lược hay vận chuyển lương
thực, thực phẩm, thuốc men đều bị địch kiểm soát. Bà con cũng
rất đồng tình với chủ trương phản đối xây dựng ấp chiến lược vì
không ai thích bị kiểm soát mọi việc. Rút kinh nghiệm từ Phước
An, bà con liên tục dùng mõ tre để quấy phá ý đồ kiểm soát của
địch, buổi tối không có việc gì bà con đánh mõ tre, bọn dân vệ tất
tả chạy đến lại không có gì, bà con bảo nghe động thì đánh mõ
như lời dặn khiến bọn chúng cứng họng. Một đêm đánh mõ như
vậy mấy lần, bọn chúng chạy khắp nơi, mệt mỏi mà không làm
gì được; nhưng khi có cán bộ của ta đột về ấp thì bà con lại im ru
không đánh mõ. Tuy nhiên, bọn tề ngụy cùng với bọn lính đóng ở
hai đồn Phước Lai, Phước Kiển rất cứng rắn vì lệnh trên mà bọn
chúng nhận được là bằng mọi giá phải xây dựng ấp chiến lược
trên con đường lộ 19 huyết mạch ra vào khu Lòng Chảo.
Huyện ủy Nhơn Trạch được Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ đạo các
cấp phải tích cực chống phá kế hoạch lập ấp chiến lược của Mỹ -
Diệm. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp bàn:
nếu phá ngay khi địch chưa xây dựng hoàn chỉnh thì ít khó khăn,
166

17.7 Page 167

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tránh tổn thất. Cơ sở mật thông báo tin tức: địch gom dân vào ấp
chiến lược, số dân bị gom còn ít, bà con bất mãn nên làm chiếu
lệ; bên ngoài ấp chiến lược đào hào chữ A, quây bằng kẽm gai,
có khúc hào đào xong, có khúc dở dang chưa có rào; ban ngày
lính canh gác, xét người ra vào rất nghiêm ngặt, từ 6 giờ tối trở đi
là có lệnh giới nghiêm, hàng đêm đều có lính đi tuần tra; ở giữa
ấp có nhà kho chứa cuốc xẻng... Đồng chí Nguyễn Văn Liềm đã
đột vào Phú Thạnh điều nghiên, vạch phương án tác chiến. Lực
lượng phá ấp chiến lược huy động khoảng 100 cán bộ, đồng bào
các xã: Phú Thạnh, Vĩnh Thanh, Phước An, Phước Thọ, Phước
Lai, Phước Kiển, Phú Hội sẽ đồng loạt phá ấp chiến lược. Những
người tham gia phá ấp chiến lược bí mật chuẩn bị một cây dài
chừng 5 mét làm cầu vượt hào. Ngày 14.3.1962, ta ra quân. Lực
lượng vũ trang huyện 19.5 và du kích các xã triển khai đội hình
bảo vệ phía ngoài. Ban chỉ huy ra lệnh tiến công. Anh em bắc cây
làm cầu vượt hào, vào phá các sườn nhà đang dựng, phá kho lấy
dao rựa, cuốc xẻng bang đất san lấp vài đoạn hào. Khoảng một giờ
sau, lực lượng ta rút lui an toàn. Tuy nhiên, đợt phá ấp chiến lược
này Phước Lai tổn thất đội viên du kích Phan Văn Bẳng.
Khi phá ấp chiến lược, bộ đội bắn vài loạt súng thị uy để bữa
sau dân bị gom có cớ đấu tranh không làm. Sáng ra, đồng bào
thấy hàng rào bị phá, càng thêm vững lòng tin vào cách mạng, bọn
địch thì ngán ngại. Đây là trận mở màn phá ấp chiến lược đầu tiên
trong hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch.
Khu ủy miền Đông cử các đồng chí Hai Lực và Sáu Phát về
kiểm tra, đánh giá phong trào đấu tranh do Huyện ủy Nhơn Trạch
167

17.8 Page 168

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lãnh đạo có bước phát triển. Rõ ràng việc chống phá ấp chiến lược
phải kết hợp cho được hai lực lượng bên trong và bên ngoài ấp;
kết hợp được hoạt động vũ trang với đấu tranh chính trị và sự góp
sức của đồng bào cơ sở bên trong ấp. Kế hoạch ấp chiến lược của
Mỹ Diệm học tập kinh nghiệm chống cộng ở Malaysia đã thất
bại thảm hại ở Nam Bộ, bởi chúng đầy tham vọng nhưng không
hiểu hết văn hóa đời sống của dân làng Nam Bộ: Yêu quê hương,
bám đất bám làng, kiên cường, bất khuất, sống chết bảo vệ từng
gốc cây ngọn cỏ vườn nhà. Có Đảng lãnh đạo, phẩm chất ấy càng
trở nên mạnh mẽ, bọn địch dùng bạo lực để dồn dân vào ấp chiến
lược chắc chắn không thể nào thành công.
2. Các đợt đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang
Ngày 3.2.1962, Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch họp
kiểm điểm tình hình, phân tích sâu sắc đặc điểm chiến lược chiến
tranh đặc biệt của Mỹ Diệm, địa bàn và nhiệm vụ chiến lược của
huyện Nhơn Trạch. Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ quyết định một
số vấn đề quan trọng:
- Thứ nhất, toàn Đảng bộ, toàn dân và các lực lượng vũ trang
trên địa bàn huyện quán triệt sâu sắc đường lối vũ trang đi đôi
chính trị trên ba vùng chiến lược rừng núi - đồng bằng - đô thị,
đánh địch bằng ba mũi giáp công vũ trang - chính trị - binh vận.
Ta tấn công địch liên tục nhằm phá lỏng, phá rã tiến tới phá ấp
chiến lược. Gắn chặt việc phá ấp chiến lược với phát huy giành
quyền làm chủ của nhân dân, phát triển thực lực toàn diện cả bên
trong xóm ấp lẫn bên ngoài.
168

17.9 Page 169

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Thứ hai, khẳng định huyện Nhơn Trạch là vị trí chiến lược
đối với ta cũng như đối với địch, cuộc chiến đấu dần dần ác liệt và
lâu dài như Nghị quyết 15 của Đảng đã nêu.
- Thứ ba, không ngừng kiện toàn, phát triển toàn diện “thế
mới, lực mới” của ta trên địa bàn huyện, góp phần cùng tỉnh
không ngừng tạo thế mới, lực mới. Muốn đạt mục tiêu này, toàn
Đảng bộ và các lực lượng phải quyết tâm bám trụ địa bàn Lòng
Chảo, bám trụ từng ấp, xã.
- Thứ tư, thực hiện một số chủ trương cụ thể theo quan điểm
nêu trên và theo nghị quyết của Tỉnh ủy: Phát động toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân trong huyện mở đợt đồng loạt phá ấp chiến
lược. Chú trọng thu toàn bộ cọc sắt, dây kẽm gai để xây dựng ô,
ụ chiến đấu gắn với phong trào “bao vây, uy hiếp đồn bót” ở các
xã Phước An, Phước Thọ, Phú Hội, Phước Thiền. Các cơ quan
huyện, căn cứ du kích xã tổ chức xây dựng hàng rào chiến đấu,
phát triển mạnh hầm chông, hố đinh, ụ chiến đấu để bảo vệ cơ
quan, căn cứ của mình. Tăng cường chỉ đạo củng cố công trường,
sưu tầm bom đạn ở bãi hủy Bàu Sen để sản xuất mìn gài, lựu đạn
phục vụ công việc xây dựng ô, ụ hàng rào chiến đấu của các cơ
quan đơn vị. Tổ chức đào địa đạo từng cơ quan và một số xã kết
hợp với phát triển hầm bí mật trong các ấp vùng sâu và ngoài địa
hình. Thường vụ Huyện ủy tiến hành đào thí điểm địa đạo. Nội bộ
tuyệt đối giữ bí mật.
- Thứ năm, ráo riết chuẩn bị Đại hội Mặt trận dân tộc giải
phóng huyện Nhơn Trạch đúng ngày 19.5.1962.
169

17.10 Page 170

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Từ sau hội nghị, phong trào toàn huyện chuyển biến tích cực.
Đầu tháng 4.1962, các ấp chiến lược ở các xã dọc hai trục lộ 17
và 19 bị phá đồng loạt. Phong trào ấp chiến lược rộ lên liên tục ở
cả những vùng sâu như Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước. Ta
giáo dục cảnh cáo hàng chục tề ấp, xã, diệt một số ác ôn là cảnh
sát chi khu. Diệt ác, ta phá được thế kềm kẹp của địch ở nhiều nơi,
gây phấn khởi lớn cho đồng bào trong huyện. Việc xây dựng ô,
ụ, căn cứ chiến đấu từ huyện đến xã phát triển mạnh. Đây là mô
hình chiến đấu sáng tạo ở địa bàn Nhơn Trạch. Cùng với phong
trào phá ấp chiến lược, xây dựng thế chiến đấu trên chiến trường
Lòng Chảo, Huyện ủy chỉ đạo gấp rút chuẩn bị Đại hội Mặt trận
Dân tộc giải phóng huyện. Các chi bộ xã đều lập đoàn đại biểu địa
phương mình.
Sáng 18.5.1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện
Nhơn Trạch khai mạc, có gần 30 đoàn đại biểu xã, cơ quan, ban
ngành với 250 đại biểu về dự. Đại hội diễn ra tại khu căn cứ cao
su gần bìa rừng Đồng Lớn ở Lòng Chảo. Đại hội xác định dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quân dân toàn huyện đoàn kết một lòng, quyết
tâm góp phần cùng quân dân cả nước đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm
lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội bầu Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Nhơn
Trạch gồm 10 vị, trong đó ông Ngô Quang Thanh, đại diện giới
tư sản dân tộc, làm Chủ tịch Mặt trận (sau ông làm Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tỉnh Biên Hòa). Đại
hội thông qua Lời kêu gọi toàn thể đồng bào trong huyện “vùng
lên liên tục phá toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch, giành
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chính quyền, làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người sức của phục
vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng quê hương”.
Đêm 18 rạng 19.5, tại đồng Mu Rùa, xã Phước An ta tổ chức cuộc
mít-tinh hàng ngàn đồng bào từ các xã (trong đó có hàng trăm
đồng bào Phước Kiển, Phước Lai) về dự. Ủy ban Mặt trận huyện
ra mắt đồng bào, mọi người hoan nghênh sự thành công của Đại
hội và biểu thị quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Mặt trận.
Tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên nhằm đánh bại
Chiến tranh đặc biệt của Mỹ, các lực lượng vũ trang phối hợp
dân quân, du kích và quần chúng trên địa bàn Long Thành - Nhơn
Trạch cùng thực hiện chiến thuật “Bao, bó, tấn, lấp, diệt”, liên tục
tấn công, liên tục nổi dậy phá rã ấp chiến lược, tiêu diệt, tiêu hao
nhiều sinh lực địch, khống chế bộ máy tề ấp xã, bức rút, bức hàng
hàng chục đồn, bót ở các xã cặp trục đường lộ 17, 19 huyện Nhơn
Trạch; kết quả các đồn bót ven quốc lộ 15, lộ 19, lộ 17 bị cô lập,
ta mở rộng vùng giải phóng rộng lớn ở các xã Phước Long, Phước
Thọ, Phước An, Phú Hội, Phú Hữu ...
Trong khi xã Long Phước được xem là “vùng giải phóng”, hai
xã lân cận Phước Long, Phước Thọ là “vùng da beo” thì hai xã
Phước Lai, Phước Kiển được xem là “vùng yếu”, bởi vì bọn địch
tìm cách thủ rất chắc vùng Hiệp Phước do vị trí địa lý, là địa bàn
có những đầu mối giao thông quan trọng. Là “vùng yếu” nhưng
Hiệp Phước không phải là “vùng trắng” bởi bất kỳ hoàn cảnh nào,
khó khăn đến đâu thì tổ chức cơ cở Đảng vẫn bám trụ được ở đây,
trong lòng dân và được dân che chở.
171

18.2 Page 172

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đầu mùa mưa 1962, văn phòng Huyện ủy dời về nhà mẹ Phan
Thị Mỵ ở ấp Xóm Hố, xã Phú Hội. Thửa vườn nhà mẹ khá rộng
kề bãi đất dốc tre mọc dày đặc, được Huyện ủy chọn làm nơi đào
hầm bí mật1. Đào hầm bí mật ở đây thành công, Huyện ủy chỉ đạo
nhân rộng đào hầm bí mật ở các xã vùng kềm như Đại Phước,
Phước Khánh, các xã dọc trục đường 17 và vùng Lòng Chảo để
cán bộ có thể bám trụ mà công tác và chiến đấu. Chung quanh
Lòng Chảo Nhơn Trạch có hàng chục hầm bí mật lớn nhỏ, có hầm
chứa được một bán đội, chứa vũ khí, cất giấu tài liệu, cũng là nơi
lực lượng ta xuất kích đánh địch.
Ở Hiệp Phước, mặc dù nằm trong vùng bị địch chiếm đóng,
bị theo dõi, nghi ngờ, o ép tứ bề nhưng lòng dân Hiệp Phước vẫn
hướng về cách mạng qua những chiếc hầm bí mật được đào ở
Phước Lai, Phước Kiển để nuôi giấu cán bộ, như hầm nhà ông
Bảy Xèo, nhà ông Ba Đãi, nhà ông Bảy Chu, nhà ông Hai Thái,
nhà mẹ Nguyễn Thị Hương. Đặc biệt, ở ấp B xã Phước Lai do
đặc điểm vùng này là có nhiều mạch nước ngầm, đào sâu xuống
chừng chưa đến 1 mét là đã có nước ngầm nên người dân có sáng
kiến đóng thùng gỗ rồi trét chai như chiếc ghe, chôn xuống hầm
để cán bộ không bị ướt, hoặc có khi đặt luôn chiếc lu lớn dưới
hầm. Đồng chí Trần Văn Sang lúc làm Bí thư chi bộ xã Phước Lai
có lúc được ông Hai Thái, ông Mười Mạnh nuôi giấu hàng tháng
1  Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, có lúc đồng chí Nguyễn
Trọng Cát và Nguyễn Văn Thông trụ ở hầm bí mật này. Gia đình mẹ Mỵ cũng như
bao đồng bào Xóm Hố tận tình đùm bọc, nuôi giấu cán bộ, nhân viên văn phòng
Huyện ủy suốt từ mùa mưa 1962 đến mùa mưa 1965.
172

18.3 Page 173

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trời trong những chiếc hầm bí mật đặc biệt này. Nhà ông Bảy Chu
thì làm chiếc gác xép bí mật trên trần nhà để nuôi giấu cán bộ.
Từ cuối tháng 6.1962, địch bung ra càn quét mạnh các xã trong
huyện Nhơn Trạch. Lực lượng vũ trang 19.5 tuy khá đông, nhưng
vũ khí trang bị không đủ. Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương cán
bộ phải bám dân trong các ấp, lãnh đạo cơ sở cách mạng cốt cán
đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống khủng bố. Từ cơ sở vững
xây dựng thành phong trào mạnh, nhiều tề xã ác gian bị tiêu diệt,
cảnh cáo; giặc bớt hống hách với đồng bào. Xác định cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến lâu dài, gian khổ, mức độ
ác liệt ngày càng tăng, cùng với nhân dân miền Nam thành đồng
Tổ quốc đang anh dũng chiến đấu, Ban Thường vụ Huyện ủy
Nhơn Trạch hạ quyết tâm bám trụ, đứng vững trong Lòng Chảo.
Xa rời Lòng Chảo, không bám vào dân, nhất định lực lượng cách
mạng Nhơn Trạch sẽ tổn thất lớn, không hoàn thành nhiệm vụ
Đảng giao.
Ban Thường vụ Huyện ủy cho lập đề án xây dựng địa đạo để
bám trụ trong lòng đất, lòng dân. Để đảm bảo bí mật, khúc địa
đạo đầu tiên đào ngay dưới rừng tre xã Phước An. Đầu năm 1963,
văn phòng Huyện ủy và nhiều ban, ngành, đoàn thể chuyển tới
làm việc trong địa đạo. Đến giữa năm 1967, đường xương sống
địa đạo đã dài khoảng 1.500 mét, có thể chứa ba, bốn trăm cán bộ
chiến sĩ trong nhiều ngày. Địch nhiều lần tấn công vào Phước An,
ta đều dựa vào địa đạo để chống trả.
173

18.4 Page 174

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Huyện ủy tiếp tục bám trụ địa đạo này để chỉ đạo phong trào
cho đến ngày 30.4.19751.
Cuối năm 1962 và đầu năm 1963, hai xã Phước Lai và Phước
Kiển lại chịu tổn thất lớn. Ngày 22.11.1962, Bí thư xã Phước Kiển
là Nguyễn Văn Cường hy sinh tại rừng Phước Kiển trong một trận
càn của địch, cùng hy sinh có du kích Võ Văn Đông. Năm 1964,
Huyện ủy cử đồng chí Lê Văn Hạnh2 người ấp Bà Trường, xã
Phước An) về chi viện cho Phước Kiển nhận nhiệm vụ Bí thư xã.
Nhưng đến năm 1965, đồng chí Hạnh hy sinh. Năm 1968, đồng
chí Nguyễn Văn Tài (Ba Tài, còn có bí danh là Rừng, người ấp
Bà Trường, xã Phước An) tiếp nhận nhiệm vụ của Huyện ủy về
Phước Kiển làm Bí thư. Ngày 30.1.1969, đồng chí Nguyễn Văn
Tài cùng 4 đồng chí, trong đó có 2 chiến sĩ du kích xã là Nguyễn
Minh Tâm, Mai đi đến khu vực ở Mương Sâu (Phước Mỹ) để thu
thuế. Không ngờ chủ nhà là Nguyễn Văn Cóc chỉ điểm, bọn lính
trung đội 66 địa phương quân đóng ở Phước Kiển đã tổ chức mai
phục gần đó, đoàn công tác rơi vào ổ phục kích, đồng chí Nguyễn
Văn Tài và Nguyễn Minh Tâm hy sinh. Chiến trường Phước Kiển
quá ác liệt, đồng chí Nguyễn Văn Tài hy sinh chỉ sau khi nhận
nhiệm vụ được vài tháng. Năm 1969, một đồng chí khác cũng là
người Phước An được cử về Phước Kiển làm Bí thư, đó là đồng
chí Dương Văn Bảnh.
1  Địa đạo Phước An (Địa đạo Nhơn Trạch) được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay
là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia theo
Quyết định số 04/2001/QĐ-BVHTT ngày 19/01/2001.
2  Đồng chí Lê Văn Hạnh là con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Tư
ở xã Phước An.
174

18.5 Page 175

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Ở Phước Lai, ngày 12.1.1963, Bí thư xã Phước Lai Huỳnh
Văn Bửu đi thu thuế đảm phụ ở cánh đồng Long Phước. Anh Bửu
mặc bộ bà ba cũ như bao nông dân đi làm đồng, đội nón lá, cùng
đi với một du kích. Có mấy tên mật thám trà trộn trong dân theo
dõi, áp sát định bắt sống anh. Phát hiện bọn địch, anh Bửu ra hiệu
cho người du kích rồi bất ngờ cả hai cùng bỏ chạy, địch đuổi theo,
xả súng bắn chết anh ngay trên đồng. Đồng chí Huỳnh Văn Bửu
là thanh niên trưởng thành trên vùng đất Phước Lai, con của mẹ
Dương Thị Phụ1, gắn bó với phong trào cách mạng địa phương
từ rất sớm, anh hy sinh khi mới vừa 26 tuổi, vẫn chưa kịp lập gia
đình. Sau khi đồng chí Bửu hy sinh, huyện cử đồng chí Huỳnh
Ngọc Minh nhận nhiệm vụ Bí thư chi bộ. Đồng chí Huỳnh Ngọc
Minh cũng trưởng thành trong gia đình có truyền thống cách mạng
ở Phước Lai, cả gia đình gồm cha mẹ, năm anh chị em đều tham
gia kháng chiến và là cơ sở cách mạng.
Khoảng cuối tháng 7.1963, theo nhận định của Tỉnh ủy, địch
có thể tăng cường lực lượng và mở chiến dịch đánh vào vùng căn
cứ của cách mạng, đặc biệt là khu Lòng Chảo. Vì thế Huyện ủy
Nhơn Trạch chủ trương phá tỉnh lộ 19 để cản đường xe quân sự
của địch. Để đối phó, địch điên cuồng ném bom, bắn phá ở các ấp
Bà Trường, ấp Chợ, Bàu Bông (Phước An) và nhiều ấp thuộc xã
Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiển; giết hại và làm
bị thương hàng mấy trăm dân thường vô tội, phá hủy hàng trăm
ngôi nhà và làm hư nhiều tài sản khác của bà con.
1  Mẹ Dương Thị Phụ là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có chồng Huỳnh Văn Diệu,
hy sinh ngày 1.7.1946; và hai con: Huỳnh Ngọc Chiếu (hy sinh năm 1954) và
Huỳnh Ngọc Bửu đều là liệt sĩ.
175

18.6 Page 176

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đêm 10.10.1963, một trường hợp nổ trái hy sinh tại căn cứ xã
Phước Lai khiến phải ai nghe cũng đau lòng. Người vô tình gây
ra sự cố là anh Nguyễn Văn Bảnh (Ba Cang). Ba Cang là người
ấp B xã Phước Lai, mới 16 tuổi anh đã thoát ly gia đình vào Đội
du kích xã, là một chiến sĩ gan dạ, kiên cường, dũng cảm, lập
nhiều thành tích trong chiến đấu. Có lần các đội viên Đội du kích
lọt vào vòng phục kích của địch ở Phước Thọ, Ba Cang cùng với
Hai Sang trụ lại chiến đấu cho anh em rút trước. Địch bắn như vãi
trấu, Ba Cang cùng Hai Sang bắn trả từng viên một, đến viên đạn
cuối cùng anh với Hai Sang mới nhảy ùm xuống sông, địch ném
lựu đạn theo nổ ùm ùm, một mảnh lựu đạn ghim trúng đầu Ba
Cang nhưng anh vẫn cười hì hì, ra trạm y tế nằm mấy bữa lại mò
về vì kêu nhớ anh em. Đời sống kháng chiến trong căn cứ vô cùng
gian khổ nhưng anh chưa hề kêu ca, lúc nào cũng xông xáo giúp
đỡ mọi người. Một thời gian sau, Ba Cang gia nhập lực lượng An
ninh huyện.
Một buổi chiều, Ba Cang được cấp trên cho nghỉ phép, trở về
nhà ở ấp B Phước Lai để đi hỏi vợ. Trên đường về thì gặp phải
đám lính của tên ác ôn Chín Trớn đi càn nên Ba Cang ghé vào căn
cứ Phước Lai. Thời đó, thanh niên đi kháng chiến thường mang
theo đèn dầu tự chế để thắp sáng, riêng Ba Cang do tuổi còn trẻ,
thích mới lạ nên tự chế đèn dầu từ một quả lựu đạn da láng đã bỏ
hết thuốc nổ và kíp nổ, thay vào đó là dầu hỏa và tim đèn, rồi gài
mỏ vịt vô như trái lựu đạn thật, tuy nhiên phía ngoài Ba Cang có
khía để làm dấu. Đó chỉ là trò vui tinh nghịch thường có của các
chiến sĩ trẻ. Đêm đó ở căn cứ, Ba Cang nằm trên ghế dài nghỉ
ngơi chờ bọn lính rút, trước khi nằm anh móc cây đèn dầu tự chế
176

18.7 Page 177

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
để trên bàn. Lát sau nhóm anh em đi chống càn về, gồm có: Phạm
Hiếu Nghĩa (du kích), Đặng Văn Sang (du kích), Phan Văn Quang
(nhân viên xã), Đào Văn Thành (cán bộ thanh niên) và một số
anh em du kích khác như Thành Trung, Lê Trung. Lúc này, trong
lán còn có hai chị công tác ở bên phụ nữ cũng vướng trận càn mà
ghé vào căn cứ là Phan Thị Kim Ngọc (Ba Ngọc), và Nguyễn Thị
Hồng Tươi (Tư Nga). Các anh đội viên du kích sau khi vào nhà
thì móc lựu đạn thật ra để trên bàn. Lát sau có tiếng chó sủa rộn
ở phía xa, Ba Cang đang ngủ chồm dậy, chụp lấy cây đèn dầu tự
chế trên bàn, rút mỏ vịt ra để đốt đèn lên. Không ngờ, Ba Cang
cầm nhầm trái lựu đạn thật của anh em du kích cũng để trên bàn.
Lựu đạn vừa bật chốt, Ba Cang biết đã nhầm, kêu lên “Chết rồi”,
rồi anh ôm trọn trái lựu đạn vào bụng với ý là định tự mình lãnh
trọn. Nhưng do lựu đạn sát thương quá mạnh, bụng Ba Cang nát
bấy, bốn người đứng gần là Phạm Hiếu Nghĩa, Đặng Văn Sang,
Đào Văn Thành, Phan Văn Quang đều bị thương nặng. Lại thêm
lúc đó đang gặp càn, đến sáng bọn lính rút đi, mọi người đưa anh
em đến trạm y tế cấp cứu nhưng không kịp, bốn anh em hy sinh;
hai nữ đồng chí Tư Nga, Ba Ngọc thì bị thương nhẹ. Mọi người
chôn năm chiến sĩ trong căn cứ, dưới gốc cây cám lớn, có đánh
dấu nhưng sau này bọn địch ủi san bằng khu căn cứ, không sao
tìm được thi thể các anh1. Năm chiến sĩ ra đi khi tuổi đời còn rất
trẻ, chưa ai có vợ con: Đào Văn Thành mới 17 tuổi, thoát ly theo
kháng chiến không lâu; Đặng Văn Sang 21 tuổi, là người con thứ
1  Sau ngày đất nước thống nhất, bốn đồng chí: Đặng Văn Sang, Đào Văn Thành,
Phạm Hiếu Nghĩa, Phan Văn Quang đều được công nhận liệt sĩ. Riêng Nguyễn
Văn Bảnh không được công nhận liệt sĩ.
177

18.8 Page 178

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
hai hy sinh của mẹ Nguyễn Thị Hương; Phan Văn Quang mới
bước vào tuổi 22; Nguyễn Văn Bảnh cũng chỉ mới 25 tuổi, vĩnh
viễn không còn gặp cô thôn nữ Phước Lai đang chờ anh về làm lễ
cưới. Sự cố thương tâm được rút kinh nghiệm về trò tinh nghịch
cùng tính bất cẩn của chiến sĩ trẻ; và nỗi thương tiếc, xác nhận
trường hợp hy sinh của chiến sĩ Nguyễn Văn Bảnh cũng day dứt
mãi không nguôi trong lòng gia đình, đồng đội1.
Ngày 2.11.1963, cả hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình
Nhu bị quân đội Sài Gòn đảo chính giết chết. Sau đó chưa đầy một
tháng, tổng thống của nước Mỹ là Kenedy cũng bị ám sát chết.
Chế độ Sài Gòn lâm vào cảnh rối ren, giành giật ngôi vị, binh lính
khắp nơi hoang mang.
Chiều 27.9.1964 nhiều tốp máy bay địch đến ném bom, bắn
phá hơn 200 xuồng, ghe ở ngã ba Giồng Sắn2 (Phú Hữu, nay thuộc
Phú Đông) giết hại 536 đồng bào. Tội ác tày trời của giặc bị báo
chí giải phóng và báo chí Sài Gòn lên án mạnh mẽ. Để trả thù cho
đồng bào bị thảm sát, đêm 31.10.1964, pháo binh quân giải phóng
đã bắn phá dữ dội sân bay Biên Hòa gây cho địch nhiều tổn thất
nghiêm trọng. Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương và tổ chức đưa
hàng trăm quần chúng, có nhiều người từ Phước Kiển, Phước Lai
tham gia biểu tình ở Biên Hòa, Sài Gòn tố cáo tội ác của chế độ
Mỹ ngụy.
1  Nhân chứng lịch sử: Nguyễn Thị Hồng Tươi, thị trấn Long Thành; Trần Văn
Sang (Hai Sang) ở xã Hiệp Phước, Huỳnh Minh Tấn ở thị trấn Long Thành.
2  Đây là ngã ba sông, nơi tụ tập ghe thương hồ từ miền Tây lên mua bán rất
đông. Giồng Sắn đã được công nhận Di tích cấp tỉnh và làm hồ sơ Di tích quốc
gia. Năm 2004, di tích đã được trùng tu, tôn tạo.
178

18.9 Page 179

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Trong những năm 1963-1965, thực hiện chủ trương của Tỉnh
ủy Biên Hòa, Đảng bộ huyện Nhơn Trạch liên tiếp mở các đợt
phát động nông dân nhằm nâng cao giác ngộ cách mạng cho đội
quân chủ lực của công cuộc giải phóng dân tộc. Huyện ủy dồn
sức tổ chức học tập cho bà con mấy xã trọng điểm nhằm góp phần
đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy, chuẩn bị tư
tưởng sẵn sàng bước vào giai đoạn ác liệt nhất; trực tiếp đối đầu
với lính Mỹ và chư hầu trong chiến lược chiến tranh cục bộ. Nội
dung học tập cơ bản về tình hình, nhiệm vụ mới, đường lối hai
chân (đấu tranh chính trị song song với đánh địch bằng ba mũi:
chính trị, quận sự, binh vận) trên cả ba vùng chiến lược (đồng
bằng, rừng núi, đô thị). Qua học tập, anh chị em xác định rõ: Đế
quốc Mỹ là kẻ thù số một đang thực hiện âm mưa xâm lược miền
Nam, chia cắt lâu dài Tổ quốc ta; quá trình giải phóng quê hương
là quá trình liên tục tiến công làm sụp đổ chính quyền ấp, xã
của địch để giành quyền làm chủ tại ấp, xã; ta phải không ngừng
xây dựng và phát triển thế lực ở từng ấp, xã. Toàn Đảng bộ, toàn
dân, toàn quân trong huyện kiên trì liên tục đánh phá “quốc sách”
ấp chiến lược, chương trình “bình định nông thôn”, các âm mưu
“dồn dân bắt lính”, vơ vét sức người sức của địch. Bà con tố cáo
tội ác chồng chất của Mỹ ngụy từng gây vô vàn đau thương cho
nhân dân từng xóm, ấp, qua đó mọi người nâng cao giác ngộ cách
mạng, tinh thần yêu nước.
Ở những xã vùng sâu còn bị kềm kẹp nặng như Phước Lai,
Phước Kiển, cán bộ các đoàn thể mặt trận, thanh niên, phụ nữ
được cử xuống ấp, xã móc ráp các nòng cốt cơ sở, tổ chức lớp học
179

18.10 Page 180

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
gọn nhỏ. Sau đó số này về triển khai trong nhóm xâu chuỗi. Dù
không học quy mô trong thời gian ngắn song số cơ sở cốt cán ở
xóm ấp đã nắm được cốt lõi chủ trương, đường lối, yêu cầu của
đợt phát động nông dân. Hầu hết hội viên các ban ngành và đoàn
thể thanh niên, phụ nữ, binh vận, an ninh đã phát động sâu rộng
trong nhân dân, kể cả người dân trong ấp chiến lược
Ngày 2.12.1964, chiến dịch Bình Giã mở màn. Bộ Tư lệnh
Quân khu giao nhiệm vụ cho Đại đội 240 cùng Tiểu đoàn 800 của
Quân khu chặn viện trên quốc lộ 15 (nay là quốc lộ 51), đánh tất
cả các đơn vị quân địch từ Biên Hòa xuống chi viện cho Bình Giã
- Bà Rịa. Đại đội 240 cùng Tiểu đoàn 800 đã kiên cường bám trụ
liên tục đánh viện binh địch. Ngày 3.1.1965, chiến dịch Bình Giã
- Bà Rịa kết thúc thắng lợi, đánh dấu sự thất bại của chiến lược
Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy.
Trong phong trào kháng chiến, có biết bao gương chiến sĩ
kiên cường, anh dũng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ở Phước Lai có
anh thanh niên Nguyễn Văn Quang (còn gọi là Sên) sớm giác ngộ
cách mạng, năm 1964 lúc mới tròn 20 tuổi đã tìm cách thoát ly,
gia nhập lực lượng vũ trang C240. Với tinh thần quyết tâm chiến
đấu bảo vệ quê hương, chỉ trong ba năm, Nguyễn Văn Quang đã
nổi danh khắp chiến trường Bà Rịa, giữ nhiệm vụ Tiểu đội trưởng
đại liên thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 445 tỉnh Bà Rịa - Long Khánh.
Anh tham gia 20 trận đánh, diệt 180 tên địch (trong đó có 73 tên
Mỹ, 25 tên Úc), diệt 1 xe tăng M41, 1 xe Jeep, thu 27 súng các
loại và 2 máy thông tin. Trong trận Sông Cầu vào tháng 5.1966,
dù một mình bị địch bao vây nhưng anh vẫn kiên cường đánh lui
tám đợt xung phong của địch... Ngày 17.9.1967, đồng chí Nguyễn
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Văn Quang được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng
Ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân1. Người
dân Phước Lai vô cùng tự hào về người con anh dũng của quê
hương mình.
Phong trào thanh niên tự nguyện tòng quân và đi làm nghĩa
vụ dân công lên cao, rầm rộ, sôi nổi ở Long Thành, Nhơn Trạch.
Hàng ngàn thanh niên đi bộ đội giải phóng hoặc tham gia du kích
địa phương, hàng ngàn lượt thanh niên, công nhân, nông dân công
tải vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến trường. Mẹ Hồ
Thị Sùng ở Phước Kiển có người con nuôi duy nhất là Đỗ Văn
Mỹ, khi con ngỏ ý muốn muốn đi bộ đội mẹ không ngần ngại
động viên con tòng quân. 20 tuổi, anh Mỹ tham gia công binh
xưởng của Huyện đội Nhơn Trạch, lập nhiều chiến công, làm đến
Trung đội trưởng. Mẹ Nguyễn Thị Dính cũng có người con duy
nhất Nguyễn Văn Đương, anh tham gia Đội du kích xã, mẹ hằng
ngày dành dụm tiền, gạo để tiếp tế cho con; anh hy sinh ngày
15.9.1963 tại quê hương Phước Kiển khi chưa kịp lập gia đình,
mẹ Dính đau đớn đến hóa điên, ngày ngày đi khắp nơi tìm con;
con của mẹ Đào Thị Ngọt là Nguyễn Văn Hiệp mới 16 tuổi, anh
xin tham gia đội du kích mẹ cũng hết lòng ủng hộ, động viên; mẹ
Phạm Thị Niềm dù con mình là gái, cũng mới 16 tuổi, nhưng khi
chị Nguyễn Thị Lệ Dung xin thoát ly theo cách mạng mẹ không
hề ngần ngại...
1  Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng Nai, 1998.
181

19.2 Page 182

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Ở Hiệp Phước, địch ra sức khủng bố, kìm kẹp người dân gắt
gao, đặc biệt là những gia đình có người thân đi kháng chiến. Ông
Phan Văn Để, chồng của mẹ Phạm Thị Bánh, bị địch bắt giam ở
Biên Hòa năm 1965, tra tấn đến chết. Nhà mẹ Nguyễn Thị Cửu,
mẹ Nguyễn Thị Hương, mẹ Phạm Thị Bánh liên tục bị bọn địch
tra xét, dụ dỗ các mẹ kêu con về với “chính nghĩa quốc gia” sẽ
được khen thưởng. Bà Lê Thị Đầy sau khi ra khỏi trại giam, năm
1964 đã tiếp tục trở về làm công tác binh vận ở Phước Lai. Bà Sáu
Đầy ngầm viết thư gởi các thanh niên người địa phương đi lính
cho chế độ Việt Nam cộng hòa, kêu gọi họ buông súng, đừng tiếp
tục làm tay sai cho đế quốc.
Bà con Phước Lai đến nay vẫn không quên được hình ảnh
hy sinh anh dũng của người Bí thư chi bộ Huỳnh Ngọc Minh.
Ngày 24.7.1965, anh Minh cùng với Trưởng Ban An ninh xã là
Trần Văn Hoàng đi công tác, tiếp xúc với cơ sở ở ấp Cái Vạn rồi
trở về căn cứ Phước Lai, trên đường về đến khu vực đình Phước
Long thì rơi vào ổ phục kích của bọn lính bảo an. Anh Minh và
Hoàng thoát chạy về phía rừng, nhưng Hoàng bị trúng đạn vào
chân, kêu lên “Anh Minh ơi, em trúng đạn rồi, cứu em với”. Dù
đã chạy khá xa và vào đến mí rừng, nhưng nghe Hoàng kêu cứu,
anh Minh vẫn quay trở lại cõng Hoàng, tiếp tục chạy về phía rừng.
Trong khi vóc dáng anh Minh khá nhỏ người thì Hoàng rất cao
to, hai người lại xách theo một khẩu súng carbin và một khẩu bá
đỏ cồng kềnh nên di chuyển chậm hơn. Bọn lính đuổi theo bắn
xối xả, anh Minh cũng trúng đạn bị thương. Anh bình tĩnh nằm
lại, cùng với Hoàng bắn trả, đến khi hết đạn anh Minh và Hoàng
182

19.3 Page 183

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tháo rời súng, phá hủy rồi vứt các chi tiết súng thật xa. Có một tên
lính bảo an là người Phước Lai, biết anh là Bí thư chi bộ xã nên
bọn chúng kêu anh đầu hàng. Anh Minh hô to: “Đả đảo đế quốc
Mỹ! Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Bọn lính điên cuồng xả súng bắn
anh Minh và Hoàng, cả hai người hy sinh, ngực Hoàng bị bắn
nát bấy, còn anh Minh bị bắn vào đầu, nát hết nửa bên. Chúng
kéo xác anh về chợ, tên lính quen biết gia đình anh đến nhà chị
Huỳnh Thị Thu, chị của anh Minh, bảo: “Em của bà ngoan cố
quá, tụi tôi kêu nó đầu hàng, nó không chịu còn chửi quá, tụi tôi
bắn chết nó rồi. Giờ bà tới chợ đưa xác nó về chôn đi”. Lúc này
mẹ Nguyễn Thị Cửu đã qua đời, anh Minh chưa có vợ con, cha
của anh là ông Huỳnh Văn Lộc đang bệnh nặng, nghe tin dữ đã
ráng gượng lên xin xác con về chôn cất. Cảm phục trước hình ảnh
kiên cường, bất khuất của anh Minh, một tiểu đội lính trên đồn
đến tận đám tang, xếp hàng lập thành giàn chào để tiễn anh. Một
tên lính bảo an đã thốt lên: “Ở cái ấp B này, một cọng cỏ cũng là
Việt Cộng”.
Không riêng gì anh Minh, hai người em của anh cũng là
những người có tấm lòng yêu quê hương, căm thù giặc sâu sắc,
luôn muốn chiến đấu đánh đuổi ngoại xâm, đem hòa bình, độc lập
cho đất nước. Anh Năm Sơn (Huỳnh Ngọc Sơn, tức Hùng Cường,
sinh năm 1950) mới 13 tuổi đã nằng nặc cương quyết đi theo anh
Ba Minh vào căn cứ. Do còn nhỏ, anh Năm Sơn được đưa về
công tác ở Văn phòng Huyện ủy. Đánh máy giỏi, thạo công việc
nên anh được cấp trên ưu ái cho công tác ở tuyến sau, nhưng anh
cứ đòi đi chiến đấu, xin năm lần bảy lượt, các anh các chú phải
183

19.4 Page 184

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
xiêu lòng. Năm Sơn gia nhập C.240 của huyện Long Thành. Đêm
25.5.1968, đơn vị C.240 đánh bót Phú Hội, Năm Sơn trúng đạn
bị thương nặng, đồng đội đưa anh về trạm quân y cứu chữa. Khi
y tá định tiêm thuốc kháng sinh cho anh, anh lắc đầu từ chối, nói
“Tôi bị nặng lắm, không qua khỏi đâu. Thuốc kháng sinh lúc này
quý hiếm, đồng chí hãy để dành thuốc cho đồng đội của tôi”, rồi
anh hy sinh. Anh Tư Quang mới 18 tuổi cũng vào căn cứ, ban đầu
anh làm ở kinh tài huyện Nhơn Trạch nhưng vẫn khăng khăng xin
đi bộ đội, được ít lâu anh gia nhập Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn
4, Sư đoàn chủ lực 5 của Miền, chiến đấu khắp các chiến trường
miền Đông Nam Bộ. Tháng 7.1968, tiểu đoàn anh về đứng chân
ở Bà Rịa, chuẩn bị vào đợt ba Mậu Thân. Ngày 2.8.1968, tổ ba
người của anh xung phong đi tiếp ứng cho ban chỉ huy đơn vị
đang bị bọn lính chư hầu Úc tấn công. Khi các anh đến nơi, đơn vị
đã thoát vây và rút đi còn tổ của anh lọt ổ phục kích của lính Úc.
Cả tổ hy sinh, mãi sau này vẫn không tìm được mộ.
III. CÙNG CẢ NƯỚC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968
1. Tạo thế tiến công, giữ vững vùng làm chủ
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, lực lượng vũ trang
huyện, tỉnh và du kích xã tìm cách tổ chức đánh địch, chống càn.
Năm 1966, ghi nhận nhiều trận thắng lớn. Đầu năm 1966, lính Mỹ
mở đợt càn vào ấp Xóm Hố, Phú Hội, đi đến đâu đốt phá, bắn giết
đến đấy. Các du kích xã Phú Hội gồm đồng chí Đức Thắng (xã đội
trưởng), đồng chí Hai Lực (xã đội phó) cùng 6 chiến sĩ C 240 tổ
chức phục kích đánh địch, diệt và làm bị thương 50 lính Mỹ. Đó
184

19.5 Page 185

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
là trận đầu tiên lực lượng đầu tiên đánh thắng và diệt được nhiều
lính chính quy của quân đội Mỹ1.
Tháng 6.1966, một trung đội Mỹ mở đường từ Bàu Điều
đến Phước Lai. Bộ đội C240 cùng du kích Phước Lai chọn đoạn
đường gần xã Phước Lai, đặt mìn DH10 phục kích. Lính Mỹ lọt
vào trận địa, mìn và súng cùng nổ, sau 10 phút, 15 lính Mỹ bị diệt,
trận đánh thắng lợi nhanh gọn, thu được 8 súng trong đó có 1 súng
ngắn và 1 khẩu AR16. Trận đánh chứng tỏ lực lượng vũ trang địa
phương đã trưởng thành, đủ sức đánh thắng giặc sát ngay bên
căn cứ giặc. Tuy nhiên, trong trận này Đội du kích xã Phước Lai
tổn thất đồng chí Xã đội trưởng Phan Văn Liêm. Cũng giống như
phần lớn anh em du kích, cán bộ Phước Lai, anh Phan Văn Liêm
tham gia cách mạng lúc mới 16 tuổi, hy sinh khi mới vừa 21 tuổi,
chưa lập gia đình.
Sau khi đồng chí Huỳnh Ngọc Minh hy sinh, Huyện ủy lần
lượt cử các đồng chí Bảy Hoàng, Ba Việt về làm Bí thư xã Phước
Lai. Đến năm 1969, đồng chí Chín Hòa là người xã Phước Thọ,
trước là du kích xã Phước Thọ rồi được rút về Huyện đội, sau đó
được Huyện ủy điều về Phước Lai làm Bí thư. Giai đoạn này rừng
Phước Lai, Phước Thọ bị địch cho xe ủi sạch, đồng chí Chín Hòa
phải về khu vực Bến Chợ, Bà Ký bám dân để hoạt động. Trong
một chuyến công tác móc ráp cơ sở, đồng chí Chín Hòa và đồng
chí Trần Văn Sang (lúc này công tác bên An ninh huyện) chèo
mỗi người một chiếc ghe, vừa cắm sào để lên Bến Chợ thì bị bọn
1  Theo lời kể của đồng chí Hồ Minh Lực, nguyên Xã đội phó Phú Hội.
185

19.6 Page 186

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lính biệt kích phục sẵn trên bến bắn ngay. Đồng chí Chín Hòa hy
sinh ngay tại chỗ, đồng chí Hai Sang nhảy xuống sông, bị thương
nhưng thoát được. Phước Lai tổn thất thêm một vị Bí thư chi bộ,
cho thấy địa bàn này ác liệt đến thế nào.
Ngày 9.10.1966, Tỉnh ủy Bà Biên (lúc này, Biên Hòa, Long
Khánh và Bà Rịa sáp nhập, gọi là Bà Biên) có Quyết định số
028/QĐ sáp nhập huyện Long Thành và Nhơn Trạch thành
huyện Long Thành, gồm 23 xã1 và 2 thị trấn Long Thành, Nhơn
Trạch. Ngày 2.5.1967, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông
có Quyết định số 12/QĐ-K do đồng chí Phạm Lực ký, chỉ
định Ban chấp hành Huyện ủy Long Thành gồm 15 đồng chí,
trong đó đồng chí Nguyễn Văn Thông, Tỉnh ủy viên, là Bí thư
Huyện ủy.
Năm 1966, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định
thành lập Đặc khu Rừng Sác. Đây là một khu quân sự đặc biệt
gồm một khu vực rộng 60.000 hécta, phía Đông giáp quốc lộ 15,
phía Tây giáp sông Soài Rạp (gồm sông Soài Rạp), phía Bắc giáp
lộ 19 (không gồm Nhơn Trạch), phía Nam giáp biển. Đây là một
khu vực gồm 10 xã thuộc nhiều tỉnh khác nhau: xã Phú Hữu,
Phước Khánh (thuộc quận Nhơn Trạch tỉnh Biên Hòa), Long Sơn
(Bà Trao, núi Nứa thuộc quận Châu Đức, tỉnh Bà Rịa), xã Lý
Nhơn, Bình An (quận Nhà Bè), xã Đồng Hòa, Cần Thạnh, Tân
Thạnh, Thạnh An, xã Tam Thôn Hiệp (quận Cần Giờ).
1  23 xã gồm: Phước Thái, Long Phước, Long An, Lộc An, Phước Nguyên, An
Lợi, Tam An, Tam Phước, Phước Tân, Long Hưng, An Hòa, Long Bình, Phước
Thiền, Phước Kiển, Phước Lai, Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Phú Mỹ, Mỹ
Hội, Long Tân, Đại Phước, Vĩnh Thanh.
186

19.7 Page 187

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Quân ủy Miền xác định tính chất của Đặc khu Rừng Sác là
một khu quân sự chứ không phải quân khu, có Đảng ủy đặc khu
trực thuộc Quân ủy Miền, phụ trách cả công tác quân chính và
phong trào cách mạng địa phương. Đồng chí Lương Văn Nho
(Hai Nhã) là Đặc khu trưởng kiêm Chính ủy.
Lực lượng của Đặc khu Rừng Sác mang tên Đoàn 10, có 13
chi bộ với 285 đảng viên, 614 chiến sĩ. Cơ sở của Đoàn trên địa
bàn 10 xã với trên 20 ngàn dân, 10 chi bộ xã, 67 đảng viên, trong
đó có 12 đảng viên sinh hoạt hợp pháp. Đoàn 10 luôn có sự gắn
bó, phối hợp chặt chẽ với Huyện ủy và phong trào cách mạng ở
huyện Nhơn Trạch tạo nhiều chiến công vang dội.
Thời điểm cuối năm 1966, địch tiếp tục củng cố, mở rộng kho
bom Thành Tuy Hạ, từ năm 1965 xây dựng tổng kho Long Bình,
căn cứ Nước Trong, cụm pháo Bến Sắn đã được triển khai xây
dựng, giặc liên tục càn quét, đánh phá các tuyến đường sông khu
vực Rừng Sác, sông Lòng Tàu, các căn cứ của ta ở Đông quốc lộ
15 và khu vực Nhơn Trạch. Tháng 6.1967, quân Mỹ và chư hầu
Thái Lan liên tục càn quét khắp rừng Giồng, Rừng Sác. Máy bay
Mỹ rải thuốc hóa học khai quang ở nhiều khu vực, nhất là vùng Sở
Dừa Phước Khánh và ven sông Đồng Nai. Các vườn cây trái ở các
xã Phú Hội, Tam An, Phú Mỹ bị thiệt hại nặng nề. Huyện ủy Long
Thành chỉ đạo tổ chức đấu tranh chống Mỹ rải thuốc khai quang.
Vào khoảng 6 giờ sáng ngày 1.3.1967, hàng trăm đồng bào Nhơn
Trạch kéo về quận lỵ, mang khẩu hiệu “Rải chất độc hóa học là
phá hoa màu của dân, là giết dân”, “Phải bồi thường tính mạng
tài sản cho dân”, “Phải thống nhất đất nước”. Địch đưa một trung
187

19.8 Page 188

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
đội bảo an xuống ngăn chặn nhưng với sự chỉ huy của Huyện ủy,
đoàn người đấu tranh tiếp tục kéo đến quận, đưa 3 bản kiến nghị
với hàng ngàn chữ ký tố cáo tội ác của địch. Quận trưởng Nhơn
Trạch là Trương Bảo Thiện hứa sẽ thỉnh thị về trên, đền bù tài sản
của dân đã bị phá hủy và không rải chất độc hóa học nữa.
Trên cơ sở thắng lợi của bà con Nhơn Trạch, Huyện ủy Long
Thành quyết định tổ chức đồng bào kéo đến quận Long Thành,
buộc quận trưởng phải cam kết bồi thường và không rải chất độc
hóa học nữa. Do tổ chức chặt chẽ, chỉ đạo kịp thời, cuộc đấu tranh
của người dân Long Thành - Nhơn Trạch đã đạt kết quả tốt đẹp,
biểu dương được lực lượng và sức mạnh của quần chúng.
2. Bố trí lại chiến trường, phối hợp đánh bại kế hoạch
tìm diệt và bình định của địch
Tháng 7.1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định bố trí
lại chiến trường, giải thể Khu miền Đông, thành lập 5 phân khu
từ Phân khu 1 đến Phân khu 5 để hình thành 5 mũi tiến công
vào Sài Gòn, thực hiện cuộc tổng tiến công vào năm 1968. Theo
đó, Phân khu 4 bao gồm huyện Long Thành (kể cả Nhơn Trạch),
huyện Thủ Đức, quận 1, quận 9, huyện Cần Giờ (nay thuộc Thành
phố Hồ Chí Minh) và huyện cao su Bình Sơn. Bí thư Phân khu 4
là đồng chí Mười Chiến. Văn phòng Phân khu ủy đặt tại ngã ba
Long Điền, giữa 2 xã Phước Thiền và Phước Nguyên để tiện việc
chỉ đạo. Đồng chí Nguyễn Văn Chiến (Mười Chiến) làm Bí thư
Phân khu 4. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là Bí thư Huyện ủy
Long Thành.
188

19.9 Page 189

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Từ đầu năm 1967, Ban Chấp hành Huyện ủy Long Thành phân
công nhau trực tiếp chỉ đạo từng vùng, nhằm hình thành thế tiến
công quân Mỹ. Theo đó, các xã vùng sâu như Đại Phước, các
ấp như Cát Lái, Bến Bạ, Bến Cộ tổ chức được nhiều tự vệ mật
trang bị lựu đạn và mìn. Du kích các xã Phước Thiền, Phước Thọ,
Phước Lai, Phước Kiển lập chốt bao vây bắn tỉa đồn địch. Đặc
biệt, Thường trực Huyện ủy và Huyện đội chỉ đạo xã Phú Hội đào
hào, xây ụ chiến đấu ngay trên nổng miếu ven lộ, chuẩn bị thế
đánh Mỹ ngay trên lộ 17. Nơi không có điều kiện xây thế chiến
đấu thì ra sức xây dựng cơ sở binh vận trong lòng địch, phục vụ
cho du kích đánh đồn bót, như xã Long Phước nằm dọc quốc lộ 15.
Chiến trường Nhơn Trạch - Long Thành được Trung ương
Cục phân tích, xác định vị trí chiến lược quan trọng, từ đó có chủ
trương bố trí lại chiến trường, và có giải pháp ứng phó phù hợp.
Theo đó, Nhơn Trạch là vùng tranh chấp rất quyết liệt giữa ta và
địch; bởi vì khu Lòng Chảo có chiều Bắc Nam dài khoảng 9km,
chiều Đông Tây dài 12km có đường giao thông (lộ 17 và lộ 19)
như vòng tay kết nối, có sông Đồng Nai, sông Nhà Bè, sông Lòng
Tàu chảy ra biển Đông; chỉ cách Sài Gòn khoảng 10 - 12km; trong
vùng có vườn cây trái sum suê, rừng chồi rậm rạp, sở cao su bạt
ngàn, Thành Tuy Hạ vững chãi.
Địch xem đây là trọng địa của chiến trường, yết hầu của
cơ quan đầu não, dạ dày của bộ máy chiến tranh nên bố trí lực
lượng dày đặc với các binh chủng hùng mạnh, trang thiết bị hiện
đại; tiến hành ủi trắng gần như toàn bộ địa bàn khu Lòng Chảo;
tăng cường lực lượng chiếm đóng dọc lộ 17, 19 trên 41 đồn, bót,
tua; trên 20 chốt chiếm đóng; 1 tiểu đoàn lính Mỹ chốt ở ngã ba
189

19.10 Page 190

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đường ủi Phước Lai, một trung đoàn Thái Lan sư đoàn Hắc Báo
từ Long Thành chuyển qua chốt một tiểu đoàn ở chùa Nước Nhĩ,
Bến Sắn, Phước Thiền; một tiểu đoàn xây căn cứ ở Vườn Điều
Phước An, một tiểu đoàn biệt động quân ngụy rải quân từ Phú
Hữu đến Phước Khánh. Với vòng vây dày đặc như thế, địch tiến
hành nhiều cuộc càn quét, bình định hòng tiêu diệt lực lượng cách
mạng, muốn đẩy lực lượng vũ trang ta ra xa Sài Gòn 10 km (khỏi
tầm pháo ĐKB1), bảo vệ kho xăng Nhà Bè, kho đạn Thành Tuy
Hạ, sông Lòng Tàu, bảo vệ các đoàn tàu Mỹ chở vũ khí, phương
tiện chiến tranh vào miền Nam.
Vì vậy, cách mạng cũng bố trí địa bàn Nhơn Trạch thành vùng
trọng điểm, lấy Lòng Chảo làm bàn đạp để xây dựng căn cứ, tập
kết các lực lượng Phân khu 4, Đoàn 10 Rừng Sác, D2, E4, D6
pháo, C240; nơi đứng chân của Bộ Chỉ huy Phân khu 4 lãnh đạo
tấn công vào Sài Gòn đợt Mậu Thân 1968 và là nơi mở đường tiến
quân vào Sài Gòn từ hướng Đông Nam.
Cuối tháng 10.1967, Huyện ủy tổ chức Hội nghị Ban Chấp
hành mở rộng gồm 30 đồng chí tại căn cứ địa đạo Lòng Chảo xã
Phước An. Hội nghị diễn ra giữa lúc quân Thái Lan2 triển khai
đánh phá ác liệt vùng Lòng Chảo. Mặc cho tiếng máy bay hòa
1  Pháo ĐKB là loại pháo phản lực theo ống được gỡ từ dàn pháo phản lực Katy-
usha BM-21 của Liên Xô theo sáng kiến của quân đội ta nhằm phù hợp cho địa
hình rừng núi và chiến lược chiến tranh du kích ở miền Nam trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ. Phía Nga (Liên Xô cũ) gọi loại pháo này là 9P132.
2  Tháng 9.1967, Lữ đoàn Hổ Mang hay gọi là Mãng Xà Vương có mặt ở miền
Nam, tháng 7.1968 thay bằng Lữ đoàn Báo Đen. Năm 1969, tuyên bố rút 12.000
quân, đến 1971 mới rút hết.
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tiếng xe tăng thiết giáp địch gầm rú, Hội nghị vẫn làm việc dưới
địa đạo.
Hội nghị phân tích kỹ thuận lợi, khó khăn, nhược điểm của
địch và ta trên chiến trường Long Thành. Huyện ủy khẳng định
thuận lợi cơ bản nhất: nhân dân các xã nói chung chí cốt với cách
mạng, một lòng tin tưởng ở Đảng và Bác Hồ kính yêu. Tuy nhiên
cái khó lớn nhất là âm mưu và hoạt động của Mỹ ngụy sẽ tiếp
tục gây thêm nhiều thiệt hại về người và của của nhân dân Nhơn
Trạch - Long Thành. Trên cơ sở đó, lãnh đạo tất cả các tổ chức lực
lượng đứng chân trên địa bàn huyện đều phải bám sát dân, ở vùng
sâu, vùng yếu thì phải trụ lại trong dân. Tất cả các vùng không
ngừng tạo thế chiến đấu và không ngừng bổ sung, xây dựng lực
lượng chiến đấu. Bất cứ trong hoàn cảnh chiến tranh xảy ra ác liệt
như thế nào, Đảng bộ cũng kiên quyết tổ chức phát động quần
chúng bung ra đồng ruộng sản xuất, bám sông rạch làm ăn, gắn
chặt với phá nội dung “bình định lập ấp chiến lược của địch”; huy
động sức người, sức của phục vụ cho kháng chiến. Hội nghị quyết
định một số vấn đề cụ thể; xây thế chiến đấu ở ven nổng Phú Hội,
lập bãi mìn kết hợp hầm chông, hố đinh ở Bàu Bông (Phước An),
xây dựng bãi mìn kết hợp với giao thông hào địa đạo ở hai khu
vực Tam An, Tam Phước, xây dựng các chốt bắn tỉa ở Phước Thọ,
Phước Long, Phước Thiền.
Huyện ủy cũng phát động phong trào “Toàn dân đánh giặc”
ở nhiều nơi như Cát Lái, Bến Bạ (Phú Hữu), Bình Sơn (vùng cao
su). Các đơn vị vũ trang C1 (Long Thành), 19.5 (Nhơn Trạch) giữ
nguyên vị trí hoạt động, tích cực hỗ trợ dìu dắt các đội du kích
191

20.2 Page 192

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
xã. Ít lâu sau, tỉnh Bà Biên tăng cường đơn vị C240 cho huyện
làm lực lượng cơ động. Các ban, ngành và đoàn thể được củng cố
thống nhất về tổ chức, đội ngũ cán bộ hoạt động ở chiến trường
nào vẫn ở nguyên địa bàn đó.
Giai đoạn này, ở Phước Lai xuất hiện nhóm “Phượng hoàng”
do địch tổ chức, toàn là phụ nữ nhưng rất nguy hiểm, thường lân
la khắp nơi để dò xét, nắm tin tức của cán bộ ta rồi chỉ điểm, báo
cho địch phục kích. Nhiều cán bộ, chiến sĩ của ta đã bị sát hại bởi
nhóm “Phượng hoàng” này, trong đó nổi lên có Lê Thị Tụi, lấy
chồng là cảnh sát tên Hòn cũng là một tên ác ôn khét tiếng ở Tam
An; Lê Thị Đợi có chồng đi lính nghĩa quân, cha chồng là Trưởng
ấp B Phạm Văn Sáng; cô Chịu nhà ở ấp B cũng làm chỉ điểm. Đây
là những tên ngoan cố, lực lượng cách mạng nhiều lần cảnh cáo
nhưng vẫn không sửa đổi.
Đội du kích xã Phước Lai xin ý kiến và được chấp thuận xử
những tên “Phượng hoàng” nguy hiểm này. Thấy hai “phượng
hoàng” Lê Thị Đợi và cô Chịu bị cách mạng xử tử, Lê Thị Tụi
hoảng hốt định thu xếp về Tam An “lánh nạn”, nhưng ta nắm được
tin này đã nhanh chóng xử luôn tên “phượng hoàng” gian xảo này.
Chồng bà ta là cảnh sát Hòn sau đó cũng bị lực lượng du kích xã
Tam An xử tử vì làm ác ôn. Sau đợt này, bọn “phượng hoàng” ở
Hiệp Phước co vòi, hết dám hoạt động.
Đến cuối năm 1967, hầu hết các xã và thị trấn ở Long Thành,
Nhơn Trạch đã tạo được thế và lực mới vừa tấn công lính Mỹ,
Thái, ngụy vừa chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968.
192

20.3 Page 193

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
3. Tham gia cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân
1968
Giữa tháng 1.1968, đồng chí Hai Lực (Nguyễn Trọng Tân),
nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông, được cử làm đặc phái viên
của Trung ương Cục đến căn cứ Rừng Sác (Phước An) triển khai
nhiệm vụ và kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa cho Phân
khu ủy Phân khu 4 và Đặc khu Rừng Sác (Đoàn 10). Bộ chỉ huy
mặt trận Phân khu 4 thành lập do đồng chí Lương Văn Nho làm
Tư lệnh, đồng chí Tám Quang (Đặng Quang Long) làm Chánh ủy,
đồng chí Lê Quang Chữ, Phó Bí thư Phân khu 4, chịu trách nhiệm
kế hoạch kiểm tra toàn bộ lực lượng bên ngoài. Đồng chí Mười
Chiến, Bí thư Phân khu ủy, cùng đồng chí Ba Cam phụ trách kế
hoạch xây dựng cơ sở và phát động nhân dân nội thành.
Bộ Tư lệnh tiền phương đứng chân ở vùng Bưng Sáu Xã (Thủ
Đức) gồm các đồng chí Mười Chiến, Năm Chữ, Hai Nhã, Tám
Quang, Ba Đắc quyết định điều động Tiểu đoàn 4 của Quân khu
2, trung đội trinh sát cùng lực lượng vũ trang của huyện Thủ Đức
áp sát mục tiêu, từ cầu Rạch Chiếc trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa
đến ngã tư Hàng Xanh. Đoàn 10 do đồng chí Mười Thà (Nguyễn
Việt Hoa) và đồng chí Sáu Tâm chỉ huy phụ trách hướng tiến công
Nhà Bè, Quảng Xuyên, Cần Giờ và trục sông Lòng Tàu. Phân khu
4 còn điều động bố trí một số cán bộ: đồng chí Hồ Sĩ Hành, vợ
chồng đồng chí Trương Văn Bông, Huyện ủy viên huyện Long
Thành, các nữ đồng chí Ba Cơ, Mười Ánh Tuyết, Nga, Sáu Ngàn
đi đường công khai hợp pháp từ Hưng Nghĩa vào nội thành Sài
Gòn. Tất cả cán bộ chiến sĩ chiến trường Phân khu 4 đều được
193

20.4 Page 194

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
phát động học tập thư kêu gọi của Thường vụ Trung ương Cục,
“sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Vượt qua vô vàn
khó khăn gian khổ, mọi lực lượng chờ giờ G ngày N đồng loạt
nổ súng tiến công các mục tiêu được phân công cho đơn vị mình
đảm trách.
Lúc 0 giờ đêm 30, rạng 31.1.1968 (tức mùng một tết Mậu
Thân), các mũi tiến công khắp nơi đồng loạt nổ súng. Tổng kho
Long Bình, kho đạn Thành Tuy Hạ, Kho xăng Nhà Bè đồng loạt
bị tấn công, bom đạn nổ vang trời, lính Mỹ ngụy và chư hầu hồn
xiêu phách lạc.
Tại Nhơn Trạch, các đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai
trực tiếp chỉ huy Đại đội 240 tiến công chi khu, diệt 20 lính bảo
an và cảnh sát, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đây là lần đầu tiên
chi khu Nhơn Trạch bị tiến công quân sự. Ở tất cả các xã, du kích
và tự vệ mật tiếp tục đánh địch, diệt ác phá kìm, phát động quần
chúng chống phá âm mưu bình định, khoanh gom dân của địch.
Nổi bật là Chi bộ Phước An dùng lực lượng du kích phối hợp với
nhân dân bằng ba mũi giáp công chính trị - binh vận - vũ trang
bao vây bót Vũng Gấm suốt 10 ngày làm bọn bảo an ở đây khiếp
vía, cố thủ trong bót. Ở hướng Rừng Sác, Đoàn 10 liên tục đánh
địch trên sông Long Tàu, đánh cảng hải quân Nhà Bè và kho tàng
địch ở Nhà Bè. Bộ đội bắn cháy năm tàu quân sự trên sông Lòng
Tàu và cảng Cát Lái.
Tuy nhiên, sau lúc bất ngờ ban đầu, địch đã nhanh chóng phản
công, đồng thời đưa quân càn vào vùng Lòng Chảo, vùng Rừng
194

20.5 Page 195

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Sác. Lúc này lộ 19 đã bị phá hủy, tất cả các loại xe không thể qua
được. Địch đổ quân từ Phú Thạnh rồi theo lô cao su Tân Tường để
càn vào Vũng Gấm, Bàu Bông. Một cánh quân từ xã Vĩnh Thanh
tràn qua Quới Thạnh đánh tạt lại. Từ phía quốc lộ 15 theo lối Nhà
Mát, địch theo đường Bà Ký đổ vào chà xát hai xã Phước Long,
Phước Thọ.
Ở hai xã Phước Lai, Phước Kiển, toàn bộ lực lượng tự vệ mật,
cán bộ mật, du kích đều tham gia phối hợp cùng lực lượng C240
đánh đồn, diệt ác ôn. Tuy nhiên, sau khi địch dồn lực phản công
thì lực lượng địa phương bộc lộ thế yếu, phải rút lui. Một số chiến
sĩ bị thương được mẹ Nguyễn Thị Hương nuôi giấu trong hầm bí
mật, thuốc men chữa chạy rồi được cơ sở bí mật đưa ra căn cứ.
Một số anh em du kích, cán bộ Hiệp Phước đã hy sinh trong đợt
tiến công này, như: Dương Bình Minh, Trưởng Ban Kinh tài xã
Phước Lai; Đào Văn Thành, Bí thư Chi đoàn, Xã đội phó Phước
Lai; Bùi Văn Đức, du kích xã Phước Kiển; Huỳnh Văn Sinh1,
Trung đội phó Đại đội 245; Nguyễn Văn Tô2. Trong đó, Trưởng
Ban Kinh tài xã Phước Lai là Dương Bình Minh trong một trận
đụng độ với bọn lính Thái Lan thuộc trung đoàn Mãng xà vương,
đồng chí Minh bị thương, bọn lính Thái Lan kêu gọi đầu hàng
nhưng đồng chí vẫn chiến đấu cho đến khi hết đạn. Bọn lính Thái
Lan đã chặt đầu đồng chí Minh rất dã man.
1  Liệt sĩ Huỳnh Văn Sinh là con của liệt sĩ Huỳnh Ngọc Ẩn hy sinh tại nhà tù
Côn Đảo.
2  Liệt sĩ Nguyễn Văn Tô là con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Huỳnh Thị Đâu,
người xã Phước Lai. Mẹ Đâu còn một người con liệt sĩ nữa là Nguyễn Văn Thanh,
bộ đội, hy sinh năm 1967.
195

20.6 Page 196

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Cuộc tiến công và nổi dậy đợt hai bắt đầu từ ngày 5.5.1968.
Tại chiến trường Phân khu 4, lực lượng vũ trang ta (cả chủ lực và
bộ đội địa phương) bám trụ vùng Bưng sáu xã. C240 đánh vào chi
khu Nhơn Trạch, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch và phối hợp
cùng du kích diệt ác ở trục lộ 19 và 17 làm cho bọn địch hoang
mang. Ta mở ra được một số xã giải phóng như Phước An, Phú Hội,
Phú Mỹ. Ở Hiệp Phước, địch cố giữ vị trí chiến lược này, chúng
tung lực lượng bảo an, địa phương quân chống trả quyết liệt, nên
ta cũng tổn thất: Lê Văn Khanh, du kích Phước Lai; Huỳnh Ngọc
Sơn, chiến sĩ C240. Nhiều chiến sĩ là người Hiệp Phước cũng hy
sinh trên các chiến trường trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân
lần hai: Huỳnh Văn Dũng, Chuẩn úy Tiểu đoàn 3 Phân khu 4, hy
sinh tại đồi Bạch Đằng; Huỳnh Ngọc Quang, chiến sĩ Trung đoàn
4 Quân khu 7, hy sinh tại Bà Rịa1; Nguyễn Hồng Phong, tiểu đội
trưởng giao liên tỉnh Biên Hòa, hy sinh khi chiến đấu xong vượt
sông Đồng Nai để rút lui; Đỗ Văn Mỹ, người Phước Kiển, Trung
đội trưởng Công binh xưởng Huyện đội Nhơn Trạch...
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Mỹ tăng cường
đổ quân hỗ trợ, chính quyền Sài Gòn đề ra kế hoạch “bình định
cấp tốc”. Tiểu khu Biên Hòa đã chọn Long Thành - Nhơn Trạch
và Tân Uyên để thực hiện âm mưu này. Tại Long Thành - Nhơn
Trạch, địch đã tiến hành lượng giá để phân loại xã, ấp, trong đó
các xã: Phước Lộc, Long An, Lộc An, Vĩnh Thanh, Phú Thạnh và
Đại Phước xếp loại A. Những xã này địch cho là có thể làm chủ
cả ngày lẫn đêm.
1  Liệt sĩ Huỳnh Ngọc Quang là em của hai liệt sĩ Huỳnh Ngọc Minh, Huỳnh
Ngọc Sơn, con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Cửu.
196

