Xay dung va phat huy gia tri van hoa con nguoi Dong Nai

Xay dung va phat huy gia tri van hoa con nguoi Dong Nai

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
Xây dựng và phát huy
giá trị văn hóa, con người Đồng Nai
trở thành nguồn lực, động lực quan trọng
cho phát triển toàn diện và bền vững

1.2 Page 2

▲back to top

1.3 Page 3

▲back to top
SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH ĐỒNG NAI
XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
TRỞ THÀNH NGUỒN LỰC, ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG
CHO PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG
NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI

1.4 Page 4

▲back to top
BAN BIÊN SOẠN
Lê Thị Ngọc Loan
Nguyễn Hồng Ân
Trần Anh Thơ
Phạm Văn Minh
Nguyễn Ngọc Yến

1.5 Page 5

▲back to top
Lời giới thiệu
Đ ồng Nai là tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, khu vực có cơ sở hạ tầng phát triển và thuộc vùng
kinh tế năng động nhất Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh
Bình Thuận, Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Tây giáp Thành phố Hồ
Chí Minh, Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước, phía Nam
giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng Nai có diện tích 5.897km2, chiếm
1,78% diện tích cả nước; dân số khoảng 3,2 triệu người, chiếm khoảng
3,2% dân số cả nước. Tính đến tháng 5 năm 2024, tỉnh Đồng Nai
có 11 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: Thành phố Biên Hòa, thành
phố Long Khánh và các huyện Tân Phú, Định Quán, Thống Nhất, Xuân
Lộc, Cẩm Mỹ, Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu, 170 đơn
vị hành chính cấp xã. Thành phố Biên Hòa là trung tâm hành chính
của tỉnh.
Biên Hòa - Đồng Nai là vùng đất có nhiều tiềm năng về điều kiện tự
nhiên và nhân văn; vùng đất được mệnh danh dòng chảy huyết mạch
thành tên gọi của nền văn hóa, văn minh: Văn hóa Đồng Nai trải dài
qua các thời đại: Đá cũ, Đá mới, Kim khí và Lịch sử. Chính điều kiện tự
nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, trên cơ tầng nền tảng văn hóa
tiền - sơ sử, văn hóa Óc Eo và bản sắc văn hóa đa tộc người, đa tôn giáo,
vùng đất ấy chính là nơi hội nhập và giao lưu tiếp biến của nhiều nền
văn hóa văn minh trong lịch sử. Biên Hòa - Đồng Nai có vị trí chiến lược
quan trọng, là cửa ngõ phía Đông Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, là
địa bàn chuyển tiếp giữa Cao Nguyên với đồng bằng Nam Bộ, kết nối
các tỉnh miền Bắc, miền Trung với Nam Bộ, có lợi thế về nông nghiệp
và công nghiệp; chính vì vậy nơi đây sớm hình thành các đồn điền cao
su, khu chế xuất, khu công nghiệp và gắn liền với sự ra đời của giai cấp
công nhân Đồng Nai và phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân
chủ. Đội ngũ công nhân địa phương ra đời cùng với chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân tư bản Pháp ngày càng trưởng thành là tiền
đề cho phong trào yêu nước chống xâm lược của Nhân dân Biên Hòa
- Đồng Nai ngày càng mang tính tự giác khi có Đảng Cộng sản - chính
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Lòng yêu nước, đấu tranh của
nông dân, công nhân ở địa phương chính là cơ sở, mảnh đất màu mỡ
-5-

1.6 Page 6

▲back to top
cho chủ nghĩa Mác-Lênin thâm nhập để các tổ chức Đảng Cộng sản ở
Biên Hòa hình thành và lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập
dân tộc đi đến thắng lợi.
Nhìn lại lịch sử vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, sách Phủ biên tạp
lục (năm 1776) của Lê Quý Đôn là cuốn sách xưa nhất phác họa đôi nét:
Đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu toàn
là rừng rậm hàng mấy ngàn dặm... Đất ấy nhiều ngòi lạch, đường nước
như mắc cửi, không tiện đi bộ. Người buôn có chở thuyền lớn thì tất
đèo thêm xuồng nhỏ để thông đi các kênh. Từ cửa biển đến đầu nguồn
đi sáu, bảy ngày, hết thảy là đồng ruộng, nhìn bát ngát, rộng phẳng như
thế đấy, rất hợp trồng lúa nếp, lúa tẻ, gạo đều trắng dẻo. Rõ ràng Lê
Quý Đôn đồng nhất đất Đồng Nai với cả đồng bằng Nam Bộ. Năm 1698,
chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí
đất phương Nam. Ông đặt miền đất mới - nay là Nam Bộ - thành phủ
Gia Định có hai huyện: Huyện Tân Bình đặt dinh Phiên Trấn (đất phía
Tây sông Sài Gòn mà nguồn là sông Thủy Vọt - Nguyễn Tạo dịch là sông
Băng Bột - gồm Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang... hiện
nay); huyện Phước Long đặt dinh Trấn Biên (đất phía Đông sông Sài
Gòn, gồm các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng
Tàu, một phần Bình Thuận bây giờ). Diện tích huyện Phước Long như
vậy là rất lớn.
Trải qua hơn 325 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa -
Đồng Nai cho thấy đây là nơi hội tụ, giao lưu, tiếp biến của nhiều nguồn
văn hóa, văn minh; hình thành cộng đồng đa dân tộc (50 dân tộc), đa
văn hóa truyền thống. Bối cảnh kinh tế - xã hội ở Đồng Nai đủ “thiên
thời - địa lợi - nhân hòa”, giàu giá trị và tiềm năng với nhiều di sản và lợi
thế; bản sắc ấy chính là nền tảng, là nguồn lực của phát triển văn hóa
ở khả năng giao lưu, kết tinh văn hóa từ nhiều dòng, nhiều lớp, gìn giữ
được yếu tố cốt lõi của cội nguồn, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
của nhân loại, năng động linh hoạt trong phát triển, áp dụng nhanh tiến
bộ kỹ thuật, nhất là trong thời đại kỹ thuật số và Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư.
Với mục tiêu xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn
diện; bảo tồn và phát huy các giá trị các di sản văn hóa, tái hiện, tạo
ra nhiều sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch đặc trưng có chất lượng
cao mang đậm bản sắc văn hóa Đồng Nai, phù hợp với xu thế thời đại
(Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) về phát triển du lịch thành ngành kinh
tế quan trọng); tiếp tục giữ vững, phát huy hào khí Đồng Nai và không
-6-

1.7 Page 7

▲back to top
ngừng lan tỏa tinh thần hào khí Đồng Nai trong mọi phương diện của
đời sống; triển khai phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa và các cuộc vận động có liên quan văn hóa ngày càng sâu rộng và
thực chất hơn; hoàn thiện đồng bộ, hiện đại hóa hệ thống thiết chế văn
hóa thể thao, xây dựng các chương trình, dự án mới nhằm đáp ứng nhu
cầu hoạt động, hưởng thụ, sáng tạo và nâng cao đời sống tinh thần của
Nhân dân, nhất là thanh thiếu niên và công nhân lao động, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Đồng Nai là cơ quan tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND
tỉnh về quản lý Nhà nước và xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát
triển toàn diện... xin giới thiệu quyển sách Xây dựng và phát huy giá trị
văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng
cho phát triển toàn diện và bền vững.
Nội dung quyển sách gồm 4 phần:
Phần 1: Giới thiệu nội dung Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 12 tháng
12 năm 2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và
phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động
lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền vững (sau đây gọi tắt là
Nghị quyết số 12-NQ/TU).
Phần 2: Giới thiệu nội dung Kế hoạch số 80/KH-UBND ngày 08
tháng 3 năm 2024 của UBND tỉnh Đồng Nai triển khai thực hiện Nghị
quyết số 12-NQ/TU ngày 12 tháng 12 năm 2023 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người
Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn
diện và bền vững (sau đây gọi tắt là Kế hoạch số 80/KH-UBND).
Phần 3: Giới thiệu nội dung Kế hoạch số 123/KH-UBND ngày 08
tháng 4 năm 2024 của UBND tỉnh Đồng Nai tổ chức học tập và triển khai
chuyên đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển
toàn diện”. Nội dung chuyên đề gồm ba phần: (1) Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, con người. (2) Quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa,
con người trong giai đoạn hiện nay. (3) Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng
Nai phát triển toàn diện (sau đây gọi tắt là Kế hoạch số 123/KH-UBND).
Phần 4: Giới thiệu các tham luận tại Hội thảo khoa học cấp tỉnh:
“Thực hiện Đề cương về văn hóa Việt Nam trong xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”
được tổ chức tại Khách sạn Đồng Nai ngày 24/10/2023. Đây là những
nội dung khoa học của các chuyên gia, nhà khoa học trên các lĩnh vực,
-7-

1.8 Page 8

▲back to top
nhằm tập trung thảo luận về tổng thể những đặc trưng, thuộc tính,
phẩm chất căn cốt nhất, có tính đại diện tiêu biểu của Đồng Nai, tổng
hòa trên tất cả các mặt, lĩnh vực của đời sống, được hun đúc, định hình
từ điều kiện tự nhiên, từ kết quả quá trình lao động, đấu tranh để sinh
tồn và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Đây là sợi dây kết nối, diễn
đàn quan trọng để quy tụ lòng người, đoàn kết xã hội, gắn kết các định
hướng lớn cho xây dựng, phát triển bền vững địa phương. Đồng thời,
là cơ sở để Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI xây dựng Nghị quyết
về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành
nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững.
Quyển sách Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng
Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện
và bền vững là tài liệu nghiên cứu, học tập quan trọng đối với các cấp
ủy Đảng, các Sở, ban ngành, đơn vị và địa phương thuộc tỉnh Đồng Nai
nhằm quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TU
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI, Kế hoạch số 80/KH-UBND và
Kế hoạch số 123/KH-UBND của UBND tỉnh. Đây cũng là tài liệu bổ ích
cho các thế hệ học sinh, sinh viên học tập, nghiên cứu về lịch sử vùng
đất, văn hóa, con người Đồng Nai, qua đó xây dựng con người Đồng Nai
thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù
hợp, có thế giới quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc
tính cơ bản: “Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo”, góp phần xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát
triển bền vững, thịnh vượng, mang tầm cỡ khu vực.
Xin trân trọng giới thiệu quyển sách đến với đọc giả!
LÊ THỊ NGỌC LOAN
(Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai)
-8-

1.9 Page 9

▲back to top
PHẦN I
NGHỊ QUYẾT
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH
KHÓA XI VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
TRỞ THÀNH NGUỒN LỰC, ĐỘNG LỰC
QUAN TRỌNG CHO PHÁT TRIỂN
TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG
-9-

1.10 Page 10

▲back to top
I. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
Đồng Nai là một tỉnh có quy mô lớn, văn hóa đa dạng, có địa kinh
tế - chính trị - văn hóa trong vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam với những giá trị riêng biệt về vùng đất, con người Đồng
Nai, phong phú về sinh học, đa nguồn văn hóa, đa thành phần hợp cư,
nhiều tín ngưỡng tôn giáo, dòng mạch văn hóa, đa loại hình phát triển
kinh tế và tổ chức xã hội; có nhiều cơ hội để bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa con người.
Quá trình hình thành cộng đồng dân tộc ở Đồng Nai được trải qua
quá trình hợp cư bởi các đợt di dân qua các thời kỳ. Bối cảnh kinh tế - xã
hội ở Đồng Nai đủ “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”, giàu giá trị và tiềm
năng với nhiều di sản và lợi thế; giàu bản sắc của vùng đất vốn được hình
thành từ sự hội nhập, chan hòa, kết tinh, chuyển hóa từ nhiều nhân tố,
nhiều dòng mạch trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa và vận
động phát triển; bản sắc ấy cũng chính là nguồn lực của phát triển văn
hóa ở khả năng giao lưu, kết tinh văn hóa từ nhiều dòng, nhiều lớp, gìn
giữ được yếu tố cốt lõi của cội nguồn, tiếp thu nhanh tinh hoa văn hóa
của nhân loại (phóng khoáng trong cư xử, khoan dung, rộng mở trong
sinh hoạt xã hội; năng lực ứng xử nhạy bén, dễ thích ứng với cái mới),
năng động linh hoạt trong phát triển, áp dụng nhanh tiến bộ kỹ thuật,
nhất là trong thời đại kỹ thuật số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa trên địa bàn, những năm gần
đây nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người trên địa bàn
tỉnh đã và đang có bước phát triển khá toàn diện, đạt được những kết
quả quan trọng. Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, hệ thống
chính trị, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong
sự phát triển của địa phương được nâng lên; các cấp ủy, chính quyền
đã ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính
sách thúc đẩy phát triển văn hóa. Hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục
thể thao tiếp tục được quan tâm phát triển. Các lĩnh vực, loại hình, sản
phẩm văn hóa ngày càng phát triển đa dạng. Công tác bảo tồn, trùng
tu, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa được quan tâm thực hiện thường
xuyên. Nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ có nội dung phong phú, đa
dạng, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Hệ thống thiết chế văn
hóa, thể thao, các điểm vui chơi giải trí, không gian công cộng và tiện ích
đô thị từ tỉnh đến cơ sở từng bước được đầu tư xây dựng ngày càng đồng
bộ theo hướng hiện đại, đáp ứng cơ bản nhu cầu tinh thần của Nhân
dân. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy
- 10 -

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
trì thường xuyên, tỷ lệ ấp (khu phố) đạt danh hiệu văn hóa trên 96%.
Phát triển văn hóa ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số ngày càng được quan tâm. Công tác quản lý, tổ chức lễ hội và quản
lý các hoạt động báo chí, xuất bản, các loại hình thông tin trên internet
được tăng cường. Hoạt động thông tin, tuyên truyền các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các gương
người tốt, việc tốt được chú trọng. Các giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp gia đình Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới được quan tâm; những
định kiến, phân biệt đối xử về giới trong xã hội có xu hướng giảm. Môi
trường văn hóa lành mạnh hơn, nếp sống văn hóa có nhiều chuyển biến
tích cực. Chỉ số phát triển con người được cải thiện và nâng cao. Dấu ấn
về bản sắc đặc trưng của văn hóa, con người Đồng Nai từng bước được
định hình, dần khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong cuộc sống
đương đại.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, đẩy mạnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiệm
vụ xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, con người Đồng Nai cũng
phải đương đầu với những khó khăn, thách thức.
Sự phát triển văn hóa, con người chưa đồng bộ, chưa tương xứng
với tăng trưởng kinh tế; chưa phát huy đúng mức lợi thế nguồn lực văn
hóa, con người trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc bảo tồn,
khai thác, phát huy giá trị các di sản văn hóa vào việc phát triển du lịch,
dịch vụ, công nghiệp văn hóa và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
còn hạn chế. Nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thông qua
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa có nơi còn
hình thức. Môi trường văn hóa ở một số nơi chưa lành mạnh; đạo đức,
lối sống của xã hội có biểu hiện suy thoái, xuống cấp. Hệ thống thiết
chế văn hóa, thể thao, khu vui chơi giải trí ở cơ sở và trong các khu công
nghiệp còn thiếu, yếu, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Việc phát triển
các ngành công nghiệp văn hóa trên địa bàn tỉnh còn chậm. Chất lượng
hoạt động văn học, nghệ thuật còn hạn chế, chưa có nhiều tác phẩm,
công trình ngang tầm với thời đại. Chỉ số phát triển con người có nơi
chưa cao, hạ tầng xã hội quá tải.
Những hạn chế, bất cập nêu trên là do tác động của mặt trái nền
kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, bùng nổ thông tin, nhất là
thông tin mạng xã hội, tư duy trọng kiếm tiền, nhẹ văn hóa, trọng kinh
tế, nhẹ xã hội. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên
lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật còn thụ động và thiếu sắc bén.
- 11 -

2.2 Page 12

▲back to top
Nhận thức của một số cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là người đứng
đầu về nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người chưa đầy đủ,
chưa xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa đối với sự
phát triển của địa phương, chưa đồng bộ, kịp thời trong quản lý, đề xuất
các chính sách để phát triển văn hóa, con người, nhất là chính sách hỗ
trợ cho đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Công
tác tuyên truyền chưa thường xuyên, liên tục, chưa đi vào thực chất đời
sống xã hội của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo,
quản lý và đội ngũ làm công tác văn hóa còn bất cập. Sự phối hợp giữa
các cơ quan, đơn vị liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ phát triển văn hóa,
con người chưa chặt chẽ, thường xuyên. Nguồn kinh phí đầu tư cho văn
hóa còn thấp, chưa tương xứng với nhiệm vụ phát triển văn hóa, con
người ở Đồng Nai.
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1. Quan điểm
- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người ở Đồng Nai trở thành
nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy, hình thành
các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam; trong đó, con người
vừa là đối tượng phục vụ đồng thời vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa với
những đặc trưng, thuộc tính, phẩm chất căn cốt nhất, có tính đại diện
tiêu biểu của địa phương. Tổng hòa trên tất cả các mặt, lĩnh vực của đời
sống, được hun đúc, định hình về: Nhân văn, sáng tạo, khoa học, dân
chủ, đa dạng, kết hợp chặt chẽ truyền thống văn hóa Biên Hòa - Đồng
Nai với những giá trị, chuẩn mực hiện đại, hướng đến tương lai; hài hòa
nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Tập trung xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, để văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, để văn hóa, con người Đồng Nai thực sự là nền tảng tinh thần vững
chắc, là mục tiêu, là động lực, sức mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Xây dựng môi trường văn hóa đồng bộ, lành mạnh, tăng cường vai
trò của gia đình, cộng đồng trong phát huy giá trị văn hóa, con người
Đồng Nai; ưu tiên xây dựng và phát huy giá trị văn hóa trong chính trị,
văn hóa trong kinh tế, văn hóa môi trường, văn hóa công vụ, văn hóa
giáo dục, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
- 12 -

2.3 Page 13

▲back to top
- Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành
nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền vững là
nhiệm vụ quan trọng cần phải được thực hiện thường xuyên, kiên trì,
lâu dài, là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, các cấp
ủy, các ngành, của toàn dân. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò to lớn của Nhân dân, nhất là của đội ngũ trí thức,
văn nghệ sĩ, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong xây dựng,
phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
- Xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện với
các phẩm chất: Nhân cách, đạo đức, trí tuệ, khát vọng, năng động, văn
minh, thân thiện, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã
hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu
nước, tự hào dân tộc, dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách
nhiệm; trong 05 mối quan hệ: Với bản thân mình, với gia đình, với cộng
đồng - xã hội, với đất nước, với truyền thống và bản sắc của Đồng Nai.
- Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa (vật thể và phi vật
thể), cùng các giá trị văn hóa khác, tái hiện, tạo ra nhiều sản phẩm văn
hóa, sản phẩm du lịch đặc trưng, có chất lượng cao mang đậm bản sắc
Đồng Nai, phù hợp với xu thế thời đại. Tiếp tục giữ vững, phát huy hào
khí Đồng Nai và không ngừng lan tỏa tinh thần hào khí Đồng Nai trong
mọi phương diện của đời sống.
- Triển khai phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa và các cuộc vận động có liên quan văn hóa ngày càng sâu rộng và
thực chất hơn; hoàn thiện đồng bộ, hiện đại hóa hệ thống thiết chế văn
hóa thể thao, xây dựng các chương trình, dự án mới nhằm đáp ứng nhu
cầu hoạt động, hưởng thụ, sáng tạo và nâng cao đời sống tinh thần của
Nhân dân, nhất là thanh thiếu niên và công nhân lao động.
2.2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025
- Phấn đấu 90% hộ gia đình được nâng cao kiến thức về văn hóa, kỹ
năng giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của
địa phương, hệ giá trị của gia đình, phòng ngừa rủi ro, tệ nạn xã hội, bạo
lực trong gia đình; 95% địa phương đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối
sống, giáo dục hệ giá trị gia đình trong thời kỳ mới vào hương ước, quy
ước của dòng họ, cộng đồng, khu phố, ấp.
- 13 -

2.4 Page 14

▲back to top
- Phấn đấu giữ vững các mục tiêu: 95% trở lên số gia đình đạt danh
hiệu gia đình văn hóa; 90% trở lên khu phố, ấp đạt danh hiệu văn hóa,
trong đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện có ít nhất 5% số mô hình
điểm khu dân cư văn hóa tiêu biểu; 98% trở lên cơ quan, đơn vị đạt chuẩn
văn hóa; 75% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 60% trở lên phường, thị
trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.
- 95% cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị xây dựng và thực
hiện tốt quy định về văn hóa công sở, kỷ luật, kỷ cương; 92% khu phố,
ấp thực hiện tốt hương ước, quy ước nếp sống văn minh, phù hợp với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ quy định của pháp luật.
- 95% đơn vị hành chính cấp huyện có đủ các thiết chế: Nhà văn
hóa, Thư viện và 3 công trình thể thao cơ bản (Nhà thi đấu đa năng, sân
vận động, bể bơi) đạt chuẩn theo quy định; 95% huyện, thành phố có
quảng trường, công viên; trên 50% huyện, thành phố có Nhà văn hóa
thanh thiếu niên.
- Lập hồ sơ đề nghị ghi danh từ 1-2 di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; 1-2 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận bảo vật quốc gia; 20%
các di tích quốc gia đặc biệt hoàn thiện công tác tu bổ, tôn tạo theo quy
hoạch được phê duyệt; 20% di tích quốc gia được tu bổ, tôn tạo, chống
xuống cấp.
- 95% thanh, thiếu nhi trong các trường học trên địa bàn tỉnh hàng
năm được trải nghiệm, giáo dục truyền thống, tìm hiểu về giá trị lịch sử,
văn hóa tại các thiết chế văn hóa, di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, di tích
lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh.
- Lựa chọn, ưu tiên phát triển 3-5 sản phẩm du lịch, dịch vụ văn hóa
có lợi thế của tỉnh để xây dựng thương hiệu du lịch của tỉnh; phấn đấu
doanh thu của các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh đóng góp khoảng
1% GRDP.
- Từng bước nâng mức đầu tư cho văn hóa đạt 3,5% tổng chi ngân
sách Nhà nước.
- Phấn đấu trong nhóm 10 địa phương đứng đầu cả nước về chỉ số
phát triển con người (HDI).
2.3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030
- Phấn đấu 100% hộ gia đình được nâng cao kiến thức về văn hóa, kỹ
năng giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của
địa phương, hệ giá trị của gia đình, phòng ngừa rủi ro, tệ nạn xã hội, bạo
- 14 -

2.5 Page 15

▲back to top
lực trong gia đình; 100% địa phương đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối
sống, giáo dục hệ giá trị gia đình trong thời kỳ mới vào hương ước, quy
ước của dòng họ, cộng đồng, làng xã.
- Phấn đấu giữ vững các mục tiêu: 97% trở lên số gia đình đạt danh
hiệu gia đình văn hóa; 95% trở lên khu phố, ấp đạt danh hiệu văn hóa,
trong đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện có ít nhất 5% số mô hình
điểm khu dân cư văn hóa tiêu biểu; 98% trở lên cơ quan, đơn vị đạt chuẩn
văn hóa; 80% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 70% trở lên phường, thị
trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.
- Phấn đấu 100% cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị xây dựng
và thực hiện tốt quy định về văn hóa công sở, kỷ luật, kỷ cương; 100%
khu phố, ấp thực hiện tốt hương ước, quy ước nếp sống văn minh,
phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ quy định của
pháp luật.
- 100% đơn vị hành chính cấp huyện có đủ các thiết chế: Nhà văn
hóa, Thư viện và 3 công trình thể thao cơ bản (Nhà thi đấu đa năng, sân
vận động, bể bơi) đạt chuẩn theo quy định; 100% huyện, thành phố có
quảng trường, công viên; 100% huyện, thành phố có Nhà văn hóa thanh
thiếu niên.
- Lập hồ sơ đề nghị ghi danh từ 4-5 di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; có từ 1-2 di tích được xếp hạng quốc gia đặc biệt; 3-4 di tích được
xếp hạng quốc gia; 100% các di tích quốc gia đặc biệt hoàn thiện công
tác tu bổ, tôn tạo theo quy hoạch được phê duyệt; 100% di tích quốc gia
được tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp. Phục dựng lại một số di sản văn
hóa liên quan đến lịch sử khai phá vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.
- 100% thanh, thiếu nhi trong các trường học trên địa bàn tỉnh hàng
năm được trải nghiệm, giáo dục truyền thống, tìm hiểu về giá trị lịch sử,
văn hóa tại các thiết chế văn hóa, di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, di tích
lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh.
- Lựa chọn, ưu tiên phát triển 7-10 sản phẩm du lịch, dịch vụ văn
hóa có lợi thế của tỉnh để xây dựng thương hiệu du lịch của tỉnh; phấn
đấu doanh thu của các dịch vụ văn hóa, du lịch trên địa bàn tỉnh đóng
góp khoảng 3% GRDP.
- Nâng mức đầu tư cho văn hóa đạt tối thiểu 4% tổng chi ngân sách
Nhà nước.
- Phấn đấu trong nhóm 5 địa phương đứng đầu cả nước về chỉ số
phát triển con người (HDI).
- 15 -

2.6 Page 16

▲back to top
III. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN
1. Xây dựng con người Đồng Nai phát triển toàn diện
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trách nhiệm và hành
động của các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn xã hội về ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng
Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của tỉnh.
- Xây dựng con người Đồng Nai thời kỳ đổi mới, phát triển, hội
nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, có thế giới quan khoa học,
có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, thân thiện với môi
trường”; tăng cường giáo dục tri thức, nhân cách, đạo đức, thể chất, kỹ
năng xã hội cho các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu nhi; xây
dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp,
nhân văn, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái
ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ.
- Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
y tế, thể dục, thể thao để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, nâng cao tầm vóc, trí tuệ, tuổi thọ, tâm hồn, tình cảm cao đẹp,
chỉ số phát triển con người, chỉ số hạnh phúc của con người Đồng Nai.
Gắn giáo dục tri thức với giáo dục đạo đức, lao động, thể chất, kỹ năng
sống đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung cải thiện,
nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm an ninh con người, phúc lợi xã
hội cho Nhân dân trên địa bàn tỉnh; thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời
cho người dân; đạt được mục tiêu bình đẳng giới và trao quyền cho phụ
nữ, trẻ em gái; bảo đảm khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, tạo việc
làm đầy đủ, năng suất cao và bền vững cho tất cả mọi người.
- Chấn chỉnh kịp thời việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,
lợi dụng tự do dân chủ để truyền bá tư tưởng duy tâm thần bí, lôi kéo
mê tín dị đoan, gây mất an ninh trật tự, phá hoại an ninh con người;
đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái ác, sự lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến
thuần phong mỹ tục của văn hóa và sự phát triển toàn diện con người
Đồng Nai.
- Phát động và thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Học tập,
lao động, sáng tạo”, xây dựng “Gương người tốt việc tốt” và các điển hình
tiên tiến gắn với các phong trào thi đua yêu nước được triển khai trên
địa bàn tỉnh. Xây dựng Bộ tiêu chí hàng năm bình xét, vinh danh công
- 16 -

2.7 Page 17

▲back to top
dân Đồng Nai tiêu biểu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo động
lực thi đua trong học tập, công tác, chiến đấu, lao động, sản xuất; xây
dựng hình ảnh con người Đồng Nai trong thời kỳ mới.
2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa, thể thao
góp phần xây dựng môi trường và đời sống văn hóa cho người dân
phong phú, lành mạnh
- Mỗi gia đình, địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức
phải là một môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh, góp phần giáo
dục, rèn luyện con người phát triển toàn diện, nâng cao mức hưởng thụ
văn hóa và đời sống tinh thần của Nhân dân. Nâng cao chất lượng, hiệu
quả phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, cuộc vận
động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, trong đó chú trọng một
cách thực chất việc công nhận danh hiệu gia đình văn hóa, khu dân cư
văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa; đẩy mạnh phong trào
toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội... Thực hiện tốt cơ chế
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng môi trường
văn hóa. Đề cao vai trò, trách nhiệm và các giá trị văn hóa tốt đẹp của
gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, cùng
với nhà trường giáo dục, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và
kỹ năng ứng xử xã hội văn minh.
- Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa
giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối
sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ.
- Tăng cường tuyên truyền và xây dựng ý thức bảo vệ môi trường
sống, gắn xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái,
gìn giữ, ứng xử đúng đắn với môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững.
- Đa dạng việc huy động nguồn lực đầu tư và tổ chức đời sống văn
hóa, góp phần thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa đô thị và
nông thôn, các tầng lớp trong xã hội.
- Quan tâm đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm,
quy mô lớn và vừa tại trung tâm thành phố, huyện, khu công nghiệp;
đầu tư hoàn thiện, hiện đại hóa về cơ bản hệ thống các thiết chế văn hóa
từ tỉnh đến cơ sở; khai thác có hiệu quả các thiết chế văn hóa, thể thao,
tạo điều kiện để Nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa, thể
dục, thể thao cộng đồng; thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống
tệ nạn xã hội tạo môi trường sống lành mạnh để xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Đồng Nai.
- 17 -

2.8 Page 18

▲back to top
- Ưu tiên tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao ở cơ
sở, đảm bảo sự công bằng trong hưởng thụ văn hóa của mọi người dân.
Chú trọng nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa khu
dân cư, văn hóa trong các cơ quan, đơn vị; quan tâm chăm lo đời sống
văn hóa tinh thần cho đội ngũ công nhân, người lao động trong các khu,
cụm công nghiệp.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, nâng cao năng
lực cảm thụ thẩm mỹ cho con người, đặc biệt là thanh thiếu nhi để mỗi
người đều biết khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao
thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng cơ chế, tập trung nguồn lực đầu tư cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển năng khiếu, tài năng nghệ thuật; tạo điều kiện,
khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều
tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật; có cơ chế khuyến khích văn
nghệ sĩ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn
học, nghệ thuật với ý thức đầy đủ về trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ
công dân của mình. Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ
nhân trên cơ sở cống hiến cho xã hội. Tiếp tục thực hiện quy định xét,
tặng giải thưởng Văn học Nghệ thuật Trịnh Hoài Đức và giải thưởng Văn
học Nghệ thuật hàng năm; quy định chế độ khen thưởng đối với tập thể,
cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật đạt giải tại các
cuộc liên hoan, hội diễn, hội thi, cuộc thi khu vực, toàn quốc và quốc tế;
khen thưởng kịp thời văn nghệ sĩ, người có công trong bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa trên địa bàn; xét, đề nghị phong tặng danh hiệu
Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật;
Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa
phi vật thể.
3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
- Tăng cường lãnh đạo thực hiện quy định về xây dựng văn hóa
trong toàn Đảng bộ, phấn đấu mỗi chi bộ đều tiêu biểu về đạo đức, văn
minh; phấn đấu mỗi đảng viên đều tự giác, tiên phong, gương mẫu; xem
đó là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có
phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân
dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân; đẩy lùi chủ nghĩa cơ hội, thực dụng,
quan liêu, bè phái, gây mất đoàn kết, gắn với công tác phòng, chống
- 18 -

2.9 Page 19

▲back to top
tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ
đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với tuân thủ pháp luật,
trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, công chức, đảng viên.
- Chú trọng xây dựng văn hóa trong kinh tế; trước hết là ở các doanh
nghiệp, trong đó, đội ngũ doanh nhân, công nhân, người lao động thực
sự là chủ thể được phát triển toàn diện và có điều kiện để phát huy sáng
kiến, sáng tạo. Xây dựng đội ngũ cán bộ và người lao động có đủ trình độ
và kỹ năng hội nhập, chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước,
đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết
thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, quảng bá hình
ảnh của đất nước và con người Đồng Nai.
4. Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh
- Tập trung vào các di sản văn hóa có giá trị lịch sử văn hóa độc đáo,
đặc sắc, mang tính đại diện cho khu vực. Khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia bảo tồn, khai thác và đầu tư vào công tác bảo tồn, phát
huy giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.
- Từng bước đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ nhằm tăng hiệu
ứng của di sản văn hóa, nhất là các di tích lịch sử, kiến trúc; liên kết, hợp
tác với các tổ chức, cá nhân để đầu tư mua sắm thiết bị công nghệ hiện
đại phục vụ trưng bày, triển lãm di sản văn hóa tại di tích, bảo tàng; đặc
biệt là công nghệ thực tế ảo (công nghệ số), số hóa hiện vật, tài liệu, di
sản văn hóa phục vụ nhu cầu trải nghiệm, khám phá của du khách tại
bảo tàng, di tích. Lập hệ thống cơ sở dữ liệu trên nền bản đồ GIS di tích
và di chỉ khảo cổ học trên địa bàn tỉnh. Chú trọng kịp thời và đúng mức
việc chống xuống cấp di tích và các di sản phi vật thể có nguy cơ bị mai
một; khôi phục một số lễ hội truyền thống, nghề truyền thống của người
Biên Hòa, Đồng Nai xưa; ban hành kế hoạch trùng tu, tôn tạo di tích trên
địa bàn tỉnh.
- Giới thiệu, quảng bá các di sản văn hóa và ẩm thực truyền thống
của địa phương đến với du khách trong và ngoài nước, tổ chức các dịch
vụ vui chơi, giải trí, quà lưu niệm đặc trưng tại các khu, điểm du lịch có
di tích - danh thắng. Chú trọng việc phát triển du lịch MICE; nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc của tỉnh, từng bước
tạo dựng hình ảnh du lịch của Biên Hòa - Đồng Nai trong khu vực. Tập
trung nguồn lực xây dựng các điểm du lịch có tài nguyên du lịch văn hóa
hấp dẫn gắn với các di tích - danh thắng tiêu biểu của tỉnh... Đầu tư xây
- 19 -

2.10 Page 20

▲back to top
dựng cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông công cộng và điểm dừng
chân đến các điểm di tích; khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư trong và
ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, các công trình vui chơi
giải trí, các nhà nghỉ, khách sạn bảo đảm tiêu chuẩn tại các khu, điểm
du lịch trọng điểm của tỉnh.
5. Phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa trên địa bàn
tỉnh
- Phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa theo hướng
độc đáo; từng bước xây dựng và phát triển thương hiệu Đồng Nai có uy
tín trên thị trường trong và ngoài nước; tăng cường và đa dạng hóa các
nguồn lực đầu tư để phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa.
Xây dựng và phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa thích
ứng với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Có cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
văn hóa; tạo môi trường thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường sản
phẩm, dịch vụ văn hóa và ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp
văn hóa của tỉnh.
- Có giải pháp đồng bộ, tổ chức thực hiện có hiệu quả chiến lược
phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Từng bước nghiên cứu, vận hành phát triển sản phẩm, dịch vụ công
nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư vào một số ngành công nghiệp văn hóa
có lợi thế của tỉnh như: Nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, thủ công mỹ
nghệ, trò chơi giải trí, du lịch văn hóa, ẩm thực... nhằm khai thác, phát
huy những tiềm năng và các giá trị đặc sắc của văn hóa Biên Hòa - Đồng
Nai; khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, góp phần tăng
cường quảng bá văn hóa, con người Đồng Nai trên phạm vi cả nước và
quốc tế.
6. Chủ động quảng bá, chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa trong
nước và thế giới
Cùng với đổi mới nội dung, hình thức quảng bá các giá trị văn hóa,
hình ảnh vùng đất, con người Biên Hòa - Đồng Nai, tiềm năng phát triển
của tỉnh thông qua các chương trình, sự kiện, lễ hội văn hóa, biểu diễn
nghệ thuật và các hoạt động xúc tiến thương mại du lịch trong tỉnh,
trong nước và quốc tế, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, triển khai thực hiện
Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại và ngoại giao văn hóa trên địa
bàn tỉnh. Tạo điều kiện thuận lợi để các nước, các tổ chức quốc tế, các
cơ quan văn hóa, du lịch nước ngoài giới thiệu tiềm năng văn hóa, con
- 20 -

3 Pages 21-30

▲back to top

3.1 Page 21

▲back to top
người Đồng Nai. Thúc đẩy gắn kết các hoạt động về ngoại giao văn hóa,
văn hóa đối ngoại và ngoại giao kinh tế; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm văn hóa của tỉnh.
7. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Đổi mới nội dung và phương pháp quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển nguồn nhân lực về văn hóa, nhận thức nguồn nhân lực văn hóa
không chỉ là đội ngũ gồm những người đang hoạt động trong ngành
văn hóa, mà là tổng thể tiềm năng đang có và cần có ở con người hướng
về mục tiêu xác định, trong đó bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, quản lý (cả
quản lý Nhà nước và quản lý của cộng đồng), giám định, thẩm định và
nghệ nhân; đưa nội dung cơ sở văn hóa Việt Nam vào chương trình đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp phù hợp đối tượng làm cho hàm lượng
văn hóa thấm sâu, tỏa sáng trong mọi lãnh đạo, quản lý ở mọi lĩnh vực;
chú trọng các hoạt động đào tạo trường lớp, bồi dưỡng chuyên môn và
truyền dạy nghề nghiệp của nghệ nhân; có những chính sách phù hợp
đối với đội ngũ cán bộ làm văn hóa các cấp, nhất là cấp cơ sở để họ yên
tâm công tác và cống hiến.
IV. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai trò của văn
hóa trong phát triển kinh tế - xã hội
- Các cấp ủy Đảng tiếp tục quán triệt sâu rộng, triển khai thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,
các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính
trị về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Nghị quyết
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong hệ thống
chính trị, toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trong
tỉnh. Xác định rõ, xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, mà trước hết là
trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và người đứng đầu.
- Tiếp tục lãnh đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; chú trọng
xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội, coi đây là nhân tố, là tiền đề quan trọng để xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với triển khai thực
- 21 -

3.2 Page 22

▲back to top
hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/
TW ngày 20/10/2021 tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương đối
với cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các
tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ những người làm công tác giáo
dục, văn nghệ sĩ và cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, lãnh đạo doanh
nghiệp và những người có tầm ảnh hưởng quan trọng trong cộng đồng
và xã hội.
- Khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo, mất dân chủ, coi
nhẹ việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người; định kỳ kiểm tra,
giám sát việc cơ quan Nhà nước thể chế hóa chủ trương của Đảng về
phát triển văn hóa, con người Đồng Nai trên địa bàn tỉnh.
- Chú trọng đúng mức yếu tố văn hóa và con người trong chính
trị và phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa
công vụ, văn hóa giáo dục đi trước một bước. Đẩy mạnh việc xây dựng
văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, tinh thần khởi nghiệp, xây
dựng đội ngũ doanh nhân và những người lao động giỏi, kinh doanh
đúng pháp luật, đóng góp có trách nhiệm; tích cực xây dựng và phát
triển các thương hiệu uy tín của Đồng Nai và Việt Nam trên thị trường
trong nước và quốc tế.
2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa; tạo
hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi để xây dựng và phát huy giá trị
văn hóa, con người Đồng Nai
- Các cấp chính quyền, các cơ quan cụ thể hóa Nghị quyết của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh thành chương trình, kế hoạch hành động phù
hợp với thực tiễn của địa phương, đơn vị, theo các mốc thời gian đến
năm 2025 và đến năm 2030.
- Nghiên cứu, rà soát, tham mưu hoàn thiện hệ thống văn bản về cơ
chế, chính sách của tỉnh để xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Đồng Nai trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, bắt kịp thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng, ban hành các cơ chế,
chính sách đặc thù khuyến khích, thu hút tài năng văn hóa nghệ thuật,
chăm sóc đãi ngộ đối với nghệ nhân, văn nghệ sĩ và cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà
- 22 -

3.3 Page 23

▲back to top
nước về văn hóa từ tỉnh đến cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực ngành văn hóa.
- Chú trọng khuyến khích và nghiên cứu ban hành cơ chế hợp tác
công tư và xã hội hóa trong phát triển văn hóa, con người; tăng cường
đầu tư khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực văn hóa đi đôi với đổi
mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục đầu tư dàn trải kém hiệu
quả; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả đầu tư
cao trong phát triển văn hóa.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về báo chí và xuất
bản, nhất là môi trường mạng Internet phục vụ yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương, đảm bảo định hướng tư tưởng và thẩm mỹ
cho các tầng lớp Nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên.
3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chú
trọng việc giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân
dân về các quan điểm, mục tiêu về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam; vị trí vai trò quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, về mối quan
hệ giữa kinh tế và văn hóa; phát huy tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc,
lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, với gia đình, cộng
đồng, xã hội, đất nước và quê hương Đồng Nai; tuyên truyền sâu rộng
để người dân Đồng Nai phải thân thiện với môi trường, có trách nhiệm
trong việc bảo vệ môi trường, nhất là thế hệ trẻ phải hiểu và yêu thiên
nhiên, yêu môi trường, yêu động vật thiên nhiên, chấm dứt tình trạng
săn bắn chim, thú rừng; xử lý nghiêm khắc tình trạng mua bán thú rừng;
sử dụng rộng rãi hình ảnh 3D động vật hoang dã, chim, thú rừng tại nơi
công cộng, nơi đông dân cư để người dân gần gũi với thiên nhiên, thân
thiện với môi trường.
- Tiếp tục quán triệt, triển khai, tuyên truyền sâu rộng kết luận của
đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; Kết luận số 76-KL/TW,
ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về
- 23 -

3.4 Page 24

▲back to top
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”; Kết luận số 51-KL/TW, ngày 22/7/2009
của Bộ Chính trị (khóa X) về việc “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 27-CT/
TW, ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”… Kế hoạch số 258-KH/TU,
ngày 31/8/2015 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày
09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) và Quyết
định số 1909/QĐ-TTg, ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.
- Nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thông, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao về tiếp cận thông tin và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật
của người dân; phát huy thành tựu khoa học, công nghệ gắn với chuyển
đổi số trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật nhằm mở rộng khả năng
tiếp cận, nâng cao nhận thức của người dân và cộng đồng. Chú trọng
công tác quản lý thông tin trên không gian mạng, mạng xã hội để định
hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho Nhân dân, nhất là thanh thiếu niên. Xây
dựng hệ thống giải pháp ngăn ngừa tác động tiêu cực của truyền thông
đại chúng và truyền thông mới đến người dân. Đầu tư, khai thác, phát
huy các nguồn lực phát triển văn hóa đọc, góp phần khuyến khích và
phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng; khẳng định, tôn vinh
giá trị của sách trong đời sống tinh thần của Nhân dân.
- Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, hệ thống cổ động trực quan, các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, lồng ghép với tuyên truyền nhiệm vụ chính trị của đất
nước, của tỉnh và địa phương. Huy động sức mạnh tổng hợp, tính năng
động sáng tạo của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong công tác
tuyên truyền, giáo dục thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn
hóa, con người; nhất là phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các trang thông tin điện tử và
các nền tảng mạng xã hội.
- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị nghe, nhìn để phục vụ công tác
tuyên truyền và nâng cao tỷ lệ tiếp cận, hưởng thụ thông tin của người
dân. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động, nội dung,
hình thức tuyên truyền, giáo dục giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống cho
người dân, nhất là thế hệ trẻ.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa.
Chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản
- 24 -

3.5 Page 25

▲back to top
lý văn hóa, cán bộ ở cơ sở. Nâng cao chất lượng đội ngũ những người
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là cán bộ quản lý từ tỉnh đến
cơ sở, bảo đảm cán bộ văn hóa phải là người có nhiệt huyết, am hiểu
sâu, rộng về văn hóa, con người Đồng Nai, có năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và kỹ năng tổ chức các hoạt động để phát triển văn hóa,
con người Đồng Nai, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân.
- Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng Nai, tạo chuyển biến cơ bản
về chất lượng và quy mô đào tạo. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn
hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Quan tâm xây dựng đội
ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân.
- Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh
cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có
đức. Nghiên cứu chế độ trợ cấp đối với những người hoạt động trong các
bộ môn nghệ thuật đặc thù.
5. Tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của
Nhà nước và xã hội để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người
Đồng Nai
- Tăng cường đầu tư và ưu tiên huy động các nguồn lực để xây dựng
các thiết chế văn hóa, thể thao mang tầm cỡ quốc gia; đồng thời, chú
trọng đúng mức đầu tư hoàn thiện, nâng cấp các thiết chế văn hóa, thể
thao cơ sở; tăng mức hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các Trung tâm văn
hóa, thể thao - học tập cộng đồng cấp xã và Nhà văn hóa ấp; hỗ trợ kinh
phí hoạt động dành cho các Nhà văn hóa khu phố trên địa bàn tỉnh.
- Quy hoạch đồng bộ và xây dựng mới: Trung tâm Văn hóa - Điện
ảnh, Nhà hát nghệ thuật, Bảo tàng, Thư viện, Công viên văn hóa công
nhân đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai; đầu tư xây
dựng khu liên hiệp thể thao. Tăng cường thu hút đầu tư xây dựng các
thiết chế văn hóa thể thao ngoài công lập.
- Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ,
hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người. Bổ sung cơ chế,
chính sách khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế
đầu tư vào hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thiết chế văn hóa, khu vui
chơi giải trí… tạo môi trường lành mạnh, văn minh. Khôi phục giá trị
nghề Gốm Biên Hòa - Đồng Nai trở thành giá trị văn hóa tiêu biểu của
Đồng Nai.
- 25 -

3.6 Page 26

▲back to top
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính
trị - xã hội triển khai, quán triệt Nghị quyết đến cán bộ, đảng viên, hội
viên và Nhân dân trong tỉnh; đồng thời, xây dựng kế hoạch, chương trình
hành động cụ thể thực hiện Nghị quyết phù hợp với tình hình thực tiễn
của địa phương, đơn vị. Đồng thời, tuyên truyền sâu rộng trong Nhân
dân để tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết.
2. Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ đạo cụ thể hóa Nghị quyết
của Tỉnh ủy thành các cơ chế, chính sách liên quan đến nguồn nhân lực,
nguồn lực tài chính để bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu phát huy giá trị
văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng
trong phát triển toàn diện và bền vững.
3. Giao Ban cán sự Đảng Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ủy ban nhân
dân xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết, bảo đảm ngân
sách thực hiện, xác định rõ những nội dung cần triển khai thực hiện,
có giải pháp khả thi, thời gian, lộ trình thực hiện phù hợp, phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp, từng ngành, địa phương tổ chức triển
khai thực hiện hiệu quả.
4. Giao Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì phối hợp với Ban Cán sự
đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan liên quan tham mưu triển khai,
phổ biến, quán triệt Nghị quyết đến các chi bộ và đảng viên. Thường
xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết, định kỳ
hàng năm báo cáo kết quả cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đồng thời, tham
mưu Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Tỉnh ủy chỉ đạo sơ kết, tổng kết
đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết này.
Trong quá trình triển khai thực hiện, căn cứ vào tình hình thực tiễn
trên địa bàn tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy kịp thời tham mưu, đề xuất
Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chỉ đạo kịp thời.
- 26 -

3.7 Page 27

▲back to top
PHẦN II
KẾ HOẠCH
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT SỐ 12-NQ/TU NGÀY 12/12/2023
CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH
KHÓA XI VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
TRỞ THÀNH NGUỒN LỰC, ĐỘNG LỰC
QUAN TRỌNG CHO PHÁT TRIỂN
TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG
- 27 -

3.8 Page 28

▲back to top
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Nghị
quyết số 01-NQ/TU ngày 12/10/2020 của Tỉnh ủy về Nghị quyết Đại hội
Đại biểu lần thứ XI Đảng bộ tỉnh Đồng Nai, nhiệm kỳ 2020-2025; Nghị
quyết số 12-NQ/TU ngày 12/12/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở
thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền
vững (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 12-NQ/TU), UBND tỉnh Đồng Nai
xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU với
những nội dung cụ thể như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp được xác định trong Đại hội Đại biểu lần thứ XI Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai, nhiệm kỳ 2020-2025; Nghị quyết số 12-NQ/TU của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con
người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển
toàn diện và bền vững; tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi những
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra.
2. Yêu cầu
- Bám sát các nội dung cơ bản của Nghị quyết số 12-NQ/TU của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn
hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho
phát triển toàn diện và bền vững.
- Các nhiệm vụ, giải pháp trong Kế hoạch phải có trọng tâm, trọng
điểm, thời gian thực hiện, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả.
- Các sở, ban, ngành, địa phương, đơn vị liên quan xây dựng và triển
khai kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết gắn với nhiệm vụ chính
trị của địa phương, đơn vị mình.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
- Xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện với
các phẩm chất: Nhân cách, đạo đức, trí tuệ, khát vọng năng lực sáng tạo,
thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm,
- 28 -

3.9 Page 29

▲back to top
dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm; trong 6 mối
quan hệ: Với bản thân mình, với gia đình, với cộng đồng, với xã hội, với
đất nước, với truyền thống và bản sắc của Đồng Nai.
- Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa (vật thể và phi vật
thể), tiềm năng, lợi thế đặc biệt của tỉnh, mang tính đại diện cho khu
vực; cùng các nguồn vốn văn hóa khác, tái hiện, tạo ra nhiều sản phẩm
văn hóa, sản phẩm du lịch đặc trưng, có chất lượng cao mang đậm bản
sắc Đồng Nai, phù hợp với xu thế thời đại. Tiếp tục giữ vững, phát huy
hào khí Đồng Nai và không ngừng lan tỏa tinh thần hào khí Đồng Nai
trong mọi phương diện của đời sống đương đại cho cả vùng Nam Bộ.
- Tập trung đầu tư nguồn lực và ban hành một số cơ chế, chính
sách phù hợp để phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai; tiếp tục
triển khai phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và
các cuộc vận động có liên quan sâu rộng và thực chất hơn; hoàn thiện
đồng bộ, hiện đại hóa hệ thống thiết chế văn hóa thể thao, xây dựng các
chương trình, dự án mới nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động, hưởng thụ,
sáng tạo và nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân, nhất là công
nhân lao động.
2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025
- Phấn đấu 90% hộ gia đình được cung cấp thông tin, kiến thức về
văn hóa ứng xử, kỹ năng giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, của địa phương, hệ giá trị của gia đình truyền thống và
hiện đại, phòng ngừa rủi ro, tệ nạn xã hội, bạo lực trong gia đình; 95%
địa phương đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục hệ giá trị
gia đình trong thời kỳ mới vào hương ước, quy ước của dòng họ, cộng
đồng, làng xã.
- Phấn đấu giữ vững các mục tiêu: 95% trở lên số gia đình đạt danh
hiệu gia đình văn hóa; 90% trở lên khu phố, ấp đạt danh hiệu văn hóa,
trong đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện có ít nhất 5% số mô hình
điểm khu dân cư văn hóa tiêu biểu; 98% trở lên cơ quan, đơn vị đạt chuẩn
văn hóa; 75% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 60% trở lên phường, thị
trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.
- 95% cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị xây dựng và thực
hiện tốt quy định về văn hóa công sở, kỷ luật, kỷ cương; 92% khu phố,
ấp thực hiện tốt hương ước, quy ước nếp sống văn minh, phù hợp với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ quy định của pháp luật.
- 29 -

3.10 Page 30

▲back to top
- Quy hoạch đồng bộ: Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh, Nhà hát nghệ
thuật, Bảo tàng, Thư viện, Công viên văn hóa công nhân đảm bảo đáp
ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
- 95% đơn vị hành chính cấp huyện có đủ các thiết chế: Nhà văn
hóa, Thư viện và 3 công trình thể thao cơ bản (Nhà thi đấu đa năng, sân
vận động, hồ bơi) đạt chuẩn theo quy định; 95% huyện, thành phố có
quảng trường, công viên; trên 50% huyện, thành phố có Nhà văn hóa
thanh thiếu niên.
- Lập hồ sơ đề nghị ghi danh từ 1-2 di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; 1-2 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận bảo vật quốc gia; 20%
các di tích quốc gia đặc biệt hoàn thiện công tác tu bổ, tôn tạo theo quy
hoạch được phê duyệt; 20% di tích quốc gia được tu bổ, tôn tạo, chống
xuống cấp.
- 95% thanh, thiếu nhi trong các trường học trên địa bàn tỉnh được
trải nghiệm, giáo dục truyền thống, tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa
tại các thiết chế văn hóa, di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, di tích lịch sử
cách mạng trên địa bàn tỉnh.
- Ưu tiên phát triển sản phẩm, dịch vụ văn hóa có lợi thế của tỉnh;
phấn đấu doanh thu của các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh đóng góp
khoảng 1% GRDP.
- Từng bước nâng mức đầu tư cho văn hóa đạt 3,5% tổng chi ngân
sách Nhà nước; lựa chọn ưu tiên phát triển từ 3-5 sản phẩm du lịch nổi
trội để xây dựng thương hiệu du lịch của tỉnh.
- Phấn đấu trong nhóm 7 địa phương đứng đầu cả nước về chỉ số
phát triển con người (HDI).
3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030
- Phấn đấu 100% hộ gia đình được cung cấp thông tin, kiến thức
về văn hóa ứng xử, kỹ năng giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, của địa phương, hệ giá trị của gia đình truyền thống và
hiện đại, phòng ngừa rủi ro, tệ nạn xã hội, bạo lực trong gia đình; 100%
địa phương đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục hệ giá trị
gia đình trong thời kỳ mới vào hương ước, quy ước của dòng họ, cộng
đồng, làng xã.
- Phấn đấu giữ vững các mục tiêu: 97% trở lên số gia đình đạt danh
hiệu gia đình văn hóa; 95% trở lên khu phố, ấp đạt danh hiệu văn hóa,
trong đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện có ít nhất 5% số mô hình
- 30 -

4 Pages 31-40

▲back to top

4.1 Page 31

▲back to top
điểm khu dân cư văn hóa tiêu biểu; 98% trở lên cơ quan, đơn vị đạt chuẩn
văn hóa; 80% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 70% trở lên phường, thị
trấn đạt chuẩn văn minh đô thị.
- Phấn đấu 100% cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị xây dựng
và thực hiện tốt quy định về văn hóa công sở, kỷ luật, kỷ cương; 100%
khu phố, ấp thực hiện tốt hương ước, quy ước nếp sống văn minh,
phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ quy định của
pháp luật.
- Đưa vào quy hoạch và xây dựng mới: Trung tâm Văn hóa - Điện
ảnh, Nhà hát nghệ thuật, Bảo tàng, Thư viện, Công viên văn hóa công
nhân; đầu tư xây dựng khu liên hiệp thể thao. Tăng cường thu hút đầu tư
xây dựng các thiết chế văn hóa thể thao ngoài công lập.
- 100% đơn vị hành chính cấp huyện có đủ các thiết chế: Nhà văn
hóa, Thư viện và 3 công trình thể thao cơ bản (Nhà thi đấu đa năng, sân
vận động, bể bơi) đạt chuẩn theo quy định; 100% huyện, thành phố có
quảng trường, công viên; 100% huyện, thành phố có Nhà văn hóa thanh
thiếu niên.
- Lập hồ sơ đề nghị ghi danh từ 4-5 di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; có từ 1-2 di tích được xếp hạng quốc gia đặc biệt; 3-4 di tích được
xếp hạng quốc gia; 100% các di tích quốc gia đặc biệt hoàn thiện công
tác tu bổ, tôn tạo theo quy hoạch được phê duyệt; 100% di tích quốc gia
được tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp. Phục dựng lại một số di sản văn
hóa liên quan đến lịch sử khai phá vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.
- 100% thanh, thiếu nhi trong các trường học trên địa bàn tỉnh được
trải nghiệm, giáo dục truyền thống, tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa
tại các thiết chế văn hóa, di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, di tích lịch sử
cách mạng trên địa bàn tỉnh.
- Ưu tiên phát triển sản phẩm, dịch vụ văn hóa có lợi thế của tỉnh;
phấn đấu doanh thu của các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh đóng
góp khoảng 3%.
- Nâng mức đầu tư cho văn hóa đạt tối thiểu 4% tổng chi ngân
sách Nhà nước; tập trung xây dựng, hoàn thành một số đề án, dự án
trọng điểm liên quan đến xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Đồng Nai gắn với phát triển du lịch; lựa chọn ưu tiên phát triển từ 7-10
sản phẩm du lịch nổi trội để xây dựng thương hiệu du lịch của tỉnh.
- Phấn đấu trong nhóm 5 địa phương đứng đầu cả nước về chỉ số
phát triển con người (HDI).
- 31 -

4.2 Page 32

▲back to top
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức
cho cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai
trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội
a) Đổi mới về nội dung và hình thức các hoạt động tuyên truyền,
quán triệt, phổ biến, triển khai nghị quyết, kế hoạch nhằm nâng cao
nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và mỗi người dân về vị trí, vai trò
của văn hóa, con người trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng văn
hóa hiện đại, văn minh, thực sự trở thành nền tảng tinh thần, nguồn lực
nội sinh quan trọng quyết định sự phát triển bền vững. Quan tâm công
tác truyền thông báo chí, trên các kênh, mạng xã hội, internet. Khuyến
khích và phát huy vai trò của các phóng viên, biên tập viên của các cơ
quan báo chí, truyền thông của tỉnh, phối hợp hiệu quả với cơ quan
báo chí Trung ương trên địa bàn (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ
trì, phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông, Đài Phát thanh truyền hình,
Báo Đồng Nai, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố
thực hiện thường xuyên).
- Tiếp tục quán triệt, triển khai, tuyên truyền sâu rộng kết luận
của đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; Kết luận số 76-
KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Kết luận số 51-KL/TW,
ngày 22/7/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 27-CT/TW, ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”… Kế hoạch
số 258-KH/TU, ngày 31/8/2015 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết
số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) và Kế hoạch số 92/KH-UBND ngày 22/4/2022 của UBND tỉnh
về thực hiện Quyết định số 1909/QĐ-TTg, ngày 12/11/2021 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến
năm 2030.
b) Tuyên truyền về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng, phát
huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực
quan trọng trong phát triển toàn diện và bền vững (Các sở, ban, ngành,
cơ quan, đơn vị, Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai, Báo Đồng Nai,
- 32 -

4.3 Page 33

▲back to top
UBND các huyện, thành phố, UBMTTQVN, các tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện thường xuyên).
c) Phát hiện, cổ vũ, động viên, nhân rộng các điển hình tiên tiến,
mô hình tiêu biểu, cách làm hay có khả năng lan tỏa các giá trị văn hóa
tốt đẹp trong xã hội; “lấy cái đẹp dẹp cái xấu” (Sở Nội vụ chủ trì, phối
hợp các sở, ngành liên quan, Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai,
Báo Đồng Nai, UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
2. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát huy giá trị văn hóa, con
người Đồng Nai
a) Tham mưu HĐND tỉnh ban hành nghị quyết về cơ chế, chính
sách đặc thù đối với nghệ nhân, văn nghệ sĩ và cán bộ, người hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa để khuyến khích, thu hút tài năng hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ
trì, phối hợp Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Hội Văn học Nghệ thuật, các sở,
ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố tham mưu UBND tỉnh,
hoàn thành trong năm 2025).
- Có chính sách bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ, viên
chức, người lao động, cộng tác viên trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật,
thể dục, thể thao. Đề xuất chế độ trợ cấp đối với những người hoạt động
trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
chủ trì, phối hợp Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, các sở, ngành liên quan tham
mưu UBND tỉnh, hoàn thành trong năm 2025).
- Xây dựng cơ chế, tập trung nguồn lực đầu tư cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển năng khiếu, tài năng nghệ thuật, thể thao (Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, các sở,
ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh, hoàn thành trong năm 2025).
- Xây dựng quy định hỗ trợ, tạo điều kiện, khuyến khích văn nghệ sĩ,
nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ
thuật để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật (Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Hội Văn học
Nghệ thuật, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố tham
mưu UBND tỉnh, hoàn thành trong năm 2025).
b) Thí điểm thực hiện công tác xã hội hóa, liên doanh, liên kết cơ sở
vật chất để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư, khai thác có
hiệu quả cơ sở vật chất của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở tránh
lãng phí và đáp ứng được nhu cầu của các tầng lớp Nhân dân (Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Tài nguyên và Môi trường,
- 33 -

4.4 Page 34

▲back to top
Sở Xây dựng, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các sở, ngành liên
quan, UBND các huyện, thành phố tham mưu UBND tỉnh, hoàn thành
trong quý 4 năm 2024).
- Có cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch
vụ văn hóa; tạo môi trường thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường
sản phẩm, dịch vụ văn hóa và ưu tiên phát triển một số ngành công
nghiệp văn hóa của tỉnh (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối
hợp Sở Công thương, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành
phố thực hiện, hoàn thành năm 2025).
- Có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân xây
dựng và phát triển các sản phẩm có thương hiệu, uy tín, chất lượng và
giá trị cao mang đặc trưng văn hóa và bản sắc con người Đồng Nai (Sở
Công thương chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các sở,
ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện, hoàn thành
năm 2025).
c) Trình HĐND tỉnh tăng mức hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các
Trung tâm Văn hóa thể thao - Học tập cộng đồng cấp xã và Nhà văn
hóa - Khu thể thao ấp (theo Nghị quyết số 139/2018/NQ-HĐND ngày
07/12/2018 của HĐND tỉnh Đồng Nai); hỗ trợ kinh phí hoạt động cho
các Nhà văn hóa khu phố trên địa bàn tỉnh (Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch chủ trì, phối hợp Sở Tài chính, các sở, ngành liên quan, UBND các
huyện, thành phố tham mưu UBND tỉnh, hoàn thành trong năm 2024).
3. Xây dựng con người Đồng Nai phát triển toàn diện
a) Phát động và thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Học tập,
lao động, sáng tạo”, xây dựng “Gương người tốt việc tốt” và các điển hình
tiên tiến gắn với các phong trào thi đua yêu nước được triển khai trên
địa bàn tỉnh (Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố tham mưu UBND
tỉnh, hoàn thành trong quý 4 năm 2024).
- Xây dựng Bộ tiêu chí hàng năm bình xét, vinh danh công dân
Đồng Nai tiêu biểu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo động lực
thi đua trong học tập, công tác, chiến đấu, lao động, sản xuất; xây dựng
hình ảnh con người Đồng Nai trong thời kỳ mới; xây dựng môi trường
văn hóa: Mỗi gia đình, cộng đồng, địa phương, cơ quan, doanh nghiệp,
trường học... đều là môi trường văn hóa lành mạnh để con người phát
triển toàn diện (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Nội
- 34 -

4.5 Page 35

▲back to top
vụ, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố tham mưu
UBND tỉnh, hoàn thành trong quý 4 năm 2024).
b) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa,
hoạt động văn hóa nhất là ở cấp cơ sở, đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp,
mở rộng các cơ sở, thiết chế văn hóa thể thao phục vụ Nhân dân, mở
rộng không gian, địa điểm và số lượng người dân đến với các hoạt động
văn hóa, thể thao (UBND các huyện, thành phố, phối hợp Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, các sở, ngành liên quan thực hiện thường xuyên).
- Thực hiện có hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; chấn
chỉnh kịp thời việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tự
do dân chủ để truyền bá tư tưởng duy tâm thần bí, thực hành mê tín dị
đoan, gây mất an ninh trật tự; đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái ác, sự lạc
hậu ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của văn hóa và sự phát
triển toàn diện con người Đồng Nai (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
chủ trì, phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Xây dựng,
các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố hướng dẫn thực
hiện thường xuyên).
- Đầu tư, khai thác, phát huy các nguồn lực phát triển văn hóa đọc,
góp phần khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách trong cộng
đồng; khẳng định, tôn vinh giá trị của sách trong đời sống tinh thần của
Nhân dân, hướng đến mỗi xã, phường, mỗi trường học đều có các thư
viện, thúc đẩy văn hóa đọc trong thanh niên, học sinh và người dân (Sở
Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện
thường xuyên).
c) Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nâng cấp hệ thống trường
lớp, chuẩn hóa, hiện đại về cơ sở vật chất, đảm bảo số lượng và chất
lượng đội ngũ giáo viên trong tình hình mới nhằm hướng học sinh các
cấp ngoài việc học tốt các bộ môn theo quy định, còn giỏi về ngoại ngữ,
kỹ năng thực hành xã hội, phát triển các năng khiếu về nghệ thuật và thể
thao (Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp các sở, ngành liên quan
thực hiện thường xuyên).
Tăng cường giáo dục tri thức, đạo đức, nhân cách, tư duy sáng tạo,
kỹ năng xã hội, kỹ năng làm việc, kỹ năng sống gắn với giáo dục thể chất,
nâng cao tầm vóc, chỉ số hạnh phúc của con người Đồng Nai; xây dựng
lối sống tuân thủ pháp luật, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân
văn, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi
- 35 -

4.6 Page 36

▲back to top
văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Trong đó
chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, tư duy sáng tạo và các giá trị cốt
lõi. Coi trọng bồi đắp con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân
thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện
đại, có nhân cách tốt, lối sống đẹp. Định kỳ hàng năm các trường phải tổ
chức chương trình đưa học sinh đến tham quan, tìm hiểu các di tích lịch
sử cách mạng, di tích văn hóa trên địa bàn tỉnh (Sở Giáo dục và Đào tạo
chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Y tế, Ban Thường vụ
Tỉnh Đoàn, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực
hiện thường xuyên).
d) Nâng cao chất lượng hệ thống y tế cơ sở, đáp ứng nhu cầu chăm
sóc sức khỏe của người dân, góp phần giảm tải áp lực khám chữa bệnh
tại các bệnh viện tuyến trên. Tuyên truyền đến người dân về tầm quan
trọng của việc thăm khám sức khỏe định kỳ, tầm soát các bệnh nguy
hiểm, trong đó đặc biệt là quan tâm đến việc kiểm tra sức khỏe học
đường định kỳ cho học sinh và thực hiện hiệu quả chương trình nha học
đường (Sở Y tế chủ trì, phối hợp Sở Giáo dục và Đào tạo, các sở, ngành
liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
đ) Tập trung các biện pháp, giải pháp đấu tranh phòng, chống các
loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm “xã hội đen”, đảm
bảo trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là an toàn giao thông giúp bảo vệ tính
mạng, mang lại cuộc sống an toàn và an bình cho người dân (Công an
tỉnh, UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
e) Từng bước cải thiện môi trường sống của người dân, thông qua
việc chỉnh trang đô thị (lòng đường, vỉa hè thông thoáng, có bãi đỗ xe
tập trung, ngầm hóa hệ thống điện, thông tin liên lạc, quy hoạch các
tuyến phố đi bộ…); cải thiện chất lượng không khí, chất lượng môi
trường thông qua việc trồng thêm cây xanh, di dời các cơ sở sản xuất
vào các cụm công nghiệp… (UBND các huyện, thành phố chủ trì, phối
hợp các sở, ngành liên quan thực hiện thường xuyên).
g) Giảm tỷ lệ hộ nghèo, hướng tới giảm nghèo bền vững, tăng thu
nhập cho người lao động hướng đến cuộc sống khá, giàu và thịnh vượng;
không để tình trạng người lang thang, ăn xin trên đường phố, nhất là
các khu đô thị (Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp
các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện thường
xuyên).
- 36 -

4.7 Page 37

▲back to top
4. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
a) Đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,
người lao động làm việc nghiêm túc, tận tụy, trách nhiệm, hiệu quả, có
tinh thần phục vụ cao. Thực hiện nghiêm, hiệu quả cải cách hành chính,
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính. Tạo điều kiện thuận lợi để
đội ngũ doanh nhân phát triển, kinh doanh đúng pháp luật, cạnh tranh
lành mạnh, có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội.
- Thực hiện nghiêm các quy định về “nêu gương”, “làm gương”, xây
dựng văn hóa “nói đi đôi với làm” đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu. Kịp thời
rà soát, sửa đổi, bổ sung và thực hiện nghiêm quy chế văn hóa công sở
ở từng cơ quan, đơn vị. Chủ động phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, xử lý
các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng văn
hóa tiết kiệm, không tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và
văn hóa tiết kiệm trong các tầng lớp Nhân dân (Sở Nội vụ chủ trì, phối
hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các sở, ngành liên quan, UBND các
huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
b) Đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, hướng đến chính
quyền số (Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp các sở, ngành
liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên); thực
hiện quyết liệt Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định
danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022
- 2025 (Công an tỉnh chủ trì, phối hợp các sở, ngành liên quan, UBND
các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
c) Nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, MTTQVN, các
tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan chuyên môn, cán bộ chuyên môn
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, trong tiếp xúc, giải
quyết công việc, đơn, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp. Phát huy
dân chủ, thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của cán bộ, Nhân dân;
định kỳ, chủ động đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
với Nhân dân (Thanh tra tỉnh chủ trì, phối hợp UBMTTQ tỉnh, UBND
các huyện, thành phố, các sở, ngành liên quan, UBND các thực hiện
thường xuyên).
- Tổ chức có chất lượng các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ
họp Quốc hội, HĐND các cấp; tăng cường vai trò giám sát, phản biện
của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử, MTTQVN, các tổ chức chính trị -
- 37 -

4.8 Page 38

▲back to top
xã hội (UBMTTQVN tỉnh chủ trì, phối hợp các tổ chức chính trị - xã hội
tỉnh, UBND các huyện, thành phố, các sở, ngành liên quan thực hiện
thường xuyên).
d) Nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thông, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao về tiếp cận thông tin và hưởng thụ văn hóa, nghệ
thuật của người dân; phát huy thành tựu khoa học, công nghệ gắn với
chuyển đổi số trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật nhằm mở rộng khả
năng tiếp cận, nâng cao nhận thức của người dân và cộng đồng. Chú
trọng công tác quản lý thông tin trên không gian mạng, mạng xã hội
để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho Nhân dân, nhất là thanh thiếu
niên (Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp Sở Khoa học và
Công nghệ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn,
các sở, ngành liên quan thực hiện thường xuyên).
đ) Tiếp tục triển khai, phát huy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo; triển
khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực văn hóa để ứng
dụng vào thực tiễn, mang đặc trưng văn hóa và bản sắc con người Đồng
Nai (Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực
hiện hàng năm).
e) Theo dõi thực hiện Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị; phát huy vai trò tiên
phong, gương mẫu, thực hiện cải cách hành chính của cán bộ, công
chức, viên chức trong việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên (Sở Nội vụ
chủ trì, phối hợp các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố
thực hiện hàng năm).
5. Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh
a) Thường xuyên bảo tồn, trùng tu, tôn tạo, phục dựng và phát huy
tốt giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, bảo vật quốc gia, các di sản văn
hóa phi vật thể trên địa bàn. Ban hành Kế hoạch trùng tu, tôn tạo các di
tích trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2024-2028, trong đó ưu tiên trùng tu, tôn
tạo: Lăng mộ Đại học sĩ Trịnh Hoài Đức (UBND thành phố Biên Hòa làm
chủ đầu tư); Thành cổ Biên Hòa; Văn miếu Trấn Biên; Địa đạo Suối Linh;
Căn cứ Sở chỉ huy Đặc khu Quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng
Sác (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Kế hoạch và
Đầu tư, Sở Tài chính, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành
phố thực hiện hàng năm).
- 38 -

4.9 Page 39

▲back to top
- Xây dựng hồ sơ xếp hạng di tích: cấp Quốc gia đặc biệt: Căn cứ
Trung ương Cục miền Nam (1961-1962); Lăng mộ Đại học sĩ Trịnh Hoài
Đức và cấp Quốc gia: Miếu Tổ sư; Căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòa (U3); Căn cứ
Tỉnh ủy Biên Hòa (U1). Khai quật và bảo tồn tại chỗ 2 di tích văn hóa Óc
Eo: Miếu Ông Chồn (xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu) và Đạ Mý (Vườn quốc
gia Cát Tiên) (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp các sở,
ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện hàng năm).
b) Thực hiện tốt công tác khảo cổ học, hội thảo tập trung trọng tâm
vào các di sản văn hóa đã và sẽ được ghi danh có giá trị lịch sử văn hóa
độc đáo, đặc sắc, mang tính đại diện cho khu vực. Khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa trên địa bàn tỉnh. (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì,
phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Xây dựng, các sở,
ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
c) Quan tâm bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống tiêu biểu,
đặc trưng như: Lễ hội kỳ yên của người Việt (các đình làng); Lễ hội
Sayangva (cúng thần Lúa) của người Chơro, người Mạ (dân tộc tại chỗ);
Lễ hội chùa Ông; Lễ hội làm chay chùa Bà Thiên Hậu (3 năm tổ chức 1
lần); Lễ hội lồng tồng (xuống đồng) của người Tày vùng Định Quán, Tân
Phú; Hát tăm pớt của người Mạ và khôi phục một số lễ hội truyền thống
của người Biên Hòa, Đồng Nai xưa; đa dạng hóa loại hình du lịch văn
hóa gắn với giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; gắn liền với bài trừ mê
tín dị đoan (UBND các huyện, thành phố chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch thực hiện).
d) Từng bước đầu tư phương tiện, thiết bị công nghệ hiện đại phục
vụ trưng bày, triển lãm di sản văn hóa tại di tích, bảo tàng; đặc biệt là
công nghệ thực tế ảo 360 độ (công nghệ số), số hóa hiện vật tại bảo tàng,
tài liệu, di sản văn hóa. Xây dựng Bảo tàng gốm; Bảo tàng ảo; số hóa dữ
liệu phát triển ngành, nghề truyền thống phục vụ nhu cầu trải nghiệm,
khám phá của du khách tại bảo tàng, di tích. Lập bản đồ GIS di tích và
di chỉ khảo cổ học trên địa bàn tỉnh (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
chủ trì, phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông, các sở, ngành liên quan,
UBND các huyện, thành phố thực hiện hàng năm).
Ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số lĩnh vực du
lịch, thư viện nhằm giới thiệu, quảng bá các di sản văn hóa và ẩm thực
truyền thống của địa phương đến với du khách trong và ngoài nước, tổ
chức các dịch vụ vui chơi, giải trí, quà lưu niệm đặc trưng tại các khu,
điểm du lịch có di tích - danh thắng (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- 39 -

4.10 Page 40

▲back to top
chủ trì, phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông, các sở, ngành liên quan,
UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa,
thể thao
a) Thực hiện có hiệu quả Quyết định số 2214/QĐ-TTg ngày
28/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực
hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai
đoạn 2021 - 2026. Có giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả Phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; Cuộc vận động xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; xây dựng các danh hiệu: Gia đình
văn hóa, ấp, khu phố văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa;
đẩy mạnh phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ
vĩ đại; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội...
(Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chủ trì, phối hợp Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, Sở Xây dựng, Liên đoàn Lao động tỉnh, các sở,
ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố hướng dẫn thực hiện
thường xuyên).
Quy hoạch và xây dựng công trình Quảng trường tỉnh Đồng Nai.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao ở cơ
sở, đảm bảo sự công bằng trong hưởng thụ văn hóa của người dân; thực
hiện tốt Quyết định số 1079/QĐ-UBND ngày 05/4/2021 của UBND tỉnh
ban hành Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn
hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Chú trọng nâng cao hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa nông thôn, văn hóa trong các cơ
quan, đơn vị và doanh nghiệp, quan tâm chăm lo đời sống văn hóa tinh
thần cho đội ngũ công nhân, người lao động trong các khu, cụm công
nghiệp (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Liên đoàn Lao
động tỉnh, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực
hiện thường xuyên).
b) Xây dựng quy chế phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong xây dựng môi trường văn hóa. Đề cao vai trò, trách nhiệm và các
giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình trong việc nuôi dưỡng, giáo dục
và bảo vệ thanh thiếu nhi, cùng với nhà trường giáo dục, hình thành
nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử xã hội văn minh
(Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn, các sở,
ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện, hoàn thành
trong năm 2024).
- 40 -

5 Pages 41-50

▲back to top

5.1 Page 41

▲back to top
c) Các huyện, thành phố xây dựng các không gian văn hóa đọc;
mỗi xã, phường, mỗi trường học đều có thư viện, thúc đẩy văn hóa đọc
trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên và người dân (Sở Giáo dục
và Đào tạo, UBND các huyện, thành phố thực hiện, hoàn thành trong
năm 2024).
Nâng cấp, hoàn thiện thư viện điện tử, thực hiện chuyển đổi số
trong hệ thống thư viện công cộng tỉnh theo hướng hiện đại, gắn với
việc triển khai cung cấp dịch vụ trực tuyến, tích hợp với thành phần
dữ liệu mở của Hệ tri thức Việt (theo Quyết định số 677/QĐ-TTg ngày
18/5/2017 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển Hệ tri
thức Việt số hóa”). Số hóa 80% tài liệu cổ, quý hiếm và bộ sưu tập tài
liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học do Thư viện tỉnh thu
thập và quản lý được số hóa (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì,
phối hợp Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Khoa học và Công nghệ, các
sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố hướng dẫn thực hiện
hàng năm).
7. Phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa trên địa bàn
tỉnh
a) Nâng cao nhận thức về vai trò của các sản phẩm, dịch vụ văn hóa
trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Đồng Nai; từng bước
xây dựng và phát triển thương hiệu Đồng Nai có uy tín trên thị trường
trong và ngoài nước; tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư
để phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa (Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Công thương, Sở Khoa học và Công
nghệ, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện
thường xuyên).
b) Phát triển các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa trên địa
bàn tỉnh; từng bước nghiên cứu, vận hành phát triển sản phẩm, dịch vụ
công nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư vào một số ngành công nghiệp văn
hóa có lợi thế của tỉnh như: Nghệ thuật biểu diễn, thủ công mỹ nghệ,
trò chơi giải trí, du lịch văn hóa... nhằm khai thác, phát huy những tiềm
năng và các giá trị đặc sắc của văn hóa Biên Hòa - Đồng Nai (Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Sở Công thương, Sở Khoa học và
Công nghệ, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực
hiện thường xuyên).
- Tổ chức Festival Gốm Biên Hòa - Đồng Nai (Sở Công thương chủ
trì, phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Khoa học và Công nghệ,
các sở, ngành liên quan thực hiện, hoàn thành năm 2025).
- 41 -

5.2 Page 42

▲back to top
- Xây dựng mô hình “Làng văn hóa du lịch Tân Triều”; triển khai Đề
án du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên -
Văn hóa Đồng Nai và Ban quản lý rừng phòng hộ Tân Phú (Khu Bảo tồn
Thiên nhiên - Văn hóa, Ban Quản lý rừng phòng hộ Tân Phú chủ trì, phối
hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, Sở Xây dựng, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành
phố hướng dẫn thực hiện thường xuyên).
- Triển khai quy hoạch tỉnh Đồng Nai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn
đến năm 2050 đối với lĩnh vực du lịch; mời gọi các nhà đầu tư có năng
lực, kinh nghiệm quản lý để xây dựng và phát triển các khu du lịch chất
lượng cao nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế, đóng góp vào phát triển
du lịch của địa phương. Tập trung phát triển, khai thác: Vùng du lịch
Biên Hòa - sông Đồng Nai, Vùng du lịch, vui chơi, giải trí kết hợp mua
sắm thuộc Nhơn Trạch - Long Thành, Vùng du lịch sinh thái thuộc Tân
Phú - Vĩnh Cửu - Định Quán - Trảng Bom - Thống Nhất, Vùng du lịch
hành hương - du lịch nông nghiệp thuộc Long Khánh - Xuân Lộc - Cẩm
Mỹ, Vùng du lịch hồ Trị An. Chú trọng việc phát triển du lịch MICE; nâng
cao chất lượng sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc của tỉnh, từng
bước tạo dựng hình ảnh du lịch của Biên Hòa - Đồng Nai trong khu vực;
xây dựng mô hình khai thác di sản văn hóa gắn với du lịch tại thành phố
Biên Hòa; mô hình không gian văn hóa - du lịch cộng đồng cộng đồng
Việt Mường tại huyện Định Quán (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chủ
trì, phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Xây dựng, các
sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố hướng dẫn thực hiện
thường xuyên).
8. Chủ động quảng bá, chọn lọc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa thế giới
a) Đổi mới nội dung, hình thức quảng bá các giá trị văn hóa, hình
ảnh vùng đất, con người Đồng Nai, tiềm năng phát triển của tỉnh thông
qua các chương trình, sự kiện, lễ hội văn hóa, biểu diễn nghệ thuật và
các hoạt động xúc tiến thương mại du lịch trong tỉnh, trong nước và
quốc tế thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế, đẩy nhanh
tiến độ xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa
đối ngoại và ngoại giao văn hóa trên địa bàn tỉnh (Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh chủ trì, phối hợp Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, Sở
Ngoại vụ, Sở Công thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Đài Phát thanh -
Truyền hình Đồng Nai, Báo Đồng Nai, các sở, ngành liên quan, UBND
các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
- 42 -

5.3 Page 43

▲back to top
b) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, tích cực tổ
chức các hoạt động giao lưu văn hóa với các nước, các tổ chức quốc tế;
chú trọng lồng ghép chương trình văn hóa gắn với các sự kiện ngoại
giao, giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế; mở rộng hợp tác liên doanh
với các tổ chức nước ngoài trong đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức
các chương trình, sản phẩm, liên hoan văn hóa - nghệ thuật. Phát huy
vai trò của các Hội hữu nghị thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh
trong việc quảng bá, giới thiệu văn hóa Đồng Nai nói riêng, văn hóa Việt
Nam nói chung với các quốc gia, vùng lãnh thổ (Liên hiệp các tổ chức
hữu nghị tỉnh chủ trì, phối hợp Sở Ngoại vụ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Sở Công thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các sở, ngành liên quan,
UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
c) Xây dựng chuyên mục Văn hóa các nước ASEAN trên Đài Phát
thanh và Truyền hình, Báo Đồng Nai, phát sóng, đăng bài định kỳ hàng
quý (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị tỉnh, Sở Ngoại vụ thực hiện, hoàn thành quý 3 năm 2024).
9. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ,
người làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình
hình mới
a) Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, có cơ chế đãi ngộ,
huy động các tài năng trong nước và thế giới tham gia vào việc sáng tạo
các sản phẩm văn hóa phản ánh được những vấn đề mà xã hội, cộng
đồng đang quan tâm; hình thành nên các sản phẩm văn hóa có giá trị
tư tưởng cao.
b) Đưa nội dung văn hóa cơ sở vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ các cấp phù hợp đối tượng ở mọi lĩnh vực; chú trọng các hoạt
động đào tạo trường lớp, bồi dưỡng chuyên môn và truyền dạy nghề
nghiệp của nghệ nhân; có những chính sách phù hợp đối với đội ngũ
cán bộ, người làm công tác văn hóa các cấp, nhất là cấp cơ sở để họ yên
tâm công tác và cống hiến (Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp Trường Chính trị
tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các sở, ngành liên quan, UBND
các huyện, thành phố thực hiện trong năm 2024).
c) Kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy của cơ quan văn hóa từ tỉnh
đến cơ sở theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Chú trọng công tác
quy hoạch đào tạo cán bộ nguồn lãnh đạo quản lý ngành văn hóa. Lựa
chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu lĩnh vực văn hóa, văn
nghệ có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đảm đương công việc; có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, người làm công tác văn hóa,
- 43 -

5.4 Page 44

▲back to top
bảo đảm cán bộ văn hóa phải là người có nhiệt huyết, am hiểu sâu, rộng
về văn hóa, con người Đồng Nai, có năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và kỹ năng tổ chức các hoạt động để phát triển văn hóa, con
người Đồng Nai. Thường xuyên tổ chức tập huấn, bổ sung kiến thức về
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý, tác nghiệp cho cán bộ, người
làm công tác văn hóa (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp
Sở Nội vụ, các sở, ngành liên quan thực hiện thường xuyên).
Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng Nai, tạo chuyển biến cơ bản
về chất lượng và quy mô đào tạo.
10. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước
và xã hội để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai
a) Tham mưu danh mục kêu gọi đầu tư các dự án vào lĩnh vực văn
hóa; đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến
tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người. Bổ sung cơ chế, chính
sách khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đầu tư
vào hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thiết chế văn hóa, khu vui chơi giải
trí… (Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp UBND các huyện, thành
phố, các sở, ngành liên quan thực hiện hàng năm).
b) Tăng cường đầu tư và ưu tiên huy động các nguồn lực để xây
dựng các thiết chế văn hóa, thể thao đảm bảo đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ văn hóa, rèn luyện thể dục thể thao của người dân, cụ thể:
- Đầu tư xây dựng và khai thác hiệu quả Trung tâm Văn hóa - Điện
ảnh tỉnh, Nhà hát nghệ thuật tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh, Nhà hát
lớn, Khu liên hợp thể dục thể thao, thiết chế văn hóa thể thao cho công
nhân (Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Xây dựng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các sở, ngành liên
quan, UBND các huyện, thành phố thực hiện hàng năm).
- Xây dựng mới, sửa chữa các thiết chế văn hóa, thể thao, trung tâm
hội nghị cấp huyện, thành phố; các thiết chế văn hóa, thể thao cấp xã,
phường, thị trấn, khu phố, ấp (UBND các huyện, thành phố phối hợp
các sở, ngành liên quan, thực hiện hàng năm).
- Huy động nguồn lực đầu tư và tổ chức đời sống văn hóa, góp phần
thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa đô thị và nông thôn, các
tầng lớp Nhân dân trong xã hội (UBND các huyện, thành phố phối hợp
các sở, ngành liên quan, thực hiện thường xuyên).
c) Thúc đẩy, kêu gọi đầu tư nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, giảm
- 44 -

5.5 Page 45

▲back to top
dần các khu nhà trọ công nhân không đảm bảo an toàn, không đảm
bảo theo tiêu chuẩn quy định, về lâu dài cần nâng cao chất lượng lao
động, nâng cao thu nhập cho người lao động, giúp người lao động tích
lũy thu nhập để có thể chạm đến ước mơ sở hữu nhà ở cho mọi người
(Sở Xây dựng chủ trì, phối hợp Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch
và Đầu tư, các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố thực
hiện hàng năm).
d) Phát huy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về báo
chí và xuất bản, nhất là môi trường mạng Internet phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, đảm bảo định hướng tư tưởng và
thẩm mỹ cho các tầng lớp Nhân dân, nhất là cho thanh, thiếu niên (Sở
Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp các sở, ngành liên quan,
UBND các huyện, thành phố thực hiện thường xuyên).
IV. KINH PHÍ
Kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước (nguồn vốn đầu tư
công và nguồn vốn sự nghiệp) và nguồn vận động hợp pháp khác theo
quy định của pháp luật.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các sở, ban, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện Kế hoạch này phù hợp với điều kiện, tình
hình thực tế; đảm bảo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ của
Nghị quyết số 12-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (hoàn thành
trong tháng 4/2024).
2. Các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố căn cứ chức
năng, thẩm quyền và nhiệm vụ được giao triển khai những nhiệm vụ
phù hợp của Nghị quyết số 12-NQ/TU và Kế hoạch này vào nội dung Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo giai đoạn đến năm 2025; giai đoạn
2030 (theo mục III của Kế hoạch và phụ lục đính kèm); xây dựng và ban
hành kế hoạch thực hiện Kế hoạch này của UBND tỉnh; đồng thời chỉ
đạo triển khai ngay các giải pháp, nhiệm vụ theo chức năng thẩm quyền,
phù hợp với điều kiện thực tế ở từng ngành, lĩnh vực và địa phương; chỉ
đạo, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kế hoạch của UBND
tỉnh; định kỳ hàng năm báo cáo kết quả thực hiện gửi Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch trước ngày 10/12 hàng năm để tổng hợp, báo cáo UBND
tỉnh. Đến năm 2025 đánh giá kết quả thực hiện giai đoạn 2024-2025, tiếp
tục đề ra các giải pháp thực hiện cho giai đoạn 2026-2030.
- 45 -

5.6 Page 46

▲back to top
3. Giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan thường trực, chủ
trì, phối hợp với các sở, ngành và UBND các huyện, thành phố theo dõi,
đôn đốc việc triển khai thực hiện Kế hoạch này, định kỳ báo cáo và kiến
nghị UBND tỉnh các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện đồng bộ
và có hiệu quả Kế hoạch; bám sát các nội dung liên quan trong chương
trình làm việc của Tỉnh ủy để thực hiện việc báo cáo theo quy định.
4. Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Nai; Báo Đồng Nai chủ trì,
phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Thông tin và Truyền
thông và các ngành, cơ quan báo chí, hệ thống thông tin cơ sở tuyên
truyền các nội dung của Kế hoạch này nhằm nâng cao nhận thức, tạo
đồng thuận xã hội, phát huy tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu,
nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân
về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành
nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền vững.
5. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các đoàn thể
chính trị - xã hội tuyên truyền các nội dung của Kế hoạch này đến các
tầng lớp Nhân dân về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người
Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn
diện và bền vững.
Trên đây là Kế hoạch triển khai, thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU
ngày 12/12/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng
và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực,
động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền vững, UBND tỉnh
đề nghị các sở, ban, ngành, đoàn thể và địa phương xây dựng kế hoạch
tổ chức triển khai thực hiện. Quá trình thực hiện, có khó khăn, vướng
mắc; các sở, ban, ngành, đoàn thể và địa phương báo cáo UBND tỉnh
(thông qua Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) để xem xét, điều chỉnh, bổ
sung cho phù hợp./.
- 46 -

5.7 Page 47

▲back to top
- 47 -

5.8 Page 48

▲back to top
- 48 -

5.9 Page 49

▲back to top
- 49 -

5.10 Page 50

▲back to top
- 50 -

6 Pages 51-60

▲back to top

6.1 Page 51

▲back to top
- 51 -

6.2 Page 52

▲back to top
- 52 -

6.3 Page 53

▲back to top
- 53 -

6.4 Page 54

▲back to top
PHẦN III
KẾ HOẠCH
TỔ CHỨC HỌC TẬP VÀ
TRIỂN KHAI CHUYÊN ĐỀ NĂM 2024
“HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN”
- 54 -

6.5 Page 55

▲back to top
Thực hiện Kế hoạch số 299-KH/TU ngày 21 tháng 11 năm 2023 của
Tỉnh ủy Đồng Nai về việc tổ chức học tập và triển khai thực hiện chuyên
đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện”.
Chủ tịch UBND tỉnh ban hành kế hoạch tổ chức học tập chuyên đề
năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện” với
nội dung như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
a) Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh trở thành ý thức tự giác, là công việc thường xuyên, nề nếp của
mỗi cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, đơn
vị; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giản dị, khiêm tốn, tận
tụy, trung thực và liêm khiết.
b) Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong
nhận thức và hành động của cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân
về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người; vận dụng để xây
dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện.
c) Gắn việc học tập và triển khai chuyên đề với nâng cao chất lượng
thực hiện các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng
văn hóa, con người phát triển toàn diện, nhất là thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, Nghị quyết số 12-NQ/TU của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn
hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho
phát triển toàn diện và bền vững…
2. Yêu cầu
a) Các cơ quan và địa phương thực hiện nghiêm túc chỉ đạo, hướng
dẫn của cấp trên, đồng thời phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, linh
hoạt trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh theo chuyên đề năm 2024. Lấy kết quả học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu
chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại, đánh giá cán bộ, công chức, viên
chức trong năm 2024.
- 55 -

