LSDB Nhon Trach

LSDB Nhon Trach



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
HUYỆN NHƠN TRẠCH
(1930-2015)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
HUYỆN NHƠN TRẠCH
(1930-2015)
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NHƠN TRẠCH
BIÊN SOẠN
Huỳnh Văn Tới (Chủ biên)
Quách Hữu Đức
Dương Văn Em
Phan Đình Dũng
Hà Thị Thanh Thúy
BIÊN TẬP KỸ THUẬT
Phan Hoàng Oanh

1.5 Page 5

▲back to top


M ôû ñaàu
Nhơn Trạch là vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển
cùng lịch sử Biên Hòa - Đồng Nai hơn 320 năm, triều Nguyễn
thuộc Tổng Thành Tuy Hạ (huyện Long Thành), năm 1960 có tên
quận Nhơn Trạch, sau 30.4.1975 lại thuộc huyện Long Thành, từ
ngày 1.9.1994 chính thức thành huyện Nhơn Trạch trực thuộc tỉnh
Đồng Nai.
Nhân dân huyện Nhơn Trạch có truyền thống yêu nước, đoàn
kết, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp ngay khi chúng
nổ súng xâm lược tỉnh Biên Hòa (12.1861). Trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc, Nhơn Trạch cùng Long Thành là địa
phương sớm có chi bộ Đảng Cộng sản (1944) và tổ chức Mặt trận
Việt Minh của huyện (1944), là yếu tố quan trọng để lãnh đạo
nhân dân trong huyện làm nên cách mạng tháng Tám 1945 ở địa
phương.
Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ xâm lược (1945-1975) quân dân Nhơn Trạch dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ đã đoàn kết một lòng chung tay góp sức, đấu
tranh kiên cường, vượt qua nhiều gian khổ, thử thách hi sinh,
lập nhiều thành tích trên các mặt trận góp sức cùng cả tỉnh hoàn
5

1.6 Page 6

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thành nhiệm vụ lịch sử, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Những địa danh lịch sử: Chiến khu Rừng Sác, chiến khu Phước
An, Thành Tuy Hạ, Phú Hội, Phước Khánh, Phú Hữu, Đại Phước,
Long Tân, Phước An, Phước Thọ, Phước Long... là niềm tự hào
của Đảng bộ, nhân dân địa phương về truyền thống yêu nước, đấu
tranh cách mạng của Đảng bộ và quân dân Nhơn Trạch.
Nhơn Trạch - Long Thành trong đấu tranh 30 năm kháng
chiến giành độc lập dân tộc là tài sản quý báu, cần được trân
trọng giữ gìn và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, phát triển bền vững, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong 45 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
Đảng bộ và nhân dân Nhơn Trạch - Long Thành đã thực hiện
chiến lược đại đoàn kết dân tộc, phát huy nội lực khắc phục hậu
quả chiến tranh; đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi
mới, xây dựng phát triển hạ tầng cơ sở vật chất, mở mang các khu
công nghiệp, giữ vững an ninh chính trị, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, từng bước xây dựng nông thôn
mới để đạt mục tiêu phát triển bền vững, trở thành huyện công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW ngày 28.8.2002 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng và Thông tri số 18-TT/TU, ngày 14.5.2003 Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về “tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên
cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”; Ban Thường vụ
huyện ủy Nhơn Trạch có Kế hoạch số 71 - KH/HU ngày 15.5.2017
chủ trương nghiên cứu biên soạn quyển “Lịch sử Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch1930 - 2015”.
Đây là công trình thiết thực kỷ niệm 45 năm giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước (1975-2020); 25 năm thành lập huyện
6

1.7 Page 7

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Nhơn Trạch; chào mừng Đại hội đảng bộ huyện lần thứ VI tiến tới
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI.
Trong quá trình triển khai nghiên cứu, biên soạn, chúng tôi
đã tổ chức nhiều đợt khảo sát thực tế, hội thảo, hội nghị nhân
chứng lịch sử để tiếp cận với sự thật lịch sử. Ý kiến đầy trách
nhiệm của các cấp ủy, các đồng chí nguyên là lãnh đạo huyện
qua các thời kỳ, các nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu văn
hóa lịch sử đã được trân trọng tiếp thu, thể hiện trong chính văn.
Những vấn đề còn tồn nghi, chưa thẩm định được xin ghi nhận
để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung. Tài liệu được công bố của các
công trình nghiên cứu lịch sử liên quan được khảo cứu cẩn trọng,
dẫn nguồn cụ thể, những chỗ còn khác biệt có ghi chú để tường
minh.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng “Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch 1930 - 2015” chắc hẳn không tránh được những thiếu sót
ngoài mong muốn. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn
đọc để công trình được hoàn chỉnh hơn trong lần tái bản.
Xin chân thành cám ơn đồng chí, đồng bào, cơ sở cách mạng,
nhân chứng lịch sử và các nhà khoa học đã giúp chúng tôi hoàn
thành quyển sách này.
Quách Hữu Đức
Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch
7

1.8 Page 8

▲back to top


1.9 Page 9

▲back to top


PHẦN I
TỔNG QUAN

1.10 Page 10

▲back to top


Tổng quan
Chương I
NHƠN TRẠCH:
VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI,
TRUYỀN THỐNG
Thời điểm 2015, huyện Nhơn Trạch có diện tích tự nhiên là
410,78 km2, có 12 đơn vị hành chính cấp xã: Phước Khánh, Đại
Phước, Long Tân, Phú Đông, Phú Hội (huyện lỵ), Phú Thạnh,
Phú Hữu, Vĩnh Thanh, Phước An, Long Thọ, Hiệp Phước1, Phước
Thiền . Dân số năm 2015 là 232.310 người, tỉ lệ nam 45,65%, tỉ lệ
nữ 54,35%, đại đa số sống ở vùng nông thôn2.
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Huyện Nhơn Trạch nằm ở phía Tây Nam tỉnh Đồng Nai, trải
dài từ 106°45’16” đến 107°01’55” kinh độ Đông và từ 10°31’33”
đến 10°46’59”vĩ độ Bắc, cách Thành Phố Hồ Chí Minh khoảng
30 km theo tỉnh lộ 25B, có vị trí địa lý: Phía Đông và Đông Bắc
giáp huyện Long Thành; phía Tây giáp quận 7 và huyện Nhà Bè,
Thành phố Hồ Chí Minh với ranh giới là sông Nhà Bè; phía Nam
và Tây Nam giáp huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh với
ranh giới là sông Đồng Tranh và sông Lòng Tàu; phía Đông Nam
giáp thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với ranh giới là sông
1  Thành lập thị trấn Hiệp Phước theo Nghị quyết 694/NQ-UBTVQH14 ngày 10.5.2019
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Theo đó, thị trấn Hiệp Phước có diện tích 18,83
km2, dân số hơn 57.000 người.
2  Theo Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2017, NXB Thống kê 2018.
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thị Vải; phía Bắc giáp quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh với ranh
giới là sông Đồng Nai; phía Tây Bắc giáp quận 2, Thành phố Hồ
Chí Minh với ranh giới là sông Đồng Nai.
2. Địa hình, địa mạo
Về địa tầng, địa bàn huyện Nhơn Trạch, thuộc Hệ Trias,
thống trung, bậc Anizi(1), đồng dạng với các vùng phụ hệ tầng
dưới như ở Bửu Long. Khảo sát thực tế cho thấy, mặt cắt vùng
Nhơn Trạch gồm cuội kết, tảng kết hiển lộ từ Tây Nam Bửu Long
đến mép sông Đồng Nai, rõ nét ở Hang Nai. Cuội có kích thước
thay đổi từ 3-5-10cm, độ mài tròn trung bình, độ chọn lọc kém,
có thành phần đa khoáng: sạn kết tuf andesit, granodiorit - biotit
porphyry, granit có biotit hạt vừa, đá phiến sét serisit - silic nhiễm
oxyt sắt. Ở vùng Nhơn Trạch còn có hiện tượng phụ hệ tầng giữa
phủ lên phụ hệ tầng dười, biểu hiện bởi mặt cắt có các tập cát kết
tuf riolit màu xám có cấu tạo khối rất cứng chắc và thêm nhiều
thành phần khoáng chất đặc thù của phụ hệ tầng giữa.
Về địa hình, Nhơn Trạch thuộc loại địa hình tích tụ dạng có
nhiều bãi bồi, được cấu tạo bởi nhiều cuội sỏi, cát hoặc cát bột, sét
bột bở rời, có khi dày đến một vài mét. Bãi bồi vùng Nhơn Trạch
thường thấp, phân bổ giữa hoặc ven lòng sông rạch, lộ rõ giữa
mùa khô hoặc khi triều xuống. Đây là nguồn vật liệu dồi dào cho
xây dựng.
Về phân vùng địa mạo, Nhơn Trạch thuộc vùng đồng bằng
đồi thềm, đồng dạng với cả vùng Biên Hòa - Long Thành. Vùng
này có đặc điểm hạ tích tụ và nâng yếu, rửa trôi - xâm thực; tạo
thềm bậc IV, III, II và I từ Pleistocen giữa đến Holocen. Quá
trình hạ lún được thấy rõ từ Pliocen muộn, được tiếp tục trong
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 8, trang 45.
11

2.2 Page 12

▲back to top


Tổng quan
Pleistocen sớm. Quá trình nâng bắt đầu từ Pleistocen giữa. Trên
vùng phát triển thềm một phía, thềm trẻ hơn, thấp hơn (thềm III,
II và I) dịch dần về phía Tây, Tây Nam. Chúng chuyển bậc với
nhau qua các đoạn sườn thoải 3-50, chênh cao 5-10m. Hạ lún có
xu hướng mạnh dần từ Tây Bắc đến Đông Nam. Ở Nhơn Trạch,
thành bề mặt móng đá gốc chìm sâu đến (-50m) và sâu hơn, trầm
tích Pliocen - Đệ tứ dày > 55m.
Các bậc thềm tuy có độ cao khác nhau, nhưng lại liên kết với
nhau trên cơ sở các bề mặt cùng nguồn gốc, cùng được nâng lên,
rửa trôi là chủ yếu và xâm thực. Theo hướng Tây Tây Nam, chúng
thấp dần theo góc nghiêng chung < 10. Theo hướng Nam, Đông
Nam bề mặt bị chia cắt bởi các thung lũng xâm thực sâu 10-30m,
sườn dốc 3-100, cách nhau 5-7-10km. Do vậy, vùng này nền vững,
thích hợp để xây dựng và phát triển đô thị, khu công nghiệp1.
Ngoài ra, dọc theo sông vùng Nhơn Trạch còn có các trầm
tích sông, thường tạo các bãi bồi cao 1-3m, rộng vài mét đến vài
trăm mét, gián đoạn hoặc kéo dài liên tục 1-2km. Ở các phần trũng
thấp ven sông từ Long Hưng đến Bắc Nhơn Trạchvà Phú Điền còn
có trầm tích sông - đầm lầy. Thành phần gồm: bột sét, mùn thực
vật, đôi nơi có than bùn màu xám tro, xám tối, bề dầy thay đổi từ
2-5m2. Với địa mạo này, vùng Nhơn Trạch thuận lợi cho việc xây
dựng hạ tầng các khu công nghiệp, khu dân cư.
3. Đất đai
Đất đai(3) vùng Nhơn Trạch có địa hình bằng phẳng, độ cao
0 - 20m so mực nước biển, phần lớn có độ dốc < 8 - 15 o. Cấu tạo
đất Nhơn Trạch đa phần là đất phù sa cổ có lớp phủ thổ nhưỡng
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, trang 64 - 65, NXB Đồng Nai năm 2001
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 23
3  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 143 - 157.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
phổ biến là trầm tích Pleistocen muộn gồm các nhóm đất xám
(Acrisols) và đất loang lổ (Plinthosols). Nhơn Trạchcũng có hệ
trầm tích Holocen bao gồm cát biển, trầm tích đầm lầy biển và
phù sa sông suối hình thành các loại đất cát (Arenosols), đất phù
sa (Fluvisols) và đất phèn (Thionic Fluvisols).
Nhóm đất phù sa (Fluvisols) chiếm khoảng 4,76% tổng diện
tích toàn tỉnh, có ở Biên Hòa, Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch.
Riêng ở Nhơn Trạch, phổ biến ở vùng đồng bằng ven sông rạch,
nhất là địa bàn các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh
Thanh, Phước An. Vùng đất phổ biến nhóm đất này chịu tác động
của thủy triều, có độ chua (PH) từ ít đến vừa và cao tùy theo đất
phù sa có giàu mùn hay không; có nơi tùy đất mặn và không mặn
mà đất có tầng phèn hay không phèn. Đặc tính nông học của đất
phù sa là giàu mùn, đạm, ka li nhưng nghèo lân, nên ở nơi không
hoặc ít phèn thuận cho trồng lúa nhiều vụ hoặc trồng cây ăn trái,
hoa màu, rau củ. Ơ nơi đất phèn, việc sử dụng đất tùy thuộc vào độ
sâu tầng phèn và mức độ ngập mặn. Đất phèn nông có ưu thế trồng
lúa nước. Đất phèn sâu có thể trồng lúa, hoa màu vào mùa khô.
Đất phèn nông hay sâu đều có thể rửa mặn, nuôi trồng thủy sản.
Nhóm đất Gley (Gleysols) chiếm 4,56% diện tích toàn tỉnh
cũng khá phổ biến ở Nhơn Trạch, phân bổ ở vùng đồng bằng thấp,
xa sông, nhiều nhất là địa bàn Phước Thiền, Long Tân, Phước
Thọ, Phước Long, Phước Lai. Nhóm đất này giàu mùn, ít chua,
không nhiễm mặn, có tầng ít phèn và không phèn; có hàm lượng
mùn, đạm, lân, kali phù hợp cho trồng lúa nước, hoa màu hoặc lên
lip trồng cây dài ngày.
Ngoài ra, Nhơn Trạch còn có các nhóm đất khác đồng dạng
như đất ở các vùng Biên Hòa, Long Thành, Vĩnh Cửu, Định Quán,
Trảng Bom, Long Khánh. Đất ở Nhơn Trạch có thể dành cho trồng
trọt 99%, cho nuôi trồng 1%.
13

2.4 Page 14

▲back to top


Tổng quan
4. Hệ thống sông ngòi
Các sông, suối ở khu vực Nhơn Trạch cũng giống như hệ
thống các sông, suối trong tỉnh, chế độ dòng chảy và quy luật biến
đổi khá phù hợp với quy luật chung. Một năm vẫn có hai mùa
(mưa, nắng) dòng chảy rõ rệt. Mùa cạn từ tháng 12 năm trước cho
đến tháng 5 năm sau. Mùa lũ từ tháng 6 cho đến tháng 11. Mùa lũ
thường sớm hơn lưu vực sông Đồng Nai và sông La Ngà 1 tháng.
Ba tháng có mực nước và lưu lượng lớn là: tháng 8, 9, 10, lớn nhất
thường là tháng 8. Ba tháng có mực nước và lưu lượng nhỏ là:
tháng 2, 3, 4, nhỏ nhất là tháng 3.
Lưu lượng phù sa và bùn cát trong sông, suối tập trung chủ
yếu vào các tháng mùa lũ và tháng đầu mùa mưa (tháng 5). Các
tháng mùa cạn lượng phù sa rất nhỏ, nhiều tháng hầu như bằng
0, như tháng 2, 3, 4, nước sông rất trong, độ đục gần như không
1.
Một trong những đặc điểm của vùng Nhơn Trạch là hệ thống
sông rạch chằng chịt, chịu ảnh hưởng mạnh bởi chế độ thủy triều
vùng cửa sông, đa nguồn nước, gồm nước mặn - nước ngọt - nước
lợ.
Đoạn sông Đồng Nai chảy qua địa bàn Nhơn Trạch dân gian
gọi là sông Cái, nối tiếp từ Tân Uyên đổ ra của Soài Rạp dài
khoảng 143 km, lòng sông rộng từ 1 đến 4,5 km, có chỗ sâu đến
18m, tạo một lưu vực rộng khắp trên địa bàn Nhơn Trạch, trực tiếp
là các xã Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh.
Sông Đồng Nai có nhiều hợp lưu tạo thành hệ thống sông
Đồng Nai thuận lợi cho giao thông và giao thương cả vùng trọng
điểm Đông Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Sông Nhà Bè, sông Sài
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai năm 2001, trang 126-127
14