20.7 Page 197

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
4. Bám trụ, chống càn, giữ vững các phong trào ba mũi
giáp công
Ngày 10.5.1968, Phân khu ủy Phân khu 4 có quyết định tách
huyện Long Thành thành 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch.
Đồng chí Nguyễn Công Hạnh được phân công Quyền Bí thư. Thực
hiện Nghị quyết của Phân khu ủy Phân khu 4, ngày 19.5.1968,
Ban Thường vụ Huyện ủy Long Thành họp tại căn cứ địa đạo
Nhơn Trạch, kiểm điểm và đánh giá kết quả hoạt động đợt 1, đợt
2; bàn kỹ việc lãnh đạo toàn Đảng bộ và lực lượng vũ trang “bám
trụ chiến trường bằng mọi cách, liên tục tiến công tiêu diệt Mỹ,
Thái, lính Sài Gòn”; triển khai công tác tổ chức tách hai huyện
Long Thành, Nhơn Trạch như cũ theo chỉ đạo của Phân khu 4;
phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ đi từng khu vực
triển khai những công việc nêu trên; chỉ đạo tập trung mở vùng
yếu Phú Thạnh, Đại Phước và Vĩnh Thanh.
Lúc này lính Úc đang càn đi quét lại địa bàn, ta và địch sát
bên nhau, có lúc đan xen, giành giật quyết liệt. Phía trước, Mỹ đổ
hàng trăm cụm lính đến khắp đồng ruộng các xã An Hòa, Long
Hưng, Tam An dọc sông Đồng Nai đến các cánh đồng Long Hiệu
(Long Tân), cù lao Ông Cồn, Bến Bạ, Cát Lái, Ông Mai, Giồng
Ông Đông (Phú Hữu và Đại Phước).
Tại khu Lòng Chảo Nhơn Trạch, phía Đông quốc lộ 15 huyện
Long Thành, quân chư hầu Thái Lan và Úc đóng từng cụm có xe
tăng, thiết giáp và pháo binh yểm trợ. Ban ngày, chúng bung ra
càn quét, bình định, ban đêm cụm lại phòng thủ. Một phần lính
Úc càn từ phía Tây đến phía Đông suối Cả chạy dài tới đồi Tâm
197

20.8 Page 198

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Tình, con đường Chòi Đồng tới Phước Thái. Lính Úc chia thành
những tốp nhỏ lùng sục căn cứ ta, hai bên giành giật quyết liệt
từng căn hầm, từng đoạn giao thông hào căn cứ. Đôi khi lính Úc
và bộ đội ta cùng ở trong một căn cứ. Đánh quân Úc không dễ so
với đánh Mỹ vì chúng cũng theo chiến thuật du kích. Khi đôi bên
nổ súng, chúng gọi pháo tầm xa bắn ngay vào đội hình đôi bên
đang đánh nhau. Đặc biệt, từ sân bay quân sự Biên Hòa, máy bay
địch liên tục lên xuống, quần đảo và ném bom bất cứ khu vực nào
mà chúng tình nghi, gây cho ta nhiều tổn thất.
Trong giai đoạn này, địch tung chiến thuật “Ong ruồi” kết hợp
với hoạt động biệt kích phục kích, gây cho ta nhiều tổn thất. Tại
khu Lòng Chảo Nhơn Trạch, quân chư hầu Thái Lan và Úc đóng
thành từng cụm, có xe tăng thiết giáp và pháo yểm trợ. Ban ngày,
chúng bung ra càn quét, bình định, ban đêm cụm lại phòng thủ
lính Úc chia thành từng tốp nhỏ lùng sục căn cứ của ta.
Trước tình hình đó, Huyện ủy Nhơn Trạch trực tiếp lãnh đạo
toàn Đảng, toàn quân kiên cường bám trụ chiến trường, “bám thắt
lưng” để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời trừng trị bọn ác ôn điệp
báo nằm trong dân.
Những năm 1968-1969, tình hình căng thẳng, ác liệt; giặc ra
sức đánh phá để trừ họa “Mậu Thân”, ta kiên cường đánh trả để
bảo vệ căn cứ, phát triển phong trào. Phong trào “thi đua diệt Mỹ,
chư hầu Thái, Úc” dấy lên sôi nổi, đều khắp Long Thành, Nhơn
Trạch.
Đầu tháng 6.1968, lực lượng cách mạng của Phân khu 4 gặp
khó khăn về lương thực, thực phẩm. Phân khu ủy sau khi hội ý,
198

20.9 Page 199

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
điện cho hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch đề nghị chi viện ngay
một số lương thực, phực phẩm để kịp thời phục vụ chiến trường.
Các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy bàn bạc, quyết định
cử đồng chí Quyền Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch Nguyễn Công
Hạnh làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp của huyện, chỉ đạo đưa
ngay toàn bộ số lúa thu được ở các xã: Phước Long, Long Phước,
Phú Hữu chuyển hết về phân khu; số lúa thu được của các xã còn
lại thì cung cấp, phân phối cho các địa phương trong huyện. Biết
được tình hình khó khăn, người dân Phước Lai, Phước Kiển đã ra
sức đóng góp lương thực cho phong trào cách mạng vượt qua thời
điểm gian nan.
Ngày 20.12.1968, Ban Thường vụ Phân khu 4 họp tại căn cứ
Suối Cù ở phía Bắc suối Cả, bàn kỹ ba việc:
1. Quyết định đầu năm 1969 mở hai đại hội “Bình bầu chiến
sĩ thi đua và dũng sĩ diệt Mỹ” “Đại hội đại biểu quốc dân”
bầu Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Long Thành - Thủ Đức.
2. Phân công chuẩn bị căn cứ cho hai đại hội trên. Hội nghị
xác định xây căn cứ suối Đá Vàng gần khu vực Chòi Đồng (xã
Phước Thái).
3. Chuẩn bị gạo và thức ăn cho hai đại hội đó (mỗi đại hội trên
100 đại biểu).
Đầu tháng 2.1969, Đại hội chiến sĩ thi đua Phân khu 4 khai
mạc gồm trên 200 đại biểu. Đại hội nghe nhiều báo cáo điển hình
về những trận đánh của các đội du kích xã, của bộ đội địa phương
huyện và lực lượng vũ trang phân khu diệt hàng trăm tên Mỹ, Thái
và vô số bình định ác ôn. Đại hội bình bầu hàng chục dũng sĩ diệt
199

20.10 Page 200

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Mỹ. Xã đội trưởng xã Phú Hữu Nguyễn Quyết Chiến được bình
bầu là điển hình của Đại hội.
Tháng 4.1969, đồng chí Lê Đức Sanh chỉ đạo Nhơn Trạch tập
trung lực lượng chống phá địch bình định, giành quyền làm chủ,
xây dựng thế và lực mới ở các xã quanh Lòng Chảo. Tại Phước
Lai, đồng chí Trần Văn Sang (Hai Sang) đang công tác tại lực
lượng An ninh huyện được giao nhiệm vụ về làm Bí thư xã. Thời
gian qua, phong trào cách mạng ở Phước Lai chịu nhiều tổn thất,
hàng loạt cán bộ chủ chốt, chiến sĩ hy sinh trong một thời gian
ngắn, tạo khoảng trống trong công tác. Đồng chí Trần Văn Sang
là người địa phương, sớm rèn luyện và trưởng thành trong môi
trường kháng chiến, Huyện ủy Nhơn Trạch nhận định trong thời
điểm này đưa đồng chí về hoạt động ở địa phương là phù hợp.
Về làm Bí thư ở địa bàn được đánh giá là “vùng yếu” như
Phước Lai, đồng chí Hai Sang nhận nhiệm vụ trong giai đoạn địa
phương ngổn ngang, bộn bề nhiều việc. Lúc này chị Huỳnh Thị
Thu, Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng xã Phước Lai
đã rút về làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ giải
phóng huyện. Chi bộ A và Chi bộ B lúc này gồm các đồng chí:
Trần Văn Sang (Bí thư xã), Võ Thị Bót (Bảy Bót, Bí thư chi bộ
mật), Dương Văn Ken (chồng của đồng chí Võ Thị Bót), Lê Thị
Đầy (phụ trách công tác binh vận, năm 1970 đồng chí bị địch bắt
lần thứ hai, giam giữ ở Nhà lao Tân Hiệp, Biên Hòa), Ngô Văn
Thêm, Hai Hải, cô Tài (vợ đồng chí Hai Hải). Đồng chí Hai Sang
ngay khi vừa về đã tìm cách củng cố lại lực lượng, phong trào, tổ
chức lại cơ sở cách mạng, vận động thanh niên thoát ly, tòng quân
để bổ sung lực lượng cán bộ xã, huyện, như vận động thanh niên
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Huỳnh Ngọc Hà1 thoát ly, công tác bên an ninh xã; giao nhiệm vụ
cho đồng chí Ngô Văn Thêm làm Bí thư chi đoàn, phụ trách mảng
thanh niên. Đồng thời đồng chí còn cùng các cán bộ xã tổ chức
vận động đồng bào tiếp tế cho cách mạng, phối hợp đấu tranh với
địch như chống bắt lính, chống bắn pháo vô tội vạ vào khu vực
đồng Long Phước. Bên cạnh đó, các đồng chí đảng viên còn phải
tìm phương thức mới để thu thuế, chỉ riêng trong công tác này
nhiều cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh.
Rất nhiều lần đồng chí Hai Sang gặp nguy hiểm. Ngày
18.10.1970, đồng chí Hai Sang cùng với hai đội viên du kích là
Thắng và Dũng, có thêm năm đồng chí bộ đội thuộc lực lượng
C240 - là lực lượng thường phối hợp với địa phương để chiến
đấu, cùng đi công tác, trên đường đi từ Vườn Xoài về Phước Lai
thì lọt vào ổ phục kích của tên ác ôn Chín Trớn. Bên ta vừa bắn
yểm trợ cho nhau vừa rút lui, nhưng do địch đông, hỏa lực mạnh
nên hai đồng chí du kích Thắng và Dũng hy sinh, phía bộ đội
C240 cũng hy sinh hai người, trong đó chiến sĩ Trần Công Thắng
cũng là người Phước Lai. Đồng chí Hai Sang thoát được vào rừng
nhưng bị mất khẩu súng. Một tên lính địa phương quân lấy được
khẩu súng này, về rêu rao “mới bắn chết thằng Hai Sang bí thơ”.
Mẹ vợ đồng chí Hai Sang nghe tin, tưởng con rể hy sinh, lật đật
chạy lên đồn tìm xác con không thấy, lo lắng trong lòng mà không
dám khóc. Mấy ngày sau gia đình mới nhận được tin đồng chí chỉ
bị thương.
1  Con út của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Cửu, em của chị Huỳnh
Thị Thu và em của ba liệt sĩ: Huỳnh Ngọc Minh, Huỳnh Ngọc Sơn, Huỳnh Ngọc
Quang. Cả gia đình đều tham gia kháng chiến.
201

21.2 Page 202

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Sau khi hai đội viên Thắng và Dũng hy sinh, Đội du kích xã
Phước Lai lúc này chỉ còn lại ba người là Ngô Phi Hùng, Xã đội
trưởng; Lê Minh Chánh, Xã đội phó cùng một đội viên tên Quân
(Rắc).
Ít lâu sau, Xã đội trưởng Ngô Phi Hùng hy sinh do bị tên ác
ôn Phạm Minh Sang (Năm Sang) phục kích bắn chết. Trước đó,
ngày 29.4.1970, Xã đội phó Lê Minh Chánh cũng hy sinh. Hôm
đó anh đi công tác từ Phước An về, vai khoác súng AK, đến khu
vực chùa Phước Hưng thì lọt vào ổ phục kích của bọn lính Chín
Trớn. Anh dù bị thương ở chân vẫn bình tĩnh bắn trả khiến chúng
chết và bị thương mấy tên, đến lúc anh hết đạn thì chúng ập đến
bắt sống. Để trả thù cho đồng bọn, chúng lấy báng súng đánh anh
xối xả, anh hô to khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ! Chủ tịch Hồ
Chí Minh muôn năm!”. Điên tiết, bọn lính bắn vào mặt, anh hy
sinh, mặt bị bắn nát bấy. Xã đội phó Lê Minh Chánh lúc đó mới
18 tuổi, chưa có cả người yêu. Bọn lính đưa xác anh về sân đồn
phơi cả ngày. Cha mất, mẹ anh là đồng chí Lê Thị Đầy bị địch bắt
giam, gia đình tan tác, bà con chòm xóm đến năn nỉ mãi bọn lính
mới cho đưa anh về chôn cất.
Tổn thất của phong trào cách mạng quá lớn, nhưng dù biết
phải hy sinh cũng không sờn lòng, nhiều thanh niên Hiệp Phước
tiếp tục thoát ly, vào du kích hoặc bộ đội, như: Phan Thành Tâm,
Đặng Hoàng Thi, Phan Hồng Quân, Huỳnh Văn Bình...
Tháng 6.1969, Ban Chấp hành Phân khu 4 họp kiểm điểm tình
hình, bổ sung kế hoạch tiến công địch sáu tháng cuối năm. Đồng
chí Lê Đình Nhơn được Trung ương Cục chỉ định làm Bí thư Phân
202

21.3 Page 203

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
khu ủy Phân khu 4. Chiều 3.9, đoàn cán bộ Phân khu 4 nhận được
điện khẩn: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng báo tin đau buồn: Bác
Hồ qua đời”. Đoàn đã phối hợp với các lực lượng vũ trang cùng
các cơ quan ở Bà Rịa tổ chức lễ truy điệu Bác vào ngày 4.9. Hơn
300 cán bộ chiến sĩ tập họp nghiêm trang trước bàn thờ đơn giản
bằng cây rừng, cờ Đảng và ảnh Bác treo phía trên, một băng rôn
với dòng chữ: “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”,
dưới đặt những vòng hoa rừng. Đồng chí Hai Nhã (Lương Văn
Nho) điều khiển lễ chào cờ, mặc niệm sau đó đọc điếu văn, không
ai cầm được nước mắt. Lễ truy điệu Bác gọn một tiếng đồng hồ.
Sau đó máy bay Mỹ đến ném bom vào nơi làm lễ, nhưng không
ai hề hấn gì.
Cuối tháng 9, Ban Thường vụ Phân khu 4 họp, quyết định vừa
tập trung chỉ đạo tấn công ba mũi đánh phá bình định, mở rộng
vùng tranh chấp và đánh quân Mỹ và chư hầu, vừa chuẩn bị Đại
hội đại biểu lần thứ I của Phân khu, dự kiến chọn địa điểm đại
hội tại Lòng Chảo Nhơn Trạch, thời gian khoảng trung tuần tháng
3.1970.
Trên chiến trường Nhơn Trạch, bọn địch xây dựng, phát triển
thêm một số căn cứ lớn như trung đoàn Thái Lan phiên hiệu Mãng
xà vương đóng ở Đồng Lớn, Phước Thọ - Phước An, căn cứ Bàu
Điều sát nách căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch, chốt Mỹ - Thái ở
ngã ba Phước Thiền. Hàng ngày, chúng tung lực lượng cấp đại
đội, tiểu đoàn đánh phá vào vùng căn cứ cách mạng. Bên trong,
Mỹ - ngụy và chư hầu thực hiện chiến thuật “Tát nước bắt cá”.
Địch dùng cả trăm xe tẹt, hàng chục xe tăng và bộ binh Mỹ yểm
203

21.4 Page 204

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
trợ, ủi phá, chia cắt khu rừng nguyên sinh. Chỉ trong vòng 2 năm
1969 - 1970, Mỹ và bọn chư hầu đã san bằng gần 10.000 hecta.
Nhiều căn cứ các cơ quan huyện, các xã bị phá hủy. Lúc bấy giờ,
lực lượng dân quân chính Đảng do địch đánh phá ác liệt bị tổn thất
nặng, phải phân tán, bám trụ trong dân nhằm bảo toàn lực lượng
và tiếp tục nuôi dưỡng, phát triển phong trào cách mạng của quần
chúng.
Trong năm 1969, xã Phước Kiển bị tổn thất lớn. Đồng chí
Dương Văn Bảnh, người Phước An, Bí thư xã Phước Kiển hy
sinh chỉ sau mấy tháng nhận nhiệm vụ. Do đặc điểm của rừng ở
Phước Kiển là khan hiếm nguồn nước nên mọi người trong căn
cứ Phước Kiển phải phân công chia tổ đi lấy nước. Hôm đó, đồng
chí Dương Văn Bảnh Bí thư xã cùng với 2 du kích xã đi tải nước
ở giếng Mương Sâu gần khu mả đen, bị trúng phục kích của địch,
hy sinh. Đồng chí Bảnh mới vừa nhận nhiệm vụ Bí thư xã Phước
Kiển được hai tháng, khi hy sinh trên lưng đồng chí vẫn còn đeo
chiếc bòng chứa đầy nước. Chỉ trong vòng chưa đầy một năm, đây
là vị bí thư thứ 3 của Phước Kiển hy sinh. Giai đoạn này địch liên
tục tổ chức phục kích khu vực rừng Ông Ách, nơi đặt căn cứ của
Phước Kiển, khiến nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh, như: Nguyễn
Văn Lỳ, du kích xã Phước Kiển; Đặng Văn Đủ, du kích xã Phước
Kiển; Phạm Văn Quới, Tiểu đội trưởng thuộc Huyện đội Nhơn
Trạch; Nguyễn Văn Bình, chiến sĩ Tiểu đoàn 2... Đội viên du kích
Phan Thành Tâm thì trúng pháo chụp của địch, hy sinh ở khu vực
gần đồn Phước Kiển ngày 19.7.1969. Phong trào kháng chiến ở
Phước Kiển phải tạm lắng một thời gian.
204

21.5 Page 205

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Trước tình hình địch tập trung lực lượng đánh phá ác liệt, ủi
phá địa hình, Huyện ủy Nhơn Trạch đã xác định tư tưởng, lãnh
đạo thực hiện phương châm kiên cường bám trụ, khắc phục gian
khổ, ác liệt hy sinh, mưu trí dũng cảm chiến đấu, sáng tạo linh
hoạt, vận dụng phong phú đa dạng cách đánh địch, đứng vững
địa bàn. Huyện ủy, huyện đội đề ra chủ trương phải chuyển ngay
phương thức ăn, ở, đi lại hoạt động, cách đánh địch... chuẩn bị gạo
rang, gạo sấy, nước uống từ 10 ngày đến một tháng, trong huyện
chia thành 4 vùng nhỏ (vùng 1 lộ 17, vùng 2 dọc lộ 19, vùng 3 lộ
19 di cư, vùng 4 là các xã Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước).
Cấp ủy, Ban chỉ huy Huyện đội tăng cường cán bộ phụ trách các
vùng. Đại đội C240 cũng bố trí từng trung đội bám các vùng, phân
tán từng tổ nhỏ (ba người) đào hầm bí mật, tận dụng các đoạn địa
đạo cũ, vận động vòng lại phía sau nơi địch ủi qua các bụi tre, gốc
cây, triền xóm để đào hầm trú ẩn và hầm bí mật thực hiện 4 bám:
Bám dân, bám địa bàn, bám phong trào, bám địch để tấn công
địch.
15 giờ 30 ngày 14.7.1969, địch dọn bãi ở Trảng Lớn, Hang
Nai, đưa 45 xe ủi, xe tăng, thực hiện kế hoạch ủi phá địa hình
khu Lòng Chảo. Ngày đầu, chúng dàn hàng ngang như thả vạt
cày, ủi từ Phước Thọ qua Phước Lai đến Phước Kiển. Dưới đất,
tiếng máy gầm rú ầm đùng của xe ủi, xe tăng. Trên trời, máy bay
L19, cá lẹp (OH5, OH6) quần đảo quan sát sẵn sàng phóng hỏa
tiễn. Ủi ngày đầu không đụng lực lượng chống trả, chúng rất hí
hửng. Trong đêm, đồng chí Huyện đội trưởng Tám Quyết lệnh
cho xưởng công binh đổ 10 khối thuốc nổ (mỗi khối 10-12 kg) để
205

21.6 Page 206

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
công binh, trinh sát gài giáp mí đất địch đang ủi; du kích xã Phước
An thì dùng đầu đạn cải tiến thành mìn gài nơi địch sẽ ủi tới. Sáng
15.7.1969, địch ủi qua Phước An, mìn nổ phá hủy hai xe tăng, trực
thăng xuống lấy xác, bị du kích phục bắn rơi 1 chiếc. Du kích xã
Phước An mở đầu phong trào đánh xe và bắn rơi máy bay địch, cổ
vũ lực lượng vũ trang trong toàn huyện. Phối hợp với phong trào
diệt máy bay rà thấp, bộ đội, du kích các xã Bình Sơn, Phú Hội,
Lộc An, Tam An, Phước Thiền, Phú Thạnh đã chủ động đẩy mạnh
hoạt động võ trang. Đối với những xã bị địch khống chế mạnh như
Phú Thạnh, Phước Kiển, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai,
Tam Phước, Long An thì huyện tăng cường thêm cán bộ về hỗ trợ
xã gây dựng cơ sở. Khí thế quần chúng được nâng lên, lực lượng
cách mạng được củng cố và phát triển.
Tại xã Phước Lai, sau khi xin ý kiến cấp trên và được Huyện
ủy chấp thuận, đội du kích xã đã tổ chức diệt một tên ác ôn Trưởng
ấp B. Ngoài tên Chín Trớn là ác ôn khét tiếng cả vùng Long Thành
- Nhơn Trạch, ở vùng Hiệp Phước lúc bấy giờ còn có những tên
ác ôn khác như tên Phạm Văn Quá (Năm Quá), Trưởng Ban an
ninh ở xã Phước Lai; Phạm Minh Sang (Năm Sang), Trung đội
trưởng địa phương quân; Mười Phương, tay chân của Chín Trớn;
Đội Lé... Có lần, tên Năm Sang thông qua chỉ điểm, biết bộ đội sẽ
về tải gạo khu vực nhà má Năm nên cho lính phục kích, bắn chết
bốn đồng chí bộ đội C240, trong đó có một trung đội phó. Tên
Năm Sang còn cho lính phục kích bắn chết Xã đội trưởng Ngô
Phi Hùng. Nhưng tên này rất ranh ma, xảo quyệt, thường xuyên
thay đổi chỗ ở, ta không nắm được quy luật đi lại của hắn nên khó
206

21.7 Page 207

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trừng trị. Có lần anh em phục trước nhà hắn suốt cả mấy buổi tối
mà không thấy, sau tìm hiểu mới biết hắn không ngủ ở nhà mà ra
ruộng ngủ.
Tên Năm Quá thì thường xuyên chỉ điểm, bắt bớ cán bộ ta,
nhũng nhiễu những gia đình có người thân đi kháng chiến. Nhiều
cán bộ, chiến sĩ của ta trúng phục kích là do hắn chỉ điểm. Qua
điều nghiên và từ thông tin của quần chúng cung cấp, tên Quá có
vợ bé ở ấp A, thường về đây ngủ. Sau khi nhận được tin tối đó
Năm Quá về nhà vợ bé, lại còn kêu thêm vài người đến nhà nấu
nướng, phục vụ hắn ăn nhậu, đồng chí Hai Sang cùng với du kích
tên Quân và hai đồng chí ở C240 đến phục trước nhà vợ bé hắn.
Khác với ấp B đa số là quần chúng cảm tình với cách mạng, người
dân sinh sống ở ấp A phần lớn là có người thân làm việc cho chính
quyền Sài Gòn, có cả những thành phần như vợ lính, cảnh sát, nên
việc mật phục trước nhà vợ bé của Năm Quá cũng rất khó khăn.
Đợi cho đến lúc tên Quá nhậu đã ngà ngà say, những người phục
vụ ăn nhậu cũng rút đi, đồng chí Hai Sang phân công các đội viên
du kích cảnh giới trước nhà, còn mình cùng hai đồng chí C240
ập vào nhà tên Quá. Lúc này Năm Quá đang nằm trên giường,
thấy đồng chí Hai Sang bước vào hắn lập tức rút khẩu súng ru lô
giấu dưới gối để bắn, nhưng không kịp, đồng chí chiến sĩ C240
đã nhanh chóng xử tên Quá ngay tại chỗ, để lại bản án kể rõ tội
trạng của hắn và xử lý của cách mạng để răn đen những tên ác ôn
khác, rồi cả nhóm rút lui an toàn. Tên Quá bị xử, những tên khác
cũng co vòi, ngay cả tên Năm Quang cũng im hơi lặng tiếng một
thời gian.
207

21.8 Page 208

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Chỉ trong thời gian ngắn từ những ngày cuối tháng 2 tới trung
tuần tháng 6.1972 hơn 100 tên địch bị diệt, hàng chục tên ác ôn bị
trừng trị, bị bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ dân sự bị phá rã, ta
thu 24 súng các loại và 2 máy truyền tin.
Sau cuộc họp Ban Thường vụ Phân khu 4 đầu tháng 2.1970,
đồng chí Chín Lê và đồng chí Nguyễn Hải đi khu Lòng Chảo
chuẩn bị địa điểm đại hội, đúng lúc hàng trăm xe quân sự Mỹ đổ
quân càn quét dài ngày thực hiện việc “lột da Lòng Chảo”. Tình
hình không cho phép mở Đại hội ở khu Lòng Chảo Nhơn Trạch,
Ban Thường vụ Phân khu 4 bàn, chọn khu căn cứ Ông Trữ làm
địa điểm tiến hành Đại hội. Đại hội tiến hành trong hai ngày 19 và
20.3.1970. Tại Đại hội, đồng chí Lê Đình Nhơn được bầu làm Bí
thư Phân khu ủy.
Đến cuối tháng 3.1970, Trung ương Cục lại quyết định điều
động đồng chí Lê Đình Nhơn về tỉnh Bà Rịa, chỉ định đồng chí
Nguyễn Hải làm Quyền Bí thư; sau đó, Ban Thường vụ Phân khu
ủy tiến hành bầu cử, đồng chí Nguyễn Hải trúng cử Bí thư Phân
khu ủy Phân khu 4.
Chiều 25.8.1971, đồng chí Nguyễn Văn Thông cùng đồng chí
Tám Huệ, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy Long Thành, từ trạm
giao liên sông Cả đi qua xóm Gò, đường 15 thì lọt ổ phục kích của
địch ở giữa cánh đồng giáp ranh Phước Kiển, Phước Lai. Cả hai
nằm dưới ruộng đầy nước. Tổ giao liên dẫn đường nổ súng chống
trả quyết liệt. Máy bay trực thăng đến quần đảo, thả pháo sáng rực
trời. Chúng bắn nhiều trái rốc-két khiến cả ba giao liên hy sinh.
Đồng chí Hai Thông và đồng chí Tám Huệ thoát nạn. Hôm sau,
208

21.9 Page 209

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Tám Huệ đến căn cứ Rừng Sác Bà Ký - Cầu Mít rồi cùng đồng
chí Trần Văn Đức và ba giao liên từ Cầu Mít băng dọc cánh đồng
Phước Lai - Phước Kiển, lại bị phục kích, ba anh em dẫn đường và
đồng chí Tám Huệ hy sinh, đồng chí Đức bị thương lòi ruột, phải
gượng sức lấy ny lông buột vết thương, hai tay ôm bụng ráng bò
về đến căn cứ Cầu Mít thì ngất xỉu.
Theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Phân khu ủy, Huyện ủy
Nhơn Trạch phải quyết tâm bám trụ, chỉ đạo các xã thuộc hệ
đường 17, phát động quần chúng các xã bung ra chăm sóc lúa trên
đồng, chuẩn bị thu hoạch vụ mùa. Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo
các ngành cấp huyện phân công cán bộ xuống xã, vừa công tác
vừa phân tán lực lượng tránh tập trung để giảm bớt hy sinh tổn
thất. Đồng thời Huyện ủy chỉ đạo địa phương liên tục đánh phá
bình định của giặc, giữ vững phong trào trong xóm ấp.
Ở Hiệp Phước, đồng chí Trần Văn Sang được điều về làm
Bí thư xã Phước Kiển để gầy dựng lại phong trào cách mạng sau
hàng loạt hy sinh của cán bộ chủ chốt xã. Lúc này, lực lượng cán
bộ ở Phước Kiển rất mỏng vì nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Trước
tình hình trên, Huyện ủy sau đó bổ sung cho Phước Kiển các đồng
chí: Trương Văn Ở, Ngô Văn Bảy (Bảy U) và Nguyễn Văn Huân;
đến đầu năm 1975 bổ sung thêm đồng chí Nguyễn Việt Yên (Năm
Yên, người Phước Thọ). Trong đó, đồng chí Huân là người Phước
An, trước công tác tại Văn phòng Huyện ủy, khi về Phước Kiển
được giao phụ trách công tác thanh niên; một lần đồng chí cùng
với du kích xã tên Sơn đi liên hệ dân ở xóm Bà Ký thì lọt vào ổ
phục kích của địch, hy sinh.
209

21.10 Page 210

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Phước Lai và Phước Kiển địa bàn sát nhau, hoạt động gắn
bó với nhau từ trước nên đồng chí Hai Sang nhanh chóng bắt tay
vào công tác. Trong số thanh niên Phước Kiển thoát ly, đồng chí
Hai Sang tin tưởng đề bạt đồng chí Phan Hồng Quân làm Xã đội
trưởng. Đồng chí Quân trưởng thành trong gia đình truyền thống
cách mạng, cha mẹ là cơ sở của ta ngay từ đầu cuộc kháng chiến
chống Mỹ, các anh em đều thoát ly hoạt động, trong đó em đồng
chí Quân là Phan Thành Tâm là du kích xã, hy sinh năm 1969.
Ngoài ra, Phước Kiển còn có nữ đồng chí Phan Thị Khỉnh là đảng
viên, cán bộ hoạt động mật.
Ở Phước Lai, Huyện ủy Nhơn Trạch đưa đồng chí Nguyễn
Văn Trọng1 (Sáu Trọng), người Phước An, về làm Bí thư xã. Lúc
này đồng chí Lê Thị Đầy bị giam tại Trại giam Tân Hiệp vừa ra
tù, tiếp tục được phân công phụ trách công tác binh vận. Đồng
chí Sáu Đầy là người rất có uy tín ở địa phương nên làm công tác
binh vận là phù hợp, hiệu quả. So với Phước Kiển, lực lượng cán
bộ ở Phước Lai có dày hơn. Các đồng chí trong Chi bộ A lẫn Chi
bộ B đều hoạt động hiệu quả, như Ngô Văn Thêm (Chín Hoàng),
Võ Thị Bót, Hai Hải, Dương Văn Ken, cô Hải, cô Ánh... Ngoài
ra còn có Huỳnh Ngọc Hà làm liên lạc, đưa đón cán bộ công tác
trong ấp, nắm tình hình địch, chuyển lương thực, tiền bạc bà con
đóng góp cho cách mạng.
1  Đồng chí Nguyễn Văn Trọng là con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Bùi Thị
Hoa ở xã Phước An.
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
5. Chuyển thế trận, mở rộng vùng làm chủ
Tháng 5.1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể
Ban Cán sự T7, thành lập 2 phân khu: Phân khu Thủ Biên và Phân
khu Bà Rịa. Long Thành, Nhơn Trạch cùng với Đảng ủy Cao su
nhập vào Phân khu Bà Rịa. Đầu tháng 12.1971, Ban Chấp hành
Phân khu ủy Bà Rịa họp hội nghị mở rộng tại núi Bể. Hội nghị
đánh giá thành tích chiến đấu trong 4 năm của Phân khu 4 (Long
Thành, Nhơn Trạch, Cao su và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh). Hội
nghị xác định nhiệm vụ cụ thể từng địa bàn thuộc Phân khu để
thực hiện Chỉ thị 33 trong năm 1972, và phân công cán bộ chỉ đạo
từng huyện, từng vùng. Đồng chí Nguyễn Văn Thông được phân
công phụ trách Long Thành, Nhơn Trạch và cao su Bình Sơn.
Sau hội nghị, các Huyện ủy, Đảng ủy Cao su được hướng dẫn
kế hoạch đẩy mạnh hoạt động đánh phá bình định trong mùa mưa,
tạo thế mới, lực mới chuẩn bị “chồm lên” trong năm 1972-1973.
Tháng 7.1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí Phạm
Thanh Lý, Quyền Bí thư Huyện ủy (thay đồng chí Phạm Minh
Chính, Bí thư Huyện ủy hy sinh vào năm 1971) triệu tập hội nghị
30 cán bộ chủ chốt tại địa đạo Phước An quán triệt Chỉ thị 33. Hội
nghị tập trung thảo luận và xác định:
- Vùng trọng điểm số 1 của đợt đánh phá bình định nông thôn
là các xã: Phú Hội, Long Tân, Phú Mỹ và Phước Thiền. Yêu cầu
đặt ra là lực lượng hoạt động công khai phải làm chủ cả ban đêm
và bàn ngày, đánh phá bình định cần đi đôi với xây dựng và phát
triển lực lượng cách mạng.
211

22.2 Page 212

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Vùng trọng điểm thứ 2 gồm các xã: Phước Thọ, Phước Long,
Phước Lai, Phước Kiển, cần sử dụng nội tuyến kết hợp với lực
lượng vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt các đoàn
bình định nông thôn.
- Vùng thứ 3 gồm các xã: Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh, đánh phá bình định kết hợp với yêu cầu phát động
quần chúng kết hợp với cơ sở binh vận trong lực lượng phòng vệ
dân sự. Chú ý xây dựng cơ sở và nắm nghĩa quân cùng dân vệ để
phá lỏng, phá rã bộ máy kềm kẹp của địch.
Hội nghị thảo luận và quyết định vấn đề phát động nông, ngư
dân bám ruộng đồng trồng tỉa, bám sông rạch đánh bắt cá tôm.
Chú ý bố trí đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ bà con làm ăn ở
những cánh đồng rộng như: Ông Mai, Ông Thuộc, Chà Là... Hội
nghị đánh giá: Nhơn Trạch tuy có nhiều khó khăn, nhưng hoàn
toàn có khả năng thực hiện Chỉ thị 33.
Thực hiện Chỉ thị 33, Đội du kích xã Phước Lai sau khi điều
nghiên, họp bàn đã quyết định phối hợp tổ chức đánh đội dân vệ
ở đồn Phước Long. Đêm trước diễn ra trận đánh, các đội viên du
kích Phước Lai và Phước Long đào sẵn hai hố cá nhân ở hai bên lộ
19 khu vực giáp ranh Phước Long và Phước Lai, đến tờ mờ sáng
thì rải truyền đơn dọc theo lộ 19. Đúng như ta dự đoán, buổi sáng
một số người dân đi làm sớm, nhìn thấy truyền đơn thì kháo nhau,
bọn dân vệ đồn Phước Long hay tin nên kéo một trung đội khoảng
30 tên đến khu vực này để lượm truyền đơn. Quân số địch đông
đảo, bên ta chỉ có năm du kích, nhưng ta được yếu tố bất ngờ. Bọn
dân vệ vừa lọt vào tầm ngắm, các đội viên du kích liền nổ súng,
212

22.3 Page 213

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
một tên dân vệ chết ngay tại chỗ, mười mấy tên khác bị thương.
Các chiến sĩ vừa bắn vừa rút lui an toàn, bên ta không có ai hy
sinh nhưng đồng chí Hai Hải của xã Phước Lai bị thương, hư hết
một mắt. Thừa thắng xông lên, Đội du kích xã Phước Lai tiếp tục
phục kích đánh địch ở khu vực cầu Mạch Bà, bên ta an toàn, địch
lớp chết lớp bị thương phải khiêng về đồn.
Đến năm 1973, đồng chí Lê Văn Hồng, Trung đội trưởng Trung
đội 155 thuộc Huyện đội với sự hỗ trợ của Đội du kích Phước Lai
đã tổ chức đánh chốt địch ở đường ủi Phước Lai. Sau trận đánh
này, địch đã giải tán toàn bộ lính ở chốt đường ủi Phước Lai.
Liên tiếp bị tấn công, địch nổi điên, cho máy bay quần sát ấp
B, đồng thời kêu pháo bắn vào ấp vì “che giấu Việt Cộng”. May
nhờ có Phạm Minh Sang, Trung đội trưởng nghĩa quân cũng là
người ở ấp B, đứng ra can ngăn nên người dân ở ấp B thoát được
trận “đòn thù”. Nhưng địch lùng sục, khủng bố ngày đêm ở ấp B
khiến nhiều người dân lo sợ, bất an nên bỏ nhà cửa dắt díu cả gia
đình đi ở nhờ nơi khác, hoặc ra ruộng cất chòi ở, khiến khu vực
ấp B trở nên vắng vẻ. Cán bộ ta phải ra sức vận động người dân
ở lại bám trụ ấp.
Đầu tháng 9.1972, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông triệu
tập hội nghị tập trung bàn, quyết định ba vấn đề quan trọng:
1. Sử dụng toàn bộ lực lượng thực hiện nhiệm vụ giành dân
lấn đất với địch trong mùa khô 1972-1973.
2. Chuẩn bị triển khai Chỉ thị số 08/CT của Thường vụ Trung
ương Cục về “gấp rút xây dựng phát triển, bố trí lực lượng chính
trị thành thế chiến lược vững mạnh, kịp thời đáp ứng yêu cầu,
213

22.4 Page 214

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
trách nhiệm trước mắt. Hoàn chỉnh việc trang bị cho cán bộ các
cấp và đảng viên về tinh thần và vật chất vững chắc nhằm giành
thắng lợi trước mắt và sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phát
triển của tình hình”.
3. Thông báo Quyết định của Trung ương Cục: Giải thể các
phân khu, lập lại khu ủy miền Đông, lập lại các tỉnh Biên Hòa và
Bà Rịa - Long Khánh. Huyện Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên Hòa.
Thời điểm này, xã Phước Lai thêm lần nữa bị tổn thất. Ngày
10.8.1972, đồng chí Bí thư xã Nguyễn Văn Trọng cùng với một
du kích xã từ rừng Phước Lai đi móc ráp cơ sở ở Gò Sài, Long
Phước, khi trở về đến khu vực gần Cầu Mít, Bà Ký thì trúng phục
kích của địch. Đồng chí Trọng và đồng chí du kích chiến đấu rất
dũng cảm, đến khi bắn hết đạn 2 đồng chí cũng không chịu đầu
hàng địch, cùng hy sinh. Địch kéo xác các đồng chí về đồn, vợ
đồng chí Trọng là Phạm Thị Sáu lên đồn xin đem thi thể chồng
về chôn cất. Một thời gian sau, Huyện ủy cử đồng chí Trần Văn
Hạnh (Sáu Hạnh, người xã Long Thọ) đang phụ trách kinh tài của
huyện trở về Phước Lai nhận nhiệm vụ Bí thư. Hai xã Phước Lai
và Phước Kiển với hai vị Bí thư Trần Văn Hạnh và Trần Văn Sang
đã hoạt động ổn định và phát triển phong trào cách mạng mạnh
mẽ đến năm 1975.
Hội nghị Ban chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp phiên đầu
tiên từ ngày 15 đến 20.10.1972 xác định: Biên Hòa chưa có xã
giải phóng như một số địa phương khác, nhưng cán bộ huyện,
xã đều bám được địa bàn, bám dân xây dựng cơ sở, phát động
tổ chức phong trào quần chúng nổi dậy, thực lực cách mạng nơi
214

22.5 Page 215

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nào cũng phát triển. Phát huy thắng lợi đã giành được, lực lượng
cách mạng ở Biên Hòa tập trung tiến công địch, chống càn quét
lấn chiếm, kết hợp chặt chẽ ba mặt võ trang: chính trị, binh vận,
quân sự; phát động quần chúng diệt ác phá kềm, trấn áp bọn phản
cách mạng ở vùng yếu, vùng tranh chấp, tạo điều kiện cho dân
bung mạnh ra sản xuất, bao vây lấn địch giành quyền làm chủ ấp,
xã, tạo thế lực mạnh mẽ chuẩn bị “chồm lên” tiến công địch, mở
rộng vùng khi có giải pháp chính trị, đồng thời sẵn sàng cùng toàn
Miền đánh bại âm mưu ngoan cố kéo dài chiến tranh của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn.
Sau hội nghị, các đồng chí Ủy viên Thường vụ và Tỉnh ủy viên
nhanh chóng tỏa đi khắp các địa phương triển khai nghị quyết và
xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể.
Ngày 23.12.1972, Thường vụ Trung ương Cục chính thức ra
quyết định Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa gồm 19 đồng chí,
do đồng chí Nguyễn Trọng Cát - Ủy viên Thường vụ Khu ủy
miền Đông làm Bí thư Tỉnh ủy; Phó Bí thư Tỉnh ủy là đồng chí
Nguyễn Văn Thông, Phan Văn Trang. Theo quyết định này, đồng
chí Nguyễn Văn Xuân (Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch) là Tỉnh ủy
viên phụ trách địa bàn Nhơn Trạch.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa, quân dân Nhơn
Trạch cùng toàn tỉnh mở đợt tiến công đồng khởi từ đêm 24.10
đến ngày 5.11.1972. Sau đợt “Đồng khởi năm 1972” và “chồm lên
chiếm lĩnh” của lực lượng cách mạng, địch đã rất hoang mang lo
sợ, thì tiếp theo đó các trận đánh hiểm vào kho đạn Thành Tuy Hạ
càng làm cho địch dao động và hoảng sợ hơn.
215

22.6 Page 216

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Từ năm 1972, chiến trường miền Nam trở nên ác liệt. Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam đã làm chủ nhiều vùng đất trên khắp
miền Nam, địch tăng cường sử dụng lực lượng không quân ném
bom đánh phá vùng giải phóng và hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn trong
các đợt càn quét, đồng thời tăng cường ném bom đánh phá miền
Bắc. Để hạn chế sức mạnh quân sự của địch và cổ vũ cho phong
trào nổi dậy của nhân dân miền Nam, lực lượng của Đoàn 113 đặc
công miền Đông Nam Bộ, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác của quân
giải phóng đã nhiều lần đột nhập tấn công kho bom Thành Tuy Hạ
phá hủy hàng chục ngàn tấn bom đạn gây tổn thất nặng nề, làm cho
địch hoang mang lo sợ. Những trận tấn công vào kho tàng địch đã
tạo tiếng vang ở trong nước cũng như trên thế giới, điều đó đã cổ
vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng của các địa phương làm
cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi và tin tưởng vào thắng lợi của
cách mạng.
Năm 1972, Bộ Tư lệnh miền Quân giải phóng mở chiến dịch
mang tên Nguyễn Huệ nhằm mục tiêu mở rộng vùng giải phóng
trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ uy hiếp Sài Gòn từ hướng Bắc
và Tây Bắc. Hướng tiến công chủ yếu và thứ yếu nhằm vào Lộc
Ninh, Tây Ninh; tỉnh Biên Hòa là địa bàn phối hợp nhằm thu hút,
chia lửa chiến trường. Nhiệm vụ của chiến trường Nhơn Trạch lúc
này là thọc sâu, đánh hiểm vào trung tâm đầu não của giặc, kéo
căng, phân tán sinh lực địch để chia lửa cho các hướng chủ yếu
của chiến dịch Nguyễn Huệ. Kho bom Thành Tuy Hạ là mục tiêu
quan trọng hàng đầu. Bộ đội ta, trong đó hai lần đầu là Huyện đội
Nhơn Trạch, hai lần sau là Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác, đã bốn
216

22.7 Page 217

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
lần làm nổ tung kho bom Thành Tuy Hạ. Các trận tập kích kho
bom Thành Tuy Hạ đã tiêu hao phần lớn sinh lực địch, làm cho dạ
dày chiến tranh của địch bị trọng thương, tinh thần và thực lực của
địch giảm sút khiến cho chiến dịch Nguyễn Huệ ở các mặt trận
nghiêng lợi thế về cho quân giải phóng.
IV. THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH, GIẢI
PHÓNG QUÊ HƯƠNG
1. Phát triển thế trận tiến công địch
Thắng lợi trên chiến trường miền Nam của quân giải phóng
buộc các bên Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa cùng ký
với đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam
Việt Nam các nội dung của Hiệp định Paris ngày 27.1.1973. Các
bên thảo luận dai dẳng đã lâu, vừa đánh vừa đàm, đến khi tình thể
không thể đảo ngược, buộc phải thống nhất nội dung Hiệp định
gồm 23 điều, trong đó các điều chủ yếu ghi nhận mong muốn của
quân dân cả nước: Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; ngừng bắn trên
toàn Việt Nam bắt đầu từ 27.1.1973; các bên cam kết tôn trọng
những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam Việt Nam; nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ quyết định tương
lai chính trị của mình; sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực
hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc
và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không bên
nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp
của nước ngoài. Như vậy, về mặt quân sự, buộc Mỹ và đồng minh
phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, ngừng tấn công miền Bắc. Coi
217

22.8 Page 218

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
như mục tiêu đấu tranh của quân giải phóng miền Nam đã thắng
lợi cơ bản.
Sau hai tháng thực hiện Hiệp định Paris, ngày 31.3.1973, Ban
Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp phân tích tình hình:
1. Có những vấn đề mới xuất hiện đáng chú ý. Địch tăng
cường liên tục mở rộng cuộc hành quân cảnh sát vào các xóm
ấp (nông thôn) và khu phố (thị trấn, tỉnh lỵ Biên Hòa), phân loại
quần chúng khủng bố những ai chúng nghi ngờ. Chúng ráo riết
bắt lính, đơn quân để bù số bỏ ngũ, rã ngũ sau khi Hiệp định Paris
ký kết. Chúng buộc nhân dân sơn cờ vàng ba sọc đỏ lên nóc hoặc
cửa nhà, rêu rao: Nơi nào có “cờ quốc gia” đều thuộc “vùng chính
phủ Việt Nam cộng hòa” kiểm soát. Chúng đẩy mạnh chiến tranh
tâm lý, vu khống phía giải phóng “vi phạm lệnh ngưng bắn”, gây
tâm lý không tin vào pháp lý của Hiệp định Paris. Chúng “cảnh
sát hóa” bộ máy chính quyền xã, thúc ép bọn ác ôn bung ra hoạt
động vùng ven; đàn áp phong trào đấu tranh đòi hòa bình, đòi các
quyền tự do, dân sinh dân chủ. Đặc biệt, chúng ngăn cấm không
cho nhân dân trở về ruộng đồng để sản xuất.
2. Từ giữa tháng 3.1973, địch mở các cuộc hành quân lấn
chiếm nhiều vùng nông thôn trong tỉnh. Nguyễn Văn Thiệu ban
hành luật “Người cày có ruộng” ngày 23.6.1973 hòng nắm đông
đảo nông dân. Mặt khác, chúng cho phép các nhà tư sản có phương
tiện khai thác gỗ cùng với một số công chức ngụy tổ chức làm be
mà thực chất là phá địa bàn căn cứ cách mạng. Trong xóm ấp,
chúng tăng cường tổ chức gián điệp, chỉ điểm, chú trọng huấn
luyện và trang bị vũ khí cho lực lượng phòng vệ dân sự xung kích
218

22.9 Page 219

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
ở những vùng đồng bào Công giáo di cư như Trảng Bom, thị trấn
Long Thành, tỉnh lỵ Biên Hòa, xã Vĩnh Thanh (Nhơn Trạch).
Ý đồ của địch là địch tập trung lấn chiếm vùng giải phóng,
xóa thế “da beo”, đẩy lực lượng cách mạng ra xa, đóng chốt giữ
các đường giao thông và các địa bàn do chúng kiểm soát.
3. Về phía ta, Tỉnh ủy chỉ đạo các lực lượng vũ trang kiên
quyết chốt giữ vùng giải phóng, đánh địch nống ra vi phạm Hiệp
định Paris và quan tâm lãnh đạo tư tưởng tiến công chống tư tưởng
hữu khuynh sợ địch tố cáo ta vi phạm Hiệp định. Mặt khác, Tỉnh
ủy tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp phát động phong trào toàn
dân bung ra sản xuất, xây dựng vùng căn cứ Bến Nôm - Bàu Hàm
với yêu cầu có dân, xây dựng trường học và trạm y tế.
4. Hội nghị thông qua kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện
Chỉ thị 02 và Điện số 775 của Thường vụ Trung ương Cục: “Tập
trung chỉ đạo tấn công bằng ba mũi vũ trang - chính trị - binh vận
nhằm chống địch vi phạm Hiệp định, giữ vùng ta và không ngừng
phá thế kềm kẹp của địch đi đôi với đẩy mạnh phong trào mỗi địa
phương xã, thị trấn, huyện, thị xã quan tâm đúng mức công tác
phát triển lực lượng cách mạng tại chỗ”.
Ngay sau hội nghị Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Cát, Bí
thư Tỉnh ủy, đi chiến trường Nhơn Trạch kiểm tra tình hình cụ thể,
trực tiếp chỉ đạo Đảng bộ Nhơn Trạch triển khai thực hiện nghị
quyết của Tỉnh ủy. Các đồng chí khác trong Ban Thường vụ cũng
xuống các huyện, thị xã.
Tháng 6.1973, Thường vụ Trung ương Cục chỉ đạo tách tỉnh
Biên Hòa làm hai bộ phận. Tỉnh Biên Hòa không có thị xã Biên
219

22.10 Page 220

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hòa (còn gọi là Tỉnh Biên Hòa Nông thôn) gồm các huyện Vĩnh
Cửu, Trảng Bom1, Long Thành, Nhơn Trạch, Duyên Hải, Tân
Uyên, vùng cao su Dĩ An. Đồng chí Nguyễn Văn Thông được
chỉ định làm Quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa Nông thôn. Tỉnh ủy
xác định: “Hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch là điểm tập trung
đánh phá bình định nông thôn và xây dựng căn cứ, đặc biệt là từ
khu vực Bình Sơn đến phía Đông xã Phước Thái”. Tỉnh cử hơn
50 đồng chí cán bộ tăng cường cho các xã thuộc hai huyện. Lực
lượng vũ trang tại đây gồm Tiểu đoàn 240, bộ đội địa phương
hai huyện.
Về phía địch, từ tháng 6 đến hết năm 1973, ở Long Thành
và Nhơn Trạch có nhiều tiểu đoàn bảo an, tiểu đoàn thuộc sư 18
quân đội Sài Gòn đóng quân ở căn cứ Nước Trong, làng Cô Nhi
dọc quốc lộ 15. Địch tập trung hàng trăm xe quân sự, xe ủi kết
hợp một số chức sắc đạo Thiên Chúa ủi phá khu vực Bàu Năng,
Phước Hòa xã Long Phước. Hơn một chục đoàn cán bộ bình định
nông thôn được tung về Long Thành, Nhơn Trạch tiến hành kềm
kẹp gắt gao, gây tình hình căng thẳng ở nông thôn. Tuy nhiên, ở
ấp B Phước Lai ta thừa cơ hội bọn tề xã hoang mang, cài được ông
Huỳnh Văn My là cảm tình cách mạng vào làm Trưởng ấp. Vị trí
này khá quan trọng, nếu là người của ta sẽ giảm được rất nhiều
khó khăn, ngoài việc không chỉ điểm, không “mách lẻo” các hoạt
động của cán bộ chiến sĩ, người dân trong ấp, còn ngầm báo cho
ta những bàn bạc, chủ trương của bọn tề xã, thậm chí đôi khi còn
có thông tin về những cuộc càn quét, bắt bớ của địch.
1  Huyện Trảng Bom được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định đổi tên
thành huyện Thống Nhất vào tháng 5.1973.
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Thời gian này, ở Phước Lai cũng có 2 người là Nguyễn Văn
Nhị và Dương Văn Nhương có biểu hiện cảm tình với cách mạng,
thường tỏ vẻ muốn móc ráp với các đồng chí đảng viên mật để
tham gia hoạt động cách mạng. Qua công tác điều tra, Chi bộ mật
xã Phước Lai nhận thấy Nhị và Nhương có nhiều nghi vấn nên
không tiếp xúc dù 2 người này tỏ ra rất tích cực1.
Bên cạnh đó, các cán bộ của Phước Lai vận động đồng bào
chống vẽ cờ ba sọc lên nóc nhà. Khi bọn tề xã yêu cầu vẽ cờ, bà
con trả lời: nghèo quá không có tiền đong gạo, lấy tiền đâu mua
sơn. Khi bọn chúng tung tin hù dọa: Ai không vẽ cờ lên nóc nhà,
máy bay thấy cho là nhà của “Việt cộng”, bắn xuống ráng chịu.
Người dân lý sự trở lại: Vẽ cờ lên nóc nhà, lỡ “Việt cộng” thấy rồi
bắn pháo vô, ai chịu trách nhiệm, Việt cộng giờ mạnh lắm, mấy
ông lính còn bị đánh chạy, huống gì tụi tôi. Dằng dai tới lui, lại
thêm Trưởng ấp Huỳnh Văn My cũng bỏ lơ, rốt cuộc xã Phước
Lai chỉ có một số nhà bên ấp A thực hiện quy định vẽ cờ lên nóc
nhà, còn bên ấp B hầu như không ai chịu làm.
Sau Hiệp định Paris, quân lực Sài Gòn tập trung binh lực đánh
chiếm các khu vực Lòng Chảo để giành dân, lấn đất; tháng 3.1973
địch tập trung lực lượng tổ chức cuộc càn quét vào căn cứ Lòng
Chảo với bộ binh cùng hàng trăm xe ủi, xe tăng, có máy bay, pháo
binh yểm trợ, thực hiện ủi phá rừng. Chúng dội xuống khu Lòng
Chảo hàng ngàn tấn bom đạn. Quân giải phóng quyết liệt đánh trả
1  Sau ngày đất nước thống nhất, năm 1976, Công an huyện Long Thành phát
hiện Nguyễn Văn Nhị có bí số M48 và Dương Văn Nhương với bí số F55, là tình
báo địch định gài vào hàng ngũ của cách mạng. Sau đó Nhị và Nhương đã bị bắt.
221

23.2 Page 222

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
để bảo vệ vùng làm chủ. Từ ngày 15.5 đến ngày 30.5.1973, Lực
lượng du kích các xã vùng Lòng Chảo phối hợp D240 đánh hàng
trăm trận, đánh bộ binh, đánh xe tăng, đánh xe ủi, phá hủy 7 xe ủi,
tiêu diệt nặng hai trung đội ngụy. Tháng 6.1973, Tiểu đoàn 240
chận đánh trung đội bảo an Bến Cam, xã Phước Thiền, diệt bảy
tên, bắt sống bảy tên, thu 17 súng. Kế hoạch “lật đổ Lòng Chảo”
của địch bị thất bại.
Ở Phước Lai, Phước Kiển, Đội du kích hai xã cũng tăng cường
phối hợp với lực lượng 240 đánh địch không chỉ trên địa bàn mình
mà còn phối hợp với du kích các xã lân cận và ngược lại. Ngày
20.2.1974, trong lúc phối hợp với du kích Long Phước chống càn,
Xã đội trưởng Phước Kiển là anh Phan Hồng Quân đã hy sinh tại
khu vực Cầu Sập1. Trước đó, Xã đội phó xã Phước Thiền là anh
Nguyễn Văn Phước2 hy sinh trong khi cùng đơn vị phối hợp với
lực lượng du kích xã Phước Kiển đột kích vào ấp đánh địch.
Tháng 11.1974, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp mở rộng bao
gồm các đồng chí trong Ban Chấp hành Tỉnh ủy nhằm đánh giá
tình hình địch và ta, dự kiến xu thế phát triển tình hình trong tỉnh
và toàn Miền, trên cơ sở đó đề ra một số nhiệm vụ cụ thể trong
mùa khô 1974-1975 chung cho toàn tỉnh Biên Hòa và đề ra một số
biện pháp tổ chức cụ thể; về tổ chức, củng cố một bước các ban,
ngành cấp tỉnh và bổ sung các cấp ủy huyện.
1  Liệt sĩ Phan Hồng Quân và em là liệt sĩ Phan Thành Tâm là con của Bà mẹ Việt
Nam anh hùng Đặng Thị Ngà.
2  Liệt sĩ Nguyễn Văn Phước là con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị
Sang ở xã Phước Thiền.
222

23.3 Page 223

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Hội nghị nhận định: “Thời gian tới, địch sẽ tập trung đối phó ở
những vùng tranh chấp quyết liệt, nhất là các huyện Long Thành,
Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu. Về phương hướng, tiếp tục đẩy mạnh kết
hợp chặt 3 mũi: võ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở ; mở mảng,
mở vùng khi có thời cơ. Các lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh
bao vây tiêu diệt một số đơn vị bảo an, dân vệ và bộ máy kềm kẹp
ở phân chi khu, ấp, xã, bức hàng đồn bót vùng tranh chấp, cắt đứt
giao thông trên các trục lộ 1, 15, 17, 19 và sông Lòng Tàu; khẩn
trương tạo thế và lực mới làm thay đổi tương quan lực lượng giữa
ta và địch”.
Phương hướng phấn đấu trong mùa khô 1974-1975 là: Kết
hợp chặt ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở với lực
lượng của huyện, tỉnh liên tục tiến công địch giành quyền làm chủ
tại ấp xã, đồng thời kết hợp với lực lượng của trên đứng trên địa
bàn tỉnh làm tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, mở mảng,
mở vùng, khi có thời cơ.
Mục tiêu cụ thể là chuyển hầu hết các ấp xã vùng tranh chấp
lên thế tranh chấp mạnh và vùng giải phóng. Chuyển vùng địch
kềm, vùng di cư, vùng di dân, thị trấn, thị tứ thành vùng tranh
chấp với nhiều mức độ khác nhau, xây dựng cơ sở các đoàn thể
quần chúng, phát triển đoàn viên, đảng viên đảm bảo lãnh đạo
phong trào.
Theo Nghị quyết hội nghị, Thường vụ Tỉnh ủy phân công một
số cán bộ chủ chốt tỉnh trực tiếp chỉ đạo huyện trọng điểm gồm:
Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Công Hạnh, Trần On và đồng chí Lê
Quân (Chín Dũng).
223

23.4 Page 224

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Huyện ủy Nhơn Trạch tập trung tổ chức thực hiện tấn công
địch trong đợt mở màn đầu mùa khô 1974-1975 trên địa bàn.
Vùng trọng điểm của huyện được xác định là các xã dọc lộ 17,
19, từ Phú Hội, Phú Mỹ, Phước Thiền đến các xã Phước Kiểng,
Phước Lai, Phước Long và Phước Thọ.
Mở đầu chiến dịch mùa khô 1974-1975, tỉnh điều động D240
sang vùng trọng điểm Nhơn Trạch. Lực lượng tỉnh (D240 và D6),
bộ đội huyện (đơn vị 19/5) cùng du kích các xã dọc các trục lộ 17
và 19, đồng loạt tiến công địch vào ngày 10.11.1974. Sau 3 ngày
chiến đấu, các xã Phước Thiền, Phước Long, Phước Thọ, ta đã
tiêu diệt hơn 100 tên địch trong đó có 43 tên bảo an, buộc địch
phải đưa chiến đoàn 48 sư đoàn 18 đến đối phó.
Từ ngày 12.12.1974, lực lượng D240 và D6 phối hợp cùng
du kích Phước Thọ, Phước Long và Phước Lai dùng hỏa lực tiến
hành bao bó đồn Phước Thọ, Phước Long 7 ngày đêm. Đại bộ
phận lực lượng của Tiểu đoàn, kết hợp lực lượng huyện phục kích
trên trục lộ 19 (đoạn giữa Phước Long, Phước Thọ) để đánh địch
đi giải tỏa. Sau bốn ngày đêm bị bao bó, bọn địch ở đồn Phước
Thọ, Phước Long rất hoang mang. Chúng yêu cầu tiểu khu Biên
Hòa cho máy bay tiếp tế lương thực và nước. Đồng thời, Tiểu khu
Biên Hòa điều động tiểu đoàn bảo an 346 xuống Nhơn Trạch giải
tỏa. Địch từ Biên Hòa hành quân về Nhơn Trạch theo trục lộ 19
với một trung đội mở đường. Ta lập tức nổ súng diệt ngay trung
đội này trong những phút đầu tiên, thu 12 súng. Cùng lúc ở hướng
chủ yếu, Tiểu đoàn nổ súng tấn công vào đội hình địch. Sau 1
giờ 40 phút chiến đấu, ta diệt đại đội đi đầu của địch trên 70 tên,
224

23.5 Page 225

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chúng bỏ lại một số súng và xác chết, rút chạy về phía sau không
dám tiến lên. Bộ Tư lệnh quân đoàn III ngụy ở Biên Hòa cho máy
bay lên đánh trái màu phân tuyến, ném bom để ngăn chặn không
cho lực lượng ta xung phong và xóa dấu vết của chúng. Đúng 16
giờ cùng ngày, chúng rút về Tiểu khu Biên Hòa.
Hai ngày sau, địch điều một đơn vị của sư đoàn 18 xuống
Nhơn Trạch để giải tỏa cho đồn Phước Thọ, Phước Long. Căn
cứ tình hình thực tế, để bảo toàn lực lượng sau 4 ngày đêm phục
kích, Tỉnh đội lệnh cho các đơn vị rút khỏi vị trí, sẵn sàng chờ
lệnh chiến đấu. Sau khi giải tỏa đồn Phước Thọ, Phước Long, khai
thông đường 19, tối ngày 20.12.1974, địch cụm lại đóng quân dã
chiến trên đường ủi ngã ba Phước Lai. Nắm được tình hình, Tỉnh
đội lệnh cho D240 bắn pháo vào chỉ huy sở của địch, đồng thời
cho một bộ phận bộ binh trang bị mạnh tập kích vào cụm tiền tiêu
địch. Kết quả ta diệt trên 20 tên địch. Bị thiệt hại nặng, sáng ngày
21.12.1974, địch rút toàn bộ lực lượng về Biên Hòa.Trận đánh thể
hiện được khả năng chiến đấu của lực lượng võ trang địa phương,
ít thắng nhiều, phối hợp tốt giữa các đơn vị, làm cho địch chủ
động thành bị động. Lính trong đồn Phước Thọ, Phước Long hết
thói hung hăng, co cụm trong đồn, không dám bung ra càn quét.
Do đó, lực lượng cách mạng làm chủ được nhiều xóm ấp.
Đến ngày 31.12.1974, cơ bản 12 ấp ở huyện Long Thành và
Nhơn Trạch đã được giải phóng, nhiều đồn bót trên trục lộ 17, 19
bị bao vây. Nhiều khu vực liên hoàn được giải phóng như sở cao
su Bình Sơn, các xã: Tam An, Phước Thái, Phước Thọ, Phước An.
Nhưng chính vì thế ở Phước Lai, Phước Kiển, địch tăng cường
225

23.6 Page 226

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thêm lính nhằm bảo vệ các giao lộ trên lộ 19. Địch bổ sung thêm
tại đồn Phước Lai, phước Kiển mỗi đồn một trung đội dân vệ cùng
một số lính bảo an, mỗi ngày bọn lính đều lùng sục khắp nơi, thấy
ai lạ mặt là xét hỏi, tình hình khá căng thẳng.
2. Phối hợp tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương
Từ cuối năm 1974 đến đầu năm 1975, tình hình chiến trường
miền Nam có nhiều thay đổi tạo lợi thế cho cách mạng. Bộ Chính
trị họp mở rộng (từ ngày 18.12.1974 đến ngày 8.1.1975) phân tích
tình hình và bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tình
thế sau chiến thắng Phước Long (nay thuộc tỉnh Bình Phước) đem
lại quyết tâm chiến lược cho Bộ Chính trị về hoàn thành nhiệm vụ
giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị chủ trương: Năm 1975 tranh
thủ thời cơ, bất ngờ tiến công trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo điều
kiện tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn
toàn miền Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị được triển khai thực
hiện bằng các chiến dịch lớn diễn ra trong 3 tháng đầu năm 1975:
Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Đến tháng
3.1975, thắng lợi lớn và thời cơ lớn cho phép mở Chiến dịch Hồ
Chí Minh tổng tiến công vào Sài Gòn kết thúc chiến tranh.
Ngày 31.3.1975, Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp tại
căn cứ (gần Sở cao su Bình Sơn), nhận định: Thời cơ chiến lược
đã xuất hiện. Hội nghị quyết định: “Khẩn trương lãnh đạo toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh sẵn sàng khi có lệnh tổng
công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn tỉnh”.
Theo đó Ban Thường vụ Tỉnh ủy có các quyết định sau: Điều
động toàn bộ lực lượng vũ trang và 160 cán bộ ban, ngành, đoàn
226

23.7 Page 227

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thể của tỉnh tập trung vào vùng trọng điểm Long Thành, Nhơn
Trạch. Sử dụng toàn bộ lực lượng nội tuyến, cơ sở cảm tình phục
vụ cho đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Quyết định thành lập
Ủy ban quân quản tỉnh do đồng chí Võ Văn Định làm Chủ tịch.
Giải phóng đến đâu, tổ chức cứu đói, cấp lương thực, phương
triện đưa dân về quê cũ, nhất là số đồng bào miền Trung mới chạy
dạt vào. Tỉnh đội triển khai chu đáo, không để sai sót trong thực
hiện chính sách thương binh, liệt sĩ. Huyện Nhơn Trạch chuẩn bị
ít nhất 100 xuồng, ghe, tàu thuyền tại phà Cát Lái (xã Phú Hữu)
đưa bộ đội vượt sông tiến về Sài Gòn. Các đồng chí Nguyễn Văn
Thông, Lê Quang Thành, Nguyễn Công Hạnh, Trần On, Lê Quân
(Chín Dũng) được Tỉnh ủy phân công trực tiếp chỉ đạo chiến
trường Nhơn Trạch.
Sáng ngày 17.4.1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp khẩn cấp
nghe và thảo luận kỹ ý kiến truyền đạt của đồng chí Lê Đình Nhơn
và ý kiến của đồng chí Nguyễn Trọng Cát, phái viên của Trung
ương Cục, đặc biệt những ý kiến của đồng chí Lê Quang Thành,
Ủy viên Thường vụ Khu ủy miền Đông trực tiếp góp phần chỉ đạo
chiến trường Biên Hòa.
Hội nghị được Ban Thường vụ Tỉnh ủy kết luận: Phát động
tư tưởng tiến công giải phóng quê hương trong toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân trong tỉnh dựa vào lực lượng ba mũi tại chỗ là chủ
yếu. Lập tức hình thành Ban Quân quản ở các thị trấn, chuẩn bị
cán bộ hình thành Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời cấp cơ
sở và cấp huyện sau ngày giải phóng. Bố trí một số đồng chí trực
tiếp cùng lực lượng cấp trên góp phần chỉ đạo tác chiến và chỉ đạo
công kích, khởi nghĩa tại các địa bàn trọng điểm. Long Thành,
227

