LSDB xa Vinh Thanh

LSDB xa Vinh Thanh



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
XÃ VĨNH THANH
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
XÃ VĨNH THANH
(1930 - 2020)
Nhà Xuất bản Đồng Nai 2023

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
BAN CHỈ ĐẠO
1. Đ/c Trần Hoàng Sự
HU viên, Bí thư Đảng ủy:
2. Đ/c Huỳnh Thế Vinh
Phó Bí thư Đảng ủy:
3. Đ/c Nguyễn Văn Hồ
Thường trực Đảng ủy:
4. Đ/c Trần Hải Nhân
ĐUV, Phó Chủ tịch UBND xã:
5. Đ/c Huỳnh Quí Thảo
Phó ban BTG ĐU:
6. Đ/c Đoàn Hữu Danh
ĐUV, Chủ tịch UBMTTQVN xã:
7. Đ/c Nguyễn Ngọc Tuấn
Chủ tịch Hội CCB:
8. Đ/c Nguyễn Thị Thúy Kiều
Công chức TC - KT:
9. Đ/c Nguyễn Hoàng Vũ
Công chức VHXH:
10. Đ/c Nguyễn Thị Hồng Thắm
Cán bộ VP ĐU xã:
Trưởng ban
Phó ban
Phó Ban
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên

1.5 Page 5

▲back to top


BIÊN SOẠN
Huỳnh Văn Tới (Chủ biên)
Phan Đình Dũng
Hà Thị Thanh Thúy
Huỳnh Quí Thảo
BIÊN TẬP KỸ THUẬT
Phan Hoàng Oanh

1.6 Page 6

▲back to top


1.7 Page 7

▲back to top


Mở đầu
Xã Vĩnh Thanh là một trong 12 đơn vị hành chính của huyện
Nhơn Trạch (huyện có một thị trấn và 11 xã). Nhơn Trạch là vùng đất
có lịch sử hình thành và phát triển cùng lịch sử Biên Hòa - Đồng Nai
hơn 320 năm. Dưới triều Nguyễn, vùng đất này thuộc tổng Thành
Tuy Hạ (huyện Long Thành), năm 1960 có tên quận Nhơn Trạch, sau
ngày 30.4.1975 lại thuộc huyện Long Thành, từ ngày 1.9.1994 chính
thức thành huyện Nhơn Trạch trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Lịch sử xã
Vĩnh Thanh gắn liền và không thể tách rời với lịch sử huyện Nhơn
Trạch, lịch sử tỉnh Biên Hòa/ ĐồngNai và cả nước.
Nhân dân xã Vĩnh Thanh cũng như người dân huyện Nhơn Trạch
có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tham gia kháng chiến chống
thực dân Pháp ngay khi chúng nổ súng xâm lược tỉnh Biên Hòa
(tháng 12.1861). Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc,
người dân Vĩnh Thanh đã sớm tham gia hoạt động cách mạng và
cùng với nhân dân trong huyện cướp chính quyền, làm nên Cách
mạng tháng Tám 1945 ở địa phương.
Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
xâm lược (1945-1975) quân dân Vĩnh Thanh dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ đã đoàn kết một lòng chung tay góp sức, đấu tranh kiên
7

1.8 Page 8

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
cường, vượt qua nhiều gian khổ, thử thách hy sinh, lập nhiều thành
tích trên các mặt trận góp sức cùng huyện, tỉnh hoàn thành nhiệm vụ
lịch sử, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Truyền thống vùng đất Vĩnh Thanh trong đấu tranh 30 năm kháng
chiến giành độc lập dân tộc là tài sản quý báu, cần được trân trọng
giữ gìn và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, phát triển bền vững, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong 45 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Thanh đã thực hiện chiến lược đại đoàn
kết dân tộc, phát huy nội lực khắc phục hậu quả chiến tranh; đạt
được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới, xây dựng phát triển
hạ tầng cơ sở vật chất, giữ vững an ninh chính trị, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân, từng bước xây dựng nông thôn
mới để đạt mục tiêu phát triển bền vững, theo hướng hiện đại.
Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW ngày 28.8.2002 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng và Thông tri số 18-TT/TU, ngày 1.5.2003 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “tăng cường và nâng cao chất lượng
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”; Ban
Thường vụ Đảng ủy xã Vĩnh Thanh có Quyết định số 21/QĐ/ĐU
ngày 22.11.2021 chủ trương nghiên cứu biên soạn quyển “Lịch sử
Đảng bộ xã Vĩnh Thanh 1930 - 2020”.
Trong quá trình triển khai nghiên cứu, biên soạn, chúng tôi đã tổ
chức nhiều đợt khảo sát thực tế, hội thảo, hội nghị nhân chứng lịch
sử để tiếp cận với sự thật lịch sử. Những ý kiến đầy trách nhiệm của
8

1.9 Page 9

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
các cấp ủy, các đồng chí nguyên là lãnh đạo xã, huyện qua các thời
kỳ, các nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử đã
được trân trọng tiếp thu, thể hiện trong chính văn. Những vấn đề còn
tồn nghi, chưa thẩm định được xin ghi nhận để tiếp tục nghiên cứu,
bổ sung. Tài liệu được công bố của các công trình nghiên cứu lịch
sử liên quan được khảo cứu cẩn trọng, dẫn nguồn cụ thể, những chỗ
còn khác biệt có ghi chú để tường minh.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng “Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Thanh
1930 - 2020” chắc hẳn không tránh được những thiếu sót ngoài
mong muốn. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để
công trình được hoàn chỉnh hơn trong lần tái bản.
Xin chân thành cám ơn đồng chí, đồng bào, cơ sở cách mạng,
nhân chứng lịch sử và các nhà khoa học đã giúp chúng tôi hoàn
thành quyển sách này.
Trần Hoàng Sự
Bí thư Đảng ủy xã Vĩnh Thanh
9

1.10 Page 10

▲back to top


Chương I
TỔNG QUAN
VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Xã Vĩnh Thanh nằm ở phía Nam của huyện Nhơn Trạch, cách
trung tâm huyện 5km, và cách thành phố Biên Hòa 45km, có vị trí
địa lý:
- Phía Bắc giáp xã Phú Thạnh.
- Phía Tây Nam giáp xã Phước Khánh.
- Phía Tây Bắc giáp xã Phú Đông.
- Phía Đông Nam giáp xã Phước An.
- Phía Đông Bắc và phía Nam giáp sông Đồng Tranh
Xã Vĩnh Thanh có diện tích tự nhiên là 3.317,67 hecta, dân số
năm 2020 là khoảng 4.000 hộ với gần 20.000 nhân khẩu, trong đó
85% dân theo đạo Thiên Chúa, số còn lại theo đạo Phật và tín ngưỡng
thờ cúng ông bà tổ tiên. Xã Vĩnh Thanh được chia thành 10 ấp: Hòa
Bình, Thanh Minh, Vĩnh Cửu, Sơn Hà, Thành Công, Chính Nghĩa,
Đại Thắng, Thống Nhất, Nhất Trí, Đoàn Kết.
Xã có chiều dài 11km, nằm dọc hương lộ 191. Từ hương lộ 19 đi
về phía Bắc có thể sang Thành phố Hồ Chí Minh, về phía Đông có
1  Nay là đường Hùng Vương.
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
thể đi Long Thành, Biên Hòa, Vũng Tàu. Từ năm 2019, huyện Nhơn
Trạch có dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến đường Nguyễn Hữu
Cảnh (còn gọi là đường số 2) có chiều dài trên 8km, là tuyến huyết
mạch kết nối trung tâm hành chính của huyện Nhơn Trạch với các
địa phương và khu công nghiệp. Dự án có tổng mức đầu tư trên 360
tỷ đồng, với các hạng mục như: nâng cấp mở rộng mặt đường rộng
thêm 12m, giải phân cách giữa rộng 3m, vỉa hè rộng 10m mỗi bên;
làm mới hệ thống thoát nước mưa, cây xanh, hệ thống điện chiếu
sáng dọc tuyến, các biển báo, đèn tín hiệu giao thông. Điểm cuối của
đường Nguyễn Hữu Cảnh tiếp giáp với đường Hùng Vương trên địa
bàn xã Vĩnh Thanh. Đây cũng là một trong những tuyến đường chính
của xã. Với đường Nguyễn Hữu Cảnh, giao thông từ xã Vĩnh Thanh
đến trung tâm huyện Nhơn Trạch và các xã khác càng thêm thuận
lợi. Một tuyến đường mới được xây dựng khác là đường Lê Hồng
Phong cũng có một phần đi ngang địa bàn xã Vĩnh Thanh.
Trên địa bàn xã còn có sông Ông Kèo không chỉ giúp thuận lợi
cho giao thông đường thủy mà còn tạo điều kiện cho người dân Vĩnh
Thanh nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch sinh thái.
Với vị trí địa lý như vậy, Vĩnh Thanh vừa thuận lợi trong giao
thông đường bộ, vừa có tiềm năng trong phát triển giao thông đường
thủy. Trước đây khi giao thông đường bộ chưa phát triển, người dân
vùng này có sự giao lưu chặt chẽ với người dân vùng sông nước lân
cận như Sài Gòn, Cần Giờ, Long An và một số tỉnh miền Tây.
11

2.2 Page 12

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
2. Địa hình, địa mạo
Xã Vĩnh Thanh có dạng địa hình đồng bằng thuận lợi cho việc
trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản.
Về địa tầng, Vĩnh Thanh cũng như các địa phương nằm trên
địa bàn huyện Nhơn Trạch, đều thuộc Hệ Trias, thống trung, bậc
Anizi1, đồng dạng với các vùng phụ hệ tầng dưới như ở Bửu Long.
Khảo sát thực tế cho thấy, mặt cắt vùng Nhơn Trạch gồm cuội kết,
tảng kết hiển lộ từ Tây Nam Bửu Long đến mép sông Đồng Nai, rõ
nét ở Hang Nai. Cuội có kích thước thay đổi từ 3-5-10cm, độ mài
tròn trung bình, độ chọn lọc kém, có thành phần đa khoáng: sạn kết
tuf andesit, granodiorit - biotit porphyry, granit có biotit hạt vừa,
đá phiến sét serisit - silic nhiễm oxyt sắt. Ở vùng Nhơn Trạch còn
có hiện tượng phụ hệ tầng giữa phủ lên phụ hệ tầng dưới, biểu hiện
bởi mặt cắt có các tập cát kết tufriolit màu xám có cấu tạo khối rất
cứng chắc và thêm nhiều thành phần khoáng chất đặc thù của phụ hệ
tầng giữa.
Về phân vùng địa mạo, Nhơn Trạch thuộc vùng đồng bằng đồi
thềm, đồng dạng với cả vùng Biên Hòa - Long Thành. Vùng này có
đặc điểm hạ tích tụ và nâng yếu, rửa trôi - xâm thực; tạo thềm bậc
IV, III, II và I từ Pleistocen giữa đến Holocen. Quá trình hạ lún được
thấy rõ từ Pliocen muộn, được tiếp tục trong Pleistocen sớm. Quá
trình nâng bắt đầu từ Pleistocen giữa. Trên vùng phát triển thềm một
phía, thềm trẻ hơn, thấp hơn (thềm III, II và I) dịch dần về phía Tây,
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 8, trang 45.
12

2.3 Page 13

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Tây Nam. Chúng chuyển bậc với nhau qua các đoạn sườn thoải 3-50,
chênh cao 5-10m. Hạ lún có xu hướng mạnh dần từ Tây Bắc đến
Đông Nam. Ở Nhơn Trạch, thành bề mặt móng đá gốc chìm sâu đến
(-50m) và sâu hơn, trầm tích Pliocen - Đệ tứ dày > 55m.
Các bậc thềm tuy có độ cao khác nhau, nhưng lại liên kết với nhau
trên cơ sở các bề mặt cùng nguồn gốc, cùng được nâng lên, rửa trôi
là chủ yếu và xâm thực. Theo hướng Tây, Tây Nam, chúng thấp dần
theo góc nghiêng chung < 10. Theo hướng Nam, Đông Nam bề mặt
bị chia cắt bởi các thung lũng xâm thực sâu 10-30m, sườn dốc 3-100,
cách nhau 5-7-10km. Do vậy, vùng này nền vững, thích hợp để xây
dựng và phát triển đô thị, khu công nghiệp1.
3. Đất đai
Đất đai2 vùng Vĩnh Thanh có địa hình bằng phẳng, độ cao 0 - 20m
so mực nước biển, phần lớn có độ dốc < 8 - 150. Cấu tạo đất ở Vĩnh
Thanh là đất phù sa (Fluvisols), là loại đất chiếm khoảng 4,76% tổng
diện tích toàn tỉnh, riêng ở Nhơn Trạch thì phổ biến ở vùng đồng
bằng ven sông rạch, nhất là địa bàn các xã: Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Phước An. Vùng đất phổ biến nhóm đất
này chịu tác động của thủy triều, có độ chua (pH) từ ít đến vừa và
cao tùy theo đất phù sa có giàu mùn hay không; có nơi tùy đất mặn
và không mặn mà đất có tầng phèn hay không phèn. Đặc tính nông
học của đất phù sa là giàu mùn, đạm, kali nhưng nghèo lân, nên ở
nơi không hoặc ít phèn thuận cho trồng lúa nhiều vụ hoặc trồng cây
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 64 - 65.
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 143 - 157.
13

2.4 Page 14

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
ăn trái, hoa màu, rau củ. Ở nơi đất phèn, việc sử dụng đất tùy thuộc
vào độ sâu tầng phèn và mức độ ngập mặn. Đất phèn nông có ưu thế
trồng lúa nước. Đất phèn sâu có thể trồng lúa, hoa màu vào mùa khô.
Đất phèn nông hay sâu đều có thể rửa mặn, nuôi trồng thủy sản.
4. Hệ thống sông ngòi
Các sông, suối ở khu vực Vĩnh Thanh cũng giống như hệ thống
các sông, suối trong huyện, tỉnh, chế độ dòng chảy và quy luật biến
đổi khá phù hợp với quy luật chung. Một năm vẫn có hai mùa (mưa,
nắng) dòng chảy rõ rệt. Mùa cạn từ tháng 12 năm trước cho đến
tháng 5 năm sau. Mùa lũ từ tháng 6 cho đến tháng 11. Mùa lũ thường
sớm hơn lưu vực sông Đồng Nai và sông La Ngà khoảng 1 tháng.
Ba tháng có mực nước và lưu lượng lớn là: tháng 8, 9, 10, lớn nhất
thường là tháng 8. Ba tháng có mực nước và lưu lượng nhỏ là: tháng
2, 3, 4, nhỏ nhất là tháng 3.
Lưu lượng phù sa và bùn cát trong sông, suối tập trung chủ yếu
vào các tháng mùa lũ và tháng đầu mùa mưa (tháng 5). Các tháng
mùa cạn lượng phù sa rất nhỏ, nhiều tháng hầu như bằng 0, như
tháng 2, 3, 4, nước sông rất trong, độ đục gần như không có1.
Một trong những đặc điểm của vùng Vĩnh Thanh là hệ thống sông
rạch chằng chịt, chịu ảnh hưởng mạnh bởi chế độ thủy triều vùng cửa
sông, đa nguồn nước, gồm nước mặn - nước ngọt - nước lợ.
Đoạn sông Đồng Nai chảy qua địa bàn Nhơn Trạch dân gian gọi
là sông Cái, nối tiếp từ Tân Uyên đổ ra cửa Soài Rạp dài khoảng
143km, lòng sông rộng từ 1 - 4,5km, có chỗ sâu đến 18m, tạo một
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 126-127.
14

2.5 Page 15

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
lưu vực rộng khắp trên địa bàn Nhơn Trạch, trực tiếp là các xã Đại
Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thanh.
Sông Đồng Nai có nhiều hợp lưu tạo thành hệ thống sông Đồng
Nai thuận lợi cho giao thông và giao thương cả vùng trọng điểm
Đông Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Sông Nhà Bè, sông Sài Gòn
hợp lưu phía hữu ngạn sông Đồng Nai, nối Nhơn Trạch với Thành
phố Hồ Chí Minh chỉ vài mươi phút chèo ghe. Sau khi nhận nước
của sông Sài Gòn xuôi xuống Nhà Bè, sông Đồng Nai chia làm hai
nhánh: nhánh phía Tây là sông Soài Rạp chảy ra cửa Soài Rạp; nhánh
phía Đông là sông Lòng Tàu chảy ra vịnh Gành Rái.
Sông Lòng Tàu có tầm sâu trung bình là 15m, chảy quanh co cắt
ngang Rừng Sác trước khi đổ ra Biển Đông. Khi chảy đến xã Phước
Khánh, sông Lòng Tàu cũng chia làm hai nhánh. Nhánh phía Tây là
sông Đồng Tranh chảy về phía cửa Soài Rạp; nhánh phía Đông tiếp
tục mang tên Lòng Tàu chảy xuống Ngã Bảy (khoảng 75km) nơi
sông Dừa đổ vào. Từ Ngã Bảy ra biển, khúc hạ lưu sông này được
gọi là sông Ngã Bảy. Đến Cần Giờ, sông Đồng Tranh và sông Ngã
Bảy lại hợp lưu rồi đổ ra vịnh Gành Rái tiếp giáp Biển Đông.
Hợp lưu với sông Đồng Nai tại địa bàn xã Long Tân có sông
Đồng Môn bắt nguồn từ vùng cao thuộc Long Thành vòng vèo qua
các gò đồi, nối mạch với các sông suối nhỏ rồi đổ phù sa qua các
cánh đồng Phước Thiền, Long Tân. Sông Đồng Môn tuy không rộng,
không sâu, không dài lắm nhưng có vai trò như mạch máu nối liền
rừng giồng với Rừng Sác, kết nối địa bàn sông nước Nhơn Trạch với
vùng rừng núi trung du miệt Long Thành.
15

2.6 Page 16

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Ngoài ra, sông Cái (sông Đồng Nai) còn hợp cùng các chi lưu
tạo nên hệ thống sông rạch chằng chịt khắp vùng Nhơn Trạch, gồm
những giồng, rạch, tắc, vàm, ngòi, cồn, cù lao gắn với địa danh quen
thuộc của người địa phương. Phải nhìn tổng thể hệ thống cù lao, cồn,
rạch của cả khu vực này mới thấy hết sắc thái của Nhơn Trạch. Các
xã thuộc khu vực có nhiều cồn, cù lao gồm xã Phú Đông có giồng
Ông Đông, Phú Thạnh có cù lao Ông Cồn, xã Phước Khánh có rạch
Ông Thuộc, xã Phú Hữu có rạch Ông Mai, xã Vĩnh Thanh có ấp Ông
Kèo. Theo lời kể của các bô lão địa phương, năm ông: Thuộc, Đông,
Cồn, Kèo, Mai là 5 vị tướng lĩnh của triều Nguyễn trấn giữ các đồn
bảo tả ngạn sông Cái, có công lao với vùng Nhơn Trạch nên được
dân tôn kính, đặt tên cho các cù lao, cồn, rạch gắn liền với đời sống
sản xuất, sinh hoạt của người dân địa phương.
Xã Vĩnh Thanh có phía Đông Bắc và phía Nam giáp sông Đồng
Tranh, vì vậy giao thông đường thủy rất thuận lợi nếu di chuyển từ
đây đến Thành phố Hồ Chí Minh, đến huyện Cần Giờ hoặc đến vịnh
Gành Rái tiếp giáp với Biển Đông.
Trên địa bàn xã còn có sông Ông Kèo. Sông Ông Kèo dài khoảng
15km, điểm bắt đầu từ một nhánh sông Đồng Nai đoạn thuộc xã
Đại Phước, điểm cuối đổ ra sông Đồng Tranh nằm trên địa bàn xã
Vĩnh Thanh. Sông chảy qua địa bàn 4 xã: Đại Phước, Phú Đông,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh. Sau năm 1975, huyện Nhơn Trạch có
chủ trương đắp đê ngăn mặn trên sông Ông Kèo để ngọt hóa trồng
lúa và điều tiết nước để tưới tiêu phục vụ nông nghiệp, nên hai điểm
đầu và cuối sông Ông Kèo đều có đập điều tiết nước, do đó lưu
lượng nước luôn duy trì ở mức ổn định. Đoạn rộng nhất của sông
16

2.7 Page 17

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ông Kèo khoảng 80m, đoạn hẹp nhất khoảng 40m, tàu thuyền lớn
không đi được trên sông Ông Kèo, chỉ có ghe, vỏ lãi của người dân
địa phương.
Ngoài sông Ông Kèo, trên địa bàn xã Vĩnh Thanh còn có các rạch
như: rạch Nhà Máy (dài 0,6km), rạch Mương Đào (dài 1km), rạch
Sông Lu (dài 0,6km), rạch Cao Cẳng (dài 1,1km), rạch Bàu Thai (dài
0,7km), rạch Vú Sữa (dài 1km), rạch Ông Tiên (dài 0,4km), rạch Ông
Tiên Lớn (dài 1km), rạch Ông Kiễu (dài 2km), rạch Lá (dài 3km)...
5. Khí hậu
Xã Vĩnh Thanh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với 2 mùa:
- Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình từ 29°C - 32°C.
Lượng mưa bình quân đạt 1.600 - 2.000mm/năm.
Khí hậu xã Vĩnh Thanh cũng như huyện Nhơn Trạch thuộc phương
Nam, vùng Gia Định, ứng với quẻ Ly; theo Gia Định Thành thông
chí của Trịnh Hoài Đức1: Là vùng gần biển, thấy trước mặt trời mới
mọc, thường ấm, bắt đầu mưa vào tháng 3 Âm lịch, mưa chính vào
mùa hạ; “mưa to nghiêng vò mà đổ”, cơn mưa to lắm chỉ vài giờ là
tạnh, trở lại nắng; tháng 7 có mưa ngâu dầm dề ít ngày, không lạnh;
rõ rệt hai mùa mưa nắng. Do khí trời nóng, đất ẩm thấp nên khi mưa,
khí biển tác động thành ra sấm chớp, có thể hại chết người và vật.
1  Gia Định Thành thông chí, Tập I “Tinh dã chí”, Trịnh Hoài Đức, bản dịch
của Lý Việt Dũng, NXB Đồng Nai, 2005.
17

2.8 Page 18

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Nhơn Trạch “âm ít, dương nhiều”, thường nhiều gió Nam; hiếm
khi giông bão, ít sương mốc; thi thoảng có hiện tượng gió lốc xoáy
gọi là “rồng hút nước”.
Nước là mạch máu của đất. Nước sông rạch gắn với biển tác động
đến đời sống. Do khí đưa đẩy, buổi sáng nước lên gọi là triều, buổi
chiều nước xuống gọi là tịch, gọi chung là thủy triều. Thủy triều
tương ứng mật thiết với mặt trăng theo chu kỳ thời tiết được gọi là
triều tín. Khi nước lớn thường có gió, nước đứng thì gió lặng. Thông
thường, sau ngày mồng một và 2 - 3 ngày sau rằm, nước lên, gió
mạnh; sau ngày thượng huyền (ngày 8,9) và ngày hạ huyền (ngày 22,
23), nước rút dần trong hai, ba ngày, gió cũng dịu dần. Thủy triều ở
Nhơn Trạch cũng như ở vùng Gia Định có khác với nhiều nơi ở chỗ:
Mỗi tháng có 2 hoặc 3 ngày nước không lớn ròng gọi là “nước ươn”;
mùa gần Tết có đến 3, 4 ngày. Trong tháng 8 và tháng 9, thủy triều
lớn khác thường, tiết hạ chí lớn vào ban ngày, tiết đông chí lớn vào
ban đêm. Dân gắn với sông nước thường theo lệ con nước lớn ròng
mà tổ chức sinh hoạt: Lấy khi nước lớn làm thủy đầu gọi là nước
rong, khi nước xuống mức thấp nhất là thủy vĩ, gọi là nước kém.
Nước rong nhiều cá tôm, nước kém ít tôm cá, theo đó mà hành nghề
đánh bắt. Lúc giao thời giữa mùa thu và mùa hạ, có lúc con nước lớn
buổi mai chưa xuống mà con nước ròng buổi chiều đã nối tiếp, thêm
có gió Đông Nam đẩy mạnh nước biển dâng lên, ấy là “đạp triều”,
dân địa phương gọi là nước “ươn rong”. Do đất đai thường ẩm thấp,
thịnh dương khí nên con người thường khô da, nhiều mồ hôi; gặp khi
“trái gió trở trời” dễ bị sốt rét, phong thấp, cảm mạo.
18

2.9 Page 19

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Theo Địa chí Đồng Nai1, khí hậu vùng Nhơn Trạch mang đặc
điểm thuộc “khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo”, có độ dài ban
ngày ít thay đổi, trung bình 12 giờ 47 phút/ ngày; thời gian nắng
trung bình 4 - 9,5 giờ ngày (chiếm 45 - 65% độ dài ban ngày), cả
năm có khoảng 2.500 đến 2.860 giờ nắng; bức xạ luôn dương, trị số
hàng năm 70 - 74 Kcal/cm2. Hằng năm, Nhơn Trạch chịu tác động
của 3 hệ thống gió mùa châu Á, trong đó rõ rệt nhất là gió mùa hạ
(gió mùa Tây Nam), gió mùa Ấn Độ Dương (cũng thuộc gió mùa
Tây Nam) và gió mùa Nam Thái Bình Dương. Hệ thống gió mùa này
tác động làm cho thời tiết ở Nhơn Trạch thiên về nóng, ẩm, có mưa
nhiều đầu mùa, thi thoảng có giông nhẹ, ít bão, không lạnh. Ở Nhơn
Trạch, khí hậu 4 mùa không rõ rệt như ở xứ Bắc, xứ Trung. Có thể
phân biệt thành 2 mùa: Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 (hoặc tháng
4 năm sau), mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
Khí hậu như vậy là ôn hòa, tốt cho vạn vật; thuận cho con người
sinh sống và phát triển sản xuất.
6. Sinh cảnh, động - thực vật
Điều kiện tự nhiên về địa tầng, địa mạo, đất đai khí hậu đã tạo cho
Vĩnh Thanh sinh cảnh đa dạng với hệ động thực vật phong phú mang
đặc trưng chung của huyện Nhơn Trạch - miền sông nước ngập mặn
“rừng giồng nối liền Rừng Sác”2. Theo đó, động thực vật gồm đủ các
nhóm phổ quát và nhóm có tính đặc thù. Hiện chưa có bản thống kê
về động thực vật đặc thù ở địa phương, nhưng có thể hình dung bức
tranh về động thực vật ở Vĩnh Thanh.
1  Địa chí Đồng Nai, Tập II, NXB Đồng Nai, 2001, trang 73 - 98.
2  Lời mở đầu Văn bia ở Đền thờ Liệt sĩ Nhơn Trạch.
19

2.10 Page 20

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Về động vật, có nhóm động vật quí hiếm, nguồn gien dự trữ quan
trọng cần bảo tồn, nghiên cứu khoa học, đặc biệt là cá sấu. Có nhóm
động vật phổ quát, có thể săn bắt phục vụ đời sống hoặc làm dược
liệu (nai, heo rừng, nhím, khỉ, kỳ đà, chim, rắn); đặc biệt là các loài
thủy sinh vùng ngập mặn như cá nâu, cá dứa, vọp, chem chép, sam,
tôm, cua ... Nhiều động vật không xương thuộc hệ côn trùng cũng rất
phong phú, ấn tượng trong đời sống (như đom đóm, kiến, mối ...).
Theo lời kể của các cụ cao tuổi ở Vĩnh Thanh, khoảng đầu và giữa
thế kỷ XX, khu vực này có khá nhiều cọp. Chúng sống trên rừng, ít
khi về khu có dân cư, nhưng thỉnh thoảng bị đói vẫn mò ra bắt gia
súc. Có lần, cọp mò vào nhà ông Trần Văn Minh ở ấp Xoài Minh
vồ con chó giữ nhà. Ông Minh vốn là người dân tộc Nùng, rất giỏi
võ, thừa lúc cọp đang chụp con chó, ông nhanh nhẹn thoát được ra
ngoài, lừa thế đóng cổng rào khiến cọp không ra được rồi ông chạy
đến nhà ông Mười Huỳnh ở gần đó. Ông Mười Huỳnh là người duy
nhất trong làng có súng, nghe tin báo ông xách súng chạy đến nhà
ông Minh bắn chết cọp, rồi lột da treo trong nhà.
Cũng theo lời kể của các cụ, sông Ông Kèo xưa kia nhiều cá sấu
nhưng chúng không bắt hay là ăn người. Chỉ từ sau khi thực dân
Pháp tái chiếm Vĩnh Thanh, thường vô cớ bắn giết người rồi liệng
xác xuống sông, đám cá sấu ở đây ăn xác những người dân vô tội
xấu số, “ăn quen bén mùi” nên sau này thường rình quắp và lôi người
xuống sông. Trong giai đoạn kháng chiến, nhiều chiến sĩ, bộ đội đặc
công Rừng Sác và cả thường dân khi qua lại, di chuyển trên khúc
sông này đã bị mất mạng bởi bọn “giặc sấu”.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Thực vật cũng đa hệ, đa tầng, đa dạng; đáng kể là thảm thực vật
ven sông rạch thích ứng với nước mặn - nước ngọt - nước lợ theo
nhịp thủy triều. Các hệ thực vật tự nhiên phân bổ theo hệ sinh thái
rừng. Có hai hệ rừng, dân gian gọi là “rừng giồng và Rừng Sác”.
Rừng giồng bao quát ở vùng cao, một bộ phận rừng giồng trong
kháng chiến được gọi là “khu Lòng Chảo”. Rừng giồng thuộc hệ
rừng lá rộng thường xanh ẩm nhiệt đới, đặc điểm là cây họ dầu
chiếm ưu thế, vượt tán, thành chòm, thành cụm hoặc lán; gồm nhiều
cây “họ hàng” như: Dầu song nàng, dầu rái, sao đen, chai, vên vên.
Bên cạnh các loài cây họ dầu còn có các cây gỗ mọc hỗn giao, có loại
quí hiếm như gõ, trắc, cẩm lai, giáng hương; thường là các loài cây
phổ quát như bình linh, bằng lăng, trâm.
Trong mỗi tầng rừng đều có các loài phụ sinh họ đậu, họ dây leo
nương theo cây cỏ cùng phát triển. Ở tầng thảm tươi, một số nơi, dân
địa phương còn gieo trồng thêm thơm (dứa), trà và một số loại cây
khác để khai thác, sử dụng.
Rừng Sác ở địa bàn xã Vĩnh Thanh thuộc rừng ngập mặn cùng hệ
sinh thái đặc biệt ở vùng cửa sông Đồng Nai chảy ra biển, như ở Cần
Giờ, Vũng Tàu. Rừng Sác hình thành do các nhánh sông trước khi
hợp lưu chia cắt các vùng đất thành nhiều đảo nhỏ, chịu tác động của
thủy triều lên xuống, đất bùn lầy lội, mặn nhiều, nên chỉ phát triển
các loài cây phù hợp đất nhiễm mặn. Ưu thế của Rừng Sác là cây
đước, đước mọc dày đặc, bịt bùng, hợp thành chòm, lán, cùng các
cây khác thành các tổ hợp: Đước - bần, đước - vẹt - mắm, đước - dà
vôi - mắm. Cùng với đước, còn có các loại cây phù hợp với địa thế
cao, không thường xuyên ngập mặn, như dừa nước, chà là, ráng.
21

3.2 Page 22

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Xã Vĩnh Thanh có thể nói là do nằm ở điểm tiếp giáp giữa rừng
giồng và Rừng Sác, vì thế mang cả đặc điểm của hai hệ sinh thái, dẫn
đến đa dạng và phong phú.
7. Vị trí chiến lược
Với điều kiện tự nhiên, địa thế cùng hệ thống sông rạch thuận lợi
cho phát triển kinh tế và dân sinh, Vĩnh Thanh không chỉ giàu đẹp
mà còn là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng của huyện Nhơn
Trạch. Nhơn Trạch như là điểm giao 3 góc của tam giác Thành phố
Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu; là trung tâm kết nối của vùng
động lực Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa, Long Thành - Bình
Dương - Bà Rịa Vũng Tàu - Long An; bằng đường biển, đường sông,
đường bộ, đường hàng không (sân bay quốc tế Long Thành) đều
thuận lợi. Vĩnh Thanh nằm trên vòng cung trục lộ 19 nối với lộ 17
tại ngã ba Phước Thiền chạy ra khu vực xã Đại Phước tạo ra khu
Lòng Chảo nối tiếp với Rừng Sác mênh mông, ôm gọn sông Lòng
Tàu, thông với Cần Giờ ra biển khơi, tiếp cận hải phận quốc tế. Vĩnh
Thanh là một trong những địa điểm “huyết mạch” bao quanh lòng
chảo Chiến khu Phước An, cùng với vị trí thuận lợi trong giao thông
đường thủy đồng thời nằm cạnh kho đạn Thành Tuy Hạ, đã trở thành
một trong những vị trí chiến lược quan trọng ở Nhơn Trạch mà cả
địch lẫn ta đều muốn chiếm giữ.
II. Các di tích khảo cổ
Theo tài liệu ghi chép của các nhà khảo cổ1, Nhơn Trạch xưa in
dấu người tiền sử ở địa bàn rộng khắp vùng đất ven sông Thị Vải,
1  Phạm Đức Mạnh, Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, NXB
Đồng Nai, 2019.
22

3.3 Page 23

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
sông Đồng Nai, gắn với các địa danh Đồng Tranh, Thất Giang, Rạch
Thiềng Liềng, Cây Mắm, Thành Tuy Hạ, Phước Thiền, Phước Thọ,
Phước Khánh, Phước Kiển, Vũng Gấm, Bà Trường, Phước An, Phú
Hội, Lòng Tàu, Ông Kèo... Trong đó, di chỉ khảo cổ ở khu vực Ông
Kèo thuộc ấp Chính Nghĩa, xã Vĩnh Thanh được xác định là di tích
của người xưa từng đã sinh sống ở Nhơn Trạch từ nhiều ngàn năm
trước. Đó chính là di tích Gò Me.
Di tích Gò Me1 thuộc xã Vĩnh Thanh, nằm trên dãy gò cát rộng
khoảng 10 hecta, cách sông Ông Kèo về hướng Đông Bắc khoảng 1
km; không xa di tích Rạch Lá (thuộc xã Phước An), di tích Cái Vạn,
Cái Lăng (thuộc xã Long Thọ).
Ngày 15.7.2004, Bảo tàng Đồng Nai phối hợp với Trung tâm
Nghiên cứu khảo cổ vùng Đông Nam Bộ tổ chức khai quật 9 hố kỹ
thuật với diện tích 204m2 tại di tích Gò Me. Cùng với nhiều hiện
vật thu được gồm đồ đá, đồ kim loại, đồ gốm, gỗ, xương đồng dạng
với hiện vật ở Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, đặc biệt các nhà khảo
cổ còn phát hiện tại di tích Gò Me 2 bộ di cốt người ở tầng văn hóa
sâu khoảng 60cm. Bộ di cốt số 1 cao khoảng 1,67m, còn 2 răng và
gần như đủ bộ xương (chỉ thiếu xương cánh tay trái và 2 xương
đùi). Bộ di cốt số 2 cách vị trí di cốt số 1 khoảng 3m, ước chiều cao
khoảng 1,53m, hàm răng còn tương đối đều, bộ cốt còn tương đối
nguyên vẹn.
1  Theo tài liệu “Khai quật di tích Gò Me” của Lưu Văn Du, “Những phát hiện
mới về khảo cổ học năm 2004”, NXB Xã hội, 2004, trang 169 - 170.
23

3.4 Page 24

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Bảo tàng Đồng Nai đưa 2 bộ di cốt này về bảo tàng, cùng các nhà
chuyên môn giám định, nghiên cứu cả hình thức mộ táng và đồ tùy
táng khác. Kết quả nghiên cứu và giám định C14 cho thấy: Hai di cốt
nêu trên là chủ nhân của hiện vật văn hóa đã khai quật, sống cách đây
hơn 3.000 - 2.500 năm, thuộc “Hậu kỳ Kim khí”.
Hai bộ di cốt lần đầu tiên phát hiện chưa đủ để trả lời về chủ nhân
văn hóa thời tiền sử ở Nhơn Trạch, nhưng qua đó cũng có thể hình
dung về đời sống của cộng đồng người nơi đây.
Các nhà khảo cổ khẳng định từ hơn 3 ngàn năm trước người tiền
sử đã tổ chức đời sống đạt trình độ văn minh cao liền mạch từ thời
đồ đá đến kim khí ở vùng đất Nhơn Trạch. Họ từng bước thích ứng
với môi trường (làm nhà sàn trên vùng ngập nước), ngoài phương
thức kinh tế săn bắn, hái lượm, cư dân có biết làm ruộng, đánh bắt
thủy - hải sản; biết dệt vải, chế tác công cụ lao động bằng đá, gỗ,
gốm, đồng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. “Cư
dân cổ” từ địa bàn này đã trở thành lớp cư dân tiền trạm, mở cửa
thông ra biển để chuyển tải những sản phẩm văn hóa kim khí vùng
châu thổ sông Đồng Nai đến các vùng phụ cận, gần nhất là khu vực
sông Vàm Cỏ và châu thổ sông Cửu Long lúc ấy đang trên quá trình
bồi tụ hình thành.
Thời này đã xuất hiện tầng lớp thợ thủ công biết khai thác, trao
đổi vỉa mỏ lộ thiên, biết chế tác công cụ bằng sừng, biết tạo tác đá có
cấu tạo hạt mịn và kiến trúc hạt (hoặc hạt vảy). Ngoài loại hình cư
trú trên nhà sàn, còn có loại hình “làng cổ” cư trú trên những giồng,
gò nhiều cát sỏi như ở Gò Me (Miếu Ông Kèo) ở ấp Chính Nghĩa (xã
Vĩnh Thanh), Gò Ông Năm Châu (Đồng Ông Trúc) ở xã Phước An.
24

3.5 Page 25

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Chứng lý từ hệ thống hiện vật cũng ghi nhận người Nhơn Trạch thời
“hậu kỳ Đồng - sơ kỳ Sắt” liên tục “bám biển”, kiến tạo nhiều điểm
tụ cư “chài - nông - thương” mang vóc dáng “chi cảng” hay những
“tiền cảng thị” cỡ lớn để giao thương với nhiều trung tâm văn hóa -
kỹ thuật khác nội vùng và ngoại vùng.
Qua đó có thể xác định Vĩnh Thanh với vị trí đặc biệt thuận lợi,
nhất là giao thông thủy, cùng với hệ sinh thái dồi dào, phong phú đã
là nơi cư trú của lớp cư dân cổ từ rất sớm.
III. Đời sống kinh tế - xã hội
1. Quá trình hình thành và thay đổi về hành chính
Đất đai do thiên nhiên kiến tạo. Lịch sử hành chính do con người
hình thành. Thời tiền sử đã lùi xa, không còn dấu vết về tổ chức của
cộng đồng. Hành chính nêu ở đây thuộc giai đoạn từ khi người Việt
đến khai khẩn, sinh sống. Cột mốc hành chính được nhắc đến là năm
1698 khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn vào kinh lý
phương Nam. Trước đó, vùng đất Nhơn Trạch đã có sự sống của cư
dân Việt, nhưng chưa có địa danh hành chính.
Năm 1698, chúa Nguyễn Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần) phái
Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phương Nam. Nguyễn
Hữu Cảnh đã thiết lập hệ thống hành chính, đặt miền đất mới (cả
phương Nam thời ấy) thành phủ Gia Định, gồm hai huyện Tân Bình
(đặt dinh Phiên Trấn) và Phước Long (đặt dinh Trấn Biên). Trong đó,
huyện Phước Long có địa giới hành chính rất rộng, bao gồm các tỉnh
phía Đông sông Sài Gòn ngày nay như: Đồng Nai, Bình Dương, Bình
Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và một phần tỉnh Bình Thuận, Thành phố
25

3.6 Page 26

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Hồ Chí Minh. Vùng đất Nhơn Trạch thuộc địa bàn dinh Trấn Biên,
huyện Phước Long.
Năm 1778, Nguyễn Ánh làm chủ vùng đất Gia Định, nhiều lần
chống cự với quân Tây Sơn, bôn ba nhiều nơi, đến năm 1780 xưng
vương, tập trung tổ chức lực lượng để chuẩn bị tiến quân diệt nhà
Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, giành
vương quyền, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long.
Vua Gia Long chia đất Gia Định thành 5 dinh: Trấn Biên, Phiên
Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định và trấn Hà Tiên. Ngày 12 tháng Giêng
niên hiệu Gia Long thứ 7 (năm 1808), phủ Gia Định được đổi tên là
thành Gia Định, các dinh đổi thành trấn, trong đó dinh Trấn Biên đổi
thành trấn Biên Hòa, huyện Phước Long được nâng thành phủ. “Đó
là căn cứ vào đất đai rộng hay hẹp, dân cư nhiều hay ít và thế đất liền
nhau mà chia đều ra. Lại đặt thêm tổng và phân chia giới hạn”1. Tuy
nhiên, vẫn chưa có tài liệu nào đề cập đến cấp hành chính: tổng, xã,
thôn ở thời điểm này.
Sách Phủ Biên tạp lục2 của Lê Quí Đôn (năm 1766) có nêu về địa
danh các vùng đất cận lân với Nhơn Trạch (Bà Rịa, Bến Nghé, Cần
Giờ, Mô Xoài). Nhơn Trạch chưa có tên nhưng vùng đất ắt đã định
hình.
Sách Gia Định Thành thông chí3 của Trịnh Hoài Đức (viết khoảng
năm 1820) có kê chi tiết các đơn vị hành chính của trấn Biên Hòa.
1  Gia Định Thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 133.
2  Lê Quí Đôn, Phủ Biên tạp lục, bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần, NXB
Giáo dục, 2007.
3  Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, bản dịch của Lý Việt Dũng,
NXB Đồng Nai, 2005.
26

3.7 Page 27

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Theo đó, trấn Biên Hòa gồm 1 phủ (Phước Long), 4 huyện (Phước
Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An), 8 tổng (Phước Vinh,
Chánh Mỹ, Bình Chánh, An Thủy, Long Vĩnh, Thành Tuy, An Phú,
Phước Hưng) và 307 xã, thôn, phường. Vùng đất Nhơn Trạch, trong
đó có Vĩnh Thanh, thuộc tổng Thành Tuy (mới đặt).
Tổng Thành Tuy được mô tả: Phía Đông giáp núi Nữ Ni (tức
núi Thị Vải) thuộc tổng An Phú (huyện Phước An) đến cửa sông
Ngã Bảy (còn có tên gọi là Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trao Trảo
(thuộc tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành) cho đến sông lớn Nhà
Bè; Nam giáp Phước Bình giang (tức sông Sài Gòn); Bắc giáp các
sách man ở rừng già cho đến sông Đồng Môn1.
Năm 1832, trấn Biên Hòa được đổi thành tỉnh Biên Hòa. Theo
Địa bạ tỉnh Biên Hòa năm 1836, tỉnh Biên Hòa cũng gồm 1 phủ,
4 huyện như trước đó, nhưng số tổng đã nâng từ 8 lên 22 tổng; số
thôn, xã giảm từ 307 còn 285 là do sáp nhập một số thôn, xã nhỏ lại2.
Trong đó, tổng Thành Tuy được chia thành 2 tổng, là tổng Thành
Tuy Thượng (gồm 12 thôn) và tổng Thành Tuy Hạ (gồm 13 thôn,
ấp). Vùng đất Nhơn Trạch thuộc địa bàn tổng Thành Tuy Hạ (huyện
Long Thành). 13 thôn, ấp có tên ứng với địa bàn Nhơn Trạch, gồm:
thôn Bình Phú, thôn Lương Phú Đông, thôn Hưng Thạnh, ấp Mỹ
Hội, thôn Long Hiệu, thôn Phú Mỹ, thôn Phước Kiển, thôn Phước
Thạnh, thôn Vĩnh Tuy, thôn Phước Lai, thôn Tân Tường, thôn Phước
Thành, thôn Tuy Thạnh.
1  Gia Định Thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 139.
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai 2001, trang 248.
27

3.8 Page 28

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Theo Đại Nam nhất thống chí1 (biên soạn từ 1865 - 1882), vùng
đất Nhơn Trạch vẫn thuộc huyện Long Thành. Năm Gia Long thứ
7 (1808) đặt huyện Long Thành thuộc phủ Phước Long. Năm Minh
Mạng thứ 18 (1837), cải đổi Long Thành thuộc phủ Phước Tuy.
Không thấy các tài liệu này ghi cụ thể về thôn, ấp.
Thời ấy, việc phân định thôn, làng, xã chưa chặt chẽ, xóm ấp cũng
thế. Người ta gọi không phân biệt làng, thôn, xã; có khi thôn lớn hơn
xã. Tên xóm, ấp thường gắn với đặc điểm tự nhiên ở Nhơn Trạch như
gò (Gò Keo, Gò Da), giồng (Giồng Cát Lái), rạch (Rạch Bãi, Rạch
Ngựa), cù lao, tắt (Tắt Hông), hang (Hang Nai); hoặc địa danh gắn
với các vị tiền hiền khai khẩn khai cơ (cù lao Ông Cồn, Bà Bông, Bà
Trường, vàm Ông Mai, rạch Ông Kèo)...
Tổ chức làng xã như mô hình làng xã Nam Bộ. Mỗi làng xóm có
ban hương chức hội tề, hoạt động mang tính tự quản theo qui định
nghiêm nhặt của triều Nguyễn gồm 12 người: 1. Hương cả (còn có
tên gọi là Cai chủ, Trùm cả, Trùm trưởng, Cả trưởng, Hương nhất...)
là người đứng đầu Hội đồng kỳ mục, được quyền đề cử nhân sự vào
Hội đồng. 2. Hương chủ (còn có tên gọi là Hương nhì): là người
đứng thứ hai trong Hội đồng kỳ mục, chịu trách nhiệm luật lệ, được
quyền phân xử các vụ việc khiếu kiện. 3. Hương sư: là người làm
nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. 4. Hương chánh: là người làm nhiệm
vụ thu thuế, chi xuất, phân công sai phái công vụ. 5. Hương quản: là
người chuyên trách giữ gìn an ninh trật tự, kiểm tra nhân khẩu trong
làng xã. 6. Hương giáo: là người trông coi việc giáo dục tại làng xã,
1  Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, NXB Thanh Niên,
2012.
28

3.9 Page 29

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đôi khi có thể giúp Thôn trưởng thu thuế. 7. Hương thân: là người
làm nhiệm vụ giáo hóa thuần phong mỹ tục. 8. Hương hào: là người
làm nhiệm vụ tuần phòng, kiểm tra an ninh trật tự. 9. Thôn trưởng
(còn có tên gọi là Xã trưởng): là người làm nhiệm vụ trung gian giữa
Hội đồng kỳ mục địa phương và chính quyền cấp trên; là người thừa
hành công vụ thu các loại thuế, chi xuất nhu phí, giữ con dấu và được
phép giải quyết các vụ việc trong phạm vi cho phép. 10. Lý trưởng:
là người giữ chức vụ trưởng một lý (một xóm) phụ tá Thôn trưởng,
chỉ huy đội dân canh và thúc giục dân đinh đóng thuế. 11. Trưởng
ấp, Giáp thủ, Trưởng phường, Cai lân: là những người phụ tá Thôn
trưởng, giữ gìn sổ bộ của ấp, giáp, phường, lân. 12. Cai tuần: là đội
trưởng dân tuần phòng.
Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông của Nam
Kỳ (Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long). Tỉnh Biên Hòa thất thủ, rơi
vào tay giặc Pháp. Ngày 9.5.1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm
Tuất, nhượng đứt cho Pháp 3 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.
Thời điểm này, tuy triều đình Huế cắt đất giao cho giặc, nhưng lòng
dân và các sĩ phu, nghĩa binh yêu nước không phục. Vì thế, bước
đầu thực dân Pháp phải lo ổn định các vùng tạm chiếm, tạm thời giữ
nguyên các đơn vị hành chính của triều đình Nguyễn như trước đây,
có điều chỉnh và gieo cấy nhân sự để thực hiện ý đồ xâm chiếm.
Tháng 1.1863, soái phủ Nam Kỳ xác định tỉnh Biên Hòa gồm
2 phủ, 4 huyện như cũ, các thôn được đổi thành làng. Riêng tổng
Thành Tuy Hạ có 21 làng, xã, tăng 8 làng, xã so với năm 1836. Thời
này vùng đất Nhơn Trạch thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long
Thành, phủ Phước Tuy.
29

3.10 Page 30

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Năm 1864, Đô đốc Lagrandière 1chia 3 tỉnh miền Đông của Nam
Kỳ thành 7 tiểu khu chỉ huy, trong đó tỉnh Biên Hòa chia thành 2 tiểu
khu: Biên Hòa và Bà Rịa. Việc phân chia lãnh thổ này chủ yếu phục
vụ ý đồ quân sự của giặc Pháp.
Đến năm 1865, thực dân Pháp bắt đầu ổn định sự cai trị tại 3 tỉnh
miền Đông của Nam Kỳ, đã chia 3 tỉnh này thành 13 sở tham biện
(tương đương cấp tỉnh). Tỉnh Biên Hòa có 5 sở tham biện, gồm: Biên
Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo Chánh.
Tháng 6.1866, tỉnh Biên Hòa lại chia thành 6 địa hạt (tương đương
cấp quận), gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức, Bình An,
Bảo Chánh.
Sau một vài thay đổi nữa của nhà cầm quyền Pháp, đến năm 1887
theo phân định của chính quyền Pháp, cả Nam Kỳ có 22 sở tham
biện. Ngày 20.12.1899, nhà cầm quyền Pháp đổi tên sở tham biện
thành tỉnh.
Theo Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu 2, sau nhiều lần
thay đổi về hành chính, đến thời điểm năm 1878, tỉnh Biên Hòa
có 17 tổng, 158 làng; trong đó có tên 17 làng thuộc tổng Thành
Tuy Thượng và Thành Tuy Hạ ứng với vùng đất Nhơn Trạch: 1. Mỹ
Khoan (có 1 xóm Chùa Ông); 2. Phước Kiển (Chợ Dường), có Xóm
Trên, Xóm Dưới; 3. Phước Lộc có 6 ấp: Phước Hòa (Trường Dầu),
Phước An (Đồng Môn), Phước Hưng (Quán Tre), Phước Vinh (Xóm
1  Đô đốc Hải quân Pháp Pierre-Paul Marie de La Grandière là Thống soái
Nam Kỳ giai đoạn 1863-1864 và 1866-1868.
2  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Tập I, NXB Thế giới, 2016.
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Bứng), Phước Thạnh (Trảng Mè), Phước Phong (Gò Me); 4. Phước
Lai (Chợ Dỏ), có 1 ấp Phước Hưng (Xóm Chùa); 5. Phước Long
(Chợ Mới), có ấp ông Thiện; 6. Phước Thiền có 5 ấp: Phước Thuận
(Bến Cam), Phước Hòa (Bến Sắn), Phước Tân (Xóm Trầu), Phước
Lợi (chợ Quán), Long Điền (Đồng Điền); 7. Phước Thọ có 4 xóm:
Đồng Lớn, Bàu Nâu, Lão Hợi, Suối Cang; 8. Long Hiệu (Bến Lẫm),
có ấp Long Hòa (vàm Đồng Môn), Xóm Hàng; 9. Lương Thiện
(Rạch Ông Mai) có 4 ấp: Thành Hòa (Rạch Cá), Rạch Bãi, Rạch
Miểu, Rạch Miểng Sành; 10. Mỹ Hội (Hòn Một) có ấp Mỹ Thành
(Giang Lò) và Xóm Bàu Cá; 11. Phú Mỹ có Bến Cam; 12. Phước
An (Rạch Cóc) có 6 ấp: Bàu Bông (Hang Nai), An Cẩm, Bình Quới,
Quới Thạnh, Ba Doi, Tân Lập (Bà Hào); 13. Phước Khánh (Rạch
Ông Thuộc) có 5 ấp: Đông Thạnh (Đá Hàn), Phước Xuân Trung,
Phước Thạnh (Rạch Chà Là Lớn), Phước Hòa (Rạch Chà Là Bé),
Tây Khánh (Ngã Ba Đồng Tranh); 14. Phước Lương (Cảnh Dương)
có 3 ấp: Rạch Cá, Rạch Ông Đông, Rạch Ông Chuốc (Cát Lái); 15.
Phước Lý (Ông Kèo) có 4 ấp: Rạch Giồng, Suối Ngang (Xoài Minh),
Bến Đình, Phước Thành (Rạch Dọp); 16. Phước Thạnh (Suối Nước)
có 4 ấp: Rạch Giồng, Bến Cộ, Bàu Sen, Cù Lao Ông Cồn; 17. Tân
Tường (Rạch Chại) có 2 ấp: Vĩnh Tuy, Bình Phú và 2 xóm Bà Vách,
Rạch Kè.
Như vậy, địa danh hành chính của Vĩnh Thanh ngày nay xuất hiện
sớm nhất chính là làng Phước Lý với 4 ấp: Rạch Giồng, Suối Ngang,
Bến Đình1, Phước Thành (Rạch Dọp2). Trong đó, Suối Ngang thường
1  Bến Đình sau này thuộc địa bàn xã Phú Đông.
2  Rạch Dọp sau này thuộc địa bàn xã Phước Khánh.
31

4.2 Page 32

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
được người dân địa phương gọi là lân1, bao gồm khu vực 2 ấp Ông
Kèo, Xoài Minh.
Trong giai đoạn từ khi thực dân Pháp bắt đầu đặt nền móng cai
trị từ năm 1864 đến năm 1945, các làng, xã của tỉnh Biên Hòa nhiều
phen nhập, tách2. Theo các nguồn tài liệu, có thể lập Bảng đối chiếu
các làng, thôn, xã thuộc Thành Tuy Thượng, Thành Tuy Hạ (ứng với
địa bàn Nhơn Trạch) từ năm 1881 đến 1936.
1  Lân là tên gọi hành chính, ngang với ấp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có câu
“Chẳng qua là dân ấp, dân lân/ Mến nghĩa làm quân chiêu mộ”.
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai 2001.
32

4.3 Page 33

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
BẢNG ĐỐI CHIẾU CÁC LÀNG THUỘC
TỔNG THÀNH TUY THƯỢNG VÀ THÀNH TUY HẠ
Bản đồ
Boilloux
Năm 1881
(Từ năm 1881 đến 1939)
Lịch
An Nam Monographie Monographie
thông dụng
Năm 1897 Năm 1901 Năm 1924
Thời sự
cẩm nang
Năm 1939
TỔNG
TỔNG
TỔNG
TỔNG
TỔNG
THÀNH TUY THÀNH TUY THÀNH TUY THÀNH TUY THÀNH TUY
THƯỢNG THƯỢNG THƯỢNG THƯỢNG THƯỢNG
(8 làng)
(11 làng)
(9 làng)
(15 làng)
(8 xã)
Long Thuận Long Thuận Long Thuận Long Thuận Long An
Phước Tân An Lâm
An Lâm
An Lâm
Phước Mĩ
Phước Lộc Phước Lộc Phước Lộc Phước Kiển Phước Lai
Tập Phước Thanh Nguyên Phước Nguyên Mỹ Khoan Phước Lộc
Khánh Lâm Phước Thái Phước Thái Phước Lai Phước Thiền
Tuy Long Tam Thiện Tam Thiện Phước Lộc Thái Thiện
Phú Lạc Tập Phước Tập Phước Phước Long Long Phước
Phước Đức Khánh Lâm Khánh Lâm Phước Nguyên Phước Hiệp
Tuy Long Tuy Long Phước Thái
Phú Lạc
Phước Thiền
Phước Đứ
Phước Thọ
Tam Thiện
Tập Phước
Tuy Long
Long Thành
33

4.4 Page 34

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Bản đồ
Boilloux
Năm 1881
Lịch
An Nam Monographie Monographie
thông dụng
Thời sự
cẩm nang
Năm 1897 Năm 1901 Năm 1924 Năm 1939
TỔNG
TỔNG
TỔNG
TỔNG
TỔNG
THÀNH TUY THÀNH TUY THÀNH TUY THÀNH TUY THÀNH TUY
HẠ
HẠ
HẠ
HẠ
HẠ
(15 làng) (19 làng) (19 làng) (11 làng)
(6 làng)
Phước An Phước An Phước An Phước An Phước An
Phước Lý Phước Lý Phước Lý Phước Lý Phước Lý
Phước Khánh Phước Khánh Phước Khánh Phước Khánh Phước Khánh
Phước Thạnh Phước Thạnh Phước Thạnh Phước Thạnh Phước Thạnh
Long Hiệu Long Hiệu Long Hiệu Long Hiệu Phú Hội
Phước Lương Phước Lương Phước Lương Phước Lương
Tân Lương Tân Lương Tân Lương Tân Lương
Mỹ Khoan Mỹ Khoan Mỹ Khoan Mỹ Hội
Lương Thiện Mỹ Hội
Mỹ Hội
Phú Mỹ
Bình Quới Phú Mỹ
Phú Mỹ
An Phú
Lung Điền An Phú
An Phú Lương Thiện
Phước Kiển Lương Thiện Lương Thiện
Phước Lai Bình Quới Bình Quới
Phước Thiền Long Điền Long Điền
Phước Thọ Phước Kiển Phước Kiển
Phước Lai Phước Lai
Phước Long Phước Long
Phước Thiền Phước Thiền
Phước Thọ Phước Thọ
34

4.5 Page 35

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Thời kỳ 1945 - 1954, về phía Pháp và chính quyền Bảo Đại, hành
chính tỉnh Biên Hòa có một thay đổi: Quận Bà Rá đổi thành quận
Sông Bé (1951) cắt về tỉnh Thủ Dầu Một, diện tích tỉnh Biên Hòa
còn 8.800km2. Vùng đất Nhơn Trạch vẫn nguyên tổ chức hành chính
như trước.
Về phía chính quyền kháng chiến, tháng 5.1951, Trung ương Cục
miền Nam phân chia lại chiến trường Nam Bộ thành Phân liên khu
miền Đông Nam Bộ và Phân liên khu miền Tây Nam Bộ, lấy sông
Tiền làm ranh giới, bố trí lại các tỉnh cho phù hợp. Theo đó, tỉnh Biên
Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một hợp nhất thành tỉnh Thủ Biên; Bà Rịa và
Chợ Lớn thành tỉnh Bà - Chợ. Lúc này, huyện Long Thành (bao gồm
Nhơn Trạch) thuộc tỉnh Bà - Chợ.
Dưới chế độ Sài Gòn, giai đoạn từ tháng 7.1954 đến tháng 4.1975
có nhiều thay đổi hành chánh, theo hướng chia nhỏ địa bàn để dễ cai
trị. Từ cuối năm 1956, tỉnh Biên Hòa tách ra, thêm tỉnh Long Khánh
(lập 2 quận Xuân Lộc và Định Quán thuộc tỉnh Long Khánh). Từ
năm 1957 đến năm 1972, tỉnh Biên Hòa luôn có thay đổi hành chính
về tổng, quận, xã (năm 1963 bỏ cấp tổng).
Ngày 9.9.1960, quận Nhơn Trạch được thành lập trên cơ sở tách
ra từ quận Long Thành, theo Nghị định 858-NV của chính quyền
Ngô Đình Diệm. Theo Lương Văn Lựu1, tên gọi Nhơn Trạch có lẽ
lấy từ chữ trong cổ thư Nhân nhân quân tử, Trạch tâm trung hậu”2.
1  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược.
2  Có người giải nghĩa: “Nhơn Trạch là vùng đất thấm đẫm nghĩa nhân”. Cũng
có người cho rằng lấy tên từ vùng đất cố hương, một cách thông dụng của
người Việt đến vùng đất mới (tên một xã ở Quảng Bình: Nhân Trạch).
35

4.6 Page 36

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Quận mới Nhơn Trạch gồm 2 tổng với 12 xã: Phú Hội, Phước Thọ,
Phước Long, Phước Lai, Phước Mỹ, Phước Thiền (thuộc tổng Thành
Tuy Thượng), Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh
Thanh, Long Tân (thuộc tổng Thành Tuy Hạ).
Từ Địa phương chí1 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, diễn
biến thay đổi hành chính cấp xã vùng đất Nhơn Trạch có thể lập bảng
kê như sau:
1957
1960
1963
1965
1972
Quận
Quận
Quận
Quận
Quận
Long Thành Nhơn Trạch Nhơn Trạch Nhơn Trạch Nhơn Trạch
* Tổng Thành * Tổng Thành Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Tuy Thượng Tuy Trung Phước Thọ Phước Thọ Phước Thọ
Phú Hội
Phú Hội Phước Long Phước Long Phước Long
Phước Thọ Phước Thọ Phước Lai Phước Lai Phước Lai
Phước Long Phước Long Phước Mĩ Phước Mĩ Phước Mĩ
Phước Lai Phước Lai Phước Thiền Phước Thiền Phước Thiền
Phước Mĩ Phước Mĩ Phú Thạnh Phú Thạnh Phú Thạnh
Phước Thiền Phước Thiền Đại Phước Đại Phước Đại Phước
* Tổng Thành * Tổng Thành Phú Hữu Phú Hữu Phú Hữu
Tuy Hạ
Tuy Hạ Phước Khánh Phước Khánh Phước Khánh
Phước An Phú Thạnh Vĩnh Thanh Vĩnh Thanh Vĩnh Thanh
Phú Thạnh Đại Phước Long Tân Long Tân Long Tân
Đại Phước Phú Hữu
Phú Hữu Phước Khánh
Phước Khánh Vĩnh Thanh
Vĩnh Thanh Long Tân
Long Tân
1  Công báo VNCH, Trung tâm Lưu trữ TW 2.
36

4.7 Page 37

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Về phía chính quyền cách mạng, từ tháng 7.1954 đến tháng 4.1975
do yêu cầu của chiến trường, cũng có nhiều thay đổi. Tháng 5.1955,
tỉnh Thủ Biên tách thành hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một như cũ.
Tháng 9.1960, lập lại tỉnh Thủ Biên từ Biên Hòa và Thủ Dầu Một
như trước. Sau đó, lập tỉnh Long Khánh tách từ một phần tỉnh Biên
Hòa (từ tháng 10.1960 đến tháng 3.1963). Tháng 7.1961, tỉnh Biên
Hòa tách thành ba tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Phước Thành.
Từ ngày 3.12.1963, 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh nhập lại
thành tỉnh Bà - Biên. Từ tháng 12.1963 đến tháng 12.1966, lại tách
tỉnh Bà - Biên thành hai tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa - Long Khánh.
Về cấp hành chính, chính quyền tay sai của thực dân Pháp và
chính quyền Sài Gòn sau này đều giữ nguyên Long Thành là cấp
quận1. Tuy nhiên, từ năm 1948, chính quyền cách mạng chuyển gọi
quận là huyện, trong đó huyện Long Thành thuộc tỉnh Biên Hòa. Vì
vậy, cùng là vùng đất Long Thành nhưng có 2 cách gọi về cấp hành
chính khác nhau.
Từ năm 1954 - 1960, vùng đất Nhơn Trạch vẫn thuộc huyện Long
Thành. Cuối tháng 12.1960, Tỉnh ủy quyết định tách Long Thành ra
hai huyện, lập huyện Long Thành và huyện Nhơn Trạch (gồm các xã
như phân định của chính quyền Diệm).
Từ tháng 1.1965, Tỉnh ủy đã chia Biên Hòa thành 2 đơn vị trực
thuộc tỉnh: Thị xã Biên Hòa (gọi là U1) và Biên Hòa nông thôn (gồm
các huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu và khu vực Trảng
1  Khi chính quyền Sài Gòn tách Nhơn Trạch ra khỏi Long Thành, cả 2 địa
phương đều là cấp quận: quận Long Thành và quận Nhơn Trạch.
37

4.8 Page 38

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Bom). Đến tháng 10.1967, Trung ương cục quyết định giải thể Khu
7, lập các phân khu; Long Thành, Nhơn Trạch thuộc Phân khu 4 (địa
bàn Phân khu 4 gồm cả vùng cao su Bình Sơn, sở SIPH và một số
xã Nam Thủ Đức). Đến tháng 5.1971, huyện Long Thành (bao gồm
Nhơn Trạch) được nhập về Phân khu Bà Rịa - Long Khánh. Cho
đến khi lập lại tỉnh Biên Hòa và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (tháng
10.1972), Long Thành, Nhơn Trạch mới trở lại thuộc tỉnh Biên Hòa.
Khi tỉnh Biên Hòa được tách làm hai, lập “thành phố Biên Hòa’ và
“tỉnh Biên Hòa nông thôn”, Nhơn Trạch thuộc địa bàn của tỉnh Biên
Hòa nông thôn cho đến ngày thống nhất đất nước.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất,
Trung ương Cục có Quyết định số 16/QĐ.75 (ngày 20.9.1975) giải
thể các khu, phân khu, sáp nhập một số tỉnh thành các tỉnh mới. Theo
đó, đầu năm 1976, các tỉnh Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa - Long Khánh
được hợp nhất, lấy tên là tỉnh Đồng Nai. Tỉnh Đồng Nai gồm 1 thành
phố Biên Hòa, 1 thị xã Vũng Tàu, 9 huyện: Thống Nhất, Vĩnh Cửu,
Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành, Châu Thành, Long Đất, Xuyên
Mộc, Duyên Hải; trong đó Nhơn Trạch và Long Thành được nhập
lại thành huyện Long Thành.
Ngày 23.6.1994, Chính phủ có Nghị định 51/CP chia huyện Long
Thành thành 2 huyện mới: Long Thành và Nhơn Trạch. Các xã trực
thuộc huyện Nhơn Trạch gồm: Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân,
Phú Thạnh, Đại Phước, Phước An, Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Long
Thọ, Hiệp Phước, Phú Hữu, Phú Đông.
Cùng với những thay đổi về địa danh, ranh giới hành chính nói
trên, Vĩnh Thanh cũng có sự thay đổi tương tự. Trong giai đoạn
38

4.9 Page 39

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
kháng chiến chống Pháp, làng Phước Lý được gọi là xã Phước Lý,
địa giới hành chính từ khu vực Câu Kê đến giáp xã Phước An, gồm
2 ấp Ông Kèo và Xoài Minh. Khu vực này lúc ấy đa phần là rừng
rậm tự nhiên, dân cư thưa thớt, người dân chỉ có khoảng 50 hộ sống
tập trung chủ yếu ở ấp Ông Kèo (nay là ấp Chính Nghĩa), khu vực
Gò Me và Xoài Minh (nay là ấp Thanh Minh). Năm 1955, sau Hiệp
định Genève chính quyền Ngô Đình Diệm chủ trương đưa dân di cư
(phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo) từ phía Bắc vào định
cư ở miền Nam, trong đó có khoảng hơn 7.000 người được đưa về
Nhơn Trạch, chủ yếu định cư ở Vĩnh Thanh, từ đó mở rộng địa giới
hành chính của xã cũng như lập thêm các ấp mới.
Theo Địa chí Đồng Nai, năm 1957 chính quyền Sài Gòn tách một
phần xã Phước Thạnh và một phần xã Phước Lý (gọi là ấp Phước
Lý) thành lập nên xã Đại Phước. Phần còn lại của xã Phước Lý trở
thành xã mới Vĩnh Thanh, gồm 2 ấp cũ là Ông Kèo, Xoài Minh và
8 ấp mới: Bắc Thần, Bắc Minh, Nghĩa Yên, Đại Điền, Thiết Nham,
Vĩnh Phước, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Mỹ. Như vậy, tên gọi Vĩnh Thanh
xuất hiện từ thời điểm này.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chính quyền Việt Nam
Cộng hòa tách xã Vĩnh Thanh thành 2 xã: xã Vĩnh Thạnh (từ giáp xã
Phước An đến ấp Ông Kèo, gồm 7 ấp: Vĩnh Phước, Ông Kèo, Đại
Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Mỹ, Nhà Máy, Thiết Nham) và xã Nhơn
Thanh (từ ấp Đại Điền đến giáp xã Đại Phước, có thêm ấp Bến Đình
của xã Đại Phước, gồm 4 ấp: Bắc Thần, Xoài Minh, Nghĩa Yên, Bắc
Minh). Phía cách mạng không công nhận sự phân chia này. Sau ngày
đất nước thống nhất, chính quyền cách mạng sáp nhập 2 xã này lại và
39

4.10 Page 40

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
tiếp tục giữ tên cũ là xã Vĩnh Thanh cho đến nay (từ ấp Hòa Bình đến
ấp Đoàn Kết). Có một thời gian, từ năm 1962 khi chính quyền Ngô
Đình Diệm xây dựng ấp chiến lược ở xã Vĩnh Thanh đã sáp nhập ấp
Quới Thạnh vào địa bàn xã Vĩnh Thạnh (có 8 ấp), sau ngày đất nước
thống nhất ấp Quới Thạnh thuộc về địa bàn xã Phước An.
Hiện nay, xã Vĩnh Thanh có 10 ấp: Hòa Bình, Thanh Minh, Vĩnh
Cửu, Sơn Hà, Thành Công, Chính Nghĩa, Đại Thắng, Thống Nhất,
Nhất Trí, Đoàn Kết.
2. Dân cư
Dân cư ở Vĩnh Thanh là quần thể người cư trú thuộc địa bàn Nhơn
Trạch mang đặc điểm chung của dân cư xứ Đồng Nai: Hình thành và
phát triển trong một thời gian dài, bắt đầu từ thế kỷ XVII, do nhiều
đợt chuyển cư từ xứ Bắc, xứ Trung; chung sống với nhau theo quan
hệ họ hàng, làng xóm hoặc nhu cầu sản xuất; phát triển cả hai hướng
tự nhiên và cơ học.
Lịch sử ghi nhận người Việt đến cư trú tại Nam Bộ từ cuộc hôn
nhân của công nữ Ngọc Vạn với vua Cheychetta II của Chân Lạp
năm 1620, từ đó xuất hiện cụm cư dân Việt ở Mô Xoài (nay thuộc
Bà Rịa) và việc Chúa Nguyễn đặt trạm thu thuế vùng Bến Nghé, Nhà
Bè. Chưa thấy sử liệu nào nói về cư dân ở Nhơn Trạch thời gian này,
nhưng ắt là có rải rác thành phần thương nhân, nông dân người Việt
trong hoạt động giao thương đôi bờ dọc theo sông Đồng Nai. Đến
năm 1679, có đợt di dân của người Hoa theo nhóm Trần Thượng
Xuyên lánh nạn nhà Thanh đến xin cư trú ở Bàn Lân, phát triển
thương cảng Cù lao Phố (Biên Hòa), chắc là lớp người này chưa có
điều kiện cư trú ở vùng đất Nhơn Trạch.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Cột mốc đánh dấu dân cư ổn định ở Nhơn Trạch là sự kiện Thống
suất Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống hành chính tại Đồng Nai
vào năm 1698, cùng với những chính sách khuyến khích khẩn hoang
mở đất đã mở đầu cho các cuộc di dân có tổ chức vào miền đất mới.
Từ năm 1698 đến nay, có nhiều đợt chuyển cư từ miền Bắc, miền
Trung vào xứ Đồng Nai (bao gồm cả Nhơn Trạch):
Một là, cuộc di dân khẩn hoang theo chủ trương của các Chúa
Nguyễn, vua Nguyễn từ các tỉnh miền Trung (nhất là vùng Ngũ
Quảng) đến Nam Bộ để khai khẩn đất đai, mở mang bờ cõi. Các đợt
di dân này diễn ra từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, làm xuất hiện
cộng đồng cư dân các làng cổ ven sông với nghề sông nước, ruộng
vườn.
Hai là, các đợt di dân mộ phu đầu thế kỷ XX do các chủ đồn điền
người Pháp đưa dân nghèo từ các tỉnh miền Bắc vào làm công nhân
tại các đồn điền cao su. Các cuộc di dân này làm xuất hiện tầng lớp
công nhân cao su quanh vùng các sở cao su Tân Tường và sở Ông
Cố. Cùng thời gian này, ở Nhơn Trạch hình thành các xứ đạo quy mô
nhỏ ở Phú Hội, Phước Khánh, Phước Lý (Vĩnh Thanh).
Ba là, đợt di dân đồng bào Công giáo các tỉnh miền Bắc vào Nam
theo chủ trương của chính quyền Pháp - Diệm sau Hiệp định Genève
1954. Khoảng hơn 7.000 người được đưa về bố trí nơi ở tại Phú Hội,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh nhưng sau một thời gian ngắn đã tập
trung về vùng Vĩnh Thanh.
Bốn là, các cuộc chuyển cư trong kháng chiến, gồm các cư dân
Tây Nam Bộ tránh các cuộc càn quét, khủng bố của giặc, theo nhịp
41

5.2 Page 42

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chèo đến cư trú, làm ăn và tiếp tục chiến đấu ở vùng đất Nhơn Trạch.
Các cuộc chuyển cư này nhân số không nhiều nhưng mang đến Nhơn
Trạch những nhân tố mới trong sản xuất và đấu tranh. Đó là lý do
giải thích vì sao ở Nhơn Trạch có nhiều bà mẹ, chiến sĩ, cán bộ và
nhiều gia đình, họ hàng có quan hệ mật thiết hoặc có nguồn gốc từ
các tỉnh miền Tây, nhất là vùng Cần Đước của tỉnh Long An.
Năm là, các đợt chuyển cư hồi kết do cán bộ tập kết miền Bắc trở
về sau thống nhất đất nước, mang theo gia đình và kết nối người thân
muốn lập nghiệp vùng đất mới. Cũng phải kể đến lớp người là cán
bộ các ngành từ miền Bắc được tăng cường cho hệ thống chính trị để
giúp việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, tổ chức
đời sống mới ở Nhơn Trạch.
Trong các loại hình di dân nói trên, tuy Vĩnh Thanh không có đồn
điền cao su nên hầu như không có di dân mộ phu, nhưng khoảng năm
1920 có 3 hộ là công nhân cao su về Xoài Minh lập nghiệp, là các
ông: Trần Văn Minh, Nguyễn Văn Lạc và Nguyễn Văn Lãnh. Các
ông Minh, Lạc và Lãnh là người miền Bắc, trong đó ông Lãnh quê ở
Hà Tây, vì gia cảnh nghèo khó nên các ông theo dòng người mộ phu
vào làm ở các đồn điền cao su tại Long Thành, sau đó sớm nhận ra
bản chất bóc lột của chủ sở cao su nên các ông nghỉ ở sở cao su, cưới
vợ là người Xoài Minh và ở lại đây lập nghiệp.
Với bốn loại hình di dân còn lại, dân cư ở Vĩnh Thanh tập trung
chủ yếu vào đợt di dân của đồng bào Công giáo sau năm 1955. Người
Vĩnh Thanh bản địa phổ quát là quần cư theo kênh rạch để hành nghề
đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và trồng trọt. Đồng bào Công giáo di
42

5.3 Page 43

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
cư thì cư trú dọc theo hương lộ 19, sống quần cư trong các giáo xứ.
Các đợt chuyển cư đến Vĩnh Thanh chủ yếu là người Việt, đa tín
ngưỡng, tôn giáo; nối tiếp nhau, đan xen nhau, lớp trước lớp sau
cùng đoàn kết, ái quốc, lao động và đấu tranh bền bĩ góp sức xây
dựng và bảo vệ quê hương Nhơn Trạch.
3. Đời sống sản xuất
Từ lúc khẩn hoang mở đất đến trước ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng, thống nhất đất nước 30.4.1975, nhân dân Vĩnh Thanh
sống trong môi trường nông nghiệp, nông thôn; vừa sản xuất vừa đấu
tranh bảo vệ quê hương; sản xuất chủ yếu là nông nghiệp lệ thuộc tự
nhiên, có đủ các mô hình sông nước, ruộng, vườn, rẫy.
Vĩnh Thanh với đặc thù là vùng ngập mặn, thủy triều lên xuống,
diện tích phần lớn là rừng rậm tự nhiên nên đời sống sản xuất của
người dân thiên về làm nông và làm nghề sông nước. Người dân
địa phương thạo các nghề đánh bắt thủ công, sinh sống nhờ nguồn
thủy sản tự nhiên, làm ruộng rẫy, làm củi... với quy mô nhỏ, tự
quản, tự cung tự cấp là chính, cũng có giao lưu với các địa phương
xung quanh, theo đường thủy mở rộng giao thông ra đến Sài Gòn,
Long An và một số tỉnh miền Tây. Những sông như: Ông Kèo, Ông
Chuốc, rạch Cá, rạch Bãi, sông Ông Mai, sông Cầu Kê, rạch Giồng
Sắn, sông Cây Tràm, rạch Bến Ngự... là nguồn sống của cư dân theo
nghề sông nước. Ngoài ra còn những tắc, ngọn, búng, luồng tạo nên
“mê hồn trận” sông nước chỉ dân địa phương mới tỏ đường đi lối về
để kiếm sống. Vùng Rừng Sác là một “thiên đường xanh” với vô số
cây nước mặn và nước lợ như: đước, tràm, cóc kèn, mắm, chà là,
43

5.4 Page 44

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
bần, dừa nước, bình bát, ô môi. Các loại chim và thú rừng có thể kể:
le le, vịt trời, chằng bè, khỉ, cá sấu; do đó nghề đánh bắt phát triển.
Vì chỉ cách biển vài chục kilômét, sông rạch ở đây chịu ảnh hưởng
nhật triều của vùng biển phía Nam. Mỗi ngày nước thủy triều lên hai
bận, ròng hai cữ. Xưa kia, thuyền ghe đi lại thường nương theo con
nước để xuôi ngược đỡ tốn sức chèo. Mỗi tháng âm lịch có những
ngày triều cường và ngày triều kém. Người câu cua, bắt cá khéo lợi
dụng các ngày này để kiếm sống. Mùa khô, nước lợ trong xanh vào
sâu các sông rạch; khi độ mặn vượt quá 4 phần ngàn thì nước ấy chỉ
dùng tắm rửa, còn muốn có nước ăn uống dân ấp Câu Kê phải mất
công đi tận giồng Ông Đông đến chùa Ông hay giếng Miểu mới gánh
được tĩn nước ngọt về dùng. Các giếng nước ngọt cung cấp nguồn
nước sinh hoạt quý hiếm. Cá tôm vào mùa mưa rất nhiều. Khi nước
lênh láng chan hòa đồng ruộng cũng là lúc tôm cá đủ loại vào sinh
sôi nảy nở. Dân nghèo sống nhờ nguồn thức ăn dồi dào trời cho này.
Khác với các xã khác trong huyện, Vĩnh Thanh trước Cách mạng
tháng Tám 1945 do đất hoang nhiều mà dân cư lại ít, người dân có
thể tự khai phá để trồng trọt nên hầu như hộ gia đình nào cũng có đất
sản xuất, trong đó một số nông dân khai khẩn được nhiều đất đai như
gia đình ông Nguyễn Văn Lãnh, ông Mười Huỳnh. Một số địa chủ
cũng xuất hiện ở Vĩnh Thanh như bà Tám Dung, ông Huyện Hầu.
Địa chủ Trịnh Thị Dung (Tám Dung) là một người giàu có, là giáo
dân thuộc giáo xứ Chợ Quán (Sài Gòn) lại có quốc tịch Pháp nên bà
cho người khai hoang rồi đăng ký địa bạ, qua đó sở hữu khá nhiều
ruộng đất ở miền Tây và xung quanh Sài Gòn, cho tá điền thuê để
thu tô. Tại Nhơn Trạch, mặc dù đã sở hữu 300 hecta đất màu mỡ ở cù
44

5.5 Page 45

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
lao Ông Cồn (nay thuộc xã Đại Phước), bà Tám Dung vẫn cho người
đến Vĩnh Thanh khai hoang, chiếm giữ 286 hecta đất ở khu vực giữa
2 ấp Ông Kèo và Xoài Minh, đối diện với Đan viện Thánh mẫu Khiết
Tâm hiện nay. Trong số đất chiếm giữ ở Vĩnh Thanh, một phần bà
Tám Dung thuê người làm ruộng, còn phần lớn là trồng tràm. Tương
tự, ông Huyện Hầu có tên là Lương Văn Hầu, cũng là người ở Sài
Gòn, trước làm tri huyện, sau khi nghỉ hưu cũng cho người về khai
khẩn chiếm đất ở Xoài Minh (khu vực trụ sở Ủy ban nhân dân xã
Vĩnh Thanh hiện nay) nhưng chỉ vài chục mẫu, không nhiều như bà
Tám Dung.
Dù có đất sản xuất nhưng do nguồn nhân lực ít, công cụ sản suất
vừa thô sơ vừa thiếu thốn, cộng với tình trạng sưu cao thuế nặng nên
đời sống người dân Vĩnh Thanh trước đây rất khó khăn, phần lớn
người dân đều nghèo khó.
Theo Gia Định Thành thông chí: Tổng Thành Tuy thuộc huyện
Long Thành đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng thích hợp
ở đây là dưa, đậu phộng và khoai lang. Ruộng sớm thì tháng 5 (âm
lịch) gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 11 gặt. Ruộng muộn thì tháng 6
gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 12 gặt. Trước đây ở Vĩnh Thanh chỉ
trồng được một vụ lúa, vì giống lúa ở đây trồng đến 6 tháng. Hiện
nay, người dân Vĩnh Thanh làm lúa 2 vụ, có nơi làm đến 3 vụ. Khoai
lang thì tháng 3 giâm, tháng 10 dỡ củ”1. Ngoài ra, nông dân còn
trồng nhiều các loại hoa màu, như: bầu, bí, mướp, khổ qua, đậu đũa.
Từ sau ngày 30.4.1975, trong điều kiện đất nước hòa bình, thống
nhất, Vĩnh Thanh cùng với huyện, tỉnh, cả nước tập trung khắc phục
1  Gia Định Thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 194.
45

5.6 Page 46

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, xây dựng phát triển nông
thôn, đổi mới tư duy kinh tế, thu hút đầu tư, phát huy lợi thế địa
phương, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động,
giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng cao tỉ trọng dịch vụ; từng bước đầu
tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội; làm thay đổi về chất diện mạo
nông thôn và đời sống nhân dân; sớm đạt chuẩn xây dựng nông
thôn mới.
4. Văn hóa xã hội
Cư dân tứ xứ tụ hội, sinh sống ở Nhơn Trạch - Đồng Nai từ rất
sớm, mãi đến năm 1698 mới có sự quản lý hành chính của triều
Nguyễn và sau đó rất lâu mới ổn định. Suốt một thời gian dài hơn
nửa thế kỷ, người Vĩnh Thanh - Nhơn Trạch chung sống với nhau
trong sự liên kết văn hóa, trên nền móng văn hóa, bằng vốn liếng
văn hóa dân tộc Việt đã thấm trong máu thịt từng người. Người Việt
đến đây mang theo vốn liếng văn hóa từ bản xứ vào việc tổ chức đời
sống ở vùng đất mới, có sự thích ứng để hài hòa với môi trường tự
nhiên và nếp sống của cư dân bản địa, thể hiện rõ nét ở tổ chức làng
xã, tập quán, tín ngưỡng và sinh hoạt văn học nghệ thuật. Đời sống
văn hóa - xã hội của người dân Vĩnh Thanh giống như các vùng khác
ở Nhơn Trạch.
Làng xã được thành lập ban đầu tự phát theo chủ kiến của người
khẩn hoang; về sau dần tuân theo quy chế của nhà Nguyễn nhưng
không hoàn toàn đúng quy định. Thuở sơ khai, chúa Nguyễn để cho
các làng mới có quyền tự trị, tự quản. Từ năm 1852, tổ chức làng xã
thực hiện theo Minh điều hương ước do vua Tự Đức ban hành: Mỗi
46

5.7 Page 47

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
xã có từ mười hai đến hai, ba mươi hương chức, chia làm hai nhóm:
Một nhóm lo việc hành chánh, quản trị; một nhóm lo việc lễ hội,
đình, đám. Đến thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp thực hiện chủ
trương phân hóa quyền lực của bộ máy hành chánh nông thôn, thừa
nhận và sử dụng bộ phận hương chức hội tề, nhưng tách bộ phận
hương chức hội hương ra khỏi bộ máy hành chánh. Dầu vậy, hương
chức làng xã vẫn đóng vai trò hạt nhân, không mất đi tính đại diện
tự quản ở nông thôn.
Quan hệ giữa các làng xã với nhau dựa trên nghĩa tình và nhu cầu
hợp tác, cộng cư. Cư dân Việt tha hương ở vùng đất mới Biên Hòa
- Nhơn Trạch dễ kiếm sống, nhưng khó thiết lập những quan hệ bền
chặt như kiểu làng - họ ở bổn quán cho nên rất trân trọng tình cảm
“đồng cảnh ngộ”, không phân biệt dân cố cựu và ngụ cư. Trong nếp
sống thường ngày: Nồi cơm luôn đầy sẵn lòng đãi khách, lu nước
ngọt luôn trong lành và sẵn gáo dừa ở đầu bến hoặc ven đường, nhà ở
luôn sẵn chỗ cho người lỡ bước, kiểu nhà bè giúp người cơ nhỡ (gắn
với sự tích truyện Thủ Huồng), đó là những tập quán “mở lòng” đối
với người đồng cảnh ngộ.
Về ăn, mặc: Cách ăn mặc của người Việt ở Vĩnh Thanh - Nhơn
Trạch vừa thể hiện nét chung của văn hóa Việt Nam, vừa có sắc thái
mang dấu ấn của địa phương.
Do thời khí của hai mùa mưa nắng, sản vật biển, rừng, sông nước,
vườn ruộng phong phú, đa dạng nên thức ăn và cách ăn của người
địa phương cũng rất đa dạng, phong phú. Thức ăn được chọn lựa tươi
ra tươi, khô ra khô, ăn để no, ăn để giao đãi, còn để phòng chữa bệnh;
47

5.8 Page 48

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nhiều rau, nhiều cá và thủy sản; dùng nhiều gia vị, phối hợp nhiều
thức, món với nhau, nhiều cách chế biến, khi thì chế biến công phu,
lúc thì tận hưởng hương vị tự nhiên, đặc sản là những món chế biến
từ nguyên liệu vùng nước lợ.
Về trang phục: có diễn trình như lịch sử trang phục của Đàng
Trong, sau đó có sự cải biến thích hợp với điều kiện, môi trường văn
hóa của vùng đất mới. Lúc xưa, người bình dân thường đi chân đất;
khi dự lễ hội mới vận lễ phục chỉnh tề. Người xưa chuộng bộ quần
áo bà ba, nam nữ có kiểu riêng. Bộ bà ba nữ ấn tượng bởi áo xẻ vạt
đẹp, tay kín, có túi đựng lặt vặt, khoét cổ thoáng mát. Xưa, người bậc
trung lưu ra khi khỏi nhà thường có dù để che nắng, che mưa, còn để
làm vật trang sức. Có nhiều loại dù: dù giấy bằng sườn tre, đắp giấy
dầu; dù quéo với tay cầm có móc như cù quéo; dù hai da may bằng
hai lớp vải màu khác nhau trong ngoài; dù lục soạn là loại dù sang
trọng mang tên loại lụa sản xuất tại Trung Quốc. Gặp nhau, người ta
lễ phép chào bằng cách nghiêng dù. Trong thời chống Pháp, dù được
dùng làm mật hiệu của phong trào Hội kín/Thiên Địa hội.
Nhà ở tại Vĩnh Thanh cũng đồng dạng với các kiểu nhà ở trên địa
bàn tỉnh, nhưng có những nội dung đậm nét của địa phương. Chủ
yếu nhà ở trên mặt đất, gò cao, cận sông hoặc cận lộ; được xây dựng
thường hài hòa với tự nhiên, chuộng hướng Đông, Nam; quay mặt
ra sông, ruộng, vườn; ngõ không vào thẳng cửa chính, sân trước sân
sau đều rộng, rào thẳng bằng chè cát, dâm bụt hoặc cây quít đại; nhà
dù hẹp cũng cố có chỗ bày hoa kiểng, nhiều nhà bày non bộ. Vùng
nông thôn, người bình dân thường ở nhà tranh hoặc nhà lá (lá dừa),
những nơi thôn rẫy chưa ổn định dựng tạm chòi lá hoặc chòi tranh.
48

5.9 Page 49

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Gia đình khá giả xây dựng nhà ngói vách ván; khi tiếp xúc kỹ thuật
châu Âu có người khá giả xây nhà gạch mái tôn hoặc nhà bê tông
mái ngói hay mái bằng.
Theo kiến trúc xây dựng, nhà ở gồm các kiểu chính: Nhà xông,
nhà chái, nhà sắp đọi, nhà sắp đọi biến thể thành nhà chữ nhị, nhà
chữ tam; nhà chữ đinh (đinh thuận, đinh nghịch). Xét về kỹ thuật, có
thể phân loại theo nhà rường, nhà rội (nhà nọc ngựa: biến thể của
nhà rội).
Không gian sinh hoạt trong nhà thường phân bổ thành hai phần:
Các thành viên trong gia đình sinh hoạt ở nhà sau (nhà bên). Nhà
trước (nhà trên) là nơi thờ phượng, tiếp khách. Khách thân, sơ, sang,
hèn đều được tiếp ở nhà trước. Bàn thờ gia tiên đặt ở sát vách, ngang
cây đòn giông nhà ở gian giữa. Đối diện là bàn khách (bàn dài hoặc
bàn tròn). Hai bên là bộ ván ngựa để khách nghỉ ngơi. Tùy độ sang
hèn mà tủ thờ, ván ngựa bằng gỗ quý hay gỗ thường, cũng tùy giàu
nghèo mà bày thêm các vật trang trí khác. Nhà ở người theo đạo
Công giáo kiến trúc theo kiểu người Việt, nội thất có thờ Chúa theo
quy định của giáo hội.
Xã Vĩnh Thanh hiện có 1 ngôi chùa (Phước Lâm cổ tự), 1 đình
thần (đình Ông Kèo), 2 miếu (miếu Bà Xoài Minh và miếu Bà Ông
Kèo), 8 nhà thờ ở 8 giáo xứ (Bắc Thần, Nghĩa Yên, Bắc Minh, Vĩnh
Phước, Đại Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Mỹ và Thiết Nham) đều thuộc
giáo hạt Phước Lý, cùng 1 đan viện là Đan viện Thánh mẫu Khiết
Tâm Phước Lý (ở ấp Thành Công), 1 trạm y tế, 1 trường THCS, 2
trường tiểu học, 2 trường mẫu giáo.
49

5.10 Page 50

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Phước Lâm cổ tự (còn gọi là chùa Xoài Minh) nằm ở ấp Thanh
Minh, được Hòa thượng Thích Tắc Thới thuộc dòng Lâm Tế khai sơn
năm 1924. Ban đầu chùa chỉ được xây dựng đơn sơ bằng tranh lá như
những ngôi nhà khác trong ấp vì đời sống người dân Xoài Minh lúc
ấy rất nghèo, số phật tử chỉ khoảng trên dưới 30 người. Sau khi hòa
thượng viên tịch, chùa do ni sư Thích Nữ Tắc An trụ trì. Hiện nay, trụ
trì chùa do Đại đức Thích Đạo Viên đảm nhiệm. Trải qua nhiều lần
xây dựng, diện mạo chùa Phước Lâm khá khang trang với cổng tam
quan, tiền đường, chánh điện, hậu đường và nhà tiếp khách. Trong
khu vực tiền đường chùa có tượng Phật Bà Quan Âm điêu khắc từ
lõi cây gõ đỏ khá đẹp được nghệ nhân từ Huế thực hiện năm 2015,
đến năm 2016 hoàn thành, tượng được an vị ngày 19.6.2016. Cây gõ
đỏ để tạc tượng trước đây nằm trong khuôn viên chùa, có tuổi đời
khá cao ước khoảng 200 năm, thân cây cao đến khoảng 30m, đường
kính thân khoảng 6-8m, sau cây bị chết khô, thấy vân gỗ đẹp và cây
có tính thiêng nên nhà chùa đã xin phép tạc tượng, kinh phí thực hiện
do các phật tử đóng góp, trong đó phần lớn do phật tử Lê Văn Thái
phát tâm cúng dường, chỉ riêng chi phí điêu khắc đã lên đến 200 triệu
đồng. Chùa hiện có khoảng 300 phật tử, nhà chùa cùng các phật tử
thường thực hiện công tác từ thiện xã hội, hỗ trợ người nghèo trong
và ngoài địa bàn huyện Nhơn Trạch.
Đình Ông Kèo ở ấp Chính Nghĩa, theo khảo sát, là một trong 21
ngôi đình cổ của Nhơn Trạch có niên đại từ thế kỷ XX trở về trước.
Kiến trúc đình Ông Kèo khá đơn sơ, theo đúng kiểu đình cổ Nam
Bộ là không có cửa. Chánh điện có thờ Thành Hoàng bổn cảnh, hai
bên là Tả ban, Hữu ban; phía trước là hai dãy các bàn phối thờ chư
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
vị như: Bạch mã Thái giám, Nhạc sư, Tiên sư... Trước mặt bàn thờ
Thành Hoàng là bàn La liệt để bày lễ vật cúng; tiếp đó là bàn Hội
đồng. Tiếp theo bàn Hội đồng là bàn Chánh bái, hai bên bàn Chánh
bái là Tả hữu bồi tế. Đối diện với chánh điện là Võ ca.
Nhà hậu (sau đình) có gian thờ: Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền
đại hương chức, Hậu đại hương chức. Kế bên là nhà khói dùng làm
nơi nấu nướng chuẩn bị cỗ cúng. Lễ Kỳ yên là lễ chính của đình gọi
là lễ vía thần, nhưng thực tế là lễ hội nông nghiệp để cầu an: Cầu cho
quốc thái dân an, phong điều võ thuận. Nghi thức cúng lễ Kỳ yên
tuân theo điển lệ của triều đình.
Miễu Bà Xoài Minh nằm trên địa bàn ấp Thanh Minh. Theo
thông tin từ Ban quý tế, miễu được người dân ấp Xoài Minh xây
dựng từ năm 1892, ban đầu miễu được dựng rất đơn giản với mái
lá, nền đất, sau này khi đời sống người dân khấm khá mới xây dựng
kiên cố dần. Trưởng ban quý tế đầu tiên của miễu là ông Nguyễn
Văn Nghĩa, ông làm từ năm 1892 đến năm 1914. Trưởng ban quý
tế giai đoạn 1914-1929 là ông Nguyễn Thọ Nhì, kế tiếp là các ông:
Nguyễn Văn Lượm, Nguyễn Văn Huệ (1929-1975), Nguyễn Văn
Bơi (1975-1990), Nguyễn Văn Vang (1990-2008), Phan Công
Quy (2008-2022). Miễu tổ chức lễ cúng Bà vào ngày 15.3 âm lịch
hằng năm.
Miễu Bà Ông Kèo tọa lạc trên địa bàn ấp Chính Nghĩa, tức ấp
Ông Kèo cũ, được xây dựng vào năm 1972. So với miễu Bà Xoài
Minh, miễu Bà Ông Kèo ra đời muộn hơn khá nhiều, vì mật độ
người dân Ông Kèo thưa thớt hơn so với Xoài Minh. Miễu cũng
51

6.2 Page 52

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
xây dựng khá đơn giản. Trưởng ban quý tế đầu tiên của miễu là
ông Nguyễn Văn Sửu (1972-1977), kế tiếp là các ông: Nguyễn Văn
Hướng (1977-1989), Nguyễn Văn Chanh (1989-2014), Nguyễn
Thành Quang (2014-2022). Miễu tổ chức lễ cúng Bà vào ngày 16.10
âm lịch hằng năm.
Về các cơ sở Công giáo, ở Phước Lý khoảng năm 1885 có một
số gia đình Công giáo từ Bến Gỗ, Tân Triều, Tân Khánh về vùng đất
Phước Khánh làm ăn, ban đầu dựng lên căn nhà lá nhỏ để đọc kinh
cầu nguyện1; giáo họ Phước Lý được cha xứ ở Mỹ Hội coi sóc, dựng
nhà thờ đầu tiên bằng gỗ lá tại Bầu Chua, năm 1900 xây nhà thờ
Phước Lý tại vị trí ngày nay, giữ nguyên kiến trúc đến giờ. Đầu và
giữa thế kỷ XIX, dân Công giáo không nhiều, Phước Lý ở thời điểm
năm 1935 có 131 hộ với khoảng 1.000 giáo dân, chiếm tỉ lệ 13,1%.
Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa khoảng hơn 7.000 giáo
dân di cư từ miền Bắc, bố trí lập làng ở Phước Khánh và Vĩnh Thanh,
về sau dân Công giáo di cư chuyển dần đến Vĩnh Thanh lập thêm
nhiều giáo xứ, sinh sống ổn định ở đây, dẫn đến xã Vĩnh Thanh có
nhiều giáo xứ (8 giáo xứ) và đông giáo dân nhất ở Nhơn Trạch (tỉ lệ
giáo dân chiếm 85%). Hiện nay, nhà thờ giáo xứ Phước Lý thuộc địa
bàn ấp Phước Lý, xã Đại Phước.
8 nhà thờ ở xã Vĩnh Thanh gồm:
Nhà thờ giáo xứ Bắc Thần ở ấp Hòa Bình (trước đây gọi là
ấp Bắc Thần). Năm 1954, Cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng (Đức cố
Giám mục Giáo phận Xuân Lộc) đưa một số giáo dân hai họ Tiên
1  Theo tài liệu của giáo xứ Phước Lý, 2020.
52

6.3 Page 53

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Nha, Đại Lãm, gốc Giáo phận Bắc Ninh, đến định cư tại vùng đất
Xoài Minh lập nghiệp và thành lập giáo xứ lấy tên Bắc Thần. Một
năm sau, Cha Đaminh cùng cộng đoàn dựng nhà thờ tạm bằng vật
liệu nhẹ với diện tích 12m x 40m làm nơi dâng lễ và cầu nguyện.
Năm 1955, Cha Đaminh Nguyễn Quang Hiển đến coi sóc giáo xứ.
Năm 1957, giáo xứ có 1.800 giáo dân. Năm 1972, nhà thờ được
xây dựng bằng vật liệu kiên cố và đặt các tượng đài. Năm 1997,
Cha Gioan Baotixita Nguyễn Đình Luận kế nhiệm Cha Đaminh phụ
trách giáo xứ. Cha Gioan Baotixita và cộng đoàn Bắc Thần đã xây
nhà xứ mới (1998), nhà giáo lý, tháp chuông và trùng tu nhà thờ
(2004). Năm 2005, Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Học được bổ
nhiệm làm chánh xứ Bắc Thần. 5 năm sau, Cha Đaminh Nguyễn Văn
Lượng đến thay thế Cha Gioan Baotixita coi sóc giáo xứ. Hiện giáo
xứ có 915 gia đình Công giáo, gồm 3.733 giáo dân, tỷ lệ 98,31%.
Nhà thờ giáo xứ Nghĩa Yên nằm ở ấp Vĩnh Cửu (trước đây gọi
là ấp Nghĩa Yên). Năm 1954, một số giáo dân gốc Vinh, Nghệ An,
Hà Tĩnh và Hải Phòng dưới sự hướng dẫn của Cha Phêrô Trần Thanh
Cần đã tới định cư tại Xoài Minh, một năm sau giáo xứ Nghĩa Yên ra
đời với 828 giáo dân, Cha Gioan Baotixita Nguyễn Đình Huyên được
bổ nhiệm làm chánh xứ tiên khởi. Cùng năm, Cha Gioan Baotixita
đã cùng cộng đoàn dựng một nhà thờ tạm bằng tường đất, mái tôn
làm nơi dâng lễ và cầu nguyện. Một năm sau, Cha Gioan Baotixita
và cộng đoàn tiếp tục dựng thêm nhà xứ, nhà giáo lý để đáp ứng nhu
cầu mục vụ cho giáo xứ. Năm 1962, Cha Gioan Baotixita và cộng
đoàn Nghĩa Yên xây nhà thờ mới với diện tích 11m x 30m và nhà
xứ mới bằng gạch, mái ngói. Năm 1975, Cha Gioan Phạm Quang
53

6.4 Page 54

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Tự thay thế Cha Gioan Baotixita coi sóc Giáo xứ, đã chỉnh trang
các công trình phụ cận xung quanh nhà thờ. Năm 2000, Cha Phêrô
Nguyễn Huệ kế nhiệm Cha Gioan. Cha Phêrô và cộng đoàn Nghĩa
Yên lần lượt khởi công xây dựng và khánh thành nhà thờ mới (năm
2004), nhà xứ, nhà giáo lý (năm 2005), hội trường (năm 2006). Hệ
thống đường sá trong xứ cũng được nâng cấp sạch đẹp. Ba năm sau,
Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bửu Khánh được bổ nhiệm phụ trách
giáo xứ. Năm 2013, Cha Gioan Baotixita Hoàng Thanh Hoàn kế
nhiệm Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bửu Khánh. Số giáo dân tại đây
hiện có khoảng 451 gia đình Công giáo với 1.893 giáo dân, chiếm
tỷ lệ 97,98%.
Nhà thờ giáo xứ Bắc Minh tọa lạc tại ấp Sơn Hà (trước đây gọi
là ấp Bắc Minh). Năm 1954, một số giáo dân phần lớn thuộc Giáo
phận Bắc Ninh di cư đến Xoài Minh dưới sự hướng dẫn của Cha
Giuse Nguyễn Xuân Cảnh. Thời gian đầu, Cha Giuse và cộng đoàn
này dựng một nhà nguyện vách đất, mái lá làm nơi dâng lễ và cầu
nguyện. Một năm sau, cộng đoàn này chính thức được nâng lên thành
giáo xứ với tên gọi Bắc Minh (Bắc Ninh - Xoài Minh), Cha Đaminh
Nguyễn Văn Đức được bổ nhiệm làm Cha xứ tiên khởi, có 1.485 giáo
dân. Năm 1956, Cha Đaminh cùng cộng đoàn Bắc Minh dựng nhà
thờ đầu tiên bằng vật liệu nhẹ với diện tích 14m x 40m. Năm 1970,
Cha Gioakim Nguyễn Văn Hiểu kế nhiệm Cha Đaminh coi sóc giáo
xứ. Cha Gioakim và cộng đoàn Bắc Minh đã khởi công xây dựng và
khánh thành đền Đức Mẹ (năm 1971), nhà giáo lý (năm 1974), hội
quán (năm 1991), nhà xứ (năm 1995), đền thánh Martinô (năm 1997),
nhà giải trí (năm 1998), nhà thờ mới khang trang bằng gạch, mái tôn
54

6.5 Page 55

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
(năm 1998) và đài thánh Giuse (năm 1999). Hiện giáo xứ có 753 gia
đình Công giáo với 3.253 giáo dân, chiếm tỷ lệ 98,48%.
Nhà thờ giáo xứ Vĩnh Phước nằm ở ấp Thành Công (trước đây
gọi là ấp Vĩnh Phước). Năm 1954, Cha Giuse Nguyễn Khắc Mẫn
dẫn một số giáo dân từ các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc Giáo
phận Bắc Ninh đến bến Bình Đông (Sài Gòn) sinh sống; sau đó
Cha Giuse dẫn cộng đoàn này đến vùng đất Ông Kèo định cư và lập
nghiệp. Tháng 5.1955, Giáo xứ Vĩnh Phước chính thức được thành
lập dưới sự coi sóc của Cha chánh xứ tiên khởi Giuse Nguyễn Khắc
Mẫn, số giáo dân tại đây lúc ấy lên đến khoảng 2.500 người. Cùng
năm, Cha Giuse và cộng đoàn Vĩnh Phước dựng một nhà nguyện
tạm bằng vật liệu nhẹ làm nơi dâng lễ và cầu nguyện. Năm 1965,
Cha Đaminh Thân Toàn Vũ đến coi sóc Giáo xứ, cùng với cộng
đoàn xây tháp chuông bằng bê tông và tượng đài Chúa Kitô Vua.
Năm 1996, Cha Gioakim Nguyễn Văn Hiểu được cử phụ trách giáo
xứ, cùng với cộng đoàn Vĩnh Phước lần lượt khởi công xây dựng
và khánh thành nhà mục vụ (năm 1998) và nhà xứ (năm 1999). Hai
năm sau, Cha Giuse Nguyễn Văn Tề thay thế Cha Gioakim, xây
thêm nhà xứ. Năm 2004, Cha Phêrô Nguyễn Huệ được bổ nhiệm làm
chánh xứ Vĩnh Phước, cùng với cộng đoàn xây nhà thờ mới, nhà xứ
và các công trình phụ cận xung quanh nhà thờ. Bốn năm sau, Cha
Giuse Nguyễn Văn Học thay thế, và hiện nay là Cha Phanxicô Xaviê
Nguyễn Thanh Sơn. Giáo xứ có 503 gia đình Công giáo gồm 2.020
giáo dân, chiếm tỷ lệ 93,95%.
Nhà thờ giáo xứ Đại Điền nằm ở ấp Đại Thắng (trước đây gọi là
ấp Đại Điền). Năm 1954, Cha Giuse Đỗ Đức Huấn cùng với khoảng
55

6.6 Page 56

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
300 giáo dân thuộc xứ Đại Điền gốc Vĩnh Phúc Yên, Giáo phận Bắc
Ninh di cư đến vùng tỉnh lộ 19 Cát Lái, Long Thành, và sau đó đến
khu Rừng Sác, Bàu Sen định cư, lập nghiệp. Một năm sau, Giáo xứ
Vĩnh Phúc Yên được thành lập dưới sự coi sóc của Cha Giuse Đỗ
Đức Huấn. Cùng năm, Cha Giuse và cộng đoàn dựng nhà thờ tạm
bằng gạch và gỗ để làm nơi dâng lễ và cầu nguyện. Bảy năm sau,
Cha Giuse cùng với cộng đoàn Vĩnh Phúc Yên xây nhà thờ mới
bằng tường gạch, mái tôn với kích thước 12m x 40m. Năm 1975,
Cha Đaminh Đỗ Đức Hân kế nhiệm Cha Giuse coi sóc giáo xứ. Năm
1993, Giáo xứ Vĩnh Phúc Yên được đổi tên thành Giáo xứ Đại Điền.
Năm 2004, Cha Phaolô Nguyễn Văn Nhân được bổ nhiệm coi sóc
giáo xứ. Năm năm sau, Cha Phaolô cùng với cộng đoàn Đại Điền
khởi công xây dựng nhà thờ, nhà xứ và khánh thành ngày 29.1.2012.
Hiện nay, Giáo xứ Đại Điền có 270 gia đình Công giáo gồm 1.240
giáo dân, chiếm tỷ lệ 48,99%.
Nhà thờ giáo xứ Nghĩa Hiệp nằm ở ấp Thống Nhất (trước đây
gọi là ấp Nghĩa Hiệp). Năm 1954, Cha Vincentê Phạm Khắc Đoan
đưa khoảng 1.500 giáo dân từ các giáo xứ miền Bắc, phần lớn là xứ
Mỗ Thổ, Giáo phận Bắc Ninh, đến định cư tại vùng đất thuộc ấp
Nghĩa Hiệp, và thành lập giáo điểm truyền giáo lấy tên Minh Châu.
Một năm sau, giáo điểm được nâng lên thành giáo xứ và lấy tên là
Mỗ Thổ dưới sự coi sóc của Cha Vincentê Phạm Khắc Đoan. Cùng
năm, Cha Vincentê và cộng đoàn Mỗ Thổ dựng một nhà thờ tạm
tường đất, kèo gỗ làm nơi dâng lễ và cầu nguyện. Năm 1971, Cha
Vincentê cùng cộng đoàn xây dựng nhà thờ mới bằng gạch và gỗ với
diện tích 12m x 28m. Cuối năm 1971, Cha Giuse Ngô Văn Tố thay
56