2.5 Page 15

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Gòn hợp lưu phía hữu ngạn sông Đồng Nai, nối Nhơn Trạch với
Thành phố Hồ Chí Minh chỉ vài mươi phút chèo ghe. Sau khi nhận
nước của sông Sài Gòn xuôi xuống Nhà Bè, sông Đồng Nai chia
làm hai nhánh: Nhánh phía Tây là sông Soài Rạp chảy ra cửa Soài
Rạp; nhánh phía Đông là sông Lòng Tàu chảy ra vịnh Gành Rái.
Sông Lòng Tàu có tầm sâu trung bình là 15 m, chảy quanh
co cắt ngang Rừng Sác trước khi đổ ra Biển Đông. Khi chảy đến
xã Phước Khánh, sông Lòng Tàu cũng chia làm hai nhánh. Nhánh
phía Tây là sông Đồng Tranh chảy về phía cửa Soài Rạp; nhánh
phía Đông tiếp tục mang tên Lòng Tàu chảy xuống Ngã Bảy
(khoảng 75km) nơi sông Dừa đổ vào. Từ Ngã Bảy ra biển, khúc hạ
lưu sông này được gọi là sông Ngã Bảy. Đến Cần Giờ, sông Đồng
Tranh và sông Ngã Bảy lại hợp lưu rồi đổ ra vịnh Gành Rái.
Hợp lưu với sông Đồng Nai tại địa bàn xã Long Tân có sông
Đồng Môn bắt nguồn từ vùng cao thuộc Long Thành vòng vèo qua
các gò đồi, nối mạch với các sông suối nhỏ rồi đổ phù sa qua các
cánh đồng Phước Thiền, Long Tân. Sông Đồng Môn tuy không
rộng, không sâu, không dài lắm nhưng có vai trò như mạch máu
nối liền rừng giồng với Rừng Sác, kết nối địa bàn sông nước Nhơn
Trạch với vùng rừng núi trung du miệt Long Thành.
Ngoài ra, sông Cái (sông Đồng Nai) còn hợp cùng các chi
lưu tạo nên hệ thống sông rạch chằng chịt khắp vùng Nhơn Trạch,
gồm những giồng, rạch, tắc, vàm, ngòi, cồn, cù lao gắn với địa
danh quen thuộc của người địa phương. Phải nhìn tổng thể hệ
thống cù lao, cồn, rạch của cả khu vực này mới thấy hết sắc thái
của Nhơn Trạch. Các xã thuộc khu vực có nhiều cồn, cù lao gồm
xã Phú Đông có giồng Ông Đông, Phú Thạnh có cù lao Ông Cồn,
xã Phước Khánh có rạch Ông Thuộc, xã Phú Hữu có rạch Ông
Mai, xã Vĩnh Thanh có ấp Ông Kèo. Theo lời kể của các bô lão
15

2.6 Page 16

▲back to top


Tổng quan
địa phương, năm ông: Thuộc, Đông, Cồn, Kèo, Mai là 5 vị tướng
lĩnh của triều Nguyễn trấn giữ các đồn bảo tả ngạn sông Cái, có
công lao với vùng Nhơn Trạch nên được dân tôn kính, đặt tên cho
các cù lao, cồn, rạch gắn liền với đời sống sản xuất, sinh hoạt của
người dân địa phương.
Địa bàn Nhơn Trạch có nhiều cồn, cù lao nổi tiếng; đặc biệt là
cù lao Ông Cồn. Sông Đồng Nai đến địa bàn xã Phước Khánh tạo
thành hai nhánh như hai cánh tay ôm gọn vùng đất giồng khoảng
780ha, tạo thành cù lao, dân gian gọi tên là cù lao Ông Cồn. Cù
lao Ông Cồn gồm hai phần đất, nối nhau bằng vài nhịp chèo, đất
đai phì nhiêu, dễ canh tác, thuận đường qua lại các hướng trên địa
bàn nên thu hút sự quan tâm của mọi người, dần dần trở thành sở
hữu của phú nông1.
Cùng với sông Đồng Nai, hệ thống sông Thị Vải cũng là
huyết mạch của địa bàn Nhơn Trạch. Sông Thị Vải bắt nguồn từ
suối Cả (khởi nguồn từ cao nguyên An Lộc - Cẩm Tiên, dài khoảng
38km), chảy theo hường Đông Nam, tổng chiều dài khoảng 76km,
đến địa bàn huyện Long Thành và Nhơn Trạch trở thành ranh giới
tự nhiên giữa tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đổ ra biển
tại vịnh Gành Rái. Thị Vải nối với sông Đồng Tranh bởi sông Ba
Doi và sông Gò Gia. Đoạn hạ lưu từ chỗ sông Gò Gia hợp lưu với
Thị Vải ra tới biển còn gọi là sông Cái Mép. Đoạn sông Cái Mép
có lòng rộng và sâu, thuận cho tàu bè cặp bến, cho nên được qui
hoạch thành cụm cảng quốc tế có thể đón tàu có trọng tải chục vạn
tấn.
1  Đã được qui hoạch phát triển khu du lịch sinh thái.
16

2.7 Page 17

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
5. Khí hậu
Khí hậu Nhơn Trạch thuộc phương Nam, vùng Gia Định,
ứng với quẻ Ly; theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài
Đức1: Là vùng gần biển, thấy trước mặt trời mới mọc, thường ấm,
bắt đầu mưa vào tháng 3 Âm lịch, mưa chính vào mùa hạ; “mưa
to nghiêng vò mà đổ”, cơn mưa to lắm chỉ vài giờ là tạnh, trở lại
nắng; tháng 7 có mưa ngâu dầm dề ít ngày, không lạnh; rõ rệt hai
mùa mưa nắng. Do khí trời nóng, đất ẩm thấp nên khi mưa, khí
biển tác động thành ra sấm chớp, có thể hại chết người và vật.
Nhơn Trạch “âm ít, dương nhiều”, thường nhiều gió Nam;
hiếm khi giông bão, ít sương móc; thi thoảng có hiện tượng gió lốc
xoáy gọi là “rồng hút nước”.
Nước là mạch máu của đất. Nhơn Trạch giàu nguồn nước
trong lòng đất, phun trào nhiều nơi gọi là nước mạch, nhiều chỗ
phun mạnh gọi là “mạch Bà”. Nước sông rạch gắn với biển tác
động đến đời sống. Do khí đưa đẩy, buổi sáng nước lên gọi là
triều, buổi chiều nước xuống gọi là tịch, gọi chung là thủy triều.
Thủy triều tương ứng mật thiết với mặt trăng theo chu kỳ thời tiết
được gọi là triều tín. Khi nước lớn thường có gió, nước đứng thì
gió lặng. Thông thường, sau ngày mồng một và 2 - 3 ngày sau
rằm, nước lên, gió mạnh; sau ngày thượng huyền (ngày 8,9) và
ngày hạ huyền (22,23), nước rút dần trong hai, ba ngày, gió cũng
dịu dần. Thủy triều ở Nhơn Trạch cũng như ở vùng Gia Định có
khác với nhiều nơi ở chỗ: Mỗi tháng có 2 hoặc 3 ngày nước không
lớn ròng gọi là “nước ươn”; mùa gần Tết có đến 3, 4 ngày. Trong
tháng 8 và tháng 9, thủy triều lớn khác thường, tiết hạ chí lớn vào
ban ngày, tiết đông chí lớn vào ban đêm. Dân gắn với sông nước
1  G ia Định thành thông chí, Tập I : Tinh dã chí, Trịnh Hoài Đức, bản dịch của Lý Việt Dũng,
NXB Đồng Nai, 2005.
17

2.8 Page 18

▲back to top


Tổng quan
thường theo lệ con nước lớn ròng mà tổ chức sinh hoạt: Lấy khi
nước lớn làm thủy đầu gọi là nước rong, khi nước xuống mức thấp
nhất là thủy vĩ, gọi là nước kém. Nước rong nhiều cá tôm, nước
kém ít tôm cá, theo đó mà hành nghề đánh bắt. Lúc giao thời giữa
mùa thu và mùa hạ, có lúc con nước lớn buổi mai chưa xuống mà
con nước ròng buổi chiều đã nối tiếp, thêm có gió Đông Nam đẩy
mạnh nước biển dâng lên, ấy là “đạp triều”, dân địa phương gọi
là nước “ươn rong”. Do đất đai thường ẩm thấp, thịnh dương khí
nên con người thường khô da, nhiều mồ hôi; gặp khi “trái gió trở
trời”, dễ bị sốt rét, phong thấp, cảm mạo.
Theo Địa chí Đồng Nai1, khí hậu ở Nhơn Trạch mang đặc
điểm chung của tỉnh Đồng Nai, thuộc “khí hậu nhiệt đới gió mùa
cận xích đạo”, có độ dài ban ngày ít thay đổi, trung bình 12 giờ
47 phút/ngày; thời gian nắng trung bình 4 - 9,5 giờ ngày (chiếm
45 - 65% độ dài ban ngày), cả năm có khoảng 2.500 đến 2.860 giờ
nắng; bức xạ luôn dương, trị số hàng năm 70 - 74 kkcal/cm2. Hàng
năm, Nhơn Trạch chịu tác động của 3 hệ thống gió mùa châu Á,
trong đó rõ rệt nhất là gió mùa hạ (gió mùa Tây Nam), gió mùa
Ấn Độ Dương (cũng thuộc gió mùa Tây Nam), gió mùa Nam Thái
Bình Dương. Hệ thống gió mùa này tác động làm cho thời tiết ở
Nhơn Trạch thiên về nóng, ẩm, có mưa nhiều đầu mùa, thi thoảng
có giông nhẹ, ít bão, không lạnh. Ở Nhơn Trạch, khí hậu 4 mùa
không rõ rệt như ở xứ Bắc, xứ Trung. Có thể phân biệt thành hai
mùa: Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 (hoặc tháng 4 năm sau),
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Lượng mưa trung bình thường
lớn hơn 100mm, có khi dưới 100mm. Nhiệt độ trung bình cao nhất
trong mùa khô, khoảng 31,1 - 32,10C; thấp nhất trong mùa mưa,
khoảng 22,9 - 24,00C. Biên độ giữa nhiệt độ cao và thấp không
nhiều.
1  Địa chí Đồng Nai, Tập II, trang 73 - 98, NXB Đồng Nai, 2001.
18

2.9 Page 19

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Khí hậu như vậy là ôn hòa, tốt cho vạn vật; thuận cho con
người sinh sống và phát triển sản xuất.
6. Sinh cảnh, động - thực vật
Điều kiện tự nhiên về địa tầng, địa mạo, đất đai khí hậu đã
tạo cho Nhơn Trạch sinh cảnh đa dạng với hệ động thực vật phong
phú mang đặc trưng của miền sông nước ngập mặn “rừng giồng
nối liền Rừng Sác”1.
Sinh cảnh, động thực vật ở Nhơn Trạch có đủ biểu hiện của
hệ sinh thái chung của toàn tỉnh thuộc vùng thấp, ẩm, nhiệt đới;
nhưng Nhơn Trạch có đặc trưng của sinh cảnh vùng ngập mặn
nối liền với sinh cảnh đất giồng trung du. Theo đó, động thực
vật gồm đủ các nhóm phổ quát và nhóm có tính đặc thù. Hiện
Nhơn Trạch chưa có bản thống kê về động thực vật đặc thù ở địa
phương, nhưng có thể hình dung bức tranh về động thực vật ở
Nhơn Trạch mang đường nét chung toàn tỉnh và màu sắc đậm nét
ở địa phương.
Về động vật, có nhóm động vật quí hiếm, nguồn gien dự trữ
quan trọng cần bảo tồn, nghiên cứu khoa học, đặc biệt là cá sấu.
Có nhóm động vật phổ quát, có thể săn bắt phục vụ đời sống hoặc
làm dược liệu (nai, heo rừng, nhím, khỉ, kỳ đà, chim, rắn); đặc biệt
là các loài thủy sinh vùng ngập mặn như cá nâu, cá dứa, vọp, chem
chép, sam, tôm, cua ... Nhiều động vật không xương thuộc hệ côn
trùng cũng rất phong phú, ấn tượng trong đời sống (như đom đóm,
kiến, mối ...).
Thực vật ở Nhơn Trạch cũng đa hệ, đa tầng, đa dạng; đáng
kể là thảm thực vật ven sông rạch thích ứng với nước mặn - nước
ngọt - nước lợ theo nhịp thủy triều. Các hệ thực vật tự nhiên ở
1  Lời mở đầu Văn bia ở Đền thờ Liệt sĩ Nhơn Trạch.
19

2.10 Page 20

▲back to top


Tổng quan
Nhơn Trạch phân bổ theo hệ sinh thái rừng. Có hai hệ rừng ở
Nhơn Trạch, dân gian gọi là “rừng giồng và Rừng Sác”.
Rừng giồng bao quát ở vùng cao khắp các xã ở Nhơn Trạch,
nhất là các xã Phước Thiền, Long Tân, Hiệp Phước, Long Thọ,
Phước An. Một bộ phận rừng giồng trong kháng chiến được gọi
là “khu Lòng Chảo”. Rừng giồng Nhơn Trạch thuộc hệ rừng lá
rộng thường xanh ẩm nhiệt đới, đặc điểm là cây họ dầu chiếm ưu
thế, vượt tán, thành chòm, thành cụm hoặc lán; gồm nhiều cây “họ
hàng” như: Dầu song nàng, dầu rái, sao đen, chai, vên vên. Bên
cạch các loài cây họ dầu còn có các cây gỗ mọc hỗn giao, có loại
quí hiếm như gõ, trắc, cẩm lai, giáng hương; thường là các loài
cây phổ quát như bình linh, bằng lăng, trâm.
Rừng giồng Nhơn Trạch có cấu trúc phức hợp, nhiều tầng, ít
nhất là 5 tầng: Tầng vượt tán (gồm cây gỗ trên 40m); tầng ưu thế
sinh thái (cây gỗ cao từ 20 - 30m); tầng dưới tán (gồm cây mọc rải
dưới tán rừng, cao dưới 15m); tầng cây bụi (gồm các loại cây thấp
nhỏ, cao 2 - 8m); tầng thảm tươi (tầng thấp nhất, gồm cây, cỏ dưới
2m). Trong mỗi tầng rừng đều có các loài phụ sinh họ đậu, họ dây
leo nương theo cây cỏ cùng phát triển. Ở tầng thảm tươi, một số
nơi, dân địa phương còn gieo trồng thêm thơm dứa, trà và một số
loại cây khác để khai thác, sử dụng.
Rừng Sác Nhơn Trạch thuộc rừng ngập mặn cùng hệ sinh
thái đặc biệt ở vùng cửa sông Đồng Nai chảy ra biển, như ở Cần
Giờ, Vũng Tàu. Rừng Sác hình thành do các nhánh sông trước khi
hợp lưu chia cắt các vùng đất thành nhiều đảo nhỏ, chịu tác động
của thủy triều lên xuống, đất bùn lầy lội, mặn nhiều, nên chỉ phát
triển các loài cây phù hợp đất nhiễm mặn. Ưu thế của Rừng Sác
là cây đước. Đước ở Rừng Sác, Nhơn Trạch không lớn như ở Bến
Tre, Cà Mau nhưng đước mọc dày đặc, bịt bùng, hợp thành chòm,
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lán, cùng các cây khác thành các tổ hợp: Đước - bần, đước - vẹt
- mấm, đước - dà vôi - mấm. Cùng với đước, còn có các loại cây
phù hợp với địa thế cao, không thường xuyên ngập mặn, như dừa
nước, chà là, ráng.
Rừng Sác ở Nhơn Trạch có tác dụng làm tăng chất lượng
môi trường nước, đem lại nguồn thức ăn dồi dào cho cá tôm, chồn,
khỉ cùng các loài chim; đóng vai trò lưu chuyển các dòng dinh
dưỡng nội địa với sông biển, đặc biệt là “vệ sĩ” phòng hộ chống
xâm thực và cố định bãi bồi ven sông biển. Trịnh Hoài Đức có mô
tả Rừng Sác trong Gia Định thành thông chí1: Bên những dòng
sông bao la tận chân trời lại có những hang động bịt bùng thế giới
riêng một cõi.
Với đặc điểm như thế, Rừng Sác đã trở thành căn cứ an toàn
trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
7. Vị trí chiến lược
Với điều kiện tự nhiên, địa thế cùng hệ thống sông rạch thuận
cho phát triển kinh tế và dân sinh, Nhơn Trạch không chỉ giàu đẹp
mà còn là địa bàn có vị trí chiến lược cho việc thiết lập hệ thống
quản lý.
Vị trí của Nhơn Trạch như là điểm giao 3 góc của tam giác
Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu. Rõ hơn, Nhơn
Trạch là trung tâm kết nối của vùng động lực Thành phố Hồ Chí
Minh - Biên Hòa, Long Thành - Bình Dương - Bà Rịa Vũng Tàu
- Long An; bằng đường biển, đường sông, đường bộ, đường hàng
không đều thuận lợi. Xưa có lũy Phước Tứ nối miệt sông Đồng
Môn với vùng đất Bưng Nghệ có di tích Bàu Thành (hiện còn di
1 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tập II, Sơn xuyên Chí, bản dịch của Lý Việt
Dũng, NXB Đồng Nai, 2005.
21