23.8 Page 228

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Nhơn Trạch là hai huyện có vị trí quan trọng đặc biệt ở hướng
Đông Sài Gòn. Do vậy, sau hội nghị, Thường vụ Tỉnh ủy tăng
cường tập trung lực lượng vũ trang và đội ngũ cán bộ, tổ chức chỉ
đạo chặt chẽ từ huyện đến cơ sở công kích, khởi nghĩa từng phần
khi thời cơ cho phép, kịp thời đồng loạt tiến công địch, giải phóng
từng mảng, từng huyện.
Trước thời cơ lớn, bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Xuân
Lộc từ ngày 9.4 đến ngày 21.4 năm 1975. Tám giờ sáng ngày
21.4.1975, ngụy quân, ngụy quyền tỉnh Long Khánh tan rã hoàn
toàn. Tuyến phòng thủ Xuân Lộc bị đập tan, cửa ngõ tiến quân về
Sài Gòn đã mở.
Ngày 24.4.1975, cuộc họp liên tịch giữa một số đồng chí chủ
chốt trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa với 3 đồng chí trong
Bộ Chỉ huy Quân đoàn 2 để phối hợp hành động, đồng chí Lê
Quang Thành - Ủy viên Khu ủy miền Đông tham dự và phát biểu
ý kiến chỉ đạo.
Cuộc họp thống nhất ý kiến và hạ quyết tâm: Đúng 17 giờ
ngày 26.4.1975, tiếng súng lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh ở hướng
Đông Sài Gòn bắt đầu. Bố trí mục tiêu và lực lượng Quân đoàn 2
gồm các sư đoàn với mục tiêu và hướng phát triển: Sư đoàn 304,
đánh chiếm ngã ba Thái Lan, khu căn cứ Nước Trong, Long Bình,
vượt xa lộ tiến về Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Ủy viên
Thường vụ, Chính trị viên Tỉnh đội Biên Hòa đi cánh này. Sư đoàn
325, trong đó có Trung đoàn 46, tiến công vào các mục tiêu chi
khu Long Thành, chi khu Nhơn Trạch và yếu khu kho đạn Thành
Tuy Hạ. D240 và D6 của tỉnh đánh cụm pháo Phước Thiền và cầu
Phước Thiền. Hướng phát triển của Sư đoàn 325 vượt phà Cát
228

23.9 Page 229

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Lái tiến về Sài Gòn. Cánh này hai đồng chí Nguyễn Văn Thông,
Quyền Bí thư Tỉnh ủy, cùng đồng chí Trần On, Tỉnh ủy viên, Tỉnh
đội trưởng cùng đi. Tổ chức điều động bằng được khoảng 100
xuồng, thuyền có mặt tại bến đò Cát Lái, xã Phú Hữu để góp phần
chuyển quân nhanh chóng tiến qua Thủ Đức - Sài Gòn. Đơn vị
D240 và 2 đội du kích Phú Hội, Long Tân bao vây đánh chiếm đồn
Phú Hội và bót cầu Long Tân để bảo đảm an toàn cho pháo 130 li
của Quân đoàn đặt tại khu vực đồi Bình Phú thuộc xã Long Tân.
Lúc bấy giờ, bọn tàn binh quân đội Việt Nam cộng hòa thua
trận, bỏ chạy từ Xuân Lộc - Long Khánh về Phước Kiển, Phước
Lai khá đông, rất nhốn nháo, hỗn loạn. Một số lính có vũ khí trong
tay rất nghênh ngang, không người chỉ huy nên bọn chúng như
đám thổ phỉ, thừa cơ cướp bóc. Đội du kích Phước Lai, Phước
Kiển nhận nhiệm vụ phối hợp với lực lượng 240 vừa trấn áp bọn
tàn quân, vừa tiến công đánh bọn lính đóng giữ hai đồn. Ngày
27.4.1975, đồng chí Lê Quân, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng ban
Tuyên huấn Tỉnh ủy Biên Hòa nhận nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo
tình hình chiến trường Nhơn Trạch, khi cùng với một bảo vệ từ
căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch đi Phú Hội, đến đường ủi Phước
Lai đoạn gần khu vực chốt Thái Lan bất ngờ bị bọn tàn quân phục
kích. Đồng chí Lê Quân cùng đồng chí bảo vệ hy sinh. Bọn lính
tàn quân cướp khẩu súng ngắn và chiếc đồng hồ đeo tay của đồng
chí Lê Quân1.
1  Theo đồng chí Võ Văn Ba trong sách Trai rừng Sác Phước An, đồng chí Lê
Quân được chôn cất tại khu vực gò mối ở Phước Lai, vài năm sau khi đồng đội
và gia đình cải táng, lúc mở tấm nylon, thi thể đồng chí Quân vẫn còn nguyên,
chỉ khô đi.
229

23.10 Page 230

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân khu giao nhiệm vụ Huyện ủy Long
Thành, Nhơn Trạch tạo địa bàn cho Sư đoàn 325 pháo 130 li đánh
chiếm quận lỵ Long Thành, Nhơn Trạch; D240 và lực lượng địa
phương diệt địch giữ cầu Phước Thiền, tạo thuận lợi cho Sư đoàn
325 phát triển tiêu diệt địch dọc lộ 17, đánh chiếm quận lỵ Nhơn
Trạch, khu kho Thành Tuy Hạ, vượt sông Đồng Nai (đoạn Cát
Lái) phát triển về Sài Gòn; trong ngày 27.4, chậm là ngày 28.4
phải chiếm cho được Nhơn Trạch để đặt pháo 130 li khống chế
sân bay Tân Sơn Nhất, không để địch dùng không quân đánh chặn
các cánh quân của ta.
Quán triệt nhiệm vụ cấp trên giao, Huyện ủy Nhơn Trạch
chuẩn bị sẵn trên 200 tấn lương thực, thực phẩm, huy động hàng
trăm các chị, các má xã Phú Hội hăng hái vui vẻ nấu cơm. Tỉnh
đội Biên Hòa cử hai cán bộ tiểu đoàn (Bảy Đức, Ba Thà), cùng
Ban Dân vận Huyện ủy do đồng chí Huỳnh Minh Tấn phụ trách
vận động nhân dân ven sông Đồng Nai chuẩn bị xuồng ghe, giữ
phà Cát Lái để đưa Sư đoàn 325 vượt sông Đồng Nai tiến vào
Sài Gòn.
Cánh quân hướng Đông, đồng chí Lê Trọng Tấn đề nghị cho
nổ súng trước một ngày mới kịp đánh chiếm Nhơn Trạch. Đồng
chí Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến dịch chấp thuận. Lúc 17 giờ
ngày 26.4.1975, các cỡ pháo bắn trên 2.000 quả đạn vào các mục
tiêu đã định, bộ binh cơ giới Sư đoàn 325 cùng lực lượng vũ
trang địa phương giải phóng Bình Sơn; sau đó Sư đoàn 325 theo
trục đường 10 đánh chiếm quận lỵ Long Thành. Sáng ngày 27.4,
Trung đoàn 101 thuộc Sư đoàn 325 hành tiến về hướng chi khu
Nhơn Trạch vượt cầu Phước Thiền. Trước đó, D240 đã diệt lính
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
dân vệ ven lộ 17, chiếm giữ cầu Phước Thiền; phối hợp xe tăng
của bộ đội chủ lực khóa nòng cụm pháo 105 ly ở Bến Sắn cùng
du kích bao vây bức hàng, bức rút các đồn bót dân vệ, bảo an ở
Phú Hội, Long Tân dọn đường cho Trung đoàn 101 Sư đoàn 325
hướng về mục tiêu chi khu Nhơn Trạch. Trung đoàn 95 Sư 325
theo lộ 19 tiến về đường ủi Phước Lai cắt qua Phước An, bao vây
tấn công vào khu kho Thành Tuy Hạ. Địch dựa trên cao điểm
ngoan cố chống trả rất quyết liệt. Cuối cùng, tên thiếu tá Châu chỉ
huy phó dẫn hơn một tiểu đoàn ra đầu hàng nộp súng.
Tại chi khu Nhơn Trạch, Sư đoàn 325 tập trung xe tăng, bộ
binh tấn công dồn dập. Trung đoàn 101 tràn vào chiếm được chi
khu. Tên Trung tá Phương, quận phó Nhơn Trạch, ra hàng dẫn
theo gần 200 lính. Sau đó, Trung đoàn 101 bàn giao chi khu cho
Ủy ban Quân quản Nhơn Trạch và lực lượng vũ trang địa phương.
Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiếp quản chi khu lúc này đã tan
hoang. Ủy ban Quân quản quận lỵ ra mắt nhân dân, đồng chí Ba
Đạm là Chủ tịch. Đồng chí Bí thư Huyện ủy Phạm Thanh Lý chỉ
đạo Đảng bộ cơ sở chỉ đạo lực lượng ba mũi tại ấp, xã đã bao vây
bức rút, bức hàng số đồn bót địch còn lại.
Từ 11 giờ ngày 26.4, pháo 130 li đã được lực lượng vũ trang
địa phương và nhân dân hỗ trợ kéo lên đặt ở Nổng Ven Lò và đồi
Bình Phú, Vĩnh Tuy, chỉnh nòng súng, chờ lệnh dội bão lửa vào
sân bay Tân Sơn Nhất. Đến 17 giờ 30 ngày 29.4, hai tiểu đội trinh
sát của Sư đoàn 325 đã đến bến phà Cát Lái. Hàng trăm xuồng
ghe ém sẵn mé sông đưa Sư đoàn 325 vượt sông Đồng Nai tiến về
Sài Gòn.
231

24.2 Page 232

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Tại Phước Lai, Phước Kiển, tình hình cũng hết sức khẩn
trương. Khi Trung đoàn 101 đánh các đồn trên lộ 17, lực lượng
C240 và du kích địa phương cũng phối hợp tiến công các đồn trên
lộ 19. Với sự xuất hiện của lực lượng bộ đội chủ lực, bọn lính tan
rã hoàn toàn, lớp chết, lớp đầu hàng, lớp trốn, không còn thái độ
chống cự như trước đây. Trước tình hình Phước Lai có nhiều biến
động, Huyện ủy cấp tốc đưa đồng chí Trương Văn Quý, công tác
ở Mặt trận huyện, về phụ trách tiếp quản ở xã Phước Lai cùng với
Bí thư xã Trần Văn Hạnh. Phước Kiển ngoài đồng chí Bí thư xã là
Trần Văn Sang còn có ba đồng chí huyện điều về là Nguyễn Việt
Yên, Trương Văn Ở và Ngô Văn Bảy cùng phụ trách tiếp quản.
Các cán bộ xã phân công nhau vận động bọn lính còn trốn ra đầu
hàng, ai đầu hàng thì nộp súng, ghi danh sách sau đó trấn an kêu
gọi bọn chúng trở về ở yên trong nhà chờ lệnh mới của chính
quyền cách mạng; ai biết chỗ chôn giấu súng thì báo cho chính
quyền cách mạng. Xã trưởng hai xã cùng bọn tề ngụy cũng trốn
biệt, ta phải vận động gia đình kêu họ trở về.
Trong lúc tình hình còn căng thẳng, người dân do lo lắng,
hoang mang nên nhiều người bỏ nhà, đưa cả gia đình di tản; người
không có điều kiện thì chạy ra ruộng ở, nhất là người dân ở ấp A xã
Phước Lai vốn có nhiều người làm việc cho chế độ Sài Gòn. Tình
thế cấp bách, đồng chí Trương Văn Quý dùng mo cau làm loa đi
khắp nơi kêu gọi người dân bình tĩnh, nên trở về nhà. Trưởng ấp
B là Huỳnh Văn My cũng ra tận ngoài ruộng kêu gọi, vận động bà
con trở về nhà, ổn định đời sống.
Đến chiều 28.4.1975, cơ bản các xã ở huyện Nhơn Trạch đều
được giải phóng, phần lớn do địch bỏ chạy hoặc lực lượng quần
232

24.3 Page 233

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chúng vận động lính giao đồn. Riêng ở xã Vĩnh Thanh, đến ngày
1.5, lực lượng giải phóng mới hoàn toàn làm chủ tình hình. Lúc 14
giờ ngày 30.4.1975, vẫn còn một nhóm bốn tên trong đó có quận
phó Nhơn Trạch là Trung úy Đức ngoan cố chống trả, tìm cách
mở đường để ra tàu thủy ở quân cảng, gây thương vong cho nhiều
chiến sĩ Quân đoàn 2.
Trong ngày và đêm 29.4, Trung đoàn 46 cơ động tập trung
lực lượng chốt tại khu Phước Lý, khóa chặt bến phà Cát Lái. Các
đơn vị thuộc Sư đoàn 325 tiếp tục truy kích địch, vượt sông đánh
chiếm căn cứ hải quân Cát Lái, rồi tiếp tục tiến vào khu vực Quận
9 hiện nay và đánh chiếm Bộ tư lệnh hải quân địch. Sáng sớm
ngày 30.4, một bộ phận của Trung đoàn 46 nhận được tin, quay
lại Phước Lý, lực lượng pháo mặt đất và cả cao xạ hạ nòng bắn
thẳng của trung đoàn kịp thời bắn tiêu diệt, ngăn chặn một số tàu
địch tháo chạy bằng đường sông1. Trong những ngày tham gia
Chiến dịch Hồ Chí Minh, một bộ phận của Trung đoàn 46 đóng tại
Xoài Minh, ở nhà của đồng chí Nguyễn Văn Lo, thực hiện những
nhiệm vụ tiếp theo.
***
1  Sau ngày 30.4.1975, Trung đoàn 46 chốt giữ khu vực Thành Tuy Hạ, một bộ
phận của Trung đoàn đóng tại Xoài Minh, ở nhà của đồng chí Nguyễn Văn Lo, hỗ
trợ chính quyền tiếp quản địa phương; đến tháng 6.1975 thì nhận lệnh cả Trung
đoàn điều động về căn cứ Hải quân Cát Lái, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân; một
số đồng chí chỉ huy cơ quan, đơn vị trực thuộc và 1 tiểu đoàn điều động đi thành
lập đơn vị chốt giữ Côn Đảo và tăng cường cho đơn vị khác ở phía Nam. Từ
tháng 7.1975, lực lượng còn lại của Trung đoàn 46 sáp nhập với Đoàn đặc công
hải quân 126, thành lập Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 cơ động ra chốt giữ Cam
Ranh và tăng cường chốt giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa.
233

24.4 Page 234

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Sau Hiệp định Genève năm 1954, thực dân Pháp rút, đế quốc
Mỹ thế chân, lực lượng kháng chiến thì tập kết. Đế quốc Mỹ thực
hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn tàn ác, thâm độc, tinh vi hơn cả
thực dân Pháp, nên người Hiệp Phước - Nhơn Trạch chịu đựng
sự khủng bố, gian khổ, mất mát, hy sinh nhiều hơn.
Đế quốc Mỹ tăng cường lực lượng, biến Thành Tuy Hạ thành
kho vũ khí khổng lồ, căn cứ bất khả xâm phạm, sử dụng phương
tiện kỹ thuật hiện đại để tận diệt phong trào cách mạng, xây dựng
ấp chiến lược, dồn dân, nuôi dưỡng bọn tay sai ác ôn để dùng
người Việt hãm hại người Việt, biến Nhơn Trạch thành địa bàn
tranh đấu quyết liệt. Cuộc đấu tranh càng ác liệt, quân dân Hiệp
Phước - Nhơn Trạch càng tạo nhiều chiến công oanh liệt. Dù địch
đánh giá Hiệp Phước là nằm trong vùng kiểm soát của chúng, xem
là “vùng trắng”, nhưng Đảng vẫn sống được trong lòng dân Hiệp
Phước, bí mật tổ chức được các lực lượng đoàn thể nòng cốt, kết
hợp với các lực lượng vũ trang góp phần tạo nên nhiều cuộc diệt
ác phá kềm, chiến đấu với cả quân đội chính quy của địch. Địch
có tàn bạo, xảo quyệt đến đâu, Hiệp Phước vẫn là mảnh đất gieo
cấy, trưởng thành nhiều hạt giống đỏ cho cách mạng, người dân
Hiệp Phước vẫn một lòng theo Đảng, tin tưởng vào một ngày mai
thắng lợi. Và niềm tin ấy đã được khẳng định bằng chiến thắng
của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30.4.1975.
234

24.5 Page 235

▲back to top


Chương V
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG,
ỔN ĐỊNH XÃ HỘI, ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
GIAI ĐOẠN 1975 - 1994
I. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ QUÂN QUẢN 1975 - 1976, XÂY
DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
1. Thành lập Ủy ban Quân quản
Ngày 30.4.1975, miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải
phóng, hai miền Nam Bắc của đất nước thống nhất, non sông về
một mối. Nhơn Trạch bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy miền Đông, các địa phương
tiến hành thành lập Ủy ban Quân quản để quản lý địa bàn sau giải
phóng nhằm kịp thời ổn định tình hình xã hội. Ủy ban Quân quản
huyện Nhơn Trạch thành lập, đồng chí Phạm Văn Đạm làm Chủ
tịch Ủy ban. Ngay sau khi thành lập, Ủy ban Quân quản huyện
và Ban Quân quản các xã triển khai nhanh việc tiếp quản địa bàn.
Ở Phước Lai, đồng chí Trương Văn Quý được giao nhiệm vụ
trực tiếp chỉ đạo, triển khai các hoạt động tiếp quản ở địa phương
cùng với đồng chí Trần Văn Hạnh (Sáu Hạnh, người Phước Thọ)
Bí thư xã. Chủ tịch Ủy ban Quân quản xã là Huỳnh Văn Đát; đây
là lần thứ hai vị thân sĩ này nhận nhiệm vụ Chủ tịch, trước đó là
235

24.6 Page 236

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
khi Cách mạng Tháng Tám 1945 vừa thành công, chính quyền
cách mạng mới ra đời.
Tại Phước Kiển, ngoài đồng chí Bí thư xã là Trần Văn Sang,
đồng chí Nguyễn Việt Yên là Chủ tịch Ủy ban Quân quản. Các cán
bộ là đảng viên của xã gồm: Ngô Văn Bảy, Trương Văn Ở, Phan
Thị Khỉnh; thanh niên gia đình cơ sở cách mạng có Phan Hồng
Liên (em của hai liệt sĩ Phan Hồng Quân và Phan Thành Tâm).
Trong niềm vui quê hương độc lập, Phước Lai, Phước Kiển
cũng như nhiều xã trong huyện Nhơn Trạch phải đối diện với
những khó khăn, thách thức thời kỳ hậu chiến. Từ cuối tháng
4.1975, nhóm tàn quân của chế độ Việt Nam cộng hòa từ địa bàn
Vũng Tàu - Bà Rịa, Long Khánh trốn chạy qua địa bàn Hiệp Phước
gây hỗn loạn khó khăn. Sau ngày 30.4.1975, nhóm lính rã ngũ ở
địa phương có người chấp hành lệnh chính quyền cách mạng ra
trình diện và trở về nhà, nhưng cũng có những tên trốn trình diện,
ẩn nấp trong khu Rừng Sác chờ cơ hội gây rối cho chính quyền
mới. Ngoài ra còn có một số người dân đi địa phương khác lánh
nạn chiến tranh nay trở lại; hoặc dân từ nơi khác, đặc biệt là vùng
Sài Gòn, đến Hiệp Phước trú ẩn do biến động xã hội, dẫn đến tình
hình địa phương khá phức tạp, rối ren. Và cũng như hầu hết các
xã khác ở Nhơn Trạch, nhân sự của Ban Quân quản Phước Lai,
Phước Kiển đều là cán bộ, du kích hoạt động kháng chiến và cơ
sở cách mạng, nay chuyển sang tham gia quản lý địa bàn nên có
nhiều bối rối, bất cập do chưa có kinh nghiệm.
Một số nhiệm vụ cấp thiết được Ủy ban Quân quản hai xã
Phước Lai, Phước Kiển thực hiện để ổn định tình hình xã hội,
236

24.7 Page 237

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chính trị và đảm bảo cho người dân tin tưởng vào đường lối cách
mạng trong thời kỳ mới như sau: Tuyên truyền chính sách 10
điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam1. Trong đó, nhấn mạnh đến chính sách hòa hợp, hòa
giải dân tộc. Kêu gọi quần chúng tham gia bảo vệ chính quyền
cách mạng, tiếp tục sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục hậu
quả chiến tranh: chôn cất người chết do chiến tranh, thu gom vũ
khí, chất nổ trên địa bàn. Kêu gọi những quân nhân, những người
tham gia vào bộ máy chính quyền Việt Nam cộng hòa trình diện
giao nộp vũ khí, tài liệu để hưởng chính sách khoan hồng của cách
mạng. Các ban ngành của chính quyền Quân quản quan tâm chăm
lo cho người dân, cứu chữa người bị nạn trong chiến tranh, vận
động nhân dân góp tiền, của giúp đỡ những gia đình khó khăn.
Lực lượng bộ đội, du kích tập trung tổ chức tuần tra, canh gác, bảo
vệ chính quyền cách mạng, tài sản chung.
Nhằm trang bị cho cán bộ tham gia công tác quản lý, Ủy ban
Quân quản huyện tổ chức cho cán bộ học tập năm nhiệm vụ chính
trong thời kỳ đầu giải phóng: Khẩn trương xây dựng, củng cố
chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động; truy quét tàn binh, trấn áp những đối tượng phản cách
mạng, giữ gìn an ninh trật tự; đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh
tế, tổ chức lưu thông phân phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa;
1  Từ ngày 6 đến ngày 8.6.1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam ở miền
Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã họp Đại hội đại biểu quốc dân miền
Nam, nhất trí bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ.
237

24.8 Page 238

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
xóa bỏ sản phẩm phi văn hóa, đồi trụy, tập trung xây dựng nền văn
hóa mới: dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh tuyên
truyền, củng cố mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc.
Những hoạt động của Ủy ban Quân quản huyện, Ban Quân
quản xã đã góp phần quan trọng trong việc tiếp quản, quản lý địa
bàn ở Nhơn Trạch cho đến cuối năm 1975 khi Ủy ban Quân quản
bàn giao cho chính quyền địa phương.
Đến cuối năm 1975, khi Ủy ban Quân quản các xã bàn giao,
thì bộ máy chính quyền ở Phước Lai và Phước Kiển đã hình thành,
sẵn sàng tiếp nhận và hoạt động. Ở Phước Kiển, đồng chí Trần
Văn Sang tiếp tục là Bí thư, đồng chí Nguyễn Việt Yên là Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Ngô Văn Bảy là Phó chủ tịch, đồng
chí Trương Văn Ở là Xã đội trưởng, đồng chí Phan Thị Khỉnh là
Trưởng Công an, Phan Hồng Liên là Phó Công an xã. Ở Phước
Lai, đồng chí Trần Văn Hạnh1 là Bí thư, đồng chí Hai Hải là Phó
Bí thư, ông Huỳnh Văn Đát là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, ông
Phan Văn Lộng2 là Phó Chủ tịch xã.
Tại Phước Lai, tên ác ôn Phạm Minh Sang (Năm Sang) do
có nợ máu với nhiều cán bộ, người dân trong xã nên sợ hãi, trốn
biệt dạng từ cuối tháng 4.1975. Sau đó, có người trong xã phát
hiện hắn lẩn trốn ở một giáo xứ tại xã Vĩnh Thanh nên báo lại cho
chính quyền xã. Những gia đình có người thân chết dưới tay của
Năm Sang đề nghị bắt giữ hắn và đưa ra xét xử vì những tội ác hắn
1  Con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Viết.
2  Ông Phan Văn Lộng có con là liệt sĩ Phan Văn Liêm, Xã đội trưởng, hy sinh
ngày 24.11.1966 tại Bà Ký.
238

24.9 Page 239

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đã gây ra, nhưng đồng chí Lê Thị Đầy phân tích, đây là lúc thực
hiện chính sách hòa giải, hòa hợp của chính quyền cách mạng,
hơn nữa trước đây có lần quân ngụy định cho lính bắn pháo vào
xóm ở ấp B Phước Lai, chính Năm Sang đã đứng ra ngăn cản, nhờ
vậy mà người dân trong đó có cả cán bộ của ta thoát được trận
tàn sát. Sau khi phân tích, lấy ý kiến biểu quyết, Ban Quân quản
xã nhất trí thực thi chính sách khoan hồng đối với trường hợp của
Năm Sang. Đích thân đồng chí Trương Văn Quý viết thư gởi cho
Năm Sang, kêu gọi hắn ra trình diện chính quyền cách mạng để
được khoan hồng. Năm Sang khi nhận được thư đã trở về Phước
Lai, ra trình diện Ban Quân quản xã, sau đó chấp hành học tập cải
tạo theo quy định. Đồng chí Trương Văn Quý còn dặn dò một số
du kích lưu ý đến trường hợp của Năm Sang để bảo vệ, nhờ đó
Năm Sang thoát chết.
Trên cơ sở phân loại, chính quyền hai xã Phước Lai, Phước
Kiển thực hiện các hình thức phù hợp trong quản lý. Những binh
lính, những người tham gia bộ máy chính quyền cấp xã, ấp ở địa
phương được tổ chức học tập cải tạo tại chỗ trong thời gian từ ba
đến bảy ngày, sau đó cấp giấy chứng nhận và được trao quyền
công dân. Những sĩ quan trong quân đội Việt Nam cộng hòa từ
cấp bậc thiếu úy trở lên được đưa lên tỉnh tổ chức học tập cải tạo
tập trung. Những vũ khí, đạn dược, chất nổ, các phương tiện máy
móc của địch còn sót lại được phát hiện trên địa bàn, người dân
đều thu gom giao nộp cho chính quyền.
Các tổ chức đoàn thể trên địa bàn cũng được thành lập, củng
cố như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên thu hút nhiều người tham
239

24.10 Page 240

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
gia. Người dân đã tham gia nhiều phong trào của cách mạng phát
động, vận động. Với tinh thần và khí thế cách mạng, người dân
mà đặc biệt là giới trẻ tham gia hăng hái vào các phong trào hoạt
động của Đoàn Thanh niên.
2. Ổn định xã hội, đời sống nhân dân
Nhằm giúp dân ổn định sản xuất, duy trì việc làm tại chỗ,
chính quyền huyện chủ trương cấp giấy tờ ruộng đất cho người
dân khi họ trở về địa phương sinh sống. Đồng thời, để sử dụng
diện tích đất bị hoang hóa trong chiến tranh, huyện đã thành lập
Ban tháo gỡ bom mìn. Đội tháo gỡ bom mìn huy động từ lực
lượng bộ đội, du kích, người dân tình nguyện; trong đó có những
người từng tham gia lực lượng công binh chế độ cũ với hiểu biết
của mình đã tình nguyện vào đội. Những địa điểm phát hiện bom
mìn trên huyện khá nhiều đã được Đội giải quyết với hàng chục
hécta, thu gom nhiều loại vũ khí, bom mìn. Trong quá trình tháo
gỡ, đã xảy ra những mất mát, hy sinh của chiến sĩ, người dân.
Việc tháo gỡ bom mìn đã đem lại sự an toàn trên một diện tích
rộng để người dân canh tác, sản xuất. Mùa vụ đầu tiên khi chính
quyền cách mạng quản lý, người dân đã cấy trên 12 ngàn hécta
ruộng, khai phá thêm bảy ngàn héc ta đất hoang, 350 hécta rẫy từ
khai phá.
Tình hình phân phối lương thực, thực phẩm trong những
tháng cuối năm 1975 trên địa bàn huyện có những khó khăn. Giao
thương, buôn bán lúc bấy giờ vẫn còn bị đình trệ. Để ổn định và
giúp người dân duy trì nhu yếu phẩm, huyện thành lập cửa hàng ở
các địa bàn để phân phối các mặt hàng thiết yếu theo chế độ tem
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
phiếu. Dù hàng hóa không nhiều, số cửa hàng đặt ở các khu vực
trung tâm hay ở các xã có giới hạn nhưng đã góp phần trong việc
giải quyết khó khăn trong đời sống đối với người dân.
Lĩnh vực văn hóa được huyện quan tâm với việc kêu gọi, vận
động người dân tham gia. Huyện huy động và tổ chức mở lớp tập
huấn, bồi dưỡng về nhận thức chính trị và nội dung giảng dạy
trong xã hội mới cho nhiều giáo viên, tạo cơ sở cho việc duy trì
dạy học tại các địa bàn. Sau thời gian dài bị xáo trộn bởi chiến
tranh, nay người dân đã ổn định và đưa con em đến trường. Chủ
trương xây dựng xã hội mới theo đường lối cách mạng được tuyên
truyền sâu rộng, phát động người dân thực hiện. Huyện cử cán bộ
xuống các địa bàn tuyên truyền về đời sống mới, xóa bỏ những
tập tục lạc hậu, mê tín trước đây để cùng nhau xây dựng nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa. Cán bộ tham gia và vận động người
dân không tàng trữ những sách báo mang tính chất phản động, đồi
trụy, giao nộp cho chính quyền để thiêu hủy.
Đội ngũ y tế của huyện thiếu hụt rất nhiều từ trước và sau
những tháng đầu giải phóng. Huyện chủ trương tăng cường những
nhân viên y tế, y sĩ đến các cơ sở trạm xá ban đầu thành lập đảm
nhiệm việc khám chữa bệnh cho dân. Lực lượng thầy thuốc tuy
ít nhưng với tinh thần phục vụ cho dân đã góp phần ngăn chặn
những dịch sốt nảy sinh trên một số địa bàn. Nhằm đảm bảo sức
kéo phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, huyện thành lập một số cơ
sở Thú y để tiêm ngừa cho nguồn gia súc của các hộ dân.
Những khó khăn thời kỳ Quân quản ở huyện Nhơn Trạch
được khắc phục với sự nỗ lực của bộ máy chính quyền và người
241

25.2 Page 242

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
dân, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức trong kinh tế, chính trị
cũng như trong việc bảo vệ bộ máy chính quyền. Một số địa bàn
do thiếu cán bộ quản lý, tình hình an ninh chưa đảm bảo. Lợi
dụng những khó khăn trong đời sống, những người bất mãn, một
số binh lính trước đây trốn tránh, không trình diện chính quyền
cách mạng, các tổ chức phản cách mạng nhen nhóm lôi kéo, gây
rối trật tự xã hội ở các điểm nóng Vĩnh Thanh, Phú Thạnh, Đại
Phước, Phước Khánh, Giồng Ông Đông. Huyện phải tăng cường
lực lượng an ninh để xây dựng, bảo vệ bộ máy, trong đó hình
thành các Cụm an ninh liên xã, thành lập Ban Công an khu vực,
Tổ an ninh nhân dân để kịp thời phát hiện, trấn áp.
Tháng 8.1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa III) đề ra nhiệm vụ: Xây
dựng chính quyền cách mạng nhân dân ở các cấp để nhanh chóng
ổn định chính trị và trật tự xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bảo
vệ thành quả cách mạng, đủ sức làm nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; trấn áp phản cách mạng,
xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản và các tàn dư của giai cấp địa chủ
phong kiến; khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết nạn thất
nghiệp do chế độ cũ để lại; giải quyết tốt các vấn đề lưu thông, tín
dụng, tài chính, ngân hàng, tiền tệ; phát triển văn hóa, giáo dục, y
tế, xã hội; tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Thực hiện những nhiệm vụ trên, cuối tháng 12.1975, các
Ủy ban Quân quản ở tỉnh Biên Hòa bàn giao công tác quản lý
cho chính quyền cách mạng. Tháng 1.1976, huyện Long Thành
và huyện Nhơn Trạch sáp nhập, lấy tên là huyện Long Thành.
242

25.3 Page 243

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Như vậy, sau những lần chia tách cho phù hợp với công tác chiến
trường trong thời kỳ kháng chiến, huyện Nhơn Trạch lại sáp nhập
vào huyện Long Thành, thuộc tỉnh Đồng Nai. Đảng bộ huyện
Long Thành chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ đất nước xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở thành lập huyện đầu năm 1976, Huyện ủy lâm thời
Long Thành hình thành. Đồng chí Nguyễn Văn Thông (nguyên
Quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được cử giữ chức vụ Bí thư.
Bước vào tình hình mới, chất lượng đảng viên của huyện vẫn
còn nhiều hạn chế so với yêu cầu đặt ra. Huyện ủy chỉ đạo cho
các cấp ủy cơ sở tạo điều kiện, tổ chức để đảng viên học tập
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, thực hiện
tốt nhiệm vụ được phân công. Nguồn đảng viên được bồi dưỡng
chính trị, chuyên môn đã bổ sung vào nguồn cán bộ cho tổ chức
đảng, trong bộ máy chính quyền các cấp của địa phương.
Ngày 1.7.1976, Hội nghị Đảng bộ Long Thành được tổ chức
lần thứ nhất. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Huyện ủy gồm
29 đồng chí ủy viên chính thức và 5 đồng chí dự khuyết. Đồng
chí Nguyễn Văn Thông được bầu giữ nhiệm vụ Bí thư Huyện ủy.
Hội nghị đánh giá cụ thể tình hình của địa phương sau một
năm kể từ ngày giải phóng trên nhiều lĩnh vực, nhận diện những
thuận lợi, khó khăn và rút ra những bài học kinh nghiệm trong
việc quản lý, định hướng phát triển trong giai đoạn mới. Ban Chấp
hành đã thống nhất đồng thuận đề ra phương châm, phương hướng
và mục tiêu cụ thể để thực hiện. Nghị quyết của Hội nghị Đảng
bộ huyện nêu rõ: “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, củng
243

25.4 Page 244

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cố chính quyền với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo,
đưa địa phương phát triển nông nghiệp, công nghiệp theo phương
thức sản xuất mới”1.
Tại hội nghị, đồng chí Bí thư xã Phước Kiển là Trần Văn Sang
được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành; sau đó
đồng chí chuyển về huyện giữ nhiệm vụ Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm
tra Huyện ủy. Đồng chí Nguyễn Việt Yên (Năm Yên) đang là Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã được giao nhiệm vụ Bí thư xã Phước
Kiển; đồng chí Ngô Văn Bảy từ Phó chủ tịch lên Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã.
Ở Phước Lai, đồng chí Trương Văn Quý được điều về huyện
nhận nhiệm vụ ở Ban kinh tế mới; đồng chí Trần Văn Hạnh (Sáu
Hạnh, trước công tác ở Ban kinh tài huyện) vẫn giữ nhiệm vụ Bí
thư xã. Ông Huỳnh Văn Đát do lớn tuổi nên xin thôi nhiệm vụ
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; từ năm 1976 đến năm 1977, vị trí
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã có nhiều thay đổi: sau ông Huỳnh
Văn Đát là đồng chí Ngô Văn Thêm, được mấy tháng sau đồng
chí Thêm cũng xin nghỉ, đồng chí Nguyễn Văn Yềm (cán bộ tập
kết về) thay thế, rồi sau đồng chí Yềm là ông Võ Văn Xèo (Bảy
Xèo). Đồng chí Lê Thị Đầy là cán bộ tài chính xã.
Khó khăn ở hai xã Phước Lai, Phước Kiển trong thời gian này
là thiếu nhân sự. Sau khi nhận tiếp quản từ Ủy ban quân quản, Ủy
ban nhân dân xã được thành lập với nòng cốt là số cán bộ kháng
chiến, thanh niên cơ sở cách mạng, lực lượng mỏng lại không có
chuyên môn, không được đào tạo bài bản về quản lý. Khi huyện
1  Trích Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ huyện Long Thành năm 1976.
244

25.5 Page 245

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tổ chức các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ
cán bộ, xã cũng lúng túng bởi nếu cử cán bộ đi học thì công việc
không ai làm, bị ùn ứ khiến dân phàn nàn, còn nếu không cử cán
bộ đi học thì trình độ hiện tại không đáp ứng được nhu cầu của
người dân. Vì thế, một trong những nhiệm vụ cấp bách của chi
bộ Đảng hai xã trong tình hình mới là chuẩn bị về nhân sự, phát
triển đảng viên mới trong số thanh niên cơ sở cách mạng. Trong
năm 1976, xã Phước Lai phát triển thêm được hai đảng viên mới
là Huỳnh Ngọc Hà và Ngô Ngọc Châu.
Trong khi nhân sự địa phương vừa thiếu vừa yếu, tình hình
hai xã Phước Lai, Phước Kiển sau ngày 30.4.1975 lại khá phức
tạp. Những ngày đầu sau giải phóng, các địa phương tập trung kêu
gọi những binh sĩ và người làm việc cho chế độ cũ ra trình diện,
khai báo, xác minh, phân loại và tổ chức cho học tập cải tạo theo
quy định. Do trước đây Phước Lai, Phước Kiển thuộc “vùng yếu”,
vùng bị chiếm đóng, người làm việc trong chính quyền cũ cũng
như số sĩ quan, binh lính đông đúc, nên công tác này khá phức tạp,
mất người thời gian, công sức.
Bên cạnh đó, một nhiệm vụ khác cũng cấp thiết là vận động
người dân phát hiện, trình báo, thu gom các loại vũ khí, đạn dược,
chất nổ, các phương tiện máy móc địch còn bỏ lại trên địa bàn. Ở
Phước Lai, có nơi bọn địch trước khi rút chạy đã chôn giấu cả hầm
súng đạn, vũ khí các loại, thậm chí có cả điện đài, sau khi phát
hiện người dân trình báo để địa phương giao nộp lên trên.
Ngoài ra, chính quyền hai xã Phước Lai, Phước Kiển còn
động viên người dân tiếp tục sản xuất, đảm bảo các vụ lúa mùa và
245

25.6 Page 246

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
vụ Đông Xuân sắp tới nhằm đảm bảo vấn đề lương thực. Với một
số hộ dân từ nơi khác đến tạm cư trong giai đoạn chiến tranh, các
cán bộ vận động họ trở về quê quán cũ làm ăn sinh sống. Những
hộ dân muốn ở lại lập nghiệp, địa phương vận động họ đi khai
hoang ở Long Phước và vùng lòng chảo Phước Thiền, do lúc trước
nơi này là vùng tranh chấp nên đến nay đất đai còn hoang hóa khá
nhiều. Cán bộ xã cũng vận động người dân địa phương hỗ trợ
thóc giống, công cụ lao động, công lao động giúp những hộ này
trồng trọt, sớm ổn định cuộc sống. Cuối năm 1976, tại Phước Lai
và Phước Kiển, các đoàn thể Ban Phụ nữ, Nông hội, Cán sự ấp,
Chi đoàn Thanh niên đều được bổ sung, hoàn chỉnh nhân sự, hoạt
động của có hiệu quả trong tập hợp lực lượng. Ở Phước Lai, đồng
chí Lê Thị Đầy là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã; đồng chí
Huỳnh Ngọc Hà được giao nhiệm vụ Bí thư Chi đoàn. Khi huyện
thành lập Hội đồng Quân sự, tổ chức vận động, tuyển quân, khám
tuyển thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự, các xã thực thi vận
động thanh niên địa phương tình nguyện tham gia hoặc thi hành
khi đúng độ tuổi được lệnh nhập ngũ. Hằng năm, công tác tuyển
quân của hai xã Phước Lai, Phước Kiển luôn được thực hiện tốt.
Số lượng thanh niên nhập ngũ, thực hành nghĩa vụ quân sự được
đảm bảo đạt các chỉ tiêu, đạt chất lượng.
Ngày 21.6.1977, Đại hội Đảng bộ Long Thành lần thứ nhất
được tổ chức tại Huyện ủy (văn phòng tại xã Phước Thiền). Đại
hội bầu Ban Chấp hành gồm 33 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn
Thông tiếp tục được tín nhiệm giữ nhiệm vụ Bí thư.
246

25.7 Page 247

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đánh giá thành quả và những bài học kinh nghiệm trong quá
trình lãnh đạo địa phương, Đảng bộ huyện đề ra nhiệm vụ chung:
“Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để tiến
hành cải tạo nông nghiệp, trọng tâm là đẩy mạnh sản lương thực;
kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng, lấy xây dựng là chủ
yếu; cải tiến một bước lưu thông phân phối, phát triển y tế, giáo
dục, văn hóa; không ngừng củng cố an ninh - quốc phòng, trật tư
xã hội... Từng bước khẩn trương xây dựng huyện Long Thành
thành một huyện nông - công nghiệp vững mạnh”1.
Sau thời gian khắc phục hậu quả của chiến tranh trong năm
đầu đất nước thống nhất, Huyện ủy xác định và định hướng trong
xây dựng, phát triển của địa phương theo đúng chủ trương, đường
lối của Đảng, cùng toàn tỉnh và cùng cả nước xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Căn cứ tình hình địa phương, qua những kỳ đại hội, Huyện
ủy định hướng phát triển trong từng giai đoạn với mục tiêu trên
từng lĩnh vực cụ thể. Đối với địa phương, phát triển nông nghiệp
là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó sản xuất lương thực là vấn đề
quan trọng tập trung chỉ đạo nhằm đáp ứng, đảm bảo được đời
sống nhân dân, ổn định trật tự xã hội và làm cơ sở để xây dựng
xã hội mới. Trong năm đầu Quân quản, chính sách khai hoang
phục hóa đã đem lại kết quả tốt. Bước vào con đường xây dựng
phát triển nông nghiệp theo hướng tập thể, nông nghiệp được xác
định là mặt trận hàng đầu trong mục tiêu “Thâm canh, tăng vụ,
tăng năng suất và mở rộng diện tích sản xuất”. Việc tăng cường
diện tích đất sản xuất nông nghiệp được quan tâm trong phong
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1977.
247

25.8 Page 248

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
trào xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp. Các vùng đất bị hoang
hóa trên địa bàn Nhơn Trạch được nhân dân tăng cường phục hóa,
canh tác. Công tác thủy lợi được phát động ở nhiều địa bàn không
những đáp ứng cho mùa vụ các diện tích thuần nông mà còn góp
phần mở rộng diện tích bỏ hoang, cải tạo nguồn đất cho nhân dân.
Phong trào làm thủy lợi được phát động và cũng là nhiệm vụ cấp
bách từ năm 1976 trở đi.
Năm 1977, huyện Long Thành được Trung ương chọn làm
điểm xây dựng và cải tạo nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Huyện tiến hành điều tra, thống kê nguồn lao động,
diện tích canh tác và thực hiện quy hoạch tổng thể để tiến hành.
Một số xã được huyện chọn tập trung đẩy mạnh phong trào hợp
tác hóa, phong trào thủy lợi, khai hoang và cải tạo đồng ruộng để
làm cơ sở tiến hành cho việc triển khai kế hoạch phát triển sản
xuất lớn.
Sau Đại hội Đảng, phong trào xây dựng và cải tạo nông
nghiệp theo hướng sản xuất lớn được triển khai thực hiện tại Hiệp
Phước. Trước năm 1975, trong chương trình “mị dân” thực hiện
Luật Người cày có ruộng, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cho
mua tổng cộng khoảng gần 30 hecta ruộng ở hai xã Phước Lai và
Phước Kiển, nhưng không cấp hay bán cho nông dân như mục
tiêu của chương trình mà để đó, trên thực tế bị một số quan chức
tề ngụy có máu mặt ngầm chiếm; sau năm 1975 số người này bỏ
chạy, ruộng đất bị bỏ hoang. Chính quyền địa phương hai xã bước
đầu thành lập tập đoàn sản xuất nông nghiệp đã đưa số đất này vào
tập đoàn để nông dân sản xuất theo phương thức công nghiệp hóa,
ngoài ra cũng vận động một số hộ dân đưa ruộng đất sở hữu tư
248

25.9 Page 249

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nhân vào tập đoàn. Với tinh thần ủng hộ chính quyền cách mạng
và hăng hái thực hiện đời sống mới những năm đầu sau ngày đất
nước thống nhất, nhiều hộ dân chấp hành chủ trương đưa ruộng
đất vào tập đoàn, trở thành xã viên Hợp tác xã nông nghiệp. Mỗi
ấp bình quân có hai tập đoàn sản xuất nông nghiệp, khí thế làm
việc rất hăng say. Lúc ấy, trên địa bàn các xã khu vực Nhơn Trạch
hình thành các cụm phát triển Tập đoàn sản xuất, Hợp tác xã trong
tám cụm của toàn huyện Long Thành như sau: Cụm 1 gồm xã
Vĩnh Thanh, xã Phú Hữu (xây dựng Hợp tác xã điểm), xã Đại
Phước, xã Phú Thạnh, xã Phước Khánh (thành lập Tập đoàn sản
xuất); Cụm 2 gồm xã Phước Thiền, xã Long Tân (Hợp tác xã), xã
Phú Hội (Tập đoàn sản xuất); Cụm 3 gồm xã Phước Kiển (Hợp
tác xã), xã Phước Lai, xã Phước Long, xã Phước Thọ (Tập đoàn
sản xuất).
Đời sống văn hóa cộng đồng của người dân cũng được chính
quyền chú trọng. Thông qua nhiều hình thức, cùng với sự cổ động
từ các hội, đoàn thể, người dân hưởng ứng tích cực, tham gia vào
các phong trào được phát động: xây dựng đời sống văn hóa mới,
xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong cộng đồng.
Phong trào thể dục thể thao để giữ gìn sức khỏe được phát động
sâu rộng. Một hình thức tuyên truyền đáp ứng đời sống tinh thần
của người dân là chiếu phim lưu động thông qua các tổ chiếu bóng
của huyện. Hình thức giải trí khá mới này được người dân hưởng
ứng tích cực, đặc biệt là giới trẻ. Đêm chiếu phim nào cũng thu
hút cả ngàn người dân, vừa xem phim vừa bàn tán râm ran, không
khí vui vẻ đôi khi còn lan đến mấy ngày sau.
249

25.10 Page 250

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hệ thống phát thanh sau này được mở rộng đến các xã. Thông
tin của địa phương, nội dung vận động qua các phong trào phát
động trong các đợt sinh hoạt chính trị, phục vụ các ngày lễ lớn,
mít tinh được truyền thông kịp thời.
Sau đại hội, cán bộ, đảng viên các cấp ủy được huy động tham
gia học tập chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong tình
hình mới, nắm bắt kịp thời và nhận thức trách nhiệm cao trong
việc đưa nghị quyết đi vào cuộc sống; đồng thời nhằm nâng cao
đội ngũ chất lượng cán bộ chủ chốt, tạo nguồn đội ngũ cán bộ kế
cận, huyện cử một số đảng viên tham gia học tập chính trị, chuyên
môn, nghiêp vụ.
II. PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN KINH TẾ NÔNG THÔN,
ĐỔI MỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
1. Ổn định tổ chức đảng, chính quyền
Tuy nhiên, năm 1979 một sự kiện xảy ra làm xao động tinh
thần cán bộ, người dân Phước Kiển. Đồng chí Bí thư xã là Nguyễn
Việt Yên trong lúc được cử đi học bồi dưỡng chính trị ở trường
Đảng huyện (tại xã Long Phước), do buồn và lẩn quẩn trong lòng
về một số việc cá nhân đã dùng súng ngắn tự sát ngay tại ký túc
xá trường. Phút nông nổi của đồng chí Bí thư trưởng thành trong
kháng chiến, luôn nhiệt tình, xông xáo trong công tác khiến mọi
người đều tiếc thương.
Sau khi đồng chí Nguyễn Việt Yên qua đời, đồng chí Ngô
Văn Bảy được huyện cử tạm giữ nhiệm vụ Quyền Bí thư một thời
gian, năm 1980 Huyện ủy cử đồng chí Huỳnh Thị Diệp đang là
Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện về làm Bí
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thư xã Phước Kiển. Đồng chí Huỳnh Thị Diệp là người Phước
Lai, tham gia cách mạng từ năm 1947, từng giữ các nhiệm vụ Ủy
viên Ban Chấp hành Phụ nữ xã Phước Lai, xã Phước Thọ, Ủy viên
Ban Chấp hành Phụ nữ huyện Nhơn Trạch, cán bộ binh vận huyện
Long Thành; từ năm 1966, đồng chí là nhân viên tình báo của tỉnh
Biên Hòa, bị địch bắt trên đường đi công tác và bị đánh đập tra
khảo nhưng vẫn giữ khí tiết cách mạng, quyết không khai báo, bị
địch giam giữ tù đày đến năm 1971 mới thả ra, ngay sau đó đồng
chí bắt liên lạc với cách mạng và tiếp tục hoạt động ở Định Quán.
Sau năm 1975, đồng chí Huỳnh Thị Diệp công tác ở Hội Phụ nữ
huyện Long Thành cho đến khi về Phước Kiển.
Ở Phước Lai, đồng chí Trần Văn Hạnh xin thôi nhiệm vụ Bí
thư xã vì nhận thấy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình
không theo kịp yêu cầu của địa phương. Sau nhiều lần làm công
tác tư tưởng, thuyết phục mãi không được, Huyện ủy chấp thuận
nguyện vọng của đồng chí Sáu Hạnh. Đồng chí Nguyễn Văn Yềm
đang là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được cử thay thế làm Bí thư
xã, ông Võ Văn Xèo làm Chủ tịch xã. Chỉ được ít tháng, năm 1977
ông Võ Văn Xèo cũng xin thôi nhiệm vụ Chủ tịch xã, đồng chí
Huỳnh Ngọc Hà đang là Bí thư Chi đoàn được giao Quyền Chủ
tịch xã. Giai đoạn này, tình hình xã Phước Lai rất khó khăn, liên
tiếp 2 năm liền địa phương không hoàn thành chỉ tiêu thuế ngân
sách của huyện giao, chỉ tiêu về nghĩa vụ quân sự cũng không đạt.
Giữa năm 1977, đồng chí Nguyễn Văn Yềm xin thôi nhiệm vụ Bí
thư xã, đồng chí Trương Văn Quý từ Ban Kinh tế mới (ở Bàu Cạn)
được huyện điều trở về làm Bí thư xã. Sau cuộc bầu cử Hội đồng
251

26.2 Page 252

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhân dân các cấp năm 1977, đồng chí Nguyễn Ngọc Châu được
bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đồng chí Huỳnh Ngọc Hà
làm Trưởng Công an xã, đến cuối năm đồng chí Hà cũng xin nghỉ
việc vì đời sống quá khó khăn. Sự thay đổi nhân sự liên tục ở xã
Phước Lai là do lãnh đạo địa phương lúc bấy giờ hầu hết là cán bộ
kháng chiến cũ, khi làm công tác quản lý thì bộc lộ nhược điểm
là thiếu chuyên môn, dẫn đến lúng túng trong xử lý, nhất là ở địa
bàn phức tạp như Phước Lai; và khi nhận ra được nhược điểm của
mình, các đồng chí đều tự xin từ chức, không để ảnh hưởng đến
công việc chung của địa phương. Lúc này Chi bộ xã Phước Lai
có 9 người: Trương Văn Quý, Ngô Văn Thêm, Huỳnh Văn Thành
(bộ đội phục viên), Ngô Thị Ánh (trạm y tế), Nguyễn Ngọc Châu,
Nguyễn Văn Yềm (cán bộ tập kết về), Năm Thiệp (cán bộ tập kết
về), Lê Thị Đầy, Võ Thị Bót.
2. Lãnh đạo khắc phục thiên tai, ổn định sản xuất
Vụ lúa năm 1977-1978, thiên tai xảy ra trên diện rộng, cả
nước bị mất mùa. Khu vực Hiệp Phước cũng vậy, vụ lúa trước thì
bị hạn hán, nông dân nỗ lực bơm nước tưới nhưng lúa vẫn bị lép
bông, mười phần thu hoạch không được một, hai phần; đến vụ
sau thì bị sâu rầy nghiêm trọng, lúa mất trắng. Liên tiếp gặp thiên
tai, dịch bệnh sâu rầy, vùng lúa nổi tiếng như Hiệp Phước cũng
bắt đầu xảy ra nạn đói. Người dân hai xã hầu như không nhà nào
được ăn cơm gạo trắng, mà phải đi đào khoai củ, hái rau dại, chặt
chuối cây để độn vào bữa cơm; hôm nào may mắn thì được xã hỗ
trợ cứu đói bằng bo bo - do huyện xin viện trợ từ tỉnh về sau đó
phân phát lại cho các xã.
252

26.3 Page 253

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Trong khi ở các xã lân cận, nhiều người dân bỏ đồng ruộng
đi làm ăn xa để thoát nạn đói, thì chính quyền hai xã Phước Lai,
Phước Kiển vận động người dân ở lại, một mặt chuyển sang trồng
hoa màu ngắn ngày như khoai mì, khoai lang nhằm giải quyết tình
trạng thiếu lương thực, mặt khác đề xuất huyện hỗ trợ gạo, lúa
mì, bắp, bo bo cùng các loại lương thực phụ khác để cứu đói cho
dân. Huyện Long Thành lúc này cũng khó khăn vì toàn huyện mất
mùa, không tự túc được lương thực phải nhờ sự chi viện lương
thực của tỉnh, từ đó mới đưa lương thực hỗ trợ Phước Lai, Phước
Kiển, dù số lượng cũng ít ỏi chỉ đủ “cầm hơi” nhưng cũng phần
nào giúp người dân vượt qua khó khăn trước mắt.
Trong lúc đời sống người dân gặp khó khăn do thiên tai, dịch
bệnh, thì các thế lực phản động đã thừa cơ hội ra sức tuyên truyền
chống phá chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kêu gọi
lật đổ chính quyền cách mạng. Địa bàn huyện vẫn còn một số
binh lính không trình diện, trốn cải tạo hay từ các nơi khác đến
gầy dựng cơ sở, tổ chức hoạt động, gây nguy hại cho xã hội. Các
tổ chức phản cách mạng hình thành, lấy danh nghĩa của Mặt trận
quốc gia toàn lực giải phóng miền Nam, Đảng Dân chủ, Đảng Cấp
tiến, Đảng Cần lao Nhân vị, Mặt trận Việt tiến, Quốc dân Đảng,
Thanh niên Phục quốc đại đội 307, Đảng Phi Long, Mặt trận Cứu
nguy Dân tộc, Mặt trận Giải phóng Dân tộc. Một số địa bàn ở
Nhơn Trạch trở thành những điểm nóng về an ninh, như xã Vĩnh
Thanh xuất hiện nhóm phản động có vũ trang tổ chức ám sát cán
bộ xã, làm một phó chủ tịch xã, một xã đội trưởng hy sinh, một
chủ tịch xã bị thương; Phước Khánh có một số du kích bị mua
253

26.4 Page 254

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
chuộc đem vũ khí tham gia vào các nhóm tàn quân... Trước tình
hình đó, chính quyền địa phương hai xã Phước Lai, Phước Kiển
vừa ra sức giúp dân chống đói vừa phải đề cao tinh thần cảnh
giác, đấu tranh với các thế lực thù địch, trong đó có cả bọn tàn
quân trốn trình diện, ẩn nấp trong khu Rừng Sác lén lút hoạt động
chống phá.
Việc cấp bách nhất của chính quyền hai xã lúc này là tìm cách
khắc phục dịch bệnh, sâu rầy, khôi phục sản xuất. Hầu như ngày
nào các cán bộ của địa phương cũng cùng các lão nông lăn lộn
trên ruộng đồng. Nhờ sự kiên trì, nỗ lực của người dân cũng chính
quyền, đến vụ lúa Đông Xuân cuối năm 1978 đầu năm 1979, nông
dân Hiệp Phước lại được mùa, không chỉ đủ tự túc lương thực mà
còn nộp về huyện chia sẻ cùng các địa phương khác, niềm vui thật
lớn lao sau bao ngày vất vả.
Cuối năm 1978, thực hiện chỉ đạo của tỉnh, huyện cử một
đại đội tham gia nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia. Ban Chỉ huy
đại đội gồm các đồng chí: Nguyễn Thái Học (Đại đội trưởng),
Nguyễn Văn Phối (Đại đội phó), Đặng Văn Hải (Chính trị viên).
Thanh niên Hiệp Phước cũng tiếp tục có mặt trong đội hình bộ đội
quân tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế, như Phan Thành Châu1,
Nguyễn Văn Dũ.
Năm 1978, huyện chủ trương huy động lực lượng thanh
niên xây dựng Nông trường Đồng Khởi (khu vực Lòng Chảo xã
1  Liệt sĩ Phan Thành Châu là con nuôi của Bà mẹ Việt Nam anh hùng Phạm
Thị Bánh, hy sinh ngày 7.5.1979 tại chiến trường Campuchia. Mẹ Bánh còn một
con liệt sĩ nữa là Trần Minh Đức, Xã đội phó Phước Lai, hy sinh ngày 2.12.1962.
254

26.5 Page 255

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Phước Thiền). Chi đoàn thanh niên hai xã Phước Lai, Phước Kiển
cũng đưa quân tham gia khai phá; tổng cộng nông trường khai
hoang 540 hecta, đưa vào sản xuất được 240 hecta. Không khí
khai hoang xây dựng quê hương trong lực lượng thanh niên rất
sôi động.
Trong tình hình mới nhiều khó khăn sau những năm đầu giải
phóng, các chi bộ Đảng cùng cán bộ, nhân dân hai xã Phước Lai,
Phước Kiển đã thực hiện tốt nhiệm vụ, phương hướng phát triển
của địa phương: Không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp
ủy, khả năng tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền và vai trò
các đoàn thể quần chúng theo tinh thần độc lập, sáng tạo, tự lực tự
cường, thực sự phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
của nhân dân lao động; tập trung toàn bộ nguồn lực để đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm là sản xuất lương
thực, thực phẩm.
Tại Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành lần II nhiệm kỳ 1979-
1986, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đề ra những nhiệm vụ cụ
thể:
- Kiểm tra toàn bộ số lượng, chất lượng cơ sở vật chất xã hội
hiện có của địa phương: dân số, đất đai, vật tư kỹ thuật... Tập
trung cao độ cho sản xuất nông nghiệp; trọng tâm là sản xuất
lương thực, thực phẩm và hàng xuất khẩu.
- Củng cố bộ máy chính quyền vô sản, đặc biệt là cấp cơ sở,
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Thực hiện triệt để nghị quyết của Bộ Chính trị
về chống mọi biểu hiện tiêu cực.
255

26.6 Page 256

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Quyết tâm hoàn thành cơ bản việc đưa nông dân cùng tư liệu
sản xuất (ruộng đất, máy móc, trâu bò...) vào tập đoàn sản xuất và
hợp tác nông nghiệp.
- Xúc tiến xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chủ yếu cho nông
nghiệp, cụ thể phát triển các trại giống, chế biến lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng.
- Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế, xã
hội nhằm chăm lo đời sống tinh thần, sức khỏe cho nhân dân và
thế hệ trẻ.
- Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và nền quốc phòng
toàn dân đủ sức diệt bọn phản cách mạng và chiến thắng kẻ thù
xâm lược.
Trong tình hình chung của đất nước trong giai đoạn này, sự
thiếu hụt về lương thực đã dẫn đến những khó khăn lớn, cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam đang diễn ra, các thế lực
phản cách mạng gia tăng gây rối, chống phá, Đảng bộ huyện xác
định vai trò lãnh đạo và xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh,
vừa xây dựng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa vừa sẵn
sàng đấu tranh để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 1979-
1986, lãnh đạo hai xã Phước Lai, Phước Thiền tập trung kiểm kê
đất đai, vật tư (máy móc, trâu bò), nhân lực để đưa vào tập đoàn
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do những khó khăn về đời sống
hiện tại và những thiếu sót của ta trong công tác tư tưởng nên
một bộ phận người dân chưa có ý thức về làm chủ tập thể, dẫn
đến không đồng ý vào tập đoàn dù cán bộ xã nhiều lần kiên nhẫn
256

26.7 Page 257

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thuyết phục. Người dân Hiệp Phước trước đây từ đời ông cha đã
đổ mồ hôi sôi nước mắt, thậm chí đánh đổi bằng máu để có được
mảnh ruộng cho con cháu sau này, vì vậy nhiều người không đồng
tình với chủ trương đưa ruộng đất vào tập đoàn. Trong thực tế
trước đây các ấp đều hình thành tập đoàn, nhưng đất đai tư liệu
sản xuất của tập đoàn chủ yếu là từ đất công, lại thêm liên tiếp các
năm 1977-1978 bị mất mùa nghiêm trọng, các xã viên tập đoàn bỏ
nhiều công lao động mà không có thu hoạch nên chán nản, việc
vận động tham gia tập đoàn càng thêm khó.
Chi bộ hai xã đã nghiêm túc kiểm điểm, nhận định tình hình
và đề ra phương hướng hành động như sau:
- Các cán bộ, đảng viên tại địa phương từ trước đến nay công
tác với nhiệt tình cách mạng, tất cả đều nỗ lực, đoàn kết nhất trí
trong Đảng, biết tin quần chúng, dựa vào quần chúng, phát động
quần chúng thực hiện tốt những chủ trương của Đảng, bên cạnh
đó, quần chúng nhân dân lao động tại địa phương có truyền thống
giàu lòng yêu nước, đấu tranh anh dũng, tin tưởng Đảng, hăng hái,
nhiệt tình tham gia các phong trào ngày càng vững chắc, có chiều
sâu. Nếu không có được một phong trào quần chúng như vậy thì
thời gian qua địa phương đã không đạt được những thành quả tốt
đẹp như trên. Thực tế đó cho thấy kinh nghiệm: nếu biết phát huy
hết sức mạnh của quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị của Đảng, thì ta sẽ có một sức mạnh vô địch để vượt qua bất cứ
mọi khó khăn trở ngại.
- Thời gian qua chi bộ còn có những khuyết điểm như: chưa tổ
chức được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chưa thuyết phục,
257

26.8 Page 258

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
vận động được nông dân, để họ còn làm ăn cá thể, tự phát; đó là
điều trở ngại cho con đường đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Lực lượng lao động nhàn rỗi còn lớn, các xã viên khi tham gia tập
đoàn chưa làm hết sức như khi sản xuất trên ruộng nhà mình, nếu
ta không phân bố lại lực lượng lao động cho hợp lý thì sản xuất
khó đạt năng suất cao, dẫn đến không nâng cao đời sống nhân dân
được. Trong phân công quản lý còn nhiều thiếu sót, chưa có sự
phân cấp trách nhiệm rõ ràng giữa Đảng và chính quyền, dẫn đến
hiệu quả công tác chưa cao; một bộ phận đảng viên đã bắt đầu có
biểu hiện giảm nhiệt tình và ý chí chiến đấu, một số ít sa sút về
phẩm chất, mắc các bệnh cá nhân như cửa quyền, giấy tờ, mệnh
lệnh với quần chúng, ý thức tổ chức kỷ luật lỏng lẻo... Những
thiếu sót nói trên đã ít nhiều làm giảm uy tín của Đảng.
Các chi bộ cũng nhận định nguyên nhân những thiếu sót trên
là do:
- Tình hình thực tế địa phương có nhiều phức tạp, công tác
quản lý quá mới mẻ đối với cán bộ, đảng viên vốn từ trước đến
giờ chưa có kinh nghiệm lãnh đạo chính quyền và quản lý xã hội,
do đó trình độ năng lực rất hạn chế.
- Một số cán bộ còn những biểu hiện chưa tin tưởng vững
chắc, chưa dựa hẳn vào quần chúng trong phát động phong trào,
thực hiện chủ trương của Đảng.
Phương hướng khắc phục được đưa ra như sau:
- Cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân tham
gia tập đoàn. Giác ngộ cho người dân hiểu được đây là con đường
tất yếu để cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Gia đình, người thân
258

26.9 Page 259

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện trước để người dân
làm theo.
- Muốn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới, tiến đến sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa cần thực hiện bằng các
hình thức từ thấp đến cao. Trước mắt, địa phương cần tổ chức thí
điểm các tổ sản xuất như tổ sản xuất rau, tổ chăn nuôi, riêng trồng
lúa thì cố gắng đưa vào tập đoàn sản xuất, sau khi ổn định, vững
mạnh thì tiến đến thành lập Hợp tác xã sản xuất.
- Tiếp tục theo định hướng lấy phát triển nông nghiệp làm
trọng tâm, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp bao gồm trồng trọt và
chăn nuôi heo, gà, cá, trong đó chú trọng chăn nuôi trâu bò, heo
để có nguồn thực phẩm, sức kéo, phân bón. Tăng cường nạo vét
các kênh, mương thủy lợi. Tăng cường đưa máy bơm, máy cày để
nâng cao sản xuất, đạt hiệu quả cao; liên hệ với các cơ quan chức
năng của huyện để có giống lúa kháng sâu rầy, chú trọng vấn đề
phân bón, công chăm sóc nhằm nâng cao năng suất lúa, phấn đấu
đạt 8 tạ/hecta.
Về lĩnh vực văn hóa - chính trị cần chú trọng các mảng sau:
- Tăng cường phối hợp với huyện tổ chức bồi dưỡng chính trị,
nghiệp vụ, chuyên môn cho cán bộ, đảng viên; chú trọng công tác
phát hiện, bồi dưỡng lực lượng thanh niên nòng cốt để phát triển
Đảng.
- Củng cố lực lượng du kích xã, thành lập đội dân quân tự vệ
các ấp. Ngoài nhiệm vụ chính trong bảo vệ địa phương, lực lượng
du kích, dân quân tích cực tham gia các phong trào giúp dân tại
259

26.10 Page 260

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
địa bàn cư trú, hỗ trợ dân sản xuất, làm kinh tế, phối huyện đội
chuyên môn của huyện trong rà soát, phá dỡ bom mìn.
- Chú trọng công tác phân phối lương thực, thực phẩm, nhu
yếu phẩm đến người dân kịp thời, công bằng, quan tâm đến các
gia đình chính sách, neo đơn.
- Phát động phong trào bổ túc văn hóa, làm cho mọi người
thấy được lợi ích của việc nâng cao trình độ văn hóa. Phát động
mạnh mẽ phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới thâm nhập
vào các tầng lớp nhân dân.
- Đẩy mạnh công tác phòng bệnh, phòng dịch. Tăng cường
tiêm phòng, luôn luôn theo dõi phát hiện bao vây và kịp thời dập
tắt các ổ dịch nguy hiểm như: tả, dịch hạch, sốt bại liệt...
3. Thành lập xã Hiệp Phước
Ở Phước Kiển, đến năm 1983, đồng chí Trương Văn Hoàng1
được huyện biệt phái về làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phước
Kiển. Cuối năm 1983, đồng chí Trương Văn Hoàng đứng vào
hàng ngũ Đảng tại địa phương, do đồng chí Bí thư xã Huỳnh Thị
Diệp giới thiệu. Tại Phước Lai, đồng chí Trương Văn Quý nghỉ
hưu theo chính sách, đồng chí Nguyễn Văn Yềm giữ nhiệm vụ
Quyền Bí thư xã.
Đầu năm 1984, một sự kiện quan trọng diễn ra: Ngày
17.1.1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 12-HĐBT
sáp nhập hai xã Phước Lai, Phước Kiển thành xã Hiệp Phước. Tên
1  Đồng chí Trương Văn Hoàng là con của liệt sĩ Trương Văn Tấn, Bí thư xã
Phước An, hy sinh ngày 18.6.1967 tại Phước An.
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
gọi Hiệp Phước bắt đầu từ thời điểm này. Xã Hiệp Phước có năm
ấp, đánh số từ ấp Một đến ấp Năm. Đồng chí Phạm Thành Đạt
được huyện cử nhận nhiệm vụ Bí thư xã Hiệp Phước. Đồng chí
Phạm Thành Đạt từng tham gia kháng chiến, nhận nhiệm vụ tiếp
quản khi giải phóng Phước Thiền và làm Bí thư xã Phước Thiền,
sau này về huyện công tác trước khi nhận nhiệm vụ ở Hiệp Phước.
Đồng chí Huỳnh Thị Diệp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hiệp
Phước, đồng chí Trương Văn Hoàng là Phó Chủ tịch, đồng chí
Đoàn Minh Huân là Xã đội trưởng, đồng chí Huỳnh Thanh Hồng
là Trưởng Công an xã.
Đáng chú ý, giai đoạn này tỉnh và huyện chọn Hiệp Phước
để quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp Nhơn Trạch I, Khu
công nghiệp Nhơn Trạch II và Khu công nghiệp Nhơn Trạch III.
Về vị trí địa lý, huyện Nhơn Trạch nằm ngay ngã ba sông Đồng
Nai - Lòng Tàu - Thị Vải; giáp ranh với quận 2, quận Nhà Bè,
quận 9 của Thành phố Hồ Chí Minh; giáp ranh với tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, thuận lợi trong giao thông cả đường bộ lẫn đường thủy.
Những yếu tố này hội tụ lại tạo cho Nhơn Trạch những thuận lợi
cơ bản để phát triển thành trung tâm kinh tế, Vì vậy, tỉnh đã sớm
có quy hoạch về tổng thể đô thị mới Nhơn Trạch, sau đó được
Thủ tướng phê duyệt vào tháng 5.1996. Đây là phương hướng đưa
Nhơn Trạch phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong
đó, xã Hiệp Phước tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng
của địa phương, có đủ các yếu tố để đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ
tầng, đủ điều kiện trở thành một trong những trung tâm của khu
đô thị mới, từ một xã thuần nông trở thành địa phương có cơ cấu
261