6.7 Page 57

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Cha Vincentê phụ trách giáo xứ và xây nhà xứ mới (năm 1972). Năm
1973, Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn chính thức đổi tên Giáo xứ Mỗ Thổ
thành Nghĩa Hiệp. Năm 1993, Cha Giêrađô Phạm Anh Thái thay
Cha Giuse phụ trách giáo xứ, đồng thời xây lại nhà xứ mới. Ba năm
sau, Cha Phêrô Mai Văn Sâm được bổ nhiệm làm chánh xứ Nghĩa
Hiệp, đã xây dựng nhà giáo lý khang trang để đáp ứng nhu cầu mục
vụ của giáo xứ. Hiện nay, giáo xứ có 216 gia đình Công giáo với
876 giáo dân, chiếm tỷ lệ 100%, dưới hướng dẫn của Cha Vincentê
Dương Đức Chiến.
Nhà thờ giáo xứ Nghĩa Mỹ nằm ở ấp Nhất Trí (trước đây gọi là
ấp Nghĩa Mỹ). Năm 1954, Cha Vincentê Trần Văn Lập dẫn khoảng
1.500 giáo dân từ miền Bắc vào vùng đất thuộc xã Vĩnh Thanh
ngày nay định cư và lập ra Giáo xứ Nghĩa Mỹ. Thời gian đầu, Cha
Vincentê cùng cộng đoàn Nghĩa Mỹ dựng một nhà thờ tạm bằng vật
liệu thô sơ làm nơi dâng lễ và cầu nguyện. Năm 1969, Cha Đaminh
Thân Toàn Vũ đến thay thế Cha Vincentê và cùng giáo dân Nghĩa
Mỹ xây dựng lại nhà thờ bằng gạch và gỗ với kích thước 13m x 28m.
Bốn năm sau, Cha Giuse Nguyễn Hương Mạch được bổ nhiệm làm
chánh xứ Nghĩa Mỹ. Năm 1989, Cha Phêrô Mai Văn Sâm kế nhiệm
Cha Giuse. Trong thời gian phục vụ giáo xứ, Cha Giuse cùng cộng
đoàn Nghĩa Mỹ đã lần lượt khởi công xây dựng và khánh thành nhà
thờ khang trang với diện tích 705m2 (năm 1996) và nhà xứ (năm
2000). Hiện giáo xứ có 327 gia đình Công giáo, gồm 1.179 giáo dân,
chiếm tỷ lệ 85,19%.
Nhà thờ giáo xứ Thiết Nham nằm ở ấp Đoàn Kết (trước đây gọi
là ấp Thiết Nham). Năm 1954, Cha Giuse Nguyễn Khắc Hiếu dẫn
57

6.8 Page 58

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
một số giáo dân thuộc Giáo xứ Thiết Nham, Giáo phận Bắc Ninh
đến vùng đất Ông Kèo (ngày nay là giáo xứ Vĩnh Phước) định cư,
lập nghiệp, lập nên họ đạo Thiết Nham và Như Thiết. Một năm sau,
Cha Giuse đưa giáo dân thuộc họ đạo Thiết Nham và Như Thiết lên
khu vực ấp Đoàn Kết hiện nay thành lập Giáo xứ và lấy tên là Thiết
Nham. Năm 1956, Cha Giuse cùng với cộng đoàn Thiết Nham xây
dựng nhà thờ bằng gạch và gỗ với diện tích 12m x 30m làm nơi
dâng lễ và cầu nguyện. Bốn năm sau, 1960 Cha Đaminh Nguyễn
Hưng Phong đến phụ trách giáo xứ, cùng cộng đoàn Thiết Nham xây
dựng nhà xứ và tháp chuông. Năm 1973, Cha Giuse Nguyễn Công
Hoán kế nhiệm Cha Đaminh phụ trách giáo xứ, hai năm sau Cha
Gioan Baotixita Thân Văn Vinh thay thế. Cộng đoàn Thiết Nham
lần lượt xây dựng và khánh thành nhà thờ mới (năm 1997), nhà xứ,
nhà sinh hoạt mục vụ và nhà văn hóa (năm 1998). Năm 2006, Cha
Đaminh Nguyễn Đình Khanh được bổ nhiệm làm chánh xứ Thiết
Nham, cùng với cộng đoàn xây nhà giáo lý và tu sửa lại khuôn viên
thánh đường. Hiện giáo xứ có 499 gia đình Công giáo với 1.865 giáo
dân, chiếm tỷ lệ 55,42%1.
Dân có đạo Công giáo ở xã Vĩnh Thanh hiện sinh sống ổn định,
hài hòa với tín ngưỡng văn hóa ở địa phương, tốt đời đẹp đạo. Trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều giáo dân và chức sắc
Công giáo có công đóng góp cho kháng chiến.
Đan viện Thánh mẫu Khiết Tâm: Năm 1950, Hội đồng Đan
viện nhà mẹ Phước Sơn (tỉnh Quảng Trị) quyết định xúc tiến việc
1  Theo website Giáo phận Xuân Lộc.
58

6.9 Page 59

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
lập dòng mới ở miền Nam. Ban đầu, Cộng đoàn định lập đan viện ở
Mặc Bắc, tỉnh Trà Vinh, nhưng do khí hậu không phù hợp, năm 1952
người đứng đầu là Cha Stanislas Trương Đình Vang quyết định dời
Cộng đoàn về sở đất ở Phước Lý, có diện tích 286 hecta, tọa lạc giữa
thôn Ông Kèo và thôn Xoài Minh do địa chủ Trịnh Thị Dung (Tám
Dung), một giáo dân thuộc giáo xứ Chợ Quán - Sài Gòn dâng cúng
để lập dòng. Ngày 3.2.1952, Cộng đoàn khởi công xây dựng ngôi
nhà đầu tiên đơn giản, thô sơ với sự trợ giúp thân tình của người dân
địa phương Xoài Minh. Ngày 6.5.1952 Tòa Giám mục Sài Gòn cho
phép Cộng đoàn chính thức hội nhập vào Giáo phận Sài Gòn, chấp
nhận việc lập dòng mới. Do sở đất của bà Tám Dung dâng cúng một
phần là ruộng, phần lớn còn lại là rừng tràm, cuộc đất ẩm thấp, khó
xây dựng kiên cố, một số người trong đan viện thường xuyên bị sốt
rét, trong khi đó phía đối diện cách khoảng 500m có một đồn điền
trồng cam quýt rộng 20 hecta, địa thế cao, có giếng nước trong lành
không bao giờ cạn nên Cộng đoàn đã mua sở đất này với giá 40.000
đồng (giá vàng lúc ấy khoảng 2.500 - 3.000 đồng/lượng). Ngày
8.9.1954, Cộng đoàn dời về cơ sở mới, còn sở đất ruộng vẫn dùng
để trồng trọt. Năm 1960, Cộng đoàn hoàn thành xây dựng Thánh
đường. Tháng 2.1964, Đức Tổng Phụ Xitô Dom Sighard Kleiner từ
Roma đã đến Việt Nam để thực hiện Sắc chỉ của Tòa Thánh Vatican,
nâng 3 Đan viện: Phước Sơn, Châu Sơn và Phước Lý thành Hội
Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam; và 3 Đan viện được nâng lên quy
chế Đan phụ viện. Ngày 25.02.1964, Đức Tổng Phụ chính thức đến
Phước Lý chủ tọa việc bầu Viện Phụ, cha Viện Trưởng Stanislas
Trương Đình Vang đã đắc cử Viện Phụ tiên khởi của Đan viện Phước
59

6.10 Page 60

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Lý. Ngày 19.3.1964 lễ thánh Giuse, Đức Tổng Phụ Xitô đã cử hành
lễ chúc phong 3 Tân Viện Phụ Phước Sơn, Châu Sơn và Phước Lý
tại Vương cung thánh đường Sài Gòn. Kể từ năm 1964 đến nay, Đan
viện Phước Lý đã trải qua một đời Viện phụ tiên khởi và tiếp đó là
2 đời Viện trưởng, rồi 2 đời Viện phụ. Từ ngày 11.10.2014, Cộng
đoàn bầu cha M. Bảo Tịnh Nguyễn Đức Chánh làm Viện phụ1. Trong
thánh đường của Đan viện hiện có mộ của bà Trịnh Thị Dung.
Trạm Y tế xã Vĩnh Thanh: Năm 1972 chính quyền Việt Nam
Cộng hòa cho xây dựng 2 bệnh xá - hộ sinh ở 2 xã Vĩnh Thạnh và
Nhơn Thanh. Bệnh xá - hộ sinh xã Vĩnh Thạnh có địa chỉ tại ấp Vĩnh
Phước (nay là ấp Thành Công, xã Vĩnh Thanh) do ông Nguyễn Văn
Toàn làm Trưởng bệnh xá. Bệnh xá - hộ sinh xã Nhơn Thanh có địa
chỉ tại ấp Xoài Minh (nay là ấp Thanh Minh, xã Vĩnh Thanh) do bà
Nguyễn Thị Hòa làm Trưởng bệnh xá. Đến năm 1975, Trạm Y tế xã
Vĩnh Thanh được hình thành trên cơ sở hợp nhất 2 Bệnh xá - hộ sinh
Vĩnh Thạnh và Nhơn Thanh; cơ sở được đặt tại ấp Thanh Minh do
ông Phan Văn Cảnh làm Trưởng trạm. Trạm Y tế xã Vĩnh Thanh lúc
ấy chủ yếu khám và cấp thuốc điều trị các loại bệnh thông thường và
đỡ đẻ các ca sinh thường. Giai đoạn này Trạm Y tế không có bác sĩ, y
sĩ và dược sĩ; trình độ chuyên môn cao nhất trong trạm lúc này là nữ
hộ sinh quốc gia và y tá. Những năm sau đó, cơ sở vật chất của Trạm
Y tế ngày càng xuống cấp, trang thiết bị thiếu thốn, chưa có điện.
Năm 1982, Trạm Y tế xã có y sĩ về làm trưởng trạm. Lúc này khả
năng khám chữa bệnh cho người dân được nâng cao. Từ năm 1989
1  Theo Website của Đan viện Thánh mẫu Khiết Tâm Phước Lý.
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
trở đi, Trạm Y tế xã bắt đầu triển khai chương trình Tiêm chủng mở
rộng cho đối tượng trẻ từ 0 đến 5 tuổi, và từ năm 1991 trạm thực hiện
các biện pháp phòng tránh thai cho phụ nữ tuổi sinh đẻ. Năm 1999,
xã Vĩnh Thanh được huyện đầu tư ngân sách xây dựng Trạm Y tế
mới tại ấp Thành Công, có 9 phòng chức năng, được trang bị y dụng
cụ tương đối đầy đủ. Giai đoạn này Trạm Y tế được dời từ ấp Thanh
Minh về cơ sở mới. Đến năm 2009, Trạm y tế xã được xây mới trên
nền đất cũ gồm một trệt một lầu, có 14 phòng chức năng để chuẩn bị
cho xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2013 đạt xã đạt chuẩn quốc
gia về y tế. Từ những ngày đầu hình thành sau năm 1975, Trạm Y tế
xã Vĩnh Thanh gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt; đến
nay Trạm Y tế đã có đủ nhân lực, trang thiết bị, cơ sở khang trang
đủ điều kiện cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống
dịch trên địa bàn xã. Trưởng Trạm Y tế xã hiện nay là ông Nguyễn
Đức Thành.
Trường Mầm non Vĩnh Thanh: Trường Mầm non Vĩnh Thanh
trước kia là Trường Mẫu giáo Vĩnh Thanh, được thành lập từ tháng
11.1976. Năm 2017 trường tách ra thành 2 trường: Trường Mầm non
Nhơn Thanh và Trường Mẫu giáo Vĩnh Thanh. Ngày 1.9.2018, theo
Quyết định số 5676/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện Nhơn
Trạch, trường đổi tên thành Trường Mầm non Vĩnh Thanh. Trường
xây dựng kiên cố gồm 13 phòng học phục vụ cho công tác chăm
sóc, giáo dục trẻ. Năm học 2018-2019 trường được công nhận chuẩn
quốc gia mức độ 1. Hiện nay trường gồm 4 cơ sở: Cơ sở 1 và 2 ở ấp
Thành Công, cơ sở 3 ở ấp Nhất Trí và cơ sở 4 ở ấp Đoàn Kết. Trường
hiện có tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên là 40 người, số
61

7.2 Page 62

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
học sinh hiện nay là 297 trẻ /13 lớp, trong đó có 2 lớp nhà trẻ, 3 lớp
mầm, 4 lớp chồi và 4 lớp lá. Trường đạt danh hiệu trường tiên tiến
cấp cơ sở liên tục từ năm học 1976 đến nay, đồng thời nhiều năm
liền đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến, Tập thể lao động xuất
sắc, Đơn vị văn hóa. Ban Giám hiệu trường qua các thời kỳ như sau:
1976-2008: Trần Thị Hoàng Hiện (Hiệu trưởng), Nguyễn Thị Thanh
(Phó Hiệu trưởng); 2008-2015: Đinh Thị Thúy Hằng (Hiệu trưởng),
Nguyễn Thị Xuân Hương (Phó Hiệu trưởng), Hoàng Thị Kim Liên
(Phó Hiệu trưởng); 2015-2016: Nguyễn Thị Lan Phương (Hiệu
trưởng), Nguyễn Thị Xuân Hương (Phó Hiệu trưởng), Hoàng Thị
Kim Liên (Phó Hiệu trưởng); 2016-2017: Nguyễn Thị Xuân Hương
(Hiệu trưởng), Hoàng Thị Kim Liên (Phó Hiệu trưởng), Dương Bích
Tuyền (Phó Hiệu trưởng); 2017-2020: Nguyễn Thị Xuân Hương
(Hiệu trưởng), Hoàng Thị Kim Liên (Phó Hiệu trưởng), Huỳnh Thị
Tường Vân (Phó Hiệu trưởng).
Trường Mầm non Nhơn Thanh: Trường nằm trên địa bàn ấp
Thanh Minh, được xây dựng vào tháng 6.2017, có tổng diện tích
4.630m² với qui mô 12 phòng học và 9 phòng chức năng, chuyên
môn. Trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 vào tháng
12.2017. Liên tiếp các năm học 2018-2019, 2019-2020 trường được
tặng danh hiệu thi đua Tập thể lao động xuất sắc. Trường có 3 điểm
trường, ngoài điểm chính tại đường Hùng Vương, ấp Thanh Minh,
điểm lẻ cơ sở 2 nằm tại ấp Hòa Bình và điểm lẻ cơ sở 3 tại ấp Vĩnh
Cửu. Số lớp huy động được hằng năm là 11 lớp với từ 252-282 cháu.
Trường thực hiện chương trình giáo dục mầm non chuyên đề lấy trẻ
làm trung tâm theo chương trình của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Hằng
62

7.3 Page 63

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
năm, chất lượng dạy trẻ học khá giỏi đạt từ 64-68%, hạ tỉ lệ trẻ suy
dinh dưỡng từ 1,2-2%, trẻ cân nặng cao hơn tuổi (béo phì) từ 4-5%.
Hiệu trưởng là cô Lê Thị Kim Khuyên được luân chuyển từ Trường
Mầm non Phước Khánh về từ tháng 6.2017 đến nay, bên cạnh đó có
2 phó hiệu trưởng được phân công phụ trách chuyên môn và bán trú.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường là 36, trong đó giáo
viên dạy lớp là 24 người. Số cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn và
trên chuẩn là 20/27, tỉ lệ:74%.
Trường Tiểu học Vĩnh Thanh 1: Được thành lập từ năm 1996
trên cơ sở được tách ra từ Trường Trung học cơ sở Vĩnh Thanh theo
Quyết định số 68/QĐ-TC ngày 1.7.1996 của Giám đốc Sở Giáo dục
- Đào tạo tỉnh Đồng Nai. Cô Nguyễn Thị Liên được bổ nhiệm làm
Hiệu trưởng. Năm học 1996-1997 trường có 3 cơ sở gồm: cơ sở 1 ở
ấp Hòa Bình, cơ sở 2 ở ấp Thanh Minh, cơ sở 3 ở ấp Sơn Hà, tổng
cộng trường có 30 lớp với 1.100 học sinh. Những năm tiếp theo,
số lượng học sinh và số lớp tăng dần lên đến 37 lớp. Năm 2006, cô
Nguyễn Thị Liên nghỉ hưu, thầy Dương Thanh Hải đang là Phó Hiệu
trưởng được cấp trên bổ nhiệm giữ chức vụ Hiệu trưởng; đến tháng
8.2011 thầy được điều chuyển về Trường Tiểu học Vĩnh Thanh 2 giữ
chức vụ Hiệu trưởng; thầy Nguyễn Văn Đính từ Trường Tiểu học
Vĩnh Thanh 2 được điều chuyển về Trường Tiểu học Vĩnh Thanh 1
giữ chức vụ Hiệu trưởng. Năm 2017-2018, Trường Tiểu học Vĩnh
Thanh 1 tách thành 2 trường, gồm Trường Tiểu học Vĩnh Thanh 1
và Trường Tiểu học Vĩnh Thạnh. Theo đó, Trường Tiểu học Vĩnh
Thanh 1 chỉ còn 1 điểm trường tọa lạc tại ấp Hòa Bình. Trường hiện
có diện tích 5.009m2. với 17 lớp và số học sinh dao động từ 560-580
63

7.4 Page 64

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
học sinh, đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên là 25 người, có trình
độ chuyên môn đạt chuẩn. Trong những năm qua nhà trường ra sức
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, duy trì công tác phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi trên địa bàn. Năm 2018 trường thực
hiện chương trình giáo dục phổ thông từ lớp 1 đến lớp 3 theo qui
định. Hằng năm, chất lượng học sinh đạt mức độ hoàn thành tốt và
hoàn thành vượt bậc các môn học đạt từ 50- 60%, tỉ lệ học sinh hoàn
thành nhiệm vụ các môn học đạt từ 95% trở lên, học sinh hoàn thành
chương trình tiểu học luôn đạt 100%.
Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Vĩnh Thanh: Được thành
lập theo Quyết định số 4779/QĐ-UBND ngày 31.7.2018 và đi vào
hoạt động từ ngày 1.8.2018. Trường được sáp nhập từ Trường trung
học cơ sở Vĩnh Thanh (được thành lập từ năm học 1996-1997 theo
Quyết định số 68/QĐ-TC ngày 1.7.1996 của Giám đốc Sở Giáo dục -
Đào tạo tỉnh Đồng Nai) và Trường Tiểu học Vĩnh Thạnh (được thành
lập theo Quyết định số 3585/Q Đ-UBND ngày 19.5.2017 của UBND
huyện Nhơn Trạch. Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Vĩnh Thanh
tọa lạc tại ấp Thành Công với diện tích 37.856m2. Trường có 2 cơ sở
cạnh nhau nên tiện cho việc hoạt động phối hợp chung của hai bậc
học. Hiệu trưởng của trường gồm: ông Nguyễn Văn Lo (1998-2003),
ông Lương Hữu Ích (2003-2006), ông Phạm Văn Nghị (2006-2008),
bà Nguyễn Thị Hồng Phước (2008-2009), ông Lê Hữu Tài (từ năm
2010 đến nay).
64

7.5 Page 65

▲back to top


Chương II
ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
I. TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH
1. Ngăn chặn thực dân Pháp xâm lược
Năm 1859 là cột mốc ghi dấu cuộc sống thanh bình của người Gia
Định - Biên Hòa chuyển sang giai đoạn bất an vì gót giày xâm lược
của thực dân Pháp. Thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam, liên quân
Pháp và Tây Ban Nha tiến chiếm Đà Nẵng không thành công, tướng
Charles Rigault De Genouilly thay đổi kế hoạch, rút đi hai phần ba
số quân (gồm 2.000 người và 8 chiến thuyền) đưa vào đánh chiếm
Gia Định. Sáng sớm ngày 17.2.1859, tướng De Genouilly cho đại
bác khai hỏa rồi xua quân đổ bộ tràn lên đánh thành Gia Định. Quân
triều đình trong thành dốc sức chống trả nhưng đến 10 giờ trưa thì
thất thủ; Hộ đốc Võ Duy Ninh, Án sát Lê Từ cùng quân binh chạy về
thôn Phước Lý rồi tự vẫn ở đó.
Quan binh thành Gia Định thất thủ nhanh chóng chỉ trong một
buổi sáng, nhưng liên quân Pháp vượt qua địa bàn Nhơn Trạch, Cần
Giờ cũng không dễ dàng. Theo bản đồ hành trình tiến quân của Pháp
trong cuộc tấn công Gia Định năm 1859, tính từ ngày 10.2 khi bắt
đầu nổ súng tấn công đồn Vịnh Tào (pháo đài Bảo Thắng) ở Vũng
Tàu, 7 ngày sau quân Pháp mới đến được mục tiêu Gia Định vì phải
vượt qua 12 đồn, bảo bố trí ở tuyến sông Lòng Tàu và sông Sài Gòn,
65

7.6 Page 66

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
do quân lính cùng dân binh địa phương quyết chiến cản bước quân
thù. Các bô lão địa phương có người còn nhớ chuyện tiền nhân kể về
các trận đánh ven sông ngăn chặn bước chân xâm lược Pháp, trong
đó có các trận quyết liệt ở pháo đài Lương Thiện, pháo đài Tả Định
ở địa bàn Nhơn Trạch.
2. Các phong trào chống Pháp trước khi có Đảng lãnh đạo
Sau khi chiếm đóng Gia Định, ngày 18.12.1861 quân Pháp đánh
chiếm Biên Hòa, sau đó đưa quân tiến đánh Long Thành. Khoảng 9
giờ sáng ngày 26.12.1861, cánh quân do đại tá Diégo chỉ huy tiến
vào Long Thành để hướng về mục tiêu Bà Rịa. Khi quân địch kéo
đến khu vực ấp Bà Ký thì bị quân triều đình và quân nghĩa dũng
Long Thành1 do Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy dựa vào hệ
thống lũy Ký Giang chặn đánh. Quân địch dùng vũ khí tối tân áp
đảo. Nghĩa quân dũng cảm chống giặc bằng gươm giáo, kéo dài trận
đánh đến 2 giờ chiều, dù nhiều thương vong nhưng vẫn giữ được trận
địa. Đến khi Pháp có quân tiếp viện do đại tá Leprite vượt sông Đồng
Nai kéo đến, Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng bị thương nặng, không
qua khỏi, hy sinh ngày 27.12.1861. Dân làng thương cảm, đưa ông
cùng 27 nghĩa sĩ về khu đất cao ở Long Thuận (nay thuộc xã Long
Phước huyện Long Thành) lập mộ, hàng năm cúng giỗ, nay còn
di tích2.
1  Trước năm 1960, địa bàn Nhơn Trạch thuộc huyện Long Thành cho nên khi
nói đến Long Thành giai đoạn này bao gồm cả Nhơn Trạch.
2  Mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa quân đã được Bộ Văn hóa - Thông tin
xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 2754/QĐ-BT ngày
15/10/1994.
66

7.7 Page 67

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Cuộc kháng cự của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng thất bại, nhưng
phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp ở Long Thành - Biên
Hòa không chấm dứt. Người Nhơn Trạch - Long Thành tiếp tục
hưởng ứng theo cờ nghĩa kháng chiến chống Pháp.
Theo ghi chép của một gia đình họ Nguyễn ở Phú Hữu1, ông
Nguyễn Ngọc Hớn (1820-1862), nguồn gốc ở xứ Nghệ (cháu nội
cụ Nguyễn Du), kết duyên với bà Trần Thị Hiển quê ở chốn Kẻ Chợ
kinh kỳ vào năm 1938. Sau đó vài năm, ông bà theo lệnh triều đình
vào phương Nam thực hiện chính sách khai khẩn vùng đất biên viễn
tại Đức Hòa, Đức Huệ (Long An bây giờ). Ông được phong chức phó
quản cơ (một cơ khoảng 300 quân). Khi quân Pháp chiếm Gia Định,
ông Nguyễn Ngọc Hớn dẫn con trai lớn là Nguyễn Ngọc Sang tham
gia nghĩa quân chống Pháp. Ông được phong chức Quân trấn đồn
Mồng Gà (nay thuộc ấp Ký Mỹ, xã Trường Bình, huyện Cần Giuộc,
tỉnh Long An), có tham gia trận tập kích đánh đắm tàu Primôghê ở
vàm Đồng Môn Biên Hòa năm 1861. Có thời gian hai cha con đóng
quân (đóng bạ) trấn giữ mặt sông từ vàm Câu Kê đến vàm Ông
Chuốc để ngăn quân Pháp. Thời ấy, tổng số nghĩa quân tại Biên Hòa
gồm 18 cơ, 24 liên đội, trong đó có 4 liên đội mộ trú. Mỗi liên đội
có độ 400 quân, trang bị đại bác cỡ nhỏ và 10 cây súng, còn lại đều
vũ trang giáo mác (2). Các đơn vị nghĩa quân rất cơ động. Đội nghĩa
quân của các ông phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt
cháy tàu Hy Vọng ở làng Nhật Tảo trên Vàm Cỏ ngày 10.12.1861.
Ngay sau đó, các ông được lệnh đưa quân về đóng bạ từ vàm ông
1  Nguyễn Văn Thông, Đất mẹ, NXB Đồng Nai, 2015, trang 22 - 24.
2  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược, tr.177, 1972.
67

7.8 Page 68

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Chuốc đến vàm Câu Kê. Trong trận đụng độ ngày 26.12.1861, nghĩa
quân nghênh chiến với một cánh quân Pháp tại đây do viên đại tá Lơ
Brít (Le Brides) cầm đầu. Lực lượng và trang bị đôi bên quá chênh
lệch, hai ông sa vào tay giặc. Bị tra khảo dã man, khi giặc thả ra thì ít
lâu sau ông Nguyễn Ngọc Hớn từ trần giữa năm Nhâm Tuất (1862).
Cha mất, con trai là Nguyễn Ngọc Sang tiếp tục chiêu mộ nghĩa
quân tiếp tục chống Pháp mong trả thù nhà nợ nước. Ngày 5.6.1862,
triều đình Huế ký kết hòa ước giao các tỉnh Gia Định, Định Tường,
Biên Hòa cho Pháp, lòng dân không thuận, tôn Trương Định làm
Bình Tây Đại Nguyên soái, dựng cờ, mộ quân, xây dựng căn cứ
kháng chiến. Nguyễn Ngọc Sang đem quân ứng nghĩa về với Trương
Định, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh miền Đông, góp phần tạo
nên các chiến thắng ở Lý Nhơn, Gò Công Trao Trảo, Rừng Lá, lũy
Ký Giang. Sau khi Trương Định hy sinh, phong trào kháng Pháp tàn
lụi dần; cuối năm 1864, ông Nguyễn Ngọc Sang lui về ẩn cư tại xóm
Bến Bạ, làng Lương Thiện, cưới vợ, sống đời thường dân, nhưng vẫn
canh cánh tấm lòng ưu dân ái quốc, qua đời năm 1890.
Khởi nghĩa vũ trang thất bại, lòng dân Nhơn Trạch - Long Thành
uất ức sống trong bộ máy cai trị của giặc Pháp, căm ghét những tên
tay sai do chính quyền Pháp dựng lên để đàn áp đồng bào. Đầu năm
1881, nhà cầm quyền Pháp đưa Trần Bá Hựu (em của Việt gian Trần
Bá Lộc) về làm tri phủ Long Thành. Hựu là tên gian ác làm dân căm
ghét. Một nhóm nghĩa sĩ do nhà sư Huyền Vi (thế danh là Trần Văn
Tấn) chủ trì bàn cách tiêu diệt Trần Bá Hựu để trừ hại cho dân lành.
Một buổi trưa, sư Huyền Vi cùng ba người áo the khăn đóng mang
68

7.9 Page 69

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hoa quả vào huyện đường Long Thành nói là để biếu quan phủ. Hựu
vắng nhà, vợ Hựu nhận lễ, cho biết Hựu đang đi săn ở vùng Bà Ký,
kỳ thực là Hựu đánh bài ở nhà xã trưởng tên Ký Tài. Biết vậy, nhóm
của sư Huyền Vi tìm đến, dùng dao diệt gọn Trần Bá Hựu tại nơi y
đánh bài. Vụ án gây chấn động cả vùng, làm run sợ bọn tay sai cho
giặc. Trần Bá Lộc vì thương em, thề trả thù bằng các cuộc khủng bố,
bắt bớ, tra tấn tàn độc.
3. Hội kín/Thiên Địa hội
Khởi nghĩa vũ trang bị dập tắt, hoạt động diệt ác bị khủng bố,
người Nhơn Trạch - Long Thành chuyển sang hoạt động bí mật, tổ
chức Hội kín dưới danh nghĩa Thiên Địa hội. Thiên Địa hội xuất hiện
ở địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành từ năm 1908 theo phong trào
Hội kín ở Nam Kỳ, mục đích chung là lật đổ chính quyền thực dân,
tôn Phan Xích Long làm hoàng đế. Tổ chức Hội kín /Thiên Địa hội
ở Nhơn Trạch - Long Thành không chặt chẽ lắm nhưng có mặt ở hầu
hết các xã, chia làm nhiều cụm:
- Cụm Phước Thái, Long An, Long Phước: Do cụ Lê Lưu Di phụ
trách, điểm liên lạc tại đình Long Phước.
- Cụm An Hòa Hưng, Phước Tân, Tam Phước, Tam An, An Lợi:
Do cụ Phan Văn Tập phụ trách, điểm liên lạc tại đình Tam Phước.
- Cụm Phước Lộc, Phước Nguyên, Siph, Lộc An, Bình Sơn: Do cụ
Huỳnh Thanh Quang và Trần Nghĩa Khánh phụ trách, điểm liên lạc
tại khu Giàu Ba.
- Cụm Phú Hữu, Phước Khánh, Giồng Ông Đông: Do cụ Nguyễn
Xuân Sáng điều khiển, điểm liên lạc tại Phú Hữu.
69

7.10 Page 70

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
- Cụm Phước Long, Phước Thọ, Phước An: Do cụ Đặng Phùng
chỉ huy, điểm liên lạc tại Phước An.
- Cụm Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiển: do cụ Hồ
Văn Tĩnh lãnh đạo, điểm liên lạc tại Xóm Hố.
Hội kín hoạt động suốt một dải từ Lương Thiện, Phước Lý, Phước
Khánh, Bình Quới tới Phước An, tuyên truyền yêu nước, bày cho
đông đảo người nghèo cách chống sưu cao thuế nặng, chống sự bóc
lột của bọn chủ điền tham lam. Trụ sở lúc đầu đặt tại hốc Cây Da
thuộc xã Phú Hội. Sau thấy họp ở đây không được tiện, dễ bị lộ nên
tổ chức quyết định xây dựng một miễu ở gò cao giáp ranh xã Long
Tân và Phú Hội, dưới hình thức là miễu Bà, người địa phương gọi
tên là miễu Thiên Địa hội. Hằng năm, lấy ngày rằm tháng Giêng là
ngày cúng miễu, đó là ngày hẹn họp mặt của hội viên. Hội viên gặp
nhau có mật hiệu để nhận diện, ví dụ: Một người chỉ tay lên trời, nói
bâng quơ “Mây vẫn nặng nề”; hội viên kia chỉ tay xuống đất và trả
lời: “Cơn giông sắp nổ”.
Sau sự kiện ngày 12.1.1916, lực lượng Thiên Địa hội ở Long
Thành tham gia phá khám Sài Gòn bị thất bại, quân Pháp ra sức lùng
bắt và đàn áp phong trào. Các ông Tiều, ông Quý, ông Dệch bị địch
bắt. Các hội viên khác mai danh ẩn tích. Phong trào Hội kín/ Thiên
Địa hội ở Nhơn Trạch - Long Thành tan rã.
Như vậy, dù không nổi bật, sôi nổi như các địa phương khác do
điều kiện nhân lực nhưng bước đầu ở vùng Vĩnh Thanh đã xuất hiện
bóng dáng của Hội kín Thiên Địa hội, người dân Phước Lý đã tham
gia các phong trào yêu nước đấu tranh với ngoại xâm. Đây là tiền đề
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
để Vĩnh Thanh tham gia hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng sau này.
4. Phản kháng áp bức
Từ khi thực dân Pháp toàn quyền cai quản Nam Kỳ, đời sống của
người dân Nhơn Trạch ngày càng cơ cực, tủi nhục trong vòng nô lệ.
Giữa thế kỷ XIX, cả vùng Nhơn Trạch, trong đó có Vĩnh Thanh, vẫn
còn hoang vu, hẻo lánh. Rừng còn chiếm phần lớn diện tích địa bàn
Vĩnh Thanh. Người dân Vĩnh Thanh sống phần lớn bằng nghề hạ bạc
và nông nghiệp. Kinh tế tự cấp tự túc là chủ yếu. Hầu hết người dân
Vĩnh Thanh sống trong những ngôi nhà lá sơ sài, lụp xụp.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều loại thuế của chính quyền thời bấy
giờ đặt ra làm cho đời sống người dân trong nước cũng như ở Vĩnh
Thanh lâm vào cảnh bi đát, trong đó nặng nề nhất là thuế thân. Sau
khi chiếm nước ta, ngay từ năm 1897, thực dân Pháp đã định ra loại
thuế khắc nghiệt là thuế thân và càng ngày càng tăng dần. Thuế thân
được thực dân Pháp định thành suất, nộp theo từng năm, đánh vào
người từ 18 tuổi đến 60 tuổi. Tất cả những ai trong diện đóng thuế
thân đều phải có thẻ thuế thân. Trên thẻ có chữ ký hoặc điểm chỉ, có
dấu triện của Lý trưởng. Mỗi năm thay thẻ một lần, màu sắc thẻ cũng
phải thay đổi hàng năm. Thẻ thuế thân có các loại màu khác nhau
để phân biệt giữa nội đinh, ngoại đinh và các đối tượng miễn giảm
thuế. Dân đinh mang thẻ theo người và xuất trình khi cần thiết. Nếu
bị kiểm tra không có thẻ, dân đinh có thể bị bắt giam. Người bị mất
thẻ xin cấp lại phải nộp phạt bằng với khoản tiền thuế. Ở Nam Kỳ,
thuế thân tăng từ 5,58 đồng (năm 1913) lên 7,5 đồng (năm 1929).
71

8.2 Page 72

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
“Tổng số tiền thu thuế ở ba kì từ 1912 đến 1929 tăng gấp ba lần so
với thời kỳ trước đó. Trong các năm bình thường, mức thuế này đã
là một gánh nặng đối với người dân nếu so với mức thu nhập kém
cỏi của họ. Trong các năm khó khăn, mất mùa, khủng hoảng kinh tế,
gánh nặng đó trở nên đặc biệt khủng khiếp. Tính đổ đồng đầu người,
không phân biệt già trẻ lớn bé, mỗi người dân Việt Nam phải nộp 8đ
tiền thuế, tương đương 70kg gạo trắng hạng nhất lúc bấy giờ”1.Do
mức đóng thuế thân quá cao, nhiều nơi nổ ra những cuộc biểu tình
chống thu thuế, nhất là ở miền Trung, nên sau năm 1930 thực dân
Pháp hạ mức thuế thân xuống còn 6,3 đồng/năm, nhưng vẫn là một
gánh nặng oằn lưng đối với người Việt Nam.
Trong khi đó, theo tài liệu còn lưu trữ, do tình trạng suy thoái kinh
tế, giá lúa ở Nam Bộ năm 1933 xuống chỉ còn có 40 xu/giạ (40 lít).
Ở Vĩnh Thanh, năng suất lúa lúc đó khoảng 30-40 giạ/hecta. Tính
ra, một năm làm ruộng vất vả “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”
người nông dân may mắn lắm cũng chỉ đủ nộp thuế thân. Ai không
có tiền đóng thì bị làng lính bắt trói, đóng trăn cả tuần lễ, đánh đập
cho tới chừng nào có đủ để nộp mới tha. Vì vậy, tới “mùa” thu thuế
thân ai cũng nơm nớp, cứ nghe chó sủa rộ là đàn ông trai tráng ở
Vĩnh Thanh, những ai chưa đủ tiền đóng thuế thân lại tìm cách chạy
trốn, phần lớn là kéo nhau chạy vào rừng, đến tối mới dám về nhà.
Nhưng trốn cũng chỉ là giải pháp tạm thời, muốn yên ổn làm ăn sau
cùng cũng phải chạy vạy, vay mượn, có khi là vay bạc nặng lãi để
nộp thuế, nợ chồng thêm nợ.
1  Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập II, NXB Giáo dục, tr.220-221.
72

8.3 Page 73

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Bên cạnh thuế thân, thực dân Pháp vẫn không ngừng tăng thêm
các thứ thuế vô lý như: thuế ruộng, thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc
phiện, thuế cư trú, thuế nhà, thuế thủy lợi, thuế thông thương... Trong
đó, nặng nề nhất là thuế ruộng, còn gọi là thuế điền. Ở Vĩnh Thanh
không có tá điền, không phải nộp tô cho địa chủ, nhưng phải nộp
thuế ruộng cho chính quyền thuộc địa. Theo quy định, mức thuế
tư điền (tức thuế ruộng) ở Nam Bộ có 3 hạng tùy theo chất lượng,
mỗi mẫu ruộng đóng thuế từ 0,74-2,1 đồng. Trong thực tế, phần
lớn các loại ruộng đều phải đóng theo mức “nhất đẳng điền” là 2,1
đồng/mẫu. So với năng suất và giá lúa thời đó, mức thuế trên chiếm
từ 9-25,4% thu nhập của nông dân. Đáng chú ý, chính quyền Pháp
còn tìm cách bóc lột tận cùng người dân bằng quy định đơn vị mẫu
nhỏ lại. Dưới thời Tự Đức nhà Nguyễn, một mẫu ruộng xấp xỉ gần
5.000m2 (người dân gọi là mẫu ta). Từ năm 1897, thực dân Pháp quy
định mỗi mẫu chỉ còn có 3.600m2 (người dân gọi là mẫu tây), nên
trên thực tế mức thuế ruộng tăng hơn so với diện tích đất.
Không chỉ thuế ruộng, người dân còn phải đóng thuế vườn. Có
nhà trồng được mấy sào hoa màu bầu, bí, mướp... cũng phải đóng
thuế, sản phẩm làm ra nhiều khi bán không đủ nộp thuế. Các loại
phương tiện vận chuyển, như ghe, xe bò; các chủ bến đò, chủ chợ...
cũng phải nộp thuế. Chính quyền thuộc Pháp quy định mỗi con bò
kéo xe phải có giấy “bề chỉ” (còn gọi là bài chỉ) là một dạng như
“căn cước” của bò: màu gì, xá gì, đóng thuế bao nhiêu tiền... rất kỹ
lưỡng. Khi qua mỗi đồn bót, trạm gác của chúng người dân phải
trình giấy bề chỉ, nếu không có sẽ bị phạt rất nặng, có khi còn bị tịch
thu cả bò lẫn xe. Đi đêm, mỗi xe bò đều phải treo hai cây đèn phía
73

8.4 Page 74

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
trước và sau xe theo quy định, giống như ô tô bây giờ phải có đèn
trước và sau, nếu không cũng sẽ bị phạt nặng. Ở Phước Lý có một
vài gia đình khá giả như ông Nguyễn Văn Lãnh, ông Mười Huỳnh
nhà nuôi hơn chục con bò để kéo cày làm ruộng nên phải đóng thuế.
Theo Niên giám thống kê Đông Dương, từ năm 1914 đến năm
1927, số thuế chính quyền Pháp thu được ở Việt Nam là hơn 1,4
tỷ đồng, trong đó thuế ruộng và thuế thân chiếm 98%. Toàn quyền
Đông Dương là P. Bernard vào năm 1930 đã tính bình quân số thuế
người dân phải đóng theo thu nhập ở các xứ, phần như sau: Nam
phần (hay Nam Kỳ) 35% trên tổng thu nhập, Trung phần là 16% trên
tổng thu nhập, Bắc phần là 17% trên tổng thu nhập. Đó chỉ là mức
tính thuế chung của chính quyền thuộc địa, người dân còn phải đóng
các loại thuế khác theo quy định của địa phương, chẳng hạn như thuế
thả trâu bò, thuế bến bãi, bến đò, thuế chợ... Nên trong thực tế các
mức thuế, phí mà người dân Nam Bộ, trong đó có Vĩnh Thanh, phải
đóng lên đến từ 37,9-44,8% thu nhập1.
Chính quyền thuộc địa Pháp còn quy định: 5 nhà chỉ được có một
con dao dùng để phát rẫy, trong khi người dân Phước Lý sống nơi
rừng rậm hoang vắng nhưng thiếu công cụ lao động để phát rừng làm
ruộng rẫy, vì thế đời sống người dân rất khó khăn, cơ cực.
Không chỉ vậy, người dân còn phải đóng thuế lao dịch. Theo Nghị
định của Toàn quyền Đông Dương ngày 31.12.1907, mỗi người phải
đi lao dịch 8 ngày/năm, ai không đi thì phải đóng thuế lao dịch từ
1  Theo Tìm hiểu hệ thống thuế của thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam trước
năm 1945 của Hồ Tuấn Dung, Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm, Đại học
quốc gia Hà Nội, đăng Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, năm 1999.
74

8.5 Page 75

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
0,1-0,5 đồng/ngày (tùy theo việc), ai không có tiền đóng thì bị bắt đi
lao dịch nặng nề. Năm 1929, quân Pháp bắt đầu xây dựng kho bom
Thành Tuy Hạ. Người dân Nhơn Trạch và một số xã xung quanh,
trong đó có Vĩnh Thanh đều phải đi làm phu không công ít nhất 15
ngày/năm, trong thực tế có khi kéo dài đến 2-3 tháng. Công việc lao
dịch nào là chặt cây, phá bụi, san bằng các gò, nỗng, đào ô đắp ụ để
chứa bom, khiêng vác vật liệu xây dựng. Kho đạn Thành Tuy Hạ
xây dựng 4 năm mới xong. Tiếp đó, đến năm 1939, Pháp xây dựng
đồn Giồng Ông Đông, người dân các xã xung quanh cũng phải đi
làm phu xây dựng. Đến lúc Nhật nhảy vào chiếm đóng, người dân
lại phải đi phu xây dựng sân bay Nước Trong (An Lợi) và Gò Dầu
(Phước Thái). Người dân Vĩnh Thanh sống trong tình trạng chung
của cả nước, phải chịu một cổ hai tròng (thực dân Pháp và phát xít
Nhật). Ai sống trong thời gian này mới biết chế độ hà khắc của thực
dân - phát xít tàn bạo như thế nào. Người dân bị khủng bố tinh thần
lẫn đời sống vật chất; sưu cao, thuế nặng, thiếu thốn đủ thứ: Khi đau
bệnh không có tiền mua thuốc thang, đi bệnh viện; nhà không dầu
thắp đèn (phải đốt đèn bằng dầu phộng, mù u, dầu chai), vải không
đủ mặc phải may quần áo bằng vải bao bố chịu trận với rận rệp,
nhiều cặp vợ chồng chỉ có một cái quần dài, ai có việc phải ra ngoài
thì được nhường quần dài, người ở nhà quanh năm chỉ mặc cái quần
cộc vá chằng vá đụp. Thanh niên bị bắt đi làm xâu vài ba tháng mới
được về; làm xâu xa tận Bà Rịa, Hố Nai, Bến Gỗ, cực khổ trăm bề;
nên có câu châm biếm truyền khẩu: “Làm xâu Bến Gỗ cực khổ gian
nan. Vợ con để lại nhờ các anh bảo an (lính Nhật) trông giùm”.
75

8.6 Page 76

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Nhà cầm quyền Pháp chủ trương “ngu dân”. Từ năm 1929-1932,
toàn huyện Long Thành chỉ có một trường dạy đến lớp 1 đặt ở Phước
Thiền, một trường dạy đến lớp 2 ở xã Phước Lộc. Hầu hết người dân
mù chữ, thất học. Một ít thanh thiếu niên được học ở các trường làng
đặt ở các cơ sở thờ tự (như chùa Ông ở Hiệp Phước, đình Ông Mai
ở Phú Hữu) được các thầy giáo như Phạm Văn Hinh, Nguyễn Hảo
Văn ngoài việc dạy chữ còn truyền lửa về đạo nghĩa, lòng yêu nước
và tinh thần dân tộc.
Tức nước ắt có lúc vỡ bờ, người dân Nhơn Trạch - Long Thành
ngầm có sự phảng kháng trong lòng, mong đợi một điều gì đó làm
thay đổi kiếp sống tủi cực, u tối đang đè nặng cuộc đời.
Từ khi có tầng lớp công nhân cao su ra đời và khi Pháp cho dời
kho đạn Thị Nghè về Thành Tuy Hạ, công nhân cao su Tân Tường,
sở Ông Cố và người làm công thợ cho Pháp có dịp là tiếp xúc với
những người cách mạng như ông Bảy Dài, được nghe dẫn giải về
truyền thống yêu nước của dân ta, về giai cấp công nhân, về Đảng
Cộng sản Đông Dương. Nhiều người được tham gia mấy cuộc diễn
thuyết của cán bộ Đảng, từ diễn thuyết dẫn đến nhiều cuộc đình công
yêu sách đấu tranh đòi tăng lương giảm giờ làm. Cuộc đình công
thu được một phần kết quả, chủ phải nhượng bộ. Qua phong trào
tham gia diễn thuyết, đình công, người Nhơn Trạch tiếp nhận được
nhiều lý luận mới mẻ về cách mạng, về Đảng. Cuốn Điều lệ Đảng
Cộng sản Đông Dương âm thầm phổ biến cho nhiều người, từ người
biết chữ lan truyền trong dân, từ người nhiều chữ đến người ít chữ.
Người dân hiểu ra bọn địa chủ, bộ máy hội tề, chính quyền thực dân
là nguồn gốc của áp bức bóc lột bạo tàn. Muốn thoát khỏi cảnh ngựa
76

8.7 Page 77

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
trâu bóc lột đó, muốn có ruộng đất để sản xuất thì nông dân phải kề
vai sát cánh với công nhân để lật đổ toàn bộ giai cấp thống trị cũ,
dựng xây cuộc đời mới.
Để phản kháng sự cai quản khắc nghiệt của địa chủ và thực dân,
người nông dân và công nhân cùng khổ ban đầu chỉ biết bỏ trốn, hoặc
phản đối rồi chịu cực hình. Dần dần, số đông biết lên tiếng bảo vệ
kẻ thế cô, xuất hiện hình thức bãi công tập thể để trực diện yêu sách.
Đến khi tiếng vang các cuộc đấu tranh của công nhân ở đồn điền
Cam Tiên (tháng 12.1926), ở đồn điền Phú Riềng (tháng 9.1927)
vọng đến, công nhân ở Nhơn Trạch biết mình có thể làm được gì để
hội nhập với phong trào công nhân. Năm 1932, tại đồn điền Bình
Sơn (thuộc huyện Long Thành) đã nổ ra cuộc đấu tranh của công
nhân đòi chủ Tây không được đánh đập công nhân, chống cúp phạt
lương. Tại Nhơn Trạch lúc này chưa có tổ chức Đảng, nhưng những
cuộc nổi dậy của công nhân cao su và người dân Long Thành đã
ít nhiều tác động đến nhận thức của người dân Nhơn Trạch. Một
số công nhân cao su của sở Tân Tường, sở Ông Cố cũng tham gia
hưởng ứng phong trào đấu tranh của đồn điền Bình Sơn.
Các phong trào yêu nước chống Pháp từ vũ trang đến Hội kín đều
đã thất bại. Một phong trào yêu nước mới mẻ đang mở ra. Lòng dân
Nhơn Trạch cũng như Vĩnh Thanh đang như đồng khô trong nắng
dữ, chờ ngọn lửa cách mạng để bùng cháy.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
1. Đảng ra đời, gầy dựng phong trào cách mạng
Ngày 3.2.1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ sự kiện vô
cùng quan trọng này, phong trào đấu tranh của người dân và công
77

8.8 Page 78

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nhân cao su khu vực Long Thành - Nhơn Trạch nói chung chuyển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn có Đảng lãnh đạo.
Ở Nam Bộ, những năm 1930 - 1935, các đồng chí đảng viên Đảng
Cộng sản được phân công tuyên truyền, vận động quần chúng theo
Đảng làm cách mạng. Các đồng chí Nguyễn Văn Tạo (quê ở Long
An), Nguyễn Văn Nguyễn (người Mỹ Tho), Dương Bạch Mai (người
Bà Rịa), Nguyễn An Ninh (quê ở Hóc Môn) đã có những hoạt động
viết báo, diễn thuyết đòi tự do dân chủ gây tiếng vang, đáp ứng lòng
mong đợi của người dân yêu nước. Người Biên Hòa hướng theo
tiếng gọi của Đảng thông qua các đồng chí ấy.
Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản bị đàn áp, nhiều cơ sở Đảng
mới ra đời ở Nam Kỳ đã tan vỡ, nhiều cán bộ ưu tú ở Nhà máy cưa
BIF, ga xe lửa Biên Hòa, đồn điền cao su Cam Tiêm, Cẩm Mỹ, An
Lộc bị giặc bắt, tù đày. Từ năm 1931 đến 1935, Xứ ủy Nam Kỳ cố
gắng tái lập, nhưng lập rồi lại vỡ. Đến tháng 4.1935, Xứ ủy mới móc
nối lại các cơ sở, khôi phục phong trào.
Ở tỉnh Biên Hòa, đồng chí Lưu Văn Viết (Tư Chà) sau một thời
gian tạm lánh, năm 1933 đã trở lại với quê hương Tân Phong, bám
dân, xây dựng phong trào cơ sở, kết nạp em là Lưu Văn Văn (Chín
Văn) vào Đảng, mở rộng cơ sở cách mạng trong Trại người điên
Biên Hòa (Asile d’ alienes de Bien Hoa, nay là Bệnh viện Tâm thần
trung ương II), trong thanh niên học sinh Bến Cá và kết nạp thêm vài
đảng viên mới. Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu (tức Vĩ)
quê ở Tiền Giang được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt động ở
Biên Hòa, liên lạc với các đảng viên cơ sở, vận động thành lập Chi
78

8.9 Page 79

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều do Hoàng Minh Châu làm Bí thư,
đồng chí Huỳnh Văn Phan làm Phó Bí thư, các đảng viên là: Lưu
Văn Viết, Lưu Văn Văn, Quách Tỷ, Quách Sanh, Trần Minh Triết,
Phạm Văn Khoai. Đó là chi bộ Đảng đầu tiên ở tỉnh Biên Hòa.
Từ tháng 4.1936, nương theo chủ trương của Mặt trận Bình dân
do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, phong trào cách mạng ở nước
ta phát triển khá thuận lợi, chuyển hình thức hoạt động bí mật sang
công khai hợp pháp và nửa hợp pháp; tập hợp và hướng dẫn đông
đảo quần chúng đấu tranh, thông qua đó giáo dục, phát triển đội ngũ
cách mạng. Thời gian này, một số người giàu lòng yêu nước ở Nhơn
Trạch - Long Thành tiếp cận tư tưởng cách mạng của Đảng.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
nhất ở Thượng Hải (ngày 26.7.1936), mục tiêu đấu tranh chống chế
độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân
chủ, cơm áo, hòa bình được tuyên truyền, phổ biến rộng khắp; người
Nhơn Trạch được biết đến chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất
nhân dân phản đế Đông Dương (sau trở thành Mặt trận Dân chủ
Đông Dương), tập hợp mọi lực lượng dân chủ tiến bộ để đấu tranh
đòi tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, chống kẻ thù chủ yếu trước
mắt là bọn phát xít Pháp và bọn phản động thuộc địa. Sau khi Ủy
ban lâm thời Đông Dương Đại hội1 được thành lập tại Sài Gòn (ngày
13.8.1936), ở Biên Hòa thành lập Ủy ban hành động2 (do đồng chí
Nguyễn Văn Nghĩa làm Chủ tịch) để vận động và điều hành phong
1  Gồm Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn
Trân, Võ Công Tồn.
2  Cả Nam Kỳ có khoảng 600 Ủy ban hành động.
79

8.10 Page 80

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
trào cách mạng. Các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nghĩa
được Ủy ban Đông Dương Đại hội phân công phụ trách Biên Hòa.
Trong vòng một tháng (tháng 8.1936), nhiều Ủy ban hành động cơ
sở được thành lập ở Tân Triều, Bình Phước, Bình Thạnh, Tân Phong,
Bình Hòa.
Chủ tịch Ủy ban hành động tỉnh phân công các đảng viên về Long
Thành, Nhơn Trạch, chú trọng khu vực thị trấn và đồn điền cao su để
tuyên truyền yêu nước, đấu tranh đòi dân chủ. Các tài liệu của Đảng
như: “Lời hiệu triệu của các Ủy ban hành động”, báo “Lao động”,
“Dân chúng” được phổ biến khá rộng rãi trong các khu vực dân cư,
đô thị, đồn điền cao su. Qua đó, phong trào đã tập hợp rất nhiều trí
thức, kể cả một số cai, xu, tiến bộ trong các sở cao su tham gia phong
trào cách mạng. Đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa (Nghĩa Xược) cùng
với đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại) đi sâu vào vùng cao su, như:
Siph, Bình Sơn, An Viễng. Một số đồng chí khác như: Dương Bạch
Mai, Trương Văn Bang, Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Văn Ký, Hồ Văn
Giàu về các vùng khác nhau của Long Thành - Nhơn Trạch.
Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều đã lãnh đạo các Ủy ban hành
động phát động các phong trào kêu gọi quần chúng hưởng ứng cuộc
vận động vì tự do, dân chủ, áo mặc, cơm ăn. Nhiều tổ chức đoàn thể
hình thành, nhiều cuộc mít tinh đã diễn ra. Các đồng chí Nguyễn
Văn Nghĩa, Huỳnh Văn Lũy, Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận,
Hồ Văn Đại là những đảng viên tiêu biểu. Tiếng vang của hoạt động
cách mạng và tấm gương của đảng viên ở Bình Phước - Tân Triều
trở thành ngọn lửa ấm đi vào lòng dân Nhơn Trạch - Long Thành.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Cuối năm 1936, đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang, Ba Đen),
nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ (1933-1934) được Liên Tỉnh ủy miền
Đông cử về Biên Hòa để vận động thành lập Tỉnh ủy, phát triển cơ sở
đảng. Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập đầu năm 1937,
đồng chí Trương Văn Bang được cử làm Bí thư, Tỉnh ủy viên gồm
có các đồng chí: Huỳnh Liễng, Trần Văn Triết, Huỳnh Xuân Phan,
Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ. Tỉnh ủy tiến hành công tác xây dựng
Đảng ở Biên Hòa với các bước phát triển mới, nhiều tổ chức quần
chúng được thành lập ở Long Thành như Công hội, các Hội ái hữu
như Hội tương tế, Hội chùa, Hội miếu, Hội đá bóng, Hội lân... được
xây dựng ở các xã nông thôn, nhất là trong các đồn điền cao su Bình
Sơn, An Viễng, Ship, Tân Tường, sở Ông Cố.
Có Tỉnh ủy lãnh đạo, phong trào đấu tranh của nhân dân Biên Hòa
trong những năm 1937 - 1939 diễn ra sôi động và rộng khắp, cả ở
vùng đô thị, vùng đồn điền cao su và nông thôn; cả bí mật và công
khai; cơ sở đảng và các hội, đoàn thể đều phát triển. Qua phong trào
đấu tranh, tổ chức đảng đã giúp quần chúng nhân dân nâng cao nhận
thức chính trị, hiểu biết về chủ nghĩa Cộng sản và mục tiêu đấu tranh
của cách mạng. Cùng với tình hình chung, phong trào cách mạng ở
Nhơn Trạch - Long Thành bắt đầu đi vào chiều sâu.
Từ tháng 9.1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Thực dân
Pháp khủng bố các phong trào đấu tranh cách mạng, tịch thu tài sản
của các tổ chức, hội đoàn, nghiêm cấm các cuộc hội họp, lùng bắt
người đứng đầu các Ủy ban hành động. Ngày 4.1.1940, Toàn quyền
Đông Dương Catru (Catroux) tuyên bố công khai chủ trương tiêu
81

9.2 Page 82

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
diệt Cộng sản. Sau tuyên bố là hành động khủng bố, bắt bớ, giam
cầm người tham gia cách mạng.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã kịp thời thay đổi hình
thức đấu tranh, rút vào hoạt động bí mật, trọng tâm là xây dựng cơ
sở ở vùng nông thôn, chọn cách thích hợp ở từng vùng đô thị. Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần VI tại Bà Điểm (Hóc
Môn, Gia Định) tháng 11.1939 chủ trương “thành lập Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tính đến chống đế quốc chiến
tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng
các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”1.
Hội nghị xác định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu; đề ra
khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng
đất của đế quốc và địa chủ phản động cho nông dân, nhằm tập trung
lực lượng chống đế quốc và bè lũ tay sai.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Kỳ,
Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ thị cho các tổ chức, cán bộ chuyển từ hoạt
động công khai sang bí mật và bán hợp pháp. Đồng chí Nguyễn Văn
Nghĩa bị địch bắt và bị đày lên căng Bà Rá. Các đồng chí: Phạm Văn
Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại... tạm lánh về các địa phương
khác, tiếp tục hoạt động. Các đồng chí: Lê Văn Tôn, Huỳnh Xuân
Phan, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ, Trần Văn Triết... rút vào
rừng Tân Uyên, hoạt động bí mật.
1  Văn kiện Đảng, tập 3, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản,
Hà Nội, 1977, tr 56.
82

9.3 Page 83

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Tại Long Thành,
quân đội Nhật chia nhau đóng ở sở Bà Đầm, khu căn cứ Nước Trong,
khu Thái Thiện. Hằng ngày chúng lùng bắt từ 300 - 400 người đi làm
xâu1 xây dựng sân bay, đồn bót. Thực dân Pháp cấu kết với Nhật ra
sức đàn áp nhân dân ta. Người dân Long Thành - Nhơn Trạch lúc
này lâm vào cảnh một cổ hai tròng: Pháp bắt lính, Nhật bắt phu. Lính
Nhật ác độc, tàn bạo như lính Pháp. Đời sống người dân Nhơn Trạch
thời điểm này vô cùng cơ cực. Hột lúa làm ra đã vất vả, lính Nhật còn
bắt dân đóng lúa hương lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay cho than
để chạy máy. Không có gạo ăn, người dân phải mót khoai lang, khoai
mì, ăn độn rau cỏ các loại, nạn thiếu đói xuất hiện ở Nhơn Trạch.
Trước đây, người dân vẫn thường trồng bông vải, đánh thành sợi
rồi dệt vải, gọi là vải ta. Người nghèo, người bình dân mới mặc đồ
bằng vải ta, vì rẻ. Nhơn Trạch không trồng được bông vải, người
dân mua vật liệu (bông vải, chỉ, con cúi) về để tự dệt vải. Đến thời
Nhật, chúng cấm không cho người dân được dệt vải hay mua bán,
vận chuyển vải, bông vải cũng như các vật liệu, thiết bị liên quan.
Nguyên nhân là vì chúng đưa hàng vải dệt từ nước Nhật sang, nên
cấm dân dệt vải để tiêu thụ hàng Nhật. Nếu phát hiện nhà nào có các
thứ “quốc cấm” nói trên, chúng bắt bớ, đốt nhà, tịch thu phương tiện
vận chuyển. Nhưng vải của Nhật nhập khẩu vào Việt Nam giá rất
mắc, nhất là so với thu nhập của người dân nông thôn, vì thế người
dân Nhơn Trạch không có tiền mua vải may quần áo. Nhiều người
phải lấy bao bố, bao tải làm quần áo mặc. Vải bao bố mặc vừa ngứa,
1  Làm xâu, một hình thức lao động bắt buộc, tự túc về lương thực trong quá
trình lao động.
83

9.4 Page 84

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
vừa xót, nhưng trong tình thế túng cùng người dân cũng phải cam
chịu. Ăn ở trong hoàn cảnh thiếu vệ sinh nên đã sinh ra dịch rận.
Trong làng trong xóm hầu như ai cũng có rận, trị hoài không hết.
Nhiều nhà trị rận bằng cách lấy cái chai lăn lên quần áo, rận nổ nghe
lụp bụp.
Không chỉ thiếu cơm ăn, áo mặc, mà dầu thắp sáng cũng không
có, vì trong thời kỳ chiến tranh cả Pháp lẫn Nhật đều cần nhiên liệu
phục vụ chiến trường. Nhiều nhà ở Nhơn Trạch phải chịu cảnh “ở
thầm”, hoặc thắp sáng bằng dầu chai, dầu mù u, khói mù mịt. Tình
cảnh nhân dân cơ cực không sao kể xiết.
Pháp và Nhật tung ra các chiêu bài mị dân. Thực dân Pháp tuyên
truyền về chủ thuyết Pháp - Việt đề huề. Phát xít Nhật thành lập khối
Đại Đông Á kêu gọi người Việt nên “đồng hội đồng thuyền” vì cùng
“máu đỏ da vàng”, theo Nhật đánh Pháp. Ở Long Thành, có tên Trần
Quang Vinh, Nguyễn Văn Sót làm tay sai đắc lực cho Nhật, tàn hại
dân lành.
Tháng 9.1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp tại xã Tân Xuân (Hóc Môn,
Gia Định), phân tích tình hình, dự báo thời cơ khởi nghĩa, giao Ban
Thường vụ Xứ ủy ra lệnh khởi nghĩa Nam Kỳ vào đêm 22.11.1940.
Rạng sáng ngày 23.11.1940, khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ở một số địa
phương. Tại Biên Hòa, sáng ngày 24.11.1940, địch bao vây các địa
điểm chuẩn bị khởi nghĩa, các đồng chí Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng
Kỳ bị địch bắt đày đi Côn Đảo. Đồng chí Huỳnh Liễng hy sinh ở Lạc
An. Nhiều đồng chí cán bộ đảng viên khác cũng bị địch bắt, giam giữ
các căng Bà Rá, Tà Lài.
84

9.5 Page 85

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Khởi nghĩa Nam Kỳ bị thất bại. Địch khủng bố rất ác liệt, phong
trào chìm lắng, tổ chức tan vỡ. Cán bộ một số lớn bị bắt, bị đày, một
số phải chuyển vùng lánh đi nơi khác. Nhưng, ở các vùng nông thôn
và các đồn điền cao su phong trào cách mạng vẫn tiếp tục. Nông dân
và công nhân bảo vệ, chở che cho cán bộ cách mạng ẩn náu để gầy
dựng lại phong trào.
Đầu năm 1943, Ban cán sự miền Đông cử đồng chí Trịnh Văn
Dục (Ba Dục) về quận Long Thành hoạt động. Đến cuối năm 1944
đồng chí đã tổ chức quân bộ Việt Minh đầu tiên của tỉnh ở quận
Long Thành, xây dựng được mạng lưới cơ sở Việt Minh trong các
đồn điền cao su, lập được Chi bộ Đảng ở cơ sở Bình Sơn do đồng
chí Vũ Hồng Phô (tức Vũ Khánh) làm Bí thư1. Đồng chí Trịnh Văn
Dục hóa trang lúc thì làm nghề bán thuốc lào, khi thì chăn nuôi ngựa,
đánh xe ngựa, khi thì làm người bán dạo, đi khắp địa bàn Nhơn
Trạch - Long Thành để móc nối, xây dựng cơ sở đảng. Người dân
thường gọi đồng chí là “Thầy Ba thuốc lào”, “Thầy Ba xe ngựa”.
Đồng chí Ba Dục dành nhiều thời gian tìm hiểu và tiếp xúc với công
nhân và cả cai, xu trong các đồn điền, dần dần tuyên truyền, thuyết
phục và giáo dục được nhiều người giác ngộ cách mạng. Thông qua
những anh em quen biết đồng chí Ba Dục đã nắm được tình hình ở
các sở và tạo ra một mối quan hệ rộng rãi trong công nhân. Tiếp đó,
đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) được Đảng cử về hoạt động ở
làng Đất Đỏ (Bình Sơn) cùng đồng chí Ba Dục xây dựng cơ sở cách
mạng ở địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành. Từ đó, những “hạt giống
1  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập
1, NXB Đồng Nai, 1997, trang 48.
85

9.6 Page 86

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đỏ” của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được gieo cấy, nảy mầm ở đất
lành Nhơn Trạch, trước hết là ở địa bàn Phước An, Phước Thọ, Đại
Phước, Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh.
2. Xây dựng cơ sở đảng, phát triển phong trào cách mạng
Từ cuối năm 1942, tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến quan trọng. Chiến tranh thế giới II vào giai đoạn quyết liệt. Mâu
thuẫn Nhật - Pháp sâu sắc. Thời cơ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hé mở. Cuối tháng 2.1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp phân tích tình hình, có chủ trương mở rộng Mặt trận thống nhất
và đẩy mạnh việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Tháng 10.1943, Xứ
ủy Nam Kỳ được tái lập (gọi là Xứ ủy Tiền phong) do Trần Văn Giàu
làm Bí thư. Xứ ủy cử nhiều cán bộ đi khắp nơi, bám cơ sở để liên
lạc, móc nối, phục hồi các tổ chức đảng địa phương. Các đảng viên
kỳ cựu: Phạm Văn Búng, Nguyễn Văn Nghĩa, Phạm Văn Khoai, Lê
Thái, Hồ Văn Giàu, Nguyễn Văn Ký, Hồ Hòa, Huỳnh Văn Lũy, Hồ
Văn Đại, Phạm Văn Thuận... dần dần trở lại hoạt động tại địa bàn
Biên Hòa. Đồng chí Hoàng Minh Châu được Xứ ủy phân công phụ
trách xây dựng cơ sở đảng ở Biên Hòa, đã bám trụ trong dân, kết nối
các đảng viên cơ sở, xây dựng được một số Chi bộ đảng ở ga Biên
Hòa, Tân Phong, Hóa An, Tân Hạnh, Tân Bình.
Tại địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành, các cơ sở đảng được đồng
chí Trịnh Văn Dục gầy dựng ở các xã và các đồn điền cao su vẫn
bí mật hoạt động, đang có nhiều cơ hội phát triển. Tháng 3.1944,
đồng chí Lê Minh Định được Ban cán sự miền Đông giao việc về
Long Thành, gặp đồng chí Ba Dục bàn việc xây dựng và phát triển
86

9.7 Page 87

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
cơ sở đảng ở Long Thành. Cùng đi với đồng chí Định có đồng chí
Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) và Lý Trần Hoan. Đồng chí Định triển
khai chủ trương của Xứ ủy, cho biết: Tình hình thế giới đang tiến
triển theo chiều hướng có lợi cho cách mạng và khẳng định Đồng
minh sẽ đánh bại phát xít. Nhật - Pháp ở Đông Dương thế nào cũng
sẽ lật nhau, thời cơ cướp chính quyền sẽ đến. Trước tình hình đó,
Xứ ủy yêu cầu thành lập chi bộ để lãnh đạo phong trào địa phương.
Đồng chí Định thay mặt Ban Cán sự miền Đông chỉ định đồng chí
Trịnh Văn Dục làm Bí thư và cử hai đồng chí Vũ Hồng Phô, Lý Trần
Hoan hỗ trợ. Đây là chi bộ đảng đầu tiên ở địa bàn Long Thành. Từ
hạt nhân lãnh đạo này, phong trào cách mạng ở Long Thành phát
triển sâu rộng, xuất hiện thêm nhiều chi bộ đảng khác. Chi bộ nhanh
chóng kết nạp thêm nhiều đảng viên mới, đưa đồng chí đảng viên
đang hoạt động vùng Phước Thiền là Trương Minh Kỷ (Bảy Kỷ) về
sinh hoạt cùng Chi bộ Long Thành, trên cơ sở đó tiếp tục phát triển
Đảng ở địa bàn Nhơn Trạch.
Ngay sau khi được thành lập, chi bộ vận động mở “Hội tiết kiệm”
trong công nhân cao su. Mỗi hội có từ 10-15 người. Mỗi tháng, mỗi
người đóng một đồng. Số tiền góp được do tổ chức điều hành, phân
công người quản lý, chi tiêu cho việc chung. Nhờ vậy, công nhân biết
tiết kiệm, tích lũy tiền tiết kiệm cho việc lớn. Phong trào này lan rộng
trong huyện Long Thành, công nhân các sở cao su Tân Tường, Ông
Cố, Thành Tuy Hạ cũng thành lập các hội tương trợ, hội tiết kiệm
như thế. Đây là cơ sở có tổ chức đầu tiên trong công nhân cao su, tiền
đề để các đoàn thể sau này ra đời.
87

9.8 Page 88

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Để mở rộng, phát triển phong trào trong công nhân cao su, Ban
cao su miền Đông cử đồng chí Lê Đình Cự về Long Thành vận động
thành lập Liên đoàn cao su Long Thành, mục đích là để tập hợp và
huy động công nhân cao su trong đấu tranh; trước mắt là chống lại
việc quân Nhật bắt phu dùng xe bò chở vật tư từ Lào, Campuchia để
xây dựng các căn cứ quân sự. Liên đoàn cao su Long Thành được
thành lập, liền đó “Nghiệp đoàn xe bò” ra đời do đồng chí Bảy Kỷ
(Trương Minh Kỷ) phụ trách. Có sự lãnh đạo của Đảng, Nghiệp
đoàn xe bò đấu tranh khôn khéo bằng nhiều hình thức lãng công, làm
thất thoát vật tư, cáo bệnh bỏ việc khiến vật tư từ Lào, Campuchia
về bị gián đoạn, việc xây sân bay quân sự Nhật bị kéo dài, không
thành công.
Phong trào công nhân phát triển từ hành động chống đối thành
các cuộc biểu tình có tổ chức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều
cuộc đấu tranh mạnh mẽ được chi bộ Đảng lãnh đạo đã diễn ra.
Đáng kể là cuộc biểu tình cuối năm 1944 do 500 công nhân ở đồn
điền Bình Sơn, An Viễng kéo ra quận lỵ gặp quận Phục đấu tranh đòi
“cấm đánh đập, cấm cúp lương”. Công nhân đấu lý thắng lợi.
Ở Nhơn Trạch, do các đồn điền cao su thuộc loại nhỏ và vừa, công
nhân ít hơn nên phong trào đấu tranh không quy mô rầm rộ, nhưng từ
khí thế của công nhân Bình Sơn, An Viễng, công nhân sở cao su Tân
Tường, sở Ông Cố1 cũng thường xảy ra các cuộc đấu tranh tham gia
đấu tranh đòi cấm đánh đập và cúp phạt lương khiến giới chủ phải
nhượng bộ.
1  Sau này đổi tên thành sở cao su Thành Tuy Hạ.
88

9.9 Page 89

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Tại Phước Lý tuy chưa có tổ chức Đảng hay đoàn thể, nhưng từ
năm 1943, anh thanh niên Hồ Văn Phẩm (bí danh Toàn Trung) quê
ở Cần Đước (tỉnh Long An) giác ngộ cách mạng, gia nhập tổ chức
Thanh niên cách mạng đồng chí hội tại Sài Gòn; khi tham gia biểu
tình hưởng ứng phong trào yêu nước tại đám tang Nguyễn An Ninh,
anh bị thực dân Pháp phát hiện, truy lùng nên đã chạy về ấp Ông Kèo
tạm lánh và sau đó sinh sống tại đây. Hồ Văn Phẩm thường tuyên
truyền về tội ác của thực dân Pháp và dần giác ngộ người dân hướng
về cách mạng. Ở Xoài Minh có thanh niên Nguyễn Hữu Diên (Hai
Giang) làm công nhân cao su tại sở Tân Tường (xã Phú Thạnh), tham
gia tổ chức Nông hội và cũng thường tuyên truyền, giác ngộ cách
mạng cho người dân trong ấp.
III. THAM GIA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1.Tổ chức lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa
Đúng như Trung ương Đảng dự báo, ngày 9.3.1945, Nhật đảo
chính Pháp, chiếm lĩnh bộ máy chính quyền Pháp, làm chủ hệ thống
quản lý của Pháp.
Ứng biến với tình hình mới, ngày 12.3.1945 1, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng triệu tập hội nghị mở rộng ở Đình Bảng (tỉnh Bắc
Ninh) ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”
nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Hội nghị vạch rõ kẻ
thù chủ yếu trước mắt là phát xít Nhật và bè lũ tay sai của chúng;
nhiệm vụ cấp bách của Đảng lúc này là phát động và lãnh đạo phong
trào kháng Nhật, tổng khởi nghĩa, giành lấy chính quyền về tay nhân
1  Có tài liệu ghi: Đêm 9.3.1945.
89

9.10 Page 90

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
dân. Hội nghị chủ trương thay đổi hình thức tuyên truyền, tổ chức
đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, tập dượt quần
chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Thực tế, từ chiều 10.3.1945, quân Pháp chính thức đầu hàng Nhật
trên toàn Đông Dương. Quan Tây, chủ Tây bị lính Nhật bắt, quản
thúc. Một số chạy về Sài Gòn ẩn náu, một số trốn vào rừng. Bộ máy
hội tề ở xã tan rã, các sở cao su vắng chủ. Các tổ chức đảng cơ sở đưa
người của ta đứng ra làm chủ tình hình.
Nhật dựng lên chính phủ Trần Trọng Kim làm bù nhìn, được
vài tháng thì đổ vỡ. Ngày 16.3.1945, Nhật đưa Nguyễn Văn Quý,
nguyên Quận trưởng Tân Uyên làm Tỉnh trưởng Biên Hòa. Ở Long
Thành, Quận trưởng Hội thân Nhật được đưa về thay Quận trưởng
Phục, chưa kịp ổn định tổ chức thì chính phủ Trần Trọng Kim đã sụp
đổ. Được dịp, phong trào đấu tranh của quần chúng được củng cố,
rộ nở khắp nơi.
Nổi bật là phong trào Thanh niên Tiền phong. Thanh niên Tiền
phong được thành lập tại Sài Gòn vào ngày 21.4.19451. Bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch (trước đó đã được Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn Giàu
bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam), được cử làm Chủ tịch
Hội đồng quản trị phong trào Thanh niên tiền phong. Chủ trương
của Thanh niên Tiền phong là tập hợp thanh niên yêu nước chống
Nhật, chống Pháp; có lời hiệu triệu phù hợp với nguyện vọng và tâm
lý thanh niên cho nên được hưởng ứng mạnh mẽ. Từ trung tâm Sài
1  Có tài liệu ghi Thanh niên Tiền phong được thành lập tháng 5.1945. Cũng
có tài liệu ghi thành lập trong tháng 7.1945.
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Gòn, tổ chức Thanh niên Tiền phong nhanh chóng lan tỏa khắp Nam
Kỳ, trong đó tỉnh Biên Hòa là nơi sớm có tổ chức Thanh niên Tiền
Phong giàu sức sống do thầy giáo Huỳnh Thiện Nghệ chỉ huy (tháng
5.1945)1.
Ở quận Long Thành2, trong tháng 5.1945, lực lượng Thanh niên
Tiền phong được tổ chức do thầy giáo Nguyễn Văn Chỏi làm thủ
lĩnh, với sự tham gia chỉ huy của nhiều đảng viên gạo cội. Lực lượng
tham gia Thanh niên Tiền phong Long Thành phát triển rất mạnh, lan
tỏa nhanh, đều khắp ở các xã và đồn điền cao su, quy tụ được nhiều
thành phần thanh niên tham gia. Chi bộ Long Thành phân công đồng
chí Liêm, đồng chí Châu sát cánh cùng thầy giáo Chỏi để nắm lực
lượng.
Đoàn Thanh niên Tiền phong địa bàn Nhơn Trạch có lẽ bắt nguồn
từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) gắn với hoạt động của đồng chí
Trần Thị Ba3 - đảng viên cộng sản được cấp trên phái về xứ Giồng
Ông Đông hồi đầu năm 1945. Không rõ cô từ đâu tới; vóc dáng
cô thấp bé, nhưng rất lanh lợi, rất khéo trong nói năng, giàu sức
thuyết phục nên nhanh chóng tập hợp được nhiều thanh niên vùng
Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước, Phước Lý... thành
lực lượng Thanh niên Tiền phong ở địa phương.
1  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập
1, NXB Đồng Nai, 1997, trang 50.
2  Đến năm 1948 quận Long Thành mới đổi thành huyện Long Thành. Trong
giao đoạn này, xin viết “quận Long Thành” khi nói về tổ chức, “huyện Long
Thành” khi nói về địa bàn.
3  Theo lời kể của đồng chí Phạm Văn Đạm, cán bộ tiền khởi nghĩa xã Phú
Thạnh, nay đã mất.
91

10.2 Page 92

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Phong trào Thanh niên Tiền phong khu vực Nhơn Trạch hoạt
động sôi nổi, đều khắp. Tổ chức Thanh niên Tiền phong được biên
chế thành đội, mỗi đội vài mươi người nòng cốt, trang bị thô sơ, chỉ
vài khẩu súng lấy được hoặc mua được của lính Pháp, còn lại là tầm
vông, dây thừng, giáo mác tự tạo. Nhiệm vụ của các đội là tuần tra
canh gác xóm làng, chống trộm cắp, cướp phá trong làng; hăng hái
luyện tập quân sự sẵn sàng chiến đấu để giải phóng dân tộc. Không
khí sinh hoạt của Thanh niên Tiền phong gian khổ nhưng rất vui,
đêm đêm sân tập rầm rập bước chân “một hai... một hai”, rộn ràng
tiếng nói cười, vang vang tiếng hát “Lên đàng” và lời ca “Tiếng gọi
thanh niên”. Dưới sự chỉ huy của các Tráng trưởng, thanh niên luyện
tập hăng hái cuốn theo các Thiếu trưởng và thiếu nhi hào hứng làm
theo. Các chị, các má tích cực chăm lo việc hậu cần.
Ở Phước Lý, Thanh niên tiền phong cũng được thành lập dưới
sự vận động của “thủ lĩnh” Nguyễn Văn Đọt, thường gọi là Ba Đọt,
nguyên là công nhân sở cao su Thành Tuy Hạ. Đội thu hút hầu hết
thanh niên trong xã tham gia như: Hồ Văn Phẩm (Toàn Trung),
Nguyễn Hữu Diên (Hai Giang), Nguyễn Khắc Lệnh, Quách Hùng
Hào, Phạm Hồng Ly, Đào Thủ Hà, Lê Hồng Hà, Tám Lung, Năm
Hổ... Đội viên thường vác tầm vông vạt nhọn, vai đeo cuộn dây
thừng, ban ngày tập luyện quân sự, ban đêm tập võ nghệ, khí thế rất
hăng say1.
1  Theo lời kể của đồng chí Hồ Văn Nguyên, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên
Bí thư xã Vĩnh Thanh (1983-1995).
92

10.3 Page 93

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Cùng với các tổ chức hội, đoàn thể được Đảng gầy dựng, lãnh
đạo, phát triển về đấu tranh chính trị; tổ chức Thanh niên Tiền phong
ra đời kịp lúc, trở thành tổ chức có vũ trang thô sơ để làm nòng cốt
sẵn sàng cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
2. Tham gia tổng khởi nghĩa, giành chính quyền
Năm 1945, tình hình thế giới thuận lợi cho phong trào cách mạng.
Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Đức. Đức thất trận và đầu hàng
Đồng minh ngày 7.5.1945. Ngày 6.8.1945, Hoa Kỳ ném hai trái bom
nguyên tử hủy diệt Hiroshima và Nagasaki; 9 ngày sau, Nhật hoàng
tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Từ nam vĩ tuyến 16, quân Nhật sẽ
bị quân Đồng minh giải giới bởi quân đội Anh. Lính Nhật ở Đông
Dương lâm vào hoảng loạn.
Trong bối cảnh ấy, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị toàn quốc
ở Tân Trào ngày 13.8, xác định thời cơ đã đến, điều kiện cho Tổng
khởi nghĩa đã chín muồi, hạ quyết tâm lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa,
thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc gồm các đồng chí: Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu
Văn Tấn. Hội nghị phân công cán bộ trung ương đến các vùng miền
địa phương để bám thực tế, chỉ đạo tổng khởi nghĩa; theo đó, các
đồng chí Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Nguyễn Thị Thập vào
Sài Gòn trực tiếp chỉ đạo tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ. Ngày 16.8.1945,
một đơn vị Giải phóng quân Việt Minh tấn công quân Nhật ở thị xã
Thái Nguyên, mở màn cho cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Mệnh lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương, lời kêu gọi của Việt
Minh và tin thắng lợi từ Thái Nguyên lan nhanh toàn quốc, rạo rực
lòng dân.
93

10.4 Page 94

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, ngày 23.8.1945, tại xã Bình
Trước, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp bàn kế hoạch
khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Tham dự cuộc họp
có các đồng chí: Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn
Búng, Ngô Hà Thành, Hồ Văn Giàu, Lê Nguyên Đạt, Đặng Nguyên,
Hồ Hòa, Hồ Văn Đại. Hội nghị đã quán triệt nội dung chỉ đạo của Xứ
ủy, bàn bạc thống nhất và quyết định một số việc cấp bách:
- Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa trước ở tỉnh lỵ, phân
công một số đảng viên về các quận huy động lực lượng quần chúng
về thị xã tham gia cướp chính quyền.
- Trung lập hóa quân Nhật, giao cho đồng chí Hồ Văn Đại và một
số đồng chí khác vận động lính mã tà, lính thủ hộ nộp súng cho cách
mạng, tránh xung đột vũ trang.
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng Minh Châu
phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm
thời tỉnh Biên Hòa.
- Giao trách nhiệm cho kinh lý Nguyễn Văn Tàng tiếp xúc, vận
động tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý bàn giao chính quyền cho cách
mạng.
- Giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Ngọc Liệu và Nguyễn Đình
Ưu tổ chức đưa 500 người về tham gia khởi nghĩa ở Sài Gòn.
- Huy động lực lượng xung kích trong nhân dân, Thanh niên Tiền
phong tự trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu hiệu sẵn sàng nổi
dậy biểu dương lực lượng cướp chính quyền.
94

10.5 Page 95

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Trên địa bàn Long Thành, từ lúc phát xít bại trận, Chi bộ Đảng
đã họp bàn, chỉ đạo các lực lượng tuyên truyền, vận động công nhân
lợi dụng lúc địch đang hoang mang dao động, tìm cách giữ lấy súng,
máy móc của chủ Tây. Khi kế hoạch tổng khởi nghĩa của Ủy ban
khởi nghĩa Biên Hòa được triển khai, huyện Long Thành đã sẵn sàng.
Ngày 19.8.1945, Hà Nội giành chính quyền. Ngày 21.8.1945, tại
Long Thành, đồng chí Trịnh Văn Dục giao nhiệm vụ cho các đồng
chí trong chi bộ chuẩn bị khởi nghĩa.
Từ sáng ngày 23.8.1945, tình hình chuẩn bị khởi nghĩa sôi động,
khẩn trương ở nhà máy cưa BIF, ga Biên Hòa, Tân Mai, Lân Thành,
Vĩnh Thị. Ủy ban khởi nghĩa huyện Long Thành do các đồng chí
Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái chủ trì họp, phân công
chuẩn bị kế hoạch huy động công nhân cao su, nhân dân các xã kéo
về quận lỵ tham gia giành chính quyền trong ngày 24.8.1945. Tại
cuộc họp, đồng chí Trịnh Văn Dục đọc Chỉ thị của Ủy ban Trung
ương ra lệnh cho các nơi nhanh chóng cướp chính quyền và thiết lập
trật tự ở địa phương. Sau đó, hội nghị phân công từng đồng chí phụ
trách từng khu vực. Mục tiêu kế hoạch đã quán triệt, nhiệm vụ đã rõ,
mọi người phấn khởi thực hiện phần việc được phân công.
Đến 4 giờ chiều cùng ngày, xảy ra sự cố bất ngờ. Giáo phái Cao
Đài tại quận Long Thành do đạo trưởng Chín Lợi cầm đầu kéo 200
người trang bị vũ khí ập vào huyện lỵ định thừa gió bẻ măng gây sức
ép buộc quận Hội giao chính quyền cho chúng. Thêm một kẻ địch
xuất hiện, Ủy ban khởi nghĩa phân tích tình hình, thông báo trong
toàn lực lượng đấu tranh vạch mặt nhóm Chín Lợi, làm vô hiệu hóa
âm mưu của chúng.
95

10.6 Page 96

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Kế hoạch vẫn được tiến hành theo dự kiến. Từ 6 giờ sáng ngày
24.8.1945, các đội xung phong nòng cốt là Thanh niên Tiền phong
ở Long Thành có mặt làm nhiệm vụ tại các vị trí được phân công.
Các ngã đường trên quốc lộ 15, hương lộ 17 và hương lộ 19 đều có
đội viên Thanh niên Tiền phong canh gác, làm chủ tình hình. Trong
đó, Thanh niên Tiền phong Phước Lý do Toàn Trung chỉ huy1 giữ
nhiệm vụ án ngữ một chốt trên hương lộ 19 thuộc địa bàn Phước
Lý. Khu vực xung quanh quận lỵ Long Thành bị phong tỏa. Một
trung đội lính Nhật đóng ở sở Bà Đầm án binh bất động, tâm trạng
hoang mang.
Từ 7 giờ 30 phút, đồng bào từ các xã, trong đó có cả đồng bào
Vĩnh Thanh, công nhân các đồn điền theo đội hình có tổ chức kéo
về quận lỵ Long Thành. Đến 9 giờ, thị trấn Long Thành như sôi lên
trong biển người, rừng cờ phất phới, tiếng hát vang trời, tiếng hô
dậy đất, khí thế như thác lũ. Đúng 10 giờ, lực lượng xung phong
nòng cốt gồm 400 người chia thành hai mũi kéo vào dinh quận, tạo
đội hình bảo vệ cho Ủy ban Khởi nghĩa vào gặp quận trưởng. Lúc
bấy giờ, lực lượng của địch còn 11 tên lính do đội Giám chỉ huy, có
vũ khí, nhưng đứng ngơ ngác không dám chống cự. Ban khởi nghĩa
gồm 19 người do đồng chí Trịnh Văn Dục dẫn đầu hiên ngang tiến
vào. Tại văn phòng quận trưởng, quận Hội và đạo trưởng Chín Lợi
cùng ngồi, mặt mày tái mét, im lặng chờ số phận. Đồng chí Ba Dục
nhân danh chính quyền cách mạng tuyên bố: “Kể từ giờ phút này
1  Lúc này Đội Thanh niên Tiền phong xã Phước Lý do Hồ Văn Phẩm (Toàn
Trung) chỉ huy, còn Nguyễn Văn Đọt đã tách ra, thành lập Ban Đồng Nai với
đội viên phần lớn là công nhân sở cao su Thành Tuy Hạ.
96

10.7 Page 97

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
chính quyền cũ phải chấm dứt hoạt động từ quận đến làng, xã. Chính
quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi của nhân dân trong huyện
bắt đầu làm việc. Quận trưởng thay mặt chế độ cũ phải giao toàn bộ
hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ khí, thả hết các phạm nhân. Cách mạng
là sự nghiệp của mọi người, sẵn sàng khoan hồng cho tất cả những ai
đã trót tham gia chế độ cũ”. Sau lời tuyên bố của đồng chí Dục, hàng
ngàn người nhất loạt hô vang: “Việt Nam độc lập muôn năm. Chính
quyền cách mạng muôn năm”1.
Quận Hội ngoan ngoãn xin từ chức; bàn giao hết hồ sơ sổ sách,
kho tàng, vũ khí theo yêu cầu. Đạo trưởng Chín Lợi mặt như chàm
đổ, lặng lẽ cùng bộ hạ lẻn ra cửa sau chuồn mất.
Ngay sau khi tiếp nhận chính quyền, cuộc mít tinh mừng thắng
lợi diễn ra tại quận lỵ theo kế hoạch dự kiến, hơn 3.000 người tham
dự, có phái đoàn cán bộ đại diện Xứ ủy miền Đông gồm các đồng chí
Dương Bạch Mai, Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp cùng dự. Trong buổi
mít tinh, đồng chí Trịnh Văn Dục thay mặt Ủy ban khởi nghĩa tuyên
bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền cũ bị xóa bỏ. Chính quyền cách
mạng quận đại diện cho giai cấp công nhân, nông dân trong quận ra
đời. Kể từ nay nam nữ bình quyền, người dân sống bình đẳng, mọi
người sống hạnh phúc”2. Sau đó Ủy ban Cách mạng lâm thời quận
Long Thành được giới thiệu và ra mắt đồng bào, gồm: Chủ tịch Trịnh
Văn Dục, Phó Chủ tịch Võ Văn Truyện và các ủy viên. 17 giờ, cuộc
1  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930 - 2015), NXB Đồng Nai
2015, trang 68.
2  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930 - 2015), NXB Đồng Nai
2015, trang 69.
97

10.8 Page 98

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
mít tinh kết thúc trong tiếng hô vang trời: “Việt Nam độc lập muôn
năm! Mặt trận Việt Minh muôn năm!”.
Sau đó, đoàn cán bộ Xứ ủy triệu tập họp đảng viên tuyên bố thành
lập Đảng bộ quận Long Thành, biểu quyết bằng hình thức giơ tay
bầu Quận ủy gồm: Bí thư Trịnh Văn Dục, Phó Bí thư Vũ Hồng Phô,
Ủy viên Thường vụ Trương Minh Kỷ, Ủy viên Nguyễn Văn Phú và
Lê Thành Liêm.
Cùng với việc giành chính quyền ở quận lỵ, chỉ trong ngày
24.8.1945, chính quyền của toàn bộ 21 xã thuộc quận lỵ Long Thành
đã về tay nhân dân, trong đó có xã Phước Lý; riêng xã Phước Khánh
đến ngày 25.8 mới giành thắng lợi. Thanh niên Phước Lý được huy
động vây nhà việc, bắt hội tề bàn giao sổ sách, giải tán hội tề, làm
chủ tình hình.
Sáng 25.8, Ban Đồng Nai do Nguyễn Văn Đọt chỉ huy tổ chức
đoàn người đông đảo giương cao cờ đỏ sao vàng năm cánh từ Cầu
Cháy qua Giồng Ông Đông ở Phú Hữu. Hàng trăm nam nữ thanh
niên, ông bà già, trẻ em Giồng Ông Đông, trong đó có cả người dân
Phước Lý đã kéo về nhà hội xã; mọi người cùng hô vang một “Việt
Nam độc lập đồng minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Tại căn cứ của lính Nhật ở Giồng Ông Đông, quân Nhật đã rút nên
bỏ trống, ta lấy làm hội quán, hơn 300 nam nữ thanh niên họp mặt
chính thức bổ sung đoàn Thanh niên Tiền phong ở xã Phú Hữu.
Nguyễn Sanh Thành được cử làm đoàn trưởng, dưới sự chỉ đạo của
Ban Đồng Nai do ông Nguyễn Văn Đọt làm thủ lĩnh. Ban này đóng
ở miễu Bà Xoài Minh, xã Phước Lý.
98

10.9 Page 99

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ban hội tề các xã lặng lẽ tự giải tán. Ở một số xã, ban hội tề cử
người đem hồ sơ sổ sách tới nhà làng giao cho Thanh niên Tiền
phong. Không một nơi nào có sự phản ứng của chính quyền cũ. Khí
thế cách mạng sôi nổi và mạnh mẽ của nhân dân làm cho số địa chủ,
tề xã hoảng sợ, tự nguyện liên lạc với chính quyền cách mạng xin
được lập công bằng cách đóng góp lương thực, thực phẩm và tham
gia tiếp tế cơm nước cho các đoàn thể của xã mình. Trong ngày 25.8,
Ủy ban Cách mạng lâm thời quận phân công từng đoàn cán bộ đến
các xã hướng dẫn nhiệm vụ xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở,
thu lại các ấn mộc của chính quyền cũ, quản lý công sở, phong tỏa
tài sản bọn Nhật còn ở trong huyện.
Ủy ban nhân dân lâm thời các xã lần lượt hình thành.
Trong ngày 25.8, thực hiện chủ trương của Ủy ban Cách mạng
lâm thời quận, dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh và Thanh niên
Tiền phong, hàng ngàn nông dân các xã và công nhân các đồn điền
cao su ở quận được tổ chức kéo về tỉnh lỵ Biên Hòa tham gia giành
chính quyền ở tỉnh. Các lực lượng từ Bình Sơn, An Viễng, Ship,
Phước Lộc, Thanh Nguyên, An Lợi, Phước Thiền, Phú Hội, Long
Tân, Phước An, Phước Thọ, Phước Long theo các lộ 15, 17, 19 kéo
về Biên Hòa đúng hẹn, khí thế mạnh mẽ, không khí sôi động như
trăm sông hội về với biển.
Sau khi giành được chính quyền về tay, Ủy ban Cách mạng lâm
thời quận chỉ đạo tổ chức nhiều cuộc mít tinh phát huy khí thế thắng
lợi của cách mạng. Tại các xã, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức ở
Phú Hữu, Phước Thiền, Phú Hội, Phước Long, Phước An có đông
99

10.10 Page 100

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
người tham gia, không khí phấn khởi như ngày hội. Ở huyện, chiều
ngày 26.8, Ủy ban Cách mạng lâm thời quận tổ chức cho đồng bào
nghe Việt Minh (đồng chí Dương Bạch Mai) diễn thuyết tại Tam
An, hàng ngàn người các xã trong huyện tham dự. Ngày 27.8.1945,
Huỳnh Thiện Nghệ, thủ lãnh Thanh niên Tiền phong tỉnh Biên Hòa
diễn thuyết tại chợ Long Thành với gần 1.000 quần chúng tham dự.
Các cuộc diễn thuyết làn cho quần chúng nhận rõ tình hình chung
của Cách mạng tháng Tám trong toàn quốc, ý nghĩa của thắng lợi và
những việc cần phải làm để bảo vệ thành quả của cách mạng.
Sự kiện thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ năm 1859 tạo một bước
ngoặt trong đời sống của người dân Nhơn Trạch nói riêng và Nam
Bộ nói chung, chuyển từ cuộc sống an bình sang đời sống đấu tranh
chống thực dân. Khi triều đình Huế ký hiệp ước dâng 3 tỉnh miền
Đông, rồi cả Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp, lòng dân hướng
theo cờ nghĩa, như của nghĩa quân Trương Định, của các hội kín
như Thiên Địa hội, tìm mọi cách tham gia vào các cuộc vũ trang
chống quân xâm lược Pháp. Nhiều người đã thầm lặng hy sinh. Đến
khi các cuộc khởi nghĩa vụ trang bị dập tắt nhưng lòng dân không
tắt, vẫn âm ỉ mong chờ. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
mang đến luồng gió mới, phương pháp đấu tranh mới, lòng yêu nước
của người dân Nhơn Trạch được thổi bùng lên, cùng với cả tỉnh, cả
nước vùng dậy theo Đảng chống thực dân Pháp, lập nên nhiều thành
tích. Đến năm 1945, người dân Vĩnh Thanh - Nhơn Trạch được sự
lãnh đạo của Đảng tham gia cướp chính quyền, xóa bỏ gông xiềng,
đổi đời, vui hưởng không khí độc lập tự do.
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Chương III
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
1945 - 1954
I. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP TÁI CHIẾM
1. Cùng Nam Bộ quật khởi
Sau Cách mạng tháng Tám, tình hình đất nước có thuận lợi cơ
bản: Nhân dân đã giành quyền làm chủ, gắn bó với chế độ; nước ta
có Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên thế giới,
hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào cách mạng
dâng cao ở nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc và tư bản. Tuy nhiên,
tình thế đặt ra nhiều khó khăn: Ngoại xâm và nội phản âm mưu phá
hại chính quyền cách mạng non trẻ; quân Đồng minh dọn đường
cho Pháp trở lại xâm lược nước ta; quân Nhật vẫn còn chiếm đóng
ở các căn cứ chờ giải giáp mong bắt tay quân Đồng minh để chống
phá cách mạng. Nhiều thành phần nội phản đang tìm cơ hội để bán
nước, làm tay sai. Trong bối cảnh ấy, chính quyền cách mạng chưa
được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu, đời sống nhân dân khó
khăn, thực lực về kinh tế, tài chính mỏng manh, thế nước như “ngàn
cân treo sợi tóc”.
Đương đầu với khó khăn, chính quyền cách mạng non trẻ ở Nam
Bộ quyết bảo vệ thành quả cách mạng, chuẩn bị bước vào giai đoạn
mới. Ngay sau khi giành được chính quyền, Quận ủy Long Thành,
101

11.2 Page 102

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Ủy ban Cách mạng lâm thời quận nhanh chóng triển khai sáu nhiệm
vụ cấp bách mà Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố: Một
, diệt giặc đói; hai là chống giặc dốt; ba là tổng tuyển cử; bốn là
thực hành CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH; năm là bỏ thuế bóc lột, cấm
thuốc phiện; sáu là đoàn kết lương giáo.
Ủy ban công bố bãi bỏ thuế thân, giảm tô tức, tịch thu ruộng đất
của bọn địa chủ phong kiến cấp cho dân nghèo để sản xuất. Trước
mắt, Ủy ban chỉ đạo tịch thu các kho lương thực của đồn điền, bò
nuôi của sở để giải quyết vấn đề lương thực cho công nhân và hỗ
trợ đồng bào nghèo; đồng thời tổ chức, động viên công nhân khai
phá rừng làm rẫy, trồng cây lương thực. Những chính sách này giải
quyết ngay những khó khăn trước mắt, đồng thời đáp ứng được
mong muốn của nhân dân nên được bà con ủng hộ tích cực. Nhờ
vậy, trên địa bàn Long Thành tuy còn khó khăn nhưng không xảy ra
tình trạng thiếu đói.
Trước khi Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa được thành lập 1, Quận ủy
Long Thành trực tiếp xin ý kiến và nhận chỉ đạo của Xứ ủy Nam
Bộ về việc tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị, củng cố
chính quyền cách mạng. Được Xứ ủy Nam Bộ nhất trí, đồng chí
Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, chỉ đạo việc vận động xây dựng các
tổ chức chính trị và đoàn thể từ quận đến xã. Đầu tháng 9.1945, Mặt
trận Việt Minh quận Long Thành được thành lập, Chủ nhiệm là ông
Nguyễn Văn Chỏi (tức thầy giáo Chỏi), nguyên Đoàn trưởng Thanh
1  Sau Hội nghị Bình Trước đêm 23.9.1945 Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa
mới thành lập.
102

11.3 Page 103

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
niên Tiền phong Long Thành; đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh)
Phó Bí thư Quận ủy làm Phó chủ nhiệm; đồng chí Lê Trân Châu,
đảng viên, là ủy viên. Các đoàn thể cứu quốc được thành lập gồm:
Hội Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc,
Phụ lão Cứu quốc, Thiếu nhi Cứu quốc. Ngoài ra Mặt trận còn vận
động thành lập tổ chức Công giáo Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc.
Như vậy, so với toàn tỉnh Biên Hòa bấy giờ, bộ máy lãnh đạo Đảng,
chính quyền và các đoàn thể cách mạng của Long Thành hình thành
sớm hơn nhiều nơi khác trong tỉnh.
Đến cuối tháng 9, bộ máy chính quyền và đoàn thể ở các xã cơ
bản thành lập xong. Mỗi đoàn thể có Ban chấp hành từ 5-7 người, hội
viên tham gia rất đông. Nhiều xã hầu như người dân nào cũng tham
gia đoàn thể. Nhờ đó, phong trào tăng gia sản xuất đóng góp giúp đỡ
kháng chiến trong toàn huyện được đẩy mạnh. Quận ủy Long Thành
liên lạc thường xuyên với Xứ ủy, nhanh nhạy nắm chắc được diễn
biến tình hình ở Sài Gòn và các nơi khác, dự đoán thực dân Pháp sẽ
quay trở lại xâm lược, do vậy tích cực chủ động xây dựng lực lượng
vũ trang để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nhân dân. Quận ủy Long
Thành chú trọng công tác tuyên truyền, động viên thanh niên tham
gia công tác bảo vệ đất nước, bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành
được. Khẩu hiệu “Thanh niên ta không nên do dự, hãy lên đường
chiến đấu giành độc lập” được thể hiện bằng biểu ngữ, tranh vẽ, loa
phóng thanh rộn rã khắp nơi.
Các xã nhanh chóng thành lập dân quân tự vệ dưới quyền chỉ huy
trực tiếp của Ủy ban lâm thời xã, mỗi đội dân quân xã có từ 30 - 36
đội viên, đội dân quân ấp có từ 10 đến 20 người. Đội dân quân xã nào
103

11.4 Page 104

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
cũng có 1-2 cây súng và vài ba trái tạc đạn. Ở các trạm gác Thành
Tuy Hạ, Cát Lái, lính Nhật muốn đi qua phải đổi đạn, lựu đạn, có
khi cả súng. Ở Phước Tân, thanh niên tổ chức giật súng của lính gác
Nhật, lính gác sở cao su. Thanh niên dọc đường 15 truyền nhau kinh
nghiệm làm câu liêm móc hàng trên xe Nhật chạy qua, hoặc khôn
khéo bố trí để lấy súng của chúng.
Ở Phước Lý, đội dân quân xã Phước Lý cũng hình thành trên cơ
sở của Thanh niên Tiền phong trước đây, có khoảng 12-13 người,
ban đầu chưa có vũ khí, hầu hết đều chỉ trang bị tầm vông vạt nhọn.
Thấy dân quân một số xã có được vài khẩu súng do Ban hội tề giao
nộp lúc Tổng khởi nghĩa thành công, hoặc do trao đổi lương thực với
lính Nhật đã bị giải giáp để lấy vũ khí, các đội viên dân quân Phước
Lý cũng tự tìm cách trang bị vũ khí. Ở căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ,
sau Tổng khởi nghĩa lính Nhật vẫn ở trong trại, nhưng ta đặt trạm gác
phía bên ngoài. Mỗi lần lính Nhật muốn đi qua trạm gác, phải đổi
đạn dược, lựu đạn, có khi cả súng, nên dần dần đội dân quân các xã:
Phú Thạnh, Đại Phước, Phước Lý, Long Tân cũng trang bị được vũ
khí. Một số thanh niên Phước Lý còn tham gia đội dân quân các xã
lân cận hoặc công tác ở quận Long Thành, như Nguyễn Văn Nghĩa,
con của ông Nguyễn Văn Trụ, tham gia tổ quân báo của quận.
Ngày 14.9, Quận ủy và Ủy ban tổ chức một cuộc mít tinh với
đông đủ đại biểu và Thanh niên Cứu quốc các xã, phát động tinh thần
toàn dân cứu nước. Sau cuộc mít tinh, gần 100 thanh niên hăng hái
ghi tên tòng quân. Từ 16.9 đến 21.9 đã có 77 thanh niên tự nguyện
lên quận tập trung. Đội “Cộng hòa vệ binh” đầu tiên của Long Thành
104

11.5 Page 105

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
được thành lập với 11 khẩu súng trường thu được của lính mã tà sau
khởi nghĩa, còn lại là tầm vông, giáo mác. Ngoài đội Cộng hòa vệ
binh, ở Long Thành còn hình thành một số tổ chức vũ trang mang
tính tự phát.
Tại tổng Thành Tuy Hạ, Ban Đồng Nai do Nguyễn Văn Đọt phụ
trách cũng xây dựng một lực lượng vũ trang tập trung gồm 20 người
với 7 cây súng. Ban Đồng Nai tuy là người Long Thành, hoạt động
trên đất Long Thành nhưng nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Ủy ban kháng
chiến Nam Bộ ở Sài Gòn, biệt lập với Quận ủy, Ủy ban lâm thời quận
Long Thành.
Giữa tháng 9.1945, quân Pháp tiếp nhận quản lý kho đạn ở Thành
Tuy Hạ do Nhật bàn giao. Buổi sáng ngày 20.9, hai xuồng máy từ
Sài Gòn ngược sông Sâu vào Thành Tuy Hạ, mỗi xuồng chở ba tên
lính Pháp vũ trang. Ban Đồng Nai được tin, tổ chức phục kích chặn
đường về của chúng. Gần 3 giờ chiều, hai chiếc xuồng quay về, lọt
vào trận địa. Các chiến sĩ đồng loạt nổ súng, bọn lính Pháp hoảng sợ
chui hết vào khoang thuyền, rồ ga cho xuồng phóng chạy thục mạng.
Đêm hôm đó, đội cảm tử Ban Đồng Nai đột nhập, phá hủy một nhà
máy mủ cao su Thành Tuy Hạ. Tiếng súng trên sông Sâu ngày 20.9
mở đầu cuộc chiến đấu của quân dân Long Thành chống thực dân
Pháp tái xâm lược Việt Nam.
Rạng sáng ngày 23.9.1945, quân Pháp tấn công đánh chiếm Sài
Gòn, chính thức tái xâm lược Việt Nam. Hưởng không khí độc lập
chưa tròn tháng, Nam Bộ bước vào giai đoạn kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai.
105

