LSDB xa Phu Dong

LSDB xa Phu Dong



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LÒCH SÖÛ
ÑANÛ G BOÄ XAÕ PHUÙ ÑONÂ G
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ ĐÔNG
LÒCH SÖÛ
ÑAÛNG BOÄ XAÕ PHUÙ ÑOÂNG
(1930 - 2020)
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
BAN THƯỜNG VỤ Huyện ủy NHƠN TRẠCH
BAN CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
- Đ/c. Hoàng Xuân Sang: Bí thư Đảng ủy xã Phú Đông, Trưởng ban
- Đ/c. Nguyễn Kim Thắng: Thường trực Đảng ủy xã, Phó trưởng ban
- Đ/c. Phạm Hoàng Cảnh:
Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam xã
- Đ/c. Nguyễn Trọng Nghĩa:
Phó Chủ tịch UBND xã
- Đ/c. Nguyễn Thị Thanh Thúy:
Chủ tịch Hội Phụ nữ xã
- Đ/c. Lý Hoàng Sơn:
Chủ tịch Hội cựu Chiến binh xã
- Đ/c. Nguyễn Thị Tám:
Công chức Tài chính - Kế toán xã
- Đ/c. Lê Nhân Thiên:
Công chức Văn hóa - xã hội xã
- Đ/c. Nguyễn Văn Tiện:
Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã
- Đ/c. Nguyễn Thị Hồng Dung:
Cán bộ Văn phòng Đảng ủy xã
- Đ/c. Vũ Thị Gấm:
Phó Ban Tuyên giáo xã
BAN BIÊN SOẠN
- PGS.TS. Huỳnh Văn Tới
- ThS. Phan Đình Dũng
- Hà Thanh Thúy
(Chủ biên)
(Thành viên)
(Thành viên)

1.5 Page 5

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Lôøi giôùi thieäu
Xã Phú Đông được thành lập năm 1994 trên cơ sở chia tách
một phần địa giới từ ấp Thị Cầu (xã Đại Phước), ấp Giồng Ông
Đông (xã Phú Hữu). Thời gian đầu thành lập, xã Phú Đông
được huyện Nhơn Trạch và xã Đại Phước, Phú Hữu quan tâm
hỗ trợ nhiều mặt, đặt cơ sở nền cho sự ổn định và phát triển.
Trong lịch sử Nhơn Trạch, Đồng Nai, Phú Đông là địa bàn
được các cư dân khai khẩn khá sớm bởi điều kiện của vùng
sông, rạch thuận lợi cho việc đi lại từ cửa biển vào đất liền, đất
đai phù hợp cho canh tác nông nghiệp. Địa bàn Phú Đông và
vùng lân cận xuất hiện những làng, thôn mang đặc điểm của
người Việt ở vùng đất Nam Bộ. Người dân tụ cư, hình thành
những làng, thôn phát triển và để lại dấu văn hóa qua nhiều thế
hệ cùng những thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo.
5

1.6 Page 6

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trong phong trào yêu nước, Phú Đông gắn liền với các hoạt
động, tổ chức mang tính “hội kín” ở Nam Kỳ, chịu ảnh hưởng
từ các vùng Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hòa và Long Thành. Từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, phong trào yêu nước
ở Phú Đông gắn liền với phong trào cách mạng Long Thành,
Nhơn Trạch trong đấu tranh giành độc lập (Cách mạng tháng
Tám năm 1945), kháng chiến chống Pháp (1945-1954), kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975). Từ năm 1975, khi đất nước thống
nhất, quân dân Phú Đông (thuộc Phú Hữu, Đại Phước) khắc
phục hậu quả của chiến tranh, cuộc sống mới, con người mới,
văn hóa mới... Từ năm 1986, thực hiện đường lối Đổi mới của
Đảng, Phú Đông có những chuyển biến tích cực từ định hướng
phát triển của huyện Long Thành, Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, hiện
đại hóa nông thôn, chủ động hội nhập hướng đến mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Cho đến hôm nay, xã Phú Đông đã đạt được những thành
quả quan trọng trong, cùng góp phần với huyện Nhơn Trạch
vững bước trên con đường phát triển. Đảng bộ và nhân dân xã
Phú Đông vinh dự đón nhận danh hiệu cao quý: Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân năm 2000, đạt chuẩn xây dựng Nông
thôn mới năm 2015, đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao năm
2022. Trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, với những
6

1.7 Page 7

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
thành tích đóng góp, nhiều cá nhân của xã Phú Đông được tặng
thưởng những danh hiệu cao quý: Bà mẹ Việt Nam Anh hùng,
Huân chương, Huy chương, Bằng khen... Để có được những
thành quả hôm nay, đó là sự kế thừa truyền thống yêu nước và
tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân Phú Đông qua
nhiều thời kỳ. Mỗi giai đoạn lịch sử của địa phương đều để
lại những dấu ấn, thành tựu đáng tự hào, tổ chức Đảng ở địa
phương từ Chi bộ lên Đảng bộ đóng vai trò quan trọng trong
lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai, Huyện ủy Nhơn
Trạch, Đảng bộ xã Phú Đông biên soạn “Lịch sử Đảng bộ xã
Phú Đông (1930 - 2020)”. Cho đến nay, công trình lịch sử
hoàn thành là nỗ lực lớn của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú
Đông trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, là việc làm có ý nghĩa
thiết thực với quê hương Phú Đông. Đây là nguồn tài liệu khá
đầy đủ, khắc họa về vùng đất - con người Phú Đông qua các
thời kỳ, tinh thần yêu nước và đấu tranh cách mạng của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; đặc biệt, vai trò quan trọng
của tổ chức Đảng xã Phú Đông trong xây dựng và phát triển kể
từ khi thành lập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng thực hiện nhưng do nhiều yếu
tố, công trình không tránh được những thiếu sót. Ban Chấp
hành Đảng bộ xã Phú Đông mong nhận được ý kiến đóng góp,
7

1.8 Page 8

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
xây dựng để bổ sung, hoàn chỉnh cho những lần tái bản sau khi
có điều kiện. Thay mặt Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Đông,
tôi trân trọng giới thiệu công trình lịch sử của địa phương đến
với nhân dân và những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu về quê
hương Phú Đông, cùng chung niềm tự hào và góp sức để xây
dựng xã Phú Đông ngày càng giàu đẹp, văn minh.
TM. BCH Đảng bộ xã Phú Đông
Bí thư
Hoàng Xuân Sang
8

1.9 Page 9

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Lược giới xã Phú Đông hiện nay.
Bản đồ quy hoạch phát triển xã Phú Đông.
9

1.10 Page 10

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Xã Phú Đông trong địa giới huyện Nhơn Trạch.
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Xã Phú Đông nhận bằng công nhận di tích Giồng Sắn năm 2014.
Nhà Bia - công viên tưởng niệm Giồng Sắn.
11

2.2 Page 12

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Hội nghị nhân chứng thu thập tư liệu
biên soạn lịch sử địa phương ngày 19/01/2022.
Hội nghị nhân chứng, đóng góp ý kiến nội dung
lịch sử địa phương ngày 04/11/2022.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Lôøi môû
Xã Phú Đông được thành lập từ năm 1994, gắn với sự kiện
huyện Nhơn Trạch được tái lập sau thời gian dài sáp nhập với
Long Thành (1976 - 1994). Địa bàn xã Phú Đông được khai
khẩn sớm của cộng đồng cư dân người Việt. Làng, thôn ở Phú
Đông xưa trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nhiều địa danh trở
nên quen thuộc với cư dân trong địa giới hiện nay như Giồng
Ông Đông, Bến Ngự, Bến Đình, Thị Cầu, Phú Tân... phản ánh
lịch sử, văn hóa của địa phương, một thời là một phần địa giới
của các xã: Phú Hữu, Đại Phước, Phước Khánh, Phú Thạnh.
Trong dòng chảy của lịch sử xứ Biên Hòa - Đồng Nai, Long
Thành và Nhơn Trạch, Phú Đông gắn liền với những thay đổi
hành chính của các thể chế quản lý, phong trào yêu nước trước
năm 1930, đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng từ
khi thành lập. Dầu tên gọi Phú Đông được hình thành sau này
nhưng cư dân của vùng đất này đã hòa trong truyền thống văn
hóa, lịch sử của Long Thành, Nhơn Trạch. Những yếu tố xã hội
và biến chuyển xã hội trong phong trào cách mạng, Phú Đông
chịu ảnh hưởng, tác động của những sự kiện liên quan của Biên
Hòa, Đồng Nai, Đông Nam Bộ, Nam Bộ.
13

2.4 Page 14

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trong nửa thế kỷ đầu XX, phong trào yêu nước của Phú
Đông gắn với các sự kiện như hội kín (hội tập hợp những người
yêu nước, hoạt động bí mật) ở Biên Hòa, Thủ Đức, Long Thành
và Sài Gòn. Trong đấu tranh cách mạng, kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, phong trào đấu tranh nhân dân Phú Đông
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng gắn liền với tình hình phân
chia, bố trí, chiến trường từ Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục
miền Nam, Khu ủy miền Đông, Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy
Long Thành, Nhơn Trạch... Sau ngày đất nước thống nhất, nhân
dân Phú Đông cùng chung tay góp phần trong xây dựng quê
hương trong đơn vị hành chính thuộc xã của Đại Phước, Phú
Hữu. Từ năm 1994 đến nay, khi trở thành đơn vị hành chính cấp
xã của huyện Nhơn Trạch, xã Phú Đông tiếp tục xây dựng và
phát triển địa phương với tổ chức Đảng (từ chi bộ lên Đảng bộ)
và hệ thống bộ máy chính quyền.
Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông được biên soạn theo cấu trúc
gắn liền với những sự kiện tiêu biểu của đất nước, Nam Bộ, tỉnh
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bà - Chợ, tỉnh Thủ Biên, tỉnh Bà
- Biên, Phân khu 4, huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch. Nội
dung công trình được phân theo các nội dung chính:
- Chương I: Phản ánh về vùng đất - con người xã Phú Đông
gắn với đặc điểm tự nhiên, địa lý, địa danh, sự kiện, lịch sử
hành chính, truyền thống văn hóa.
- Chương II, III và IV: Phản ánh phong trào yêu nước, đấu
tranh cách mạng theo phân kỳ lịch sử trong bối cảnh chung của
14

2.5 Page 15

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đất nước, Nam Bộ, Biên Hòa - Đồng Nai. Nội dung các chương
này có những sự kiện lịch sử ngoài phạm vi địa giới hành chính
xã Phú Đông hiện nay được đề cập do có những gắn bó, tác
động đến được đề cập để nhận diện được tình hình chung.
- Chương V: Phản ánh Phú Đông từ năm 1975 đến năm
1994 trong cơ chế hành chính trực thuộc xã Phú Hữu, xã Đại
Phước cho đến khi tách ra, thành lập xã Phú Đông.
- Chương VI, VII và VIII: Phản ảnh xã Phú Đông với tư
cách hành chính độc lập từ năm 1994. Đây là giai đoạn mang
dấu ấn của địa phương trong sự phát triển của huyện Nhơn
Trạch, gắn liền với sự lãnh đạo toàn diện, chỉ đạo sâu sát của tổ
chức Đảng địa phương qua các kỳ đại hội.
Những tư liệu sử dụng biên soạn công trình này từ nhiều
nguồn đã xuất bản, địa chí, lưu trữ, hồi cố, khảo sát... được
sử dụng chọn lọc, đối chiếu, xử lý khoa học. Nguồn tư liệu
dẫn chứng được chú thích, ghi vào thư mục tài liệu tham khảo.
Nhóm biên soạn bày tỏ lòng biết ơn đến các tác giả, nhân chứng,
các đơn vị, cơ quan đã cung cấp thông tin, tư liệu mà chúng tôi
kế thừa, sử dụng. Hy vọng công trình “Lịch sử Đảng bộ xã
Phú Đông (1930 - 2020)” có ý nghĩa thiết thực trong giới thiệu,
tuyên truyền, quảng bá về những giá trị di sản, tinh thần yêu
nước, đấu tranh cách mạng kiên cường của quân, dân Phú Đông
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhóm biên soạn
15

2.6 Page 16

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Chương I
PHÚ ĐÔNG - VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI
1. Địa lý, môi trường tự nhiên
Xã Phú Đông được thành lập trên cơ sở tách ra từ ấp Thị
Cầu của xã Đại Phước và ấp Giồng Ông Đông của xã Phú Hữu
và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 04/09/1994, theo Nghị
định 109/CP ngày 29/8/1994 của Chính phủ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Phú Đông là một xã nằm ở phía Tây
Bắc của huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Vị trị địa lý của xã
được xác định:
- Phía Đông giáp xã Phú Thạnh (địa bàn Thành
Tuy Hạ).
- Phía Đông Nam giáp xã Vĩnh Thanh, xã Phước Khánh.
- Phía Bắc giáp xã Đại Phước.
- Phía Tây Bắc giáp xã Phú Hữu.
- Phía Tây Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh, ranh giới là
sông Nhà Bè.
Tổng diện tích tự nhiên 2.258,99ha, chiếm 5,50% tổng diện
tích tự nhiên Nhơn Trạch. Đất đai của xã Phú Đông hình thành
trên trầm tích phù sa mới của hệ thống sông Nhà Bè, có 03
nhóm đất chính gồm phù sa phèn, đất cát biển và đất xám. Đất
phèn hoạt động, mặn ít có diện tích 241,2ha, chiếm 11,11%
16

2.7 Page 17

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
diện tích tự nhiên và phân bố ở khu cánh đồng ấp Phú Tân và
Bến Ngự. Đất phèn tiềm tàng mặn ít và trung bình có diện tích
1.151,6ha, chiếm 53,06% diện tích tự nhiên, phân bố ở những
khu vực trồng cây của toàn xã. Đất cát biển với hàm lượng 95%
tập trung ở ấp Giồng Ông Đông. Nhóm đất xám chiếm diện tích
khá lớn, trên 201ha, tập trung ở ấp Bến Đình.
Địa hình bằng phẳng, bị chia cắt bởi hệ thống sông rạch,
cao độ tuyệt đối từ 1-3,5m. Xã Phú Đông mang tính chất chung
về khí hậu của huyện Nhơn Trạch, nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt cao đều quanh
năm, ít gió bão, không có mùa đông lạnh, không có những cực
đoan lớn về khí hậu. Nhiệt độ cao đều quanh năm và khá ổn
định, nhiệt độ trung bình năm 260C (Nhiệt độ cực đại trung
bình 280C, cực tiểu trung bình 240C, cực đại tuyệt đối 350C, cực
tiểu tuyệt đối 200C). Thời tiết thể hiện hai mùa rõ rệt. Mùa khô
từ tháng 11 đến tháng 4 và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.
Lượng mưa lớn khoảng 1.900 - 2.000 mm/năm và phân bố theo
mùa rõ rệt (mùa mưa và mùa khô).
Tài nguyên nước của xã Phú Đông phong phú với hệ thống
sông rạch trên địa bàn tập trung ở vùng thấp trũng. Các rạch
chủ yếu từ đoạn sông Nhà Bè nhưng do nằm trong vùng thủy
lợi Ông Kèo nên không bị ảnh hưởng thủy triều, có nước ngọt
quanh năm. Riêng sông Nhà Bè chịu sự tác động của thủy triều,
có nước ngọt vào mùa mưa và nước lợ vào mùa khô. Nguồn
nước mặt toàn xã có 494,67ha sông rạch (thống kê theo số liệu
17

2.8 Page 18

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
năm 2011), tập trung ở phía Tây Nam xã gồm có sông rạch của
sông Nhà Bè, sông Ông Mai, sông Cả Ta, sông Ông Kèo và
sông Ông Thuộc. Phần trong đê có nước ngọt quanh năm do
lấy nước ở cống Phước Lý và cống xả ở Vĩnh Thanh, thuận lợi
cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Nguồn nước ngầm tập
trung vùng đồi gò, có trữ lượng khá lớn và ở sâu. Tầng chứa
nước có độ sâu từ 80-90m có thể khai thác các lỗ khoan lưu
lượng từ 1.000 - 1.500m3/ngày với chất lượng tốt phục vụ cho
sinh hoạt và các ngành khác. Vùng thấp có nguồn nước ngầm
bị nhiễm phèn và mặn không thể sử dụng cho sinh hoạt. Thảm
thực vật xã Phú Đông tương đối đa dạng theo vùng đồng bằng
và trung du chủ yếu là các cây trồng nông nghiệp ngắn ngày,
cây công nghiệp và cây ăn quả. Về chăn nuôi, với môi trường
sông rạch của hạ lưu sông Đồng Nai, Phú Đông thuận lợi cho
việc nuôi gia cầm; đặc biệt là vịt. Hiện nay, trứng vịt nuôi ở xã
trở thành thương hiệu hàng hóa trong vùng.
Trên địa bàn xã, hai trục giao thông chính là đường tỉnh 769
(nay đặt đường Trần Văn Trà), đường 19 (nay là đường Hùng
Vương) đi qua, nối liền với các xã lân cận. Phía Nam có đường
Phan Văn Đáng đi qua địa bàn xã, nối với xã Phước Khánh và
xã Phú Hữu. Địa bàn xã Phú Đông có đoạn giáp giao thông
thủy quan trọng là sông Nhà Bè về phía Nam.
2. Lịch sử hành chính
Xã Phú Đông là đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Tên gọi hành chính này có từ năm 1994
18

2.9 Page 19

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
khi thành lập xã nhưng vùng đất Phú Đông với những làng xưa
từng được khai khẩn trải qua nhiều giai đoạn với sự xuất hiện
của những lớp di dân Việt đến Nhơn Trạch, Long Thành của xứ
Biên Hòa, Đồng Nai. Vì vậy, tên gọi của các làng, thôn, ấp của
Phú Đông qua các thời kỳ có những biến động bởi sự quản lý
của các thiết chế nhà nước.
Địa giới của xã Phú Đông hiện nay gồm những làng xưa ở
vùng Nhơn Trạch mà nay thuộc địa phận của các xã khác: thôn
Lương Phước (đổi thành Phước Lương năm 1877), thôn Lương
Thiện (có từ thời Thiệu Trị, vùng Giồng Ông Đông, trước đây
của Phú Hữu), ấp Thị Cầu của xã Đại Phước, một phần của
làng Phước Thạnh (nay thuộc xã Phú Thạnh). Trong diễn trình
lịch sử của Phú Đông xưa liên quan cả vùng Nhơn Trạch, Long
Thành trong phạm vi rộng lớn của dinh Trấn Biên và sau này
thuộc tỉnh Đồng Nai của Việt Nam.
Trước Công nguyên, cả vùng đất Nam Bộ xuất hiện nhiều
lớp cư dân cổ sinh sống. Vương quốc Phù Nam tồn tại trong
giai đoạn từ thế kỷ I cho đến thế kỷ thứ VII và sau đó là vương
quốc Chân Lạp. Năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược vùng đất phía
Nam, thiết lập bộ máy hành chính trên vùng đất Đồng Nai. Đây
là bước ngoặt có tính chất quan trọng thể chế hóa bộ máy hành
chính trên vùng đất Nam Bộ. Vùng đất Phú Đông thuộc sự quản
lý của dinh Trấn Biên, huyện Phước Long, phủ Gia Định. Nửa
cuối thế kỷ XVIII, vùng đất Đồng Nai là địa bàn tranh chấp
19

2.10 Page 20

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
giữa nhà Tây Sơn1 và chúa Nguyễn. Năm 1776, khi đánh bại
chúa Nguyễn, chiếm được Nam Bộ, Đông Định Vương Nguyễn
Lữ đổi dinh Trấn Biên thành Biên Trấn, Phú Đông thuộc dinh
Biên Trấn. Đến năm 1788, chúa Nguyễn Ánh cai quản vùng đất
Nam Bộ, chia đất thuộc phủ Gia Định thành 5 dinh: Trấn Biên,
Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định, Hà Tiên.
Đầu thế kỷ XIX, Nam Bộ có những thay đổi hành chính khi
vua Gia Long sắp đặt lại bộ máy. Năm 1802, vua Gia Long đổi
phủ Gia Định thành trấn Gia Định nên Phú Đông thuộc dinh
Trấn Biên, trấn Gia Định. Năm 1808, vua Gia Long tiếp tục cải
cách hành chính ở Nam Bộ: trấn Gia Định được đổi làm thành
Gia Định và các dinh trực thuộc được nâng lên cấp trấn. Dinh
Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa và các đơn vị cấp huyện
nâng lên cấp phủ, tổng nâng lên cấp huyện, đặt thêm một số
tổng, phân chia giới hạn căn cứ trên diện tích đất đai, dân cư và
địa thế. Tổng Long Thành được nâng lên cấp huyện trực thuộc
phủ Phước Long (gồm 4 huyện Phước Chánh, Bình An, Long
Thành, Phước An). Huyện Long Thành có địa giới khá rộng2,
gồm 2 tổng: Thành Tuy (29 thôn, ấp) và Long Vĩnh (34 xã,
thôn, phường, ấp). Cùng với sự phát triển của làng thôn, xã ấp,
các đơn vị hành chánh trực thuộc Long Thành có những thay
1  Phong trào Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ
khởi nghĩa. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế năm 1788, mở ra triều đại Quang
Trung, tồn tại cho đến năm 1802.
2  Tương ứng với một số khu vực: Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ, Bà Rịa,
một phần giáp với Tp. Thủ Đức (TP.HCM) hiện nay.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đổi: tổng Thành Tuy chia làm hai tổng: Thành Tuy Thượng và
Thành Tuy Hạ; tổng Long Vĩnh chia làm hai tổng Long Vĩnh
Thượng và Long Vĩnh Hạ. Đất Phú Đông thuộc thôn Lương
Phước và một phần của làng Lương Thiện, thôn Phước Thạnh,
tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long Thành, trấn Biên Hòa, thành
Gia Định.
Năm 1832, vua Minh Mạng cải cách hành chính trên cả
nước. Vùng Nam Bộ chia thành 6 tỉnh: Phiên An (năm 1936
đổi thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường, An Giang, Vĩnh
Long, Hà Tiên (Nam Kỳ lục tỉnh). Trấn Biên Hòa nâng lên
thành tỉnh Biên Hòa, gồm 1 phủ Phước Long và 4 huyện Bình
An, Long Thành, Phước An, Phước Chánh (22 tổng, 285 xã,
thôn). Đến năm 1837, tỉnh Biên Hòa đặt thêm phủ mới Phước
Tuy và huyện Long Thành thuộc phủ này. Đất Phú Đông gồm
làng Lương Phước và vùng lân cận cùng với 11 thôn, ấp khác
(Bình Phú, Hưng Thạnh, Mỹ Hội, Long Hiệu, Phú Mỹ, Phước
Kiến, Vĩnh Tuy, Phước Lai, Tân Tường, Phước Thành, Tuy
Thạnh) thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long Thành, phủ
Phước Tuy, tỉnh Biên Hòa, hạt Định - Biên1. Thời Thiệu Trị,
vùng Phú Đông hình thành thôn Lương Thiện, giáp thôn Lương
Phước.
1  Sáu tỉnh Nam Kỳ chia thành các hạt bằng cách gộp các tỉnh với nhau Định
- Biên (tỉnh Gia Định và Biên Hòa), Long - Tường (tỉnh Vĩnh Long và Định
Tường), An - Hà (tỉnh An Giang và Hà Tiên).
21

3.2 Page 22

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Thời Nam Kỳ thuộc Pháp, từ năm 1864, chính quyền thực
dân Pháp sắp đặt bộ máy hành chính, xóa bỏ các phủ, huyện ở
Nam Kỳ thành lập các Khu Thanh tra, gọi tên theo địa danh đặt
lỵ sở. Tỉnh Biên Hòa chia Biên Hòa thành 2 Tiểu khu Biên Hòa
và Bà Rịa. Tiếp theo, chia ba tỉnh miền Đông Nam Bộ (Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường) thành 13 Sở Tham biện. Tỉnh
Biên Hòa có 5 sở Tham biện gồm Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà
Rịa, Long Thành, Bảo Chánh. Năm 1866, tỉnh Biên Hòa chia
làm 6 địa hạt. Long Thành là một địa hạt cùng với Biên Hòa,
Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức, Bảo Chánh. Năm 1871, các
Khu Thanh tra đổi tên thành hạt Tham biện. Thống đốc Nam
Kỳ ban hành nghị định xóa bỏ hạt Thanh tra Long Thành, sáp
nhập vào hạt Thanh tra Bà Rịa. Địa bàn Phú Đông thuộc tổng
Thành Tuy, hạt Thanh tra Bà Rịa nhưng chỉ trong thời gian
ngắn lại nhập vào hạt Thanh Tra Biên Hòa. Năm 1876, Thống
đốc Nam Kỳ chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính, gồm
19 khu; trong đó vùng Sài Gòn1. Mỗi khu vực có một số Tiểu
khu tương đương với phủ hay huyện thời Nguyễn. Đơn vị hành
chính trước đó là xã, thôn, ấp đều gọi thống nhất là làng. Hạt
Tham biện Biên Hòa bao gồm địa giới của huyện Phước Chánh
và huyện Long Thành cũ (trừ tổng Long Vĩnh Thượng chuyển
qua hạt Tham biện Sài Gòn). Địa bàn Phú Đông thuộc một phần
thôn Phước Lương, làng Lương Thiện, Phước Thạnh của tổng
Thành Tuy Hạ của hạ Tham biện Biên Hòa, Biên Hòa, vùng
1  Vùng Sài Gòn lúc bấy giờ chia 5 khu: Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên
Hòa và Bà Rịa.
22

3.3 Page 23

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Sài Gòn. Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị
định, đổi tất cả các đơn vị hành chính cấp Khu ở Nam Kỳ, gọi
là tỉnh và tồn tại cho đến năm 19451. Thời kỳ chính quyền thuộc
địa Pháp quản lý đến năm 1954, vùng đất Phú Đông của tổng
Thành Tuy Hạ trực thuộc: huyện Long Thành, tiểu khu Biên
Hòa (1863 - 1864), sở Tham biện Long Thành (1864 - 1871),
hạt Thanh tra Bà Rịa (1871), hạt Tham biện Biên Hòa, Khu
Biên Hòa (1876), Địa hạt Long Thành (1876 - 1899), tỉnh Biên
Hòa (1900 - 1945). Trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, có một
số mốc đáng chú ý, vào năm 1928, làng Phước Lương hợp với
Lương Thiện thành làng Phú Hữu. Năm 1939, tỉnh Biên Hòa
được chia thành 5 quận (Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên,
Xuân Lộc, Núi Bà Rá) và quận Long Thành có 3 tổng (Long
Vĩnh Thượng, Thành Tuy Thượng, Thành Tuy Hạ). Vùng Phú
Đông thuộc một phần làng Phú Hữu trong tổng Thành Tuy Hạ
của quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), về phía
cách mạng có sự thay đổi theo tình hình chỉ đạo đấu tranh. Từ
năm 1945 đến năm 1951, Long Thành là một huyện thuộc tỉnh
Biên Hòa. Từ tháng 6/1951 trở đi, Long Thành là một huyện
thuộc tỉnh Bà - Chợ (sáp nhập tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn). Cuối
1  Thực thi từ ngày 01/01/1890. Nam Kỳ được chia thành ba miền, có 20 tỉnh,
bao gồm: miền Đông có các tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa,
miền Trung có các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Vĩnh
Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc, miền Tây có các tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên,
Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
23

3.4 Page 24

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
năm 1954, tỉnh Thủ Biên chi tách thành tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu
Một, tỉnh Bà Chợ chia tách thành tỉnh Bà Rịa, Chợ Lớn. Huyện
Long Thành trực thuộc tỉnh Biên Hòa. Như vậy, vùng đất Phú
Đông thuộc huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa (1945 - 1951)
và thuộc tỉnh Bà Chợ (1951 - 1954) và sau đó trực thuộc tỉnh
Biên Hòa (1954).
Từ năm 1954 đến 1975, vùng đất Long Thành cũng có nhiều
sự thay đổi trong cơ cấu hành chính của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa. Ngày 26/10/1955, sau cuộc trưng cầu dân ý, Ngô
Đình Diệm thay Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập Chính phủ
Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền Việt
Nam Cộng hòa chia Nam Bộ thành 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
Tỉnh Biên Hòa có 4 quận (Châu Thành Biên Hòa, Long Thành,
Dĩ An, Tân Uyên). Phú Đông thuộc tổng Thành Tuy Hạ, quận
Long Thành, tỉnh Biên Hòa1. Ngày 09/9/1960, Phủ Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 858-NV thành lập
quận Nhơn Trạch của tỉnh Biên Hòa. Theo nghị định này, quận
Nhơn Trạch có hai tổng Thành Tuy Trung, Thành Tuy Hạ. Tổng
Thành Tuy Trung (gồm Phước An, Phước Thọ, Phước Long,
Phước Lai, Phước Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền) và tổng Thành
Tuy Hạ (gồm các xã Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước
Khánh, Vĩnh Thanh, Long Tân). Phú Đông trong địa phận xã
Đại Phước, xã Phú Hữu thuộc quận Long Thành (1955 - 1960),
quận Nhơn Trạch (1960 - 1975) của tỉnh Biên Hòa.
1  Nghị định số 140-BNV/HC/ND của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa ngày 02/5/1957. Tỉnh Biên Hòa có 4 quận, 11 tổng, 84 xã.
24

3.5 Page 25

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Về phía chính quyền cách mạng, tùy thuộc tình hình chỉ
đạo, lãnh đạo hoạt động, đấu tranh đã chia địa bàn Long Thành,
Nhơn Trạch trong từng giai đoạn. Địa bàn xã Phú Đông thuộc
Long Thành, Nhơn Trạch nhưng có sự thay đổi trong từng giai
đoạn cụ thể của tỉnh Biên Hòa: huyện Long Thành tỉnh Biên
Hòa (10/1954 - 1960), tỉnh Thủ Biên (9/1960 - 7/1961)1, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa (năm 1961), huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Bà Biên2 (1963), huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa (1965)3,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Bà Biên (12/1966 -1967), Phân khu 4
(10/1967 - 4/1971), Phân khu Bà Rịa (5/1971 - 8/1972), huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa nông thôn (6/1973 - 1975)4.
Sau ngày đất nước thống nhất, Phú Đông thuộc địa phận
xã Đại Phước (ấp Thị Cầu), xã Phú Hữu (ấp Giồng Ông Đông)
thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cho đến năm 1994.
Theo Nghị định số 51- CP của Chính phủ ngày 23/6/1994 về
việc điều chỉnh địa giới thuộc tỉnh Đồng Nai, trong đó huyện
1  Tỉnh Thủ Biên tách thành 3 tỉnh: Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Phước Thành.
Tỉnh Biên Hòa gồm các huyện: Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch, thị xã Biên
Hòa.
2  Trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, gọi tắt là tỉnh Bà Biên, tồn tại
trong thời gian tháng 3/1963 đến tháng 12/1963. Tháng 12 năm 1966, tỉnh Bà
Biên được thành lập trên cơ sở 3 tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa và đến
tháng 10/1967 thì giải thể, thành 3 đơn vị: tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Phân khu
4 và Biên Hòa U1.
3  Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa lúc này có 3 đơn vị cấp tỉnh: Biên Hòa U1 (thị xã
Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu), Biên Hòa, Long Khánh. Biên Hòa U1 tồn tại cho đến
tháng 10 năm 1972 sáp nhập vào tỉnh Biên Hòa.
4  Tỉnh Biên Hòa chia thành thành phố Biên Hòa và tỉnh Biên Hòa nông thôn
(các huyện: Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch, Cao su)
25

3.6 Page 26

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Long Thành được chia tách thành hai huyện: Long Thành,
Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch có diện tích tự nhiên là 40.146
héc-ta và 101.882 nhân khẩu. Phú Đông thuộc một phần địa
giới của xã Đại Phước và Phú Hữu trong 11 đơn vị hành chính
của huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai (Long Tân, Phú Hội,
Phước Thiền, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh,
Vĩnh Thanh, Phước An, Long Thọ, Hiệp Phước). Theo Nghị
định 109/CP ngày 29/8/1994 của Chính phủ, xã Phú Đông được
thành lập trên cơ sở tách ra từ ấp Thị Cầu (xã Đại Phước), ấp
Giồng Ông Đông (xã Phú Hữu). Phú Đông là xã được thành lập
sau cùng của huyện Nhơn Trạch, chính thức đi vào hoạt động từ
năm 1994 cho đến nay.
3. Đặc điểm cư dân
Tính đến năm 2020, xã Phú Đông có 4.129 hộ với 15.151
người, gồm 5 thành phần dân tộc cộng cư; trong đó người Việt
(Kinh) chiếm số lượng nhiều nhất, sau đến người Hoa, Khmer,
Tày, Chơ-ro, Jarai.
Cư dân đến khai khẩn vùng Phú Đông từ rất sớm và hình
thành nên nhưng làng, thôn qua nhiều thời kỳ. Vùng Nhơn
Trạch từ thời khai khẩn đến đầu thế kỷ XX là địa bàn rộng lớn
của các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phú Đông, Phước Khánh hiện
nay. Qua nhiều thời kỳ khai khẩn, các thôn làng được lập với
nhiều tên gọi qua những lần mở rộng, sáp nhập với những tên
gọi có sự kế thừa lẫn nhau. Cộng đồng cư dân đi khai khẩn ở
26

3.7 Page 27

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Nam Bộ: “Những người đi khai hoang thường theo đường thủy,
chọn những gò đất cao ráo, ven sông rạch để định cư. Những
địa điểm vừa thuận lợi giao thông, tránh được nạn ngập lụt, và
môi trường thiên nhiên được ưu đãi nhiều mặt. Khi dân số phát
triển đông, cộng thêm dòng người mới đến, họ bắt đầu tiến sâu
vào đồng nội. Các thành viên trong làng thường có quan hệ
huyết thống, thân tộc, bạn bè và hệ thống chính quyền cũng
mang tính tự trị, tự quản”. Những làng cổ Nhơn Trạch có những
đặc điểm của làng cổ Nam Bộ. Bộ máy hành chính của làng xã
Nam Bộ được thể chế hóa bằng pháp lý qua Minh điều hương
ước (ban hành năm 1852) dưới triều vua Tự Đức có quy định:
- Khi có trên 200 dân đinh, khai khẩn trên 100 mẫu thì được
phép thành lập một thôn lớn, gọi là xã.
- Khi có từ 50 đến 200 dân đinh, khai khẩn từ 50 đến 100
mẫu, được phép thành lập một thôn nhỏ, gọi là thôn.
- Khi có khoảng 10 dân đinh, khai khẩn khoảng 10 mẫu thì
được phép thành lập một thôn nhỏ hơn, gọi là ấp (có khi gọi là
giáp, lân, trại, lý).
Trong một xã có năm loại chức dịch: Một loại có thể xuất
thân tầng lớp nghèo nàn chỉ biết lấy công lao làm thành tích, thì
được cử vào các chức vụ thừa hành, giám sát, tuần tra,... ; Một
loại xuất thân từ tầng lớp có thể cử vào các chức vụ quản lý
tiền bạc, tài sản; Một loại có căn cơ lý lịch (con cháu các bậc có
công khai hoang lập làng) có thể được cử vào các chức vụ gìn
27

3.8 Page 28

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
giữ truyền thống địa phương; Một loại xuất thân từ tầng lớp có
học hành có thể được cử vào các chức vụ giấy tờ bút mực, giáo
dục, văn hóa; Các quan văn võ khi hưu trí về làng được cử chức
hương quan, cố vấn các mặt. Trong một xã có khoảng 30 nhiệm
vụ: trưởng mục, hương chủ, hương sư, hương chánh, hương
quản, hương thân, hương hào, thôn trưởng (xã trưởng), phó
thôn, lý trưởng, biện đình, biện lại, cai lân, cai tuần, trưởng ấp,
cai bình, tham trường, cai đình, trì sư, hương điền, chánh bái,
hương lễ, hương ẩm, thủ chỉ, thủ bổn, kế hiền. Để tránh rườm
rà, thời đó cho phép mỗi người kiêm năm ba chức vụ hoặc các
đơn vị thôn ấp (nhỏ hơn xã) được phép tùy nghi lược giản. Tuy
không qui định cụ thể, nhưng ở Nam Bộ khi được phép lập làng
xã, thì việc đầu tiên là đủ khả năng xây dựng các thiết chế: đình,
chùa, miếu, võ. Mỗi xã (hay thôn) có một nhà vuông (nhà võ),
mỗi ấp (hay lân) cũng có một nhà võ là nơi hương chức làm
việc, là trạm canh, nơi hội họp dân làng dân ấp, thờ tiên sư (bậc
đàn anh trong xóm)1.
Các làng ở vùng phía Nam huyện Nhơn Trạch, trong đó có
xã Phú Đông hiện nay, từng có các thôn, ấp: Lương Phú Đông,
Lương Thiện (rạch Ông Mai, có 4 ấp Thành Hòa/rạch Ca, rạch
Bãi, rạch Miễu, rạch Miễng Sành), Phước Lương/Cảnh Dương
(có 3 ấp rạch Cá, rạch Ông Đông, rạch Ông Chuốc/bến đò Cát
1  Trương Ngọc Tường (2004), Làng cổ truyền Nam Bộ qua Minh điều hương
ước, trong sách Nam Bộ - Đất và người của Hội Khoa học Lịch sử TP.HCM, Nxb.
Trẻ, tr.63-68.
28

3.9 Page 29

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Lái), Phước Thạnh/Suối Nước (có 4 ấp rạch Giồng, Bến Cộ,
Bàu Sen, cù lao Ông Cồn), An Phú, Phước Lý (Ông Kèo, có
4 ấp rạch Giồng, Suối Ngang/Xoài Minh, Bến Đình, Phước
Thành/Rạch Vọp). Ngày nay, xã Phú Đông có ấp Bến Đình là
một trong 4 ấp của làng Phước Lý; Giồng Ông Đông là một
trong 3 ấp thuộc làng Phước Lương, địa danh ra đời sớm còn
được bảo lưu.
Hiện nay, xã Phú Đông có 5 đơn vị hành chính cấp, gồm:
ấp Thị Cầu, ấp Bến Đình, ấp Bến Ngự, ấp Giồng Ông Đông, ấp
Phú Tân. Ấp Thị Cầu trước kia thuộc xã Đại Phước, ấp Giồng
Ông Đông thuộc xã Phú Hữu, gắn với quá trình phát triển lâu
dài. Ba ấp Bến Đình, Bến Ngự, Phú Tân được thành lập sau
năm 1994 khi thành lập xã Phú Đông.
- Ấp Bến Ngự: tên gọi phản ánh đặc điểm của vùng sông
nước, là nơi thuận tiện cho việc các phương tiện đường thủy
(xuồng, ghe, thuyền) neo đậu có tính thường xuyên của cộng
đồng cư dân. Từ một bến có quy mô nhỏ, của một địa điểm trở
thành tên gọi cho cả một vùng đất rộng hơn. Chữ Ngự trong địa
danh được giải thích có liên quan đến chúa Nguyễn Ánh trong
thời kỳ nương dựa vào vùng đất này khi bị nghĩa quân Tây Sơn
truy đuổi. Vùng đất này, trong một thời gian được chúa Nguyễn
Ánh cùng tùy tùng, binh sĩ trú đóng. Tôn trọng chúa Nguyễn
Ánh sau này là vua Gia Long (lên ngôi năm 1802), nên người
dân đặt tên là Bến Ngự. Hiện nay, ấp có diện tích với 416,16ha,
669 hộ (53 hộ tạm trú), gồm 3.079 khẩu.
29

3.10 Page 30

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Ấp Bến Đình: Tên gọi của ấp phản ánh đặc điểm tự nhiên,
địa thế của vùng đất có bến nước của vùng sông rạch và trên đất
liền có đình làng thờ Thần thành hoàng bổn cảnh. Hiện nay, ấp
có diện tích với 290,08ha, 731 hộ (11 hộ tạm trú), gồm 3.252
khẩu.
- Ấp Giồng Ông Đông: Tên gọi của ấp phản ánh địa hình,
địa thế tự nhiên của vùng đất. Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng,
diện tích lớn nhỏ tùy theo nơi, trên có người dân sinh sống,
làm vườn, trồng cây. Trong tên gọi của ấp có gắn yếu tố về
con người: nhân vật có tên Ông Đông. Vùng đất rộng ở Nhơn
Trạch, trong đó có xã Phú Hữu, Phú Đông, Phước Khánh có
một số địa danh mang yếu tố Ông như: rạch Ông Chuốc (xã
Phú Hữu), rạch Ông Kèo, Ông Thuộc (xã Phước Khánh), cù lao
Ông Cồn (xã Đại Phước), rạch Ông Đông. Hiện nay, ấp có diện
tích 648,31ha, có 980 hộ, gồm 3.926 khẩu.
- Ấp Thị Cầu: Tên gọi Thị Cầu có lẽ xuất hiện từ sau năm
1954, khi những giáo dân từ vùng Thị Cầu và Đông Vĩ, Phương
Tiến... ở giáo phận Bắc Ninh thuộc miền Bắc Việt Nam vào
sinh sống tại đây. Nhân dân lấy tên từ miền vùng quê gốc đặt
cho khu vực định cư trên vùng đất mới Nhơn Trạch - Đồng Nai.
Hiện nay, ấp có diện tích với 261,37ha, có 796 hộ, gồm 3.774
khầu.
- Ấp Phú Tân: Hiện nay, ấp có diện tích với 613,25ha, có
182 hộ, 676 khẩu.
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
4. Sắc thái văn hóa
- Tập quán thờ tại gia (thờ tổ tiên, thờ Trời và các gia
thần)
Tập quán thờ tổ tiên được duy trì trong đời sống cư dân
người Việt, Hòa ở xã Phú Đông. Sự thờ kính tổ tiên bày tỏ tấm
lòng của người còn sống đối với các bậc sinh thành khi họ đã
qua đời. Người dân nhớ đến tổ tiên và thờ qua hình thức thiết
lập bàn thờ trong nhà. Bàn thờ tổ tiên được bài trí ở vị trí trung
tâm, thường ở gian chính giữa. Người dân tín niệm tổ tiên sẽ
tiếp tục sống ở thế giới bên kia và quan tâm đến đời sống của
con, cháu mình. Vì vậy, họ thờ với nghĩa cử hiếu kính, mong
muốn tổ tiên phù hộ trong cuộc sống. Gia đình tổ chức lễ giỗ
tưởng nhớ. Cuối năm âm lịch, có tục chạp mã (lo tu sửa, dọn
dẹp) phần mộ tổ tiên, những người qua đời. Trước tết âm lịch
tổ chức lễ cúng đón tổ tiên về nhà đón tết và tiễn đi vào ngày
mùng Ba tháng Giêng.
Người dân kính trọng và thờ Trời với cách gọi là Ông Trời
qua bàn thờ Thiên ở các gia đình. Bàn thờ khá đơn giản với một
cây trụ (gỗ, gạch), trên có bệ ngang hình vuông (ván, gạch xây,
xi măng...) lộ thiên, không vách hoặc có vách lửng; sau này,
một số nơi xây vách và đặt mái che (ván, tôn, ngói). Vị trí bàn
thờ thường ở sân trước nhà. Bài trí trên bàn thờ gồm lư hương,
bình cắm hoa và 3 ly nước (một số nhà có chén gạo, muối). Một
số nơi, phía dưới chân cột là lư nhang, bình bông, 5 ly nước.
31

4.2 Page 32

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Sự bài trí như vậy theo quan niệm trên thờ Trời dưới thờ Đất
(có để tượng Thổ Địa). Trên một số cây trụ, có nơi đề chữ Hán
(Thiên Quan Tứ Phước). Tập tục thờ Trời ở bàn Ông Thiên này
được tiến hành hàng ngày. Gia chủ thắp nhang vái trời, đất và
bốn phương cầu cho gia đình được an lành và đặc biệt là cầu
thọ cho cha mẹ. Tập tục đốt một ngọn đèn chong suốt đêm ở
bàn Thiên là nhằm cầu thọ “Đêm đêm thắp ngọn đèn trời. Cầu
cho cha mẹ ở đời với con”.
Trong một số nhà người dân, còn có những tượng thờ các
gia thần như Ông Địa, Ông Táo, thần Tài hoặc một số vị nhân
thần, thần linh khác với quan niệm che chở, đem tài lộc, độ
mạng cho các thành viên gia đình: Bà Quan Âm, Cửu Thiên
Huyền Nữ, Phật Mẫu, Phật Mẫu Diêu Trì (độ trì nữ giới), Quan
Thánh (độ trì nam giới). Tục thờ thần độ mạng phổ biến trong
các gia đình qua hình thức trang thờ, tranh kiếng gắn trên vách,
tường nhà. Người dân sinh sống trên vùng sông, rạch Phú Đông
tín niệm về vị thần cai quản vùng sông nước, gọi là Bà Thủy
(bảo trợ cho người sống bằng nghề chài lưới, hay đi lại trên
sông nước). Trong tháng, người làm nghề khấn vái vào ngày 16
và 23 (Âm lịch). Trong năm, vào mùng Ba tháng Giêng, người
làm nghề sắm lễ cúng bà (còn gọi là Khai bạc) tại một bến nước
hay nơi neo đậu ghe, xuồng. Lễ vật gồm mâm có gạo muối,
giấy tiền vàng bạc, thịt vịt, thịt heo, vàng mã.
32

4.3 Page 33

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Với đặc điểm tự nhiên, vùng Phú Đông được người dân
khai khẩn ruộng, làm lúa nước. Đây là hoạt động kinh tế chính
trong sản xuất lương thực bên cạnh các loại cây trồng ăn trái,
rau quả khác. Quá trình làm ruộng, nông dân còn giữ một số
tập quán như cúng ruộng trước khi vụ mùa mới hoặc sau khi
thu hoạch. Gia chủ tổ chức cúng ruộng khá đơn giản, sắm một
số lễ vật (gà, xôi, trái cây, muối, rượu, nhang...) tổ chức cúng
tại ruộng, khấn vái thần Nông, tổ tiên, tiền hiền, tiền chủ... giúp
đỡ cho mùa màng được bảo vệ, không dịch hại, kết quả tốt. Sau
khi thu hoạch, cúng tạ ơn tại nhà.
- Thiết chế tín ngưỡng
Các thiết chế này thờ thần linh mang tính chất cộng đồng,
đối tượng thờ thần làng (thần Thành hoàng), thờ các Bà thần
(bà Ngũ Hành, bà Chúa Xứ) qua các đình, miếu (còn gọi là
miễu). Các thiết chế tín ngưỡng đình, miếu buổi đầu xây dựng
khá đơn sơ, bằng các loại gỗ, tre, lá... những vật liệu có sẵn tại
địa phương. Trải qua nhiều giai đoạn, đình, miếu được tôn tạo,
mở rộng khang trang, kiên cố bằng những loại vật liệu mới (xi
măng, gạch, tôn).
Tục thờ thần Thành hoàng bắt nguồn từ xa xưa với nhiều
cách lý giải về nguồn gốc. Ở Phú Đông có một số đình, miếu
là biểu hiện sinh động của tín ngưỡng về thần linh cộng đồng
mà người dân tín niệm, tôn trọng có chức năng che chở, phù
hộ cho dân làng trong cuộc sống. Thần Thành hoàng được thờ
33

4.4 Page 34

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
trong chánh điện đình. Giữa chánh điện đình có chữ Hán đại tự
“Thần”. Hàng năm, tại đình, người dân tổ chức các ngày lễ tính
theo âm lịch, trong đó lễ Kỳ yên theo định kỳ là lễ quan trọng
với mục đích tạ ơn thần Thành hoàng đã che chở và cầu mong
cuộc sống an vui (Quốc thái dân an), thời tiết thuận hòa (Phong
điều vũ thuận), mùa màng tốt tươi (Phong đăng hòa cốc). Trình
tự của lễ Kỳ yên là một tập thành các nghi thức theo thứ tự
nghiêm cẩn để tế tự thần Thành hoàng, các bậc tiền hiền khai
khẩn, hậu hiền khai cơ của làng thôn.
Đình Giồng Ông Đông (còn có tên gọi đình Ngũ vị Thạch
thần, chùa Ông). Đình xây dựng năm nào chưa có thông tin
chính xác. Những người cao niên cho biết, đình có trước năm
1920 và đã trải qua 3 lần trùng tu lớn vào các năm 1932, 1963,
2011. Ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ được làm bằng vách
gỗ, mái lợp lá để thờ cúng Ngũ vị Thạch thần. Ngũ vị Thạch
thần gắn với truyện tích: khi vua Gia Long thời kỳ trú ngụ ở
Nam Bộ, đã đóng quân tại đây. Những phiến đá được vua Gia
Long cho đặt để dùng làm nơi nấu cơm và bàn cho tùy tùng,
binh sĩ. Lễ Kỳ yên (cầu an) tại đình tổ chức vào ngày 15 và
16 tháng Hai âm lịch. Người dân tham dự đông đảo. Các nghi
trong lễ: Túc yết, Tiền hiện, Hậu hiền, Thỉnh sanh, Đàn cả và
Tống quái. Ba năm, đình tổ chức đại lễ Kỳ yên. Ban quí tế có
20 người được phân công trách nhiệm cụ thể theo định lệ, riêng
học trò lễ phải mời từ nơi khác. Hiện nay, đình thờ thần Thành
hoàng và phối tự Tiền hiền, Hậu hiền, Tiên sư.
34

4.5 Page 35

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đình thần Ông Mai (ấp Phú Tân), được xây dựng năm nào
chưa có thông tin chính xác. Đình thờ thần Thành hoàng bổn
cảnh, được họ là Ông Mai - một trong những tướng quân của
vua Gia Long. Đình bị tàn phá bởi chiến tranh. Sau năm 1952,
đình được tái lập trên nền cũ. Năm 1992, đình được dời về vị
trí hiện nay thuộc ấp Phú Tân, bên hữu ngạn rạch Ông Mai.
Kiến trúc đình gồm gian nhà vuông, cột bê tông, mái tôn. Hằng
năm, tại đình tổ chức cúng ông cầu an vào ngày 13 tháng Hai
âm lịch.
Bên cạnh các đình thờ thần Thành hoàng bổn cảnh, cư dân
địa phương xây dựng các miếu thờ Bà ở thôn, làng trước đây.
Ban đầu, những ngôi miếu này được dựng đơn sơ với vật liệu
nhẹ, sau này, được tái tạo khang trang, kiên cố hơn. Bà Ngũ
Hành là đối tượng thờ chính ở các miếu, biểu đạt qua tượng
5 Bà (có đặc điểm nhận dạng, phân biệt) hoặc bài vị. Theo
tín niệm của người xưa, Ngũ Hành là biểu tượng cho 5 yếu tố
cơ bản tạo nên vũ trụ; gồm: Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thủy
(nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất). Theo Dịch lý, sự vận hành của
các chất cơ bản này đã sản sinh ra vạn vật. Tính chất sinh sản là
biểu tượng của nữ giới - nên dân gian tín niệm là các nữ thần,
tôn xưng Ngũ Hành (Nương nương, Thánh phi, Tiên nương)
hoặc dân gian hay gọi Năm Bà Ngũ Hành.
Miếu Bà Ngũ Hành (ấp Thị Cầu), xây dựng cách đây hơn
100 năm. Ban đầu là ngôi miếu nhỏ. Năm 1963, ông Phạm Văn
35

4.6 Page 36

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Hiện và những vị cao niên tại địa phương vận động trùng tu.
Miếu có gian chánh điện xây tường, lợp tôn và nhà võ (võ ca).
Hằng năm, tại miếu tổ chức lệ vía Bà Ngũ Hành vào ngày 16
tháng Giêng. Miếu Bà Ngũ Hành (ấp Bến Đình), xây dựng cách
đây hơn 2 thế kỷ, lễ vía và cầu an tổ chức vào ngày 16 tháng
Chạp hằng năm. Hiện nay, tại các ấp của Phú Đông còn có các
miếu thờ Bà mà người dân địa phương gọi theo dân gian gắn
với đặc điểm tại chỗ: Miếu Bà Cây Cám (ấp Bến Ngự) được
xây dựng cách đây trên một thế kỷ, miếu Bà Ngũ Hành Ông
Mai (ấp Phú Tân), miếu Bà Rạch Miễu (ấp Phú Tân). Mỗi năm
tại miếu diễn ra các lệ cúng cầu an với sự tham dự của người
dân địa phương.
- Thiết chế tôn giáo
Người dân ở Phú Đông tiếp thu một số tôn giáo: đạo Phật,
đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài. Trên địa bàn Phú Đông có các
ngôi chùa: Pháp Thường, chùa Pháp Vân, chùa Linh Bửu Tự,
Tự viện Hương Nghiêm. Chùa Pháp Thường (ấp Bến Đình),
được xây dựng năm 1950, tọa lạc trong khuôn viên rộng. Kiến
trúc chùa ban đầu gồm gian chánh điện. Sau này, chùa đã trải
qua 3 lần trùng tu, mở rộng vào các năm 1990, 1996 và năm
2000. Kiến trúc khá bề thế với chánh điện, giảng đường và các
khu ni xá, tăng xá, phòng thuốc, nhà bếp. Chùa thuộc hệ phái
Thiên thai Giáo quán tông. Chùa Pháp Vân (ấp Bến Ngự) có
36

4.7 Page 37

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
kiến trúc một gian hai mái, lợp ngói tây. Chùa được xây dựng
năm 1963, thuộc hệ phái Bắc tông và trùng tu năm 1993.
Trên địa bàn xã có giáo xứ Thị Cầu với nhiều giáo dân có
đạo Thiên Chúa. Nhà thờ Thị Cầu (ấp Thị Cầu), xây dựng năm
1954, ban đầu bằng vật liệu tạm. Số giáo dân ban đầu gồm
những người từ vùng Thị Cầu, Phương Vĩ, Đông Tiến và một
số địa bàn thuộc giáo phận Bắc Ninh (miền Bắc) đến sinh sống.
Nhà thờ được trùng tu, mở rộng thêm các khu vực vào các năm
1957, 1969, 1998. Hằng năm, tại nhà thờ tổ chức các lễ nghi
liên quan đến Thiên Chúa.
Thánh thất Cao Đài (ấp Bến Đình) xây dựng năm 2015.
Đạo Cao Đài là tôn giáo bản địa của Việt Nam, ra đời ở Nam
Bộ từ năm 1926. Đạo truyền bá rộng rãi đến các nơi, trong đó
có huyện Nhơn Trạch khá sớm.
- Địa danh và các loại hình di sản
Một số địa danh ở Phú Đông gắn với những truyện tích
được lưu truyền trong đời sống dân gian. Rạch Ông Kèo được
lý giải xưa đoạn sông này xuất hiện nhiều cá sấu. Tới mùa sinh
sản, từng cặp cá sấu nổi lên trên mặt nước thực hiện hành vi
giao phối “kèo nhau”. Người dân tôn trọng gọi là Ông Kèo. Địa
danh Giồng Sắn được cho là trại từ Giồng Xoắn - vốn là một
giồng cát dài, ngoằn ngoèo, như xoắn lấy nhau nên gọi lên theo
địa hình dạng.
37

4.8 Page 38

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trải qua quá trình dài tụ cư, người dân Phú Đông tích lũy,
hình thành những tri thức dân gian. Với đặc điểm sông nước,
đi lại và sinh sống phần lớn trên sông rạch, trước đây, có một
số hộ dân làm nghề thủ công đóng xuồng ghe, đan và gia công
lưới để phục vụ cho gia đình cũng như trao đổi khi người dân
có nhu cầu. Nhà cửa xưa ở Phú Đông được làm với nguyên vật
liệu tại chỗ, đơn sơ, khai thác trong tự nhiên như các loại cây gỗ
và lá dừa nước. Từ nhu cầu của người dân trong việc làm nhà
ở và trang trí, sắm sửa những vật dụng gỗ, ở Phú Đông vẫn còn
những hộ gia đình duy trì nghề mộc.
Tri thức dân gian của người dân Phú Đông ngày càng đa
dạng trong quá trình thích nghi với môi trường sống. Những
kinh nghiệm xem thời tiết để bước vào vụ mùa mới, xuống
giống cây trồng, những bài thuốc dân gian trong chữa những
bệnh thông thường trong khai thác từ môi trường tại chỗ. Trong
môi trường lao động, hình thành những loại hình văn học dân
gian như truyện kể về địa danh, sự tích của các thần linh được
tôn thờ, những kiêng kỵ trong cuộc sống cũng như các loại dân
ca hò vè. Ở Phú Đông, việc làm ruộng xưa có sự vần công đông
người đã nảy sinh loại hình hò cấy vui nhộn. Lối diễn xướng
dân dã này vừa góp vui cho cuộc sống, giải trí cho những người
làm việc trên cánh đồng. Một câu hò được sưu tầm ở ấp Thị
Cầu có tính chất giao duyên như: “Chàng trai: Hò... ơ... Đầu em
đội chiếc khăn vuông, dưới chân em có cau buồng trổ bông. Má
38

4.9 Page 39

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
em vừa đẹp vừa hồng, cho anh xin hỏi có chồng hay chưa hò...
ơ... Cô gái đáp: Hò... ơ... Anh hỏi em thành thật xin thưa, cảnh
nhà đơn chiếc nên chưa có chồng hò... ơ... ”.
Hiện nay, trên địa bàn xã Phú Đông có di tích Giồng Sắn
thuộc ấp Bến Đình. Địa điểm Ngã ba Giồng Sắn gắn với sự
kiện thảm sát người dân vô tội của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa vào ngày 27/9/1964. Năm 1984, địa phương xây dựng bia
tưởng niệm tại đây. Địa điểm này theo Quyết định số 5160/QĐ-
CT.UBT của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ngày 22/10/2004
được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh. Năm 2005, công trình
Nhà bia tưởng niệm và công viên Giồng Sắn được xây dựng
trên diện tích 15.000 m2, gồm: nhà bia, nhà trưng bày, sân lễ.
Hằng năm, vào ngày 22/8 (Âm lịch), tại di tích địa phương tổ
chức lễ tưởng niệm cho những nạn nhân trong vụ thảm sát kinh
hoàng năm này. Văn bia tưởng niệm những thường dân vô tội
trong sự kiện này có nội dung:
“Ngã ba Giồng Sắn, bến sông Ông Kèo đất an bình, người
dân Biên Hòa chơn chất.
Tấp nập, người giăng câu, hái củi, người gác chèo, cá tôm
đầy khoang, ghe thuyền san sát, sóng nước khua, tiếng hỏi
chào, tiếng hát câu hò vang cảnh thanh bình chốn hạ bạc.
Bỗng đâu, Bầu trời chuyển rung. Bầy quạ sắt quần đảo,
gầm rú, thét gào. Chúng trút bom, bắn rốc két vào đồng bào
39

4.10 Page 40

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
trong tay chỉ mái chèo thúng mủng, những tay lưới, đầu trần
chân đất lam lũ.
Ầm! Ầm! Ầm!
Đất bằng dậy sóng.
Thuyền gỗ không chống được bom đạn quân thù. Những
tay lưới mủng nang sao chọi lại với lòng lang quân cướp nước.
Mảnh vụn ghe thuyền trôi theo dòng nước. Thây trôi, máu
đỏ loang bến vắng. Người chết không toàn thân, tả tơi vắt trên
những cành cây, ngọn cỏ.
Hoảng loạn một bến sông. Tang thương tìm đâu nơi ẩn
nấp? Con thét gào khóc kêu bên xác mẹ. Mắt lạc hồn ngơ ngác
tìm người thân.
100 ghe thuyền nát tan dưới bom đạn kẻ thù, 536 bà con
vĩnh viễn ra đi. Hàng trăm đồng bào, thân còn hằn sâu những
vết thương. Tội ác quân thù vẫn còn đây.
Ghi vào đá để không nguôi uất hận”
Di tích nhắc nhớ về một thời Phú Đông trong cảnh tang
thương của chiến tranh, người dân vô tội gánh chịu nhiều hậu
quả nặng nề. Từ trong đau thương, mất mát, quân và dân Phú
Đông biến thành hành động cách mạng, cùng Nhơn Trạch nêu
cao tinh thần bất khuất, chiến đấu can trường để giải phóng,
thống nhất đất nước, sống trong cảnh độc lập, tự do.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Chương II
PHÚ ĐÔNG TỪ KHI THÀNH LẬP ĐẢNG
ĐẾN Cách mạng tháng Tám
(1930 -1945)
1. Phong trào yêu nước của nhân dân Phú Đông trước
năm 1930
Từ năm 1930 trở về trước, vùng đất Phú Đông nằm trong
địa phận của huyện Long Thành, có phong trào đấu tranh yêu
nước, thu hút nhiều người dân tham gia. Sống trong cảnh cơ
cực và bị áp bức bởi chính quyền phong kiến, một số cuộc
phản kháng, khởi nghĩa của người dân đã nổ ra. Từ nửa cuối
thế kỷ XIX trở đi, khi triều đình nhà Nguyễn thất bại trong
bảo vệ đất nước, thực dân Pháp đặt bộ máy thống trị1, phong
trào yêu nước bùng nổ ở Nam Kỳ nói chung và Biên Hòa -
Đồng Nai nói riêng. Cuộc khởi nghĩa của Trương Định (Trương
Công Định) tác động mạnh đến người dân Đông Nam Bộ, đặc
biệt vùng Long Thành, Nhơn Trạch khi địa bàn nối liền với
vùng sông rạch phía Nam là khu vực hoạt động của nghĩa quân.
Trương Định là Phó Quản cơ đồn điền Gia Thuận (tỉnh Gia
1  Ngày 05/6/1862, triều đình nhà Nguyễn ký với Pháp “Hòa ước hòa bình và
hữu nghị” (Hòa ước Nhâm Tuất) tại Sài Gòn. Hòa ước gồm 12 điều khoản, nội
dung chủ yếu là 3 tỉnh miền Đông là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và đảo
Côn Lôn thuộc chủ quyền của Pháp.
41

5.2 Page 42

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Định), sau được phong Phó Lãnh binh Gia Định, đã chiêu mộ
hàng ngàn nghĩa quân, lập căn cứ chống Pháp ở Đông Nam Bộ.
Sau năm 1862, do ba tỉnh Đông Nam Kỳ bị cắt nhượng cho
Pháp, ông được thăng chuyển Lãnh Binh An Hà (An Giang, Hà
Tiên). Hậu cứ của nghĩa quân ở vùng Gò Công (nay thuộc Tiền
Giang), Lý Nhơn (Cần Giờ - trước thuộc Biên Hòa, sau thuộc
Gia Định, nay thuộc TP.Hồ Chí Minh). Ông được phong tặng
chức danh Bình Tây nguyên soái trong nhiệm vụ chống Pháp.
Nhiều nhân sĩ nửa cuối thế kỷ XIX ở Nam Bộ quy tụ dưới cờ
nghĩa Trương Định, trong đó có Tri huyện huyện Long Thành
Đỗ Trình Thoại. Nghĩa quân đã tổ chức nhiều trận đánh làm cho
quân Pháp tổn thất.
Năm 1863, quân pháp tấn công căn cứ Lý Nhơn, Trương
Định bị Huỳnh Công Tấn, đội ngũ thân cận làm phản. Trương
Định hy sinh nhưng nghĩa quân các tỉnh, thành hưởng ứng
phong trào kháng pháp của ông tiếp tục chiến đấu. Những trận
đánh của nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Nguyễn Trung Trực
ở Gia Định (hiện nay thuộc Long An) cũng đã tác động đến
phong trào kháng Pháp của những người yêu nước tại miền
Đông Nam Bộ, trong đó có khu vực Long Thành, Nhơn Trạch.
Trận phục kích chiến hạm L’spérance (Hy vọng) của quân đội
Pháp ở vàm Nhựt Tảo được triều đình Nguyễn ban thưởng.
Danh tiếng của Nguyễn Trung Trực vang lừng khắp nơi, phạm
vi hoạt động lan sang miền Đông Nam Bộ như Long Thành,
42

5.3 Page 43

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Phước Lý, Tân Uyên, Biên Hòa1. Sau khi thực dân Pháp cơ bản
bình định các phong trào yêu nước ở Nam Bộ, người dân tham
gia trong các hội yêu nước bí mật gọi là hội kín để tránh sự phát
hiện của thực dân Pháp.
Ở Đồng Nai có một số hội kín yêu nước: Hội kín ở Long
Thành do nhà sư Huyền Vi (Trần Văn Tấn) trụ trì chùa Giác
Lâm tổ chức, đã giết tri phủ Long Thành là Trần Bá Hựu vào
năm 1885. Chính quyền thực dân Pháp bắt những thành viên
của hội kín ở Long Thành, xét xử tại tòa đại hình Bình Hòa (Gia
Định), nhà sư Huyền Vi bị kết án tử hình, các thành viên: Phạm
Trung Báo (Huỳnh Tấn Thanh), Nguyễn Văn Thượng, Lâm Văn
Tôn khổ sai, chung thân và các án khổ sai 20 năm, 1 án khổ sai
10 năm2.
Hội kín của cụ Đoàn Văn Cự phát triển rộng từ vùng Thủ
Đức lên Biên Hòa, căn cứ tại Bưng Kiệu, Suối Linh (khu vực
phường Long Bình hiện nay). Hội kín chiêu mộ những người
yêu nước, sắm sửa vũ khí, tập luyện võ nghệ chờ thời cơ đánh
Pháp. Năm 1905, thủ lĩnh Đoàn Văn Cự làm lễ tế và chuẩn bị
cho nghĩa quân tấn công quân Pháp. Chính quyền thực dân Pháp
1  Nguyễn Văn Khoa (2001), Anh hùng kháng Pháp Nguyễn Trung Trực, Nxb.
Trẻ, TP.HCM, tr. 55-56.
2  Sự kiện xảy ra vào năm 1885. Chính quyền thực dân Pháp bắt những thành
viên của hội kín ở Long Thành, xét xử tại tòa đại hình Bình Hòa (Gia Định),
(Nguồn: Đỗ Bá Nghiệp chủ biên và nhiều tác giả, Địa chí Đồng Nai, tập 3 - Lịch
sử), Xí nghiệp in Đồng Nai, Nhà in Thông tấn xã Việt Nam xuất bản năm 2001,
tr.192.
43

5.4 Page 44

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
đưa quân bao vây căn cứ Suối Linh và đàn áp. Đoàn Văn Cự
và các nghĩa quân chống trả và bị lính Pháp sát hại. Hội kín với
tên gọi Lâm Trung trại được hình thành ở Gò Mọi (nay thuộc
vùng Thiện Tân, huyện Vĩnh Cửu) do những người có chí khí,
giỏi võ tập hợp lại, chiêu tập nghĩa quân, tích trữ lương thực để
kháng Pháp. Đầu năm 1916, nghĩa quân của Lâm Trung trại tổ
chức tấn công các cơ sở của Pháp (trụ sở hội tề, thành Săng Đá,
phá khám đường). Sau cuộc nổi dậy của hội kín, chính quyền
thực dân truy lùng và dùng nhiều thủ đoạn bắt những thủ lĩnh
của hội đưa ra tòa án binh xét xử. Theo bản án của Tòa án binh
ngày 27/4/1916, 66 thành viên của hội kín Biên Hòa được xét
xử và bị kết án: xử tử 9 người, xử tử vắng mặt 8 người, khổ
sai chung thân 11 người, 20 năm khổ sai 2 người, 10 năm tù 1
người1.
Các hội kín của tỉnh Biên Hòa dù bị đàn áp nhưng đã cổ vũ
cho tinh thần yêu nước của người dân địa phương. Trong cuộc
sống cơ cực và bị áp bức bởi thực dân Pháp, họ sẵn sàng vùng
dậy khi có cơ hội, dù bị đàn áp với những bản án nặng nề của
chính quyền thực dân nhưng tinh thần yêu nước, bất khuất của
các thành viên hội kín luôn cổ vũ. Vì vậy, sau này, khi tổ chức
hội kín yêu nước, kháng Pháp do Phan Phát Long chủ trương
được phát động mạnh mẽ ở Sài Gòn, người dân vùng Nhơn
Trạch, Long Thành tiếp tục ủng hộ, tham gia. Vào năm 1913,
1  Trần Thái Bình (1998), Cuộc nổi dậy ở Biên Hòa năm 1916, Tạp chí Xưa &
nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 52B-6-1998, tr.17.
44

5.5 Page 45

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Phan Phát Sanh/Phan Xích Long, 17 tuổi, tự xưng là Đông
cung, con vua Hàm Nghi. Trong các buổi lễ bí mật, Phan Phát
Sanh mặc y phục lộng lẫy, đính những huy hiệu bằng vàng, tự
coi là thiên tử được trời sai xuống làm vua nước Nam, cho in
truyền đơn rải khắp Sài Gòn, Chợ Lớn kêu gọi dân chúng nổi
lên chống Pháp. Phan Phát Sanh bị mật thám Pháp bắt, kết án
chung thân khổ sai, giam tại Sài Gòn.
Các xã ở Nhơn Trạch, Long Thành có tổ chức hội kín hoạt
động ở một số địa bàn với hình thức liên lạc bằng ám hiệu, mật
hiệu với nhau hoặc tập trung với danh nghĩa của các hoạt động
tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng trên địa bàn (hội miễu, hội
đình). Vùng Nhơn Trạch, Long Thành có các tổ chức trong hội
kín hoạt động, chia theo cụm.
- Cụm Phú Hữu, Phước Khánh, Giồng Ông Đông do cụ
Nguyễn Xuân Sáng phụ trách, điểm liên lạc tại Phú Hữu.
- Cụm Phước Thái, Long An, Long Phước do cụ Lê Lưu Di
phụ trách, điểm liên lạc tại đình Long Phước.
- Cụm An Hòa Hưng, Phước Tân, Tam Phước, Tam An, An
Lợi do cụ Phan Văn Tập phụ trách, điểm liên lạc tại đình Tam
Phước.
- Cụm Phước Lộc, Phước Nguyên, Siph, Lộc An, Bình Sơn
do cụ Huỳnh Thanh Quang và Trần Nghĩa Khánh phụ trách,
điểm liên lạc tại khu Giàu Ba.
45

5.6 Page 46

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Cụm Phước Long, Phước Thọ, Phước An do cụ Đặng
Phùng chỉ huy, điểm liên lạc tại Phước An.
- Cụm Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiểng do
cụ Hồ Văn Tĩnh lãnh đạo, điểm liên lạc tại Xóm Hố.
Như vậy, địa bàn Phú Đông hiện nay thuộc cụm hội kín
hoạt động trên địa bàn khá rộng với điểm chính là Phú Hữu. Để
tránh sự theo dõi của chính quyền thực dân, những thành viên
hội kín tập trung công khai vào ngày các miễu tổ chức cúng
với sự tham gia của nhiều người, qua đó nắm bắt tình hình, chủ
trương. Việc liên lạc, xác định những thành viên trong tổ chức
hoặc ngầm báo cho biết tình hình qua các ám hiệu cụ thể. Để
nhận diện có phải là thành viên trong hội, khi gặp nhau một
người làm bộ bâng quơ, chỉ tay lên trời nói: “Mây vẫn nặng
nề”. Nếu là thành viên của hội sẽ hiểu, chỉ tay xuống đất, trả
lời: “Cơn giông sắp nổ”. Hoặc khi cần liên lạc, gặp nhau để
chuyển tải chủ trương thì hội viên mang theo cây dù với những
ám hiệu để biết: “Dù mang bên tả, đảng viên, Đi việc cơ mật
nói riêng chủ nhà. Dù mang cái móc trở ra, Bàn sơ chút việc
ghé qua đi liền. Dù mang cái móc trở vô, Phải lo cơm nước với
đồ nghỉ ngơi”1.
Hội kín hoạt động tuyên truyền yêu nước, bày cho đông đảo
người nghèo cách chống sưu cao thuế nặng, chống sự bóc lột
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930
- 2015), Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.65 (tư liệu của NNC Trần
Hiếu Thuận/ Hoàng Thơ).
46

5.7 Page 47

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
của bọn chủ điền tham lam. Trung tuần tháng 02/1916, các tổ
chức hội kín ở các tỉnh Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa, Chợ
Lớn... kéo về Sài Gòn bí mật bố trí, tiếp cận các mục tiêu, trong
đó có khám đường Sài Gòn, nhằm giải cứu Phan Phát Long và
những người yêu nước bị giam cầm tại đây. Cùng với cuộc tấn
công phá khám lớn Sài Gòn, nghĩa quân ở các địa phương Nam
Kỳ cũng nổi dậy tấn công vào chính quyền Pháp. Sau khi làm
thất bại cuộc tấn công vào khám đường Sài Gòn, chính quyền
thực dân Pháp truy lùng, khủng bố mạnh mẽ các tổ chức hội kín
yêu nước ở Nam Kỳ. Những thành viên của hội kín tại Long
Thành như ông Tiều, ông Quý, ông Dệch bị Pháp bắt, một số
thành viên khác “mai danh ẩn tích” tránh sự truy lùng. Tổ chức
hội kín ở Phú Hội nói riêng, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa tan rã.
Trong dân gian, có nơi vẫn gọi các hội kín yêu nước này là
tổ chức Thiên địa hội do thấy có những nét giống với tổ chức
Thiên địa hội ở miền Nam Trung Quốc. Một số nhà nghiên cứu
cho rằng, các hội kín ở Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX: không mang tên gọi thống nhất mà có khá nhiều tên gọi
khác nhau. Tổ chức hội cũng không có một hệ thống trên dưới
nhất định, mà thường thường hoạt động riêng rẽ, có liên lạc
ngang với nhau cho đến khi nào nổi lên một người hay một số
người uy tín tổ chức ra một hệ thống dọc nhăm sử dụng các hội
lẻ tẻ này như một lực lượng yêu nước mạnh mẽ. Điều này phản
ánh rõ trong các tổ chức hội kín yêu nước ở Long Thành, Biên
Hòa lúc bấy giờ (Hội kín Đoàn Văn Cự, Hội kín Lâm Trung
47

5.8 Page 48

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trại...) bởi hội kín yêu nước của nhân dân Nam Kỳ trong giai
đoạn này đơn giản hơn tổ chức Thiên địa hội bên Trung Quốc.
Trong một số hoạt động của hội có những hành vi được thực
hiện: lấy máu ăn thề, nguyện tuyệt đối trung thành với nhau,
với hội và qua thử thách xem có đủ can đảm không. Việc ăn thề
mang tính chất thần bí. Người của hội lại tin rằng bùa chú có thể
tăng thêm sức mạnh của con người chiến đấu. Song trong hội
kín Việt Nam không hề có đẳng cấp với tính chất phong kiến
và tôn giáo... 1. Những thành viên của hội kín yêu nước ở Long
Thành, Biên Hòa trong giai đoạn này thể hiện lòng yêu nước và
tinh thần đấu tranh bất khuất, chấp nhận hy sinh để đánh đuổi
kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Từ phong trào yêu nước,
kháng Pháp của người dân vùng Phú Đông, Phước Khánh, Phú
Hữu, Đại Phước là những yếu tố thuận lợi cho phong trào đấu
tranh cách mạng khi tư tưởng vô sản được truyền vào các tầng
lớp nhân dân địa phương.
Từ năm 1926 đến năm 1930, tư tưởng vô sản được truyền bá
ở Sài Gòn và những tiểu tổ của Hội Thanh niên cách mạng Việt
Nam (gọi Thanh niên cách mạng đồng chí Hội) được thành lập
ở một số tỉnh Nam Kỳ, trong đó có Biên Hòa. Tháng 10/1926,
các hội viên gồm Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi được
cử đến Sài Gòn xây dựng cơ sở. Bắt được liên lạc và thu nhận
các cơ sở của tổ chức Công hội bí mật của đồng chí Tôn Đức
1  Trần Văn Giàu chủ biên, nhiều tác giả (1987), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh, Nxb. TP Hồ Chí Minh, tr.268.
48

5.9 Page 49

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Thắng, mạng lưới Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội Nam Kỳ và Sài Gòn phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ.
Từ cuối năm 1926 cho đến vài năm sau, số hội viên Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội các tỉnh Nam Kỳ đã có khoảng hơn
500 người. Tại Biên Hòa, một số tiểu tổ Việt Nam Thanh niên
Cách mạng đồng chí Hội được xây dựng ở đồn điền cao su Cam
Tiêm (nay là nông trường cao su Ông Quế), Đề pô xe lửa Dĩ An
(trước thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương), đồn
điền cao su Phú Riềng (trước thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc
tỉnh Bình Phước).
Năm 1927, những người dân ở các xã Phú Hữu, Đại Phước,
Phú Thạnh, Long Tân, Phú Hội làm công nhân ở sở cao su Tân
Tường đoàn kết đấu tranh với giới chủ đòi tăng lương, chống
cúp phạt, được nghỉ ngày Chủ nhật và đuổi tên cai gian ác tại
đây. Công nhân đã cử đại diện đến nhà chủ sở và đưa yêu sách.
Chủ sở phải nhượng bộ và đáp ứng một số yêu cầu của công
nhân. Đây là những hoạt động đấu tranh mang tính chất dân
sinh đầu tiên trong lực lượng công nhân ở các xã của Nhơn
Trạch. Từ môi trường này, người dân qua đội ngũ công nhân
được tuyên truyền về cách mạng. Trong công nhân làm việc ở
sở Tân Tường, Thành Tuy Hạ bắt đầu hình thành tổ chức Công
hội đỏ, truyền bá tư tưởng vô sản và tinh thần đoàn kết đấu
tranh của giai cấp công nhân. Đặc biệt, tại Phú Riềng, tháng
10/1929 thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng gồm 06
đồng chí Nguyễn Xuân Cừ (Bí thư), Trần Tử Bình, Tạ, Hồng,
49

5.10 Page 50

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Hò, Doanh. Công nhân vùng đồn điền cao su, các sở làm ở đô
thị Biên Hòa, ở Sài Gòn đã nổ ra những cuộc đấu tranh với sự
hưởng ứng của quần chúng đòi dân sinh. Tinh thần cách mạng
vô sản được tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân.
2. Phong trào cách mạng của Phú Đông từ khi thành lập
Đảng
Năm 1929, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản: Đông Dương
Cộng sản Đảng (8/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929),
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929) hoạt động, ảnh
hưởng chung phong trào cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc
với tư cách là Đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, triệu tập
hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tại Hương
Cảng (Trung Quốc). Hội nghị nhất trí tán thành việc hợp nhất
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và bầu Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời. Ngày 03/02/1930, đánh dấu sự kiện quan trọng
với lịch sử của Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập1. Đây là bước ngoặt quan trọng cho phong trào đấu
tranh yêu nước của Việt Nam sau những phong trào đấu tranh
trước đó khởi xướng của nông dân, của các sĩ phu phong kiến
hay xu hướng tư sản thất bại.
1  Ngày 24/02/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời ra quyết nghị chấp nhận gia nhập.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Sau hội nghị hợp nhất, đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn
Thiệu được phân công về Nam Kỳ thống nhất các tổ chức Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Việc thành lập Đảng là bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta.
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng”1. Cuối tháng 02/1930, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bộ lâm
thời Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nam Kỳ được thành lập (gọi
là Xứ ủy) do đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư. Tại Biên Hòa, có
những sự kiện đấu tranh cách mạng liên quan đến sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác động đến các tầng lớp nhân
dân. Địa bàn của Phú Đông trong khu vực chung của quận Long
Thành có những ảnh hưởng từ phong trào cách mạng chung của
tỉnh Biên Hòa. Công nhân đồn điền Phú Riềng dưới sự chỉ đạo
của chi bộ Đảng đã nổi dậy đấu tranh từ cuối tháng 1 đến ngày
06/02/1930, được gọi là “Phú Riềng Đỏ”, gây chấn động cho
chính quyền thực dân, có tác động tích cực cho các phong trào
đấu tranh ở Biên Hòa, miền Đông Nam Bộ.
Những người dân vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước...
ngoài công việc làm ruộng tại địa phương, tham gia vào các sở
của các chủ Tây (sở Tân Tường/còn gọi là sở Dừa), các công
trình do chính quyền thực dân xây dựng... Một số qua vùng Sài
Gòn làm thợ trong các hãng xưởng. Ông Nguyễn Sanh Thành
1  Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.8.
51

6.2 Page 52

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
khi làm thợ của hãng dầu Ănglê ở vùng đô thị Sài Gòn được
ông Bảy Dài tuyên truyền về giai cấp, đường lối cách mạng,
tham gia các cuộc đấu tranh dân sinh ở Sài Gòn1. Từ khi giác
ngộ cách mạng, ông Nguyễn Sanh Thành học thuộc lòng cuốn
Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương bí mật phổ biến đến những
người thân quen ở Phú Hữu, Phước Lý, Phước Khánh...
Làn sóng đấu tranh cách mạng ở Việt Nam sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam thành lập dâng cao. Cao trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh2 diễn ra mạnh mẽ với lực lượng công nhân, nông dân dưới
hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ, tấn công vào cơ quan
chính quyền thực dân ở địa phương. Ở Nam Kỳ, các cuộc bãi
công, đình công của công nhân và được sự hưởng ứng, ủng
hộ của nhiều tầng lớp nhân dân. Trước tình hình này, thực dân
Pháp và chính quyền tay sai tập trung đàn áp, khủng bố những
người cộng sản và tổ chức Đảng. Các đồng chí lãnh đạo của
Trung ương Đảng bị Pháp bắt, Xứ ủy Nam Kỳ tan rã. Xứ ủy
Nam Kỳ tái lập nhưng bị tan rã. Trong giai đoạn từ năm 1931
đến cuối năm 1934, hoạt động của tổ chức Đảng trong ở Nam
Kỳ lâm vào tình thế khó khăn trước sự khủng bố trắng của
chính quyền thực dân. Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản,
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.29.
2  Xô Viết Nghệ - Tĩnh là tên gọi phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân,
nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930-1931 dưới sự chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương thông qua Xứ ủy Trung Kỳ. Lực lượng cách mạng khi làm
chủ đã thành lập tổ chức nông hội (xã bộ nông) giống như hệ thống Xô Viết của
Cách mạng tháng Mười ở Nga. Thực dân Pháp đã đàn áp phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh sau 5 tháng.
52

6.3 Page 53

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được
thành lập lãnh đạo, chỉ đạo phong trào trong nước như chức
năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương. Tháng
3/1935, Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao
(Trung Quốc), đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát
triển Đảng; Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng; Mở
rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh,... Đại hội
thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết
về vận động quần chúng, bầu Ban Chấp hành Trung ương do
Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản và đồng chí Nguyễn Ái Quốc được
cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Sau thời gian khó khăn, phong trào cách mạng từng bước
được gây dựng lại ở Biên Hòa. Từ tháng 5/1933, đồng chí
Trương Văn Bang (Ba Bang) tiếp tục lập lại Xứ ủy Nam Kỳ và
cử cán bộ về các tỉnh móc nối, gây dựng cơ sở cách mạng. Tại
Biên Hòa, một số đảng viên hoạt động trước đây sau thời gian
tạm lánh quay về hoạt động. Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng
Minh Châu được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động tại
Biên Hòa. Từ các cơ sở này, chi bộ Đảng xã Bình Phước - Tân
Triều được thành lập1. Sự thành lập chi bộ Đảng Bình Phước
1  Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều gồm có các đồng chí: Hoàng Minh Châu
(Bí thư), Huỳnh Văn Phan (Phó Bí thư), Lưu Văn Viết, Lưu Văn Văn, Quách Tỷ,
Quách Sanh, Trần Minh Triết... Bình Phước - Tân Triều hiện nay thuộc địa bàn
xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Địa điểm thành lập chi bộ đã được
xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2001.
53

6.4 Page 54

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Tân Triều đánh dấu cho phong trào cách mạng của tỉnh Biên
Hòa nói chung và các địa bàn trong tỉnh nói riêng bởi có sự
lãnh đạo của tổ chức Đảng và từng bước phục hồi, gây dựng lại
các cơ sở yêu nước trước đây. Tổ chức Đảng tại Biên Hòa liên
lạc và nhận được sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ. Vùng Nhơn
Trạch - Long Thành, phong trào đấu tranh cách mạng cũng bắt
đầu nhen nhóm lại sau thời gian bị chính quyền thực dân Pháp
khủng bố.
Tháng 6/1936, có những biến động trong chính thể của
nước Pháp khi Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền,
thực thi một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa, trong đó có Việt
Nam. Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình Việt
Nam, cử Toàn quyền mới ở Đông Dương, thực thi một số luật
sửa đổi (luật bầu cử Viện Dân biểu, ân xá tù chính trị, nới rộng
quyền tự do báo chí...). Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức
hội nghị tháng 7/1936, đề ra đường lối và phương pháp đấu
tranh ở Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị tổ chức tại
Thượng Hải (Trung Quốc), do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì,
xác định: Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền
Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến; nhiệm vụ
trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc
địa, chống pháp xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân
chủ, cơm áo và hòa bình. Phương pháp đấu tranh là kết hợp các
hình thức công khai và bí mật hợp pháp và bất hợp pháp. Đồng
thời, hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân
54

6.5 Page 55

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
dân phản đế Đông Dương. Tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận
Thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận Dân chủ
Đông Dương). Đảng kêu gọi thành lập các Ủy ban hành động
để tập hợp quần chúng đấu tranh chuẩn bị cho Đông Dương
Đại hội. Ở Nam Kỳ, ngày 13/8/1936, Ủy ban lâm thời Đông
Dương Đại hội được thành lập tại Sài Gòn. Ở Biên Hòa thành
lập Ủy ban hành động do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa làm Chủ
tịch. Các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nghĩa được
Ủy ban Đông Dương Đại hội phân công phụ trách Biên Hòa.
Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa phân công các đảng viên về
Long Thành, Nhơn Trạch phổ biến tài liệu, tuyên truyền vận
động, kêu gọi đấu tranh. Phong trào đã tập hợp, thức tỉnh nhiều
người trong các tầng lớp xã hội hưởng ứng, tham gia. Tại các
địa bàn cơ sở, nhà máy, xí nghiệp, giới chức và người lao động
thành lập các ủy ban hoạt động sôi nổi. Hàng loạt các tổ chức
hội đoàn ở các địa phương từ vùng đô thị Biên Hòa đến các
vùng nông thôn như: Hội Ái hữu các ngành nghề, Hội Tương
tế của nhiều giới, hội chùa, hội miễu, hội lân, hội cày, hội cấy...
thu hút nhiều người tham gia. Những vấn đề “dân nguyện” như
giảm sưu, giảm tô, bãi bỏ thuế... được gửi đến chính quyền thực
dân. Qua các hoạt động này, phong trào cách mạng phục hồi,
phát triển, có lực lượng bồi dưỡng, tạo nên những cơ sở cốt cán,
kết nạp vào hàng ngũ Đảng.
Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử đồng chí
Trương Văn Bang, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ (1933-1934)
55