6.6 Page 56

▲back to top
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo chức năng, nhiệm vụ của
mình, xây dựng kế hoạch, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh với những việc làm cụ thể, thiết thực. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, biểu dương, nhân rộng các điển
hình tiên tiến về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh.
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN
1. Tổ chức học tập chuyên đề năm 2024: “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con
người Đồng Nai phát triển toàn diện”
a) Từng cơ quan, địa phương tổ chức học tập, quán triệt, tuyên
truyền sâu rộng, thường xuyên và có hệ thống bằng nhiều hình thức
phong phú, sinh động, các nội dung cơ bản, chủ yếu về tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các hoạt động sinh hoạt định kỳ của
cơ quan, đơn vị và địa phương.
b) Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai các nhiệm vụ chính trị của
cơ quan, đơn vị và địa phương gắn việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ. Tích cực đổi mới công
tác quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành
chính các cấp. Tiếp tục triển khai quán triệt sâu rộng kết luận của đồng
chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; Kết luận số 76-KL/TW, ngày
04 tháng 6 năm 2020 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”; tiếp tục triển khai Kế hoạch số 92/
KH-UBND ngày 22 tháng 4 năm 2022 của UBND tỉnh về việc thực hiện
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai; Kế hoạch số 80/KH-UBND ngày 08/3/2024 của UBND tỉnh về việc
triển khai Nghị quyết số 12-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai
trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện
và bền vững…
- 56 -

6.7 Page 57

▲back to top
2. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng các cấp; gắn với thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày
12/12/2023
a) Người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần thực hiện nghiêm túc việc
tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại và giải quyết triệt để những
phản ánh của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động tại cơ
quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân định kỳ hoặc đột
xuất để giải quyết kịp thời các vướng mắc của Nhân dân, phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, tổ chức, cơ quan, đơn vị.
b) Gắn việc tổ chức thực hiện chuyên đề với đẩy mạnh xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị và thực hiện trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên. Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, khắc
phục, ngăn ngừa bệnh hình thức, bệnh thành tích, thiếu trung thực, nói
không đi đôi với làm; huy động sự việc vào cuộc của cả hệ thống chính
trị và phát huy vai trò giám sát của đông đảo quần chúng Nhân dân.
c) Đưa việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn
diện” vào trong sinh hoạt định kỳ thường xuyên của chi bộ, của hội,
đoàn thể gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan,
đơn vị. Tập trung thảo luận đề ra các giải pháp hiệu quả để xây dựng và
phát triển văn hóa, con người ở địa phương, cơ quan, đơn vị, tạo chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức trách nhiệm và hành động của các cấp ủy
Đảng, chính quyền và toàn xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn
lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng - an ninh của tỉnh.
d) Đưa việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn
diện” vào kỳ sinh hoạt chuyên đề quý I năm 2024. Lồng ghép nội dung
thực hiện chuyên đề gắn với thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 12
tháng 12 năm 2023, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và các chương
trình, kế hoạch về xây dựng và phát triển văn hóa, con người của địa
phương, cơ quan, đơn vị.
e) Phát động và thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Học tập,
lao động, sáng tạo”, xây dựng “Gương người tốt việc tốt” và các điển hình
tiên tiến gắn với các phong trào thi đua yêu nước được triển khai trên
địa bàn tỉnh. Xây dựng Bộ tiêu chí hàng năm bình xét, vinh danh công
- 57 -

6.8 Page 58

▲back to top
dân Đồng Nai tiêu biểu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo động
lực thi đua trong học tập, công tác, chiến đấu, lao động, sản xuất; xây
dựng hình ảnh con người Đồng Nai trong thời kỳ mới.
3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người
a) Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong
phú, sinh động gắn với tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm
2024; các phong trào thi đua yêu nước, việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị của địa phương, cơ quan, đơn vị để chuyên đề 2024 được lan tỏa sâu
rộng trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân
dân. Chú trọng tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng, không gian mạng; kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng
các mô hình hay, cách làm hiệu quả, các điển hình tiên tiến trong học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
b) Chú trọng việc giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên và Nhân dân về các quan điểm, mục tiêu về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam; vị trí vai trò quan trọng của nhiệm vụ xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa; phát huy tinh thần yêu nước, tự
hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, với gia
đình, cộng đồng, xã hội, đất nước và quê hương Đồng Nai.
c) Nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thông, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao về tiếp cận thông tin và hưởng thụ văn hóa, nghệ
thuật của người dân; phát huy thành tựu khoa học, công nghệ gắn với
chuyển đổi số trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật nhằm mở rộng
khả năng tiếp cận, nâng cao nhận thức của người dân và cộng đồng.
Chú trọng công tác quản lý thông tin trên không gian mạng, mạng xã
hội để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho Nhân dân, nhất là thanh
thiếu niên. Xây dựng hệ thống giải pháp ngăn ngừa tác động tiêu cực
của truyền thông đại chúng và truyền thông mới đến người dân. Đầu
tư, khai thác, phát huy các nguồn lực phát triển văn hóa đọc, góp phần
khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng; khẳng
định, tôn vinh giá trị của sách trong đời sống tinh thần của Nhân dân.
d) Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, hệ thống cổ động trực quan, các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, lồng ghép với tuyên truyền nhiệm vụ chính trị của đất
nước, của tỉnh và địa phương. Huy động sức mạnh tổng hợp, tính năng
- 58 -

6.9 Page 59

▲back to top
động sáng tạo của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong công tác
tuyên truyền, giáo dục thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn
hóa, con người; nhất là phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các trang thông tin điện tử và
các nền tảng mạng xã hội.
đ) Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị nghe, nhìn để phục vụ công
tác tuyên truyền và nâng cao tỷ lệ tiếp cận, hưởng thụ thông tin của
người dân. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động, nội
dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống
cho người dân, nhất là thế hệ trẻ.
4. Thực hiện kiểm tra, giám sát định kỳ; báo cáo kết quả năm việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Tăng cường công tác kiểm tra công vụ, xử lý nghiêm những trường
hợp thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý công việc với người dân, vi
phạm đạo đức nghề nghiệp. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, sơ kết đánh
giá tình hình triển khai, những ưu điểm, khuyết điểm, đề ra giải pháp
cụ thể để nâng cao hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh tại cơ quan, địa phương.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các sở, ban, ngành thuộc tỉnh; Ủy ban nhân dân các huyện,
thành phố
a) Xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với thực tế của đơn vị, địa
phương; chỉ đạo, hướng dẫn cán bộ, công chức, viên chức đẩy mạnh
việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện” đạt hiệu
quả thiết thực. Hoàn thành việc xây dựng kế hoạch trong quý II năm
2024. Kết quả thực hiện chuyên đề năm 2024 là một nội dung trong báo
cáo kết quả thực hiện kế hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh năm 2024.
b) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự thống nhất trong mọi
hoạt động giữa các cấp chính quyền với các cấp ủy Đảng, tổ chức đoàn
thể để triển khai chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát
triển toàn diện”.
- 59 -

6.10 Page 60

▲back to top
c) Triển khai quán triệt thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận của
Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững trong hệ thống chính trị, toàn thể cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh. Xác định rõ, xây dựng và phát
triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả
hệ thống chính trị, mà trước hết là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và
người đứng đầu.
d) Xác định và tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vấn đề
bức xúc, nổi cộm nảy sinh tại địa phương mình, nhất là những vấn đề
liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ, trách nhiệm cán
bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan thuộc UBND cấp huyện và cấp
xã. Chủ động chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng mô hình “Chính quyền thân
thiện” xã, phường, thị trấn theo Chỉ thị số 33-CT/TU ngày 12/3/2024 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Kế hoạch số 107/KH-UBND ngày 28/3/2024
của UBND tỉnh về việc thực hiện công tác Dân vận chính quyền năm
2024 chủ đề “Chính quyền thân thiện”; đồng thời, tăng cường thông tin
tuyên truyền, tổ chức triển khai đến toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động biết và thực hiện. Thường xuyên kiểm tra, đánh
giá kết quả việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh tại địa phương.
2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
a) Tham mưu UBND tỉnh đề cương học tập chuyên đề “Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn
hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện” (đính kèm Kế hoạch này).
b) Là cơ quan thường trực hướng dẫn các sở, ban, ngành, UBND
các huyện, thành phố đánh giá kết quả thực hiện “Học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con
người Đồng Nai phát triển toàn diện” tại cơ quan, địa phương, tổng hợp
báo cáo về UBND tỉnh trước ngày 31/12/2024.
3. Sở Nội vụ
a) Theo dõi, đôn đốc, tham mưu trình UBND tỉnh thành lập Đoàn
kiểm tra tình hình xây dựng, triển khai Kế hoạch số 73-KH/TU, ngày
24/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Kết luận số 01-KL/
TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
- 60 -

7 Pages 61-70

▲back to top

7.1 Page 61

▲back to top
05-CT/TW “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”; xây dựng văn hóa công sở, đạo đức công vụ của
cán bộ, công chức, viên chức; Kế hoạch tổ chức học tập và triển khai
chuyên đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển
toàn diện” của các sở, ban, ngành, địa phương; triển khai thực hiện mô
hình “Chính quyền thân thiện” của xã, phường, thị trấn trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai trong tình hình hiện nay theo chỉ thị của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy.
b) Tham mưu trình UBND tỉnh biểu dương, khen thưởng kịp thời
cho tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, tiêu biểu để khuyến khích
tinh thần thi đua học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh của tập thể, cá nhân cán bộ, công chức, viên chức trên địa
bàn tỉnh.
4. Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
Chủ động phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Trường Chính trị
tỉnh và các sở, ban ngành, địa phương chỉ đạo các trường, trung tâm
giáo dục, cơ sở đào tạo trực thuộc xây dựng và triển khai kế hoạch bổ
sung các nội dung, chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát
triển toàn diện” cho sinh viên, học sinh học tập, phấn đấu rèn luyện và
làm theo.
5. Sở Tài chính
Có trách nhiệm đảm bảo, bố trí kinh phí theo phân cấp ngân sách
hiện hành cho các hoạt động để thực hiện tốt Kế hoạch này và các hoạt
động liên quan đến việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh trên địa bàn tỉnh.
6. Báo Đồng Nai, Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai
Tăng cường xây dựng chuyên trang, chuyên mục phát sóng để tuyên
truyền các văn bản của Trung ương, của tỉnh liên quan đến chuyên đề
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về
xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện”; tuyên
truyền thường xuyên và sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
Nhân dân về nội dung chuyên đề năm 2024; việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của các tổ chức, địa phương,
cơ quan, đơn vị trong toàn tỉnh; phát hiện và giới thiệu những cách làm
hay, mô hình mới trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
- 61 -

7.2 Page 62

▲back to top
cách Hồ Chí Minh của tập thể, cá nhân. Tuyên truyền Chỉ thị số 33-CT/
TU ngày 12/3/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc xây dựng và thực
hiện mô hình “Chính quyền thân thiện” của xã, phường, thị trấn trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai trong tình hình hiện nay; Kế hoạch số 107/KH-
UBND ngày 28/3/2024 của UBND tỉnh về việc thực hiện công tác Dân
vận chính quyền năm 2024 chủ đề “Chính quyền thân thiện”.
Trên đây là Kế hoạch tổ chức học tập và triển khai chuyên đề năm
2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện”; đề nghị
các ban, ngành, đơn vị liên quan tổ chức triển khai, thực hiện đảm bảo
hiệu quả./.
- 62 -

7.3 Page 63

▲back to top
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa,
con người Đồng Nai phát triển toàn diện”
(Ban hành kèm theo Kế hoạch số 123/KH-UBND
ngày 08/04/2024 của UBND tỉnh)

7.4 Page 64

▲back to top
Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con
người và bản sắc, cốt cách dân tộc “Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa
mất thì dân tộc mất”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội”. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng ta
đã xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành
sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng ta đã
xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhằm cụ thể hóa và triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa,
con người; thực hiện Kế hoạch số 58-KH/BTGTW ngày 27/8/2021 của
Ban Tuyên giáo Trung ương về thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày
18/5/2021 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 73-KH/TU ngày 24/8/2021
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày
18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
“về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”; Kế hoạch số 299-KH/TU ngày 21/11/2023 của Tỉnh ủy Đồng Nai
về việc tổ chức học tập và triển khai thực hiện chuyên đề năm 2024 “Học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng
văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện”.
UBND tỉnh Đồng Nai đã biên soạn, ban hành đề cương chuyên đề
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về
xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện”. Chuyên đề
cung cấp những nội dung cơ bản về quan điểm tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh về văn hóa và yêu cầu xây dựng nền văn hóa mới, về
con người và yêu cầu xây dựng con người; sự cần thiết phải đẩy mạnh
xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, những
giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai, góp phần
khơi dậy và phát huy truyền thống văn hóa sức mạnh con người Đồng
Nai, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XI đã đề ra. Chuyên đề được sử dụng làm tài liệu để phục vụ
- 64 -

7.5 Page 65

▲back to top
sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị của
tỉnh và được tuyên truyền rộng rãi trong Nhân dân.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, con người.
- Phần thứ hai: Quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa, con người
trong giai đoạn hiện nay.
- Phần thứ ba: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn
diện.
- 65 -

7.6 Page 66

▲back to top
PHẦN THỨ NHẤT
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VĂN HÓA, CON NGƯỜI
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ YÊU CẦU XÂY DỰNG
NỀN VĂN HÓA MỚI
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái niệm văn hóa, quan điểm
xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người đúc kết nội hàm khái niệm văn hóa
như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu, đã khái quát nội
dung về văn hóa, bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con
người; đồng thời, chỉ ra nhu cầu của con người với tư cách chủ thể của
đời sống xã hội chính là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa.
2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa
với các lĩnh vực khác
Về vị trí, vai trò của văn hóa, theo Bác: Văn hóa đứng ngang hàng với
các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước
nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau:
Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Người chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ
giữa văn hóa với các lĩnh vực khác: Văn hóa không thể đứng ngoài mà
phải ở trong kinh tế và chính trị, ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm
trong văn hóa. Đời sống xã hội được xây dựng, kết cấu từ bốn lĩnh vực:
Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng tinh
thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của
- 66 -

7.7 Page 67

▲back to top
xã hội. Từ đó phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lĩnh vực văn
hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, vì thế phải dựa trên sự phát
triển của cơ sở hạ tầng của xã hội thì mới có đủ điều kiện để phát triển
văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trình độ văn hóa của Nhân
dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế,
phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của Nhân dân cũng là
một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Quan điểm này của Người khẳng
định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là động lực của kinh tế và
chính trị, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm
giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh
thần dân chủ. Phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, là điều kiện, cơ sở để
tiếp thu văn hóa nhân loại.
3. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Người đã khẳng định: Văn hóa là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp
cách mạng. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi; đem văn hóa lãnh
đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ... Văn hóa tạo sức
mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại xâm theo tinh thần văn minh
thắng bạo tàn. Nếu kinh tế nâng cao đời sống vật chất, thì văn hóa có
tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân.
Người đưa ra quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới với 5
điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: (1) Xây
dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. (2) Xây dựng luân lý: Biết hy
sinh mình, làm lợi cho quần chúng. (3) Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp
có liên quan đến phúc lợi của Nhân dân trong xã hội. (4) Xây dựng chính
trị: Dân quyền. (5) Xây dựng kinh tế.
Theo Người, để xóa bỏ văn hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân, thì
phải xây dựng một nền văn hóa mới cách mạng. Nền văn hóa mới đó
phát triển với ba tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng và được xây
dựng trên một số lĩnh vực cụ thể, đó là: Giáo dục, văn hóa - văn nghệ và
đạo đức, lối sống, nếp sống mới.
Theo Người, việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại; hai quá trình này cùng diễn ra, làm cho nền văn hóa mới ở Việt
- 67 -

7.8 Page 68

▲back to top
Nam vừa mang những đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và truyền
thống văn hóa Việt Nam, vừa phù hợp với trình độ văn minh tiên tiến,
hiện đại của nhân loại. Hơn nữa, cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc
khi được phát triển, phát huy hết mức sẽ đạt đến tầm cao nhân loại, trở
thành giá trị chung của nhân loại.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (năm 1951), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phát triển những truyền thống tốt đẹp của
văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới,
để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và
đại chúng”. Đây là quan điểm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc có chọn
lọc của Hồ Chí Minh. Phát huy, phát triển văn hóa dân tộc phải dựa trên
cơ sở giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn khẳng định quan điểm: Gốc của văn hóa là dân tộc; không có cái
gốc ấy thì không thể tiếp thu được tinh hoa của các nước mà cũng không
đóng góp được gì cho văn hóa nhân loại. Ngày 19/9/1954, trên đường
từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội, tới Phong Châu kính viếng các Vua Hùng,
nói chuyện với đồng bào, chiến sĩ tại đền Giếng, Người căn dặn: Các Vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
Câu nói bất hủ của Người khái quát hai phạm trù dựng nước và giữ nước
thành một cặp phạm trù tất yếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Những quan điểm, tư tưởng của Người về văn hóa và phát triển
nâng tầm văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ, mà còn có giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng của Người là cơ sở, nền tảng cho Đảng ta xây
dựng đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay, với các định hướng cơ bản như:
Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và
chuẩn mực con người trong thời kỳ mới.
4. Văn hóa là một mặt trận, người hoạt động văn hóa là chiến sĩ
trên mặt trận ấy
Đây là một luận đề văn hóa Việt Nam độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trước hết, cần nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò độc lập của
văn hóa với tư cách là một mặt trận như các mặt trận chính trị, kinh tế,
quân sự. Nhưng mặt khác phải thấy quan hệ và sự tác động lẫn nhau
giữa các “mặt trận”. Mối quan hệ giữa văn hóa, văn nghệ với kinh tế và
chính trị được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Văn hóa, nghệ thuật
cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong
kinh tế và chính trị”. Ý nghĩa và bản chất của mặt trận văn hóa và chiến sĩ
- 68 -

7.9 Page 69

▲back to top
văn hóa chính là ở chỗ đó. Nghĩa là, cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ
nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng
sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Nhân
Triển lãm hội họa (năm 1951) trong thư gửi các họa sĩ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân
tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải
tham gia cách mạng”. Người đánh giá cao vai trò xung kích của văn hóa,
văn nghệ trong sứ mệnh giải phóng dân tộc “Văn hóa, nghệ thuật cũng
như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh
tế và chính trị”, cần đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, những nhà văn
hóa và toàn quân, toàn dân phấn đấu cho sự nghiệp “phò chính, trừ tà”,
góp phần quan trọng vào việc nhân đạo hóa con người, cổ vũ con người
vươn tới chân, thiện, mỹ. Văn hóa phải “gắn liền với lao động, sản xuất,
văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông”. Văn hóa phải thấu
hiểu và đi sâu vào đời sống, “bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên
quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh
thần ấy”. Văn hóa là một mặt trận nên có tính chất phức tạp của mặt
trận và những người làm công tác trên mặt trận đó phải có những đức
tính của người chiến sĩ như lập trường đúng, tư tưởng đúng, hiểu thấu,
liên hệ và đi vào đời sống của Nhân dân để bày tỏ tinh thần kiên quyết
và anh dũng của quân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh
thần ấy. Chiến sĩ văn hóa phải là những người dũng cảm, kiên cường
để chống lại những thế lực phản văn hóa “Cây bút phục vụ chính nghĩa
trong tay nhà văn chiến đấu có một lực lượng cực kỳ mạnh mẽ...”.
5. Văn hóa phải phục vụ Nhân dân, quần chúng Nhân dân phải
được hưởng thụ các giá trị văn hóa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải phục vụ Nhân dân, lấy
hạnh phúc của Nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Độc lập, tự do phải
đi đến ấm no, hạnh phúc và sự phát triển, tức văn hóa phải nhằm mục
tiêu phục vụ và nâng cao đời sống con người. Sự phát triển của một
quốc gia dân tộc quy cho cùng chính là sự phát triển kinh tế gắn liền với
sự phát triển xã hội, được đo bằng hiệu quả xã hội, mà hiệu quả lớn nhất
là mỗi thành viên cộng đồng có được cuộc sống đúng nghĩa, tức cuộc
sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Không có Nhân dân
thì không có Bác. Sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp văn hóa của Người là
sự nghiệp vì dân. Theo Người, suy nghĩ, hành động, sáng tác đều phải
xuất phát từ cái tâm: Vì Nhân dân phục vụ. Những người làm công tác
văn hóa muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật “phải trở về với cuộc
- 69 -

7.10 Page 70

▲back to top
sống thực tại của con người”, tức là nghệ thuật phải gần với cuộc sống.
Năm 1946, trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, Người đã kêu gọi: “Tôi
thiết tha mong muốn cho nền văn hóa mới nước nhà lấy hạnh phúc của
đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”.
Lợi ích của Nhân dân trở thành “khuôn phép” của công tác văn hóa:
“Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: Dân rất tốt… Bất kỳ việc
gì cũng vì lợi ích của Nhân dân mà làm… Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu
hiệu, viết báo… của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ
trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần chúng”.
Điều đó có nghĩa là cuộc sống cách mạng và sự sáng tạo của quần
chúng Nhân dân luôn là nguồn nhựa sống, là máu, thịt của nền văn hóa
mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu văn hóa phải thấm nhuần quan
điểm Nhân dân, vì Nhân dân phục vụ và phát huy sức mạnh của toàn
dân làm văn hóa. Người căn dặn anh chị em làm văn nghệ phải đi sâu
vào thực tế cuộc sống, hiểu được tư tưởng, tình cảm, tâm lý, yêu cầu của
Nhân dân, từ đó phục vụ Nhân dân một cách tốt nhất.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ YÊU CẦU XÂY
DỰNG CON NGƯỜI
1. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng, thể
hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người.
Tất cả toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm
tin tuyệt đối vào con người. Trong bản Di chúc, Bác đã căn dặn Đảng
ta: Ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi thì đầu
tiên là công việc đối với con người. Mục tiêu phấn đấu của cuộc cách
mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, vì vậy muốn có chủ nghĩa xã hội thì
trước hết phải xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa. Con người
xã hội chủ nghĩa vừa là sản phẩm của quá trình xây dựng xã hội mới,
vừa là kết quả của hoạt động tích cực, chủ động của hàng triệu người
trong xã hội.
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn
nhận đặc điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử, những
cấu trúc kinh tế, xã hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết
mối quan hệ dân tộc và giai cấp rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối
cách mạng mà cả về mặt con người.
- 70 -

8 Pages 71-80

▲back to top

8.1 Page 71

▲back to top
2. Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người và phát huy nhân
tố con người trong sự nghiệp cách mạng có nội dung rộng lớn, sâu sắc
và luôn luôn mới, đầy sáng tạo. Tư tưởng ấy giúp chúng ta tìm thấy sức
mạnh trong công việc của mình, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, nếu biết phát
huy nhân tố con người thì nhất định sẽ thành công.
Một trong những điểm nổi bật là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
trọng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã
hội. Theo Bác con người là vốn quý nhất, là động lực, nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng vì mọi việc đều do người làm
ra, trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì
mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của Nhân dân, dễ mười lần không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo ra lịch sử thông qua
các hoạt động thực tiễn như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã
hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến Nhân dân là nói đến lực
lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, là động
lực cách mạng.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa có thể được hoàn thiện
trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, nhưng phải có điều
kiện. Một trong những điều kiện đó là thực hiện tốt công tác giáo dục
và đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo người lao động trẻ có trình độ khoa
học - kỹ thuật cao, có phẩm chất chính trị, văn hóa pháp luật, có ý thức
về quyền và nghĩa vụ công dân, có phong cách và phương pháp làm
việc khoa học. Vấn đề phát huy nhân tố con người được Hồ Chí Minh đề
cập với nội dung sâu sắc và toàn diện, đầy tính cách mạng và khoa học.
Không chỉ đánh giá cao vị trí, vai trò của con người, thấy được tính tất
yếu của vấn đề phát huy nhân tố con người, Hồ Chí Minh còn xây dựng
được một hệ thống các giải pháp toàn diện, coi việc thực hiện đúng đắn
các giải pháp đó là khâu then chốt, quyết định thành công.
3. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng. Xây dựng con người là yêu
cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, là
vấn đề chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với
nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Người khẳng định:
- 71 -

8.2 Page 72

▲back to top
Trồng người phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi
lên chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ trồng người phải được tiến hành song
song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa; phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong mỗi
người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối
với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc trồng người là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội kết hợp với tính tích
cực, chủ động của từng người.
Người coi việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là một nhiệm
vụ chiến lược lâu dài, gian khổ, đầy chông gai nhưng cũng hết sức vẻ
vang và tự hào. Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công
dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trăn trở với chiến lược
trồng người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải
mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được
giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
4. Nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên
Xây dựng con người mới trước hết cần tạo cho họ một nền tảng
văn hóa mới vững chắc, nhất là đối với người cán bộ, đảng viên. Tháng
7/1956, phát biểu tại lớp giáo viên và Hội nghị sư phạm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: Dân tộc ta, nước ta đang khôi phục kinh tế, phát triển văn
hóa mà “muốn khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa thì cần cán bộ rất
nhiều... Vậy ta phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có văn hóa làm gốc”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân cách văn hóa của người cán bộ,
đảng viên và những người lãnh đạo cách mạng phải gắn bó với Nhân
dân, vừa phải làm gương mẫu cho Nhân dân noi theo. Điều cốt lõi của
nhân cách văn hóa của người cách mạng là “Quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức cách mạng như là phẩm chất cốt lõi của nhân cách văn
hóa ở cán bộ, đảng viên và các nhà lãnh đạo cách mạng; theo Người, đạo
đức cách mạng có thể tóm tắt là “Nhận rõ phải, trái, giữ vững lập trường.
Tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- 72 -

8.3 Page 73

▲back to top
Như vậy, nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên và cán bộ
lãnh đạo cách mạng của Đảng phải được nuôi dưỡng trong nguồn sữa
của Nhân dân và phải tỏa sáng trong Nhân dân. Nếu tách rời mối quan
hệ giữa cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo với Nhân dân thì không thể
xây dựng được nhân cách văn hóa của họ. Để giúp cán bộ, đảng viên và
cán bộ lãnh đạo hoàn thiện được nhân cách văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường xuyên nhấn mạnh đến công tác chỉnh đốn Đảng. Tổ chức
đảng có vai trò đặc biệt trong việc rèn luyện, giáo dục, xây dựng nhân
cách văn hóa cho từng cán bộ, đảng viên. Tư tưởng nhất quán, xuyên
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng Đảng: “Là một
Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người cán bộ, đảng viên có nhân
cách văn hóa là người phải luôn luôn phấn đấu để hoàn thiện không
ngừng. Người chỉ rõ: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
- 73 -

8.4 Page 74

▲back to top
PHẦN THỨ HAI
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA
VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI
Xây dựng, phát triển văn hóa, con người có vai trò vô cùng quan
trọng đối với mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần kiến tạo
nền tảng tinh thần cho đất nước; tạo động lực, nguồn lực nội sinh cho
sự phát triển bền vững đất nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng,
phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, đã đề cập đến
vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc. Năm 1943, Đảng ta đã đề
ra “Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong đó chỉ rõ “Mặt trận văn hóa là
một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)” và chủ trương phát
triển văn hóa theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Những
quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong văn kiện quan trọng này
đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ, tập hợp Nhân dân phát huy vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận
thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á - năm 1945.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, văn hóa
Việt Nam đã thực sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả mọi
nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến
thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu - năm 1954.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cả nước tập trung vào thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh giành thống nhất nước nhà; Đảng ta đã thường xuyên
- 74 -

8.5 Page 75

▲back to top
quan tâm đến công tác văn hóa, động viên và cổ vũ đội ngũ văn nghệ
sĩ và những lực lượng làm công tác văn hóa phát huy vai trò của mình
trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới.
Trong suốt thời kỳ từ năm 1960-1975, Đảng ta lãnh đạo phát huy vai
trò của văn hóa Việt Nam, góp phần thực hiện nhiệm vụ vừa kiến quốc,
vừa kháng chiến, huy động được các binh chủng, các lực lượng làm công
tác văn hóa của toàn dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, giành đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu
giang sơn về một mối. Lời kêu gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Nước Việt Nam
là một, Dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi!” đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của
mỗi người dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của văn hóa Việt Nam.
Từ năm 1975-1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang
hòa bình, đất nước ta phải khắc phục hàng loạt những hậu quả của
chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế, văn hóa, giáo dục bị tàn
phá; thống nhất về thể chế và thiết chế văn hóa trên phạm vi cả nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh
vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Riêng về lĩnh vực văn hóa, Đảng ta đã có
nhiều Nghị quyết, quyết định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây
dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những
thành tựu đã đạt được về lĩnh vực văn hóa những năm đầu thời kỳ đổi
mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII và đặc biệt
là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những
Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã
chọn 8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan trọng nhất là vấn đề
xây dựng con người với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống
và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011),
Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của
chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng; trong đó nêu rõ: “Xây
- 75 -

8.6 Page 76

▲back to top
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển”. Đến năm 2014, Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW
về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước; Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan
điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nêu;
đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng định mục
tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hóa. Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ rõ:
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân
- thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và
khoa học; làm cho văn hóa phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta nhấn mạnh, văn hóa
phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc trưng
của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc xây dựng
văn hóa là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp… Đồng
thời, xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị
và kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị
trường văn hóa. Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/
TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển con người toàn diện
và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn
hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi
nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ,
phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực
phát triển quan trọng nhất của đất nước. Như vậy, chúng ta thấy rằng,
cùng với việc làm tốt công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng, an ninh thì thực hiện hiệu quả định hướng phát triển văn
- 76 -

8.7 Page 77

▲back to top
hóa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển
chung của đất nước. Theo đó cần nhận thức một cách thống nhất rằng:
Còn văn hóa là còn tất cả. Mất văn hóa là mất tất cả.
Ngày 24/11/2021, tại Thủ đô Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung
ương tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng, tiếp
tục khẳng định, quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng về phát triển
văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong
giai đoạn mới. Tại Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
có bài phát biểu rất quan trọng, khẳng định những thành tựu trên lĩnh
vực xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đặc biệt là trong 35 năm đổi mới; chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm,
nguyên nhân; chỉ đạo tập trung thực hiện thật tốt, quyết liệt, đồng bộ 6
nhiệm vụ trọng tâm và 4 giải pháp quan trọng để tiếp tục xây dựng, giữ
gìn, chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam từ
nay cho đến năm 2045.
Theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức
sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ vị trí, vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Văn hóa còn thì chế độ còn, văn
hóa mất thì chế độ mất; không gì đáng sợ bằng văn hóa lâm nguy. Phát
triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta khẳng định: Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết
định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn
sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Con người là chủ thể, giữ vị trí
trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.
Để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần từng bước
khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt
Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực,
trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi
- 77 -

8.8 Page 78

▲back to top
văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc,
tiến bộ, văn minh; bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn,
khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn
đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
- 78 -

8.9 Page 79

▲back to top
PHẦN THỨ BA
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
I. NỘI DUNG HỌC TẬP, LÀM THEO VÀ NÊU GƯƠNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa
kiệt xuất, không chỉ kết tinh những thành tựu của quá khứ, không chỉ
thể hiện đỉnh cao của trí tuệ và tâm hồn thời đại mà còn là những phẩm
chất tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai. Học tập Bác: Đảng bộ, chính
quyền và Nhân dân Đồng Nai luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, văn hóa là mục tiêu, động lực và hệ điều tiết của sự phát
triển; chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều phải được coi là quan trọng
như nhau; mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân tiếp tục phát huy truyền
thống yêu nước, suốt đời phấn đấu hy sinh cho mục tiêu lý tưởng của
Đảng, lấy ấm no, hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; luôn
thương yêu, quý trọng con người; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
Nêu gương: Chiều sâu của các giá trị văn hóa chính là sức cảm hóa,
sức thuyết phục từ trái tim đến trái tim, bằng những lời nói, hành động
tác phong giản dị, hàm súc, có sức lan tỏa mạnh mẽ; theo gương Bác,
mỗi cán bộ, đảng viên phải có tư cách chuẩn mực, thật sự là tấm gương
tiêu biểu trên các phương diện. Từ việc nêu gương của mỗi cán bộ, đảng
viên hướng tới việc xây dựng tập thể nêu gương, đơn vị nêu gương để
từng bước lan tỏa giá trị của người cán bộ, đảng viên và của tổ chức đến
Nhân dân.
- 79 -

8.10 Page 80

▲back to top
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác thông
tin tuyên truyền
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của
phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền
vững. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý các hoạt
động lãnh đạo, quản lý văn hóa, nhất là việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nâng cao chất lượng
các sản phẩm truyền thông, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về tiếp cận
thông tin và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của người dân; phát huy
thành tựu khoa học, công nghệ gắn với chuyển đổi số trong các lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật nhằm mở rộng khả năng tiếp cận, nâng cao nhận
thức của người dân và cộng đồng. Chú trọng công tác quản lý thông tin
trên không gian mạng, mạng xã hội để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ
cho Nhân dân, nhất là thanh thiếu niên. Xây dựng hệ thống giải pháp
ngăn ngừa tác động tiêu cực của truyền thông đại chúng và truyền thông
mới đến người dân. Đầu tư, khai thác, phát huy các nguồn lực phát triển
văn hóa đọc, góp phần khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách
trong cộng đồng; khẳng định, tôn vinh giá trị của sách trong đời sống
tinh thần của Nhân dân.
Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị nghe, nhìn để phục vụ công tác
tuyên truyền và nâng cao tỷ lệ tiếp cận, hưởng thụ thông tin của người
dân. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động, nội dung,
hình thức tuyên truyền, giáo dục giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống cho
người dân, nhất là thế hệ trẻ.
2. Đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị
Xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị phải được thực
hiện trước hết trong các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, trong cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động Nhà nước để tạo động lực,
niềm tin và lan tỏa mạnh mẽ trong Nhân dân.
- Tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; gương mẫu triển
khai, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, tạo sự thống nhất cao
về chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
- 80 -

9 Pages 81-90

▲back to top

9.1 Page 81

▲back to top
- Thường xuyên thực hành văn hóa tự phê bình và phê bình; mỗi
cấp ủy, cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong
thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp văn hóa tự phê bình và phê
bình, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu phải gương mẫu
tự soi, tự sửa, giúp đồng chí và quần chúng tự soi, tự sửa.
- Tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần, tự soi, tự đối chiếu, tự sửa chữa
và làm theo, gắn chặt với phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong
nội bộ.
- Coi trọng văn hóa nêu gương, văn hóa trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân, thực hiện nghiêm Quy định
số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
- Triển khai thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TU ngày 12/3/2024 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về việc xây dựng và thực hiện mô hình “Chính quyền
thân thiện” của xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong
tình hình hiện nay; Kế hoạch số 107/KH-UBND ngày 28/3/2024 của
UBND tỉnh về việc thực hiện công tác Dân vận chính quyền năm 2024
chủ đề “ Chính quyền thân thiện”.
3. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người
có nhân cách văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh;
chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế;
xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa
công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự
nêu gương của cán bộ, đảng viên. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường
và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc.
4. Xây dựng con người Đồng Nai phát triển toàn diện
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa, con
người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, xây dựng hình ảnh
con người Đồng Nai phát triển toàn diện với các phẩm chất: Nhân cách,
đạo đức, trí tuệ, khát vọng, năng động, văn minh, thân thiện, năng lực
sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, dám
- 81 -

9.2 Page 82

▲back to top
nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm; trong 5 mối quan
hệ: Với bản thân mình, với gia đình, với cộng đồng - xã hội, với đất nước,
với truyền thống và bản sắc của Đồng Nai.
Phát động các phong trào thi đua xây dựng con người Đồng Nai
phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần gắn với các nhiệm vụ,
giải pháp cụ thể và phong trào thi đua tạo môi trường văn hóa, động lực
tinh thần để mỗi người dân phấn đấu hoàn thiện, phát triển bản thân
theo các chuẩn mực đã đề ra.
5. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa, văn học,
nghệ thuật
Nghiên cứu, rà soát, tham mưu hoàn thiện hệ thống văn bản về cơ
chế, chính sách của tỉnh để xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Đồng Nai trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, bắt kịp thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng, ban hành các cơ chế,
chính sách đặc thù khuyến khích, thu hút tài năng văn hóa nghệ thuật,
chăm sóc đãi ngộ đối với nghệ nhân, văn nghệ sĩ và cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà
nước về văn hóa từ tỉnh đến cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả; nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực ngành văn hóa.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa.
Chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản
lý văn hóa, cán bộ ở cơ sở. Nâng cao chất lượng đội ngũ những người
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là cán bộ quản lý từ tỉnh đến
cơ sở, bảo đảm cán bộ văn hóa phải là người có nhiệt huyết, am hiểu
sâu, rộng về văn hóa, con người Đồng Nai, có năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và kỹ năng tổ chức các hoạt động để phát triển văn hóa,
con người Đồng Nai, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân.
6. Tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của
Nhà nước và xã hội để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người
Đồng Nai
Tăng cường đầu tư và ưu tiên huy động các nguồn lực để xây dựng
các thiết chế văn hóa, thể thao mang tầm cỡ quốc gia; đồng thời, chú
trọng đúng mức đầu tư hoàn thiện, nâng cấp các thiết chế văn hóa, thể
thao cơ sở; tăng mức hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các Trung tâm văn
hóa, thể thao - học tập cộng đồng cấp xã và Nhà văn hóa ấp; hỗ trợ kinh
- 82 -

9.3 Page 83

▲back to top
phí hoạt động dành cho các Nhà văn hóa khu phố trên địa bàn tỉnh.
7. Xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tiêu biểu về văn hóa
Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội phải thường xuyên vận động, xây dựng, biểu dương, cổ vũ
những tấm gương tiêu biểu trong lĩnh vực văn hóa, nhất là văn hóa trong
lãnh đạo, quản lý, ứng xử, giao tiếp và cuộc sống. Tổ chức sơ kết, tổng kết
đánh giá các phong trào thi đua, rút kinh nghiệm để từng bước lan tỏa
rộng rãi các tấm gương điển hình tiêu biểu về văn hóa.
GỢI Ý NỘI DUNG SINH HOẠT, THẢO LUẬN TRONG CHI BỘ, CƠ
QUAN, ĐƠN VỊ NĂM 2024
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, con người.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn con người
mới; nhân cách văn hóa của người cán bộ, đảng viên.
- Quan điểm của của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người.
- Thảo luận về những yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
Đảng ta về văn hóa, con người.
- Giải pháp trong đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trong xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai
hiện nay. Quán triệt thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 12/12/2023
về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành
nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền vững.
Trong đó, tập trung thảo luận và liên hệ các nội dung:
+ Thực trạng xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai hiện nay nói
chung.
+ Giải pháp Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công
tác thông tin tuyên truyền.
+ Giải pháp Đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống
chính trị.
+ Giải pháp Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
+ Giải pháp Xây dựng con người Đồng Nai phát triển toàn diện.
+ Giải pháp Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa,
văn học, nghệ thuật.
+ Giải pháp Tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
- 83 -

9.4 Page 84

▲back to top
lực của Nhà nước và xã hội để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con
người Đồng Nai.
+ Giải pháp Xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tiêu biểu về
văn hóa.
Quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ trương, đường lối của Đảng về phát huy giá trị văn hóa và
sức mạnh con người Việt Nam là giải pháp quan trọng để khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc, với nhận thức đúng đắn
về vai trò và sứ mệnh đặc biệt quan trọng của xây dựng văn hóa, con
người đối với sự nghiệp cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân
các dân tộc tỉnh Đồng Nai quyết tâm xây dựng văn hóa và con người
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần làm cho
văn hóa thật sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và
động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Với quyết tâm
và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Đảng bộ, chính quyền và Nhân
dân Đồng Nai sẽ tiếp tục phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa, truyền
thống yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ thời cơ, vượt
qua thách thức, phát huy ý chí tự lực tự cường, năng động, đổi mới sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết tâm xây dựng
quê hương Đồng Nai ngày càng giàu đẹp, văn minh, góp phần cùng cả
nước thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
- 84 -

9.5 Page 85

▲back to top
PHẦN IV
HỘI THẢO KHOA HỌC
“THỰC HIỆN ĐỀ CƯƠNG VỀ
VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG”
- 85 -

9.6 Page 86

▲back to top
PHÁT BIỂU CHỈ ĐẠO HỘI THẢO
(1)
Nguyễn Hồng Lĩnh
- Kính thưa: PGS.TS, Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng Lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (nguyên Ủy viên Trung
ương Đảng, nguyên Phó Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Tổng Giám
đốc Đài Tiếng nói Việt Nam).
- Kính thưa: Các đồng chí Chủ trì Hội thảo!
- Thưa toàn thể các đồng chí cùng quý đại biểu tham dự Hội thảo.
Hôm nay, tỉnh Đồng Nai rất vinh dự cùng PGS.TS, Nhà văn Nguyễn
Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung
ương (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Ban Tuyên giáo
Trung ương, nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam) chủ trì
Hội thảo: “Thực hiện Đề cương về văn hóa Việt Nam trong xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững”. Hội thảo là dịp để tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt của
văn hóa, con người vùng đất Đồng Nai, xác định mục tiêu xây dựng văn
hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, truyền thống văn hóa, lịch
sử 325 năm của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.
Kính thưa quý vị đại biểu!
Điều gì đã làm nên một Đồng Nai nổi bật đối với các nhà đầu tư,
du khách, người dân, người lao động về một “điểm đến” khởi nguồn của
“Hội tụ và lan tỏa” trong suốt hành trình thời gian qua? Điều gì đã tạo
nên một vùng đất miền Đông gian lao mà anh dũng? Hội thảo hôm nay
nhận được nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học trên các lĩnh
vực, nhằm tập trung xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Ý nghĩa của Hội thảo là tổng thể những đặc trưng,
(1) Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai.
- 86 -

9.7 Page 87

▲back to top
thuộc tính, phẩm chất căn cốt nhất, có tính đại diện tiêu biểu của địa
phương, tổng hòa trên tất cả các mặt, lĩnh vực của đời sống, được hun
đúc, định hình từ điều kiện tự nhiên, từ kết quả quá trình lao động, đấu
tranh để sinh tồn và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Đây là sợi dây
kết nối, diễn đàn quan trọng để quy tụ lòng người, đoàn kết xã hội, gắn
kết các định hướng lớn cho xây dựng, phát triển bền vững địa phương.
Đồng thời, là cơ sở để Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) xây dựng
Nghị quyết về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai
trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Kính thưa các đồng chí, thưa toàn thể Hội thảo!
Trong thời gian tới, Đồng Nai cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán
triệt thực hiện nghiêm các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận, tư tưởng Trung
ương, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) về lĩnh vực
văn hóa, tập trung vào các nhiệm vụ sau:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế -
xã hội. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai, tuyên truyền sâu
rộng các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, trong đó tập trung vào triển khai
thực hiện Kế hoạch số 215-KH/TU, ngày 20/12/2022 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện phát biểu Kết luận
của đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 và các hoạt động
kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023) đến
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh. Tạo ra nhiều sản
phẩm văn hóa mang giá trị nghệ thuật cao, sức lay động lớn, lan tỏa các
giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Đồng Nai.
2. Đối với công tác quản lý Nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng
chậm thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành
quy định và các chính sách cụ thể, khả thi để triển khai thực hiện. Đẩy
mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ tỉnh đến
cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính
đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư hợp lý từ
nguồn ngân sách Nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội
cho đầu tư phát triển văn hóa, nghệ thuật. Đồng thời, đẩy mạnh phát
triển du lịch Đồng Nai tăng tốc cất cánh cùng sân bay Long Thành trong
thời gian tới.
- 87 -

9.8 Page 88

▲back to top
3. Quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn và lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo các cơ quan văn
hóa, nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu hoạt động văn học, nghệ thuật trong
thời kỳ mới. Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và
giám sát hoạt động của văn nghệ sĩ đảm bảo đúng với đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4. Chỉ đạo cơ quan quản lý Nhà nước về xuất bản, các cơ quan
truyền thông của tỉnh, các cơ quan chức năng và các địa phương phối
hợp chặt chẽ với Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh trong việc công bố, giới
thiệu quảng bá các tác phẩm, công trình nghệ thuật có chất lượng tốt để
định hướng thẩm mỹ cho công chúng. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
kinh phí cho hoạt động văn học, nghệ thuật; chăm lo đãi ngộ đối với đội
ngũ văn nghệ sĩ, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ phát huy hết tài năng, gắn
bó và cống hiến lâu dài với tỉnh.
5. Gắn nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo thực hiện việc phát triển văn hóa,
nghệ thuật với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh
và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Chú trọng quản lý, phát huy
giá trị nhân văn tích cực của các lễ hội tôn giáo, lễ hội dân gian; giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
6. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường
công tác giáo dục thẩm mỹ về văn học, nghệ thuật cho đoàn viên, hội
viên thông qua các buổi sinh hoạt, hoạt động của đoàn thể; đẩy mạnh
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật trong các trường học, doanh nghiệp
nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo văn học, nghệ thuật trong đội ngũ
giáo viên, học sinh; quan tâm phát triển và tạo điều kiện hoạt động cho
các câu lạc bộ văn hóa, nghệ thuật.
7. Tiếp tục đầu tư phát triển đổi mới phương thức, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng
Nai, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Đổi mới
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc
tế. Quan tâm xây dựng và phát huy trí tuệ đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ.
8. Đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp công nghệ số trong công tác
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, các thiết chế văn hóa; giữ gìn, phát
triển các ngành, nghề truyền thống của tỉnh (gốm, chế tác đá…); khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng Nhân dân tham gia
sáng tạo, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, văn nghệ truyền thống
của dân tộc, địa phương.
- 88 -

9.9 Page 89

▲back to top
9. Xây dựng con người Đồng Nai thời kỳ đổi mới, phát triển, hội
nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, có thế giới quan khoa học,
có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”; tăng cường giáo dục
tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là
thanh, thiếu niên; xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn vinh, nhân
rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn, gắn liền với đấu tranh không khoan
nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá
trị chân - thiện - mỹ. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” gắn với cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô
thị văn minh.
Thưa quý vị đại biểu và các đồng chí!
Hội thảo khoa học hôm nay là một dịp quan trọng để toàn Đảng
bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà quán triệt sâu sắc, toàn diện và
đồng bộ hơn nữa yêu cầu phát triển văn hóa Đồng Nai. Tôi tin rằng, với
một tỉnh có bề dày lịch sử 325 năm hình thành và phát triển, giàu truyền
thống cách mạng, nơi hội tụ của “hồn thiêng sông núi” đất phương
Nam, đội ngũ cán bộ lãnh đạo tâm huyết, có trách nhiệm cao vì sự phát
triển chung của tỉnh; cùng với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ
thống chính trị, chúng ta sẽ vượt qua mọi thách thức để xây dựng hình
ảnh văn hóa, con người Đồng Nai phát triển bền vững, thịnh vượng,
mang tầm cỡ khu vực.
Một lần nữa, xin chúc các đồng chí lãnh đạo, quý vị đại biểu cùng
các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thắng lợi.
Xin trân trọng cảm ơn./.
- 89 -

9.10 Page 90

▲back to top
PHÁT BIỂU ĐỀ DẪN HỘI THẢO
Nguyễn Sơn Hùng(1)
Kính thưa: PGS.TS, Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ - Chủ tịch Hội đồng Lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (nguyên Ủy viên Trung
ương Đảng, nguyên Phó Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Tổng Giám
đốc Đài Tiếng nói Việt Nam).
Kính thưa: Các các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng quý vị đại
biểu tham dự Hội thảo!
Ngày 24/11/2021, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu chỉ đạo đã khẳng định “Văn hóa
là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì
Dân tộc còn...” hôm nay, tỉnh Đồng Nai long trọng tổ chức Hội thảo
“Thực hiện đề cương văn hóa Việt Nam trong xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”.
Kính thưa các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng quý vị đại biểu
tham dự Hội thảo, trước tiên, thay mặt cho lãnh đạo UBND tỉnh Đồng
Nai xin chào mừng các đồng chí lãnh đạo, các nhà khoa học và quý vị
đại biểu tham dự Hội thảo lời chúc mừng nồng nhiệt và lời chào trân
trọng nhất.
Kính thưa các đồng chí!
Thời gian qua cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Đồng Nai luôn nhận
thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam nhằm đáp ứng với yêu cầu phát triển bền
vững đất nước; tập trung triển khai Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của
Đảng, trong đó tập trung chỉ đạo của Trung ương về lĩnh vực văn hóa
được nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Kết
(1) Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai.
- 90 -

10 Pages 91-100

▲back to top

10.1 Page 91

▲back to top
luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2015 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI
(nhiệm kỳ 2020-2025); Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số
248-KH/TU ngày 14/4/2023 về Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, kỷ
niệm 80 năm ra đời “Đề cương về văn hóa Việt Nam” (1943-2023); ngày
14/9/2023, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 221/KH-UBND thực hiện
Kế hoạch số 248-KH/TU ngày 14/4/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
UBND tỉnh Đồng Nai đã tham vấn các chuyên gia, các nhà khoa học
về văn hóa để đảm bảo việc xây dựng Nghị quyết của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người
Đồng Nai đảm bảo các mục đích sau:
1. Đánh giá việc triển khai thực hiện Đề cương về văn hóa Việt Nam
trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững trong thời gian qua.
2. Gắn với việc quán triệt, triển khai thiết thực, hiệu quả Kết luận
Hội nghị văn hóa toàn quốc, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng.
3. Nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển bền
vững của tỉnh. Qua đó, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng đưa
Đồng Nai trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại, văn hóa Đồng Nai thấm
sâu vào tâm trí các tầng lớp Nhân dân.
4. Tổng kết, đánh giá thực tiễn kết quả triển khai thực hiện các quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trên địa
bàn tỉnh, rút ra bài học kinh nghiệm, nhận diện thời cơ, thách thức và
những vấn đề đang đặt ra; xác định các nhiệm vụ, giải pháp mang tính
đột phá, tạo chuyển biến mới tích cực trong việc xây dựng văn hóa, con
người Đồng Nai trong thời kỳ mới. Khơi dậy mạnh mẽ khát vọng cống
hiến vì quê hương, đất nước, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá
để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, tạo hình ảnh mới về một
Đồng Nai văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa.
- 91 -

10.2 Page 92

▲back to top
Với các nội dung yêu cầu:
1. Đánh giá thực trạng xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai; các
yếu tố tác động đến công tác quản lý văn hóa và sự phát triển của văn
hóa, con người Đồng Nai; đúc rút thành các bài học kinh nghiệm; đề
xuất các nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, toàn diện, đảm bảo tính khả thi
trong việc xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai trong thời kỳ mới.
2. Phân tích, đánh giá, làm rõ đặc trưng của văn hóa, con người
Đồng Nai xưa và nay, là nơi hội tụ nhiều nét văn hóa con người Việt Nam
trên đất Đồng Nai trải qua 325 năm hình thành và phát triển.
3. Đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng văn hóa, con người
Đồng Nai; xác định các vấn đề, các yếu tố tác động đến thể chế, công
tác quản lý văn hóa và sự phát triển của văn hóa, con người Đồng Nai;
bài học kinh nghiệm; đề xuất giải pháp đột phá về thể chế, kiến tạo môi
trường, thúc đẩy văn hóa, con người Đồng Nai phát triển toàn diện.
4. Tổ chức hội thảo đảm bảo mục đích, yêu cầu, trang trọng, khoa
học, tiết kiệm, nghiêm túc, hiệu quả và tiến độ thời gian; tác động tích
cực đến xã hội, cộng đồng dân cư và đội ngũ các nhà văn hóa, văn nghệ
sĩ, trí thức cống hiến cho văn hóa Đồng Nai.
Để Hội thảo đạt các nội dung sau:
- Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan
điểm của Đảng về văn hóa - văn nghệ; nội dung cốt lõi của Đề cương về
văn hóa Việt Nam được vận dụng sáng tạo trong xây dựng và phát triển
văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, gắn với Bài phát biểu chỉ đạo
của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn
quốc ngày 24/11/2021.
- Những quan điểm, chủ trương của Đảng trong Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020-2025).
- Đánh giá thành tựu và hạn chế trên lĩnh vực văn hóa. Thảo luận
làm rõ những vấn đề đang đặt ra; đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp xây
dựng văn hóa, con người Đồng Nai trong thời kỳ mới; nhất là giải pháp
về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền; sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình hưởng ứng của Nhân dân;
ban hành các cơ chế, chính sách kịp thời, phù hợp với thực tiễn của
địa phương; về tổ chức bộ máy; công tác cán bộ; về đầu tư, huy động
các nguồn lực; về xã hội hóa và các giải pháp cần thiết, hiệu quả liên
quan khác.
- 92 -

10.3 Page 93

▲back to top
- Một số định hướng tham luận gắn với việc xây dựng nghị quyết
chuyên đề về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Kính thưa các vị đại biểu!
Hưởng ứng của các chuyên gia, Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận
được 25 bài tham luận đóng thành kỷ yếu, đặc biệt có các bài của PGS.
TS Nguyễn Thế Kỷ; PGS. TSKH Trần Ngọc Thêm; PGS.TS Huỳnh Văn
Tới; PGS.TS Lâm Nhân; PGS.TS Nguyễn Ngọc Thơ và các chuyên gia,
nhà khoa học gắn với việc xây dựng Nghị quyết chuyên đề về Xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững.
Tại Hội thảo hôm nay xin đề nghị các chuyên gia trình bày và trao
đổi thảo luận các vấn đề:
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp Nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc;
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa; tạo
hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi để xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Đồng Nai;
- Tập trung xây dựng con người Đồng Nai (đặc trưng con người
Đồng Nai) phát triển toàn diện, kết hợp chặt chẽ, hài hòa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại;
- Phát huy giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) trong sự
nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung và
văn hóa, con người Đồng Nai nói riêng trong giai đoạn hiện nay;
- Xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh;
văn hóa doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh;
- Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn Đồng
Nai gắn với phát triển du lịch;
- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa,
thiết chế văn hóa;
- Phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa trên địa bàn
Đồng Nai;
- 93 -

10.4 Page 94

▲back to top
- Đổi mới, linh hoạt, sáng tạo các hình thức quảng bá văn hóa, con
người Đồng Nai;
- Tập trung huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà
nước và xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai.
Ban Tuyên giáo tỉnh, UBND tỉnh sẽ tiếp thu để xây dựng và hoàn
chỉnh tham mưu Nghị quyết cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI
về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành
nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững.
Thay mặt UBND tỉnh Đồng Nai, tôi xin cảm ơn sự quan tâm của các
nhà khoa học đã có bài tham luận, cảm ơn sự góp ý của đồng chí lãnh
đạo và các vị đại biểu.
Trân trọng cảm ơn sự góp ý./.
- 94 -

10.5 Page 95

▲back to top
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, XÂY DỰNG
CON NGƯỜI ĐỒNG NAI VÌ MỤC TIÊU
GIÀU MẠNH, VĂN MINH, HẠNH PHÚC
PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ(1)
Năm 2023, nước ta tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm, tổng kết, vinh
danh văn hóa và con người Việt Nam: 80 năm Đề cương về văn hóa Việt
Nam (1943); 25 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; 15 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về
phát triển văn học, nghệ thuật; gần 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; nửa nhiệm kỳ
thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; thực hiện nội dung, nhiệm
vụ mà Hội nghị văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24/11/2021 và Bài phát
biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị
quan trọng này.
1. Theo các tài liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa, khoảng 2.500 năm
trước (khoảng thế kỷ V trước Công nguyên), cư dân cổ Đồng Nai bước
vào một thời kỳ văn hóa kim khí phát triển. Văn hóa thời kỳ đồ sắt ở
Đồng Nai gắn kết hai giai đoạn phát triển đồng thau và sắt sớm. Trong
văn hóa đá - đồng đã manh nha văn hóa sắt sớm với hàng loạt di chỉ
như: Bình Đa, Cái Vạn, Suối Chồn, Hàng Gòn, Long Giao, Phú Hòa…
Thời kỳ sắt sớm ở Đồng Nai được xem là giai đoạn phát triển rực
rỡ của cư dân cổ ở đây. Một thiên nhiên hoang sơ, hoang dã đã dần trở
(1) Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban
Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam; Chủ tịch
Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.
- 95 -

10.6 Page 96

▲back to top
thành một nơi có sức thu hút với cư dân đông đúc, cảnh quan đẹp đẽ,
kinh tế phát triển của trung tâm nông nghiệp Đồng Nai - Đông Nam
Bộ thời tiền sử. Quá trình phát triển của Đồng Nai gắn liền với lịch sử
phát triển của vùng đất Nam Bộ, của quá trình di dân, du nhập, chiêu
mộ, mở cõi từ Bắc vào Nam và từ nước ngoài vào. Năm Mậu Dần 1698,
chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (bao gồm cả Nam Bộ rộng lớn
lúc đó), đặt vùng đất mới này thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện:
Huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình
(Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Câu ca “Nhất Đồng Nai, nhì hai huyện”,
có lẽ ra đời thời kỳ đó. Sau mấy trăm năm dâu bể, đổi dời, đến ngày
12/8/1991, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII nước CHXHCN Việt Nam ra
Nghị quyết chia tỉnh Đồng Nai rộng lớn trước đó thành hai tỉnh Đồng
Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Tỉnh Đồng Nai gồm thành phố Biên Hòa, thị
xã Vĩnh An và 6 huyện. Các dân tộc sinh số trên địa bàn Đồng Nai lâu
đời là: Kinh, Mạ, Hoa, Khmer, Stiêng, Chơro, Chăm; một số dân tộc di
cư từ phía Bắc vào và sinh cơ, lập nghiệp sau năm 1975 là: Mường, Dao,
Thái, Ơ Đu, Si La, Nùng, Tày... Tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất
là Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo và một số
tôn giáo khác.
Sông Đồng Nai là con sông nội địa dài nhất Việt Nam (586 km), lớn
thứ nhì Nam Bộ về lưu vực (38.600 km², chỉ sau sông Cửu Long), chảy
qua các tỉnh: Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương,
Thành phố Hồ Chí Minh với câu ca xưa “Nhà Bè nước chảy chia hai / Ai
về Gia Định, Đồng Nai thì về...”. Đồng Nai giáp các tỉnh Bình Thuận và
Lâm Đồng về phía Đông; giáp Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh
về phía Tây, giáp Bà Rịa - Vũng Tàu về phía Nam và giáp Bình Phước về
phía Bắc, đây là một trong những cửa ngõ quan trọng đi vào vùng kinh
tế trọng điểm Nam Bộ, là một trong bốn góc nhọn của tứ giác phát triển
Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Bà Rịa - Vũng Tàu - Đồng Nai.
Thành phố Biên Hòa - thủ phủ của Đồng Nai cách trung tâm Thành
phố Hồ Chí Minh chỉ 30km, cách thủ đô Hà Nội về đường bộ khoảng
1684km. Đồng Nai có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến
đường huyết mạch quốc gia đi qua như: Quốc lộ 1, quốc lộ 20, quốc lộ
51; tuyến đường sắt Bắc - Nam; gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân
Sơn Nhất và sân bay quốc tế Long Thành đang xây dựng trên địa bản
tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế và giao lưu trong vùng
cũng như với cả nước và quốc tế.
- 96 -

10.7 Page 97

▲back to top
Về văn hóa, Đồng Nai có nghề gốm sứ truyền thống độc đáo và rất
nổi tiếng; các nghề thủ công truyền thống như đan lát, mây tre, làm bánh
đa, hủ tiếu, gò thùng thiếc, gia công đồ mỹ nghệ, làm các sản phẩm từ gỗ
công nghệ, chế biến nông sản, sản xuất gạch ngói, đúc đồng, đúc gang...
Về du lịch, Đồng Nai có Vườn quốc gia Cát Tiên, sông Đồng Nai,
thác Giang Điền, đàn đá Bình Đa, mộ cổ Hàng Gòn, Văn miếu Trấn Biên
(Biên Hòa), đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, các khu du lịch: Núi Chứa Chan,
Bửu Long, Suối Mơ, Long Châu Viên, Vườn Xoài, làng bưởi Tân Triều,
Thác Mai - hồ nước nóng, Thủy Châu, Đảo Ó, Chiến khu Đ, Hồ Núi Le,
Trung tâm hành hương Đức Mẹ núi Cúi, làng du lịch Tre Việt, khu du lịch
Bò Cạp Vàng...
2. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc
tỉnh Đồng Nai đã thực hiện nghiêm túc, sáng tạo, có hiệu quả các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng về phát triển văn hóa, xây dựng con người như
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9
(khóa XI), Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng; tinh thần và nội dung
Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, đặc biệt là bài phát biểu
quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị này.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã ban hành và tổ chức thực
hiện thắng lợi các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, chương trình về phát
triển văn hóa. Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Rất nhanh
chóng và bài bản, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai ban hành Kế hoạch
257-KH/TU ngày 31/8/2015 về việc thực hiện Nghị quyết số 33 trên địa
bàn tỉnh. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy triển khai thực hiện Đề tài nghiên cứu
khoa học “Văn hóa ứng xử trong cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Đồng
Nai - thực trạng và giải pháp” và tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây
dựng quy định tạm thời “Quy định thực hiện văn hóa Đảng tại Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai”. Các cơ quan báo, đài trong tỉnh đã thực hiện các chuyên
trang, chuyên mục gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai xây
dựng chuyên mục “Chung một bóng cờ”; “Rộng đường dư luận” đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, đưa các chủ trương, đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... đến vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc, các khu công nghiệp có đông công nhân lao
động; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm, luận
điệu sai trái của các thế lực thù địch. Tỉnh tổ chức nhiều hoạt động thúc
đẩy giao lưu, hợp tác văn hóa, chính trị, kinh tế, đối ngoại với các nước
- 97 -

10.8 Page 98

▲back to top
ASEAN và các nước, vùng lãnh thổ có mối quan hệ gắn bó với tỉnh như:
Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)...
Tỉnh đã thực hiện nhiều dự án, chương trình, đề tài về bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống, di sản văn hóa phi vật thể ở các
địa phương như sưu tầm - bảo tồn các giá trị di sản văn hóa phi vật thể
ở Đồng Nai; sưu tầm, biên soạn thông tin, tư liệu di sản văn hóa các
dân tộc đang sinh sống trên địa bàn tỉnh; bảo tồn, phát huy di sản nghệ
thuật Đờn ca tài tử. Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học: Di sản
văn hóa làng dân tộc Chơro; các lễ cúng của người Hoa; Di sản văn hóa
làng dân tộc Mạ ở Tà Lài và kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể dân tộc
Mạ trên địa bàn toàn tỉnh; lập hồ sơ khoa học đề nghị Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia:
Lễ hội Sayangva (cúng thần Lúa) của dân tộc Chơro, Lễ hội Yang Bơnơm
(cúng thần Núi) của dân tộc Mạ.
Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển
văn học, nghệ thuật trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng
Nai luôn quan tâm chỉ đạo, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển mạnh mẽ, đa dạng và toàn diện lĩnh vực này; đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với văn học, nghệ thuật;
bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, đặc trưng của văn học,
nghệ thuật cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị và cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý văn học,
nghệ thuật. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ văn nghệ
sĩ, nhất là những người trẻ, những lĩnh vực quan trọng. Hàng năm, tỉnh
Đồng Nai cử từ 5-7 cán bộ dự hội nghị tập huấn kiến thức, kỹ năng về
văn hóa, văn nghệ do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật
Trung ương tổ chức; các lớp bồi dưỡng của Liên hiệp các hội văn học,
nghệ thuật Việt Nam và các hội chuyên ngành ở Trung ương. Tổ chức các
cuộc thi, liên hoan văn hóa, văn nghệ của tỉnh và khu vực; tạo điều kiện
cho đội ngũ văn nghệ sĩ đi thực tế, sáng tác, quảng bá tác phẩm. Các thiết
chế văn hóa cơ sở được quan tâm đầu tư xây dựng, hoàn thiện, nâng cấp
như Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Đồng Nai, Nhà hát Truyền hình
của Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai, các hội trường, sân khấu,
câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ ở các cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt
động thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản có nhiều đổi mới. Tập
trung nâng cao số lượng, chất lượng tin bài, chương trình, ấn phẩm trên
báo Đồng Nai, Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Nai, Tạp chí Văn nghệ
Đồng Nai, các trang điện tử của các sở, ban, ngành, địa phương. Phong
- 98 -

10.9 Page 99

▲back to top
trào “Người tốt, việc tốt” xuất hiện ngày càng nhiều trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Việc cưới, việc tang, lễ hội trên địa bàn được tổ
chức gọn nhẹ, trang trọng, tiết kiệm. Xây dựng con người Đồng Nai phát
triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, dân chủ, khoa học, nhân văn; phát huy truyền thống văn hóa, lịch
sử 325 năm Biên Hòa - Đồng Nai. Xây dựng môi trường văn hóa, đời
sống văn hóa lành mạnh phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa
của mỗi người dân và của cộng đồng; từng bước thu hẹp khoảng cách
hưởng thụ văn hóa giữa vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số với vùng đồng bằng, đô thị, giữa các giai tầng xã hội. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa. Xây dựng văn hóa trong Đảng, trong
hệ thống chính trị, trong cộng đồng, thôn, ấp, khu phố, cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp và mỗi gia đình. Xây dựng, hoàn thiện các chuẩn mực giá
trị đặc trưng văn hóa, con người Đồng Nai. Nhân rộng các mô hình gia
đình văn hóa tiêu biểu. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”. Sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hóa
từ tỉnh đến cơ sở, nhất là hiệu quả hoạt động của các trung tâm văn hóa
thể thao - học tập cộng đồng, nhà văn hóa khu phố, ấp. Trùng tu, bảo
tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, cấp tỉnh. Khai thác
các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số, những tiềm năng, giá trị đặc
sắc của văn hóa Đồng Nai và của vùng Đông Nam Bộ.
3. Để phát triển văn hóa, con người Đồng Nai trong những năm tới,
theo chúng tôi, tỉnh cần tập trung xây dựng văn hóa quê mình tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, giàu có, Đồng Nai ngày càng đổi mới, tiến bộ,
giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc. Xây dựng con người Đồng Nai phát
triển toàn diện, là những chủ thể văn hóa có bản lĩnh, sáng tạo, đổi mới
với những phẩm chất yêu nước, yêu quê hương, đoàn kết, dũng cảm, tài
trí, thật thà, cần cù, sáng tạo, đổi mới, nghĩa tình, nhân văn, hội nhập.
Tập trung cao cho việc xây dựng con người Đồng Nai có trình độ học vấn
và văn hóa cao hơn, thực chất hơn, giữ vững và phát huy bản sắc văn
hóa quê hương, đồng thời vươn lên theo kịp bước đi của đất nước và hội
nhập quốc tế. Đồng Nai là tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch cả về thiên
nhiên và văn hóa. Tiếp tục khai thác, phát huy các di tích, danh thắng
trên địa bản để phát triển du lịch. Cần đặc biệt coi trọng việc xây dựng
và thực hiện quy hoạch tổng thể kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, của
thành phố Biên Hòa, thành phố Long Khánh và các huyện, các xã, thôn
ấp; phát hiện và xử lý nhanh, dứt điểm tình trạng xây dựng, cơi nới tùy
tiện, xô bồ, mạnh ai nấy làm. Các khu vực đô thị, huyện lỵ, các vùng đất
- 99 -

10.10 Page 100

▲back to top
đang và sẽ khai thác du lịch, có tiềm năng du lịch cần xây dựng và công
bố công khai quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, hài hòa với điều
kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa bản địa.
Vừa coi trọng việc kế thừa, phát huy di sản văn hóa của tỉnh, Đồng
Nai cần đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa số thích ứng với nền kinh
tế số, kinh tế xanh, xã hội số, công dân số… Chú trọng đầu tư, phát triển
công nghệ số trong lĩnh vực văn hóa. Số hóa các di sản văn hóa, các
nguồn tài nguyên văn hóa nhằm tạo dựng nguồn dữ liệu số đầy đủ, hấp
dẫn về văn hóa, con người Đồng Nai. Phát triển các ngành công nghiệp
văn hóa của tỉnh theo định hướng của nền kinh tế số. Xây dựng, từng
bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và hành lang pháp lý nhằm
khuyến khích phát triển thị trường văn hóa số, bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ trên không gian số. Có các biện pháp hạn chế, ngăn chặn các ảnh
hưởng, tác động từ mặt trái, mặt tiêu cực quá trình chuyển đổi số đến
đời sống xã hội, nhất là với văn hóa, con người, đặc biệt là giới trẻ. Xác
lập quyền lực mềm quốc gia và sức mạnh mềm của quê hương Đồng Nai
bằng văn hóa, con người với các chính sách phát triển hợp lý, trên cơ sở
các giá trị đặc sắc, lợi thế cạnh tranh của tỉnh.
Tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Đồng Nai nhiệm kỳ 2020-2025, chuẩn bị
cho nhiệm kỳ 2025-2030. Đặc biệt coi trọng việc giáo dục lòng yêu nước,
niềm tự hào dân tộc và truyền thống vẻ vang của quê hương, trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân cho các tầng lớp Nhân dân, nhất là
thanh thiếu niên. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển
văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững của
tỉnh, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy đảng, chính quyền và cả
hệ thống chính trị các cấp.
Gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
văn hóa và xây dựng con người Đồng Nai với các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng cấp, từng địa phương,
đơn vị, doanh nghiệp; phát huy năng lực, trách nhiệm của cấp ủy, chính
quyền, cả hệ thống chính trị và vai trò của người đứng đầu trong việc
phát triển văn hóa, xây dựng con người.
Hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ
máy quản lý Nhà nước về văn hóa theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả, đảm bảo vai trò kiến tạo phát triển văn hóa, xây dựng con người,
tăng cường hiệu quả của các hệ thống thiết chế văn hóa đã có và sẽ có.
- 100 -

11 Pages 101-110

▲back to top

11.1 Page 101

▲back to top
Thực hiện chức năng kiến tạo phát triển văn hóa, con người, xây
dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để phát huy
năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của con người, bảo đảm tính hài hòa
và đóng góp thiết thực cho xã hội. Chuyển đổi hệ thống quản lý văn hóa
chủ yếu từ mệnh lệnh hành chính sang cơ chế quản lý bằng luật pháp và
các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Tập trung đầu tư các thiết chế văn hóa
tầm cỡ quốc gia, khu vực, đồng bộ hóa hệ thống thiết chế văn hóa cơ
sở; khuyến khích thành lập và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ phát triển,
hoạt động các thiết chế văn hóa ngoài công lập.
Phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa của tỉnh và cấp huyện, xã,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân
lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt. Xây dựng
chính sách sử dụng cán bộ văn hóa khoa học, phù hợp với chuyên môn,
trình độ ở tất cả các cấp, các lĩnh vực. Hoàn thiện chế độ, chính sách đãi
ngộ đặc thù đối với trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân như chế độ lương,
nhuận bút, bồi dưỡng lao động nghề nghiệp, các chế độ đãi ngộ khác…
Đầu tư phát triển một số cơ sở đào tạo năng khiếu, tài năng văn
hóa nghệ thuật ở tỉnh hoặc gửi các nơi khác phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập cùng đất nước ra thế
giới. Hỗ trợ đào tạo nghệ thuật khó, hiếm, đỉnh cao, nghệ thuật truyền
thống. Khuyến khích nghệ sĩ, nghệ nhân tham gia giảng dạy, bảo tồn,
trao truyền các bộ môn nghệ thuật đặc thù. Thực hiện chính sách miễn,
giảm học phí cho học sinh các bộ môn nghệ thuật truyền thống dân tộc.
Coi trọng việc xây dựng văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, đặc
biệt là văn hóa trong Đảng, cơ quan công quyền trở thành tấm gương
đạo đức cho xã hội, văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, sáng tạo, hết
lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp
luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách
nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức.
Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người
thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập
- 101 -

11.2 Page 102

▲back to top
môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch,
tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển
văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý
thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ
môi trường vì sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội; vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khơi dậy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên
toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát
triển các thương hiệu Việt Nam, thương hiệu Đồng Nai có uy tín trên thị
trường vùng, trong nước và quốc tế. Phát triển thị trường văn hóa, các
ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ
của người tiêu dùng và thị trường ngoài nước.
Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới nhằm cải thiện điều kiện
kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa, nâng cao hiệu quả việc thực thi
quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường.
Tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật vùng, quốc gia tại tỉnh, trở
thành các sự kiện thường niên, có uy tín, thu hút sự tham gia của các
nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa, nghệ thuật có uy tín, được đông đảo công
chúng quan tâm.
Phát triển văn học, nghệ thuật Đồng Nai đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế, xây dựng con người tỉnh nhà theo tinh thần Nghị quyết số
23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X). Tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi,
sáng tạo của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị
tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân
chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử
dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, quê hương. Đẩy mạnh sáng tác,
quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử
dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Đổi mới phương thức hoạt động
của các hội văn học, nghệ thuật của tỉnh nhằm tập hợp, tạo điều kiện
để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả. Khuyến khích Nhân dân
sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, quê hương.
Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân, tài năng trẻ trên
cơ sở cống hiến cho đất nước, cho tỉnh nhà.
Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế, phí đối
với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư,
- 102 -

11.3 Page 103

▲back to top
đặc biệt là ở những nơi còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Khuyến khích
hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, phát triển
và quảng bá văn học nghệ thuật, hỗ trợ xuất bản. Xây dựng một số công
trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường
học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư... có thiết chế văn hóa
phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao...) tạo điều kiện cho
người dân tham gia hoạt động và hưởng thụ văn hóa./.
- 103 -

11.4 Page 104

▲back to top
CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG
HỆ GIÁ TRỊ VĂN HÓA - CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN ĐẠI DƯỚI ÁNH SÁNG
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm(1)
1. Giá trị và hệ giá trị văn hóa - con người
Khái niệm giá trị là đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành giá trị
học (axiology). Tổng quan về lịch sử nghiên cứu giá trị và các xu hướng
định nghĩa giá trị đã được chúng tôi trình bày trong cuốn chuyên khảo
về hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại xuất bản lần đầu
ở Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ năm 2016, lần hai ở Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật năm 2017, dịch ra tiếng Lào năm 2019 và lần
ba ở Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021 (Trần
Ngọc Thêm, 2021). Tổng hợp ba xu hướng định nghĩa giá trị và bổ sung
thêm hai đặc trưng, chúng tôi đã đề xuất định nghĩa coi “Giá trị là tính
chất của khách thể, được chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh
với các khách thể khác cùng loại trong một bối cảnh không gian - thời
gian cụ thể” (Trần Ngọc Thêm, 2021, tr. 34-35).
Một khách thể có rất nhiều tính chất, cũng có nghĩa là sẽ có rất
nhiều giá trị. Các giá trị của một khách thể bất kỳ luôn luôn có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau theo nhiều loại quan hệ, tạo thành một hệ thống
giá trị, hay hệ giá trị. Với quan niệm “văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người đã sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình” (Trần Ngọc Thêm, 1996, tr. 27) thì
văn hóa chính là một hệ giá trị do con người sáng tạo.
(1) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
- 104 -

11.5 Page 105

▲back to top
Ở mức độ đầy đủ nhất, hệ giá trị của một dân tộc (ví dụ “hệ giá trị
Việt Nam”) có thể bao gồm ba tiểu hệ là tiểu hệ giá trị tự nhiên, tiểu hệ
giá trị văn hóa và tiểu hệ giá trị văn minh. Trong ba tiểu hệ đó thì tiểu hệ
“giá trị văn hóa” là bộ phận quan trọng nhất, mang tính điển hình tiêu
biểu nhất. Vì vậy, để cho gọn, “hệ giá trị dân tộc”có thể được xem là đồng
nhất với “tiểu hệ giá trị văn hóa” của nó. Nói cách khác, “hệ giá trị Việt
Nam” có thể được xem là đồng nhất với “hệ giá trị văn hóa Việt Nam”.
Văn hóa là hệ giá trị do con người sáng tạo và phục vụ cho con người
cho nên khi nói “giá trị văn hóa” chính là đã bao gồm trong đó cả giá trị
con người rồi. Cụm từ “giá trị văn hóa - con người” chỉ là cách nói mang
tính nhấn mạnh mà thôi.
Theo quy mô của chủ thể, các giá trị trong một hệ giá trị có thể chia
thành giá trị cá nhân và giá trị cộng đồng. Các giá trị cộng đồng đến lượt
mình có thể chia thành giá trị gia đình; giá trị làng xã / công ty / cơ quan /
địa phương; giá trị quốc gia / dân tộc… Theo sự hiện diện trong thời gian,
các giá trị có thể chia thành giá trị truyền thống, giá trị hiện tại (đang
biến đổi) và giá trị định hướng (mong ước hiện diện trong tương lai).
2. Về khái niệm “xây dựng” hệ giá trị văn hóa - con người
Ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ lúc nào, bất kỳ một khách thể nào cũng đều
luôn luôn sở hữu một hệ giá trị của riêng nó. Theo thời gian, hệ giá trị
riêng có ấy luôn vừa được bảo tồn, vừa được biến đổi. Tùy theo bối cảnh
cụ thể của từng giai đoạn cụ thể mà việc bảo tồn hoặc biến đổi có thể
giữ vai trò chủ đạo. Bởi vậy, việc “bảo tồn” (giữ gìn) theo nghĩa tuyệt đối,
theo nghĩa giữ nguyên không thay đổi, là một thao tác bất khả thi; cụm
từ “bảo tồn (hệ) giá trị” chỉ là một cách nói với hàm nghĩa thể hiện mục
tiêu kỳ vọng giữ gìn hệ giá trị ở mức tối đa theo ý mình mà thôi.
Việc biến đổi hệ giá trị ở mức thấp sẽ là “phát huy hệ giá trị”; ở mức
cao hơn là “phát triển hệ giá trị”; ở mức cao nhất là “xây dựng hệ giá
trị”. Việc “xây dựng” một hệ giá trị từ con số không theo mong muốn chủ
quan cũng là một thao tác bất khả thi giống như việc bảo tồn tuyệt đối
theo nghĩa giữ nguyên không thay đổi vậy.
Rất nhiều những “hệ giá trị” của một số địa phương trình bày trong
các hội thảo khoa học hoặc do một số tổ chức đưa ra là kết quả của việc
“xây dựng” hệ giá trị theo cảm tính chủ quan của tác giả hoặc của lãnh
đạo các tổ chức này. Cách “xây dựng” hệ giá trị mang tính khoa học
dùng phương pháp định lượng hoặc định tính. Phổ biến nhất hiện nay
là dùng phương pháp định lượng (điều tra xã hội học), sau đó căn cứ vào
- 105 -

11.6 Page 106

▲back to top
kết quả điều tra để chọn ra những giá trị phổ biến nhất đưa vào hệ giá trị.
Tuy nhiên, phương pháp này có hai nhược điểm: Thứ nhất, nó tiềm ẩn
rủi ro do việc chọn mẫu chưa hợp lý và do tính cách văn hóa đặc thù của
cộng đồng người tham gia điều tra (ví dụ: tính trung thực/ khôn khéo)
gây nên và, thứ hai, nó ít hiệu quả khi xác định các giá trị định hướng
(mong ước hiện diện trong tương lai).
Các nhược điểm trên có thể khắc phục bằng phương pháp định
tính. Để khắc phục rủi ro do việc chọn mẫu và do tính cách văn hóa của
cộng đồng người tham gia điều tra gây nên thì độ tin cậy của phương
pháp định tính được đánh giá bằng tính hệ thống, tính logic chặt chẽ
của các lập luận. Để đảm bảo tính khoa học trong việc xác định các giá
trị định hướng thì nguyên lý áp dụng phương pháp định tính là các giá
trị định hướng phải giúp khắc phục điểm yếu của các hệ giá trị truyền
thống và hiện tại.
3. Quy trình xây dựng hệ giá trị văn hóa - con người
Quy trình xây dựng hệ giá trị văn hóa - con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện tại có thể gồm bốn bước chính là: (1) Định gốc: Xác định
hệ giá trị truyền thống; (2)
Chẩn bệnh: Xác định các phi
giá trị phái sinh; (3) Kê đơn:
1. Định gốc
• Xác định hệ giá trị
truyền thống
Xác định mục tiêu kỳ vọng
của hệ giá trị định hướng;
2. Chẩn bệnh
• Xác định các phi giá
trị phái sinh
(4) Bốc thuốc: Xác lập danh
sách các giá trị định hướng
(Hình 1).
3. Kê đơn
• Xác định mục tiêu
kỳ vọng của hệ giá trị
định hướng
Bước 1 - Định gốc: Xác
định hệ giá trị truyền thống,
gồm các đặc trưng cơ bản và
4. Bốc thuốc
• Xác lập danh sách
các giá trị định hướng
các giá trị phái sinh.
Hình 1
Ở bước này, nghiên cứu
hệ giá trị Việt Nam truyền
thống, chúng tôi đã xác định được 23 giá trị cốt lõi tập hợp theo 5 đặc
trưng cơ bản (Trần Ngọc Thêm, 2021, tr. 292, Bảng 1):
- 106 -

11.7 Page 107

▲back to top
Bảng 1: Hệ giá trị Việt Nam truyền thống
Đặc trưng
I- Tính cộng đồng làng xã
II- Tính trọng âm
III- Tính ưa hài hòa
IV- Tính kết hợp
V- Tính linh hoạt
VI- Giá trị tổng hợp
Các GIÁ TRỊ phái sinh
1. Tinh thần tập thể; 2. Tình đoàn
kết; 3. Lòng biết ơn; 4. Tính dân
chủ làng xã; 5. Tính trọng thể diện
1. Tính ưa ổn định; 2. Tính hiếu
hòa, bao dung; 3. Tính trọng tình,
đa cảm; 4. Tính trọng nữ; 5. Thiên
hướng thơ ca; 6. Sức chịu đựng,
nhẫn nhịn; 7. Lòng hiếu khách
1. Tính cặp đôi; 2. Tính mực thước,
quân bình; 3. Tính lạc quan, vui vẻ;
4. Tính ung dung; 5. Tính thiết thực
1. Khả năng bao quát tốt; 2. Khả
năng quan hệ tốt
1. Khả năng thích nghi cao; 2. Tính
sáng tạo, biến báo
1. Lòng yêu nước, tinh thần dân
tộc; 2. Lòng nhân ái, thương người
Bước 2 - Chẩn bệnh: Xác định các phi giá trị phái sinh. Nghiên cứu
thực trạng biến đổi của hệ giá trị truyền thống trong giai đoạn hiện tại
để xác định các điểm yếu (phi giá trị) phái sinh để làm căn cứ đề xuất
các giải pháp cải thiện chúng. Đây là bước quan trọng nhất, mang tính
quyết định.
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 chính là được xây dựng
căn cứ trên việc xác định ba nhược điểm của văn hoá hợp pháp Việt
Nam lúc bấy giờ mà Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày trong bài
“Mấy nguyên tắc của cuộc vận động văn hoá mới Việt Nam” (23-9-1944)
là: (a) Vừa lố lăng, lai căng, thiếu tính dân tộc; (b) Vừa duy tâm, thần bí,
kém cỏi, bị giáo dục theo kiểu nhồi sọ, thiếu óc khoa học; (c) Lại vừa chỉ
hướng vào tầng lớp quyền quý, xa rời quần chúng.
Khảo sát thực trạng biến đổi của hệ giá trị văn hóa Việt Nam đầu thế
kỷ XXI cho thấy tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và toàn cầu hóa đã khiến cho nền văn hóa truyền thống Việt
- 107 -

11.8 Page 108

▲back to top
Nam vốn khép kín trong phạm vi quốc gia và làng xã đã rơi vào sự biến
động giá trị mạnh mẽ, tạo nên 30 thói xấu (phi giá trị) trong đời sống văn
hóa Việt Nam đương đại (Trần Ngọc Thêm, 2021, tr. 457-458, Bảng 2).
Bảng 2: Các phi giá trị trong đời sống văn hóa Việt Nam đương đại
Đặc trưng
Các PHI GIÁ TRỊ phái sinh
I- Tính cộng đồng làng xã
1. Thói dựa dẫm, ỷ lại; 2. Thói cào
bằng, đố kỵ; 3. Bệnh hẹp hòi, ích kỷ,
bè phái; 4. Bệnh sĩ diện, háo danh;
5. Bệnh thành tích; 6. Bệnh phong
trào; 7. Bệnh hình thức; 8. Bệnh nói
xấu sau lưng; 9. Bệnh vô cảm, chặt
chém; 10. Tật ham vui, thích “tám”;
11. Bệnh triệt tiêu cá nhân
II- Tính trọng âm
1. Bệnh thụ động, khép kín, bảo
thủ; 2. Bệnh chậm chạp lề mề; 3.
Bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn; 4.
Bệnh đối phó; 5. Bệnh thiếu bản
lĩnh, tự ti, nhu nhược, yếu đuối; 6.
Bệnh sùng ngoại; 7. Bệnh hám lợi
III- Tính ưa hài hòa
IV- Tính kết hợp
V- Tính linh hoạt
1. Bệnh đại khái xuề xòa; 2. Bệnh dĩ
hòa vi quý; 3. Bệnh nước đôi, thiếu
quyết đoán; 4. Bệnh trung bình
chủ nghĩa
1. Bệnh hời hợt, thiếu sâu sắc; 2.
Bệnh chủ quan, kiêu ngạo; 3. Bệnh
sống bằng quan hệ
1. Thói tùy tiện, cẩu thả; 2. Bệnh
thiếu ý thức pháp luật; 3. Thói
khôn vặt, láu cá
VI- Phi giá trị tổng hợp
1. Bệnh giả dối, nói không đi đôi
với làm; 2. Tật ăn cắp vặt
Bước 3 - Kê đơn: Xác định mục tiêu kỳ vọng của hệ giá trị định
hướng. Căn cứ vào kết quả chẩn bệnh ở bước 2 mà đề xuất phương châm
chữa bệnh, tức là xác định mục tiêu kỳ vọng của hệ giá trị định hướng.
- 108 -

11.9 Page 109

▲back to top
Nếu bệnh nhẹ thì đã không phải đặt ra vấn đề chữa bệnh. Sự biến
động mạnh của hệ giá trị và sự vượt trội về số lượng phi giá trị so với giá
trị (30/23) ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi xác định mục tiêu kỳ vọng của
hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn mới phải hướng đến việc xây dựng,
biến đổi hệ giá trị ở mức tối đa mới có thể giúp khắc phục được các
nhược điểm. Không phải ngẫu nhiên mà mọi văn bản của Trung ương
đều dùng cụm từ “xây dựng và phát triển”: “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII, 1998); “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (Nghị quyết
Trung ương số 33 ngày 09/6/2014); “Kết luận số 76 về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 33 ngày 09/6/2014 về Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (ngày
04/6/2020).
Bước 4 - Bốc thuốc: Xác lập danh sách các giá trị định hướng mong
ước hiện diện trong tương lai có thể giúp khắc phục các điểm yếu hiện
tại.
Ba nguyên tắc “Dân tộc - Khoa học - Đại chúng” mà “Đề cương về
văn hóa Việt Nam” năm 1943 đề ra chính là một hệ giá trị định hướng
cho phép khắc phục ba nhược điểm “Lố lăng, lai căng, thiếu tính dân
tộc”; “Duy tâm, thần bí, thiếu óc khoa học”; và “Chỉ hướng vào tầng lớp
quyền quý, xa rời quần chúng” của văn hoá hợp pháp Việt Nam lúc bấy
giờ mà Tổng Bí thư Trường Chinh đã chỉ ra.
Với hệ giá trị Việt Nam hiện tại, nghiên cứu của chúng tôi bằng
phương pháp định lượng kết hợp với định tính cho phép xác lập danh
sách 15 giá trị tinh hoa cần bổ sung và phát triển (Trần Ngọc Thêm,
2021, tr. 458-459). Tổng hợp các giá trị tinh hoa cần bổ sung và phát triển
này cùng với các giá trị phổ biến và các giá trị truyền thống đang được
bảo tồn, sau khi loại trừ các giá trị trùng lặp, chúng tôi thu được Hệ giá
trị định hướng cốt lõi toàn diện gồm 35 giá trị (Trần Ngọc Thêm, 2021,
tr. 488-490).
Để đảm bảo tinh gọn, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ vận dụng, hệ giá trị
Việt Nam hiện tại cần được tinh lọc để rút ra một Hệ giá trị định hướng
cốt lõi trọng điểm. Ở Việt Nam hiện nay, Hệ giá trị định hướng cốt lõi
trọng điểm mà chúng tôi xác lập gồm 10 giá trị, bao quát hai lĩnh vực
tối thiểu là xã hội và cá nhân, chia thành năm nhóm, trong đó có 2 giá
trị xã hội phổ biến (là Dân chủ Pháp quyền) và 8 giá trị cá nhân, gồm
2 giá trị con người truyền thống điển hình cần bảo tồn (là Yêu nước
- 109 -

11.10 Page 110

▲back to top
Nhân ái), 2 giá trị con người thời hội nhập mà người Việt Nam còn thiếu
(là Trung thực Bản lĩnh), 2 giá trị con người trong quan hệ với đồng
loại mà người Việt Nam còn thiếu (là Trách nhiệm Hợp tác), 2 giá trị
con người trong thời đại công nghiệp và kinh tế tri thức mà người Việt
Nam còn thiếu (là Tính khoa học Sáng tạo) (Trần Ngọc Thêm, 2021,
tr. 494-495). Mười giá trị này sẽ giúp khắc phục các phi giá trị như Bệnh
thiếu ý thức pháp luật; Bệnh giả dối; Bệnh thành tích, bệnh phong trào;
Thói dựa dẫm; Bệnh bè phái; Thói khôn vặt, láu cá…
4. Con đường xây dựng hệ giá trị văn hóa - con người Đồng Nai
Trong quy trình xây dựng hệ giá trị văn hóa - con người, khâu mang
tính quyết định là bước 2 “Chẩn bệnh”: Nghiên cứu thực trạng biến
đổi của hệ giá trị truyền thống trong giai đoạn hiện tại để xác định các
điểm yếu (phi giá trị) phái sinh làm căn cứ để đề xuất các giải pháp cải
thiện chúng. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày
24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở là “chúng ta...
cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém” để tìm ra
nguyên nhân và giải pháp khắc phục” (Nguyễn Phú Trọng, 2022, tr. 166).
Vậy những chỗ yếu kém của Đồng Nai là gì?
Tuy là một tỉnh thuộc khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và đã
đạt được một số thành tựu quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đô thị hóa, nhưng Đồng Nai cũng như tất cả các địa
phương khác, kể cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, chưa thoát ra khỏi bản
chất nông nghiệp, nông thôn và nông dân - nguồn gốc phái sinh của 30
phi giá trị đã nêu trong Bảng 2. Tuy nhiên, cái khó, cái quan trọng không
phải là ở những điểm yếu chung, mà là ở việc xác định những hạn chế
đặc thù của riêng xã hội và con người Đồng Nai.
Trong dự thảo Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI
về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai, phần nói
về những tồn tại, hạn chế dài 245 chữ trong 8 câu phần lớn tập trung
vào những hạn chế về nghiệp vụ văn hóa, tức là về văn hóa theo nghĩa
hẹp. Về văn hóa tinh thần, tính cách, con người thì chỉ có hai câu: “Môi
trường văn hóa ở một số nơi chưa lành mạnh; đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân có biểu hiện suy thoái, xuống
cấp” “Chỉ số phát triển con người có nơi chưa cao” (Tỉnh ủy Đồng Nai,
2023). Dự thảo Nghị quyết chưa chỉ ra được những hạn chế đặc thù của
riêng xã hội và con người Đồng Nai. Mà chưa thấy được những hạn chế
đặc thù của riêng mình, chỉ nói đến những hạn chế chung chung giống
như những địa phương khác của cả nước là không bắt trúng bệnh, không
- 110 -