3.2 Page 22

▲back to top


Tổng quan
tích). Nhơn Trạch cùng Long Thành cặp theo Quốc lộ 15(1) nối
huyết mạch xa lộ Biên Hòa với Bà Rịa - Vũng Tàu, cũng là nối
vùng sông rạch với miền rừng bán sơn địa. Tỉnh lộ 19 nối với
tỉnh lộ 17 tại ngã ba Phước Thiền chạy ra khu vực xã Đại Phước
tạo ra khu Lòng Chảo nối tiếp với Rừng Sác mênh mông, ôm
gọn sông Lòng Tàu, thông với Cần Giờ ra biển khơi, tiếp cận hải
phận quốc tế. Như vậy, Nhơn Trạch như là trái tim nối các huyết
mạch đồng thời là cuống họng trọng huyệt của trung tâm đầu não
Sài Gòn. Vậy nên, chính quyền ngoại xâm Pháp và Mỹ đều xem
Nhơn Trạch là trọng địa, tập trung nơi đây binh lực hiện đại nhất
với quyết tâm cao nhất, càn quét nhiều nhất để bảo vệ cơ quan đầu
não. Các căn cứ quân sự lớn với phương tiện chiến tranh khổng
lồ được xây dựng ở Thành Tuy Hạ, Tổng kho Long Bình, Căn cứ
Nước Trong, cụm pháo Bến Sắn, Chi Khu Nhơn Trạch, Chi khu
Long Thành, các trường sĩ quan, thiết giáp, biệt kích và hệ thống
tàu chiến dày đặc sông Lòng Tàu cốt để bao vây, bóp nghẹt phong
trào cách mạng Nhơn Trạch, chia cắt với Long Thành và mặt trận
Đông Nam Bộ. Cũng chính vì vậy, Đảng chọn Nhơn Trạch làm
địa bàn chiến lược, lãnh đạo xây dựng phong trào cách mạng đấu
tranh quyết liệt làm thất bại mọi âm mưu của địch, bảo vệ quê
hương, góp phần cho thắng lợi chung. Cách mạng cũng xây dựng
chiến khu Phước An, Phước Thái, Phú Mỹ (thời chống Pháp), đặc
khu Rừng Sác, khu Lòng Chảo; tập trung huy động các lực lượng
vũ trang tinh nhuệ gồm chủ lực miền, tỉnh, địa phương cùng dân
quân du kích phối hợp chiến đấu, đánh thắng quân thù.
Điều kiện tự nhiên như thế đã tạo cho Nhơn Trạch sắc thái
riêng trong biểu hiện chung của Biên Hòa - Đồng Nai ở vùng
Đông Nam Bộ. Nhơn Trạch là vùng đất đa hệ về sinh thái, có địa
1  Quốc lộ 15 vào lúc đó gồm cả quốc lộ 51 hiện nay (trừ đoạn từ ngã ba Vũng Tàu đến
ngã ba cầu Suối Quan)
22

3.3 Page 23

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thế trung chuyển trong kết nối vùng, thuận lợi về sản xuất và giao
thương, đắc địa về an ninh quốc phòng, nhiều lợi thế trong xây
dựng hạ tầng phát triển công nghiệp. Có thể gọi Nhơn Trạch là
vùng đất có ưu thế dịa kinh tế” và “địa chính trị”.
II. DI TÍCH TIỀN SỬ
1. Các di tích khảo cổ
Theo tài liệu ghi chép của các nhà khảo cổ1, Nhơn Trạch
xưa in dấu người tiền sử ở địa bàn rộng khắp vùng đất ven sông
Thị Vải, sông Đồng Nai, gắn với các địa danh Đồng Tranh, Thất
Giang, Rạch Thiềng Liềng, Cây Mắm, Thành Tuy Hạ, Phước
Thiền, Phước Thọ, Phước Khánh, Phước Kiển, Vũng Gấm, Bà
Trường, Phước An, Phú Hội, Lòng Tàu, Ông Kèo ... Trong đó, các
di chỉ khảo cổ ở Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá được xác định là các
di tích của người xưa từng đã sinh sống ở Nhơn Trạch từ nhiều
nghìn năm trước.
Di chỉ Cái Vạn2: được biết đến đầu tiên trong “Sưu tập
Chénieux” mà E.T. Hamy khảo tả năm 18973. Di tích khảo cổ
học Cái Vạn thuộc ấp 3, xã Long Thọ; có tọa độ 10º42’14” vĩ
độ Bắc - 106º58’00” kinh độ Đông; nằm trong một vùng đất cát
bằng phẳng, thấp dưới 5m, giữa những vườn cây ăn trái trên dải
đất giữa con rạch Cái Vạn và và rạch Ông Hỉ, thông với sông Thị
Vải. Tài liệu “Sưu tập Chénieux” do E.T.Hamy công bố năm 1897
có nhắc đến di chỉ Cái Vạn, được nhiều học giả Pháp chú ý. Cuối
năm 1976 và đầu năm 1977, người dân địa phương ở Cái Vạn báo
cáo và gửi tặng huyện Long Thành nhiều hiện vật nhặt được, gồm:
67 rìu bôn có vai, 26 rìu bôn tứ giác, 8 đục, 1 vòng tay, 2 phác vật
vòng, 5 dao gặt, 4 bi gốm ...
1  Phạm Đức Mạnh, Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, NXB Đồng Nai, 2019
2  Có tài liệu ghi là Cai Vạn
3  Dẫn theo Phạm Đức Mạnh: “Malleret, L.1963; Fontaine, H.1971; Reinecke, A.1994”
23

3.4 Page 24

▲back to top


Tổng quan
Trên cơ sở những phát hiện đó, tháng 3 và tháng 6.1977,
các nhà khảo cổ Phạm Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Long và Đỗ Bá
Nghiệp tiến hành điều tra ở Cái Vạn, thu thập hàng trăm công cụ;
đào thám sát 2 hố = 4m², phát hiện tầng văn hóa sâu 85cm với hiện
vật: 35 rìu có vai, 7 rìu tứ giác và phác vật, 8 mảnh lưỡi và chuôi
rìu, 4 đục và phác vật, 1 mảnh dao đá, 1 phác vòng tay, 1 dọi se sợi
bằng đá và nhiều gốm thô.
Tháng 4.1978, Bảo tàng Đồng Nai tổ chức khai quật di tích
Cái Vạn lần thứ nhất với hai hố kỹ thuật, diện tích 100m2; thu
nhiều hiện vật quí (263 đồ đá, 1069 mảnh gốm và nhiều phác
vật khác).Với Kết quả khảo sát ấy, những người khai quật nhận
định “di chỉ Cái Vạn thuộc thời đại Đồng thau đã bước qua giai
đoạn phát triển ban đầu, có niên đại Thiên niên kỷ II trước Công
nguyên”.
Tiếp theo, Bảo tàng Đồng Nai phối hợp các cơ quan chuyên
ngành tổ chức nhiều đợt điều tra, thám sát, nghiên cứu sâu di tích
Cái Vạn (trong những năm 1983-1984, 1990, 2000, 2003); thu
thập thêm hàng nghìn hiện vật giá trị (đủ loại đá, gốm, gỗ, xương
thú), trong đó có thêm 21 tiêu bản mới, 92 cọc gỗ nhà sàn. Kết quả
khảo cổ chứng tỏ Cái Vạn là một di tích cư trú, địa bàn khá rộng
lớn, thuộc loại hình di tích vùng thấp ven biển khác với kiểu cư trú
trên gò đồi cao đất đỏ ở nơi khác. Các sưu tập hiện vật đá và gốm
ở Cái Vạn có những mối liên hệ mật thiết với các di tích khác ở
Dốc Chùa, Suối Chồn, Cù Lao Rùa, Bưng Bạc, Bưng Thơm; đồng
dạng với phong cách “văn hóa Đông Sơn”. Tổng thể tồn tích vật
chất thu nhận từ di tích Cái Vạn cũng cho phép hình dung diện
mạo các làng “chài nông” hay “chài thông thương” cỡ lớn, hình
thành tiểu vùng kinh tế ở miền rừng ngập mặn cận biển ven sông
Thị Vải từ hơn 3.000 năm về trước.
24

3.5 Page 25

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Di chỉ Cái Lăng1 có tọa độ 10º41’ vĩ Bắc - 106º57’ kinh
Đông; thuộc địa phận ấp 4, xã Long Thọ, nằm trong hệ rừng ngập
mặn đầu nguồn sông Thị Vải cách Cái Vạn gần 2km về phía Đông,
được phát hiện năm 1977 với bộ hiện vật gồm 382 mảnh gốm thô,
4 đồ đá và 2 quặng sắt. Hiện vật ấy cho phép xếp di chỉ Cái Lăng
vào nhóm di tích có niên đại sơ kỳ thời đại Sắt.
Mùa khô 1983-1984, Phạm Đức Mạnh và Lưu Văn Du trở
lại Cái Lăng, phát hiện nhiều di vật quý trên gò Chà Là, trong đó
có cuốc, rìu đá, chày, bàn mài, nhiều cọc gỗ đầu vát nhọn, đặc biệt
có cả phần đầu của thuyền cổ. Hiện vật mới tìm được thôi thúc các
nhà khảo cổ tiếp tục nghiên cứu sâu di chỉ Cái Lăng.
Bảo tàng Đồng Nai phối hợp các cơ quan chuyên ngành tiến
hành 2 đợt khảo sát Cái Lăng (đợt 1: Tháng 5.1996; đợt 2: năm
2003); cả hai đợt thu được các loại hiện vật như đã thám sát với số
lượng gấp bội; đặc biệt có thêm nhiều hiện vật mới có ý nghĩa đặc
trưng: Khuôn đúc rìu, lao có ngạnh, chân cà ràng, cọc gỗ đầu vót
nhọn, nhiều cọc có ngoàm để gác gỗ buộc dây của kiến trúc nhà
sàn đơn giản, đồ gốm có 1 dọi se sợi, có cả gốm mịn “tinh tế và
cao cấp” sản xuất đáp ứng nhu cầu mỹ cảm và tâm linh.
Dựa vào kết quả giám định bằng C14, các nhà khảo cổ tin
rằng: “Có một nền văn hóa Cái Lăng” niên khoảng 3000-2500
năm cách đây ở cả vùng ngập mặn Nhơn Trạch với trình độ văn
minh vươn đến cái đẹp và sự thiêng.
Di tích Rạch Lá có tọa độ 10º39’53” Bắc - 106º57’59” Đông,
nằm ven rạch Cốc Nhỏ là nhánh của Rạch Lá, thuộc địa phận ấp
Quới Thạnh, xã Phước An. Khi tiến hành khảo sát Cái Lăng, cán
bộ khảo cổ có nhiều cuộc điều tra thám sát ở đây, phát hiện nhiều
1  Có người gọi là Cá Lăng
25

3.6 Page 26

▲back to top


Tổng quan
hiện vật. Năm 2002, Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Đồng Nai phối
hợp tổ chức đã khai quật 3 hố diện tích 103m², thu được 241 hiện
vật đồng dạng với di tích Cái Vạn, Cái Lăng. Giám định C14 cho
thấy niên đại cọc gỗ đẽo: 4520 ± 95 cách đây, niên đại công cụ gỗ
đào đất: 3790 ± 60 cách đây.
2. Chủ nhân văn hóa tiền sử
Các di tích Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá cho thấy sản vật của
người tiền sử. Đến di tích Gò Me, có thêm di vật cụ thể về con
người tiền sử.
Di tích Gò Me1 thuộc ấp Chính Nghĩa, xã Vĩnh Thanh, nằm
trên dãy gò cát rộng khoảng 10ha, cách rạch Ông Kèo về hướng
Đông Bắc khoảng 1km; không xa di tích Rạch Lá.
Ngày 15.7.2004, Bảo tàng Đồng Nai phối hợp với Trung tâm
Nghiên cứu khảo cổ vùng Đông Nam Bộ tổ chức khai quật 9 hố
kỹ thuật với diện tích 204m2. Cùng với nhiều hiện vật thu được
gồm đồ đá, đồ kim loại, đồ gốm, gỗ, xương đồng dạng với hiện
vật ở Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá; các nhà khảo cổ phát hiện được
hai bộ di cốt người ở tầng văn hóa sâu khoảng 60cm. Bộ di cốt 1
cao khoảng 1,67m, còn 2 răng và gần như đủ bộ xương (chỉ thiếu
xương cánh tay trái và hai xương đùi). Bộ di cốt 2 cách vị trí di cốt
1 khoảng 3m, ước chiều cao khoảng 1,53m, hàm răng còn tương
đối đều, bộ cốt còn tương đối nguyên vẹn.
Bảo tàng Đồng Nai đưa hai bộ di cốt này về bảo tàng, cùng
các nhà chuyên môn giám định, nghiên cứu cả hình thức mộ táng
và đồ tùy táng khác thường. Kết quả nghiên cứu và giám định C14
cho thấy: Hai di cốt nêu trên là chủ nhân của hiện vật văn hóa đã
1  Theo tài liệu Khai quật di tích Gò Me của Lưu Văn Du, Những phát hiện mới về khảo cổ
học năm 2004, NXB Xã hội, 2004, trang 169 - 170.
26