11.6 Page 106

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Ngày 23.9.1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn. Nhân
dân Sài Gòn, Gia Định đứng lên kháng chiến, mở đầu cho cuộc
kháng chiến toàn Nam Bộ.
Ngay trong đêm 23.9.1945, hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa
được tổ chức tại nhà hội Bình Trước, do đồng chí Hà Huy Giáp, Xứ
ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ chủ trì. Hội nghị đã chủ trương xây dựng
Trường huấn luyện du kích Vĩnh Cửu nhằm đào tạo cán bộ quân
sự cho tỉnh, đồng thời chủ trương tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”
và nhiều biện pháp để chuẩn bị kháng chiến. Đồng chí Trần Công
Khanh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, Hoàng Minh Châu làm
Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Tại Long Thành lúc bấy giờ hừng hực khí thế sẵn sàng chiến
đấu. Ở các xã địa bàn Nhơn Trạch, ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm
tới xẩm tối lúc nào cũng vang dậy tiếng bước chân đi đều, tiếng hô
“Một! Hai!’ của các chiến sĩ Cộng hòa vệ binh. Anh em tập đội ngũ,
tập tháo ráp, sử dụng súng, tập các động tác cơ bản trong chiến đấu,
tập võ thuật, đánh dao, bắn ná.
Để tăng cường sức mạnh quân sự, thống nhất các lực lượng vũ
trang, Quận ủy đã cử các đồng chí Trương Minh Kỷ, Nguyễn Văn
Lược đến Ban Đồng Nai, vận động Ba Đọt hợp nhất lực lượng của
mình với lực lượng Cộng hòa vệ binh của Long Thành. Đến cuối
tháng 10, toàn bộ lực lượng vũ trang của Ban Đồng Nai đã sáp nhập
về quận.
Ngày 23.10.1945, Quận ủy Long Thành cử đồng chí Trương Minh
Kỷ (Bảy Kỷ) - Quận ủy viên - về Phú Hữu bàn bạc với đồng chí Trần
Thị Ba gấp rút làm một số việc: thành lập Mặt trận Việt Minh, chính
106

11.7 Page 107

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
quyền và đoàn thể cứu quốc, sáp nhập Thanh niên Tiền phong vào
Đoàn Thanh niên Cứu quốc, lập Đội Tự vệ chiến đấu, có kế hoạch
chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa I ngày 6.1.1946; có kế hoạch đánh
địch bảo vệ dân gắn với việc “tiêu thổ kháng chiến”.
Cũng trong những ngày cuối tháng 10, sau khi mặt trận Sài Gòn
tan vỡ, các lực lượng vũ trang kháng chiến trong nội thành lần lượt
rút về các vùng nông thôn để bảo toàn lực lượng, chiến đấu lâu dài.
Từ mặt trận số 4 Sài Gòn, theo lệnh của Tư lệnh Bình Xuyên Dương
Văn Dương, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên kéo về đóng quân khắp
dải Rừng Sác Long Thành, từ Bà Trao đến Phước An, từ Thái Thiện
đến Tam An. Chỉ trong thời gian không đầy nửa tháng, trên địa bàn
huyện đã có thêm hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ với một số lớn trang bị
máy móc của Công binh xưởng các đơn vị.
Thời điểm này, chính quyền cách mạng còn non trẻ ở quận Long
Thành phải đối mặt với nhiều khó khăn. Bên ngoài, thực dân Pháp
chuẩn bị tấn công tái chiếm Long Thành. Bên trong, vừa phải lo
củng cố bộ máy tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn định các vấn đề liên
quan chính sách, ổn định đời sống nhân dân. Ở 8 xã của quận Long
Thành, gồm: Phú Hữu, Phú Thạnh, Đại Phước, Long Tân, Tam An,
Tam Phước, Phước Nguyên, Long Phước, chính quyền cách mạng
đã tiến hành tạm cấp khoảng 1.000 hecta ruộng (của chủ đất vắng
mặt, chủ điền lớn hoặc bọn phản động) cho nhiều gia đình nông dân
nghèo không ruộng hoặc ít ruộng. Chính quyền cách mạng cũng vận
động một số chủ điền thực hiện giảm tô 25%, hủy nợ lưu khối (nợ
từ lâu không trả nổi) cho hàng ngàn người nghèo. Chính sách này
thể hiện sự quan tâm của chính quyền cách mạng đến đời sống của
107

11.8 Page 108

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
tầng lớp nông dân nghèo dù đang trong thời điểm rất nhiều khó khăn;
nông dân nghèo rất phấn khởi, càng đồng tình ủng hộ cách mạng.
Có ruộng, người dân ra sức cày cấy, đóng góp lương thực để kháng
chiến chống Pháp. Ở Phước Lý không có địa chủ - tá điền, người
dân tự khai hoang canh tác nên không có thực hiện chính sách chia
ruộng, giảm tô như các địa phương khác.
Phong trào xóa mù chữ diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở các xã, trong
đó có Phước Lý. Buổi tối, người dân Phước Lý từ già đến trẻ ơi ới
rủ nhau đến lớp, chăm chỉ học tập, không khí rất vui vẻ. Lớp học đặt
ở đình Ông Kèo và chùa Xoài Minh. Nhóm thanh niên còn thường
tổ chức biểu diễn văn nghệ. Người dân Phước Lý ai cũng phấn khởi,
hăng hái sản xuất, học tập, tham gia công tác góp phần xây dựng quê
hương, bảo vệ chính quyền.
Ngày 23.9.1945, thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn. Ngay trong
đêm này, hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa diễn ra tại nhà hội Bình
Trước1 do đồng chí Hà Huy Giáp, thay mặt Xứ ủy chủ trì. Hội nghị
bầu đồng chí Trần Công Khanh làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, đồng
chí Hoàng Minh Châu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính
tỉnh; chủ trương xây dựng Trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu để đào
tạo cán bộ quân sự cho tỉnh; thống nhất các nội dung chuẩn bị kháng
chiến, tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”.
Nghị quyết của Tỉnh ủy khẩn trương được triển khai. Nhơn Trạch
- Long Thành hừng hực khí thế sẵn sàng chiến đấu. Khi mặt trận Sài
Gòn - Gia Định tan vỡ, nhiều lực lượng kháng chiến ở Sài Gòn kéo
1  Nay là Nhà truyền thống thành phố Biên Hòa.
108

11.9 Page 109

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
về đứng chân ở Long Thành. Long Thành phát sinh nhiệm vụ hậu
cần. Ủy ban Hành chính quận quyết định thành lập một ban tiếp tế do
đồng chí Ba Liêm (Ủy viên tài chính quận) phụ trách, trụ sở tại chợ
Long Thành. Ban tiếp tế hoạt động tích cực phục vụ Cộng hòa và vệ
binh, cán bộ và quân dân kháng chiến đứng chân ở Long Thành; các
đoàn thể vận động đồng bào đóng góp lương thực, thực phẩm, vật
phẩm thiết yếu; chị em phụ nữ vận chuyển, nấu nướng, chăm sóc sức
khỏe cho từng bộ phận; tổ chức bếp ăn tập thể cho vài trăm người
mỗi ngày, liên tục trong cả tháng. Việc phục vụ, tiếp tế được thực
hiện tốt, nhưng công tác phối hợp hành động chưa tốt, nhất là trong
xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang. Thực tế yêu cầu thống nhất
các lực lượng vũ trang để tập trung lãnh đạo.
Cuối tháng 9, một đơn vị Cộng hòa vệ binh gồm 50 chiến sĩ với
12 súng từ vùng giáp ranh Sài Gòn - Thủ Đức rút về Long Thành
trong tình trạng chiến đấu độc lập hết đạn, lương thực. Ủy ban lâm
thời quận Long Thành tiếp nhận và quyết định sáp nhập vào lực
lượng Cộng hòa vệ binh quận; bố trí đóng quân tại Bến Cam (Phước
Thiền).
Một đơn vị do Nguyễn Văn Du và Trịnh Công Tây chỉ huy gồm
hơn 70 người và 20 súng về đóng quân rải rác vùng Phước Long, Bà
Ký và Cầu Xéo. Lại thêm một toán vũ trang do Nguyễn Văn Trực và
Lê Văn Cảnh cầm đầu về sáp nhập cùng bộ phận của Tây, Du và tự
xưng là “đệ nhị sư đoàn”1. Thành phần của các đơn vị này phức tạp;
1  Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban hành chính Nam Bộ tại Sài Gòn
thành lập 4 đơn vị Cộng hòa vệ binh.
109

11.10 Page 110

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chiến sĩ gồm thanh niên công nhân, nông dân, học sinh yêu nước,
nhưng chỉ huy thuộc tầng lớp trung lưu, lính cũ của Nhật, Pháp nên
cách sinh hoạt và tinh thần chiến đấu không đồng bộ. Bốn tên: Tây,
Du, Trực, Cảnh bộc lộ hành vi sợ giặc, xem thường lính, sách nhiễu
dân nên nhiều chiến sĩ chán ghét, lần lượt bỏ đệ nhị sư đoàn, gia nhập
các đơn vị khác. Lực lượng đệ nhị sư đoàn rơi rụng dần, còn lại chỉ
hơn 100 quân với gần 40 súng các loại. Mặc dù được quân dân Long
Thành đón nhận, tiếp tế, nhưng nhóm Trực, Cảnh, Tây, Du ngày
càng thể hiện bản chất thổ phỉ, nhiều lần cướp bóc, tống tiền, cưỡng
bức đồng bào; uy hiếp chính quyền xã; không chịu sự lãnh đạo của
Quận ủy và Ủy ban hành chính quận; lại còn cấu kết với Lương Văn
Tương và đội Giám âm mưu tạo riêng quyền lực quân phiệt. Chúng
tùy tiện bắt thanh niên Trần Trọng Nghĩa, vu oan, rạch bụng tử hình
tại chợ quận Long Thành; lộng hành bắt bớ, chiếm đoạt tài sản của
dân; lại có âm mưu uy hiếp, bắt cóc Bí thư Quận ủy. Sau nhiều lần
cảnh báo, dàn xếp, thuyết phục không thành, cuối tháng 10.1945,
Quận ủy và Ủy ban hành chính Long Thành quyết định giải tán lực
lượng đệ nhị sư đoàn; bắt giam 5 tên Tây, Du, Trực, Cảnh, Giám;
mở phiên tòa xử công khai tại sân banh Phước Thiền, tử hình tại chỗ
Tây, Du, Trực, Cảnh; tên Giám được khoan hồng, chạy về Sài Gòn.
Vụ án xử 5 tên lãnh đạo đệ nhị sư đoàn làm trong sạch lực lượng vũ
trang, củng cố lòng tin của quân dân Long Thành đối với Chính phủ
kháng chiến.
Cuối tháng 10.1945, Long Thành được tỉnh Biên Hòa tăng cường
11 cán bộ quân sự vừa tốt nghiệp Trại huấn luyện du kích Vĩnh Cửu
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
với 11 khẩu súng trường. Đây là những cán bộ quân sự cách mạng
chính quy đầu tiên của quận. Số cán bộ quân sự này đã được giao
nhiệm vụ tổ chức xây dựng trường quân chính; lớp huấn luyện quân
chính đầu tiên được khai giảng ở Hang Nai (Phước An) giữa tháng
11.1945, 16 học viên là cán bộ dân quân các xã, ấp trong toàn quận
tham dự. Trước đó lực lượng của Ban Đồng Nai với Cộng hòa vệ
binh Long Thành đã được vận động sáp nhập. Toàn bộ lực lượng vũ
trang Long Thành lúc này hợp thành hệ thống thống nhất do Quận
ủy lãnh đạo.
Cũng trong những ngày cuối tháng 10.1945, các lực lượng vũ
trang kháng chiến trong nội thành lần lượt rút về các vùng nông
thôn để bảo toàn lực lượng, chiến đấu lâu dài. Tư lệnh Dương Văn
Dương đưa bộ đội Bình Xuyên về đóng quân khắp dải Rừng Sác
Long Thành, từ Bà Trao đến Phước An, từ Thái Thiện đến Tam An.
Long Thành có thêm hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ với nhiều vũ khí,
máy móc được trang bị từ các công binh xưởng. Quân số tăng nhưng
nguồn lực hậu cần chưa kịp chuẩn bị, Long Thành gặp khó khăn,
cử đồng chí Võ Văn Truyện về tỉnh báo cáo tình hình, xin chi viện,
nhưng tỉnh còn khó khăn hơn, Long Thành phải nỗ lực tự quản.
Ngày 10.10.1945 Quận ủy quyết định triệu tập hội nghị cán bộ
quân dân chính Đảng tại đình Phước Kiển để hạ quyết tâm, bàn giải
pháp thực hiện chủ trương “tự lực, tự cường” của Tỉnh ủy. Kết luận
hội nghị, đồng chí Trương Minh Kỷ kêu gọi quân dân Long Thành
triệt để thi hành chỉ thị của tỉnh bằng sức lực của quần chúng ở địa
phương. Tinh thần của hội nghị được quán triệt trong toàn quận.
Nhiều sáng kiến, nhiều giải pháp được triển khai thực hiện. Phong
111

12.2 Page 112

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
trào tiết kiệm, đóng góp nuôi quân được phát động sôi nổi. Dân tin
tưởng cho chính quyền kháng chiến vay, mượn tài sản để thực hiện
nhiệm vụ kháng chiến. Bộ đội đóng quân phân tán trong dân được
dân nuôi, nhường chỗ làm việc, nhường phương tiện đi lại. Bộ Tư
lệnh Bình Xuyên đóng trong nhà đồng bào Phước An, Phước Thọ,
Bà Ký, Tam Phước được dân phục vụ bếp ăn tập thể. Mỗi xã đều
tổ chức từ 30 - 40 người hỗ trợ cán bộ, chiến sĩ. Ở tất cả các xã
đều có hình thức vận động đóng góp nuôi quân; đồng bào tích cực
hưởng ứng, lương giáo, giàu nghèo đều tham gia; có người đóng góp
hàng trăm giạ lúa, hàng ngàn đồng tiền mặt để nuôi quân. Người dân
Phước An, Phước Thọ, Phú Hữu giao ghe xuồng cho bộ đội chuyển
quân; đồng bào ở Phước Long, Phước Thiền, Long Tân, Phú Hội ủng
hộ xe bò cho bộ đội vận chuyển. Trong “tuần lễ vàng”, nhiều phụ nữ
đã tháo cả cà rá (nhẫn), bông tai (hoa tai) ủng hộ kháng chiến. Trong
các đợt “tuần lễ đồng”, nhiều gia đình hiến cả lư hương, chân đèn
thờ cúng trong nhà. Phong trào tự túc tự cường ở Long Thành được
nhân dân ủng hộ nên thành công, gia tăng nội lực cho kháng chiến.
Ngày 25.10.1945 quân Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa. Quân
Nhật ở Long Thành vốn án binh bất động từ khi chính quyền về tay
nhân dân, nay giương súng gây áp lực nhằm giải tán lực lượng kháng
chiến; nói là để bảo vệ quốc lộ 15 cho xe quân Đồng minh xuống
Bà Rịa, Vũng Tàu, kỳ thực đó là âm mưu thỏa hiệp của quân Đồng
minh Anh, Ấn dọn đường cho thực dân Pháp mở rộng vùng chiếm
đóng. Trước tình hình này, Quận ủy chuyển về xã Phước Thiền, Ủy
ban hành chính đóng tại chùa Nước Nhĩ, ấp Bến Sắn; chủ trương sơ
tán bộ máy lãnh đạo kháng chiến về các xã; triển khai các phương án
đánh giặc cả Anh, Pháp, Nhật.
112

12.3 Page 113

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ngày 28.10, một đoàn xe của Anh, Pháp từ Biên Hòa đi Vũng
Tàu, bộ đội và dân quân Tam Phước, Phước Tân chặn đánh ở dốc
47, bắn cháy một xe, diệt một số lính, làm cho địch bỏ dở cuộc hành
quân rút về Biên Hòa. Trong trận này, đồng chí Nguyễn Văn Tranh,
dân quân Tam Phước hy sinh. Đó là chiến sĩ vũ trang đầu tiên ở Long
Thành hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm
lược. Ở khu vực Thành Tuy Hạ, quân Pháp cũng liên tiếp mở các
cuộc hành quân thám sát và cướp bóc các xã lân cận, nhưng chúng
đều bị lực lượng vũ trang chận đánh phải rút lui.
Sau những lần bị chặn đánh, địch ngưng hành quân, tình hình bớt
căng thẳng. Quận ủy, Ủy ban hành chính chuyển về chùa Bà Phủ
(Phước Kiển). Đồng chí Dương Bạch Mai - Trưởng đoàn thanh tra
chính trị miền Đông về kiểm tra tình hình kháng chiến Long Thành.
Sau kiểm tra, Ủy ban hành chính quận được cải tổ. Đồng chí Trịnh
Văn Dục, Bí thư Quận ủy, kiêm chức Chủ tịch Ủy ban Hình chính
quận. Phó Chủ tịch là Võ Văn Truyện (tức Hoàng Việt Hà). Đồng
chí Trương Minh Kỷ: Phó Chủ tịch kiêm ủy viên tư pháp. Đồng chí
Trịnh Văn Kính: Ủy viên chính trị. Đồng chí Huỳnh Văn Đạo: Ủy
viên quân sự. Đồng chí Lương Văn Nho: Ủy viên tài chánh. Chức
Ủy viên xã hội giao cho Nguyễn Văn Hội, Thư ký Ủy ban là Nguyễn
Văn Thai.
Vào lúc 1 giờ đêm ngày 11.11.1945, lính Nhật còn trú đóng ở đồn
binh Phước Kiển đột nhiên1 tổ chức bắt cóc đồng chí Bí thư Quận ủy
Trịnh Văn Dục và Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc Đỗ Hữu Phú. Đây là
động thái gây hấn với chính quyền cách mạng.
1  Theo lệnh của chỉ huy Đồng minh Anh - Ấn.
113

12.4 Page 114

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Sáng ngày 12, Quận ủy Long Thành tổ chức một cuộc họp khẩn
cấp do đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) chủ trì, quyết định tổ
chức biểu tình toàn huyện đòi Nhật phải trả hai đồng chí Dục và Phú.
Sau cuộc họp, cán bộ tỏa ngay về các xã, vận động người dân tham
gia biểu tình. Trước sự trở mặt trắng trợn của bọn Nhật, người dân
Nhơn Trạch, Long Thành ai cũng phẫn nộ.
Mờ sáng ngày 13.11.1945, khắp các ngã đường trong huyện đã
rầm rập những bước chân người. Hơn 4.000 công nhân cao su Bình
Sơn - An Viễng và đồng bào Lộc An theo lộ 25 đi ra. Gần 5.000
người thuộc các xã dọc lộ 15 từ Thái Thiện, Tuy Long, Long An
dồn lên, từ Bến Gỗ Phước Tân, Tam Phước, An Lợi, Tam An, Thanh
Nguyên dồn xuống. Người dân ở Ông Kèo, Xoài Minh cũng hòa vào
dòng người lên đến khoảng 5.000 dân của Phước An, Phước Thọ,
Phước Long, Phước Lai, Phước Kiển theo lộ 19; Phước Thành, Long
Tân, Phú Thạnh, Mỹ Hội theo tỉnh lộ 17 hội nhập tại Phước Thiền
rồi tiến thẳng vào thị trấn. Xã nào cũng có đoàn tham gia biểu tình,
có cán bộ xã tổ chức hướng dẫn. Ngay cả Phước Khánh xa xôi, hàng
trăm đồng bào cũng theo ghe tập trung ở Phú Hữu, Phước Thành từ
chiều hôm trước để cùng đi. Những dòng người nối tiếp nhau như
nước; đến thị trấn Long Thành thì gặp bọn lính Nhật cản đường,
giựt băng rôn, níu kéo người cầm cờ, quyết cản bước đoàn biểu tình.
Đoàn biểu tình giằng co với lính Nhật, chị Nghi (bộ phận Y tế) cầm
cờ kêu gọi xông lên; đoàn người xông ào lên, giặc lui ta tiến, được
khoảng 50m thì một xe nhà binh Nhật phóng đến, thắng gấp, lính
Nhật nhảy xuống xe, giương lê cản đường, đoàn người vẫn xông tới,
114

12.5 Page 115

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
lấy số đông áp đảo, khí thế như nước lũ; lính Nhật yếu thế, lùi bước,
rồi nhảy lên xe chạy đi. Đoàn người kéo đến cổng Gà, một tốp lính
Nhật đang ngồi dưới gốc cao su đứng bật cả dậy, chĩa súng lên trời
nổ nhiều phát đe dọa dừng bước, nhưng đoàn người vẫn xông tới,
tràn vào cổng, bọn Nhật chặn không được nên mới chịu tiếp chuyện,
chúng nói rằng đã đưa ông Dục, ông Phú về Biên Hòa rồi, nếu tiếp
tục tràn vào chúng sẽ nổ súng. Anh Hưởng phiên dịch; đồng chí Vũ
Hồng Phô hội ý lãnh đạo rồi lệnh cho đoàn kết thúc biểu tình, lúc đó
hơn 12 giờ trưa.
Đồng chí Bí thư Quận ủy bị địch bắt là một tổn thất lớn của cách
mạng Long Thành. Ngay sau đó, thực hiện phương châm sách lược
của Trung ương: “Đảng Cộng sản Đông dương tuyên bố tự giải tán”,
nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật1. Theo chỉ thị của trên,
Đảng bộ Long Thành không còn tổ chức sinh hoạt, lại thêm một khó
khăn mới. Nhưng với tinh thần của người cộng sản, các đảng viên
vẫn tích cực hoạt động phát huy vai trò của Mặt trận Việt Minh các
cấp, lãnh đạo, đi sâu vào cơ sở vận động quần chúng. Nhờ vậy phong
trào kháng chiến trong huyện vẫn phát triển mạnh mẽ.
Thời điểm đó, một số xã thuộc địa bàn Nhơn Trạch, trong đó có
xã Phước Lý chưa có chi bộ Đảng nên sự lãnh đạo của Đảng thông
qua vai trò của Mặt trận Việt Minh và các đảng viên kỳ cựu.
Đến tháng 11.1945, cuộc vận động ủng hộ Chính phủ nuôi quân
sôi nổi phát triển khắp nơi. Lương thực, thực phẩm cung cấp cho bộ
1  Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày
25.11.1945 “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” - trích văn kiện tập II - NXB
sách giáo khoa Mác - Lênin - trang 14.
115

12.6 Page 116

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đội không thiếu. Công binh xưởng có nhiều đồ đồng do dân đóp góp
để chế tạo vũ khí. Ở Phước Lý, dù đời sống nhân dân còn nghèo khó
nhưng các mẹ, các chị vẫn chắt mót, thu vén sinh hoạt gia đình để
đóng góp cho cách mạng, như mẹ Nguyễn Thị Đặng, mẹ Lê Thị Tư,
mẹ Nguyễn Thị Kiều, mẹ Nguyễn Thị Chọn, mẹ Nguyễn Thị Bảy,
mẹ Trần Thị Đường1... Trong đó, mẹ Nguyễn Thị Đặng ở ấp Ông
Kèo là hội viên Hội Mẹ chiến sĩ, luôn đi đầu trong các phong trào
đóng góp của xã cũng như vận động người thân, bà con làng xóm
tham gia... Sự đóng góp của mỗi gia đình ít hay nhiều, bằng cách này
hay cách khác đều toát lên tinh thần ủng hộ kháng chiến, tin tưởng
chính quyền kháng chiến, ấm tình quân dân cá nước.
Ở mặt trận chống giặc dốt, phong trào xóa mù chữ được phát động
gắn với công cuộc xây dựng đời sống mới ở xã Phước Lý. Các lớp
học bình dân được tổ chức trong xã bằng nhiều hình thức, việc dạy
và học diễn ra ở mọi nơi; người nhiều chữ dạy người ít chữ. Khắp
nơi đều có khẩu hiệu “toàn dân biết chữ”. Trong thanh niên Phước
Lý có phong trào “ai mù chữ không được lấy vợ, lấy chồng”. Các
bài ca cách mạng được phổ biến rộng rãi. Đội dân quân của xã cũng
được hầu hết thanh niên tham gia, Đội trưởng là Võ Quang Minh (Tư
Ngàn). Các đội viên tích cực tập luyện để bảo vệ xóm làng. Không
khí trong làng xã những ngày sau Cách mạng tháng Tám rộn ràng
tinh thần thi đua, thi đua học chữ gắn với thi đua sản xuất, bảo vệ
chính quyền non trẻ.
1  Bà mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Đường là người ấp Ông Kèo, xã Vĩnh
Thanh, có hai con liệt sĩ là Châu Văn Nghe và Châu Văn Khởi. Hiện người thân
của mẹ Đường hưởng chế độ chính sách ở xã Phước An.
116

12.7 Page 117

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ngày 11.11.1945, thực dân Pháp đưa quân đóng giữ kho đạn
Thành Tuy Hạ. Quân đi hai cánh. Một cánh đổ bộ lên ngay bến
Thành Tuy Hạ, cánh kia từ bến đò qua Cát Lái, theo đường 17 đi lên.
Đi đến đâu giặc bắn ran trời đến đó. Người dân các ấp xung quanh
khu vực kho đạn Thành Tuy Hạ đều hoang mang lo lắng.
Chiếm kho đạn Thành Tuy Hạ hơn một tháng thì quân Pháp bắt
đầu càn quét làng xóm chung quanh. Ngày 19.12.1945, gần 100 tên
lính lê dương kéo đến cầu Cháy. Sáu tên lò dò theo đường xứ 1 tiến
về hướng Giồng Ông Đông. Chúng đốt một số nhà tranh ven đường,
khói lửa bốc cao ngất. Hai bên ven đường xứ, lúa cao ngang lưng,
chín vàng đồng. Đội tự vệ Phú Hữu bí mật nằm áp sát đường xứ dưới
những ruộng lúa chờ địch. Khi chúng lọt vào trận địa, tự vệ nổ súng.
Các đội viên Chín Cát, Sum, Kiên ném lựu đạn. Mấy tiếng nổ vang
lên. Bọn lính lê vứt bỏ gà vịt vừa bắt được, nằm lăn ra đất giương
súng bắn trả loạn xạ. Lũ địch ở đầu cầu Cháy lập tức nã cối vào trận
địa rồi kéo quân đến tiếp viện. Hàng trăm đồng bào già trẻ, gái trai có
mặt ở đầu giồng dưới hô vang: “Xung phong, xung phong” và hoan
hô anh em tự vệ đánh giặc mặc cho đạn địch nổ rền. Đó là lần đầu
tiên quân dân Nhơn Trạch thắng trận chống càn trước giặc Pháp tái
chiếm Thành Tuy Hạ.
Sau trận thắng chống càn ở Phú Hữu, Mặt trận Việt Minh và Ủy
ban nhân dân các xã phát động phong trào “toàn dân tham gia bảo
vệ sinh mạng và tài sản nhân dân”. Cán bộ đoàn thể phân công nhau
về các ấp vận động dân quân du kích xã lập nhiều điểm gác, phát
1  Là đường trải đá đỏ, ô tô, xe bò, xe ngựa chạy được.
117

12.8 Page 118

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
hiện giặc đi bố thì đánh mõ tre báo động dây chuyền. Nhân dân còn
được hướng dẫn đắp nền, làm chòi kín đáo cất giấu thóc lúa, đồ đạc
ở các đám bần, dừa nước ven sông rạch. Mỗi khi tiếng mõ “cốc, cốc,
cốc...” vang lên từ xóm nọ qua xóm kia, bà con lập tức chạy trốn ra
bìa rạch, ngoài đồng tùy theo hướng tiến của địch. Ai có xuồng ghe
thì chất cả gia đình xuống chèo vào rừng rậm, ai không có thì tìm bờ
bụi kín đáo ẩn nấp hoặc lội sông để trốn. Một số nơi mực nước ngầm
cao, chỉ khoét hố sâu một mét đã có nước nên khó làm hầm. Các ông
bà già ở lại để ngăn chặn giặc đốt phá nhà cửa, tài sản gia đình. Tây
bố lúc nước cạn thì dân cùng nhau lội sông, băng ruộng đầy đồng
mặc cho súng giặc nổ chát chúa. Tây rút về đồn bà con lại trở về xóm
ấp như cũ. Cuộc sống thỉnh thoảng bị đảo lộn bởi những cuộc càn
nhưng nhanh chóng trở lại bình thường.
Sau trận thua đau, quân địch ở kho đạn Thành Tuy Hạ thường đi
càn quét, bố ráp; chúng bắn người, cướp của, đốt nhà, hãm hiếp phụ
nữ. Đời sống người dân các xã xung quanh, trong đó có Phước Lý,
vô cùng khó khăn, đau thương chồng chất.
Ngày 6.1.1946, cùng với cả nước, người dân Phước Lý tham gia
bầu cử Quốc hội khóa I dù vẫn còn trong vòng vây của thực dân
Pháp, vẫn còn trong cảnh bom rơi đạn nổ. Hầu hết người dân Phước
Lý đều đi bầu, thực hiện quyền làm chủ của mình.
Ở tất cả các xã khác đều có hơn 90% cử tri lần đầu sử dụng quyền
công dân của mình bầu ra đại biểu nhân dân của chính mình. Đại
biểu Quốc hội ở tỉnh Biên Hòa trúng cử 3 đồng chí gồm: Hoàng
Minh Châu (tức Nguyễn Thành Vĩ), Dương Bạch Mai và Điểu Xiển.
118

12.9 Page 119

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Sau bầu cử là các cuộc mít tinh mừng thắng lợi, biểu dương lực
lượng, tinh thần, tình cảm của quân dân Long Thành cùng cả nước
hướng về Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực dân
Pháp chứng kiến việc này căm tức nhưng không làm sao ngăn được,
dự báo làn sóng cách mạng ở địa phương sẽ bừng dậy, lan rộng,
giáng đòn mạnh mẽ hơn vào mưu đồ xâm lược của chúng những
năm tiếp theo.
2. Chống lấn chiếm vùng kháng chiến
Quân dân Long Thành đã góp phần vào thắng lợi của cả nước bầu
ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với
thắng lợi này, công cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã có Nhà nước hợp hiến điều hành, có Chính phủ thống
nhất chỉ huy, làm tăng uy thế chính nghĩa và tính pháp lý trên thế
giới. Kết quả bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà nước của
dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành
đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc, giải quyết mọi
quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định Quốc hội khóa I là: “Kết quả của sự hy sinh, tranh đấu
của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của
toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào
không kể già, trẻ, lớn, bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân
tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối, hy sinh
không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”1.
1  Phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội
Khóa I, ngày 2.3.1946.
119

12.10 Page 120

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Theo lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết quả thắng lợi của bầu
cử Quốc hội là đóng góp của cả nước và cả nước cùng ra sức bảo
vệ thành quả ấy, trong đó có sự góp phần của quân dân Long Thành
- Nhơn Trạch. Từ đây, công cuộc kháng chiến của quân dân Long
Thành - Nhơn Trạch bước sang một giai đoạn mới với tư thế mới.
Sau bầu cử thắng lợi, Quận ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm tiếp theo
là tăng cường lãnh đạo, củng cố các tổ chức đảng ở cơ sở, mở rộng
mặt trận đoàn kết toàn dân, phát triển lực lượng vũ trang thống, đánh
thắng mọi cuộc càn quét, lấn chiếm của địch.
Ngày 23.9.1945, thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trước thành quả đạt được của cách mạng, thực dân Pháp càng lo
lắng, càng điên cuồng tổ chức nhiều cuộc hành quân đánh chiếm
vùng kháng chiến. Long Thành đang là vùng độc lập, là cái gai trước
mắt và là hiểm họa lâu dài buộc quân Pháp tập trung quân lực để đánh
chiếm. Đoán biết ý đồ của địch, Quận ủy lãnh đạo toàn hệ thống xây
dựng kế hoạch chiến đấu, thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, chiến
tranh nhân dân, kết hợp lối đánh du kích với chủ động tiến công địch.
Ở các xã, đồng bào tự dỡ nhà rút vào rừng lập làng kháng chiến. Các
tổ thanh niên tình nguyện cùng dân quân tháo dỡ công sở, đình miễu,
cất giấu tài sản công quyết không để địch chiếm giữ biến thành công
cụ tấn công quân kháng chiến. Vì vậy, những nơi giặc Pháp chiếm
được gần như là vườn không nhà trống, không còn gì để cướp phá,
không có thóc lúa để làm quân lương.
Ngày 20.1.1946 (nhằm 18 tháng Chạp), quân Pháp bắt đầu nổ
súng. Từ hướng Biên Hòa, quân Pháp nhiều đợt hành quân thăm dò
trên tuyến quốc lộ 15, sau đó ngày 23.1 chúng tổ chức một đại đội
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
lính Âu Phi có xe thiết giáp yểm trợ tiến về Long Thành, đến Dốc
47 thì bị một đơn vị bộ đội chặn đánh. Hai bên nổ súng tới gần trưa,
quân Pháp rút về Biên Hòa, bỏ dở cuộc hành quân.
Ngày 25.1.1946, từ Biên Hòa, quân Pháp tiếp tục tấn công Long
Thành - Nhơn Trạch, tổ chức cuộc hành quân nhiều mũi theo các
hướng sông Lòng Tàu, lộ 17, 19 và quốc lộ 15 hòng bao vây, chia
cắt, tiêu diệt các lực lượng kháng chiến, chiếm đóng quận Long
Thành. Lúc đó đồng bào chuẩn bị đưa ông Táo về Trời thì tiếng súng
tấn công của giặc Pháp nổ vang. Giặc Pháp đánh vào Long Thành từ
3 hướng với ý định nhanh chóng thôn tính địa bàn chiến lược này.
Một cánh quân Pháp từ Biên Hòa đổ vào khu vực Tam Phước, Tam
An; cánh thứ hai tập kích khu vực Long Tân, Phú Thạnh; từ Sài Gòn,
một tiểu đoàn khác vượt bến phà Cát Lái tấn công Nhơn Trạch ở phía
Tây. Tàu giặc còn qua ngõ căn cứ Thành Tuy Hạ chạy dọc theo sông
Đồng Nai, bắn đại bác lên bờ hỗ trợ cho bộ binh.
Cánh quân từ Biên Hòa gồm một tiểu đoàn Âu Phi có xe bọc
thép mở đường rầm rộ theo quốc lộ 15 tiến xuống Long Thành. Đến
Dốc 47, lọt vào trận địa phục kích của bộ đội và dân quân Phước
Tân, Tam Phước. Trận đánh kéo dài tới nửa buổi sáng. Địch đông,
vũ khí mạnh, bắn trả dữ dội rồi tràn qua. Bộ đội cùng dân quân hai
xã phải rút khỏi trận địa, băng qua đồng Long Điền về Bến Cam
(Phước Thiền) chốt lại. Quân Pháp đến An Lợi lại bị chặn đánh. Lực
lượng kháng chiến ở đây có một phân đội giải phóng quân Long
Thành. Anh em vừa nổ súng, vừa dùng lựu đạn đánh diệt một số
địch. Nhưng ta không giữ trận địa được lâu vì thiếu đạn. Địch tràn
vào An Lợi, Tam An đốt phá.
121

13.2 Page 122

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Gần trưa, quân Pháp chiếm được thị trấn Long Thành, đặt cối 60
li và 81 li bắn dọc theo quốc lộ 15. Sau đó chúng tiếp tục tấn công để
hợp quân với các cánh khác. Một mũi quân giặc theo lộ 15 đến ấp Bà
Ký (xã Long Phước) thì phải cụm lại vì bị chặn đánh quyết liệt suốt
từ xã Long An xuống.
Mũi quân Pháp thứ hai tiến theo phía Tây quốc lộ 15 xuống lộ
17, tới Bến Cam cũng phải quay lui, co cụm lại tại xã Phước Thiền
vì bị chặn đánh, thương vong lớn. Trên đoạn đường từ ngã ba Cầu
Xéo đến Bến Cam, quân Pháp đã tổn thất hàng chục tên. Không tiến
được, chúng đặt súng cối tại chợ Phước Thiền bắn liên tục vào các xã
xung quanh. Buổi trưa và buổi chiều, máy bay phóng pháo đến ném
bom, bắn phá các xã dọc lộ 19. Nhiều đám cháy bùng lên ở Phước
Kiển, Phước Lai, Phước Long.
Cánh quân từ Cát Lái qua chia làm hai mũi. Mũi thứ nhất theo
đường Phước Lý, phối hợp với lực lượng đổ quân ở khu vực Thành
Tuy Hạ tiến đến Long Tân thì đụng đơn vị bộ đội đóng ở khu vực
này. Bộ đội cùng dân quân 3 xã: Long Tân, Phú Thạnh, Phú Hội chặn
đánh giặc cả ngày 25.1. Phụ nữ xã Phú Thạnh suốt ngày hôm ấy thay
phiên nhau chuyển gạo nấu cơm cho bộ đội, dân quân đánh giặc.
Địch chết và bị thương gần một đại đội, nhưng quân ta cũng hết đạn.
Bộ đội phải cắt rừng về Phước An trong đêm. Sáng hôm sau quân
Pháp tiến tới Phú Hội thì co cụm lại.
Mũi thứ hai của quân Pháp theo lộ 19 tới Xoài Minh bị bộ đội
Bình Xuyên do Dương Văn Dương chỉ huy cùng giải phóng quân
Long Thành chặn đánh. Suốt ngày 25.1, quân Pháp tiến được không
đầy 10 cây số. Đến sáng 26.1, chúng phải rút lui ở một số nơi, nhưng
122

13.3 Page 123

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
vẫn quyết chiếm bằng được một số khu vực xung yếu quanh căn cứ
quân sự Thành Tuy Hạ.
Chiều ngày 26.1, tiếng súng lắng dần. Hai ngày chiến đấu ác liệt
ở Long Thành trôi qua. Quân Pháp chiếm được nội thị Long Thành
và một số nơi xung yếu quanh Thành Tuy Hạ, chịu tổn thất lớn, chưa
đạt mục đích tái chiếm. Quân ta chiến đấu anh dũng, chặn địch trên
tất cả các mũi, làm chủ được vùng nông thôn, bảo vệ được các căn
cứ, làm thất bại âm mưu chia cắt của địch, có một số thương vong
nhưng đạt được thắng lợi cơ bản về tinh thần kháng chiến, nghĩa tình
quân dân và phối hợp các lực lượng. Địch bị giáng đòn nặng nề, hơn
100 tên lính Âu Phi bị chết, gần 100 tên khác bị thương, nhiều khí
tài bị phá hủy. Quân ta thiệt hại lớn: 300 đồng bào, cán bộ chiến sĩ
hy sinh, trong đó có một chiến sĩ ở ấp Ông Kèo là Trương Văn Bình;
gần 400 người khác bị thương, 20 chiếc ghe của liên quân Bình
Xuyên bị đánh đắm, ba kho gạo (mỗi kho 5 tấn) bị cháy. Ở một số xã
như: Phước Lý, Phú Thạnh, Long Tân, khi quân Pháp đổ bộ vào làng
thì một số người dân, trong đó chủ yếu là người già và trẻ em đã đi
tránh nạn, nhưng chúng bộc lộ bộ mặt dã man tàn ác của quân cướp
nước, bắn giết bừa bãi đồng bào vô tội còn ở lại, đốt cháy cả trăm
căn nhà của người dân. Chúng bắt bớ một số người tình nghi, trong
đó có đồng chí Nguyễn Văn Liềm bị bắt đưa về giam giữ tại Khám
lớn Biên Hòa 25 ngày, đánh đập tra khảo tàn nhẫn.
Tại Sở chỉ huy bộ đội Bình Xuyên ở Phước An, một cuộc họp
gồm các đồng chí lãnh đạo huyện và các đơn vị bộ đội trong huyện
được tổ chức, dưới sự chủ trì của Tư lệnh Dương Văn Dương. Hội
nghị đã đánh giá cao tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu của bộ
123

13.4 Page 124

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đội, chính quyền và nhân dân trong huyện, đồng thời phổ biến lệnh
của Khu bộ trưởng Nguyễn Bình: chuyển một bộ phận bộ đội Bình
Xuyên về chiến trường Bến Tre.
Chấp hành mệnh lệnh của Khu bộ Khu 7, sau ngày 26.1, các đơn
vị bộ đội từ các xã dọc đường 15, 17 và 19 lần lượt rút về Phước An,
tổ chức lại lực lượng, tách riêng một bộ phận trang bị gọn nhẹ lên
đường đi Khu 8 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Dương Văn Dương. Bộ
đội ra đi trong lúc tình hình đang căng thẳng, nhưng quận vẫn đảm
bảo cung cấp được 20 ghe lớn chở quân, 6 tấn gạo và 20 ngàn đồng
Đông Dương cho các đơn vị chiến đấu.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí đóng quân
các nơi chúng mới chiếm được. Tại thị trấn Long Thành, chúng xây
dựng một đồn lớn gọi là chi khu quân sự gồm một đại đội Âu Phi
do tên đại úy Rebone chỉ huy. Chúng đưa Tô Hàm từ Biên Hòa về
làm quận trưởng hành chánh để tổ chức chính quyền bù nhìn trong
huyện. Ở An Lợi, Tam An, Phước Nguyên, Phước Lý, Phú Thạnh,
Phú Hội, Phước Thọ, Phước Long, Bà Ký, Phước Thiền địch đều
đóng bót. Mỗi bót khoảng một trung đội Âu Phi do một thiếu úy hoặc
một trung úy Pháp chỉ huy. Riêng tại Phú Thạnh, do vị trí hiểm yếu
và để bảo vệ kho đạn khu căn cứ Thành Tuy Hạ, địch đóng bót dày
đặc, lại thêm nhiều tua1. Ở Phước Lý, địch xây dựng 2 bót ở Xoài
Minh và Ông Kèo.
1  Tua: tháp canh bằng gạch hoặc đá dày từ 0,6-0,8m, cao từ 10-12m, có ba
tầng lỗ châu mai và đài quan sát. Đây là hệ thống tháp canh do tướng Pháp
De Latour cho xây dựng để bảo vệ các đường giao thông của địch và chia cắt
đường giao thông của ta, gây khó khăn rất lớn cho ta về vận chuyển lương
thực, vũ khí.
124

13.5 Page 125

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Sau khi có chỗ đóng quân, từ thượng tuần tháng 2.1946, địch liên
tiếp mở các cuộc hành quân lùng sục ra các vùng xung quanh cướp
phá đồ đạc của dân, lùng bắt cán bộ Việt Minh, bắt lính và từng bước
thành lập bộ máy tề xã nhằm ổn định khu vực chiếm đóng. Chính
quyền kháng chiến non trẻ tại các xã Phước Tân, Tam An, An Lợi,
Phước Nguyên, Phú Thạnh và thị trấn Long Thành vừa mới thành
lập hầu như tan rã, chỉ còn một vài đồng chí trung kiên bám trụ. Lực
lượng Bình Xuyên phải chuyển công binh xưởng vào sâu trong khu
Rừng Sác. Một số đơn vị nhỏ vẫn đóng trong khu vực Lòng Chảo.
Các cơ quan huyện cũng rút về các xã dọc lộ 19 từ Phước Lai đến
Phước An.
Trong khi lực lượng vũ trang Bình Xuyên của Dương Văn Dương
chuyển xuống Bến Tre thì địch nống ra chiếm đóng, từ đó thực hiện
các cuộc càn quét khắp nơi, mỗi lần càn bố chúng thực hiện ba sạch:
đốt sạch, phá sạch, giết sạch.
Quận rút một số cốt cán đội tự vệ chiến đấu các xã thành lập bộ
đội địa phương tập trung. Cấp trên nhận định: các lực lượng tỉnh tăng
cường về huyện Long Thành hoạt động khá đông, sớm muộn gì địch
cũng rút khỏi vùng ta. Đúng như lãnh đạo phán đoán, quân địch bắt
đầu có nhiều biểu hiện hoang mang lo sợ. Sáng 20.6.1946, địch rút
bỏ Tua 8 ở ấp Cầu Sắt. Nhân dân trong vùng kéo đến đập tan Tua 8.
Theo đó, tại các tua, bót ở Phước An, Phước Thọ, Ông Kèo, Xoài
Minh địch cũng rút quân bỏ chạy. Quân ta làm chủ một vùng rộng
lớn từ rừng giồng đến Rừng Sác bao la.
125

13.6 Page 126

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
3. Củng cố, phát triển lực lượng kháng chiến
Quân Pháp chiếm đóng Long Thành, tăng cường bố phòng giữ
vị trí quan trọng, đóng đồn bót khắp nơi để kiểm soát các tuyến lộ.
Quận ủy chỉ đạo cố gắng duy trì các hoạt động trong vùng tự do. Lớp
Mặt trận Việt Minh ở Phước An vẫn mở mỗi khóa 7 ngày cho cán bộ
các xã và bộ đội. Mặt khác, quận chủ trương chia nhỏ một số xã lớn
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên lạc và lãnh đạo phong trào cơ
sở. Theo đó, các xã được chia: Phước Hiệp chia thành 2 xã Phước
Long, Phước Thọ; Phước Kiển thành 2 xã Phước Kiển, Phước Mỹ;
Phú Hữu thành 2 xã Phú Hữu, Phước Thành; Phú Hội thành 2 xã Phú
Mỹ, Mỹ Hội; Long Phước thành 2 xã Tuy Long, Tập Phước; Phước
Thiền thành 2 xã Phước Thiền và Long Đức.
Cùng với việc chia xã, Ủy ban quận cho đào số súng mà Nguyễn
Tam Nguyên chôn giấu trước đây, nhanh chóng tập hợp lại lực lượng
giải phóng quân, giao cho Huỳnh Văn Đạo làm trung đội trưởng,
Nguyễn Văn Lung làm trung đội phó, biên chế thành ba phân đội.
Lực lượng Tự vệ cuộc (tiền thân của lực lượng Công an) được củng
cố lại và tổ chức thêm một công binh xưởng của ngành tại Phước An.
Tiếp đó, ngày 20.2.1946, các đồng chí lãnh đạo quận tổ chức một
cuộc họp tại Phước Long, phân tích tình hình và quyết định chia địa
bàn Long Thành thành 4 khu1 để thuận tiện trong việc chỉ đạo, liên
lạc. Các khu được phân chia như sau:
1  “Khu ủy” là tên cơ quan lãnh đạo từng khu vực do huyện tự phân chia trong
năm 1946.
126

13.7 Page 127

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
- Khu I gồm 7 xã dọc lộ 17 từ Phước Thiền tới Phước Lý, do đồng
chí Trương Minh Kỷ phụ trách.
- Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiển tới Phước Thọ, do
đồng chí Huỳnh Văn Đạo và Võ Văn Truyện phụ trách.
- Khu III gồm 4 xã thuộc Rừng Sác: Phước An, Phước Khánh,
Phước Thành, Phú Hữu và hai ấp Xoài Minh, Ông Kèo, do đồng chí
Trịnh Minh Kính phụ trách.
- Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 từ Thái Thiện tới Phước
Tân, kể cả các sở cao su, do đồng chí Lương Văn Nho phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo các khu được gọi là khu ủy. Các khu ủy có trách
nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong trào kháng chiến trên địa
bàn (và làm cả nhiệm vụ chính quyền cơ sở). Phương thức hoạt động
của khu ủy được quy định là cơ động, bám địa bàn, không cần trụ sở.
Mỗi tháng các khu trưởng chỉ tập trung một lần ở Phước An để báo
cáo và trao đổi công tác.
Hội nghị Phước Long còn đề ra chủ trương xây dựng và củng cố
lực lượng tự vệ chiến đấu các xã. Giải phóng quân Long Thành được
phân về mỗi khu một phân đội, phối hợp với Tự vệ cuộc bảo vệ khu
ủy, hỗ trợ xã xây dựng lực lượng để đánh địch.
Việc thành lập các khu và giao quyền lãnh đạo toàn diện cho khu
ủy là một chủ trương xử lý tình thế phù hợp, đã tạo nên một bước
chuyển quan trọng cho phong trào kháng chiến trong toàn quận. Các
lực lượng phân tán hợp lý tránh được tổn thất. Thông qua các khu
ủy, quận ủy đã luôn bám sát tình hình địa phương, trực tiếp lãnh đạo
từng xã và chủ động phát huy được thế mạnh từng vùng.
127

13.8 Page 128

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Sự có mặt thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo quận và lực
lượng giải phóng quân trên mọi địa bàn đã có tác dụng động viên và
hỗ trợ rất lớn cho phong trào quần chúng ở các xã. Chỉ trong một thời
gian ngắn cuối tháng 2, đầu tháng 3.1946, chính quyền các xã bị tan
rã trước đây lại được củng cố.
Đến tháng 11.1946, đội tự vệ chiến đấu các xã được bổ sung lực
lượng, đổi thành đội dân quân du kích xã. Trong mấy tháng địch tạm
chiếm, cán bộ, chiến sĩ tự vệ và nhân dân bước đầu được trui rèn
thử thách trong máu lửa. Đội du kích xã Phước Lý cũng ra đời trên
nền tảng của Đội dân quân tự vệ trước đây, do Võ Văn Minh (Võ
Quang Minh) làm Xã đội trưởng, các đội viên du kích dao động từ
10-12 người đều là thanh niên của xã, như: Hồ Văn Phẩm, Nguyễn
Văn Phúc, Nguyễn Văn Quận, Trần Đắc Thắng, Nguyễn Văn Nghĩa,
Đặng Văn Tông, Đặng Văn Đại, Cao Văn Thôi...
Sau 16 tháng quật khởi, quân dân Long Thành - Nhơn Trạch cùng
cả tỉnh, cả Nam Bộ đương đầu với âm mưu của thực dân Pháp, ngăn
cản bước chân tái xâm lược, xây dựng cơ sở đảng, thống nhất các
lực lượng vũ trang, mở rộng mặt trận Việt Minh, phát động phong
trào quần chúng, tổ chức các hoạt động kháng chiến, chiến đấu anh
dũng gây tổn thất lớn cho quân thù, hoàn thành các nhiệm vụ Xứ ủy,
Tỉnh ủy giao, thực hiện tốt công tác bầu cử Quốc hội. Đến thời điểm
tháng 12.1946, căn bản các nhiệm vụ đều hoàn thành, tạo thế và lực
cùng cả nước bước vào giai đoạn toàn dân kháng chiến theo lời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
128

13.9 Page 129

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
II. CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN
DIỆN
Sau khi những nỗ lực đàm phán với thực dân Pháp để cứu vãn
hòa bình không thành, sáng ngày 20.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho truyền thanh “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nội dung
đã chuẩn bị từ đêm trước. Lời kêu gọi như tiếng kèn xung trận làm
nức lòng quân dân cả nước: Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải
nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp
càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ. Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất
kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ
là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ
quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước.
Tiếng kèn xung trận ấy thôi thúc quân dân Long Thành vốn đã đi
được một chặng đường dài chống thực dân Pháp nay hòa nhịp cùng
cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện. Nhiệm vụ của Đảng bộ
Long Thành lúc này là tiếp tục lãnh đạo toàn Đảng bộ, chính quyền,
mặt trận, lực lượng vũ trang củng cố tổ chức, huy động các nguồn
lực xây dựng đời sống kháng chiến, căn cứ kháng chiến, nâng cao
thực lực chiến đấu, đánh bại âm mưu của địch, bảo vệ quê hương,
chia lửa với chiến trường cả nước.
129

13.10 Page 130

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Thực hiện nhiệm vụ được Tỉnh ủy giao, Quận ủy chủ trương xây
dựng địa bàn, bố trí lại lực lượng cho phù hợp tình hình mới. Theo
hệ thống chỉ huy lực lượng vũ trang, Long Thành tổ chức 4 liên thôn
mang số 11, 12, 13, 14. Liên thôn 13 gồm các xã: Bình Thạnh, Phước
Lý, Phú Hữu, Phước Thành, Phước Khánh. Ông Lê Xuân Lịch chỉ
huy đội du kích liên thôn, ông Châu Thành Phát là chỉ huy phó. Mỗi
liên thôn tổ chức một trung đội du kích hoạt động ở các xã, làm chỗ
dựa cho chính quyền và các đoàn thể.
Phước An được xem là địa bàn có ý nghĩa chiến lược. Từ tháng
12.1946, Phước An đã là nơi đứng chân của các cơ quan quận Long
Thành và nhiều đơn vị thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn, Nhà Bè, Thủ Đức.
Tại đây, Chi đội 10 Biên Hòa thành lập tháng 6.1946, chính thức trở
thành Đại đội C thuộc Vệ quốc đoàn Long Thành do Lương Văn
Nho chỉ huy. Phước An trở thành căn cứ kháng chiến của quận và
nhiều đơn vị của tỉnh, khu. Do tính chất chiến lược của vùng đất
này, ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, lực lượng
Bình Xuyên đã chọn Phước An làm căn cứ đóng quân của liên quân
Hoàng Thọ, Chi đội 7, Chi đội 6, bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn.
Phước An là vùng đất ở phía nam của huyện Nhơn Trạch, nằm
dọc theo tỉnh lộ 19 trên chiều dài 13km, diện tích tự nhiên 10.997
hecta, địa hình phức tạp, có địa thế, vị trí tự nhiên rất thuận lợi để
trở thành căn cứ kháng chiến. Phía Bắc Phước An là một vùng rừng
giồng bạt ngàn, rậm rạp rộng lớn nối liền với dải rừng Lòng Chảo1
1  Có người giải thích: Tên gọi là Lồng Chảo vì địa hình giống như cái chảo
úp hình chiếc lồng, quen gọi là Lòng Chảo.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hàng chục ngàn hécta. Trong rừng giồng có hàng trăm đường mòn,
đường đất, từ đó có thể bí mật vượt qua các trục lộ 19, 17, 15 để về
Hắc Dịch, về Chiến khu Đ hay Bà Rịa, Xuân Lộc. Phía Nam Phước
An là Rừng Sác bao la, với những rạch, tắc chằng chịt có thể dễ dàng
liên hệ với Nhà Bè, Sài Gòn, Gò Công, Bến Tre hay ngược lên Vũng
Tàu. Rừng Sác Long Thành nối liền Rừng Sác Duyên Hải - Cần Giờ
thành một dải liên tục, dung trú các lực lượng bộ đội Bình Xuyên
của Dương Văn Dương, Dương Văn Hà, Mai Văn Vĩnh lừng lẫy
một thời, ngoài ra còn cơ quan quân giới Nam Bộ, quân y, quân nhu
và nhiều lực lượng vũ trang khác. Các cơ quan xã Phước Đức cũng
đóng ở đây.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa về xây dựng căn cứ
kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh, tháng 1.1947, Ủy ban
hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quận
Long Thành đã về đứng chân xây dựng căn cứ ở Phước An. Trụ sở
của các cơ quan là những căn nhà lá dừa nước gọn gàng trải dài từ
rẫy thơm đầu sân banh ấp Bàu Bông đến xóm Ngọn, trên phía rừng
giồng, cách lộ 19 từ 30 - 50m. Các cơ quan chỉ huy và các đơn vị
của liên chi Bình Xuyên kể cả quân y viện và công binh xưởng, cũng
chuyển về đóng quân ở nam lộ 19, trong Rừng Sác Phước An, Ba
Doi1 (Phước Đức). Sau đó, khoa Quân giới Nam Bộ được Bộ Tư
lệnh Nam Bộ điều từ miền Tây về lập các phân xưởng sản xuất vũ
khí ở Đồng Ông Trúc. Căn cứ của các đơn vị đều được xây dựng qui
mô, có bến ghe, vọng gác, phòng tuyến chống địch, bãi tập để huấn
1  Có tài liệu ghi là Ba Gioi.
131

14.2 Page 132

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
luyện quân sự. Ủy ban kháng chiến quận Long Thành cũng đóng ở
rừng giồng, ấp Bà Trường, xã Phước An.
Đời sống ở Chiến khu Phước An rất đông vui, hàng trăm ngôi nhà
mới theo cùng một kiểu: một mái hai chái mọc lên khắp khu vực Bà
Trường, Bàu Bông, Vũng Gấm. Giữa những vườn cây trái xanh tươi,
hai bên đường 19 nhà cửa san sát, ban đêm đèn măngxông thắp sáng
rực. Bộ đội, cán bộ, đồng bào nam nữ thanh niên đi lại nhộn nhịp.
Bộ đội và dân quân gỡ một khung nhà bằng sắt ở sở Bàu Lòng, đem
về Phước An lắp làm chợ, bà con thường gọi là chợ sắt Phước An,
nằm trên phía rừng giồng ấp Chợ, cách đường 19 chừng 50 m, dưới
những lùm cây râm mát. Chợ có đủ thứ hàng quán, nhân dân buôn
bán tấp nập cả ngày lẫn đêm, có cả “Quán cơm bình dân” do bộ phận
Kinh tài huyện tổ chức bán giá rẻ phục vụ cán bộ và nhân dân qua lại
công tác. Các cửa hiệu may đồ, chụp hình, đóng giày dép, cặp, xắc
cốt, vải vóc các loại và thuốc tây đều có. Cá, tôm, cua, mắm từ các
ấp thuộc khu vực Rừng Sác, xa hơn nữa thì từ Cần Đước, Cần Giuộc,
Nhà Bè theo ghe tới. Hoa quả, trái cây mùa nào thức đó được nhân
dân từ Long Tân, Phú Hội, Phú Thạnh, Phước Thiền đưa về Phước
An, góp phần cung cấp lương thực, thực phẩm cho kháng chiến.
Thời điểm này, nhân dân các xã ở Long Thành - Nhơn Trạch sử
dụng hai loại tiền khác nhau. Ở những xã thuộc khu vực căn cứ kháng
chiến, như Bàu Bông, Vũng Gấm, Phước An, người dân sử dụng
“tiền Cụ Hồ”, tức tiền do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
phát hành, trên một mặt tờ tiền có in hình Chủ tịch Hồ Chí Minh nên
thường gọi là “tiền Cụ Hồ”. Người dân vùng kháng chiến thường nói
với nhau “Chỉ cần nhìn thấy râu Cụ Hồ là tiền còn xài được”. Những
132

14.3 Page 133

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
xã thuộc vùng địch chiếm đóng thì sử dụng “tiền Đông Dương” do
Pháp lưu hành. Điều thú vị là hai loại tiền tệ này lưu hành song song,
có giá trị như nhau và có thể quy đổi lẫn nhau được.
Thuyền bè Sài Gòn, Chợ Lớn, Phú Xuân, Phước Khánh, Phú
Hữu... tấp nập tới lui. Lúa gạo, các nhu yếu phẩm, thuốc men từ đô
thành buôn ra, chở tới đây rồi chuyển cho các lực lượng cách mạng
Rừng Sác. Xã Phước Khánh có lúc hình thành “chợ Sài Gòn mới”
vùng Rạch Bàng - Chà Là. Gần một trăm cơ quan lớn nhỏ các huyện,
các xã của Long Thành, Thủ Đức, nhiều đơn vị bộ đội đóng ở rừng
giồng ven hai trục lộ 17 và 19 quanh Lòng Chảo.
Tại Xoài Minh, bộ đội Hoàng Thọ (thuộc bộ đội Khu 7) về đóng
quân hỗ trợ cho địa phương tác chiến, được nhân dân hết lòng ủng
hộ. Như ông Nguyễn Văn Lãnh (Cả Lãnh) đã nhận nuôi 1 trung đội ở
nhà mình, mỗi khi bộ đội, du kích chuẩn bị xuất quân chiến đấu ông
gọi con cháu mổ heo để “tụi nó ăn lấy sức mà đánh Tây”, nếu thắng
trận trở về ông còn cho mổ bò để khao quân. Thời điểm đó một con
heo có thể đổi được 5 tạ thóc, vậy mà gia đình ông Cả Lãnh đã ủng
hộ bộ đội 5 con bò, 10 con heo cùng hàng chục tấn thóc; hai người
con của ông Cả Lãnh là Nguyễn Khắc Bích (Năm Bích, còn có tên
là Bảy Sanh), Nguyễn Khắc Sung (còn có tên là Nguyễn Khắc Tòng,
hay Tám Tòng) sau này cũng tham gia kháng chiến. Các gia đình
khác cũng hỗ trợ theo khả năng của mình, như gia đình bà Cao Hồng
Quê nhận nuôi dưỡng thương binh, cung cấp thuốc men...
Cuối năm 1947, phong trào cắm cọc chống Tây nhảy dù và ngăn
tàu giặc trên sông phát triển sâu rộng. Hàng ngàn lượt nam nữ thanh
133

14.4 Page 134

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
niên, cán bộ chiến sĩ, dân quân du kích và nhân dân huyện Long
Thành thi đua cắm cọc khắp các cánh đồng: đồng Lớn, đồng xóm
Ngọn, đồng Gò Cát...
Về phía địch, đến đầu năm 1947 dù đã tăng cường quân sự nhưng
chúng vẫn chưa thể chiếm đóng hoàn toàn được quận Long Thành,
phạm vi quản lý của chính quyền và các ban hội tề do Pháp dựng lên
chưa rộng, kể cả tại một số vùng địch tạm chiếm. Trong năm 1947,
địch hung hăng tấn công, đánh phá ta nhiều mặt để làm suy yếu
phong trào kháng chiến. Thực hiện chủ trương cổ điển “dùng người
Việt đánh người Việt”, thực dân Pháp dùng bọn Cao Đài phản động
đóng bót ở Cát Lái, Câu Kê, Phú Thạnh, Long Tân, Phước Lý. Tàu
địch tăng cường kiểm soát sông Lòng Tàu nhằm chia cắt các căn
cứ kháng chiến, phá thế liên hoàn với chiến khu Rừng Sác và cao
nhất là đẩy mọi lực lượng kháng chiến ra khỏi địa bàn huyện Long
Thành để tăng cường bảo vệ đầu não Sài Gòn. Các lực lượng thủy
quân Pháp, đặc cảnh miền Đông P.S.E. kết hợp máy bay và lính các
đồn bót Nhà Bè, Phú Xuân càn bố sâu vào các sông rạch Rừng Sác.
Đến giữa năm 1947, địch tiến hành gom dân về quanh các đồn bót
và trục lộ giao thông quốc lộ 15, lộ 17, tiến hành càn quét liên tục.
Chính quyền kháng chiến vận động nhân dân chống lại, đòi trở về
đất cũ sản xuất. Tuy nhiên, với sự kiểm soát, lùng sục gắt gao của
địch, tuyến đường liên lạc giữa Long Thành với tỉnh Biên Hòa bị cắt
đứt, liên lạc giữa xã với quận, xã với xã rất khó khăn. Nguyễn Tam
Nguyên, trung đội trưởng giải phóng quân Long Thành và một số
người dao động trong đơn vị chôn súng, trốn đi nơi khác sinh sống.
134

14.5 Page 135

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Nguyễn Văn Chỏi, Chủ nhiệm Việt Minh bỏ chạy. Những phần tử là
con cháu hội tề, phú nông và một số cán bộ trong Ủy ban hành chánh
các xã, ấp mất tinh thần cũng bỏ việc, lánh đi nơi khác.
Tuy nhiên, dù gặp nhiều khó khăn, quân dân Long Thành - Nhơn
Trạch vẫn kiên cường đánh địch. Năm 1947, lực lượng du kích liên
thôn 12 qua công tác binh vận đã đánh úp đồn Phú Hội, bắt sống toàn
bộ trung đội địch thu 27 súng các loại, nhiều đạn và lựu đạn. Trước
đó, trận đánh cầu Lò Rèn1 (vào năm 1946) ở ấp 2, Phước Long, do bộ
đội Mai Văn Vĩnh thuộc lực lượng Bình Xuyên (Chi đội 3, Chi đội
4) phối hợp với tự vệ địa phương thực hiện đã nổi tiếng trong toàn
tỉnh, khiến 4 lính Pháp chết tại trận, 1 tên bỏ chạy cũng bị bắt và bị
diệt. Đó là thắng lợi đầu tiên của lực lượng kháng chiến chống quân
Pháp tái chiếm ở Nhơn Trạch đã khơi động tinh thần không sợ giặc
Pháp, có thể đánh thắng quân Pháp.
Ở Phước Lý, các đội viên du kích xã dù ít người, vũ khí thô sơ vẫn
kiên cường, dũng cảm chiến đấu. Các đội viên luôn tìm cách phục để
bắn hạ những tên lính đi lẻ tẻ, gọi là “bắn chim”, bắn xong thì chạy.
Trong giai đoạn này, đội du kích chịu nhiều đau thương, mất mát.
Nguyễn Văn Nghĩa (Nguyễn Tấn Nghĩa, ở ấp Ông Kèo), đội viên du
kích xã Phước Lý có nhiệm vụ bám địch, nắm tình hình, cung cấp tin
tức cho đội tổ chức đánh giặc, trong một lần công tác bị quân Pháp
ở kho đạn Thành Tuy Hạ phát hiện, bắt giam ở bót Catinat 6 tháng.
Chúng tra tấn anh bằng đủ loại cực hình nhưng không khai thác được
điều gì, đành phải thả. Anh trở về với tấm thân đầy thương tích, tay
1  Theo lời kể của nhân chứng Phan Thị Chi, sinh năm 1926, xã Long Thọ.
135

14.6 Page 136

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chân bị liệt. Được mẹ là bà Nguyễn Thị Đặng1 chăm sóc, anh bình
phục và tiếp tục công tác. Ngày 14.6.1949, trên đường đi công tác
anh bị bọn lính Cao Đài đóng ở Phước Lý bắn trọng thương, bắt đem
về khai thác, anh kiên quyết không đầu hàng, bị chúng đánh đến chết
rồi thủ tiêu mất xác. Nguyễn Văn Phẩm, đội viên du kích xã, bị lính
Tây đóng bót Ông Kèo bắn trên đường công tác. Đội viên du kích
xã Nguyễn Văn Quận đêm về ghé thăm nhà bị lính Tây bót Ông Kèo
mai phục bắn chết ngay trước nhà, sau đó chúng kéo xác ra phơi ở
chợ Phước Lý, một ngày sau mới cho gia đình đưa về chôn cất. Đặng
Văn Tông, Tiểu đội phó Đội du kích xã Phước Lý, trên đường công
tác bị lính com măng đô phục kích bắn chết ở khu vực Bến Trăn (ấp
Long Điền, xã Long Tân) rồi lôi đi phơi xác ở bót, sau đó đưa đi vùi
nơi nào không biết, gia đình không tìm được thi thể, lúc hy sinh anh
mới tròn 16 tuổi. Nguyễn Văn Phúc là công an xã bị lính Tây bắn, hy
sinh ở khu vực suối Nhà Dòng (suối Ngang)...
Nhưng địch càng giết chóc, khủng bố, người dân Vĩnh Thanh
càng thêm căm thù. Lớp trước ngã xuống, người sau tiến lên. Thanh
niên Vĩnh Thanh vẫn hăng hái theo cách mạng, người tham gia đội
du kích, người gia nhập bộ đội huyện, tỉnh. Con trai lớn Đặng Văn
Tông hy sinh, mẹ Lê Thị Tư động viên người con trai út Đặng Văn
Đại tiếp tục theo bước cha anh, thoát ly theo kháng chiến, lúc đó anh
mới 14 tuổi. Các gia đình ở Vĩnh Thanh như nhà mẹ Đặng, mẹ Tư,
mẹ Kiều... vẫn tiếp tế bộ đội, che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng.
1  Mẹ Nguyễn Thị Đặng được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh
hùng năm 1994.
136

14.7 Page 137

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Địch còn tập trung đẩy mạnh hoạt động tình báo, cài cắm gián điệp
vào lực lượng kháng chiến đóng trên địa bàn Long Thành. Chúng
nắm được lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn và Tư Huỳnh. Tên
Nguyễn Quang Minh chui sâu, leo lên tới chức phó Bí thư Huyện ủy,
tên Sáu Sang (Lại Văn Sang) leo lên chức Ủy viên thường vụ Quận
ủy - Trưởng công an quận Long Thành. Hệ thống gián điệp này có
mưu đồ lật đổ và tiêu diệt lực lượng cách mạng Chiến khu Phước An.
Năm 1949, Tỉnh ủy Biên Hòa phát hiện được, kịp thời chỉ đạo đập
tan âm mưu nham hiểm kể trên. Ta tổ chức quét sạch bọn phản động
cài cắm vào hàng ngũ cách mạng, bắt và xử tử hình tên Tư Huỳnh tại
đồng xóm Ngọn, xã Phước An có hàng ngàn đồng bào tham dự. Một
số tên khác cũng bị xử lý thích đáng.
Ở rừng giồng Lòng Chảo, bọn gián điệp mặc quần áo như bộ da
cọp rằn ri hoạt động ban đêm hòng ngăn cán bộ, bộ đội, nhân dân đi
lại, hội họp, công tác.
Năm 1949, bọn Bảy Viễn cầm đầu số Bình Xuyên phản động đầu
hàng thực dân Pháp. Vì sống và quen thuộc địa bàn Rừng Sác, bọn
này đánh phá ta rất ác liệt. Thực dân Pháp đưa tên quan ba Xuy-a-cô
(Suacot) khét tiếng ác ôn về làm chỉ huy trưởng khu Long Thành cho
đến Hắc Dịch, Châu Pha. Chỉ huy lực lượng Cao Đài phản động là
trung tá Lê Thành Kham đóng ở Phú Thạnh, vệ úy Tư đóng đồn Câu
Kê, đội Sâm chỉ huy một đội com-măng-đô ở bót Giồng Ông Đông,
tên ký Hải là thông ngôn cho tên quan La-oọc ở kho đạn Thành Tuy
Hạ... đều là những tên ác ôn điên cuồng chống phá phong trào kháng
chiến, gây nhiều tội ác với quân và dân ta.
137

14.8 Page 138

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Công tác diệt tề trừ gian được đẩy mạnh trong toàn huyện dưới
nhiều hình thức, mạnh nhất là ở các xã ấp tạm chiếm ven vùng tự do.
Các ban hội tề thường nhận được thư của Mặt trận Việt Minh kêu gọi
nghỉ việc, giải tán hoặc tản cư ra vùng tự do. Thư đưa tới nhà từng
hội tề. Người lừng chừng được giáo dục. Những tên ngoan cố đều
bị trừng trị.
Từ năm 1948, phong trào tạm cấp ruộng đất và thực hiện giảm
tô diễn ra đều khắp các xã, nhưng tập trung ở Phú Hữu, Phú Thạnh,
Long Tân, Tam An, Phước Nguyên, Long Phước và Phước An. Do
công tác tuyên truyền tốt, hàng trăm thanh niên nam nữ các địa
phương hăng hái đi thoát ly vào các cơ quan, tham gia du kích xã và
xung phong tòng quân.
Dọc theo lộ 17, mặc dù giặc Pháp đóng hai bót ở Phước Thiền,
hai bót ở Mỹ Hội, nhưng Bến Cam, Bến Sắn, Phú Mỹ, Xóm Hố vẫn
được coi là vùng tự do. Bộ đội, công an xung phong qua lại đóng
quân thường xuyên. Ở Long Tân, sát nách kho đạn Thành Tuy Hạ
nhưng địch càn vô là bị đánh. Hầu như suốt hai năm 1948, 1949,
quân Pháp không dám vào xóm Long Hiệu, Vĩnh Tuy, chỉ dùng cối
81 ly từ Mỹ Hội bắn sang quấy rối cuộc sống tự do ở đây.
Năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc (cuối năm 1947), chiến lược
“đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp bị thất bại. Chúng
chuyển hướng quay về thực hiện bình định Nam Bộ với chủ trương
“dùng người Việt giết người Việt”, tăng cường xây dựng đồn bót,
tháp canh và các hoạt động tâm lý chiến, tình báo, gián điệp.
138

14.9 Page 139

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Từ đầu năm 1948, dọc theo lộ 17, lộ 19, tuy đồn bót giặc vẫn còn,
nhưng các hoạt động của cán bộ, các lực lượng vũ trang không gặp
nhiều khó khăn, thế làm chủ của nhân dân vẫn giữ được. Các tổ chức
chính quyền, đoàn thể, mặt trận được củng cố, hoạt động tốt. Phong
trào mạnh dần, giặc bớt hung hăng, chúng rút bỏ bót Phước Thọ, bót
chùa Bà Ký, chỉ còn đóng lại ở bót Phước Long. Vùng giải phóng
được mở rộng dần, liền lạc từ ấp Bà Ký đến Phước Thái, từ ấp 1
Phước Long đến Phước An. Hoạt động càn quét của giặc khuôn hẹp
lại, thưa dần đi. Công tác phá đường để ngăn giặc được phát động.
Đến giữa năm 1948, các đoàn thể khối mặt trận đều được hình
thành.
3. Đấu tranh chống chiếm đóng, bao vây
Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ huyện1 Long Thành khai mạc (đầu
năm 1949) với gần một trăm đại biểu, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ. Đại hội
bầu ra ban chấp hành, ban thường vụ Huyện ủy gồm: Bí thư Sáu
Khánh (Vũ Hồng Phô), Trần Bình Khê, Trương Minh Kỷ, Nguyễn
Sanh Thành và Lê Hữu Tài (Lê Hữu Thướu) là những đồng chí hoạt
động trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đây là một sự kiện lịch sử
quan trọng của Đảng bộ huyện Long Thành.
Cuối năm 1949, thực dân Pháp càng tăng cường công tác bình
định ở Nam Bộ nói chung và Biên Hòa - Long Thành nói riêng. Giặc
Pháp tổ chức lại lực lượng quân sự trong toàn huyện. Tại chi khu,
địch đóng hai đại đội: một đại đội chính quy gồm 120 lính, phần
1  Lúc này Long Thành đã được gọi là huyện.
139

14.10 Page 140

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đông là người dân tộc (thường gọi là lính Thổ), một đại đội Pạt-ti-san
120 lính, trang bị hỏa lực mạnh. Pháo binh chi khu được tăng cường
1 khẩu 105 ly. Các bót Phước Thiền, Phước Long, Siph, Hêlêna...
mỗi nơi 2 trung đội, trong đó có 1 trung đội chính quy do sĩ quan
Pháp chỉ huy. Bên cạnh đó, thực dân xây dựng nhiều bót lính Cao
Đài cấp trung đội, có nơi cấp đại đội.
Ở Phước Lý, chúng đóng một bót tại gần chùa Xoài Minh (gọi là
bót chính hay bót cái) và một bót tại khu vực đình Ông Kèo, mỗi bót
có một trung đội khoảng 36 người. Đồng thời dọc lộ 19 chúng đóng
các tua: Tua 6 tại khu vực cống Bắc Minh hiện nay, Tua 7 chốt tại
khu vực cầu Đại Điền hiện nay, Tua 8 tại khu vực cầu Thiết Nham
hiện nay, Tua 9 tại Quới Thạnh (nay thuộc xã Phước An). Đứng đầu
bót chính là một tên sĩ quan (Sergent) người Pháp, còn lại là các tên
ách1, đội, xếp... Vũ khí của bọn chúng được trang bị hiện đại, vì thế
bọn này rất ngang ngược với người dân trong xã. Bọn biệt kích Xuy-
a-cô (Suacot) liên tục đánh phá các xã vùng quanh Lòng Chảo Phước
An, trong đó có Vĩnh Thanh, gây vô vàn tội ác đau thương với đồng
bào. Cuộc sống của người dân Vĩnh Thanh trở nên ngột ngạt vì bị
chúng xét hỏi, khảo tra đủ điều khi ngang qua các bót, tua, hoặc khi
bọn biệt kích đi càn. Thậm chí bọn chúng còn giết người vô cớ, đốt
nhà, cướp bóc tài sản người dân, hãm hiếp phụ nữ khiến cho nhân
dân vô cùng căm thù chúng. Vợ chồng ông Từ giữ đình Ông Kèo
không có con cái, nương nhau sống hàng chục năm ở căn nhà nhỏ
cạnh đình bỗng nhiên bị bọn chúng xông vào bắn xối xả, giết cả vợ
1  Aspirant, là hạ sĩ quan hoặc chuẩn úy.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
lẫn chồng rồi đốt nhà. Chú Sáu Danh đang chèo ghe đi trễ cá ở vàm
Ông Kèo bị bọn chúng ngoắc vào xét hỏi, ghe vào chưa đến bờ bọn
chúng không hỏi câu nào xả súng bắn chết. Ở Xoài Minh, ông Lẫm
đang ngủ trong nhà mình thì bị bọn chúng xộc vào nhà, không nói
không rằng bắn ngay tại chỗ.
Trước tình cảnh khó khăn, gia đình mẹ Nguyễn Thị Đặng cùng
một số mẹ trong Hội mẹ chiến sĩ vận động, dìu dắt người dân xóm,
ấp bỏ ra vùng Lòng Chảo, dọc theo bờ sông Ông Kèo cất chòi lá để
sinh sống. Có khoảng 50 gia đình nương tựa, đùm bọc nhau sống tại
đây. Bà con sống bằng nghề làm củi, lưới cá, xúc tép, dựa vào thiên
nhiên mà tồn tại, sản phẩm làm ra đưa vào Phước An đổi lương thực,
nhu yếu phẩm, tuy vất vả thiếu thốn mọi bề nhưng được tự do hơn
là sống trong sự kềm kẹp của địch. Vừa mưu sinh, bà con còn phải
canh chừng bọn địch càn quét, ruồng bố. Mỗi khi hay tin địch càn,
người dân trong làng trốn hết vô trong Rừng Sác. Dù còn thiếu đói
nhưng bà con ở đây vẫn nhín nhút dành ra lương thực đóng góp nuôi
quân, tình cảm của đồng bào Vĩnh Thanh dành cho cách mạng lúc
nào cũng tràn đầy.
Cuối năm 1949, đồng chí Sáu Phô về Tỉnh ủy, Năm Hà (Năm
Trị) được phân công làm Bí thư Huyện ủy Long Thành. Huyện chủ
trương phải xây dựng cơ sở cách mạng ở địa phương để phong trào
kháng chiến thêm vững mạnh, phá tan âm mưu của địch. Đồng chí
Phạm Hồng được chỉ đạo về phát triển đảng viên tại xã Phước Lý.
Đầu năm 1950, có 3 đồng chí được kết nạp Đảng, trở thành những
đảng viên đầu tiên của Phước Lý là: Nguyễn Toàn Trung (Hồ Văn
Phẩm), Phan Trung Can (Nguyễn Thọ Nhì) và Đoàn Quang Minh,
141

15.2 Page 142

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
trong đó đồng chí Đoàn Quang Minh được chỉ định là Bí thư chi bộ.
Lễ kết nạp được diễn ra bí mật trong Rừng Sác, đây cũng là chi bộ cơ
sở đầu tiên của xã. Đầu năm 1951, thêm một số đồng chí trung kiên
được giới thiệu kết nạp Đảng gồm: Phạm Hồng Luy (Tư Thành), Võ
Quang Minh, Cao Thị Năm (Cao Hồng Quê), Trần Đắc Thắng (Tư
Dinh, là Xã đội phó xã Phước Lý), Quách Hùng Hào...
Một tháng sau khi được kết nạp, ngày 19.2.1950, đồng chí Trần
Đắc Thắng hy sinh trên đường đi công tác do trúng ổ phục kích của
bọn lính biệt kích Suacot. Đồng chí Thắng là đảng viên đầu tiên của
xã Phước Lý ngã xuống trên quê hương mình...
Năm 1951, chi bộ xã Phước Lý lãnh đạo nhân dân tổ chức thành
lập chính quyền cách mạng bằng hình thức bầu cử. Đồng chí Nguyễn
Toàn Trung được người dân bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chánh
kháng chiến xã. Đồng chí Phan Trung Can làm Phó chủ tịch. Đồng
chí Võ Quang Minh làm Xã đội trưởng. Đồng chí Cao Hồng Quê
làm Xã đội phó. Đồng chí Bảy Lời (Bảy Tài) làm Chánh ủy viên xã
đội. Đồng chí Quách Hùng Hào làm Trưởng công an xã. Nguyễn
Văn Hường (Công Tâm) phụ trách giáo dục. Nguyễn Văn Trụ phụ
trách kinh tài. Nguyễn Hồng Xương (Năm Định) phụ trách giao liên.
Lần đầu tiên, Vĩnh Thanh có tổ chức chính quyền cách mạng với đầy
đủ ban ngành.
III. ĐẤU TRANH CHỐNG LẤN CHIẾM, GIỮ VỮNG VÀ
MỞ RỘNG ĐỊA BÀN LÀM CHỦ, GÓP PHẦN KẾT THÚC
THẮNG LỢI 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
1. Bố trí lại chiến trường, củng cố lực lượng kháng chiến
142

15.3 Page 143

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Từ giữa tháng 5.1950 trở đi, Chiến khu Phước An bị địch lấn
chiếm, thực hiện chiến thuật Đờ la Tua (De Latour), chúng đóng
nhiều tua bót giăng dọc trục lộ 19 ở các xã Phước Kiển, Phước Lai,
Phước Long, Phước Thọ, Phước An.
Đầu năm 1951, địch bắt đầu xúc tiến mạnh việc giải tỏa lộ 15,
quốc lộ chiến lược đã bị ta cắt đứt từ năm 1946. Chúng đưa công
binh về khôi phục lại các cầu cống bị sập, đắp lại một phần đường
sá và tổ chức việc bảo vệ từng đoạn đường bằng các tháp canh; địch
tăng cường càn quét, đánh phá căn cứ của huyện, nhất là bọn lính
Comando hay đột kích bất ngờ gây thiệt hại cho du kích các xã.
Trước tình hình giặc đánh phá rừng giồng ác liệt, nhiều cơ quan dời
xuống Sở Dừa ở Bàu Bông, phân tán cán bộ về bám dân các xã.
Tháng 5.1951, Trung ương Cục miền Nam tổ chức lại chiến
trường. Toàn Nam Bộ tổ chức hai phân liên khu miền Đông và miền
Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một
sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn sáp nhập
thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (thường gọi là Bà Chợ). Huyện Long
Thành thuộc tỉnh Bà Chợ. Trước những diễn biến gay go của phong
trào kháng chiến Long Thành, Thường vụ Tỉnh ủy Bà Chợ chỉ đạo:
“Long Thành là một địa bàn chiến lược, một vùng căn cứ, một
chiến khu quan trọng trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Phong trào
Long Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt. Bằng giá nào
cũng phải ổn định cho được chiến trường Long Thành để đảm bảo
chỗ đứng của tỉnh”. Trên cơ sở đánh giá đó, Tỉnh ủy Bà Chợ quyết
định tăng cường cán bộ cho huyện.
143

15.4 Page 144

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Đồng chí Nguyễn Trọng Cát được điều về làm Bí thư Huyện ủy
Long Thành. Các cơ quan huyện di chuyển nhiều địa điểm trong
vùng Rừng Sác: xóm Bà Riêu (Phước Thái), đồng Ông Trúc, tắc Le
Le, Vũng Gấm (Phước An), tắc Rạch Lá (Bình Thạnh). Cuối tháng
11.1951, Huyện chủ trương chia khu, đưa cán bộ về phụ trách đồng
thời phân tán lực lượng vũ trang huyện theo khu, chủ yếu làm nhiệm
vụ vũ trang tuyên truyền. Huyện Long Thành được chia làm 5 khu,
trong đó Phước Lý nằm trong khu III do đồng chí Nguyễn Sanh
Thành phụ trách.
Thời gian này, Vĩnh Thanh cũng như hầu hết các xã căn cứ thường
xuyên bị lính com măng đô đột kích, ruồng bố, tàn sát dã man. Cán
bộ, chiến sĩ hi sinh rất nhiều, có nơi trở thành “áp trắng”. Địch cũng
bắt ép các gia đình ở Xoài Minh, Ông Kèo trước đây bỏ ra Rừng
Sác ở phải trở về nhằm cắt đứt nguồn liên lạc, tiếp tế cho phong
trào kháng chiến. Nhà bị đốt, dưới sức mạnh của súng ống, lưỡi lê
của địch, có khoảng 30 hộ bị bức bách rời khu vực Rừng Sác trở về
nơi cũ, còn khoảng 20 hộ khác một số tiếp tục dời xuống Chiến khu
Phước An, một số chạy qua khu vực Phước Khánh. Về cũng không
yên, các hộ này thường xuyên bị hạch sách, xét hỏi, hăm dọa, khủng
bố, mọi người sống trong lo sợ phập phồng, lòng lúc nào cũng nhớ
những ngày sống tự do nơi Rừng Sác. Ở Ông Kèo, cán bộ hy sinh
gần hết, chỉ còn 2 đồng chí Nguyễn Toàn Trung và Phan Trung Can
trốn được vào Rừng Sác nhưng lại mất liên lạc với tổ chức và không
liên hệ được với dân để tiếp tế nên phải giả vờ đầu hàng địch. Bị
đưa về quản chế ở địa phương, thông qua đồng chí giao liên Nguyễn
Hồng Xương, 2 đồng chí Trung và Can đã tìm cách liên lạc được với
144

15.5 Page 145

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
ông Trần Bình Khê, Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến huyện
Long Thành, tiếp tục hoạt động bí mật1.
2. Góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp
Trước tình hình đó, tháng 2.1952, Thường vụ Huyện ủy quyết
định phải đánh thắng một trận để mở thế cho phong trào kháng chiến
trong toàn huyện. Đồng chí Hai Xuất được giao nhiệm vụ nghiên
cứu vùng lộ 15. Đồng chí Sáu Thịnh nghiên cứu vùng Ông Kèo,
Xoài Minh. Đồng chí Hương (quân báo) nghiên cứu 2 xã Phú Thạnh,
Phước Lý.
Đội ngũ thực sự của địa phương lúc đó rất ít, tình hình chung căng
thẳng vì địch ruồng bố liên miên. Nhưng các đội viên du kích ở Xoài
Minh được sự phối hợp của người dân quyết định dùng lối đánh du
kích để tiêu diệt tên thiếu úy Ngọ của đám lính com măng đô đóng
tại bót Xoài Minh. Tên này thường xuyên rình mò, phục kích giết
hại nhiều cán bộ chiến sĩ cách mạng, đã vô cớ bắn giết nhiều thường
dân ở Xoài Minh nên ai cũng căm thù. Một đồng chí đội viên du
kích được phân công theo dõi tên thiếu úy Ngọ trong nhiều ngày,
nắm vững quy luật di chuyển của tên này sau đó giả làm người hái
điều núp trong khu rẫy điều, súng giấu trong thúng phía trên che lá
chuối. Khi tên thiếu úy Ngọ đi ngang, đồng chí đội viên du kích vờ
cắp thúng đến gần rồi bất thình lình rút súng nhắm ngay đầu hắn bóp
cò. Nhưng do súng cũ kỹ nên bị kẹt đạn, bóp cò 2 lần vẫn không nổ,
tên Ngọ vẫn còn sững người chưa kịp phản ứng thì đồng chí đội viên
1  Đồng chí Nguyễn Toàn Trung, tức Hồ Văn Phẩm, bị bệnh mất năm 1962 tại
Vĩnh Thanh; là cha của đồng chí Hồ Văn Nguyên, Bí thư xã Vĩnh Thanh giai
đoạn 1993-1995.
145

15.6 Page 146

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
du kích nhanh chân chạy vào rẫy điều tẩu thoát. Tuy kế hoạch tiêu
diệt tên thiếu úy Ngọ không thành công nhưng đã khiến các đội viên
du kích Phước Lý tự tin hơn, rút được kinh nghiệm trong cách đánh
du kích; bọn lính com măng đô, Việt gian từ đó cũng co vòi lại, bớt
hung hăng.
Trận đánh thứ hai của Đội du kích xã Phước Lý diễn ra sau đó
không lâu. Vận động được cơ sở binh vận trong Tua 8 ở Xoài Minh,
đội viên du kích Năm Thìn đem mìn đặt ở chân tường rồi điểm hỏa
đánh sập Tua 8 khiến cho 8 tên lính đóng ở đây bị chết 6 tên, bọn
lính ở Xoài Minh đều kinh hoàng, tưởng bộ đội chủ lực về đánh. Sau
trận này, địch phản ứng trả đũa dữ dội, từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều
chúng dùng 3 chiếc máy bay ném bom xuống khu vực Xoài Minh
làm cháy một số nhà dân, trong đó có nhà ông Cả Lãnh, làm chết 3
người, bị thương 1 người.
Trận đánh thứ ba của Đội là trận đánh Tua 2 ở Dốc Nhỏ, Bến
Đình. Rút kinh nghiệm trong công tác binh vận lần trước, lần này các
đội viên du kích vận động cô Hai Giỏi ở Xoài Minh. Cô Hai Giỏi là
người có cảm tình cách mạng, lấy chồng là Cai Chín, lính của địch.
Thông qua cô Hai Giỏi, các đội viên du kích lén đưa mìn vào đánh
sập Tua 2, còn thu được một số vũ khí. Một thời gian sau, địch phát
hiện cô Hai Giỏi là nội gián của ta nên lùng bắt, không bắt được cô
bọn chúng đã hèn hạ trả thù, bắn chết cha mẹ cô là ông bà Chín Bầu
rồi quăng xác xuống giếng ở Xoài Minh.
Trận thứ tư diễn ra ngày 30.4.1952. Trước đó, các đội viên du
kích nhận thấy có một số chị em nhà ở Giồng Sắn thường đi chợ
146

15.7 Page 147

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Phước Lý, trên đường đi phải ngang qua khu vực đập Mái Dầm, bọn
lính đóng ở đây thường ra chặn đường chọc ghẹo các chị em, giả vờ
khám xét để sàm sỡ, rất khó chịu. Đội du kích Phước Lý bàn bạc
với đồng chí Nguyễn Văn Thông1, tìm cách đánh bọn địch ở đây.
Sau mấy ngày điều nghiên, nắm quy luật đi lại của bón lính ở đây,
các đồng chí nhận thấy bọn chúng hàng ngày từ bót đi tuần tra rồi
về nghỉ chân ở đập Mái Dầm, nhân đó xét hỏi người qua lại. Đêm
29.4, đồng chí Hai Thông và các đội viên du kích Phước Lý đã chôn
sẵn 4 trái mìn ở nơi này rồi nằm phục cách đó khoảng 70m. Trời bắt
đầu sáng rõ mặt người, một tiểu đội lính từ bót nghểu nghến đi qua
đập, súng lăm lăm trong tay, mắt nghiêng ngó láo liên. Lúc này có
một số người dân đi chợ, đi làm sớm ngang qua nên các đội viên du
kích tiếp tục chờ. Một lúc sau, các cô gái Giồng Sắn đi chợ ngang
qua, bọn lính chặn lại buông lời tán tỉnh, chọc ghẹo rồi mới cho các
cô đi, còn bọn chúng tiếp tục ngồi nghỉ trên mặt đập. Thấy đường
vắng vẻ không có dân, các đồng chí đã giật mạnh dây kẽm, điểm hỏa
mìn. Mìn nổ, lửa nháng lên, khói bốc mù mịt mà không nghe tiếng
súng bắn trả, đoán bọn lính đã đền tội nên các đội viên du kích nhanh
chóng rút lui. Qua nắm tình hình sau đó, có 8 tên lính chết tại chỗ,
4 tên còn lại bị thương. Sau trận đánh này, tinh thần bọn địch hoang
mang còn quân dân ta rất phấn khởi.
1  Còn gọi là Hai Thông, sau này có giai đoạn là Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch,
là con của đồng chí Nguyễn Sanh Thành - cán bộ Huyện ủy Long Thành, lúc
này đang phụ trách công tác tại Phước Lý. Đồng chí Hai Thông tham gia cách
mạng từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
147

15.8 Page 148

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Ngày 6.7.1952, bộ đội Đô Lương (Huyện đội Long Thành) tổ
chức điều nghiên để đánh bót Xoài Minh. Tuy nhiên, trong lúc điều
nghiên Đại đội phó Đại đội Đô Lương là Nguyễn Văn Cớ 1 bị lọt
vòng kích, bị thương rồi hy sinh ở rừng Xoài Minh. Cũng trong năm
này, ông Năm Trú, người xã Vĩnh Thanh, tham gia kháng chiến là
bộ đội huyện Long Thành, bị bọn lính com măng đô phục kích bắn
bị thương ở bến Cao Cẳng, sau khi đánh đập, tra khảo chúng chặt
đầu ông đem về cắm thị uy ở nhà hội Xoài Minh, còn xác thì quăng
xuống sông Ông Kèo.
Vụ mùa 1952-1953, huyện chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh xây
dựng cơ sở các ấp, bảo vệ vụ mùa và vận động bà con đóng góp nuôi
quân. Phước Lý có bà Nhiều, vợ chồng Bảy Ngọt, ông bà Bảo, ông
bà Năm Lân, ông bà Hai Trí, mẹ Nguyễn Thị Bảy, mẹ Nguyễn Thị
Đặng, Trần Thị Tư... không chỉ hăng hái đóng góp tiền bạc, lúa gạo
cho kháng chiến mà còn vận động người dân tham gia. Bà con dân
nghèo Phước Lý dù khó khăn gian khổ, hi sinh mất mát vẫn luôn một
lòng một dạ theo cách mạng. Từ tháng 12.1952 đến tháng 2.1953
phong trào quần chúng lên cao, bà con tích cực góp phần hoàn thành
bảo vệ mùa màng, động viên thanh niên ra rừng xây lại đội du kích;
ủng hộ sáng kiến “bám dân xây dựng cơ sở”.
Ngày 20.10.1952 bắt đầu trận lũ lịch sử Nhâm Thìn ở Long
Thành. Lũ lụt xảy ra ở Biên Hòa sớm hơn hai, ba ngày. Cơn bão
1  Ông Nguyễn Văn Cớ quê ở miền Bắc, theo dòng người mộ phu cao su vào
làm công nhân ở sở Tân Tường, lấy vợ là bà Lê Thị Y, người xã Phú Hội. Hai
người có một con trai duy nhất là liệt sĩ Nguyễn Thanh Sơn. Bà Lê Thị Y được
Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng ngày 17.12.1994.
148

15.9 Page 149

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đi qua, nước rút cạn dần. Lúa đồng xanh lại, xuồng ghe đi lại bình
thường. Huyện ủy lãnh đạo thực hiện kế hoạch bảo vệ mùa màng
sắp tới, phân công cốt cán chịu trách nhiệm từng cánh đồng, chọn
địa điểm là các gò cao để ban đêm tập trung lúa thu lúc ban ngày. Số
lúa này giao cho đoàn vận chuyển của huyện chở đi. Lúa cánh đồng
nào chín tới đâu, bà con gặt tới đó. Ta vận động chủ ruộng giao nộp,
lúa để ở bờ, đến tối cán bộ và cơ sở mật vác xuống xuồng chở tới gò
hoang chọn trước, từ khuya tới gần sáng giao cho đoàn vận chuyển
khu III, trong đó có Phước Lý. Công tác bảo vệ mùa màng duy trì
trong gian khó, cuối vụ tổng kết huy động được hàng trăm ngàn giạ
lúa và hàng chục ngàn đồng (ở nơi thu lúa khó khăn, dân đóng tiền)
chở về huyện và tỉnh an toàn. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo năm đó,
số lúa của Nhơn Trạch đóng góp cho kháng chiến là thắng lợi to lớn
của đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng lãnh đạo. Hàng vạn
nông dân được giáo dục, phát động tư tưởng đã giác ngộ cách mạng,
có niềm tin vững chắc, đội ngũ cốt cán mật được tăng cường cả về
số và chất lượng.
Trưa ngày 17.11.1953 lính Cao Đài của Lê Thành Kham ở Phú
Thạnh phối hợp với bọn Việt gian ở kho đạn Thành Tuy Hạ mở cuộc
bao vây ấp Bến Cộ. Chúng bắt được đồng chí Nguyễn Sanh Thành
và các ông Đào Văn Bảo, Mai Văn Trí; dùng chày giã gạo, báng
súng đánh tới tấp những người sa vào tay chúng. Lúc này, đồng chí
Nguyễn Sanh Thành giữ nhiều chức vụ: Ủy viên thường vụ Huyện
ủy, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện, Trưởng đoàn chỉ đạo Khu III
gồm 4 xã: Phước Khánh, Phú Hữu, Phước Thành, Phước Lý. Chiều
ngày 17.11, địch đưa các đồng chí về giam ở kho đạn Thành Tuy Hạ.
149

15.10 Page 150

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Không khai thác được gì, chúng làm đủ trò chiêu hàng nhưng thất
bại, đành thả về tính kế rình bắt khi các đồng chí lãnh đạo liên lạc lại.
Trong năm 1953, trên phạm vi cả nước ta tiến công như vũ bão
và chiến thắng nở rộ khắp nơi: Liên khu V, miền Đông Nam Bộ, mở
màn trận Thượng Lào Điện Biên. Nhưng ở địa bàn Nhơn Trạch vẫn
còn không ít khó khăn. Ở xã Phước Lý, đồng chí Bí thư Chi bộ xã là
Lý Quỳ bị địch bắt, tra khảo không moi được tin tức chúng đã xử bắn
đồng chí. Một tổn thất khác là các đồng chí: Ba Danh, Lẫm, Tĩnh,
Hiếu trên đường đi công tác từ căn cứ vào đến khu vực Gò Ông Ba
Tới thì gặp lính com măng đô phục kích. Ba ông Lẫm, Tĩnh, Hiếu bị
bắn chết tại chỗ, ông Ba Danh bị thương nặng bò ra đến bờ sông nằm
một đêm, sáng sớm hôm sau mới gặp được ông Sáu Bật đi trễ cá và
được ông Sáu đưa về căn cứ.
Ngày 7.4.1954, Tiểu đoàn 300 của lực lượng vũ trang khi tổ chức
chống trận quét của quân Pháp đã tiêu diệt được tên quan ba Jolet
Suacot. Tin Suacot đền tội đã gây tiếng vang lớn, mang lại niềm vui
cho người dân Long Thành - Nhơn Trạch bởi những tội ác dã man
tên này đã gây ra cho nhân dân ta.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954, thực dân Pháp
phải tuyên bố thua trận, chấm dứt mộng tái chiếm và đặt ách đô hộ
ở nước ta. Ngày 20.7.1954, Hiệp định Genève về đình chiến ở Đông
Dương đã được ký kết, và sau đó ngày 1.8.1954, lệnh ngưng bắn
được thực hiện.
Tin Hiệp định Genève được ký kết tạo nên một không khí phấn
khởi to lớn trong toàn huyện. Ngay trong thời gian chưa có lệnh
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
ngưng bắn, đồng bào vẫn tìm mọi cách truyền nhau tin tức, báo chí
về nội dung Hiệp định. Các cuộc mít tinh mừng hòa bình, mừng
thắng lợi Hiệp định do các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức trong
các ấp xã vẫn được đông đảo đồng bào đến dự. Ở Rừng Sác, mỗi lần
tổ chức nói chuyện ngoài sông, chỉ cần giăng một tấm nilon, cắm cờ,
treo ảnh Bác và thắp ngọn đèn lên là ghe của đồng bào tấp nập đổ tới.
Binh lính địch được ban địch vận của ta thông qua cơ sở, đã gặp gỡ
tuyên truyền, gửi truyền đơn để họ nắm được nội dung Hiệp định, vì
thế nhiều người bỏ trốn về nhà làm ăn sinh sống.
Ở Xoài Minh và Ông Kèo, địch rút toàn bộ bót gác, đồng bào thở
phào nhẹ nhõm. Nhưng bất ngờ, ngày 19.7.1954, trước ngày ký kết
Hiệp định 1 ngày, bọn lính com măng đô phục kích bắn chết đồng
chí Đoàn Quang Minh, Bí thư xã Phước Lý, tại bến Cao Cẳng. Bọn
lính tàn ác đưa xác đồng chí về nhà hội Xoài Minh, tên Ba Phò là
lính com măng đô quê ở miền Tây, lấy vợ người Xoài Minh, đã chặt
đầu đồng chí Minh cắm vào cọc, dùng tăm tre chống cho hai mắt của
đồng chí mở ra, miệng còn nhét điếu thuốc lá. Mãi đến ngày hôm sau
bọn lính mới cho người dân đem xác đồng chí Minh chôn trên đất
nhà ông Ba Kiếm ở gần đó.
Kể từ trung tuần tháng 8.1954, thi hành Hiệp định Gienève, cán
bộ chiến sĩ Long Thành lần lượt chuyển sang vùng căn cứ Xuyên
Phước Cơ (Bà Rịa). Tại đây, sau khi được học tập, quán triệt tinh
thần Hiệp định, Huyện ủy đã chọn lọc một bộ phận cán bộ, đảng
viên từ huyện ủy viên trở xuống ở lại. Số anh em đi tập kết hầu hết
là thuộc lực lượng vũ trang huyện, xã.
151

16.2 Page 152

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Trong những ngày cuối tháng 8 và đầu tháng 9.1954, không khí
Long Thành nhộn nhịp. Các xã đều cử đoàn đại biểu mang theo quà
của nhân dân gửi tặng bộ đội. Hàng ngàn lượt đồng bào, bà con thân
nhân của cán bộ, chiến sĩ cũng tìm mọi cách sang Xuyên Phước Cơ
đưa tiễn con em quê hương mình lên đường tập kết.
Vĩnh Thanh có một số con em đi tập kết như Nguyễn Thành Út
(Trần Văn Thì), Trần Công Thìn (Hai Ty), Sáu Rỗ, Hai Thậm, Mười
Khuê, Bao Văn Cai, Hồ Văn Nguyên, Huỳnh Tự Giá... Một số đồng
chí nhận nhiệm vụ ở lại, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến cam go sau
này, như: Nguyễn Văn Bảy (Đức), Tư Dư...
***
Hưởng không khí độc lập tự do ngắn ngủi, quân dân Vĩnh Thanh
cũng như Nhơn Trạch - Long Thành lại tiếp tục sự nghiệp kháng
chiến chống sự tái chiếm Nam Bộ của thực dân Pháp. Với sức mạnh
của chính quyền non trẻ, tổ chức đảng còn mỏng manh, đảng viên
chưa nhiều, Vĩnh Thanh đã trường kỳ gian khổ tham gia kháng chiến,
tạo nhiều thành tích.
Giặc Pháp quyết tâm chiếm đóng Long Thành, xây dựng và phát
triển căn cứ Thành Tuy Hạ cùng hệ thống đồn bót để trấn áp, hòng
bao vây, chia cắt, tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Tổ chức đảng,
mặt trận đoàn thể và lực lượng quần chúng của Nhơn Trạch vẫn kiên
cường bám trụ ngay trong lòng địch cùng cả nước kháng chiến toàn
dân, góp phần tạo nên thắng lợi của Hiệp định Gienève năm 1954.
152

16.3 Page 153

▲back to top


Chương IV
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
I. TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẾN ĐẤU TRANH CHÍNH
TRỊ KẾT HỢP ĐẤU TRANH VŨ TRANG
1. Củng cố tổ chức đảng, đoàn thể
Hiệp định Genève ngày 20.7.1954 về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương là một thắng lợi lớn
của dân tộc Việt Nam. Theo tinh thần Hiệp định, thực dân Pháp phải
công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt
Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, tháng 7.1956
sẽ tiến hành hiệp thương và tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Với âm mưu xâm lược đất nước ta, tháng 7.1954 Mỹ đưa Ngô
Đình Diệm về nước lập chính phủ bù nhìn, xây dựng hệ thống chính
quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng có chủ trương mới. Tháng
10.1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập. Xứ ủy quyết định thành
lập Liên Tỉnh ủy miền Đông do đồng chí Phan Đức làm Bí thư. Xứ
ủy xác định quân thù chính hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai;
nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam là: Gìn giữ củng cố hòa
bình, tranh thủ thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, đấu tranh
chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève, tiến tới thực hiện thống
nhất, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; Xứ ủy
153

16.4 Page 154

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chủ trương: Động viên toàn thể nhân dân đấu tranh bắt buộc, nhân
dân phải đấu tranh bắt buộc đối phương phải thực hiện đúng đắn
Hiệp định đình chiến, thực hiện quyền tự do dân chủ, bộ máy chính
quyền của đối phương. Phương châm hành động cách mạng trong
tình hình mới: Phải nắm vững nguyên tắc bí mật, công khai và bán
công khai. Kết hợp công tác bí mật với công tác công khai. Cơ sở
bí mật là cơ sở căn bản của quần chúng để mở rộng phong trào(1).
Cuối năm 1954, để phù hợp với tình hình mới, Xứ ủy Nam Bộ và
Liên Tỉnh ủy miền Đông quyết định tách tỉnh Thủ Biên, lập lại hai
tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Thường vụ Liên Tỉnh ủy chỉ định
đồng chí Phạm Văn Thuận làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Văn Lũy,
Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa. Tỉnh Biên Hòa gồm thị xã Biên Hòa
và 5 huyện nông thôn. Tỉnh ủy Biên Hòa phân công các đồng chí chủ
chốt, trong đó đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) là Bí thư Huyện
ủy Long Thành.
Lực lượng cách mạng trong xã sau tập kết được củng cố, hầu hết
các xã trong tỉnh đều có đảng viên. Một số xã trong vùng căn cứ xây
dựng chi bộ có đến 20 - 30 đảng viên. Nhiều xã ở các huyện có chi
bộ từ 5 đến 10 đảng viên. Vùng yếu, thị xã, thị trấn có chi bộ từ 3
đến 5 đảng viên và có xã có đảng viên lẻ, có xã còn trắng. Các đoàn
thể cách mạng trong thời kỳ này chỉ còn lại tổ chức Đoàn Thanh niên
Lao động.
Sau khi ổn định xong bộ máy lãnh đạo các cấp, Tỉnh ủy Biên Hòa
lường trước âm mưu thâm độc của kẻ thù. Tỉnh ủy có nghị quyết quy
1  Báo cáo Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 10.1954.
154

16.5 Page 155

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
định tổ chức hoạt động của các cán bộ Đảng từ tỉnh, huyện, xã phải
thực hiện đúng nguyên tắc bí mật, công khai, bán công khai. Mỗi
cán bộ được bố trí công tác ở đâu đều phải tạo việc làm hợp pháp,
hòa mình trong dân, xây dựng cốt cán quần chúng, qua đó mà tuyên
truyền, vận động tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Xây dựng
các tổ chức công khai, bán công khai và lợi dụng tổ chức tự nhiên
đã có của quần chúng, đưa đảng viên vào nắm để tập hợp, lãnh đạo
quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, bảo vệ quyền lợi của
quần chúng.
Tỉnh ủy đề ra chủ trương đấu tranh cách mạng trong giai đoạn
mới: Các cán bộ bố trí ở lại phải bám trụ trong dân, tạo thế công khai
hợp pháp, dựa vào pháp lý của Hiệp định Genève để lãnh đạo quần
chúng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh dân chủ, đòi hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất đất nước; bảo vệ cán bộ, bảo vệ tính mạng và tài
sản, quyền lợi của nhân dân, chống chiến dịch bắt bớ khủng bố cán
bộ kháng chiến cũ (điều 14C Hiệp định). Tỉnh ủy chỉ đạo các cuộc
đấu tranh dù nhỏ hay lớn, đều phải tranh thủ lôi kéo gia đình binh sĩ
thành ngòi pháo trong các cuộc đấu tranh, đấu tranh phải có lý có lẽ
và đúng mực. Thời kỳ này, Tỉnh ủy chủ trương xây dựng người đưa
vào làm nội tuyến trong lòng địch, xây dựng chọn người đưa vào
làm tề (xã trưởng, ấp trưởng), đưa người vào dân vệ, bảo an, chủ lực
của địch1.
1  Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập
II, NXB Đồng Nai, 2000, tr 7 - 9.
155