12 Pages 111-120

▲back to top

12.1 Page 111

▲back to top
kê được đơn thuốc hiệu quả, không bốc được đúng những vị thuốc phù
hợp để tạo ra nguồn lực giúp Đồng Nai phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững.
So sánh với những địa phương khác của Nam Bộ nói chung và Đông
Nam Bộ nói riêng trong một cái nhìn thoáng qua, có thể thấy Đồng Nai
có hai hạn chế cơ bản: Thứ nhất, trong lịch sử, Đồng Nai đã từng là vùng
đất địa đầu của cả miền Nam Bộ, địa danh “Đồng Nai” đã từng là tên
gọi chung cho cả Nam Bộ, Đồng Nai đã từng có ưu thế vượt trội để phát
triển, song thế mạnh vượt trội này đã bị bỏ lỡ. Thứ hai, trong thời hiện
đại, Đồng Nai đã bị Bình Dương vượt qua; Đồng Nai chưa có được những
nhà lãnh đạo với bản lĩnh mạnh mẽ, quyết liệt như Nguyễn Văn Linh, Võ
Văn Kiệt ở TP. Hồ Chí Minh những năm 1980, hay như Mai Thế Trung ở
Bình Dương những năm 2000.
Do chưa xác định được đúng và trúng những hạn chế đặc thù cho
nên trong phần viết về Quan điểm của dự thảo “Nghị quyết của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn
hóa, con người Đồng Nai” nêu lên 4 đặc trưng của giá trị văn hóa, con
người Đồng Nai (là nhân văn, sáng tạo, khoa học, dân chủ) và 14 đức
tính cơ bản của con người Đồng Nai thời đại mới (là yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, bao dung, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, trí tuệ, hiện
đại, chuyên nghiệp, bản lĩnh, tinh tế, thủy chung) cũng đều là những
đặc trưng và đức tính chung không khác các địa phương khác. Ngoài ra,
trong dự thảo Nghị quyết này, “văn hóa” và “con người” luôn được phân
cách với nhau bằng một dấu phẩy. Mà như chúng tôi đã nói ở mục 1,
“giá trị con người” là một bộ phận của “giá trị văn hóa”, “văn hóa” là sản
phẩm của “con người” và phục vụ “con người”; do vậy “văn hóa” không
thể tách rời khỏi “con người”.
Kết luận
Để xác định được một hệ giá trị văn hóa mang tính đặc thù cho
Đồng Nai, không chung chung, không trùng lặp với các địa phương
khác và đem lại hiệu quả thiết thực, tỉnh nên gấp rút thực hiện một đề
tài khoa học nghiên cứu hệ giá trị văn hóa - con người Đồng Nai với 4
nhiệm vụ chính tương ứng với 4 bước trong Quy trình xây dựng hệ giá
trị văn hóa - con người mà chúng tôi đã nêu ở mục 3, từ đó mới có cơ sở
khách quan để xác định được một hệ giá trị văn hóa - con người mang
tính đặc thù cho Đồng Nai, tạo ra nguồn lực giúp Đồng Nai phát triển
kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
- 111 -

12.2 Page 112

▲back to top
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, 464 tr.
2. Nhiều tác giả (2020), Trường Chinh - Một trí tuệ lớn, nhà lãnh
đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
950 tr.
3. Tỉnh ủy Đồng Nai (2023). Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh khóa XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai
trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (Dự thảo).
4. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: Cái
nhìn hệ thống - loại hình. Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 670 tr. (tái bản vào các
năm 1997, 2001, 2004; bản dịch tiếng Pháp của Nxb. Thế giới năm 2001,
2006, 2008; bản dịch tiếng Trung của Asia International Spread xuất
bản tại Đài Nam năm 2019; bản dịch tiếng Anh của Nxb. Thế giới năm
2021, 2022).
5. Trần Ngọc Thêm (2021), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại. Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 598 tr. (xuất bản lần 1 tại Nxb.
Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh năm 2016; 589 tr. (xuất bản lần 2 tại
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật năm 2017; bản dịch tiếng Lào của Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật năm 2019).
- 112 -

12.3 Page 113

▲back to top
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
GẮN VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ở TỈNH ĐỒNG NAI
PGS. TS Đặng Văn Bài(1)
1. Nhận thức mới về di sản văn hóa
Xét về bản chất, vấn đề bảo tồn di sản văn hóa (DSVH) thể hiện ở
nhận thức về giá trị di sản và cách thức duy trì các giá trị đó phục vụ cho
các nhu cầu thiết yếu của con người hôm nay và mai sau.
Nhận thức về DSVH là một quá trình đổi mới sáng tạo liên tục mà
không chỉ dựa vào các nguyên tắc, lý thuyết bảo tồn, quản lý di sản mang
tính “khuôn vàng thước ngọc” buộc phải tuân thủ một cách rập khuôn.
Ngược lại, các vấn đề liên quan tới DSVH cần được tiếp cận theo những
cách nhìn mới mẻ và phong phú để làm rõ tính hữu ích của di sản cho
con người ở hiện tại, đồng thời cũng xác định rõ vai trò của di sản trong
tương lai. Vậy có thể hiểu, đổi mới sáng tạo trong bảo tồn DSVH đặt ra
yêu cầu phải có những ý tưởng mới, cách tiếp cận độc đáo để giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra. Từ các ý tưởng mang tính sáng tạo như
thế con người sẽ tìm ra giải pháp thích hợp để tạo lập các sản phẩm
hàng hóa thỏa mãn nhu cầu phát triển của xã hội. Câu hỏi cần được lý
giải là: Di sản đến từ quá khứ nhưng có phải hoàn toàn là quá khứ hay
còn mang hơi thở của thời đại? Thứ nữa, phải làm gì và bằng cách nào,
người đương thời không chỉ sử dụng và phát huy với hiệu quả cao nhất
các giá trị DSVH của quá khứ mà còn làm gia tăng các mặt giá trị đó cho
các thế hệ tương lai?
Vậy, DSVH dù đến từ quá khứ nhưng đồng thời cũng là sản phẩm
của hiện đại, được tạo ra hay được thừa nhận, bởi cảm nhận của con
(1) Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, nguyên Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- 113 -

12.4 Page 114

▲back to top
người hôm nay về các giá trị do quá khứ truyền lại trong mối lo toan,
trăn trở về sự tồn tại và phát triển của hiện tại và tương lai. Lý thuyết bảo
tồn hiện đại coi tính hữu ích là yếu tố hàng đầu quyết định sự trường
tồn của DSVH.
1.1. DSVH có tính hữu ích nên được thừa nhận là “nguồn vốn” cho
phát triển
DSVH là một bộ phận cấu thành môi trường sống của con người, vì
trong DSVH luôn có hai yếu tố quan trọng là cảnh quan thiên nhiên kết
hợp với yếu tố sáng tạo của con người để tạo thành hợp thể giữa thiên
tạo và nhân tạo. Từ đó, DSVH góp phần tạo lập môi trường xã hội lành
mạnh - yếu tố cần thiết cho phát triển bền vững.
DSVH có khả năng thực hiện các chức năng cơ bản của văn hóa là
nhận thức và giáo dục bởi vì nó hàm chứa lượng thông tin trí tuệ / tri
thức bản địa và những bài học lịch sử từ quá khứ. Qua chức năng nhận
thức và giáo dục, DSVH góp phần tích cực vào việc điều chỉnh hành vi
con người theo hướng chân - thiện - mỹ và phát triển nguồn nhân lực
có chất lượng trí tuệ phục vụ nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế ở
thế kỷ 21.
Cuối cùng, DSVH với tính hữu ích của mình có khả năng bổ sung
làm gia tăng giá trị kinh tế của tất cả các sản phẩm văn hóa cũng như các
loại hàng hóa trong kinh tế thị trường. Giá trị văn hóa làm nên thương
hiệu, sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của sản phẩm văn hóa (cụ thể
nhất là sản phẩm du lịch).
1.2. Bảo tồn DSVH phải đặt con người vào trung tâm của các mặt
hoạt động
Đặc trưng của văn hóa là sự sáng tạo và phát minh, sáng chế. Trong
nội hàm khái niệm sáng tạo và phát minh luôn hàm chứa những giá
trị mới về vật chất và tinh thần. DSVH có sự tích hợp, hàm chứa những
sáng tạo và phát minh dưới dạng các giá trị hữu ích cho con người và sự
phát triển toàn diện của con người. Vậy, giá trị là thuộc tính của di sản
và tính hữu ích là bản chất quyết định các sự vật, hiện tượng đến từ quá
khứ có được thừa nhận là DSVH hay không. Giá trị và tính hữu ích của
DSVH thể hiện qua hàm lượng thông tin tích hợp trong DSVH. Do đó,
thông tin có trong DSVH cũng được thừa nhận là một loại nguồn lực
quan trọng cho phát triển.
Từ quan điểm nêu trên, người ta nhìn nhận lại các tiêu chí xác định
sự phát triển. Trong thế kỷ 21, phát triển không chỉ là sự tăng trưởng về
- 114 -

12.5 Page 115

▲back to top
kinh tế dựa trên chỉ số tăng trưởng GDP. Ngược lại, thước đo sự phát
triển phải là khả năng của trạng thái phát triển đáp ứng nhu cầu phát
triển toàn diện của con người cả về vật chất lẫn tinh thần: Khả năng và
cơ hội sáng tạo, khả năng hợp tác với người khác, khả năng thích ứng
với các điều kiện tự nhiên và xã hội… Do đó, việc bảo tồn bền vững
DSVH phải gắn với phát triển, không chỉ nhằm vào mục tiêu tăng trưởng
kinh tế mà ngược lại, phải hướng tới yêu cầu phát triển của cộng đồng ở
các mặt: (1) nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò và giá trị của
DSVH; (2) nâng cao năng lực cộng đồng và tạo cơ hội cho cộng đồng tiếp
cận trực tiếp và hưởng thụ các giá trị DSVH; (3) khuyến khích cộng đồng
tự nguyện và chủ động tham gia các hoạt động bảo tồn DSVH; (4) bảo
đảm các điều kiện pháp lý và khoa học để giao quyền cho cộng đồng lựa
chọn và đưa ra quyết định về bảo tồn DSVH.
Trong các sách hướng dẫn thực hiện Công ước năm 1972 về bảo tồn
DSVH và thiên nhiên thế giới, cũng như Công ước năm 2003 về bảo tồn
DSVH phi vật thể, UNESCO luôn khuyến khích xu hướng: Bảo tồn DSVH
trong cộng đồng, dựa hẳn vào cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng.
Qua những điều trình bày ở trên có thể khẳng định, bảo tồn bền
vững DSVH là tạo lập và duy trì sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
Bảo tồn DSVH phải gắn với / và phục vụ các mục tiêu phát triển, không
cản trở phát triển, nhưng cũng dứt khoát không thể vì mục tiêu phát
triển mà có các hành vi gây hại, làm suy giảm giá trị DSVH. Ngược lại,
phát triển phải dựa căn bản trên nền tảng bảo tồn DSVH, đồng thời tạo
thêm nguồn lực để bảo tồn DSVH có hiệu quả xã hội cao hơn.
2. Di sản văn hóa là nguồn lực cho phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa
Trong chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, Chính phủ đã
đặt ra 4 mục tiêu lớn: (1) xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại, yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 và những tác động to lớn với kinh tế, xã hội và
con người của thiên nhiên, dịch bệnh, khủng hoảng…; (2) xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Không
ngừng nâng cao đời sống tinh thần của Nhân dân, từng bước thu hẹp
khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa
các vùng miền, các đối tượng chính sách và yếu thế, chú trọng phát triển
văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; (3) hoàn thiện cơ chế thị trường
trong lĩnh vực văn hóa gắn với nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa
- 115 -

12.6 Page 116

▲back to top
có tiềm năng, lợi thế; (4) có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân
tài, huy động nguồn lực để phát triển văn hóa, con người.
Phải thừa nhận, DSVH có liên quan chặt chẽ tới việc thực hiện cả
bốn mục tiêu lớn đặt ra trong chiến lược phát triển văn hóa, đặc biệt là
mục tiêu số ba gắn với yêu cầu phát triển “một số ngành công nghiệp
văn hóa có tiềm năng, lợi thế”, trong đó du lịch văn hóa là một lĩnh vực
có ưu thế vượt trội.
Đây là một bước đột phá trong nhận thức, từ chỗ văn hóa chỉ được
coi là lĩnh vực tư tưởng, tinh thần, giờ đây, giá trị kinh tế được nhận thức
đầy đủ hơn, các tác phẩm văn hóa / sản phẩm văn hóa trở thành “hàng
hóa đặc biệt” được sản xuất, lưu thông, phân phối trên “thị trường văn
hóa”. Các ngành công nghiệp văn hóa thể hiện rõ xu hướng kinh tế và
văn hóa thấm sâu và đan xen lẫn nhau, là sự kết hợp các yếu tố chính:
Sáng tạo, cơ sở hạ tầng và công nghệ sản xuất hiện đại, từ đó sản sinh ra
các sản phẩm văn hóa mang lại lợi ích kinh tế. Đó cũng là một quy trình
khép kín gồm toàn bộ các hoạt động để đưa một sản phẩm hoặc dịch
vụ từ khi hình thành ý tưởng, thông qua các khâu trung gian sản xuất
đến phân phối tới tay khách hàng. Qua mỗi khâu, giá trị được gia tăng
vào sản phẩm ban đầu thành chuỗi các giá trị có tính liên hoàn của sản
phẩm văn hóa để phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của con người.
Từ quan điểm tiếp cận phân tích ở trên chúng ta thấy rõ, du lịch văn
hóa chính là ngành công nghiệp văn hóa có lợi thế nhất của Việt Nam.
Du lịch văn hóa không chỉ đóng góp doanh thu lớn cho nền kinh tế, mà
còn có khả năng thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa khác (quảng
cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi, giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết
kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp
ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh) cùng phát triển làm nên
sức mạnh mềm về văn hóa của Việt Nam. Có thể nhận rõ những đóng
góp to lớn của du lịch văn hóa vào quá trình phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế ở các khía cạnh: (1) du lịch văn hóa góp phần bảo tồn, phát
huy và làm giàu các giá trị DSVH độc đáo của Việt Nam; (2) du lịch văn
hóa sản xuất các sản phẩm văn hóa có hàm lượng trí tuệ thỏa mãn nhu
cầu hưởng thụ văn hóa phong phú và đa dạng của cộng đồng xã hội; (3)
du lịch văn hóa là phương tiện hữu hiệu để quảng bá văn hóa và ngoại
giao văn hóa để xây dựng hình ảnh tốt đẹp của Việt Nam trong lòng bạn
bè quốc tế; (4) phát triển du lịch văn hóa là hướng tới mục tiêu xây dựng
và định vị thương hiệu du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- 116 -

12.7 Page 117

▲back to top
Các nhà kinh tế học quan niệm rất rõ về khái niệm thị trường “đó
là nơi mua bán hàng hóa, là một quá trình trong đó người mua và người
bán một thứ hàng hóa nào đó tác động qua lại nhau để xác định giá cả,
số lượng hàng hóa, là nơi diễn ra các hoạt động mua bằng tiền trong một
không gian và thời gian nhất định”. Du lịch văn hóa với tư cách là một
ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt khi gia nhập thị trường cũng phải
sẵn sàng trả lời ba câu hỏi là: (1) Sản xuất hay cung cấp cho thị trường
những loại sản phẩm gì? (2) Bằng phương thức nào hay dùng công nghệ
gì để có thể sáng tạo các sản phẩm du lịch có chất lượng cao nhất, mang
giá trị kép cả về tinh thần và giá trị kinh tế? (3) Sản phẩm đó với tư cách
là loại hàng hóa đặc thù sẽ cung cấp hay bán cho ai, đâu là đối tượng
cần ưu tiên?
Du lịch văn hóa là ngành kinh tế tổng hợp, về bản chất, nó phải
thiên về hiệu quả kinh tế được lượng hóa bằng tiền / tỷ trọng đóng góp
vào GDP quốc gia. Mặt khác, sản phẩm du lịch văn hóa được thừa nhận
là loại “hàng hóa đặc thù” mang giá trị kép, do đó trong sản phẩm nhất
thiết phải có hàm lượng văn hóa mang chất lượng trí tuệ cao. Thực tế
cho thấy, hàm lượng văn hóa cao bao giờ cũng góp phần tạo nên giá trị
gia tăng về mặt kinh tế và chính hàm lượng văn hóa/bản sắc văn hóa là
hạt nhân làm nên sức hấp dẫn của một sản phẩm du lịch.
Đến đây có thể rút ra một luận đề: DSVH (di tích lịch sử - văn hóa)
là nguồn lực cho phát triển công nghiệp văn hóa nhưng chưa phải là
sản phẩm du lịch. DSVH phải được cộng hưởng với công nghệ du lịch
(do các nhà khoa học, các doanh nghiệp du lịch sáng tạo ra) mới trở
thành sản phẩm du lịch - loại hàng hóa đặc thù có thể tham gia kinh tế
thị trường.
3. Một số khuyến nghị với tỉnh Đồng Nai
Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (Khóa XI) lần thứ
10 cho biết, năm 2022 tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt cao nhất Đông
Nam Bộ, ước tính khoảng 9,22% vượt mục tiêu nghị quyết đề ra. Tổng
thu cân đối ngân sách của tỉnh ước đạt 62.855 tỷ đồng, đạt 114% so với
dự toán, thu nhập bình quân đầu người năm 2022 là 133,6 triệu đồng,
tăng 9,9% so với năm trước. Đây là tín hiệu đáng mừng và đáng tự hào
cho Nhân dân Đồng Nai.
Tuy nhiên vẫn cần đặt ra một câu hỏi then chốt gắn với chủ đề của
hội thảo là, Đồng Nai cần phải làm gì để phát huy lợi thế về DSVH của
tỉnh nhà để phát triển công nghiệp văn hóa, góp phần nhiều hơn nữa
vào tăng trưởng GRDP của tỉnh trong những năm tiếp theo. Nhân diễn
- 117 -

12.8 Page 118

▲back to top
đàn hội thảo khoa học này, chúng tôi xin đề xuất một số khuyến nghị
sau đây.
Thứ nhất, xác định rõ lợi thế về DSVH so với các tỉnh miền Đông
Nam Bộ để có giải pháp về chiến lược bảo tồn gắn với phát triển bền
vững. Là một thành phố / đô thị công nghiệp hình thành và phát triển
bên cạnh một dòng sông văn hóa nổi tiếng là sông Đồng Nai, chúng ta
phải biết trân quý nó với tư cách là loại tài nguyên nước vô cùng quan
trọng cho sự sinh tồn và phát triển của con người vì tài nguyên nước liên
quan tới biến đổi khí hậu, đặc biệt là an ninh nguồn nước. Các học giả
nổi tiếng trên thế giới đều khẳng định các dòng sông là nguồn sống còn
biển cả, là sinh mệnh của các quốc gia. Tuy nhiên thái độ ứng xử văn
hóa của chúng ta với các dòng sông chưa đúng theo các chuẩn mực về
đạo đức môi trường (Đồng Nai cũng ở trong xu hướng đó). Môi trường
nước hiện đang rơi vào tình trạng ô nhiễm khá nghiêm trọng, đáng báo
động do nước thải công nghiệp và sinh hoạt, do khai thác cát trái phép,
do lấn sông để xây dựng…
Mặt khác, các dòng sông và đôi bờ các dòng sông bao giờ cũng tạo
ra những cảnh quan văn hóa hấp dẫn. Đó chính là nguồn lực cho phát
triển du lịch. Vậy trong chiến lược phát triển thành phố Biên Hòa vấn
đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ sông Đồng Nai đoạn chảy qua
thành phố (cùng trong mối liên kết với các tỉnh bạn đang phát triển trên
lưu vực sông Đồng Nai) là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Thứ hai, Đồng Nai là một tỉnh hội tụ những sắc màu văn hóa / bề
dày lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó cũng là vùng đất lành
chim đậu và là quê hương thứ hai cho nhiều người con xa xứ. Đặc điểm
đó làm cho Đồng Nai luôn cởi mở, sẵn sàng tiếp nhận cư dân đến từ
khắp mọi miền đất nước, đồng thời trở thành một tỉnh năng động và
đổi mới. Theo thống kê năm 2013, ngoài 4 dân tộc thiểu số sống lâu đời
(Chơro, Mạ, STiêng và Cơ Ho) Đồng Nai còn là nơi tụ cư của người Kinh,
Tày, Nùng, Dao, Thái, Mường, Hà Nhì, Sán Chay… Thực tế đó làm nên
tính đa dạng và phong phú của Đồng Nai về DSVH. Đó là kết quả của
325 năm giao lưu văn hóa sống động, tạo nên nét đặc trưng của vùng
văn hóa Đồng Nai.
Trước hết phải kể đến các di tích khảo cổ học từ thời tiền, sơ sử đến
ngày nay mà điển hình nhất là mộ Cự thạch Hàng Gòn (phát hiện năm
1927) và hàng loạt các di chỉ khảo cổ học liên quan tới Vương quốc Phù
Nam hay văn hóa Óc Eo nổi tiếng.
- 118 -

12.9 Page 119

▲back to top
Thứ nữa là các làng cổ của tỉnh Đồng Nai với ba địa danh rất nổi
tiếng: (1) làng Bến Gỗ xã An Hoà, thành phố Biên Hòa, nơi đã tìm thấy
dấu vết của nhiều nền văn minh đã đến sinh cơ lập nghiệp suốt từ thời
kỳ đồng thau đến nay; (2) làng Bến Cá, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, nổi
danh với hàng loạt các tên chợ, phố, cầu, trong đó chợ Bình Thảo nức
tiếng gần xa. Tuy nhiên, ngày nay, làng Bến Cá thường được nhắc đến
với thương hiệu bưởi Tân Triều; (3) làng Hòa Hiệp (Cù lao Phố) - thương
cảng cổ bị lãng quên được hình thành bởi một khúc quanh của sông
Đồng Nai chia ra hai nhánh ôm trọn dải đất phù sa bồi thành một đảo
nhỏ với diện tích 694,649ha. Làng cổ này gắn với công cuộc khai khẩn và
phát triển của Trần Thượng Xuyên.
Ba làng cổ nói trên có đặc trưng là còn lưu giữ được không gian văn
hóa tiêu biểu (cảnh quan sinh thái - các thiết chế văn hóa - làng nghề, lễ
hội truyền thống…).
Cuối cùng là, các di tích lịch sử - văn hóa với những thiết chế văn
hóa tiêu biểu như: Văn miếu Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, căn
cứ Khu ủy miền Đông Nam Bộ, Chiến khu Rừng Sác, nhà lao Tân Hiệp…
Điều cần nói ở đây là, DSVH, tài nguyên du lịch của Đồng Nai rất
giàu có và đa dạng, tuy nhiên chúng ta chưa có những quyết sách hoặc
chiến lược để kiến tạo tài nguyên thành sản phẩm, hàng hóa có giá
trị gia tăng cả về kinh tế lẫn văn hóa để tương xứng với yêu cầu phát
triển của tỉnh Đồng Nai nói chung và thành phố công nghiệp Biên Hòa
nói riêng. Cũng có thể hiểu đó là sự lãng phí tài nguyên cần sớm được
khắc phục.
Thứ ba, tạo cơ chế phối hợp liên ngành để huy động nguồn lực tổng
hợp cho phát triển du lịch văn hóa với tư cách là một ngành công nghiệp
văn hóa “động lực”.
Muốn phát triển du lịch, trước hết phải tập trung đầu tư cho việc
bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa với tư cách là loại tài
nguyên du lịch quan trọng hàng đầu. Từ trước đến nay chưa có một dự
án liên ngành giữa DSVH và du lịch. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng thiếu vắng các sản phẩm du lịch hoàn chỉnh hoặc một chuỗi sản
phẩm liên hoàn mang giá trị kép như phân tích ở trên. Ngành DSVH
bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa cũng là góp phần quan trọng bảo vệ tài
nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch / DSVH được bảo vệ tốt đến đâu vẫn
- 119 -

12.10 Page 120

▲back to top
chỉ là dạng tài nguyên mà chưa phải là sản phẩm đầu ra. DSVH phải
được cộng hưởng thêm dịch vụ văn hóa do ngành du lịch sáng tạo mới
trở thành sản phẩm tham gia thị trường. Vậy phát triển công nghiệp du
lịch yêu cầu phải thực hiện các dự án có tính liên ngành.
Để tạo cơ hội hưởng thụ văn hóa thuận lợi nhất, chúng ta không thể
khai thác các sản phẩm đơn lẻ mà phải xây dựng một chuỗi sản phẩm
có chung một sắc thái văn hóa. Ví dụ chuỗi sản phẩm du lịch gắn với các
di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến: Chiến khu miền Đông (Chiến
khu Đ) - Nhà lao Tân Hiệp - Chiến khu Rừng Sác. Cao hơn nữa là các
tour, tuyến du lịch kết nối liên tỉnh: Chiến khu miền Đông (Đồng Nai) -
Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh) - di tích Địa đạo Củ Chi
(Thành phố Hồ Chí Minh).
Mô hình hợp tác công - tư trong bảo tồn DSVH và phát triển du lịch
văn hóa đã trở nên khá phổ biến trên thế giới. Đó là cách Nhà nước mở
rộng không gian tự do cho kinh tế tư nhân tham gia và quá trình phát
triển của đất nước và hội nhập quốc tế. Tôi nghĩ rằng, kinh tế tư nhân
rất năng động và có khả năng thích ứng cao với kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, kinh tế tư nhân còn là phương
tiện để phát triển con người, tạo cơ hội cho các cá nhân phát huy tối ưu
năng lực tư duy và sáng tạo. Kinh tế tư nhân có khả năng dự báo các loại
sản phẩm mà thị trường yêu cầu và luôn thích ứng để làm mới các sản
phẩm đang có. Mô hình hợp tác công - tư do Công ty Tùng Lâm đang
thực hiện tại khu di tích và danh thắng Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh và Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường áp dụng tại Tràng
An - khu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của tỉnh Ninh Bình cũng
là bài học kinh nghiệm đáng quý cần được nhân rộng.
Tôi cho rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng bảo đảm
sự bền vững cho hai mô hình trên là: Cả hai doanh nghiệp nói trên đều
quan tâm thỏa đáng tới việc cải thiện sinh kế của cộng đồng cư dân cư
trú trong di sản và Nhà nước cũng có cơ chế phù hợp để tháo gỡ tắc
nghẽn và phát huy năng lực của các doanh nghiệp tư nhân.
Tóm lại, DSVH đến từ quá khứ nhưng phải trở thành bộ phận hữu
cơ của hiện đại, mang lại lợi ích cho hôm nay và tiếp tục cần thiết cho
tương lai. DSVH nếu được bảo tồn theo đúng các nguyên tắc khoa học
sẽ trở thành nguồn lực có chất lượng cho phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa./.
- 120 -

13 Pages 121-130

▲back to top

13.1 Page 121

▲back to top
Tài liệu tham khảo
1. PGS.TS Đặng Văn Bài (2022), “Bảo tồn di sản văn hóa từ góc nhìn
phát triển”, Hướng tiếp cận giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn
di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà
Nội, tr15.
2. Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm
2030.
3. Website Báo Nhân dân: “Tăng trưởng GRDP của Đồng Nai cao
nhất Đông Nam Bộ”. Truy cập ngày 20/9/2023.
- 121 -

13.2 Page 122

▲back to top
PHÁT HUY NGUỒN LỰC VĂN HÓA
Ở ĐỒNG NAI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
PGS. TS Huỳnh Văn Tới(1)
Hội thảo này có ý nghĩa quan trọng, thiết thực trong việc góp phần
xây dựng dự thảo để Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (khóa XI)
ban hành Nghị quyết chuyên đề “Về xây dựng và phát huy giá trị văn
hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”.
1. Về quan điểm
Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy Đồng Nai cần quán triệt, bám sát
đường lối, quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Đảng từ Đề cương về
văn hóa Việt Nam (1943) đến Nghị quyết các Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng và Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ chín, (khóa XI)
về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước. Với nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng
hóa, khoa học hóa, văn hóa; nền văn hóa cách mạng Việt Nam được xây
dựng là nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy, hình
thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam; trong đó con
người (người lao động, đại chúng) là đối tượng phục vụ đồng thời chủ
thể của văn hóa. Văn hóa Việt Nam được xác định là nền tảng tinh thần
của xã hội, là động lực, đồng thời là mục tiêu của phát triển; văn hóa soi
đường cho quốc dân đi. Đến Nghị quyết số 33 về Xây dựng và phát triển
văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước, mục tiêu trước mắt và lâu dài vẫn là “xây dựng nền văn hóa Việt
(1) Ủy viên Hội đồng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
- 122 -

13.3 Page 123

▲back to top
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học”; bổ sung và nêu rõ quan điểm về xây dựng con người:
“Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng
con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc
tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo”(1).
Dự thảo Nghị quyết này cũng cần bám sát nhiệm vụ chính trị, thực
hiện cụ thể tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
(khóa XI); trong đó, phương hướng được nêu rõ: “Phát triển hài hòa giữa
kinh tế với văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi
khí hậu. Phát huy vai trò nền tảng của văn hóa, chăm lo con người, xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc; nâng cao phúc lợi xã hội và chất lượng
cuộc sống của Nhân dân. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao ở các lĩnh vực ưu tiên…”; mục tiêu tổng quát: “phát huy giá trị văn
hóa, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, ý chí và khát vọng phát triển; đẩy
mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tích cực, chủ
động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; khai thác và sử
dụng hiệu quả mọi nguồn lực; phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế; nâng
cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho Nhân dân…”. Theo phương hướng chung và mục
tiêu tổng tổng quát, Nghị quyết Đại hội lần thứ XI Đảng bộ tỉnh xác định
các nội dung quan trọng: “Phát triển văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục tương
xứng với phát triển kinh tế; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của Nhân dân. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Quan
tâm đầu tư trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử, cách mạng trên địa bàn;
công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Xây dựng nông thôn mới, đô
thị văn minh”(2).
Do vậy, nội dung của dự thảo Nghị quyết cần được xây dựng đúng
hướng, làm cho luận điểm trên giấy đi vào cuộc sống, phù hợp với đặc
điểm thực tế ở Đồng Nai.
(1) Văn kiện Đảng, Nghị quyết số 33 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam áp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
(2) Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI, 2020.
- 123 -

13.4 Page 124

▲back to top
2. Đặc điểm và bối cảnh
Đồng Nai là bộ phận máu thịt của cả nước nhưng có đặc điểm là
“địa kinh tế - chính trị - văn hóa”(1) trong vùng Đông Nam Bộ và vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam: Đa dạng sinh học, đa nguồn văn hóa, đa
thành phần hợp cư, đa tín ngưỡng tôn giáo, đa loại hình phát triển kinh
tế và tổ chức xã hội; có nhiều cơ hội để nhanh vươn đến mục tiêu phát
triển bền vững. Trong định hướng phát triển bền vững, cần phải huy
động tối đa nguồn lực cho phát triển của vùng Đông Nam Bộ(2), trong đó
xác định lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định; kết hợp hài
hòa với ngoại lực là quan trọng, đột phá; khẩn trương xây dựng, hoàn
thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên,
có tính đặc thù cho phát triển vùng. Theo tinh thần ấy, văn hóa cũng là
nguồn lực cần được huy động; trong văn hóa, con người là nguồn nhân
lực quan trọng nhất, cần được chú trọng.
Nguồn nhân lực để phát triển văn hóa ở Đồng Nai có đặc điểm là
đa nguồn cư dân, đa dòng mạch văn hóa. Trong 30 dân tộc chung sống
ở Đồng Nai, người Việt chiếm đa số với tỉ lệ hơn 90% dân số, tiếp đó là
người Hoa, Nùng, Chơro, Tày, Mường, Khmer, Chăm, Dao, Mạ, Xtiêng,
Mnông, Cơ Ho…; người Chơro, Mạ, Xtiêng, Mnông, Cơ Ho được xem
là cư dân tại chỗ. Quá trình hình thành cộng đồng dân tộc ở Đồng Nai
thực chất là quá trình hợp cư bởi các đợt di dân qua các thời kỳ. Từ đó,
cộng đồng dân cư làng xã và văn hóa nông thôn ở Đồng Nai có nét riêng.
Làng ở Đồng Nai là làng khai phá, phân bố theo tuyến sông nước, tuyến
lộ giao thông và tỏa rộng ở các vùng cao ráo gắn với nhiều hệ sinh thái:
Sông nước, vườn ruộng, núi rừng; không khép kín trong lũy tre làng,
tổ chức hành chính - xã hội đơn giản, không phân biệt ngụ cư, dễ tiếp
nhận thành viên mới và cũng dễ thay đổi cơ cấu. Trong mỗi làng thường
có nhiều họ khác nhau; nhiều người ngoài làng tới cùng khai phá, phụ
canh, làng trở nên cởi mở, đỡ bảo thủ và càng dễ canh tân nhờ các cuộc
hôn nhân khác họ cũng như các quan hệ giao lưu thường trực.
Chính tính chất hợp cư từ nhiều dân tộc, nhiều đợt di dân với mục
đích và lý do khác nhau đã hình thành sắc thái đa nguồn văn hóa ở Đồng
(1) Nhận xét của GS Trần Quốc Vượng tại hội thảo về Văn hóa dân gian ở Đồng Nai,
1997.
(2) Theo Nghị quyết 53/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 27/KL-TW
của Bộ Chính trị khóa XI về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở
vùng Đông Nam Bộ trong giai đoạn phát triển mới.
- 124 -

13.5 Page 125

▲back to top
Nai với đặc tính cởi mở, đa hệ, hỗn dung, dễ thâm nhập những nhân tố
mới nhưng khó phai mờ những yếu tố cội nguồn. Đó cũng là lý do giải
thích về những phong tục tập quán “nhân văn, rộng mở, truyền thống,
hiện đại” trong đời sống: Rất trân trọng tình cảm “đồng cảnh ngộ” tha
hương, nồi cơm luôn sẵn lòng đãi khách, lu nước ngọt luôn trong lành
và sẵn gáo dừa ở đầu bến hoặc ven đường, kiến trúc nhà ở luôn sẵn chỗ
cho người lỡ bước, kiểu nhà bè có sự tích gắn với Thủ Huồng... Đó cũng
là lý do giải thích lý do vì sao người Việt, người Hoa và các dân tộc khác
theo tín ngưỡng tôn giáo khác nhau dễ hội nhập, thuận thảo, chung
sống hòa bình trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Bối cảnh kinh tế xã hội ở Đồng Nai đủ “thiên thời - địa lợi - nhân
hòa”, giàu giá trị và tiềm năng, đang có nhiều di sản và lợi thế; giàu bản
sắc của vùng đất vốn được hình thành từ sự hội nhập, chan hòa, kết tinh,
chuyển hóa từ nhiều nhân tố, nhiều dòng mạch trong quá trình giao lưu
văn hóa và vận động phát triển; bản sắc ấy cũng chính là nguồn lực của
phát triển văn hóa ở khả năng giao lưu, kết tinh văn hóa từ nhiều dòng,
nhiều lớp, gìn giữ được yếu tố cốt lõi của cội nguồn, tiếp thu nhanh
tinh hoa văn hóa của nhân loại, phóng khoáng trong cư xử, khoan dung,
rộng mở trong sinh hoạt xã hội; năng lực ứng xử nhạy bén, dễ thích ứng
với cái mới, năng động linh hoạt trong phát triển, áp dụng nhanh tiến
bộ kỹ thuật, nhất là trong thời đại kỹ thuật số và cách mạng công nghiệp
lần thứ tư.
Nếu không phát huy được các nguồn lực này ắt sẽ là sự phát triển
khập khiễng như hai chân bám đất không đồng bộ, hoặc chậm tiến,
hoặc chệch hướng, hoặc không bản sắc, khó vươn đến mục tiêu phát
triển bền vững.
3. Khắc phục tồn tại và hạn chế
Trong thực tế, ở Đồng Nai, còn nhiều tồn tại, hạn chế cần phải nhận
diện để có giải pháp khắc phục, vượt qua.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh sôi động, mặt trái của
nó thu hút con người theo lợi ích riêng, văn hóa truyền thống bị biến
đổi, cá tính hiện đại xa rời truyền thống của cộng đồng, tệ nạn xã hội và
yếu tố phản văn hóa lan tràn, mạng xã hội và công nghệ thông tin thời
đại 4.0 tác động mạnh mẽ khiến việc học hành, rèn luyện, giải trí của
con người sa vào “ảo hóa” hơn là sáng tạo văn hóa.
Trong thực hiện đường lối, chủ trương về văn hóa còn nhiều vấn
đề bất cập: Sự bất tương thông giữa tư tưởng văn hóa - hoạt động văn
- 125 -

13.6 Page 126

▲back to top
hóa và giá trị văn hóa; phát huy chưa hết, chưa đồng bộ giữa các thành
tố văn hóa; bất liên thông văn hóa gia đình - nhà trường - xã hội; xuất
hiện các xu thế xa văn hóa, thực dụng hóa, thương mại hóa, thế tục hóa,
thị trường hóa, dị đoan hóa; chưa xây dựng, thực hành tiêu chí, chuẩn
mực về hệ giá trị văn hóa thống nhất và phù hợp; chưa đồng bộ trong
chính sách và thực thi giữa các khâu hưởng thụ văn hóa, sáng tạo văn
hóa, quảng bá cũng như trong chính sách đầu tư, quản lý, phát huy,
nhất là vai trò của cộng đồng; văn hóa cá nhân chưa là tiêu chí, chỉ tiêu,
trong mục tiêu phát triển, thể dục thể thao mới chỉ là phong trào rèn
luyện thân thể theo gương Bác Hồ, chưa là bộ phận quan trọng trong
chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Mỗi cơ quan, đơn vị chưa thật là đơn vị
văn hóa, chưa có môi trường văn hóa đúng nghĩa theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương. Tỉnh ủy Đồng Nai sớm có quy định về xây dựng văn
hóa trong Đảng nhưng việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ, hiệu quả
chưa rõ rệt.
4. Nội dung chủ yếu
Vậy nên, nội dung dự thảo Nghị quyết cần tập trung vào những vấn
đề trọng yếu.
Trước hết là tiếp thu ý kiến của dân và các nhân sĩ, trí thức. Nhiều
nội dung đã góp ý bằng nhiều hình thức: Xác định thật rõ, đúng và trúng
vai trò của nguồn nhân lực văn hóa, mục tiêu trước mắt và lâu dài trong
phát triển kinh tế xã hội ở Đồng Nai, ở từng kế hoạch, chương trình hành
động; đánh giá thực chất về thành tựu và hạn chế, việc đã làm được và
chưa làm được; giáo dục, tuyên truyền để nhận thức đúng, thống nhất
trong toàn dân, trước hết là trong Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể; chọn
lựa vấn đề chiến lược để tập trung lãnh đạo và tạo đột phá; làm cho giá
trị văn hóa tỏa sáng ở con người (không chỉ là thấm sâu); cốt lõi văn hóa
xây dựng ở con người là nhân cách; cốt lõi của nhân cách là chủ nghĩa
nhân văn của thế giới tiến bộ; Đảng lãnh đạo văn hóa bằng giá trị và
bằng tấm gương tiên phong, tự giác, gương mẫu của đảng viên; văn hóa
không chỉ thuộc trách nhiệm của ngành văn hóa mà của toàn dân và
toàn hệ thống chính trị; xây dựng, phát huy nguồn nhân lực văn hóa bao
gồm cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, tổ chức hoạt động xã hội.
Nhiều nội dung cần được chú trọng, tập trung lãnh đạo cho phù
hợp với thực tế ở Đồng Nai:
- Mỗi cơ sở Đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị, đoàn thể đều xây
dựng cụ thể chuẩn mực giá trị văn hóa thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế ở con người (cán bộ, công chức, đoàn viên, hội
- 126 -

13.7 Page 127

▲back to top
viên công dân, người tiếp dân) gắn với với nhiệm vụ, công việc và điều
kiện thực tế.
- Tạo môi trường và điều kiện để mỗi con người ở Đồng Nai phát
triển toàn diện với 13 phẩm chất (nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương
tâm, trách nhiệm) trong 5 mối quan hệ (với bản thân mình, với gia đình,
với cộng đồng, với xã hội, với đất nước).
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở mọi gia đình, cộng
đồng, khu dân cư, cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội phù hợp với
nhiệm vụ chính trị và bối cảnh phát triển kinh tế thị trường; gắn kết xây
dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái; đưa nội dung
giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo
dục của xã hội làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người
Việt Nam hoàn thiện nhân cách.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, nâng cao năng
lực cảm thụ thẩm mỹ cho con người, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên
để mỗi người đều biết khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích
cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia
đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo
dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân
rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha
mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn
kết, thương yêu nhau.
- Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa
giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối
sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ.
- Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn
hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa
tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao
chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
- 127 -

13.8 Page 128

▲back to top
- Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín
ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng
thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời, đẹp đạo”. Khuyến khích
các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, từ thiện,
nhân đạo.
- Tăng cường lãnh đạo thực hiện quy định về xây dựng văn hóa trong
toàn Đảng bộ(1), mỗi chi bộ đều tiêu biểu về đạo đức, văn minh; mỗi
đảng viên đều tự giác, tiên phong, gương mẫu; xem đó nhân tố quan
trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
- Chú trọng xây dựng văn hóa trong kinh tế; trước hết là ở các doanh
nghiệp, trong đó, đội ngũ doanh nhân, công nhân, người lao động thực
sự là chủ thể được phát triển toàn diện và có điều kiện để phát huy sáng
kiến, sáng tạo.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ và người lao động có đủ trình độ và kỹ
năng đối ngoại, chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, đưa
các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực;
tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, quảng bá hình ảnh của
đất nước và con người Đồng Nai.
- Trong quản lý, đào tạo, phát huy, phát triển nguồn nhân lực văn
hóa, cần nhận thức đầy đủ về nguồn nhân lực. Đó không phải chỉ là đội
ngũ gồm những người đang hoạt động trong ngành văn hóa, mà là tổng
thể tiềm năng đang có và cần có ở con người hướng về mục tiêu xác
định, trong đó bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, quản lý (cả quản lý nhà nước
và quản lý của cộng đồng), giám định, thẩm định và nghệ nhân.
Cho nên, cần đưa nội dung cơ sở văn hóa Việt Nam vào chương
trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp phù hợp đối tượng làm cho
hàm lượng văn hóa thấm sâu, tỏa sáng trong mọi lãnh đạo, quản lý ở
mọi lĩnh vực.
Về xây dựng và triển khai Nghị quyết, muốn đưa Nghị quyết vào
cuộc sống trước hết phải đưa cuộc sống vào Nghị quyết. Dự thảo nghị
quyết đã có nhiều lần lấy ý kiến, nhưng cần sâu rộng hơn, tiếp thu ý
kiến rộng rãi trong dân và tầm nhìn của nhân sĩ, trí thức. Khi Nghị quyết
ban hành, có việc lãnh đạo, triển khai thống nhất, đồng bộ, phù hợp đối
tượng, có kiểm tra, giám sát của dân gắn với nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
xã hội ở địa phương và đơn vị./.
(1) Qui định số 08-QĐ/TU ngày 11/10/2017.
- 128 -

13.9 Page 129

▲back to top
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI CHƠRO
Ở ĐỒNG NAI TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY
PGS. TS Lâm Nhân(1)
Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tỉnh Đồng Nai có tốc độ phát triển đô thị hóa và công nghiệp
hóa đạt mức cao, tốc độ phát triển kinh tế tăng nhanh góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Sự phát triển về kinh tế, xã
hội ấy luôn có ít nhiều sự đóng góp của giá trị văn hóa các tộc người thiểu
số tại chỗ, trong đó, văn hóa người Chơro là một ví dụ. Những năm gần
đây, bên cạnh sự phát triển mạnh về khoa học và kỹ thuật, mang lại đời
sống vật chất ổn định, các giá trị văn hóa của cư dân cũng dần thay đổi.
Người Chơro ở Đồng Nai (một trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cư trú
chủ yếu ở tỉnh Đồng Nai) cũng không nằm ngoài quy luật biến đổi. Bắt
nguồn từ những yếu tố biến đổi môi trường sống, hoạt động kinh tế, quá
trình giao lưu văn hóa với các tộc người khác. Trong quá trình xây dựng
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước, không thể tránh khỏi nguy cơ nhạt dần các giá trị văn hóa truyền
thống, xuất hiện các hệ giá trị văn hóa mới. Tuy nhiên, trong hội nhập và
giao lưu văn hóa, cần có nội lực, một nền tảng giá trị văn hóa vững bền
mới có thể tiếp thu được các tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nếu không,
không những không học được những giá trị tốt đẹp làm giàu cho văn hóa
truyền thống mà còn mất đi những giá trị truyền thống mà cha ông đã
dày công xây dựng. Bài viết tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống
của người Chơro trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, trong
công cuộc xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước.
(1) Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
- 129 -

13.10 Page 130

▲back to top
1. Mở đầu
Ở tỉnh Đồng Nai, người Chơro là một trong số những dân tộc thiểu
số sống lâu đời có dân số đông. Trong quá trình định cư, chung sống và
phát triển với các dân tộc tại địa bàn, người Chơro đã xác lập cho mình
một diện mạo kinh tế - văn hóa - xã hội khá rõ nét. Cùng với 53 dân
tộc anh em, người Chơro là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn
kết dân tộc, hội tụ và giao lưu văn hóa với các dân tộc để tìm ra mẫu số
chung là ổn định và phát triển cộng đồng của mình, góp phần xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, duy trì và giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam. Người
Chơro là một trong những tộc người thiểu số tại chỗ, sinh sống lâu đời ở
khu vực Đông Nam Bộ - khu vực có nhiều biến động về điều kiện sống
do chiến tranh. Người Chơro luôn phải di chuyển khu vực cư trú, các giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể bị mai một dần. Ngày nay, trong giai
đoạn giao lưu và hội nhập quốc tế, các giá trị văn hóa của người Chơro
đứng trước những thách thức trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa của dân tộc.
Nghiên cứu, tìm hiểu những biến đổi về văn hóa của người Chơro
trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết, cấp bách để tìm ra bài
toán về vấn đề gìn giữ, biến đổi và hội nhập. Những giá trị nào cần gìn
giữ và phát huy trong bối cảnh hiện tại, những giá trị không phù hợp
sẽ tự động loại trừ, đó là một quá trình nghiên cứu lâu dài, nghiêm túc
và thấu đáo. Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi tập trung vào nghiên
cứu tìm hiểu các giá trị văn hóa truyền thống của người Chơro trong bối
cảnh phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Người Chơro ở Việt Nam hiện nay có hơn 28.655 người (Tổng cục
Thống kê 2019), sống tập trung đông nhất ở tỉnh Đồng Nai, một số cư
trú ở tỉnh Bình Phước và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Tên tự gọi của dân tộc
là Chrau - Jro, trong đó Chrau có nghĩa là Người hay Nhóm người, Tập
đoàn người, còn Jro là một danh từ riêng chỉ cộng đồng của họ” (Ủy ban
Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học, 1984, tr 205). Họ còn được
gọi bằng các danh từ có âm gần như vậy: Chơro, Châu ro, Chro, Chrau,
Jơ ro, Dơ ro... hay bằng một danh từ phiếm chỉ: người Thượng.
Là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Đông Dương, nhóm
ngôn ngữ Môn - Khmer thuộc chi miền núi phía Nam. Trước khi có mặt
trên những địa bàn cư trú hiện nay, người Chơro phân bố chủ yếu ở
vùng đồi núi thấp, nằm về phía Đông Nam của tỉnh Đồng Nai. Dựa trên
một số kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở Đông Nam Bộ đồng thời liên
kết với những dấu vết nhân chủng và ngôn ngữ, tộc người Chơro (cùng
- 130 -

14 Pages 131-140

▲back to top

14.1 Page 131

▲back to top
với một số tộc người: Mạ, S’Tiêng...) là hậu duệ của cư dân cổ Môn -
Khmer và là cư dân sinh sống lâu đời ở Đông Nam Bộ ngày nay. Cuộc
sống của các cư dân này đã có ít nhiều liên kết chặt chẽ, nhằm quản lý
khu vực sinh sống rộng lớn của mình.
Tại Đồng Nai, địa bàn sinh sống của người Chơro chủ yếu ở thành
phố Long Khánh (phường Bảo Vinh, xã Bảo Quang, xã Bàu Trâm, xã
Hàng Gòn) và 4 huyện: Xuân Lộc (xã Xuân Trường, xã Xuân Phú, xã Xuân
Thọ, xã Xuân Hưng, xã Xuân Thành), Định Quán (xã Túc Trưng), Vĩnh
Cửu (xã Phú Lý), Long Thành (xã Phước Thái). Người Chơro ở Đồng Nai
có 16.738 người (Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai, 2019, tr 105).
Kinh tế truyền thống của người Chơro ở Đồng Nai là kinh tế nương
rẫy. Nguồn sống của người dân chủ yếu dựa vào kết quả mùa màng. Xưa
kia, người dân khai thác vùng đồi núi nơi cư trú của mình để trồng trọt
theo lối du canh du cư, nên cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Sau
này, người dân đã biết biến rẫy thành đất định canh và phát triển nương
rẫy thành ruộng nước, vì vậy đời sống có phần khá hơn. Cùng với nông
nghiệp ruộng nước, nương rẫy, việc làm vườn, chăn nuôi, săn bắt, đánh
cá, hái lượm... là những ngành kinh tế phụ bổ trợ cho kinh tế nương
rẫy. Hai nghề thủ công chính của người Chơro là đan lát và dệt vải. Tuy
nhiên, chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây, nứa là phổ biến. Nghề dệt vải
bị mai một dần và hiện nay mất hẳn.
Vốn văn nghệ dân gian của người Chơro phong phú, với nhiều thể
loại: Truyện kể, thơ ca trữ tình, múa, lối hát đối đáp, nhiều loại nhạc cụ...
Các câu tục ngữ, phương ngôn đúc kết các kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp, kinh nghiệm về thiên nhiên và cuộc sống xã hội.
Người Chơro và các dân tộc thiểu số sống lâu đời ở khu vực như
người Mạ, người S’Tiêng tin mọi vật đều có linh hồn và tin vào sự chi
phối con người của các thần linh. Đó chính là nguyên nhân của các
kiêng kỵ và các lễ cúng tế. Các tộc người này đều quan niệm rằng có
hai thế giới tồn tại. Thế giới thứ nhất là cuộc sống của con người, là
vạn vật trên trái đất mà họ cảm nhận được. Thế giới thứ hai là thế giới
của những lực lượng siêu tự nhiên, của ma quỷ, của các vị thần... Chính
thế giới thứ hai mới thiêng liêng và quyết định cuộc sống loài người.
Đối với người Chơro, bà bóng (Chang) là cầu nối giữa con người với
các đấng thần linh. Các vị thần của họ là: Thần lúa (yang va), thần rừng
(yang bri), thần sông, suối (yang dah), thần rẫy (yang mir), thần ruộng
(yang mơ)...
- 131 -

14.2 Page 132

▲back to top
2. Giá trị văn hóa truyền thống của người Chơro và những biến đổi
trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
Người Chơro ở Đồng Nai còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Trong từng lĩnh vực đời sống dân cư, những yếu tố đó
có thể giữ lại được ít nhiều và đậm nhạt khác nhau. Nhưng ở bất cứ lĩnh
vực nào cũng có thể dễ dàng thấy được sự hiện diện của những giá trị
mới và không hiếm khi ưu thế lại thuộc về giá trị đó. Do những tác động
của hoàn cảnh lịch sử - xã hội dưới ảnh hưởng của môi trường sinh thái
và những chính sách nhằm phát triển các dân tộc thiểu số ở địa bàn tỉnh
đã diễn ra những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội.
Nhiều tập tục không còn phù hợp với bối cảnh xã hội hiện tại đã dần bị
cộng đồng loại bỏ.
Những giá trị văn hóa của người Chơro ở Đồng Nai còn chịu ảnh
hưởng nhiều từ văn hóa các dân tộc khác, trước hết là những ảnh hưởng
từ người Việt. Thông qua giao tiếp văn hóa, họ đã tiếp thu không ít những
giá trị văn hóa của người Việt sống trong cùng địa phương, kể từ cung
cách làm ăn đến nhà cửa, quần áo, thậm chí tiếng nói và phong tục, tập
quán. Có thể thấy ở những nơi mà cư dân có điều kiện tiếp xúc thường
xuyên hơn với người Việt thì những biến đổi diễn ra có phần mạnh mẽ
hơn, chẳng hạn như người Chơro ở xã Túc Trưng, huyện Định Quán.
Ngày nay, trong điều kiện giao lưu, tiếp xúc giữa các vùng, các dân
tộc ngày càng được tăng cường và mở rộng. Mỗi dân tộc có nhiều khả
năng hơn trong việc tiếp thu các giá trị văn hóa của các dân tộc khác. Tuy
nhiên, nhiều khi do tự ti và nhận thức sai lệch về văn hóa dân tộc của
mình, người ta thường mặc cảm với giá trị cổ truyền, cho đó là những
cái lạc hậu, lỗi thời và có xu hướng chối bỏ nó để tiếp nhận một cách dễ
dãi những giá trị văn hóa từ những dân tộc có trình độ phát triển kinh
tế xã hội cao hơn, mà họ coi là hiện đại. Vì thế việc tiếp nhận các giá trị
này không phải thông qua quá trình chọn lựa và làm thích ứng với giá
trị văn hóa sẵn có của mình dẫn đến tình trạng dễ đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc.
2.1. Tiếp thu các giá trị văn hóa của người Việt
Hoạt động kinh tế
Bước chuyển biến vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối
với toàn bộ sự phát triển kinh tế xã hội của cư dân Chơro là việc chuyển
sang định canh, định cư, tiếp thu cách làm ruộng nước của người Việt và
dần dần áp dụng các phương pháp canh tác và giống cây trồng với khoa
- 132 -

14.3 Page 133

▲back to top
học kỹ thuật tiến bộ của người Việt. Nông cụ xưa kia của người Chơro ít,
đến nay, họ đã tiếp nhận thêm nhiều nông cụ của người Việt (máy cày,
máy xới, máy gặt lúa, máy cắt cỏ...). Lịch và các biện pháp kỹ thuật trong
canh tác lúa, tưới tiêu, chăm bón (sử dụng phân bón hóa học, các loại
thuốc diệt cỏ…) của người Việt cũng được người Chơro áp dụng trong
canh tác ruộng nước.
Những hoạt động kinh tế của người Việt đã ảnh hưởng khá nhiều
đến cộng đồng các dân tộc thiểu số có sinh sống xen cư ở khu vực nói
chung, người Chơro cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng này. Chính
điều này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển đời sống kinh tế của người
dân, với chiều hướng tích cực.
Trong thời gian gần đây, dưới tác động của cơ chế thị trường, nền
kinh tế chiếm đoạt tự nhiên, tự cấp, tự túc tuy vẫn ít nhiều còn tồn tại.
Song song với đó, kinh tế hàng hóa đã thâm nhập, ăn sâu vào đời sống
của đồng bào. Người Chơro đã tham gia vào hoạt động thương mại,
trở thành các tiểu thương ở các chợ tại khu vực sinh sống như những
thương nhân trên thị trường. Họ bán các loại rau, củ, quả, ở các ấp đã
có một vài gia đình mở quán bán cà phê, bánh kẹo, ăn uống. Việc đầu
tư để phát triển sản xuất đã bước đầu được chú ý. Hầu hết các gia đình
đã mua máy móc phục vụ lao động trồng trọt (Lâm Nhân, 2010, tr 53).
Việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu... cũng được nhiều gia đình
áp dụng. Tuy nhiên do thiếu vốn và ít hiểu biết về kỹ thuật, lại chưa có
thị trường tiêu thụ ổn định cho nên việc phát triển kinh tế hàng hóa còn
gặp nhiều khó khăn và do đó bị hạn chế rất nhiều.
Văn hóa vật chất
Đã từ lâu, những bộ quần áo được cắt may theo kiểu người Việt
được sử dụng phổ biến. Y phục dân tộc không còn xuất hiện trong cuộc
sống của người dân Chơro. Hầu hết phụ nữ Chơro ở xã Túc Trưng, huyện
Định Quán có áo dài được chị em Chơro mặc vào các ngày lễ tết, khi đi
lễ nhà thờ, đi dự đám cưới và các cuộc lễ khác.
Trong ăn uống, người Chơro đã sử dụng nhiều loại thực phẩm mới
để chế biến thức ăn và chế biến món ăn mà xưa kia họ không có hoặc
không ăn do tập quán. Trước đây, vì điều kiện sinh hoạt và kinh tế khó
khăn nên người dân rất ít chú ý đến việc chế biến thức ăn. Thức ăn được
chế biến đơn giản: Luộc, nướng và kho. Hiện nay, thịt không chỉ đem
xào hay nấu mà còn giã giò, làm chả... như của người Việt. Việc sử dụng
các loại gia vị do công nghiệp sản xuất như mì chính, bột canh... và sử
- 133 -

14.4 Page 134

▲back to top
dụng các loại nước chấm như nước mắm, nước tương trong bữa ăn thay
thế đĩa muối ớt truyền thống cũng đã trở thành phổ biến.
Về cư trú, nhờ thực hiện định canh, định cư và theo chính sách xây
nhà tình thương, những ngôi nhà sàn mang tính chất tạm thời dần dần
được thay thế bằng những ngôi nhà kiên cố hơn để sử dụng lâu dài.
Nhiều nhà mái bằng theo kiểu người Việt xuất hiện. Đồng thời, nguyên
vật liệu làm nhà sàn, nhất là gỗ ngày càng thiếu nên dần dần người
Chơro đã có thói quen ở nhà đất. Tại ấp Trung Sơn, xã Xuân Trường,
huyện Xuân Lộc, ngôi nhà sàn đã hoàn toàn biến mất. Với sự hình thành
ngày càng nhiều nhà đất thay thế dần các ngôi nhà sàn cũng gây khó
khăn cho việc gìn giữ những yếu tố truyền thống của dân tộc Chơro
trong thiết kế, xây dựng nhà cửa. Tuy nhiên, về tâm lý, người Chơro vẫn
thích ở nhà sàn. Một số gia đình ở ấp Lý Lịch, huyện Vĩnh Cửu được xây
nhà tình thương, nhưng họ không ở mà vẫn sinh hoạt chính trong ngôi
nhà sàn đã cũ nát của mình. Những năm gần đây, nhiều người Việt đi
lên khu vực sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số tìm mua những căn
nhà gỗ truyền thống của họ. Thường vào những mùa “giáp hạt”(1) họ lên
vùng đồng bào để gạ mua. “Anh Điểu Ka Ren bán căn nhà gỗ của mình
được 70 triệu, họ trả 50 triệu và xây cho căn nhà gạch 20 triệu. Khi nào
xây nhà gạch xong, họ mới lấy căn nhà gỗ đi”(2).
Chính vì vậy, theo kết quả chủ yếu điều tra thu thập thông tin về
thực trạng kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 của Tổng Cục
Thống kê, tỷ lệ hộ có nhà truyền thống: Người Chơro 0,5, người S’Tiêng
1,6 và người Mạ là 1,0 (Tổng Cục thống kê 2015). Như vậy, tỷ lệ nhà ở
truyền thống của người Chơro chiếm tỷ lệ thấp nhất. Theo xu hướng
này, nếu không có sự can thiệp của các cấp chính quyền, nhà ở truyền
thống của người Chơro sẽ chỉ còn trên phim ảnh.
Về xã hội
Về xã hội, ảnh hưởng rõ nhất của người Việt đối với người Chơro
là tên họ. Do nhiều nguyên nhân, người Chơro đã sử dụng tên họ của
người Việt làm tên họ của mình. ở xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, hầu hết
người dân Chơro mang họ Nguyễn, họ Hồng.
Bên cạnh đó, quan hệ hôn nhân giữa người Chơro và người Việt khá
phát triển... Nhiều nam giới Chơro lấy vợ là người Việt và ngược lại, rất
(1) Mùa mà cây trồng mới thì chưa được thu hoạch, cây trồng mùa trước đã ăn hết.
(2) Tư liệu điền dã của tác giả ở huyện Đạ Hoai, Lâm Đồng.
- 134 -

14.5 Page 135

▲back to top
nhiều phụ nữ Chơro lấy chồng là người Việt. Ngay tại gia đình bà Hồng
Thị Lịch, ấp Lý Lịch 2, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu: Gia đình già làng có
7 người con thì có đến 4 người con lấy vợ hoặc lấy chồng là người Việt(1).
Đối với người Chơro, khi lấy người Việt thì mọi thủ tục, quy định trong
hôn nhân theo phong tục của người Việt. Quan hệ hôn nhân Chơro -
Việt vừa là biểu hiện, vừa là kết quả, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy
giao lưu văn hóa giữa người Chơro với người Việt.
Hiện nay, nhiều tập tục trong chu kỳ đời người của người Chơro
cũng bị ảnh hưởng của người Việt. Trình tự cưới xin của người Chơro
hầu như hoàn toàn giống người Việt: Chạm ngõ, ăn hỏi, đám cưới, lại
mặt... Bên cạnh đó, tục xem giờ tốt - xấu của người Việt cũng đã ảnh
hưởng đến người Chơro, họ cũng chú ý đến việc xem giờ xấu, giờ tốt khi
tổ chức các công việc quan trọng như đám cưới, đám ma, làm nhà...
Văn hóa tinh thần
Là cư dân nói tiếng Môn - Khmer cư trú lâu đời ở vùng Nam Đông
Dương, song ngày nay, do sinh sống gần gũi với người Việt nên người
Chơro sử dụng thành thạo tiếng phổ thông. Với nhiều nguyên nhân
kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau, tiếng Việt ngày càng phổ biến trong
cộng đồng người Chơro. Người Chơro dùng tiếng phổ thông trong các
buổi họp dân, đi chợ... Trẻ em đến trường học bằng tiếng phổ thông.
Mặt khác, do tiếp xúc, gắn bó thường xuyên với người Việt nên ngay
trong ngôn ngữ Chơro, lượng từ tiếng Việt đã tham gia ngày một nhiều
hơn. Những từ như tết, văn hóa, ba lô, giày, mắt kính, uốn tóc, hộp quẹt,
sách, báo, bóng đá, thời sự, phim... được xen lẫn trong ngôn ngữ của
đồng bào.
Hiện nay, tại những khu vực có người Chơro sinh sống như các
huyện: Xuân Lộc, Định Quán, Vĩnh cửu, Long Thành và thành phố Long
Khánh, hầu hết người Chơro có độ tuổi từ 18-50 tuổi đều biết chữ Quốc
ngữ, chỉ có một số người già không biết tiếng phổ thông. Khu vực sinh
sống của người Chơro ở gần đường quốc lộ hoặc ở gần đô thị thì thanh
niên thậm chí không biết tiếng mẹ đẻ của mình. Ví dụ khu vực huyện
Định Quán do sống và lao động chung với người Việt và một số nguyên
nhân khác đã không thể nói tiếng Chơro thành thạo, ngôn ngữ giao tiếp
hàng ngày của họ là tiếng Việt. Điều này có thể thấy sự khác biệt của
người Chơro với người Khmer, có thể do thực hành tín ngưỡng truyền
thống và niềm tin về giới siêu nhiên đa thần của người Chơro đã không
(1) Trích biên bản phỏng vấn sâu già làng Năm Nổi.
- 135 -

14.6 Page 136

▲back to top
còn cộng với cuộc sống gần khu công nghiệp, khu dân cư sống xen cư
với người Việt, những giá trị mới dễ tiếp thu, hấp dẫn hơn. Bên cạnh
đó, một thời gian dài từ đầu thế kỷ XX, người Chơro cũng như các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên được người Pháp gọi là Le MOI(1), sau này,
người Việt dùng âm nối tiếp gọi họ là người Mọi. Trong quá trình phỏng
vấn nhóm cộng đồng người dân năm 2009 tại xã Túc Trưng, huyện Định
Quán, người Chơro rất bức xúc khi ai đó gọi các con vật hoặc món ăn là
mọi (ví dụ như heo mọi, nướng mọi,…). Có lẽ, đó cũng là nguyên nhân
mà lớp trẻ chối bỏ ngôn ngữ của tộc người.
2.2. Tiếp thu các giá trị văn hóa của các tộc người khác
Do cùng địa bàn cư trú, và cùng mối quan tâm về nguồn lợi kinh tế,
người Chơro có quan hệ khăng khít, qua lại với các dân tộc sống lâu đời
khác ở tỉnh Đồng Nai (Mạ, S’Tiêng...). Quan hệ này được hình thành lâu
đời, thể hiện trên nhiều mặt lịch sử và văn hóa. Đây không phải là mối
quan hệ một chiều, mà là mối quan hệ song phương. Mặt khác, người
Chơro và người Mạ, S’Tiêng, Cơ Ho... đều có chung nền tảng văn hóa -
văn hóa cơ tầng Môn - Khmer. Vì vậy, việc xác định ảnh hưởng yếu tố
văn hóa của dân tộc này đối với dân tộc kia và ngược lại là rất khó khăn.
Trong khu vực vùng núi Đông Nam Bộ, xã hội của các dân tộc Mạ,
S’Tiêng, Chơro... mang đầy đủ đặc trưng của xã hội chuyển từ mẫu hệ
đến phụ hệ. Đó là nét tương đồng đầu tiên cần nhắc đến. Đặc trưng
của chế độ phụ hệ ngày càng rõ rệt. Từ hình thức cư trú sau hôn nhân
chủ yếu về nhà vợ, những dân tộc này xuất hiện hình thái cư trú song
phương, sau đó ra ở riêng. Từ vai trò chủ đạo là người phụ nữ đã chuyển
qua nam giới.
Những ảnh hưởng văn hóa của các dân tộc này thể hiện trong tất cả
các mặt đời sống văn hóa xã hội của người dân, từ phương thức sản xuất
đến các nghi lễ trong chu trình vòng đời.
Nghề dệt ở người Chơro là một ví dụ tiêu biểu về ảnh hưởng văn
hóa của các dân tộc anh em xóm giềng. Một số hoa văn trên y phục của
người Chơro không có tên gọi riêng của dân tộc mà được mang tên gọi
“hoa văn người Mạ”, “hoa văn người Cơ Ho”...
Trong lĩnh vực tín ngưỡng dân gian, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của
các dân tộc bản địa cùng địa bàn được thể hiện rất rõ. Trước hết, đó là
(1) Tiếng Pháp: Main-d’oeuvre Indigene “Nhân công người phương Đông bản
địa”.
- 136 -

14.7 Page 137

▲back to top
các vị thần (Yang). Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer trên cùng
địa bàn này đều có niềm tin vào các vị thần và đều có tục cúng thần. Sự
tương đồng thể hiện rất rõ trong các lễ nghi nông nghiệp, trong hình ảnh
bà bóng. Họ đều có quan niệm chung về sự sống và cái chết.
Sinh sống trong cùng khu vực, nên bản sắc múa của người Mạ,
S’Tiêng và Chơro có nhiều nét chung, đều phản ánh khá đầy đủ môi
trường sống, những quá trình con người tác động vào thiên nhiên sản
xuất ra của cải, văn hóa vật thể và phi vật thể... biểu hiện cách tư duy,
niềm tin vào các thần linh, hy vọng được giúp đỡ thực hiện ước mơ
chinh phục thiên nhiên.
Nhìn chung, cùng ngữ hệ Môn - Khmer, tuy nhiên người Khmer
theo Phật giáo Nam Tông, đời sống tâm linh của họ được chi phối bởi
nhà chùa, sức kết nối, hướng tâm mạnh hơn so với các tộc người cùng
ngữ hệ theo tín ngưỡng đa thần như người Mạ, Chơro, S’Tiêng.
3. Văn hóa người Chơro trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội
hiện nay
Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, cuộc sống của
người Chơro ngày càng ổn định và thu nhập ngày càng cao. Đời sống
ngày càng cao, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của người Chơro phong
phú và tiện nghi hơn. Trong nhà của người dân, chúng ta có thể thấy
được khá nhiều đồ dùng gia đình khác nhau. Phần lớn là sản phẩm công
nghiệp với các loại nguyên liệu hiện đại. Các gia đình khá giả đã sắm
được đồ dùng đắt tiền như giường, tủ, đài, tivi, xe máy, ô tô... từ giữa
năm 2003, nhiều xã đã mắc đường lưới điện về tận ấp phục vụ người
dân. Nhìn chung, người Chơro và các tộc người thiểu số tại chỗ vùng
Đông Nam Bộ đã sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ
cho cuộc sống của họ.
Người dân Chơro cũng ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất,
áp dụng một số máy móc, hay nói cách khác là đưa cơ giới hóa phục vụ
việc trồng trọt. Máy cày đã thay thế sức trâu bò, máy gặt lúa thay cho dao
cắt lúa, liềm, máy tuốt lúa thay cho đôi tay... Các loại thuốc trừ sâu, phân
bón được người Chơro sử dụng thành thạo. Đối với chăn nuôi, thức ăn
cho gia súc gia cầm được thay thế dần bằng cám công nghiệp. Hình thức
chăn nuôi thả chuyển sang chăn nuôi tập trung, dựng chuồng cho từng
loài. Bằng cách áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới, tuy còn hạn hẹp
và ở bước khởi đầu, song cũng giúp cuộc sống đồng bào Chơro đỡ khó
khăn hơn.
- 137 -

14.8 Page 138

▲back to top
Cũng trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, do nhu cầu mức
sống ngày càng tăng, người Chơro không còn bó hẹp với ruộng rẫy nơi
mình cư trú. Nhiều thanh niên Chơro đi làm cho nhà máy, xí nghiệp
trong và ngoài nước tại các khu công nghiệp. Nam giới ở ấp Đồng Xoài,
ấp Đức Thắng xã Túc Trưng, huyện Định Quán còn chung nhau mua
máy cưa, xe kéo gỗ sang Lào làm thuê(1).
Y phục và đồ trang sức của người Chơro cũng có nhiều thay đổi
do xu hướng giao lưu và hội nhập hiện nay. Ngoài việc mặc y phục như
người Việt, phụ nữ Chơro đã mặc váy đầm cho bản thân và cho con gái
của họ, thanh niên ưa thích mặc quần jean áo pull. Các vòng cổ, vòng
tay, nhẫn bằng hạt cườm, hạt nhựa, bằng đồng... truyền thống đã chuyển
sang bằng chất liệu vàng với nhiều kiểu cách. Trong các đám cưới hiện
nay, chú rể Chơro đi giày da, mặc complete; cô dâu đi giày cao gót, mặc
váy đầm, y phục còn được thay đổi nhiều lần trong ngày cưới.
Người dân Chơro ngày nay đã đến các cơ sở y tế của xã, huyện để
khám chữa bệnh và sinh đẻ, hầu như không theo cách chữa bệnh của
các bà bóng. Một số nơi, các già làng vẫn còn áp dụng các phương pháp
trị bệnh truyền thống bằng các loại cây rừng như đau bụng, nhức đầu,
đau mắt, chệch khớp, rắn cắn… như ở các huyện: Vĩnh Cửu, Xuân Lộc
và thành phố Long Khánh. Nhưng những nơi kinh tế, giao thông phát
triển, họ thường chọn bệnh viện và sử dụng thuốc Tây, dầu gió mỗi khi
có bệnh. Phương pháp nuôi con cũng theo sự hướng dẫn của cán bộ y
tế xã. Sức khỏe của trẻ em và người già khá hơn nhiều năm trước đây.
Tuổi kết hôn của nam nữ thanh niên cũng cao hơn. Nghi lễ trong đám
cưới, đám ma không kéo dài rườm rà nhiều ngày mà tổ chức tiến hành
nhanh gọn.
Dân tộc
Chơro
S’Tiêng
Mạ
Phật giáo
tỷ lệ%
31,4
2,3
1,5
Công giáo
tỷ lệ%
13,1
Tin Lành
tỷ lệ%
20,8
12,4
61,4
62,7
19,4
Hồi giáo
tỷ lệ%
0,1
0,0
0,0
Khác
tỷ lệ%
0,2
3,2
0,0
(1) Tài liệu điền dã của tác giả.
- 138 -

14.9 Page 139

▲back to top
Về tôn giáo: Môi trường sống của người Chơro đã thay đổi, rừng đã
không còn ở xung quanh khu vực cư trú của họ, các nhà máy, khu chế
xuất mọc lên thay thế, đời sống kinh tế của họ thay đổi, canh tác nương
rẫy theo mùa vụ đã thay thế bằng cây công nghiệp dài ngày như cao su,
cà phê, chè… Người Chơro không còn ăn rừng và canh tác lúa rẫy, tục
thờ thần rừng (yang bri), thần lúa (yang va) cũng dần phai nhạt. Khi thần
linh truyền thống đã không còn, đó chính là môi trường cho các tôn giáo
mới hình thành thay thế. Sự du nhập của đạo Công giáo, Tin Lành ngày
càng nhiều, đặc biệt trong những năm gần đây đã tác động khá lớn đến
văn hóa truyền thống của dân tộc Chơro. Nhiều ấp có người Chơro sinh
sống, sau khi chuyển đổi tôn giáo; nếp sống văn hóa truyền thống đã
chuyển đổi, tục cúng thần lúa, thần rừng ngày càng nhạt dần. Các sinh
hoạt cộng đồng chuyển thành những ngày lễ của nhà thờ. Chiêng và các
nhạc cụ truyền thống ít khi được sử dụng.
Kết quả chủ yếu điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã
hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 của Tổng Cục Thống kê
Theo kết quả điều tra trên, số lượng người Mạ theo đạo Công giáo
chiếm tỷ lệ cao nhất (62,7%), tỷ lệ người S’Tiêng theo đạo Tin lành cao
nhất (61.4%). Trong khi đó, tỷ lệ người Chơro theo Phật giáo chiếm tỷ lệ
gấp nhiều lần 31,4% (so với 2,3% của người S’Tiêng và 1,5% người Mạ).
Trên thực tế đi điền dã khảo sát năm 2014 ở địa bàn, qua các nghiên cứu
định tính như quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, tôi nhận thấy, hầu hết
những gia đình có hôn nhân với người Kinh thì theo Phật giáo, còn lại
trong nội hôn tộc người và hôn nhân với người thiểu số khác ở cùng địa
bàn thì cả người Chơro, người S’Tiêng và người Mạ đều theo Công giáo
và Tin Lành. Như vậy, có thể kết luận rằng, người Chơro có giao lưu hôn
nhân với người Việt nhiều hơn các tộc người thiểu số khác. Điều này
chứng tỏ rằng, trong tâm lý tộc người cởi mở, vấn đề hội nhập và phát
triển của người Chơro dễ chấp nhận sự hội nhập. Đây cũng là thế mạnh
để phát triển trong bối cảnh giao lưu văn hóa hiện nay.
Chủ trương mở cửa để giao lưu, hội nhập với thế giới, đồng hành
với các loại hình văn hóa nước ngoài, đặc biệt là văn hóa phương Tây du
nhập vào Việt Nam. Hội nhập và tiếp thu các giá trị văn hóa mới trên thế
giới để làm giàu cho văn hóa truyền thống là điều nên làm. Tuy nhiên,
nếu không trang bị một nền tảng văn hóa truyền thống để tạo cơ sở hội
nhập, tiếp thu, một số địa bàn, khu vực, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu
niên ở các khu vực đô thị sẽ bị chi phối bởi các giá trị văn hóa bên ngoài,
dần dẫn đến nhiều thay đổi trong quan hệ xã hội, trong quan điểm thẩm
mỹ, đạo đức lối sống, dễ dàng tiếp thu lối sống hưởng thụ, cá nhân.
- 139 -

14.10 Page 140

▲back to top
Theo quan điểm của tập thể tác giả trong công trình Văn hóa các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam: Hiện nay, xu hướng hiện đại hóa, công nghiệp
hóa là nhu cầu chân chính của mọi dân tộc. Tuy nhiên, không phải cứ
hiện đại hóa là phủ nhận hết những giá trị truyền thống mà trước hết
phải tôn trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời
tiếp thu cái hay, cái đẹp, cái mới và cách tân nó cho cho phù hợp với bản
sắc văn hóa dân tộc (Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu,
1998, tr. 216)
Trong bối cảnh hiện nay ở tỉnh Đồng Nai và của cả nước đang đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội song song với việc xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước. Cần dựa vào nội lực của mỗi tộc người ở Việt Nam. Nội lực này
cần được xây dựng dựa trên nền tảng yếu tố văn hóa truyền thống, kết
hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Chính vì vậy, các giá trị
văn hóa tộc người đang chuyển biến mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay
là lẽ đương nhiên. Sự biến đổi cho phù hợp là việc lựa chọn hợp lý của
cộng đồng. Tuy nhiên, sự biến đổi đó phải vận động trên nền tảng giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Nếu không, không những chúng ta
không tiếp thu được những giá trị tốt đẹp của thế giới làm giàu cho văn
hóa chúng ta, mà có thể chúng ta sẽ mất đi những giá trị truyền thống
mà cha ông ta đã dày công xây dựng.
Thay lời kết
Nhìn nhận, vấn đề xây dựng văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm
vụ chung, tổng thể. Tuy nhiên, mỗi vùng miền, dân tộc cần xây dựng các
chuẩn mực ấy trên nền tảng giá trị văn hóa cộng đồng địa phương. Việc
xây dựng những giá trị chuẩn mực mang tính bản sắc của dân tộc, vùng
miền để con người khi đến nơi đó phải tôn trọng sự khác biệt, học hỏi
và hội nhập. Có như vậy, việc kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa
dân tộc trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói
chung và Đồng Nai nói riêng mới có thể hài hoà, bền vững.
Sự đầu tư bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc là rất
lớn. Đảng và Nhà nước rất quan tâm và đầu tư. Tuy nhiên, vấn đề bảo
tồn cái gì và phát huy cái gì thì có lẽ còn nhiều tranh cãi. Có những di sản
văn hóa không phù hợp với cuộc sống đương đại, cũng cần biết chấp
nhận cho di sản ấy chỉ còn trên dạng tư liệu (như ăn trầu, để răng đen…
của người Việt; tục ở trần, hút thuốc phiện… của các tộc người thiểu số).
Một số làng nghề hay các di sản văn hóa phi vật thể không còn phù hợp
với cuộc sống đương đại, cần nhìn nhận thật khách quan và công tâm
- 140 -

15 Pages 141-150

▲back to top

15.1 Page 141

▲back to top
để đầu tư hoặc chấp nhận theo quy luật để dành kinh phí đầu tư cho di
sản văn hóa khác(1).
Hội nhập đầu tư phát triển kinh tế, cần chú trọng đầu tư cho văn
hóa. Việc này đã được Nghị quyết số 33 nêu rõ. Tuy nhiên, việc thực thi
cần phải đồng bộ. Bên cạnh việc thu hút sự đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam để phát triển kinh tế, ổn định sinh kế cộng đồng. Các công ty, nhà
máy, xí nghiệp nước ngoài ở trên địa bàn tỉnh cũng cần có sự cam kết
đầu tư, hỗ trợ một phần nhất định cho phát triển văn hóa địa phương
từ khoản lợi nhuận. Có như thế, sự phát triển văn hóa mới đồng bộ,
vững bền.
Một số bàn luận, các vấn đề nêu ra trên đây sẽ có nhiều tranh luận.
Việc chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa là cần thiết, cần phải chuẩn
bị càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, cũng cần phải nhắc lại rằng muốn hội
nhập, muốn tiếp thu được tinh hoa của người khác thì bản thân chuẩn
mực văn hóa của chúng ta phải mạnh, bền vững. Nếu không cẩn trọng,
ta chỉ tiếp thu được cái xấu, cái thô của người khác, thậm chí, mất luôn
cả cái mà chúng ta đã dày công xây dựng và bảo tồn.
Đến với hội thảo này, người viết xin luận bàn những ý kiến mang
tính cá nhân, hy vọng đóng góp được một phần để cùng nhau thảo luận
với mong muốn tỉnh Đồng Nai phát huy được giá trị văn hóa truyền
thống của cộng đồng các dân tộc trong hội nhập. Đồng thời, nhận
diện được những giá trị, mang bản sắc văn hóa địa phương để các cộng
đồng khác tôn trọng, học hỏi trong bối cảnh hội nhập, đa văn hóa như
hiện nay./.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Dân tộc học - Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
(1978), Những vấn đề về dân tộc học miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
2. Báo cáo tổng kết của Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đồng Nai
(2018).
(1) Ví dụ: một số di sản văn hóa phi vật thể như làng nghề truyền thống, kẹo,
bánh,... đã không có đầu ra, không nên duy trì, phát triển gây sự lãng phí. Một số làng
nghề như dệt truyền thống các dân tộc, nguồn nguyên liệu không thể cạnh tranh. Nên
chăng đặt hàng nước khác sản xuất, chỉ duy trì kỹ thuật, hoa văn trang trí của sản phẩm
dệt truyền thống.
- 141 -

15.2 Page 142

▲back to top
3. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX (2000), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Chi hội Văn nghệ Dân gian Đồng Nai (1998), Người Châu Ro ở
Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
5. Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai, Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai
2019, Nxb. Thống kê.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước.
7. Ban Tuyên giáo Trung ương (2021), Dự thảo báo cáo về việc kế
thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước và các nội dung, giải pháp trong thời gian tới theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị lần thứ XIII của Đảng.
8. Nguyễn Văn Huy (chủ biên) (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc
Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
9. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Diệu (1992), Tây Nguyên Tiềm năng và
Triển vọng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu (1998), Văn hóa
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Lâm Nhân (2010), Hôn nhân và gia đình người Chơro, truyền
thống và biến đổi, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
12. Lâm Nhân (2013), Tri thức bản địa của người Mạ trong ứng xử
với môi trường tự nhiên và xã hội. Đề tài khoa học cấp Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch.
13. Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Dịch giả Đỗ Vân Anh (1999), Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh,
Nggar Maá, Nggar Yaang, Nxb. Đồng Nai.
14. Huỳnh Văn Tới (1998), Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai,
Nxb. Đồng Nai.
15. Huỳnh Văn Tới, Lâm Nhân, Phan Đình Dũng (2013), Văn hóa
người Chơro, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
16. Tổng Cục Thống kê (2015), Kết quả chủ yếu điều tra thu thập
thông tin về thực trạng kinh tế xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015.
- 142 -

15.3 Page 143

▲back to top
17. Nguyễn Khắc Tụng (1994), Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam,
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
18. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học (1984), Các
dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
19. Joachim Schliesinger (1997), Hill Tribes of Viet Nam Introduction
and Overview, (Các sắc tộc ở Việt Nam - giới thiệu và tổng quan), Volume
1, Bangkok, Thailand: White Lotus.
20. Joachim Schliesinger (1998), Hill Tribes of Viet Nam - Profile of
the existing hill tribes group (Các sắc tộc ở Việt Nam - Miêu tả sơ lược về
cuộc sống của các nhóm tộc người), Volume 2, Bangkok, Thailand: White
Lotus.
- 143 -

15.4 Page 144

▲back to top
HÀO KHÍ ĐỒNG NAI:
ĐA DẠNG, VĂN HIẾN, TIÊN PHONG
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thơ(1)
Đồng Nai, một miền ký ức lịch sử - văn hóa Nam Bộ, là điểm khởi
phát và lan tỏa của dòng chảy văn hóa Nam Bộ, nơi những bậc hiền
nhân thời mở cõi trời Nam từng sinh cơ, lập nghiệp và đóng góp không
mệt mỏi cho sự nghiệp gieo trồng văn hiến Việt Nam ở miền đất mới này.
Với không gian trải rộng qua nhiều loại hình địa lý - tự nhiên - sinh thái
(biển, sông ngòi, đồng bằng, đồi núi, thung lũng, ao hồ...), bao lớp dân cư
xứ Đồng Nai đã học cách thích ứng, dung hòa các nguồn lực khác nhau
để “hun đúc” nên một tinh thần “Hào khí Đồng Nai” đầy uy lực, làm rạng
danh tinh thần người Việt phương Nam, luôn chủ động, tiên phong trong
việc đề xuất và thực thi nhiều chính sách kinh tế táo bạo thời kỳ đổi mới;
tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong guồng máy kinh tế - văn hóa - xã
hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Bài viết này sử dụng cả hai nhóm dữ liệu quan sát thực địa và dữ
liệu thành văn, vận dụng tổng hợp lý thuyết ký ức lịch sử - văn hóa của
Halbwachs (1980) và Nora (1996) dưới góc nhìn Văn hóa học để phân tích
- đánh giá các nguồn lực văn hóa - tinh thần các dân tộc Đồng Nai qua
các thời kỳ, đúc kết thành hệ giá trị văn hóa Đồng Nai trong bức tranh
văn hóa Nam Bộ nói chung. Nghiên cứu bước đầu cho thấy, trong mối
quan hệ tổng thể của văn hóa Nam Bộ, văn hóa Đồng Nai thể hiện nổi
trội các đặc trưng tiêu biểu: đa dạng, văn hiến, tiên phong và đang trên
đường hướng tới hiện đại - văn minh.
(1) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
- 144 -

15.5 Page 145

▲back to top
1. Đặt vấn đề
Chỉ hơn nửa thế kỷ sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong
(năm 1558), những người Việt đầu tiên đã đến đất Xuyên Mộc (Đồng Nai
xưa, nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT), men theo vịnh Gành Rái
và hệ thống sông Đồng Nai để lên lập nghiệp ven bờ. Làng mạc, ruộng
đồng cứ thế hình thành, những ngôi chùa Phật cũng dần dà mọc lên hai
bên bờ sông Đồng Nai (chùa Bửu Phong, chùa Long Thiền ở Biên Hòa,
chùa Hội Sơn ở thành phố Thủ Đức...), đánh dấu một cột mốc quan
trọng của sự hình thành dòng chảy văn hiến Việt Nam trên nền tảng
các lớp văn hóa cổ - trung đại trước đó trong vùng. Đến năm 1698, Lễ
Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh
lý, chính thức đặt lỵ sở quản lý ở địa phương; kể từ đó, tinh hoa văn hóa
phương Nam và hào khí Đồng Nai được hình thành và phát triển không
ngừng nghỉ qua các thế kỷ. Đồng Nai chuyển mình rạng rỡ từ một vùng
đất hoang vu, dân cư tản mác hồi đầu thế kỷ 17, trở thành một vùng đất
đang trên đà đô thị hóa - công nghiệp hóa mạnh mẽ và là niềm tự hào
của không ít người Việt ở Nam Bộ. Trong ký ức của họ, Đồng Nai là một
miền kỷ niệm xa xưa, nơi những bước chân lưu dân người Việt và người
Hoa tìm tới, nương tựa nhau để gieo cấy nền văn minh Tam giáo và là
miền ký ức đô hội sầm uất với Thương cảng Cù lao Phố trên bến dưới
thuyền, với tinh thần Gia Định tam gia và Bình Dương thi xã chí khí ngất
trời, tinh hoa lan tỏa tứ phương.
Nghiên cứu lịch sử văn hiến và hào khí Đồng Nai nhìn chung khá
phong phú, nhất là ở các bình diện cụ thể của khảo cổ học, lịch sử hình
thành xóm ấp, làng mạc, thương cảng, phong trào đấu tranh cách mạng,
hệ thống di sản đình, chùa, miếu mạo, lễ hội, phong tục - tập quán và
đa dạng tộc người - văn hóa, song vẫn cần có một nghiên cứu đúc kết
- tổ hợp hết các giá trị ấy thành chuỗi giá trị mang tính triết lý cho địa
phương Đồng Nai trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Khái niệm văn hóa/văn hiến Đồng Nai được sử dụng trong bài viết này
được mở rộng để bao trùm một vùng không gian - văn hóa hội tụ và lan
tỏa từ vùng đất men theo trục sông Đồng Nai - sông Sài Gòn, kéo từ vùng
biển BR-VT lên tận thượng nguồn dòng sông này. Do đó, không gian
khảo sát trong công trình này không hề bị giới hạn trong một địa phận
hành chính cấp tỉnh, mà mở rộng theo không gian văn hóa trong thực
tế lịch sử. Văn hóa Đồng Nai khó có thể tách biệt với văn hóa Gia Định,
do lịch sử hình thành vùng đất này đã gắn chặt hai thực thể thành một
khối: Văn hiến Đồng Nai - Gia Định.
- 145 -