3.7 Page 27

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
khai quật, sống cách đây hơn 3.000 - 2.500 năm, thuộc “Hậu kỳ
Kim khí”.
Hai bộ di cốt lần đầu tiên phát hiện chưa đủ để trả lời về chủ
nhân văn hóa thời tiền sử ở Nhơn Trạch, nhưng qua đó cũng có thể
hình dung về đời sống của cộng đồng người nơi đây.
Các nhà khảo cổ khẳng định từ hơn 3 nghìn năm trước người
tiền sử đã tổ chức đời sống đạt trình độ văn minh cao liền mạch
từ thời đồ đá đến kim khí ở vùng đất Nhơn Trạch. Họ từng bước
thích ứng với môi trường (lảm nhà sàn trên vùng ngập nước),
ngoài phương thức kinh tế săn bắn, hái lượm, cư dân có biết làm
ruộng, đánh bắt thủy - hải sản; biết dệt vải, chế tác công cụ lao
động bằng đá, gỗ, gốm, đồng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt cộng đồng. “Cư dân cổ” từ địa bàn này, đã trở thành lớp cư
dân tiền trạm, mở cửa thông ra biển để chuyển tải nhưng sản phẩm
văn hóa kim khí vùng châu thổ sông Đồng Nai đến các vùng phụ
cận, gần nhất là khu vực sông Vàm Cỏ và châu thổ sông Cửu Long
đang trên quá trình bồi tụ hình thành.
Thời này, đã xuất hiện tầng lớp thợ thủ công biết khai thác,
trao đổi vỉa mỏ lộ thiên, biết chế tác công cụ bằng sừng, biết tạo
tác đá có cấu tạo hạt mịn và kiến trúc hạt (hoặc hạt vảy). Ngoài
loại hình cư trú trên nhà sàn, còn có loại hình “làng cổ” cư trú trên
những giồng, gò nhiều cát sỏi như ở Gò Me (Miếu Ông Kèo) ở
Chính Nghĩa (Vĩnh Thanh), Gò Ông Năm Râu (Đồng Ông Trúc)
ở Phước An. Chứng lý từ hệ thống hiện vật cũng ghi nhận người
Nhơn Trạch thời “hậu kỳ Đồng-sơ kỳ Sắt” liên tục “bám biển”,
kiến tạo nhiều điểm tụ cư “chài - nông - thương” mang vóc dáng
“chi cảng” hay những “tiền cảng thị” cỡ lớn để giao thương với
nhiều trung tâm văn hóa - kỹ thuật khác nội vùng và ngoại vùng.
27

3.8 Page 28

▲back to top


Tổng quan
III. ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI CƯ DÂN VIỆT
1. Quá trình hình thành và thay đổi về hành chính
Đất đai do thiên nhiên kiến tạo. Lịch sử hành chính do con
người hình thành. Thời tiền sử đã lùi xa, không còn dấu vết về
tổ chức của cộng đồng. Hành chính nêu ở đây thuộc giai đoạn
từ khi người Việt đến khai khẩn, sinh sống. Cột mốc hành chính
được nhắc đến là năm 1698 khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh
chúa Nguyễn vào kinh lý phương Nam. Trước đó, vùng đất Nhơn
Trạch đã có sự sống của cư dân Việt, nhưng chưa có địa danh hành
chính.
Năm 1698, chúa Nguyễn Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần)
phái Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phương Nam.
Nguyễn Hữu Cảnh đã thiết lập hệ thống hành chính, đặt miền đất
mới (cả phương Nam thời ấy) thành phủ Gia Định, gồm 2 huyện
Tân Bình (đặt dinh Phiên Trấn) và Phước Long (đặt dinh Trấn
Biên). Trong đó, huyện Phước Long có địa giới hành chính rất
rộng, bao gồm các tỉnh phía Đông sông Sài Gòn ngày nay như:
Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và một
phần tỉnh Bình Thuận, thành phố Hồ chí Minh. Vùng đất Nhơn
Trạch thuộc địa bàn dinh Trấn Biên, huyện Phước Long.
Năm 1778, Nguyễn Ánh làm chủ vùng đất Gia Định, nhiều
lần chống cự với quân Tây Sơn, bôn ba nhiều nơi, đến năm 1780
xưng vương, tập trung tổ chức lực lượng để chuẩn bị tiến quân
diệt nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây
Sơn, giành vương quyền, lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long.
Vua Gia Long chia đất Gia Định thành 5 dinh: Trấn Biên,
Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định và trấn Hà Tiên. Ngày 12 tháng
Giêng niên hiệu Gia Long thứ 7 (năm 1808), phủ Gia Định được
đổi tên là thành Gia Định, các dinh đổi thành trấn, trong đó dinh
28

3.9 Page 29

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa, huyện Phước Long được nâng
thành phủ. “Đó là căn cứ vào đất đai rộng hay hẹp, dân cư nhiều
hay ít và thế đất liền nhau mà chia đều ra. Lại đặt thêm tổng và
phân chia giới hạn1. Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu nào đề cập
đến cấp hành chính: tổng, xã, thôn ở thời điểm này.
Sách Phủ Biên Tạp lục2 của Lê Quí Đôn (1766) có nêu về
địa danh các vùng đất cận lân với Nhơn Trạch (Bà Rịa, Bến Nghé,
Cần Giờ, Mô Xoài). Nhơn Trạch chưa có tên nhưng vùng đất ắt
đã định hình.
Sách Gia Định thành thông chí3 của Trịnh Hoài Đức (viết
khoảng năm 1820), kê chi tiết các đơn vị hành chính của trấn Biên
Hòa. Theo đó, trấn Biên Hòa gồm 1 phủ (Phước Long), 4 huyện
(Phước Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An), 8 tổng (Phước
Vinh, Chánh Mỹ, Bình Chánh, An Thủy, Long Vĩnh, Thành Tuy,
An Phú, Phước Hưng) và 307 xã, thôn, phường. Vùng đất Nhơn
Trạch thuộc Tổng Thành Tuy (mới đặt).
Tổng Thành Tuy được mô tả: Phía Đông giáp núi Nữ Ni (tức
núi Thị Vải) thuộc tổng An Phú (huyện Phước An) đến cửa sông
Ngã Bảy (còn có tên gọi là Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trao
Trảo (thuộc tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành) cho đến sông
lớn Nhà Bè; Nam giáp Phước Bình giang (tức sông Sài Gòn); Bắc
giáp các sách man ở rừng già cho đến sông Đồng Môn4.
Trong 29 thôn của Tổng Thành Tuy, có những tên thôn ứng
với địa bàn Nhơn Trạch: Vĩnh Xương, Mỹ Khoan, Phước Lộc,
Phước Thành, Phú Mỹ An, Phước Lợi An, Phước Kiển, Phước Lai.
1  Gia Định thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 133
2  Lê Quí Đôn, Phủ Biên tạp lục, bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo dục, 2007
3  Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí”, bản dịch của Lý Việt Dũng, NXB Đồng Nai,
2005
4  Gia Định thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 139
29

3.10 Page 30

▲back to top


Tổng quan
Năm 1832, trấn Biên Hòa được đổi thành tỉnh Biên Hòa.
Theo Địa bạ tỉnh Biên Hòa năm 1836, tỉnh Biên Hòa cũng gồm
1 phủ, 4 huyện như trước đó, nhưng số tổng đã nâng từ 8 lên 22
tổng; số thôn, xã, phường giảm từ 307 còn 285 là do sáp nhập một
số thôn, xã nhỏ lại1. Trong đó, tổng Thành Tuy được chia thành
hai tổng, là tổng Thành Tuy Thượng (gồm 12 thôn) và tổng Thành
Tuy Hạ (gồm 13 thôn, ấp). Năm 1837, thêm huyện Phước Tuy và 2
huyện An Ngãi, Long Khánh. Vùng đất Nhơn Trạch thuộc địa bàn
tổng Thành Tuy Hạ (huyện Long Thành). 13 thôn, ấp có tên ứng
với địa bàn Nhơn Trạch, gồm: Thôn Bình Phú, thôn Lương Phú
Đông, thôn Hưng Thạnh, ấp Mỹ Hội, thôn Long Hiệu, thôn Phú
Mỹ, thôn Phước Kiển, thôn Phước Thạnh, thôn Vĩnh Tuy, thôn
Phước Lai, thôn Tân Tường, thôn Phước Thành, thôn Tuy Thạnh.
Theo Đại Nam nhất thống chí2 (biên soạn từ 1865 - 1882),
vùng đất Nhơn Trạch vẫn thuộc huyện Long Thành. Năm Gia
Long thứ 7 (1808) đặt huyện Long Thành thuộc phủ Phước Long.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), cải đổi Long Thành thuộc phủ
Phước Tuy. Không thấy các tài liệu này ghi cụ thể về thôn, ấp.
Thời ấy, việc phân định thôn, làng, xã chưa chặt chẽ, xóm
ấp cũng thế. Người ta gọi không phân biệt làng, thôn, xã; có khi
thôn lớn hơn xã. Tên xóm, ấp thường gắn với đặc điểm tự nhiên
ở Nhơn Trạch gò (Gò Keo, Gò Da), giồng (Giồng Cát Lái), rạch
(Rạch Bãi, Rạch Ngựa), cù lao, Tắt (Tắt Hông), hang (Hang Nai);
hoặc địa danh gắn với các vị tiền hiền khai khẩn khai cơ (Cù Lao
Ông Cồn, Bà Bông, Bà Trường, Vàm Ông Mai)...
Tổ chức làng xã như mô hình làng xã Nam Bộ. Mỗi làng
xóm có ban hương chức hội tề, hoạt động mang tính tự quản theo
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai 2001, trang 248
2  Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, NXB Thanh niên, 2012
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
qui định nghiêm nhặt của triều Nguyễn gồm 12 người: 1. Hương
cả (còn có tên gọi là Cai chủ, Trùm cả, Trùm trưởng, Cả trưởng,
Hương nhất...) là người đứng đầu Hội đồng kỳ mục, được quyền
đề cử nhân sự vào Hội đồng. 2. Hương chủ (còn có tên gọi là
Hương nhì): là người đứng thứ hai trong Hội đồng kỳ mục, chịu
trách nhiệm luật lệ, được quyền phân xử các vụ việc khiếu kiện.
3. Hương sư: là người làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. 4. Hương
chánh: là người làm nhiệm vụ thu thuế, chi xuất, phân công sai
phái công vụ. 5. Hương quản: là người chuyên trách giữ gìn an
ninh trật tự, kiểm tra nhân khẩu trong làng xã. 6. Hương giáo:
là người trông coi việc giáo dục tại làng xã, đôi khi có thể giúp
Thôn trưởng thu thuế. 7. Hương thân: là người làm nhiệm vụ giáo
hóa thuần phong mỹ tục. 8. Hương hào: là người làm nhiệm vụ
tuần phòng, kiểm tra an ninh trật tự. 9. Thôn trưởng (còn có tên
gọi là Xã trưởng): là người làm nhiệm vụ trung gian giữa Hội
đồng kỳ mục địa phương và chính quyền cấp trên. Là người thừa
hành công vụ thu các loại thuế, chi xuất nhu phí, giữ con dấu và
được phép giải quyết các vụ việc trong phạm vi cho phép. 10.
Lý trưởng: là người giữ chức vụ trưởng một lý (một xóm) phụ tá
Thôn trưởng, chỉ huy đội dân canh và thúc giục dân đinh đóng
thuế. 11. Trưởng ấp, Giáp thủ, Trưởng phường, Cai lân: là những
người phụ tá Thôn trưởng, giữ gìn sổ bộ của ấp, giáp, phường, lân.
12. Cai tuần: là đội trưởng dân tuần phòng.
Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm 2 tỉnh miền Đông
của Nam kỳ. Tỉnh Biên Hòa thất thủ, rơi vào tay giặc Pháp. Ngày
9.5.1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất, nhượng đứt cho
Pháp 3 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Thời điểm này, tuy
triều đình Huế cắt đất giao cho giặc, nhưng lòng dân và các sĩ phu,
nghĩa binh yêu nước không phục. Vì thế, bước đầu thực dân Pháp
phải lo ổn định các vùng tạm chiếm, tạm thời giữ nguyên các đơn
31

4.2 Page 32

▲back to top


Tổng quan
vị hành chính của triều đình Nguyễn như trước đây, có điều chỉnh
và gieo cấy nhân sự để thực hiện ý đồ xâm chiếm.
Tháng 1.1863, soái phủ Nam kỳ xác định tỉnh Biên Hòa gồm
2 phủ, 4 huyện như cũ, các thôn được đổi thành làng. Riêng tổng
Thành Tuy Hạ có 21 làng, xã, tăng 8 làng, xã so với năm 1836.
Thời này, vùng đất Nhơn Trạch thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện
Long Thành, phủ Phước Tuy.
Năm 1864, Đô đốc Lagrandière chia 3 tỉnh miền Đông của
Nam kỳ thành 7 tiểu khu chỉ huy, trong đó tỉnh Biên Hòa chia
thành 2 tiểu khu: Biên Hòa và Bà Rịa. Việc phân chia lãnh thổ này
chủ yếu phục vụ ý đồ quân sự của giặc Pháp.
Đến năm 1865, thực dân Pháp bắt đầu ổn định sự cai trị tại 3
tỉnh miền Đông của Nam kỳ, đã chia 3 tỉnh này thành 13 sở tham
biện (tương đương cấp tỉnh). Tỉnh Biên Hòa có 5 sở tham biện,
gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo Chánh.
Tháng 6.1866, tỉnh Biên Hòa lại chia thành 6 địa hạt (tương
đương cấp quận), gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Thủ Đức,
Bình An, Bảo Chánh.
Sau một vài thay đổi nữa của nhà cầm quyền Pháp, đến năm
1887, theo phân định của chính quyền Pháp, cả Nam kỳ có 22 sở
tham biện. Ngày 20.12.1899, nhà cầm quyền Pháp đổi tên sở tham
biện thành tỉnh.
Theo Biên Hòa sử lược của Lương Văn Lựu 1, sau nhiều lần
thay đổi về hành chính, đến thời điểm năm 1878, tỉnh Biên Hòa
có 17 tổng, 158 làng; trong đó có tên 17 làng thuộc tổng Thành
Tuy Thượng và Thành Tuy Hạ ứng với vùng đất Nhơn Trạch: 1.
Mĩ Khoan (có 1 xóm Chùa Ông); 2. Phước Kiển (Chợ Dường), có
1  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược toàn biên, Tập I, NXB Thế giới, 2016
32

4.3 Page 33

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Xóm Trên, Xóm Dưới; 3. Phước Lộc có 6 ấp: Phước Hòa (Trường
Dầu), Phước An (Đồng Môn), Phước Hưng (Quán Tre), Phước
Vinh (Xóm Bứng), Phước Thạnh (Trảng Mè), Phước Phong (Gò
Me); 4. Phước Lai (Chợ Dỏ), có 1 ấp Phước Hưng (Xóm Chùa); 5.
Phước Long (Chợ Mới), có ấp ông Thiện; 6. Phước Thiền có 5 ấp:
Phước Thuận (Bến Cam), Phước Hòa (Bến Sắn), Phước Tân (Xóm
Trầu), Phước Lợi (chợ Quán), Long Điền (Đồng Điền); 7. Phước
Thọ có 4 xóm: Đồng Lớn, Bàu Nâu, Lão Hợi, Suối Cang; 8. Long
Hiệu (Bến Lẫm), có ấp Long Hòa (vàm Đồng Môn), Xóm Hàng;
9. Lương Thiện (Rạch Ông Mai) có 4 ấp: Thành Hòa (Rạch Cá),
Rạch Bãi, Rạch Miểu, Rạch Miểng Sành; 10. Mỹ Hội (Hòn Một)
có ấp Mĩ Thành (Gian Lò) và Xóm Bàu Cá; 11. Phú Mỹ có (Bến
Cam); 12. Phước An (Rạch Cóc) có 6 ấp: Bàu Bông (Hang Nai),
An Cẩm, Bình Quới, Quới Thạnh, Ba Doi, Tân Lập (Bà Hào); 13.
Phước Khánh (Rạch Ông Thuộc) có 5 ấp: Đông Thạnh (Đá Hàn),
Phước Xuân Trung, Phước Thạnh (Rạch Chà Là Lớn), Phước Hòa
(Rạch Chà Là Bé), Tây Khánh (Ngã Ba Đồng Tranh); 14. Phước
Lương (Cảnh Dương) có 3 ấp: Rạch Cá, Rạch Ông Đông, Rạch
Ông Chuốc (Cát Lái); 15. Phước Lý (Ông Kèo) có 4 ấp: Rạch
Giồng, Suối Ngang (Xoài Minh), Bến Đình, Phước Thành (Rạch
Dọp); 16. Phước Thạnh (Suối Nước) có 4 ấp: Rạch Giồng, Bến
Cộ, Bàu Sen, Cù Lao Ông Cồn); 17. Tân Tường (Rạch Chại) có 2
ấp: Vĩnh Tuy, Bình Phú và 2 xóm Bà Vách, Rạch Kè.
Trong giai đoạn từ khi thực dân Pháp bắt đầu đặt nền móng
cai trị từ năm 1864 đến năm1945, các làng, xã của tỉnh Biên Hòa
nhiều phen nhập, tách1. Theo các nguồn tài liệu, có thể lập Bảng
đối chiếu các làng, thôn, xã thuộc Thành Tuy Thượng, Thành Tuy
Hạ (ứng với với bàn Nhơn Trạch) từ năm 1881 đến 1936.
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai 2001
33