6.6 Page 56

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
đến Biên Hòa phát triển cơ sở, thành lập Tỉnh ủy. Trên cơ sở
chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều và những đồng chí gắn
bó với phong trào đấu tranh ở Biên Hòa trước đây, Tỉnh ủy
lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập đầu năm 1937 do đồng
chí Trương Văn Bang làm Bí thư. Các đồng chí Tỉnh ủy viên
gồm: Trần Minh Triết, Huỳnh Văn Phan, Lê Văn Tôn, Huỳnh
Văn Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ... Tỉnh ủy tiến hành công tác xây
dựng Đảng ở Biên Hòa với các bước phát triển mới, nhiều tổ
chức quần chúng được thành lập ở Long Thành như Công hội,
các hội đoàn, trong đó có sở Ông Cố (Phú Hội), sở Tân Tường
(Phú Thạnh). Sự thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa đã tác
động mạnh đến phong trào đấu tranh chung, có sự chỉ đạo từ
trên xuống cơ sở, các chi bộ nhiều nơi thành lập.
Từ năm 1937 đến 1939, đấu tranh cách mạng diễn ra rộng
khắp cả ở vùng đô thị, vùng đồn điền cao su và nông thôn,
bằng cả phương thức vừa bí mật và công khai ở Nam Kỳ. Cùng
với tình hình chung, phong trào cách mạng ở Nhơn Trạch -
Long Thành bắt đầu đi vào chiều sâu. Một số đảng viên của
Xứ ủy Nam Kỳ được cử về Long Thành - Nhơn Trạch hoạt
động: Dương Bạch Mai (địa bàn Phước Lộc, Long An, An Lợi,
Phước Thiền); Nguyễn Văn Nghĩa (Nghĩa Xược), Hồ Văn Đại
(địa bàn đồn điền Siph, Bình Sơn, An Viễng); Trương Văn
Bang, Nguyễn Văn Lũy, Huỳnh Văn Ký (địa bàn Tam An, Tam
Phước, An Hòa); Hồ Văn Giàu (địa bàn Phước An, Phước Thọ).
Các đảng viên đã giúp quần chúng nhân dân nâng cao nhận
56

6.7 Page 57

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
thức chính trị, hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản và mục tiêu
đấu tranh của cách mạng. Tinh thần yêu nước và những hoạt
động Đông Dương Đại hội ở Biên Hòa khá sôi nổi, tạo nên
một khí thế đấu tranh bằng nhiều hình thức. Tình hình thế giới
năm 1939 chuyển biến phức tạp và tác động đến Việt Nam và
chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Chiến tranh thế
giới thứ 2 bùng nổ. Ở Đông Dương, chính quyền thực dân thay
đổi Toàn quyền, thực hiện hàng loạt chính sách nhằm vơ vét
sức người, sức của cho chiến tranh. Ngày 04/01/1940, Toàn
quyền Đông Dương G. Catroux tuyên bố tại Hội đồng Chính
phủ Đông Dương: “Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào
các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt
cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với
nước Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng. Tình thế
chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động không chút thương
tiếc1. Bộ máy chính quyền thực dân ở Đông Dương được tăng
cường, chúng ra những nghị định cấm tuyên truyền cộng sản,
lưu hành tài liệu cộng sản, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn,
tiến hành truy lùng bắt giam đảng viên cộng sản, những người
yêu nước. Những thành quả, quyền lợi của nhân dân Việt Nam
đấu tranh trong thời kỳ Đông Dương Đại hội; thời kỳ Mặt trận
dân chủ thực dân Pháp xóa bỏ, thủ tiêu. Khi Pháp đầu hàng
phát xít Đức và phát xít Nhật đưa quân vào Việt Nam vào tháng
1  Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2010), Đại cương lịch sử
Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục Việt Nam, tr.802.
57

6.8 Page 58

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
9/1940. Phong trào đấu tranh cách mạng Việt Nam tiếp tục bị
đàn áp, đứng trước những khó khăn trong tình cảnh “một cổ hai
tròng” từ sự cấu kết của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Ở Biên
Hòa, cán bộ, đảng viên thực hiện rút vào hoạt động bí mật.
Đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa bị địch bắt, bị đày tại nhà tù Bà
Rá (trước thuộc Biên Hòa, nay thuộc huyện Phước Long, tỉnh
Bình Phước).
Tình hình cách mạng ở Việt Nam lâm vào khó khăn. Ở
Nam Bộ, ngày 06/11/1939, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị
(lần VI), tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) do đồng chí Bí
thứ Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị nhấn mạnh việc củng cố
Đảng về mọi mặt, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ sang đấu tranh trực tiếp, từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp
pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp, thành lập Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, dự bị những điều kiện
bước đến bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Năm
1940, Xứ ủy Nam Kỳ1 họp bàn về khởi nghĩa, dự định tiến hành
vào đêm 22 rạng ngày 23/11/1940.
Khởi nghĩa Nam Kỳ có quyết định hoãn của Trung ương
Đảng nhưng ở các địa phương Nam Bộ không kịp nhận thông
1  Xứ ủy Nam Kỳ là tổ chức của Đảng thành lập năm 1930, đồng chí Ngô Gia Tự
làm Bí thư đầu tiên. Xứ ủy nhiều lần thay đổi do sự khủng bố, đàn áp của chính
quyền thực dân Pháp. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Xứ ủy Nam Kỳ mất liên
lạc với Trung ương Đảng. Từ năm 1943 - 1945, hình thành 2 Xứ ủy với tên gọi:
Tiền Phong, Giải Phóng. Ngày 15/10/1945, tại Cầu Vỹ (Mỹ Tho) diễn ra hội nghị
thống nhất Xứ ủy, bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư.
58

6.9 Page 59

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
tin. Tại Biên Hòa, khởi nghĩa đã nổ ra mạnh ở Châu Thành,
Tân Uyên (nay thuộc Bình Dương) sau thời gian chuẩn bị, phát
động. Thực dân Pháp tiến hành đàn áp. Các cán bộ chủ chốt Lê
Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ bị bắt, đày ra nhà tù Côn Đảo, đồng
chí Huỳnh Liễng hy sinh, một số đồng chí khác bị bắt giam tại
nhà tù Tà Lài (nay thuộc huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai), Bà
Rá. Lực lượng vũ trang do đồng chí Nguyễn Văn Quỳ (Chín
Quỳ) rút vào hoạt động bí mật ở rừng núi Tân Uyên.
Sau khi phát xít Nhật đưa quân vào Đông Dương, từng bước
lấn ép thực dân Pháp. Những hiệp ước, hiệp định giữa Nhật và
Pháp năm 1941 tạo cho Nhật Bản có nhiều ưu đãi trên lãnh thổ
Đông Dương1. Nhật từng bước độc chiếm thị trường về kinh tế,
quân đội Nhật tự do đi lại và chính quyền thực dân Pháp cung
cấp các phương tiện chiến tranh, thiết lập các cơ sở quân sự,
đảm bảo những điều kiện hậu phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhận định: “Mùa thu năm 1940, pháp xít Nhật đến xâm lăng
Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực
dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó
dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”2.
1  Hiệp định Tôkiô ngày 06/5/1941, Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt của Nhật
Bản về kinh tế, hiệp định ngày 29/7/1941 có danh nghĩa “phòng thủ chung Đông
Dương” quân đội Nhật Bản tự do đi lại và không hạn chế về số lượng; hiệp định
quân sự ngày 08/12/1941, Pháp phải đảm bảo những điều kiện hậu cần cho quân
đội Nhật Bản.
2  Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập III, 1930 - 1945, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr.556.
59

6.10 Page 60

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Tại Long Thành, quân đội Nhật chia nhau đóng ở sở Bà
Đầm, khu căn cứ Nước Trong, nhà máy điện, khu Thái Thiện.
Để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, quân Nhật lùng bắt từ 300
- 400 người đi làm xây dựng sân bay, đường xá, đồn bót. Người
dân Long Thành thì trước cảnh Pháp bắt lính, Nhật bắt phu.
Những tên lính Nhật cũng ác độc tàn bạo. như lính Pháp. Người
dân bị bắt đi phu làm việc cực nhọc trong quá trình Nhật dựng
sân bay Nước Trong (An Lợi) và Gò Dầu (Phước Thái), làm
đường ở Bến Gỗ, Hố Nai, Bà Rịa nhiều tháng trời. Nhiều người
bị bắt lao động hà khắc, phản kháng thì bị đánh chết, bị bệnh
không được điều trị phải bỏ mạng khi bị trả về. Đời sống người
dân Nhơn Trạch thời điểm này vô cùng cơ cực. Hột lúa vùng
đất giồng làm ra vất vả, lính Nhật còn bắt dân đóng lúa hương
lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay cho than để chạy máy.
Không có gạo ăn, người dân phải mót khoai lang, khoai mì, ăn
độn rau các loại, nạn thiếu đói xuất hiện ở Nhơn Trạch. Trước
đây, người dân trồng bông hoặc mua nguyên liệu (bông, chỉ)
dệt vải (vải ta) nên nhà nghèo thì vẫn sắm đủ quần áo để mặc vì
giá rẻ. Khi Nhật chiếm đóng, cấm không cho người dân được
dệt vải, vận chuyển, mua bán để tiêu thụ hàng từ Nhật chuyển
sang. Người dân Nhơn Trạch không có tiền mua vì giá đắt nên
phải sử dụng bao bố, bao tải làm quần áo. Bên cạnh thiếu ăn,
thiếu mặc, trong sinh hoạt cũng không có dầu để sử dụng trong
sinh hoạt. Người dân lấy hột trái mù u, dừa ép làm dầu thắp. Đa
số người dân vùng nông thôn ở Long Thành, Nhơn Trạch sống
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
trong cảnh đói kém, thiếu thốn, cơ hàn1. Để hướng dân chúng
ủng hộ, Pháp và Nhật sử dụng nhiều chiêu bài tuyên truyền lừa
dối, mị dân. Thực dân Pháp tuyên truyền về chủ thuyết “Pháp
- Việt đề huề”, tuyên truyền về “Cần lao, Gia đình, Tổ quốc”
để cùng nhau hợp tác, xây dựng phát triển, không nên chống
đối, phản kháng chính quyền. Phát xít Nhật chủ trương thành
lập khối “Đại Đông Á” kêu gọi người dân bởi “đồng văn đồng
chủng”, cùng “máu đỏ da vàng” nên ủng hộ Nhật chống Pháp.
Ở Long Thành, một số người như Trần Quang Vinh, Nguyễn
Văn Sót làm tay sai như đắc lực cho quân Nhật. Hoạt động
cách mạng ở các địa phương tỉnh Biên Hòa giai đoạn này lâm
vào khó khăn, kéo dài đến năm 1943 khi chiến tranh thế giới có
những biến chuyển giữa các khối tham gia.
Nhằm huy động, tập hợp sức mạnh của quần chúng trong
công cuộc giải phóng dân tộc, tháng 5/1941, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tổ chức hội nghị lần thứ VIII2, nhận định tình
hình và xác định nhiệm vụ cách mạng là giải phóng dân tộc của
từng nước Đông Dương, chủ trương thành lập ở mỗi nước một
mặt trận. Việt Nam thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh
Hội - gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Để tập hợp quần chúng,
Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất
và các đoàn thể cứu quốc. Ngày 25/10/1941, Việt Minh công
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930
- 2015), Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.81 - 82.
2  Hội nghị tổ chức tại Pác Bó, Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại diện
Quốc tế Cộng sản chủ trì, diễn ra trong tháng 5 năm 1941.
61

7.2 Page 62

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
bố Tuyên ngôn với đồng bào cả nước: “Việt Nam Độc lập đồng
minh ra đời”. Bản Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm
có 44 điều cụ thể để thực hiện hai điều cơ bản mà toàn thể đồng
bào mong ước là làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc
lập, dân Việt Nam được sung sướng tự do. Chương trình Việt
Minh vừa ích nước vừa lợi dân, nên được nhân dân nhiệt liệt
hưởng ứng. Cơ sở Việt Minh, hội Cứu quốc và các đoàn thể
lần lượt được xây dựng ở nhiều địa phương. Lúc bấy giờ, các
phong trào đấu tranh cách mạng ở Biên Hòa, Xuân Lộc, Long
Thành... nổ ra nhưng tập trung ở vùng đô thị và các đồn điền
tập trung công nhân. Vùng nông thôn ở Nhơn Trạch giáp với
vùng Thủ Đức, Sài Gòn, quần chúng nắm bắt tin tức biết được
những cuộc đấu tranh nổ ra và hưởng ứng, hy vọng phong trào
phát triển mạnh, để chống lại quân Pháp, quân Nhật.
Từ cuối năm 1942 trở đi, chiến tranh thế giới có những
chuyển biến có lợi cho khối Đồng Minh nhưng ở Đông Dương,
quân Nhật đẩy mạnh càng lấn áp Pháp để giành quyền kiểm
soát. Nắm bắt tình hình, từ ngày 25 đến ngày 28/02/1943, Hội
nghị Thường vụ Trung ương Đảng để bàn việc mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất và xúc tiến khởi nghĩa vũ trang1. Trong
năm 1943, những tổ chức Đảng ở Nam Kỳ được thành lập từ
các cán bộ, đảng viên hoạt động ở Nam Bộ trước đây, trốn thoát
ra từ nhà tù thực dân cùng với những phái viên của Trung ương
1  Hội nghị diễn ra tại Võng La thuộc Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, nay là ngoại
thành Hà Nội. Đồng chí Trường Chinh là Bí thư.
62

7.3 Page 63

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đảng cử vào gây dựng. Ban Cán sự miền Đông thành lập vào
tháng 10/1943. Đến tháng 3/1943, Ban Cán sự Cao su miền
Đông thành lập đã có những tác động tích cực đến hoạt động
cách mạng trong công nhân vùng đồn điền cao su. Xứ ủy Nam
Kỳ cử đồng chí Trịnh Văn Dục (Ba Dục) đến hoạt động ở địa
bàn Biên Hòa. Liên Tỉnh ủy miền Đông phân công đồng chí
Trịnh Văn Dục móc nối liên lạc, xây dựng cơ sở trên địa bàn
Long Thành. Để qua mặt sự kiểm soát của chính quyền lúc bấy
giờ, đồng chí Trịnh Văn Dục cải trang hành nghề bán thuốc lào,
nuôi ngựa, đánh xe ngựa đi khắp địa bàn Nhơn Trạch - Long
Thành nắm tình hình, tuyên truyền về cách mạng, gây dựng cơ
sở yêu nước, móc nối, xây dựng tổ chức Đảng.
Tháng 3/1944, các đồng chí Lê Minh Định, Vũ Hồng Phô,
Lý Trần Hoan từ Ban Cán sự miền Đông gặp và trao đổi với
đồng chí Trịnh Văn Dục về tình hình chiến tranh thế giới, chủ
trương khởi nghĩa của Đảng và chuẩn bị cho việc thành lập
chi bộ Đảng tại chỗ theo chủ trương của Xứ ủy. Đồng chí Lê
Minh Định thay mặt Ban Cán sự miền Đông giao trách nhiệm
đồng chí Trịnh Văn Dục làm Bí thư và cử Vũ Hồng Phô (Vũ
Khánh, Sáu Khánh) và Lý Trần Hoan ở lại hỗ trợ. Đây là chi bộ
Đảng đầu tiên thành lập trên đất Long Thành. Sự thành lập chi
bộ Đảng tại Long Thành là bước chuẩn bị chu đáo có sự lãnh
đạo của Đảng cho phong trào đấu tranh trong tình hình mới,
đặc biệt tạo gây dựng phong trào mạnh mẽ ở các đồn điền cao
su và lan tỏa trong quần chúng nhân dân. Sau khi chi bộ được
63

7.4 Page 64

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
thành lập các đồng chí đảng viên đã tổ chức mở “Hội tiết kiệm”
trong sở cao su. Mỗi hội có từ 10 đến 15 người, mỗi tháng đóng
một đồng, không tính lãi. Số tiền góp được dồn cho một người
chủ quán, có nhiệm vụ tổ chức chi tiêu. Công nhân các sở cao
su Tân Tường, Ông Cố, Thành Tuy Hạ cũng thành lập các hội
tương trợ, hội tiết kiệm. Thông qua tổ chức hội tiết kiệm nên
hội viên tham gia bỏ những thói hư trong sinh hoạt trước đây
như đánh bài, rượu chè; đồng thời tiết kiệm được tiền, từng
bước giác ngộ tinh thần yêu nước. Chi bộ đảng tại Long Thành
kết nạp thêm những đảng viên: Mai Hiển Thái, Ba Tiễu. Đồng
chí Trương Văn Kỷ (Bảy Kỷ) là đảng viên hoạt động ở Phước
Thiền về sinh hoạt cùng chi bộ. Lực lượng phát triển, chi bộ
phân công từng đồng chí đảng viên đi vào các sở cao su tuyên
truyền và tổ chức được những người ưu tú làm nòng cốt1. Từ
hoạt động của chi bộ Đảng, những người yêu nước và cơ sở
cách mạng được đến với các địa bàn Phú Đông, Đại Phước,
Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh, Phước An, Phước Thọ ở
Nhơn Trạch và các chi bộ đảng tiếp tục được thành lập ở một
số đồn điền cao su, nhà máy. Trong thời gian này, Ban Cao su
miền Đông cử đồng chí Lê Đình Cự tổ chức Liên đoàn cao su
tại Long Thành với mục đích thống nhất chương trình hành
động cách mạng. Liên đoàn đã tổ chức “Nghiệp đoàn xe bò”
gồm những phu chuyên chở gỗ, nguyên liệu, lương thực, thực
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.37-38.
64

7.5 Page 65

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
phẩm cho các công trình của quân Nhật. Đồng chí Trương Văn
Kỷ phụ trách nghiệp đoàn này, tuyên truyền anh em đấu tranh
bằng hình thức lãn công, bỏ trốn làm giảm nhân lực, chậm tiến
độ xây dựng, gây khó khăn cho địch.
Sự căng thẳng giữa Pháp - Nhật ngày càng căng thẳng như
dự đoán tình hình của Đảng. Ngày 09/3/1945, Nhật thực hiện
đảo chính Pháp để thống trị Đông Dương. Một ngày sau, chính
quyền Pháp hoàn toàn đầu hàng Nhật ở Đông Dương gây nên
những xáo trộn từ bộ máy chính quyền, các chủ tư bản, quân
lính. Ở Biên Hòa, bộ máy chính quyền của tỉnh và các quận
của Pháp rơi vào tay Nhật và các tổ chức, đảng phái thân Nhật
đẩy mạnh các hoạt động. Trước tình hình mới, ngày 12/3/1945,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị ra chỉ thị:
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước1. Đảng nhận định việc Nhật đảo
chính Pháp tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc nhưng
điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi và xác định kẻ thù cần
đánh đuổi lúc này là phát xít Nhật, đưa ra khẩu hiệu “thành lập
chính quyền cách mạng nhân dân Đông Dương”. Chỉ thị chủ
trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ
với các hình thức tổ chức, phương pháp đấu tranh thích hợp và
nhanh chóng chuyển sang tổng khởi nghĩa giành chính quyền
khi có điều kiện.
1  Hội nghị tổ chức tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh do Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì.
65

7.6 Page 66

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Các địa bàn Long Thành, Xuân Lộc, Châu Thành... của tỉnh
Biên Hòa các tổ chức đảng phục hồi và khôi phục hoạt động khi
nhiều đảng viên, cán bộ chủ chốt trở về móc nối, liên lạc, phát
triển mạng lưới. Trong lúc Pháp bị thất thế trước quân Nhật, các
tổ chức Đảng nhanh chóng đưa người vào làm chủ tình hình,
đặc biệt là bộ máy hội tề ở các xã tan rã, các đồn điền cao su
mà giới chủ bỏ trốn. Chính quyền thân Nhật ở Biên Hòa, Long
Thành được dựng lên với sự thay đổi về nhân sự nhưng chỉ tồn
tại trong một thời gian ngắn khi chính phủ Trần Trọng Kim tan
rã. Từ tháng 5/1945, các hoạt động cách mạng phát triển mạnh.
Xứ ủy Nam Kỳ (Tiền Phong) do đồng chí Trần Văn Giàu làm
Bí thư, thành lập lực lượng Thanh niên Tiền phong1, cử bác sĩ
Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh. Lực lượng Thanh niên Tiền
phong thu hút hàng triệu người tham gia ở Sài Gòn và các tỉnh,
trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, mục đích đánh đuổi
phát xít và tay sai. Cuối năm 1944, các đồng chí Trịnh Văn
Dục, Mai Hiển Thái, Vũ Hồng Phô tổ chức được Quận bộ Việt
Minh ở Long Thành - tổ chức mặt trận cấp quận đầu tiên ở tỉnh
Biên Hòa, xây dựng thêm những cơ sở ở đồn điền Bình Sơn, An
Viễng, thị trấn Long Thành.
1  Lực lượng Thanh niên Tiền phong thành lập ngày 01/7/1945, tại Sài Gòn.
Một thời gian ngắn phong trào Thanh niên Tiền phong phát triển khá rầm rộ ở
Nam Kỳ. Đến trước khi Cách mạng tháng Tám, Thanh niên Tiền phong đã có
1.200.000 đoàn viên ở 21 tỉnh thành Nam Bộ, trong đó có tỉnh Biên Hòa. Ngày
25/9/1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong Biên Hòa hợp nhất với Thanh niên
Cứu quốc, lấy tên là Thanh niên Cứu quốc do đồng chí Đoàn Bá Bích phụ trách.
66

7.7 Page 67

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Tại Biên Hòa, lực lượng Thanh niên Tiền phong được
thành lập do Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lĩnh. Ở Long Thành,
lực lượng Thanh niên Tiền phong được tổ chức do thầy giáo
Nguyễn Văn Chỏi làm thủ lĩnh. Chi bộ Long Thành phân công
đồng chí Liêm, đồng chí Châu sát cánh cùng thầy giáo Chỏi
để nắm lực lượng. Đoàn Thanh niên Tiền phong địa bàn Nhơn
Trạch có lẽ bắt nguồn từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) gắn
với hoạt động của đồng chí Trần Thị Ba (đảng viên cộng sản
được cấp trên phái về xứ Giồng Ông Đông) năm 1945. Đồng
chí Trần Thị Ba vóc dáng thấp nhưng lanh lợi, nói chuyện giàu
sức thuyết phục nên tập hợp được nhiều thanh niên vùng Phú
Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước tham gia vào lực
lượng Thanh niên Tiền phong ở địa phương1. Phong trào Thanh
niên Tiền phong khu vực Nhơn Trạch hoạt động sôi nổi. Tổ
chức Thanh niên Tiền phong được biên chế thành đội, mỗi đội
vài mươi người nòng cốt, trang bị thô sơ, chỉ vài khẩu súng lấy
hoặc mua được của lính Pháp, còn lại là tầm vông, dây thừng,
giáo mác tự tạo. Nhiệm vụ của các đội là tuần tra canh gác xóm
làng, chống trộm cắp, cướp phá; hăng hái luyện tập quân sự sẵn
sàng chiến đấu để giải phóng dân tộc. Không khí sinh hoạt của
Thanh niên Tiền phong gian khổ nhưng sôi động bởi tập đội
hình, tiếng hát thúc giục tinh thần hăng hái từ bài hát Lên đàng2.
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930
- 2015), Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.88 (ghi lại từ cụ Phạm Văn
Đạm, cán bộ Tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, xã Phú Thạnh, đã mất).
2  Bài hát Lên đàng của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, sáng tác năm 1944.
67

7.8 Page 68

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Người dân địa phương tích cực chăm lo hậu cần cho Thanh
niên Tiền phong.
Vào tháng 5/1945, nhằm kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu
tranh, khởi nghĩa, Liên Tỉnh ủy miền Đông tổ chức hội nghị
tại ấp Vĩnh Cửu, Tam Hiệp, Biên Hòa để phổ biến tình hình
và nhiệm vụ cách mạng cho các tỉnh Đông Nam Bộ. Tháng
7/1945, đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức
họp tại chùa Tân Mai (Biên Hòa) với các đồng chí Hoàng Minh
Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn Búng, Đặng Nguyên phổ
biến chủ trương gấp rút xây dựng, phát triển các tổ chức đoàn
thể Việt Minh, nắm chắc lực lượng Thanh niên Tiền phong,
đoàn kết đảng viên trong các nhóm khác nhau, phát triển lực
lượng chính trị, vũ trang và thống nhất hành động trước thời cơ
khởi nghĩa giành chính quyền.
3. Cách mạng tháng Tám lịch sử
Chiến tranh thế giới bước vào hồi kết thúc. Ngày 08/5/1945,
việc phát xít Đức đầu hàng quân Đồng Minh không điều kiện.
Ở châu Á, quân phiệt Nhật hạ vũ khí đầu hàng ngày 24/8/1945.
Tình hình này làm quân Nhật ở Đông Dương hoang mang, dao
động. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang do không có
cơ sở để đứng vững. Quân đội các nước lấy danh nghĩa Đồng
Minh cũng kéo vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Thời cơ
để cách mạng thực thiện tổng khởi nghĩa xuất hiện nhưng phải
chạy nước rút trong tình thế này. Ngày 13/8/1945, Trung ương
Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn
68

7.9 Page 69

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
quốc. Hội nghị của Đảng tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang)
quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa và đưa
ra 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh. Ngày 16/8/1945,
Tổng bộ Việt Minh tổ chức đại hội ủng hộ chủ trương khởi
nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt
Minh, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.
Nhiều địa điểm nổ ra khởi nghĩa và giành thắng lợi, cổ vũ
mạnh mẽ cho cả nước đứng lên. Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa
tại thủ đô Hà Nội thắng lợi. Ngày 20/8/1945, Xứ ủy Nam Kỳ tổ
chức hội nghị tại Chợ Đệm (Long An) phổ biến kế hoạch khởi
nghĩa toàn miền. Ngày 23/8/1945, đồng chí Hoàng Minh Châu
chủ trì họp cùng các đồng chí Huỳnh Văn Hớn, Ngô Hà Thành,
Hồ Văn Giàu, Lê Nguyên Đạt, Đặng Nguyên, Hồ Văn Đại...
bàn khởi nghĩa giành chính quyền (tại căn nhà số 2, dãy phố
Sáu Sử trong nội ô Biên Hòa tỉnh lỵ Biên Hòa). Hội nghị quán
triệt nội dung chỉ đạo của Xứ ủy, bàn bạc thống nhất và quyết
định một số việc cấp bách:
- Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa trước ở tỉnh lỵ,
phân công một số đảng viên về các quận huy động lực lượng
quần chúng về thị xã tham gia cướp chính quyền.
Trung lập hóa quân Nhật, giao cho đồng chí Hồ Văn Đại
và một số đồng chí khác vận động lính mã tà, lính thủ hộ... nộp
súng cho cách mạng, tránh xung đột vũ trang.
69

7.10 Page 70

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng Minh
Châu phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban nhân dân cách
mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa.
- Giao trách nhiệm cho kinh lý Nguyễn Văn Tàng tiếp xúc
với tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý vận động y bàn giao chính
quyền cho cách mạng.
- Giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Ngọc Liệu và Nguyễn
Đình Ưu tổ chức đưa 500 người về tham gia khởi nghĩa ở Sài
Gòn.
- Huy động lực lượng xung kích trong nhân dân, Thanh
niên Tiền phong tự trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu
hiệu sẵn sàng nổi dậy biểu dương lực lượng cướp chính quyền.
Trên địa bàn Long Thành, chi bộ Đảng đã họp bàn, chỉ đạo
các lực lượng tuyên truyền, vận động công nhân lợi dụng lúc
địch đang hoang mang dao động, tìm cách giữ lấy súng, máy
móc trong các đồn điền, sở cao su của chủ Tây.
Những ngày tháng Tám năm 1945, cả Nam Bộ náo nhiệt
bởi quân Nhật và Pháp căng thẳng với nhau và tình hình chiến
tranh thế giới đều ảnh hưởng đến cả hai. Phong trào Thanh
niên Tiền phong ở Sài Gòn lan rộng ra các tỉnh, đặc biệt các
địa bàn giáp ranh; trong đó có vùng quê Đại Phước, Phú Hữu,
Phú Đông của huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa. Ông Nguyễn
Sanh Thành tại địa phương tham gia Đoàn Thanh niên Tiền
phong tại cầu Lò Đúc (Phú Nhuận, Sài Gòn), liên lạc chặt chẽ
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
với cô Trần Thị Ba, ông Phạm Văn Búp ấp Ông Mai. Tại vùng
Phú Hữu, Đại Phước, Phú Đông, cô Trần Thị Ba tuyên truyền
cách mạng, chuẩn bị cho việc tham gia nổi dậy khi thời cơ đến.
Ủy ban khởi nghĩa huyện Long Thành do các đồng chí Trịnh
Văn Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái chủ trì họp, phân công
kế hoạch, địa bàn phụ trách, huy động công nhân đồn điền,
nhân dân các xã kéo về quận lỵ tham gia giành chính quyền.
Lúc 4 giờ chiều ngày 23/8/1945, xảy ra sự cố bất ngờ ngoài kế
hoạch. Ông Chín Lợi là đạo trưởng thuộc giáo phái Cao Đài tại
huyện Long Thành dẫn 200 người trang bị vũ khí ập vào dinh
quận Long Thành với ý định gây sức ép buộc quận trưởng bàn
giao chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa phân tích tình hình, thông
báo trong toàn lực lượng đấu tranh, vạch mặt nhóm Chín Lợi,
làm vô hiệu hóa âm mưu của chúng.
Kế hoạch khởi nghĩa vẫn được tiến hành theo dự kiến. Lúc
6 giờ sáng ngày 24/8/1945, các đội xung phong nòng cốt là
Thanh niên Tiền phong của Chi bộ Long Thành, Bình Sơn đã
có mặt làm nhiệm vụ, canh gác ở các ngã đường trên quốc lộ
15, tỉnh lộ 17 và 19. Đặc biệt, xung quanh khu quận lỵ ở thị
trấn được bố trí rất nghiêm ngặt. Vào lúc đó, gần một trung đội
lính Nhật đóng ở sở Bà Đầm vẫn án binh bất động. Đến 7 giờ
30 phút đồng bào từ các xã như thác lũ kéo vào thị trấn Long
Thành. Đến 9 giờ, thị trấn Long Thành như sôi lên trong biển
người, cờ đỏ sao vàng, cờ vàng sao đỏ, tiếng hát, tiếng hô khẩu
hiệu vang lên dậy đất. Đúng 10 giờ gần 400 anh em trong lực
71

8.2 Page 72

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
lượng xung phong có vũ khí chia làm hai cánh kéo vào dinh
quận. Tiếp đó Ban khởi nghĩa gồm 19 người do đồng chí Trịnh
Văn Dục dẫn đầu tiến vào văn phòng quận trưởng. Lực lượng
của địch lúc này chỉ còn 11 tên lính do đội Giám chỉ huy, có vũ
khí, nhưng đứng ngơ ngác không dám chống cự. Trong dinh
quận Long Thành, Chín Lợi cùng quận Hội ngồi bên nhau, mặt
mày xám ngắt, im lặng. Đồng chí Trịnh Văn Dục nhân danh
chính quyền cách mạng tuyên bố: “Kể từ giờ phút này chính
quyền cũ phải chấm dứt hoạt động từ huyện đến xã. Chính
quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi của nhân dân trong
huyện bắt đầu làm việc. Quận trưởng Hội của Long Thành thay
mặt chế độ cũ phải giao toàn bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ
khí, thả hết các phạm nhân. Cách mạng là sự nghiệp của mọi
người, sẵn sàng khoan hồng cho tất cả những ai đã trót tham gia
chế độ cũ. Sau lời tuyên bố của đồng chí Trịnh Văn Dục, hàng
ngàn người nhất loạt hô vang: “Việt Nam độc lập muôn năm”,
“Chính quyền cách mạng muôn năm”. Quận Hội bàn giao hết
hồ sơ sổ, sách, kho tàng, vũ khí cho các đồng chí trong Ủy ban
khởi nghĩa Long Thành. Trong lúc đó, Chín Lợi ra hiệu nhóm
người cùng đi nhanh chân trốn ra phía sau. Sau khi giành được
chính quyền, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức với hơn 3.000
người tham dự. Trong buổi mít tinh, đồng chí Trịnh Văn Dục
thay mặt Ban khởi nghĩa tuyên bố: “Kể từ giờ phút này chính
quyền cũ bị xóa bỏ. Chính quyền cách mạng huyện đại diện
cho giai cấp công nhân, nông dân trong huyện ra đời. Kể từ
72

8.3 Page 73

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
nay nam nữ bình quyền, người dân sống bình đẳng, mọi người
sống hạnh phúc”. Ủy ban cách mạng lâm thời Long Thành ra
mắt đồng bào: Đồng chí Trịnh Văn Dục (Chủ tịch), ông Võ Văn
Truyện (Phó Chủ tịch). Những người tham dự vỗ tay hưởng
ứng, hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Mặt
trận Việt Minh muôn năm”. Giữa lúc ấy, phái đoàn cán bộ đại
diện cho Xứ ủy miền Đông là các đồng chí Dương Bạch Mai,
Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp đến kịp dự lễ.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, một cuộc họp đảng
viên bầu Huyện ủy Long Thành bằng hình thức giơ tay biểu
quyết. Huyện ủy Long Thành được thành lập, gồm: Đồng chí
Trịnh Văn Dục: Bí thư, đồng chí Vũ Hồng Phô: Phó Bí thư,
đồng chí Trương Văn Kỷ: Ủy viên Thường vụ và 2 ủy viên:
Đồng chí Nguyễn Văn Phú, đồng chí Lê Thành Liêm. Đến 17
giờ cuộc mít tinh kết thúc. Tiếng hát, tiếng trống vang lên như
không dứt của những người tham dự trong không khí vui mừng
náo nhiệt. Người dân Long Thành được hồi sinh, trở thành
người tự do trong một nước độc lập sau hơn 80 năm trong chế
độ thống trị của thực dân Pháp và bị pháp xít Nhật bóc lột. Tin
tức về “Việt Minh” giành lấy chính quyền ở quận lỵ theo chân
những đoàn biểu tình từ thị trấn đến các xã, thôn như một luồng
gió thổi rất nhanh đến với mọi người. Mặc dù chưa thật hiểu
nhiều về Việt Minh, cách mạng nhưng những người dân lao
động Long Thành đều náo nức vui sướng tham gia vào sự kiện
lịch sử ở địa phương. Thanh niên Tiền phong mang cờ đỏ sao
73

8.4 Page 74

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
vàng, cờ vàng sao đỏ kéo tới các nhà làng (nhà hội, nhà võ - nơi
làm việc của hội tề xã). Các tầng lớp nhân dân kéo đến nhà làng
hò reo, hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm” với
niềm vui lớn. Sáng sớm ngày 25/8/1945, với khí thế dâng cao,
người dân tiếp tục diễu hành với cờ, Thanh niên Tiền phong với
gậy tầm vông khắp các trục lộ 25, lộ 15, lộ 17 và lộ 19.
Ngày 25/8/1945, Ban Đồng Nai tổ chức đoàn người giương
cờ đỏ sao vàng từ cầu Cháy qua Giồng Ông Đông. Ban Đồng
Nai ban đầu quy tập khoảng 20 người, trang bị một số súng,
đóng ở miễu Bà Bào, gần ấp Xoài Minh, xã Phước Lý cũ. Thành
phần tham gia đa dạng, có các ông Nguyễn Văn Đọt, một số
người trong bộ máy của chính quyền trước Cách mạng tháng
Tám (cò Hảo, cò Hòa...). Ban Đồng Nai gồm những người ở
Long Thành, hoạt động trên đất Long Thành nhưng nhận nhiệm
vụ trực tiếp từ Ủy Ban kháng chiến Nam Bộ ở Sài Gòn, biệt lập
với Huyện ủy, Ủy ban lâm thời huyện Long Thành.
Đoàn người đông đảo với nhiều thành phần tại địa phương,
từ thành niên đến những ông bà lớn tuổi, có cả trẻ em ấp Giồng
Ông Đông hướng đến nhà hội của xã, với khí thế hừng hực, hô
vang khẩu hiệu, làm cho bộ máy chính quyền lúc bấy giờ tan
rã. Các khẩu hiệu được người dân hưởng ứng hô vang khắp
các nẻo đường đi qua: “Việt Nam độc lập đồng minh muôn
năm”, “Hồ Chí Minh muôn năm”, “Việt Minh tốt với dân”,...
Trong tình thế dân chúng nổi dậy, quân Nhật tại căn cứ phòng
không Giồng Ông Đông rút chạy, bỏ trống. Nhân cơ hội này,
74

8.5 Page 75

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
300 thanh niên đã chiếm lấy, làm hội quán hoạt động của lực
lượng Thanh niên Tiền phong tại địa phương. Lực lượng Thanh
niên Tiền phong do ông Nguyễn Sanh Thành làm đoàn trưởng
với tinh thần luyện tập chăm chỉ, khí thế mạnh mẽ, dậy vang
thôn xóm. Hoạt động của lực lượng Thanh niên Tiền phong rất
sôi nổi, được xem như lực lượng vũ trang, có nhiều đóng góp
trong việc bảo vệ lực lượng cách mạng tại địa phương sau khởi
nghĩa Cách mạng tháng Tám. Vũ khí của Đoàn Thanh niên Tiền
phong rất ít và thô sơ, do các thành viên tự sắm lấy. Mỗi thành
viên trang bị gậy tầm vông vạt nhọn, có cuộn dây thừng treo
bên. Một số súng săn, súng hai nòng (calip đui/donge) mua
hoặc đổi được từ lính Nhật hoặc một số người khác trang bị cho
chỉ huy và thành viên chủ chốt. Ở căn cứ quân sự Thành Tuy
Hạ, những ngày sau Tổng khởi nghĩa, quân Nhật đóng trại phía
trong tinh thần hoang mang chờ quân Đồng Minh giải giáp.
Lực lượng cách mạng địa phương đặt trạm gác bên ngoài. Khi
lính Nhật đi qua trạm gác phải đổi một số vũ khí như đạn, lựu
đạn, súng cho lực lượng cách mạng.
Sau bao năm sống trong cảnh áp bức, nô lệ và đặc biệt
trong cảnh “một cổ hai tròng” của quân Pháp - Nhật, nhân dân
vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước, Phước Khánh nói riêng,
của Long Thành - Nhơn Trạch trong tỉnh Biên Hòa cùng cả
nước mừng vui khôn tả vì được độc lập. Cách mạng tháng Tám
thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng, người dân tập trung
trong khối đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh đã giành lấy
75

8.6 Page 76

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
được chính quyền. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Sài Gòn, lễ Độc lập
được Ủy ban Hành chánh lâm thời Nam Bộ tổ chức. Đồng chí
Trần Văn Giàu (Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành
chính Nam Bộ) thay mặt chính quyền cách mạng tổ chức cuộc
mít tinh và diễu hành biểu dương lực lượng toàn dân đoàn kết
xung quanh chính quyền cách mạng. Nhân dân tỉnh Biên Hòa
vui mừng thoát khỏi ách đô hộ của chính quyền thực dân, phát
xít và phong kiến, hưởng ứng tích cực các hoạt động của chính
quyền cách mạng với niềm vui, khí thế dâng cao.
76

8.7 Page 77

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Chương III
PHÚ ĐÔNG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP (1945 - 1954)
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, xã Phú Đông địa
bàn thuộc xã Phú Hữu, Đại Phước của huyện Long Thành, tỉnh
Biên Hòa. Những ngày cuối tháng Tám năm 1945 diễn ra trong
một không khí sôi nổi. Chính quyền cách mạng quận Long
Thành tổ chức nhiều hoạt động thu hút đông đảo quần chúng
tham gia. Nhân dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước tham gia
vào nhiều công tác do chính quyền cách mạng khởi xướng; đặc
biệt những cuộc mít tinh, diễu hành những ngày đầu mừng đất
nước độc lập, không còn chế độ phong kiến, thoát khỏi ách đô
hộ của thực dân Pháp, sự cai trị của phát xít Nhật.
1. Những ngày đầu kháng chiến (1945 - 1946)
Nhân dân Nam Bộ vui mừng đất nước độc lập chưa được
bao lâu thì thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam
lần thứ hai, tạo nên những vụ gây hấn với chính quyền cách
mạng. Dưới sự hỗ trợ của quân đội Anh với danh nghĩa Đồng
Minh vào giải giáp quân Nhật, ngày 23/9/1945, quân Pháp gây
hấn ở Sài Gòn mở màn cho một loạt các hoạt động quân sự tiến
đánh vào chính quyền cách mạng ở Nam Bộ. Người dân Phú
Đông, Phú Hữu, Đại Phước của Long Thành cùng toàn tỉnh
77

8.8 Page 78

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Biên Hòa bắt đầu bước vào một cuộc kháng chiến dưới sự lãnh
đạo của chính quyền cách mạng non trẻ.
Vào giữa tháng 9/1945, quân Nhật ở căn cứ Thành Tuy Hạ
buộc phải bàn giao quản lý cho thực dân Pháp theo ký kết của
khối Đồng Minh. Sáng ngày 20/9/1945, đại diện của quân Pháp
từ Sài Gòn đi bằng xuồng máy (bo-bo) theo hướng sông Sâu
vào Thành Tuy Hạ. Nắm được tin, đội vũ trang của Ban Đồng
Nai phục kích chặn đánh khi quân Pháp từ kho Thành Tuy Hạ
trở ra khiến chúng hoảng sợ, cho tàu chạy thoát khỏi trận địa.
Trong đêm này, đội vũ trang cảm tử của Ban Đồng Nai đột nhập
đốt nhà máy mủ trong Thành Tuy Hạ. Ngày hôm sau, Pháp điều
một đại đội đến bảo vệ việc tiếp quản căn cứ Thành Tuy Hạ.
Trước khi Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa được thành lập, Quận
ủy Long Thành trực tiếp xin ý kiến và nhận chỉ đạo của Xứ ủy
Nam Bộ về việc tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị,
củng cố chính quyền cách mạng. Được Xứ ủy Nam Bộ nhất trí,
đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, chỉ đạo việc vận động
xây dựng các tổ chức chính trị và đoàn thể từ huyện đến xã.
Chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp, tại nhà hội Bình Trước
(xã Bình Trước, quận Châu Thành)1 vào ngày 23/9/1945, hội
nghị cán bộ tỉnh Biên Hòa được tổ chức dưới sự chủ trì của Hà
Huy Giáp - đại diện Xứ ủy Nam Kỳ. Hội nghị quyết định thành
1  Nhà hội Bình Trước nay thuộc đường 30 tháng Tư, phường Thanh Bình, thành
phố Biên Hòa, được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số 2307/QĐ của Bộ
Văn hóa, Thông tin và Thể thao ngày 30/12/1991.
78

8.9 Page 79

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
lập Tỉnh ủy Biên Hòa do đồng chí Trần Công Khánh làm Bí thư
và đề ra nhiệm vụ trước mắt:
- Củng cố bộ máy hành chính tỉnh (do đồng chí Hoàng
Minh Châu làm Chủ tịch, Đặng Nguyên và Huỳnh Văn Hớn -
Phó Chủ tịch, Phan Đình Công - Phụ trách viên Quân sự, Ngô
Hà Thành - Phụ trách Quốc gia Tự vệ Cuộc, Nguyễn Văn Tàng
- Thư ký).
- Cử các đoàn cán bộ của tỉnh đến các địa bàn thành lập
quận ủy (các quận Châu Thành, Tân Uyên, Long Thành, Xuân
Lộc).
- Xây dựng Mặt trận Việt Minh tập hợp các tầng lớp nhân
dân, tạo sức mạnh đoàn kết, huy động sức người, sức của cho
kháng chiến chống Pháp. Mặt trận Việt Minh tỉnh do đồng chí
Hồ Hòa làm Chủ nhiệm, Huỳnh Văn Lũy - Phó Chủ nhiệm.
- Tổ chức trường huấn luyện quân sự, xây dựng lực lượng
vũ trang chuẩn bị kháng chiến. Tổ chức Thanh niên Tiền phong
và Thanh niên Cứu quốc của tỉnh hợp nhất do đồng chí Hoàng
Bá Bích làm Đoàn trưởng.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy Long Thành, đến cuối
tháng 9/1945, các xã của huyện Long Thành trong đó có nhân
dân vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước thành lập các tổ chức
đoàn thể cứu quốc tham gia trong Mặt trận Việt Minh.
79

8.10 Page 80

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Cuối tháng 10/1945, được tăng thêm viện binh, quân Pháp
tấn công, phá vỡ vòng vây kháng chiến của chính quyền cách
mạng và bắt đầu tổ chức các cuộc tấn công vào các tỉnh lân cận
Sài Gòn. Khi mặt trận Sài Gòn bị vỡ trước sức tấn công của
quân Pháp, địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành được nhiều đơn
vị vũ trang rút về đứng chân.
Từ mặt trận phía Nam ở Sài Gòn, theo lệnh của Tư lệnh
Dương Văn Dương, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên rút về đóng
quân khắp địa bàn Rừng Sác (khu vực Bà Trao đến Phước An,
từ Thái Thiện đến Tam An). Bình Xuyên là tên gọi lực lượng vũ
trang tự phát, tham gia chống Pháp xâm lược lần thứ hai, xuất
phát từ Sài Gòn (nay thuộc địa bàn Quận 8, TP.HCM). Dương
Văn Dương là thủ lĩnh của lực lượng vũ trang này khi thống
nhất các đơn vị Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm và
đặt tên Bình Xuyên1.
Từ Thủ Đức, một đơn vị Cộng hòa vệ binh gồm 50 chiến
sĩ với 12 súng từ rút về Long Thành trong tình trạng chiến đấu
độc lập hết đạn, lương thực. Ủy ban lâm thời quận Long Thành
tiếp nhận và quyết định sáp nhập vào lực lượng Cộng hòa vệ
binh địa phương, bố trí đóng quân tại Bến Cam (Phước Thiền).
Một đơn vị do Nguyễn Văn Du, Trịnh Công Tây chỉ huy gồm
hơn 70 người và 20 súng về đóng quân rải rác vùng Phước
1  Sau khi Đặc phái viên trung ương Nguyễn Bình vào tổ chức quân đội, Dương
Văn Dương được chỉ định làm Khu bộ phó Khu 7. Sau khi Dương Văn Dương mất
vào năm 1946, lực lượng Bình Xuyên bị phân hóa.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Long, Bà Ký và Cầu Xéo; sau này bổ sung thêm toán vũ trang
do Nguyễn Văn Trực, Lê Văn Cảnh phụ trách và tự xưng “Đệ
nhị sư đoàn”1. Trong tình hình khó khăn chung, người dân Phú
Đông, Phú Hữu, Đại Phước cùng với Long Thành tham gia tích
cực trong các hoạt động và đóng góp lương thực, thực phẩm
phục vụ cho phong trào nuôi quân. Với tinh thần tự lực tự
cường, người dân Nhơn Trạch - Long Thành phát động phong
trào tiết kiệm, đóng góp lương thực, thực phẩm để lo hậu cần
cho các đơn vị vũ trang này. Người dân không ngần ngại cho
chính chính quyền cách mạng vay mượn tài sản để phục vụ cho
kháng chiến. Bộ đội đóng quân phân tán trong nhà người dân.
Mỗi xã cử nhiều người lo bếp ăn tập thể, giao các phương tiện
đi lại, chủ yếu ghe, xuồng cho bộ đội di chuyển, xe bò để vận
chuyển trang thiết bị, vũ khí.
Những lực lượng vũ trang rút từ các nơi về đứng chân
tại Nhơn Trạch - Long Thành; trong đó đơn vị tự xưng “Đệ
nhị sư đoàn” có nhiều thành phần chưa giác ngộ cách mạng
hoàn toàn nên nảy sinh một số trường hợp gây nên dư luận
xấu trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến phong trào
cách mạng. Những người chỉ huy Nguyễn Văn Du, Trịnh
Công Tây, Nguyễn Văn Trực, Lê Văn Cảnh có hành vi sợ giặc,
xem thường cấp dưới, sách nhiễu người dân lại uy hiếp chính
quyền cách mạng địa phương, không tuân thủ theo lãnh đạo
1  Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban hành chính Nam Bộ tại Sài Gòn
thành lập 4 đơn vị Cộng hòa vệ binh.
81

9.2 Page 82

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
của tổ chức Đảng và bộ máy hành chính cách mạng, lại cấu
kết với những thành phần chống đối hành xử theo tính chất
quân phiệt. Sau nhiều lần cảnh báo, chính quyền cách mạng
Long Thành đã xử lý và giải thể lực lượng tự xưng “Đệ nhị
sư đoàn”.
Chính quyền cách mạng Long Thành vừa củng cố bộ máy
tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn định các vấn đề liên quan chính
sách, ổn định đời sống nhân dân. Chính sách ruộng đất cho
người dân được thực hiện ở các xã của quận Long Thành, gồm:
Phú Hữu, Phú Thạnh, Đại Phước, Long Tân, Tam An, Tam
Phước, Phước Nguyên, Long Phước. Khoảng 1.000ha ruộng
của chủ đất vắng mặt, chủ điền lớn hoặc phản động được chính
quyền cách mạng tịch thu, tạm cấp cho nhiều nông dân nghèo
không ruộng hoặc ít ruộng để canh tác. Đồng thời vận động một
số chủ điền ở các xã thực hiện giảm tô 25%, hủy nợ lưu khối
(nợ từ lâu không trả nổi) cho hàng ngàn người nghèo. Hưởng
ứng nhiệm vụ diệt “giặc dốt” của Chính phủ cách mạng, ở Nhơn
Trạch - Long Thành, tùy vào điều kiện riêng mà các xã tổ chức
cho người dân tham gia “bình dân học vụ” để biết đọc, biết
viết. Phòng trào xóa mù chữ tạo nên sự phấn khởi của người
dân vốn “đầu tắt mặt tối” trong cảnh cơ hàn, lo đi làm để có cái
ăn, nhiều người rủ nhau đến các lớp học do các thầy giáo địa
phương, cán bộ, đảng viên đứng lớp. Sau các buổi học, người
dân được Hội Phụ nữ, thanh niên địa phương tổ chức biểu diễn
văn nghệ, được hòa trong không khí vui vẻ. Chính sách tạm cấp
82

9.3 Page 83

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
ruộng đất và xóa mù chữ của chính quyền cách mạng đến đời
sống của tầng lớp nông dân diễn ra trong thời điểm còn nhiều
khó khăn đã tạo nên niềm tin, sự đồng tình ủng hộ và hưởng
ứng các phong trào cách mạng phát động1.
Ngày 25/10/1945, quân Pháp tiến đánh tỉnh lỵ Biên Hòa.
Lực lượng vũ trang cách mạng rút về các khu vực khác để
bảo toàn quân và xây dựng căn cứ. Quân Nhật ở Long Thành
vốn án binh bất động trước đó thì bắt đầu hoạt động với các
hành vi gây hấn chính quyền cách mạng. Quân Anh, Ấn
mang danh nghĩa Đồng Minh giải giáp quân Nhật nhưng đã
thỏa hiệp với Nhật, dọn đường cho Pháp tiến đánh, mở rộng
vùng chiếm đóng các khu vực lân cận Sài Gòn ở miền Đông
Nam Bộ. Trước sức tấn công của địch, chính quyền cách
mạng Long Thành chủ trương rút về Phước Thiền (cơ quan
Đảng), chùa Nước Nhĩ ấp Bến Sắn (cơ quan hành chính) và
các xã để bảo toàn lực lượng, bàn kế hoạch chống quân Anh,
Pháp, Nhật.
Trước tình hình Pháp đẩy mạnh đánh chiếm Nam Bộ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ vào ngày
29/10/1945, khẳng định: “Từ Nam chí Bắc đồng bào ta luôn
luôn sẵn sàng. Mấy triệu người như một, quyết tâm đánh tan
quân cướp nước. Không quân đội nào, không khí giới nào có
1  Ngày 03/9/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họp phiên
đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xác định nhiệm vụ lớn trước
mắt, là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
83

9.4 Page 84

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc...
Trước nạn ngoại xâm, toàn thể quốc dân đã đoàn kết chặt chẽ
thành một khối kiên cố, thành một lực lượng thống nhất mà
không một đội xâm lăng nào đánh tan được”1. Ngày 25/11/1945,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc, nhận định tình hình và định hướng cách mạng Việt Nam.
Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và
trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ thù
chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng”2 nêu rõ mục tiêu “dân tộc giải
phóng”, đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”;
mọi hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt
“là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”3. Hưởng ứng lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Nhơn Trạch - Long
Thành đoàn kết, quyết tâm tin tưởng vào đường lối kháng chiến
của cách mạng ở địa phương. Cuối năm 1945, chính quyền
cách mạng Long Thành được củng cố. Đoàn Thanh tra chính trị
miền Đông do đồng chí Dương Bạch Mai làm trưởng đoàn về
kiểm tra tình hình kháng chiến Long Thành. Ủy ban nhân dân
1  Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb. Chính trị Quốc gia -
Sự thật, Hà Nội, tr.89.
2  Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tập 8, tr. 26.
3  Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tập 8, tr. 26-27.
84

9.5 Page 85

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
huyện Long Thành được cải tổ gồm: đồng chí Trịnh Văn Dục,
Bí thư Huyện ủy, kiêm chức Chủ tịch huyện, Võ Văn Truyện
(tức Hoàng Việt Hà) giữ chức Phó Chủ tịch, đồng chí Trương
Minh Kỷ, Phó Chủ tịch kiêm Ủy viên Tư pháp, đồng chí Trịnh
Văn Kính - Ủy viên Chính trị, đồng chí Huỳnh Văn Đạo - Ủy
viên Quân sự, đồng chí Lương Văn Nho - Ủy viên Tài chánh,
Nguyễn Văn Hội - Ủy viên Xã hội, Nguyễn Văn Thai - Thư ký.
Quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và tiến hành các hoạt động
mở rộng vùng chiếm đóng tại Long Thành. Quân Nhật sau một
thời gian án binh bất động đã bung ra hoạt động cướp bóc ở một
số địa bàn dọc các trục lộ của Nhơn Trạch - Long Thành và hỗ
trợ quân Pháp. Đầu tháng 11/1945, quân Nhật tổ chức bắt đồng
chí Trịnh Văn Dục (Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban), đồng chí Đỗ
Hữu Phú (phụ trách Quốc gia Tự vệ Cuộc) huyện Long Thành.
Nhân dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước hưởng ứng lời kêu
gọi của chính quyền cách mạng huyện Long Thành tham gia
cuộc mít tinh tuần hành đấu tranh phản đối. Ngày 13/11/1945,
khắp các ngả đường về thị trấn Long Thành, quần chúng tham
gia cuộc vận động của Huyện ủy Long Thành. Hàng ngàn người
dân xuống đường kéo về thị trấn Long Thành. Cuộc biểu dương
lực lượng của quần chúng được tổ chức chặt chẽ, đầy đủ các
tầng lớp nhân dân: công nhân, nông dân, phụ nữ, tiểu thương,
viên chức, tín đồ của tôn giáo yêu nước tham gia... Nhiều khẩu
hiệu đả đảo lính Nhật, thực dân Pháp, đòi thả cán bộ cách mạng
được quần chúng giương cao trên đường tuần hành. Lính Nhật
85

9.6 Page 86

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
bố trí tại thị trấn Long Thành, ngã đường vào Sở cao su Siph -
nơi giam giữ đồng chí Trịnh Văn Dục, Đỗ Hữu Phú. Đoàn biểu
tình đến thị trấn, lính Nhật giương súng, tuốt lê ngăn chặn. Hội
Phụ nữ đi đầu hô vang khẩu hiệu, xông vào đội hình lính Nhật,
giằng súng và kêu gọi người dân tiến lên. Trước khí thế sôi sục
của nhân dân, lính Nhật phải giải quyết ôn hòa. Khi đoàn biểu
tình đến văn phòng Sở Siph, lính Nhật rút vào bên trong cố thủ.
Hoảng sợ trước khí thế của người dân, quân Nhật cử người đàm
phán. Huyện cử đồng chí Vũ Hồng Phô dẫn đầu một phái đoàn
vào làm việc. Lợi dụng thời gian tạm nghỉ buổi trưa, tên đại tá
chỉ huy căn cứ đã tổ chức hai xe hộ tống bí mật đưa đồng chí
Trịnh Văn Dục, Đỗ Hữu Phú về Biên Hòa giao cho thực dân
Pháp. Sau hai giờ chờ đợi, khi biết được tin này, bọn địch một
mặt tỏ ra hòa hoãn, nhưng chúng bí mật đưa đồng chí Trịnh
Văn Dục, Đỗ Hữu Phú về Biên Hòa giam giữ. Khi biết tin hành
động xảo trá của địch, những người tham gia biểu tình tràn lên
tấn công. Lực lượng vũ trang, thanh niên các xã trong đoàn biểu
tình với vũ khí thô sơ chuẩn bị cho cuộc tiến công vào trụ sở
địch. Lính Nhật được lệnh của chỉ huy đã nổ súng uy hiếp tinh
thần của đoàn biểu tình. Trước tình thế đó, nhằm tránh đổ máu
của quần chúng, bảo đảm lực lượng để chuẩn bị cho các cuộc
đấu tranh tiếp, Ban chỉ huy cuộc biểu tình phát lệnh rút quân.
Tuy không đạt được mục đích đòi địch thả hai cán bộ cách
mạng nhưng cuộc biểu dương sức mạnh với trên 1.500 người ở
Long Thành đã làm cho kẻ thù khiếp sợ; quân Nhật những ngày
86

9.7 Page 87

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
sau đó án binh bất động, không dám hung hăng lùng sục hành
quân vào các làng xã như trước. Đây là cuộc đấu tranh chính
trị đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, có sự tham gia của nhân
dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước với các tầng lớp nhân dân
trên địa bàn Long Thành. Cuộc đấu tranh tập hợp đông đảo lực
lượng các đoàn thể Phụ nữ, Nông hội, Phụ lão, Thanh niên,
Phật giáo cứu quốc trên địa bàn, thể hiện sự đoàn kết trong bảo
vệ thành quả cách mạng, cổ vũ cho vùng Nhơn Trạch - Long
Thành nói riêng và cả tỉnh Biên Hòa. Đồng chí Bí thư Huyện
ủy bị địch bắt là một tổn thất lớn của cách mạng Long Thành.
Trước tình hình đánh phá của các thế lực tay sai, phản động
nhắm vào Đảng và chính quyền cách mạng non trẻ, Đảng Cộng
sản Đông Dương thực hiện phương châm sách lược, tuyên bố
tự giải tán để rút vào hoạt động bí mật1. Trong tình hình này, do
nhận thức chưa đầy đủ, trên địa bàn Long Thành không còn tổ
chức đảng sinh hoạt và là khó khăn cho phong trào đấu tranh.
Tuy nhiên, các đảng viên, người yêu nước vẫn tích cực hoạt
động trong Mặt trận Việt Minh, đi sâu vào cơ sở vận động quần
chúng để tiếp tục đấu tranh. Vùng Phú Hữu, Phú Đông, Đại
Phước có sự chuẩn bị cho việc kháng chiến. Đồng chí Trương
Minh Kỷ (Bảy Kỷ) - Huyện ủy viên được cử đến Phú Hữu bàn
1  Nhằm duy trì vai trò lãnh đạo chính quyền cách mạng và nhân dân trong thời
kỳ vừa bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám, vừa kháng chiến kiến quốc,
Đảng để một bộ phận công khai dưới danh hiệu Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác -
Lê nin ở Đông Dương, giữ phối hợp giữa hoạt động bí mật và công khai.
87

9.8 Page 88

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
bạc với đồng chí Trần Thị Ba gấp rút thành lập Mặt trận Việt
Minh, chính quyền và đoàn thể cứu quốc, sáp nhập Thanh niên
Tiền phong vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc, lập Đội Tự vệ
chiến đấu, có kế hoạch chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp.
Ngày 19/12/1945, từ căn cứ Thành Tuy Hạ, quân Pháp tổ
chức càn quét ra vùng xung quanh. Đơn vị đi càn gồm 100 lính
kéo đến cầu Cháy, bố trí một số súng cối hỗ trợ cho toán lính
tiến lên đường đất đỏ về hướng Giồng Ông Đông. Trên đường,
chúng nổi lửa đốt phá những nhà dân và bắt những gia súc, gia
cầm dân nuôi. Nhận tin báo, lực lượng tự vệ của địa phương bí
mật phục kích dưới ruộng lúa ven đường toán lính hành quân.
Khi những lính Pháp lọt vào địa hình phục kích, đội tự vệ nổ
súng, ném lựu đạn tấn công. Quân Pháp bắn trả tại chỗ và đội
súng cối từ cầu Cháy chi viện để giải thoát. Trận đánh làm hai
lính Pháp bị thương. Người dân địa phương vui mừng vì đội tự
vệ đã dũng cảm, tấn công vào cuộc hành quân của lính Pháp,
khiến chúng hoảng sợ. Đồng chí Trương Minh Kỷ (Huyện ủy
viên), Nguyễn Sanh Thành, Trần Thị Ba đến động viên tinh
thần chiến đấu của đội tự vệ.
Quân Pháp tại căn cứ Thành Tuy Hạ liên tiếp tổ chức càn
phá vùng chung quanh Phú Hội, Phú Thạnh, Long Tân, Tân
Tường (Phú Thạnh). Sau những tổn thất khi hành quân và nhằm
trấn áp sự chống đối của người dân, mỗi cuộc càn quét bố ráp,
lính Pháp thẳng tay bắn người, cướp của, đốt nhà và hãm hiếp
phụ nữ chúng bắt được. Lính Pháp nghi ngờ người dân và bắt
88

9.9 Page 89

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đánh, giết dân khi họ đi làm như ông Mười Ngãi (ấp Bến Cộ),
ông Đỏ (ấp Ông Mai). Nhiều nhà dân bị đốt cùng với thóc lúa.
Chị Nguyễn Thị Ngọc T. bị lính Pháp bắt, hiếp và sát hại dã
man. Tội ác của lính Pháp làm cho người dân vừa lo lắng và
căm tức, phẫn nộ.
Trước tình hình quân Pháp khủng bố, Mặt trận Việt Minh,
Ủy ban nhân dân cách mạng địa phương phát động phong trào
“Toàn dân tham gia bảo vệ sinh mạng và tài sản nhân dân”.
Phong trào được người dân hưởng ứng tích cực. Theo hồi ức
của ông Nguyễn Văn Thông: Cán bộ đoàn thể phân công nhau
về các ấp vận động dân quân du kích xã lập nhiều điểm gác.
Khi phát hiện lính Pháp đi vào thôn xóm bố ráp thì đánh mõ tre
báo động dây chuyền. Mỗi khi tiếng mõ “cốc, cốc, cốc...” vang
lên từ xóm nọ qua xóm kia, bà con lập tức chạy trốn ra bìa rạch,
ngoài đồng tránh hướng hành quân của địch. Khi nước cạn thì
người dân lội sông, rạch hay băng ruộng để tránh lùng bắt. Khi
con nước lớn thì ai có xuồng ghe thì cả gia đình chèo vào rừng
rậm, ai không có thì tìm bờ bụi kín đáo ẩn nấp hoặc lội sông để
trốn. Một số nhà có ông bà lớn tuổi ở lại để ngăn chặn giặc đốt
phá nhà cửa, phá hoại tài sản gia đình. Nhân dân tham gia đắp
nền, làm chòi kín đáo cất giấu thóc lúa, đồ đạc trong các đám
bần, dừa nước ven sông rạch. Vì địa phương là vùng có mực
nước ngầm cao nên việc khoét đất làm hầm sẽ gây nước ngập
nên người dân đắp nền, làm chòi phổ biến. Sau khi lính Pháp
càn qua, rút về đồn thì người dân trở về nhà, xóm ấp. Cuộc sống
89

9.10 Page 90

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
của người dân khi Pháp quay lại đánh chiếm cứ như thế, khiến
người dân sống trong cảnh vừa cơ cực, vừa luôn trong tâm thế
đối phó với địch lại thêm những nguy hiểm nơi đầm rạch nhiều
cá sấu. Đối với vùng Phú Hữu, Đại Phước, Phú Đông, cán bộ
mặt trận, đoàn thể và chính quyền cách mạng vẫn bám trụ hoặc
đột nhập về để hoạt động, gây dựng phong trào cách mạng1.
Trên bình diện quốc gia, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách
mạng để khẳng định địa vị pháp lý, chủ trương sớm tổ chức một
cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu để
bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Mặc dù
trong tình trạng quân Pháp tổ chức bình định, càn quét, tỉnh
Biên Hòa tuyên truyền đến người dân tham gia bầu cử Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 06/01/1946. Nhân
dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước tham gia bầu cử trong
niềm vui bởi đây là lần đầu họ cảm nhận được địa vị công dân
của một nước độc lập dù trên quê hương còn giặc ngoại xâm.
Để chuẩn bị cho bầu cử, tại các làng xã, đội tự vệ đặt chốt canh
gác ở các trục lộ để nắm tình hình giặc càn, phá hoại, các đoàn
thể tham gia tuyên truyền vận động. Để ngăn cản quân Pháp
hành quân, người dân tham gia phá hoại cầu đường. Nhân dân
hưởng ứng thể hiện tinh thần ủng hộ cách mạng qua lá phiếu
bầu của mình.
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.49.
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Tinh thần chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội khóa I vùng Phú
Đông, Phú Hữu, Đại Phước diễn ra sôi nổi với sự tham gia của
nhiều tầng lớp nhân dân. Chính quyền cách mạng tổ chức chu
đáo trong công tác chuẩn bị. Theo hồi ký của đồng chí Nguyễn
Văn Thông, các nhiệm vụ cách mạng và tuyên truyền cho hoạt
động bầu cử quốc hội như sau: Thành viên các đội Thiếu niên,
Nhi đồng cứu quốc lấy tôn thiếc làm loa, đi các địa bàn thông
báo, kêu gọi người dân tham gia. Nội dung như sau:
-“ Nghe đây, nghe đây... Ngày 02/9/1945, tại Thủ đô Hà
Nội, Hồ Chủ tịch thay mặt Chánh phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời. Ngày 20/9/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh tổ chức bầu cử
Quốc hội khóa I trong cả nước. Vậy yêu cầu đồng bào trong xã
từ 18 tuổi trở lên đi bầu cử vào lúc 7 giờ sáng ngày 06/01/1946
tại trụ sở Ủy ban Nhân dân lâm thời xã ở ấp Nhà Thờ. Ngày
03/9/1945, Hội đồng Chánh phủ quyết định phát động trong
toàn quốc chiến dịch tăng gia sản xuất và cứu đói. Yêu cầu
đồng bào trong ấp, xã tiếp tục trồng thêm nhiều khoai, lúa, chăn
nuôi thêm nhiều gia súc, gia cầm... Ngày 25/11/1945, Trung
ương chỉ thị nhiệm vụ cần kíp của chúng ta là củng cố chánh
quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống nhân dân”1.
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.56 - 58 (Lúc bấy giờ
ông Nguyễn Văn Thông có tên là Nguyễn Chiến Lũy).
91

10.2 Page 92

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Ngày bầu cử không khí thật nhộn nhịp. Đội chúng tôi tiếp
tục phát loa nhắc nhở những ai chưa đi bầu hãy đi ngay để thực
hiện quyền công dân lần đầu mở ra cho tất cả mọi người.
Trong sổ tay của ông Nguyễn Sanh Thành - một trong
những cán bộ từ thời tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám,
bám trụ hoạt động vùng Phú Hữu ghi chép về bầu cử: Ngày
06/01/1946, xã Phú Hữu tiến hành bầu cử Quốc hội trong tình
hình giặc uy hiếp, nhưng kết quả có 90% cử tri tham gia bầu
cử. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vừa tiếp tục tổ
chức phá đường, vừa bố trí canh phòng nghiêm ngặt bảo vệ tốt
cuộc bầu cử. Đồng bào rất phấn khởi. Tỉnh Biên Hòa có 3 đại
biểu trúng cử Quốc hội khóa I là Hoàng Minh Châu, Phạm Văn
Búng, Điểu Xiển1. Sau ngày bầu cử Quốc hội, thực hiện chỉ thị
của trên, các xã của huyện Long Thành bước vào đợt “tiêu thổ
kháng chiến” trước sức tấn công mạnh của thực dân Pháp trên
địa bàn toàn tỉnh Biên Hòa.
Vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước thành lập tổ chức
Mặt trận Việt Minh. Ông Phạm Văn Lấm (Chủ tịch), Nguyễn
Ngọc Vui (Ủy viên Quân sự), Nguyễn Sanh Thành (Ủy viên
Chính trị). Ủy ban nhân dân lâm thời gồm Lê Xuân Toản (Chủ
tịch), Nguyễn Văn Thôi (Ủy viên Giao thông), Võ Văn Đủ (Ủy
1  Tháng 1 năm 1946, các đại biểu tỉnh Biên Hòa trúng cử Quốc hội khóa I nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Bắc họp. Trên đường đi, đồng chí Điểu Xiển bị
Pháp phục kích, hy sinh.
92

10.3 Page 93

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
viên Cảnh sát). Tiếp theo, các đoàn thể Đoàn Thanh niên Cứu
quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Đội Thiếu niên
Nhi đồng Cứu quốc lần lượt được thành lập. Đội Tự vệ chiến
đấu Phú Hữu, Đại Phước được thành lập gồm 40 thanh niên là
các thành viên của Thanh niên Tiền phong trước đó từ các ấp.
Trong đó có những thành viên: Nguyễn Văn Cát (đội trưởng),
Trần Văn Sẵng, Trần Văn Hiệp, Trần Văn Thiên, Nhiều, Hùng,
Phát, Tứ, Sum, Kiểu... Cả đội được trang bị 5 súng hai nòng, 1
súng trường, lựu đạn...
Ngày 25/01/1946, quân Pháp với những gọng kìm từ nhiều
hướng tấn công Long Thành. Từ Biên Hòa, một tiểu đoàn lính
Âu Phi có xe tăng mở đường rầm rộ theo lộ 15 tiến xuống với
sự hỗ trợ của những chiếc tàu theo sông Đồng Nai đổ quân vào
Tam Phước, Tam An, Long Tân. Từ Sài Gòn, một tiểu đoàn
địch vượt bến phà Cát Lái tấn công Long Thành ở hướng Tây.
Giặc Pháp đánh vào Long Thành từ nhều hướng tạo gọng kìm
với ý định nhanh chóng thôn tính địa bàn chiến lược này.
Tháng 02/1946, diễn ra trận đánh quân Pháp đầu tiên tại
vàm Ông Chuốt. Một tàu chiến chở quân Pháp càn vào vàm
Ông Chuốt thì đã bị lọt vào ổ phục kích của tự vệ xã dưới sự chỉ
huy của đồng chí Năm Trứ. Lực lượng vũ trang với vũ khí hạn
chế, sử dụng 2 trái AT, 3 tay súng với 145 viên đạn tấn công làm
tàu giặc bốc cháy, lính địch bỏ chạy. Kết quả trận đánh, ta tiêu
diệt 14 địch, bắt sống 5 tên, thu 19 súng trường, 2 khẩu colt 45,
12 lựu đạn, 1 hòm đạn. Đây là chiến thắng đầu tiên của quân và
93

10.4 Page 94

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
dân Phú Đông, củng cố niềm tin cho quần chúng chống Pháp,
cổ vũ tinh thần và bổ sung được một lượng lớn vũ khí đối với
lực lượng du kích xã tiếp tục chiến đấu1.
Quân dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước cùng lực lượng
vũ trang đứng chân trên địa bàn Long Thành bước vào cuộc
chiến đấu. Người dân hỗ trợ, tiếp tế cho lực lượng vũ trang chặn
đánh các mũi tiến công của địch từ Cát Lái theo đường Phước
Lý phối hợp với lực lượng ở Thành Tuy Hạ tiến đến Long Tân
khiến cho địch tổn thất về nhân mạng và kế hoạch hành quân
bị chậm lại. Do hết số đạn dược nên bộ đội phải cắt rừng rút
về Phước An. Mũi thứ hai của địch theo lộ 19 tới Xoài Minh bị
bộ đội Bình Xuyên và giải phóng quân Long Thành chặn đánh.
Với binh lực mạnh, quân Pháp tiến đánh Long Thành và củng
cố những nơi chiếm được. Một số lực lượng vũ trang cách mạng
theo lệnh Khu bộ Khu 7 rút khỏi Long Thành, để bảo toàn lực
lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Trong các trận
đánh với Pháp tái chiếm Long Thành, lực lượng cách mạng gây
cho chúng những tổn thất: 100 lính Âu Phi bị chết, hàng trăm
tên khác bị thương, nhiều khí tài quân sự bị phá hủy. Lực lượng
vũ trang cách mạng cũng bị tổn thất với 300 đồng bào, cán bộ
chiến sĩ hy sinh, gần 400 người bị thương, 20 chiếc ghe của liên
quân Bình Xuyên bị đánh chìm, ba kho gạo bị đốt cháy. Những
trận Pháp càn vào các khu dân cư ở Nhơn Trạch - Long Thành,
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Huyện Nhơn Trạch anh hùng, Nxb.Đồng
Nai, tr.76-77.
94

10.5 Page 95

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
chúng bắt người dân vô tội, đánh đập dã man và bắt giam. Một
số người dân phải rời khỏi, đi tránh nạn khủng bố1.
Quân Pháp liên tiếp mở các cuộc hành quân lùng sục ra
các vùng xung quanh cướp phá, lùng bắt cán bộ Việt Minh, bắt
lính và từng bước thành lập bộ máy xã tề nhằm ổn định khu
vực chiếm đóng. Liên lạc giữa các địa bàn Nhơn Trạch - Long
Thành bị gián đoạn và với tỉnh Biên Hòa bị cắt đứt. Trước sức
tấn công, chiếm đóng và kìm kẹp của quân Pháp, một số cán bộ
dao động, thối lui, bỏ chạy, tổ chức đoàn thể, chính quyền các
địa bàn của Nhơn Trạch - Long Thành không còn hoạt động,
phong trào cách mạng dưới các xã lâm vào khó khăn.
Trước tình hình trên, huyện Long Thành chọn Phước An
làm căn cứ đứng chân hoạt động tiếp tục lãnh đạo phong trào
cách mạng địa phương. Địa bàn toàn huyện được tổ chức phân
chia thành những khu để củng cố, duy trì đấu tranh. Toàn huyện
chia làm 4 khu: Địa bàn Phú Đông thuộc Phú Hữu, Đại Phước
thuộc khu III cùng với Phước An, Phước Khánh, Phước Thành
và hai ấp Xoài Minh, Ông Kèo (Phước Lý) do đồng chí Trịnh
Minh Kính phụ trách. Các khu còn lại: Khu I gồm 7 xã trên
trục lộ 17 từ Phước Thiền đến Phước Lý, do đồng chí Trương
Minh Kỷ phụ trách; Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiểng
tới Phước Thọ, do đồng chí Huỳnh Văn Đạo và ông Võ Văn
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930
- 2015), Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.125 - 126.
95

10.6 Page 96

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Truyện phụ trách; Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 từ
Thái Thiện tới Phước Tân, kể các sở cao su; do đồng chí Lương
Văn Nho phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo từng khu được gọi là Khu ủy. Các Khu ủy
có trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong trào kháng
chiến theo địa bàn được phân công. Phương thức hoạt động của
Khu ủy được quy định là lưu động, bám địa bàn, không cần trụ
sở. Mỗi khu được có một phân đội vũ trang từ lực lượng Giải
phóng quân của huyện đưa về. Hằng tháng các Khu trưởng chỉ
tập trung một lần ở Phước An để báo cáo và trao đổi công tác.
Việc thành lập các Khu ủy và giao quyền lãnh đạo toàn diện
cho Khu ủy đã tạo nên một bước chuyển quan trọng cho phong
trào kháng chiến trong toàn huyện. Không những các lực lượng
phân tán hợp lý tránh được tổn thất mà với phương thức hoạt
động sáng tạo thông qua các Khu ủy, huyện đã luôn bám được
xã, trực tiếp lãnh đạo từng xã và chủ động phát huy được thế
mạnh từng vùng.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí đóng
quân và từng bước thành lập bộ máy xã tề nhằm ổn định khu
vực chiếm đóng và bố trí đồn bót. Mỗi bót khoảng một trung
đội Âu Phi do một thiếu úy hoặc một trung úy Pháp chỉ huy.
Vùng Phú Đông, Phú Thạnh có vị trí gần kho hậu cần Thành
Tuy Hạ, quân Pháp thiết lập các tua, bót canh gác nghiêm ngặt
để bảo vệ. Từ tháng 2/1946, quân Pháp liên tiếp mở các cuộc
96

10.7 Page 97

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
hành quân lùng sục ra các vùng xung quanh bình định, lùng bắt
cán bộ Việt Minh đồng thời đánh phá, cướp bóc, xua đuổi dân
chúng cùng với việc bắt lính khiến cho đời sống nhân dân ngột
ngạt. Trước tình hình khó khăn, huyện Long Thành vẫn cố gắng
duy trì các hoạt động trong vùng tự do. Lớp Mặt trận Việt Minh
ở Phước An vẫn mở mỗi khóa 7 ngày cho cán bộ các xã và bộ
đội. Mặt khác, huyện chủ trương chia nhỏ một số xã lớn để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc liên lạc và lãnh đạo phong trào
cơ sở. Cùng với các xã khác ở Nhơn Trạch - Long Thành, xã
Phú Hữu chia thành 2 xã: Phú Hữu, Phước Thành1. Đầu tháng
3/1946, chính quyền các xã bị tan rã trước đây từng bước được
củng cố. Các xã đều tập hợp được tự vệ chiến đấu dù số lượng
chưa nhiều nhưng đây là cơ sở gây dựng phong trào, bổ sung
lực lượng chiến sĩ cho bộ đội địa phương Nhơn Trạch - Long
Thành.
2. Kháng chiến toàn dân, toàn diện (1946 - 1952)
Bối cảnh của đất nước trong năm 1946 đứng trước tình thế
nguy hiểm khi thực dân Pháp đưa quân từ Nam Bộ ra miền Bắc
Việt Nam thay quân đội của Tưởng Giới Thạch. Tình hình này
đặt Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lựa chọn để giữ vững
chính quyền và có những bước đi thích hợp. Chủ tịch Hồ Chí
1  Thông tin thêm: Xã Phước Hiệp chia thành Phước Long, Phước Thọ, xã
Phước Kiểng chia thành Phước Kiểng, Phước Mỹ; xã Phú Hội chia thành Phú
Mỹ, Mỹ Hội; xã Long Phước chia thành Tuy Long, Tập Phước; xã Phước Thiền
chia thành Phước Thiền, Long Đức.
97

10.8 Page 98

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Minh thay mặt Chính phủ ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày
06/3/1946. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hòa
để tiến” vào ngày 09/3/1946, nêu rõ ý nghĩa của việc ký hiệp
định, đồng thời nhấn mạnh việc cảnh giác đề phòng, chuẩn
bị sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội ước. Sau đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ với Chính phủ Pháp vào ngày
14/9/1946, thỏa thuận một số điều khoản trong quan hệ kinh tế,
văn hóa giữa hai nước và đặc biệt là đình chỉ xung đột ở miền
Nam để tiếp tục đàm phán. Tuy nhiên, với quyết tâm xâm lược
Việt Nam, Pháp đã bội ước và vi phạm những thỏa thuận đã ký
kết. Pháp dựng lên Chính phủ bù nhìn ở Nam Bộ, ra sức xây
dựng bộ máy chính quyền tay sai từ tỉnh xuống quận xã và tiếp
tục đẩy mạnh càn quét, khủng bố, tấn công vào lực lượng cách
mạng ở những vùng kháng chiến.
Tại Nhơn Trạch - Long Thành, Pháp tổ chức mở rộng địa
bàn chiếm đóng. Trên các hướng giao thông, quân Pháp dùng
bộ binh càn quét và thiết lập các đồn bót. Vùng lực lượng cách
mạng trú đóng, Pháp dùng máy bay rải truyền đơn, kêu gọi đầu
hàng, giao nộp vũ khí. Lực lượng cách mạng tổ chức đánh Pháp
càn quét, gây cho chúng nhưng tổn thất nặng nề, trong đó tiêu
biểu là trận Lò Rèn1. Quyết tâm bình định, Pháp thực hiện chủ
1  Trận Lò Rèn (xã Long Thọ ngày nay) xảy ra vào tháng 3 năm 1946, tự vệ xã
được sự hỗ trợ của người dân địa phương, phối hợp với Chi độ 3,4 của lực lượng
Bình Xuyên và bộ đội Mai Văn Vĩnh phục kích tấn công quân Pháp, tiêu diệt gọn
1 đại đội Âu Phi thu toàn bộ vũ khí.
98

10.9 Page 99

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
trương ba sạch: “đốt sạch, phá sạch, giết sạch”. Quân Pháp và
lính tay sai hành quân đến đâu là đốt nhà, bắn giết, cướp bóc
một cách điên cuồng, dã man. Đồng thời, cứ địa phương nào
thành lập bộ máy quản lý, Pháp sử dụng số hội tề cũ, con cái
phú nông, địa chủ và tăng cường bắt lính, tổ chức các đơn vị
thân binh. Địa bàn chiếm đóng được mở rộng, hệ thống đồn bót
dựng lên nhiều nhưng quân Pháp không khống chế được quần
chúng. Thực hiện chủ trương “bất hợp tác với kẻ thù”, nhằm
làm cho địch mất chỗ dựa và tránh tổn thất cho đồng bào, các
Khu ủy vận động nhân dân dời sâu vào vùng tự do xây dựng xã,
ấp chiến đấu. Huyện ủy Long Thành chỉ đạo các Khu ủy, lực
lượng vũ trang thực hiện chủ trương tổng diệt tề và đẩy mạnh
công tác vũ trang tuyên truyền. Lực lượng bộ đội, tự vệ cuộc,
tự vệ chiến đấu tùy theo tình hình tại chỗ, điều nghiên, đột nhập
giải tán các ban hội tề xã, ấp. Phụ nữ các xã tham gia Hội mẹ
chiến sĩ ngày càng đông đảo, lên hàng ngàn hội viên, tập trung
chăm lo, giúp đỡ cho bộ đội, góp phần tạo nên sự gắn bó mật
thiết giữa nhân dân và các lực lượng vũ trang.
Sau 10 tháng mất liên lạc, giữa tháng 11/1946, Tỉnh ủy Biên
Hòa cử Phạm Văn Khoai đến Long Thành củng cố chỉ đạo Mặt
trận Việt Minh. Tuyến liên lạc của Long Thành với Biên Hòa
đã được nối lại. Ủy ban nhân dân quận đổi thành Ủy ban hành
chính kháng chiến huyện. Tự vệ chiến đấu quân đổi thành du
kích xã.
99

10.10 Page 100

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Ngày 19/12/1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ và
nhân dân Việt Nam bị thực dân Pháp thẳng thừng cự tuyệt, đưa
quân tấn công Hà Nội. Để bảo vệ nền độc lập và chính quyền
cách mạng, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá của
nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc lập,
tự do: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng
lên!...”1.
Nhân dân Nhơn Trạch - Long Thành cùng Nam Bộ đã đi
trước trong kháng chiến chống Pháp từ sau Cách mạng tháng
Tám. Hưởng ứng lời kêu gọi, cả Nam Bộ tiếp tục cuộc kháng
chiến chống Pháp. Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy, Tỉnh ủy Biên
Hòa chỉ đạo xây dựng căn cứ địa vững chắc, xây dựng lực
lượng đẩy mạnh chiến tranh du kích. Tháng 6/1946, Bộ Chỉ
huy Khu 7 tổ chức hội nghị bàn về thống nhất chỉ huy, tổ chức
các lực lượng vũ trang, hình thành các chi đội ở các tỉnh. Thực
hiện chủ trương này, Vệ quốc đoàn quận Long Thành và Vệ
quốc đoàn Biên Hòa thống nhất thành Chi đội 10 Biên Hòa. Vệ
1  Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, tập 4, tr. 534.
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
quốc đoàn quận Long Thành trở thành Đại đội C của Chi đội 10
Biên Hòa1. Đại đội C gồm 3 trung đội 6, 7, 8 do đồng chí Lương
Văn Nho làm Đại đội trưởng, Nguyễn Văn Toàn làm Đại đội
phó, Lưu Văn Phảng làm Chính trị viên. Tháng 12/1946, theo
chỉ đạo của tỉnh, các Khu ủy ở Nhơn Trạch - Long Thành lần
lượt giải thể. Tại Nhơn Trạch - Long Thành, lực lượng vũ trang
được củng cố. Các Ban công tác Liên thôn ở Long Thành được
thành lập2. Trong hệ thống liên thôn của tỉnh, Long Thành chia
làm 4 Ban liên thôn: 11, 12, 13, 14. Vùng Phú Đông, Phú Hữu,
Đại Phước, Phước Lý, Phước Khánh, Phước Thành thuộc Liên
thôn 13 do đồng chí Liên phụ trách. Đội du kích liên thôn do
ông Lê Xuân Lịch (Chỉ huy trưởng), ông Châu Thành Phát (Chỉ
huy phó).
Các Liên thôn khác gồm: Liên thôn 11 gồm các xã dọc hai
bên lộ 15 từ Thái Thiện tới Phước Tân do đồng chí Nguyễn Văn
Xuất, phụ trách); Liên thôn 12 (gồm các xã Long Điền3, Phước
1  Lực lượng Chi đội 10 gồm: Đại đội A, Đại đội B, Đại đội C. Ban Chỉ huy Chi
đội 10: Huỳnh Văn Nghệ (Chi đội trưởng), Huỳnh Văn Đạo, Nguyễn Văn Lung,
Cao Minh Căng (Chi đội phó), Phan Đình Công (Chính trị viên).
2  Các Ban công tác Liên thôn: 1,2,3 thuộc địa bàn quận Tân Uyên; 4,5,6 thuộc
quận Châu Thành; 7 trước thuộc Tân Uyên, sau thuộc quận Sông Bé; 8 thuộc 1
phần quận Châu Thành và 1 phần Long Thành; 9 và 10 thuộc quận Xuân Lộc.
3  Do có sự khó khăn trong chỉ đạo phong trào, chính quyền cách mạng Long
Thành chia các xã với quy mô nhỏ hơn, gồm: Phước Hiệp chia thành 2 xã Phước
Long, Phước Thọ; Phước Kiểng thành 2 xã Phước Kiểng, Phước Mỹ; Phú Hữu
thành 2 xã Phú Hữu, Phước Thành; Phú Hội thành 2 xã Phú Mỹ, Mỹ Hội; Long
Phước thành 2 xã Tuy Long, Tập Phước; xã Phước Thiền tách thành lập thêm xã
Long Điền; xã An Hòa chuyển giao về quận Châu Thành (Biên Hòa ngày nay).
101

11.2 Page 102

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Thiền, Phú Mỹ, Mỹ Hội và Long Tân do đồng chí Phạm Tự Do
phụ trách); Liên thôn 14 (gồm các xã Phước Kiểng, Phước Lai,
Phước Long, Phước Thọ, Phước An do Nguyễn Trọng Trưởng
phụ trách). Mỗi Ban công tác Liên thôn có một trung đội du
kích tập trung, với nhiệm vụ vừa vận động nhân dân đóng góp
ủng hộ kháng chiến, vừa trừ gian diệt tề, đánh địch, đồng thời
phối hợp với các đơn vị bộ đội của trên về tác chiến ở địa
phương. Ở các xã, Ban công tác xã được thành lập, trực tiếp chỉ
huy các đội du kích xã ấp. Đây là hệ thống quân sự mới trên địa
bàn Nhơn Trạch - Long Thành, tham gia tích cực trong phong
trào diệt tề, trừ gian, phá hoại giao thông và kinh tế địch.
Tháng 12/1946, theo chỉ đạo của tỉnh, các Khu ủy ở Nhơn
Trạch - Long Thành lần lượt giải thể. Đầu năm 1947, các cơ
quan của huyện Long Thành: Ủy ban hành chính kháng chiến,
Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể dần ổn định nơi làm việc
trong địa bàn xã Phước An. Chiến khu Phước An, căn cứ du
kích một số xã được thành lập.
Chiến khu Phước An được thành lập, đóng vai trò quan
trọng trong phong trào đấu tranh cách mạng của Nhơn Trạch
- Long Thành, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của vùng Phú
Đông, Phú Hữu, Đại Phước. Phước An là vùng đất ở phía Nam
của huyện Nhơn Trạch, chiều dài 13km, diện tích tự nhiên
10.997 hec-ta, nằm dọc theo tỉnh lộ 19. Phía Bắc là vùng rừng
Giồng nhiều cây cối rậm rạp, nối liền với dải rừng Lòng Chảo
rộng lớn. Phía Nam là rừng Sác có diện tích rộng với rừng ngập
102