15.6 Page 146

▲back to top
Bài viết này đi từ nhận dạng từng thuộc tính giá trị của văn hóa
Đồng Nai đến thảo luận tổng hợp để chỉ ra cơ chế và phương pháp luận
cho việc tái đánh giá và phát huy giá trị văn hóa Đồng Nai trong đời sống
đương đại.
2. Đồng Nai - miền đất của sự đa dạng, hội tụ và lan tỏa
Về mặt địa lý sinh thái và nhân văn, Đồng Nai là một vùng đất của sự
đa dạng và là xứ sở mang cả hai thuộc tính hội tụ lan tỏa.
Xứ Đồng Nai xưa trải dài từ BR-VT đến tận vùng hồ Trị An ở thượng
nguồn sông Đồng Nai, nơi có cánh rừng Cát Tiên che phủ tựa như lá
phổi xanh của cả vùng, trải dài qua nhiều vùng địa lý - sinh thái và địa
lý nhân văn quan trọng của vùng Đông Nam Bộ: Biển, sông, đồng bằng,
đất đỏ bazan, đồi núi, thung lũng, ao hồ/bàu nước, vườn quốc gia... cấu
thành đặc tính đa dạng của điều kiện địa lý - sinh thái. Xứ Đồng Nai có
quan hệ mật thiết với xứ Gia Định cùng chia sẻ hạ lưu sông Đồng Nai và
vịnh Gành Rái, chia sẻ chung hệ sinh thái và phong cách cư dân - phong
cách văn hóa. Đồng Nai về sau đã phân thành các tiểu vùng Đồng Nai
Hạ và Đồng Nai Thượng và tách tỉnh BR-VT. Tuy vậy, chúng ta chỉ có thể
hiểu văn hóa Đồng Nai khi đặt nó trong một tổng thể vùng/xứ và trong
bức tranh chung của vùng văn hóa Nam Bộ.
Đồng Nai nằm ở cửa ngõ đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có các
tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, đường hàng hải và tương lai là
đường hàng không phát triển, hết thảy sẽ cấu thành nguồn lực hội tụ và
lan tỏa của miền đất này. So với một Bình Dương gắn kết khá chặt chẽ
với Thành phố Hồ Chí Minh thì Biên Hòa, Đồng Nai có một vị trí khá
độc lập, được cấu thành từ các điều kiện địa lý - văn hóa khá đặc thù của
vùng đất này.
Xứ Đồng Nai xưa đã từng là nơi sinh sống của các lớp cư dân thuộc
cơ tầng văn hóa Đồng Nai thời tiền sử (có thể minh họa qua các di chỉ
khảo cổ gò chùa Hội Sơn, Cù lao Rùa, Bình Đa… dọc sông Đồng Nai),
văn hóa tiền Óc Eo (ở BR-VT và Giồng Cá Vồ huyện Cần Giờ, Thành phố
Hồ Chí Minh), văn hóa Hậu Óc Eo (Cát Tiên, Lâm Đồng), văn hóa người
Việt thời di dân mở cõi (từ thế kỷ 17), văn hóa thương nghiệp thịnh đạt
thời thương cảng Cù lao Phố (thế kỷ 18), nền văn hiến Đồng Nai đầy
vẻ vang (thế kỷ 18-19) và văn hóa công nghiệp - đô thị Đồng Nai thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Sự có mặt của những di chỉ
khảo cổ: Cái Vạn, Bình Đa, Phước Tân, Bến Đò, Gò Mít, Đồi Xoài, Trảng
Bom, Sông Ray, Cù lao Rùa, Núi Gốm… có niên đại lên đến 3.000-4.000
năm cách ngày nay đã chứng minh rằng Đồng Nai là một vùng đất an
- 146 -

15.7 Page 147

▲back to top
lành, nguồn lực sinh thái và đa dạng sinh học. Thậm chí có nhà khoa
học từng nhận định rằng vào thời trung cổ đã từng có một Vương quốc
Mạ chịu ảnh hưởng của Hindu giáo, đủ sức để xây dựng khu thánh địa
Cát Tiên huyền bí bên bờ sông Đồng Nai về phía thượng nguồn (Trần
Quốc Vượng 1997).
Nếu như vùng đất Đồng Nai Hạ từ đầu thế kỷ 17 là nơi hội tụ, sinh
cơ lập nghiệp rồi lan tỏa của các cộng đồng Việt, Hoa ở Nam Bộ thì vùng
đất Đồng Nai Thượng là “ngôi nhà” khá ổn định của các nhóm dân tộc
sống lâu đời (Chơro, Mạ…) và là điểm dừng chân đồi - thung lũng đất đỏ
bazan của các dân tộc Môn - Khmer, trong đó nhiều tri thức bản địa vẫn
có thể phát huy tốt giá trị của nó ở thời điểm hiện tại. Đồng Nai Thượng
và Bình Phước hợp thành một miền đất điển hình của văn hóa Đông
Nam Bộ bản địa, nơi ghi dấu ấn văn hóa ứng xử với rừng núi và đời sống
trồng trọt nông nghiệp trên những triền đất đỏ bazan, được bao bọc bởi
những cánh rừng nguyên sinh hàng trăm tuổi và nhiều khu vườn cao su
trải rộng ngút tầm mắt.
Đồng Nai cho tới nay được người Nam Bộ biết đến với danh hiệu
miền đất đa dạng tín ngưỡng - tôn giáo với nhiều loại hình tín ngưỡng
dân gian Việt, người Hoa, người Chơro, người Mạ, người Tày, người
Nùng, người Thái; đa dạng tư tưởng - tôn giáo Nho, Phật, Thiên Chúa,
Tin Lành và cả Islam giáo. Các cộng đồng dân tộc, các cộng đồng tôn
giáo sinh sống chan hòa, nương tựa nhau cùng tạo nên một bức tranh
văn hóa Đồng Nai đa dạng, dung hòa, hội tụ và lan tỏa. Các thuộc tính
này vừa là điều kiện tích cực vừa là động lực quan trọng cho phát triển
kinh tế không chỉ của riêng Đồng Nai mà của cả vùng Đông Nam Bộ.
3. Đồng Nai - miền đất địa đầu văn hiến phương Nam
Người Đồng Nai - Gia Định xưa và nay tự hào vì một “hào khí Đồng
Nai” vang danh thiên hạ, bởi đất và người Đồng Nai được “tắm mình”
trong một dòng sông văn hóa phủ đầy màn sương tinh hoa tứ phương
hội tụ. Dân gian xưa miệt Cần Thơ có câu hát rằng:
“Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn nước sông ngoài
Thương ai xa xứ lạc loài tới đây”
(Ca dao Nam Bộ)
Nếu như Huế là đất thần kinh, có triều đình nhà Nguyễn và hệ
thống quan lại, sĩ tử tập trung thì đất Đồng Nai - Gia Định xưa chính là
lỵ sở đầu não của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn ở Nam Bộ. Đầu tiên phải
- 147 -

15.8 Page 148

▲back to top
kể Tổng binh Trần Thượng Xuyên (1626-1720), người đã có công chiêu
mộ thương nhân, dân binh người Hoa và người Việt cùng lập nghiệp, mở
ra Cù lao Phố sầm uất gần một thế kỷ (cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18).
Với nền tảng kinh tế và giao thương quốc tế quan trọng này của Cù lao
Phố, đất Đồng Nai - Gia Định không ngừng “tụ nhân”, “tụ đức”, “tụ tài”
để sớm trở thành vùng đất văn hiến, đại diện cho cả vùng.
Năm 1698, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh “lấy Đồng Nai làm
huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn Biên dinh
(Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu
mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai
khẩn ruộng đất”. Đất Đồng Nai từ ấy trở thành phên dậu vững chắc ở
phía Nam, nơi quan binh và sai nha được lệnh trấn giữ nghiêm ngặt;
nha môn dần trở thành biểu tượng của vương quyền và sau này đình
miếu thờ tự các quan nhân có công đã trờ thành điểm hội tụ tinh thần
của bao lớp cư dân Đồng Nai - Gia Đinh khi tưởng nhớ, hoài niệm về
tiền nhân thời mở cõi.
Đất này suốt các thời kỳ tiền Pháp thuộc đã chào đón, hội tụ nhiều
văn nhân mặc khách, lập trường dạy học, vì thế sĩ tử và trí thức Nho
học ngày càng đông đảo. Văn miếu Trấn Biên là biểu hiện sinh động của
truyền thống hiếu học, trượng trung nghĩa, nhân văn và tinh thần tôn
sư trọng đạo. Năm Ất Mùi 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu hạ lệnh cho
Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn
miếu Trấn Biên tại thôn Tân Lại, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh
(nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa) để xiển dương Nho
học và thờ phụng các danh nhân văn hóa dân tộc: Chu Văn An, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn và các học sĩ Nam Bộ
danh tiếng như: Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Ngô
Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa và Nguyễn Đình Chiểu. Từ
chiếc nôi của nền văn hiến này, đất Đồng Nai ghi đậm dấu ấn của nhiều
quan lại và văn nhân có công với lịch sử, như: Tổng binh Trần Thượng
Xuyên, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, danh sĩ Võ Trường Toản, đại
học sĩ Trịnh Hoài Đức, Bùi Hữu Nghĩa... Nối tiếp các bậc hiền nhân thuở
trước, thời kỳ cách mạng và đất nước đổi mới đất Đồng Nai tiếp tục
rạng danh nhiều văn nhân - nghệ sĩ đương đại, tiếp tục đóng góp và
tô vẽ thêm cho hào khí Đồng Nai nhiều sắc màu của của cuộc sống,
như: Bình Nguyên Lộc, Huỳnh Văn Nghệ, Hoàng Văn Bổn, Lương Văn
Lựu, Lý Văn Sâm, Nguyễn Đức Thọ, Hoàng Kim Chung, Nguyễn Thái
Hải, Phạm Thanh Quang, Lê Thanh Xuân, Đàm Chu Văn, Nguyễn Nam
Ngữ, Trần Quốc Tiến, Trần Viết Bính, Nguyễn Văn Vy, Thu Trân, Nguyễn
- 148 -

15.9 Page 149

▲back to top
Một, Trần Thu Hằng, nhạc sĩ Trần Thị Lệ Hằng, biên đạo múa Việt Bắc,
nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn An, nhà điêu khắc Trần Đình Thắng… (Quế
Hoa 2023). Từ cuối thế kỷ 18 về sau, Đồng Nai đã “nhường” vị thế trung
tâm vùng đất Nam Bộ cho Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh,
song trong tâm thức trí thức Nam Bộ các thời kỳ, Đồng Nai xưa là mạch
nguồn văn hóa Nam Bộ, trí thức Nho học và tầng lớp tinh anh các thời
kỳ tiếp nối truyền thống ấy, cùng tạo nên một “Hào khí Đồng Nai”.
Biên Hòa, Đồng Nai cũng là miền đất Phật giáo sớm của Nam Bộ,
đặc biệt là dòng Lâm Tế. Từ giữa thế kỷ 17, bốn nhà sư dòng Lâm Tế
là Thành Nhạc, Thành Trí, Thành Đẳng và Khánh Long đã đến lập ba
ngôi chùa nổi tiếng trong vùng gồm: Chùa Long Thiền ở Hóa An (1664),
chùa Bửu Phong ở Bửu Long (1679), chùa Đại Giác ở Cù lao Phố (1665)
và chùa Hội Sơn (giữa thế kỷ 17) ở thành phố Thủ Đức (trên bờ sông
Đồng Nai). Triết lý Phật giáo đã thấm đẫm vào tầng lớp dân gian, giúp
lưu giữ ký ức về nhân vật Thủ Huồng (Nguyễn Thủ Hoằng, thế kỷ 18) và
câu chuyện hoán cải lương tâm dưới sự chi phối của tư tưởng nghiệp
báo - luân hồi cửa Phật. Ngày nay, cầu Thủ Huồng và ngôi chùa do Thủ
Huồng lập vẫn còn tồn tại ở xứ Đồng Nai (cầu ở Hóa An và chùa ở Cù lao
Phố), cả hai có thể giúp “nhắc nhớ” ký ức một thời vàng son của phố thị
bên sông.
Đồng Nai xưa còn là một miền đất của văn minh thương nghiệp
quan trọng của Đàng Trong trong giao tiếp với khu vực và thế giới. Cù
lao Phố - theo ghi chép của Đại Nam nhất thống chí (do Quốc sử quán
triều Nguyễn biên) và Gia Định thành thông chí (của Trịnh Hoài Đức),
từng là một miền đô hội, sánh đồng thời với cảng thị Hà Tiên và Mỹ Tho
ở phía Nam, nơi chào đón biết bao thương thuyền quốc tế và theo đó là
bước chân văn nhân, mặc khách đến xứ này. Đình Tân Lân ngày nay vừa
là nơi phụng thờ Tổng binh Trần Thượng Xuyên vừa là một thiết chế văn
hóa quan trọng mang sứ mệnh ký thác ký ức lịch sử - văn hóa một thời
huy hoàng của Cù lao Phố xứ Đồng Nai thịnh vượng.
Tựu chung lại, là vùng đất đầu tiên chào đón bước chân lưu dân
người Việt và người Hoa vào Nam lập nghiệp hồi đầu và giữa thế kỷ 17,
xứ Đồng Nai biết tận dụng lợi thế “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, phát
triển thành xứ sở phồn hoa đô hội và là nơi văn hiến phương Nam hình
thành và phát triển đến thịnh đạt. Từ nền tảng ấy, người Đồng Nai có
quyền tự hào với truyền thống vùng đất học hành, vùng đất thi tài của
văn nhân - mặc khách được gìn giữ qua bao thế hệ.
- 149 -

15.10 Page 150

▲back to top
4. Đồng Nai - tiền đồn tiên phong trong các lĩnh vực kinh tế -
xã hội
Đồng Nai không chỉ có một kho tàng ký ức văn hóa của những di
tích khảo cổ hay một thương cảng Cù lao Phố ẩn hiện trong làn sương
khói buổi sớm mai trên sông Đồng Nai, mà xứ này còn là tiền đồn tiên
phong trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đương đại, rất xứng
danh với vị thế một “anh cả” hay “anh hai” trong đại gia đình văn hóa
vùng đất Nam Bộ.
Sớm từ đầu thế kỷ 20, cùng với Bình Dương và Bình Phước, xứ Đồng
Nai Thượng được biết đến với những cánh rừng cao su bạt ngàn, với
hình ảnh người công nhân cao su lam lũ và với nhiều phong trào đấu
tranh cách mạng. Cao su Đồng Nai đã làm nên một thương hiệu lớn,
rồi pin ắc quy Đồng Nai từng len lỏi vào mọi góc nhà Nam Bộ thời kỳ
sau thống nhất như là một minh chứng sống động cho một hình ảnh xứ
Đồng Nai công nghiệp hóa ngay từ thập niên đầu sau giải phóng. Các
khu công nghiệp Đồng Nai 1-2-3 và nhiều khu công nghiệp khác ở xứ
này đã làm nên sự phát triển thần tốc của vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, đặc biệt ở thời kỳ đầu ngay sau đất nước cải cách, mở cửa.
Công trình thủy điện Trị An ở huyện Vĩnh Cửu được Nhà nước đầu tư
xây dựng dưới sự hợp tác của Liên Xô đầu thập niên 1980 đã chính thức
khoác lên mình xứ Đồng Nai (cùng với Thành phố Hồ Chí Minh) vị thế
“tiên phong” trên mặt trận khoa học - kỹ thuật, phát triển công nghiệp
và phát triển kinh tế. Hình ảnh nhà máy Thủy điện Trị An được in trên
mặt sau tờ tiền 5.000 đồng vẫn được lưu hành cho đến ngày nay. Nhiều
chính sách công nghiệp và kinh tế thị trường mang tính tiên phong được
triển khai thí điểm ở Đồng Nai, tiếp tục trao quyền cho vùng đất này
sứ mệnh “tiên phong” trong thời kỳ đổi mới, y hệt như sứ mệnh tiên
phong thời kỳ mở cõi năm nào. Rừng Mã Đà - Chiến khu Đ, một ký ức
lịch sử cách mạng hào hùng của dân tộc trên đất Đồng Nai khi xưa, nay
đóng vai trò lá phổi xanh của toàn bộ vùng Đông Nam Bộ. Cánh rừng
đầu nguồn Hồ thủy điện Trị An luôn được gìn giữ nghiêm ngặt để bảo
vệ nguồn nước, nguồn động thực vật quý hiếm còn sót lại trong vùng.
Con đường dẫn từ Hồ Trị An vào lõi rừng Mã Đà, nơi có lập đền thờ và
mộ địa các chiến sĩ Chiến khu Đ cũng là một thể nghiệm mang tính tiên
phong của việc trồng và bảo vệ hàng cây hoa giấy/hoa sứ ven đường,
không chỉ có chức năng tạo cảnh quan vật lý mà còn nuôi dưỡng ý thức
bảo vệ môi trường và xây dựng cảnh quan cuộc sống xanh, sạch, đẹp
cho cộng đồng.
- 150 -

16 Pages 151-160

▲back to top

16.1 Page 151

▲back to top
Sân bay quốc tế Long Thành đã được động thổ, sau khi vận hành
sẽ biến Đồng Nai thành một cửa ngõ hiện đại, quy mô lớn trong giao
thông quốc tế và cùng với nó sẽ là những cơ hội và triển vọng kinh tế to
lớn khác. Hệ thống cao tốc Sài Gòn - Long Thành -Dầu Giây - Phan Thiết
và trong tương lai là Dầu Giây - Đà Lạt và Long Thành - Vũng Tàu hoàn
thiện, Đồng Nai sẽ có thêm nhiều nguồn lực mới để phát triển mạnh mẽ
hơn nữa, xứng đáng với vị trí “tiên phong mở lối” của xứ sở này trên mọi
mặt trận.
Tựu chung lại, Đồng Nai xuyên suốt các thời kỳ lịch sử đã giữ vững
vị trí và vị thế tiên phong trên hầu hết các mặt trận văn hóa, xã hội, kinh
tế, khoa học kỹ thuật và giao thông của cả vùng Nam Bộ. Vậy nên, sứ
mệnh của Đồng Nai là sứ mệnh chung của cả vùng đất Nam Bộ; Đảng và
Chính quyền tỉnh Đồng Nai chắc chắn nhận thức rất rõ và luôn có chiến
lược cụ thể, rõ ràng để cùng Nhân dân thực hiện thành công sứ mệnh ấy.
5. Đồng Nai - hướng tới tương lai hiện đại, văn minh nhưng vẫn
hào hùng, khí chất
Sẽ không thể có một Đồng Nai tiên phong, hiện đại, văn minh nếu
người dân địa phương này thiếu vắng bản sắc và truyền thống văn hiến
trong từng hơi thở, từng nhịp đập trái tim mình. Xứ sở này có sứ mệnh
lịch sử gìn giữ và trao truyền cho các địa phương khác ở Nam Bộ truyền
thống văn hiến và tinh thần khai phóng, tiên phong của cha ông các
thời đại. Hào khí Đồng Nai là hào khí phương Nam, tinh thần Đồng Nai
là tinh thần Nam Bộ; do vậy, bất cứ chính sách, kế hoạch nào của Đồng
Nai ở hiện tại và tương lai cũng phải lưu ý đến giá trị biểu trưng mang
tính vùng này.
Ký ức văn hóa tốt đẹp về quá khứ hào hùng, vẻ vang của một hào khí
Đồng Nai không thể ngủ yên theo năm tháng; du khách đến Đồng Nai
không thể chỉ mãi thả hồn trong trí tưởng tượng về một Cù lao Phố thịnh
đạt một thời trong lời kể chuyện của một cán bộ bảo tàng, một hướng
dẫn viên du lịch hay việc khám phá xứ sở Đồng Nai dập dìu tài tử giai
nhân trên các văn đàn chuyện xưa. Truyền thống ấy phải được hiện diện
trong đời sống đương đại thông qua các thiết chế lịch sử - văn hóa mang
tính nhắc nhớ (Nora 1996). Một Văn miếu Trấn Biên làm vật ký thác ký
ức về truyền thống Nho học và thi cử đất Đồng Nai - Gia Định; một đình
Tân Lân trầm mặc hội tụ tinh thần giao hòa, cộng cảm văn hóa Việt -
Hoa và tâm thức biết ơn tiền nhân; một Quan Đế miếu lừng lững bên
sông Đồng Nai cùng hệ thống nghi lễ - lễ hội của nó có thể nhắc nhớ về
một thời đô hội xứ này; một số ngôi chùa cổ cũng gợi nhớ những miền
- 151 -

16.2 Page 152

▲back to top
kỷ niệm xa xôi về một thời cư dân ngang dọc trên dòng sông Đồng Nai
với bao nỗi niềm tha hương và hoài niệm; tiếng chuông nhà thờ vọng ra
từ khu phố xa xa cũng cơ hồ góp phần tạo nên không khí của một Biên
Hòa - Đồng Nai vừa trầm mặc vừa nhộn nhịp.
Thế nhưng, chỉ bấy nhiêu thôi là chưa đủ. Ký ức lịch sử - văn hóa
của một vùng đất, theo Halbwachs (1983) cần có một hệ thống vật thể
và phi vật thể để chúng ký thác vào. Đó có thể là đình đền, miếu tự, công
viên - quảng trường, tôn tượng - bia ký, khu phố cổ, hệ thống di vật còn
sót lại (vật thể), tín ngưỡng, lễ hội, truyền thuyết - chuyện kể, áng thơ
văn, một tinh thần - nhuệ khí cụ thể hay một vật phẩm tạo tác nghệ
thuật (âm nhạc, điện ảnh, hội họa, điêu khắc...) phản ánh/chứa đựng ký
ức trong đó (phi vật thể). Đất Đồng Nai với bề dày lịch sử - văn hóa như
tổng thuật trên đây, song hệ thống các vật thể và phi vật thể chứa đựng
ký ức không nhiều và chưa được thông tin - thuyết minh đầy đủ. Ngoài
đình Tân Lân, miếu Quan Đế, một vài ngôi chùa, Văn miếu Trấn Biên và
Khu tưởng niệm Chiến khu Đ, hầu như các di tích gắn liền với ký ức xứ
Đồng Nai đều chưa được quan tâm đúng mức. Trí thức và du khách xa
gần thật sự kỳ vọng về một quần thể khu phố, đền đài lưu dấu tích xưa
của Thương cảng Cù lao Phố sầm uất hồi thế kỷ 17-18, bên cạnh là cụm
các đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, chùa Đại Giác và chùa Thủ Huồng. Gắn
với thương cảng phải là bến sông, nơi người xưa ra vào, tiếp cận với thế
giới bên ngoài. Có thể nói sự phát triển của đô thị Biên Hòa hiện nay lấy
trục đường bộ (mai sau là đường cao tốc và cảng hàng không) làm trung
tâm, trong khi con sông Đồng Nai - đường thủy lộ xây dựng nên hình hài
bộ mặt xứ Đồng Nai văn hiến, đầy hào khí lại bị bỏ quên sau lưng phố
thị. Một khi tuyến đường sông này bị lãng quên thì các di tích gắn liền
với nó như hệ thống chùa chiền ven sông cũng đương nhiên chìm vào
quên lãng.
Đất Đồng Nai nổi danh với văn nhân kiệt xuất Trịnh Hoài Đức, người
được triều đình nhà Nguyễn chọn lựa thay mặt cả quốc gia - dân tộc Việt
Nam đi sứ nhà Thanh Trung Hoa và là một quan văn có công trong lịch
sử nhà Nguyễn. Thế nhưng, khu lăng mộ Trịnh Hoài Đức hiện nay chưa
được thiết kế xứng tầm và chưa được chỉnh trang, quảng bá hiệu quả.
Trong tương quan so sánh với cụ Đồ Chiểu ở Bến Tre, anh hùng Trần Văn
Thành ở An Giang và anh hùng Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, hệ thống
vật thể mang tính nhắc nhớ về Trịnh Hoài Đức còn rất khiêm tốn. Công
viên Biên Hùng trước mặt phần nào cũng đã trở thành một miền ký ức
trong tâm thức người dân Biên Hòa, vậy nên một quảng trường và khu
tưởng niệm có quy mô xứng tầm mang tên danh nhân Trịnh Hoài Đức
- 152 -

16.3 Page 153

▲back to top
gắn với quần thể công viên hồ nước Biên Hùng càng làm gia tăng giá trị
cảnh quan và sắc màu lịch sử - văn hóa cho thành phố.
Cù lao Phố cũng thiếu vắng hệ thống cảnh quan di tích và bộ nhận
dạng thương hiệu cảng thị lịch sử - văn hóa này. Tương tự như vậy, quần
thể các di tích khác dọc hai bên bờ sông, như làng nghề đá - mộc - rèn
nổi tiếng của người Hẹ ở Bửu Long, khu ngã ba sông Đồng Nai - Sài Gòn
với câu chuyện ông Thủ Huồng cho cất dãy nhà trên bè để hỗ trợ lưu
dân Ngũ Quảng vào lập nghiệp, làng gốm sứ Biên Hòa... cũng cần thiết
kế thành các quần thể di tích mang tính ký thác và nhắc nhớ về ký ức.
Lễ hội gắn với ký ức lịch sử - văn hóa cũng góp phần to lớn tạo dựng
thương hiệu văn hóa và quảng bá, tuyên truyền thông tin về ký ức. Xứ
Biên Hòa - Đồng Nai thiếu vắng một lễ hội Cù lao Phố có quy mô lớn,
gắn với các loại hình diễn xướng nghệ thuật quan trọng (có thể tham
khảo mô hình nghệ thuật Ký ức Hội An ở Quảng Nam), thiếu vắng một
hệ thống các lễ hội tầm khu vực. Địa phương có thể nghiên cứu liên kết
với Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương để hình thành cung đường
lễ hội theo hệ thống sông Đồng Nai - sông Sài Gòn, góp phần tái tạo con
đường lịch sử di dân, mở mang bờ cõi khi xưa của bao lớp tiền nhân. Có
thể lấy Biên Hòa làm điểm khởi đầu với Lễ hội Quan Đế các ngày 12-13
tháng Giêng, tiếp đến là lễ hội Nguyên tiêu của đồng bào người Hoa Chợ
Lớn các ngày 14-15 tháng Giêng và dịch chuyển về Thủ Dầu Một, Bình
Dương với lễ hội Bà Thiên Hậu ngày 16 tháng Giêng. Xen kẽ với chuỗi
các hoạt động lễ hội, quần thể di tích ven sông Đồng Nai được “sống
dậy”, cùng tham góp vào chuỗi hành lang ấy như những chứng nhân
lịch sử trung thực nhất. Đánh thức dòng sông Đồng Nai còn là đánh
thức miền kỷ niệm, đánh thức nền văn hiến của một vùng đất phương
Nam hào khí, giàu nhân văn và bi tráng.
Kết luận
Với vị thế là vùng đất văn hiến 325 năm, và là “bàn đạp”, “nền tảng”
cho sự lan tỏa và hình thành dòng chảy văn hóa Nam Bộ, Đồng Nai - Gia
Định sớm trở thành chiếc nôi và là điểm hội tụ của tinh thần phương
Nam của bao lớp dân Việt. Đồng Nai mang trong mình khí chất hào
hùng (hào khí Đồng Nai), được nuôi dưỡng và khai thông qua sự cống
hiến của bao lớp quan viên, văn nhân, nghệ sĩ, người trí thức và người
dân lao động. Vì thế, Đồng Nai sau hơn ba thế kỷ vẫn giữ được phong
thái dung hòa sự đa dạng, hồn cốt văn hiến, tinh thần tiên phong và
phong cách hiện đại. Chúng tôi mong muốn Đồng Nai tiếp tục giữ vững
hào khí của mình, tiếp tục thổi hồn văn hóa cho hết thảy vùng Nam Bộ
- 153 -

16.4 Page 154

▲back to top
qua việc lựa chọn phương thức và kỹ thuật thể hiện/tái hiện văn hóa
truyền thống và lan tỏa tinh thần hào khí Đồng Nai - hào khí Nam Bộ
trong mọi phương diện của đời sống đương đại. Người Đồng Nai xưa
từng nói “Từ độ mang gươm đi mở cõi/Trời Nam thương nhớ đất Thăng
Long” (Huỳnh Văn Nghệ) thì thế hệ trẻ Đồng Nai - Nam Bộ ngày ngay
có quyền được nhận diện một “gương mặt” Đồng Nai thân quen nhưng
mới mẻ: “Đồng Nai văn hiến, hiện đại và tiên phong”./.
Tài liệu tham khảo
1. Halbwachs, Maurice (1980), The collective memory. New York
City: Harper & Row.
2. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Phan Xuân Biên (2005), Văn
hóa Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
3. Nhiều tác giả (1998), “Các nền văn minh cổ ở Đồng Nai, Biên
Hòa”, Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb. Đồng Nai.
4. Nguyễn Hữu Thọ (2019), “Biên Hòa (Đồng Nai): 320 năm hội tụ và
phát triển”, tuyengiao.vn/bien-hoa-dong-nai-320-nam-hoi-tu-va-phat-
trien-123707.
5. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai, https://tuyengiao.vn/van-
hoa-xa-hoi/van-hoa/bien-hoa-dong-nai-320-nam-hoi-tu-va-phat-
trien-117853.
6. Nora, Pierre (biên soạn) (1996), Realms of memory: The
construction of the French past, volume 1, 2, 3. New York: Columbia
University Press.
7. Quế Hoa (2023), “Đồng Nai trong tôi”, https://baodongnai.com.
vn/vanhoa/202001/dong-nai-trong-toi-2982375/.
- 154 -

16.5 Page 155

▲back to top
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA
ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943)
TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM NÓI CHUNG
VÀ VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
NÓI RIÊNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
TS. Nguyễn Thị Kim Liên(1)
“Đề cương về văn hóa Việt Nam” (Đề cương) do đồng chí Tổng Bí thư
Trường Chinh soạn thảo năm 1943 là một văn kiện lịch sử, là cương lĩnh
xây dựng văn hóa đầu tiên của Đảng ta - cương lĩnh xây dựng văn hóa
trong thời kỳ giải phóng dân tộc. Trải qua hơn 80 năm, đến nay bản Đề
cương vẫn còn nguyên giá trị, là di sản vô giá của dân tộc, có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến bộ,
nhân văn và dân chủ. Những giá trị của bản Đề cương là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong đường lối, tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam trong công cuộc
chấn hưng văn hóa nước nhà. Bài viết một lần nữa khẳng định giá trị
trường tồn của bản Đề cương và việc phát huy các giá trị đó vào sự nghiệp
xây dựng văn hóa, con người Việt Nam và văn hóa, con người Đồng Nai
trong giai đoạn hiện nay.
1. Đề cương về văn hóa Việt Nam - giá trị trường tồn
Đề cương ra đời trong hoàn cảnh đất nước lầm than, các thế lực
ngoại xâm và phong kiến tay sai đang tìm mọi cách để đàn áp, “trói
buộc” và “giết chết văn hóa Việt Nam”. Không ít trí thức, văn nghệ sĩ, các
nhà văn hóa lạc đường về tư tưởng, hoang mang dao động, ủy mị, yếu
đuối, bi quan, bế tắc, thậm chí tha hóa, biến chất, thờ ơ với nỗi thống
(1) Học viện Chính trị khu vực II.
- 155 -

16.6 Page 156

▲back to top
khổ của Nhân dân, đứng ngoài cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trước
yêu cầu cấp bách ấy, cần phải có một sự thay đổi mang tính cách mạng,
đột phá về đời sống tinh thần của dân tộc, làm thất bại âm mưu nô dịch
của các thế lực ngoại xâm và phong kiến tay sai, đưa ra một định hướng
lý luận khoa học về tư tưởng văn hóa, thức tỉnh tinh thần dân tộc cho
Nhân dân. Đề cương ra đời đã soi đường, làm nền tảng định hướng cho
sự phát triển của đất nước. Hơn 8 thập kỷ qua nhưng bản Đề cương vẫn
còn nguyên giá trị.
Một là, Đề cương đã xác định phạm vi của văn hóa bao gồm ba lĩnh
vực: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật; luận giải mối quan hệ giữa văn
hóa với kinh tế, chính trị.
Ngay từ đầu “cách đặt vấn đề”, bản Đề cương đã nêu rõ: “Văn hóa
phải bao hàm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật” - xác định cơ cấu,
phạm vi căn bản của nền văn hóa dân tộc. Đây chính là những lĩnh vực
quan trọng của kiến trúc thượng tầng của một hình thái kinh tế - xã
hội, làm nên đời sống tinh thần cơ bản của một xã hội. Đề cương luận
giải rõ mối “quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: Nền tảng kinh
tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định
toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng
kiến trúc)”(1). Đề cương phân tích: Văn hóa có mối quan hệ biện chứng
với kinh tế, chính trị. Văn hóa luôn sinh tồn và phát triển trong mối quan
hệ biện chứng với kinh tế và chính trị. Đó là quy luật khách quan của
mọi thời đại. Điều này cho thấy, Đề cương đã thấm nhuần sâu sắc chủ
nghĩa Mác.
Hai là, Đề cương xác định: “Văn hóa là một mặt trận” trong tiến
trình cách mạng Việt Nam và Đảng phải là người lãnh đạo văn hóa thì
mới thực hiện được mặt trận đó.
Ở thời điểm lúc bấy giờ, việc Đề cương đưa ra nhận định “văn hóa
là một mặt trận” là điều vô cùng mới mẻ. Nhận định này đã cho thấy sự
quyết liệt trong việc “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô
dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân”. Muốn làm được điều đó thì Đảng
phải lãnh đạo trên mặt trận ấy - mặt trận tư tưởng - văn hóa. “Mặt trận
văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người
Cộng sản phải hoạt động”. Đề cương xác định vị trí đặc biệt quan trọng
của văn hóa trong cuộc đấu tranh của cách mạng Việt Nam chống đế
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 7.
- 156 -

16.7 Page 157

▲back to top
quốc, thực dân và phong kiến tay sai. Quan điểm này là một luồng sinh
khí tư tưởng làm thức tỉnh đội ngũ đảng viên cũng như các tầng lớp tri
thức, đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa ở nước ta trong Hội Văn hóa
cứu quốc lúc bấy giờ. Luận điểm “văn hóa là một mặt trận” được coi là
tuyên ngôn của Đảng về sứ mệnh và vị thế của văn hóa, đồng thời cũng
thể hiện tầm nhìn và cách tiếp cận tổng thể của Đảng ta đối với việc giải
quyết các yêu cầu và mục tiêu lớn của đất nước.
Ba là, Đề cương xác định tầm quan trọng, vị trí, vai trò của văn hóa
trong sự nghiệp cách mạng.
Đề cương nêu rõ tầm quan trọng đặc biệt của cách mạng văn hóa
trong tiến trình của cách mạng Việt Nam: “Phải hoàn thành cách mạng
văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”, từ đó đưa sự nghiệp
cách mạng thắng lợi hoàn toàn. Muốn hoàn thành cách mạng xã hội
thì phải hoàn thành cách mạng văn hóa. Nghĩa là văn hóa phải loại bỏ
những cái cũ kỹ, lạc hậu. “Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà
còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn
hóa, Đảng mới có ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng
mới có hiệu quả”. Đề cương cũng làm rõ mục tiêu trước mắt của cuộc
vận động văn hóa ở Việt Nam là xây dựng nền văn hóa mới, tuy chưa
phải là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, Đề cương khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng văn hóa và coi đó là một tất yếu chính trị, tất yếu khách quan.
Đề cương đã xác lập và khẳng định: “Cách mạng văn hóa muốn
hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”. Như vậy,
Đảng lãnh đạo là điều kiện tiên quyết để cách mạng văn hóa đi đến
thành công. Đề cương còn nêu ra sự cần thiết cấp bách của nhiệm vụ
lãnh đạo cách mạng văn hóa và cách mạng chính trị của Đảng ta: “Không
phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa
nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được
dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả...”. Đảng lãnh đạo
cách mạng văn hóa là một tất yếu chính trị, cũng là một tất yếu khách
quan. Về sau quan điểm này giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam.
Năm là, Đề cương xác lập mục tiêu của cách mạng văn hóa và
những nguyên tắc vận động của nền văn hóa Việt Nam.
Đề cương chỉ rõ: “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông
Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”, và để đạt mục tiêu
- 157 -

16.8 Page 158

▲back to top
đó cần phải thực hiện ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa nước Việt
Nam trong giai đoạn này: (1) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng của nô
dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); (2) Đại
chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại
đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); (3) Khoa học hóa
(chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến
bộ). Ba nguyên tắc này đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động,
là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền
văn hóa mới của Đảng và Nhà nước ta. Có thể nói, đây cũng chính là ba
trụ cột, ba tính chất cơ bản của nền văn hóa Việt Nam sau này.
Thời điểm và bối cảnh ra đời của Đề cương đã cho thấy tư duy, tầm
nhìn và sự quan tâm sâu sắc của Đảng ta trong phát triển văn hóa. 80
năm qua, những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo - những giá trị cốt lõi của
Đề cương vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường, định hướng cho tiến trình
phát triển của văn hóa Việt Nam.
2. Phát huy giá trị của Đề cương trong sự nghiệp xây dựng, phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay
Tư tưởng lý luận của Đề cương được thể hiện xuyên suốt trong các
văn kiện của Đảng các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc; đặc biệt là trong
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung
ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết số
33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị
Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành và
triển khai thực hiện, hiệu quả nhiều cơ chế, chính sách để phát triển văn
hóa, để “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”
như kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa
toàn quốc ngày 24/11/2021.
Một là, kế thừa Đề cương, chúng ta cần tiếp tục khẳng định mối
quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị, giữa cách
mạng văn hóa và cách mạng chính trị, đổi mới phải kiên định mục tiêu
xã hội chủ nghĩa, không “đổi màu”.
Đó là quy luật khách quan của mọi thời đại, mọi xã hội. Ngày nay
chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, phát huy mối quan hệ này trong
phát triển văn hóa, con người. Cần phải nhận thức sâu sắc hơn về khả
- 158 -

16.9 Page 159

▲back to top
năng tác động của văn hóa với kinh tế, chính trị và xã hội, để từ đó xây
dựng, hoạch định các chiến lược vừa phù hợp với quy luật khách quan,
vừa khơi dậy được sức mạnh nội sinh về văn hóa. Kinh tế là cơ sở, là
nền tảng để phát triển văn hóa nhưng văn hóa lại là mục tiêu, động lực
cho sự phát triển bền vững của kinh tế. Đây là mối quan hệ tác động
qua lại biện chứng lẫn nhau. Tiếp thu tư tưởng của Đề cương, Đảng ta
đã nhấn mạnh chính sách kinh tế trong văn hóa, chủ trương xây dựng
và phát triển ngành công nghiệp văn hóa, phát huy sức mạnh mềm văn
hóa. Chủ trương xây dựng văn hóa trong chính trị: “Xây dựng văn hóa
trong Đảng, trong cơ quan Nhà nước và các đoàn thể. Xem đây là nhân
tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.
Hai là, cần tiếp tục vận dụng thực hiện và mở rộng nội hàm của ba
nguyên tắc: Dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa một cách sáng
tạo trong tiến trình xây dựng giá trị văn hóa và chuẩn mực con người
Việt Nam phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.
Nền văn hóa chúng ta xây dựng và phát triển luôn mang đậm tính
dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng. Tính dân tộc như một lời hiệu
triệu tinh thần yêu nước. Tính khoa học như một định hướng lựa chọn
của phát triển văn hóa. Tính đại chúng như một lời tập hợp quần chúng.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta chủ trương xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nền văn
hóa đó vừa mang tính khoa học, tính hiện đại để đủ sức tiếp thu, tiếp
biến những tinh hoa văn hóa nhân loại vừa phải mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần của
đại đa số quần chúng Nhân dân.
Trên cơ sở vận dụng và mở rộng nội hàm ba nguyên tắc vận động
này cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, triển khai hệ giá trị của nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với các đặc trưng là: Dân
tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học, trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia
và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
hạnh phúc.
Vận dụng nguyên tắc “khoa học hóa”, cần ứng dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong phát triển văn hóa, con
người. Kiên quyết đấu tranh chống lại các phản văn hóa, phản giá trị,
phản nhân văn.
Ba là, cần tiếp tục xác định và làm rõ hơn nữa vai trò của các chủ
thể tham gia xây dựng, gìn giữ, đổi mới, phát triển nền văn hóa dân tộc
trong thời kỳ mới.
- 159 -

16.10 Page 160

▲back to top
Đề cương đã từng khẳng định vai trò của Đảng, của quần chúng
Nhân dân trong xây dựng nền văn hóa mới trên phạm vi cả nước.
Nghị quyết của Đảng trong các giai đoạn tiếp theo cần khẳng định
vai trò quan trọng và có tính đặc thù của các chủ thể: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri thức giữ
vai trò quan trọng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển văn hóa, con
người của đất nước, cần tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống lý luận về
vai trò của các chủ thể trong xây dựng, phát triển nền văn hóa làm sao
để gia tăng tính tích cực, tính trách nhiệm của tất cả các chủ thể, cũng
như tăng cường sự kết nối giữa các chủ thể trong phát triển văn hóa.
Bốn là, cần tiếp tục thực hiện quan điểm “văn hóa là một mặt trận”
trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Kiên quyết đấu tranh bài trừ những
cái “cũ kỹ hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn trong bản Di chúc lịch sử.
Đề cương đã phân tích về tầm quan trọng đặc biệt của cách mạng
văn hóa trong tiến trình cách mạng Việt Nam: “Phải hoàn thành cách
mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cách mạng cải tạo xã hội”, từ
đó đưa sự nghiệp cách mạng thắng lợi hoàn toàn.
Trong điều kiện cả nước đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân
tộc, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, việc kiên quyết đấu tranh đẩy lùi các tệ
nạn xã hội, chống tham nhũng, lãng phí, quyết liệt đấu tranh ngăn chặn
sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ đảng viên, chống lại sự “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” đang đe dọa sự tồn vong của chế độ... đó chính là công cuộc cải tạo
xã hội mà Đề cương từng nói đến, cũng là yêu cầu của cách mạng văn
hóa hết sức cấp bách trong sự nghiệp của chúng ta.
3. Vận dụng Đề cương để xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Đồng Nai
Đồng Nai là vùng đất được khai phá sớm nhất ở phương Nam trong
tiến trình khẩn hoang của dân tộc, nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa
đậm nét của đất và người Nam Bộ vào những ngày đầu mở cõi cũng như
trong suốt tiến trình phát triển 325 năm(1). Qua quá trình khai hoang lập
ấp, chống chọi với muôn vàn khó khăn thử thách, người dân Đồng Nai
đã xây dựng và phát triển vùng đất này ngày càng giàu mạnh, với nhiều
di sản văn hóa giá trị.
(1) Lương Văn Lựu (2017), Biên Hòa sử lược toàn biên (Quyển số 1), Nxb. Thế giới.
- 160 -

17 Pages 161-170

▲back to top

17.1 Page 161

▲back to top
Trong những năm qua, quán triệt sâu sắc các nghị quyết và thực
hiện quan điểm xuyên suốt của Đảng, đó là: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực
quan trọng để phát triển đất nước”, cùng với việc nghiên cứu, vận dụng
những tư tưởng của Đề cương, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai luôn coi trọng
vai trò của văn hóa thông qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị, kết
luận, đề án quan trọng để tập trung xây dựng và phát triển văn hóa trong
thời kỳ mới; tập trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và xác
định đây là yếu tố quan trọng, là động lực để thúc đẩy phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, nhiệm vụ xây dựng và phát huy các giá trị
văn hóa, con người Đồng Nai còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Sự phát
triển văn hóa, con người chưa đồng bộ, chưa ngang tầm và chưa tương
xứng với tăng trưởng kinh tế; chưa phát huy đúng mức lợi thế nguồn lực
văn hóa, con người trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc khai
thác, phát huy tiềm năng, giá trị các di sản văn hóa vào việc phát triển
du lịch, dịch vụ, công nghiệp văn hóa và thực hiện các mục tiêu kinh tế -
xã hội chưa đáp ứng yêu cầu...(1). Để tiếp tục vận dụng sáng tạo, hiệu quả
những nội dung của Đề cương và những chủ trương của Đảng, trong
thời gian tới tỉnh Đồng Nai cần phải quan tâm hơn mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai trong thời đại
mới: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình hưởng ứng của Nhân dân.
Giá trị to lớn và sức sống bền vững của Đề cương đã khẳng định chân
lý: Sự hòa quyện giữa “ý Đảng - lòng dân” là nhân tố quyết định, đảm
bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi ban hành cơ chế, chính
sách phù hợp, sát với thực tiễn thì sẽ được Nhân dân đồng tình ủng hộ
thực hiện, chắc chắn sẽ thành công. Tập trung đầu tư nguồn lực và ban
hành một số cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy giá trị văn hóa, con
người Đồng Nai; làm sao để phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa và các cuộc vận động xây dựng văn hóa phải thực sự lan
tỏa sâu rộng và thực chất hơn nữa; hoàn thiện đồng bộ, hiện đại hóa hệ
thống thiết chế văn hóa thể thao, xây dựng các chương trình, dự án mới
nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động, hưởng thụ, sáng tạo và nâng cao đời
sống tinh thần của Nhân dân.
(1) Dự thảo Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) Về xây dựng và
phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (tr.2).
- 161 -

17.2 Page 162

▲back to top
Thứ hai, thấm nhuần quan điểm con người giữ vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển và phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; trong những năm qua
tỉnh Đồng Nai có nhiều chủ trương, chính sách để tập trung phát triển
con người Đồng Nai có sức khỏe, tri thức, nhân cách, phẩm chất đạo
đức. Đặc biệt, Đồng Nai rất chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân
lực. Bởi vì con người là nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực,
là động lực để phát triển bền vững đất nước. “Tập trung xây dựng và
phát triển toàn diện con người Đồng Nai thời đại mới theo tiêu chí phát
triển bền vững con người, đáp ứng yêu cầu của hiện tại và tương lai với
những đức tính cơ bản như: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,
bao dung, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp,
bản lĩnh, tinh tế, thủy chung” như bản dự thảo Nghị quyết của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI) Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa,
con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đã đề cập.
Thứ ba, quan tâm nhiều hơn tới vai trò lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, huy động mọi nguồn lực để xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững. Cần phải xác định, đầu tư cho văn hóa, con người là đầu
tư trực tiếp cho sự phát triển. Tạo mọi điều kiện, cơ chế, chính sách và
nguồn lực để phát triển văn hóa, con người Đồng Nai. Tạo môi trường
thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa
và ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng,
lợi thế như du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn...
Thu hút, tạo điều kiện để đội ngũ văn nghệ sĩ phát huy hết tài năng sáng
tạo, cống hiến cho sự phát triển văn hóa tỉnh nhà cũng như sự phát triển
chung cho nền văn hóa Việt Nam.
Thứ tư, luôn xem “văn hóa là một mặt trận” và người chiến sĩ trên
mặt trận văn hóa phải đấu tranh lên án những điều xấu xa, bỉ ổi, đớn
hèn trong xã hội. Đồng thời bênh vực, lan tỏa những giá trị, chuẩn mực
về chân - thiện - mỹ. Ngày nay, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách
để thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, chống phá Đảng và Nhà nước
ta, hơn lúc nào hết mặt trận văn hóa cần phải được quán triệt thường
xuyên: “Văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở
đó người Cộng sản phải hoạt động”. Mục đích trước mắt của cách mạng
văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ là: “Chống lại văn hóa phát xít phong kiến,
thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân”. Trong thời kỳ giải
phóng dân tộc, bản Đề cương ra đời đã kêu gọi, thúc giục, tập hợp đội
- 162 -

17.3 Page 163

▲back to top
ngũ văn nghệ sĩ lên đường để bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa nghệ thuật có
một sức mạnh vô cùng to lớn như nhà thơ Sóng Hồng đã viết: “Lấy bút
làm đòn chuyển xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”.
Hay ngay trong Nhật kí trong tù (1942-1943), Bác Hồ đã từng viết: “Nay
ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Ngày nay, trong công cuộc chấn hưng nền văn hóa nước nhà, quyết
tâm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước, Đề cương vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng lý luận và
bài học lịch sử để phát triển văn hóa nước nhà./.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Dự thảo Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XI)
Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành
nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững.
3. Lương Văn Lựu (2017), Biên Hòa sử lược toàn biên (Quyển số 1),
Nxb. Thế giới.
- 163 -

17.4 Page 164

▲back to top
XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
TỈNH ĐỒNG NAI TRONG TÌNH HÌNH MỚI
TS. Vũ Thị Nghĩa(1)
Văn hóa chính trị của người cán bộ, đảng viên là những giá trị chân
- thiện - mỹ, phản ánh bản chất giai cấp công nhân, bản sắc văn hóa dân
tộc. Văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên được xác lập trên cơ sở lập
trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cách thức ứng
xử chính trị của người cán bộ, đảng viên đối với quyền lực được giao,
khả năng thu phục, tập hợp, tổ chức trong hoạt động thực tiễn.
Xây dựng văn hóa chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên Đồng
Nai nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp đủ năng lực, uy tín, đạo đức, phục vụ Đảng,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển của
tỉnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chính trị cao nhất là chính trị
phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; văn hóa cao nhất đó là văn hóa
phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân. Xây dựng văn hóa chính trị
trong cán bộ, đảng viên thể hiện tổng hợp nhiều nội dung, nhưng tập
trung nhất là xây dựng năng lực hoạt động chính trị; xây dựng đạo đức
cách mạng và phong cách lãnh đạo, quản lý.
Năng lực hoạt động chính trị của cán bộ, đảng viên trước hết là sự
giác ngộ lý tưởng chính trị - sự am hiểu sâu sắc về lý tưởng chính trị mà
mình tự nguyện lựa chọn, tự nguyện cống hiến cuộc đời mình cho lý
tưởng cao đẹp đó, dù trong bất kì điều kiện, hoàn cảnh nào; có ý thức
rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng cho mọi
người; không ngừng học tập để nâng cao trình độ chính trị, tri thức,
(1) Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Đồng Nai.
- 164 -

17.5 Page 165

▲back to top
năng lực tư duy, đủ khả năng tiếp nhận và xử lý các vấn đề xảy ra trong
thực tiễn công tác.
Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên vì đạo đức là cái
gốc của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng
là gốc, nền tảng của người cách mạng, cũng như sông có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo
đức cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được Nhân
dân”(1). Vì vậy, đạo đức là điều tối cần thiết với người cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Cán bộ, đảng viên không có đạo đức thì không đủ uy tín để lãnh
đạo, thuyết phục người khác, thuyết phục Nhân dân và dễ dẫn đến lạm
quyền, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tha hóa, biến chất, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để mưu cầu lợi ích cá nhân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự
của Đảng.
Xây dựng phong cách của người cán bộ, đảng viên, trong đó tập
trung xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý, nghĩa là rèn luyện phong
cách tư duy tự chủ, độc lập, sáng tạo; phong cách làm việc khoa học,
dân chủ, tác phong quần chúng; rèn luyện phong cách ứng xử văn hóa,
phong cách sinh hoạt đời thường.
Trải qua hơn 35 năm đổi mới, Đồng Nai đã đạt được những thành
tựu rất quan trọng và khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Có được
những thành tựu đó, một phần là do Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã quan
tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đó có nâng
cao văn hóa chính trị. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế, các
thế lực thù địch với âm mưu phá hoại bằng chiến lược “diễn biến hòa
bình”, nhưng tuyệt đại đa số cán bộ vẫn giữ được bản lĩnh chính trị,
trung thành với sự nghiệp đổi mới của Đảng, kiên định với mục tiêu,
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn bó với Nhân dân; nêu
cao tinh thần phục vụ Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng và tín nhiệm;
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp giữ vững sự đoàn kết, thống
nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị
của ngành, địa phương”(2).
(1) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.
252-253.
(2) Tỉnh ủy Đồng Nai, Tài liệu các bài tham luận tại Hội nghị Sơ kết giữa nhiệm kỳ
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025,
tr.3.
- 165 -

17.6 Page 166

▲back to top
Bên cạnh những thành tựu đạt được, văn hóa chính trị của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ giữ vị trí chủ chốt tại các cơ
quan, đơn vị còn hạn chế. Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ khóa
XI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã nêu rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên trong
đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp chưa thực sự nêu gương trong
học tập, nghiên cứu lý luận chính trị, các chủ trương, nghị quyết của
Đảng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng
và pháp luật Nhà nước”(1). Thực tế cho thấy, hai năm rưỡi thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XI, “qua công tác kiểm tra, giám sát đã
xem xét thi hành kỷ luật đối với 31 tổ chức đảng (khiển trách 13, cảnh
cáo 18); thi hành kỷ luật 1.316 đảng viên, có 214 cấp ủy viên (04 TUV, 05
HUV, 205 CUV cơ sở); nội dung vi phạm tập trung chủ yếu về vi phạm
chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình; thiếu trách nhiệm trong thực
hiện nhiệm vụ; những điều đảng viên không được làm; phẩm chất, đạo
đức, lối sống; cố ý làm trái; đất đai, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí”(2).
Những tiêu cực đó gây bức xúc trong dư luận xã hội, làm ảnh hưởng đến
uy tín của Đảng bộ.
Nhằm khắc phục những mặt hạn chế nêu trên và xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đủ năng lực,
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, được Nhân dân tin yêu, thì xây dựng văn
hóa chính trị trong các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức chính
trị - xã hội các cấp; xây dựng đội ngũ đảng viên trung thành - đủ năng
lực - trong sáng về đạo đức, nêu gương là nhiệm vụ vô cùng quan trọng,
nhằm góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị ở Đồng Nai trong
sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo hiện thực hóa khát vọng sánh
vai với các tỉnh trong khu vực và cả nước theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Trong thời gian tới, để nâng cao văn
hóa chính trị trong cán bộ, đảng viên của Đồng Nai, cần tập trung thực
hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, giáo dục cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc hơn về vị trí,
vai trò và sự cần thiết phải nâng cao văn hóa chính trị. Muốn nâng cao
văn hóa chính trị, tổ chức đảng các cấp cần thường xuyên làm tốt công
tác quán triệt, giáo dục để cán bộ, đảng viên trong từng cơ quan, đơn vị
(1) Tỉnh ủy Đồng Nai, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2020-2025, tr.57.
(2) Tỉnh ủy Đồng Nai, Tài liệu các bài tham luận tại Hội nghị Sơ kết giữa nhiệm
kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025,
tr.92.
- 166 -

17.7 Page 167

▲back to top
nhận thức rõ yêu cầu, giải pháp rèn luyện văn hóa chính trị. Cần tuyên
truyền, giáo dục cho các tổ chức, cá nhân nắm vững và hiểu rõ thực
trạng văn hóa chính trị và yêu cầu nâng cao văn hóa chính trị. Kiên quyết
đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng, những việc làm sai
trái, thiếu trách nhiệm trong xây dựng, nâng cao văn hóa chính trị. Đồng
thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh những nhận
thức và việc làm không đúng của cấp ủy, lãnh đạo các cấp, của các cơ
quan chức năng và đội ngũ cán bộ, đảng viên về xây dựng văn hóa chính
trị. Cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ; hoạt động
xây dựng văn hóa chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, lãnh đạo cơ
quan, đơn vị; thông qua sinh hoạt, hội họp, phân công nhiệm vụ để bồi
dưỡng văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Hai là, nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, đặc biệt về tri thức
chính trị cho cán bộ, đảng viên. Nhận thức có vị trí đặc biệt quan trọng
trong hoạt động thực tiễn, bởi vì phải trên cơ sở nhận thức đúng mới
có hành động đúng. Chính trị là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi
hỏi con người khi tham gia vào đời sống chính trị, hoạt động chính trị
phải có những tri thức và sự hiểu biết toàn diện, đúng đắn và sâu sắc
về nó. Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động
nhanh chóng, phức tạp, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tri thức toàn
diện càng đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở những tri thức và sự hiểu biết
về chính trị, cán bộ, đảng viên mới có thể giác ngộ về lập trường, quan
điểm giai cấp đúng đắn, qua đó xác định đúng mục tiêu, thái độ và động
cơ chính trị, phát huy tính tự giác, quyết tâm, sáng tạo cả trong hoạt
động thực tiễn cũng như ở hành vi chính trị.
Tri thức chính trị của cán bộ, đảng viên có vai trò định hướng cho
mọi hoạt động trên tất cả các lĩnh vực. Trong giai đoạn hiện nay, trang
bị tri thức chính trị cho cán bộ, đảng viên cần tập trung nâng cao hiểu
biết về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tri thức
về chính trị, tri thức về lãnh đạo, quản lý... Đồng thời, còn phải thường
xuyên trang bị, cập nhật những kiến thức mới, là những nguyên lý, quy
luật đã có sự phát triển mới trong điều kiện hiện nay (như lý luận về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các mối
quan hệ lớn, các nội dung đảm bảo cho mục tiêu định hướng xã hội chủ
nghĩa...); những kiến thức mới về kỹ năng lãnh đạo, về cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư... Đặc biệt là chú trọng nâng cao, mở rộng tri thức
khoa học và xã hội, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ,
- 167 -

17.8 Page 168

▲back to top
đảng viên cũng như xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ cho tầm
nhìn chiến lược phát triển của tỉnh đến năm 2030. Như văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh khóa XI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định: “Thực
hiện nề nếp việc đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức
mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”(1).
Ba là, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách cho cán
bộ, đảng viên, nhất cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đạo đức là gốc của người
cách mạng, là cơ sở quan trọng trong xây dựng văn hóa chính trị cho cán
bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên là “gốc” của xây dựng văn hóa Đảng,
nói tới Đảng là nói tới đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, chỉ khi nào
đội ngũ cán bộ, đảng viên chuẩn mực về phẩm chất đạo đức thì mới
thực hiện được tốt các nhiệm vụ khác mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân
giao phó. Đây chính là giá trị đạo đức trong chính trị, một bộ phận cấu
thành quan trọng của văn hóa chính trị. Việc rèn luyện và nêu gương
phẩm chất, nhân cách người cán bộ, đảng viên có ý nghĩa hết sức quan
trọng, liên quan trực tiếp đến uy tín của họ. Do đó, Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh khóa XI xác định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ phải được tiến hành
đồng bộ với thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó,
chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, đoàn kết thống nhất trên dưới một lòng, thực hiện tốt trách
nhiệm nêu gương trong công tác và trong đời sống xã hội”(2). Trong tình
hình hiện nay, để rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
cần đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; “làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”(3).
Bốn là, thường xuyên kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đây là cơ sở
(1) Tỉnh ủy Đồng Nai: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2020 -2025, tr.114.
(2) Tỉnh ủy Đồng Nai, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2020-2025, tr. 72.
(3) Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- 168 -

17.9 Page 169

▲back to top
để các chủ thể đánh giá thực chất hiệu quả của việc đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao văn hóa chính trị, đồng thời rút kinh nghiệm cho quá trình tổ
chức các hoạt động tiếp theo. Vì vậy, cần xác định rõ, cụ thể mục đích,
yêu cầu, nội dung, các tiêu chí đánh giá; quá trình đánh giá chính xác, có
kết quả rõ ràng cả về định tính và định lượng đối với từng cán bộ, đảng
viên trong mỗi cơ quan, đơn vị. Kết quả đánh giá văn hóa chính trị của
cán bộ, đảng viên là thước đo quan trọng xếp loại mức độ hoàn thành
nhiệm vụ, là cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch bố trí, sắp xếp,
sử dụng, đề bạt cán bộ trong nhiệm kỳ mới.
Năm là, khơi dậy tính tích cực, chủ động, tự giác của cán bộ, đảng
viên trong tự nâng cao văn hóa chính trị. Để thực hiện được yêu cầu
này, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng chủ động, tích
cực trau dồi học vấn, tích lũy tri thức, nâng cao bản lĩnh chính trị, phải
luôn nỗ lực phấn đấu, thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách
mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đề cao việc tự nghiên cứu, quán triệt,
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phải
“tự soi, tự sửa”; ý thức trong nhận diện những biểu hiện chủ nghĩa cá
nhân của bản thân để kịp thời khắc phục, sửa chữa; chú trọng tu dưỡng,
rèn luyện phong cách làm việc khoa học, dân chủ đó là phong cách tư
duy tự chủ, độc lập, đổi mới, đột phá, sáng tạo. Muốn có phong cách tư
duy tự chủ, độc lập, đổi mới, đột phá, sáng tạo, đặc biệt là tinh thần “7
dám” đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu
để nâng cao trình độ, mở rộng kiến thức mới thoát khỏi sự dựa dẫm, lệ
thuộc vào tư duy của người khác hoặc bị động, không quyết liệt trong
xử lý công việc phát sinh từ thực tiễn. Không chỉ vậy, mỗi cán bộ, đảng
viên còn phải là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống
trong sáng, giản dị, tận tụy với công việc, giỏi về chuyên môn, hết lòng
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; kiên quyết loại trừ thói thờ ơ, vô
cảm đối với công việc, với những vấn đề bức xúc của Nhân dân. Ngoài
ra, mỗi cán bộ, đảng viên còn phải tự mình ra sức thực hành văn hóa
chính trị ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi nhiệm vụ, điều kiện, hoàn cảnh,
không gian và thời gian; phải tự mình điều chỉnh thái độ, tình cảm, hành
vi ứng xử thấu tình, đạt lý, tôn trọng nhân dân, pháp luật của Nhà nước;
không ngừng nâng cao giá trị nhân cách, tự nêu gương về văn hóa trong
cơ quan, đơn vị, khu dân cư, trong Nhân dân. Nội dung này, được Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh khẳng định trong văn kiện Đại hội XI: “Tiếp tục
triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng
- 169 -

17.10 Page 170

▲back to top
Đảng và các quy định của Đảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên, người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, với phương châm “cán bộ chức vụ càng cao, càng phải
gương mẫu”(1).
Sáu là, kết hợp chặt chẽ xây dựng văn hóa chính trị với chủ động
phòng ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán
bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XI nêu rõ: “Kiên
quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực dụng, bè
phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Coi trọng thực hiện văn
hóa Đảng trong các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, hệ thống
chính trị… Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị -
xã hội và Nhân dân trong việc tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền và hệ thống chính trị; trong giám sát đối với việc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt và cán bộ, đảng viên”(2).
Quá trình xây dựng và phát triển văn hóa chính trị trong cán bộ,
đảng viên tỉnh Đồng Nai cần phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống
lại các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, đi ngược lại với đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghiêm trị,
ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực xã hội, góp phần xây dựng môi
trường văn hóa tốt đẹp, làm giàu thêm truyền thống của Đảng và bản
sắc văn hóa dân tộc.
Văn hóa chính trị ở mỗi cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên có
sẵn, không phải bồi dưỡng một lúc là thành mà là quá trình lâu dài, gắn
với hoạt động chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Cho nên, cần kết
hợp chặt chẽ giữa “xây” với “chống”, nhất là chống những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng môi trường văn hóa
chính trị lành mạnh trong các cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư để
nuôi dưỡng văn hóa chính trị.
Để hoàn thành các mục tiêu của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh
khóa XI, để xây dựng Đồng Nai phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội; là
(1) Tỉnh ủy Đồng Nai, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2020 -2025, tr. 117.
(2) Tỉnh ủy Đồng Nai, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2020 -2025, tr. 117.
- 170 -

18 Pages 171-180

▲back to top

18.1 Page 171

▲back to top
trung tâm công nghiệp và dịch vụ cảng hàng không, cảng nước sâu, cửa
ngõ giao thương quốc tế; một trong những cực tăng trưởng quan trọng
của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước vào năm 2025 và thuộc
nhóm đầu các tỉnh phát triển, đòi hỏi phải xây dựng Đảng bộ Đồng Nai
trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo địa phương phát triển, nhiệm
vụ quan trọng trong nửa nhiệm kỳ còn lại là đẩy mạnh thực hiện có hiệu
quả các giải pháp nâng cao văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên, thực
hiện lời dạy của Hồ Chí Minh: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật
thiết, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng,
phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm cho quốc dân có tinh thần vì nước quên
mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng”(1).
(1) Báo Cứu quốc, ngày 24/10/1946.
- 171 -

18.2 Page 172

▲back to top
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM Ở TỈNH ĐỒNG NAI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
ĐẤT NƯỚC
TS. Nguyễn Thị Nguyệt(1)
1. Tổng quan về gia đình ở Đồng Nai
Gia đình là tổ ấm của mỗi người, là môi trường quan trọng trong
quá trình nuôi dưỡng và giáo dục, hình thành nhân cách con người,
là nơi bảo tồn và phát huy truyền thống gia đình, tạo nguồn nhân lực
phục vụ xã hội. Theo kết quả thống kê dân số và nhà ở Việt Nam ngày
01/4/2019, Đồng Nai hiện có 871.000 hộ gia đình với hơn 3,1 triệu người.
Gia đình Đồng Nai hiện nay phổ biến là gia đình hạt nhân gồm cha mẹ
và con cái.
Cư dân Đồng Nai gồm các kiểu loại gia đình lớn truyền thống trước
kia, nay phổ biến là gia đình hạt nhân. Đồng Nai là địa phương phát
triển kinh tế công nghiệp ở phía Nam, hiện có gần 40 khu công nghiệp
đã đi vào hoạt động. Gia đình Đồng Nai đa số sinh sống ở nông thôn với
kinh tế nông nghiệp, nay dần tập trung ở thành thị với kinh tế buôn bán,
làm công chức, viên chức, công nhân khu công nghiệp.
Thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về công tác gia đình đã được ban hành từ Trung ương đến địa phương.
Đặc biệt, sau những năm thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã đạt được nhiều kết quả to lớn,
góp phần đáng kể vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Đồng Nai.
(1) Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai, giảng viên Trường Đại học Văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
- 172 -

18.3 Page 173

▲back to top
Chương trình giáo dục lối sống trong gia đình nhằm mục đích hoàn
thiện nhân cách cá nhân tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và
phát huy vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội trong việc xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, định hướng giá trị, giáo dục thế hệ trẻ. Góp
phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện từ gia đình, khơi
dậy khát vọng cống hiến xây dựng và phát triển đất nước.
Giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình là một trong những chương
trình hoạt động về công tác gia đình, đồng thời giáo dục đạo đức lối
sống cũng nhằm làm rõ hơn các giá trị của văn hóa gia đình Đồng Nai
góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gia đình Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình Việt Nam ở Đồng Nai
2.1. Giáo dục đạo đức lối sống qua ông bà, cha mẹ
Gia đình truyền thống tỉnh Đồng Nai xưa kia thường là gia đình lớn
ba, bốn thế hệ. Nhiều gia đình cha mẹ sống chung trong một mái nhà,
các thành viên trong gia đình luôn gắn bó với nhau, cùng chia sẻ những
vui buồn trong cuộc sống. Ở những gia đình nhiều thế hệ, vai trò của
ông bà, cha mẹ khá rõ rệt với việc hỗ trợ giáo dục dạy dỗ con cái trong
gia đình. Con cháu có nhiệm vụ ngoan ngoãn vâng lời ông bà, cha mẹ
dạy bảo.
Trước đây gia đình Việt Nam phổ biến tình trạng có nhiều gia đình
sống chung một nhà, hay nhiều thế hệ sống chung dưới mái nhà, hình
thành kiểu gia đình ba, bốn thế hệ “tam, tứ đại đồng đường”. Trong đó,
những người con, cháu cùng sống chung, cùng chăm sóc cho ông bà,
cha mẹ đến khi qua đời. Nhà có người già như bóng cây cổ thụ che mát
cả đại gia đình. Khi vợ chồng trẻ quá tất bật không có thời gian trông
giữ con nhỏ thì thường nhờ vả ông bà chăm sóc cháu... Đồng Nai là địa
phương phát triển công nghiệp, thu hút nguồn nhân lực lớn từ nhiều
địa phương trong cả nước đến làm ăn, sinh sống. Do vậy, cần có cha
mẹ hoặc ông bà còn khỏe mạnh đến ở chung với gia đình trẻ hỗ trợ
trong việc chăm sóc nhà cửa và con cháu để các con yên tâm đi làm. Môi
trường sống chung với gia đình nhiều thế hệ cũng là điều kiện để con
cháu được học tập gương sống và nhân đức của ông bà, những người
lớn tuổi.
Đại đa số gia đình lớn đều là những gia đình gương mẫu, tiêu biểu,
luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; con cháu, ông bà sống nhân nghĩa, các cháu đều học
hành và có công ăn việc làm ổn định. Gia đình lớn còn tích cực tham
- 173 -

18.4 Page 174

▲back to top
gia đóng góp phong trào xây dựng nông thôn mới, ủng hộ xây dựng nhà
văn hóa, nghĩa trang, đường giao thông, xây dựng ấp, khu phố xanh,
sạch, đẹp…
Nhiều gia đình ở Đồng Nai được tuyên dương điển hình trong những
năm qua đều là những gia đình có nhiều thế hệ sống với nhau đầm ấm,
hạnh phúc, nuôi dạy con cháu thành đạt. Họ là tấm gương về sự yêu
thương và đùm bọc lẫn nhau, về sự bình đẳng giữa các thành viên trong
gia đình. Qua đó, góp phần làm chuyển biến nhận thức về vị trí, vai trò
của mỗi người, mỗi gia đình trong xây dựng nếp sống văn minh, tuân
thủ pháp luật, giữ gìn, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp.
Gia đình anh T.T.D và chị N.T.H.L ở khu phố 3, phường Long Bình,
thành phố Biên Hòa là một trong những gia đình văn hóa tiêu biểu được
tuyên dương ngày Gia đình Việt Nam có ba thế hệ chung sống, song gia
đình anh chị lúc nào cũng trên dưới thuận hòa. Nhiều năm liền gia đình
anh chị được công nhận gia đình văn hóa nhờ có lối sống, ứng xử giản
dị, hòa đồng, tích cực tham gia hoạt động phong trào của địa phương.
2.2. Giáo dục đạo đức gia đình thông qua truyền thống “uống nước
nhớ nguồn”
Truyền thống uống nước nhớ nguồn, thờ kính ông bà, tổ tiên là
đạo hiếu của gia đình Việt Nam. Gia đình Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu
hoặc theo tôn giáo nào cũng đều thực hành đạo hiếu thờ kính ông bà,
tổ tiên trong gia đình, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người
phương Đông.
Con cháu thể hiện sự hiếu kính trong việc chăm sóc nuôi dưỡng ông
bà, cha mẹ khi họ lớn tuổi; lúc họ yếu đau, bệnh tật và sự thuận thảo khi
sống cùng nhau trong một mái nhà. Đạo hiếu còn được thể hiện qua
việc giáo dục con cháu biết ơn ông bà, cha mẹ không chỉ có công lao
sinh thành, dưỡng dục mà còn lao động vất vả, gầy dựng sự nghiệp tạo
nên gia sản, cơ nghiệp của gia đình để lại cho con cháu.
Việc thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn được thực hành với
những lễ kỷ niệm vào ngày sinh khi họ còn sống (mừng thọ) và ngày
mất (giỗ chạp). Khi cha mẹ qua đời, ngoài những nghi thức tang lễ thể
hiện đạo hiếu với cha mẹ, người dân Đồng Nai còn có những tục lệ hết
sức truyền thống (giữ lấy lề thói cũ). Ông P.V.C ấp 2, thị trấn Hiệp Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã để râu tóc dài không cạo trong suốt
thời gian ba năm để tang cha (là ông Phan Văn Đượng) với ý nguyện cho
trọn đạo hiếu của người con khi cha qua đời. Đây cũng là dấu hiệu báo
- 174 -

18.5 Page 175

▲back to top
cho mọi người biết ông đang để tang cha. Một hành vi hết sức truyền
thống nhưng đầy nhân văn còn được một bộ phận nhỏ người dân tại các
làng quê ở Đồng Nai lưu giữ trong đời sống hiện đại.
Điều 317 Bộ Luật Hồng Đức cũng quy định: “Người nào đang có
tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ thì bị xử tội
đồ, người khác biết mà vẫn kết hôn thì xử biếm ba tư và đôi vợ chồng mới
cưới phải chia lìa”. Người Việt và người Hoa ở Đồng Nai cũng duy trì các
tục lệ xưa trong thời gian để tang cha mẹ như kiêng kỵ không cắt tóc,
không đến nhà người khác, không tiệc tùng, không cưới vợ, gả chồng
cho con trong thời gian có tang... Ngày nay, những lễ tục này phần nào
đã biến đổi theo cuộc sống hiện đại.
Hầu hết trong ngôi nhà Việt thường có bàn thờ cha mẹ, ông bà, tổ
tiên đã qua đời. Ngày giỗ kỷ niệm ngày mất của ông bà, cha mẹ, con
cháu tụ tập về chế biến, bày biện mâm lễ vật cúng tế và tổ chức ăn uống
sau khi kết thúc nghi thức cúng giỗ. Một số dòng họ ở Nam Bộ còn có tục
cúng “việc lề” hay “vật lề”, tức là trong lễ vật cúng giỗ nhất định phải có
một vài món ăn tiêu biểu, dân dã thời đi khai phá cực khổ hoặc món ăn
quen thuộc khi ông bà còn sống. Ví dụ: Món cháo cá ám, cá lóc nướng
trui, cốm nổ, thịt kho tàu, canh khổ qua… Con cháu tin rằng cứ thông
qua những món ăn quen thuộc đó mà ông bà, tổ tiên sẽ nhận biết “ký
hiệu văn hóa” của gia đình, dòng họ để về dự hưởng. Mỗi dịp mừng thọ,
tang ma, giỗ chạp cũng là lúc con cháu thể hiện lòng thành kính, tri ân
và báo hiếu đối với ông bà, cha mẹ và tiếp nối gia phong của tổ tiên.
2.3. Giáo dục đạo đức thông qua ứng xử, giao tiếp trong gia đình
Nghi thức giao tiếp là hệ thống lời nói và hành vi kèm theo sự thể
hiện ứng xử trong giao tiếp của các thành viên trong gia đình. Tùy theo
vị trí, ngôi thứ mà những thành viên có lời nói và hành vi giao tiếp cho
phù hợp. Lời nói trong giao tiếp là một lĩnh vực rất phong phú gồm
nhiều phạm trù khác nhau như: Xưng hô, mời mọc, xin phép, khuyên
bảo, hỏi thăm và chia sẻ...
Giao tiếp ngôn ngữ giữa các thành viên trong gia đình là một trong
những nhân tố để tạo thành văn hóa đạo đức gia đình. Thông qua sự tác
động qua lại và giao tiếp lẫn nhau giữa các thành viên gia đình: Chồng,
vợ, cha, mẹ, con trai, con gái, anh chị em… tạo thành một nền văn hóa
chung trong giao tiếp ứng xử của gia đình. Giao tiếp ứng xử trong gia
đình hình thành nên những giá trị giáo dục đạo đức thể hiện cốt cách,
văn hóa của từng thành viên gia đình tùy thuộc vào vai vế, thứ bậc của
từng người. Ứng xử của con cháu đối với ông bà, cha mẹ trên hết là sự
- 175 -

18.6 Page 176

▲back to top
kính trọng, biết ơn, biểu hiện qua sự vâng lời, lễ phép... Con cái phải
vâng phục, nghe lời cha mẹ (theo triết lý Nho giáo).
Trong một số gia đình làng quê ở Đồng Nai, con cái trước khi ra khỏi
nhà đều phải thưa chào cha mẹ nhằm báo với người lớn mình đã đi ra
ngoài (đi học, đi chợ, mua sắm, công việc đồng áng…). Khi về đến nhà,
người con phải thưa với cha mẹ để cha mẹ biết mình đã về nhà, cha mẹ
không còn phải lo lắng. Những đứa trẻ ở trong làng luôn được giáo dục
rất kỹ lưỡng và từ rất sớm ngay khi chúng còn nhỏ tuổi. Ngay từ khi biết
nói, đứa trẻ đã được ông bà, cha mẹ, cô dì, chú bác dạy phải khoanh tay
chào hỏi người lớn như: “Dạ ông, dạ bà, cha, mẹ…”. Tùy theo độ tuổi và
khả năng tập nói phát âm mà đứa trẻ được dạy gọi tên từng thành viên
trong gia đình từ một tiếng lên hai, ba tiếng để tập tành dần cho việc
chào hỏi và giao tiếp sau này.
Văn hóa gia đình Việt Nam thể hiện qua ứng xử, giao tiếp giữa người
trên và kẻ dưới, giữa các thành viên trong gia đình ảnh hưởng của truyền
thống văn hóa phương Đông. Giáo dục đạo đức còn là điều kiện để các
gia đình quan tâm hơn nữa đến việc ứng xử của các thành viên trong
gia đình, dòng họ, lối xóm... Các gia đình có thể giao lưu, chia sẻ kinh
nghiệm, biểu dương những gia đình nuôi dạy con tốt, các thành viên có
ứng xử phù hợp (như hiếu kính với ông bà, cha mẹ, có quan tâm giúp đỡ
họ hàng, lối xóm, thực hiện những nghĩa cử cao đẹp…).
Người trên ứng xử hòa nhã, thân mật với người dưới; người dưới
ứng xử lễ phép đối với người trên. Trong gia đình, ông bà cha mẹ luôn có
thái độ thân thiện ứng xử nhẹ nhàng đầy yêu thương đối với con cháu;
ngược lại con cháu phải có thái độ tôn trọng lễ kính khi nói chuyện giao
tiếp với người trên. Anh chị em trong gia đình luôn hết mực thương yêu
nhau, có lời ăn tiếng nói phải hòa nhã, đẹp lòng nhau.
Người Việt Nam có ngôn ngữ xưng hô khá rõ ràng về ngôi vị, thứ
bậc; thông qua ngôn từ và cách biểu đạt mà có thể nhận biết văn hóa
ứng xử lễ độ và nho nhã của từng cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội.
Gia đình Đồng Nai cũng không nằm ngoài những đặc trưng giao tiếp
ứng xử theo văn hóa truyền thống Việt Nam. Ngày nay, ảnh hưởng của
văn hóa hội nhập, ngôn ngữ giao tiếp ứng xử trong gia đình có phần thay
đổi bởi thế hệ trẻ không chỉ dùng tiếng Việt mà còn có thể sử dụng nhiều
ngoại ngữ (Anh, Pháp, Trung...) đan xen trong xưng hô ở gia đình; đặc
biệt ngôn ngữ “chat” hiện đại của thời công nghệ số.
- 176 -

18.7 Page 177

▲back to top
2.4. Giáo dục đạo đức gia đình, xây dựng nhân cách con người
Trong việc hình thành nhân cách con người, vai trò của giáo dục gia
đình là rất quan trọng. Việc ứng xử giữa các thành viên trong gia đình
Việt Nam luôn theo trật tự trên dưới truyền thống. Từ xa xưa, ông cha ta
đã dày công xây dựng nề nếp trong gia đình như con cháu phải có hiếu
với ông bà, cha mẹ; vợ chồng thủy chung; anh em hòa thuận… Cùng với
các tiêu chí đó là hàng loạt quy tắc ứng xử nghiêm ngặt như đi thưa về
chào, kính trên nhường dưới, thuận vợ thuận chồng... Vũ Ngọc Khánh
trình bày: “Phải có gia đạo (cái đạo lý trong nhà), có gia giáo (sự giáo dục
trong nhà), có gia lễ, gia phạm (những lễ thức, những quy tắc của một
nhà)… Làm sao cho gia đình thành một tổ chức có nề nếp, có văn hóa”.
Việc dạy dỗ con cái trong gia đình được các thế hệ trên dưới thực
hành theo nề nếp gia phong. Bản thân cha mẹ phải làm gương trước con
cái, mới dạy dỗ con học theo. Cha mẹ luôn là hình mẫu để con cái noi
gương. Ngay từ khi đứa trẻ mới chập chững và được thực hành liên tục
tạo thành nề nếp: Trẻ em theo gương anh chị, con cháu theo gương ông
bà, cha mẹ. Bên cạnh đó, việc giáo dục con cái cũng bắt nguồn việc giáo
dục đạo đức trong gia đình Việt Nam, ảnh hưởng hệ tư tưởng Nho giáo.
Nhiều gương gia đình điển hình, phát huy được vai trò giáo dục con
cháu trong việc ứng xử với các thành viên khác trong gia đình, gương
người tốt việc tốt, gia đình văn hóa tiêu biểu; đồng thời lên án, phê phán
những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình.
Thông qua đó, tạo chiều sâu và sức lan tỏa trong nhận thức của các tầng
lớp Nhân dân về giáo dục đạo đức, lối sống; giữ gìn, phát huy các giá trị
tốt đẹp của gia đình.
Giáo dục đạo đức trong gia đình hướng đến tất cả các thành viên
trong gia đình từ trên xuống dưới. Đó là sự dạy bảo, uốn nắn, chỉ dẫn
với tình cảm yêu thương đùm bọc lẫn nhau của các thành viên gia đình.
Ông bà, cha mẹ hướng dẫn, bảo ban con cháu là điều rất cần thiết; do
vậy bản thân người lớn cũng phải biết làm gương, luôn tự điều chỉnh
cho phù hợp.
Từ xưa, ông bà ta đã xem trọng vai trò giáo dục của gia đình, gắn với
nuôi dưỡng, chỉ dạy con cái... Trách nhiệm nuôi dạy con cái của cha mẹ
được khẳng định rõ qua kết quả “Con dại cái mang”. Sự đánh giá công
lao cha mẹ cũng rất công bằng: “Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”. Ngược
lại, con cái phải vâng lời dạy bảo của cha mẹ, bởi “cá không ăn muối cá
ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”... Giáo dục đạo đức gia đình thể
hiện đạo hiếu với cha mẹ, ông bà; con cháu thể hiện đạo hiếu một cách
chân tình, báo đáp công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà.
- 177 -

18.8 Page 178

▲back to top
3. Mục tiêu và giải pháp đẩy mạnh Chương trình giáo dục đạo đức
đời sống gia đình ở tỉnh Đồng Nai
3.1. Mục tiêu phấn đấu giai đoạn 2025 - 2030
Chương trình quốc gia giáo dục đạo đức đời sống gia đình đặt ra các
mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, cả nước đạt 70% và đến năm 2030
đạt trên 90% hộ gia đình đăng ký thực hiện Bộ tiêu chí ứng xử trong gia
đình. Phấn đấu đến năm 2025 đạt 80% và đến năm 2030 đạt 100% hộ
gia đình được cung cấp tài liệu về giáo dục đạo đức, lối sống trong gia
đình. Phấn đấu đến năm 2025 đạt 80% và đến năm 2030 đạt trên 95%
công nhân lao động tại các khu công nghiệp được tham gia sinh hoạt
chuyên đề về giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình. 100% đơn vị cấp
xã hàng tháng có nội dung tuyên truyền về giáo dục đạo đức, lối sống
trong gia đình trên hệ thống thông tin cơ sở. Phấn đấu hằng năm 100%
học sinh, sinh viên các cơ sở giáo dục được tham gia sinh hoạt về giáo
dục đạo đức, lối sống trong gia đình. Phấn đấu hằng năm 100% cán bộ,
chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và cán bộ, công chức, viên chức, người
lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội được tham gia sinh hoạt chuyên đề về giáo dục đạo đức, lối
sống trong gia đình. Trên cơ sở mục tiêu quốc gia, tỉnh Đồng Nai đã có
những kế hoạch triển khai đạt chỉ tiêu đặt ra.
3.2. Đổi mới các hình thức, triển khai Chương trình rộng rãi
Để thực hiện các mục tiêu trên, nhiệm vụ và giải pháp đặt ra là tiếp
tục đổi mới công tác truyền thông nâng cao nhận thức của gia đình,
cộng đồng, xã hội về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức, lối sống
trong gia đình.
Đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước về gia đình, rà soát, xây dựng,
ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Chương trình, tài
liệu, các sản phẩm truyền thông về giáo dục đạo đức, lối sống trong gia
đình, bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình. Xây dựng, ký kết các chương
trình phối hợp liên ngành giữa các cơ quan liên quan về thực hiện công
tác gia đình.
Phát huy hiệu quả sử dụng của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ
sở phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh, tập luyện thể dục thể
thao góp phần xây dựng con người Việt Nam khỏe mạnh về thể chất
và tinh thần. Củng cố vai trò của hệ thống nhà văn hóa, phòng truyền
thống, thư viện cơ sở, trung tâm văn hóa thể thao - học tập cộng đồng,
các di tích lịch sử văn hóa... trong việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
- 178 -

18.9 Page 179

▲back to top
sống, chuẩn mực ứng xử văn hóa cho các thành viên gia đình, nhất là
thế hệ trẻ.
Phát huy vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội trong giáo dục đạo
đức lối sống. Trong đó, phát huy vai trò, trách nhiệm của ông bà, cha
mẹ, người lớn tuổi trong gia đình trong việc tuyên truyền về đạo đức,
lối sống, chuẩn mực văn hóa ứng xử trong gia đình nhằm giáo dục toàn
diện và hài hòa về đức, trí, thể, mỹ cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng.
Nâng cao hiệu quả thực hiện Quy tắc ứng xử văn hóa trong các trường
học, tổ chức các buổi sinh hoạt giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình
cho học sinh, sinh viên. Chính quyền địa phương các cấp tăng cường
chỉ đạo, lãnh đạo tổ chức triển khai các hoạt động tuyên truyền về giá trị
của gia đình, văn hóa ứng xử trong gia đình, giáo dục đạo đức lối sống
trong gia đình để phát triển con người toàn diện từ gia đình, nhất là với
thế hệ trẻ.
3.3. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục đạo đức, lối sống trong gia
đình
Hoạt động tuyên truyền, vận động đã được đẩy mạnh gắn với việc
thực hiện Đề án tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình
với nhiều nội dung và hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú:
Phóng sự, tài liệu, tờ rơi, pa nô, tiểu phẩm các nội dung về gia đình,
phòng chống bạo lực gia đình, xây dựng gia đình văn hóa, bình đẳng
giới… Mục tiêu tuyên truyền, giáo dục về vai trò, vị trí, ý nghĩa của đạo
đức, lối sống cách ứng xử tốt đẹp trong gia đình; các thành viên trong
gia đình đối với việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia
đình, gia tộc và dân tộc Việt Nam.
Các cơ quan thông tin đại chúng tăng cường tuyên truyền chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về gia
đình và công tác gia đình; nêu gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên
tiến, các mô hình hoạt động có hiệu quả; phê phán các hành vi vi phạm
chính sách, pháp luật về gia đình, những biểu hiện lệch lạc, không lành
mạnh trong cuộc sống gia đình.
Tổ chức chiến dịch truyền thông vào các dịp như: Ngày Quốc tế
hạnh phúc 20/3, Ngày Gia đình Việt Nam 28/6; Ngày Thế giới xóa bỏ
bạo lực đối phụ nữ (25/11) hằng năm về chủ đề gia đình hạnh phúc,
giáo dục đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử trong gia đình, tôn vinh giá
trị gia đình.
- 179 -

18.10 Page 180

▲back to top
3.4. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các đề án, chương trình giáo dục
đời sống gia đình
Tiếp tục thực hiện Đề án “Phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ
trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững”. Mục
tiêu chung là phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình
(giữa vợ và chồng; giữa cha mẹ và con cái; giữa người cao tuổi và con
cháu) và hỗ trợ xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững. Mô
hình xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển bền vững, đặc biệt chú
trọng việc đưa nội dung giáo dục kỹ năng làm cha, mẹ, phát triển kinh tế
gia đình và bảo tồn các giá trị văn hóa gia đình vào nội dung hoạt động
của mô hình.
Thực hiện “Chương trình giáo dục đời sống gia đình tầm nhìn đến
năm 2030 trên địa bàn tỉnh”. Mục tiêu là giáo dục đời sống gia đình nhằm
cung cấp cho các thành viên trong gia đình những kiến thức chung về
đời sống gia đình, những điều cần thiết chuẩn bị cho hôn nhân và gia
đình; giáo dục đời sống gia đình đối với gia đình trẻ, gia đình độ tuổi
trung niên, gia đình người cao tuổi. Lồng ghép nội dung giáo dục đời
sống gia đình thông qua các hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”; cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”...
3.5. Triển khai Bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình
Triển khai Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai theo văn bản số 144/KH-UBND ngày 17/6/2022 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Đồng Nai. Mục tiêu nhằm xác định và từng bước đưa vào cuộc
sống các chuẩn mực giá trị đạo đức, văn hóa con người Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đề cao đạo
đức, trách nhiệm của cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội; ngăn chặn
sự xuống cấp về đạo đức trong gia đình và xã hội. Nâng cao nhận thức
về xây dựng, giữ gìn hạnh phúc bền vững của mỗi gia đình, khơi gợi tình
yêu thương, chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên gia đình trong xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Nội dung Bộ Tiêu
chí ứng xử trong gia đình với năm tiêu chí: (1) Tiêu chí ứng xử chung (tôn
trọng, bình đẳng, yêu thương, chia sẻ); (2) Tiêu chí ứng xử của vợ, chồng
(chung thủy, nghĩa tình); (3) Tiêu chí ứng xử của cha mẹ với con, ông bà
với cháu (gương mẫu, yêu thương); (4) Tiêu chí ứng xử của con với cha
mẹ, cháu với ông bà (hiếu thảo, lễ phép); (5) Tiêu chí ứng xử của anh,
chị, em (hòa thuận, chia sẻ).
- 180 -

19 Pages 181-190

▲back to top

19.1 Page 181

▲back to top
Triển khai hiệu quả Kế hoạch “Tuyên truyền giáo dục đạo đức, lối
sống trong gia đình đến năm 2030” cho các đối tượng cộng tác viên điều
tra dân số, gia đình, trẻ em tại cơ sở trên địa bàn trong tỉnh.
4. Kết luận
Tròn 325 năm, gia đình tỉnh Đồng Nai ngày càng phát triển theo
hướng hiện đại, xu hướng phát triển kiểu gia đình hạt nhân ngày càng
phổ biến và hợp thời đại. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều gia đình ba, bốn
thế hệ, trong đó ông bà sống chung với thế hệ con cháu và còn đảm
đương tốt nhiệm vụ chăm sóc con cháu trong nhà. Những tổ ấm nhiều
thế hệ cùng chung sống là sự kết hợp giữa những giá trị hiện đại nhưng
cũng thẩm thấu những giá trị truyền thống, là môi trường để con cháu
học tập nhân đức và kinh nghiệm của ông bà, các bậc cao niên.
Thực hiện các chương trình, đề án về gia đình nhằm tuyên truyền
giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình. Giáo dục và vận động mọi gia
đình tự nguyện, tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh; giữ gìn
và phát huy văn hóa gia đình; kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với việc xây dựng những giá trị
tiên tiến, dân chủ trong xã hội hiện đại.
Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình giúp các
thành viên hiểu được đạo lý sống trung hiếu, thủy chung, bình đẳng,
hòa thuận, thương yêu nhau. Mỗi thành viên trong gia đình luôn được
giáo dục lối sống lành mạnh, nề nếp gia phong, có ý thức giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con cháu
hiếu thảo, kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Ông bà
sống gương mẫu, chăm lo, dạy bảo con, cháu trở thành người có ích cho
xã hội. Đó cũng chính là mục tiêu của Chương trình giáo dục đạo đức,
lối sống trong gia đình Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước./.
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb. Thanh
niên.
2. Chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam quy định
thế nào? Truy cập ngày 30/6/2023 tại địa chỉ https://luatminhkhue.vn/
che-do-hon-nhan-trong-phap-luat-phong-kien-viet-nam.aspx
- 181 -

19.2 Page 182

▲back to top
3. Quyết định số 96/QĐ-TTg ngày 19/01/2022 của Thủ tướng Chính
phủ về Chương trình giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình đến năm
2030.
4. Quyết định số 224/QĐ-BVHTTDL ngày 28/01/2022 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình Việt
Nam.
5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2022), “Kết quả thực hiện công
tác xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình năm 2022, phương hướng
nhiệm vụ năm 2023” ở tỉnh Đồng Nai.
6. Kế hoạch số 3752/UBND-KGVX ngày 18/4/2023 của UBND tỉnh
Đồng Nai về Triển khai tổ chức các hoạt động văn hóa - văn nghệ năm
2023.
- 182 -