4.4 Page 34

▲back to top


Tổng quan
BẢNG ĐỐI CHIẾU CÁC LÀNG THUỘC
TỔNG THÀNH TUY THƯỢNG VÀ THÀNH TUY HẠ
(Từ năm 1881 đến 1939)
Bản đồ
Boilloux
Lịch
An Nam thông
dụng
Monographie
Monographie
Thời sự
cẩm nang
Năm 1881
Năm 1897
Năm 1901
Năm 1924
Năm 1939
TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH
TUY THƯỢNG TUY THƯỢNG TUY THƯỢNG TUY THƯỢNG TUY THƯỢNG
(8 làng)
(11 làng)
(9 làng)
(15 làng)
(8 xã)
Long Thuận
Long Thuận
Long Thuận
Long Thuận
Long An
Phước Tân
An Lâm
An Lâm
An Lâm
Phước Mĩ
Phước Lộc
Phước Lộc
Phước Lộc
Phước Kiển
Phước Lai
Tập Phước Thanh Nguyên Phước Nguyên Mỹ Khoan
Phước Lộc
Khánh Lâm
Phước Thái
Phước Thái
Phước Lai
Phước Thiền
Tuy Long
Tam Thiện
Tam Thiện
Phước Lộc
Thái Thiện
Phú Lạc
Tập Phước
Tập Phước
Phước Long
Long Phước
Phước Đức
Khánh Lâm
Khánh Lâm Phước Nguyên Phước Hiệp
Tuy Long
Tuy Long
Phước Thái
Phú Lạc
Phước Thiền
Phước Đức
Phước Thọ
Tam Thiện
Tập Phước
Tuy Long
Long Thành
34

4.5 Page 35

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH TỔNG THÀNH
TUY HẠ
TUY HẠ
TUY HẠ
TUY HẠ
(15 làng)
(19 làng)
(19 làng)
(11 làng)
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước Lý
Phước Lý
Phước Lý
Phước Lý
Phước Khánh Phước Khánh Phước Khánh Phước Khánh
Phước Thạnh Phước Thạnh Phước Thạnh Phước Thạnh
Long Hiệu
Long Hiệu
Long Hiệu
Long Hiệu
Phước Lương Phước Lương Phước Lương Phước Lương
Tân Lương
Tân Lương
Tân Lương
Tân Lương
Mỹ Khoan
Mỹ Khoan
Mỹ Khoan
Mỹ Hội
Lương Thiện
Mỹ Hội
Mỹ Hội
Phú Mỹ
Bình Quới
Phú Mỹ
Phú Mỹ
An Phú
Lung Điền
An Phú
An Phú
Lương Thiện
Phước Kiển
Lương Thiện Lương Thiện
Phước Lai
Bình Quới
Bình Quới
Phước Thiền
Long Điền
Long Điền
Phước Thọ
Phước Kiển
Phước Kiển
Phước Lai
Phước Lai
Phước Long
Phước Long
Phước Thiền Phước Thiền
Phước Thọ
Phước Thọ
THÀNH TUY
HẠ
(6 làng)
Phước An
Phước Lý
Phước Khánh
Phước Thạnh
Phú Hội
35

4.6 Page 36

▲back to top


Tổng quan
Theo bảng tra cứu trên, từ năm 1897, tổng Thành Tuy Hạ có
thêm 4 làng Mỹ Hội, Phú Mỹ, Phước Long và An Phú. Đến năm
1939 các làng An Phú và Mỹ Hội đã sáp nhập lại thành làng Phú
Hội1. Một phần An Phú nhập về Phú Thạnh.
Thời kỳ 1945 - 1954, về phia Pháp và chính quyền Bảo Đại,
hành chính tỉnh Biên Hòa có một thay đổi: Quận Bà Rá đổi thành
quận Sông Bé (1951) cắt về tỉnh Thủ Dầu Một, diện tích tỉnh Biên
Hòa còn 8.800km2. Vùng đất Nhơn Trạch vẫn nguyên tổ chức
hành chính như trước.
Về phía chính quyền kháng chiến, tháng 5.1951, Trung ương
Cục miền Nam phân chia lại chiến trường Nam Bộ thành phân
liên khu miền Đông Nam Bộ và Phân liên khu miền Tây Nam Bộ,
lấy sông Tiền làm ranh giới, bố trí lại các tỉnh cho phù hợp. Theo
đó, tỉnh Biên Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một hợp nhất thành tỉnh Thủ
Biên; Bà Rịa và Chợ Lớn thành tỉnh Bà - Chợ. Lúc này, huyện
Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) thuộc tỉnh Bà - Chợ.
Dưới chế độ Sài Gòn, giai đoạn từ tháng 7.1954 đến tháng
4.1975 có nhiều thay đổi hành chánh, theo hướng chia nhỏ địa bàn
để dễ cai trị. Từ cuối năn 1956, tỉnh Biên Hòa tách ra, thêm tỉnh
Long Khánh (lập 2 quận Xuân Lộc và Định Quán thuộc tỉnh Long
Khánh). Từ năm 1957 đến năm 1972, tỉnh Biên Hòa luôn có thay
đổi hành chính về tổng, quận, xã (năm 1963 bỏ cấp tổng).
Ngày 9.9.1960, quận Nhơn Trạch được thành lập trên cơ
sở tách ra từ quận Long Thành, theo Nghị định 858 - NV của
chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo Lương Văn Lựu2, tên gọi
Nhơn Trạch có lẽ lấy từ chữ trong cổ thư Nhân nhân quân tử,
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, NXB Đồng Nai 2001, trang 267
2  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược
36

4.7 Page 37

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trạch tâm trung hậu”1. Quận mới Nhơn Trạch gồm 2 tổng với
12 xã: Phú Hội, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Mỹ,
Phước Thiền (thuộc tổng Thành Tuy Thượng), Phú Thạnh, Đại
Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thạnh, Long Tân (thuộc
tổng Thành Tuy Hạ).
Từ Địa phương chí2 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa,
diễn biến thay đổi hành chính cấp xã vùng đất Nhơn Trạch có thể
lập bảng kê:
1957
1960
1963
1965
1972
Quận
Long Thành
* Tổng
Thành Tuy
Thượng
Phú Hội
Phước Thọ
Phước Long
Phước Lai
Phước Mĩ
Phước Thiền
* Tổng
Thành Tuy
Hạ
Phước An
Phú Thạnh
Đại Phước
Phú Hữu
Phước Khánh
Vĩnh Thanh
Long Tân
Quận
Nhơn Trạch
* Tổng
Thành Tuy
Trung
Phú Hội
Phước Thọ
Phước Long
Phước Lai
Phước Mĩ
Phước Thiền
* Tổng
Thành Tuy
Hạ
Phú Thạnh
Đại Phước
Phú Hữu
Phước Khánh
Vĩnh Thanh
Long Tân
Quận
Nhơn Trạch
Phú Hội
Phước Thọ
Phước Long
Phước Lai
Phước Mĩ
Phước Thiền
Phú Thạnh
Đại Phước
Phú Hữu
Phước Khánh
Vĩnh Thanh
Long Tân
Quận
Nhơn Trạch
Phú Hội
Phước Thọ
Phước Long
Phước Lai
Phước Mĩ
Phước Thiền
Phú Thạnh
Đại Phước
Phú Hữu
Phước Khánh
Vĩnh Thanh
Long Tân
Quận
Nhơn Trạch
Phú Hội
Phước Thọ
Phước Long
Phước Lai
Phước Mĩ
Phước Thiền
Phú Thạnh
Đại Phước
Phú Hữu
Phước Khánh
Vĩnh Thanh
Long Tân
1  Có người giải nghĩa: “Nhơn Trạch là vùng đất thấm đẫm nghĩa nhân”. Cùng có người
ngờ là lấy tên từ vùng đất cố hương, một cách thông dụng của người Việt đến vùng
đất mới (tên một xã ở Quảng Bình: Nhân Trạch)
2  Công báo Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ TW 2
37

4.8 Page 38

▲back to top


Tổng quan
Về phía chính quyền cách mạng, từ tháng 7.1954 đến tháng
4.1975 do yêu cầu của chiến trường, cũng có nhiều thay đổi. Tháng
5.1955, tỉnh Thủ Biên tách thành hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu
Một như cũ. Tháng 9.1960, lập lại tỉnh Thủ Biên từ Biên Hòa và
Thủ Dầu Một như trước. Sau đó, lập tỉnh Long Khánh tách từ một
phần tỉnh Biên Hòa (từ tháng 10.1960 đến tháng 3.1963). Tháng
7.1961, tỉnh Biên Hòa tách thành ba tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một
và Phước Thành. Từ tháng 3-12.1963, 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa,
Long Khánh nhập lại thành tỉnh Bà - Biên. Từ tháng 12.1963 đến
tháng 10.1967, lại tách tỉnh Bà - Biên thành hai tỉnh Biên Hòa và
Bà Rịa - Long Khánh.
Trong giai đoạn này, từ năm 1954 - 1960, vùng đất Nhơn
Trạch vẫn thuộc huyện Long Thành. Cuối tháng 12.1960, Tỉnh ủy
quyết định tách Long Thành ra hai huyện, lập huyện Long Thành
và huyện Nhơn Trạch (gồm các xã như phân định của chính quyền
Diệm).
Từ tháng 1.1965, Tỉnh ủy đã chia Biên Hòa thành 2 đơn vị
trực thuộc tỉnh: Thị xã Biên Hòa (gọi là U1) và Biên Hòa nông
thôn (gồm các huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu và khu
vực Trảng Bom). Đến tháng 10.1967, Trung ương cục quyết định
giải thể khu 7, lập các phân khu; Long Thành, Nhơn Trạch thuộc
phân khu 4 (địa bàn phân khu 4 gồm cà vùng cao su Bình sơn,
sở SIPH và một số xã Nam Thủ Đức). Đến tháng 5.1971, huyện
Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) được nhập về phân khu Bà
Rịa - Long Khánh. Cho đến khi lập lại tỉnh Biên Hòa và tỉnh Bà
Rịa Long Khánh (tháng 10.1972), Long Thành, Nhơn Trạch mới
trở lại thuộc tỉnh Biên Hòa. Khi tỉnh Biên Hòa được tách làm hai,
lập “thành phố Biên Hòa’ và “tỉnh Biên Hòa nông thôn”, Nhơn
Trạch thuộc địa bàn của tỉnh Biên Hòa nông thôn cho đến ngày
thống nhất đất nước.
38

4.9 Page 39

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, Trung ương Cục có Quyết định số 16/QĐ.75 (ngày 20.9.1975)
giải thể các khu, phân khu, sáp nhập một số tỉnh thành các tỉnh
mới. Theo đó, đầu năm 1976, các tỉnh Biên Hòa, Tân Phú, Bà
Rịa - Long Khánh được hợp nhất, lấy tên là tỉnh Đồng Nai. Tỉnh
Đồng Nai gồm 1 thành phố Biên Hòa, 1 thị xã Vũng Tàu, 9 huyện:
Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành, Châu
Thành, Long Đất, Xuyên Mộc, Duyên Hải; trong đó Nhơn Trạch
và Long Thành được nhập lại thành huyện Long Thành.
Ngày 23.6.1994, Chính phủ có Nghị định 51/CP chia huyện
Long Thành thành 2 huyện mới: Long Thành và Nhơn Trạch. Các
xã trực thuộc huyện Nhơn Trạch gồm: Phước Thiền, Phú Hội,
Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước, Phước An, Phước Khánh, Vĩnh
Thanh, Phước Long, Phước Thọ, Phước Lai, Phước Kiển, Phú
Hữu.
2. Dân cư
Dân cư ở Nhơn Trạch là quần thể người cư trú ở địa bàn
Nhơn Trạch mang đặc điểm chung của dân cư xứ Đồng Nai: Hình
thành và phát triển trong một thời gian dài, bắt đầu từ thế kỷ XVII,
do nhiều đợt chuyển cư từ xứ Bắc, xứ Trung; chung sống với nhau
theo quan hệ họ hàng, làng xóm hoặc nhu cầu sản xuất; phát triển
cả hai hướng tự nhiên và cơ học.
Lịch sử ghi nhận người Việt đến cư trú tại Nam Bộ từ cuộc
hôn nhân của công nữ Ngọc Vạn với vua Cheychetta II của Chân
Lạp năm 1620, từ đó xuất hiện cụm cư dân Việt ở Mô Xoài (nay
thuộc Bà Rịa) và việc chúa Nguyễn đặt trạm thu thuế vùng Bến
Nghé, Nhà Bè. Chưa thấy sử liệu nào nói về cư dân ở Nhơn Trạch
thời gian này, nhưng ắt là có rải rác thành phần thương nhân, nông
dân người Việt trong hoạt động giao thương đôi bờ dọc theo sông
39

4.10 Page 40

▲back to top


Tổng quan
Đồng Nai. Đến năm 1679, có đợt di dân của người Hoa theo nhóm
Trần Thượng Xuyên lánh nạn nhà Thanh đến xin cư trú ở Bàng
Lân, phát triển thương cảng Cù lao Phố (Biên Hòa), chắc là lớp
người này chưa có điều kiện cư trú ở vùng đất Nhơn Trạch.
Cột mốc đánh dấu dân cư ổn định ở Nhơn Trạch là sự kiện
Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống hành chính tại
Đồng Nai vào năm 1698, cùng với những chính sách khuyến khích
khẩn hoang mở đất, đã mở đầu cho các cuộc di dân có tổ chức vào
miền đất mới. Từ 1698 đến nay, có nhiều đợt chuyển cư từ miền
Bắc. miền Trung vào xứ Đồng Nai (bao gồm cả Nhơn Trạch):
Một là, cuộc di dân khẩn hoang theo chủ trương của các
chúa Nguyễn, vua Nguyễn từ các tỉnh miền Trung (nhất là vùng
Ngũ Quảng) đến Nam Bộ để khai khẩn đất đai, mở mang bờ cõi.
Các đợt di dân này diễn ra từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, làm
xuất hiện cộng đồng cư dân các làng cổ ven sông với nghề sông
nước, ruộng vườn.
Hai là, các đợt di dân mộ phu đầu thế kỷ XX do các chủ
đồn điền người Pháp đưa dân nghèo từ các tỉnh miền Bắc vào
làm công nhân tại các đồn điền cao su. Các cuộc di dân này làm
xuất hiện tầng lớp công nhân cao su quanh vùng các sở cao su
Tân Tường và sở Ông Cố. Cùng thời gian này, ở Nhơn Trạch hình
thành các xứ đạo qui mô nhỏ ở Phú Hội, Phước Khánh, Phước Lý,
Vĩnh Thanh.
Ba là, đợt di dân đồng bào công giáo các tỉnh miền Bắc
vào Nam theo chủ trương của chính quyền Pháp, Diệm sau Hiệp
định Gienève 1954. Khoảng 4.000 người được đưa về bố trí nơi ở
tại Phú Hội, Phước Khánh, Vĩnh Thanh nhưng sau một thời gian
ngắn, tập trung về vùng Vĩnh Thanh.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Bốn là, các cuộc chuyển cư trong kháng chiến, gồm các cư
dân Tây Nam Bộ tránh các cuộc càn quét, khủng bố của giặc,
theo nhịp chèo đến cư trú, làm ăn và tiếp tục chiến đấu ở vùng đất
Nhơn Trạch. Các cuộc chuyển cư này nhân số không nhiều nhưng
mang đến Nhơn Trạch những nhân tố mới trong sản xuất và đấu
tranh. Đó là lý do giải thích vì sau ở Nhơn Trạch có nhiều bà mẹ,
chiến sĩ, cán bộ và nhiều gia đình, họ hàng có quan hệ mật thiết
hoặc có nguồn gốc từ các tỉnh miền Tây, nhất là tỉnh Long An.
Năm là, các đợt chuyển cư hồi kết do cán bộ tập kết miền
Bắc trở về sau thống nhất đất nước, mang theo gia đình và kết nối
người thân muốn lập nghiệp vùng đất mới. Cũng phải kể đến lớp
người là cán bộ các ngành từ miền Bắc được tăng cường cho hệ
thống chính trị để giúp việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi
phục sản xuất, tổ chức đời sống mới ở Nhơn Trạch.
Kiểu quần cư của người Nhơn Trạch phổ quát là quần cư
theo kênh rạch để hành nghề đánh bắt, trồng trọt, nuôi trồng thủy
sản. Đồng bào Công giáo di cư cư trú dọc theo quốc lộ và các khu
quân sự. Người làm phu cao su cư trú theo làng công nhân cao su,
chủ yếu ở địa bàn Tân Tường, Phú Thạnh.
Các đợt chuyển cư chủ yếu là người Việt, đa tín ngưỡng, tôn
giáo; nối tiếp nhau, đan xen nhau, lớp trước lớp sau cùng đoàn kết,
ái quốc, lao động và đấu tranh bền bĩ góp sức xây dựng và bảo vệ
quê hương Nhơn Trạch.
Về qui mô dân số, chưa có bản kê cụ thể về số lượng cư dân
Nhơn Trạch từng thời kỳ. Qua một số tài liệu nêu chung về dân số
tỉnh Biên Hòa, Nhơn Trạch xưa là vùng đất ngập mặn, nhưng giàu
sức thu hút nhân lực, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên thấp hơn tăng dân
số cơ học, mật độ dân số tăng nhanh hơn nhiều nơi khác. Theo Địa
41