11.3 Page 103

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
mặn, nhiều rạch, tắc chằng chịt gắn với đường thủy qua các khu
vực Nhà Bè, Sài Gòn, về hướng Gò Công, Tiền Giang, Bến Tre
hoặc Vũng Tàu. Với địa hình phức tạp và một số giao thông
thủy thuận lợi cũng như các trục giao thông đường bộ chia cắt
bên trong để liên lạc với các địa bàn khác trong và ngoài Long
Thành, Phước An là địa bàn thuận lợi để làm căn cứ kháng
chiến.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa về xây dựng căn
cứ kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh, tháng 01/1947,
Ủy ban hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các
đoàn thể quận Long Thành xây dựng căn cứ ở Phước An. Trụ
sở của các cơ quan là những căn nhà lá dừa nước đặt ở những
địa điểm thuận lợi cho việc đi lại, liên lạc và tránh sự càn quét
của địch. Ủy Ban kháng chiến huyện Long Thành đóng ở rừng
Giồng, ấp Bà Trường, xã Phước An. Chủ tịch là Trần Bình Khê,
Phó Chủ tịch là Trần Khánh Dư, Chánh văn phòng Phạm Đình
Dũng, nhân viên đánh máy là Nguyễn Thị Tuyết. Trong khu
vực căn cứ, một số lực lượng vũ trang cũng trú đóng: đơn vị
cơ động của tỉnh, của khu như Liên quân Hoàng Thọ (chi đội
7, chi đội 6), bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn. Các cơ quan chỉ huy
và các đơn vị của Liên chi Bình Xuyên, quân y viện và công
binh xưởng ở phía Nam lộ 19. Sau này có bộ phận Quân giới
Nam Bộ từ miền Tây đến lập các phân xưởng sản xuất vũ khí
ở Đồng Ông Trúc. Căn cứ của các đơn vị đều được xây dựng
qui mô, có bến ghe, vọng gác, phòng tuyến chống địch, bãi tập
103

11.4 Page 104

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
để huấn luyện quân sự. Chiến khu Phước An được xem là vùng
tự do, độc lập của cách mạng khi các khu vực đô thị lớn ở Sài
Gòn - Gia Đình, Biên Hòa và thị tứ Long Thành bị địch bình
định, thiết lập bộ máy quản lý. Xây dựng khu căn cứ này có sự
đóng góp quan trọng của nhân dân ở Nhơn Trạch - Long Thành,
từ các hoạt động giao liên, tiếp tế, vận chuyển hàng hóa, lương
thực. Từ các đầu mối của cơ sở cách mạng ở các xã chung
quanh Phước An, các nguồn lương thực, thuốc men, dụng cụ y
tế, vũ khí... được tổ chức cung cấp cho căn cứ. Các chiến sĩ tự
vệ các xã được rút về tăng cường cho lực lượng vũ trang cách
mạng của huyện. Trong căn cứ Phước An, những cơ quan được
bố trí trận địa, giao thông hào, tổ chức canh gác cẩn mật để bảo
vệ, chống địch càn quét. Những khu vực bao quanh căn cứ như
đồng Lớn, xóm Ngọn, đồng Gò Cát và những khúc sông... được
nhân dân đóng cọc, làm rào ngăn chặn tàu địch, lính nhảy dù đột
nhập. Phong trào bảo vệ căn cứ cách mạng ở Phước An được
quần chúng tham gia tích cực. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là
những người gắn bó với chiến khu Phước An đã sáng tác: “...
Hàng trăm chiến sĩ đồng bào, Thi đua cắm cọc ngăn tàu trên
sông. Rừng cây vót nhọn thành chông, Lính chông đồng Lớn
đứng trông quân thù. Một hôm giặc Pháp nhảy dù, Chông cùng
du kích diệt thù trăm tên... 1.
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.72-73.
104

11.5 Page 105

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Bước chuyển toàn diện của phong trào kháng chiến nửa
đầu năm 1947 là điều kiện thuận lợi để củng cố và phát triển
Đảng bộ Long Thành. Tại chiến khu Phước An, Huyện ủy Long
Thành được thành lập. Bí thư Huyện ủy là đồng chí Vũ Hồng
Phô. Tháng 9/1947, chính quyền huyện Long Thành được cải
tổ do yêu cầu và nhiệm vụ mới. Ủy ban hành chính kháng chiến
đổi tên thành Ủy Ban kháng chiến hành chính. Đồng chí Lương
Văn Nho được chỉ định kiêm chức Chủ tịch huyện. Cuối năm
1947, theo chỉ thị của trên, hệ thống quân sự Liên thôn giải thể.
Quận đội bộ dân quân được thành lập trên cơ sở hợp nhất bốn
Ban công tác Liên thôn do đồng chí Phạm Tự Do làm Quận đội
trưởng, đồng chí Hoàng Viễn Tri làm Chính trị viên. Các đội
du kích Liên thôn tập hợp thành hai trung đội, quân số hơn 100
vũ khí thuộc lực lượng vũ trang của huyện. Các Ban công tác
xã được thay bằng Ban chỉ huy xã đội, lực lượng du kích được
củng cố.
Từ năm 1948, phong trào du kích chiến tranh của Nhơn
Trạch - Long Thành phát triển mạnh. Tháng 01/1948, đại hội
Đảng bộ huyện lần đầu tiên được tổ chức tại chiến khu Phước
An. Huyện ủy do bầu cử dân chủ chính thức ra đời. Đồng chí
Vũ Hồng Phô được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Nhằm ngăn chặn
các cuộc hành quân của địch, huyện Long Thành phát động
phong trào “phá đường” được nhân dân các xã ven lộ hưởng
ứng rất sôi nổi. Nhân dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước cùng
các xã khác tham gia tích cực phá các trục lộ chạy qua địa bàn.
105

11.6 Page 106

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Hai tuyến lộ 17, 19 trên địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành bị
người dân phá từng đoạn khiến địch không sử dụng được xe cơ
giới, chỉ đi bộ hoặc chuyên chở bằng xe ngựa. Các đoạn sông ở
Phú Đông, Phú Hữu, nhân dân đóng cọc ngăn sông ở các vàm,
rạch gây khó khăn cho tàu địch càn quét. Phong trào tiết kiệm
gạo mỗi khi nấu ăn như “Hũ gạo nuôi quân”, “Hũ gạo kháng
chiến” được nhiều hộ gia đình ở Phú Đông, Phú Hữu tham gia,
góp một lượng lương thực lớn cho cách mạng. Trong phong
trào chung của Nhơn Trạch - Long Thành, các xã của Nhơn
Trạch - Long Thành với 100% hộ gia đình trong chiến khu
Phước An, 250 hộ vùng tự do Tam Phước, 150 hộ Tam An, 148
hộ Phước Khánh, 146 hộ Long Nguyên, 250 gia đình ở Thái
Thiện, 256 gia đình ở Phú Hữu, 197 gia đình ở Phước Thành,
70% số gia đình ở Phước Thiền... Đặc biệt gần 200 hộ ở làng
kháng chiến Long An. Nông dân Phú Đông, Phú Hữu khi thu
hoạch mùa màng, dùng ghe chở lúa ủng hộ cho căn cứ ở Phước
An. Sự phát triển toàn diện của phong trào kháng chiến Long
Thành trong năm 1948 đã xác lập thế liên hoàn, vững chắc giữa
các vùng tự do mà trung tâm là chiến khu Phước An. Thanh
niên ở Phú Đông, Phú Hữu được gia đình động viên hăng hái
tòng quân, trong 2 đợt đã có 130 thanh niên đăng ký. Cùng với
phong trào quần chúng, lực lượng vũ trang và dân quân du kích,
tuy mới được củng cố lại, đã tổ chức được nhiều trận đánh với
nhiều hình thức đánh giặc phong phú. Sự phát triển toàn diện
của phong trào kháng chiến Long Thành trong năm 1948 đã xác
106

11.7 Page 107

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
lập thế liên hoàn, vững chắc giữa các vùng tự do mà trung tâm
là chiến khu Phước An. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp thực hiện
bình định, tấn công đầu não chỉ huy kháng chiến, bao vây căn
cứ cách mạng, xây dựng đồn bót, tháp canh và sử dụng tâm lý
chiến, tình báo, gián điệp để chia rẽ người dân với cách mạng.
Bước vào năm 1949, phong trào cách mạng Long Thành
đứng trước những khó khăn, tổn thất. Hệ thống gián điệp của
địch cài cắm trong hàng ngũ lãnh đạo cấp huyện và các đoàn
thể gây thanh thế và gây nên những tác hại. Tên Nguyễn Quang
Minh “chui sâu, leo cao” tới chức Phó Bí thư Huyện ủy, tên
Lại Văn Sang nắm giữ chức Trưởng Công an huyện và một hệ
thống chân rết ở trong chiến khu Phước An1. Từ những vị trí
chủ chốt trong lãnh đạo và các hoạt động chúng nắm giữ, tin
tức của hoạt động cách mạng bị lộ ra ngoài, một số cơ sở của ta
bị phát hiện, những cán bộ, đảng viên bị địch bắt, cơ sở ở các
địa bàn bị đánh phá và gây chia rẽ nội bộ. Nhưng hoạt động của
bọn phản động đã không thoát khỏi sự cảnh giác của nhân dân,
cán bộ, đảng viên Long Thành. Tỉnh ủy Biên Hòa đã chỉ đạo
kịp thời trong việc xử lý bọn gián điệp này và cơ sở của chúng,
đập tan âm mưu đánh phá cách mạng.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.134 - 138, cho thấy mạng lưới gián điệp này
nhiều chân rết: Nguyễn Thọ Phước, Trưởng Công an huyện, Đặng Văn Quang
(Quang Trắng) phụ trách Thanh niên huyện, Nguyễn Văn Quang, thư ký Công
đoàn huyện và Thứ giữ chức thư ký Nông hội, Lộc, Yểm ở Hội Nông dân, Quốc,
Sơn ở Huyện đội, Xá ở bộ phận Thông tin, Võ Văn Truyện (tức Hoàng Việt Hà)
(nguyên Chủ tịch huyện).
107

11.8 Page 108

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trong khi đó, nhằm đánh phá căn cứ, phong trào cách mạng,
Pháp dùng lính trong lực lượng Cao Đài phản động đóng bót,
càn quét để phát hiện cơ sở cách mạng, kìm kẹp người dân. Chỉ
huy lực lượng Cao Đài phản động có tên trung tá Lê Thành
Kham đóng ở Phú Thạnh, Vệ úy Tư ở đồn Câu Kê, đội Sâm
chỉ huy đội biệt kích ở bót Giồng Ông Đông. Đồng thời, địch
sử dụng chính sách chia rẽ nhân dân bằng hình thức kêu gọi
người dân theo đạo Cao Đài ở Phú Hữu, Long Tân, Mỹ Hội
tập trung thành khu dọc lộ 17, gần với kho Thành Tuy Hạ để
tránh “hiểm họa Việt Minh”. Thực ra, đó là âm mưu của giặc
Pháp tăng cường lực lượng để đánh phá quân dân kháng chiến.
Ta có chủ trương vận động đồng bào chung sống với Cao Đài
để ủng hộ kháng chiến, đồng thời bắt giữ trừng trị những tên
gây tội ác với nhân dân. Do nhận thức chưa đầy đủ, du kích,
công an ở một số xã của Nhơn Trạch đã bắt và giết một số tín
đồ trong đạo, gây nên tình trạng căng thẳng trong các vùng tự
do. Lợi dụng tình hình đó, địch ra sức tuyên truyền “Việt Minh
tảo thanh Cao Đài”, gây bất mãn, thù oán giữa người có đạo và
kháng chiến. Từ chỉ đạo của tỉnh Biên Hòa, huyện Long Thành
kịp thời chấn chỉnh sai lầm trong công tác này.
Quân Pháp và chính quyền tay sai tăng cường tuần tra, đánh
phá để chia cắt, bao vây khu căn cứ Phước An với Rừng Sác,
vùng lân cận và nguồn tiếp tế. Lực lượng Bình Xuyên do Lê
Văn Viễn chỉ huy đầu hàng thực dân Pháp, quay lại đánh phá
cách mạng vùng Nhơn Trạch - Rừng Sác. Những cơ sở, hậu
cần ở Phú Hữu, Phú Đông, Phước Khánh bị uy hiếp, đốt cháy.
108

11.9 Page 109

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Thực dân Pháp đưa sĩ quan Jolet Suacot - Đại đội trưởng Đại
đội 4 trung đoàn 22 (Regiment Injanteric Coloniale)1 đến Long
Thành kiêm Chỉ huy trưởng khu chi khu Long Thành. Quân
địch sử dụng lực lượng biệt kích đột kích, bố ráp, đánh phá,
bắt giết người tàn bạo nhằm trấn áp phong trào hoạt động cách
mạng. Một số cán bộ ở vùng Phú Hữu, Phú Đông như Dương
Văn Minh và các người khác bị địch bắt đưa về Thành Tuy Hạ
thủ tiêu.
Vượt qua những khó khăn, hoạt động cách mạng ở Nhơn
Trạch - Long Thành từng bước phục hồi. Đầu năm 1949, Đại
hội lần thứ nhất Đảng bộ huyện Long Thành tổ chức dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phạm Hùng (Ủy viên Thường
vụ Xứ ủy Nam Bộ). Ban Chấp hành được bầu gồm: Vũ Hồng
Phô (Bí thư), Trần Bình Khê, Trương Minh Kỷ, Nguyễn Sanh
Thành và Lê Hữu Tài (Lê Hữu Thướu)... 2 Các cơ quan, đoàn
thể xã, huyện nhanh chóng ổn định. Tháng 7/1949, tại chiến
khu Phước An, huyện Long Thành tổ chức đại hội “Luyện quân
tập công” trong một tuần lễ. Hàng trăm thanh niên của huyện
đăng ký tòng quân, nhập ngũ. Hội Nông dân, Phụ nữ các xã vận
động quần chúng đóng góp hơn 3.000 giạ lúa phục vụ bộ đôi,
du kích.
1  Trung đoàn 22 RIC (Regiment-Ingianteric-Coloniale): trung đoàn 22 lính
thuộc địa.
2  Cuối năm 1949, đồng chí Vũ Hồng Phô về Tỉnh ủy Biên Hòa, đồng chí Năm
Trị (Năm Hà) được phân công làm Bí thư. Đến giữa năm 1950, đồng chí Ngô
Tiến làm Bí thư.
109

11.10 Page 110

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trong tình hình chung của cả nước trong chống Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “Tổng động viên nhân vật lực”
với khẩu hiệu “ Tất cả cho tiền tuyến để chiến thắng giặc Pháp
xâm lược và Mỹ can thiệp”. Trung ương Đảng ra Nghị quyết về
đẩy mạnh công tác Thanh vận phát triển mặt trận Thanh niên
rộng rãi để một mặt huy động, tập hợp và tổ chức tất cả lực
lượng thanh niên yêu nước tham gia đấu tranh chống giặc. Trên
tinh thần đó, Tỉnh ủy Biên Hòa động viên lực lượng thanh niên
trẻ trong các cơ quan, ban ngành tham gia bộ đội, mặt khác đưa
lực lượng nòng cốt của các đơn vị bộ đội tỉnh về khu để thành
lập chủ lực tập trung, rút du kích xã lên xây dựng bộ đội, đưa
dân quân tự vệ lên làm du kích. Hệ thống Huyện đội bộ dân
quân giải thể và thành lập huyện đội Long Thành do đồng chí
Nguyễn Văn Toàn làm Huyện đội trưởng, đồng chí Nguyễn
Văn Xuất làm Huyện đội phó. Hai trung đội du kích tập trung
hợp nhất thành lập bộ đội địa phương lấy tên là trung đội Trần
Phú1. Bộ đội Trần Phú của huyện sau này được điều lên chủ lực
tỉnh nên huyện rút du kích xã lên thành lập lại lực lượng địa
phương lấy tên là đại đội Hồ Văn Long với quân số 140 chiến
sĩ. Lúc này, Ban đại diện trung đoàn 397 ở Long Thành giải
tán, rút hết về trung đoàn2. Tương quan lực lượng quân sự giữa
1  Trần Phú (1904 - 1931), là Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
2  Tháng 10/1949, do yêu cầu chiến trường, 2 trung đoàn 309 (ở Long Thành) và
307 (ở Bà Rịa) sáp nhập thành trung đoàn 397. Lực lượng vũ trang 309 ở Long
Thành phần lớn rút về Bà Rịa, chỉ để lại một bộ phận gần 300 cán bộ, chiến sĩ
gọi là “Ban đại diện trung đoàn 397”.
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
ta và địch có thay đổi. Lực lượng vũ trang trong huyện không
còn giữ được thế áp đảo, không có mặt ở mọi nơi, không đánh
địch chủ động và đều khắp như trước. Đầu năm 1951, quân
Pháp tiếp tục đẩy mạnh công cuộc bình định tăng cường độ
chiến tranh đánh phá ác liệt trên chiến trường Nam Bộ. Tình
hình chiến trường Biên Hòa bị chia cắt, ngày càng căng thẳng.
Vùng căn cứ, lương thực, thực phẩm, vũ khí... ở Nhơn Trạch -
Long Thành phục vụ cho kháng chiến ngày càng thiếu hụt trầm
trọng. Khi lực lượng vũ trang chủ lực ở Nhơn Trạch - Long
Thành điều chuyển, địch tăng cường đánh phá. Tổ chức Đảng
cơ sở, vùng du kích rất đông đảng viên nhưng thường bị xáo
trộn. Nhiều nơi, cán bộ, đảng viên không còn hoạt động hoặc
theo quần chúng ra vùng tạm chiếm. Người dân bị gom vào các
khu tập trung gần lộ giao thông, gần đồn bót, bị địch kềm kẹp
gắt gao. Phong trào đấu tranh Nhơn Trạch - Long Thành gặp
khó khăn, vùng tự do bị thu hẹp. Chiến khu Phước An bị địch
lấn chiếm.
Ngày 11/02/1951, Đảng tổ chức đại hội lần thứ hai tại xã
Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang từ ngày 11 đến ngày 19/02/1951. Chủ tịch Hồ Chí Minh
được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm
Tổng Bí thư. Sau thời gian hoạt động bí mật, Đảng quyết định
ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, ra
nghị quyết đẩy mạnh mọi mặt công cuộc kháng chiến đến thắng
lợi cuối cùng, quyết nghị thống nhất Mặt trận Việt Minh - Liên
111

12.2 Page 112

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Việt lấy tên gọi là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi
tắt là Mặt trận Liên Việt). Ở Nam Bộ, Trung ương Cục miền
Nam tổ chức lại chiến trường. Toàn Nam Bộ tổ chức hai phân
liên khu: miền Đông và miền Tây.
Tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một sáp nhập thành tỉnh Thủ
Biên; tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn sáp nhập thành tỉnh Bà Rịa - Chợ
Lớn (thường gọi là Bà Chợ). Địa bàn Phú Đông cùng với các
xã của Nhơn Trạch - Long Thành trực thuộc tỉnh Bà Chợ, trong
sự chỉ đạo của Phân liên khu miền Đông. Trước những diễn
biến gay go của phong trào kháng chiến Long Thành, Thường
vụ Tỉnh ủy Bà Chợ chỉ đạo: “Long Thành là một địa bàn chiến
lược, một vùng căn cứ, một chiến khu quan trọng của vùng Sài
Gòn - Chợ Lớn. Phong trào Long Thành, cơ sở Long Thành
tốt, quần chúng tốt. Bằng giá nào cũng phải ổn định cho được
chiến trường Long Thành để đảm bảo chỗ đứng của tỉnh”1. Đầu
tháng 7/1951, Huyện ủy Long Thành được kiện toàn, đồng chí
Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) làm Bí thư, đồng chí Trần Bình
Khê giữ chức Chủ tịch huyện, đồng chí Lê Phải làm Chính trị
viên huyện đội, đồng chí Nguyễn Tiến Lãng làm Trưởng Công
an huyện, đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách Tuyên huấn và
đồng chí Nguyễn Sanh Thành Chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.146.
112

12.3 Page 113

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Cuối năm 1951, bộ đội Hồ Văn Long sau huấn luyện và
củng cố được đưa trở lại địa bàn huyện Nhơn Trạch - Long
Thành chiến đấu. Có cơ sở vũ trang, huyện thực hiện chủ trương
chia khu, đưa cán bộ về phụ trách đồng thời phân tán lực lượng
vũ trang huyện theo khu chủ yếu làm nhiệm vụ vũ trang tuyên
truyền. Địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành được chia thành 5
khu. Địa bàn Phú Đông trong phạm vi của xã Phú Hữu, Phước
Thành, Phước Khánh, Phước Lý do đồng chí Nguyễn Sanh
Thành phụ trách. Các Khu còn lại gồm:
- Khu I gồm các xã Phước Nguyên, An Lợi, Tam An, Phước
Tân do đồng chí Lê Phải và đồng chí Nguyễn Văn Xuất phụ
trách.
- Khu II gồm các xã Phú Mỹ, Mỹ Hội, Phước Thiền, Long
Tân do đồng chí Trần Bình Khê, đồng chí Tám Thạch phụ trách.
- Khu IV gồm các xã Bình Thạnh, Phước An, Phước Long,
Phước Thọ do thường trực Huyện ủy và Ủy ban phụ trách.
- Khu V gồm các xã Thái Thiện, Phước Kiểng, Phước Lai,
Long An, Tuy Long, Tập Phước thuộc khu V do Huyện đội phụ
trách.
- Riêng thị trấn, các xã Lộc An, Bình Sơn, An Viễng, Siph
thành một khu do đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách kiêm
Chính trị viên biệt động đội.
113

12.4 Page 114

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Do chuyển được phương thức hoạt động đúng hướng, bám
được dân, tình hình kháng chiến Nhơn Trạch - Long Thành dần
ổn định. Tuy nhiên, tình hình địa bàn vẫn nhiều khó khăn khi
Pháp bổ sung thêm lực lượng lính Hòa Hảo, cùng với lính Cao
Đài và biệt kích trước đó tăng cường đánh phá, kèm kẹp nhân
dân. Cơ quan cách mạng phải di chuyển nhiều nơi, lưu động
trong thời gian dài tránh sự tấn công, lùng ráp. Một số cơ sở
cách mạng bị cắt đứt, không còn liên lạc. Tổ chức Đảng ở vùng
Phú Đông, Phú Hữu trước kia khá đông đến năm 1952 chỉ còn
4 đảng viên gồm Phạm Văn Búp (Bí thư), Nguyễn Tri Phương,
Nguyễn Ngọc Sánh, Nguyễn Ngọc Dễ và hai quần chúng có
cảm tình Tống Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Năm. Đội du kích còn
05 thành viên, trang bị một cây súng. Bám trụ hoạt động tại
chỗ, đồng chí Phạm Văn Búp bị địch phát hiện, bắt khi trú ẩn
trong hầm bí mật. Địch bắt đưa về đồn tại Thành Tuy Hạ tra tấn
dã man nhưng đồng chí giữ vững khí tiết, không khai báo và bị
địch thủ tiêu. Tên đội Sâm dẫn lính vào Giồng Ông Đông lùng
sục cán bộ cách mạng, bắn chết đồng chí Nguyễn Ngọc Dễ (Ủy
viên Ban kháng chiến xã Phú Hữu).
Đầu tháng 3/1952, tổ chức Đảng vùng Phú Hữu tổ chức
đợt tấn công tiệu diệt Việt gian trên địa bàn. Sau thời gian điều
nghiên, một tổ công tác bí mật được cử vào ấp Giồng Ông
Đông bắt Mười T. Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy (Hai Thông) và
Hai Sanh (Trưởng Công an xã) bí mật đột nhập vào nhà Mười
T. ở Giồng Ông Đông, bắt trói đưa về ấp Thành Hòa để hỏi
114

12.5 Page 115

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
cung. Lính đặc cảnh miền Đông bủa vây nơi giữ Mười T. và y
tranh thủ cơ hội bỏ chạy. Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy nổ súng
tiêu diệt và sau đó nhanh chóng rút ra rạch Miễng Sành. Khi
nghe tin tên Việt gian chỉ điểm phải đền tội, nhân dân Giồng
Ông Đông, Phú Hữu vui mừng vì đã trả thù được cho đồng chí
Phạm Văn Búp, Nguyễn Ngọc Dễ bị địch sát hại trước đó.
Trước sự khủng bố của địch, một số người như U.M, V.T.L.,
Đ.V.M đầu hàng nhưng nhất quyết không dẫn giặc đánh phá
căn cứ. Vào buổi sáng sớm ngày 30/4/1952, một tổ du kích
Phú Hữu đặt mìn nhằm tiêu diệt tiểu đội lính càn quét ở Giồng
Sắn. Nắm bắt cung đường lính địch hành quân, tổ du kích với
sự hướng dẫn của đồng chí Nguyễn Văn Thông cài 4 quả mìn,
ngòi nổ ngụy trang nối vào dây kẽm gai. Khi lính địch đi vào
địa điểm gài mìn, tổ du kích giật dây kẽm làm mìn nổ khiến
kẻ thù hoảng sợ, khiếp vía vì không biết bị tấn công cách nào.
Trận đánh này 8 tên lính chết tại chỗ và 4 tên bị thương. Trận
đánh có tác động mạnh vào lính ở Giồng Ông Đông bởi chúng
lo sợ không biết lực lượng cách mạng tấn công khi nào mỗi khi
càn quét. Nhân dân địa phương vui mừng vì cách mạng luôn
bám trụ và đánh địch ngay trên quê hương dù chúng càn bố
khốc liệt. Nhiều cơ sở cách mạng, người dân ở Phú Đông, Phú
Hữu, Đại Phước tham gia đóng góp nuôi quân như ông bà trùm
Chụp, Chín Kính, Hai Đôi, Chín Ráng (ấp Giồng Ông Đông),
bà Sáu Gấm, ông bà Ba Đóc, ông Năm Ề, vợ chồng Chín Đức
(ấp Cầu Kê), vợ chồng Ba Thẩn, vợ chồng Năm Xem (xóm Bến
115

12.6 Page 116

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Bạ), bà Nhiều, vợ chồng Bảy Ngọt, ông bà Bảo, ông bà Năm
Lân, ông bà Hai Trí... (ấp Bến Cộ, chợ Phước Lý).1 Hội Mẹ
chiến sĩ của Phú Đông do má Sáu Ngữ phụ trách cùng với các
mẹ Tư Nhiễu, mẹ Tư Phú làm tốt công tác binh vận, vừa bảo vệ
vợ con lính vừa khuyên nhủ, tuyên truyền cho 3 lính biệt kích
mang súng ra đầu hàng (năm 1952) và 2 nhân viên chính quyền
địa phương bỏ về Sài Gòn, 23 lính địa phương quân rời ngũ để
không chống lại nhân dân.
Tỉnh Biên Hòa nói riêng và miền Đông Nam Bộ chịu hậu
quả của cơn bão lụt nặng nề. Từ vùng Chiến khu Đ đến các
vùng dân cư khác, ở Nhơn Trạch - Long Thành cũng bị ảnh
hưởng nặng nề. Sự thiếu hụt lương thực cho các vùng căn cứ,
người dân lâm vào cảnh thiếu đói. Tình hình hoạt động của
phong trào kháng chiến gặp nhiều thử thách ở các địa bàn. Vượt
qua những gian nan, các cơ quan huyện Long Thành tập trung
về Rừng Sác và rừng Giồng hoạt động, nắm giữ phong trào
chung của địa phương. Theo chủ trương của huyện, một số cán
bộ trong đơn vị vũ trang được đưa về nắm du kích xã. Các xã
gây dựng lại đội du kích, đẩy mạnh công tác tiêu diệt Việt gian,
hỗ trợ quần chúng. Trong phong trào sản xuất, đóng góp lương
thực cho kháng chiến, tháng 12/1952, vùng lúa Phú Đông, Phú
Hữu, Phước Khánh được mùa. Nhờ có lực lượng vũ trang bảo
1  Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930
- 2015), Huỳnh Văn Tới chủ biên, Nxb. Đồng Nai, tr.151-152.
116

12.7 Page 117

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
vệ tốt mùa màng, đồng bào phấn khởi thu hoạch và đóng góp
cho kháng chiến tới 23 ngàn giạ lúa.
3. Chặng đường đi đến thắng lợi (1953 - 1954)
Phong trào kháng chiến ở Nhơn Trạch - Long Thành phát
triển mạnh. Nhân dân tin tưởng vào cách mạng rồi sẽ thành
công. Những cuộc vận động, tuyên truyền trong dân chúng
được tập hợp. Người dân không còn hoang mang như thời gian
trước. Tiếng súng tiến công của lực lượng vũ trang vang lên,
tấn công địch ở nhiều địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành, hỗ trợ
mạnh mẽ cho công tác địch vận1. Tháng 12/1953, Thành Tuy
Hạ bị pháo kích, lính sở Thành Tuy Hạ bị tấn công, 15 tên chết
và bị thương. Những tháng cuối năm 1953, Phú Đông là địa bàn
trong thuộc khu III của huyện có một số cán bộ về bám trụ hoạt
động, được người dân che chở; trong đó có Nguyễn Chiến Lũy,
Đoàn Văn Kỉnh, Lê Hiền (cán bộ an ninh huyện). Nhiều thanh
thiếu niên ở Giồng Ông Đông được tuyên truyền trở thành lực
lượng cốt cán cho nhiệm vụ cách mạng như Lê Văn Cơ, Trần
Văn Thời, Trần Văn E, Mai Văn Hai, Đoàn Thanh Dự, Trần Thị
Kim Khanh, Nguyễn Thị Thắm...
1  Trong năm 1953, nhiều trận đánh địch ở Nhơn Trạch, Long Thành nổ ra:
Tháng 4, ta tấn công lính tuần tiễu đường Phước Long-Phước Lai, tấn công đồn
Phước Lai bị đánh; Tua Bến Ngự (Phú Hữu) bị bộ đội và du kích liên xã tiêu diệt.
Tháng 7/1953, du kích xã phối hợp với đặc công tỉnh đột nhập vào khu dồn dân
Bà Trường, Phước An, tiêu diệt toàn bộ trung đội lính.
117

12.8 Page 118

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Các đồng chí Lê Hiền, Nguyễn Chiến Lũy tập hợp hàng
chục ghe người dân vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước trên
sông Cây Tràm vào ban đêm để phổ biến tin tức về cách mạng,
động viên cho con em tòng quân xây dựng lực lượng du kích.
Từ đồn Giồng Ông Đông, một toán biệt kích do đội Sâm dẫn
đầu tuần tra bằng xuồng phát hiện. Có lựu đạn trong tay để tấn
công vào lính địch nhưng để đảm bảo tính mạng bà con, đồng
chí Lê Hiền không sử dụng, lặn xuống sông thoát ra ngoài.
Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy nhanh trí nhảy qua xuồng lính,
chộp mạnh cột chèo lái làm xuồng lật úp, khiến bọn lính hoảng
hốt vất súng, nhảy vội xuống nước. Trong cơn hỗn độn đó, các
ghe người dân giải tán.
Hoạt động cách mạng của khu III mạnh nhưng cũng gặp
những tổn thất. Ngày 17/11/1953, lính Cao Đài của Lê Thành
Kham ở Phú Thạnh phối hợp với bọn Việt gian ở kho đạn
Thành Tuy Hạ mở cuộc bao vây ấp Bến Cộ, đốt nhà dân và
bắt đồng chí Nguyễn Sanh Thành và các ông Đào Văn Bảo,
Mai Văn Trí đưa về giam tại kho đạn Thành Tuy Hạ. Các đồng
chí Nguyễn Chiến Lũy, Nguyễn Tri Phương, Đào Minh Đáng
vượt vòng vây, ra rạch sông trốn thoát sự truy lùng của địch.
Địch tra tấn, bày trò chiêu dụ đồng chí Nguyễn Sanh Thành
để khai thác thông tin nhưng thất bại. Giam giữ một thời gian,
địch dùng chiêu “thả con săn sắt bắt con cá rô” khi biết rõ đồng
chí Nguyễn Sanh Thành là cán bộ của huyện, có nhiều người
thân tham gia kháng chiến. Chúng thả đồng chí Nguyễn Sanh
118

12.9 Page 119

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Thành ra, đưa về nhà và rắp tâm theo dõi với hy vọng tìm cách
bắt các đồng chí khác và người thân khi liên lạc trở lại1. Ngày
17/3/1954, đồng chí Nguyễn Tri Phương bị lính Cao Đài ở Cát
Lái bao vây ở vàm Ông Chuốc (xã Phú Hữu). Anh bị thương
gãy tay trái, bị địch bắt và giải về khám đường Biên Hòa giam,
khai thác thông tin nhưng anh vẫn trung kiên. Bọn điều tra ác
ôn chặt cánh tay anh rồi đày qua nhiều nhà tù và sau này được
trao trả sau năm 1954. Đồng chí Lê Văn Trí - bộ đội khu III lọt
vào ổ phục kích của địch khi chúng ruồng bố ở sông Ông Kèo,
địch bắt và chặt đầu bêu bên cầu Mười Huỳnh. Đoàn cán bộ
huyện công tác bảo vệ mùa màng ở ngã ba rạch Mương (Phước
Khánh), bị địch ruồng kích làm chị Lê Thị Sáu hy sinh, cô Võ
Thị Dự bị thương và bắt giam.
Trên chiến trường cả nước, lực lượng cách mạng tổ chức
nhiều chiến dịch quân sự, chủ động tấn công vào quân đội Pháp
và chính quyền tay sai. Những tháng đầu năm 1954, thắng lợi
của cách mạng trên khắp các chiến trường đã có ảnh hưởng sâu
sắc tới phong trào kháng chiến Nhơn Trạch - Long Thành. Song
song với hoạt động vũ trang, công tác địch vận được đẩy mạnh.
Ngày 07/4/1954, Tiểu đoàn 300 của lực lượng vũ trang cách
mạng tổ chức chống Pháp càn quét, đã tiêu diệt sĩ quan Pháp Jolet
Suacot. Tin Jolet Suacot bị đền tội đã gây một tiếng vang lớn,
đem lại niềm vui cho nhân dân Long Thành - Nhơn Trạch. Tội
1  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai, tr.115 - 118. Địch thả
đồng chí Nguyễn Sanh Thành vào ngày 21/01/1954.
119

12.10 Page 120

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
ác dã man và những hậu quả khủng khiếp của chúng gây ra
ở Long Thành - Nhơn Trạch kéo dài trong một thời gian dài.
Trên chiến trường Long Thành - Nhơn Trạch, lực lượng cách
mạng đã chuyển sang thế áp đảo địch. Du kích các xã phát triển
mạnh. Lực lượng biệt kích của địch hoảng sợ và không dám
bung ra càn quét như trước. Hội tề ở các xã hoang mang, lính
co lại trong các đồn bót.
Cách mạng Việt Nam từng bước giành những thắng lợi
quan trọng trong kháng chiến chống Pháp; đặc biệt chiến dịch
Điện Biên Phủ. Chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu” Điện Biên Phủ đã góp phần quan trọng buộc thực dân
Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký kết hiệp định lập lại
hòa bình ở Đông Dương. Ngày 08/5/1954, một ngày sau chiến
tháng Điện Biên Phủ, diễn ra Hội nghị quốc tế về chấm dứt
chiến tranh Đông Dương khai mạc ở Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ).
Quân dân Nhơn Trạch - Long Thành cùng tỉnh Biên Hòa, Nam
Bộ từng đã trường kỳ kháng chiến suốt chín năm qua đón nhận
tin chiến thắng trong niềm vui lớn vào thắng lợi của cách mạng.
Trong khi đó, chính quyền thực dân Pháp và tay sai phản động
hoang mang, thất vọng. Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết1.
1  Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định: Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; Pháp rút quân khỏi ba nước Đông
Dương; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam và đến tháng 7 năm
1956, tổng tuyển cử tự do để thống nhất Việt Nam.
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, quân dân Phú Đông,
Phú Hữu, Đại Phước gánh chịu nhiều mất mát và hy sinh nhưng
lòng dân vẫn một lòng trung kiên với cách mạng. Tham gia
kháng chiến kiến quốc buổi ban đầu và kháng chiến trường kỳ
chống Pháp, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú Đông phối
hợp với bộ đội đánh 17 trận, phối hợp với bộ đội Nhà Bè đánh
15 trận, chủ yếu phá kho xăng Nhà Bè, cùng bộ đội Thủ Đức tổ
chức 12 trận đánh chống càn; độc lập tác chiến 165 trận như:
gài trái, phục kích, bao vây đồn giặc. Kết quả, quân dân xã Phú
Đông đã tiêu diệt 340 tên, trong đó có 24 tên lính Pháp, bắn
chìm 1 tàu quân sự, 4 thuyền máy, bắn cháy 1 xe quân sự thu
158 súng các loại, 2 hòm đạn, 43 lựu đạn. Vượt qua những khó
khăn, nhân dân đối diện với kẻ thù, tổ chức 13 lần đấu tranh
biểu tình phản đối việc phá hoại hoa màu, bắn phá vào thôn
xóm, đòi dân sinh, dân chủ, buộc địch phải bồi thường tài sản
và tính mạng. Đồng thời, những cơ sở cách mạng kiên trung,
chấp nhận khó khăn, nguy hiểm nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ, kết
hợp với du kích xã sau mỗi lần đấu tranh là tiến hành rải truyền
đơn vạch mặt kẻ thù, kêu gọi đoàn kết chống lại thực dân Pháp
và chính quyền tay sai. Lòng dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại
Phước hướng về cách mạng, động viên nhau tham gia kháng
chiến từ hỗ trợ bộ đội, tiếp tế, liên lạc, động viên con cháu tham
gia tòng quân, đấu tranh địch vận góp phần làm suy hệ thống
binh lính địch.
121

13.2 Page 122

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Nhân dân Phú Đông cùng với nhân dân Nam Bộ hân hoan
vui mừng, mong chờ những nội dung trong Hiệp định Giơ-ne-
vơ được thi hành, lệnh ngưng bắn được thực hiện chấm dứt
chiến tranh, ngày thống nhất đất nước. Một bộ phận cán bộ,
chiến sĩ hoạt động ở Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước của Nhơn
Trạch - Long Thành được lệnh tập trung về chiến khu Xuyên
Phước Cơ (Xuyên Mộc - Bà Rịa) chuyển quân tập kết ra Bắc
theo tinh thần của Hiệp định. Thế nhưng, những thế lực đế quốc
đã không thực hiện đúng tinh thần Hiệp định, đơn phương vi
phạm, can thiệp vào Việt Nam bằng những hoạt động phi pháp,
dựng lên chính quyền tay sai. Một số cán bộ, đảng viên từng
hoạt động tại Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước cùng với các xã
khác ở Nhơn Trạch - Long Thành được bố trí ở lại, cùng với
nhân dân bước vào một cuộc chiến mới với kẻ thù đầy gian nan,
ác liệt để tiếp tục bảo vệ đất nước.
122

13.3 Page 123

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Chương IV
PHÚ ĐÔNG
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 - 1975)
1. Đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh vũ trang (1954
- 1960)
Ngày 21/7/1954, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Người dân Phú Đông,
Phú Hữu, Đại Phước vui mừng trước những thành quả, thắng
lợi cách mạng sau chín năm kháng chiến đầy gian khổ. Theo
Hiệp định, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền với ranh giới
quân sự là vĩ tuyến 17. Sau hai năm, hai miền Nam Bắc sẽ
thực hiện Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Ở miền Bắc
sạch bóng quân thù, chính quyền cách mạng lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tạm thời bị tạm chiếm.
Những cán bộ, chiến sĩ cách mạng ở miền Nam chuyển quân
tập kết ra miền Bắc hay bố trí ở lại hoạt động đều vui mừng,
mong đến ngày tổng tuyển cử vào năm 1956. Quần chúng nhân
dân tin rằng hiệp định được ký kết với việc ngừng bắn, quê
hương sẽ không còn chiến tranh, được tự do làm ăn sinh sống.
Địa bàn Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước trong thời điểm này
thuộc huyện Long Thành (bao gồm cả phần Nhơn Trạch) trực
123

13.4 Page 124

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
thuộc tỉnh Bà Chợ (sáp nhập 2 tỉnh Bà Rịa, Chợ Lớn) theo sự
phân chia của Trung ương Cục miền Nam từ năm 1951.
Thế nhưng, với âm mưu xâm lược Việt Nam, chia cắt đất
nước ta lâu dài, đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ,
từng bước thực hiện việc hất cẳng thực dân Pháp, dựng chính
quyền bù nhìn để biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.
Tháng 7/1954, đế quốc Mỹ từng bước đưa Ngô Đình Diệm
về miền Nam giữ chức thủ tướng Quốc gia Việt Nam do cựu
hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng được Pháp hậu thuẫn, thành
lập từ năm 1949. Đây là những bước đi để đế quốc Mỹ hỗ trợ
Ngô Đình Diệm xây dựng bộ máy chính quyền thân Mỹ, từng
bước thành lập quân đội tay sai, tiến hành khủng bố phong trào
cách mạng miền Nam.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng thảo luận về nhiệm
vụ cách mạng trong hội nghị lần thứ VII, nhận định: “đế quốc
Mỹ đã trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân ta”
và chỉ rõ “cần tập trung mũi nhọn tấn công vào đế quốc Mỹ,
bọn hiếu chiến Pháp và bọn tay sai của chúng, tiến hành củng
cố hòa bình, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”.
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị ra nghị quyết về “Tình hình nhiệm
vụ mới và chính sách của Đảng”, Nghị quyết đã xác định: “...
nhiệm vụ đấu tranh giải phóng của nhân dân ta chưa phải đã
hoàn thành, cuộc đấu tranh ái quốc không vì đình chiến mà kết
thúc, cuộc đấu tranh đó còn đang tiếp tục nhưng phương thức
đấu tranh cần phải thay đổi... Đảng phải lãnh đạo nhân dân
124

13.5 Page 125

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, cải thiện
dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập”1.
Đối với cách mạng ở miền Nam, một số cán bộ, chiến sĩ
được bố trí ở lại hoạt động tiếp tục bám dân để giữ phong trào.
Những cán bộ của Nhơn Trạch - Long Thành không đi tập kết
trở lại địa bàn, được quán triệt về tình hình và nhiệm vụ mới
và nội dung của hiệp định. Các đồng chí Đoàn Văn Kỉnh về
Gò Keo, Giồng Ông Đông, Nguyễn Chiến Lũy trở lại Câu Kê,
Vườn Trúc của vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước. Lính
địch ở địa phương lúc bấy giờ vẫn còn hoang mang, co lại trước
tình thế cách mạng đang lên. Nắm giữ trong tay giấy tờ của Ban
Liên hiệp đình chiến Việt - Pháp được cấp ở Xuyên Mộc, các
đồng chí vẫn cẩn trọng trong đi lại, sinh hoạt tránh sự phát hiện
của địch. Một số đồng chí ở địa phương bị địch bắt giam trước
đây như Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thị Kim Huê (y tá huyện
đội Long Thành) được Pháp trao trả và cùng trở lại quê hương.
Cán bộ, chiến sĩ và những cơ sở cách mạng ở Phú Đông, Phú
Hữu, Đại Phước vẫn âm thầm hoạt động trong thời kỳ chờ đợi
lệnh ngừng bắn được thực thi ở Nam Bộ.
Thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới, đế quốc Mỹ hỗ trợ Ngô Đình Diệm gây dựng thanh thế.
Ngày 26/10/1955, sau cuộc trưng cầu dân ý, Ngô Đình Diệm
1  Học viện Quân sự cao cấp (1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954 - 1975, những sự kiện quân sự. Nxb Quân đội nhân dân, tr.11-12.
125

13.6 Page 126

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
thay Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm
đứng đầu thực thi nhiều hành động phá hoại hiệp định đã ký
kết, mua chuộc, lôi kéo và trấn áp các lực lượng vũ trang chống
đối, những người yêu nước và đặc biệt nhắm vào phong trào
cách mạng ở miền Nam. Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đấu
tranh trong tình hình mới, tỉnh Biên Hòa được thành lập lại (tỉnh
Thủ Biên được chia thành hai tỉnh: Thủ Dầu Một và Biên Hòa
như trước khi sáp nhập). Địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành
trước đây thuộc tỉnh Bà Chợ được đưa lại trực thuộc tỉnh Biên
Hòa. Huyện ủy Long Thành được chỉ định gồm các đồng chí
Trần Bình Khê (Quyền Bí thư), đồng chí Hai Lãng (Phó Bí
thư), đồng chí Tám Thạch (Ủy viên Thường vụ), Mai Hiển Thái
(Ba Thái), Tám Tánh, Sáu Phong (Ủy viên), xây dựng căn cứ
bí mật ở Rừng Sác địa bàn Phước Thọ (huyện Nhơn Trạch hiện
nay). Huyện ủy Long Thành tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ tập
huấn, nắm bắt được chủ trương của Tỉnh ủy, của huyện về việc
tạo mọi điều kiện đưa cán bộ, đảng viên vào bên trong xã, ấp
bám dân, bí mật xây dựng cơ sở lâu dài cho cách mạng, phát
động quần chúng bung về đất cũ, chống khủng bố người kháng
chiến cũ, đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Cuối tháng 9/1954, gần 200 cán bộ ở các xã của huyện Long
Thành được tổ chức học tập, nắm kỹ chủ trương, phương thức
hoạt động.
126

13.7 Page 127

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đầu tháng 12 năm 1954, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh)
được Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư Huyện ủy Long
Thành. Tháng 01/1955, Hội nghị Ban Chấp hành huyện Đảng
bộ Long Thành được tổ chức. Hội nghị đánh giá tình hình của
địa phương và đề ra chủ trương: Kiện toàn cơ sở Đảng ở tất cả
các xã, nơi nào trống, xây dựng chi bộ. Tiếp tục tuyên truyền
hiệp định, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng các
tổ chức quần chúng hợp pháp. Huyện ủy phân công các đồng
chí ủy viên về từng địa bàn chỉ đạo trực tiếp. Đồng chí Tư
Lộc đến phụ trách địa bàn Phú Đông, Phú Hữu, Phước Khánh,
Phước Lý1. Thông qua những buổi họp hội, cán bộ, đảng viên
lồng vào nội dung tuyên truyền thắng lợi Hiệp định Giơ-ne-vơ,
đồng thời từng bước xây dựng cơ sở cách mạng. Lần lượt các
xã đều xuất hiện hội đình, hội chùa, hội tương hữu,... để tập
trung quần chúng. Khi chính quyền địch truy hỏi những gia
đình có cán bộ chiến sĩ, đảng viên tham gia kháng chiến trước
đây, quần chúng đấu tranh, đưa khẩu hiệu “Không được trả thù
người kháng chiến cũ được quy định trong hiệp định”.
1  Các địa bàn khác ở NhơnTrạch - Long Thành được phân công: đồng chí Út
Mười Hai (tức Út Vồ) đến vùng Tam An, An Lợi; đồng chí Ba Đông phụ trách địa
bàn Long An, Long Phước; đồng chí Tám Tánh đến xã Phú Hội, Long Tân; đồng
chí Mai Hiển Thái (Ba Thái) phụ trách vùng đồn điền cao su; đồng chí Tư Lộc
về Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý ; đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định) về địa
bàn Phước An, Phước Thọ...
127

13.8 Page 128

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Sau cuộc trưng cầu dân ý có tính chất độc diễn, vào ngày
26/10/1955, Ngô Đình Diệm lên thay Quốc trưởng Bảo Đại, ra
tuyên cáo thành lập Việt Nam Cộng hòa, lấy danh nghĩa tổng
thống theo Hiến ước tạm thời. Chính quyền Ngô Đình Diệm
tiến hành thanh trừng lực lượng vũ trang giáo phái thân Pháp
trước đó gồm vũ trang của đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, Bình
Xuyên, những nhóm chống đối chính quyền để thống nhất, xây
dựng quân đội. Ở Long Thành, nhân sự trong tổ chức bộ máy
chính quyền cấp huyện, xã của địch được thay đổi, củng cố bởi
đội ngũ trong hội tề trước đây được đào tạo theo chủ trương
đánh phá cách mạng.
Địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành trở nên phức tạp khi
chính quyền Sài Gòn tấn công lực lượng Bình Xuyên của Lê
Văn Viễn trú đóng tại Rừng Sác. Xứ ủy Nam Bộ cử đồng chí
Nguyện Trọng Tâm (Bảy Tâm) đến Long Thành, phối hợp lãnh
đạo địa phương thực hiện công tác binh vận với lực lượng này.
Một số đơn vị trong lực lượng Bình Xuyên bị tấn công, ngã về
phía cách mạng, được hướng dẫn rút về căn cứ, chịu sự quản
lý của chính quyền cách mạng. Một số vũ khí của lực lượng
Bình Xuyên khi rút chạy, được quân dân Nhơn Trạch - Long
Thành thu gom, trang bị cho địa phương1. Khi chính quyền Sài
1  Nửa quân số còn lại tiểu đoàn 3 do Bảy Môn chỉ huy được các đồng chí Tư
Thái, Mười Thọ đưa về căn cứ Suối Cả của tỉnh Biên Hòa. Một bộ phận tàn quân
khác cũng thuộc tiểu đoàn 3 do Mười Đôi, Tư Đại chỉ huy chạy về núi Thị Vải
được Huyện ủy Long Thành nắm.
128

13.9 Page 129

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Gòn thực hiện tấn công lực lượng Bình Xuyên, Huyện ủy Long
Thành chỉ đạo cho các xã tích cực liên hệ, vận động lực lượng
này để phân hóa hàng ngũ chỉ huy, lôi kéo những phần tử tiến
bộ về với cách mạng; đồng thời vận động binh lính Bình Xuyên
tiêu diệt một số tên ác ôn tại địa phương.
Vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước có anh Châu Văn
Phú là con của bà Nguyễn Thị Tư (Tư Nhiễu). Cha bị Pháp sát
hại thả sông Ông Kèo. Anh Châu Văn Phú bị bắt đi lính bảo an
Nhà Bè sau làm đồn phó Phước Khánh. Được các cơ sở vận
động, tuyên truyền tinh thần yêu nước, trả thù cho cha, anh Phú
có cảm tình với cách mạng và hẹn cơ hội tham gia. Năm 1955,
anh Phú vẫn còn trong sắc lính của chính quyền địch. Thông
qua hai cơ sở là mẹ Phan Thị Nho, mẹ Nguyễn Thị Tư, đồng
chí Nguyễn Chiến Lũy gặp trực tiếp nắm tình hình, thống nhất
với anh Phú thực hiện kế hoạch bức rút đồn Phước Khánh, diệt
đội Lạc và thoát ly vào căn cứ. Đội Lạc là người gây nhiều nợ
máu với nhân dân, bắn giết một số cán bộ kháng chiến ở địa
phương; trong đó có đồng chí Trần Văn Thê (Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến hành chính xã Phước Thành), Nguyễn Lương Hựu
(xã Phước Khánh).
Sau nhiều lần trao đổi, chuẩn bị và được chấp thuận của
Huyện ủy Long Thành, đồng chí Nguyễn Chiến Lũy phụ trách
kế hoạch này. Trên cơ sở có anh Châu Văn Phú trong đồn làm
nội ứng. Từ ngày 22/9/1955, các đồng chí Nguyễn Chiến Lũy,
Nguyễn Văn Thoàng, Lê Văn Thời, Mai Văn Mai sử dụng ba
129

13.10 Page 130

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
chiếc xuồng đến điểm hẹn, thống nhất thời gian bên ngoài tấn
công vào, bên trong nội ứng. Đúng 1 giờ ngày 23/9/1955, anh
Châu Văn Phú châm lửa đốt đồn và cùng chị Kim, anh Chín Kỵ
và binh lính mang số vũ khí gồm 1 súng cố 60 y, 3 trung liên, 30
tiểu liên và súng trường ra điểm hẹn. Tên đội Lạc bị bắt và lực
lượng cách mạng tiêu diệt. Qua cơ sở Lê Văn Cơ hướng dẫn,
anh Châu Văn Phú và những người khác từ Giồng Ông Đông
tới căn cứ Sở Dừa (Phước Khánh), đem giao toàn bộ vũ khí.
Anh Châu Văn Phú gia nhập vào hàng ngũ cách mạng.
Huyện ủy Long Thành rút một số đồng chí ở các địa bàn các
xã: Nguyễn Văn Sơn (xã Long Tân), Mười Tuồng (xã Phú Hội),
Chín Nhẫn (xã Phước Nguyên), Tạ Nông (xã Phước Thọ),
Mười Hương (xã Tam An) bổ sung cho đơn vị của Châu Văn
Phú, thành lập chi bộ do đồng chí Nguyễn Văn Sơn làm Bí thư.
Chi bộ được Thường vụ trực tiếp chỉ đạo toàn diện, mang danh
nghĩa của Bình Xuyên để hoạt động. Nhiệm vụ diệt ác, phá
đồn ở Nhơn Trạch - Long Thành đem lại nhiều thắng lợi. Cuối
tháng 11/1955, tên Lê Thành Kham (đại úy), Ký, Hải là những
tên ác ôn, hay tổ chức quấy nhiễu nhân dân ở Xoài Minh bị lực
lượng Châu Văn Phú phục kích, đánh mìn làm lật xe, tiêu diệt
trên chặng đường từ Thành Tuy Hạ về Phước Lý. Những tên
gây tội ác với nhân dân tại địa phương bị trừng trị thích đáng
đã làm cho lính địch chùn tay trong những vụ đàn áp cướp đất
người dân.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Từ tháng 3/1955, chính quyền Sài Gòn bắt đầu bố trí một
bộ phận đồng bào theo đạo Công giáo ở miền Bắc di cư vào
Nam đến định cư trên vùng đất Nhơn Trạch - Long Thành.
Vùng Phước Lý (Đại Phước), Ông Kèo bao quanh phía Nam
Lòng Chảo, tổng kho Thành Tuy Hạ và Phước Khánh được bố
trí khoảng 4.000 người. Trong khi đó các trại tại Kim Liên Sơn
- vành đai thị trấn Long Thành khoảng 3.000 người. Thực tế,
việc chính quyền địch lấy đất của người dân địa phương để lập
trại đưa đồng bào di cư đến, kèm theo những chính sách gọi là
“ưu đãi” như cấp đất, khoanh vùng, cấp đồ dùng, vật dụng, làm
nhà, cho tự do khai phá rừng Giồng, rừng Sác... nhằm thực hiện
âm mưu tạo ra một vành đai bảo vệ những khu vực quan trọng
của chính quyền Sài Gòn, đồng thời tạo sự chia rẽ trong nhân
dân để thuận lợi kiểm soát, đánh phá phong trào cánh mạng.
Chính quyền Sài Gòn dân bước thêm vào hành động phá
hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ bằng kế hoạch tổng tuyển cử riêng rẽ
bầu cử Quốc hội lập hiến ở miền Nam Việt Nam. Trước bầu cử,
ở Nhơn Trạch - Long Thành, chính quyền địch giăng biểu ngữ,
áp phích, phát loa ủng hộ Ngô Đình Diệm, kèm theo ảnh quần
áo, máy cày... với cách tuyên truyền ủng hộ chính quyền Việt
Nam Cộng hòa là hướng đến tương lai “văn minh, cơm ngon,
áo đẹp”. Bộ máy các xã tổ chức kiểm tra hộ khẩu lập sổ gia
đình, làm thẻ cử tri thay giấy thông hành, tạo thế kiểm soát chặt
chẽ những gia đình kháng chiến. Trước tình hình đó, Huyện ủy
Long Thành chủ trương phát động phong trào chống phá bầu
131

14.2 Page 132

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
cử của chính quyền Sài Gòn. Các tổ thanh niên xã ra căn cứ
chi bộ đóng ở Rừng Sác nhận truyền đơn, giấu trong các thùng
đựng đường đem về tuyên truyền. Truyền đơn có nội dung “Đả
đảo bầu cử bất hợp pháp”, “Mỹ Diệm phải thực hiện Hiệp định
Giơ-ne-vơ. Phải thực hiện tổng tuyển cử”... được rải khắp xóm,
tới sát nhà hội đồng xã.
Ngày 04/3/1956, ở Long Thành diễn ra bầu cử trong không
khí tẻ nhạt. Địch điều quân lính rải khắp các xã, cảnh sát chìm
được cài, lảng vảng suốt ngày ở các khu vực bầu cử vì lo sợ bị
lực lượng cách mạng tấn công. Hội đồng bầu cử xã thúc người
dân đi bỏ phiếu. Người dân được tuyên truyền chống phá bầu
cử bằng cách không tham gia, nếu buộc phải bỏ phiếu thì làm
phiếu rách, gạch, xóa phiếu để phiếu hư, không hợp lệ. Bằng
những thủ đoạn, chính quyền Sài Gòn tuyên bố bầu cử thành
công. Ngày 06/4/1956, Quốc hội của Việt Nam Cộng hòa ban
hành hiến pháp. Sau khi đánh bại các lực lượng vũ trang chống
đối, chính quyền Sài Gòn tăng cường lực lượng chính trị ở các
thiết chế cấp xã toàn miền Nam để quyết tâm đẩy lùi, đánh phá
tận gốc các phong trào cách mạng trong quần chúng. Trong tình
hình chung, ban hội tề ở xã thuộc Nhơn Trạch - Long Thành
được thay thế bằng hội đồng xã và tăng cường cảnh sát. Thành
phần trong hội đồng tập trung là bọn ác ôn, địa chủ và đặc
biệt có một số cán bộ kháng chiến bị địch dụ dỗ, lôi kéo với
mục đích vừa khống chế các gia đình kháng chiến vừa làm mất
uy tín cách mạng trong nhân dân. Mỗi xã thành lập 1 tiểu đội
132

14.3 Page 133

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
dân vệ, trang bị vũ khí đầy đủ. Chính quyền địch thành lập bộ
máy tố cộng từ huyện xuống xã ấp để phát hiện, truy lùng cán
bộ, chiến sĩ “bám trụ” trong dân. Đồng thời, địch đẩy mạnh
các phong trào “Cách mạng quốc gia” gồm các đoàn thể để
hoạt động chống cộng như: “Thanh niên Cộng hòa”, “Phụ nữ
Cộng hòa”. Các gia đình có người tham gia kháng chiến bị địch
thường xuyên theo dõi, khám xét, truy vấn. Lực lượng công
dân vụ, cảnh sát, chỉ điểm hàng ngày theo dõi người dân có tư
tưởng chống đối, đặc biệt những nhà tham gia cách mạng trước
đây.
Thực hiện chính sách “Chống Cộng” của chính quyền Sài
Gòn, tại Long Thành, địch mở lớp “Tố Cộng”, cố tình nói
không đúng về nội dung hiệp định trong tổng tuyển cử thống
nhất đất nước, vu khống cộng sản cướp công kháng chiến, cướp
công chống Pháp, nói xấu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, kêu gọi tri ân Ngô Đình Diệm và chính nghĩa quốc gia.
Hoạt động tố cộng được tổ chức rộng khắp các địa bàn, phát
truyền đơn chống cộng. Chúng lợi dụng một số người di cư bị
mua chuộc, một số người từng tham gia kháng chiến nay đầu
hàng xuyên tạc, tác động tâm lý để dân chúng tin theo mà “ly
khai cộng sản”. Một thủ đoạn thâm hiểm là địch tổ chức xé cờ
Đảng cho người nào ủng hộ chính quyền Sài Gòn. Một không
khí ngột ngạt bao trùm các xóm ấp.
Huyện ủy Long Thành chỉ đạo cho các lực lượng vũ trang
đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong quần chúng. Vào cuối
133

14.4 Page 134

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tháng 6/1956, đơn vị vũ trang do Châu Văn Phú, Đào Thanh
Xuân phụ trách mang danh nghĩa Bình Xuyên xâm nhập vào ấp
Thị Cầu, ngã ba Vườn Chuối tuyên truyền chủ trương, đường
lối đấu tranh cách mạng. Tại đây, đơn vị đụng độ với lực lượng
dân vệ do Nguyễn Văn Ngân (Đội Ngân) chỉ huy. Trong trận
đánh với địch, Châu Văn Phú bị thương. Phú ra lệnh cho toàn
đội rút nhanh qua sông, một mình ôm súng và số đạn còn lại
ngăn cản địch. Để không rơi vào tay địch, Phú dùng viên đạn
cuối cùng cho mình và hy sinh anh dũng.
Sự kìm kẹp từ chính quyền cấp xã và các hoạt động chống
cộng rộng khắp, trên nhiều lĩnh vực của chính quyền Sài Gòn
làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng tại địa phương. Một
số cán bộ, đảng viên ở Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước bị địch
càn quét, bắt giam trong hệ thống nhà tù của chính quyền Sài
Gòn, nếm đủ những đòn tra tấn dã man, những chiêu dụ dỗ,
mua chuộc. Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy bị địch bắt đưa về bót
Catinat tại Sài Gòn (nay thuộc đường Đồng Khởi, Tp.HCM).
Vùng Nhơn Trạch - Long Thành, nhiều cơ sở cách mạng bị địch
bắt giam và dùng nhiều chiêu trò chèn ép, quấy phá gia đình
của họ.
Trong tình hình khó khăn chung do chính quyền Sài Gòn
đàn áp, đánh phá, sự kiện nổi dậy phá khám ở Trung tâm cải
huấn Biên Hòa đã cổ vũ cho quân dân cách mạng. Sau thời
gian chuẩn bị, vào lúc 17 giờ 40 phút chiều ngày 02/12/1956,
cán bộ, đảng viên và những người yêu nước trong nhà lao Tân
134

14.5 Page 135

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Hiệp đã phá khám và thoát ra khỏi sự giam cầm của kẻ thù.
Những cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở Nhơn Trạch - Long Thành
theo hướng Trị An, sau đó về Bà Rịa và quay trở lại hoạt động
ở địa phương. Đồng chí Nguyễn Chiến Lũy - cán bộ hoạt động
ở Phú Đông, Phú Hữu là thành viên tích cực trong kế hoạch
lãnh đạo phá khám Biên Hòa1. Một số cán bộ thoát ra từ nhà
lao Tân Hiệp, theo hướng Phú Đông, Nhơn Trạch, được cơ sở
cách mạng hướng dẫn, vượt qua các chốt lính kiểm soát, vào
Sài Gòn.
Bước sang năm 1957, chính quyền Sài Gòn tăng cường
đánh phá phong trào cách mạng miền Nam. Thực hiện chủ
trương “Đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, địch mở chiến
dịch đánh vào cách mạng ở miền Đông Nam Bộ. Vùng Nhơn
Trạch - Long Thành, lính địch được tăng cường, liên tục càn
quét, lùng sục khắp các địa bàn. Đây cũng là thời gian địch bắt
đầu thực hiện chính sách Cải cách điền địa trong phạm vi toàn
huyện. Trên địa bàn Long Thành, số ruộng đất mà địch “tịch
thu” phần lớn là đất đã được chính phủ cách mạng chia cho
nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và một phần
đất bỏ hoang mà nông dân khai phá, canh tác. Huyện ủy Long
Thành chủ trương đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân và
1  Vào lúc 17 giờ 40 phút chiều ngày 02/12/1956, cuộc phá khám diễn ra. Kết
quả có 462 cán bộ, đảng viên, người yêu nước thoát khỏi nhà giam. Chính quyền
địch tổ chức truy kích làm một số cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Địa điểm nhà lao Tân
Hiệp nay thuộc phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, được xếp hạng cấp quốc
gia năm 1994.
135

14.6 Page 136

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
trong giới địa chủ, đồng thời vận động nhân dân chống “xáo
canh, tăng tô” và “giữ nguyên canh, tăng cường đoàn kết nông
thôn”. Nhằm giữ thế hoạt động, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo
đẩy mạnh việc nắm tề xã, dân vệ và phát động dân “Thanh khiết
xóm ấp” để tạo điều kiện thuận lợi cho việc “điều lắng” và hoạt
động xây dựng cơ sở cách mạng. “Thanh khiết xóm ấp” tức là
làm trong sạch xóm ấp, tuy không diệt ác, nhưng cô lập, bưng
tai, bịt mắt, cắt đứt các nguồn tin làm mất tác dụng của bọn chỉ
điểm do thám ở địa phương. Đối với những người từ bên ngoài
tới thám sáng, dò la, theo dõi, đồng bào thực hiện ba không:
“không biết, không nghe, không thấy”. Phong trào này được
nhân dân hưởng ứng, lan rộng trong nhiều xóm ấp nên hình
thành các lõm chính trị ở nhiều xã.
Nhiều nơi, địch giăng khẩu hiệu có nội dung đe dọa, trấn áp
tinh thần người dân như: “Việt cộng là bán nước”, “Diệt cộng
là yêu nước”, “Tố cộng là yêu nước”, “Tri ân Tổng thống Ngô
Đình Diệm”... Hiểu được sự lừa mỵ của địch, nhân dân Phú
Đông, Phú Hữu, Đại Phước, Phước Khánh lưu truyền bài vè
cho trẻ em đọc “Thiếu nhi là cháu Bác Hồ. Ai thèm làm cháu
thằng Ngô bao giờ”. Người dân bí mật phá, bỏ những khẩu hiệu
địch tuyên truyền, thậm chí còn sửa lại cho khác nghĩa. Trên
đường lộ ở cầu Phước Khánh có một khẩu hiệu lớn “Diệt cộng
là yêu nước” thì bị dùng sơn đen đánh dấu sắc lớn, đậm trên
chữ “yêu”. Người dân đi chợ bàn tán và đọc “Diệt cộng là yếu
nước” khiến cảnh sát tức tối và hạ khẩu hiệu xuống.
136

14.7 Page 137

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Sự tăng cường hệ thống kìm kẹp bên trong kết hợp với đánh
phá căn cứ cách mạng của địch làm cho hoạt động cách mạng
ở Nhơn Trạch - Long Thành cuối năm 1959 trở nên căng thẳng.
Ở các ấp, ngụy quyền phân chia hộ dân và dán bảng trước nhà
dân thành từng loại: “Gia đình Cộng sản”, “Gia đình có quan hệ
với Cộng sản”, “Gia đình theo quốc gia ”, “Gia đình không có
quan hệ gì” làm dấu hiệu để tiện cho việc theo dõi. Chính quyền
địch tổ chức loại hình tự quản “Ngũ gia liên bảo” để kiểm soát
chặt. Cứ 5 gia đình thì có một người làm liên gia trưởng chịu
trách nhiệm về an ninh xã, ấp và thực hiện nghĩa vụ của hội
đồng giao. Vì vậy, những biến động nhỏ trong mỗi liên gia
hay có người lạ xuất hiện thì phải thông tin đến ngày với chính
quyền. Nếu trong liên gia không cung cấp thông tin thì bị quy
kết “thông đồng với cộng sản”, bị hạch sách, làm khó.
Một số cán bộ, đảng viên mất tinh thần, không chịu được
gian khổ đã đầu hàng địch. Năm 1959, Trần Xuân Hà (Hà Tư,
Tư Trần), Bí thư Huyện ủy Long Thành đầu hàng địch, gây
nhiều tổn thất cho phong trào cách mạng. Một số cán bộ, đảng
viên bị Trần Xuân Hà chỉ điểm, dẫn quân lính trực tiếp đến bắt
hay gài bẫy nhân danh thực hiện nhiệm vụ để địch phục kích.
Trong vòng 3 tháng cuối năm 1959, gần 300 cán bộ đảng viên
và cơ sở ở Long Thành đã bị địch bắt1.
1  Trần Xuân Hà được tỉnh điều từ Tân Uyên (Thủ Dầu Một) về làm Bí thư Huyện
ủy Long Thành vào tháng 3 năm 1958.
137

14.8 Page 138

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Đầu năm 1960, phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre với khí
thế cách mạng dâng cao. Ngày 17/01/1960, dưới sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy Bến Tre, nhân dân các xã Định Thủy, Phước Hiệp,
Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày đã nổi dậy đánh đồn bốt, diệt
ác ôn, giải tán chính quyền địch, giành lấy quyền làm chủ thôn
xã. Lực lượng tham gia đông đảo là phụ nữ, nên được gọi là
“Đội quân tóc dài”. Cuộc nổi dậy lan ra toàn huyện Mỏ Cày và
tỉnh Bến Tre, trở thành cao trào “Đồng khởi” như nước vỡ bờ
nổ ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở miền Trung
Trung Bộ tác động đến phong trào đấu tranh cách mạng, đặc
biệt là vùng nông thôn.
Xứ ủy Nam Bộ kịp thời chỉ đạo Đảng bộ các địa phương
tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và hoạt động vũ trang,
hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm. Để thúc đẩy hơn
nữa các hoạt động đấu tranh vũ trang, Xứ ủy Nam Bộ chủ
trương tiến hành một cuộc tiến công quân sự nhằm gây tác
động mạnh trên chiến trường, đồng thời lấy vũ khí của địch
trang bị cho các đơn vị vũ trang cách mạng. Ngày 26/01/1960,
Ban Quân sự Liên tỉnh miền Đông phối hợp với quân và dân
Tây Ninh tổ chức trận tập kích căn cứ Tua Hai1 và giành thắng
lợi. Những sự kiện trên tác động mạnh mẽ tới phong trào cách
1  Trận đánh Tua Hai (Tây Ninh), cách mạng diệt 76 quân địch, bắt, giáo dục và
thả tại chỗ hơn 400 quân, thu gần 1.500 khẩu súng các loại. Đây là thắng lợi đầu
tiên của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, châm ngòi cho cao trào Đồng
khởi ở miền Đông Nam Bộ.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
mạng Nhơn Trạch - Long Thành. Tháng 02/1960, tại Xóm Hố
xã Phú Hội, Thường vụ Huyện ủy Long Thành đã phân tích
tình hình và quyết định: Xây dựng lực lượng vũ trang đánh
địch. Chủ trương xây dựng lực lượng du kích để đấu tranh
nhanh chóng được truyền về đến các xã. Giữa tháng 3/1960,
Tỉnh ủy Biên Hòa cử đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc)
xuống Long Thành củng cố phong trào.
Triển khai Nghị quyết 15, Huyện ủy Long Thành chia vùng
và phân công các đồng chí là Huyện ủy viên xuống phụ trách.
Địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành chia thành 4 vùng:
- Các xã Long Tân, Phú Thạnh, Phú Hữu, Đại Phước,
Phước Khánh, Phú Đông thuộc vùng IV do đồng chí Nguyễn
Văn Thông (tên là Nguyễn Chiến Lũy thời kỳ kháng Pháp, Hai
Thông), Tư Liềm phụ trách.
- Vùng I gồm các xã từ Phước Nguyên, Tam An đến xã Tam
Phước, Phước Tân do các đồng chí Út Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba
Tấn phụ trách.
- Vùng II gồm các xã từ Long An đến Phước Thái do các
đồng chí Ba Đông, Mười Thọ phụ trách.
- Vùng III: Từ xã Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiểng đến
xã Phước An, Vĩnh Thanh do đồng chí Võ Văn Lượng (Tư
Định) phụ trách.
139

14.10 Page 140

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Mỗi vùng căn cứ vào tình tình thực tế, chia thành hai hoặc
ba cụm nhỏ để triển khai Nghị quyết 15. Từng xã tổ chức được
lực lượng du kích từ 3 đến 5 đồng chí. Huyện ủy đã đề ra các
biện pháp cụ thể: Vận động đồng bào cho con em tham gia lực
lượng vũ trang; dựa vào quần chúng tốt, vận động những gia
đình binh sĩ của địch trở về với cách mạng; thống kê tội ác của
địch, trên cơ sở đó phát động quần chúng đứng lên đấu tranh;
tung tin hù dọa, đồng thời thực hiện tiến công binh vận để làm
rã đội ngũ của địch; phân loại ác ôn, trên cơ sở đó có kế hoạch
những tên nào phải diệt, tên nào bắt để giáo dục. Huyện ủy còn
thành lập Ban diệt ác và cử các đồng chí Mười Nông, Nguyễn
Văn Bền (Bảy Bền) phụ trách.
Ngày 09/9/1960, chính quyền Sài Gòn cải tổ đơn vị hành
chính, thành lập quận Nhơn Trạch (quận lỵ đặt tại xã Phú
Thạnh), thuộc tỉnh Biên Hòa trên cở sở chia tách từ địa phận
quận Long Thành1. Theo Nghị định số 858-NV của chính
quyền Sài Gòn, quận Nhơn Trạch có hai tổng Thành Tuy Trung,
Thành Tuy Hạ; trong đó Tổng Thành Tuy Trung gồm các xã
Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Mỹ,
Phú Hội, Phước Thiền và tổng Thành Tuy Hạ gồm các xã Phú
Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thạnh, Long
1  Quận Long Thành gồm các xã ven theo quốc lộ 15 từ An Hòa Hưng đến xã
Phước Thái và các xã theo liên lộ 25 từ xã Lộc An đến xã Bình Sơn; Quận trưởng
là Nguyễn Viễn.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Tân). Quận trưởng là Trung úy Lê Thiện Phước. Xã Phú Đông
trong địa phận xã Đại Phước, xã Phú Hữu.
Với mục đích tạo thuận lợi cho chỉ đạo phong trào cách
mạng phù hợp với chiến trường, Huyện ủy Long Thành chủ
trương thành lập Ban Cán sự Huyện ủy Nhơn Trạch. Lãnh đạo
Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: đồng chí Võ Văn Định (Bí thư),
đồng chí Nguyễn Văn Thông (Phó Bí thư), đồng chí Phạm Minh
Chính, Nguyễn Văn Liềm (Ủy viên Thường vụ), các Huyện ủy
viên: Trần Văn Thọ (Mười Thọ), Nguyễn Thanh Vân (Ba Vân),
Nguyễn Văn Sơn. Căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch đặt tại rừng
Xóm Hố, gần sở Ông Cố, xã Phú Hội.
Tỉnh Biên Hòa tăng cường cho Nhơn Trạch, Long Thành
một tiểu đội vũ trang, trong đó có các chiến sĩ hoạt động ở địa
phương trước đây: Nguyễn Văn Sơn, Đoàn Danh Dự, Dương
Văn Mai (tức Hai), Bảy Phú, Tạ Nông (được điều đến Bà Rịa,
Tây Ninh và quay trở địa bàn). Đơn vị trang bị vũ khí, được bổ
sung cán bộ, thanh niên các xã, ấp và dự định lấy phiên hiệu là
19/5 (Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Tháng 11/1960, trong chính quyền Sài Gòn, đại tá Nguyễn
Chánh Thi tổ chức đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Đình
Diệm, nhưng thất bại. Tại Nhơn Trạch, địch chỉ thị “không
được đem quân ra khỏi đồn bót. Tạm ngừng tất cả những cuộc
hành quân”. Nhân cơ hội tình hình địch mâu thuẫn, Huyện ủy
Nhơn Trạch chỉ đạo cán bộ xuống các xã tuyên truyền về đường
141

15.2 Page 142

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
lối, chính sách của Đảng và phát động quần chúng nổi dậy phá
ách kìm kẹp của giặc. Một trận đánh làm nức lòng quân dân
Nhơn Trạch được tổ chức ngày 16/11/1960. Nắm tin tức một
trung đội thuộc Tổng đoàn dân vệ được cử đến trấn an hội tề tại
Phước An, lực lượng cách mạng cải trang thành “sắc lính Bảo
an” tấn công vào nhà hội vào sáng sớm, đốt tài liệu, thu 6 súng,
khiến lính không kịp đối phó. Sau trận đánh này, lực lượng
vũ trang huyện chính thức lấy tên là 19 tháng 5. Địa bàn Phú
Đông, Phú Hữu, Đại Phước, hơn 300 đồng bào cùng du kích
trong một đêm phá rã hai chốt dân vệ ở Rạch Miễu, Rạch Bảy,
diệt 7 tên dân vệ, 1 tên ác ôn, thu 3 súng và 1 thùng lựu đạn.
Phong trào diệt ác, phá kìm ở Nhơn Trạch, Long Thành phát
động, tạo sự phấn khởi trong nhân dân.
Ngày 20/12/1960, tại Đại hội đại biểu nhân dân miền Nam
họp tại căn cứ cách mạng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành,
tỉnh Tây Ninh đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam. Sự kiện này tác động mạnh mẽ đến cách
mạng miền Nam Việt Nam. Với chương trình hành động 10
điểm, mặt trận chủ trương đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các
giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, đoàn thể tôn giáo khác
nhau, không phân biệt xu hướng chính trị cung tham gia kháng
chiến chống Mỹ.
142

15.3 Page 143

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
2. Đấu tranh chính trị, vũ trang làm phá sản quốc sách
“Ấp chiến lược” (1961 - 1965)
Trước phong trào Đồng Khởi và những thắng lợi liên tiếp
của quân dân miền Nam, trên chiến trường miền Nam, đế quốc
Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” lấy “Ấp chiến lược”1 làm quốc sách, chủ trương bình
định miền Nam trong thời gian ngắn. Để tiến hành“chiến tranh
đặc biệt”, đế quốc Mỹ đề ra kế hoạch Xtalây - Taylo với 3 biện
pháp chiến lược:
- Tăng cường xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn, dùng
lực lượng mạnh do cố vấn Mỹ chỉ huy, được quân Mỹ yểm trợ,
áp dụng chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và xe thiết
giáp nhanh chóng đập tan lực lượng cách mạng lúc còn đang
nhỏ, yếu.
- Giữ vững thành thị, xây dựng bộ máy kìm kẹp mạnh để
ngăn chặn phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, khống
chế, dập tắt các cuộc đấu tranh cách mạng ở nông thôn, bình
định đồng bằng, lập ấp chiến lược.
1  Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập Ủy ban liên bộ gồm Quốc phòng,
Nội vụ, Tổng nha cảnh sát, Nha chiến tranh tâm lý để chỉ đạo thực hiện Quốc
sách ấp chiến lược, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lập “Ủy ban viện trợ ấp chiến lược”
do Truchcart làm Chủ tịch. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh giá chương trình
này có tính chất “xương sống” trong các phương cách bình định ở miền Nam
Việt Nam.
143

15.4 Page 144

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Ra sức phong tỏa biên giới, kiểm soát ven biển, cắt đứt sự
chi viện từ miền Bắc, cô lập cách mạng miền Nam.
Thực hiện kế hoạch này, đế quốc Mỹ hy vọng chính quyền
Sài Gòn sẽ chuyển sang thế tiến công để giành lại thế chủ động
với mục tiêu “bình định” xong miền Nam trong vòng 18 tháng.
Tháng 01/1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp để
đánh giá tình hình miền Nam sau khi Đồng khởi và vạch ra
phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng
miền Nam. Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh hơn nữa cuộc
đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên
song song với đấu tranh chính trị; tiến công địch cả 2 mặt chính
trị và quân sự. Phải ra sức xây dựng lực lượng chính trị và quân
sự, xây dựng và mở rộng căn cứ địa, tạo điều kiện và nắm mọi
thời cơ để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm. Bộ Chính trị quyết
định giao cho Quân ủy Trung ương và Ban Thống nhất giúp
Trung ương chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam, quyết định
kiện toàn Trung ương Cục miền Nam, các cấp uỷ, tăng cường
cán bộ, tăng cường việc tiếp tế phương tiện, vũ khí, tài chính và
mở rộng giao thông liên lạc với miền Nam.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện Nhơn Trạch tiếp
tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh kết hợp quân sự và chính
trị. Hàng loạt các trận đột kích diệt ác của lực lượng vũ trang
diễn ra ở các xã. Tại Giồng Ông Đông, đồng chí Nguyễn Văn
Thông và ba thanh niên cơ sở Phạm Văn Lố, Trần Văn Thời
144

15.5 Page 145

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
và Nguyễn Văn Thoàng bàn kế hoạch diệt tên Phạm Văn Tư
(thám báo của yếu khu, kho đạn Thành Tuy Hạ) trong đơn vị
của thượng sĩ Liễu chỉ huy. Bốn người đột nhập tiêu diệt Tư
Thức, phát loa “sẽ trừng trị bất kỳ kẻ nào ngoan cố làm tay sai
cho địch”, ra lệnh giải tán tề ấp Giồng Ông Đông.
Ngày 09/10/1961, lực lượng vũ trang của huyện Nhơn
Trạch tổ chức trận đánh vào chốt dân vệ ở Giồng Ông Đông.
Tổ trinh sát gồm các đồng chí Thể, Nhân và Hoàng bị địch phục
kích. Tình hình bất lợi vì Hoàng bị bắt, tra tấn làm lộ kế hoạch.
Đồng chí Ba Sĩ được lệnh đi nắm tình hình nhưng không bắt
liên lạc với tổ trinh sát. Khoảng 10 giờ đêm lực lượng của ta đi
bằng 5 ghe, đến cầu Mười Huỳnh lọt vào ổ phục kích của địch
phải vừa chống trả và rút lui. Trận đầu đánh vào bốt Giồng Ông
Đông thất bại, lực lượng cách mạng có 5 chiến sĩ bị thương, 1
hy sinh, 1 bị bắt.
Trên địa bàn Nhơn Trạch, chủ trương diệt ác được đẩy mạnh
ở các xã.. Ở Phước An, lực lượng cách mạng trừng trị M.H
hoạt động ở Ba Doi (Ba Gioi) trong vai đầu nậu xây dựng, xây
dựng mạng lưới tình báo do thám khu căn cứ Lòng Chảo1. Điều
nghiên, nắm sinh hoạt của M.H khi cúng chùa, các đồng chí
đồng chí Tư Định, Tư Thanh, Minh Chính, Hai Sơn phục kích
tiêu diệt. Dù M.H cải trang áo the, khăn đóng, đi lẫn với một
1  M.H (Mười Hiếm) trước làm mật thám, sĩ quan an ninh trong lực lượng đặc
cảnh miền Đông cho Pháp, sau phục vụ cho chế độ Sài Gòn.
145

15.6 Page 146

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
số người lớn tuổi vào chùa nhưng cuối cùng bị tiêu diệt. Khi
nghe tin M.H bị cách mạng tiêu diệt, quận trưởng Nhơn Trạch
điều lính về bao vây lùng sục nhưng lực lượng cách mạng đã
rút khỏi. Ở xã Phú Hội, tên L. chỉ điểm vùng lộ 17 bị phát hiện
và tiêu diệt. Cuộc đấu tranh của đồng bào xã Long An1 huyện
Long Thành thắng lợi cổ vũ mạnh cho nhân dân đấu tranh với
chính quyền địch. Đồng bào các xã Phú Hội, Phước An, Phú
Hữu... của Nhơn Trạch hưởng ứng, nổi dậy đấu tranh. Những
trận tiến công liên tục của lực lượng vũ trang cách mạng Long
Thành, Nhơn Trạch năm 1961 đã làm cho chính quyền địch ở
Nhơn Trạch vào thế bị động.
Chính quyền Sài Gòn thành lập Ủy ban liên bộ gồm Quốc
phòng, Nội vụ, Tổng nha cảnh sát, Nha chiến tranh tâm lý để chỉ
đạo thực hiện quốc sách ấp chiến lược. Hỗ trợ cho chủ trương
này, ở Sài Gòn, Mỹ thành lập “Ủy ban viện trợ ấp chiến lược”
và đánh giá ấp chiến lược là “xương sống” để bình định phong
trào cách mạng miền Nam. Thực hiện chủ trương của đế quốc
Mỹ, ngày 17/4/1962, Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh xây
dựng Ấp chiến lược trên toàn miền Nam.
Chính quyền địch thực hiện gom dân để lập ấp chiến lược
1  Ngày 16/8/1961, gần 100 đồng bào xã Long An kéo về quận Long Thành đấu
tranh đòi địch không được bắn pháo bừa bãi vào xóm làng, phải bỏ lệnh giới
nghiêm, phải để dân vào cánh đồng Sở Hoàng sản xuất. Cuộc đấu tranh được
nhân dân xã Lộc An, Long Phước hưởng ứng. Ngày 18/8/1961, gần 400 đồng bào
của 3 xã chia làm hai đoàn, một đoàn về quận, một đoàn về tỉnh đấu tranh. Cuộc
đấu tranh này giành được thắng lợi với những yêu sách do nhân dân đưa ra.
146

15.7 Page 147

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
ở các xã của Nhơn Trạch. Tùy tình hình và đặc điểm của mỗi
xã, chúng xây dựng kế hoạch đánh phá liên tục các địa bàn để
cư dân đang sinh sống phải rời bỏ để gom lại đưa vào trong ấp
chiến lược. Những địa điểm được chọn thiếp lập các ấp chiến
lược ở xây dựng đội ngũ quản lý và bố phòng chặt chẽ. Địch
thực hiện 3 hình thức thiết lập ấp chiến lược ở Nhơn Trạch: Cư
dân tại chỗ được quản lý gắt gao gọi là “kìm dân”; cư dân từ
nơi khác đưa vào ấp chiến lược gọi là “tát dân” và ấp chiến lược
đặc biệt gồm những đồng bào di cư trước đây.
Ấp chiến lược được thiết lập với sự bố phòng, canh gác
nghiêm ngặt. Phía ngoài ấp chiến lược trồng các hàng rào tre
dày, tiếp theo là những lớp hàng rào kẽm gai. Trên hàng rào
kẽm gai được gài mìn nhảy và lựu đạn, giữa vòng ngoài và
vòng trong có hệ thống hào sâu khoảng 1m ngăn cách, lòng hào
cắm chông dày đặc. Mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh
có tầm nhìn xa. Các cổng ra vào của ấp được canh gác cẩn mật.
Ban ngày, người dân trong ấp được ra vào để làm ăn với sự
theo dõi chặt chẽ. Người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát,
khám người vô cùng chặt chẽ. Mọi trường hợp xâm nhập lén
lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào dễ bị phát hiện vì trong ấp có
hệ thống báo động. Chung quanh ấp là một diện tích đồng trống
để lính canh dễ theo dõi việc di chuyển phía ngoài. Cách bố trí
này của địch nhằm ngăn chống sự đột nhập của lực lượng cách
mạng vào ấp và đồng thời người dân trong ấp khó có cách vượt
thoát ra ngoài. Trong ấp, địch thành lập những tổ chức Thanh
147