19.3 Page 183

▲back to top
KHẢO CỔ HỌC ĐỒNG NAI - THÀNH TỰU
VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
TS. Nguyễn Khánh Trung Kiên(1)
Trên địa bàn Đồng Nai đã phát hiện nhiều di tích khảo cổ học thuộc
các thời đại khác nhau của “văn hóa Đồng Nai”, phân bố trên nhiều dạng
địa hình. Những chương trình nghiên cứu triển khai trong nhiều thập
niên qua đã mang đến một số thành tựu cho khảo cổ học Đồng Nai trong
công tác nghiên cứu, quản lý và phát huy giá trị di sản văn hóa. Trong bối
cảnh hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ, thiết
bị kỹ thuật, phương pháp phân tích mới để khai thác tối đa các thông tin
từ di tích và di vật khảo cổ. Đồng thời, cũng cần ứng dụng các tiến bộ của
thời đại trong việc số hóa và chuyển đổi số để quảng bá, phát huy giá trị
di tích - di vật khảo cổ hiệu quả hơn.
1. Mở đầu
Đồng Nai là một vùng đất có địa hình chuyển tiếp từ vùng cao
nguyên xuống đồng bằng thấp. Toàn tỉnh có nhiều dạng địa hình và thổ
nhưỡng khác nhau, từ những dạng đồi đất đỏ basalt phong hóa cho đến
vùng đất xám phù sa cổ và vùng cận biển là dạng địa hình sình lầy vùng
ngập mặn. Trong quá khứ không xa, trên địa bàn tỉnh từng là các cánh
rừng già bạt ngàn cùng hệ thống sông Đồng Nai với các chi lưu của nó
như sông Bé, sông La Ngà và hệ thống mạng lưới các dòng suối dày đặc
(Lê Bá Thảo, 2001), góp phần cung cấp nguồn nước ngọt và thực phẩm
và nhiều điều kiện thuận lợi cho đời sống con người.
Vì thế, ngay từ thời tiền sử vài ngàn năm trước, trên địa bàn Đồng
Nai đã có nhiều cộng đồng cư trú và để lại vết tích trong các di tích khảo
cổ học, thuộc nhiều loại hình và không gian phân bố ở nhiều khu vực
(1) Phó viện trưởng Viện KHXH vùng Nam Bộ.
- 183 -

19.4 Page 184

▲back to top
khác nhau. Từ các kết quả phát hiện và nghiên cứu từ đầu thế kỷ XIX
của các học giả người Pháp cho đến các chương trình điều tra, khảo sát,
nghiên cứu của nhiều thế hệ khảo cổ học Việt Nam từ sau năm 1975 đã
góp phần mang lại những nhận thức khoa học về lịch sử khai phá vùng
đất này của các lớp cư dân thời tiền sử và sơ sử. Với các phát hiện đó, văn
hóa cổ ở vùng đất Đông Nam Bộ được định danh “văn hóa Đồng Nai”
với nhiều giai đoạn phát triển đại diện cho tiến trình lịch sử của vùng
đất này.
Trong bài viết này, tác giả chỉ tập trung khảo sát các di tích khảo cổ
học thời tiền sử và sơ sử qua các kết quả nghiên cứu đã đạt được trong
vài thập niên gần đây ở Đồng Nai và đặt trong bối cảnh một số địa bàn
lân cận (Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu) để từ đó nhận
diện những thành tựu và suy nghĩ về hướng phát triển nghiên cứu trong
tương lai.
2. Thành tựu và hướng phát triển nghiên cứu
2.1. Một số thành tựu khảo cổ học Đồng Nai
Đối với khảo cổ học, di tích và di vật cùng những thông tin khoa học
khai thác được từ nó là những giá trị quan trọng nhất để tìm hiểu về đời
sống của các cộng đồng cổ xưa khi vào thời điểm chưa có chữ viết. Trải
qua gần 50 năm tiến hành công tác nghiên cứu bởi các nhà khảo cổ học
Việt Nam trên vùng đất Đồng Nai đã mang lại nhiều thành tựu.
Trước hết, có thể kể đến đó chính là thành tựu trong công tác điều
tra, khảo sát và lập bản đồ các di tích khảo cổ. Bên cạnh đó, công tác sưu
tầm hiện vật cùng với các tổ hợp hiện vật tìm thấy trong các cuộc khai
quật với nhiều loại hình đa dạng, độc đáo góp phần tái hiện đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân cổ Đồng Nai cũng là một thành tựu không
kém phần quan trọng.
Có thể nói với hàng trăm di tích đã phát hiện ở Đồng Nai hội tụ gần
như cơ bản các loại hình di tích khảo cổ và niên đại của chúng thuộc các
giai đoạn phát triển của “văn hóa Đồng Nai”, với trật tự niên đại từ sớm
đến muộn, phạm vi phân bố từ vùng cao đến lưu vực sông Đồng Nai và
ra đến vùng ngập mặn ven biển (Bùi Chí Hoàng chủ biên, 2017). Trong
các chương trình khai quật khảo cổ với nhiều quy mô khác nhau ở Đồng
Nai, nhiều loại hình di tích đã được xuất lộ, từ những di tích cư trú, các
công xưởng chế tác công cụ, đồ trang sức bằng đá, công trình cự thạch,
cho đến các kiến trúc tôn giáo xây dựng bằng gạch. Chúng phân bố trên
nhiều địa bàn khác nhau, và hiện đang được bảo tồn, phát huy giá trị
theo nhiều cách.
- 184 -

19.5 Page 185

▲back to top
Có thể nói đây chính là một thành tựu quan trọng của công tác điều
tra, khảo sát và lập bản đồ khảo cổ học của tỉnh trong nhiều thập niên
qua. Đặc biệt, là kết quả của chương trình “Quy hoạch khảo cổ học trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025, định hướng đến năm 2035” thực
hiện gần đây do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai chủ trì thực
hiện. Trong chương trình này đã tiến hành khảo sát và định vị tọa độ các
điểm di tích, thống kê các loại hình di tích khảo cổ theo từng địa bàn,
thuộc các thời kỳ khác nhau. Không dừng lại ở đó, chương trình này còn
đề xuất các lộ trình, phương án khai quật, nghiên cứu và phát huy giá trị
cho di tích khảo cổ học ở Đồng Nai.
Từ kết quả chương trình này, trong vài năm gần đây, một số di tích
khảo cổ đã được tiến hành khai quật và nghiên cứu một cách bài bản
như Đồi Phòng Không, Suối Linh, Gò Me, Long Hưng, Bình Thiền, Cầu
Sắt, Suối Chồn… mang lại nhiều tư liệu di tích và di vật mới, góp phần
bổ sung những nhận định, nhận thức khoa học về khảo cổ học Đồng Nai
và tiến tới xây dựng hồ sơ khoa học xếp hạng di tích khảo cổ học cấp tỉnh
(Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me).
Các loại di vật tìm thấy cũng có nhiều loại hình (công cụ, vật dụng
sinh hoạt, hiện vật trang sức, tôn giáo…) với nhiều chất liệu khác nhau
(đá, đá quý, kim loại, đất nung, gỗ…), hầu hết những hiện vật này đang
được bảo quản tại Bảo tàng Đồng Nai và trong một số nhà trưng bày tại
các khu di tích. Một số hiện vật, nhóm hiện vật đã được xếp hạng Bảo
vật quốc gia như: Sưu tập đàn đá Bình Đa, Sưu tập qua đồng Long Giao
và tượng thần Vishnu Bình Hòa - là những giá trị văn hóa tiêu biểu, độc
đáo của Đồng Nai thời tiền, sơ sử.
2.2. Một số hướng nghiên cứu cho khảo cổ học Đồng Nai
Dù đã đạt được nhiều thành tựu trong vài thập niên gần đây, nhưng
khảo cổ học Đồng Nai cũng còn những khoảng trống tư liệu cần được
đầu tư nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện những nhận thức khoa học và
phục dựng chính xác hơn đời sống - xã hội của những cộng đồng cư dân
cổ. Trong đó, cần ưu tiên triển khai một số hướng nghiên cứu ứng dụng
kỹ thuật phân tích mới liên quan đến niên đại, thành phần nguyên liệu
và các phân tích vi tư liệu. Các phát hiện đề cập trong nội dung dưới đây
góp phần đem lại những nhận thức mới về thời tiền sử và sơ sử ở vùng
đất Nam Bộ cũng như gợi mở ra nhiều hướng nghiên cứu chuyên sâu với
sự hỗ trợ của các phương pháp, kỹ thuật liên ngành.
- 185 -

19.6 Page 186

▲back to top
2.2.1. Nghiên cứu niên đại
Niên đại là một thông tin quan trọng bậc nhất, cần phải được ưu
tiên giải đáp trong các nghiên cứu khảo cổ học. Đối với một di tích khảo
cổ, để định tuổi cho nó thông thường có hai phương pháp: Niên đại
tương đối và niên đại tuyệt đối. Niên đại tương đối được xác định qua
so sánh đối chiếu các loại di vật, hiện tượng tìm thấy với những di tích
khác đã từng biết niên đại để phỏng đoán và phương pháp này có biên
độ sai số lớn. Niên đại tuyệt đối được xác định bằng các phương pháp
phân tích khoa học tự nhiên và vật lý hạt nhân để định tuổi. Phổ biến
hiện nay là phương pháp phân tích carbon phóng xạ (14C) để xác định
niên đại từ các thành phần nguồn gốc hữu cơ (gỗ, than, vỏ sò ốc, xương)
còn sót lại trong tầng văn hóa các di tích.
Trong nhiều cuộc khai quật khảo cổ học ở Đồng Nai trước đây, việc
định tuổi di tích dựa vào phương pháp so sánh đối chiếu để ước định
niên đại tương đối, do vậy biên độ sai số của niên đại khá rộng, khó có
thể xác định chính xác tuổi các di tích. Đây là một hạn chế khách quan
bởi các phòng phân tích trong nước chủ yếu áp dụng phương pháp 14C
truyền thống, với yêu cầu mẫu than có thể tích lớn, rất hiếm trong tầng
văn hóa các di tích ở Đồng Nai. Gần đây, với sự phổ biến của phương
pháp AMS ở nhiều phòng phân tích trên thế giới. Phương pháp AMS có
độ chính xác cao hơn và yêu cầu thể tích mẫu than không lớn. Một số
di tích phân bố ven hữu ngạn sông Đồng Nai (thuộc tỉnh Bình Dương)
phần lớn đã được phân tích niên đại AMS trong những năm gần đây
như: Dốc Chùa, Mỹ Lộc, Cù lao Rùa. Các kết quả mới đã cho thấy niên
đại khởi đầu của chúng sớm hơn những gì các nhà khảo cổ từng nhận
định trước đây bằng phương pháp so sánh đối chiếu. Vì thế, phương
pháp AMS là một phương tiện cần thiết trong bối cảnh tiến bộ khoa
học công nghệ hiện nay để nghiên cứu niên đại cho các di tích khảo cổ,
trong đó có các di tích ở Đồng Nai để nhận diện chính xác hơn về niên
đại, nhất là các di tích cư trú hay xưởng thủ công thời tiền sử.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng phát hiện nhiều kiến trúc
tôn giáo cổ, xây dựng bằng gạch, được xác định thuộc văn hóa Óc Eo
hoặc hậu Óc Eo, với khung niên đại tương đối được ước định khá dài,
trong khoảng 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Dù rằng phương pháp 14C
hay AMS vốn rất hữu ích cho việc xác định tuổi các di tích cư trú nhưng
đối với các kiến trúc cổ được xây bằng gạch, phương pháp này không
thể áp dụng bởi lẽ các mẫu than/gỗ trong tầng văn hóa nơi có kiến trúc
gạch thường có độ tin cậy không cao do nó ít có mối liên hệ chặt chẽ với
các kiến trúc. Chính vì thế trong một thời gian dài, các di tích kiến trúc
- 186 -

19.7 Page 187

▲back to top
thường chỉ được xác định niên đại tương đối thông qua các di vật tìm
thấy cũng như so sánh đối chiếu về bình đồ và kỹ thuật xây dựng.
Trong công bố gần đây của Phan Trọng Phúc và cộng sự (2023), với
những tiến bộ gần đây trong phương pháp phân tích nhiệt phát quang
và kết hợp đặt chip đo liều tích lũy tia bức xạ Gamma từ môi trường đã
tạo ra công cụ quan trọng cho nghiên cứu niên đại các kiến trúc cổ xây
dựng bằng gạch(1).
Hiện nay, qua kết quả được công bố cho thấy phương pháp mới có
thể nhận diện sự sai biệt niên đại của các lần xây dựng và tái thiết trên
cùng một đoạn tường di tích lệch nhau khoảng 179 năm và sai số trong
kỹ thuật phân tích nhiệt phát quang cải tiến đã giảm xuống mức dưới
5% (Phan Trọng Phúc và nnk, 2023). Đây là những kết quả nghiên cứu có
ý nghĩa quan trọng không chỉ cho khảo cổ học Việt Nam mà còn mang
ý nghĩa cho khu vực và thế giới. Đối với các kết quả khả tín từ phương
pháp nhiệt phát quang cải tiến, kết hợp đo liều tích lũy bức xạ Gamma
với sai số thấp là một niềm hy vọng để lý giải các quá trình xây dựng,
sửa chữa và trùng tu các công trình kiến trúc thời cổ đại mà cho đến nay
khảo cổ học truyền thống trong một số trường hợp chưa thể giải thích rõ
ràng với những bằng chứng thuyết phục.
Ở Đồng Nai có nhiều kiến trúc tôn giáo cổ, xây bằng gạch, đã được
khai quật. Tuy nhiên, niên đại tuyệt đối của những kiến trúc này chưa
được xác định. Khi áp dụng phương pháp này cho các kiến trúc gạch của
văn hóa Óc Eo ở Đồng Nai là một hướng nghiên cứu quan trọng, góp
phần cung cấp bằng chứng xác thực, khả tín cao cho việc định tuổi các
di tích. Trong khi đó, niên đại của những kiến trúc này có ý nghĩa lớn cho
việc xác lập các giai đoạn phát triển lịch sử - văn hóa vùng đất này trong
mối liên hệ khu vực. Việc ứng dụng phương pháp định niên đại nhiệt
phát quang cải tiến cho các kiến trúc gạch ở Đồng Nai sẽ góp phần mở
ra cho chúng ta những nhận thức mới không chỉ về tuổi của di tích mà
còn giải quyết các mối quan hệ giao lưu văn hóa phức tạp thời bấy giờ.
2.2.2. Phân tích thành phần nguyên liệu
Hiện vật khảo cổ của Đồng Nai đa dạng về chất liệu cũng như loại
hình. Hiện nay, các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức phân loại hình,
(1) Trong quá trình thực hiện đề án “Nghiên cứu khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền
Chùa (văn hóa Óc Eo Nam Bộ)”, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ đã phối hợp với
Trung tâm Hạt nhân Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Duy Tân và Viện Hạt nhân Đà Lạt tiến
hành nghiên cứu niên đại kiến trúc ở di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang).
- 187 -

19.8 Page 188

▲back to top
xác định chức năng của chúng, nguồn gốc nguyên liệu là một thông
tin chưa được nghiên cứu do những hạn chế về khoa học công nghệ
trước đây. Với những tiến bộ nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện
nay, nhiều thiết bị phân tích hiện đại đã được chế tác với khả năng di
động cao.
Đồng Nai có nhiều hiện vật đá trong các di tích cư trú, việc phân
tích và xác định nguồn gốc mỏ đá nguyên liệu chế tác ra nó rất quan
trọng để biết nơi sản xuất (công xưởng/di chỉ xưởng), các tuyến trao đổi
sản phẩm, hàng hóa. Khảo cổ học ghi nhận Suối Linh là một công xưởng
chế tác đồ đá với lượng sản phẩm “khổng lồ” những sản phẩm làm ra
tại đây được trao đổi, lan tỏa đến di tích nào là điều chúng ta chưa xác
thực qua các phân tích. Đối với các công xưởng cùng loại ở Bình Dương
(như Hàng Ông Đại, Hàng Ông Đụng) đã phân tích bằng phương pháp
thạch học ở nguồn khai thác đá và các sản phẩm để nhận diện sự lan
tỏa. Trong tiến bộ kỹ thuật hiện nay, có thể ứng dụng phương pháp phân
tích huỳnh quang tia X (XRF) với thiết bị cầm tay (XRF hand-held) để
phân tích thành phần nguyên liệu hiện vật, phương pháp này cho kết
quả nhanh chóng và có thể nghiên cứu trên nhiều hiện vật ở các Bảo
tàng khác nhau nhằm có cơ sở dữ liệu so sánh trên phạm vi lớn để nhận
diện nguồn gốc các hiện vật.
Không chỉ ứng dụng cho các hiện vật chất liệu đá, những hiện vật
kim loại cũng rất cần thiết để phân tích, so sánh thành phần hợp kim,
nhất là những sưu tập độc đáo như qua đồng Long Giao, tượng trút hay
một số công cụ, vũ khí bằng đồng tìm thấy trong các di tích khảo cổ học.
Khi có thêm những phân tích này, khảo cổ học có thêm một nguồn tư
liệu xác thực để phân tích, nghiên cứu so sánh và đưa ra những nhận
định khách quan hơn.
2.2.3. Nghiên cứu vi tư liệu
Với nhiều di tích khảo cổ được khai quật, có thể nói bức tranh đời
sống xã hội của cư dân cổ Đồng Nai đã dần được phác họa rõ nét hơn.
Tuy nhiên, chúng ta chỉ mới nhận diện dựa trên những bằng chứng gián
tiếp để phục dựng kinh tế và sinh kế của họ chứ chưa có những nghiên
cứu thực chứng để mang lại những bằng chứng xác thực. Trước đây, một
số nhà nghiên cứu (Phạm Đức Mạnh, 1995) dựa vào phân tích các loại
hình công cụ bằng đá tìm thấy cho rằng ở Đông Nam Bộ đã hình thành
các cộng đồng cư dân sinh sống bằng nông nghiệp khoảng 3.500 năm
trước, nhưng trong bối cảnh khoa học thời bấy giờ những nhận định này
vẫn chưa được củng cố với những bằng chứng trực tiếp.
- 188 -

19.9 Page 189

▲back to top
Trong vài năm gần đây, việc áp dụng các phân tích vi tư liệu trong
một số nghiên cứu đã đem lại những kết quả mới. Trong công bố gần
đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện vết tích của lúa thuần dưỡng trong các
di tích đất đắp dạng tròn ở Bình Phước(1), từ đó góp phần xác định sinh
kế nông nghiệp trồng lúa của các cộng đồng sinh sống trên vùng cao đất
đỏ khoảng 4.000 năm trước. Phát hiện này giúp khảo cổ học nhận diện
nhiều vấn đề trong đời sống kinh tế - xã hội của các cộng đồng này cũng
như khả năng tái hiện những tuyến di dân thời cổ đại kết hợp không chỉ
tư liệu di truyền học ở con người mà còn qua lúa là loại cây lương thực
thiết yếu (Nguyễn Khánh Trung Kiên, 2021).
Một phương pháp khác đã được nhóm nghiên cứu liên ngành tổ
chức với sự tham gia Trung tâm Khảo cổ học cùng với Đại học Quốc gia
Úc (ANU) để phân tích thành phần tinh bột (starch) còn bám lại trên
bề mặt các bàn nghiền tìm thấy trong khu vực Óc Eo - Ba Thê. Từ các vi
mẫu thực vật thu thập trên bề mặt các dụng cụ nghiền bằng sa thạch ở
khu vực Óc Eo (An Giang), kết quả phân tích đã góp phần xác định đó là
các loại gia vị thực vật dùng trong chế biến thực phẩm như nghệ, gừng,
cây ngải bún, riềng, đinh hương, nhục đậu khấu và quế. Những gia vị
này ngoài những loài cây bản địa phổ biến nhiều khu vực khác nhau,
còn có những loại gia vị vốn chỉ có nguồn gốc khu vực Nam Á, và Đông
Nam Á hải đảo.
Theo kết quả nhóm công bố, phát hiện các loại gia vị trên các dụng
cụ nghiền của văn hóa Óc Eo rất quan trọng, nhất là với các loại gia vị
nguồn gốc từ Nam Á và Đông Nam Á hải đảo khi vào những thế kỷ đầu
Công nguyên gia vị là mặt hàng có giá trị cao trong nhiều nền văn minh
Đông - Tây. Điều này lý giải tại sao người cổ đại đã thực hiện các chuyến
đi đường dài vì mục đích buôn bán các loại gia vị có nguồn gốc từ nhiều
vùng khác nhau với tư cách là hàng hóa giao dịch, như được đề cập
trong các tài liệu cổ của Ấn Độ, Trung Quốc và La Mã bên cạnh những
hàng hóa giá trị khác. Thông qua nghiên cứu này không chỉ cho thấy rõ
nét hơn về mạng lưới giao dịch thương mại hàng hải đầu Công nguyên
(1) Kết quả đã ghi nhận trong cả ba di tích “làng tròn” nói trên những vết tích của
lúa thuần dưỡng (Oryza Sativa Japonica). Có bốn mẫu niên đại trực tiếp, phân tích
bằng phương pháp AMS (AMS direct dating) do Phòng phân tích Beta (Hoa Kỳ) và Đại
học Bắc Kinh (Trung Quốc) thực hiện để phân tích tuổi của những hạt lúa nói trên. Hai
hạt lúa ở Bù Nho cho niên đại khoảng 3959 - 3728cal. BP (95,4%) và 3829 - 3637cal. BP
(95,4%), hai hạt lúa ở di tích Thuận Phú 2 cho kết quả niên đại 3632 - 3470cal. BP
3346 - 3165cal. BP (95,4%). Các mẫu than trong tầng văn hóa cũng cho kết quả niên đại
tương thích.
- 189 -

19.10 Page 190

▲back to top
và các sản phẩm liên quan mà còn hiểu sâu hơn về vai trò của các loại
gia vị trong cuộc sống hàng ngày của người dân thời kỳ đó (Weiwei Wang
và nnk, 2023).
Bảo tàng Đồng Nai hiện đang lưu giữ nhiều hiện vật tương tự những
mẫu phân tích nói trên như những bàn nghiền (pesani), chày nghiền,
hòn nghiền… đây là những nguồn tư liệu quan trọng để tiến hành
nghiên cứu vi tư liệu để góp phần nhận diện chức năng cũng như vai trò
của gia vị trong đời sống của những cộng đồng cư dân giai đoạn văn hóa
Óc Eo và hậu Óc Eo ở Đồng Nai trong 10 thế kỷ đầu Công nguyên.
3. Thay lời kết
Đồng Nai là vùng đất giàu tiềm năng về khảo cổ học, từ thời tiền sử
đến sơ sử và muộn hơn. Các nghiên cứu khảo cổ trong vài thập niên qua
đã mang lại những thành tựu nhất định trong việc lập bản đồ khảo cổ
học, nghiên cứu và xác lập các giai đoạn phát triển của văn hóa Đồng
Nai, đã phát huy một số di tích - di vật phục vụ nhu cầu nghiên cứu và
xã hội.
Trong thời gian tới, tỉnh Đồng Nai nên triển khai một chương trình
khai quật nhỏ tại nhiều di tích nhưng phải là các “di tích trọng điểm”, có
ý nghĩa cho việc xác lập chuỗi phát triển của phức hệ văn hóa Đồng Nai
để thu thập mẫu than, các loại mẫu phân tích cổ môi trường, cổ thực
vật - động vật học, các loại mẫu vi tư liệu khác để góp phần hiểu rõ hơn
về môi trường tự nhiên, niên đại tuyệt đối cũng như các vấn đề trong đời
sống xã hội của các cộng đồng cư dân cổ vùng đất này.
Ngoài ra, cũng cấp thiết ứng dụng kỹ thuật cao để số hóa di tích -
di vật và ứng dụng công nghệ (thực tế ảo - VR, thực tế tăng cường - AR)
trong công tác trưng bày và phát huy giá trị di sản văn hóa tại Bảo tàng
tỉnh và các điểm trưng bày tại chỗ nơi các di tích để quảng bá và thu hút
khách tham quan.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Chí Hoàng (chủ biên) (2017), Khảo cổ học Nam Bộ thời tiền
sử, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Lê Bá Thảo (2001), Thiên nhiên Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
3. Nguyễn Khánh Trung Kiên (2021), Lúa trong các di tích đất đắp
dạng tròn ở Bình Phước và viễn cảnh nghiên cứu, Khoa học Xã hội, số 10
(227).
- 190 -

20 Pages 191-200

▲back to top

20.1 Page 191

▲back to top
4. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai (2017), Đề án Quy hoạch
khảo cổ học trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2025, định hướng đến
năm 2035.
5. Phạm Đức Mạnh (1995), “Về khuynh hướng hoạt động kinh tế
nông nghiệp trồng lúa - rau củ nguyên thủy ở miền Đông Nam Bộ”, Tạp
chí KHXH số 26 (IV/1995): 107-116.
6. Weiwei Wang, Khanh Trung Kien Nguyen, Chungguang Chao,
Hsiao-chun Hung (2023), Earliest Curry in Southeast Asia and the Global
Spice Trade 2000 years ago. Science Advances.
- 191 -

20.2 Page 192

▲back to top
PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG NAI
TS. Tạ Duy Linh - TS. Dương Đức Minh(1)
Trong các nguồn lực phục vụ mục tiêu khai thác và phát triển du
lịch, hệ thống di tích lịch sử văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng, thậm
chí là chủ chốt để xây dựng sản phẩm du lịch. Soi chiếu trên địa bàn Nam
Bộ, có thể dễ dàng nhận thấy Đồng Nai hoàn toàn có thể trở thành một
trong những điểm đến du lịch văn hóa tiêu biểu, với cấu trúc sinh thái
nhân văn sinh động và mật độ phân bố di tích dày đặc. Xuất phát từ điểm
tựa di tích lịch sử văn hóa, Đồng Nai có nhiều lợi thế để kiến tạo các thực
hành du lịch độc đáo và riêng có. Tiếp cận hoạt động khai thác ứng dụng,
nhóm tác giả tiến hành phân tích, định vị và đề xuất chiến lược giải nén
nguồn lực tài nguyên du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
1. Đặt vấn đề
Hệ thống di tích lịch sử văn hóa luôn có hấp dẫn mạnh đối với các
dòng du khách nội địa và quốc tế (Hà Văn Siêu, 2018; Haiyang Liu, 2019;
Nguyễn Minh Tuấn, 2020). Các giá trị lịch sử văn hóa vừa là nền tảng,
vừa là động lực cho việc khai thác và phát triển du lịch. Giữa văn hóa và
du lịch có mối quan hệ hữu cơ khăng khít với nhau (Greg Richards, 2018,
tr.13). Xu hướng thực hành du lịch kết hợp với việc tìm hiểu các giá trị
lịch sử văn hóa luôn là xu hướng trọng tâm và ưu tiên hàng đầu của du
khách trong bối cảnh hiện nay. Theo đó, khi các giá trị di tích lịch sử văn
hóa được đóng gói, kết tinh thành các gói dịch vụ du lịch sẽ góp phần
(1) Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế và Du lịch.
- 192 -

20.3 Page 193

▲back to top
đáng kể trong việc gia tăng cảm xúc “thương nhớ”(1) điểm đến nhiều
hơn cho du khách. Đặc biệt, du lịch văn hóa được xác định là một trong
những loại hình du lịch phát triển mạnh nhất, chiếm thị phần rộng nhất
và có sự tăng trưởng nhanh nhất trong các loại hình khai thác và phát
triển du lịch trên thế giới (UNWTO, 2018). Tại Việt Nam, đến năm 2030,
ngành du lịch phấn đấu sẽ phát triển loại hình du lịch văn hóa chiếm tỷ
trọng 20-25% trong tổng thu 130 tỷ USD(2). Như vậy, có thể hình dung,
du lịch văn hóa là một trong những thế mạnh và là mục tiêu chính trong
việc khai thác và phát triển du lịch ở nước ta.
Soi chiếu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Tỉnh ủy (2021) đã xác định
nhiệm vụ phát triển du lịch văn hóa là một trong ba trụ cột quan trọng
để xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng và đa dạng hóa sản phẩm du
lịch cho địa phương. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển du lịch khu
vực Đông Nam Bộ; so sánh vị thế phát triển du lịch từ góc độ tiêu dùng,
có thể thấy rằng, lượng du khách đến với Đồng Nai còn khá khiêm tốn
trong khu vực, bất cân xứng với tiềm lực sẵn có của địa phương; cụ thể
sẽ minh chứng qua biểu đồ số liệu dưới đây:
(1) Tiếp cận tâm lý người tiêu dùng du lịch, có quan điểm cho rằng, những điểm
đến gây thương nhớ có thể chuyển hóa sang thuật ngữ “khoái cảm du lịch” đối với
những điểm đến ấn tượng. Trên cơ sở đó, Tạ Duy Linh (2023) đã giới thuyết như sau:
“Khoái cảm du lịch là sự thỏa mãn và niềm vui từ việc khám phá địa điểm mới, trải
nghiệm ẩm thực, gặp gỡ người địa phương và tham gia vào các hoạt động thú vị khi
du lịch. Đây là trạng thái tinh thần tích cực từ việc khám phá thế giới và tạo ra những
kỷ niệm đáng nhớ”. Hay nói cách khác, “là trạng thái tinh thần tích cực mà người ta
cảm nhận khi khám phá và trải nghiệm một địa điểm mới, vùng miền hoặc nền văn
hóa trong quá trình du lịch”; “là sự hài lòng, niềm vui và kích thích từ việc khám phá
cảnh quan đẹp, thưởng thức ẩm thực địa phương, tương tác với người dân địa phương,
tham gia vào hoạt động vui chơi hoặc cuộc phiêu lưu và trải qua những trải nghiệm
mới mẻ”.
(2) h t t p s : / / b a o c h i n h p h u . v n / m o - c a n h - c u a - d u - l i c h - v a n - h o a - v i e t -
nam-102230414184357952.htm, truy cập ngày 25/9/2023.
- 193 -

20.4 Page 194

▲back to top
Biểu đồ 1. Lượng du khách đến Đông Nam Bộ năm 2022.
(Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp, 2023)
Vì vậy, để kích cầu du lịch cả về số lượng du khách lẫn mức độ chi
tiêu, việc kiến tạo các sản phẩm du lịch từ hệ giá trị lịch sử văn hóa tại
Đồng Nai là hướng đi cần thiết nhằm cụ thể hóa chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Trên cơ sở phân tích và đề xuất việc
“chuyển hóa” nguồn lực di sản thành năng lực cạnh tranh, từ đó tạo ra
lợi thế cạnh tranh; cũng như kết nối các giá trị di sản để hình thành các
trải nghiệm du lịch mang bản sắc “riêng có” của Đồng Nai, góp phần
bảo tồn, phát huy và lan tỏa các giá trị di tích lịch sử văn hóa.
2. Lợi thế so sánh tài nguyên du lịch văn hóa gắn với hệ thống di
tích trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
2.1. Đồng Nai - tài nguyên văn hóa khảo cổ độc đáo
Nguyễn Thị Hậu (2017) đã khái luận rằng: “Văn hóa Đồng Nai phát
triển trong thiên niên kỷ I-II trước Công nguyên, đã được nhìn nhận như
bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc
riêng và sức sống mãnh liệt”(1). Từ đó, có thể hình dung, văn hóa Đồng
Nai góp phần đáng kể vào việc nhận diện và định hình sắc thái văn hóa
của cả vùng đất Nam Bộ, đặc biệt là văn hóa khảo cổ.
Từ góc nhìn sinh thái văn hóa, có thể nhận thấy, điểm tựa mạch
nguồn kết tinh cho văn hóa cổ Đồng Nai chính là dòng sông Đồng Nai,
cùng bề mặt địa chất đa dạng về sự xuất hiện của các loại đá (đá basalt,
đá granite, đá trầm tích). Dòng sông Đồng Nai mang trong mình phù sa,
(1) https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3127/62064/vai-net-ve-van-hoa-khao-
co-djong-nai.html, Truy cập ngày 26/9/2023.
- 194 -

20.5 Page 195

▲back to top
nước ngọt để duy trì cuộc sống; đá là chất liệu để cư dân cổ Đồng Nai
canh tác và thực hành các giá trị văn hóa đặc sắc gắn liền với sinh kế
cộng đồng. Các điểm đến khảo cổ gắn với đá có thể kể đến như: Hàng
Gòn, Suối Đá, Núi Đất, Cầu Sắt, Suối Chồn (Long Khánh), Bình Đa, Gò
Me, Phước Tân (Biên Hòa), Suối Linh, Đồi Phòng Không (Vĩnh Cửu), Bàu
Khỉ (Tân Phú), Phú Quý (Định Quán), Dầu Giây, Dốc Mơ (Thống Nhất),
Suối Rết Nam (Trảng Bom), Núi Gốm, Long Giao (Cẩm Mỹ), Phú Hòa
(Xuân Lộc), Cái Lăng, Cái Vạn, Rạch Lá, Gò Me (Nhơn Trạch), Suối Quýt,
Phước Nguyên, Ngọn Mặt Trời (Long Thành),... Các di tích “khảo cổ gắn
với đá” - là chất liệu hấp dẫn để Đồng Nai hình thành câu chuyện “hiện
sinh” ký ức gắn với các chương trình du lịch chuyên đề cho địa phương.
2.2. Đồng Nai - không gian văn hóa danh nhân đặc sắc
Trong thực hành văn hóa dân gian: “Làm trai cho đáng nên trai -
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng”, rõ ràng trong tâm thức dân gian,
Đồng Nai được biết đến như xứ sở bậc nam nhi phải một lần đặt chân
đến đó. Huỳnh Văn Tới (1999) đã phát biểu rằng: “Có thể nói, văn hóa
Đồng Nai là sự hòa nhập, đan xen, chồng chất, kết tinh bởi nhiều dòng
văn hóa, nhiều nền văn hóa thích ứng với điều kiện của vùng đất mới”.
Ngược về quá khứ, thời sơ sử, Đồng Nai được nhận định là nơi gặp gỡ
của nhiều luồng văn hóa (Lâm Thị Mỹ Dung, 2020). Các tầng lớp lưu dân
từ khắp nơi đã “tụ hội” về Đồng Nai - chọn nơi đây làm không gian sinh
tồn; với cách thức sinh hoạt, phương thức mưu sinh đã tạo nên sự gắn
bó, tính cố kết cộng đồng; và cũng từ đó, Đồng Nai đã sản sinh ra những
thế hệ anh hùng hào kiệt của một dân tộc anh hùng.
Theo Trần Thị Mai (2020), “Quá trình khẩn hoang vùng đất Nam
Bộ là quá trình mở rộng khối đoàn kết cộng đồng theo xu hướng thống
nhất và hướng tâm”. Trong tiến trình cố kết cộng đồng và thụ đắc những
giá trị từ công cuộc khẩn hoang tại Nam Bộ; vùng đất Đồng Nai có sứ
mệnh lịch sử đặc biệt, với sự xuất hiện của các bậc tiền hiền, danh nhân
“lưu danh muôn thuở” trong việc định hình nên vùng đất Nam Bộ nói
chung và Đồng Nai nói riêng; tiêu biểu nhất đó chính là danh tướng
Nguyễn Hữu Cảnh - người định danh vùng đất Đồng Nai(1), ngày càng
phồn thịnh và sầm uất.
Bên cạnh những bậc tiền nhân có công định cõi, cương vực lãnh
thổ, Đồng Nai còn là địa phương những danh nhân văn hóa trứ danh
(1) https://baodongnai.com.vn/phongsukysu/201803/320-nam-bien-hoa-dong-
nai-1698-2018-nguyen-huu-canh-dinh-danh-vung-dat-dong-nai-2886267/
- 195 -

20.6 Page 196

▲back to top
của vùng đất Nam Bộ; đó là danh nhân Trịnh Hoài Đức - một trong
những niềm tự hào của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai. Ngoài ra, tại vùng
đất Đồng Nai còn có đền thờ danh thần trung liệt Nguyễn Tri Phương -
một phần cuộc đời ông gắn liền với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai. Các
mẫu gương sáng trong lịch sử Đồng Nai về tinh thần khẳng khái, chính
trực cũng được lưu truyền một cách ly kỳ qua các tích truyện về Bà
Nguyễn Thị Tồn, Tuần phủ Gia Định Đặng Đại Độ… Chính những danh
nhân lịch sử văn hóa này đã góp phần quan trọng vào công cuộc kiến
thiết, bảo vệ, xây dựng và hình thành một vùng đất Đồng Nai trù phú và
anh hùng.
2.3. Đồng Nai - chứng tích cách mạng hào hùng
Tính đến nay, Đồng Nai có hơn 1.500 di tích phổ thông, 68 di tích đã
được xếp hạng. Trong đó, có 02 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 29 di tích
cấp quốc gia và 37 di tích cấp tỉnh (Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh
Đồng Nai, 2023). Trong 1.500 di tích trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, có đến
40% là di tích lịch sử cách mạng. Đồng Nai là hình mẫu cho ý chí cách
mạng gắn liền với diễn ngôn “Miền Đông gian lao mà anh dũng”. Trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Đồng Nai được xem là địa bàn
có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Chính vị trí đắc địa đó đã kiến
tạo nên một không gian văn hóa cách mạng hào hùng, kiên trung với
sự linh hoạt, sáng tạo của nhiều thế hệ yêu nước, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì lý tưởng cách mạng.
Các di tích lịch sử cách mạng tiêu biểu tại Đồng Nai như: Địa điểm
thành lập Chi bộ Cộng sản Bình Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời
Biên Hòa (1935), Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (1961-1962), Căn cứ
Khu ủy miền Đông Nam Bộ - Chiến khu Đ (1960-1967), Địa đạo Suối Linh
(huyện Vĩnh Cửu), Căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòa (U1- Thanh Bình, huyện
Trảng Bom và U3 - Bình Sơn, huyện Long Thành) (1961-1975), Căn cứ Sở
Chỉ huy Đặc khu quân sự Rừng Sác, Địa đạo Nhơn Trạch (huyện Nhơn
Trạch), Căn cứ Thị ủy Long Khánh, Tòa hành chính Long Khánh, chiến
thắng Xuân Lộc (thành phố Long Khánh), Căn cứ Rừng Lá, danh thắng
núi Chứa Chan (huyện Xuân Lộc), Nhà lao Tân Hiệp, Nhà Xanh, Nhà
hội Bình Trước, Quảng trường Sông Phố, chùa Cô Hồn (thành phố Biên
Hòa), Địa điểm vượt ngục Tà Lài (1941) (huyện Tân Phú), Chiến thắng
La Ngà (huyện Định Quán)… Các điểm di tích lịch sử cách mạng tại
Đồng Nai thường hòa mình vào trong không gian “rừng thẳm”. Với hệ
sinh thái tự nhiên và nhân văn đặc sắc, các câu chuyện thích ứng với tự
nhiên, kiên cường với lý tưởng cách mạng, tình quân dân thắm thiết…
là những giá trị lịch sử văn hóa - nguồn lực “cốt lõi” để triển khai các sản
- 196 -

20.7 Page 197

▲back to top
phẩm du lịch mang tính đặc thù địa phương gắn với chương trình du
lịch (tour) về nguồn, du lịch đỏ, du lịch giáo dục, du lịch học thuật và du
lịch nghiên cứu…
Vận dụng quan điểm chuyển hóa nguồn lực, năng lực thành lợi thế
cạnh tranh trong phát triển ngành du lịch của địa phương; có thể thấy
rằng, Đồng Nai - một địa phương có hệ giá trị lịch sử văn hóa đan xen
trong khối lượng “khổng lồ” ở các di tích nổi tiếng gắn liền với thắng lợi
cách mạng Việt Nam và các danh nhân văn hóa bởi i) tính có giá trị; ii)
tính hiếm; iii) tính khó bắt chước; iv) tính không thể thay thế ( Jay Barney,
1991); cùng với sự gắn kết và hòa quyện vào danh lam thắng cảnh, được
bao bọc bởi không gian sinh thái đa dạng và độc đáo - du lịch gắn với di
tích lịch sử văn hóa, với các trải nghiệm du lịch “đặc sắc” hấp dẫn, là nét
riêng có của du lịch Đồng Nai.
3. Một số gợi mở phát triển du lịch gắn với giá trị lịch sử văn hóa
trên địa bàn Đồng Nai
3.1. Du lịch đỏ
Thế mạnh nổi trội của Đồng Nai gắn với nguồn lực tài nguyên du
lịch văn hóa là sự phân bố dày đặc các điểm di tích lịch sử cách mạng.
Hiện nay, số lượng du khách đến tham quan, học tập và tìm hiểu tại
các điểm di tích lịch sử các mạng tại Đồng Nai đang có xu hướng gia
tăng. Tuy nhiên, tại các điểm di tích, việc cung ứng và giới thiệu các trải
nghiệm thực hành du lịch chưa tạo nên các sản phẩm du lịch mang tầm
ảnh hưởng cấp khu vực Đông Nam Bộ và chưa có sản phẩm du lịch “cốt
lõi” để định vị thương hiệu hình ảnh cho du lịch địa phương. Vì vậy,
để giải nén các giá trị lịch sử văn hóa cách mạng phục vụ cho mục tiêu
phát triển du lịch, bước đầu nhóm tác giả đề cập đến chiến lược triển
khai thực hiện hình thái du lịch đỏ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (xem biểu
đồ 2).
- 197 -

20.8 Page 198

▲back to top
Biểu đồ 2: Du khách đến với các điểm di tích lịch sử cách mạng tại
Đồng Nai. (Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp, 2023)
Trước mắt, về địa bàn triển khai thí điểm, có thể lựa chọn huyện
Vĩnh Cửu để tiên phong trong kiến tạo các sản phẩm du lịch đặc thù
từ nguồn lực tài nguyên du lịch; phát triển trên cơ sở hệ thống các di
tích lịch sử được phân bố “dày đặc” tiêu biểu như: Căn cứ Khu ủy miền
Đông Nam Bộ (năm 2019 đón 9.000 lượt khách), Căn cứ Trung ương
Cục miền Nam (1961-1962) (năm 2019 đón 8.000 lượt khách), Địa đạo
Suối Linh (năm 2019 ước đón 1.000 lượt khách), Đình Long Chiến (năm
2019 đón 1.500 lượt khách), Địa điểm thành lập Chi bộ Cộng sản Bình
Phước - Tân Triều và Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa (năm 2019 đón 1.800
lượt khách)...
Hiện nay, các điểm đến di tích lịch sử trên địa bàn Vĩnh Cửu chưa
kết nối với nhau thành sản phẩm du lịch tổng thể và chưa phát huy được
sức mạnh mạng lưới “hệ thống” trong việc đón tiếp, phục vụ du khách
đến tham quan và trải nghiệm. Vì vậy, để kết nối các nguồn lực phát
triển du lịch đỏ tại địa phương, Đồng Nai, cần có xây dựng kế hoạch
tổng thể, để các điểm đến di tích cùng hướng đến một nội dung “chủ
đề”, cùng chia sẻ một “thông điệp” gắn kết và cùng chung tay “lan tỏa”
các giá trị lịch sử văn hóa tiêu biểu của Vĩnh Cửu. Bên cạnh đó, trong bối
cảnh lịch sử văn hóa của địa phương, các điểm di tích thường hòa mình
vào các không gian sinh thái thiên nhiên của rừng, sông, hồ... cũng là
một lợi thế để Vĩnh Cửu tích hợp, làm mạnh thêm cấu trúc sinh thái tự
nhiên và nhân văn trong quá trình thực hành, cũng như triển khai hình
thái du lịch đỏ.
- 198 -

20.9 Page 199

▲back to top
Về chiến lược phát triển du lịch đỏ tại địa bàn huyện Vĩnh Cửu, có
thể tham khảo khung phân tích và đề xuất như sau:
Bảng 1. Đề xuất phát triển du lịch đỏ tại huyện Vĩnh Cửu, Đồng
Nai
Thông điệp
tổng thể
Triết lý
khai thác
Phân khúc
thị trường
mục tiêu
Giá trị gia tăng
“Sống mãi ký
ức hào hùng”
Giới thiệu một
cách chuyên sâu
về không gian văn
hóa rừng; tinh
thần thích ứng
sáng tạo, kiên
cường của quân
và dân Vĩnh Cửu
trong chiến đấu
và trong lao động;
kỳ tích quả cảm;
khát vọng tuổi
thanh xuân
Hướng đến dòng
khách nội địa
(chủ yếu đối
tượng học sinh -
thanh niên - trung
niên) trên cả nước
có nhu cầu triển
khai các loại hình
du lịch về nguồn,
du lịch học tập
và du lịch nghiên
cứu
Tích hợp các
sản vật của địa
phương vào
chuỗi cung
ứng bền vững;
kiến tạo các
không gian
lưu giữ ký ức
và hoài niệm
đặc sắc cho du
khách
Trong tương lai, Vĩnh Cửu cần được định vị là “tâm điểm” du lịch đỏ
của cả khu vực Nam Bộ. Từ Vĩnh Cửu, tinh thần thực hành du lịch đỏ sẽ
dần lan tỏa sang các địa phương còn lại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
3.2. Du lịch di sản
Đồng Nai có 68 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh được
xếp hạng. Có 02 điểm đến được công nhận là di tích - danh thắng cấp
quốc gia đặc biệt, cụ thể là danh thắng Vườn Quốc gia Cát Tiên và Mộ Cự
thạch Hàng Gòn; có 29 di tích - danh thắng cấp quốc gia và 37 di tích -
danh thắng cấp tỉnh. Đặc biệt, thành phố Biên Hòa là địa bàn có sự xuất
hiện và phân bố dày đặc với 28 di tích được xếp hạng (trong đó có 18 di
tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia).
Bên cạnh đó, Biên Hòa được đánh giá là tâm điểm “hội tụ” các danh
nhân văn hóa lừng lẫy của cả vùng đất Nam Bộ. Theo đó, Biên Hòa có
đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, có đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên,
có lăng mộ Trịnh Hoài Đức, có Văn miếu Trấn Biên thờ các vị học sĩ nổi
- 199 -

20.10 Page 200

▲back to top
tiếng của Việt Nam. Có thể nhận định, Biên Hòa chính là vùng đất hào
hùng, huyền tích gắn với thân thế và sự nghiệp của nhiều danh nhân
lịch sử văn hóa của Việt Nam. Từ đó, có thể suy nghĩ đến việc kết nối
các mạng lưới các điểm đến liên quan đến các bậc tiền hiền, hậu hiền
- những con người có công trong việc mở mang bờ cõi, cũng như xây
dựng, giữ gìn và bảo vệ tổ quốc tại thành phố Biên Hòa trong việc triển
khai các không gian thực hành du lịch gắn liền với câu chuyện văn hóa
danh nhân.
Hiện nay, công tác sưu tầm các hiện vật từ thời tiền sử đến thời kỳ
đương đại, Đồng Nai đã thu thập hơn 20.000 hiện vật khác nhau. Trong
đó, các hiện vật liên quan đến thời kỳ tiền, sơ sử chiếm một số lượng rất
đáng kể; đây là tài sản vô cùng có giá trị, hoàn toàn có khả năng kết nối
hình thành các chương trình du lịch chuyên đề; qua đó, du khách có cơ
hội thực hành du lịch “văn hóa khảo cổ” để tìm hiểu hệ tầng địa chất,
cảnh quan đá và kỹ thuật chế tác đá của người xưa. Đồng Nai có hơn
100 miệng núi lửa cổ và hơn 15 hang động bazan (Nguyễn Tuấn Khanh
và cộng sự, 2017), nguồn lực này là không gian sinh thái địa chất quan
trọng để kết nối vào các điểm di sản khảo cổ gắn với đá để có thể hình
thành nên các trải nghiệm du lịch đặc thù cho du khách.
Tựu trung lại, xét trong bối cảnh của Nam Bộ, Đồng Nai có lợi thế
cạnh tranh bởi các giá trị tiêu biểu về không gian văn hóa danh nhân
và không gian văn hóa khảo cổ gắn với đá. Đây chính là nguồn lực “nền
tảng” để xây dựng các điểm đến du lịch văn hóa, vừa khai thác, vừa bảo
tồn trên cơ sở phát huy mạnh mẽ các giá trị của hệ thống di sản đang có
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Bước đầu, nhóm tác giả đề xuất câu chuyện
phát triển du lịch di sản tại Đồng Nai như sau:
- 200 -

21 Pages 201-210

▲back to top

21.1 Page 201

▲back to top
TT
Sản phẩm
du lịch
Giá trị cốt lõi
Phân khúc
thị trường mục tiêu
Giá trị gia tăng
Hướng đến các dòng
1
“Ký ức Biên
Hòa - nơi lưu
giữ dấu chân
người mở cõi
phương Nam”
Giới thiệu không
gian văn hóa
danh nhân Biên
Hòa - Đồng Nai;
xây dựng các
trải nghiệm du
lịch di sản hoài
niệm và ký ức để
lan tỏa tinh thần
thích ứng sáng
tạo của các bậc
tiền hiền
khách (nội địa và
quốc tế) có nhu cầu
tìm hiểu các giá trị
lịch sử - văn hóa;
kết nối các đơn vị lữ
hành phục vụ các
tour du lịch chuyên
đề; các dòng du
khách có mức chi
tiêu cao trong việc
tham gia các chương
trình du lịch gắn với
hoạt động biểu diễn
Xây dựng được
các giá trị trải
nghiệm duy
nhất / riêng có
về vùng đất Biên
Hòa; thiết kế các
không gian thực
hành di sản văn
hóa danh nhân
gắn với phim
trường…
thực cảnh
Giới thiệu không
2
“Lời tự tình
của đá”
gian sinh thái
địa chất đặc sắc
của Đồng Nai;
tôn vinh các giá
trị sáng tạo và kỹ
thuật dùng đá
điêu luyện của
người xưa trong
không gian sống
và hoạt động
sinh kế của cộng
Hướng đến dòng
khách cao cấp (nội
địa và quốc tế)
Xây dựng tổ hợp
trải nghiệm du
lịch gắn với đá
(giá trị khảo cổ,
giá trị địa chất -
địa mạo, giá trị
ẩm thực, giá trị
sức khỏe, giá trị
văn hóa phong
thủy,...)
đồng
4. Bước đầu đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch gắn với giá
trị lịch sử văn hóa trên địa bàn Đồng Nai
Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn Đồng Nai không tồn tại một
cách giản đơn và độc lập với cấu trúc sinh thái tự nhiên. Vì vậy, muốn
khai thác tốt các giá trị của di tích lịch sử văn hóa gắn với mục tiêu phát
triển du lịch, cần nghiên cứu các giá trị “tích hợp” của hệ sinh thái di
tích cùng với hệ sinh thái tự nhiên. Bước đầu, chúng tôi nhấn mạnh đến
chiều kích tích hợp các giá trị di tích khảo cổ gắn với hệ sinh thái địa
chất; di tích lịch sử cách mạng gắn với hệ sinh thái rừng thẳm. Chính
- 201 -

21.2 Page 202

▲back to top
cấu trúc sinh thái hỗn hợp giữa tự nhiên và nhân văn là giá thể để kiến
tạo các tổ hợp dịch vụ du lịch mang tính tổng hợp, trên cơ sở huy động
nguồn lực sẵn có nhằm phát huy giá trị của di tích để hình thành tuyến/
điểm du lịch.
Vì vậy, giải pháp đầu tiên trong khai thác và phát triển du lịch gắn
với di tích là việc phát hiện ra quy luật gắn kết và khai thác các tiềm
năng tương hỗ giữa không gian văn hóa di sản với không gian sinh thái
tự nhiên. Có thể nói, câu chuyện trải nghiệm du lịch không thể tách rời
các giá trị nhân văn ra khỏi các giá trị của tự nhiên, thậm chí các giá trị
của tự nhiên còn là tiền đề quan trọng để nảy sinh ra các giá trị nhân văn
trong câu chuyện trải nghiệm du lịch. Từ đó, có thể hình dung, cấu trúc
sinh thái di sản tại Đồng Nai là một cấu trúc sinh động, có sự “giao thoa”
giữa môi trường tự nhiên và con người.
Tiếp đến, việc xây dựng các trải nghiệm du lịch gắn với di tích trên
địa bàn Đồng Nai cần được tiến hành theo xu thế kết nối giá trị, hướng
đến một chủ đề trong việc phát huy được sức mạnh hệ thống, trên cơ sở
kích hoạt đồng bộ các giá trị di tích tại địa phương. Chuỗi cung ứng dịch
vụ du lịch gắn với phát huy các giá trị của di tích sẽ hướng đến “xứ sở của
di sản” và “thắng cảnh thiên nhiên” ở Đồng Nai; có sự giao thoa, kết tinh,
qua đó định hình và kiến tạo các sản phẩm du lịch đặc thù riêng có; gia
tăng sức hấp dẫn cho hệ thống tuyến điểm du lịch Đồng Nai.
Đồng thời, để triển khai hiệu quả và nâng cao giá trị gia tăng qua
việc thực hành du lịch di sản, Đồng Nai cần phải tái định vị, cũng như
tái cấu trúc sản phẩm du lịch tổng thể. Lấy việc đẩy mạnh hoạt động du
lịch văn hóa, để giải nén các nguồn lực sẵn có trong việc xây dựng sản
phẩm du lịch đặc thù, mang bản sắc du lịch Đồng Nai; qua đó, dẫn dắt
và tạo tiếng vang về thương hiệu hình ảnh du lịch Đồng Nai trong bối
cảnh phát triển du lịch tại Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, việc thực hành du lịch văn hóa
tại các điểm di tích lịch sử cần được nhận diện khả năng “chịu tải và
sức chứa” sao cho khoa học và hợp lý với không gian chứa đựng di tích.
Sức tải, sức chứa trong phát triển du lịch cần được đánh giá, phân tích
nhằm hạn chế tối đa các áp lực có nguy cơ phá vỡ cấu trúc sinh thái của
điểm đến. Theo đó, muốn đạt được mục tiêu phát triển bền vững, Đồng
Nai cần có chiến lược cụ thể, xác định rõ định mức để sẵn sàng cung
ứng dịch vụ tại các điểm di tích lịch sử nhằm đảm bảo chất lượng dịch
vụ, cũng như hạn chế các rủi ro khác trong việc khai thác và phát triển
du lịch.
- 202 -

21.3 Page 203

▲back to top
Tăng cường vai trò của cộng đồng trong phát triển du lịch gắn với
di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn Đồng Nai. Theo đó, ngành kinh tế
nào cũng cần sự quan tâm, hỗ trợ về phát triển kinh tế, chia sẻ quyền
lợi với cộng đồng dân cư địa phương; việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng
địa phương, khuyến khích sự tham gia của người dân vào các hoạt động
du lịch, cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình
phát triển du lịch là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo gìn giữ hệ thống
các di tích lịch sử văn hóa. Trên cơ sở đó, có thể lồng ghép các hoạt động
tuyên truyền, với các hình thức và các nội dung cần được cụ thể, có tính
thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện trong việc bảo vệ các di tích lịch sử văn
hóa. Qua đó, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng dân cư tham gia hoạt
động du lịch, coi việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên là tài sản “sinh lời” của
người dân trong khu vực không chỉ trước mắt, mà còn cho giai đoạn
phát triển lâu dài.
5. Kết luận
Xét về nguồn lực tài nguyên du lịch, trong bối cảnh Nam Bộ, Đồng
Nai có lợi thế cạnh tranh về hệ thống di tích lịch sử cách mạnh, di tích
khảo cổ và không gian văn hóa danh nhân. Xét về cấu trúc sinh thái di
tích, Đồng Nai có những điểm tựa độc đáo về mặt thủy văn, rừng, địa
chất, địa mạo dễ dàng tích hợp và gia tăng giá trị cho hệ thống điểm đến
là các di tích. Để giải nén các nguồn lực giá trị của hệ thống di tích lịch
sử văn hóa cũng như bảo tồn và phát huy các giá trị thông qua việc thực
hành du lịch văn hóa; Đồng Nai cần xác định sản phẩm du lịch chủ lực,
cốt lõi, đặc sắc và gia tăng sức hút mạnh mẽ các dòng du khách trong
và ngoài nước.
Việc kết nối các giá trị của di tích cần được đóng gói và chuyển hóa
thành các sản phẩm du lịch cụ thể, theo định hướng tích hợp bao trùm
các giá trị sinh thái tự nhiên và nhân văn. Để khai thác bền vững các giá
trị của di tích trong phát triển du lịch, cần có một kế hoạch tổng thể từ
chiều kích nghiên cứu ứng dụng, phù hợp với xu hướng tiêu dùng của
thị trường, cũng như góp phần vào việc kiến tạo bản sắc du lịch văn hóa
tỉnh Đồng Nai. Nhìn một cách tổng thể, du lịch Đồng Nai đang có các
điều kiện để trở thành một trong những điểm đến đặc sắc và thu hút
thị trường khách du lịch trong nước và quốc tế. Sức hút của Đồng Nai
là sức hút của một “miền di sản” giàu tiềm năng, thể hiện được sự khát
vọng phát triển du lịch, góp phần nâng tầm vị thế của địa phương./.
- 203 -

21.4 Page 204

▲back to top
Tài liệu tham khảo
1. Diệp Anh (2023), “Mở cánh cửa du lịch văn hóa Việt Nam”, Báo
Chính phủ, Truy cập từ https://baochinhphu.vn/mo-canh-cua-du-lich-
van-hoa-viet-nam-102230414184357952.htm, ngày 25/9/2023.
2. Barney, J. (1991), “Firm Resources and Sustained Competitive
Advantage”, Journal Management, Vol.17, 1, pp. 99-120.
3. Lâm Thị Mỹ Dung (2020), “Đồng Nai thời sơ sử - nơi gặp gỡ của
nhiều luồng văn hóa”, Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt, số 1 (2020), tr.
52-69.
4. Greg Richards (2018), “Cultural Tourism: A review of recent
research and trends”, Journal of Hospitality and Tourism Management,
Volume 36, September 2018, p.12-21.
5. Nguyễn Thị Hậu (2017), “Vài nét về văn hóa khảo cổ Đồng Nai”,
Truy cập từ https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3127/62064/vai-net-ve-
van-hoa-khao-co-djong-nai.html, ngày 26/9/2023.
6. Haiyang Liu (2019), “Historical and Cultural Relics Tourism
Development of Bohai in Tang Dynasty” Advances in Economics,
Business and Management Research, volume 96 (2019 3rd International
Conference on Education, Management Science and Economics),
p.371-374.
7. Nguyễn Tuấn Khanh và cộng sự (2017), “Nghiên cứu tiềm năng
di sản địa chất tỉnh Đồng Nai và một số đề xuất sử dụng hợp lý” Truy
cập từ https://baotangdongnai.com.vn/blog/nghien-cuu-tiem-nang-di-
san-dia-chat-tinh-dong-nai-va-mot-so-de-xuat-su-dung-hop-ly/, ngày
27/9/2023.
8. Tạ Duy Linh (2023), Tiếp cận khoa học giới thuyết Khóai cảm du
lịch. Tài liệu nội bộ Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế và du lịch.
9. Trần Thị Mai (2020), “Một số đặc điểm của quá trình khẩn hoang,
xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ thế kỷ XVII-XVIII”, Tạp chí Khoa
học Đại học Đà Lạt, số 1 (2020), tr. 81-91
10. Hà Văn Siêu (2018), “Di sản văn hóa với phát triển du lịch”, Truy
cập từ https://vietnamtourism.gov.vn/post/26992, ngày 25/9/2023
11. Huỳnh Văn Tới (1999), Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai.
Nxb. Đồng Nai.
- 204 -

21.5 Page 205

▲back to top
12. Nguyễn Minh Tuấn (2020), “Phát huy giá trị các di tích lịch sử -
văn hóa cấp quốc gia ở Cần Thơ để phục vụ phát triển du lịch bền vững”,
Tạp chí Khoa học Cần Thơ, số 01 (2020), tr. 24-28
- 205 -

21.6 Page 206

▲back to top
KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐỒNG NAI TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÔNG NGHIỆP
Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
TS. Nguyễn Văn Thủy(1)
Sông Đồng Nai có chiều dài 586km, chảy qua các tỉnh Đông Nam Bộ
như: Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh;
địa hình tự nhiên ven sông tương đối giống nhau của miền đất trung du
và đồi núi thấp. Nơi đây sớm hình thành các khu dân cư, chứa đựng một
kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng như: Lễ hội dân gian của
các tộc người, nghề thủ công truyền thống, di tích lịch sử - văn hóa... là
vùng kinh tế phát triển năng động, tỉ lệ đô thị cao so với cả nước, nhất là
trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Đó là những điều kiện thuận lợi
để kế thừa và phát huy văn hóa Đồng Nai trong phát triển kinh tế công
nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ.
1. Quán triệt quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa
trong phát triển kinh tế - xã hội
Trong xu thế giao lưu hội nhập thế giới, tranh thủ mọi nguồn lực
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc kế thừa và phát
huy giá trị di sản văn hóa là một vấn đề cấp thiết trong việc phát triển
kinh tế công nghiệp hiện nay. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa không chỉ dừng lại ở việc tôn vinh bản sắc văn hóa của dân
tộc mà phải hướng tới mục tiêu di sản văn hóa là động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, là động lực nội sinh, điểm tựa quan trọng của sự
phát triển kinh tế bền vững. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp
(1) Nguyên Phó GĐ Viện Nghiên cứu Đông Nam Bộ, giảng viên Trường Đại học
Thủ Dầu Một.
- 206 -

21.7 Page 207

▲back to top
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã xác định: “Di sản văn
hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân
tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi
trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
(bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể”.
Tỉnh Đồng Nai với lịch sử 325 năm hình thành và phát triển, theo
dòng thời gian, cộng đồng các dân tộc trong tỉnh đã kiến tạo một kho
tàng di sản văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng và mang nhiều giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học. Di sản văn hóa biểu hiện ở dạng vật thể thông
qua các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật; biểu
hiện ở dạng phi vật thể thông phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, ẩm
thực, những kinh nghiệm, tri thức dân gian, làng nghề truyền thống, bí
quyết nghề... Tất cả các giá trị di sản văn hóa truyền thống, hiện đại tồn
tại đan xen tạo nên đặc trưng văn hóa riêng, là minh chứng cho sự sáng
tạo, phát triển văn hóa của biết bao thế hệ người Đồng Nai.
Tỉnh Đồng Nai vận dụng quan điểm của Đảng về giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc đã được cụ thể trong các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh
với quyết tâm đưa các quan điểm nêu trên của Đảng vào cuộc sống. Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã quán triệt trong Nghị quyết số 39-NQ/TU
ngày 04/11/1998 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết hội
nghị Trung ương V (khóa VIII) “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong đó chỉ rõ: “Xây dựng đời
sống văn hóa lành mạnh trên cơ sở kế thừa và phát huy giá trị truyền
thống mấy nghìn năm của dân tộc và tâm hồn, bản lĩnh con người Việt
Nam trên vùng đất Đồng Nai trong 300 năm qua, nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu về đời sống tinh thần của Nhân dân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Với vị trí và tầm vóc của một tỉnh công nghiệp đang trên đà phát
triển, lấy mục tiêu phát triển bền vững là trọng tâm (phát triển kinh tế
song song với bảo tồn, gìn giữ, phát triển di sản văn hóa, bảo vệ môi
trường). Tỉnh Đồng Nai đã ban hành hàng loạt các kế hoạch, quy hoạch,
quy định, chỉ thị, quyết định về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa điển hình như: Chỉ thị số 22/CT-UBND ngày 01/9/2002 của Chủ
tịch UBND tỉnh về việc Bảo vệ di sản văn hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 64/2009/QĐ-UBND ngày 16/9/2009 của UBND tỉnh về
việc phân cấp Quản lý di tích - danh thắng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai;
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ X (nhiệm kỳ
- 207 -

21.8 Page 208

▲back to top
2015-2020); Quy hoạch phát triển ngành Văn hóa tỉnh Đồng Nai đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 2366/
QĐ-UBND ngày 13/8/2015 của UBND tỉnh); Quyết định số 39/2018/
QĐ-UBND ngày 27/9/2018 của UBND tỉnh về việc phân cấp Quản lý di
tích - danh thắng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; Quyết định số 13/2023/
QĐ-UBND ngày 06/4/2023 của UBND tỉnh Ban hành Quy định phân
cấp quản lý di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh xếp hạng trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Tỉnh Đồng Nai có 68 di tích đã xếp hạng (02 di tích Quốc gia đặc
biệt, 29 di tích Quốc gia và 37 di tích cấp tỉnh), gồm các loại hình: danh
lam thắng cảnh, di tích khảo cổ, di tích lịch sử, di tích lịch sử văn hóa,
di tích kiến trúc nghệ thuật (kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng (đình, miễu,
chùa); kiến trúc lăng mộ (mộ cổ); kiến trúc dân dụng (nhà cổ, làng cổ),
kiến trúc quân sự (thành cổ)… Mỗi một loại hình đều mang nhiều giá trị
và nét đặc sắc của Đồng Nai).
Lễ hội ở Đồng Nai rất phong phú và đa dạng, mang nhiều màu sắc
đặc trưng của từng cộng đồng tộc người như: Lễ hội Kỳ yên, Lễ hội cúng
chợ (xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu), Lễ hội đua thuyền ở Bến Gỗ (phường
An Hòa, thành phố Biên Hòa); Lễ hội cầu an, cầu siêu của người Hoa;
Lễ hội cúng thần Lúa, thần Rừng của người Mạ, người S’Tiêng; Lễ hội
Sayangva (lễ cúng thần Lúa) của người Chơro; lễ hội Lồng Tồng của
người Tày - Nùng (huyện Định Quán và huyện Tân Phú); Lễ hội Ooc bom
bok, Cholchnathmay của người Khmer (huyện Định Quán và thành phố
Long Khánh). Theo thống kê toàn tỉnh Đồng Nai hiện nay có 347 lễ hội
truyền thống(1), chiếm đa số là lễ hội có quy mô ở cấp làng, xã.
Đồng Nai có một hệ thống di sản văn hóa rất đa dạng, phong phú
được xem là tài sản vô giá và là nguồn lực quan trọng trong công cuộc
xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Sự phong phú và đa dạng về di
sản văn hóa không chỉ là niềm tự hào của người Đồng Nai song cũng là
trách nhiệm trong việc kế thừa và phát huy giá trị di sản văn hóa của địa
phương. Với những thế mạnh đó đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc
huy động các nguồn lực xã hội cho kế thừa và phát huy các giá trị di sản
văn hóa trên địa bàn tỉnh, góp phần cùng cả nước thực hiện “xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) mà Đảng ta đã đề ra.
(1) Báo cáo số 799/BC- SVHTTDL ngày 09/4/2019 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch về các loại hình lễ hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- 208 -

21.9 Page 209

▲back to top
Thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng
ngày 4/11/1998, Tỉnh ủy Đồng Nai đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/
TU về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung
ương 5 (khóa VIII). Chương trình hành động của Tỉnh ủy Đồng Nai đã
xác định rõ phương hướng, mục tiêu “Xây dựng đời sống văn hóa lành
mạnh trên cơ sở kế thừa và phát huy giá trị truyền thống mấy nghìn năm
của dân tộc và tâm hồn, bản lĩnh con người Việt Nam trên vùng đất Đồng
Nai trong 300 năm qua, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu về đời sống
tinh thần của Nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Quán triệt chương trình hành động của Tỉnh ủy, ngày 01/9/2002 Chủ
tịch UBND tỉnh Đồng Nai đã ra Chỉ thị số 22/CT-UBND về việc “bảo vệ
di sản văn hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh”.
Ngày 15/8/2003, UBND tỉnh Đồng Nai tiếp tục ban hành Công văn
số 3188/UBT chỉ đạo về việc “quy hoạch bảo vệ di sản văn hóa”, điều tra
di tích phổ thông, lập hồ sơ công nhân di tích theo quy định; kiểm kê các
hiện vật gốc trong di tích làm cơ sở cho việc quản lý cổ vật; xây dựng kế
hoạch nghiên cứu, bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng
các dân tộc trên địa bàn tỉnh; từng bước xã hội hóa trong lĩnh vực bảo vệ
di sản văn hóa dân tộc.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, công tác kế thừa và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Đồng
Nai luôn được các cấp Đảng, chính quyền và Nhân dân quan tâm tạo
điều kiện thực hiện nhằm khơi dậy mọi tiềm năng văn hóa xem như là
một nguồn lực nội sinh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Đến nay
toàn tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu trong việc kế thừa và phát huy
di sản văn hóa ở những quy mô khác nhau. Nhiều di tích lịch sử, văn
hóa, cách mạng đã được công nhận xếp hạng, trùng tu, tôn tạo; hàng
ngàn cổ vật, di vật có giá trị đã được sưu tầm, bảo vệ... Các lễ hội truyền
thống, diễn xướng, trò chơi dân gian, phong tục tập quán tốt đẹp đã
được phục hồi và phát triển. Các giá trị di sản văn hóa được phát huy
dần trở thành nguồn tài nguyên hữu ích, có vị trí quan trọng trong quy
hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đồng Nai, nhất là về kinh
tế công nghiệp và đô thị. Những thành tựu đạt được trong việc kế thừa
và phát huy giá trị của di sản văn hóa ở Đồng Nai đã khẳng định tính
đúng đắn trong đường lối phát triển văn hóa của Đảng và sự quyết tâm
của các cấp chính quyền và Nhân dân Đồng Nai trong phát triển kinh tế
công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ sắp tới.
- 209 -

21.10 Page 210

▲back to top
2. Kế thừa và phát huy văn hóa Đồng Nai trong phát triển kinh tế
công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh trực
thuộc Trung ương: Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa
- Vũng Tàu. Đây là vùng có địa hình rộng, thoáng rất thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị và xây dựng hệ thống giao thông
vận tải... Vùng Đông Nam Bộ đã đóng góp 32% GDP của cả nước, 44,7%
tổng thu ngân sách Nhà nước. Thu nhập bình quân đầu người năm 2020
cao nhất cả nước. Tỉ lệ đô thị hóa của vùng Đông Nam Bộ đạt 67%; diện
mạo đô thị ngày càng đổi mới, hiện đại; tỉ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn
mới là 79,5%, đứng thứ hai trong các vùng của cả nước. Lối sống công
nghiệp - đô thị mới được hình thành, mang đặc tính năng động và ngày
càng văn minh, hiện đại. Lĩnh vực văn hóa cũng có nhiều biến đổi trong
quá trình đô thị hóa. Văn hóa Đồng Nai có những điểm tương đồng với
văn hóa vùng Đông Nam Bộ, đó là điều kiện thuận lợi để kế thừa và phát
huy trong phát triển kinh tế công nghiệp ở khu vực Đông Nam Bộ.
Để kế thừa và phát huy văn hóa Đồng Nai trong phát triển kinh tế
công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ nên tiến hành một số công việc như
sau:
Nhận thức về kho tàng di sản văn hóa Đồng Nai có thể phát huy
trong phát triển kinh tế công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ.
Đồng Nai thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, có cùng một vùng sinh thái, môi trường địa lý, khí hậu
giống nhau, thực hành các phương thức mưu sinh giống nhau cho nên
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội có rất nhiều điểm tương đồng trong
vùng như: Sự phong phú, đa dạng của nhiều loại hình di tích và danh
thắng, kiến trúc nghệ thuật, nghề làm gốm, lễ hội dân gian của các đồng
bào dân tộc, văn hóa đô thị, văn hóa công nghiệp... Cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các
tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa Đồng Nai trong quá trình
phát triển kinh tế công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ. Xác định rõ xây
dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng thường
xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
bảo đảm sự phát triển bền vững. Đẩy mạnh xây dựng con người Đồng
Nai phát triển toàn diện, với những chuẩn mực văn hóa, hướng tới các
giá trị chân - thiện - mỹ, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa, tác phong công nghiệp; có tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
- 210 -

22 Pages 211-220

▲back to top

22.1 Page 211

▲back to top
tộc, tinh thần tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có
ý chí tự lực tự cường, trí tuệ, năng động, sáng tạo, hiển khách, sống có
nghĩa có tình, ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, nếp sống văn minh,
có khát vọng xây dựng và phát triển quê hương, đất nước; hình thành
những mô hình văn hóa tiêu biểu trong vùng, trở thành mục tiêu, động
lực trong phát triển kinh tế công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ một cách
bền vững.
Xếp hạng và tôn vinh di sản văn hóa Đồng Nai trong vùng Đông
Nam Bộ
Các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ đã và đang thực hiện
nhiệm vụ thống kê di sản văn hóa. Tuy nhiên, Đồng Nai cần đầu tư
nhiều hơn cho việc lập hồ sơ khoa học để xếp hạng, tôn vinh di sản văn
hóa, khơi dậy niềm tự hào và khuyến khích mạnh mẽ các cộng đồng có
di sản quan tâm, tự nguyện và chủ động tham gia bảo vệ di sản văn hóa
của dân tộc, đẩy mạnh giới thiệu di sản văn hóa Đồng Nai đến các địa
phương khác trong vùng, tạo thêm nguồn lực xã hội hóa các hoạt động
kế thừa và phát huy di sản văn hóa đến vùng Đông Nam Bộ.
Tăng cường các hoạt động truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể để
phát huy di sản văn hóa, chính là bảo vệ chủ thể nắm giữ di sản văn hóa.
Ngoài việc truyền dạy những kỹ năng cho các thế hệ kế cận của các nghệ
nhân, nghệ sĩ, cần có những kế hoạch cụ thể để phối kết hợp với ngành
giáo dục xây dựng chương trình đào tạo học đường về di sản văn hóa nói
chung và những giá trị đặc sắc của di sản văn hóa Đồng Nai. Ứng dụng
một cách phù hợp công nghệ thông tin và truyền thông để xây dựng
ngân hàng dữ liệu về di sản, để quảng bá ý nghĩa và giá trị của di tích
lịch sử - văn hóa: Vùng đất con người Đồng Nai, Đồng Nai di tích văn
hóa, Người Đồng Nai, Văn hóa các dân tộc Đồng Nai, Những làng nghề
truyền thống ở Đồng Nai, Những lễ hội dân gian Đồng Nai, Khảo cổ học
Đồng Nai thời Tiền sử... Tuyên truyền giới thiệu trên các trang website,
tập san chuyên ngành về di sản văn hóa và các phim tư liệu về lễ hội,
nghề thủ công truyền thống đến vùng Đông Nam Bộ.
Xây dựng môi trường văn hóa trên địa bàn tỉnh gắn với phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng nông thôn
mới. Xây dựng tiêu chí văn hóa công sở trong các cơ quan hành chính
Nhà nước, vận động các doanh nghiệp tham gia xây dựng môi trường
“văn hóa doanh nghiệp”, “doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa” với ý thức
tôn trọng pháp luật. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, ứng xử đúng
đắn với môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Xây dựng
- 211 -

22.2 Page 212

▲back to top
nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh. Đầu tư xây dựng một số công trình
văn hóa trọng điểm, là biểu tượng văn hóa của Đông Nam Bộ đạt tiêu
chí hiện đại, đủ điều kiện tổ chức các hoạt động quan trọng cấp tỉnh,
quốc gia và quốc tế.
Gắn kết văn hóa với du lịch và thể thao trong các sự kiện văn hóa,
thể thao và du lịch ở cấp độ quốc gia và quốc tế trên sông Đồng Nai. Tổ
chức giới thiệu di sản văn hóa như những di sản sống trong sự phát triển
không ngừng một cách đa dạng. Tổ chức các Ngày văn hóa Đồng Nai ở
vùng Đông Nam Bộ. Di sản văn hóa cần được nhìn nhận như loại tài sản
đặc biệt vì đây là loại tài nguyên văn hóa - kinh tế có khả năng gia tăng
giá trị theo thời gian. Để trở thành mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước, các giá trị di sản văn hóa là tài sản đặc biệt để thực sự góp
phần vào việc phát triển kinh tế công nghiệp của từng địa phương. Đổi
mới việc phát triển hoạt động du lịch trên cơ sở khai thác những tiềm
năng và lợi thế của kho tàng di sản văn hóa của khu vực Đông Nam Bộ,
nhất là những di sản nằm dọc theo sông Đồng Nai.
Thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng nhân
tài trong lĩnh vực văn hóa. Đổi mới công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong lĩnh
vực văn hóa nói riêng của tỉnh theo hướng đáp ứng nhu cầu phát triển
của địa phương trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng, quy mô đào tạo
của các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề. Tạo điều kiện cho cán bộ,
công chức, viên chức tham dự các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
trình độ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh mới. Có cơ
chế, chính sách để hỗ trợ, thu hút, bởi dưỡng, đãi ngộ, tôn vinh những
nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian có nhiều cống hiến trong lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật truyền thống dân tộc,
qua đó góp phần kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, thúc đẩy sự
phát triển bền vững của vùng Đông Nam Bộ và cả nước.
Kết luận
Thời gian qua việc kế thừa và phát huy các giá trị di sản văn hóa
Đồng Nai đạt được nhiều kết quả tích cực, các loại hình di sản văn hóa
trên địa bàn tỉnh được quan tâm trùng tu, tôn tạo, phục dựng và bước
đầu phát huy giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống tốt đẹp trong đời sống
Nhân dân, các giá trị văn hóa đó đã được khai thác trở thành sản phẩm
du lịch đặc trưng phục vụ hàng trăm ngàn lượt khách du lịch mỗi năm,
tạo nguồn thu đóng góp chung vào sự phát kinh tế - xã hội của tỉnh.
- 212 -

22.3 Page 213

▲back to top
Để đáp ứng yêu cầu mới, nhất là thực hiện theo tinh thần Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng
về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông
Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tỉnh Đồng Nai cần chỉ
đạo các ngành, các cấp chính quyền địa phương tiếp tục thực hiện việc
kế thừa và phát huy các giá trị di sản văn hóa Đồng Nai ở vùng Đông
Nam Bộ trong giai đoạn cả nước đang phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Tỉnh ủy Đồng Nai (2006), 30 năm xây dựng và phát triển kinh tế
tỉnh Đồng Nai (1975-2005), Nxb. Lý luận Chính trị.
3. Tỉnh ủy Đồng Nai (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai lần thứ IX nhiệm kỳ 2010-2015, Tài liệu lưu hành nội bộ.
4. Nguyễn Thị Phương Châm (2021), Đa văn hóa trong đời sống xã
hội đương đại, Nxb. Khoa học Xã hội.
5. Nguyễn Kim Loan (chủ biên), (2014), Bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
6. Trần Quang Toại (chủ biên) (2004), Đồng Nai di tích lịch sử văn
hóa, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
7. Huỳnh Tới (1998), Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai, Nxb.
Đồng Nai.
8. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Nguyễn Trí Nghị (2015), Di tích
- Danh thắng Đồng Nai, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
9. Trường Đại học Thủ Dầu Một (2022), Viện Nghiên cứu Đông Nam
Bộ, hành trình 3 năm đầu tiên (2019-2022), Nxb. Khoa học Xã hội.
10. Nguyễn Văn Thủy (2022), “Văn hóa đô thị Đông Nam Bộ trong
hội nhập”, Viện Nghiên cứu Đông Nam Bộ, hành trình 3 năm đầu tiên
(2019-2022), Nxb. Khoa học Xã hội.
- 213 -

22.4 Page 214

▲back to top
GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG
ĐÀO TẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG SÁNG TÁC
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG MỸ THUẬT
TRANG TRÍ ĐỒNG NAI
TS. Trương Đức Cường(1)
Phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ,
bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực cho công chúng thông qua
nội dung giáo dục gắn với những kiến thức, kỹ năng cơ bản, thiết thực,
hiện đại. Để phát triển hài hòa về đức, trí, thể, mỹ, nhà trường đã lồng
ghép sự phát triển cho học sinh sinh viên (HSSV) những phẩm chất cơ
bản như: Tình yêu nước, lòng nhân ái, đức tính chăm chỉ, sự trung thực
và trách nhiệm. Chương trình đào tạo cũng đã hình thành và phát triển
cho HSSV năng lực cốt lõi: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp
và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ,
năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin
học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất… để giáo dục thẩm mỹ cho
HSSV và công chúng. Muốn làm được như vậy thì phải xuất phát từ giáo
dục trong nhà trường.
1. Đặt vấn đề
Tiền thân từ trường Bá nghệ Biên Hòa được hình thành, gắn với
nghề truyền thống của địa phương, thành lập từ năm 1902 đến tháng
5/1903 mới đi vào hoạt động với những tên gọi qua các thời kỳ như:
Trường dạy nghề Biên Hòa (1903-1913); Trường Mỹ nghệ bản xứ Biên
Hòa (1913-1964); Trường Kỹ thuật Biên Hòa (1964-1975); Trường Trung
học Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai (1978-1998) và Trường Cao đẳng Mỹ
thuật Trang trí Đồng Nai (1998 - nay). Trải qua 120 năm hình thành và
(1) Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai.
- 214 -

22.5 Page 215

▲back to top
phát triển, ngôi trường này đã đào tạo ra hàng ngàn nghệ sĩ, nhà thiết
kế về lĩnh vực mỹ thuật và mỹ thuật ứng dụng cho tỉnh Đồng Nai và các
tỉnh, thành phố ở khu vực phía Nam, góp phần vào sự phát triển kinh
tế - xã hội ở khu vực và cả nước.
Giáo dục thẩm mỹ (GDTM) trong ngôi trường nghệ thuật là một đòi
hỏi tất yếu, vì con người luôn hướng đến cái đẹp, tôn vinh cái đẹp mà xét
cho cùng chính là hướng tới cái đích của chân - thiện - mỹ và HSSV nhất
là trong môi trường nghệ thuật thì GDTM có ý nghĩa thực tiễn rất quan
trọng, phù hợp với nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. GDTM là một trong những mục tiêu, thể hiện quan điểm giáo
dục toàn diện của Đảng, Nhà nước ta. Trong các nhiệm vụ, giải pháp tại
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào
tạo đã nêu rõ: “Nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài
hòa đức, trí, thể, mỹ”(1), bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người
học thông qua nội dung giáo dục gắn với những kiến thức, kỹ năng cơ
bản, thiết thực, hiện đại; hài hòa đức, trí, thể, mỹ nên đào tạo trong nhà
trường đã lồng ghép sự phát triển cho HSSV năm phẩm chất chủ yếu:
Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Chương trình đào
tạo đồng thời hình thành và phát triển cho học sinh mười năng lực cốt
lõi: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng
lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ,
năng lực thể chất… Từ thực tiễn đó, tác giả cho rằng để GDTM được cho
công chúng và HSSV thì ngay từ ban đầu phải xuất phát từ nhà trường.
2. Một số vấn đề có tính lý luận
Nghị quyết của Đảng về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc(2) là cương lĩnh quan trọng của Đảng về văn hóa.
Tiếp theo, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23 về Tiếp tục xây dựng
và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới(3) nêu rõ: “Tập trung
mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29, Ban Chấp hành Trung ương
VIII (khóa XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành TW khóa
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 23-NQ/TW Bộ Chính trị, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- 215 -

22.6 Page 216

▲back to top
ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng
lớp Nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Nghị quyết số 33 Đảng ta xác định rõ mục tiêu “Xây dựng văn hóa, con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(1). Trong đó,
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát
triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội.”
Quyết sách của Chính phủ Chiến lược phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với
mục tiêu là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa: “Trở thành những
ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất lượng, đóng
góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua
việc sản xuất ngày càng nhiều các sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng,
chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa
của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm,
dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển những ngành có nhiều lợi thế, tiềm
năng của Việt Nam”.
Giáo dục là hoạt động truyền thụ kiến thức, huấn luyện kỹ năng,
giáo dục thái độ nhằm giúp người học chiếm lĩnh được một năng lực
nghề nghiệp hoặc một năng lực liên quan đến những mặt khác của cuộc
sống. Cũng như bất kỳ một hoạt động xã hội nào, hoạt động đào tạo
cũng cần được tổ chức và quản lý với nhiều cấp độ khác nhau nhằm
thực hiện có hiệu quả mục đích và các mục tiêu đào tạo phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của tổ chức cũng như của xã hội.
Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục giúp người học biến đổi
mình trở thành một chủ thể thẩm mỹ đích thực với quan hệ thẩm mỹ
đúng đắn được biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản như: Một là hình thành
và phát triển được những tình cảm thẩm mỹ trong quá trình cảm thụ và
lĩnh hội cái đẹp trong nghệ thuật, trong tự nhiên, trong các mối quan
hệ xã hội, tạo được hứng thú đối với các khía cạnh thẩm mỹ của hiện
thực, cảm nhận và hiểu biết được cái đẹp trong những biểu hiện đa
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị Trung
ương 9 (khóa XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- 216 -

22.7 Page 217

▲back to top
dạng của nó. Hai là có những quan niệm, chuẩn mực, niềm tin thẩm
mỹ, phát triển năng lực phán đoán và đánh giá thẩm mỹ, hình thành thị
hiếu, lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn. Ba là hình thành năng lực sáng tạo
nghệ thuật, lòng ham muốn và khả năng đem cái đẹp vào đời sống học
tập, lao động và ứng xử. Bốn là có thái độ không khoan nhượng đối với
những cái xấu xa, phản thẩm mỹ trong tâm hồn, trong hành vi ứng xử,
trong hình dáng, trang phục cũng như đối với những cái phi thẩm mỹ
trong các tác phẩm nghệ thuật(1).
Định hướng theo từ điển tiếng Việt(2) là xác định vị trí cùng phương
hướng; nhưng cách hiểu thông thường đối với nghệ thuật theo nghĩa
rộng Định hướng sáng tác là sự nuôi dưỡng và truyền giữ ngọn lửa đam
mê sáng tạo, nhằm phát huy trách nhiệm của cá nhân lan tỏa với xã hội,
thực hiện trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc để từng bước nâng cao
tính chuyên nghiệp và chất lượng của tác phẩm nghệ thuật. Muốn làm
được như vậy thì phải dấn thân thâm nhập thực tế, tự nâng cao trình độ
mọi mặt, nhất là thực tiễn đời sống xã hội, tiếp tục rèn luyện bản lĩnh,
dũng khí bảo vệ chân lý, bảo vệ cái hay, cái đẹp, kiên quyết đấu tranh,
phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trên lĩnh vực nghệ thuật mà
cá nhân đang chiếm lĩnh, để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, trên tinh thần khoa học và thuyết phục.
3. Kết quả GDTM tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai
GDTM hướng vào việc phát triển tình cảm của con người, tạo nên
sự lớn mạnh và phong phú về tâm hồn của con người, tổ chức và điều
khiển hành vi ứng xử của con người theo tiêu chuẩn cái đẹp. Con người
có khả năng cảm nhận cái đẹp của những cử chỉ cao thượng, cái thi vị
của các hoạt động sáng tạo, thì điều đó đã biểu hiện trình độ phát triển
nhất định về mặt thẩm mỹ của con người. Trái lại, nếu ai đó ham đọc
tiểu thuyết, thơ ca, thích nghe âm nhạc, ham xem phim ảnh, biết nhiều
sự kiện trong đời sống nghệ thuật, nhưng lại có những hành vi thô lỗ,
thấp hèn, có những ham muốn tầm thường, nhỏ nhen, vị kỷ thì khó mà
nói được rằng người đó đã có được một trình độ văn hóa thẩm mỹ chân
chính, đã có quan hệ thẩm mỹ đúng đắn được. Mặt khác trong những
điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay trong những điều kiện thuận lợi nhất
của việc giáo dục thì những dấu hiệu cơ bản kể trên cũng không thể
(1) Nguyễn Thanh Bình (2010), Vài suy nghĩ về giáo dục thẩm mỹ cho học sinh phổ
thông, Hội thảo Khoa học, Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương.
(2) Nguyễn Lân (2006) Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TPHCM, tr.639.
- 217 -

22.8 Page 218

▲back to top
phát triển ở mức độ như nhau mà nó sẽ phát triển theo quy luật “không
đồng đều”, “tính toàn vẹn”, “tính mềm dẻo và khả năng bù trừ”(1).
Tổ chức thâm nhập thực tiễn là điều kiện cơ bản để người học và
người dạy có thêm những kiến thức bổ trợ về giáo dục thẩm mỹ cho nên
khi thiết kế chương trình đào tạo nhà trường đã thiết kế từ 15-30 tiết lồng
ghép cùng với hoạt động thực tiễn trong từng module/môn học chuyên
ngành tại các doanh nghiệp, các địa phương và làng nghề dưới sự hướng
dẫn của các chuyên gia, nghệ nhân lành nghề. Bên cạnh đó, thường
xuyên điều chỉnh, bổ sung chương trình đào tạo để cập nhật công nghệ
mới; tổ chức các hoạt động trải nghiệm thâm nhập thực tế như: “Về
miền di sản”, “Thăm lại chiến trường xưa”, “Hành trình vì biển đảo quê
hương” tại thành phố Vũng Tàu; “Hành trình tìm về địa chỉ đỏ”, “Hành
trình xanh” tại tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước; tham gia thực
hiện những công trình “Làng tranh bích họa” tại tỉnh Bình Thuận và
hai huyện Thống Nhất, Định Quán, tỉnh Đồng Nai, “Vẽ sử trên chất liệu
gốm” tại thành phố Biên Hòa; đoàn viên thanh niên tham gia các hoạt
động: “Tiếp sức mùa thi”, “Mùa hè xanh”, “Mùa hè tình nguyện”, tham
gia các cuộc thi: “Sáng tạo kiểu dáng công nghiệp”, thiết kế “Nhân vật
hoạt hình”, “Thiết kế đồ họa thế giới”, “Nét đẹp sinh viên”, “Dạ hội hóa
trang”; các cuộc triển lãm “Câu chuyện từ những trái tim”, “Bài học tốt
của HSSV; giao lưu với “Nhà giáo chiến sĩ”, “Họa sĩ chiến sĩ”, tham gia các
hoạt động trải nghiệm “Xuân yêu thương”, “Xuân tình nguyện”…
Phát triển phong cách sáng tác từ truyền thống, được đưa vào giáo
trình trong chương trình đào tạo của nhà trường đảm bảo tính khoa
học theo đề xuất của giảng viên chuyên ngành, đảm bảo hài hòa giữa
cách tân và cổ điển; truyền thống và hiện đại, từ đó để người học tự
tìm ra cho riêng mình một phong cách mới của cá nhân. Như vậy, từng
cá nhân đã được tiếp thu có chọn lọc phản ánh các mặt của đời sống
xã hội như: Thế giới tâm linh huyền bí của tôn giáo (Thiên Chúa giáo,
Phật giáo, Đạo giáo); về thế giới tinh thần mô tả cuộc sống sinh hoạt của
cộng đồng các tộc người Việt Nam mang bản sắc tộc người từ Tây Bắc
sang Việt Bắc, vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, vào miền Trung, Tây
Nguyên và Nam Bộ bằng thế giới tinh thần (nhạc cụ các dân tộc) được
diễn tả bằng nhiều loại nhạc cụ khác nhau là đàn, trống, khèn, tù và,
cồng, chiêng…; những tác phẩm mô tả về thiên nhiên như cỏ, cây, hoa,
(1) Nguyễn trọng Hoàn (2019), Giáo dục thẩm mỹ trong Chương trình mới: Hình
thành, phát triển nhân cách học sinh, Báo điện tử, Giáo dục thời đại truy cập ngày
21/9/2023.
- 218 -