27.2 Page 262

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
kinh tế công nghiêp - dịch vụ là chủ đạo, giảm dần cơ cấu kinh tế
nông nghiệp.
Theo quy hoạch, trên địa bàn xã Hiệp Phước sẽ hình thành
ba khu công nghiệp, trong đó Khu công nghiệp Nhơn Trạch I có
diện tích 430 hecta, do Công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển đô
thị và khu công nghiệp IDICO làm chủ đầu tư; Khu công nghiệp
Nhơn Trạch II có diện tích 350 hecta do Công ty Xây dựng dân
dụng công nghiệp số 2 (nay là Công ty cổ phần phát triển đô
thị công nghiệp số 2, trụ sở tại thành phố Biên Hòa) làm chủ
đầu tư, cả hai khu công nghiệp này đều nằm trên địa bàn ba xã
Hiệp Phước, Phước Thiền, Phú Hội; riêng Khu công nghiệp Nhơn
Trạch III có diện tích gần 700 hecta (giai đoạn 1 là 368 hecta) nằm
hoàn toàn trên địa bàn xã Hiệp Phước, do Tổng công ty Tín Nghĩa
làm chủ đầu tư.
Qua khảo sát, cả ba khu công nghiệp đều nằm ở vị trí cao nhất
của đô thị mới Nhơn Trạch, có độ cao so với mặt biển là 28m; độ
ẩm trung bình từ 62-84%; nhiệt độ trung bình 27 0C; lượng mưa
trung bình hàng năm là 1.832 mm, hầu như không bị ảnh hưởng
của bão, lụt, thiên tai; cường độ chịu tải của đất là 1,5-2,5 kg/
cm2 (hoặc 25 tấn/m2), nền bằng phẳng, rất thuận tiện cho việc thi
công nền móng công trình và không phải đóng cọc gia cố móng,
do vậy giảm đáng kể chi phí xây dựng, thuận lợi để xây dựng các
công trình trong ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và đặc
biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao với chi phí và thời gian xây
dựng được rút ngắn đáng kể. Cả ba khu công nghiệp đều nằm dọc
lộ 25B, cách quốc lộ 51 khoảng 4km, cách Thành phố Hồ Chí
262

27.3 Page 263

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Minh 50km, cách thành phố Biên Hòa 33km, cách cảng sông gần
nhất là cảng Gò Dầu 15km, cách cảng Cái Mép - Thị Vải 32km,
cách cảng biển gần nhất là cảng Phú Mỹ 22km, cách cảng Cát Lái
33km; hàng hóa sản xuất từ các khu công nghiệp thuận tiện vận
chuyển cả đường bộ lẫn đường thủy.
Để xây dựng các khu công nghiệp, diện tích cần giải tỏa, thu
hồi đất của người dân Hiệp Phước khá lớn, đặc biệt là Khu công
nghiệp Nhơn Trạch III lên đến gần 700 hecta. Dù khu vực quy
hoạch các khu công nghiệp phần lớn là đất rẫy của dân, nhưng
do quy định về giá đền bù thời điểm này khá thấp nên người dân
không đồng tình, không muốn giao đất. Để thực hiện xây dựng
các khu công nghiệp đúng tiến độ, các cán bộ xã Hiệp Phước phải
rất nhiều lần phối hợp với chủ đầu tư thuyết phục, vận động người
dân giao đất. Vì sự phát triển chung của địa phương, cuối cùng
việc giải tỏa, thu hồi đất giao cho chủ đầu tư cũng hoàn thành.
Tháng 7.1986, đồng chí Huỳnh Thị Diệp nghỉ hưu theo chế
độ. Đồng chí Trương Văn Hoàng đang là Phó Chủ tịch xã thay
thế đồng chí Diệp làm Chủ tịch xã Hiệp Phước. Đồng chí Phạm
Thành Đạt cũng nghỉ hưu theo chế độ. Nhiệm kỳ 1987-1989, đồng
chí Dương Quang Linh là Bí thư, đồng chí Trương Văn Hoàng là
Chủ tịch xã Hiệp Phước.
4. Đổi mới sản xuất nông nghiệp
Năm 1986 là cột mốc đánh dấu một sự kiện quan trọng trong
toàn Đảng, đó là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi mới của cách mạng Việt
Nam. Đại hội đã bàn, thảo luận, thông qua đường lối đổi mới của
263

27.4 Page 264

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đảng nhằm mục tiêu khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải
phóng năng lực sản xuất, phát huy sức mạnh nhân tố con người,
cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, huyện Long Thành
có những thuận lợi: giữ vững ổn định chính trị, kiên định theo con
đường xã hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống đoàn kết, tự lực
tự cường. Đảng bộ huyện đoàn kết, đội ngũ cán bộ, đảng viên có
tinh thần trách nhiệm, trưởng thành từ thực tiễn xây dựng quê địa
phương. Những thành tựu của nhân dân Long Thành đã tạo nên cơ
sở, tiền đề quan trọng trên nhiều lĩnh vực được kế thừa, phát huy.
Huyện Long Thành tiếp tục được xác định là địa bàn trọng điểm
sản xuất lương thực của tỉnh. Tuy nhiên, Đảng bộ Long Thành
cũng tự đánh giá còn nhiều hạn chế: Bộ máy của huyện được sắp
xếp theo tinh thần đổi mới nhưng chưa đáp ứng được nhiệm vụ,
nhiều cơ sở còn yếu kém. Kinh tế của huyện ổn định nhưng chưa
thật sự mạnh, tiềm năng chưa khai thác đúng mức. Dân số tăng
nhanh, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, giải quyết việc
làm chưa ổn định. Cơ chế quản lý còn trì trệ, chưa bắt nhịp với
công cuộc đổi mới. Quy hoạch chưa ổn định, tranh chấp đất đai
diễn ra căng thẳng, công tác quản lý đất đai và quản lý ngành chưa
đồng bộ. Quyền làm chủ tập thể của của quần chúng còn hạn chế,
tiêu cực xã hội vẫn còn phát triển.
Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ IV nhiệm kỳ
1986-1991 đề ra nhiệm vụ chung của huyện trong giai đoạn bắt
đầu thực hiện đường lối đổi mới: “Tiếp tục quy hoạch lại sản xuất,
bố trí sử dụng lao động, ruộng đất phù hợp với tình hình, đặc điểm
264

27.5 Page 265

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
của địa phương, với cơ cấu kinh tế nông nghiệp (bao gồm lâm
nghiệp, ngư nghiệp) - công nghiệp nhằm phát triển sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân, an ninh quốc phòng, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội, từ năm 1986 xã Hiệp
Phước bắt đầu có sự chuẩn bị chuyển dịch kinh tế địa phương
sang hướng công nghiệp, nhưng vẫn lấy sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu. Số liệu thống kê cho thấy với diện tích đất trồng lúa
nước là khoảng gần 300 hecta, người dân đã gieo trồng các vụ
mùa Hè Thu và Đông Xuân với tổng diện tích gieo trồng trong
năm đạt gần 500 hecta, năng suất lúa bình quân đạt 80 tạ/hecta.
Tuy nhiên, trong năm 1986 xuất hiện đợt nắng nóng gây hạn lớn,
ảnh hưởng đến năng suất lúa, nông dân bị mất mùa, thu hoạch chỉ
được khoảng 30 tạ/hecta, người trồng lúa bị lỗ, ảnh hưởng đến đời
sống kinh tế của cả xã. Lãnh đạo xã Hiệp Phước xác định phương
hướng cơ bản là phải tăng vụ, chuyển vụ và thâm canh tăng năng
suất, ứng dụng khoa học, kỹ thuật để tăng sản lượng. Địa phương
đã tích cực chủ động liên hệ với các cơ quan chức năng của huyện,
được giới thiệu các giống lúa mới như là OM 1490, OM 2031,
OM 1706... vừa kháng sâu bệnh, chịu được mặn, năng suất cao,
thời gian gieo trồng ngắn (120 ngày). Địa phương đã đưa giống
lúa mới vào trồng vụ Đông Xuân 1987-1988. Bên cạnh đó, các
cán bộ khuyến nông còn đề nghị xã tập trung đầu tư cho công tác
thủy lợi như nạo vét kênh mương đập Bà Ký, bồi bờ đắp bít các
mội hạn chế nước mặn xâm nhập; tập huấn, hướng dẫn cho nông
dân cải tạo đất, thau chua, rửa phèn bảo đảm nước ngọt cho cây
265

27.6 Page 266

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lúa sinh trưởng và phát triển; khuyến cáo nông dân giảm diện tích
vụ lúa mùa năng suất thấp và bấp bênh, tăng vụ lúa Đông Xuân
và Hè Thu, tạo điều kiện để thâm canh, tăng năng suất lúa. Kết
quả, năng suất lúa vụ Đông Xuân 1987-1988 đạt đến 1,2 tấn/hecta
khiến người dân hồ hởi. Những năm sau, giống lúa OM ngày càng
được cải tiến, thời gian gieo trồng giảm chỉ còn 90 ngày, năng suất
cũng tăng cao dần.
Một trong những vấn đề trong phát triển nông nghiệp của Hiệp
Phước thời điểm này chính là việc vận động nông dân thực hiện
khoán sản phẩm nông nghiệp theo chỉ đạo của huyện. Trước đây
Nhà nước chủ trương vận động dân vào tập đoàn, hợp tác xã sản
xuất nông nghiệp, các xã viên được áp dụng chế độ khoán việc,
công sức lao động của xã viên được qui thành công, điểm (công
là ngày công, còn điểm là 1/10 ngày công). Từ cấy hái, chăm bón
đến họp hành đều tính thành công điểm. Ngày công được tính cho
mỗi lao động khi thực hiện một công việc theo tiêu chuẩn hợp tác
xã đề ra. Cuối mỗi vụ sẽ dựa vào công điểm để chia hoa lợi. Qua
đánh giá thực tế, hình thức khoán việc bộc lộ nhiều nhược điểm
như: người lao động ít quan tâm đến sản phẩm cuối cùng họ làm
ra, chỉ lo chạy theo công điểm, không đảm bảo quy trình kỹ thuật,
không tiết kiệm chi phí sản xuất, bên cạnh đó có nơi còn gây ra
bất công bằng trong chấm công, điểm. Hình thức khoán việc nhìn
chung không phù hợp với trình độ tổ chức, quản lý và điều kiện
sản xuất của đa số hợp tác xã, từ đó người dân không mặn mà
tham gia; hoạt động hợp tác xã nhiều nơi, trong đó có Hiệp Phước,
chỉ tồn tại trên hình thức.
266

27.7 Page 267

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Từ năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng cho phép các địa
phương thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Qua thực
hiện thí điểm ở một số địa phương, khoán sản phẩm vừa nâng cao
được ý thức trách nhiệm của tập thể và mỗi cá nhân, cụ thể hoá
chế độ làm chủ tập thể, vừa đảm bảo nguyên tắc phân phối công
bằng cho người lao động nên khuyến khích được hợp tác xã và xã
viên tích cực tận dụng lao động, đất đai, thâm canh, tăng vụ, phát
triển sản xuất, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng
suất lao động. Tại Hiệp Phước cũng áp dụng khoán sản phẩm,
còn gọi là khoán 100 (do Nghị quyết ban hành số 100) tại các tập
đoàn trên địa bàn, nhưng cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian,
sau đó giảm dần vì cơ chế tập trung quan liêu, mệnh lệnh và hành
chính cứng nhắc vẫn tồn tại trong hoạt động của các hợp tác xã.
Cụ thể, việc định ra mức khoán không ổn định, được điều chỉnh
theo từng năm, mỗi năm một cao hơn khiến xã viên vượt khoán
được hưởng lợi rất ít, vì vậy động lực vừa mới được tạo ra đã dần
bị triệt tiêu. Các hộ nông dân không đủ khả nǎng bảo đảm tái sản
xuất và nhu cầu đời sống nên đã trả lại ruộng nhận khoán. Dù các
cán bộ xã Hiệp Phước nhiều lần vận động người dân, nhưng việc
khoán sản phẩm nông nghiệp vẫn không thực hiện được.
Năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 NQ-TW về Đổi
mới quản lý nông nghiệp, hình thức khoán gọn ra đời, hay còn
gọi là khoán 10 (Nghị quyết ban hành số 10). Khoán 10 thừa
nhận “hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ”, thực hiện giao ruộng
khoán cho hộ nhận khoán trong thời gian dài (15-20 năm) đối với
đất trồng cây ngắn ngày, 1-2 chu kỳ đối với cây dài ngày, ổn định
267

27.8 Page 268

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
sản lượng khoán, bảo đảm cho người trồng lúa có lãi không dưới
40%. Hộ nông dân được tự quyết định việc canh tác trên diện tích
được giao, chỉ có nghĩa vụ đóng thuế, được tự do lưu thông sản
phẩm làm ra ở nơi có lợi nhất sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế
đối với nhà nước. Cùng với việc thực hiện khoán 10 là sự đổi mới
toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động
kinh tế - xã hội ở nông thôn theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp. Từ đây, chức nǎng kinh tế của hộ nông dân
được xác lập trở lại. Hình thức khoán 10 được nông dân Hiệp
Phước đồng tình, trong thực tế số đất áp dụng khoán ở địa phương
không nhiều, nhưng ý nghĩa của Nghị quyết 10/NQ-TW rất quan
trọng đối với địa phương vì hộ nông dân được công nhận là cá thể
sản xuất, qua đó khai thác có hiệu quả các tiềm nǎng kinh tế hộ
nông dân và nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế tự cấp tự
túc sang sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ
năm 1990 đến năm 1992, toàn bộ đất tập đoàn được giao hết cho
nông dân.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục được địa phương quan
tâm, xem là thế mạnh của nông nghiệp, góp phần giải quyết lượng
lao động nhàn rỗi đồng thời tăng thêm thu nhập cho người dân.
Tuy nhiên, đến thời điểm này việc chăn nuôi vẫn theo phương
thức hộ gia đình nhỏ lẻ, chưa tập hợp được thành tổ hợp tác như
định hướng của huyện và xã, từ đó dẫn đến thị trường tiêu thụ hạn
chế, chưa phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Thực tế từ các
địa phương khác cho thấy, phương thức chăn nuôi tập trung theo
dạng tổ hợp tác hoặc trang trại sẽ giúp giảm công lao động, hạ
thấp giá thành, cho lợi nhuận cao hơn. Nhưng vì nhiều lý do, trong
268

27.9 Page 269

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đó chủ yếu là do người dân chậm thay đổi tập quán chăn nuôi,
ngoài ra còn do khâu thu mua của các cơ sở quốc doanh chưa đáp
ứng được nhu cầu người chăn nuôi, giao thông từ xã đến các địa
phương lân cận chưa thuận lợi nên chăn nuôi ở Hiệp Phước khó
phát triển thành hàng hóa.
Kinh tế của người dân địa phương được đánh giá là được nâng
lên và có cải thiện rõ rệt. Cuộc sống cũng có nhiều thay đổi tích
cực, cơ bản xoá được hộ đói, hộ nghèo cũng giảm rõ rệt, các nhu
cầu ăn ở, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, hưởng thụ văn hóa
được đáp ứng ngày càng tốt hơn. Địa phương cũng thường xuyên
quan tâm chăm sóc các đối tượng chính sách như thương binh, gia
đình liệt sĩ, những người có công với cách mạng. Công tác dân
số, kế hoạch hóa gia đình cũng được quan tâm đúng mức, kinh
phí đầu tư tăng khá. Công tác bảo vệ sức khoẻ của nhân dân được
quan tâm, trạm y tế đã được bố trí bác sĩ, y sĩ. Sự nghiệp giáo dục
đào tạo được phát triển theo hướng giữ vững và nâng cao chất
lượng phổ cập cấp I, xoá tái mù chữ.
Chi bộ xã Hiệp Phước nhận định, bước vào thời kỳ đổi mới,
yêu cầu phải đạt được bước đổi mới quan trọng trên các lĩnh vực
như: đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách
làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ. Đồng thời có chủ trương,
biện pháp tích cực đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa mới,
con người xã hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống tốt đẹp của
địa phương; củng cố quốc phòng an ninh, tăng cường xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, kiện toàn bộ máy tổ chức, đẩy mạnh
phong trào cách mạng của quần chúng.
269

27.10 Page 270

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Chủ trương của xã Hiệp Phước trong thời gian tới là phát
triển toàn diện kinh tế nông thôn; chuyển dần kinh tế nông thôn
còn mang nặng tính chất độc canh tự cấp, tự túc thành nền kinh
tế hàng hóa phát triển. Mục tiêu phấn đấu chính của địa phương
là tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, đảm bảo diện tích
sản xuất, tăng cao diện tích gieo trồng và năng suất lúa; tập trung
xây dựng các vườn cây ăn trái chuyên canh; đẩy mạnh chăn nuôi;
tập trung phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa
bàn. Để đạt được mục tiêu này, cần áp dụng đồng bộ biện pháp kỹ
thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tạo điều kiện phát triển
kinh tế hộ gia đình nhằm khai thác mọi tiềm năng của địa phương
như đất đai, lao động, ngành nghề thủ công truyền thống để phát
triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ kỹ thuật, tạo thêm
sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân
dân và người lao động. Xã cũng sẽ tiếp tục đề xuất với huyện đầu
tư duy tu, bảo trì, sửa chữa, nâng cấp và làm mới hệ thống giao
thông trên địa bàn để đáp ứng nhu cầu về đi lại, vận chuyển hàng
hóa thuận lợi, phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống nhân dân.
Trong công tác xây dựng Đảng, cần thường xuyên thực hiện
làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, bộ
máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội; phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động của cơ quan Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân; xem xét lại đội ngũ cán bộ, sắp xếp lại
tổ chức, kiên quyết thay thế những người phẩm chất và năng lực
kém trí tuệ, không đổi mới. Đưa vào vị trí chủ chốt những cán bộ
có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, phong cách và lối sống
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
lành mạnh, có tín nhiệm với quần chúng; tổ chức tốt các đợt tự
phê bình và phê bình, đấu tranh chống tiêu cực đưa những người
thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng. Phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhìn thẳng
vào sự trì trệ của nền kinh tế - xã hội địa phương, mạnh dạn sửa
chữa khuyết điểm, tích cực phấn đấu đi lên.
Về tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, nhận định sẽ ngày
càng diễn biến phức tạp. Địa phương cần nghiêm túc thực hiện
Chỉ thị 60 của Bộ Chính trị về công tác an ninh quốc gia, Chỉ
thị 135 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về đấu tranh chống tội
phạm, khơi dậy và củng cố phong trào quần chúng nhân dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn.
271

28.2 Page 272

▲back to top


Chương VI
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA
- HIỆN ĐẠI HÓA (1994-2020)
I. CỦNG CỐ TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN,
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ
1. Từ chi bộ thành Đảng bộ cơ sở
Năm 1994, huyện Nhơn Trạch được tái thành lập theo Nghị
định số 51/CP ngày 21.6.1994 của Chính phủ. Huyện Nhơn Trạch
có 12 đơn vị hành chính cấp xã gồm: Hiệp Phước, Vĩnh Thanh,
Phước Thiền, Phước Khánh, Phước An, Phú Hữu, Phú Thạnh, Phú
Hội, Phú Đông, Long Thọ, Long Tân, Đại Phước. Thời điểm thành
lập, huyện đối mặt nhiều khó khăn, thách thức: là địa phương
thuần nông với 80% dân số sống bằng nghề nông, độc canh cây
lúa, tập quán canh tác thủ công, lạc hậu, thu nhập thấp; trình độ
sản xuất, trình độ dân trí thấp; hạ tầng yếu kém, giao thông không
thuận lợi với hệ thống đường sá 90% là cấp phối sỏi đỏ, trên địa
bàn các xã có trên 50 cầu khỉ và có nơi còn cách biệt với khu vực
xung quanh nên nhiều vùng đất còn hoang hóa; hệ thống bưu điện
chỉ mới bắt đầu xây dựng; hệ thống điện sinh hoạt mới có ở 5/12
xã và tỷ lệ hộ sử dụng điện còn thấp (24%); hệ thống chiếu sáng
đường giao thông ở các xã hoàn toàn chưa có; chưa có bệnh viện,
272

28.3 Page 273

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trung tâm y tế huyện; chỉ có một trường THPT Nhơn Trạch xây
dựng đã lâu; tỷ lệ hộ đói nghèo cao (27,6%).
Tuy nhiên, huyện Nhơn Trạch cũng có những thuận lợi riêng,
hoàn toàn đủ điều kiện hướng đến mục tiêu phát triển bền vững,
công nghiệp, hiện đại, đáp ứng tiến trình xây dựng đô thị mới.
Trước hết, đó là vị trí địa lý rất thuận tiện trong việc lưu thông
đường thủy và đường bộ; kế đến, Nhơn Trạch hội tụ những điều
kiện cần và đủ cho sự phát triển toàn diện, xây dựng cơ sở vật chất,
hạ tầng kỹ thuật theo định hướng của Trung ương và của Tỉnh ủy
Đồng Nai; và yếu tố quan trọng nữa là người Nhơn Trạch với
truyền thống kiên cường, lao động bền bĩ xây dựng quê hương, từ
xa xưa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa.
Giống như tình hình chung trong toàn huyện, Hiệp Phước
cũng đối diện nhiều khó khăn lớn. Tuy là một trong năm xã có
mạng lưới điện quốc gia từ năm 1992, nhưng trong thực tế tỷ lệ
hộ sử dụng điện còn rất thấp.​ Hai con đường giao thông huyết
mạch qua địa bàn là đường 25B (nay là đường Tôn Đức Thắng)
và lộ 19 (nay là đường Hùng Vương) hư hỏng đã nhiều năm chưa
được nâng cấp sửa chữa, dẫn đến lưu thông khó khăn, không có
hệ thống chiếu sáng, đi ban đêm rất nguy hiểm. Các trường học
của xã như Trường Tiểu học Phước Lai, Trường Tiểu học Hiệp
Phước xây dựng từ trước năm 1975, nay cơ sở vật chất đã xuống
cấp nhưng chưa có kinh phí sửa chữa và xây mới; trên địa bàn
xã cũng chưa có trường trung học cơ sở, học sinh tốt nghiệp tiểu
học phải lên thị trấn Long Thành hoặc sang Phước Thiền để “học
273

28.4 Page 274

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhờ”. Chung tình trạng cơ sở vật chất tạm bợ đó là trạm y tế xã và
trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Nhưng cùng với quyết tâm của huyện,
toàn hệ thống chính trị và nhân dân xã Hiệp Phước sẵn sàng vượt
qua khó khăn, phấn đấu xây dựng phát triển quê hương.
Năm 1994, đồng chí Nguyễn Thị Liên được cử về làm Bí thư
xã Hiệp Phước. Đồng chí Nguyễn Thị Liên là người xã Phú Hội,
gia đình có truyền thống cách mạng, tham gia kháng chiến từ ngày
20.2.1964, kết nạp Đảng năm 1968, từng giữ các nhiệm vụ: Xã
đội phó xã Phú Hội, Hội phó Hội Phụ nữ huyện Nhơn Trạch, Phó
Trưởng phòng Giáo dục huyện; đồng chí là Ủy viên Ban Chấp
hành Huyện ủy Long Thành nhiệm kỳ 1986-1988. Đồng chí Phan
Văn Tôn là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Bùi Công
Chánh là Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đến giữa nhiệm kỳ
đồng chí Trương Văn Hoàng thay thế nhiệm vụ này. Đồng chí
Đào Văn Xiêm là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
Hiệp Phước. Chi bộ có tổng cộng 32 đảng viên, sinh hoạt ở năm
tổ đảng.
Năm 1998, Chi bộ xã Hiệp Phước được nâng lên thành Đảng
bộ cơ sở. Ban Chấp hành Đảng bộ gồm tám đồng chí do Huyện ủy
chỉ định như sau: Nguyễn Thị Liên (Bí thư Đảng ủy), Võ Thành
Tâm, Nguyễn Văn Chỉnh, Phan Văn Giới, Cao Lê Hoàng, Võ Tái
Hưng, Trương Văn Hoàng, Lê Văn Hưng.
Điểm nhấn trong giai đoạn 1995-2000 của xã Hiệp Phước,
đó là các Khu công nghiệp Nhơn Trạch I, Nhơn Trạch II và Nhơn
Trạch III nằm trên địa bàn hoàn thành và bắt đầu đưa vào hoạt
động từ năm 1997. Sự ra đời của các khu công nghiệp, kế đến là
274

28.5 Page 275

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
các công ty, xí nghiệp nhà máy hình thành, kéo theo là hàng ngàn
lao động từ khắp nơi đổ về làm việc, sinh sống đã làm thay đổi
hoàn toàn diện mạo của Hiệp Phước, từ một xã thuần nông dần
chuyển thành khu đô thị mới với nét đặc trưng riêng.
Năm 1994 toàn xã có 1.887 hộ gia đình với 9.618 nhân khẩu,
tỉ lệ tăng dân số hằng năm là 0,6%, trong đó hầu hết các hộ gia
đình ở Hiệp Phước đều sống bằng nghề nông; năm 1995, dân số ở
Hiệp Phước là 9.762 người, tăng so với năm trước là 144 người.
Nhưng đến năm 2000, dân số trong xã đã lên đến 11.201, tăng
1.439 người so với năm 1995, trong đó phần lớn là lao động từ
nơi khác đến. Và trong những năm sau, tốc độ tăng dân số cơ học
ngày càng nhanh hơn nhiều. Việc tăng dân số cơ học quá nhanh
bắt đầu dẫn đến một số vấn đề cho địa phương, như chỗ ở, dịch
vụ ăn theo, an ninh trật tự... Giai đoạn này, trên địa bàn xã bắt đầu
hình thành một số khu nhà trọ cho công nhân lao động thuê ở, một
số hàng quán dịch vụ, đem đến thu nhập cho người địa phương
nhưng còn ở dạng tự phát và chưa phát triển mạnh.
Với diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn là 385
hecta, trong đó diện tích trồng lúa nước 276,14 hecta, hằng năm
địa phương đã lãnh đạo nhân dân gieo trồng 100% diện tích lúa
nước với tổng diện tích gieo trồng cả năm là 520 hecta, tăng hơn
20 hecta so với năm 1986. Năng suất lúa bình quân giai đoạn
này lên đến 3,5 tấn/hecta; so với thời kỳ đầu mới giải phóng, địa
phương phấn đấu năng suất lúa đạt 8 tạ/hecta, thì đến nay nhờ
người dân biết áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, gieo trồng
giống lúa năng suất cao, kháng sâu bệnh, biết kỹ thuật bón thúc,
275

28.6 Page 276

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
bón lót đúng thời điểm nên năng suất đã tăng lên gấp 4,3 lần.
Nguyên nhân năng suất lúa đạt cao còn do xã thường xuyên phối
hợp với các cơ quan chức năng của huyện tổ chức các lớp khuyến
nông tập huấn cho người dân về kỹ thuật chăm sóc lúa, phòng trừ
sâu bệnh trên lúa. Xã cũng kịp thời vận động nông dân đắp bờ
bao, vét kênh mương, gia cố cũng như đắp các lỗ bể của đập ngăn
mặn Bà Ký không để nước mặn xâm nhập làm ảnh hưởng đến
năng suất lúa. Với năng suất này, bình quân lương thực đầu người
của xã đạt 396kg/năm, có tăng so với nhiệm kỳ trước nhưng vẫn
còn thấp so với một số xã xung quanh.
Về xây dựng vùng chuyên canh, địa phương đã vận động
người dân phá bỏ vườn tạp, xây dựng được 10 hecta vườn chuyên
canh các loại cây có hiệu quả kinh tế cao như chanh, nhãn, xoài.
Về chăn nuôi, số lượng đàn gia súc (như trâu, bò), gia cầm
(như gà, vịt) vẫn giữ ổn định, như đàn bò đạt 600 con/năm, trâu
150 con/năm, gà 20.000 con/năm, vịt 5.000 con/năm; riêng đàn
heo là 1.954 con, giảm mạnh so với thời gian trước do giá heo
xuống thấp mấy năm liền, người dân nuôi heo bị lỗ nên chỉ nuôi
cầm chừng, nuôi kiểu truyền thống mỗi hộ nuôi 1-2 con, không
có đàn heo đông. Để phòng ngừa dịch bệnh trên gia súc, gia cầm,
xã Hiệp Phước không chỉ phối hợp mở các lớp tập huấn kỹ thuật
chăn nuôi cho các hộ dân, còn thường xuyên tổ chức tiêm phòng.
Về tình hình thu thuế và thu ngân sách, hằng năm xã đều đạt
chỉ tiêu, cụ thể thu thuế các loại đạt bình quân 520 triệu đồng/
năm, thu ngân sách đạt bình quân 295 triệu đồng/năm. Tài chính
thu - chi hằng năm đều đảm bảo, không bị mất cân đối. Công tác
276

28.7 Page 277

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng đạt tốt, chỉ trong hai
năm từ 1996-1998 đã phối hợp với huyện cấp 1.550 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân có nhu cầu (trong đó có
171 giấy người dân chưa nhận do đời sống khó khăn, thiếu tiền
đóng thuế trước bạ). Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhanh chóng, kịp thời đã góp phần hạn chế việc tranh chấp đất
trong dân, gây mất tình làng nghĩa xóm.
Về công tác văn hóa - thông tin, xã luôn kịp thời tuyên truyền
các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nội
dung và ý nghĩa các ngày lễ lớn đến người dân, qua đó giáo dục
người dân ý thức chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật.
Mỗi ấp đều xây dựng được các đội văn nghệ hoặc đội lân, đội
xiếc, đội bóng đá, đội thể dục... nhằm phục vụ người dân giải trí
lành mạnh, vui khỏe, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Xã và
các ấp cũng thường xuyên tổ chức hội thi văn nghệ, thể thao giữa
các ấp, các xã trong huyện. Trong công tác Đền ơn đáp nghĩa, địa
phương tiếp tục hoàn chỉnh các hồ sơ công nhận liệt sĩ, Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, gia đình chính sách... Ngoài việc chi trả kịp thời
các trợ cấp theo quy định cho các gia đình chính sách, xã còn vận
động hỗ trợ cho ba Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong xã mỗi tháng
300 ngàn đồng/mẹ. Chỉ trong hai năm 1996-1998, địa phương
cũng vận động người dân đóng góp hơn 36 triệu đồng để sửa chữa
14 con đường giao thông nông thôn.
Trong công tác xây dựng Đảng, Chi ủy, và sau này là Đảng ủy,
đã tổ chức cho đảng viên học tập, quán triệt các nghị quyết Trung
ương, địa phương, đạt tỷ lệ 100% (trừ những đảng viên được miễn
277

28.8 Page 278

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
sinh hoạt theo quy định); thường xuyên nắm bắt, đánh giá diễn
biến tư tưởng của đảng viên để kịp thời có biện pháp giáo dục,
chấn chỉnh những đảng viên có biểu hiện lệch lạc; nhắc nhở đảng
viên chấp hành tổ chức kỷ luật Đảng; tăng cường sức chiến đấu
của Đảng, ngăn ngừa các thoái hóa, biến chất trong Đảng, không
để nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh trong đảng viên.
Trong nhiệm kỳ, Chi bộ cũng kết nạp được bảy đảng viên (chỉ tiêu
là kết nạp năm đảng viên mới), cùng với chín đảng viên chuyển từ
nơi khác về nâng tổng số đảng viên lên 48 người; không có đảng
viên bị xử lý kỷ luật. Công tác tập hợp hội viên vào các đoàn thể
cũng vượt chỉ tiêu. Đến cuối nhiệm kỳ, số lượng đoàn viên Đoàn
Thanh niên là 508 người, đạt tỷ lệ tập hợp 61,6%; số lượng hội
viên Hội Liên hiệp Phụ nữ là 2.847 người, tỷ lệ tập hợp là 75,02%.
Đảng ủy cũng đề ra một số phương hướng hoạt động trong
nhiệm kỳ 2000-2005 như sau:
- Vận động nông dân tiếp tục gieo trồng đạt 100% diện tích
lúa nước, năng suất lúa giữ ổn định 3,5 tấn/hecta, đưa tổng sản
lượng lương thực đạt 3.900 tấn/năm; phát triển mô hình trồng
xen canh (trồng lang, mì xen canh với điều, đã thực hiện hiệu quả
được 30 hecta). Giữ ổn định số lượng đàn bò 600 con/năm, trâu
150 con/năm, gà 20.000 con/năm, vịt 5.000 con/năm, heo 1.200
con/năm. Giữ vững diện tích rừng hiện hữu, đồng thời mỗi năm
trồng mới từ 3-5 hecta. Tiếp tục vận động người dân cải tạo vườn
tạp thành vườn chuyên canh.
278

28.9 Page 279

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Hoàn thành chỉ tiêu thuế, chỉ tiêu thu ngân sách, đảm bảo
cân đối thu - chi, thực hiện đúng nguyên tắc tài chính, không để
xảy ra tiêu cực.
- Tiếp tục chú trọng công tác tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn
nuôi cho các hộ dân, phối hợp với huyện mở từ 5-7 lớp khuyến
nông/năm; khuyến khích nông dân áp dụng chương trình IPM1
vào sản xuất, sử dụng các giống lúa cao sản, kháng bệnh. Phối
hợp tốt với ngân hàng, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm giúp các
hộ dân được vay ưu đãi, kịp thời nhằm phát triển sản xuất, kinh
doanh. Tiếp tục vận động nông dân thường xuyên gia cố đập ngăn
mặn Bà Ký, tu bổ, nạo vét kênh mương nội đồng. Làm việc với
Phòng Kinh tế huyện và Ủy ban nhân dân xã Long An trong việc
điều tiết lượng nước từ kênh thủy lợi của đập Long An, không để
ảnh hưởng đến các vụ mùa của nông dân Hiệp Phước. Kiểm tra,
quản lý chặt chẽ các cơ sở cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu, nông
dược các loại để đảm bảo sản xuất nông nghiệp có hiệu quả. Tiêm
phòng đầy đủ các loại vắc xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm
đúng định kỳ, điều trị và ngăn ngừa kịp thời các loại bệnh trên gia
súc, gia cầm, không để phát sinh dịch bệnh.
- Quản lý chặt chẽ vấn đề đất đai, vận động người dân sử dụng
đất đúng mục đích, đúng quy định; phấn đấu hoàn thành công tác
1  Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được áp dụng cho cây lúa và
các loại cây trồng khác, gồm năm nguyên tắc chủ yếu: chọn giống tốt, phù hợp
khí hậu địa phương; chăm sóc thường xuyên; nông dân có hiểu biết về khoa học
kỹ thuật, kỹ năng quản lý đồng ruộng; sử dụng thuốc hóa học hợp lý, đúng kỹ
thuật; bảo vệ những sinh vật có ích, giúp tiêu diệt dịch hại.
279

28.10 Page 280

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng hạn, không để
tồn đọng nhằm hạn chế tình trạng tranh chấp đất đai.
- Tăng cường các hoạt động phát triển dịch vụ, thương mại;
sắp xếp lại hoạt động tại các chợ, khu hoạt động dịch vụ tại khu
vực ngã tư Hiệp Phước và đường 25B, không để xảy ra tình trạng
buôn bán trái phép, buôn bán lấn chiếm lộ giới gây mất an toàn
giao thông, vi phạm các quy định của Nhà nước.
- Nâng cao chất lượng dạy và học trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo, tăng cường kết hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội trong
giáo dục và quản lý học sinh, ngăn chặn kịp thời không để tệ nạn
xã hội xâm nhập môi trường học đường, nhất là tệ nạn ma túy,
kiên quyết xử lý nghiêm nếu có vi phạm. Phấn đấu hằng năm có
80% giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi của trường, 10-20%
dạy giỏi cấp huyện; tỷ lệ học sinh Tiểu học tốt nghiệp đạt 95%,
Trung học cơ sở đạt 90%, huy động 100% học sinh trong độ tuổi
ra lớp, duy trì các lớp bổ túc văn hóa và phổ cập; duy trì danh
hiệu tiên tiến cấp ngành. Về cơ sở vật chất trường lớp, sẽ đề xuất
huyện cấp ngân sách xây dựng lại các trường tiểu học của ấp Bốn,
ấp Năm đã xuống cấp. Chú trọng trong công tác chăm sóc sức
khỏe cho người dân trên địa bàn, phấn đấu tiêm chủng cho trẻ em
đạt 100%.
- Tiếp tục vận động phong trào xây dựng nếp sống văn minh,
xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng xóm ấp, tổ văn hóa ở khu
dân cư, phấn đấu số hộ đăng ký gia đình văn hóa đạt 80-90%. Tiếp
tục tổ chức các hội thi văn nghệ, thể thao giao lưu giữa các ấp,
tham gia các hội thi của huyện, tỉnh.
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn,
người lao động các nơi đến Hiệp Phước làm việc nhiều, từ đó
dẫn đến nhiều diễn biến phức tạp về an ninh, trật tự. Lực lượng
công an, dân quân cùng cơ quan chức năng cần tăng cường công
tác đảm bảo an ninh trật tự, kiểm tra đăng ký tạm trú, tạm vắng,
kiên quyết với nạn lập lều quán buôn bán trái phép, đặc biệt ở
đường 25B có tình trạng một số hộ tạm trú mở quán trái phép có
biểu hiện bán bia ôm. Lực lượng du kích xã phối hợp với công an
tăng cường tuần tra trên địa bàn, nhất là vào các ngày cao điểm,
lễ tết, tham gia trực bảo đảm chất lượng. Xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ đạt 3% theo chỉ tiêu huyện giao, công tác huấn luyện
đạt 70%. Tăng cường công tác nắm địa bàn và trấn áp các loại tội
phạm, tệ nạn xã hội; phối hợp với các ban ngành, đoàn thể đẩy
mạnh phong trào Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Củng cố chất lượng sinh hoạt ở các chi bộ cơ sở, đảm bảo họp
chi bộ đúng ngày, làm việc với năm đồng chí đảng viên thường
vắng họp chi bộ và xử lý theo quy định của Điều lệ Đảng. Khắc
phục tồn tại trong thời gian qua là có một số cán bộ chưa được
giao nhiệm vụ cụ thể.
2. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất
Tháng 7.2000, xã Hiệp Phước tổ chức Đại hội Đảng bộ khóa I
nhiệm kỳ 2001-2005. Thời điểm này, tổng số đảng viên của Đảng
bộ là 48 đồng chí, sinh hoạt tại 6 chi bộ cơ sở. Trong thời gian qua,
địa phương bắt đầu có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm
dần tỷ trọng mảng nông nghiệp, tăng dần mảng công nghiệp - dịch
281

29.2 Page 282

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
vụ, đặt nền tảng cho yêu cầu đẩy mạnh phát triển công nghiệp
hóa, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp của địa phương tăng trưởng khá, giá trị
tổng sản lượng ngày càng cao. Vì nhiều nguyên nhân, trong đó
chủ yếu do định hướng của địa phương là giảm dần tỷ trọng sản
xuất nông nghiệp, diện tích đất sản xuất ở xã Hiệp Phước đến năm
2000 đã thu hẹp so với đầu nhiệm kỳ trước, còn 360 hecta (giảm
25 hecta), nhưng số diện tích đất đưa vào canh tác tăng do nông
dân gieo trồng các giống lúa ngắn ngày, năng suất cao đồng thời
ứng dụng khoa học kỹ thuật như đưa máy sạ lúa vào công đoạn
gieo sạ, từ đó không những giảm được sức lao động mà hiệu quả
gieo sạ tăng cao dẫn đến năng suất lúa cũng tăng, bình quân đạt
3,5 tấn/hecta, có nơi năng suất lên 4 tấn/hecta (năng suất bình
quân cả nước là 4,2 tấn/hecta). Ngoài diện tích rừng hiện có được
bảo vệ, công tác trồng cây trong những năm qua được xã phát
động trong nhân dân, tăng độ phủ xanh trên diện tích chung của
địa phương; đặc biệt là những mô hình vườn cây ăn trái chuyên
canh như nhãn, chanh và xoài.
Về chăn nuôi, đàn gia súc, gia cầm tuy được duy trì ổn định
nhưng chưa đem lại hiệu quả cao bởi giá cả bấp bênh. Liên tiếp
các năm 1998, 1999 giá gà xuống thấp dẫn đến người chăn nuôi
không có lãi. Bên cạnh đó, trong mô hình phát triển tổ hợp tác,
huyện hình thành 3 tổ hợp tác kinh tế: trồng mía ở xã Phú Đông,
nuôi tôm càng xanh ở xã Đại Phước, chăn nuôi heo ở xã Hiệp
Phước, nhưng do có một thời gian giá heo xuống thấp khiến người
282

29.3 Page 283

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nuôi bị lỗ bình quân 200 ngàn đồng/con heo nên mô hình chăn
nuôi heo theo tổ hợp tác ở Hiệp Phước bước đầu chưa thành công.
Thương nghiệp và dịch vụ được duy trì nhưng ở quy mô nhỏ,
mỗi năm số hộ kinh doanh tăng dần, tạo thành mạng lưới trong
các địa bàn, phục vụ tích cực cho cơ sở. Trong khi đó, thương
nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã hoạt động không thường
xuyên. Ngành ngân hàng với những nguồn vốn phát triển đã thực
hiện cho hộ dân vay kinh doanh, sản xuất với số lượt vay, nguồn
vốn đều tăng. Tính hiệu quả của nguồn vốn vay tập trung trong
sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, công nghiệp là phù hợp với quy
hoạch của địa phương, nhưng tổng thể còn ở mức nhỏ lẻ.
Trên cơ sở quy hoạch của địa phương, ba khu công nghiệp với
diện tích 1.173 hecta đều đi vào hoạt động, có 14 dự án được triển
khai với số vốn đầu tư 570,8 triệu USD đã đi vào sản xuất, qua đó
giải quyết trên 7.500 việc làm cho người lao động.
Tỷ lệ nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm nhưng giá trị gia
tăng tăng cao, tỷ lệ công nghiệp - thương mại - dịch vụ vươn lên,
đây là tiền đề để địa phương chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tính
chất thuần nông sang công nghiệp, tạo cơ sở cho tiến trình công
nghiệp hóa phát triển.
Nhiệm kỳ qua, Hiệp Phước cũng được huyện đầu tư mạnh
về hạ tầng, cơ sở vật chất. Trong đó, huyện đầu tư 500 triệu đồng
từ ngân sách để xây dựng mới trụ sở Ủy ban nhân dân xã khang
trang, tạo sự phấn khởi không chỉ cho đội ngũ cán bộ địa phương
mà cho cả người dân trong xã khi đến liên hệ làm việc với chính
283

29.4 Page 284

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
quyền địa phương. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông, cầu cống
cũng được đầu tư nâng cấp, mở rộng, gia cố. Hai tuyến đường
quan trọng trên địa bàn là hương lộ 19 và đường 25B, trước đây
hương lộ 19 chỉ là đường cấp phối trải sỏi, trải qua chiến tranh
đường nhiều lần bị phá nên hư hỏng nghiêm trọng, còn đường
25B trước năm 1975 là đường do địch ủi để có phương tiện cho
xe quân sự vận chuyển quân đội, vũ khí tiến vào khu vực Lòng
Chảo nên chỉ là đường đất đỏ mưa bùn nắng bụi, nhất là vào mùa
mưa thì sình lầy nhoe nhoét. Huyện đã đầu tư ngân sách thảm
nhựa nóng đường 25B, tạo điều kiện cho người và hàng hóa ở
Hiệp Phước cũng như các khu công nghiệp trên địa bàn lưu thông
thuận lợi; hương lộ 19 thì được bê tông hóa, đáp ứng nhu cầu của
người dân. Chợ Hiệp Phước, Trạm y tế Hiệp Phước cũng được
quy hoạch xây dựng mới.
Thời gian qua, Hiệp Phước đã được công nhận là xã đạt chuẩn
quốc gia về xóa mù chữ và tiếp tục thực hiện phổ cập cấp I. Mạng
lưới y tế được huyện tăng cường, củng cố từ đội ngũ thầy thuốc
(có biên chế bác sĩ và nhân viên y tế) đến đầu tư cơ sở vật chất
(khởi công xây mới Trạm y tế xã vào năm 2003) và đầu tư trang
thiết bị khám, chữa bệnh. Các chương trình y tế quốc gia, phòng
chống sốt rét, lao, phòng dịch, chăm sóc sức khỏe trẻ em, chống
suy dinh dưỡng... được thực hiện hiệu quả, bên cạnh đó các nhân
viên y tế phối hợp với cơ quan chức năng thực hiện công tác
phòng bệnh gắn với vận động nhân dân tích cực tham gia bảo vệ
môi trường, kế hoạch hóa gia đình, góp phần giảm tỷ lệ gia tăng
dân số tự nhiên (đạt 1,4%).
284

29.5 Page 285

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Về công tác xây dựng Đảng, địa phương chú trọng đẩy mạnh
trên cả ba mặt: tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống và tổ chức
nâng cao năng lực lãnh đạo, tinh thần chiến đấu của cán bộ, đảng
viên. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện
chặt chẽ, duy trì và giám sát hiệu quả góp phần ngăn chặn sự suy
thoái tư tưởng, đạo đức, tệ tham nhũng, lãng phí và nâng cao nhận
thức, phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên. Nguồn cán bộ
của xã được tạo điều kiện học tập, bồi dưỡng phù hợp để đáp ứng
yêu cầu việc tinh gọn bộ máy, quy hoạch phát triển.
Về tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, ngành công an nắm
chắc tình hình, tham mưu kịp thời trong xử lý, giải quyết kịp thời
các vấn đề có thể tạo ra điểm nóng gây xáo trộn xã hội. An ninh,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững dù có những tác
động tiêu cực do khó khăn trong quản lý địa bàn giáp ranh với các
khu vực lân cận. Với tinh thần chủ động phòng ngừa, đấu tranh
ngăn chặn từ đầu, lực lượng công an đã bám sát tình hình cơ sở.
Phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được
phát động rộng khắp địa bàn dân cư.
Các đại biểu tham dự Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước nhiệm
kỳ 2000-2005 cũng nghiêm túc chỉ ra một số bất cập trong công
tác lãnh đạo, điều hành trong thời gian qua như: chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng
tỷ trọng công nghiệp - thương mại - dịch vụ theo định hướng của
huyện còn chậm; sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn,
nhất là trong chăn nuôi, do giá cả bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào
thương lái mà chưa thấy được vai trò điều tiết của Nhà nước; địa
285

29.6 Page 286

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
phương chưa có vai trò chủ động trong phát triển thương mại -
dịch vụ, còn chạy theo sự phát triển tự phát của người dân; đời
sống người dân được nâng lên, nhưng đồng thời lối sống chạy
theo giá trị đồng tiền, tệ nạn xã hội cũng phát triển nhanh đã tác
động và góp phần gây suy thoái đạo đức con người. Tất cả những
hạn chế này là áp lực lớn cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng
ủy xã trong thời gian tới.
Đại hội nhất trí đề ra mục tiêu, phương hướng hoạt động trong
nhiệm kỳ 2000-2005 như sau:
- Xác định trong năm năm sắp tới, nông nghiệp vẫn còn giữ vị
trí hàng đầu trong phát triển kinh tế của địa phương. Do đó, cần
tiếp tục đẩy mạng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giữ
vững nhịp độ tăng trưởng, tăng cao tỷ trọng chăn nuôi trong cơ
cấu nông nghiệp. Chú trọng xây dựng quan hệ sản xuất mới, phát
huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ, khuyến khích nông dân phát
triển các hình thức hợp tác theo Luật Hợp tác xã. Phấn đấu giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng 5% mỗi năm.
- Về trồng trọt: Tăng cường khai thác hết diện tích đất có khả
năng sản xuất đưa vào canh tác với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù
hợp theo định hướng. Đẩy mạnh thâm canh, đưa giống mới, kỹ
thuật tiên tiến vào sản xuất, đạt năng suất cao. Phấn đấu đến năm
2005 đạt tổng diện tích gieo trồng 1.146 hecta, hệ số sử dụng đất
đạt 2,2 lần. Tập trung thâm canh, phấn đấu đạt diện tích đất lúa
là 845 hecta/năm, năng suất bình quân 3,5 tấn/hecta; mì 30 hecta/
286

29.7 Page 287

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
năm, năng suất 20 tấn/hecta; hoa màu các loại là 90 hecta, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng cho dân cư và khu công nghiệp. Cải tạo vườn
tạp thành vườn chuyên canh thêm 15 hecta.
- Về chăn nuôi: Phát triển mạnh chăn nuôi, phấn đấu đến năm
2005 tổng đàn gia súc, gia cầm đạt 30.000 con, trong đó: bò 600
con, trâu 150 con, heo 1.250 con, gà 20.000 con, vịt 8.000 con.
- Lâm nghiệp: Giữ vững diện tích rừng hiện có. Trồng mới
hằng năm từ 5-7 hecta. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và
quản lý chặt chẽ việc khai thác cây trồng.
- Về thương mại - dịch vụ: Quản lý chặt chẽ về mặt Nhà nước
đối với các hoạt động kinh doanh trên địa bàn xã. Sắp xếp lại hoạt
động của các chợ, giải tán chợ ấp Bốn, sắp xếp lại chợ ấp Ba (hoạt
động cả sáng và chiều). Trình kế hoạch đề nghị huyện chấp thuận
giải tỏa mặt bằng để tiến hành quy hoạch khu thương mại - dịch
vụ đúng quy hoạch, sử dụng đất khu trung tâm ngã tư Hiệp Phước.
- Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Xây dựng trụ sở làm việc cho
ấp Năm. Liên hệ các ngành chức năng của huyện xin xây mới
trường trung học cơ sở với sáu phòng học, xây mới tám phòng học
cho hai trường tiểu học (ấp Bốn sáu phòng, ấp Năm hai phòng).
Hoàn thành bốn tuyến đường giao thông nông thôn đã có dự án,
tiếp tục khảo sát để lập dự án bốn tuyến đường mới. Mở rộng
mạng lưới điện đã có để phục vụ cho 95% hộ dân trong xã.
- Về tài chính: Khai thác tốt các nguồn thu, thu đủ, thu kịp thời
theo Luật Ngân sách hiện hành nhằm đảm bảo nhu cầu chi cho địa
phương. Quản lý chặt chẽ việc thu nộp tài chính, chú trọng việc
287

29.8 Page 288

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thu các nguồn vận động đóng góp từ nhân dân. Đảm bảo thu thuế
hằng năm đạt 100% chỉ tiêu được giao (các nguồn thu từ thuế: 510
triệu đồng/năm, thu ngân sách: 648,129 triệu đồng/năm). Thực
hiện triệt để tiết kiệm chi, đảm bảo chi đúng chế độ quy định,
đúng yêu cầu phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của địa phương. Kết
hợp với cán bộ tín dụng của ngân hàng xét duyệt cho vay vốn kịp
thời để người dân sản xuất, kinh doanh. Xây dựng các dự án vay
vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
- Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo, phấn đấu hằng năm
100% học sinh 6 tuổi vào lớp Một, từ 95-100% học sinh tốt nghiệp
Tiểu học vào lớp 6, từ 75-85% học sinh tốt nghiệp Trung học cơ
sở vào lớp 10. Giảm tỷ lệ học sinh bỏ học xuống còn 0,2%. Phấn
đấu hằng năn có 80% giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp
trường, 10-20% đạt giáo viên giỏi cấp huyện và tỉnh. Duy trì các
lớp phổ cập và bổ túc văn hóa; giữ vững tiêu chuẩn phổ cập Tiểu
học và Trung học cơ sở. Củng cố tổ chức đảng trong các trường
học, phấn đấu hằng năm có 1-2 giáo viên kết nạp Đảng.
- Đảm bảo đến năm 2005 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm dưới
1,4%. Xây dựng tốt các chương trình hành động vì trẻ em; hạ tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng, giảm số trẻ em phạm pháp, số vụ xâm
phạm quyền trẻ em. Tổ chức chăm sóc tốt trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn.
- Tập trung công tác phòng chống dịch bệnh và các chương
trình quốc gia về phòng chống dịch bệnh, thực hiện nghiêm ngặt
việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng cường công tác
quản lý và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở trạm y tế xã.
288

29.9 Page 289

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Mở rộng các loại hình sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, vui chơi
giải trí lành mạnh phục vụ đời sống tinh thần của người dân, đồng
thời tăng cường quản lý tốt các hoạt động văn hóa - thông tin, thể
dục - thể thao trên địa bàn. Không ngừng cải tiến hình thức, nội
dung, chất lượng thông tin tuyên truyền của Đài truyền thanh xã.
Xây dựng một tụ điểm văn hóa xã. Đẩy mạnh phong trào thực
hiện nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa.
Phấn đấu đến năm 2005 có 90-95% hộ gia đình đăng ký thực hiện
gia đình văn hóa, 80-85% đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, 4/5 ấp
đạt ấp văn hóa.
- Tập trung giải quyết việc làm cho 1.500 lao động. Đẩy mạnh
thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, không để còn hộ đói.
Tiếp tục giảm hộ nghèo đến mức thấp nhất.
- Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh Ưu đãi người có công với
cách mạng, phong trào Đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc gia đình
thương binh - liệt sĩ và trước năm 2005 giải quyết cơ bản chính
sách tồn đọng sau chiến tranh. Đảm bảo thực hiện tốt công tác
thương binh, liệt sĩ.
- Xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, gắn thế trận
quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân. Thường xuyên
củng cố xây dựng lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, dự bị
động viên đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, chấp hành nghiêm
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng
chức năng; chủ động, linh hoạt, kiên quyết ngăn chặn, xử lý mọi
tình huống, sẵn sàng ứng phó với âm mưu diễn biến hòa bình, bạo
289

29.10 Page 290

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Làm tốt công tác phòng ngừa
tội phạm, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm hình sự, tệ nạn xã
hội trên các địa bàn trọng điểm. Phát động phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tăng cường quản lý các hoạt động xã hội
nhằm làm tốt công tác công tác an toàn giao thông, trật tự xã hội,
đăng ký quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý giáo dục đối tượng và
chống cháy nổ. Đảm bảo đạt 100% chỉ tiêu tuyển quân hằng năm.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy chính quyền, nâng cao
hiệu lực quản lý Nhà nước cấp xã. Xây dựng đội ngũ cán bộ xã có
trình độ chính trị, năng lực chuyên môn để nâng cao chất lượng
của bộ máy chính quyền. Có kế hoạch đào tạo nguồn cán bộ.
Thường xuyên tuyên truyền giáo dục, phổ biến sâu rộng pháp luật
trong cán bộ, đảng viên. Tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện
quyền giám sát trong các hoạt động của Nhà nước. Tiếp tục đổi
mới nội dung công tác vận động quần chúng, mở rộng dân chủ
trên mọi lĩnh vực. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể trong việc tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân
vào tổ chức, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng, góp phần thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra.
- Xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt. Đẩy mạnh
thực hiện đạt hiệu quả cao các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần II), tăng cường
sự thống nhất trong Đảng về nhận thức tư tưởng, ý chí hành động
theo đúng cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết Đảng và pháp luật Nhà
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nước. Giáo dục nâng cao nhận thức trong Đảng và nhân dân về
lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo
dục rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng. Thực hiện nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh công tác phê và tự phê
trong Đảng, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thường xuyên đổi
mới phương thức lãnh đạo và cải tiến lề lối làm việc của các cấp
ủy Đảng, lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra
trong 5 năm tới. Phấn đấu mỗi năm phát triển từ 5-10% số đảng
viên mới so với tổng số đảng viên của Đảng bộ; tất cả các chi bộ
đều phát triển đảng viên mới. Đảm bảo 100% các chi bộ, đảng
viên được học tập, quán triệt nghị quyết đầy đủ (trừ đảng viên
được miễn sinh hoạt theo quy định). Nâng cao chất lượng sinh
hoạt Đảng và quản lý đảng viên.
Đại hội cũng đưa ra những giải pháp chủ yếu, cụ thể:
- Thực hiện tốt công tác quy hoạch: Trên cơ sở quy hoạch tổng
thể của huyện, xã, từng bước theo quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp, vùng dân cư, vùng sản xuất nông, lâm nghiệp.
- Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng: Hoàn chỉnh hệ thống
kênh mương nội đồng, liên hệ Phòng Kinh tế huyện thực hiện dự
án nạo vét kênh Bà Ký với chiều dài 4.500m. Trình huyện các đề
án đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn, trong
đó đẩy mạnh công tác xã hội hóa.
- Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất: Đồng thời với việc phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
291

30.2 Page 292

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
công nghiệp, cần quan tâm quản lý tốt môi trường, môi sinh. Quản
lý tốt chính sách đất đai, đẩy mạnh tiến độ cấp phát giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tiếp tục khai thác và sử dụng có hiệu quả
tiềm năng đất đai, thực hiện chặt chẽ công tác quản lý đất đai, ưu
tiên khuyến khích nhân dân vay vốn trung hạn và dài hạn để cải
tạo vườn tạp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, điện nông
thôn, cơ giới hóa nông nghiệp.
- Chú trọng phát triển kinh tế hợp tác với hình thức, quy mô
thích hợp trên từng lĩnh vực theo Luật Hợp tác xã. Tăng cường
thực hiện quản lý Nhà nước đối với các hộ sản xuất, doanh nghiệp.
- Phối hợp tốt ba môi trường: Nhà trường - gia đình - xã hội
trong việc quản lý, giáo dục học sinh. Nâng cao hiệu quả công tác
quản lý trong nhà trường. Vận động thực hiện tốt Quỹ bảo trợ học
đường để giúp học sinh nghèo hiếu học, giáo viên có hoàn cảnh
khó khăn. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục trong và ngoài
nhà trường để đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục.
- Tích cực cải tiến lề lối làm việc trong việc ra và thực hiện
nghị quyết; trong thực hiện nghị quyết có sơ, tổng kết rút kinh
nghiệm. Cấp ủy xây dựng quy chế và làm việc theo quy chế. Chỉ
ra nghị quyết đối với những vấn đề thật cần thiết; nghị quyết ngắn
gọn, rõ ràng, sát tình hình thực tế, có phân công cụ thể trong việc
thực hiện. Tinh thần nghị quyết không trái với nghị quyết tổ chức
đảng cấp trên. Tổ chức tổng kết việc thực hiện nghị quyết đã ban
hành trước khi quyết định chủ trương trong nhiệm vụ mới.
292

30.3 Page 293

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đại hội đã bầu ra mười đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng
bộ, gồm: Huỳnh Thanh Hồng1 (Bí thư Đảng ủy),Võ Thành Tâm
(Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã)2, Nguyễn Văn Chỉnh, Phan Văn
Giới, Phạm Phước Tam, Võ Tái Hưng, Lê Văn Hưng, Trương Văn
Hoàng, Đặng Thành Được, Phan Văn Tôn. Đồng chí Lê Hiệp Này
nhận nhiệm vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
II. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG
NGHIỆP HÓA, NÂNG CAO MỌI MẶT ĐỜI SỐNG NHÂN
DÂN
1. Giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng phát triển
dịch vụ
Trong tháng 6.2005, Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước lần thứ
II (nhiệm kỳ 2005-2010) diễn ra với sự tham dự của 94 đảng viên
sinh hoạt ở 10 chi bộ trực thuộc.
Trong 5 năm qua, xã Hiệp Phước bước đầu có những thay đổi
lớn về nhiều mặt. Cùng với sự hình thành của ba khu công nghiệp
trên địa bàn, dân số của địa phương đã tăng mạnh. Nếu như năm
2000 toàn xã mới có 11.205 người, thì đến năm 2005 lên đến
18.682 người, tăng 66,8%. Việc dân số tăng quá nhanh trong thời
gian ngắn kéo theo rất nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội, an ninh trật
tự mà địa phương phải đối mặt giải quyết.
1  Đến năm 2003, đồng chí Huỳnh Thanh Hồng nhận nhiệm vụ Phó Trưởng
ban Tuyên giáo Huyện ủy, đồng chí Lương Tấn Thanh, Ủy viên Ban Chấp hành
Huyện ủy, làm Bí thư Đảng ủy.
2  Năm 2003, đồng chí Nguyễn Văn Cường thay đồng chí Võ Thành Tâm làm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
293

30.4 Page 294

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Nhiệm kỳ qua, toàn Đảng bộ xã đã nỗ lực thực hiện theo
phương hướng đề ra từ nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch nhiệm kỳ 2000-2005, đó là tiếp tục thực hiện chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hóa, góp
phần phát triển huyện Nhơn Trạch bước đầu cơ bản trở thành
thành phố mới, là đô thị loại 2 vào năm 2010, có công nghiệp -
dịch vụ và nông nghiệp phát triển, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được nâng cao; đồng thời, chuẩn bị các tiền đề vật
chất để tạo điều kiện thuận lợi cho việc định hình, phát triển và
hoàn thiện thành phố Nhơn Trạch nhằm phấn đấu trở thành đô thị
loại 1 trong các năm tiếp theo. Tạo thêm nhiều việc làm có trình
độ cao cho người lao động và thực hiện tốt công tác giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Xây dựng hệ thống chính trị huyện thực sự trong sạch vững mạnh
ngang tầm nhiệm vụ của thời kỳ mới; ngăn chặn có hiệu quả tệ
tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong mọi lĩnh vực để tạo điều kiện
cho đầu tư, phát triển. Tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân
dân và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ở lĩnh vực nông nghiệp, do phương hướng của xã là giảm dần
tỷ trọng sản xuất nông nghiệp chuyển sang sản xuất công nghiệp,
thương mại và dịch vụ, nên đến năm 2005 diện tích đất sản xuất
nông nghiệp chỉ còn 307 hecta, giảm 53 hecta so với đầu nhiệm
kỳ. Tuy nhiên, được Phòng Kinh tế huyện Nhơn Trạch giới thiệu
gieo trồng giống lúa OM.9582 là giống lúa ngắn ngày (90 ngày),
có khả năng kháng mặn tốt, năng suất cao nên nông dân vẫn thu
hoạch tốt. Theo ước tính của nông dân Hiệp Phước, gieo sạ khoảng
294

30.5 Page 295

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
100 kg lúa/hecta, sau 3 tháng chăm sóc với tỷ lệ hiệu quả từ 60-
80% sẽ thu hoạch bình quân khoảng 4,7 tấn. Trừ hết các khoản chi
phí như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, lúa giống, nhân công,
nông dân thu lời trên 30 triệu đồng/hecta. Đây là khoản thu nhập
tốt đối với người sản xuất nông nghiệp. Địa phương xây dựng, cải
tạo nhiều tuyến kênh đê, đảm bảo được lưu lượng nước tưới tiêu
cho các vụ sản xuất. Bên cạnh đó, địa phương cũng thành lập các
hợp tác xã, tổ hợp tác cung ứng vật tư nông nghiệp. Giai đoạn này,
xã Hiệp Phước giảm dần tỷ trọng nông nghiệp nên dừng không
thực hiện mô hình vườn chuyên canh do không còn phù hợp.
Những dịch vụ phát triển mạnh mẽ nhất ở Hiệp Phước giai
đoạn này là dịch vụ cho thuê phòng trọ, nhà nghỉ và kinh doanh
giải trí. Từ khi hình thành các khu công nghiệp trên địa bàn, dân
số của xã không ngừng tăng nhanh qua từng năm do số lao động
từ khắp nơi đổ về làm việc trong các nhà máy, công ty cũng như
lực lượng lao động tự do đến Hiệp Phước tìm cơ hội làm ăn, buôn
bán. Sự gia tăng dân số quá nhanh, trong đó phần lớn là lao động
nhập cư, đã tạo ra áp lực lớn cho địa phương về nhà ở, trường học,
y tế, nhu cầu hưởng thụ văn hóa giải trí, an ninh trật tự... Trong
đó, áp lực nhất là nhu cầu về chỗ ở. Trong lúc doanh nghiệp, địa
phương chưa có sự đầu tư về chỗ ở, việc hình thành các cơ sở
thuê trọ trong dân, dù tự phát nhưng đã góp phần quan trọng trong
việc giải quyết chỗ ở cho lao động nhập cư. Chỉ tính đến cuối năm
2006, cả xã có 406 cơ sở cho thuê phòng trọ và nhà nghỉ với 3.850
phòng ở, đáp ứng nhu cầu cho 9.200 công nhân, người lao động
ở nơi khác đến cư trú; và dự báo sẽ còn tăng nhanh trong những
295

30.6 Page 296

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
năm tới do sự phát triển của các khu công nghiệp. Mặc dù đây là
loại hình dịch vụ mới phát triển nhưng đã đem lại nguồn thu nhập
ổn định, hiệu quả kinh tế cao cho người dân Hiệp Phước.
Cùng với sự tăng nhanh về dân số, địa phương còn phát triển
nhiều ngành nghề dịch vụ khác: sửa chữa vật dụng gia đình,
mua bán, sửa chữa điện - điện tử, phương tiện giao thông (xe
ôm, thuê ô tô), gia công vật dụng trang trí nội thất, may mặc, cắt
uốn tóc, bách hóa tổng hợp, vật liệu xây dựng, thực phẩm tươi
sống, cầm đồ, karaoke... Năm 2005, trên địa bàn xã có 685 cơ
sở sản xuất, kinh doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,
thương mại và dịch vụ, đến năm 2010 toàn xã có 1.220 cơ sở sản
xuất, kinh doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương
mại và dịch vụ, tăng 535 cơ sở, tỷ lệ tăng 78,1%. Các chợ trên địa
bàn Hiệp Phước đều mở rộng buôn bán, sầm uất hơn, số lượng
hàng hóa phong phú, đa dạng, cung cấp đầy đủ các mặt hàng thiết
yếu, phục vụ tốt các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất của
người dân.
Đảng ủy cũng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban nhân dân
xã tổ chức rà soát, thống kê lại diện tích đất công. Công tác đầu
tư phát triển mạng lưới điện nông thôn thực hiện đạt mục tiêu đề
ra là hoàn thành 11 tuyến hạ thế với chiều dài 1.350m; thực hiện
nối tuyến, mở rộng lưới điện quốc gia ở 16 địa điểm với chiều dài
3.917m. Địa phương cũng phối hợp với các cơ quan chức năng
của huyện thực hiện hoàn thành 6/7 công trình xây dựng cơ bản,
đạt 87,5% chỉ tiêu kế hoạch; nâng cấp, sửa chữa 34 tuyến đường
giao thông nông thôn với tổng kinh phí gần 2 tỷ đồng, trong đó
296