15.8 Page 148

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
niên Cộng hòa, Phụ nữ Cộng hòa nhằm thực hiện để nắm tình
hình, theo dõi những hoạt động của người dân cùng với những
mật vụ, chỉ điểm. Tất cả những ấp chiến lược đều nằm trong
một xã dưới quyền chỉ đạo của hội đồng tề gồm xã trưởng, ấp
trưởng, dân vệ, cảnh sát, thám báo, điệp báo làm nhiệm vụ bên
trong. Bên ngoài ấp chiến lược gồm những đồn bót bao quanh
tạo thành vành đai bảo vệ. Để hỗ trợ cho việc xây dựng ấp chiến
lược, địch tăng cường càn quét đánh phá, gom dân và rải quân
đóng thành nhiều đồn bốt ven theo các lộ trên địa bàn và dọc
ven theo sông trên địa bàn. Đồng thời, địch bố trí 2 điểm đặt
pháo 105 ly tại Bến Sắn (xã Phước Thiền) và tại chi khu Nhơn
Trạch. Lực lượng lính được tăng cường gồm 2 tiểu đoàn và xây
dựng thêm 4 trung đội địa phương quân với với Bộ Chỉ huy đặt
tại quận lỵ ở xã Phước Thạnh.
Tháng 02/1962, đồng chí Võ Lực Lượng được điều về
Tỉnh ủy Biên Hòa nhận nhiệm vụ mới. Huyện ủy Nhơn Trạch
được sắp xếp củng cố: Đồng chí Nguyễn Văn Thông (Bí thư),
Nguyễn Văn Liềm (Tư Liềm) giữ chức Phó Bí thư thường trực,
Phạm Minh Chính (Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban Binh vận),
Nguyễn Văn Sơn (Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng) và
các ủy viên: Trần Văn Nhiệm (Mười Thọ), Nguyễn Thanh Vân
(Ba Vân), Nguyễn Văn Bền (Bảy Bền), Nguyễn Văn Quang,
Lê Văn Sanh. Lực lượng vũ trang của huyện chỉ có đơn vị 19/5
gồm 2 trung đội do đồng chí Hai Sơn chỉ huy. Lực lượng đảng
viên ở Nhơn Trạch mỏng, một số xã chưa có chi bộ.
148

15.9 Page 149

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đầu tháng 3/1962, Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch
họp bàn và quyết định những chủ trương quan trọng trong chỉ
đạo phong trào đấu tranh trên địa bàn. Kiện toàn và tạo điều
kiện để tạo sự phát triển toàn diện lực lượng với “thế mới, lực
mới”, bám trụ và bảo vệ địa bàn Lòng Chảo song song với
bám tụ xã, ấp để hoạt động. Quân dân Nhơn Trạch tiếp tục tiến
công địch bằng ba mũi giáp công vũ trang, chính trị và bình
vận nhằm phá lỏng, phá rã tiến tới phá ấp chiến lược. Đồng
thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển lực lượng
cả bên trong lẫn bên ngoài ấp. Khi phát động nhân dân phá ấp
chiến lược, chú ý thu toàn bộ cọc sắt, kẽm gai để xây ô, ụ chiến
đấu gắn với phong trào “bao vây, uy hiếp đồn bót” địch. Huyện
ủy Nhơn Trạch tiến hành kế hoạch đào địa đạo bám trụ địa bàn,
địa điểm chọn là khu rừng tre xã Phước An1. Đồng chí Lê Văn
Tâm (Mười Tâm) được giao chỉ huy đội 20 người thực hiện.
Việc đào địa đạo có nhiều khó khăn và đội phải chia làm nhiều
tổ thực hiện cùng với hằng trăm lượt cán bộ đảng viên của các
cơ quan Huyện ủy, mặt trận, đoàn thể... luân phiên nhau. Địa
đạo có dạng hình chữ Z, mỗi đoạn dài 100m, cao 1,8m, rộng
0,8m. Từ mặt đất, cửa địa đạo sâu thẳng đứng từ 5 đến 7m rồi
1  Nay thuộc ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, khu vực cạnh đền thờ liệt
sĩ huyện Nhơn Trạch. Đến cuối năm 1964, hệ thống địa đạo dài 1,5km. Sau năm
1975, hệ thống địa đạo không còn nguyên vẹn, còn lại 200m, được quan tâm
trùng tu, tôn tạo. Ngày 19/01/2001, hệ thống địa đạo được Bộ Văn hóa - Thông
tin xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia (Quyết định số 04/2001/QĐ-BVHTT).
149

15.10 Page 150

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
mới đào ngang. Cửa địa đạo mở trong những bụi tre chằng chịt
để tránh sụt lở.
Sáng ngày 18/5/1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch khai mạc khu căn cứ cao su gần bìa rừng
Đồng Lớn ở khu Lòng Chảo, có gần 30 đoàn đại biểu xã, cơ
quan, ban ngành với 250 đại biểu. Đại hội xác định dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quân dân toàn huyện đoàn kết một lòng,
quyết tâm góp phần cùng quân dân cả nước đánh đuổi đế quốc
Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc. Đại hội bầu Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch gồm 13 người: Ngô Quang Thanh (đại diện
giới tư sản dân tộc) làm Chủ tịch1, Nguyễn Văn Bền (Thư ký
Nông hội huyện, Phó Chủ tịch); Nguyễn Văn Thông (đại diện
Đảng Nhân dân cách mạng huyện, Phó Chủ tịch), Võ Văn Công
(Bí thư huyện đoàn, Tổng thư ký). Các ủy viên: Nguyễn Tâm
(Hội trưởng phụ nữ huyện), Đỗ Thị Thanh Vân (phụ trách công
nhân), Phạm Văn Ngươn/Minh Chính Trưởng ban Binh vận,
Nguyễn Văn Đôi (pháp danh Thích Đạt Minh, trụ trì chùa Lớn
xã Đại Phước), Nguyễn Đắc Cầu (linh mục nhà thờ Phú Hội),
Nguyễn Mình Trí (đại diện giới học sinh). Đại hội thông qua
Lời kêu gọi toàn thể đồng bào ở Nhơn Trạch vùng lên liên tục
phá toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch, giành chính
quyền, làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người, sức của phục
1  Sau này, ông Ngô Quang Thanh làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam tỉnh Biên Hòa.
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp phát triển của quê
hương.
Trên chiến trường miền Nam, khi thực hiện tát dân, gom
dân xây dựng ấp chiến lược và đánh phá cơ sở cùng cấp hậu
cần đối của cách mạng, chính quyền Sài Gòn thực hiện rải chất
độc hóa học nhằm phá hoa màu của dân, ép dân phải vào vùng
chúng kiểm soát. Tại tiểu khu Biên Hòa địch đã công bố kế
hoạch “2R-63” và Long Thành làm nơi rải thí điểm. Địch cho
máy bay C47 từ Biên Hòa mang theo chất độc rải xuống những
địa điểm đã được xác định trong kế hoạch. Những vườn cây trái
ở Phú Hội, An Lợi bị chất độc làm cho hư hoại rất nhiều. Nhân
dân Nhơn Trạch - Long Thành tiến hành cuộc biểu tình với quy
mô lớn phản đối địch rải chất hoa học. Sáng ngày 20/6/1962,
đồng bào các xã từ Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước kéo đến
tập trung tại khu chợ gần bến thuyền đi về xã Vĩnh Thanh.
Một số người dân dùng thuyền từ xã Phước Khánh, Giồng Ông
Đông cũng cập bến, đưa gần 200 đồng bào đến tham gia. Một
số bà con ở ấp Ông Kèo, ấp Xoài Minh, ấp Nhà Máy thuộc
xã Vĩnh Thanh hưởng ứng. Khoảng 7 giờ, đoàn người kéo về
quận lỵ tại Phú Thạnh. Trên đường đi đồng bào mang khẩu
hiệu “Rải chất độc hóa học là phá hoa màu của dân, là giết
dân”, “Phải bồi thường tính mạng tài sản cho dân”, Phải thống
nhất đất nước”. Chính quyền địch điều một trung đội bảo an
xuống ngăn chặn. Khi lính địch đến ngã ba gần lối rẽ vào nhà
thờ Đại Phước thì gặp đoàn biểu tình. Quân lính được lệnh giải
151

16.2 Page 152

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tán biểu tình. Người dân không hề nao núng, tiến lên đấu tranh
trực diện. Má Tám Ứng đại diện đoàn biểu tình nói: “Chúng tôi
cày cấy trồng trọt, các ông rải chất độc làm cho chết hết lúa,
hoa màu, như vậy là các ông giết dân rồi. Chúng tôi lên hỏi
quận trưởng xem lời tuyên bố của ông ta như thế nào, khi ông
về làm quận trưởng ở đây nào là thực hiện dân sinh, dân chủ,
nào là hạnh phúc, ấm no vậy rải chất độc có đúng với lời ông
ta không?”. Đồng bào ở các xã của Nhơn Trạch được vận động
hưởng ứng để tham gia, tạo lực lượng đông đảo đấu tranh. Đoàn
biểu tình của nhân dân ngày càng đông và quyết liệt hô to đòi
Quận trưởng Nhơn Trạch là Trương Bảo Thiện phải đối thoại
với dân. Trước khí thế của người dân biểu tình, lính và nhân
viên, bảo vệ chạy trốn, thối lui. Ban đầu, quận trưởng Trương
Bảo Thiện lánh mặt, cho Võ Văn Loài (Chánh văn phòng) ra
tiếp. Đồng bào không chịu, làm dữ, đe doạ sẽ đấu tranh mạnh
hơn, buộc tên quận trưởng phải ra tiếp dân. Trước lý lẽ đanh
thép của đồng bào, quận trưởng Nhơn Trạch giải thích, chối
quanh và hứa sẽ đưa vấn đề lên tỉnh, đền bù tài sản của dân và
không rải chất độc hóa học. Đồng bào đưa 3 bản kiến nghị với
hàng ngàn chữ ký tố cáo tội ác của địch. Phấn khởi trước thắng
lợi của cuộc biểu tình, ngay đêm hôm đó đồng bào các xã ở
Nhơn Trạch nổi dậy phá hủy hàng ngàn mét giao thông hào, rào
kẽm ở các ấp chiến lược, phát loa kêu gọi binh lính, dân vệ về
với cách mạng.
152

16.3 Page 153

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Trong năm 1962, nhiều thanh niên của Phú Đông hăng hái
lên đường gia nhập lực lượng cách mạng trong khi địch tăng
cường bắt lính, ép dân vào các khu ấp để kiểm soát. Bà Lê Thị
Mua có hai người con trai Nguyễn Văn Cảnh, Nguyễn Văn
Thảnh gia nhập Đại đội 240 của huyện.
Đầu năm 1963, trên địa bàn Nhơn Trạch, địch tăng cường
ném bom, bắn pháo, càn quét, đưa bọn bình định về củng cố
ấp chiến lược. Địch thực hiện bình định tại chỗ những vùng đã
chiếm đóng, đồng thời tấn công vào địa bàn xuất quân của Việt
Cộng. Địa bàn các xã ven lộ 17, 19 bị địch “chà xát, tát dân”,
bắn phá liên tục để gom dân.
Tháng 3/1963, Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy miền
Đông quyết định sáp nhập Biên Hòa - Bà Rịa lấy tên là tỉnh
Bà Biên. Sau khi sáp nhập, tỉnh điều cán bộ về các huyện trực
tiếp chỉ đạo phong trào. Tại Nhơn Trạch, Huyện ủy phân công
từng đồng chí xuống xã để chỉ đạo cơ sở. Trước tình hình địch
có thể tăng cường lực lượng, mở chiến dịch đánh vào căn cứ
cách mạng, đặc biệt khu Lòng Chảo, Huyện ủy Nhơn Trạch chủ
trương đánh phá đường tiến quân của địch. Cuối tháng 7/1963,
đồng chí Nguyễn Văn Thông họp trên tỉnh về và phổ biến tình
hình cho Nhơn Trạch. Theo nhận định của trên, địch có thể
tăng cường lực lượng và mở chiến dịch đánh vào khu căn cứ
Lòng Chảo. Nhằm làm giảm mức độ tấn công của địch vào căn
cứ, Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương phá giao thông đường
19 nhằm gây khó khăn khi địch triển khai các loại xe quân sự
153

16.4 Page 154

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
theo hướng này. Giữa tháng 8/1963, địch tổ chức nhiều mũi
tấn công với quy mô lớn để đánh phá cách mạng Nhơn Trạch,
tập trung khu Lòng Chảo. Từ hướng Thủ Đức, địch dùng xe
lội nước và xà lan vượt sông Long Điền tràn vào ấp An Định,
cướp thuyền của dân rồi tràn về phía Gò Me, Xóm Hố. Nhiều
cánh quân địch càn quy mô vào khu vực Lòng Chảo và Rừng
Sác, Bàu Bông, Bà Trường, Đồng Lớn. Quân dân Nhơn Trạch
chống trả quyết liệt khiến địch bị tổn thất và phải rút quân. Sau
thắng lợi chống càn, lực lượng vũ trang huyện phối hợp với du
kích xã tấn công nhiều bót lính. Đêm ngày 16/10/1963, trong
một đêm, cách mạng tấn công, phá rã 5 đồn ở Phước Thọ, Phú
Hội, Phước Khánh, Ông Kèo, Phước Lý.
Từ khi thực hiện quốc sách ấp chiến lược, chính quyền Sài
Gòn đứng trước làn sóng đấu tranh mãnh liệt của nhân dân
miền Nam. Trong nội bộ chính quyền địch đã xảy ra lục đục nội
bộ. Đêm ngày 1 rạng sáng ngày 02/11/1963, một nhóm tướng
lĩnh của quân đội thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống
Ngô Đình Diệm1. Chính quyền địch ở các nơi hoang mang. Tại
Nhơn Trạch, chính quyền địch và quân lính co cụm và chờ tình
hình của nhóm đảo chính. Sau đó, nhóm đảo chính thành lập
Hội đồng Quân sự ở miền Nam. Tại Nhơn Trạch, địch đưa ông
1  Ngày 01/11/1963, một số tướng lĩnh trong quân đội của chính quyền Sài Gòn
sau thời gian chuẩn bị, tiến hành đảo chính. Không thể cứu vãn tình hình, Tổng
thống Ngô Đình Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu rời Dinh Gia Long bằng hầm ngầm
thoát ra ngoài, đến khu vực Chợ Lớn. Nhóm đảo chính đã thủ tiêu ông Ngô Đình
Diệm, Ngô Đình Nhu ngày 02/11/1963.
154

16.5 Page 155

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Lê Thiện Phước thay cho Trương Bảo Thiện làm quận trưởng.
Lợi dụng lúc địch thay đổi nhân sự quận Nhơn Trạch,
Huyện ủy Nhơn Trạch phát động phong trào “Tranh thủ thời cơ
tấn công địch giải phóng xã”. Theo tỉnh lộ 17, từ Phước Thiền
đến bến phà Cát Lái, địch rút đi 2 đồn, 3 chốt quân sự, 11 ấp
chiến lược bị tan rã. Người dân làm công tác binh vận tuyên
truyền cho một số tề ấp không gây khó cho gia đình có người
tham gia kháng chiến. Đồng thời, cũng cảnh báo cho tề ấp ở địa
phương biết không nên đàn áp, bắt bớ người dân, nếu không sẽ
chịu sự trừng trị của cách mạng như những tên ác ôn khác.
Cuối năm 1963, trước tình hình chuyển biến của chiến
trường và chuẩn bị cho quá trình đấu tranh, tỉnh Bà Biên được
chia thành Biên Hòa và Bà Rịa như trước. Lúc này, Tỉnh ủy
Biên Hòa chuyển về căn cứ đóng tại ngọn Suối Cả thuộc địa
bàn huyện Long Thành. Huyện ủy Nhơn Trạch chuyển một bộ
phận từ khu Bàu Bông về Xóm Hố thuộc xã Phú Hội. Huyện ủy
phát động phong trào thi đua đóng góp sức người sức của cho
tiền tuyến. Hưởng ứng phong trào của huyện, hàng trăm thanh
niên xung phong lên đường làm nghĩa vụ. Nhiều xã đóng góp
lương thực, thực phẩm vượt chỉ tiêu.
Trong một báo cáo cho biết, trong năm 1963, quân Giải
phóng và người dân miền Nam đã phá hoàn toàn 2.895 ấp chiến
lược trong tổng số 6.164 ấp được lập, số còn lại đã bị phá đi phá
lại 5.950 lần ấp. Quân Giải phóng giành quyền làm chủ ở 12.000
155

16.6 Page 156

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, gồm hơn 5 triệu
dân trong tổng số 14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệuha
trên tổng số 3,5 triệu ha ruộng đất đã về tay nông dân; hơn
23.000 thanh niên miền Nam đã gia nhập quân Giải phóng. Hàng
nghìn ấp chiến lược đã biến thành làng chiến đấu, hệ thống Ấp
chiến lược bị sụp đổ đến 4/51. Trong thắng lợi chung của cách
mạng miền Nam đánh phá chiến lược của chính quyền Sài Gòn,
có sự đóng góp của quân dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước
của Nhơn Trạch.
Giữa năm 1964, đại đội 240 của tỉnh Biên Hòa và tiểu đoàn
800 của Quân khu miền Đông chuyển về đứng chân tại vùng
Nhơn Trạch - Long Thành với mục đích hỗ trợ cho địa phương
bao vây tấn công địch. Nhiều trận tấn công của 240 phối hợp
với lực lượng du kích các xã đánh địch, mở mảng và mở các
lộ, tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở Nhơn Trạch phát
triển. Thực hiện chủ trương của Hội đồng cung cấp tỉnh2 cung
ứng lương thực phục vụ bộ đội chủ lực đánh địch, mở cửa khẩu
vùng căn cứ, huyện Nhơn Trạch thành lập Hội đồng cung cấp
lương thực phục vụ cho lực lượng chủ lực do đồng chí Nguyễn
Văn Xuân làm Chủ tịch. Trong sự kìm kẹp của địch, việc ra vào
1  Hồ Khang (2011), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam - biểu
tượng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ
quốc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân (nguồn http://tapchiqptd.vn/, truy cập ngày
21/02/2022).
2  Hội đồng Cung cấp tỉnh Biên Hòa do đồng chí Nguyễn Văn Thông làm Chủ
tịch, Huỳnh Văn Đậm (Hai Đậm) làm Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Tiểu ban dân
công, Mười Cơ làm Trưởng Tiểu ban lương thực, Lê Kim (Sáu Kim) làm Ủy viên.
156

16.7 Page 157

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
các ấp chiến lược bị tra xét gắt gao nhưng cơ sở cách mạng vẫn
tìm nhiều cách tiếp tế, chuyển hàng ra căn cứ. Vào những đợt
thu hoạch lúa, những phụ nữ vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại
Phước vừa đi làm vừa vận động cơ sở, những người có cảm tình
với cách mạng ở Bến Cộ, ấp Chợ, Giồng Ông Đông đóng góp
kinh tài cho Huyện ủy, nuôi quân. Những đóng góp của người
dân được các mẹ bằng nhiều cách vượt qua các chốt chặn, sự
theo dõi của địch như lấy cớ, đi chợ, thăm người thân... để đến
chuyển về căn cứ.
Tháng 9/1964, chính quyền địch thực hiện cuộc thảm sát
dã man vào người dân tại Giồng Sắn - Phú Đông. Khu vực ngã
ba Giồng Sắn (trước đây thuộc xã Phú Hữu, nay thuộc xã Phú
Đông) là một đầu mối giao thông đường thủy giữa sông Ông
Kèo, Ông Mai và Thị Vải (còn có tên gọi là Vàm Xoắn). Địa
điểm này tập trung nhiều ghe xuồng của người dân địa phương
và các vùng Long Thành, Bình Khánh, Nhà Bè, ngư dân tỉnh
Bến Tre, Long An để trao đổi hàng hóa. Trong chiến dịch bình
định của chính quyền Sài Gòn những vùng bao quanh Sài Gòn,
quân đội đã bắn phá dữ dội các địa bàn ven sông giáp với vùng
Nhơn Trạch của tỉnh Biên Hòa để triệt hạ các vùng được xem
là có thể cung cấp hậu cần cho lực lượng cách mạng. Địch nghi
ngờ địa điểm ngã ba sông Giồng Sắn là nơi lực lượng cách
mạng tập trung những hoạt động tuyên truyền, thu mua lương
thực, thực phẩm... cho vùng căn cứ tại khu Lòng Chảo, Rừng
Sác nên tấn công.
157

16.8 Page 158

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Từ khoảng 4 giờ chiều ngày 27/9/1964, người dân ở Giồng
Ông Đông, Phú Hữu, Đại Phước, Vĩnh Thanh, Phước Khánh đi
kiếm củi, giăng câu tập trung về bến ngã ba sông Giồng Sắn1
vào buổi chiều như thường lệ thì bị địch tấn công. Máy bay địch
xuất hiện hàng chục đợt, mỗi đợt 3 chiếc tiếng động cơ gầm
rú dữ dội. Những chiếc máy bay thả bom xuống chỗ hơn 200
ghe xuồng neo đậu, nhiều người dân tập trung gây nên cảnh
hỗn loạn nơi bến sông. Những cột khói đen cuồn cuộn bốc lên,
những cột nước dâng cao hàng chục mét rồi dập xuống bắn
tung tóe làm cho ghe xuồng lật úp, bị vỡ ra thành từng mảnh.
Một số người dân bị bom chết ngay tại chỗ. Những người còn
lại chạy lên bờ tìm nơi trú ẩn bị máy bay quần theo tấn công
bắn giết. Sau đợt thả bom, quân đội Sài Gòn cho pháo từ Nhà
Bè bắn cấp tập làm cho số người chết và bị thương càng tăng
lên. Bến Giồng Sắn trở nên hoang tàn, tang tóc. Hàng trăm ghe
xuồng bị bom đạn giặc phá tan tành. Tổng cộng có 536 thường
dân chết và rất nhiều người bị thương; trong đó có 108 người
dân tại Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước. Cuộc giết hại dã man
nhiều người dân vô tội tại Giồng Sắn ở Nhơn Trạch bị báo chí
cách mạng, báo chí ở Sài Gòn và một số báo thế giới lên án
mạnh mẽ.
1  Địa điểm ngã ba Giồng Sắn được xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số
5160/QĐ-CT.UBT của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, ngày 22/10/2004 (Xem
thêm di tích trong phần phụ lục).
158

16.9 Page 159

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Quang cảnh ở bến sông Giồng Sắn trong và sau cuộc tấn
công thảm sát của quân đội Sài Gòn luôn ám ảnh và là nỗi kinh
hoàng cho người dân. Theo ông Nguyễn Văn Lầu, người may
mắn sống sót trong vụ tấn công của địch cho biết: “Gia đình
tôi đang đậu ghe ở Giồng Sắn ăn bữa cơm chiều. Bỗng, chúng
tôi nghe tiếng máy bay gầm rú dữ dội trên bầu trời ngay trên
đầu và chỉ trong chốc lát, hàng loạt bom đạn thả xuống các ghe
thuyền neo đậu ở đây. Không kịp trở tay, tôi vội nhào tới ôm
đứa con 5 tuổi đang ăn cơm chạy lên bờ. Trên ghe, vợ tôi ôm
đứa con gái mới bốn tháng tuổi chạy lên không kịp bị rớt xuống
sông ướt đẫm mình mẩy. Nhưng rồi, với mọi cố gắng khi phải
đối đầu với giây phút sinh tử, cuối cùng cả gia đình tôi cũng lên
được bờ sông, chạy thoát lên lộ, về khu dân cư. Được một lát,
không còn nghe thấy tiếng bom đạn, tôi quay lại ghe để lấy thẻ
căn cước. Đến nơi, trước mắt tôi là thảm cảnh thật hãi hùng:
Các ghe thuyền bị nhấn chìm hoặc bị phá tan tành trôi lềnh
bềnh trên mặt sông. Xác người nhiều vô kể nằm ngổn ngang
trên bờ, dưới nước, máu nhuộm đỏ cả một khúc sông dài. Chưa
kịp hoàn hồn, thì tôi lại nghe tiếng máy bay quay trở lại. Lúc
đó, tôi còn nhìn thấy nhiều trẻ em đứng núp dưới gốc các cây
bần ven sông, dáng người chúng co ro, những ánh mắt sợ hãi
tột cùng, tôi chưa kịp tiếp cận chúng thì hàng loạt máy bay lại
tiếp tục ném bom xuống sông. Tàn bạo hơn, chúng còn nã pháo
vào những người còn sống sót đang tìm cách chạy thoát trên bờ.
159

16.10 Page 160

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Hàng trăm người tưởng rằng thoát khỏi vụ thảm sát đã phải ngã
quỵ giữa đường. Đứa con gái 4 tháng tuổi của tôi bị ngất lịm
trên tay mẹ vì bị nước thấm lạnh, nhờ hơi ấm của bà con thay
phiên nhau ôm cháu cùng chạy nạn nên mới sống... Sáng hôm
sau, tôi quay lại Giồng Sắn để lấy tài sản, trước mắt tôi là một
thảm cảnh đau thương, lạnh lẽo. Xác người nằm chết rải rác
khắp nơi, mùi máu tanh nồng nặc khắp bến sông dù con nước
lớn đêm qua cũng không thể cuốn trôi đi hết. Các ghe, thuyền
làm kế sinh nhai của hàng trăm gia đình bị nhấn chìm, cháy và
bể vụn. Tiếng khóc và ánh mắt của trẻ thơ tìm mẹ, tìm cha thật
xót xa... Nhìn vào những gốc cây bần ven sông đã bị gãy đổ,
xơ xác vì bom, đạn pháo; tôi chợt nghĩ, không biết lũ trẻ chiều
qua đứng núp ở đó còn sống hay không? Gia đình tôi may mắn
được sống sót, nhưng bom đạn đã phá tan tành chiếc ghe chở
mướn - tài sản duy nhất của gia đình tôi, vì thế chúng tôi phải
rời bỏ quê hương đi nơi khác tìm kế sinh nhai”1.
Bà Lê Thị Năm nhớ lại: “Trên bầu trời là máy bay, bom,
đạn; bên dưới là những chiếc xuồng nhỏ bé với nhiều phụ nữ và
trẻ em. Bom rơi, đạn lạc khiến nhiều người chết, nhiều người bị
thương, đau xót vô cùng. Tiếng kêu khóc thảm thiết hòa trong
tiếng rên la, vậy mà từng tốp máy bay Mỹ vẫn đuổi theo những
người dân trong tay không có một tấc sắt đang cố lê lết, dìu
1  Nguyễn Văn Lầu, ngụ tại phường Thạnh Mỹ Lợi (Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh) -
nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát.
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
dắt nhau chạy trốn trong vô vọng dưới làn bom đạn độc ác của
kẻ thù... 1.
Ông Phạm Văn Hai là một trong những người có mặt tại
bến sông Giồng Sắn sau vụ thảm sát kể: “Một cảnh tượng thật
kinh hoàng, xuồng ghe bể tan tành, ván trôi lênh đênh khắp
nơi. Máu loang đỏ cả một khúc sông. Xác người nằm chồng lên
xác người. Có những người bị bom đạn cắt mất đầu, mình mẩy,
chân tay, nên không thể nhận diện được. Chứng kiến cảnh này,
tôi và nhiều người đã bị khủng hoảng tinh thần...”2.
Ông Nguyễn Văn Thành là những người dân đến để hỗ trợ,
giúp cho người dân sau đợt thả bom của giặc: “Chúng tôi chống
xuồng đi tìm những người bị thương đang nằm dưới nước, trên
mé sông, trong các đám cỏ, trong khu rừng, bụi cây... để đưa
đi cấp cứu. Người bị thương nhiều lắm, chúng tôi phải tích cực
làm việc đến gần sáng mới không còn nghe tiếng người kêu rên
nữa. Suốt đêm ấy và mấy ngày sau, các xã: Phú Hữu, Phước
Khánh, Vĩnh Thanh, Đại Phước... chìm trong tang tóc; thảm
cảnh thật vô cùng tang thương, đau xót. Ngã ba sông Giồng
Sắn vắng hẳn xuồng, ghe đi lại. Người dân địa phương cũng
không ai xuống sông mò cua, ốc, bắt cá như thường ngày. Sang
đến ngày thứ ba sau vụ thảm sát, mùi hôi thối từ những xác
chết chưa được chôn cất bốc lên nồng nặc. Đội thanh niên tình
1  Nhân chứng Lê Thị Năm (85 tuổi), nhà ở ấp Giồng Ông Đông.
2  Phạm Văn Hai (81 tuổi), nhà ở ngã ba Giồng Sắn (ấp Bến Đình).
161

17.2 Page 162

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
nguyện của xã Phú Hữu được cử đi thu gom xác chết tìm nơi an
táng, đảm bảo vệ sinh môi trường”1.
Ông Nguyễn Văn Xiềm là một trong những người trực tiếp
tham gia cứu nạn kể lại: “Lúc đó tôi đang làm ruộng, nghe
tiếng bom nổ phía sông Ông Kèo liền cùng với bà con chạy
tới. Nhìn thấy cảnh tượng đó, ai nấy thất kinh hồn vía vì cả
một khúc sông nhộn nhịp vậy mà lúc ấy tan hoang hết. Không
chiếc thuyền, ghe nào còn nguyên. Người chết la liệt, rất nhiều
thi thể không còn nguyên vẹn, thân thể bị chia cắt, văng tan
nát khắp nơi. Những người bị thương thì rên la thảm thiết. Dân
trong xóm chúng tôi túa ra, chèo xuồng tìm những người bị
thương, còn sống đưa vô bờ để đưa đi cứu chữa; có người vừa
đưa được vào bờ thì tắt thở. Chúng tôi chỉ tập trung cứu vớt
những người bị thương, những người chết chờ sáng đem đi
chôn cất. Tới sáng hôm sau, mọi người lấy lưới giăng nguyên
khúc sông để vớt xác người. Phải vớt mấy ngày trời vì số người
chết rất nhiều, nhiều thi thể không còn nguyên vẹn vì bị trúng
đạn pháo. Thân nhân nạn nhân tập trung trên bờ để nhận xác
người thân, kêu khóc vang trời nghe thật đứt ruột gan và cũng
có nhiều người không tìm được xác vì thi thể đã tan nát hết.
Những người xấu số ấy, ai có thân nhân thì được đưa về chôn
cất, ai không có thân nhân thì dân làng chúng tôi cứ thấy chỗ
nào có đất trống thì đem chôn, thậm trí sau này phải chôn nhiều
1  Ông Nguyễn Văn Thành (75 tuổi), ngụ tại ấp Bến Đình.
162

17.3 Page 163

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
xác trong đám lúa vì không còn chỗ. Vì đột ngột quá, lại không
có thời gian chuẩn bị nên việc chôn cất các nạn nhân cũng rất
sơ sài, chỉ đào khoảng 5 đến 7 tấc đất đủ khuất xác người rồi
chôn xuống. Nhiều xác chết chìm dưới sông, ba ngày thì nổi
lên lập lờ trên mặt nước. Một số xác chết tìm thấy ở sâu trong
rừng Sác, trên ngọn cây, hoặc bị nhét chặt vào kẽ tàu dừa nước
bên sông. Đáng sợ nhất là những bộ phận cơ thể người bị bom
đạn cắt phá nằm rải rác khắp nơi, chúng tôi không thể nào thu
gom hết được... Hồi ấy, ngoài một số người dân địa phương và
các vùng lân cận đến tìm xác người thân còn nhận dạng được
đem về nhà chôn cất, còn phần lớn nạn nhân của vụ thảm sát
đều được chôn lấp sơ sài tại các nghĩa địa ở xã Phú Hữu. Ban
đầu, chính quyền ngụy còn đưa hòm xuống cho người dân chôn
cất từng người một. Sau xác chết tìm được nhiều quá, họ đã bỏ
mặc. Bà con địa phương chỉ còn cách đào lỗ rồi đưa 5-6 xác
xuống chôn chung một mộ...”1.
Ngay sau vụ thảm sát của địch tại Giồng Sắn, Huyện ủy
Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu tình với hơn 1.000 người
tham gia, phản đối hành động sát hại dân lành của chính quyền
Sài Gòn tại Nhơn Trạch, Biên Hòa và Sài Gòn.
1  Theo ông Nguyễn Văn Xiềm sinh năm 1918 (qua đời năm 2011), ngụ tại ấp
Bến Đình - một trong những người trực tiếp tham gia cứu nạn người dân ở Giồng
Sắn sau vụ thảm sát của địch.
163

17.4 Page 164

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Ngày 28/9/1964, nhân dân làm lễ tưởng niệm các nạn nhân
bị thảm sát tại bến sông Giồng Sắn và sau đó chia thành các
đoàn tiên đến quận lỵ Nhơn Trạch, hướng về tỉnh Biên Hòa và
lên Sài Gòn. Đoàn biểu tình lên án tội ác của địch, đòi chính
quyền địch phải bồi thường tính mạng, tài sản cho đồng bào.
Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo chuẩn bị chu đáo, phân công cụ
thể từ những người có trách nhiệm cầm băng rôn, khẩu hiệu, trả
lời nếu địch hỏi, chuẩn bị hậu cần, dự phòng cứu thương... Ở
Phú Đông, có má Sáu Ngữ, Tám Ứng cùng nhiều bà con tham
gia với nhân dân ở Nhơn Trạch, Long Thành. Đội hình đấu
tranh chính trị được sắp xếp theo thứ tự: Những người đi đầu
là thân nhân của những nạn nhân, một số gia đình các binh sĩ
có người thân cũng bị sát hại. Chủ trương của Huyện ủy Nhơn
Trạch để cơ sở làm tốt công tác binh vận thì lực lượng của gia
đình binh sĩ cùng tham gia nhằm tránh sự đàn áp, bắt bớ của
địch. Nếu địch thẳng tay đàn áp đội ngũ tham gia biểu tình,
có gia đình binh sĩ thì sẽ gây dư luận đối với chính quyền Sài
Gòn, đối với binh lính, và cơ sở cách mạng có thể qua đó tuyên
truyền, làm tốt công tác binh vận để lôi kéo họ không phục vụ
cho địch. Lực lượng nòng cốt tham gia biểu tình là cơ sở cách
mạng hoạt động hợp pháp và quần chúng nhân dân. Trong đoàn
biểu tình có một số đảng viên hoạt động hợp pháp để lãnh đạo
cuộc đấu tranh và kịp thời ứng phó khi có đàn áp. Ba đoàn biểu
tình theo hướng mục tiêu, đem theo khẩu hiệu “Phản đối hành
động giết hại dân lành hàng loạt của Mỹ - ngụy” tuần hành.
164

17.5 Page 165

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Trên đường đi, các đoàn nhận được nhiều sự ủng hộ của nhân
dân, tiếp tế nước uống, lương thực, thực phẩm; một số người đã
nhập theo đoàn biểu tình tiến về Sài Gòn.
Cuộc biểu tình đấu tranh của nhân dân huyện Nhơn Trạch
về vụ việc lên án thảm sát Giồng Sắn kéo dài ba ngày, tuy chưa
đạt được kết quả nhưng cũng làm chính quyền địch thối động,
chúng viện cớ theo kiểu “ném bom nhầm”. Chúng không dám
đưa quân đàn áp và phải hứa xem xét những yêu cầu của đồng
bào. Sau này, chính quyền địch tìm mọi cách chối tội và làm
giảm những số lượng nạn nhân, mức độ thiệt hại trong vụ thảm
sát, và tìm cách đẩy trách nhiệm, kỷ luật đối với sĩ quan cấp ở
Yếu khu Thành Tuy Hạ. Điều này phản ánh trong báo cáo của
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Biên Hòa: Theo giám định
tại chỗ, Đại úy Nguyễn Văn Minh là một sĩ quan quân cụ kém
về tình báo và chiến thuật nên thiếu thám sát kỹ lưỡng để biết
địch hay dân mà vì quá lo Yếu khu bị tấn công nên vội vã xin
thẳng Thiếu úy Sơn, Sĩ quan trực đại diện không quân tại Vùng
3 Chiến thuật điều máy bay đến oanh kích mà không thông
qua hệ thống chỉ huy lãnh thổ của Biệt khu Phước - Biên và
Tiểu khu Biên Hòa... Yếu khu Thành Tuy Hạ hoàn toàn chịu
trách nhiệm trong vụ này... Tỉnh trưởng Biên Hòa đề nghị “Xin
đền bồi nhân mạng bằng quỹ cứu trợ và bồi thường của Bộ
Quốc phòng: 5.000$00 cho mỗi người tử thương; 3.000$00 cho
người bị thương nặng; 2.000$00 cho những người bị thương
165

17.6 Page 166

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
nhẹ; bồi thường cho 20 ghe lớn nhỏ và 10 xuồng chở củi bị bắn
chìm ước lượng 750.000$00...”.
Ngay sau vụ thảm sát Giồng Sắn, các cơ quan thông tấn
của cách mạng đã đưa tin tố cáo tội ác của quân đội Sài Gòn.
Ngày 04/10/1964, Thông tấn xã Giải phóng đã ra tuyên bố kịch
liệt lên án Mỹ - Khánh1 thực hiện thảm sát người dân vô tội,
ra bản tuyên bố nhấn mạnh “Chúng tôi kêu gọi đồng bào Biên
Hòa và đồng bào cả nước hãy nhất tề đứng lên, hãy kiên quyết
hành động để trả lời cho bọn cướp nước và bán nước biết rằng:
Không một thế lực tàn bạo nào, không một hành động khủng bố
dã man nào có thể khuất phục được nhân dân ta, một dân tộc có
đầy đủ dũng khí và sức mạnh, một dân tộc anh hùng, một dân
tộc chưa hề cúi đầu khuất phục trước bất cứ một bạo lực nào.
Hiện nay, bọn xâm lược Mỹ và tay sai đang đứng trước nguy
cơ sụp đổ; chế độ thống trị tàn bạo của chúng đang như cây gỗ
mục đứng trước cơn bão táp cách mạng của nhân dân ta... Đồng
bào ta, chiến sĩ ta hãy tiếp tục tiến lên với khí thế mạnh mẽ,
quyết tiêu diệt nhiều sinh lực định hơn nữa, quyết giành những
thắng lợi to lớn và to lớn hơn nữa. Chúng tôi kêu gọi nhân dân
yêu chuộng tự do và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến
bộ Mỹ hãy nghiêm khắc lên án hành vi xâm lược đầy tội ác của
1  Mỹ - Khánh: Tức đế quốc Mỹ đã hậu thuẫn cho bộ máy chính quyền Việt Nam
Cộng hòa lúc bấy giờ do tướng Nguyễn Khánh nắm quyền sau cuộc đảo chính
chính phủ của Ngô Đình Diệm. Nguyễn Khánh làm Thủ tướng (tháng 2/1964),
Quốc trưởng (tháng 8/1964), Chủ tịch Hội đồng Quốc gia và Quân lực kiêm Tổng
tư lệnh Quân đội Việt Nam Cộng hòa (tháng 10/1964).
166

17.7 Page 167

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
bọn hiếu chiến Mỹ và bè lũ tay sai, hãy có những biện pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn những hành động dã man của chúng, hãy
tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa, oanh liệt của
nhân dân miền Nam anh hùng”.
Ngày 05/10/1964, Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin, cực lực
tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy đối với thường dân trong vụ thảm
sát Giồng Sắn. Đài Giải phóng đưa tin: Ban Thường vụ Ủy
ban Mặt trận Giải phóng miền Đông Nam Bộ đã họp phiên bất
thường để nghe báo cáo về việc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ném
bom, bắn pháo thảm sát đồng bào trên sông Ông Kèo thuộc tỉnh
Biên Hòa. Hội nghị đã quyết định ra tuyên bố “tố cáo tội ác
của Mỹ - ngụy” và phát động một đợt đấu tranh chống đế quốc
Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Ngày 06/10/1964, báo Nhân Dân
(số 3841) đưa tin về tội ác dã man của quân đội Sài Gòn, lên
án đế quốc Mỹ và chế độ Sài Gòn gây tội ác cực kỳ man rợ tại
Giồng Sắn ở Nhơn Trạch. Trong thời gian này, Đại tá Hà Văn
Lâu - Trưởng Phái đoàn liên lạc ta đã gửi điện khẩn tới Đại sứ
M.A.Ra-man (Chủ tịch Ủy ban Quốc tế ở Việt Nam) kịch liệt
phản đối quân đội Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đã gây
ra vụ tàn sát cực kỳ vô nhân đạo đối với đồng bào Giồng Sắn.
Nội dung bức điện nêu rõ: Đây lại thêm một vụ thảm sát mới
bằng bom đạn cực kỳ vô nhân đạo đối với nhân dân miền Nam
Việt Nam do bọn xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai gây ra
mà không một người nào có lương tri trên thế giới có thể dung
thứ được... và yêu cầu Ủy ban Quốc tế nghiêm khắc lên án
167

17.8 Page 168

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
vụ tàn sát, có biện pháp buộc Mỹ - Khánh phải cứu chữa gấp
những người bị thương, bồi thường thiệt hại cho gia đình các
nạn nhân, chấm dứt mọi hành động khủng bố, tàn sát, đảm bảo
Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được thi hành nghiêm chỉnh ở
Nam Việt Nam.
Ngày 10/10/1964, báo Nhân Dân (số 3845) tiếp tục đưa tin:
Các đoàn đại biểu nhân dân miền Bắc kịch liệt phản đối Mỹ -
Khánh gây ra vụ thảm sát tại Giồng Sắn. Các tổ chức ở miền
Bắc Việt Nam như Đảng Dân chủ, Hội Liện hiệp Thanh niên,
Đoàn Thanh niên lao động, Hội Liên hiệp sinh viên, Hội phổ
biến Khoa học kỹ thuật Việt Nam và Ban Đấu tranh chống đế
quốc Mỹ và tay sai khủng bố những người trí thức ở miền Nam
Việt Nam đã ra tuyên bố kịch liệt lên án Mỹ và tay sai gây ra vụ
thảm sát. Các bản tuyên bố nêu rõ: Toàn thể nhân dân miền Bắc
quyết biến căm thù thành hành động, đẩy mạnh phong trào thi
đua “mỗi người làm việc bằng hai”, luôn luôn sẵn sàng tay cày,
tay súng, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ
cách mạng giải phóng miền Nam, đập tan mọi hành động xâm
lược của đế quốc Mỹ.
Qua những thông tin này, các đoàn nhà báo nước ngoài (Đài
BBC, đài Malina/Philippin, nhà báo Mỹ) nắm bắt được thông
tin và trực tiếp xuống hiện trường ghi nhận hình ảnh, thu thập
thông tin công khai cho cả thế giới cùng biết về vụ thảm sát
đẫm máu, dã man ở Giồng Sắn. Nhiều tờ báo ở các nước như
168

17.9 Page 169

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
An-giê-ri, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Cu Ba... đã đưa tin, lên
án vụ thảm sát của Mỹ và chính quyền tay sai Sài Gòn. Ngày
19/10/1964, Ủy ban Toàn Cu-Ba đoàn kết với nhân dân Việt
Nam ra tuyên bố tố cáo trước dư luận thế giới những tội ác tày
trời mà bọn Mỹ - Khánh đã gây ra ở Nam Việt Nam: bắn đại bác
vào chùa Núi Sập (Long Xuyên); ném bom, bắn phá nhà thờ An
Khánh (Bến Tre); đàn áp các cuộc biểu tình của nhân dân các tỉnh
Bình Định, Phú Yên; ném bom, bắn phá trên sông Ông Kèo (tỉnh
Biên Hòa)... Nội dung tuyên bố khẳng định đanh thép: Những
tội ác của Mỹ ở miền Nam Việt Nam mà không một người văn
minh nào có thể tưởng tượng được, đã xúc phạm đến lương tâm
của mọi người trên thế giới và là một sự thử thách đối với nhân
loại. Nó phơi trần bộ mặt thật của đế quốc Mỹ trước dư luận
thế giới.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Biên Hòa, Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch liên tiếp mở các đợt phát động nông dân
nhằm nâng cao tinh thần cách mạng, cùng với lực lượng vũ
trang chủ lực trong tấn công, làm phá sản chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam
Việt Nam. Huyện ủy Nhơn Trạch nêu cao quyết tâm toàn đảng
bộ, toàn dân, toàn quân trong huyện kiên trì liên tục đánh phá
“quốc sách” ấp chiến lược, chương trình “bình định nông thôn”,
các âm mưu “dồn dân bắt lính”, vơ vét sức người sức của địch
rộng khắp. Trên chiến trường Biên Hòa, phối hợp với các kế
hoạch tấn công địch và thể hiện quyết tâm trả thù cho dân lành
169

17.10 Page 170

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Giồng Sắn bị thảm sát, lực lượng cách mạng tổ chức phát động
đánh địch.
Vào ngày 31/10/1964, lực lượng cách mạng tấn công vào
sân bay Biên Hòa1. Sau thời gian điều nghiên và nắm thông tin
từ cơ sở nội ứng, Đoàn Pháo binh Miền phối hợp với lực lượng
cách mạng Biên Hòa nã pháo tập kích. Đồng chí Lương Văn
Nho (Hai Nhã), Nguyễn Văn Bứa (Hai Hồng Lâm) chỉ huy trận
đánh. Địch tổn thất nặng nề với 59 máy bay bị phá hủy (trong
đó có 21 máy bay B57, 11 máy bay AD6, 1 máy bay do thám
U2), 2 kho đạn lớn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát, 18 căn trại
lính bị phá hủy, 253 tên địch bị thương và chết. Trận đánh sân
bay Biên Hòa làm rúng động giới quân sự Mỹ và chính quyền
tay sai, chúng xem đây là một “thảm họa” đáng xấu hổ trước
sức tấn công của quân cách mạng. Nhắc đến thắng lợi của trận
đánh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh (bút danh Chiến sĩ) đã ca ngợi
trên báo Nhân Dân (số 3878, ngày 12/11/1964): “Uy danh lừng
lẫy khắp năm châu, Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu, Thành đồng
trống thắng lay Lầu trắng. Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Báo Nhân Dân của cách mạng đã đăng tải: Mười ngày trả thù
cho đồng bào Phú Hữu (Biên Hòa), tức sự kiện Giồng Sắn, trên
chiến trường miền Nam, lựu lượng cách mạng đã tổ chức 30
1  Sân bay quân sự của chính quyền Sài Gòn, rộng khoảng 49 km2 với 2 đường
băng dài 3.600m, 1.000m. Bên trong sân bay có 6 khu vực rộng chứa từ 170 đến
190 máy bay và khu làm việc của 500 sĩ quan, phi công, nhân viên kỹ thuật và
binh lính Mỹ.
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
trận, tiến công và bức địch rút 25 đồn, diệt trên 750 tên địch,
thu 184 súng.
Cuối năm 1964, Huyện ủy Nhơn Trạch đóng tại Hang Nai
để chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương. Khu vực này có
giao thông hào, có đường địa đạo. Từ trong căn cứ có thể theo
đường địa đạo vượt ra ngoài rừng Giồng, chung quanh căn cứ
có hàng rào chiến đấu và hầm chông.
Tháng 11/1964, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định
mở chiến dịch Đông Xuân 1964 -1965 tấn công vào khu vực
Bình Giã - Thạnh Đức, cách Sài Gòn về phía Đông khoảng 70
km (sau gọi là chiến dịch Bình Giã). Mục đích của chiến dịch
diệt bộ phận sinh lực địch, phá kế hoạch bình định trọng điểm
của chính quyền Sài Gòn tại đây, hỗ trợ phong trào đấu tranh
chính trị của quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở
rộng vùng căn cứ. Địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành được
chọn là hướng thứ yếu với nhiệm vụ đóng góp lương thực, thực
phẩm, đưa người tham gia chiến dịch, đánh vào kho bom Thành
Tuy Hạ, thu hút lực lượng địch và chặn đánh địch trên quốc lộ
15. Nhơn Trạch phát động phong trào phục vụ chiến dịch Bình
Giã với việc đóng góp lương thực và phát động thanh niên tham
gia du kích, tòng quân. Chiến dịch chia làm 2 đợt: đợt 1 từ
ngày 02 đến ngày 17/12/1964 và đợt 2 từ ngày 27/12/1964 đến
ngày 03/01/1965. Quân giải phóng tấn công vào mục tiêu địch,
giành thắng lợi lớn, gây cho địch tổn thất nặng nề cả về quân
số và trang thiết bị quân sự, đánh bại chiến thuật “trực thăng
171

18.2 Page 172

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
vận, thiết xa vận” của địch trên chiến trường. Quân chủ lực
của Miền phối hợp với bộ đội chủ lực của Khu miền Đông và
lực lượng vũ trang địa phương đánh rã nhiều sắc lính của địch,
phá tan ấp chiến lược kiểu mẫu. Thắng lợi chiến dịch Bình Giã
cổ vũ lớn cho phong trào đấu tranh của quân dân Nhơn Trạch.
Huyện ủy Nhơn Trạch phát động phong trào đẩy mạnh phá và
bao bó đồn bót của địch. Qua dư luận nhân dân, một số tề ấp
không thuộc loại ác ôn (như xã trưởng, xã Đại Phước, Phú Hữu
có hai xã trưởng Thái Văn Bê, Thái Văn Sáu ở Đại Phước,
Phú Hữu) được tuyên truyền vận đồng thành cảm tình của cách
mạng, giúp ích cho các hoạt động tại địa phương.
Trước những thất bại của chính quyền Sài Gòn trong chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”, từ cuối tháng 3/1965, đế quốc Mỹ
đưa binh lính vào chiến trường miền Nam Việt Nam cùng với
lực lượng đồng minh, tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ”. Quân dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước của Nhơn Trạch
tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu, đối diện thêm nhiều sắc lính.
3. Đấu tranh mở vùng và nổi dậy xuân Mậu Thân (1965
- 1968)
Trên chiến trường miền Nam, lực lượng cách mạng đã
giành được những thắng lợi quan trọng, làm cho Mỹ, chính
quyền Sài Gòn tổn thất và lâm vào những tình thế khó khăn. Đế
quốc Mỹ leo thang chiến tranh, thực hiện “Chiến tranh cục bộ”
với mục tiêu “Tìm và diệt” lực lượng cách mạng theo ba giai
172

18.3 Page 173

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đoạn trong vòng từ 25 đến 30 tháng1. Ở Biên Hòa, đầu tháng
5/1965, lữ dù Mỹ mang phiên hiệu 1732 đặt chân đến Biên Hòa.
Bộ phận chỉ huy địch đặt ở Tổng kho Long Bình và khu căn cứ
Nước Trong.
Trung ương Cục miền Nam đánh giá tình hình và chỉ đạo
cho cách mạng miền Nam tiếp tục giữ thế tấn công khi Mỹ đưa
lực lượng quân chiến đấu của chúng tham chiến. Đầu tháng
4/1965, Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức cho cán bộ và nhân dân
học tập “nghị quyết đánh Mỹ” của Trung ương Đảng. Cán bộ
huyện được phân công xuống các xã triển khai tinh thần nghị
quyết, đồng thời chỉ đạo phải bổ sung thêm quân số cho lực
lượng du kích ở các xã, tăng cường huấn luyện quân sự, chuẩn
bị cho cuộc đấu tranh đầy khó khăn trong tình hình mới.
Được Mỹ đổ quân hỗ trợ, chính quyền ngụy đề ra kế hoạch
“Bình định cấp tốc”. Nhơn Trạch là một trong ba địa bàn trọng
điểm mà Tiểu khu Biên Hòa chọn thực hiện kế hoạch này. Binh
lính ở Nhơn Trạch đắc ý và hy vọng sẽ có những chỗ dựa vững
chắc để đánh phá lực lượng cách mạng. Chính quyền địch tiến
hành phân loại xã ấp theo A, B, C theo thực tế kiểm soát của
1  Ngày 06/4/1965, Mỹ công bố “Hành động an ninh quốc gia” số 328, thông
báo Tổng thống Mỹ Johnson quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” với ba giai đoạn từ năm 1965 đến cuối năm 1967.
2  Tháng 5/1965, lữ đoàn dù 173 vào Biên Hòa, đồng thời đổ bộ toàn bộ Sư đoàn
Bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) vào miền Đông Nam Bộ, đóng căn cứ Dĩ An, phía Bắc
Sài Gòn. Ngày 17/7/1965 triển khai 14 tiểu đoàn quân chiến đấu Mỹ vào miền
Nam Việt Nam.
173

18.4 Page 174

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
chúng: loại A (địch có thể làm chủ cả ngày lẫn đêm), loại B
(địch chỉ làm chủ được ban ngày và một số ấp ban đêm), loại C
(chỉ làm chủ được ban ngày).
Địch điều về địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành 7 đoàn công
tác “Đoàn cán bộ xây dựng nông thôn”. Đây là thủ đoạn của
chính quyền địch, sử dụng lực lượng mang danh nghĩa xây
dựng nông thôn nhưng thực tế bám sát sinh hoạt tại các vùng
dân cư theo dõi, thu thập tin tức, kiểm tra dân số thường xuyên.
Qua các hoạt động bám sát địa bàn, địch mong muốn sẽ phát
hiện cơ sở cách mạng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong quần
chúng hoặc sự liên lạc giữa nhân dân và căn cứ. Đồng thời, qua
những sinh hoạt chung, địch tuyên truyền gây sự chia rẽ trong
nhân dân, ngăn chặn sự đoàn kế ủng hộ đấu tranh của người dân
với chính quyền.
Mặc dầu tình hình kìm kẹp của chính quyền địch ngày
càng gắt gao nhưng quân dân Nhơn Trạch kiên cường bám trụ
căn cứ Lòng Chảo và xây dựng cơ sở, liên lạc trong các vùng
tranh chấp. Lực lượng cách mạng trong khu Lòng Chảo tổ chức
nhiều trận chống địch càn quét. Ngày 25/8/1965, binh lính Mỹ
tấn công khu Lòng Chảo. Từ 7 giờ sáng, pháo địch từ Bến Sắn,
Phước Hòa bắn vào xóm ấp gần khu đường ủi Phước Lai, Phú
Hội, Long Tân. Máy bay phản lực của địch đến cắt bom. Đơn
vị 245 cùng du kích 3 xã Phước Thọ, Phú Hội, Phước An đánh
chặn. Lính Mỹ chia làm hai ngã tiến theo tỉnh lộ 17 và đường
ủi Phước Lai đến bao vây tấn công nỗng Gò Cao thuộc Xóm
174

18.5 Page 175

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Hố. Dựa vào đường địa đạo và vị trí trên cao, các chiến sĩ dùng
ĐH10 cho nổ ngăn chặn từ xa và bắn súng vào đội hình địch từ
phía dưới. Ba lần địch xông lên đều bị đánh bật lại, nhiều lính
địch bị chết, bị thương. Địch cho pháo từ Bến Sắn, từ Thành
Tuy Hạ bắn đến liên tục và máy bay tiếp tục dội bom hỗ trợ.
Với hỏa lực mạnh, đến 2 giờ chiều, địch tập trung tấn công cả
ba mặt, mặt chủ yếu từ lộ 17 lên có xe tăng yểm trợ vào được
căn cứ. Trận đánh càng về chiều càng gay go quyết liệt, bộ đội
chiến sĩ gài mìn lối vào địa đạo rồi rút hết về cánh đồng Cà Phê.
Trận tấn công này địch có 56 tên chết, nhiều người bị thương.
Sáng 26 địch cho 6 máy bay đến ném bom xuống khu vực trận
địa và phá hoại hệ thống địa đạo, giao thông hào.
Bước sang năm mới 1966, Lữ đoàn 199 Thủy quân lục
chiến Mỹ từ Phú Xuân (Nhà Bè) được điều đến Long Thành,
Nhơn Trạch thay cho lữ đoàn dù 173. Địch bung ra chiếm đóng
ở một số vị trí trên các trục lộ, tổ chức càn quét. Sau những
ngày tạm ngưng bắn trong tết, địch tổ chức tấn công quy mô
lớn vào khu căn cứ Lòng Chảo, Hang Nai. Địch đổ quân hai
lần xuống vàm Đồng Môn nhằm tạo thế bao vây các xã Long
Tân, Phú Hội, Phú Mỹ. Hướng Rừng Sác, địch đổ quân xuống
xã Phước Khánh rồi tràn sang tàn phá khu Giồng Ông Đông.
Cuộc chiến đấu ác liệt, giằng co giữa hai bên đúng một tuần
lễ. Dẫu bị tổn thất nhưng khu căn cứ cách mạng vẫn được giữ
vững. Về phía địch, có 167 tên xâm lược Mỹ chết, nhiều tên
bị thương, 6 trực thăng bị bắn rơi, 5 xe tăng bị bốc cháy. Địch
175

18.6 Page 176

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
chỉ phá được một số ô, ụ giao thông hào ở phía bên ngoài và ở
một số ấp xung quanh. Trước sức tấn công của địch, chà đi xát
lại nhiều lần khiến vùng căn cứ gặp nhiều khó khăn. Một số cá
nhân tham gia trong lực lượng quân báo, y tế và du kích không
chịu nổi gian khổ bỏ căn cứ. Địch tiếp tục tăng quân đến Nhơn
Trạch, Long Thành và các máy ủi để chia cắt, xúc tác các xã
xung quanh khu Lòng Chảo.
Không thực hiện được ý đồ tát dân, địch chuyển sang đánh
phá địa hình, cho máy bay rải chất độc hóa học. Lữ đoàn 199
Thủy quân lục chiến Mỹ chuyển kế hoạch không tổ chức càn
lớn mà tập trung trực thăng từng, đổ quân tấn công địa điểm khi
nghi vấn có “Việt cộng trú đóng”. Sự đánh phá của địch làm
cho công tác dự trữ hậu cần cách mạng không duy trì ở vùng
sâu mà chuyển gởi trong dân. Ban Quân lương của huyện phải
phân chia người phụ trách từng vùng để thu và chuyển đến từng
đơn vị. Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo khi địch tập trung tổ chức
những cuộc càn lớn thì ta tạm tránh để bớt thương vong nhưng
phải tìm sơ hở của địch, nghiên cứu thật chắc chắn, tập trung
đánh phá vào những nơi giặc không chuẩn bị rồi nhanh chóng
phân tán.
Phối hợp với các trận đánh Mỹ và quân lính địch, Huyện ủy
Nhơn Trạch chỉ đạo phải diệt ác ôn, tình báo, điệp báo để phá
kế hoạch “chụp điểm” đồng thời phải diệt các sắc lính thực hiện
176

18.7 Page 177

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
bình định, phá âm mưu dồn dân, ép dân vào ấp Tân Sinh1. Bao
quanh mỗi ấp Tân Sinh là hào rộng 3 mét, đáy 2 mét, sâu hơn 1,5
mét. Bờ đê đất cao khuất tầm mắt của một người. Ngoài hào là
các vòng rào kẽm gai được cài mìn và lựu đạn. Do tính chất của
chiến trường Nhơn Trạch, Long Thành ngày càng ác liệt, đến
trung tuần tháng 4/1966, Ban Chỉ huy Miền quyết định thành
lập Đặc khu Rừng Sác với ký hiệu T-102 (sau đổi là Đoàn 10)
do đồng chí Lương Văn Nho làm Chỉ huy trưởng. Địa bàn hoạt
động của Đoàn 10 gồm 9 xã: lấy xã Phú Hữu và Phước Khánh
làm căn cứ để đánh phá tàu giặc trên sông Lòng Tàu và tiến đánh
quân cảng Nhà Bè, lấy xã Phước An, Phước Thọ làm cửa khẩu
để lấy lương thực, thực phẩm, nước ngọt và kết hợp tấn công
giặc trên vùng Lòng Chảo. Trong thời gian này, phong trào đấu
tranh của Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước có sự chỉ đạo và hỗ
trợ từ Đặc khu Rừng Sác.
Đầu tháng 10/1966, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam
chủ trương sáp nhập 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa lấy
tên là tỉnh Long Bà Biên. Huyện Long Thành - Nhơn Trạch cũng
1  Ấp Tân Sinh ra đời trong chính sách bình định nông thôn của chính quyền Sài
Gòn và nhanh chóng được triển khai ở miền Nam Việt Nam từ năm 1964. Đây là
một loại hình dồn dân lập ấp kiểu mới mà Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa
xem là một chính sách rất quan trọng, một biện pháp bình định kế thừa quốc sách
“ấp chiến lược” trước đó đã thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
2  Đặc khu Rừng Sác gồm 10 xã thuộc địa bàn rộng lớn của huyện Nhơn Trạch
của tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa, Gia Định. Diện tích khoảng 600 km2, phía Đông
giáp đường 15, phía Tây giáp sông Sài Gòn, phía Bắc giáp đường 19, phía Nam
giáp biển Đông.
177

18.8 Page 178

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
được sáp nhập lại gọi là huyện Long Thành. Đồng chí Nguyễn
Văn Thông làm Bí thư Huyện ủy. Tỉnh ủy đã chọn huyện Long
Thành làm điểm mở vùng. Để tăng cường lực lượng vũ trang
cho Long Thành mở vùng, một trung đội của huyện được sáp
nhập vào Đại đội 240 của tỉnh đóng trên địa bàn huyện (đại đội
240 có tới 4 trung đội). Huyện ủy chỉ thị cho các xã phải tăng
cường bổ sung lực lượng du kích, lập danh sách để tiếp nhận,
bổ sung nguồn vũ khí từ huyện.
Thực hiện kế hoạch “chụp điểm” không hiệu quả, địch
chuyển sang kế hoạch “Hai gọng kìm”. Địch chuyển giao cho
quân lính Sài Gòn bảo vệ vùng hậu cứ, sử dụng quân viễn chinh
Mỹ đánh phá vùng sâu. Năm 1967, địch điều quân thêm về
Long Thành, Nhơn Trạch, trong đó có binh lính Thái Lan trong
đồng minh quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á can dự vào chiến
trường miền Nam Việt Nam. Lữ đoàn Mãng Xà của Thái Lan
tập trung càn quét, đánh phá vào lực lượng cách mạng vùng
đồn điền cao su và theo lộ 17 xuống các vùng Nhơn Trạch.
Trước sự kìm kẹp và đánh phá vào nhân dân, Huyện ủy Long
Thanh phát động du kích tổ chức trừng trị những tên ác ôn. Du
kích xã ở Nhơn Trạch, Long Thành đột kích tiêu diệt nhiều tên
ác ôn ở địa phương. Trong phong trào diệt ác chung của Nhơn
Trạch và đánh vào lực lượng bảo an của Đại đội 240, quân dân
địa bàn Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước đã trừng trị nhiều tên
tay sai, ác ôn, gây nhiều tội ác với nhân dân và đánh phá phong
trào cách mạng.
178

18.9 Page 179

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Ngày 05/6/1967, lực lượng du kích Phú Đông, Phú Hữu
phối hợp với bộ đội Nhà Bè dưới sự chỉ huy của đồng chí
Nguyễn Quyết Chiến (Sáu Chiến) tiến đánh tiểu đoàn lính Mỹ
khi chúng tổ chức càn vào ấp Giồng Ông Đông. Lợi dụng địa
hình kênh rạch, lực lượng của ta luồn lách chia cắt đội hình
của địch tiêu diệt 8 tên lính Mỹ, làm bị thương nhiều sinh lực
địch, bắn cháy 1 máy bay lên thẳng. Đêm 26 rạng sáng ngày
27/10/1967, sau thời gian theo dõi, đánh dấu vị trí đóng quân
dã ngoại của lính Mỹ, đồng chí Nguyễn Quyết Chiến, đồng chí
Tám Tâm dùng bùn non ở rạch bôi toàn thân, chống sự đánh
hơi của chó bẹcgiê tiếp cận đội hình địch lấy 2 khẩu M16, gài
trái nổ. Mìn nổ làm chết 9 lính Mỹ và 1 số bị thương, làm đội
hình lính Mỹ hoảng sợ bỏ chạy. Đây là những trận đánh táo bạo
vào lính Mỹ của đồng chí Nguyễn Quyết Chiến - người con
của vùng đất Phú Đông, phối hợp với lực lượng cách mạng địa
phương.
Tháng 10/1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải
thể Khu miền Đông, thành lập 5 phân khu chuẩn bị cho nhiệm
vụ đấu tranh giai đoạn mới. Địa bàn Phú Đông, Phú Hữu, Đại
Phước trực thuộc Phân khu 4. Phân khu 4 bao gồm các địa bàn:
huyện Cao su Bình Sơn, Long Thành, Nhơn Trạch, Cần Giờ,
Nam Thủ Đức, Quận 1, Quận 9 Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Văn
Chiến (Mười Chiến) được cử làm Bí thư, đồng chí Lê Quang
Chữ - Phó Bí thư, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) - Ủy
179

18.10 Page 180

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
viên Thường vụ, đồng chí Lương Văn Nho - Tư lệnh, đồng chí
Nguyễn Hải (Tám Hải) - phụ trách an ninh.
Huyện Long Thành lại được tách ra làm 2 huyện Long
Thành và Nhơn Trạch. Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí
Nguyễn Văn Thông làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Quyết
(Tám Quyết) - Huyện đội trưởng, đồng chí Năm Minh - Huyện
đội phó. Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định điều về một số du
kích bổ sung cho lực lượng vũ trang huyện; đồng thời thành lập
đội biệt động gồm 16 chiến sĩ do đồng chí Học làm Tổ trưởng,
đồng chí Đấu Cỏ làm Tổ phó.
Tình hình Nhơn Trạch rất căng thẳng bởi địch tăng cường
tấn công vào căn cứ cách mạng với mức độ, quy mô lớn và càn
quét, đốt phá xóm ấp. Trong tinh thần chuẩn bị cho đợt tấn công
vào mùa xuân năm 1968, Phân khu 4 đã điều thêm quân số, vũ
khí về Long Thành và chỉ đạo cho địa phương chuẩn bị dự trữ
lương thực. Giữa tháng 01/1968, đồng chí Nguyễn Trọng Tân
(Hai Lực), nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông, được cử làm đặc
phái viên của Trung ương Cục đến căn cứ Rừng Sác (Phước
An) triển khai nhiệm vụ và kế hoạch Phân Khu ủy Phân khu 4
và Đặc khu Rừng Sác.
Đêm giao thừa tết Âm lịch năm 1968, theo kế hoạch đã ấn
định, quân dân toàn miền Nam nổi dậy cùng với các cuộc tấn
công của lực lượng cách mạng. Ở Nhơn Trạch, các chiến sĩ Đại
đội 240 do đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai trực tiếp
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
chỉ huy tiến công chi khu, bốt địch tại nổng Nhà Thờ diệt 20
lính bảo an và cảnh sát, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đoàn 10
dùng nã pháo vào chi khu Nhơn Trạch và kho bom Thành Tuy
Hạ. Du kích các xã hỗ trợ nhân dân nổi dậy bao vây tấn công
đồn địch trên các trục lộ. Sau những bất ngờ trước sự nổi dậy
của quần chúng và tấn công của lực lượng cách mạng, chính
quyền Sài Gòn phản công. Trên chiến trường chung của miền
Nam, lực lượng quân giải phóng bị tổn thất và rút ra khỏi các
mục tiêu. Đối phó với nổi dậy tấn công của quân cách mạng,
địch điều thêm quân về Nhơn Trạch gồm Tiểu đoàn 345 bảo an,
Tiểu đoàn 58 Biệt động quân và 15 xe tăng và 60 xe ủi, âm mưu
càn quét đánh phá các xã ven lộ 17.
Trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân
(1968) theo kế hoạch, đồn Giồng Ông Đông được chọn làm
mục tiêu tấn công của Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác. Tại
đồn, quân lính bố trí thường trực 1 đại đội lính bảo an. Trên địa
bàn Nhơn Trạch, lực lượng vũ trang trên địa bàn chuẩn bị với
tinh thần cao độ chờ lệnh tiến công địch. Nhiều đơn vị vũ trang
bố trí, áp sát mục tiêu, đặc biệt các ấp chiến lược để tấn công,
hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Chuẩn bị đánh đồn địch Giồng Ông
Đông, đồng chí Lê Bá Ước (Trung đoàn 10 Đặc công Rừng
Sác) bí mật vào dân nắm tình hình hoạt động của lính. Qua
thông tin, đồng chí Lê Bá Ước biết chỉ huy đồn là Chuẩn úy
Sáu - quê Bến Tre. Đồng chí Lê Bá Ước cùng người dân tiếp
cận đồn địch, thực hiện công tác binh vận.
181

19.2 Page 182

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Kế hoạch bao vây đồn được triển khai bằng các mũi trinh
sát và xung kích, tiếp cận mục tiêu. Trước khi đánh, đồng chí
Lê Bá Ước làm công tác binh vận, kêu gọi trực tiếp từ loa phát
vào phía đồn: “Chuẩn úy Sáu, tôi biết rõ anh quê ở Bến Tre và
đang chỉ huy lực lượng bảo an ở đây. Ngày Tết cổ truyền, cha
mẹ và vợ con anh đang mong đợi. Hiện nay, cách mạng đang
tổng tiến công mãnh liệt ở mọi nơi, anh hãy buông súng và đưa
lính ra đầu hàng ngay, chúng tôi không tiến công đồn. Bằng
không, tất cả sẽ bị tiêu diệt”. Lính trong đồn nghe nội dung kêu
gọi liên tục, gọi luôn tên của chỉ huy đồn, ban đầu im phăng
phắc. Sau đó, bắt đầu nao núng. Một số lính bỏ đồn, thoát ra
cánh đồng chạy trốn trong đó có chỉ huy đồn cũng tham gia bỏ
chạy. Trong đồn, vẫn còn chỉ huy phó và nhiều lính nổ súng
về phía các đồng chí phát loa. Đồng chí Tám Sơn (Trung đoàn
trưởng Đoàn 10) phát lệnh tấn công đồn. Chiến sĩ dùng DKZ
75 và súng máy 12,7 đồng loạt nổ súng vào mục tiêu. Hai mũi
xung kích áp phá hàng rào, tiêu diệt các lô cốt và lính địch. Lính
địch dùng đại liên từ hầm ngầm phản kích. Hai chiến sĩ trinh
sát hy sinh, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Nở - Chủ nhiệm
trinh sát Trung đoàn. Chỉ huy Trung đoàn hội ý, trước tình thế
bất lợi về vũ khí và chống trả của địch, tạm thời rút lực lượng
ra nhưng phải cử chiến sĩ bí mật tiếp cận, tiêu diệt ổ đại liên
của địch từ hầm ngầm. Đồng thời, tránh sự tiếp viện từ xa bằng
pháo của địch. Đồng chí Tám Sơn ra lệnh lui quân. Lúc bấy giờ
khoảng 4 giờ sáng ngày mùng 3 tháng Giêng. Khoảng 30 phút
182

19.3 Page 183

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
sau, Mỹ cho pháo kích dữ dội xuống khu vực xung quanh đồn
và đưa quân chi viện giải cứu đồn Giồng Ông Đông. Trước khi
lui quân, các chiến sĩ đặc công của Trung đoàn áp sát cho nổ
lựu đạn ở hầm ngầm dập tắt ổ đại liên của địch. Trận tấn công
đồn Giồng Ông Đông không chiếm được mục tiêu nhưng phá
hủy và tiêu diệt sinh lực địch khá nhiều1.
Chấp hành sự chỉ đạo của Phân Khu ủy, sau khi rút kinh
nghiệm qua đợt tấn công lần thứ nhất, Huyện ủy Nhơn Trạch
lên kế hoạch và chuẩn bị bước vào đợt hai (đầu tháng 5/1968),
đợt ba (đầu tháng 8/1968)2. Các hoạt động của chiến dịch nổi
dậy, tấn công trong năm 1968 tập trung vào đầu não quân lính
Mỹ, Việt Nam Cộng hòa vùng đô thị và các mục tiêu trọng
điểm. Do nhiều yếu tố tác động, nhất là tính bất ngờ không còn,
chủ quan trong đánh giá tình hình nên đợt 2 và 3 đã không đem
lại hiệu quả và gây nên những tổn thất về quân số. Ba đợt trong
Tổng tiến công và nổi dậy góp phần quan trọng trong chiến
lược chung, quân dân cách mạng đánh bồi liên tiếp, đập tan ý
chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn
phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải
1  Hoàng Thành (2013), tết Mậu Thân diệt đồn Giồng Ông Đông, Báo Đồng Nai
số thứ Tư, ngày 06/2/2013 (ghi theo lời kể của đồng chí Đại tá Lê Bá Ước - Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân nhân, nguyên Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 10
- Đặc công Rừng Sác).
2  Các đợt trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân của cách mạng
phát động như sau: Đợt 1 từ ngày 30/01 đến ngày 28/3, đợt 2 từ ngày 05/5 đến
ngày 15/6 và đợt 3 từ ngày 17/8 đến ngày 30/9/1968.
183

19.4 Page 184

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành viên chính
thức tham gia hòa đàm tại Paris. Những thắng lợi này góp phần
cho ta thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội nghị Paris. Những
trận tấn công của quân dân Nhơn Trạch trong các đợt nổi dậy
đã gây cho địch nhiều thiệt hại ở địa phương, góp phần cùng
cách mạng miền Nam làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ, chính quyền Sài Gòn. Từ kế hoạch chủ động đưa
quân đội Mỹ cùng lực lượng đồng minh vào chiến trường miền
Nam Việt Nam “Tìm diệt”, “Bình định”, địch chuyển thế “Quét
và giữ” sau đó.
Ngày 10/5/1968, Phân Khu ủy Phân khu 4 có quyết định
tách huyện Long Thành thành huyện Long Thành và Nhơn
Trạch. Theo quyết định này, Huyện ủy Nhơn Trạch gồm:
Đồng chí Nguyễn Công Hạnh (Quyền Bí thư), đồng chí Phan
Minh Chính (Phó Bí thư), đồng chí Dương Văn Thà (Huyện
đội trưởng), các Ủy viên Thường vụ: đồng chí Lê Văn Sanh,
đồng chí Nguyễn Văn Hà; các Huyện ủy viên: đồng chí Nguyễn
Văn Bền, Nguyễn Văn Sơn, Phạm Minh Lý, Nguyễn Thị Nữ,
Huỳnh Văn Tám, Lê Văn Đạt. Huyện ủy chỉ đạo quân dân tiếp
tục “bám trụ chiến trường bằng mọi cách, liên tục tiến công
tiêu diệt Mỹ, Thái, lính Sài Gòn, phân công cán bộ phụ trách
từng khu vực cụ thể, chỉ đạo trung mở vùng yếu ở Phú Đông,
Đại Phước,Vĩnh Thanh.
Lực lượng xã đội Phú Đông, Phú Hữu duy trì và tổ chức
những trận đánh mưu trí, gan dạ vào lính địch trên địa bàn.
184

19.5 Page 185

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Ngày 03/6/1968, khi chi bộ xã đang họp tại căn cứ Sở Dừa với
sự tham dự của 2 đồng chí cán bộ cấp trên. Địch dùng bằng tàu
chiến và 2 xuồng máy càn vào. Đồng chí Nguyễn Quyết Chiến
cùng chiến sĩ du kích bố trí phục kích. Khi địch tiến vào trận
địa, các đồng chí điểm hỏa mìn ĐH10 làm tàu địch bốc cháy.
Lính địch tràn lên tiến vào cứ, 18 chiến sĩ nổ súng tấn công
quyết liệt buộc địch thối lui. Trận đánh địch càn giành thắng lợi
lớn với 34 lính địch bị diệt, 1 tàu chiến bị cháy, bảo đảm an toàn
cho cán bộ, chiến sĩ. Tháng 7/1968, Nguyễn Quyết Chiến, Xã
đội trưởng Phú Hữu, dẫn đội du kích xã tiến công trung đội lính
Mỹ ở ngã ba Giồng Sắn. Đêm 29/12/1968, đồng chí Nguyễn
Quyết Chiến tiếp tục chỉ huy đội du kích tấn công trung đội lính
Mỹ đóng trong nhà ở ấp Giồng Ông Đông. Các đồng chí ém
quân vòng ngoài, đồng chí Chiến tiếp cận mục tiêu, xác định
khu vực lính Mỹ nằm ngủ trong nhà, vượt qua chỗ lính gác,
thổi đèn tắt và gài 2 trái ĐH10, lấy 2 khẩu súng M72 của lính
Mỹ. Mìn nổ và lính Mỹ trong căn nhà bị tiêu diệt, các đồng chí
rút về cứ an toàn. Trận đánh táo bạo và gây tiếng vang lớn, làm
cho lính Mỹ và chính quyền địch ở Nhơn Trạch hoang mang vì
cách đánh xuất thần của lực lượng cách mạng1. Trong đấu tranh
chính trị, các cơ sở cách mạng vận động người dân, hưởng ứng
1  Với những thành tích trong đánh địch, đồng chí Nguyễn Quyết Chiến được
huyện Nhơn Trạch chọn tham dự hội nghị “Mừng công dũng sĩ diệt Mỹ” do Phân
khu 4 tổ chức ở rừng Bưng Lùn - cầu Vạt (Phước Thái) đầu năm 1969. Sau đó,
Nguyễn Quyết Chiến được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
185

19.6 Page 186

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tích cực. Khi địch ném bom vào khu dân cư làm sập 18 căn
nhà, làm chết 7 người dân, đồng bào tổ chức chở xác nạn nhân
lên quận đấu tranh biểu tình buộc địch phải bồi thường thiệt hại
nhà cửa và tính mạng cho nhân dân.
4. Bám trụ đấu tranh, giữ vững phong trào, giành thế
chủ động tiến công (1969 - 1972)
Sau cuộc nổi dậy Tổng tiến công xuân Mậu Thân (1968)
của quân dân cách mạng, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền
Nam Việt Nam. Đế quốc Mỹ chủ trường từng bước “Phi Mỹ
hóa” trong chiến tranh ở Việt Nam, rút dần quân đội ra khỏi
miền Nam Việt Nam để giảm thiểu tổn thất, giữ uy tín; đồng
thời duy trì, hỗ trợ, tăng cường giữ thế và lực cho quân đội Việt
Nam Cộng hòa để đối đầu với lực lượng cách mạng Việt Nam,
giữ thế cho chính quyền Sài Gòn và tranh thủ thời gian tạo ra
sự giằng co ổn định để Mỹ kéo dài tình thế, giữ thế mạnh trong
đàm phán với Việt Nam. Đây là thủ đoạn thâm độc của Mỹ để
từng bước tránh những tổn thất về binh lực đang trên chiến
trường và thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người
Việt”. Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường binh lực với mục
đích giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Nam, thực
hiện các kế hoạch bình định nhằm đánh phá mạnh phong trào
cách mạng. Trên địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành, binh lính
Úc tiến hành các cuộc càn quét lại địa bàn, tạo nên thế tranh
chấp giữa cách mạng và địch hết sức căng thẳng. Quân lính Mỹ
186

19.7 Page 187

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
được bố trí hàng trăm cụm lính tạo thế vừa bao vây lực lượng
cách mạng mở vùng hoạt động, vừa chia cắt các khu dân cư,
ngăn chặn các đường dây tiếp tế đến căn cứ.
Huyện Nhơn Trạch đẩy mạnh công tác binh vận trong các
sắc lính gồm Mỹ, Úc, Thái Lan và binh lính người Việt trong
quân đội Việt Nam Cộng hòa trên địa bàn. Ta rải hơn hai trăm
ngàn truyền đơn viết bằng các thứ tiếng Anh, Thái, Việt vạch rõ
chiến tranh xâm lược của Mỹ là phi nghĩa, gây tội ác với nhân
dân Việt Nam, nêu rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
là chính nghĩa. Truyền đơn kêu gọi binh sĩ Sài Gòn buông súng
về nhà làm ăn, lính Mỹ và Thái chống lệnh hành quân bằng mọi
cách, đấu tranh đòi về nước để khỏi chết vô nghĩa... Cơ sở cách
mạng ở các xã Nhơn Trạch làm công tác binh vận trực tiếp đến
các gia đình binh sĩ địch. Nhiều gia đình kêu gọi người thân đi
lính cho quân đội Sài Gòn đảo ngũ.
Trên chiến trường miền Nam, Mỹ bắt đầu thực hiện dần
việc rút quân. Trên địa bàn Nhơn Trạch, trước khi thực hiện
rút quân, lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ráo riết thực hiện kế
hoạch bình định cấp tốc, tổ chức càn quét, đánh phá với quy
mô lớn. Địch sử dụng cả 3 lực lượng gồm lính địa phương, chủ
lực, quân Mỹ và đồng mình liên tục mở các cuộc hành quân
càn quét từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn. Địch sử dụng
mọi hình thức, thủ đoạn đánh phá, ruồng bố, càn quét kết hợp
với phi pháo kể cả máy bay chiến lược B52 và rải chất độc hóa
học hủy diệt địa hình, nhằm phá nát bàn đạp đứng chân của lực
187

19.8 Page 188

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
lượng cách mạng. Cường độ chiến tranh ngày càng căng thẳng
và ác liệt. Đây là thời kỳ mà địch coi là thời cơ “Tiến lên phía
trước” để đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các địa bàn mục tiêu.
Ở mỗi xã đều có một cuộc cảnh sát do sĩ quan cấp úy (thiếu úy,
trung úy) từ quận đưa xuống chỉ huy. Cán bộ bình định được
tăng cường, ngoài ra ở mỗi xã còn có lực lượng “Phượng hoàng
39” (Tình báo tin tức), địa phương quân nội tuyến. Vùng cư dân
và căn cứ cách mạng ngày bị chia cắt bởi địch tuần hành và chà
xát nhiều lần, các tuyến đường giao thông quan trọng lập nhiều
bốt kiểm soát. Đường dây vận tải vũ khí, lương thực của cách
mạng thường bị gián đoạn. Xã đứt liên lạc với huyện, huyện
đứt liên lạc với Phân khu, Phân khu đứt liên lạc với Trung ương
Cục. Huyện ủy Nhơn Trạch và lực lượng chủ lực phải thực hiện
việc phân tán để bảo toàn lực lượng. Cán bộ, chiến sĩ tản ra
thành tổ nhỏ, đào hầm bí mật để trú nấp trong điều kiện không
móc nối được với cơ sở, người dân, lương thực không có. Ở các
xã, ấp, ngoài lực lượng dân vệ, địch thành lập nhân dân tự vệ
ở xã ấp. Đồng thời, địch tiến hành kiểm tra phân loại nhà dân
ra các hạng A,B,C để theo dõi, kèm kẹp. Loại A là những gia
đình binh sĩ, gia đình ác ôn còn hoặc bị cách mạng diệt, loại B
là những gia đình trung lập, không theo quốc gia và không cảm
tình cộng sản, loại C là những gia đình có người thân theo cộng
sản, kháng chiến hoặc nghi là cách mạng. Chúng dán từng bảng
ngay tại nhà tạo nên sự ngột ngạt, nghi kỵ giữa người dân.
188

19.9 Page 189

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Tháng 6/1969, Ban Chấp hành Phân khu 4 họp kiểm điểm
tình hình, bổ sung kế hoạch tiến công địch. Đồng chí Lê Đình
Nhơn được Trung ương Cục chỉ định làm Bí thư Phân Khu ủy
Phân khu 4. Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo cho lực lượng vũ
trang bám dân đánh địch giữ vững các địa bàn, đứng chân đẩy
mạnh đấu tranh chính trị, nhân dân bám đất đẩy mạnh sản xuất.
Trước tình hình khó khăn về vũ khí, Huyện ủy Nhơn Trạch
phát động các xã tìm nguồn cung cấp để chuyển đến Binh công
xưởng ở căn cứ Rừng Sác. Khu căn cứ Lòng Chảo ở Nhơn
Trạch bị địch tập trung lực lượng, phương tiện đánh phá ác liệt.
Trong tình hình ác liệt của chiến trường, tin Chủ tịch Hồ
Chí Minh mất đến với quân dân Nhơn Trạch. Huyện ủy Nhơn
Trạch không tổ chức hội nghị được vì lực lượng phân tán. Trong
lúc rừng Lòng Chảo vẫn ầm ì tiếng bom, đạn của địch, Thường
trực Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo cho các chi bộ tùy theo hoàn
cảnh của từng nơi mà tổ chức lễ truy điệu. Chính quyền địch
cho cảnh sát tăng cường đi tuần tra các khu dân cư để nắm tình
hình và ngăn không cho tụ tập để hướng về lãnh tụ của cách
mạng ở địa bàn. Nhưng lòng người dân Nhơn Trạch hướng về
Bác Hồ bằng nhiều cách mà bọn địch không thể tìm được lý do
tra vấn hay bắt bớ, làm khó.
Người dân đốt nhang trên bàn thờ trong nhà liên tục trong
nhiều ngày để tưởng nhớ Bác Hồ. Nhiều người tự may băng
tang đeo trên áo. Đặc biệt, tại đình Phú Mỹ, dù bót địch đóng
nhiều lính nhưng người dân hướng về Bác Hồ bằng cách riêng
189

19.10 Page 190

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
mà địch không phát hiện. Các bô lão Chín Xuân, Nguyễn Văn
Liệp (Tám Liệp), Nguyễn Văn Nương bàn với nhau thờ hương
linh của Bác ở đình làng. Bác Chín Phương làm nghề thầy
thuốc, giỏi chữ Nho chọn 3 câu trong cổ văn (Kinh thi), khắc
lên thành ba bức hoành phi, đưa vào đình. Ba bức hoành phi
treo riêng biệt, cùng hàng ngang ở cột đình, mỗi chữ đầu ghép
lại hợp thành Hồ Chí Minh: Hồ nhiên như thiên, Chí vọng thâm
ân, Minh hoài hậu đức. Người dân khi vào đình trong các lễ ở
đình, âm thâm đốt nhang, tưởng nhớ Bác Hồ1. Trong những ngày
để tang Bác, Huyện ủy Nhơn Trạch phát động một phong trào
biến đau thương thành hành động cách mạng. Chỉ trong vòng
15 ngày đầu tháng 9/1969, Đại đội 240 và du kích các xã đã
liên tục đánh nhiều trận ở Phú Hữu, Phước Thọ, Long Phước...
diệt hơn 40 tên địch. Mỗi trận đánh dù lớn hay nhỏ hoặc chỉ gây
một tiếng nổ lúc này đều mang một ý nghĩa rất lớn, khẳng định
lực lượng cách mạng xã vẫn bám được xã, lực lượng huyện
vẫn bám được địa bàn huyện và tinh thần đánh giặc vẫn được
duy trì.
Bắt đầu năm 1970, chính quyền địch tăng cường bắt lính.
Ở Nhơn Trạch, Long Thành, bằng nhiều thủ đoạn, địch bắt
946 thanh niên đi lính (trong đó có 300 thanh niên là học sinh
trung học Long Thành, 114 thanh niên làng Cô Nhi) và 2.302
1  Đình Phú Mỹ 2 nay thuộc xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, được UBND tỉnh
Đồng Nai xếp hạng là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh (QĐ số 3525/
QĐ.UBND ngày 10/10/2005).
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
người phải tham gia lực lượng phòng vệ dân sự; trong đó có
327 phụ nữ. Ngày 21/02/1970, địch sử dụng 200 lượt máy bay
trực thăng, hơn 250 xe tăng, xe ủi và phi pháo yểm trợ cho lực
lượng quân từ nhiều hướng tấn công mạnh khu Lòng Chảo.
Sau nhiều ngày trụ chiến, Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định dời
toàn bộ các cơ quan ban ngành ra khỏi để tránh tổn thất và tiếp
tục bám dân, móc nối liên lạc với các xã và phân khu, có kế
hoạch chỉ đạo tấn công địch từ phía Nam. Quân địch tiến hành
phá ủi với quy mô lớn để lực lượng cách mạng không còn thuận
lợi để đứng chân. Trong chiến dịch đánh phá khu Lòng Chảo,
địch cũng gánh lấy những tổn thất từ những trận đánh của lực
lượng cách mạng 43 xe tăng, xe ủi bị phá hủy, 20 máy bay bị
bắn rơi. Hàng trăm lính địch bị diệt.
Tháng 5/1971, Bộ Chỉ huy Miền bố trí lại chiến trường.
Phân khu 4 sáp nhập với tỉnh Bà Rịa - Long Khánh thành Phân
khu Bà Rịa - Long Khánh1. Địa bàn của Phân khu Bà Rịa - Long
Khánh khá rộng, gồm 3 thị xã: Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu
và các huyện Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Châu Đức,
Long Đất, Xuyên Mộc, Cao Su, Thủ Đức, Duyên Hải. Các địa
bàn Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước thuộc sự chỉ đạo của Phân
khu Bà Rịa - Long Khánh. Sau một thời gian chịu đựng địch
đánh phá ác liệt, nhiều tổn thất, phong trào đấu tranh cách mạng
Nhơn Trạch có những bước chuyển tích cực.
1  Phân khu Bà Rịa - Long Khánh gồm 3 thị xã: Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu
và các huyện: Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Châu Đức, Long Đất, Xuyên
Mộc, Cao Su, Thủ Đức, Duyên Hải.
191