22.9 Page 219

▲back to top
lá; động vật cũng tạo nên cảm hứng sáng tác rất đa dạng, phong phú.
Ngoài 12 con giáp được thổi hồn thì: Voi, cá, chim, muông thú đã là một
trong những chủ đề sáng tác của nhiều thế hệ HSSV, giảng viên. Hình
tượng con người được mô phỏng một cách sinh động về mọi mặt của
đời sống vật chất, tinh thần và xã hội đương đại, thể hiện bằng chất liệu
gốm mô tả về các địa danh, vùng miền với những kiểu dáng, màu sắc đa
dạng phong phú, phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của vùng miền, dân tộc
với những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau do đó vai trò giáo dục thẩm
mỹ có ý nghĩa và tác dụng rất to lớn trong việc định hướng thẩm mỹ cho
công chúng và cho người học.
Ngành gốm được coi là nghề truyền thống được định danh và mang
được dấu ấn riêng có của Đồng Nai, trong bài viết này tác giả xin dẫn
chứng bài viết của đồng nghiệp, thể hiện GDTM được định hướng trong
nhà trường được trích dẫn dưới đây:
Từ những năm 1920, “Biên Hòa đã có một lớp thợ giàu sức sáng tạo
biết vận dụng kỹ thuật tân tiến thay thế cho phương pháp cổ xưa. Hàng
năm, nhà trường đều có sản phẩm tham gia trưng bày tại Hội Mỹ thuật
Sài Gòn (Société des Beaux - Arts de Saigon), Nhà triển lãm Hà Nội(1)
Sản phẩm trang trí nhiều màu, chạm khắc hoa văn tinh vi, sử dụng màu
men lạ mắt để tạo ra sự khác biệt với các dòng gốm đang có mặt trên thị
trường… Thành công trong việc pha chế men ta với mạt đồng (phế liệu
từ công đoạn hoàn thiện sản phẩm đúc đồng) ra loại men màu xanh
đồng rất đẹp, gọi là “Vert de Bienhoa” được giới làm gốm sánh ngang
hàng với Vert d’Islam nổi tiếng thế giới trong các kiến trúc Hồi giáo. Độc
đáo hơn, men Vert de Bienhoa đốt bằng củi còn tạo ra hỏa biến đẹp lạ.
Năm 1925, tham dự Hội chợ quốc tế Paris, sản phẩm của Trường Mỹ
nghệ Biên Hòa được Chính phủ Pháp tặng bằng khen danh dự, Ban tổ
chức Hội chợ tặng thưởng Huy chương vàng. Tại Hội chợ quốc tế Paris
lần 2-1932 với màn trình diễn xoay gốm bằng tay khéo léo của nghệ
nhân Biên Hòa đã gây ra bất ngờ lớn. Với đặc điểm: Nét chạm khắc chìm
tinh vi tạo cảm giác mạnh cùng men màu trang nhã phù hợp với đề
tài trang trí phương Đông rất lạ mắt với người sành điệu phương Tây,
nên gốm Biên Hòa nhanh chóng vang danh trên trường quốc tế. Sau hai
lần tham gia hội chợ triển lãm ở Pháp, sản phẩm gốm của Trường Mỹ
nghệ Biên Hòa tiếp tục vươn cánh bay xa sang tận Batavia (Indonesia)
năm 1934, Nayoga (Nhật) năm 1937, Saint Denis (đảo Réunion) năm
(1) Bùi Thuận (2023), Cặp đôi tạo nên danh tiếng cho gốm mỹ nghệ Biên Hòa, Báo
Đồng Nai cuối tuần, ngày 07/4/2023.
- 219 -

22.10 Page 220

▲back to top
1938, Hà Nội năm 1939, Bangkok (Thái Lan) năm 1955, Phnom Penh
(Campuchia) năm 1955 và 1956, Manila (Philippines) năm 1956, New
York (Mỹ) năm 1958…
“Mỹ phẩm của Trường Mỹ nghệ Biên Hòa được các nhà ngoại giao
quốc tế lưu ý và các mỹ thuật gia Âu Á ưa thích nhất là đồ gốm. Dù
có màu sắc, nhưng vẫn giản dị, đơn sơ, không lòe loẹt, chóe mắt, trầm
tĩnh, nhu mì, có vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, vĩnh viễn, thuần túy Á Đông,
dung hòa kim cổ… Do đó mà khách Âu Mỹ càng ngày càng quý trọng mỹ
phẩm trường Biên Hòa”(1).
4. Giải pháp giáo dục thẩm mỹ trong đào tạo và sáng tác mỹ thuật
4.1. Giữ gìn và phát huy bản sắc truyền thống
Chú trọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và truyền
thống dân tộc trong đó có giá trị văn hóa làng nghề, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc bảo tồn và phát triển làng nghề, tương xứng với tiềm năng,
thế mạnh vốn có tại địa phương, phù hợp với chính sách của Nhà nước
trong “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn
2021-2030”. Mục tiêu bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề, gìn giữ phát
huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của làng nghề Việt Nam,
thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, giá trị gia
tăng cho các sản phẩm làng nghề; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người
dân; bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường, xây dựng các khu
dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn bền vững.
Coi trọng công tác sưu tầm, nghiên cứu, khai thác các giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể nhằm nâng cao ý thức giữ gìn và tôn vinh giá trị
văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị
đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm nghệ thuật, công trình văn
hóa, có kế hoạch đầu tư cho khâu sáng tác, dàn dựng chương trình trình
diễn, đào tạo tài năng nghệ thuật; tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác
phẩm văn học nghệ thuật để có những tác phẩm đỉnh cao, các chương
trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật hấp dẫn, có tính giáo dục tư tưởng
thẩm mỹ cao phục vụ Nhân dân, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực trong
hoạt động văn hóa.
(1) Lương Văn Lựu (1960), Biên Hòa sử lược, Tư liệu tra cứu tại Thư viện quốc gia
TP HCM, 9/2023.
- 220 -

23 Pages 221-230

▲back to top

23.1 Page 221

▲back to top
4.2. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho người dạy và người học
Giáo dục thẩm mỹ không tách rời giáo dục tri thức văn hóa khoa
học: Cần thực hiện yêu cầu giáo dục toàn diện, song song với việc trang
bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho người học là chú
trọng giáo dục nhân cách làm người.
Giáo dục thẩm mỹ và giáo dục đạo đức phải nằm trong một thể
thống nhất, sự thống nhất giữa giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ
góp phần bồi dưỡng cho sinh viên năng lực nhận thức, đóng góp, sáng
tạo cái đẹp, hình thành ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng đạo đức
trong sáng cao cả, mãnh liệt để vươn tới bảo vệ cái đẹp.
Xây dựng môi trường văn hóa thẩm mỹ lành mạnh, trong đó giữa
người dạy và người học và giữa người học với nhau có mối quan hệ gắn
bó, gần gũi, cởi mở, dân chủ, bình đẳng, vui vẻ, tôn trọng, có môi trường
sống lành mạnh, an toàn, đó là cơ sở cho sự hình thành năng lực cảm
thụ thẩm mỹ hình thành nên những con người có nhân cách tốt, có ích
cho xã hội.
Thông qua kết cấu, nội dung chương trình các môn học một cách
toàn diện, được lồng ghép, kết hợp bằng nhiều hình thức khác nhau, cả
bề rộng và chiều sâu, áp dụng giữa nội dung và hình thức thông qua sự
lồng ghép giữa các môn học, đó chính là con đường, biện pháp chủ đạo,
là vấn đề then chốt, ngăn chặn xu hướng suy thoái về lối sống, đạo đức,
mờ nhạt về bản sắc văn hóa dân tộc trong lối sống hành vi. Trên cơ sở đó
nhận thức đúng đắn, tạo lập hành vi tốt đẹp, hình thành lối sống có văn
hóa cho mọi người.
Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ thông qua các chương trình văn hóa,
nghệ thuật, thể dục thể thao, giao lưu trong nước và quốc tế. Hàng năm
tổ chức các cuộc điền dã thực tế, thâm nhập các vùng, miền để nâng cao
hoạt động thực tiễn, sự tìm tòi sáng tạo và nhiều sân chơi mới phù hợp
với từng lứa tuổi để người dạy, người học nâng cao trình độ thẩm mỹ.
Mặt khác cũng cần phải đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi các hiện tượng tiêu
cực, lệch lạc trong thị hiếu thẩm mỹ tầm thường trong văn hóa lối sống,
văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử, văn hóa trong cách ăn mặc ở, văn hóa
với môi trường, văn hóa giao thông, văn hóa đô thị…
4.3. Hoàn thiện chương trình đào tạo mỹ thuật và mỹ thuật ứng
dụng theo hướng hiện đại
Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống đã được định danh theo
hướng mở: Một phần giữ gìn tinh hoa quý giá đã sáng tạo ra, được trao
- 221 -

23.2 Page 222

▲back to top
truyền từ các thế hệ như phong cách, kiểu dáng, màu sắc, kỹ thuật, kỹ
xảo, bí quyết làm nghề, mặt khác cũng cần biết tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa nhân loại trong phát triển nghề truyền thống, nhất là đổi mới công
nghệ, tạo dáng sản phẩm theo hướng hiện đại, marketing sản phẩm,
định giá sản phẩm, truyền thông sản phẩm.
Khi nhu cầu tiêu dùng của con người trong xã hội ngày càng phát
triển, đòi hỏi lớn hơn và cùng với sự phát triển của khoa học, ngành Mỹ
thuật ứng dụng (Design - Thiết kế) cũng phát triển một cách tự thân là
nhu cầu thiết yếu của nền Công nghiệp hiện đại. Thiết kế sáng tạo nhằm
tạo nên một cuộc sống chất lượng hơn vì vậy thiết kế không thể xa rời
cuộc sống, gắn liền với sự phát triển của xã hội, để làm được điều này
đòi hỏi công tác đào tạo cần có sách lược, chiến lược phù hợp như: “Học
đi đôi với hành”, “Đào tạo phải gắn với thực tiễn”, “Lý thuyết đi đôi thực
hành” những cụm từ này gắn liền công tác đào tạo với doanh nghiệp.
Trong đào tạo mỹ thuật và mỹ thuật ứng dụng, việc học và thực hành
ngay tại nhà trường ngày càng trở nên quan trọng. Quá trình tiếp thu lý
thuyết tại xưởng, sinh viên có điều kiện để thao tác trên máy móc, thiết
bị. Đây là những bài học từ thực tế sinh động, giúp cho người học dễ
nắm bắt kiến thức hơn là những bài giảng lý thuyết khô khan trên các
giảng đường.
Bổ sung phần thực hành, thực tập tại xưởng nhằm hướng đến đào
tạo nguồn nhân lực có kỹ năng hành nghề. Gắn kết đào tạo với doanh
nghiệp được coi là mô hình kết hợp giữa nghiên cứu ứng dụng với sản
xuất kinh doanh được coi là đúng hướng trong xu thế phát triển hiện nay.
Vì thế chương trình đào tạo hằng năm nhà trường thường xuyên rà soát,
điều chỉnh, bổ sung cập nhật kiến thức, công nghệ mới đưa vào chương
trình đào tạo trong từng môn học, trên cơ sở giữ gìn tinh hoa của ngành
nghề truyền thống, lấy ý kiến của doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân
lực sau đào tạo và chuyên gia đầu ngành để bổ sung thời lượng phù hợp
cho việc thực hành, thực tập tại doanh nghiệp theo hướng hiện đại.
5. Kết luận
Có thể nói, trong nhiều năm qua, công tác đào tạo và định hướng
sáng tác mỹ thuật tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai đã
đạt được một số kết quả đáng trân trọng, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống, góp phần vào sự tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội của
khu vực cũng như cả nước. Mặc dù công tác đào tạo mỹ thuật còn phải
đối mặt với nhiều khó khăn, rào cản và thách thức như hiện nay, những
thách thức đó cũng đồng thời mang đến cho nhà trường nhiều cơ hội
- 222 -

23.3 Page 223

▲back to top
để tìm ra chiến lược, sách lược đặt ra bằng tầm nhìn và hướng đi mới,
mang lại nhiều giá trị hơn cho công chúng và HSSV. Sự phối hợp ba bên
giữa nhà trường, doanh nghiệp và người học luôn được cập nhật. Bên
cạnh đó cũng cần phải nâng cao phương pháp, trình độ giảng dạy từ
phía người dạy; xây dựng các mô hình học tập song hành và gắn liền
với thực tiễn; tận dụng thành tựu của công nghệ mới và đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị phương tiện, hợp tác với các lực lượng hỗ trợ hiện có
để đưa ra chiến lược, sách lược xây dựng một mô hình đào tạo mỹ thuật
theo hướng giữ vững tinh hoa hồn cốt truyền thống dân tộc, tiếp thu
thành tựu công nghệ mới, có hiệu quả, giúp nhà trường, công chúng và
HSSV định hình một hướng đi, cách học tập và làm việc hiệu quả./.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương (khóa VIII), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 23-NQ/TW Bộ
Chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29, Ban Chấp
hành Trung ương 8 (khóa XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội
nghị Trung ương 9 (khóa XI), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Thanh Bình (2010), “Vài suy nghĩ về giáo dục thẩm mỹ
cho học sinh phổ thông”, Hội thảo Khoa học, Trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật Trung ương.
6. Nguyễn Trọng Hoàn (2019), “Giáo dục thẩm mỹ trong Chương
trình mới: Hình thành, phát triển nhân cách học sinh”, Báo điện tử, Giáo
dục thời đại, ngày 21/9/2023.
7. Nguyễn Lân (2006), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp
TP. HCM, tr. 639.
8. Lương Văn Lựu (1960), Biên Hòa sử lược, Tư liệu tra cứu tại Thư
viện quốc gia TP. HCM, 09/2023.
9. Bùi Thuận (2023), “Cặp đôi tạo nên danh tiếng cho gốm mỹ nghệ
Biên Hòa”, Báo Đồng Nai cuối tuần, ngày 07/4/2023.
- 223 -

23.4 Page 224

▲back to top
ĐÀO TẠO NHÂN LỰC SƯ PHẠM
TRONG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT
PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG Ở ĐỒNG NAI
TS. Võ Văn Lý(1)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bác Hồ đã từng nói: “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định. Cán bộ là gốc của mọi công
việc”. Đảng ta cũng luôn coi nguồn nhân lực là một trong ba đột phá
quan trọng trong phát triển đất nước.
Để tăng cường phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và nghệ sĩ trong
điều kiện hiện nay, mục tiêu phát triển nhân lực văn hóa, nghệ thuật
trong tình hình mới là: Xây dựng được đội ngũ nhân lực văn hóa, nghệ
thuật đủ về số lượng; đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và một số mặt
tiếp cận trình độ các nước tiến tiến trên thế giới; có cơ cấu trình độ,
ngành nghề, vùng miền hợp lý. Nhân lực có đủ năng lực làm nòng cốt
trong sự nghiệp phát triển lĩnh vực văn hóa nghệ thuật để giải quyết
các vấn đề thực tiễn, có khả năng tiếp cận, làm chủ và chuyển giao
khoa học công nghệ tiên tiến, sáng tạo và truyền bá tinh hoa dân tộc
và thế giới. Xây dựng được một bộ phận nhân lực có năng lực, chuyên
nghiệp và hiện đại để khởi xướng, dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển nhân
lực và quyết định đến sự phát triển nhanh, bền vững trong những năm
tiếp theo, nâng cao hơn nữa vị thế và tiềm lực văn hóa nghệ thuật trên
trường quốc tế.
(1) Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng Nai.
- 224 -

23.5 Page 225

▲back to top
Để đạt được mục tiêu nêu trên, quan điểm phát triển nhân lực văn
hóa, nghệ thuật trong tình hình mới cần hướng đến những tiêu chí sau:
Thứ nhất, bảo đảm chất lượng cao, toàn diện cả về trí lực, năng lực
chuyên môn, thể lực và đạo đức, nhanh chóng thích ứng với nhu cầu
phát triển văn hóa nghệ thuật và tình hình thế giới không ngừng thay
đổi, gắn với chiến lược phát triển văn hóa và chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu và toàn diện.
Thứ hai, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng đặc thù của lĩnh vực
hoạt động và đặc trưng vùng miền. Tập trung ưu tiên phát triển nhân
lực đặc thù (nhân tài, khoa học - công nghệ; lãnh đạo, quản lý nhà nước;
nhân lực trình độ cao; nhân lực các vùng lạc hậu, kém phát triển, dân
tộc thiểu số) trên nền tảng năng khiếu, tài năng đi liền với phát triển
nhân lực làm công tác phong trào.
Thứ ba, coi trọng việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và
tôn vinh nhân tài. Thực hiện thường xuyên và nhất quán việc phát hiện,
tuyển chọn, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài; trọng đãi
về vật chất và tinh thần phải xứng đáng với cống hiến thực tế của người
lao động. Tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi và khuyến khích mọi năng lực
sáng tạo trong tất cả các lĩnh vực.
Thứ tư, trên cơ sở định hướng của Nhà nước và nhu cầu xã hội,
cần phải đổi mới triệt để các chủ trương, chính sách, phương pháp và
phương thức phát triển nhân lực văn hóa, nghệ thuật phù hợp với đặc
điểm, yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm của dân cư
và tiếp cận các quan niệm, trình độ, cơ cấu nhân lực quốc tế và khu vực;
sử dụng hài hòa cơ chế ưu tiên của Nhà nước.
II. NỘI DUNG
1. Vai trò của giáo dục nghệ thuật trong chương trình giáo dục phổ
thông và phục vụ cộng đồng
Âm nhạc và mỹ thuật với chức năng giáo dục thẩm mỹ đã góp phần
giúp học sinh thêm yêu quê hương đất nước, biết cảm nhận cái hay, cái
đẹp của nghệ thuật trong cuộc sống, đồng thời phát hiện năng khiếu
nghệ thuật của học sinh. Thông qua các môn học âm nhạc và mỹ thuật,
học sinh được biết đến những giá trị văn hóa nghệ thuật của nhân loại
và Việt Nam để từ đó có óc thẩm mỹ và rèn luyện bản thân hướng đến
chân - thiện - mỹ, đến với cái thiện và xa rời cái ác. Điều đó cho thấy vai
trò và ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục nghệ thuật trong nhà trường
phổ thông.
- 225 -

23.6 Page 226

▲back to top
Tuy nhiên, khi nói đến nghệ thuật, chúng ta cần hiểu dưới nhiều
góc độ, tiêu biểu như nghệ thuật là những hoạt động của con người
cùng với các sản phẩm do những hoạt động đó tạo ra. Ví dụ, nghệ thuật
âm nhạc với các hoạt động hát, chơi nhạc cụ… nghệ thuật hội họa với
các hoạt động vẽ tranh… Nghệ thuật cũng được sử dụng để chỉ một kỹ
năng điêu luyện hay sự thông thạo của một việc nào đó như: Nghệ thuật
nấu ăn, nghệ thuật trang trí, nghệ thuật trình diễn… Hay nghệ thuật là
một lĩnh vực khi nó là tập hợp của các môn sáng tạo ra những tác phẩm
nghệ thuật: Âm nhạc, hội họa, văn chương, múa, sân khấu, kịch, điện
ảnh, kiến trúc.
Do vậy, giáo dục nghệ thuật trong chương trình giáo dục phổ thông
mới đã đưa vào môn nghệ thuật nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau
dưới dạng các học phần (module) để học sinh được lựa chọn, không chỉ
có hai loại hình như hiện nay là âm nhạc và mĩ thuật. Đồng thời, môn
học nghệ thuật đã được triển khai dạy và học ở cả bậc trung học phổ
thông. Đây chính là những điểm nổi bật trong chương trình giáo dục
phổ thông mới. Điều này chứng tỏ chương trình đã rất quán triệt tinh
thần đổi mới giáo dục căn bản và toàn diện theo Nghị quyết số 29-NQ/
TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết số
88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông.
2. Nhu cầu giáo viên nghệ thuật trong chương trình giáo dục phổ
thông và phục vụ cộng đồng
Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT), ở bậc tiểu học, số
lượng giáo viên âm nhạc, mỹ thuật rất thiếu. Trong tổng số 15.538 trường
tiểu học trên toàn quốc thì chỉ có 13.339 giáo viên âm nhạc, thiếu 2.199
giáo viên. Tương tự, lĩnh vực mỹ thuật chỉ có 13.445 giáo viên, thiếu
2.093 giáo viên. Số giáo viên nghệ thuật các trường THCS cơ bản là đủ,
trong tổng số 10.939 trường THCS trên cả nước có 11.424 giáo viên âm
nhạc và 11.178 giáo viên mỹ thuật.
Riêng đối với bậc THPT, theo lộ trình của chương trình giáo dục phổ
thông mới, khi môn nghệ thuật triển khai tại các trường, số giáo viên
âm nhạc, mỹ thuật sẽ thiếu 100%. Bộ GD-ĐT cho biết toàn quốc hiện có
2.834 trường THPT, nếu căn cứ vào tiêu chí mỗi trường THPT cần 1 giáo
viên âm nhạc, 1 giáo viên mỹ thuật thì số lượng giáo viên cần lên đến
5.668 giáo viên.
- 226 -

23.7 Page 227

▲back to top
Hai nguyên nhân lớn dẫn tới tình trạng thiếu giáo viên nghệ thuật
hiện nay: Thứ nhất do khó khăn về định biên. Cả nước hiện thiếu trên
94.000 giáo viên các môn học, cấp học. Trong khi theo lộ trình thực hiện
việc giảm biên chế cơ quan sự nghiệp Nhà nước, vẫn cần giảm hàng
chục ngàn trường hợp mà chủ yếu trong ngành giáo dục. Thứ hai là
thiếu nguồn tuyển. Thực tế, nguồn giáo viên đang dạy ở các bậc tiểu
học, THCS cũng không đồng nhất do tuyển dụng từ nhiều cơ sở đào tạo,
trình độ, bằng cấp khác nhau và mới chỉ bao phủ về số lượng mà chưa
tính toán được chất lượng. Tình trạng này đang lặp lại ở bậc THPT. Mặt
khác, việc thu hút người có năng khiếu vào học sư phạm nghệ thuật để
dạy nghệ thuật là rất khó. Những người thực sự có năng khiếu, đam mê
có thể đã chọn một ngành nghệ thuật khác.
Môn nghệ thuật ở chương trình giáo dục phổ thông mới bậc THPT
đòi hỏi đáp ứng yêu cầu cao hơn với người học vì đây là môn học đặc
thù. Những học sinh lựa chọn môn này cần đam mê, năng khiếu và có
thể mong muốn theo đuổi một nghề liên quan trong tương lai. Vì thế ở
bậc THPT, ngoài việc cung cấp kiến thức nền tảng, người thầy cần biết
khơi dậy đam mê và định hướng thẩm mỹ cho học sinh.
3. Thực trạng đào tạo nhân lực sư phạm lĩnh vực nghệ thuật ở
Đồng Nai
Tại tỉnh Đồng Nai, đào tạo sư phạm nghệ thuật chỉ có duy nhất một
trường, đó là: Trường Đại học Đồng Nai.
Trường Đại học Đồng Nai là một trong những cơ sở giáo dục có
lịch sử hình thành và phát triển đáng tự hào ở khu vực miền Đông Nam
Bộ. Trường được thành lập năm 1976, ban đầu có tên gọi là trường Sư
phạm cấp 2 Đồng Nai theo quyết định của Bộ Giáo dục (nay là Bộ GD-
ĐT) từ việc tách cơ sở 4 của Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh. Đến ngày 28/3/1987, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định
nâng cấp trường thành Trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai trực thuộc
Sở Giáo dục và Đào tạo. Ngày 15/9/1997, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai
quyết định hợp nhất hai trường Sư phạm của tỉnh (Trung học Sư phạm
và Cao đẳng Sư phạm). Ngày 20/8/2010, Thủ tướng Chính phủ đã quyết
định thành lập Trường Đại học Đồng Nai trên cơ sở nâng cấp Trường
Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai.
Sau 47 năm không ngừng phấn đấu, luôn hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao, trường Đại học Đồng Nai đã đào tạo hơn 55.000
giáo viên từ mầm non đến THPT, trường cũng đã liên kết đào tạo hơn
5.000 giáo viên THPT, liên kết đào tạo nâng chuẩn cho hơn 9.000 giáo
- 227 -

23.8 Page 228

▲back to top
viên ở các cấp học khác cho tỉnh Đồng Nai và các tỉnh lân cận. Không
ít giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục được đào tạo tại trường đã và đang
đảm trách công tác giáo dục trên địa bàn cả nước, góp phần quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, sự
nghiệp giáo dục - đào tạo nói riêng. Ghi nhận những thành tích xuất
sắc đó, Chủ tịch nước đã tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba
(1996), Huân chương Lao động hạng Nhì (2001) và Huân chương Lao
động hạng Nhất (2011, 2016) cho tập thể cán bộ, viên chức, sinh viên
nhà trường. Ngoài ra, đơn vị còn liên tục được công nhận danh hiệu
Tập thể lao động xuất sắc và nhiều bằng khen, cờ thi đua của Thủ tướng
Chính phủ và UBND tỉnh Đồng Nai.
Từ những ngày đầu mới thành lập, Trường đã luôn chú trọng đào
tạo nghệ thuật cho các ngành có đào tạo bắt buộc theo quy định như:
Bộ môn âm nhạc và bộ môn mỹ thuật trong ngành Sư phạm mầm non,
Sư phạm tiểu học... đến các ngành tự chọn như: Sư phạm âm nhạc, Sư
phạm mỹ thuật.
Với bộ môn âm nhạc và bộ môn mỹ thuật trong ngành Sư phạm
mầm non, Sư phạm tiểu học, Trường Đại học Đồng Nai đã đào tạo 45
khóa ra trường, đáp ứng tốt nhu cầu chuyên môn từ các cơ sở giáo dục
trong và ngoài tỉnh. Hiện tại và những năm tiếp theo, Trường Đại học
Đồng Nai tiếp tục đào tạo hai bộ môn nghệ thuật này cho hai ngành với
lưu lượng sinh viên rất lớn (mỗi năm khoảng 500 sinh viên ra trường).
Đối với việc đào tạo giáo viên chuyên ngành Sư phạm âm nhạc và
Sư phạm mỹ thuật, từ những năm 1980, xuất phát từ nhu cầu thực tế của
xã hội, Trường Đại học Đồng Nai (lúc đó là Trường Cao đẳng Sư phạm
Đồng Nai) đã gửi sinh viên đang học tại trường có năng khiếu âm nhạc
và mỹ thuật đi đào tạo chuyên ngành Sư phạm âm nhạc và Sư phạm mỹ
thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi tốt nghiệp, những sinh viên
này về làm công tác giảng dạy tại trường như thầy Bùi Anh Tôn, thầy Lê
Minh Phước… đến nay các thầy đang giữ vai trò “cây đa cây đề” trong
công tác đào tạo nghệ thuật.
Việc đào tạo sư phạm nghệ thuật ở Đồng Nai giai đoạn tiếp theo
được đánh giá là giai đoạn “phát triển rực rỡ” nhờ sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của UBND tỉnh và nguồn nhân lực được đào tạo tại Trường
Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng Nai.
Năm 1991, được sự cho phép của UBND tỉnh và Sở Giáo dục và Đào
tạo Đồng Nai, Trường Đại học Đồng Nai phối hợp với Trường Trung cấp
Văn hóa Nghệ thuật Đồng Nai mở lớp Cao đẳng sư phạm nhạc - họa đặt
- 228 -

23.9 Page 229

▲back to top
tại Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật với nguồn tuyển từ học sinh
Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật và sinh viên có năng khiếu nghệ
thuật tại Trường Đại học Đồng Nai. Đây là khóa sư phạm nghệ thuật đầu
tiên được đào tạo tại Đồng Nai thu hút sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh và
người học. Kết quả khóa đào tạo ba năm đã cho ra xã hội nhiều thầy cô
giáo nghệ thuật có trình độ, năng lực rất tốt, đáp ứng tốt nhu cầu của xã
hội, hiện tại, có nhiều thầy cô đạt trình độ chuyên môn rất cao, giữ vị trí
trọng trách trong các cơ sở giáo dục.
Sau bảy khóa liên kết đào tạo với Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ
thuật Đồng Nai (từ khóa 16-22), cung cấp cho các cơ sở giáo dục hàng
trăm thầy cô giáo chuyên ngành nghệ thuật, năm 1997, Trường Đại học
Đồng Nai đủ điều kiện đào tạo riêng ngành sư phạm nghệ thuật và kết
thúc liên kết.
Kể từ khóa 23-38, Trường Đại học Đồng Nai tiếp tục đào tạo hai
ngành sư phạm nghệ thuật, cho “ra lò” hàng ngàn thầy cô giáo giảng
dạy nghệ thuật tại tỉnh Đồng Nai và các tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Thuận, Ninh Thuận… nhiều thầy cô hiện tại rất có uy tín về chuyên
môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và nhiều thầy cô giữ vị trí lãnh
đạo cao tại các cơ sở giáo dục.
Từ năm 2015 đến nay, do nhu cầu của xã hội, Luật Giáo dục và Luật
Giáo dục đại học có sửa đổi, cũng như nhiều yếu tố khách quan khác,
Trường Đại học Đồng Nai không đào tạo các ngành nghệ thuật mà chỉ
đào tạo các môn nghệ thuật cho các ngành Sư phạm mầm non, Sư phạm
tiểu học.
Những năm gần đây, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng
Nai đã liên kết với Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo 5 lớp liên
thông từ cao đẳng, trung cấp lên đại học, ngành Sư phạm âm nhạc với
gần 300 học viên tốt nghiệp phục vụ giảng dạy cho tỉnh Đồng Nai và khu
vực; tuy nhiên, việc liên kết này hiện nay cũng tạm dừng do yêu cầu của
các quy định hiện hành.
4. Phương hướng đào tạo nhân lực sư phạm trong lĩnh vực nghệ
thuật ở Đồng Nai trong thời gian tới
Theo Văn bản số 4010/UBND-KGVX ngày 22/4/2022 của UBND
tỉnh Đồng Nai, giai đoạn 2022-2025 tỉnh Đồng Nai cần khoảng 450 giáo
viên nghệ thuật, nếu thống kê cả nhu cầu của các trường ngoài công lập,
nhu cầu giáo viên nghệ thuật của Đồng Nai cao hơn rất nhiều.
- 229 -

23.10 Page 230

▲back to top
Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực sư phạm trong lĩnh vực nghệ
thuật, các cơ sở đào tạo nhân lực tại Đồng Nai cần thực hiện tốt những
nội dung:
Trước hết, Trường Đại học Đồng Nai gấp rút lập hồ sơ xin Bộ GD&ĐT
cho phép đào tạo ngành Sư phạm âm nhạc và Sư phạm mỹ thuật bậc đại
học. Cần xác định chuẩn trình độ giáo viên nghệ thuật ở trường phổ
thông để đào tạo, bồi dưỡng lại cho các giáo viên còn chưa đạt chuẩn.
Thực tế tình trạng đội ngũ giáo viên nghệ thuật không đồng đều về trình
độ chuyên môn nghệ thuật, do đó, đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên
là việc làm hết sức cần thiết của trường trong giai đoạn hiện nay. Đồng
thời, Trường Đại học Đồng Nai cần xây dựng nội dung chương trình đào
tạo và bồi dưỡng giáo viên nghệ thuật dành riêng cho bậc THPT bám
sát với chương trình giáo dục phổ thông mới để đáp ứng về đội ngũ giáo
viên cho nhà trường phổ thông, đáp ứng chương trình giáo dục mới.
Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng Nai tiếp tục liên kết với
Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh mở các lớp liên thông, tại chức đào
tạo Sư phạm âm nhạc để đáp ứng nhu cầu rất lớn về giáo viên âm nhạc.
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí liên kết đào tạo với các trường có
mã ngành đào tạo mỹ thuật, mở các lớp Sư phạm mỹ thuật để đáp ứng
nhu cầu của tỉnh hiện nay.
Trước những định hướng của chương trình giáo dục phổ thông mới,
số lượng giáo viên dạy âm nhạc và mỹ thuật chưa thể đáp ứng đủ cho
các trường trên toàn tỉnh, chúng ta có thể khắc phục bằng cách tuyển
dụng thêm các nghệ sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ chuyên nghiệp có bằng đại học
thuộc các chuyên ngành âm nhạc, mỹ thuật khác ngoài sư phạm (như:
Thanh nhạc, biểu diễn các loại nhạc cụ, lý luận âm nhạc, thiết kế thời
trang, thiết kế đồ họa, hội họa…) và có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm để
dạy học. Việc này có thể giúp cho bài toán lo lắng về giáo viên nghệ thuật
cho THPT sẽ giảm bớt rất nhiều và cũng sẽ giảm bớt áp lực tuyển sinh
những ngành sư phạm thuộc khối nghệ thuật cho các trường, các cơ
sở đào tạo giáo viên nghệ thuật. Đồng thời, đây sẽ là cơ hội việc làm tốt
cho những người đã và đang học các mã ngành nghệ thuật khác ngoài
sư phạm.
Thứ hai, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học các
môn thuộc ngành nghệ thuật.
Để đáp ứng yêu cầu của môn học nghệ thuật ở chương trình giáo
dục phổ thông mới, Trường Đại học Đồng Nai phải nhanh chóng kiện
toàn đội ngũ giảng viên dạy học các môn nghệ thuật. Đồng thời, phải
- 230 -

24 Pages 231-240

▲back to top

24.1 Page 231

▲back to top
đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học theo hướng
tiếp cận và phát triển năng lực phẩm chất cho người học.
Cụ thể, cần bổ sung nội dung học phần phương pháp dạy học âm
nhạc và mỹ thuật mang tính liên cấp từ mầm non, tiểu học, THCS, đến
THPT trong môn Phương pháp dạy học chuyên ngành. Trong chương
trình thực tập sư phạm, bổ sung thêm thực tập tại các trường THPT. Đối
với đổi mới phương pháp dạy học âm nhạc và mỹ thuật ở các trường
phổ thông, cần tập trung nghiên cứu phương pháp dạy học âm nhạc,
mỹ thuật theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh cả
ba cấp học.
Thứ ba, xây dựng đề án mở các mã ngành đào tạo sư phạm nghệ
thuật khác ngoài hai mã ngành là âm nhạc và mỹ thuật.
Với nhà trường phổ thông, các loại hình nghệ thuật như múa, kịch…
rất hay được nhà trường sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, song
do các loại hình nghệ thuật này chưa được đào tạo ở ngành sư phạm (sư
phạm múa, sư phạm kịch), cho nên trường rất cần nghiên cứu để xây
dựng đề án mở các mã ngành đào tạo vừa nêu.
Tuy nhiên, đây là công việc lâu dài của Trường Đại học Đồng Nai và
các trường sư phạm. Thực tế đào tạo ở trường sư phạm nghệ thuật cho
thấy, nếu để có được một mã ngành đào tạo sư phạm nghệ thuật mới,
các trường sư phạm nghệ thuật cũng cần phải có đội ngũ giảng viên
trình độ cao ở các chuyên ngành đó, đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất
trường học… thì mới có thể xin mở được mã ngành.
Có câu hỏi đặt ra là hiện nay chúng ta chưa có giáo viên dạy múa,
hay kịch… được đào tạo ở các trường sư phạm, vậy nếu thực hiện theo
chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới thì các loại hình nghệ
thuật này sẽ có giáo viên dạy không?
Có thể nói, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới mang
tính mở, do đó cũng cho phép tùy theo điều kiện của từng trường và địa
phương để lựa chọn dạy học các modun, các chuyên đề học tập nghệ
thuật. Đội ngũ giáo viên có thể là những người được đào tạo chính quy
về sư phạm nghệ thuật, cũng có thể là các nghệ sĩ, nghệ nhân có hiểu
biết và kinh nghiệm thực tiễn chuyên môn để giảng dạy.
Chính vì vậy, để có được đội ngũ giáo viên dạy các loại hình nghệ
thuật khác ngoài âm nhạc, mỹ thuật trong trường phổ thông thì có thể
tuyển dụng từ những người đã tốt nghiệp đại học ở các trường nghệ
thuật chuyên nghiệp trên cả nước (ở các chuyên ngành như: Diễn viên
- 231 -

24.2 Page 232

▲back to top
kịch - điện ảnh, diễn viên múa, biên đạo múa…) với điều kiện, các giảng
viên này cần phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm. Trong những năm
đầu thực hiện chương trình, có thể cho phép một giáo viên giảng dạy ở
nhiều trường phổ thông nếu có thể bố trí được thời gian phù hợp.
III. KẾT LUẬN
Nghệ thuật là tinh hoa của nhân loại, chính vì vậy dạy học các loại
hình nghệ thuật ở phổ thông sẽ làm cho quá trình hình thành nhân
cách và phát triển trí tuệ của học sinh được phong phú, tốt đẹp hơn.
Mong rằng giáo dục nghệ thuật ở nhà trường phổ thông cũng như các
trường sư phạm có đào tạo giáo viên nghệ thuật sẽ ngày càng khởi sắc,
góp phần đào tạo con người mới Việt Nam phát triển toàn diện.
Con người là gốc của công việc. Đào tạo con người làm nghệ thuật,
ngoài những yêu cầu cao về chuyên môn đặc thù, cần chú trọng về đào
tạo nhân cách, đạo đức, lối sống, phát triển năng lực, nghiệp vụ để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội và xu thế tất yếu của hội nhập
Quốc tế.
Trường Đại học Đồng Nai là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao nói chung và nhân lực nghệ thuật nói riêng cho tỉnh và khu vực.
Trong thời gian tới, với sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, bộ, ngành, nhà
trường sẽ quyết tâm phát huy truyền thống tốt đẹp, vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, phát triển đi lên đáp ứng kỳ vọng và niềm tin yêu của
Nhân dân Đồng Nai.
Tài liệu tham khảo
1. https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc tiehoc/Pages/
default.aspx?ItemID=4757.
2. https://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/thieu-tram-trong-giao
-vien-nghe-thuat 20191029214513694.htm.
3. https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/tu-de-cuong-
ve-van-hoa-viet-nam-nhin-nhan-ve-vai-tro-cua-can-bo-van-hoa-
trong-boi-canh-moi-143904.
4. Niên giám thống kê Đồng Nai 2022.
5. Chiến lược phát triển Trường Đại học Đồng Nai đến 2025 và giai
đoạn 2025-2030.
- 232 -

24.3 Page 233

▲back to top
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO TRONG LĨNH VỰC
VĂN HÓA DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG NAI, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
ThS. Nguyễn Xuân Khuê(1)
1. Đặt vấn đề
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng nhất trong việc
thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Trong lĩnh vực văn hóa du lịch, thì đây được coi là yếu tố chiến lược tạo
nên những lợi thế cạnh tranh và là yếu tố then chốt tạo nên sự thành
công cho các doanh nghiệp du lịch nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Để đưa ngành du lịch của tỉnh trở thành một trong những ngành
kinh tế trọng điểm trong thời gian qua, Đồng Nai đã triển khai hàng loạt
những giải pháp để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như: (1)
Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để xây
dựng một số thương hiệu doanh nghiệp du lịch mạnh; (2) Đầu tư cơ sở
hạ tầng, tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng hấp dẫn du khách; (3) Tổ
chức một số sự kiện du lịch mang tầm quốc tế, quảng bá địa danh, phong
cảnh nổi tiếng của từng địa phương. Do đó, công tác đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch là vấn đề mang tính cấp
thiết đối với sự phát triển chung du lịch của tỉnh. Bài viết tập trung vào
nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực về văn hóa du
lịch trên địa bàn tỉnh. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đào tạo nhân lực du lịch đảm bảo sự phát triển bền vững ngành
du lịch của tỉnh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
(1) Trường Cao đẳng nghề Hòa Bình - Xuân Lộc.
- 233 -

24.4 Page 234

▲back to top
2. Cơ sở lý luận
2.1. Một số khái niệm
- Nguồn nhân lực: Theo Stivastava (1997), nguồn nhân lực là toàn
bộ vốn bao gồm cả thể lực và trí lực, kỹ năng nghề nghiệp mà mọi cá
nhân sở hữu. Vốn nhân lực được hiểu là con người dưới một dạng nguồn
vốn, thậm chí là nguồn vốn quan trọng nhất đối với quá trình sản xuất,
có khả năng sinh ra các nguồn thu nhập trong tương lai. Nguồn vốn này
là tập hợp những kỹ năng kiến thức kinh nghiệm được nhờ vào quá trình
lao động sản xuất. Do vậy các chi phí về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức
khỏe và dinh dưỡng… để nâng cao khả năng sản xuất của nguồn nhân
lực được xem như chi phí đầu vào của sản xuất, thông qua đầu tư vào
con người. Theo Armstrong (2006), nguồn nhân lực bao gồm tất cả các
kỹ năng, kiến thức và năng lực mà mọi người có được thông qua giáo
dục, đào tạo và kinh nghiệm cuộc sống. Theo Parry và Urwin (2017),
nguồn nhân lực đề cập đến các kỹ năng và kiến thức mà người lao động
sử dụng để tạo ra của cải và dịch vụ trong nền kinh tế. Theo Phạm Minh
Hạc (2001), nguồn nhân lực cần được hiểu là số lượng (số dân) và chất
lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể
nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng
để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa
phương nào đó.
- Nguồn nhân lực chất lượng cao: Theo Nguyễn Hữu Dũng (2002),
nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người
lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) đáp
ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu chuẩn phân loại lao động về
chuyên môn, kỹ thuật nhất định (trên đại học, cao đẳng, công nhân lành
nghề). Theo Bùi Thị Ngọc Lan (2002), nhân lực chất lượng cao là bộ phận
tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Lực lượng này có trình độ học vấn và
chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng thích
ứng nhanh với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất, có
phẩm chất tốt và có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những
kỹ năng đã được đào tạo và quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại
năng suất, chất lượng hiệu quả cao. Theo Nguyễn Hoàng Tiến (2019),
trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, khi nền kinh tế chủ yếu dựa
trên tri thức thì nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Việt Nam đang trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của
nguồn nhân lực chất lượng cao càng thể hiện rõ nét hơn.
- 234 -

24.5 Page 235

▲back to top
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Tổ chức lao động của
thế giới (ILO, 2009) cho rằng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực bao
hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào
tạo nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó
vào việc làm có hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống
cá nhân. Theo Leonard Nadler (1984), đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực là các kinh nghiệm học tập có tổ chức được diễn ra trong những
khoảng thời gian nhất định nhằm tăng khả năng cải thiện kết quả thực
hiện công việc, tăng khả năng phát triển của tổ chức và cá nhân. Theo
Bùi Văn Nhơn (2006), đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các
hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất, và phẩm chất
tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Theo Nguyễn Thế Phong
(2010), đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp là quá
trình thực hiện tổng thể các chính sách và biện pháp thu hút, duy trì và
đào tạo nguồn nhân lực nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trên cả ba phương diện thể lực, trí lực, tâm lực; điều chỉnh hợp
lý quy mô, cơ cấu nguồn nhân lực một cách bền vững và hiệu quả.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên lý thuyết về vai trò của nhân lực chất lượng cao trong nền
kinh tế tri thức và trong quá trình hội nhập.
Phương pháp: Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu, phân
tích, đánh giá phù hợp để nghiên cứu vấn đề.
Phạm vi: Tập trung nghiên cứu vào thực trạng và vai trò của nhân
lực chất lượng cao của tỉnh Đồng Nai trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Các yếu tố/biến số: Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu và
phát triển nhân lực chất lượng cao ở Đồng Nai.
Kết quả mong đợi: Đưa ra các khuyến nghị, giải pháp cho việc phát
triển nhân lực chất lượng cao tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. Đây là
một mô hình nghiên cứu định hướng thực tiễn, tập trung vào thực trạng
và đề xuất các giải pháp cụ thể cho vấn đề phát triển nhân lực chất lượng
cao tại Đồng Nai hiện nay.
2.3. Thực trạng về công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch tỉnh
Đồng Nai hiện nay
Theo thống kê chính thức của Cục Du lịch Việt Nam dự đoán đến
năm 2025, ngành du lịch của nước ta sẽ cần đến hơn 3 triệu lao động.
- 235 -

24.6 Page 236

▲back to top
Tuy nhiên, hiện nay cả nước mới chỉ có hơn 1,3 triệu lao động du lịch,
trong đó chỉ có khoảng 42% được đào tạo chuyên về du lịch, 38% được
đào tạo từ các ngành khác chuyển sang và 20% chưa qua đào tạo. Mỗi
năm ngành du lịch cần thêm khoảng 40.000 lao động nhưng lượng sinh
viên chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000 người, trong đó chỉ 12%
có trình độ cao đẳng và đại học. Do đó, nguồn nhân lực du lịch tại Việt
Nam không những thiếu trầm trọng cả về mặt số lượng và chất lượng.
Hệ quả là năng suất lao động trong ngành du lịch nước ta chỉ bằng 1/15
của Singapore, 1/10 của Nhật Bản, 1/5 của Malaysia… Năng lực cạnh
tranh của du lịch và lữ hành của Việt Nam chỉ xếp hạng thứ 7/9 nước
trong khu vực ASEAN.
Theo số liệu thống kê năm 2017, số lao động làm việc trực tiếp trong
ngành du lịch là 2.883 người. Đến năm 2022 đạt 5.586 người. Trong đó
cơ cấu về số lượng lao động trong ngành khách sạn nhà hàng chiếm tỷ
trọng lớn nhất (chiếm 76,8%), lữ hành (chiếm 15%), còn lại là các lĩnh
vực khác (chiếm 8,2%). Đặc biệt là số người có trình độ đại học và trên
đại học chuyên ngành du lịch là rất thiếu. Điều này dẫn đến khả năng
đáp ứng công việc trong ngành du lịch hiện nay còn nhiều hạn chế.
Theo Quyết định của UBND tỉnh Đồng Nai về việc “Phê duyệt quy
hoạch phát triển ngành Du lịch tỉnh Đồng Nai đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030”, dự báo đến năm 2020 nhu cầu lao động du lịch của tỉnh
Đồng Nai là 28.714 người; khu vực dịch vụ du lịch chiếm khoảng 35%
tổng lao động trên địa bàn tỉnh; có khoảng 88% lao động trong khu vực
này đã qua đào tạo, trong đó sơ cấp và ngắn hạn là 38,4%, trung cấp là
19,1%, cao đẳng là 17,8%, trình độ đại học trở lên là 24,7%... cao hơn so
với mặt bằng chung cả cả nước (bảng 1)
Bảng 1. Dự báo nhu cầu nhân lực du lịch tỉnh Đồng Nai
Phương án
Loại lao động
Phương án 1
(thấp)
Lao động trực tiếp
Lao động gián tiếp
Tổng cộng
Phương án 2
(chọn)
Lao động trực tiếp
Lao động gián tiếp
Tổng cộng
Năm 2020
8.296
17.346
25.642
8.296
19.424
28.714
Năm 2025
17.408
38.298
55.707
17.408
46.005
66.916
Năm 2030
37.822
84.048
121.870
37.822
101.915
147.777
- 236 -

24.7 Page 237

▲back to top
Phương án
Loại lao động
Năm 2020 Năm 2025 Năm 2030
Phương án 3
(Cao)
Lao động trực tiếp
Lao động gián tiếp
Tổng cộng
11.605
24.265
59.250
27.682
60.900
140.400
61.015
135.588
227.520
Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành Du lịch tỉnh Đồng Nai đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030
Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai, trong
6 tháng đầu năm 2023 Đồng Nai đón khoảng 1.533.000 lượt khách (gồm
1.475.440 khách nội địa và 57.560 khách quốc tế), tăng 24%, doanh thu
dịch vụ du lịch đạt 908 tỷ đồng, tăng 33,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Đồng Nai là tỉnh có nguồn nhân lực trẻ và dồi dào. Số dân trong tuổi
lao động trên địa bàn tỉnh hiện chiếm hơn 58,1% tổng số dân (khoảng
1,8/ 3,2 triệu người), tốc độ tăng bình quân của lực lượng lao động
trong những năm gần đây trên 5%/năm, gấp ba lần so với tốc độ tăng
dân số chung. Đây được xem là nguồn lực dân số vàng rất quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế chung và ngành du lịch nói riêng của tỉnh
Đồng Nai.
Bảng 2. Cơ cấu nhân lực phân theo ngành kinh tế
Cơ cấu nhân lực phân theo ngành kinh tế
Năm
2022
Nông nghiệp
Ngàn
người
%
479.36
26,5
Công nghiệp
Ngàn
người
%
700.96
38,7
Dịch vụ
Ngàn
người
%
631.11
34,8
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai năm 2022).
Dựa vào bảng 2 cho thấy số lượng nhân lực của tỉnh tập trung nhiều
nhất ở ngành công nghiệp là 38,7%, tiếp đến là ngành dịch vụ là 34,8%
và cuối cùng là ngành nông nghiệp chiếm 26,5%. Sở dĩ lao động của
tỉnh tập trung chủ yếu trong nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ là vì
hiện nay trên địa bàn tỉnh có tới hơn 30 khu công nghiệp đã thu hút một
lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư, tỉnh có nhu
cầu rất lớn về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đây được coi là
cơ hội tốt cho các cơ sở đào tạo nói chung và cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực văn hóa du lịch của tỉnh nói riêng trong công tác tìm đầu ra cho sản
phẩm đào tạo của mình.
- 237 -

24.8 Page 238

▲back to top
Bảng 3. Số lượng nhân lực du lịch trực tiếp trên địa bàn Đồng Nai
2017-2022
ĐVT: người
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
2.883
2.973
3.130
3.196
3.218
5.586
(Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022).
Trong khoảng thời gian 6 năm từ năm 2017-2022 nhân lực lao động
trực tiếp ngành du lịch của tỉnh tăng lên 2.703 người, đây là một con số
không lớn so với các cơ sở kinh doanh ngành du lịch, tính đến cuối năm
2022, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là 19 doanh nghiệp lữ hành nội địa
và 04 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, 131 cơ sở lưu trú với
tổng số 3.500 phòng, 23 khu, điểm du lịch ( Sở Văn hóa Thể Thao và Du
lịch, 2022).
Bảng 4. Số lượng cơ sở đào tạo nhân lực ngành du lịch tỉnh Đồng
Nai 2017-2022
ĐVT: cơ sở
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
8
8
8
8
8
9
(Nguồn: Tác giả tổng hợp).
Trong thời gian 6 năm từ 2017-2022 số lượng cơ sở đào tạo về du
lịch của tỉnh chỉ tăng 01 đơn vị đào tạo. Hàng năm, tỉnh có khoảng hơn
2.000 học sinh, sinh viên ngành du lịch ra trường, nhưng chất lượng
chưa đáp ứng nhu cầu và xu thế hội nhập hiện nay. Điều này bắt buộc
doanh nghiệp phải đào tạo lại mất rất nhiều thời gian.
Qua thống kê, trao đổi và thảo luận sâu với lãnh đạo các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch, cán bộ quản lý, lãnh đạo các khoa, giảng
viên, giáo viên các trường có đào tạo về du lịch, tác giả thấy có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
Một là, chương trình đào tạo về du lịch tại các cơ sở còn mang tính
lý thuyết, thiếu thực hành, chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường và yêu
cầu của doanh nghiệp du lịch.
Mỗi trường có chuẩn đầu ra của mình, chương trình đào tạo không
đặt trọng tâm về các kỹ năng mềm và phát triển nhân cách người học
- 238 -

24.9 Page 239

▲back to top
(tác phong, thái độ phục vụ, khả năng ứng xử, trình độ ngoại ngữ, đạo
đức nghề nghiệp, trách nhiệm cộng đồng…).
Hai là, mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp chưa
thực sự gắn kết (thiếu đơn đặt hàng từ các doanh nghiệp).
Mặc dù đã nhiều lần các cơ sở đào tạo thực hiện việc khảo sát lấy
ý kiến của doanh nghiệp về chuẩn đầu ra nhưng nhiều doanh nghiệp
cũng chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này vì họ còn tập trung vào kinh
doanh nên công tác này vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả cao.
Ba là, thiếu nguồn giáo viên/giảng viên có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ tại các cơ sở đào tạo mà chủ yếu là lấy nguồn giáo viên từ các
ngành gần.
Rất ít giảng viên có bằng thạc sĩ hoặc tiến sĩ thuộc lĩnh vực du lịch.
Trong một vài năm trở lại đây, một số giáo viên, giảng viên mới được đào
tạo về lĩnh vực du lịch từ các nước phát triển về tham gia giảng dạy, đội
ngũ này phần lớn có kiến thức và phong cách làm việc chuyên nghiệp
song còn trẻ và ít kinh nghiệm. Nhiều giảng viên còn hạn chế về trình độ
ngoại ngữ và phương pháp sư phạm hiện đại, chỉ áp dụng chủ yếu các
phương pháp giảng dạy truyền thống.
Bốn là, số lượng các cơ sở đào còn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật và trang
thiết bị đào tạo du lịch còn hạn chế, lạc hậu, không đáp ứng được yêu
cầu đào tạo chất lượng cao.
Năm là, liên kết giữa các cơ sở đào tạo với nhau, giữa cơ sở đào tạo
trong nước và quốc tế chưa được gắn kết, chia sẻ và tạo ra hệ sinh thái.
Sáu là, mức lương khởi điểm của ngành khá thấp, không tạo được
sức hút đối với các bạn trẻ mới ra trường nên chuyển sang làm việc trái
ngành.
Tính đào thải của nghề du lịch khá cao, với tính thời vụ của ngành
và đặc điểm luôn phải phục vụ khách 24/24/7, luôn phải làm việc vào
các ngày thứ 7 và Chủ nhật, các ngày lễ tết… gây nên tâm lý chán đối với
các bạn trẻ mới ra trường.
2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực du lịch chất
lượng cao tại tỉnh Đồng Nai
Một là, xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu của
doanh nghiệp và thị trường hiện nay.
- 239 -

24.10 Page 240

▲back to top
Cần khảo sát thị trường, nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp và
những đòi hỏi thực tiễn của ngành du lịch trong thời kỳ mới, xác định
rõ ràng, cụ thể hóa mục tiêu đào tạo và các yêu cầu về năng lực đầu vào,
chuẩn đầu ra của học sinh, sinh viên tốt nghiệp phải đáp ứng nhu cầu
của xã hội, nhà tuyển dụng, và địa phương. Nhà trường phải xây dựng
chuẩn đầu ra của ngành du lịch về kiến thức, kỹ năng, thái độ và năng
lực phát triển cá nhân, định hướng cho người học theo khả năng và sở
thích của mình. Đồng thời, khi xây dựng chương trình đào tạo cần thiết
phải phối hợp với doanh nghiệp xây dựng mục tiêu, thiết kế nội dung
chương trình, phương thức đào tạo cho phù hợp. Cập nhật những thành
tựu khoa học công nghệ tiên tiến và liên quan đến nghề đào tạo, lấy ý
kiến phản hồi từ những người sử dụng lao động, học sinh, sinh viên tốt
nghiệp đã đi làm để phân tích đánh giá và chỉnh sửa chương trình đào
tạo cho phù hợp.
Hai là, tăng cường liên kết với doanh nghiệp, cơ sở đào tạo khác
trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh.
Liên kết giữa các trường đào tạo du lịch, viện nghiên cứu trong nước
để chia sẻ tài nguyên, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và phát triển
chương trình đào tạo chuẩn hóa, triển khai các đề tài nghiên cứu, ứng
dụng khoa học công nghệ vào đào tạo.
Liên kết với các trường đào tạo du lịch quốc tế để trao đổi kinh
nghiệm, chương trình đào tạo, tài liệu giảng dạy, cử giảng viên đi học
tập nâng cao trình độ, đào tạo song bằng, liên thông quốc tế, trao đổi
sinh viên, học viên, cập nhật xu hướng phát triển ngành, nâng cao khả
năng việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp.
Liên kết với các doanh nghiệp du lịch để mở rộng cơ hội thực tập,
thực hành cho sinh viên, xây dựng chương trình đào tạo có sự đóng góp
ý kiến của doanh nghiệp.
Ba là, nâng cao năng lực trình độ chuyên môn cho đội ngũ giáo
viên, giảng viên.
Các cơ sở đào tạo cần có chính sách, kế hoạch cụ thể và lâu dài để
đội ngũ giáo viên ngành du lịch thường xuyên được học tập, bồi dưỡng,
nắm bắt xu hướng mới, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cho sự phát triển của du lịch, tạo điều kiện để giáo
viên, giảng viên được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn
về chuyên môn, nghiệp vụ ở trong và ngoài nước. Các khóa học này sẽ
giúp giáo viên cập nhật kiến thức mới, kỹ năng, xu hướng phát triển của
ngành du lịch trên thế giới.
- 240 -

25 Pages 241-250

▲back to top

25.1 Page 241

▲back to top
Khuyến khích giáo viên tham gia các hội thảo, hội nghị chuyên đề
về du lịch để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia, nhà khoa
học. Bên cạnh đó, trường cũng cần tổ chức các buổi chia sẻ, giao lưu
giữa các giáo viên để học hỏi lẫn nhau.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy như kỹ
năng sử dụng các phần mềm, ứng dụng hiện đại phục vụ giảng dạy.
Đồng thời, khuyến khích sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực,
hiện đại để nâng cao hiệu quả đào tạo.
Bốn là, khắc phục tình trạng cơ sở đào tạo du lịch còn ít, cơ sở vật
chất và trang thiết bị đào tạo còn hạn chế.
Khuyến khích các trường đại học, cao đẳng mở thêm ngành hoặc
chuyên ngành đào tạo du lịch để đa dạng hóa cơ hội học tập. Đầu tư
trang thiết bị đào tạo hiện đại, phù hợp với thực tế ngành du lịch như:
phòng thực hành nghiệp vụ lễ tân, phòng học nghiệp vụ nhà hàng -
khách sạn, phòng thực hành chế biến món ăn... Xây dựng chương trình,
giáo trình đào tạo theo hướng tiếp cận thực tiễn, tăng cường đào tạo kỹ
năng nghề cho học viên.
Liên kết với các doanh nghiệp du lịch để đưa học viên đi thực tập,
thực hành, tiếp xúc với môi trường làm việc thực tế.
Thu hút giảng viên là các chuyên gia am hiểu thực tiễn ngành du
lịch về giảng dạy, đào tạo.Tranh thủ nguồn lực xã hội hóa để đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị cho các trường đào tạo du lịch.
Năm là, liên kết giữa các cơ sở đào tạo với nhau, giữa cơ sở đào tạo
trong nước và quốc tế để gắn kết, chia sẻ sinh thái.
Thiết lập các hiệp định hợp tác giữa các trường đại học, cao đẳng
trong nước với các trường đại học quốc tế có đào tạo ngành du lịch. Các
hiệp định này tập trung vào việc trao đổi sinh viên, giảng viên, chương
trình đào tạo, nghiên cứu khoa học... Xây dựng các chương trình đào tạo
liên kết quốc tế giữa các trường trong và ngoài nước để học sinh, sinh
viên được học một phần chương trình ở Việt Nam và một phần ở nước
ngoài. Tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về đào tạo du lịch để các
trường trong và ngoài nước gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ
hội hợp tác.
Khuyến khích các trường đại học Việt Nam mở các chương trình
đào tạo tiếng Anh hoặc song ngữ nhằm thu hút sinh viên quốc tế và
thành lập hiệp hội các trường đào tạo du lịch Việt Nam để đại diện và
bảo vệ quyền lợi chung của các trường.
- 241 -

25.2 Page 242

▲back to top
(Một số mô hình mà các quốc gia trên thế giới đã làm: Úc: Chính
phủ Úc khuyến khích liên kết giữa các trường đại học Úc với các đối tác
quốc tế thông qua chương trình hợp tác giáo dục quốc tế (International
Education Cooperation). Các trường Úc liên kết với các trường ở châu
Á, châu Âu, Mỹ Latinh. Singapore: Đại học Quản lý Singapore (SIM) hợp
tác với Đại học Sunway (Malaysia) và Đại học César Ritz (Thụy Sĩ) để
cung cấp các chương trình cấp bằng kép về quản trị khách sạn và du
lịch. Anh: University of West London liên kết với Đại học Kinh doanh và
Công nghệ Hà Nội để cung cấp chương trình cử nhân quốc tế về quản
trị khách sạn. Pháp: Trường Quản lý Khách sạn Vatel có các cơ sở đào tạo
tại hơn 50 quốc gia, liên kết chặt chẽ với các trường địa phương).
Sáu là, khắc phục tình trạng học sinh, sinh viên ngành du lịch sau
khi ra trường làm trái nghề.
Tăng cường hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp để đào tạo
nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thực tế của ngành. Sinh viên được
thực tập và làm việc thực tế nhiều hơn.
Cung cấp các dịch vụ hướng nghiệp và việc làm chuyên sâu cho
sinh viên ngay từ khi còn học tập tại trường để chuẩn bị tâm thế làm
việc sau tốt nghiệp, tăng cường giáo dục định hướng nghề nghiệp cho
học sinh, sinh viên ngay từ đầu để hiểu rõ ngành nghề trước khi đăng ký
nhập học.
Các trường có thể yêu cầu sinh viên ký cam kết làm việc trong ngành
sau tốt nghiệp ít nhất 2-3 năm để đổi lấy học bổng hoặc ưu đãi học phí
đồng thời tăng cường các hoạt động gắn kết cộng đồng cựu sinh viên
để giới thiệu việc làm, chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp sau tốt nghiệp.
3. Kết luận
Du lịch là một ngành mang tính xã hội cao, nguồn nhân lực mang
tính đặc thù và chuyên môn hóa cao do vậy nguồn nhân lực là vấn đề
được quan tâm nhiều nhất hiện nay trong xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Do đó, để giúp cho người học có thể phát triển
sự nghiệp của mình, đáp ứng đủ các tiêu chí về thái độ, trình độ chuyên
môn và kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp và
xã hội, để thực hiện đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao thì các
cơ sở đào tạo tại Đồng Nai cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về đầu
tư cơ sở vật chất, thay đổi phương pháp đào tạo, chương trình đào tạo,
tăng cường sự hợp tác với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước... Việc
có được nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần xây dựng điểm đến
- 242 -

25.3 Page 243

▲back to top
và thương hiệu du lịch tỉnh Đồng Nai bền vững trong bối cảnh hội nhập
kinh tế cạnh tranh gay gắt hiện nay./.
Tài liệu tham khảo
1. Tiến & Anh (2018), “Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao
trong phát triển nền kinh tế tri thức”, Kỷ yếu hội thảo “Liên kết vùng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế Đông Nam Bộ”, 29/6/2018, Đại học Thủ Dầu
Một, tr. 354-362.
2. Mai Quốc Chánh (1999), Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật.
3. Trần Kim Dung (2011), Giáo trình Quản trị nguồn nhân lực, Nxb.
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.197.
4. Hoàng Ngọc Hà (2007), Đổi mới giáo dục - đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực
đi vào Công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Trần Đăng Ninh (2019), Thực trạng và giải pháp đầu tư du lịch
tỉnh Đồng Nai trong hội nhập quốc tế, Nxb. Kinh tế - Thành phố Hồ chí
Minh.
7. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã
hội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
8. Lê Khả Phiêu (1997), Tài nguyên chất xám, tài nguyên con người,
nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong giai đoạn chuyển
sang thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quốc
phòng, an ninh trong công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Quân đội nhân
dân.
9. Phan Thị Kim Phương (2019), Phát triển nguồn nhân lực du lịch
tỉnh Đồng Nai trong hội nhập quốc tế, Nxb. Kinh tế - Thành phố Hồ Chí
Minh, tr.40.
10. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật.
11. Nguyễn Hoàng Tiến (2019), “Phát triển nguồn nhân lực trình
độ cao nhằm tận dụng cơ hội từ CP-TPP cách tiếp cận của các doanh
- 243 -

25.4 Page 244

▲back to top
nghiệp Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Phát triển kinh tế
- xã hội vùng Tây Nguyên”, 07/6/2019.
12. Hoàng An Quốc, Nguyễn Văn Trọn (2019), Đào tạo và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực du lịch - Giải pháp đột phá để phát triển bền
vững du lịch tỉnh Đồng Nai, Nxb. Kinh tế - Thành phố Hồ Chí Minh, tr
103-104.
13. Tiến & Vinh (2019), “Thách thức và giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Thành phố Hồ Chí Minh trước thềm
Cách mạng công nghiệp 4.0”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về “Vai
trò của Thành phố Hồ Chí Minh trong sự phát triển bền vững của vùng
kinh tế miền Nam trọng điểm”, 23/12/2019.
14. Stivastava M/P (1997), Human resource planing: Aproach needs
assessments and priorities in manpower planning, Manak New Delhi.
15. World bank group (2000), Worl Development Iindicators.
- 244 -

25.5 Page 245

▲back to top
GIÁ TRỊ CỦA ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
VÀ SỰ PHÁT HUY NÉT ĐẸP VĂN HÓA
CỦA CON NGƯỜI ĐỒNG NAI
ThS. Chống Nguyệt Ánh(1)
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Đồng Nai là một tỉnh phát triển
năng động của khu vực phía Nam, với những nét đẹp văn hóa đặc trưng
của vùng đất và con người nơi đây. Để tiếp tục phát huy giá trị của Đề
cương về văn hóa Việt Nam (1943), phát huy nét đẹp văn hóa của con
người Đồng Nai là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và Nhân dân Đồng Nai chính là chủ thể sáng tạo.
1. Giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam đối sự nghiệp phát
triển con người Việt Nam
Cách đây hơn 80 năm tại Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng (diễn
ra từ ngày 25-28/02/1943 tại Võng La, Đông Anh, Phúc Yên, nay thuộc Hà
Nội) đã thông qua bản Đề cương về văn hóa Việt Nam (Đề cương), văn
kiện đầu tiên của Đảng ta về văn hóa. 40 năm sau, Tổng Bí thư Trường
Chinh từng nhận định: “Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có
nhiều hạn chế, vì trong hoàn cảnh bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện
nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam…
Nhưng Đề cương về văn hóa đã thâu tóm được những vấn đề cơ bản của
văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong điều
kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam”(2).
Ngày ấy, nước ta trong cảnh thực dân, phát xít lợi dụng mọi chiêu
bài, mọi thủ đoạn nhằm ru ngủ người dân An Nam bằng rượu cồn và
(1) Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở - Trường Chính trị tỉnh Đồng Nai.
(2) Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, H.1985.
- 245 -

25.6 Page 246

▲back to top
thuốc phiện; ra sức thực hiện chính sách ngu dân, đồng thời không
ngừng truyền bá tư tưởng phản động, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan về
tiền đồ của đất nước, tương lai của dân tộc; cổ vũ chủ nghĩa “Đại Đông
Á” để lừa bịp người dân đói khổ; mua chuộc và hăm dọa các nhà văn
hóa… Thời điểm đó, cũng đã có một số văn sĩ, trí thức đã “bẻ cong ngòi
bút” hoặc tỏ ra dửng dưng, thờ ơ trước thời cuộc, tự thu mình, tâm lý
đầy hoang mang, dao động. Sự ra đời của bản Đề cương có ý nghĩa rất
to lớn, trở thành ngọn đuốc soi đường và định hướng về tư tưởng, nhận
thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tạo nền tảng ban đầu cho việc xây
dựng một “nền văn hóa mới”, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Đề cương mở đầu với phần “Cách đặt vấn đề”, trong đó xác định
rõ phạm vi và nội hàm của văn hóa bao gồm ba thành tố cơ bản là “tư
tưởng”, “học thuật” và “nghệ thuật”. Trên cơ sở vận dụng phương pháp
luận mác xít, Đề cương khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ biện
chứng giữa các thành tố cơ bản của văn hóa. Vượt lên trên tất cả những
khó khăn, thách thức thời ấy, tư tưởng xây dựng “nền văn hóa mới” vì
dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn, khoa học của
bản Đề cương đã luôn tạo sức hút, sức thuyết phục và khả năng quy tụ
mạnh mẽ tri thức, tâm huyết khát vọng cống hiến của toàn thể Nhân
dân Việt Nam. Văn hóa chính là “một mặt trận”, là “ngọn đuốc soi đường
cho quốc dân đi”, là “sức mạnh nội sinh”, là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu và cũng là động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất
nước” như Đề cương đã khẳng định.
Đồng thời, trong “nền văn hóa mới” mà Đề cương xác lập còn thể
hiện giá trị lý luận cấp tiến, vượt thời đại - khi đặt con người ở vị trí trung
tâm. Vị thế của con người nằm ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công
tác văn hóa, văn nghệ. Điều quan trọng nhất, quần chúng Nhân dân
chính là chủ thể của văn hóa; là lực lượng sáng tạo, trao truyền, gìn giữ
và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, từ đó tìm ra giá trị của chính
mình, của dân tộc mình.
Ngay từ khi Đề cương ra đời, với việc đặt con người ở vị trí trung
tâm, là chủ thể sáng tạo, đội ngũ văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng của
phát triển văn hóa đã cho thấy phát triển con người và phát triển văn
hóa là hai mục tiêu gắn kết, không tách rời nhau. Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày
24/11/2021 cũng đánh giá: “Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của
Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới
để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp Nhân dân phát huy
- 246 -

25.7 Page 247

▲back to top
vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi
dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,
chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám thành công,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á, năm 1945”(1). Không phải ngẫu nhiên mà sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, hầu hết các trí thức, văn nghệ sĩ đã giác ngộ con
đường phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân và coi đó là mục tiêu phấn
đấu cao cả của sự nghiệp và cho cả cuộc đời mình.
Trong thời kỳ đổi mới, những giá trị mang tính định hướng sâu sắc
của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã được Đảng ta kế thừa,
bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo trong điều kiện, bối cảnh mới
qua các kỳ Đại hội Đảng. Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu: Xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”(2). Trong Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng,
vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người được xác định là một
trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030: “Phát
huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn
lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại”(3). “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện
xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào
dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;
tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục
tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(4).
(1) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc
của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979,
tháng 12-2021, tr. 4.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 126.
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 47.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 115 - 116.
- 247 -

25.8 Page 248

▲back to top
Như vậy, từ nền tảng tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam
trong nhiều thập kỷ qua đã định hướng cho Đảng xây dựng một số
chuẩn mực tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người Việt Nam; trong
đó tập trung trong bốn giá trị cốt lõi là “trí - đức - thể - mỹ”, bao gồm cả
các giá trị truyền thống (yêu nước, nhân ái, đoàn kết....) và giá trị hiện
đại (năng lực sáng tạo, tôn trọng pháp luật...) và nâng cao thể lực, tầm
vóc con người Việt Nam đã từng bước được thể chế hóa, đưa vào các văn
bản pháp luật, quy ước, hương ước làng, xã, quy chế, quy tắc, nội quy
của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước,
Việt Nam ta nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát
triển con người (HDI) cao trên thế giới, với tăng trưởng trung bình HDI
ở mức 1,36%/năm trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay.
Theo Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam công bố tháng
9/2022 cho biết, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm
2021 là 0,703, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, từ 117/189
quốc gia vào năm 2019 lên 115/191 quốc gia trong năm 2021. HDI của
Việt Nam năm 2021 xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á. Với sự nỗ lực
và quyết tâm thời gian qua đã mang lại những thành tựu đáng ghi nhận
trong việc cải thiện chỉ số HDI tại Việt Nam. Mức sống, tuổi thọ và trình
độ học vấn của người dân được cải thiện đáng kể, qua đó nâng cao sự
tiến bộ về mặt xã hội, góp phần phát triển năng suất lao động, nâng tầm
giá trị lao động Việt trên thị trường nguồn lao động hội nhập ngày càng
sâu rộng.
2. Những nét đẹp văn hóa của con người Đồng Nai xưa và nay
Đồng Nai là vùng đất có lịch sử phát triển lâu dài, trải qua những
biến đổi, thăng trầm, đã tích lũy, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị,
bản sắc văn hóa riêng, làm nên hồn cốt của con người Đồng Nai. Đây
là một trong những địa phương thuộc miền Đông Nam Bộ, có lịch sử
kiến tạo hàng triệu năm và lịch sử hình thành văn hóa từ hàng ngàn
năm trước công nguyên(1). Còn nếu tính từ năm 1698, khi Lễ Thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đàng Trong, lấy đất Đồng Nai lập
phủ Gia Định gồm hai huyện: Phước Long với dinh Trấn Biên và huyện
Tân Bình với dinh Phiên Trấn làm mốc đến nay. Trong quá trình đó, con
(1) Các di vật khảo cổ học đã chứng minh vùng đất Đồng Nai hàng ngàn năm
trước Công nguyên đã từng là trung tâm kim khí nổi tiếng cả nước và là một trong ba
nền văn hóa tiêu biểu của Việt Nam, gồm: Đông Sơn, Sa Huỳnh và Đồng Nai.
- 248 -

25.9 Page 249

▲back to top
người Đồng Nai cũng tạo dựng, gìn giữ và tích lũy một kho tàng đồ sộ
những giá trị văn hóa tinh hoa, đặc sắc của văn hóa truyền thống các
dân tộc nơi đây và rất nhiều di tích văn hóa lịch sử để lại cho các thế hệ
mai sau(1).
Văn hóa Đồng Nai khá phong phú do nhiều yếu tố tạo thành. Trong
dòng chảy văn hóa của đất nước nói chung, của Nam Bộ nói riêng, văn
hóa của Đồng Nai có một vị trí quan trọng bởi đây là vùng đất được
xem là địa đầu trong quá trình khai khẩn Nam Bộ. Nhận diện giá trị các
nguồn di sản văn hóa mà thế hệ tiền nhân gây dựng là một việc làm
có ý nghĩa thiết thực khi chúng ta đang tập trung cho công cuộc xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người
Đồng Nai hội nhập và phát triển.
Người dân Đồng Nai dù mới nhập cư hay dân sống lâu đời, dù là
theo Phật giáo, Cơ đốc giáo, hay đạo Cao đài... đều chung sống đoàn kết
thống nhất trong đa dạng cùng nhau xây dựng quê hương giàu đẹp. Có
thể thấy, đây là một miền đất cởi mở, sẵn sàng tiếp nhận và hướng về
cái mới. Toàn tỉnh có trên 50 dân tộc anh em cùng sinh sống với dân số
khoảng 3,2 triệu người. Ngoài dân tộc Kinh chiếm số lượng đông nhất,
Đồng Nai có 4 dân tộc thiểu số sống lâu đời là: Chơro, Mạ, S’Tiêng, Kơ
Ho, còn lại đa phần dân tộc thiểu số đến từ các tỉnh phía Bắc như: Tày,
Nùng, Dao, Thái, Mường, Hà Nhì, Sán Chay… và một bộ phận cộng
đồng người Hoa. Sự cộng cư nhiều thành phần dân tộc qua quá trình
phát triển đã làm cho sắc thái về tộc người và văn hóa của vùng đất này
thêm đa dạng trên nhiều lĩnh vực.
Chẳng hạn, ở lĩnh vực du lịch, đến Đồng Nai du khách có thể tham
gia những chuyến du lịch sinh thái trong các khu rừng hoặc vườn cây ăn
quả, cũng như săn bắn, câu cá, du thuyền trên sông Đồng Nai, dã ngoại
tại các thắng cảnh: Hồ Long Ẩn, khu văn hóa Suối Tre, công viên Suối
Mơ, thác Trị An, rừng Mã Đà,... hay tham quan các di tích cách mạng,
Chiến khu Đ, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ: Mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá
Bình Đa... Đồng Nai còn nổi tiếng với nghề thủ công truyền thống như
làng gốm Tân Vạn, ven sông Đồng Nai của người Việt, nghề điêu khắc đá
truyền thống tinh xảo của người Hoa sống ở Bửu Long.
(1) Theo thống kê của Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai đến tính đến nay
toàn tỉnh có 68 di tích được xếp hạng, trong đó có 02 di tích cấp quốc gia đặc biệt (Vườn
quốc gia Cát Tiên và Mộ Cự thạch Hàng Gòn), 29 di tích cấp quốc gia, 37 di tích cấp tỉnh
và hơn 1.500 di tích phổ thông.
- 249 -

25.10 Page 250

▲back to top
Ngày nay, Đồng Nai là một trong những địa bàn phát triển kinh tế
năng động ở phía Nam đất nước(1). Quá trình phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Đồng Nai đã tiếp tục biến địa bàn này thành vùng
đất mở thu hút các nguồn nhân lực đến sinh sống, làm việc. Đồng Nai
là tỉnh có công nghiệp phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn
thứ hai của khu vực miền Nam, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh. Xung
quanh thành phố Biên Hòa có khu công nghiệp rộng lớn, nhiều nhà
máy, xí nghiệp và công ty(2). Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng ở
Đồng Nai đã thu hút hàng trăm ngàn lao động trên địa bàn tỉnh và vùng
lân cận về làm việc tại các doanh nghiệp. Nhiều nét văn hóa và phong
tục tập quán vùng miền khác nhau cùng phát triển rất đa dạng.
Trên cơ sở chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, nghiên
cứu và hoàn thiện những đặc trưng, đặc sắc văn hóa và con người Đồng
Nai; những năm qua, tỉnh tập trung xây dựng con người Đồng Nai phát
triển toàn diện, trong đó tập trung xây dựng con người Đồng Nai phát
triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn,
có lối sống tuân thủ pháp luật; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục
tư tưởng chính trị, đổi mới nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và
toàn xã hội về vai trò, vị trí của văn hóa, nhiệm vụ xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ mới(3).
Tỉnh đã triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp đào tạo nghề,
giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị còn dưới
2,0% và tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Thực hiện
đổi mới công tác giảm nghèo trên cơ sở kết hợp, lồng ghép chương trình
giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao hiệu
quả các nguồn lực phục vụ công tác giảm nghèo, giảm tỷ lệ nghèo đa
(1) Đồng Nai là tỉnh miền Đông Nam Bộ, cửa ngõ phía Đông của Tp. Hồ Chí Minh,
phía Bắc giáp Lâm Đồng, phía Đông giáp Bình Thuận, phía Tây giáp Bình Dương, Bình
Phước và Tp. Hồ Chí Minh, phía Nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu.
(2) Đồng Nai có 32 khu công nghiệp được cấp phép thành lập với diện tích
10.222,59ha, trong đó 31 khu công nghiệp đi vào hoạt động, 01 khu công nghiệp trong
giai đoạn thu hồi đất, đầu tư xây dựng hạ tầng (Khu công nghiệp Công nghệ cao Long
Thành). Các khu công nghiệp này đã cho thuê được 6.000,57ha, đạt 85,32 % diện tích
đất công nghiệp (7.033,80ha), trong đó riêng giai đoạn 2021 đến nay đã cho thuê được
63ha, tập trung chủ yếu tại các KCN Xuân Lộc, Dầu Giây, Hố Nai - Giai đoạn 2, Dệt may
Nhơn Trạch, Nhơn Trạch III - Giai đoạn 2, Giang Điền, Lộc An Bình Sơn, Nhơn Trạch VI,
An Phước, Ông Kèo.
(3) Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020-
2025).
- 250 -

26 Pages 251-260

▲back to top

26.1 Page 251

▲back to top
chiều trên địa bàn tỉnh 0,35%. Triển khai thực hiện đầy đủ các chính
sách bảo hiểm; nâng tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh từ 2,5 triệu người vào năm
2020 lên 2,8 triệu người vào năm 2022; trong đó tỷ lệ người tham gia bảo
hiểm y tế đạt 91,5%. Đến năm 2022, bình quân 1 vạn dân trên địa bàn
tỉnh có 9,1 bác sĩ; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo cân nặng giảm còn
7,8%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo chiều cao còn 21,5%. Cơ sở vật
chất các bệnh viện được cải thiện đáng kể, số giường bệnh tăng khá, đạt
30 giường/vạn dân. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm dưới 1%. Cơ cấu dân
số chuyển biến tích cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng, tuổi thọ
trung bình đạt 76,4 tuổi(1).
Tỉnh Đồng Nai triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ XI Đảng bộ tỉnh trong bối cảnh
thuận lợi khó khăn đan xen. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến
động phức tạp, khó lường; xuất hiện nhiều yếu tố mới, chưa có tiền lệ,
vượt ngoài khả năng dự báo, đặc biệt dịch bệnh Covid-19, xung đột giữa
Nga - Ukraine; giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh, tác động
lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực; an ninh, trật tự, khiếu kiện của công dân
từng lúc, từng nơi diễn biến phức tạp; nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài
cần được giải quyết… đã tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến nhiều mặt
của đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh, ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng
phát triển con người Đồng Nai.
Đồng Nai cũng chịu nhiều tác động của mặt trái cơ chế thị trường
cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua mạng xã hội
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa tác động sâu sắc đến một bộ
phận không nhỏ quần chúng Nhân dân, làm suy đồi đạo đức lối sống,
ảnh hưởng đến đạo lý, truyền thống của dân tộc. Vấn đề phát triển con
người Đồng Nai hiện nay cũng đặt ra nhiều thách thức cho Đảng bộ,
chính quyền, địa phương trong tỉnh. Người dân lao động trong các khu
công nghiệp - lực lượng lao động đông đảo cũng là mối bận tâm lớn
của Đồng Nai. Mọi sinh hoạt tinh thần của người lao động - người công
nhân trong các khu công nghiệp đa phần diễn ra trong các khu nhà trọ
và mang tính tự phát (người lao động phần lớn còn phụ thuộc vào các
(1) Báo cáo kết quả tình hình kinh tế - xã hội trong nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020-2025); nhiệm vụ và giải
pháp tiếp tục thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XI (Trình bày tại buổi sinh hoạt chi bộ thường kỳ tháng 10/2023).
- 251 -

26.2 Page 252

▲back to top
hình thức giải trí được cung cấp sẵn, rẻ tiền hoặc miễn phí, như giải trí
bằng tivi, nghe đài; đọc báo, sử dụng internet) nên sẽ ảnh hưởng nhiều
đến công tác bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn, sự phát triển toàn
diện con người.
3. Phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững hiện nay
Yêu cầu về phát triển bền vững hiện nay, nghĩa là phát triển kinh tế
đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát huy giá trị văn hóa
và con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội. Từ thực tiễn nêu trên và những thách thức
trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy giá trị văn hóa con người Đồng
Nai, tôi thiết nghĩ cần triển khai có hiệu quả một số giải pháp sau:
Một là, tỉnh cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật, xây dựng nếp sống văn hóa. Tuyên truyền quán triệt
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa
đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh, từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức, người lao động và các tầng
lớp Nhân dân về nhiệm vụ phát triển văn hóa trong tình hình mới, từ đó
đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa trên địa
bàn tỉnh.
Hai là, tiếp tục có các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
xây dựng hoàn thiện những chuẩn mực giá trị đặc trưng văn hóa của
con người Đồng Nai, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, truyền
thống quê hương Đồng Nai, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người đối
với bản thân, gia đình, cộng đồng, quê hương đất nước. Nhân rộng các
mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn
dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn thực chất về văn
hóa. Xây dựng nếp sống văn hóa trong việc cưới, tang, lễ hội; nâng cao
chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
ở cơ sở hiện nay.
Ba là, quan tâm phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc
bồi dưỡng tâm hồn, định hướng phát triển nhân cách của con người
Đồng Nai, nhất là trong thế hệ trẻ. Tập trung phát triển các loại hình
nghệ thuật, từ nghệ thuật đại chúng đến nghệ thuật bác học theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XI. Phát huy tối đa vai trò của Nhân dân với tư cách là
chủ thể của sáng tạo và phát triển văn hóa.
- 252 -

26.3 Page 253

▲back to top
Bốn là, trên từng lĩnh vực, cần có những giải pháp phù hợp, bền
vững. Chẳng hạn, trong giáo dục, phải thực sự áp dụng các phương
pháp hiện đại, tiên tiến, khắc phục dần cách truyền thụ một chiều, đóng
khung; phải kết hợp giáo dục hợp lý, hài hòa giữa “văn” (kiến thức),
“lễ” (đạo đức), “thể” (sức khỏe), “mỹ” (một số “kỹ năng mềm”); phải
thực sự lấy người học làm trung tâm như các định hướng của Đảng, để
phát huy năng lực, sáng tạo của từng cá nhân mà không bị gò ép trong
khuôn khổ…
Năm là, song song với việc xây dựng các đặc điểm, yếu tố tích cực
cho cá nhân, cộng đồng, cần đẩy mạnh việc đấu tranh phê phán các
biểu hiện chưa lành mạnh, sai trái của các cá nhân, nhóm người để góp
phần định hướng những chuẩn mực về lối sống, đạo đức, ý thức… mà
mọi người cần hướng tới. Đặc biệt là phải đấu tranh với các biểu hiện
lệch lạc, tiêu cực trong hệ thống chính trị, tổ chức đảng, trong cán bộ,
đảng viên,… để mỗi cán bộ, đảng viên phải thể hiện rõ sự nêu gương
trong việc thực hiện các giải pháp phát triển con người.
Sáu là, nâng cao chất lượng phong trào toàn dân rèn luyện thân thể
theo gương Bác Hồ vĩ đại; tăng quy mô và số lượng người luyện tập thể
dục, thể thao thường xuyên. Sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và
huy động xã hội hóa phục vụ phát triển tốt hoạt động thể dục thể thao.
Tổ chức tốt các giải thi đấu mang tầm quốc tế, khu vực và trong nước mà
Đồng Nai có thế mạnh. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động thiết
chế văn hóa cơ sở, phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng.
Tóm lại, như một quy luật khách quan, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của
cộng đồng các dân tộc, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học là tầm nhìn chiến lược trong phát triển đất nước từ tinh thần
của Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) đến thời kỳ đổi mới. Ở Đồng
Nai, trong dòng chảy lịch sử phát triển đất và người, với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân còn
phải tiếp tục nỗ lực, khắc phục hạn chế, tồn tại để cho dân giàu, nước
mạnh và xây dựng con người Đồng Nai tiến kịp, tiến cùng thời đại./.
- 253 -

26.4 Page 254

▲back to top
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
TẠI ĐỒNG NAI
ThS. Nguyễn Thị Hồng Gấm(1)
Di tích lịch sử - văn hóa là sản phẩm vật chất chứa đựng các giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, những giá trị tinh thần, ý thức xã hội, truyền
thống, tâm linh, thông điệp của thế hệ trước lưu truyền cho thế hệ sau,
là một phần quan trọng của di sản văn hóa dân tộc, đồng thời là một
nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bảo tồn
và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa là yêu cầu, nhiệm vụ quan
trọng trong việc gìn giữ, giáo dục, lưu truyền những giá trị truyền thống
tốt đẹp, bản sắc văn hóa, cốt cách dân tộc - những nhân tố của sự phát
triển bền vững và góp phần đem lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng Nai là địa phương có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời,
mang yếu tố riêng biệt, đặc trưng của văn hóa và có nhiều di tích lịch
sử - văn hóa. Tính đến nay, Đồng Nai có 68 di tích được xếp hạng. Trong
đó, có 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 29 di tích cấp quốc gia và 37 di tích
cấp tỉnh(2). Nhận thức về tầm quan trọng của giá trị di tích lịch sử - văn
hóa, những năm qua, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Đồng Nai đã chú trọng
quan tâm công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên
địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, trong công tác lãnh đạo, quản lý, thực hiện bảo
tồn, tôn tạo, gìn giữ, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như
tình trạng di tích bị xâm hại, xuống cấp; công tác trùng tu thiếu toàn
(1) Khoa Xây dựng Đảng - Trường Chính trị tỉnh Đồng Nai.
(2) Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai.
- 254 -

26.5 Page 255

▲back to top
diện, kém hiệu quả; khó khăn trong việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa
bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa với mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương… trong khi những yếu tố tác động
của quá trình đô thị hóa nhanh chóng, sự ảnh hưởng tiêu cực của biến
đổi khí hậu đến các di tích đang diễn ra ngày một mạnh mẽ. Thực trạng
này cho thấy có sự hạn chế trong lãnh đạo, quản lý của Đảng bộ, chính
quyền địa phương đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch
sử, văn hóa. Với vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo, từ thực trạng và
yêu cầu đặt ra, cần có sự tổng kết, nhìn nhận lại những mặt ưu điểm,
hạn chế trong lãnh đạo bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa
thời gian qua; từ đó rút ra những kinh nghiệm và đề ra những phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hoạt động lãnh đạo đối với công tác
này trong các giai đoạn sắp tới.
Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đối với
công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, bài tham luận
đưa ra một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương và các ngành chức năng đối với công tác bảo tồn và
phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương về vấn đề này, cần nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đối với công tác bảo
tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa. Các văn kiện của Đảng
bộ tỉnh phải nhấn mạnh nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di tích lịch
sử - văn hóa trong mối quan hệ với phát triển kinh tế. Các cấp ủy Đảng
cần chủ động, tích cực trong việc xây dựng kế hoạch và triển khai thực
hiện các nội dung liên quan đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị di
tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tiếp tục quán triệt, tuyên
truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Xây dựng phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của
đất nước, Kế hoạch số 257-KH/TU ngày 31/8/2015 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), các chương trình, dự án bảo tồn
phát huy các giá trị văn hóa, di tích lịch sử do Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
- 255 -

26.6 Page 256

▲back to top
Nhà nước. Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp,
các ngành, địa phương, đơn vị và người dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Ban Cán sự đảng các cấp: Tỉnh ủy, Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy
trực thuộc căn cứ chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy và tình hình thực tiễn địa phương xây dựng kế hoạch
cụ thể để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị lịch sử - văn hóa ở địa phương.
Phân công ủy viên cấp ủy có năng lực, nhiệt tình, có kỹ năng thực
tiễn và hiểu biết về bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa để
phụ trách lĩnh vực này. Các cấp ủy Đảng cần chú ý lắng nghe các ý kiến
tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, đặc biệt là những tham mưu có
tính chiến lược lâu dài, để từ đó bố trí cán bộ hợp lý. Thường xuyên tổ
chức đi thực tế cơ sở để nắm bắt tình hình hoạt động của đội ngũ cán
bộ làm công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa để có
cái nhìn trực tiếp, sâu sát thực tế nhằm có ý kiến chỉ đạo, sửa chữa sai
sót kịp thời.
Các cấp ủy Đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn,
sơ kết, tổng kết việc triển khai thực hiện nghị quyết, chương trình hành
động của Trung ương, Tỉnh ủy trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị di
tích lịch sử - văn hóa. Thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra gắn với
việc phát hiện biểu dương những tổ chức, cá nhân tích cực, đồng thời
phê phán, xử lý nghiêm những biểu hiện tiêu cực, những trường hợp vi
phạm làm ảnh hưởng xấu đến di tích.
Đối với chính quyền các cấp, nhất là chính quyền cơ sở, Đảng ủy
lãnh đạo, chỉ đạo tạo điều kiện thuận lợi nhất để các cơ quan, tổ chức
bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa đóng trên địa bàn thực
hiện tốt chức trách nhiệm vụ của mình; nghiên cứu đầu tư kinh phí để
tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác bảo tồn, phát huy giá trị di
tích lịch sử - văn hóa phù hợp với tình hình thực tế ở từng địa phương.
Xây dựng hệ thống chính sách quản lý, chú trọng việc đầu tư nguồn lực
thỏa đáng để đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn, phát huy giá trị di
tích lịch sử - văn hóa được cử đi học các lớp tập huấn nâng cao chuyên
môn, nghiệp vụ. Phối hợp tổ chức bảo vệ, trùng tu, khai thác các di tích
lịch sử - văn hóa trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình; đảm
bảo duy trì an ninh trật tự xung quanh phạm vi di tích lịch sử - văn hóa.
Đối với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tiếp tục thực hiện có hiệu
quả các công tác sau: Công tác tham mưu, ban hành các văn bản chỉ
- 256 -