30.7 Page 297

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
thực hiện bên tông hóa 6 tuyến đường với tổng chiều dài 1.600m,
thảm nhựa 3 tuyến đường với chiều dài 1.200m.
Công tác giảm nghèo cũng được địa phương thực hiện tốt.
Đầu năm 2005, toàn xã có 160 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 1,06%; đến
cuối năm 2009, xã còn 106 hộ nghèo, chiếm 0,62% trên tổng số
hộ trong địa bàn xã, gần đạt mục tiêu nghị quyết đề ra (không quá
0,5%). Bên cạnh đó, trong nhiệm kỳ qua địa phương đã hỗ trợ
300-500 lượt hộ vay vốn từ 1-1,5 tỷ đồng để sản xuất, kinh doanh,
góp phần nâng cao đời sống và giúp người dân làm giàu chính
đáng, hợp pháp.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ khóa II nhiệm kỳ
2005-2010 gồm chín đồng chí: Phan Văn Tôn (Bí thư Đảng ủy,
sau đó đồng chí Trần Văn Đạo, Huyện ủy viên, thay thế đồng chí
Tôn giữ nhiệm vụ Bí thư; đến năm 2009 đồng chí Nguyễn Văn Lo
thay thế đồng chí Đạo), Võ Tái Hưng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã), Nguyễn Văn Chỉnh, Phan Văn Giới, Hồ Thị Hiệp, Nguyễn
Thành Phú, Lê Văn Hưng, Nguyễn Tấn Xuân, Đặng Thành Được
(Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc), Đoàn Văn Trúng.
2. Nâng cao đời sống văn hóa nhân dân
Ngày 19.5.2010, tại hội trường Ủy ban nhân dân xã Hiệp
Phước đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Hiệp Phước lần thứ
III (nhiệm kỳ 2010-2015) với 160 đại biểu chính thức tham dự.
Các đại biểu tham dự đại hội đã tập trung đánh giá kết quả
đạt được trong nhiệm kỳ 2005-2010. Trong những năm qua, Hiệp
Phước được đánh giá là xã có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
297

30.8 Page 298

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhanh. Trên địa bàn đã hình thành và phát triển nhiều khu công
nghiệp tập trung, góp phần giải quyết việc làm cho hầu hết người
lao động địa phương; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng
do Đại hội Đảng bộ lần II (nhiệm kỳ 2005-2010) xác định (công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp). Kết cấu hạ tầng kinh tế ngày càng
được quan tâm đầu tư. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội luôn được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, công tác
vận động quần chúng được chú trọng; bộ máy chính quyền ngày
càng củng cố, kiện toàn theo hướng trẻ hóa, chuẩn hóa. Mối quan
hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân ngày càng gắn bó hơn.
Đây là những thuận lợi cơ bản giúp Đảng bộ lãnh đạo hoàn thành
các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước lần thứ
II (nhiệm kỳ 2005-2010) đề ra.
Trên lĩnh vực kinh tế, năm 2010 trên địa bàn xã có 1.220 cơ sở
sản xuất, kinh doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương
mại và dịch vụ. Các ngành nghề sản xuất, kinh doanh ngày càng
đa dạng, phong phú, đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu đời sống, sinh
hoạt của nhân dân, nhất là người lao động có thu nhập thấp. Trong
nhiệm kỳ đã thành lập được một hợp tác xã dịch vụ vệ sinh môi
trường, đến nay hoạt động đã đi vào nề nếp, đạt hiệu quả, góp
phần giải quyết cơ bản lượng rác thải sinh hoạt trong dân. Tuy
nhiên, do diện tích đất sản xuất bị thu hẹp, nông dân sản xuất nông
nghiệp chỉ mang tính tự phát nhỏ lẻ nên việc thành lập hợp tác xã,
tổ hợp tác cung ứng vật tư nông nghiệp theo nghị quyết Đại hội đề
ra chưa triển khai thực hiện được.
298

30.9 Page 299

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Về trồng trọt, 5 năm qua diện tích đất sản xuất giảm 76 hecta
so với đầu nhiệm kỳ, nhưng diện tích cây trồng hằng năm thực
hiện đều đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch; năng suất lúa bình quân đạt
3,7 tấn/hecta. Nhằm nâng cao năng suất cây trồng, xã đã thực hiện
xây dựng, cải tạo nhiều tuyến kênh đê, đảm bảo được lưu lượng
nước tưới tiêu cho các vụ sản xuất. Do địa phương có sự chuyển
dịch nhanh từ sản xuất sang các ngành dịch vụ nên diện tích cây
trồng giảm, người dân chỉ canh tác trên diện tích nhỏ và duy trì
các loại cây ăn trái phân tán nên việc cải tạo, thực hiện các mô
hình vườn chuyên canh là không phù hợp với đặc điểm sản xuất
nông nghiệp tại địa phương.
Ngành chăn nuôi thời gian qua cũng phát triển đúng định
hướng địa phương đề ra. Tuy diện tích chăn nuôi giảm, nhưng
tổng đàn gia súc tăng 1.570 con so với đầu nhiệm kỳ. Công tác
tiêm phòng các loại bệnh thường xuyên được quan tâm nên đàn
gia súc, gia cầm phát triển tốt, không xảy ra dịch bệnh.
Để hỗ trợ người dân sản xuất, kinh doanh, địa phương luôn
tạo điều kiện thuận lợi trong việc vay vốn ngân hàng và các nguồn
tín dụng khác, đảm bảo cho vay đúng đối tượng, mục đích. Mỗi
năm, xã hỗ trợ lập hồ sơ vay vốn cho từ 300-500 lượt hộ với số
tiền vay từ 1-1,5 tỷ đồng/hộ.
Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã tổ
chức rà soát, thống kê lại diện tích đất công và đang có hướng tổ
chức quy hoạch quản lý sử dụng đất công của xã theo đúng quy
định. Công tác cấp mới, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
299

30.10 Page 300

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
chỉ thực hiện được 77,9% chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Cơ quan chức
năng cũng lập biên bản, xử lý 306 trường hợp vi phạm về xây
dựng. Công tác đầu tư phát triển mạng lưới điện nông thôn đạt
mục tiêu đề ra là hoàn thành 11 tuyến hạ thế với chiều dài 1.350m;
thực hiện nối tuyến, mở rộng lưới điện quốc gia ở 16 địa điểm với
chiều dài 3.917m.
Địa phương cũng phối hợp với huyện thực hiện hoàn thành
6/7 công trình xây dựng cơ bản, đạt 87,5% chỉ tiêu kế hoạch; nâng
cấp, sửa chữa 34 tuyến đường giao thông nông thôn với tổng kinh
phí gần 2 tỷ đồng, trong đó thực hiện bê tông hóa 6 tuyến đường
với tổng chiều dài 1.600m, thảm nhựa 3 tuyến đường với chiều
dài 1.200m.
Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm thực hiện theo
hướng đô thị hóa, việc xử lý rác thải sinh hoạt được thực hiện, tuy
nhiên trên địa bàn lại phát sinh vấn đề ô nhiễm nguồn nước ngầm
do các nhà máy, công ty trong khu công nghiệp tập trung xả nước
thải. Mặc dù chính quyền địa phương đã nhiều lần kiến nghị về
vấn đề này, song tình trạng xả thải gây ô nhiễm môi trường từ các
khu công nghiệp vẫn chưa được khắc phục, giải quyết rốt ráo, đã
gây ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt của người dân.
Những năm qua, các nguồn thu ngân sách Nhà nước thực hiện
hằng năm đạt và vượt chỉ tiêu được giao; công tác thu thuế các
loại tăng 180% so với đầu nhiệm kỳ. Trong thực hiện chi ngân
sách, Đảng ủy đã lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã thực hiện chủ
trương tiết kiệm, hạn chế các khoản chi không cần thiết, đảm bảo
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
công tác điều hành thu chi ngân sách ở địa phương hằng năm đều
có kết dư, trong thu chi đảm bảo đúng Luật Ngân sách.
Sự nghiệp giáo dục của địa phương cũng có những bước phát
triển khá toàn diện. Hằng năm, tỷ lệ chiêu sinh vào lớp một và
lớp sáu đều đạt kế hoạch được giao; tỷ lệ học sinh lên lớp ở các
khối lớp đạt trung bình 98%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Tiểu học và
Trung học cơ sở trung bình đạt 99%, tỷ lệ bỏ học, lưu ban giảm
dưới 2%, tỷ lệ học sinh khá, giỏi năm sau cao hơn năm trước. Đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên từng bước được
nâng cao trình độ và chuẩn hóa. Công tác chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho người dân được quan tâm, từ đó các chương trình y tế
quốc gia, y tế cộng đồng, đặc biệt là chương trình tiêm chủng cho
trẻ em và bà mẹ mang thai hằng năm đều đạt chỉ tiêu. Tỷ lệ hộ gia
đình sử dụng nước sạch, hố xí hợp vệ sinh đạt 95%. Nhân viên
y tế cũng phối hợp với các cơ quan, ngành chức năng vận động
người dân phòng chống dịch bệnh, giữ gìn vệ sinh môi trường khu
dân cư; công tác kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm được thực
hiện tốt nên trên địa bàn không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào.
Trạm y tế giữ vững các tiêu chí chuẩn quốc gia.
Hằng năm, xã đều xây dựng kế hoạch thực hiện cuộc vận
động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư, số hộ đăng ký gia đình văn hóa đạt 100%, trong đó 98,26%
hộ được công nhận là gia đình văn hóa; 5/5 ấp được công nhận là
ấp văn hóa; xã đang xây dựng đề án xã văn hóa và phấn đấu thực
hiện các nội dung để đạt tiêu chí xã văn hóa. Địa phương cũng
301

31.2 Page 302

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
vận động thành lập được một câu lạc bộ gia đình công nhân hạnh
phúc và một nhóm phòng chống bạo lực gia đình, dù mô hình
chưa được nhân rộng nhưng bước đầu đã có tác động tích cực đến
nhận thức của người dân.
Xã quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo vay vốn từ nhiều
nguồn để làm kinh tế hộ gia đình, với tổng vốn hỗ trợ vay ưu đãi là
2,47 tỷ đồng; hỗ trợ 270 sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn
học tập với số tiền gần 2,2 tỷ đồng. Đầu nhiệm kỳ, xã có 160 hộ
nghèo, chiếm tỷ lệ 1,05% trong tổng số hộ của xã, đến cuối nhiệm
kỳ xã còn 106 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 0.62%, gần đạt chỉ tiêu nghị
quyết đề ra (dưới 0,5%).
Bằng nguồn vốn do cấp trên hỗ trợ và từ nguồn vận động,
trong nhiệm kỳ qua, địa phương đã hoàn thành việc xây dựng nhà
tình nghĩa cho các đối tượng chính sách; xây dựng, bàn giao 12
căn nhà tình thương cho các hộ nghèo. Công tác nhân đạo từ thiện
thường xuyên được chú trọng, quan tâm. Trong 5 năm qua, xã đã
tổ chức vận động, quyên góp giúp đỡ cho các hộ khó khăn với số
tiền là 1,15 tỷ đồng; đảm bảo việc cấp phát, trợ cấp cho các đối
tượng chính sách kịp thời, đúng, đủ. Ngoài ra, vào các dịp lễ tết,
xã cũng tổ chức họp mặt, thăm viếng nghĩa trang, thăm hỏi các gia
đình liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững, ổn định kể cả trong các ngày lễ, tết. Địa phương đã thực
hiện tốt công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, chủ động
phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả hoạt động của các
302

31.3 Page 303

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
loại tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn. Phong trào Quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được củng cố, phát triển và đã góp
phần hiệu quả trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống các
loại tội phạm. Trong nhiệm kỳ qua, đã phát hiện và giải quyết làm
rõ 295 vụ vi phạm, xử lý 318 đối tượng, trong đó chuyển huyện
xử lý 99 đối tượng với 116 trường hợp; đồng thời, tiến hành kiểm
tra hành chính 1.675 lượt ở các cơ sở, qua đó phát hiện 516 trường
hợp vi phạm, xử phạt hành chính 187 trường hợp với số tiền hơn
62,4 triệu đồng. Ngoài ra, công an xã còn kiểm tra xử lý hành
chính 801 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, nộp vào
ngân sách nhà nước trên 100 triệu đồng, từ đó góp phần giảm số
vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Công tác trực sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dân quân
thường trực được duy trì. Nhiệm vụ tuyển quân hằng năm đều
đạt chỉ tiêu. Địa phương đã tuyển chọn và gọi 84 thanh niên nhập
ngũ, trong đó có 6 đảng viên, 78 đoàn viên. Công tác đăng ký
thanh niên độ tuổi 17 được tổ chức thực hiện tốt hàng năm. Lực
lượng dân quân thường xuyên được củng cố xây dựng mới, đủ
theo chỉ tiêu huyện giao đạt 0,92% trên tổng dân số toàn xã, trong
đó đảng viên chiếm 14 %, đoàn viên 60%. Lực lượng dự bị động
viên được quản lý đúng theo quy định của pháp lệnh và chấp hành
tốt lệnh gọi tập trung kiểm tra quân số sẵn sàng động viên, huấn
luyện theo lệnh điều động của trên.
Việc tiếp dân được Đảng ủy địa phương quan tâm chú trọng
hơn, qua đó dần đi vào nề nếp. Nhiệm kỳ qua xã đã tiếp 588 lượt
303

31.4 Page 304

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
người, nhận 230 đơn khiếu nại, nội dung chủ yếu là tranh chấp đất
đai, hôn nhân gia đình và các tranh chấp khác. Kết quả hòa giải
thành 119 đơn, có 111 đơn chuyển cơ quan cấp trên giải quyết.
Công tác thanh tra cũng được tổ chức thực hiện thường xuyên
hàng năm, đã tổ chức được 5 cuộc thanh tra về tài chính, đất đai...
Công tác tuyên truyền pháp luật được thực hiện thường xuyên. Đã
thực hiện được 27 cuộc tuyên truyền cho cán bộ và nhân dân, qua
đó đã phổ biến đầy đủ các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp
đến đời sống nhân dân ở các lĩnh vực đất đai, hôn nhân gia đình,
phòng chống tội phạm, luật an toàn giao thông, khiếu nại tố cáo,
nghĩa vụ quân sự... Địa phương cũng thực hiện tốt việc tổ chức
tập huấn các văn bản pháp luật mới cho cán bộ, trang bị đầy đủ
tủ sách pháp luật xã; ổn định và củng cố 5/5 tổ hòa giải ấp và hội
đồng hòa giải xã, hoạt động ngày càng hiệu quả cao.
Nhiệm kỳ 2004-2009, Hội đồng nhân dân xã có 29 đại biểu
được cơ cấu tham gia ở các ban ngành, đoàn thể của xã và ấp.
Thời gian qua, hoạt động của Hội đồng nhân dân xã từng bước
được nâng cao chất lượng và đi vào chiều sâu; các đại biểu đã phát
huy được vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
và là cơ quan quyền lực ở địa phương. Trong nhiệm kỳ qua, Hội
đồng nhân dân xã đã tổ chức thành công 16 kỳ họp và ban hành
44 nghị quyết, tổ chức 38 cuộc khảo sát, giám sát trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn xã và đóng góp
86 ý kiến, kiến nghị giúp cho Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực
hiện tốt công tác quản lý Nhà nước trên địa bàn.
304

31.5 Page 305

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Bộ máy Nhà nước của địa phương thường xuyên được củng
cố, kiện toàn theo hướng tinh giảm; đội ngũ cán bộ, công chức
được bố trí đúng chuyên môn. Trong nhiệm kỳ 2005-2010 đã đưa
đi đào tạo 42 cán bộ, trong đó: đào tạo trình độ đại học 14 đồng
chí, trung cấp 14 đồng chí, sơ cấp chính trị 14 đồng chí. Đảng bộ
xã luôn quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ. Thực hiện Quyết định 140-QĐ/TU
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thu hút cán bộ có trình độ đại học,
cao đẳng về công tác tại xã, phường, thị trấn, địa phương đã tiếp
nhận 3 cán bộ về công tác tại xã. Về công tác cải cách hành chính,
xã đã triển khai cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, bước đầu
đạt được mục tiêu đề ra và có hiệu quả thiết thực.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã thường xuyên thay đổi nội
dung, phương thức hoạt động, vận động nhân dân tích cực tham
gia các phong trào thi đua yêu nước, hưởng ứng thực hiện các
cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư và Ngày vì người nghèo. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc ngày
càng thể hiện rõ hơn trong công tác hiệp thương, hòa giải và thực
hiện công tác giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật
và bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên và các tầng
lớp nhân dân. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng
bộ xã (khóa II), xã phát triển thêm 2 ấp văn hóa, tỷ lệ hộ gia đình
được công nhận gia đình văn hóa tăng 13,26% so với đầu nhiệm
kỳ; công tác vận động xây dựng nhà tình thương, quỹ học bổng
305

31.6 Page 306

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cho học sinh nghèo hằng năm đều đạt chỉ tiêu. Qua cuộc vận
động Ngày vì người nghèo, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã
vận động kinh phí thực hiện sửa chữa, nâng cấp 28 căn nhà tình
thương trị giá 266,8 triệu đồng, hỗ trợ 189 suất học bổng cho học
sinh nghèo trị giá 58,8 triệu đồng; tổ chức vận động tặng 2.141
phần quà cho các gia đình thuộc diện chính sách và hộ nghèo với
tổng giá trị trên 282 triệu đồng; vận động nhân dân đóng góp kinh
phí sửa chữa các tuyến đường giao thông nông thôn trong xã, tạo
được diện mạo địa phương với đường làng ngõ xóm khang trang
sạch đẹp, góp phần xây dựng xã văn hóa sau này.
Trong nhiệm kỳ II, Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ
xã tuy có sự thay đổi về nhân sự, chức danh Chủ tịch Hội thay
đổi ba lần nhưng hoạt động Hội vẫn được duy trì thường xuyên,
từng bước đi vào nề nếp và ngày càng nâng cao chất lượng hoạt
động. Tính đến nay, tỷ lệ tập hợp hội viên đạt 71,5% (3.415/4.775
người), so với năm 2005 tăng 1.924 hội viên, gần đạt mục tiêu
nghị quyết II đề ra. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, Hội
thường xuyên tổ chức tuyên truyền cho hội viên và quần chúng
sáu chương trình trọng tâm của Hội; tổ chức cho chị em học tập
và tìm hiểu về pháp luật, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật và sản
xuất, chăn nuôi; thông qua nguồn vốn của Quỹ quốc gia hỗ trợ tự
tạo việc làm (CEP), Hội đã giúp chị em hội viên vay vốn để phát
triển kinh tế gia đình. Ngoài ra, các hội viên còn được tham gia
các chương trình dân số, trẻ em, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng
gia đình hạnh phúc...
306

31.7 Page 307

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Với phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, Ban Chấp
hành Hội Nông dân xã đã tổ chức vận động hội viên phát triển
kinh tế, xóa nghèo làm giàu chính đáng, góp phần xây dựng nếp
sống mới ở nông thôn. Hằng năm, Hội phối hợp với các ngành
chuyên môn tổ chức các lớp học hướng dẫn việc ứng dựng khoa
học kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi; tổ chức các hoạt động
vận động hội viên khá giúp cho hội viên khó khăn, phối hợp với
ngân hàng nông nghiệp giúp vốn cho nông dân sản xuất ổn định
cuộc sống. Do trên địa bàn có nhiều dự án được triển khai nên diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, từ đó một bộ phận nông
dân đã chuyển đổi nghề nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sang các
ngành nghề khác dẫn đến việc tập hợp, phát triển hội viên có nhiều
khó khăn. Trên địa bàn xã hiện nay chỉ còn 318 hộ sản xuất nông
nghiệp; so với đầu nhiệm kỳ số hội viên giảm là 279 hội viên.
Thực hiện các mục tiêu về công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
giáo dục truyền thống cho đoàn viên thanh niên, Ban Chấp hành
Đoàn cơ sở đã tổ chức các đợt học tập để nâng cao hiểu biết về
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cho đoàn
viên và thanh thiếu niên, thông qua hình thức tổ chức lồng ghép
với các phong trào thanh thiếu niên. Nhằm xây dựng các phong
trào hoạt động thiết thực, ngoài việc thường xuyên thực hiện củng
cố, kiện toàn và phát triển lực lượng, Đoàn Thanh niên còn tổ
chức nhiều phong trào hành động cách mạng đạt được kết quả
thiết thực như: phân công đoàn viên tham gia điều tiết giao thông;
khuyến khích cán bộ, đoàn viên tự giác học tập để nâng cao trình
307

31.8 Page 308

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
độ; tham gia giáo dục, cảm hóa thanh niên lầm lỡ, chậm tiến...
Trong nhiệm kỳ 2005-2010, địa phương phát triển được 570 đoàn
viên, 573 hội viên thanh niên; tỷ lệ tập hợp thanh niên vào Đoàn
đạt 32,6%, chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra. Hiện nay, do đa số
thanh niên đều làm việc trong các công ty, xí nghiệp nên việc tổ
chức sinh hoạt Đoàn còn gặp nhiều khó khăn. Công tác giới thiệu
phát triển Đảng cho thanh niên dù được Đảng ủy quan tâm, song
kết quả đạt được thể hiện rõ công tác bồi dưỡng, giáo dục của tổ
chức Đoàn đối với thanh niên chưa được tổ chức chặt chẽ và có
kết quả nên công tác giới thiệu phát triển Đảng của tổ chức Đoàn
Thanh niên chưa đạt chỉ tiêu đề ra.
Trong nhiệm kỳ, Hội Cựu chiến binh xã phát triển được 17
hội viên, nâng tổng số hội viên lên 55 người, đạt 98% so với số
quân nhân xuất ngũ trên địa bàn. Hội đã vận động hội viên đóng
góp xây dựng Quỹ đồng đội với 100% hội viên tham gia, được 34
triệu đồng. Thông qua nguồn quỹ này, Hội đã giúp cho 10 hội viên
có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để buôn bán nhỏ, chăn nuôi
nhằm tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống gia đình.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên
được Đảng ủy xác định là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có
tính quyết định đến công tác xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng. Vì vậy, Đảng
ủy luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện kịp thời việc triển khai, quán
triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng các cấp, tăng cường giao
dục cho đảng viên, cán bộ, nhân dân nâng cao nhận thức, củng cố
308

31.9 Page 309

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
niềm tin vào đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập Nghị quyết của
Đảng đạt từ 96-98%. Trong nhiệm kỳ 2005-2010, nhìn chung tư
tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cơ bản ổn
định. Nhằm thực hiện có hiệu quả cao về công tác tư tưởng, Đảng
ủy đã chú trọng kiện toàn bộ máy làm công tác tuyên truyền và
tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, định hướng nội dung sinh
hoạt đảng cho các chi bộ trực thuộc; qua đó có biện pháp chấn
chỉnh kịp thời những sai phạm, vi phạm điều lệ Đảng trong cán
bộ, đảng viên.
Tiếp tục thực hiện mô hình “Đảng bộ xã lãnh đạo công tác
khoa giáo ở cơ sở”, Đảng ủy đã củng cố, kiện toàn Ban Tuyên
giáo xã và xây dựng được tờ tin của Đảng ủy hằng quý để đẩy
mạnh công tác tuyên truyền của Đảng tại các buổi sinh hoạt của
tổ nhân dân và hệ thống chính trị của các ấp.
Thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW ngày 7.11.2006 của Bộ Chính
trị (khóa X) về việc tổ chức thực hiện Cuộc vận động Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sau hơn 3 năm triển
khai thực hiện, Cuộc vận động đã có tác động khá toàn diện đối
với đời sống, sinh hoạt của các tầng lớp xã hội trên địa bàn. Ngay
từ những ngày đầu triển khai thực hiện Cuộc vận động, Đảng ủy
đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong Ban Chỉ
đạo và triển khai kịp thời kế hoạch thực hiện Cuộc vận động cho
toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đoàn thể trên
địa bàn. Với những nhiệm vụ cụ thể và những việc làm thiết thực,
309

31.10 Page 310

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
các chi bộ trực thuộc, các tổ chức chính trị đều có kế hoạch thực
hiện phù hợp với đặc thù của từng cơ quan trong từng thời điểm.
Mặc dù địa phương chưa xây dựng được mô hình riêng, song
việc triển khai thực hiện kế hoạch của cấp trên luôn được Đảng
ủy và toàn hệ thống chính trị từ xã đến ấp thực hiện kịp thời và
đạt được kết quả tích cực. Cuộc vận động đã tác động tích cực
đến tư tưởng, nhận thức của mọi cán bộ, đảng viên; mang lại hiệu
quả thiết thực cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên của Đảng bộ. Cuộc vận động đã tác động và có ảnh
hưởng lớn đến các tổ chức, cá nhân đang sinh sống, sinh hoạt trên
địa bàn xã; là yếu tố quan trọng, góp phần giúp Đảng bộ hoàn
thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của địa phương trong
những năm qua.
Trong nhiệm kỳ II, Đảng bộ đã thành lập mới 1 chi bộ và kết
nạp 58 đảng viên mới, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Thời điểm
này, Đảng bộ có 10 chi bộ trực thuộc với 143 đảng viên. Trong
hoạt động, Đảng ủy xây dựng cơ chế làm việc và đảm bảo nội
dung trong sinh hoạt đảng, nhất là việc tuân thủ nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt của Đảng; thực hiện thường xuyên công tác tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; tỷ lệ đảng viên sinh hoạt
định kỳ đạt từ 98% trở lên.
Đảng ủy xác định kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ hết sức quan
trọng, vì vậy đã phân công các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành
thực hiện nhiệm vụ giám sát theo chức năng, nhiệm vụ được cấp
ủy phân công. Song song đó, Đảng ủy cũng đã chỉ đạo Ủy ban
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Kiểm tra Đảng ủy, cấp ủy các chi bộ trực thuộc thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát đối với từng đảng viên theo qui định để kịp
thời uốn nắn những hạn chế, thiếu sót nhằm hạn chế những vi
phạm trong cán bộ, đảng viên. Hàng năm, Đảng ủy đều xây dựng
kế hoạch kiểm tra, giám sát đối với các chi bộ trực thuộc và một
số đồng chí cấp ủy viên. Trong nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ có
7 đảng viên bị xử lý kỷ luật với các hình thức: cảnh cáo 3 đồng
chí, khiển trách 4 đồng chí.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy đã xây dựng được quy chế
làm việc của Ban Chấp hành. Mọi hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ xã luôn tuân thủ nguyên
tắc tập trung dân chủ; những vấn đề quan trọng có liên quan đến
địa phương đều được Đảng ủy tổ chức lấy ý kiến, bàn bạc, thảo
luận kỹ trước khi quyết định. Nhằm tạo sự thống nhất cao và tập
trung lãnh đạo, Đảng ủy luôn đảm bảo thực hiện kịp thời việc xây
dựng Chương trình công tác hàng quý, hàng tháng để triển khai
thực hiện trong toàn Đảng bộ. Thường trực Đảng ủy, Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc xã luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ trong lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ hằng tuần thông qua thực hiện đều đặn chế độ hội
ý Thường trực bốn bên vào sáng thứ hai hàng tuần.
Đại biểu tham dự đại hội nhất trí đánh giá, đạt được những
kết quả trên là do tập thể Ban Chấp hành có sự đoàn kết, nhất trí
cao; phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của Đảng ủy luôn đảm
bảo tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện đúng quy chế
311

32.2 Page 312

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
đề ra; chương trình công tác hàng tháng, hàng quý, hàng năm do
Đảng ủy đề ra luôn gắn liền với những nhiệm vụ chính trị trọng
tâm, phù hợp với đặc thù của địa phương. Mặt khác, việc phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ xã đến ấp và sự hưởng ứng,
đồng tình của nhân dân đối với các chủ trương của địa phương có
thể xem là những nguyên nhân cơ bản giúp Đảng bộ hoàn thành
tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ qua.
Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khuyết
điểm trong nhiệm kỳ qua, như:
- Công tác lãnh đạo đầu tư phát triển kinh tế còn có mặt hạn
chế, lúng túng chưa tạo được bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; chưa xây dựng được các mô hình sản xuất nông nghiệp
phù hợp, có hiệu quả kinh tế cao; chưa khai thác được thế mạnh
của một địa phương đang phát triển, chưa có định hướng rõ nét
trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, tính tự phát còn phổ
biến, chưa phát triển được nhiều loại hình dịch vụ với quy mô lớn
để phục vụ đời sống nhân dân.
- Tiến độ triển khai của nhiều dự án trên địa bàn còn chậm,
đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sinh hoạt của người dân.
Việc đầu tư xây dựng đường giao thông nông thôn tuy thực hiện
đạt về số lượng, song chất lượng các công trình được thi công còn
nhiều hạn chế, chưa đảm bảo về thiết kế kỹ thuật nên thường hư
hỏng sau thời gian sử dụng, vì vậy còn để lãng phí về tiền của do
nhân dân đóng góp.
312

32.3 Page 313

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng, quản lý đất
công còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện tốt việc quản lý xây dựng
theo quy hoạch chung nên các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội chưa làm thay đổi được bộ mặt của xã.
- Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá, gia đình văn hóa,
ấp văn hóa tuy thực hiện đạt về số lượng nhưng chất lượng chưa
cao; tệ nạn xã hội còn tiềm ẩn chưa được giải quyết, xử lý triệt để.
- Mạng lưới trường lớp, cơ sở luyện tập thể dục thể thao trên
địa bàn chưa phát triển tương xứng với nhu cầu phát triển của một
xã đang phát triển. Trung tâm học tập cộng đồng, Hội khuyến học
hoạt động chưa hiệu quả; chưa mở được các lớp bổ túc văn hóa
theo mục tiêu Nghị quyết đề ra.
- Các điều kiện thiết yếu, cơ bản của các cơ sở kinh doanh
trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, ăn uống... chưa đảm bảo thực hiện
đúng theo quy định; việc quản lý các cơ sở này còn lỏng lẻo, tiềm
ẩn nhiều rủi ro.
- Chưa xây dựng được các mô hình sinh hoạt, vui chơi, giải trí
phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của nhân dân địa phương; các hoạt
động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ còn nghèo nàn, chưa thu hút
đông đảo người dân tham gia.
- Công tác nắm tình hình, điều tra cơ bản của lực lượng công
an còn những mặt hạn chế nên công tác quản lý địa bàn, quản
lý đối tượng chưa được chặt chẽ. Việc phối kết hợp giữa các lực
lượng chưa chặt chẽ. Điều kiện đảm bảo vật chất, tinh thần cho
313

32.4 Page 314

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cán bộ công an, lực lượng dân quân còn thấp so với yêu cầu thực
tế, đời sống của cán bộ còn nhiều khó khăn nên ý thức trách nhiệm
chưa cao, hiệu quả hoạt động còn thấp.
- Một số Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và các quy định của
Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân
dân. Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh tuy được triển khai thực hiện kịp thời, đảm bảo kế
hoạch đề ra, song việc kiểm tra, theo dõi kết quả thực hiện ở từng
tổ chức, đoàn thể chưa được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo thường
xuyên. Do vậy, việc phát hiện, tôn vinh và nhân rộng những nhân
tố tích cực, những mô hình tiêu biểu còn hạn chế nên cuộc vận
động chưa có sức lan tỏa rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân trên
địa bàn.
- Chất lượng quản lý, điều hành bộ máy Nhà nước chưa ngang
tầm với nhiệm vụ; hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, đôi khi chưa đảm bảo thực hiện đúng quy chế đề ra; việc đề
ra các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội để chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều hạn chế.
- Công tác tuyên truyền, vận động và nắm bắt tư tưởng cán
bộ, đảng viên, dư luận xã hội chưa sâu sát và kịp thời nên hiệu
quả thực hiện các chủ trương của Đảng tại địa phương chưa đạt
kết quả cao.
- Công tác quản lý, điều hành của Nhà nước chưa thể hiện tính
chủ động, đôi lúc thiếu kiên quyết nên chậm khắc phục những tồn
tại, yếu kém; chưa xây dựng được các mô hình cụ thể để đầu tư
314

32.5 Page 315

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
phát triển kinh tế - xã hội nên quá trình phát triển của địa phương
còn mang tính tự phát. Công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây
dựng còn yếu kém, xử lý vi phạm thiếu kiên quyết nên để lại
những hậu quả khó khắc phục, gây cản trở cho việc thực hiện các
chương trình đầu tư phát triển tại địa phương trong thời gian tới.
- Hoạt động của khối vận, Mặt trận và các đoàn thể còn nhiều
lúng túng, nhất là trong công tác phối kết hợp; đôi khi chưa tạo
sự đồng bộ trong công tác tuyên truyền, vận động nên kết quả đạt
được không cao. Một số đoàn thể chưa xây dựng được mô hình
hoạt động thiết thực để thu hút quần chúng tham gia, chưa quan
tâm xây dựng các điển hình tiên tiến để nhân rộng; từ đó chưa cổ
vũ mạnh mẽ phong trào quần chúng ở địa phương.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tuy được
giữ vững, ổn định nhưng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp.
Những tồn tại, hạn chế trên được đại hội phân tích chủ yếu là
do các nguyên nhân như:
- Trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên nhìn chung còn
nhiều hạn chế; một số ít cán bộ ý thức phục vụ chưa cao. Đội ngũ
cán bộ vẫn còn tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”, kinh nghiệm
thực tế còn hạn chế, chưa thật sự yên tâm với nhiệm vụ được phân
công, vì vậy ít quan tâm đầu tư nâng cao trình độ, còn ỷ lại, đùn
đẩy trách nhiệm lẫn nhau, làm việc thiếu kế hoạch và biện pháp tổ
chức thực hiện nên hiệu quả chưa cao.
- Một số cán bộ, đảng viên chưa thực sự chủ động trong thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn, chưa có sự nghiên cứu sâu về Luật và
315

32.6 Page 316

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
các văn bản dưới Luật cũng như chỉ đạo của cấp trên trong thực
hiện nhiệm vụ nên còn để xảy ra sai phạm.
- Một số cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần đấu tranh xây dựng,
vẫn còn biểu hiện “bằng mặt không bằng lòng”, còn sợ bị cô lập,
ngại đụng chạm nên hiệu quả giải quyết công việc không cao.
- Một số chế độ, chính sách của Nhà nước đối với cán bộ cấp
cơ sở chưa thật phù hợp nên chưa có tác dụng kích thích, động
viên cán bộ cơ sở phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Qua quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
xã lần II, nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ rút ra các bài học kinh
nghiệm như sau:
- Cán bộ, đảng viên (nhất là cán bộ chủ chốt) phải nắm chắc,
hiểu đúng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng; phải gương
mẫu, nói và làm theo Nghị quyết; đồng thời, từng cán bộ, đảng
viên phải không ngừng tự học, tự rèn, nâng cao trình độ, giữ vững
phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên để làm nòng cốt
cho các phong trào hành động cách mạng; từ đó, tạo niềm tin cho
quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của toàn Đảng bộ.
- Công tác lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà
nước phải cương quyết; phải biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo
các chủ trương, chính sách của Đảng vào tình hình thực tế của địa
phương để xây dựng các chương trình hành động có tính trọng
tâm, trọng điểm nhằm tạo sự đột phá, phát triển bền vững. Trong
lãnh đạo, điều hành phải đảm bảo thực hiện đúng quy chế đề ra;
316

32.7 Page 317

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
phải xây dựng kế hoạch thực hiện với những giải pháp cụ thể, có
phân công và kiểm điểm kịp thời.
- Nội dung hoạt động của Khối vận, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể phải thiết thực, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo chất
lượng, đi vào chiều sâu; đặc biệt, phải phục vụ cho nhiệm vụ
chính trị của địa phương và lợi ích của người lao động.
- Công tác tổ chức - cán bộ, kiểm tra, giám sát phải được chú
trọng thực hiện thường xuyên; phải thực hiện tốt quy chế dân chủ
và xây dựng được khối đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, đơn
vị, cấp ủy Đảng và thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình
trong từng cơ quan, đơn vị và các tổ chức đảng.
- Phải giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng nhân
dân để tạo sức mạnh tổng hợp trong việc tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Các đại biểu nhận định, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa
phương trong giai đoạn 2010-2015, Đảng bộ xã Hiệp Phước có
những thuận lợi và khó khăn cơ bản sau:
- Cơ cấu kinh tế đã chuyển đổi theo đúng định hướng đề ra:
Công nghiệp phát triển mạnh nên đã góp phần thúc đẩy cơ cấu
kinh tế địa phương có sự chuyển dịch nhanh theo hướng phát
triển nhanh các ngành thuộc lĩnh vực thương mại - dịch vụ; đất
nông nghiệp ngày càng giảm dần, vì vậy cơ cấu lao động đã có
sự chuyển dịch nhanh từ lao động nông nghiệp sang lao động phi
nông nghiệp. Từ đó, việc giải quyết việc làm, chăm lo đời sống
317

32.8 Page 318

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
vật chất, tinh thần cho người dân địa phương có nhiều thuận lợi.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững, ổn định.
- Bộ máy chính quyền từng bước được củng cố, kiện toàn theo
hướng trẻ hóa, chuẩn hóa về trình độ sẽ là một trong những yếu tố
cơ bản để Đảng bộ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa
phương trong thời gian tới.
- Nhiều khu công nghiệp được hình thành và đi vào hoạt động
sẽ tạo điều kiện để kinh tế địa phương phát triển, song cũng làm
nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là: trên địa bàn đã phát
sinh, phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm; tình hình ô
nhiễm môi sinh, môi trường ngày càng tăng và khó khắc phục.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn chưa được triển khai
đồng bộ.
- Trình độ và năng lực cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Do quá trình thực hiện đô thị hóa và triển khai các dự án nên
sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, nhiều hộ gia đình bị thu hồi đất,
chuyển vào sinh sống ở các khu tái định cư, từ đó đời sống một bộ
phận nhân dân vẫn còn khó khăn và khoảng cách giàu nghèo ngày
càng tăng. Trình độ văn hoá, tay nghề của đại bộ phận công nhân,
lao động vẫn còn thấp, trong khi đó lại chưa có cơ sở đào tạo.
Đại hội đã đề ra phương hướng chung trong nhiệm kỳ 2010-
2015 như sau: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng; tăng cường đoàn kết, tiếp tục củng cố,
318

32.9 Page 319

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
giữ vững kỷ cương, cải tiến và đổi mới phương thức làm việc của
cả hệ thống chính trị theo hướng hiệu quả, thiết thực. Tiếp tục phát
huy, khai thác các tiềm năng kinh tế của địa phương và thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, giảm
tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Đẩy mạnh phát triển
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội. Tập trung giải quyết
những vấn đề bức xúc của xã hội như: xóa đói giảm nghèo, tệ nạn
xã hội, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn. Phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa thông
tin, thể dục thể thao theo hướng phát triển bền vững. Tăng cường
quốc phòng - an ninh để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật
tự an toàn xã hội. Phát huy dân chủ, trí tuệ và trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị từ xã đến ấp để tạo sức mạnh tổng hợp nhằm
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2010-
2015. Quyết tâm xây dựng xã thành đơn vị vững mạnh toàn diện”.
Đến năm 2015, Đảng bộ xã phấn đấu thực hiện đạt các mục
tiêu chủ yếu sau:
Về cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông
nghiệp. Trong đó công nghiệp chiếm tỷ trọng 57%; thương mại,
dịch vụ: 33%; nông nghiệp: 10%.
- Phấn đấu đến năm 2015 thu nhập bình quân đầu người đạt
30 triệu đồng/người/năm.
- Phấn đấu thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu được giao hàng
năm.
319

32.10 Page 320

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Hoàn thành công tác cấp mới, cấp đổi 100% thửa đất trên
toàn địa bàn xã. Phấn đấu đến năm 2015 có 70-80% tuyến đường
giao thông nông thôn trên tổng số các con đường hiện có trên địa
bàn được nhựa hóa, bê tông hóa và các tuyến đường này đều có
đèn chiếu sáng.
- Hằng năm, 100% số hộ đều đăng ký xây dựng gia đình văn
hóa và 98% số hộ trở lên đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; cả 5/5 ấp
đều giữ vững danh hiệu ấp văn hóa; xã đạt tiêu chuẩn xã văn hóa.
- Giải quyết việc làm cho trên 300 lao động mỗi năm.
- Phấn đấu đến năm 2015, xã không còn hộ nghèo (theo chuẩn
nghèo mới hiện nay).
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống mức dưới 1,1%; tỉ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 13%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 100%.
- Xây dựng được 1 trường học đạt chuẩn quốc gia; giữ vững
xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Hoàn thành chỉ tiêu giao quân và công tác huấn luyện lực
lượng dân quân, dự bị động viên hàng năm.
- Tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào các tổ chức đoàn thể
đạt tỷ lệ 80% trở lên, riêng Đoàn Thanh niên đạt từ 45% trở lên;
tỷ lệ đoàn viên, hội viên nòng cốt đạt 35%. Đảm bảo tỷ lệ đoàn
viên, hội viên tham gia công tác, sinh hoạt thường xuyên đạt 75%
trở lên.
- Tỉ lệ đảng viên tham gia học tập nghị quyết, chỉ thị của Đảng
đạt 100%.
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Phấn đấu tỷ lệ phát triển đảng viên mới hằng năm từ 8-10%/
năm so với tổng số đảng viên hiện có của đầu năm (trong đó phát
triển đảng viên trong độ tuổi thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự
từ 1-2 đảng viên/năm).
- 100% chi bộ trực thuộc được kiểm tra hàng năm; 80% chi bộ
trực thuộc trở lên đạt trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ
sở đảng đánh giá ở mức trung bình và yếu kém.
- 80% số đảng viên trở lên được đánh giá là đảng viên đủ tư
cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đảng viên xuất sắc chiếm 15% trở
lên.
Những giải pháp chủ yếu được đại biểu nhất trí tại Đại hội
gồm:
- Tạo điều kiện và khuyến khích cho mọi hoạt động thương
mại, dịch vụ phát triển; chú trọng các ngành kinh doanh phục vụ
đời sống, sinh hoạt của người lao động có thu nhập thấp. Mở rộng
các dịch vụ vận tải, sửa chữa, thông tin liên lạc, tín dụng, vui chơi
giải trí... Phối hợp các ngành chức năng của huyện đôn đốc chủ
đầu tư triển khai nhanh Khu trung tâm thương mại; hoàn thành
việc xây dựng và đưa vào hoạt động chợ tạm ấp Ba.
- Tăng cường công tác kiểm tra, đăng ký kinh doanh, chống
buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, kinh doanh
hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng.
- Vận động các doanh nghiệp nhỏ thành lập hợp tác xã thương
mại dịch vụ.
321

33.2 Page 322

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Khuyến khích mở rộng các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp; đồng thời phải đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Hình thành các tổ hợp tác trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm; chú trọng
chất lượng, giá thành sản phẩm.
- Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế: chuyển
20% diện tích đất nông nghiệp hiện có sang trồng các loại cây có
giá trị kinh tế cao (khoảng 67 hecta); chú trọng thực hiện các mô
hình sản xuất nông nghiệp đô thị, có hiệu quả kinh tế cao như:
trồng cây cảnh, rau sạch, chọn giống mới để cải tạo vườn tạp...
- Sử dụng hiệu quả diện tích đất nông nghiệp còn lại để trồng
lúa, trong đó chú trọng sử dụng giống mới có năng suất cao; đẩy
mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật để phấn đấu đạt năng suất bình
quân 7 tấn/hecta/năm (bình quân trong 2 vụ).
- Thực hiện tốt các điều kiện phục vụ sản xuất nông nghiệp
(thủy lợi, cây, con giống, vốn đầu tư...); hình thành và phát huy
hiệu quả các loại hình kinh tế hợp tác trong sản xuất nông nghiệp
với các hình thức đa dạng, phong phú.
- Quy hoạch, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng hiện
đại đi đôi với nâng cao năng lực quản lý đô thị.
- Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống
đường giao thông nông thôn của các ấp; cải tạo, nâng cấp hệ thống
cống thoát nước dọc hương lộ 19, khu vực ngã tư Hiệp Phước và
đường thoát nước từ Khu công nghiệp Nhơn Trạch I đến kênh tiêu
322

33.3 Page 323

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Hiệp Phước; nâng cấp, bảo quản tốt hệ thống thủy lợi trên địa bàn
để phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện xã hội hóa để trang
bị hệ thống đèn chiếu sáng các đường giao thông nông thôn.
- Hoàn thành việc thi công xây dựng và đưa vào sử dụng trụ
sở Văn phòng ấp Một, Hai; cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc của
Ủy ban nhân dân xã.
- Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho các trường học để phấn
đấu xây dựng 1 trường đạt chuẩn quốc gia.
- Tăng cường công tác quản lý đất đai, sử dụng có hiệu quả
diện tích đất công.
- Chú trọng công tác bảo vệ môi trường; thực hiện kiểm tra
định kỳ, đột xuất đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hình
thành và phát huy hiệu quả Tổ quản lý trật tự vệ sinh đô thị nhằm
tăng cường công tác quản lý xây dựng, quản lý môi trường.
- Tiếp tục duy trì, vận động nhân dân tự nguyện đăng ký đổ
rác, tham gia bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan ở từng khu
dân cư.
- Phấn đấu thu đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao hàng năm.
- Tiếp tục rà soát, bổ sung và công khai các bộ thuế; khai thác
tốt các nguồn thu, tăng cường các biện pháp chống thất thu thuế,
thu hồi nợ quá hạn.
- Tập trung điều hành tốt hoạt động thu, chi ngân sách, đảm
bảo nhu cầu chi cho đầu tư phát triển, cho hoạt động của hệ thống
323

33.4 Page 324

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
chính trị; thực hành tiết kiệm, chi đúng chế độ tài chính hiện hành;
chú trọng công tác kiểm tra tài chính ở đơn vị để chống tham
nhũng.
- Phối hợp với ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng Chính sách
xã hội và các đơn vị tín dụng cho vay phục vụ sản xuất và đời
sống cho cán bộ và nhân dân, chú trọng cho vay trung và dài hạn
đối với các hộ đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh và các dịch
vụ khác.
- Tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp để nâng
cao chất lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đối với các bậc
học; huy động học sinh ra lớp đảm bảo chỉ tiêu hàng năm, phấn
đấu 100% trẻ em trong độ tuổi vào lớp 1 và lớp 6; ngày càng nâng
cao tỷ lệ giáo viên giỏi, học sinh giỏi và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
ở các bậc học.
- Thực hiện tốt hơn nữa công tác giáo dục truyền thống, giáo
dục đạo đức cho giáo viên và học sinh; tăng cường các biện pháp
ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học.
- Tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên, tạo điều kiện phát triển
mạnh trường lớp cho ngành học mầm non; quản lý tốt các hoạt
động nuôi dạy trẻ ngoài công lập.
- Tiếp tục huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển cơ sở
vật chất cho các trường học nhằm thực hiện tốt việc xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia, các lớp 2 buổi. Triển khai tốt cuộc
vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
324

33.5 Page 325

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
“Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục”; nắm chắc số lượng học sinh theo học các trường, động viên
các gia đình có con em không có điều kiện học phổ thông theo học
các lớp phổ cập, bổ túc văn hóa...
- Phát huy hiệu quả hoạt động của Hội Khuyến học, Trung
tâm học tập cộng đồng.
- Tiếp tục duy trì kết quả phổ cập bậc trung học nhằm nâng
cao dân trí, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
- Lãnh đạo thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, y tế
cộng đồng; làm tốt công tác y tế dự phòng để chủ động phòng
chống dịch bệnh; đẩy mạnh thực hiện chương trình suy dinh
dưỡng đối với trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trên địa bàn
xuống dưới 13%.
- Tăng cường kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi
trường và các hoạt động y tế cộng đồng khác.
- Đảm bảo công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân, nhất là
gia đình chính sách, hộ nghèo; giữ vững xã đạt chuẩn quốc gia về
y tế; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe
nhân dân.
- Đẩy mạnh chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình; thực
hiện tốt chiến dịch truyền thông lồng ghép với kế hoạch hóa gia
đình.
- Thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục - thể thao, khuyến khích phát triển các lọai hình dịch vụ vui
325

33.6 Page 326

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
chơi, giải trí lành mạnh, kiên quyết bài trừ văn hóa độc hại và các
loại tệ nạn xã hội khác.
- Tập trung thực hiện có trọng tâm, trọng điểm việc xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh nhất là trong việc cưới,
việc tang; tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư gắn với thực
hiện chương trình “Bốn giảm”.
- Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao kỷ niệm các ngày lễ lớn nhằm nâng cao đời sống tinh thần,
xây dựng phong trào thi đua trên từng địa bàn dân cư.
- Tăng cường quản lý Nhà nước đối với các hoạt động văn
hóa; phối hợp cơ quan chuyên môn tổ chức quy hoạch, sắp xếp
và tăng cường kiểm tra hoạt động của các dịch vụ văn hóa như:
internet, karaoke, kinh doanh băng đĩa và các dịch vụ văn
hóa khác...
- Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chú trọng
tuyên truyền về những nhiệm vụ chính trị của địa phương trong
từng thời điểm. Lãnh đạo tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền
về các ngày lễ lớn, về Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô hoạt động của mô
hình thông tin lưu động.
- Tăng cường các biện pháp bảo vệ an ninh gắn với bảo vệ trật
tự an toàn xã hội; đấu tranh có hiệu quả, ngăn chặn các loại tội
326

33.7 Page 327

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
phạm, phòng chống các hoạt động phá hoại của kẻ địch và hoạt
động của kẻ xấu trên địa bàn. Xây dựng, bổ sung phương án xử lý
có hiệu quả đối với các tình huống bạo loạn, biểu tình, gây rối...
- Lãnh đạo thực hiện tốt các kế hoạch liên tịch giữa Công an,
quân sự với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; kế hoạch phối hợp
tấn công trấn áp tội phạm, bảo vệ mục tiêu, địa bàn trọng điểm.
- Củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
tổ nhân dân; nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính về trật
tự xã hội, tập trung thực hiện tốt công tác quản lý cư trú; đẩy mạnh
các biện pháp, giải pháp thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về
các giải pháp kiềm chế, giảm dần tai nạn giao thông; quản lý tốt
các ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
- Tăng cường nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Lãnh đạo
thực hiện tốt công tác quân sự tại địa phương; xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ đảm bảo theo chỉ tiêu/dân số, đảm bảo chất lượng
chính trị và nắm vững nghiệp vụ, quản lý tốt lực lượng dự bị động
viên; đảm bảo công tác tuyển quân, hoàn thành 100% chỉ tiêu do
huyện giao hàng năm. Thực hiện công tác huấn luyện đảm bảo
quân số, chất lượng theo kế hoạch đề ra hằng năm. Phối hợp các
ngành liên quan thực hiện tốt công tác dân vận và thực hiện chính
sách hậu phương quân đội.
- Tạo điều kiện tốt nhất để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, chính trị cho Ban Chỉ huy quân sự xã và lực lượng dân quân
327

33.8 Page 328

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thường trực, ấp đội trưởng. Tăng cường phát triển Đảng cho lực
lượng dân quân, thanh niên nhập ngũ.
- Tiếp tục thực hiện việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng nhân dân thông qua việc nâng cao chất lượng
các kỳ họp, ra Nghị quyết và thực hiện vai trò giám sát; các đại
biểu Hội đồng nhân dân thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri
và giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của cử tri.
Thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ xã, ấp; đồng thời quy hoạch cán bộ
từ năm 2010 trở về sau đảm bảo về phẩm chất chính trị và năng
lực chuyên môn, bố trí cán bộ đúng chuyên môn đào tạo, có hiệu
quả trên mọi lĩnh vực.
- Quan tâm lãnh đạo, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và
hiệu quả trong điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; tiếp tục chỉ đạo thực
hiện tốt cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên
thông” trên các lĩnh vực.
- Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra và kiên
quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân, không để đơn thư tồn đọng, vượt
cấp. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp xây
dựng chính quyền cơ sở.
328

33.9 Page 329

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Thực hiện tốt việc quản lý tôn giáo theo đúng chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể, tránh hành chính hóa trong công tác vận
động quần chúng; lấy địa bàn dân cư, tổ nhân dân làm địa bàn
chính để hoạt động.
- Tiếp tục vận động đoàn viên, hội viên, quần chúng nhân dân
hưởng ứng thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao hơn nữa vai trò
lực lượng đoàn viên, hội viên nòng cốt.
- Chỉ đạo sâu sát và hiệu quả việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân trên từng lĩnh vực; tăng cường hơn nữa công tác dân vận
của chính quyền; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phối hợp giữa Nhà
nước với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trong công tác chăm lo
đời sống nhân dân và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Quan tâm nhiều hơn đến đời sống lực lượng đoàn viên, hội
viên nòng cốt; phấn đấu mỗi đoàn thể và Mặt trận xây dựng được
30% hội viên, đoàn viên nòng cốt; tiếp tục cải tiến hình thức sinh
hoạt, hội họp và chất lượng hoạt động của các chi, tổ hội các đoàn
thể cho phù hợp với tình hình địa phương.
- Tổ chức triển khai đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
đến đảng viên và tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến đoàn viên,
hội viên, quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức phù hợp.
Xây dựng chương trình hành động của cấp ủy Đảng một cách cụ
329

33.10 Page 330

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
thể, thiết thực và triển khai thực hiện kịp thời trong toàn Đảng bộ
xã để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống của nhân dân trên
địa bàn.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng
để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; từ đó, giúp cán bộ,
đảng viên hành động đúng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng,
không ngừng học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng và có quan
điểm rõ ràng để đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị.
- Đẩy mạnh công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ,
đảng viên và dư luận xã hội để phát hiện và xử lý kịp thời những
phát sinh về tư tưởng, qua đó uốn nắn những lệch lạc về tư tưởng;
đồng thời, có định hướng nội dung tuyên truyền phù hợp trong
Đảng và quần chúng nhân dân. Tăng cường giáo dục ý thức chấp
hành Điều lệ, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng cho toàn
thể đảng viên để nâng cao ý thức trách nhiệm của từng đảng viên.
- Thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên
gắn với thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, lấy hiệu quả công việc
cùng với sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo quá trình rèn
luyện, phấn đấu của cán bộ, đảng viên mỗi năm. Định hướng,
xây dựng những mô hình cụ thể trong triển khai thực hiện Cuộc
vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh để làm cơ sở giúp các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt cuộc
vận động.
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Gắn xây dựng Đảng với củng cố hệ thống chính trị: thực
hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chú trọng
và có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nguồn đạt chuẩn
về trình độ chính trị và chuyên môn; đảm bảo nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
- Chú trọng công tác lãnh đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ; mở rộng dân chủ trong Đảng. Lãnh đạo cấp ủy các chi
bộ trực thuộc thực hiện tốt việc xây dựng, bổ sung quy chế làm
việc kịp thời và phù hợp với tình hình của địa bàn dân cư, đơn vị
trực tiếp lãnh đạo. Phân công cụ thể trong cấp ủy, đồng thời, tăng
cường trách nhiệm cá nhân của từng cấp ủy viên trong lãnh đạo
thực hiện Nghị quyết của Đảng cấp trên.
- Chú trọng thực hiện thường xuyên công tác phát triển đảng,
đảm bảo thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu đăng ký hàng năm.
- Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ;
lãnh đạo các chi bộ thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và
thực hiện chặt chẽ công tác quản lý đảng viên, nhất là việc chấp
hành Quy định 115-QĐ/TW của Bộ Chính trị về những điều đảng
viên không được làm.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình gắn
với thực hiện quy chế dân chủ; tạo điều kiện để quần chúng nhân
dân tham gia xây dựng Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với chính quyền, Mặt trận, đoàn thể thông qua lãnh đạo, quản
lý tốt các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và cấp
ủy các chi bộ trực thuộc.
331

34.2 Page 332

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết,
chương trình hành động về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phòng
chống tham nhũng, tham ô, lãng phí; thực hành tiết kiệm; trách
nhiệm của người đứng đầu..., nhất là trên các lĩnh vực: tài chính
ngân sách, đất đai, xây dựng cơ bản và các khoản đóng góp của
nhân dân.
- Xây dựng, thực hiện tốt chương trình, kế hoạch kiểm tra,
giám sát của Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
- Kịp thời kiểm tra những tổ chức đảng, đảng viên có dấu
hiệu vi phạm; thực hiện nghiêm việc giáo dục, xử lý đảng viên
vi phạm; giải quyết kịp thời các đơn thư tố cáo, khiếu nại có liên
quan đến đảng viên.
- Tăng cường công tác phân công, theo dõi thực hiện nhiệm
vụ giám sát của các đồng chí cấp ủy viên đối với các chi bộ trực
thuộc, các ngành, đoàn thể theo phân công của cấp ủy Đảng.
- Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, củng cố, kiện toàn
đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra Đảng
ủy và các chi bộ trực thuộc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ xã lãnh đạo toàn hệ thống chính trị
bằng Nghị quyết, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực và
có tính thống nhất từ Đảng ủy xã đến các chi bộ trực thuộc. Đảng
ủy phải thường xuyên bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc phù
hợp với sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên và tình hình địa phương
trong từng thời điểm.
332

34.3 Page 333

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Duy trì và thực hiện có hiệu quả chế độ hội họp, hội ý theo
quy chế do Ban Chấp hành Đảng bộ xã thống nhất thông qua; đảm
bảo thực hiện đúng lịch tiếp dân theo định kỳ.
- Hằng năm, Đảng ủy chủ động tổ chức kiểm tra việc thực
hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành của cấp ủy các chi bộ trực thuộc; đồng thời, quyết định
những vấn đề có liên quan đến công tác củng cố, kiện toàn hệ
thống chính trị để lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa
phương.
Các đại biểu tham dự Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ xã Hiệp Phước khóa III (nhiệm kỳ 2010-2015) gồm chín đồng
chí: Võ Tái Hưng (Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân
xã), Đoàn Văn Trúng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã), Nguyễn Văn
Chỉnh, Nguyễn Tấn Xuân, Phan Minh Tiến, Nguyễn Văn Trường
(Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã), Nguyễn Hữu Trí, Phạm
Văn Rồng và Hồ Thị Hiệp.
3. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, đời sống
tinh thần người dân được nâng cao
Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước khóa IV (nhiệm kỳ 2015-
2020) được tiến hành vào ngày 8.8.2015 tại Trung tâm văn hóa
thể thao xã. Thời điểm này Đảng bộ có 226 đảng viên, sinh hoạt
ở 11 chi bộ.
Trong nhiệm kỳ qua, diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh,
chỉ còn chiếm tỷ lệ 21,83%, trong khi đó dân số lại tăng nhanh,
333

34.4 Page 334

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
tính đến tháng 3.2015 toàn xã có 37.605 nhân khẩu sinh sống ở
5 ấp, trong đó nhân khẩu thường trú chiếm tỷ lệ 51,4%, tạm trú
chiếm tỷ lệ 48,4%. So với 10 năm trước (năm 2005), dân số trong
xã tăng hơn gấp đôi (tăng 18.923 nhân khẩu).
Cơ cấu kinh tế của địa phương chuyển dịch đúng định hướng
Nghị quyết Đại hội lần III đề ra là tăng tỷ trọng lĩnh vực công
nghiệp, thương mại - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Đến cuối
năm 2014, trên địa bàn xã có 1.672 cơ sở sản xuất, kinh doanh
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ
(năm 2010 là 820 cơ sở), tăng 852 cơ sở, hơn gấp đôi so với đầu
nhiệm kỳ. Các ngành nghề sản xuất, kinh doanh ngày càng đa
dạng, phong phú, đảm bảo phục vụ tốt cho nhu cầu đời sống, sinh
hoạt của nhân dân, nhất là người lao động có thu nhập thấp. Địa
phương cũng vận động thành lập được 2 hợp tác xã, hoạt động đã
đi vào nề nếp, có hiệu quả, góp phần giải quyết nhu cầu sinh hoạt
trong nhân dân.
Ở lĩnh vực nông nghiệp, do địa phương có sự chuyển dịch
nhanh từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành dịch vụ dẫn đến
diện tích cây trồng giảm theo từng năm, so với đầu nhiệm kỳ (năm
2010) giảm 76 hecta, tuy nhiên diện tích cây trồng hằng năm thực
hiện vẫn đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch; năng suất lúa bình quân đạt
4,57 tấn/hecta. Nhằm nâng cao năng suất cây trồng, 5 năm qua xã
đã thực hiện xây dựng, cải tạo nhiều tuyến kênh đê, đảm bảo được
lưu lượng nước tưới tiêu cho các vụ sản xuất.
334

34.5 Page 335

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Tổng đàn gia súc tăng so với đầu nhiệm kỳ (tăng 1.570 con).
Công tác tiêm phòng các loại bệnh trên đàn vật nuôi thường xuyên
được quan tâm thực hiện nên đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt.
Nhìn chung, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp tỷ trọng chăn
nuôi tăng, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm dần, đảm bảo đúng
định hướng theo Nghị quyết đề ra.
Công tác quản lý quy hoạch, xây dựng luôn được Đảng ủy
quan tâm, chỉ đạo thực hiện thường xuyên nên đã có chuyển biến
rõ nét so với những năm trước đây; đã lập biên bản và xử lý 306
trường hợp vi phạm. Đến nay, hầu hết người dân địa phương đều
chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về xây dựng. Công
tác đầu tư phát triển mạng lưới điện nông thôn cũng được Đảng
bộ, chính quyền tập trung chỉ đạo nên đã đạt được mục tiêu đề ra;
đã hoàn thành 11 tuyến hạ thế với chiều dài 1.350m, thực hiện nối
tuyến, mở rộng lưới điện quốc gia ở 16 địa điểm, với chiều dài là
3.917m.
Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã tổ
chức rà soát, thống kê lại diện tích đất công và đang có hướng tổ
chức quy hoạch quản lý sử dụng quỹ đất công của xã theo đúng
quy định. Công tác cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt
100%, cấp phát giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện đạt
93%. Trong nhiệm kỳ 2010-2015 đã nâng cấp, sửa chữa 24 tuyến
đường giao thông nông thôn với tổng kinh phí 24.996 tỷ đồng;
trong đó thực hiện bê tông hóa 11 tuyến đường với tổng chiều dài
3.873m, thảm nhựa 13 tuyến đường, với chiều dài 5.885km.
335

34.6 Page 336

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Về cơ sở vật chất giáo dục, ngày 3.7.2013, xã Hiệp Phước đã
tiếp nhận và đưa vào sử dụng Trường Mầm non Eclat Hiệp Phước
với sức chứa khoảng 200 học sinh. Trường Mầm non Eclat Hiệp
Phước tọa lạc tại ấp Năm, có khuôn viên rộng 1.500m2, trong đó
có 600m2 là công trình xây dựng, bao gồm bốn phòng học, hai
phòng chức năng và các phòng bếp, phòng ăn khép kín với tổng
kinh phí trên 5 tỷ đồng, do Công ty TNHH dệt may Eclat (Khu
công nghiệp Nhơn Trạch 2) tài trợ. Ngoài việc đầu tư hoàn thiện,
Công ty TNHH Eclat còn trang bị toàn bộ bàn ghế, tủ, đồ dùng
dạy học, máy giặt tự động, âm thanh, màn hình LCD và đầu máy
cho tất cả các phòng, dụng cụ nấu ăn cho phòng bếp, đồ chơi ngoài
trời cho học sinh. Đây là mô hình xã hội hóa giáo dục rất hiệu quả,
sẽ được địa phương tiếp tục triển khai trong thời gian tới.
Địa phương tiếp tục kiến nghị đến các cơ quan chức năng về
tình trạng xả nước thải gây ô nhiễm môi trường của các nhà máy,
xí nghiệp ở khu công nghiệp dẫn đến nguồn nước ngầm trên địa
bàn xã bị ô nhiễm nghiêm trọng nhiều năm nay nhưng vẫn chưa
được khắc phục. Hiện tượng trên đã ảnh hưởng lớn đến đời sống
sinh hoạt của người dân địa phương.
Các nguồn thu ngân sách nhà nước thực hiện hàng năm đều
đạt và vượt chỉ tiêu được giao; công tác thu thuế năm 2014 tăng
50% so với năm 2010. Trong thực hiện chi ngân sách, Đảng ủy
lãnh đạo UBND xã thực hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, hạn
chế các khoản chi không cần thiết, đảm bảo công tác điều hành
thu chi ngân sách ở địa phương hàng năm đều có kết dư, trong thu
chi bảo đảm đúng Luật Ngân sách.
336

34.7 Page 337

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Sự nghiệp giáo dục của địa phương đã có những bước phát
triển khá toàn diện; đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu được giao. Hằng
năm, tỷ lệ chiêu sinh vào lớp 1 và lớp 6 đều đạt kế hoạch được
giao; tỷ lệ học sinh lên lớp các khối lớp trung bình đạt 98%; tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp bậc trung học cơ sở và tiểu học trung bình đạt
99%; tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban dưới 2%. Chất lượng giáo dục
của địa phương ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh khá giỏi
hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên từng bước đã được nâng cao
trình độ và được chuẩn hóa. Trong năm 2012, xã Hiệp Phước có
cô Hồ Thị Hiệp, Hiệu trưởng Trường THCS Hiệp Phước, là một
trong số 15 nhà giáo của tỉnh Đồng Nai được vinh dự nhận danh
hiệu Nhà giáo ưu tú. Cô giáo Hồ Thị Hiệp có 6 năm liên tục (từ
năm 2004 đến năm 2009) đều đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ
sở, cấp tỉnh. Làm công tác quản lý ở Trường THCS Hiệp Phước
- một trong những địa bàn khó khăn của huyện Nhơn Trạch, cô
Hiệp đã vượt qua khó khăn không chỉ cho riêng mình mà cho
cả nhà trường, học sinh. Thiếu phòng học, phòng làm việc, chất
lượng học sinh đạt thấp, những năm qua cô đã từng bước cùng
với tập thể nhà trường khắc phục khó khăn, đưa tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp của trường luôn đạt từ 97%, trong đó trên 50% đạt loại
khá, giỏi; hơn 50% giáo viên trình độ trên chuẩn, 70% giáo viên
đạt loại giỏi cấp huyện. Cô Hồ Thị Hiệp là một trong những điển
hình trong Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh được tuyên dương của huyện Nhơn Trạch.
337

34.8 Page 338

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được Đảng,
chính quyền địa phương quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời nên
địa phương thực hiện khá tốt các chương trình y tế quốc gia, y tế
cộng đồng, đặc biệt là công tác tiêm chủng cho phụ nữ và trẻ em
được thực hiện đạt chỉ tiêu hàng năm; tích cực vận động nhân dân
phòng chống các dịch bệnh, giữ gìn vệ sinh môi trường, vệ sinh an
toàn thực phẩm. Nhìn chung, hoạt động y tế trên địa bàn xã đã đạt
được nhiều kết quả tốt, Trạm y tế xã đã duy trì tốt các hoạt động,
giữ vững chuẩn quốc gia về y tế; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục
vụ cho công tác chuyên môn được đầu tư trang bị ngày càng tốt
hơn, đáp ứng yêu cầu phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh ban
đầu cho tuyến cơ sở. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước, hố xí hợp vệ
sinh trên địa bàn đạt trên 95%. Chương trình dân số, gia đình và
trẻ em trên địa bàn xã được triển khai thực hiện đạt kết quả thiết
thực; các chiến dịch truyền thông dân số lồng ghép kế hoạch hóa
gia đình đã giúp cho nhân dân ngày càng hiểu sâu hơn về nguy cơ
tăng dân số, qua đó đã giúp người dân có những việc làm cụ thể
nhằm ổn định cuộc sống gia đình, tạo sự phát triển bền vững cho
xã hội. Trong nhiệm kỳ qua, xã nhân rộng thêm được một câu lạc
bộ Gia đình công nhân hạnh phúc và một nhóm phòng chống bạo
lực gia đình, có tác động tích cực đến nhận thức của người dân
địa phương.
Công tác văn hóa - thông tin và thể dục - thể thao của xã đã
đi vào hoạt động có nề nếp, phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí và
rèn luyện sức khỏe của người dân; đặc biệt là lớp thanh thiếu niên
338