16.6 Page 156

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Tại các xã vùng Thành Tuy Hạ, trong đó có Vĩnh Thanh, lính Pạc
ti săng1 đóng ở chợ rút đi thì lính Cao Đài thế vào, nhưng lính cũng
như dân, đi lại bình thường, không mang súng, không xét hỏi ai,
không hành quân càn quét. Hội đồng Hương chính coi như tê liệt.
Ngày 2.9.1954, đoàn cán bộ huyện Long Thành không đi tập kết,
từ Xuyên Mộc trở lại địa bàn huyện, được tổ chức học tập tình hình
mới, nhiệm vụ mới và nội dung Hiệp định Gienève. Lớp học tổ chức
tại huyện, thời gian 1 tuần, do các anh Tám Thạch, Sáu Phô hướng
dẫn. Học xong, học viên xã nào về lại bám dân xã đó, tập trung công
tác tuyên truyền, giải thích cho quần chúng tốt để vận động xây dựng
cơ sở cách mạng, chuẩn bị cho tổng tuyển cử. Số ở lại không nhiều,
Phước Lý có Nguyễn Văn Bảy (Đức), Tư Dư. Đồng chí Nguyễn Văn
Bảy sau này được đưa về công tác ở huyện, giữ nhiệm vụ Trưởng
ban quân nhu huyện.
Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về làm Thủ tướng Chính phủ bù
nhìn ngày 7.7.1954. Pháp bị hất cẳng khỏi miền Nam Việt Nam sau
khi Hiệp định Genève ký kết. Các phần tử thân Pháp lần lượt bị loại
bỏ khỏi các cấp chính quyền từ trung ương xuống cơ sở. Để thâu tóm
mọi quyền lực trong tay thủ tướng và gia đình, Ngô Đình Diệm một
mặt mua chuộc những ai có thể mua chuộc như Trịnh Minh Thế (Cao
Đài), Năm Lửa (Hòa Hảo), một mặt ra lệnh cho tay chân mở chiến
dịch Hoàng Diệu dẹp các giáo phái Bình Xuyên của Lê Văn Viễn,
Hòa Hảo của Ba Cụt, Cao Đài của Phạm Công Tắc... Địch ở kho đạn
1  Lính khố đỏ Nam Kỳ.
156

16.7 Page 157

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Thành Tuy Hạ bắt dân treo khẩu hiệu “Ủng hộ chính phủ quốc gia do
Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo”.
Từ đầu năm 1955 (Ất Mùi), Mỹ - Diệm bố trí đồng bào Công
giáo miền Bắc di cư đến định cư ở nhiều địa điểm thuộc huyện Long
Thành: thị trấn, ấp Tân Mai II, từ chợ Phước Lý đến cầu Ông Kèo.
Chính quyền Sài Gòn có ý đồ lập tuyến phòng thủ Đông Tây lộ 15,
lá chắn phía Đông - Đông Nam “thủ đô Việt Nam Cộng hòa” của chế
độ gia đình trị họ Ngô.
Ở Phước Lý, lúc đầu có khoảng hơn 3.000 dân theo đạo Thiên
Chúa vào định cư tại đây. Mùa Giáng sinh 1954 cả vùng Phước Lý
chỉ có một nhà thờ. Bà con nghèo khổ, đời sống lam lũ cơ cực. Phần
đông bà con di cư kéo lên rừng giồng chặt cây lấy củi, một số đốn tre
về chẻ, chuốt đóng giường tre đem bán ở chợ Phước Lý.
Thời điểm cuối năm 1954, lực lượng Bình Xuyên là một đội quân
ô hợp, đông người, nhiều súng nhưng thiếu kỷ luật, không mục đích
chính trị rõ ràng. Do lực lượng Bình Xuyên không tuân theo lệnh của
Ngô Đình Diệm nên bị chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung quân
đội quốc gia tấn công. Đầu tháng 5.1955, lực lượng Bình Xuyên
của Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) khoảng 4.000 người do yếu thế không
chống đỡ nổi trước sự tấn công của quân đội Ngô Đình Diệm nên bỏ
tổng hành dinh ở khu vực cầu chữ Y (Sài Gòn) là địa bàn hoạt động
lâu nay, chạy về Rừng Sác đóng giữ từ Phước Lý đến Vũng Gấm,
xã Phước An; tiểu đoàn 3 của Võ Văn Môn (Bảy Môn) cũng thuộc
lực lượng Bình Xuyên thì trấn giữ khu vực từ Phước Thọ đến Phước
An. Quân Bình Xuyên thực tế là bọn “thổ phỉ”, dựa vào vũ lực súng
157

16.8 Page 158

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
ống thường xuyên cướp phá, trấn lột, hoành hành ngang ngược, giết
hại những gia đình giàu có, khá giả và dân di cư. Tình hình an ninh
trật tự của huyện Long Thành mất ổn định khi lực lượng Bình Xuyên
tràn về. Nhiều người dân vô tội bị lính Bình Xuyên giết người cướp
của, ghe thuyền của dân chài bị cướp giật, nhiều người bị bắt đi làm
không công để xây dựng căn cứ cho quân Bình Xuyên. Thậm chí,
ở một số xã, quân đội Bình Xuyên đòi thành lập chính quyền riêng.
Đời sống của bà con Công giáo di cư ở Phước Lý rất khó khăn,
khốn khổ vì lực lượng vô tổ chức này. Đêm 30.6.1955, một toán
lính Bình Xuyên đột nhập khuôn viên Đan viện Thánh mẫu Khiết
Tâm Phước Lý (nay thuộc ấp Thành Công), uy hiếp Cha giám đốc
Nguyễn Văn Luận và khủng bố người trong đan viện, lục soát và
cướp tài sản của mọi người. Sau đó chúng đẩy Cha Nguyễn Văn
Luận đến bên cạnh phòng Cha Bề trên Stanislas Trương Đình Vang,
tập trung tất cả các cha, các thầy trong đan viện lại và dồn vào một
góc nhà. Một tên lính kề dao găm vào bụng cha Bề trên, yêu cầu giao
nộp tất cả tiền, vàng của đan viện. Cha Bề Trên Stanislas Trương
Đình Vang phải làm theo yêu cầu của bọn chúng để giữ tính mạng
cho mọi người trong đan viện. Sau khi cướp sạch tài sản, chúng bỏ đi
nhưng không quên đe dọa mọi người nếu tiết lộ sự việc sẽ bị chúng
giết chết 1.
Về tâm trạng của người dân kháng chiến, khi Cách mạng tháng
Tám thành công, tinh thần cán bộ cũng như phong trào quần chúng
bùng lên khí thế mạnh mẽ. Khi giặc Pháp tái chiếm, có một số người
dao động bỏ kháng chiến ra vùng tạm chiếm làm ăn, đa số cán bộ ta
1  Theo tư liệu của Đan viện Thánh mẫu Khiết Tâm.
158

16.9 Page 159

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
tạm lắng; nhưng khi phong trào lên, cơ sở được củng cố thì cán bộ,
quần chúng lại bùng dậy, tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Còn cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước khác hẳn, bắt đầu với tình hình
mới, phương pháp mới, nhiệm vụ mới, vô vàn khó khăn. Lòng dân
nhiều lo lắng, từ chỗ ta có chính quyền, đoàn thể, bộ đội, nay không
còn tổ chức nào, chỉ còn một vài cán bộ không vũ khí, không căn cứ
cách mạng, chỉ bám dân mà sống, đợi ngày tổng tuyển cử. Trong khi
đó phía chính quyền của Diệm được sự hà hơi tiếp sức của Mỹ, có
lực lượng quân đội đông đảo, giở đủ trò dụ dỗ, đủ kiểu tuyên truyền
đe dọa, đàn áp quyết diệt tận gốc Cộng sản. Trước tình hình ấy, cán
bộ ta ra sức tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu rõ tình hình và âm
mưu của địch, sinh hoạt theo tổ tam tam, dựa cơ sở tốt làm nòng cốt
mở rộng dần trong các xóm ấp. Cán bộ ta quen dần với nhiệm vụ
mới, vận động, hướng dẫn quần chúng dựa trên quyền lợi của mình
đấu tranh chống bắt dân vô tội, chống bắt lính, đòi thi hành Hiệp
định đình chiến - tổng tuyển cử; chống các trò tuyên truyền bầu cử
của Diệm. Bước đầu, phong trào cách mạng tổ chức được cơ sở làm
nhiệm vụ giao liên nối liên lạc giữa các xã với huyện và tỉnh.
Giữa tháng 5.1955, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh), Bí thư
Huyện ủy đưa các đồng chí Ba Thu (Ba Thuận, Phạm Văn Thuận),
Phó Bí thư Tỉnh ủy phụ trách binh vận tỉnh Biên Hòa và đồng chí
Nguyễn Duy Đán, cán bộ binh vận của Xứ ủy Nam Bộ về ở Bến Cộ.
Các đồng chí triển khai nhiệm vụ chi bộ Đảng lãnh đạo đấu tranh
chính trị, công tác xây dựng thực lực nói chung và công tác xây dựng
cơ sở trong lòng địch nói riêng; hướng dẫn cách đối phó với lực
lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn ở Rừng Sác.
159

16.10 Page 160

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Việc đối phó, chinh phục lực lượng Bình Xuyên là một quá trình
gian khó, do Ban Binh vận Xứ ủy chủ trương, Ban Binh vận tỉnh
Biên Hòa thực hiện1. Từ ngày 2.1.1955, đồng chí Nguyễn Trọng
Tâm nhận nhiệm vụ cán bộ binh vận của Xứ ủy Nam Bộ, phụ trách
công tác theo dõi, vận động Bình Xuyên.
Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm làm
việc với Tỉnh ủy Biên Hòa, trực tiếp đến Long Thành gặp đồng chí
Sáu Khánh (Bí thư Huyện ủy) và đồng chí Ba Lang (Phó Bí thư
Huyện ủy) truyền đạt chủ trương của Xứ ủy và Tỉnh ủy Biên Hòa,
bàn cách vận động Bình Xuyên. Huyện ủy Long Thành tạo thế hợp
pháp, giới thiệu đồng chí Nguyễn Trọng Tâm đến cơ sở, tiếp xúc với
đồng chí Tư Định ở xã Phước An và đồng chí Mười Thọ ở xã Phước
Thọ, trụ lại ở nhà ông Tư Trì (anh ruột đồng chí Mười Ánh Tuyết) ở
xã Phước Thọ. Nhiệm vụ của đồng chí Trọng Tâm là tuyên truyền,
giải thích để chi bộ và quần chúng nhân dân cơ sở nhận ra bản chất
của lực lượng Bình Xuyên, cùng vận động binh lính của Bình Xuyên
thôi cướp giết, đừng gây hại cho dân lành, dần đến với cách mạng,
giương súng bắn vào kẻ thù là chính quyền Ngô Đình Diệm. Lúc
ấy, cách mạng chưa có lực lượng vũ trang, chỉ có chính nghĩa và lý
lẽ, nắm được lực lượng vũ trang Bình Xuyên là việc rất khó nhưng
rất tốt.
Sau một thời gian ngắn, tình hình có chuyển biến. Quần chúng địa
phương từ chỗ cô lập binh lính Bình Xuyên trở thành thân thiện, lính
1  Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm, Anh hùng LLVTNDVN, cán
bộ binh vận Xứ ủy những năm 1955 - 1956; tài liệu do Ban Nghiên cứu lịch sử
Đảng tỉnh Đồng Nai ghi âm, văn bản hóa.
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Bình Xuyên cũng bớt bắn phá, bức hại dân lành. Qua quần chúng ở
cơ sở, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm tạo quan hệ với ông Ba Trưởng -
nguyên là một cán bộ kinh tài của tỉnh Bà Chợ, quê vợ ở Phước An,
không đi tập kết, làm nghề buôn bán củi, do bị chính quyền Diệm o
ép nên chạy theo Bình Xuyên, làm cố vấn chính trị cho tiểu đoàn 3
của Bảy Môn. Bảy Viễn cũng muốn qua Ba Trưởng liên lạc với cách
mạng. Sau lần trao đổi đầu tiên thông qua Ba Trưởng, phía Bình
Xuyên có yêu cầu tổ chức tiếp xúc trực tiếp giữa lãnh đạo hai bên
(Bình Xuyên và phía cách mạng). Đồng chí Sáu Khánh và bộ phận
công tác binh vận đồng ý tiếp xúc, ta lấy danh nghĩa của Mặt trận
Liên Việt Thủ Biên cho phù hợp với nội dung Hiệp định Genève;
mục đích của cuộc tiếp xúc là xem xét khả năng, tinh thần và ý muốn
của Bình Xuyên, thuyết phục Bình Xuyên nghiêng về cách mạng,
vận động Bình Xuyên thôi cướp phá bảo vệ dân; đối tượng vận động
chủ yếu là binh lính các cấp. Kế hoạch tiếp xúc được báo cáo Xứ ủy,
đồng chí Hai Văn phụ trách binh vận Xứ ủy nhất trí, lập đoàn tiếp
xúc gồm đồng chí Ba Thu (Phạm Văn Thuận), Sáu Khánh và đồng
chí Nguyễn Trọng Tâm.
Giữa tháng 6.1955, đoàn công tác theo ngã Phú Hữu, do đồng
chí Hai Thông (Nguyễn Văn Thông) dẫn đường, đến Phước Khánh,
trụ ở nhà đồng chí Sáu Lộc, Bí thư xã. Tại chi bộ Phước Khánh, các
đồng chí Ba Hống, Tám Đẹt, Mười Yên báo cáo tình hình lính Bảy
Viễn ở Rừng Sác về quấy nhiễu, buộc đồng bào vùng Chà Là, Rạch
Mương, Ông Thuộc, Ông Kèo, Xoài Minh phải cung cấp lương thực
cho chúng. Nhân dân Phước Khánh, Phước Lý rất lo sợ bọn thổ phỉ
này. Trong khi đó, chính quyền Ngô Đình Diệm cho từng tốp thám
161

17.2 Page 162

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
báo, mật vụ, điển hình là nhóm do tên Quởn ở Vườn Trúc cầm đầu,
giả đi làm rừng, đi săn cá sấu trên sông Ông Kèo nhưng thực tế là
“lót ổ” nhằm chuẩn bị cho Chiến dịch Hoàng Diệu do tướng Dương
Văn Minh chỉ huy, mục đích là tiêu diệt lực lượng Bình Xuyên của
Bảy Viễn. Nắm được tình hình, đoàn công tác chuẩn bị tiếp xúc với
đại diện Bình Xuyên.
Cuộc tiếp xúc diễn ra tại một địa điểm gần ngã ba đường làng xã
Phước Khánh. Đại diện bên cách mạng, đồng chí Ba Thu phân tích
âm mưu của Mỹ Diệm, cam kết sẽ vận động nhân dân hỗ trợ quân
Bình Xuyên mua nhu yếu phẩm, không báo với chính quyền Mỹ
Diệm về lực lượng và hoạt động của Bình Xuyên, đồng thời vận
động Bình Xuyên bảo vệ dân, cùng nhân dân chống Mỹ Diệm. Bên
phía Bình Xuyên gồm các chỉ huy của tiểu đoàn 3 của Bảy Môn,
đồng ý là sẽ bảo vệ dân, đề nghị tiếp theo tổ chức một cuộc tiếp xúc
nữa giữa đại diện Xứ ủy và Bảy Viễn, trong đó có nội dung muốn
giao cách mạng 1.000 khẩu súng (đã bị nhiễm nước mặn). Hai bên
nhất trí giao đồng chí Nguyễn Trọng Tâm trực tiếp liên hệ với tham
mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên là Tư Hiển và tiểu đoàn 3 của
Bảy Môn để chuẩn bị cho cuộc tiếp xúc cấp cao.
Sau cuộc tiếp xúc lần thứ nhất, tình hình có nhiều chuyển biến tốt,
quân Bình Xuyên bớt đánh phá trong dân; quan hệ giao tiếp, mua
bán, trao đổi với dân thiện cảm hơn, dân không tố giác Bình Xuyên
với chính quyền Diệm, giúp binh lính Bình Xuyên nhiều việc trong
sinh hoạt; chỉ huy Bình Xuyên lắng nghe ý kiến góp ý của đồng chí
Nguyễn Trọng Tâm về cách bố phòng, huấn luyện, quản lý vũ khí.
Ban binh vận Xứ ủy nhận định: Với tình hình này, Bình Xuyên muốn
162

17.3 Page 163

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
tồn tại chỉ có thể đi với cách mạng, nếu không sẽ tự tan rã hoặc bị
tiêu diệt.
Cuộc tiếp xúc lần 2 diễn ra vào tháng 9.1955 tại Rừng Sác. Xứ ủy
giao đồng chí Bảy Khánh (Ủy viên Thường vụ Liên Tỉnh ủy miền
Đông, phụ trách công tác binh vận) làm trưởng đoàn, thành viên
gồm có đồng chí Hai Đời, Ba Thu, Nguyễn Trọng Tâm. Bảy Viễn
đến đúng hẹn, không cho bọn đàn em Lại Hữu Tài, Lại Văn Sang
biết tin, niềm nở tiếp đoàn của Xứ ủy, khoe thư của Bác Hồ được hắn
trân trọng cất kỹ. Nội dung chính chưa bàn được mấy câu thì có tin
báo quân lực của Diệm tấn công vào Rừng Sác quyết tiêu diệt Bình
Xuyên. Bảy Viễn vội vàng rời cuộc tiếp xúc, về căn cứ để chỉ huy
kháng cự. Đoàn của Xứ ủy rút êm về hướng Phước Thọ, nhờ cơ sở ở
đây đưa ra khỏi vòng vây.
Cuộc tiếp xúc với Bảy Viễn bị gián đoạn, nhưng công tác dân vận
đạt được kết quả tốt đẹp, đã chinh phục được lực lượng Bình Xuyên,
đặc biệt là tiểu đoàn 3 của Bảy Môn. Trước tháng 7.1955, tiểu đoàn
3 của Bảy Môn (gồm 4 đại đội, khoảng 500 quân) đã được cơ sở trợ
giúp đánh bót Phước An, Phước Thọ khiến địch rút chạy. Cũng chính
tiểu đoàn 3 của Bảy Môn tiếp nhận nhóm phản chiến, hình thành
đơn vị bộ đội Châu Văn Phú, xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng
Bình Xuyên. Tháng 9.1955, lực lượng Bình Xuyên ở Rừng Sác bị
quân đội Ngô Đình Diệm đánh bại, Bảy Viễn đào tẩu sang Pháp, Bảy
Môn đưa tiểu đoàn 3 (lúc ấy còn khoảng 200 quân) tìm về Chiến khu
Đ, gia nhập vào quân đội giải phóng.
Nhân thời cơ này, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện
ủy Long Thành đã nhanh chóng nắm các đơn vị Bình Xuyên trước
163

17.4 Page 164

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đây có xu hướng ngả theo cách mạng. Bảy Môn cùng một nửa tiểu
đoàn 3 được các đồng chí Tư Thái, Mười Thọ dẫn đường vượt lộ 15
về căn cứ Suối Cả của tỉnh. Một bộ phận tàn quân khác cũng thuộc
tiểu đoàn 3 do Mười Đôi, Tư Đại chỉ huy chạy về núi Thị Vải được
Huyện ủy Long Thành nắm.
Quân Bình Xuyên tan rã, vũ khí vứt khắp nơi trong Rừng Sác.
Huyện ủy Long Thành chủ trương cho thu gom để sử dụng. Mặc dù
thời gian này quân đội chính quyền Diệm vẫn đang truy lùng trong
căn cứ Rừng Sác, nhưng lực lượng cách mạng đã thu gom được một
lượng vũ khí, khí tài lớn do lực lượng Bình Xuyên bỏ lại.
Chiều ngày 11.10.1955, tại Dốc Lớn (ấp Xoài Minh), lực lượng
vũ trang của ta dưới danh nghĩa là lính Bình Xuyên đã tổ chức phục
kích, tiêu diệt tên đại úy Lê Thành Kham, Đồn trưởng đồn lính Cao
Đài đóng ở xã Phú Thạnh, khiến người dân lâu nay bị tên ác ôn này
kềm kẹp, áp bức rất vui mừng.
Năm 1956, Huyện ủy chỉ thị: Cán bộ, đảng viên không được tham
gia học tố cộng và tổ chức vận động quần chúng tẩy chay tố cộng
bằng mọi hình thức. Dưới sự chỉ đạo của tỉnh, tháng 4.1956, Huyện
ủy thành lập Ban Binh vận, chủ trương tăng cường gài người vào
chính quyền ngụy để tạo thế lâu dài và trước mắt là hạn chế sự đánh
phá ở cơ sở.
Thực hiện chủ trương đó, các xã: Phú Hữu, Phước An, Bình Sơn,
Long Phước, Tam Phước, Long Tân đã đưa được một số cán bộ
kháng chiến cũ, đảng viên vào hội đồng xã, đưa thanh niên vào dân
vệ. Lực lượng này hoạt động ngay, phân hóa hàng ngũ của địch, lôi
164

17.5 Page 165

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
kéo những phần tử lừng chừng. Do đó, hoạt động tố cộng của địch ở
cấp xã không đều khắp và gắt gao như chúng muốn. Học chỉ có tính
hình thức, ai đi thì đi, không đi thì thôi. Trong khi đó các Hội ái hữu
vẫn hoạt động tạo được sự gắn bó trong quần chúng, bảo vệ được
cán bộ và cơ sở.
Đầu tháng 6.1956, đồng chí Sáu Phong, Phó Bí thư Huyện ủy đi
nhận Chỉ thị 4 HBC của Trung ương về. Nội dung chính của chỉ thị
này là điều lắng mai phục, đưa đảng viên vào quần chúng để bảo vệ
lực lượng và xây dựng cơ sở trong quần chúng.
Việc triển khai Chỉ thị 4 HBC ở Long Thành bước đầu có khó
khăn. Hầu hết cán bộ đảng viên đều lo lắng. Một số không muốn ra
vì sợ địch bắt. Tuy vậy, sau hai tháng quán triệt từ Huyện ủy tới cơ
sở, các cán bộ đảng viên vẫn chấp hành nghiêm chỉnh Chỉ thị của
Đảng, lần lượt ra dân tạo thế hợp pháp xây dựng phong trào. Chỉ
riêng cấp ủy huyện vẫn giữ bán công khai để nắm và chỉ đạo phong
trào toàn huyện.
Từ đầu tháng 12.1954, đồng chí Vũ Khánh (tức Vũ Hồng Phô)
được Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư Huyện ủy Long
Thành thay cho đồng chí Trần Bình Khê về Khu nhận nhiệm vụ mới.
Huyện ủy Long Thành đóng tại căn cứ Rừng Sác, có các đồng chí
Chín Hinh và Sáu Tưởng (người thuộc lòng địa bàn Phước Khánh)
làm công tác giao liên, bảo vệ. Lính đặc cảnh miền Đông và công an
địch thường giả dạng người làm củi, đánh bắt thủy sản trong khu vực
Rừng Sác để khai thác, nắm tin tức của cách mạng. Vì vậy, Huyện ủy
Long Thành phải thay đổi, di chuyển thường xuyên (trong vùng căn
165

17.6 Page 166

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
cứ) để bảo đảm bảo bí mật, bảo toàn lực lượng. Chiến sĩ chủ yếu là
ngủ ghe, còn cán bộ, đảng viên, cơ sở đến họp quy định chỉ cho gặp
ngoài căn cứ.
Tháng 1.1955, tại căn cứ Rừng Sác ở Phước Thọ, Hội nghị Ban
chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành được tổ chức. Hội nghị đánh
giá tình hình của địa phương và đề ra chủ trương: Tiếp tục tuyên
truyền thắng lợi của Hiệp định, vận động nhân dân tăng gia sản
xuất, xây dựng các tổ chức quần chúng hợp pháp; kiện toàn cơ sở
đảng ở tất cả các xã.
Huyện ủy phân công các đồng chí ủy viên về từng địa bàn chỉ đạo
trực tiếp, xây dựng phong trào đấu tranh, trong đó đồng chí Tư Lộc
được phân công về khu vực Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý, Phú
Thạnh.
Phong trào đưa dân về làng cũ được đẩy mạnh. Hàng trăm hecta
ruộng đất ven sông Đồng Nai, Đồng Môn thuộc xã Tam Phước, Tam
An, Long Điền, Long Tân bị bỏ hoang trong suốt những năm chiến
tranh giờ đây tấp nập người về canh tác. Nhiều hộ dân vốn nghi ngại
cất nhà ven lộ 17, lộ 19 giờ cũng dời cả xuống các khu vườn an tâm
sinh sống, làm ăn.
Ở Phước Lý, dân Công giáo di cư sau khi tạm cư một số nơi,
nhận định đây là vùng “đất lành chim đậu” nên về định cư ngày càng
nhiều, đến năm 1955 - 1956 có khoảng hơn 7.000 người di cư về đây
sinh sống, lập thành 8 giáo xứ, giáo điểm (sau này đều nâng thành
giáo xứ): Bắc Thần, Bắc Minh, Vĩnh Phước, Nghĩa Yên, Nghĩa Mỹ,
Nghĩa Hiệp, Đại Điền, Thiết Nham. Vì thế, Phước Lý cũng ngày
166

17.7 Page 167

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
càng đông đúc, nhộn nhịp hơn, không còn hoang vắng như trước kia.
Việc chính quyền Ngô Đình Diệm lấy đất của người dân địa
phương để lập trại đưa đồng bào di cư đến, kèm theo những chính
sách mị dân dành riêng cho dân Công giáo đã gây ra tâm lý bất mãn
trong lòng người dân địa phương. Thời đó, chính quyền Sài Gòn
không những dành cho dân Công giáo di cư nhiều ưu đãi như khoanh
vùng cấp đất, cấp đồ dùng, vật dụng, làm nhà, cho tự do khai phá
rừng giồng, rừng Sác, miễn một số thứ thuế... mà còn cố tình gây ra
sự đối xử khác biệt giữa lương - giáo như hàng tuần phát sữa bột,
bánh mì, đồ hộp cho dân Công giáo, nhận tại nhà thờ các ấp. Đây là
âm mưu thâm độc của địch nhằm tạo ra một vành đai bảo vệ những
khu vực quan trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm; đồng thời
tạo nên sự mâu thuẫn giữa người miền Nam với người miền Bắc,
chia rẽ tôn giáo, tín ngưỡng giữa Thiên chúa giáo và Phật giáo ở địa
phương, chia rẽ khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Trong thực tế, từ năm 1955 đến năm 1956 chính quyền Ngô Đình
Diệm cấp đất tại Vĩnh Thanh cho đồng bào Công giáo di cư dọc
theo lộ 19, nhưng lại phân bổ cứ 4 giáo xứ thành một cụm, 8 giáo xứ
thành 2 cụm nằm chặn 2 đầu của Vĩnh Thanh, ở giữa là 2 ấp cũ Ông
Kèo và Xoài Minh. Bên cạnh đó, từ cuối năm 1959, chính quyền Sài
Gòn ủi phá địa hình làm con đường sỏi đỏ từ ngã ba Phước Lai băng
ngang Lòng Chảo trổ ra gần cầu Vũng Gấm, Hang Nai. Âm mưu của
địch là xây dựng khu trù mật1 Hang Nai, để chia cắt địa bàn kháng
1  Hình thức tập trung dân vào khu kiểm soát ở miền Nam mà Mỹ Diệm học
kinh nghiệm từ Mã Lai.
167

17.8 Page 168

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chiến theo kiểu khoanh vùng “tát nước bắt cá”, lấy đây làm thí điểm
để lập thêm các ấp chiến lược khác, hòng đẩy lực lượng cách mạng
ra khỏi Lòng Chảo. Mục đích của chính quyền Ngô Đình Diệm khi
bố trí các giáo xứ nằm dọc theo lộ 19 ở Vĩnh Thanh là nhằm dùng
dân Công giáo di cư bảo vệ tuyến lộ huyết mạch từ Đại Phước đến
khu trù mật Hang Nai, ngăn chặn cũng như kiểm soát hướng ra vào
Chiến khu Phước An đồng thời kiềm chế dân 2 ấp Ông Kèo, Xoài
Minh vốn luôn hướng về cách mạng.
Dưới sự tuyên truyền, kích động nhằm gây chia rẽ lương - giáo
của chính quyền Ngô Đình Diệm, giữa bà con di cư và người dân
gốc Vĩnh Thanh luôn có sự ngăn cách. Người dân hai bên sống co
cụm trong khu vực của mình, gần như không giao tiếp hoặc nếu có
thì rất dè dặt. Khoảng năm 1960, đích thân Ngô Đình Diệm đã đến
Đan viện Thánh mẫu Khiết Tâm Phước Lý thăm hỏi, động viên, kêu
gọi các linh mục và giáo dân ở Vĩnh Thanh tiếp tục giữ vững tinh
thần “chống Cộng”. Để đón tiếp Ngô Đình Diệm, bọn địch ở Chi
khu Nhơn Trạch ngoài việc tăng cường lực lượng bảo vệ an ninh cho
“tổng thống”, còn ra lệnh ủi sạch đám ruộng lúa phía đối diện với
đan viện để lấy chỗ làm bãi đáp cho trực thăng chở “tổng thống” và
các tùy tùng.
Trong tình hình đó, Huyện ủy chủ trương xây dựng các tổ chức
quần chúng hợp pháp nhằm tập hợp lực lượng, tăng cường tuyên
truyền, giáo dục nhân dân và đấu tranh khi cần thiết. Các xã đều xuất
hiện hội đình, hội chùa, hội lương hữu, hội banh, mỗi hội đều có đảng
viên làm nòng cốt và thu hút hội viên. Đông nhất là các hội mang màu
sắc tín ngưỡng dân gian: “Nam quan”, “Nữ quan”, “Nữ Oa”.
168

17.9 Page 169

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Các cán bộ kháng chiến được đưa vào lãnh đạo các tổ chức quần
chúng để hướng dẫn hoạt động. Hội viên tùy hảo tâm, tài lực của
mình đóng góp tiền cho hội làm quỹ sinh hoạt. Hình thức vạn cày,
vạn cấy trong nông dân hay ca, kíp trong công nhân đã tạo nên sự
gắn bó, sự tương thân tương trợ trong hội viên giúp nhau tăng gia,
sản xuất. Các hội hoạt động công khai, nhưng bên trong ta đã bước
đầu hình thành các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông dân có Ban
cán sự, có đóng hội phí hàng tháng. Thông qua các hội đoàn quần
chúng, các chi bộ tập hợp được quần chúng, tuyên truyền làm thất
bại âm mưu gây mất đoàn kết của địch. Trong những buổi họp hội,
cán bộ, đảng viên lồng vào nội dung tuyên truyền thắng lợi Hiệp
định Genève, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở, giương cao khẩu
hiệu đấu tranh: “không được trả thù người kháng chiến cũ”, “Thực
hiện Điều 14C của Hiệp định”.
Ở Vĩnh Thanh, người dân tham gia hội đình (Ông Kèo) và hội
chùa (Xoài Minh), còn lại các giáo xứ bước đầu ta vẫn chưa tiếp cận,
thâm nhập được. Được các cán bộ cách mạng tuyên truyền, phân
tích tình hình thời cuộc, người dân Vĩnh Thanh nhận ra được bộ mặt
bán nước, tàn bạo, xảo trá của chính quyền Ngô Đình Diệm nên vẫn
hướng về cách mạng. Các mẹ, các chị Vĩnh Thanh vẫn âm thầm vận
động đóng góp, nuôi giấu, che chở cán bộ, nhiều lớp thanh niên Vĩnh
Thanh được giác ngộ, tiếp nối truyền thống cha anh thoát ly theo
kháng chiến để giải phóng dân tộc.
Năm 1956, địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu đánh vào phong
trào cách mạng miền Đông. Bọn chỉ điểm, do thám hoạt động mạnh.
Ở Vĩnh Thanh có tên trưởng ấp Ông Kèo, tên là Hạnh, còn gọi là Tư
169

17.10 Page 170

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Kỉnh, rất ác ôn, thường gây khó khăn cho những gia đình có người
tham gia kháng chiến cũ, gia đình có người đi tập kết và những gia
đình cảm tình cách mạng.
Tuy nhiên, phong trào cách mạng vẫn bám rễ được trong lòng
người dân Vĩnh Thanh, nhất là các gia đình có con, em, người thân
đi kháng chiến. Nhiệm vụ của các cán bộ hoạt động bí mật tại xã lúc
này là phải dựa vào quần chúng để làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo
dục, xây dựng và tập hợp quần chúng, trong đó cơ bản là các gia đình
nghèo, bị địch áp bức phải đi theo hoặc làm việc cho chúng để giác
ngộ họ theo cách mạng.
Tình hình chiến trường ở Nam Bộ từ giữa năm 1959 đã có hàng
loạt cuộc đấu tranh vũ trang như Minh Thạnh (Tây Ninh); Dầu Tiếng
(Thủ Dầu Một); Gò Quản Cung, Gò Măng Ða (Ðồng Tháp); Tà Lốc,
Tà Léc (Bình Ðịnh); Tam Ngân (Bình Thuận); Nóc Ông Tía, Trà
Bồng (Quảng Ngãi); Biên Hòa có trận đánh diệt Mỹ ở Nhà Xanh
ngày 7.7.1959. Long Thành đã có lực lượng vũ trang mang danh
nghĩa Bình Xuyên đánh nhiều trận diệt ác phá kìm. Thực tế và yêu
cầu chung của Nam Bộ là được chủ trương của Trung ương Đảng
chuyển sang giai đoạn mới được đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu
tranh chính trị.
2. Xác định phương thức đấu tranh mới: đấu tranh chính trị
kết hợp đấu tranh vũ trang
Tháng 1.1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp mở rộng lần
thứ 15, đã xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam,
vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng ở miền Nam; xác định
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở miền Nam và miền
Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Ngày 15.7.1959, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng được thông qua và phổ biến. Nghị quyết 15 xác định nhiệm vụ
cơ bản của cách mạng miền Nam là: Giải phóng miền Nam, trước
mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế
quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng
bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang; dự kiến xu hướng phát triển từ khởi
nghĩa của nhân dân tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Ðây
là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử đã đáp ứng đúng đòi hỏi của thực
tế, đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo đấu tranh cách
mạng, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển đi lên của cách mạng
miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng, phải chuyển hướng sang
đấu tranh vũ trang, là ngọn lửa thắp sáng cao trào đồng khởi trên quy
mô lớn ở Nam Bộ.
Nghị quyết đã được Đảng bộ và nhân dân miền Nam đón nhận với
niềm vui khôn tả, tinh thần mạnh mẽ và niềm tin chiến thắng. Tỉnh
ủy Biên Hòa nhanh chóng triển khai Nghị quyết trong toàn Đảng bộ.
Huyện ủy Long Thành tiếp nhận Nghị quyết với quyết tâm chính trị
cao, vừa phổ biến, học tập vừa triển khai các phương án lãnh đạo xây
dựng, phát triển lực lượng vũ trang trong tình hình mới.
Để hạn chế sự kềm kẹp của địch ở những vùng yếu, đồng thời hỗ
trợ cho phong trào thanh khiết ở các xã mạnh, Thường vụ Huyện ủy
171

18.2 Page 172

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Nhơn Trạch họp tại Xóm Hố (Phú Hội) phân tích tình hình và quyết
định: Phải cầm súng, phải chiến đấu; phân công cán bộ đi cơ sở triển
khai thực hiện Nghị quyết 15. Huyện ủy chủ trương đưa lực lượng
vũ trang tuyên truyền vào hoạt động. Thực hiện chỉ đạo của Huyện
ủy, đồng chí Võ Văn Lượng (Tư Định) về Phước An móc nối cơ sở
rút tân binh, đào vũ khí chôn giấu từ thời kỳ Bình Xuyên, xây dựng
lực lượng vũ trang đánh địch. Chủ trương xây dựng lực lượng du
kích để đấu tranh nhanh chóng được truyền về các xã.
Để triển khai Nghị quyết 15, Huyện ủy chia vùng và phân công
từng huyện ủy viên xuống phụ trách. Vùng I: các xã từ Phước
Nguyên, Tam An đến xã Tam Phước, Phước Tân là các đồng chí
Út Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba Tấn. Vùng II gồm các xã: từ Long An
đến Phước Thái là các đồng chí Ba Đông, Mười Thọ. Vùng III gồm
các xã: Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiển đến xã Phước An, Vĩnh
Thanh là đồng chí Tư Định. Vùng IV từ các xã: Long Tân, Phú
Thạnh đến xã Phước Khánh, do các đồng chí Nguyễn Văn Thông và
Nguyễn Văn Liềm phụ trách. Thời điểm này, đồng chí Nguyễn Văn
Liềm đã được điều về huyện, là cán bộ Huyện ủy Long Thành, phụ
trách địa bàn Phú Thạnh, Phước Lý và sở cao su Thành Tuy Hạ.
Ở Vĩnh Thanh, đồng chí Nguyễn Văn Liềm đã giáo dục, giác ngộ
một số thanh niên yêu nước ở 2 ấp Ông Kèo, Xoài Minh và ấp Phước
Lý (xã Đại Phước) như: Nguyễn Khắc Tòng (Sáu Thụ), Đặng Văn
Thì, Bao Văn Đăng, Nguyễn Văn Ro, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn
Văn Danh, Nguyễn Văn Bé, Hà Văn Phải, Mai Văn Lẹ, Nguyễn Văn
Minh (Tư Cước), Năm Cạo, Nguyễn Văn Lời, Cao Nam Tư, Triết...
tham gia hoạt động cách mạng. Đội du kích xã Vĩnh Thanh cũng
172

18.3 Page 173

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hình thành, do Nguyễn Văn Danh làm Xã đội trưởng, Nguyễn Văn
Minh (Tư Cước) làm Xã đội phó.
Ngày 23.12.1959, tại ấp Xoài Minh, các đồng chí Mười Xinh, Ba
Lệnh, Bảy Sang chỉ huy lực lượng du kích Phú Thạnh, Đại Phước
phục kích tiêu diệt tên cảnh sát Nghĩa; lực lượng du kích Vĩnh Thanh
có đồng chí Đặng Văn Thì (Năm Thì) tham gia. Nghĩa là dân Công
giáo di cư, sống ở giáo xứ Nghĩa Yên, làm cảnh sát ở xã Đại Phước
thay cho tên cảnh sát Ngân đổi đi nơi khác. Với ý thức hệ chống
Cộng điên cuồng, mới về Đại Phước chưa được một tháng tên Nghĩa
đã lùng sục và bắt bớ những người tham gia kháng chiến cũ; khủng
bố, tống tiền gia đình, người thân của họ. Nghĩa bố trí phục kích bắn
bị thương rồi bắt đồng chí Tám Chỉ, một cán bộ nằm vùng của ta
ở Đại Phước, đồng thời còn tuyên bố sẽ bắt cho được đồng chí Tư
Phương (Trương Văn Phương), một cán bộ cách mạng khác. Trước
sự hung hăng và nguy hiểm của cảnh sát Nghĩa, đồng chí Nguyễn
Văn Liềm chỉ đạo các đội du kích phối hợp tìm cách tiêu diệt tên này.
Sau nhiều ngày cử người điều nghiên, các đội viên du kích nắm
được quy luật hàng ngày khoảng từ 5 giờ đến 7 giờ sáng, tên Nghĩa
cùng với một tên tay chân khác thường đi chiếc xe máy màu vàng từ
giáo xứ Nghĩa Yên theo lộ 19 đi đến xã Đại Phước để làm việc. Nắm
được quy luật này, vào khoảng 3 giờ sáng ngày 23.12, các đội viên
du kích phục kích ở Xoài Minh, đoạn này nằm trên đường đi của tên
Nghĩa, bố trí đồng chí Năm Thì theo dõi trên mặt đường để làm ám
hiệu. Khoảng 6 giờ kém 10, thấy tên Nghĩa đi xe máy từ phía Nghĩa
Yên đến, Năm Thì ra hiệu cho các đội viên du kích khác rồi vác một
đoạn cây chuối đi ngược lại phía tên Nghĩa. Khi tên Nghĩa đến gần,
173

18.4 Page 174

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Năm Thì xuất kỳ bất ý dùng đoạn cây chuối xô cho xe máy của tên
Nghĩa ngã ra đường, 3 đội viên du kích Mười Xinh, Ba Lệnh, Bảy
Sang xông ra chém chết tên Nghĩa rồi lấy khẩu súng Rouleau1 của
hắn, cả nhóm rút an toàn về phía Rừng Sác.
Tin đồng khởi ở Bến Tre tháng 1.1960, chiến thắng Tua 2 ở Tây
Ninh (26.1.1960) mang đến cho quân dân Long Thành động lực to
lớn. Nhưng lúc này, Long Thành gặp nạn do Hà Tư (Bí thư Huyện ủy
Long Thành) đầu hàng, chỉ điểm địch lùng bắt, sát hại cán bộ đảng
viên, gần 300 cán bộ, nhân dân bị bắt, phần lớn cơ sở cách mạng bị
đánh phá đến tan rã. Hiểm họa do Hà Tư gây ra tai hại không kể xiết.
Ngày 9.9.1960, chính quyền Diệm tách quận Long Thành thành
2 quận: Long Thành và Nhơn Trạch2. Trụ sở quận lỵ Nhơn Trạch
xây dựng tại xã Phú Thạnh, ngoài chi khu Nhơn Trạch địch còn
xây dựng thêm một số căn cứ hành chính, quân sự khác. Cuối năm
1960, Huyện ủy Long Thành có chủ trương tách thành 2 huyện Long
Thành và Nhơn Trạch. Ban cán sự Huyện ủy Long Thành gồm: Bí
thư Vũ Hồng Phô, Phó Bí thư Út Dồ, các Ủy viên Thường vụ: Lương
Văn Tấn, Ba Đông (Võ Văn Đông), Nguyễn Thị Hồng, và một số ủy
viên khác. Ban cán sự Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: Bí thư Võ Văn
1  Súng Rouleau, là loại súng ngắn có hộp đạn kiểu ổ xoay, thông thường chứa
6 viên vì thế thường được gọi là súng lục, nhưng cũng có thiết kế sử dụng nhiều
đạn hơn. Đây là loại súng cá nhân, kích thước nhỏ, nhẹ, hộp đạn quay 6 lỗ (hoặc
5, 8, 10, 12), trong đó luôn có một ngăn chứa đạn ở vị trí đồng trục với nòng
súng. Súng có khả năng sát thương ở cự li ngắn, từ 25-70m.
2  Quận Nhơn Trạch gồm 14 xã: Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước
Lai, Phước Kiểng, Phú Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú
Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Long Tân.
174

18.5 Page 175

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Định, Phó Bí thư Nguyễn Văn Thông, hai Ủy viên Thường vụ Phạm
Minh Chính và Nguyễn Văn Liềm, các Huyện ủy viên Mười Thọ
(Trần Văn Thọ), Ba Vân (Nguyễn Thanh Vân), Nguyễn Văn Sơn.
Căn cứ Huyện ủy đặt tại rừng Xóm Hố, gần sở Ông Cố, xã Phú Hội.
Tại đây, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) đã thay mặt Tỉnh ủy
truyền đạt Nghị quyết 15 cho các đồng chí trong Ban Thường vụ
Huyện ủy Nhơn Trạch, mở ra phong trào kết hợp đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang nhằm củng cố lực lượng, chuẩn bị đồng khởi
trong thời gian tới.
Theo chỉ đạo của Khu, Tỉnh ủy chỉ định Huyện ủy Nhơn Trạch
phải xây dựng lực lượng vũ trang để kết hợp đấu tranh vũ trang
với chính trị, binh vận. Đầu năm 1960, Bộ chỉ huy Miền cử đồng
chí Huỳnh Văn Phú chỉ huy 12 chiến sĩ là con em Nhơn Trạch với
12 súng về tăng cường xây dựng vũ trang huyện. Đoàn đến căn cứ
Huyện ủy vào tháng 3.1960 (lúc đó Văn phòng Huyện ủy ở hào cao
su Phước Thọ - Phước An). Trước đó, Huyện ủy tổ chức được một số
thanh niên ở các xã, ấp để chuẩn bị cho việc lập đơn vị vũ trang. Từ
đó, lực lượng vũ trang đầu tiên của huyện ra đời có quân số 29 người,
hình thành trung đội vũ trang 19.5 (còn gọi là 195). Trong đó, đồng
chí Huỳnh Văn Phú - Chỉ huy trưởng; đồng chí Đoàn Danh Dự - Chỉ
huy phó; đồng chí Võ Văn Định - Bí thư Huyện ủy kiêm Chính trị
viên. Đơn vị tổ chức thành 3 tiểu đội.
Trong 2 năm 1960 - 1961, hoạt động của lực lượng 19.5 tạo nhiều
thắng lợi gây tiếng vang, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển
với ba mũi giáp công vũ trang, chính trị, binh vận; ba vùng tranh
chấp: Vùng mạnh, vùng yếu, vùng sâu/vùng xa. Qua đó, các cơ sở
175

18.6 Page 176

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nội tuyến và gia đình binh sĩ được hỗ trợ tinh thần, tăng thêm sức
mạnh trong 3 mũi giáp công thắng lợi. Sở trường của lực lượng 19.5
là vận dụng cách đánh thọc sâu vào vùng yếu, vùng sâu để lực lượng
vũ trang tiếp tục tuyên truyền tạo thế cho cơ sở quần chúng, cho du
kích, đẩy mạnh hoạt động. Thắng lợi của đơn vị 19.5 tạo phấn khởi,
niềm tin trong thanh niên. Đồng bào mừng vui hưởng ứng phong
trào vận động tòng quân, không chỉ đưa con em đi chiến đấu mà còn
ủng hộ gạo, tiền bạc nuôi quân.
Tháng 1.1961, Ban Chấp hành Huyện ủy Nhơn Trạch họp nhằm
kiểm điểm, ổn định tình hình tách huyện và phương hướng hoạt
động cả năm, bàn thảo xây dựng kế hoạch và phân công trực tiếp diệt
ác phá kìm mạnh mẽ hơn, giành quyền làm chủ rộng hơn ở các ấp xã,
kiến nghị về tổ chức lực lượng cán bộ an ninh cấp xã.
Tháng 7.1961, Đại đội 240 được thành lập với 40 cán bộ, chiến sĩ
lấy từ Đại đội 380 tỉnh Thủ Biên; do đồng chí Phạm Văn Thương làm
Đại đội trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Bảo làm Đại đội phó; đồng
chí Nguyễn Văn Bé làm Chính trị viên; cán bộ, chiến sĩ có 42 đồng
chí tổ chức làm hai trung đội thiếu, đóng quân và hoạt động trên địa
bàn khu Lòng Chảo huyện Nhơn Trạch; từ tháng 10.1972 phát triển
thành Tiểu đoàn 240. Từ khi hình thành đến khi phát triển, Tiểu đoàn
240 là lực lượng vũ trang nòng cốt huyện, bám trụ, cơ động trên các
chiến trường Long Thành - Nhơn Trạch, liên tục tiến công địch, phối
hợp cùng các đơn vị khác vũ trang tuyên truyền, diệt ác phá kìm, hỗ
trợ phong trào đấu tranh chính trị quần chúng; đánh địch, chống càn
bảo vệ căn cứ; đánh phá ấp chiến lược, phối hợp chủ lực tác chiến
trong các chiến dịch lớn; làm nòng cốt trong tiến công và nổi dậy
176

18.7 Page 177

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
giải phóng địa phương trong Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Nhiều thanh niên Vĩnh Thanh đã tòng quân và chiến đấu trong hàng
ngũ của C240, như: Nguyễn Văn Cam, Bùi Văn Lũy, Trần Văn Bảy...
Các xã vùng thuộc khu vực Lòng Chảo, nhất là Phước An, liên tục
diệt ác phá kìm. Địch bung ra càn quét, bình định các xã. Lực lượng
ta khá đông nhưng trang bị vũ khí không đủ. Do vậy cán bộ phải
bám vào ấp lãnh đạo cốt cán đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống
khủng bố, chống bắt lính, tiếp tục củng cố và phát triển cơ sở mật
trong ấp. Lực lượng lộ mỗi xã phát triển vũ khí thô sơ súng trường,
súng “ngựa trời”1, mìn, hố đinh, bàn chông. Căn cứ phải có hàng rào
chiến đấu bảo vệ, nếu địch vào thì tiêu hao, tiêu diệt. Mặt khác hạn
chế đi lại trên sông rạch tránh địch phục kích. Tất cả anh em cán bộ,
du kích các xã được quán triệt đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất
vũ khí thô sơ, lập hàng rào chiến đấu. Chỉ trong thời gian ngắn, các
đội du kích đã làm được súng ngựa trời, súng trường bắn từng viên
một mà tầm sát thương không thua kém súng địch bao nhiêu.
Tháng 11.1961, Tỉnh ủy điều đồng đồng chí Võ Văn Định về
làm Bí thư Huyện ủy Vĩnh Cửu, đồng chí Nguyễn Văn Thông thay
đồng chí Định làm Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch. Huyện ủy Nhơn
Trạch được sắp xếp củng cố: Nguyễn Văn Thông - Bí thư, Tư Liềm
(Nguyễn Văn Liềm) - Phó Bí thư thường trực, Phạm Minh Chính -
Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban binh vận; Hai Sơn (Nguyễn Văn
Sơn) - Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng. Các huyện ủy viên
bao gồm: Mười Thọ (Trần Văn Nhiệm), Ba Vân (Nguyễn Thanh
1  Súng “ngựa trời” là loại súng tự chế của quân dân miền Nam, có tầm bắn từ
10-15m, đạn được nhồi thêm mảnh kim loại, mảnh sành.
177

18.8 Page 178

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Vân), Bảy Bền (Nguyễn Văn Bền), Nguyễn Văn Quang, Nguyễn
Văn Sanh.
Cuối năm 1961, huyện cử đồng chí Nguyễn Văn Sanh (Hai Sanh),
Huyện ủy viên, nhận nhiệm vụ Bí thư Chi bộ xã Vĩnh Thanh. Đây
là lần đầu tiên từ sau năm 1954, Vĩnh Thanh chính thức có tổ chức
đảng. Năm 1962, đồng chí Nguyễn Văn Sanh giới thiệu, tổ chức kết
nạp đảng viên mới là Đặng Văn Thì (Năm Thì). Đồng chí Đặng Văn
Thì là người ở xã Phú Hữu, lấy vợ là người ấp Xoài Minh sau đó ở
lại nơi này lập nghiệp, được đồng chí Nguyễn Văn Liềm giác ngộ và
tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1959, có mặt trong nhiều trận
diệt ác phá kềm của xã Vĩnh Thanh và các xã lân cận, như trận đánh
tại ấp Xoài Minh diệt bọn lính Thành Tuy Hạ và cướp súng, trận diệt
cảnh sát Nghĩa, cảnh sát Tự thu 2 khẩu súng, trận diệt 2 tên biệt động
ở cù lao Ông Cồn lấy được 2 khẩu súng. Ngày 10.10.1961, trong một
trận đánh tiêu diệt 2 tên lính ở đồn Thành Tuy Hạ, đồng chí Năm Thì
bị lộ nên thoát ly theo cách mạng.
Trong trận đánh này, tuy đội du kích Vĩnh Thanh thắng lợi nhưng
không riêng gì đồng chí Năm Thì mà khá nhiều đồng chí, người dân
cảm tình cách mạng bị lộ, phải thoát ly. Lúc bấy giờ, chị Huỳnh Thị
The ở Xoài Minh là cán bộ phụ nữ xã Vĩnh Thanh hoạt động hợp
pháp, thường đi khắp nơi nên bọn lính đóng ở đồn Thành Tuy Hạ
nhiều tên biết chị do chị rất xinh đẹp, trong đó có 2 tên Rõ và Lắng,
lính thuộc tiểu đoàn 577 sư đoàn 10. Rõ và Lắng thường đến tận nhà
của chị The, ngồi cả buổi để tán tỉnh chị. Đội du kích Vĩnh Thanh
quyết định diệt 2 tên này. Hôm đó như thường lệ, Rõ và Lắng đến
nhà chị The ngồi chơi. Lúc này cha mẹ chị The đi làm ruộng không
178

18.9 Page 179

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
có ở nhà, trong nhà chỉ có chị và người em trai Huỳnh Công Châu
còn nhỏ. Các đội viên du kích cảnh giới bên ngoài, còn Năm Thì
và Mười Lanh mỗi người thủ một khẩu súng ập vào nhà. Năm Thì
cầm khẩu súng Rouleau “chiến lợi phẩm” trong trận diệt tên cảnh
sát Nghĩa, bắn một phát trúng tên Rõ khiến tên này gục xuống chết
ngay tại chỗ, viên đạn còn “xuyên táo” qua vai của tên Lắng khiến
hắn bị thương. Lắng vùng bỏ chạy ra ngoài, Năm Thì đuổi theo ra
đến đầu ngõ thì bắn bồi phát thứ 2 trúng lưng, Lắng té xuống đường
mương cạnh đó, giãy dụa vài cái thì nằm im. Tuy nhiên, lúc này có
một sự cố bất ngờ xảy ra, Mười Lanh được giao thủ khẩu súng tiểu
liên Mát 49, thường gọi là M49, nhưng do không quen sử dụng nên
Mười Lanh đã bắn ở chế độ tự động hết nguyên cả hộp đạn 32 viên.
Những người trong nhà hoảng hốt nằm rạp hết xuống sàn, còn vật
dụng trong nhà bị bắn bể nát, kể cả tường nhà cũng thủng lỗ chỗ vết
đạn. Tiếng súng quá lớn, quá nhiều đã đánh động bọn lính ở đồn
Xoài Minh, chúng kéo đến nhà của chị The đông nghẹt. Cả đội du
kích thoát an toàn, nhưng cha mẹ và bản thân chị The bị bọn lính bắt
đưa về đồn Thành Tuy Hạ. Vì chị The có người anh là Huỳnh Tự
Giác từng tham gia kháng chiến chống Pháp và sau đó đi tập kết nên
“tội càng thêm tội”, cả nhà bị chúng giam giữ, đánh đập. Chúng cũng
lùng bắt nhiều thanh niên Xoài Minh để tra khảo, tìm thông tin về đội
du kích, vì thế một số thanh niên đã thoát ly trong dịp này như: Năm
Thì (Đặng Văn Thì), Ba Kiếm (Nguyễn Văn Kiếm)1, Nguyễn Khắc
Bích (Năm Bích). Thanh niên Năm Vân là em vợ đồng chí Tư Dư, bị
1  Theo ông Huỳnh Công Châu, ông Nguyễn Văn Kiếm thoát ly theo cách
mạng, sau này ra chiêu hồi.
179

18.10 Page 180

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
bọn lính bắt đưa vào tìm căn cứ của đội du kích trong Rừng Sác, đến
khu vực bến Cao Cẳng bọn lính tức giận vì anh đưa đi lòng vòng mà
không tìm được căn cứ nên chúng đánh đập, kê súng vào miệng anh
rồi bắn, đạn trổ ra phía sau vỡ toang đầu.
Từ cuối năm 1959, ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhiều cán bộ,
chiến sĩ, cán bộ miền Nam tập kết đã xung phong tự nguyện, bí mật
vượt Trường Sơn vào Nam để chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu (còn
gọi là đi B). Trong năm 1960, nhiều đồng chí quê ở Vĩnh Thanh,
như: Hồ Văn Nguyên, Đặng Văn Đại1... cũng tham gia đi B, trở về
chiến đấu ở chiến trường miền Nam.
II. Phong trào phá ấp chiến lược
Tháng 4.1962, địch ráo riết thực hiện kế hoạch Staley Taylor.
Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương xây dựng ấp
chiến lược, xem đây là xương sống của chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt”. Tất cả các lực lượng của địch đều bung ra, vừa đánh phá phong
trào cách mạng, vừa xây dựng ấp chiến lược để “tát nước bắt cá”,
cách ly nhân dân ra khỏi phong trào cách mạng. Nhơn Trạch được
chọn là trọng điểm xây dựng ấp chiến lược của tỉnh lỵ Biên Hòa.
Ở quận Nhơn Trạch, địch chọn Phú Thạnh và Vĩnh Thanh (Nhơn
Thanh và Vĩnh Thạnh) làm “điểm” để xây dựng ấp chiến lược.
Tại Vĩnh Thanh, ở các ấp vùng lương lẫn vùng giáo, địch đều cho
xây dựng ấp chiến lược, ở các ấp di cư còn lập ấp chiến lược liên
1  Đồng chí Đặng Văn Đại đi B, vào chiến trường Tây Ninh, hy sinh tại đây
ngày 10.201969. Mẹ là Lê Thị Tư đã được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hoàn. Cũng trong đợt xây dựng ấp chiến lược này, chính quyền Sài
Gòn sáp nhập Quới Thạnh thành một ấp của xã Vĩnh Thạnh. Xung
quanh các ấp chiến lược, phía ngoài địch cho đào hào ngăn đột nhập,
cắm chông dưới đáy hào, bên trong thì trồng hàng hàng lớp lớp tre
gai dày đặc bít bùng, kế đến là những dãy cọc sắt với mấy lớp hàng
rào kẽm gai kiên cố, có gài mìn nhảy và lựu đạn, quanh ấp xây dựng
lũy có lỗ châu mai để bắn ra ngoài. Các ấp chiến lược chỉ có một
đường ra vào duy nhất, buổi tối cổng ra vào bị khóa. Mỗi ấp chiến
lược, địch lập một đội nhân dân tự vệ có trang bị vũ khí, súng ống
đầy đủ, người dân muốn ra vào ấp phải khai báo, xin phép và phải
chịu sự khám xét. Bộ máy tề xã, tề ấp và các tổ chức chính trị phản
động như thanh niên cộng hòa, phụ nữ liên đới gắn với mật vụ, chỉ
điểm kiểm soát dân gắt gao. Địch bắt dân học “quốc sách” ấp chiến
lược, làm xâu không công xây dựng ấp chiến lược. Đời sống người
dân Vĩnh Thanh vô cùng ngột ngạt1.
Ở Phú Thạnh, nơi địch đặt quận lỵ, toàn xã lúc ấy có 5 ấp, địch
chủ trương tát dân vào xây dựng thành 2 ấp kiểu mẫu. Đồng bào ở
đây chống lại bằng cách bỏ đi nơi khác, hoặc quyết ở lại giữ nhà giữ
vườn, ruộng. Ban ngày, địch gom dân vào, đến đêm bà con bảo nhau
phá rào trở về vườn cũ. Kế hoạch tát dân của địch ở đây bị thất bại.
Mặc dù xây dựng điểm chưa xong, địch vẫn tiến hành xây dựng một
loạt các ấp chiến lược ở các xã ven theo lộ 19 và lộ 17.
1  Ở ấp Quới Thạnh, vì bị xem là “ấp Việt cộng” nên địch tăng cường canh gác.
Đồng bào ra vào bị lục soát rất kỹ. Mỗi người đi làm chỉ được mang một phần
cơm. Địch qui định không nhà nào được dự trữ gạo, hàng tháng mỗi nhà chỉ
được chà lúa một lần với một số lượng nhất định do trưởng ấp kiểm soát. Ai đi
về hướng Vũng Gấm, Bàu Bông chừng 1km là bị bắn...
181

19.2 Page 182

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Để hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc xây dựng các ấp chiến lược,
địch rải quân đóng thành nhiều đồn bót ven theo các lộ 17, 19 và dọc
ven theo dòng sông Đồng Môn; xây dựng 2 bãi pháo 105 li tại Bến
Sắn thuộc xã Phước Thiền và 1 bãi pháo đặt ngay tại chi khu Nhơn
Trạch. Địch cũng tăng cường lực lượng bằng cách điều về đây 2 tiểu
đoàn và xây dựng thêm 4 trung đội địa phương. Bộ chỉ huy đặt tại
quận lỵ.
Tháng 5.1962, địch đã xây dựng xong hàng loạt ấp chiến lược liên
hoàn tại các xã Phú Thạnh, Vĩnh Thanh. Làm xong ở Vĩnh Thanh,
địch mở rộng gom tát dân các xã: Phú Hội, Phước An, Phước Thọ,
Phú Mỹ, Phước Thiền. Chúng vấp phải sự chống đối quyết liệt của
đông đảo nhân dân đấu tranh chống cào nhà, dồn dân vào ấp vì chẳng
ai thích cảnh cá chậu chim lồng. Địch ghép những người này vào
tội “theo Việt cộng kích động chống chính quyền”, bắt bớ, đánh đập
một số bà con. Bà Hai Sửu ở Phú Hội bị địch bắn chết. Ngay lập tức
chi bộ và cơ sở mật huy động hơn một ngàn dân Phú Hội, Phú Mỹ
khiêng xác bà Hai đi từ Phú Hội, Phú Mỹ đến Phước Thiền, khi qua
các đồn bót và trụ sở xã đều lớn tiếng tố cáo tội ác của giặc. Đoàn
người hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo bọn bắn giết dân”, “Phải trừng
trị bọn ác ôn”. Ngày hôm sau, nhân dân nhiều xã kéo đến gặp quận
trưởng Nhơn Trạch tố cáo bọn giết người, đòi bồi thường sinh mạng.
Địch hoảng sợ buộc phải nhận yêu sách.
Huyện ủy Nhơn Trạch được Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp
phải tích cực chống phá kế hoạch lập ấp chiến lược của Mỹ - Diệm.
Các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp bàn: nếu phá
ngay khi địch chưa xây dựng hoàn chỉnh thì ít khó khăn, tránh tổn
182

19.3 Page 183

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
thất. Cơ sở mật thông báo tin tức: địch gom dân vào ấp chiến lược,
số dân bị gom còn ít, bà con bất mãn nên làm chiếu lệ; bên ngoài ấp
chiến lược đào hào chữ A, quây bằng kẽm gai, có khúc hào đào xong,
có khúc dở dang chưa có rào; ban ngày lính canh gác, xét người ra
vào rất nghiêm ngặt, từ 6 giờ tối trở đi là có lệnh giới nghiêm, hàng
đêm đều có lính đi tuần tra; ở giữa ấp có nhà kho chứa cuốc xẻng...
Đồng chí Nguyễn Văn Liềm đã đột vào xã Phú Thạnh điều nghiên,
vạch phương án tác chiến. Lực lượng phá ấp chiến lược huy động
khoảng 100 cán bộ, đồng bào các xã: Phú Thạnh, Phước An, Phước
Thọ, Vĩnh Thanh (chủ yếu ở 3 ấp vùng lương là Quới Thạnh, Ông
Kèo và Xoài Minh), Phú Hội sẽ đồng loạt phá ấp chiến lược. Những
người tham gia phá ấp chiến lược bí mật chuẩn bị một cây dài chừng
5 mét làm cầu vượt hào. Một đêm cuối tháng 3.1962, ta ra quân. Lực
lượng vũ trang huyện 19.5 và du kích các xã triển khai đội hình bảo
vệ phía ngoài. Ban chỉ huy ra lệnh tiến công. Mọi người bắc cây làm
cầu vượt hào, vào phá các sườn nhà đang dựng, phá kho lấy dao rựa,
cuốc xẻng bang đất san lấp vài đoạn hào. Khoảng một giờ sau, lực
lượng ta rút lui an toàn. Bộ đội bắn vài loạt súng thị uy để bữa sau
dân bị gom có cớ đấu tranh không làm. Sáng ra, đồng bào thấy hàng
rào bị phá, càng thêm vững lòng tin vào cách mạng, bọn địch thì
ngán ngại. Đây là trận mở màn phá ấp chiến lược đầu tiên trong hai
huyện Long Thành, Nhơn Trạch.
Khu ủy miền Đông cử các đồng chí Hai Lực và Sáu Phát về kiểm
tra, đánh giá phong trào đấu tranh do Huyện ủy Nhơn Trạch lãnh
đạo có bước phát triển. Rõ ràng việc chống phá xây dựng ấp chiến
lược phải kết hợp cho được hai lực lượng bên trong và bên ngoài ấp;
183

19.4 Page 184

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
kết hợp được hoat động vũ trang với đấu tranh chính trị và sự góp
sức của đồng bào cơ sở bên trong ấp. Kế hoạch ấp chiến lược của
Mỹ - Diệm học tập kinh nghiệm chống cộng ở Malaysia nhưng thất
bại thảm hại ở Nam Bộ bởi chúng đầy tham vọng nhưng không hiểu
hết văn hóa đời sống của dân làng Nam Bộ: Yêu quê hương, bám đất
bám làng, kiên cường, bất khuất, sống chết bảo vệ từng gốc cây ngọn
cỏ vườn nhà. Có Đảng lãnh đạo, phẩm chất ấy càng trở nên mạnh
mẽ, bạo lực dồn dân vào ấp chiến lược không thể nào thành công.
Ngày 3.2.1962, Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch họp kiểm
điểm tình hình, phân tích sâu sắc đặc điểm chiến lược chiến tranh
đặc biệt của Mỹ Diệm, địa bàn và nhiệm vụ chiến lược của huyện
Nhơn Trạch. Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ quyết định một số vấn
đề quan trọng:
- Thứ nhất, toàn Đảng bộ, toàn dân và các lực lượng vũ trang
trên địa bàn huyện quán triệt sâu sắc đường lối vũ trang đi đôi chính
trị trên ba vùng chiến lược rừng núi - đồng bằng - đô thị, đánh địch
bằng ba mũi giáp công vũ trang - chính trị - binh vận. Ta tấn công
địch liên tục nhằm phá lỏng, phá rã tiến tới phá ấp chiến lược. Gắn
chặt việc phá ấp chiến lược với phát huy giành quyền làm chủ của
nhân dân, phát triển thực lực toàn diện cả bên trong xóm ấp lẫn
bên ngoài.
- Thứ hai, khẳng định huyện Nhơn Trạch là vị trí chiến lược đối
với ta cũng như đối với địch, cuộc chiến đấu dần dần ác liệt và lâu
dài như Nghị quyết 15 của Đảng đã nêu.
- Thứ ba, không ngừng kiện toàn, phát triển toàn diện “thế mới,
lực mới” của ta trên địa bàn huyện, góp phần cùng tỉnh không ngừng
184

19.5 Page 185

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
tạo thế mới, lực mới. Muốn đạt mục tiêu này, toàn Đảng bộ và các
lực lượng phải quyết tâm bám trụ địa bàn Lòng Chảo, bám trụ từng
ấp, xã.
- Thứ tư, thực hiện một số chủ trương cụ thể theo quan điểm nêu
trên và theo Nghị quyết của Tỉnh ủy: Phát động toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong huyện mở đợt đồng loạt phá ấp chiến lược. Chú trọng
thu toàn bộ cọc sắt, dây kẽm gai để xây dựng ô, ụ chiến đấu gắn với
phong trào “bao vây, uy hiếp đồn bót” ở các xã Phước An, Phước
Thọ, Phú Hội, Phước Thiền. Các cơ quan huyện, căn cứ du kích xã
tổ chức xây dựng hàng rào chiến đấu, phát triển mạnh hầm chông, hố
đinh, ụ chiến đấu để bảo vệ cơ quan, căn cứ của mình. Tăng cường
chỉ đạo củng cố công trường, sưu tầm bom đạn ở bãi hủy Bàu Sen để
sản xuất mìn gài, lựu đạn phục vụ công việc xây dựng ô, ụ hàng rào
chiến đấu của các cơ quan đơn vị. Tổ chức đào địa đạo từng cơ quan
và một số xã kết hợp với phát triển hầm bí mật trong các ấp vùng sâu
và ngoài địa hình. Thường vụ Huyện ủy tiến hành đào thí điểm địa
đạo. Bí thư Huyện ủy trực tiếp chịu trách nhiệm phác họa sơ đồ rồi
điều động một tiểu đội gồm đảng viên, đoàn viên đủ tiêu chuẩn chính
trị và sức khỏe chuyên đào địa đạo. Nội bộ tuyệt đối giữ bí mật.
- Thứ năm, ráo riết chuẩn bị Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch đúng ngày 19.5.1962.
Từ sau hội nghị, phong trào toàn huyện chuyển biến tích cực. Đầu
tháng 4.1962, các ấp chiến lược ở các xã dọc hai trục lộ 17 và 19 bị
phá đồng loạt. Tỉnh chỉ đạo huyện làm thí điểm ở hai nơi. Đồng chí
Võ Văn Lượng trực tiếp dẫn hàng trăm đồng bào các xã Phú Hội,
185

19.6 Page 186

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Long Tân phá ấp chiến lược cả về nội dung lẫn hình thức ở chi khu
Nhơn Trạch. Cùng đêm này, đồng chí Nguyễn Văn Thông tổ chức
hàng trăm bà con Phước An, Phước Thọ phá banh khu vực trù mật
Hang Nai. Tất cả số cọc sắt, dây kẽm gai được thu gom về xây ô, ụ
và căn cứ chiến đấu. Chi bộ Phước An do các đồng chí Mười Nhứt,
Năm Nguyện, Tám Ngời và Nguyễn Thị Hầu tổ chức đưa 48 hộ dân
bị gom vào khu trù mật Hang Nai trở về nơi ở cũ, xóa sổ hoàn toàn
trại tập trung - nhà tù trá hình này.
Phong trào phá nội dung và hình thức hàng chục ấp chiến lược rộ
lên liên tục ở cả những vùng sâu như Phú Hữu, Phước Khánh, Đại
Phước. Ta giáo dục cảnh cáo hàng chục tề ấp, xã, diệt một số ác ôn
như hai tên Rõ và Rực là cảnh sát chi khu Nhơn Trạch. Diệt ác, ta
phá được thế kềm kẹp của địch ở nhiều nơi, tạo phấn khởi lớn cho
đồng bào trong huyện.
Việc xây dựng ô, ụ, căn cứ chiến đấu từ huyện đến xã phát triển
mạnh ở các khu vực trọng điểm: nổng ven lộ Phú Hội, Bà Trường,
ấp chợ Phước An. Đây là mô hình chiến đấu sáng tạo ở địa bàn Nhơn
Trạch. Các đội du kích và nhân dân mấy xã trên bám ô, ụ chiến đấu
thường xuyên bao vây, vừa đẩy mạnh công tác binh vận, vừa bắn tỉa
các đồn Gò Cát (Phước An), đồn Phước Thọ, bót Phú Mỹ, đồn Phú
Hội kéo dài nhiều tháng.
Năm 1962, trên rút đồng chí Nguyễn Văn Sanh về huyện, phân
công Năm Hà (Nguyễn Văn Hà) về phụ trách Bí thư xã Vĩnh Thanh
thay cho đồng chí Hai Sanh.
186

19.7 Page 187

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ở Vĩnh Thanh, Đội du kích xã cũng tổ chức đánh địch thắng lợi.
Được sự phân công, chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Năm Hà, phụ
trách Bí thư xã, ngày 8.6.1962 (nhằm ngày 7.5 năm Nhâm Dần) đội
viên du kích Nguyễn Khắc Tòng sau nhiều ngày nhận nhiệm vụ điều
nghiên đã cùng với các chiến sĩ khác như: Nguyễn Văn Minh (Tư
Cước, Xã đội phó), Đặng Văn Thì (Năm Thì), Hà Văn Phải (Lực),
Năm Cạo, Triết1 tổ chức phục kích, diệt được 2 tên lính ở Xoài Minh,
thu được 1 khẩu súng tiểu liên Thompson mới tinh. Đây là chiến lợi
phẩm rất quý giá của đội du kích, vì lúc ấy cả đội mới có 4 khẩu
súng, gồm 1 khẩu Mát 49, 1 khẩu Rouleau và 2 khẩu súng trường
M16. Tuy nhiên, khi các đội viên du kích trên đường từ Xoài Minh
rút về bến Cao Cẳng, đến xẻo Rạch Dọp Lớn thì bị bọn lính đuổi
theo, bắn chết Hà Văn Phải (Lực). Hôm sau đợi tình hình yên ắng,
các đội viên du kích còn lại đã ra sông mò xác đồng chí Lực đưa về
chôn, nhưng sau này do địa hình thay đổi nên gia đình cùng đồng
đội không tìm được hài cốt của đồng chí. Sau trận đánh này, đồng
chí Nguyễn Khắc Tòng bị lộ nên tháng 9.1962 đồng chí thoát ly,
được trên rút về làm nhân viên công tác quân nhu của huyện. Ban
Quân nhu huyện bấy giờ đóng ở Đồng Ông Trúc, xã Phước An, do
đồng chí Nguyễn Văn Bảy (còn gọi là Đức, người Vĩnh Thanh) làm
Trưởng ban. Tại đây, ngày 24.3.1964, đồng chí Nguyễn Khắc Tòng
được Bí thư Ban Quân nhu huyện Nguyễn Văn Bảy giới thiệu và tổ
chức kết nạp Đảng.
Cũng trong năm 1962, Đội du kích Vĩnh Thanh tổ chức diệt tên
chỉ điểm Mười Thiêm. Tên này quê gốc ở huyện Cần Giuộc (tỉnh
1  Sống hợp pháp ở ấp Phước Lý, làm nghề thợ may.
187

19.8 Page 188

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Long An), lấy vợ người Vĩnh Thanh, về sinh sống ở ấp Ông Kèo,
thường hay rình mò chỉ điểm cán bộ ta. Các đội viên du kích xã mật
phục bắt được Mười Thiêm khi hắn đi canh đáy, sợ nếu bắn hắn sẽ
gây ồn ào nên buộc đá vào chân rồi đạp hắn xuống Rạch Dọp. Không
ngờ Mười Thiêm “lớn mạng”, giãy dụa bứt được dây trói bơi vào bờ.
Sống sót nhưng quá kinh hoảng, Mười Thiêm trốn về Cần Giuộc.
Mấy năm sau thấy tình hình êm ắng, nghĩ lực lượng cách mạng đã
“quên” nên Mười Thiêm quay trở lại Ông Kèo, “ăn quen bén mùi”
lại giở trò làm chỉ điểm, bị Đội du kích Vĩnh Thanh xử tử.
Tình hình ở Vĩnh Thanh thời điểm này khá ác liệt. Bọn ác ôn, chỉ
điểm tăng cường rình mò, phục kích khiến nhiều cán bộ, chiến sĩ của
xã bị hy sinh, lực lượng cách mạng bị tổn thất. Ngày 2.10.1962, Xã
đội phó Nguyễn Văn Minh (Tư Cước), du kích Nguyễn Văn Ro và
cán bộ binh vận Nguyễn Văn Tuấn trên đường đi công tác rơi vào
ổ phục kích của địch, hy sinh. Một số cán bộ xã cũng hy sinh trong
giai đoạn này, như: Trần Văn Ngọt, Đỗ Văn Xuân... Trong đó, trường
hợp hy sinh của du kích Đặng Văn Mừng khiến người dân Vĩnh
Thanh nhớ mãi. Trên đường đi công tác, đồng chí Mừng trúng phục
kích ở khu vực ngọn Nước Đổ (ấp Quới Thạnh), bị địch bắn gãy
chân té xuống sông, rồi bị bọn địch lôi lên bờ. Địch ra điều kiện, nếu
đồng chí đầu hàng sẽ được tha mạng, đưa về bệnh viện chữa chạy.
Đồng chí Mừng kiên quyết không đầu hàng giặc, hô to “Đả đảo quân
Mỹ ngụy cướp nước”. Chúng dùng báng súng đánh đồng chí Mừng
dã man, nhưng đồng chí vẫn hô khẩu hiệu đả đảo đến khi tắt thở.
Gia đình đồng chí Mừng ở Xoài Minh hay tin, đến xin xác đồng chí
188

19.9 Page 189

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đem về nhà nhưng địch không cho, năn nỉ mãi chúng mới đồng ý cho
gia đình tẩn liệm ngay tại chỗ, không được chôn trong nghĩa trang
của ấp mà phải chôn bên ngoài. Lúc tẩn liệm, gia đình thấy xương
ở phần ngực của đồng chí Mừng bị đánh gãy hết, cả người tím bầm
vì bị đánh.
Cùng với phong trào phá ấp chiến lược, xây dựng thế chiến đấu
trên chiến trường Lòng Chảo, Huyện ủy chỉ đạo gấp rút chuẩn bị Đại
hội Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện. Các chi bộ xã đều lập đoàn
đại biểu địa phương mình.
Sáng 18.5.1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện Nhơn
Trạch khai mạc, có gần 30 đoàn đại biểu xã, cơ quan, ban ngành với
250 đại biểu về dự. Đại hội diễn ra tại khu căn cứ cao su gần bìa
rừng Đồng Lớn ở Lòng Chảo. Đại hội xác định dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quân dân toàn huyện đoàn kết một lòng, quyết tâm góp phần
cùng quân dân cả nước đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ
tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại hội bầu Ủy
ban Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch gồm 10 người 1,
khuyết 2 vị trí sẽ bổ sung sau; trong đó ông Ngô Quang Thanh, đại
diện giới tư sản dân tộc, làm Chủ tịch Mặt trận (sau này ông làm Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tỉnh Biên Hòa).
Đại hội thông qua Lời kêu gọi toàn thể đồng bào trong huyện “vùng
lên liên tục phá toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch, giành
chính quyền, làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người sức của phục
vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng quê hương”.
1  Có tài liệu ghi 13 hoặc 11 vị nhưng chỉ kể tên được 10 vị.
189

19.10 Page 190

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Đêm 18 rạng 19.5, tại đồng Mu Rùa, xã Phước An, ta tổ chức
cuộc mít-tinh hàng ngàn đồng bào từ các xã về dự. Ủy ban Mặt trận
huyện ra mắt đồng bào, mọi người hoan nghênh sự thành công của
Đại hội và biểu thị quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Mặt trận.
Tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên nhằm đánh bại Chiến
tranh đặc biệt của Mỹ, các lực lượng vũ trang phối hợp dân quân,
du kích và quần chúng trên địa bàn Long Thành - Nhơn Trạch cùng
thực hiện chiến thuật “Bao, bó, tấn, lấp, diệt”, liên tục tấn công, liên
tục nổi dậy phá rã ấp chiến lược, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực
địch, khống chế bộ máy tề ấp xã, bức rút, bức hàng hàng chục đồn,
bót ở các xã cặp trục lộ 17, 19 huyện Nhơn Trạch; kết quả các đồn
bót ven quốc lộ 15, lộ 19, lộ 17 bị cô lập, ta mở rộng vùng giải phóng
rộng lớn ở các xã Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Phú Hội,
Phú Hữu...
Đầu mùa mưa 1962, văn phòng Huyện ủy dời về nhà mẹ Phan Thị
Mỵ ở ấp xóm Hố, xã Phú Hội. Thửa vườn nhà mẹ khá rộng kề bãi
đất dốc tre mọc dày đặc, được chọn để làm hầm bí mật. Hầm dài mấy
chục mét, ăn sâu dưới lòng đất, chui ngầm các bụi tre, có thể chịu
đựng đạn pháo 105 ly của địch, có sức chứa hàng chục lượt cán bộ.
Đào hầm bí mật ở đây thành công, Huyện ủy chỉ đạo nhân rộng
đào hầm bí mật ở các xã vùng kềm như Đại Phước, Phước Khánh,
các xã dọc trục đường 17 và vùng Lòng Chảo để cán bộ có thể bám
trụ mà công tác và chiến đấu. Chung quanh Lòng Chảo Nhơn Trạch
có hàng chục hầm bí mật lớn nhỏ, có hầm chứa được một bán đội,
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
chứa vũ khí, cất giấu tài liệu, cũng là nơi lực lượng ta xuất kích đánh
địch. Có nhiều hầm bí mật trong nhà dân, ở Bến Cộ (1 hầm), Cù
Lao (1 hầm), Phước Lý (5 hầm), cán bộ và du kích bám trụ ở đấy
bất ngờ trấn áp, trừng trị diệt ác, phá kìm, vận động nhân dân phá ấp
chiến lược.
Với 2 xã bị địch xếp loại là “vùng trắng” là Phú Thạnh và Vĩnh
Thanh, thì ở xã Phú Thạnh vẫn có hầm bí mật do dân đào để nuôi
giấu cán bộ như hầm bí mật ở vườn ông Tám Bình, ngụ ấp 2. Riêng
ở Vĩnh Thanh thì suốt 2 cuộc kháng chiến không có hầm bí mật
bởi địa thế đặc biệt của xã. Do Vĩnh Thanh giáp với vùng Rừng
Sác, rừng giồng rộng mênh mông, các cán bộ, chiến sĩ cách mạng
thường ở ngoài rừng, người dân Vĩnh Thanh nương dịp đi làm ruộng
hoặc đánh bắt thủy sản để tiếp tế, đóng góp (thường là tiền cho tiện
lợi), đưa tin cho cách mạng. Đồng chí Trương Văn Phương (Tư
Phương) khi hoạt động ở xã Vĩnh Thanh thường ở ngoài ruộng của
gia đình bà Nguyễn Thị Thể1, sau đó những người trong gia đình khi
đi làm ruộng thì tiếp tế cho đồng chí Tư Phương, hoặc đưa tin cho
cách mạng2.
Cách tiếp tế, đưa tin cũng rất sáng tạo, người dân hẹn trước với
“đường dây” về ngày giờ, địa điểm, sau đó cứ mang tiền, tin đến đặt
tại hộp thư bí mật ở trong rừng, hoặc ngoài ruộng sẽ có người đến
1  Bà Nguyễn Thị Thể là vợ của liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy, mẹ của đồng chí
Nguyễn Văn Thông.
2  Ở ấp Quới Thạnh, chị Ba Cụt, chị Hai Nối, chị Bảy Giã, anh Hai Song luôn
luôn vận động bà con góp tiền, gạo nuôi quân, tiếp tế cách mạng, nuôi giấu cán
bộ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
191

20.2 Page 192

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nhận 1. Cũng có khi người dân hẹn cán bộ đến tận nhà nhận tiếp tế,
đóng góp, thường là vào buổi tối, gõ cửa theo ám hiệu2. Tuy nhiên,
việc cán bộ, chiến sĩ từ rừng ra vào xã có nhiều nguy hiểm vì bọn
lính thường phục kích. Khoảng năm 1964, tên chỉ điểm Nguyễn Văn
Bầy (Năm Bầy) ở ấp Xoài Minh giả vờ hẹn bà Ba Thu3 là cán bộ
của huyện đến nhà để nhận tiền đóng góp cho cách mạng, nhưng
lại ngầm báo cho bọn lính ở đồn Xoài Minh (còn gọi là đồn Mười
Huỳnh, vì đồn xây dựng trên phần đất do ông Mười Huỳnh hiến).
Khi nữ đồng chí Ba Thu và một chiến sĩ đi cùng đến nhà Năm Bầy
thì lọt vào ổ phục kích, cả 2 người đều hy sinh. Một thời gian sau,
ta đã tổ chức tiêu diệt tên Năm Bầy tại nhà vì tên này rất nguy hiểm,
khi diệt tên này ta để lại bản án ghi rõ tội ác của y tại hiện trường để
người dân rõ nguyên nhân.
Cũng trong năm này, Xã đội trưởng Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn
Hữu (Tư Quê) bị chỉ điểm nên bị bắt. Bọn lính ác ôn tra tấn đồng chí
dã man, vừa đánh vừa nói: “Tao đánh cho mầy có về nhà muốn bốc
cứt ăn cũng không nổi”, sau đó địch đưa đồng chí giam giữ khắp các
nhà tù Long Thành, Biên Hòa, Chí Hòa. Năm 1974 đồng chí mới
được thả về nhưng đã bị bệnh rất nặng do bị tra tấn, chỉ còn nằm một
chỗ, đến năm 1976 đồng chí Nguyễn Văn Hữu qua đời.
1  Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Thông, ngụ ấp Thanh Minh, nguyên
Bí thư xã Vĩnh Thanh giai đoạn 1984-1987. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là
con của liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy, Trưởng Ban Quân nhu huyện Nhơn Trạch, hy
sinh ngày 13.3.1966.
2  Theo lời kể của bà Bạch Thị Sang, 85 tuổi, ngụ ấp Thanh Minh.
3  Là vợ của đồng chí Nguyễn Văn Xuân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
Nhơn Trạch.
192

20.3 Page 193

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Từ cuối tháng 6.1962, nhằm thống nhất việc lãnh đạo phong trào
vùng các đồn điền cao su, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định thành lập
Ban Cán sự Cao su trực thuộc tỉnh với nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu
tranh trong công nhân cao su. Ban Cán sự Cao su lãnh đạo các đồn
điền Trảng Bom, An Viễng, Bình Sơn, Đờ La, Thành Tuy Hạ. Bí
thư Ban Cán sự là đồng chí Nguyễn Thành A, đồng chí Huỳnh Thị
Phượng là Phó Bí thư.
Lúc này, địch bung ra càn quét mạnh các xã trong huyện Nhơn
Trạch. Lực lượng vũ trang 19.5 tuy khá đông, nhưng vũ khí trang bị
không đủ. Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương cán bộ phải bám dân
trong các ấp, lãnh đạo cơ sở cách mạng cốt cán đẩy mạnh phong trào
đấu tranh chống khủng bố.
Phong trào vận động bà con trở lại quê cũ làm ăn để củng cố,
xây dựng lực lượng được triển khai tốt, bà con ở vùng Cù Lao (Đại
Phước) dần dần phục hồi sản xuất, ổn định đời sống, trở thành cơ
sở của cách mạng. Từ cơ sở vững xây dựng thành phong trào mạnh,
nhiều tề xã ác gian bị tiêu diệt, cảnh cáo; giặc bớt hống hách với
đồng bào. Phong trào mạnh dần, lan dần từ Cù Lao đến Phước Lý,
Bến Cộ và nhiều nơi khác.
Xác định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến lâu
dài, gian khổ, mức độ ác liệt ngày càng tăng, cùng với nhân dân miền
Nam thành đồng Tổ quốc đang anh dũng chiến đấu, Ban Thường vụ
Huyện ủy Nhơn Trạch hạ quyết tâm bám trụ, đứng vững trong Lòng
Chảo. Xa rời Lòng Chảo, không bám vào dân, nhất định lực lượng
cách mạng Nhơn Trạch sẽ tổn thất lớn, không hoàn thành nhiệm vụ
Đảng giao.
193

20.4 Page 194

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Ban Thường vụ Huyện ủy cho lập đề án xây dựng địa đạo để bám
trụ trong lòng đất, lòng dân. Bắt đầu từ ngày 3.2.1962, địa đạo Nhơn
Trạch được khởi công. Đồng chí Mười Tâm (Lê Văn Tâm) được
giao làm đội trưởng chỉ huy 20 anh em thường xuyên tiến hành công
việc. Địa đạo có dạng chữ Chi (Z), mỗi đoạn dài 100 mét, cao 1,8
mét, bề ngang 0,8 mét. Từ mặt đất, cửa địa đạo sau thẳng đứng từ 5
đến 7 mét rồi mới đào ngang, đảm bảo pháo lớn hoặc bom loại nhỏ
của địch ném trúng địa đạo không bị sụp. Cửa địa đạo thường mở
ở gốc bụi tre, rễ tre chằng chịt giữ đất không sụt lở trong mùa mưa.
Để đảm bảo bí mật, khúc địa đạo đầu tiên đào ngay dưới rừng tre xã
Phước An.
Quanh địa đạo Lòng Chảo có các cơ quan Huyện ủy Nhơn Trạch.
Hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ, hàng chục đơn vị cấp trên, cấp dưới
bám trụ vùng Lòng Chảo Nhơn Trạch đều có dịp vào địa đạo này khi
địch đánh mạnh toàn vùng. Đầu năm 1963, văn phòng Huyện ủy và
nhiều ban, ngành, đoàn thể chuyển tới làm việc trong địa đạo. Ngày
7.1.1966 lính Mỹ càn vào căn cứ Huyện ủy, cán bộ Huyện ủy rút
xuống hầm an toàn. Ngày 8.1.1966, bom Mỹ đánh sập xương sống
địa đạo. Địa đạo tiếp tục được triển khai. Đến giữa năm 1967, đường
xương sống địa đạo đã dài khoảng 1.500 mét, có thể chứa ba, bốn
trăm cán bộ chiến sĩ trong nhiều ngày. Huyện ủy dự định nếu chiến
tranh kéo dài, hệ thống địa đạo sẽ phát triển nhiều kilômét, nối liền
nhiều xã, như hệ thống địa đạo Củ Chi.
Ngày 2.11.1963, cả hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu
bị quân đội Sài Gòn đảo chính giết chết. Sau đó chưa đầy một tháng,
tổng thống của nước Mỹ là Kennedy cũng bị ám sát chết. Mỹ và chế
194

20.5 Page 195

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
độ Sài Gòn lâm vào cảnh rối ren, giành giật ngôi vị, binh lính khắp
nơi hoang mang, rệu rã.
Trong những năm 1963-1965, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy
Biên Hòa, Đảng bộ huyện Nhơn Trạch liên tiếp mở các đợt phát
động nông dân nhằm nâng cao giác ngộ cách mạng cho đội quân
chủ lực của công cuộc giải phóng dân tộc. Huyện ủy dồn sức tổ chức
học tập cho bà con mấy xã trọng điểm: Phước Thiền, Phú Mỹ, Phú
Hội, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy,
chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng bước vào giai đoạn ác liệt nhất; trực tiếp
đối đầu với lính Mỹ và chư hầu trong chiến lược chiến tranh cục bộ.
Ở những xã vùng sâu còn bị kềm kẹp nặng, cán bộ các đoàn thể
mặt trận, thanh niên, phụ nữ được cử xuống ấp, xã móc ráp các nòng
cốt cơ sở, tổ chức lớp học gọn nhỏ. Sau đó số này về triển khai trong
nhóm xâu chuỗi. Dù không học quy mô do thời gian ngắn song số cơ
sở cốt cán ở xóm ấp đã nắm được cốt lõi chủ trương, đường lối, yêu
cầu của đợt phát động nông dân. Hầu hết hội viên các ban ngành và
đoàn thể thanh niên, phụ nữ, binh vận, an ninh đã phát động sâu rộng
trong nhân dân, kể cả người dân trong ấp chiến lược (trừ một số ấp
di cư ở xã Vĩnh Thanh).
Đầu năm 1964, phụ trách Bí thư xã Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn
Hà (Năm Hà) được rút về huyện, công tác ở Công an huyện1; đồng
chí Nguyễn Khắc Bích (Năm Bích, còn có bí danh là Bảy Sanh) thay
thế làm Bí thư xã.
1  Nguyễn Văn Hà sau khi về huyện một thời gian, giữ nhiệm vụ Phó Bí thư
huyện ủy kiêm Trưởng Công an huyện, nhưng sau đó ra chiêu hồi, gây nhiều
tổn thất cho phong trào cách mạng địa phương.
195

20.6 Page 196

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Ngày 10.4.1964, đoàn cán bộ gồm: Bí thư xã Năm Bích, Phó Chủ
tịch xã phụ trách kinh tài Nguyễn Văn Bảy, Tư Dự, Tám Tòng, Tư
Tuân đi tuyên truyền và nắm tình hình, về đến Bến Đình thì trúng
phục kích của bọn lính do tên Đội Xuân cầm đầu. Đội Xuân là người
ở giáo xứ Nghĩa Mỹ, dân Công giáo di cư rất sùng đạo và căm thù
“Việt cộng”, làm Trung đội trưởng nghĩa quân và là ác ôn có tiếng,
thường ráo riết lùng bắt cán bộ cũng như người dân cảm tình cách
mạng. Khi phát hiện lọt vào ổ phục kích, đoàn cán bộ vừa bắn trả vừa
tìm cách rút lui, nhưng trên đường rút đồng chí Nguyễn Văn Bảy bị
Đội Xuân bắn chết.
Một phong trào được phát động mạnh mẽ: Phục vụ Chiến dịch
Bình Giã. Hàng trăm nam nữ thanh niên Nhơn Trạch, trong đó có
Vĩnh Thanh hăng hái tham gia du kích, xung phong tòng quân giết
giặc, dân công tải đạn ra chiến trường. Ngày 2.12.1964, Chiến dịch
Bình Giã mở màn. Bộ Tư lệnh Quân khu giao nhiệm vụ cho Đại đội
240 cùng Tiểu đoàn 800 của Quân khu chận viện trên quốc lộ 15
(nay là quốc lộ 51), đánh tất cả các đơn vị quân địch từ Biên Hòa
xuống chi viện cho Bình Giã - Bà Rịa. Đại đội 240 cùng Tiểu đoàn
800 đã kiên cường bám trụ liên tục đánh viện binh địch, có trận đánh
từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Bom pháo của địch đánh phá vào trận
địa ta ác liệt liên tục 2 tháng từ khi chiến dịch mở ra cho đến ngày
3.1.1965. Chiến dịch Bình Giã thắng lợi vang dội, đánh dấu sự thất
bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy.
Trong phong trào đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến,
có biết bao gương bà mẹ kiên cường, bám trụ xóm làng, bảo vệ cán
196

20.7 Page 197

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bộ chiến sĩ như mẹ Nguyễn Thị Dương, mẹ Trương Thị Liễu, mẹ
Hai Bông ở Bến Cam (Phước Thiền); mẹ Hai Phấn, mẹ Phan Thị Ớn,
mẹ Phan Thị Mỵ ở Phú Hội; mẹ Ba, mẹ Nguyễn Thị Hầu ở Phước
An, mẹ Lưu Thị Thương ở Phước Thọ, mẹ Huỳnh Thị Giác ở Phước
Long; mẹ Nguyễn Thị Đặng, mẹ Lê Thị Tư, mẹ Nguyễn Thị Kiều,
bà Nguyễn Thị Thể1 ở Vĩnh Thanh.
Phong trào thanh niên xung phong tòng quân và đi làm nghĩa vụ
dân công lên cao, rầm rộ, sôi nổi, điển hình là hai huyện Long Thành,
Nhơn Trạch. Hàng ngàn thanh niên đi bộ đội giải phóng hoặc tham
gia du kích địa phương, hàng ngàn lượt thanh niên, công nhân, nông
dân công tải vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến trường.
Các thanh niên Vĩnh Thanh cũng sôi nổi thoát ly kháng chiến, như:
Trần Văn Bảy, Nguyễn Văn Cam, Bùi Văn Lũy vào C240; Trần
Hoài Lâm là tiểu đội trưởng du kích xã Đại Phước, Nguyễn Văn Bé
tham gia du kích xã Phước An; Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Văn Cẩu là
Thượng sĩ, chiến sĩ Đoàn 10 Đặc công; Huỳnh Công Thành là Thiếu
úy thuộc Huyện đội Long Thành... Nhiều gia đình có các anh chị em
đều tham gia hoạt động cách mạng, như: Đỗ Văn Huỳnh, Đỗ Văn
Tư, Đỗ Văn Đệ; Trần Văn Bảy, Trần Hoài Lâm...
Ở những ấp xã vùng sâu, địch ra sức khủng bố, kìm kẹp gắt gao
những gia đình có người thân đi kháng chiến; phục kích bắn giết cán
bộ, chiến sĩ cách mạng. Năm 1964, đồng chí Đỗ Văn Trung là Bí thư
chi bộ mật ấp Xoài Minh, do đồng chí bị thương, cụt một chân nên
1  Bà Nguyễn Thị Thể là vợ của liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy (Đức), mẹ của đồng
chí Nguyễn Văn Thông, Quyền Bí thư xã Vĩnh Thanh năm 1998.
197

20.8 Page 198

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
bọn địch không nghi ngờ, vì thế được bố trí hoạt động trong ấp. Do
bị chỉ điểm nên khi đồng chí về thăm nhà thì bị 2 tên ác ôn là Sanh và
Sáu Đối bắt, đánh đập ngay trước cửa nhà rồi sau đó bắn chết, không
cho người thân lấy xác. Mãi đến chiều tối, ông Nguyễn Văn Tám
(tự Cày) ở gần nhà đến năn nỉ trưởng ấp mới đưa được xác đồng chí
Trung về chôn cất. Ngày 19.2.1965, vừa mới qua cái tết Ất Tỵ, hai
đồng chí du kích Trần Văn Quận và Trần Văn Vân từ căn cứ ngoài
Rừng Sác vào ấp Ông Kèo để lấy lương thực thì bị trúng phục kích
của bọn lính ở ngọn Rạch Sâu. Đồng chí Quận hy sinh ngay tại chỗ,
còn đồng chí Vân trúng đạn gãy chân, bị thương nặng, cố lết ra rừng.
3 ngày sau người dân trong ấp đi rừng lấy củi mới phát hiện thi thể
đồng chí Vân. Một số cán bộ xã cũng hy sinh trong thời gian này,
như: Trần Văn Tư, Hồ Văn Minh...
Mùa khô 1965, quân đội Mỹ tham chiến ở miền Nam Việt Nam.
Ta bắt đầu đối diện trực tiếp với quân ngoại xâm. Thực hiện chủ
trương của Huyện ủy, lực lượng vũ trang huyện, tỉnh và du kích xã
tìm cách tổ chức đánh địch, chống càn. Đầu năm 1966, lính Mỹ mở
đợt càn vào ấp xóm Hố, Phú Hội, đi đến đâu đốt phá, bắn giết đến
đấy. Các du kích xã Phú Hội là đồng chí Đức Thắng (xã đội trưởng),
đồng chí Hai Lực (xã đội phó) cùng 6 chiến sĩ C240 tổ chức phục
kích đánh địch, diệt và làm bị thương 50 lính Mỹ. Đó là trận đầu tiên
lực lượng đầu tiên đánh thắng và diệt được nhiều lính chính quy của
quân đội Mỹ1.
1  Theo lời kể của đồng chí Hồ Minh Lực, nguyên Xã đội phó Phú Hội.
198

20.9 Page 199

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Tháng 6.1966, một trung đội Mỹ mở đường từ Bàu Điều đến
Phước Lai. Bộ đội C240 cùng du kích Phước Lai chọn đoạn đường
gần xã Phước Lai, đặt mìn ĐH10 phục kích. Lính Mỹ lọt vào trận
địa, mìn và súng cùng nổ, sau 10 phút, 15 lính Mỹ bị diệt, trận đánh
thắng lợi nhanh gọn, thu được 8 súng. Trận đánh chứng tỏ lực lượng
vũ trang địa phương đã trưởng thành, đủ sức đánh thắng giặc sát
ngay bên căn cứ giặc. Thời gian sau đó, quân dân Nhơn Trạch tiếp
tục thắng nhiều trận đánh chống Mỹ - ngụy càn quét, ruồng bố.
Đội du kích xã Vĩnh Thanh cũng góp phần diệt ác phá kềm. Tại
khu vực Ông Kèo có tên Trưởng ấp Hạnh (Tư Kỉnh) nhiều năm
nay thường xuyên áp bức những gia đình có người đi kháng chiến
cũ, người thân thoát ly theo cách mạng, rình mò, chỉ điểm cho bọn
lính bắt bớ, giết hại cán bộ, chiến sĩ của ta. Thời điểm đó đời sống
người dân Ông Kèo rất khó khăn, làm ruộng rẫy không đủ ăn, nhiều
người phải suốt ngày lặn lội với nghề hạ bạc, chài lưới xúc tôm cá
kiếm thêm trang trải cuộc sống nhưng tên trưởng ấp Hạnh luôn tìm
cách gây khó dễ, bắt những người mà hắn gọi là “tình nghi” phải tự
dỡ cơm lên đồn ngồi cả ngày để hạch hỏi, hoạnh họe. Hắn còn chặn
đường những người đi làm đồng, chài lưới, bảo “Tôi biết mấy người
giả bộ đi làm ăn, thiệt ra là tìm cách tiếp tế, đưa tin cho Việt cộng,
nhưng tôi không sợ. Mấy người có gặp thì nhắn với mấy ông Việt
cộng ngoài rừng, kêu tụi nó về đây chơi với tôi, tôi gặp thằng nào là
tiêu diệt thằng đó”. Thấy tên Hạnh gây bất lợi cho phong trào cách
mạng, gây tội ác với nhân dân, Đội du kích xã Vĩnh Thanh đã xin ý
kiến cấp trên cảnh cáo tên ác ôn này.
199

20.10 Page 200

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Được sự hỗ trợ của người dân Ông Kèo, các đội viên du kích đã
điều nghiên nhiều ngày và nắm được quy luật của tên Hạnh. Thời
điểm ấy là vừa ăn tết Bính Ngọ, tên Hạnh thường đến nhà vợ bé, có
khi ngủ lại, cũng có khi về. Đêm đó các đội viên du kích nằm phục
bên ngoài từ chập tối, đến khuya thấy tên Hạnh vào nhà vợ bé. Canh
chừng thêm một lúc lâu không thấy tên Hạnh trở ra, biết hắn ngủ lại
nên Xã đội phó Nguyễn Văn Bảy phân công 3 đội viên du kích cảnh
giác bên ngoài, còn anh đột nhập vào nhà. Đã điều nghiên trước lối
bố trí của ngôi nhà, cũng dò được thói quen của tên Hạnh là khi ngủ
thường thủ khẩu súng rouleau trái khế trên đầu giường nên anh Bảy
đến ngay giường tên này, nhanh chóng xác định vị trí để súng và lấy
ngay. Lúc này tên Hạnh giật mình ngồi dậy, theo thói quen thò tay
lấy súng, nhận ra súng không còn đồng thời nhìn thấy bóng người
sát bên giường nên run run hỏi “Mấy ông làm gì vậy”. Anh Bảy trả
lời “Thì ông nhắn dân kêu Việt cộng về chơi, nên nay tụi tôi về thăm
ông nè”. Anh Bảy gọi thêm 2 đội viên du kích vào, trói thúc ké cả
tên Hạnh và vợ bé, nhét khăn vào miệng để khỏi kêu la gây ra tiếng
động. Sau khi cảnh cáo người vợ bé, các anh áp giải tên Hạnh ra
ngoài. Đi được khoảng 200m bỗng dưng tên Hạnh vụt bỏ chạy, anh
Nghĩa buộc lòng phải bắn hạ rồi nhanh chóng cùng các đội viên rút
ra căn cứ. Trận diệt tên trưởng ấp Hạnh đã khiến cho những tên tề ấp
khác hoảng hốt co vòi một thời gian, không dám hoạnh họe, làm khó
dễ người dân hay chỉ điểm gây thiệt hại cho phong trào kháng chiến.
Ngày 9.10.1966, Tỉnh ủy Bà Biên (lúc này Biên Hòa, Long
Khánh và Bà Rịa sáp nhập, gọi là tỉnh Bà Biên) có Quyết định số
028/QĐ sáp nhập huyện Long Thành và Nhơn Trạch thành huyện
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Long Thành, gồm 23 xã1 và 2 thị trấn Long Thành, Nhơn Trạch.
Ngày 2.5.1967, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông có Quyết định số
12/QĐ-K do đồng chí Phạm Lực ký, chỉ định Ban Chấp hành Quận
ủy Long Thành gồm 15 đồng chí, trong đó đồng chí Nguyễn Văn
Thông, Tỉnh ủy viên, làm Bí thư Huyện ủy.
Năm 1966, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định thành
lập Đặc khu Rừng Sác. Theo Quyết định ngày 15.4.1966, Đặc khu
Rừng Sác là một khu quân sự đặc biệt gồm một khu vực rộng 60.000
hécta, phía Đông giáp quốc lộ 15, phía Tây giáp sông Soài Rạp, phía
Bắc giáp lộ 19 (không gồm Nhơn Trạch), phía Nam giáp biển. Đây
là một khu vực gồm 10 xã thuộc nhiều tỉnh khác nhau: xã Phú Hữu,
Phước Khánh (thuộc quận Nhơn Trạch tỉnh Biên Hòa), Long Sơn
(Bà Trao, núi Nứa thuộc quận Châu Đức, tỉnh Bà Rịa), xã Lý Nhơn,
Bình An (quận Nhà Bè), xã Đồng Hòa, Cần Thạnh, Tân Thạnh,
Thạnh An, xã Tam Thôn Hiệp (quận Cần Giờ). Quyết định này quy
định 4 nhiệm vụ của Đặc khu Rừng Sác:
1. Xây dựng thành một khu căn cứ bàn đạp vững chắc ngày càng
củng cố, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang của khu đứng vững tại
chỗ luôn luôn tấn công địch trong mọi tình huống.
2. Chiến đấu bằng mọi cách trên các dòng sông chủ yếu là địch
trên sông Lòng Tàu, kiên quyết tiêu diệt và phá hủy thật nhiều sinh
lực và phương tiện chiến tranh của địch.
1  23 xã gồm: Phước Thái, Long Phước, Long An, Lộc An, Phước Nguyên,
An Lợi, Tam An, Tam Phước, Phước Tân, Long Hưng, An Hòa, Long Bình,
Phước Thiền, Phước Kiểng, Phước Lai, Phước Long, Phước Thọ, Phước An,
Phú Mỹ, Mỹ Hội, Long Tân, Đại Phước, Vĩnh Thanh.
201

21.2 Page 202

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
3. Kết hợp chặt chẽ các tổ chức Đảng, dân chính, tiến hành công
tác tranh thủ nhân dân, xây dựng cơ sở, phát động mạnh mẽ chiến
tranh du kích trong toàn khu.
4. Bảo vệ an toàn hành lang vận chuyển hàng chiến lược của
Miền.
Quân ủy Miền xác định tính chất của Đặc khu Rừng Sác là một
khu quân sự chứ không phải quân khu, có Đảng ủy Đặc khu trực
thuộc Quân ủy Miền, phụ trách cả công tác quân chính và phong trào
cách mạng địa phương. Cơ quan chỉ huy đầu tiên của Đặc khu Rừng
Sác, trong đó đồng chí Lương Văn Nho (Hai Nhã) là Đặc khu trưởng
kiêm Chính ủy.
Lực lượng của Đặc khu Rừng Sác mang tên Đoàn 10, có 13 chi bộ
với 285 đảng viên, 614 chiến sĩ. Cơ sở của Đoàn trên địa bàn 10 xã
với trên 20 ngàn dân, 10 chi bộ xã, 67 đảng viên, trong đó có 12 đảng
viên sinh hoạt hợp pháp. Đoàn 10 luôn có sự gắn bó, phối hợp chặt
chẽ với Huyện ủy và phong trào cách mạng ở huyện Nhơn Trạch
tạo nhiều chiến công vang dội: Đánh chìm tàu vạn tấn Baton Rouge
Victory trên sông Lòng Tàu (ngày 23.8.1966), rót đạn vào nội đô phá
hoại lễ Quốc khánh của chính quyền Thiệu (1.11.1966); hai lần làm
nổ tung khu kho bom Thành Tuy Hạ (tháng 11 và tháng 12.1972),
thiêu hủy kho xăng Nhà Bè (3.12.1973)...
Thời điểm cuối năm 1966, địch tiếp tục củng cố, mở rộng kho
bom Thành Tuy Hạ, từ năm 1965 xây dựng tổng kho Long Bình,
căn cứ Nước Trong, cụm pháo Bến Sắn đã được triển khai xây dựng,
giặc liên tục càn quét, đánh phá các tuyến đường sông khu vực Rừng
202