26.7 Page 257

▲back to top
đạo, điều hành; công tác phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
giá trị các di tích; công tác kiện toàn bộ máy và phân cấp quản lý di tích;
công tác đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích; công tác đo đạc, lập bản đồ khoanh
vùng bảo vệ và cắm mốc bảo vệ di tích…
Về công tác tham mưu, ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành,
chú ý phối hợp với các Sở, ngành có liên quan và địa phương tham
mưu ban hành quy phạm pháp luật và trực tiếp ban hành một số văn
bản chỉ đạo, hướng dẫn trong lĩnh vực quản lý di sản trên địa bàn tỉnh
nhằm tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về di sản văn hóa, quy định
rõ nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong việc hoạt động trùng tu, tôn
tạo, nghiên cứu giải pháp để vận hành, khai thác di tích phù hợp theo
quy định.
Tiếp tục tham mưu và triển khai thực hiện Luật Di sản văn hóa, các
nghị định, thông tư, quy chế phân cấp, quản lý phát huy di tích của tỉnh;
về thực hiện Luật Di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở nhằm đạt được kết
quả tốt.
Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan và địa phương, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về di sản
văn hóa bằng nhiều hình thức khác nhau như mở các lớp bồi dưỡng
kiến thức nghiệp vụ chuyên môn về di sản văn hóa nói chung, di tích
lịch sử - văn hóa nói riêng… cho đối tượng là cán bộ, công chức cấp tỉnh,
huyện, xã trực tiếp thực hiện quản lý Nhà nước về di sản văn hóa. Triển
khai phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định mới của Chính phủ và
UBND tỉnh về các vấn đề liên quan.
Tham mưu chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Sở, Phòng Văn hóa - Thông
tin các huyện, thành phố về tăng cường công tác quản lý, bảo vệ di tích,
lễ hội gắn với di tích, phòng chống thiên tai, cháy, nổ, trộm cắp tại bảo
tàng và di tích, nhằm phát hiện các hành vi vi phạm về di sản văn hóa,
kịp thời, hướng dẫn, xử lý theo quy định.
Hai là, chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục đối với
cán bộ, đảng viên và Nhân dân về giá trị, ý nghĩa của bảo tồn và phát huy
giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh.
Đảng bộ, chính quyền các cấp cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai
trò của công tác tuyên truyền, vận động quần chúng Nhân dân trong
việc thực hiện bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên địa
bàn tỉnh cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và đội ngũ
cán bộ chuyên trách nói riêng. Cần tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận
- 257 -

26.8 Page 258

▲back to top
thức pháp luật về bảo tồn, phát huy di tích lịch sử - văn hóa của các
ngành, các cấp và của toàn thể Nhân dân trên địa bàn tỉnh. Việc bảo tồn
và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa chính là sự đóng góp cho phát
triển bền vững. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ về lĩnh vực này,
các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh sẽ có sự quan tâm hơn
đến việc bố trí nhân sự, bộ máy và các nguồn lực để thực hiện tốt nhiệm
vụ bảo tồn, phát huy di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức cho Nhân dân
về giá trị, ý nghĩa của các khu, điểm di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn
góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo
vệ giá trị di tích lịch sử, văn hóa. Nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về
giá trị của di tích lịch sử - văn hóa cho cộng đồng dân cư sở tại, làm cho
người dân thấy được mình vừa là người bảo vệ vừa là người hưởng lợi từ
việc phát huy các giá trị di tích, để cộng đồng tham gia có trách nhiệm
vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích.
Di tích lịch sử, văn hóa là địa chỉ đỏ, nơi giáo dục truyền thống, đặc
biệt là giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ. Thường xuyên phát huy
cao độ các giá trị của di tích bằng việc tổ chức nhiều hoạt động tại khu
di tích, kết hợp giữa nhà trường với bảo tàng và di tích, gắn việc học tập
tại trường với học tập ngoại khóa tại khu di tích cho học sinh trên địa
bàn tỉnh nói chung, huyện, thị thành nói riêng. Qua đó khơi dậy lòng tự
hào dân tộc và ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy giá trị
di tích lịchsử - văn hóa.
Chỉ đạo đổi mới nội dung và hình thức, phương pháp tuyên truyền
cho phù hợp và nâng cao hiệu quả. Lựa chọn hình thức, phương pháp
tuyên truyền cho phù hợp với từng đối tượng người dân. Đồng thời, có
thể áp dụng những công cụ hỗ trợ, phương tiện công nghệ hiện đại trong
tuyên truyền, vận động để đạt hiệu quả cao. Hình thức tuyên truyền
cần được đa dạng hóa (số hóa, truyền thông, trực quan, hội thảo, mạng
internet...). Công tác tuyên truyền cần được thường xuyên khảo sát tính
hiệu quả, tổ chức sơ kết, tổng kết nhằm rút kinh nghiệm. Cần hết sức
tránh những hoạt động tuyên truyền chỉ mang tính hình thức, đối phó,
kém hiệu quả.
Ba là, chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Chất lượng công tác tổ chức, cán bộ, quản lý nguồn nhân lực với
chất lượng bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa luôn có mối
- 258 -

26.9 Page 259

▲back to top
quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Nếu như tổ chức bộ máy thiếu chặt
chẽ, cơ chế không phù hợp, đội ngũ cán bộ quản lý di tích lịch sử - văn
hóa yếu kém về năng lực, vô cảm về đạo đức, thì chẳng những không thể
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử - văn hóa, mà còn khiến cho
di tích dễ bị xuống cấp, bị xâm hại. Hơn thế nữa, đôi khi chính những
hành động bảo tồn, duy tu, sửa chữa một cách thiếu hiểu biết, không
khoa học càng làm cho di tích lịch sử - văn hóa bị phá hoại nặng nề
hơn, làm mất đi cái hồn, mất đi ý nghĩa thiêng liêng đã được lưu giữ qua
biết bao thế hệ. Ngược lại, nếu tổ chức quản lý tốt, thêm vào đó đội ngũ
cán bộ quản lý di tích lịch sử - văn hóa là những người có tâm huyết, có
trách nhiệm, có năng lực chuyên môn, chắc chắn rằng các di tích lịch sử
- văn hóa sẽ được bảo vệ, duy tu, bảo dưỡng hiệu quả, góp phần to lớn
trong việc giáo dục truyền thống cho quần chúng Nhân dân, thúc đẩy
du lịch, phát triển kinh tế của địa phương. Giữ gìn, phát huy giá trị di
tích lịch sử - văn hóa chính là đã góp phần duy trì bản sắc văn hóa,
truyền thống đáng tự hào của dân tộc. Mà điểm khởi đầu của mọi vấn
đề trong lĩnh vực này, thành công hay thất bại, cũng đều là từ công tác
tổ chức, cán bộ.
Để kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong lĩnh vực quản lý di tích lịch sử - văn hóa từ tỉnh đến cơ sở, nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của tỉnh là cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ làm công tác quản lý di tích lịch sử - văn hóa để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Các cấp ủy Đảng cần quan tâm hơn nữa về công tác
tổ chức, cán bộ trong bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa,
để từ đó tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc. Việc
nhìn nhận, đánh giá công tác tổ chức, cán bộ cần phải khách quan, toàn
diện và căn cứ vào yêu cầu cụ thể của tình hình thực tế, tránh việc áp
đặt hoặc để xảy ra những tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ ở lĩnh
vực này.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý di tích cần có chế độ đào
tạo, đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác bảo tồn, bảo tàng, giúp họ yên tâm gắn bó với nghề. Tích cực
bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác
hướng dẫn khách tham quan tại các điểm di tích không chỉ về chuyên
môn, nghiệp vụ mà cả về văn hóa, nghệ thuật, kỹ năng ứng xử và vốn
ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của khách tham quan.
Xây dựng đội ngũ cán bộ phụ trách công tác bảo tồn, phát huy giá
trị di tích lịch sử - văn hóa tuân thủ đúng theo đề án vị trí việc làm.
Điều này không chỉ giúp tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy mà còn là
- 259 -

26.10 Page 260

▲back to top
yêu cầu bắt buộc để bố trí công tác một cách khoa học, hiệu quả hơn.
Ngoài ra, cần phải thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ này để đáp ứng yêu cầu công việc. Công tác
tập huấn cần hướng đến những nội dung thiết thực gắn liền với chuyên
môn nghiệp vụ, giảm bớt lý thuyết, tăng cường thực hành. Tránh việc
tổ chức những lớp tập huấn với nội dung, phương pháp truyền đạt
cũ kỹ, kém hiệu quả. Có thể nghiên cứu các hình thức tập huấn trực
tuyến, để vừa tiết kiệm kinh phí, vừa giảm bớt ảnh hưởng đến công việc
của người học.
Sớm nghiên cứu chính sách hợp lý để bố trí lực lượng chuyên môn
thường trực tại các điểm di tích. Không ngừng tăng cường công tác kiểm
tra của cơ quan chức năng kịp thời phát hiện biểu dương những tổ chức,
cá nhân tích cực, đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những biểu hiện
tiêu cực, những trường hợp vi phạm làm ảnh hưởng xấu đến di tích. Đào
tạo tại chỗ những người dân có tay nghề, có kiến thức hiểu biết về di
tích trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo tồn hoặc hướng dẫn du khách
tham quan di tích, thực hành các trải nghiệm du lịch sinh thái; đồng
thời khuyến khích cộng đồng tạo ra những sản phẩm đặc thù, riêng có
của địa phương để phục vụ du khách, thông qua đó góp phần nâng cao
đời sống người dân sở tại.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các đơn vị chuyên trách về quản
lý tích lịch sử - văn hóa, khi thực hiện việc tuyển dụng, bố trí, luân
chuyển nhân sự phải theo phương châm đảm bảo tính khoa học, hiệu
quả. Xây dựng quy hoạch cán bộ, cơ chế đánh giá cán bộ một cách thận
trọng, trách nhiệm, có sự linh hoạt, toàn diện.
Quán triệt đến các đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh, cần chú
trọng hơn nữa việc phối hợp bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn
hóa. Các đoàn thể có thể cử các thành viên tham gia vào các tổ bảo vệ,
ban quản lý để hỗ trợ quản lý các di tích lịch sử - văn hóa một cách hiệu
quả hơn. Mặt khác thường xuyên tuyên truyền vận động đoàn viên, hội
viên và quần chúng Nhân dân ở địa phương nêu cao ý thức hơn nữa
trong bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa, tránh các
hành vi gây xâm hại, làm mất đi giá trị, ý nghĩa của các di tích.
Chỉ đạo đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại, đồng bộ, đề xuất
điều chỉnh chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền, vận động phù hợp với đặc thù nhiệm vụ, tương xứng với cống
hiến, đóng góp của lực lượng này.
- 260 -

27 Pages 261-270

▲back to top

27.1 Page 261

▲back to top
Bốn là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xã hội hóa công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa.
Để bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa cần nguồn kinh
phí không nhỏ, trong điều kiện kinh phí ít ỏi, việc xã hội hóa công tác
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích là rất cần thiết. Do đó, cần có sự
định hướng và chính sách cụ thể của Đảng bộ tỉnh đối với vấn đề xã hội
hóa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên
địa bàn.
Yêu cầu đặt ra là gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đầu
tư đúng mức cho lĩnh vực văn hóa. Để làm được điều này cần phải tăng
cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa. Đẩy mạnh
xã hội hóa nhằm khuyến khích, huy động sự tham gia của các tổ chức,
cá nhân và đông đảo tầng lớp Nhân dân vào sự nghiệp bảo vệ và phát
huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh. Bên cạnh nguồn kinh phí
hỗ trợ từ nhà nước, Đảng bộ tỉnh cần có sự chỉ đạo cụ thể đối với việc
huy động nguồn vốn từ Nhân dân, các nguồn lực xã hội hóa từ các tổ
chức, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm để cùng đóng góp vào quá trình tu
bổ, tôn tạo, bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa.
Để xã hội hóa thực hiện có hiệu quả, Đảng bộ tỉnh nên sớm có chỉ
đạo xây dựng, ban hành chương trình, chiến lược cụ thể để khuyến khích
thu hút đầu tư chứ không chỉ là những nội dung trong nghị quyết. Cần
chỉ đạo ban hành những chính sách thu hút và tập hợp quần chúng vì
sự nghiệp bảo tồn những di tích lịch sử văn hóa, hình thành quỹ bảo tồn
tại địa phương, đồng thời có hình thức khen thưởng thích đáng những
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, đóng góp trực tiếp cho công tác giữ gìn,
bảo tồn di tích lịch sử văn hóa. Chỉ đạo chính quyền địa phương vận
động các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
ký kết các chương trình hỗ trợ thực hiện bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa.
Có thể thí điểm và nhân rộng mô hình Nhà nước và Nhân dân cùng phối
hợp bảo tồn, khai thác giá trị các di tích lịch sử - văn hóa. Ngoài ra, làm
tốt vấn đề này cũng sẽ tạo ra nguồn kinh phí để nâng cao chế độ đãi ngộ
đối với những cán bộ chuyên trách, giúp họ giải quyết phần nào những
khó khăn trong cuộc sống, từ đó yên tâm công tác, nâng cao hơn nữa
tinh thần trách nhiệm với công việc.
Nhu cầu và chất lượng bảo tồn, trùng tu, tôn tạo di tích là rất lớn
mà khả năng đầu tư của Nhà nước thì có hạn. Trong bối cảnh đó, xã hội
hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di tích là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, công tác bảo tồn di tích không có nghĩa là ai cũng có thể can
- 261 -

27.2 Page 262

▲back to top
thiệp vào di tích. Hoạt động xã hội hóa phải có sự kiểm soát của các
cơ quan chức năng, tư vấn của các nhà chuyên môn để tránh làm biến
dạng di tích. Ðiều chính yếu là cần nâng cao nhận thức của cộng đồng
về ý thức bảo tồn di tích cũng như hiểu biết về ý nghĩa giá trị của hoạt
động bảo tồn di tích. Khi nhận thức của cộng đồng được nâng cao, trước
hết các hoạt động của cộng đồng sẽ không làm tổn hại đến di tích. Sau
đó tùy theo khả năng mọi người có thể tham gia đóng góp vào bảo tồn
và phát huy giá trị của di tích bằng những hình thức phù hợp. Đối với
các khu di tích và danh lam thắng cảnh hiện có dân cư sinh sống, thì
phải coi cộng đồng dân cư là đối tượng cần được đào tạo, là nguồn nhân
lực cho phát triển bền vững thông qua việc hướng dẫn cho họ nhận biết
được giá trị của di sản; đào tạo người có tay nghề, có kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn tham gia vào công tác bảo tồn, hướng dẫn viên du lịch,
nhất là du lịch trải nghiệm… góp phần cải thiện và nâng cao đời sống
cộng đồng để cộng đồng gắn bó, tham gia có trách nhiệm vào công tác
bảo vệ và phát huy.
Chỉ đạo tăng cường đầu tư, khai thác việc xã hội hóa các hoạt động
du lịch, hoạt động về nguồn gắn liền với giữ gìn, tôn tạo các di tích lịch
sử cách mạng tiêu biểu; ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ động
trong công tác tham mưu, nhất là việc hoàn thiện các tiêu chí, quy định
về xây dựng, quản lý các di tích.
Việc khai thác du lịch đối với di tích lịch sử, văn hóa một mặt làm
phong phú thêm loại hình du lịch, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của du khách nhưng mặt khác cũng góp phần phát huy giá trị của di
tích, giúp tăng cường giáo dục và nâng cao truyền thống văn hóa - lịch sử
dân tộc. Ngày nay, hoạt động du lịch không chỉ đơn thuần là tham quan
cảnh quan mà du khách còn có nhu cầu tìm hiểu, khám phá những nét
độc đáo của truyền thống văn hóa, lịch sử, nhất là đối với du khách quốc
tế. Do đó, cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng
hiệu quả các trang mạng xã hội, thiết kế các trang website với các thông
tin về di tích. Phát triển du lịch dựa trên các đặc trưng văn hóa, có sự gắn
kết văn hóa - lịch sử - tín ngưỡng - tài nguyên -nghỉ dưỡng. Nghiên cứu,
xây dựng phương án phát triển khai thác dịch vụ và phát huy hiệu quả
giá trị di tích (đã được phân cấp quản lý) gắn với hoạt động du lịch; giới
thiệu, quảng bá, kết nối tour tuyến với các điểm du lịch và hệ thống di
tích trên địa bàn tỉnh...
Cần lưu ý rằng, các giải pháp nêu trên phải được tiến hành một
cách đồng bộ và thực chất, với quyết tâm chính trị cao của các cấp ủy
Đảng, chính quyền trong tỉnh, thì mới có thể đạt được hiệu quả như
- 262 -

27.3 Page 263

▲back to top
mong muốn. Do đó, khi triển khai các giải pháp, những người có trách
nhiệm cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, triển khai thận trọng, phù hợp với
thực tiễn khách quan của từng địa phương và hơn hết là cần phải tranh
thủ được sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Bộ Nội vụ, Thông tư liên tịch
số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 14/9/2015 về Hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Huệ (2014), “Di tích lịch sử văn hóa với vấn đề phát
triển du lịch”, Tạp chí Di sản văn hóa.
6. Nguyễn Quốc Hùng (2004), “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn
hóa và hệ thống bảo vệ di tích ở nước ta”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 9,
tr.3-10
- 263 -

27.4 Page 264

▲back to top
TUỔI TRẺ ĐỒNG NAI
VỚI NHIỆM VỤ CHẤN HƯNG VĂN HÓA
TRONG KỶ NGUYÊN SỐ
Trịnh Thị Tình(1)
Văn hóa là hồn cốt dân tộc, là tấm hộ chiếu để khẳng định hình ảnh,
bản lĩnh của một quốc gia trên đường hội nhập với thế giới. Văn hóa Việt
Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới. Văn
hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam,
làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt
và xác định văn hóa đóng vai trò hết sức quan trọng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa” là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng
chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của
cuộc sống loài người.
“Văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn
hóa mất thì dân tộc mất”(2), do đó phải giữ gìn văn hóa như giữ gìn cái
hồn, cái cốt cách của một dân tộc để duy trì, bảo tồn, phát huy và phát
triển. Cùng với hệ thống chính trị, tuổi trẻ cần phát huy vị trí, vai trò,
tinh thần hành động tham gia thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, giữ
gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa Việt Nam theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị văn hóa
toàn quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
(1) Phòng Tổ chức, hành chính, thông tin, tư liệu - Trường Chính trị tỉnh Đồng Nai.
(2) Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị văn hóa toàn quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng ngày 24/11/2021.
- 264 -

27.5 Page 265

▲back to top
Xét về bản chất ngôn ngữ học, chấn hưng là làm cho trở thành hưng
thịnh, thịnh vượng(1). Chấn hưng văn hóa là làm cho các giá trị văn hóa
tốt đẹp của quốc gia - dân tộc được đề cao và phát huy mạnh mẽ hơn.
Như vậy, về bản chất, yêu cầu chấn hưng văn hóa hiện nay là tạo ra tác
động làm cho các giá trị văn hóa được phát huy, phát triển, đóng góp vào
sự phát triển chung để nâng tầm đất nước, đưa đất nước lên một vị thế
mới. Những yêu cầu của thời kỳ phát triển mới vì sự hưng thịnh của một
nền văn hóa; đón trước thời cơ và trên cơ sở nhận diện các thách thức
đối với văn hóa Việt Nam trong thời gian tới, có thể khẳng định chấn
hưng văn hóa ở nước ta hiện nay là quan trọng và cấp thiết.
Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Quyết tâm chấn hưng và xây dựng
thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”. Ngay từ tiêu đề, Tổng Bí thư đã khẳng định “Quyết tâm chấn hưng”,
đồng thời trực diện đưa ra định hướng đường lối phát triển văn hóa đất
nước trong bối cảnh hiện nay là “xây dựng thành công một nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Quyết tâm và định hướng
này của Tổng Bí thư chính là dấu mốc quan trọng đối với quá trình phát
triển nền văn hóa Việt Nam; khẳng định thời điểm văn hóa Việt Nam cần
được chấn hưng để tạo nền tảng nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện
về văn hóa trong mối quan hệ với phát triển; tạo động lực quan trọng cho
phát triển bền vững, thông qua khắc phục các hạn chế, tồn tại, phát triển
hài hòa, đồng bộ giữa văn hóa với kinh tế, xã hội, với xây dựng đời sống
hạnh phúc cho toàn thể Nhân dân.
Nhìn lại các cuộc chấn hưng văn hóa trong lịch sử nước ta phải kể
đến Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 (Đề cương) là một văn kiện
lịch sử vô giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng, kháng
chiến, chỉ ra con đường vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt
Nam. Chỉ với 1.500 chữ ngắn gọn, súc tích, nhưng trải qua 80 năm, Đề
cương vẫn vẹn nguyên giá trị sâu sắc. Việt Nam là một đất nước với hơn
bốn nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm đã tích lũy, tạo ra và
phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc, làm nên
hồn cốt của dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền
văn hóa chung của nhân loại. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý
(1) Hoàng Phê (Chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng,
Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002, tr. 143.
- 265 -

27.6 Page 266

▲back to top
nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước ta,
dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân
tộc và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã
đề ra “Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong đó chỉ rõ “Mặt trận văn hóa
là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)”.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực
hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (ngày
24/11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Để xây dựng,
giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc chúng ta phải
phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến
của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để
thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt, một trong
những nội dung quan trọng mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng
định trong bài viết là vai trò của văn hóa và con người trong sự phát triển
của xã hội hiện nay: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh
nội sinh, động lực để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(1).
Ngày nay, trong kỷ nguyên công nghệ số, bối cảnh cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ,
của chuyển đổi số, chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức trong
việc bảo vệ biên cương tư tưởng văn hóa, xây dựng một môi trường văn
hóa lành mạnh trên các ứng dụng OTT (ứng dụng cung cấp thông tin
đến người xem qua mạng internet). Rõ ràng, văn hóa đang có sự thay
đổi từng ngày trong bối cảnh công nghệ số, những sản phẩm văn hóa
trên không gian mạng đã và đang trở thành nguồn thông tin ngày càng
phong phú và đa dạng xâm nhập sâu rộng vào mọi mặt của đời sống xã
hội, nhất là thanh thiếu nhi. Thế hệ trẻ là đối tượng thụ hưởng nhiều
nhất của các sản phẩm văn hóa, đồng thời là đối tượng có khả năng sáng
tạo lớn nhất, tiềm năng nhất, đông đảo nhất, tạo ra những sản phẩm
văn hóa xuyên quốc gia mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Một thách thức đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam hiện nay trong đối tượng thanh niên là công tác
tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu và làm cho thanh niên nhận diện sâu
sắc được những sắc thái, vẻ đẹp, tính chất đặc biệt, cái riêng của nền
văn hóa Việt Nam với những nước trên thế giới, là cái gốc của nền văn
(1) Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị văn hóa toàn quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng ngày 24/11/2021.
- 266 -

27.7 Page 267

▲back to top
hóa có lúc, có nơi chưa được đầu tư đúng mức, xứng tầm, có trọng tâm,
trọng điểm. Do đó, một bộ phận thanh niên chưa hiểu được những giá
trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp
trong lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, hình
thành qua nhiều thế hệ, nấc thang biến đổi, phát triển, như tinh thần
yêu nước, đoàn kết, nhân văn, sáng tạo, cần cù, thông minh…
Đồng thời, thách thức từ sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, tình trạng
gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội cũng tác
động không nhỏ đến thanh niên. Đây là một trong những vấn đề xã hội
gây bức xúc trong Nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng đã chỉ rõ: Đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường, xã
hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội; môi trường
văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh, trái với thuần phong
mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc; tình trạng gia tăng tội phạm,
tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được
khắc phục, gây bức xúc trong dư luận Nhân dân.
Thời gian gần đây đã xảy ra nhiều vụ việc gây bức xúc dư luận, thể
hiện sự xuống cấp về đạo đức và văn hóa, tình hình tội phạm vẫn diễn
biến phức tạp... Những biểu hiện đó đã làm gia tăng mâu thuẫn, xung
đột xã hội ở nước ta hiện nay, trái với truyền thống đoàn kết, gắn bó,
nhân ái của dân tộc; các xung đột xã hội trong lĩnh vực văn hóa diễn
ra ngày càng phức tạp, trong đó có những vấn đề liên quan đến lễ hội,
di tích lịch sử văn hóa, cơ sở thờ tự tín ngưỡng, tôn giáo... ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự ổn định, phát triển của đất nước và giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc trong tình hình mới.
Đặc biệt, thách thức của sự xâm lăng văn hóa, phai nhạt, đánh mất
bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc không chỉ trong lĩnh vực kinh
tế mà thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Về mặt văn
hóa, mỗi quốc gia phải đứng trước và luôn luôn phải xử lý mâu thuẫn
giữa toàn cầu hóa có xu hướng mạnh, tạo ra các giá trị phổ quát chung
với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc. Cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin,
nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các quốc
gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Điều đáng quan tâm lo
ngại nhất hiện nay là nhiều thông tin trên mạng xã hội hàm chứa nội
dung xấu độc, dụ dỗ, lôi kéo người tham gia như: Phim ảnh khiêu dâm,
lối sống trụy lạc, kích động bạo lực, khiêu khích chiến tranh, chia rẽ
- 267 -

27.8 Page 268

▲back to top
đoàn kết dân tộc, tôn giáo… Với đặc tính hấp dẫn, lôi cuốn của các trang
mạng xã hội rất dễ làm cho người tham gia bị sa đà vào “biển thông tin”
hỗn loạn đó lúc nào mà không hay biết, làm cho họ sao nhãng việc học
hành, giảm năng suất lao động, tinh thần uể oải, sa sút, đắm chìm vào
thế giới ảo trong đời sống thực. Đây chính là tác nhân làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm sinh lý và việc hình thành, phát triển
nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người, nhất là giới trẻ.
Một số nước lớn lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền
bá, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa”, làm phai nhạt các giá trị
truyền thống của các dân tộc khác. Nhiều nội dung phản giá trị, phản
văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá trị
văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và
ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của
nó tới thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa
các vùng, miền còn lớn, do tâm lý lứa tuổi nên một bộ phận thanh niên
còn biểu hiện có lối sống ỷ lại, thích hưởng thụ, sính ngoại và kiến thức
am hiểu về văn hóa dân tộc còn hạn chế...; cùng với sự phát triển của
mạng internet, các sản phẩm văn hóa độc hại đang bị tán phát, truyền
bá bằng nhiều hình thức tinh vi, khó lường gây nên những hậu quả rất
đáng tiếc trong thanh thiếu niên. Văn hóa phẩm độc hại dưới hình thức
phần mềm trò chơi trực tuyến bạo lực, băng đĩa phim kinh dị, đồi truỵ,
tài liệu phản động, chống phá Đảng và Nhà nước, sách báo truyền bá
duy tâm, thần bí... đã tác động đến tâm sinh lý của thanh thiếu nhi và
trở thành nguyên nhân của nhiều vụ án nghiêm trọng
Từ các thách thức trên đặt ra nhiệm vụ đặc biệt là giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc ở nước ta. Trong đó thanh niên là lực lượng được quan
tâm hàng đầu xuất phát từ vị trí, vai trò của Thanh niên trong sự nghiệp
cách mạng(1). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết. Thực hiện theo lời dạy của Người, những năm qua công tác tuyên
truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế
hệ trẻ luôn được Đảng, Nhà nước, gia đình, nhà trường và toàn xã hội
quan tâm và để phát huy được tinh thần xung kích, sáng tạo và những
đóng góp của thanh niên trong quá trình và để phòng ngừa và ứng phó
(1) Tính đến cuối năm 2022, dân số tỉnh Đồng Nai là hơn 3,2 triệu người, trong đó
có 660 tổ chức Đoàn cơ sở với 174.520 đoàn viên, đạt tỷ lệ 56,3% và 839.795 thanh niên
từ 16 đến 30 tuổi, chiếm hơn 30% dân số của tỉnh. Trong đó, tổng cộng có 309.999 người
tại địa phương quản lý.
- 268 -

27.9 Page 269

▲back to top
với thách thức từ những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
ở nước ta hiện nay, để bảo vệ biên cương văn hóa, tham gia thực hiện
các nhiệm vụ xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam, xin đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của “Tuổi trẻ
Đồng Nai với nhiệm vụ chấn hưng văn hóa trong kỷ nguyên số” như sau:
Thứ nhất, công cuộc chấn hưng văn hóa luôn phải được bắt đầu từ
yếu tố trung tâm là con người, trong đó nhấn mạnh là thế hệ trẻ bởi họ
là những người có khả năng sáng tạo vượt bậc và cũng là đối tượng thụ
hưởng văn hóa, hành vi của giới trẻ có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến các
hành vi văn hóa của cộng đồng. Do đó, tổ chức Đoàn các cấp trong toàn
tỉnh cần chỉ đạo, định hướng, thực hiện nhiệm vụ nhận diện tầm quan
trọng, tác động, ảnh hưởng của không gian mạng, của các dịch vụ văn
hóa xuyên biên giới đối với công tác bảo vệ biên cương văn hóa tư tưởng
trong giai đoạn hiện nay, nhất là những nội dung liên quan trực tiếp đến
đối tượng là thanh thiếu nhi. Trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân đề
xuất, kiến nghị giải pháp với Đảng, Nhà nước bảo vệ biên cương văn hóa
tư tưởng trong kỷ nguyên số.
Bên cạnh đó, tổ chức Đoàn các cấp cần phải xác định nâng cao
nhận thức, định hướng cho các bạn đoàn viên, thanh thiếu nhi, đề ra
những biện pháp hay, sáng tạo, thay đổi cách tuyên truyền, tiếp cận
đến các bạn trẻ, định hướng cho các bạn những lối sống tốt đẹp, tạo sự
lan tỏa mạnh mẽ, hứng thú cho người trẻ và mang đến những thông tin
chính thống, tích cực mang tính chất định hướng tư tưởng, đạo đức lối
sống cho các bạn trẻ. Tập trung tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu và
làm cho thanh niên nhận diện sâu sắc được những giá trị văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc như tinh thần yêu nước, đoàn kết, nhân văn, sáng
tạo, cần cù, thông minh, yêu lao động, khát vọng vươn lên… để biến các
giá trị văn hóa đi từ nhận thức đến hành động của mỗi thanh niên trong
cuộc sống, lao động, học tập, rèn luyện.
Thứ hai, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách; ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức,
lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội; xây dựng con người
Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Tích cực định hướng để thế hệ trẻ phân biệt được các
giá trị văn hóa và phản văn hóa, xác định được một định hướng đúng
đắn, phù hợp cho sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam, yêu cầu này đã
được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm rõ khi chỉ ra “xây dựng thành
- 269 -

27.10 Page 270

▲back to top
công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(1). Tức
là phân biệt rõ các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc để
chủ động, tích cực vừa gìn giữ, phát huy, vừa phân biệt rõ đâu là các biểu
hiện văn hóa không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Nhận
diện rõ để chủ động tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa phù hợp của
nhân loại trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.
Thứ ba, tiếp tục phát huy kết quả việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với các đối tượng thanh thiếu nhi
bằng những việc làm cụ thể, đặc thù của địa phương, đơn vị… góp phần
phát triển, định hướng nhân cách, lối sống cho thanh thiếu niên trong
thời đại công nghệ số.
Theo đó, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cần tăng cường
truyền bá, phổ biến các giá trị văn hóa truyền thống, giáo dục tri thức về
văn hóa dân tộc trong xã hội, bắt đầu từ thiếu nhi; thông qua các hoạt
động giáo dục trải nghiệm trong nhà trường, hoạt động Đội, phối hợp
giữa gia đình, nhà trường và xã hội; các cấp bộ đoàn cần làm tốt công
tác chủ động theo dõi và kịp thời nắm bắt, định hướng và xử lý các biểu
hiện lệch lạc trong việc tham gia sáng tạo, hưởng thụ văn hóa của thanh
thiếu nhi. Kịp thời có các biện pháp, cách thức đấu tranh kiên quyết với
các hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa, “xâm lăng văn hóa”. Tổ chức
các hoạt động bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trong
đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn và miễn dịch với các âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa đến thanh
thiếu nhi.
Thứ tư, tiếp tục nhân rộng và phát huy hiệu quả những mô hình
chuyển đổi số, đơn cử như những mô hình mã hóa dữ liệu, số hóa địa
chỉ đỏ, đưa những di sản, di tích lịch sử văn hóa, địa chỉ đỏ lên không
gian mạng, lên các nền tảng số hóa với không gian, ứng dụng tương
tác ảo 3D, VR 360 (công nghệ thực tế ảo), hiệu ứng chuyển động từ âm
thanh đến ánh sáng mang lại những trải nghiệm mới lạ nhưng vẫn giữ
gìn được bản sắc văn hóa trên không gian mạng trong thời kỳ kỷ nguyên
số và phát huy chủ đề “Năm chuyển đổi số các hoạt động của Đoàn”
trong toàn tỉnh.
(1) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Sđd, tr. 167-168.
- 270 -

28 Pages 271-280

▲back to top

28.1 Page 271

▲back to top
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt của thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Thanh niên phải là rường cột của nước nhà”(1); để góp
phần bồi đắp, xây dựng nên những thế hệ thanh niên “vừa hồng, vừa
chuyên” kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp vẻ vang của Đảng theo
tư tưởng của Bác Hồ kính yêu. Để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh
nội sinh và động lực phát triển cần phát huy tính tiên phong, sáng tạo
của tổ chức đoàn thanh niên các cấp, thế hệ trẻ trong toàn tỉnh; góp
phần thực hiện mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”./.
(1) Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”.
- 271 -

28.2 Page 272

▲back to top
TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA CÁC CẤP ỦY ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN
ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN,
GIÁO DỤC, NÂNG CAO NHẬN THỨC TRONG
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ CÁC TẦNG LỚP
NHÂN DÂN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA,
CON NGƯỜI ĐỒNG NAI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ, XÃ HỘI, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai(1)
Việt Nam là một đất nước có hơn bốn nghìn năm lịch sử, trải qua
không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con
người gây ra, đã tích lũy, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc
văn hóa riêng của dân tộc, làm nên hồn cốt của dân tộc. Nhận thức sâu
sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát
triển của đất nước ta, dân tộc ta, vì vậy ngay từ trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát
triển văn hóa của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành
được độc lập, Đảng ta đã đề ra “Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong đó
chỉ rõ “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn
hóa) ở đó người Cộng sản phải hoạt động”, “Không phải làm cách mạng
chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”, và chủ trương phát
triển văn hóa theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng.
(1) Văn kiện Đảng toàn tập 1930-1945 - Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943
của Trung ương: Cách đặt vấn đề, tr 316, mục 3, tiểu mục a, b.
- 272 -

28.3 Page 273

▲back to top
Trải qua các giai đoạn của lịch sử trong các cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ và các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta luôn luôn
coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng
văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và
sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
là mục tiêu, động lực phát triển đất nước, văn hóa phải được đặt ngang
hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(1). Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng
là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế
thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu
có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của thế giới để xây dựng
một xã hội văn minh đề cao phẩm giá con người có tri thức, đạo đức,
thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đảng ta khẳng định: “Phát
huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn
lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa,
môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh,
lành mạnh, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần,
nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế”(2).
Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có
nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối
quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa
trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức,
văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương
của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể xây dựng và
phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ
thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn
mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong
nước và nước ngoài để phát triển văn hóa.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, tr47, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
- 273 -

28.4 Page 274

▲back to top
1. Vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Từ quan điểm của Đảng về văn hóa, cho thấy văn hóa là một hệ
thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vai trò của văn hóa ngày càng
được các quốc gia đề cao, coi trọng. Văn hóa đã trở thành một trong các
trụ cột của phát triển bền vững, là động lực của quá trình phát triển, là
nhân tố phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia. Con người với tư cách là
chủ thể xã hội đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển. Con
người là nguồn lực của mọi nguồn lực, quy tụ mọi sức mạnh, quyết định
sự tồn vong hay hưng thịnh của các dân tộc.
Đối với nước ta, các quan điểm, nhận thức, hoạt động về văn hóa
trong phát triển đất nước đã được khẳng định trong các văn kiện của
Đảng, chính sách cụ thể của Nhà nước. Được phát triển từ Đề cương về
văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nay, Đảng ta xem văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội. Văn hóa
Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm
rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Kết
luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) chính là sự cụ
thể hóa và nhấn mạnh hơn nữa vai trò của văn hóa đối với sự phát triển
bền vững của đất nước. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đảng ta tiếp
tục khẳng định phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm,
một nội dung nổi bật và xuyên suốt là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền
văn hóa, con người Việt Nam... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực
nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(1).
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, tiểu mục 3, tr 34, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
- 274 -

28.5 Page 275

▲back to top
2. Về tình hình phát triển văn hóa, xây dựng con người giai đoạn
vừa qua
Trong 5 năm qua, tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,
sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa được
nâng lên trong toàn hệ thống chính trị và Nhân dân. Thể chế văn hóa,
chính sách văn hóa dần được hoàn thiện. Hệ thống thiết chế văn hóa
tăng về số lượng và từng bước cải thiện về chất lượng. Sản phẩm văn
hóa, văn học - nghệ thuật phong phú, đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng
thụ văn hóa của Nhân dân. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể
được nghiên cứu, nhận diện, bảo vệ và phát huy giá trị, góp phần giáo
dục truyền thống yêu nước, khơi dậy lòng tự hào trong Nhân dân. Vai trò
của văn hóa trong phát triển kinh tế được chú trọng, kết hợp khai thác
tiềm năng của văn hóa với phát triển kinh tế, du lịch. Đời sống văn hóa
ở cơ sở có bước phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Công tác xã hội
hóa được đẩy mạnh, thu hút các nguồn lực xã hội phát triển văn hóa.
Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa được chú trọng, góp phần quảng
bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Đội ngũ sáng
tác, biểu diễn lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, lực lượng cán bộ
quản lý văn hóa ngày một trưởng thành. Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” có tác động tốt đến xóa đói giảm nghèo,
xây dựng gương người tốt, việc tốt, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ
nguồn, xây dựng gia đình văn hóa, thị trấn, phường, xã, khu phố văn
hóa... góp phần ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Những thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa đã góp phần
vào việc xây dựng, hoàn thiện con người Việt Nam. Nhiều chuẩn mực
văn hóa truyền thống tiếp tục được duy trì, củng cố và phát huy; các
giá trị văn hóa, đạo đức mới được hình thành và phát triển. Đạo lý, tình
thương, lẽ phải vẫn là những định hướng giá trị thể hiện sâu sắc tính
nhân văn của con người Việt Nam. Ý thức tích cực, tự giác của Nhân
dân trong các sinh hoạt văn hóa ngày càng tăng, cả xã hội chung tay xây
dựng và phát triển văn hóa.
Tuy nhiên, sự nghiệp phát triển văn hóa, con người trong những
năm qua vẫn còn một số hạn chế, tồn tại. Khoảng cách về hưởng thụ
văn hóa giữa các vùng miền, dân tộc, các bộ phận dân cư chậm được rút
ngắn. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu.
Môi trường văn hóa còn có những biểu hiện thiếu lành mạnh; tệ nạn xã
hội, tội phạm vẫn diễn biến phức tạp. Công tác bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao. Chưa có nhiều tác phẩm văn
- 275 -

28.6 Page 276

▲back to top
học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, còn không ít tác
phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường. Cơ sở hạ tầng về văn hóa chưa đáp
ứng yêu cầu.
Về con người, tuy đã đạt được những chỉ số đáng ghi nhận về phát
triển con người (HDI) nói chung, nhưng chưa xây dựng được một đội
ngũ nhân lực cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển. Việc phát triển con người toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ còn nhiều hạn chế. Văn hóa học đường, văn hóa gia
đình, văn hóa xã hội có những biểu hiện xuống cấp đáng lo ngại. Văn
hóa ứng xử còn không ít hành vi “lệch chuẩn”, phản văn hóa, phi văn
hóa. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một số cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Giờ đây chúng
ta nhắc nhiều đến đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm
nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, văn minh công cộng, y đức… Tất cả đều là
những vấn đề của văn hóa, có nguyên nhân từ văn hóa.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên chủ yếu là do một
số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này. Việc cụ thể
hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ. Công
tác quản lý Nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có nơi bị xem nhẹ.
Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, còn dàn trải. Chưa nắm
bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có
hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ lãnh đạo,
quản lý các cấp.
3. Kết quả công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức
trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về vị trí vai trò của
văn hóa trên địa bàn tỉnh
Xác định công tác tuyên truyền luôn góp phần làm thay đổi nhận
thức của người dân và cán bộ, đảng viên trong thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Với bề dày truyền
thống văn hóa, lịch sử của vùng đất Đông Nam Bộ 325 hình thành và
phát triển, Đồng Nai là nơi “lắng hồn núi sông”, hội tụ, kết tinh những
giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Để lan tỏa giá trị văn hóa đặc sắc
và nét tinh tế của người Đồng Nai chân chất, thật thà, gần gũi và mến
khách đến mọi miền đất nước, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có nhiều nghị
quyết, kết luận, kế hoạch... trong đó, xác định cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Đồng Nai trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Cả hệ thống chính
- 276 -

28.7 Page 277

▲back to top
trị từ tỉnh đến cơ sở đã chú trọng đầu tư nguồn lực cho công tác tuyên
truyền, đồng thời khuyến khích đổi mới, sáng tạo hoạt động này với
nhiều hình thức ngày càng phong phú, đa dạng và hấp dẫn, như tuyên
truyền miệng, tuyên truyền trực quan, tuyên truyền trên hệ thống thông
tin đại chúng, truyền thông đa phương tiện. Hình thức tuyên truyền
miệng được thực hiện thông qua việc tổ chức hội nghị, tập huấn, tọa
đàm, sinh hoạt chi bộ, câu lạc bộ, cuộc thi, phát tin bài trên hệ thống
truyền thanh gắn với chủ đề xây dựng văn hóa, con người, xây dựng nếp
sống văn minh, nếp ứng xử văn hóa của người Đồng Nai, đặc biệt là văn
hóa ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức… Hình thức tuyên truyền
trực quan thể hiện thông qua hệ thống pa-nô, áp-phích, khẩu hiệu…
được đổi mới trên nhiều chất liệu có độ bền cao, áp dụng công nghệ
hiện đại (màn hình điện tử, màn hình led…) với hàng triệu sản phẩm đã
tác động tích cực trực tiếp tới nhận thức của người dân, góp phần làm
đẹp đường phố trên từng đường làng, con phố của các địa phương…
Đặc biệt, hoạt động tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng,
truyền thông đa phương tiện của tỉnh thời gian qua được chú trọng và
có nhiều đổi mới.
Tỉnh đã phát huy hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí và
huy động sự tham gia tích cực của các cơ quan báo chí Trung ương đóng
trên địa bàn để tạo sức mạnh tổng hợp trong tuyên truyền các quan
điểm, chủ trương, chính sách phát triển văn hóa, con người Đồng Nai.
Các cơ quan báo chí đã đăng tải sinh động, phong phú các tin, bài về
văn hóa và con người Đồng Nai với nội dung sâu sắc cùng hình thức ấn
tượng, hấp dẫn trên các chuyên trang, chuyên mục... Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy đã chủ động, tăng cường phối hợp công tác tuyên truyền với
các cơ quan báo chí Trung ương thông qua nhiều hình thức, như giao
ban thông tin báo chí; ký kết chương trình phối hợp hằng năm, đặt hàng
tuyên truyền nhân những sự kiện lớn hay những vấn đề trọng tâm, khâu
đột phá của tỉnh trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ…
Bên cạnh đó, công tác thông tin, truyền thông đối ngoại cũng được
tỉnh chú trọng thông qua phát triển đa dạng các loại hình, như du lịch
văn hóa gắn với các di sản văn hóa; hoạt động ngoại giao, giao lưu, hợp
tác, tổ chức các sự kiện quốc tế về văn hóa, thể thao đẩy mạnh đầu tư
xây dựng kênh thông tin đối ngoại của Sở Ngoại vụ và Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị tỉnh… với các chương trình, phóng sự về “Đồng Nai trên
đường hội nhập và phát triển”, giới thiệu những đổi mới, thành công
của Đồng Nai trong cải cách hành chính, phát triển kinh tế, xã hội, đô
thị; giới thiệu đến công chúng những giá trị văn hóa của các làng nghề
- 277 -

28.8 Page 278

▲back to top
truyền thống trên địa bàn tỉnh... Các nội dung tuyên truyền nhận được
sự phản hồi tích cực từ khán, thính giả, đặc biệt có người nước ngoài,
kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài.
Một trong những điểm mới nổi bật nhằm nâng cao hiệu quả tuyên
truyền thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước”, hàng năm Hội Văn học - Nghệ thuật đều tổ chức giải
thưởng “Văn học nghệ thuật”; tổ giải thưởng “Trịnh Hoài Đức” 5 năm/1
lần; Cuộc thi tìm hiểu “Giá trị văn hóa, lịch sử Đồng Nai” được tổ chức 2
năm/lần thu hút đông đảo các văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên
và các tầng lớp Nhân dân tham gia, qua đó góp phần khơi dậy niềm tự
hào và thúc đẩy khát vọng cống hiến, dựng xây trong mỗi người dân,
hướng tới một Đồng Nai “cất cánh”, giàu bản sắc văn hóa vừa văn minh,
hiện đại, xứng tầm vị thế của một tỉnh công nghiệp, trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Chăm lo, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng
cao nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Với phương châm “Lấy tuyên truyền
giáo dục, vận động, phòng ngừa, ngăn chặn là chính”, các cấp ủy Đảng
và chính quyền, đoàn thể thường xuyên chăm lo và làm tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng góp phần nâng cao nhận thức và hành động cho
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc thực hiện tuyên truyền
thông qua các lớp bồi dưỡng chính trị, bồi dưỡng nhận thức về Đảng,
các hội nghị báo cáo viên và các buổi sinh hoạt của các tổ chức đoàn
thể. Qua đó, nâng cao vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người
đứng đầu trong sinh hoạt, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, tận tụy, hết
lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên; đồng thời làm tốt công tác vận động người dân thực hiện
tốt Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư” nhằm nâng cao nhận thức của người dân trong giữ gìn đạo đức,
thuần phong mỹ tục, xây dựng và bảo vệ các giá trị văn hóa tốt đẹp của
gia đình, địa phương, góp phần tạo nên giá trị bản sắc văn hóa của dân
tộc, là cơ sở nền tảng để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực trong nước được dự
báo tiếp tục có những thay đổi lớn, diễn biến phức tạp, khó lường, đưa
tới nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với việc thực
- 278 -

28.9 Page 279

▲back to top
hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đó
đặt ra và đòi hỏi sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt
Nam nói chung và người Đồng Nai nói riêng chúng ta cần quan tâm
những vấn đề sau:
Một là, xử lý mâu thuẫn giữa yêu cầu về phát triển các mục tiêu
nhân văn của văn hóa với những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị
trường. Văn hóa có tính độc lập tương đối với kinh tế nhưng văn hóa
cũng không thể đứng trên kinh tế, đứng ngoài kinh tế. Hiện nay, các
quy luật của kinh tế thị trường đang chi phối nhiều hoạt động, sản
phẩm, dịch vụ văn hóa, đẩy nhanh khuynh hướng thương mại hóa văn
hóa. Làm thế nào để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam một cách hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường mà vẫn giữ
vững được định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ đầy khó khăn,
thách thức.
Hai là, giải quyết mâu thuẫn giữa đòi hỏi rất cao về mục tiêu xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam với sự đầu tư nguồn lực
có hạn của Nhà nước, trong bối cảnh đời sống của người dân còn thấp,
thu nhập bình quân đầu người chưa cao, điều kiện xã hội hóa các lĩnh
vực văn hóa, nghệ thuật rất khó khăn. Nói cách khác, các nguồn lực thực
hiện các mục tiêu về phát triển văn hóa, con người đề ra còn chưa tương
xứng, các điều kiện để hiện thực hóa còn chưa đảm bảo.
Ba là, xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại,
bảo tồn và phát huy, giữ gìn và phát triển. Làm sao để đảm bảo duy trì,
bảo vệ được các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa và con người
Việt Nam, đồng thời, xác lập, phát triển những giá trị mới đáp ứng công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và yêu cầu phát triển của xã hội
đương đại.
Bốn là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế,
địa phương và nhân loại, vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa có thể hội nhập quốc tế
thành công và đứng vững, tỏa sáng trong cơn lốc toàn cầu hóa.
4. Các giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng
trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trong giai đoạn hiện nay
Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Việt
Nam nói chung và người Đồng Nai nói riêng với bề dày lịch sử 325 năm
hình thành và phát triển, trong thời gian tới các cấp ủy đảng, chính
- 279 -

28.10 Page 280

▲back to top
quyền, đoàn thể và hệ thống chính trị của tỉnh cần chủ động triển khai
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong giai
đoạn mới. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa, coi văn hóa là bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách
mạng, là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng,
một trong những trụ cột bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước. Văn
hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Đồng thời,
văn hóa phải đứng ở vị trí trung tâm của phát triển và sự phát triển phải
được nuôi dưỡng và truyền bá bởi văn hóa. Văn hóa giữ vai trò định
hướng sự phát triển các giá trị của xã hội, điều tiết các quan hệ xã hội
bằng hệ thống các giá trị, chuẩn mực và mục đích nhân văn của nó. Với
ý nghĩa đó, văn hóa vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là mục đích, động lực
phát triển của con người và xã hội.
Hai là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính
quyền đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai trong
giai đoạn mới. Quán triệt đầy đủ và trách nhiệm về quan điểm xuyên
suốt của Đảng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam là: “Mặt trận văn hóa
là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người Cộng
sản phải hoạt động”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tinh thần tiên
phong, gương mẫu, phải thực sự tiêu biểu về đạo đức, lối sống, thực sự
gần dân, thân dân, trọng dân, phấn đấu vì lợi ích của dân, thấm nhuần
đạo lý “Dân là gốc”.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa,
gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa với nhiệm vụ chính trị.
Trong cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống hiện nay, văn hóa phải phát huy hơn nữa sứ mệnh của mình;
xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam hướng đến chân - thiện
- mỹ; văn hóa phải thực sự trở thành điểm tựa tinh thần và khởi nguồn
cho sức mạnh nội sinh trong mỗi cá nhân, cộng đồng, bảo đảm cho sự
phát triển bền vững của đất nước. Văn hóa phải có tiếng nói mạnh mẽ,
kiên quyết hơn nữa đối với những quan điểm mơ hồ, sai trái, những
biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Bốn là, tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa, mức đầu tư của
tỉnh cho các hoạt động văn hóa phải tương ứng với vai trò của nó trong
sự phát triển chung. Sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư của Nhà nước,
của tỉnh đi đôi với việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa, với những cơ chế,
chính sách cụ thể, thiết thực. Thực hiện tốt sự phối hợp giữa các cấp,
- 280 -

29 Pages 281-290

▲back to top

29.1 Page 281

▲back to top
các ngành, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong thực hiện các
nhiệm vụ văn hóa, khơi dậy và huy động tiềm năng sáng tạo của các tổ
chức, doanh nghiệp và Nhân dân tham gia xây dựng văn hóa, con người
Việt Nam trên đất Đồng Nai.
Năm là, phát huy thế mạnh, hiệu quả của mô hình quản lý nhà
nước đa ngành, đa lĩnh vực trong tổ chức các phong trào thi đua yêu
nước, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm
vụ chiến lược, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã
hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc; là nền tảng xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc, dân cường, nước thịnh. Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực ngành văn hóa cả về chuyên môn, nghiệp vụ lẫn phẩm chất đạo đức
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ công chức, viên chức; hoàn thiện chính sách phát hiện,
sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ làm việc trong các lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật.
Sáu là, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ 4.0 trong phát
triển văn hóa, giáo dục, du lịch, nâng cao chất lượng hoạt động báo chí,
xuất bản, thông tin, truyền thông, tích cực lan tỏa hơn nữa giá trị văn
hóa, sức mạnh của con người Đồng Nai; đấu tranh có hiệu quả các quan
điểm sai trái và các sản phẩm văn hóa độc hại; thông tin đối ngoại trên
các phương tiện truyền thông mới, thông qua mạng xã hội quảng bá
hình ảnh tỉnh Đồng Nai, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân tinh thần tự hào của dân tộc, thực hiện khát vọng dân tộc
hùng cường, xây dựng tỉnh Đồng Nai ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Bảy là, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa đặc trưng
của người Đồng Nai. Đẩy mạnh truyền bá văn hóa, giới thiệu đất nước,
con người Việt Nam, người Đồng Nai ra bạn bè trong khu vực, trong và
ngoài nước. Đưa các quan hệ hợp tác quốc tế về văn hóa vào chiều sâu,
đạt hiệu quả thiết thực. Hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của
toàn cầu hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Tám là, không ngừng nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính
quyền và mỗi người dân về vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, để văn hóa phát triển xứng tầm
với vị thế của một tỉnh công nghiệp năng động, giàu tiềm năng trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, xây dựng văn hóa, con người Đồng Nai vừa giàu bản sắc vừa hiện
- 281 -

29.2 Page 282

▲back to top
đại, văn minh, thực sự trở thành nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh
quan trọng quyết định sự phát triển bền vững.
Chín là, tiếp tục đầu tư xứng đáng cho các hoạt động văn hóa để
thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng ở các cấp, như việc xây
dựng văn hóa con người Đồng Nai hướng đến chân - thiện - mỹ; thực
hiện Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động
trong các cơ quan, trong hệ thống chính trị, Quy tắc ứng xử nơi công
cộng; giáo dục ứng xử văn hóa và đấu tranh phòng, chống các hành vi
bạo lực; giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh trong học sinh, sinh
viên; giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa địa phương trong các nhà
trường... xây dựng văn hóa trong sản xuất - kinh doanh - dịch vụ, văn
hóa trong quản lý kinh tế, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân, văn hóa
học đường, văn hóa công vụ...
Mười là, có cơ chế khuyến khích và phát huy vai trò của các phóng
viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí, truyền thông của tỉnh, phối
hợp hiệu quả với cơ quan báo chí Trung ương nâng cao hiệu quả tuyên
truyền để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, vai trò gương mẫu
của mỗi cán bộ, đảng viên, khơi dậy niềm tự hào, tinh thần sẵn sàng
cống hiến, sáng tạo của các tầng lớp Nhân dân. Phát hiện, cổ vũ, động
viên, nhân rộng các điển hình tiên tiến, các mô hình tiêu biểu, cách làm
hay có khả năng lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp trong xã hội; “lấy cái
đẹp dẹp cái xấu”; đồng thời phê phán, đấu tranh những cái xấu, cái chưa
đẹp, cái phản văn hóa trong đời sống văn hóa của các tầng lớp Nhân dân
trên địa bàn tỉnh.
Mười một là, đề cao và phát huy vai trò tuyên truyền, vận động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh tới cơ sở
trong việc tạo sự đồng thuận, thống nhất trong Nhân dân, phát huy tinh
thần đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong
quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai. Trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, thực hiện phải quán triệt sâu
sắc, nâng cao trước tiên nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng
viên, sau đó là các tầng lớp Nhân dân. Xác định rõ quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp thực hiện hiệu quả để góp phần thúc đẩy phát triển
văn hóa, con người, cần được cụ thể hóa bằng những chương trình, đề
án, kế hoạch... và các văn bản theo hướng thiết thực, vừa toàn diện, vừa
cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn khâu đột phá trên tinh thần
đổi mới, sáng tạo.
- 282 -

29.3 Page 283

▲back to top
Bác Hồ luôn nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa
đối với phát triển đất nước. Bác nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi”(1). Văn hóa chính là hồn cốt của một dân tộc, là nguồn lực nội sinh
quan trọng cho sự phát triển bền vững đất nước. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, sự ủng hộ của Nhân dân, phát huy truyền thống vẻ
vang của tỉnh, của vùng đất miền Đông gian lao mà anh dũng, của Biên
Hòa - Đồng Nai 325 năm hình thành và phát triển, sự quyết tâm của cả
hệ thống chính trị phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ được giao, đưa sự
nghiệp phát triển văn hóa của tỉnh ngày càng có chiều sâu và bền vững,
cùng cả nước xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu,
nước mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
(1) Trích câu nói của Bác Hồ tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày
24/11/1946 tại Hà Nội.
- 283 -

29.4 Page 284

▲back to top
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC
VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA ỨNG XỬ TRÊN
KHÔNG GIAN MẠNG XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG
INTERNET THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ 4.0
Ở TỈNH ĐỒNG NAI
Sở Thông tin và Truyền thông Đồng Nai
Trong thời đại bùng nổ thông tin, phát triển công nghệ số, xã hội
số, quốc gia số, kinh tế số, văn hóa số và công dân số, mạng xã hội đã
trở thành công cụ truyền thông, môi trường giải trí được nhiều người
ưa thích, sử dụng hằng ngày, đặc biệt là giới trẻ. Chính sự phát triển của
ngành công nghệ thông tin đã đưa con người bước vào một giai đoạn
phát triển mới hiện đại hơn, thông minh hơn, tiện ích hơn. Thế nhưng
bên cạnh những tiện ích đó, cũng tồn tại những ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của chúng ta, đặc biệt về cách hành xử trên mạng xã hội. Nói
bao quát hơn chính là văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân trong môi trường
số. Chính vì vậy, việc xây dựng và nâng cao văn hóa ứng xử trên mạng
xã hội ở nước ta hiện nay là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng, tích
cực góp phần xây dựng, chấn hưng, phát triển văn hóa, con người Việt
Nam - nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh và bền vững đất nước.
1. Quan niệm về văn hóa ứng xử và văn hóa ứng xử trên không
gian mạng xã hội
Có thể nói, văn hóa ứng xử là hành vi ứng xử, cách ứng xử của con
người đạt giá trị chuẩn mực chân - thiện - mỹ của một cộng đồng xã
hội (tức là ứng xử có văn hóa). Văn hóa ứng xử chính là một lĩnh vực đời
sống văn hóa của con người, luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
lịch sử các dân tộc và nhân loại. Dân tộc nào cũng có văn hóa ứng xử
riêng, đồng thời cũng thể hiện đặc trưng văn hóa ứng xử chung của toàn
nhân loại.
- 284 -

29.5 Page 285

▲back to top
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho
cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng,
tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo
trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat)
trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương
tự khác (khoản 22, Điều 3, Chương 1 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15/7/2013 của Chính phủ Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet
và thông tin trên mạng).
Trong cuộc sống hiện nay, công nghệ đã và đang chi phối rất nhiều
đến đời sống, cách ứng xử của con người. Không khó bắt gặp hình ảnh
mọi người trong gia đình hay một nhóm người tại một quán cà phê dán
mắt vào điện thoại riêng, các bà nội trợ trong thời đại số đi chợ mua rau,
thịt cá cũng không cần mang tiền mặt bởi đã có mã quét QR… Các thiết
bị công nghệ tiên tiến dần thay thế con người làm việc, không người
bán, không người lái, làm việc nhà đã có robot, tắt bật đèn đã có thiết
bị tự động… Theo We Are Social, tính đến tháng 01/2023, Việt Nam có
77,93 triệu người sử dụng Internet, tương đương 79,1% so với tổng dân
số; 5 nền tảng mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất Việt Nam gồm có:
Facebook (91,6%), Zalo (90,1%), TikTok (77,5%), Facebook Messenger
(77%) và Instagram (55,4%). Internet đã trở thành yếu tố thiết yếu trong
cuộc sống của người dân Việt Nam, trở thành hạ tầng của nền kinh tế,
nhân tố quan trọng thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Internet - mạng xã hội không chỉ là phương tiện truyền đạt
thông tin mà còn là công cụ hữu hiệu trong việc truyền bá các sản phẩm
văn hóa, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, sáng tạo và phổ biến
những giá trị văn hóa mới.
Mạng xã hội giúp chúng ta kết nối những mối quan hệ với mọi
người xung quanh, bất chấp khoảng cách không gian và tạo ra nền tảng
yêu thương trong xã hội. Văn hóa ứng xử của người sử dụng mạng xã hội
được thể hiện thông qua lời nói, bài viết, cử chỉ, hành vi, tốc độ xử lý vấn
đề trên mạng xã hội. Qua đó thể hiện tính cách, năng lực trí tuệ, tư duy
nhạy bén của một người nào đó. Văn hóa ứng xử trên mạng xã hội của
mỗi cá nhân có tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của toàn
xã hội. Tốc độ phát triển của công nghệ, mang đến cho người sử dụng
các thiết bị công nghệ hiện đại cơ hội để tiếp nhận thông tin từ nhiều
nguồn văn hóa khác nhau. Có thể người sử dụng mạng xã hội sẽ học
được những cách ứng xử văn hóa, văn minh nhưng bên cạnh đó cũng
rất dễ bị cuốn theo những lối ứng xử thiếu văn hóa, nhất là đối với lứa
tuổi thanh thiếu niên.
- 285 -

29.6 Page 286

▲back to top
Người sử dụng mạng xã hội có thể gọi video, livestream, chat trong
nhóm, nhắn tin riêng, gửi ảnh, xem nhật ký bạn bè, đăng tin, bài, ảnh,
video. Đây là phương tiện để bất cứ ai cũng có thể bày tỏ quan điểm
cá nhân, chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm sống của mình tới mọi
người trên không gian mạng rộng lớn. Điển hình như thời gian bùng
phát đại dịch Covid-19, mạng xã hội là kênh hữu ích để mọi người cùng
chia sẻ tình hình dịch bệnh, cách phòng chống dịch, ngăn chặn sự lây
lan của bệnh dịch. Đồng thời qua mạng xã hội, những tấm gương sáng
trong phòng chống đại dịch Covid-19 của các cán bộ, y bác sĩ ngày đêm
thầm lặng cống hiến góp phần quan trọng trong công tác chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe người dân được lan tỏa. Từ đó, nhiều cá nhân, tổ chức
cũng đã góp sức mình vào công tác phòng chống dịch qua việc thực
hiện tốt những biện pháp phòng chống dịch, vận động quyên góp, ủng
hộ phòng chống dịch. Rõ ràng, không thể phủ nhận được vai trò của
mạng xã hội trong cuộc sống hiện nay. Người sử dụng mạng xã hội một
cách đúng đắn, biết cách ứng xử có văn hóa sẽ mang lại nhiều lợi ích to
lớn không chỉ cho cá nhân mà cho cả cộng đồng.
Nhưng bên cạnh đó, mạng xã hội cũng là con dao hai lưỡi.
Thứ nhất, thực tế hiện nay cho thấy không ít người thiếu kiến thức
về mạng xã hội và truyền thông, nhưng lại dành quá nhiều thời gian cho
nó. Trong xã hội hiện đại, ai cũng có thể tham gia mạng xã hội chỉ với
một vài thao tác đơn giản từ máy tính hoặc điện thoại thông minh. Việc
sử dụng điện thoại khi tham gia giao thông, đi lên cầu thang máy, đi ra
các không gian công cộng… đã gây ra nhiều hệ lụy nguy hiểm cho con
người và cộng đồng (như xảy ra tai nạn giao thông, xung đột, va chạm
trên đường đi bộ, siêu thị, nhà hàng, có khi cha mẹ quên cả đưa đón con
đi học…). Thậm chí, sinh sống trong một không gian gia đình nhỏ hẹp,
mọi người mải trò chuyện với mạng xã hội nhiều hơn là giao tiếp với
nhau làm cho tình cảm vợ chồng, cha mẹ con cái cũng dần phai nhạt.
Thứ hai, trên không gian mạng xã hội xuất hiện nhiều biểu hiện
lệch chuẩn, ứng xử thiếu văn hóa. Thời gian qua, không ít người đã lạm
dụng mạng xã hội để trục lợi cá nhân, gây ra những tác động xấu tới nền
tảng và những giá trị đạo đức, văn hóa của dân tộc. Trong thời đại số,
nhiều người sử dụng mạng xã hội lầm tưởng rằng đây là công cụ để cá
nhân thể hiện sự tự do, thế giới riêng của mình nên đã lợi dụng mạng xã
hội để có những hành vi ứng xử thiếu văn hóa, thông tin sai sự thật, xâm
phạm danh dự, xúc phạm nhân phẩm của người khác, thậm chí bị các
- 286 -

29.7 Page 287

▲back to top
thế lực xấu lợi dụng. Nhiều người vô cớ bị nói xấu, lăng mạ trên mạng,
từ đó rơi vào trầm cảm, hoảng loạn… Những hành vi này đã gióng lên
hồi chuông cảnh báo về cách ứng xử thiếu văn hóa của con người trong
thời đại số hiện nay.
Câu chuyện của bà N.P.H từ tháng 3/2021 với những màn livestream
sử dụng lời lẽ thiếu chuẩn mực, thậm chí xúc phạm, xâm nhập bí mật
đời tư, ảnh hưởng uy tín tới nhiều người nổi tiếng, đặc biệt hàng loạt
nghệ sĩ Việt. Hay một bộ phận cổ động viên Việt Nam quá khích đã “tấn
công” Facebook của trọng tài bắt trận đấu vòng loại World Cup giữa đội
tuyển quốc gia Việt Nam và đội tuyển Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống
nhất bằng những lời lẽ thiếu văn hóa ngay sau khi trận đấu kết thúc. Bên
cạnh đó, còn có nhiều người livestream để giễu cợt, thóa mạ, nói xấu
nhau trên không gian mạng xã hội; rất nhiều video livestream quảng cáo
bằng những lời lẽ thiếu văn minh, ăn mặc phản cảm nhằm thu hút sự
chú ý của cộng đồng mạng… Tất cả điều này đã và đang diễn ra thường
xuyên trên mạng xã hội làm rối loạn cảm xúc của con người, nhất là thế
hệ trẻ. Không khó để bắt gặp những thanh niên dùng lời lẽ thô tục xỉ
vả bạn bè; những cô gái ăn mặc hở hang, nhảy múa kỳ quái livestream
trước động cơ máy bay đang nổ máy, gây nguy hiểm, mất an toàn cho
hàng không; có cô gái ngồi trên băng chuyền hàng hóa ký gửi tại sân bay
rồi quay video phấn kích, livestream trên mạng để mong được nhiều
người quan tâm. Có những người đưa lên mạng những clip tiểu phẩm
đánh ghen, chửi bới, nói năng phản cảm để mong nhiều người truy cập.
Có những người đăng các video có hình ảnh thanh niên “hổ báo”, dáng
vẻ đầu gấu, cạo trọc đầu, giang hồ, xăm trổ loang lổ đầy mình đi ngông
nghênh ngoài đường phố như xã hội đen trong phim ảnh nước ngoài.
Có kẻ còn đập phá, đốt xe máy, khóc cười, điên loạn, gào thét thị uy, dọa
dẫm, chửi đổng… rất phản cảm. Thậm chí, một số người còn viết trên
trang cá nhân những quan điểm trái chiều, tác động xấu đến giới trẻ và
dư luận xã hội.
Nhìn chung, những hiện tượng nói trên đang làm xấu đi hình ảnh
của người Việt và văn hóa Việt. Đáng tiếc là những “trào lưu” kiểu như vậy
trên mạng xã hội lại nhanh chóng kéo theo hàng trăm nghìn người theo
dõi. Không ít người vào mạng xã hội, tiếp cận sự kiện “chớp nhoáng”,
cẩu thả, vội vã, không chịu tìm hiểu, xác minh lại nguồn tin từ các kênh
chính thống của Nhà nước, đã vội vàng “a dua”, vào hùa, “nhảy” vào
bình luận, bình phẩm với thái độ, lời lẽ quá khích, cực đoan, phản cảm,
thậm chí còn miệt thị, xúc phạm, làm tổn thương người khác và hấp tấp
chia sẻ, lan truyền những thông tin, hình ảnh không chính xác.
- 287 -

29.8 Page 288

▲back to top
Thứ ba, tình trạng “rác thông tin” với hiện tượng thông tin không
chính xác, thông tin bịa đặt trên mạng xã hội. Do thiếu hiểu biết và vô
trách nhiệm, khi đại dịch Covid-19 bùng phát, không ít người dùng
mạng xã hội để đăng tải những thông tin, hình ảnh sai sự thật về dịch
bệnh, gây hoang mang dư luận. Mặc dù, các vụ việc đăng tải thông tin
không chính xác đều được các lực lượng chức năng phát hiện và xử lý,
những người đăng tin sai sự thật đều phải chịu những hình thức xử phạt
đích đáng, tuy nhiên những thông tin ấy cũng đã gây nên những hệ lụy
ám ảnh trong dư luận xã hội.
Trước những mặt trái nêu trên, vấn đề xây dựng chuẩn mực văn
hóa ứng xử trên mạng xã hội đang trở nên cấp bách, đòi hỏi sự vào cuộc
đồng bộ của các cấp, ngành, từ cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý
đến từng gia đình, từng người dân trên phạm vi cả nước.
3. Định hướng và giải pháp điều chỉnh, nâng cao văn hóa ứng xử
trên không gian mạng xã hội hiện nay
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 24/11/2021, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn
hưng và phát triển nền văn hóa dân tộc, cần tập trung thực hiện tốt một
số nhiệm vụ, trong đó có: “Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với
nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi,
điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư”.
Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết
định số 874/QĐ-BTTTT về Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Bộ Quy
tắc này nhằm đưa ra định hướng và mục tiêu phát triển lành mạnh
mạng xã hội ở Việt Nam, vừa đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền tự do
kinh doanh, không phân biệt đối xử nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài
nước, phù hợp với chuẩn mực, thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia, vừa hướng tới xây dựng chuẩn mực đạo đức về hành
vi, ứng xử trên không gian mạng xã hội, giáo dục ý thức, tạo thói quen
tích cực trong các hành vi ứng xử của người dùng trên mạng xã hội, góp
phần xây dựng môi trường văn hóa truyền thông an toàn, lành mạnh tại
Việt Nam. Ý thức được tầm quan trọng của không gian mạng đối với đời
sống tư tưởng, văn hóa, đạo đức của Nhân dân, nhất là của thế hệ trẻ,
ngày 05/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 311/
QĐ-TTg phê duyệt Chương trình giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
- 288 -

29.9 Page 289

▲back to top
lối sống, văn hóa cho thanh niên, thiếu niên trên không gian mạng giai
đoạn 2022-2030…
Vấn đề nâng cao và hoàn thiện văn hóa ứng xử trên không gian
mạng xã hội sẽ góp phần xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, con người
Việt Nam, bồi dưỡng những lẽ sống đẹp, nuôi dưỡng lý tưởng cao quý,
giúp cho con người vươn tới các chuẩn mực chân - thiện - mỹ, không
ngừng hoàn thiện nhân cách bản thân để xây dựng một xã hội văn minh,
tiến bộ.
Để thực sự nâng cao văn hóa ứng xử trên mạng xã hội ở nước ta,
một số giải pháp cơ bản tiếp tục cần được quan tâm như sau:
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, bổ sung và triển khai thực hiện hiệu quả
hệ thống các văn bản hiện hành, như: Luật Công nghệ thông tin; Luật
An toàn thông tin mạng; Luật An ninh mạng và các luật liên quan, như:
Luật Xuất bản, Luật Báo chí. Đặc biệt, tăng cường việc tuyên truyền, phổ
biến Luật An ninh mạng, Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, nhằm
giúp mỗi người dân hiểu rõ ý nghĩa, giá trị, nội dung, quyền lợi, nghĩa
vụ, trách nhiệm và những hành vi bị cấm liên quan đến văn hóa ứng xử
khi tham gia mạng xã hội, hướng tới xây dựng môi trường mạng lành
mạnh, an toàn. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục trong hệ thống cơ
quan, công sở, nhà trường và trong Nhân dân về đạo đức và trách nhiệm
của người tham gia mạng xã hội, làm cơ sở nền tảng cho việc xác định
thái độ, hành vi văn hóa ứng xử đúng đắn trên không gian mạng xã hội.
Để thiết thực nâng cao văn hóa ứng xử trên không gian mạng xã hội, cần
tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn các tầng lớp Nhân dân về Luật An ninh
mạng (với tất cả những quy định cụ thể về đảm bảo an ninh mạng của
nước ta), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2023 của Chính phủ
về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng và
Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội.
Thứ hai, tăng cường phát huy lợi thế và sở trường của dòng thông
tin chủ lưu, chính thống, chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng
của báo chí trong thông tin tích cực. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra nhận định: Hệ thống
truyền thông đại chúng còn nhiều hạn chế; một số cơ quan báo chí xa
rời tôn chỉ, có biểu hiện thương mại hóa; quản lý mạng xã hội còn bất
cập. Vì vậy, cần phải “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình
thông tin, truyền thông trên internet. Kiên quyết loại bỏ các sản phẩm,
thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định
- 289 -

29.10 Page 290

▲back to top
chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”. Cũng như không ngừng đổi mới
tư duy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các
loại hình truyền thông khác trên internet theo kịp sự phát triển của công
nghệ internet… chủ động, kiên trì thúc đẩy phát triển đúng hướng đi đôi
với quản lý chặt chẽ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu, yêu
cầu: “Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, sử dụng
có hiệu quả các phương tiện truyền thông đại chúng, mạng xã hội theo
hướng thiết thực”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng
cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí,
internet, xuất bản; tăng cường năng lực quản lý không gian mạng. Xây
dựng các cơ quan báo chí, tổ hợp truyền thông chủ lực đủ mạnh để thực
hiện tốt chức năng thông tin tuyên truyền thiết yếu, làm chủ mặt trận
thông tin”. Báo chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của
mình trong thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn
phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp
thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận
quan tâm. Thực hiện đổi mới các đơn vị sản xuất thông tin và thúc đẩy
chuyển đổi số báo chí để góp phần thay đổi nhận thức, nội dung, hình
thức, đặc biệt là cung cấp thông tin kịp thời, chính thống, chính xác, đầy
đủ trên các phương tiện truyền thông, nhất là các vấn đề liên quan đến
lợi ích, mối quan tâm của đông đảo công chúng. Những năm gần đây,
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai hàng năm đều xây dựng Kế hoạch hợp
tác với các cơ quan báo chí tuyên truyền quảng bá về tỉnh, trong đó chú
trọng đến bản sắc văn hóa riêng, đặc thù trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, phối
hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, cơ quan, chính quyền địa phương, xã,
phường, tổ dân phố, khu dân cư, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò
gương mẫu của các bậc phụ huynh trong gia đình và các thầy cô giáo
trong nhà trường làm gương cho giới trẻ noi theo, cùng chung tay góp
sức xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội. Theo dõi, giám sát và
phản bác lại các luận điệu sai trái, mang tính chất thù địch đồng thời
phải xây dựng mạng lưới, kết nối chặt chẽ với Nhân dân trên không gian
mạng xã hội để truyền tải được chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước đến với đời sống hàng ngày của Nhân dân là một
nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra đối với đảng viên trong việc tham gia
mạng xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên khi sử dụng mạng xã hội, cần tuân
thủ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến
việc sử dụng internet, mạng xã hội như: Luật An ninh mạng; Quy định
- 290 -

30 Pages 291-300

▲back to top

30.1 Page 291

▲back to top
số 85-QĐ/TW ngày 07/10/2022 của Ban Bí thư về việc cán bộ, đảng viên
thiết lập và sử dụng trang thông tin điện tử cá nhân trên internet, mạng
xã hội; Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021 của Bộ Thông tin
và Truyền thông về ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Bên
cạnh việc tuân thủ các quy tắc ứng xử khi sử dụng mạng xã hội theo
nghề nghiệp và tổ chức mà mình tham gia, bản thân các cán bộ, đảng
viên có thể tự lập các quy tắc phù hợp cho bản thân mình. Các quy tắc
này nên đồng thời hướng đến trách nhiệm của công dân đồng thời là
trách nhiệm của một cán bộ, đảng viên phải tuân thủ các điều lệ, nội
quy của tổ chức và cơ quan mà mình là thành viên. Giáo dục ý thức,
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao; thực hiện tốt việc bảo vệ bí mật nội bộ của Đảng trong quá
trình làm việc. Đồng thời, nêu cao tinh thần tự giác, chấp hành tốt kỷ
luật trong phát ngôn; không tham gia đánh giá, nhận xét, bình luận trên
các trang mạng xã hội với các nội dung chưa được kiểm chứng; không
chụp ảnh, đăng tải hình ảnh, công việc mang đến bất lợi cho cơ quan,
đơn vị trên các trang mạng xã hội. Đồng thời, cán bộ đảng viên phải biết
phát huy những ưu điểm, lợi ích của mạng xã hội để giáo dục Nhân dân,
người thân cũng như tuyên truyền các chủ trương, đường lối đúng đắn
của Đảng và nhà nước, quảng bá các hình ảnh, tấm gương người tốt,
việc tốt đến với cộng đồng xã hội.
Thứ tư, các cơ quan chức năng tiếp tục xử lý nghiêm khắc, nhanh
chóng, kịp thời đối với các trường hợp vi phạm Luật An ninh mạng, tích
cực sử dụng các giải pháp về khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin hiện
đại để hỗ trợ cho xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội. Bộ Thông
tin và Truyền thông với chức năng quản lý Nhà nước đã thành lập những
bộ phận chuyên trách nhanh chóng phát hiện những bài, tin sai sự thật,
xúc phạm người khác, những hình ảnh phản cảm và kịp thời ngăn chặn
hoặc lập tức gỡ bỏ, để bảo vệ sự trong sạch của môi trường văn hóa
truyền thông trên không gian mạng xã hội. Năm 2021, Trung tâm xử lý
tin giả Việt Nam (VAFC) thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông đã được
thành lập để tiếp nhận, xác minh, công bố tin giả, nâng cao nhận thức
cho người dân về nhận diện tin giả, thông tin xấu, độc trên không gian
mạng và hướng dẫn cách nhận biết, phòng tránh, đối phó với tin giả
(https://tingia.gov.vn/).
Quy trình xử lý của VAFC gồm 3 bước. Đầu tiên là tiếp nhận thông
tin phản ánh thông qua các kênh (cổng tingia.gov.vn, tổng đài 18008108
của Viettel, qua email, fanpage của Cục Phát thanh, Truyền hình và
- 291 -

30.2 Page 292

▲back to top
Thông tin điện tử). Cá nhân, tổ chức có thể gọi điện theo số tổng đài
hoặc email, gửi thông tin trên website của Cục để cung cấp thông tin
về các trang đưa tin sai sự thật, trang giả mạo. Với các trang web hoặc
fanpage đã được xác định là giả, trong thẩm quyền của Bộ Thông tin
và Truyền thông hoàn toàn có thể gỡ bỏ, hoặc yêu cầu các đối tác như
Facebook, Google gỡ bỏ các trang trên. Bước hai là thẩm định, VAFC sẽ
gửi thông tin đến các cơ quan chức năng liên quan để xác nhận đó có
phải là tin giả hoặc website, fanpage giả hay không. Sau khi nhận được
xác thực sẽ công bố tin giả, tin sai sự thật. Bước ba là công bố, gắn nhãn:
Với các tin đã có kết luận của cơ quan chức năng thì công bố, đóng dấu
tin xác thực, đăng thông tin này. Tin do tổ chức, cá nhân phản ánh thì
yêu cầu cung cấp căn cứ, gửi cơ quan chức năng xác thực. Tin giả được
đóng dấu “Tin giả”, đăng vắn tắt nội dung trên trang tingia.gov.vn, trang
fanpage của Cục. Tin sai sự thật, sai một phần thì đóng dấu “Tin sai sự
thật”… Mới đây, Bộ Thông tin và Truyền thông đã kiểm tra toàn diện
mạng xã hội Tiktok và kết luận nhiều sai phạm, buộc mạng xã hội này
phải thực hiện nhiều biện pháp khắc phục, trong đó có các biện pháp
để hạn chế sự xuất hiện hình ảnh, sản phẩm nghệ thuật, biểu diễn…
trên nền tảng TikTok của những nhà sáng tạo nội dung khi vi phạm quy
định pháp luật hoặc vi phạm Quy tắc ứng xử trên không gian mạng.
Định hướng các nhà sáng tạo nội dung không tạo nội dung độc hại, xây
dựng và lan tỏa những nội dung sạch.
Thứ năm, các chủ thể khi tham gia không gian mạng cần trang bị
các kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận
thông tin. Hành động có trách nhiệm trên không gian mạng là cách duy
nhất mà mỗi cá nhân, tổ chức có thể bảo vệ mình, bảo vệ những người
xung quanh và góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tuân thủ pháp
luật. Mới đây, Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử thuộc
Bộ Thông tin và Truyền thông đã phát hành “Cẩm nang phòng chống
tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng” nhằm mục đích nâng cao
nhận thức về trách nhiệm và văn hóa ứng xử trên không gian mạng cho
người dùng internet ở Việt Nam. Trong đó có nhấn mạnh 4 nguyên tắc
hành động có trách nhiệm trên không gian mạng đối với cá nhân: “Suy
nghĩ hai lần trước khi chia sẻ, tải (hoặc đăng), hoặc bình luận video, hình
ảnh, tin tức trên mạng, không thực hiện các thao tác trên nếu không
chắc chắn về thông tin. Kiểm tra, xem xét nguồn tin, tác giả, độ tin cậy
của thông tin. Tôn trọng suy nghĩ và quyền riêng tư của bản thân và của
người khác. Thông báo cho cơ quan có thẩm quyền nếu phát hiện tin
- 292 -

30.3 Page 293

▲back to top
giả, sai sự thật”. Đối với các tổ chức, cơ quan quản lý, cần chủ động cung
cấp thông tin chính xác cho người dân, xác thực, minh bạch thông tin
để tạo niềm tin cho người dân. Còn đối với các cơ quan báo chí phải có
trách nhiệm kiểm chứng thông tin, đưa thông tin chính xác, không chạy
theo nhu cầu giật tít, câu view.
Để có văn hóa ứng xử trên mạng xã hội, người sử dụng mạng xã
hội cần nắm rõ và tuân thủ, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý mạng xã hội,
không lợi dụng mạng xã hội để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cụ
thể cần chấp hành Luật An ninh mạng, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, Bộ
Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội của Bộ Thông tin và Truyền thông. Mọi
hành vi vi phạm pháp luật khi sử dụng mạng xã hội đều bị xử lý nghiêm
theo quy định, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, có thể bị xử phạt vi
phạm hành chính theo Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020
của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu
chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch
điện tử, hoặc có thể bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Đặc biệt đối với những người nổi tiếng, người của công chúng, các
nghệ sĩ cần ứng xử có văn hóa, theo Quy tắc ứng xử của người hoạt động
trong lĩnh vực nghệ thuật đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban
hành ngày 13/12/2021. Trong đó, đặc biệt Điều 8 quy định về quy tắc
ứng xử trên báo chí, truyền thông và không gian mạng của nghệ sĩ cũng
nêu rõ: Cá nhân sử dụng tài khoản mạng xã hội để tương tác, chia sẻ,
đăng tải, cung cấp thông tin chính xác, tin cậy, có lợi ích cho xã hội và
đất nước; bình luận, nhận xét đúng mực, có văn hóa, có trách nhiệm
về những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm; trung thực trong phát
ngôn, bày tỏ và chia sẻ quan điểm đúng đắn, khách quan. Ngoài ra,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã đề xuất xây dựng “Bộ Quy tắc
ứng xử trong từng lĩnh vực, ngành nghề của đời sống xã hội” và được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại “Chiến lược phát triển văn hóa đến
năm 2030”.
Xây dựng môi trường văn hóa số văn minh trong bối cảnh kỷ nguyên
công nghệ mới đã và đang tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ. Hiện
nay, các chuyên gia, các cấp quản lý đã và đang đề xuất rất nhiều giải
pháp nhằm phát triển văn hóa, hành vi ứng xử trên mạng xã hội ở Việt
Nam. Hành vi ứng xử của người dùng mạng xã hội sẽ quyết định đến
- 293 -

30.4 Page 294

▲back to top
tính chất, đặc điểm, chất lượng của môi trường văn hóa. Nhưng trước
khi thực hiện hành vi ứng xử đó, thì người sử dụng mạng trước hết cần
ý thức và chịu trách nhiệm với mỗi hành vi ứng xử của mình. Hy vọng
trong thời gian tới, với sự chung tay của các cấp, các ngành, các tổ chức
xã hội sẽ tăng cường công tác giám sát, quản lý không gian mạng, cũng
như nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân, đặc biệt là thế
hệ trẻ khi tham gia vào môi trường số, từ đó sẽ giúp chỉ số văn minh trên
không gian mạng của Việt Nam được cải thiện rõ rệt hơn. Mạng thì “ảo”
nhưng hậu quả để lại từ việc ứng xử thiếu văn hóa lại “không hề ảo”./.
- 294 -

30.5 Page 295

▲back to top
NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN QUA
CÁC THIẾT CHẾ VĂN HÓA, THỂ THAO
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thiết chế văn hóa là chỉnh thể
văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố: Cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, nhân
sự, quy chế hoạt động, kinh phí… có thể hiểu rằng thiết chế văn hóa là
thuật ngữ dùng để chỉ các cơ quan, đơn vị hoạt động văn hóa do Nhà
nước hoặc cộng đồng xã hội, doanh nghiệp lập ra trong khuôn khổ pháp
luật hoặc quy chế của ngành, của đơn vị, đoàn thể nhằm đáp ứng nhu
cầu văn hóa tinh thần của các tầng lớp Nhân dân, góp phần xây dựng
đời sống văn hóa ở địa phương. Thiết chế văn hóa không chỉ đơn thuần
là những công trình vật chất cụ thể mà bao hàm trong đó là hệ thống
cơ chế, chính sách vận hành, đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý, tổ
chức, nguồn lực tài chính và các chủ thể hoạt động.
Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã luôn quan tâm, ưu
tiên dành nguồn nhân lực cần thiết để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thiết chế văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) của Đảng
đã xác định: Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa. Nâng cao
chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa hiện có, sắp xếp hợp
lý các cơ quan hành chính các đơn vị sự nghiệp và kinh doanh, nâng
cấp các đơn vị văn hóa - nghệ thuật trọng điểm, tạo chất lượng mới
cho ngành văn hóa. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Ðảng khóa XII tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đã khẳng
định: “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của
Ðảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa.
Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực văn hóa
đi đôi với đổi mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục tình trạng
- 295 -

30.6 Page 296

▲back to top
đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm
hiệu quả đầu tư cao trong lĩnh vực văn hóa. Ðổi mới, hoàn thiện các
thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm hiệu quả...”.
1. Kết quả đạt được
Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Kết luận số 501-KL/TU ngày
15/6/2018 về Đề án Nâng cao hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa,
thể thao cơ sở phục vụ Nhân dân trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 và đưa chỉ tiêu thực hiện hiệu quả hoạt động của
các thiết chế văn hóa, thể thao vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
nhiệm kỳ 2020-2025, cụ thể: 100% Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể
thao cấp huyện; Trung tâm Văn hóa, thể thao - Học tập cộng đồng cấp xã
(Trung tâm VHTT-HTCĐ) hoạt động hiệu quả; 90% Nhà văn hóa - Khu
thể thao ấp, khu phố (Nhà văn hóa) hoạt động hiệu quả; HĐND tỉnh ban
hành Nghị quyết số 139/2018/NQ-HĐND ngày 07/12/2018 Quy định về
tổ chức nhân sự và chế độ hỗ trợ đối với Trung tâm VHTT-HTCĐ xã, Nhà
văn hóa - Khu thể thao ấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và UBND tỉnh ban
hành Quyết định số 1079/QĐ-UBND ngày 05/4/2021 về Ban hành Bộ
tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Bên cạnh đó tỉnh luôn quan tâm chỉ đạo các
đơn vị, các ngành, các cấp quan tâm các nội dung như: Quy hoạch đất,
đầu tư kinh phí, huy động các nguồn lực để xây dựng các thiết chế văn
hóa, thể thao cụ thể: Trung tâm VHTT-HTCĐ cấp xã; Nhà văn hóa ấp,
khu phố; Nhà văn hóa dân tộc…, phục vụ nhu cầu thiết thực của Nhân
dân. Các cấp các ngành, địa phương đã quan tâm đầu tư ngân sách để
xây dựng hệ thống các thiết chế văn hóa và hỗ trợ trang thiết bị cho các
xã, nhất là các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh.
Đến nay, toàn tỉnh có 8 thiết chế văn hóa, thể thao cấp tỉnh, 11/11
huyện, thành phố đã sáp nhập các thiết chế văn hóa thành Trung tâm
Văn hóa, Thông tin và Thể thao; có 152/170 xã, phường, thị trấn có
Trung tâm VHTT-HTCĐ, đạt tỷ lệ 89,4%; có 859/925 ấp, khu phố có Nhà
văn hóa - Khu thể thao, đạt tỷ lệ 92% và có 14 Nhà văn hóa dân tộc. Bên
cạnh đó còn có một số thiết chế văn hóa khác, được xây dựng từ nguồn
xã hội hóa.
Hầu hết các thiết chế văn hóa, thể thao sau khi xây dựng và đưa vào
hoạt động đã phát huy hiệu quả khá tốt trong việc tổ chức các hoạt động
- 296 -

30.7 Page 297

▲back to top
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, thu hút đông đảo đồng bào đến
giao lưu, học hỏi, sáng tạo văn hóa, tạo không khí sinh hoạt văn hóa thể
thao vui tươi, lành mạnh gắn với các hoạt động tuyên truyền, giáo dục,
học tập, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, góp
phần thực hiện dân chủ ở cơ sở, ổn định chính trị, giữ vững an ninh trật
tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội; sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai. Có thể nói rằng,
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh trong những năm
qua đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao trình độ dân trí và xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở ngày càng phong phú, đa dạng, góp phần
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy kinh tế, văn hóa
xã hội của địa phương phát triển.
Công tác bố trí cán bộ quản lý đã được triển khai thực hiện đảm bảo
theo quy định tại các thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
Nghị quyết số 139/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng
Nai. Các Trung tâm VHTT-HTCĐ xã, phường, thị trấn và Nhà Văn hóa
trên địa bàn tỉnh thường xuyên được duy tu bảo dưỡng và được trang
bị đồng bộ về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị. Thường xuyên đổi
mới các hoạt động để thu hút đông đảo người dân đến sinh hoạt, hưởng
thụ văn hóa, luyện tập thể dục, thể thao, vui chơi giải trí và học tập cộng
đồng. Việc huy động nguồn lực và công tác xã hội hóa tại thiết chế văn
hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh được một số địa phương triển khai thực
hiện khá tốt và tổ chức hoạt động hiệu quả như thành phố Biên Hòa,
thành phố Long Khánh, các huyện Trảng Bom, Long Thành, Vĩnh Cửu,
Xuân Lộc. Một số địa phương đã linh động sử dụng chung cơ sở vật chất
của Trung tâm VHTT-HTCĐ cấp xã và Nhà văn hóa ấp tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân đến tham gia sinh hoạt và để tiết kiệm nguồn
kinh phí đầu tư xây dựng.
Thực tiễn cho thấy hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao đóng vai trò
quan trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bởi:
Thứ nhất, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao giữ vai trò nòng cốt
trong tổ chức các hoạt động tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính
trị, xã hội tại địa phương.
Thứ hai, thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở đã trở thành nơi sinh hoạt
cộng đồng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, sáng tạo văn hóa của
Nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- 297 -