20.2 Page 192

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Năm 1972, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo tập trung củng
cố xây dựng lực lượng, giải quyết vấn đề lương thực. Huyện
ủy Nhơn Trạch thành lập Ban vận động thanh niên do đồng chí
Sáu Báu (Trưởng Ban Tuyên giáo) làm Trưởng ban, đồng chí
Tư Ngà, cán bộ thanh niên, làm Phó ban. Huyện chọn căn cứ
Phước An làm nơi tổ chức học tập quân sự chính trị cho thanh
niên, hình thành khung huấn luyện lấy tên là Đại đội 241 do
đồng chí Hai Bền làm Đội trưởng, đồng chí Tư Hồng làm Chính
trị viên. Chủ trương được triển khai xuống cơ sở nên chỉ trong
vòng 2 tháng đầu năm 1972, nhiều xã rút tân binh xây dựng đội
du kích về bổ sung cho huyện. Cách mạng huyện Nhơn Trạch
chủ trương tiếp tục xây dựng cơ sở ở các địa bàn với mục đích
nắm được lực lượng phòng vệ dân sự của địch nhằm thực hiện
từng bước phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp tại chỗ. Để thực
hiện chủ trương này cần phải thành lập chi bộ mật và đẩy mạnh,
sử dụng hiệu quả công tác binh vận và tuyên truyền, phát động
được quần chúng địa phương. Địa bàn Phú Hữu, Giồng Ông
Đông thành lập chi bộ gồm 4 đồng chí: Trần Thanh Liên (Bí
thư), Trần Thanh Nhung, Trần Kim Thanh (Tám Hiến), Trương
Thị Kiếm. Chi bộ đã thực hiện tốt nhiệm vụ phát động quần
chúng đấu tranh, binh vận và nắm tình hình địch trên địa bàn.
Một số thanh niên ở địa phương được vận động thoát ly, tham
gia vào lực lượng vũ trang cách mạng1.
1  Tư liệu do Trần Kim Thanh cư trú tại xã Phú Đông cung cấp ngày 01/10/2022.
192

20.3 Page 193

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đầu tháng 3/1972, Huyện ủy Nhơn Trạch đã tiếp nhận đội
đặc công thuộc Trung đoàn 16 Đoàn 429, đặc công Miền đến
hoạt động ở địa phương. Trung đội 31 nằm trong đội hình X2
(tức Đại đội 240) sau 3 lần nghiên cứu mục tiêu, chia thành 2
mũi tấn công kho bom Thành Tuy Hạ, phá hủy hơn 10.000 tấn
đạn pháo, gây tiếng vang lớn và cổ vũ tinh thần đấu tranh mạnh
mẽ. Ngày 14/6/1972, du kịch Phú Đông, Phú Hữu phối hợp với
Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác tổ chức đánh kho xăng Nhà Bè.
Từ trận địa bố trí, Đoàn 10 đã nã 26 trái cối 82 làm cho kho
xăng Nhà Bè bốc cháy, phá hủy của địch khoảng 10 triệu lít
xăng, dầu. Phong trào tấn công địch, đặc biệt diệt ác phá kìm
được đẩy mạnh. Đến tháng 6/1972, quân dân cách mạng Nhơn
Trạch diệt hơn 100 tên địch, hàng chục tên ác ôn bị trừng trị, bị
bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ dân sự bị phá rã. Dưới sự chỉ
đạo của cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng tham gia làm nòng
cốt trong 43 cuộc đấu tranh chính trị với mức độ khác nhau,
làm cho chính quyền địch đối phó vất vả và phải đáp ứng một
số yêu cầu người dân, công nhân đưa ra.
Tháng 7/1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí Phạm
Thanh Lý, quyền Bí thư Huyện ủy2 triệu tập hội nghị, thảo luận
và xác định, phân loại địa bàn để có những đối sách thích hợp
1  Đội gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Đơ (Đội trưởng), Phan Xuân Nghĩa
(Chính trị viên), Nguyễn Hữu Hòa, Nguyễn Văn Vận, Long, Tình, Ly. Sau này, bổ
sung đồng chí Võ Nhất Quyết (Đại đội phó Đại đội 240 làm Đội trưởng), đồng
chí Ba Thành (cán bộ xã Phú Mỹ) phụ trách hậu cần.
2  Thay đồng chí Phạm Minh Chính, Bí thư Huyện ủy hy sinh vào năm 1971.
193

20.4 Page 194

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
trong việc đánh phá bình định của địch. Vùng Phú Đông, Đại
Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Phú Thạnh cần đánh phá bình
định kết hợp với yêu cầu phát động quần chúng, cơ sở binh vận
trong lực lượng phòng vệ dân sự. Chú ý xây dựng cơ sở và nắm
nghĩa quân cùng dân vệ để phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của
địch. Các vùng khác của Nhơn Trạch gồm:
- Các xã Phú Hội, Long Tân, Phú Mỹ và Phước Thiền xác
định là vùng trọng điểm số 1 đánh phá bình định nông thôn.
Yêu cầu đặt ra là lực lượng hoạt động công khai phải làm chủ
cả ban đêm và bàn ngày, đánh phá bình định cần đi đôi với xây
dựng và phát triển lực lượng cách mạng.
- Các xã Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiểng
là trọng điểm thứ 2 cần sử dụng nội tuyến kết hợp với lực lượng
vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt các đoàn bình
định nông thôn.
- Riêng vùng Vĩnh Thanh là nơi có đông đồng bào miền
Bắc di cư, phần lớn theo đạo Thiên Chúa thì bố trí một số cán
bộ có kinh nghiệm để vận động người dân bung ra trồng trọt ở
vùng Bàu Sen, Hang Nai.
Nhơn Trạch tuy có nhiều khó khăn nhưng hoàn toàn có khả
năng theo tình hình của mỗi vùng để đánh phá chương trình
bình định của địch, phát động nông dân, ngư dân bám ruộng
đồng trồng tỉa, bám sông rạch đánh bắt cá tôm. Chú ý bố trí
194

20.5 Page 195

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ nhân dân làm ăn ở những cánh
đồng rộng của huyện.
Trên chiến trường miền Nam, lực lượng cách mạng ngày
càng mạnh, chính quyền Mỹ - Việt Nam Cộng hòa lâm vào những
khủng hoảng. Ngày 20/10/1972, Tổng thống Ních-xơn của Hoa
Kỳ thỏa thuận với chính phủ cách mạng về Hiệp định Pari 1sẽ
được ký chính thức vào ngày 31/10/1972. Trước những biến
chuyển tình hình có lợi cho cách mạng, Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ đạo
phải giữ vững những vùng đất đã giải phóng và mở rộng vùng
tranh chấp. Đảng bộ và quân dân Nhơn Trạch thực hiện đợt
“Chồm lên chiếm lĩnh”. Huyện ủy Nhơn Trạch đã tăng cường
cán bộ và lực lượng quyết tâm chiếm lĩnh 7 xã 11 ấp, giải phóng
2 ấp. Mỗi xã có hàng trăm quần chúng giúp đỡ lực lượng cách
mạng đào hầm, công sự để bám dân phát động đấu tranh. Nhiều
nơi, quần chúng nổi trống mõ, phát loa kêu gọi binh sĩ làm
cho lính biệt kích đêm bỏ chạy. Thế nhưng, chính quyền địch
vẫn ngoan cố và tổ chức đánh phá ác liệt nhưng tháng cuối
năm. Từ ngày 31/10 đến ngày 02/12/1972, ở Nhơn Trạch, Long
Thành địch điên cuồng tàn phá 456 nhà, trên 3.000 giạ lúa, làm
6 người chết, 12 bị thương, trên 20 mẫu vườn bị hư hỏng.
1  Nội dung của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Ngày 13/5/1968 bắt đầu chính thức của Hội nghị tại Paris giữa đại diện của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bộ trưởng Nguyễn Xuân Thủy) và Phái
đoàn Mỹ (Ha-ri-man).
195

20.6 Page 196

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Cuối năm 1972, chính quyền Mỹ không chịu ký kết Hiệp
định Pari như đã thỏa thuận. Được trên chỉ đạo nhằm tránh sự
phản kích của địch, Huyện ủy Nhơn Trạch điều lực lượng giãn
ra khỏi các mục tiêu, đồng thời tăng cường thế trận toàn diện
sẵn sàng đánh địch phản kích và nhanh chóng chớp thời cơ khi
thuận lợi. Huyện đẩy mạnh công tác binh vận, hướng dẫn tổ
chức cho nhân dân bung về vườn, ruộng cũ sinh sống. Trên địa
bàn Nhơn Trạch, lực lượng cách mạng bám dân phát động đấu
tranh chính trị đồng thời với những trận đánh của lực lượng vũ
trang, các sắc lính, cảnh sát địch hoang mang lo sợ, dao động,
không dám bung ra càn quét rộng như trước. Thế và lực lượng
cách mạng Nhơn Trạch đã được mở, chuẩn bị cho một giai
đoạn tiến công giải phóng quê hương.
5. Tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương (1973 -
1975)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của cách mạng Việt Nam giành
được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực trên các
mặt trận. Vừa đấu tranh ngoại giao vừa giành thắng lợi quân sự
trên chiến trường, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng lâm
vào tình thế bất lợi. Chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết
của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về “Quyết tâm mở
cuộc phản công chiến lược trên toàn miền Nam, đánh bại cơ bản
chương trình bình định nông thôn của địch, hỗ trợ đắc lực cho
cuộc hội đàm tại Hội nghị Paris”. Đặc biệt, trên chiến trường
196

20.7 Page 197

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
miền Đông Nam Bộ, chiến dịch Nguyễn Huệ1 của lực lượng
vũ trang cách mạng đã tạo thế uy hiếp mạnh đối với chế độ Sài
Gòn. Thắng lợi của chiến dịch Nguyễn Huệ ở Đông Nam Bộ đã
tiêu diệt sinh lực quân đội Sài Gòn, giải phóng những một vùng
rộng lớn ở Tây Bắc Sài Gòn, tạo thế đứng chân cho bộ đội chủ
lực, tạo điều kiện cho nhân dân các địa phương nổi dậy đánh
phá bình định. Trước tình thế bất lợi trên chiến trường miền
Nam, thất bại trong tấn công không kích phá hoại miền Bắc
và dư luận thế giới lên án, Mỹ buộc phải thực hiện những thỏa
thuận trước đó với Việt Nam và đi đến ký kết Hiệp định Paris.
Theo tinh thần của hiệp định: Ngày 27/01/1973, đúng 7 giờ
sáng (giờ Hà Nội, 8 giờ sáng giờ Sài Gòn), cờ mỗi bên cắm chỗ
nào thì khu vực ấy thuộc sự kiểm soát bên đó. Với điều khoản
này, về phía chính quyền Sài Gòn và phía cách mạng, mỗi bên
tùy theo địa bàn, khu vực đã chiếm giữ thì tiến hành cắm cờ.
Sự đan xen các khu vực, địa bàn trước giờ thi hành khi
được thực hiện cắm cờ xác định sẽ hình thành “thế da beo”
giữa chính quyền địch và cách mạng. Thế nhưng, để giữ “thế
da beo” với địa bàn rộng hơn, cả chính quyền địch và phía
cách mạng tìm cách ứng phó. Địch điều chiến đoàn 48 thuộc
sư đoàn 18 từ Biên Hòa đến Nhơn Trạch âm mưu giành dân,
1  Chiến dịch Nguyễn Huệ do tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh, Trần Độ làm
Chính ủy. Thời gian chia làm 3 đợt: Đợt 1 (từ ngày 01/4 đến ngày 05/5/1972),
đợt 2 (từ ngày 16/5 đến ngày 10/9/1972), đợt 3 (từ ngày 01/10/1972 đến ngày
19/01/1973). Quân giải phóng loại khỏi vòng chiến đấu 13.000 lính địch (bắt
5.381), thu 282 xe quân sự, 45 khẩu pháo, hơn 6.000 súng các loại, bắn rơi và
phá hủy hơn 600 máy bay.
197

20.8 Page 198

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
cắm cờ. Máy bay của địch thay nhau ném bom, dọn đường cho
xe tăng bộ binh tràn vào các thôn xóm. Huyện ủy Nhơn Trạch
thông báo đến nhân dân, chỉ thị cho các lực lượng vũ trang tổ
chức tấn công địch. Lực lượng vũ trang huyện tổ chức dồn
địch, đánh địch, bao vây chống địch lấn chiếm, hỗ trợ đồng bào
cắm cờ, giữ đất, giữ làng. Từ quận Nhà Bè của Sài Gòn, địch
đổ quân tràn vào xã Phước Khánh, Giồng Ông Đông và 2 tiểu
đoàn từ hướng Thủ Đức địch sang kết hợp với lính quận Nhơn
Trạch, lấn ra các xã ở vùng Lòng Chảo, vùng ven sông Đồng
Môn. Nhằm giữ quận lỵ Nhơn Trạch và Thành Tuy Hạ, Phước
Khánh, Giồng Ông Đông, địch sử dụng chiến đoàn 316, 1 đại
đội biệt động quân, 1 đại đội bảo an, 1 đại đội biệt kích thủ đô
và củng cố 8 trung đội dân vệ. Trên sông Lòng Tàu, sông Đồng
Môn, địch đưa thêm về 3 Giang đoàn tuần tra liên tục. Tại ấp
Phước Lương, địch xây dựng 3 trạm ra-đa 15, 17 và 19. Với số
quân được tăng lên gấp 2 lần, địch tổ chức đánh phá bên ngoài
bằng những thủ đoạn “hàng quân tràn ngập lãnh thổ” để nhằm
xóa “thế da beo”, đẩy mạnh cường độ chiến tranh. Địch đưa
Thiếu tá Huỳnh Văn Phú (thuộc quân đội Cao Đài Tây Ninh)
làm Quận trưởng và tiến hành lập vành đai Nhơn Trạch, Quảng
Xuyên1 nhằm bảo vệ Sài Gòn.
1  Quận Quảng Xuyên gồm 4 xã An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn và Tam
Thôn Hiệp, được chính quyền Sài Gòn thành lập ngày 29/01/1959, trực thuộc tỉnh
Phước Tuy (Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay), trực thuộc tỉnh Biên Hòa (Đồng Nai
ngày nay), trực thuộc tỉnh Gia Định (TP.Hồ Chí Minh ngày nay) năm 1965. Hiện
nay, thuộc huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.
198

20.9 Page 199

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn vẫn tiến hành chính sách trong chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, không tuân thủ các điều khoản thỏa
thuận. Địch tăng cường bộ máy kìm kẹp, quân sự hóa bộ máy
hành chính các cấp. Quân lính địch tăng cường lấn chiếm, bình
định, càn quét khiến ta mất dần những lõm, khu vực phân chia
theo thế “da beo” trên địa bàn. Tháng 02/1973, tại Xóm Hố xã
Phú Hội, Huyện ủy Nhơn Trạch tiến hành tổ chức cho các đơn
vị học tập chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa về “Tập
trung chỉ đạo đánh phá bình định, phát triển phong trào làm
chủ xã, ấp trên khắp nông thôn”. Nhiệm vụ trọng tâm của thời
kỳ này là chống lấn chiếm, phá bình định, tăng cường công
tác chính trị, binh vận, vạch trần chính sách mỵ dân của địch.
Được tin nội tuyến báo về địch tấn công, Huyện ủy Nhơn Trạch
chuyển địa điểm họp và lên kế hoạch cho Đại đội 240 phối hợp
du kích xã phục kích. Khoảng 9 giờ, khi lính lùng sục vào thì
lực lượng vũ trang tấn công, diệt 9 tên, bắt 7 tên, thu 17 súng
các loại. Đến năm 1973, địch không còn khả năng xây dựng ấp
chiến lược trên địa bàn xã Phú Đông.
Tháng 6/1973, Trung ương Cục miền Nam thực hiện một số
điều chỉnh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Thị xã Biên
Hòa tách ra và do Trung ương Cục miền Nam trực tiếp chỉ đạo.
Các huyện Long Thành, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Nhơn Trạch,
Duyên Hải, Dĩ An, Tân Uyên sáp nhập thành tỉnh Biên Hòa
199

20.10 Page 200

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
nông thôn. Đầu tháng 9/1973, Quân khu họp rút kinh nghiệm
và đề ra trọng tâm trong thời kỳ này là: “Chống lấn chiếm,
cùng một lúc, phá bình định”. Sau đó có Nghị quyết 21 của
Trung ương Cục chỉ đạo việc phá bình định. Tỉnh Biên Hòa
chọn Nhơn Trạch, Long Thành làm điểm cho công tác “Chống
lấn chiếm, cùng một lúc, phá bình định” theo tinh thần nghị
quyết của Trung ương Cục miền Nam. Huyện ủy Nhơn Trạch
phát động phong trào “Tìm diệt bình định áo đen” coi những
tên này nguy hiểm như những tên ác ôn có nhiều nợ máu và lực
lượng vũ trang tập trung tấn công đồn bót, đón đánh bọn địch
phục kích trên các lộ giao thông.
Bước sang năm 1974, trên địa bàn Nhơn Trạch, quân lính
địch được bổ sung, điều động, bố trí chốt chặn trên các kho
tàng, trục lộ quan trọng. Theo tỉnh lộ 19 từ ngã ba đường ủi
Phước Lai đến phía Nam cù lao Ông Còn, địch đưa Chiến đoàn
48, thuộc Sư 18 chốt giữ vùng Xoài Minh, Vũng Gấm, Xóm
Cháy, Đồng Mu Rùa. Tiểu đoàn 315 về bãi pháo Bến Sắn và
rải quân ra nhiều địa điểm. Tiểu đoàn 349 về đóng dọc theo
sông Đồng Môn. Một đại đội từ Rừng Sác về đóng ở xã Phước
Khánh. Nhằm tạo thế đánh địch, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ
đạo tạo thế liên vùng gồm 3 xã thành 1 vùng, có 1 Huyện ủy
viên chỉ đạo trực tiếp chống bình định, chống lấn chiếm, bảo
vệ rừng.
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Tình hình chung trên chiến trường miền Nam nói chung,
tỉnh Biên Hòa và Long Thành năm 1974 đã có những chuyển
biến tích cực. Phong trào đấu tranh cách mạng ở Nhơn Trạch
chuyển thế tấn công địch. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy, huyện
Nhơn Trạch tổ chức học tập chỉ thị TT/75 và thông báo kế
hoạch về chiến dịch mùa khô. Trọng tâm của chiến dịch là đánh
bại cơ bản âm mưu bình định lấn chiếm của địch, giành dân,
giành quyền làm chủ của quần chúng, xây dựng và phát triển
lực lượng võ trang để giành ưu thế trên chiến trường. Ngày
06/12/1974, Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức lễ xuất quân, mở
màn chiến dịch thắng lợi: 9 ấp của 3 xã được giải phóng ; trên
6 ngàn dân giành được quyền làm chủ. Tình thế cách mạng đã
chuyển sang một giai đoạn mới. Huyện ủy Nhơn Trạch nhận
định đây là thời cơ thuận lợi nhất để bao vây, tấn công giặc.
Lực lượng vũ trang đánh địch, hỗ trợ đồng bào trên các mặt
trận đấu tranh.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Trung cương Cục, Khu
ủy và Quân Khu ủy miền Đông về chuẩn bị cho thời cơ cách
mạng, Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa họp quyết định: Phát động
tư tưởng tiến công giải phóng quê hương trong toàn đảng, toàn
quân, toàn dân dựa vào lực lượng 3 mũi tại chỗ là chủ yếu và
hình thành các Ban Quân quản để thành lập Ủy ban cách mạng
lâm thời sau ngày giải phóng. Địa bàn Nhơn Trạch, Long Thành
có vị trí quan trọng đặc biệt ở hướng Đông Sài Gòn cần được
201

21.2 Page 202

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tăng cường lực lượng vũ trang, cán bộ chỉ đạo từ huyện đến cơ
sở để công kích, khởi nghĩa từng phần, khi thời cơ cho phép,
kịp thời đồng loạt tiến công, giải phóng từng mảng, từng huyện.
Trên chiến trường, những chiến thắng của quân Giải phóng
đã làm cho quân lực Việt Nam Cộng hòa lâm vào thế bị động.
Lực lượng vũ trang chủ lực và địa phương Nhơn Trạch tấn công
địch trải rộng trên khắp địa bàn thu nhiều thắng lợi. Những
ngày đầu tháng 4/1975, nhiều nơi bộ đội, du kích tấn công địch
và chiếm lĩnh địa bàn. Nhân dân địa phương tham gia tích cực
trong việc đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến. Tuyến
phòng thủ Xuân Lộc được chính quyền Việt Nam Cộng hòa
và cố vấn quân sự Mỹ dựng nên làm bức tường thép bảo vệ
thủ phủ Sài Gòn bị quân cách mạng đập tan1. Quân lính địch
từ Xuân Lộc, Long Khánh tan rã, bỏ chạy hướng về Sài Gòn
qua hướng Long Thành, Nhơn Trạch nhiều trong tình cảnh hỗn
loạn. Chiều ngày 20/4/1975, đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh
mặt trận phía Đông đã nhận được bức điện khẩn của đại tướng
Văn Tiến Dũng trong chỉ đạo thực hiện giải phóng Sài Gòn
“Ngày 28, 29 phải chiếm bằng được Nhơn Trạch, vị trí phía
1  Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thiết lập tuyến phòng thủ Xuân Lộc với quyết
tâm bảo vệ thủ phủ Sài Gòn với sự tăng cường quân lực. Sau 12 ngày đêm tấn
công (từ ngày 09/4 đến ngày 21/4/1975), lực lượng cách mạng đã đập tan tuyến
phòng thủ này, mở toang cánh cửa tiến về Sài Gòn từ hướng Đông Bắc. Chính
quyền tỉnh Long Khánh tan rã, quân lính Sài Gòn tại đây tháo chạy theo các
hướng về Vũng Tàu, Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Hố Nai.
202

21.3 Page 203

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đông Nam Sài Gòn để đặt pháo 130 li bắn vào sân bay Tân Sơn
Nhất và các mục tiêu quân sự”.
Trên tỉnh lộ 17, tiểu đoàn 240 đánh chiếm Phước Thiền, giữ
và bảo vệ cầu, hỗ trợ cho các xã Phú Hội, Long Tân nổi dậy. Cơ
quan Huyện ủy Nhơn Trạch đóng ở Xóm Hố, Phú Hội. Từ Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch theo dõi, chỉ đạo sát sao từng bước tiến
trong thời gian nổi dậy giải phóng quê hương. Những hướng
tiến quân của lực lượng cách mạng tiến về Nhơn Trạch, phối
hợp với lực lượng vũ trang địa phương, sự nổi dậy của quần
chúng. Tình hình ở Nhơn Trạch trong tình trạng tranh chấp ác
liệt giữa cách mạng và quân địch.
Theo hướng Nhơn Trạch, Trung đoàn 101, Trung đoàn 95
trợ chiến có 12 xe tăng hỗ trợ tiến vào lộ 17. Trung đoàn 95
theo hướng lộ 19, cắt qua Phước An, Vĩnh Thanh tham gia bao
vây, tấn công kho bom Thành Tuy Hạ. Trung đoàn 101 theo
đường 17 tiến về tấn công chi khu Nhơn Trạch. Lúc bấy giờ,
Huyện ủy Nhơn Trạch lại nhận được nhiệm vụ qua điện khẩn:
“Chuẩn bị 100 ghe thuyền để đưa bộ đội qua sông Đồng Nai.
Chọn nơi đặt pháo cho Quân đoàn 2 bắn vào Sài Gòn”. Huyện
ủy Nhơn Trạch liền hội ý chớp nhoáng và đã chọn các điểm đặt
pháo: nổng nhà thờ Phú Hội, nổng Giang Lò, đồi Bình Phú, đồi
Bình Tuy.
203

21.4 Page 204

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Ngày 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Sư đoàn
325 của Quân đoàn 2 với mục tiêu tấn cống vào chi khu Long
Thành, chi khu Nhơn Trạch và yếu khu kha hậu cần Thành Tuy
Hạ để vượt phà Cát Lái tiến vào Sài Gòn.
Ngày 27/4/1975, trên tỉnh lộ 17, Trung đoàn 101 tiến đến
khu vực ấp Bến Sắn gặp sự chống trả của địch quyết liệt. Trung
đoàn 101 bao vây và dùng pháo tấn công, diệt phá đồn, giải
phóng xã Phước Thiền. Các xã dọc theo trục lộ nối tiếp nhau
vùng lên giải phóng. Đồng bào, du kích xã Phú Hội, Long Tân
nổi dậy giải phóng. Chỉ trong 1 đêm, có 219 tên lính ra trình
diện, nộp súng và 173 tên bị bắt sống. Nhân dân Nhơn Trạch hỗ
trợ, tiếp tế cho lực lượng pháo binh của Quân đoàn 2 kéo pháo
130 li lên nổng nhà thờ Phú Hội, nổng Giang Lò, nổng Bình
Phú, nổng Vĩnh Tuy chuẩn bị trận địa tấn công vào các mục
tiêu ở Sài Gòn. Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo Tiểu đoàn 240
hành quân gấp về Vĩnh Thanh, bao vây chặn đường rút chạy
của địch. Đến 14 giờ cùng ngày, đoàn quân giải phóng gồm 6
xe tăng, 8 xe bọc thép có bộ binh yểm trợ, tiến về chi khu Nhơn
Trạch. Khi vừa qua khỏi xã Long Tân, nơi tiếp giáp với quận
lỵ Nhơn Trạch, lợi dụng địa hình từ trên dốc cao, địch dùng
M-72, đại liên bắn xuống và máy bay địch đến cắt bom buộc
phải quay lại tại Xóm Hố, xã Phú Hội. Ban Chỉ huy quyết định
đưa bộ binh lên tấn công địch. Lính địch ở quận lỵ Nhơn Trạch
chống cự quyết liệt.
204

21.5 Page 205

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Ngày 28/4/1975, thế trận vẫn còn giằng co quyết liệt giữa
các mũi tiến công giữa quân Giải phóng và địch tại các mục tiêu
quan trọng của huyện Nhơn Trạch. Sư đoàn 325, sau khi bàn
giao Long Thành tiếp tục tiến về tỉnh lộ 17. Chiến trường Nhơn
Trạch vẫn còn căng thẳng. Vào buổi chiều, trước sức tấn công
mãnh liệt của quân Giải phóng, quân lính địch từ chi khu Nhơn
Trạch tháo chạy hoảng loạn về phía Cát Lái. Ủy ban Quân quản
Nhơn Trạch được thành lập để kịp thời lãnh đạo gồm: Đồng
chí Phạm Văn Đạm (Ba Đạm) làm Chủ tịch, Năm Thành (Phó
Chủ tịch), các ủy viên: Trần Trọng Nhân (Tư Nhân), Phạm Văn
Duyên, Năm Hải, Sáu Dân, Sáu Báo, Nguyễn Thị Thanh Vân,
Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm.
Quân giải phóng tiếp tục tấn công vào mục tiêu địch tại
Nhơn Trạch: Trung đoàn 101 bao vây quận lỵ. Trung đoàn 95
vẫn chưa chiếm được kho bom Thành Tuy Hạ. Hậu cần của
Quân đoàn chuyển đến địa bàn Phú Hội, Long Tân. Hàng trăm
người dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước và lân cận tình
nguyện tham gia công tác tiếp tế lương thực, phục vụ hậu cần.
Ngày 29/4/1975, quân Giải phóng tổng lực tấn công địch ở
Nhơn Trạch. Từ các trận địa, vào lúc 4 giờ sáng, pháo của Quân
đoàn 2 khai hỏa tấn công kho bom Thành Tuy Hạ. Các chiến sĩ
dùng B40, B41, phá nốt những lô cốt còn lại. Số quân địch còn
lại rút xuống hầm ngầm. Xe tăng cùng bộ binh của Quân đoàn 2
205

21.6 Page 206

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tràn lên. Các chiến sĩ Trung đoàn 101 tiến vào giải phóng quận
lỵ Nhơn Trạch vào lúc đó là 8 giờ 10 phút. Lúc 11 giờ, Ủy ban
Quân quản cùng cán bộ, nhân dân vào tiếp quản quận lỵ Nhơn
Trạch. Nhơn Trạch hoàn toàn giải phóng. Mặt trận hướng Đông
- Nam Sài Gòn được mở. Lực lượng cách mạng trên đà chiến
thắng, những cánh quân Giải phóng từ hướng Long Thành,
Nhơn Trạch chuẩn bị cho những trận đánh tiến về cứ điểm cuối
cùng, quan trọng của chính quyền Sài Gòn.
Ngày 30/4/1975 đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Những cách quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Quân lực Việt
Nam Cộng hòa tan rã. Tổng thống Dương Văn Minh của chính
quyền Sài Gòn tuyên bố hạ vũ khí đầu hàng, bàn giao chính
quyền cho cách mạng. Sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ và
chính quyền tay sai, người dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước
cùng với nhân dân Nhơn Trạch vui mừng lớn trước thắng lợi
của cách mạng.
Cùng cách mạng của Nhơn Trạch, cả nước hoàn thành
mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, quân dân
Phú Đông đã chịu nhiều thử thách cam go, có những giai đoạn
khó khăn về nhiều mặt trước sức đánh phá của kẻ thù, đặc biệt
quân đội Mỹ, chính quyền Sài Gòn tăng mức độ, quy mô chiến
tranh. Với lòng yêu nước được tiếp nối bởi truyền thống đấu
tranh cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, quân dân xã
206

21.7 Page 207

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Phú Đông tiếp tục vững bước đấu tranh bằng nhiều hình thức,
phương pháp trên nhiều mặt trận để kháng chiến chống kẻ thù
xâm lược và tay sai bán nước. Từ chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
quân dân Phú Đông đã bám trụ vào quần chúng, gây dựng cơ
sở, tuyên truyền, phát động đấu tranh chính trị, binh vận và
tham gia tích cực trong mọi mặt trận chống địch. Lực lượng vũ
trang cách mạng địa phương được xây dựng, ngày càng trưởng
thành phối hợp với bộ đội địa phương, lực lượng vũ trang chủ
lực đứng trên địa bàn Nhơn Trạch thực hiện nhiều tấn tiến công
vào kẻ thù. Quân dân Phú Đông hỗ trợ, phối hợp với Đoàn 10
Rừng Sác tấn công 29 trận trên sông Lòng Tàu, phối hợp với
bộ đội Nhà Bè đánh 17 trận vào kho xăng Nhà Bè, phối hợp với
bộ đội Thủ Đức đánh 24 trận, phối hợp với Tiểu đoàn 240 của
tỉnh Biên Hòa, Đại đội 240 của huyện đánh 56 trận vào địch.
Lực lượng vũ trang của Phú Đông độc lập tác nhiều trận đánh
vào địch như gài trái, phục kích, phá ấp chiến lược, diệt ác ôn.
Những con số thống kê chưa đầy đủ nhưng cho thấy những
đóng góp quan trọng của quân dân Phú Đông trong phong trào
cách mạng trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ: tiêu diệt 586
tên địch, trong đó có 186 lính Mỹ, 9 lính Thái Lan, 36 tên ác ôn,
thu 274 súng các loại, nhiều khí tài quân sự, bắn chìm 1 tàu, 6
thuyền máy, bắn cháy 3 máy bay, phá hủy 3 xe tăng thiết giáp
của địch.
207

21.8 Page 208

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Đất nước được thống nhất, quân dân Phú Đông cùng hòa
trong niềm vui lớn của dân tộc ngày đại thắng của Xuân 1975
- kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh đầy gian khổ với những mất
mát, hy sinh nhưng hào hùng, tô thắm trang sử chống ngoại
xâm của quê hương. Quân dân Phú Đông bước vào thời kỳ đất
nước Việt Nam độc lập, tự do, sạch bóng quân thù xâm lược,
bắt tay xây dựng cuộc sống.
208

21.9 Page 209

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Chương V
PHÚ ĐÔNG THỜI KỲ XÂY DỰNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 1994)
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống
nhân dân (1975 - 1985)
Ngày 30/4/1975 đánh dấu cột mốc lịch sử trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ của cách mạng Việt Nam. Sau 21 năm
trường kỳ kháng chiến, hai miền Nam - Bắc của đất nước được
thống nhất. Hòa trong thắng lợi chung của đất nước, quân dân
xã Phú Đông - lúc bấy giờ thuộc ấp Giồng Ông Đông (xã Phú
Hữu), ấp Thị Cầu (xã Đại Phước) bước vào thời kỳ độc lập, tự
do trên quê hương không còn bóng quân thù xâm lược, cùng
bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới. Sau tháng 4/1975, quân
dân Phú Đông thực hiện nhiệm vụ trong bộ máy quản lý của
chính quyền cách mạng xã Phú Hữu, xã Đại Phước thuộc huyện
Nhơn Trạch.
Tình hình Nhơn Trạch có nhiều biến động do nhiều yếu tố
xã hội tác động. Trong niềm vui của những ngày đất nước khi
chiến tranh kết thúc, người dân tham gia cách mạng, hoạt động
ở vùng căn cứ quay lại nơi ở trước đây tại xã. Bên cạnh đó,
những người dân lánh nạn chiến tranh từ các nơi khác trở về quê
hương. Một bộ phận người dân tại chỗ có người thân tham gia
209

21.10 Page 210

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
quân lính, làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước
đây lo lắng trước tình hình cách mạng quản lý. Đồng thời, một
bộ phận người dân từ các nơi khác, đặc biệt vùng đô thị Sài Gòn
trước những biến động xã hội, tản về các xã của huyện Nhơn
Trạch, trong đó có Phú Đông, Đại Phước, Phú Hữu tạm ở.
Thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy Miền Đông, các tỉnh và
huyện tiến hành thành lập các Ủy ban Quân quản để quản lý địa
bàn sau giải phóng. Tại Nhơn Trạch, Ủy ban Quân quản huyện
Nhơn Trạch thành lập gồm các đồng chí: Phạm Văn Đạm (Chủ
tịch), Năm Thành (Phó Chủ tịch). Các ủy viên gồm: Trần Trọng
Nhân, Nguyễn Thị Thanh Vân, Phạm Văn Duyên, Sáu Báu,
Năm Khôi, Năm Hải, Sáu Dân, Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm. Tại
các xã của Nhơn Trạch, Ban Quân quản hình thành, gồm những
cán bộ, du kích và cơ sở cách mạng triển khai quản lý địa bàn.
Một số nhiệm vụ cấp thiết Ban Quân quản các xã thực hiện ổn
định tình hình xã hội, chính trị, và để người dân tin tưởng vào
đường lối cách mạng trong thời kỳ mới:
- Tuyên truyền chính sách 10 điểm của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam1. Trong đó, nhấn
mạnh đến chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc.
1  Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập
vào tháng 6/1969, do ông Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, bác sĩ Phùng Văn Cung,
Nguyễn Văn Kiết và cụ Nguyễn Đóa làm Phó Chủ tịch. Là một trong 4 thành viên
tham gia ký kết Hiệp định Paris năm 1973 bàn về chấm dứt chiến tranh ở miền
Nam Việt Nam.
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Kêu gọi quần chúng tham gia bảo vệ chính quyền cách
mạng, tiếp tục sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục hậu quả
chiến tranh: chôn cất người chết do chiến tranh, thu gom vũ khí,
chất nổ trên địa bàn.
- Kêu gọi những quân nhân, những người tham gia vào bộ
máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa trình diện giao nộp vũ
khí, tài liệu để hưởng chính sách khoan hồng của cách mạng.
- Các Ban ngành của chính quyền Quân quản quan tâm
chăm lo cho người dân, cứu chữa người bị nạn trong chiến
tranh, vận động nhân dân góp tiền, của giúp đỡ những gia đình
khó khăn.
- Lực lượng bộ đội, du kích tập trung tổ chức tuần tra, canh
gác, bảo vệ chính quyền cách mạng, tài sản chung.
Nhằm trang bị cho cán bộ tham gia công tác quản lý, Ủy
ban Quân quản tổ chức cho cán bộ học tập 5 nhiệm vụ chính
trong thời kỳ đầu giải phóng: Khẩn trương xây dựng, củng cố
chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động; Truy quét tàn binh, trấn áp những đối tượng phản
cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự; Đẩy mạnh sản xuất, khôi
phục kinh tế, tổ chức lưu thông phân phối lương thực, thực
phẩm, hàng hóa; Xóa bỏ sản phẩm phi văn hóa, đồi trụy, tập
trung xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội; Đẩy mạnh tuyên truyền, củng cố mở rộng mặt trận đoàn
kết dân tộc. Ban Quân quản xã Phú Hữu, Đại Phước đã góp
211

22.2 Page 212

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
phần quan trọng trong việc tiếp quản, quản lý địa bàn cơ sở cho
đến cuối năm 1975.
Dù vẫn còn những khó khăn nhưng chính sách hòa hợp,
hòa giải dân tộc của cách mạng đã tác động lớn đến đại bộ phận
nhân dân. Ở các ấp của Phú Đông, những người đi lính, tham
gia bộ máy chính quyền thời Việt Nam Cộng hòa trình diện,
khai báo. Trên cơ sở phân loại, Ban Quân quản của huyện quyết
định các hình thức học tập, cải tạo phù hợp cho từng đối tượng
tại địa phương hoặc tập trung.
Những đoàn thể cách mạng tại xã phát động những phong
trào ủng hộ cách mạng như thu gom, giao nộp vũ khí, đạn dược,
chất nổ, các phương tiện máy móc phát hiện trên địa bàn. Hội
Phụ nữ, chi đoàn Thanh niên vận động và tham gia tích cực
các hoạt động tăng gia khai hoang, sản xuất, tuần tra bảo vệ
địa bàn. Nhằm đẩy mạnh tăng gia sản xuất, Nhơn Trạch thành
lập các đội tháo gỡ bom mìn trên địa bàn để mở rộng diện tích
cho người dân tham gia sản xuất. Người dân Phú Đông, Phú
Hữu, Đại Phước tham gia nhiều ngày công, tích cực hỗ trợ cho
công tác tháo gỡ bom mìn thời hậu chiến bằng cách phục vụ
hậu cần, y tế. Trong thành quả chung của toàn huyện những
tháng cuối năm 1975 với việc phá, gỡ 12.764 loại mìn, thu gom
8.112 lựu đạn các loại, giải phóng 37 vị trí, mở rộng 1.290.000
mét vuông... có sự đóng góp của người dân Phú Đông. Trong
công tác này, có những hy sinh, tổn thất về con người trong
212

22.3 Page 213

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ của đội tháo gỡ bom mìn. Trong tổng
kết chung của Nhơn Trạch, Long Thành vào cuối năm 1975,
đã từng bước ổn định được đời sống của người dân dù tình
hình vẫn còn những khó khăn. Vụ mùa trong năm, người dân
đã cấy 12.693ha ruộng, khai phá thêm 7.000ha ruộng hoang
hóa, 350ha rẫy xuống giống, khôi phục 665ha vườn1. Ngoài ra,
nhằm đảm bảo nguồn sức kéo trong canh tác của người dân,
tại các xã, đặc biệt vùng làm ruộng ở Phú Đông, Phú Hữu, Đại
Phước, huyện thành lập một số điểm Thú y phòng ngừa bệnh
cho gia súc của người dân.
Tại Giồng Ông Đông do đặc điểm của môi trường sông
rạch, dịch sốt xuất huyết xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cuộc sống của người dân. Dù tình hình nhân lực mỏng của
ngành y tế, tài chính khó khăn nhưng huyện đã nhanh chóng
chi mua lượng thuốc tập trung chữa trị cho 354 người dân, hạn
chế bùng phát, dập bệnh tại địa bàn.
Tình hình phân phối nguồn lương thực, thực phẩm trong
những tháng cuối năm 1975 ở Nhơn Trạch có những khó khăn.
Việc giao thương, buôn bán bị đình trệ dẫn đến khan hiếm hàng
hóa. Huyện thành lập cửa hàng ở trung tâm các xã để phân phối
các mặt hàng thiết yếu theo chế độ tem phiếu, góp phần giải
quyết những nguồn hàng thiết yếu đối với người dân.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành những chặng
đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai, tr.561, 559.
213

22.4 Page 214

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Đời sống văn hóa mới ở xã được chính quyền cách mạng
quan tâm, vận động người dân không thực hiện các hành vi mê
tín, triệt để trừ bỏ các tệ nạn xã hội. Chủ trương xây dựng xã hội
mới theo đường lối cách mạng được tuyên truyền sâu rộng đến
người dân. Người dân hưởng ứng, không tàng trữ những sách
báo mang tính chất phản động, đồi trụy, giao nộp cho chính
quyền để thiêu hủy.
Những khó khăn thời kỳ quân quản ở Nhơn Trạch được
khắc phục với sự nỗ lực của bộ máy chính quyền, tinh thần
cách mạng của người dân. Một số địa bàn của Nhơn Trạch đứng
trước những khó khăn về kinh tế cũng như tình hình chính trị,
đặc biệt trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng. Tình hình
an ninh, trật tự ở địa bàn Phú Đông, Đại Phước chưa được ổn
định, trong đó có số người là binh lính của chế độ Sài Gòn từ
các nơi đến tạm trú, không khai báo. Khu vực Giồng Ông Đông
vẫn còn những người tham gia binh lính Việt Nam Cộng hòa
còn nghi ngại với chính quyền cách mạng, không ra trình diện.
Một số phần tử bị tác động về tư tưởng, với tâm lý sợ “trả thù
nặng nề” do các đối tượng chống đối cách mạng tuyên truyền,
rồi bị gây sức ép, tham gia các tổ chức chống phá chính quyền.
Ủy ban Quân quản huyện Nhơn Trạch điều động cán bộ vũ
trang làm nòng cốt, tổ chức xây dựng và ổn định bộ máy chính
quyền. Đồng thời, bộ phận an ninh của huyện tổ chức các cụm
an ninh liên xã (3-4 xã hình thành một cụm an ninh), để nắm
214

22.5 Page 215

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
tình hình, giữ gìn trật tự. Ở các ấp của Phú Đông được bố trí
chiến sĩ công an và hình thành các tổ an ninh nhân dân làm
nòng cốt xây dựng thế quốc phòng toàn dân. Ở Phú Đông, một
số đối tượng, phần tử xấu gây hại cho chính quyền cách mạng
phân loại, xử lý bằng biện pháp hành chính và giáo dục.
Trong tình hình khó khăn chung của miền Nam sau ngày đất
nước thống nhất, huyện Nhơn Trạch thực hiện những chủ trương
của cách mạng để xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới, nền văn hóa
mới. Tinh thần cách mạng dâng cao trong quần chúng, các phong
trào thu hút nhiều người tham gia, những chính sách, chủ trương
đúng đắn, kịp thời góp phần ổn định tình hình và đời sống của
người dân.
Tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa III) đề ra nghị quyết
về nhiệm vụ chiến lược của nước ta trong tình hình hình mới:
“Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải
đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội”. Để thực hiện nhiệm vụ, cần phải: Xây dựng
chính quyền cách mạng nhân dân ở các cấp để nhanh chóng
ổn định chính trị và trật tự xã hội, ổn định đời sống nhân dân,
bảo vệ thành quả cách mạng, đủ sức làm nhiệm vụ cải tạo xã
215

22.6 Page 216

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; Trấn áp phản cách
mạng, Xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản và các tàn dư của giai
cấp địa chủ phong kiến; Khôi phục và phát triển sản xuất, giải
quyết nạn thất nghiệp do chế độ cũ để lại; giải quyết tốt các
vấn đề lưu thông, tín dụng, tài chính, ngân hành, tiền tệ; Phát
triển văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội; Tăng cường công tác xây
dựng Đảng.
Thực hiện nhiệm vụ cách mạng trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, tháng 01/1976, huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch
sáp nhập, lấy tên là huyện Long Thành1. Ủy ban Quân quản
huyện Long Thành bàn giao công tác quản lý cho chính quyền
địa phương. Phú Đông là một bộ phận của xã Phú Hữu, Đại
Phước thuộc đơn vị huyện Long Thành. Trên cơ sở thành
lập huyện, Huyện ủy Long Thành hình thành. Đồng chí
Nguyễn Văn Thông (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được
cử làm Bí thư, đồng chí Phạm Thanh Lý - Phó Bí thư kiêm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Hoạt động của văn phòng
Huyện ủy có 25 đồng chí. Trên toàn huyện có 24 chi bộ cơ sở
cấp xã với 326 đảng viên. Quần chúng nhân dân Phú Đông
1  Cơ cấu hành chính của huyện gồm: Thị trấn Long Thành và các xã: Tam An,
Lộc An, Long An, An Phước, An Lợi, An Hòa, Long Tân, Long Phước, Phước
Thái, Phước Tân, Phước Thọ, Phước Nguyên, Phước Kiểng, Phước Thiền, Phước
Thọ, Phước Khánh, Phước Lai, Phước Long, Long Hưng, Tân Hiệp, Ship, Bình
Sơn, Suối Trầu, Cẩm Đường, Bàu Cạn, Đại Phước,Vĩnh Thanh, Phú Hội, Phú
Hữu, Phú Thạnh. Dân số toàn huyện trên 200.000 người, có diện tích lớn nhất
tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ.
216

22.7 Page 217

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
lúc bấy giờ trong quản lý của xã Phú Hữu, Đại Phước tiến
hành xây dựng quê hương dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy
Long Thành.
Ngày 01/7/1976, Hội nghị Đảng bộ Long Thành được tổ
chức. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 34
đồng chí (05 ủy viên dự khuyết). Đồng chí Nguyễn Văn Thông
được cử giữ chức Bí thư Huyện ủy Long Thành, đồng chí
Lương Văn Tấn - Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn
Văn Xuân - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đồng
chí Phạm Thanh Lý giữ chức vụ Phó Bí thư kiêm Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện. Nghị quyết đại hội xác định “Nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, củng cố chính quyền với
tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo, đưa địa phương
phát triển nông nghiệp, công nghiệp theo phương thức sản
xuất mới”1.
Trong năm 1976, đất nước có những sự kiện quan trọng sau
khi thống nhất. Đảng bộ huyện chỉ đạo, lãnh đạo địa phương
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị quan trọng. Trong đợt bầu cử
Quốc hội khóa VI nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người
dân Phú Đông tích cực tham gia trong tổng số 97% cử tri Long
Thành thực hiện bầu cử. Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thành lập đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng
1  Trích Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ huyện Long Thành tháng 7/1976, tài liệu
Ban Tuyên giáo Huyện ủy Long Thành.
217

22.8 Page 218

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
sản Việt Nam. Nhân dân Phú Đông của huyện Long Thành
cùng cả nước bước vào thời kỳ đất nước cùng thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế, với nhiệm vụ “Đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm là sản xuất lương thực”,
huyện tiến hành chia 8 cụm phát triển phong trào Tập đoàn sản
xuất và Hợp tác xã theo đặc điểm từng địa bàn. Xã Phú Đông
có ấp Giồng Ông Đông, Thị Cầu thuộc Cụm 1 (xã Vĩnh Thanh,
xã Phú Hữu xây dựng Hợp tác xã điểm), xã Đại Phước, xã Phú
Thạnh, xã Phước Khánh xây dựng Tập đoàn sản xuất). Các
Cụm khác gồm: Cụm 2 (xã Phước Thiền, xã Long Tân, xã Phú
Hội); Cụm 3 (xã Phước Kiểng, xã Phước Lai, xã Phước Long,
xã Phước Thọ); Cụm 4 (xã Long Phước, xã Tân Hiệp, xã Phước
Thái, xã Tân Thành); Cụm 5 (Thị trấn Long Thành tập trung cải
tạo Công thương nghiệp, xã Long An, xã Lộc An, xã Suối Trầu,
xã Cẩm Đường); Cụm 6 (xã Tam An, xã Phước Nguyên, xã An
Lợi); Cụm 7 (xã Phước Tân, xã An Hòa, xã Long Hưng); Cụm
8 (Nông trường Cao su Bình Sơn, Siph).
Trên mặt trận nông nghiệp áp dụng biện pháp kỹ thuật,
thâm canh, chọn giống mới, đầu tư phân bón, tiếp tục đẩy mạnh
khai hoang, thủy lợi... đã tạo cơ sở cho những chuyển biến tích
cực. Toàn huyện khai hoang phục hóa 2.000 héc ta nâng diện
tích gieo trồng cây lương thực trong từng năm tăng lên. Từ năm
1979 đến năm 1981, đạt 95.000 héc ta (tăng 17% so với giai
218

22.9 Page 219

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đoạn 1976-1977). Một số vùng chuyên canh cây công nghiệp,
hoa màu được hình thành. Các xã ven sông Đồng Nai và dọc
theo lộ 15 của huyện tăng vụ mùa trong năm, đạt năng suất cao.
Công tác cải tạo nông nghiệp ở Long Thành được đẩy mạnh
với sự thành lập 170 tập đoàn sản xuất và 01 hợp tác xã. Phong
trào làm ăn tập thể phát triển nhưng chưa toàn diện. Qua hoạt
động, có 63 tập đoàn sản xuất (3 tập đoàn sản xuất tiên tiến, 40
tập đoàn sản xuất khá, 20 tập đoàn sản xuất trung bình và yếu)
và 2 hợp tác xã duy trì hoạt động. Các tập đoàn sản xuất tiêu
biểu: Khu Liên Kim Sơn, thị trấn Long Thành, xã Đại Phước.
Từ năm 1978 đến năm 1979, đời sống nhân dân Phú Đông
vô cùng khó khăn về lương thực, thực phẩm. Tình hình nói
chung ở miền Nam vẫn còn những bất ổn về xã hội, buôn
bán đình trệ, nông nghiệp chưa đem lại hiệu quả, huyện Long
Thành từng bước thực hiện các mô hình phân phối lưu thông để
ổn định đời sống nhân dân. Mạng lưới cửa hàng bách hóa của
ngành thương nghiệp huyện được hình thành ở các xã, trong đó
có Phú Hữu, Đại Phước và hình thành 2 hợp tác xã. Bước đầu,
khâu phân phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu đến
với người dân dù chưa được toàn diện, chỉ tập trung ở các địa
bàn trung tâm xã.
Đến đầu năm 1979, mạng lưới phân phối hàng hóa của
huyện được quy hoạch, góp phần bình ổn giá cả thị trường.
Các cửa hàng mang tính chất tư nhân được quản lý và điều hóa
219

22.10 Page 220

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
qua sản xuất. Một số Hợp tác xã mua bán được thành lập ở thị
trấn Long Thành và các xã Tam An, Phú Hữu, Đại Phước, Tam
Phước, Vĩnh Thanh. Hệ thống phân phối quốc doanh với 12
hợp tác xã, 3 cửa hàng và 1 công ty cấp 3.
Lĩnh vực y tế được quan tâm ngay từ khi huyện được giải
phóng với sự hỗ trợ của đơn vị quân y. Khi được bàn giao,
huyện đầu tư sửa chữa, nâng cấp cơ sở vật chất khám chữa
bệnh. Bệnh viện huyện mở rộng tăng số giường và trang bị thiết
bị y tế. Đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường (02 y sĩ, 01 dược
sĩ, 01 y tá), đã khám chữa bệnh cho 62.913 lượt người, chữa trị
2.968 bệnh nhân. Ở các xã đều thành lập các Ban y tế, quá trình
khám chữa bệnh kết hợp Đông - Tây y phục vụ được nhu cầu
chữa bệnh cho nhân dân trong tình hình khó khăn. Người dân
tích cực tham gia phong trào xây dựng nếp sống vệ sinh, phòng
chống bệnh. Năm 1979, toàn huyện có 20 trạm y tế, 13 nhà hộ
sinh. Các cơ sở này đã góp phần chăm lo sức khỏe, khám chữa
bệnh cho 11.764 lượt người. Nhiều xã có phong trào y tế phát
triển mạnh: Thị trấn Long Thành, Phú Hữu, Tam Phước, Phú
Hội, Phước An, Đại Phước, Phước Khánh, Bình Sơn.
Trong giai đoạn 1978 đến 1979, tình hình của đất nước gặp
nhiều khó khăn, trong đó có nhiệm vụ tham gia bảo vệ đất nước
ở biên giới Tây Nam khi Khmer Đỏ ở Campuchia gây hấn và
đánh phá, sát hại nhân dân. Cùng với nhân dân cả nước, những
người con của Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước của huyện Long
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Thành tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, lên đường bảo vệ
quê hương. Huyện Long Thành có Đại đội 17 lên đường làm
nghĩa vụ quốc tế. Ngày 12/12/1978, Đảng bộ và nhân dân Long
Thành đưa tiễn Đại đội 17 lực lượng tập trung huyện lên đường
chiến đấu trên đất bạn Campuchia.
Tiêu biểu trên mặt trận bảo vệ chính quyền, huyện Long
Thành dập tắt tổ chức phản động mang tên “Việt Nam phục
quốc”. Đây là tổ chức có nhiều cơ sở hoạt động ở các địa
phương Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Sông Bé, Đồng
Nai. Vùng Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước lúc bấy giờ khá
rộng, dân cư còn rải rác và địa bàn vùng sông rạch chằng chịt,
lại kế cận vùng đô thị Sài Gòn nên những nhóm phản động
chọn làm nơi tập kết, tổ chức hoạt động chống phá cách mạng.
Tại Long Thành, các cơ sở của tổ chức phản động Việt Nam
phục quốc bị bắt 6 tên, thu 6 súng (01 M79, 02 tiểu liên AK, 02
tiểu liên AR15, 01 súng Carbine).
Sự nỗ lực của người dân Phú Đông, Phú Hữu, Đại Phước
trong sản xuất nông nghiệp cho tới cuối năm 1979 đã đem lại
những kết quả chung của địa phương. Bình quân toàn huyện đạt
Long Thành trong sản xuất lúa đạt từ 2,5 tấn/ha đưa tổng lương
thực lên 201.000 tấn quy lúa, bình quân đầu người đạt 337kg/
năm. Đời sống nhân dân ở nhiều xã, trong đó có vùng kinh tế
mới bước đầu ổn định. Điểm nhấn quan trọng của huyện Long
Thành vào năm 1979 khi giải quyết khó khăn về đời sống nhân
221

23.2 Page 222

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
dân, tự cung cấp lương thực và còn thực hiện nghĩa vụ, chỉ tiêu
về lương thực đối vởi tỉnh.
Trong phong trào đẩy mạnh các lợi thế tiềm năng của địa
phương, nhân dân Phú Đông phát huy thế mạnh, huyện đã tập
trung củng cố xây dựng ngành thủy sản trong kế hoạch chung
của xã Phú Hữu. Từ cấp xã tổ chức đăng ký các hộ hành nghề
trên sông, nắm quản lý các phương tiện đánh bắt, đầu tư vốn,
nhiên liệu thỏa đáng cùng chung trong khai thác của huyện
Long Thành về thủy sản, đặc biệt các khu vực có nguồn lợi và
đặc điểm về tài nguyên nước trong việc hình thành 17 tổ đoàn
kết, 5 tập đoàn ngư dân, đưa năng suất đánh bắt thủy sản. Đặt
biệt, nhân dân Phú Đông cùng các ấp của Phú Hữu tham gia
tích cực trong phong trào làm đường, đắp đập, ngăn mặn ở địa
phương. Con đường từ Cầu Cháy đến ấp Bến Ngự được hoàn
thành bởi sự tổng lực của nhân dân cùng chung sức, thực hiện
chủ trương của xã. Các hộ gia đình tham gia góp công, phương
tiện xe thồ, ghe lấy đất, chở gỗ, đóng cọc, be đường... với tinh
thần tập thể mạnh mẽ, chung tay xây dựng “kết nối” thành con
đường vốn bị ngăn trở bởi đồng và sông rạch. Khi con đường
được hoàn thành đem lại niềm vui lớn trong người dân khi mở
ra những thuận lợi trong giao thông ở địa phương.
Công tác cải tạo nông nghiệp, củng cố quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa tính đến năm 1985 toàn huyện đã xây dựng
được 3 hợp tác xã, 8 liên đoàn tập đoàn, 319 tập đoàn sản xuất
222

23.3 Page 223

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đạt 80% tổng diện tích và hộ nông dân vào làm ăn tập thể. Bồi
dưỡng, đào tạo 1500 cán bộ quản lý kinh tế cho các tập đoàn và
hợp tác xã được tỉnh công nhận là huyện đã hoàn thành cơ bản
công tác cải tạo nông nghiệp theo phương thức sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt giá
trị tổng sản lượng so với năm 1976 thì tăng lên 2 lần. Về lưu
thông phân phối, doanh số mua vào bán ra đều tăng gấp 3 lần/
năm so sau giải phóng, 28 xã trong huyện đều có cửa hàng hợp
tác xã, 22 quầy bán tại thị trấn, 170 quầy xuống phục vụ tận các
ấp xóm.
2. Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng (1986 - 1994)
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI là sự kiện quan trọng, mở ra thời kỳ đổi
mới của Việt Nam. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước
trong giai đoạn 1975 đến 1985 được tổng kết, đánh giá và rút ra
những bài học kinh nghiệm, đề ra những quyết sách lớn nhằm
đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, vững tiến lên Chủ nghĩa
xã hội. Đường lối đổi mới của Đại hội VI với mục tiêu khai thác
mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, phát
huy sức mạnh nhân tố con người, cải thiện đời sống nhân dân,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Trên tinh thần đổi mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần
thứ IV đã phân tích thành tựu trên các lĩnh vực trong giai đoạn
1981 - 1985, nghiêm khắc phê bình và tự phê bình, nhận diện
223

23.4 Page 224

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
rõ những yếu kém và nguyên nhân gây khó khăn, cản trở xu thế
phát triển của địa phương. Đại hội đã khẳng định phải đổi mới
tư duy kinh tế, đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, đổi
mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc. Đồng thời, đề ra
phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế của Đồng Nai giai
đoạn 1986 - 1990: “Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế Đồng Nai
theo cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý; phát triển nông nghiệp
một cách toàn diện, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu,
lương thực là trọng tâm theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa.
Phát huy các mũi nhọn: Công nghiệp chế biến, nông sản xuất
khẩu và công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, giải quyết tích
cực có hiệu quả thiết thực ba chương trình quốc gia về lương
thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tiếp tục
nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất
mới; xây dựng cơ chế quản lý mới, nhất là quản lý kinh tế mới,
phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh ở cơ sở, xây
dựng đảng bộ vững mạnh mọi mặt”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, huyện Long Thành có những
thuận lợi: Giữ vững ổn định chính trị, kiên định theo con đường
xã hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống đoàn kết, tự lực tự
cường. Đảng bộ huyện đoàn kết, đội ngũ cán bộ, đảng viên có
tinh thần trách nhiệm, trưởng thành từ thực tiễn xây dựng quê
hương địa phương. Những thành tựu của nhân dân Long Thành
đã tạo nên cơ sở, tiền đề quan trọng trên nhiều lĩnh vực được kế
224

23.5 Page 225

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
thừa, phát huy. Huyện Long Thành tiếp tục được xác định là địa
bàn trọng điểm sản xuất lương thực của tỉnh. Trong tinh thần
đổi mới của đất nước, của Đảng bộ tỉnh, huyện Long Thành tổ
chức Đại hội lần thứ IV1 và xác định phương hướng, nhiệm vụ
trong giai đoạn mới: “Tiếp tục quy hoạch lại sản xuất, bố trí sử
dụng lao động, ruộng đất phù hợp với tình hình, đặc điểm của
địa phương, với cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp (nông nghiệp
bao gồm lâm nghiệp, ngư nghiệp) nhằm phát triển sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân, an ninh quốc phòng, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa”.
Phú Đông với sản xuất nông nghiệp là chính cùng với nuôi
trồng, đánh bắt thủy sản. Trong phương hướng phát triển của
xã Phú Hữu, ấp Giồng Ông Đông khá rộng, được quan tâm để
chuyển đổi vật nuôi, cây trồng và tăng vụ trong sản xuất. Xã
Phú Hữu được huyện đầu tư xây dựng thủy lợi, xây dựng đê
bao chung ngăn chặn xâm nhập mặn, bảo đảm nước ngọt, đất
canh tác. Trong định hướng của xã Phú Hữu, xã Đại Phước,
nhân dân ấp Giồng Ông Đông, ấp Thị Cầu chung tay thực hiện
nhiệm vụ, phát triển kinh tế, xã hội, chú trọng những chương
trình quốc gia: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu. Về giáo dục, theo quy định, mỗi xã chỉ có 1 trường
cấp 1, 2 nhưng địa bàn Giồng Ông Đông rộng, học sinh nhiều,
điều kiện đi lại khó khăn nên được cấp trên thành lập trường
1  Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành tổ chức từ ngày 16 đến ngày 19/9/1986.
225

23.6 Page 226

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
phổ thông cơ sở cấp 1, 2. Để có được cơ sở vật chất trường học
đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh ở địa phương là sự vận
động, vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền vận động
người dân đổi đất để làm trường. Đây là thành quả và sự quan
tâm trong giáo dục, đáp ứng kịp thời yêu cầu trên lĩnh vực giáo
dục, đào tạo ở ấp Giồng Ông Đông.
226

23.7 Page 227

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Chương VI
XÃ PHÚ ĐÔNG THÀNH LẬP
VÀ ỔN ĐỊNH PHÁT TRIỂN (1994 - 2000)
1. Thời kỳ đầu thành lập (1994 - 1996)
Năm 1994 đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của
huyện Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch được thành lập trên cơ
sở chia tách huyện Long Thành để phù hợp với tình hình, xu
thế phát triển mới sau 8 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng. Huyện Nhơn Trạch phía Đông giáp huyện Long Thành
(Đồng Nai), phía Tây giáp huyện Nhà Bè, phía Bắc giáp huyện
Thủ Đức, và phía Nam giáp huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí
Minh) và huyện Châu Thành (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Tổng
diện tích tự nhiên của huyện Nhơn Trạch gồm 40.146ha, trong
đó đất nông nghiệp chiếm 17.657ha, đất lâm nghiệp chiếm
12.023ha, đất chuyên dùng có 940ha, đất dân cư có 1.472ha và
các loại khác có 8.054ha. Tổng số dân có 101.882 người với
17.948 hộ. Mật độ dân số 254 người/km2. Diện tích đất nông
nghiệp bình quân 1.733 m2/người. Về cơ cấu hành chính, huyện
Nhơn Trạch có các đơn vị trực thuộc, gồm 11 xã: xã Phước
Thiền, xã Phú Hội, xã Long Tân, xã Phú Thạnh, xã Đại Phước,
xã Phú Hữu, xã Phước Khánh, xã Vĩnh Thanh, xã Phước An,
227

23.8 Page 228

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
xã Long Thọ, xã Hiệp Phước1. Ngày 25/8/1994, Tỉnh ủy và
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chính thức tổ chức lễ bàn giao
giữa hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày 01/9/1994,
huyện chính thức đi vào hoạt động. Năm 1994, xã Phú Đông
được thành lập trên cơ sở tách từ xã Phú Hữu, xã Đại Phước
của huyện Nhơn Trạch. Xã Phú Đông chính thức đi vào hoạt
động từ ngày 04/9/1994 theo Nghị định 109/CP ngày 29/8/1994
của Chính phủ. Như vậy, so với các xã trực thuộc huyện Nhơn
Trạch, xã Phú Đông thành lập sau cùng và trở thành đơn vị
hành chính cấp xã thứ 12 của Nhơn Trạch.
Tình hình xã Phú Đông khi mới thành lập có nhiều khó
khăn. Cơ sở hạ tầng cho làm việc thiếu và tạm bợ kế thừa từ
những công trình trước đây ở hai ấp Thị Cầu, Giồng Ông Đông.
Kinh tế chủ yếu của xã là sản xuất nông nghiệp với các cây chủ
lực là lúa, mì, mía... Diện tích đất lớn nhưng bị ảnh hưởng ngập
mặn, không cho năng suất cao của các loại cây nông nghiệp.
Hệ thống giao thông toàn xã với 95% là nền đất. Mạng lưới
điện chưa có. Có 3/5 ấp không có nguồn nước sạch sử dụng. Số
hộ dân trong tình trạng đói, nghèo chiếm 20% dân số. Cơ sở y
tế và nhân lực chưa có. Toàn xã chỉ có 10 phòng học cấp tiểu
học. Vì vậy, để duy trì dạy và học, giáo viên và học sinh phải
thực hiện ngày dạy 3 ca (sáng, trưa, chiều). Tình hình khó khăn
chung nên giáo viên, học sinh và phụ huynh đều thực hiện và
1  Nghị định số 51 -CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày 23/6/1994 về việc điều chỉnh địa giới huyện, xã thuộc tỉnh Đồng Nai.
228

23.9 Page 229

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
nỗ lực vượt qua. Tỷ lệ tăng dân số cơ học của năm 1994 khá
cao với tỷ lệ 3%.
Buổi ban đầu thành lập xã Phú Đông còn nhiều khó khăn.
Từ sự chỉ đạo của huyện, tổ chức đảng xã Phú Hữu, xã Đại
Phước cùng họp bàn để bổ sung nguồn nhân lực cấp ủy và chính
quyền để xã Phú Đông đi vào hoạt động. Về cấp ủy, nguồn cán
bộ, đảng viên của Phú Đông được tăng cường, chú trọng những
hạt nhân nòng cốt gắn với địa bàn thực địa của 2 ấp Giồng Ông
Đông và ấp Thị Cầu. Chi bộ đảng xã Phú Đông được thành lập,
đồng chí Châu Văn Lộc làm Bí thư, Tô Ngọc Anh làm Phó Bí
thư và Nguyễn Thuận - Ủy viên. Cơ sở làm việc của tổ chức
Đảng, chính quyền xã Phú Đông làm việc thời gian đầu trên cơ
sở văn phòng của ấp Thị Cầu xã Đại Phước.
Về chính quyền, một số đại biểu Hội đồng nhân dân xã Phú
Hữu, xã Đại Phước được điều chuyển tham gia hoạt động cho
xã Phú Đông. Hội đồng nhân dân xã Phú Đông bầu đồng chí
Hồ Ngọc Hưng làm Chủ tịch. Bộ máy chính quyền về sau được
bổ sung và kiện toàn, gồm các đồng chí: Tô Ngọc Anh (Phó
Chủ tịch), Nguyễn Văn Thành (Trưởng Công an xã, năm 1996
kiêm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân), Đoàn Văn
Cưởng (Xã đội trưởng).
Mặt trận và các đoàn thể cũng từng bước được hình thành
dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng và đi vào hoạt động. Trong
quản lý của xã Phú Đông về địa bàn cơ sở, từ ấp Thị Cầu tách
229

23.10 Page 230

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
ra thành lập ấp Bến Đình, ấp Giồng Ông Đông thành lập ấp Bến
Ngự, Phú Tân. Bộ máy điều hành ở các ấp được thành lập góp
phần trong công tác quản lý ở địa bàn cơ sở, quan tâm đến ổn
định đời sống nhân dân và đẩy mạnh sản xuất. Các ấp đều thành
lập tổ Hội đồng nhân dân. Hội Cựu chiến binh của Phú Đông
có 9 đồng chí. Hội Chữ thập đỏ sau một năm thành lập xã mới
tổ chức đại hội.
Chi bộ xã Phú Đông tăng cường công tác lãnh đạo và chỉ
đạo để hoạt động của địa phương đi vào nề nếp. Trên lĩnh vực
kinh tế, hoạt động kinh tế chính được xác định phù hợp với
điều kiện tự nhiên là trồng trọt và chăn nuôi. Toàn xã quan tâm
đến cải tạo đất sản xuất, thay đổi tập quán sản xuất, thực hiện
chọn giống cho nông nghiệp và vật nuôi phù hợp. Trong đó,
một số diện tích ở các ấp trồng lúa của xã được định hướng
tăng sản xuất bằng hình thức canh tác 2 vụ/năm song song với
việc tạo điều kiện về phương tiện, phân bón, kỹ thuật chăm
sóc. Các vườn cây ăn trái trước đây nhiều loại cây tạp được
khuyến khích tìm tòi các giống mới để phát huy hiệu quả thu
hoạch và tăng giá trị kinh tế. Tuy nhiên, việc chuyển đổi vườn
cây cũng chưa đạt hiệu quả bởi tình hình cây giống khó khăn
và chưa nghiên cứu, thực nghiệm, khảo nghiệm đầy đủ các loại
đất. Nuôi trồng thủy sản với tài nguyên mặt nước còn yếu về
nguồn vốn của kinh tế hộ gia đình và cả sự đầu tư của ngân
sách, chưa tiếp cận kỹ thuật hợp lý. Với địa bàn rộng, chia tách
thành các ấp trong quản lý nhưng hệ thống giao thông còn yếu
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
và thiếu. Chính quyền xã đã xác định cần tăng cường quan tâm
triển khai xây dựng, hình thành giao thông đường bộ giữa các
địa bàn, trong đó chú ý đến các ấp mới thành lập Bến Ngự, Phú
Tân. Trên lĩnh vực quốc phòng, xã được sự hỗ trợ của huyện,
các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn phối hợp.
Trong hai năm đầu thành lập, xã Phú Đông có nhiều nỗ
lực thực hiện các nhiệm vụ trong quản lý, phát triển kinh tế,
xã hội địa phương nhưng vẫn còn những hạn chế, khó khăn về
nhiều mặt. Kinh tế của xã còn nghèo, nguồn cán bộ còn thiếu
về số lượng cũng chất lượng theo yêu cầu đặt ra trong tình hình
mới. Khi sản xuất nông nghiệp là thu nhập chính của người dân
chính nhưng diện tích lớn canh tác bị ảnh hưởng khi công trình
thủy lợi đập Ông Kèo chưa hiệu quả đã làm trì trệ trong lĩnh vực
nông nghiệp. Hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn chưa
được liên kết và cơ sở hạ tầng yếu kém. Xã Phú Đông đứng
trước nhiều khó khăn cả về nhân lực trong tổ chức Đảng, chính
quyền và đoàn thể. Từ nguồn tăng cường của xã Phú Hữu, Đại
Phước, tổ chức Đảng và chính quyền của xã được thành lập.
Cấp ủy, chính quyền và đoàn thể xã Phú Đông đi vào hoạt động
nề nếp, duy trì các lĩnh vực hoạt động, tạo đà phát triển.
2. Phát triển địa phương theo hướng hiện đại (1996 -
2000)
Đầu năm 1996, xã Phú Đông tổ chức đại hội lần thứ nhất.
Chi bộ xã Phú Đông có 18 đảng viên. Đại hội bầu chi ủy, đồng
231

24.2 Page 232

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
chí Đoàn Văn Le giữ chức Bí thư, Hồ Ngọc Hưng làm Phó Bí
thư và các ủy viên: Huỳnh Văn Đẹp, Đoàn Văn Đạm, Đoàn
Văn Tám, Nguyễn Kim Thắng, Đoàn Văn Cưởng.
Kế thừa những thành quả sau hai năm đầu thành lập, mặc
dù còn nhiều khó khăn, xã Phú Đông tiếp tục thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 1996: Tập trung lãnh đạo cán
bộ, nhân dân đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, sử dụng hiệu
quả diện tích sản xuất, chú trọng chuyển đổi vật nuôi, cây trồng
tăng giá trị kinh tế, giữ vững và khai thác hiệu quả trong chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản; Quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng
trên địa bàn tạo điều kiện quản lý và phát triển nhiều lĩnh vực;
Thực hiện tốt những nhiệm vụ chính trị, nâng cao chất lượng
đời sống văn hóa, lĩnh vực giáo dục, chính sách xã hội; Giữ
vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng. Năm
1998, hội nghị giữa nhiệm kỳ nhằm đánh giá, phân tích quá
trình lãnh đạo địa phương trên nhiều lĩnh vực.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
Công tác chính trị tư tương được duy trì thường xuyên, có
tác dụng trong giáo dục đảng viên giữ gìn lối sống lành mạnh,
kiên quyết chống tệ nạn tham nhũng. Nghị quyết của Đảng
được quán triệt sâu rộng đến tổ chức, đảng viên để nâng cao
tinh thần cảnh giác trước những âm mưu phá hoại, diễn biến
hòa bình của thế lực thù địch; đặc biệt trước những bối cảnh có
nhiều biến chuyển và tác động lớn của xã hội. Tỷ lệ đảng viên
232

24.3 Page 233

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
học tập nghị quyết đạt tỷ lệ cao. Người dân cũng được tuyên
truyền nghị quyết với tinh thần đưa nghị quyết vào đời sống của
nhân dân và đảng viên nêu gương tiên phong. Chi ủy xã thực
hiện quy chế dân chủ, trong quy hoạch chức danh cán bộ chủ
chốt, thực nghiệm nghiêm túc, theo quy định, quy trình. Mỗi
chức danh chủ chốt có 3 cán bộ, đảng viên dự nguồn gắn với
quy hoạch đào tạo. Xã cử 30 cán bộ học nâng cao trình độ chính
trị (cao cấp, trung cấp) và nghiệp vụ, chuyên môn.
Cuối năm 1999, Chi ủy xã Phú Đông thành lập 6 chi bộ
(chi bộ 5 ấp và chi bộ trường học, gồm 18 đảng viên). Đầu
năm 2000, Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định nâng Chi bộ xã
Phú Đông thành Đảng bộ và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ
lâm thời của xã gồm đồng chí Đoàn Văn Le (Bí thư), Hồ Ngọc
Hưng (Phó Bí thư). Ngoài những đảng viên tuổi cao được miễn
công tác, tất cả đảng viên được phân công nhiệm vụ. Trong sinh
hoạt, Đảng bộ luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, theo
điều lệ. Cấp ủy viên được phân công nhiệm vụ và trực tiếp làm
bí thư hoặc cấp ủy viên chi bộ để sâu sát với cơ sở, địa bàn dân
cư. Tạo nguồn dự bị cho đảng bộ, xã thành lập tổ trung kiên
gồm 25 quần chúng ưu tú. Qua đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá
năng lực, có 23 thành phần trung kiên được kết nạp đảng. Công
tác kiểm tra, thanh tra đã phát hiện một số trường hợp đảng
viên có vi phạm nhưng được nhắc nhở khắc phục, sửa chữa; 3
trường hợp nhận hình thức xử kỷ luật khiển trách. Năm 1996,
1998 Chi ủy xã được huyện công nhận loại khá, năm 1997 xếp
233

24.4 Page 234

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
loại đạt danh hiệu “Trong sạch vững mạnh”. Năm 2000, toàn
Đảng bộ có 38 đảng viên.
Công tác xây dựng chính quyền được quan tâm để bộ máy
nhà nước đi vào hoạt động hiệu quả. Hội đồng nhân dân thực
hiện tốt vai trò giám sát, tiếp thu ý kiến quần chúng, thảo luận
và xây dựng nghị quyết phát triển địa phương kịp thời. Chính
quyền được quan tâm kiện toàn về nhân sự quản lý và các ban
ngành chức năng do tình hình thiếu hụt nguồn cán bộ sau khi
thành lập xã. Nguồn cán bộ được tạo điều kiện tham gia học tập
bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng
vị trí công tác.
Mặt trận và các đoàn thể đã đóng góp tích cực trong phong
trào phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Từ hình thức
tuyên truyền đến vận động, nhiều thành viên đã hưởng ứng,
tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng
quê hương, tuân thủ pháp luật, đóng góp các nguồn quỹ cứu trợ,
học bổng... Mặt trận tổ chức 25 cuộc họp với hơn 1.042 lượt
người dân tìm hiểu về quy chế dân chủ, tổ chức hiệp thương,
giới thiệu ứng cử đại biểu ấp và làm tốt công tác tuyên truyền
bầu cử các cấp trong năm 1999 (Quốc hội, Hội đồng nhân dân).
Các thành viên của mặt trận huy động được hội viên tham
gia, làm nòng cốt trong các phong trào thi đua. Hội Nông dân
tập hợp 1.737 hội viên/12 chi hội và 27 tổ, hỗ trợ những hoạt
động thiết thực trong sản xuất, chăn nuôi, xây dựng các tổ hội
nghề nghiệp hỗ trợ canh tác, kỹ thuật. Hội Liên hiệp Phụ nữ
234

24.5 Page 235

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
phát động phong trào thiết thực: Giúp nhau làm kinh tế, Nuôi
con khỏe, dạy con ngoan... Hội tập hợp 545 hội viên, xây dựng
26 tổ Tương trợ, tiết kiệm hoạt động gắn kết, quan tâm đời sống
phụ nữ ở địa phương. Hội Cựu chiến binh có 54 hội viên chia
thành 4 chi hội. Hoạt động của hội thiết thực, làm gương sáng và
tuyên truyền giáo dục về truyền thống cách mạng, gương “Bộ
đội cụ Hồ”. Đoàn Thanh niên phát động 2 phong trào: “Thanh
niên lập thân, lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” khơi gợi,
tuyên truyền và vận động thế hệ trẻ có động lực phấn đấu, gắn
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc với phát triển kinh tế tại quê hương.
Các hoạt động của Đoàn Thanh niên đã tập hợp được giới trẻ
của xã trong các phong trào thi đua, giới thiệu những gương
mặt điển hình và cảm hóa được những thanh niên lầm lỡ, trở
thành những công dân tốt. Trong nhiệm kỳ, Đoàn Thanh niên
có 164 đoàn viên, giới thiệu 12 đoàn viên ưu tú kết nạp đảng,
được huyện đoàn đánh giá có phòng trào hoạt động mạnh. Hội
Người cao tuổi được thành lập, có 665 hội viên, Hội Bảo thọ có
622 hội viên góp phần cùng các đoàn thể chăm lo cho đối tượng
sống vui, sống khỏe và tương trợ, giúp đỡ nhau. Hội Chữ thập
đỏ có 3 chi hội với tổng số 265 hội viên, phối hợp tích cực với
các ban ngành, làm tốt công tác thiện nguyện, hỗ trợ, phát quà,
giúp đỡ các hộ dân có hoàn cảnh khó khăn.
- Lĩnh vực kinh tế
Từ đặc điểm tự nhiên vùng sông rạch và đồng ruộng, Phú
Đông là xã thuần nông qua nhiều giai đoạn phát triển, Đảng ủy
235

24.6 Page 236

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
xã tập trung lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
vừa giải quyết đời sống và thực hiện nhiệm vụ chung trong
đóng góp với sự phát triển với huyện Nhơn Trạch vừa thành
lập. Trong tình hình khó khăn khi xây dựng, lấp dòng khu vực
Ông Kèo nên đất đai của xã có diện tích lớn khô nẻ, phèn ứ
đọng. Nhân dân được vận động chuyển đổi vật nuôi, cây trồng
phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng có những thay đổi. Việc thay
đổi vật nuôi cây trồng được xem trọng từ thực nghiệm để không
ảnh hưởng nhiều và đánh giá sát thực, phù hợp. Tổng diện tích
sản xuất năm 1996 chỉ đạt khoảng 60% đã tăng tỷ lệ gần 100%
năm 1999, hệ số sử dụng đất đạt 1,2 lần. Sản lượng nông sản
tăng dần qua mỗi năm. Năm 1999, tổng sản lượng lúa đạt 3.403
tấn, bình quân 439,5 kg/người/năm. Diện tích trồng mía tăng
mạnh, năm 1996 có 42ha đến năm 2000 lên 344,7ha (đạt 70 -
80 tấn/ha). Người dân tích cực cải tạo vườn cây tạp thành các
loại cây ăn trái, tăng từ 5,2ha lên 14 ha; rau xanh đạt 12,5ha.
Diện tích trồng mì năm 1996 có 25ha đến năm 2000 tăng lên
59ha. Một số diện tích trồng trọt giảm như cây điều và các
loại cây khác do công trình ngọt hóa diễn ra chậm, thời tiết bất
thường và giá cả thấp, khó tiêu thụ.
Trong chăn nuôi, các hộ dân đã tăng số lượng gia súc, gia
cầm (heo: 1.552 con, gia cầm: 38.450 con, gia súc: 185 con),
góp phần trong giải quyết vấn đề tiêu thụ trong đời sống và sức
kéo trong canh tác nông nghiệp. Nuôi trồng thủy sản tăng diện
tích và vật nuôi do kết hợp với trồng trọt, bán thâm canh, đạt
236

24.7 Page 237

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
2,5ha. Ngoài ra, xã sử dụng 25ha mặt nước tự nhiên nuôi thủy
sản (tôm, cá) gắn với trồng lúa, đem lại hiệu quả trong khai
thác, đánh bắt.
Nông dân được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về sản xuất,
chăn nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật qua công tác khuyến
nông, hướng dẫn bảo vệ thực vật, phòng ngừa dịch bệnh, thực
hiện khảo nghiệm, trình diễn trực tiếp. Người dân được vay vốn
ngân hàng để đầu tự trực tiếp trong lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi (400 hộ với kinh phí 2 tỷ đồng). Công tác thủy lợi được
quan tâm với hệ thống kênh mương nội đồng. Đặc biệt, mô
hình trồng mía được thành lập với 59 hộ dân canh tác trên 52ha.
Mặc dù có những khó khăn nhưng Ban điều hành chủ động tìm
đầu ra tiêu thụ cho sản phẩm.
Từ đặc điểm dân cư và phát triển vùng nông thôn, tiểu thủ
công nghiệp ở địa phương chưa phát triển, chủ yếu tập trung
phục vụ cho nhu cầu thiết yếu cơ bản của cộng đồng mang tính
nhỏ, lẻ: xay sát, xẻ gỗ, gò hàn đồ gia dụng, chế biến thức ăn
(đậu hũ). Về thương mại dịch vụ, ấp Giồng Ông Đông có điều
kiện phát triển với việc xây dựng khu chợ, từng bước tăng hộ
kinh doanh và các dịch vụ trao đổi hàng hóa, phục vụ buôn bán
các mặt hàng thiết yếu.
Công tác tài chính của xã Phú Đông thực hiện theo đúng
quy định Nhà nước. Nguồn thu của địa phương chưa đáp ứng
các hoạt động của địa phương bởi địa phương mới thành lập,
237

24.8 Page 238

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Nguồn thu thuế chỉ đạt
80 - 98% nhưng không cao do đời sống, tình hình sản xuất,
kinh doanh của nhân dân chưa phát triển. Vì vậy, xã Phú Đông
được huyện Nhơn Trạch trợ cấp về ngân sách. Trong tình hình
này, Đảng ủy xã luôn vận động, tuyên truyền và chỉ đạo thực
hiện đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội của địa phương để tìm
hướng chủ động nguồn thu. Dù ngân sách chưa đạt chỉ tiêu đề
ra nhưng tinh thần, trách nhiệm của người dân trong nghĩa vụ
thuế được tăng lên mỗi năm. Từ nguồn ngân sách nhà nước,
các hộ dân của địa phương được xem xét tiếp cận nguồn vốn
vay với 400 hộ. Các chương trình phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo của quốc gia, tỉnh đã góp phần cho đời sống nhân
dân ổn định khi vay sản xuất, tạo công ăn việc làm. Các đoàn
thể tích cực hỗ trợ 635 lượt hội viên vay vốn lãi suất thấp trong
các kế hoạch, chương trình ưu tiên, giúp nhau làm kinh tế,
thoát nghèo.
Tạo điều kiện cho xã đi vào hoạt động hiệu quả, huyện đã
đầu tư với nguồn kinh phí lớn để thực hiện các công trình: trụ
sở ủy ban ban nhân dân, trạm Y tế, trạm bơm nước, bưu điện
văn hóa, phòng học..., làm cầu đường ấp Phú Tân, đưa mạng
lưới điện đến 4/5 ấp. Thực hiện phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm, nguồn ngân sách và xã hội hóa được sử
dụng tích cực trong làm mới, mở rộng 3 km đường giao thông,
giải tỏa những điểm ô nhiễm trong địa bàn dân cư, ủng hộ đất
xây dựng trường, trạm xá, xây dựng chợ, xây dựng lớp học, lặp
238

24.9 Page 239

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đèn chiếu sáng... với nguồn kinh phí trên 3 tỷ đồng. Số hộ sử
dụng điện còn thấp, đạt 49,7% hộ dân trong xã nhưng bước đầu
đem lại những hệ quả tích cực trong nhu cầu xây dựng mạng
lưới và nâng cao chất lượng đời sống người dân. Tình hình sử
dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn xã được vận động và thực
hiện với 381 giếng khoan, lắp đặt 3254 đồng hồ nước cho 1.500
hộ/1.606 hộ.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội
Hoạt động văn hóa, thông tin của xã luôn được duy trì trong
điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn và nguồn nhân lực còn
thiếu. Đài truyền thanh đảm bảo trong công tác tuyên truyền
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với
nhân dân. Tin tức liên quan của địa phương torng các hoạt động
nhiệm vụ chính trị, đưa thông tin đến các ấp kịp thời. Toàn xã
có trên 90% hộ, 100% cơ quan đăng ký thực hiện nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa. Hằng năm, số hộ dân đạt chuẩn gia
đình văn hóa trên 70%. Hoạt động thể dục thể thao được phát
động trong quần chúng. Các dịp lễ tết, sự kiện chính trị, xã tổ
chức biễu diễn văn nghệ tuyên truyền chào mừng, phục vụ đời
sống nhân dân.
Trong thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương, xã chọn ấp
Giồng Ông Đông làm điểm của huyện và ấp Bến Đình thuộc
diện điểm của xã. Các ấp tiến hành bầu cử phụ trách dân chủ
và thành lập Ban chủ nhiệm, xây dựng quy ước, kế hoạch thực
239