5.2 Page 42

▲back to top


Tổng quan
chí Biên Hòa1, năm 1923, toàn tỉnh Biên Hòa có 132.165 người;
trong đó dân số Thành Tuy Hạ là 18.169 người, chiếm tỉ lệ 13,7%.
Công báo của Việt Nam Cộng hòa ghi nhận năm 1957, toàn tỉnh
Biên Hòa 283.400 người, trong đó, Thành Tuy Hạ ước 40.000
người. Thời điểm tổng điều tra dân số 1.10.1979, dân số huyện
Long Thành 188.306 người; trong đó dân số địa bàn Nhơn Trạch
ước 80.000 người, mật độ 257 ng/km2.
Trong 10 năm (giai đoạn 2001 - 2010)2, huyện Nhơn Trạch
tăng dân số từ 111.137 người (năm 2001) lên 168.174 người (năm
2010), bình quân tăng 5,7%/năm, trong khi tỉ lệ tăng dân số tự
nhiên bình quân tăng 1,2%/năm. Mật độ dân số Nhơn Trạch tăng
nhanh, năm 2001: 272ng/km2, mười năm sau: 409 ng/km2. Việc
tăng cao mật độ dân số và tăng nhanh cơ học cho thấy Nhơn Trạch
có sức thu hút dân sinh, nhân lực dồi dào, cơ cấu dân số đa dạng;
đó là lợi thế nhân hòa, động lực của phát triển; tuy nhiên cũng là
áp lực đối với an sinh xã hội ở địa phương.
3. Đời sống sản xuất
Từ lúc khẩn hoang mở đất đến trước ngày miền Nam hòa
toàn giải phóng, thống nhất đất nước 30.4.1975, nhân dân Nhơn
Trạch sống trong môi trường nông nghiệp, nông thôn; vừa sản
xuất vừa đấu tranh bảo vệ quê hương; sản xuất chủ yếu là nông
nghiệp lệ thuộc tự nhiên, có đủ các mô hình sông nước, ruộng,
vườn, rẫy.
Địa hình Nhơn Trạch như hình quả tim, chia thành hai vùng
sản xuất theo điều kiện thổ nhưỡng có khác nhau. Vùng ven các
sông, rạch bờ bãi ở các xã, nhất là Đại Phước, Phú Hữu, Phước
1  M. Robert, Địa chí Biên Hòa, bản dịch của Lê Tùng Hiếu, Nguyễn Văn Phúc, NXB Đồng
Nai, 2015.
2  Theo Niên giám Thống kê 2001, 2010, Cục Thống kê Đồng Nai.
42

5.3 Page 43

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Khánh, Vĩnh Thanh, Phước An là vùng ngập mặn, thủy triều lên
xuống, đời sống sản xuất thiên về sông nước, dân địa phương
thạo các nghề đánh bắt thủ công, sinh sống nhờ nguồn thủy sản
tự nhiên. Vùng đồng bằng cao ráo thuộc các xã, nhất là ở Phước
Thiền, Long Tân, Phú Hội, Phước Lai, Phước Long, Phước Thọ ...
thuận với mô hình vườn, ruộng, rẫy; trồng lúa (cả lúa khô và lúa
nước), hoa màu, cây ăn trái: “Trà Phú Hội, nước Mạch Bà. Sầu
riêng Phú Hội, chuối già Long Tân”. Ở những bến sông thuận
đường qua lại, có nhiều hộ kết hợp sản xuất với dịch vụ tại các
chợ nhỏ, bến bãi để buôn bán, trao đổi sản vật địa phương, tạo
nhiều bến bãi (Bến phà Cát Lái, Bến Cam, Bến Sắn, Bến Bạ, Bến
Đình). Đời sống sản xuất ở Nhơn Trạch cơ bản là nông - thủy, thủ
công, qui mô nhỏ, tự quản, tự cung tự cấp, rộng mở giao kết với
các vùng Gia Định, Bà Rịa, Long An, Cần Thơ, Đồng Tháp theo
hệ thống giao thông đường thủy.
Vùng cù lao Ông Cồn là khu vực tập trung nhiều ruộng đất.
Tuy nhiên, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đất ruộng ở đây
tập trung những địa chủ lớn thời đó là bà Trịnh Thị Dung (Tám
Dung) và ông Sen. Riêng hai người này đã chiếm đến hơn 300
trăm mẫu đất.
Theo Gia Định thành thông chí: Tổng Thành Tuy thuộc
huyện Long Thành đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây trồng
thích hợp ở đây là dưa, đậu phọng và khoai lang. Ruộng sớm thì
tháng 5 (âm lịch) gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 11 gặt. Ruộng muộn
thì tháng 6 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 12 gặt. Trước đây ở Nhơn
Trạch chỉ trồng được một vụ lúa, vì giống lúa ở đây trồng đến
6 tháng. Về các giống lúa, người dân trồng nhiều giống lúa nổi
tiếng, như: nàng phệt, nàng tre, nàng trúc, nhỏ chùm, nhỏ trắng,
lúa tiêu... vừa thơm vừa dẻo. Hiện nay, nông dân Nhơn Trạch làm
43

5.4 Page 44

▲back to top


Tổng quan
lúa 2 vụ, có nơi đến 3 vụ. Dưa1 thì tháng Giêng trồng, tháng 8
thu hoạch Đậu phọng tháng 4 trỉa, tháng Chạp thu hoạch. Khoai
lang tháng 3 giâm, tháng 10 dỡ củ”2. Hiện nay, khoai lang ở Nhơn
Trạch vẫn còn trồng nhiều, nhưng thời gian thu hoạch rút ngắn chỉ
còn 1 tháng 10 ngày. Ngoài ra, nông dân còn trồng nhiều các loại
hoa màu, như: bầu, bí, mướp, khổ qua, đậu đũa.
Trong khi đó, các xã thuộc vùng Rừng Sác như: Đại Phước,
Phú Hữu, Vĩnh Thanh, Phước An, Phước Thọ thì ít ruộng vườn,
chằng chịt sông rạch như mạng nhện, người dân thiên về nghề
“hạ bạc”. Những sông Ông Chuốc, rạch Cá, rạch Bãi, sông Ông
Mai, sông Cầu Kê, rạch Giồng Sắn, sông Cây Tràm, rạch Bến
Ngự... là nguồn sống của cư dân theo nghề sông nước. Ngoài ra
còn những tắc, ngọn, búng, luồng tạo nên mê hồn trận chỉ dân địa
phương mởi tỏ đường di lối về để kiếm sống. Vùng Rừng Sác là
một thiên đường xanh với vô số cây nước mặn và nước lợ như
đước, tràm, cóc kèn, mắm, chà là, bần, dừa nước, bình bát, ô môi.
Các loại chim và thú rừng có thể kể: le le, vịt trời, chằng bè, khỉ,
cá sấu; do đó nghề đánh bắt phát triển. Vì chỉ cách biển vài chục
kilômét, sông rạch ở đây chịu ảnh hưởng nhật triều của vùng biển
phía Nam. Mỗi ngày nước thủy triều lên hai bận, ròng hai cử. Xưa
kia, thuyền ghe đi lại thường nương theo con nước để xuôi ngược
đỡ tốn sức chèo. Mỗi tháng âm lịch có những ngày triều cường
và ngày triều kém. Người câu cua, bắt cá khéo lợi dụng các ngày
này để kiếm sống. Mùa khô, nước lợ trong xanh vào sâu các sông
rạch; khi độ mặn vượt quá 4 phần ngàn thì nước ấy chỉ dùng tắm
1  C ó thể là dưa gang. Ngày nay, vùng Nhơn Trạch vẫn nổi tiếng về các giống dưa gang
ngon, bán dọc theo quốc lộ 51 và đường Tôn Đức Thắng. Tuy nhiên, dưa gang mà
trồng đến 7 tháng mới thu hoạch lại có vẻ cũng chưa hợp lý, hoặc có thể giống dưa
gang cách đây 2 thế kỷ không giống dưa bây giờ, thời gian gieo trồng và thu hoạch
kéo dài.
2  Gia Định thành thông chí, NXB Đồng Nai 2005, trang 194
44

5.5 Page 45

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
rửa, còn muốn có nước ăn uống dân ấp Câu Kê phải mất công đi
tận Giồng Ông Đông đến chùa Ông hay giếng Miểu mới gánh
được tĩn nước ngọt về dùng. Các giếng nước ngọt như giếng Đôi
ở Phước An, giếng Bộng ở Phước Long cung cấp nguồn nước sinh
hoạt quí hiếm. Cá tôm vào mùa mưa rất nhiều. Khi nước lênh láng
chan hòa đồng ruộng cũng là lúc tôm cá đủ loại vào sinh sôi nảy
nở. Dân nghèo nhờ nguồn thức ăn dồi dào trời cho này.
Từ sau 30.4.1975, trong điều kiện đất nước hòa bình, thống
nhất; Nhơn Trạch cùng cả tỉnh, cả nước tập trung khắc phục hậu
quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, xây dựng phát triển nông
thôn, đổi mới tư duy kinh tế, thu hút đầu tư, phát huy lợi thế địa
phương, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động,
giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng cao tỉ trọng công nghiệp xây dựng
và dịch vụ; từng bước đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội;
làm thay đổi về chất diện mạo nông thôn và đời sống nhân dân;
sớm đạt chuẩn xây dựng nông thôn mới ở từng xã và toàn huyện.
4. Văn hóa xã hội
Cư dân tứ xứ tụ hội, sinh sống ở Nhơn Trạch - Đồng Nai
từ rất sớm, mãi đến 1698 mới có sự quản lý hành chính của triều
Nguyễn và sau đó rất lâu mới ổn định. Suốt một thời gian dài hơn
nửa thế kỷ, người Nhơn Trạch chung sống với nhau trong sự liên
kết văn hóa, trên nền móng văn hóa, bằng vốn liếng văn hóa dân
tộc Việt đã thấm trong máu thịt từng người. Người Việt đến Nhơn
Trạch huy động vốn liếng văn hóa mang theo từ bản xứ vào việc
tổ chức đời sống ở vùng đất mới, có sự thích ứng để hài hòa với
môi trường tự nhiên và nếp sống của cư dân bản địa, thể hiện rõ
nét ở tổ chức làng xã, tập quán, tín ngưỡng và sinh hoạt văn học
nghệ thuật.
45

5.6 Page 46

▲back to top


Tổng quan
Về làng xã, cư dân Việt hình thành ở Nhơn Trạch do hội
nhập bởi nhiều đợt chuyển cư chủ yếu từ đường biển đến, cho nên
địa bàn cù lao, gò, giồng, ven sông rạch được xem là loại hình
cư trú phổ biến của thuở sơ khai. Các làng xã ở dọc sông Phước
Long, Lòng Tàu, Thị Vải, Đồng Môn đều là những làng xã sớm có
tên trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.
Làng (thôn xã) của người Việt ở Nhơn Trạch thuộc dạng hình
thành sớm ở Nam bộ, mang đặc điểm là làng khai phá, định cư
sớm, lan tỏa nhanh. Người Nhơn Trạch có thể ngược dòng sông
Phước Long đến thượng nguồn khai thác lâm, thổ sản, giao kết với
cảng thị, bến bãi ở Cù lao Phố, Bến Đò Trạm (Biên Hòa), Bến Gỗ
(Long Thành), Bến Cá (Vĩnh Cửu), Cù Lao Rùa (Tân Uyên); hay
có thể xuôi dòng Đồng Nai kết nối với Cần Giờ (Sài Gòn), Bà Rịa,
Long An, Đồng Tháp; hoặc ra khơi vượt biển đi xa hơn. Thành
phần phi lúa nước trong nông nghiệp đạt tỉ lệ cao khiến cho làng
Việt ở Nhơn Trạch càng đậm nét là làng có cơ cấu không bền chặt,
thoáng mở, luôn trong trạng thái động, rộng đường giao lưu, khá
bình đẳng trong sinh hoạt và lao động, sự phân hóa xã hội ít căng
thẳng, sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị khó áp đặt nặng nề.
Trong mỗi làng thường có nhiều họ khác nhau. Nhiều người ngoài
làng tới cùng khai phá phụ canh, khiến sinh hoạt trong làng trở nên
cởi mở, đỡ bảo thủ, dễ tiếp nhận cái mới và càng dễ canh tân nhờ
các cuộc hôn nhân khác họ cũng như các mối quan hệ giao lưu
thường xuyên giữa trong và ngoài làng. Kết quả khảo sát năm 1996
ở xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch) cho thấy kết quả giống như nhà
nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhận xét: Theo địa bạ Biên Hòa lập
năm 1836, trong 81 chủ điền ở một thôn đã có 12 họ khác nhau1.
1  Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ lục tỉnh, NXB TP.HCM, 1992, trang
161.
46