21.3 Page 203

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Sác, sông Lòng Tàu, các căn cứ của ta ở Đông quốc lộ 15 và khu vực
Nhơn Trạch. Tháng 6.1967, quân Mỹ và chư hầu Thái Lan liên tục
càn quét khắp rừng giồng, Rừng Sác. Máy bay Mỹ rải thuốc hóa học
khai quang ở nhiều khu vực, nhất là vùng Sở Dừa Phước Khánh và
ven sông Đồng Nai, ảnh hưởng trực tiếp nghiêm trọng đến sinh thái,
đời sống và sức khỏe người dân hai xã Vĩnh Thanh và Phước Khánh.
Các vườn cây trái ở các xã Phú Hội, Tam An, Phú Mỹ cũng bị thiệt
hại nặng nề. Quận ủy Long Thành chỉ đạo tổ chức đấu tranh chống
Mỹ rải thuốc khai quang.
Vào khoảng 6 giờ sáng ngày 1.3.1967, dưới sự chỉ đạo của các
đảng viên mật như: Nguyễn Thị Ngời (Phước An), Lưu Thị Thương
(Phước Thọ), Huỳnh Thị Giác (Phước Long), Tư Trang (Tam An),
đồng bào các xã Phú Hữu, Đại Phước đã kéo đến tập trung tại khu
chợ gần bến thuyền lối ngã ba đi về xã Vĩnh Thanh. Cùng lúc đó
một số thuyền từ xã Phước Khánh, Giồng Ông Đông cũng cập bến,
đưa gần 200 đồng bào đến tham gia. Một số bà con ở ấp Ông Kèo,
ấp Xoài Minh, ấp Nhà Máy thuộc xã Vĩnh Thanh cũng đến tham
dự, trong đó có mẹ Nguyễn Thị Đặng, bà Bạch Thị Sang. Khoảng 7
giờ, đoàn người kéo về quận lỵ, mỗi đoàn đều có 2-3 giao liên, liên
tục báo cáo tình hình để Huyện ủy kịp thời chỉ đạo. Trên đường đi
đồng bào mang khẩu hiệu “Rải chất độc hóa học là phá hoa màu của
dân, là giết dân”, “Phải bồi thường tính mạng tài sản cho dân”, “Phải
thống nhất đất nước”.
Bọn cảnh sát mật vội báo về quận. Địch liền đưa một trung đội
bảo an xuống ngăn chặn. Khi bọn địch đến ngã ba gần lối rẽ vào nhà
thờ Đại Phước thì gặp đoàn biểu tình. Bọn lính lăm lăm khẩu súng
203

21.4 Page 204

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
trong tay, quát tháo mọi người dừng lại, không dừng sẽ bắn. Nhưng
đoàn người vẫn bình tĩnh tiến lên. Má Tám Ứng đại diện đoàn biểu
tình nói: “Chúng tôi cày cấy trồng trọt, các ông rải chất độc làm cho
chết hết lúa, hoa màu, như vậy là các ông giết dân rồi. Chúng tôi lên
hỏi quận trưởng xem lời tuyên bố của ông ta như thế nào khi ông về
làm quận trưởng ở đây, nào là thực hiện dân sinh, dân chủ, nào là
hạnh phúc, ấm no, vậy rải chất độc có đúng với lời ông ta không?”.
Nghe má Tám Ứng nói, bà con ùa lên phía trước. Bọn lính khiếp sợ
vì số người quá đông, không ngăn cản nổi, vội về quận báo tin. Khi
đoàn người tới quận thì lúc này đồng bào các xã Phú Hội, Long Tân,
Phú Thạnh đang trà trộn từ trước trong phiên chợ Phú Thạnh, cũng
xuất hiện gia nhập cùng đoàn biểu tình và kéo vào quận lỵ. Bọn lính,
bọn nhân viên bảo vệ lẩn trốn. Đồng bào hô lớn: “Yêu cầu quận
trưởng ra nói chuyện”. Lúc đầu Trương Bảo Thiện lánh mặt, cho
Chánh văn phòng là Võ Văn Loài ra tiếp. Đồng bào không chịu, làm
dữ, ném đá. Tình hình căng thẳng buộc tên quận trưởng ra tiếp dân.
Trước lý lẽ đanh thép của đồng bào, tên này chối quanh “Việc này là
do ở trên mấy ông ấy làm, tôi không can dự”. Trương Bảo Thiện hứa
sẽ thỉnh thị về trên, đền bù tài sản của dân đã bị phá hủy và không rải
chất độc hóa học nữa. Đồng bào đưa 3 bản kiến nghị với hàng ngàn
chữ ký tố cáo tội ác của địch.
Được tin về cuộc biểu tình của đồng bào Nhơn Trạch, quận trưởng
Long Thành vội vã ra lệnh giới nghiêm trên đoạn đường quốc lộ 15
từ Phước Tân đến thị trấn Long Thành, xuống tới xã Phước Thái.
Chúng đặt 8 trạm canh gác, khám xét đồng bào qua lại rất nghiêm
ngặt. Chúng chỉ cho những người có hàng hóa mới được vào thị trấn
204

21.5 Page 205

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
để bán. Trước tình hình như vậy Huyện ủy Long Thành quyết định
tổ chức đồng bào đi bằng xe lam, đóng giả làm người buôn bán để
che mắt địch. Đồng bào cũng kéo đến quận Long Thành, buộc quận
trưởng phải cam kết bồi thường và không rải chất độc hóa học nữa.
Do tổ chức chặt chẽ, chỉ đạo kịp thời, cuộc đấu tranh của người dân
Long Thành - Nhơn Trạch đã đạt kết quả tốt đẹp, biểu dương được
lực lượng và sức mạnh của quần chúng.
III. Góp phần vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968
Tháng 7.1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định bố trí lại
chiến trường, giải thể Khu miền Đông, thành lập 5 phân khu từ Phân
khu 1 đến Phân khu 5 để hình thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn,
thực hiện cuộc tổng tiến công vào năm 1968. Theo đó, Phân khu 4
bao gồm huyện Long Thành (kể cả Nhơn Trạch), huyện Thủ Đức,
quận 1, quận 9, huyện Cần Giờ và huyện cao su Bình Sơn. Bí thư
Phân khu 4 là đồng chí Mười Chiến. Văn phòng Phân khu ủy đặt
tại ngã ba Long Điền, giữa 2 xã Phước Thiền và Phước Nguyên để
tiện việc chỉ đạo. Ban Chấp hành Phân Khu ủy có 16 đồng chí, Ban
Thường vụ gồm 7 đồng chí.
Chiến trường Nhơn Trạch - Long Thành được Trung ương Cục
phân tích, xác định vị trí chiến lược quan trọng, từ đó có chủ trương
bố trí lại chiến trường, và có giải pháp ứng phó phù hợp.
Theo đó, Nhơn Trạch là vùng tranh chấp rất quyết liệt giữa ta và
địch. Địch xem đây là trọng địa của chiến trường, yết hầu của cơ
quan đầu não, dạ dày của bộ máy chiến tranh nên bố trí lực lượng
205

21.6 Page 206

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
dày đặc với các binh chủng hùng mạnh, trang thiết bị hiện đại; tiến
hành ủi trắng gần như toàn bộ địa bàn khu Lòng Chảo; tăng cường
lực lượng chiếm đóng dọc lộ 17, 19 trên 41 đồn, bót, tua; trên 20
chốt chiếm đóng; 1 tiểu đoàn lính Mỹ chốt ở ngã ba đường ủi Phước
Lai, 1 trung đoàn Thái Lan thuộc sư đoàn Hắc Báo từ Long Thành
chuyển qua chốt 1 tiểu đoàn ở chùa Nước Nhĩ (ấp Bến Sắn, xã Phước
Thiền); 1 tiểu đoàn xây dựng căn cứ ở Vườn Điều Phước An, 1 tiểu
đoàn biệt động quân ngụy rải quân từ Phú Hữu đến Phước Khánh.
Với vòng vây dày đặc như thế, địch tiến hành nhiều cuộc càn
quét, bình định hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng, muốn đẩy lực
lượng vũ trang ta ra xa Sài Gòn 10 km (khỏi tầm pháo ĐKB 1), bảo
vệ kho xăng Nhà Bè, kho đạn Thành Tuy Hạ, sông Lòng Tàu, bảo vệ
các đoàn tàu Mỹ chở vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam.
Vì vậy, cách mạng cũng bố trí địa bàn Nhơn Trạch thành vùng
trọng điểm, lấy Lòng Chảo làm bàn đạp để xây dựng căn cứ, tập
kết các lực lượng Phân khu 4, Đoàn 10 Rừng Sác, D2, E4, D6 pháo,
C240; nơi đứng chân của Bộ chỉ huy Phân khu 4 lãnh đạo tấn công
vào Sài Gòn đợt Mậu Thân 1968 và là nơi mới đường tiến quân vào
Sài Gòn từ hướng Đông Nam.
Cuối tháng 10.1967, Huyện ủy tổ chức hội nghị ban chấp hành
mở rộng gồm 30 đồng chí tại căn cứ địa đạo Lòng Chảo xã Phước
1  Pháo ĐKB là loại pháo phản lực theo ống được gỡ từ dàn pháo phản lực
Katyusha BM-21 của Liên Xô theo sáng kiến của quân đội ta nhằm phù hợp
cho địa hình rừng núi và chiến lược chiến tranh du kích ở miền Nam trong thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ. Phía Nga (Liên Xô cũ) gọi loại pháo này là 9P132.
206

21.7 Page 207

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
An. Hội nghị diễn ra giữa lúc quân Thái Lan1 triển khai đánh phá ác
liệt vùng Lòng Chảo, quân dân ta vừa tham gia chống càn, vừa bảo
vệ hội nghị. Mặc cho tiếng máy bay hòa tiếng xe tăng thiết giáp địch
gầm rú, Hội nghị vẫn làm việc dưới địa đạo. Trong trận chống càn
ác liệt này, đồng chí Đặng Văn Thì người xã Vĩnh Thanh, là Tiểu đội
trưởng thuộc Huyện đội Long Thành, tham gia chiến đấu ở khu vực
xã Long Thọ bị thương, bị địch bắt. Sau khi tra tấn đồng chí dã man
để khai thác tình hình của quân ta nhưng không được, địch giam giữ
đồng chí Đặng Văn Thì qua nhiều trại giam từ Biên Hòa đến Sài
Gòn, sau đó đày ra trại giam Phú Quốc. Tại nhà tù Phú Quốc, đồng
chí tiếp tục cùng các anh em tù binh đấu tranh chống chào cờ, chống
ly khai, không đầu hàng, phản bội. Bị giam cầm ở nơi mệnh danh là
“địa ngục trần gian” này mãi đến năm 1973, đồng chí Đặng Văn Thì
mới được trao trả tại Lộc Ninh theo tinh thần Hiệp định Paris.
Hội nghị Phước An tháng 10.1967 đã tập trung phân tích kỹ những
thuận lợi, khó khăn, nhược điểm địch và ta trên chiến trường Long
Thành. Huyện ủy khẳng định thuận lợi cơ bản nhất: nhân dân các xã
nói chung chí cốt với cách mạng, một lòng tin tưởng ở Đảng và Bác
Hồ kính yêu. Tuy nhiên cái khó lớn nhất là âm mưu và hoạt động
của Mỹ ngụy sẽ tiếp tục gây thêm nhiều thiệt hại về người và của đối
với nhân dân Nhơn Trạch - Long Thành. Trên cơ sở đó, lãnh đạo tất
cả các tổ chức lực lượng đứng chân trên địa bàn huyện đều phải bám
sát dân, ở vùng sâu, vùng yếu thì phải trụ lại trong dân. Tất cả các
1  Tháng 9 năm 1967, Lữ đoàn Hổ Mang hay gọi là Mãng Xà Vương có mặt ở
miền Nam, tháng 7 năm 1968 thay bằng Lữ đoàn Báo Đen. Năm 1969, tuyên
bố rút 12.000 quân, đến 1971 mới rút hết.
207

21.8 Page 208

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
vùng không ngừng tạo thế chiến đấu và không ngừng bổ sung, xây
dựng lực lượng chiến đấu. Bất cứ trong hoàn cảnh chiến tranh xảy ra
ác liệt như thế nào, Đảng bộ cũng kiên quyết tổ chức phát động quần
chúng bung ra đồng ruộng sản xuất, bám sông rạch làm ăn, gắn chặt
với phá nội dung “bình định lập ấp chiến lược của địch”; huy động
sức người, sức của phục vụ cho kháng chiến. Hội nghị quyết định
một số vấn đề cụ thể; xây thế chiến đấu ở ven nổng Phú Hội, lập bãi
mìn kết hợp hầm chông, hố đinh ở Bàu Bông (Phước An), xây dựng
bãi mìn kết hợp với giao thông hào địa đạo ở hai khu vực Tam An,
Tam Phước, xây dựng các chốt bắn tỉa ở Phước Thọ, Phước Long,
Phước Thiền.
Huyện ủy cũng phát động phong trào “Toàn dân đánh giặc” ở
nhiều nơi như Cát Lái, Bến Bạ (Phú Hữu), Bình Sơn (vùng cao
su). Các đơn vị vũ trang: C1 (Long Thành), 19.5 (Nhơn Trạch) giữ
nguyên vị trí hoạt động, tích cực hỗ trợ dìu dắt các đội du kích xã.
Ít lâu sau, tỉnh Bà Biên tăng cường đơn vị C240 cho huyện làm lực
lượng cơ động. Các ban, ngành và đoàn thể được củng cố thống
nhất về tổ chức, đội ngũ cán bộ hoạt động ở chiến trường nào vẫn ở
nguyên địa bàn đó.
Cuối cùng hội nghị quyết định văn phòng Huyện ủy Long Thành
đóng tại địa bàn Lòng Chảo, cơ động giữa hai điểm Phú Hội và
Phước An (là căn cứ của huyện Nhơn Trạch cũ).
Qua phân tích, đánh giá của Huyện ủy, chiến trường Nhơn Trạch
- Long Thành nổi lên một số nét:
- Về phía địch, một mặt quân Mỹ leo thang, liên tục mở nhiều
cuộc càn lớn nhỏ khắp địa bàn huyện; mặt khác, chúng triển khai
208

21.9 Page 209

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
sư đoàn quân Thái Lan Mãng xà vương ở căn cứ Nước Trong. Lính
Thái bung ra đóng chốt thành nhiều cụm ở Bình Sơn, Lòng Chảo,
vườn điều Phước Thọ. Bên trong các ấp, xã lính ngụy và các đoàn
bình định nông thôn tiếp tục chương trình bình định gom dân, cào
nhà ở một số nơi và củng cố bộ máy kìm kẹp nhân dân.
- Về phía ta, các lực lượng vũ trang huyện xã sôi nổi tiến công
địch bằng ba mũi vũ trang - chính trị - binh vận. Huyện sử dụng 28
cơ sở nội tuyến phục vụ cho lực lượng 19.5 và C1, C240 cùng các
đội du kích đánh 23 trận, diệt và bắt sống 392 tên (trong đó có 192
tên bình định ác ôn), thu 264 súng các loại. Xuất hiện mô hình “vành
đai bắn tỉa” ở Phước Thọ, Phú Hội. Chỉ tính từ 19.9 đến 27.11.1967,
ta đã đánh 5 trận, diệt 80 lính Thái Lan, 2 tên lính Mỹ và 7 lính ngụy.
Ta rải hơn hai trăm ngàn truyền đơn viết bằng các thứ tiếng Anh,
Thái, Việt vạch rõ: chiến tranh xâm lược của Mỹ là phi nghĩa và
đầy tội ác; cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa.
Truyền đơn kêu gọi binh sĩ Sài Gòn buông súng về nhà làm ăn, lính
Mỹ và Thái chống lệnh hành quân bằng mọi cách, đấu tranh đòi về
nước để khỏi chết vô nghĩa. Ta cũng trực tiếp giáo dục gần 50 ngàn
lượt gia đình binh sĩ các loại, khiến hàng trăm lính Sài Gòn đào,
rã ngũ.
Đến cuối năm 1967, hầu hết các xã và thị trấn Long Thành, thị
trấn quận lỵ Nhơn Trạch đã tạo được thế và lực mới vừa tấn công
lính Mỹ, Thái, ngụy vừa chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968.
209

21.10 Page 210

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Giữa tháng 1.1968, đồng chí Hai Lực (Nguyễn Trọng Tân),
nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông, được cử làm đặc phái viên của
Trung ương Cục đến căn cứ Rừng Sác (Phước An) triển khai nhiệm
vụ và kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa cho Phân khu ủy
Phân khu 4 và Đặc khu Rừng Sác (Đoàn 10). Bộ chỉ huy mặt trận
Phân khu 4 thành lập do đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh,
đồng chí Tám Quang (Đặng Quang Long) làm Chánh ủy, đồng chí
Lê Quang Chữ, Phó Bí thư Phân khu 4, chịu trách nhiệm kế hoạch
kiểm tra toàn bộ lực lượng bên ngoài. Đồng chí Mười Chiến, Bí thư
Phân khu ủy, cùng đồng chí Ba Cam phụ trách kế hoạch xây dựng cơ
sở và phát động nhân dân nội thành.
Bộ Tư lệnh tiền phương đứng chân ở vùng Bưng Sáu Xã (Thủ
Đức) gồm các đồng chí Mười Chiến, Năm Chữ, Hai Nhã, Tám
Quang, Ba Đắc quyết định điều động Tiểu đoàn 4 của Quân khu 2,
trung đội trinh sát cùng lực lượng vũ trang của huyện Thủ Đức áp sát
mục tiêu, từ cầu Rạch Chiếc trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa đến ngã
tư Hàng Xanh. Đoàn 10 do đồng chí Mười Thà (Nguyễn Việt Hoa)
và đồng chí Sáu Tâm chỉ huy phụ trách hướng tiến công Nhà Bè,
Quảng Xuyên, Cần Giờ và trục sông Lòng Tàu. Phân khu 4 còn điều
động bố trí một số cán bộ: đồng chí Hồ Sĩ Hành, vợ chồng đồng chí
Trương Văn Bông - Huyện ủy viên huyện Long Thành, các nữ đồng
chí Ba Cơ, Mười Ánh Tuyết, Nga, Sáu Ngàn đi đường công khai hợp
pháp từ Hưng Nghĩa vào nội thành Sài Gòn.
Huyện ủy Long Thành phụ trách mục tiêu quận lỵ Nhơn Trạch;
huyện Duyên Hải có mục tiêu là thị trấn Cần Giờ. Vùng cao su tập
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
trung đánh địch ở Bình Sơn. Mỗi xã, mỗi thị trấn đều có mục tiêu
đánh phá bộ máy kềm kẹp tại ấp, xã và bao vây bắn tỉa đồn bót địch.
Tất cả cán bộ chiến sĩ chiến trường Phân khu 4 đều được phát
động học tập thư kêu gọi của Thường vụ Trung ương Cục. Ai cũng
hừng hực tinh thần “sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Vượt qua vô vàn khó khăn gian khổ, mọi lực lượng chờ giờ G ngày
N đồng loạt nổ súng tiến công các mục tiêu được phân công cho đơn
vị mình đảm trách.
Lúc 0 giờ đêm 30.1, rạng 31.1.1968 (tức mùng một tết Mậu Thân),
các mũi tiến công khắp nơi đồng loạt nổ súng. Tổng kho Long Bình,
kho đạn Thành Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè đồng loạt bị tấn công, bom
đạn nổ vang trời, lính Mỹ ngụy và chư hầu hồn xiêu phách lạc.
Ở Nhơn Trạch, các đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai trực
tiếp chỉ huy Đại đội 240 tiến công chi khu, diệt 20 lính bảo an và
cảnh sát, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đây là lần đầu tiên chi khu
Nhơn Trạch bị tiến công quân sự.
Ở tất cả các xã, du kích và tự vệ mật tiếp tục đánh địch, diệt ác phá
kìm, phát động quần chúng chống phá âm mưu bình định, khoanh
gom dân của địch. Nổi bật là Chi bộ Phước An dùng lực lượng du
kích phối hợp với nhân dân bằng ba mũi giáp công chính trị - binh
vận - vũ trang bao vây bót Vũng Gấm suốt 10 ngày làm bọn bảo an ở
đây khiếp vía, cố thủ trong bót. Ở hướng Rừng Sác, Đoàn 10 liên tục
đánh địch trên sông Lòng Tàu, đánh cảng hải quân Nhà Bè và kho
tàng địch ở Nhà Bè. Bộ đội bắn cháy 5 tàu quân sự trên sông Lòng
Tàu và cảng Cát Lái.
211

22.2 Page 212

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Tuy nhiên, sau lúc bất ngờ ban đầu, địch đã nhanh chóng phản
công, đồng thời đưa quân càn vào vùng Lòng Chảo, vùng Rừng Sác.
Lúc này lộ 19 đã bị phá hủy, tất cả các loại xe không thể qua được.
Địch đổ quân từ Phú Thạnh rồi theo lô cao su Tân Tường để càn vào
Vũng Gấm, Bàu Bông. Một cánh quân địch từ xã Vĩnh Thanh tràn
qua Quới Thạnh đánh tạt lại Phước An. Từ phía quốc lộ 15 theo lối
Nhà Mát, địch qua đường Bà Ký đổ vào chà xát hai xã Phước Long,
Phước Thọ.
Cùng với quân dân Nhơn Trạch, Đội du kích xã Vĩnh Thanh cũng
tích cực tham gia chiến đấu, hỗ trợ cho quân chủ lực. Người dân
Ông Kèo, Xoài Minh tiếp tế lương thực, thuốc men cho cách mạng,
che giấu cán bộ chiến sĩ. Nhiều con em Vĩnh Thanh đã anh dũng hy
sinh trong đợt tổng tiến công này, như: Nguyễn Văn Bé (du kích xã
Phước An), Mai Văn Lẹ (du kích xã Đại Phước), Bùi Văn Lũy (chiến
sĩ C240), Đỗ Văn Đệ (tiểu đội trưởng thuộc C300), Nguyễn Văn
Hùng (du kích xã Vĩnh Thanh)...
Cuộc tiến công và nổi dậy đợt hai bắt đầu từ ngày 5.5.1968. Tại
chiến trường Phân khu 4, lực lượng vũ trang ta (cả chủ lực và bộ đội
địa phương) bám trụ vùng Bưng sáu xã. Ban ngày anh em đánh địch
phía sau, ban đêm đánh địch trên xa lộ và khu nhà máy xi măng Hà
Tiên, nhà máy dệt Phong Phú tiêu diệt và làm tan rã hàng trăm tên
Mỹ ngụy, bắn cháy hàng chục xe tăng thiết giáp và xe nhà binh địch.
C240 tiếp tục đánh vào chi khu Nhơn Trạch, tiêu hao một bộ phận
sinh lực địch và phối hợp cùng du kích diệt ác ở trục lộ 19 và 17 làm
cho bọn địch hoang mang. Những thanh niên Vĩnh Thanh tiếp tục
212

22.3 Page 213

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hy sinh xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc: Phạm Văn
Bằng (Y tá xã Đại Phước), Trần Hoài Lâm (tiểu đội trưởng thuộc
Huyện đội Nhơn Trạch), Đỗ Văn Tư (Xã đội phó xã Mỹ Phước)...
Tuy nhiên, quân dân ta đã mở ra được một số xã giải phóng như
Phước An, Phú Hội, Phú Mỹ.
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Mỹ tăng cường đổ
quân hỗ trợ, chính quyền Sài Gòn đề ra kế hoạch “bình định cấp tốc”.
Tiểu khu Biên Hòa đã chọn Long Thành - Nhơn Trạch và Tân Uyên
để thực hiện âm mưu này. Tại Long Thành - Nhơn Trạch, địch đã
tiến hành lượng giá để phân loại xã, ấp, trong đó các xã: Vĩnh Thanh,
Phú Thạnh, Đại Phước, Phước Lộc, Long An và Lộc An xếp loại A.
Những xã này địch cho là có thể làm chủ cả ngày lẫn đêm.
Ngày 10.5.1968, Phân khu ủy Phân khu 4 có quyết định tách
huyện Long Thành thành 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Đồng
chí Nguyễn Công Hạnh là Quyền Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch.
Thực hiện Nghị quyết của Phân khu ủy Phân khu 4, ngày
19.5.1968, Ban Thường vụ Quận ủy Long Thành họp tại căn cứ địa
đạo Nhơn Trạch, kiểm điểm và đánh giá kết quả hoạt động đợt 1, đợt
2; bàn kỹ việc lãnh đạo toàn Đảng bộ và lực lượng vũ trang “bám trụ
chiến trường bằng mọi cách, liên tục tiến công tiêu diệt Mỹ, Thái,
lính Sài Gòn”; triển khai công tác tổ chức tách hai huyện Long
Thành, Nhơn Trạch như cũ theo chỉ đạo của Phân khu 4; phân công
các đồng chí trong Ban Thường vụ đi từng khu vực triển khai những
công việc nêu trên; chỉ đạo mở vùng yếu Phú Thạnh, Đại Phước và
Vĩnh Thanh.
213

22.4 Page 214

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Lúc này lính Úc đang càn đi quét lại địa bàn, ta và địch giành
giật quyết liệt từng khu vực. Phía trước, Mỹ đổ hàng trăm cụm lính
đến khắp đồng ruộng các xã An Hòa, Long Hưng, Tam An dọc sông
Đồng Nai đến các cánh đồng Long Hiệu (Long Tân), cù lao Ông
Cồn, Bến Bạ, Cát Lái, Ông Mai, Giồng Ông Đông (Phú Hữu và
Đại Phước).
Tại khu Lòng Chảo Nhơn Trạch, phía Đông quốc lộ 15 huyện
Long Thành, quân chư hầu Thái Lan và Úc đóng từng cụm có xe
tăng, thiết giáp và pháo binh yểm trợ. Ban ngày, chúng bung ra càn
quét, bình định, ban đêm co lại phòng thủ. Một phần quân Úc càn
từ phía Tây đến phía Đông suối Cả chạy dài tới đồi Tâm Tình, con
đường Chòi Đồng tới Phước Thái. Lính Úc chia thành những tốp
nhỏ lùng sục căn cứ ta, hai bên giành giật quyết liệt từng căn hầm,
từng đoạn giao thông hào căn cứ. Đôi khi lính Úc và bộ đội ta cùng ở
trong một căn cứ. Đánh quân Úc không dễ so với đánh Mỹ vì chúng
cũng theo chiến thuật du kích. Khi đôi bên nổ súng, chúng gọi pháo
tầm xa bắn ngay vào đội hình đang đánh nhau.
Trong giai đoạn này, địch tung chiến thuật “Ong ruồi” kết hợp với
hoạt động biệt kích phục kích, gây cho ta nhiều tổn thất. Ban ngày,
chúng bung ra càn quét, bình định, ban đêm cụm lại phòng thủ lính
Úc chia thành từng tốp nhỏ lùng sục căn cứ của ta. Đặc biệt, từ sân
bay quân sự Biên Hòa, máy bay địch liên tục lên xuống, quần đảo và
ném bom bất cứ khu vực nào mà chúng tình nghi, gây cho ta nhiều
tổn thất.
214

22.5 Page 215

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ở Vĩnh Thanh, bọn lính thừa cơ ép sát, canh phòng ngày đêm để
cắt tiếp tế của người dân, tiêu diệt phong trào cách mạng1. Chúng
xộc vào từng nhà, giở lu gạo, kiểm tra tận ngóc ngách, thấy nhà nào
có nhiều lương thực, thực phẩm là hạch hỏi, đêm thì rình mò, phục
kích, đón lõng cán bộ ta về lấy lương thực. Chúng còn gài điệp báo
trong dân, giả vờ móc ráp hẹn đưa lương thực cho cách mạng. Đêm
đó, đội viên du kích Võ Văn Toàn (người ở ấp Phước Lý) theo lời
nhắn đến khu vực Gò Me thuộc địa bàn ấp Ông Kèo để lấy lương
thực thì bị bọn lính phục kích bắn bị thương. Chúng trói hai tay hai
chân anh Toàn, đánh đập tra hỏi nhưng anh không khai còn lớn tiếng
mắng chửi bọn chúng là tay sai bán nước. Không khai thác được
gì từ anh, chúng bắn chết anh tại chỗ rồi dùng cây xỏ qua dây trói,
khiêng anh như khiêng heo về đình Ông Kèo phơi xác nguyên cả ngày
hôm sau, lúc ấy trên người anh Toàn chỉ có cái quần đùi, thương tích
khắp cả người. Gia đình anh Toàn từ ấp Phước Lý hay tin, thuê chiếc
xe lôi chạy chầm chậm ngang đình Ông Kèo nhìn xác con, nhưng
không dám ra mặt nhận vì sợ bọn lính nhân cơ hội bắt bớ. Bà con ở
Ông Kèo lên xin xác anh đem về chôn cất ở ngay bên cạnh đình, lúc
ấy thi thể anh vẫn còn bị trói tay chân, bà con phải cắt dây trói, dùng
rượu bóp mãi mà tay chân anh không duỗi thẳng ra được, không tìm
được quan tài nên một gia đình về lấy chiếc chiếu mới quấn lại rồi
chôn. Mãi đến sau ngày giải phóng gia đình anh Toàn mới có thể đưa
hài cốt anh về cải táng ở Phước Lý.
1  Ở ấp Quới Thạnh, địch tăng cường thêm 1 - 2 trung đội bảo an đồn trú, chưa
kể đến lực lượng dân vệ.
215

22.6 Page 216

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Trước tình hình đó, Huyện ủy Nhơn Trạch trực tiếp lãnh đạo toàn
Đảng, toàn quân kiên cường bám trụ chiến trường, “bám thắt lưng”
để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời trừng trị bọn ác ôn điệp báo nằm
trong dân. Phong trào “thi đua diệt Mỹ, chư hầu Thái, Úc” dấy lên
sôi nổi, đều khắp Long Thành, Nhơn Trạch.
Những năm 1968 - 1969, tình hình căng thẳng, ác liệt; giặc ra sức
đánh phá để trừ họa “Mậu Thân”, ta kiên cường đánh trả để bảo vệ
căn cứ, phát triển phong trào.
Ngày 20.12.1968, Ban Thường vụ Phân khu 4 họp tại căn cứ Suối
Cù ở phía Bắc suối Cả, gồm các đồng chí Lê Quang Chữ, Nguyễn
Trọng Cát, Nguyễn Việt Hoa, Nguyễn Hải, Võ Văn Định, Phạm Thị
Nghĩa, Nguyễn Văn Thông, Lê Đức Sanh từ 8 giờ sáng, bàn kỹ 3
việc:
1. Quyết định đầu năm 1969 mở hai đại hội “Bình bầu chiến sĩ thi
đua và dũng sĩ diệt Mỹ” “Đại hội đại biểu quốc dân” bầu Ủy ban
nhân dân Cách mạng lâm thời Long Thành - Thủ Đức.
2. Phân công chuẩn bị căn cứ cho hai đại hội trên. Hội nghị xác
định xây căn cứ suối Đá Vàng gần khu vực Chòi Đồng (xã Phước
Thái).
3. Chuẩn bị gạo và thức ăn cho hai đại hội đó (mỗi đại hội trên
100 đại biểu).
Đầu tháng 2.1969, Đại hội chiến sĩ thi đua Phân khu 4 khai mạc
gồm trên 200 đại biểu. Đại hội nghe nhiều báo cáo điển hình về
những trận đánh của các đội du kích xã, của bộ đội địa phương huyện
và lực lượng vũ trang phân khu diệt hàng trăm tên Mỹ, Thái và vô số
216

22.7 Page 217

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bình định ác ôn. Đại hội bình bầu hàng chục dũng sĩ diệt Mỹ. Xã đội
trưởng xã Phú Hữu là Nguyễn Quyết Chiến được bình bầu là điển
hình của Đại hội.
Tháng 3.1969, Nông hội Phân khu 4 mở đợt tập huấn cho cán
bộ cốt cán cấp huyện về nhiệm vụ “bám ruộng đồng đẩy mạnh sản
xuất”. Đoàn đại biểu Long Thành, Nhơn Trạch, Thủ Đức về Phước
Thái đến Cầu Vạt thì trúng bom B52 rải thảm.
Tháng 6.1969, Ban Chấp hành Phân khu 4 họp kiểm điểm tình
hình, bổ sung kế hoạch tiến công địch sáu tháng cuối năm. Đồng chí
Lê Đình Nhơn được Trung ương Cục chỉ định làm Bí thư Phân khu
ủy Phân khu 4. Theo chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Cục và Ban
Cán sự T.7 thì Ban Thường vụ Phân khu ủy về cùng Tỉnh ủy Bà Rịa
tổ chức quán triệt Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Cục.
Đoàn cán bộ Phân khu gồm: Mười Thà, Tám Hà, Tư Định, Hai
Thông ngày 31.8 lên đường, ngày 2.9 đến căn cứ Sông Ray. Chiều
3.9, nhận được điện khẩn: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng báo tin
đau buồn: Bác Hồ qua đời”. Đoàn công tác phối hợp với các lực
lượng vũ trang cùng các cơ quan ở Bà Rịa tổ chức lễ truy điệu Bác
vào ngày 4.9.
Hơn 300 cán bộ chiến sĩ tập họp nghiêm trang trước bàn thờ đơn
giản bằng cây rừng, cờ Đảng và ảnh Bác treo phía trên, một băng
rôn với dòng chữ: “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”,
dưới đặt những vòng hoa rừng. Đồng chí Hai Nhã (Lương Văn Nho)
điều khiển lễ chào cờ, mặc niệm sau đó đọc điếu văn, không ai cầm
được nước mắt. Lễ truy điệu Bác gọn một tiếng đồng hồ. Liền sau
217

22.8 Page 218

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đó, máy bay Mỹ đến ném bom vào nơi làm lễ, nhưng không ai hề hấn
gì. Sáng 6.9, đoàn đến căn cứ Tỉnh ủy Bà Rịa ở núi Bể. Vừa tới nơi,
nhiều tốp máy bay Mỹ tới ném bom dữ dội.
Hội nghị học tập Nghị quyết lần thứ 9 của Trung ương Cục thảo
luận sôi nổi về tình hình và nhiệm vụ chiến trường miền Đông, đánh
giá thành quả, tổn thất và tiềm lực phát triển thế tiến công, góp phần
vây ép trung tâm đầu não Mỹ ngụy, góp phần to lớn phá kế hoạch
phòng thủ của chúng, trở thành chiến trường tiêu hao, tiêu diệt sinh
lực địch rất quan trọng.
Hội nghị hoàn toàn nhất trí về nhiệm vụ của cách mạng miền
Nam mà Nghị quyết lần thứ 9 của Trung ương Cục đề ra: tiếp tục
đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công đến
đỉnh cao nhất, đánh mạnh, đánh đau quân Mỹ ngụy và chư hầu, phá
kế hoạch bình định nông thôn. Do vậy toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân tập trung thực hiện bảy công tác lớn đó là: quân sự, dân vận,
chính trị, binh vận, chính quyền, an ninh, kinh tế tài chính, xây dựng
căn cứ địa, công tác Đảng, công tác chính trị tư tưởng.
Cuối tháng 9, Ban Thường vụ Phân khu 4 họp triển khai tinh thần
hội nghị liên tịch vừa qua, xây dựng chương trình hành động cụ thể
hóa bảy công tác lớn từ tháng 10.1969 đến tháng 10.1971. Hội nghị
Ban Thường vụ quyết định vừa tập trung chỉ đạo tấn công ba mũi
đánh phá bình định, mở rộng vùng tranh chấp và đánh quân Mỹ và
chư hầu, vừa chuẩn bị Đại hội đại biểu lần thứ I của Phân khu. Hội
nghị Thường vụ dự kiến chọn địa điểm đại hội tại Lòng Chảo Nhơn
Trạch, thời gian trung tuần tháng 3.1970.
218

22.9 Page 219

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Năm 1969 là năm bọn Mỹ ngụy phản kích quyết liệt trên chiến
trường Nhơn Trạch, quân Mỹ, Thái Lan, lính ngụy sư 18 thường
xuyên đổ quân càn quét địa bàn Nhơn Trạch, rừng Nhơn Trạch bị
bom pháo chà xát, không ngày nào vắng tiếng bom pháo. Có lúc,
tổng quân số giặc huy động càn quét lên đến hơn 20 ngàn quân, lớn
hơn số dân cư trú ở huyện.
Trên chiến trường Nhơn Trạch, bọn địch xây dựng, phát triển
thêm một số căn cứ lớn như trung đoàn Thái Lan phiên hiệu Mãng
Xà Vương đóng ở Đồng Lớn, Phước Thọ - Phước An, căn cứ Bàu
Điều sát nách căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch, chốt Mỹ - Thái ở ngã
ba Phước Thiền. Hàng ngày, chúng tung lực lượng cấp đại đội, tiểu
đoàn đánh phá vào vùng căn cứ cách mạng. Bên trong, Mỹ - ngụy
và chư hầu thực hiện chiến thuật “Tát nước bắt cá”. Địch dùng cả
trăm xe tẹt, hàng chục xe tăng và bộ binh Mỹ yểm trợ, ủi phá, chia
cắt khu rừng nguyên sinh. Chỉ trong vòng 2 năm 1969 - 1970, Mỹ và
bọn chư hầu đã san bằng gần 10.000 hecta rừng. Nhiều căn cứ các
cơ quan huyện, các xã bị phá hủy. Lúc bấy giờ, lực lượng dân quân
chính Đảng do địch đánh phá ác liệt bị tổn thất nặng, phải phân tán,
bám trụ trong dân nhằm bảo toàn lực lượng và tiếp tục nuôi dưỡng,
phát triển phong trào cách mạng của quần chúng.
Trước tình hình địch tập trung lực lượng đánh phá ác liệt, ủi phá
địa hình, Huyện ủy Nhơn Trạch đã xác định tư tưởng, lãnh đạo thực
hiện phương châm kiên cường bám trụ, khắc phục gian khổ, ác liệt
hy sinh, mưu trí dũng cảm chiến đấu, sáng tạo linh hoạt, vận dụng
phong phú đa dạng cách đánh địch, đứng vững địa bàn. Huyện ủy,
Huyện đội đề ra chủ trương phải chuyển ngay phương thức ăn, ở,
219

22.10 Page 220

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đi lại hoạt động, cách đánh địch... chuẩn bị gạo rang, gạo sấy, nước
uống từ 10 ngày đến một tháng, trong huyện chia thành 4 vùng nhỏ
(vùng 1: lộ 17, vùng 2: dọc lộ 19, vùng 3: lộ 19 gồm các ấp di cư của
Vĩnh Thanh, vùng 4: các xã Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước).
Cấp ủy, Ban chỉ huy Huyện đội tăng cường cán bộ phụ trách các
vùng. Đại đội C240 cũng bố trí từng trung đội bám các vùng, phân
tán từng tổ nhỏ (3 người) đào hầm bí mật, tận dụng các đoạn địa đạo
cũ, vận động vòng lại phía sau nơi địch ủi qua các bụi tre, gốc cây,
triền xóm để đào hầm trú ẩn và hầm bí mật thực hiện 4 bám: Bám
dân, bám địa bàn, bám phong trào, bám địch để tấn công địch.
Cụ thể, bắt đầu từ 15 giờ 30 ngày 14.7.1969, địch dọn bãi ở Trảng
Lớn, Hang Nai, đưa 45 xe ủi, xe tăng, thực hiện kế hoạch ủi phá địa
hình khu Lòng Chảo. Ngày đầu, chúng dàn hàng ngang như thả vạt
cày ủi từ Phước Thọ đến Phước Kiển. Dưới đất, tiếng máy gầm rú ầm
đùng của xe ủi, xe tăng. Trên trời, máy bay L19, cá lẹp (OH5, OH6)
quần đảo quan sát sẵn sàng phóng hỏa tiễn. Ủi ngày đầu không đụng
lực lượng chống trả, chúng rất hí hửng. Trong đêm, đồng chí Huyện
đội trưởng (Tám Quyết) lệnh cho xưởng công binh đổ 10 khối thuốc
nổ (mỗi khối 10-12kg) để công binh, trinh sát gài giáp mí đất địch
đang ủi; du kích xã Phước An thì dùng đầu đạn cải tiến thành mìn gài
nơi địch sẽ ủi tới. Sáng 15.7.1969, địch ủi qua Phước An, mìn nổ phá
hủy hai xe tăng; trực thăng xuống lấy xác, bị du kích phục bắn rơi 1
chiếc. Du kích xã Phước An mở đầu phong trào đánh xe và bắn rơi
máy bay địch, cổ vũ lực lượng vũ trang trong toàn huyện.
Mỗi lần Mỹ leo thang hay xuống thang chiến tranh đều dùng bom
đạn và binh lực cày xới địa bàn Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
21.9.1969, một trung đoàn Thái Lan và 2 tiểu đoàn lính ngụy mở đợt
càn quét 12 ngày đêm vào hai xã Phước Thiền, Phú Mỹ. Lực lượng
địa phương chống càn quyết liệt, hai đội du kích Phước Thiền và
Phú Mỹ thiệt hại nặng. Lính Thái càn vào Phú Hội phát hiện hầm,
chúng ném lựu đạn vào làm hai bà má chết tại chỗ, phẫn uất, trên 200
đồng bào khiêng xác ra đồn tố cáo tội ác bọn Thái và ngụy, tên quận
trưởng hứa sẽ bồi thường.
Tiếp theo, địch càn vào khu Rừng Sác, Phước An, chà xát 21
ngày đêm trên khu Lòng Chảo; trực thăng đã bắn vào khu vực quân
y huyện Nhơn Trạch, cả 8 thương bệnh binh đều hy sinh, trong đó
có 2 phụ nữ đang mang thai (chị Hoa, Dung). Trong xóm ấp, bọn tề
ngụy bình định kìm kẹp nhân dân gắt gao, thường xuyên kiểm tra,
kiểm soát ngặt nghèo. Mật độ trọng lượng bom đạn bình quân trên
mỗi người có thể lên đến hàng tạ.
Từ tháng 10.1969 đến tháng 1.1970, dân quân du kích các xã
cùng C240 kiên cường bám trụ, đánh Mỹ, Thái Lan hơn 18 trận, tiêu
diệt 190 tên Mỹ và Thái Lan, bắn cháy 4 xe tăng M41 và 5 xe ủi đất,
bắn rớt 4 máy bay trực thăng, phản lực.
Phối hợp với phong trào diệt máy bay rà thấp, bộ đội, du kích các
xã: Bình Sơn, Phú Hội, Lộc An, Tam An, Phước Thiền, Phú Thạnh
đã chủ động đẩy mạnh hoạt động vũ trang. Đối với những xã bị địch
khống chế mạnh như Phú Thạnh, Phước Kiển, Phước Thọ, Phước
Long, Phước Lai, Tam Phước, Long An thì huyện tăng cường thêm
cán bộ về hỗ trợ xã gây dựng cơ sở. Ở Vĩnh Thanh, huyện đưa đồng
chí Trương Văn Phương (Tư Phương) về phụ trách, thay cho đồng
221

23.2 Page 222

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chí Nguyễn Khắc Bích về huyện nhận nhiệm vụ Huyện đội phó Long
Thành1. Đồng chí Trương Văn Phương quê ở xã Đại Phước, gia đình
có truyền thống cách mạng, bản thân đồng chí tham gia kháng chiến
từ rất sớm, là người mà tên cảnh sát Nghĩa từng thề phải tiêu diệt cho
bằng được (sau này tên cảnh sát Nghĩa bị đội du kích Vĩnh Thanh
diệt). Trong một trận đánh, đồng chí Tư Phương bị thương, cụt mất
một tay, nhưng điều này không ảnh hưởng đến tinh thần và hiệu quả
hoạt động của đồng chí. Ở Vĩnh Thanh, đồng chí được gia đình bà
Nguyễn Thị Thể nuôi giấu, từ đó mở rộng hoạt động từ Đại Phước
sang Vĩnh Thanh, Phước Khánh.
Vào một chiều đầu mùa hè 1969 đồng chí Nguyễn Văn Đạt (quê ở
xã Phú Hữu) cùng mấy anh em du kích ở xã Vĩnh Thanh lấy vó làm
te xuống kéo tôm ở vịnh Cây Mắm đoạn giữa sông Ông Kèo. Đạt ở
giữa dòng, anh em ở phía cạn. Một con sấu lớn táp gọn Đạt rồi lặn
mất tăm. Một thời gian sau khi anh Đạt bị cá sấu gắp, anh em du kích
Vĩnh Thanh bắn rơi một trực thăng Mỹ ngay vịnh Cây Mắm. Mấy
con cá sấu cư ngụ vịnh này bao vây chiếc máy bay rơi, đuôi chúng
quật “ành ành” vào thân máy bay.
Khí thế quần chúng được nâng lên, lực lượng cách mạng được
củng cố và phát triển. Khởi đầu là tiếng súng diệt ác của du kích
Phú Hội, diệt cảnh sát Tư và trung sĩ bảo an tại cầu Sắt, cách bót
địch không đầy 100m. Sau đó, du kích Bình Sơn, Phú Thạnh, Phước
Thiền, Tam An cũng tăng cường diệt ác ôn. Lực lượng vũ trang địa
1  Đồng chí Nguyễn Khắc Bích hy sinh ngày 18.3.1972 trong một trận đánh tại
khu vực Miễu Mựt Trang, xã Long Thọ. Lúc bấy giờ đồng chí là Thượng úy.
222

23.3 Page 223

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
phương phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức tập kích, pháo kích vào
các đồn Bình Lâm, Long Phước, Bình Sơn.
Chỉ trong thời gian ngắn từ những ngày cuối tháng 2 tới trung
tuần tháng 6.1972 hơn 100 tên địch bị diệt, hàng chục tên ác ôn bị
trừng trị, bị bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ dân sự bị phá rã, ta thu
24 súng các loại và 2 máy truyền tin.
Sau cuộc họp Ban Thường vụ Phân khu 4 đầu tháng 2.1970, đồng
chí Chín Lê và đồng chí Nguyễn Hải đi khu Lòng Chảo chuẩn bị địa
điểm đại hội, đúng lúc hàng trăm xe quân sự Mỹ đổ quân càn quét
dài ngày thực hiện việc “lột da Lòng Chảo”. Tình hình không cho
phép mở Đại hội ở khu Lòng Chảo Nhơn Trạch, Ban Thường vụ
Phân khu 4 bàn, chọn khu căn cứ Ông Trữ làm địa điểm tiến hành
Đại hội. Đại hội tiến hành trong hai ngày 19 và 20.3.1970.
Sáng 19.3, bản báo cáo chính trị của Đại hội và một số tham luận
được đọc. Buổi chiều, tiến hành bầu cử Ban Chấp hành, Ban Thường
vụ. Đồng chí Lê Đình Nhơn làm Bí thư Phân khu ủy.
Đại hội bầu cử chưa xong thì hàng trăm xe tăng thiết giáp Mỹ ào
ạt kéo vào chốt chặn toàn bộ khu rừng cầu Ông Trữ, toàn bộ đại biểu
đại hội nằm gọn trong vòng vây dày đặc của xe tăng thiết giáp địch.
Do đã có chuẩn bị dự phòng, tất cả đại biểu dự đại hội được bảo vệ
an toàn, được dẫn đường về địa điểm dự bị là đồi Trâm Lang. Tại đồi
Trâm Lang, Đại hội tiếp tục bàn một số công việc quan trọng khác:
bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là hai huyện Long Thành, Nhơn
Trạch; phân công cán bộ đi chiến trường và vấn đề xây dựng căn cứ,
vận động lương thực.
223

23.4 Page 224

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Đến cuối tháng 3.1970, Trung ương Cục quyết định điều động
đồng chí Lê Đình Nhơn về tỉnh Bà Rịa, chỉ định đồng chí Nguyễn
Hải làm Quyền Bí thư; sau đó, Ban Thường vụ Phân khu ủy tiến
hành bầu cử, đồng chí Nguyễn Hải trúng cử Bí thư Phân Khu ủy
Phân khu 4.
Tháng 10.1970, Tỉnh ủy rút đồng chí Ba Hạnh (Nguyễn Công
Hạnh) Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch về tỉnh, điều đồng chí Nguyễn
Văn Xuân - Phó Bí thư Huyện ủy Long Thành về lại Nhơn Trạch
thay đồng chí Ba Hạnh làm Bí thư Nhơn Trạch. Theo chỉ đạo của
Ban Thường vụ Phân khu ủy, Huyện ủy Nhơn Trạch phải quyết tâm
bám trụ, chỉ đạo các xã dọc lộ 17 (Long Tân, Phú Hội, Phú Mỹ,
Phước Thiền) phát động quần chúng các xã bung ra chăm sóc lúa
trên đồng, chuẩn bị thu hoạch vụ mùa. Các ngành cấp huyện phân
công cán bộ xuống xã, vừa công tác vừa phân tán lực lượng tránh tập
trung để giảm bớt hy sinh tổn thất. Đồng thời Huyện ủy chỉ đạo địa
phương liên tục đánh phá bình định của giặc, giữ vững phong trào
trong xóm ấp.
IV. Hình thành Đội vũ trang tuyên truyền di cư
Tháng 5.1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể
Ban Cán sự T7, thành lập 2 Phân khu: Phân khu Thủ Biên và Phân
khu Bà Rịa. Các huyện Long Thành, Nhơn Trạch cùng với Đảng ủy
Cao su nhập vào Phân khu Bà Rịa. Đầu tháng 12.1971, Ban Chấp
hành Phân khu ủy Bà Rịa họp hội nghị mở rộng tại núi Bể. Hội nghị
đánh giá thành tích chiến đấu trong 4 năm của Phân khu 4 (Long
Thành, Nhơn Trạch, Cao su và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh):
224

23.5 Page 225

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
1. Toàn dân, toàn quân và toàn Đảng bộ Phân khu 4 kiên cường
bám trụ chiến trường, liên tục tấn công địch, thu kết quả: Tiêu diệt
hơn 4.000 lính Mỹ, Thái, Úc và ngụy (trong đó có hơn 2.000 quân
Mỹ, 1.660 quân Thái Lan) và hàng trăm tên bình định nông thôn,
tề, điệp ác ôn. Bắn rơi 69 trực thăng, đánh chìm khoảng 300 tàu lớn
nhỏ, bắn cháy hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, đốt cháy hàng triệu
tấn xăng dầu và bom đạn các loại. Tổ chức hàng ngàn cuộc đấu tranh
trực diện với hàng trăm lượt quần chúng công nhân, nông dân tham
gia. Vận động hàng ngàn binh sĩ Sài Gòn đào ngũ, rã ngũ; tổ chức
hàng chục cuộc binh biến diệt ác, phá đồn, vác súng trở về với cách
mạng. Nhiều ấp, xã phát triển đoàn viên, đảng viên, lập được chi
đoàn mật, chi bộ mật trong xóm ấp. Củng cố và phát triển các hội
quần chúng, phát triển trên cơ sở nội tuyến trong lòng địch, hơn 500
thanh niên nam nữ tham gia du kích, vào bộ đội chống Mỹ, hàng
chục ngàn lượt dân công tham gia phục vụ chiến trường.
2. Phân khu 4 đã hoàn thành nhiệm vụ trên giao “Cùng cả nước
đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn Hội
nghị Paris, phải từng bước xuống thang rút dần quân Mỹ và chư hầu
về nước; tạo tiền đề đạt tới nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút, đánh cho
ngụy nhào” như lời của Bác Hồ kính yêu.
3. Quân dân Phân khu 4 vượt qua một chặng đường đầy gian khổ,
chấp nhận mất mát đau thương không bờ bến chưa từng có. Toàn
dân, toàn quân, toàn Đảng bộ Phân khu 4 trải qua thực tiễn đã rút
ra nhiều bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Bài học xuyên suốt là: trung với Đảng, hiếu với dân, nắm vững chủ
trương đường lối của Đảng với tư tưởng tiến công cách mạng trong
225

23.6 Page 226

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
mọi hành động, tổ chức. Bài học bám đất, bám dân để phát huy
sức mạnh vô địch của lòng yêu nước tiềm ẩn trong mọi tầng lớp
nhân dân.
Hội nghị Phân khu Bà Rịa đã tập trung khái quát tình hình toàn
diện, những khó khăn, thuận lợi của từng huyện. Hội nghị cũng kiểm
điểm việc chấp hành Chỉ thị 33 của Trung ương Cục về “Tập trung
chỉ đạo đánh phá bình định, phát triển phong trào làm chủ xã, ấp trên
khắp nông thôn”. Hội nghị quán triệt chủ trương của Bộ Chính trị và
Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về “Quyết
tâm mở cuộc phản công chiến lược trên toàn miền Nam, đánh bại
cơ bản chương trình bình định nông thôn của địch, hỗ trợ đắc lực
cho cuộc hội đàm tại Hội nghị Paris”. Phần cuối, hội nghị xác định
nhiệm vụ cụ thể từng địa bàn thuộc Phân khu để thực hiện Chỉ thị 33
trong năm 1972, và phân công cán bộ chỉ đạo từng huyện, từng vùng.
Đồng chí Nguyễn Văn Thông được phân công phụ trách các huyện
Long Thành, Nhơn Trạch và cao su Bình Sơn.
Sau hội nghị, các Huyện ủy, Đảng ủy Cao su được hướng dẫn kế
hoạch đẩy mạnh hoạt động đánh phá bình định trong mùa mưa, tạo
thế mới, lực mới chuẩn bị “chồm lên” trong năm 1972-1973.
Tháng 7.1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí Phạm Thanh
Lý, Quyền Bí thư Huyện ủy (thay đồng chí Phạm Minh Chính, Bí
thư Huyện ủy hy sinh vào năm 1971) triệu tập hội nghị 30 cán bộ chủ
chốt tại địa đạo Phước An quán triệt Chỉ thị 33. Hội nghị tập trung
thảo luận và xác định:
- Vùng trọng điểm số 1 của đợt đánh phá bình định nông thôn là
các xã: Phú Hội, Long Tân, Phú Mỹ và Phước Thiền. Yêu cầu đặt ra
226

23.7 Page 227

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
là lực lượng hoạt động công khai phải làm chủ cả ban đêm và bàn
ngày, đánh phá bình định cần đi đôi với xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng.
- Vùng trọng điểm thứ 2 gồm các xã: Phước Thọ, Phước Long,
Phước Lai, Phước Kiển, cần sử dụng nội tuyến kết hợp với lực lượng
vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt các đoàn bình định
nông thôn.
- Vùng thứ 3 gồm các xã: Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước
Khánh, đánh phá bình định kết hợp với yêu cầu phát động quần
chúng kết hợp với cơ sở binh vận trong lực lượng phòng vệ dân sự.
Chú ý xây dựng cơ sở và nắm nghĩa quân cùng dân vệ để phá lỏng,
phá rã bộ máy kềm kẹp của địch.
Riêng vùng Vĩnh Thanh là nơi có đông đồng bào miền Bắc di
cư, phần lớn theo đạo Thiên Chúa thì bố trí một số cán bộ có kinh
nghiệm hoạt động ở vùng giáo như đồng chí Phạm Văn Duyên (Hai
Duyên), vận động đồng bào bung ra trồng trọt ở vùng Bàu Sen,
Hang Nai.
Hội nghị thảo luận và quyết định vấn đề phát động nông, ngư dân
bám ruộng đồng trồng tỉa, bám sông rạch đánh bắt cá tôm. Chú ý bố
trí đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ bà con canh tác ở những cánh
đồng rộng như: Ông Mai, Ông Thuộc, Chà Là...
Hội nghị đánh giá: Nhơn Trạch tuy có nhiều khó khăn, nhưng
hoàn toàn có khả năng thực hiện Chỉ thị 33.
Sau Hội nghị, theo sự chỉ đạo của Huyện ủy, đồng chí Phạm Văn
Duyên về Vĩnh Thanh, thành lập Đội vũ trang tuyên truyền di cư
227

23.8 Page 228

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
(K11). Đồng chí Phạm Văn Duyên (còn gọi là Hai Duyên) tên thật
là Phạm Văn Ruynh, sinh năm 1935 tại tỉnh Thái Bình. Năm 20 tuổi,
đồng chí vào ngành Công an. Năm 1968, đang công tác ở Phòng bảo
vệ nội bộ của Ty Công an tỉnh Thái Bình, đồng chí Hai Duyên được
điều động vào Nam trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968 với mục tiêu hỗ trợ tiếp quản nếu thắng lợi. Vượt Trường
Sơn vào đến chiến trường Phân khu 4, đồng chí đến ngay huyện
Nhơn Trạch, nơi cuộc chiến đang hồi ác liệt.
Lúc mới thành lập, Đội vũ trang tuyên truyền di cư có 6 người:
đồng chí Phạm Văn Duyên làm Bí thư, Hồ Thanh Lâm là Đội trưởng,
Út Hòa (người Phước An), Lê Trung Thành (người ấp Quới Thạnh,
lúc này thuộc Vĩnh Thanh), Nguyễn Văn Mới (Mười Mới, người
Vĩnh Thanh), Phan Văn Cảnh (người Long Thọ). Một thời gian sau,
đồng chí Hồ Thanh Lâm chuyển về C2401, đồng chí Út Hòa lên Đội
trưởng, Đội K11 bổ sung thêm đồng chí Thân Hợp Tuyển (người
Vĩnh Thanh). Sau khi đồng chí Út Hòa hy sinh, huyện bổ sung đồng
chí Ngô Thanh Thúy (quê Hà Tây) về làm Đội trưởng. Một thời gian
sau, đội K11 bổ sung thêm các đồng chí: Đặng Văn Thì (người Vĩnh
Thanh)2, Hà Yêm, Vương Toản, Bùi Hữu Lý, Bùi Mạnh Đức3. Đội
K11 được trang bị vũ khí khá đầy đủ, ngoài súng AK còn có cả B.40,
M.79, M.16. Căn cứ của Đội ở khu vực Hầm Đá thuộc địa bàn xã
1  Về C240 một thời gian, đồng chí Hồ Thanh Lâm hy sinh.
2  Đồng chí Đặng Văn Thì bị thương rồi bị bắt trong trận đánh bảo vệ Hội nghị
Phước An năm 1967, bị địch giam ở trại giam Phú Quốc, được trao trả tại Lộc
Ninh năm 1973, sau đó về Đội K11.
3  Đồng chí Bùi Mạnh Đức quê ở Hà Bắc, thuộc lực lượng chi viện cho chiến
trường miền Nam.
228

23.9 Page 229

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Phước An, cách Vũng Gấm khoảng 1km. Đội được huyện cấp phát
tiền lương, còn lương thực, thực phẩm thì có các cơ sở ở Quới Thạnh
cung cấp1, đội cũng tự túc tăng gia trồng rau củ, nuôi gà để cải thiện
đời sống.
Về trường hợp đồng chí Thân Hợp Tuyển, có thể nói đây là “minh
họa điển hình” cho tình hình ở Vĩnh Thanh. Gia đình đồng chí Tuyển
là dân Công giáo di cư vào sinh sống ở giáo xứ Thiết Nham, bước
vào tuổi thanh niên đồng chí Tuyển thấy cuộc sống nơi đây quá ngột
ngạt nên muốn đi theo cách mạng, nhưng không quen biết với một ai
nên cứ thế rời nhà đi vào rừng. Đi đến trưa, đồng chí gặp một em nhỏ
khoảng 9-10 tuổi, hỏi đi đâu, đồng chí trả lời muốn đi gặp Việt cộng.
Em nhỏ trợn mắt: “Nói giỡn hoài ông. Thôi, ông đi về đi, không thôi
lính biết được bắt chết đó”. Rồi em đi về, còn đồng chí Tuyển quyết
tâm theo cách mạng nên vẫn ở lại, mệt mỏi nên ngủ dưới gốc cây.
Đến chiều em nhỏ quay trở lại, hỏi: “Bộ ông đi tìm Việt cộng thiệt
hả”, đồng chí gật đầu, thế là em nhỏ đưa đồng chí Tuyển đến Đội
K11. Em nhỏ ấy tên là Lê Văn Giao, người ở ấp Quới Thạnh, đưa
đồng chí Tuyển đến gặp anh trai là Lê Trung Thành, chiến sĩ của Đội.
Sau khi hỏi kỹ lý lịch, nguyện vọng, đồng chí Phạm Văn Duyên nhận
đồng chí Tuyển vào Đội. Trường hợp của đồng chí Tuyển cho thấy
dù địch nhận định Vĩnh Thanh là “vùng trắng”, nhưng trong thực tế
phong trào cách mạng nơi đây vẫn phát triển mạnh mẽ, người dân
vẫn che chở, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ cách mạng, thanh niên Vĩnh
Thanh kể cả ở vùng giáo vẫn hướng về cách mạng.
1  Ấp Quới Thạnh có nhiều gia đình là cơ sở cách mạng.
229

23.10 Page 230

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Thời điểm này, ở Vĩnh Thanh, 8 ấp di cư mỗi ấp là một giáo xứ có
nhà thờ riêng và được bao bọc bằng hàng rào kẽm gai với hệ thống
giao thông hào kín như bưng đến mức chó chui vào cũng không lọt.
Mỗi cổng ấp đều có phòng vệ dân sự canh gác chặt chẽ. Đặc biệt,
nhà nào cũng có vũ khí để sẵn sàng chống “bọn Cộng sản vô thần”.
Nhiệm vụ của Đội vũ trang tuyên truyền di cư, như tên gọi, là tìm
nhiều cách để tiếp cận, tuyên truyền cho người dân Công giáo di cư
hiểu đường lối, mục tiêu của phong trào giải phóng dân tộc, qua đó
làm thay đổi nhận thức của họ đối với cách mạng, thay đổi về suy
nghĩ, thái độ và tiến đến tạo hành động trong đồng bào Công giáo di
cư ở Vĩnh Thanh. Bởi từ lâu Ban Thường vụ Huyện ủy đã nhận định
rằng đồng bào Công giáo di cư Vĩnh Thanh cũng là một bộ phận máu
thịt của dân tộc, đại đa số đều có tinh thần yêu nước, chỉ do sự khích
bác, cố tình gây chia rẽ của chính quyền Sài Gòn cũng như chưa hiểu
hết về cách mạng nên mới có sự dè dặt, phân cách, vì vậy cần phải
xóa tan hiểu lầm, kéo gần khoảng cách, đưa họ vào khối đại đoàn
kết dân tộc.
Các chiến sĩ Đội K11 phân công nhau ra khu vực Cống Bò (thuộc
địa bàn ấp Thiết Nham) - là nơi một số giáo dân di cư trong ấp
thường đến làm rẫy, chặt củi - để làm công tác dân vận. Ban đầu
các giáo dân thấy các chiến sĩ thì rất sợ hãi, bỏ chạy. Đồng chí Hai
Duyên bèn mặc áo sơ mi trắng trông vẻ rất “thư sinh”, một mình ra
tận cánh đồng Bắc Minh vắng vẻ để bắt chuyện với bốn thanh niên
ở ấp Đại Điền đang phát cỏ. Không kịp bỏ chạy nhưng họ run cầm
cập khi nghe người “phía bên kia” hỏi chuyện. Nghe Hai Duyên nói
giọng Bắc và nhìn vẻ mặt đôn hậu, hiền lành của đồng chí, họ bình
tĩnh trở lại và bắt đầu yên tâm trò chuyện. Phải mấy lần “bắt chuyện”
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
như thế, những thanh niên ở đây mới dần dần hết sợ Việt cộng. Đồng
chí Hai Duyên cũng nhận ra được là bà con Công giáo di cư hầu hết
đều là người lao động, nông dân nghèo chỉ biết lam lũ làm ăn. Vốn
xuất thân trong hoàn cảnh bần hàn, Hai Duyên rất thông cảm điều
này, thế là ông bàn cùng anh em trong đội tìm cách giúp đỡ số đồng
bào này đỡ nhọc nhằn hơn trong cuộc mưu sinh. Những lần sau các
chiến sĩ ở xa xa quan sát, thấy giáo dân buổi trưa sau khi làm việc
xong thường tìm nơi có bóng mát ngồi ăn cơm, nghỉ ngơi, nên cả đội
xúm nhau chặt cây, đánh tranh cất vài căn chòi cho giáo dân có nơi
nghỉ ngơi.
Một thời gian sau các giáo dân dần quen với “Việt cộng”, các
chiến sĩ bắt đầu giúp họ làm việc không nề hà nặng nhọc, vất vả.
Trong khu vực này có căn cứ của Trung đoàn Hắc Báo Thái Lan cũ,
đã bỏ hoang, người dân hay ra đây tháo gỡ vật liệu đem về sử dụng,
các chiến sĩ Đội K11 cũng tháo dây kẽm gai, nhổ cọc sắt bó lại để đó
cho dân ra lấy nên dần dần được giáo dân từ bớt sợ đến ngày càng
quý mến, trong đó có bốn gia đình giáo dân ở ấp Thiết Nham rất tin
cậy thường mua giúp thuốc men, lương thực. Từ các giáo dân này,
việc “các ông Việt cộng trong rừng hiền lành, dễ mến, hay giúp dân”
dần lan rộng trong các giáo xứ, nhiều người (chủ yếu là phụ nữ) vì
tò mò cũng kéo nhau vào rừng “xem mặt Việt cộng”, kháo với nhau
“Việt cộng cũng to con, bảnh trai chứ đâu có ốm yếu 3, 4 người đeo
cành đu đủ không gẫy” như bọn địch xuyên tạc. Đặc biệt, từ lúc có
đồng chí Tuyển tham gia Đội K11, thông tin “Việt cộng không có
ghét người Công giáo”, “dân Công giáo cũng có người tham gia Việt
cộng” lan ra mạnh mẽ trong cộng đồng dân di cư, góp phần thay đổi
231

24.2 Page 232

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
phần nào nhận thức của giáo dân về cách mạng. Từ bốn gia đình giáo
dân nòng cốt ban đầu, đã tăng lên 30 gia đình ở ấp Thiết Nham ra cất
chòi làm rẫy, rồi lan ra đến 80 gia đình ở các ấp lân cận là Đại Điền,
Nghĩa Mỹ có cảm tình với cách mạng, thường xuyên giúp đỡ các
chiến sĩ Đội K11. Qua gần gũi, tiếp xúc, Hai Duyên đã giác ngộ và
móc được năm thanh niên tình nguyện cung cấp tin tức cho an ninh
huyện. Trong đó có một liên toán trưởng nhân dân tự vệ sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ do an ninh huyện giao. Đặc biệt, thông qua các
ông trùm họ đạo, đồng chí Hai Duyên lần lượt móc nối với hầu hết
các chức sắc tôn giáo ở xứ đạo toàn tòng này
Một thời gian sau, Đội K11 chia làm hai tổ, một tổ hoạt động
tuyên truyền ở bốn ấp: Thiết Nham, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Hiệp, Đại
Điền, tổ còn lại hoạt động ở bốn ấp đầu kia của Vĩnh Thanh: Nghĩa
Yên, Bắc Thần, Bắc Minh, Vĩnh Phước. Huyện ủy cấp cho Đội K11
chiếc xuồng để tiện đi lại vùng sông nước. Không chỉ làm công tác
tuyên truyền, Đội K11 còn phối hợp với du kích địa phương đánh
địch khi có yêu cầu. Năm 1973, Đội K11 phối hợp với Tư Nhu, Xã
đội trưởng Phước An phục kích tiêu diệt hai tên cảnh sát ác ôn ở khu
vực nghĩa trang ấp Quới Thạnh, một tên chết tại chỗ, tên kia chạy
thoát nhưng do sợ hãi nên sau đó co vòi không dám hoành hành như
trước nữa1.
Ngày 5.9.1974, đồng chí Nguyễn Văn Mới được Bí thư Phạm
Văn Duyên tổ chức kết nạp Đảng. Cũng trong ngày này, thanh niên
1  Tháng 8.1973, 5 du kích xã Phước An phối hợp với 10 đồng chí của Đại đội
240 tập kích ban ngày vào Quới Thạnh, diệt gọn một trung đội dân vệ, bắt sống
một tên hạ sĩ, thu 13 súng.
232

24.3 Page 233

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Thân Hợp Tuyển được kết nạp Đoàn, giữ nhiệm vụ Bí thư chi Đoàn
của Đội K11.
Đầu tháng 9.1972, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông triệu tập
hội nghị tập trung bàn, quyết định ba vấn đề quan trọng:
1. Sử dụng toàn bộ lực lượng thực hiện nhiệm vụ giành dân lấn
đất với địch trong mùa khô 1972-1973.
2. Chuẩn bị triển khai Chỉ thị số 08/CT của Thường vụ Trung ương
Cục về “gấp rút xây dựng phát triển, bố trí lực lượng chính trị thành
thế chiến lược vững mạnh, kịp thời đáp ứng yêu cầu, trách nhiệm
trước mắt. Hoàn chỉnh việc trang bị cho cán bộ các cấp và đảng viên
về tinh thần và vật chất vững chắc nhằm giành thắng lợi trước mắt và
sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phát triển của tình hình”.
3. Thông báo Quyết định của Trung ương Cục: Giải thể các phân
khu, lập lại khu ủy miền Đông, lập lại các tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa -
Long Khánh. Huyện Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên Hòa.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương Cục, ngày 28.9 hơn 50 cán bộ
chiến sĩ trong đó có các đồng chí Nguyễn Trọng Cát, Nguyễn Việt
Hoa, Nguyễn Văn Thông, Võ Văn Định, Lưu Thị Huấn, Mai Thị
Liễu từ căn cứ của tỉnh Bà Rịa về Bàu Hàm (huyện Trảng Bom). Dựa
vào căn cứ cũ của đơn vị bộ đội Đoàn 113, Tỉnh ủy Biên Hòa lập căn
cứ ở Bàu Sao phía Bắc Trảng Bom (bờ Nam sông Đồng Nai).
Hội nghị Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp phiên đầu tiên
từ ngày 15 đến 20.10.1972 xác định: “Tỉnh Biên Hòa có vị trí chiến
lược quan trọng, địch xây dựng nhiều căn cứ quan trọng như: sân
bay Biên Hòa, kho bom Thành Tuy Hạ, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3,
233

24.4 Page 234

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Nha cảnh sát đặc biệt miền Đông, tổng kho Long Bình, căn cứ Nước
Trong. Biên Hòa chưa có xã giải phóng như một số địa phương khác,
nhưng cán bộ huyện, xã đều bám được địa bàn, bám dân xây dựng cơ
sở, phát động tổ chức phong trào quần chúng nổi dậy, thực lực cách
mạng nơi nào cũng phát triển. Phát huy thắng lợi đã giành được, lực
lượng cách mạng ở Biên Hòa tập trung tiến công địch, chống càn
quét lấn chiếm, kết hợp chặt chẽ ba mặt vũ trang: chính trị, binh vận,
quân sự; phát động quần chúng diệt ác phá kềm, trấn áp bọn phản
cách mạng ở vùng yếu, vùng tranh chấp, tạo điều kiện cho dân bung
mạnh ra sản xuất, bao vây lấn địch giành quyền làm chủ ấp, xã, tạo
thế lực mạnh mẽ chuẩn bị “chồm lên” tiến công địch, mở rộng vùng
khi có giải pháp chính trị, đồng thời sẵn sàng cùng toàn Miền đánh
bại ấm mưu ngoan cố kéo dài chiến tranh của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn”.
Sau hội nghị, các đồng chí Ủy viên Thường vụ và Tỉnh ủy viên
nhanh chóng tỏa đi khắp các địa phương Vĩnh Cửu, Trảng Bom,
Long Thành, Nhơn Trạch, Dĩ An, Tân Uyên, Duyên Hải, Đảng ủy
Cao su và thị xã Biên Hòa triển khai nghị quyết và xây dựng kế
hoạch hoạt động cụ thể.
Ngày 23.12.1972, Thường vụ Trung ương Cục chính thức ra
quyết định Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa gồm 19 đồng chí, do
đồng chí Nguyễn Trọng Cát - Ủy viên Thường vụ Khu ủy miền Đông
làm Bí thư Tỉnh ủy; Phó Bí thư Tỉnh ủy là các đồng chí Nguyễn Văn
Thông, Phan Văn Trang. Theo quyết định này, đồng chí Nguyễn Văn
Xuân là Tỉnh ủy viên phụ trách địa bàn Nhơn Trạch.
234

24.5 Page 235

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa, quân dân Nhơn
Trạch cùng toàn tỉnh mở đợt tiến công đồng loạt nổ ra từ đêm 24.10
đến ngày 5.11.1972. Kết quả được tổng hợp toàn tỉnh:
- Diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 1.814 tên, bắt sống 6 tên (có 1
đại úy). Diệt gọn 4 đại đội bảo an, 20 trung đội dân vệ, 1 trung đội
trinh sát biệt động quân. Đánh thiệt hại nặng 16 đại đội, 18 trung đội
bảo an, dân vệ.
- Bắn rơi 6 máy bay, bắn cháy xe quân sự, phá 6 khẩu pháo.
- Thu 172 súng các loại.
- Hàng chục ngàn đồng bào đấu tranh chính trị, binh vận nhằm
chống địch đàn áp khủng bố, làm rã bộ máy kềm kẹp ấp, xã ở nhiều
huyện.
Sau đợt “Đồng khởi năm 1972” và “chồm lên chiếm lĩnh” của lực
lượng cách mạng, địch đã rất hoang mang lo sợ, thì tiếp theo đó các
trận đánh hiểm vào kho đạn Thành Tuy Hạ càng làm cho địch dao
động và hoảng sợ hơn.
Từ năm 1972, chiến trường miền Nam trở nên ác liệt. Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam đã làm chủ nhiều vùng đất trên khắp
miền Nam, địch tăng cường sử dụng lực lượng không quân ném bom
đánh phá vùng giải phóng và hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn trong các
đợt càn quét, đồng thời tăng cường ném bom đánh phá miền Bắc.
Để hạn chế sức mạnh quân sự của địch và cổ vũ cho phong trào nổi
dậy của nhân dân miền Nam, lực lượng của Đoàn 113 đặc công Miền
Đông Nam Bộ, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác của quân giải phóng đã
nhiều lần đột nhập tấn công kho bom Thành Tuy Hạ phá hủy hàng
chục ngàn tấn bom đạn gây tổn thất nặng nề, làm cho địch hoang
235

24.6 Page 236

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
mang lo sợ. Những trận tấn công vào kho tàng địch đã tạo tiếng vang
ở trong nước cũng như trên thế giới, điều đó đã cổ vũ mạnh mẽ cho
phong trào cách mạng của các địa phương làm cho nhân dân ta vô
cùng phấn khởi và tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng.
Tại Vĩnh Thanh, đồng chí Tư Phương chỉ đạo Đội du kích xã
phải tiêu diệt tên trưởng đồn Xoài Minh là Nguyễn Văn Hiệu. Hiệu
là dân giáo xứ Bắc Minh, khi về làm trưởng đồn thì hoành hành
ngang ngược, đến mùa lúa ngang nhiên đưa xe đến xúc lúa dân vừa
thu hoạch, người dân nuôi vịt chạy đồng lấy trứng thì hắn cướp cả
hột vịt, tổ chức cờ bạc rồi trắng trợn cướp tiền của người chơi bạc.
Nghiêm trọng nhất là hắn thường cho lính rình mò các gia đình có
người tham gia cách mạng, hoặc tống tiền, hoặc tìm cách bắt bớ để
lập công, lãnh thưởng. Hiệu mê sắc đẹp của chị Giàu, chị ruột của
đồng chí Nguyễn Văn Thông ở Xoài Minh, thường đến nhà để tán
tỉnh. Đồng chí Sáu Đước (người Phú Hữu, hoạt động ở Vĩnh Thanh)
đề nghị phục kích tiêu diệt hắn ở nhà đồng chí Thông, nhưng đồng
chí Tư Phương không tán thành, sợ sau đó địch trả thù gia đình đồng
chí Thông. Cuối cùng, đồng chí Sáu Đước chọn phục ở một đoạn
đường vắng vẻ mà tên Hiệu sẽ đi qua, lấy rơm đậy lại, đợi tên Hiệu
đến gần thì vùng dậy bắn vào ngực hắn. Bị bất ngờ, tên Hiệu không
kịp chống cự đã bị diệt, đồng chí Sáu Đước thu được khẩu súng Colt
hắn mang theo bên người, bà con Xoài Minh vui mừng vì bớt được
một tên ác ôn1. Em của Nguyễn Văn Hiệu là Nguyễn Văn Thảo trước
đây dựa thế anh cũng thường hạch sách, hoạnh họe dân chúng, sau
1  Năm 1974 đồng chí Sáu Đước bị lính của tên ác ôn Tám Tho bắn, hy sinh ở tắc Lò
Rèn, xã Phú Hữu.
236

24.7 Page 237

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
khi tên Hiệu bị tiêu diệt hắn điên cuồng tuyên bố sẽ trả thù cho anh,
thấy tên này cũng nguy hiểm không kém nên nhân lúc Thảo bị bệnh
sốt rét đi chữa bệnh ở bệnh xá Xoài Minh, cơ sở ta ở đây đã tìm cơ
hội diệt luôn tên này.
Sau khi Nguyễn Văn Hiệu bị tiêu diệt, địch đưa Hai Ru về làm
trung đội trưởng, trưởng đồn Xoài Minh (còn gọi là đồn Mười
Huỳnh). Trung đội này có từ 35-36 người, Hai Ru cũng có tiếng ác
ôn, thường cho lính phục kích, bắt bớ cán bộ, chiến sĩ của ta. Đoàn
10 đặc công quyết định đánh đồn Mười Huỳnh để trấn áp, trận đầu
tiên đánh vào đồn năm 1973 đã diệt được hai tên lính đồng thời làm
Hai Ru khiếp vía, sợ hãi đến nỗi quyết định bỏ luôn đồn. Ban ngày,
Hai Ru và đám lính vẫn có mặt ở đồn nhưng co cụm lại, không đi
khắp nơi hoành hành như trước, đến chiều tối thì cả quan lẫn lính rút
đi sạch sẽ, không một ai ở lại thủ đồn như trước kia. Nhưng với bản
chất ngoan độc, trước khi đi Hai Ru bí mật cho gài trái xung quanh
đồn. Các chiến sĩ Đoàn 10 không biết nên khi tiếp cận đồn đã bị nổ
trái hy sinh hai đồng chí. Người dân Xoài Minh xin trưởng đồn Hai
Ru cho đem hai đồng chí Đoàn 10 về chôn cất trong nghĩa trang
của ấp1.
Đầu năm 1972, sau hội nghị tổng kết tại Trung ương Cục miền
Nam, các lực lượng được thông báo tình hình phía Mỹ không chịu ký
Hiệp định Paris đúng thời gian thỏa thuận với Chính phủ cách mạng
lâm thời miền Nam Việt Nam, đồng thời ráo riết chuẩn bị tập kích
1  Sau ngày đất nước thống nhất, đồng đội, gia đình hai đồng chí này được sự hướng
dẫn của người dân tìm được nơi chôn cất và đã cải táng.
237

24.8 Page 238

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
miền Bắc bằng không quân, âm mưu đưa miền Bắc XHCN “trở về
thời kỳ đồ đá”.
Năm 1972, Bộ Tư lệnh miền Quân giải phóng mở chiến dịch
mang tên Nguyễn Huệ nhằm mục tiêu mở rộng vùng giải phóng trên
địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ uy hiếp Sài Gòn từ hướng Bắc và Tây
Bắc. Hướng tiến công chủ yếu và thứ yếu nhằm vào Lộc Ninh, Tây
Ninh; tỉnh Biên Hòa là địa bàn phối hợp nhằm thu hút, chia lửa chiến
trường. Nhiệm vụ của chiến trường Nhơn Trạch lúc này là thọc sâu,
đánh hiểm vào trung tâm đầu não của giặc, kéo căng, phân tán sinh
lực địch để chia lửa cho các hướng chủ yếu chiến dịch Nguyễn Huệ.
Kho bom Thành Tuy Hạ là mục tiêu quan trọng hàng đầu.
Khu kho Thành Tuy Hạ thuộc địa phận huyện Nhơn Trạch, cách
Sài Gòn về hướng Đông Nam khoảng 10km đường chim bay, phía
Bắc - Đông Bắc là lộ 17, Tây Nam là sông Nhà Bè và sông Lòng Tàu
ra biển Đông, hướng Đông là lô cao su Tân Tường, xã Long Tân.
Khu kho này do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1929, được xem
là dạ dày chiến tranh của quân Pháp và Mỹ ở Việt Nam. Cường độ
chiến tranh quy mô ngày càng cao, số lượng bom đạn, phương tiện
chiến tranh Mỹ - ngụy tập trung ở đây càng lớn. Diện tích khu kho
rộng 378,5ha (chia thành 6 khu nhỏ). Thành Tuy Hạ là khu kho “đầu
cầu” chứa và cung ứng bom đạn để Mỹ - ngụy đi gây tội ác ở Đông
Dương. Các tàu từ 10.000 - 12.000 tấn từ Mỹ vào sông Lòng Tàu đến
đậu giữa sông Đồng Nai, Cát Lái, rồi bốc hàng vào khu kho, sau đó
mới chuyển về tổng kho Long Bình và các nơi khác. Năm 1972, lực
lượng bảo vệ khu kho có 2 tiểu đoàn bảo an, 2 đại đội quân cụ, 1 đơn
vị pháo 105 ly, trên 100 chó becgiê. Bao quanh kho có hệ thống 10 lô
238

24.9 Page 239

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
cốt cách nhau 200m, khoảng giữa có một con chó becgiê. Từ ngoài
vào có 11 hàng rào các loại, giữa rào số 7 có một số dây chuyền điện,
10 bờ đê đất, cao độ 3 mét; có đường xe xen ở giữa trong rào, có bãi
mìn, cả hệ thống ánh sáng, đèn pha cực mạnh. Trên mỗi lô cốt có đèn
pha, ban đêm cứ 5 phút rọi một lần, cứ 10-15 phút có bộ binh và xe
tuần tiễu chạy chung quanh. Với hệ thống phòng thủ nghiêm ngặt,
chúng cho kho bom Thành Tuy Hạ là bất khả xâm phạm.
Tháng 3.1970, phân khu bổ sung cho C240 một bán đội đặc công.
Huyện đội Nhơn Trạch lúc bấy giờ do đồng chí Huỳnh Văn Tám
(Tám Quyết) làm Huyện đội trưởng; rút đồng chí Võ Văn Quyết
(Hai Quyết) đang làm Đại đội phó C240 huyện về làm Đội trưởng
đặc công; đồng chí Đơ - Đội phó, đồng chí Nghĩa làm Chính trị viên
(lấy phiên hiệu là B3). Thành phần B3 gồm có 7 chiến sĩ đặc công
phân khu tăng cường về (Nguyễn Văn Đơ, Nghĩa, Nguyễn Hữu Hòa,
Vận, Long, Trình và Ty); bổ sung 10 chiến sĩ của trung đội 1 và 2
C240. Đồng chí Hai Quyết được cử làm Đội trưởng B3, đồng chí Đơ
làm Đội phó để tiến hành nghiên cứu đánh kho đạn. Ban chỉ huy đội
quyết tâm trong tháng 4.1972 tiến hành điều nghiên khu kho Thành
Tuy Hạ, khi nắm chắc là tổ chức đánh ngay.
Lần thứ nhất, đầu tháng 4.1972, đơn vị chính thức lấy tên là Trung
đội 3 của Đại đội 240 huyện Nhơn Trạch, đứng chân tại căn cứ Cây
Trắc nằm gần khu Bàu Lòng, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đánh
kho bom Thành Tuy Hạ. Huyện đội điều thêm 3 đồng chí ở đội biệt
động Vĩnh Thanh phối thuộc làm nhiệm vụ đưa đường gồm: đồng
chí Học, đồng chí Thắng, đồng chí Bảy Quyết. Huyện đội điều đồng
chí Tám Chữ cùng đồng chí Lê Hoài Nam và đồng chí Trình lấy
239

24.10 Page 240

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
thuốc bom đúc thành trái nổ, mỗi trái nặng 5kg có 5 lỗ để tra kíp nổ
và kip hẹn giờ.
Đêm 6.4.19721, đội đặc công (B3) gồm 6 đồng chí cảnh giới cho
hai đồng chí Hai Quyết và Đơ đột nhập nghiên cứu kho Thành Tuy
Hạ để báo cáo quyết tâm với Huyện ủy. Được Huyện ủy đồng ý,
Ban Chỉ huy Huyện đội quyết định tấn công vào đêm 10.4.1972.
Sáng 10.4.1972, đồng chí Huyện đội trưởng Tám Quyết dự lễ xuất
quân, giao nhiệm vụ cho đội đặc công (B3). Toàn đội xác định mục
đích, ý nghĩa, tầm quan trọng trận đánh vào khu kho Thành Tuy Hạ.
Mục đích: Đáp lời kêu gọi của Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền,
quyết giành thắng lợi cao nhất để hợp đồng chung trên chiến trường
toàn Miền; phá hủy một số lượng vũ khí, phương tiện chiến tranh
của địch, gây thối động, đẩy mạnh du kích chiến tranh tạo đà phấn
khởi trong quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ;
nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, kỹ - chiến thuật cho đơn vị (B3);
lập thành tích kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5, ngày chiến thắng
Điện Biên Phủ 7.5 và ngày 19.5, sinh nhật Bác Hồ. Yêu cầu của trận
đánh: Chuẩn bị chu đáo tỉ mỉ vật chất, quyết tâm dù tình huống nào
cũng đánh cho bằng được, bảo đảm chính sách thương binh tử sĩ,
giữ vững ý chí chiến đấu, nếu bị lộ vẫn đánh, sẵn sàng hy sinh để
hoàn thành nhiệm vụ. Tham gia trận đánh: Gồm cả 10 chiến sĩ đặc
công; Chỉ huy trưởng là đồng chí Hai Quyết, Chỉ huy phó là đồng
chí Đơ và đồng chí Học, Chính trị viên là đồng chí Nghĩa. Cánh 1:
Đánh vào điểm với 5 đồng chí Quyết, Đơ, Hòa, Vận, Nghĩa, trang
1  Có tài liệu ghi: 4.4.1972.
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bị 9 khối thuốc nổ, 1 súng ngắn, 1 lựu đạn, 1 kìm cắt kẽm. Cánh 2:
Gồm 5 đồng chí của đội thị trấn do đồng chí Học chỉ huy, trang bị 1
B40, 1 M79, 2 AK giữ cửa mở, chế áp vào lô cốt chi viện khi lộ để
cánh 1 xông vào đánh.
Lúc 18 giờ ngày 8.4.19721 xuất quân; đội tập kết ở căn cứ đội biệt
động Vĩnh Thanh; một tổ gồm 3 đồng chí đi trước cảnh giới và dẫn
đường qua lô cao su Tân Tường, tiếp theo là mũi đánh bên trong kho
gồm các đồng chí: Hai Quyết, Đơ, Nghĩa, Vận, Hòa. Tổ phía sau có
đồng chí Ty, y tá và Trình. Tổ 5 người đột nhập vào kho với 9 khối
thuốc nổ, vượt qua 6 lớp rào, nép mình thoát các tổ tuần tra bằng xe
đạp, honda và ánh đèn quét từ các lô cốt; có lúc phải vượt rào lưới
B40 cao 3 mét và leo cây cao su để lọt vào trong; vào tới mục tiêu,
bố trí đánh theo đội hình cuốn chiếu từ trong đánh ra: trái nổ đặt 1
kho, bỏ 1 kho, đặt 1 dãy, bỏ 1 dãy để khi đánh trái kích thích nổ được
nhiều hơn. Sau khi vào kho, đồng chí Hai Quyết bị kẹt bên trong do
có 1 xe quân sự của địch, phải mất 15-20 phút mới ra được. Khi vượt
ra khỏi đường tuần tra bên trong thì chó bảo vệ phát hiện. Đồng chí
Đơ kẹt lại, hy sinh trong hàng rào. Số còn lại, về đến căn cứ du kích
xã Phú Hội an toàn. Đúng 5 giờ, kho đạn nổ long trời, địch thú nhận
có 75.000 tấn bom đạn bị phá hủy, chết: 15, bị thương: 25.
Đây là trận đánh lớn đầu tiên gây thiệt hại nặng cho kho bom
Thành Tuy Hạ làm nức lòng quân dân cả nước, quân giặc kinh hồn,
dư luận thế giới xôn xao.
1  Có tài liệu ghi: Ngày 8.4.1972.
241

25.2 Page 242

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Lần thứ hai diễn ra vào tháng 8.1972. Sau trận thứ nhất, B3 được
giao nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu để đánh Kho bom Thành Tuy Hạ
lần 2. Địch đã đề phòng, tăng cường chó nghiệp vụ và lính canh gác
cẩn mật, tuần tra vòng trong vòng ngoài suốt ngày đêm. Tổ công tác
phải điều nghiên nhiều lần mới lên được phương án đột nhập.
Đêm 4.8.1972, đồng chí Hai Quyết và Hòa mang theo khối nổ
quyết tâm vào kho bom. Ba đồng chí: Vận, Trình, Ty đi đưa đường.
Gần tới mục tiêu, đồng chí Hai Quyết và Hòa tiềm nhập vào bên
trong; đến chỗ bãi trống, làm công tác ngụy trang, may gặp trời mưa,
chó và lính canh không phát hiện, vượt 2 bờ đê và mấy lớp rào; tiếp
cận mục tiêu, đặt bom vào nhà kho lớn; cài giờ hẹn nổ từ 2,5 tiếng
đến 10 tiếng; rút lui an toàn. Đến 7 giờ sáng hôm sau, kho Thành Tuy
Hạ phát nổ; hơn 100.000 tấn bom mìn bị hủy.
Một thời gian sau, 3 đồng chí trong B3 lần lượt hy sinh khi đi
công tác, các đồng chí Hòa, Hai Quyết, Ty, Long sáp nhập về Đại
đội 32 thuộc Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác làm nhiệm vụ đánh
tiếp kho Thành Tuy Hạ hai trận nữa vào tháng 11 và tháng 12.19721.
Trận thứ ba do Đoàn 10 đặc công Rừng Sác lập công vào ngày
7.11.1972. Rạng sáng ngày 12.11.1972, kho bom Thành Tuy Hạ lại
rực lửa, tiếng nổ vang rền, khói đen bốc cao suốt 2 ngày đêm. Mấy
ngày sau, nguồn tin nội bộ và tin báo chí xác định 23 nhà kho chứa
thuốc nổ và 9 nhà kho bom napan bị thiêu rụi, khoảng 200.000 quả
bom mìn phát nổ.
1  Theo lời kể của Nguyễn Hữu Hòa trong Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân
dân Biên Hòa - Đồng Nai, NXB. Tổng hợp Đồng Nai, 2004.
242

25.3 Page 243

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Lần thứ tư cũng do Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác thực hiện, diễn
ra vào một tháng sau. 2 giờ 55 phút ngày 13.12.1972, Thành Tuy Hạ
phát nổ làm rung chuyển mặt đất, đỏ rực vùng trời, tiếng nổ và lửa
khói làm rúng động Sài Gòn, kéo dài 3 ngày đêm. Đây là đợt tập
kích lớn nhất, gây tiếng vang lớn nhất và làm Thành Tuy Hạ thiệt hại
nhiều nhất. Theo tài liệu lưu trữ của địch, 80 kho bị phá hủy sạch,
chứa khoảng 60.000 trái bom tương đương 80.000 tấn, riêng kho
bom CBU đóng kín trong thùng của 15 kho tương đương 33.000m3,
loại đạn pháo 105 li chứa trong 17 nhà kho hơn 1.000.000 quả bị phá
hủy 60%, khu bom thiệt hại 80%1.
Các trận tập kích kho bom Thành Tuy Hạ đã tiêu hao phần lớn
sinh lực địch, làm cho dạ dày chiến tranh của địch bị trọng thương,
tinh thần và thực lực của địch giảm sút khiến cho chiến dịch Nguyễn
Huệ ở các mặt trận nghiêng lợi thế về cho quân giải phóng.
Cùng với các trận tập kích Thành Tuy Hạ, Tỉnh đội còn chỉ đạo
gài thế để đánh địch, tạo ra những trận đánh tiêu diệt lớn tác động
hỗ trợ phong trào ở địa phương, mở thế thoát kìm cho dân, phối hợp
trong chiến dịch Nguyễn Huệ.
Tại xã Vĩnh Thanh, Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác cũng nhiều lần
phối hợp với Đội du kích xã đánh địch ở ấp Ông Kèo, tiêu diệt được
một số tên địch và thu nhiều vũ khí. Ngày 12.9.1974, Đoàn 10 Rừng
Sác phối hợp với Đội du kích 2 xã Đại Phước và Vĩnh Thanh đánh
bót Cầu Cháy tại ấp Bến Đình, xã Đại Phước, bốn đồng chí của Đoàn
10 đã hy sinh trong trận đánh này, được người dân chôn cất và sau
1  Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, NXB Văn hóa văn nghệ, 2012, trang 109.
243

25.4 Page 244

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
ngày giải phóng đã quy tập được hài cốt. Trong trận đánh này, Xã đội
trưởng xã Đại Phước là Nguyễn Văn Thành hy sinh1.
Một số thanh niên con em Vĩnh Thanh cũng hy sinh trong thời
gian này, như: Lê Nhớ Mãi (còn gọi là Thụ, Thượng úy), Nguyễn
Khắc Bích (Thượng úy)...
Đó là những hoạt động thiết thực của quân dân xã Vĩnh Thanh
cũng như huyện Nhơn Trạch tham gia vào chiến dịch Nguyễn Huệ
góp phần tiêu hao, phân tán, kéo dãn binh lực địch để tạo thắng lợi
trên chiến trường miền Đông.
Thắng lợi trên chiến trường miền Nam của quân giải phóng buộc
các bên Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa cùng ký với đại diện Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam Hiệp định Paris
ngày 27.1.1973. Các bên thảo luận dằng dai đã lâu, vừa đánh vừa
đàm, đến khi tình thế không thể đảo ngược, buộc phải thống nhất
nội dung Hiệp định gồm 23 điều, trong đó các điều chủ yếu ghi nhận
mong muốn của quân dân cả nước: Hoa Kỳ và các nước khác tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; ngừng
bắn trên toàn Việt Nam bắt đầu từ 27.1.1973; các bên cam kết tôn
trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền
Nam Việt Nam; nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ quyết định tương
lai chính trị của mình; sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện
từng bước bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa
thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng
1  Xã đội trưởng xã Đại Phước Nguyễn Văn Thành là con của Bà mẹ Việt Nam
anh hùng Nguyễn Thị Bộn ở xã Đại Phước.
244

25.5 Page 245

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.
Như vậy, về mặt quân sự, buộc Mỹ và đồng minh phải rút khỏi miền
Nam Việt Nam, ngừng tấn công miền Bắc. Coi như mục tiêu đấu
tranh của quân giải phóng miền Nam đã thắng lợi cơ bản.
Sau hai tháng thực hiện Hiệp định Paris, ngày 31.3.1973, Ban
Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp phân tích tình hình:
1. Có những vấn đề mới xuất hiện đáng chú ý. Địch tăng cường
liên tục mở rộng cuộc hành quân cảnh sát vào các xóm ấp (nông
thôn) và khu phố (thị trấn, tỉnh lỵ Biên Hòa), phân loại quần chúng
khủng bố những ai chúng nghi ngờ. Chúng ráo riết bắt lính, đơn quân
để bù số bỏ ngũ, rã ngũ sau khi Hiệp định Paris ký kết. Chúng buộc
nhân dân sơn cờ vàng ba sọc đỏ lên nóc hoặc cửa nhà, rêu rao nơi
nào có “cờ quốc gia” đều thuộc “vùng chính phủ Việt Nam Cộng hòa
kiểm soát”. Chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, vu khống phía giải
phóng “vi phạm lệnh ngưng bắn”, gây tâm lý không tin vào pháp
lý của Hiệp định Paris “Hiệp định kí vậy thôi, chớ không có giá trị
gì”. Chúng “cảnh sát hóa” bộ máy chính quyền xã, thúc ép bọn ác
ôn bung ra hoạt động vùng ven. Chúng đàn áp phong trào đấu tranh
đòi hòa bình, đòi các quyền tự do, dân sinh dân chủ. Đặc biệt, chúng
ngăn cấm không cho nhân dân trở về ruộng đồng để sản xuất.
2. Từ giữa tháng 3.1973, địch mở các cuộc hành quân lấn chiếm
nhiều vùng nông thôn trong tỉnh. Nguyễn Văn Thiệu ban hành luật
“Người cày có ruộng” ngày 23.6.1973 hòng nắm đông đảo nông dân.
Mặt khác, chúng cho phép các nhà tư sản có phương tiện khai thác
gỗ cùng với một số công chức ngụy tổ chức làm be mà thực chất là
phá địa bàn căn cứ cách mạng.
245

25.6 Page 246

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Trong xóm ấp, chúng tăng cường tổ chức gián điệp, chỉ điểm,
chú trọng huấn luyện và trang bị vũ khí cho lực lượng phòng vệ dân
sự xung kích ở những vùng có đông đồng bào Công giáo di cư như
Trảng Bom, thị trấn Long Thành, tỉnh lỵ Biên Hòa, xã Vĩnh Thanh
(Nhơn Trạch).
Ý đồ của địch là tập trung lấn chiếm vùng giải phóng, xóa thế “da
beo”, đẩy lực lượng cách mạng ra xa, đóng chốt giữ các đường giao
thông và các địa bàn do chúng kiểm soát.
3. Về phía ta, Tỉnh ủy chỉ đạo các lực lượng vũ trang kiên quyết
chốt giữ vùng giải phóng, đánh địch nống ra vi phạm Hiệp định Paris
và quan tâm lãnh đạo tư tưởng tiến công chống tư tưởng hữu khuynh
sợ địch tố cáo ta vi phạm Hiệp định. Mặt khác, Tỉnh ủy tập trung chỉ
đạo các ngành, các cấp phát động phong trào toàn dân bung ra sản
xuất, xây dựng vùng căn cứ Bến Nôm - Bàu Hàm với yêu cầu có dân,
xây dựng trường học và trạm y tế.
4. Hội nghị thông qua kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện Chỉ thị
02 và Điện số 775 của Thường vụ Trung ương Cục: “Tập trung chỉ
đạo tấn công bằng ba mũi vũ trang - chính trị - binh vận nhằm chống
địch vi phạm Hiệp định, giữ vùng ta và không ngừng phá thế kềm
kẹp của địch đi đôi với đẩy mạnh phong trào mỗi địa phương xã, thị
trấn, huyện, thị xã quan tâm đúng mức công tác phát triển lực lượng
cách mạng tại chỗ”.
Ngay sau hội nghị Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Cát - Bí thư
Tỉnh ủy đi chiến trường Nhơn Trạch kiểm tra tình hình cụ thể, trực
tiếp chỉ đạo Đảng bộ Nhơn Trạch triển khai thực hiện nghị quyết của
246

25.7 Page 247

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Tỉnh ủy. Các đồng chí khác trong Ban Thường vụ cũng xuống các
huyện, thị xã.
Tại Vĩnh Thanh, ngày 15.3.1973, đồng chí Hai Duyên và các
chiến sĩ trong Đội vũ trang tuyên truyền di cư K11 đang họp ở căn
cứ Hầm Đá thì nghe có tiếng động cơ gầm rú. Tưởng xe tăng địch
càn vào căn cứ, các chiến sĩ vội trèo lên cây quan sát thì thấy có mấy
chiếc xe ủi đang ủi phá rừng, cách căn cứ không đầy một cây số. Lập
tức đồng chí Hai Duyên cùng các chiến sĩ trong Đội K11 ra gặp tên
chủ thầu, nhấn mạnh rằng đây là khu vực do cách mạng quản lý và
hạ lệnh cấm phá rừng, ủi cây, nếu vi phạm sẽ bị trừng trị. Hôm sau,
linh mục Nam và linh mục Mạnh từ Đan viện Thánh mẫu Khiết Tâm
đến gặp đồng chí Hai Duyên. Sau khi trịnh trọng đặt lên mô đất 2kg
đường, 2kg cà phê, 4 cây thuốc lá Capstan, hai vị linh mục đề nghị
đồng chí Hai Duyên cho đan viện được ủi phá 200 hecta đất để lập
trại cùi và làm kinh tế để có kinh phí hoạt động, hỗ trợ giáo dân. Biết
đây là âm mưu địch lợi dụng tôn giáo, lợi dụng hoạt động từ thiện
để lấn chiếm vùng giải phóng, đồng chí Hai Duyên ôn tồn giải thích
cho họ hiểu làm như thế là vi phạm Hiệp định Paris, rồi bảo họ mang
lễ vật trở về.
Cần biết thêm, thời điểm này do tình hình chiến trường chuyển
biến quá mau lẹ, hình thái đấu tranh cũng phức tạp, nhưng lực lượng
an ninh của huyện đã kịp thời được Ban An ninh tỉnh Biên Hòa
hướng dẫn bằng Chỉ thị 06/CT (Chỉ thị 06/CT hướng dẫn an ninh các
cấp thi hành Thông tư số 04/TT72 của Thường vụ Trung ương Cục)
ban hành trước đó đúng 1 ngày, tức ngày 14.3.1973. Chỉ thị nêu rõ:
“Thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, đưa bọn công an,
247

25.8 Page 248

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
cảnh sát, tình báo... vào làm nòng cốt trong việc thực hiện kế hoạch
bình định, Mỹ - ngụy âm mưu làm suy yếu Đảng ta, tách Đảng ta ra
khỏi quần chúng bằng cuộc chiến tranh gián điệp. Chúng dùng bạo
lực để úp chụp quần chúng vào các tổ chức do chúng lập ra, gây chia
rẽ, hận thù, nghi ngờ giữa Đảng với quần chúng, giữa quần chúng
với nhau bằng các thủ đoạn bôi lem, gây lẫn lộn trắng đen trong
quần chúng mà lực lượng an ninh nếu không nắm vững chính sách,
sẽ không tấn công, trấn áp địch đúng nguyên tắc, đúng đối tượng,
đúng tội, đúng chính sách của Đảng và như vậy vô hình trung chúng
ta mắc mưu địch, tự tách mình ra khỏi quần chúng”... Đồng chí Hai
Duyên đã kịp thời phổ biến, quán triệt Chỉ thị 06/CT cho các chiến
sĩ trong Đội K11 để hiểu rõ và nâng cao tinh thần cảnh giác. Sau đó,
đồng chí Hai Duyên và một số chiến sĩ trong Đội K11 cũng đến Đan
viện Thánh mẫu Khiết Tâm gặp các linh mục và người trong đan
viện để tuyên truyền thêm về cách mạng.
Tháng 6.1973, Thường vụ Trung ương Cục chỉ đạo tách tỉnh Biên
Hòa làm hai bộ phận. Tỉnh Biên Hòa không có thị xã Biên Hòa (còn
gọi là tỉnh Biên Hòa Nông thôn) gồm các huyện Vĩnh Cửu, Thống
Nhất 1, Long Thành, Nhơn Trạch, Duyên Hải, Tân Uyên, vùng cao
su Dĩ An. Quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa Nông thôn là đồng chí
Nguyễn Văn Thông. Ban Chấp hành Tỉnh ủy xác định: “Hai huyện
Long Thành, Nhơn Trạch là điểm tập trung đánh phá bình định nông
thôn và xây dựng căn cứ, đặc biệt là từ khu vực Bình Sơn đến phía
Đông xã Phước Thái”. Tỉnh cử hơn năm mươi đồng chí cán bộ tăng
1  Huyện Trảng Bom được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định đổi
tên thành huyện Thống Nhất vào tháng 5.1973.
248

25.9 Page 249

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
cường cho các xã thuộc hai huyện. Lực lượng vũ trang tại đây gồm
Tiểu đoàn 240, bộ đội địa phương hai huyện.
Về phía địch, từ tháng 6 đến hết năm 1973, ở hai huyện Long
Thành và Nhơn Trạch, nhiều tiểu đoàn bảo an, nhiều tiểu đoàn thuộc
sư 18 quân đội Sài Gòn đóng quân ở căn cứ Nước Trong, làng Cô
Nhi dọc quốc lộ 15. Địch tập trung hàng trăm xe quân sự, xe ủi kết
hợp một số chức sắc đạo Thiên Chúa ủi phá khu vực Bàu Năng,
Phước Hòa xã Long Phước. Hơn một chục đoàn cán bộ bình định
nông thôn được tung về hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch tiến
hành kềm kẹp gắt gao, gây tình hình căng thẳng ở nông thôn.
Mặt khác, quân lực Sài Gòn tập trung binh lực đánh chiếm các
khu vực Lòng Chảo để giành dân, lấn đất; tháng 3.1973 địch tập
trung lực lượng tổ chức cuộc càn quét vào căn cứ Lòng Chảo với bộ
binh cùng hàng trăm xe ủi, xe tăng, có máy bay, pháo binh yểm trợ,
thực hiện ủi phá rừng. Chúng dội xuống khu Lòng Chảo hàng ngàn
tấn bom đạn.
Với quyết tâm cao, Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo các Huyện ủy, các
chi bộ xã và thị trấn tích cực vừa tiến công địch giành quyền làm chủ
tại xóm ấp, khu phố, vừa xây dựng thực lực cách mạng tạo thế mới
ngày càng rộng lớn. Kết quả tóm tắt: 80/217 ấp tranh chấp mạnh và
vừa ở 57 xã. Phân nửa số ấp còn lại thì ở mức độ tranh chấp khác
nhau. Phong trào bám ruộng đồng để khai hoang phục hóa phát triển
tốt ở các huyện, tạo thế liên hoàn trong đó; 13 xã huyện Nhơn Trạch
cày cấy 13.022 ha (bao gồm phục hóa 290 ha).
249