24.10 Page 240

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
hiện kịp thời. Bưu điện văn hóa xã được xây dựng, đi vào hoạt
động, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân, học
tập của học sinh. Những cơ quan, hộ dân lắp đặt điện thoại cố
định, góp phần trong liên lạc thông tin thuận lợi. Tỷ lệ sử dụng
điện thoại hộ dân chưa nhiều trong tình hình chung về kinh tế
hộ gia đình (bình quân 154 người/máy).
Cơ sở trường lớp được quan tâm đầu từ từ xuất phát điểm
khá thấp của địa phương. Từ 10 lớp học ban đầu đã có 20 phòng
học, đáp ứng cho học sinh học tập và giáo viên giảng dạy, xóa
tình trạng học ca ba vừa khó khăn và hiệu quả thấp. Các lớp
mẫu giáo từng bước được kiên cố hóa. Trẻ em trong độ tuổi
đến trường ở đầu cấp tiểu học được vận động đạt tỷ lệ cao. Số
lượng học sinh trong độ tuổi đến trường các cấp tăng lên, tình
trạng bỏ học giữa chừng được khắc phục với sự hỗ trợ học
bổng, tiếp sức, giúp đỡ. Đội ngũ giáo viên gắn bó với dạy học
tại địa phương, được chuẩn hóa nghề nghiệp. Chất lượng dạy
và học tăng lên, giáo viên hội giảng đạt chất lượng của huyện,
tỷ lệ học sinh yếu giảm dần, học sinh đạt khá, giỏi tăng lên. Học
sinh chuyển cấp đạt tỷ lệ 98%. Dù thành lập muộn so với các
địa phương khác, giáo dục của xã Phú Đông có những kết quả
khích lệ, hằng năm duy trì các lớp học xóa mù (3 lớp, từ 80 - 90
học viên/lớp), được huyện công nhận xóa mù chữ, phổ cập tiểu
học vào năm 1996.
Hoạt động y tế đi vào hoạt động với sự tăng cường 1 bác sĩ
thuộc biên chế của trạm. Dù nhân lực hạn chế nhưng các duy trì
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
thương xuyên việc khám, chữa bệnh cho nhân dân địa phương.
Các chương trình y tế quốc gia, cộng đồng được tổ chức tuyên
truyền, vận động, thực thi hiệu quả: Tiêm chủng ngừa 6 loại
bệnh cho trẻ em đạt 98% đúng đối tượng; phòng ngừa bại liệt
đạt tỷ kệ 99%; số lượng trẻ em suy dưỡng giảm xuống hằng
năm, bệnh truyền nhiễm, sốt xuất huyết được phòng ngừa, hạn
chế gây hậu quả. Kế hoạch hóa gia đình tuyên truyền rộng rãi
trong nhân dân; trong đó vai trò của Hội Phụ nữ xã đem lại hiệu
quả với mô hình tổ không sinh con thứ 3 với sự tham gia 65 phụ
nữ. Truyền thông về dân số được tổ chức 12 đợt với sự tham
gia 5.634 lượt người. Toàn xã có 1.004/1.161 vợ chồng áp dụng
biện pháp tránh thai đạt tỷ lệ 90%. Tỷ lệ tăng dân số cơ học từ
2% năm 1996 xuống còn 1,6% năm 2000.
Về chính sách xã hội được thực hiện tốt trên địa bàn, áp
dụng đúng đối tượng, kịp thời. Ngoài sự động viên, thăm hỏi,
các đối tượng chính sách được hỗ trợ bằng nhiều hình thức đa
dạng: trao tặng nhà tình nghĩa (61 căn), nhà tình thương (51
căn), đỡ đầu, phụng dưỡng (28 người), sửa chữa nhà cửa, tặng
quà. Các đơn vị, tổ chức đã trao tặng 17 sổ tiết kiệm đến các cá
nhân, hộ gia đình trong diện chính sách (mỗi sổ trị giá 20 triệu
đồng) đã góp phần ổn định đời sống hàng tháng. Xã thực hiện
theo quy định việc xác minh hồ sơ trong chủ trương chăm sóc,
thờ tự, hỗ trợ người thân gia đình có liệt sĩ. Trong nhiệm kỳ,
xã quy tập 5 mộ liệt sĩ về nghĩa trang. Toàn xã có 45 đối tượng
lớn tuổi, neo đơn được xét hưởng trợ cấp hàng tháng. Thông
241

25.2 Page 242

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
qua các chương trình phát triển của quốc gia từ nguồn vốn ngân
sách, xã lập hồ sơ xét duyệt vay vốn để sản xuất, kinh doanh,
giải quyết việc làm. Từ năm 1996 có 466 hộ nghèo đã giảm
xuống 269 hộ vào cuối năm 1999. Đời sống của người dân có
chuyển biến tích cực về nhiều mặt, trong đó, nhà cửa xóa dần
tạm bợ, được kiên cố hóa. Người dân đầu tư những phương tiện
cá nhân trong đi lại, giải trí và tư liệu sản xuất (xe máy, ti vi, đồ
dùng kỹ thuật trong sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh).
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Tình hình an ninh, quốc phòng của xã có những diễn biến
phức tạp bởi địa bàn rộng, vùng đặc điểm của sông rạch chia
cắt nhiều, những tệ nạn tại chỗ xảy ra và các tội phạm từ nơi
khác đến gây án. Xã quan tâm đến công tác củng cố lực lượng
xã đội, công an đủ mạnh để đảm bảo trật tự, an toàn. Lực lượng
dân quân xã, ấp được thường xuyên giáo dục về tư tưởng, chính
trị, nâng cao bản lĩnh và tinh thần sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ.
Xã đội duy trì chế độ trực chỉ huy, trực chiến sĩ, nắm bắt kịp
thời tình hình, phối hợp với côn gan tuần tra canh gác, ngăn
ngừa tình trạng vi phạm pháp pháp luật. Trong kế hoạch chung
về quốc phòng của tỉnh, huyện, xã xây dựng kế hoạch theo tình
hình thực tiễn, sẵn sàng bảo vệ mục tiêu, phục vụ các sự kiện
chính trị quan trọng. Lực lượng vũ trang hằng năm đạt 3,15%
dân số, duy trì công tác huấn luyện thương xuyên, nâng chất
lượng chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ. Hằng năm, công tác tuyển
nghĩa vụ quân sự được vận động và đáp ứng chỉ tiêu trên giao.
242

25.3 Page 243

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Công tác hậu phương quân đội thực hiện tốt. Số quân nhân xuất
ngũ trở về địa phương được tạo điều kiện giới thiệu việc làm
ổn định.
Lực lượng công an xã được kiện toàn và hoạt động được
duy trì, đánh giá theo định kỳ. Quản lý nhân khẩu và các công
tác liên quan hộ tịch, hộ khẩu, khai sinh, khai tử, kết hôn... theo
đúng pháp luật. Nhiều trường hợp vi phạm trật tự an toàn xã hội
được xử lý, đặc biệt những vụ gây rối trật tự công cộng, trộm
cắp tài sản nhân dân những năm 1999 đến năm 2000 gây dư
luận không tốt, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Xã thành lập
Ban chỉ đạo thực hiện chương trình quốc gia về phòng chống
tội phạm (gọi tắt là BCĐ 138). Công an phối hợp với mặt trận,
đoàn thể tuyên truyền chính sách pháp luật đến với cộng đồng,
khu dân cư, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính
trị trên cơ sở xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp thường
xuyên, đồng thời nâng cao vai trò nòng cốt và xung kích của
lực lượng Công an trong công tác đảm bảo an ninh trật tự. Lực
lượng an ninh xã vừa phối hợp, kết hợp với đơn vị cấp trên triệt
phá tội phạm trên địa bàn có sự móc nối các địa phương khác.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện kịp thời,
không để ứ đọng. Xã kiện toàn 5 tổ hòa giải các ấp, xây dựng
quy chế hoạt động để tạo sự đồng thuận từ cơ sở, tiếp trên 300
lượt người dân, hoàn thành công tác giải quyết đơn thư, chuyển
giải quyết theo luật định.
243

25.4 Page 244

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Năm 2000, một vinh dự lớn đối với Đảng bộ và nhân dân
xã Phú Đông khi được nhận danh hiệu cao quý: Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân. Đồng chí Trần Đức Lương - Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết
định số 160/KT-CTN ngày 28/4/2000 về việc tặng danh hiệu
cao quý đối Đảng bộ và nhân dân xã Phú Đông đã có thành
tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Xã Phú Đông trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ là địa bàn
thuộc xã Đại Phước, Phú Hữu, thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của
Huyện ủy Long Thành, Nhơn Trạch và Phân khu 4. Quân dân
xã Phú Đông dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vượt qua những
khó khăn, nguy hiểm, đóng góp sức người, sức của, cùng cách
mạng Nhơn Trạch, Đồng Nai, cả nước trong sự nghiệp đấu tra-
nh chống kẻ thù xâm lược, hoàn thành nhiệm vụ dân tộc dân
chủ bằng chiến thắng Xuân 1975 sau 21 năm trường kỳ kháng
chiến. Sau 6 năm thành lập từ khi tách ra từ Phú Hữu, Đại
Phước, đây là niềm vinh dự, tự hào của Đảng bộ, nhân dân xã
Phú Đông. Truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường trong
kháng chiến chống Mỹ với danh hiệu cao quý được Nhà nước
trao tặng, là động lực và trách nhiệm để quân dân Phú Đông
đoàn kết, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tiếp tục phát huy trong
chặng đường phát triển mới, bước vào thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế, xã hội trong 5 năm đầu thế kỷ XXI.
244

25.5 Page 245

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Chương VII
XÃ PHÚ ĐÔNG THỜI KỲ HỘI NHẬP,
PHÁT TRIỂN THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI HÓA
(2000 - 2010)
1. Tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn
(2000 - 2005)
Năm 2000, Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa II, nhiệm
kỳ (2000 - 2005) tổ chức. Trong tình hình đất nước bước vào
thời kỳ hội nhập, từ đặc điểm của xã thuần nông trong cơ cấu
chung của huyện Nhơn Trạch, đại hội đề ra phương hướng,
nhiệm vụ: Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở thực hiện chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, phát triển dịch vụ ở nông thôn; Khai thác mọi tiềm năng
thế mạnh của địa phương để chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế
theo hướng Công nghiệp, Dịch vụ, Nông nghiệp.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
Cùng với cả nước bước vào giai đoạn hội nhập với thế giới,
tranh thủ những cơ hội thuận lợi phát triển, Đảng bộ xã Phú
Đông xác định công tác xây dựng Đảng là quan trọng để thực
hiện chỉ đạo, lãnh đạo địa phương đạt được mục tiêu đề ra, thực
hiện hiệu quả nhiệm vụ. Trên tinh thần dân chủ, Đại hội lần thứ
245

25.6 Page 246

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
II đã bầu Ban Chấp hành. Trong nhiệm kỳ, lãnh đạo cấp ủy của
xã có những thay đổi: đồng chí Đoàn Văn Le giữ chức Bí thư
năm 2000 - 2001, sau đó đồng chí Tô Ngọc Anh giữ chức vụ
này từ năm 2001 đến năm 2004. Từ năm 2004 đến năm 2005,
đồng chí Châu Phước Thuận giữ chức Bí thư. Các ủy viên gồm:
Hồ Văn Xem, Nguyễn Văn Thành, Lý Thanh Tùng, Nguyễn
Văn Hải.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ xã quan tâm đến công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, cán bộ và quần chúng.
Trước tình hình với những biến chuyển của thế giới, xã hội
tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống, Đảng bộ quan tâm
đến nắm bắt kịp thời diễn biến tư tưởng trong đội ngũ cán bộ,
nguyện vọng của nhân dân để tuyên truyền, vận động tạo nên
sự đồng thuận, hướng đến sức mạnh tập thể được phát huy.
Nghị quyết của Đảng được triển khai, quán triệt đến các tổ
chức cơ sở, đảng viên. Số lượt người dân được tuyên truyền
đạt 55% dân số. Qua học tập, cán bộ, đảng viên được nâng
cao phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, nắm rõ đường lối,
chủ trương của Đảng trong tình hình mới, kiên định lập trường
và tránh được suy thoái về tư tưởng trước các luận điệu tuyên
truyền phản cách mạng từ các thế lực thù địch. Mô hình “Đảng
bộ xã lãnh đạo công tác khoa giáo trong sự nghiệp Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa nông thôn” phát huy hiệu quả, đem lại sự
đồng thuận trong quần chúng hướng đến sự phát triển của địa
phương. Ban Tuyên giáo của xã bằng hình thức tuyên truyền
246

25.7 Page 247

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
sâu rộng, tờ tin và mạng lưới nhân dân ở các ấp thông tin kịp
thời, đầy đủ về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước đến với người dân. Người dân hưởng ứng, tin tưởng,
ủng hộ công tác đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực,
góp phần trong việc bảo vệ chính quyền.
Nguồn nhân lực của Đảng bộ được quan tâm kiện toàn để
đảm bảo năng lực lãnh đạo. Hoạt động của tổ chức, đảng viên
thực hiện nguyên tắc dân chủ, mỗi đảng viên thực hiện nguyên
tắc phê bình và tự phê bình, phấn đấu giữ phẩm chất cách mạng,
tiên phong. Toàn Đảng bộ có 07 chi bộ trực thuộc, gồm 62 đảng
viên. 100% đảng viên trong độ tuổi công tác được phân công
nhiệm vụ cụ thể. Mỗi năm, các đảng viên, tổ chức được đánh
giá chất lượng theo quy định, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt được Đảng bộ thực hiện
đúng quy định, theo quy trình, tạo nguồn cho địa phương và sự
phấn đấu cho mỗi đáng viên được quy hoạch. Thông qua vị trí
việc làm, nâng cao trình độ chuyên môn, xã đã cử 30 cán bộ
tham gia các lớp tập huấn, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp
vụ về hành chính, văn hóa và các lĩnh vực khác theo yêu cầu
công tác. Tạo nguồn dự bị cho Đảng bộ, từ các nhân tố trong
phong trào quần chúng, xã củng cố tổ chức Đoàn, xây dựng các
tổ trung kiên. Đảng bộ xã đã bồi dưỡng, kết nạp 20 đảng viên
trong nhiệm kỳ.
Trong hoạt động, công tác kiểm tra trong Đảng bộ xã được
duy trì, giúp cho các chi bộ, đảng viên giữ nghiêm kỷ luật, nhận
247

25.8 Page 248

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
diện được thực trạng, khắc phục được những thiếu sót, hạn chế.
Hầu hết, các chi bộ hoạt động theo quy định, thực hiện quy chế
dân chủ, đúng chức trách. Các đảng viên có quan điểm chính
trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhên, trong một số trường hợp,
một số vi phạm đã xảy ra trong việc làm trái quy định pháp luật,
thiếu tinh thần trách nhiệm. Trong nhiệm kỳ, có 04 đảng viên
nhận hình thức kỷ luật (01 mức độ khiển trách, 02 cảnh cáo, 01
khai trừ và 02 trường hợp xin xóa tên). Các hoạt động chỉ đạo,
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ luôn tuân
thủ nguyên tắc tập trung dân chủ và theo quy chế điều hành của
cấp ủy, xây dựng chương trình làm việc cụ thể, giữ mối liên hệ
giữa Đảng ủy với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy
ban Mặt trận ở địa phương.
Công tác xây dựng chính quyền có những chuyển biến tích
cực, phát huy được hiệu lực quản lý nhà nước trên tinh thần
cải cách thủ tục hành chính. Hội đồng nhân dân xã có 26 thành
viên và phân công nhiệm vụ theo luật định. Đại biểu hội đồng
thực hiện vai trò giám sát các hoạt động, tổ chức tiếp xúc cử tri,
phản ánh kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đề ra
những quyết sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với tình
hình, đặc điểm của địa phương. Bộ máy chính quyền và các cơ
quan chuyên môn được kiện toàn và nâng cao chất lượng đội
ngũ. Cán bộ được dào tạo, tập huấn nâng cao nhận thức chính
trị, trình độ nghiệp vụ và rèn luyện phẩm chất đạo đức mang
248

25.9 Page 249

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
tính gương mẫu. Các hoạt động của chính quyền theo chức
năng, bám sát nhiệm vụ đề ra và giải quyết các vấn đề trong
quản lý, điều hành. Trong cải cách thủ tục hành chính có những
hiệu quả với việc thực hiện cơ chế “Một cửa”, tạo thuận lợi
trong yêu cầu giải quyết hành chính, bớt thủ tục và thời gian,
đáp ứng được nhu cầu, sự đồng tình của nhân dân.
Tổ chức mặt trận, hệ thống chính trị, đoàn thể phát huy
được vài trò, tạo nên sức mạnh của nhân dân trong các phong
trào phát động ở địa phương. Thành viên mặt trận duy trì hoạt
động, phối hợp định kỳ và chặt chẽ trong các chương trình kinh
tế, xã hội ở xã. Mặt trận xã thực hiện tốt chức năng giám sát
hoạt động theo quy định, tiếp thu ý kiến và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Các chương trình hoạt động của mặt trận
trong hiệp thương, giới thiệu ứng cử và vận động cử tri trong
các kỳ bầu cử đại biểu hội đồng các cấp đạt tỷ lệ cao, sự đồng
thuận và hưởng ứng tích cực. Thông qua các đoàn thể, thành
viên, mặt trận đã phổ biến, tuyên truyền sâu rộng nghị quyết,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Một
số công tác đem lại kết quả góp phần cho chương trình giảm
nghèo, giúp người dân vượt khó, tạo thuận lợi cho trẻ em đến
trường. Trong nhiệm kỳ, trên địa bàn xã có 67 nhà tình thương
được xây dựng. Những quỹ học bổng, quà tặng gia đình chính
sách, học bổng được thực hiện từ nhiều nguồn lực xã hội được
vận động kịp thời.
249

25.10 Page 250

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Các đoàn thể duy trì hoạt động thường xuyên, góp phần
chung trong công tác của địa phương. Hội Phụ nữ xã có 1.225
hội viên với các hoạt động chuyên sâu, phù hợp với lứa tuổi,
nội dung chuyên đề thu hút nhiều phụ nữ tham gia: Phụ nữ tìm
hiểu về pháp luật, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất,
chủ động trong phát triển kinh tế hộ gia đình, xây dựng gia đình
hạnh phúc... Phong trào vận động phụ nữ giúp nhau làm kinh
tế gia đình được hưởng ứng, đem lại kết quả với 257 lượt phụ
nữ được giúp vốn trong làm kinh tế, 300 lượt hội viên được tập
huấn ứng dụng kỹ thuật đối với vật nuôi, cây trồng... Các hội
viên từng bước vượt qua những khó khăn, giải quyết tình trạng
thất nghiệp, có vốn làm ăn, đem lại lợi ích thiết thực. Nguồn
kinh phí được duy trì với 21 nhóm phụ nữ tiết kiệm gồm 218
thành viên, tạo nguồn vốn luân phiên giúp cho các trường hợp
khó khăn, giải quyết trong kinh tế gia đình.
Đoàn Thanh niên có 245 thành viên, với sự kết nạp từ 81
đoàn viên trong nhiệm kỳ. Các hoạt động của tổ chức thu hút
giới trẻ trong tuyên truyền, giáo dục truyền thống, pháp luật.
Các hoạt động của tổ chức đoàn tập hợp được thanh niên trong
độ tuổi của địa phương, tích cực hưởng ứng các phong trào gắn
liền với chương trình kinh tế, xã hội: Thanh niên hướng nghiệp,
tham gia công tác xã hội: làm đường giao thông, làm nhà tình
nghĩa, vận động tham gia nghĩa vụ quân sự hằng năm. Tinh
thần hoạt động của Đoàn Thanh niên sôi nổi, khích lệ tuổi trẻ
tham gia xây dựng, bảo vệ quê hương với tinh thần “Đâu cần
thanh niên có, đâu khó có thanh niên”.
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Hội Cựu chiến binh của xã có 4 chi hội, 47 hội viên. Song
hành với hoạt động chăm sóc hội viên, giúp nhau ổn định kinh
tế, làm kinh tế gia đình, hội tổ chức cho việc tuyên truyền giáo
dục truyền thống cho thế hệ trẻ với khoảng 3.000 lượt thanh
thiếu niên. Với kinh nghiệm trong thực hiện nghĩa vụ quân
sự, tinh thần cống hiến cho quê hương, hội làm tốt công tác
vận động thanh niên tình nguyện, lên đường nhập ngũ khi địa
phương tổ chức tuyển quân.
Hội Nông dân có hội viên đông gồm 1.758 người/1354 hộ
nông nghiệp, đạt tỷ lệ 88,8% tổng số hộ dân toàn xã. Công tác
hội được duy trì, đem lại hiệu quả cao trong ủng hộ phát triển
kinh tế, tăng thu nhập, đảm bảo đời sống. Với những kế hoạch
thiết thực, mang ý nghĩa trực tiếp đến canh tác, sản xuất của
nông dân, hội phối hợp với các ngành, tổ chức hướng dẫn cho
450 lượt hộ kiến thức về kỹ thuật, khoa học trong trồng trọt,
chăn nuôi và cung ứng giống vật nuôi, cây trồng. Hội thành lập
27 tổ tạo nguồn vốn, hỗ trợ cho các gia đình khó khăn vay vốn
làm kinh tế. Hoạt động hội có những đóng góp quan trọng trong
tỷ lệ giảm hộ nghèo, làm giàu chính đáng và chương trình xây
dựng nông thôn mới.
Hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể theo
quy chế dân chủ, công khai từ công tác giám sát, đánh giá về tổ
chức, nguồn tài chính và đóng góp ý kiến trong chương trình phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở địa phương. Người dân tham gia,
đóng góp nhiều ý kiến tích cực qua nhiều cuộc họp ở các cấp,
251

26.2 Page 252

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
ngành. Chế độ công khai thông tin qua nhiều hình thức đa dạng
đến với người dân: hệ thống phát thanh, họp tổ nhân dân, hoạt
động các đoàn thể, niêm yết tại công sở, khu dân cư... Người dân
nắm bắt được chủ trương, chính sách trong xây dựng địa phương,
thấy rõ được hiệu quả các chương trình, đóng góp nguồn lực xã
hội hóa với tinh thần trách nhiệm; đồng thời, công tác vận động
quần chúng đem lại kết quả trong phát động các phong trào:
Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nông dân sản xuất giỏi,
Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, Thanh niên lập nghiệp,
tuổi trẻ giữ nước, Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo,
Khuyến học...
- Lĩnh vực kinh tế
Cơ cấu kinh tế của địa phương được xác định với mặt trận
nông nghiệp là hàng đầu, đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng,
vật nuôi phù hợp, chuyển diện tích đất gò sang kinh tế vườn.
Ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản có tỷ trọng tiếp sau trồng
trọt; đồng thời xây dựng mô hình kinh tế vườn - ao - chuồng. Lĩnh
vực nông nghiệp từng bước công nghiệp hóa để phát triển nông
thôn, phát triển thêm ngành nghề mới và mạng lưới thương mại
dịch vụ.
Qua 5 năm thực hiện nhiệm vụ đề ra của đại hội, kinh tế
địa phương phát triển ổn định cùng với quá trình chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi giá trị kinh tế cao, bước đầu phát triển
tiểu thủ công nghiệp và lĩnh vực thương mại dịch vụ, từng bước
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp
252

26.3 Page 253

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
nông thôn. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, thu
nhập bình quân đầu người là 6,2 triệu đồng/ năm - vượt 1,7
triệu so với nghị quyết. Quá trình sản xuất nông nghiệp gắn
với việc xây dựng nông thôn mới, cải thiện người dân vùng
nông thôn.
Về sản xuất nông nghiệp, Phú Đông là xã nông nghiệp, sản
xuất lương thực, thực phẩm và xây dựng vùng chuyên canh
rau, vùng nguyên liệu mía đường. Xã tiến hành quy hoạch vùng
nguyên liệu mía từ 300 đến 400ha, mì chiếm khoảng 30ha.
Người dân tham gia chuyển đổi những vườn cây tạp sang vườn
cây trái 17ha, chuyên canh rau xanh có 15ha. Trong trồng trọt,
hệ số sử dụng đất tăng 1,3 diện tích lúa với 1.504ha, năng suất
3 tấn/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt của xã đạt 4.512/4.460
tấn trung bình mỗi năm, chiếm tỷ lệ 101,2%. Chuyển đổi cơ cấu
vật nuôi, cây trồng được quan tâm trên cơ sở phù hợp với đặc
điểm môi trường tự nhiên. Công tác khảo sát, nghiên cứu môi
trường tiền hành đầy đủ, thực tiễn tại địa điểm để áp dụng khoa
học kỹ thuật chăm sóc, ngăn ngừa dịch bệnh từ côn trùng, tập
huấn kỹ thuật nuôi, trồng vật giống. Người dân tích cực trong
việc học tập và áp dụng khoa học trong canh tác, sản xuất.
Ngoài ra, nhân dân thực hiện các hiện pháp đầu tư về thủy lợi,
nạo vét, khai thông hệ thống kênh tưới tiêu phục vụ sản xuất.
Trong ngành chăn nuôi, đàn gia súc, gia cầm phát triển
mạnh góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng tăng dần ngành chăn nuôi. Tổng đàn vật nuôi của xã
253

26.4 Page 254

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
hàng năm đều tăng, tuy nhiên dịch bệnh xảy ra đã làm số lượng
gia cầm giảm trong các đợt dịch. Với lợi thế về tài nguyên mặt
nước, xã chủ trương phát triển nuôi trồng thủy sản bán thâm
canh trên diện tích 9,5ha. Nhiều hộ dân tiếp tục tham gia, áp
dụng các mô hình nuôi và khai thác, đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng của địa phương và trao đổi với một số khu vực.
Nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, xã xây dựng mô hình
kinh tế tập thể với việc thành lập 2 tổ hợp tác kinh tế: Tổ hợp
tác trồng mía ấp Giồng Ông Đông (52 hộ với diện tích 50 ha),
Tổ hợp tác trồng rau ấp Thị Cầu. Hai tổ hợp tác hoạt động hiệu
quả, được người dân tín nhiệm. Tổ kinh tế hợp tác trồng rau
đã được nâng cấp thành Hợp tác xã với vốn đầu tư 50.000.000
đồng, diện tích sản xuất 3,2ha với 10 xã viên.
Về tiểu thủ công nghiệp, trên địa bàn xã có 3 hộ sản xuất
bánh mì, than, gang và 6 cơ sở nghề kỹ nghệ sắt, gò hàn, cửa
gỗ xẻ. Quy mô các cơ sở không lớn nhưng đảm bảo được công
việc, thu nhập theo sản phẩm. Mạng lưới thương mại dịch vụ
của xã với nhiều loại hình, thành phần kinh tế tham gia. Tổng
số có 53 cơ sở chính trong các hoạt động kinh doanh vật liệu
xây dựng, thức ăn chăn nuôi và nhà trọ, giải khát, giải trí, dịch
vụ ăn uống... Đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thực phẩm trên địa bàn
ở các khu dân cư, có 92 hộ kinh doanh nhỏ, lẻ về hàng thịt gia
cầm. Có 27 hộ kinh doanh dịch vụ với quy môn tương đối với
giá trị sản xuất hàng năm từ 50 triệu đến 150 triệu đồng/ hộ.
254

26.5 Page 255

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Nguồn tài chính cấp trên cấp và thu của xã đáp ứng cho yêu
cầu hoạt động, đảm bảo theo luật ngân sách. Trên cơ sở khai
thác triệt để các nguồn thu và làm tốt công tác tuyên truyền vận
động nên hàng năm, địa phương vượt chỉ tiêu thu ngân sách
từ 10% trở lên. Xã Phú Đông phối hợp với Ngân hàng Nông
nghiệp & phát triển nông thôn cho 808 hộ gia đình được vay
vốn với tổng số tiền là 5,5 tỷ đồng, tạo thuận lợi cho việc đầu
tư, kinh doanh trên các lĩnh vực. Vẫn còn tình trạng nợ quá hạn
trong 206 hộ gia đình do nhiều yếu tố tác động, được xử lý phù
hợp để thu hối nguồn vốn.
Trong công tác quản lý đất đai, xã cấp 2.160 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; trong đó, cấp cho người dân 2.078
giấy, đạt tỷ lệ 96,2% tạo thuận lợi cho sử dụng đúng mục đích.
Vấn đề bảo vệ môi trường được địa phương quan tâm thường
xuyên qua các kế hoạch, chương trình được người dân hưởng
ứng: Ra quân làm sạch môi trường, thu gom rác thải trong khu
dân cư.
Về xây dựng cơ bản, ngân sách nhà nước đầu tư trên 450 triệu
đồng xây dựng cơ sở văn phòng, cầu đường. Từ nguồn xã hội
hóa, xã tiến hành sửa chữa 20 đường giao thông nông thôn với
kinh phí 445 triệu đồng. Toàn xã có 91,8% số hộ sử dụng điện,
doanh thu khoảng 660 triệu, tuy nhiên, ấp Phú Tân chưa có hệ
thống lưới điện. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn còn chậm, một
số trụ sở làm việc của ấp chưa xây dựng, giao thông xóm ấp còn
khó khăn.
255

26.6 Page 256

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế có chuyển biến tích cực,
các chính sách xã hội được triển khai đồng bộ thu được nhiều
kết quả, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cả
tầng lớp nhân dân ở địa phương.
Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao từng bước đi vào chiều sâu. Đời sống văn hóa tinh
thần của người dân được nâng lên qua nhiều hình thức tiếp cận:
thông tin đại chúng từ phương tiện gia đình, đài truyền thanh
xã và các buổi văn nghệ tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính
trị. Đài truyền thanh xã có 6 km đường dây, 9 cụm loa và 6 cụm
truyền thanh không dây phục vụ phát thanh 02 lần/ ngày đến
các ấp. Trung tâm văn hóa của xã được xây dựng mới. Các hoạt
động văn nghệ, thể dục thể thao được tổ chức. Cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai
đến xóm ấp, khu dân cư. Hằng năm, có trên 97% hộ đăng ký và
trên 90% đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hóa, 5 ấp đạt danh hiệu Ấp
văn hóa. Cuộc vận động này góp phần trên nhiều mặt, đặc biệt
xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, góp phần làm giảm các
tệ nạn xã hội và đoàn kết dân cư chung tay trong các phong trào
quần chúng.
Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập được duy trì, tu
bổ và xây mới, tăng cường trang thiết bị theo nhu cầu và nguồn
vốn trong kế hoạch phân bổ. Trường Trung học cở sở Phú Đông
được xây dựng với quy mô 18 phòng học, 1 hội trường, dãy
256

26.7 Page 257

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
phòng làm việc và hệ thống phòng thực hành, đạt chuẩn quốc
gia về cơ sở vật chất. Trong 5 năm, có 7 phòng học được xây
mới. Nguồn nhân lực giảng dạy ở địa phương được tăng cường,
nâng cao chất lượng. Toàn xã có 21 lớp với 518 học sinh. Đội
ngũ nhà giáo có 29 người, trong đó có 24 giáo viên đã được
chuẩn hóa về nghề nghiệp. Tỷ lệ huy động học sinh từ 3 đến 5
tuổi ra lớp mẫu giáo đạt từ 95 - 100%, tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp
1 đạt 100%. Số học sinh ở các cấp học được duy trì, đạt tỷ lệ
trên 99%, khắc phục được trình trạng bỏ học. Chất lượng đào
tạo từng bước được nâng lên với những kết quả: Tỷ lệ học sinh
khá giỏi tăng 46% so với năm 2000, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học
hàng năm trên 99%. Trung tâm học tập cộng đồng của xã hoạt
động, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân. Xã Phú
Đông đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học, phổ cập trung học cơ sở vào năm 2005 và thực hiện
phổ cập bậc trung học.
Hoạt động y tế được duy trì thường xuyên, đáp ứng nhu
cầu của nhân dân. Trạm y tế của xã đảm bảo nhân lực có trình
độ chuyên môn bác sĩ, y tá khám, chữa bệnh. Đội ngũ y tế phối
hợp với các cơ quan, đoàn thể tham gia, phát động phòng chống
dịch bệnh, thực hiện các chương trình y tế quốc gia. Việc kết
hợp chăm sóc sức khỏe với tuyên truyền vận động nâng cao ý
thức phòng bệnh đã đem lại nhiều kết quả. Địa bàn xã trong
5 năm qua không xảy ra dịch, tỷ lệ tiêm chủng mở rộng hàng
năm đạt trên 98%. Số trẻ em từ 0 đến 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
257

26.8 Page 258

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
giảm từ 437 còn 147 em. Toàn xã có tỷ lệ 90,6% số hộ dùng
nước sạch, 75% hộ có nhà xí hợp vệ sinh. Chương trình dân số,
kế hoạch hóa gia đình được triển khai rộng rãi. Xã thực hiện
mô hình câu lạc bộ gia đình không sinh con thứ 3, vận động
73,73% số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đăng kí thực hiện kế
hoạch hóa. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 1,65% năm 2000
xuống 1,25% năm 2005.
Đối với công tác xã hội, xã thực hiện tốt thăm hỏi, hỗ trợ đời
sống, tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối với 72 trường hợp
diện chính sách. Qua các nguồn xã hội hóa, xã xây dựng được
67 nhà tình nghĩa, nhà tình thương, vận động hỗ trợ đời sống
bằng tháng cho 25 gia đình chính sách và giải quyết kịp thời các
chế độ theo quy định. Chương trình xoá đói giảm nghèo được
triển khai bằng nhiều biện pháp tích cực như tập huấn khoa học
kỹ thuật, mô hình sản xuất mới, hỗ trợ vốn, giống cây trồng,
vật nuôi, hỗ trợ cùng nhau làm kinh tế. Trên địa bàn xã, phong
trào “dân giúp dân phát triển kinh tế” được hưởng ứng với 319
hộ khá giúp nguồn kinh phí khoảng 54 triệu đồng đối với 163
lượt hộ nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên làm ăn. Những kế
hoạch, phong trào của xã đã góp phần tích cực trong chương
trình xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Năm 2000, xã có 291
hộ nghèo, đến năm 2005 còn 61 hộ. Trong những dịp lễ, tết,
nhằm động viên, khích lệ và hỗ trợ hoàn cảnh khó khăn, xã vận
động tặng 6.000 phần quà (trị giá trên 400 triệu đồng) đến các
hộ dân.
258

26.9 Page 259

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Tình hình an ninh quốc phòng trên địa bàn xã Phú Đông
được giữ vững, chính trị ổn định, trật tự và an toàn xã hội đảm
bảo. Những yếu tố này được giữ vững trong giai đoạn thế giới
có những biến chuyển, tạo thuận lợi chung cho sự nghiệp phát
triển kinh tế, xã hội của địa phương. Tư tưởng và chủ trương
nền quốc phòng toàn dân vững chắc được thực hiện rộng rãi với
phong trào “Quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc” kết
hợp với xây dựng lực lượng dân quân vững mạnh về số lượng
và chất lượng. Hằng năm, công tác xây dựng lực lượng đạt tỷ
lệ 3,18% trên tổng số dân. Lực lượng tham gia quốc phòng xã,
ấp đảm bảo kế hoạch huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bên cạnh
được giáo dục chính trị tư tưởng. Thanh niên trúng tuyển nghĩa
vụ quân sự của xã chấp hành tốt chủ trương, đường lối và luôn
hoàn thành kế hoạch. Việc quản lý, phúc tra lực lượng dự bị
động viên thực hiện chặt chẽ thể hiện qua huy động kiểm tra
sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện theo kế hoạch. Xã đội phối hợp
chặt chẽ với các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn giữ
vững an ninh chính trị, thực hiện tốt công tác dân vận. Công tác
hậu phương quân đội được quan tâm thường xuyên đối với các
gia đình quân nhân tại ngũ. Trong 5 năm qua, có 159 quân nhân
hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương được ưu tiên
học nghề, giải quyết việc làm.
Lực lượng an ninh của xã đảm bảo công tác, thực hiện tốt
nhiệm vụ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
259

26.10 Page 260

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Những đợt cao điểm phục vụ nhiệm vụ chính trị, bầu cử, sự
kiện, lễ tết các mục tiêu trọng điểm được đảm bảo an toàn.
Công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn được thực hiện thường
xuyên đã kết hợp phòng ngừa với đấu tranh phòng chống tội
phạm và tệ nạn xã hội. Trong 5 năm đã phát hiện và giải quyết
204 vụ về trật tự xã hội chủ yếu là gây rối trật tự công cộng,
trộm cắp tài sản công dân, tai nạn giao thông, cờ bạc. Những
vụ việc vi phạm pháp luật “núp bóng” các hình thức hoạt động
vui chơi, giải trí... giảm dần trong từng năm. Công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật bằng hệ thống truyền thanh, báo cáo
chuyên để, sinh hoạt tổ nhân dân được duy trì, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật với quần chúng. Hội đồng hòa giải cấp xã
và những tổ Hòa giải ở 5 ấp được tập huấn bồi dưỡng kiến thức,
xây dựng quy chế hoạt động, đem lại hiệu quả trong giải quyết
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
*
Nhiệm kỳ 5 năm đầu thế kỷ XXI, với quyết tâm và nỗ lực,
Đảng bộ xã Phú Đông đã chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân địa phương
thực hiện nhiệm vụ và chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội do đại
hội khóa II đề ra. Với những thuận lợi từ cơ sở đạt được và tình
hình thực tiễn của địa phương, Đảng bộ, chính quyền và các
tầng lớp nhân dân đã tạo nên sức mạnh đoàn kết, gặt hái những
thành quả. Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố tác động, một số hạn
chế trên các lĩnh vực chưa đạt được.
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Về kinh tế, diện tích gieo trồng ở địa phương chưa được
mở rộng so với nguồn lực đất đai, quá trình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi chưa đồng bộ, có những mô hình hiệu quả
nhưng chưa được nhân rộng. Áp dụng khoa kỹ thuật trong sản
xuất, chăn nuôi chưa được phủ rộng trong người dân dù có
nhiều chương trình khuyến công, khuyến nông. Tiểu thủ công
nghiệp phát triển nhỏ lẻ, kinh tế tập thể được hình thành với
hình thức tổ liên kết, hợp tác xã nhưng ở quy mô nhỏ, chưa đa
dạng. Cơ sở, mạng lưới thương mại và dịch vụ chỉ đáp ứng nhu
cầu của địa phương, chưa mở rộng và còn yếu trong lĩnh vực
nông nghiệp, công nghiệp. Ngành dịch vụ ở mức thấp trong tỷ
lệ cơ cấu kinh tế của địa phương (10%).
Nguồn ngân sách và xã hội hóa trong hoạt động văn hóa,
thể dục thể thao được huy động, tăng cường đầu tư về cơ sở vật
chất. Thế nhưng, cơ sở và trang thiết bị chưa đáp ứng nhu cầu
sâu rộng trong đời sống người dân trước sự phát triển về công
nghệ khá rộng trong xã hội. Hoạt động của trung tâm văn hóa,
học tập cộng đồng đi vào nề nếp nhưng hiệu quả chưa cao. Vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động ở địa phương còn
nhiều khó khăn. Một số thời điểm, một số địa bàn của xã vẫn
còn xảy ra tệ nạn xã hội, diễn biến phức tạp.
Đảng bộ xã Phú Đông đã rút ra những bài học quý báu từ
công tác chỉ đạo, lãnh đạo trên các lĩnh vực, từ thực tiễn kinh
261

27.2 Page 262

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tế, xã hội qua quá trình thực hiện; trong đó những yếu tố quan
song vẫn có những yếu tố chủ quan. Đảng bộ xã Phú Đông đúc
kết những bài học: Chú trọng phát huy nội lực, gắn phát triển
kinh tế xã hội với bảo vệ môi trường, giữ vững ổn định an ninh
chính trị, quốc phòng và an toàn xã hội; Không ngừng đổi mới
xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo, bám sát phong trào, chủ động, chỉ đạo kịp thời thực
hiện nhiệm vụ; Kiện toàn hệ thống chính trị và phát huy sức
đoàn kết của nhân dân địa phương; Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức và trình độ
chuyên môn đáp. Đảng bộ và nhân dân xã Phú Đông bước vào
giai đoạn phát triển mới.
2. Hiện đại hóa và chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế
(2005 - 2010)
Năm 2005, Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa III nhiệm
kỳ (2005-2010) được tổ chức. Căn cứ thực tiễn của địa phương,
trong định hướng phát triển của huyện Nhơn Trạch trong thời
kỳ phát triển công nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển
cơ sở hạ tầng hướng đến xây dựng thành phố công nghiệp, Đại
hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ: “Tiếp tục thực hiện chuyển
đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích
hợp, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, xây
dựng mô hình kinh tế vườn - ao - chuồng; Từng bước thực hiện
262

27.3 Page 263

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển thêm các
ngành nghề mới, duy trì những ngành nghề hiện có; Phát triển
thương mại - dịch vụ phục vụ nhu cầu xã hội; Coi trọng phát
triển văn hóa giáo dục, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm,
xóa đói giảm nghèo; Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; Đổi mới
công tác vận động quần chúng, thực hiện tốt quy chế dân chủ
ở cơ sở, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng,
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ
trong thời kỳ mới1. Những mục tiêu cơ bản được đại hội thông
qua khá chi tiết nhằm hướng đến tăng trưởng kinh tế hằng năm
đạt từ 10 đến 12%. Cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dần theo hướng
Nông nghiệp (50%), Thương mại - dịch vụ (30%) và Tiểu thủ
công nghiệp (15%). Cùng với các lĩnh vực khác với các chỉ
tiêu cụ thể và những giải pháp thực hiện, yêu cầu năng lực chỉ
đạo, lãnh đạo của Đảng bộ xuyên suốt, chính quyền và cơ quan
trực thuộc, đoàn thể phối hợp chặt chẽ, thực hiện hiệu quả theo
chức năng, nhiệm vụ, vận động quần chúng hưởng ứng, tham
gia tích cực, tạo nên sự đoàn kết để đạt được những kết quả cho
địa phương.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Đông (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ xã
Phú Đông khóa III, nhiệm kỳ (2005 - 2010). Tài liệu lưu trữ tại địa phương.
263

27.4 Page 264

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông đã bầu Ban Chấp hành gồm 9
đồng chí. Lãnh đạo Đảng ủy xã gồm các đồng chí: Châu Phước
Thuận giữ chức Bí thư, Tô Ngọc Anh chức Phó Bí thư, Huỳnh
Văn Đẹp - Ủy viên Thường vụ; các ủy viên: Nguyễn Văn Tuấn,
Đoàn Văn Tám, Nguyễn Văn Hải, Đặng Văn Lo, Nguyễn Kim
Thắng, Dương Khắc Chiến, Dương Chí Hùng. Tháng 11/2005,
đồng chí Huỳnh Văn Đẹp được chỉ định giữ chức Quyền Bí thư.
Bước vào nhiệm kỳ mới, Đảng bộ xã Phú Đông chú trọng
trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức; trong đó yêu
cầu mỗi đảng viên phải gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm
và luôn phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, chức trách được giao.
Đảng bộ quan tâm công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên để xây dựng tập thể vững mạnh, kiên
định tư tưởng, lập trường tư tưởng vững vàng, bản lĩnh chính
trị và trình độ chuyên môn, phẩm chất cách mạng để tiên phong
trên mọi lĩnh vực. Trước tình hình các thế lực thù địch tuyên
truyền quan điểm sai trái về đường lối, chủ trương của Đảng,
thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, phá hoại chính sách
đại đoàn kết dân tộc, cán bộ, đảng viên cần học tập nâng cao
trình độ, không ngừng trao dồi, rèn luyện đạo đức. Đảng ủy xã
tổ chức triển khai, quán triệt các nghị quyết đầy đủ, kịp thời
đối với cán bộ, đảng viên tham gia đạt tỷ lệ 99%. Đối với quần
264

27.5 Page 265

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
chúng, qua các tổ chức trực thuộc, cán bộ, đảng viên nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng chính đáng và thực hiện hiệu quả
công tác tuyên truyền, vận động. Chủ trương của Đảng, chính
sách Nhà nước được phổ biến đến với các tầng lớp nhân dân
đạt 65% lượt người trên tổng số dân. Cán bộ, đảng viên và nhân
dân hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
những tiêu cực trong xã hội. Nhân dân được nâng cao về tinh
thần trong nhận thức, cảnh giác, chống lại những quan điểm sai
trái, thể hiện tinh thần bảo vệ tổ chức, thành quả cách mạng.
Ban Tuyên giáo xã có vai trò quan trọng trong tổ chức mô
hình “Đảng bộ xã lãnh đạo công tác khoa giáo trong thời kỳ
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn” với
nhiều hình thức hiệu quả qua phương tiện truyền thông, mạng
lưới tổ nhân dân ở các địa bàn cơ sở. Cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai
sâu rộng, thông qua các chuyên đề, loại hình đa dạng duy trì
liên tục trong các năm. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân tích cực hưởng ứng, tạo sự chuyển biến, xuất hiện những
gương điển hình trong học tập, lối sống, lan tỏa trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng.
Công tác tổ chức và đào tạo cán bộ: được chú trọng nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ. Nội dung sinh hoạt
trong tổ chức đảng được nâng cao về chất lượng, tỷ lệ đảng
265

27.6 Page 266

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
viên tham gia từ 98% trở lên, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân
chủ, phệ bình và tự phê bình. Đảng viên còn trong độ tuổi công
tác đều được phân công nhiệm vụ và đánh giá chất lượng theo
quy định. Công tác quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo nguồn
được quan tâm, thực hiện đối với mỗi chức danh cán bộ chủ
chốt. Trong 5 năm, Đảng bộ xã cử 146 cán bộ, giáo viên và
thanh niên tham gia các khóa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
của huyện. Với ý thức nâng cao chuyên môn, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ, vị trí việc làm, 12 cán bộ tham gia học nâng cao trình
độ bậc cử nhân. Công tác tạo nguồn phát triển đảng viên mới
đạt kết quả qua tổ chức đoàn thanh niên, bồi dưỡng ở tổ trung
kiên, kết nạp 41 đảng viên.
Căn cứ trên điều lệ và quy định của Bộ Chính trị về 19 điều
đảng viên không được làm, Đảng ủy thực hiện công tác kiểm
tra thường xuyên, giúp đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng giữ
nghiêm kỷ luật. Các đồng chí cấp ủy viên và cán bộ lãnh đạo
luôn có quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức,
lối sống lành mạnh, chấp hành nghiêm túc quy định, sẵn sàng
nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời, qua kiểm
tra phát hiện những hạn chế, khuyết điểm của đảng viên, thi
hành kỷ luật nhằm giáo dục với tinh thần xây dựng, khắc phục.
Một số cán bộ, đảng viên vi phạm qui định của Đảng, Nhà nước
áp dụng các hình thức kỷ luật (01 cách chức, 01 cảnh cáo, 03
266

27.7 Page 267

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
khiển trách, 01 xóa tên). Trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ,
Đảng ủy làm tốt công tác kiểm tra, rà soát chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên chuẩn bị cho bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp
và nhân sự Đại hội Đảng bộ khóa IV. Tiến hành kiểm tra tiêu
chuẩn cán bộ, tiêu chuẩn về chính trị trước đối với các trường
hợp giới thiệu nguồn dự bị kết nạp. Phương thức lãnh đạo lề
lối làm việc tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ và theo qui
chế điều hành của cấp ủy theo định kỳ, giữ mối quan hệ giữa
Đảng ủy với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc.
Chất lượng nội dung và hình thức hoạt động của Hội đồng
nhân dân hàng năm được nâng lên. Sự phân nhiệm các tổ trong
Hội đồng nhân dân hoạt động theo qui chế, đại biểu ở địa
phương làm tốt chức năng, nhiệm vụ. Bộ máy chính quyền tiếp
tục củng cố, kiện toàn đảm bảo hiệu quả công tác điều hành
quản lý. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã tạo nên những
quyết sách phù hợp trong quản lý, phát triển của địa phương.
Công tác cải cách hành chính được triển khai thông suốt với mô
hình Tổ một cửa liên thông. Hiệu quả quản lý, điều hành của
chính quyền xã chuyển biến tích cực trong giải quyết công việc
đúng chủ trương, pháp luật, quy trình và đem lại thuận lợi cho
người dân.
267

27.8 Page 268

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Khối vận đã tham mưu tốt để cấp ủy chỉ đạo đoàn thể xây
dựng chương trình hành động theo nghị quyết Đảng bộ. Nghị
quyết Trung ương 7 (khóa IX) về Tăng cường và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, đổi mới phương thức hoạt động
trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tuyên truyền sâu rộng.
Khối đại đoàn kết ở địa phương được mở rộng, quần chúng tích
cực tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội. Tỷ lệ tập hợp
đoàn viên, hội viên đạt chỉ tiêu so nghị quyết, sinh hoạt thường
xuyên đạt từ 75%, nồng cốt 35% trở lên. Quy chế dân chủ được
thực hiện trong chính quyền, đoàn thể với chức năng kiểm tra,
giám sát của tổ chức mặt trận, thanh tra nhân dân và đoàn thể
góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.
Tổ chức mặt trận địa phương và các thành viên phối hợp
với cấp ủy, cơ quan triển khai nghị quyết Đảng các cấp, chính
sách Nhà nước đến với đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân
dân. Tinh thần dân chủ trong nhân dân được nâng lên, nhân dân
đoàn kết giúp đỡ nhau trong các phong trào của địa phương:
Phát triển kinh tế giúp nhau xóa đói giảm nghèo, tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, đóng góp, chung tay xây dựng
công trình phúc lợi công. Đặc biệt, người dân ở các khu dân cư
hưởng ứng tích cực, thi đua phấn đấu thực hiện cuộc vận động
xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn, gắn với các chương trình
thiết thực “4 xây, 4 xóa”, xây dựng quỹ “Vì người nghèo”. Các
268

27.9 Page 269

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
tổ chức đoàn thể của địa phương đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, cùng góp phần hoàn thành nghị quyết của Đảng bộ xã.
Hội Liên hiệp phụ nữ thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm của
hội, tổ chức tuyên truyền về pháp luật, dân số kế hoạch hóa
gia đình, nuôi con khỏe dạy con ngoan... với hội viên. Hội đã
xây dựng 44 nhóm, tổ tiết kiệm tương trợ có 452 thành viên
góp vốn trên 100 triệu đồng hoạt động với hình thức cho mượn
xoay vòng giúp nhau làm kinh tế gia đình, vần đổi hằng trăm
lượt ngày công giúp nhau trong công việc. Nhiều tổ phụ nữ
giúp thành viên vay vốn sản xuất từ ngân sách, vượt khó khăn
và làm ăn hiệu quả.
Hội Cựu chiến binh duy trì hoạt động, thực hiện tốt công
tác giáo dục chính trị tư tưởng trong nhân dân. Nhiều hội viên
đã đóng góp tuyên truyền về truyền thống bất khuất của dân
tộc, hình ảnh thân thương của “bộ đội cụ Hồ” cho lớp trẻ, học
sinh, vận động thanh niên nhập ngũ. Đặc biệt, tổ chức hội phối
hợp với các đơn vị quân sự, công an trong công tác giáo dục
công dân, cảm hóa đối tượng lầm lỡ.
Tổ chức Đoàn Thanh niên của địa phương với tinh thần
hăng hái, nhiệt huyết, không ngừng học tập, bồi dưỡng chính
trị, tư tưởng. Trong nhiệm kỳ, Đoàn Thanh niên đã giới thiệu
20 đoàn viên ưu tú và có 18 đồng chí được kết nạp vào hàng
ngũ của Đảng. Các phong trào hành động cách mạng của đoàn
269

27.10 Page 270

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
triển khai hiệu quả, thu hút được nhiều thanh niên tham gia: xây
dựng bảo vệ quê hương, phòng chống các tệ nạn xã hội... Một
số mô hình tiêu biểu được nhân rộng trong giải quyết việc làm
cho đoàn viên, thanh niên, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống.
Hội Nông dân có sự giảm về số lượng hội viên do chuyển
đổi ngành nghề. Tổ chức hội duy trì công tác phối hợp với các
ngành chuyên môn, mở 27 lớp tập huấn về khoa học kỹ thuật
đối với cây trồng, vật nuôi cho 791 hộ nông dân. Phong trào
Nông dân sản xuất giỏi phát động với sự tham gia của 477 hộ.
Hội Người cao tuổi thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong gia đình,
trong cộng đồng dân cư. Một số hội viên cao tuổi nêu gương
sáng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội Chữ thập
đỏ phối hợp Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã ấp vận động
những nguồn kinh phí, vật chất giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình
chính sách, hộ nghèo khó khăn. Trong 5 năm, công tác hội đạt
được những thành tích, đem lại ý nghĩa trong cộng đồng: vận
động 36 xe lăn, xe lắc giúp người tàn tật, hỗ trợ mai táng đối
với 127 gia đình khó khăn, tổ chức khám chữa bệnh miễn phí
cho 6.304 lượt người (315.200.000 đồng), mổ mắt 300 ca (trị
giá 600.000.000 đồng), vận động 170 cá nhân tham gia hiến
máu nhân đạo.
- Lĩnh vực kinh tế
Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của người dân xã
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Phú Đông. Đây là giai đoạn địa phương đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế gắn liền với mục tiêu xây
dựng nông thôn mới. Hệ số sử dụng đất sản xuất nông nghiệp
tăng 1,3 lần, gồm diện tích lúa 850ha, năng suất 3,2 tấn/ha và
tổng sản lượng lương thực đạt 2805./4.741 tấn/năm. Bình quân
lương thực đầu người (chỉ tính lúa) của xã là 286,2 kg/năm. Xã
quy hoạch, bố trí vùng nguyên liệu mía đường 400ha với năng
suất 7,5 tấn/ha; mì 30ha, đạt chỉ tiêu đề ra. Bên cạnh đó, vận
động nhân dân chuyển đổi, cải tạo vườn tạp thành vườn chuyên
trồng cây ăn trái với 44,5ha, vùng chuyên canh rau xanh đạt
14,5ha. Trong sản xuất, qua các chương trình khuyến nông, tổ
chức các lớp tập huấn kỹ thuật để người dân áp dụng, kịp thời
phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh. Người dân được giới thiệu
giống vật nuôi, cây trồng thử nghiệm trên đất phèn, thích hợp
với đặc điểm môi trường sản xuất, chăn nuôi, nắm bắt phương
thức trong quá trình nuôi, trồng để đạt năng suất cao. Hằng
năm, đàn gia súc gia cầm tăng từ 5- 10%, góp phần tăng tỷ
trọng ngành chăn nuôi theo định hướng chuyển dịch cơ cấu
phát triển kinh tế của địa phương. Với tài nguyên mặt nước
nhiều, nuôi trồng thủy sản theo phương thức bán thâm canh đạt
14/15ha (tỷ lệ 93% diện tích quy hoạch).
Ngành tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển
các ngành nghề được duy trì trước đây (kỹ nghệ sắt, gò hàn,
cưa xẻ gỗ,...) dù chưa mạnh nhưng giá trị sản xuất có từ 50 -
271

28.2 Page 272

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
300 triệu đồng/hộ phản ánh chuyển biến tích cực. Mạng lưới
thương mại dịch vụ với nhiều loại hình và nhiều thành phần
kinh tế tham gia. Trên địa bàn xã, qua 5 năm, vừa duy trì và
phát triển tăng thêm được 287 cơ sở, đặc biệt đã nâng quy mô
với hàng chục cơ sơ theo theo hướng doanh nghiệp tư nhân.
Chợ Giồng Ông Đông có những khởi sắc, tăng số lượng sạp
buôn bán nhiều, đáp ưng nhu cầu trao đổi hàng hóa, tiêu thụ
sản phẩm, phục vụ đời sống người dân. Mô hình kinh tế tập thể
được duy trì, phát triển. Tổ hợp tác kinh tế trồng và vận chuyển
mía ở ấp Bến Ngự có 22 hộ tham gia, diện tích 40ha. Hợp tác
xã nông nghiệp - dịch vụ Phú Đông hoạt động ổn định, vốn đầu
tư đạt 382.000.000đồng với 10 hộ xã viên.
Trong nhiệm kỳ, xã đã lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn
2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020, giới thiệu địa điểm các dự
án để xây dựng trên cở sở quy hoạch được phê duyệt. Các dự
án quy hoạch đầu tư trên địa bàn xã vừa đảm bảo nhu cầu phát
triển kinh tế và văn hóa - giáo dục. Hệ thống các trường học các
cấp, công sở hoạt động văn hóa - y tế được quy hoạch xây dựng
khá đa dạng: Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Mẫu giáo,
trạm Y tế, trụ sở ấp... Đồng thời, một số đơn vị hoạt động trên
lĩnh vực kinh tế được quy hoạch sử dụng nguồn đất phát triển:
Công ty liên doanh Phú Đông, Công ty trách nhiệm hữu hạn
Vĩnh Hưng, Comeco, Kho cảng của Tổng cục Hậu cần, Ngân
272

28.3 Page 273

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
hàng công thương Việt Nam, mở rộng đường 769, đường Phú
Tân - Giồng Ông Đông, đường Phước Khánh... Bộ phận địa
chính tham mưu, xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho dân đạt 100%. Những thủ tục liên quan đến đất đai đều
được giải quyết theo cơ chế “một cửa”, giảm thời gian và vụ
việc tranh chấp đất đai. Qua các đoàn thể, xã phát động người
dân tham gia một số chiến dịch ra quân làm vệ sinh môi trường,
thu gom rác thải sinh hoạt tại các địa bàn dân cư.
Về xây dựng cơ bản, từ ngân sách được cấp theo kế hoạch
và xã hội hóa của người dân, xã Phú Đông đã thực hiện tốt trong
giai đoạn từ 2005 đến năm 2010. Nhiều cơ sở vật chất của địa
phương được xây dựng tạo nên sự khang trang, thuận lợi trong
phát triển nhiều mặt với kinh phí 9,2 tỷ đồng. Giao thông trên
địa bàn được nâng cấp, mở rộng, làm mới: bê tông hóa 6 đường
giao thông nông thôn, đường vào trụ sở xã, đường dốc 30, cầu
Cây Me, cầu Láng Cát và 4 cây cầu trong chương trình xóa cầu
tạm bợ... Các công trình được sửa chữa, xây dựng, nâng cấp:
xây dựng trường học, trạm y tế, trụ sở ấp, trung tâm văn hóa...
Chợ Giồng Ông Đông được xây dựng mới từ nguồn vốn xã hội
hóa. Về công trình điện, các địa bàn cơ sở từ các đầu mối được
kéo điện hạ thế, góp phần nâng số hộ dân sử dụng điện lên 98%
toàn xã. Sử dụng nước đạt tỷ lệ 97% số hộ sử dụng nước hợp
vệ sinh.
273

28.4 Page 274

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trong nhiệm kỳ, mỗi năm, tài chính của địa phương đảm
bảo nguồn thu chi cho bộ máy hoạt động và tích lũy dự phòng.
Ngân sách hàng năm thu đạt từ 100% - 230% so với chỉ tiêu đề
ra, đây là sự nỗ lực lớn trong công tác quản lý, điều hành và các
đơn vị chức năng. Xã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội tạo thuận
lợi cho người dân vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh.
Các dự án 120 thuộc địa phương được tích cực kiểm tra việc sử
dụng vốn và vận động thu hồi vốn không để nợ đọng.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội
Hoạt động văn hóa, thông tin của xã đáp ứng hiệu quả trong
việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương
bằng nhiều hình thức. Những hình thức tuyên truyền khá đa
dạng từ trực tiếp với các cuộc mít tinh, cổ động đến các phương
tiện truyền thông, thông qua các hội đoàn với sự chỉ đạo, phối
hợp chặt chẽ.
Hệ thống cơ sở thiết chế văn hóa của Phú Đông trong nhiệm
kỳ được sự hỗ trợ, đầu tư kinh phí của huyện. Trung tâm văn
hóa xã và các ấp đều có điểm sinh hoạt đáp ứng nhu cầu giải trí,
vui chơi lành mạnh của người dân ở địa bàn. Các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể thao được tổ chức và người dân tham gia tích
cực. Năm 2009, xã Phú Đông được huyện tặng bằng khen về
274

28.5 Page 275

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
phong trào văn hóa, thể thao. Hoạt động thể thao thu hút người
dân luyện tập, rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ, tham gia
hội thi, hội diễn và giao lưu trong phong trào chung của huyện
Nhơn Trạch.
Thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, hàng năm
ở xã có từ 96-98% hộ đạt danh hiệu Gia đình văn hóa, giữ vững
4/5 ấp Văn hóa. Các cơ quan chức năng phối hợp kiểm tra trong
hoạt động trên địa bàn, xử lý các tụ điểm kinh doanh dịch vụ
vi phạm, phòng ngừa được những tệ nạn xã hội núp bóng hoạt
động vui chơi, giải trí. Cùng với các phong trào hoạt động văn
hóa - văn nghệ, thề thao được phát động, công tác quản lý, kiểm
tra duy trì đã tạo chuyển biến tích cực đối với các loại hình hoạt
động văn hóa ở địa phương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa cho người dân. Điều kiện kinh tế phát triển và nhu cầu xử
dụng, mạng lưới thông tin liên lạc toàn xã được tăng lên với
750 máy điện thoại cố định (bình quân đạt 30 máy/100 hộ).
Ngoài ra, tùy theo điều kiện, người dân tiếp cận các công nghệ,
truyền thông đa phương tiện đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc.
Lĩnh vực giáo dục được xác định là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm trong chính sách phát triển của xã. Kế thừa nguồn
nhân lực và cơ sở vật chất của giai đoạn trước, xã quan tâm đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất và bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn
275

28.6 Page 276

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
hóa về chuyên môn, nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ huy
động học sinh ở các cấp học đầu năm học đều đạt từ 98 - 100%,
duy trì được sĩ số học sinh, giảm dần tỉ lệ học sinh xếp hạng
yếu, trung bình và tăng dần tỉ lệ sinh khá, giỏi hàng năm. Chất
lượng giáo dục - đào tạo ở địa phương được nâng cao phản ánh
qua những đại diện học sinh các trường, các cấp của xã đạt giải
thưởng khi tham gia những hội thi cấp huyện, tỉnh, quốc gia.
Hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng, Hội Khuyến học
đem lại những hiệu quả tích cực trong vận động, tuyên truyền
và hỗ trợ các phong trào Tiếp sức sinh viên, học sinh khó khăn.
Với sự nỗ lực chung của địa phương, xã Phú Đông đạt thành
tích với sự công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ - phổ
cập ở 3 cấp. (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông).
Trong 5 năm từ 2005 đến 2010, trạm y tế hoạt động có
hiệu quả. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được duy trì,
đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh tuyến cơ sở. Đặc biệt, các
gia đình chính sách, những người khó khăn, trẻ dưới 6 tuổi là
những đối tượng được ưu tiên, chăm sóc tốt. Các chương trình
y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng, tiêm ngừa các bệnh nguy
hiểm cho nhân dân thực hiện hiệu quả trên địa bàn, đạt 98% trở
lên. Từ tuyên truyền vận động tham gia và công tác thực hiện
phòng ngừa suy dinh dưỡng cho trẻ em được ở xã đã kéo giảm
tỷ lệ từ 20,2% xuống 11%.
276

28.7 Page 277

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Trong công tác tuyên truyền dân số, kế hoạch hóa gia
đình, qua truyền thông lồng ghép, xã Phú Đông có trên 1 ngàn
người thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại. Xã vận động
thành lập 4 câu lạc bộ không sinh con thứ 3 đã góp phần giảm
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của xã xuống còn 1,1%. Công tác
truyền thông bảo vệ môi trường duy trì đến với người dân được
hướng ứng. Người dân tham gia bảo vệ môi trường xanh, sạch
ở khu dân cư và 95% hộ dân có công trình phụ, thu góm rác
thải. Những hộ dân kinh doanh được vận động tuân thủ, thực
hiện các biện pháp vệ sinh góp phần đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm. Y tế của xã Phú Đông được công nhận đạt chuẩn
quốc gia.
Công tác xã hội duy trì theo chế độ và quy định mỗi năm,
chăm lo tốt cho các đối tượng chính sách. Đối tượng thuộc diện
chính sách của xã được xây dựng nhà tình nghĩa, hỗ trợ đời
sống hàng tháng (25 gia đình). Sự thăm hỏi, động viên và hỗ
trợ kịp thời của địa phương đã khích lệ nhiều hộ gia đình có đời
sống trung bình khá trở lên. Những dịp lễ, tết, những gia đình
khó khăn được chính quyền chăm lo từ nguồn ngân sách. Các
khu dân cư, người dân thể hiện sự quan tâm, giúp đỡ nhau bằng
những quà tặng, hỗ trợ đối với các gia đình trong hoàn cảnh
khó khăn từ nguồn xã hội hóa, các mạnh thường quân. Trên địa
bàn Phú Đông, các hộ dân người dân tộc thiểu số chiếm 1,5%
số hộ, đời sống gặp những khó khăn trong sinh kế. Địa phương
277

28.8 Page 278

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tạo điều kiện giúp đỡ thông qua nhiều hình thức, trong đó từ
các nguồn vốn chính sách, xã hội hóa hỗ trợ về nhà ở, vay vốn
để sản xuất, kinh doanh. Trên địa bàn của xã, có 9,5% hộ dân
có tôn giáo và được tạo điều kiện thuận lợi sinh hoạt theo quy
định pháp luật. Chương trình “Xóa đói giảm nghèo” được triển
khai bằng nhiều biện pháp. Đến năm 2010, số hộ đói không
còn, giảm số hộ nghèo theo chuẩn mới từ 291 hộ còn 108 hộ
(chiếm 4,3% số hộ).
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Công tác quân sự - quốc phòng của địa phương được tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo sát với tình hình thực tế. Kế hoạch luyện
tập, diễn tập được tổ chức theo phương án kế hoạch được huyện
phê duyệt. Công tác huấn luyện, nội dung huấn luyện được
đổi mới, chương trình huấn luyện đúng theo quy định. Kết quả
huấn luyện có 100% đạt yêu cầu trong đó có 70-75% khá, giỏi
và quân số tham gia đạt từ 94% trở lên so với kế hoạch. Lực
lượng dân quân đạt được xây dựng đạt về số lượng và chất
lượng. Toàn xã xây dựng dân quân đạt tỷ lệ 1,46% so với dân
số; trong đó, đảng viên đạt 10,95%, đoàn viên đạt 42,86%. Đơn
vị chức năng tổ chức tốt phúc tra đăng ký đưa vào quản lý
100% số quân nhân dự bị khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự
trở về địa phương. Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ
tiêu về số lượng và chất lượng, trong đó đoàn viên, thanh niên
278

28.9 Page 279

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
tình nguyện nhập ngũ đạt 100%, tỉ lệ đảng viên bình quân đạt
12,67%. Lực lượng xã đội của địa phương duy trì, phối hợp với
các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn làm tốt công tác dân
vận, giúp dân thiết thực và tuần tra canh gác. Thế trận an ninh
quốc phòng toàn dân trên địa phương được củng cố.
Tình hình an ninh chính tị - trật tự an toàn xã hội của xã cơ
bản ổn định. Trước những diễn biến của tình hình thế giới tác
động và phòng ngừa những hoạt động chống phá cách mạng,
lực lượng an ninh xã tổ chức xây dựng kế hoạch, phương án
phòng chống biểu tình, bạo loạn lật đổ. Phong trào quần chúng
tham gia bảo vệ an ninh được đẩy mạnh. Công tác nắm tình
hình kết hợp với việc đấu tranh, chủ động ngăn chặn có hiệu
quả đối với các hoạt động âm mưu “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch. Xã đã đảm bảo an ninh xã hội, phòng ngừa,
làm giảm các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Trong 5 năm qua đã
phát hiện và xử lý 2 vụ liên quan đến truyền đạo, 6 vụ liên quan
đến an ninh nông thôn, đấu tranh và làm rõ 8/13 vụ phạm pháp
hình sự, kết hợp với lực lượng công an cấp trên bắt 2 đối tượng
có lệnh truy nã, vận động 3 đối tượng có lệnh truy nã đầu thú.
An ninh xã phối hợp với cơ quan chức năng giải quyết 2 vụ
đình công tại Công ty liên doanh Phú Đông.
Chính quyền xã thông qua các hoạt động của đơn vị chuyên
môn, ban ngành, đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, phổ
279

28.10 Page 280

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
đối với các tầng lớp nhân dân. Mô hình tổ hòa giải ở 5 ấp và
Hội đồng hòa giải của xã hoạt động tích cực, giải quyết đạt
99,57% đơn của công dân.
*
Từ năm 2005 đến 2010, Đảng bộ xã Phú Đông đã nỗ lực
trong công tác lãnh đạo địa phương tiếp tục xây dựng, phát triển
trên nhiều lĩnh vực. Sự quan tâm và đầu tư, hỗ trợ của huyện
Nhơn Trạch và sự đoàn kết của chính quyền, đoàn thể, hưởng
ứng tích cực nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ
thực hiện những mục tiêu nghị quyết đề ra. Kinh tế trên địa
bàn không ngừng tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
định hướng. Mức tăng trưởng kinh tế chung đạt 13%/ năm so
với nghị quyết đạt 108%. Cơ cấu kinh tế xã chuyển dịch theo
định hướng tỷ trọng nông nghiệp chiếm 51%, thương mại dịch
vụ từ 20,6% lên 25,31%, tiểu thủ công nghiệp từ 0,5% tăng lên
3,16% năm so mục tiêu nghị quyết đạt%. Bình quân thu nhập
đạt 8,5 triệu đồng trên mỗi người dân (bằng 1,67 lần so với năm
2005, so mục tiêu nghị quyết đạt 106%). Địa phương huy động
vốn đầu tư phát triển kinh tế đạt được 23,41 tỷ đồng; trong đó
vốn nhân dân đầu tư phát triển kinh tế đạt 6,98 tỷ đồng, đạt
167% vượt chỉ tiêu NQ. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có bước
phát triển tích cực và toàn diện, hoàn thành công tác phổ cập.
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa hàng
năm đạt từ 97% trở lên vượt mục tiêu nghị quyết; 4/5 ấp đạt ấp
văn hóa, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,1% vượt 0,1%
so chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Làm tốt chính sách xã hội, số hộ
nghèo hiện nay còn 4,3% (chuẩn mực mới) giảm so với NQ
(1%). Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn ổn
định, công tác xây dựng lực lượng, tuyển quân hàng năm đều
vượt chỉ tiêu trên giao. Bộ máy chính quyền từ ấp đến xã luôn
được củng cố, kiện toàn, bảo đảm hiệu quả trong việc điều hành
quản lý trên các lĩnh vực. Công tác cải cách thủ tục hành chính,
cơ quan hành chính củng cố theo hướng tinh gọn, đổi mới đảm
bảo chất lượng và hiệu quả. Hoạt động Hội đồng nhân dân xã
tiếp tục đi vào chiều sâu, các đại biểu phát huy được vai trò
trách nhiệm đại diện cho ý chí nguyện vọng nhân dân. Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể không ngừng được kiện toàn,
nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời đổi mới về nội dung,
phương thức hoạt động theo phương châm đi sâu sát nhân dân,
mối quan hệ giữa Đảng với dân được tăng cường. Công tác tôn
giáo được quan tâm chỉ đạo kịp thời. Việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở được tăng cường. Khối đại đoàn kết toàn dân
tộc tiếp tục được mở rộng. Từ đó đã phát huy được sức mạnh
toàn dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và
chăm lo đời sống cho nhân dân. Công tác xây dựng Đảng được
chú trọng đẩy mạnh, trong đó công tác giáo dục chính trị tư
281

29.2 Page 282

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tưởng luôn được xác định là nhiệm vụ hàng đầu. Cấp ủy chỉ đạo
chặt chẽ công tác tuyên truyền, triển khai, quán triệt các nghị
quyết của Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong toàn Đảng bộ, cán bộ đảng viên tham gia học tập
đạt 100%; công tác phát triển Đảng hàng năm đều đạt và vượt
chỉ tiêu. Công tác kiểm tra Đảng được thực hiện công khai, dân
chủ, tuân thủ nguyên tắc và quy định, xây dựng Đảng bộ ngày
càng trong sạch vững mạnh. Xây dựng, củng cố tổ chức đảng
trực thuộc được cấp ủy coi trọng, thành lập 10/10 chi bộ. Đảng
bộ xã Phú Đông nhiều năm liền đạt danh hiệu “Trong sạch vững
mạnh”. Cán bộ, đảng viên luôn luôn thể hiện tính gương mẫu,
đoàn kết, phát huy dân chủ trong nhiệm vụ. Các nhiệm vụ có
liên quan đến đời sống xã hội luôn công khai, phát huy dân chủ,
nhân dân đồng tình và hưởng ứng trong các phong trào, với
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tạo
mọi đều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, vẫn còn những hạn chế ở
địa phương. Một số chỉ tiêu về lĩnh vực kinh tế chưa đạt được
do nhiều điều kiện, yếu tố khách quan tác động. Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế đạt được nhưng còn chậm, sản xuất nông nghiệp
còn gặp khó khăn do ảnh hưởng về thời tiết, giá cả, nông dân
chưa mạnh dạn chuyển bởi tập quán canh tác mang tính tự phát.
Kinh tế hợp tác xã phát triển nhưng còn ở qui mô nhỏ. Về bộ
282

29.3 Page 283

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
máy chính quyền, cán bộ dự nguồn chưa đạt chuẩn là vấn đề
đặt ra trong nguồn nhân lực còn thiếu về số lượng và cả chất
lượng. Tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ chức đoàn thể ở địa
phương chưa đạt theo yêu cầu từ 80% trở lên; trong đó, Đoàn
Thanh niên ở mức thấp. Chế độ sinh hoạt định kỳ theo quy chế
của Mặt trận Tổ quốc, các thành viên còn hạn chế. Đảng bộ xã
Phú Đông rút ra những bài học kinh nghiệm: Không ngừng đổi
mới phương thức lãnh đạo, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững
mạnh trên cơ sở sự đoàn kết nhất trí cao trong cán bộ đảng viên;
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; Trong lãnh đạo
phải sâu sát với phong trào, thường xuyên kiểm tra cơ sở, tổng
kết rút kinh nghiệm, kịp thời nhân rộng những điển hình tiên
tiến trong các phong trào thi đua yêu nước ở cơ sở; Kiện toàn
hệ thống chính trị đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và phát
huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc;
Quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng
lực chuyên môn, trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức đáp ứng
kịp thời xu hướng phát triển và ngang tầm với nhiệm vụ đề ra.
Những thành quả đạt được cùng những kinh nghiệm đúc kết
giúp Đảng bộ, nhân dân Phú Đông tiếp tục phát huy truyền
thống kiên cường, trong giai đoạn phát triển với định hướng,
mục tiêu của huyện Nhơn Trạch.
283

29.4 Page 284

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Chương VIII
XÃ PHÚ ĐÔNG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG (2010 - 2020)
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, phát triển toàn diện
(2010 - 2015)
Năm 2010, Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa IV nhiệm
kỳ (2010 - 2015) được tổ chức. Đảng bộ xã Phú Đông nhất
trí, đồng thuận phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2010 -
2015: “Tiếp tục thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp, tăng tỷ
trọng ngành chăn nuôi, xây dựng mô hình kinh tế từng bước
thực hiện Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn phát triển
thêm các ngành nghề mới, duy trì những ngành nghề hiện
có, phát triển thương mại - dịch vụ; Nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân, coi trọng phát triển văn hóa
giáo dục, chăm sóc sức khỏe, giải quyết việc làm xóa đói giảm
nghèo; Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa; Đổi mới công tác
vận động quần chúng thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân; Đẩy mạnh cuộc vận động
xây dựng chỉnh đốn Đảng gắn với cuộc vận động Học tập làm
284

29.5 Page 285

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; xây dựng Đảng trong
sạch vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới”1.
Bước vào thời kỳ phát triển trong 5 năm đầu thập niên thứ 2, thế
kỷ XXI, xã Phú Đông có những thuận lợi trên cơ sở thành tựu
của giai đoạn trước. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng - an ninh địa phương có những chuyển biến tích cực.
Mạng lưới giao thông nông thôn, đường điện hạ thế đã được
nâng cấp và phủ kín khắp địa bàn tạo ra nhiều điều kiện thuận
lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế. Đời sống văn hóa tinh
thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Toàn Đảng bộ
luôn có tinh thần đoàn kết nhất trí cao. Người dân địa phương
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần lao động
cần cù, sáng tạo và hưởng ứng tích cực các phong trào phát
động. Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực
diễn biến phức tạp, tác động đến đất nước nên vẫn còn những
khó khăn trên chặng đường Đảng bộ, nhân dân Phú Đông thực
hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội địa phương. Đất
nước hội nhập khu vực sẽ có nhiều vấn đề ảnh hưởng lớn trong
cạnh tranh sản phẩm hàng hóa, sản xuất công nghiệp và nông
nghiệp. Thế lực thù địch không ngừng dùng những thủ đoạn,
tìm cách phá hoại công cuộc đổi mới của Đảng. Những mặt trái
của nền kinh tế thị trường tác động tiêu cực đến xã hội ở nhiều
1  Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Đông (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ xã
Phú Đông khóa IV, nhiệm kỳ (2010 - 2015). Tài liệu lưu trữ tại địa phương.
285

29.6 Page 286

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
lĩnh vực. Để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đề ra, đòi hỏi sự nỗ
lực, đoàn kết của Đảng bộ và nhân dân địa phương trong xây
dựng xã ngày càng phát triển, cùng với huyện xây dựng thành
phố công nghiệp Nhơn Trạch.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa IV bầu Ban Chấp hành
gồm 9 đồng chí. Lãnh đạo Đảng ủy xã gồm: Huỳnh Văn Đẹp
giữ chức Bí thư (từ năm 2010 đến năm 2012), Dương Chí
Hùng, Phó Bí thư, Nguyễn Kim Thắng - Ủy viên Thường vụ;
các ủy viên: Lý Hoàng Sơn, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Văn
Dũng, Đặng Hoàng Xuyên, Nguyễn Chính Tần, Phạm Hoàng
Cảnh. Năm 2012, đồng chí Bùi Minh Tuấn giữ trọng trách Bí
thư cho đến cuối nhiệm kỳ.
Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã thành lập mới 01 chi bộ trực
thuộc Đảng bộ xã, nâng tổng số lên 11 chi bộ. Số lượng đảng
viên có 158 đồng chí; trong đó, đảng viên chính thức 140, dự
bị 18; 7 đảng viên miễn sinh hoạt, miễn công tác 07. Công tác
tạo nguồn cho phát triển Đảng thực hiện tốt, phát triển được 48
đảng viên mới (đạt 100% chỉ tiêu). Nguồn quần chúng trung
kiên để bồi dưỡng có 21 đồng chí.
Đảng ủy triển khai các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở, phân công chế độ trách
nhiệm của ủy viên trong Ban Chấp hành phụ trách các chi bộ,
286

29.7 Page 287

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
địa bàn. Chất lượng sinh hoạt các chi bộ được nâng lên. Qua
đánh giá hàng năm, có 100% chi bộ trực thuộc đạt danh hiệu
trong sạch vững mạnh, không có chi bộ yếu kém. Đảng bộ hàng
năm đều đạt mức hoàn thành tốt nhiệm vụ (riêng năm 2012
đảng bộ đạt mức hoàn thành nhiệm vụ). Tỷ lệ đảng viên được
công nhận đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 80%,
trong đó đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt trên 10%.
Nhằm duy trì giáo dục chính trị, tư tưởng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, Đảng bộ tổ chức quán triệt học tập các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh kịp thời. Toàn Đảng bộ đạt tỷ lệ trên 98% đảng viên
học tập. Các cấp ủy, chi bộ làm tốt công tác tuyên truyền phổ
biển nghị quyết vừa nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng quần
chúng và dư luận xã hội. Ban Chấp hành Đảng bộ xã xây dựng
kế hoạch thực hiện kiểm điểm, phê bình và tự phê bình, kịp
thời để khắc phục những hạn chế, tiêu cực và tạo hướng phấn
đấu đối với tổ chức, cán bộ, đảng viên. Đảng ủy xã tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức phong cách Hồ Chí Minh” bằng nhiều chuyên đề nội
dung thiết thực, sâu rộng trong đội ngũ cán bộ đảng viên và
nhân dân: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người
công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng,
cuộc sống riêng giản dị”, “phong cách quần chúng, dân chủ,
nêu gương; nêu cao tinh thần trách nhiệm gương mẫu”, “Trung
287

29.8 Page 288

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh”... với sự tham gia 133/158 đảng
viên tham gia.
Công tác cán bộ được Đảng ủy thực hiện theo quy định,
quy trình. Do có những biến động về nhân sự Ban Chấp hành
(chuyển công tác, nghỉ công tác do sức khỏe và 1 thi hành kỷ
luật), Đảng bộ xã được kiện toàn. Công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ được chú trọng, tiến hành rà soát và bổ sung quy hoạch
cán bộ lãnh đạo quản lý. Trong 5 năm, Đảng ủy cử 29 đồng
chí họ ctập lý luận chính trị (15 đồng chí học lớp trung cấp,
14 đồng chí học sơ cấp) và một số cán bộ nâng cao trình độ
chuyên môn (3 đồng chí học cử nhân Hành chính, 6 đồng chí
học cử nhân Luật,), 85 lượt cán bộ tham dự các lớp bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ. Tính đến năm 2015, xã có 13/15 cán bộ
chủ chốt có trình độ về trung cấp chính trị trở lên (đạt 86,66%);
trung cấp chuyên môn trở lên 14/15 đồng chí (đạt 93,33%). Xã
đã hoàn thành công tác quy hoạch cán bộ đối với các chức danh
chủ chốt của xã với tổng số cán bộ được đưa vào quy hoạch các
chức danh chủ chốt gồm 41 đồng chí.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng được
cấp ủy thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, nội dung với tổ
chức, cá nhân (thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế
làm việc, giám sát nhiệm vụ...); chú trọng trong lĩnh vực quản
lý đất đai, xây dựng cơ bản, tài chính. Trong nhiệm kỳ, thực
288

29.9 Page 289

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
hiện 18 cuộc kiểm tra, giám sát định kỳ đối với 10 chi bộ trực
thuộc; 08 cuộc kiểm tra, giám sát chuyên đề, kiểm tra đảng viên
có dấu hiệu vi phạm. Qua đó, phát hiện một số trường hợp đảng
viên vi phạm và áp dụng hình thức xử lý kỷ luật (01 cách chức,
02 cảnh cáo, 03 khiển trách).
Hoạt động của Hội đồng nhân dân ngày càng phát huy hiệu
quả, bám sát các nội dung hoạt động. Những chính sách, pháp
luật của Nhà nước, định hướng phát triển kinh tế xã hội của
Đảng bộ đã được cụ thể hóa thành nghị quyết. Thường trực
Hội đồng nhân dân tổ chức 10 kỳ họp, thảo luận và quyết nghị
những vấn đề quan trọng của địa phương. Đồng thời, việc giám
sát duy trì trọng tâm, trọng điểm với 26 cuộc, có quy chế, phối
hợp với chính quyền, mặt trận. Nhân lực của bộ máy chính
quyền được chú trọng, củng cố, kiện toàn theo hướng nâng
cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Căn cứ quy định
của Chính phủ, xã sắp xếp bố trí đầy đủ các chức danh cán bộ
công chức. Các chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức
luôn được giải quyết. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ trong quản lý nhà nước đạt kết quả tốt
với trên 70% đạt chuẩn về lý luận chính trị, 100% đạt chuẩn
chuyên môn vị trí việc làm.
Chương trình cải cách thủ tục hành chính công khai hóa,
giải quyết theo cơ chế “Một cửa”, “Một cửa liên thông” đem lại
sự hài lòng cho nhân dân, hiệu quả quản lý. Thủ tục hành chính
289

29.10 Page 290

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
được xử lý kịp thời với 20.667 sự vụ văn bản, giải quyết 451
đơn khiếu nại về tranh chấp đất đai, môi trường và các tranh
chấp dân sự. Chế độ tiếp dân đã được thực hiện nghiêm túc, lịch
lãnh đạo địa phương tiếp dân được duy trì định kỳ trong tuần.
Thái độ, tác phong, trách nhiệm của cán bộ, công chức khi tiếp
xúc nhân dân đã được nâng lên. Hoạt động chính quyền được
người dân giám sát và phản ánh về công vụ, tác phong, đạo đức.
Qua đó, công chức, viên chức rút ra những bài học kinh nghiệm
và từng bước hoàn thiện kỹ năng xử lý công việc, nâng cao chất
lượng trong thực thi nhiệm vụ. Trong nhiệm kỳ, công tác nội
chính, tư pháp giải quyết kịp thời các vụ việc, đem lại những
kết quả (tiếp nhận 151 đơn, hòa giải thành 95 đơn, không thành
56 đơn, chuyển tòa án 34 đơn, chuyển cấp huyện 22 đơn). Hoạt
động các tổ hòa giải ở địa bàn ấp hàng năm đạt 85%.
Đảng ủy xã quán triệt và thực hiện Nghị quyết về “Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân
vận trong tình hình mới” cho các tổ chức ban ngành, đoàn thể.
Mặt trận và cách thành viên phát huy hoạt động giám sát và
phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền. Trong nhiệm kỳ, ở địa phương tổ chức nhiều cuộc họp
tuyên truyền, lấy ý kiến trong quần chúng nhân dân thực hiện
nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh, của huyện. Xã thực
hiện tốt các bước về công tác bầu cử Quốc hội khóa XII và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2011 - 2016) và bầu
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
cử Trưởng ấp (nhiệm kỳ 2012 - 2015). Chính quyền tiến hành
45 cuộc họp đến người cán bộ, đảng viên và nhân dân tất cả các
địa bàn, thu thập hàng ngàn lượt ý kiến dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992. Qua đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, nhân dân
nêu cao ý thức, tinh thần trách nhiệm trong xây dựng đất nước.
Công tác tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào các tổ chức
đoàn thể đạt 89% (vượt chi tiêu đề ra là 80%) và đoàn, hội
viên nòng cốt đạt 46% so với tổng số đoàn, hội viên. Hội Liên
hiệp phụ nữ đạt 90%, hội viên nòng cốt đạt 45%; Đoàn Thanh
niên đạt 77%, đoàn viên nòng cốt đạt 45,3%; Hội Nông dân đạt
100%, hội viên nòng cốt đạt 45,8%; Hội Cựu chiến binh đạt
90%, hội viên nòng cốt đạt 57%; Hội Người cao tuổi đạt 94%.
Qua hoạt động của từng hội chính trị - xã hội, nghề nghiệp, ở xã
có 724 lượt hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn
từ ngân hàng chính sách xã hội để phát triển kinh tế với kinh
phí 8.778.156.000 đồng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, với phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, từ chủ trương đến chính
sách, kế hoạch xây dựng, phát triển địa phương đi vào cuộc
sống, người dân ủng hộ. Trên cơ sở này, niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền ngày càng được củng
cố. Khối đại đoàn kết của nhân dân đã tạo thêm sức mạnh, động
lực góp phần thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, mục
tiêu chung của xã. Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
291

30.2 Page 292

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
đoàn thể chính trị xã, ấp hoạt động với tinh thần “Trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư” được nhân dân tham gia, thi đua và tạo nên
sự lan tỏa những giá trị trong đời sống.
- Lĩnh vực kinh tế
Đảng ủy xã Phú Đông đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đạt và
vượt 21/21 chỉ tiêu nghị quyết của đại hội khóa IV đề ra trong
xây dựng, phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế địa phương chuyển
dịch đúng định hướng: Nông nghiệp 50%, Thương mại dịch vụ
35%, Công nghiệp, xây dựng 15%. Giá trị sản xuất trên địa bàn
hàng năm tăng bình quân 16,7% (vượt 2,7%).
Trong lĩnh vực sản xuất, tổng diện tích gieo trồng bình quân
hàng năm là 1.275,8 ha; trong đó, diện tích canh tác lúa được
848,8ha (năng suất bình quân 3,4 tấn/ha), 322,8ha mía (70 tấn/
ha), 102ha rau các loại, (15 tạ/ha). Nông dân tập trung sản xuất
và ổn định vùng nguyên liệu mía truyền thống với diện tích
320ha kết hợp (giống mía mới, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu và
cơ giới hóa) cho năng suất cao. Từ đặc điểm tự nhiên và kế thừa
các giai đoạn phát triển trước, xã đã bố trí vật nuôi, cây trồng
phù hợp với các tiểu vùng: ấp Thị Cầu trồng hoa màu, rau xanh
kết hợp với phát triển dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp; ấp Bến
Đình cải tạo vườn tạp, lập vườn chuyên cây trái, ấp Giồng Ông
292