34.9 Page 339

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đã tích cực hưởng ứng phong trào bằng nhiều hình thức đa dạng,
phong phú. Hằng năm, xã đều xây dựng kế hoạch thực hiện cuộc
vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư; số hộ đăng ký gia đình văn hóa đạt 100%, số hộ được công
nhận là gia đình văn hóa đạt tỷ lệ 98,93%; cả 5/5 ấp đều được
công nhận là ấp văn hóa.
Đội kiểm tra liên ngành 814 thường xuyên tổ chức kiểm tra
các cơ sở kinh doanh hoạt động văn hóa, tuy nhiên do trên địa bàn
có nhiều cơ sở dịch vụ văn hóa, trong khi đó thẩm quyền của cấp
xã lại có giới hạn nên công tác quản lý, kiểm tra chưa đạt hiệu
quả cao.
Thời gian qua, địa phương cũng quan tâm hỗ trợ các hộ nghèo
vay vốn ưu đãi từ nhiều nguồn để sản xuất kinh doanh, với tổng
số tiền vay ưu đãi là gần 2,5 tỷ đồng; cho 270 sinh viên nghèo vay
vốn học tập với số tiền hơn 2,1 tỷ đồng. Các ngành, đoàn thể đã
tích hỗ trợ hộ nghèo thực hiện các dự án làm kinh tế hiệu quả, sử
dụng vốn đúng mục đích, đúng quy định. Đến cuối nhiệm kỳ, xã
còn 42 hộ nghèo, đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Bằng nguồn vốn do cấp trên hỗ trợ và từ nguồn vận động,
trong nhiệm kỳ qua địa phương đã hoàn thành việc xây dựng nhà
tình nghĩa cho các đối tượng chính sách; xây dựng, bàn giao 12
căn nhà tình thương cho các hộ nghèo; tổ chức vận động, quyên
góp giúp đỡ cho các hộ khó khăn với số tiền là 1,15 tỷ đồng; đảm
bảo việc cấp phát, trợ cấp cho các đối tượng chính sách, đúng, đủ
và kịp thời.
339

34.10 Page 340

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững, ổn định kể cả trong các ngày lễ, tết. Đã thực hiện tốt
công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, chủ động phòng
ngừa, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả hoạt động của các loại tội
phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn. Phong trào quần chúng bảo vệ
an ninh Tổ quốc tiếp tục được củng cố, phát triển và đã góp phần
hiệu quả trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống các loại
tội phạm. Trong nhiệm kỳ qua, đã phát hiện và giải quyết làm rõ
378 vụ, xử lý 652 đối tượng vi phạm, trong đó chuyển huyện xử
lý 136 vụ gồm 164 đối tượng; công an xã xử lý hành chính 242
vụ gồm 488 đối tượng với số tiền 561,5 triệu đồng; đồng thời tiến
hành kiểm tra hành chính 238 lượt ở các cơ sở đã phát hiện 154
trường hợp vi phạm, xử phạt hành chính 91 trường hợp với số tiền
78 triệu đồng. Ngoài ra, công an xã còn kiểm tra xử lý hành chính
415 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, nộp vào ngân
sách nhà nước trên 325 triệu đồng, qua đó góp phần giảm số vụ tai
nạn giao thông nghiêm trọng.
Công tác trực sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dân quân
thường trực được duy trì. Công tác tuyển quân hằng năm đạt chỉ
tiêu. Địa phương đã tuyển chọn và gọi 84 thanh niên nhập ngũ,
trong đó có 6 đảng viên, 78 đoàn viên. Công tác đăng ký thanh
niên ở độ tuổi 17 được tổ chức thực hiện tốt hàng năm. Lực lượng
dân quân thường xuyên được củng cố xây dựng mới đủ theo chỉ
tiêu huyện giao đạt 0,79% trên tổng dân số toàn xã, trong đó đảng
viên chiếm tỷ lệ 22,4 %, đoàn viên chiếm tỷ lệ 56,8%. Lực lượng
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
dự bị động viên được quản lý đúng theo quy định của pháp lệnh
và chấp hành tốt lệnh gọi tập trung huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng
động viên đảm bảo quân số và thời gian theo quy định. Tổ chức
huấn luyện dân quân đúng theo kế hoạch đề ra; điều động và tham
gia huấn luyện đúng thời gian, đủ quân số theo quy định.
Công tác tiếp dân được quan tâm chú trọng hơn và đi vào nề
nếp. Địa phương đã tổ chức tiếp 311 lượt người và nhận 184 đơn
khiếu nại, nội dung chủ yếu là tranh chấp đất đai, hôn nhân gia
đình và các tranh chấp khác. Kết quả hòa giải thành 130 đơn, hòa
giải không thành 54 đơn đã chuyển cơ quan cấp trên giải quyết.
Công tác thanh tra cũng được tổ chức thực hiện thường xuyên
hàng năm, đã tổ chức được 5 cuộc thanh tra về tài chính, đất đai...
Công tác tuyên truyền pháp luật được địa phương thực hiện
thường xuyên, đã có 173 buổi tuyên truyền cho cán bộ và người
dân với 12.253 người dự, qua đó phổ biến đầy đủ các văn bản
pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân ở các lĩnh vực
đất đai, hôn nhân gia đình, phòng chống tội phạm, luật an toàn
giao thông, khiếu nại tố cáo, nghĩa vụ quân sự... Thực hiện tốt
việc tổ chức tập huấn các văn bản pháp luật mới cho cán bộ, trang
bị đầy đủ tủ sách pháp luật xã, ổn định và củng cố 5/5 tổ hòa giải
ấp và hội đồng hòa giải xã hoạt động ngày càng hiệu quả cao.
Hội đồng nhân dân xã (nhiệm kỳ 2011-2016) có 35 đại biểu
được cơ cấu tham gia ở các ban ngành, đoàn thể của xã và ấp.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã từng bước được nâng cao
chất lượng và đi vào chiều sâu; các đại biểu đã phát huy được vai
341

35.2 Page 342

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân và là cơ quan
quyền lực ở địa phương. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đồng nhân dân
xã đã tổ chức thành công 12 kỳ họp và ban hành 37 nghị quyết, tổ
chức 57 cuộc giám sát trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh -
quốc phòng trên địa bàn xã; đóng góp 192 ý kiến, kiến nghị giúp
cho Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý
Nhà nước trên địa bàn. Phối hợp tổ chức cho Đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, xã tiếp xúc cử tri trước và
sau các kỳ họp 24 lần với 3.095 lượt cử tri đến dự, đóng góp 24 ý
kiến, kiến nghị đến đại biểu.
Bộ máy nhà nước từ xã đến ấp từng bước kiện toàn về tổ
chức hoạt động. Công tác rà soát chức năng, nhiệm vụ, kiện
toàn cơ cấu tổ chức luôn được Ủy ban nhân dân xã chú trọng,
thường xuyên tổ chức rà soát các quy chế làm việc do Ủy ban
nhân dân xã ban hành để kịp thời sửa đổi, điều chỉnh theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Tiếp nhận
4 công chức và bố trí nhiệm vụ đúng với nhu cầu thi tuyển công
chức và công chức dự bị. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức. Hằng năm đều lập danh sách đưa
cán bộ đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao trình độ, bồi dưỡng
nghiệp vụ và đạt chuẩn theo quy định, có xây dựng đội ngũ cán
bộ kế thừa; thực hiện Quyết định 140-QĐ/TU và Quyết định số
31/2008/QĐ-UBND về thu hút cán bộ về xã công tác, đến nay
địa phương có 5 công chức được hưởng theo chế độ thu hút
của tỉnh.
342

35.3 Page 343

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Công tác cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản,
minh bạch nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh
nghiệp khi tiếp cận với các thủ tục hành chính được xác định là
khâu đột phá. Thực hiện Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 8.6.2010
của Chính phủ, xã đã tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính nhằm
kịp thời sửa đổi, bổ sung các thủ tục hành chính không còn phù
hợp; tổ chức niêm yết Bộ thủ tục hành chính chung thuộc thẩm
quyền giải quyết của UBND cấp xã theo Quyết định 1743/QĐ-
UBND ngày 12.6.2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai gồm
111 thủ tục hành chính trên 14 lĩnh vực. Đặc biệt trong tháng
8.2014, xã đã thực hiện duy tu, sửa chữa, trang bị các máy móc
hiện đại và quản lý hồ sơ qua hệ thống phần mềm egov framework
2.0 tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo hướng “một cửa liên
thông hiện đại”, tạo thuận lợi đáng kể trong giải quyết các thủ tục
hành chính. Xã cũng đưa mô hình liên thông “3 trong 1” áp dụng
với thủ tục đăng ký khai tử, cấp mai táng phí đối với người trên
80 tuổi và xóa đăng ký thường trú. Trước đây có không ít người
đến làm giấy khai sinh xong lại không đăng ký thường trú, hoặc
đến khai tử nhưng không đăng ký xóa thường trú nên đôi lúc công
tác cập nhật thông tin, quản lý hộ khẩu chưa kịp thời, nay với mô
hình “3 trong 1” này không chỉ người dân đỡ mất công sức, thời
gian đi lại nhiều lần mà còn thuận tiện cho cả công tác quản lý của
Nhà nước. Từ tháng 11.2014, địa phương còn triển khai thực hiện
thí điểm phát chuyển hồ sơ hành chính miễn phí tại nhà theo yêu
cầu người dân. Những người thực hiện nhiệm vụ chuyển hồ sơ là
343

35.4 Page 344

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
lực lượng dân quân xã, được hỗ trợ 400 ngàn đồng/người/tháng từ
ngân sách của huyện.
Trên cơ sở quán triệt và tiếp tục triển khai thực hiện các quan
điểm đổi mới của Đảng về công tác vận động quần chúng, Đảng
ủy tiếp tục quan tâm, chú trọng triển khai thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết Hội nghị TW 7 phần 2 (khóa IX) về phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” trong toàn hệ
thống chính trị. Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ chỉ đạo củng cố bộ
máy hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể của xã, ấp; đồng thời
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nhằm
tạo sự đoàn kết thống nhất cao từ trong Đảng đến các tầng lớp
nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại
hội Đảng bộ xã (khóa III) nhiệm kỳ 2010-2015 đề ra.
Qua 5 năm triển khai thực hiện, hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể đã có sự chuyển biến, đổi mới về nội dung, phương pháp
và hình thức tập hợp quần chúng nhân dân. Các phong trào thi đua
yêu nước được các tầng lớp nhân hưởng ứng tích cực và có sức
lan tỏa rộng khắp trên địa bàn. Phong trào quần chúng tham gia
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và các cuộc vận động
do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động ngày càng đem lại
nhiều hiệu quả thiết thực.
Mặt trận Tổ quốc thường xuyên thay đổi nội dung, phương
thức hoạt động, vận động nhân dân tích cực tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, hưởng ứng thực hiện Cuộc vận động Học
344

35.5 Page 345

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào hai cuộc vận
động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư,
Ngày vì người nghèo. Mặt trận Tổ quốc cũng cùng với các đoàn
thể tích cực tham gia xây dựng chính quyền; vai trò của Mặt trận
ngày càng thể hiện rõ hơn trong công tác hiệp thương, hòa giải và
thực hiện công tác giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp
luật và bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên và các
tầng lớp nhân dân. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội của
Đảng bộ xã (khóa III), tỷ lệ hộ gia đình được công nhận gia đình
văn hóa tăng 13,26% so với đầu nhiệm kỳ; công tác vận động xây
dựng nhà tình thương, quỹ học bổng cho học sinh nghèo hằng
năm đều đạt chỉ tiêu. Qua cuộc vận động Ngày vì người nghèo
đã vận động được 289 triệu đồng; Mặt trận và các đoàn thể còn
vận động kinh phí thực hiện sửa chữa, nâng cấp 21 căn nhà tình
thương trị giá 738 triệu đồng, cấp phát 105 suất học bổng cho học
sinh nghèo trị giá 31,5 triệu đồng; tổ chức vận động tặng 2.972
phần quà cho các gia đình thuộc diện chính sách và hộ nghèo với
tổng giá trị trên 890 triệu đồng; vận động nhân dân đóng góp kinh
phí sửa chữa các tuyến đường giao thông nông thôn trong xã, diện
mạo đường làng ngõ xóm trở nên khang trang sạch đẹp góp phần
xây dựng xã văn hóa.
Hoạt động Hội Liên hiệp Phụ nữ xã vẫn được duy trì thường
xuyên, từng bước đi vào nề nếp và ngày càng nâng cao chất lượng
hoạt động. Tính đến nay, tỷ lệ tập hợp hội viên đạt 84,2%, so với
năm 2010 tăng 510 hội viên, đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội III
345

35.6 Page 346

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
đề ra. Thông qua nguồn vốn từ Quỹ trợ vốn cho người nghèo tự
tạo việc làm (CEP), Hội đã giúp chị em hội viên vay vốn để phát
triển kinh tế gia đình một cách hiệu quả.
Với phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, Ban Chấp
hành Hội Nông dân xã vận động hội viên khá giúp hội viên nghèo
khó khăn 102 triệu đồng cho 105 hộ nghèo vay sử dụng mục đích
sản xuất kinh doanh để tăng thu nhập, xóa nghèo làm giàu chính
đáng, góp phần xây dựng nếp sống mới ở nông thôn. Hội cũng
phối hợp cùng Ngân hàng chính sách xã hội huyện tạo điều kiện
cho 342 hội viên vay với số tiền 4,44 tỷ đồng. Hằng năm, Hội phối
hợp với các ngành chuyên môn tổ chức các lớp học hướng dẫn
việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi.
Do trên địa bàn có nhiều dự án được triển khai nên diện tích đất
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, từ đó một bộ phận nông dân đã
chuyển đổi nghề nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành
nghề khác dẫn đến việc tập hợp, phát triển hội viên có nhiều khó
khăn. Trên địa bàn xã hiện chỉ còn 335 hộ sản xuất nông nghiệp;
so với đầu nhiệm kỳ số hội viên giảm là 271 người.
Thực hiện các mục tiêu về công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục truyền thống cho đoàn viên thanh niên, Ban Chấp
hành Đoàn cơ sở tổ chức các đợt học tập để nâng cao hiểu biết
về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cho
đoàn viên và thanh thiếu niên thông qua hình thức tổ chức lồng
ghép với các phong trào thanh thiếu niên. Nhằm xây dựng các
phong trào hoạt động thiết thực, ngoài việc thường xuyên thực
346

35.7 Page 347

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
hiện củng cố, kiện toàn và phát triển lực lượng, Đoàn Thanh niên
còn tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng đạt được kết
quả thiết thực như: phân công đoàn viên tham gia điều tiết giao
thông; khuyến khích cán bộ, đoàn viên tự giác học tập để nâng
cao trình độ; tham gia giáo dục, cảm hóa thanh niên lầm lỡ. Tại lễ
tổng kết 5 năm thực hiện Cuộc vận động Tuổi trẻ Việt Nam học
tập và làm theo lời Bác do Trung ương Đoàn phát động và tuyên
dương Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác lần thứ II của tỉnh
Đồng Nai, diễn ra vào ngày 15.12.2011, anh Nguyễn Thành Phú,
Bí thư Đoàn xã Hiệp Phước là một trong những gương mặt thanh
niên điển hình được biểu dương và khen thưởng. Anh Nguyễn
Thành Phú là người có nhiều sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt
động của thanh niên tại địa phương như: đoàn viên thanh niên
đứng chốt điều tiết giao thông vào giờ cao điểm; trang bị bóng
đèn tại những con hẻm tối thường có công nhân đi làm về muộn;
gom sách cũ cho học sinh nghèo; chăm lo đời sống tinh thần cho
công nhân tại các khu nhà trọ... Những hoạt động này vừa chung
tay vì cộng đồng, nhưng đồng thời qua những hành động ấy cũng
là dịp để đoàn viên tự rèn luyện và các thanh niên trong xã học
tập, làm theo.
Do đa số thanh niên đều làm việc trong các công ty, xí nghiệp
nên việc tổ chức sinh hoạt Đoàn còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ
tập hợp thanh niên vào Đoàn chỉ đạt 32,6%, chưa đạt mục tiêu
Nghị quyết đề ra. Công tác giới thiệu phát triển Đảng cho thanh
niên dù được Đảng ủy quan tâm, song kết quả đạt được cho thấy
347

35.8 Page 348

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
công tác bồi dưỡng, giáo dục của tổ chức Đoàn đối với thanh niên
chưa được tổ chức chặt chẽ và có kết quả, dẫn đến tổ chức Đoàn
Thanh niên chưa thực hiện công tác giới thiệu phát triển Đảng đạt
chỉ tiêu đề ra.
Trong nhiệm kỳ, Hội Cựu chiến binh xã phát triển được 86
hội viên, nâng tổng số hội viên là 138 người, đạt 92% so với số
quân nhân xuất ngũ trên địa bàn. Hội vận động hội viên đóng góp
xây dựng Quỹ đồng đội với 100% hội viên tham gia. Tổng số tiền
quỹ của Hội hiện nay đạt hơn 251,7 triệu đồng, thông qua nguồn
quỹ này Hội đã giúp cho 13 hội viên có hoàn cảnh khó khăn được
vay vốn để buôn bán nhỏ, chăn nuôi nhằm tăng thu nhập, cải thiện
cuộc sống gia đình.
Đảng ủy và chính quyền địa phương cũng luôn tạo điều kiện
thuận lợi để các tổ chức xã hội thực hiện tốt các hoạt động xã hội
từ thiện. Hội Người cao tuổi và Hội Chữ thập đỏ đã thực hiện tốt
các hoạt động để chăm lo cho hội viên và những người có hoàn
cảnh khó khăn. Hoạt động của 2 tổ chức này không những làm
cho các hoạt động xã hội của địa phương ngày càng phong phú,
đa dạng mà còn góp phần tích cực giúp Đảng bộ hoàn thành tốt
các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ xã lần III, nhiệm kỳ
2010-2015 đã đề ra.
Việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nhìn chung đã
có tác dụng tích cực trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, góp phần tạo sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, tăng cường khối đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và
348

35.9 Page 349

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
các đoàn thể ngày càng vững mạnh. Các nội dung cần công khai
để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” đã được các ngành thực hiện
đúng quy định.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên
được Đảng ủy xác định là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có
tính quyết định đến công tác xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng. Vì vậy, Đảng
ủy luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện kịp thời việc triển khai, quán
triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp; tăng cường giao
dục cho đảng viên, cán bộ nhân dân nâng cao nhận thức, củng
cố niềm tin vào đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập Nghị quyết của Đảng
đạt từ 96-98%. Trong nhiệm kỳ qua, nhìn chung tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cơ bản ổn định. Nhằm thực
hiện có hiệu quả cao về công tác tư tưởng, Đảng ủy đã chú trọng
kiện toàn bộ máy làm công tác tuyên truyền và tăng cường công
tác kiểm tra, theo dõi, định hướng nội dung sinh hoạt Đảng cho
các chi bộ trực thuộc; qua đó có biện pháp chấn chỉnh kịp thời
những sai phạm, vi phạm điều lệ Đảng trong cán bộ, đảng viên.
Tiếp tục thực hiện mô hình Đảng bộ xã lãnh đạo công tác khoa
giáo ở cơ sở, Đảng ủy đã củng cố, kiện toàn Ban Tuyên giáo xã
và xây dựng được tờ tin của Đảng ủy hằng quý để đẩy mạnh công
tác tuyên truyền của Đảng tại các buổi sinh hoạt của tổ nhân dân
và hệ thống chính trị của các ấp.
349

35.10 Page 350

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW ngày 7.11.2006 của Bộ
Chính trị (khóa X) về việc tổ chức thực hiện Cuộc vận động Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sau hơn 8 năm
triển khai thực hiện, Cuộc vận động đã có tác động khá toàn diện
đối với đời sống, sinh hoạt của các tầng lớp xã hội trên địa bàn.
Ngay từ những ngày đầu triển khai thực hiện Cuộc vận động,
Đảng ủy đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong
Ban Chỉ đạo và triển khai kịp thời kế hoạch thực hiện Cuộc vận
động cho toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đoàn
thể trên địa bàn. Với những nhiệm vụ cụ thể và những việc làm
thiết thực, các chi bộ trực thuộc, các tổ chức chính trị đều có
kế hoạch thực hiện phù hợp với đặc thù của từng cơ quan trong
từng thời điểm. Mặc dù địa phương chưa xây dựng được mô hình
riêng, song việc triển khai thực hiện kế hoạch của trên luôn được
Đảng ủy và toàn hệ thống chính trị từ xã đến ấp thực hiện kịp thời
và đạt được kết quả tích cực. Cuộc vận động đã tác động tích cực
đến tư tưởng, nhận thức của mọi cán bộ, đảng viên; mang lại hiệu
quả thiết thực cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên của Đảng bộ; tác động và có ảnh hưởng lớn đến các tổ
chức, cá nhân đang sinh sống, sinh hoạt trên địa bàn xã; là yếu tố
quan trọng, góp phần giúp Đảng bộ hoàn thành tốt các mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị của địa phương trong những năm qua.
Đảng bộ xã cũng luôn quan tâm đến công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ. Từ năm 2010
đến nay, địa phương đã cử 6 đồng chí học trung cấp chính trị, 1
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đồng chí học cao cấp chính trị. Trong nhiệm kỳ III, Đảng bộ xã kết
nạp 60 đảng viên mới, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Hiện nay,
Đảng bộ có 11 chi bộ trực thuộc với 226 đảng viên. Trong hoạt
động, Đảng ủy coi trọng xây dựng quy chế làm việc và đảm bảo
nội dung trong sinh hoạt Đảng, nhất là việc tuân thủ nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt của Đảng; thực hiện thường xuyên công tác tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng; tỷ lệ đảng viên sinh hoạt
định kỳ đạt từ 98% trở lên.
Đảng ủy xác định kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ hết sức quan
trọng, vì vậy đã phân công các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành
Đảng bộ thực hiện nhiệm vụ giám sát theo chức năng, nhiệm vụ
được cấp ủy phân công. Song song đó, Đảng ủy cũng chỉ đạo Ủy
ban Kiểm tra Đảng ủy, cấp ủy các chi bộ trực thuộc thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với từng đảng viên theo quy định
để kịp thời uốn nắn những hạn chế, thiếu sót nhằm hạn chế những
vi phạm trong cán bộ, đảng viên. Hàng năm, Đảng ủy đều xây
dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát đối với các chi bộ trực thuộc và
một số đồng chí cấp ủy viên. Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Ủy ban
Kiểm tra Đảng ủy nhận được bảy đơn tố cáo đối với đảng viên, kết
quả giải quyết có một đồng chí bị xử lý kỷ luật, các đồng chí còn
lại kiểm điểm rút kinh nghiệm. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cũng
xây dựng kế hoạch giám sát cấp ủy viên cùng cấp đối với năm
đồng chí, xây dựng kế hoạch kiểm tra đối với 11 chi bộ trực thuộc
về việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng, xây dựng kế hoạch giám sát tài chính cơ sở đảng cùng cấp.
351

36.2 Page 352

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Bên cạnh đó Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy phối hợp với Văn phòng
Đảng ủy và Ban Tuyên giáo giám sát việc tham gia học nghị quyết
đối với đảng viên trong toàn Đảng bộ xã.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy đã xây dựng quy chế làm
việc của Ban Chấp hành. Mọi hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ xã luôn tuân thủ nguyên tắc
tập trung dân chủ; những vấn đề quan trọng có liên quan đến địa
phương đều được Đảng ủy tổ chức lấy ý kiến, bàn bạc, thảo luận
kỹ trước khi quyết định. Nhằm tạo sự thống nhất cao và tập trung
lãnh đạo, Đảng ủy luôn đảm bảo thực hiện kịp thời việc xây dựng
chương trình công tác hàng quý, hàng tháng để triển khai thực
hiện trong toàn Đảng bộ. Thường trực Đảng ủy, Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc xã luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ trong lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ hàng tuần thông qua thực hiện đều đặn chế độ Hội
ý thường trực bốn bên vào sáng thứ hai hàng tuần.
Đại hội đánh giá, đạt được những kết quả trên là do tập thể
Ban Chấp hành có sự đoàn kết, nhất trí cao; phương thức lãnh
đạo, lề lối làm việc của Đảng ủy luôn đảm bảo tuân thủ nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hiện đúng quy chế đề ra; chương trình
công tác hằng tháng, hằng quý, hằng năm do Đảng ủy đề ra luôn
gắn liền với những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, phù hợp với đặc
thù của địa phương. Mặt khác, việc phát huy sức mạnh của cả hệ
thống chính trị từ xã đến ấp và sự hưởng ứng, đồng tình của nhân
dân đối với các chủ trương của địa phương có thể xem là những
352

36.3 Page 353

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nguyên nhân cơ bản giúp Đảng bộ hoàn thành tốt các chỉ tiêu,
nhiệm vụ trong nhiệm kỳ qua.
Những tồn tại, hạn chế trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo trong
thời gian qua được các đại biểu phân tích, làm rõ như sau:
- Công tác lãnh đạo đầu tư phát triển kinh tế còn lúng túng
chưa tạo được bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chưa
xây dựng được các mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp, có
hiệu quả kinh tế cao; chưa khai thác được thế mạnh của một địa
phương đang phát triển, chưa có định hướng rõ nét trong các lĩnh
vực phát triển kinh tế - xã hội, tính tự phát còn phổ biến, chưa phát
triển được nhiều loại hình dịch vụ với quy mô lớn để phục vụ đời
sống nhân dân.
- Tiến độ triển khai của nhiều dự án trên địa bàn còn chậm,
làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sinh hoạt của người dân.
Việc đầu tư xây dựng đường giao thông nông thôn tuy thực hiện
đạt về số lượng, song chất lượng các công trình được thi công
còn hạn chế, chưa đảm bảo về thiết kế kỹ thuật nên thường hư
hỏng sau thời gian sử dụng, gây lãng phí về tiền của do nhân dân
đóng góp.
- Công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng, quản lý đất
công còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện tốt việc quản lý xây dựng
theo quy hoạch chung nên các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội chưa làm thay đổi mạnh mẽ bộ mặt của xã.
353

36.4 Page 354

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá, gia đình văn hóa,
ấp văn hóa tuy thực hiện đạt về số lượng nhưng chất lượng chưa
cao; tệ nạn xã hội còn tiềm ẩn chưa được giải quyết, xử lý triệt để.
- Mạng lưới trường lớp, cơ sở luyện tập thể dục thể thao trên
địa bàn chưa phát triển tương xứng với nhu cầu phát triển của một
xã đang phát triển. Trung tâm học tập cộng đồng, Hội khuyến học
hoạt động chưa hiệu quả; chưa mở được các lớp bổ túc văn hóa
theo mục tiêu Nghị quyết đề ra.
- Các điều kiện thiết yếu, cơ bản của các cơ sở kinh doanh
trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, ăn uống chưa đảm bảo thực hiện
đúng theo quy định; việc quản lý các cơ sở này còn lỏng lẻo, tiềm
ẩn nhiều rủi ro.
- Chưa xây dựng được các mô hình sinh hoạt, vui chơi, giải
trí phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của nhân dân địa phương nên các
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ còn nghèo nàn, chưa
thu hút đông đảo người dân tham gia
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tuy được
giữ vững, ổn định nhưng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Công tác
nắm tình hình, công tác điều tra cơ bản còn những mặt hạn chế
nên công tác quản lý địa bàn, quản lý đối tượng chưa được chặt
chẽ. Việc phối kết hợp giữa lực lượng công an, dân quân với các
cơ quan chức năng chưa chặt chẽ. Điều kiện đảm bảo vật chất,
tinh thần cho cán bộ công an, lực lượng dân quân còn thấp so với
yêu cầu thực tế, đời sống của cán bộ còn nhiều khó khăn nên ý
thức trách nhiệm chưa cao, hiệu quả hoạt động còn thấp.
354

36.5 Page 355

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Công tác tuyên truyền, vận động và nắm bắt tư tưởng cán
bộ, đảng viên, dư luận xã hội chưa sâu sát và kịp thời nên hiệu
quả thực hiện các chủ trương của Đảng tại địa phương chưa đạt
kết quả cao. Một số nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các quy định
của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp
nhân dân. Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh tuy được triển khai thực hiện kịp thời, đảm bảo kế
hoạch đề ra, song việc kiểm tra, theo dõi kết quả thực hiện ở từng
tổ chức, đoàn thể chưa được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo thường
xuyên. Do vậy, việc phát hiện, tôn vinh và nhân rộng những nhân
tố tích cực, những mô hình tiêu biểu còn hạn chế dẫn đến cuộc
vận động chưa có sức lan tỏa rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân
trên địa bàn.
- Chất lượng quản lý, điều hành bộ máy Nhà nước chưa ngang
tầm với nhiệm vụ; hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân đôi khi chưa đảm bảo thực hiện đúng quy chế đề ra; việc đề
ra các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội để chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều hạn chế; chưa thể hiện tính
chủ động, đôi lúc thiếu kiên quyết nên chậm khắc phục những tồn
tại, yếu kém; chưa xây dựng được các mô hình cụ thể để đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội nên quá trình phát triển của địa phương
còn mang tính tự phát. Công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây
dựng còn yếu kém, xử lý vi phạm thiếu kiên quyết nên để lại
những hậu quả khó khắc phục, gây cản trở cho việc thực hiện các
chương trình đầu tư phát triển tại địa phương trong thời gian tới.
355

36.6 Page 356

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Hoạt động của khối dân vận, Mặt trận và các đoàn thể còn
lúng túng, nhất là trong công tác phối kết hợp; chưa tạo sự đồng
bộ trong công tác tuyên truyền, vận động nên kết quả đạt được
không cao. Một số đoàn thể chưa xây dựng được mô hình hoạt
động thiết thực để thu hút quần chúng tham gia, chưa quan tâm
xây dựng các điển hình tiên tiến để nhân rộng nên chưa cổ vũ
mạnh mẽ phong trào quần chúng ở địa phương.
Qua quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
xã lần III, nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ rút ra các bài học kinh
nghiệm như sau:
- Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt phải nắm chắc,
hiểu đúng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng; phải gương
mẫu, nói và làm theo nghị quyết; đồng thời, từng cán bộ, đảng
viên phải không ngừng tự học, tự rèn, nâng cao trình độ, giữ vững
phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên để làm nòng cốt
cho các phong trào hành động cách mạng; từ đó, tạo niềm tin cho
quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của toàn Đảng bộ.
- Công tác lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà
nước phải cương quyết; phải biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo
các chủ trương, chính sách của Đảng vào tình hình thực tế của địa
phương để xây dựng các chương trình hành động có tính trọng
tâm, trọng điểm nhằm tạo sự đột phá, phát triển bền vững. Trong
lãnh đạo, điều hành phải đảm bảo thực hiện đúng quy chế đề ra;
356

36.7 Page 357

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
phải xây dựng kế hoạch thực hiện với những giải pháp cụ thể, có
phân công và kiểm điểm kịp thời.
- Nội dung hoạt động của khối vận, Mặt trận và các đoàn thể
phải thiết thực, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo chất lượng, đi vào
chiều sâu; đặc biệt, phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của địa
phương và lợi ích của người lao động.
- Công tác tổ chức cán bộ, kiểm tra, giám sát phải được chú
trọng thực hiện thường xuyên; phải thực hiện tốt quy chế dân chủ
và xây dựng được khối đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, đơn
vị, cấp ủy Đảng và thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình
trong từng cơ quan, đơn vị và các tổ chức đảng.
- Phải giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Chính quyền với Mặt trận, các đoàn thể cùng nhân dân để
tạo sức mạnh tổng hợp trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
Các đại biểu dự báo, trong giai đoạn 2015- 2020 việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, Đảng bộ xã Hiệp Phước
có những thuận lợi cơ bản sau:
- Cơ cấu kinh tế của địa phương đã chuyển đổi theo đúng định
hướng đề ra: công nghiệp phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy cơ
cấu kinh tế có sự chuyển dịch nhanh theo hướng phát triển nhanh
các ngành thuộc lĩnh vực thương mại - dịch vụ; đất nông nghiệp
ngày càng giảm dần, vì vậy cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch
nhanh từ lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. Từ
357

36.8 Page 358

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
đó, việc giải quyết việc làm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho người dân địa phương có nhiều thuận lợi.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được
giữ vững, ổn định.
- Bộ máy chính quyền từng bước được củng cố, kiện toàn theo
hướng trẻ hóa, chuẩn hóa về trình độ sẽ là một trong những yếu tố
cơ bản để Đảng bộ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa
phương trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, dự báo sẽ xuất hiện một số khó khăn như sau:
- Ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư, hoạt động tại các
khu công nghiệp trên địa bàn xã sẽ tạo điều kiện để kinh tế địa
phương phát triển, song cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề đáng
quan tâm như: tệ nạn xã hội, tội phạm, ô nhiễm môi sinh, môi
trường... sẽ ngày càng tăng và khó khắc phục.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn chưa được triển khai
đồng bộ.
- Trình độ và năng lực cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Do quá trình thực hiện đô thị hóa và triển khai các dự án
nên sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, nhiều hộ gia đình bị thu hồi
đất, chuyển vào sinh sống ở các khu tái định cư, từ đó một bộ
phận nhân dân đời sống vẫn còn khó khăn và khoảng cách giàu
nghèo ngày càng tăng. Trình độ văn hóa, tay nghề của đại bộ phận
công nhân, lao động vẫn còn thấp, trong khi đó lại chưa có cơ sở
đào tạo.
358

36.9 Page 359

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu trong nhiệm kỳ
2015-2020. Trong đó, phương hướng chung của Đảng bộ xã là:
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức đảng; tăng cường đoàn kết, tiếp tục củng cố, giữ vững kỷ
cương, cải tiến và đổi mới phương thức làm việc của cả hệ thống
chính trị theo hướng hiệu quả, thiết thực. Tiếp tục phát huy, khai
thác các tiềm năng kinh tế của địa phương và thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, giảm tỷ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Đẩy mạnh phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn
đề bức xúc của xã hội như: xóa đói giảm nghèo, tệ nạn xã hội, đào
tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Phát triển
sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể
thao theo hướng phát triển bền vững. Tăng cường quốc phòng - an
ninh để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Phát huy dân chủ, trí tuệ và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
từ xã đến ấp để tạo sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2015-2020. Quyết tâm xây
dựng xã thành đơn vị vững mạnh toàn diện.
Đến năm 2020, Đảng bộ xã phấn đấu thực hiện đạt các mục
tiêu chủ yếu sau:
- Cơ cấu kinh tế địa phương là: Công nghiệp - thương mại,
dịch vụ - nông nghiệp. Trong đó, công nghiệp chiếm tỷ trọng 57%,
thương mại, dịch vụ 33% và nông nghiệp 10%.
359

36.10 Page 360

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Phấn đấu đến năm 2020 thu nhập bình quân đầu người đạt
40 triệu đồng/người/năm.
- Phấn đấu thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu được giao hàng
năm.
- Hoàn thành công tác cấp mới, cấp đổi 100% thửa đất trên
toàn địa bàn xã. Phấn đấu đến năm 2020 có 70-80% con đường
giao thông nông thôn trên tổng số các con đường hiện có trên địa
bàn được nhựa hóa, bê tông hóa và các tuyến đường này đều có
đèn chiếu sáng.
- Hằng năm, 100% số hộ đều đăng ký xây dựng gia đình văn
hóa và 98% số hộ trở lên đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; cả 5/5 ấp
đều giữ vững danh hiệu ấp văn hóa; xã đạt tiêu chuẩn xã văn hóa.
- Giải quyết việc làm cho trên 300 lao động mỗi năm.
- Phấn đấu đến năm 2020, xã không còn hộ nghèo (theo chuẩn
nghèo mới của tỉnh).
- Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống mức dưới 1,1%; tỷ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng còn dưới 13%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 100%.
- Xây dựng được 1 trường học đạt chuẩn quốc gia; giữ vững
xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Hoàn thành chỉ tiêu giao quân và công tác huấn luyện lực
lượng dân quân, dự bị động viên hằng năm.
- Tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào các tổ chức đoàn thể
đạt tỷ lệ 80% trở lên, riêng Đoàn Thanh niên đạt từ 45% trở lên;
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tỷ lệ đoàn viên, hội viên nòng cốt đạt 35%. Đảm bảo tỷ lệ đoàn
viên, hội viên tham gia công tác, sinh hoạt thường xuyên đạt 75%
trở lên.
- Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập nghị quyết, chỉ thị của
Đảng đạt 100%.
- Phấn đấu tỷ lệ phát triển đảng viên mới hằng năm từ 5-6%/
năm so với tổng số đảng viên hiện có của đầu năm (trong đó, phát
triển đảng viên trong độ tuổi thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự
từ 1-2 đảng viên/năm).
- 100% chi bộ trực thuộc được kiểm tra hàng năm; 80% chi
bộ trực thuộc trở lên đạt trong sạch vững mạnh, không có tổ chức
cơ sở đảng đánh giá ở mức trung bình và yếu kém. 80% số đảng
viên trở lên được đánh giá là đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt
nhiệm vụ, đảng viên xuất sắc chiếm 15% trở lên.
Nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu được các đại biểu dự Đại
hội nhất trí như sau:
- Tạo điều kiện và khuyến khích cho mọi hoạt động thương
mại, dịch vụ phát triển; chú trọng các ngành kinh doanh phục vụ
đời sống, sinh hoạt của người lao động có thu nhập thấp. Mở rộng
các dịch vụ vận tải, sửa chữa, thông tin liên lạc, tín dụng, vui chơi
giải trí... Phối hợp các ngành chức năng của huyện đôn đốc chủ
đầu tư triển khai nhanh Khu trung tâm thương mại; hoàn thành
việc xây dựng và đưa vào hoạt động chợ tạm ấp Ba.
361

37.2 Page 362

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Tăng cường công tác kiểm tra, đăng ký kinh doanh, chống
buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, kinh doanh
hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng.
- Vận động các doanh nghiệp nhỏ thành lập hợp tác xã thương
mại dịch vụ.
- Khuyến khích mở rộng các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp; đồng thời phải đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Hình thành các tổ hợp tác trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm; chú trọng
chất lượng, giá thành sản phẩm.
- Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế: chuyển
20% diện tích đất nông nghiệp hiện có sang trồng các loại cây có
giá trị kinh tế cao (khoảng 67 hecta); chú trọng thực hiện các mô
hình sản xuất nông nghiệp đô thị, có hiệu quả kinh tế cao như:
trồng cây cảnh, rau sạch, chọn giống mới để cải tạo vườn tạp...
- Sử dụng hiệu quả diện tích đất nông nghiệp còn lại để trồng
lúa, trong đó, chú trọng sử dụng giống mới có năng suất cao; đẩy
mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật để phấn đấu đạt năng suất bình
quân 7 tấn/hecta/năm (bình quân trong 2 vụ).
- Thực hiện tốt các điều kiện phục vụ sản xuất nông nghiệp
(như: thủy lợi, cây, con giống, vốn đầu tư...); hình thành và phát
huy hiệu quả các loại hình kinh tế hợp tác trong sản xuất nông
nghiệp với các hình thức đa dạng, phong phú.
362

37.3 Page 363

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Quy hoạch, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng hiện
đại đi đôi với nâng cao năng lực quản lý đô thị.
- Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống
đường giao thông nông thôn của các ấp; cải tạo, nâng cấp hệ thống
cống thoát nước dọc hương lộ 19, khu vực ngã tư Hiệp Phước và
đường thoát nước từ Khu công nghiệp Nhơn Trạch I đến kênh tiêu
Hiệp Phước; nâng cấp, bảo quản tốt hệ thống thủy lợi trên địa bàn
để phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện xã hội hóa để trang
bị hệ thống đèn chiếu sáng các đường giao thông nông thôn.
- Hoàn thành việc thi công xây dựng và đưa vào sử dụng trụ
sở Văn phòng ấp Một, Hai; cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc của
Ủy ban nhân dân xã.
- Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho các trường học để phấn
đấu xây dựng 1 trường đạt chuẩn quốc gia.
- Tăng cường công tác quản lý đất đai, sử dụng có hiệu quả
diện tích đất công.
- Chú trọng công tác bảo vệ môi trường; thực hiện kiểm tra
định kỳ, đột xuất đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hình
thành và phát huy hiệu quả Tổ quản lý trật tự vệ sinh đô thị nhằm
tăng cường công tác quản lý xây dựng, quản lý môi trường.
- Tiếp tục duy trì, vận động nhân dân tự nguyện đăng ký đổ
rác, tham gia bảo vệ môi trường, xây dựng cảnh quan ở từng khu
dân cư.
363

37.4 Page 364

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Phấn đấu thu đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao hàng năm. Tiếp
tục rà soát, bổ sung và công khai các bộ thuế; khai thác tốt các
nguồn thu, tăng cường các biện pháp chống thất thu thuế, thu hồi
nợ quá hạn.
- Tập trung điều hành tốt hoạt động thu, chi ngân sách, đảm
bảo nhu cầu chi cho đầu tư phát triển, cho hoạt động của hệ thống
chính trị; thực hành tiết kiệm, chi đúng chế độ tài chính hiện hành;
chú trọng công tác kiểm tra tài chính ở đơn vị để chống tham
nhũng.
- Phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Chính
sách xã hội, các đơn vị tín dụng cho vay phục vụ sản xuất và đời
sống cho cán bộ và nhân dân, chú trọng cho vay trung và dài hạn
đối với các hộ đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh và các dịch
vụ khác.
- Tiếp tục tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp để nâng
cao chất lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đối với các bậc
học; huy động học sinh ra lớp đảm bảo chỉ tiêu hàng năm, phấn
đấu 100% trẻ em trong độ tuổi vào lớp 1 và lớp 6; ngày càng nâng
cao tỷ lệ giáo viên giỏi, học sinh giỏi và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
ở các bậc học.
- Thực hiện tốt hơn nữa công tác giáo dục truyền thống, giáo
dục đạo đức cho giáo viên và học sinh; tăng cường các biện pháp
ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học.
364

37.5 Page 365

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên, tạo điều kiện phát triển
mạnh trường lớp cho ngành học mầm non; quản lý tốt các hoạt
động nuôi dạy trẻ ngoài công lập.
- Tiếp tục huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển cơ sở
vật chất cho các trường học nhằm thực hiện tốt việc xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia, các lớp 2 buổi. Triển khai tốt cuộc
vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
“Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục”; nắm chắc số lượng học sinh theo học các trường, động viên
các gia đình có con em không có điều kiện học phổ thông theo học
các lớp phổ cập, bổ túc văn hóa...
- Phát huy hiệu quả hoạt động của Hội khuyến học, Trung tâm
học tập cộng đồng.
- Tiếp tục duy trì kết quả phổ cập bậc trung học nhằm nâng
cao dân trí, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
- Lãnh đạo thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, y tế
cộng đồng; làm tốt công tác y tế dự phòng để chủ động phòng
chống dịch bệnh; đẩy mạnh thực hiện chương trình suy dinh
dưỡng đối với trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trên địa bàn
xuống dưới 13%.
- Tăng cường kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi
trường và các hoạt động y tế cộng đồng khác.
- Đảm bảo công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân, nhất là
gia đình chính sách, hộ nghèo; giữ vững xã đạt chuẩn quốc gia về
365

37.6 Page 366

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
y tế; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe
nhân dân.
- Đẩy mạnh chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình; thực
hiện tốt chiến dịch truyền thông lồng ghép với kế hoạch hóa gia
đình.
- Thực hiện xã hội hóa các họat động văn hóa, văn nghệ, thể
dục - thể thao, khuyến khích phát triển các lọai hình dịch vụ vui
chơi, giải trí lành mạnh, kiên quyết bài trừ văn hóa độc hại và các
loại tệ nạn xã hội khác.
- Tập trung thực hiện có trọng tâm, trọng điểm việc xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh nhất là trong việc cưới,
việc tang; tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với thực
hiện chương trình Bốn giảm.
- Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao kỷ niệm các ngày lễ lớn nhằm nâng cao đời sống tinh thần,
xây dựng phong trào thi đua trên từng địa bàn dân cư.
- Tăng cường quản lý Nhà nước đối với các hoạt động văn
hóa; phối hợp cơ quan chuyên môn tổ chức quy hoạch, sắp xếp
và tăng cường kiểm tra hoạt động của các dịch vụ văn hóa như:
internet, karaoke, kinh doanh băng đĩa và các dịch vụ văn
hóa khác...
- Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền về chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chú trọng
tuyên truyền về những nhiệm vụ chính trị của địa phương trong
366

37.7 Page 367

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
từng thời điểm. Lãnh đạo tổchức tốt các hoạt động tuyên truyền
về các ngày lễ lớn, về Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô hoạt động của mô
hình thông tin lưu động.
- Tăng cường các biện pháp bảo vệ an ninh gắn với bảo vệ trật
tự an toàn xã hội; đấu tranh có hiệu quả, ngăn chặn các loại tội
phạm, phòng chống các hoạt động phá hoại của kẻ địch và hoạt
động của kẻ xấu trên địa bàn. Xây dựng, bổ sung phương án xử lý
có hiệu quả đối với các tình huống bạo loạn, biểu tình, gây rối...
- Lãnh đạo thực hiện tốt các kế hoạch liên tịch giữa Công an,
quân sự với Mặt trận và các đoàn thể, kế hoạch phối hợp tấn công
trấn áp tội phạm, bảo vệ mục tiêu, địa bàn trọng điểm.
- Củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
Tổ nhân dân; nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính về
trật tự xã hội, tập trung thực hiện tốt công tác quản lý cư trú; đẩy
mạnh các biện pháp, giải pháp thực hiện Nghị quyết của Chính
phủ về các giải pháp kiềm chế, giảm dần tai nạn giao thông; quản
lý tốt các ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
- Tăng cường nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Lãnh đạo
thực hiện tốt công tác quân sự tại địa phương; xây dựng lực lượng
dân quân tự vệ đảm bảo theo chỉ tiêu/dân số, đảm bảo chất lượng
chính trị và nắm vững nghiệp vụ, quản lý tốt lực lượng dự bị động
367

37.8 Page 368

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
viên; đảm bảo công tác tuyển quân, hoàn thành 100% chỉ tiêu do
huyện giao hàng năm. Thực hiện công tác huấn luyện đảm bảo
quân số, chất lượng theo kế hoạch đề ra hàng năm. Phối hợp các
ngành liên quan thực hiện tốt công tác dân vận và thực hiện chính
sách hậu phương quân đội.
- Tạo điều kiện tốt nhất để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, chính trị cho Ban Chỉ huy quân sự xã và lực lượng dân quân
thường trực, ấp đội trưởng. Tăng cường phát triển Đảng cho lực
lượng dân quân, thanh niên nhập ngũ.
- Tiếp tục thực hiện việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng nhân dân thông qua việc nâng cao chất lượng
các kỳ họp, ra Nghị quyết và thực hiện vai trò giám sát; các đại
biểu Hội đồng nhân dân thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri
và giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của cử tri.
Thiết lập nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa gắn với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ xã, ấp; đồng thời quy hoạch cán bộ
từ năm 2015 trở về sau đảm bảo về phẩm chất chính trị và năng
lực chuyên môn, bố trí cán bộ đúng chuyên môn đào tạo, có hiệu
quả trên mọi lĩnh vực.
- Quan tâm lãnh đạo, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và
hiệu quả trong điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; tiếp tục chỉ đạo thực
hiện tốt cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên
thông” trên các lĩnh vực.
368

37.9 Page 369

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Thực hiện tốt việc công khai dân chủ trong mọi hoạt động
theo quy định của Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH của Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chỉ thị số 32/2006/TTg-CP của Thủ tướng
Chính phủ về công khai thủ tục hành chính.
- Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra và kiên
quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của công dân, không để đơn thư tồn đọng, vượt
cấp. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp xây
dựng chính quyền cơ sở.
- Thực hiện tốt việc quản lý tôn giáo theo đúng chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và
các đoàn thể, tránh hành chính hóa trong công tác vận động quần
chúng; lấy địa bàn dân cư, tổ nhân dân làm địa bàn chính để hoạt
động.
- Tiếp tục vận động đoàn viên, hội viên, quần chúng nhân dân
hưởng ứng thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao hơn nữa vai trò
lực lượng đoàn viên, hội viên nòng cốt.
- Chỉ đạo sâu sát và hiệu quả việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân trên từng lĩnh vực; tăng cường hơn nữa công tác dân vận
của chính quyền; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phối hợp giữa Nhà
nước với Mặt trận, các đoàn thể trong công tác chăm lo đời sống
nhân dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
369

37.10 Page 370

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Quan tâm nhiều hơn đến đời sống lực lượng đoàn viên, hội
viên nòng cốt; phấn đấu mỗi đoàn thể và Mặt trận xây dựng được
30% hội viên, đoàn viên nòng cốt; tiếp tục cải tiến hình thức sinh
hoạt, hội họp và chất lượng hoạt động của các chi, tổ hội các đoàn
thể cho phù hợp với tình hình địa phương.
- Tổ chức triển khai đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
đến đảng viên và tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến đoàn viên,
hội viên, quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức phù hợp.
Xây dựng chương trình hành động của cấp ủy Đảng một cách cụ
thể, thiết thực và triển khai thực hiện kịp thời trong toàn Đảng bộ
xã để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống của nhân dân trên
địa bàn.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng
để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; từ đó giúp cán bộ,
đảng viên hành động đúng, nói và làm theo nghị quyết của Đảng,
không ngừng học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng và có quan
điểm rõ ràng để đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị.
- Đẩy mạnh công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ,
đảng viên và dư luận xã hội để phát hiện và xử lý kịp thời những
phát sinh về tư tưởng, qua đó uốn nắn những lệch lạc về tư tưởng;
đồng thời, có định hướng nội dung tuyên truyền phù hợp trong
Đảng và quần chúng nhân dân. Tăng cường giáo dục ý thức chấp
hành Điều lệ, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng cho toàn
thể đảng viên để nâng cao ý thức trách nhiệm của từng đảng viên.
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên gắn với
thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, lấy hiệu quả công việc cùng với sự
tín nhiệm của nhân dân làm thước đo quá trình rèn luyện, phấn
đấu của cán bộ, đảng viên mỗi năm. Định hướng, xây dựng những
mô hình cụ thể trong triển khai thực hiện Cuộc vận động Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để làm cơ sở giúp
các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt cuộc vận động.
- Gắn xây dựng Đảng với củng cố hệ thống chính trị: thực
hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chú trọng
và có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nguồn đạt chuẩn
về trình độ chính trị và chuyên môn; đảm bảo nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
- Chú trọng công tác lãnh đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ; mở rộng dân chủ trong Đảng. Lãnh đạo cấp ủy các chi
bộ trực thuộc thực hiện tốt việc xây dựng, bổ sung quy chế làm
việc kịp thời và phù hợp với tình hình của địa bàn dân cư, đơn vị
trực tiếp lãnh đạo. Phân công cụ thể trong cấp ủy, đồng thời, tăng
cường trách nhiệm cá nhân của từng cấp ủy viên trong lãnh đạo
thực hiện Nghị quyết của Đảng cấp trên.
- Chú trọng thực hiện thường xuyên công tác phát triển Đảng,
đảm bảo thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu đăng ký hàng năm.
- Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ;
lãnh đạo các chi bộ thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và
thực hiện chặt chẽ công tác quản lý đảng viên, nhất là việc chấp
371

38.2 Page 372

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
hành Quy định 115-QĐ/TW của Bộ Chính trị về những điều đảng
viên không được làm.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình gắn
với thực hiện quy chế dân chủ; tạo điều kiện để quần chúng nhân
dân tham gia xây dựng Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với chính quyền, Mặt trận, đoàn thể thông qua lãnh đạo, quản
lý tốt các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và cấp
ủy các chi bộ trực thuộc.
- Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết,
chương trình hành động về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phòng
chống tham nhũng, tham ô, lãng phí; thực hành tiết kiệm; trách
nhiệm của người đứng đầu..., nhất là trên các lĩnh vực: tài chính
ngân sách, đất đai, xây dựng cơ bản và các khoản đóng góp của
nhân dân.
- Xây dựng, thực hiện tốt chương trình, kế hoạch kiểm tra,
giám sát của Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
- Kịp thời kiểm tra những tổ chức đảng, đảng viên có dấu
hiệu vi phạm; thực hiện nghiêm việc giáo dục, xử lý đảng viên
vi phạm; giải quyết kịp thời các đơn thư tố cáo, khiếu nại có liên
quan đến đảng viên.
- Tăng cường công tác phân công, theo dõi thực hiện nhiệm
vụ giám sát của các đồng chí cấp ủy viên đối với các chi bộ trực
thuộc, các ngành, đoàn thể theo phân công của cấp ủy Đảng.
372

38.3 Page 373

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, củng cố, kiện toàn
đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra của UBKT Đảng ủy và các
chi bộ trực thuộc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ xã lãnh đạo toàn hệ thống chính trị
bằng nghị quyết, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực và
có tính thống nhất từ Đảng ủy xã đến các chi bộ trực thuộc. Đảng
ủy phải thường xuyên bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc phù
hợp với sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên và tình hình địa phương
trong từng thời điểm.
- Duy trì và thực hiện có hiệu quả chế độ hội họp, hội ý theo
quy chế do Ban Chấp hành Đảng bộ xã thống nhất thông qua; đảm
bảo thực hiện đúng lịch tiếp dân theo định kỳ.
- Hằng năm, Đảng ủy chủ động tổ chức kiểm tra việc thực
hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành của cấp ủy các chi bộ trực thuộc; đồng thời quyết định
những vấn đề có liên quan đến công tác củng cố, kiện toàn hệ
thống chính trị để lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa
phương.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hiệp Phước
khóa IV gồm 9 đồng chí: Võ Tái Hưng (Bí thư Đảng ủy), Đoàn
Văn Trúng (Chủ tịch)1, Nguyễn Văn Chỉnh, Nguyễn Tấn Xuân,
Nguyễn Hoàng Minh, Phạm Minh Tiến, Đoàn Duy Trí, Nguyễn
Tấn Phong, Phạm Văn Rồng, Nguyễn Như Chung.
1  Năm 2016, đồng chí Trương Văn Dũng thay đồng chí Đoàn Văn Trúng giữ
chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
373

38.4 Page 374

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
4. Thành lập thị trấn Hiệp Phước, hướng tới thành phố
mới Nhơn Trạch trong tương lai
Ngày 18, 19.6.2020, Đại hội đại biểu Đảng bộ thị trấn Hiệp
Phước khóa V (nhiệm kỳ 2020-2025) được tổ chức tại Trung tâm
Văn hóa thể thao - học tập cộng đồng thị trấn Hiệp Phước.
Một trong những dấu ấn quan trọng của địa phương trong
thời gian qua là xã Hiệp Phước đã được nâng thành thị trấn Hiệp
Phước từ ngày 1.7.2019 theo Nghị quyết số 694/NQ-UBTVQH14
về việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính và thành lập một
số đơn vị hành chính đô thị cấp xã thuộc tỉnh Đồng Nai ngày
10.5.2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây là mong mỏi của
Đảng bộ, chính quyền và người dân trên địa bàn từ nhiều năm nay
với mục tiêu và quyết tâm sẽ xây dựng Hiệp Phước thành một thị
trấn sầm uất của thành phố mới Nhơn Trạch trong tương lai. Thời
điểm này, dân số của thị trấn Hiệp Phước là hơn 57 ngàn người,
tăng thêm 18,4 ngàn người so với năm 2016. Năm ấp trên địa bàn
từ ấp Một đến ấp Năm được đổi thành năm khu phố tương ứng là:
Mỹ Khoan, Phước Mỹ, Phước Kiển, Phước Lai và Phước Hiệp.
Đến năm 2020, qua 5 năm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện Nghị quyết Đại hội IV Đảng bộ (nhiệm kỳ 2015-2020) địa
phương đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, có
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh. Trên địa bàn đã hình thành
và phát triển 4 khu công nghiệp tập trung với diện tích trên 1.100
hecta, góp phần giải quyết việc làm cho hầu hết người lao động
địa phương; cơ cấu kinh tế địa phương có sự chuyển dịch đúng
định hướng thương mại - dịch vụ - nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng
374

38.5 Page 375

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
kinh tế ngày càng được quan tâm, đầu tư. Tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững, ổn định. Công tác
xây dựng Đảng, công tác vận động quần chúng được chú trọng;
bộ máy chính quyền không ngừng được củng cố, kiện toàn theo
hướng trẻ hóa, chuẩn hóa. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền
với nhân dân ngày càng gắn bó hơn. Đây là những thuận lợi cơ
bản để tiếp tục xây dựng, phát triển toàn diện đô thị thị trấn Hiệp
Phước giai đoạn 2020 - 2025 và những năm tiếp theo.
Năm 2019, trên địa bàn thị trấn Hiệp Phước có 134 doanh
nghiệp đầu tư vào sản xuất công nghiệp, trong đó có 69 doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và 65 doanh nghiệp trong nước. Tổng
vốn đăng ký đầu tư của các doanh nghiệp vào thị trấn Hiệp Phước
đạt gần 1,87 tỷ USD (43,57 ngàn tỷ đồng).
Công tác quản lý quy hoạch, xây dựng được Đảng ủy quan
tâm, chỉ đạo thực hiện thường xuyên nên đã có chuyển biến rõ nét
so với những năm trước đây; đã lập biên bản và xử lý 49 trường
hợp vi phạm xây dựng quy hoạch với số tiền phạt 251,7 triệu
đồng. Đến nay, hầu hết người dân địa phương đều chấp hành đúng
các quy định của Nhà nước về xây dựng. Nhìn chung việc thực
hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của thị trấn đã đạt được
những thành quả nhất định, phù hợp với quan điểm phát triển
chung của huyện và của tỉnh; đảm bảo khai thác sử dụng triệt để
quỹ đất đai, sử dụng hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên kết quả đạt
được còn thấp so với chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch đã đề ra, do các
nguyên nhân sau: Đối với các dự án vốn ngân sách còn gặp khó
khăn về bố trí vốn nên một số dự án đã được quy hoạch nhưng
375

38.6 Page 376

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
chưa kịp triển khai làm ảnh hưởng nên một số chỉ tiêu đạt thấp;
Quy trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối
với các dự án, nhất là các dự án có quy mô lớn, thường kéo dài
làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất. Do
giá đất có sự chênh lệch cao giữa khung giá thị trường và khung
giá nhà nước ban hành, nên đôi lúc triển khai thực hiện công tác
bồi thường hỗ trợ và tái định cư các dự án bị chậm tiến độ ảnh
hưởng đến kế hoạch sử dụng đất.
5 năm qua, công tác cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mới trao được 220 giấy. Trong những năm qua thị trấn có nhiều
dự án phải thu hồi đất để thực hiện các công trình trọng điểm của
huyện như: Khu tái định cư Hiệp Phước 3 với tổng cộng 13 hecta,
dự án chợ Dân Xuân, dự án kênh thoát nước Bà Ký, đường N1 (từ
đường Hùng Vương đến khu tái định cư Hiệp Phước 3), đường
ranh khu tái định cư, khu Trung tâm dịch vụ thương mại 51 hec-
ta... Bên cạnh đó, còn có các dự án phục vụ nâng cấp hạ tầng của
thị trấn Hiệp Phước do Ủy ban nhân dân huyện và thị trấn triển
khai thực hiện. Trong nhiệm kỳ qua, người dân đã đóng góp 30%
để thực hiện 9 công trình, trong đó có 2 con đường sử dụng nguồn
nông thôn mới với số tiền gần 1,3 tỷ đồng và 7 con đường xã hội
hóa giao thông nông thôn với tổng số vốn hơn 6 tỷ đồng. Nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội thị trấn Hiệp Phước đã chuyển dịch địa
phương từ một xã thuần nông trước đây sang một địa phương có
tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng mạnh mẽ. Năm 2019, tỷ
trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 56%, tốc độ phát triển kinh
tế bình quân 3 năm gần nhất đạt 19%/năm.
376

38.7 Page 377

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Về tiểu thủ công nghiệp, trên địa bàn hiện có 326 doanh
nghiệp hoạt động, giải quyết việc làm cho 1.021 lao động tại chỗ,
góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
Các nguồn thu ngân sách nhà nước thực hiện hằng năm đều
đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao; thu ngân sách nhà nước năm 2019
tăng 45% so với năm 2015. Trong thực hiện chi ngân sách, Đảng
ủy đã lãnh đạo Ủy ban nhân dân thị trấn thực hiện chủ trương thực
hành tiết kiệm, hạn chế các khoản chi không cần thiết, đảm bảo
công tác điều hành thu chi ngân sách ở địa phương hàng năm đều
có kết dư; trong thu chi bảo đảm đúng luật ngân sách.
Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm thực hiện theo
hướng đô thị hóa. Dưới sự tập trung lãnh đạo của Đảng ủy, công
tác xử lý rác thải sinh hoạt trong nhân dân đã có sự chuyển biến
tích cực, bước đầu tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân
dân. Do chịu ảnh hưởng từ nguồn nước thải của các nhà máy, xí
nghiệp trong các khu công nghiệp tập trung nên nguồn nước ngầm
trên địa bàn thị trấn đã bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới được địa phương xem là chương trình đặc biệt quan
trọng của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Qua triển khai thực
hiện, địa phương luôn xác định xây dựng nông thôn mới là nhiệm
vụ chính trị thường xuyên, liên tục; chủ động bắt tay vào xây dựng
chương trình và đã làm thay đổi diện mạo về đời sống và tinh thần,
phát triển về kinh tế, văn hóa, giáo dục... Chủ trương xây dựng
nông thôn mới phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, được
nhân dân đồng tình ủng hộ. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
377

38.8 Page 378

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ xã đến ấp
đã tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân với quyết tâm thực hiện thắng lợi các
mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi đúng hướng, giới
thiệu lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn và vùng lân cận,
tạo điều kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư từ địa phương và bên
ngoài. Thị trấn luôn tạo mọi điều kiện để người dân tham gia các
loại hình kinh doanh, dịch vụ mà pháp luật cho phép. Hướng mở
là sẽ phát triển dịch vụ kinh doanh, chuyển từ nông nghiệp nông
thôn sang nông nghiệp đô thị; đưa người dân đến gần với khoa
học kỹ thuật, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, nhất là khi
thực hiện đề án xây dựng nông thôn mới nhằm giúp đời sống nhân
dân ngày càng được nâng lên.
Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối thấp; diện
tích cây trồng hằng năm thực hiện đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch
năm, so với đầu nhiệm kỳ (năm 2015) tăng 69 hecta; năng suất
lúa bình quân đạt 4,75tấn/hecta. Thị trấn có 2 hợp tác xã hoạt
động kinh doanh, dịch vụ, vệ sinh môi trường và 3 tổ hợp tác với
52 tổ viên, sản xuất trồng lúa, chăn nuôi thỏ. Các tổ hợp tác được
thành lập từ nhu cầu thực tế, nguyện vọng của nông dân, thực hiện
theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hỗ trợ nhau trong
sản xuất.
Về chăn nuôi, tổng đàn gia súc, gia cầm giảm so với đầu nhiệm
kỳ (giảm 2.980 con). Đây là điều tất yếu khi thị trấn giảm dần tỷ
trọng phát triển nông nghiệp. Công tác tiêm phòng các loại bệnh
378

38.9 Page 379

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trên đàn vật nuôi thường xuyên được quan tâm thực hiện nên đàn
gia súc, gia cầm phát triển tốt. Nhìn chung, trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp, tỷ trọng dịch vụ tăng, diện tích sản xuất nông nghiệp
giảm dần, đảm bảo đúng định hướng theo Nghị quyết đề ra.
Thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ về phát triển
kinh tế so với Nghị quyết nhiệm kỳ đã đề ra, kinh tế địa phương
phát triển mạnh về thương mại - dịch vụ. Doanh thu các thành
phần kinh tế đều tăng, góp phần tăng thu ngân sách hằng năm; thu
nhập bình quân đầu người đến nay đạt 65 triệu đồng người/năm.
Nhiệm kỳ 2015-2020, Đảng ủy địa phương tập trung chỉ đạo
các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm về phát triển văn hóa, an sinh
xã hội đạt và vượt so với Nghị quyết. Đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân được cải thiện, các chính sách an sinh - xã hội được
thực hiện kịp thời, đầy đủ; chất lượng giáo dục được giữ vững và
phát triển, công tác phổ cập giáo dục; đào tạo các bậc học được
duy trì và nâng cao.
Địa phương duy trì kết quả phổ cập giáo dục bậc Mầm non,
Tiểu học, hoàn thành phổ cập bậc Trung học. Các trường trên địa
bàn thực hiện tốt công tác giảng dạy theo chương trình của Bộ
Giáo dục và đào tạo; chất lượng dạy và học ngày được nâng lên,
hằng năm tỷ lệ học sinh lên lớp đạt trên 99%. Số lượng học sinh
tham gia thi học sinh giỏi các cấp ngày càng tăng. Cơ sở vật chất
các trường đáp ứng được nhu cầu dạy và học.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng.
Các cơ sở y tế tư nhân cũng được khuyến khích đầu tư và phát
triển mạnh mẽ như: phòng khám Tâm Bình An, phòng khám Phúc
379

38.10 Page 380

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Trạch... góp phần đa dạng hóa hình thức chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân. Trong công tác phòng chống dịch bệnh như: sốt xuất
huyết, tay chân miệng, sởi, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo cả hệ thống chính trị từ thị trấn đến khu phố thực hiện nhiều
giải pháp, biện pháp như: tổng vệ sinh môi trường, phát loa lưu
động, nhắn tin qua điện thoại... để góp phần dập dịch cũng như
hạn chế dịch bệnh lây lan trên địa bàn. Tăng cường giám sát, phát
hiện sớm và xử lý triệt để các ổ dịch, kiên quyết không để dịch
lan rộng và kéo dài. Kiện toàn và duy trì hoạt động thường xuyên
của đội ngũ cộng tác viên, đội xung kích phòng chống sốt xuất
huyết; tổ chức phun hóa chất diệt muỗi trên diện rộng tại các khu
vực nguy cơ cao và các địa điểm tập trung đông người như chợ,
trường học, các khu nhà trọ... Tổ chức các chiến dịch truyền thông
nhằm vận động mọi người dân chủ động thực hiện các biện pháp
phòng chống dịch ngay tại hộ gia đình với khẩu hiệu “Không có
lăng quăng, không có sốt xuất huyết”. Hướng dẫn người dân cách
tự xử lý các dụng cụ chứa nước không cho muỗi vào đẻ trứng, các
biện pháp diệt muỗi và phòng tránh muỗi đốt.
Công tác giảm nghèo được chú trọng quan tâm, địa phương
đã cơ bản hoàn thành chương trình giảm nghèo theo tiêu chí của
tỉnh. Đến năm 2019 trên địa bàn thị trấn còn 9 hộ nghèo. Công
tác chăm lo gia đình chính sách cũng được sự quan tâm hỗ trợ của
huyện và các ban ngành chức năng cùng với sự nỗ lực của cấp
ủy Đảng và toàn thể nhân dân ở địa phương. Từ đó, chương trình
xây dựng và sửa chữa nhà tình nghĩa được tổ chức thường xuyên.
Địa phương vận động mạnh thường quân tiến hành xây dựng nhà
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
cho đối tượng là thân nhân liệt sĩ, hằng năm tổ chức tặng quà cho
gia đình chính sách (mỗi phần trị giá 300 ngàn đồng). Việc trùng
tu lại Nhà bia liệt sĩ được thực hiện hằng năm, nguồn kinh phí từ
Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của thị trấn. Ngoài ra, địa phương còn xét
miễn giảm thuế cho các gia đình chính sách theo quy định của nhà
nước, xét miễn giảm học phí đồng thời trợ cấp ưu đãi giáo dục cho
con em gia đình thương bệnh binh. Việc vận động Quỹ Đền ơn
đáp nghĩa hằng năm đều đạt chỉ tiêu huyện giao. Địa phương cũng
chu đáo tổ chức cho thân nhân gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh
viếng Nghĩa trang liệt sĩ huyện Long Thành và họp mặt truyền
thống vào dịp kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27.7; tổ chức
phân công đoàn đến chúc tết các gia đình chính sách nhân dịp lễ,
tết cổ truyền; thăm hỏi kịp thời các gia đình chính sách gặp khó
khăn, ốm đau, hoạn nạn và tổ chức viếng lễ tang chu đáo khi đối
tượng chính sách qua đời; vận động tiền quà tặng cho các gia đình
chính sách khó khăn trong dịp lễ tết.
Hoạt động văn hóa thông tin phát triển rộng khắp, góp phần
tích cực, hiệu quả trong việc đưa thông tin về chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước rộng rãi trong
nhân dân. Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phát
triển mạnh đáp ứng nhu cầu hưởng thụ về văn hóa tinh thần của
nhân dân. Các giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, nghệ thuật dân
gian được khơi dậy, bảo tồn và phát triển. Cuộc vận động Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được nhân dân đồng tình
hưởng ứng. Công tác xã hội hóa việc huy động nguồn lực xã hội
đầu tư các thiết chế văn hóa - thể thao đạt được kết quả cao. Các
381