25.10 Page 250

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Quân giải phóng quyết liệt đánh trả để bảo vệ vùng làm chủ. Từ
ngày 15.5 đến ngày 30.5.1973, lực lượng du kích các xã vùng Lòng
Chảo phối hợp D240 đánh hàng trăm trận, đánh bộ binh, đánh xe
tăng, đánh xe ủi, phá hủy 7 xe ủi, tiêu diệt nặng 2 trung đội ngụy.
Tháng 6.1973, Tiểu đoàn 240 chận đánh trung đội bảo an Bến Cam,
xã Phước Thiền, diệt 7 tên, bắt sống 7 tên, thu 17 súng. Kế hoạch “lật
đổ Lòng Chảo” của địch bị thất bại.
Tại Vĩnh Thanh, một sự cố xảy ra khiến Đội vũ trang tuyên truyền
di cư K11 phải chuyển căn cứ. Mùng một Tết năm Giáp Dần 1974,
có anh thanh niên tên Phê, người ấp Quới Thạnh vào rừng xin đi theo
cách mạng. Thấy Phê hiền lành, chăm chỉ làm việc nên đồng chí Hai
Duyên chấp thuận cho anh ở lại đội, chờ báo cáo xin ý kiến cấp trên.
Đúng 9 ngày sau, lợi dụng lúc các chiến sĩ Đội K11 sơ hở, Phê ôm
khẩu súng M.16 ra đồn Vũng Gấm chiêu hồi. Sự cố này khiến Đội
K11 phải di chuyển gấp sang căn cứ khác cũng ở vùng Lòng Chảo
(gần căn cứ của Tuyên huấn huyện) vì sợ Phê dẫn lính vào đánh phá
như đã từng xảy ra với những vụ chiêu hồi trước đó, đồng thời nhờ
cơ sở ta dò la xem Phê đã khai báo những gì, mức độ nguy hại ra
sao. Cơ sở ta báo vào: trước Tết Phê chơi bài bạc bị thua một số tiền
nên anh ta tìm cách vào rừng tạm lánh, ôm súng ra chiêu hồi nhằm
lãnh thưởng lấy tiền trả nợ1, tuy nhiên do thời gian Phê ở Đội K11
quá ngắn nên anh ta không biết gì để khai báo2. Nhận thấy việc Phê
1  Theo quy định của chính quyền Sài Gòn, người ra chiêu hồi được nhận
1.500 đồng, nhận thêm 300 đồng/tháng trong thời gian học “cải huấn”, khi học
xong được nhận thêm 1.200 đồng.
2  Sau ngày giải phóng, do sợ hãi nên Phê bỏ trốn về xã Phú Hội, bán cà rem
sinh sống.
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
ra chiêu hồi không gây nguy hiểm, một thời gian sau Đội K11 dời
về căn cứ cũ để tiện hoạt động, đồng thời cả đội rút ra bài học kinh
nghiệm sâu sắc về việc nhận người vào đơn vị, nâng cao tinh thần
cảnh giác.
Tháng 11.1974, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp mở rộng bao gồm
các đồng chí trong Ban Chấp hành Tỉnh ủy nhằm: “đánh giá tình
hình địch và ta, dự kiến xu thế phát triển tình hình trong tỉnh và toàn
Miền, trên cơ sở đó đề ra một số nhiệm vụ cụ thể trong mùa khô
1974-1975 chung cho toàn tỉnh Biên Hòa và đề ra một số biện pháp
tổ chức cụ thể: về tổ chức, cũng cố một bước các ban, ngành cấp tỉnh
và bổ sung các cấp ủy huyện.
Hội nghị nhận định: “Thời gian tới, địch sẽ tập trung đối phó ở
những vùng tranh chấp quyết liệt, nhất là các huyện Long Thành,
Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu. Về phương hướng, tiếp tục đẩy mạnh kết
hợp chặt 3 mũi: vũ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở; mở mảng, mở
vùng khi có thời cơ. Các lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh bao vây
tiêu diệt một số đơn vị bảo an, dân vệ và bộ máy kềm kẹp ở phân chi
khu, ấp, xã, bức hàng đồn bót vùng tranh chấp, cắt đứt giao thông
trên các trục lộ 1, 15, 17, 19 và sông Lòng Tàu; khẩn trương tạo thế
và lực mới làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch”.
Phương hướng phấn đấu trong mùa khô 1974-1975 là: Kết hợp
chặt ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở với lực lượng của
huyện, tỉnh liên tục tiến công địch giành quyền làm chủ tại ấp xã,
đồng thời kết hợp với lực lượng của trên đứng trên địa bàn tỉnh làm
tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, mở mảng, mở vùng khi
có thời cơ.
251

26.2 Page 252

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Mục tiêu cụ thể là chuyển hầu hết các ấp xã vùng tranh chấp lên
thế tranh chấp mạnh và vùng giải phóng. Chuyển vùng địch kềm,
vùng di cư, vùng di dân, thị trấn, thị tứ thành vùng tranh chấp với
nhiều mức độ khác nhau, xây dựng cơ sở các đoàn thể quần chúng,
phát triển đoàn viên, đảng viên đảm bảo lãnh đạo phong trào.
Theo Nghị quyết hội nghị, Thường vụ Tỉnh ủy phân công một
số cán bộ chủ chốt tỉnh trực tiếp chỉ đạo huyện trọng điểm gồm:
Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Công Hạnh, Trần On và đồng chí Lê
Quân (Chín Dũng).
Huyện ủy Nhơn Trạch tập trung tổ chức thực hiện tấn công địch
trong đợt mở màn đầu mùa khô 1974-1975 trên địa bàn. Vùng trọng
điểm của huyện được xác định là các xã dọc lộ 17, 19, từ Phú Hội,
Phú Mỹ, Phước Thiền đến các xã Phước Kiểng, Phước Lai, Phước
Long và Phước Thọ.
Mở đầu chiến dịch mùa khô 1974 - 1975, tỉnh điều động D240
sang vùng trọng điểm Nhơn Trạch. Lực lượng tỉnh (D240 và D6), bộ
đội huyện (đơn vị 19.5) cùng du kích các xã dọc các trục lộ 17 và 19,
đồng loạt tiến công địch vào ngày 10.11.1974. Sau 3 ngày chiến đấu,
các xã Phước Thiền, Phước Long, Phước Thọ, ta đã tiêu diệt hơn 100
tên địch trong đó có 43 tên bảo an, buộc địch phải đưa chiến đoàn 48
sư 18 đến đối phó.
Tháng 12.1974, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Tỉnh đội điều động Tiểu
đoàn 240 xuống địa bàn huyện Nhơn Trạch, cùng với Tiểu đoàn 6 đặc
công và lực lượng địa phương huyện đánh địch càn quét để bảo vệ
khu căn cứ Lòng Chảo. Từ ngày 12.12.1974, lực lượng D240 và D6
252

26.3 Page 253

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
phối hợp cùng du kích Phước Thọ dùng hỏa lực tiến hành bao vây
đồn Phước Thọ, Phước Long 7 ngày đêm. Đại bộ phận lực lượng của
Tiểu đoàn, kết hợp lực lượng huyện phục kích trên trục lộ 19 (đoạn
giữa Phước Long, Phước Thọ) để đánh địch đi giải tỏa. Sau 4 ngày
đêm bị bao bó, bọn địch ở đồn Phước Thọ, Phước Long rất hoang
mang. Chúng yêu cầu tiểu khu Biên Hòa cho máy bay tiếp tế lương
thực và nước. Đồng thời, Tiểu khu Biên Hòa điều động tiểu đoàn bảo
an 346 xuống Nhơn Trạch giải tỏa. Địch từ Biên Hòa hành quân về
Nhơn Trạch theo trục lộ 19 với một trung đội mở đường. Ta lập tức
nổ súng diệt ngay trung đội này trong những phút đầu tiên, thu 12
súng. Cùng lúc ở hướng chủ yếu, Tiểu đoàn nổ súng tấn công vào đội
hình địch. Sau 1 giờ 40 phút chiến đấu, ta diệt đại đội đi đầu của địch
trên 70 tên, chúng bỏ lại một số súng và xác chết, rút chạy về phía sau
không dám tiến lên. Bộ tư lệnh quân đoàn III ngụy ở Biên Hòa cho
máy bay lên đánh trái màu phân tuyến, ném bom để ngăn chặn không
cho lực lượng ta xung phong và xóa dấu vết của chúng. Đúng 16 giờ
cùng ngày, chúng rút về Tiểu khu Biên Hòa. Hai ngày sau, địch điều
một đơn vị của sư đoàn 18 xuống Nhơn Trạch để giải tỏa cho đồn
Phước Thọ, Phước Long. Căn cứ tình hình thực tế, để bảo toàn lực
lượng sau 4 ngày đêm phục kích, Tỉnh đội lệnh cho các đơn vị rút
khỏi vị trí, sẵn sàng chờ lệnh chiến đấu. Sau khi giải tỏa đồn Phước
Thọ, Phước Long, khai thông đường 19, tối ngày 20.12.1974, địch
cụm lại đóng quân dã chiến trên đường ủi ngã ba Phước Lai. Nắm
được tình hình, Tỉnh đội lệnh cho D240 bắn pháo vào chỉ huy sở của
địch, đồng thời cho một bộ phận bộ binh trang bị mạnh tập kích vào
cụm tiền tiêu địch. Kết quả ta diệt trên 20 tên địch. Bị thiệt hại nặng,
253

26.4 Page 254

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
sáng ngày 21.12.1974, địch rút toàn bộ lực lượng về Biên Hòa.Trận
đánh thể hiện được khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa
phương, ít thắng nhiều, phối hợp tốt giữa các đơn vị, làm cho địch
chủ động thành bị động. Lính trong đồn Phước Thọ, Phước Long hết
thói hung hăng, co cụm trong đồn, không dám bung ra càn quét. Do
đó, lực lượng cách mạng làm chủ được nhiều xóm ấp1.
Từ tháng 12.1974 đến tháng 3.1975, đơn vị D240 phối hợp bộ đội
huyện Nhơn Trạch và du kích các xã: Phước Thiền, Phú Hội, Long
Tân và Đội vũ trang thị trấn Nhơn Trạch liên tục bám sát xóm ấp,
phát động quần chúng phá kìm, diệt ác, chuyển thế làm chủ tất cả
các ấp thuộc các xã nêu trên, vận động đồng bào bung ra đồng ruộng,
bám ruộng đồng sản xuất tạo thêm thế mới, lực mới.
Chiều 9.12, Huyện ủy sơ bộ kiểm điểm đánh giá tình hình. Trước
giờ nổ súng, địch có cảnh giác điều quân đối phó, tuy vậy địch vẫn
bất ngờ khi ta tấn công, hàng chục tên bị chết, bị thương, 7 đội phòng
vệ dân sự bị giải tán, hàng chục tên tề xã, tề ấp bỏ việc, các đồn bót
Phú Mỹ, Phước Long, Phước Thọ và đồn Gò Cát (Phước An) bị lực
lượng 3 mũi vũ trang, chính trị, binh vận bao vây. Đoàn 10 cũng phối
hợp với du kích Phước An tiến công vây đánh thiệt hại nặng 1 trung
đội bảo an ở đồn Vũng Gấm.
Đến ngày 31.12.1974, 12 ấp ở huyện Long Thành và Nhơn Trạch
đã được giải phóng, nhiều đồn bót trên trục lộ 17, 19 bị bao vây.
1  Ở Quới Thạnh, du kích Vĩnh Thanh phối hợp với du kích Phước An liên tục
hoạt động trên lộ 19 từ Vũng Gấm qua Quới Thạnh đến Vĩnh Thanh, phát huy
sở trường đánh mìn, bắn tỉa diệt địch, phá hủy 9 xe máy địch, thu được một số
tài liệu của bọn bình định.
254

26.5 Page 255

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Nhiều khu vực liên hoàn được giải phóng như sở cao su Bình Sơn,
các xã: Tam An, Phước Thái, Phước Thọ, Phước An.
Từ ngày 16 đến ngày 20.1.1975, địch đưa một chiến đoàn của sư
18 có xe tăng, máy bay, pháo binh yểm trợ mở cuộc hành quân càn
quét ven Rừng Sác, khu vực Vũng Gấm, Bà Bông, Phước An, Phước
Thọ, đồng Mu Rùa. Mục tiêu của địch là các cơ quan trọng yếu như
trạm dân y, cơ sở hậu cần, xưởng sản xuất vũ khí của Đoàn 10 Rừng
Sác. Đêm 20.1, chúng đóng quân dã chiến tại vườn điều Phước Thọ.
D240 kết hợp với lực lượng Đoàn 10, dùng hỏa lực pháo kích vào
chỉ huy sở của địch, đồng thời cho bộ binh tập kích vào cụm dã chiến
của chúng. Kết quả: Diệt trên 100 tên, phá hủy 5 xe tăng. Sáng ngày
21.1.1975, toàn bộ chiến đoàn địch rút về Biên Hòa. Trận này ta gây
tổn thất nặng một chiến đoàn của sư 18, phá tan âm mưu càn quét
đánh phá vùng căn cứ Lòng Chảo ven Rừng Sác, giữ vững vùng bàn
đạp, bảo tồn được lực lượng và các cơ quan trọng yếu của huyện.
V. Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975
Từ cuối năm 1974 đến đầu năm 1975, tình hình chiến trường
miền Nam có nhiều thay đổi tạo lợi thế cho cách mạng. Bộ Chính
trị họp mở rộng (từ 18.12.1974 đến 8.1.1975) phân tích tình hình và
bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tình thế sau chiến
thắng Phước Long đem lại quyết tâm chiến lược cho Bộ Chính trị về
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị chủ trương:
Năm 1975 tranh thủ thời cơ, bất ngờ tiến công trên quy mô lớn, rộng
khắp, tạo điều kiện tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa giải
phóng hoàn toàn miền Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị được triển
255

26.6 Page 256

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
khai thực hiện bằng các chiến dịch lớn diễn ra trong 3 tháng đầu
năm 1975: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Đến
tháng 3.1975, thắng lợi lớn và thời cơ lớn cho phép mở Chiến dịch
Hồ Chí Minh tổng tiến công vào Sài Gòn kết thúc chiến tranh. Ngày
31.3.1975, Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp tại căn cứ (gần Sở
cao su Bình Sơn), nhận định: Thời cơ chiến lược đã xuất hiện. Hội
nghị quyết định: “Khẩn trương lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân trong tỉnh sẵn sàng khi có lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa,
giải phóng toàn tỉnh”.
Theo đó Ban Thường vụ có các quyết định sau:
- Điều động toàn bộ lực lượng vũ trang và 160 cán bộ ban, ngành,
đoàn thể của tỉnh tập trung vào vùng trọng điểm Long Thành, Nhơn
Trạch.
- Sử dụng toàn bộ lực lượng nội tuyến, cơ sở cảm tình phục vụ
cho đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
- Quyết định thành lập Ủy ban quân quản tỉnh do đồng chí Võ
Văn Định là Chủ tịch.
- Giải phóng đến đâu, tổ chức cứu đói, cấp lương thực, phương
triện đưa dân về quê cũ, nhất là số đồng bào miền Trung mới chạy
dạt vào.
- Tỉnh đội triển khai chu đáo, không để sai sót trong thực hiện
chính sách thương binh, liệt sĩ.
- Huyện Nhơn Trạch chuẩn bị ít nhất 100 xuồng, ghe, tàu thuyền
tại phà Cát Lái (xã Phú Hữu) đưa bộ đội vượt sông tiến về Sài Gòn.
256

26.7 Page 257

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
- Các đồng chí Nguyễn Văn Thông, Lê Quang Thành, Nguyễn
Công Hạnh Trần On, Lê Quân (Chín Dũng) được Tỉnh ủy phân công
trực tiếp chỉ đạo chiến trường Nhơn Trạch.
Sáng ngày 17.4.1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp khẩn cấp nghe
và thảo luận kỹ ý kiến truyền đạt của đồng chí Lê Đình Nhơn và ý
kiến của đồng chí Nguyễn Trọng Cát, phái viên của Trung ương Cục,
đặc biệt những ý kiến của đồng chí Lê Quang Thành (Đoàn Hồng
Đoàn), Ủy viên Thường vụ Khu ủy miền Đông trực tiếp góp phần
chỉ đạo chiến trường Biên Hòa.
Hội nghị Ban Thường vụ kết luận:
- Phát động tư tưởng tiến công giải phóng quê hương trong toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh dựa vào lực lượng 3 mũi tại chỗ
là chủ yếu.
- Lập tức hình thành Ban Quân quản ở các thị trấn, chuẩn bị cán
bộ hình thành Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời cấp cơ sở và cấp
huyện sau ngày giải phóng. Bố trí một số đồng chí trực tiếp cùng lực
lượng cấp trên góp phần chỉ đạo tác chiến và chỉ đạo công kích, khởi
nghĩa tại các địa bàn trọng điểm.
- Long Thành, Nhơn Trạch là hai huyện có vị trí quan trọng đặc
biệt ở hướng Đông Sài Gòn. Do vậy, sau hội nghị, Thường vụ Tỉnh
ủy tăng cường tập trung lực lượng vũ trang và đội ngũ cán bộ, tổ
chức chỉ đạo chặt chẽ từ huyện đến cơ sở công kích, khởi nghĩa từng
phần, khi thời cơ cho phép, kịp thời đồng loạt tiến công địch, giải
phóng từng mảng, từng huyện.
257

26.8 Page 258

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Trước thời cơ lớn, bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Xuân Lộc từ
ngày 9.4 đến 21.4.1975.
Tám giờ sáng ngày 21.4.1975, ngụy quân, ngụy quyền tỉnh Long
Khánh tan rã hoàn toàn. Tuyến phòng thủ Xuân Lộc bị đập tan, cửa
ngõ tiến quân về Sài Gòn đã mở.
Ngày 24.4.1975, cuộc họp liên tịch giữa một số đồng chí chủ chốt
trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hoà với 3 đồng chí trong Bộ Chỉ
huy Quân đoàn 2 để phối hợp hành động, đồng chí Lê Quang Thành
- Ủy viên Khu ủy miền Đông tham dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo.
Cuộc họp thống nhất ý kiến và hạ quyết tâm:
1. Đúng 17 giờ ngày 26.4.1975, tiếng súng lệnh Chiến dịch Hồ
Chí Minh ở hướng Đông Sài Gòn bắt đầu.
2. Bố trí mục tiêu và lực lượng. Quân đoàn 2 gồm các sư đoàn với
mục tiêu và hướng phát triển: Sư đoàn 304, đánh chiếm ngã ba Thái
Lan, khu căn cứ Nước Trong, Long Bình, vượt xa lộ tiến về Sài Gòn.
Đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Ủy viên Thường vụ, Chính trị viên
Tỉnh đội Biên Hòa đi cánh này. Sư đoàn 325, trong đó có Trung đoàn
46, tiến công vào các mục tiêu chi khu Long Thành, chi khu Nhơn
Trạch và yếu khu kho đạn Thành Tuy Hạ. D240 và D6 của tỉnh đánh
cụm pháo Phước Thiền và cầu Phước Thiền. Hướng phát triển của
Sư đoàn 325 vượt phà Cát Lái tiến về Sài Gòn. Cánh này hai đồng
chí Nguyễn Văn Thông - Quyền Bí thư Tỉnh ủy cùng đồng chí Trần
On - Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội trưởng cùng đi.
3. Tổ chức điều động bằng được 100 xuồng thuyền có tại bến đò
Cát Lái, xã Phú Hữu để góp phần chuyển quân nhanh chóng tiến qua
Thủ Đức - Sài Gòn.
258

26.9 Page 259

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
4. Đơn vị D240 và 2 đội du kích Phú Hội, Long Tân bao vây đánh
chiếm đồn Phú Hội và bót cầu Long Tân để bảo đảm an toàn cho
pháo 130 ly của Quân đoàn đặt tại khu vực đồi Bình Phú thuộc xã
Long Tân.
Hội nghị kết thúc vào buổi sáng cùng ngày với niềm tin chiến
thắng. Cùng với công việc khẩn trương chỉ đạo triển khai kế hoạch
tác chiến trên địa bàn tỉnh, Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo thành lập
Ban Quân quản thị trấn Long Thành, Ủy ban nhân dân Cách mạng
lâm thời từng huyện trong toàn tỉnh, và chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch
“giãn quân về chỗ cũ”.
Thời điểm lịch sử đã đến. Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân khu giao
nhiệm vụ Huyện ủy Long Thành, Nhơn Trạch tạo địa bàn cho Sư
đoàn 325 pháo 130 ly đánh chiếm quận lỵ Long Thành, Nhơn Trạch;
D240 và lực lượng địa phương diệt địch giữ cầu Phước Thiền, tạo
thuận lợi cho Sư 325 phát triển tiêu diệt địch dọc lộ 17, đánh chiếm
quận lỵ Nhơn Trạch, khu kho Thành Tuy Hạ, vượt sông Đồng Nai
(đoạn Cát Lái) phát triển về Sài Gòn; trong ngày 27.4, chậm là ngày
28.4 phải chiếm cho được Nhơn Trạch để đặt pháo 130 ly khống chế
sân bay Tân Sơn Nhất, không để địch dùng không quân đánh chặn
các cánh quân của ta.
Quán triệt nhiệm vụ cấp trên giao, Huyện ủy Nhơn Trạch chuẩn
bị sẵn trên 200 tấn lương thực, thực phẩm, huy động hàng trăm các
chị, các má xã Phú Hội hăng hái vui vẻ nấu cơm. Trong ngày 27 và
28.4.1975, các mẹ đã nấu được 1.350 suất cơm tiếp tế cho bộ đội.
Các ngày sau, các mẹ, các chị nấu hàng vạn suất cơm, quà bánh đưa
ra dọc tuyến lộ 17 phục vụ bộ đội ăn no, hành tiến chiến đấu. Tỉnh
259

26.10 Page 260

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đội Biên Hòa cử hai cán bộ tiểu đoàn (Bảy Đức, Ba Thà), cùng Ban
Dân vận Huyện ủy do đồng chí Huỳnh Minh Tấn phụ trách vận động
nhân dân ven sông Đồng Nai chuẩn bị xuồng ghe, giữ phà Cát Lái để
đưa Sư 325 vượt sông Đồng Nai tiến vào Sài Gòn.
Cánh quân hướng đông, đồng chí Lê Trọng Tấn đề nghị cho
nổ súng trước 1 ngày mới kịp đánh chiếm Nhơn Trạch. Đồng chí
Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến dịch chấp thuận. Lúc 17 giờ ngày
26.4.1975, các cỡ pháo bắn trên 2.000 quả đạn vào các mục tiêu
đã định, bộ binh cơ giới Sư đoàn 325 cùng lực lượng vũ trang địa
phương giải phóng Bình Sơn, Sư 325 theo trục đường 10 đánh chiếm
quận lỵ Long Thành. Sáng ngày 27.4, Trung đoàn 101 Sư 325 hành
tiến về hướng chi khu Nhơn Trạch vượt cầu Phước Thiền. Trước
đó, D240 đã diệt lính dân vệ ven lộ 17, chiếm giữ cầu Phước Thiền;
phối hợp xe tăng của bộ đội chủ lực khóa nòng cụm pháo 105 ly ở
Bến Sắn cùng du kích bao vây bức hàng, bức rút các đồn bót dân vệ,
bảo an ở Phú Hội, Long Tân dọn đường cho Trung đoàn 101 Sư 325
hướng về mục tiêu chi khu Nhơn Trạch. Trung đoàn 95 Sư 325 theo
lộ 19 tiến về đường ủi Phước Lai cắt qua Phước An, bao vây tấn công
vào khu kho Thành Tuy Hạ. Địch dựa trên cao điểm ngoan cố chống
trả rất quyết liệt. Cuối cùng, tên thiếu tá Châu chỉ huy phó dẫn hơn 1
tiểu đoàn ra đầu hàng nộp súng.
Tại Chi khu Nhơn Trạch, Sư 325 tập trung xe tăng, bộ binh tấn
công dồn dập. Trung đoàn 101 tràn vào chiếm được Chi khu. Tên
trung tá Phương, quận phó Nhơn Trạch, ra hàng dẫn theo gần 200
lính. Sau đó, Trung đoàn 101 bàn giao chi khu cho Ủy ban Quân quản
huyện Nhơn Trạch và lực lượng vũ trang địa phương. Ban Thường
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
vụ Huyện ủy chỉ đạo tiếp quản chi khu lúc này đã tan hoang. Ủy ban
Quân quản huyện ra mắt nhân dân gồm: Đồng chí Ba Đạm là Chủ
tịch, đồng chí Năm Thành là Phó Chủ tịch, các Ủy viên: Tư Nhân,
Năm Hải, Sáu Báo và nữ đồng chí Sáu Vân. Đồng chí Phạm Thanh
Lý, Bí thư Huyện ủy chỉ đạo Đảng bộ cơ sở chỉ đạo lực lượng 3 mũi
tại ấp, xã đã bao vây bức rút, bức hàng số đồn bót địch còn lại.
Từ 11 giờ ngày 26.4, pháo 130 ly đã được lực lượng vũ trang địa
phương và nhân dân hỗ trợ kéo lên đặt ở Nổng Giang Lò và đồi Bình
Phú, Vĩnh Tuy, chỉnh nòng súng, chờ lệnh dội bão lửa vào sân bay
Tân Sơn Nhất. Đến 17 giờ 30 ngày 29.4, hai tiểu đội trinh sát của Sư
325 đã đến bến phà Cát Lái. Hàng trăm xuồng ghe ém sẵn mé sông
đưa Sư 325 vượt sông Đồng Nai tiến về Sài Gòn.
Lực lượng ngụy quân đóng ở Thành Tuy Hạ do thiếu tá Trần
Thành Châu, phó chỉ huy trưởng cùng toàn bộ binh lính kho Thành
Tuy Hạ dù đã đã đầu hàng quân giải phóng nhưng một số tàn quân
vẫn ngoan cố, đã dùng pháo bắn ra ngoài, trúng khu ấp Chợ của Phú
Thạnh, làm cháy hàng chục căn nhà của dân. Pháo địch cũng bắn
trúng trường cấp 3 ở Phú Thạnh. Tại đây có cả trăm người dân từ
miệt Long Khánh, Trảng Bom tản cư đang trú ngụ, pháo bắn trúng
làm hàng chục người chết, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em, cảnh
tượng rất tang thương. Một số người dân xung quanh đã đào hố chôn
những người xấu số này ngay trong khuôn viên trường1.
Đến chiều 28.4.1975, cơ bản các xã ở huyện đều được giải phóng,
phần lớn do địch bỏ chạy hoặc lực lượng quần chúng vận động lính
1  Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Võ xã Phú Thạnh.
261

27.2 Page 262

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
giao đồn. Lúc 14 giờ ngày 30.4.1975, vẫn còn một nhóm 4 tên trong
đó có quận phó Nhơn Trạch là trung úy Đức ngoan cố chống trả, tìm
cách mở đường để ra tàu thủy ở quân cảng, gây thương vong cho
nhiều chiến sĩ Quân đoàn 2.
Bên cạnh đó, cần nhắc đến vai trò của của Trung đoàn 46. Theo tư
liệu của Cục Chính trị Bộ Tư lệnh hải quân, Trung đoàn 46 thường
được gọi là 461, là trung đoàn thứ 4 được thành lập đầu năm 1972,
trực thuộc khu hữu ngạn, chi viện chiến trường theo mệnh lệnh của
Tư lệnh Quân khu Trị Thiên. Từ năm 1972 trở đi, mỗi năm đơn vị
đều có hàng trăm cán bộ, chiến sĩ được điều động vào chiến trường
B (tức miền Nam), trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Riêng
từ tháng 2.1975 Trung đoàn tiếp nhận tân binh chủ yếu quê ở Thanh
Hóa, vừa khẩn trương cơ động vừa huấn luyện kiện toàn đơn vị về
mọi mặt. Đến tháng 3.1975 đơn vị tham gia chiến đấu giải phóng
Quảng Trị (ngày 18.3.1975), Thừa Thiên - Huế (ngày 20.3.1975),
đầu tháng 4 đơn vị nhận mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng chuyển sang
trực thuộc Sư đoàn 325 (Quân đoàn II), tiếp tục vừa hành quân vừa
huấn luyện vừa tham gia giải phóng Phan Rang (ngày 16.4.1975),
Phan Thiết (ngày 18.4.1975), Hàm Tân (ngày 22.4.1975). Ngày
24.4.1975, đơn vị tập kết ở cánh rừng Xuân Lộc, sau đó vào ngày
26.4 toàn Trung đoàn 46 trực tiếp tham gia chiến đấu, mở màn Chiến
dịch Hồ Chí Minh tiến đánh vào Phước An, tiến tới giải phóng huyện
lỵ Long Thành sáng ngày 27.4, tiến đánh căn cứ Phước Thiền và khu
vực Thành Tuy Hạ, giải phóng huyện lỵ Nhơn Trạch ngày 28.4. Khi
tấn công Thành Tuy Hạ, do bọn địch ở đây chống trả quyết liệt, Sư
262

27.3 Page 263

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đoàn 325 phải điều thêm một bộ phận Trung đoàn 101 và lực lượng
xe tăng đến trợ chiến mới giải quyết dứt điểm được.
Trong ngày và đêm 29.4, Trung đoàn 46 cơ động tập trung lực
lượng chốt tại khu Phước Lý, khóa chặt bến phà Cát Lái. Các đơn
vị thuộc Sư đoàn 325 tiếp tục truy kích địch, vượt sông đánh chiếm
căn cứ hải quân Cát Lái, rồi tiếp tục tiến vào khu vực Quận 9 hiện
nay và đánh chiếm Bộ tư lệnh hải quân địch. Sáng sớm ngày 30.4,
một bộ phận của Trung đoàn 46 nhận được tin, quay lại Phước Lý,
lực lượng pháo mặt đất và cả cao xạ hạ nòng bắn thẳng của trung
đoàn kịp thời bắn tiêu diệt, ngăn chặn một số tàu địch tháo chạy bằng
đường sông1. Trong những ngày tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh,
một bộ phận của Trung đoàn 46 đóng tại Xoài Minh, ở nhà của đồng
chí Nguyễn Văn Lo. Sau ngày giải phóng, một bộ phận của Trung
đoàn 46 đóng tại Xoài Minh, ở nhà của đồng chí Nguyễn Văn Lo,
hỗ trợ chính quyền tiếp quản địa phương trong thời gian đầu khi đất
nước thống nhất.
Tại Vĩnh Thanh, nhận chỉ đạo từ Huyện ủy, giữa tháng 4.1975
đồng chí Phạm Văn Duyên đã cùng các chiến sĩ của Đội vũ trang
tuyên truyền di cư K11 từ căn cứ Hầm Đá chuyển ra ém ở xã Quới
1  Sau ngày 30.4.1975, Trung đoàn 46 chốt giữ khu vực Thành Tuy Hạ, đến
tháng 6.1975 thì nhận lệnh cả Trung đoàn điều động về căn cứ Hải quân Cát
Lái, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân; một số đồng chí chỉ huy cơ quan, đơn vị
trực thuộc và 1 tiểu đoàn điều động đi thành lập đơn vị chốt giữ Côn Đảo và
tăng cường cho đơn vị khác ở phía Nam. Từ tháng 7.1975, lực lượng còn lại của
Trung đoàn 46 sáp nhập với Đoàn đặc công hải quân 126, thành lập Lữ đoàn
hải quân đánh bộ 126 cơ động ra chốt giữ Cam Ranh và tăng cường chốt giữ,
bảo vệ quần đảo Trường Sa.
263

27.4 Page 264

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Thạnh. Cuối tháng 4.1975, đồn trưởng, chỉ huy các đồn lính ở Vĩnh
Thanh hầu hết trốn hoặc di tản ra nước ngoài, bọn lính, tề ngụy như
rắn mất đầu, một số bỏ về gia đình hoặc trốn trong các giáo xứ. Ngày
28.4.1975, từ Quới Thạnh Đội K11 tiến đến giải phóng ấp Thiết
Nham. Đây là ấp di cư nằm ở đầu lộ 19 đoạn qua Vĩnh Thanh, trong
giai đoạn vùng lên phá ấp chiến lược 1962-1963, ta không vận động
được dân di cư Công giáo ở các giáo xứ nên hàng rào, cổng ấp chiến
lược những nơi này vẫn còn giữ nguyên1. Lúc này, cổng ấp Thiết
Nham khóa chặt không cho các chiến sĩ Đội K11 vào, một số phần
tử quá khích còn phát loa kêu gọi người dân Thiết Nham chiến đấu
chống lại Cộng sản, tử thủ đến cùng. Các chiến sĩ K11 buộc lòng
phải bắn 2 quả M79 vào cổng giáo xứ để cảnh cáo. Ông Thân Trọng
Địa2, một người có uy tín trong giáo xứ Thiết Nham, tiến đến giáng
cho người đang phát loa kêu gọi tử thủ mấy bạt tai, mắng to: “Giờ
này mà mấy người còn kêu gọi chống đối. Từ miền Bắc bỏ chạy vào
miền Nam, giờ người ta cũng vào đến miền Nam rồi, chạy đi đâu,
còn chống đối gì nữa. Mau mở cổng”. Rồi ông cùng với một số cụ
cao tuổi trong giáo xứ mở cổng cho các chiến sĩ vào tiếp quản ấp
Thiết Nham. Riêng linh mục Nguyễn Hưng Mạch và thầy tu Trần
Thái Minh không chỉ giao cho đồng chí Hai Duyên mấy chục khẩu
súng mà còn lên tiếng kêu gọi binh lính ngụy đang lẩn trốn ra trình
diện chính quyền cách mạng.
1  Sau năm 1975, người dân ở ven hàng rào ấp chiến lược các giáo xứ tự phá
dỡ hàng rào tre gai lẫn kẽm gai.
2  Ông Thân Trọng Địa nguyên là Trưởng ty Thông tin chiêu hồi tỉnh Biên
Hòa, thời điểm này về sống ở giáo xứ Thiết Nham.
264

27.5 Page 265

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ổn định xong tình hình ở ấp Thiết Nham, Đội K11 lần lượt tiến
đến giải phóng các ấp Nghĩa Mỹ, Nghĩa Hiệp, Đại Điền. Ở hai ấp
Ông Kèo, Xoài Minh, người dân phối hợp với cán bộ, du kích địa
phương tự giải phóng, kêu gọi bọn lính bỏ vũ khí ra hàng cách mạng,
tạm trở về nhà chờ lệnh mới. Đến ngày 29.4, Đội K11 giải phóng
các ấp di cư còn lại: Nghĩa Yên, Bắc Thần, Bắc Minh, Vĩnh Phước.
Trừ vụ chống cự ở ấp Thiết Nham, quá trình giải phóng các ấp còn
lại khá thuận lợi, tuy nhiên trong những ngày sau vẫn còn xuất hiện
một số phần tử chống đối rải rác các nơi, nhất là ở các giáo xứ. Bọn
chúng lén giấu vũ khí, rình rập bắn vào cán bộ, chiến sĩ, thậm chí
bắn vào cả người dân ủng hộ cách mạng, vì vậy đồng chí Phạm Văn
Duyên luôn nhắc nhở mọi người phải luôn cảnh giác, không được vì
thắng lợi mà lơi lỏng1. Đến ngày 1.5.1975, lực lượng giải phóng mới
hoàn toàn làm chủ tình hình ở xã Vĩnh Thanh, mọi người có thể đi
lại bình thường.
Trong thời gian tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh từ ngày 26 đến
30.4.1975, quân dân Nhơn Trạch - Long Thành cùng các đơn vị chủ
lực đã diệt 680 tên địch, bắt sống 708 tên, địch ra trình diện 4.598
tên, trong đó có hai đại tá, 9 trung tá, 14 thiếu tá, 265 cấp úy góp
phần quan trọng kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
1  Tại ấp Quới Thạnh, du kích xã Phước An phối hợp với chiến sĩ Đoàn 10 vây
đánh đồn Quới Thạnh. Bọn địch bỏ đồn tháo chạy, Quới Thạnh được giải phóng
ngày 28.4.1975.
265

27.6 Page 266

▲back to top


Chương V
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG,
ỔN ĐỊNH XÃ HỘI, ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
(1975 - 1994)
I. Xây dựng chính quyền cách mạng
Chính quyền của chế độ Sài Gòn trên địa bàn Nhơn Trạch hoàn
toàn sụp đổ ngày 28.4.1975. Lực lượng cách mạng và quần chúng
địa phương với khí thế cách mạng dâng cao đã nổi dậy giành lấy
quyền làm chủ. Ngày 30.4.1975, miền Nam Việt Nam được hoàn
toàn giải phóng, hai miền Nam Bắc của đất nước thống nhất. Nhơn
Trạch bước vào thời kỳ lịch sử mới trong thắng lợi chung của cách
mạng Việt Nam sau 21 năm kháng chiến, đấu tranh giải phóng dân
tộc. Trong niềm vui quê hương độc lập, xã Vĩnh Thanh cũng bắt đầu
đối diện với những khó khăn, thách thức thời kỳ hậu chiến.
Thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy Miền Đông, các địa phương tiến
hành thành lập các Ủy ban Quân quản để quản lý địa bàn sau giải
phóng nhằm kịp thời ổn định tình hình xã hội. Ủy ban Quân quản
huyện và Ban Quân quản các xã triển khai nhanh việc tiếp quản địa
bàn. Cũng như các xã khác, Ủy ban Quân quản của Vĩnh Thanh hầu
hết là những cán bộ hoạt động kháng chiến trên địa bàn. Cán bộ, du
kích và cơ sở cách mạng tại các xã, ấp tham gia vào các Ban Quân
quản để quản lý địa bàn.
266

27.7 Page 267

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Xã Vĩnh Thanh sau ngày giải phóng có diện tích tự nhiên khoảng
3.390 hecta, dân số khoảng 2.500 hộ với hơn 11.000 người phân bổ ở
12 ấp, gồm: Ông Kèo, Xoài Minh, Nghĩa Yên, Bắc Thần, Bắc Minh,
Vĩnh Phước, Đại Điền, Nghĩa Hiệp, Nghĩa Mỹ, Thiết Nham, Nhà
Máy và Quới Thạnh.
Những ngày đầu giải phóng, dân số ở Vĩnh Thanh có những biến
động nhất định. Cuối tháng 4.1975, chiến trường miền Nam khá hỗn
loạn khi những toán quân của chế độ Việt Nam Cộng hòa từ địa bàn
Vũng Tàu - Bà Rịa, Long Khánh trốn chạy qua địa bàn vùng ven
Nhơn Trạch để về Sài Gòn và sau đó ẩn nấp chống phá chính quyền
cách mạng. Bên cạnh đó, người dân tham gia cách mạng, hoạt động
trong vùng căn cứ và một số người dân đi địa phương khác, lánh nạn
chiến tranh nay trở về quê sinh sống. Một bộ phận binh lính, người
thân tham gia chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước đây lo lắng khi
cách mạng quản lý nên cũng tìm cách di dời đến Vĩnh Thanh, đặc
biệt là người dân vùng Sài Gòn. Trong đó, có trung đội trưởng nghĩa
quân của chế độ cũ là Phạm Minh Sang (Năm Sang) do trước đây là
ác ôn có nợ máu với người dân xã Phước Lai, sau ngày 30.4.1975
do lo sợ bị trả thù nên trốn về Vĩnh Thanh, sau được Ủy ban quân
quản xã Phước Lai gửi thư kêu gọi ra trình diện sẽ được cách mạng
khoan hồng nên Năm Sang đã trở về xã Phước Lai trình diện và học
tập cải tạo.
Xã Vĩnh Thanh do vị trí địa lý đặc thù vừa thuận tiện trong việc
giao thông đường bộ qua lộ 19, vừa có sông Ông Kèo và những cánh
rừng ngập mặn ven sông nối liền với sông Thị Vải nên thuận lợi
trong giao thông đường thủy vì từ đây có thể theo sông về Sài Gòn,
267

27.8 Page 268

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
hoặc theo sông ra cửa biển rồi ra đến biển; vừa là vùng tập trung
nhiều xứ đạo - vốn lúc đó còn tồn tại một số mâu thuẫn với chính
quyền cách mạng, nên Vĩnh Thanh từ đó tập trung nhiều vấn đề xã
hội cần giải quyết.
Trong những ngày đầu giải phóng, tiếp quản địa phương, đồng
chí Phạm Văn Duyên được huyện bổ nhiệm làm Bí thư lâm thời của
xã Vĩnh Thanh, đồng chí Đinh Văn Thơ1 được cử làm Chủ tịch Ủy
ban Quân quản xã. Đồng chí Bùi Mạnh Đức là Xã đội trưởng, đồng
chí Thân Hợp Tuyển là Xã đội phó. Đồng chí Nguyễn Văn Vang là
Trưởng Công an xã. Đồng chí Huỳnh Công Châu là Tiểu đội trưởng
Đội du kích xã. Bước đầu, bộ máy chính quyền cấp xã được cơ cấu,
tổ chức ổn định, bên cạnh đó cũng thành lập đội vũ trang địa phương
gồm các thanh niên ưu tú thuộc hai ấp Ông Kèo và Xoài Minh.
Cuối năm 1975, tại các địa phương, Ủy ban Quân quản tỉnh,
huyện, xã bàn giao cho chính quyền địa phương. Riêng tại xã Vĩnh
Thanh do một số điều kiện về nhân sự, đến đầu năm 1976 Ủy ban
Quân quản xã mới bàn giao và thành lập Ủy ban nhân dân xã. Đồng
chí Phạm Văn Duyên chuyển về huyện Long Thành 2, đồng chí Đặng
Văn Thì (Năm Thì) được huyện chỉ định làm Bí thư Chi bộ xã Vĩnh
Thanh. Đồng chí Võ Văn Thậm, người xã Vĩnh Thanh đi tập kết trở
về, làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đồng chí Bùi Mạnh Đức là
1  Đồng chí Đinh Văn Thơ quê ở Tiền Giang, được huyện cử làm Chủ tịch Ủy
ban Quân quản xã Vĩnh Thanh khi chưa là đảng viên.
2  Tháng 1.1976, huyện Long Thành và huyện Nhơn Trạch sáp nhập, lấy tên là
huyện Long Thành. Đồng chí Phạm Văn Duyên trúng cử Huyện ủy viên Huyện
ủy Long Thành, giữ nhiệm vụ Phó Công an huyện.
268

27.9 Page 269

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Phó chủ tịch xã. Đồng chí Nguyễn Văn Mới là Xã đội trưởng. Đồng
chí Thân Hợp Tuyển làm Bí thư Chi đoàn xã.
II. Ổn định xã hội, đời sống nhân dân
Ngay sau khi tiếp quản, Ủy ban Quân quản xã Vĩnh Thanh đã đặt
ra mục tiêu cấp thiết là phải ổn định tình hình xã hội, chính trị và đảm
bảo cho người dân tin tưởng vào đường lối cách mạng trong thời kỳ
mới. Một số nhiệm vụ được Ủy ban Quân quản xã Vĩnh Thanh đề
ra gồm:
- Tuyên truyền chính sách 10 điểm của Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam1 . Trong đó, nhấn mạnh đến
chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc.
- Kêu gọi quần chúng tham gia bảo vệ chính quyền cách mạng,
tiếp tục sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục hậu quả chiến tranh:
chôn cất người chết do chiến tranh, thu gom vũ khí, chất nổ trên địa
bàn.
- Kêu gọi những quân nhân, những người tham gia vào bộ máy
chính quyền Việt Nam Cộng hòa trình diện giao nộp vũ khí, tài liệu
để hưởng chính sách khoan hồng của cách mạng.
- Quan tâm chăm lo cho người dân, cứu chữa người bị nạn trong
chiến tranh, vận động nhân dân góp tiền, của giúp đỡ những gia đình
khó khăn.
1  Từ ngày 6 đến ngày 8.6.1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam ở miền
Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã họp Đại hội đại biểu quốc dân miền
Nam, nhất trí bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ.
269

27.10 Page 270

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
- Lực lượng bộ đội, du kích tập trung tổ chức tuần tra, canh gác,
bảo vệ chính quyền cách mạng, tài sản chung.
Các cán bộ của xã được học tập 5 nhiệm vụ chính trong thời kỳ
đầu giải phóng: Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách
mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; truy quét tàn
binh, trấn áp những đối tượng phản cách mạng, giữ gìn an ninh trật
tự; đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, tổ chức lưu thông phân
phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa; xóa bỏ sản phẩm phi văn hóa,
đồi trụy, tập trung xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, củng cố mở rộng mặt trận
đoàn kết dân tộc.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, Ủy ban Quân quản
xã Vĩnh Thanh tuyên truyền, kêu gọi những người tham gia, làm
việc cho chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 ra trình diện và sắp
xếp cho học tập cải tạo tại chỗ đối với những người thuộc diện địa
phương quản lý theo qui định. Địa điểm học tập ở hai nơi, gồm giáo
xứ ấp Thiết Nham và Trường học thuộc Dòng Vinh Sang (do nhà
dòng hiến cho cách mạng, nay là Trường Tiểu học, Trung học cơ sở
Vĩnh Thanh), thời gian học tập 21 ngày cho các đối tượng là binh
lính, hạ sĩ quan của chính quyền cũ, sau đó cấp giấy chứng nhận và
được trao quyền công dân. Những sĩ quan trong quân đội Việt Nam
Cộng hòa từ cấp bậc thiếu úy trở lên được đưa lên tỉnh tổ chức học
tập cải tạo tập trung.
Người dân Vĩnh Thanh đã tích cực phát hiện, thu gom các loại vũ
khí, đạn dược, chất nổ, các phương tiện máy móc địch còn bỏ lại trên
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
địa bàn. Xã Vĩnh Thanh cũng được huyện biểu dương là điển hình
tiêu biểu khi có 2.000 hội viên tham gia vào Hội Thanh niên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng sau ngày giải phóng của
Ủy ban Quân quản xã Vĩnh Thanh là tuyên truyền, vận động cán bộ,
chiến sĩ, gia đình những người bị chính quyền chế độ cũ sát hại thực
hiện chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, không trả thù những người
làm việc cho chế độ cũ. Tuy nhiên, do quá căm thù bọn lính, cảnh sát
ác ôn giết hại đồng đội, người thân nên có một số người đã âm thầm
tìm cách trả thù, như vụ giết Nguyễn Văn Quế ở ấp Nghĩa Yên (nay
là ấp Vĩnh Cửu). Thời gian làm ở Ban 2 Chi khu Nhơn Trạch (nằm
trên địa bàn xã Phú Thạnh) của chế độ cũ, Quế bắt bớ, bỏ tù, lập hồ
sơ đưa ra Côn Đảo khiến một cán bộ cách mạng ở Xoài Minh hy
sinh, vì thế sau ngày giải phóng người thân của đồng chí này đã tìm
Quế, hai người rủ Quế đưa ra ngoài với ý định ban đầu chỉ là muốn
đánh một trận cho bõ ghét. Không ngờ Quế giỏi võ, quật ngã luôn hai
người này rồi bỏ chạy, nên bị bắn. Tên Đội Xuân cũng bị người dân
thủ tiêu. Trưởng đồn Mười Huỳnh là Hai Ru cũng bị tìm giết, hắn sợ
hãi quá đã trốn về Biên Hòa, rồi mất dạng.
Trên cơ sở thành lập huyện đầu năm 1976, Huyện ủy lâm thời
Long Thành hình thành. Đồng chí Nguyễn Văn Thông (nguyên
Quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được cử giữ chức vụ Bí thư, đồng
chí Phạm Thanh Lý giữ chức Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân
dân. Huyện ủy Long Thành thời điểm có quyết định sáp nhập gồm
25 đồng chí. Trên toàn huyện có 24 chi bộ cấp xã với 326 đảng viên
trưởng thành trong kháng chiến và có những đóng góp tích cực trong
quá trình đấu tranh cách mạng tại địa phương. Thế nhưng bước vào
271

28.2 Page 272

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
tình hình mới, chất lượng của đảng viên của huyện vẫn còn nhiều
hạn chế so với yêu cầu đặt ra.
Đây là tình hình chung, cũng là tình hình thực tế tại xã Vĩnh
Thanh. Năm 1976, Chi bộ xã Vĩnh Thanh chỉ có sáu đảng viên: Đặng
Văn Thì, Bùi Mạnh Đức, Nguyễn Văn Mới, Phan Văn Cảnh, Hồ Văn
Nguyên, Võ Văn Thậm. Từ năm 1976 đến năm 1982, Chi bộ xã Vĩnh
Thanh chỉ phát triển được hai đảng viên là Nguyễn Văn Minh, Hai
Giang. Nguyên nhân tỷ lệ phát triển đảng viên đạt thấp là do xã có
đến 85% dân số là người theo đạo Công giáo, trước năm 1975 Vĩnh
Thanh là vùng địch chiếm đóng, nhiều người dân trong xã ít nhiều
có người thân làm việc cho chế độ cũ, vì thế không đáp ứng điều
kiện phát triển và kết nạp Đảng; một số khác lại không đáp ứng quy
định về trình độ văn hóa. Ngay cả công tác nhân sự, tổ chức của xã
cũng gặp nhiều khó khăn, nhiều các cán bộ trưởng thành trong kháng
chiến lại không có năng lực, trình độ quản lý, người có năng lực thì
không đảm bảo quy định về lý lịch, nhân thân. Chính vì thế, nhiều
năm liền sau ngày đất nước thống nhất, xã Vĩnh Thanh vẫn gặp nhiều
khó khăn, lúng túng trong lĩnh vực xây dựng, phát triển Đảng và bố
trí, sử dụng cán bộ.
Trước tình hình trên, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo cho các cấp
ủy cơ sở tạo điều kiện, tổ chức để đảng viên học tập nghị quyết, chủ
trương, chính sách của Đảng, nhà nước, thực hiện tốt nhiệm vụ được
phân công. Nguồn đảng viên được bồi dưỡng chính trị, chuyên môn
đã bổ sung vào nguồn cán bộ cho tổ chức đảng, trong bộ máy chính
quyền các cấp của địa phương.
272

28.3 Page 273

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ngày 1.7.1976, Hội nghị Đảng bộ Long Thành được tổ chức lần
thứ nhất. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Huyện ủy gồm 29 đồng
chí ủy viên chính thức, trong đó có đồng chí Bí thư Chi bộ xã Vĩnh
Thanh Đặng Văn Thì.
Hội nghị đánh giá cụ thể tình hình của địa phương sau một năm
kể từ ngày giải phóng trên nhiều lĩnh vực, nhận diện những thuận lợi,
khó khăn và rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc quản lý,
định hướng phát triển trong giai đoạn mới. Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện đã thống nhất đồng thuận đề ra phương châm, phương hướng
và mục tiêu cụ thể để thực hiện. Nghị quyết của Hội nghị Đảng bộ
huyện nêu rõ: “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, củng cố
chính quyền với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo, đưa địa
phương phát triển nông nghiệp, công nghiệp theo phương thức sản
xuất mới”1.
Trong năm 1976, các ấp trong xã Vĩnh Thanh đều được đổi tên
mới: Ông Kèo đổi thành ấp Chính Nghĩa, Xoài Minh đổi thành ấp
Thanh Minh, Thiết Nham đổi thành ấp Đoàn Kết, Nghĩa Mỹ đổi
thành ấp Nhất Trí, Nghĩa Hiệp đổi thành ấp Thống Nhất, Đại Điền
đổi thành ấp Đại Thắng, Bắc Thần đổi thành ấp Hòa Bình, Bắc Minh
đổi thành ấp Sơn Hà, Nghĩa Yên đổi thành ấp Vĩnh Cửu, Vĩnh Phước
đổi thành ấp Thành Công; sáp nhập ấp Quới Thạnh vào xã Phước
An. Xã Vĩnh Thanh chính thức có 10 ấp cho đến hiện nay.
Sau đại hội, Chi bộ Đảng xã Vĩnh Thanh đã triển khai Nghị quyết
Đảng bộ huyện, nhưng trong thực tế việc thực hiện hết sức khó khăn.
1  Trích Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ huyện Long Thành năm 1976.
273

28.4 Page 274

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Giai đoạn chiến tranh, xã Vĩnh Thanh bị địch xếp vào loại “vùng
trắng”, quản lý hết sức ngặt nghèo, chính quyền chế độ cũ tuy mặt
ngoài thực hiện chính sách “Người cày có ruộng”, thực hiện khuyến
nông, cơ giới hóa nông nghiệp nhưng trong thực tế không khuyến
khích người dân sản xuất, chăn nuôi, khai hoang làm ruộng vì sợ dân
tiếp tế cho cách mạng. Địch còn cho gài bom mìn ở khắp nơi, kể cả
một số ruộng đất thuộc vùng ven. Vì thế sau năm 1975 đất có thể sản
xuất ở Vĩnh Thanh có khoảng 1.500 hecta, nhưng có đến 900 hecta
đất bị nhiễm mặn không thể trồng lúa, còn lại 600 hecta gồm đất lúa,
hoa màu, vườn cây và ao hồ mặt nước. Đất lúa ở đây thuộc loại chỉ
trồng được một vụ, năng suất lại thấp do bạc màu, bình quân chỉ đạt
30 tạ/hecta. Các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở xã hầu
như không có, chỉ có vài hộ gia đình làm bánh kẹo nhỏ lẻ ở ấp Hòa
Bình, tiêu thụ tại chỗ, thu nhập không đáng kể. Tuyến đường giao
thông chính của xã là lộ 19 là đường đất đỏ, bị hư hỏng nặng nên đầy
sình lầy, ổ gà, ổ voi, đi lại khó khăn. Do vậy, người dân trong xã sản
xuất lương thực không đủ ăn, một số hộ ven sông tiếp tục nghề đánh
bắt thủy sản trên sông Ông Kèo còn có thể duy trì cuộc sống, còn lại
rất nhiều hộ gia đình phải ăn độn bo bo1, khoai sắn, đã xuất hiện tình
trạng thiếu đói cục bộ.
Nhằm giúp dân ổn định sản xuất, duy trì việc làm tại chỗ, Chi bộ
Đảng xã Vĩnh Thanh chỉ đạo chính quyền cấp giấy tờ ruộng đất cho
người dân khi họ trở về địa phương sinh sống để dân yên tâm làm
ăn và trụ lại địa phương. Đồng thời, để sử dụng diện tích đất đai bị
1  Bo bo là lương thực do Liên Xô cũ hỗ trợ.
274

28.5 Page 275

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hoang hóa trong chiến tranh, huyện Long Thành đã thành lập Ban
tháo gỡ bom mìn. Các đội tháo gỡ bom mìn huy động từ lực lượng
bộ đội, du kích, người dân tình nguyện; trong đó có những người
từng tham gia lực lượng công binh chế độ cũ với hiểu biết của mình
tham gia vào công việc tháo gỡ bom mìn để khôi phục sản xuất.
Trong quá trình tháo gỡ, đã xảy ra những mất mát, hy sinh của chiến
sĩ, người dân. Việc tháo gỡ bom mìn đã đem lại sự an toàn trên một
diện tích rộng để người dân canh tác, sản xuất. Ở Vĩnh Thanh có
hàng chục hecta đất được tháo gỡ bom mìn cho người dân canh tác.
Để giải quyết tình trạng thiếu lương thực trước mắt, Chi ủy xã chỉ
đạo người dân gia tăng trồng các loại cây nông nghiệp ngắn ngày
như khoai mì, khoai lang, đồng thời đẩy mạnh chăn nuôi heo, bò, gà.
Trong năm 1976, người dân mở rộng canh tác hơn 100 hecta lương
thực phụ và hoa màu các loại, chủ yếu là trồng khoai mì vì loại cây
này trồng được ở cả vùng đất cằn, ít tốn công chăm sóc, nhanh cho
thu hoạch. Chăn nuôi heo, gà, vịt trong các hộ gia đình cũng được
đẩy mạnh, ban đầu là nghề phụ trong gia đình nhưng lại cho thu nhập
tương đối cao, ổn định. Đàn trâu, bò do giá trị cao nên chưa phát
triển rộng được trong dân.
Giai đoạn này do có tình trạng “ngăn sông cấm chợ”, hàng hóa
lưu thông khó khăn lại thêm đường giao thông chính là lộ 19 không
thuận tiện nên người dân không bán hàng hóa ra ngoài được, chỉ tự
cấp tự túc là chính. Ở Vĩnh Thanh không có cửa hàng quốc doanh
như các xã khác, hàng hóa trên huyện phân phối xuống cho dân trong
xã được đặt tại 2 điểm là trụ sở của Hợp tác xã Nông nghiệp ấp Xoài
275

28.6 Page 276

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Minh1 và cửa hàng ở ấp Sơn Hà, nhân viên của xã viết bảng thông
báo các mặt hàng đang có vào tấm bảng gỗ trước cửa văn phòng,
người dân ai có nhu cầu thì đến mua. Xã cũng không có chế độ tem
phiếu như các vùng khác, cán bộ cũng như dân; các mặt hàng thường
được phân phối là: dầu hôi, vải vóc, phân bón, nhu yếu phẩm các
loại... Nhưng do đời sống người dân trong xã khó khăn nên sức mua
của dân rất thấp, có những mặt hàng để lâu không có người mua, xã
phải chở lên huyện trả lại.
Trước năm 1975, Vĩnh Thanh có 2 bệnh xá - hộ sinh, sau ngày
giải phóng ta tiếp quản và sáp nhập lại thành Trạm Y tế xã Vĩnh
Thanh, cơ sở đặt tại ấp Thanh Minh, do ông Phan Văn Cảnh làm
Trưởng trạm, nhưng những năm sau đó cơ sở vật chất ngày càng
ọp ẹp, xuống cấp, thậm chí Trạm Y tế xã cũng không có điện nên
không thể sử dụng các thiết bị y tế có dùng nguồn điện. Nhiều năm
liền Trạm Y tế không có bác sĩ, cũng không có y sĩ và dược sĩ nên
chỉ khám và chữa một số bệnh thông thường, người bệnh nặng phải
chuyển lên huyện, tỉnh chữa trị. Xã chỉ có Trường Tiểu học cộng
đồng Xoài Minh; còn lại là điểm trường trong các giáo xứ dành riêng
cho con em giáo dân, có điểm trường chỉ dạy đến lớp ba như ở giáo
xứ Thiết Nham, học sinh lên lớp bốn phải sang giáo xứ Nghĩa Mỹ
học nhờ. Xã có hai trường cấp II là Trường Trung học Tỉnh hạt Văn
2 và Trường Trung học Lê Chí Mỹ3 là trường tư do linh mục Hiển
1  Trụ sở Hợp tác xã Nông nghiệp ấp Xoài Minh lúc ấy nằm trên phần đất của
ông Vệ Quốc, còn là nhà vách đất.
2  Nay là trường Mầm non Nhơn Thanh, ở ấp Thanh Minh.
3  Ở ấp Sơn Hà.
276

28.7 Page 277

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
mở, ngoài ra còn có một trường tư thục là Trường trung học tư thục
Thánh Minh1. Xã không có trường cấp III, riêng Trường Trung học
Lê Chí Mỹ có dạy đến lớp đệ tam (tức lớp 10), học sinh muốn học
lên phải sang xã Phú Thạnh học ở Trường cấp III Nhơn Trạch.
Tuy nhiên, khó khăn nhất của xã Vĩnh Thanh là tình hình chính
trị, an ninh trật tự. Trên địa bàn vẫn còn một số binh lính không trình
diện, trốn cải tạo hay từ các nơi khác đến gầy dựng cơ sở, tổ chức
hoạt động, gây nguy hại cho xã hội. Lợi dụng những khó khăn trong
đời sống, những người bất mãn với chế độ, phần tử xấu, các tổ chức
phản cách mạng nhen nhóm luôn tìm cách lôi kéo người dân chống
phá cách mạng, rải truyền đơn kêu gọi “đả đảo Cộng sản”, xuyên
tạc, nói xấu chế độ, gây rối trật tự xã hội. Các thế lực phản động ra
sức tuyên truyền chống phá chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước, kêu gọi đánh phá chính quyền cách mạng. Ở nhiều nơi, các tổ
chức phản cách mạng hình thành, lấy danh nghĩa của Mặt trận quốc
gia toàn lực giải phóng miền Nam, Đảng Dân chủ, Đảng Cấp tiến,
Đảng Cần lao Nhân vị, Mặt trận Việt tiến, Quốc dân Đảng, Thanh
niên Phục quốc đại đội 307, Đảng Phi Long, Mặt trận Cứu nguy Dân
tộc, Mặt trận Giải phóng Dân tộc... đều có đưa người về hoạt động ở
Nhơn Trạch, đặc biệt là Vĩnh Thanh. Ở các giáo xứ Đại Điền, Nghĩa
Mỹ, một số giáo dân chống cách mạng ra mặt.
Sau ngày 30.4.1975, ở Sài Gòn xuất hiện tổ chức phản cách mạng
lấy tên là “Tổ chức Dân quân phục quốc”, cầm đầu là tên “Thiếu
tướng tự phong” Nguyễn Việt Hưng, cùng một số linh mục phản
1  Nay là Trường mầm non Vĩnh Thanh, ở ấp Thành Công.
277

28.8 Page 278

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
động như linh mục Nguyễn Hữu Nghị của nhà thờ An Lạc, linh mục
Nguyễn Quang Minh của nhà thờ Vinh Sơn. Do vị trí đặc biệt của
Vĩnh Thanh, cùng với mối quan hệ giữa các linh mục di cư với nhau
nên tổ chức phản động này đã nhắm đến Vĩnh Thanh để hoạt động
và phát triển lực lượng. Tên Nguyễn Việt Hưng nhiều lần giả làm ăn
mày để liên lạc và hoạt động ở các giáo xứ của Vĩnh Thanh, tổ chức
này cũng lôi kéo được một số thành viên tham gia, chủ yếu trong khu
vực các giáo xứ. Năm 1976 tên Nguyễn Việt Hưng cùng đồng bọn
và các linh mục phản động bị bắt. Nguyễn Việt Hưng bị Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên án tử hình, đồng bọn nhận án tù
từ 3 năm đến chung thân1. Những tên phản động chân rết của “Tổ
chức Dân quân phục quốc” còn lại ở Vĩnh Thanh sau đó gia nhập
tổ chức phản cách mạng khác là “Mặt trận Liên tôn”2, tiếp tục các
hoạt động chống phá, gây rối. Với mục tiêu lật đổ chính quyền cách
mạng, bọn này rất manh động, thường xuyên gây rối, xuyên tạc chế
độ, thậm chí ám sát cán bộ, chiến sĩ của ta.
1  Còn gọi là vụ án Nhà thờ Vinh Sơn. Tổ chức Dân quân Phục quốc tập hợp
các sĩ quan Việt Nam Cộng hòa không trình diện chính quyền cách mạng, một
số linh mục di cư, ra tuyên ngôn gồm 11 điểm, lấy quốc hiệu là “Cộng hòa Việt
Nam”, niên hiệu là “Nền Đệ Tam Cộng hòa”, chọn quốc kỳ, quốc ca, định ra hệ
thống chính quyền phục quốc gồm hội đồng quốc chính, hội đồng nội chính với
các chức Quốc trưởng, Thủ tướng. Tổ chức Dân quân phục quốc đã tiến hành in
và phát tán truyền đơn khắp các địa bàn Sài Gòn kêu gọi lật đổ chính quyền, tổ
chức đài phát thanh, in tiền giả và tổ chức các lực lượng vũ trang. Tổ chức này
sau đó phát triển ở 17 tỉnh, thành phố phía Nam với hàng ngàn người tham gia.
2  Tổ chức phản động Mặt trận Liên tôn do Trần Thanh Đình cầm đầu, móc nối
với linh mục phản động Nguyễn Văn Vàng và em của Vàng là đại úy chế độ cũ
Nguyễn Văn Viên, hoạt động ở vùng Gia Kiệm (huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng
Nai hiện nay) nhằm âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Ngày 12.12.1977,
Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã triệt phá tổ chức này.
278

28.9 Page 279

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Ngày 30.1.1977 (tức ngày 12.12 âm lịch, năm Bính Thìn), lúc đó
đã gần đến Tết, tình trạng buôn lậu tăng mạnh nên các cán bộ, du
kích xã tăng cường tuần tra, nhất là tuần tra trên sông vì bọn buôn lậu
thường sử dụng phương tiện ghe xuồng. Đêm đó trăng sáng, đoàn
tuần tra gồm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân xã Bùi Mạnh Đức, Xã đội
trưởng Nguyễn Văn Mới, du kích Trần Văn Tây cùng một du kích
khác và hai cán bộ phụ nữ xã, đi xuồng từ Xoài Minh đến ngọn Ông
Tu ở khu vực giáo xứ Bắc Minh thì phát hiện từ sông Đồng Tranh
có chiếc ghe máy chở rất khẳm, trên ghe có bốn thanh niên dáng
điệu khả nghi. Bốn người trên chiếc ghe máy nói trên đều là giáo
dân thuộc giáo xứ Bắc Minh, gồm: Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Văn
Thái, Nguyễn Văn Thân, Nguyễn Văn Chiến. Đồng chí Nguyễn Văn
Mới kêu: “Ghe chở gì đó, ghé vô tụi tôi kiểm tra”. Đồng chí Bùi
Mạnh Đức ngồi ngay mũi xuồng, phát hiện chiếc ghe quay đầu định
bỏ chạy nên la lên. Tên Nguyễn Văn Thái ngồi trên ghe máy bất ngờ
rút súng bắn về phía xuồng của đoàn cán bộ xã. Đồng chí Mới bị
trúng đạn ngay giữa trán trổ ra phía sau, té cắm đầu xuống sông, chết
ngay tại chỗ. Đồng chí Đức bị trúng đạn từ ống quyển trổ qua bắp vế,
lội lên bờ lết được khoảng 50m thì chết. Bắn xong, bọn chúng chạy
trốn mất dạng. Vụ ám sát khiến hai cán bộ xã hy sinh đã gây rúng
động, khiến người dân địa phương hoang mang.
Một thời gian sau, tên Nguyễn Văn Chiến lại lần nữa tổ chức ám
sát cán bộ xã, cùng đi với Chiến là tên Ngọ. Lần này chúng nhắm
vào đồng chí Nguyễn Văn Minh (Sáu Minh), Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã. Buổi chiều, nghe tin bọn phản động về một nhà chòi
trong khu vực giáo xứ Bắc Minh lấy lương thực, đồng chí Nguyễn
Văn Minh cùng các du kích xuống đón lõng. Đến nhà chòi, các đồng
279

28.10 Page 280

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chí lục soát nhưng không thấy ai, không ngờ 4 tên phản động gồm:
Thân, Chiến, Chỉnh, Thái đã nấp sẵn ở cây rơm gần đó. Lúc kiểm tra
xung quanh, thấy cây rơm nhúc nhích, đồng chí Minh cảnh giác rút
khẩu Colt 45 ra, nhưng trước đó tên Nguyễn Văn Thái đã cầm khẩu
Rouleau bắn vào đồng chí Minh, làm đồng chí bị thương ở tay. Đồng
chí Minh lập tức bắn trả, tên Thái bị bắn thủng vai, đạn xuyên ra sau
lưng. Các đồng chí ở xã đội hỗ trợ bắt giữ được tên Thái lúc này đã
bị thương, 3 tên còn lại tẩu thoát. Sự manh động của chúng gây xáo
động về chính trị, trật tự an toàn xã hội không chỉ ở Vĩnh Thanh.
Công an tỉnh Đồng Nai đã lên chuyên án phá tan âm mưu của bọn
phản động này, bắt giữ toàn bộ, sau đó Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai đã tuyên án tử hình bốn tên, còn lại xử tù giam theo quy định
của pháp luật.
Không chỉ ám sát cán bộ, chiến sĩ, bọn phản động ẩn náu ở Vĩnh
Thanh còn tổ chức gài người vào hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân
viên của xã, âm mưu “leo cao, trèo sâu” vào hàng ngũ cách mạng.
Giai đoạn sau năm 1975, do địa phương bị thiếu nhân sự, đã có
những người nguyên là tàn binh của chế độ cũ khai man lý lịch hoặc
làm giả hồ sơ, trở thành cán bộ xã. Như trường hợp của ông Lăng
Đức Hiền1, có em là Lăng Văn Luyện tham gia tổ chức phản cách
1  Trường hợp của ông Lăng Đức Hiền do khai man lý lịch nên xã cho thôi
việc. Trở về sống trong dân, ông Hiền sống mẫu mực, đạo đức, thường vận
động giáo dân tham gia các hoạt động, phong trào của địa phương như: đóng
góp cho các hoạt động từ thiện xã hội, làm đường giao thông nông thôn, giữ
gìn an ninh trật tự, xây dựng đời sống văn hóa... Ông Lăng Đức Hiền nhiều
năm liền là Chủ tịch Hội Nông dân xã, sau này là Chủ tịch Hội Người cao tuổi
xã Vĩnh Thanh.
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
mạng, nhưng ông Hiền che giấu lý lịch, trở thành cán bộ tài chính
của xã; ngoài ra còn có ông Nguyễn Khắc Việt, ở ấp Đại Thắng, trở
thành cán bộ thương binh xã hội của xã. Với sự cảnh giác của quần
chúng nhân dân trong xã, những người này sau đó đã bị phát hiện và
xã cho thôi việc.
Ngày 21.6.1977, Đại hội Đảng bộ Long Thành lần thứ nhất được
tổ chức tại Huyện ủy (văn phòng tại xã Phước Thiền). Đại hội bầu
Ban Chấp hành gồm 33 đồng chí, trong đó đồng chí Đặng Văn Thì,
Bí thư Chi bộ xã Vĩnh Thanh tiếp tục được được bầu vào Ủy viên
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện.
Đánh giá thành quả và những bài học kinh nghiệm trong quá trình
lãnh đạo địa phương, Đảng bộ huyện đề ra nhiệm vụ chung: “Phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để tiến hành cải
tạo nông nghiệp, trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất lương thực; kết hợp
chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng, lấy xây dựng là chủ yếu; cải tiến
một bước lưu thông phân phối, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa;
không ngừng củng cố an ninh - quốc phòng, trật tư xã hội... Từng
bước khẩn trương xây dựng huyện Long Thành thành một huyện
nông - công nghiệp vững mạnh”1.
Sau thời gian khắc phục hậu quả của chiến tranh trong năm đầu
đất nước thống nhất, Huyện ủy xác định và định hướng trong xây
dựng, phát triển của địa phương theo đúng chủ trương, đường lối của
Đảng, cùng toàn tỉnh và cùng cả nước xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ tình hình địa phương, qua những kỳ đại hội, Huyện ủy định
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1977.
281

29.2 Page 282

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
hướng phát triển trong từng giai đoạn với mục tiêu trên từng lĩnh
vực cụ thể.
Đối với địa phương, phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng
tâm, trong đó sản xuất lương thực là vấn đề quan trọng tập trung chỉ
đạo nhằm đáp ứng, đảm bảo được đời sống nhân dân, ổn định trật tự
xã hội và làm cơ sở để xây dựng xã hội mới. Chính sách khai hoang
phục hóa đã đem lại kết quả tốt. Bước vào con đường xây dựng phát
triển nông nghiệp theo hướng tập thể, nông nghiệp được xác định là
mặt trận hàng đầu trong mục tiêu “Thâm canh, tăng vụ, tăng năng
suất và mở rộng diện tích sản xuất”. Việc tăng cường diện tích đất
sản xuất nông nghiệp được quan tâm trong phong trào xây dựng hợp
tác hóa nông nghiệp. Các vùng đất bị hoang hóa trên địa bàn Nhơn
Trạch được nhân dân tăng cường phục hóa, canh tác. Công tác thủy
lợi được phát động ở nhiều địa bàn không những đáp ứng cho mùa
vụ các diện tích thuần nông mà còn góp phần mở rộng diện tích bỏ
hoang, cải tạo nguồn đất cho nhân dân. Phong trào làm thủy lợi được
phát động và cũng là nhiệm vụ cấp bách từ năm 1976 trở đi.
Một trong những chủ trương lớn của huyện lúc bấy giờ là làm
mương thủy lợi, đắp đê ngăn mặn ở những vùng ngập mặn để ngọt
hóa đất trồng lúa, vì lúa ở giai đoạn này được xem là lương thực chủ
yếu. Ở hai xã Phước Khánh và Vĩnh Thanh, huyện cho xây dựng
đập Ông Kèo để ngăn mặn, ngọt hóa. Đập Ông Kèo đoạn qua Vĩnh
Thanh thực chất như là đường đê lớn bao hết đoạn xã Vĩnh Thanh,
bắt đầu từ ấp Đoàn Kết kéo dài đến giáp xã Phước Khánh, được xây
dựng nhằm ngăn nước mặn xâm nhập vào ruộng lúa, đảm bảo diện
tích đất canh tác. Bí thư Chi đoàn xã Vĩnh Thanh là Thân Hợp Tuyển
282

29.3 Page 283

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
huy động được 36.696 ngày công từ nhiều thành phần, đối tượng
trong dân như thanh niên, học sinh, giáo viên, ngay cả các tu sĩ cũng
tham gia đắp đê Ông Kèo. Thời điểm đó việc đắp đê chưa có cơ
giới hóa, chỉ bằng sức người, đôi tay thanh niên và người dân Vĩnh
Thanh, kẻ xốc cừ người vứt đất, đào, đắp và hình thành nên 11km đê.
Lúc đắp đập Cao Cẳng (ở ấp Sơn Hà), mọi người đắp gần xong thì
nước sông dâng quá cao nên vỡ đập, dòng nước xiết cuốn phăng mọi
công sức ra sông, may mắn là không xảy ra thiệt hại về người, nhưng
tất cả không ai nản lòng, tiếp tục công việc lại từ đầu, canh con nước
để đắp lại lần thứ hai và sau đó đắp thành công.
Trong thành tích chung của huyện về công tác thủy lợi phục vụ
nông nghiệp1, xã Vĩnh Thanh là điển hình với thành tích không chỉ
huy động sức người, sức của hưởng ứng chủ trương lớn của địa
phương mà còn đạt hiệu quả cao về thời gian hoàn thành, khối lượng
công trình đạt được. Những năm kế tiếp, thanh niên Vĩnh Thanh còn
tham gia hỗ trợ lực lượng Thanh niên xung phong khai hoang Nông
trường Đồng Khởi (xã Phước Thiền, huyện Long Thành), Nông
trường Sông Ray2.
1  Theo số liệu báo cáo, lưu trữ tại Huyện ủy Long Thành, cụ thể như sau:
- Năm 1975, huyện huy động 141.000 ngày công, đào đắp 22 đập, hồ chứa
nước (mỗi hồ có sức chứa từ 8.500 đến 10.000m3 nước), nạo vét 7.600m kinh
mương, 3 đập chứa nước ngọt, tưới tiêu trên 300 hecta lúa.
- Năm 1976, huyện huy động 315.372 lượt ngày công, đào đắp 349.463m3 đất,
51 công trình thủy lợi lớn nhỏ, 66.773m kinh mương, 25 ao hồ chứa nước ngọt.
2  Năm 1977, tỉnh có chủ trương xây dựng Nông trường Sông Ray thành khu
kinh tế mới để đưa dân đến sản xuất, lúc đó thuộc huyện Xuân Lộc, nay thuộc
xã Sông Ray, huyện Cẩm Mỹ.
283

29.4 Page 284

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Năm 1977, huyện Long Thành được Trung ương chọn làm điểm
xây dựng và cải tạo nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Huyện tiến hành điều tra, thống kê nguồn lao động, diện tích
canh tác và thực hiện quy hoạch tổng thể để tiến hành. Một số xã
được huyện chọn tập trung đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa, phong
trào thủy lợi, khai hoang và cải tạo đồng ruộng để làm cơ sở tiến
hành cho việc triển khai kế hoạch phát triển sản xuất lớn.
Mô hình Hợp tác xã nông nghiệp được hình thành và các xã xuất
hiện nhiều tập đoàn sản xuất với sự tham gia của nhiều hộ dân. Dù
có những khó khăn trong vận động người dân tham gia hình thức
sản xuất mang tính tập thể nhưng chủ trương lớn này đã được tuyên
truyền, vận động tốt, thu hút được nhiều xã viên tham gia.
Trên địa bàn các xã khu vực Nhơn Trạch, hình thành những cụm
phát triển Tập đoàn sản xuất, Hợp tác xã trong 8 cụm của toàn huyện
Long Thành như sau: Cụm 1 gồm xã Vĩnh Thanh, xã Phú Hữu (xây
dựng Hợp tác xã điểm), xã Đại Phước, xã Phú Thạnh, xã Phước
Khánh (thành lập Tập đoàn sản xuất); Cụm 2 gồm xã Phước Thiền,
xã Long Tân (Hợp tác xã), xã Phú Hội (Tập đoàn sản xuất); Cụm 3
gồm xã Phước Kiển (Hợp tác xã), xã Phước Lai, xã Phước Long, xã
Phước Thọ (Tập đoàn sản xuất).
Năm 1977 Hợp tác xã nông nghiệp Vĩnh Thanh ra đời, hầu hết
người dân trong xã đều tham gia, như ở ấp Thanh Minh có khoảng
150 hộ dân góp hơn 80 hecta ruộng vào hợp tác xã. Trước năm 1975,
thực hiện chính sách mị dân “Người cày có ruộng”, chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu hô hào đưa cơ khí hóa nông nghiệp về nông thôn,
284

29.5 Page 285

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
mỗi ấp ở Vĩnh Thanh được cấp một máy xới đất hoặc hai con trâu,
nay vào hợp tác xã, máy xới và trâu cũng được đưa vào như ruộng
đất, trở thành công hữu. Mọi người làm việc tính công điểm, khi thu
hoạch nông sản ấn theo công điểm chia sản phẩm.
Tuy nhiên, trong hai năm 1977-1978, cả nước bị thiên tai nặng
dẫn đến mất mùa, lương thực bị thiếu hụt không đủ ăn. Vĩnh Thanh
cũng vậy, xã bị mất mùa liên tiếp 2-3 năm do bị mặn xâm nhập. Nước
sông bị nhiễm mặn, tràn qua đê vào trong đồng ruộng khiến lúa bị
chết. Ở những vùng phía trong, các xã viên hợp tác xã thục mạch
nước ngầm rồi dùng máy bơm để bơm nước giếng cứu lúa, nhưng
toàn xã vẫn có khoảng 500 hecta lúa bị mất trắng, trong đó khu vực
Thanh Minh và khu vực ấp Nhà Máy cũ là nghiêm trọng nhất. Dân
Vĩnh Thanh lâm vào tình trạng thiếu đói, huyện Long Thành lúc
này cũng khó khăn không tự túc được lương thực phải nhờ chi viện
lương thực của tỉnh, từ đó mới đưa lương thực hỗ trợ Vĩnh Thanh
nhưng vẫn không đủ. Một số người dân ở Vĩnh Thanh phải rời quê
tìm việc làm. Dân ấp Thanh Minh có hơn một nửa người dân trong
ấp về các tỉnh Long An, Bến Tre, Tiền Giang làm công đổi lấy miếng
ăn. Ở ấp Đoàn Kết nhân có ông Lê Đình, Phó Giám đốc Nông trường
cao su Ông Quế, vợ là người Vĩnh Thanh nên cũng có gần một nửa
dân trong ấp Đoàn Kết đến nông trường xin làm công nhân cao su.
Vào thời điểm Vĩnh Thanh gặp nạn mất mùa, đời sống người dân
khó khăn, lại là cơ hội cho bọn phản cách mạng ra sức chống phá.
Bọn chúng liên tục rải truyền đơn nói xấu chế độ, bôi bác chính
quyền, thậm chí có những hoạt động manh động gây mất an ninh trật
tự địa phương. Ở khu vực Rừng Sác giáp hai xã Phước An và Vĩnh
285

29.6 Page 286

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Thanh, bọn tàn quân phản động thường ẩn núp tại đây để hoạt động.
Ngày 28.11.1978, bọn phản động có vũ trang đã bất ngờ tập kích
một chốt của lực lượng Công an đóng giữ bám địa bàn tại đây khiến
đồng chí Lê Văn Hiếu, Trung sĩ cảnh sát bảo vệ thuộc Công an huyện
Long Thành hy sinh.
Đặc biệt, ở Vĩnh Thanh thời gian này bắt đầu rộ lên tình trạng
vượt biên trái phép. Trong và sau thời điểm 30.4.1975, một số người
trong xã đã tìm cách di tản ra nước ngoài, nhất là dân ở các giáo xứ.
Như ở giáo xứ Thiết Nham có ông Thân Văn Khanh là lính thủy quân
của chế độ Sài Gòn, năm 1975 đã tổ chức đưa hàng chục chuyến tàu
vượt biên, đến chuyến cuối cùng thì bản thân ông Khanh bị ta bắt
được nên kẹt lại trong khi gia đình, vợ con đều đã ra nước ngoài bằng
những chuyến tàu trước, đến năm 1978 ông Khanh lại tổ chức vượt
biên và lần này đi trót lọt.
Do Vĩnh Thanh có vị trí thuận lợi, từ bến Ông Kèo đi thuyền ra
sông Đồng Tranh, đến cửa Lòng Tàu là có thể ra biển nên rất đông
người vượt biên từ tứ xứ kéo về đây tìm cơ hội, phương tiện để ra
biển rồi từ đó ra nước ngoài, khiến tình hình an ninh trật tự của địa
phương càng thêm phức tạp. Lực lượng Công an, dân quân của xã,
huyện bắt hàng chục vụ vượt biên trái phép, nhưng tình hình trốn
ra nước ngoài bằng đường biển vẫn phức tạp và kéo dài. Nơi xảy ra
nhiều vụ vượt biên nhất ở Vĩnh Thanh là khu vực hai ấp Sơn Hà và
Vĩnh Cửu do hai nơi này có sẵn bến bãi, chính người ở các giáo xứ
tự tổ chức móc nối, đưa người vượt biên về ẩn náu trong giáo xứ,
mua hoặc thuê tàu, thuyền đưa ra tận tàu lớn ngoài khơi. Về sau, tình
trạng đưa người vượt biên trái phép lan ra ở các ấp Hòa Bình, Thống
286

29.7 Page 287

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Nhất. Để các chuyến vượt biên được trót lọt, các nhóm tổ chức còn
ra sức hối lộ, thu mua cán bộ bằng mọi giá.
Thời điểm này, lương cán bộ công chức của xã rất thấp, không
đủ lo cho gia đình. Lương của Bí thư xã là 73 đồng, lương cán bộ
mới nhận việc là 39 đồng 25 xu, trong khi vàng khoảng 200 đồng/
chỉ. Các đồng chí lãnh đạo của xã hầu hết mặc áo vá, đạp xe đạp đi
làm, đi xuống các địa bàn dân cư xa xôi hay lên huyện, tỉnh họp cũng
bằng xe đạp, trong khi những người móc nối vượt biên sẵn sàng chi
hàng chục cây vàng cho một chuyến vượt biên trót lọt. Vì vậy, một
số cán bộ của xã dù đã kinh qua những tháng ngày kháng chiến gian
khổ, kinh qua năm tháng ngục tù khắc nghiệt của đế quốc đã không
chống nổi “viên đạn bọc đường” đầy cám dỗ. Ngày 24.12.1982, vào
đúng đêm Noel, Bí thư Chi bộ xã Vĩnh Thanh Đặng Văn Thì bị bắt
vì quan hệ tổ chức vượt biên trái phép, sau đó bị khai trừ Đảng, bị
Tòa án nhân dân huyện Long Thành tuyên án 20 năm tù, Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Nai xử phiên phúc thẩm tuyên 15 năm tù (do cải tạo
tốt nên sau đó được đặc xá còn 8 năm). Cũng trong vụ việc này, Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng Công an xã Phan Văn Cảnh
bị kỷ luật, cho thôi việc. Phan Văn Cảnh là một trong những thanh
niên giác ngộ cách mạng và thoát ly theo kháng chiến từ sớm, năm
1967 tham gia lực lượng C240, C241, Đội vũ trang tuyên truyền di
cư K11, được kết nạp Đảng từ năm 1973 ngay trên chiến trường.
Đây là bài học đau xót trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công
tác quản lý cán bộ của xã Vĩnh Thanh.
Vấn nạn vượt biên còn gây ra nhiều hệ lụy đau lòng ở xã Vĩnh
Thanh. Giai đoạn này, một đơn vị thuộc Đoàn 10 Đặc công lừng lẫy
287

29.8 Page 288

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
thời kháng chiến chống Mỹ được giao nhiệm vụ đóng chốt ở Vĩnh
Thanh để ngăn chặn tình trạng vượt biên, do đồng chí Ba Cấp phụ
trách. Vào một đêm, phát hiện có chiếc ghe chở đầy người vượt biên
lén lút di chuyển từ bến Ông Kèo ra sông Đồng Tranh, đồng chí Ba
Cấp chỉ huy các chiến sĩ đuổi theo chặn lại. Người trên chiếc ghe
vượt biên có trang bị vũ khí nên đã bắn vào thuyền của Đoàn 10 làm
hai chiến sĩ trúng đạn bị thương, đồng thời nhóm vượt biên cho ghe
tăng tốc chạy bạt mạng nhằm mục đích thoát nhanh ra cửa Lòng Tàu
rồi ra biển. Đồng chí Ba Cấp thấy đồng đội bị thương, trên ghe vượt
biên có vũ khí, lại manh động, nên cũng cho thuyền tăng tốc tiếp tục
đuổi theo, quyết tâm ngăn chặn. Do ban đêm trời tối, ghe vượt biên
thuộc loại nhỏ, chở nhiều người, di chuyển với tốc độ cao lại gặp
sóng lớn khi thuyền của Đoàn 10 đuổi theo nên sau đó ghe bị lật và
chìm. Khi các chiến sĩ Đoàn 10 cùng các lực lượng khác đến cứu
nạn thì đã có 40 người trong số người vượt biên bị chết đuối, trong
đó có nhiều trẻ em, phụ nữ. Tòa án Quân khu 7 sau đó xem xét trách
nhiệm dẫn đến vụ thương vong bi thảm nói trên, đã tuyên án đồng
chí Ba Cấp 12 năm tù.
Sau vụ việc nguyên Bí thư Chi bộ xã Đặng Văn Thì bị bắt, đồng
chí Trần Trung Kiên được huyện biệt phái về Vĩnh Thanh làm Bí thư
xã giai đoạn 1982-1984. Đồng chí Huỳnh Tự Giác, cán bộ từng tham
gia kháng chiến chống Pháp, đi tập kết về, là Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã (1980-1984). Lúc này cả xã chỉ có 7 đảng viên. Những năm
này, tuy tình trạng thiếu lương thực, đói kém đã qua, nhưng đời sống
đại bộ phận người dân Vĩnh Thanh vẫn còn nhiều khó khăn. Từ năm
1979, huyện đã tự chủ về nguồn lương thực và hoàn thành nghĩa vụ
288

29.9 Page 289

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
chỉ tiêu với nhà nước giao, nhưng riêng ở Vĩnh Thanh đến giai đoạn
này cũng chưa thể tự túc, vẫn phải nhận lương thực hỗ trợ từ huyện.
Với mục tiêu đưa nông nghiệp phát triển toàn diện, từ năm 1982,
chủ trương của huyện Long Thành là phát triển mạnh mẽ nền kinh
tế theo cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý; phát triển nông nghiệp
một cách toàn diện, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, lương
thực là trọng tâm theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa. Huyện ủy chỉ
đạo tiến hành điều tra, đo đạc, phân loại các hạng đất để bố trí, điều
chỉnh, hình thành các vùng chuyên canh. Ngoài các vùng trọng điểm
đê ngăn mặn ở khu vực Ông Kèo, huyện đã cải tạo hàng trăm héc ta
đất sản xuất từ một vụ lên hai vụ mỗi năm. Theo đó, xã Vĩnh Thanh
đã nâng diện tích đất sản xuất nông nghiệp lên hơn 1.000 hecta (tăng
hơn 400 hecta so với năm 1975), hình thành vùng chuyên canh lúa
ở phía trong đập Ông Kèo; một số khu vực đã trồng được hai vụ
lúa, nhờ được đầu tư giống, phân bón phù hợp nên đã tăng năng
suất, nhất là trong vụ mùa, năng suất đạt 6 tạ/hecta mỗi vụ dù trong
năm 1983 xảy ra tình trạng hạn hán. Một số hộ đầu tư phương tiện,
tổ chức đánh bắt thủy sản và tiêu thụ theo phương thức thỏa thuận
trao đổi mua bán, tuy chưa hình thành cơ sở quốc doanh hay tổ chức
thành hợp tác xã nuôi trồng thủy sản nhưng đây là cơ sở bước đầu để
tập trung khai thác nguồn lợi thủy sản của địa phương, đáp ứng nhu
cầu thiết thực của xã hội và người dân.
Một trong những vấn đề trong phát triển nông nghiệp của Vĩnh
Thanh thời điểm này chính là việc vận động nông dân thực hiện
khoán sản phẩm nông nghiệp theo chỉ đạo của huyện. Trước đây
Nhà nước chủ trương vận động dân vào tập đoàn, hợp tác xã sản xuất
289

29.10 Page 290

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nông nghiệp, các xã viên được áp dụng chế độ khoán việc, công sức
lao động của xã viên được qui thành công, điểm (công là ngày công,
còn điểm là 1/10 ngày công). Từ cấy hái, chăm bón đến họp hành
đều tính thành công điểm. Ngày công được tính cho mỗi lao động
khi thực hiện một công việc theo tiêu chuẩn hợp tác xã đề ra. Cuối
mỗi vụ sẽ dựa vào công điểm để chia hoa lợi. Qua đánh giá thực tế,
hình thức khoán việc bộc lộ nhiều nhược điểm như: người lao động
ít quan tâm đến sản phẩm cuối cùng họ làm ra, chỉ lo chạy theo công
điểm, không đảm bảo quy trình kỹ thuật, không tiết kiệm chi phí sản
xuất, bên cạnh đó có nơi còn gây ra bất công bằng trong chấm công,
điểm. Hình thức khoán việc nhìn chung không phù hợp với trình độ
tổ chức, quản lý và điều kiện sản xuất của đa số hợp tác xã, từ đó
người dân không mặn mà tham gia; hoạt động hợp tác xã nhiều nơi,
trong đó có Vĩnh Thanh, chỉ tồn tại trên hình thức.
Từ năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng cho phép các địa
phương thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Qua thực hiện
thí điểm ở một số địa phương, khoán sản phẩm vừa nâng cao được ý
thức trách nhiệm của tập thể và mỗi cá nhân, cụ thể hoá chế độ làm
chủ tập thể, vừa đảm bảo nguyên tắc phân phối công bằng cho người
lao động nên khuyến khích được hợp tác xã và xã viên tích cực tận
dụng lao động, đất đai, thâm canh, tăng vụ, phát triển sản xuất, tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động. Tại
Vĩnh Thanh cũng áp dụng khoán sản phẩm, còn gọi là khoán 100 (do
Nghị quyết ban hành số 100) tại các tập đoàn trên địa bàn, nhưng
cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm dần vì cơ chế
tập trung quan liêu, mệnh lệnh và hành chính cứng nhắc vẫn tồn tại
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
trong hoạt động của các hợp tác xã. Cụ thể, việc định ra mức khoán
không ổn định, được điều chỉnh theo từng năm, mỗi năm một cao
hơn khiến xã viên vượt khoán được hưởng lợi rất ít, vì vậy động lực
vừa mới được tạo ra đã dần bị triệt tiêu. Các hộ nông dân không đủ
khả nǎng bảo đảm tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã trả lại
ruộng nhận khoán. Dù các cán bộ xã nhiều lần vận động người dân,
nhưng việc khoán sản phẩm nông nghiệp vẫn không thực hiện được.
Năm 1984, Hợp tác xã nông nghiệp ở Vĩnh Thanh tan rã, giải thể,
nông dân nhận lại ruộng đất, tự canh tác.
Công tác tuyên truyền, vận động công cộng trên địa bàn xã thời
điểm này chủ yếu qua hệ thống loa truyền thanh, hầu như các phong
trào được phát động trong các đợt sinh hoạt chính trị, phục vụ các
ngày lễ lớn, mít tinh... đều được truyền thông kịp thời. Thông qua
nhiều hình thức, cùng với sự cổ động từ các hội, đoàn thể, người
dân Vĩnh Thanh tích cực hưởng ứng tham gia vào các phong trào
được phát động: xây dựng đời sống văn hóa mới, xóa bỏ những hủ
tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong cộng đồng. Phong trào thể dục thể
thao để giữ gìn sức khỏe được phát động sâu rộng. Một hình thức
tuyên truyền đáp ứng đời sống tinh thần của người dân Vĩnh Thanh
là chiếu phim thông qua các tổ chiếu bóng lưu động của huyện. Hình
thức giải trí khá mới mẻ này được người dân rất yêu thích, đặc biệt
là giới trẻ, buổi chiếu phim nào cũng tập hợp được đông đảo người
dân đến xem.
Giai đoạn này, xã Vĩnh Thanh cũng tiến hành điều tra, thống kê,
lập hồ sơ thực hiện chính sách có công với cách mạng. Với các đối
tượng chính sách, địa phương thực hiện đầy đủ công tác chăm sóc,
291

30.2 Page 292

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
khám chữa bệnh, thăm hỏi, hỗ trợ cũng như giải quyết kịp thời chính
sách đền ơn đáp nghĩa theo quy định. Từ năm 1982, Trạm Y tế xã
Vĩnh Thanh mới có y sĩ. Công tác tiêm chủng, phòng bệnh được thực
hiện tốt, tuy nhiên công tác kế hoạch hóa gia đình không năm nào đạt
chỉ tiêu do địa phương có đông đồng bào Công giáo, theo tập quán là
sinh đẻ tự nhiên, không sử dụng các biện pháp phòng tránh thai. Về
lĩnh vực an ninh quốc phòng, xã phối hợp với huyện tổ chức trấn áp,
dập tắt tổ chức phản động cách mạng với danh xưng “Việt Nam phục
quốc”, bắt 250 tên, thu nhiều tài liệu tuyên truyền chống phá và một
số vũ khí. Đây là tổ chức có nhiều cơ sở trên địa bàn huyện, có hệ
thống chân rết tại các xã Đại Phước, Vĩnh Thanh và gắn với một số
đối tượng ở các địa phương trong khu vực (Thành phố Hồ Chí Minh,
Vũng Tàu, Sông Bé).
III. Đẩy mạnh sản xuất, đổi mới nông nghiệp
Giai đoạn 1984-1987, đồng chí Nguyễn Văn Thông là Bí thư xã
Vĩnh Thanh, kế tiếp là đồng chí Phan Trường Xuân là Bí thư xã
giai đoạn 1987-1993. Đồng chí Huỳnh Tự Giác nghỉ hưu, đồng chí
Nguyễn Văn Sang là Chủ tịch ủy ban nhân dân xã (1985-1990), kế
tiếp là đồng chí Nguyễn Văn Minh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã giai
đoạn 1990-1998, sau đó cũng trong năm 1998, đồng chí Đỗ Thành
Đông thay đồng chí Minh làm chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Chi bộ
xã Vĩnh Thanh xác định nhiệm vụ trong thời gian tới là phải mạnh
mẽ tiến hành đổi mới công tác tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền
cho phù hợp với nhiệm vụ mới; đẩy mạnh sản xuất ổn định đời sống
nhân dân, hoàn thành nghĩa vụ thuế và từng bước tích lũy, trong đó
bước đột phá là tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật phù hợp với
292

30.3 Page 293

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
cơ sở, đổi mới giống cây trồng, vật nuôi; phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhìn thẳng
vào sự yếu kém của đội ngũ, mạnh dạn sửa chữa khuyết điểm, tích
cực phấn đấu đi lên; tiếp tục củng cố an ninh quốc phòng, khôi phục
trật tự an toàn trên địa bàn xã.
Trên mặt trận nông nghiệp, với nhiệm vụ nhanh chóng giải phóng
lực lượng sản xuất, phát huy các nguồn lực hiện có, phát triển toàn
diện trồng trọt và chăn nuôi, xã xác định cơ cấu kinh tế, cây trồng,
vật nuôi, ngành nghề phù hợp với đất đai, tập quán lao động và đầu
tư nguồn vốn, vật tư theo trọng điểm; mở rộng phong trào thâm canh,
tăng vụ. Các diện tích đất nhiễm mặn được nghiên cứu chuyển đổi
trồng dừa, điều chỉnh giống cây trồng cho hoa màu, điều; ưu tiên
phát triển và có kế hoạch đầu tư lâu dài các loại cây công nghiệp.
Bên cạnh đó, xã chủ trương trồng cây tràm và cây đước để tăng diện
tích rừng, vì đây là hai loài cây phù hợp với thổ nhưỡng của địa
phương, nhất là vùng đất ngập mặn, đất cằn.
Trong chăn nuôi, chủ trương phát triển toàn diện được đẩy mạnh,
tạo nên đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn với hình thức hộ dân, tập
thể cùng tham gia, đảm bảo sức kéo, nguồn phân bón cho sản xuất
nông nghiệp và nguồn thực phẩm cung ứng cho nhu cầu người dân.
Nguồn lợi thủy sản cũng cần tiếp tục khai thác hiệu quả; sản phẩm
thu từ chăn nuôi, đánh bắt đáp ứng cho địa phương và được chế biến
hàng xuất khẩu. Thời gian tới huyện có chủ trương đầu tư hệ thống
đường ống dẫn nước ngọt cho xã Vĩnh Thanh, địa phương cần tận
dụng cơ hội để nâng cao chất lượng sống cho người dân trong xã.
293

30.4 Page 294

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Bước vào nhiệm kỳ 1993-1995, Chi bộ xã Vĩnh Thanh có 17 đảng
viên. Đồng chí Hồ Văn Nguyên, cán bộ kháng chiến đi tập kết về,
làm Bí thư xã. Đồng chí Nguyễn Văn Minh là Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã. Tuy tình hình địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, nguồn thu
của xã chưa đạt chỉ tiêu, chưa đáp ứng tự chủ mà vẫn phụ thuộc vào
sự hỗ trợ của huyện, nhưng trên bình diện chung, kinh tế của Vĩnh
Thanh bắt đầu có những khởi sắc trên một số mặt: hình thành vùng
chuyên canh trồng lúa, cây công nghiệp theo cơ cấu đã xác định và
làm chuyển biến tích cực đối với địa phương, đời sống của người
dân được cải thiện với bình quân lương thực đầu người có tăng so
với trước. Nghị quyết Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Thanh nhiệm kỳ 1993-
1995 nêu rõ “Dựa trên những đặc điểm kinh tế chung của khu vực
có liên quan để đề ra hướng cho kinh tế xã, dựa trên vốn quý bản
thân của nông dân Vĩnh Thanh là cần cù, chịu khó, tích cực lao động,
cùng với tài sản vô giá là đất đai, trí tuệ để làm ra nhiều sản phẩm”.
Phương hướng để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân
được Nghị quyết đề ra là nắm vững khoa học - kỹ thuật để sản xuất
lúa vụ 2, vụ 3 hiệu quả, năng suất cao, song song đó là phát triển
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; chú trọng nâng cao các hoạt động
văn hóa - xã hội, y tế.
Theo đó, tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của xã là 1.663
hecta, trong đó diện tích đất lúa là 1.199 hecta (tăng khoảng 200
hecta so với năm 1983); tổng diện tích gieo cấy trong hai năm 1993,
1994 là 4.416 hecta, trong đó lúa chiếm 3.273 hecta, không đạt so
với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra (5.000 hecta). Nguyên nhân là do vụ
mùa năm 1994 có 506 hecta lúa bị chết vì khu vực đập Ông Kèo
294

30.5 Page 295

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bị xâm nhập mặn. Tuy nhiên, do năng suất lúa đạt cao, một số ấp
trồng được lúa vụ 3 nên mức bình quân lương thực đầu người vẫn
đạt 520kg/người, tăng gấp đôi so với nhiệm kỳ 1991-1993. Đặc biệt,
trong năm 1994 xã được huyện hỗ trợ trồng thực nghiệm 7 hecta
giống mía quế đường có năng suất cao, dễ chăm sóc, cho chữ đường
cao nên lãnh đạo xã thống nhất sẽ mở rộng diện tích trồng mía trong
năm 1995. Qua đó, bài học kinh nghiệm được rút ra là trong gieo
trồng nông nghiệp cần chú trọng đến giống mới và loại cây có hiệu
quả kinh tế dễ chăm sóc.
Về cây công nghiệp trên địa bàn phổ biến là cây điều, do giá thu
mua hạt điều liên tục giảm từ năm 1990 đến nay nên diện tích điều
cũng giảm dần qua từng năm. Nếu như năm 1990 toàn xã có 480
hecta điều thì năm 1993 giảm còn 175 hecta, đến năm 1995 chỉ còn
130 hecta. Số diện tích trồng điều trước đây được người dân chuyển
sang trồng mì, đậu phộng là các loại cây ngắn ngày. Về công tác
trồng rừng, trước đây từ năm 1983 Chi bộ xã có Nghị quyết trồng
tràm và đước để phát triển rừng, nhưng do một thời gian dài thiếu sự
quản lý của địa phương nên người dân đã tự ý khai thác dẫn đến mất
phần lớn diện tích rừng trồng. Đến năm 1993 xã mới khôi phục được
114 hecta rừng trồng mới và bổ sung, trong đó trồng mới 37 hecta
tràm và 30 hecta đước.
Trong nhiệm kỳ, chăn nuôi cũng phát triển và được người dân
chú trọng bởi là nghề phụ nhưng cho thu nhập khá cao. Đàn heo tăng
bình quân hàng năm khoảng 10,5%, riêng năm 1994 nhảy vọt lên
19%. Đàn trâu bò giữ mức ổn định khoảng 930 con do diện tích bãi
chăn thả không mở rộng.
295

30.6 Page 296

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Riêng về ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển
mạnh. Từ khi có Nghị quyết Đại hội về mở rộng ngành nghề phụ và
tiểu thủ công nghiệp, trong xã đã xuất hiện các cơ sở may gia công,
sơ chế nông sản, sơ chế thực phẩm gia công cho các công ty ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Nếu như đầu nhiệm kỳ có 150 hộ đăng ký kinh
doanh ngành nghề tiểu thủ công nghiệp thì đến năm 1995 đã lên đến
500 hộ. Mức thu nhập bình quân của các ngành nghề này từ 30 ngàn
đồng/ngày đã tăng lên đến 120 ngàn đồng/ngày, đây là con số rất
cao so với mặt bằng thu nhập chung của xã. Tuy nhiên, vẫn còn một
số cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp chưa thể phát triển, mở rộng
cung ứng hàng hóa đi các nơi do chưa có ý thức cũng như đáp ứng
yêu cầu về kiểm nghiệm chất lượng, nhất về sản xuất thực phẩm,
vì thế còn loay hoay tiêu thụ tại địa phương. Đây cũng là vấn đề
được Chi bộ lưu ý đề nghị nghiên cứu và hỗ trợ người dân một cách
thiết thực.
Tình hình thu thuế cũng khả quan hơn các nhiệm kỳ trước. Từ
năm 1991 trở về trước chỉ tiêu thuế chỉ đạt 70%, thì các năm sau đạt
89,11%. Tổng thu ngân sách trong 2 năm 1993, 1994 là 10.755.659
đồng. Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối trong thu chi ngân sách vẫn
diễn ra, trong đó có nguyên nhân là do lãnh đạo xã thiếu kiểm tra
đôn đốc. Trong năm 1994, qua công tác thanh tra đã phát hiện Ban
Tài chính xã để ngoài ngân sách hơn 4 triệu đồng, phải ra quyết định
thu hồi và đã kỷ luật một số cán bộ có liên quan, trong đó có một
đảng viên.
Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, tình
trạng tổ chức vượt biên trái phép tuy đã giảm mạnh so với trước đây
296

30.7 Page 297

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
nhưng vẫn còn xảy ra; một số tổ chức phản động vẫn còn lén lút
hoạt động ở Vĩnh Thanh. Từ thông tin quần chúng, Công an xã Vĩnh
Thanh đã phối hợp lực lượng vũ trang huyện tấn công vào hang ổ,
bắt gọn nhóm tàn dư của tổ chức phản động “Việt Nam phục quốc”
tại khu vực Rừng Sác. Từ năm 1976 trở đi, hằng năm Vĩnh Thanh
đều đạt 100% chỉ tiêu gọi thanh niên nhập ngũ. Địa phương cũng tổ
chức huấn luyện theo định kỳ cho lực lượng dân quân chiến đấu của
xã, ấp đạt chất lượng tốt.
Về giáo dục, trong nhiệm kỳ vẫn còn diễn ra tình trạng học sinh
phải học ca ba do số lượng học sinh tăng cao hằng năm về sinh học
lẫn cơ học trong khi cơ sở trường lớp chưa đáp ứng được nhu cầu.
Đầu năm 1995, tỉnh hỗ trợ xã xây mới 5 phòng học trị giá 200 triệu
đồng, góp phần giảm bớt áp lực về cơ sở vật chất trong năm học mới
1995-1996. Dù còn nhiều khó khăn nhưng công tác dạy và học trong
xã vẫn khắc phục vượt qua, trong nhiệm kỳ tạo chuyển biến tốt về
chất lượng, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp đạt từ 98%, tỉ lệ học sinh yếu
kém cũng giảm qua hằng năm.
Về y tế, Trạm Y tế xã vẫn đảm bảo được tỉ lệ tiêm phòng cho trẻ
em, hỗ trợ Hội Phụ nữ xã tuyên truyền về công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình, nhưng do tình trạng cơ sở vật chất xuống cấp, trang
thiết bị y tế cũng như số lượng y sĩ, y tá chưa đủ đáp ứng nhu cầu
người dân nên tỉ lệ người dân đến khám chữa bệnh giảm dần hằng
năm. Do xã Vĩnh Thanh phần lớn là giáo dân, có quan niệm sinh con
tự nhiên, ít quan tâm đến việc phòng tránh thai nên tỉ suất sinh khá
cao, dẫn đến tỉ lệ tăng dân số ở mức cao, lên đến 2,1%, không đạt chỉ
tiêu Nghị quyết đề ra.
297

30.8 Page 298

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Một vấn đề được đặt ra từ lâu nhưng đến nhiệm kỳ này mới thực
hiện được, đó là hoàn thành lưới điện phục vụ nhân dân trong xã. Từ
năm 1994, với phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, xã đã
hoàn thành đường dây điện trung thế 9km (kinh phí từ ngân sách của
tỉnh, huyện), và đường dây điện hạ thế 8km với tổng kinh phí hơn
1,4 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp hơn 1,3 tỷ đồng.
Công tác đền ơn đáp nghĩa đều được địa phương thực hiện tốt.
Vĩnh Thanh đã hoàn thiện hồ sơ phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, năm 1994 có hai mẹ được nhận danh hiệu cao quý
này, gồm: mẹ Nguyễn Thị Đặng1 được phong tặng theo Quyết định
số 394/KTCTN ngày 17.12.1994; mẹ Trần Thị Sang2 được phong
tặng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994. Xã cũng
hoàn thành xây dựng một nhà tình nghĩa, nâng tổng số nhà tình nghĩa
được xây dựng trên địa bàn là ba căn; vận động trao tặng sổ tiết kiệm
cho đối tượng là cha mẹ liệt sĩ; phát hiện và cất bốc, quy tập bốn hài
cốt liệt sĩ về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Long Thành. Trong công tác
xóa đói giảm nghèo, đã cho 71 hộ vay ưu đãi 107,3 triệu đồng để làm
kinh tế hộ gia đình.
Chi ủy xã nhận ra những yếu kém cần khắc phục, đó là tiếp tục
thực hiện cải cách hành chính, kiện toàn và nâng cao vai trò bộ máy
nhà nước cấp xã sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội và
đúng theo định hướng Nhà nước, đồng thời nâng cao trình độ quản lý
của cán bộ. Trong sản xuất nông nghiệp chưa có định hướng cho dân
1  Mẹ của liệt sĩ Nguyễn Tấn Nghĩa.
2  Mẹ của 3 liệt sĩ Đỗ Văn Huynh, Đỗ Văn Đệ, Đỗ Văn Tự; vợ của liệt sĩ Đỗ
Văn Xuân.
298