30.8 Page 298

▲back to top
Thứ ba, thiết chế văn hóa, thể thao không chỉ là nơi người dân
hưởng thụ giá trị văn hóa mà còn là nơi kích thích, ươm mầm cho những
ý tưởng, khát vọng sáng tạo; nơi trao truyền, quảng bá, lan toả những
sản phẩm văn hóa; nơi người dân trình diễn, sinh hoạt nghệ thuật dân
gian từ đó phát huy sức mạnh đại đoàn kết của Nhân dân, giúp họ thêm
yêu quý và gắn bó với quê hương.
Thứ tư, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao có vai trò quan trọng
trong thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất
là trong việc xây dựng nông thôn mới. Trong 19 tiêu chí để được công
nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới có tiêu chí: Nhà văn hóa và khu thể
thao xã đạt chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; tỷ lệ thôn có nhà
văn hóa và khu thể thao thôn đạt chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch là 100%. Tiêu chí này, một mặt, góp phần xây dựng nông thôn
mới; mặt khác, tạo điều kiện để người dân nông thôn nâng cao mức thụ
hưởng văn hóa, khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn
hóa của Nhân dân giữa thành thị và nông thôn.
Tóm lại, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh hiện
nay cơ bản đã đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của các
tầng lớp Nhân dân, đồng thời làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, phục vụ
các nhiệm vụ chính trị của tỉnh và địa phương.
2. Tồn tại, hạn chế
- Công tác chỉ đạo các hoạt động văn hóa, thể thao ở cơ sở hiệu quả
chưa cao, chưa đáp ứng được nhiệm vụ mới. Phong trào hoạt động văn
hóa, thể thao ở cơ sở đã có nhưng chưa ổn định, phát triển không đồng
đều, chất lượng chưa cao. Một số Trung tâm VHTT-HTCĐ cấp xã, Nhà
văn hóa ấp, khu phố xây dựng cách xa khu dân cư nên việc tổ chức các
hoạt động còn hạn chế. Hoạt động của Nhà văn hóa ấp, khu phố chủ
yếu là tổ chức sinh hoạt chi bộ, các cuộc họp của ấp, khu phố và tuyên
truyền của chính quyền, đoàn thể; chưa chú trọng xây dựng nhiều mô
hình vui chơi, giải trí, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao
thường xuyên cho Nhân dân.
- Đội ngũ cán bộ phụ trách hoạt động tại Trung tâm VHTT-HTCĐ và
Nhà văn hóa còn bất cập về năng lực và chuyên môn nghiệp vụ, nhiều
địa phương bố trí cán bộ chưa qua đào tạo về chuyên môn (quản lý văn
hóa) và kiêm nhiệm thêm nhiều chức vụ khác, ảnh hưởng đến công tác
tổ chức hoạt động tại các thiết chế văn hóa.
- Nội dung hoạt động còn đơn điệu, không được duy trì thường
xuyên, chỉ mới tập trung vào một số hoạt động mang tính thời điểm,
- 298 -

30.9 Page 299

▲back to top
trọng điểm; chưa xây dựng được nhiều mô hình hiệu quả chất lượng.
- Chủ nhiệm Nhà văn hóa ấp, khu phố còn gặp nhiều khó khăn
trong quá trình tổ chức các hoạt động do số cán bộ này đa phần lớn
tuổi, thường xuyên thay đổi, thiếu kỹ năng chuyên môn. Kinh phí hoạt
động thường xuyên của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở đã được
cấp theo quy định (Trung tâm VHTT-HTCĐ 65 triệu/năm, Nhà văn hóa
ấp 15 triệu/năm) trong đó có cả việc chi phụ cấp kiêm nhiệm, chỉ đảm
bảo nhu cầu tối thiểu do đó chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Việc
huy động xã hội hóa tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở còn gặp
vướng mắc trong việc liên doanh, liên kết để tư nhân vào đầu tư cơ sở
vật chất, khai thác hiệu quả hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể thao
(Luật Quản lý, sử dụng tài sản công).Việc bố trí nguồn quỹ đất xây dựng,
mở rộng Nhà văn hóa, khu thể thao các ấp, khu phố gặp nhiều khó khăn
vì khi quy hoạch quỹ đất cho văn hóa - thể thao đều phải ở trong khu
dân cư.
* Nguyên nhân hạn chế:
- Chưa có cơ chế, chính sách liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá
nhân trong việc sử dụng cơ sở vật chất đã được nhà nước đầu tư để tổ
chức hiệu quả các hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở.
- Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về lĩnh vực văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao chưa đầy đủ, chưa đúng mức. Vẫn còn một số cấp
ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự tâm huyết, chủ động tạo điều
kiện quan tâm chỉ đạo sâu sát việc duy tu, bảo dưỡng cơ sở vật chất và
trang thiết bị để phát huy hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa,
thể thao cơ sở.
- Một số nơi, Ban Giám đốc Trung tâm, Chủ nhiệm Nhà văn hóa chưa
làm tốt chức năng tham mưu đối với cấp ủy, chính quyền địa phương,
chưa xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể, chưa xây dựng kinh phí hoạt
động hàng năm nên hiệu quả hoạt động không cao... Một số Ban Chủ
nhiệm Nhà văn hóa ấp, khu phố còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng về tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thục thể thao tại cơ
sở (đa số đều là cán bộ lớn tuổi, hưu trí), do đó chưa phát huy hết công
năng vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của thiết
chế văn hóa, thể thao cơ sở.
- Việc huy động xã hội hóa cho các hoạt động tại các thiết chế văn
hóa, thể thao cơ sở gặp nhiều khó khăn nhất là đối với vùng sâu vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc ít người.
- 299 -

30.10 Page 300

▲back to top
3. Bài học kinh nghiệm
- UBND tỉnh đã kịp thời ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Kết
luận số 501-KL/TU ngày 15/6/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
(Khóa X) về Đề án “Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn
hóa, thể thao cơ sở phục vụ Nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030”. Đồng thời, tham mưu Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh đưa chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của thiết
chế văn hóa, thể thao cơ sở vào chỉ tiêu nghị quyết của Đảng bộ tỉnh để
các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện đồng bộ.
- Cấp ủy, UBND huyện, thành phố đưa chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
hoạt động của thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở vào chỉ tiêu nghị quyết,
kế hoạch hàng năm và giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, ban ngành,
đoàn thể huyện, thành phố và UBND các xã, phường, thị trấn trên địa
bàn thực hiện.
- Các Sở, ban ngành, đoàn thể đã phối hợp với địa phương tổ chức
tập huấn, hướng dẫn Ban Giám đốc các Trung tâm VHTT-HTCĐ cấp xã
và Ban Chủ nhiệm Nhà văn hóa ấp, khu phố xây dựng chương trình, kế
hoạch hoạt động hàng năm; hướng dẫn cán bộ cơ sở xây dựng các Câu
lạc bộ văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao; thường xuyên thực hiện công
tác kiểm tra công tác quản lý và tổ chức hoạt động.
- Thực hiện giao ban với Ban Giám đốc các đơn vị sự nghiệp thuộc
ngành Văn hóa và Thông tin, Ban Giám đốc các Trung tâm VHTT-HTCĐ
theo định kỳ nhằm kịp thời triển khai những nội dung, quy định, hướng
dẫn hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở thực hiện đồng
bộ và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Việc xây dựng, đầu tư và tổ chức hoạt động tại các thiết chế văn
hóa thể thao của các cấp đòi hỏi người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có
sự tâm huyết, quan tâm chỉ đạo sâu sát để phát huy hiệu quả các thiết
chế văn hóa thể thao cơ sở. Việc đầu tư xây dựng cần đảm bảo được vị
trí, địa điểm xây dựng gần khu dân cư, các trang thiết bị bên trong phải
đạt chuẩn theo quy định.
- Sử dụng nguồn kinh phí hoạt động đúng mục đích, nguyên tắc và
công khai việc thu chi theo quy định.
4. Những giải pháp nâng cao hiệu quả
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền giáo dục phổ biến quán
triệt các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đảng viên và Nhân dân. Tập
- 300 -

31 Pages 301-310

▲back to top

31.1 Page 301

▲back to top
trung tuyên truyền, vận động cán bộ và Nhân dân thực hiện tốt Nghị
quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước; Kế hoạch số 11129/KH-UBND ngày
19/10/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai về thực hiện Kết luận số 501-KL/
TU ngày 15/6/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khóa X) về Đề án
“Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ
sở phục vụ Nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030”. Tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia các
hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí tại các thiết chế văn hóa, thể
thao nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra.
- Đưa mục tiêu phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao vào
Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kế hoạch của UBND các cấp để tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu nghị
quyết đề ra. Đẩy mạnh công tác quy hoạch, đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, hướng dẫn viên, cộng tác
viên và đảm bảo kinh phí hoạt động cho Trung tâm VHTT-HTCĐ xã và
Nhà văn hóa các ấp.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa
phương trong việc tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động của
các thiết chế văn hóa; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của Ban Giám
đốc các Trung tâm, Ban Chủ nhiệm Nhà văn hóa trong quá trình tham
mưu tổ chức thực hiện các hoạt động. Thường xuyên kiểm tra công tác
quản lý, tổ chức các hoạt động, tổ chức sơ kết, tổng kết nhằm phát hiện
và nhân rộng các mô hình hoạt động hiệu quả của các thiết chế văn hóa,
thể thao trên địa bàn.
- Củng cố, xây dựng mới, sửa chữa đầu tư trang thiết bị, tạo cảnh
quan môi trường xanh sạch đẹp, cho các thiết chế văn hóa, thể thao. Tổ
chức các hoạt động học tập, văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí, thể dục
thể thao, thường xuyên thu hút đông đảo người dân đến sinh hoạt tại
thiết chế văn hóa, thể thao.
- Đổi mới nội dung hoạt động, phát triển các loại hình câu lạc bộ về
văn hóa, chú trọng tổ chức các hoạt động như: Liên hoan, hội thi, hội
diễn văn nghệ quần chúng, lễ hội, các hoạt động thể dục thể thao; tổ
chức các loại hình vui chơi giải trí phù hợp với các đối tượng, tầng lớp
Nhân dân ở cơ sở, thu hút đông đảo người dân tham gia, phát huy vai
trò chủ động, tích cực, sáng tạo của người dân trong xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở; góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho
Nhân dân.
- 301 -

31.2 Page 302

▲back to top
- Chú trọng công tác đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý và cộng
tác viên tại các Trung tâm VHTT-HTCĐ và Nhà văn hóa ấp, khu phố.
Tăng cường sự phối hợp của các ngành chuyên môn cấp tỉnh, cấp
huyện, hỗ trợ cán bộ nghiệp vụ xuống cơ sở hướng dẫn Trung tâm xây
dựng các câu lạc bộ theo sở thích văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao.
Khuyến khích, tạo điều kiện các huấn luyện viên, cộng tác viên có trình
độ chuyên môn tham gia tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Tổ chức học tập
trao đổi kinh nghiệm, tuyên dương và nhân rộng các mô hình, cách làm
hay trên địa bàn.
- Đảm bảo kinh phí ngân sách hỗ trợ hoạt động cho Trung tâm
VHTT-HTCĐ và Nhà văn hóa - Khu thể thao ấp, khu phố hàng năm.
- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, vận động doanh nghiệp, cá nhân
và Nhân dân tự nguyện đóng góp kinh phí đầu tư xây dựng, sửa chữa cơ
sở vật chất, mua sắm trang thiết bị và xây dựng quỹ để duy trì hoạt động
thường xuyên của Trung tâm, Nhà văn hóa - Khu thể thao ấp, khu phố;
khuyến khích tư nhân đầu tư xây dựng các dịch vụ văn hóa, vui chơi,
giải trí tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Tạo điều kiện cho các cá
nhân, tổ chức mở các câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, các
lớp học năng khiếu... nhằm đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp Nhân dân
địa phương.
5. Đề xuất, kiến nghị
- Các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn về chính sách ưu đãi đất
đai, nhất là về lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch chưa phải là ngành
được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư. Do đó việc
triển khai các chính sách ưu đãi trong các Luật trên còn gặp khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn nên cần được nghiên cứu để có những quy
định ưu đãi cụ thể hơn trong dự thảo Luật Đất đai, nhằm bảo đảm tính
khả thi của các chính sách ưu đãi trong pháp luật chuyên ngành; cần bổ
sung một quy định mang tính chất khung làm cơ sở pháp lý để các văn
bản quy định chi tiết Luật Đất đai quy định về vấn đề này, tạo cơ sở để
khi thực hiện quy hoạch của các địa phương, cơ quan, đơn vị dành quỹ
đất phù hợp (về diện tích, vị trí…) cho phát triển văn hóa, thể thao và
du lịch; hướng dẫn chính sách đặc thù cho thiết chế văn hóa, thể thao ở
cơ sở (thiết chế văn hóa, thể thao Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Trung
tâm Văn hóa Thể thao cấp xã, Nhà văn hóa-Khu thể thao thôn và tương
đương); hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách liên kết với các tổ chức,
cá nhân trong việc sử dụng cơ sở vật chất đã được nhà nước đầu tư để
- 302 -

31.3 Page 303

▲back to top
tổ chức hiệu quả các hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở
nhằm khuyến khích xã hội hóa, huy động các nguồn lực hợp pháp từ các
tổ chức, cá nhân tiếp tục đầu tư và tổ chức hoạt động của thiết chế văn
hóa, thể thao cơ sở; hướng dẫn các địa phương về xây dựng và ban hành
cơ chế, chính sách về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật đối với thiết chế văn
hóa, thể thao cơ sở theo thẩm quyền chính sách đặc thù đối với nguồn
nhân lực tại thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở.
- Liên đoàn Lao động và các tổ chức chính trị xã hội các cấp phối
hợp với ngành văn hóa, thể thao và du lịch xây dựng kế hoạch tổ chức
các hoạt động văn hóa-nghệ thuật, thể dục thể thao cho công nhân,
người lao động tại thiết chế văn hóa, thể thao trên địa bàn. Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, vận động nhằm chuyển biến và nâng cao nhận
thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành đoàn thể, doanh
nghiệp, cán bộ, đảng viên và người dân trong toàn xã hội về vai trò, vị trí,
lợi ích của việc phát triển thiết chế văn hóa, thể thao các cấp./.
- 303 -

31.4 Page 304

▲back to top
XÂY DỰNG VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG TRONG
TRƯỜNG HỌC TRÊN ĐỊA BÀN ĐỒNG NAI
Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, các đoàn
thể chính trị - xã hội đặc biệt quan tâm công tác giáo dục đạo đức, lối
sống văn hóa cho học sinh, sinh viên, coi công tác này làm nền tảng
trong việc giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ. Từ Nghị quyết số 29-NQ/
TW của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
Nghị quyết số 33/NQ-TW của Trung ương về Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
và gần đây nhất, Quyết định số 1299/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn
2018-2025 và Thông tư số 06/2019/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định Quy tắc ứng xử trong các cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở
giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên với mục tiêu “Tăng
cường xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học nhằm xây dựng văn
hóa trường học lành mạnh, thân thiện; tạo chuyển biến căn bản về ứng
xử văn hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh, sinh viên
để phát triển năng lực, hoàn thiện nhân cách, lối sống văn hóa; nâng cao
chất lượng giáo dục đào tạo; góp phần xây dựng con người Việt Nam:
yêu nước, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Văn hóa ứng xử trong trường học được xem là hệ giá trị, tư tưởng,
nhận thức về quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong nhà trường với
các sự vật, hiện tượng xung quanh và với chính bản thân mỗi người,
được thể hiện qua thái độ, hành vi, ngôn ngữ theo những chuẩn mực
văn hóa, đạo đức được xã hội thừa nhận và được nhà trường quy định.
Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học sẽ tạo ra văn hóa học đường
và động lực để hoàn thiện, phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ và lối
sống tốt đẹp của cán bộ quản lý, nhà giáo, học sinh.
- 304 -

31.5 Page 305

▲back to top
Thời gian qua, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã nhận được sự
quan tâm lãnh đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tỉnh ủy, đặc biệt là chỉ
đạo của UBND tỉnh bằng việc ban hành các kế hoạch để hiện thực như:
Kế hoạch số 1963/KH-UBND ngày 18/3/2016 về triển khai Đề án Tăng
cường công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho
thanh, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020 trên địa bàn tỉnh;
Kế hoạch số 2525/KH-UBND ngày 12/3/2021 tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (Khóa XI) về Xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Kế hoạch số 8554/KH-UBND
ngày 22/7/2021 về truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung
xây dựng con người Đồng Nai phát triển toàn diện; Kế hoạch số 16416/
KH-UBND ngày 30/12/2021 về triển khai thực hiện Chương trình Tăng
cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống và khơi dậy khát
vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2021-
2030 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai… Đặc biệt, đó là Kế hoạch số 1839/
KHUBND ngày 20/02/2019 về triển khai Đề án Xây dựng văn hóa ứng
xử trong trường học trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh, giai đoạn
2018-2025, đây thực sự là những thuận lợi để ngành Giáo dục và Đào tạo
thực hiện hiệu quả Bộ Quy tắc ứng xử trường học gắn với thực hiện Đề
án Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học trong các cơ sở giáo dục
trên địa bàn tỉnh.
Tính đến nay, sau bốn năm thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trường
học gắn với xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học, ngành Giáo dục
và Đào tạo đã đạt được những kết quả rất khả quan, theo đó, 100% các
phòng Giáo dục và Đào tạo, các trường THPT và đơn vị trực thuộc đã
xây dựng, triển khai và nghiêm túc thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trong
trường học cũng như xây dựng, sử dụng khẩu hiệu trong trường học
theo mẫu chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; 100% cán bộ
quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh, học viên, sinh viên được tuyên
truyền, phổ biến, tập huấn, học tập kinh nghiệm, giao lưu, tọa đàm…
các vấn đề liên quan đến văn hóa ứng xử, môi trường văn hóa trong gia
đình, nhà trường và cộng đồng; 90% cán bộ quản lý, cán bộ Công đoàn
giáo dục, giáo viên làm Bí thư Đoàn Thanh niên, giáo viên làm Tổng phụ
trách Đội trong nhà trường được tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực
ứng xử văn hóa và bồi dưỡng kỹ năng tổ chức giáo dục văn hóa ứng xử
trong trường học; 100% các trường phổ thông đã tổ chức các hoạt động
ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm… nhằm tạo môi trường thực hành
- 305 -

31.6 Page 306

▲back to top
kỹ năng sống trong thực tế, góp phần xây dựng đạo đức và nhân cách
cho học sinh.
Để có được những con số biết nói như trên, ngành Giáo dục và Đào
tạo đã chú trọng vào sáu nhóm nhiệm vụ và giải pháp như sau:
Thứ nhất, thực hiện tuyên truyền nâng cao nhận thức về triển khai
Bộ Quy tắc ứng xử trường học gắn với xây dựng văn hóa ứng xử trong
trường học.
Tuyên truyền trong đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân
viên, học sinh, gia đình và xã hội về các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong giáo dục đạo đức, lối sống,
văn hóa ứng xử trong trường học; mục đích, ý nghĩa, biện pháp, trách
nhiệm của nhà trường, gia đình người học, tổ chức, đoàn thể, chính
quyền địa phương đối với việc xây dựng văn hóa ứng xử trong trường
học; về thái độ, hành vi, ngôn ngữ, chuẩn mực của người học, nhà giáo,
cán bộ, nhân viên trong các cơ sở giáo dục. Theo đó, nội dung Đề án
1501/QĐ-TTg, Chỉ thị 31/CT-TTg, Đề án 1299/QĐ-TTg… đã được Sở
Giáo dục và Đào tạo triển khai sâu rộng trong toàn ngành.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trong trường học
gắn với thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở và quy định về đạo đức nhà
giáo.
- Các đơn vị, trường học đã thực hiện hướng dẫn, nhận ý kiến góp
ý, xây dựng, hoàn thiện và triển khai Bộ quy tắc ứng xử trong trường học
đối với các cấp học với sự tham gia và cam kết của các thành viên trong
nhà trường và của phụ học sinh, đảm bảo định hướng giáo dục đạo đức,
lối sống và hoàn thiện nhân cách cho học sinh, phù hợp với chuẩn mực
đạo đức của xã hội, đảm tính dân chủ và nhân văn... 100% cán bộ quản
lý nhà trường đã thực hiện quán triệt đến toàn thể cán bộ quản lý, nhà
giáo, nhân viên và người học biết, niêm yết tại các bảng tin, bảng thông
báo, website nhà trường, trong phòng học, phòng làm việc, hội trường
của nhà trường; phòng họp hội đồng, gửi tới từng thành viên trong nhà
trường qua hệ thống email, hệ thống liên lạc điện tử, qua trang mạng xã
hội của đơn vị, nhà trường...
- Đồng thời, nội dung về văn hóa ứng xử trong trường học còn được
chú trọng triển khai lồng ghép thông qua các hội nghị viên chức, hoạt
động hội họp, hoạt động phong trào trong nhà trường, hoạt động dưới
cờ, giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm, hoạt động của
Ban đại diện phụ huynh học sinh nhằm thực hiện hiệu quả Quy chế dân
chủ cơ sở và Quy định về đạo đức nhà giáo... Bên cạnh đó, thư viện các
- 306 -

31.7 Page 307

▲back to top
trường học đã tăng cường trang bị và phát động, khuyến khích học sinh
trao đổi các đầu sách giáo dục đạo đức, văn hóa ứng xử cho thư viện nhà
trường để giáo viên, học sinh giao lưu, trao đổi tài liệu, học liệu, cùng
đọc, tìm hiểu và thực hiện.
Thứ ba, chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục văn hóa
ứng xử trong trường học.
- Thực hiện phong phú nội dung giáo dục văn hóa ứng xử.
+ Các cơ sở giáo dục mầm non đã bổ sung những nội dung giáo dục
văn hóa ứng xử trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường
mầm non, trong các chuyên đề lễ giáo, hoạt động giáo dục... góp phần
hình thành và phát triển ở trẻ em ý thức, hành vi ứng xử phù hợp với độ
tuổi.
+ Các trường phổ thông đã xây dựng và thực hiện Bộ quy tắc ứng
xử trường học gắn với hướng dẫn cụ thể trong thực hiện nếp sống, thói
quen văn minh, lịch sự đối với các chủ thể trong trường học, lựa chọn
các nội dung giáo dục văn hóa ứng xử, lối sống văn hóa có giá trị và phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý, tình cảm của học sinh; giáo dục ý thức
tuân thủ pháp luật, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống để hình thành ý
thức tôn trọng bản thân; giáo dục tình đoàn kết,trách nhiệm, chia sẻ,
bao dung, nhân ái với mọi người xung quanh thông qua các hoạt động
quyên góp, từ thiện, tình nguyện vì cộng đồng...
- Tích cực đổi mới phương pháp giáo dục văn hóa ứng xử trong
trường học.
+ Thông qua giảng dạy, lồng ghép tích hợp: Các môn học Đạo đức,
Giáo dục công dân, Ngữ văn, Lịch sử... đã được các đơn vị triển khai theo
hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học, coi trọng phương
pháp trải nghiệm và phát huy lợi thế của các hoạt động giáo dục ngoại
khóa, giáo dục kỹ năng sống để hình thành kỹ năng giao tiếp, ứng xử văn
hóa, giáo dục kiến thức pháp luật, giáo dục công dân cho học sinh.
+ Thông qua tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khóa, hội thi, hội
diễn, diễn đàn, tọa đàm, đối thoại, sinh hoạt câu lạc bộ...; đặc biệt phát
huy vai trò hướng dẫn về ứng xử văn hóa của các học sinh khóa trên,
đội ngũ cán bộ lớp, chi đoàn, chi đội đối với các học sinh lớp sau, khóa
sau; triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với
từng cấp học; triển khai hiệu quả các mô hình giáo dục dưới cờ, tham
gia chăm sóc và viếng Nghĩa trang liệt sĩ, thăm gia đình có công với cách
- 307 -

31.8 Page 308

▲back to top
mạng và các hoạt động tập thể mang tính giáo dục truyền thống do các
tổ chức đoàn thể trong nhà trường tổ chức đã thu hút đông đảo học
sinh, học viên tham gia một cách tự nguyện.
+ Thông qua tổ chức các chương trình truyền thông trực tiếp: Từ
2019 đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức được 206 lớp truyền thông cấp tỉnh
cho trên 195.000 học sinh các trường phổ thông về giáo dục truyền
thống, giáo dục kiến thức pháp luật, giáo dục kỹ năng sống, phòng,
chống bạo lực học đường và xây dựng tình bạn đẹp trong trường học...
+ Thông qua mạng xã hội: Năm 2020, Sở Giáo dục và Đào tạo đã
triển khai truyền thông trên trang fanpage Thông tin Giáo dục Đồng
Nai, hiện trang có gần 88.000 người theo dõi và gần 75.000 lượt người
thích. Hàng năm, chia sẻ khoảng trên 1.300 tin, bài có nội dung giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử; tư
vấn phân luồng, hướng nghiệp, tư vấn tuyển sinh; chia sẻ mô hình hay,
cách làm sáng tạo... thu hút đông đảo phụ huynh, giáo viên, học sinh,
người dân theo dõi, chia sẻ, đóng góp ý kiến... Sở Giáo dục và Đào tạo
cũng đã hướng dẫn 100% các đơn vị, trường học thành lập được trên
1.200 trang fanpage để chia sẻ, đăng tải, kết nối thông tin về giáo dục và
đào tạo, giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh.
+ Thông qua hoạt động hiệu quả của 100% các tổ tư vấn tâm lý học
đường đảm bảo theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với hoạt
động tư vấn tâm lý, công tác xã hội trong trường học.
+ Thông qua các hoạt động xã hội, từ thiện, quyên góp ủng hộ: Sở
Giáo dục và Đào tạo thường xuyên khuyến khích các đơn vị trường học
triển khai, tổ chức các chương trình “Cây mùa Xuân” ”Giúp bạn vượt
khó”...; đặc biệt đã phát động, quyên góp được số tiền 4,5 tỷ đồng ủng
hộ cán bộ, giáo viên, học sinh miền Trung trong lũ lụt năm 2020, qua đó
góp phần giáo dục tinh thần tương thân tương ái, tình đoàn kết, sẻ chia
cho cán bộ, giáo viên, học sinh toàn tỉnh.
Thứ tư, nâng cao năng lực ứng xử và năng lực giáo dục ứng xử.
- Trong các hội nghị triển khai nhiệm vụ và các hội nghị tập huấn
chuyên đề, ngành Giáo dục và Đào tạo đã chủ động kết hợp triển khai
các chuyên đề về “Ứng xử văn hóa trong trường học”, “Phòng chống bạo
lực học đường”, “Xây dựng trường học hạnh phúc”... cho đội ngũ cán bộ
quản lý và giáo viên tại các đơn vị. Đồng thời, trong các hội nghị tổng kết
nhiệm vụ năm học, tổng kết nhiệm vụ chuyên môn từng cấp học, các
hội nghị chuyên đề khác, cũng đã chủ động triển khai các tham luận về
xây dựng văn hóa học đường của một số đơn vị tiêu biểu với những cách
- 308 -

31.9 Page 309

▲back to top
làm hay, sáng tạo, phát huy dân chủ trong đội ngũ cán bộ quản lý, giáo
viên, nhân viên và học sinh nhà trường để các đơn vị, trường học tham
khảo, học hỏi.
- Tại các cơ sở giáo dục đã tổ chức các chương trình giao lưu, tọa
đàm liên quan đến văn hóa ứng xử, môi trường văn hóa trong gia đình,
nhà trường và cộng đồng, xây dựng tình bạn đẹp... thu hút cán bộ, giáo
viên, nhân viên và học sinh tham gia.
Thứ năm, tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội trong xây dựng văn hóa ứng xử.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình: Sở Giáo dục và Đào tạo
đã ký kết phối hợp với 16 sở, ngành, đoàn thể trong công tác chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ học sinh; trong đó, đặc biệt quan tâm đến phối hợp
với Công an tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Tỉnh Đoàn… để triển khai
các đề án có liên quan, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho
người dân, các bậc phụ huynh về quyền, bổn phận của trẻ em; mục tiêu
giáo dục toàn diện và hài hòa về đức, trí, thể, mỹ nhằm phát triển tốt
nhất tiềm năng của mỗi học sinh; nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của gia đình trong việc nuôi dạy con, điều chỉnh hành vi phù hợp trong
ứng xử gia đình để làm gương cho con cháu.
- Xây dựng môi trường nhà trường dân chủ, lành mạnh, thân thiện.
+ Sở Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các trường phổ thông thành
lập tổ tư vấn tâm lý học đường; thực hiện nghiêm túc việc hát Quốc ca
đầu tuần và treo khẩu hiệu trong khuôn viên nhà trường đảm bảo theo
hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; cập nhật trang thông tin điện
tử, trang mạng xã hội để tiếp thu, trao đổi, phản ánh và xử lý thông tin từ
người học, cán bộ, nhà giáo, nhân viên nhà trường, gia đình người học,
các cá nhân có liên quan khác về văn hóa ứng xử trong trường học, ứng
xử trên môi trường mạng của các thành viên trong nhà trường…
+ Tổ chức các buổi họp phụ huynh, các buổi chia sẻ gặp gỡ với nhà
trường, gửi thư điện tử, gửi tin nhắn để kết nối phụ huynh tăng cường
trách nhiệm trong việc phối hợp với nhà trường cập nhật, trao đổi thông
tin, xử lý các tình huống có liên quan với con, em mình; tôn trọng và tạo
điều kiện để con em tham gia đầy đủ, hiệu quả, nghiêm túc kế hoạch
tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường, nhất là các hoạt động
liên quan đến xây dựng văn hóa ứng xử thông qua các hoạt động trải
nghiệm, hoạt động ngoại khóa.
- 309 -

31.10 Page 310

▲back to top
Thứ sáu, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và xử lý về thực hiện
nhiệm vụ xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học.
- Sở Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường công tác kiểm tra cải cách
hành chính thông qua tổ chức đánh giá nội bộ và kiểm tra về cải cách
hành chính, thực hiện kỷ cương hành chính tại các Phòng Giáo dục và
Đào tạo, các trường THPT. Thông qua đó, đã gắn công tác thực hiện Bộ
Quy tắc ứng xử trong trường học, thực hiện nội quy trường học tại các
đơn vị.
- Sở Giáo dục và Đào tạo đã thành lập các đoàn kiểm tra công tác
triển khai nhiệm vụ chính trị và công tác học sinh sinh viên tại các đơn
vị trường học nhằm tăng cường công tác hướng dẫn việc thực hiện nghị
định của Chính phủ về quy định môi trường giáo dục an toàn, lành
mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường; việc áp dụng quy
trình xử lý các tình huống bạo lực học đường cũng như công tác triển
khai Bộ Quy tắc ứng xử trong trường học.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác xây dựng văn
hóa học đường trên địa bàn tỉnh vẫn còn có một số hạn chế như:
- Việc phối hợp giữa nhà trường với gia đình và các cơ quan chức
năng địa phương trong việc quản lý học sinh, ngăn chặn tác hại của tệ
nạn xã hội, những nguy cơ ảnh hưởng đến đạo đức lối sống cho học sinh
vẫn còn đôi lúc, đôi chỗ chưa chặt chẽ, tình hình an ninh trật tự trong
học sinh còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết.
- Việc giáo dục kỹ năng sống, tư vấn tâm lý, thực hiện công tác xã
hội trong trường học dù đã được quan tâm chỉ đạo và tổ chức các đợt,
các lớp tập huấn, truyền thông, được tăng cường tích hợp trong giảng
dạy, tuy nhiên trên địa bàn tỉnh vẫn còn xảy ra những vụ việc đáng tiếc
liên quan đến vi phạm chuẩn mực đối với giáo viên, hoặc các hành vi vi
phạm nội quy nhà trường, vi phạm pháp luật của một bộ phận nhỏ cán
bộ quản lý, giáo viên và học sinh.
Những hạn chế trên được cho là xuất phát từ những nguyên nhân:
Về khách quan: Sự tác động của mặt trái xã hội và việc học sinh truy
cập, sử dụng mạng xã hội có nội dung xấu ngày càng phổ biến đã phần
nào ảnh hưởng tư tưởng, đạo đức, lối sống, suy nghĩ và ứng xử của một
bộ phận học sinh.
Về chủ quan: Việc quan tâm chỉ đạo, thực hiện xây dựng và niêm yết
Bộ Quy tắc ứng xử trường học, công tác giáo dục đạo đức lối sống, xây
dựng văn hóa ứng xử, giáo dục kỹ năng sống triển khai thực hiện chưa
- 310 -

32 Pages 311-320

▲back to top

32.1 Page 311

▲back to top
thật sự hiệu quả, thiếu linh hoạt ở một số địa phương, đơn vị. Hoạt động
của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường đã có những nét mới, thu hút
học sinh, nhưng ở một số đơn vị chất lượng hoạt động đoàn - đội còn có
hạn chế, do giáo viên làm Tổng phụ trách đội còn thiếu, giáo viên làm
Bí thư đoàn còn kiêm nhiệm, liên tục thay đổi làm ảnh hưởng đến công
tác giáo dục đạo đức lối sống, văn hóa ứng xử, giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh.
Để khắc phục những hạn chế trên, cũng như tạo chuyển biến căn
bản và sâu sắc, bền vững về ứng xử văn hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo,
nhân viên, học sinh trong các cơ sở trên địa bàn tỉnh, giải pháp thực
hiện sắp tới mà Sở Giáo dục và Đào tạo chú trọng đó là:
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác tham mưu UBND tỉnh ban hành
các văn bản chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện xây dựng văn hóa
ứng xử trong trường học gắn với giáo dục đạo đức và lối sống cho học
sinh.
- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trường học gắn với
xây dựng văn hóa học đường, quy chế dân chủ cơ sở và quy định về đạo
đức nhà giáo tại các cơ sở giáo dục. Thực hiện hiệu quả công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức về xây dựng văn hóa ứng xử trong trường
học gắn với đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục văn hóa
ứng xử trong trường học.
- Chú trọng nâng cao năng lực ứng xử và năng lực giáo dục ứng xử
cho cán bộ quản lý và giáo viên trên địa bàn tỉnh, trong đó, quan tâm
đến đội ngũ giáo viên làm công tác chủ nhiệm.
- Tăng cường sự phối hợp ngày càng chặt chẽ giữa nhà trường, gia
đình và xã hội trong xây dựng văn hóa ứng xử.
- Thực hiện nghiêm túc công tác thanh tra công vụ, quy chế dân
chủ cơ sở, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn hóa ứng xử trong
trường học và vi phạm chuẩn mực đạo đức nhà giáo trên địa bàn tỉnh.
Sở Giáo dục và Đào tạo chú trọng công tác giáo dục và đào tạo nói
chung cũng như xây dựng văn hóa học đường trong trường học trên địa
bàn tỉnh nói riêng nhằm tạo chuyển biến căn bản, bền vững về ứng xử
văn hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh trên địa bàn
tỉnh, ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, góp phần xây
dựng văn hóa, con người Việt Nam: Yêu nước, nghĩa tình, trung thực,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững./.
- 311 -

32.2 Page 312

▲back to top
PHÁT HUY GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP
TRONG VĂN HÓA TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG
TRÊN ĐỊA BÀN ĐỒNG NAI
Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ Đồng Nai
Tôn giáo, tín ngưỡng là một thực thể, là bộ phận cấu thành trong xã
hội và cũng là nguồn lực quan trọng của một quốc gia. Nguồn lực của
tôn giáo, tín ngưỡng bao gồm yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất. Trên
phương diện tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng đã và đang góp phần vào
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, điều chỉnh các
hành vi đạo đức, lối sống nhằm giảm thiểu mặt tiêu cực, hạn chế của xã
hội, định hướng các giá trị truyền thống xã hội. Trên phương diện vật
chất, tôn giáo, tín ngưỡng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, đã
có nhiều đóng góp tích cực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, góp
phần cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt và kế thừa tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng về “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của
các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời,
đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị tiếp tục
chỉ đạo “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực
của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước”, tại Đại hội XIII, Đảng
ta lần đầu tiên chính thức khẳng định việc phát huy các nguồn lực tôn
giáo, “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực
của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”. Nhận thức được vai trò,
vị trí quan trọng của nguồn lực tôn giáo, nhất là các giá trị tốt đẹp mà
tôn giáo, tín ngưỡng mang lại, Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai chọn chủ đề
“Phát huy giá trị tốt đẹp trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng trên địa
bàn Đồng Nai” để tham luận tại Hội thảo khoa học cấp tỉnh nhằm trao
đổi, chia sẻ các vấn đề có liên quan để phát huy hơn nữa các giá trị văn
hóa tốt đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng trong giai đoạn hiện nay.
- 312 -

32.3 Page 313

▲back to top
Giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng được thể hiện cụ thể trong hệ
thống giáo lý, giáo luật và những điều răn, giới cấm nhằm điều chỉnh
ý thức, hành vi của tín đồ và được tín đồ tin theo một cách tự nguyện,
tự giác. Các giá trị này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến một bộ phận
người dân mà còn đóng góp vào quá trình xây dựng văn hóa Việt Nam.
Các giá trị văn hóa tốt đẹp của Phật giáo đã làm sâu sắc và phong phú
những giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam về quan niệm “từ bi, hỷ xả”,
“vô ngã vị tha”, “lục hòa cộng trụ” hay “luật nhân quả”. Giá trị văn hóa
tốt đẹp của Công giáo được thể hiện ở 10 điều răn, trong đó có 7 điều
khuyên răn về đạo đức làm người như: “Thảo kính cha mẹ, không được
giết người, không được dâm dục, không được gian tham lấy của người
khác, không được làm chứng dối, che giấu sự gian trá, không được ham
muốn vợ (hoặc chồng) người khác, không được ham muốn của cải trái
lẽ”. Theo giáo lý đạo Tin Lành, “con người làm điều thiện để xứng đáng
với sự hy sinh của Chúa”, đồng thời là phương thức thể hiện tinh thần
tự do và hạnh phúc của con người. Giáo lý Hồi giáo thể hiện tinh thần
hướng thiện ở điều răn về “bố thí”. Giáo lý đạo Cao Đài với “Tứ đại điều
quy” quy định 4 điều trau dồi “đức hạnh” và 5 điều cấm kỵ với tín đồ:
“Bất sát sinh, bất du đạo, bất tửu nhục, bất tà dâm và bất vọng ngữ”.
Đạo đức Phật giáo Hòa Hảo nổi bật với quan niệm về “Tu Nhân - Học
Phật”. Phật giáo Hòa Hảo quan niệm, tu hành phải dựa trên đạo đức căn
bản, trước hết là đạo làm người. Tu Nhân là tu theo “Tứ ân hiếu nghĩa”,
gồm Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào nhân loại và Ân tam
bảo. Các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo góp phần làm
phong phú thêm truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn những
người có công với đất nước, với Nhân dân. Những chuẩn mực này góp
phần không nhỏ trong nguyên tắc ứng xử phù hợp trong xã hội, rất hữu
ích trong việc duy trì đạo đức xã hội và xây dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn mới. Xét về bản chất, các tôn giáo chân chính luôn mang
giá trị nhân bản, nhân văn, hướng đến giải phóng con người khỏi hoàn
cảnh hiện tại, hướng tới cuộc sống an lành, tốt đẹp hơn. Mặc dù mỗi tôn
giáo có thế giới quan, nhân sinh quan khác nhau, nhưng đều hướng con
người đến xã hội lý tưởng, ở đó, con người sẽ có cuộc sống hạnh phúc;
không có áp bức, bất công, không còn cảnh nghèo đói, con người sống
với nhau bằng lòng vị tha, nhân ái.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, tín ngưỡng, tôn giáo đã xây
dựng cho mình hệ giá trị nghệ thuật phong phú và đa dạng. Kiến trúc
chùa, tháp của Phật giáo; kiến trúc nhà thờ của Công giáo; kiến trúc
thánh đường của Hồi giáo; kiến trúc thánh thất của Cao Đài; kiến trúc
- 313 -

32.4 Page 314

▲back to top
của đình, đền, miếu của tín ngưỡng và nhiều công trình kiến trúc khác
đã góp phần làm phong phú hơn di sản nghệ thuật kiến trúc tôn giáo tại
Đồng Nai. Kiến trúc Phật giáo thường hòa quyện với thiên nhiên, danh
lam thắng cảnh tạo nên vẻ đẹp vừa dân dã, vừa thanh tao. Chúng ta có
thể thấy rõ điều này thông qua hình ảnh của thiền viện Thường Chiếu
(huyện Long Thành), thiền viện Trúc Lâm Nhật Quang (thành phố Biên
Hòa), chùa Long Hương (huyện Nhơn Trạch)… Kiến trúc Công giáo
đóng góp cho nền nghệ thuật dân tộc những giá trị nghệ thuật kiến trúc
nhà thờ, tháp chuông, vốn chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ XVI.
Chúng ta có thể thấy rõ nét đặc sắc này thông qua hình ảnh của giáo
xứ Biên Hòa (thành phố Biên Hòa), giáo xứ Gia Ray (huyện Xuân Lộc),
giáo xứ Kim Thượng (huyện Thống Nhất)... Nghệ thuật kiến trúc của cơ
sở tín ngưỡng không chỉ có những giá trị kiến trúc đặc sắc mà còn góp
vào nền nghệ thuật dân tộc những giá trị điêu khắc, hội họa hết sức tinh
tế, giàu tính thẩm mỹ. Chúng ta có thể thấy rõ điều này thông qua hình
ảnh của Thất phủ cổ miếu (chùa Ông - thành phố Biên Hòa), đền Thủy
Lâm Động (thờ Mẫu - huyện Định Quán)… Bên cạnh đó, thế giới tượng
trong các công trình tôn giáo, tín ngưỡng với nhiều chất liệu, màu sắc,
kích thước, hình dáng độc đáo góp phần tạo nên bức tranh nghệ thuật
tôn giáo, tín ngưỡng vô cùng sinh động và đa dạng.
Văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng còn góp vào nền văn học nghệ thuật
của dân tộc những giá trị mang đậm tính nhân văn. Cụ thể: Văn học Phật
giáo có một bề dày lịch sử lâu đời, đã trở nên quen thuộc với người dân
Việt Nam. Sự kết hợp giữa tư tưởng Phật giáo với nghệ thuật ngôn từ -
văn chương dân tộc đã sản sinh ra một dòng văn học tôn vinh cái đẹp vô
thường và mang đậm tinh thần nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Di sản
văn học Công giáo có những tác phẩm mà nội dung lấy từ Kinh Thánh,
kinh lễ, nghi lễ, hạnh tích các thánh và được sáng tác theo lối văn vần.
Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được diễn đạt chủ yếu dưới hình thức văn vần
để tín đồ dễ thuộc, dễ nhớ, nhằm tu thân, học Phật, vừa mang đặc trưng
Phật giáo vừa mang đậm chất dân gian.
Di sản âm nhạc tôn giáo, tín ngưỡng rất đặc sắc, trong đó “dòng âm
nhạc Phật giáo”, “dòng âm nhạc Công giáo”, “dòng âm nhạc Cao Đài” và
các dòng âm nhạc tôn giáo khác mang đặc trưng riêng, góp phần làm
phong phú cho nền âm nhạc dân tộc. Lễ nhạc Phật giáo truyền tải tư
tưởng, giáo lý Phật giáo song mang âm hưởng dân tộc. Từng lời kinh
sâu lắng, thanh tao hòa vào nhịp điệu, âm vang thanh thoát của các
pháp khí như chuông, mõ, khánh, đẩu để rồi ngân vang trong khung
cảnh trầm tịch của chốn thiền môn. Công giáo thừa hưởng di sản nghệ
- 314 -

32.5 Page 315

▲back to top
thuật thanh sắc của nền văn minh Trung cận Đông cổ xưa, trong quá
trình phát triển còn tiếp thu các giá trị âm nhạc của nền văn minh
phương Tây (châu Âu) nên có truyền thống sâu dày về âm nhạc. Âm
nhạc Công giáo, nổi bật với các bài thánh ca, có ảnh hưởng sâu đậm đến
nền âm nhạc dân tộc. Lễ nhạc Cao Đài cũng mang phong cách âm nhạc
truyền thống.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, chính sách tôn giáo thông thoáng,
cởi mở của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để các tôn giáo phát huy
vai trò tích cực trong đời sống xã hội. Các di sản văn hóa trong tôn giáo
được phát huy đã góp phần làm thay đổi diện mạo đời sống tín ngưỡng
tôn giáo nói riêng, đời sống tinh thần xã hội nói chung. Các cơ sở thờ
tự của các tôn giáo được Nhà nước bảo hộ và cho phép sửa chữa và
xây dựng mới ngày càng khang trang. Không khí sinh hoạt tôn giáo tại
các cơ sở thờ tự gắn với các lễ hội và văn hóa tâm linh hết sức sôi động.
Nhiều lễ hội trọng đại của tôn giáo như lễ Phật đản, lễ Giáng sinh, lễ Vu
lan và nhiều hoạt động lễ nghi khác cũng đã hút đông đảo người dân có
đạo và không có đạo tham gia, trở thành sinh hoạt văn hóa chung của
cả cộng đồng.
Đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia phong trào thi đua yêu
nước, hăng hái tham gia phát triển kinh tế - xã hội, ứng dụng các thành
tựu khoa học - công nghệ, ra sức phát triển sản xuất, tạo ra nhiều của
cải, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, đã
xuất hiện nhiều cá nhân và tập thể tín đồ tôn giáo đạt điển hình tiên
tiến trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, hoạt động xã hội, nhân đạo,
từ thiện. Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, đông đảo chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đã
có nhiều hoạt động sáng tạo trong xây dựng đời sống tinh thần gắn với
đặc điểm của từng tôn giáo như: Phong trào “Xây dựng chùa cảnh tinh
tiến, gương mẫu” của đồng bào Phật giáo, phong trào “Xây dựng xứ, họ
tiên tiến, gia đình Công giáo gương mẫu” của Công giáo… Đặc biệt, các
tổ chức, chức sắc, nhà tu hành, chức việc và tín đồ các tôn giáo đã phát
huy tốt tinh thần tương thân tương ái, tích cực tham gia các hoạt động
nhân đạo, từ thiện, như tổ chức các phòng khám chữa bệnh miễn phí,
các lớp học tình thương, nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật, chăm sóc người
già không nơi nương tựa, tư vấn và nuôi dưỡng những người bị nhiễm
HIV/AIDS, hiến máu nhân đạo, hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt. Nhất
là trong đợt dịch lần thứ tư của đại dịch Covid-19, đông đảo các chức
sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo tình nguyện đăng ký tham
gia tuyến đầu phòng, chống dịch, trong đó phải kể đến phong trào
- 315 -

32.6 Page 316

▲back to top
Cởi áo cà sa khoác áo blouse trắng phòng, chống dịch”; đăng ký sử dụng
cơ sở thờ tự làm bệnh viện dã chiến, khu cách ly; vận động các cơ sở thờ
tự, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực thực
hiện và lan tỏa phong trào bữa cơm yêu thương trong vùng tâm dịch.
Những hành động tốt lành và nghĩa cử cao đẹp của các tôn giáo đã kết
nối tình đồng đạo, nghĩa đồng bào cùng cả hệ thống chính trị nâng cao
tinh thần quyết tâm phòng, chống dịch.
Nhận thức được giá trị văn hóa tốt đẹp của tôn giáo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”,
“Đức Giêsu hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc”, “Khổng
Tử sinh ra cũng là để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại
đồng”. Vì vậy “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và các đồng
bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng
Tổ quốc”. Người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân
ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc
biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách
của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật
Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn hạnh phúc
cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp
lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị
ấy”. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là hiện thân của
sự kết hợp hài hòa những điều tốt đẹp nhất của con người “trần thế” với
những giá trị văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo.
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều
quan điểm, chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các
tổ chức tôn giáo tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khởi đầu
từ Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Đảng ta
lúc đó mới nhận thức: Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công
cuộc xây dựng xã hội mới. Đến Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII, Đảng ta tiếp cận tôn giáo dưới góc độ văn hóa, coi
tôn giáo như một giá trị văn hóa. Tiếp đến là Chỉ thị 37-CT/TW của Bộ
Chính trị khóa VIII và các văn kiện Đại hội tiếp theo, Đảng ta chủ trương:
Phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong các tôn giáo. Tiếp đến
là Chỉ thị 18-CT/TW và Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đảng ta đã coi tôn
giáo là một nguồn lực, bên cạnh các việc phát huy các giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp trong các tôn giáo Đảng ta đã chủ trương phát huy nguồn lực
của các tôn giáo đóng góp cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
- 316 -

32.7 Page 317

▲back to top
đất nước. Điều đó cho thấy, các quan điểm, chủ trương của Đảng được
thể chế hóa trong các quy định pháp luật của Nhà nước đã từng bước đi
vào cuộc sống.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tôn giáo, đông chức sắc, tín đồ các
tôn giáo sinh sống. Tính đến cuối năm 2022, toàn tỉnh có 1.778 cơ sở tôn
giáo, 2.040 chức sắc, 9.146 nhà tu hành, 28.846 chức việc, 2.289.040 tín
đồ thuộc 25 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, cấp đăng
ký hoạt động và 18 nhóm tôn giáo (Tin Lành) chưa hợp pháp thuộc 11
tôn giáo như: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa
Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Hồi giáo (Islam), Bửu
sơn Kỳ hương, Cơ đốc Phục Lâm Việt Nam, Giáo hội các thánh hữu ngày
sau của Chúa Giêsu Kitô. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có các “hiện
tượng tôn giáo mới” dưới các dạng “tà giáo”, “tạp giáo” như: Pháp môn
Diệu âm, Nhất quán đạo, Thanh Hải vô thượng sư, Nhóm Hộ niệm, Phật
đường Huỳnh đạo, Vô vi pháp,... Đồng bào các tôn giáo ở Đồng Nai cư
trú rộng khắp các địa bàn, đông nhất là các huyện: Trảng Bom, Thống
Nhất, Long Thành và thành phố Biên Hòa. Toàn tỉnh có 11/11 huyện,
thành phố có trên 30% dân số là người có đạo; 110/170 xã, phường có
trên 30% dân số là người có đạo, trong đó có 32 xã, phường có trên 90%
dân số là người có đạo.
Trong thời gian qua, Đảng bộ và các cấp chính quyền tỉnh Đồng Nai
luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân
dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động theo pháp luật;
phát huy các yếu tố nhân văn, các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của
tôn giáo, đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân. Tuy nhiên, trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường, nhiều hiện
tượng tiêu cực đã len lỏi vào sinh hoạt tôn giáo, xuất hiện hiện tượng mê
tín dị đoan, “buôn thần bán thánh”; một số chức sắc, nhà tu hành suy
thoái về phẩm hạnh, đạo đức, chạy theo lối sống kim tiền, danh lợi. Một
số cá nhân trong các tôn giáo có những hoạt động vi phạm pháp luật, lợi
dụng tôn giáo để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
thậm chí cấu kết với các thế lực thù địch để chống phá chế độ. Cùng với
sự phục hồi và phát triển nhiều lễ hội tôn giáo, xuất hiện tình trạng tổ
chức các lễ nghi rườm rà, tốn kém. Nhiều nơi, việc quyên góp tiền xây
cất cơ sở thờ tự quá sức của đồng bào có đạo. Xuất hiện hiện tượng xây
dựng kiến trúc tôn giáo lai căng, không phù hợp với truyền thống của
dân tộc. Xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới, trong đó có những tín điều,
lễ nghi phản văn hóa, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Những
hạn chế, bất cập nêu trên đang làm giảm ý nghĩa, vai trò tích cực của văn
hóa tôn giáo trong đời sống xã hội.
- 317 -

32.8 Page 318

▲back to top
Để phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng
phục vụ công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn mới, Ban Tôn giáo
tỉnh Đồng Nai xin đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của hệ
thống chính trị và toàn xã hội về ý nghĩa, vai trò của những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp trong tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và văn hóa tôn
giáo đi vào cuộc sống.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng;
tiếp tục kiến nghị lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến y tế, giáo dục, văn
hóa, an sinh xã hội để các tổ chức tôn giáo có thể tham gia, thực sự là
một trong những nguồn lực góp phần xây dựng và phát triển đất nước
bền vững; đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo.
Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng là
nhằm bảo đảm giải quyết kịp thời, hợp lý những nhu cầu vật chất và tinh
thần, nhu cầu tôn giáo chính đáng của đồng bào có đạo, bảo đảm các
hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, tuân thủ pháp luật. Qua đó, tạo
điều kiện để các tôn giáo thực hiện chức năng văn hóa, góp phần đóng
góp xây dựng nền văn hóa mới. Khuyến khích Nhân dân xã, phường,
thôn ấp, cụm dân cư, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp ở những vùng đồng
bào có đạo xây dựng các quy ước về nếp sống văn hóa, giữ gìn trật tự vệ
sinh, bảo vệ di tích văn hóa tôn giáo và cảnh quan, môi trường thiên
nhiên quanh các di tích văn hóa tôn giáo.
Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phong trào xây
dựng đời sống văn hóa trong đồng bào có đạo. Gắn liền với đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước và các phong trào văn hóa, cần thực hiện
tốt việc nêu gương người tốt, việc tốt trong đồng bào tôn giáo. Bởi lẽ, khi
một tấm gương sáng trong cộng đồng đồng bào tôn giáo được tôn vinh,
nó có sức lan tỏa nhanh chóng, tác động đến trí tuệ, tình cảm của đông
đảo quần chúng có đạo, thúc đẩy họ học tập, noi theo. Hơn nữa, việc
nêu gương người tốt, việc tốt tôn thêm niềm tự hào của đồng bào có đạo
về những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, từ đó, thúc đẩy
họ hành động “tốt đời, đẹp đạo”.
Thứ năm, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Nhân
dân và các hội văn học nghệ thuật trong công tác văn hóa tôn giáo, tín
ngưỡng. Bên cạnh việc nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể Nhân dân, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các hội văn
- 318 -

32.9 Page 319

▲back to top
học nghệ thuật đối với lĩnh vực văn hóa nghệ thuật tôn giáo, tín ngưỡng.
Các hội văn học, nghệ thuật cần có định hướng cho hội viên có tư tưởng
đúng đắn trong khai thác đề tài, cảm hứng từ văn hóa nghệ thuật tôn
giáo, tín ngưỡng; có ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị nghệ thuật có
tính thẩm mỹ cao trong tôn giáo, tín ngưỡng. Mặt khác, căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ của từng hội, cần có sự giúp đỡ, định hướng để sự phát
triển của nghệ thuật tôn giáo, tín ngưỡng giữ được vẻ đẹp truyền thống.
Thứ sáu, kiên quyết đấu tranh khắc phục những tiêu cực nảy sinh
trong sinh hoạt tôn giáo và chống sự lợi dụng tôn giáo vào mục đích xấu.
Trong việc đấu tranh khắc phục các tiêu cực nảy sinh trong sinh hoạt
tôn giáo và chống sự lợi dụng tôn giáo, phải phân biệt rõ giữa đồng bào
có tín ngưỡng và những kẻ lợi dụng tôn giáo, giữa những tiêu cực nảy
sinh trong sinh hoạt tôn giáo và tiêu cực do lợi dụng tôn giáo gây nên,
giữa lợi dụng tôn giáo nhằm trục lợi và lợi dụng tôn giáo vì mục đích
chính trị phản động. Từ đó, có các biện pháp cụ thể phù hợp, khắc phục
các tiêu cực liên quan đến tôn giáo, tạo điều kiện để văn hóa tôn giáo
phát huy ảnh hưởng tích cực trong đời sống tinh thần xã hội, kịp thời
phát hiện, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chống phá cách mạng.
Thứ bảy, trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa dân
tộc, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức tôn giáo, cơ sở tín
ngưỡng. Thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc, nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng,
tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiện, cởi mở với chức sắc, chức việc, nhà
tu hành tôn giáo, người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín
ngưỡng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các đoàn thể với các tổ chức
tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng trong thực hiện các phong trào thi đua yêu
nước và phong trào văn hóa nhằm hướng các hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng diễn ra ổn định, trật tự, đúng quy định của pháp luật; góp phần
vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn./.
- 319 -

32.10 Page 320

▲back to top
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÀ LÀNG,
NGƯỜI UY TÍN ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRONG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC
Ban Dân tộc tỉnh Đồng Nai
I. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển vùng dân tộc thiểu
số, tỉnh Đồng Nai đã đẩy mạnh đầu tư phát triển về mọi mặt của đời
sống xã hội, nhờ đó cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội có
nhiều khởi sắc; văn hóa, y tế, giáo dục được cải thiện; bản sắc văn hóa
truyền thống của đồng bào các dân tộc được giữ gìn và phát huy; hệ
thống chính trị cơ sở được xây dựng, củng cố ngày càng vững mạnh; đời
sống vật chất, văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc ngày càng
được nâng cao.
Trong sự phát triển chung đó, nhận thức rõ vị trí, vai trò cũng như
tầm quan trọng của già làng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc
thiểu số đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay, những
năm qua, Ban Dân tộc tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu UBND tỉnh
xây dựng đội ngũ người có uy tín, tham mưu ban hành cơ chế chính
sách đối với đội ngũ người có uy tín qua đó nhằm tranh thủ vận động già
làng, người có uy tín là đồng bào dân tộc tham gia vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong đó, có công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc.
- 320 -

33 Pages 321-330

▲back to top

33.1 Page 321

▲back to top
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Khái quát về đặc điểm tình hình
Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính cấp huyện với 170 xã, phường,
thị trấn, trong đó có 92 ấp/24 xã, phường, thị trấn thuộc khu vực I vùng
dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) theo Quyết định số 861/QĐ-
TTg; 56 ấp DTTS&MN không nằm trong xã khu vực I theo điểm a khoản
8 của Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 10/3/2020 của Chính phủ đạt tỷ lệ
15% hộ dân tộc thiểu số. Toàn tỉnh có trên 50 dân tộc anh em cùng sinh
sống với dân số khoảng 3,2 triệu người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu
số có trên 198.784 người, chiếm 6,42% dân số toàn tỉnh. Đồng bào các
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu
đời, phân bố rộng khắp trên địa bàn các huyện, thành phố Long Khánh
và thành phố Biên Hòa. Mỗi dân tộc đều có văn hóa, truyền thống riêng
về ngôn ngữ, trang phục, tập quán, lễ hội… tạo nên bản sắc đặc trưng
của từng dân tộc.
2. Về số lượng, thành phần người có uy tín
Số lượng người có uy tín tỉnh Đồng Nai với 206 vị được công nhận
theo Quyết định số 309/QĐ-UBND ngày 28/02/2023. Cụ thể: Huyện
Định Quán (51 người), huyện Cẩm Mỹ (28 người), huyện Tân Phú (19
người), huyện Xuân Lộc (26 người), huyện Trảng Bom (26 người), huyện
Thống Nhất (14 người), huyện Vĩnh Cửu (06 người), huyện Long Thành
(10 người), thành phố Long Khánh (21 người) và thành phố Biên Hòa
(05 người).
- Về thành phần dân tộc: Có 14 thành phần dân tộc, cụ thể như sau:
Chơro 35 người, S’Tiêng 04 người, Mạ 07 người, Cơ Ho 01 người, Hoa
78 người, Tày 26 người, Nùng 24 người, Thái 02 người, Mường 08 người,
Chăm 04 người, Khmer 04 người, Sán Dìu 04 người, Dao 04 người và
Kinh 5 người.
- Về thành phần người có uy tín: Già làng 08 người của 03 dân tộc:
Chơro, Mường và S’Tiêng. Trưởng ấp 22 người. Trưởng dòng họ, tộc
trưởng 02 người. Chức sắc, tôn giáo 06 người. Sản xuất, kinh doanh giỏi
23 người. Cán bộ nghỉ hưu 13 người. Nhà giáo, thầy thuốc 08 người và
thành phần khác 129 người.
Nhìn chung, người có uy tín là người tiêu biểu có nhiều công lao
đóng góp trong các phong trào thi đua yêu nước, công tác giảm nghèo,
bảo vệ an ninh trật tự, đi đầu trong các phong trào thi đua làm kinh tế
- 321 -

33.2 Page 322

▲back to top
giỏi, các cuộc vận động của địa phương và là người giữ gìn, trao truyền,
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
3. Vai trò, vị trí già làng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc
thiểu số
Người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số có vai trò, vị trí rất
quan trọng trên các lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội; là lực lượng nòng
cốt, cầu nối quan trọng giữa cấp ủy đảng, chính quyền với người dân; có
ảnh hưởng lớn trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc
thiểu số xây dựng Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị ở địa phương;
đồng hành cùng đồng bào các dân tộc thiểu số chấp hành tốt các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và xây
dựng khối đại đoàn kết các dân tộc.
4. Một số kết quả phát huy vai trò của già làng, người có uy tín
trong đồng bào dân tộc thiểu số trong bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc
Văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Đồng Nai nói riêng và của nước ta
nói chung được hình thành, vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng
nước, giữ nước với nhiều giá trị đặc sắc. Hiện nay, sự phát triển và hội
nhập quốc tế đã tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
có đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Quá trình đó tạo nên
sự giao lưu, tiếp biến văn hóa và cùng với quá trình di cư mạnh mẽ của
các dân tộc thiểu số tạo nên sự giao thoa trong văn hóa của các dân tộc
thiểu số, một mặt, làm phong phú, đa dạng hơn những nét truyền thống
vốn có, song, việc du nhập nét văn hóa mới cũng là một thách thức đối
lớn đối với các cộng đồng dân tộc trong việc gìn giữ những nét đặc trưng
riêng biệt của dân tộc mình mà vẫn hòa nhập được cùng với sự phát
triển của xã hội thì già làng, người có uy tín chính là sự hiện thân của
những gắn bó, am tường về lịch sử tộc người, truyền thống và kho tàng
tri thức dân gian dân tộc, họ là đại diện tiếng nói của cộng đồng bởi khả
năng truyền đạt và giáo dục lại cho thế hệ sau về truyền thống văn hóa
dân tộc của cộng đồng mình.
Một số kết quả đạt được trong công tác phát huy vai trò của già làng,
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc:
- Tỉnh Đồng Nai đã sưu tầm và lưu giữ hơn 170 hiện vật văn hóa vật
thể của các dân tộc thiểu số. Trong đó lưu giữ 20 hiện vật của người Thái,
23 hiện vật của người Cơ Ho, 23 hiện vật của người Mạ, 40 hiện vật của
- 322 -

33.3 Page 323

▲back to top
người Mường, 46 hiện vật của người Hoa, 18 hiện vật của người S’Tiêng.
Quá trình sưu tầm và lưu giữ các hiện vật của các cấp các ngành có sự
phối hợp chặt chẽ của già làng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc
thiểu số của tỉnh. Các giá trị văn hóa phi vật thể như (hát kể tăm-pớt của
người Mạ, tín ngưỡng và lễ hội dân gian của người Hoa, chuyện kể của
người Mạ và người Chơro; truyền dạy biểu diễn cồng chiêng hay như
việc khôi phục và bảo tồn nghề dệt thủ công truyền thống của đồng bào
dân tộc Mạ, dệt chiếu Lùm, chế tác đàn tre của đồng bào Chơro... Cũng
chính do già làng, người có uy tín đứng ra truyền dạy.
- Công tác phục dựng lễ, tết truyền thống của đồng bào các dân tộc
thiểu số: Các lễ hội, tết truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu
số được phục dựng, khôi phục và tổ chức hàng năm như: SayangVa,
SayangBri (dân tộc Chơro), Yang Bơ nơm, Yang Koi (dân tộc Mạ), Tả tài
phán, Làm chay chùa Bà Thiên Hậu, Vía Quan Thánh Đế quân, lễ hội
Chùa Ông (người Hoa), Cholchnamthmay, Sendolta, Ocomboc (dân tộc
Khmer), Ramandan, Roya Haji (dân tộc Chăm), Lồng Tồng (dân tộc Tày,
Nùng), Khai Hạ (dân tộc Mường), Cấp Sắc (dân tộc Dao)… mang đậm
sắc thái truyền thống của từng dân tộc, tạo được không khí tươi vui,
đoàn kết và thân ái tại các địa phương. Trong hoạt động này, già làng,
người có uy tín giữ vai trò là người truyền lửa, duy trì những nét văn hóa
đặc trưng của dân tộc, hơn ai hết, họ là người yêu quý, trân trọng, ra sức
giữ gìn cũng như khuyến khích, kêu gọi bà con lưu giữ những đồ vật, vật
dụng truyền thống của dân tộc mình, như: Cồng chiêng, trang phục áo,
khố, váy truyền thống, lưu truyền những nét đặc sắc trong các sản phẩm
văn hóa dân tộc như các họa tiết, hoa văn, màu sắc truyền thống… Duy
trì việc thờ cúng theo tín ngưỡng truyền thống dân gian, thông qua kiến
thức am tường về địa lý, thiên văn và các hiện tượng tự nhiên trong văn
hóa cộng đồng qua những đúc kết từ quan sát lâu năm tạo thành. Vì thế
già làng người có uy tín thường đứng ra với tư cách là thầy cúng trong
các nghi thức lễ.
- Trong việc phát huy công năng của nhà văn hóa các dân tộc thiểu
số trên địa bàn tỉnh, tỉnh Đồng Nai đã đầu tư xây dựng và đưa vào sử
dụng 15 nhà văn hóa dân tộc: S’Tiêng, Chơro, Mạ, Chăm, Mường...
thuộc các huyện: Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Long Thành, Vĩnh
Cửu và Thống Nhất đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng, duy trì và
bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, đồng thời tỉnh
cũng đã trang bị hai đợt gồm: 16 bộ cồng, 15 bộ chiêng, 8 bộ trống, 3 bộ
chập chạ, 2 bộ ngũ âm... cho các nhà văn hóa dân tộc và nơi có đồng
bào dân tộc sinh sống. Tại các nhà văn hóa trên, Ban Chủ nhiệm nhà
- 323 -

33.4 Page 324

▲back to top
văn hóa dân tộc đều do già làng, người có uy tín tham gia. Hiện nay nhà
văn hóa dân tộc đã trở thành nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn
nghệ, tổ chức các lớp dạy đánh cồng chiêng, dạy hát múa dân ca bằng
tiếng dân tộc, dệt thổ cẩm, đan lát cho con em đồng bào dân tộc thiểu số
trong vùng.
- Già làng, người có uy tín là cầu nối giữa Nhà nước và dân làng
trong việc triển khai chính sách bảo tồn văn hóa, tham gia vào cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới”; “Phong trào toàn
dân xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư” trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
với tâm huyết và quyết tâm cao, và thực tế đã phát huy tốt vai trò của
mình trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đây được
xem như lực lượng nòng cốt, quan trọng đã nỗ lực hết sức bằng hành
động, việc làm cụ thể để làm gương và tích cực vận động, giáo dục con
cháu, cộng đồng trong việc bảo vệ phát huy giá trị văn hóa dân tộc, vận
động đồng bào xây dựng nếp sống mới, xây dựng gia đình văn hóa, ấp /
khu phố văn hóa.
- Già làng, người có uy tín đã truyền đạt, giải thích cặn kẽ cho Nhân
dân về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong cộng đồng dân
tộc thiểu số. Từ đó, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân
cư đồng thời phát huy phong tục tập quán tốt đẹp và xoá bỏ những hủ
tục lạc hậu, nhất là trong thực hiện việc cưới hỏi, tang lễ và lễ hội. Già
làng và người có uy tín cũng là người đi đầu bài trừ những hủ tục lạc hậu
trong cộng đồng ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực hiện, nhiều già làng, trưởng bản
và người có uy tín đã thực sự trở thành trung tâm đoàn kết dân tộc, góp
phần quan trọng vào việc giữ gìn giá trị văn hóa, ổn định an ninh trật tự,
xóa đói giảm nghèo ở địa phương.
Như vậy, với những chủ trương, chính sách nhằm phát triển văn
hóa, trong đó có chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
thiểu số đã góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu
số tỉnh Đồng Nai cũng được quan tâm bảo tồn, phát huy; các thiết chế
văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số được đầu tư, trang bị, tạo được
những chuyển biến tích cực trong hưởng thụ văn hóa của đồng bào. Đời
sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số ngày một phát triển, khối đại
đoàn kết dân tộc được nâng lên và giữ vững, đồng bào các dân tộc yên
tâm lao động sản xuất, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước,
- 324 -

33.5 Page 325

▲back to top
an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh không ngừng
được củng cố và giữ vững.
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI
CÓ UY TÍN TRONG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Tiếp tục quán triệt triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, công tác bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh. Trong đó, quán triệt nhất quán quan điểm
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác định văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Thường xuyên cung cấp thông tin hình kinh tế - xã hội an ninh
- quốc phòng. Đặc biệt là các chủ trương, chính sách, định hướng và
nhiệm vụ trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống.
Khuyến khích tạo điều kiện để người có uy tín trở thành cầu nối
chuyển tải chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà
nước đến với Nhân dân và là nơi phản ánh những tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân đến với Đảng và Nhà nước, của
tỉnh Đồng Nai đến với Nhân dân trên địa bàn cư trú. Gắn vai trò, nhiệm
vụ của người uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong công
tác tuyên truyền vận động bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc trên địa bàn tỉnh.
2. Tổ chức thực hiện tốt chính sách đối với người uy tín, tạo mọi
điều kiện để người có uy tín có nguồn kinh phí hoạt động theo cơ chế
đặc thù phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương.
Thực hiện cung cấp thông tin, thăm hỏi; biểu dương khen thưởng;
tổ chức các lớp bồi dưỡng, tham quan học tập kinh nghiệm ngoài tỉnh
cho người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số hàng năm được thực
hiện tốt; hỗ trợ 100% kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế cho người có uy
tín chưa có thẻ bảo hiểm y tế, hỗ trợ người có uy tín thực hiện nhiệm vụ
với mức 800.000 đồng/người/tháng. Qua đó, người có uy tín đã hiểu rõ
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình cùng với các cấp đảng, chính quyền
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình tại cơ sở.
- 325 -

33.6 Page 326

▲back to top
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng các chế độ hỗ trợ đối với già làng
không tham gia vào đội ngũ người có uy tín; hoàn thiện các quy định,
quy chuẩn xây dựng đội ngũ người có uy tín trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số thực sự là những người tiêu biểu về phẩm chất đạo đức,
lối sống, có trình độ, am hiểu phong tục tập quán, văn hóa truyền
thống của đồng bào dân tộc mình, có uy tín thực sự và gắn bó với Nhân
dân trong ấp, khu phố, được Nhân dân trong ấp/khu phố tín nhiệm và
bầu chọn.
3. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể các cấp, đặc biệt
là các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số có người uy tín được phê duyệt
theo Quyết định của UBND tỉnh cần tiếp tục tăng cường, phát huy vai
trò già làng, người có uy tín tham gia vào Ban Chủ nhiệm nhà văn hóa
dân tộc, các câu lạc bộ, tổ hòa giải cộng đồng, tổ chuyển đổi số… tại địa
bàn cư trú nhằm tạo thuận lợi cho người uy tín có điều kiện phát huy tốt
trách nhiệm hoạt động của mình tại địa bàn cư trú.
4. Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan báo, đài để xây
dựng những chuyên trang, chuyên mục giới thiệu những gương điển
hình tiêu biểu có sức lan tỏa trong cộng đồng là già làng, người có uy tín
trong đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi, già làng, người có uy tín chính là
“bảo tàng sống” về kho tàng tri thức, văn hóa truyền có sức lan tỏa trong
cộng đồng.
5. Hàng năm, giai đoạn các cấp, chính quyền làm tốt công tác biểu
dương khen thưởng đối với người có uy tín gắn với việc đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ của người có uy tín hàng năm để khích lệ động viên
kịp thời đối với người có uy tín thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; rà soát,
thay thế, bổ sung kịp thời đối với những người có uy tín không đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Từ đó, tạo sự công bằng, tạo động lực cho người có uy
tín tâm huyết và cống hiến đối với công tác của mình tại địa phương./.
- 326 -

33.7 Page 327

▲back to top
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC
GẮN VỚI KHÔNG GIAN VĂN HÓA CÔNG CỘNG
TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
UBND thành phố Biên Hòa
Thành phố Biên Hòa đã trải qua 325 năm hình thành và phát triển,
mang theo những câu chuyện về lịch sử, văn hóa sống động từ thời khai
hoang mở cõi, gắn liền với các danh nhân, các làng nghề truyền thống
nổi tiếng, đình, chùa, miếu cổ… Theo thời gian, những giá trị lịch sử,
văn hóa cùng với vị trí địa lý thuận lợi đã tạo nên một thành phố Biên
Hòa ngày nay vừa sôi động với công nghiệp hiện đại, vừa sâu lắng bởi
những bản sắc của vùng đất dung nạp nhiều luồng văn hóa, tôn giáo
trong quá trình hình thành, phát triển và hội nhập.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trong sự phát triển đó, các thiết chế văn
hóa đóng vai trò rất quan trọng, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng bộ, chính
quyền các cấp với quần chúng Nhân dân; là nơi tổ chức các hoạt động
tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, xã hội ở địa phương; nơi bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa phù hợp với
phong tục, tập quán, lối sống của Nhân dân, đáp ứng nhu cầu sáng tạo,
học tập, trao đổi, hưởng thụ, gìn giữ văn hóa, luyện tập thể dục thể thao
của các tầng lớp Nhân dân… tạo sự chuyển biến tích cực về đời sống
văn hóa tinh thần cho Nhân dân.
Nhằm hướng đến phát triển toàn diện, hiệu quả các không gian văn
hóa công cộng xứng tầm với vị thế hiện có và sự phát triển trong tương
lai, thành phố Biên Hòa tập trung đẩy mạnh phát triển thêm nhiều
không gian văn hóa công cộng với công viên, cây xanh, mặt nước và các
tuyến phố đi bộ an toàn, thân thiện, hấp dẫn mang đậm bản sắc văn hóa
nhằm nâng cao đời sống xã hội, chất lượng sống cho người dân.
- 327 -

33.8 Page 328

▲back to top
Trước thực trạng không gian công cộng tại thành phố Biên Hòa
ngày càng bị thu hẹp, các ban, ngành, đoàn thể đã có nhiều biện pháp
để bảo vệ, cải tạo và mở rộng cho người dân thành phố. Tuy nhiên, đây
là nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi sự tham gia của nhiều thành phần xã hội.
Trước những khó khăn đó, UBND thành phố đã chỉ đạo các phòng, ban
chuyên môn cần đặc biệt chú ý đến tính liên thông chặt chẽ, hợp lý,
phục vụ sự phát triển lâu dài, bền vững, tạo năng lực tăng trưởng và là
biểu tượng cho giai đoạn phát triển mới của thành phố.
Việc xây dựng không gian văn hóa công cộng luôn phải đi kèm với
bản sắc văn hóa. Vì vậy, ngoài hoạt động trình diễn, biểu diễn nghệ
thuật đơn thuần, cần đưa đờn ca tài tử - cải lương vào không gian sống
của thành phố, để đờn ca tài tử - cải lương thực sự là bản sắc văn hóa của
người dân Nam Bộ. Bên cạnh đó, việc phát triển văn hóa đọc cũng được
quan tâm chỉ đạo phát triển trên toàn địa bàn thành phố. Việc đọc sách
gắn với đời sống tinh thần của con người, mỗi quyển sách hay không chỉ
là kho tàng tri thức, là người thầy vĩ đại thắp sáng cho chúng ta nguồn tri
thức vô tận mà còn dạy cho chúng ta cách sống, cách làm người, hướng
tới những giá trị chân - thiện - mỹ. Ở thời đại nào cũng vậy, con người
cũng lấy việc học và đọc sách là một trong những phương cách để hoàn
thiện nhân cách con người, để tiến bộ trong cuộc sống cá nhân và đóng
góp vào sự phát triển chung của xã hội. Cha ông ta đã coi việc đọc sách
là một truyền thống văn hóa cao đẹp. Từ đọc sách, sưu tầm sách, xây
dựng tủ sách, thư viện là một phần của việc hình thành văn hóa đọc.
Và văn hóa đọc đã trở thành một trong những nguồn năng lượng quan
trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Thư viện thành phố hiện nay do Trung tâm Văn hóa, Thông tin và
Thể thao thành phố quản lý trực tiếp với tổng số 30 tủ sách và kệ sách,
29.460 quyển sách với khoảng 15 loại báo, tạp chí thu hút 9.440 lượt
người đọc và mượn. Tổng số lượt sách luân chuyển 15.600 lượt.
- Hoạt động chuyên môn Thư viện được quản lý trên hai hệ thống:
Hệ thống phần mềm quản lý thư viện và các loại hồ sơ, sổ sách để theo
dõi mọi hoạt động của thư viện như công tác bổ sung sách, báo, tài liệu;
thể loại tài liệu, tình hình bạn đọc, tình trạng tài liệu lưu hành.
- Mạng lưới thư viện, phòng đọc sách cơ sở bao gồm: 30 phường, xã
có tủ sách, 15 Trung tâm VHTT-HTCĐ phường, xã có phòng đọc sách,
phục vụ thường xuyên cán bộ, công chức, công nhân và Nhân dân
trên địa bàn. Tổng số sách hiện có tại các phòng đọc cơ sở là trên 29.000
bản sách.
- 328 -

33.9 Page 329

▲back to top
- Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo,
đơn vị đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Bằng các hoạt
động thiết thực, thư viện thành phố đã góp phần nâng cao dân trí, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và ổn định an ninh chính trị ở địa phương.
Kết quả như sau:
+ Thường xuyên tổ chức phục vụ bạn đọc đến đọc sách báo, xem
trưng bày triễn lãm tại thư viện, phục vụ thiếu nhi, phục vụ lưu động
các điểm trên địa bàn trung bình mỗi năm gần 6.000 lượt người, luân
chuyển trên 11.000 lượt sách, báo.
+ Thực hiện tuyên truyền, giới thiệu sách báo với nhiều hình thức đa
dạng, phong phú nhằm đưa thông tin, kiến thức trong đời sống đến gần
với Nhân dân, giúp người dân hiếu biết, chấp hành những chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Có ý thức hơn trong
chấp hành pháp luật như: Hội đọc sách báo Xuân, trưng bày sách báo
phục vụ hội trại tòng quân thành phố, trưng bày sách báo vào các ngày
lễ ngày kỷ niệm trong năm, biên soạn thư mục giới thiệu sách mới.
+ Công tác luân chuyển sách được duy trì thường xuyên bình quân
khoảng 20 đợt sách được luân chuyển trong năm. Thực hiện hỗ trợ sách
cho 30 tủ sách, phòng đọc phường, xã bằng nguồn sách xin được từ
Thư viện tỉnh và các Nhà xuất bản trong nước (khoảng 400 cuốn/năm).
Thường xuyên đi khảo sát tình hình hoạt động của các phòng đọc, đồng
thời hỗ trợ, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ phụ trách thư viện, phòng
đọc cơ sở.
+ Tổ chức phục vụ sách, báo lưu động tại các điểm trường học thu
hút đông đảo bạn đọc tham gia.
+ Các cơ quan, ban ngành đoàn thể như: Phòng Giáo dục và Đào
tạo, Thành Đoàn Biên Hòa tổ chức các hội thi tìm hiểu, giới thiệu sách,
hội thi kể chuyện sách, nhằm quảng bá, tuyên truyền sách, nâng cao
nhận thức của các em học sinh về tầm quan trọng của sách để từ đó góp
phần phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, đẩy mạnh việc thực hiện
đề án Học tập suốt đời một cách có hiệu quả.
Xác định được nhu cầu và tầm quan trọng đó, cùng với sự phát triển
về kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế, việc tạo ra không gian
văn hóa đa dạng, đa màu sắc trên cơ sở những giá trị về vật chất, tinh
thần đã có từ vùng đất hàng trăm năm và đáp ứng nhu cầu làm việc,
học tập, vui chơi, giải trí của đông đảo người dân thành phố, đồng thời
đáp ứng nhu cầu phát triển nhằm xây dựng thành phố Biên Hòa đô thị
- 329 -

33.10 Page 330

▲back to top
văn minh, thành phố Biên Hòa đã và đang tích cực triển khai xây dựng,
cải tạo không gian văn hóa công viên Biên Hùng trở thành điểm nhấn,
điểm đến sinh hoạt mới cho người dân thành phố và du khách đến tham
quan, thưởng lãm.
Không gian Văn hóa tại công viên Biên Hùng sẽ bao gồm các hoạt
động như:
* Hoạt động chính:
- Trưng bày, giới thiệu và kinh doanh những tác phẩm mới; giới
thiệu, trao đổi sách hay, sách quý, sách sưu tầm; tổ chức các phiên chợ
trao đổi sách cũ; kết hợp việc mua bán sách, vật phẩm văn hóa và khu
vực cà phê sách đọc sách.
- Trao đổi, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm, giới thiệu xu hướng, trào
lưu làm sách mới, sáng tác mới; nơi ươm mầm, phát hiện các tác giả trẻ,
đỡ đầu cho các tác phẩm mới; nơi tạo dựng thói quen, cách thức đọc
sách, niềm đam mê với sách; một không gian lan tỏa tri thức và khích lệ
niềm vui học tập suốt đời.
- Nơi tổ chức các hoạt động văn hóa đọc gắn với việc tổ chức các
ngày lễ kỷ niệm, các sinh hoạt chính trị, văn hóa của thành phố Biên
Hòa nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng.
- Nơi phục vụ nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân thành phố;
nơi thưởng lãm đậm nét văn hóa của người Biên Hòa - Đồng Nai sau
những giờ làm việc, những ngày nghỉ cuối tuần, và các dịp lễ hội...
* Các hoạt động khác:
- Hoạt động sưu tập tem, giao lưu, giới thiệu sách; giới thiệu tác giả,
tác phẩm...
- Hoạt động biểu diễn văn hóa văn nghệ định kỳ; hoạt động các Câu
lạc bộ Acoustic và dạy đàn.
- Khu vực cà phê sách, khu vực đọc sách, khu vực quà lưu niệm.
- Khu vực thức ăn nhanh và sản phẩm OCOP.
- Gian hàng trưng bày các sản phẩm mỹ thuật và gian hàng Xúc tiến
du lịch.
- Sân chơi kết hợp đọc sách cho các em thiếu nhi.
Dự kiến, trong năm 2024, trên mặt hồ công viên Biên Hùng sẽ thiết
kế thêm không gian nhạc nước, tạo điểm nhấn đưa công viên trở thành
- 330 -

34 Pages 331-340

▲back to top

34.1 Page 331

▲back to top
điểm đến cho người dân và du khách gần xa. Đối với thiết chế của Trung
tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao thành phố, UBND thành phố cũng
đã có chỉ đạo cho triển khai nâng cấp, đầu tư mới thiết chế sân bóng đá
thành phố Biên Hòa (xây dựng sân bóng 11 người và nhà luyện tập thi
đấu đa năng) dựa trên quỹ đất sân bóng hiện hữu. Chủ trương này nhằm
khắc phục hạn chế, đảm bảo tiêu chí Thông tư số 11/TT-BVHTTDL của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về thiết chế văn hóa cấp huyện, đảm
bảo có 2/3 thiết chế về văn hóa (sân bóng đá, nhà luyện tập thi đấu đa
năng và hồ bơi).
Ngoài ra, việc khai thác hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa thể
thao và tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí dành cho trẻ em tại các
không gian văn hóa công cộng trên địa bàn phường, xã cũng được UBND
thành phố quan tâm, chỉ đạo Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao
thành phố thường xuyên đưa các chương trình hoạt động, hội thi, hội
diễn về phục vụ tại Trung tâm Văn hóa thể thao - Học tập cộng đồng
các phường, xã và Nhà Văn hóa các ấp, khu phố với các hoạt động chính
như: Sân chơi cuối tuần, ngày hội tuổi thơ, phục vụ sách lưu động, luân
chuyển sách phục vụ phòng đọc các cơ sở… Phát triển và nhân rộng
mạng lưới cộng tác viên văn hóa thể thao từ thành phố đến cơ sở thông
qua các câu lạc bộ sở thích; tạo nguồn cho các phong trào văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao các cấp. Chỉ đạo phường, xã triển khai thực hiện
các thư viện sách, khu vui chơi công cộng cho trẻ em, đồng thời từng
bước trang bị bộ dụng cụ thể dục thể thao công cộng tại từng địa bàn
khu dân cư để người dân tham gia tập luyện thể dục thể thao rèn luyện
thân thể.
Có thể nói, giữ gìn và phát triển không gian văn hóa công cộng là
một vấn đề quan trọng vì nó liên quan trực tiếp tới chất lượng cuộc sống,
tới sức khỏe thể chất và tinh thần của người dân. Phát triển văn hóa đọc
gắn với không gian văn hóa công cộng tại thành phố Biên Hòa là điểm
mới thu hút được nhiều đọc giả, là yếu tố tạo nên nét độc đáo và bản sắc
của một thành phố, kết nối cộng đồng, làm cho người dân ngày càng
gắn bó với thành phố, với nơi ở của mình hơn./.
- 331 -

34.2 Page 332

▲back to top

34.3 Page 333

▲back to top
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU.................................................................................. 5
PHẦN I
NGHỊ QUYẾT BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA XI VỀ XÂY
DỰNG VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI TRỞ
THÀNH NGUỒN LỰC, ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG CHO PHÁT TRIỂN
TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG......................................................................... 9
I. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN................................................... 10
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU ............................................................. 12
III. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN.............................................................. 16
IV. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN............................................................... 21
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.................................................................. 26
PHẦN II
KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 12-NQ/TU
NGÀY 12/12/2023 CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA XI
VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG
NAI TRỞ THÀNH NGUỒN LỰC, ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG CHO PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG.......................................................... 27
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU.................................................................... 28
II. MỤC TIÊU...................................................................................... 28
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN...................................... 32
IV. KINH PHÍ....................................................................................... 45
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.................................................................. 45
- 333 -

34.4 Page 334

▲back to top
PHẦN III.........................................................................................54
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC HỌC TẬP VÀ TRIỂN KHAI CHUYÊN ĐỀ NĂM
2024 “HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỒNG NAI PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN”.................................................................................. 54
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU.................................................................... 55
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN............................................................... 56
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN................................................................ 59
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT........................................................................ 63
PHẦN IV
HỘI THẢO KHOA HỌC “THỰC HIỆN ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA
VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI
ĐỒNG NAI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG” PHÁT BIỂU
CHỈ ĐẠO HỘI THẢO................................................................................. 86
Phát biểu đề dẫn hội thảo................................................................. 90
Phát triển văn hóa, xây dựng con người Đồng Nai vì mục tiêu giàu
mạnh, văn minh, hạnh phúc.................................................................... 95
Con đường xây dựng hệ giá trị văn hóa - con người Đồng Nai
trong giai đoạn hiện đại dưới ánh sáng của “Đề cương về văn hóa Việt
Nam”......................................................................................................... 104
Bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển bền vững ở tỉnh Đồng
Nai............................................................................................................. 113
Phát huy nguồn lực văn hóa ở đồng nai đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững................................................................................................... 122
Giá trị văn hóa của người Chơro ở Đồng Nai trong bối cảnh phát
triển kinh tế xã hội hiện nay................................................................... 129
Hào khí Đồng Nai: đa dạng, văn hiến, tiên phong........................ 144
Phát huy giá trị của đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) trong sự
nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung và
văn hóa, con người Đồng Nai nói riêng trong giai đoạn hiện nay....... 155
Xây dựng văn hóa chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tỉnh
Đồng Nai trong tình hình mới................................................................ 164
Giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam ở tỉnh Đồng Nai
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.................................... 172
- 334 -

34.5 Page 335

▲back to top
Khảo cổ học Đồng Nai - thành tựu và định hướng nghiên cứu... 183
Phát triển du lịch gắn với di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.................................................................................................. 192
Kế thừa và phát huy giá trị văn hóa Đồng Nai trong phát triển kinh
tế công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ.................................................... 206
Giáo dục thẩm mỹ trong đào tạo và định hướng sáng tác ở Trường
cao đẳng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai................................................... 214
Đào tạo nhân lực sư phạm trong lĩnh vực nghệ thuật phục vụ cộng
đồng ở Đồng Nai...................................................................................... 224
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa du
lịch trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.. 233
Giá trị của đề cương văn hóa Việt Nam và sự phát huy nét đẹp văn
hóa của con người Đồng Nai.................................................................. 245
Một số giải pháp thúc đẩy công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích
lịch sử - văn hóa tại Đồng Nai................................................................ 254
Tuổi trẻ Đồng Nai với nhiệm vụ chấn hưng văn hóa trong kỷ nguyên
số............................................................................................................... 264
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa, con
người Đồng Nai trong phát triển kinh tế, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững.......................................................................................... 272
Giải pháp nâng cao nhận thức và phát huy văn hóa ứng xử trên
không gian mạng xã hội và môi trường internet thời đại công nghệ 4.0 ở
tỉnh Đồng Nai.......................................................................................... 284
Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân qua các thiết
chế văn hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh................................................. 295
Xây dựng văn hóa học đường trong trường học trên địa bàn Đồng
Nai............................................................................................................. 304
Phát huy giá trị tốt đẹp trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng trên địa
bàn Đồng Nai........................................................................................... 312
Phát huy vai trò của già làng, người uy tín đồng bào dân tộc thiểu số
trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc......... 320
Phát triển văn hóa đọc gắn với không gian văn hóa công cộng tại
thành phố Biên Hòa................................................................................ 327
- 335 -

34.6 Page 336

▲back to top
Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai
trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển
toàn diện và bền vững
SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH ĐỒNG NAI
Mã ISBN: 978-604-42-2114-4
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC - TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập: Đào Thị Thu Thanh
Biên tập kỹ thuật: Nguyễn Thị Hồng Tươi
Trình bày: Minh Huyền
Sửa bản in: Thu Thanh
Bìa: ............
In: 1.000 bản. Khổ 16 x 24cm. In tại: ..............
Số xác nhận ĐKXB: 3366-2024/CXBIPH/5-832/ĐoN, Cục Xuất bản, In
và Phát hành xác nhận ngày: 16/09/2024. Quyết định xuất bản số: .../
QĐA-ĐoN, do NXB Đồng Nai cấp ngày: ...........
In xong và nộp lưu chiểu: quý 4/2024
Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP. Biên Hòa, Đồng Nai
Ban biên tập: (02513) 825 292 - P. Kinh doanh: 946 521 - 946 530