39.2 Page 382

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
hộ gia đình đăng ký thực hiện gia đình văn hóa đạt 100%, qua
bình xét cuối năm tỷ lệ đạt danh hiệu gia đình văn hóa tăng theo
hằng năm: cuối năm 2014 có 3.668/3.707 hộ (98,94%) đạt danh
hiệu; đến cuối năm 2019 có 3.892/3.921 hộ đạt danh hiệu, tỷ lệ đạt
là 99,26%; giữ vững danh hiệu 5 khu phố văn hóa; 100% cơ quan,
đơn vị đạt danh hiệu có đời sống văn hóa tốt.
Trung tâm Văn hóa thông tin - học tập cộng đồng duy trì hoạt
động thường xuyên, đồng thời kết hợp các ngành đoàn thể của
huyện, thị trấn mở các lớp tập huấn với các nội dung: giáo dục,
tuyên truyền pháp luật; giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên;
hướng dẫn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, học nghề... từng bước
đáp ứng nhu cầu học tập phục vụ lao động và sản xuất của nhân
dân. Địa phương cũng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý,
ứng dụng khoa học - công nghệ vào nhiều lĩnh vực đời sống xã
hội đạt kết quả tốt.
Công tác khuyến học, khuyến tài được quan tâm, có bước
phát triển mạnh mẽ, việc xây dựng xã hội học tập đạt kết quả tích
cực, phong trào xây dựng gia đình học tập, cộng đồng học tập
phát triển mạnh tạo điều kiện để mọi người có thêm cơ hội được
học tập, hiểu biết góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
Thị trấn tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chủ động phòng ngừa, phát
hiện đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo
loạn lật đổ” của các thế lực thù địch và số đối tượng cực đoan,
chống đối trên địa bàn. Kịp thời phát hiện, tham mưu xử lý các
382

39.3 Page 383

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
vụ tranh chấp, khiếu kiện không để phát sinh trở thành điểm nóng
về an ninh trật tự, bảo vệ tuyệt đối an toàn các ngày lễ lớn của đất
nước, các sự kiện chính trị, các điểm vui chơi, giải trí diễn ra trên
địa bàn.
Công tác xây dựng và củng cố lực lượng công an được quan
tâm thường xuyên, thành lập và đưa vào hoạt động 1 ban bảo vệ
dân phố có 7 đồng chí và 5 tổ bảo vệ dân phố có 35 đồng chí,
thường xuyên củng cố hoạt động 93 tổ nhân dân. Việc triển khai
thực hiện các nghị quyết liên tịch giữa Công an - Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong phong trào Toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được quan tâm chỉ đạo, nâng cao chất
lượng hoạt động góp phần giữ vững ổn định tình hình an ninh trật
tự trên địa bàn. Tỷ lệ phạm pháp hình sự trong nhiệm kỳ qua giảm
4% (127/131 vụ) so với nhiệm kỳ trước.
Địa phương tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân, thường xuyên củng cố và xây dựng
lực lượng dân quân chiến đấu, lực lượng dự bị động viên trực sẵn
sàng chiến đấu khi có lệnh điều động của huyện. Trong công tác
tuyển gọi thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự, hằng năm hoàn
thành công tác đăng ký thanh niên lứa tuổi 17, chuẩn bị nguồn
tuyển gọi thanh niên thi hành nghĩa vụ cho các năm tiếp theo.
Trong 5 năm qua đã tuyển giao 114 thanh niên thi hành nghĩa vụ
quân sự, trong đó có 2 đảng viên; tham gia huấn luyện do tỉnh,
huyện tổ chức theo kế hoạch đề ra; triển khai các kế hoạch phối
hợp bảo vệ an toàn các ngày cao điểm, lễ, tết; phòng chống cháy
nổ, phòng chống, ứng phó kịp thời thiên tai.
383

39.4 Page 384

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được xác
định là nhiệm vụ quan trọng, thị trấn đã tổ chức tuyên truyền và
phổ biến pháp luật qua các hình thức họp tổ dân phố, sinh hoạt
câu lạc bộ pháp luật và lồng ghép qua các buổi sinh hoạt tổ chức
chính trị - xã hội, đồng thời tuyên truyền qua Đài truyền thanh thị
trấn được 185 cuộc, với 10.219 lượt người dự. Xây dựng tủ sách
pháp luật đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật cho cán bộ và nhân
dân thị trấn.
Về công tác thanh tra giải quyết khiếu nại của nhân dân, qua
5 năm đã tiếp nhận và giải quyết đúng hẹn hồ sơ của công dân,
đạt 98,23%; hồ sơ trễ hẹn thấp, chỉ chiếm 0,67% (285/42.769 hồ
sơ). Với sự chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy đã giải quyết kịp thời
đơn, thư khiếu nại, không để xảy ra điểm nóng mất an ninh trật
tự. Thực hiện tốt việc tiếp dân, lãnh đạo Đảng ủy, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã trực tiếp tiếp
dân vào sáng thứ sáu hàng tuần. Do tình hình thực tế địa phương,
nên ngoài việc tiếp dân theo lịch, Thường trực Ủy ban nhân dân
thị trấn còn tiếp dân đột xuất khi người dân có yêu cầu.
Trong công tác xây dựng chính quyền, Hội đồng nhân dân thị
trấn từng bước phát huy vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương, thực hiện các chức năng, quyết định các vấn đề quan
trọng. Tổ chức các kỳ họp đúng luật định, chất lượng các kỳ họp
được nâng lên và đạt hiệu quả cao. Ban hành 48 nghị quyết về
các lĩnh vực sát với tình hình thực tế của địa phương và phát huy
được hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm tra, giám
sát, nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật, Thường trực Hội đồng
384

39.5 Page 385

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
nhân dân và các ban Hội đồng nhân dân tổ chức thực hiện 17 cuộc
giám sát, khảo sát. Thông qua hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân đã từng bước phát huy được vai trò tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội của nhân dân; đồng thời hạn chế những vi
phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Bộ máy chính quyền từ thị trấn đến khu phố được củng cố,
thực hiện tốt chức năng quản lý, điều hành hoạt động Nhà nước ở
địa phương theo luật định. Đặc biệt là các ban ngành chuyên môn
được kiện toàn, sắp xếp nên hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn
theo mô hỉnh đô thị. Cải tiến công tác tiếp dân và giải quyết khiếu
nại tố cáo của công dân. Thực hiện công tác cải cách hành chính,
góp phần nâng cao lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, điều hành của Nhà nước; chú trọng công tác quy hoạch và
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực hiện pháp lệnh quy chế dân chủ và qui chế dân chủ cơ quan,
đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức và hành động trong cán
bộ, nhân dân.
Địa phương cũng tăng cường chỉ đạo công tác cải cách thủ
tục hành chính, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, thực
hiện “cơ chế một cửa - một cửa liên thông hiện đại”, tập trung
chỉ đạo, chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc, của đội ngũ cán
bộ, công chức, đối với cán bộ tiếp dân, giải quyết thủ tục hành
chính, các chế độ chính sách, những khó khăn, vướng mắc cho
nhân dân, đã tiếp nhận và giải quyết đúng hẹn hồ sơ của công
dân 42.014/42.769, đạt 98,23%; chưa đến hạn 110 hồ sơ chiếm
0,26%, trễ hạn 285 hồ sơ chiếm 0,67%.
385

39.6 Page 386

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Địa phương đã phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong
hệ thống chính trị đối với công tác dân vận trong tình hình mới,
tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng
thuận trong các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc
phòng - an ninh tại địa phương. Tổ chức sơ, tổng kết các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng về công tác Dân vận theo kế hoạch của
Ban Thường vụ Huyện ủy.
Công tác dân vận của Đảng bộ xã tiếp tục được đổi mới và đi
vào chiều sâu. Các phong trào thi đua “Dân vận khéo” được triển
khai rộng khắp trong hệ thống chính trị và địa bàn dân cư; công
tác dân vận của chính quyền từng bước được đổi mới và thực hiện
có hiệu quả. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy; nội
dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
thành viên không ngừng được đổi mới. Hằng năm Khối vận đều tổ
chức dân vận khéo nhân kỷ niệm ngày Dân vận 15.10; đồng thời
tổ chức đối thoại người đứng đầu cấp ủy với nhân dân (1 năm tổ
chức 2 lần).
Thông qua các phong trào thi đua yêu nước, trong 5 năm
qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã vận động đóng góp và
tiếp nhận xây dựng Quỹ Vì Người nghèo với số tiền hơn 1,3 tỷ
đồng, xây dựng mới 6 nhà tình thương và sửa chữa 3 căn nhà tình
thương, cấp phát 165 suất học bổng và trao tặng 39 chiếc xe đạp
cho học sinh nghèo hiếu học; tổ chức nhiều đợt công tác dân vận
giúp dân với trên 7.685 lượt cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang,
386

39.7 Page 387

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia thực hiện sửa chữa, nâng
cấp trên 25km đường giao thông nông thôn, phát bụi rậm, dọn vệ
sinh trên 31km đường giao thông nông thôn; trồng hơn 1.650 cây
xanh. Ngoài ra nhân dịp các ngày lễ, tết hàng năm, Mặt trận Tổ
quốc phối hợp cùng với chính quyền vận động trên 3.125 phần
quà tặng cho gia đình chính sách, hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.
Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới - đô
thị văn minh gắn với xây dựng nông thôn mới và nông thôn mới
nâng cao, Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam được tích cực thực hiện và có sức lan tỏa rộng rãi.
Bộ máy Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội không ngừng được củng cố, kiện toàn và phát huy hiệu
quả hoạt động. Tỷ lệ tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào tổ
chức đạt 87,1%, riêng Đoàn Thanh niên đạt tỷ lệ 68% và Hội Liên
hiệp Thanh niên đạt 67,5%, đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết. Chất
lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hàng năm
đạt vững mạnh.
Thực hiện quy chế hoạt động, định kỳ hàng quý Thường trực
Đảng ủy họp giao ban với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, hàng
tháng họp giao ban cùng với các chi bộ. Trên cơ sở những phản
ánh, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, cấp ủy chi
bộ, Đảng ủy kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Ban công tác
mặt trận, Ban Thanh tra nhân dân, giám sát cộng đồng thường
xuyên được củng cố, kiện toàn, phát huy vai trò hiệu quả, tập hợp
lực lượng, tuyên truyền, vận động nhân dân phát triển kinh tế,
giảm nghèo, giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
387

39.8 Page 388

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Địa phương cũng tăng cường công tác nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của nhân dân, để phản ánh đến chính quyền, các ngành liên
quan giải quyết. Lãnh đạo, chỉ đạo thành công Đại hội các tổ chức
đoàn thể như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp Thanh niên,
Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Đại hội Mặt trận Tổ quốc
nhiệm kỳ 2019-2024. Tiếp tục thực hiện Kết luận số 62-KL/TW
của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”, các đoàn thể
đổi mới về phương thức, nội dung và đạt được nhiều thành tích
trong công tác vận động, tập hợp quần chúng nhân dân tham gia
vào các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, tỷ lệ tập hợp và hội viên
nòng cốt đạt kế hoạch đề ra. Thường xuyên củng cố hoạt động của
các đoàn thể khu phố, để nâng cao chất lượng sinh hoạt của các
chi, tổ hội. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ trong hệ thống Dân vận, Mặt trận, đoàn thể đạt kế hoạch đề ra.
Hằng năm, thị trấn đều hướng dẫn và tạo điều kiện cho các
cơ sở tôn giáo tổ chức hoạt động tín ngưỡng, nghi thức tôn giáo
đúng theo qui định pháp luật, đồng thời đã tăng cường quản lý
nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, nhất là việc nâng cấp,
sửa chữa và xây dựng cơ sở thờ tự; qua đó tạo được lòng tin vào
sự lãnh đạo của Đảng trong đồng bào có đạo yên tâm lao động
sản xuất, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Thường
xuyên quan tâm và tập trung chỉ đạo chăm lo về đời sống vật chất,
tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số; từ đó đồng bào dân tộc
thiểu số luôn đoàn kết và chấp hành tốt mọi chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các qui định tại
địa phương.
388

39.9 Page 389

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được các cấp ủy quan
tâm thực hiện; triển khai, quán triệt cho cán bộ, đảng viên các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và xây dựng các kế hoạch thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết được triển khai thực hiện nghiêm túc, hình thức,
nội dung, phong phú, đa dạng, góp phần nâng cao ý thức, tinh
thần cảnh giác cách mạng nhằm chống lại các luận điệu xuyên tạc
và âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong và
ngoài nước. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập chỉ thị, nghị quyết
đạt cao trên 99%, đạt chỉ tiêu nghị quyết.
Các cấp ủy đã triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW
của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các quy định nêu
gương của trung ương, tỉnh, huyện; gắn với thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng. Hằng năm có 100%
đảng viên đăng ký nêu gương, xây dựng kế hoạch Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và 388/391,
đạt tỷ lệ 99,23% đảng viên được công nhận nêu gương tốt trở lên
(trong đó có 17 đảng viên miễn sinh hoạt). Qua đó, nhận thức và
hành động của cán bộ, đảng viên đã được nâng lên, hết lòng phục
vụ nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tạo được niềm
tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của
Nhà nước.
Công tác phát triển đảng viên mới hằng năm luôn được Đảng
ủy quan tâm, đảm bảo đạt chỉ tiêu huyện giao. Trong nhiệm kỳ
qua phát triển được 88 đảng viên mới và tạo nguồn được 156
trung kiên. Công tác cán bộ có đổi mới về nội dung, quy trình theo
389

39.10 Page 390

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
hướng phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, trên cơ sở những
quy định về công tác cán bộ của tỉnh, huyện đã cụ thể hóa và tổ
chức thực hiện tốt công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Trên cơ sở quy hoạch, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được
đẩy mạnh góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong 5 năm qua
có 16 cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, trình
độ chính trị. Đồng thời quan tâm bồi dưỡng và không ngừng nâng
cao chất lượng hoạt động đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
của thị trấn. Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý, cán bộ được đưa vào nguồn quy hoạch hàng năm.
Trong nhiệm kỳ qua công tác kiểm tra, giám sát có nhiều đổi
mới và đạt kết quả, góp phần tích cực vào thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đã tổ chức kiểm tra,
giám sát được 39 lượt. Các cấp ủy chi bộ đã nhận thức sâu tầm
quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc
chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Nội dung,
phương thức kiểm tra, giám sát từng bước được đổi mới, Ủy ban
Kiểm tra Đảng ủy làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy trong công
tác kiểm tra, giám sát. 5 năm qua đã thi hành kỷ luật bằng hình
thức khiển trách 5 đảng viên và cảnh cáo 1 đảng viên, giảm so với
đầu nhiệm kỳ.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, Ban Chấp hành
Đảng bộ thị trấn luôn kịp thời sửa đổi, bổ sung những nội dung
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, cụ thể
như Ban chấp hành Đảng bộ đã ban hành Quyết định số 01-QĐ/
ĐU ngày 20.4.2015 về ban hành quy chế làm việc của Ban Chấp
hành Đảng bộ (nhiệm kỳ 2015-2020), cụ thể hóa các nội dung,
quy định trách nhiệm của từng cá nhân và của các cấp ủy. Tổ chức
phân công các đồng chí ủy viên thường vụ, ủy viên Ban Chấp
hành phụ trách các chi bộ trực thuộc, từng cấp ủy viên đã nêu
cao được vai trò cá nhân, tinh thần trách nhiệm của mình đối với
nhiệm vụ của từng lĩnh vực được phân công.
Thị trấn chú trọng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh và vai trò tích cực của các tầng lớp nhân dân,
tạo sự đồng thuận trong xã hội, đảm bảo mối quan hệ gắn bó đoàn
kết giữa các tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số. Hằng tháng,
Thường trực Đảng ủy định kỳ làm việc với lãnh đạo khối Dân
vận, Ban Tuyên giáo, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể cùng 12 chi bộ trực thuộc Đảng ủy giao
ban trao đổi nắm tình hình chung để xử lý kịp thời các khó khăn,
vướng mắc và nhân rộng các cách làm hay ở các đơn vị trực thuộc.
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục khuyết điểm theo
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), (khóa XII), tập thể Ban Chấp
hành, từng cá nhân ủy viên Ban Chấp hành và đảng viên trong
toàn Đảng bộ thực hiện nghiêm túc công tác tự phê bình và phê
bình về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; qua triển khai thực
hiện chưa phát hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá
391

40.2 Page 392

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
nhân phụ trách”. Phát huy tính dân chủ, đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu, lắng nghe, tiếp thu các ý kiến phản ánh, đóng
góp, phê bình của cấp dưới và quần chúng, đồng thời tăng cường
kiểm tra, giám sát đến chi bộ.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, Đảng bộ thị trấn tổ chức thực
hiện kiểm điểm một cách nghiêm túc hằng năm. Qua kiểm điểm,
tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ thấy được những ưu điểm để phát
huy, nhìn nhận những khuyết điểm, hạn chế để xây dựng kế hoạch
khắc phục trong thời gian tới, tạo sự chuyển biến trong công tác
cán bộ và nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tự giác, gương mẫu
của người đứng đầu, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng. Từng cá nhân cấp ủy và cán bộ, đảng viên đã nêu
cao tính tự giác trong tự phê bình và phê bình, nhận khuyết điểm
và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Hiện nay, tập thể Ban Chấp
hành Đảng bộ thị trấn đã cơ bản khắc phục xong 16/17 hạn chế,
khuyết điểm trong các kỳ kiểm điểm hàng năm trên các lĩnh vực;
còn 1 hạn chế, khuyết điểm tiếp tục khắc phục và giải quyết tốt
các vấn đề hạn chế phát sinh trong lãnh đạo, điều hành.
Những thành tựu trong nhiệm kỳ qua là do tập thể Ban Chấp
hành có sự đoàn kết, nhất trí cao; phương thức lãnh đạo, lề lối làm
việc của Đảng ủy luôn đảm bảo tuân thủ nguyên tắc tập trung dân
chủ, thực hiện đúng quy chế đề ra; chương trình công tác hằng
tháng, hằng quý, hằng năm do Đảng ủy đề ra luôn gắn liền với
những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, phù hợp với đặc thù của địa
phương. Mặt khác, việc phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị từ thị trấn đến ấp và sự hưởng ứng, đồng tình của nhân dân đối
392

40.3 Page 393

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
với các chủ trương của địa phương có thể xem là những nguyên
nhân cơ bản giúp Đảng bộ hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ
trong nhiệm kỳ qua.
Đại hội đã tập trung phân tích, qua đó chỉ ra những tồn tại, hạn
chế trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo. Về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực
thương mại - dịch vụ được định hướng phát triển từ đầu nhiệm
kỳ, lĩnh vực nông nghiệp phát triển không đáng kể, ngoài một số
cơ sở hoạt động dịch vụ. Nguyên nhân chủ yếu do quỹ đất theo
quy hoạch đô thị không phù hợp để phát triển các sản phẩm nông
nghiệp. Về cơ sở hạ tầng, đường giao thông trên một số tuyến
xuống cấp, hệ thống thoát nước đầu tư chưa đồng bộ, làm ảnh
hưởng môi trường đô thị, do nguồn ngân sách địa phương hạn hẹp
và nguồn lực sức dân có hạn không thể đầu tư, cần có sự hỗ trợ
vốn đầu tư của tỉnh và huyện. Công tác bồi thường giải tỏa còn
khó khăn, vẫn còn một số hộ dân chưa nhận tiền bồi thuờng và
giao đất theo quy định, gây ảnh huởng đến tiến độ thực hiện các
dự án.
Công tác quy hoạch sử dụng đất chưa sát với yêu cầu phát
triển, việc xây dựng không phép, sai phép vẫn còn xảy ra, quản lý
đất đai chưa chặt chẽ. Công tác vệ sinh môi trường tại các khu vực
nhà trọ chưa đảm bảo, vẫn còn tình trạng đổ rác không đúng nơi
tập kết, nước thải chưa được xử lý đúng theo quy định.
Phát triển văn hóa - xã hội có mặt chưa tương xứng với phát
triển kinh tế, thiếu các thiết chế văn hóa ở các khu phố chưa có
mô hình văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đặc trưng, tuy có
phát triển nhiều về số lượng nhưng chất lượng còn chưa đảm bảo.
393

40.4 Page 394

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đời sống một bộ phận dân cư và cán bộ, công chức còn nhiều khó
khăn, chất lượng giảm nghèo chưa thật vững chắc, thu nhập và đời
sống dân cư tuy có cải thiện nhưng vẫn còn khó khăn.
Tình hình gia tăng dân số do dân nhập cư nhanh, tuy không
cao nhưng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, tệ nạn xã hội về ma
túy từ đó cũng phát sinh theo gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự,
an sinh xã hội trên địa bàn. Bên cạnh đó, địa phương còn có tình
trạng cho vay nóng lãi suất cao.
Vẫn còn một số ít cán bộ chưa thực sự quan tâm công tác dân
vận của Đảng, chưa sâu sát với đoàn viên, hội viên; phát động mô
hình “Dân vận khéo” đến nhân dân còn chậm. Sự phối hợp giữa
các ban ngành, đoàn thể từ thị trấn đến khu phố cũng như công
tác củng cố, xây dựng tổ hội tại địa phương còn hạn chế, trình độ
chuyên môn của cán bộ thực hiện công tác dân vận còn yếu, dẫn
đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ chưa cao. Công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho đoàn viên, hội viên còn hạn chế, vai trò
giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội đối
với hoạt động của Nhà nước chưa được phát huy. Tỷ lệ tập hợp
các tầng lớp nhân dân vào các đoàn thể tổ chức hội quần chúng
tuy đạt chỉ tiêu nhưng chất lượng hoạt động của đoàn viên, hội
viên chưa cao.
Trong công tác xây dựng Đảng, chất lượng sinh hoạt chi bộ
được nâng lên, nhưng đôi lúc vẫn còn tình trạng lúng túng trong
điều hành của một vài chi ủy chi bộ. Có tình trạng số ít đảng viên
bỏ sinh hoạt, không đóng đảng phí không rõ lý do đến mức phải
xóa tên khỏi danh sách đảng viên.
394

40.5 Page 395

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trên, về khách quan
là do thị trấn là một địa bàn rộng, hình thành nhiều khu công
nghiệp, tình hình gia tăng dân số do dân nhập cư nhanh gây tiềm
ẩn nhiều yếu tố phức tạp, tệ nạn xã hội về ma túy từ đó cũng phát
sinh theo gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an sinh xã hội trên
địa bàn; lực lượng cán bộ làm công tác kiểm tra xây dựng cơ bản
mỏng; do thay đổi và củng cố nhân sự Ban chi ủy ở một số chi bộ,
do đó trong thời gian đầu điều hành sinh hoạt còn lúng túng. Về
nguyên nhân chủ quan, công tác xây dựng cơ bản kiểm tra phát
hiện và xử lý đôi lúc chưa kịp thời. Một số hộ dân chưa thực hiện
tốt công tác xin phép trong xây dựng. Phát sinh tình trạng cho vay
nóng lãi suất cao nguyên nhân chính do nhu cầu vay của người
dân, hình thức vay đơn giản, không thế chấp đã tạo môi trường
cho các đối tượng này hoạt động; khi mâu thuẫn giữa các bên
xảy ra công an thị trấn đến giải quyết thì đối tượng đã bỏ đi; mặt
khác với các đối tượng này chính quyền địa phương chưa đủ thẩm
quyền để xử lý; trong công tác tuyên truyền chưa đổi mới kịp thời
về nội dung và hình thức. Trong nhân dân vẫn còn một bộ phận
chưa thật sự chủ động và quan tâm tìm hiểu về các quy định pháp
luật của Nhà nước. Một số ban ngành, đoàn thể chưa chủ động lập
kế hoạch tuyên truyền theo từng nội dung, hình thức phù hợp và
theo đúng yêu cầu tiến độ để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ; công
tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm từ đó công
tác kiểm tra, giám sát đôi lúc chưa kịp thời. Việc đảng viên bỏ sinh
hoạt Đảng nhiều lần trong năm nguyên nhân do đảng viên gặp khó
khăn về vấn đề cá nhân, kinh tế nên tập trung cho công việc và
395

40.6 Page 396

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
gia đình, một phần do đi làm ăn xa không thể về địa phương sinh
hoạt đúng định kỳ.
Trong nhiệm kỳ qua, quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ IV đã đạt được những thành tựu
rất quan trọng, toàn diện theo Nghị quyết đã đề ra.
Kinh tế - xã hội phát triển theo đúng định hướng, thực hiện
đạt và vượt chỉ tiêu so với kế hoạch, tăng so với cùng kỳ về năng
suất và sản lượng. Công tác thu chi ngân sách địa phương hàng
năm đạt và vượt chỉ tiêu. Các hoạt động văn hóa xã hội có tiến
bộ trên nhiều mặt. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Quốc
phòng, an ninh được giữ vững; bộ máy chính quyền cơ sở, Mặt
trận và các đoàn thể tiếp tục phát huy được vai trò và hiệu quả,
tăng cường khối đại đoàn kết trong nhân dân. Công tác dân vận
được quan tâm thực hiện tốt, góp phần tích cực trong vận động
các nguồn lực xã hội xây dựng và phát triển địa phương. Công tác
xây dựng Đảng được tập trung chỉ đạo, hoạt động cấp ủy Đảng
đảm bảo duy trì nề nếp theo đúng quy chế làm việc đề ra. Công
tác lãnh đạo chỉ đạo của Đảng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ
của địa phương có tập trung vào những nội dung trọng tâm, trọng
điểm. Tổ chức bộ máy, nhân sự trong hệ thống chính trị tiếp tục
được củng cố kiện toàn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất
định như: Kinh tế tuy có phát triển nhưng chưa xứng với lợi thế và
tiềm năng; trật tự an toàn xã hội có lúc, có nơi còn tiềm ẩn một số
diễn biến phức tạp; hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền
địa phương ở một số lĩnh vực chưa thật sự phát huy mạnh mẽ;
396

40.7 Page 397

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
chưa phát huy hết nguồn lực trong xã hội để phục vụ xây dựng và
phát triển địa phương; hoạt động của một số đoàn thể chưa thật
sự sâu rộng.
Những bài học kinh nghiệm được rút ra trong hoạt động của
nhiệm kỳ qua, đó là Đảng bộ phải đoàn kết, thống nhất ý chí và
hành động, nói và làm theo nghị quyết của Đảng, có qui chế làm
việc, có tổ chức kiểm tra đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. Tổ chức
lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết có trọng tâm, trọng điểm, tranh thủ
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên áp dụng vào thực tiễn tại địa
phương một cách khoa học, sáng tạo trong công tác thực hiện
nhiệm vụ chính trị, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng ở địa phương. Tăng cường
mối đoàn kết thống nhất trong Đảng, phát huy tính sáng tạo, chủ
động trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thường xuyên củng cố hệ
thống chính trị nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao
năng lực hiệu quả hoạt động của chính quyền, mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể chính trị.
Bên cạnh đó, cần đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, nhất là việc triển khai và tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Đảng, kịp thời cụ thể hóa những chủ trương của Đảng
thành những kế hoạch, chương trình hành động có trọng tâm,
trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành đạt hiệu quả
hơn. Quan tâm chỉ đạo, kiểm tra sự phối kết hợp giữa Ủy ban
nhân dân, các ban ngành, đoàn thể thị trấn với các khu phố để thúc
đẩy hoạt động đồng bộ từ thị trấn đến khu phố. Kịp thời đề xuất
khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong
397

40.8 Page 398

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
việc thực hiện nhiệm vụ, đồng thời nghiêm túc xử lý kỷ luật đối
với những cán bộ, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc né
tránh nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, cần xác định công tác kiểm tra, giám sát là chức
năng lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, do đó cần
phải tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quy định Điều lệ Đảng
đối với tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Các đại biểu tham gia đại hội nhận định, trong 5 năm tới huyện
Nhơn Trạch nói chung và thị trấn Hiệp Phước nói riêng, với vị trí
thuận lợi cho việc giao thông, vận chuyển hàng hóa; trình độ dân
trí và người lao động có trình độ cao từ nhiều nơi cư trú trên địa
bàn Nhơn Trạch, các yếu tố trên nếu được khai thác sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Mặt
khác, với những kết quả đạt được trong 5 năm qua và những kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của Đảng bộ,
đặc biệt là sự ổn định về chính trị xã hội là tiền đề vững chắc, tác
động rất lớn đến quá trình xây dựng thị trấn Hiệp Phước nâng cấp,
phát triển thành thị xã trong những năm tới.
Bên cạnh những thuận lợi trên, thị trấn Hiệp Phước cũng còn
nhiều khó khăn, thách thức đó là:
- Sự gia tăng dân số cơ học sẽ tạo áp lực lớn đối với cơ sở hạ
tầng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, học tập, khám chữa bệnh;
mặt khác, công tác quản lý xã hội nhiều phức tạp hơn như những
tệ nạn xã hội, những ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường tác
động không nhỏ đến đời sống của nhân dân.
398

40.9 Page 399

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội vượt quá khả năng của ngân sách.
- Năng lực, kiến thức của đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền
chưa đồng bộ, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chưa phát
huy hết vai trò trách nhiệm của mình, chất lượng cán bộ Đoàn,
Hội còn nhiều bất cập; chế độ chính sách đãi ngộ cho cán bộ công
nhân viên chức chưa phù hợp để thúc đẩy sự nhiệt tình tham gia
vào công tác.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường chưa kiểm soát chặt chẽ.
Mục tiêu tổng quát của toàn Đảng bộ và nhân dân thị trấn Hiệp
Phước trong thời gian tới là cần phát huy nội lực để phát triển kinh
tế toàn diện, khai thác các tiềm năng xây dựng thị trấn ngày càng
phát triển; giải quyết việc làm, nâng cao sự nghiệp văn hoá, y tế,
giáo dục, thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Ổn định và giữ vững quốc phòng
- an ninh, đẩy mạnh công tác cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách
thủ tục hành chính nâng, cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước và
hệ thống chính trị. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thực
hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ
thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc Học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn
với công tác nêu gương của cán bộ, đảng viên. Chú trọng công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ để Đảng bộ thật sự trong sạch vững
mạnh, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
399

40.10 Page 400

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Một số mục tiêu cụ thể được đề ra như sau:
- Thu nhập bình quân đến năm 2025 đạt 90 triệu đồng/người/
năm.
- Thu ngân sách phấn đấu đạt chỉ tiêu huyện giao. Chi ngân
sách phấn đấu đạt 100%, trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt
25%.
- Thu gom rác thải và xử lý 100% chất thải y tế, 100% rác thải
sinh hoạt.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 100%; hộ dân sử dụng nước hợp
vệ sinh đạt 100%, trong đó tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt tiêu
chuẩn quốc gia đạt 95%.
- Giữ vững mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ
sở, thực hiện đạt mục tiêu phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5
tuổi.
- Duy trì trạm y tế có 1 bác sĩ phục vụ, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên đến năm 2025 dưới 1%.
- Tỷ lệ trẻ em 5 tuổi suy dinh dưỡng cân nặng theo độ tuổi
dưới 6,5%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng chiều cao theo độ tuổi
dưới 16,5 %.
- Hằng năm giải quyết việc làm tại chỗ cho từ 150 lao động,
tỷ lệ lao động qua đào tạo 50%, trong đó đào tạo nghề đạt 65%.
- Hằng năm giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chỉ tiêu huyện giao.
- Trên 98% hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa, 5/5 khu phố giữ
vững khu phố văn hóa, cơ quan thị trấn Hiệp Phước đạt cơ quan
có đời sống văn hóa tốt.
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế toàn dân đến năm 2025 phấn
đấu đạt 95%.
- Hoàn thành 100% chỉ tiêu động viên, tuyển quân, xây dựng
lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện.
- Tỷ lệ tập hợp số người trong độ tuổi vào các tổ chức đoàn
thể đạt trên 75%, riêng Đoàn Thanh niên là 60%. Tỷ lệ đoàn viên,
hội viên nòng cốt đạt trên 35%; tỷ lệ đoàn viên, hội viên tham gia
sinh hoạt và công tác thường xuyên đạt trên 80%; tỷ lệ Đoàn, Hội
hàng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên 80%. Trên 80% đoàn viên,
hội viên tham gia học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
- Hằng năm kết nạp đảng viên mới đạt 100% chỉ tiêu Huyện
ủy giao; phấn đấu trên 85 % đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ
trở lên; trên 80% chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; Đảng bộ
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng trên 99% (trừ đảng viên miễn sinh hoạt, công tác).
Các giải pháp được đại biểu thống nhất đưa ra như sau:
- Mở rộng mạng lưới thương mại - dịch vụ, nâng cao kỹ năng
kinh doanh, đa dạng dịch vụ phục vụ khách hàng; tạo điều kiện
hỗ trợ vốn vay, đầu tư hàng hóa, cung cấp hàng hóa, phong phú
đa dạng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, góp phần ổn định
giá cả thị trường.
- Thực hiện tốt các văn bản quy định pháp luật về đất đai, phối
hợp cùng các ngành của huyện thực hiện công tác bồi thường hỗ
trợ, tái định cư đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi của người thu
401

41.2 Page 402

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
hồi đất, góp phần thúc đẩy các dự án đầu tư, ổn định cuộc sống
của nhân dân, phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh chính trị - trật
tự an toàn xã hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư sản
xuất, kinh doanh - dịch vụ, xây dựng, kêu gọi, thu hút vốn đầu tư,
phát huy nguồn nhân lực trong và ngoài địa phương đầu tư phát
triển kinh tế trên địa bàn thị trấn.
- Tranh thủ từ nguồn vốn ngân sách cấp trên đầu tư, nâng cấp
cơ sở hạ tầng thị trấn: đầu tư cải tạo các tuyến đường trung tâm
hành chính và số tuyến đường giao thông khu phố.
- Tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành quy
hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng. Đề nghị huyện cắm
mốc chỉ giới xây dựng trên các tuyến đường, hẻm để nhân dân
biết chấp hành. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đầu tư xây
dựng nhà ở, công trình theo quy định pháp luật góp phần tạo động
lực phát triển kinh tế và tạo mỹ quan đô thị.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động các tổ
chức kinh tế tập thể yếu kém; tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
vốn và nguồn nhân lực để đầu tư thành lập hợp tác xã, tổ hợp tác
hoạt động đa ngành nghề góp phần chung phát triển kinh tế địa
phương.
- Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về kinh doanh - dịch
vụ của các thành phần kinh tế, khai thác các nguồn thu hiện có,
thu đúng, thu đủ, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách
được giao.
402

41.3 Page 403

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt chỉ tiêu giao. Chi
ngân sách trên tinh thần tiết kiệm đảm bảo hoạt động Đảng - Nhà
nước và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
- Tăng cường quản lý quy hoạch, xây dựng, chỉnh trang đô thị
thị trấn theo hướng đô thị văn minh.
- Xây dựng hệ thống thoát nước khu dân cư để tránh ngập úng
cục bộ và thực hiện tốt công tác phòng chống sốt xuất huyết.
- Tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành các quy định
pháp luật về đất đai, môi trường, rà soát cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hết số lượng thửa đủ điều kiện, góp phần thuận
lợi cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, quản lý đất công hiện
có, kiểm tra quản lý cột mốc địa giới hành chính.
- Tuyên truyền nâng cao ý thức nhân dân trong công tác bảo
vệ môi trường, tăng cường công tác quản lý nhà nước bảo vệ môi
trường, vận động trên 99% hộ nhân dân đều đăng ký thu gom rác.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp
học, nắm chắc số lượng học sinh, vận động các em bỏ học đến
lớp; có kế hoạch giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em an tâm học tập.
Tích cực nâng cao chất lượng dạy và học, tăng cường hoạt động
của hội khuyến học. Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý, đội ngũ giáo viên đạt chuẩn 100%. Đẩy mạnh công
tác xây dựng các đoàn thể trong nhà trường, tích cực đổi mới nội
dung, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cả về kiến thức và
khả năng tư duy sáng tạo, năng lực thực hành cho học sinh, nâng
403

41.4 Page 404

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cao học lực và rèn luyện hạnh kiểm; quan tâm giáo dục tri thức xã
hội gắn với giáo dục truyền thống lý tưởng tình cảm cách mạng,
xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực, mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương về đạo đức. Tăng cường xây dựng cơ sở
vật chất, đổi mới trang thiết bị đáp ứng sự phát triển và nâng cao
chất lượng. Đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch số 179-KH/HU ngày
3.11.2014 về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4.11.2013
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò
của khoa học công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước. Tiếp tục triển khai có hiệu quả văn phòng một
cửa hiện đại, phổ biến rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
môi trường, đảm bảo nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
hàng hóa. Phối hợp với cơ quan chức năng của huyện giới thiệu
địa điểm xây dựng các trường học trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu
chương trình thay sách giáo khoa mới và tình hình tăng học sinh
cơ học của thị trấn.
- Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về “xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”. Tập trung thông tin tuyên truyền đưa chủ trương, chính
sách của Đảng, nhà nước đi vào đời sống xã hội, tăng cường công
404

41.5 Page 405

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tác quản lý nhà nước, kiểm tra các hoạt động văn hóa - thông
tin, nhất là quản lý đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn
hóa có điều kiện như: trò chơi điện tử, dịch vụ karaoke, massage,
internet... Đồng thời xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
văn minh.
- Tiếp tục đầu tư hoàn thiện các thiết chế văn hóa, đầu tư trang
thiết bị cho các hoạt động văn hóa văn nghệ, đài truyền thanh,
nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế
văn hóa, đảm bảo thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của
địa phương. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa
thông tin - thể thao, nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm
văn hóa thể thao - học tập cộng đồng.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “củng cố và hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở”. Làm tốt công tác phòng bệnh, nâng cao
chất lượng các chương trình y tế cộng đồng, y tế quốc gia. Nâng
cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân.
- Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị. Nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, giáo dục y đức cho đội ngũ cán bộ làm
công tác y tế; kiện toàn và phát triển đội ngũ cộng tác viên y tế 6
khu phố. Thực hiện tốt công tác bảo hiểm y tế, công tác y tế dự
phòng và các chương trình y tế quốc gia, y tế cơ sở, thực hiện tốt
các chính sách về dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em. Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục
405

41.6 Page 406

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, chăm sóc trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên. Duy trì và giữ vững Trạm y tế đạt chuẩn Bộ
tiêu chí y tế quốc gia.
- Thường xuyên làm tốt công tác chăm lo đối tượng chính
sách, tiếp tục vận động nhân dân đóng góp xây dựng quỹ đền ơn
đáp nghĩa để có kinh phí chăm lo, sửa chữa nhà tình nghĩa cho các
đối tượng chính sách, gia đình có công cách mạng.
- Phấn đấu hàng năm giải quyết việc làm tại chổ cho 150 lao
động bằng nhiều hình thức như: tạo việc làm tại chổ thông qua
các dự án phát triển ngành nghề, chuyển dịch lao động trong nông
nghiệp và đưa đi học nghề tại trường cao đẳng nghề Long Thành -
Nhơn Trạch, Trường Cao đẳng nghề Lilama, đưa đi đào tạo nghề
cho các đối tượng lao động hộ chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân
tộc thiểu số và thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
- Phấn đấu hằng năm giảm hộ nghèo đạt theo chỉ tiêu huyện
giao, hàng năm tổ chức có hiệu quả Ngày vì người nghèo, vận
động các nhà hảo tâm, quần chúng nhân dân giúp đỡ hộ nghèo;
hướng dẫn hộ nghèo làm ăn có hiệu quả để thoát nghèo một cách
bền vững. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, miễn giảm
học phí cho con em hộ nghèo, giúp hộ nghèo tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng chính sách và sử dụng có hiệu quả. Thực hiện kịp thời
chế độ chính sách đối với các đối tượng bảo trợ xã hội và người
khuyết tật. Thực hiện tốt chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ,
bình đẳng giới.
406

41.7 Page 407

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về
chính sách tôn giáo, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo,
hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôn giáo hoạt động đúng pháp
luật, sống “tốt đời, đẹp đạo”. Kịp thời ngăn chặn những phần tử
lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Tăng
cường công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo và dân tộc. Từng
bước xây dựng nếp sống văn hóa của cư dân đô thị.
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân vững chắc, xây dựng lực lượng dân quân chiến đấu
đủ số lượng, đảm bảo chất lượng. Sẵn sàng chiến đấu hoàn thành
nhiệm vụ được giao, tổ chức huấn luyện quân sự, giáo dục chính
trị tư tưởng, nâng cao phẩm chất, đạo đức cho cán bộ lực lượng
dân quân chiến đấu.
- Thực hiện tốt công tác tuyển quân hàng năm đạt chất lượng
và chỉ tiêu được giao, chú trọng phát triển đảng viên, đoàn viên
trong lực lượng dân quân và thanh niên thi hành luật nghĩa vụ
quân sự.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch bảo vệ an toàn các
ngày cao điểm, lễ, tết và công tác phòng chống bão lụt, thiên tai.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng phong trào quần chúng bảo
vệ an ninh Tổ quốc phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân
dân nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng nhằm đấu tranh phòng
chống và làm thất bại mọi âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa
407

41.8 Page 408

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
bình” của các thế lực thù địch và bọn phản động, không xảy ra
điểm nóng. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình
4 giảm (tội phạm, ma túy, mại dâm, tai nạn giao thông).
- Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Công an, Quân sự, Mặt trận,
các đoàn thể và khu phố thực hiện tốt công tác vận động quần
chúng tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn an
ninh trật tự, phòng chống tội phạm và phong trào bảo vệ an ninh
Tổ quốc.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng
nhiều hình thức đảm bảo cho nhân dân hiểu biết về pháp luật để
nhân dân sống và làm việc theo pháp luật.
- Nâng cao kiến thức pháp luật và chất lượng hoạt động Hội
đồng hòa giải thị trấn và tổ hòa giải khu phố. Duy trì tiếp dân theo
qui định. Tổ chức xác minh, giải quyết kịp thời các đơn, thư khiếu
nại của nhân dân, không để xảy ra điểm nóng làm mất an ninh
trật tự.
- Phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân, vai trò giám sát của Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ban Hội đồng nhân dân. Cải tiến nội dung chất lượng kỳ họp
Hội đồng nhân dân, xây dựng các nghị quyết mang tính khả thi,
đúng pháp luật, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa
- xã hội ở địa phương, thông qua đó phản ánh đầy đủ ý chí, tâm tư
và nguyện vọng chính đáng của đa số cử tri.
408

41.9 Page 409

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Không ngừng cải tiến hoạt động tiếp xúc cử tri, tổ chức đối
thoại, giải thích trực tiếp giữa đại biểu với cử tri, nhằm bảo đảm
tính vừa là đại diện, vừa là cầu nối giữa Nhà nước và tầng lớp
nhân dân trong xã hội, chú trọng công tác tiếp xúc cử tri tại khu
phố; đồng thời tổng hợp đầy đủ, chính xác các tâm tư, nguyện
vọng, những kiến nghị chính đáng của đa số cử tri để yêu cầu các
cơ quan chức năng trả lời và giải quyết kịp thời.
- Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, thường xuyên
đề nghị và giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng
luật định, tránh kéo dài gây phiền hà cho nhân dân.
- Lãnh đạo thực hiện thành công công tác bầu cử Đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và
bầu cử trưởng ấp.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, thanh tra, quản lý nhà nước
bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy thị trấn và nhà nước
cấp trên. Tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền giám sát các
hoạt động của nhà nước; Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể tổ chức thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ cơ
sở. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng
phí và các biểu hiện khác gây phiền hà cho nhân dân. Đồng thời,
kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, công chức nhà nước vi
phạm pháp luật, vị phạm nội qui, quy chế cơ quan, đơn vị.
409

41.10 Page 410

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất lượng
hoạt động bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. Đảm bảo hồ sơ được
giải quyết đúng theo quy trình.
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW về “tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới”; Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị về “ tiếp
tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội”, Quyết định 217, 218-QĐ/TW của
Bộ Chính trị về quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội” và “tham
gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Tăng cường
đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực
hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh tại địa
phương nhằm góp phần cho Đảng bộ thực hiện thắng lợi các mục
tiêu nhiệm vụ mà Nghị quyết của Đảng bộ đề ra, chú trọng đổi
mới nội dung và hình thức phù hợp với từng đối tượng để đạt hiệu
quả cao trong công tác tuyên truyền, đặc biệt nâng cao nhận thức
chính trị và ý thức pháp luật trong thanh thiếu niên trên địa bàn.
Thực hiện tốt các tiêu chí đánh giá chất lượng đoàn viên, hội viên,
thực lực Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể.
- Đẩy mạnh phong trào Dân vận khéo và các phong trào thi
đua yêu nước trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, hội viên, đoàn
viên và quần chúng nhân dân tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/
TW về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tham gia tích cực vào công tác
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 (khóa XI), (khóa XII).
- Phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân và các ngành tổ chức
thực hiện tốt các chương trình chính sách, dự án phát triển liên
quan đến đào tạo nghề, nâng cao dân trí, giảm nghèo bền vững,
phát triển sản xuất và cải thiện đời sống đoàn viên, hội viên và
quần chúng nhân dân.
- Phối hợp với các ban, ngành quan tâm đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ dân vận, Mặt trận và các đoàn thể từ thị trấn đến các
khu phố. Tăng cường công tác phát triển đoàn viên, hội viên đạt
chỉ tiêu, xây dựng lực lượng hội viên, đoàn viên nồng cốt, đoàn
kết nhân dân.
- Tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 65-KL/TW ngày
4.3.2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ chính trị, Quyết định số 768-
QĐ/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy, có sự phối hợp chặt chẽ giữa
Ban Chỉ đạo quy chế dân chủ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể trong việc tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên
và các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong
trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự xã hội ở địa phương.
- Tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực cụ thể hóa
đường lối của Đảng, tạo sự thống nhất cao trong nội bộ Đảng và
411

42.2 Page 412

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
sự đồng thuận trong xã hội. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức
công tác giáo dục, chính trị, tư tưởng và rèn luyện phẩm chất, đạo
đức cán bộ, đảng viên.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng, hình thức tổ chức quán
triệt, triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, đảm bảo 100% chi bộ cơ sở Đảng tổ chức
triển khai trên 99% cán bộ, đảng viên tham gia (trừ đảng viên
miễn sinh hoạt, miễn công tác). Đồng thời xây dựng kế hoạch, tổ
chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp sát với
tình hình thực tế của địa phương, đơn vị.
- Tiếp tục triển khai đi vào chiều sâu và hiệu quả thiết thực
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
gắn với thực hiện các quy định của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện
ủy về nêu gương. Không ngừng giáo dục, rèn luyện phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nhân rộng gương điển hình, gương người tốt việc tốt về Học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong
toàn Đảng bộ. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI) về “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”
và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ”.
412

42.3 Page 413

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Đảng viên phải luôn ý thức và nâng cao cảnh giác cách
mạng, chủ động và tích cực đấu tranh với những quan điểm và
luận điệu sai trái, phản động, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, giữ gìn tuyệt đối bí
mật của Đảng, Nhà nước, nói và làm theo Nghị quyết của Đảng.
- Thường xuyên nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng trên địa
bàn để có định hướng xử lý thông tin dư luận xã hội hiệu quả.
Nâng cao chất lượng tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng.
- Mỗi đảng viên phải ý thức nghiêm túc thực hiện Quy định
47-QĐ/TW của Bộ chính trị về “Những điều đảng viên không
được làm”, phải tự rèn luyện nâng cao nhận thức về trình độ chính
trị, có lập trường quan điểm vững vàng, kiên định mục tiêu lý
tưởng trước mọi khó khăn, thử thách trong công tác cũng như
trong cuộc sống phải giữ mối quan hệ chặt chẽ với cấp ủy nơi cư
trú và liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân.
- Tổ chức phân công công tác đảng viên phải tuỳ theo năng
lực, phù hợp với trình độ, có sự quan tâm giúp đỡ đối với đảng
viên có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, đời sống hoặc sức khoẻ
kém, kiên quyết giữ nghiêm kỷ luật Đảng, kịp thời xây dựng uốn
nắn những thiếu sót của đảng viên, không để xảy ra sai phạm
nghiêm trọng buộc phải thi hành kỷ luật Đảng.
- Phấn đấu hàng năm xét đề nghị cấp có thẩm quyền kết nạp
đảng viên mới đạt chỉ tiêu Huyện giao, chú ý phát triển đảng viên
413

42.4 Page 414

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
trẻ tuổi, hội đủ tư chất người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
trong các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng dân quân chiến
đấu, tổ nhân dân ở khu phố.
- Tăng cường nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng,
lãng phí.
- Hằng năm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng theo
Điều 30, 32 Điều lệ Đảng, Quy định số 55-QĐ/TW của Ban Bí
thư Trung ương Đảng, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI) về “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”
và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ” thường xuyên kiểm tra việc triển khai và xây
dựng kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cấp trên.
- Chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm của tổ chức cơ sở đảng
và đảng viên, trước hết cấp ủy cùng cấp và cán bộ thuộc diện cấp
ủy quản lý nhằm ngăn chặn khuyết điểm dẫn đến vi phạm. Xử
lý nghiêm minh đối với các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên vi
phạm. Giải quyết kịp thời những đơn thư tố cáo có liên quan đến
đảng viên và tổ chức đảng, đơn khiếu nại kỷ luật Đảng. Phấn đấu
giải quyết đơn đạt trên 90% đúng thời gian quy định, không để
tồn đọng kéo dài.
414

42.5 Page 415

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Ban Chấp hành Đảng bộ thị trấn đối với hệ thống chính trị hiện
nay.
- Đổi mới việc xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng. Tập trung xây dựng các chương trình hành động,
kế hoạch thực hiện nghị quyết của cấp trên một cách thiết thực đạt
hiệu quả cao nhất.
- Thực hiện tốt các quy chế, quy định về tổ chức hoạt động
của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
- Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, tăng
cường chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của người đứng đầu. Cán bộ, đảng
viên phát huy tính tiên phong, gương mẫu, sáng tạo trong công
tác, nói đi đôi với làm, lấy hiệu quả công tác làm thước đo năng
lực, trình độ, luôn rèn luyện học tập để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
- Hằng năm tổ chức đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng
một cách nghiêm túc, củng cố kịp thời những cơ sở yếu kém.
Thông qua các cuộc sinh hoạt chi bộ để phát hiện và khắc phục
những lệch lạc yếu kém và những biểu hiện tiêu cực, từ đó đề ra
các biện pháp khắc phục hiệu quả nhằm đảm bảo sự lãnh đạo toàn
diện của Đảng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
415

42.6 Page 416

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
- Thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Thường xuyên kiểm tra giám sát đảng viên thực hiện nghị
quyết của Đảng, coi trọng việc lấy ý kiến nhận xét của nhân dân
về tư cách đạo đức cán bộ, đảng viên.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động
của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị xã hội bằng Nghị quyết, chương trình hành động và các
kế hoạch cụ thể. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong Đảng,
xây dựng qui định cụ thể về thời gian chỉ đạo, kiểm tra, xử lý đối
với từng loại công việc. Tập trung chỉ đạo sâu sát các chi bộ cơ sở
trực thuộc Đảng ủy, tăng cường công tác kiểm tra theo quy định
của Điều lệ Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí: Dương
Văn Em (Bí thư Đảng ủy), Trần Văn Hà (Chủ tịch Ủy ban nhân
dân), Nguyễn Văn Chỉnh, Nguyễn Tấn Xuân, Nguyễn Hoàng
Minh, Phạm Minh Tiến, Trần Bích Ngọc, Nguyễn Tấn Phong,
Nguyễn Minh Tới, Nguyễn Như Chung, Đặng Văn Xiếp.
416

42.7 Page 417

▲back to top


Chương VII
BÀI HỌC LỊCH SỬ
Từ thực tế lịch sử, Đảng bộ thị trấn Hiệp Phước đúc kết 5 bài
học kinh nghiệm:
1. Bài học về xây dựng Đảng
Xây dựng Đảng là then chốt, là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi. Đảng không tự nhiên có. Mọi nguồn lực của Đảng là từ ở dân,
trong dân, do dân vì dân. Cấp ủy xã phải luôn là tập thể đoàn kết
vững mạnh, tiêu biểu cho đạo đức, văn minh, tiến bộ trong lòng
dân. Bài học này phổ quát ở Hiệp Phước thể hiện cụ thể và rõ nét
nhất. Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, Hiệp Phước
là địa bàn trọng yếu, được xem là vùng yếu do giặc tập trung lực
lượng và áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt lực lượng kháng
chiến, đẩy Đảng ra khỏi dân, có lúc tổ chức Đảng bị tan rã, đảng
viên bị hy sinh, bị bắt, tù đày nhưng nhờ ở lòng dân, sức dân mà
gầy dựng lại, trưởng thành, đi đến mọi thắng lợi. Trong thời hòa
bình, thống nhất xây dựng đất nước cũng vậy.
Xây dựng Đảng là xây dựng giá trị trong lòng dân, làm cho dân
hiểu, tin và làm theo. Trong kháng chiến, ở địa bàn Hiệp Phước
không có căn cứ cách mạng vững chắc, không nhiều hầm bí mật
trong lòng đất, nhưng Đảng trong lòng dân thì bền vững. Đảng
417

42.8 Page 418

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
được dân tin yêu, nuôi dưỡng, chở che, bảo vệ nên không ngừng
lớn mạnh. Hình ảnh của những người dân, những gia đình cơ sở
tìm mọi cách để qua mắt giặc, nuôi giấu cán bộ, cung ứng vật
lực, hy sinh tài sản, con cái và tính mạng mình để bảo vệ Đảng,
xây dựng Đảng chính là nguyên nhân mọi thắng lợi của Đảng, từ
không đến có, từ yếu đến mạnh, từ thất thế đến chiến thắng.
Trong xây dựng Đảng thời hòa bình, thống nhất cũng vậy.
Dân là nguồn lực đồng thời là mục tiêu của mọi chương trình, kế
hoạch kinh tế xã hội. Những lúc khó khăn, chưa thành công đều
nhận ra nguyên nhân ở lòng dân chưa đồng thuận.
Xây dựng Đảng ở Hiệp Phước không nặng về lý luận cách
mạng mà thành công thường bằng việc nêu gương thông qua các
tấm gương của đảng viên. Từ những buổi đầu xây dựng Đảng,
người Hiệp Phước vốn là những nông dân nghèo, ít được học
hành, ít tiếp xúc với sách vở nên khó tiếp cận lý luận cách mạng,
chủ yếu được nghe, hiểu và làm theo các đảng viên tiên phong,
gương mẫu cả trong nhận thức, hành động và lối sống.
Trong kháng chiến, nhiều tấm gương anh dũng chiến đấu, hy
sinh, xả thân vì sự nghiệp cách mạng đã thuyết phục, làm sáng
mắt sáng lòng bao lớp người. Các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh
niên đã theo Đảng từ lòng tin vào những tấm gương tốt ấy. Có thể
nói, gương đảng viên là bài học có sức thuyết phục nhất, xây dựng
Đảng bằng nêu gương đảng viên là phương thức hiệu quả nhất.
Đảng viên là lãnh đạo dù ở cấp nào cũng phải gương mẫu, tiên
phong trong mọi nhiệm vụ.
418

42.9 Page 419

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, việc học tập và
làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa quan
trọng. Người đảng viên phải luôn học tập, rèn luyện đạo đức cách
mạng, tự giác, tiên phong, gương mẫu, tận tụy phục vụ nhân dân
thì tổ chức đảng mới vững mạnh được dân tin yêu và làm theo.
2. Bài học về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Lực lượng vũ trang do Đảng lãnh đạo là sức mạnh của dân để
chiến đấu và phòng vệ. Cũng như xây dựng Đảng, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong thế trận lòng dân là bài học chung,
nhưng ở Hiệp Phước có những nét riêng.
Hiệp Phước có vị trí quan trọng trên tuyến lộ 17 - 19, vùng
“xôi đậu” cận với các cơ quan đầu não của giặc nên giặc tập trung
mọi lực lượng, mọi thủ đoạn để đánh phá chia cắt, tiêu diệt. Cách
mạng cũng bằng mọi cách gầy dựng lực lượng để áp sát vành đai
của giặc, thọc sâu đánh trả những đòn tấn công, khủng bố. Dựa vào
dân, bắt đầu từ dân, các phong trào đấu tranh tuyên truyền chính
trị đến vũ trang tự vệ được gầy dựng, lớn mạnh dần. Khởi đầu từ
kháng chiến chống Pháp tầm vông vạt nhọn, vũ khí thô sơ, cướp
vũ khí địch đánh địch, kết hợp tuyên truyền, vũ trang và binh vận.
Lực lượng vũ trang do dân nuôi quân, người dân đóng góp vật lực
và nhân lực xây dựng dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ
đội chủ lực, tiến công trên các mặt trận quân sự, chính trị và địch
vận. Hiệp Phước từng là nơi đóng quân của Quận ủy và Ủy ban
kháng chiến quận Long Thành, từng góp phần nuôi bộ đội Việt
Minh và lực lượng Bình Xuyên đánh giặc. Chiến trường ở Hiệp
Phước luôn ác liệt, căng thẳng. Cán bộ, du kích xã và bộ đội địa
419

42.10 Page 420

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
phương mất mát hy sinh rất nhiều. Nhiều liệt sĩ hy sinh ở tuổi hai
mươi, chưa có tình yêu. Lớp này hy sinh, lớp khác tòng quân. Có
lúc lực lượng vũ trang bị đánh bật ra khỏi khu dân cư, người dân
bị gom và các ấp chiến lược, quân dân bị chia cắt nhưng từ lòng
dân, sức dân, các đơn vị lực lượng vũ trang hồi sinh, không ngừng
lớn mạnh, thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến. Trong
hòa bình thống nhất, những ngày đầu xây dựng chính quyền nhân
dân, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn còn nhiều phức tạp, các
thế lực phá hoại vẫn còn, có lúc toàn xã thiếu đói, gặp nhiều khó
khăn tưởng không qua khỏi; nhưng nhờ dựa vào lòng dân, sức
dân, các đơn vị lực lượng vũ trang còn mỏng manh về thực lực
vẫn đủ sức mạnh để bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn. Lực lượng
vũ trang nhân dân càng lớn mạnh càng phải dựa vào dân, gắn kết
với các phong trào thi đua yêu nước của dân, nhất là phong trào
toàn dân tham qua bảo vệ an ninh Tổ quốc.
3. Bài học về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Đại đoàn kết là truyền thống của dân tộc, là bài học của mọi
thành công. Hiệp Phước vốn là sự hợp thành của 3 bộ phận Mỹ
Khoan, Phước Kiển, Phước Lai, nhiều lần tách nhập; cũng là nơi
hội tụ của cư dân tứ xứ, nhiều thành phần tín ngưỡng tôn giáo.
Trong kháng chiến, địa bàn Hiệp Phước một thời gian dài phân
hóa thành vùng địch - vùng ta hoặc vùng “xôi đậu”, “da beo” khác
nhau trong ứng xử và sinh hoạt. Địch lại dùng trăm phương ngàn
kế, tổ chức nhiều lực lượng đội lốt tôn giáo, dân sinh để gây chia
rẽ, ngăn cách dân với cách mạng. Cho nên, ở Hiệp Phước việc xây
dựng đại đoàn kết toàn dân là việc rất khó. Càng khó càng quan
420

43 Pages 421-430

▲back to top


43.1 Page 421

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
trọng và cần thiết. Tổ chức Đảng và đảng viên ở Hiệp Phước luôn
bám dân, kết nối với các tổ chức của dân, xây dựng các đoàn thể
cách mạng lấy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và truyền thống
đoàn kết làm hạt nhân cơ bản, phát huy được sức mạnh đặc trưng
của các tầng lớp nhân dân, các giới, các độ tuổi, các lĩnh vực
ngành nghề, các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo. Trong thời hòa
bình, thống nhất xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ở Hiệp Phước phát huy được bài học đại đoàn kết
này kết nối mọi tầng lớp nhân dân, mọi tấm lòng yêu nước hình
thành sức mạnh tổng hợp của dân thì khó khăn nào cũng vượt qua,
nhiệm vụ nào cũng thành công.
4. Bài học về nguồn nhân lực
Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất trong mọi nguồn lực.
Trong kháng chiến cũng như trong xây dựng và phát triển, ở Hiệp
Phước thấu hiểu nhất việc xây dựng và phát huy nguồn nhân lực,
nhất là nhân lực lãnh đạo quản lý. Người Hiệp Phước không đông,
hội tụ từ tứ xứ, nhiều lần tách nhập nên nhân lực không ổn định.
Trong kháng chiến, do chiến trường ác liệt, cán bộ và chiến sĩ hy
sinh quá nhiều, liên tục thay thế Bí thư, Chủ tịch, Xã đội trưởng
trong thời gian ngắn, không đủ người tại chỗ để thay thế, phải
điều động tăng cường từ nơi khác, chưa kịp làm quen địa bàn đã
hy sinh, lại phải thay thế. Rất nhiều khó khăn nảy sinh do nguồn
nhân lực bị tổn hại nhưng thiếu sự chuẩn bị thay thế. Lúc này, mới
biết việc đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn nhân lực thay thế để tiếp
nối, kế thừa lớp trước là cấp thiết thế nào. Thời kỳ đầu giải phóng,
trong tình hình khó khăn chung, ở Hiệp Phước nhiều trường hợp
421

43.2 Page 422

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
cán bộ không vượt được khó khăn, xin nghỉ việc, bỏ rơi nhiệm
vụ, phải nhiều luân chuyển, thay đổi. Ấy cũng do nguồn nhân
lực không được chuẩn bị đầy đủ và tạo điều kiện để cán bộ vượt
khó, rèn luyện bản lĩnh và nghiệp vụ. Hiệp Phước đang là thị trấn
duy nhất của huyện Nhơn Trạch, nguồn nhân lực cần được chú
trọng tạo nguồn nhân lực tinh hoa, tiêu biểu ở địa bàn đang phát
triển đô thị công nghiệp, đủ sức phục vụ cho địa phương mình,
còn sẵn sàng cho nhiệm vụ ở cấp cao hơn. Khác với thời kháng
chiến, nguồn nhân lực ở Hiệp Phước thời bình cần được chủ động
thực hiện với tầm nhìn xa, yêu cầu cao cả về năng lực, đạo đức,
kỹ năng và khả năng thích ứng với thời đại hội nhập và công
nghệ cao.
5. Bài học đổi mới tư duy, chủ động trong phát triển
Trong kháng chiến, Hiệp Phước là địa bàn ác liệt đã phải ứng
phó, sáng tạo để chiến đấu giành chiến thắng. Thời nay, trong hòa
bình, thống nhất, thị trấn Hiệp Phước đang ở tuyến đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa của huyện Nhơn
Trạch. Vị trí này đòi hỏi Đảng bộ thị trấn Hiệp Phước phát huy
bài học chủ động sáng tạo trong kháng chiến, tiếp tục đổi mới tư
duy, nắm bắt thời cơ, phát huy lợi thế của địa phương, huy động
các nguồn lực để thực hiện các công trình dự án lớn làm chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của dân. Nếu không chủ động đổi mới, bản lĩnh trong
lãnh đạo, quản lý thì thời cơ sẽ trôi qua, thách thức càng phức tạp,
không đáp ứng được lòng dân.
422

43.3 Page 423

▲back to top


PHỤ LỤC
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
VÀ Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Nguyễn Văn Quang
Đồng chí Nguyễn Văn Quang1 tự Sên, đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam, dân tộc Kinh, sinh năm 1944, quê xã Phước Lai,
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Khi được tặng danh hiệu anh
hùng, đồng chí là tiểu đội trưởng Đại liên Đại đội 1, Tiểu đoàn
445 Bà Rịa - Long Khánh.
Sinh trưởng trong một gia đình bần nông có mối thù sâu sắc
với thực dân, địa chủ, năm 1964 đồng chí xung phong gia nhập
lực lượng vũ trang. Trong vòng 3 năm (từ năm 1964 đến năm
1967), đồng chí Nguyễn Văn Quang đã tham gia 20 trận đánh,
diệt 180 tên địch (trong đó có 73 tên Mỹ, 25 tên Úc), diệt 1 xe
tăng M41, 1 xe Jeep, thu 27 súng các loại và 2 máy thông tin. Đặc
biệt trận đánh đầu tiên vào tháng 5.1965 tại An Ngãi, đồng chí đã
diệt 4 tên, thu 1 trọng liên và 1 máy thông tin của địch. Trong trận
Đá Giăng diễn ra vào tháng 1.1966, đồng chí diệt 15 tên, lấy 3
trung liên. Trong trận sông Cầu vào tháng 5.1966, dù một mình bị
địch bao vây nhưng đồng chí vẫn kiên cường đánh lui 8 đợt xung
phong của địch...
1  Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh hùng,
Nxb Đồng Nai, 1985.
423

43.4 Page 424

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Trong chiến đấu, đồng chí Nguyễn Văn Quang là chiến sĩ kiên
cường, cực kỳ gan dạ, chủ động tiến công mãnh liệt, tiêu diệt địch,
thu vũ khí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong mọi mặt công
tác, đồng chí luôn luôn dũng cảm đi đầu, đoàn kết thương yêu tận
tình giúp đỡ đồng đội, được toàn thể cán bộ, chiến sĩ quý mến.
Đồng chí đã được khen thưởng 1 Huân chương Chiến công
giải phóng hạng Ba, 3 lần dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, 1 lần dũng
sĩ diệt cơ giới. Ngày 17.9.1967, đồng chí Nguyễn Văn Quang đã
được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Ba và danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 19671.
Nguyễn Thị Nớt
(1910-1992)
Cuộc đời của má Nguyễn Thị Nớt nhiều gian truân. Khi còn
trẻ, nhờ chăm chỉ và tiết kiệm, má cùng chồng dành dụm được
một gia sản kha khá. Đến năm 31 tuổi, má có niềm hạnh phúc
được làm mẹ, lại là con trai. Tưởng như cuộc sống gia đình thế là
trọn vẹn hạnh phúc. Nào ngờ, người chồng bỏ má và đứa con thơ
đi tìm hạnh phúc mới, đem theo cả tài sản trong nhà. Má Nguyễn
Thị Nớt như bao nhiêu phụ nữ nông thôn thời ấy phải ngậm đắng
nuốt cay, dằn lòng chịu đựng. Người chồng chính thức sang ở với
người vợ mới. Má một mình, chắt chiu tằn tiện nuôi anh Trần Văn
Lập, người con duy nhất khôn lớn. Rồi anh có vợ, mang đến cho
1  Xem: Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng
Nai, 1998.
424