30.9 Page 299

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
phát triển chiều sâu ở các khu vực nhằm tạo thế ổn định lâu dài hơn;
quản lý sử dụng đất đai còn nhiều lỏng lẻo, sơ hở, thiếu kiểm tra; hỗ
trợ vốn nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu của nông dân, như nhu
cầu mua sắm máy móc phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp; chưa chủ
động đảm bảo vệ sinh phòng dịch trong chăn nuôi làm cơ sở mở rộng
đàn heo, gà trên địa bàn. Trong phát triển tiểu thủ công nghiệp chưa
kịp thời đề ra được ngành nghề nào phù hợp với nhu cầu thực tế cũng
như quy mô phát triển, trước mắt chỉ dựa vào phát triển tự phát của
người dân, chưa có sự tác động hỗ trợ vốn kịp thời.
Trong phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ 1996-2000, một số
mục tiêu cụ thể chủ yếu đặt ra gồm:
- Đẩy mạnh trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp để từng bước
ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế gia đình. Vận động
hỗ trợ vốn cho hộ nông dân chuyển đổi cây trồng, lập vườn cây ăn
trái nhưng phải có định hướng qui hoạch vùng, hạn chế trồng tự
phát. Chỉ tiêu diện tích gieo trồng của xã trong 2 năm 1996-1997 là
5.500 hecta, trong đó lúa là 4.500 hecta với năng suất bình quân 30
tạ/hecta; hoa màu là 800 hecta, rau đậu các loại 200 hecta. Để đảm
bảo thực hiện chỉ tiêu này, phương hướng là đề nghị huyện hỗ trợ
mở các tổ kỹ thuật, hoàn chỉnh kênh mương nội đồng của công trình
ngọt hóa Ông Kèo và đưa vào sử dụng nhằm nâng cao diện tích lúa
2-3 vụ. Phấn đấu đạt mức 15 triệu ký lương thực, đạt mức bình quân
700kg lúa/người/năm.
- Phát triển phù hợp giữa nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp,
phối hợp các địa phương xung quanh liên kết trong sản xuất, chăn
299

30.10 Page 300

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nuôi, phát triển tiểu thủ công nghiệp theo định hướng cụm kinh tế
huyện đề ra. Trước mắt chủ yếu tập trung hướng gia công hàng hóa
cho các cơ sở lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh, phấn đấu nâng cao tỉ
lệ hàng hóa tiểu thủ công nghiệp bằng 50% hàng hóa nông nghiệp.
Đề xuất huyện cho sử dụng điện phục vụ sản xuất hàng hóa tiểu thủ
công nghiệp.
- Khuyến khích phát triển chăn nuôi, nhất là chăn nuôi heo và
nuôi gà chuồng; phấn đấu chăn nuôi heo đạt đến số lượng 9.000
con. Để đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu này, sẽ đề nghị huyện hỗ trợ về
giống, vốn vay và củng cố mạng lưới thú y. Khuyến khích người dân
trong xã nghiên cứu, sản xuất chế biến thực phẩm gia súc cung cấp
ngay tại chỗ.
- Vận động hỗ trợ vốn xóa đói giảm nghèo cho các hộ nghèo,
đồng thời hướng dẫn cách làm ăn, sử dụng vốn vay hiệu quả nhằm
giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các hộ trong xã. Qua đợt điều
tra năm 1994-1995, toàn xã có 624 hộ nghèo. Nghị quyết đề ra là đến
cuối nhiệm kỳ giảm 50% số hộ nghèo.
- Hạn chế trồng mới rừng, tập trung giữ và chăm sóc diện tích
rừng hiện hữu. Vận động người dân có vườn trồng điều chuyển đổi
sang trồng giống điều mới cao sản, phấn đấu tăng diện tích điều thêm
150 hecta.
- Đảm bảo thu đạt chỉ tiêu về thuế hằng năm, có kế hoạch thu đều
trong năm, tránh tập trung vào cuối năm; có biện pháp thu đúng, thu
đủ, không để xảy ra hiện tượng tiêu cực trong thu thuế. Có kế hoạch
cân đối ngân sách, chi trả và thanh quyết toán đúng chế độ, công khai
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
thu chi hằng quí; tiết kiệm chi, tạo tích lũy để xây dựng, sửa chữa
công trình công cộng; kiên quyết không để xảy ra hiện tượng thu để
ngoài ngân sách.
- Tiếp tục thực hiện tu sửa, nâng cấp cơ sở vật chất trường lớp để
giảm thiểu tình trạng học ca ba, đề xuất mở phân hiệu trường cấp
III cho khu vực 3 xã: Vĩnh Thanh, Phước An, Phước Khánh. Tăng
cường công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn, củng cố
đội ngũ y sĩ, nhân viên Trạm Y tế, chú trọng hơn công tác dân số -
kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu hạ tỉ lệ tăng dân số từ 2,1% xuống
còn 1,8%. Đề xuất huyện cho huy động lao động công ích để tu sửa
đường trong xóm ấp, khu dân cư để tạo bộ mặt nông thôn mới xanh,
sạch, đẹp.
- Củng cố lực lượng Công an từ xã đến ấp đủ năng lực và chất
lượng hoạt động, nâng cao chất lượng các tổ an ninh nhân dân.
Về công tác xây dựng Đảng, thống nhất tăng cường bồi dưỡng về
quan điểm, lập trường cho toàn thể đảng viên vững vàng trong mọi
tình huống, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống
lành mạnh, trong sạch, hết lòng phục vụ nhân dân, chống biểu hiện
tiêu cực, bè phái trong Đảng làm giảm ý chí chiến đấu của đảng viên,
thường xuyên làm trong sạch đội ngũ. Có kế hoạch quy hoạch đội
ngũ kế thừa; phấn đấu trong nhiệm kỳ phát triển từ 3-5 đảng viên
mới từ nguồn các tổ trung kiên. Phấn đấu giữ danh hiệu Chi bộ trong
sạch, vững mạnh.
301

31.2 Page 302

▲back to top


Chương VI
LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
(1994-2020)
I. Củng cố tổ chức đảng và chính quyền, đổi mới công tác
cán bộ
Năm 1994 đánh dấu một bước mới trong lịch sử của Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch. Sau 20 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ
huyện Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) đã tăng về số lượng và
chất lượng đảng viên, tổ chức cơ sở đảng lớn mạnh ở các xã và cơ
quan; kinh tế tăng trưởng nhanh, văn hóa xã hội phát triển mạnh,
nhiều mô hình tốt, điển hình hay xuất hiện, đã có sự chuyển dịch
mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Trong đó, địa bàn Nhơn
Trạch có sự phát triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực, tạo lập nhiều cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật đủ
điều kiện cho một đơn vị hành chính cấp huyện hướng đến mục tiêu
phát triển bền vững, công nghiệp, hiện đại, đáp ứng tiến trình xây
dựng đô thị mới theo định hướng của Trung ương và của Tỉnh ủy
Đồng Nai. Thực tế ấy và mục tiêu phát triển đặt ra yêu cầu tái lập
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch cho phù hợp với tình hình mới, thuận
lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, và quản lý của chính
quyền địa phương.
302

31.3 Page 303

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Huyện Nhơn Trạch được tái thành lập theo Nghị định số 51/CP
ngày 21.6.1994 của Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động từ ngày
1.9.1994. Ngày 25.8.1994, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng
Nai chính thức tổ chức lễ bàn giao giữa hai huyện Long Thành và
Nhơn Trạch. Theo đó, huyện Nhơn Trạch gồm 11 xã: Phước Thiền,
Phú Hội, Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh,
Vĩnh Thanh, Phước An, Long Thọ, Hiệp Phước; trung tâm huyện
Nhơn Trạch đặt tại địa chỉ ấp Xóm Hố xã Phú Hội.
Sự thành lập huyện trên cơ sở tách ra từ huyện Long Thành đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân địa phương và yêu cầu của phát triển.
Về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng, Nhơn
Trạch vẫn phát triển gắn kết với huyện Long Thành và không gian
của vùng trọng điểm kinh tế Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, việc thành
lập huyện Nhơn Trạch tuy là tái lập cũng đặt ra nhiều khó khăn thách
thức về nhân lực và nguồn lực đầu tư, qui hoạch, quản lý qui hoạch,
xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng dân sinh, xác định mục tiêu
phản triển hiện đại và bản sắc, vừa gia tăng nội lực của huyện vừa
đóng góp chung cho sự phát triển của tỉnh, của đất nước. Những khó
khăn thách thức ấy đòi hỏi Đảng bộ huyện Nhơn Trạch đoàn kết,
quyết tâm, bản lĩnh, sớm ổn định bộ máy, phát huy các nguồn lực
và lợi thế địa phương, xây dựng kế hoạch từng bước khẩn trương và
vững chắc đạt và vượt các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu được giao.
Đảng bộ vừa được tái lập của huyện Nhơn Trạch xác định nhiệm
vụ: Trên cơ sở của những thành quả đạt được trong nhiệm kỳ VI
Đảng bộ huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch tiếp tục phát triển
303

31.4 Page 304

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
kinh tế, xã hội trong đường hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển bền vững.
Tại xã Vĩnh Thanh, thời điểm tái lập huyện Nhơn Trạch, đồng
chí Hồ Văn Nguyên đang giữ nhiệm vụ Bí thư, đến năm 1995 đồng
chí Hồ Văn Nguyên nghỉ hưu, đồng chí Trương Tấn Vững đang giữ
nhiệm vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được giao nhiệm vụ
Bí thư xã Vĩnh Thanh (giai đoạn 1995-1998). Đồng chí Vững xuất
thân từ gia đình truyền thống cách mạng, có cha tham gia kháng
chiến chống Pháp. Năm 1998, đồng chí Trương Tấn Vững được điều
chuyển về nhận công tác ở huyện Nhơn Trạch.
Giai đoạn này, tình hình xã Vĩnh Thanh vẫn còn nhiều vấn đề
phức tạp. Người dân trong xã có đến 85% sống bằng nghề nông, đời
sống tuy có nâng cao so với trước đây nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều
so với mặt bằng chung của huyện và của xã hội. Giao thông còn hạn
chế do đường sá xuống cấp nặng nề nhưng không có kinh phí tu bổ,
dẫn đến lưu thông hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Môi trường sống tại
các khu đông dân cư ngày một ô nhiễm do dân số tăng nhanh nhưng
hạ tầng cơ sở chưa kịp thời đáp ứng. Đặc biệt, tình hình an ninh trật
tự, quốc phòng vẫn diễn biến phức tạp, một số đối tượng còn núp
bóng tôn giáo gây rối trật tự xã hội, thậm chí tình trạng vượt biên trái
phép vẫn còn lén lút diễn ra ở Vĩnh Thanh. Nguyên nhân dẫn đến
những bất cập trên được lãnh đạo huyện Nhơn Trạch phân tích làm
rõ, trong đó chủ yếu do đội ngũ cán bộ xã còn thiếu và yếu, trình độ,
năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, nhất là khi bước
vào giai đoạn đổi mới. Để thực hiện nhiệm vụ đưa địa phương tiến
đến công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo Nghị quyết Đảng bộ huyện,
304

31.5 Page 305

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của xã Vĩnh Thanh yêu cầu cần có
sự đột phát, quyết liệt để bứt tốc.
Với sự nhất trí của Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch, đồng
chí Huỳnh Minh Phương, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện,
được tăng cường về giữ nhiệm vụ Bí thư xã Vĩnh Thanh từ ngày
3.6.1998. Như vậy, kể từ năm 1983 đến nay xã Vĩnh Thanh mới lại
có Bí thư xã là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Đồng thời,
cùng với đồng chí Huỳnh Minh Phương, đồng chí Trần Trung Dũng
cũng được Huyện ủy cử về làm Phó Bí thư Chi bộ xã, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã Vĩnh Thanh (giai đoạn 1998-2002) thay cho đồng
chí Đỗ Thành Đông (1997-1998). Thời điểm này, Chi bộ xã Vĩnh
Thanh từ 16 đảng viên đã tăng lên 18 đảng viên (thêm hai đồng chí
Huỳnh Minh Phương và Trần Trung Dũng).
Ngày 24.8.2000, tại Vĩnh Thanh diễn ra Đại hội Chi bộ xã lần thứ
VIII nhiệm kỳ 2001-2005. Trong nhiệm kỳ qua, tuy có nhiều biến
động về nhân sự cũng như nhiều lần thay đổi lãnh đạo xã, nhưng
Vĩnh Thanh bắt đầu có sự bứt tốc đúng hướng. Một trong những nỗ
lực nâng cao đời sống người dân của lãnh đạo xã là nâng tỉ lệ sử dụng
điện trong dân. Đến năm 1999, toàn xã đã có 25km đường dây điện
hạ thế, tỉ lệ sử dụng điện trong dân đạt 56,79%. Với một địa phương
nhiều năm liền xếp vào diện xã nghèo như Vĩnh Thanh, đây là thay
đổi rất lớn, tạo chuyển biến mạnh trong đời sống người dân không
chỉ trong sinh hoạt mà còn là đòn bẩy trong phát triển kinh tế.
Một “cú hích” khác của xã Vĩnh Thanh, đó là làm đường giao
thông nông thôn theo phương thức xã hội hóa. Con đường đầu tiên
được thực hiện theo phương thức này nằm ở ấp Hòa Bình. Lãnh đạo
305

31.6 Page 306

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
xã Vĩnh Thanh đã phối hợp với linh mục quản xứ Nguyễn Đình Luận
của Giáo xứ Bắc Thần vận động người dân tự nguyện đóng góp được
146.262.000 đồng, làm đoạn đường trải đá đỏ dài 8km, đồng thời tu
sửa được hơn 2km đường đi lại trong các khu dân cư. Đây là bước
đi quan trọng cho thấy được sự đúng đắn của phương thức vận động
xã hội hóa, là tiền đề cho việc hoàn thành hệ thống giao thông nông
thôn trong xã sau này. Ngành bưu điện cũng lắp đặt một tổng đài
phục vụ nhu cầu về thông tin liên lạc cho nhân dân. Đây là những
thay đổi rất quan trọng của địa phương.
Về sản xuất nông nghiệp, diện tích gieo trồng hàng năm đều tăng
lên, nếu như năm 1996 diện tích gieo trồng đạt 1.904 hecta thì đến
năm 1999 đã tăng lên 2.335 hecta, tăng 431 hecta. Tổng diện tích
gieo trồng cả nhiệm kỳ là 8.413 hecta, tổng sản lượng đạt hơn 52
ngàn tấn, bình quân lương thực hàng năm đạt trên 800kg/đầu người,
vượt chỉ tiêu 114, 28%. Về chăn nuôi, số lượng đàn heo trong dân
liên tục tăng, dù có những thời điểm giá heo lên xuống thất thường
nhưng nhìn chung vẫn có lợi nhuận ổn định nên người dân vẫn chọn
để cải thiện thu nhập, hằng năm số heo xuất chuồng đạt từ 25.000-
35.000 con. Đàn gia cầm năm 1996 là 35.000 con, năm 1997 có tăng
lên 40.000 con nhưng năm 1998 sụt giảm còn 16.000 con do ảnh
hưởng của đợt dịch cúm gia cầm, đến năm 1999 tăng vọt lên 68.000
con do thời điểm này giá gà tăng cao, người dân tái đàn nhiều. Riêng
số lượng đàn trâu bò có giảm do diện tích đồng cỏ ngày càng thu hẹp,
từ 900 con giảm xuống còn 600 con. Đối với nuôi trồng thủy sản, có
một số hộ thực hiện nhưng hiệu quả kinh tế không cao.
306

31.7 Page 307

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Địa phương đã đúc kết kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp,
chăn nuôi, đó là cần có sự đầu tư về hỗ trợ vốn và khoa học kỹ thuật.
Trong nhiệm kỳ, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp đã cho nông dân
xã Vĩnh Thanh vay trên 11 tỷ đồng để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Hằng năm xã đều tổ chức phối hợp hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt,
chăn nuôi cho các hộ dân; có 550 hộ được xã tổ chức tham quan các
mô hình sản xuất tốt ở các địa phương.
Kinh tế khởi sắc nên tình hình thu ngân sách trên địa bàn cũng
khả quan. Trong nhiệm kỳ tổng mức thuế thu theo chỉ tiêu đạt gần
1,5 tỷ đồng, so với chỉ tiêu thu hằng năm đều đạt 100%. Tổng chi
ngân sách là 971 triệu đồng. Tuy nhiên, trong quản lý sử dụng ngân
sách của xã có xảy ra tiêu cực, phải xử lý.
Ở lĩnh vực địa chính, ngoài việc phục vụ xác minh nguồn gốc,
giải quyết tranh chấp đất đai trong nhân dân và phục vụ cho việc
chuyển mục đích sử dụng đất, cán bộ địa chính cũng phối hợp với
các ngành chức năng rà soát, bổ sung hồ sơ nhằm giúp cấp trên xem
xét cấp 2.747 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân;
tổ chức điều tra, thống kê diện tích đất và số hộ có đất trong đê -
khu vực ngọt hóa sông Ông Kèo, phục vụ cho chủ trương làm kênh
mương cấp 2, cấp 3; rà soát lại các dạng đất công và thực hiện sơ đồ
hiện trạng đất sử dụng cho từng năm ở địa phương.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, mảng giáo dục có nhiều chuyển
biến tích cực. Tỷ lệ học sinh ra lớp tăng cao, tổng cộng từ năm 1996
đến năm 1999 có 14.895 học sinh ra lớp; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
hằng năm đều đạt trên 95%; hiện tượng học sinh bỏ học giảm dần,
nhưng vẫn còn đứng ở mức cao, nguyên nhân các em bỏ học là do
307

31.8 Page 308

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
học kém dẫn đến không hứng thú học tập, ngoài ra cũng có một số do
gia đình thiếu quan tâm. Lực lượng giáo viên tại chỗ vẫn thiếu so với
nhu cầu, thời gian qua tuy có được tăng cường từ địa phương khác
đến nhưng vẫn chưa đủ, số giáo viên từ nơi khác đến do đời sống khó
khăn nên chưa yên tâm công tác.
Nhiệm kỳ qua, xã xây dựng được 29 phòng học mới bằng nguồn
kinh phí từ huyện, tỉnh, qua đó giảm dần được tình trạng học ca ba.
Đặc biệt, việc xã hội hóa giáo dục trong nhà trường được người dân
hưởng ứng, tổng cộng thu từ nguồn này đạt đến 357.175.000 đồng.
Cơ sở vật chất trường lớp đến thời điểm này tạm ổn định, tuy nhiên
vẫn còn cần tiếp tục đầu tư xây dựng thêm phòng học do số lượng
học sinh tăng nhanh hằng năm, nếu chậm xây dựng sẽ không kịp đáp
ứng nhu cầu học tập của con em trong xã.
Năm 1999 xã cũng được huyện cấp ngân sách đầu tư xây dựng
mới Trạm y tế xã ở ấp Thành Công với 9 phòng chức năng, đồng thời
đầu tư trang thiết bị phục vụ cho việc khám chữa bệnh của người
dân. Qua đó, số lượng người dân đến Trạm y tế xã khám chữa bệnh
bắt đầu tăng, năm 1996 có 2.014 lượt người đến khám chữa bệnh,
năm 1997 có 2.557 lượt, năm 1998 có 5.743 lượt; sau khi Trạm y tế
xã được xây dựng mới đã có 13.314 lượt người đến khám chữa bệnh.
Công tác tiêm chủng và cho trẻ em uống vaccine hằng năm đều đạt
99%. Ngoài ra, Trạm y tế xã còn tổ chức phối hợp với các đoàn thể
địa phương vận động nhân dân thực hiện giữ gìn vệ sinh chung để
phòng dịch đồng thời giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường trong
khu dân cư. Thông qua công tác tuyên truyền và mạng lưới cộng
tác viên dân số, người dân trong độ tuổi sinh sản sử dụng biện pháp
308

31.9 Page 309

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
tránh thai cũng tăng lên, được 1.402 người, đạt tỷ lệ 74,49%. Đây là
chuyển biến tích cực ở vùng đa số là giáo dân như Vĩnh Thanh.
Công tác xóa đói giảm nghèo thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu. Nếu
như cuối nhiệm kỳ trước toàn xã còn 624 hộ đói nghèo thì đến năm
1997 còn 345 hộ nghèo, không còn hộ đói; năm 1999 còn 287 hộ
nghèo. Đạt được kết quả này là nhờ từ nguồn vốn vay ưu đãi trên 400
triệu, các hộ tích cực làm kinh tế hộ gia đình. Từ kinh nghiệm này
cho thấy việc sử dụng hiệu quả vốn vay ưu đãi là một trong những
đòn bẩy quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo.
Cán bộ các ban ngành, đoàn thể địa phương thường xuyên phối
hợp tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể dục - thể thao tạo không khí
vui tươi lành mạnh cho người dân, nhất là vào các dịp lễ tết. Toàn xã
có 2.791 hộ và 5 đơn vị đăng ký thực hiện nếp sống văn hóa, đạt tỷ lệ
99,07% so với tổng số dân trong xã. Đài Truyền thanh của xã ngoài
việc tiếp âm thời sự của Đài Truyền thanh huyện, tỉnh và Đài Tiếng
nói Việt Nam còn đảm bảo phát các văn bản kịp thời đến người dân,
thường xuyên tuyên truyền các văn bản dưới Luật, Pháp lệnh của
Nhà nước và các nội dung khác đến nhân dân trong xã.
Công tác an ninh - quốc phòng cũng có chuyển biến tích cực. Xã
đã tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của 63 tổ an ninh nhân
dân và 10 đội dân phòng, qua đó tăng cường kiểm tra việc tuần tra
canh gác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn, quản lý các đối tượng.
Đặc biệt, địa phương đã tổ chức tốt phong trào quần chúng nhân dân
tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, qua tố giác của người dân đã phát
hiện kịp thời 118 vụ vi phạm trong đó chủ yếu là trộm cắp, giữ vững
309

31.10 Page 310

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
được an ninh trật tự địa phương. Đồng thời địa phương cũng tổ chức
tốt công tác phát động phong trào quần chúng nhân dân tham gia bảo
vệ an ninh Tổ quốc.
Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và làm tốt công tác quân
sự ở địa phương, Ban Chỉ huy quân sự xã đã xây dựng lực lượng dân
quân chiến đấu với số lượng 378 người; đảm bảo thực hiện kế hoạch
huấn luyện hằng năm cho dân quân và cử cán bộ đi tập huấn theo quy
định. Công tác thống kê thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự,
tham mưu các bước để giao quân hằng năm đều đạt chỉ tiêu.
Năm 1996, xã Vĩnh Thanh có thêm mẹ Lê Thị Tư1 được truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 814/
KTCTN ngày 24.4.1996, nâng tổng số Bà mẹ Việt Nam anh hùng
được Nhà nước phong tặng trong xã là 3 người.
Trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh việc quan tâm củng
cố quan điểm, lập trường của đảng viên, cán bộ, vững vàng trước
tình hình diễn biến của thế giới và trong nước, Chi bộ còn tổ chức
tuyên truyền đến người dân địa phương về quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, tổ chức đảng
địa phương đã từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng chất
lượng hoạt động của Chi bộ Đảng, góp phần ổn định chính trị, củng
cố niền tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao ý
chí thống nhất trong tổ chức đảng ở cơ sở. Các cán bộ lãnh đạo xã
thường xuyên chia nhau đi cơ sở, nhất là các giáo xứ nhằm nắm bắt
tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của người dân trong xã; giáo dục cán
1  Mẹ của hai liệt sĩ Đặng Văn Tông và Đặng Văn Đại.
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bộ, nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tu dưỡng trau
dồi đạo đức, lối sống lành mạnh, xây dựng nếp sống văn minh.
Trong nhiệm kỳ chi bộ đã phát triển được 8 đảng viên mới, nâng
tổng số đảng viên lên 26 đồng chí. Trước đây chi bộ có 18 đảng viên
nhưng chủ yếu tập trung ở 2 ấp Thanh Minh và Chính Nghĩa, ở các
ấp còn lại có đông giáo dân thì chưa có đảng viên. Thời điểm này,
theo Quy chế, Điều lệ Đảng thì không có điều lệ, điều khoản có đề
cập đến những quy định về việc người theo đạo không được vào
Đảng, tuy nhiên trong thực tế thì việc kết nạp Đảng đối với người
theo đạo Công giáo vẫn còn một số hạn chế1. Chi bộ địa phương
nhận định với đặc thù là xã có đông giáo dân như Vĩnh Thanh, việc
tăng cường đảng viên ở những ấp tập trung đồng bào Công giáo sẽ
góp phần tăng cường chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố tổ chức
và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội,
tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần
chúng có đạo thực hiện tốt chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nhất là chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Vì thế, Chi ủy đã đề
xuất và xin ý kiến của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tổ chức Tỉnh
ủy về việc phát triển đảng viên trong đồng bào có đạo và được chấp
thuận theo nguyên tắc thực hiện đúng quy trình, thủ tục, quy định
của Đảng trong việc xét, kết nạp đảng viên, gắn công tác kết nạp
đảng viên với củng cố, xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức đảng, làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
1  Ngày 28-9-2004, Bộ Chính trị mới ban hành Quy định 123-QĐ/TW số 123
quy định một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên
có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo.
311

32.2 Page 312

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Người có đạo Công giáo đầu tiên ở Vĩnh Thanh được kết nạp
Đảng là đồng chí Tạ Văn Long, Trưởng ấp Sơn Hà (sau là Chủ tịch
Hội Nông dân xã), đứng vào hàng ngũ Đảng năm 2000.
Từ kết quả này, Chi ủy thường xuyên chỉ đạo các cơ quan, đoàn
thể tích cực tuyên truyền để người theo đạo Công giáo hiểu rõ chủ
trương của Đảng, giác ngộ lý tưởng cách mạng, có động cơ đúng
đắn, tự nguyện phấn đấu vào Đảng. Đồng thời quy hoạch, tạo nguồn
phát triển đảng viên trong quần chúng là người có đạo; phát huy vai
trò của đoàn thể trong việc phát hiện, lựa chọn giới thiệu những nhân
tố mới, những quần chúng là tín đồ, chức sắc, nhà tu hành tích cực
để Chi bộ xem xét kết nạp vào Đảng. Chi ủy cũng đúc kết, việc phát
triển đảng viên là người theo đạo Công giáo đã tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, xây dựng thêm hạt nhân chính trị trong vùng đồng bào
có đạo, qua đó tuyên truyền đồng bào thực hiện tốt đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cảnh giác
với âm mưu chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo
để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; tập hợp, vận
động đồng bào tích cực hưởng ứng và thực hiện tốt các phong trào
tại địa phương.
Cùng với việc phát triển đảng viên mới, Chi bộ xã tổ chức thành
3 tổ đảng để sinh hoạt trong địa bàn dân cư và ngành chuyên môn.
Chi bộ tổ chức sinh hoạt định kỳ hằng tháng, thường xuyên cải tiến
nâng cao chất lượng trong sinh hoạt, đảm bảo nguyên tắc tập trung
dân chủ, cung cấp thông tin kịp thời đến đảng viên, thực hiện thường
xuyên việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
312

32.3 Page 313

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Xã cũng xây dựng được tổ trung kiên với 13 đối tượng, duy trì
sinh hoạt hằng tháng; phân công đảng viên theo dõi đối tượng để
giáo dục, giúp đỡ, có báo cáo cấp ủy hằng tháng.
Để thực hiện tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo, cấp ủy, chi bộ xây dựng
được các nghị quyết của từng tháng, từng năm và cụ thể hóa chương
trình hành động từ các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Nội dung các Nghị quyết được xây dựng sát với tình hình
thực tiễn ở địa phương, được quần chúng nhân dân đồng tình hưởng
ứng. Trong nhiệm kỳ Chi bộ có 3 đảng viên bị kỷ luật với hình thức
cảnh cáo, Đại hội đã nghiêm túc nhìn nhận nguyên nhân là do việc
thực hiện vai trò kiểm tra của cấp ủy trong quản lý đảng viên chấp
hành Điều lệ Đảng cũng như thực hiện nhiệm vụ còn lỏng lẻo; chưa
kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh các biểu hiện có tư tưởng ỷ lại; còn
xem nhẹ công tác tổ chức; cán bộ, địa phương chưa chủ động trong
nhiệm vụ thúc đẩy xây dựng địa phương phát triển; một số cán bộ
chưa nghiên cứu sâu về luật pháp, dẫn đến vi phạm trong quản lý đất
đai và sử dụng tài chính ngân sách. Đây là những khuyết điểm Chi
bộ, đảng viên cần khắc phục trong thời gian tới.
Về công tác xây dựng chính quyền, nhiệm kỳ qua Ủy ban nhân
dân xã đảm bảo được công tác quản lý, điều hành các kế hoạch của
Nhà nước ở cấp cơ sở, tổ chức thực hiện các chương trình kinh tế - xã
hội vào đời sống thiết thực của nhân dân; chỉ đạo và kiểm tra thường
xuyên các lĩnh vực thuộc trách nhiệm quản lý Nhà nước. Tuy nhiên,
việc thể hiện vai trò, trách nhiệm của cán bộ ở các ngành chưa đồng
bộ, các thành viên chưa thể hiện hết chức năng trong nhiệm vụ quản
lý Nhà nước. Cán bộ Thanh tra đã tổ chức tiếp dân đều đặn, tiếp nhận
313

32.4 Page 314

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
115 lượt đơn của người dân và tham mưu tốt việc hòa giải các đơn
có nội dung liên quan; nội dung đơn khiếu nại chủ yếu xoay quanh
quyền lợi bị xâm phạm, tranh chấp quyền sử dụng đất.
Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân xã cũng thể
hiện được vai trò, chức năng cơ quan quyền lực ở cơ sở; thực hiện tốt
các kỳ họp, báo cáo tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ với cử tri
đúng theo luật định. Căn cứ vào Luật và các nghị quyết, chủ trương
của Đảng và Nhà nước, Hội đồng nhân dân đã cụ thể hóa các chương
trình nghị quyết và cùng vận động nhân dân thực hiện.
Công tác dân vận luôn được coi là nhiệm vụ chung của cán bộ
các ngành, các tổ chức xã hội. Chi ủy địa phương xem trọng và quan
tâm công tác giáo dục cán bộ, tập trung kiện toàn, củng cố bộ máy
Mặt trận và các đoàn thể, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động,
thực hiện đạt các chỉ tiêu vận động hằng năm. Mặt trận xã đã tổ chức
vận động cứu trợ đồng bào miền Trung bị lũ lụt, xây dựng nhà tình
thương cho các hộ nghèo với tổng kinh phí 162 triệu đồng; vận động
các hộ dân thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh và cùng với Nhà
nước cấp xã thực hiện việc triển khai quy chế dân chủ trong nhân
dân, được 85,51% số hộ tham dự. Mặt trận còn tổ chức cho các đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiếp xúc cử tri theo định kỳ, giám sát
hoạt động của cán bộ và đại biểu Hội đồng nhân dân đúng theo luật
định; thực hiện việc thông báo các quy định của Nhà nước cho các
vị chức sắc tôn giáo, xây dựng được tinh thần đoàn kết và thực hiện
tốt phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”.
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã chủ yếu hoạt động chuyên sâu vào các
chương trình của giới, vận động xây dựng quỹ để giúp trẻ em và
314

32.5 Page 315

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
phụ nữ nghèo, thực hiện chương trình sinh đẻ có kế hoạch. Giúp các
hội viên vay vốn và tự tạo nguồn hỗ trợ lẫn nhau để làm kinh tế hộ
gia đình, tạo điều kiện thuận lợi cho hội viên tham gia hoạt động 5
chương trình công tác.
Đoàn Thanh niên làm nòng cốt trong phong trào thanh niên lên
đường giữ nước. Đa số thanh niên trong xã đã trực tiếp tham gia lực
lượng dân quân, dân phòng để làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở ấp, xã.
Tổ chức Đoàn thời gian qua có những hoạt động như tạo việc làm
cho thanh niên, hướng thanh niên đóng vai trò tích cực trong làm
kinh tế hộ gia đình; tổ chức giao lưu văn nghệ, thể thao với các đơn
vị, địa phương xung quanh địa bàn xã; tham gia cùng với các chi
đoàn trường học giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên. Nhiệm
kỳ qua, Đoàn đã giới thiệu cho Đảng những đoàn viên thanh niên ưu
tú, trong đó có một đoàn viên đã được kết nạp Đảng và 3 đoàn viên
đang sinh hoạt trong tổ trung kiên.
Hội Cựu chiến binh xã luôn quan tâm chăm lo đời sống cho hội
viên, duy trì sinh hoạt theo điều lệ, tích cực đóng góp cho địa phương,
thể hiện tốt phẩm chất, đạo đực của “Bộ đội Cụ Hồ”. Hằng năm Hội
đều phối hợp tổ chức các buổi nói chuyện giao dục truyền thống cho
học sinh, giới trẻ, động viên thanh niên hăng hái lên đường thực hiện
nghĩa vụ quân sự.
Hội Nông dân xã làm nòng cốt cho việc kết hợp với các cơ quan
chức năng mở các lớp khuyến nông, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi,
trồng trọt cho hơn 500 hộ dân trong xã; tổ chức điển hình nhân các
loại giống lúa mới, biểu dương các hộ nông dân sản xuất giỏi. Hội
cũng tổ chức gây quỹ và vận động hội viên khá giúp vốn cho hội viên
315

32.6 Page 316

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nghèo sản xuất, từ đó nhiều hộ đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu
chính đáng. Thông qua phong trào thi đua sản xuất, Hội đã phát triển
hội viên mới trên 55% tổng số hộ trong xã.
Hội Chữ thập đỏ với những hoạt động thiết thực trong công tác
cứu trợ, giúp đỡ người dân cũng thu hút được nhiều hội viên mới.
Năm 1996, Hội có 110 hội viên, đến năm 1999 số hội viên đã lên đến
665 người. Trong 4 năm, Hội vận động người dân đóng góp được 57
triệu đồng (kể cả hiện vật) để giúp đỡ đồng bào bị bão lụt và các hộ
hoạn nạn, khó khăn. Hội cũng thành lập được 2 đội hỗ trợ mai táng
ở 2 ấp.
Các đại biểu tham dự Đại hội đánh giá những tồn tại và hạn chế
trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo của địa phương trong thời gian qua
như sau: Nhìn chung các mô hình làm kinh tế hộ gia đình chủ yếu
còn tự phát trong dân, các ngành chức năng của địa phương chưa chủ
động xây dựng kế hoạch hỗ trợ cụ thể, còn mang tính chung chung;
việc chăm lo cho nhu cầu đời sống tinh thần của người dân còn hạn
chế; công tác vận động người dân tham gia các chương trình xã hội
hóa chưa đạt hiệu quả như mong muốn, chưa trở thành phong trào
mạnh trong xây dựng diện mạo nông thôn mới của địa phương; việc
giải quyết các mâu thuẫn trong dân còn hạn chế, đôi lúc còn chậm,
thiếu kịp thời dẫn đến phiền hà cho nhân dân; chất lượng điều hành,
quản lý của Nhà nước cấp xã chưa chặt chẽ, vai trò của Mặt trận và
các đoàn thể chưa được phát huy mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu của
người dân; công tác xây dựng Đảng còn hạn chế. Những tồn tại trên
đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động của hệ thống chính
trị, dẫn đến mức hoàn thành nhiệm vụ của địa phương những năm
316

32.7 Page 317

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
qua đạt không cao. Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trên được
xác định là do trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ chủ chốt còn yếu, lực lượng cán bộ còn thiếu; nhận thức, lý luận
và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ ở địa phương, nhất là trong giai đoạn đổi mới. Bên cạnh
đó, việc thực hiện vai trò kiểm tra của cấp ủy trong quản lý đảng viên
chấp hành Điều lệ, thực hiện nhiệm vụ còn lỏng lẻo, chưa nhắc nhở,
chấn chỉnh các biểu hiện có tư tưởng ỷ lại, còn xem nhẹ công tác tổ
chức; cán bộ, đảng viên chưa thật sự chủ động để thúc đẩy xây dựng
địa phương phát triển toàn diện; một vài cán bộ chưa nghiên cứu sâu
về luật, còn để xảy ra vi phạm trong quản lý đất đai và sử dụng tài
chính ngân sách, chưa kiên quyết trong đấu tranh với tiêu cực... Đây
là những vấn đề cần phải khắc phục trong nhiệm kỳ sắp tới.
Các đại biểu dự Đại hội đã tiến hành bầu cấp ủy của Chi bộ xã
gồm 5 đồng chí: Huỳnh Minh Phương, Trần Trung Dũng, Đỗ Thành
Đông, Nguyễn Văn Lo, Nguyễn Văn Hồ. Trong đó, đồng chí Huỳnh
Minh Phương tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Bí thư xã. Đồng chí
Trần Trung Dũng là Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đến
năm 2002, đồng chí Phạm Quốc Hợp thay thế đồng chí Trần Trung
Dũng làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đồng chí Nguyễn Văn
Hồng là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Vĩnh Thanh.
II. Từ chi bộ nâng thành Đảng bộ cơ sở
Ngày 3.8.2004, Huyện ủy Nhơn Trạch có Quyết định số 314-
QĐ/HU nâng Chi bộ cơ sở xã Vĩnh Thanh lên Đảng bộ cơ sở. Đây
là cột mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của
tổ chức đảng xã Vĩnh Thanh. Thời điểm này, tổng số đảng viên của
317

32.8 Page 318

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Đảng bộ xã là 33 đồng chí. Cũng theo Quyết định, Huyện ủy chỉ
định Ban Chấp hành Đảng ủy lâm thời gồm 8 đồng chí với các chức
danh như sau: Huỳnh Minh Phương, Huyện ủy viên, Bí thư Đảng ủy;
Phạm Quốc Hợp là Phó Bí thư Đảng ủy; 6 Ủy viên Ban Chấp hành
Đảng ủy gồm: Đỗ Thành Đông, Bùi Tất Toản, Nguyễn Văn Thông,
Lương Hữu Ích, Võ Thị Trang Dung và Nguyễn Văn Hồng. Đồng
chí Nguyễn Văn Thông là Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy
lâm thời.
Trong tháng 7.2005, tại xã Vĩnh Thanh diễn ra Đại hội Đảng bộ
xã lần thứ I nhiệm kỳ 2005-2010. Đây là đại hội Đảng bộ đầu tiên
của xã kể từ khi chi bộ xã được nâng lên Đảng bộ cơ sở từ tháng
8.2004.
Tại Đại hội, các đại biểu tham dự đã đánh giá kết quả thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Chi bộ xã nhiệm kỳ 2000-2005.
Đại hội nhất trí nhận định, trong 5 năm qua tình hình kinh tế, văn
hóa - xã hội, an ninh quốc phòng địa phương ổn định và từng bước
phát triển, đạt được một số thành tựu đáng kể. Tỷ lệ hộ dân làm nông
trước đây là 85% nay đã chuyển đổi một phần sang tiểu thủ công
nghiệp và sản xuất, còn chiếm 75%, đây là chuyển dịch kinh tế đúng
định hướng của địa phương. Đời sống nhân dân được nâng cao cả về
vật chất lẫn tinh thần. Trong công tác kiện toàn hệ thống chính trị có
nhiều chuyển biến tốt. Hoạt động phối kết hợp và điều hành từng lúc
đem lại hiệu quả ở một số lĩnh vực. Công tác xây dựng Đảng từng
bước được kiện toàn, đem lại niềm tin đối với các tầng lớp nhân dân
trong xã. Đại hội cũng phân tích, thảo luận một số vấn đề phát sinh
trong tình hình xã hội có nhiều chuyển biến mới.
318

32.9 Page 319

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Về nông nghiệp, tổng diện tích đưa vào sản xuất trong nhiệm kỳ
là 9.871 hecta, đạt 76,54% so với Nghị quyết Đại hội đề ra, trong
đó diện tích lúa từ 1.000-1.200 hecta, mì 550 hecta, cây lương thực
và rau xanh các loại từ 500-700 hecta, riêng diện tích trồng mía và
trồng thơm (khóm) không phát triển do hiệu quả kinh tế đạt thấp. Sản
lượng lương thực các loại quy ra thóc bình quân đạt khoảng 1.000kg/
đầu người/năm, cao hơn so với nhiệm kỳ trước 33%.
Nguyên nhân khiến chỉ tiêu diện tích đất đưa vào sản xuất không
đạt so với Nghị quyết đề ra là do đất nông nghiệp ở khu vực trong và
ngoài đê Ông Kèo vẫn còn bị bỏ hoang nhiều, chưa được người dân
quan tâm đưa vào sản xuất. Đây là vùng được ngăn mặn, ngọt hóa
để trồng lúa đã được huyện đầu tư thực hiện nhiều năm qua, nhưng
khi đưa vào trồng trọt vẫn xảy ra tình trạng nhiễm mặn dẫn đến thất
mùa trong khi Nhà nước chưa có giải pháp khắc phục, nên người dân
không mặn mà đưa vào canh tác. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực quản
lý và quản lý đất đai chưa thực hiện chặt chẽ, ở Vĩnh Thanh bắt đầu
xuất hiện tình trạng mua bán đất đai, sử dụng đất sai mục đích, dẫn
đến hiện trạng là đất đai mua bán xong không đưa vào sản xuất, làm
cho diện tích đất bị hoang hóa ngày càng tăng cao.
Về chăn nuôi, cùng với việc phát triển đàn heo một cách nhanh
chóng, bên cạnh việc chăn nuôi heo theo kiểu truyền thống tại các hộ
gia đình (từ 10-20/hộ) đã bắt đầu xuất hiện mô hình nuôi heo trang
trại. Đã có 10 trang trại chăn nuôi heo công nghiệp, cả heo sinh sản
lẫn heo thịt, có trang trại quy mô nuôi hơn 2.000 con. Việc chăn nuôi
heo theo mô hình trang trại cho lợi nhuận cao nhưng vấn đề đặt ra là
319

32.10 Page 320

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
gây ô nhiễm môi trường sống, cần phải tập trung trang trại theo quy
hoạch. Đàn gia cầm trong đầu nhiệm kỳ có tăng cao, nhưng đến các
năm 2004, 2005 bị sụt giảm do dịch bệnh cúm gia cầm. Riêng đàn
trâu bò tiếp tục giữ ở mức 500-700 con.
Đáng chú ý, ở Vĩnh Thanh bắt đầu xuất hiện các mô hình nuôi
trồng thủy sản. Trước đây có một vài hộ thực hiện nhưng không
hiệu quả nên chậm được phát triển mở rộng, nhưng từ khi một số
hộ dân sử dụng 74 hecta mặt nước vùng ngoài đê Ông Kèo để nuôi
tôm, nuôi cá theo hình thức quảng canh và bán công nghiệp đạt
hiệu quả kinh tế cao thì mô hình này bắt đầu được người dân quan
tâm. Mô hình nuôi dê, cừu, đà điểu cũng đang được một số hộ dân
thử nghiệm.
Về giao thông nông thôn, xã tiếp tục thực hiện mô hình Nhà nước
và nhân dân cùng làm đã được thực hiện thành công trong nhiệm
kỳ trước. Bình quân mỗi năm người dân đóng góp khoảng 200 triệu
đồng để làm đường, 5 năm qua đã có hơn 1 tỷ đồng được đóng góp
cùng với Nhà nước đầu tư hơn 400 triệu đồng, qua đó tu sửa và trải
đất đỏ hơn 13km đường, nhựa hóa hơn 1km đường, đạt 120% chỉ
tiêu Nghị quyết đề ra. Xã cũng tiếp tục hạ thế hơn 5km đường dây
điện, nâng tổng số hộ sử dụng điện lên 2.900 hộ, đạt tỉ lệ 90% tổng
số hộ trong toàn xã. Huyện cũng cấp ngân sách trên 1,5 tỷ đồng để
đầu tư xây mới trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân xã và 6 trụ sở
ấp, tạo thuận lợi trong giải quyết công việc hành chính phục vụ nhân
dân trong xã.
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Từ những thành tựu, phát triển về kinh tế, kết quả thu thuế hằng
năm của xã đều đạt chỉ tiêu được giao. Trong nhiệm kỳ tổng thu ngân
sách đạt gần 2,5 tỷ đồng, chi ngân sách theo dự toán được duyệt từ
800 triệu đồng đến 1 tỷ đồng. Quá trình sử dụng ngân sách đều đảm
bảo đúng nguyên tắc, các nguồn thu đều được công khai hóa.
Trong 5 năm qua, xã cũng xây dựng thêm 20 phòng học mới.
Tỷ lệ học sinh ra lớp đạt trên 99%, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm còn
0,08%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cấp tiểu học đạt 100%, tốt nghiệp
THCS đạt 98%. Chất lượng học sinh đạt khá, giỏi ở các cấp trường,
huyện, tỉnh tăng lên theo từng năm. Đội ngũ giáo viên cũng ngày
được chuẩn hóa, nhiều giáo viên đạt loại giỏi cấp huyện, tỉnh. Trạm
Y tế xã từ khi được đầu tư sửa chữa cơ sở vật chất, tăng cường trang
thiết bị mới đã thu hút số lượt người dân đến khám chữa bệnh ngày
càng tăng. Song song đó, đội ngũ y sĩ, nhân viên của trạm hằng năm
còn phối hợp tuyên truyền về vệ sinh phòng bệnh, quản lý các điểm
bán thuốc tư nhân trên địa bàn. Tỷ lệ tăng dân số từ 1,4% đã giảm
xuống còn 1%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Đã có hơn 1.543 lượt phụ nữ
được khám chữa bệnh, trẻ em được chăm sóc theo chương trình y tế
hằng năm. Ngoài ra địa phương còn vận động tiền để chữa bệnh cho
trẻ em tàn tật, bệnh hiểm nghèo, vận động được trên 10 triệu đồng
cho Quỹ Vì trẻ em. Số hộ nghèo cũng giảm, 5 năm qua có trên 500
hộ vượt nghèo, số hộ nghèo chỉ còn 96 hộ, đạt 83,97% so với chỉ tiêu
(do chuẩn nghèo của tỉnh được nâng lên). Xã cũng vận động hơn 50
triệu đồng xây dựng 1 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa 4 căn khác.
Cán bộ văn hóa thông tin phối hợp thường xuyên thực hiện tốt
phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, kết hợp với Tổ kiểm tra
321

33.2 Page 322

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
liên ngành kiểm tra các hoạt động kinh doanh văn hóa trên địa bàn
để ngăn chặn các nội dung xấu, tuy nhiên hiệu quả chưa cao do địa
bàn quá rộng. Các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao, chiếu phim
cũng được phối hợp tổ chức thường xuyên để phục vụ nhu cầu vui
chơi giải trí lành mạnh của người dân, nhất là các dịp lễ tết. Đài
Truyền thanh xã cũng được nâng cấp máy và đường dây với tổng
cộng trên 10km đường dây và 20 loa phát, đảm bảo thông tin tuyên
truyền kịp thời về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đến người dân.
Lĩnh vực an ninh quốc phòng và trật tự xã hội tiếp tục được giữ
vững. Lực lượng công an xã, ấp được quan tâm kiện toàn và chú
trọng về chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo tình hình an ninh trật tự và
làm tốt công tác quản lý về nhân, hộ khẩu, quản lý giáo dục các đối
tượng trên địa bàn, phối hợp bài trừ các văn hóa phẩm có nội dung
xấu. Lực lượng dân phòng đảm bảo công tác tuần tra canh gác, nhất
là vào các dịp cao điểm như lễ tết. Địa phương cũng thực hiện nhiệm
vụ tham mưu của Đảng, Nhà nước về công tác quốc phòng toàn dân
và công tác quân sự ở cơ sở, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân
theo pháp lệnh quy định, đảm bảo đạt tỷ lệ từ 2,5-3%, giải quyết tốt
về chế độ phục vụ đúng thời hạn theo pháp lệnh; phối hợp tuyên
truyền rộng rãi về Luật Nghĩa vụ quân sự với người dân, nhất là
thanh niên trong độ tuổi. Qua đó, hằng năm chỉ tiêu thanh niên nhập
ngũ của xã đều đạt và vượt. Công tác huấn luyện cho dân quân hằng
năm đều đảm bảo về số lượng, nội dung, kết quả kiểm tra đạt yêu
cầu, tổ chức phúc tra, quản lý quân dự bị phục vụ cho việc điều động
của cấp trên đủ số lượng và kịp thời, phối hợp công tác hậu phương
322

33.3 Page 323

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
quân đội như thăm viếng các gia đình có con em đang tại ngũ và tổ
chức đón quân nhân hoàn thành nhiệm vụ trở về địa phương chu đáo.
Về công tác xây dựng Đảng, cấp ủy Đảng ở cơ sở luôn coi trọng
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xem đây là nhiệm vụ có tính
chất quyết định. Vì vậy, cấp ủy thường xuyên tổ chức triển khai Nghị
quyết của Đảng các cấp và pháp luật của Nhà nước một cách kịp
thời, tăng cường giáo dục cho đảng viên, cán bộ nhân dân nâng cao
nhận thức, củng cố niềm tin vào đường lối, chủ trương, pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Các cấp ủy Đảng cũng tìm cách tổ chức quán
triệt bằng nhiều hình thức để công tác tuyên truyền, quán triệt thêm
hiệu quả. Tỷ lệ đảng viên, cán bộ tham gia học tập hằng năm đều đạt
96% trở lên. Chi bộ, Đảng bộ cũng không ngừng đổi mới phương
thức lãnh đạo nhằm nâng cao ý chí chiến đấu và đoàn kết thống nhất
trong Đảng, nắm bắt các diễn biến tư tưởng trong đảng viên, cán bộ
và tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân, kịp thời giáo dục
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ Đảng, gương
mẫu trau dồi đạo đức và lối sống lành mạnh, xây dựng nếp sống
văn minh.
Đây cũng là nhiệm kỳ đầu tiên địa phương kết nạp được số lượng
đảng viên nhiều nhất, tổ chức đảng phát triển lớn mạnh về số lượng
lẫn chất lượng, kiện toàn và nâng cao trình độ. Từ nguồn đối tượng
tổ trung kiên, đã có 16 đồng chí được đứng vào hàng ngũ Đảng, cùng
với 4 đảng viên từ địa phương khác chuyển về, trong nhiệm kỳ tăng
20 đảng viên, tổng số đảng viên đang sinh hoạt là 44 (có 1 đảng viên
được miễn sinh hoạt do lớn tuổi). Đảng bộ được nâng lên từ chi bộ
cơ sở, có 9 chi bộ trực thuộc. Để đạt được kết quả trên, cấp ủy đã chủ
323

33.4 Page 324

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
động quy hoạch đào tạo cho cán bộ, đảng viên theo học các lớp lý
luận chính trị, về quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ. Các
chi bộ và Đảng ủy đều có xây dựng quy chế, đảm bảo nội dung trong
sinh hoạt Đảng về thực hiện nguyên tắc Đảng, thực hiện thường
xuyên phê bình, tự phê bình; tổ chức kiểm tra thường xuyên và kiểm
tra định kỳ đối với đảng viên các chi bộ về chấp hành nguyên tắc
sinh hoạt Đảng, thực hiện nhiệm vụ theo Điều lệ, Nghị quyết Đảng.
Tỷ lệ đảng viên sinh hoạt hằng năm đạt 96% trở lên. Chất lượng tổ
chức đảng đánh giá hằng năm đều đạt loại khá, riêng năm 2004 được
cấp trên công nhận loại trong sạch vững mạnh. Hằng năm, đảng
viên xếp loại xuất sắc chiếm từ 7-8%, loại hoàn thành tốt nhiệm vụ
chiếm 25-30%, số còn lại đều hoàn thành nhiệm vụ. Tình hình thu,
sử dụng tài chính Đảng thực hiện đúng quy định, đúng nguyên tắc,
đảm bảo cho hoạt động công tác Đảng. Đảng ủy, các chi bộ đều đảm
bảo xây dựng các nghị quyết năm, các nghị quyết chuyên đề và có
chương trình công tác hằng quý, tháng. Trong xây dựng các nghị
quyết của Đảng có căn cứ vào nghị quyết cấp trên và tình hình thực
tiễn địa phương, thực hiện phát huy dân chủ, chọn lọc những ý kiến
đóng góp của đảng viên để hoàn chỉnh nghị quyết và đi đến thống
nhất. Cấp ủy Đảng cũng thường xuyên củng cố nhân sự, lề lối làm
việc và ý thức chấp hành của cán bộ trong hệ thống chính trị từ xã
đến ấp; quá trình xem xét, quy hoạch đào tạo và phân công bố trí
công tác phù hợp với khả năng của cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả
trong thực hiện nhiệm vụ; xây dựng mối quan hệ chặt chẽ để phát
huy tính thống nhất và đồng bộ giữa các tổ chức, quan hệ với quần
chúng nhân dân để vận dụng sức mạnh tổng hợp, phát huy quyền làm
324

33.5 Page 325

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
chủ của nhân dân. Chất lượng tổ chức của Nhà nước và các đoàn thể
phân loại hằng năm đều đạt từ khá đến vững mạnh. Tuy nhiên, trong
nhiệm kỳ có 3 đảng viên bị xử lý kỷ luật hình thức cảnh cáo, trong
đó có 1 cấp ủy viên.
Một nét khởi sắc trong nhiệm kỳ này của địa phương, đó là hoạt
động đồng bộ, hiệu quả của các tổ chức đoàn thể, trong đó phải nhắc
đến những hoạt động ghi dấu ấn cộng đồng của Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội Nông dân và Đoàn Thanh niên xã. Mô hình vận động giúp
nhau làm kinh tế do Hội Liên hiệp phụ nữ xã thu hút 3.175 lượt hội
viên và người thân tham gia, đã đóng góp hơn 1,6 tỷ đồng giúp cho
2.681 lượt người vay không lấy lãi. Số vốn vay tuy nhỏ nhưng có
thể giúp người vay làm kinh tế phụ tăng thêm thu nhập cho gia đình
hoặc xoay xở lúc cần tiền cấp bách, hạn chế được phần nào tình trạng
“vay nóng” mà thực chất là vay nợ lãi cao thường xảy ra ở vùng nông
thôn như Vĩnh Thanh. Không chỉ thế, việc được quan tâm hỗ trợ lúc
khó khăn, thắt ngặt khiến các hội viên, chị em phụ nữ thêm niềm tin
trong cuộc sống. Từ mô hình này, số hội viên phụ nữ của xã nhanh
chóng tăng lên 1.678 người.
Hội Nông dân xã với định hướng vận động nhân dân phát triển
kinh tế hộ gia đình cũng có mô hình giúp nhau con giống, giống mới
và giúp vốn làm ăn. Các hội viên đã đóng góp hơn 10,7 tỷ đồng,
thông qua tổ vay vốn giúp vốn cho hội viên với mức vay bình quân
17 triệu đồng/hộ để sản xuất, qua đó giúp nhau tăng thu nhập, làm
giàu chính đáng. Hội còn phối hợp tổ chức hướng dẫn ứng dụng kỹ
thuật cho 2.273 hộ nông dân, giới thiệu cây giống, con giống mới
cho nông dân, đặc biệt là các giống lúa mới năng suất cao. Trên địa
325

33.6 Page 326

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
bàn xã ngày càng có nhiều nông dân sản xuất giỏi, vươn lên làm giàu
chính đáng; số hộ viên cũng tăng lên, được 1.895 người.
Đoàn Thanh niên xã thì có mô hình đoàn viên góp công làm đường
giao thông nông thôn, đã có hơn 600 lượt thanh niên đóng góp công
sức xây dựng đường giao thông nông thôn, trồng cây, đóng góp công
sức làm nhà tình thương cho các hộ nghèo. Qua các hoạt động phong
trào, Đoàn phát triển thêm được 164 đoàn viên.
Hội Cựu chiến binh xã trong nhiệm kỳ cũng phát triển thêm được
17 hội viên, nâng tổng số hội viên lên 48 người, từ 2 chi hội phát
triển thành 4 chi hội. Hội chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chăm sóc hội
viên, giúp nhau làm kinh tế hộ gia đình để ổn định cuộc sống, vận
động hỗ trợ nhà ở cho 3 hội viên có hoàn cảnh khó khăn; tham gia
phối hợp tuyên truyền giáo dục truyền thống cho gần 3.000 lượt
thanh thiếu niên là đoàn viên và học sinh, vận động thanh niên lên
đường thực hiện nghĩa vụ quân sự, phối hợp theo chương trình liên
tịch với lực lượng Công an giáo dục 10 thanh niên phạm pháp.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã cũng phối hợp vận động
xây dựng được 49 căn nhà tình thương. 88 gia đình thương binh
liệt sĩ, gia đình chính sách trong xã đều được quan tâm chu đáo, hỗ
trợ kịp thời khi hữu sự. Xã cũng xây tặng thêm một căn nhà tình
nghĩa, sửa chữa bốn căn nhà tình nghĩa khác với tổng kinh phí là 50
triệu đồng.
Để đáp ứng công tác quản lý Nhà nước ở cấp cơ sở, từng bước
nâng cao vai trò chức năng điều hành, cải tiến về hành chính theo
quy định mới, trong nhiệm kỳ qua đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân
326

33.7 Page 327

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
xã đã được quy hoạch, đào tạo và trẻ hóa, biên chế theo đúng luật
quy định. Qua đó địa phương đã từng bước kiện toàn bộ máy, thể
hiện tốt vai trò điều hành và quản lý, định hình phát triển các lĩnh
vực ngày càng hiệu quả. Tuy nhiên, do nhận thức và thể hiện trách
nhiệm trong đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, chưa thực hiện hết chức
năng, trong phối hợp đôi lúc còn thiếu đồng bộ.
Đại hội cũng phân tích, thẳng thắn chỉ ra những mặt còn hạn chế
trong công tác lãnh đạo, điều hành địa phương thời gian qua. Trong
đó, nhìn chung các mô hình làm kinh tế hộ gia đình của người dân
chủ yếu là tự phát, Nhà nước chưa chủ động xây dựng kế hoạch hỗ
trợ sát với từng vùng trong xã cũng như chưa quy hoạch được vùng
sản xuất phù hợp. Dân xây dựng được tổ hợp tác kinh tế nhưng Nhà
nước hoàn toàn chưa thực hiện vai trò quản lý. Lĩnh vực thương
mại - dịch vụ hầu như chưa được quan tâm. Việc vận động xây dựng
kênh mương nội đồng chưa đạt hiệu quả vì thiếu kế hoạch cụ thể,
cán bộ vận động khoán trắng cho các ban ấp. Diện tích đất hoang
trong và ngoài đê Ông Kèo còn nhiều, xã vẫn chưa có biện pháp để
đưa vào sản xuất. Trong khi địa phương bắt đầu xuất hiện tình trạng
mua bán đất đai thì việc xem xét đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho người dân tiến hành rất chậm, từ đó dẫn đến mâu
thuẫn, tranh chấp đất đai khó giải quyết, tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh
trật tự xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, yếu kém nói trên chủ yếu là
do trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt
vẫn còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của
xã hội.
327

33.8 Page 328

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Đại hội xác định, nhiệm kỳ 2005-2010 là giai đoạn cả nước tập
trung thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, khắc phục
những hạn chế trong quản lý nền kinh tế thị trường, tiếp tục thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; tỉnh Đồng Nai phấn đấu năm 2010 là năm cơ bản đạt tỉnh công
nghiệp, huyện Nhơn Trạch sẽ là thành phố mới hiện đại, được đầu
tư, kiện toàn về nhiều mặt từ tổ chức bộ máy đến cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, tổ chức điều hành quản lý... Vì vậy, xã Vĩnh Thanh phải có sự
bứt tốc tương xứng để đồng bộ với sự phát triển của đất nước, tỉnh
và huyện Nhơn Trạch. Thuận lợi của địa phương là kinh tế đang trên
đà phát triển ổn định, cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng
theo hướng hiện đại, nhất là giao thông, điện, viễn thông; đời sống
vật chất và tinh thần người dân trong xã từng bước được nâng lên,
sự ổn định về chính trị, xã hội đi vào nề nếp; đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị của xã từng bước được củng cố theo chiều sâu, sự
lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng viên và tổ chức đảng ngày càng
được nâng cao, hiệu quả đem lại niềm tin cho người dân, việc phát
huy quyền làm chủ của nhân dân và các tổ chức đoàn thể qua thực
hiện quy chế dân chue cơ sở đã và đang phát huy tác dụng... Tất cả
những yếu tố trên là tiền đề tốt cho việc phát triển toàn diện trong
tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, địa phương vẫn còn
nhiều khó khăn: đời sống đại bộ phận dân cư còn nghèo, lao động
chưa có việc làm ổn định còn khá đông, nhất là lao động trong độ
tuổi thanh niên; đầu ra của sản phẩm nông nghiệp vẫn còn gặp khó
khăn; địa phương chưa có giải pháp cụ thể để phát triển tiểu thủ
328

33.9 Page 329

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
công nghiệp cũng như chưa có quy hoạch, bố trí sản xuất đồng bộ
trên địa bàn, còn mang tính tự phát cao; giá cả đất đai luôn biến động
dẫn đến người dân bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
càng nhiều, không chỉ làm thay đổi mục đích sử dụng đất mà còn là
nguyên nhân đưa đến tình trạng tranh chấp đất đai ngày càng tăng,
gây mất tình làng nghĩa xóm; một số tệ nạn xã hội chưa được chuyển
hóa tốt, trình độ nhận thức về pháp luật và tự giác chấp hành các quy
định của Nhà nước ở một số bộ phận nhân dân còn thấp; hệ thống
chính trị thường xuyên được củng cố, kiện toàn nhưng ở các ngành
và một số ấp vẫn chưa vững chắc. Những khó khăn chủ yếu trên có
khả năng gây mất ổn định cho sự phát triển kinh tế, xã hội và cả lĩnh
vực an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã trong thời
gian tới.
Trên cơ sở định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch lần thứ III và các Nghị quyết chuyên đề của Đảng, căn
cứ vào tình hình thực tế của xã với thế mạnh là sản xuất nông nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp, phương hướng mục tiêu chung của Đảng bộ
xã Vĩnh Thanh là: “Tập trung khai thác và phát huy nội lực, tranh thủ
các nguồn lực hỗ trợ đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất, kết hợp với
xây dựng khu du lịch sinh thái, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống người dân, quan tâm trong
lĩnh vực giáo dục - đào tạo theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa. Thực hiện đầy đủ và rộng rãi qui chế dân chủ ở cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, kiện toàn tổ chức của hệ thống chính
trị, đoàn kết thực sự phấn đấu xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ
chức chính trị xã hội ngày càng vững mạnh toàn diện.
329

33.10 Page 330

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Mục tiêu chung đến năm 2010, giá trị tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) tăng bình quân hằng năm từ 7-8%, tổng GDP năm 2010 gấp
1,5-2 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế trong GDP, nông nghiệp
chiếm 50% (trong đó ngành chăn nuôi chiếm 70% tổng sản phẩm
nông nghiệp), công nghiệp 20%, dịch vụ chiếm 30%. Phấn đấu bình
quân đầu người đạt trên 6 triệu đồng/tháng.
Một số chỉ tiêu chủ yếu được đặt ra như sau:
- Diện tích gieo trồng hằng năm tăng 7-10% so với năm trước,
chú ý đến khâu chuyển đổi cây trồng hiệu quả cao, đến năm 2010
không còn đất hoang hóa. Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc theo mô hình
kinh tế trang trại, nhất là chăn nuôi heo, đạt 25.000-30.000 con. Thí
điểm tiếp tục chăn nuôi các gia súc khác như dê, cừu. Tiếp tục phát
triển mô hình nuôi trồng thủy sản, ngoài ra cũng khuyến khích phát
triển nuôi các loại có giá trị kinh tế cao như ba ba, ếch. Củng cố các
tổ hợp tác kinh tế hiện có, phấn đấu đến năm 2010 xã có một hợp tác
xã quy mô lớn, các ấp ít nhất có một hợp tác xã. Tập trung phát triển
tiểu thủ công nghiệp theo hướng không ngừng cải tiến kỹ thuật, mặt
hàng sản phẩm chất lượng ngày càng nâng cao.
- Quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất đai trong tổ chức và cá nhân,
nhất là khu quy hoạch chung và qui hoạch chi tiết. Tổ chức lại hệ
thống các chợ trên địa bàn xã cho phù hợp với quy mô dân số và phát
triển trong nhiều năm tới, xây dựng hợp tác xã đa ngành, hình thành
khu du lịch sinh thái từ 20-30 hecta ven sông và đê Ông Kèo, dần
dần phát triển theo quy mô lớn hơn.
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
- Thu ngân sách hằng năm tăng 10-15% so với năm trước. Hoàn
thành các chỉ tiêu thu theo pháp lệnh Nhà nước.
- Các đường chính trong ấp đầu tư xây dựng theo hướng rộng, có
quy định hành lang, đặt lại các tên đường từ hương lộ 19 vào các ấp.
Mỗi ấp có một trụ sở tiếp dân. Phát triển trường học theo hướng tập
trung về điểm chính trung tâm và lầu hóa. Toàn xã không còn nhà ở
lụp xụp, nhà cấp bốn đạt tỷ lệ từ 65-70% (2.000-2.500 căn), nhà cấp
ba đạt tỷ lệ 5-7%, xây dựng dứt điểm nhà tình thương. Phấn đấu đạt
95-99% hộ sử dụng điện lưới quốc gia (3.100 hộ). 100% hộ sử dụng
nước sạch và có nhà vệ sinh.
- Đảm bảo lứa tuổi từ mẫu giáo đến tiểu học có 100% số cháu
được ra lớp đúng tuổi, không có diện bỏ học nửa chừng, đảm bảo đủ
phòng học không để tái diễn học ca ba, đảm bảo đủ giáo viên các bộ
môn và các cấp học. Tỷ lệ học sinh tiểu học tốt nghiệp đạt 98,5%,
học sinh THCS tốt nghiệp đạt 97%, đậu vào lớp 10 đạt 95%. Khám
chữa bệnh phục vụ nhân dân theo yêu cầu chung, không để xảy ra
tiêu cực. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 1%. Giúp 90% hộ
nghèo vượt lên thoát nghèo, đạt mức sống trung bình và khá, không
để hộ nghèo phát sinh.
- Tổ chức, củng cố tổ an ninh nhân dân với qui mô vừa (dưới 30
hộ/tổ), không có tổ chức yếu kém. Xây dựng lực lượng dân quân
đạt 3% dân số và đảm bảo chất lượng 30% là đoàn viên, 2% là đảng
viên, đảm bảo chỉ tiêu tuyển quân hằng năm.
- Xây dựng Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh với tỷ lệ phát
triển đảng viên năm sau bằng 20% tổng số đảng viên của năm trước,
331

34.2 Page 332

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
các ấp và trường học đều có chi bộ, phân loại cuối năm đều đạt
vững mạnh. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đều đạt vững mạnh
toàn diện.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ xã Vĩnh Thanh khóa
I nhiệm kỳ 2005-2010 với 9 đồng chí1, bầu Ban Thường vụ gồm 3
đồng chí. Đồng chí Huỳnh Minh Phương tiếp tục được tín nhiệm,
bầu làm Bí thư Đảng bộ xã. Đồng chí Phạm Quốc Hợp là Phó Bí thư,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đồng chí Nguyễn Văn Hồng là Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã.
III. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất đúng hướng, phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống văn hóa
Đại hội Đảng bộ xã Vĩnh Thanh lần thứ II nhiệm kỳ 2010-2015
diễn ra vào tháng 5.2010. Trong nhiệm kỳ qua, xã Vĩnh Thanh dưới
sự lãnh đạo của Đảng ủy xã tiếp tục đạt được nhiều thành tựu mới.
Về sản xuất nông nghiệp, tổng diện tích đưa vào sản xuất trong
5 năm là 11.260 hecta, đạt 100,04% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề
ra. Đây là lần đầu tiên chỉ tiêu trồng trọt của xã đạt và vượt, hàng
trăm hecta đất sản xuất bị hoang hóa trước đây được khai thác, trong
đó cây lúa đạt 96%, cây mì đạt 83,3%. Nguyên do là xã đã tích cực
vận động nhân dân đưa diện tích đất trong đê Ông Kèo đi vào sản
xuất, không để hoang hóa như những năm trước, đồng thời tăng diện
tích đất trồng cây ăn trái dọc theo sông và đê Ông Kèo lên hơn 50
hecta. Nhiều nông dân trong xã sau khi trồng thử nghiệm giống lúa
1  9 đồng chí trong Ban Chấp hành khóa I gồm: Đoàn Hữu Danh, Võ Thị Trang
Dung, Đỗ Thành Đông, Nguyễn Văn Hồng, Phạm Quốc Hợp, Lương Hữu Ích,
Huỳnh Minh Phương, Nguyễn Văn Thông, Bùi Tất Toản (theo thứ tự ABC).
332

34.3 Page 333

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
OM 2395 đạt năng suất 7-8 tấn/hecta, năng suất cao hơn giống lúa
địa phương (chỉ đạt 3,5-4 tấn/hecta), do vậy vụ mùa 2008 đã mạnh
dạn đồng loạt nhân rộng giống lúa OM 2395 trên 600 hecta. Giống
lúa OM 2395 có một số ưu điểm như: khả năng kháng bệnh rầy
nâu, bệnh đạo ôn, chịu phèn tốt, thời gian sinh trưởng chỉ từ 90-95
ngày. Ngoài ra, cây còn có lợi thế thân cây to khỏe, khó bị ngã khi
có mưa dông, đẻ nhánh nhiều, năng suất cao và trồng được tất cả các
vụ trong năm. Một số hộ nông dân ở ấp Nhất Trí còn mạnh dạn đầu
tư trồng giống lúa lai PAC 807, năng suất lên đến trên 9 tấn/hecta.
Giống lúa lai này có khả năng kháng sâu bệnh cao nên ít bị sâu bệnh,
nông dân giảm được chi phí mua thuốc trừ sâu và công phun xịt. Với
giá lúa trên thị trường khoảng 5 ngàn đồng/kg, trừ mọi chi phí nông
dân thu lãi gần 40 triệu đồng/hecta. Tuy nhiên, do lúa giống PAC
807 giá cao gấp 3 lần so với các loại khác nên nhiều nông dân Vĩnh
Thanh vẫn còn ngần ngại, chưa mạnh dạn đầu tư chuyển đổi.
Đối với các vườn điều giống cũ đã già cỗi, địa phương vận động
người dân thay thế bằng điều giống mới cho năng suất cao, tăng
thêm diện tích điều giống mới ở các vùng đất phía bắc lộ 19 từ ấp
Thành Công đến ấp Đoàn Kết khoảng 150 hecta, nâng tổng diện tích
cây điều trên địa bàn đạt đến gần 400 hecta. Tại những vùng nhiễm
mặn không sản xuất nông nghiệp được, xã khuyến khích người dân
trồng tràm xen lẫn cây gỗ lớn.
Địa phương cũng liên hệ các ngành chức năng cấp huyện tổ chức
khảo sát và quy hoạch lại diện tích nông nghiệp trên toàn xã theo
định hướng phát triển chung trong vùng kinh tế, từ đó vận động nhân
dân đầu tư phát triển theo quy hoạch, phù hợp với xu thế trước mắt
333

34.4 Page 334

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
cũng như lâu dài. Bên cạnh đó, vận động nhân dân đóng góp để xây
dựng hoàn chỉnh các tuyến kênh nội đồng và thiết kế bờ vùng, bờ
thửa để cải tạo đất, quản lý và sử dụng hệ thống thủy lợi đạt hiệu quả
cao nhất.
Lĩnh vực chăn nuôi của xã được duy trì ổn định với tổng số lượng
đàn heo, bò, gia cầm không thay đổi dù cũng có những thời điểm
tăng, giảm thất thường do dịch bệnh, do giá cả lên xuống. Cụ thể,
tổng đàn heo vẫn duy trì khoảng 25.000 con, nhưng phần lớn đạt đến
quy mô trang trại và tập trung vào khu quy hoạch, đàn trâu bò giữ
mức 400-500 con. Ở mảng nuôi trồng thủy sản tiếp tục có xu hướng
tăng mạnh. Đã có 30 hộ dân khai thác trên 80 hecta diện tích mặt
nước ngoài đê Ông Kèo để nuôi cá, tôm theo hình thức quảng canh
đạt hiệu quả cao, dự kiến sẽ còn tăng nhanh trong thời gian tới. Để
bảo vệ môi trường sinh thái, bên cạnh việc quản lý tốt việc khai thác
nguồn thủy sản, địa phương còn vận động, xử lý nghiêm các hình
thức dùng thuốc, hóa chất, điện, xung điện và các phương thức gây
hại khác trong đánh bắt thủy sản.
Lĩnh vực tài nguyên môi trường cũng đạt nhiều tiến bộ. Xã đã
phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành đo vẽ lại bản đồ hiện
trạng đất trên địa bàn, đề nghị huyện xét cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho gần 4.000 hộ dân với trên 10.000 thửa đất. Do xã
Vĩnh Thanh có 11 dự án sẽ triển khai với diện tích dự kiến thu hồi
lên đến 1.000 hecta nên địa phương đã thống kê hiện trạng đất các
công trình một cách kịp thời, xác định diện tích phục vụ cho công
tác bồi thường, giải quyết các tranh chấp đất đai trong dân, hạn chế
mâu thuẫn xã hội. Thực hiện Nghị quyết về môi trường, các ngành,
334

34.5 Page 335

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đoàn thể thường xuyên phát động hưởng ứng phong trào vệ sinh môi
trường trong thôn xóm, các ấp, như phát hoang cây cỏ, thu gom rác
thải, vận động nhân dân đặt cống thoát nước, nạo vét kênh mương,
vận động các hộ chăn nuôi xử lý nước thải... nên giảm thiểu được
tình trạng ô nhiễm vệ sinh môi trường trong khu dân cư. Đối với
những hộ chăn nuôi heo gia đình để cải thiện đời sống (từ 10-20
con), địa phương vận động nâng cấp chuồng trại kết hợp với sử dụng
hầm biogas để giảm thiểu ô nhiễm. Những hộ chăn nuôi quy mô
nhiều hơn phải bố trí ở những vùng xa khu dân cư hoặc vào khu quy
hoạch vùng chăn nuôi tập trung.
Tiếp tục thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”, 5 năm qua xã vận động gần 1,5 tỷ đồng (bình quân đạt gần 300
triệu đồng/năm) để tu sửa, đắp đất và trải đá, sỏi trên 13km đường
giao thông nông thôn, nhựa hóa hơn 1km đường, đạt chỉ tiêu 125%
so với Nghị quyết. Song song đó, các đường chính trong ấp đều có
hệ thống mương, cống ngầm để thoát nước. Năm 2009, để chuẩn
bị xây dựng xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, từ nguồn ngân sách của
huyện, xã đầu tư xây mới Trạm Y tế ở ấp Thanh Minh, gồm một trệt
một lầu, có 14 phòng chức năng, đến năm 2010 thì hoàn công. Bên
cạnh đó, xã xây dựng trường học, văn phòng ấp, mở rộng lộ 19... với
tổng kinh phí hơn 26,6 tỷ đồng. Địa phương cũng thực hiện thêm
5km đường dây điện hạ thế, nâng tổng số hộ sự dụng điện lên gần
4.000 hộ, đạt tỷ lệ 97% tổng số hộ trong xã sử dụng lưới điện quốc
gia, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt trong dân. Từ những
hoạt động này, bộ mặt của xã ngày càng khang trang, tạo sự phấn
khởi cho người dân địa phương.
335

34.6 Page 336

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Góp phần thiết thực cho sự phát triển kinh tế địa phương, trong
nhiệm kỳ qua với sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, đã có 3.097
lượt hộ gia đình được vay vốn làm ăn với tổng giá trị trên 30 tỷ đồng.
Ngân hàng Chính sách xã hội huyện cũng giải quyết cho 1.062 hộ
nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn vay ưu đãi gần 2 tỷ đồng để làm
kinh tế hộ gia đình. Xã có 244 hộ làm nghề dịch vụ, trong đó làm
dịch vụ mua bán, gia công loại 1 có 142 hộ
Trong 5 năm xã xây dựng thêm 35 phòng học mới. Trong đó,
ngày 30.5.2006, Công ty Cargill Việt Nam khánh thành và bàn giao
công trình Trường Mẫu giáo Vĩnh Thanh II trị giá khoảng 400 triệu
đồng với quy mô gồm 3 phòng học và công trình phụ, đáp ứng nhu
cầu học và chơi của 120 trẻ em trong độ tuổi từ 4-6 tuổi của địa
phương. Xã cũng xây dựng một Trung tâm học tập cộng đồng, một
điểm thông tin khoa học công nghệ, tất cả đều hoạt động tốt. Ở lĩnh
vực y tế, Trạm Y tế mới do xã đầu tư xây dựng mới, hoàn thành
vào năm 2010 đã có được y sĩ làm việc do Trung tâm y tế huyện cử
xuống theo quy định, hằng năm đội ngũ y sĩ, y tá, nữ hộ sinh khám
chữa bệnh cho hơn 4.000 lượt người. Công tác tiêm chủng cho trẻ
em và phụ nữ có thai đều đạt chỉ tiêu. Song song với công tác khám
và điều trị bệnh, Trạm Y tế xã còn phối hợp tuyên truyền về vệ sinh
phòng bệnh, tổ chức khảo sát vệ sinh thực phẩm, môi trường sống,
quản lý các điểm bán thuốc tư nhân trên địa bàn. Tỷ lệ tăng dân số
giảm xuống còn 1,1% (Nghị quyết là dưới 1%). Năm 2013, xã Vĩnh
thanh đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, xã đã quan tâm xem
xét đề nghị cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, làm dịch vụ từ nhiều
336

34.7 Page 337

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
nguồn cũng như hỗ trợ phương án làm kinh tế hộ gia đình. Kết quả,
trong nhiệm kỳ đã có trên 500 hộ vượt nghèo, hiện chỉ còn 96 hộ
nghèo (theo chuẩn mới) chiếm tỷ lệ 3% số hộ toàn xã, đạt 83,9%
chỉ tiêu Nghị quyết; vận động xây dựng, sửa chữa 49 căn nhà tình
thương với tổng khinh phí trên 300 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu về
nhà ở cho những hộ thật sự khó khăn.
Với chính sách Đền ơn đáp nghĩa, ngoài nhiệm vụ đảm bảo cấp
phát, trợ cấp cho 78 đối tượng chính sách (giảm 10 đối tượng so với
nhiệm kỳ trước) đầy đủ, kịp thời, tổ chức thăm viếng vào các dịp lễ
tết, xã còn vận động nhân dân đóng góp xây dựng hai nhà bia liệt sĩ
ở ấp Thanh Minh và ấp Chính Nghĩa với giá trị trên 100 triệu đồng;
vận động xây dựng một căn nhà tình nghĩa, sửa chữa bốn căn nhà
tình nghĩa khác với tổng kinh phí 50 triệu đồng.
Ở lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự xã hội, nhiệm kỳ qua tuy còn
diễn ra những vụ việc phức tạp nhưng về cơ bản vẫn được giữ vững.
Đáng chú ý, ngày 21.5.2006 trên địa bàn xã xảy ra vụ việc “nước
thánh chữa bệnh” ở Đan viện Thánh mẫu Khiết Tâm. Trước đó trong
quá trình tu sửa đan viện, ở hòn non bộ nhân tạo có dòng nước rỉ ra,
một số phần tử đã loan tin đây là nước thánh trị bách bệnh, dẫn đến
mỗi ngày có hàng trăm người tụ tập xin “nước thánh”, không chỉ
truyền bá mê tín dị đoan mà còn gây tình trạng mất an ninh trật tự.
Địa phương phải vận động người có trách nhiệm trong đan viện giải
thích rõ nước rỉ ra từ hòn non bộ chỉ là do rò rỉ từ ống dẫn nước bên
trong, đồng thời liên hệ Sở Y tế lấy mẫu nước đưa đi kiểm nghiệm,
xác định đó chỉ là nước bình thường, thậm chí còn mất vệ sinh do bị
nhiễm khuẩn. Thế nhưng vụ “nước thành chữa bách bệnh” vẫn diễn
337

34.8 Page 338

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
ra hàng mấy tháng trời do người dân từ nơi khác, chủ yếu là từ Thành
phố Hồ Chí Minh kéo đến rất đông, phải tuyên truyền, giải thích, vận
động mãi đến cuối tháng 10.2006 mới lắng xuống. Trước đó, ngày
23.9.1999, tại khu đồi Chuối, ấp Thanh Thọ 3, xã Phú Lâm (huyện
Tân Phú) có tin đồn “Đức Mẹ hiện hình”. Đến ngày 15.10.1999, tại
giáo xứ Long Thuận ở xã Tây Hòa (huyện Trảng Bom) lại có tin đồn
“Đức Mẹ khóc”. Tiếp đó, vào ngày 1.3.2002, tại giáo xứ Hòa Bình
(TP.Biên Hòa) tin đồn loan đi rất nhanh là “Đức Mẹ khóc”. Ngày
16.5.2006, tại giáo xứ Ngọc Đồng (TP.Biên Hòa) có đông người kéo
đến xem “nước thánh Chúa ban”, và sau đó 5 ngày là đến vụ “nước
thánh trị bách bệnh” ở Vĩnh Thanh. Điều này cho thấy vụ việc ở
Vĩnh Thanh cũng nằm trong chuỗi tung tin mê tín dị đoan nhằm gây
mất an ninh trật tự, hoặc có ý đồ trục lợi của kẻ xấu.
Về công tác xây dựng Đảng, trong nhiệm kỳ đã phát triển thêm 60
đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên thuộc Đảng bộ lên 91 (giảm 7
đảng viên do qua đời, chuyển công tác khác), tạo nguồn các tổ trung
kiên 59 đối tượng. Đảng bộ cơ sở có 16 chi bộ trực thuộc. Nhiều cán
bộ theo đạo Công giáo đã lần lượt đứng vào hàng ngũ Đảng như:
Nguyễn Văn Thiện1, Nguyễn Thế Phúc2, Nguyễn Văn Bốn3... Điều
này đã mang đến không khí mới, nhận thức mới cho cán bộ, người
dân xứ đạo. Linh mục Nguyễn Đình Luận, Chánh xứ giáo xứ Bắc
Thần bày tỏ: “Lâu nay tôi cũng như bà con giáo dân đều cho rằng
người có đạo Công giáo không được kết nạp vào Đảng. Nay nghe
1  Cán bộ địa chính xã, sau là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
2  Cán bộ tư pháp xã, sau là Trưởng ban thanh tra.
3  Trưởng ấp Vĩnh Cửu.
338

34.9 Page 339

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
được có một số giáo dân như ông Thiện, ông Phúc được vào Đảng,
tôi mới biết rằng Đảng không có kỳ thị người Công giáo, vào Đảng
không phải bỏ đạo”. Từ quý III-2006, xã Vĩnh Thanh đã xóa tình
trạng “ấp trắng”, ấp không có đảng viên.
Trong hoạt động của các tổ chức đảng, chi bộ và Đảng ủy đều có
xây dựng quy chế, đảm bảo nội dung trong sinh hoạt Đảng về thực
hiện nguyên tắc Đảng và thực hiện thường xuyên phê bình, tự phê
bình; tỷ lệ đảng viên sinh hoạt hằng năm đạt 98% trở lên. Đảng ủy tổ
chức kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với đảng viên và các chi
bộ về chấp hành nguyên tắc sinh hoạt Đảng, thực hiện nhiệm vụ theo
Điều lệ, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Công tác thu, chi, sử dụng tài
chính Đảng thực hiện đúng quy định. Chất lượng tổ chức đảng đánh
giá 5 năm liền đều đạt loại trong sạch vững mạnh. Về đảng viên,
hằng năm đạt loại xuất sắc chiếm tỷ lệ từ 7-8%, loại hoàn thành tốt
nhiệm vụ từ 75-80%, số còn lại đều đạt loại hoàn thành nhiệm vụ.
Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ cũng có một đảng viên bị kỷ luật với hình
thức cảnh cáo.
Về thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, thực hiện quán triệt Chỉ thị số 06-CT/TW ngày
7.11.2006 của Bộ Chính trị (Khóa X), có 98% cán bộ, đảng viên học
tập, nghiên cứu các chuyên đề, 70% đoàn viên, hộ viên, nhân dân
tham gia học tập. Tất cả cán bộ, đảng viên đều viết bài thu hoạch
và phương hướng rèn luyện các chi bộ, cơ quan, đoàn thể, ấp đều
xây dựng quy chuẩn đạo đức lối sống của cán bộ. Đã tổ chức nhiều
hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ,
đảng viên, giáo viên, đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân,
339

34.10 Page 340

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
đồng bào có đạo, thu hút nhiều thí sinh tham dự. Qua đó, Đảng ủy
cũng thực hiện nhiều mô hình: Viết nhật ký mỗi ngày làm việc tốt
phục vụ nhân dân; mô hình 3 đúng: đúng chủ trương, đúng pháp luật,
đúng thời gian; mô hình xanh sạch đẹp, mô hình nêu gương... Nhìn
chung, Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành
động, đẩy mạnh phong trào công tác, học tập, lao động sản xuất tại
địa phương và nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ trong nhân dân.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ
luôn nêu cao về quan điểm lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định
mục tiêu lý tưởng của Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của
Đảng; có năng lực lãnh đạo, nghiệp vụ chuyên môn cao, có ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao, làm việc sâu sát với cơ sở,
có đạo đức lối sống lành mạnh, thực hiện tốt các quy định của Trung
ương về những điều đảng viên không được làm, chấp hành tốt pháp
lệnh công chức.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo quy
chế, ngay sau Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010, Ban Chấp hành
Đảng bộ xây dựng quy chế tổ chức và làm việc, xác định chức năng
nhiệm vụ của Ban Chấp hành và từng đồng chí, xây dựng mối liên hệ
của Đảng ủy với các chi bộ trực thuộc, các đoàn thể. Ban Chấp hành
(9 đồng chí), Ban Thường vụ (3 đồng chí) đều thực hiện họp định kỳ
theo quy định và đột xuất theo yêu cầu công tác, trong sinh hoạt thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi việc đều được thảo
luận và quyết định theo nguyên tắc phục tùng đa số. Trong chỉ đạo
điều hành có chú trọng xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định trọng tâm
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
trọng điểm và tập trung thực hiện kế hoạch đạt hiệu quả cao, có coi
trọng chỉ đạo để rút kinh nghiệm trước khi triển khai ra diện rộng.
Đại hội cũng tập trung phân tích, chỉ ra những hạn chế, yếu kém
còn tồn tại, như:
- Nhìn chung, các mô hình làm kinh tế hộ gia đình chủ yếu còn
mang tính tự phát, Nhà nước chưa chủ động có sự chỉ đạo, định
hướng, chưa xây dựng kế hoạch hỗ trợ kịp thời, trong lãnh đạo còn
mang tính chung chung. Diện tích đất hoang trong và ngoài đê Ông
Kèo vẫn còn nhiều, chưa tận dụng hết ưu thế về đất đai của của
địa phương. Cơ cấu kinh tế của xã vẫn còn nặng về sản xuất nông
nghiệp, chiếm đến 75%, các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ còn đạt
thấp. Thủ tục cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất hoặc chuyển
nhượng Quyền sử dụng đất còn gây nhiều phiền hà cho người dân.
Lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai vẫn chưa thực hiện chặt chẽ,
quản lý về xây dựng cơ bản còn bị buông lỏng, quản lý sử dụng điện
trong khu dân cư còn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm đối với tính mạng, tài
sản của người dân.
- Công tác chăm lo đời sống tinh thần của người dân còn hạn chế,
chưa có tụ điểm để nhân dân, nhất là thanh niên giải trí lành mạnh;
quản lý các điểm karaoke còn lỏng lẻo. Trong xây dựng nông thôn
mới, việc xây dựng các tuyến đường ấp xanh - sạch - đẹp còn mang
tính tự phát, chưa thành phong trào. Người dân ngoài nghề làm nông,
còn lại phần lớn lao động chưa có việc làm ổn định, tỷ lệ lao động
nhàn rỗi còn cao.
341

35.2 Page 342

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
- Hoạt động của các tổ nhân dân, đội dân phòng, lực lượng dân
quân xã chưa thật sự mạnh, chất lượng chưa đồng đều, thiếu chiều
sâu, phối hợp thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ ấp đôi chỗ còn yếu nên
chưa thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ. Việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp trong dân còn chậm, kéo dài gây phiền hà cho
người dân.
- Chất lượng điều hành, quản lý của Nhà nước chưa chặt chẽ, hoạt
động chưa đảm bảo quy chế đề ra, chưa đảm bảo luật tổ chức của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân về chức năng nhiệm vụ của
Nhà nước cấp cơ sở, chưa có quyết định nào mang tính tập thể để
nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Vai trò phối kết hợp giữa
Mặt trận và các đoàn thể chưa được phát huy hiệu quả, nội dung và
hình thức hoạt động còn nhiều lúng túng, thiếu chủ động, mang nặng
tính hình thức và hành chính hóa, chưa tạo được phong trào tiêu biểu
điển hình.
- Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, thiếu sót trên cả 3
mặt, nhất là lĩnh vực chính trị tư tưởng trong cán bộ đảng viên chưa
thật sự đi vào chiều sâu.
Các hạn chế, tồn tại trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị, mức hoàn thành nhiệm vụ ở địa
phương các năm qua đạt không cao, chưa đáp ứng mong muốn của
toàn thể cán bộ, nhân dân. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do
trình độ, năng lực cán bộ, đảng viên còn yếu, chưa đáp ứng nhu cầu
xã hội trong tình hình mới, còn tư tưởng ỷ lại; việc thực hiện vai trò
kiểm tra của cấp ủy trong quản lý đảng viên về chấp hành Điều lệ
Đảng, chấp hành nghị quyết còn lỏng lẻo, chưa nhắc nhở, chấn chỉnh
342

35.3 Page 343

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
kịp thời các biểu hiện tiêu cực nên còn xảy ra trường hợp phải xử lý
kỷ luật đảng viên; cán bộ, đảng viên còn thiếu tinh thần đấu tranh
xây dựng do tâm lý sợ bị cô lập, còn biểu hiện “bằng mặt không bằng
lòng”, xem nhẹ việc phê bình và tự phê bình...
Từ những thực tế trên, Đảng ủy rút ra những bài học kinh nghiệm
sâu sắc, trong đó vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước phải bám
nhiệm vụ chính trị của Đảng theo từng giai đoạn, phải gương mẫu
trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để
không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, kiến thức, góp phần nâng
cao sự lãnh đạo của Đảng, sức chiến đấu của Đảng bộ. Phải thật
sự coi trọng việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân qua thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, không ngừng củng cố và nâng cao sự
nghiệp đoàn kết toàn dân tộc, sự thống nhất trong tư tưởng và hành
động về sự nghiệp đổi mới của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân
dân. Luôn xác định công tác xây dựng Đảng là then chốt, không
ngừng củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng Đảng bộ ngày
càng vững mạnh, thường xuyên thực hiện nguyên tắc tự phê bình và
phê bình trong Đảng, quan tâm đến công tác phát triển Đảng và bồi
dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên.
Đại biểu tham dự Đại hội thống nhất, trên cơ sở định hướng của
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần III và các nghị
quyết chuyên đề của Đảng, chủ trương, chính sách, hướng dẫn của
Đảng và Nhà nước cấp trên cũng như căn cứ vào tình hình thực tế
của xã Vĩnh Thanh với thế mạnh là sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, phương hướng, mục tiêu của Đảng bộ trong nhiệm kỳ
2010-2015 là: Tập trung khai thác và phát huy nội lực, tranh thủ các
343

35.4 Page 344

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
nguồn lực hỗ trợ đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất, kết hợp với
xây dựng khu du lịch sinh thái, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, quan tâm trong lĩnh
vực giáo dục đào tạo theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
để xây dựng ấp, xã văn hóa và an toàn; thực hiện đầy đủ và rộng
rãi quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, đoàn kết thực sự phấn đấu
xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội ngày càng
vững mạnh toàn diện.
Đến năm 2015 xã cần đạt các mục tiêu cơ bản là: Cơ cấu kinh tế
trong GDPR: nông nghiệp chiếm 40% (trong đó ngành chăn nuôi
chiếm 70% trong tổng sản phẩm nông nghiệp), công nghiệp chiếm
25%, dịch vụ chiếm 35%. Phấn đấu bình quân đầu người đạt trên 15
triệu đồng/năm.
Trong đó:
- Diện tích gieo trồng cây hằng năm tiếp tục đạt chỉ tiêu, chú ý đến
khâu chuyển đổi cây trồng có hiệu quả cao, đến năm 2015 không còn
đất hoang hóa. Chăn nuôi gia súc, nhất là đàn heo với quy mô ngày
càng lớn, tiếp tục đạt 25.000 con theo kinh tế trang trại, thí điểm phát
triển chăn nuôi các gia súc khác như: dê, cừu; tiếp tục phát triển nuôi
trồng thủy sản ở các vùng phù hợp, ngoài ra có thể phát triển nuôi
loại có giá trị kinh tế cao như: ếch, ba ba...
- Tập trung phát triển tiểu thủ công nghiệp theo hướng không
ngừng cải tiến kỹ thuật và mặt hàng, chất lượng sản phẩm ngày càng
344

35.5 Page 345

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
nâng cao. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất đai trong tổ chức và cá
nhân, nhất là khu quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết. Hình thành
khu du lịch sinh thái từ 20-30 hecta ven sông và đê Ông Kèo, dần
dần phát triển quy mô lớn hơn, thu hút du khách.
- Thu ngân sách hằng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu, huy động vào
ngân sách Nhà nước tăng từ 10-15% so với năm trước. Hoàn thành
các chỉ tiêu thu theo pháp lệnh nghĩa vụ công ích. Vận động thu,
đóng góp từ nhân dân theo các chủ trương xã hội hóa hằng năm đều
đạt theo bình quân hộ gia đình và người, như xã hội hóa giao thông
nông thôn, giáo dục, văn hóa - thể thao, quỹ Đền ơn đáp nghĩa, an
ninh quốc phòng, chống thiên tai, quỹ khuyến học. Tổ chức lại hệ
thống các chợ trên địa bàn cho phù hợp với quy mô dân số và phát
triển trong nhiều năm tới; xây dựng hợp tác xã đa ngành với số vốn
trên 50 triệu đồng, củng cố các hợp tác xã hiện có, phấn đấu đến năm
2015 xã có một tổ hợp tác xã quy mô lớn, các ấp có ít nhất một hợp
tác xã.
- Đảm bảo trẻ em lứa tuổi từ mẫu giáo đến tiểu học ra lớp đạt
100%, không có diện bỏ học nửa chừng; đảm bảo đủ phòng học, học
sinh không phải học ca ba; có đủ giáo viên ở các bộ môn và các cấp
học; các trường đều đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ học sinh tiểu học tốt
nghiệp đạt 99%, học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp đạt 95%.
- Khám chữa bệnh phục vụ nhân dân theo yêu cầu chung, không
xảy ra tiêu cực và sự cố gây hậu quả xấu. 100% hộ sử dụng nước
sạch và có nhà vệ sinh. Phát triển dân số tự nhiên đạt dưới 1%.
345

35.6 Page 346

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
- Các đường chính trong ấp được đầu tư xây dựng theo hướng
rộng, có quy định về hành lang, đặt lại các tên đường từ hương lộ 19
vào các ấp. Thực hiện tốt vệ sinh môi trường tại các hộ chăn nuôi gia
đình, các khu dân cư. Xây dựng mỗi ấp đều có đội văn nghệ, thể thao
và tuyển chọn thành lập đội cấp xã. Đạt xã văn hóa và an toàn trật tự,
có 9/10 ấp đạt ấp văn hóa và an toàn, không có tệ nạn xã hội, nhất là
ma túy và mại dâm. Giúp 90% hộ nghèo vượt lên trung bình và khá,
không để phát sinh hộ nghèo mới, không có tình trạng thất nghiệp.
- Tổ chức củng cố các tổ an ninh nhân dân với quy mô vừa (dưới
30 hộ/tổ) và không còn tổ yếu kém. Xây dựng lực lượng dân quân
đạt 3% dân số và đảm bảo chất lượng 30% là đoàn viên, 2% là đảng
viên; đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hằng năm. Tổ chức
tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho nhân dân bằng nhiều hình
thức, không để tồn đọng và vi phạm pháp luật trong giải quyết các
tranh chấp, khiếu nại.
- Xây dựng Đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh với tỷ lệ phát
triển đảng viên năm sau bằng 10% của tổng số đảng viên năm trước;
các ấp và trường học đều có chi bộ, phân loại cuối năm đều đạt vững
mạnh. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đều đạt vững mạnh toàn
diện, tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ chức đạt 75%. Hoạt động của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã đảm bảo đúng quy chế và
đạt vững mạnh, hoạt động của Ủy ban nhân dân và các ngành thuộc
Nhà nước đạt vững mạnh.
Đại hội cũng nhất trí về các giải pháp hoàn thành nhiệm vụ
như sau:
346

35.7 Page 347

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
- Tiếp tục phát triển sản xuất nông lâm nghiệp theo quy hoạch và
định hướng chung. Thực hiện đạt yêu cầu đề án xây dựng nông thôn
mới, kinh tế nông nghiệp đô thị, vận động và hướng dẫn nhân dân
phát triển cây trồng, vật nuôi hiệu quả.
- Diện tích gieo trồng từng vụ, từng năm trên từng loại cây trồng
hằng năm đều đạt diện tích và năng suất. Nhanh chóng đưa diện tích
đất trong đê Ông Kèo đi vào sản xuất, không còn tình trạng bỏ đất
hoang. Tiếp tục duy trì khu vườn cây ăn trái ven sông và ven đê đạt
từ 20-30 hecta theo hướng du lịch sinh thái vườn, phấn đấu hằng
năm đều tăng từ 10-20 hecta đối với loại hình sản xuất này. Với các
vùng đất không quy hoạch xây dựng khu dân cư và công nghiệp,
khuyến khích người dân trồng cây lâu năm. Duy trì diện tích rừng
hiện có, nhanh chóng vận động nhân đầu tư trồng cây gây rừng ở
các vùng trồng rừng trước đây. Năm 2015 phấn đấu trồng tập trung
và phân tán trong toàn xã có tỷ lệ từ 5-10% tổng diện tích, trong đó
trồng xen cây gỗ lớn ở những khu vực không sản xuất nông nghiệp
được và ở những nơi công cộng. Ngoài các dự án được phê duyệt,
với diện tích đất nông nghiệp còn lại xã sẽ liên hệ với các ngành chức
năng của huyện tổ chức khảo sát, quy hoạch lại theo định hướng phát
triển chung trong vùng kinh tế, từ đó lãnh đạo vận động nhân dân
đầu tư phát triển theo quy hoạch phù hợp với xu thế phát triển trước
mắt cũng như lâu dài. Bố trí cây trồng vật nuôi kết hợp với bố trí dân
cư, nâng cấp mở rộng giao thông nông thôn gắn với giao thông đồng
ruộng để phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Từng thời điểm, xã
sẽ liên hệ với huyện mở các lớp tập huấn hoặc tổ chức đi thực tế để
tham quan học hỏi những kinh nghiệm trong sản xuất, không ngừng
347

35.8 Page 348

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
áp dụng các giải pháp khoa học - kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản
xuất. Chú ý đến thị hiếu và nhu cầu tiêu thụ của thị trường để đưa cây
trồng phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao, dần dần tiến đến phát triển
vùng chuyên canh như: cây ăn trái, kết hợp du lịch sinh thái, vùng
nguyên liệu điều, mía đường, mì, vùng cây công nghiệp, vùng trồng
rau xanh sạch, vùng trồng rừng tập trung...
- Tiếp tục phát triển chăn nuôi gia súc và đại gia súc, tận dụng
diện tích mặt nước và đất phù hợp để không ngừng đẩy mạnh nuôi
thủy sản có giá trị kinh tế cao, từ đó dần trở thành ngành sản xuất
chính phục vụ trong nước và xuất khẩu. Sau khi bố trí lại đất sản xuất
đối với khu vực ngoài đê, vùng còn ảnh hưởng mặn, khuyến khích
nhân dân đầu tư để nuôi tôm, cá tự nhiên đến bán công nghiệp ở diện
rộng hơn, quản lý tốt việc khai thác nguồn thủy sản, xử lý nghiêm
các hình thức dùng thuốc, hóa chất, xung điện và các hình thức nguy
hại khác để đánh bắt.
Đặc biệt chú ý đến nghề chăn nuôi heo truyền thống của người
dân địa phương, phấn đấu đàn heo đạt từ 20.000-25.000 con, trong
đó có từ 5.000-6.000 con nái sinh sản, tập trung thành vùng chuyên
chăn nuôi heo. Vận động từng hộ tùy điều kiện phát triển đại gia súc,
chú ý đến trâu, bò sinh sản và lấy sữa. Nuôi thí điểm và phát triển
một số vật nuôi khác phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu của xã.
Những hộ có điều kiện phát triển cần đầu tư vốn để nâng cấp chuồng
trại và kết hợp sử dụng hầm biogas, không để ô nhiễm môi trường.
Những hộ chăn nuôi quy mô lớn phải bố trí ở vùng xa dân cư theo
quy định của huyện. Tiêm phòng, kiểm tra định kỳ và cải tạo giống
là khâu cần đặc biệt quan tâm, vận động nhân dân không sử dụng con
348

35.9 Page 349

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
giống từ nơi khác đến mà không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Kịp thời phát
hiện và có xử lý thích đáng khi có hiện tượng bệnh xảy ra, không để
trở thành dịch và lây lan trên diện rộng.
- Về sản xuất tiểu thủ công nghiệp, những hộ sản xuất, gia công
các mặt hàng dân dụng và thực phẩm tiêu dùng như: bánh, kẹo, bún,
mì... thì vận động đầu tư nâng cao, cải tiến quy trình công nghệ sản
xuất với quy mô nhỏ và vừa, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,
nâng cao chất lượng hàng hóa để tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
Vận động hộ sản xuất gia đình có điều kiện tham gia đầu tư vào khu
tiểu thủ công nghiệp của huyện. Kêu gọi đầu tư trên địa bàn xã để
giải quyết lao động chưa có việc làm.
- Khai thác tiềm năng về vốn và sức đóng góp của người dân để
nâng cấp các đường giao thông trong ấp, liên ấp, xây dựng các đề án
trải nhựa hoặc trải sỏi, đá ở những đường chính của ấp, tiến đến năm
2015 các đường chính trong ấp đều được nhựa hóa, bê tông. Song
song đó, giải quyết tốt hệ thống mương thoát nước cặp hương lộ 19
để giải quyết nước thải sinh hoạt và chống ngập úng vào mùa mưa.
Các đường chính trong ấp đều có hệ thống mương hoặc đặt hệ thống
cống ngầm để dẫn thoát nước mùa mưa và nước bẩn.
- Tính toán nhu cầu trước mắt và lâu dài để đề nghị huyện xây
dựng các trường học đảm bảo nhu cầu cho các cấp lớp: mẫu giáo,
tiểu học, trung học cơ sở, dần dần xin thanh lý các cơ sở xuống cấp
để tập trung xây dựng các trường học theo cụm ấp và kiên cố hóa
khang trang dần các cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy. Phấn đấu
trẻ em trong độ tuổi phải được đến trường ở các cấp học, thực hiện
phổ cập cấp III bằng nhiều hình thức cho số thanh thiếu niên không
349

35.10 Page 350

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
có điều kiện đến lớp phổ thông. Phát huy hiệu quả của Trung tâm
học tập cộng đồng xã và điểm thông tin khoa học công nghệ để phục
vụ công tác giáo dục và tiếp cận thông tin của nhân dân. Thường
xuyên cùng hội khuyến học của xã, ấp làm tốt nhiệm vụ khuyến học,
khuyến tài.
Vận động nhân dân thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa gia đình,
phấn đấu hằng năm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên không quá 1%. Tiếp
tục đề nghị xây dựng trụ sở làm việc của các ấp còn lại, một số công
trình văn hóa, thể thao, thư viện để phục vụ giải trí, vui chơi trong
nhân dân và thanh thiếu niên. Xây dựng mỗi ấp một trạm thông tin,
các ấp đều có người phụ trách lĩnh vực văn hóa là phó ban chủ nhiệm
của ấp văn hóa. Nhân các ngày lễ, tết tổ chức các buổi giao lưu và
biểu diễn văn nghệ, thể thao ở các ấp, tiến đến cấp xã để chọn ra
những tài năng, hình thành đội văn nghệ, thể thao không chuyên của
xã để phục vụ nhu cầu của người dân; tổ chức các đội bóng chuyền,
bóng đá trong thanh niên; vận động người dân, nhất là người cao tuổi
thực hiện thể dục buổi sáng, hình thành câu lạc bộ dưỡng sinh để rèn
luyện thân thể. Mỗi ấp từ quỹ đất công chọn ra nơi vui chơi cho ấp,
tổ chức 1-2 sân bóng đá cấp xã. Năm 2012 phấn đấu xây dựng thư
viện xã.
- Rà soát lại các hộ thuộc diện hộ nghèo để có hướng giúp đỡ vượt
nghèo. Phấn đấu đến năm 2015 chỉ còn 1-2% hộ nghèo theo chuẩn
mới. Hằng năm vận động nhân dân giúp đỡ các hộ khó khăn về nhà
ở. Tạo điều kiện giúp đỡ thanh niên, nhất là thanh niện thuộc diện
hộ nghèo có việc làm ổn định tại các công ty, xí nghiệp để góp phần
tăng thu nhập, nâng cao mức sống gia đình, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
- Về an ninh quốc phòng, tăng cường công tác nắm hộ, nắm người,
quản lý chặt chẽ các đối tượng trên địa bàn, phát huy vai trò tích cực
của quần chúng trong bảo vệ an ninh Tổ quốc. Rà soát và tổ chức,
củng cố lại các tổ nhân dân, đội dân phòng hoạt động hiệu quả. Định
kỳ 6 tháng tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến, góp ý phê bình về
chất lượng hoạt động của ngành Công an từ xã đến ấp nhằm không
ngừng kiện toàn đội ngũ, làm nòng cốt cho việc xây dựng ấp, xã an
toàn, trật tự. Thường xuyên kiện toàn và xây dựng lực lượng dân
quân theo Luật Dân quân tự vệ, phấn đấu xây dựng chất lượng ngày
càng tốt hơn; tổ chức huấn luyện hằng năm cho lực lượng dân quân
và quân dự bị đạt yêu cầu, giáo dục kiến thức quốc phòng cho cán
bộ chủ chốt và nhân dân theo điều kiện, xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững chắc.
- Tăng cường cải tiến, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tổ
chức, chỉ đạo điều hành của Ban Chấp hành Đảng bộ, thực hiện
nhiệm vụ theo quy chế đề ra. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ và các nguyên tắc khác của Đảng. Tăng cường kiểm tra,
giám sát và sâu sát cơ sở, coi trọng việc xây dựng, triển khai thực
hiện công việc theo kế hoạch, có chương trình công tác thực hiện
Nghị quyết của Đại hội Đảng trên tất cả các mặt, tuy nhiên trong
từng năm có chương trình kế hoạch trọng tâm với những mục tiêu,
chỉ tiêu về tập trung lãnh đạo nhằm đạt kết quả cao mục tiêu đề ra.
Thường xuyên nâng cao chất lượng và nội dung sinh hoạt Đảng
từ chi bộ đến cấp ủy, thực hiện tự phê bình và phê bình để không
351