5.7 Page 47

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trong sinh hoạt làng xã, vai trò của phụ nữ được khẳng định.
Dấu ấn của họ in đậm qua các địa danh: Bà Rịa (thị xã), Thị Vải
(núi), Bà Trường (ấp), Bà Bướm (cầu), Bà Ký (rạch).... Trong thần
điện thờ cúng, uy linh của nữ thần không kém nam thần. Miểu thờ
Bà nhiều hơn đình thờ Ông. Điều này có nguồn gốc từ vai trò của
người phụ nữ trong đời sống thực tế. Khi nghiên cứu địa bạ Nam
kỳ, tác giả Nguyễn Đình Đầu ngạc nhiên: “không ngờ phụ nữ làm
chủ ruộng đất với tỉ lệ khá cao”. Vai trò người phụ nữ được xem
trọng, đó là dấu hiệu của xã hội đậm tính nhân văn.
Tên làng, xã, thôn thường dùng những mỹ tự bắt đầu bằng
những chữ: An, Bình, Long, Phước, Tân, Vĩnh, Mỹ, thể hiện mong
ước hưng thịnh, phát đạt. Tuy nhiên, các địa danh ở làng thôn xưa
vẫn gọi nôm na theo đặc điểm của từng vùng, như: Giồng Dài,
Bến Cộ, Gò Me, Rạch Ông Mai, Bà Trường, Miếu Ông Thiện,
Cù Lao Ông Cồn. Mỗi thôn làng ở Nhơn Trạch thường có nhà
võ - đình - miếu - chùa - chợ, bến (trạm), là nơi sinh hoạt chung,
thường đặt ở xã, chỗ cao ráo khu trung tâm, tiện đi lại, có cổ thụ
che bóng, cảnh quan thanh tịnh.
Làng xã ở Nhơn Trạch được thành lập ban đầu tự phát theo
chủ kiến của người khẩn hoang; về sau, dần tuân theo quy chế của
nhà Nguyễn; nhưng không hoàn toàn đúng qui định. Thuở sơ khai,
chúa Nguyễn để cho các làng mới có quyền tự trị, tự quản. Từ năm
1852, tổ chức làng xã thực hiện theo Minh điền hương ước do vua
Tự Đức ban hành: Mỗi xã có từ mười hai đến hai, ba mươi hương
chức, chia làm hai nhóm: Một nhóm lo việc hành chánh, quản trị;
một nhóm lo việc lễ hội, đình, đám. Đến thời Pháp thuộc, chính
quyền Pháp thực hiện chủ trương phân hóa quyền lực của bộ máy
hành chánh nông thôn, thừa nhận và sử dụng bộ phận hương chức
hội tề, nhưng tách bộ phận hương chức hội hương ra khỏi bộ máy
47

5.8 Page 48

▲back to top


Tổng quan
hành chánh. Dầu vậy, hương chức làng xã vẫn đóng vai trò hạt
nhân, không mất đi tính đại diện tự quản ở nông thôn.
Quan hệ giữa các làng xã với nhau dựa trên nghĩa tình, và
nhu cầu hợp tác, cộng cư. Cư dân Việt tha hương ở vùng đất mới
Biên Hòa - Nhơn Trạch dễ kiếm sống, nhưng khó thiết lập những
quan hệ bền chặt như kiểu làng - họ ở bổn quán cho nên rất trân
trọng tình cảm “đồng cảnh ngộ”, không phân biệt dân cố cựu và
ngụ cư. Trong nếp sống thường ngày: Nồi cơm luôn đầy sẵn lòng
đãi khách, lu nước ngọt luôn trong lành và sẵn gáo dừa ở đầu bến
hoặc ven đường, nhà ở luôn sẵn chỗ cho người lỡ bước, kiểu nhà
bè giúp người cơ nhỡ (gắn với sự tích truyện Thủ Huồng), đó là
những tập quán “mở lòng” đối với người đồng cảnh ngộ. Vậy nên,
người địa phương có câu: “... Nước sông trong đổ lộn sông ngoài.
Thương người xa xứ lạc loài tới đây...”.
Về ăn, mặc: Cách ăn mặc của người Việt ở Nhơn Trạch vừa
thể hiện nét chung của văn hóa Việt Nam, vừa có sắc thái mang
dấu ấn của địa phương.
Do thời khí của hai mùa mưa nắng, sản vật biển, rừng, sông
nước, vườn ruộng phong phú, đa dạng; thức ăn và cách ăn của
người Nhơn Trạch cũng rất đa dạng, phong phú. Thức ăn được
chọn lựa tươi ra tươi, khô ra khô, ăn để no, ăn để giao đãi, còn để
phòng chữa bệnh; nhiều rau, nhiều cá và thủy sản; dùng nhiều gia
vị, phối hợp nhiều thức, món với nhau, nhiều cách chế biến, khi
thì chế biến công phu, lúc thì tận hưởng hương vị tự nhiên, đặc sản
là những món chế biến từ nguyên liệu vùng nước lợ.
Cách ăn mặc của người Nhơn Trạch có diễn trình như lịch
sử trang phục của Đàng Trong, sau đó có sự cải biến thích hợp với
điều kiện, môi trường văn hóa của vùng đất mới. Lúc xưa, người
bình dân Nhơn Trạch thường đi chân đất; khi dự lễ hội mới vận
48

5.9 Page 49

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lễ phục chỉnh tề. Người Nhơn Trạch xưa chuộng bộ quần áo bà
ba, nam nữ có kiểu riêng. Bộ bà ba nữ ấn tượng bởi áo xẻ vạt đẹp,
tay kín, có túi đựng lặt vặt, khoét cổ thoáng mát. Xưa, người bậc
trung lưu ra khi khỏi nhà thường có dù để che nắng, che mưa, còn
để làm vật trang sức. Có nhiều loại dù: dù giấy bằng sườn tre, đắp
giấy dầu; dù quéo với tay cầm có móc như cù quéo; dù hai da may
bằng hai lớp vải màu khác nhau trong ngoài; dù lục soạn là loại dù
sang trọng mang tên loại lụa sản xuất tại Trung Quốc. Gặp nhau,
người ta lễ phép chào bằng cách nghiêng dù. Trong thời chống
Pháp, dù được dùng làm mật hiệu của phong trào Hội kín/Thiên
địa hội.
Nhà ở tại Nhơn Trạch cũng đồng dạng với các kiểu nhà ở
trên địa bàn tỉnh, nhưng có những nội dung đậm nét của Nhơn
Trạch. Chủ yếu nhà ở trên mặt đất, gò cao, cận sông hoặc cận lộ;
được xây dựng thường hài hòa với tự nhiên, chuộng hướng Đông,
Nam; quay mặt ra sông, ruộng, vườn; ngõ không vào thẳng cửa
chính, sân trước sân sau đều rộng, rào thẳng bằng chè cát, dâm bụt
hoặc cây quít đại; nhà dù hẹp cũng cố có chỗ bày hoa kiểng, nhiều
nhà bày non bộ. Vùng nông thôn, người bình dân thường ở nhà
tranh hoặc nhà lá (lá dừa), những nơi thôn rẫy chưa ổn định dựng
tạm chòi lá hoặc chòi tranh. Gia đình khá giả xây dựng nhà ngói
vách ván bổ kho; khi tiếp xúc kỹ thuật châu Âu có người khá giả
xây nhà gạch mái tôle hoặc nhà bê tông mái ngói hay mái bằng.
Theo kiến trúc xây dựng, nhà ở của người Việt xứ tại Nhơn
Trạch gồm các kiểu chính: Nhà xông, nhà chái, nhà sắp đọi, nhà
sắp đọi biến thể thành nhà chữ nhị nhà chữ tam; nhà chữ đinh
(đinh thuận, đinh nghịch). Xét về kỹ thuật, có thể phân loại theo
nhà rường, nhà rội (nhà nọc ngựa: Biến thể của nhà rội).
49

5.10 Page 50

▲back to top


Tổng quan
Không gian sinh hoạt trong nhà thường phân bổ thành hai
phần: Các thành viên trong gia đình sinh hoạt ở nhà sau (nhà bên).
Nhà trước (nhà trên) là nơi thờ phượng, tiếp khách. Khách thân,
sơ, sang, hèn đều được tiếp ở nhà trước. Bàn thờ gia tiên đặt ở sát
vách, ngang cây đòn giông nhà ở gian giữa. Đối diện là bàn khách
(bàn dài hoặc bàn tròn). Hai bên là bộ ván ngựa để khách nghỉ
ngơi. Tùy độ sang hèn mà tủ thờ, ván ngựa bằng gỗ quí hay gỗ
thường, cũng tùy giàu nghèo mà bày thêm các vật trang trí khác.
Những nhà khá giả thường treo nhiều liễn đối, hoành phi sơn son
thếp vàng, có tủ bày đồ cổ, quí hiếm. Người Nhơn Trạch thích
hoành phi có đại tự “ĐỨC LƯU PHƯƠNG” hoặc “PHÚC LỘC
THỌ”; thích các cặp đối “Tổ công phụ đức thiên niên thạnh. Tử
hiếu tôn hiền vạn đại vinh”, hoặc “Tiền tài như phấn thổ. Nhơn
nghĩa tại thiên kim”.
Nhà cổ cũng là nét đẹp văn hóa, thể hiện giá trị của người
Việt. Nhơn Trạch được xem là địa phương còn nhiều nhà cổ nhất
ở tỉnh Đồng Nai. Theo tài liệu của khảo sát ở địa phương1, năm
1998, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 401 ngôi nhà được xác định là
nhà cổ; trong đó, trên địa bàn huyện Nhơn Trạch có 132 nhà chiến
tỉ lệ 32,9% (nhiều nhất là ở xã Hiệp Phước (90 nhà), xã Phú Hội
(16), xã Phước Thiền (16), xã Long Thọ (12 nhà).
Đến thời điểm khảo sát lại tháng 6.2017, trên địa bàn huyện
Nhơn Trạch hiện còn 89 ngôi nhà cổ, trong đó: Xã Hiệp Phước 58
ngôi nhà, xã Phước Thiền 15 nhà, xã Phú Hội 16 nhà. Ngành văn
hóa đã chọn lọc ở Nhơn Trạch 13 ngôi nhà cổ tiêu biểu đề nghị
bảo tồn và phát huy.
1  Đ oàn Thị Mai, Luận văn Thạc sĩ Nhà cổ ở Nhơn Trạch, Đồng Nai - Giá trị văn hóa, Trường
ĐH VHTPHCM, 2018.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Các nhà cổ tiêu biểu ở Nhơn Trạch độ trăm tuổi trở lên, được
xây dựng theo lối kiến trúc phổ quát ở địa phương, nhưng mỗi nhà
đều chăm chút về mỹ thuật, vật liệu xây dựng, bày trí nội thất,
phối cảnh, nhất là bàn thờ tổ tiên tạo cho ngôi nhà có giá trị riêng
trong vẻ đẹp chung. Vì vậy mà các thế hệ tiếp nối của gia đình
xem đó là vô giá, cố gắng giữ gìn để tồn tại trong thời nông thôn
mới, đô thị hóa. Có thể kể tên các ngôi nhà cổ tiêu biểu cần được
bảo tồn cấp thiết như: Nhà cổ - từ đường họ Đào ở xã Phú Hội, nhà
của ông Phan Văn Cải (xã Hiệp Phước), nhà của ông Nguyễn Văn
Lình (xã Hiệp Phước), nhà của ông Nguyễn Văn Canh (ấp Phú Mỹ
II, xã Phú Hội), nhà của ông Trần Ngọc Khánh (xã Phước Thiền),
nhà ông Mã Văn Tảo (xã Phước Thiền)...
Nhà ở của cư dân Nhơn Trạch dù cổ hay bình dân đều mang
giá trị văn hóa cao, không đơn thuần chỉ là nơi cư trú, che nắng
mưa; mà là “tổ ấm” để giáo dưỡng, kết nối, trao truyền văn hóa
trong gia đình. Đó là trường học đầu đời giáo dục nhân cách cho
mỗi người; ở đó các gian nhà đều là không gian văn hóa thiêng
liêng, bàn thờ tổ tiên là hạt nhân kết nối; cha mẹ, anh em là người
thầy gương mẫu; hoành phi câu đối là nghị quyết đồng thời là mục
đích sống của gia đình. Sinh ra và trưởng thành trong nhà ở như
thế, dù nghèo đói, dù ít chữ, ai cũng muốn hướng thiện, sống tốt;
khó làm điều xấu, điều ác. Đó cũng là lý do mà quê hương Nhơn
Trạch đã cống hiến cho cách mạng, cho xã hội nhiều người con
ưu tú.
Về văn hóa nghệ Thuật: Văn hóa nghệ thuật là thành quả
lao động sáng tạo của người Nhơn Trạch, được hình thành trong
quá trình tích hợp, cộng sinh của người Việt gốc Trung Bộ, Bắc
Bộ với cư dân bản địa, phản ánh và cải biến theo sự phát triển kinh
51

6.2 Page 52

▲back to top


Tổng quan
tế xã hội ở địa phương; rõ nét ở văn hóa nghệ thuật dân gian, ít sản
phẩm văn hóa nghệ thuật bác học và chuyên nghiệp.
Kho tàng văn học lưu truyền trong dân gian chủ yếu bằng
cách truyền khẩu, gồm nhiều dạng: Tự sự trữ tình dưới hình
thức truyện kể, thơ ca, hò vè. Truyện kể ở Nhơn Trạch không
nhiều, không có thần thoại nguyên mẫu, vắng bóng truyền thuyết,
truyện kể ít hư cấu hoang đường; cốt truyện được dẫn dắt bằng lý
lẽ thế sự là chủ yếu. Người cao tuổi ở Nhơn Trạch quen thuộc các
truyện cổ tích do ông bà thường kể: Truyện Ông Châu Thới và Bà
Rịa thi xây núi, Sự tích Ông Trịnh, Cặp sóng thần ở Vàm Tham
Mạng, Sự tích Sân bà, Sự tích Thác Vọng phu; truyện sự tích trái
sầu riêng, truyện sự tích trái thơm; trong đó có những truyện liên
quan đến địa phương như: Truyện kể Ông Bò Bà Hứa ở An Hòa,
Long Thành; truyện Bà Mụ Cọp ở An Hòa - Long Thành và ở Đại
Phước - Nhơn Trạch; Truyện Thủ Huồng và Sự tích Nhà Bè. Còn
có thể kể đến vô số truyện cười được người Nhơn Trạch ưa thích,
tiếp nhận từ tứ xứ. Có lẽ do cuộc sống người Nhơn Trạch thoáng
mở, lạc quan nên nụ cười vui vẻ dễ được dung nạp.
Thơ ca dân gian lưu truyền ở Nhơn Trạch khá phong phú.
Đó là lời ca đọng lại từ những khúc hát trữ tình, lâu dần thành câu
nói cửa miệng. Phong phú nhất là mảng ca dao trữ tình mang theo
trong hành trang của người Việt đến xứ Biên Hòa - Nhơn Trạch.
Nhiều câu hát cũ vẫn nguyên vẹn vẻ đẹp ở vùng đất mới:
Đã thương thì thương cho chắc
Đã trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ đứng ở đầu truông
Khi vui giỡn bóng khi buồn bỏ đi.
(Ca dao Trung Bộ).
52

6.3 Page 53

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thử chuông cho biết chuông ngân
Thử bạn đôi lần cho biết dại khôn.
(Ca dao Bắc Bộ).
Đáng lưu ý là mảng ca dao dân ca nảy sinh từ cảm xúc của
người địa phương trong bối cảnh tự nhiên - xã hội ở xứ Nhơn
Trạch, có thể có dị bản biến đổi từ nguyên bản của nơi khác:
- Đến đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh.
- Đi ra sợ đỉa cắn chưn
Xuống sông sấu ních lên rừng cọp tha.
- Trà Phú Hội, nước Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân
Cá bui, sò huyết Phước An
Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An.
- Ba Doi ăn cá bỏ đầu
Bà Bông thấy vậy xỏ xâu đem về
Đem về cái nấu, cái kho
Cái ăn, cái để, còn cho bạn bè.
- Đốn cây cắm cọc ngăn tàu
Lòng sông Vũng Gấm, Bà Hào, Phước An
Làm cho quân giặc hoang mang
Không cho khủng bố ruồng càn chiến khu.
53