43.5 Page 425

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
má niềm vui là một đứa cháu gái kháu khỉnh. Sau đó, anh nhập
ngũ ngày 16.1.1961, khi ấy anh tròn 20 tuổi.
Má được an ủi ít nhiều vì căn nhà cô quạnh của má có thêm
tiếng nói tiếng cười của trẻ thơ và sự chăm lo của người con dâu.
Má và con dâu nhiều lần lên đơn vị thăm con, thăm chồng. Anh
là một chiến sĩ dũng cảm. Trong 5 năm ngắn ngủi phục vụ trong
quân đội, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ giải phóng
hạng Ba, hạng Nhì. Sau này, anh được truy tặng Huân chương
Chiến công hạng Ba. Anh hy sinh ngày 5.5.1966 khi là Tiểu đội
phó (đơn vị Đại đội 240 - Long Thành). Lúc ra đi, có lẽ anh chưa
hề hay biết cô con gái thứ hai của mình vừa chào đời.
Con trai hy sinh, những người thân lo lắng trước sự suy sụp
tinh thần của má. Má đã lên Tam An, An Lợi, nơi đơn vị con đóng
quân hy vọng tìm được mộ con, song hy vọng ấy của má cũng
không trở thành hiện thực. Không lâu sau, người con dâu đưa 2
cháu gái về bên ngoại, để lại má sống một mình. Má sống đơn
côi âm thầm như một chiếc bóng trong căn nhà ở xã Hiệp Phước.
Người anh trai của má lên ở chung để chăm sóc, trông nom em gái
mình. Trước khi qua đời, ông dặn con trai phải thay ông chăm sóc
người cô của mình. Từ đó hai cô cháu nương tựa nhau cho đến khi
má mất vào ngày 2.2 âm lịch năm 1992.
Má được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh
hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
425

43.6 Page 426

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Nguyễn Thị Dính
(1910-1987)
Người dân xã Hiệp Phước (huyện Nhơn Trạch) hầu như không
biết gì về cuộc đời má Nguyễn Thị Dính, nhưng hình ảnh má lại
rất quen thuộc đối với họ - một người đàn bà điên lang thang khắp
nẻo đường quê, suốt mấy chục năm ròng. Quang gánh trên vai,
người mẹ ấy đã thắp nhang dọc những con đường Nhơn Trạch,
Long Thành, Bà Rịa, Hòa Long và biết bao con đường mòn không
tên khác đã in những bước chân trần của má. “Má đi tìm thằng
Hai”, má bảo với mọi người như thế.
Em dâu của má Nguyễn Thị Dính kể: “Chị Hai tôi là một
người đảm đang chịu khó. Hồi tôi chưa về làm dâu trong gia đình
này, nhưng bọn con gái chúng tôi thời đó đã nể tài buôn bán và
cái đức siêng làm của chị. Đứa con của chị Hai tôi không được
gia đình chồng nhìn nhận. Và có lẽ không muốn thành gánh nặng
cho cha mẹ nên chị xin ra ở riêng. Vì thế, chị Hai tôi thui thủi một
mình, sinh con rồi nuôi con khôn lớn...”.
Từ ấy bao nhiêu tình cảm yêu thương mẹ dồn hết cho người
con trai duy nhất Nguyễn Văn Đương. Nhưng tình yêu mãnh liệt
ấy vẫn không ngăn má tiễn chân con lên đường chiến đấu vì độc
lập, tự do của đất nước, dân tộc. Để rồi năm 1963, tin con trai duy
nhất hy sinh đã là nỗi đau cuối cùng giáng xuống cuộc đời cay
cực và cô đơn của má. 24 năm dài sau đó má lang thang tìm kiếm
núm ruột của mình. Liệt sĩ Nguyễn Văn Đương đã chiến đấu và
anh dũng hy sinh trên đường cùng đội du kích xuống xóm trinh
426

43.7 Page 427

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
sát nắm tình hình địch để chuẩn bị cho một trận đánh. Năm 1977,
giấy báo tử mới được gởi về tới tay má.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Má được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994.
Lê Thị Y
(1928 - 2000)
Má Lê Thị Y sinh năm 1928 tại Phú Hội (huyện Nhơn Trạch).
Chồng má, ông Nguyễn Văn Cớ quê ở miền Bắc vào làm phu cao
su ở Sở Tân Tường rồi thoát ly theo cách mạng từ tháng 4.1945.
Hai người gặp nhau, lấy nhau cũng khoảng thời gian ấy. Năm
1946, má sinh người con đầu lòng và cũng là con trai duy nhất,
anh Nguyễn Thanh Sơn.
Ngày 6.7.1952, má được tin chồng hy sinh. Ông Nguyễn Văn
Cớ bị lọt vòng kích trong khi đi điều nghiên để đánh vào bót địch.
Lúc ấy, ông là Đại đội phó Đại đội Đô Lương (Huyện đội Long
Thành). Má đã lặn lội lên vùng rừng Xoài Minh để tìm xác chồng
nhưng không tìm được. Vài ngày sau, má cũng bị bắt tại chợ Cây
Dương ở Thành Tuy Hạ. Hai năm tù tội, chúng đưa má từ trại
giam Phú Lâm đến Hạnh Thông Tây rồi về Bà Rịa. Đình chiến
1954, má được trao trả ở Cà Mau. Trong thời gian ấy, con trai má
được gởi nuôi ở một ngôi chùa tại Biên Hòa. Anh Sơn được học
nghề thuốc rồi nhập ngũ năm 1965, làm y tá cho một đơn vị quân
giải phóng ở huyện Tân Phú.
427

43.8 Page 428

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Khi con trai má hy sinh, mọi người sợ má buồn nên giấu má.
Năm 1969, một y sĩ tên Phước ở đơn vị con trai má về tìm má, lúc
ấy má thật sự hết hy vọng. Sau giải phóng, má có lên Định Quán,
Tân Phú tìm đến đơn vị của con, được trao giấy báo tử: liệt sĩ
Nguyễn Thanh Sơn hy sinh ngày 1.9.1969, còn mộ thì không thể
tìm thấy. Cho đến mãi sau này, theo thói quen má vẫn cúng cơm
chồng con vào ngày Thương binh - Liệt sĩ 27.7.
Năm 1960, má bị bắt lần thứ 2 tại quận Long Thành. Chúng
tra tấn rồi chuyển má từ Ty cảnh sát Biên Hòa đến trại giam Phú
Lợi. Năm 1962, má được thả khi đang ở trại giam Thủ Đức. Từ
năm 1963 trở đi, má đã là đảng viên cộng sản, một cán bộ tích cực
của Hội Phụ nữ huyện Nhơn Trạch. Năm 1971, má được rút về
Hội Phụ nữ tỉnh Biên Hòa cũ. Sau giải phóng, má xuống công tác
tại huyện Cần Giờ (lúc ấy thuộc tỉnh Đồng Nai), sau đó là cán bộ
Hội Phụ nữ rồi Trưởng phòng thương binh xã hội huyện Thống
Nhất. Má nghỉ hưu năm 1982 và tá túc trong chùa Ngọc Linh (xã
Hiệp Phước) suốt 13 năm. Ngày 19.5.1995, Công ty Thiết bị điện
số 4 (Khu công nghiệp Biên Hòa 1) xây tặng cho má căn nhà tình
nghĩa. Má sống ở đây cho đến khi qua đời vào ngày 5.4.2000.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam anh hùng cho má theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994.
428

43.9 Page 429

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Dương Thị Phụ
(1905-1997)
Trong ngôi nhà đơn sơ khiêm tốn của
má Dương Thị Phụ ở xã Hiệp Phước, ba
tấm bằng Tổ quốc ghi công lúc nào cũng
được treo trang trọng trên bàn thờ. Không
chỉ những liệt sĩ đã nằm xuống mà cả gia
đình má - 2 vợ chồng cùng 6 người con
còn là cơ sở cách mạng suốt 2 mùa kháng
chiến. Căn nhà của má dù nhỏ nhưng từng là điểm hẹn của bộ
đội và các cán bộ hoạt động bí mật. Cũng như nhiều gia đình chí
cốt khác, má Dương Thị Phụ đã nuôi không biết bao nhiêu lượt
thương binh trong nhà.
Người bạn đời của má, ông Huỳnh Văn Diệu, hy sinh lúc ông
vừa tròn 40 tuổi. Khi ấy ông là nhân viên Ban tiếp tế Long Thành.
Tháng 7.1946, ông bị bắt trong lúc vận động mua lương thực cho
bộ đội ngay trên mảnh đất Phước Lai quê ông. Trong thời gian
bị giam cầm tại khám đường Biên Hòa, ông cùng các bạn tù đấu
tranh và bị bí mật thủ tiêu không lâu sau đó.
Sau khi người bạn đời nằm xuống, má lại lần lượt đón nhận tin
2 người con hy sinh. Liệt sĩ Huỳnh Ngọc Chiếu, sinh năm 1927,
nhập ngũ tháng 7.1948, khi mới 21 tuổi. Con trai má là Trung đội
trưởng bộ đội tình nguyện Đông Nam Bộ - Cao Miên. Anh nhập
ngũ chỉ 2 năm sau khi người cha qua đời, và hy sinh trước ngày
đình chiến 1954 không bao lâu. Má cùng người con trai út xuống
429

43.10 Page 430

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
tận xã Tân Bằng, huyện Bạc Liêu để tìm mộ liệt sĩ Huỳnh Ngọc
Chiếu. Đồng đội của con má cho hay, liệt sĩ Huỳnh Ngọc Chiếu
hy sinh trong một trận chống càn tận vùng biên giới giáp ranh
Campuchia, đồng đội đã không đưa được anh về tới đơn vị.
Liệt sĩ Huỳnh Văn Bửu sinh năm 1937, hy sinh năm 1963 trên
chính mảnh đất quê nhà, má cũng không tìm được mộ. Anh là Bí
thư Chi bộ xã Phước Lai, hy sinh trong lúc cùng cán bộ các ban
ngành của xã ra đồng thu đảm phụ.
Trong chiến tranh, mọi mặt trận đều khốc liệt. Má đã cống
hiến 3 người thân yêu vì sự nghiệp độc lập của dân tộc. Song với
má và những người con còn sống, sự lựa chọn vẫn không hề thay
đổi. Nỗi đau và niềm tự hào to lớn của má hòa cùng trong nỗi đau
và niềm tự hào chung của đất nước và của những người chung
quanh. Má và các con của má đã âm thầm làm điểm tựa cho cuộc
cách mạng đến tận ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Riêng má được Nhà nước phong tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
Má qua đời ngày 1.3.1997.
430

44 Pages 431-440

▲back to top


44.1 Page 431

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Nguyễn Thị Cửu
(1913 - 1956)
Mẹ Nguyễn Thị Cửu sinh năm Quý
Sửu 1913 trong một gia đình nông dân
nghèo ở xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ lấy ông Huỳnh Văn
Lộc ở xã Hiệp Phước láng giềng, cũng là
dân làm ruộng, sinh hạ năm người con đều
nuôi được tới tuổi trưởng thành (một gái
đầu lòng và bốn trai kế tiếp).
Khi Cách mạng Tháng Tám 1945 sắp nổ ra, ông Huỳnh Văn
Lộc dù ở lứa tuổi trung niên vẫn hăng hái tham gia phong trào
Thanh niên tiền phong. Khi ta cướp chính quyền thắng lợi ở quận
lỵ thì Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các xã Phước Lai,
Phước Kiểng... được thành lập. Ông tham gia một số công tác của
xã. Đầu năm 1946, quân Pháp trở lại đánh chiếm quận lỵ Long
Thành rồi nống ra các xã trong vùng. Ông trở thành cán bộ phong
trào của xã, cơm nhà việc nước. Giặc đóng bót trong xã, ông đi
đi về về giữa quê và Chiến khu Phước An. Một lần ông giấu một
bó giấy tờ ghi chép công tác ở mái nhà, lính địch đi ruồng bố xét
nhà, thấy tài liệu, bắt mẹ Cửu gọi ông về. Mẹ vờ đồng ý, làm kế
hoãn binh nói ông đi làm ăn xa, khi nào về sẽ bảo ông ở lại. Sau
đó, chúng không nhắc tới, mẹ cũng cho qua luôn lời hứa trước.
Do đau bao tử mãn tính không tiền mua thuốc chữa chạy, mẹ
Nguyễn Thị Cửu qua đời để lại các con còn nhỏ dại. Vào thời kỳ
này, Mỹ Diệm thực hiện chiến lược chiến tranh cảnh sát, huy động
431

44.2 Page 432

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
mọi lực lượng quân sự và các công cụ bạo lực phản cách mạng
hòng tiêu diệt cách mạng miền Nam. Ở các xã Phước Lai, Phước
Kiểng (nay nhập thành xã Hiệp Phước) số hương chức hội tề cũ
lại nhảy ra nắm chính quyền. Mạng lưới do thám, chỉ điểm hoạt
động mạnh để dò la số cán bộ nằm vùng và cơ sở mật. Các chiến
dịch tố cộng, diệt cộng khiến nhiều đồng chí ở Phước Kiểng sa
vào tay địch: Hoàng, Bảy Bùng, Tú, Năm... Suốt mấy năm liền,
Hiệp Phước thuộc loại vùng yếu.
Đầu năm 1962, anh Ba Minh (Huỳnh Ngọc Minh, tức Anh
Dũng sinh năm 1942) bị bắt quân dịch, được đồng chí Ba Chơn
móc đi thoát ly. Anh vào du kích xã một thời gian rồi trở thành cán
bộ xây dựng phong trào. Khi địch gom dân lập ấp chiến lược năm
1963, anh nhiều lần đột vô các ấp xây dựng cơ sở, nhận tiếp tế rồi
lại rút về căn cứ trong rừng.
Năm Sơn (Huỳnh Ngọc Sơn, tức Hùng Cường, sinh năm
1950) mới mười ba tuổi ngày ngày đi tìm anh em cán bộ. Tháng
9.1963, Năm Sơn rời nhà theo anh Ba Minh vào căn cứ. Ưa thích
đi chiến đấu, Năm Sơn xin gia nhập C.240 của huyện Long Thành,
được giao bất kỳ nhiệm vụ nào cũng hoàn thành tốt và luôn xin đi
chiến đấu.
Chị Hai Thu (Huỳnh Thị Thu, còn có tên là Huỳnh Thị Trinh)
lấy chồng ở xã An Lợi cũng được giao nhiệm vụ nắm tin tức, tình
hình hoạt động của địch trong ấp chiến lược An Lợi kịp thời báo
cho các đồng chí Sáu Rạng và Linh từ năm 1963. Để có lý do la
cà mọi chỗ, nắm chắc tình hình địch nhằm phục vụ các cuộc đấu
tranh của cách mạng, chị Thu đi bán sương sa dù công việc này lãi
432

44.3 Page 433

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
rất ít nhưng nhờ đó chị có thế hợp pháp di chuyển khắp nơi, gặp
gỡ mọi người nắm tin tức, tình hình di biến động của địch.
Tư Quang (Huỳnh Ngọc Quang) vừa đến tuổi quân dịch, chị
Hai Thu đưa vô căn cứ giao cho anh Ba Minh. Mới đầu anh làm kế
toán kinh tài cho Huyện ủy Nhơn Trạch, được ít lâu anh xin đi bộ
đội Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 4, Sư đoàn chủ lực 5 của Miền.
Các con đều đi thoát ly (trừ con út quá nhỏ) nên ông Huỳnh
Văn Lộc liên tục bị hội đồng xã gọi lên gọi xuống, bắt phải kêu
các con về.
Năm 1965, anh Ba Minh trở thành Bí thư Chi bộ xã Phước Lai.
Sáng ngày 24.7.1965, anh cùng đồng chí Xã đội trưởng Trương
Văn Hoàng đột vào ấp Cái Vạn rồi trở về căn cứ, trên đường đi
các anh đụng lính bảo an 464 ở khu Lò than Phước Long. Anh Ba
Minh đã vào tới rừng, thấy đồng đội bị đạn bắn gãy chân nên quay
lại cõng đi. Sau đó anh cũng trúng đạn, lính vây chặt gọi hàng.
Anh bắn một tên bị thương rồi hô lớn: “Đả đảo đế quốc Mỹ! Hồ
Chủ tịch muôn năm!” Chúng biết anh không đầu hàng, xả súng
nát cả ngực, cả hai đều hy sinh. Chúng kéo xác các anh về chợ.
Cha của anh, ông Huỳnh Văn Lộc ra xin thi thể các anh đem về
chôn. Sau một hồi giằng co chúng mới chịu cho tẩn liệm.
Năm 1966, bị công an quận Long Thành tầm nã, chị Hai Thu
đi thoát ly luôn cho tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Cùng năm này ông Huỳnh Văn Lộc lâm trọng bệnh qua đời.
Là bộ đội giải phóng từ tuổi thiếu niên, Năm Sơn hăng hái
chiến đấu. Đêm 25.5.1968, đơn vị C.240 đánh bót Phú Hội. Năm
Sơn hy sinh được đồng đội an táng chu đáo.
433

44.4 Page 434

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Tư Quang chiến đấu khắp các chiến trường miền Đông Nam
Bộ. Tháng 7.1968, tiểu đoàn anh về đứng chân ở Bà Rịa, chuẩn bị
vào đợt ba Mậu Thân. Ngày 2.8.1968, tổ ba người của anh xung
phong đi tiếp ứng cho ban chỉ huy đơn vị bị lính Úc tấn công. Khi
các anh đến nơi, đơn vị đã rút đi và tổ này lọt ổ phục kích của lính
chư hầu Úc. Cả tổ hy sinh, mãi sau này vẫn không tìm được mộ.
Mẹ Nguyễn Thị Cửu có công sinh thành ba liệt sĩ góp phần
vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, được Nhà nước truy
tặng danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết
định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
Nguyễn Thị Hương
(1910-2005)
Nhà của má Nguyễn Thị Hương nằm
giữa 3 căn nhà lá của 3 cô con gái ở xã
Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch. Bốn mái
tranh nép vào nhau làm nên cái vẻ đầm ấm,
sum vầy. Đấy là hình ảnh mà mọi người
đều quen thuộc trước khi má qua đời vào
ngày 1.10.2005.
Cũng chính căn nhà này, mảnh vườn này, là nơi má từ miền
quê xã Long Thọ về làm dâu, nơi má cùng chồng vỡ đất, tạo lập
vườn rẫy, nơi má đã che giấu, chăm nuôi bao thương binh cho
434

44.5 Page 435

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
tới ngày lành lặn. Má có 3 người con trai tham gia cách mạng.
Má nghĩ rằng, ở đâu đó khi các con má gặp khó khăn cũng sẽ có
những người như má chăm sóc đỡ đần. Vì vậy nhà má luôn luôn
có sẵn rất nhiều võng, gạo, thức ăn, thuốc men, bộ đội bị thương là
cứ tìm nhà má mà vào. Má có sẵn hầm để giấu các anh. Nếu tình
hình không yên, má cùng chồng và các con gái sẽ biết chỗ đưa
thương binh tạm lánh đi.
Từ khi còn trẻ, má Hương đã theo ông nội bán thuốc tễ rong.
Lấy chồng, có con, tham gia cách mạng, nghề cũ của má cũng tạo
nguồn tài chính để mua sữa, bông băng, thuốc Tây... cho thương
binh.
Má có 6 người con, ba trai, ba gái. Má đã từng mơ ước có
những đứa cháu nội ngoan ngoãn, kháu khỉnh. Thế rồi 3 người
con trai của má lần lượt hy sinh. Anh Đặng Văn Thép, con trai
lớn của má, sinh năm 1930, tham gia đội du kích xã Long Thọ, hy
sinh khi mới vừa 17 tuổi (ngày 2.11.1947) trong một trận chống
càn ở khu Long Thọ. Anh Đặng Văn Sang, sinh năm 1942, nhập
ngũ tháng 1.1961, là du kích xã Phước Lai, bị trúng trái nổ hy sinh
ở căn cứ Phước Lai ngày 10.10.1963. Nghe nói, anh Sang hy sinh
ở vùng Lòng Chảo nhưng vùng ấy bị san ủi, má bao nhiêu lần tìm
mộ nhưng đều không thấy. Anh Đặng Văn Đức là chiến sĩ của Đại
đội 240, nhập ngũ tháng 5.1963, hy sinh ngày 11.5.1969 trong
một trận đánh ở Xóm Hố (Phú Hội), được đồng đội đưa về và má
an táng anh tại vườn nhà. Đây là người con duy nhất mà gia đình
tìm được thi thể, được chôn cất theo tập tục.
435

44.6 Page 436

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Hồ sơ liệt sĩ chỉ ghi lại có thế, má cũng không biết gì thêm về
hoàn cảnh hy sinh của các con trai mình. Ba người con trai của má
đã rời vòng tay mẹ khi còn rất trẻ, chưa kịp nghĩ đến ánh mắt nụ
cười của một thiếu nữ nào. Các anh đã chiến đấu anh dũng và về
với lòng đất mẹ trong tư thế của những người anh hùng.
Má được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
Phạm Thị Bánh
(1923-2020)
Từ ngày 23.7.2018, đoạn đường dài
hơn 50 mét vào nhà Bà mẹ Việt Nam anh
hùng Phạm Thị Bánh ở ấp Năm, xã Hiệp
Phước (nay là khu phố Phước Hiệp, thị trấn
Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch) đã được
đổ bê tông khang trang, sạch sẽ. Không
những thế, nhà mẹ Bánh và bà con quanh
đó khi đi lại vào ban đêm cũng đã có đèn đường soi sáng, không
phải lo vấp ngã hay tối tăm như trước kia.
Niềm vui này là do Đảng ủy xã Hiệp Phước vừa tổ chức làm
công tác dân vận, huy động lực lượng dân quân tự vệ, Đoàn Thanh
niên cùng đông đảo nhân dân địa phương nhiệt tình hưởng ứng
việc trải bê tông và gắn đèn đường vào nhà mẹ Bánh. Chỉ trong
436

44.7 Page 437

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
một ngày, đoạn đường vào nhà mẹ Bánh đã được trải bê tông và
mắc 5 bóng đèn đường với tổng kinh phí thực hiện 18 triệu đồng,
trích từ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của xã.
Cảm động trước sự quan tâm của chính quyền địa phương,
ông Phan Văn Quýt, người con trai đang trực tiếp nuôi dưỡng Bà
mẹ Việt Nam anh hùng Phạm Thị Bánh, chia sẻ: “Nhiều năm nay,
gia đình tôi rất mong muốn đổ bê tông đoạn đường vào nhà để đi
lại cho sạch sẽ, thuận lợi nhưng chưa làm được. Nay được chính
quyền địa phương đổ bê tông cho con đường vào nhà, gia đình tôi
và bà con lối xóm mừng lắm”. Trong ngôi nhà nhỏ, mẹ Phạm Thị
Bánh tuy sức khỏe đã giảm sút nhiều nhưng cũng không giấu nổi
niềm hạnh phúc.
Mẹ Bánh có 2 người con trai là liệt sĩ. Đó là liệt sĩ Trần Minh
Đức (sinh năm 1943, con nuôi của mẹ Bánh, tham gia du kích tại
địa phương, giữ chức xã đội phó xã Phước Lai, hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 22.12.1962); liệt sĩ Phan
Thành Châu (sinh năm 1959, tham gia chiến đấu tại chiến trường
Campuchia, hy sinh ngày 7.5.1979).
Không chỉ lặng lẽ tiễn các con lên đường theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc lúc lâm nguy, mẹ Bánh cùng chồng là Phan Văn
Để cũng tích cực tham gia cách mạng tại địa phương từ rất sớm.
Từ năm 1954 đến 1974, mẹ Bánh là người trực tiếp tiếp tế tiền,
lương thực, thuốc men cho lực lượng du kích bộ đội địa phương
và bộ đội C240. Năm 1965, chồng mẹ Bánh - ông Phan Văn Để
- cũng hy sinh do bị địch bắt, tù đày và tra tấn dã man. Mẹ Bánh
được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba (theo Quyết định
437

44.8 Page 438

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
số 18-KT/HĐNN ngày 25.8.1987). Năm 2014, mẹ Bánh được
Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo
Quyết định số 2393/QĐ/CTN ngày 26.9.2014 do Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang ký.
Mẹ Phạm Thị Bánh qua đời ngày 6.11.2020 trong sự tiếc
thương của mọi người.
Hồ Thị Mai
(1924)
Mẹ Hồ Thị Mai sinh năm 1924 tại ấp Hai, xã Long Thọ, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ lấy chồng là người cùng làng,
ông Trần Văn Mậu, sinh năm 1920. Vợ chồng mẹ có 7 người con
(2 trai, 5 gái).
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, ông Trần Văn Mậu
tham gia cách mạng, hy sinh vào năm 1948. Đến giai đoạn chống
Mỹ, người con trai của mẹ là Trần Văn Phước nối tiếp truyền
thống của cha, thoát ly hoạt động cách mạng, hy sinh vào năm
1966.
Từ năm 1969-1972, mẹ tham gia đưa bộ đội vào rừng bằng
ghe. Trong cuộc sống đời thường, mẹ luôn là người mẹ, người bà
mẫu mực, răn dạy con cháu phải biết quan tâm, chăm sóc, giúp
đỡ người khác. Mẹ tích cực vận động gia đình và hàng xóm chấp
hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, mẹ đang sống cùng người con gái là bà Trần Thị Cẩm
Nhung tại xã Hiệp Phước (nay là thị trấn Hiệp Phước), huyện
Nhơn Trạch.
438

44.9 Page 439

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và Nhà
nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày
26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Lý Thị Vĩnh
(1903 - 1988)
Mẹ Lý Thị Vĩnh sinh năm 1903, nguyên quán tại Đồng Nai.
Mẹ qua đời vào ngày 28.1.1988 (ÂL). Hiện nay, cháu của mẹ là
bà Nguyễn Thị Hồng Cúng đang thờ phụng mẹ tại khu phố Mỹ
Khoan, thị trấn Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong kháng chiến, mặc dù đói khổ nhưng mẹ Lý Thị Vĩnh
đã chắt chiu, dành dụm nuôi con và tiếp tế lương thực, thực phẩm
nuôi quân tại địa phương. Mẹ có 1 người con duy nhất tham gia
kháng chiến và đã hy sinh, được công nhận là liệt sĩ. Đó là liệt sĩ
Nguyễn Tuất, sinh năm 1926, hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước vào ngày 25.8.1970.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và Nhà
nước ghi nhận, năm 2015 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN, ngày
1.12.2015 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
439

44.10 Page 440

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đặng Thị Ngà
(1910 - 1990)
Mẹ Đặng Thị Ngà sinh năm 1910 tại
xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ mất ngày 17.11.1990 và
hiện con ruột của mẹ là ông Phan Hồng
Liên, cư trú tại khu phố Phước Mỹ, thị trấn
Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, mẹ
là cơ sở cung cấp thuốc men, lương thực, thực phẩm cho chiến
sỹ cách mạng. Mẹ có 2 con là liệt sĩ Phan Hồng Quân, sinh năm
1947, hy sinh ngày 20.3.1974 khi bị địch càn quét và liệt sĩ Phan
Thành Tâm, sinh năm 1950, hy sinh ngày 19.7.1969 trong trận
đánh chống trả địch.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho mẹ Đặng Thị Ngà.
440

45 Pages 441-450

▲back to top


45.1 Page 441

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Nguyễn Thị Nhung
(1909 - 1996)
Mẹ Nguyễn Thị Nhung sinh năm 1909 tại ấp Một, xã Hiệp
Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ kết hôn với ông Huỳnh Ngọc Ẩn (sinh năm 1904), có 5
người con (2 trai, 3 gái). Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả gia đình mẹ đều tực tiếp tham gia
hoặc có đóng góp cho cách mạng. Nhà không có ruộng đất, hằng
ngày mẹ Nhung mua nông phẩm của bà con trong làng gánh ra
chợ bán, hoặc đi chợ Bà Rịa mua hàng hóa về bán lại kiếm tiền
đắp đổi nuôi con. Do tính chất công việc của mẹ phải đi nhiều
nơi, nên cách mạng giao cho mẹ nhiệm vụ mua thực phẩm, thuốc
men, sau đó mẹ giả vờ vào rừng chặt củi để chuyển hàng vào căn
cứ. Ông Ẩn thì tham gia công tác ở xã, làm Trưởng ban tiếp tế
của Ủy ban hành chánh kháng chiến xã Phước Kiển. Sau khi lên
nắm quyền, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10.59
đàn áp, bắt bớ, giết hại những người yêu nước, người kháng chiến
cũ. Ông Ẩn cũng bị bắt đày đi Côn Đảo, bị địch tra tấn đến chết
vào ngày 22.7.1960. Sau ngày đất nước thống nhất, gia đình đến
Côn Đảo tìm được mộ của ông Huỳnh Ngọc Ẩn tại nghĩa trang
Hàng Dương.
Hai người con trai khác của mẹ là Huỳnh Văn Sinh và Huỳnh
Văn Tám đều tham gia cách mạng. Anh Huỳnh Văn Sinh luôn
thiết tha được đi bộ đội, sau này anh trở thành trung đội phó C245,
hy sinh trong một trận đánh ở Suối Cừu, Bả Rịa ngày 11.10.1968.
441

45.2 Page 442

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Anh Huỳnh Văn Tám được mẹ gởi lên Biên Hòa ở với chị là
Huỳnh Thị Sâm, sau đó anh lấy tên giả là Nguyễn Thành Điểu
để đi lính, mà thực chất là hoạt động tình báo nắm tin tức địch
chuyển về cho ta. Sau này anh bị lộ, địch phát hiện và thủ tiêu anh
ở Bà Điểm.
Khi đất nước hòa bình, mẹ sống chan hòa với mọi người xung
quanh và làm gương cho con cháu noi theo. Gia đình mẹ được
công nhận Gia đình cách mạng gương mẫu ngày 20.6.1992. Ngày
7.6.1996, mẹ qua đời do tuổi cao sức yếu. Hiện các con của mẹ
đều không còn, cháu nội của mẹ là ông Huỳnh Thanh Hồng (con
của liệt sĩ Huỳnh Văn Sinh) thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh
hùng ngày 16.5.2016 theo Quyết định số 945/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Thị Huề
(1901 - 1967)
Mẹ Nguyễn Thị Huề sinh năm 1901 tại xã Hiệp Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất vào ngày 9.8.1967. Ông
Phan Thanh Châu, thường trú tại khu phố Phước Mỹ, thị trấn Hiệp
Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, là cháu nội của mẹ
hiện đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có 1 người con duy nhất tham gia hoạt động cách mạng
và đã hy sinh. Đó là liệt sĩ Phan Văn Để, sinh năm 1921, hy sinh
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào ngày 14.4.1947.
442

45.3 Page 443

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Ghi nhận những cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mẹ được Chủ tịch nước
Trần Đại Quang truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại
Quyết định số 237/QĐ-CTN ngày 14.2.2017.
Huỳnh Thị Đâu
(1914 - 1991)
Mẹ Huỳnh Thị Đâu sinh năm 1914 tại Hiệp Phước, huyện
Nhơn Trạch.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hiệp Phước
nằm trong vùng địch chiếm đóng, đời sống người dân bị o ép hết
sức khó khăn nhưng mẹ Đâu vẫn tích cực tham gia hoạt động
cách mạng ở cơ sở, theo dõi tình hình của địch rồi báo về căn cứ
kháng chiến theo đường dây giao liên. Mẹ có 2 người con trai đã
hy sinh khi tham gia cách mạng giải phóng quê hương. Đó là liệt
sĩ Nguyễn Văn Tô, hy sinh ngày 4.2.1968 trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (Bằng Tổ quốc ghi công theo
Quyết định số 254/Ttga); liệt sĩ Nguyễn Văn Thanh, hy sinh năm
1967 (Bằng Tổ quốc ghi công số GB.012m).
Mẹ qua đời năm 1991. Ghi nhận công lao đóng góp cũng
như hy sinh to lớn của mẹ và gia đình, Đảng và Nhà nước đã truy
tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện nay mẹ được con
gái Nguyễn Thị Hoa thờ cúng tại phường Quang Vinh, thành phố
Biên Hòa.
443

45.4 Page 444

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
DANH SÁCH BCH ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN
QUA CÁC THỜI KỲ
* Nhiệm kỳ 1998 - 2000 (Đảng ủy do Huyện ủy chỉ định)
Stt
Họ tên
Chức vụ
1 Nguyễn Thị Liên
Bí thư
2 Võ Thành Tâm
Chủ tịch
3 Nguyễn Văn Chỉnh
Chỉ huy trưởng QS
4 Phan Văn Giới
Trưởng CA
5 Cao Lê Hoàng
CCB
6 Võ Tái Hưng
P. chủ tịch UB
7 Lê Văn Hưng
CT.MTTQ
8 Trương Văn Hoàng
CT.HĐND
* Nhiệm kỳ 2000 - 2005
Stt
Họ tên
Huỳnh Thanh Hồng
1
Lương Tấn Thanh
Võ Thành Tâm
2
Nguyễn Văn Cường
3 Nguyễn Văn Chỉnh
Chức vụ
Bí thư
Bí thư (2003)
Chủ tịch
Chủ tịch (2003)
Thường trực Đảng ủy
444

45.5 Page 445

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
4 Phan Văn Giới
5 Phạm Phước Tam
6 Võ Tái Hưng
7 Lê Văn Hưng
8 Trương Văn Hoàng
9 Đặng Thành Được
10 Phan Văn Tôn
Trưởng CA
BT Đoàn
PCT. UBND
CT. MTTQ
CT. HĐND
CT. Hội ND
Phó BT
* Nhiệm kỳ 2005 - 2010
Stt
Họ tên
Phan Văn Tôn
1 Trần Văn Đạo
Nguyễn Văn Lo
2 Võ Tái Hưng
3 Nguyễn Văn Chỉnh
4 Phan Văn Giới
5 Hồ Thị Hiệp
6 Nguyễn Thành Phú
7 Lê Văn Hưng
8 Nguyễn Tấn Xuân
9 Đặng Thành Được
10 Đoàn Văn Trúng
Chức vụ
Bí thư
Bí thư (2005)
Bí thư (2009)
Chủ tịch
Thường trực ĐU
Trưởng CA
Hiệu trưởng trường THCS
BT Đoàn
CT. MTTQ
PCT. HĐND
CT. Hội ND
PCT. UBND
445

45.6 Page 446

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
* Nhiệm kỳ 2010 - 2015
Stt
Họ tên
Chức vụ
1 Võ Tái Hưng
Bí thư
2 Đoàn Văn Trúng
Chủ tịch
3 Nguyễn Văn Chỉnh
4 Nguyễn Tấn Xuân
Thường Trực ĐU
PCT.HĐND
5 Phan Minh Tiến
Chỉ huy trưởng QS
6 Nguyễn Văn Trường
CT.MTTQ
7 Nguyễn Hữu Trí
Phó chủ nhiệm UBKT
8 Phạm Văn Rồng
Trưởng CA
9 Hồ Thị Hiệp
Hiệu trưởng trường THCS
* Nhiệm kỳ 2015 - 2020
Stt
Họ tên
1 Võ Tái Hưng
Đoàn Văn Trúng
2
Trương Văn Dũng
3 Nguyễn Văn Chỉnh
4 Nguyễn Tấn Xuân
5 Nguyễn Hoàng Minh
Chức vụ
Bí thư
Chủ tịch
Chủ tịch (2016)
CT.MTTQ
Thường trực ĐU
PCT.UBND
446

45.7 Page 447

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
6 Phạm Minh Tiến
7 Đoàn Duy Trí
8 Nguyễn Tấn Phong
9 Phạm Văn Rồng
10 Nguyễn Như Chung
Chỉ huy trưởng QS
PCT. UBND
PCT. HĐND
Trưởng CA
Trưởng CA
* Nhiệm kỳ 2020 - 2025
Stt
Họ tên
1 Dương Văn Em
2 Trần Văn Hà
3 Nguyễn Văn Chỉnh
4 Nguyễn Tấn Xuân
5 Nguyễn Hoàng Minh
6 Phạm Minh Tiến
7 Trần Bích Ngọc
8 Nguyễn Tấn Phong
9 Nguyễn Minh Tới
10 Nguyễn Như Chung
11 Đặng Văn Xiếp
Chức vụ
Bí thư
Chủ tịch
CT. MTTQ
Thường trực ĐU
PCT. UBND
Chỉ huy trưởng QS
PCT. UBND
PCT. HĐND
Phó chủ nhiệm UBKT
Trưởng CA
BT Đoàn
447

45.8 Page 448

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
DANH SÁCH LIỆT SĨ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Stt Họ và tên
1 Nguyễn Văn Lợi
Năm Quê
sinh quán
1948
Phước
Kiển
Chức vụ
Du kích
Đơn vị
X. Phước
Kiển
Năm hy
sinh
5.1.1964
2 Nguyễn Văn Hồng
1918
Phước
Kiển
Bí thư chi bộ,
Chủ nhiệm
Việt Minh
X. Phước
Kiển
17.1.1947
3 Đoàn Văn Thọ
4 Trần Tấn Công
5 Võ Văn Đông
6 Bùi Văn Đức
7 Nguyễn Văn Dương
8 Nguyễn Văn Lỳ
9 Đặng Văn Đủ
10 Nguyễn Minh Tâm
11 Nguyễn Văn Hựu
12 Từ Văn Văn
13 Nguyễn Văn Hiệp
1950
Phước
Kiển
Bí thư
Chi đoàn
1920
Phước
Kiển
Ủy viên Quân
sự
1945
Phước
Kiển
Du kích
1943
Phước
Kiển
Du kích
1941
Phước
Kiển
Du kích
1948
Phước
Kiển
Du kích
1941
Phước
Kiển
Du kích
1951
Phước
Kiển
Du kích
1904
Phước
Kiển
Trưởng ban
Tiếp tế
1922
Phước
Kiển
Phó Chủ tịch
1946
Phước
Kiển
Giao liên
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
X. Phước
Kiển
19.9.1969
6.2.1948
26.12.1962
4.2.1968
15.9.1963
1.1.1969
20.1.1969
30.1.1969
12.1.1947
10.1.1953
9.8.1962
448

45.9 Page 449

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
14 Trần Văn Diệm
1907
Phước
Kiển
Tự vệ chiến
đấu
X. Phước
Kiển
28.11.1946
15 Huỳnh Ngọc Cẩn
1919
Phước
Kiển
Cán bộ Công
an
H. Long
Thành
5.1.1947
16 Lâm Văn Huệ
1929
Phước
Kiển
Liên lạc Công
an
X. Phước
Kiển
17.1.1947
17 Nguyễn Văn Biên
1921
Phước
Kiển
Du kích
X. Phước
Kiển
16.6.1946
18 Mã Văn Bình
1924
Phước
Kiển
Công an
X. Phước
Kiển
11.9.1948
19
Phạm Văn Hiếu (Thi) 1914
Phước
Kiển
Phó Công an
X. Phước
Kiển
2.6.1947
20 Huỳnh Văn Chánh
1947
Phước
Lai
Giao liên
H.Long
Thành
7.5.1967
21 Nguyễn Văn Trọng
1931
Phước
An
Bí thư
chi bộ
X. Phước Lai 10.8.1972
22 Huỳnh Văn Trọng
1908
Phước
Thọ
Ủy viên
xã hội
X. Phước
Thọ
13.7.1947
23 Cao Văn Dẽo
1925
Phước
Thọ
Văn phòng
X. Phước
Tân
23.6.1949
24 Dương Văn Tráng 1948 Tam An Du kích X. Tam An 3.1.1970
25 Châu Văn Cải
26 Bùi Thanh Hải
27 Lê Văn Khanh
28 Trần Văn Kiệm
29 Huỳnh Văn Bửu
Phú Hội
Trưởng ban
Nông hội
X. Phú Hội 25.12.1969
1952
Phước
Lai
Cán bộ
An ninh
X. Phước
Lai
22.12.1966
1953
Phước
Lai
Du kích
X. Phước
Lai
27.5.1968
1932
Phước
Lai
Chủ tịch xã
X. Phước
Lai
29.9.1951
1937
Phước
Lai
Bí thư chi bộ
X. Phước
Lai
12.1.1963
449

45.10 Page 450

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
30 Trần Văn Hoàng
1946
Phước
Lai
Trưởng ban
An ninh
X. Phước
Lai
24.7.1965
31 Phan Văn Liêm
1945
Phước
Lai
Xã đội trưởng
X. Phước
Lai
24.11.1966
32 Đào Văn Mừng
1925
Phước
Lai
Du kích
X. Phước
Lai
6.1.1946
33 Trần Tỷ
1941
Phước
Thiền
Chiến sĩ
đặc công
Đại Đội 2
Đặc Công
1.1.1968
34 Lâm Văn Nguyên
1924
Phước
Lai
Du kích
X. Phước
Lai
15.6.1946
35 Dương Bình Minh
1948
Phước
Lai
Trưởng ban
Kinh tài
X. Phước
Lai
19.1.1968
36 Phan Văn Trung
1944
Phước
Kiển
Cán bộ
tuyên truyền
X. Long An
12.4.1966
37 Phan Hồng Quân
1947
Phước
Kiển
Xã đội trưởng
X. Phước
Kiển
20.2.1974
38 Phan Thành Tâm
1950
Phước
Kiển
Y tá
X. Phước
Kiển
19.7.1969
39 Nguyễn Như Ý
1936
Phước
Lai
Cán bộ phong
trào
X. Phước
Lai
11.4.1962
40 Nguyễn Văn Liêm
1944
Phước
Thọ
Trung đội phó
C1 Long
Thành
10.10.1968
41 Huỳnh Văn Bình
1948
Phước
Kiển
Tiểu đội
trưởng
Biệt đội
Long Thành
24.9.1971
42 Đổng Văn Cầm
1925
Phước
Kiển
Trung đội
trưởng
Đại đội C
Chi đội 10
1.10.1950
43 Nguyễn Văn Chơi
1923
Phước
Kiển
Chiến sĩ
Huyện đội
Long Thành
10.5.1968
44
Nguyễn Thành Long
1932
Phước
Kiển
Chiến sĩ
Huyện Long
Thành
5.5.1953
45 Cao Văn Bông
1943
Phước
Kiển
Trung đội phó
Tiểu đoàn
445
7.3.1966
450

46 Pages 451-460

▲back to top


46.1 Page 451

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
46 Phạm Văn Quới
1937
Phước
Kiển
Tiểu đội
trưởng
Huyện đội
Nhơn Trạch
1.1.1969
47 Lê Hà Lâm
1944
Phước
Lai
Đội trưởng
Đội Văn
công tỉnh 28.12.1970
Biên Hòa
48 Ngô Phi Hùng
1950
Phước
Lai
Xã đội trưởng
X. Phước
Lai
21.3.1969
49 Đào Văn Thành
1950
Phước
Lai
Bí thư
Chi đoàn,
Xã đội phó
X. Phước
Lai
19.1.1968
50 Lê Minh Chánh
1952
Phước
Lai
Xã đội phó
X. Phước
Lai
19.4.1970
51 Trần Minh Đức
1940
Phước
Lai
Xã đội phó
X. Phước
Lai
20.2.1962
52 Nguyễn Văn Bé
1931
Phước
Kiển
Chiến sĩ
Quân Y
H. Long
Thành
1.2.1952
53 Nguyễn Văn Bình
1951
Phước
Kiển
Chiến sĩ
Tiểu Đoàn 2
Phân Khu 4
13.7.1970
54 Nguyễn Văn Phước
1949
Phước
Lai
Du kích
X. Phước
Long
14.10.1962
55 Bạch Văn Bàng5
1929
Phước
An
Du kích
X. Phước
An
13.8.1948
56 Huỳnh Ngọc Minh
1942
Phước
Lai
Bí thư chi bộ
X. Phước
Lai
24.7.1965
57
Nguyễn Hồng Phong
1939
Phước
Lai
Tiểu đội
trưởng
Giao liên
tỉnh Biên 20.12.1968
Hòa
58 Ngô Văn Tắc
1922
X. Long
An
Chiến sĩ
Đại đội C
Biên Hòa
12.4.1946
59 Nguyễn Văn Phòng
1944
Phước
Lai
Trung đội phó
Huyện đội
Nhơn Trạch
23.9.1966
451

46.2 Page 452

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
60 Trần Công Thắng
61 Nguyễn Văn Na
62 Dương Văn Thạch
63 Phan Hoài Thanh
64 Đào Văn Nhã
65 Huỳnh Văn Sinh
66 Huỳnh Ngọc Ẩn
67 Phan Văn Nhiệm
68 Võ Văn Chê
69 Đào Văn Kẹo
70 Trần Văn Lập
71 Đỗ Văn Mỹ
72 Dương Văn Giữ
73 Lê Văn Nuôi
74 Phan Văn Đủ
1945
Phước
Lai
1908
Phước
Lai
1955
Phước
Lai
Chiến sĩ
Chiến sĩ
Chiến sĩ
C240 18.10.1970
Đại đội C
Biên Hòa
3.12.1948
C240 25.12.1967
1945
Phước
Lai
Trung đội phó
Hậu cần tỉnh
Biên Hòa
1.2.1970
1917
Phước
Lai
Tiểu đội phó D6 Biên Hòa 28.12.1948
1933
Phước
Kiển
Trung đội phó Đại đội 245
1.10.1968
1904
Phước
Kiển
Thư ký Nông
hội
X. Phước
Kiển
22.7.1960
1944
Phước
Lai
Tiểu đội
trưởng
Tiểu đoàn
440
1.9.1969
1925
Phước
Long
Nhân viên
Quân báo
Huyện Long
Thành
20.8.1954
1923
Phước
Kiển
Quốc gia
tự vệ cuộc
H. Long
Thành
25.4.1946
1941
Phước
Kiển
Tiểu đội phó
C240
5.5.1966
1943
Phước
Kiển
Trung đội
trưởng
Công binh
xưởng Nhơn 24.11.1968
Trạch
1935
Phước
An
Du kích X. Phước An 22.4.1965
1934
Phước
Kiển
Du kích
X. Phước
Kiển
25.1.1964
1921
Phước
Kiển
Quốc gia
tự vệ cuộc
X. Phước
Kiển
14.4.1947
452

46.3 Page 453

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
75 Bùi Văn Quang
76 Ngô Phi Long
77 Đặng Văn Đức
78 Huỳnh Văn Ngô
79 Trần Công Đương
80 Lê Thị Cung
81 Huỳnh Ngọc Chiến
82 Phan Văn Nhẫn
83 Nguyễn Văn Giới
84 Nguyễn Văn Xi
85 Nguyễn Văn Tài
86 Phạm Văn Ngữ
87 Phan Văn Bẳng
88 Phạm Văn Liều
89 Nguyễn Văn Cường
1950
Phước
Lai
Thanh niên
xung phong
Tnxp Bà Rịa
Vũng Tàu
5.9.1967
1941
Phước
Lai
Chiến sĩ
C240 20.5.1962
1952
Phước
Lai
Chiến sĩ
C240 11.5.1969
1926
Bình
Định
Nhân viên
Công an
H. Long
Thành
11.1.1953
1924
Phước
Kiển
Tổ trưởng
Quân báo
X. Phước
Kiển
25.1.1953
1922
Phước
Kiển
Thư ký
BCH Hội
Phụ nữ xã
1.1.1947
1927
Phước
Lai
Trung đội
trưởng
Quân tình
nguyện
1.7.1954
1924
Phước
Thiền
Công an
H. Long
Thành
1.1.1948
1932
Bình
Định
Trưởng ban
Hậu cần
X. Hắc Dịch
3.5.1952
1921
Phước
Kiển
Trung đội phó
Đại Đội 66
24.4.1949
1909 Hà Nội
Nhân viên
Thông tin
H. Tân Uyên 1.10.1948
1930
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 12.6.1948
1926
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 14.3.1962
1920
Phước
Lai
Chủ tịch
ubhckc xã
X. Phước Lai
5.2.1951
1938
Phước
Kiển
Bí thư chi bộ
X. Phước
Kiển
22.11.1962
453

46.4 Page 454

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
90 Đoàn Văn Lọt
91 Đoàn Văn Cho
92 Nguyễn Văn Dũ
93 Võ Văn Hùng
94 Phan Thành Châu
95 Lưu Văn Hưng
96 Đặng Hoàng Thi
97 Trần Thị Tắng
98 Phạm Văn Thu
99 Đào Văn Thành
100 Huỳnh Văn Dũng
101 Phạm Hiếu Nghĩa
102 Lê Văn Cang
103 Trần Văn Nỉ
104 Võ Thị Chắm
1925
Phước
Lai
Tiểu đội
trưởng Du X. Phước Lai 18.1.1948
kích
1920
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 16.9.1946
1960
Hiệp
Phước
Trung đội phó
C6, D59,
Sư 302
15.12.1983
1946
Hiệp
Phước
Trung sĩ
Tỉnh đội
Bà Rịa
1.10.1966
1958
Phước
Lai
Y tá
C19, E732,
F73, Qk7
7.5.1979
1958
Hiệp
Phước
Binh nhất C3-D1-E88 29.12.1977
1947
Hiệp
Phước
Cán bộ
Bệnh viện
H. Vĩnh Cửu
12.2.1972
1926
Phước
Lai
Trưởng BCH
Phụ nữ
X. Phước Lai
16.2.1949
1920
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 16.7.1946
1946
Phước
Lai
CB Thanh
niên
X. Phước Lai 10.10.1963
1950
Hiệp
Phước
Chuẩn úy
Tiểu đoàn 3
Phân khu 4
13.5.1968
1935
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 10.10.1963
1943
Phước
Lai
Tiểu đội
trưởng Du X. Phước Lai 16.6.1946
kích
1919
Phước
Lai
Đội trưởng
Du kích
X. Long Thọ 20.2.1949
1925
Hiệp
Phước
UV BCH
Phụ nữ
X. Long Thọ 21.5.1947
454

46.5 Page 455

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
105 Phan Văn Tâm
1950
Phước
Lai
106 Nguyễn Thị Lệ Dung
1950
Phước
Lai
107 Bùi Thị Đang
1926
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 1.1.1971
Nhân viên
Ty Thông
tin tỉnh Biên 25.12.1965
Hòa
Trưởng đoàn
Phụ nữ xã
X. Phước Lai 13.10.1953
108 Huỳnh Ngọc Quang
1946
Phước
Lai
Chiến sĩ
Trung đoàn 4
Quân khu 7
2.8.1968
109 Nguyễn Hữu Thành
110 Nguyễn Văn Rô
111 Trần Văn Mươi
112 Ngô Duy Vang
1933
Phước
Lai
Hạ sĩ, Tiểu đội
trưởng
Phòng Vô
tuyến điện
ĐNB
12.9.1954
1926
Phước
Thiền
Trưởng trạm
Giao liên
Tỉnh Biên
Hòa
10.1967
1940
Tiền
Giang
Quân nhân
D 514 tỉnh
Mỹ Tho
8.9.1964
1954
Thái
Bình
Hạ sĩ
C5, D8, E8,
F 302
7.5.1972
113 Hoàng Văn Lữ
Nghệ An
19.8.1967
114 Nguyễn Trọng Trường
Hà Bắc
4.8.1978
115 Nguyễn Văn Nhiễm
116 Trần Văn Tôn
117 Bùi Văn Tranh
118 Nguyễn Tuất
1939
Phước
Kiển
1944
Phước
Long
1941
Phước
Lai
1926
Phước
Kiển
Du kích
X. Phước
Kiển
23.6.1964
Du kích X. Hòa Long 24.9.1966
Trưởng trạm
Giao liên
Trung đoàn
phó
Tỉnh Biên
Hòa
23.10.1969
Phòng Hậu
cần QK7
25.8.1970
455

46.6 Page 456

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
119 Nguyễn Thanh Sơn
120 Trần Tấn Lộc
1946
H. Long
Thành
Tiểu đội
trưởng
1912
Phước
Kiển
Cán bộ Mặt
trận
D3, E412,
Huyện Tân
Phú
H. Long
Thành
1.9.1969
1.1.1953
121 Nguyễn Văn Cớ
1924
H. Châu
Thành
Đại đội phó
Huyện Đội
Long Thành
6.7.1952
122 Huỳnh Ngọc Sơn
123 Phan Văn Đầy
124 Dương Văn Chôm
125 Huỳnh Văn Diệu
126 Huỳnh Văn Nữ
127 Đặng Văn Sang
128 Phan Văn Quang
129 Đặng Văn Phép
130 Nguyễn Văn Thành
131 Nguyễn Văn Cảnh
1950
Phước
Lai
Chiến sĩ
C240 25.5.1968
1917
H. Long
Thành
Trưởng ban
Tuyên huấn
H. Long
Thành
1.9.1947
Hiệp
Phước
12.6.1946
1906
Phước
Lai
Nhân viên
Ban Tiếp tế
X. Phước Lai
1.7.1946
1934
Phước
An
Thượng sĩ,
Tiểu đội phó
Huyện đội
Long Thành
10.6.1952
1942
Phước
Lai
Du kích X. Phước Lai 10.10.1963
1941
Phước
Lai
Nhân viên X. Phước Lai 10.10.1963
1930
Phước
Lai
Du kích X. Long Thọ 2.11.1947
1930
Phước
Thiền
Tiểu đội
trưởng
C240 27.7.1969
1916
Phước
Lai
Công an X. Phước Lai 10.12.1946
132 Nguyễn Thanh Hồ
Nghệ An
14.11.1966
456

46.7 Page 457

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
HÌNH ẢNH TƯ LIỆU
Nguyễn Văn Quang
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Đảng viên thuộc Chi bộ xã Phước Lai năm 1978 (từ trái qua phải):
Ngô Văn Thêm (Chín Hoành), Huỳnh Văn Thành, Trương Văn Quý, Ngô
Thị Ánh, Lê Thị Đầy, Nguyễn Văn Yềm, Nguyễn Ngọc Châu, Năm Thiệt.
457

46.8 Page 458

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO QUA CÁC THỜI KỲ
Trần Văn Sang
Bí thư Chi bộ xã Phước Lai,
Bí thư Chi bộ xã Phước Kiển
thời kỳ chống Mỹ
Trương Văn Quý
Bí thư Chi bộ xã Phước Lai
(1977-1983)
Huỳnh Thị Diệp
Bí thư Chi bộ xã Phước Kiển
(1980-1984),
Chủ tịch xã Hiệp Phước
(1984-1986)
458
Nguyễn Thị Liên
Bí thư Chi bộ xã Hiệp Phước
(1994-2000)

46.9 Page 459

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Huỳnh Thanh Hồng
Bí thư Chi bộ xã Hiệp Phước
(2000-2003)
Trần Văn Đạo
Bí thư Chi bộ xã Hiệp Phước
(2005-2008)
Nguyễn Văn Lo
Bí thư Chi bộ xã Hiệp Phước
(2009-2010)
Võ Tấn Hưng
Bí thư Đảng bộ xã Hiệp Phước
(2010-2019)
Bí thư Đảng bộ thị trấn Hiệp Phước
(2019-2020)
459

46.10 Page 460

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Dương Văn Em
Bí thư Đảng bộ
thị trấn Hiệp Phước
từ năm 2020
Trương Văn Hoàng
Chủ tịch UBND xã Phước Kiển
(1983-1984)
Chủ tịch UBND xã Hiệp Phước
(1987- 1989)
Phan Văn Tôn
Chủ tịch UBND xã Hiệp Phước
(2004 - 2005)
Võ Tái Hưng
Chủ tịch UBND xã Hiệp Phước
(2005 - 2010)
460

47 Pages 461-470

▲back to top


47.1 Page 461

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đoàn Văn Trúng
Trương Văn Dũng
Chủ tịch UBND xã Hiệp Phước Chủ tịch UBND xã Hiệp Phước
(2010-2016)
(2016-2019)
Chủ tịch UBND thị trấn Hiệp Phước
(2019-2020)
Trần Văn Hà
Chủ tịch UBND thị trấn Hiệp Phước
(từ 2020)
461

47.2 Page 462

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Trao Quyết định của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
Nghị quyết số 694/NQ-UBTVQH14 (có hiệu lực từ ngày 1.7.2019),
chuyển xã Hiệp Phước thành thị trấn Hiệp Phước.
462

47.3 Page 463

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đại biểu tham dự buổi lễ công nhận xã Hiệp Phước
thành thị trấn Hiệp Phước, tổ chức ngày 2.7.2019.
Đại biểu dự lễ công nhận xã Hiệp Phước
thành lập thị trấn Hiệp Phước, ngày 2.7.2019.
463

47.4 Page 464

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đại hội Đảng bộ thị trấn Hiệp Phước nhiệm kỳ 2020-2025.
Đoàn Chủ tịch Đại hội Đảng bộ thị trấn Hiệp Phước nhiệm kỳ
2020-2025.
464

47.5 Page 465

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước nhiệm kỳ 2015-2020.
Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước nhiệm kỳ 2015-2020.
465

47.6 Page 466

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước nhiệm kỳ 2015-2020.
Đoàn Chủ tịch Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước
nhiệm kỳ 2015-2020.
466

47.7 Page 467

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước nhiệm kỳ 2010-2015.
Đoàn Chủ tịch Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước
nhiệm kỳ 2010-2015.
467

47.8 Page 468

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Quang cảnh Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước nhiệm kỳ 2010-2015.
Cử tri bỏ phiếu tại Đại hội Đảng bộ xã Hiệp Phước
nhiệm kỳ 2010-2015.
468

47.9 Page 469

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Đình thần Phước Kiển.
Đình thần Phước Lai.
469

47.10 Page 470

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Chùa cổ Phước Hưng, còn gọi là chùa Phước Lai.
Chùa Quang Mỹ, còn gọi là chùa Bà Phủ, tạo dựng năm 1925.
470

48 Pages 471-480

▲back to top


48.1 Page 471

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
Tấm bia do danh nhân Đào Trí Phú khắc dựng ở phần mộ cha mẹ.
Thi công nâng cấp tuyến hẻm bên cạnh Trường Tiểu học Phước Lai.
471

48.2 Page 472

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
Họp mặt truyền thống Nhân chứng lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch.
Họp mặt nhân chứng lịch sử, 18/1/2022
472

48.3 Page 473

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH1
1. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, NXB Đồng Nai,
2018.
2. Chiến khu Rừng Sác, Lương Văn Nho, NXB Đồng Nai,
1982.
3. Chuyện đời tự kể, Huỳnh Thị Phượng, NXB Đồng Nai, 2011.
4. Công báo VNCH, Trung tâm Lưu trữ TW 2.
5. Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 2 tập, NXB Đồng Nai, 2018.
6. Biên Hòa sử lược toàn biên, Tập I, Lương Văn Lựu, NXB
Thế giới, 2016.
7. Đất mẹ, Nguyễn Văn Thông, NXB Đồng Nai, 2015.
8. Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB
Thanh niên, 2012.
9. Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Phạm Đức
Mạnh, NXB Đồng Nai, 2019.
10. Địa chí Đồng Nai, 5 tập, NXB Đồng Nai năm 2001.
11. Gia Định Thành thông chí, Trịnh Hoài Đức, bản dịch Lý
Việt Dũng, NXB Đồng Nai, 2005.
12. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
1930 - 1995, 3 tập, NXB Đồng Nai, tập I:1997, tập II: 2000, tập III:
2007.
13. Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930-2015), NXB
Đồng Nai 2015.
1  Sắp xếp theo A,B,C tên sách, tài liệu.
473

48.4 Page 474

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930 - 2020)
14. Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930-2010), NXB Đồng
Nai, 2014.
15. Lịch sử Đảng bộ xã Bình Sơn (1930-2010), NXB Đồng
Nai, 2011.
16. Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam, NXB Lao
Động, 2003.
17. Lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Biên niên sự
kiện 1945 - 2015, năm 2020.
18. Một thời Rừng Sác, 2 tập, Lê Bá Ước, NXB Văn hóa Văn
nghệ, 2012.
19. Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai, nhiều tập, NXB Thống
Kê, 2018.
20. Nhân dân Bình Sơn chống Mỹ cứu nước, Huỳnh Minh
Cường, NXB Đồng Nai, 2008.
21. Phủ Biên tạp lục, Lê Quí Đôn, bản dịch của Nguyễn Khắc
Thuần, NXB Giáo dục, 2007.
22. Phước An xã anh hùng, tư liệu lịch sử truyền thống, 1985.
23. Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng
Nai, NXB Đồng Nai, 2012.
24. Trai Rừng Sác Phước An, Võ Văn Ba, NXB Đồng Nai,
2012.
25. Văn kiện các Đại hội Đảng bộ Long Thành, Nhơn Trạch.
26. Văn kiện Đảng, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương
xuất bản, Hà Nội, 1977.
27. Di sản văn hóa làng Hiệp Phước, Bảo tàng Đồng Nai, NXB
Đồng Nai, 2011.
474

48.5 Page 475

▲back to top


ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN............................................................. 9
1. Vị trí địa lý.................................................................................... 9
2. Địa hình, địa mạo....................................................................... 10
3. Đất đai........................................................................................ 13
4. Hệ thống sông suối..................................................................... 13
5. Khí hậu....................................................................................... 14
6. Sinh cảnh, động - thực vật.......................................................... 15
7. Hệ thống giao thông................................................................... 16
II. ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI CƯ DÂN VIỆT.................. 17
1. Quá trình hình thành và thay đổi về hành chính......................... 17
2. Dân cư........................................................................................ 27
3. Đời sống sản xuất....................................................................... 29
4. Văn hóa xã hội............................................................................ 35
CHƯƠNG II
TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH
ĐẾN KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1945
I.TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH.................... 67
1. Ngăn chặn thực dân Pháp xâm lược........................................... 67
2. Các phong trào chống Pháp trước khi có Đảng lãnh đạo........... 67
3. Hội kín/Thiên địa hội.................................................................. 69
475

48.6 Page 476

▲back to top


4. Phản kháng áp bức...................................................................... 71
5. Phong trào công nhân cao su...................................................... 76
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG.......... 78
1. Đảng ra đời, gầy dựng phong trào cách mạng............................ 78
2. Xây dựng cơ sở Đảng, phát triển phong trào cách mạng........... 82
III. THAM GIA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945............ 83
1. Tổ chức lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa..................................... 83
2. Tham gia tổng khởi nghĩa, giành chính quyền........................... 86
CHƯƠNG III
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946 - 1954)
I. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP TÁI CHIẾM............................................ 92
1. Cùng Nam Bộ quật khởi............................................................. 92
2. Chống lấn chiếm vùng kháng chiến......................................... 111
3. Củng cố, phát triển lực lượng kháng chiến............................... 116
II. CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN,
TOÀN DIỆN........................................................................... 121
1. Góp phần xây dựng, bảo vệ Chiến khu Phước An................... 122
2. Củng cố lực lượng, phát triển phong trào chiến tranh du kích..124
3. Đấu tranh chống chiếm đóng, bao vây..................................... 130
III. ĐẤU TRANH CHỐNG LẤN CHIẾM, GIỮ VỮNG VÀ MỞ
RỘNG ĐỊA BÀN LÀM CHỦ, GÓP PHẦN KẾT THÚC THẮNG
LỢI 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP....................... 132
1. Bố trí lại chiến trường, củng cố lực lượng kháng chiến........... 132
2. Khắc phục thiên tai, bảo vệ mùa màng..................................... 135
3. Cùng cả nước tiến công địch, kết thúc kháng chiến................. 136

48.7 Page 477

▲back to top


CHƯƠNG IV
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)
I. TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẾN ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ KẾT HỢP ĐẤU TRANH VŨ TRANG........... 139
1. Củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể.............................................. 139
2. Lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ,
thi hành Hiệp định Gienève...................................................... 147
3. Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng...................... 154
4. Diệt ác phá kiềm, cùng miền Nam đồng khởi.......................... 160
II. B A MŨI GIÁP CÔNG, GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI
ÂM MƯU “ẤP CHIẾN LƯỢC” VÀ CHIẾN TRANH
ĐẶC BIỆT”............................................................................ 162
1. P hong trào Đồng khởi, phá “Ấp chiến lược”, mở rộng
vùng giải phóng........................................................................ 162
2. Các đợt đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang........................ 168
III. CÙNG CẢ NƯỚC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968........................... 184
1. Tạo thế tiến công, giữ vững vùng làm chủ............................... 184
2. B ố trí lại chiến trường, phối hợp đánh bại kế hoạch tìm diệt
và bình định của địch................................................................ 188
3. Tham gia cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968...... 193
4. Bám trụ, chống càn, giữ vững các phong trào
ba mũi giáp công...................................................................... 197
5. Chuyển thế trận, mở rộng vùng làm chủ.................................. 211

48.8 Page 478

▲back to top


IV. THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH,
GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG............................................. 217
1. Phát triển thế trận tiến công địch.............................................. 217
2. Phối hợp tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương.............. 226
CHƯƠNG V
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, ỔN ĐỊNH XÃ
HỘI, ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (GIAI ĐOẠN 1975-1994)
I. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ QUÂN QUẢN, XÂY DỰNG
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG........................................... 235
1. Thành lập Ủy ban quân quản.................................................... 235
2. Ổn định xã hội, đời sống nhân dân........................................... 240
II. P HÁT TRIỂN TOÀN DIỆN KINH TẾ NÔNG THÔN,
ĐỔI MỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP............................. 250
1. Ổn định tổ chức Đảng, chính quyền......................................... 250
2. Khắc phục thiên tai, ổn định sản xuất....................................... 252
3. Thành lập xã Hiệp Phước......................................................... 260
4. Đổi mới sản xuất nông nghiệp.................................................. 263
CHƯƠNG VI
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
(1994-2020)
I. CỦNG CỐ TỔ CHỨC ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN,
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ........................................... 272
1. Từ chi bộ thành Đảng bộ cơ sở................................................. 272
2. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất.................................................... 281

48.9 Page 479

▲back to top


II. P HÁT TRIỂN KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG
NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA, NÂNG CAO
MỌI MẶT ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN................................... 293
1. G iảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng phát triển dịch vụ... 293
2. Nâng cao đời sống văn hóa nhân dân....................................... 297
3. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đời sống vật chất,
tinh thần người dân được nâng cao.......................................... 333
4. T hành lập trị trấn Hiệp Phước, hướng tới thành phố mới
Nhơn Trạch trong tương lai...................................................... 374
CHƯƠNG VII
NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ
1. Bài học xây dựng Đảng, chính quyền...................................... 416
2. Bài học xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân........................ 418
3. Bài học xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân........................... 419
4. Bài học phát huy nguồn nhân lực............................................. 420
5. Bài học đổi mới tư duy, chủ động trong phát triển................... 421
PHỤ LỤC
1. Hình ảnh tư liệu..............................................................................
2. Hình ảnh lãnh đạo qua các thời kỳ.................................................
3. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
và Bà mẹ Việt Nam anh hùng.........................................................
4. Nhân chứng lịch sử.........................................................................
5. Danh sách Ban Chấp hành qua các thời kỳ....................................
6. Danh sách liệt sĩ..............................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................
MỤC LỤC.........................................................................................

48.10 Page 480

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN HIỆP PHƯỚC (1930-2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ thị trấn Hiệp Phước
Mã ISBN: 978-604-42-0053-8
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập: Đào Thị Thu Thanh
Biên tập kĩ thuật: Nguyễn Văn Lừng
Trình bày: Hoàng Phương
Sửa bản in: Đào Thị Thu Thanh
Bìa: Hoàng Phương
............................................................................................................
In: 500 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM. Số XNKHXB: 3808-
2023/CXBIPH/9-722/ĐoN, Cục Xuất bản, In và Phát hành xác nhận ngày:
31/10/2023, Quyết định xuất bản số: 10/QĐA-ĐoN do NXB Đồng Nai cấp
ngày: 12/12/2023. In xong và nộp lưu chiểu: quý 1/2024.
............................................................................................................
Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh - Phát hành: 946 521 - 946 530
Email: dongnainxb@gmail.com