30.3 Page 293

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đông, Bến Ngự, Phú Tân trồng lúa, mía và chăn nuôi gia cầm,
thủy sản. Địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp tập huấn
khoa học kỹ thuật, đầu tư thủy lợi, có biện pháp phòng trừ sâu
bệnh, chăm sóc vật nuôi, cây trồng, đầu tư nguồn vốn và phát
triển các mô hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp, chăn nuôi.
Từ chủ trương tăng tỷ trọng chăn nuôi, địa phương khuyến
khích phát triển các hình thức trang trại, kinh tế hợp tác. Đàn
gia súc, gia cầm được duy trì ổn định. Hằng năm, xã làm tốt
công tác vệ sinh phòng dịch, phòng ngừa, tiêm phòng đạt từ 90-
100%. Về nuôi và khai thác thủy sản, phát triển hình thức bán
thâm canh trên diện tích 10/10 ha đạt 100%.
Về thương mại - dịch vụ, chủ trương của xã khuyến khích
và tạo điều kiện để người dân đầu tư sản xuất kinh doanh các
ngành nghề, thành lập các doanh nghiệp. Gần 300 cơ sở thương
mại, dịch vụ trên địa bàn chủ yếu tập trung vào các cơ sở buôn
bán nhỏ lẻ, phục vụ cho tiêu dùng, chất lượng ngày càng được
nâng cao. Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Phú Đông có trụ
sở tại ấp Thị Cầu có 11 xã viên, duy trì hoạt động ổn định. Tổ
hợp tác sản xuất và bao tiêu sản phẩm cây mía được gồm 20
thành viên, sản xuất trồng mía trên diện tích 34,10ha, hoạt động
hiệu quả.
Tiểu thủ công nghiệp có bước tăng trưởng về số lượng. Năm
2010 có 16 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp đến năm 2014
có 32 cơ sở (tăng 100%), chủ yếu gia công các mặt hàng sắt, gò
293

30.4 Page 294

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
hàn, cưa xẻ gỗ, chế biến nông sản... Sản phẩm đa dạng về mẫu
mã, tăng sức cạnh tranh, tuân thủ quy định về sản xuất, cơ bản
đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và xây dựng ở địa phương.
Trên địa bàn xã, được chấp thuận của tỉnh và huyện, tiến hành
quy hoạch điểm dân cư nông thôn, quy hoạch xây dựng nông
thôn mới, điều chỉnh quy hoạch khu dân cư Phú Đông. Đặc
biệt, 3 công trình lớn được đầu tư xây dựng mới như: chợ Giồng
Ông Đông, Trường Tiểu học Phú Đông, tuyến đường Bến Ngự
- Giồng Ông Đông, với tổng vốn đầu tư khoảng 8,5 tỷ và 6 dự
án của các nhà đầu tư với tổng diện tích 185,67ha.
Công tác quản lý đất đai ở xã được thực hiện chặt chẽ,
đi vào nề nếp. Trong 5 năm, tiến hành xét cấp mới được 178
thửa, hoàn thành 100% việc cấp giấy lần đầu. Cấp phát giấy
chứng nhận QSDĐ được 2.444/ 3.132 giấy (đạt 78%, tồn là 688
giấy); cấp đổi tăng diện tích 1.225 thửa, giải quyết được 789
thửa (đạt 64,40%, còn tồn 436 thửa). Quản lý tài nguyên được
tăng cường, hạn chế tối đa trường hợp khai thác tài nguyên
trái phép. Nhân dân được vận động đăng ký thu gom rác thải
với trên 1.200 hộ, 2.164 hộ xử lý tự thiêu hủy. Các đơn vị
chuyên môn duy trì kiểm tra, xử lý vi phạm trật tự xây dựng, 86
trường hợp.
Lĩnh vực tài chính, thu ngân sách địa phương hàng năm đều
tăng, đảm bảo các hoạt động của bộ máy chính quyền, hệ thống
chính trị cũng như các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, văn hóa
294

30.5 Page 295

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
xã hội - quốc phòng, an ninh. Với phương châm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm”, từ nguồn vốn ngân sách và xã hội hóa, xã
tiến hành xây dựng công trình giao thông, điện, nước. Toàn xã
xây dựng 22 tuyến đường giao thông nông thôn với chiều dài
7.038 m, tổng kinh phí gần 7.2 tỷ đồng từ vốn ngân sách Nhà
nước và nhân dân đóng góp. Mạng lưới điện được đầu tư xuống
địa bàn với 5 nhánh hạ thế điện sinh hoạt vào khu dân cư (dài
890m, kinh phí thực hiện 270.000.000 đồng). Số hộ sử dụng
điện tăng với 3.433/3.448 (đạt 99,56%), hợp tác xã đảm bảo
việc cung cấp nước hợp vệ sinh cho 2 ấp Bến Ngự, ấp Giồng
Ông Đông nâng số lượng lên 3.414/ 3448 hộ sử dụng nước hợp
vệ sinh (đạt 99,73%, tăng 35,48% đầu nhiệm kỳ). Cơ sở giao
thông, điện, nước được đầu tư xây dựng đem lại thuận lợi cho
người dân trong sinh hoạt và đáp ứng cho yêu cầu phát triển
kinh tế, tạo nên diện mạo khang trang về cơ sở vật chất đối với
địa phương.
Thực hiện chương trình quốc gia về xây dựng Nông thôn
mới, Đảng bộ và nhân dân xác định là nhiệm vụ, trách nhiệm
quan trọng, phấn đấu, nỗ lực thực hiện. Đảng ủy quán triệt cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao ý thức, tích cực tham
gia đóng góp xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp
ứng các tiêu chí đặt ra. Năm 2011, xã đạt được 7/19 tiêu chí và
31/57 tiêu chí thành phần. Đến năm 2014, xã đã đạt được 16/19
và 51/54 tiêu chí thành phần. Đường làng, ngõ xóm, cảnh quan
295

30.6 Page 296

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
từng hộ xanh sạch đẹp, thực hiện dọn dẹp vệ sinh, khai thông
cống rãnh, phát quang dọn cỏ ở đường thu gom về nơi quy định
để xử lý. Trên 90% số hộ đã thực hiện cải tạo vườn, chỉnh trang
hàng rào, cổng ngõ không lầy lội. Xã đẩy mạnh trồng cây xanh
ở nơi công cộng, đường giao thông và các trục giao thông chính
nội đồng. Ba tiêu chí chưa đạt gồm cơ sở trường học, hình thức
tổ chức sản xuất, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội
Hệ thống các thiết chế văn hóa, thông tin được quan tâm
duy tu, sữa chữa. Đài truyền thành duy trì hoạt động hiệu quả
với việc tăng thời lượng phát sóng, tuyên truyền sâu rộng thông
tin đến nhân dân. Số giờ được phát thanh là 5.721 giờ, chuyển
tải được 3.250 tin, nội dung tuyên truyền đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và những thông
tin của địa phương.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao được duy
trì đã động viên số đông quần chúng tham gia rèn luyện thân
thể. Thông qua các ngày lễ lớn, sự kiện, nhiệm vụ chính trị,
xã phối hợp tổ chức 38 đêm văn nghệ, các giải bóng đá, bóng
chuyền, cầu lông; trong đó tổ chức thành công Đại hội Thể dục
Thể thao cấp xã lần thứ V với sự tham gia của 536 vận động
viên, 7 bộ môn thi đấu. Đoàn thể thao của xã tham gia Đại hội
Thể dục Thể thao cấp huyện lần thứ V với 55 vận động viên,
đạt 6 huy chương Đồng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
296

30.7 Page 297

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đi vào chiều sâu, đạt kết
quả khá tốt. Tỷ lệ hộ đăng ký xây dựng Gia đình văn hóa và đạt
tiêu chuẩn Gia đình văn hóa mỗi năm tăng lên. Đến năm 2015,
có 99.08% số hộ đạt chuẩn; 5/5 ấp giữ vững danh hiệu Ấp văn
hóa, 100% cơ quan đạt chuẩn Văn hóa.
Cơ sở trường, lớp các cấp học được đầu tư tu sửa hàng năm,
đảm bảo cho việc dạy và học. Các cấp học từ mẫu giáo đến đến
trung học cơ sở được duy trì, phát triển. Số lượng học sinh đi
học tăng, giảm dần tỷ lệ học sinh yếu, trung bình và tăng dần
học sinh khá, giỏi hàng năm (tăng từ 5% trở lên). Giáo dục của
xã đạt được những thành quả qua quá trinh phấn đấu trong giữ
vững xã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ - phổ cập tiểu học,
phổ cập trung học cơ sở; trường Trung học cơ sở được công
nhận đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ giáo viên được nâng được
bồi dưỡng, tập huấn. Mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội được kết nối, phát động phong trào toàn dân chăm lo
sự nghiệp giáo dục đào tạo. Các chi hội khuyến ở địa phương
được thành lập, hỗ trợ cho việc tuyên truyền, vận động, tiếp sức
đối với học sinh, sinh viên trong hoàn cảnh khó khăn duy trì
việc học.
Người dân tham gia tích cực trong trao đổi, tiếp nhận thông
tin đa dạng đời sống, pháp luật, xã hội... ngày càng phong phú
qua điểm công nghệ thông tin của xã, có khoảng 1.586 lượt
người dân sử dụng. Công nghệ thông tin được triển khai áp
297

30.8 Page 298

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
dụng mạnh trong các ban ngành, đoàn thể và có trên 99% cán
bộ, công chức phổ cập tin học cơ bản. Văn phòng Huyện ủy
lắp đặt đường truyền nội mạng Lotus Notes giữa xã và huyện.
Đồng thời, Ủy ban nhân dân xã và các ban ngành, đoàn thể kết
nối mạng nội bộ. Trung tâm học tập cộng đồng phối hợp với
các ngành tổ chức mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng các chuyên
đề đáp ứng nhu cầu học tập của người dân.
Trạm y tế của xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y
tế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư và bổ sung thêm
trang thiết bị, đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế đủ biên chế với 1
bác sĩ, 5 y sĩ, đảm bảo công tác khám và điều trị ban đầu. Trạm
tiếp nhận khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe cho 26.307 lượt
người dân. Chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng được
quan tâm thực hiện. Tỷ lệ tiêm chủng trẻ em trong độ tuổi quy
định hàng năm đạt 100% kế hoạch. Công tác phòng chống dịch
bệnh, các bệnh xã hội, bệnh truyền nhiễm được phòng ngừa và
quản lý chặt chẽ. Các cơ quan, đơn vị và người dân được tuyên
truyền bảo vệ môi trường. Các hộ dân tham gia kinh doanh trên
lĩnh vực liên quan thực phẩm thực hiện khuyến cáo về đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm
xuống còn 0,96% từ kết quả của công tác vận động kế hoạch
hóa gia đình, tránh thai hiện đại được duy trì thường xuyên. Trẻ
em được bảo vệ và chăm sóc theo các chương trình y tế, trẻ em
suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống còn 6,63%.
298

30.9 Page 299

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Công tác chăm lo gia đình chính sách, gia đình có công với
cách mạng luôn thực hiện tốt. Chính sách đền ơn đáp nghĩa và
chăm lo các đối tượng xã hội tiếp tục được duy trì; đặc biệt từ
nguồn quỹ vận động “Vì người nghèo”, “Đền ơn đáp nghĩa”.
Trên địa bàn xã, qua nhiều nguồn vận động kinh phí với kinh
phí 726 triệu đồng, xây 2 nhà tình nghĩa, 27 nhà tình thương
được xây dựng, sửa chữa 10 nhà của gia đình chính sách. Nhân
kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ, xã phối hợp tổ chức thăm
hỏi tặng quà cho các gia đình chính sách trị giá 103 triệu đồng,
gia đình các đối tượng xã hội trị giá trên 2 tỷ đồng, giải quyết
đầy đủ chế độ chính sách cho người có công, đối tượng bảo trợ
xã hội.
Chương trình giảm nghèo hoạt động hiệu quả, thiết thực
được nhân dân đồng thuận cho 4.191 lượt hộ vay với số tiền
63.385 tỷ đồng để phát triển sản xuất và ổn định cuộc sống
nhân dân. Những hộ dân trong diện nghèo, cận nghèo được giải
quyết vốn vay (770 lượt hộ với số tiền trên 9,5 tỷ đồng). Nguồn
kinh phí này tạo thuận lợi cho các hộ dân sản xuất, kinh doanh,
học sinh, sinh viên vay vốn học tập. Địa phương phối hợp với
huyện tổ chức 10 lớp đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật cho người
lao động, giới thiệu giải quyết việc làm cho 2.073 lao động ở
các công ty xí nghiệp, quan tâm giải quyết về phúc lợi xã hội,
bảo hiểm y tế. Hàng năm, số hộ nghèo giảm trên 30%, tỷ lệ hộ
nghèo còn 0,76% theo tiêu chuẩn mới. Trong nhiệm kỳ, Đội
299

30.10 Page 300

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
kiểm tra 8141 của xã tiến hành kiểm tra 66 đợt, kịp thời phát
hiện và xử lý, góp phần trong giữ môi trường xã hội lành mạnh,
giảm tệ nạn trên địa bàn.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Đảng ủy xã tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ chiến sĩ lực lượng quân sự, công an. Lực lượng xã
đội, công an chủ động xây dựng kế hoạch phòng thủ, phối hợp
sẵn sàng chiến đấu, nâng cao cảnh giác, tăng cường công tác
tuần tra, truy quét, phòng ngừa và kịp thời giải quyết các vụ
việc phức tạp, bảo vệ tốt các mục tiêu quan trọng, kiên quyết
ngăn chăn xử lý kịp thời mọi tình huống xảy ra, đối phó kịp thời
mọi âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch. Kế hoạch luyện tập, diễn tập, công tác, nội
dung huấn luyện ở xã thực hiện theo phương án, kế hoạch được
huyện phê duyệt. Kết quả huấn luyện đạt yêu cầu tỷ lệ 100%
(trong đó có 70-75% khá, giỏi). Quân số tham gia đạt từ 94%
trở lên. Xây dựng lực lượng dân quân đạt về số lượng và chất
lượng hoạt động. Quân nhân xuất ngũ về địa phương được quản
lý, đưa vào đội ngũ. Chỉ tiêu tuyển quân hằng năm đều tiêu;
đoàn viên, thanh niên tình nguyện nhập ngũ đạt 100%, tỷ lệ
đảng viên bình quân đạt 12,67%. Đảng ủy xã thực hiện tốt chủ
trương tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân
1  Chức năng kiểm tra các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa
công cộng.
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới
và xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa gắn
kết xây dựng kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh
tế. Các đơn vị quân đội đóng quân ở địa phương và xã đội xây
dựng kế hoạch phối hợp trong công tác quốc phòng.
Lực lượng công an được kiện toàn, có 15 đồng chí (10 đảng
viên, 5 đoàn viên), gắn với cuộc vận động “Vì nước quên thân,
vì dân phục vụ”. Đảng ủy xã chỉ đạo thực hiện xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Ở
các ấp thành lập 52 tổ nhân dân, 01 đội dân phòng. Các chương
trình quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy,
ở địa phương đem lại hiệu quả, chủ động phòng ngừa kiềm chế
sự gia tăng đối với một số tội phạm nguy hiểm. Công an xã đấu
tranh và làm rõ 14 vụ phạm pháp hình sự, kết hợp với lực lượng
công an cấp trên bắt được 03 đối tượng truy nã, vận động 03
đối tượng truy nã ra đầu thú. Công an xã xây dựng các hòm thư
góp ý đặt tại trụ sở UBND xã và nhà văn hóa các ấp để nhân
dân tham gia đóng góp ý kiến về tình hình an ninh trật tự trên
địa bàn xã, tố giác các loại tội phạm. Sự phối hợp giữa Công
an, Mặt trận và các đoàn thể trong công tác đấu tranh phòng
ngừa các loại tội phạm được chặt chẽ góp phần cho địa phương
không xảy ra các vụ trọng án, giảm tai nạn giao thông, đảm bảo
trật tự an toàn xã hội.
301

31.2 Page 302

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Công tác tôn giáo, dân tộc được chính quyền quan tâm
hướng dẫn thực hiện theo đúng pháp luật. Người dân tin có tín
ngưỡng, tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành,
Hòa Hảo), một số người thuộc dân tộc thiểu số (Hoa, Kh’mer,
Tày, Chơ-ro, Jarai) được gặp gỡ, trao đổi, động viên, nắm bắt
tâm tư nguyện vọng và nhận thức tốt trong xây dựng khối đại
đoàn kết, sống tốt đạo, có ích cho xã hội. Tổ chức tôn giáo
tham gia tích cực trong các cuộc vận động xây dựng 5 nhà tình
thương (trị giá 30 triệu đồng), tặng hàng trăm phần quà và đóng
góp làm đường giao thông nông thôn.
*
Bên cạnh những thành tựu đạt được của địa phương từ năm
2010 đến năm 2015, quá trình thực hiện nhiệm vụ theo nghị
quyết của đại hội khóa IV vẫn có những khó khăn. Những ảnh
hưởng từ kinh tế, xã hội chung của đất nước trước biến động
thế giới, thời tiết bất lợi, thị trường biến động ảnh hưởng nhiều
mặt đến đời sống của người dân. Kinh tế địa phương có bước
tăng trưởng khá nhưng chưa đảm bảo bền vững bởi sản xuất,
giả cả và tiêu thủ sản phẩm chưa ổn định. Mô hình vật nuôi, cây
giống phù hợp với điều kiện đất đai của xã được chọn làm chủ
lực chưa phát huy hiệu quả cao để người dân thay đổi tập quan
trong canh tác, chăn nuôi. Dịch bệnh cúm gia cầm ảnh hưởng
đến chăn nuôi của nhân dân với vốn đầu tư và cơ cấu của địa
phương trong chuyển đổi cơ cấu. Tiểu thủ công nghiệp - thương
302

31.3 Page 303

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
mại, dịch vụ chuyển biến nhưng chưa sâu rộng, hoạt động hợp
tác xã dịch vụ sản xuất nông nghiệp chưa năng động trong theo
hướng sản xuất hàng hóa. Cơ sở hạ tầng đầu tư hoàn chỉnh và
đồng bộ so với kế hoạch. Quản lý tài nguyên, đất đai còn xảy
ra những trường hợp vi phạm, công tác giải tỏa mặt bằng chậm,
ảnh hưởng chung đến các dự án xây dựng cơ bản. Cải cách thủ
tục hành chính có những kết quả nhưng chưa thật sự đáp ứng
yên cầu đặt ra. Tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ chức đoàn thể
đạt số lượng nhưngnội dung sinh hoạt chưa phong phú, chưa
nâng cao về chất lượng. Công tác chỉ đạo điều hành, quản lý
Nhà nước có những lúc thiếu kiên quyết, sự phối hợp giữa các
ngành trong thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
chưa chặt chẽ.
Nhận diện nguyên nhân hạn chế, với tinh thần nỗ lực vươn
lên cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy
ban nhân dân huyện, Đảng bộ, chính quyền cùng nhân dân xã
Phú Đông đoàn kết, vượt qua khó khăn, thực hiện những mục
tiêu trong phát triển địa phương. Đảng bộ xã xây dựng chương
trình toàn khóa, nhận thức trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành,
tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách đã đạt được những kết quả khá toàn diện. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch đúng hướng. Nông nghiệp, thương mại dịch vụ,
tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tiếp tục tăng trưởng, công tác
khuyến nông, khuyến công được đẩy mạnh, đáp ứng cho người
303

31.4 Page 304

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
dân tham gia các chương trình sản xuất, chăn nuôi. Nguồn thu
ngân sách đạt và vượt mục tiêu, hỗ trợ tốt các hoạt động của địa
phương. Xã nỗ lực thực hiện hiệu quả chương trình xây dựng
Nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, chính sách xã hội, chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân. Tình hình an ninh chính trị được
giữ vững, trật tự an toàn xã hội chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
một số chỉ tiêu kinh tế, xã hội đạt và vượt chỉ tiêu nhưng chưa
tương xứng với tiềm năng của địa phương. Từ thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo, Đảng bộ xã Phú Đông rút ra một số kinh nghiệm:
- Trong phát triển địa phương, phải có nghị quyết đúng đắn,
xác định được mục tiêu, nhiệm vụ then chốt để xây dựng các
chương trình hành động phù hợp tình hình thực tế. Quá trình
thực hiện cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thông qua
thực tiễn để chủ động bổ sung, hoàn thiện.
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ, quan tâm giải quyết kịp
thời những tâm tư nguyện vọng và những quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy các phong trào
thi đua của quần chúng.
- Tăng cường công tác vận động quần chúng với sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị của địa phương để phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, khai thác có hiệu quả các tiềm
năng, nguồn lực trong nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng.
304

31.5 Page 305

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh trên cả 03 mặt:
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Kiện toàn hệ thống chính trị, xây
dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
vững mạnh, lấy kết quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân làm thước đo đánh giá hiệu quả của hệ thống
chính trị, lấy mức độ hoàn thành nhiệm vụ đánh giá tiêu chuẩn,
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ đảng viên.
2. Xây dựng Nông thôn mới và phát triển bền vững
(2015 - 2020)
Tiếp tục lãnh đạo địa phương phát triển trong tình hình
mới, Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa V (nhiệm kỳ 2015 -
2020) được tổ chức vào năm 2015. Kế thừa những thành quả
đạt được trong nhiệm kỳ trước, phân tích những thuận lợi và
thách thức đặt ra trong giai đoạn mới, từ cơ sở định hướng phát
triển của Nhơn Trạch, đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ
địa phương trong 5 năm cuối thập niên 20, thế kỷ XXI: “Tiếp
tục phát triển kinh tế theo hướng khai thác tốt các tiềm năng
và thế mạnh tại địa phương; Phát huy nội lực, tranh thủ các
nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để xây dựng các công trình
trọng điểm kinh tế - văn hóa - xã hội; Thực hiện tốt các chương
trình xã hội hóa. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với
giữ vững ổn định an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy sức
305

31.6 Page 306

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thành và nâng cao
chất lượng xây dựng nông thôn mới, xây dựng xã Phú Đông
ngày một giàu đẹp, văn minh”1. Những mục tiêu được đại hội
bàn thảo và quyết nghị để thực hiện trên từng lĩnh vực.
Về kinh tế, phấn đấu đến năm 2015 đạt chuẩn Xã nông thôn
mới, thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 58 triệu/
người/năm, thu ngân sách hàng năm đạt chỉ tiêu huyện giao.
Hệ thống giao thông trên địa bàn khu dân cư được bê tông hóa
đạt trên 90% và huy động vốn đầu tư phát triển khoảng 170 tỷ
đồng; trong đó vốn từ nhân dân đạt 5 tỷ đồng.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, duy trì giữ vững 5/5 ấp đạt
danh hiệu ấp Văn hóa, 100% hộ đăng ký gia đình văn hóa, trên
99% hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa. Xây dựng các trường học
trên địa bàn đạt chuẩn quốc gia, duy trì phổ cập giáo dục tiểu
học và trung học cơ sở, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục bậc
trung học. Trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, nguồn nhân lực có
trình độ bác sĩ phục vụ lâu dài. Phấn đấu đạt tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên dưới 1%; Suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở mức
6,5%, thể chiều cao theo tuổi 16,5%. Tỷ lệ hộ nghèo hàng năm
của xã giảm 30%, đến năm 2020 giảm còn dưới 1%. Giải quyết
việc làm hàng năm từ 300 đến 350 lao động, trong đó tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 65%. Số hộ dân sử dụng điện, nước hợp
1  Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Đông (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ xã
Phú Đông khóa V, nhiệm kỳ (2015 - 2020). Tài liệu lưu trữ tại địa phương.
306

31.7 Page 307

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
vệ sinh, nước sạch đạt 100%. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải y
tế đạt 100%, tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt đạt 96%.
Về quốc phòng, an ninh thực hiện xây dựng lực lượng dân
quân đạt chỉ tiêu cấp trên giao và phấn đấu hoàn thành 100%
chỉ tiêu giao quân, mỗi năm có từ 1 đến 2 đảng viên tình nguyện
nhập ngũ hàng năm. Hàng năm giảm tỷ lệ tai nạn giao thông và
các tệ nạn khác, không để xảy ra trọng án trên địa bàn.
Trong công tác vận động quần chúng đạt quả với tỷ lệ tập
hợp đoàn viên, hội viên đạt trên 85% (Đoàn Thanh niên đạt
60%, Hội Liên hiệp thanh niên đạt 75%). Tỷ lệ đoàn viên, hội
viên tham gia sinh hoạt thường xuyên đạt trên 80%; tỷ lệ đoàn
viên, hội viên nòng cốt 45%; phấn đấu tỷ lệ tổ chức đoàn, hội
đạt trong sạch vững mạnh là 100%.
Công tác xây dựng Đảng phấn đấu Đảng bộ và chi bộ trực
thuộc hàng năm đạt xếp loại Trong sạch vững mạnh, 80% đảng
viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác phát triển đảng viên mới
đạt trên 8% so tổng số đảng viên, 100% đảng viên tham gia học
tập nghị quyết (trừ đảng viên miễn sinh hoạt). Phấn đấu 100%
chi bộ ấp có chi ủy. 100% cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức thực hiện tốt việc nêu gương theo tinh thần nghị quyết của
Trung ương.
Bước vào giai đoạn mới, Đảng bộ Phú Đông có những thuận
lợi từ nền tảng thành tựu của giai đoạn trước với tình hình kinh
307

31.8 Page 308

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của xã đã có những
bước chuyển biến theo hướng tích cực. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch đúng định hướng, cơ sở vật chất được đầu tư. Tình hình
an ninh chính trị, trật tự xã hội đảm bảo an toàn. Hoạt động của
hệ thống chính trị được củng cố kiện toàn. Mối quan hệ giữa
Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể và quần chúng
nhân dân ngày càng được gắn bó chặt chẽ. Toàn Đảng bộ luôn
có tinh thần đoàn kết nhất trí cao, khắc phục được khó khăn thử
thách. Quần chúng nhân dân tin tưởng vào đường lối của Đảng,
nêu cao tinh thần lao động cần cù, thông minh sáng tạo.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa V bầu Ban Chấp hành
gồm 9 đồng chí. Lãnh đạo Đảng ủy xã: đồng chí Bùi Minh
Tuấn (Bí thư), Dương Chí Hùng (Phó Bí thư), Nguyễn Kim
Thắng (Thường trực) và các ủy viên: Đoàn Văn Tám, Lương
Hữu Châu, Phạm Hoàng Cảnh, Nguyễn Văn Tùng, Nguyễn
Văn Dũng, Lê Hoàng Duẩn.
Đảng bộ xã, các chi bộ trực thuộc chú trọng công tác xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất
lượng sinh hoạt, nhất là công tác giáo dục chính trị tư tưởng;
đồng thời triển khai đến chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể. Kế hoạch thực hiện được xây dựng chi tiết, cụ thể nội
dung, quy định thời gian triển khai, hoàn thành phù hợp với
thực tiễn từng đơn vị, đối tượng. Ngoài ra Ban Chấp hành Đảng
308

31.9 Page 309

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
bộ gởi các tài liệu cho các chi bộ trực thuộc tổ chức quán triệt
chuyên sâu cho cán bộ, đảng viên trong sinh hoạt định kỳ. Qua
đó, công tác giáo dục chính trị, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, chính
sách pháp luật... giúp cho cán bộ, đảng viên giữ vững bản lĩnh
chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức, ý thức kỷ
luật, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Số lượng
cán bộ, đảng viên tham gia học tập nghị quyết của Đảng đạt từ
99% trở lên (trừ số đảng viên miễn sinh hoạt, miễn công tác).
Từ Ban Chấp hành Đảng bộ đến chi ủy, chi bộ trực thuộc quan
tâm việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động phù hợp gắn
với công tác chuyên môn, nhiệm vụ chính trị. Tất cả hoạt động
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, theo quy chế điều hành của cấp ủy. Duy trì
chế độ hội ý đầu tuần, kiểm tra đánh giá kết quả trong tuần và
đề ra phương hướng hoạt động cho tuần tiếp theo. Ban Chấp
hành phân công các ủy viên phụ trách trên từng lĩnh vực, chi
bộ để kịp thời nắm bắt tình hình, giải quyết những vướng mắc,
khó khăn.
Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, tiến
hành rà soát và bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý
hằng năm. Đảng ủy cử một số cán bộ, đảng viên tham gia học
tập trình độ lý luận chính trị (19 đồng chí học trung cấp, 17
đồng chí lớp sơ cấp), trình độ chuyên môn (04 đồng chí học cử
309

31.10 Page 310

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
nhân, 03 đồng chí trên đại học), 85 lượt cán bộ tham gia lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ. Cán bộ, công chức của xã đạt chuẩn về
trình độ chính trị và trình độ chuyên môn đạt tỷ lệ 100%. Quy
hoạch cán bộ đối với các chức danh của xã thực hiện theo quy
định, quy trình với các chức danh chủ chốt gồm 40 đồng chí;
luân chuyển công tác 05 đồng chí (01 Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân, 03 công chức Địa chính, Xây dựng, Môi trường,
02 công chức Tư pháp). Công tác tạo nguồn trung kiên và phát
triển đảng viên mới được xây dựng từ đầu nhiệm kỳ, triển khai
sâu rộng đến các cấp ủy cơ sở, ban ngành, đoàn thể. Trong 5
năm, từ nguồn quần chúng ưu tú qua bồi dưỡng, đánh giá, xác
minh, kết nạp 62 đảng viên mới, đạt chỉ tiêu mỗi năm.
Hoạt động kiểm tra giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được
Đảng ủy thực hiện hiệu quả, theo tinh thần chỉ đạo của cấp trên,
duy trì thường xuyên. Trong 5 năm, Đảng ủy tổ chức 24 cuộc
kiểm tra, giám sát định kỳ, 08 cuộc kiểm tra, giám sát theo
chuyên đề và phục vụ cho 14 cuộc kiểm tra của cấp ủy cấp trên.
Qua hoạt động kiểm tra, giúp cho tổ chức, đảng viên nghiêm
chỉnh thực hiện điều lệ, những quy định, chỉ thị, rèn luyện, trao
dồi đạo đức và nâng cao tinh thần trách nhiệm, sức chiến đấu,
năng lực lãnh đạo, đoàn kết, cảnh giác và ngăn ngừa thế lực thù
địch xâm nhập, gây hại cho tổ chức, làm suy thoái tư tưởng.
Đảng bộ xã Phú Đông xây dựng kế hoạch, tiến hành thực
hiện các nghị quyết, chị thị của Trung ương Đảng đầy đủ (nghị
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
quyết Trung ương về Kiểm điểm phê bình và tự phê bình; Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị 05-CT/
TW về việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo Ủy
ban kiểm tra, Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các cấp ủy chi
bộ, ban ngành, đoàn thể và đảng viên phòng chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, ngăn chặn kịp thời sai
phạm, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, tạo niềm tin
trong nội bộ và nhân dân, xây dựng Đảng bộ ngày càng trong
sạch, vững mạnh.
Quán triệt và học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đã
tạo nên động lực cho cán bộ, đảng viên phấn đấu hoàn thành
nhiệm vụ, chủ động trong công tác, nâng cao trách nhiệm và
hiệu quả công việc. Đảng bộ, chính quyền, hệ thống tổ chức
chính trị đã vận động, phát động nhân dân hưởng ứng, tham gia
tích cực các phong trào với tinh thần thi đua yêu nước, gắn với
những việc làm đem lại lợi ích cho cộng đồng, địa phương. Đến
năm 2020, toàn Đảng bộ có 235 đảng viên (chính thức 220, 15
dự bị), trong đó có 83 nữ, 17 đảng viên miễn sinh hoạt, công
tác, 18 đồng chí có tuổi đảng cao (30 đến 55 tuổi đảng). Đầu
nhiệm kỳ, Đảng bộ có 11 chi bộ trực thuộc (01 khối cơ quan,
311

32.2 Page 312

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
03 khối trường học, 01 Công an, 01 Quân sự, 05 chi bộ ấp) đến
cuối nhiệm kỳ do sắp xếp, 02 chi bộ giải thể (Công an, Quân
sự).
Hội đồng nhân dân chú trọng, đổi mới phương thức, nội
dung hoạt động. Các kỳ họp được tổ chức đúng theo luật định,
thảo luận và quyết định ban hành các nghị quyết về phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, chuyên đề kịp thời, phù
hợp với tình hình thực tế địa phương. Hoạt động tiếp xúc cử
tri, chất vấn ngày càng có hiệu quả hơn. Thường trực Hội đồng
nhân dân tổ chức 13 kỳ họp, thực hiện 12 cuộc kiểm tra giám
sát đối với các hoạt động Ủy ban nhân dân. Quy chế làm việc
giữa chặt chẽ, theo kế hoạch giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc. Các đại biểu Hội đồng
nhân dân phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trước Đảng được
nhân dân tín nhiệm.
Nhân sự của chính quyền được chú trọng, củng cố, kiện
toàn theo hướng nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước,
sắp xếp bố trí đầy đủ các chức danh cán bộ công chức theo
Nghị định 92/NĐ-CP của chính phủ. Chế độ chính sách đối với
cán bộ, công chức được quan tâm giải quyết. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ luôn được chú
trọng, trình độ chính trị, trình độ chuyên môn của cán bộ, công
chức có 100% đạt chuẩn. Thực hiện chương trình cải cách thủ
tục hành chính theo cơ chế “Một cửa” và “Một cửa liên thông”
312

32.3 Page 313

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đem lại hiệu quả trong giải quyết công việc. Thủ tục hành chính
được công khai hóa và được giải quyết nhanh gọn. Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả tận tình hướng dẫn, giải quyết 20.746 hồ sơ
hồ sơ cho người dân đúng quy định. Công tác kiểm tra quy tắc
ứng xử đạo đức công vụ của cán bộ, công chức duy trì góp phần
nâng cao năng lực, ý thức, tinh thần trách nhiệm đối với công
việc, nhân dân. Chế độ tiếp dân đã được thực hiện nghiêm túc.
Lịch lãnh đạo xã tiếp công dân tại trụ sở làm việc được công
khai và đảm bảo. Các hoạt động tư pháp triển khai có nề nếp.
Trong 5 năm, xã đã tiếp 247 lượt công dân (lãnh đạo tiếp 74
lượt, công chức tư pháp tiếp 173 lượt). Công tác nội chính, tư
pháp đảm bảo, trong đó tuyên tuyền sâu rộng các luật đến với
người dân (42 lần có 2.328 lượt người tham dự). Chính quyền
tiếp nhận được 78 đơn của người dân, giải quyết 75/78 đơn (đạt
96,15%). Trong đó, hòa giải thành thành 45 đơn, không thành
30 đơn (chuyển tòa 15 đơn, chuyển cấp huyện 15 đơn) và xác
minh các vụ việc còn lại. Công tác hòa giải, giải quyết đơn kịp
thời, góp phần hạn chế tình hình vi phạm pháp luật, tạo sự gắn
bó trong quần chúng, khu dân cư.
Ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc ký kết quy chế phối
hợp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng
an ninh hàng năm, phối hợp tổ chức tuyên truyền vận động
nhân dân tham gia các phong trào ở địa phương; đặc biệt thực
hiện tốt công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp,
313

32.4 Page 314

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
đại biểu Quốc hội khóa XIV (nhiệm kỳ 2016 - 2021), bầu cử
phụ trách địa bàn ấp của địa phương (nhiệm kỳ 2017 - 2020).
Đảng ủy chỉ đạo và cơ quan nhà nước, đoàn thể ở địa
phương triển khai quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/
TW khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Quyết định số
217-QĐ/TW về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội”, Quyết
định số 218-QĐ/TW quy định về “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
Sự phối hợp giữa các chính quyền, đoàn thể đã đem lại kết
quả trong hoạt động giám sát, phản biện và nắm bắt kịp thời
nguyện vọng của quần chúng, tiếp thu ý kiến đóng góp xây
dựng đảng, chính quyền. Xã đã tổ chức được 15 cuộc đối thoại
giữa Bí thư Đảng ủy xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân với nhân
dân, có hơn 457 lượt cán bộ, đảng viên và quần chúng tham dự.
Những nội dung về đối thoại liên quan đến quản lý, điều hành
và thực trạng đời sống nhân dân: công tác cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quản lý đất công, chế độ, chính sách
đối với hộ nghèo, vệ sinh môi trường, giao thông nông thôn,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đạo đức công vụ...
Qua đối thoại, xã ghi nhận 47 lượt ý kiến đóng góp của nhân
dân và lãnh đạo đảng, chính quyền tại địa phương trực tiếp trả
314

32.5 Page 315

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
lời, giải quyết theo chức trách, nhiệm vụ được người dân đồng
tình. Tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể cùng nhân dân
tích cực tham gia góp ý vào dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng
các cấp (nhiệm kỳ 2015 - 2020), dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi); Bộ Luật Hình
sự (sửa đổi), Luật Đất đai (sửa đổi), dự thảo Nghị quyết Đề án
về quy định chế độ chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã, ấp, dự thảo các Nghị quyết thực
hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh hàng năm
của Đảng ủy.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
đã tổ chức được 15 cuộc giám sát trên các lĩnh vực phát triển
nhiệm vụ kinh tế-xã hội, công tác giải quyết đơn thư khiếu nại
tố cáo, cấp đổi và các thủ tục liên quan đến lĩnh vực đất đai,
xét tuyển nghĩa vụ quân sự, xác minh chính trị, cải cách thủ tục
hành chính, chăm lo đối tượng chính sách.
Mô hình “Dân vận khéo” hiệu quả, xuất hiện nhiều gương
tập thể, cá nhân điển hình, tiêu biểu trong vận động nông dân
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, có năng suất cao vào sản
xuất, xây dựng đường bê tông ấp, xóm, tổ nhân dân bảo vệ giữ
gìn trật tự hành lang an toàn giao thông, bảo vệ rừng, hòa giải
ở khu dân cư... Nhân dân đóng góp gần 8,5 tỷ đồng nâng cấp,
sửa chữa, bê tông hóa 18 đường giao thông nông thôn, chuyển
đổi 12ha cơ cấu cây trồng, giống mới nâng suất cao. Nhân dân
315

32.6 Page 316

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
đăng ký tham gia với tỷ lệ trên 95% số hộ thu gom rác, tiêu hủy
rác thải, bảo vệ môi trường, 100% hộ sử dụng nước sạch. Toàn
xã có hơn 2.713 lượt người tham gia công tác vệ sinh các trục
lộ giao thông chính, thu gom và đốt trên 52 tấn rác thải. Ban chỉ
đạo các phong trào mở rộng và nâng chất lượng các cuộc vận
động thi đua yêu nước, tham gia tích cực “Toàn dân đoàn kết
xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” gắn với nội dung “4
giảm” (tội phạm, tệ nạn ma túy, mại dâm và tai nạn giao thông),
vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”...
Nguồn nhân lực của Mặt trận và đoàn thể được tăng cường,
đào tạo về chất lượng. Cán bộ lãnh đạo của mặt trận, đoàn
thể có trình độ cử nhân về chuyên môn, trung cấp chính trị
đạt tỷ lệ 100%. Tỷ lệ tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào
các tổ chức đoàn thể đạt 88,97% (riêng Đoàn Thanh niên đạt
64,25%). Đoàn viên, hội viên tham gia sinh hoạt thường xuyên
đạt tỷ lệ 82,21%. 100% tổ chức đoàn, hội hoạt động hiệu quả,
đạt xếp loại cơ sở vững mạnh. Trên địa bàn xã có 04 chùa, 01
thiền viện, 01 thánh thất Cao đài, 01 nhà thờ. Hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân chấp hành theo pháp luật, được
tạo điều kiện thuận lợi. Số hộ người dân tộc trên địa bàn là 33
hộ/67 khẩu, có việc làm, đời sống ổn định.
- Lĩnh vực kinh tế
Đến năm 2020, tổng diện tích gieo trồng trong 05 năm qua
là: 4.954,8ha /4.850ha, (đạt 102% chỉ tiêu). Hệ số sử dụng đất
316

32.7 Page 317

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
của xã tăng 1,02 lần với diện tích trồng lúa 3.109,8ha, cây mía
1.430ha, cây mì, hoa màu 18ha và rau xanh các loại 397ha.
Hiệu quả và năng xuất trong nông nghiệp tăng từ sự chỉ đạo
và quan tâm của địa phương trong sản xuất: tập huấn khoa học
kỹ thuật trên địa ban thực tế, ngăn chặn kịp thời các loại sâu
bệnh áp dụng giống mới năng suất sản lượng cao, đầu tư vốn
kịp thời. Tình hình chăn nuôi được duy trì ổn định, nhất là đàn
gia súc, gia cầm. Tổng đàn gia súc, gia cầm hàng năm đều thực
hiện đạt và vượt chỉ tiêu bình quân đạt 3 - 4% chỉ tiêu, tuy
nhiên, trong chăn nuôi, bị ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh
chung. Trên địa bàn, thực hiện tiêm phòng cho đàn gia súc, gia
cầm đạt trên 90%; thường xuyên kiểm tra không để tái chăn
nuôi ở khu dân cư tập trung; vệ sinh phòng dịch, môi trường
ở các hộ chăn nuôi. Năm 2019 trên địa bàn xảy ra dịch tả làm
thiệt hại nhiều hộ chăn nuôi và nhà nước hỗ trợ kịp thời. Diện
tích nuôi trồng thủy sản giảm hàng năm: năm 2015 thực hiện 22
ha đạt 100% đến năm 2016 còn 20ha, từ năm 2017 đến nay còn
8ha. Kinh tế trên địa bàn không ngừng tăng trưởng, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo định hướng đã đề ra; cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo định hướng nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại dịch vụ; thu nhập bình quân đầu người từ
34 triệu đồng năm 2015 lên 58 triệu đồng năm 2020. Huy động
vốn đầu tư phát triển kinh tế đạt được 174,863 tỷ đồng, trong
đó vốn từ nhân dân đầu tư phát triển kinh tế đạt 12.377 tỷ đồng.
317

32.8 Page 318

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Tiểu thủ công nghiệp có bước tăng trưởng cả về số lượng
và chất lượng, năm 2015 có 15 cơ sở và tăng lên 22 cơ sở
năm 2020. Nguồn vốn đầu tư hoạt động, kinh doanh của ngành
đạt 32,3 tỷ đồng (gia công sắt, gò hàn, cưa xẻ gỗ, chế biến
nông sản...) nhưng quy mô sản xuất còn nhỏ. Địa phương xác
định thương mại - dịch vụ là ngành kinh tế quan trọng, khuyến
khích, tạo điều kiện đầu tư sản xuất kinh doanh các ngành nghề.
Tổng số hộ kinh doanh hiện có là 343 hộ đa dạng về mặt hàng
và quy mô (hộ lớn 234, hộ nhỏ 109; tăng 19 hộ so năm 2015).
Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển
chưa mạnh so với tiềm năng, lợi thế.
Thu ngân sách hàng năm đều vượt chỉ tiêu, Từ năm 2015
đến năm 2019 là 45.053.641.062 đồng (đạt 115,06% chỉ tiêu).
Chi ngân sách xã: đảm bảo kinh phí hoạt động. Từ nhiều nguồn
kinh phí, trên địa bàn xã được đầu tư xây dựng mới, sửa chữa
công trình, cơ sở vật chất: trường học các cấp, trụ sở hành chính
xã, cơ quan làm việc của công an, Nhà văn hóa các ấp (Bến
Đình, Thị Cầu, Bến Ngự). Vận động nhân dân thực hiện xã hội
hóa giao thông trên các trục đường với tổng chiều dài 3.117m.
Tổng kinh phí 2.646.243.000 đồng, trong đó người dân đóng
góp 1.357.687.000 đồng. Hệ thống đèn chiếu sáng công cộng
được đầu tư, trang bị (24 hệ thống đèn chiếu sáng đường hẻm
dài 6.378 mét, 404 bóng đèn). Hộ sử dụng điện đạt 3.711 hộ
/3.736 hộ đạt 99,33. Hợp tác xã dịch vụ - nông nghiệp Phú
318

32.9 Page 319

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đông hoạt động cung cấp nước sinh hoạt cho dân 2 ấp Bến Ngự
và Giồng Ông Đông, Công ty cổ phần cấp nước Nhơn Trạch tổ
chức thi công lắp đặt xong hệ thống ống dẫn nước đường Hùng
Vương, cung cấp nước sạch ấp Bến Đình, Thị Cầu. Hộ sử dụng
nước sạch và hợp vệ sinh là: 3.598/3.598 hộ.
Tài nguyên, môi trường được quản lý chặt chẽ với việc cấp
phát, cấp đổi giấy sử dụng đất, không xảy ra các trường hợp
khai thác trái phép. Diện tích đất công được xác định, cắm mốc
11 thửa với diện tích 85.784 m2. Dự án Kho và cảng xăng dầu
Thái Sơn do công ty cổ phần Phát triển đầu tư Thái Sơn do Bộ
Quốc phòng làm chủ đầu tư có tổng diện tích thu hồi là 36,6ha.
Bảo vệ môi trường được chú trọng, thường xuyên vận động
nhân dân đăng ký thu gom rác thải. Tổ tự quản về môi trường
hoạt động hiệu quả. Số hộ đăng ký thu gom rác có 2.485/3.736
hộ, hộ tự hủy 1.191/3.736 hộ. Tổng số hộ đăng ký và tự xử lý
3.676/3.736 hộ đạt 98,39%.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội
Hoạt động văn hóa, thông tin đa dạng về hình thức, phương
tiện. Nhân lực văn hóa xã hội được nâng cao trình độ chuyên
môn theo vị trí việc làm. Hệ thống đài truyền thanh được duy
tu, sửa chữa đáp ứng nhu cầu thông tin đến với người dân
theo kế hoạch. Đài duy trì tiếp âm, phát thanh đài quốc gia,
của tỉnh và huyện đảm bảo 2 lượt/ngày. Cùng với các hình
thức truyền thanh thông tin, các tờ tin, khẩu hiệu, băng rôn
319

32.10 Page 320

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
ở xã phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, các hoạt động sự kiện, thông báo của
địa phương. Trong nhiệm kỳ, nhiều sự kiện chính trị của đất
nước, của tỉnh và huyện, địa phương được tổ chức: kỷ niệm
các ngày lễ lớn, Đại hội Đảng các cấp, bầu cử Đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp, Đại hội Thể dục Thể thao xã, huyện
được tuyên tryền, cổ động nhộn nhịp, tạo điểm nhấn thông
tin với số lượng cờ hoa (2.155 cờ đuôi cá, 557 cờ phướn,
198 cờ dây, 60 cột cờ Đảng, cờ Tổ quốc, 1.490 mét băng
rôn, 30 bảng tuyên truyền Nông thôn mới, 20 áp pích và 27
pa nô).
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao tổ chức,
thu hút quần chúng tham dự, tham gia. Xã phối hợp tổ chức 24
đêm biểu diễn văn nghệ, 25 giải giải bóng đá, bóng chuyền,
cầu lông; đặc biệt tổ chức thành công Đại hội Thể dục Thể thao
cấp xã với sự tham gia 330 vận động viên tham dự thi đấu 5
bộ môn. Trung tâm Văn hóa - Học tập cộng đồng thu hút trên
32.240 lượt người dân địa phương đến vui chơi và giải trí, rèn
luyện sức khoẻ. Đời sống văn hóa của người dân ngày càng
nâng cao về chất lượng qua thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Toàn
dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn minh”. Hằng
năm, đạt tỷ lệ 100% hộ dân đăng ký Gia đình văn hóa, và tỷ lệ
xét đạt trên 99% hộ đạt chuẩn. 10/10 cơ quan đơn vị đạt chuẩn
văn hóa, 5/5 ấp giữ vững danh hiệu ấp văn hóa.
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Cơ sở vật chất của hệ thống trường, lớp các cấp học đảm
bảo cho việc dạy và học. Trường Trung học phổ thông Phú
Đông được tỉnh đầu tư xây dựng mới, đạt chuẩn về cơ sở vật
chất trong giáo dục, đào tạo. Hệ thống giáo dục phát triển hoàn
thiện từ bậc mầm non đến trung học cơ sở, duy trì ổn định số
lượng học sinh. Chất lượng giáo dục được nâng cao thể hiện
việc giảm dần tỉ lệ học sinh yếu, trung bình, tăng tỉ lệ học sinh
khá, giỏi mỗi năm. Tỷ lệ huy động học sinh ra lớp khối Mầm
non trên 90%, bậc Tiểu học và Trung học hàng năm đều đạt
100% theo kế hoạch. Xã Phú Đông giữ vững xã đạt chuẩn quốc
gia về xóa mù chữ - phổ cập tiểu học và phổ cập trung học cơ
sở. Các trường Trung học cơ sở, Tiểu học và Mầm non được
công nhận trường đạt chuẩn quốc gia. Điểm công nghệ thông
tin của xã cung cấp cho 1.200 lượt người dân (xem báo, tìm
hiểu kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh, các
mô hình phát triển nông nghiệp...). Công nghệ thông tin được
triển khai áp dụng trong công việc ở các đơn vị, ban ngành,
đoàn thể. Đội ngũ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về
công nghệ cơ bản, đáp ứng yêu cầu xử lý công việc. công chức
biết sử dụng vi tính và sử dụng mạng internet. Hệ thống kết nội
mạng nội bộ các cơ quan, đơn vị ở địa phương và liên thông với
cấp huyện được duy trì.
Công tác chăm lo gia đình chính sách, có công với cách
mạng, đền ơn đáp nghĩa, chính sách chăm lo các đối tượng xã
hội được địa phương thực hiện tốt. Trong nhiệm kỳ, từ ngân
321

33.2 Page 322

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
sách và vận động với kinh phí gần 1,2 tỷ đồng, xã xây dựng
mới 03 nhà tình nghĩa, 15 nhà tình thương và sửa chữa nhà cho
đối tượng chính sách. Các quỹ Vì người nghèo, Đền ơn đáp
nghĩa hoạt động hiệu quả, vận động trao tặng 7.654 phần quà
cho hộ nghèo, người già neo đơn, trẻ em mồ côi, khuyết tật với
tổng trị giá gần 3 tỷ đồng trong các dịp lễ, tến, hỗ trợ khó khăn.
Chương trình giảm nghèo được quan tâm, giải quyết hộ nghèo,
cận nghèo nguồn vốn vay kinh doanh, sản xuất; sử dụng nước
sạch, vệ sinh môi trường, hỗ trợ học sinh, sinh viên học tập. Xã
giới thiệu giải quyết việc làm cho 1.922 lao động ở các công
ty xí nghiệp. Hàng năm, số hộ nghèo giảm trên 30%, đến cuối
năm 2019 tỷ lệ hộ nghèo còn 08 hộ, chiếm 0,20% dân số. Hoạt
động kiểm tra, phòng chống tệ nạn xã hội duy trì thực hiện, tổ
chức 126 lượt /213 cơ sở hoạt động kinh doanh, phát hiện và
xử lý theo quy định 42 cơ sở vi phạm. Các lực lượng chức năng
phối hợp ngăn ngừa tình trạng quảng cáo, dựng bảng mua bán
bất động sản trái phép, gây mất trật tự, mỹ quan.
Trạm y tế xã được đầu tư và bổ sung thêm trang thiết bị, ổn
định biên chế chuyên môn (01 bác sĩ, 05 y sĩ) thực hiện khám
và điều trị. Nhu cầu khám, điều trị bệnh của dân được đáp ứng
với 40.696 lượt/30.625 lượt người (trong đó, khám Bảo hiểm
y tế 29.804 lượt). Qua phối hợp vận động trong khám chữa trị
bệnh đông - tây y kết hợp miễn phí cho 4.193 lượt người với
tổng kinh phí hơn 3,2 tỷ đồng.
322

33.3 Page 323

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đối tượng trẻ em được chăm sóc sức khỏe theo các chương
trình quốc gia được duy trì: phòng chống suy dinh dưỡng trẻ
em từ 0-5 tuổi (trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng chiếm tỷ lệ
5,9%, trẻ suy dinh dưỡng chiều cao chiếm tỷ lệ 11,22%), tỷ lệ
tiêm chủng trẻ em trong độ tuổi quy định hàng năm đạt trên
94% kế hoạch. Tổ chức vận động kế hoạch hóa gia đình mỗi
năm đói với phụ nữ từ 94 - 100% chỉ tiêu. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên hàng năm dưới < 1%. Số lượng dân tham gia bảo hiểm y
tế cuối năm đạt tỷ lệ 90,18% trên tổng dân số toàn xã. Chương
trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng, công tác phòng chống dịch
bệnh, các bệnh xã hội, bệnh truyền nhiễm được tổ chức tốt. Vệ
sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn chuyển biến tích cực. Cơ
quan chức năng kiểm tra được 342 lượt/108 cơ sở, tuyên truyền
hực hiện tốt vệ sinh thực phẩm. Cán bộ công chức và quần
chúng tham gia hiến máu tình nguyện được 282 đơn vị.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
Cán bộ, chiến sĩ lực lượng quân sự, công an được tăng
cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao cảnh giác,
tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tra, nhất là những
địa bàn trọng điểm, kịp thời giải quyết vụ việc phức tạp, bảo vệ
tốt các mục tiêu quan trọng, giữ vững tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Công tác quân sự - quốc
phòng trong những năm qua luôn được tập trung lãnh đạo chỉ
đạo sát với tình hình của xã, duy trì nghiêm túc chế độ trực
323

33.4 Page 324

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
chỉ huy, chiến sĩ sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. Công tác huấn
luyện, nội dung huấn luyện được đổi mới, chương trình huấn
luyện đúng quy định. Quân số tham gia đạt từ 94% trở lên so
với kế hoạch, kết quả 100% đạt yêu cầu; trong đó, 70 -75% đạt
khá, giỏi. Xã xây dựng và tổ chức thực hiện tốt công tác diễn
tập khu vực phòng thủ năm 2018. Lực lượng dân quân dự bị đạt
về số lượng và chất lượng hoạt động. Xã tổ chức tốt việc phúc
tra đăng ký, quản lý 100% số quân nhân dự bị khi hoàn thành
nghĩa vụ quân sự trở về địa phương. Công tác tuyển quân hàng
năm đều đạt chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, trong đó đoàn
viên, thanh niên tình nguyện nhập ngũ đạt 100%, tỉ lệ đảng viên
bình quân hàng năm đạt 12,67%. Lực lượng xã đội luôn duy trì
và xây dựng kế hoạch phối hợp, hiệp đồng với các đơn vị quân
đội đứng chân trên địa bàn thực hiện tốt công tác đóng quân
canh phòng.
Lực lượng công an được củng cố, kiện toàn gắn với cuộc
vận động xây dựng người công an nhân dân “Vì nước quên
thân, vì dân phục vụ”. Công an xã có 16 đồng chí, đảng viên có
10 đồng chí. Các chương trình quốc gia về an ninh thực hiện
ở Phú Đông đem lại hiệu quả: Phòng chống tội phạm, phòng
chống ma túy, đẩy mạnh, chủ động góp phần phòng ngừa, kiềm
chế sự gia tăng đối với một số tội phạm nguy hiểm. Xã chủ
động xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận
an ninh nhân dân bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
324

33.5 Page 325

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
hội địa bàn, nhất là trong các ngày lễ lớn của đất nước. Trên
địa bàn xã xây dựng 72 tổ nhân dân, 01 đội dân phòng. Công
tác quản lý nhân hộ khẩu được duy trì thường xuyên, kiểm tra
hành chính 134 đợt phát hiện 221 trường hợp không thực hiện
đúng về quy định đăng ký thường trú, tạm trú, lưu trú, đã xử
phạt, khuyến cáo. Tình hình trên địa bàn xã bị tác động trong
xu thế chung của các địa phương lân cận khi tệ nạn, tội phạm
gia tăng, từ các nơi đến tổ chức các hoạt động trái phép, gây
án. Phạm pháp hình sự xảy ra trên Phú Đông có 22 vụ/27 đối
tượng, 16 vụ vi phạm an ninh trật tự với 43 đối tượng. Một số
vụ việc vi phạm được làm rõ, xử lý: tàng trữ trái phép chất ma
túy (5 vụ, 9 đối tượng); phát hiện 58 đối tượng sử dụng ma túy
(lập hồ sơ cai nghiện bắt buộc 20 trường hợp, 38 cai nghiện tại
gia đình, đưa vào diện quản lý); đánh bạc, đá gà ăn tiền (8 vụ,
25 đối tượng), vận chuyển thuốc lá trái phép (1 vụ)... ; tai nạn
giao thông (23 vụ gây 4 chết người, 19 bị thương, 33 phương
tiện hư hỏng). Trong 5 năm, công an xã, huyện phối hợp điều
tra, và xử lý kịp thời.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa xã đội, công an tạo cho tình hình
trật tự địa phương ổn định. Lực lượng xã đội phối hợp cùng
công an và các ban ngành tiến hành được 1.015 lượt tuần tra,
tổ chức tuyên truyền được 108 lượt trên địa bàn 05 ấp về trật tự
an toàn giao thông (7.582 lượt người tham dự, 158 ý kiến đóng
góp). Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc hàng năm trên
325

33.6 Page 326

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
địa bàn 5/5 ấp và tại xã (3.990 lượt người tham dự). Qua đó
khen thưởng cho 56 tập thể và 91 cá nhân có thành tích trong
phong trào, đồng thời tặng 595 phần quà cho người nghèo, khó
khăn. Tài liệu tuyên truyền về lĩnh vực giao thông được phát
rộng rãi đến người dân (2.500 cuốn Nghị định 46/2016/ NĐ-CP
về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường
bộ, 3.500 tờ rơi tài liệu tuyên truyền về Luật Giao thông đường
bộ, đường thủy).
*
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa V (nhiệm kỳ
2015 - 2020), Đảng bộ xã Phú Đông có những thuận lợi từ lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban
nhân dân huyện và sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể cấp
trên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó cán bộ chủ chốt thể
hiện tính tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong thực hiện nhiệm
vụ. Tuy nhiên, xã cũng gặp những khó khăn, thách thức chung
về kinh tế, tình hình chính trị - xã hội, những bức xúc về mặt
xã hội, dân sinh đòi hỏi phải tập trung giải quyết..., các yếu tố
khách quan về thời tiết bất lợi, dịch bệnh và giá cả thị trường
biến động ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội. Sự đoàn
kết nội bộ tổ chức Đảng, tinh thần trách nhiệm trong quản lý
điều hành của chính quyền, ủng hộ của quần chúng nhân dân
địa phương đã góp phần cho xã Phú Đông thực hiện đạt và vượt
những chỉ tiêu đề ra.
326

33.7 Page 327

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Kinh tế trên địa bàn không ngừng tăng trưởng, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo định hướng nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại dịch vụ. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có
bước phát triển tích cực và toàn diện, duy trì phổ cập giáo
dục Tiểu học đúng độ tuổi, Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
được duy trì thường xuyên, giữ vững danh hiệu. Tình hình an
ninh chính trị luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội luôn
ổn định. Tổ chức bộ máy luôn được chú trọng, củng cố, kiện
toàn theo hướng nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Hoạt động Hội đồng nhân dân đi vào chiều sâu, phát huy được
vai trò trách nhiệm đại diện nhân dân. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ luôn được chú trọng,
đạt chuẩn trong vị trí công tác. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể không ngừng được kiện toàn, nâng cao chất lượng
hoạt động, đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động theo
phương châm sâu sát nhân dân, mối quan hệ giữa Đảng với
dân được tăng cường. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được
tăng cường chú trọng. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục
được mở rộng và công tác tôn giáo được quan tâm chỉ đạo kịp
thời. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng đẩy mạnh, công
tác giáo dục chính trị tư tưởng luôn được xác định là nhiệm vụ
hàng đầu.
327

33.8 Page 328

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Bên cạnh những thành quả đạt được, Đảng bộ xã nhận diện
những hạn chế và nguyên nhân để tìm gải pháp khắc phục cho
hướng phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn trong giai đoạn mới.
Kinh tế chưa chuyển dịch theo hướng phát triển thương mại
dịch vụ nhưng vẫn còn tập trung vào sản xuất nông nghiệp.
Phát triển tiểu thủ công nghiệp - thương mại dịch vụ trên địa
bàn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi khoa học kỹ
thuật, hoạt động hợp tác xã dịch vụ sản xuất nông nghiệp chưa
phát huy được tính năng động. Tình hình kinh tế đã có bước
tăng trưởng khá nhưng chưa sâu rộng và đời sống của một bộ
phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Cơ sở hạ tầng chưa được
đầu tư hoàn chỉnh và đồng bộ. Công tác quản lý đất đai, khai
thác tài nguyên chưa thật chặt chẽ trước những tác động của sự
đầu tư phát triển xây dựng. Công tác chỉ đạo điều hành, quản lý
nhà nước ở những thời điểm lúng túng, chưa sâu sát, thiếu kiên
quyết giữa các ngành trong thực hiện các giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội. Phương thức lãnh đạo của một số cơ quan, đơn
vị chậm đổi mới, chưa chủ động, sáng tạo trong việc vận dụng
các chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng trong lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ. Năng lực lãnh đạo của một số
cấp ủy chi bộ trực thuộc còn hạn chế. Sự phối hợp giữa chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể có lúc chưa chặt chẽ.
Từ quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ, Đảng bộ
xã Phú Đông ra một số kinh nghiệm để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo
328

33.9 Page 329

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
xã hướng đến phát triển toàn diện. Những thành quả đạt được
của Đảng bộ xã Phú Đông trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 đáng tự
hào. Đặc biệt, với thành tích trong sự nghiệp đấu tranh kháng
chiến chống ngoại xâm qua hai thời kỳ chống Pháp và chống
Mỹ, xã Phú Đông được trao tặng danh hiệu cao quý vào năm
2000: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong chương
trình mục tiêu quốc gia, xã Phú Đông được tỉnh công nhận đạt
chuẩn Nông thôn mới. Thành quả đạt được là cơ sở, động lực
đến Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương tiếp tục
trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội khi cùng huyện, tỉnh,
đất nước bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI.
3. Xây dựng Nông thôn mới nâng cao (2020 - 2025)
Năm 2020, Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông khóa VI (nhiệm kỳ
2020 - 2025) được tổ chức. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành gồm 11
đồng chí. Lãnh đạo Đảng ủy xã gồm các đồng chí: Hoàng Xuân
Sang (Bí thư), Lương Hữu Châu (Phó Bí thư), Nguyễn Kim Thắng
(Ủy viên Thường trực) và các ủy viên: Phạm Hoàng Cảnh, Lê
Hoàng Duẩn, Nguyễn Văn Dũng, Đỗ Hoàng Kha, Nguyễn Trọng
Nghĩa, Nguyễn Thị Thanh Thúy, Nguyễn Văn Tùng, Lương
Văn Diễn.
Từ thực tiễn địa phương trong định hướng phát triển của
huyện, tỉnh và bối cảnh đất nước, Đảng bộ xã nhận định, đánh
giá: Tình hình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội có những
329

33.10 Page 330

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
bước chuyển biến theo hướng tích cực; mạng lưới giao thông
nông thôn, đường điện hạ thế đã được nâng cấp và phủ kín
thuận lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế, thương mại dịch
vụ. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn giữ
vững; hoạt động của hệ thống chính trị không ngừng được củng
cố, kiện toàn; mối quan hệ giữa Đảng, Chính quyền, Mặt trận
các đoàn thể và quần chúng nhân dân ngày càng được gắn bó
chặt chẽ; Đảng bộ luôn có tinh thần đoàn kết nhất trí cao, khắc
phục được khó khăn thử thách; nhân dân xã nhà luôn nêu cao
tinh thần lao động sáng tạo. Đồng thời, đánh giá thực trạng,
đưa ra những dự báo: Kinh tế có chuyển biến theo chiều hướng
tích cực nhưng chưa tương xứng tiềm năng, hoạt động thương
mại - dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp phát triển nhưng chưa thật
sự vững chắc. Nông sản địa phương chưa có thị trường tiêu thụ
ổn định. Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo
tay nghề còn nhiều, vấn đề giải quyết việc làm ổn định chưa
bền vững. Bên cạnh đó, tình hình thời tiết, dịch bệnh diễn biến
bất thường chưa lường trước. Tệ nạn xã hội ngày càng phức
tạp, tinh vi ảnh hưởng tiêu cực đạo đức, lối sống giới trẻ và
cộng đồng. Đời sống hộ dân trong diện nghèo còn khó khăn do
điều kiện, phương tiện làm ăn không ổn định. Trên cơ sở đồng
thuận, hướng đến mục tiêu phát triển địa phương mang tính bền
vững, Đại hội đề ra phương hướng: “Tiếp tục phát triển kinh
tế theo hướng khai thác tốt các tiềm năng và thế mạnh tại địa
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
phương; Phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của
nhà nước để xây dựng các công trình trọng điểm kinh tế - văn
hóa - xã hội; Thực hiện tốt các chương trình xã hội hóa. Kết
hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với giữ vững ổn định an
ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; hoàn thành và nâng cao chất lượng xây dựng
nông thôn mới nâng cao, xây dựng xã Phú Đông ngày một giàu
đẹp, văn minh1. Mục tiêu chủ yếu, chỉ tiêu và giải pháp cụ thể
từng lĩnh vực được xác định để phấn đấu thực hiện trong nhiệm
kỳ 2020 - 2025:
- Lĩnh vực kinh tế
+ Năm 2022 xã Phú Đông đạt chuẩn Nông thôn mới nâng
cao. Đây là thành tích nổi bật của xã Phú Đông trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai2. Thu nhập bình quân đầu người nhiệm kỳ 2020
- 2025 đạt 62 triệu/ người/năm. Thu ngân sách hàng năm đạt
chỉ tiêu giao. Đường giao thông trên địa bàn khu dân cư được
bê tông hóa đạt trên 90%. Huy động vốn đầu tư phát triển: 39
tỷ đồng; trong đó vốn của dân là 5 tỷ đồng.
1  Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Đông (2020), Văn kiện Đại hội Đảng bộ xã
Phú Đông khóa VI, nhiệm kỳ (2020 - 2025). Tài liệu lưu trữ tại địa phương.
2  Theo Quyết định số 26 ngày 5/01/2022 của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai,
tỉnh Đồng Nai có 5 xã được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới nâng cao: xã
Phú Đông (Nhơn Trạch), Xuân Tâm (Xuân Lộc), Bảo Bình (Cẩm Mỹ), Phú Hòa
(Định Quán), Thiện Tân (Vĩnh Cửu).
331

34.2 Page 332

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
+ Đảm bảo khai thác đưa diện tích đất canh tác nông nghiệp,
hạn chế tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp vào các mục đích
khác. Ổn định vùng chuyên canh sản xuất lúa, mía. Chuyển đổi
một số diện tích lúa 01 vụ kém hiệu quả sang trồng rau màu các
loại. Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng, công trình giao thông
nông thôn, đẩy nhanh chuyển dịch sản xuất nông nghiệp nông
thôn sang sản xuất nông nghiệp đô thị, nâng cao tỷ trọng ngành
dịch vụ nông nghiệp, chăn nuôi. Tập trung thực hiện tốt các
tiêu chí nông thôn mới nâng cao. Thực hiện thu ngân sách nhà
nước đạt, vượt chỉ tiêu trên giao; tăng cường quản lý khai thác
và kinh doanh khoáng sản trên địa bàn. Quản lý đất đại trên địa
bàn, nhất là đất công, đất sông rạch.
+ Khuyến khích nhân dân đầu tư chăn nuôi đảm bảo không
gây ô nhiễm môi trường phù hợp với phát triển kinh tế xã hội.
Hướng dẫn các hộ nông dân sử dụng các giống gia súc, gia cầm
có năng suất chất lượng cao, phù hợp với điều kiện sinh thái tại
địa phương. Ngành nông nghiệp chú trọng công tác tập huấn,
hội thảo chuyển giao khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm; theo
dõi, kiểm tra ngăn chặn kịp thời dịch bệnh trên cây trồng vật
nuôi ngăn chặn kịp thời, phù hợp. Tổ chức tiêm vắcxin phòng
bệnh định kỳ đảm bảo miễn dịch khép kín cho gia súc, gia cầm.
Duy trì và giữ vững các tiêu chí nâng cao đã đạt được và tập
trung các giải pháp, các nguồn lực để thực hiện các chỉ tiêu
332

34.3 Page 333

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
nâng cao còn lại, phấn đấu đến năm 2022 xã đạt xã nông thôn
mới nâng cao.
+ Quan tâm đầu tư công nghiệp - xây dựng, tạo điều kiện
tiểu thủ công nghiệp phát triển, khuyến khích đầu tư, xây dựng
các tổ hợp sản xuất, phát triển các doanh nghiệp tư nhân hoạt
động tuân thủ luật pháp. Hỗ trợ các hộ sản xuất kinh doanh
nông nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực hiện kế
hoạch phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường
phù hợp với nguyên tắc “tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi”
và phát triển cộng đồng. Các tổ chức kinh tế tập thể thuận lợi
tiếp cận nguồn vốn, đào tạo cán bộ quản lý, trợ giúp kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ.
+ Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư từ các dự án phát triển của tỉnh, huyện trên
địa bàn. Tích cực vận động nhân dân tham gia các chương trình
xã hội hóa, đóng góp các nguồn quỹ để xây dựng các công trình
tại địa phương (mở thêm, duy tu, bê tông và nhựa hóa các tuyến
đường giao thông nông thôn, xây dựng các công trình công
ích). Thực hiện hạ thế các tuyến đường điện tại các khu vực xa
trung tâm, tạo điều kiện hộ dân sử dụng điện thuận lợi.
+ Quản lý tài nguyên, môi trường chặt chẽ: đất công, sử
dụng đất đúng mục đích, có biện pháp ngăn chặn kịp thời, xử
lý vi phạm lấn chiếm, xây dựng nhà ở, xây dựng công trình
333

34.4 Page 334

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
trái phép, lấn chiếm hành lang lộ giới giao thông, khai thác tài
nguyên trái phép. Tăng cường thực hiện việc quản lý đất quy
hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, quản lý chặt chẽ tài
nguyên trên địa bàn. Thực hiện công tác xác minh hiện trạng để
giải quyết kịp thời các hồ sơ cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho người dân.
+ Mở rộng mạng lưới thương mại - dịch vụ, khuyến khích
các hộ kinh doanh trên tăng về số lượng và quy mô kinh doanh
hàng năm. Vận động nhân dân chấp hành tốt chính sách thuế.
Tăng cường các biện pháp chống hàng giả, hàng gian. Tăng
cường phối hợp làm tốt công tác quản lý thị trường, hướng dẫn
các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, đúng pháp luật,
chống trốn thuế.
+ Thu chi ngân sách, thực hiện theo quy định phấn đấu
thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu, đảm bảo cho các hoạt động
thường xuyên. Quản lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả ngân sách,
khai thác tốt các nguồn thu, thực hành tiết kiệm chống tham ô,
lãng phí.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội
+ Phấn đấu duy trì giữ vững 5/5 ấp đạt danh hiệu văn hóa,
100% hộ đăng ký gia đình văn hóa, trên 99% hộ đạt chuẩn gia
đình văn hóa. Phấn đấu xây dựng các trường học trên địa bàn
đạt chuẩn quốc gia mức độ II. Duy trì phổ cập giáo dục Tiểu
334

34.5 Page 335

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
học và Trung học cơ sở, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục bậc
Trung học phổ thông. Duy trì trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn dưới 1%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em dưới 5 tuổi về cân nặng dưới 5%, thể chiều cao theo tuổi
dưới 12%. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế 92%. Phấn đấu
hàng năm giảm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định.
Giải quyết việc làm hàng năm từ 300 đến 350 lao động. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo đạt 75%. Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt
chuẩn quốc gia 80%. Đạt tỷ lệ 100% số hộ dân dùng nước hợp
vệ sinh, nước sạch, thu gom và xử lý chất thải y tế. Tỷ lệ thu
gom rác thải sinh hoạt đạt 96%.
+ Trung tâm văn hóa thể dục thể thao tăng cường các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao nhằm phục vụ cho
nhân dân; củng cố xây dựng và tạo điều kiện hoạt động mô
hình câu lạc bộ (bóng đá, bóng chuyền, cầu lông và Đờn ca tài
tử...). Đẩy mạnh và nâng chất lượng cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” gắn xây
dựng nông thôn mới. Phát triển sâu rộng phong trào toàn dân
rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, phát động phong
trào tập dưỡng sinh, thể dục buổi sáng. Hàng năm, tổ chức tốt
các hoạt động văn nghệ nhân dịp các ngày lễ lớn, thực hiện tốt
công tác xã hội hóa.
335

34.6 Page 336

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
+ Các trường tạo điều kiện và khuyến khích giáo viên tham
gia bồi dưỡng, tự bồi dưỡng để nâng cao về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ; tiếp tục thực hiện phong trào “ Trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, tăng cường thực hiện tốt công tác giữ
gìn, bảo dưỡng cơ sở vật chất của nhà trường. Đẩy mạnh hoạt
động và nâng chất lượng hoạt động của hội Khuyến học và
Trung tâm văn hóa thể thao - học tập cộng đồng xã góp phần
tích cực nâng cao trình độ dân trí, xây dựng nếp sống tự giác
học tập; xây dựng xã hội học tập tại địa phương.
+ Thực hiện tốt các giải pháp về an sinh xã hội, trong đó cần
quan tâm đến cuộc sống cho các gia đình chính sách, hộ nghèo
và công nhân lao động ở các khu nhà trọ. Nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe cho người dân, ngăn chặn và phòng chống
có hiệu quả các loại dịch bệnh có nguy cơ phát sinh, phát triển
và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể
dục, thể thao, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, dân tộc trên
địa bàn.
+ Thực hiện có chất lượng phòng bệnh, chương trình y tế
cộng đồng, y tế quốc gia và khám chữa bệnh cho nhân dân.
Khuyến khích tạo điều kiện phát triển dịch vụ y tế tư nhân gắn
với tăng cường quản lý, kiểm tra, hướng dẫn. Giữ vững danh
hiệu xã đạt chuẩn quốc gia về y tế và vận động nhân dân tham
gia bảo hiểm y tế tự nguyện. Tăng cường công tác truyền thông,
336

34.7 Page 337

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
giáo dục dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, chăm sóc trẻ sơ sinh,
phấn đấu hạ tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, tuyên truyền
phòng chống bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em. Đẩy mạnh công
tác truyền thông dân số kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu giảm
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên.
+ Thực hiện tốt công tác giảm nghèo, tạo điều kiện tiếp cận
nguồn vốn cho hộ nghèo tạo việc làm, sản xuất hiệu quả. Phát
triển ngành nghề dịch vụ giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho
người alo động thông qua các dự án cấp trên, các đơn vị đầu
tư phát triển trên địa bàn. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần đối với gia đình chính sách, người có công; Phát huy
truyền thống đoàn kết tương trợ, xây dựng “Tình làng nghĩa
xóm” để giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống. Đẩy mạnh các hoạt
động từ thiện, làm tốt công tác cứu trợ xã hội.
- Lĩnh vực quốc phòng, an ninh
+ Về quốc phòng, các chỉ tiêu đạt tỷ lệ 100%: giao quân
hàng năm đạt; Xây dựng lực lượng dân quân và huấn luyện;
Huy động quân nhân dự bị tham gia huấn luyện; quản lý quân
nhân dự bị, xuất ngũ. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn
diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang xã; phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa quân sự, công an, mặt trận, đoàn thể và các tổ chức
xã hội nhằm tiếp tục thúc đẩy phong trào quần chúng tham gia
337

34.8 Page 338

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
bảo vệ an ninh tổ quốc, an ninh trật tự; thực hiện tốt các bước
chuẩn bị và tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, phòng không
nhân dân đảm bảo theo mục đích, yêu cầu. Xây dựng công tác
quốc phòng toàn dân vững mạnh. Thường xuyên củng cố lực
lượng dân quân thường trực, lực lượng cơ động, lực lượng dân
quân tại chỗ đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, tham gia
đầy đủ các lớp tập huấn làm cơ sở tổ chức thực hành huấn luyện
hàng năm để nâng cao chất lượng kỹ năng, chiến thuật và bản
lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang địa phương; thường xuyên
luyện tập các phương án tác chiến, xử lý trong mọi tình huống.
Tiếp tục quan tâm chế độ chính sách cho lực lượng dân quân
thường trực và thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội,
tạo công ăn, việc làm cho số quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở
về địa phương.
+ Về an ninh, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
28-NQ/TW (Khóa XI) về Chiến lược “Bảo vệ tổ quốc trong
tình hình mới”. Giữ vững và ổn định an ninh chính trị - trật tự
an toàn xã hội. Giáo dục về chính trị, xây dựng lực lượng công
an xã ngày càng trong sạch vững mạnh. Thực hiện có hiệu quả
các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh làm giảm các
loại tội phạm; chú ý đảm bảo chủ động phòng ngừa, phát hiện
từ xa các vi phạm pháp luật trên lĩnh vực về kinh tế, văn hóa
xã hội. Phát triển và sử dụng có hiệu quả mạng lưới cơ sở nòng
338

34.9 Page 339

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
cốt của quần chúng nhân dân. Tuyên truyền, phát động rộng rãi
trong nhân dân để thực hiện chương trình 4 giảm (ma tuý, mại
dâm, tai nạn giao thông và các loại tội phạm). Giảm tỷ lệ tai nạn
giao thông và các tệ nạn khác. Thực hiện tốt các chính sách dân
tộc - tôn giáo, tăng cường xây dựng “khối đại đoàn kết toàn dân
tộc”. Đồng thời tăng cường đấu tranh chống tham nhũng và các
loại tội phạm trong lĩnh vực kinh tế.
- Tổ chức Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị
+ Về công tác xây dựng Đảng: Phấn đấu hàng năm 100%
chi bộ trực thuộc đạt mức hoàn thành tốt nhiệm vụ, Đảng bộ
đạt mức hoàn thành tốt nhiệm vụ; có trên 80% đảng viên hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Duy trì 9/9 chi bộ trực thuộc có chi ủy.
Phát triển đảng viên mới hàng năm đạt 100% chỉ tiêu trên giao;
100% đảng viên tham gia học tập Nghị quyết (trừ đảng viên
miễn sinh hoạt). 100% cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh và thực hiện tốt việc nêu gương theo Quy
định số 101-QĐ/TW của Bộ Chính trị. Tỷ lệ giải quyết dứt
điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức Đảng và đảng
viên đạt trên 95%; tỷ lệ đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng dưới
1% so với tổng số đảng viên đầu nhiệm kỳ. Phấn đấu không để
xảy ra tình trạng đảng viên bị suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống dẫn đến kỷ luật.
339

34.10 Page 340

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
+ Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng, thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng
viên về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Chủ động khắc phục những biểu hiện phai nhạc
lý tưởng, chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, vụ lợi cá nhân;
kiên quyết đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác nắm
bắt tình hình tư tưởng, dư luận trong cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân. Chỉ đạo phối hợp các lực lượng kịp thời
giải quyết các vướng mắc về tư tưởng, tâm trạng để tạo nên sự
thống nhất về ý chí và hành động trong hệ thống chính trị và tạo
ra sự đồng thuận trong nhân dân.
+ Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo,
sử dụng cán bộ. Thực hiện nghiêm quy định về chế độ học tập
bắt buộc đối với cán bộ, công chức, viên chức và đảng viên,
thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng
bố trí cán bộ không phù hợp với năng lực chuyên môn, lựa chọn
người đủ tiêu chuẩn về chính trị và phẩm chất đạo đức, có năng
lực và uy tín để bố trí, bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo
chủ chốt. Chú trọng công tác củng cố tổ chức đảng, tăng cường
công tác quản lý đảng viên, đẩy mạnh công tác phát triển đảng,
thực hiện tốt công tác cán bộ. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về “Nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên”.
+ Về chính quyền, tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; nâng cao chất lượng
hoạt động giám sát, đổi mới công tác tiếp xúc cử tri. Tăng cường
kỷ cương trong bộ máy hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của hệ thống hành chính. Đẩy mạnh công tác cải
cách hành chính nhà nước theo đề án “Một cửa, một cửa liên
thông hiện đại”. Xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách
nhiệm, năng động, công khai, minh bạch đáp ứng được yều cầu
phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp tục thực hiện phòng chống tham
nhũng trong hệ thống chính trị.
+ Về công tác dân vận: Đảm bảo tỷ lệ tập hợp người trong
độ tuổi tham gia vào các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội từ
87% trở lên (riêng Đoàn Thanh niên đạt 60% trở lên). Đảm bảo
tỷ lệ đoàn viên, hội viên tham gia sinh hoạt thường xuyên đạt
từ 80% trở lên. Xây dựng lực lượng đoàn viên, hội viên nồng
cốt đạt từ đạt từ 45% trở lên. Tỷ lệ đoàn, hội hoàn thành tốt
nhiệm vụ trở lên đạt trên 80%, không có đoàn, hội yếu kém.
Phấn đấu 100% cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện có hiệu
quả công tác dân vận chính quyền. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể thực hiện tốt công tác củng cố, kiện toàn và nâng cao chất
341

35.2 Page 342

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
lượng hoạt động của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ của các tổ
chức chính trị xã hội. Chú trọng chất lượng đoàn viên, hội viên
nòng cốt và chất lượng sinh hoạt của các chi, tổ hội ở ấp, gắn
với việc duy trì chế độ sinh hoạt của các chi tổ hội, tăng cường
công tác kiểm tra, thực hiện tốt công tác đánh giá phân loại
đảm bảo tính khách quan trung thực. Xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, thực hiện tốt các phong trào tương thân, tương ái
giúp nhau giảm nghèo. Nhân rộng mô hình, gương điển hình
tiên tiến, biểu dương kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích
xuất sắc trong các phong trào thi đua yêu nước.
*
Trước những chuyển biến tích cực sau quá trình đổi mới,
hội nhập sâu rộng và phát triển của đất nước, kế thừa thành tựu
của tỉnh và huyện Nhơn Trạch, Đảng bộ xã Phú Đông nỗ lực
thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển địa phương
theo hướng bền vững. Từ những bài học kinh nghiệm quý báu,
Đảng bộ xã Phú Đông không ngừng kiện toàn, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực
hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương kỷ luật, bảo vệ
nội bộ Đảng và xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Những biến động
về dịch bệnh Covid-19 có tính toàn cầu, ảnh hưởng chung đến
đất nước và ở địa phương.
342

35.3 Page 343

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đến cuối năm 2021, xã Phú Đông đạt được những kết quả,
tạo đà để thực hiện mục tiêu trong giai đoạn nhiệm kỳ 2020 -
2025. Những kết quả trong xây dựng Nông thôn mới nâng cao
phản ánh những nỗ lực trong xây dựng, phát triển kinh tế, xã
hội ở địa phương. Công tác quy hoạch chung, cơ sở vật chất
về hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, giáo dục - đào tạo, thiết
chế văn hóa, thông tin và truyền thông được quân tâm duy trì
và mở rộng, hoàn thiện. Hệ thống tổ chức chính trị và tình hình
an ninh, quốc phòng đảm bảo. Xã đầu tư trong xây dựng mạng
lưới thương mại, cơ sở vật chất trong lĩnh vực y tế, giải quyết
việc làm, nhà ở, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo hiệu
quả. Xã Phú Đông triển khai các quy hoạch: sử dụng đất, xây
dựng nông thôn mới, sản xuất nông nghiệp và công khai các
quy hoạch đúng thời gian. Thường xuyên cập nhật, rà soát, đề
nghị ngành cấp trên bổ sung quy hoạch, tổ chức kiểm tra việc
xây dựng trên địa bàn. Diện mạo của Phú Đông ngày càng văn
minh với hệ thống cơ sở đem lại thuận lợi trong đời sống người
dân và phát triển trên nhiều lĩnh vực. Các tuyến đường giao
thông chính và các địa bàn cơ sở được mở rộng, kiên cố hóa,
tạo cảnh quan cây xanh nhựa hóa, hệ thống chiếu sáng. Xã Phú
Đông có 3 trường học đạt chuẩn quốc gia, thực hiện tốt công
tác phổ cập giáo dục mầm non, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Địa
343

35.4 Page 344

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
phương đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe
nhân dân, nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh với tỷ lệ
người tham gia bảo hiểm y tế đạt 91,02% và đảm bảo nhân lực
lĩnh vực y tế. Hệ thống thiết chế văn hóa, học tập cộng đồng
được duy tu, bảo dưỡng và hoạt động có hiệu quả đạt 100%.
Nhân dân hưởng ứng tích cực xây dựng nếp sống văn hóa mới
trong cộng đồng dân cư. Xã Phú Đông có 5/5 ấp giữ vững danh
hiệu “Ấp văn hóa” nhiều năm liền và tỷ lệ hộ gia đình đạt tiêu
chuẩn văn hóa duy trì với mức trên 98%. Địa phương không
còn hộ nghèo theo chuẩn mới. Thu nhập của người dân ngày
một tăng, thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 60,45
triệu đồng/người/năm và đến tháng 06/ 2021 thu nhập bình
quân đầu người của xã đạt 66,52 triệu/người/năm. Tỷ lệ lao
động có việc làm thường xuyên được duy trì, trong đó tỷ lệ
người có việc làm thường xuyên trên dân số trong độ tuổi lao
động có khả năng tham gia lao động đạt 96,8%. Tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững với các
phong trào thiết thực “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”. Hằng
năm, xã hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân hàng năm, xây
dựng lực lượng vững mạnh toàn diện. Vệ sinh môi trường được
duy trì thường xuyên, thu gom rác thải, xây dựng các tuyến
đường “Xanh-sạch-đẹp”... góp phần tạo diện mạo nông thôn
mới... Nhiệm vụ trong giai đoạn 5 năm từ 2020 đến 2025 đã
344

35.5 Page 345

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
qua nửa chặng đường với những nỗ lực của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân địa phương. Cùng với cả nước, tỉnh Đồng
Nai và huyện Nhơn Trạch, Đảng bộ và nhân dân xã Phú Đông
từng bước khắc phục, xây dựng kế hoạch, chương trình hành
động thiết thực, áp dụng những giải pháp phù hợp thực hiện đạt
mục tiêu đặt ra dù chặng đường phía trước có những thử thách.
***
345

35.6 Page 346

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
KẾT LUẬN
Xã Phú Đông là đơn vị hành chính được thành lập sau
cùng của huyện Nhơn Trạch. Tháng 9/1994 xã Phú Đông chính
thức đi vào hoạt động. Diện tích xã Phú Đông được chia tách
từ phần địa giới chủ yếu của xã Đại Phước và xã Phú Hữu. Có
thể dùng cụm từ “sinh sau, đẻ muộn” như một ví sánh trong
sự thành lập các đơn vị hành chính của huyện Nhơn Trạch để
nói về “độ trẻ” của tổ chức Đảng, chính quyền xã. Thế nhưng,
độ trẻ của xã Phú Đông được kế thừa từ nhiều lĩnh vực của hai
xã Đại Phước, Phú Hữu. Khi mới thành lập, từ nhân lực địa
phương, tổ chức đảng, bộ máy chính quyền của Phú Đông được
chi viện, bổ sung bởi cán bộ, đảng viên nhiều kinh nghiệm của
xã Đại Phước, Phú Hữu và huyện Nhơn Trạch. Đây là những
yếu tố thuận lợi để xã Phú Đông từng bước đi vào ổn định, xây
dựng quê hương cùng với huyện Nhơn Trạch trên con đường
cách mạng, hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong dòng chảy lịch sử của Nhơn Trạch với vùng đất
Biên Hòa - Đồng Nai, xã Phú Đông đã hình thành từ những
thôn, làng xưa khi người Việt đến đây khai khẩn. Cách đây
346