36.2 Page 352

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
ngừng rèn luyện và giúp đỡ lẫn nhau trong công tác, sinh hoạt, lối
sống hằng ngày để mỗi đảng viên, cán bộ là tấm gương sáng cho
quần chúng nhân dân noi theo. Tập trung phát hiện và giới thiệu
nguồn phát triển Đảng, giúp đỡ các đối tượng trung kiên phấn đấu
trở thành đảng viên. Hằng năm đều có đánh giá cán bộ, đảng viên
nhất là cán bộ trẻ, đảng viên giữ các chức vụ chủ chốt để có hướng
quy hoạch, đào tạo. Tăng cường công tác quản lý đảng viên và thẩm
tra, xác minh về các mối quan hệ của đảng viên để phục vụ cho công
tác bảo vệ chính trị nội bộ được tốt hơn. Đảm bảo công tác kiểm tra,
giám sát của cấp ủy theo chức năng, nhiệm vụ của Điều lệ Đảng và
Ủy ban kiểm tra các cấp hướng dẫn, kịp thời làm rõ các dư luận hoặc
biểu hiện sai phạm của đảng viên để có hướng xử lý đúng đắn. Bổ
sung quy chế hoạt động của Đảng ủy, chi bộ và mối quan hệ đối với
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể để
không ngừng củng cố, tăng cường sự đoàn kết trong hệ thống chính
trị, đồng thuận trong xã hội.
- Về thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, trong nhiệm kỳ sẽ tổ chức cho cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân tiếp tục nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh theo điều kiện cụ thể của từng đơn vị; thường xuyên tổ
chức các chuyên mục trên Đài truyền thanh cũng như tuyên truyền
rộng rãi; kịp thời biểu dương các gương làm theo trong tổ chức cũng
như ngoài xã hội, hằng năm có sơ kết, tổng kết nhân rộng các điển
hình tiên tiến và đề nghị cấp trên khen thưởng. Tiếp tục thực hiện các
mô hình học tập, làm theo Bác đã và đang có tác dụng tốt.
352

36.3 Page 353

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Tại Đại hội, các đại biểu đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm
9 đồng chí1, Ban Thường vụ 3 đồng chí, Ủy ban kiểm tra 3 đồng
chí. Đồng chí Huỳnh Minh Phương tiếp tục được tín nhiệm, tái đắc
cử chức vụ Bí thư Đảng ủy. Đồng chí Phạm Quốc Hợp là Phó Bí
thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đồng chí Nguyễn Văn Hồng
là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã. Ngày 1.8.2013, đồng chí
Huỳnh Minh Phương nghỉ hưu, đồng chí Nguyễn Văn Lo, Ủy viên
BanThường vụ Huyện ủy, được cử về nhận nhiệm vụ Bí thư Đảng
ủy xã Vĩnh Thanh.
Đại hội Đảng bộ xã Vĩnh Thanh lần thứ III nhiệm kỳ 2015-2020
diễn ra trong hai ngày 5 và 6.6.2015. Trong 5 năm qua, quá trình
lãnh đạo thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa
II nhiệm kỳ 2010-2015 tuy gặp nhiều khó khăn như: thời tiết không
thuận lợi, dịch bệnh phát sinh trên cây trồng, vật nuôi; giá cả tiêu
dùng, vật tư tăng cao làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội
và đời sống của một bộ phận nhân dân tại địa phương. Tuy nhiên, với
sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng và chính quyền, sự đoàn kết
quyết tâm của nhân dân địa phương đã tận dụng tốt mọi nguồn lực
cùng nhau nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn, đạt nhiều kết quả
quan trọng trong các lĩnh vực.
Trong phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế 5 năm qua có sự chuyển
dịch tích cực, đúng định hướng và đạt mục tiêu đề ra. Công nghiệp
1  9 đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015: Huỳnh
Minh Phương, Phạm Quốc Hợp, Nguyễn Văn Hồ, Phan Tùng Quân, Võ Thị
Trang Dung, Đoàn Hữu Danh, Thái Bá Tùng, Trịnh Thanh Phong, Nguyễn
Đại Trí.
353

36.4 Page 354

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
và tiểu thủ công nghiệp từ đạt 17% vào năm 2010 đã tăng lên 25%
vào năm 2014; thương mại - dịch vụ tăng từ 28% lên 35%, nông
nghiệp từ 55% giảm xuống còn 40%. Thu nhập bình quân đầu người
từ 12,6 triệu đồng/người/ năm vào năm 2010 đã tăng lên đến 30,7
triệu đồng/người/năm vào năm 2014, tăng 2,43 lần. Chương trình
xây dựng nông thôn mới đã đạt 14/19 tiêu chí, đạt 46/49 tiêu chí
thành phần.
Tình hình sản xuất nông nghiệp được duy trì, phát triển ổn định và
có chuyển biến tích cực. Tổng diện tích gieo trồng thực hiện là 8.970
hecta, đạt tỷ lệ 100%. Đây là năm đầu tiên Vĩnh Thanh hoàn thành
mục tiêu đưa toàn bộ diện tích vào sản xuất, không để đất hoang hóa,
nguyên nhân chủ yếu là đã đưa diện tích đất nhiễm phèn nặng không
sản xuất được chuyển đổi sang trồng tràm bông vàng, đước và trồng
thơm, thanh long; trong đó đất trồng tràm và đước là 118 hecta, tăng
48 hecta so với đầu nhiệm kỳ.
Cây lúa được xem là cây chủ lực có năng suất bình quân đạt từ 7-8
tấn/hecta. Cây mía đạt từ 40-50 tấn/hecta, tuy vẫn còn thấp so với
một số địa phương khác (bình quân đạt 60 tấn/hecta) nhưng kể từ lúc
địa phương đưa cây mía vào trồng thử nghiệm 7 hecta vào năm 1994
đến nay đã chứng tỏ cây trồng này có thể phát triển tốt ở Vĩnh Thanh.
Năng suất cây mì đạt 35-40 tấn/hecta, cao hơn so với các địa phương
lân cận (bình quân 20 tấn/hecta). Đó là vì nông dân Vĩnh Thanh đã
thay đổi giống mì cũ bằng giống mì mới có năng suất và hàm lượng
tinh bột cao. Diện tích rau màu cũng được duy trì hằng năm là 28
hecta, năng suất bình quân đạt 20 tấn/hecta, đảm bảo nguồn cung
cấp rau củ quả tại địa phương. Trong quá trình sản xuất, người dân
354

36.5 Page 355

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đã từng bước cơ giới hóa nhờ kết hợp với ngân hàng hỗ trợ cho vay
vốn ưu đãi mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất nông nghiệp góp
phần tăng năng suất lao động. Ngoài ra, nông dân Vĩnh Thanh còn
được các ngành chức năng hỗ trợ tổ chức thí điểm mô hình chuyển
đổi cơ cấu cây trồng từ diện tích trồng lúa kém hiệu quả, đất hoang
hóa sang trồng thơm (dứa), thanh long đem lại hiệu quả kinh tế cao
hơn. Đã có 59 lớp tập huấn, hội thảo khoa học kỹ thuật được tổ chức
cho nông dân Vĩnh Thanh, như: hội thảo về áp dụng kỹ thuật trồng,
chăm sóc mía, phòng trừ sâu bệnh trên cây mía; thí điểm trình diễn
các mô hình trồng lúa năng suất cao; kỹ thuật trồng rau an toàn; tập
huấn về chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm...
Ở lĩnh vực chăn nuôi, do thời gian qua giá cả thị trường gia súc,
gia cầm không ổn định, cộng với tình hình dịch bệnh diễn ra ở nhiều
nơi nên địa phương không khuyến khích người dân Vĩnh Thanh tái
đàn, dẫn đến tổng đàn gia súc, gia cầm giảm 41,2% so với đầu nhiệm
kỳ, năm 2013 còn duy trì được tổng đàn khoảng 23.500 con nhưng
đến cuối năm 2014 chỉ đạt khoảng 14.000 con. Tuy nhiên, nhờ công
tác phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được thực hiện kịp
thời và hiệu quả, duy trì thường xuyên về tiêm phòng dịch bệnh đạt
100% nên Vĩnh Thanh không xảy ra dịch bệnh lây lan trên địa bàn.
Diện tích nuôi trồng thủy sản tại địa phương có 70 hộ dân vẫn duy trì
121 hecta nuôi quảng canh và nuôi bán thiên nhiên, nhưng do năng
suất tăng, không xảy ra dịch bệnh nên hiệu quả kinh tế cao. Đây cũng
là một trong những thế mạnh của xã. Ngoài ra, ở địa phương có 14
hộ dân thí điểm nuôi chim yến, một số hộ khác nuôi thí điểm cá sấu,
nai, nhím.
355

36.6 Page 356

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Với lĩnh vực thương mại, dịch vụ, từ năm 2010 trở đi đều định
hình và có bước phát triển nhất định. Năm 2010 toàn xã có 196 hộ
kinh doanh, đến cuối năm 2014 tăng thêm 168 hộ, lên tổng số 364
hộ. Xã có 4 chợ nông thôn, trong đó có một chợ trung tâm là chợ Hòa
Bình, đảm bảo được nhu cầu kinh doanh, buôn bán trao đổi hàng
hóa. Từ năm 2012 trên địa bàn hình thành khu du lịch sinh thái đầu
tiên ở khu vực Ông Kèo, không chỉ thu hút du khách, tạo nguồn thu
mà còn giải quyết việc làm cho người dân địa phương. Các dịch vụ:
cho thuê nhà trọ, xe đưa rước công nhân, học sinh... cũng hình thành
và phát triển theo từng năm, góp phần đưa kinh tế và diện mạo địa
phương ngày càng đi lên. Về phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã,
có tổ hợp tác trồng rau và câu lạc bộ trồng lúa năng suất cao duy trì
và phát triển khá tốt, tạo được thu nhập ổn định, riêng hai hợp tác
xã do hoạt động không ổn định và làm ăn không hiệu quả nên đã tự
giải thể.
Mảng tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển, toàn xã có 32 cơ sở
tập trung vào các ngành nghề gia công: may mặc, giày dép, nhôm,
sắt, mộc... phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống, giải quyết việc
làm cho 165 lao động tại chỗ. Trên địa bàn xã cũng hình thành một
cụm tiểu thủ công nghiệp, đã đi vào hoạt động tạo điều kiện cho
người dân địa phương có việc làm, thu nhập ổn định.
Trong 5 năm qua, thu ngân sách địa phương hằng năm đều đạt
và vượt chỉ tiêu của huyện giao với tổng thu ngân sách gần 53,8 tỷ
đồng. Đạt kết quả này là do xã đã tập trung khai thác tốt tất cả các
nguồn thu. Những nguồn thu do nhân dân đóng góp cũng đều đạt
và vượt kế hoạch đề ra, như Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ Vì người
356

36.7 Page 357

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
nghèo, Quỹ Quốc phòng an ninh, thu xã hội hóa giao thông. Tổng
chi ngân sách đạt 28,9 tỷ đồng, tất cả các khoản chi đều thực hiện
đúng Luật ngân sách Nhà nước, đảm bảo nhu cầu thực hiện nhiệm
vụ chính trị ở cơ sở.
Về huy động nguồn lực phát triển kinh tế địa phương, trong nhiệm
kỳ qua với nhiều hình thức huy động vốn từ ngân sách, doanh nghiệp,
nhất là tuyên truyền vận động xã hội hóa trong nhân dân, người dân
hưởng ứng không chỉ đóng góp tiền mà còn có ngày công, hiến đất
để làm các công trình cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, trường học),
địa phương đã huy động được trên 58,8 tỷ đồng làm đường giao
thông nông thôn, hơn 46,5 tỷ đồng xây dựng cơ sở vật chất trường
lớp ở các trường trung học cơ sở, tiểu học, mẫu giáo. Trong đó, các
công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng mới gồm; đầu tư 30
tuyến đường với chiều dài gần 15,8km; đầu tư đường điện trung thế,
hạ thế vào khu vực nuôi trồng thủy sản ấp Chính Nghĩa với chiều dài
1,2km; đầu tư hạ thế vào các điểm trồng thanh long của người dân...
Để hỗ trợ người dân phát triển kinh tế - xã hội, các đơn vị tín
dụng, ngân hàng phối hợp địa phương tổ chức cho 3.301 lượt hộ vay
số tiền gần 82 tỷ đồng, qua kiểm tra đánh giá các hộ vay vốn đều sử
dụng đúng mục đích là phát triển kinh tế, chăn nuôi và sản xuất.
Xã cũng triển khai thực hiện và quản lý đúng Quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2020 và quy hoạch đề án thực hiện nông thôn mới của
xã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai phê duyệt tại Quyết định số
2755/QĐ-UBND ngày 3.9.2013, trên cơ sở quy hoạch được duyệt
Ủy ban nhân dân đã công khai đến nhân dân trên địa bàn. Xã đã giới
thiệu đầu tư 24 dự án với diện tích trên 1.884 hecta, gồm: một dự án
357

36.8 Page 358

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
công nghiệp, 22 dự án đầu tư hạ tầng, khu công nghiệp, giao thông,
giáo dục; một dự án dịch vụ, trong đó có 13 dự án với gần 97 hecta
được tổ chức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (đã có 37 hộ tái định
cư), trong đó dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành đoạn qua địa bàn
xã có diện tích 48,5 hecta, thu hồi đất của 363 hộ (đã tái định cư cho
27 hộ); còn 10 dự án với diện tích 937,3 hecta, thu hồi đất của 2.153
hộ sẽ thực hiện tiếp trong thời gian tới. Công tác cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đạt 100% đối với số thửa đủ điều kiện cấp
lần đầu; cấp đổi 7.751/9.095 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo bản đồ mới, đạt tỷ lệ 85,22%; tổ chức cho người dân đăng ký
gia hạn đất trên 3.000 giấy.
Thời gian qua, địa phương luôn hướng dẫn, vận động người dân
có nhu cầu xây dựng nhà ở lập thủ tục xin cấp phép xây dựng trước
khi khởi công, nên đảm bảo 100% trường hợp các hộ đủ điều kiện đã
lập thủ tục xin cấp phép xây dựng đúng quy định, không để xảy ra
tình trạng xây dựng không phép. Với các trường hợp vi phạm trong
lĩnh vực xây dựng, địa phương kịp thời phát hiện, kiểm tra lập biên
bản đình chỉ và xử phạt vi phạm hành chính, phạt bổ sung theo đúng
quy định, đồng thời thường xuyên theo dõi việc chấp hành xử lý vi
phạm của các hộ xây dựng không phép, sai phép. Các hoạt động xây
dựng trong lĩnh vực tôn giáo cũng được địa phương phối hợp với
Phòng Quản lý đô thị, Phòng Nội vụ huyện thường xuyên kiểm tra,
hướng dẫn kịp thời.
Công tác quản lý về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản cũng được thực hiện tốt, góp phần bảo vệ và hạn chế tác
động xấu đối với môi trường. Năm 2010 địa phương đã vận động
358

36.9 Page 359

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
1.248 hộ đăng ký thu gom rác thải, đạt tỷ lệ 29,44%, đến giữa năm
2015 số hộ đăng ký thu gom rác và cam kết tự hủy rác thải là 4.985
hộ, đạt tỷ lệ 95,44%. Hằng năm địa phương đều xây dựng kế hoạch
điều tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong lĩnh vực môi trường cũng như
tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, đồng
thời thành lập tổ tự quản về môi trường với 12 thành viên, hoạt động
tích cực và có hiệu quả.
Về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, tỷ lệ huy
động trẻ em ra lớp mẫu giáo, tiểu học hằng năm đều đạt 100%; tỷ
lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt trên
99%, trung học phổ thông đạt trên 80%, tỷ lệ học sinh thi đậu vào
các trường cao đẳng, đại học đạt 50%. Vĩnh Thanh giữ vững danh
hiệu xã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở. Toàn xã có hai trường đạt
chuẩn quốc gia. Tập đoàn AJU (Hàn Quốc) thông qua đầu mối là Sở
Ngoại vụ và Ủy ban nhân dân huyện đã tài trợ xây dựng một phòng
thư viện, nhà vệ sinh của Trường Tiểu học Vĩnh Thanh 1 và tường
rào Trường Mẫu giáo Vĩnh Thanh, hỗ trợ trang thiết bị phục vụ công
tác giảng dạy với tổng kinh phí 400 triệu đồng. Trong nhiệm kỳ qua
có 50 học sinh đạt danh hiệu Học sinh giỏi cấp tỉnh, 451 học sinh
giỏi cấp huyện. Tỷ lệ học sinh bỏ học hằng năm đều giảm (năm 2010
có 27 học sinh bỏ học, chiếm tỷ lệ 2,2%; năm 2014 có 8 học sinh bỏ
học, chiếm tỷ lệ 0,66%); tỷ lệ học sinh lưu ban dưới 0,5%, chủ yếu
là học sinh trung học sơ sở.
Hội Khuyến học được quan tâm củng cố và duy trì hoạt động
thường xuyên, làm tốt nhiệm vụ vận động chăm lo khuyến học như:
359

36.10 Page 360

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
vận động mạnh thường quân hỗ trợ 51 xe đạp, tập vở, đồng phục học
sinh, 423 suất học bổng cho học sinh nghèo vượt khó với tổng số
tiền gần 640 triệu đồng. Trung tâm học tập cộng đồng phát huy chức
năng, tổ chức được 138 lớp học chuyên đề về kiến thức pháp luật,
chuyển giao khoa học kỹ thuật nông nghiệp; mở 7 lớp đào tạo nghề
lao động nông thôn (nấu ăn, trồng nấm, Anh văn, Tin học, kỹ thuật
điện) cho 155 học viên.
Trong lĩnh vực văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao, đã phục vụ
kịp thời các nhiệm vụ chính trị của địa phương, chào mừng kỷ niệm
các ngày lễ lớn, sự kiện trọng đại của đất nước như: tổ chức các hoạt
động văn hóa văn nghệ, thể thao, hội thi, các buổi chiếu phim dịp
sinh hoạt hè tại các trường học, tổ chức thi đấu thể thao, giao lưu văn
nghệ trong thanh thiếu niên và quần chúng nhân dân, phối hợp tổ
chức Đại hội Thể dục thể thao xã lần thứ V; hai câu lạc bộ Đờn ca tài
tử ở hai ấp Thanh Minh, Chính Nghĩa duy trì hoạt động tốt, thường
xuyên tổ chức hoạt động giao lưu biểu diễn trong và ngoài tỉnh.
Trong phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, số
hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa hằng năm đạt từ 98-99%, 10/10 ấp giữ
vững danh hiệu ấp văn hóa, đạt 100%.
Các mặt hoạt động chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng
được quan tâm, thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, chương
trình tiêm chủng mở rộng, hằng năm đều đạt kết quả cao trên 99%.
Trong 5 năm qua đã khám và điều trị cho 58.606 lượt người, tỷ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng giảm mạnh, từ 12% vào năm 2010 xuống
còn 7,67% vào năm 2014. Thời gian qua trong xã xảy ra 12 ca bệnh
sốt xuất huyết, một ca bệnh viêm não mô cầu, 31 ca bệnh tay chân
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
miệng, đều được kịp thời phát hiện và điều trị khỏi, đồng thời Trạm
Y tế xã cũng tổ chức phối hợp phun xịt khử trùng khu vực xảy ra
bệnh, không để lây lan hay bùng thành dịch. Xã duy trì giữ vững đạt
chuẩn quốc gia về y tế.
Với một xã 85% dân số theo đạo Công giáo, có thói quen sinh con
tự nhiên, không áp dụng các biện pháp phòng tránh thai như Vĩnh
Thanh, nhiều năm qua tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức cao, năm
2010 còn ở mức 1,33%. Nhưng với sự nỗ lực, quyết liệt trong công
tác chỉ đạo cũng như sự nhiệt tình của các ngành, các cấp, đến năm
2014 tỷ lệ tăng dân số đã giảm xuống dưới 1%, lần đầu tiên hoàn
thành chỉ tiêu. Trong đó, không thể không nhắc đến công sức, tâm
huyết, nhiệt tình của đội ngũ cộng tác viên dân số đã kiên trì vận
động tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình suốt nhiều năm liền, điển
hình như chị Nguyễn Thị Lan ở ấp Chính Nghĩa. Hơn 10 năm làm
công tác dân số, biết bao lần chị đến từng nhà trong ấp để vận động
các gia đình thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại, không sinh
con thứ ba, nhất là với những gia đình nghèo có từ hai con trở lên.
Chị đã vận động được trên 80% cặp vợ chồng trong ấp sử dụng các
biện pháp tránh thai hiện đại để không sinh con thứ ba.
Những năm qua với sự nỗ lực của Đảng bộ, cán bộ và nhân dân
trong xã, chính sách Đền ơn đáp nghĩa và phong trào Uống nước
nhớ nguồn chăm lo, thăm hỏi cho 55 đối tượng là thương binh, gia
đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng luôn được quan tâm thực
hiện đúng, đủ, kịp thời. Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của xã được nhân dân
đóng góp 50 triệu đồng, đạt 100% chỉ tiêu; đã chi 20 triệu đồng sửa
chữa một ngôi nhà tình nghĩa của gia đình liệt sĩ. Năm 2014, xã có
361

37.2 Page 362

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
thêm một Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đó là mẹ Nguyễn Thị Kiều1,
được truy tặng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hằng năm xã Vĩnh Thanh đều được cấp trên công nhận đạt danh hiệu
xã làm tốt công tác chính sách, người có công với cách mạng.
Chương trình xóa đói giảm nghèo cũng thực hiện hiệu quả. Từ
nguồn vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội và các hình thức hỗ
trợ nhau phát triển kinh tế khác của các đoàn thể, đã có 408 lượt hộ
nghèo và cận nghèo vay 1,3 tỷ đồng để chăn nuôi, kinh doanh, sản
xuất. Quỹ Trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm (CEP) cho 1.432
hộ vay trên 34 tỷ đồng để phát triển sản xuất, kinh doanh hộ gia đình.
Trong 5 năm Quỹ Vì người nghèo đã vận động được 1,2 tỷ đồng, xây
dựng 18 căn nhà tình thương trị giá 540 triệu đồng cho hộ nghèo gặp
khó khăn về nhà ở; giới thiệu cho 4.800 trường hợp vào làm tại các
xí nghiệp, công ty trong và ngoài huyện. Ngoài ra, Ngân hàng Chính
sách xã hội cũng cho sinh viên vay tín dụng học tập trên 7 tỷ đồng,
cho 84 hộ vay 672 triệu đồng để cải tạo vệ sinh, sử dụng nước sạch.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm hằng năm là 30%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra
(năm 2010 có 107 hộ nghèo, cuối năm 2014 giảm còn 34 hộ nghèo,
tỷ lệ 0,71% tổng số dân trong xã).
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã
cơ bản được giữ vững, ổn định và có chuyển biến tích cực ở nhiều
mặt. Do chủ động triển khai các kế hoạch, giải pháp đảm bảo nên
trong suốt nhiệm kỳ địa phương không xảy ra điểm nóng. Ban Chỉ
huy quân sự xã đã phân công duy trì chế độ trực sẵn sàng chiến đấu
1  Mẹ của hai liệt sĩ Trần Hoài Lâm, Trần Văn Bảy.
362

37.3 Page 363

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
đảm bảo tại cơ quan, đơn vị, phối hợp cùng lực lượng Công an xã
tuần tra sau 23 giờ hằng ngày, nhất là vào các dịp lễ, tết, ngày cao
điểm. Có 6/10 ấp đội trưởng là đảng viên. Công tác tuyển quân vẫn
đảm bảo đạt 100% chỉ tiêu như các nhiệm kỳ trước, đây là nét truyền
thống của xã Vĩnh Thanh từ trước đến nay. Trong nhiệm kỳ đã xử lý
140 vụ phạm pháp hình sự với 183 đối tượng, bắt giữ 29 trường hợp
sử dụng trái phép chất ma túy, đã xử lý theo quy định.
Có một điểm đáng lưu ý, đó là các đường giao thông trong ấp, liên
ấp, hương lộ được sửa chữa, đầu tư xây dựng tốt thì tình trạng tai nạn
giao thông lại tăng, từ năm 2010 đến năm 2013 đã xảy ra 115 vụ tai
nạn giao thông trong đó có 8 vụ làm chết 11 người, tăng so với nhiệm
kỳ trước. Không thể để tình hình tai nạn giao thông kéo dài, Đảng ủy
và các cơ quan, đơn vị liên quan đã họp bàn tìm giải pháp, qua phân
tích cho thấy tình trạng thanh, thiếu niên chạy xe chở ba, lạng lách,
đánh võng, phóng nhanh vượt ẩu rất phổ biến. Trước hết, lãnh đạo
xã lập ra một tổ phụ trách về giao thông gồm Công an và dân quân,
thường xuyên tuần tra trên các tuyến đường của xã. Nếu gặp các đối
tượng vi phạm như phóng nhanh, vượt ẩu; lạng lách, đánh võng; chở
quá số người quy định; đặc biệt là đi xe không đèn vào buổi tối...
thì đều mời về Ủy ban nhân dân xã làm việc. Tại đây, các đối tượng
phải viết cam kết không vi phạm và bị xử phạt hành chính theo quy
định. Với những đối tượng vi phạm là thanh, thiếu niên dưới 18 tuổi
thì mời phụ huynh đến làm việc. Mục đích chính của địa phương khi
áp dụng biện pháp này chủ yếu là để răn đe, giáo dục kịp thời nhằm
kéo giảm tai nạn giao thông; bảo vệ tính mạng của người dân. Bên
cạnh đó, Ủy ban nhân dân xã còn lập lại trật tự ở các chợ ven đường
363

37.4 Page 364

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
lộ, không để xảy ra tình trạng lấn chiếm để buôn bán làm hẹp lòng
đường. Điển hình như chợ Hòa Bình, tổ giao thông cho sơn vạch
cách mép đường 2m, quy định không được mua bán ngoài khu vực
vạch sơn. Hàng ngày, tổ giao thông thường xuyên giám sát nên đa số
bà con tiểu thương đều nghiêm chỉnh chấp hành. Nhờ vậy mà hai bên
đường lộ được thông thoáng, giao thông thuận tiện hơn. Chính nhờ
sự quyết liệt như trên của Đảng ủy và chính quyền xã, từ năm 2014
trở đi số vụ tai nạn giao thông trên địa bàn giảm đi rõ rệt, nhưng quan
trọng hơn là ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân khi
lưu thông trên đường cũng được nâng cao.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại được thực hiện đúng quy
định, trình tự. Tổng số đơn tiếp nhận là 160 đơn (giảm 20 đơn so với
nhiệm kỳ trước), tỷ lệ giải quyết đơn đạt 97%, trong đó tỷ lệ hòa giải
thành công là 113 đơn, đạt tỷ lệ 70,62%. Đạt kết quả trên là do địa
phương tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến
người dân, Hội đồng hòa giải xã tích cực chủ động trong công tác
hòa giải, giảm đáng kể số đơn chuyển lên cấp trên.
Về công tác xây dựng Đảng, từ sau Đại hội Đảng bộ xã lần thứ
II nhiệm kỳ 2010-2015, cấp ủy và các chi bộ trực thuộc luôn chú
trọng công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh,
nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ
ngày càng trong sạch vững mạnh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ
chức. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, học tập nâng cao việc
quán triệt về Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua
đó cán bộ, đảng viên càng nâng cao nhận thức chính trị, giáo dục rèn
luyện đạo đức cách mạng. Việc quán triệt học tập được thực hiện
364

37.5 Page 365

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
nghiêm túc, có trên 99% đảng viên và 90% cán bộ ngoài Đảng, ban ấp
tham gia.
Thực hiện đề án Đảng lãnh đạo công tác khoa giáo, Đảng ủy đã
thành lập tổ biên tập để phục vụ sinh hoạt của các tổ nhân dân; hằng
tháng, quý xây dựng tờ tin với chất lượng ngày càng đổi mới, góp
phần tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước cũng như những vấn đề người dân cần biết đến với quần
chúng nhân dân một cách kịp thời, đồng thời nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của người dân để Đảng ủy có lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, giải
quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03 CT/TW ngày 14.5.2011 của Bộ Chính
trị, sau khi được triển khai trong toàn Đảng bộ và nhân dân đã trở
thành sinh hoạt chính trị thường xuyên, sâu rộng, có sức lan tỏa, tác
động tích cực đến mọi mặt đời sống xã hội, tổ chức được những mô
hình thiết thực, phù hợp, gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Từ mô hình viết nhật ký “Mỗi ngày làm một việc tốt cho dân” trước
đây, Đảng bộ xã Vĩnh Thanh đã nâng lên thành mô hình “Mỗi ngày
làm nhiều việc tốt cho dân”, đồng thời duy trì việc kể chuyện những
gương người tốt, việc tốt trong đời thường ở địa phương vào sáng
thứ hai hàng tuần sau lễ chào cờ tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Việc
kể chuyện này được phát thanh trực tiếp trên hệ thống loa truyền
thanh, qua đó kịp thời tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình
trong cuộc sống cũng như động viên, khích lệ người dân học và làm
theo gương Bác.
365

37.6 Page 366

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
Là xã có đông đồng bào theo đạo Công giáo, Vĩnh Thanh có sáng
kiến trang bị “Tủ sách Bác Hồ” tại các cơ sở tôn giáo, tạo điều kiện
cho nhân dân đến đọc, tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp cách mạng
của Bác Hồ. Năm 2010, xã trang bị tủ sách Bác Hồ ở giáo xứ Bắc
Minh và Đại Điền để người dân khi đi lễ tại nhà thờ có thể đọc và
nghiên cứu, sau đó triển khai ở các giáo xứ còn lại. Khi Đảng ủy xã
đề xuất đặt tủ sách Bác Hồ ở nhà thờ, lập tức nhận được sự hưởng
ứng rất tích cực từ các linh mục. Ngay tại phòng khách của Giáo xứ
Đại Điền, linh mục Nguyễn Văn Nhân Chánh xứ Giáo xứ Đại Điền
tặng chiếc tủ được đóng bằng gỗ quý để làm tủ sách Bác Hồ do Đảng
ủy xã trao tặng, đồng thời mua thêm nhiều loại sách khác với hơn
một ngàn đầu sách để phục vụ nhu cầu đọc cho nhân dân. Phòng
khách này không bao giờ đóng cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân có thể đến đây đọc sách bất cứ lúc nào. Vào tháng 3 là mùa tĩnh
tâm của đồng bào Công giáo, linh mục Nguyễn Văn Nhân đã giảng
chuyên đề về tình yêu thương của Bác Hồ đối với nhân dân và những
lời dạy của Bác về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư... cho các
chức sắc tôn giáo và giáo dân của giáo xứ. Linh mục Nhân nói, mục
đích của việc giảng dạy những nội dung này nhằm hướng đến cho
các tín hữu tinh thần chí công vô tư trên các lĩnh vực. Tại giáo xứ có
rất nhiều loại quỹ, nếu không chí công vô tư như lời dạy của Bác Hồ
thì sẽ thành “chiếm công vô tư”. Học và làm theo gương Bác, một số
giáo dân của giáo xứ Đại Điền đã duy trì việc cung cấp bữa ăn miễn
phí với khoảng 30-50 suất ăn/ngày cho bệnh nhân nghèo ở Bệnh
viện đa khoa huyện Nhơn Trạch vào các ngày thứ hai, tư, sáu hằng
tuần. Đồng bào Công giáo ở đây còn có mô hình quản lý giáo dục
con em trong gia đình không tiêm nhiễm các thói hư, tật xấu, không
366

37.7 Page 367

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
vi phạm pháp luật, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Ấp Đại Thắng có mô hình ấp văn hóa
tiết kiệm điện, được toàn thể người dân trong ấp hưởng ứng. Linh
mục Nguyễn Huệ, Chánh xứ giáo xứ Nghĩa Yên cũng vận động đồng
bào Công giáo trong ấp Vĩnh Cửu đóng góp thành lập quỹ khuyến
học, duy trì thường xuyên có 12 suất học bổng (1,5 triệu đồng/suất)
để hỗ trợ cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học. Đã có nhiều sinh
viên tốt nghiệp đại học nhờ tinh thần học và làm theo gương Bác ở
ấp Vĩnh Cửu.
Nhiều mô hình tập thể, cá nhân học và làm theo gương Bác đã
được tuyên dương, khen thưởng ở cấp xã, huyện, tỉnh. Tại Đại hội
Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cụm miền Đông Nam Bộ lần
thứ X - 2001, anh Hồ Thành Hiệp, hội viên thanh niên ấp Chính
Nghĩa đã được vinh danh là hội viên tiêu biểu trong phong trào thanh
niên làm kinh tế giỏi, có thành tích xuất sắc trong sản xuất - kinh
doanh, xây dựng nông thôn mới. Theo anh Hiệp, việc học tập và
làm theo lời Bác thực sự không khó, mỗi lĩnh vực đều có cách học
tập vận dụng sáng tạo riêng. Với anh, việc chí thú làm ăn, đầu tư
mở rộng quy mô trang trại, ổn định cuộc sống gia đình và tạo việc
làm cho nhiều thanh niên địa phương là cách học và làm theo gương
Bác. Tại hội nghị tổng kết 4 năm Cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cấp tỉnh, đoàn viên Đỗ Thị Mộng
Trinh thuộc Đoàn xã Vĩnh Thanh đã xuất sắc vào chung kết và đoạt
giải cuộc thi Kể chuyện về học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh cấp tỉnh. Ở cấp huyện, tấm gương điển hình trong việc
học Bác của thanh niên Nguyễn Hoàng Anh ở xã Vĩnh Thanh mặc dù
367

37.8 Page 368

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
bị liệt hai chân vẫn vươn lên trong cuộc sống đã được tuyên dương.
Hoàng Anh không những làm giàu cho bản thân, gia đình mà còn tạo
việc làm cho nhiều lao động khác trong xã từ lò sản xuất bún của
anh. Tại Hà Nội, hội nghị biểu dương các điển hình tiên tiến toàn
quốc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban
chỉ đạo Trung ương Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh tổ chức năm 2012, Bí thư xã Vĩnh Thanh
Huỳnh Minh Phương đã được vinh danh.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về “Một số vấn
đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay”, Đảng bộ xã đã tổ chức thực
hiện kiểm điểm một cách nghiêm túc và đúng theo tinh thần Nghị
quyết đề ra. Qua kiểm điểm, tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ thấy
được những ưu điểm để phát huy, góp phần ngăn chặn và từng bước
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tạo sự
chuyển biến trong công tác cán bộ và nâng cao vai trò, trách nhiệm,
tính tự giác, gương mẫu của người đứng đầu, củng cố niềm tin của
nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng. Các vấn đề bức xúc với tập thể,
cá nhân đều được đưa ra phân tích, góp ý, giải trình làm rõ. Từng
cá nhân cấp ủy và cán bộ, đảng viên đã nêu cao tính tự giác trong tự
phê bình và phê bình, nhận khuyết điểm và quyết tâm khắc phục, sửa
chữa. Đến nay Ban Chấp hành Đảng bộ đã cơ bản khắc phục xong
những hạn chế, khuyết điểm, giải quyết cơ bản những vấn đề hạn chế
phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Công tác tổ chức, bồi dưỡng có chuyển biến tích cực, hệ thống
chính trị của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
xã được sắp xếp, kiện toàn, đi vào hoạt động có hiệu quả; công tác
368

37.9 Page 369

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
bố trí cán bộ đảm bảo đúng quy trình, phát huy tính dân chủ và năng
lực từng cán bộ. Công tác đánh giá cán bộ hằng năm thực hiện tốt,
đánh giá sát và đúng thực chất năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức.
Công tác quy hoạch thực hiện đúng quy định, đảm bảo về số lượng
và chất lượng; trên cơ sở quy hoạch, công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ đã góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị.
Kết quả trong nhiệm kỳ đã cử 34 cán bộ tham gia học tập bồi dưỡng
nghiệp vụ xây dựng Đảng và chính quyền, các lớp trung cấp lý luận
chính trị, kinh tế, kinh tế - luật, luật, thương binh - xã hội. Bên cạnh
đó, Đảng ủy đã tạo điều kiện cho 85 đồng chí tham gia học các lớp
sơ cấp lý luận chính trị, lớp bồi dưỡng đảng viên mới, bồi dưỡng
trung kiên.
Hằng năm, Đảng bộ xã đều xây dựng kế hoạch phát triển đảng
viên, đề ra chỉ tiêu cụ thể và tổ chức thực hiện. Trong 5 năm đã phát
triển mới 61 đảng viên, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ lên 150
(nam: 96, nữ: 54, chính thức: 135, dự bị: 15, miễn công tác: 3, đảng
viên Công giáo: 53); tỷ lệ kết nạp Đảng hằng năm đạt từ 8-10%, đảm
bảo đúng quy trình và chất lượng. Tổng số chi bộ trực thuộc là 17,
trong đó 7 chi bộ có chi ủy. 100% chi bộ có nguồn trung kiên. Công
tác đánh giá chất lượng hằng năm đều đạt, có từ 10-15% đảng viên
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 80% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm
vụ, 90% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Hằng năm Đảng bộ được
công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ và đạt trong sạch vững mạnh.
Trong công tác kiểm tra giám sát, Đảng ủy chú trọng đổi mới
nội dung, phương pháp; thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra
và giám sát có trọng tâm, trọng điểm, sát với tình hình của các chi
369

37.10 Page 370

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
bộ; đề cao nguyên tắc tự kiểm tra, giám sát của các chi bộ; phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan đơn vị, ngành để phục vụ tốt công tác kiểm
tra, giám sát. Hằng năm Đảng ủy đề ra chương trình công tác và kế
hoạch kiểm tra, giám sát theo từng thời điểm, từ đó đã kịp thời nhắc
nhở, uốn nắn những sai phạm của đảng viên. Trong nhiệm kỳ đã tổ
chức kiểm tra, giám sát 42 cuộc, tăng 20 cuộc so với nhiệm kỳ trước.
Trong số đảng viên vi phạm, có 5 đảng viên phải thi hành kỷ luật,
gồm hai trường hợp cảnh cáo và ba trường hợp khiển trách.
Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng được Đảng
ủy quan tâm, nâng cao chất lượng, đảm bảo tính toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực. Ngày từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ xã đã xây dựng quy
chế làm việc và thực hiện theo quy chế đề ra; chủ động xây dựng
chương trình làm việc toàn khóa, hằng năm, quý, tháng để điều hành
các hoạt động của Đảng bộ, giữ vững mối quan hệ làm việc giữa
Đảng ủy với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và
Mặt trận Tổ quốc xã; lãnh đạo, chỉ đạo điều hành có trọng tâm, trọng
điểm, sơ tổng kết kịp thời việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng. Các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
của Đảng bộ luôn tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, các vấn đề
có liên quan đến địa phương đều được tập thể cấp ủy bàn bạc, thảo
luận và quyết định theo đa số, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện hiệu
quả nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đảng bộ cũng thường xuyên
kiểm tra đảng viên, cấp ủy viên về chấp hành Điều lệ Đảng và tổ
chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; thực hiện nghiêm
chế độ báo cáo, thông tin kịp thời, chính xác để phục vụ lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp ủy.
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
Bên cạnh những thành quả đạt được, Đại hội cũng ghi nhận
những hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Sản xuất nông nghiệp tuy có
tăng trưởng nhưng chưa bền vững do nguồn đầu ra nông sản chưa ổn
định, giá vật tư đầu vào tăng cao; chưa có giải pháp khai thác tối ưu
tiềm năng của đất đai, một số khu vực đất bị nhiễm phèn nặng được
trồng tràm, đước chưa cho hiệu quả kinh tế cao. Trong phát triển
chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, việc đưa giống mới vào sản xuất
còn hạn chế do người dân chưa mạnh dạn chuyển đổi.
Hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn tuy có chuyển biến nhưng
chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, những năm qua chưa có sự chú trọng
đúng mức đến vấn đề thoát nước ở các khu dân cư khi dân số tăng
nhanh nên vào mùa mưa đã xuất hiện tình trạng ngập úng cục bộ.
Một số dự án trên địa bàn triển khai chậm, dẫn đến tình trạng quy
hoạch treo; một số dự án đã triển khai thì công tác bồi thường thực
hiện chậm, gây khó khăn đến đời sống của người dân trong vùng dự
án. Công tác quản lý đất đai, quản lý quy hoạch, nhất là quản lý đất
công vẫn còn hạn chế, chưa bắt kịp phát triển của xã hội nên vẫn còn
xảy ra tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích. Tình trạng xây
nhà ở trên đất nông nghiệp, đất đã được quy hoạch vẫn còn xảy ra do
nhu cầu về nhà ở của người dân cao, việc xử lý vi phạm hành chính
chưa đủ sức ngăn chặn. Công tác cấp mới, cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chưa đạt yêu cầu, dẫn đến còn tồn đọng nhiều.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới dù hằng
năm được quan tâm tổ chức thực hiện và quán triệt đến toàn bộ hệ
thống chính trị từ xã đến ấp, nhưng sự phối hợp trong quá trình triển
khai thực hiện đôi lúc còn chưa đồng bộ nên việc phát huy sức mạnh
371

38.2 Page 372

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
tổng hợp để thực hiện chương trình vẫn còn chậm; một số tiêu chí
về: trường học, trung tâm văn hóa, nhà văn hóa các ấp... vẫn còn gặp
nhiều khó khăn về nguồn vốn để thực thi các công trình theo quy
định. Về vệ sinh môi trường, công tác quản lý các cơ sở giết mổ gia
súc gia cầm còn bất cập, chưa xử lý tốt nguồn nước thải nên còn diễn
ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Các hộ gia đình chăn nuôi nhỏ lẻ
trong khu dân cư vẫn còn, gây ô nhiễm môi trường, chưa khắc phục
triệt để. Các tổ hợp tác kinh tế tuy hoạt động hiệu quả, nhưng khâu
liên kết bao tiêu sản phẩm đầu ra chưa ổn định, còn bấp bênh; địa
phương cũng chưa có kế hoạch, giải pháp hỗ trợ các hợp tác xã trong
thời gian, dẫn đến có hai hợp tác xã hoạt động không hiệu quả, phải
giải thể. Tình hình hoạt động của tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội
như: cố ý gây thương tích, giết người, cờ bạc, số đề, mua bán và sử
dụng trái phép chất ma túy... vẫn còn xảy ra; công tác quản lý nhân
hộ khẩu chưa chặt chẽ, còn gặp nhiều khó khăn do địa bàn rộng trong
khi lực lượng công an còn mỏng. Công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật tuy có chú trọng nhưng hiệu quả chưa cao, các
ngành đôi lúc còn xem nhẹ công tác tuyên truyền văn bản Luật thuộc
chuyên môn của mình quản lý.
Trong công tác xây dựng Đảng, một vài chi bộ chưa thực hiện
kiểm tra, giám sát kịp thời, một số đảng viên chưa nêu cao tinh thần
trách nhiệm trong việc học tập chỉ thị, nghị quyết của Đảng; tinh thần
phê bình và tự phê bình ở một số đảng viên trẻ chưa cao do ngại đụng
chạm; vẫn còn một số đảng viên vi phạm, phải xử lý kỷ luật. Ở một
số chi bộ do Bí thư làm công tác kiêm nhiệm nên sự lãnh đạo chưa
sâu sát, nội dung và chất lượng sinh hoạt còn dàn trải. Hoạt động sinh
372

38.3 Page 373

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
hoạt, tuyên truyền của một số đoàn thể, nhất là các chi, tổ hội ở ấp
chưa cao, chủ yếu do việc lồng ghép nội dung sinh hoạt chưa phong
phú, chưa chủ động, còn ỷ lại vào chỉ đạo của cấp trên; số lượng đoàn
viên, hội viên tuy đông nhưng chất lượng chưa đồng đều.
Đại hội đánh giá, trong nhiệm kỳ qua quá trình tổ chức thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ II (2010-2015), thực hiện
Đề án xây dựng nông thôn mới trên địa bàn và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ V đã đạt được những thành tựu
rất quan trọng, kết quả toàn diện theo Nghị quyết Đảng bộ xã đề ra.
Việc phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương phát triển theo đúng
cơ cấu sản xuất nông nghiệp, thực hiện đạt chỉ tiêu so với kế hoạch,
tăng so với cùng kỳ về năng suất và sản lượng. Tình hình sâu bệnh
trên cây trồng, vật nuôi có xuất hiện nhưng không gây tác hại nhiều
do được tích cực phòng ngừa. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo và giữ vững. Các tổ hợp tác kinh tế mang
lại hiệu quả, phục vụ cho việc phát triển kinh tế tại địa phương.
Lĩnh vực thương mại - dịch vụ phát triển tốt, đúng hướng, mang lại
thu nhập cho người dân. Công tác thu chi ngân sách hằng năm đạt
và vượt chỉ tiêu đề ra. Công tác xây dựng cơ bản được tăng cường
kiểm tra. Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới thực
hiện đúng tiến độ, đạt 14/19 tiêu chí lớn với 45/54 tiêu chí thành
phần. Đời sống nhân dân trong xã được cải thiện và nâng cao chất
lượng sống.
Nguyên nhân đạt được những kết quả trên là do Ban Chấp hành
Đảng bộ xã đã quán triệt và vận dụng có hiệu quả các nghị quyết,
Chỉ thị của Đảng vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
373

38.4 Page 374

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
chính trị của Đảng bộ xã kịp thời. Tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ
luôn giữ mối đoàn kết nhất trí cao, có nỗ lực đổi mới phương thức
lãnh đạo, cải tiến lề lối làm việc, thực hiện đúng quy chế, đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ, luôn quan tâm sâu sát, giữ mối liên hệ
gần gũi, gắn bó với quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh
của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân; tập trung
được mọi nguồn lực của địa phương cùng với sự hỗ trợ của cấp trên
và sự đồng thuận của nhân dân trong mọi tổ chức hoạt động, từ đó
đã đạt thành quả cao trong thực hiện Nghị quyết Đảng bộ xã khóa II.
Bài học kinh nghiệm cũng được rút ra trong tổ chức hoạt động,
đó là trước hết phải tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân, tạo sự chuyển biến hơn nữa trong
nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, sự phát triển bền vững
của địa phương, từ đó đánh giá đúng khả năng, tiềm năng, lợi thế so
sánh và xu thế phát triển của địa phương, tạo nên động lực và sức
mạnh đột phá trong phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa - xã
hội, qua đó giải quyết tốt các vấn đề bức xúc trong đời sống nhân
dân. Bên cạnh đó, Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
từ xã đến ấp phải nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện Nghị quyết
của Đảng thông qua việc phải xây dựng được kế hoạch thực hiện các
nghị quyết một cách cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa
phương; nội dung các kế hoạch phải thiết thực, có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung vào những lĩnh vực, vấn đề then chốt và đề ra giải
374

38.5 Page 375

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
pháp, biện pháp thực hiện một cách khả thi, tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện với quyết tâm cao nhất. Thường xuyên củng cố, nâng
cao năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng bộ, tăng cường sự đoàn kết
thống nhất trong cấp ủy, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung
dân chủ, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của
Đảng bộ từ xã đến ấp; chú trọng vai trò quản lý điều hành, tổ chức
thực hiện của chính quyền, vai trò vận động, giáo dục, thuyết phục
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội, từ đó phát huy
sức mạnh quần chúng nhân dân, tạo sự đồng thuận nhất trí về chính
trị từ trong Đảng đến nhân dân trong thực hiện Nghị quyết Đảng và
nhiệm vụ của nhà nước. Tăng cường, củng cố, kiện toàn, đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị từ xã đến ấp, gắn với việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng lực lượng nòng cốt trong
các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Mặt trận từ xã đến ấp; tập trung
chỉ đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện đúng phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với những vấn
đề kinh tế - xã hội có liên quan đến lợi ích thiết thực của quần chúng
nhân dân.
Một số chỉ tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2015-2020 được Đại hội
nhất trí như sau:
- Duy trì diện tích đất trồng lúa 1.250 hecta (trong đó vụ đông
xuân 350 hecta, vụ mùa 600 hecta, hè thu 300 hecta), đất trồng hoa
màu 28 hecta, đất trồng mì 350 hecta, mía 60 hecta và nuôi thủy sản
121 hecta. Duy trì đàn gia súc, gia cầm 14.000 con (trong đó heo thịt
8.000 con, heo nái 1.000 con, trâu bò 700 con, gia cầm 4.300 con).
375

38.6 Page 376

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
- Thu ngân sách Nhà nước hằng năm đạt và vượt chỉ tiêu huyện
giao. Thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2020 là 58 triệu
đồng. Phấn đấu trong nghiệm kỳ đạt danh hiệu xã nông thôn mới.
- Duy trì hoạt động của Tổ hợp tác kinh tế, phấn đấu thành lập 1-2
tổ hợp tác chăn nuôi, trồng thanh long. Thu gom và xử lý tự hủy rác
thải sinh hoạt đạt 97% trên tổng số dân.
- Duy trì tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%. Giữ vững công tác
xóa mù chữ, phổ cập giáo dục ở các bậc học. Đảm bảo tỷ lệ trẻ trong
độ tuổi được tiêm chủng đạt 100%, trạm y tế xã có bác sĩ phục vụ
thường xuyên theo quy định. Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cân nặng
theo độ tuổi 7%, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng chiều cao theo độ tuổi 15%.
Giữ vững danh hiệu 10/10 ấp văn hóa, đăng ký gia đình văn hóa
hằng năm đạt 100%, xét cuối năm hộ gia đình văn hóa đạt trên 99%.
Giải quyết việc làm hằng năm cho 100-150 lao động. Phấn đấu giảm
hộ nghèo đạt dưới 1% theo chuẩn nghèo mới của tỉnh. Duy trì tốt
công tác chi trả, trợ cấp cho gia đình chính sách, gia đình có công với
cách mạng, người già cả neo đơn. Duy trì xã làm tốt công tác chính
sách, thương binh xã hội. Phấn đấu tỷ lệ hộ dùng điện trong dân đạt
100%, hộ dùng nước hợp vệ sinh đạt 100%.
- Hằng năm hoàn thành chỉ tiêu giao quân, trong đó có từ 1-2 đảng
viên tình nguyện nhập ngũ. Thực hiện tốt công tác huấn luyện và xây
dựng lực lượng dân quân, dự bị động viên, xây dựng cơ quan đơn vị
xã vững mạnh toàn diện. Phấn đấu giảm tỷ lệ tội phạm, giảm tai nạn
giao thông; giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo đạt trên 98%.
- Phấn đấu tỷ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 7-8% trở lên so với
tổng số đảng viên; 100% chi bộ trực thuộc có nguồn trung kiên ổn
376

38.7 Page 377

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
định, phát triển được đảng viên mới. Đảm bảo tỷ lệ đảng viên tham
gia học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đạt 100%.
Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức đăng ký thực hiện nêu
gương đạt 100%. Phấn đấu hằng năm Đảng bộ xã được công nhận
trong sạch vững mạnh; 100% chi bộ phát triển được đảng viên, có
80% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, 80% chi bộ đạt trong sạch
vững mạnh. Cuối nhiệm kỳ Đảng bộ có 100% các chi bộ thành lập
được chi ủy, 100% chi bộ, đảng viên, cán bộ được bồi dưỡng về lý
luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ theo chuẩn nông thôn mới.
- Huy động mọi nguồn lực của địa phương đồng thời phối hợp với
các phòng ban của huyện để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công
trình theo tiêu chí nông thôn mới mà hiện vẫn còn 5 tiêu chí chưa
đạt, phân công trách nhiệm cho từng đồng chí cán bộ phụ trách theo
dõi thực hiện.
- Vận động nhân dân đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp như:
máy móc, thiết bị, áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật và công
nghệ, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư; hỗ trợ vốn ưu
đãi cho nhân dân phát triển sản xuất. Khảo sát các vùng trồng trọt,
chăn nuôi chưa hiệu quả để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của địa phương nhằm
đảm bảo tính ổn định, hiệu quả và lâu dài. Hằng năm có kế hoạch
phòng chống các loại dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và tổ chức
tiêm phòng vắc xin định kỳ trên đàn gia súc, gia cầm. Đẩy mạnh
công tác khuyến nông, khuyến ngư. Phối hợp các ngân hàng xem xét
giải ngân nguồn vốn cho nhân dân, nhất là các nguồn vốn đầu tư cho
sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và kinh doanh.
377

38.8 Page 378

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
- Thường xuyên nạo vét hệ thống kênh mương, chủ động nguồn
nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tăng cường các biện
pháp quản lý, bảo vệ rừng; xây dựng kế hoạch và thực hiện tốt công
tác phòng chống cháy rừng, lụt bão, hạn hán. Tiếp tục xây dựng kế
hoạch làm đường giao thông nông thôn giai đoạn 2015-2020, trong
đó chú trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xã
hội hóa các tuyến đường bê tông nông thôn.
- Tăng cường kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại các chợ, hộ
kinh doanh thực phẩm tươi sống; hướng dẫn các đơn vị, cá nhân làm
thủ tục đăng ký giấy phép kinh doanh; tăng cường công tác quản
lý, kiểm tra các cơ sở kinh doanh, hộ kinh doanh nhà trọ, nhà nghỉ
trên địa bàn; vận động nhân dân mở rộng quy mô sản xuất, tạo điều
kiện và khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống của địa
phương như làm cốm dẹp, bánh kẹo; vận động người dân phát triển
kinh tế trang trại, các điểm du lịch sinh thái vùng Ông Kèo.
- Tiếp tục thực hiện tốt các quy hoạch trên địa bàn, hằng năm
công khai quy hoạch và công bố cho người dân được biết đồng thời
quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật Đất đai. Làm tốt công tác
bồi thường, tái định cư cho nhân dân đảm bảo theo đúng quy định.
Phấn đấu hoàn thành việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho nhân dân. Tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân có nhu
cầu xây dựng lập thủ tục xin cấp phép xây dựng theo quy định, tăng
cường kiểm tra quản lý xây dựng nhà ở trong khu dân cư, kiên quyết
không để diễn ra tình trạng xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp
và đất đã quy hoạch, chú trọng hướng dẫn các cơ sở tôn giáo lập thủ
tục xây dựng, sửa chữa đúng quy định.
378

38.9 Page 379

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
- Tăng cường công tác tuyên truyền về giữ gìn vệ sinh môi trường,
khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, xử lý các điểm rác thải tự
phát, phát động tổng vệ sinh môi trường trong nhân dân vào các dịp
lễ tết, kiên quyết xử lý nghiêm các hộ vứt rác bừa bãi, đổ rác thải nơi
công cộng gây mất mỹ quan, ô nhiễm môi trường sống. Tiếp tục vận
động nhân dân đăng ký thu gom và cam kết tự hủy rác thải, duy trì
hoạt động của tổ tự quản môi trường xã. Tiếp tục quản lý chặt chẽ,
không để xảy ra tình trạng khai thác trái phép các nguồn tài nguyên,
xử lý nghiêm khi có vi phạm.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học,
phấn đấu huy động 85-90% trẻ trong độ tuổi vào mẫu giáo, 100% trẻ
đúng độ tuổi vào lớp một, có giải pháp hạn chế đến mức thấp nhất
tình trạng học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội
Khuyến học xã để hỗ trợ kịp thời các em học sinh nghèo vượt khó,
giáo viên có thành tích xuất sắc trong công tác giảng dạy. Nâng cao
hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng nhằm xây dựng xã hội
học tập, tăng cường mở các lớp đào tạo nghề lao động nông thông
người dân theo phương châm “cần gì học nấy”. Kiện toàn và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn 100%;
tăng cường xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất và đổi mới trang thiết
bị các trường học nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và
học. Duy trì công tác phổ cập giáo dục ở các bậc học đạt được. Phấn
đấu nâng cao tỷ lệ đảng viên trong 4 chi bộ trường học và thành lập
được chi ủy.
- Tăng cường đầu tư các thiết chế văn hóa nhằm đáp ứng nhu
cầu thư giãn, vui chơi giải trí, sinh hoạt văn hóa của nhân dân; chú
379

38.10 Page 380

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
trọng kiểm tra phòng chống tệ nạn xã hội qua hoạt động các loại hình
karaoke, bi da, cà phê. Nâng cao chất lượng cuộc vận động Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng hương ước, quy
ước ấp văn hóa, phát huy truyền thống tương thân tương ái giúp đỡ
lẫn nhau, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, thực hiện nếp sống mới
ở nông thôn, phấn đấu giữ vững danh hiệu ấp văn hóa, xây dựng ấp
an toàn, các cơ quan, đơn vị hằng năm đạt danh hiệu cơ quan có đời
sống văn hóa tốt, duy trì xã giữ vững địa bàn không có tệ nạn ma túy
mại dâm và tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh công tác truyền thông dân số
để hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, giữ vững
mức dưới 1%.
- Làm tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, đảm bảo thực
hiện các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng; thực hiện tốt
công tác vệ sinh phòng dịch; củng cố đội ngũ cán bộ y tế đủ số lượng,
nâng chất lượng cả chuyên môn và y đức, phấn đấu hằng năm giữ
vững trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; tăng cường đầu tư trang thiết bị
y tế, ứng dụng các tiến bộ y học hiện đại đồng thời kết hợp đông tây
y. Thực hiện tốt công tác vận động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra đối với các cơ sở y tế tư nhân.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa III nhiệm kỳ
2015-2020 gồm 9 đồng chí1, bầu Ban Thường vụ gồm 3 đồng chí.
Bí thư Đảng ủy xã Nguyễn Văn Lo tái đắc cử. Đồng chí Từ Thiên
Tú giữ nhiệm vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đồng
chí Thái Bá Tùng là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã.
1  9 đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ xã gồm: Nguyễn Văn Lo, Từ
Thiên Tú, Nguyễn Văn Hồ, Thái Bá Tùng, Đoàn Hữu Danh, Lê Văn Long,
Nguyễn Thị Hồng Thắm, Trần Minh Hùng, Trương Quốc Dũng.
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


CHƯƠNG VII
BÀI HỌC LỊCH SỬ
Từ lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Thanh trong 90 năm hình thành - phát
triển, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Vĩnh Thanh đúc kết 6 bài học kinh
nghiệm trong xây dựng Đảng, có thể vận dụng thực hiện cho các
nhiệm kỳ tiếp theo.
Một là, Đảng là hạt nhân cốt lõi trong đấu tranh cách mạng, lãnh
đạo toàn toàn dân, toàn diện, trực tiếp; huy động các nguồn lực tạo
sức mạnh tổng hợp giành lấy chính quyền, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi nguồn lực của Đảng
là ở dân, trong dân, do dân vì dân. Ban chấp hành Đảng ủy xã phải
luôn là tập thể vững mạnh, tiêu biểu cho đạo đức, văn minh, tiến bộ
trong lòng dân. Bài học này phổ quát trong xây dựng Đảng toàn hệ
thống chính trị cả nước; ở xã Vĩnh Thanh thể hiện rõ nét, cụ thể sinh
động, mọi đảng viên ở mọi thời kỳ đều phải nhận ra.
Hai là, xây dựng Đảng là xây dựng giá trị trong lòng dân, làm cho
dân hiểu, tin và làm theo. Trong kháng chiến, xã Vĩnh Thanh không
có hầm bí mật trong lòng đất, nhưng có Đảng trong lòng dân. Đảng
được dân tin yêu, nuôi dưỡng, chở che, bảo vệ nên không ngừng lớn
mạnh, nhiều lúc bị khủng bố gần như mất trắng, nhưng mất rồi lại
còn, yếu rồi lại mạnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác,
chiến thắng ngoại xâm trong kháng chiến, đạt nhiều thành quả trong
381

39.2 Page 382

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
xây dựng và phát triển. Những lúc khó khăn, chưa thành công đều
nhận ra nguyên nhân ở lòng dân chưa đồng thuận.
Ba là, xây dựng Đảng ở Vĩnh Thanh cũng dựa trên 3 trụ cột là
công tác tư tưởng, tổ chức, kiểm tra nhưng không nặng về lý luận
cách mạng mà chú trọng bằng việc nêu gương thông qua các tấm
gương hành động của đảng viên. Từ những buổi đầu xây dựng Đảng,
người Vĩnh Thanh ít chữ nghĩa, ít được tiếp cận sách vở lý luận cách
mạng quí hiếm, chủ yếu được nghe, hiểu và làm theo các đảng viên
tiên phong, gương mẫu cả trong nhận thức, hành động và lối sống.
Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, việc học tập và làm theo
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa quan trọng. Người
đảng viên có tu dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh hay không, tận tụy phục vụ Nhân dân hay không, có tự giác,
tiên phong, gương mẫu hay không đó là nhân tố quyết định về niềm
tin và sức dân với sự lãnh đạo Đảng.
Bốn là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong thế trận lòng
dân là bài học chung, nhưng ở Vĩnh Thanh có nét riêng, bắt đầu từ
lòng yêu nước chống ngoại xâm quyết hy sinh bảo vệ quê hương, từ
tầm vông vạt nhọn đến vũ khí thô sơ, cướp vũ khí địch đánh địch,
kết hợp tuyên truyền, vũ trang và binh vận. Lực lượng vũ trang do
dân nuôi quân, người dân đóng góp vật lực và nhân lực xây dựng
dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực, tiến công
trên các mặt trận quân sự, chính trị và địch vận. Lớp này hy sinh,
lớp khác tòng quân. Có lúc lực lượng vũ trang bị đánh bật ra khỏi
khu dân cư, người dân bị gom và các ấp chiến lược, quân dân bị chia
cắt nhưng từ lòng dân, sức dân, các đơn vị lực lượng vũ trang hồi
382

39.3 Page 383

▲back to top


ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH
sinh, không ngừng lớn mạnh, thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng
chiến. Trong hòa bình thống nhất, những ngày đầu xây dựng chính
quyền nhân dân, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn còn nhiều phức
tạp, các thế lực phá hoại vẫn còn, có lúc toàn xã thiếu đói, gặp nhiều
khó khăn tưởng không qua khỏi; nhưng nhờ dựa vào lòng dân, sức
dân, các đơn vị lực lượng vũ trang còn mỏng manh về thực lực vẫn
đủ sức mạnh để bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn. Lực lượng vũ
trang nhân dân càng lớn mạnh càng phải dựa vào dân, gắn kết với
các phong trào thi đua yêu nước của dân, nhất là phong trào toàn dân
tham qua bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Năm là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã
Vĩnh Thanh kết nối các đoàn thể chính trị xã hội và các tổ chức nhân
dân thành một khối bền chặt, lấy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
và truyền thống đoàn kết làm hạt nhân cơ bản, phát huy được sức
mạnh đặc trưng của các tầng lớp nhân dân, các giới, các độ tuổi, các
lĩnh vực ngành nghề, các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo. Trong đó,
chú trọng công tác vận động đồng bào có đạo ở các xứ đạo. Trong
kháng chiến, Vĩnh Thanh đã làm tốt công tác “tôn giáo vận” nên đã
có nhiều giáo dân tham gia cách mạng, có người chịu đói khát băng
rừng đến với cách mạng. Trong xây dựng và phát triển, Đảng bộ và
chính quyền xã Vĩnh Thanh khéo vận động, phối hợp các chức sắc
tôn giáo tổ chức huy động nhân lực và vật lực trong dân, chung sức
chung lòng thực hiện nhiều công trình hạ tầng và nhiều phong trào
xã hội góp phần làm giàu đẹp quê hương. Theo đó, việc xây dựng
Đảng, chính quyền, khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện nhiệm
383

39.4 Page 384

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930 - 2020)
vụ chính trị ở Vĩnh Thanh bớt khó, tăng dần thành quả. Đây là bài
học lớn, có ý nghĩa không chỉ ở Vĩnh Thanh, còn có thể vận dụng ở
những nhiều nơi.
Sáu là, Đảng bộ xã luôn có tinh thần chủ động, đổi mới tư duy,
nắm bắt thời cơ, phát huy lợi thế của địa phương, huy động các
nguồn lực để thực hiện các công trình dự án lớn làm chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của dân. Các công trình lớn đã và đang thực hiện ở Vĩnh Thanh đang
vận dụng hiệu quả bài học kinh nghiệm này.
384

39.5 Page 385

▲back to top


LÃNH ĐẠO CÁC KHÓA
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
XÃ VĨNH THANH
KHÓA I, NHIỆM KỲ 2005-2010
Stt
Họ và tên
1 Đoàn Hữu Danh
2 Võ Thị Trang Dung
3 Đỗ Thành Đông
4 Nguyễn Văn Hồng
5 Phạm Quốc Hợp
6 Lương Hữu Ích
7 Huỳnh Minh Phương
8 Nguyễn Văn Thông
9 Bùi Tất Toản
Năm
sinh
1963
1970
1958
1958
1961
1965
1953
1957
1958
Quê quán
X. Phú Đông
X. Vĩnh Thanh
H. Bến Cát, T. Bình Dương
X. Vĩnh Thanh
X. Đại Phước
X. Phú Đông
H. Long Thành
X. Vĩnh Thanh
T. Thái Bình
KHÓA II, NHIỆM KỲ 2010-2015
Stt
Họ và tên
Năm
sinh
Quê quán
1 Huỳnh Minh Phương 1953 H. Long Thành
2 Phạm Quốc Hợp 1961 X. Đại Phước
Chức vụ
Bí thư Đảng ủy
Chủ tịch UBND
385

39.6 Page 386

▲back to top


3 Nguyễn Văn Hồ
1969 X. Vĩnh Thanh Thường trực Đảng ủy
4 Phan Tùng Quân 1971 T. Đồng Nai Trưởng Công an
5 Võ Thị Trang Dung 1970 X. Vĩnh Thanh Phó Chủ tịch UBND
6 Đoàn Hữu Danh
1963 X. Phú Đông Phó Chủ tịch UBND
7 Thái Bá Tùng
1981 T. Nghệ An Chủ tịch UBMTTQ
8 Trịnh Thanh Phong 1976 T. Vĩnh Phúc Cán bộ một cửa
9 Nguyễn Đại Trí
1977 T. Đồng Nai Phó Chủ nhiệm UBKT
KHÓA III, NHIỆM KỲ 2015-2020
Stt
Họ và tên
Năm
sinh
Quê quán
Chức vụ
1 Nguyễn Văn Lo
1965 X. Vĩnh Thanh Bí thư Đảng ủy
2 Từ Thiên Tú
1977 X. Long Tân Q. Chủ tịch UBND
3 Nguyễn Văn Hồ
1969 X. Vĩnh Thanh
Thường trực
Đảng ủy
4 Thái Bá Tùng
1981 T. Nghệ An Chủ tịch UBMTTQ
5 Đoàn Hữu Danh
1963 X. Phú Đông
Phó Chủ tịch
UBND
6 Lê Văn Long
1960 X. Vĩnh Thanh
Phó Chủ nhiệm
UBKT
7 Nguyễn Thị Hồng Thắm 1981 X. Vĩnh Thanh Công chức Tư pháp
8 Trần Minh Hùng
1967
X. An Hòa,
Tp. Biên Hòa
Trưởng Công an
9 Trương Quốc Dũng
1986 X. Vĩnh Thanh
Chỉ huy trưởng
Ban CHQS
386

39.7 Page 387

▲back to top


KHÓA IV, NHIỆM KỲ 2020-2025
Stt
Họ và tên
Năm
sinh
Quê quán
Chức vụ
1
Trần Hoàng Sự 1982 X. Phước An Bí thư Đảng ủy
2
Huỳnh Thế Vinh
1973
X. Hòa Long,
T. BR-VT
Phó Bí thư,
Chủ tịch UBND
3
Nguyễn Văn Hồ
1969
X. Vĩnh Thanh
TT Đảng ủy,
Chủ nhiệm UBKT
4 Nguyễn Thị Minh Thi 1988 X.vĩnh Thanh
Phó Chủ tịch
HĐND
5 Nguyễn Giang Thanh 1978 X. Vĩnh Thanh
6 Đoàn Hữu Danh 1963 X. Phú Đông
7
Trần Hải Nhân 1984 X. Vĩnh Thanh
Phó Chủ tịch
UBND
Chủ tịch
UBMTTQ
Phó Chủ tịch
UBND
8 Huỳnh Quý Thảo 1984 X. Vĩnh Thanh
9 Nguyễn Thị Hồng Thắm 1981 X. Vĩnh Thanh
Phó Chủ nhiệm
UBKT
Chủ tịch
Hội LHPN
10
Lê Hữu Thanh
1980 T. Thanh Hóa Trưởng Công an
11
Nguyễn Khắc Phong
1986 X. Vĩnh Thanh
Chỉ huy trưởng
Ban CHQS
387

39.8 Page 388

▲back to top


Bà mẹ Việt Nam anh hùng1
Nguyễn Thị Đặng
(1904 - 1997)
Mẹ Nguyễn Thị Đặng sinh năm 1904 ở
ấp Ông Kèo xã Vĩnh Thanh (Nhơn Trạch).
Trong dáng dấp nhỏ bé của mẹ luôn ẩn
chứa sức sống mãnh liệt của một người mẹ
anh hùng, một cơ sở cách mạng kiên trung
suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ.
Thời chiến tranh, xã Vĩnh Thanh nghèo lắm, cực lắm nhưng
người dân Vĩnh Thanh luôn một lòng với cách mạng. Mẹ Đặng cũng
vậy, quanh năm chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai nuôi giấu cán bộ
để góp phần đánh Pháp, đánh Mỹ. Mẹ là hội viên Hội Mẹ chiến sĩ,
luôn đi đầu trong các phong trào vận động lo hũ gạo nuôi quân, xây
dựng tình đoàn kết giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Năm
1950, giặc Pháp đóng bót trong xã, gia đình mẹ cùng một số dân làng
không chịu làm nô dịch cho giặc nên kéo nhau ra rừng Sác bờ sông
Ông Kèo cất chòi ở tạm. Lúc ấy cuộc sống rất khó khăn, vừa phải
tránh né các cuộc ruồng bố của giặc, vừa phải kiếm sống bằng việc
làm củi, xúc tép, buôn bán nhỏ. Nhưng mẹ vẫn tìm mọi cách liên lạc
1  Danh sách quản lý của Sở LĐTBXH tỉnh Đồng Nai cung cấp năm 2018, kết
hợp tài liệu khảo sát tại các xã tháng 2 năm 2020.
388

39.9 Page 389

▲back to top


với “bộ đội Cụ Hồ” đóng góp nuôi quân, tham gia tích cực Hội Mẹ
chiến sĩ. Tên tuổi mẹ Đặng trở thành niềm tin yêu, thành ngọn lửa
ấm trong lòng các chiến sĩ vệ quốc.
Năm 1951, giặc Pháp tăng cường bố ráp thúc ép số dân “ly khai”
trở về làng. Khoảng 30 hộ phải nhổ chòi trở lại vòng kềm kẹp của
giặc. Chúng hăm dọa, khủng bố những gia đình này rất dữ. Những
người tình nghi trong số này thường bị gọi, bị bắt lên bót để hạch
hỏi, nhiều khi bị đánh đập khảo tra rất dã man. Gia đình mẹ bị “chiếu
cố” nhiều nhất. Nhưng nhờ khôn khéo, giỏi ứng xử mà không bị phát
hiện. Trong thời gian này, chồng mẹ - ông Nguyễn Văn Trụ, và con
trai độc nhất - Nguyễn Tấn Nghĩa thoát ly tham gia kháng chiến.
Ông Trụ công tác ở Ủy ban Kháng chiến hành chính xã Phước Lý,
vẫn bí mật cùng mẹ Đặng buôn bán nhỏ để đóng góp nuôi du kích xã.
Đến năm 1962, do lao khổ, nhọc nhằn, ông Trụ bệnh nặng, qua đời,
để lại cho mẹ gánh nặng gia đình và nhiệm vụ dở dang.
Anh Nghĩa ngay từ ngày đầu thoát ly tham gia tổ quân báo của
xã đội với nhiệm vụ bám địch, nắm tình hình, cung cấp tin tức cho
bộ đội tổ chức đánh giặc. Anh là người lanh lợi, gan dạ, trung thực
nên đồng đội rất tin cậy. Năm 1949, trong một lần công tác, anh
bị quân Pháp ở kho đạn Thành Tuy Hạ phát hiện, bắt giam ở bót
Catinat 6 tháng. Chúng tra tấn anh bằng đủ loại cực hình nhưng
không khai thác được điều gì, đành phải thả. Anh trở về với tấm thân
đầy thương tích, tay chân bị liệt. Mẹ Đặng chạy đôn chạy đáo lo
tiền, lo thang thuốc cho anh. Trong vòng tay yêu thương của mẹ, anh
Nghĩa dần dần bình phục, lại tiếp tục hoạt động. Mẹ Đặng rất thương
389

39.10 Page 390

▲back to top


con nhưng không hề ngăn cản mà luôn động viên, giúp đỡ con hoàn
thành nhiệm vụ.
Ít lâu sau, trên đường làm nhiệm vụ, anh bị địch phục kích, bắn
trọng thương. Giặc mang anh về kho đạn dùng cực hình khai thác,
không đạt mục đích, chúng giết anh rồi thủ tiêu mất xác. Nghe tin
con hy sinh, mẹ Đặng tưởng chừng không thể gượng sống được.
Núm ruột duy nhất của mẹ, niềm hy vọng của mẹ đã ra đi. Nỗi đau
không thể diễn tả được, không có gì bù đắp nổi. Nhưng rồi, mẹ cũng
vượt qua, vì mẹ nghĩ mẹ phải sống để làm tròn nhiệm vụ của người
mẹ chiến sĩ, còn nhiều đứa con chiến sĩ khác cần đến sự chăm sóc
của mẹ.
Sự hy sinh cao cả và tấm lòng đôn hậu, bình dị của mẹ Nguyễn
Thị Đặng quả xứng đáng với danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
mà Nhà nước phong tặng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994. Trước đó mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1985.
Mẹ qua đời ngày 24.7.1997.
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


Trần Thị Sang
(1916-1997)
Mẹ Trần Thị Sang sinh năm 1916, lúc
được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994, mẹ vẫn còn minh mẫn,
tỉnh táo.
Quê quán tại xã Vĩnh Thanh (huyện Nhơn
Trạch), mẹ Trần Thị Sang lấy chồng là ông Đỗ Văn Xuân và chuyển
về quê chồng (Mỹ Phước - Bến Cát - Sông Bé, nay thuộc tỉnh Bình
Dương) sinh sống. Mẹ Sang sinh được tám con: bốn trai, bốn gái.
Năm 1960, giữa lúc Ngô Đình Diệm tàn sát những người kháng
chiến, ông Đỗ Văn Xuân thoát ly gia đình tham gia cách mạng. Ông
trở thành cán bộ binh vận, hoạt động trong vùng địch kiểm soát.
Ông thường xuyên móc nối với một trưởng đồn ngụy, lấy đạn dược
và vũ khí của địch đem về cho cách mạng. Ngày 1.12.1962, sau khi
đánh đồn Cây Dền, ông rút về nhà nhưng không may bị địch phát
hiện. Chúng bắt và trói ông vào cột nhà, tra khảo đánh đập dã man
hòng lấy lời khai của ông. Mẹ Sang lúc đó đang bồng đứa con vừa
nửa tháng tuổi trên tay, mẹ đau đớn uất hận chứng kiến giặc tra tấn
hành hạ người chồng thân yêu. Rồi ông Xuân bị địch giết hại, mẹ
dồn hết niềm hy vọng vào các con đang tuổi khôn lớn. Nhưng rồi
chiến tranh ác nghiệt đã lần lượt chia lìa những người con yêu quý
của mẹ. Đỗ Văn Huỳnh, con trai trưởng của mẹ sinh năm 1940, tròn
20 tuổi anh được cha dìu dắt vào con đường cách mạng. Khi ông
Xuân ngã xuống, Huỳnh đang là đại đội trưởng đơn vị trinh sát của
Ban An ninh phân khu V. Ngày 10.5.1969, trên đường đi công tác
391

40.2 Page 392

▲back to top


tại xã Chánh Phú Hòa (Bến Cát - Sông Bé) anh bị lọt vào vòng vây
của địch. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra, người chiến sĩ trinh sát 29
tuổi đời đã ngã xuống, để lại cho mẹ Sang người vợ trẻ và hai đứa
con nhỏ dại.
Người con trai thứ hai của mẹ Sang là Đỗ Văn Đệ (tự An) sinh
năm 1943, thoát ly gia đình khi mới 16 tuổi (năm 1959). Đệ là y tá,
tiểu đội trưởng đơn vị C.300. Trong thời gian tại ngũ, anh về thăm
mẹ được vài lần rồi biệt tăm, không để lại chút hồi âm. Mãi sau ngày
giải phóng, gia đình mẹ Sang mới nhận được giấy báo tử của anh.
Em kế Đỗ Văn Đệ là Đỗ Văn Tự (còn gọi là Tâm) sinh trong năm
Cách mạng tháng Tám thành công (1945) cũng thoát ly gia đình lúc
mới 18 tuổi (1963). Anh là xã đội phó xã Mỹ Phước (Sông Bé). Ngày
10.10.1968, được thông báo đoàn xe của Mỹ ngụy sẽ càn từ Bến Cát
về sở cao su Ông Chính, Tự cùng đồng đội vạch kế hoạch đánh địch.
Cả đội mai phục chờ địch tại vườn cao su ấp 4 xã Mỹ Phước. Trong
cuộc đụng độ ác liệt này, Tự và đồng đội diệt một xe bọc thép chở
đầy lính Mỹ, nhưng anh cũng trúng đạn và anh dũng hy sinh. Ngoài
ba người con trai đã ngã xuống, mẹ Sang còn có người con gái út Đỗ
Thị Vốn cũng tham gia cách mạng, bị địch bắt giam đến sau ngày
giải phóng mới được thả về.
Đất nước hòa bình, mẹ trở về ấp Chính Nghĩa, xã Vĩnh Thanh
(huyện Nhơn Trạch) sinh sống. Các con, cháu của mẹ đều tham gia
công tác tại địa phương. Gia đình mẹ Sang được bà con làng xóm
đánh giá là gia đình truyền thống mẫu mực của xã. Mẹ được trao
tặng Huân chương Độc lập năm 1985. Mẹ Trần Thị Sang mất năm
1997. Hiện cháu ngoại là Đỗ Nhất Trí (con của bà Đỗ Thị Vốn) thờ
cúng mẹ tại xã Vĩnh Thanh.
392

40.3 Page 393

▲back to top


Lê Thị Tư
(1905 - 1987)
Làng Phước Lý, tổng Thành Tuy Hạ,
quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa xưa là quê
hương của mẹ Lê Thị Tư. Nhà mẹ ở gần đình
Ông Kèo, nay là ấp Chính Nghĩa, xã Vĩnh
Thanh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ Tư ra đời năm Ất Tỵ 1905 trong một gia đình nông dân. Chồng
mẹ cũng làm ruộng ở cùng ấp. Đôi vợ chồng trẻ ra sức khai phá một
mảnh rừng hoang khoảng một mẫu thành ruộng. Nếu chỉ trông vào
lúa thì không đủ, những lúc nông nhàn ông còn chặt củi bán cho ghe
chài chở về Sài Gòn. Mẹ sinh hạ được hai con trai Đặng Văn Tông
năm 1932 và Đặng Văn Đại năm 1936.
Cách mạng tháng Tám 1945 sắp nổ ra thì làng Phước Lý heo hút
thưa dân cũng dấy lên phong trào Thanh niên Tiền phong từ Sài
Gòn lan về. Là thiếu niên, Đặng Văn Tông thấy các chú các anh tập
tành, canh gác cũng tự nguyện tham gia. Cuối năm 1945, quân Pháp
đánh chiếm Cát Lái, Nhà Bè rồi tràn qua đóng bót và đóng lại ở kho
bom Thành Tuy Hạ. Ở tuổi 14 nhưng vóc người cao lớn, anh Tông
xin vào du kích xã. Nhà tuy nghèo song mẹ Lê Thị Tư vẫn ráng cho
con tiền gạo, áo quần để con hoạt động. Mẹ cũng đóng góp, ủng hộ
kháng chiến bằng hũ gạo nuôi quân. Giặc càn bố, mẹ lại lo dắt em
Đại đi trốn.
393

40.4 Page 394

▲back to top


Mới 16 tuổi Đặng Văn Tông được cử làm Tiểu đội phó du kích
xã Phước Lý (thuộc Ban Công tác liên thôn 13 huyện Long Thành
lúc đó). Anh hăng hái công tác, luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Ngày 19.2.1948, anh đi công tác tới Bến Trăn thuộc ấp Long
Điền xã Long Tân thì đụng lính commando. Anh Tông hy sinh tại
đây. Mẹ Tư nghe tin, đau xót vô cùng. Nỗi đau ấy kéo dài nhiều năm
về sau.
Năm 1951 tình hình chung ở huyện Long Thành gặp nhiều khó
khăn. Tên Suacot chỉ huy lính commando áo đen liên tục phục, đột
kích đánh phá các vùng tranh chấp. Ở nhà không yên, Đặng Văn Đại
mới 15 tuổi đã xin mẹ cho đi thoát ly. Đến tháng 7.1954, Hiệp định
Genève ký kết, Đại được đi tập kết ra Bắc. Thế là từ đó người mẹ già
ngày ngày mong ngóng con trai trở về.
Anh Đặng Văn Đại ra Bắc được đi học, sau đó công tác ở Ty công
an Thanh Hóa. Anh lấy vợ, có con. Theo yêu cầu của chiến trường,
anh hồi kết, công tác tại Tây Ninh. Anh hy sinh ngày 1.11.1969.
Sau ngày thống nhất đất nước, mẹ Lê Thị Tư mới biết tin xé lòng
này. Mẹ qua đời năm 1985. Để ghi nhận công ơn của mẹ, Nhà nước
truy tặng cho mẹ Lê Thị Tư danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng
theo Quyết định số 814/KTCTN ngày 24.4.1996. Mẹ và gia đình
cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba
năm 2000.
394

40.5 Page 395

▲back to top


Nguyễn Thị Kiều
(1912 - 1992)
Mẹ Nguyễn Thị Kiều sinh năm 1912 tại
xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Sinh ra trong một gia đình nông dân
nghèo, từ nhỏ mẹ Kiều phải lao động vất vả
để kiếm sống cơ cực như mọi người phụ nữ nghèo tại vùng quê Nhơn
Trạch. Lớn lên, mẹ lập gia đình cùng với người cùng quê, sinh hạ
được 8 người con cả trai lẫn gái. Cuối 1945, giặc Pháp trở lại đánh
chiếm Nam Bộ. Năm 1946, giặc Pháp đã tràn về Nhơn Trạch, xóm
làng xao xác, nhân dân tiếp tục sống trong cảnh loạn lạc, bom đạn
giặc ngày đêm giết hại dân lành. Mẹ Kiều đã cùng bà con xóm ấp
thường lui tới các đơn vị bộ đội tiếp tế quần áo, gạo và thuốc men.
Cùng với đó, mẹ Kiều động viên con, cháu tham gia kháng chiến.
Hai con trai của mẹ là Trần Hoài Lâm (sinh năm 1946) và Trần Văn
Bảy (sinh năm 1948) vào bộ đội rồi hy sinh trong trận đánh ở Nhơn
Trạch năm 1970.
Theo lời kể của ông Trần Văn Tám (con trai mẹ Kiều), sau khi
các anh vào bộ đội, ông Tám ở nhà cùng mẹ làm ruộng và nuôi các
em. Tuy nhiên, khi ông được 18 tuổi, ông bị quân địch bắt, đánh
đập, tra tấn nhằm bắt ông phải khai địa điểm hoạt động của các anh
trai. Không lấy được nguồn tin, quân địch đưa ông về giam 2 tháng
ở Biên Hòa. Những ngày ông bị giam, mẹ Kiều thường xuyên đi bộ
395

40.6 Page 396

▲back to top


vào thăm nuôi ông, đồng thời đấu tranh với kẻ địch để ông nhanh
chóng được thả ra.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 kết thúc
thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn độc lập. Mẹ Kiều trở về với cuộc
sống đời thường, tiếp tục nuôi dạy con cháu, ra sức tăng gia sản xuất.
Mẹ Kiều sống giản dị, gần gũi với bà con, làng xóm. Mẹ tích cực
tham gia công tác phụ nữ ấp, hòa giải các gia đình tưởng như tan
vỡ trở lại hạnh phúc, sum vầy. Do tuổi già, sức yếu mẹ qua đời năm
1992, hưởng thọ 80 tuổi.
Với thành tích trong kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị Kiều được tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba theo Quyết định số 69 /QĐ-
HĐNN ngày 11.7.1985. Đến năm 2014, mẹ được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-
CTN ngày 26.9.2014. Hiện, con trai Trần Văn Tám thờ phụng mẹ tại
xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
396

40.7 Page 397

▲back to top


DANH SÁCH LIỆT SĨ XÃ VĨNH THANH
Stt
Họ và tên
Năm Quê
sinh quán
Chức vụ
Đơn vị
Năm
hy sinh
1 Võ Văn An
1930
Đồng
Nai
Cb Tuyên
huấn
X. Đại
Phước
1952
2 Trần Văn Bảy
1946
Đồng
Nai
CS. C240
H. Nhơn
Trạch
7.1970
3
Nguyễn Văn Bảy
(Đức)
1930
Đồng
Nai
Chuẩn úy
Xã đội
phó
13.3.1966
4
Phạm Văn Bằng
(Mão)
1944
Đồng
Nai
Y tá
X. Đại
Phước
17.7.1968
5
Nguyễn Văn Bé
(Đức Hiền)
1944
Đồng
Nai
Du kích
X. Phước
An
13.1.1968
6 Nguyễn Khắc Bích 1933
Đồng
Nai
Thượng úy
Hđ. Long
Thành
18.3.1972
7 Nguyễn Văn Cẩu
1940
Đồng
Nai
Hạ sĩ
Đoàn 10
đặc công
10.1966
8 Bao Văn Cao
1940
Đồng
Nai
Cb liên xã
X. Đại
Phước
8.4.1963
9
Nguyễn Văn Cam
(Tấn)
1945
Đồng
Nai
Chiến sĩ
C240 17.2.1969
10
Nguyễn Văn Danh
(Ry)
1941
Đồng
Nai
TĐT
du kích
X. Vĩnh
Thanh
8.3.1967
11 Bùi Mạnh Đức
1950 Hà Bắc
PCT
kinh tài
X. Vĩnh
Thanh
30.1.1977
12 Nguyễn Văn Hiếu
1929
Đồng
Nai
Công an
H. Long
Thành
21.7.1951
397

40.8 Page 398

▲back to top


13 Trần Văn Kiêm
1895
Đồng
Nai
Du kích
X. Đại
Phước
1942
14
Nguyễn Văn Lời
(Bảy Sanh)
1920
Đồng
Nai
PCT Kinh
tài
X. Vĩnh
Thanh
10.4.1964
15 Nguyễn Văn Lý
1937
Đồng
Nai
Thượng sĩ Đặc công 25.2.1970
16 Mai Văn Lẹ
1949
Đồng
Nai
Du kích
X. Đại
Phước
4.1968
17 Trần Hoài Lâm
1943
Đồng
Nai
Tiểu đội
trưởng
X. Đại
Phước
15.5.1968
18 Bùi Văn Lũy
1940
Đồng
Nai
Chiến sĩ
C240 15.3.1968
19 Lê Nhớ Mãi (Thụ) 1938
Đồng
Nai
Thượng úy
Hđ.Long
Thành
6.6.1972
20 Nguyễn Văn Mới
1954
Đồng
Nai
Xã đội
trưởng
X. Vĩnh
Thanh
30.1.1977
21 Đặng Văn Mừng
1926
Đồng
Nai
Hạ sĩ
X. Đại
Phước
6.8.1963
22
Nguyễn Văn Minh
(Tư Cước)
1941
Đồng
Nai
Xã đội phó
X. Vĩnh
Thanh
2.10.1962
23 Dương Văn Ngụ
Đồng
Nai
24 Hà Văn Phải (Lực) 1939
Đồng
Nai
Du kích
X. Vĩnh
Thanh
7.5.1962
25 Nguyễn Văn Quốc 1925
Đồng
Nai
Trung đội
trưởng
Bộ đội
Trần Phú
27.12.1949
26 Nguyễn Văn Quang 1935
Đồng
Nai
1956
398

40.9 Page 399

▲back to top


27 Nguyễn Văn Ro
1943
Đồng
Nai
Du kích
X. Vĩnh
Thanh
2.10.1962
28 Huỳnh Công Thành 1938
Đồng
Nai
Thiếu úy
Hđ Long
Thành
29.1.1971
29 Đỗ Văn Trung
1917
Đồng
Nai
Cb Cơ sở
X. Vĩnh
Thanh
16.7.1962
30 Nguyễn Văn Tuấn
1926
Đồng
Nai
Cb Binh
vận
X. Vĩnh
Thanh
2.10.1962
31 Nguyễn Văn Tĩnh
Đồng
Nai
Công an
X. Vĩnh
Thanh
21.7.1951
32 Lê Tử Trình
1926
Đồng
Nai
Tiểu đội
phó
X. Đại
Phước
20.7.1950
33 Hồ Văn Út
1915
Đồng
Nai
TĐT Tự vệ
X. Đại
Phước
5.8.1940
34 Trần Văn Vân
1933
Đồng
Nai
19.2.1965
35 Trần Văn Quân
1950
Đồng
Nai
19.2.1965
36 Trần Văn Tư
1933
Đồng
Nai
1964
37 Hồ Văn Minh
1937
11.1964
38 Nguyễn Văn Hùng 1936
39 Đỗ Văn Huynh
40 Đỗ Văn Đệ
1940
Đồng
Nai
1943
Đồng
Nai
1968
11.1964
1968
399

40.10 Page 400

▲back to top


41 Đỗ Văn Tư
42 Đào Minh Dũng
1945
Đồng
Nai
1951
43 Trần Văn Kiệt
1942
44 Trần Văn Ngọt 1944
45 Cao Văn Thôi
1912
Đồng
Nai
46 Nguyễn Văn Phúc
1913
Đồng
Nai
47 Trần Đắc Thắng
1921
Đồng
Nai
48 Nguyễn Văn Nghĩa 1929
49 Trương Văn Bình
1924
Đồng
Nai
50 Đặng Văn Tông
1932
Đồng
Nai
51 Nguyễn Văn Phẩm 1939
Đồng
Nai
52 Đỗ Văn Xuân
1912
Đồng
Nai
53 Nguyễn Văn Quỳ 1912
54 Đặng Văn Đại
1936
Đồng
Nai
400
10.10.1968
15.7.1974
24.2.1969
4.1963
17.10.1947
10.8.1947
19.2.1950
14.6.1949
25.8.1945
19.2.1948
4.1947
12.1962
1970
10.2.1969

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


BÍ THƯ CHI BỘ, ĐẢNG BỘ QUA CÁC THỜI KỲ
Nguyễn Khắc Bích
Bí thư Chi bộ
xã Vĩnh Thanh
thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ (1964-1970)
Đặng Văn Thì
Bí thư Chi bộ xã
(1975-1982)
Trần Trung Kiên
Bí thư Chi bộ xã
(1982-1984)
Nguyễn Văn Thông Phan Trường Xuân
Bí thư Chi bộ xã
Bí thư Chi bộ xã
(1984-1987)
(1987-1993)
401

41.2 Page 402

▲back to top


Hồ Hồng Nguyên
Bí thư Chi bộ xã
(1993-1995)
Trương Tấn Vững
Bí thư Chi bộ xã
(1995-1998)
Huỳnh Minh Phương
Bí thư Chi bộ xã
(1998-2004),
Bí thư Đảng bộ xã
(2004-2013)
Nguyễn Văn Lo
Bí thư Đảng ủy xã
(2013-2020)
402
Trần Hoàng Sự
Bí thư Đảng ủy xã
(từ 2020)

41.3 Page 403

▲back to top


CHỦ TỊCH UBND XÃ QUA CÁC THỜI KỲ
Huỳnh Tự Giác
Chủ tịch UBND xã
(1980-1984)
Nguyễn Văn Sang
Chủ tịch UBND xã
(1985-1990)
Nguyễn Văn Minh
Chủ tịch UBND xã
(1990-1997)
Đỗ Thành Đông
Chủ tịch UBND xã
(1997-1998)
403

41.4 Page 404

▲back to top


Trần Trung Dũng
Chủ tịch UBND xã
(1998-2002)
Phạm Quốc Hợp
Chủ tịch UBND xã
(2002-2014)
Từ Thiên Tú
Chủ tịch UBND xã
(2014-2016)
404
Huỳnh Thế Vinh
Chủ tịch UBND xã
(2016-2020)

41.5 Page 405

▲back to top


HÌNH ẢNH TƯ LIỆU
Một cuộc họp Chi bộ xã năm 1980
(Đồng chí Huỳnh Tự Giác - Chủ tịch UBND xã phát biểu).
Đoàn chủ tịch Đại hội Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
xã Vĩnh Thanh khóa IV nhiệm kỳ 1987-1989.
405

41.6 Page 406

▲back to top


Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Thanh nhiệm kỳ 1993-1995.
Đại hội Chi bộ xã Vĩnh Thanh nhiệm kỳ 1993-1995.
406

41.7 Page 407

▲back to top


Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ xã Vĩnh Thanh
lần thứ nhất nhiệm kỳ 2005-2010.
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ xã Vĩnh Thanh
lần thứ III nhiệm kỳ 2015-2020.
407

41.8 Page 408

▲back to top


Thanh niên xã Vĩnh Thanh tham gia nghĩa vụ quân sự năm 1983.
Các thành viên Đội vũ trang tuyên truyền di cư họp mặt
tại nhà đồng chí Phạm Văn Duyên năm 1980.
408

41.9 Page 409

▲back to top


Đồng chí Từ Ngọc Chiếu, Phó Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch,
dự họp Chi bộ ấp Thanh Minh năm 2005.
Lãnh đạo xã Vĩnh Thanh thăm, tặng quà, họp mặt
chức sắc tôn giáo năm 2012.
409

41.10 Page 410

▲back to top


Khởi công xây dựng nhà đại đoàn kết ở xã Vĩnh Thanh năm 2020.
Khởi công xây dựng nhà đại đoàn kết ở xã Vĩnh Thanh năm 2020.
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


Nhân chứng lịch sử, 20.1.2022.
Đồng chí Huỳnh Minh Phương, nguyên Bí thư Đảng ủy xã góp ý.
Đồng chí Huỳnh Thế Vinh - Phó Bí thư ĐU, Chủ tịch UBND xã
phát biểu chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
411

42.2 Page 412

▲back to top


Đình thần Ông Kèo.
Nhà bia liệt sĩ ấp Thanh Minh.
Nhà bia liệt sĩ ấp Chính Nghĩa. Đình thần tại ấp Thanh Minh.
412

42.3 Page 413

▲back to top


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1997), Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập I, Nxb. Đồng Nai.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1998), Tổng kết công tác
binh vận tỉnh Đồng Nai trong cuộc kháng chến chống Mỹ cứu nước 1954
- 1975, Nxb. Đồng Nai.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1986), Đồng Nai 30 năm
chiến tranh giải phóng 1930 - 1975, Nxb. Đồng Nai.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Long Thành
những chặng đường lịch sử, Nxb. Đồng Nai.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành (1988), Lịch sử Đảng bộ
huyện Long Thành 1930 - 1975, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Biên Hòa (1999), Lịch sử Đảng
bộ Thành phố Biên Hòa, Nxb. Đồng Nai.
7. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Nai (2005), Lịch sử
phong trào phụ nữ tỉnh Đồng Nai 1930 - 2000, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
8. Ban Chỉ đạo lễ Kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai
(1998), Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Nxb. Đồng
Nai.
9. Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử Công an tỉnh
Đồng Nai 1975 - 1995 (tập III), Nxb. Công an nhân dân.
10. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Đồng Nai
(1996), Những Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai (1992), Đồng Nai những trận
đánh điển hình trong chiến tranh giải phóng 1945 - 1975, tập 1, Nxb. Đồng
Nai.
12. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử Công an tỉnh
Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Nxb. Công an
nhân dân.
413

42.4 Page 414

▲back to top


13. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Lịch sử Công an tỉnh
Đồng Nai thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb.
Công an nhân dân.
14. Bộ Công an, Công an tỉnh Đồng Nai (2010), Biên niên sự kiện lịch
sử Công an tỉnh Đồng Nai 1996 - 2010, Nxb. Công an nhân dân.
15. Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 (2016), Từ điển Quân khu
7, Nxb. Quân đội nhân dân.
16. Công an tỉnh Đồng Nai (2000), Lịch sử biên niên 1975 - 1996, Nxb.
Công an nhân dân.
17. Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ quốc gia
(2021), Địa danh làng xã Việt Nam qua tài liệu địa bạ triều Nguyễn, [tập
IV: Nam Kỳ], Nxb. Hà Nội.
18. Phan Đình Dũng, Nguyễn Thanh Lợi (2010), Hỏi đáp về Biên Hòa
- Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
19. Đảng bộ huyện Long Thành (2015), Lịch sử Đảng bộ huyện Long
Thành, Nxb. Đồng Nai.
20. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Huyện Nhơn Trạch anh hùng,
Nxb. Đồng Nai.
21. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch, Nxb. Đồng Nai.
22. Đảng ủy Công an tỉnh Đồng Nai (2017), Lịch sử Đảng bộ Công an
tỉnh Đồng Nai 1945 - 2000, Nxb. Công an nhân dân.
23. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2005), Công an
Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1945 - 1954, Nxb. Công an nhân dân.
24. Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai (2005), Công an
Đồng Nai - Lịch sử biên niên 1954 - 1975, Nxb. Công an nhân dân.
25. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai (2015), Lịch sử Đảng
bộ quân sự tỉnh Đồng Nai 1945 - 2010, Nxb. Đồng Nai.
414

42.5 Page 415

▲back to top


26. Hồ Sơn Đài, Trần Quang Toại (1985), Đồng Nai những đơn vị anh
hùng, Nxb. Đồng Nai.
27. Hồ Sơn Đài chủ biên, Đỗ Tầm Chương, Nguyễn Quang Hữu (1997),
Lịch sử chiến khu Đ - Hào khí Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
28. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định Thành thông chí, [bản dịch của
Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính], Nxb.Tổng hợp Đồng Nai.
29. Học viện Quân sự cao cấp, Ban Tổng kết kinh nghiệm chiến tranh
(1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - những sự kiện quân sự,
Nxb. Quân đội nhân dân.
30. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Đoàn Đặc công 113 với
Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Quân đội nhân dân.
31. Hội Cựu chiến binh tỉnh Đồng Nai (2004), Tiểu đoàn 240 với Đảng
bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
32. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ (2005),
Lịch sử Khởi nghĩa Nam Kỳ (tái bản), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ
(2003), Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia.
34. Hội Khoa học lịch sử Đồng Nai (2013), Địa danh Hành chính, Văn
hóa, Lịch sử Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
35. Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai (2018), Lịch sử phong trào Nông dân
và Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai 1930 - 2015, Nxb. Đồng Nai.
36. Hồ Sĩ Khoách, Hà Minh Hồng, Võ Văn Sen (1998), Lịch sử Việt
Nam 1945 - 1975, Nxb. Mũi Cà Mau.
37. Nhiều tác giả (2021), Địa chí Đồng Nai, [5 tập I: Tổng quan, tập II:
Địa lý, tập III: Lịch sử, tập IV: Kinh tế,, tập V: Văn hóa - xã hội], Xí nghiệp
in Đồng Nai Nhà in Thông tấn xã Việt Nam.
415

42.6 Page 416

▲back to top


38. Tỉnh ủy Đồng Nai (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Nai 1975 -
2000, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
39. Nguyễn Văn Thông (2015), Đất Mẹ, Nxb. Đồng Nai.
40. Huỳnh Văn Tới, Nguyễn Minh Hùng (2019), Bà mẹ Việt Nam anh
hùng tỉnh Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
41. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Nguyễn Trí Nghị (2015), Di tích
danh thắng Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai.
42. Trần Quang Toại (chủ biên), Hồ Sơn Đài, Trần Toản, Nguyễn Quang
Hữu (1991), Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Phú, Nxb Đồng Nai.
43. Trần Quang Toại chủ biên (2013), Địa danh hành chính văn hóa
lịch sử Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.
44. Ngô Đăng Tri (2012), 82 năm Đảng Cộng sản Việt Nam - những
chặng đường lịch sử 1930 - 2012, Nxb. Thông tin và Truyền thông.
45. Robert (1924), Địa chí tỉnh Biên Hòa [Lê Tùng Hiếu - Nguyễn Văn
Phúc biên dịch, 2015], Nxb. Đồng Nai.
46. Nhà Bảo tàng Đồng Nai (2001), Việt Nam - Đồng Nai trăm năm
nhìn lại, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
47. Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai (tập II: Địa lý), Nxb. Tổng
hợp Đồng Nai.
48. Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai (tập III: Lịch sử), Nxb.
Tổng hợp Đồng Nai.
49. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai (2005), Lịch sử
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai từ 1930 - 2000, Xí nghiệp in
Đồng Nai.
50. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2010), Đại
cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
51. Các Báo cáo, văn kiện của xã Vĩnh Thanh, Văn phòng Đảng ủy xã
Vĩnh Thanh.
416

42.7 Page 417

▲back to top


MỤC LỤC
Mở đầu.............................................................................................. 5
Chương I:
TỔNG QUAN VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI.............. 10
I. Đặc điểm tự nhiên........................................................................ 10
II. Các di tích khảo cổ..................................................................... 22
III. Đời sống kinh tế, văn hóa xã hội.............................................. 25
Chương II:
ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
I. Từ phong trào yêu nước đấu tranh............................................... 65
II. Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng........................................ 77
III. Tham gia Cách mạng tháng 8 năm 1945.................................. 89
Chương III:
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP 1945 - 1954........................ 101
I. X ây dựng chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp
tái chiếm.................................................................................... 101
II. Cùng cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện........................ 129
III. Đ ấu tranh chống lấn chiếm, giữ vững và mở rộng
địa bàn làm chủ, góp phần kết thúc thắng lợi 9
năm kháng chiến chống Pháp................................................. 142

42.8 Page 418

▲back to top


Chương IV:
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)..................................... 153
I. Từ đấu tranh chính trị đến đấu tranh chính trị
kết hợp đấu tranh vũ trang.................................................... 153
II. Phong trào phá ấp chiến lược.............................................. 180
III. Góp phần vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân Mậu Thân 1968......................................................... 205
IV. Hình thành Đội vũ trang tuyên truyền di cư....................... 224
V. Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975............................ 255
Chương V:
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG,
ỔN ĐỊNH XÃ HỘI, ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
(1975-1994)...................................... 266
I. Xây dựng chính quyền cách mạng........................................ 266
II. Ổn định xã hội, đời sống nhân dân...................................... 269
III. Đẩy mạnh sản xuất, đổi mới nông nghiệp.......................... 292

42.9 Page 419

▲back to top


Chương VI:
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
(1994-2020)...................................... 302
I. C ủng cố tổ chức Đảng và chính quyền, đổi mới
công tác cán bộ..................................................................... 302
II. Từ chi bộ nâng thành Đảng bộ cơ sở................................... 317
III. C huyển dịch cơ cấu sản xuất đúng hướng, nâng cao
đời sống văn hóa................................................................ 332
Chương VII:
BÀI HỌC LỊCH SỬ............................... 381
Lãnh đạo các khóa........................................................ 385
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng........................................... 388
Danh sách liệt sĩ xã Vĩnh Thanh............................ 397
Bí thư chi bộ, đảng bộ qua các thời kỳ.............. 401
Chủ tịch ubnd xã qua các thời kỳ........................ 403
Hình ảnh tư liệu............................................................. 405
Tài liệu tham khảo................................................................. 413

42.10 Page 420

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ VĨNH THANH (1930-2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ xã Vĩnh Thanh
Mã ISBN: 978-604-42-0047-7
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Đào Thị Thu Thanh
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Đào Thị Thu Thanh
Hoàng Phương
............................................................................................................
In: 120 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM. Số XNKHXB: 3808-
2023/CXBIPH/3-722/ĐoN, Cục Xuất bản, In và Phát hành xác nhận
ngày: 31/10/2023, Quyết định xuất bản số: 06/QĐA-ĐoN do NXB
.Đ....n..g...N...a.i..c....p..n..g..à..y..:..2..4../.1..1./..2.0..2..3.....I.n...x..o..n..g...v..à..n....p...l.ư..u...c.h..i...u..:..q..u..ý...1./..2.0..2..4...
Nhà Xuất bản Đồng Nai,
1953J (210 cũ) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh: 946 521 - 946 530
- Email: dongnainxb@gmail.com