35.7 Page 347

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
hơn ba thế kỷ, Phú Đông là địa bàn trong xứ sở “đất rộng,
người thưa” được những lớp di dân tìm đến khai khẩn, lập
làng. Những cư dân thuở xưa đối diện với môi trường, thời tiết
khắc nghiệt “Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um”, “Lam sơn
chướng khí” để mưu sinh. Từng hồi, những lớp di dân đã lập
nên những làng thôn tại Phú Đông khá rộng như Lương Phú
Đông, Phước Thạnh, Giồng Ông Đông, Bến Đình, Bến Ngự...
Sau này, những cuộc di dân ngày càng nhiều hơn với chính
sách mở rộng về phương Nam, ổn định hành chính của nhà
Nguyễn, trên địa bàn Phú Đông, thiết chế làng xã được quy
cũ như những vùng đất khác của Đồng Nai, Gia Định. Những
biến động của lịch sử, chính sách các thể chế quản lý đã tác
động đến hành chính, địa giới ở làng, thôn của Phú Đông. Vào
giữa thập niên 50 của thế kỷ XX, một số lượng cư dân từ Bắc
Ninh đã đến vùng Phú Đông sinh sống trong trào lưu di cư, đa
phần là những giáo dân Thiên Chúa giáo. Từ sau năm 1975, khi
đất nước thống nhất, chính sách phát triển ngày càng mở rộng,
nhiều cư dân từ các địa phương khác đến xã Phú Đông sinh
sống khá nhiều. Trải qua các thời kỳ, sự hội tụ của các lớp cư
dân đã tạo nên sắc thái tộc người đa dạng với sự biểu đạt qua
nếp sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày nay,
xã Phú Đông có 05 thành phần tộc người, cùng đoàn kết, chung
sức trong xây dựng địa phương phát triển.
347

35.8 Page 348

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Nằm trong địa bàn xã Đại Phước, Phú Hữu của Nhơn
Trạch, là vùng tiếp giáp và chịu ảnh hưởng không chỉ của Long
Thành, Nhơn Trạch, Thủ Đức trước đây thuộc tỉnh Biên Hòa
mà cả khu vực đô thị Sài Gòn trước đây, nhân dân xã Phú Đông
đã tham gia những phong trào yêu nước trong đấu tranh chống
áp bức, xâm lược bằng nhiều hình thức; đặc biệt là tổ chức hội
kín yêu nước vào từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Khi
đường lối vô sản được truyền bá, đặc biệt từ vùng Hóc Môn -
Bà Điểm đến công nhân các đồn điền, nhà máy, xí nghiệp... một
số cơ sở nòng cốt trong quần chúng Phú Đông giác ngộ cách
mạng, tuyên truyền và cổ vũ tinh thần yêu nước, tham gia các
cuộc đấu tranh chống kẻ thù dưới sự lãnh đạo của các tổ chức
cộng sản. Năm 1930, khi Đảng Cộng sản thành lập, mở ra một
bước ngoặc mới trên vũ đài chính trị của đất nước: Đảng Cộng
sản đứng lên lãnh đạo nhân dân yêu nước tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc. Nhân dân Phú Đông qua các hình thức đấu
tranh đã tham gia vào các hoạt động cách mạng từ biểu tình,
đấu tranh dân sinh, dân chủ, chính trị; cùng Mặt trận Việt Minh
nổi dậy, khởi nghĩa, góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945 trên quê hương.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, quân dân Phú Đông tiếp tục dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ Long Thành, Nhơn Trạch, Biên Hòa, Bà Rịa
- Chợ Lớn, Long Bà Biên (Long Khánh - Bà Rịa - Biên Hòa),
348

35.9 Page 349

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Phân khu 4, Biên Hòa nông thôn... vượt qua những khó khăn,
hy sinh để chiến đấu bảo vệ quê hương. Nhân dân Phú Đông
tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tiếp bước chiến đấu
chống kẻ thù khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ 2. Tại địa
bàn Nhơn Trạch, quân dân Phú Đông cùng cách mạng của địa
phương, Nam Bộ ngăn chặn từng bước tiến của kẻ thù, thực
hiện tiêu thổ kháng chiến và xây dựng căn cứ cách mạng. Thời
chống Mỹ với mức độ và cường độ chiến tranh ác liệt, quân
dân Phú Đông vẫn bám trụ, kiên trì, anh dũng chống quân thù
bằng nhiều hình thức. Nhiều người con ưu tú của Phú Đông đã
ngã xuống, sự hy sinh của họ đã làm cho truyền thống anh hùng
này càng tô thắm bởi “Lớp cha trước, lớp con sau” tiếp bước
lên đường “Trả thù nhà, nợ nước” trước kẻ thù bạo tàn. Những
phụ nữ Phú Đông tần tảo nuôi con không chỉ là cơ sở mật nắm
bắt thông tin, làm nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế cho cách mạng mà
trở thành những chiến sĩ trung kiên gan dạ đi đầu trong cuộc
đấu tranh chính trị với kẻ thù, làm tốt công tác binh vận. Những
cán bộ, đảng viên ở Phú Đông biết rằng thoát lý kháng chiến
là gian khổ, bị địch bắt là tù đày, tra tấn dã man nhưng vẫn lên
đường, tòng quân tham gia và mong được trực tiếp chiến đấu.
Tổn thất có, hy sinh có nhưng quân dân xã Phú Đông vẫn một
lòng trung kiên với cách mạng, theo Đảng để thực hiện nhiệm
vụ thiêng liêng đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành lấy độc lập,
cho đất nước. Sự kiện thảm sát Giồng Sắn mà kẻ thù gây ra cho
349

35.10 Page 350

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
người dân lành ở địa phương nói riêng, Nhơn Trạch nói chung
năm 1964 như nhắc nhớ về một trang đau buồn nhưng quân
dân cách mạng “biến đau thương thành hành động cách mạng”
quyết tâm đánh đổ chế độ bạo tàn, giành lấy tự do. Vượt qua
những đau thương, mất mát, hy sinh, quân dân Phú Đông đã
anh dũng chiến đấu để cùng cách mạng Nhơn Trạch, Biên Hòa
- Đồng Nai góp phần hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước sau 21 năm trường kỳ kháng chiến bằng
đại thắng mùa Xuân lịch sử 1975.
Những năm tháng kháng chiến chống kẻ thù xâm lược
và tay sai bán nước đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của
quân dân xã Phú Đông. Chiến tranh đã đi qua, một kỷ nguyên
mới đến với đất nước Việt Nam và người dân Phú Đông - Nhơn
Trạch: hòa bình, thống nhất. Quân dân Phú Đông dưới sự lãnh
đạo của Đảng tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh, bắt tay
vào xây dựng cuộc sống mới, văn hóa mới. Trong phát triển
chung của xã Đại Phước, xã Phú Hữu, nhân dân Phú Đông thực
hiện bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng xã hội theo định hướng
của Đảng. Trong giai đoạn 1975 đến 1985, có những giai đoạn
đất nước lâm vào khủng khoảng kinh tế, trong tình hình đó, sản
xuất trì trệ và đời sống nhân dân khó khăn. Vượt qua thử thách
bằng sự nỗ lực mạnh mẽ, quân dân Phú Đông cùng đoàn kết,
phấn đấu chung tay với cùng với Long Thành, Nhơn Trạch từng
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
bước thoát ra khỏi những khó khăn, tự chủ về lương thực và
hoàn thành nghĩa vụ nhà nước.
Từ năm 1986, khi thực hiện đường lối đổi mới, xã Phú
Đông có những bước chuyển tích cực trên nhiều lĩnh vực. Từ
năm 1994, khi huyện Nhơn Trạch thành lập lại trên cơ sở tách
ra từ huyện Long Thành, xã Phú Đông thành lập với tư cách
đơn vị hành chánh cấp xã. Buổi đầu với những thiếu thốn về
nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, tổ chức đảng và bộ máy chính
quyền địa phương thể hiện ý chí quyết tâm cách mạng, cùng
phát triển kinh tế - xã hội địa phương để đi lên có sự hỗ trợ rất
lớn từ huyện Nhơn Trạch. Từ chi bộ phát triển lên Đảng bộ,
tổ chức Đảng của Phú Đông không ngừng kiện toàn và nâng
cao sức chiến đấu, lãnh đạo, chỉ đạo quân dân địa phương thực
hiện nhiệm vụ phát triển địa phương trong từng nhiệm kỳ. Sau
mỗi chặng đường đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ
thể căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương, trong định
hướng phát triển chung của Nhơn Trạch, Phú Đông ngày càng
khẳng định được những bước đi đúng đắn trong các lĩnh vực.
Từ một xã thuần nông huyện Nhơn Trạch, thiếu cấu kết của cơ
sở hạ tầng, nông nghiệp là kinh tế chủ lực nhưng đứng trước
những khó khăn, xã Phú Đông mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu
kinh tế từng bước, hướng đến sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện,
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
351

36.2 Page 352

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trong phát triển chung của Nhơn Trạch, diện mạo của
xã Phú Đông ngày càng khang trang trong xu thế phát triển
mới. Quy hoạch phát triển theo hướng hiện đại của tỉnh Đồng
Nai, của huyện Nhơn Trạch và vùng phụ cận Long Thành
cũng như khu vực Thành phố Hồ Chí Minh về phía Đông, xã
Phú Đông có vị trí kết nối trong vùng và liên vùng. Đặc điểm
thuần nông của địa phương được duy trì trong hướng phát triển
công nghiệp nông thôn và mạng lưới thương mại - dịch vụ đa
dạng. Cơ sở vật chất Phú Đông được đầu tư trong xây dựng,
định hướng quy hoạch với tính chất đô thị phát triển. Đặc biệt,
chương trình quốc gia về xây dựng Nông thôn mới được địa
phương thực hiện tốt và năm 2015 đánh dấu kết quả của sự
nỗ lực lớn của Đảng bộ và nhân dân xã Phú Đông, xã Phú
Đông được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới mang tính
bền vững.
Trong từng nhiệm kỳ, Đảng bộ xã Phú Đông luôn xem xét
trên tình hình thực tiễn của địa phương để đề ra những phương
hướng xây dựng và phát triển địa phương. Mội quá trình thực
hiện, được Đảng bộ lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và kịp thời. Trong
từng chặng đường, vẫn có nhiều khó khăn thách thức từ các
yếu tố tác động, cả chủ quan lẫn khách quan. Nhận diện được
những thành quả đạt được cũng như thấy được những hạn chế
và nguyên nhân, Đảng bộ xã Phú Đông đúc kết những bài học
kinh nghiệm để tìm những giải pháp hiệu quả trong lãnh đạo
352

36.3 Page 353

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
địa phương tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, nâng cao
đời sống cho người dân, đảm bảo được những nhiệm vụ chính
trị đề ra và chung tay xây dựng Nhơn Trạch trở thành đô thị
phát triển trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam của vùng
Đông Nam Bộ. Đối với Đảng bộ xã Phú Đông, bài học kinh
nghiệm của mỗi chặng đường vẫn còn nguyên giá trị trong xây
dựng tổ chức vững mạnh, trong sạch, đủ sức chiến đấu, hoàn
thành nhiệm vụ được giao với tinh thần trách nhiệm cao.
- Thứ nhất: Đảng bộ phải có nghị quyết đúng đắn, xác
định được mục tiêu, nhiệm vụ then chốt để xây dựng các chương
trình hành động sát với tình hình thực tế của địa phương. Trong
quá trình tổ chức thực hiện, phải tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát thông qua thực tiễn để bổ sung hoàn thiện nghị quyết.
- Thứ hai: Thực hiện tốt quy chế dân chủ, quan tâm giải
quyết kịp thời những tâm tư nguyện vọng và những quyền lợi
hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy các
phong trào của quần chúng.
- Thứ ba: Xác định công tác dân vận là của cả hệ thống
chính trị; làm tốt công tác dân vận trong đồng bào có đạo, nhất
là đối với các vị chức sắc, người có uy tín để tạo sự đồng thuận
cao trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội - an ninh
quốc phòng tại địa phương.
353

36.4 Page 354

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
- Thứ tư: Khai thác có hiệu quả các tiềm năng, nguồn lực
trong nhân dân, tranh thủ sự trợ giúp của các cấp để đẩy nhanh
sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa xã hội tại địa phương.
- Thứ năm: Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh
trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Kiện toàn hệ thống
chính trị, xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân vững mạnh, lấy kết quả phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống của nhân dân làm thước đo đánh giá hiệu
quả của hệ thống chính trị, lấy mức độ hoàn thành nhiệm vụ
để đánh giá tiêu chuẩn, đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
đảng viên.
Năm 2021, đánh dấu bước phát triển mạnh của xã Phú
Đông dù tình hình xã hội có những tác động bởi dịch bệnh
Covid-19 trên cả nước, khu vực và thế giới. Từ những thành
quả được kế thừa, Đảng bộ xã Phú Đông đã lãnh đạo quân dân
địa phương hoàn thành các tiêu chí xã Nông thôn mới nâng
cao. Đây là một thành quả đáng tự hào của địa phương từ Đảng
bộ và quần chúng nhân dân với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao
tạo sức mạnh cùng thực hiện xây dựng địa phương. Nhân dân
thấy rõ được đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của
nhà nước đem lại lợi ích thiết thực nên nghị quyết của Đảng
đi vào cuộc sống, trở thành “Ý Đảng, lòng dân” để vượt qua
thách thức để hoàn thành mục tiêu chung. Trong quá trình phát
354

36.5 Page 355

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
triển kinh tế, xã hội địa phương nói chung, Nông thôn mới nâng
cao, từng cán bộ, đảng viên của xã thực sự là những người nêu
gương, nòng cốt, đi đầu. Cán bộ, đảng viên là người luôn thể
hiện quyết tâm, kiên trì trong công tác dân vận, từng bước nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân trong thực hiện nhiệm
vụ, mục tiêu đề ra với tinh thần nỗ lực và chủ động, nắm bắt
những điều kiện, thời cơ thuận lợi trên cơ sở áp dụng phù hợp
vào tình hình địa phương.
Từ truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng, quân dân xã Phú Đông bước
vào cuộc hành trình mới trong xây dựng quê hương khi đất
nước bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng để phát triển. Trên
cơ sở những thành tựu đạt được từ khi thực hiện đổi mới, phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới,
Đảng bộ xã Phú Đông tiếp tục kiện toàn, phấn đấu, xây dựng
tổ chức vững mạnh lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân của địa
phương thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn
2020 đến 2025 “Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng khai
thác tốt các tiềm năng và thế mạnh tại địa phương, phát huy nội
lực, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của nhà nước để xây dựng
các công trình trọng điểm kinh tế - văn hóa - xã hội; thực hiện
tốt các chương trình xã hội hóa. Kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế - xã hội với giữ vững ổn định an ninh chính trị - trật tự
an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
355

36.6 Page 356

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn
thành và nâng cao chất lượng xây dựng Nông thôn mới nâng
cao, xây dựng xã Phú Đông ngày một giàu đẹp, văn minh”.
Chặng đường nửa nhiệm kỳ đã qua, xã Phú Đông đã đạt thành
quả đáng trân trọng, đặc biệt từ cơ sở của quá trình xây dựng
Nông thôn mới năm 2015 và được công nhận Nông thôn mới
nâng cao năm 2021 phản ánh sự nỗ lực của toàn Đảng bộ, nhân
dân địa phương. Thành quả này vừa là niềm tự hào và động lực
cũng là trách nhiệm lớn đối với xã Phú Đông trong chặng đường
xây dựng, phát triển địa phương trong nhiệm kỳ và hướng đến
tương lai với nhiều kỳ vọng.
356

36.7 Page 357

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
HÌNH ẢNH BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
XÃ PHÚ ĐÔNG
Mẹ Lê Thị Mua
(1904 - 1986)
Mẹ Trần Thị Nga
(1919 - 2011)
Mẹ Nguyễn Thị Lài
(1923 - 2004)
Mẹ Nguyễn Thị Bài
(1918 - 2012)
357

36.8 Page 358

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Mẹ Phạm Thị Tiết
(1915 - 2004)
Mẹ Dương Thị Hoa
(1923 - 2015)
Mẹ Lê Thị Đẹt
(1918 - 2016)
358
Mẹ Thái Thị Ba
(1926 - 2017)

36.9 Page 359

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Mẹ Trần Thị Liên
(1895 - 1974)
Mẹ Phạm Thị Lý
(1882 - 1956)
Mẹ Lê Thị Dần
(1912 - 2003)
Mẹ Nguyễn Thị Trừ
(1932 - 2006)
359

36.10 Page 360

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
HÌNH ẢNH BÍ THƯ ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ ĐÔNG
Đồng chí
Châu Văn Lộc
Đồng chí
Đoàn Văn Le
Đồng chí
Tô Ngọc Anh
360
Đồng chí
Châu Phước Thuận

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đồng chí
Huỳnh Văn Đẹp
Đồng chí
Bùi Minh Tuấn
Đồng chí
Hoàng Xuân Sang
361

37.2 Page 362

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
HÌNH ẢNH TIÊU BIỂU XÃ PHÚ ĐÔNG
Quang cảnh Đại hội Đảng bộ xã Phú Đông
nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Đông nhiệm kỳ 2020 - 2025.
362

37.3 Page 363

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Họp Hội đồng nhân dân xã Phú Đông khóa V-2019.
Đại hội lần thứ X của Chi bộ Quân sự xã Phú Đông.
363

37.4 Page 364

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Đại hội lần thứ XII Chi bộ Trường Tiểu học Phú Đông.
Đại hội lần thứ XI Chi bộ ấp Bến Đình.
364

37.5 Page 365

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Xã Phú Đông nhận danh hiệu Đạt chuẩn Nông thôn mới
năm 2019.
Lễ trao tặng Huy hiệu Đảng tại xã Phú Đông.
365

37.6 Page 366

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Lễ kết nạp đảng viên ở xã Phú Đông.
Các đại biểu cấp huyện, tỉnh tiếp xúc cử tri tại xã Phú Đông.
366

37.7 Page 367

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Đảng bộ, nhân dân xã Phú Đông dâng hương
kỷ niệm Ngày thương binh liệt sĩ.
Ngày Hội Đại đoàn kết tại ấp Thị Cầu.
367

37.8 Page 368

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Xã Phú Đông trao tặng Nhà tình thương cho hộ nghèo.
Xã Phú Đông thực hiện hỗ trợ giao vốn
cho người dân sản xuất.
368

37.9 Page 369

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Thực hiện chính sách quân nhân dự bị
và huấn luyện quân sự tại địa phương.
Thanh niên xã Phú Đông tham gia nghĩa vụ quân sự.
369

37.10 Page 370

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Đại hội Hội Liên hiệp Thanh niên xã Phú Đông.
Hoạt động của Cựu chiến binh ở địa phương.
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Khen thưởng cá nhân có thành tích
trong bảo vệ an ninh tổ quốc ở địa phương.
Hoạt động của Hội Phụ nữ xã Phú Đông.
371

38.2 Page 372

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Nhân dân Phú Đông tham gia công tác thủy lợi,
làm đập, ngăn mặn từ Cầu Cháy đến Giồng Ông Đông.
Nhân chứng lịch sử thắp nhang tại Bia tưởng niệm
(ấp Bến Đình, xã Phú Đông).
372

38.3 Page 373

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
DANH SÁCH LÃNH ĐẠO ĐẢNG BỘ
XÃ PHÚ ĐÔNG CÁC THỜI KỲ
STT
HỌ VÀ TÊN
CHỨC VỤ
Chi ủy xã Phú Đông (1994 - 1995)
1 Châu Văn Lộc
Bí thư
2 Tô Ngọc Anh
Ủy viên
3 Nguyễn Văn Thuận
Ủy viên
BCH Đảng bộ xã Phú Đông khóa I (1995 - 2000)
1 Đoàn Văn Le
Quyền Bí thư
2 Hồ Ngọc Hưng
Phó Bí thư
3 Huỳnh Văn Đẹp
Ủy viên
4 Đoàn Văn Đạm
Ủy viên
5 Nguyễn Kim Thắng
Ủy viên
6 Đoàn Văn Tám
Ủy viên
7 Đoàn Văn Cưởng
Ủy viên
BCH Đảng bộ xã Phú Đông khóa II (2000 - 2005)
1 Đoàn Văn Le
Quyền Bí thư (2000 -9/2001)
2 Tô Ngọc Anh
Bí thư (9/2001 - 2004)
3 Châu Phước Thuận
Bí thư (2004 - 2005)
4 Hồ Văn Xem
Ủy viên
5 Nguyễn Văn Thành
Ủy viên
6 Lý Thanh Tùng
Ủy viên
7 Nguyễn Văn Hải
Ủy viên
373

38.4 Page 374

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
BCH Đảng bộ xã Phú Đông khóa III (2005 - 2010)
1 Châu Phước Thuận
Bí thư (năm 2005)
2 Huỳnh Văn Đẹp
Q. Bí thư (11/2005), Bí thư
(2006 - 2010)
3 Tô Ngọc Anh
Phó Bí thư - UVTV
4 Nguyễn Văn Tuấn
Ủy viên
5 Dương Chí Hùng
Ủy viên
6 Nguyễn Văn Hải
Ủy viên
7 Đặng Văn Lo
Ủy viên
8 Nguyễn Kim Thắng
Ủy viên
9 Dương Khắc Chiến
Ủy viên
BCH Đảng bộ xã Phú Đông khóa IV (2010 - 2015)
1 Huỳnh Văn Đẹp
Bí thư (2010 - 2012)
2 Bùi Minh Tuấn
Bí thư (2012 - 2015)
3 Dương Chí Hùng
Phó Bí thư
4 Nguyễn Kim Thắng
Ủy viên TV
5 Lý Hoàng Sơn
Ủy viên
6 Nguyễn Văn Hải
Ủy viên
7 Nguyễn Văn Dũng
Ủy viên
8 Đặng Hoàng Xuyên
Ủy viên
9 Nguyễn Chính Tần
Ủy viên (2010 - 2013)
10 Lê Hoàng Duẩn
Ủy viên (2013 - 2015)
11 Phạm Hoàng Cảnh
Ủy viên
374

38.5 Page 375

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
BCH Đảng bộ xã Phú Đông khóa V (2015 - 2020)
1 Bùi Minh Tuấn
Bí thư
2 Dương Chí Hùng
Phó Bí thư
3 Nguyễn Kim Thắng
Ủy viên TV
4 Đoàn Văn Tám
Ủy viên
5 Lương Hữu Châu
Ủy viên
6 Phạm Hoàng Cảnh
Ủy viên
7 Nguyễn Văn Tùng
Ủy viên
8 Nguyễn Văn Dũng
Ủy viên
9 Lê Hoàng Duẩn
Ủy viên
BCH Đảng bộ xã Phú Đông khóa VI (2020 - 2025)
1 Hoàng Xuân Sang
Bí thư
2 Lương Hữu Châu
Phó Bí thư
3 Nguyễn Kim Thắng
Ủy viên TV
4 Phạm Hoàng Cảnh
Ủy viên
5 Lê Hoàng Duẩn
Ủy viên
6 Nguyễn Văn Dũng
Ủy viên
7 Đỗ Hoàng Kha
Ủy viên
8 Nguyễn Trọng Nghĩa Ủy viên
9 Nguyễn Thị Thanh Thúy Ủy viên
10 Nguyễn Văn Tùng
Ủy viên
11 Lương Văn Diễn
Ủy viên
375

38.6 Page 376

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
DANH SÁCH Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
XÃ PHÚ ĐÔNG
(xếp theo thời gian nhận danh hiệu)
A. Thông tin tóm tắt
STT
Họ tên
Liệt sĩ,
năm hy sinh (h/s)
Thời
gian
1
Lê Thị Mua
(1904 - 1986)
- Nguyễn Văn Cảnh,1970 (con)
- Nguyễn Văn Thảnh, 1966 (con) 1994
- Nguyễn Văn Thơi, 1969 (con)
Nguyễn Thị Lẹt - Dương Văn Hai,1966 (con)
2 (1912-1982) - Dương Văn Sâm,/s 1966 (con) 1994
- Dương Văn Nghĩa, 1969 (con)
3
Lê Thị Dần
(1912-2003)
- Nguyễn Văn Mảnh, 1968 (con)
- Nguyễn Văn Hai, 1971 (con)
1994
Trần Thị Nga - Nguyễn Văn Liêm,1965 (con)
4 (1919-2011) - Nguyễn Văn Lộc, 1967 (con) 1994
- Nguyễn Văn Hiếu, 1968 (con)
5
Hồ Thị Biên
(1919 - 1946)
- Võ Văn Hảo,1966 (con)
1997
6
Nguyễn Thị Biết
(1910 - 1969)
- Nguyễn Văn Thanh, 1967 (con)
1997
376

38.7 Page 377

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
7
Trần Thị Của
(1916 - 1950)
- Đặng Văn Hỉnh, 1964 (con)
2000
8
Lê Thị Có
(1924 - 1945)
- Cao Văn Ảnh, 1968 (con)
2002
9
Nguyễn Thị Lài - Lê Văn Ơn, 1964 (con)
(1923 - 2004) - Lê Văn Bền, 1973 (con)
2014
10
Nguyễn Thị Bài - Trần Văn Dũng, 1966 (con)
(1918 - 2012) - Trần Văn Ê 1968 (con)
2014
11
Phạm Thị Tiết - Đặng Văn Hơn, 1967 (con)
(1915 - 2004) - Đặng Văn Tròi 1970 (con)
2014
12
Dương Thị Hoa Nguyễn Văn Chiến, 1969 (con)
(1923 - 2015) - Nguyễn Văn Trân, 1969 (con)
2014
13
Lê Thị Đẹt
(1918 - 2016)
- Nguyễn Văn Trung, 1970 (con)
- Nguyễn Văn Quân, 1969 (con)
2014
14
Thái Thị Ba - Đoàn Văn Sỹ, 1974 (chồng)
(1926 - 2017) - Đoàn Văn Thắng, 1968 (con)
2014
15
Nguyễn Thị Trừ - Đào Văn Dũng, 1969 (con)
(1932 - 2006) - Đào Văn Quyết, 1971 (con)
2014
16
Trần Thị Liên - Nguyễn Văn Bé, 1948 (con)
(1895 - 1974) - Nguyễn Văn Sơn,1963 (con)
2015
17
Phạm Thị Lý
(1882 - 1956)
- Trần Văn Thê, năm 1954 (con)
- Trần Văn Sẳn,1963 (con)
2016
18
Bùi Thị Hai -Nguyễn Văn Tư, 1963 (con)
(1900 - 1950) - Nguyễn Văn Phải, 1972 (con)
2016
377

38.8 Page 378

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
B. Tư liệu về Bà mẹ VNAH xã Phú Đông
- Bà mẹ VNAH Lê Thị Mua (1904 - 1986)
Mẹ Lê Thị Mua sinh năm 1904, quê ở ấp Giồng Ông
Đông, xã Phú Hữu, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa (nay là
ấp Bến Ngự, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai).
Gia đình mẹ sinh sống vùng cù lao bốn bề sông nước, cả nhà
làm nông, sống trong cảnh vất vả. Thập niên 50, thế kỷ XX, đất
nước bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc. Ở miền Nam, chính
quyền Việt Nam Cộng hòa thực hiện khủng bố phong trào cách
mạng, gây nên nhiều cảnh bắt bớ người dân, những gia đình có
người thân tham gia kháng chiến trước đây hoặc có người đi
tập kết. Đầu năm 1960, tình hình đấu tranh cách mạng ở miền
Nam khởi sắc, chịu tác động tích cực từ phong trào Đồng Khởi
ở Bến Tre. Lực lượng vũ trang và du kích các xã bắt đầu hỗ
trợ mạnh mẽ cho nhân dân đấu tranh với chính quyền Sài Gòn.
Trong phong trào cách mạng của huyện, những người con của
mẹ thoát ly, tham gia kháng chiến.
Anh Nguyễn Văn Cảnh (Ba Cảnh, Tâm) sinh năm 1935
gia nhập lực lượng vũ trang Biên Hòa (phiên hiệu C240) vào
tháng 02/1962. Hai tháng sau, anh Ba Cảnh động viên em mình
là Nguyễn Văn Thảnh (Năm Thảnh) sinh năm 1938, nối bước
tham gia kháng chiến, cùng gia nhập C240. Hai anh em trở
thành chiến sĩ trong cùng đơn vị vũ trang. Đầu năm 1965, sau
chiến thắng Bình Giã của quân cách mạng, anh Nguyễn Văn
Thơi (Sáu Thơi, Cường) sinh năm 1942 tiếp bước hai anh, lên
378

38.9 Page 379

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
đường tham gia kháng chiến, gia nhập vào đơn vị 260 của huyện
Trảng Bom.
Các con đi kháng chiến, hoạt động trong căn cứ, vẫn báo
tin về cho mẹ biết. Dù tuổi lớn, mỗi khi cơ sở móc nối, mẹ mua
đồ tiếp tế, đi thăm các con tại căn cứ. Mẹ nhớ các con trai của
mình, khi gặp được rất vui mừng và luôn động viên các con
kiên trung chiến đấu. Trong nhiệm vụ, các con trai của mẹ rất
anh dũng, hoàn thành nhiệm vụ. Cuộc kháng chiến chống kẻ
thù đi vào những năm tháng ác liệt khi quân đội Mỹ và đồng
minh tham chiến trực tiếp trên chiến trường miền Nam. Đêm
20/10/1966, Trung đội phó Nguyễn Văn Thảnh cùng đồng đội
đột kích vào ấp Đất Đỏ ở Long Điền (huyện Long Đất, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu). Trong trận đánh địch, chiến sĩ Nguyễn Văn
Thảnh hy sinh nhưng mấy năm sau mẹ Lê Thị Mua mới biết
tin. Ngày 10/9/1969, chiến sĩ Nguyễn Văn Thơi cùng đồng đội
trong đơn vị vũ trang Trảng Bom hành quân, bị địch phục kích,
hy sinh tại khu vực Vườn Ngô. Một năm sau, ngày 20/9/1970,
Nguyễn Văn Cảnh trong nhiệm vụ đưa thư (quân bưu) bị địch
phục kích ở Bàu Năng - Suối Cả (Long Thành) hy sinh. Hai
năm liên tục, tin về hai người con hy sinh khiến mẹ buồn và hy
vọng vào người con trai còn lại sẽ được bình an. Thế nhưng,
nhiều năm sau, tin tức về sự hy sinh của anh Nguyễn Văn
Thảnh mẹ mới nhận được. Mẹ nuốt nước mắt vào trong lòng
khi nỗi đau lớn, mất đi những người con trai yêu dấu nhưng
trong lòng tự hào vì chúng đã hy sinh cho cách mạng, cho quê
hương. Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất,
379

38.10 Page 380

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
mẹ Lê Thị Mua được nhà nước tặng Huân chương Độc lập. Mẹ
sống với người con út và qua đời năm 1986. Mẹ được nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17/12/1994.
- Bà mẹ VNAH Nguyễn Thị Lẹt (1912-1982)
Mẹ Nguyễn Thị Lẹt sinh năm Nhâm Tý (1912), tại ấp
Giồng Ông Đông, xã Phú Hữu, huyện Long Thành. Vùng Phú
Hữu là cái nôi của phong trào yêu nước, đấu tranh cách mạng
trước năm 1945. Hiện nay, địa bàn này thuộc xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch.
Gia đình mẹ Nguyễn Thị Lẹt làm nghề nông, ít ruộng đất,
sinh sống khổ cực trong hoàn cảnh chung của người nông dân
tại địa phương. Lớn lên, mẹ lập gia đình và có 3 người con trai.
Vợ chồng mẹ lao động quần quật mới nuôi được con cái trong
cảnh khổ nghèo. Thời kỳ quân Pháp xâm lược lần thứ hai, sau
năm 1945, chúng tổ chức nhiều cuộc càn quét, đốt phá làng mẹ
sinh sống để đàn áp phong trào Việt Minh. Gia đình mẹ bồng
bế con cái chạy trốn sự ruồng bố của kẻ thù. Chồng mẹ bệnh và
mất, mẹ còn trẻ phải nuôi ba người con khá vất vả.
Sau Hiệp định Genève, năm 1954, phong trào cách mạng
huyện Long Thành khá mạnh. Một số binh lính của lực lượng
Bình Xuyên tại địa phương được tuyên truyền, giác ngộ cách
mạng; trong đó có Châu Văn Phú. Năm 1956, dưới sự chỉ huy
của Phú, cách mạng bứt rút đồn địch và đưa binh sĩ tại đây về
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
căn cứ, hoạt động dưới sự chỉ lãnh đạo của huyện Long Thành.
Trong đợt tham gia lực lượng cách mạng về căn cứ có con trai
của mẹ Nguyễn Thị Lẹt là Dương Văn Hai (Mai). Anh Dương
Văn Hai tham gia làm nhiệm vụ cách mạng trên địa bàn khá
rộng từ Bà Rịa đến Chiến khu Đ. Sau năm 1960, anh được rút
về công tác ở Huyện đội Long Thành. Tháng 11/1961, con trai
thứ nhì của mẹ là Dương Văn Sâm đến tuổi quân dịch. Theo
chân người anh mình, không chấp nhận sung vào quân dịch,
anh gia nhập đội du kích xã Phú Hữu. Đầu năm 1963, mới
17 tuổi, anh Dương Văn Nghĩa khi bước vào tuổi 17, thoát ly
kháng chiến, ban đầu vào đội du kích, sau được chuyển lên
công tác ở Ban Kinh tài tỉnh Biên Hòa. Mẹ sống trong cảnh
nghèo nhưng luôn nhớ và động viên con cái cố gắng theo cách
mạng đến cùng. Những lần có cơ hội gặp các con, mẹ đều vui
và mua sắm đồ đạc để tiếp tế.
Ngày 15/6/1966, Trung đội trưởng Dương Văn Hai (tức
Mai) dẫn một nhóm chiến sĩ bộ đội địa phương Long Thành đi
tải gạo cho đơn vị. Các anh lọt ổ phục kích của địch, anh Hai
hy sinh được các đồng chí an táng tại xã Phước Thọ (nay là xã
Long Thọ). Năm tháng sau, vào một đêm tháng 11/1966, Tiểu
đội trưởng du kích xã Dương Văn Sâm và một số cán bộ huyện,
xã phối hợp đột vào ấp Phước Lương vận động, tổ chức cơ sở
cùng nhân dân phá ấp chiến lược. Trong trận đánh, địch chống
trả quyết liệt, anh Sâm hy sinh, được bà con chôn cất chu đáo.
Hai người con của mẹ hy sinh nhưng mẹ Nguyễn Thị Lẹt không
nhận được tin bởi anh em sợ mẹ buồn mà thêm bệnh. Sau này,
381

39.2 Page 382

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
khi biết tin, mẹ đau buồn nhưng nén lại và chịu đựng. Mẹ mong
cho đất nước nhanh hết chiến tranh, kẻ thù không còn. Mẹ còn
con trai Dương Văn Nghĩa đang theo cách mạng nữa, mong
con trai trả thù cho anh mình, chiến đấu ngoan cường, làm tốt
nhiệm vụ.
Sau cuộc Tổng công kích và nổi dậy xuân Mậu Thân,
địch tiến hành liên tiếp các chiến dịch bình định để đẩy các lực
lượng cách mạng ra xa các đô thị, thị trấn và các trục đường
giao thông quan trọng trên địa bàn Long Thành. Chính quyền
Sài Gòn tăng cường đánh phá, cường độ cuộc chiến giữa cách
mạng và địch vô cùng ác liệt. Ngày 05/3/1969, anh Dương Văn
Nghĩa, cán bộ được cử thư hỏa tốc từ Ban Kinh tài của tỉnh đến
trạm giao liên. Trục đường này địch cài cắm và phục kích trên
các trục lộ giao thông kiểm soát gắt gao. Anh Dương Văn Nghĩa
vượt lộ 15 (quốc lộ 51 hiện nay), bị giặc phát hiện. Anh hy sinh
trên địa bàn xã Long Phước, huyện Long Thành. Mẹ Nguyễn
Thị Lẹt cứ ngóng trông con và nhận được tin anh Nghĩa hy sinh
sau ngày đất nước thống nhất. Mẹ Nguyễn Thị Lẹt qua đời năm
1982. Mẹ được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định
số 394/KTCTN ngày 17/12/1994.
- Bà mẹ VNAH Lê Thị Dần (1912 - 2003)
Mẹ Lê Thị Dần sinh năm 1912, nguyên quán ở xã Phú
Hưng, huyện Châu Thành (Bến Tre). Chồng mẹ là ông Nguyễn
Văn Sành - người cùng quê. Gia đình mẹ có hai người con trai:
382

39.3 Page 383

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Nguyễn Văn Hai, (sinh năm 1930), Nguyễn Văn Mảnh (sinh
năm 1932).
Vùng đất Châu Thành của Bến Tre là cái nôi của phong
trào đấu tranh cách mạng. Trong những ngày Đồng Khởi, mẹ
Lê Thị Dần tham gia trong đội quân tóc dài đấu tranh với kẻ
thù. Hai con của mẹ giác ngộ cách mạng theo gương của mẹ.
Anh Nguyễn Văn Mảnh tham gia bộ đội năm 1962 trong lực
lượng đặc công của Huyện đội Châu Thành. Tháng 11/1968,
trong một đợt chống Mỹ càn, anh Mảnh hy sinh. Vợ anh - chị
Quởn làm giao liên cho cách mạng cùng ba người con của mình
cùng ngã xuống bởi những loạt bom ác nghiệt của kẻ thù. Hai
trong năm người con của anh Mảnh bơ vơ, mồ côi, sống với
bà nội. Mẹ Dần gần như không gượng dậy được trước những
mất mát này. Những người thân lần lượt ra đi - chồng và con
trai, con dâu ngã xuống ngay trên mảnh đất quê nhà. Trên bước
đường mưu sinh, mẹ đã dừng lại ở Giồng Ông Đông (huyện
Nhơn Trạch). Tại đây, anh Nguyễn Văn Hai tiếp nối cha anh,
tham gia vào lực lượng cách mạng xã Phú Hữu, làm tổ trưởng
Nông hội. Trong đợt công tác tuyên truyền, lạc quyên để phát
triển du kích địa phương, anh bị địch phục kích bắn chết tại sân
đình vào ngày 10/12/1971.
Năm 1975, đất nước thống nhất, hòa bình, mẹ Dần vui
mừng khôn xiết. Nhìn hai đứa cháu nội, ngày nào còn bé bỏng
nay đã lớn khôn, lòng mẹ vui nhưng trong tâm hồn mẹ luôn nhớ
về hai con trai của mình. Nhà nước phong tặng mẹ danh hiệu
383

39.4 Page 384

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17/12/1994. Mẹ và gia đình cũng được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2000. Mẹ qua đời
ngày 15/8/2003.
- Bà mẹ VNAH Trần Thị Nga (1919-2011)
Mẹ Trần Thị Nga sinh năm 1919, tại ấp Vọng Đông, xã
Phú Hữu, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai). Gia đình mẹ làm nông trên
vùng đất giồng của vùng sông rạch Nhơn Trạch. Năm 20 tuổi,
mẹ Trần Thị Nga lập gia đình và sinh được chín người con.
Cách mạng tháng Tám 1945 trên quê hương Nhơn Trạch,
chồng mẹ tham gia Thanh niên Tiền phong với những nhiệm
vụ được giao ở địa bàn xã, ấp. Đầu năm 1946, quân Pháp trở lại
đóng quân kho bom đạn Thành Tuy Hạ, Phú Hữu, Đại Phước...
và tổ chức nhiều cuộc càn quét đánh phá phong trào cách mạng.
Giồng Ông Đông là địa bàn quân Pháp càn quét khá nhiều để
bảo vệ từ xa khu căn cứ Thành Tuy Hạ. Mỗi cuộc càn là quân
Pháp bắn vô tội vạ, đốt nhà, cướp bóc của cải. Nhà mẹ Trần Thị
Nga bị chúng đốt. Gia đình mẹ bám trụ trên vùng đất giồng sinh
sống. Lòng yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm của mẹ trào
dâng khi quê nhà bị tàn phá bởi chiến tranh.
Sau năm 1955, thời kỳ chế độ Việt Nam Cộng hòa đánh
phá phong trào cách mạng, mẹ Trần Thị Nga tham gia làm cơ
sở cách mạng. Mẹ nuôi giấu khi cán bộ về hoạt động, mua đồ
tiếp tế cho căn cứ và thu lượm tin tức từ địa phương báo cho cán
384

39.5 Page 385

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
bộ, đảng viên. Không cam tâm để con bị bắt quân dịch của chế
độ Sài Gòn, mẹ Trần Thị Nga hướng con thoát ly kháng chiến.
Tháng 4/1962, anh Nguyễn Văn Lộc (Ba Lộc) gia nhập bộ đội
địa phương huyện Long Thành. Tháng 2/1963, anh Nguyễn
Văn Liêm (Năm Liêm) vừa 17 tuổi, thoát “vòng rào kẽm gai ấp
chiến lược” theo người anh gia nhập đơn vị lực lượng bộ đội
C240 Biên Hòa. Do để con tham gia cách mạng, chồng mẹ Trần
Thị Nga bị lính bắt về đồn Thành Tuy Hạ giam giữ vì tội “có
con theo Việt Cộng” tra khảo nhiều lần. Chính quyền địch tình
nghi nhà mẹ là cơ sở cách mạng nên bắt chồng mẹ và người
con nhỏ Nguyễn Văn Hiếu lên tra tấn bằng cách dộng đầu vào
lu nước để khai ra số cán bộ bám trụ nằm vùng cũng như tin
tức về người con trai trong gia đình. Cha và con nén đau chịu
đựng, không khai báo một tin tức gì. Đơn vị C240 tác chiến chủ
yếu trên địa bàn Long Thành, Nhơn Trạch. Mẹ Trần Thị Nga
có được vài lần thăm hai người con tại căn cứ Sở Dừa (Phước
Khánh). Ngày 15/10/1965, địch càn phá cánh đồng của người
dân ở Phú Hữu, đơn vị C240 tổ chức đánh địch để bảo vệ tài
sản của bà con. Trong trận đánh này, anh Nguyễn Văn Liêm hy
sinh tại rạch Ông Mai. Khi nhận tin, mẹ âm thầm chịu đựng,
bởi nếu bộc lộ ra kẻ thù sẽ làm khó và chúng luôn tìm cách nắm
bắt tin tức về cách mạng trên địa bàn. Đau buồn về con hy sinh,
mẹ càng quyết tâm làm nhiệm vụ cho cách mạng. Khi cán bộ,
bộ đội về bám trụ, điều nghiên kho bom đạn Thành Tuy Hạ,
cảng Cát Lái... mẹ tham gia nuôi giấu an toàn, thu thập tin tức
cung cấp.
385

39.6 Page 386

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Anh Nguyễn Văn Lộc là Tiểu đội trưởng quân báo Huyện
đội Long Thành. Ngày 15/4/1967, địch tổ chức cuộc càn quy
mô lớn vào xã Phước Thọ, huyện Nhơn Trạch. Lực lượng quân
báo lúc này ít, anh Nguyễn Văn Lộc và đồng đội chiến đấu
chống trả quyết liệt địch càn và hy sinh anh dũng. Mãi về sau
mẹ Trần Thị Nga mới biết được tin anh Nguyễn Văn Lộc hy
sinh. Tháng 6/1968, anh Nguyễn Văn Hiếu đến tuổi địch gọi đi
quân dịch. Tiếp bước hai anh, anh Nguyễn Văn Hiếu tham gia
du kích xã Phú Hữu. Gan dạ từ nhỏ, anh trưởng thành trong môi
trường chiến đấu. Cùng với đội du kích xã Phú Hữu, Nguyễn
Văn Hiếu tích cực giúp đỡ bộ đội Đoàn 10 đặc công Rừng Sác
trong những lần tổ chức đánh kho vũ khí Thành Tuy Hạ, kho
xăng Nhà Bè... Anh Nguyễn Văn Hiếu được kết nạp Đảng, làm
Xã đội trưởng xã Phú Hữu. Tháng 5/1973, trong lần vượt sông
Ông Kèo chiến đấu, anh lọt ổ phục kích địch và hy sinh. Du
kích xã Phú Hữu sợ mẹ Trần Thị Nga buồn nên giấu mẹ một
thời gian. Cả ba người con của mẹ hy sinh trên mảnh đất quê
hương. Mẹ nén nỗi đau, tiếp tục sống và hoạt động cách mạng.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, mẹ Trần Thị
Nga được tặng thưởng Huân chương Độc lập. Năm 1994, mẹ
được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KT-CTN ngày 17/12/1994. Mẹ Trần Thị Nga qua đời ngày
11/7/2011.
386

39.7 Page 387

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Bà mẹ VNAH Hồ Thị Biên (1919 - 1946)
Mẹ Hồ Thị Biên sinh năm 1919 tại huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Bà cư trú tại ấp Bến Ngự, xã Phú Đông, huyện
Nhơn Trạch và qua đời vào ngày 12/10/1946. Mẹ có một người
con trai là Võ Văn Hảo sinh năm 1944. Thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, anh tham gia cách mạng. Anh Võ Văn Hảo hy sinh
trong trận đánh với kẻ thù vào tháng 8/1966. Hiện tại ông Hồ
Văn Xem, cháu gọi mẹ bằng cô ruột đang thờ phụng mẹ. Ghi
nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy tặng
mẹ Hồ Thị Biên danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 1306/KT-CTN, ngày 23/7/1997 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Bà mẹ VNAH Nguyễn Thị Biết (1910 - 1969)
Mẹ Nguyễn Thị Biết sinh năm 1910 tại huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Sinh thời, mẹ cư trú tại xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất ngày 11/12/1969.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ đã trực tiếp tham gia
tiếp tế lương thực nuôi quân, làm cầu nối liên lạc giữa các cơ sở
cách mạng. Mẹ có người con trai duy nhất là anh Nguyễn Văn
Thanh, sinh năm 1932. Anh tham gia vào lực lượng vũ trang
cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ. Anh hy sinh trong trận
đánh vào ngày 09/5/1967. Cháu nội của mẹ là ông Thái Ngọc
Thạch hiện đang thờ phụng mẹ tại xã Phú Đông, huyện Nhơn
387

39.8 Page 388

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Trạch. Ngày 23/7/1997, mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 1306/KT-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Bà mẹ VNAH Trần Thị Của (1916 - 1950)
Mẹ Trần Thị Của sinh năm 1916 tại xã Phú Hữu, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ lập gia đình với ông Đặng Văn
Điểu, người cùng làng và có con trai duy nhất là Đặng Văn
Hỉnh sinh năm 1941. Mẹ mất ngày 24/01/1950.
Anh Đặng Văn Hỉnh tham gia kháng chiến chống Mỹ,
làm nhiệm vụ y tá. Ngày 22/8/1964, anh hy sinh trong đợt
tấn công và ném bom của địch vào căn cứ, khu vực hầm của
Quân y.
Hiện tại, ông Trần Kim Thanh (cháu họ) thờ phụng mẹ tại
xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch. Mẹ được Nhà nước truy tặng
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định
số 154/KT-CTN, ngày 20/4/2000 của Chủ tịch nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Bà mẹ VNAH Lê Thị Có (1924 - 1945)
Mẹ Lê Thị Có sinh năm 1924 tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ cư trú tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai và mất ngày 15/5/1945. Người con trai của mẹ là Cao
Văn Ảnh, sinh năm 1942. Anh tham gia kháng chiến chống Mỹ
và hy sinh trong tận Tổng tấn công nổi dậy vào xuân Mậu Thân
(ngày 01/2/1968). Bà Nguyễn Thị Hảo đang thờ phụng mẹ tại
388

39.9 Page 389

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch. Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có Quyết định số 280/2002/QĐ-CTN
ngày 23/5/2002 truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng.
- Bà mẹ VNAH Nguyễn Thị Lài (1923 - 2004)
Mẹ Nguyễn Thị Lài sinh năm 1923, sinh sống tại ấp Giồng
Ông Đông, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ có 2 con là liệt sĩ, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Đó là liệt sĩ Lê Văn Ơn, sinh năm 1945, hy sinh
tháng 6/1964 và liệt sĩ Lê Văn Bền, sinh năm 1949, hy sinh
ngày 19/9/1973.
Mẹ mất ngày 07/3/2004. Con gái ruột của mẹ là bà Lê Thị
Lùng, hiện đang thờ phụng mẹ. Năm 2014 mẹ được truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTN, ngày 26/9/2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Bà mẹ VNAH Nguyễn Thị Bài (1918 - 2012)
Mẹ Nguyễn Thị Bài sinh năm 1918 tại huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mẹ đã
tiếp tế nuôi quân, cung cấp thuốc men, thực phẩm cho cán bộ
cách mạng. Mẹ có 2 con hy sinh trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước: Anh Trần Văn Dũng, sinh năm 1941, hy sinh
ngày 01/10/1966; anh Trần Văn Ê, sinh năm 1945, hy sinh ngày
20/8/1968.
389

39.10 Page 390

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Mẹ mất ngày 26/4/2012. Con trai ruột của mẹ ông Trần
Đại Ca hiện đang thờ phụng mẹ tại quê nhà ở ấp Bến Ngự, xã
Phú Đông, huyện Nhơn Trạch. Nhà nước đã truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
2393/QĐ-CTN, ngày 26/9/2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Bà mẹ VNAH Phạm Thị Tiết (1915 - 2004)
Mẹ Phạm Thị Tiết sinh năm 1915, ở huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ có hai con hy sinh trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ:
- Liệt sĩ Đặng Văn Hơn, sinh năm 1940, hy sinh ngày
01/4/1967.
- Liệt sĩ Đặng Văn Tròi, sinh năm 1941, hy sinh ngày
05/5/1970.
Mẹ mất ngày 08/3/2004 tại ấp Giồng Ông Đông, xã Phú
Đông, huyện Nhơn Trạch. Hiện nay, cháu nội của mẹ là ông
Đặng Hoàng Vũ đang thờ phụng mẹ.
Năm 2014, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26/9/2014 truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Phạm Thị
Tiết.
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Bà mẹ VNAH Dương Thị Hoa (1923 - 2015)
Mẹ Dương Thị Hoa sinh năm 1923 tại tỉnh Đồng Nai.
Sinh thời, mẹ cư trú tại ấp Giồng Ông Đông, xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ có hai người con là liệt
sỹ, hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ: Nguyễn Văn Chiến,
sinh năm 1945, hy sinh ngày 01/9/1969, Nguyễn Văn Trân,
sinh năm 1947, hy sinh ngày 01/8/1969.
Trong kháng chiến, mẹ là cơ sở cách mạng, tham gia tiếp
tế lương thực, liên lạc. Mẹ mất vào ngày 25/02/2015. Con trai
ruột của mẹ, ông Nguyễn Văn Lên, hiện đang thờ phụng mẹ.
Ngày 26/9/2014, mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Bà mẹ VNAH Lê Thị Đẹt (1918 - 2016)
Mẹ Lê Thị Đẹt sinh năm 1918, cư trú tại ấp Giồng Ông
Đông, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ tham gia tiếp tế, liên lạc
cho cách mạng. Hai người con trai của mẹ Nguyễn Văn Trung,
Nguyễn Văn Quân tòng quân nhập ngũ, tham gia lực lượng vũ
trang cách mạng chiến đấu chống Mỹ.
Anh Nguyễn Văn Quân, sinh năm 1952, hy sinh ngày
15/9/1969. Anh Nguyễn Văn Trung, sinh năm 1944, hy sinh
ngày 15/10/1970. Mẹ mất ngày 03/12/2016. Ông Nguyễn Văn
Út - con trai thờ phụng mẹ tại quê nhà.
391

40.2 Page 392

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
26/9/2014.
- Bà mẹ VNAH Thái Thị Ba (1926 - 2017)
Mẹ Thái Thị Ba sinh năm 1926, nguyên quán tại ấp Bến
Ngự, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ có
chồng là ông Đoàn Văn Sỹ (sinh năm 1923).
Ông Đoàn Văn Sỹ tham gia kháng chiến chống Mỹ.
Người con trai là Đoàn Văn Thắng (tự Nghĩa) sinh năm 1947.
Nối bước người cha, anh Đoàn Văn Thắng lên đường nhập ngũ,
gia nhập bộ đội. Ở nhà vừa tần tảo nuôi con, mẹ tham gia những
công việc tiếp tế lương thực, thuốc men và liên lạc cho cách
mạng. Con trai mẹ, anh Đoàn Văn Thắng (tự Nghĩa) hy sinh
trong trận đánh xuân Mậu Thân khi cách mạng tổ chức Tổng
tấn công và nổi dậy (tháng 01/1968). Chồng mẹ là Đoàn Văn
Sỹ hy sinh ngày 11/02/1974.
Mẹ qua đời vào ngày 05/12/2017. Hiện con dâu của mẹ là
bà Lê Thị Đương đang thờ phụng mẹ tại quê nhà. Mẹ Thái Thị
Ba được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 2392/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa ngày 26/9/2014.
392

40.3 Page 393

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Bà mẹ VNAH Nguyễn Thị Trừ (1932 - 2006)
Mẹ Nguyễn Thị Trừ sinh năm 1932 tại huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Cả một đời mẹ Nguyễn Thị Trừ cần cù lao động
nuôi chồng và hai con tham gia chống Mỹ cứu nước trên vùng
đất Nhơn Trạch - Long Thành.
Hai con trai của mẹ hy sinh trong thời điểm chiến trường
Nhơn Trạch đầy ác liệt:
- Anh Đào Văn Dũng, sinh năm 1951, hy sinh ngày
06/5/1969.
- Anh Đào Văn Quyết, sinh năm 1953, hy sinh ngày
19/5/1971.
Mẹ mất ngày 01/9/2006. Cháu nội của mẹ, ông Đào Châu
Hoa, hiện đang thờ phụng mẹ tại xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch. Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26/9/2014 truy tặng
mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận
những cống hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Bà mẹ VNAH Trần Thị Liên (1895 - 1974)
Mẹ Trần Thị Liên sinh năm 1895 tại tỉnh Long An. Mẹ cư
trú tại xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ có hai con tham gia cách mạng trong hai thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, Mỹ xâm lược. Anh Nguyễn Văn Bé,
393

40.4 Page 394

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
sinh năm 1919, hy sinh vào ngày 09/9/1948 trong kháng chiến
chống thực dân Pháp. Anh Nguyễn Văn Sơn, sinh năm 1936, hy
sinh ngày 17/7/1963 trong kháng chiến chống Mỹ.
Mẹ qua đời ngày 02/3/1974. Hiện tại, bà Nguyễn Thị Tám
đang thờ phụng mẹ. Năm 2015, mẹ được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN,
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
01/12/2015.
- Bà mẹ VNAH Phạm Thị Lý (1882 - 1956)
Mẹ Phạm Thị Lý sinh năm 1882 tại xã Phú Đông, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trong suốt 9 năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, mẹ không chỉ góp công, góp sức cho
phong trào cách mạng mà còn động viên chồng và các con trực
tiếp chiến đấu bảo vệ quê hương. Mẹ có 8 người con (4 trai, 4
gái) thì cả 4 người con trai đều tham gia kháng chiến gồm: Trần
Văn Hiệp, Trần Văn Thiên, Trần Văn Thê và Trần Văn Sẳn.
Hai người con của mẹ hy sinh: Anh Trần Văn Thê, sinh
năm 1930, hy sinh năm 1954 trong kháng chiến chống Pháp,
anh Trần Văn Sẳn, sinh năm 1935, hy sinh năm 1963 trong
kháng chiến chống Mỹ. Anh Trần Văn Sẳn bị địch bắt trên
đường đi công tác, bị địch chuyển giam tại nhiều nhà tù, tra tấn
dã man nhưng vẫn giữ vững khí tiết cách mạng. Anh hy sinh
trong trại giam Thủ Đức.
394

40.5 Page 395

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
Ngày 10/5/1956, mẹ qua đời tại ấp Giồng Ông Đông. Cháu
nội mẹ là ông Trần Văn Xê thờ phụng mẹ. Năm 2016, Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ngày 16/5/2016.
- Bà mẹ VNAH Bùi Thị Hai (1900 - 1950)
Mẹ Bùi Thị Hai sinh năm 1900 tại huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Lúc còn sống, mẹ cư trú tại ấp Bến Ngự, xã Phú
Đông, huyện Nhơn Trạch. Mẹ Bùi Thị Hai có hai người con trai
là liệt sỹ: Anh Nguyễn Văn Tư, sinh năm 1943, là đội viên du
kích, hy sinh ngày 20/5/1963. Anh Nguyễn Văn Phải, sinh năm
1947, hy sinh ngày 16/6/1972. Mẹ mất ngày 16/7/1950. Con
trai của mẹ là ông Nguyễn Văn Vân thờ phụng mẹ. Năm 2016,
mẹ Bùi Thị Hai được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 945/QĐ-CTN ngày 16/5/2016.
395

40.6 Page 396

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
DANH SÁCH LIỆT SĨ XÃ PHÚ ĐÔNG
TT
Họ và tên
1 Hồ Văn Bảnh
2 Bùi Văn Đấu
3 Võ Văn Hảo
4 Đặng Văn Hồng
5 Nguyễn Văn Trận
6 Nguyễn Văn Chiến
7 Phạm Văn Phước
8 Đặng Văn Tôn
9 Huỳnh Thị Bé
10 Nguyễn Văn Tôn
11 Nguyễn Hoàng Ân
396
Năm
sinh
Hy sinh
Bằng TQGC
1941
14/12/70
Cm.209k 49/
TTg, 22/1/1977
1943
29/10/68
Cm.216k 78/
TTg 01/3/1977
1944
08/01/66
Om.755c 49/
TTg, 22/1/1977
1949 01/01/70
Cm.228k 78/
TTg, 1/3/1977
1947 08/01/69
Cm.260k78/
TTg, 1/3/1977
1945 09/01/69
OM.804c78/
TTg,1/3/77
1941 12/01/67
UI.074b108/
TTg, 1/3/1977
1946 13/4/70
UI.059b108/
TTg, 1/3/1977
1949 27/11/70
7S.484b 112/
TTg,2/2/79
1940 20/4/74
UI.058b 108/
TTg, 1/3/1977
1942 15/8/68
UI.003b108/
TTg, 1/3/1977

40.7 Page 397

▲back to top


12 Đặng Văn Tròi
13 Trần Văn Dũng
14 Nguyễn Văn Nhân
15 Hồ Minh Dũng
16 Hồ Văn Minh
17 Nguyễn Văn Trung
18 Trần Quyết Thắng
19 Lý Văn Măng
20 Nguyễn Thị Bé
21 Đổ Văn Đực
22 Dương Thanh Tuấn
23 Nguyễn Ngọc Sáu
24 Dương Văn Sâm
Đảng bộ xã Phú Đông
1941 05/5/70
UI.065b108/
TTg, 1/3/1977
1941
10/01/66
Om.750c 49/
TTg, 22/1/1977
1949 6/01/68
Cm.264k 78/
TTg, 1/3/1977
1950
05/8/74
Om.752c 49/
TTg, 22/1/1977
1951
06/01/68
Cm.240k 49/
TTg, 22/1/1977
1945 15/10/70
UI.066b 108/
TTg, 1/3/1977
1945 25/12/63
UI.078b 108/
TTg, 1/3/1977
1951 06/1/68
Cm.239k 78/
TTg, 1/3/1977
1952 15/4/69
UI.010b 108/
TTg, 1/3/1977
1949 09/01/69
Cm.221k 78/
TTg, 1/3/1977
1945 08/01/67
Cm.254k 78/
TTg, 1/3/1977
1950 06/01/68
Cm.246k 78/
TTg, 1/3/1977
1943 11/01/66
Cm.245k 78/
TTg, 1/3/1977
397

40.8 Page 398

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
25 Dương Văn Hai
26 Nguyễn Văn Hiếu
27 Nguyễn Văn Lộc
28 Nguyễn Văn Mai
29 Nguyễn Hửu Tý
30 Đặng Văn Xiệt
31 Nguyễn Văn Hiệp
32 Đặng Văn Quan
33 Đoàn Danh Dự
34 Lê Văn So
35 Đào Văn Dũng
36 Nguyễn Văn Ba
37 Võ Văn Minh
1935
15/6/66
Om.767c 49/
TTg, 22/1/1977
1945 05/01/73
Cm.226k 78/
TTg, 1/3/1977
1940
15/4/67
UI.038b 108/
TTg, 01/3/1977
1947 09/01/69
Đm.330k420/
TTg,4/5/1978
1939 07/01/68
Đm.329k420/
TTg. 4/5/1978
1947 03/12/70
Đm.350k420/
TTg, 4/5/1978
1950 20/6/68
Đm.327k420/
TTg, 4/5/1978
1936 08/01/62
Ym.156c787/
TTg, 1/8/1977
1936 30/3/63
1M.357b787/
TTg, 1/8/1977
1933
01/7/49
QC.944b1213/
TTg, 14/10/1977
1951
06/5/69
2I.425b 1213/
TTg, 14/10/1977
1940
01/4/68
2H.444b1140/
TTg, 7/10/1977
1950
15/3/72
2H.456b1140/
TTg, 7/10/1977
398

40.9 Page 399

▲back to top


38 Trần Văn Tài
39 Lý Văn Thao
40 Trần Văn Long
41 Nguyễn Văn Đỗ
42 Nguyễn Văn Thắng
43 Phan Văn Mạo
44 Đặng Văn Thua
45 Nguyễn Văn Đen
46 Võ Văn Đức
47 Nguyễn Văn Bé
48 Đặng Văn Hơn
49 Dương Văn Ba
50 Nguyễn Văn Quân
Đảng bộ xã Phú Đông
1945
02/02/67
2H.459b1140/
TTg, 7/10/1977
1949
04/12/69
2H.423b1140/
TTg, 7/10/1977
1939
15/6/68
2H.421b1140/
TTg, 7/10/1977
1949
01/7/72
2H.508b1140/
TTg, 7/10/1977
1938
27/02/68
2H.466b1140/
TTg, 7/10/1977
1937
31/3/71
2H.451b1140/
TTg, 7/10/1977
1952 04/3/72
2T.295b1390/
TTg, 2/1/1977
1939
12/4/71
1Y.239c1718/
TTg, 14/12/1977
1942
20/02/69
4R.499b176/
TTg, 27/2/1978
1949 01/12/70 2K.243k130/
1940
1931
1952
01/4/67
07/7/51
15/9/69
2D.481c175/
TTg, 27/2/1978
1BC.007b175/
TTg, 27/2/1978
2K.187k130/
TTg, 20/2/1978
399

40.10 Page 400

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
51 Lê Văn Bền
52 Nguyễn Văn Thanh
53 Nguyễn Văn Liêm
54 Bùi Văn Thanh
55 Nguyễn Văn Thơi
56 Lê Văn Rọt
57 Nguyễn Văn Thảnh
58 Nguyễn Văn Chơi
59 Phạm Văn Nhỏ
60 Nguyễn Văn Tiến
61 Trần Văn Quân
62 Huỳnh Thị Hoa
63 Đào Văn Huyết
1949
19/9/73
2L.114c255/
TTg,20/3/1978
1932
09/5/67
4V.642b254/
TTg,20/3/1978
1943
15/10/65
4V.687b254/
TTg,20/3/1978
1946
23/3/68
2G.758k243/
TTg,17/3/1978
1942
10/9/69
5P.606b562/
TTg,27/5/1978
1943
25/01/68
5P.598b562/
TTg,27/5/1978
1938
20/10/66
5P.610b562/
TTg,27/5/1978
1935
01/8/52
1ĐC.267b421/
TTg,4/5/1978
1918 08/6/58
5H.605b420/
TTg,4/5/1978
1950 20/10/69
2V.871k730/
TTg, 7/7/1978
1937 26/3/66
2V.870k730/
TTg, 7/7/1978
1950
01/10/72
6Q.912b1095/
TTg, 27/9/1978
1953
19/05/71
6Q.901b1095/
TTg, 27/9/1978
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


64 Huỳnh Văn Ất
65 Lê Ngọc Thơm
66 Nguyễn Thị Qượt
67 Nguyễn Văn Mão
68 Bao Văn Cạo
69 Đặng Văn Hỉnh
70 Lê Văn Tư
71 Võ Quang Minh
72 Trần Văn Ê
73 Nguyễn Văn Mãnh
74 Trương Văn Thơ
75 Nguyễn Văn Thái
76 Nguyễn Văn Ai
Đảng bộ xã Phú Đông
1922 01/11/49
OC.991b765/
TTg, 7/7/1978
1915
18/8/47
PC.627k1256/
TTg, 3/11/1978
1949
09/01/66
3M.689c1255/
TTg, 3/11/1978
1944
20/3/72
7M.738b22/TTg
3/1/1979
1942
08/04/63
8K.335b401/
TTg, 01/06/1979
1941
22/8/64
8K.325b401/
TTg, 01/6/1979
1933 15/5/67
8K.354b401/
TTg, 1/6/1979
1924 10/10/52
QC.683k401/
TTg, 1/6/1979
1945
20/8/68
4G.597c893/
TTg,19/12/1980
1932
05/11/68
9V.575b621/
TTg,24/9/1980
1948 15/3/68
3Z.171k280/
TTg, 6/7/1981
1917 09/10/70
4N.364c280/
TTg, 6/7/1981
1933 10/01/49
SC.380k280/
TTg, 6/7/1981
401

41.2 Page 402

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
77 Nguyễn Văn Thông
1921
28/10/51
2CC.983b90/
CTKT,12/4/1982
78 Phạm Văn Xong
1965
30/8/84
Am.233bt88/
CTKT, 13/3/85
79
Đặng Vũ Phước Thiện
1953
14/9/84
CQ.969bt73/
CTKT,19/3/1991
80 Lê Văn Kim
1942
28/10/73
CL.875km74/
CTKT,19/3/1991
81 Nguyễn Văn Chơi
1930
10/51
CL.803bp74/
CTKT,19/3/1991
82 Trần Văn Ê
1937
01/01/62
DC.333km50/
CTKT,18/4/1992
83 Cao Văn Ảnh
1942
01/02/68
DK.137bm450/
TTg,4/9/1993
84 Nguyễn Văn Chệt
1921
23/8/68
DM.471cm142/
TTg, 2/4/1994
85 Phạm Văn Tiếp
1964
28/02/83
Đm.353ct669/
TTg,22/8/1997
86 Nguyễn Văn Tư
1943
20/05/63
EI.010km1198/
TTg, 29/11/2000
87 Nguyễn Văn Đạn
1924
02/1950
EO.001bp756/
TTg,19/6/2001
88 Nguyễn Văn Đeo
1938
03/8/68
GI.024kmp1270/
TTg,18/11/2003
89 Huỳnh Văn Giữ
1940
03/8/68
GI.021km1270/
TTg, 18/11/2003
402

41.3 Page 403

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
90 Huỳnh Hữu Vọng
91 Nguyễn Văn Khả
92 Nguyễn Văn Hy
93 Lê Thành Lý
94 Võ Văn Thành
95 Nguyễn Văn Minh
96 Trần Văn Sách
97 Nguyễn Văn Dương
98 Đoàn Văn Kỉnh
99 Nguyễn Văn Tới
100 Nguyễn Văn Quang
101 Nguyễn Văn Mừng
102 Lâm Văn Tư
1919 17/11/47 BO 839cp
23/8/68
OM.01kQĐ731/
TTg,13/7/1977
25/4/63
3Y 090c339/
TTg,16/5/1
1934
25/5/63
1L.554c1213/
TTg,14/10/1977
1946
08/12/67
2H.429b1140/
TTg,7/10/1977
1950
16/01/70
2H.479b1140/
TTg,7/10/1977
1940 13/9/69
2T.293b1390/
TTg, 2/1/1977
1913
12/9/47
LC.611c175/
TTg, 27/2/1978
1923
11/2/74
4Y.455b316/
TTg,29/3/1978
1933
01/10/50
1EC.764b562/
TTg,27/5/1978
1939 8/02/68
5H.621b420/
TTg, 4/5/1978
1943
22/11/68
6Q.879b1095/
TTg, 27/9/1978
1918 13/11/51
2BC.522b241/
TTg,7/4/1980
403

41.4 Page 404

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
103 Võ Văn Học
104 Lương Văn Ba
105 Huỳnh Văn Năm
106 Đặng Văn Hồng
107 Dương Văn Ngưu
108 Lê Văn Năm
109 Tống Văn Quan
110 Đoàn Văn Thắng
1920
23/6/50
EO.020cp756/
TTg,19/6/2001
1907
12/5/68
GE.024cm1077/
TTg,29/9/2003
1947
03/8/68
GI.022km1270/
TTg,18/11/2003
1932
01/12/65
HE.032cm1471/
TTg,8/11/2006
1938
16/06/68
2H425b,1140/
TTg,7/10/1977
1924
25/02/49
LC 591c175/TTg
27/2/1978
1943
03/8/68
GI.021km1270/
TTg,18/11/2003
1947
111 Trần Văn Hội
1940
404

41.5 Page 405

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
DANH SÁCH THAM GIA
CÁC THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN XÃ PHÚ ĐÔNG
Stt
Họ và tên
1 Nguyễn Hữu Nghĩa
2 Ly Văn Năm
3 Đỗ Văn Phụng
4 Hùynh Văn Yên
5 Lê Ngọc Lộ
6 Hùynh Văn Nam
7 Châu Thị Lòng
8 Trần Quốc Thảo
9 Trương Văn Tới
10 Trương Thị Kiếm
11 Phan Văn Thành
12 Hồ Thị Hạnh
13 Trần Văn Giác
14 Hồ Văn Lên
15 Trần Minh Thành
17 Hùynh Thị Năm
18 Bùi Thị Ngọc Sương
19 Phạm Thị Nhung
20 Nguyễn Văn Bá
21 Lê Văn Vị
Năm
sinh
1942
1921
1921
1925
1924
1937
1942
1950
1951
1941
1930
1952
1927
1960
1927
1935
1957
1930
1937
1927
Số sổ
Ghi chú
KC -1L 3205
HS -164
HS -165
HS -166
HS -167
HS -168
HS -169
HS -170
HS -171
HS - 172
HS 173
HS -174
HS -175
HS -176
HS -177
HS -178
HS -179
HS -180
HS -2067
HS -1637
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
405

41.6 Page 406

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
22 Dương Văn Quang
23 Phạm Thị Hai
24 Phạm Thị Thạnh
25 Thái Thị Mận
26 Trần Thị Vinh
27 Võ Văn Nhà
28 Bùi Văn Xã
29 Nguyễn Văn Nghiu
30 Nguyễn Văn Đầy
31 Bùi Văn Bò
32 Nguyễn Thị Lài
33 Huỳnh Thị Huê
34 Nguyễn Văn Quý
35 Nguyễn Văn Hương
36 Lê Thị Lếnh
37 Nguyễn Văn Út
38 Hồ Văn Xem
39 Dương Thị Nương
40 Nguyễn Thị Hảo
41 Trần Kim Thanh
1919
1947
1922
1933
1929
1933
1948
1926
1916
1935
1923
1953
1941
1939
HS -3228
HS -3229
HS -3230
HS -3231
HS -3232
HS -32
HS -2060
HS -2061
HS -2062
HS -2063
HS -2064
HS - 2065
HS - 2066
HS -2068
KC-13694
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Chuyển
đến
T.binh
T. binh
Có công
CM
T.binh
Cơ sở CM
42 Trần Thanh Nhung
1947
Cơ sở CM
406

41.7 Page 407

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
DI TÍCH LỊCH SỬ:
ĐỊA ĐIỂM VỤ THẢM SÁT GIỒNG SẮN
- Tên gọi: Ngã ba Giồng Sắn (Vàm Xoắn)
- Địa chỉ: ấp Bến Đình, xã Phú Đông, Nhơn Trạch, Đồng
Nai.
- Quyết định và thời gian xếp hạng: Số 5160/
QĐ-CT.UBT của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, ngày
22/10/2004.
- Loại hình: Di tích lịch sử cấp tỉnh.
- Cảnh quan: Khu vực ngã ba Giồng Sắn (trước đây thuộc
xã Phú Hữu, nay thuộc xã Phú Đông) là một đầu mối giao
thông đường thủy giữa sông Ông Kèo, sông Ông Mai và sông
Thị Vải. Trước đây, địa điểm này tập trung nhiều ghe xuồng của
người dân địa phương và các vùng Long Thành, Bình Khánh,
Nhà Bè, ngư dân tỉnh Bến Tre, Long An để trao đổi hàng hóa.
Hiện nay, công trình Nhà bia tưởng niệm và công viên Giồng
Sắn tọa lạc trên diện tích 15.000m2, không gian thoáng rộng,
chung quanh cảnh sông nước hữu tình.
- Lịch sử xây dựng
Ngày 25/10/2005, huyện Nhơn Trạch khởi công xây dựng
công trình nhà Bia - công viên tưởng niệm Giồng Sắn. Đây là
di tích ghi dấu, tố cáo tội ác dã man của chính quyền Việt Nam
407

41.8 Page 408

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
Cộng hòa khi thực hiện cuộc ném bom thảm sát người dân vô
tội diễn ra trên vùng đất Nhơn Trạch ngày 27/9/1964.
- Kiến trúc
Nhà Bia tưởng niệm có diện tích 100 m2, được thiết kế theo
kiểu mái vòm hình lục giác, mái lợp ngói, dáng khum, kiểu
cổ lầu (hai tầng mái) chung quanh không có tường bao. Nền
cao, lát đá hoa cương, có tám bậc tam cấp. Phía chính giữa
đặt bia, nội dung về cảnh thảm sát mà người dân vô tội gánh
lấy với lối văn biền ngẫu. Phía trên bia hình tượng cách điệu
quả bom khổng lồ thả xuống chiếc ghe nhỏ của người dân trên
bến sông có nhiều cây dừa nước. Chiếc ghe cháy thành ngọn
lửa với cột nước bốc lên cao. Ba mặt còn lại là phù điêu diễn
tả cảnh ném bom, bắn pháo thảm sát của địch và cuộc đấu
tranh của người dân Long Thành - Nhơn Trạch với chính quyền
Sài Gòn.
Nhà trưng bày có diện tích 20 m2 thiết kế lục giác, mái nhọn,
lợp ngói. Nội thất trưng bày có những hình ảnh, tài liệu liên
quan đến vụ thảm sát, quá trình trùng tu tôn tạo di tích.
Phần sân lễ khá rộng với diện tích 700 m2, lát gạch và tôn tạo
cảnh quan với hệ thống đường nội bộ, rạch nhân tạo và những
hàng cây xanh.
408

41.9 Page 409

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
- Sự kiện liên quan
Thực hiện kế hoạch bình định có trọng điểm miền Nam
trong vòng 2 năm 1964 - 1965, chính quyền Sài Gòn đã tổ chức
nhiều cuộc hành quân về hướng Đông Bắc và Đông Nam Sài
Gòn; trong đó địa bàn Nhơn Trạch là một điểm được chọn. Thế
nhưng, tìm diệt lực lượng cách mạng không được, chính quyền
Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện cuộc tấn công thảm sát vào
thường dân mà địa điểm Giồng Sắn phải gánh chịu vào ngày
27/9/1964.
Người dân các xã Phú Hữu, Đại Phước, Giồng Ông Đông,
Vĩnh Thanh, Phước Khánh đi kiếm củi, đánh bắt ở các nơi tập
trung về bến Giồng Sắn vào buổi chiều cuối ngày. Vào khoảng
4 giờ, quân đội Việt Nam Cộng hòa cho nhiều đợt máy bay thả
bom vào nơi ghe, xuồng của người dân. Cảnh vật trở nên hỗn
loạn với hàng trăm con người tranh nhau tìm chỗ trú thân trước
bom đạn của quân đội Sài Gòn bắn phá. Ghe xuồng của người
dân lật úp, bị vỡ tan. Một số người chết tại chỗ, số chạy lên bờ
bị máy bay địch tấn công. Sau đợt thả bom, quân đội Sài Gòn
cho pháo từ Nhà Bè bắn sang làm số người chết, bị thương tăng
lên. Cuộc oanh kích của địch làm bến Giồng Sắn trở nên hoang
tàn, tang tóc. Hàng trăm ghe xuồng bị bom đạn giặc phá và có
536 thường dân chết, nhiều người bị thương. Sau sự kiện này,
Huyện ủy Nhơn Trạch đã tổ chức một cuộc biểu tình với hơn
1.000 người tham gia, phản đối hành động sát hại dân lành của
409

41.10 Page 410

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
chính quyền Sài Gòn. Cuộc biểu tình tạo được dư luận căm
phẫn lớn trong nhiều tầng lớp nhân dân cả nước, lên án sự độc
ác, tàn bạo của quân đội Sài Gòn. Cuộc thảm sát dã man của
quân đội Sài Gòn trở thành tâm điểm dư luận được báo chí
nước ngoài đưa tin, lên án. Nhân dân Phú Đông và Nhơn Trạch
tổ chức đấu tranh với chính quyền địch tại địa phương, quận lỵ
Nhơn Trạch, Biên Hòa và Sài Gòn lên án và đòi bồi thường cho
nhân dân.
- Sự kiện kỷ niệm: Hằng năm vào ngày 22/8 (âm lịch), tại
di tích địa phương tổ chức lễ tưởng niệm cho những nạn nhân
trong vụ thảm sát kinh hoàng năm 1964. Người dân địa phương
và những gia đình có người thân bị chết đến tham dự. Trong
một số ngày lễ của năm, người dân và thế hệ trẻ tổ chức những
đoàn viếng, thăm di tích, ôn lại truyền thống yêu nước, lên án
tội ác của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với người dân
vô tội trên vùng đất Nhơn Trạch.
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1997), Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập I, Nxb. Đồng
Nai.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1998), Tổng kết công
tác binh vận tỉnh Đồng Nai trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước 1954 - 1975, Nxb. Đồng Nai.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1986), Đồng Nai 30
năm chiến tranh giải phóng 1930 - 1975, Nxb. Đồng Nai.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long
Thành những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Lịch sử
Đảng bộ huyện Long Thành 1930 - 1975, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa (1999), Lịch sử
Đảng bộ Thành phố Biên Hòa, Nxb. Đồng Nai.
7. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Nai (2005),
Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Đồng Nai 1930 - 2000, Nxb. Tổng
hợp Đồng Nai.
8. Ban Chỉ đạo lễ Kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa - Đồng
Nai (1998), Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển,
Nxb. Đồng Nai.
9. Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử Công an
tỉnh Đồng Nai 1975 - 1995 (tập III), Nxb. Công an nhân dân.
411

42.2 Page 412

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
10. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao
Đồng Nai (1996), Những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tỉnh Đồng Nai,
Nxb. Đồng Nai.
11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai (1992), Đồng Nai những
trận đánh điển hình trong chiến tranh giải phóng 1945 - 1975, tập
1, Nxb. Đồng Nai.
12. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử Công an
tỉnh Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Nxb.
Công an nhân dân.
13. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử Công an
tỉnh Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975,
Nxb. Công an nhân dân.
14. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Biên niên sự kiện
lịch sử Công an tỉnh Đồng Nai 1996 - 2010, Nxb. Công an nhân dân.
15. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân Khu 7 (2016), Từ điển
Quân Khu 7, Nxb. Quân đội nhân dân.
16. Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử biên niên 1975 - 1996,
Nxb. Công an nhân dân.
17. Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ quốc gia
(2021), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu địa bạ triều Nguyễn,
[tập IV: Nam Kỳ], Nxb. Hà Nội.
18. Phan Đình Dũng, Nguyễn Thanh Lợi (2010), Hỏi đáp về Biên
Hòa - Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
19. Đảng bộ huyện Long Thành (2015), Lịch sử Đảng bộ huyện
Long Thành, Nxb. Đồng Nai.
20. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Huyện Nhơn Trạch anh
hùng, Nxb. Đồng Nai.
412

42.3 Page 413

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
21. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch (1930 - 2015), Nxb. Đồng Nai.
22. Đảng ủy Công an tỉnh Đồng Nai (2017), Lịch sử Đảng bộ
Công an tỉnh Đồng Nai 1945 - 2000, Nxb. Công an nhân dân.
23. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2005), Công
an Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1945 - 1954, Nxb. Công an nhân
dân.
24. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2005), Công
an Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1954 - 1975, Nxb. Công an nhân
dân.
25. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai (2015), Lịch sử
Đảng bộ quân sự tỉnh Đồng Nai 1945 - 2010, Nxb. Đồng Nai.
26. Hồ Sơn Đài, Trần Quang Toại (1985), Đồng Nai những đơn vị
anh hùng, Nxb. Đồng Nai.
27. Hồ Sơn Đài chủ biên, Đỗ Tầm Chương, Nguyễn Quang Hữu
(1997), Lịch sử chiến khu Đ - Hào khí Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
28. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, [bản dịch
của Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính], Nxb.Tổng hợp Đồng
Nai.
29. Học viện Quân sự cao cấp, Ban Tổng kết kinh nghiệm chiến
tranh (1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - những sự kiện
quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân.
30. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Đoàn Đặc công
113 với Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Quân đội nhân dân.
31. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Tiểu đoàn 240 với
Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Tổng hợp Đồng
Nai.
413

42.4 Page 414

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Đông (1930 - 2020)
32. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ
(2005), Lịch sử Khởi nghĩa Nam Kỳ (tái bản), Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
33. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam
Bộ (2003), Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb.
Chính trị Quốc gia.
34. Hội Khoa học Lịch sử Đồng Nai (2013), Địa danh Hành
chính, Văn hóa, Lịch sử Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
35. Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai (2018), Lịch sử phong trào Nông
dân và Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai 1930 - 2015, Nxb. Đồng Nai.
36. Hồ Sĩ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ Văn Sen (1998), Lịch sử
Việt Nam 1945 - 1975, Nxb. Mũi Cà Mau.
37. Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, [5 tập I: Tổng quan,
tập II: Địa lý, tập III: Lịch sử, tập IV: Kinh tế, tập V: Văn hóa - xã
hội], Xí nghiệp in Đồng Nai, Nhà in Thông tấn xã Việt Nam.
38. Tỉnh ủy Đồng Nai (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
1975 - 2000, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
39. Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai.
40. Huỳnh Văn Tới, Nguyễn Minh Hùng (2019), Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng tỉnh Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
41. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Nguyễn Trí Nghị (2015),
Di tích danh thắng Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
42. Trần Quang Toại (chủ biên), Hồ Sơn Đài, Trần Toản, Nguyễn
Quang Hữu, (1991), Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Phú, Nxb. Đồng
Nai.
414

42.5 Page 415

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Đông
43. Trần Quang Toại (chủ biên 2013), Địa danh hành chính văn
hóa lịch sử Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
44. Ngô Đăng Tri (2012), 82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam -
những chặng đường lịch sử 1930 - 2012, Nxb. Thông tin và Truyền
thông.
45. Robert (1924), Địa chí tỉnh Biên Hòa [Lê Tùng Hiếu - Nguyễn
Văn Phúc biên dịch, 2015], Nxb. Đồng Nai.
46. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (2001), Việt Nam - Đồng Nai trăm
năm nhìn lại, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
47. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai (2005),
Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai từ 1930 - 2000,
Xí nghiệp in Đồng Nai.
48. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2010),
Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
49. Các báo cáo, văn kiện của xã Phú Đông, Văn phòng Đảng ủy
xã Phú Đông.
50. Tài liệu điền dã của nhóm biên soạn năm 2021, 2022.
415

42.6 Page 416

▲back to top


Muïc luïc
Lời giới thiệu................................................................................... 5
Lời mở............................................................................................ 13
Chương I:
Phú Đông - vùng đất và con người
1. Địa lý và môi trường tự nhiên.................................................... 16
2. Lịch sử hành chính..................................................................... 18
3. Đặc điểm cư dân......................................................................... 26
4. Sắc thái văn hóa.......................................................................... 31
Chương II:
Phú Đông từ khi Đảng thành lập đến Cách mạng tháng Tám
(1930 - 1945)
1. P hong trào yêu nước của xã Phú Đông trước năm 1930............ 41
2. Phong trào đấu tranh xã Phú Đông từ khi thành lập Đảng......... 50
3. Cách mạng tháng Tám lịch sử.................................................... 68
Chương III:
Phú Đông thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
1. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (1945 - 1946).......... 77
2. Kháng chiến toàn dân, toàn diện (1946 - 1952)......................... 97
3. Chặng đường đi đến thắng lợi (1953 - 1954)........................... 117

42.7 Page 417

▲back to top


Chương IV:
Phú Đông thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)
1. Đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh vũ trang
(1954 - 1960)............................................................................ 123
2. Đấu tranh chính trị, vũ trang làm phá sản quốc sách
“ấp chiến lược” (1961 - 1965).................................................. 143
3. Đ ấu tranh mở vùng và nổi dậy xuân Mậu Thân
(1965 - 1968)............................................................................ 172
4. B ám trụ đấu tranh, giữ vững phong trào, giành thế
chủ động tiến công (1969 - 1972)............................................. 186
5. T iến công và nổi dậy giải phóng quê hương (1973 - 1975)..... 196
Chương V:
Phú Đông trong xây dựng xã hội chủ nghĩa (1975 - 1994)
1. K hắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân
(1975 - 1985)............................................................................ 209
2. Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng (1986 - 1994)............ 223
Chương VI:
Xã Phú Đông thành lập
và ổn định phát triển (1994 - 2000)
1. Hai năm đầu thành lập (1994 - 1996)....................................... 227
2. Phát triển địa phương theo hướng hiện đại (1996 - 2000)........ 231

42.8 Page 418

▲back to top


Chương VII:
Xã Phú Đông thời kỳ hội nhập, phát triển
theo hướng hiện đại hóa (2000 - 2010)
1. Tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp,
nông thôn (2000 - 2005)........................................................... 245
2. H iện đại hóa và chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế (2005 - 2010)................................................................ 262
Chương VIII:
Xã Phú Đông xây dựng Nông thôn mới
và phát triển bền vững (2010 - 2020)
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, phát triển
toàn diện (2010 - 2015)............................................................ 284
2. Xây dựng Nông thôn mới và phát triển
bền vững (2015 - 2020)............................................................ 305
3. Định hướng xây dựng Nông thôn mới
nâng cao (2020 - 2025)............................................................. 329
Kết luận....................................................................................... 346
Phụ lục......................................................................................... 357
Tài liệu tham khảo...................................................................... 411
Mục lục........................................................................................ 416

42.9 Page 419

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ ĐÔNG (1930-2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ xã Phú Đông
Mã ISBN: 978-604-42-0050-7
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Lê Thị Cẩm Vân
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Lê Thị Cẩm Vân
Hoàng Phương
....................................................................................................
In: 400 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM. Số XNKHXB:
3808-2023/CXBIPH/6-722/ĐoN, Cục Xuất bản, In và Phát hành xác
nhận ngày: 31/10/2023, Quyết định xuất bản số: 09/QĐA-ĐoN do
NXB Đồng Nai cấp ngày: 29/11/2023. In xong và nộp lưu chiểu: quý
1/2024.
......................................................................................................................

42.10 Page 420

▲back to top


Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hòa, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh - Phát hành: 946 521 - 946 530
Email: dongnainxb@gmail.com