6.4 Page 54

▲back to top


Tổng quan
Tục ngữ, phương ngôn: Người Nhơn Trạch kế tục vốn tri
thức và tiếng nói của cha ông ở nguyên quán hợp với cuộc sống
rộng mở và tinh thần lạc quan cho nên đúc kết kinh nghiệm sống
bằng tục ngữ, phương ngôn lưu truyền trong cộng đồng. Đó là
những kinh nghiệm trong việc sản xuất từ việc dự báo thời tiết,
mùa vụ đến việc chọn giống nuôi trồng, hoặc khái quá về giới
thiệu sản vật địa phương:
- Được mùa cau đau mùa lúa, được mùa lúa úa mùa cau
- Được mùa xoài toi mùa lúa.
- Khỏe re như ghe mới trét
- Khỏe re như bò kéo xe
- Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang
- Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai.
Nghệ thuật diễn xướng: Ở Nhơn Trạch không thấy có làn
điệu dân ca nào đặc thù nhưng lại có gần như đủ giọng dân ca
của xứ Trung, xứ Bắc, quan họ, ca Huế, ví dặm. Các bà má Nhơn
Trạch đều biết hát ru, đủ giọng ba miền Nam - Trung - Bắc. Các
bài hát ru quen thuộc đều có tính biểu cảm và tính giáo dục. biết
bao người bình dân cũng như danh nhân, anh hùng, liệt sĩ đã mang
trong tim tiếng ru ấy đi khắp nơi, suốt cuộc đời, trong mọi hoạt
động cống hiến.
Hát hò là hình thức hát đối đáp trong lao động, có người cất
giọng diễn lời (xướng), tập thể nối theo phụ họa (xô). Ngày xưa,
phổ biến Nhơn Trạch là loại hò cấy, tức điệu hò của vạn cấy. Xưa,
dân cấy thường đi cấy tập thể do đầu công tập hợp và điều hành.
Đêm khuya, tiếng tù và của đầu công thổi từng hồi, báo hiệu các
công cấy thức giấc, nấu cơm, tập trung ở điểm hẹn cùng đi ra
54

6.5 Page 55

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đồng. Không khí cấy tập thể đông vui, nảy sinh nhu cầu hò hát.
Giọng hò cấy tự do, âm điệu na ná hò mái ố của miền Tây nhưng
có nét riêng của đồng ruộng Đông Nam Bộ. Gái trai cất giọng hò
mời gọi, đố đáp, chọc ghẹo, giao duyên với nhau. Lời hò thường là
ứng tác theo lục bát, song thất lục bát hoặc lục bát biến. Giọng hò
xướng cao, tiếng xô của tập thể hòa theo. Bên đối bên đáp, cuộc hò
kéo dài theo thời gian lao động, hết hôm này kéo sang hôm khác.
Hát hò tạo không khí vui tươi, hào hứng, thu hút lao động, năng
suất cao. Các giọng hò nổi tiếng khắp vùng Đồng Tháp, Long An,
Cù lao Phố (Biên Hòa), Cù lao Thạnh Hội (Tân Uyên), Bình Lục
(Vĩnh Cửu), Phước Hòa (Long Thành), từng đã đến giao lưu hát
hò trên đồng ruộng Nhơn Trạch. Nhiều người mê hò đến mê nhau.
Có đôi thành tri kỷ. Có đôi kết duyên chồng vợ vì giọng hò. Ở xã
Long Tân có đôi vợ chồng cao niên ông bà Lê Văn Nhạc vượt qua
mọi trở ngại, đến với nhau vì giọng hò. Năm 2012 (ông 112 tuổi,
bà hơn 90 tuổi) vẫn còn kể chuyện vui về mối tình hò cấy. Bà kể,
bà mê ông ở giọng hò khỏe khoắn, đối đáp dí dỏm:
- Hỏi: Hò ... ơ ...! Tiếng đồn anh ăn học đã nhiều
Lại đây em hỏi cây điều mấy bông?.
- Đáp: Hò ... ơ ...! Em về đếm hết cá sông
Lại đây anh đáp mấy bông cây điều.
Rồi bà kết ông ở câu hò chọc ghẹo:
- Hò ... ơ ...! Ghe lên le xuống tưng bừng
Sao em không trả cái quần cho anh!.
Đáng tiếc, ngày nay chỉ những nghệ nhân ở lứa tuổi “cổ lai
hy” mới còn ấp ủ nhiều kỷ niệm đẹp về một thời hò cấy.
55

6.6 Page 56

▲back to top


Tổng quan
là hình thức diễn xướng những câu hát ngắn, ngẫu hứng
thành làn điệu, Theo ký ức của người cao tuổi1, ngoài các bài lý
phổ biến ở Nam Bộ, Nhơn Trạch từng có Bài Lý Nhơn Trạch âm
điệu thế nào không rõ, chỉ còn lại phần lời không đầy đủ:
Gạo Đàng Ngoài: Bảy tiền một bát
Gạo Đàng Trong: Bảy bát một tiền
Anh không tin thì anh vô Nhơn Trạch mà coi
Có quân tập trận có chòi bắn bia
Có con ngựa hồng mao tiền mao hậu
Quan võ thầy đầu đội mão đai.
Bà Ba Dẹt ở xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch hát được điệu
lý lu là, lý trèo lên bằng chất giọng rất riêng với các câu hát nửa
quen, nửa lạ, biến đổi từ lời bài lý “Ai đem con sáo sang sông ...
và bài “Trèo lên cây khế mà rung ...”
Kể vè: Cũng là nghệ thuật diễn xướng quen thuộc của người
Nhơn Trạch. Đó là hình thức diễn xướng tự sự bằng lối “nói vãn”
có gõ nhịp hoặc không gõ nhịp, nhằm thể hiện các bài vè, truyện
thơ, tích tuồng thuộc nằm lòng. Ở Nhơn Trạch xưa lưu truyền
nhiều bài vè. Phổ biến là các bài vè quen thuộc (nguyên bản hoặc
dị bản) lưu truyền cả nước, như: Vè Chàng Lía, vè Thông Chánh,
vè Con cút, vè Bài tới, vè Con gái lấy thợ câu cua, vè Nói ngược,
vè Nói dóc, vè Trăm thứ bánh. Có những bài vè ứng tác tại địa
phương kể về các sự việc đáng chú ý trong đời thường, như: Vè xã
Những mất vợ (ông Võ Văn Đác ở xã Long Phước, huyện Long
Thành kể), vè Hương thân Cẫn (bà Sáu Nhâm ở xã Phú Hội,
1  T heo tài liệu sưu tầm của nhóm Huỳnh Văn Tới, Huỳnh Ngọc Trảng, Phan Đình Dũng,
năm 1998
56

6.7 Page 57

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
huyện Nhơn Trạch kể), vè Rượu (ông Chín Lát ở xã Long Tân,
huyện Nhơn Trạch kể).
Bà Nguyễn Thị Thôi ở Ba Doi, xã Phước An khi 79 tuổi
(năm 2002) còn cất giọng kể vè:
Có nhìn phong cảnh Ba Doi
Có chòm cây lớn hẳn hòi tốt xanh
Hương chức ăn nói rành rành
Có chùa có miếu lại thêm nhà trường
Việc làm ai nấy cũng thương
Sống nhờ cây củi náu nương tháng ngày
Với nghề hạ bạc lưới chài
Nhờ nghề buôn bán đủ bài ấm no
Ghe buôn ghe bán liền vo
Cho nên gạo bắp chẳng lo món gì
Năm nay đói khổ một khi
Thuế đóng không đủ phải đi vào rừng
Lính ra thì hẹn cầm chừng
Lính về một lúc vui mừng hát ca1.
Cũng qua giọng kể vè tự sự của bà Nguyễn Thị Thôi người
ta nhớ đến chuyện hương quản Thiết, người ở địa phương, cậy thế
hương chức ve vãn vợ của Năm Kiệt, bị một trận đòn ghen gãy
chân2.
1  Theo Võ Văn Ba, Trai Rừng Sác Phước An, NXB Đồng Nai, 2012
2  N guyên văn bài vè được in trong Trai Rừng Sác Phước An, của Võ Văn Ba, NXB Đồng
Nai, 2012
57

6.8 Page 58

▲back to top


Tổng quan
- Đờn ca tài tử: Là dạng sinh hoạt của các nhóm theo nghiệp
đờn ca bài bản tài tử có nguồn gốc từ nhạc sư Ba Đợi (Nguyễn
Quang Đại) phổ biến ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX. Ở Nhơn Trạch
xưa có nhiều người theo học các thầy đờn ca tài tử tại Sài Gòn,
Cần Đước về lập nhóm, sắm nhạc, họp thành ban nhạc, đờn ca
các bài bản cổ điển như là sinh hoạt âm nhạc thính phòng của dân
gian1. Các câu lạc bộ đờn ca tài tử ở Hiệp Phước, Phước Long,
Phước Thọ vốn có truyền thống lâu đời, có lúc nguy cơ mai một,
nay được khôi phục, cùng phát triển với nhiều nơi khác.
**
*
Vùng đất - Con người Nhơn Trạch hội đủ Thiên thời - Địa
lợi - Nhân hòa, kết tinh giá trị của văn hóa Việt Nam, thể hiện bản
sắc của địa phương, có vị thế địa kinh tế và địa chính trị kết nối
liên vùng. Đó là nhân tố quan trọng hàng đầu, là nền móng của
các phong trào yêu nước, theo Đảng làm cách mạng.
1  Đ ược Hội nghị lần 8 (ngày 5.12.2013 tại thành phố Bacu) của Ủy ban liên Chính phủ
về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể UNESCO công nhận là Di sản phi vật thể đại diện
của nhân loại.
58

6.9 Page 59

▲back to top


PHẦN II
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
(1930 - 1975)

6.10 Page 60

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Chương II
TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
ĐẤU TRANH ĐẾN KHỞI NGHĨA
GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1945
I. TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH
1. Ngăn chặn thực dân Pháp xâm lược
Năm 1859 là cột mốc ghi dấu cuộc sống thanh bình của người
Gia Định - Biên Hòa chuyển sang giai đoạn bất an vì gót giày xâm
lược của thực dân Pháp. Thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam,
Liên quân Pháp và Tây Ban Nha tiến chiếm Đà Nẵng không thành
công, tướng Charles Rigault de Genouilly (gọi tắt là De Genouilly)
thay đổi kế hoạch, rút đi hai phần ba số quân (gồm 2.000 người
và 8 chiến thuyền) đưa vào đánh chiếm Gia Định. Sáng sớm ngày
17.2, tướng De Genouilly cho đại bác khai hỏa rồi xua quân đổ bộ
tràn lên. Quân triều đình trong thành dốc sức chống trả nhưng đến
10 giờ trưa thì thất thủ; Hộ đốc Võ Duy Ninh, Án sát Lê Từ cùng
quân binh chạy về thôn Phước Lý rồi tự vẫn ở đó.
Quan binh thành Gia Định nhanh chống thất thủ chỉ trong một
buổi sáng, nhưng liên quân Pháp vượt qua địa bàn Nhơn Trạch,
Cần Giờ không dễ dàng. Theo bản đồ của hành trình tiến quân của
Pháp trong cuộc tấn công Gia Định năm 1859, tính từ ngày 10.2
khi bắt đầu nổ súng tấn công đồn Vịnh Tào (pháo đài Bảo Thắng)
ở Vũng Tàu, 7 ngày sau quân Pháp mới đến được mục tiêu Gia
Định vì phải vượt qua 12 đồn, bảo bố trí ở tuyến sông Lòng Tàu
và sông Sài Gòn, do quân lính cùng dân binh địa phương quyết
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
chiến cản bước quân thù. Các bô lão địa phương có người còn nhớ
chuyện tiền nhân kể về các trận đánh ven sông ngăn chặn bước
chân xâm lược Pháp, trong đó có các trận quyết liệt ở pháo đài
Lương Thiện, pháo đài Tả Định ở địa bàn Nhơn Trạch.
2. Các phong trào chống Pháp trước khi có Đảng lãnh
đạo
Sau khi chiếm đóng Gia Định, quân Pháp đánh chiếm Biên
Hòa ngày 18.12.1861, sau đó đưa quân tiến đánh Long Thành.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 26.12.1861, cánh quân do đại tá Diégo
chỉ huy tiến vào Long Thành để hướng về mục tiêu Bà Rịa. Khi
quân địch kéo đến khu vực ấp Bà Ký thì bị quân triều đình và quân
nghĩa dũng Long Thành1 do Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy
dựa vào hệ thống lũy Ký Giang chặn đánh. Quân địch dùng vũ khí
tối tân áp đảo. Nghĩa quân dũng cảm đánh giặc bằng gươm giáo,
kéo dài trận đánh đến 2 giờ chiều, dù nhiều thương vong nhưng
vẫn giữ được trận địa. Đến khi Pháp có quân tiếp viện do đại tá
Leprite vượt sông Đồng Nai kéo đến, Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng
bị thương nặng, không qua khỏi, hy sinh ngày 27.12.1861. Dân
làng thương cảm, đưa ông cùng 27 nghĩa sĩ về khu đất cao ở Long
Thuận (nay thuộc xã Long Phước huyện Long Thành) lập mộ,
hàng năm cúng giỗ, nay còn di tích2.
Cuộc kháng cự của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng thất bại,
nhưng phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp ở Long Thành
- Biên Hòa không chấm dứt. Người Nhơn Trạch - Long Thành
hưởng ứng theo cờ nghĩa kháng chiến chống Pháp.
1  T rước năm 1960, địa bàn Nhơn Trạch thuộc huyện Long Thành cho nên khi nói đến
Long Thành giai đoạn này bao gồm cả Nhơn Trạch
2  M ộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa quân đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di
tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 2754/QĐ-BT ngày 15/10/1994
61

7.2 Page 62

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Theo ghi chép của một gia đình họ Nguyễn ở Phú Hữu1,
ông Nguyễn Ngọc Hớn (1820-1862), nguồn gốc ở xứ Nghệ (cháu
nội cụ Nguyễn Du), kết duyên với bà Trần Thị Hiển quê ở chốn
Kẻ Chợ kinh kỳ vào năm 1938. Sau đó vài năm, ông bà theo lệnh
triều đình vào phương Nam thực hiện chính sách khai khẩn vùng
đất biên viễn tại Đức Hòa, Đức Huệ (Long An bây giờ). Ông được
phong chức phó quản cơ (một cơ khoảng 300 quân). Khi quân
Pháp chiếm Gia Định, ông Nguyễn Ngọc Hớn dẫn con trai lớn là
Nguyễn Ngọc Sang tham gia nghĩa quân chống Pháp. Ông được
phong chức Quân trấn đồn Mồng Gà (nay thuộc ấp Ký Mỹ, xã
Trường Bình, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), có tham gia trận
tập kích đánh đắm tàu Primôghê ở vàm Đồng Môn Biên Hòa năm
1861. Có thời gian hai cha con đóng quân (đóng bạ) trấn giữ mặt
sông từ vàm Câu Kê đến vàm Ông Chuốc để ngăn quân Pháp.
Thời ấy, tổng số nghĩa quân tại Biên Hòa gồm 18 cơ, 24 liên đội,
trong đó có 4 liên đội mộ trú. Mỗi liên đội có độ 400 quân, trang bị
đại bác cỡ nhỏ và 10 cây súng, còn lại đều vũ trang giáo mác2. Các
đơn vị nghĩa quân rất cơ động. Đội nghĩa quân của các ông phối
hợp với nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu Hy Vọng ở
làng Nhật Tảo trên vàm Cỏ ngày 10.12.1861. Ngay sau đó, các
ông được lệnh đưa quân về đóng bạ từ vàm ông Chuốc đến vàm
Câu Kê. Trong trận đụng độ ngày 26.12.1861 nghĩa quân nghênh
chiến với một cánh quân Pháp tại đây do viên đại tá Lơ Brít (Le
Brides). Lực lượng và trang bị đôi bên quá chênh lệch, hai ông sa
vào tay giặc. Bị tra khảo dã man, khi giặc thả ra thì ít lâu sau ông
Nguyễn Ngọc Hớn từ trần giữa năm Nhâm Tuất (1862).
1  Nguyễn Văn Thông, Đất mẹ, trang 22 - 24, NXB Đồng Nai, 2015
2  Lương Văn Lựu, Biên Hòa sử lược, tr.177, 1972
62

7.3 Page 63

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Cha mất, con trai là Nguyễn Ngọc Sang tiếp tục chiêu mộ
nghĩa quân tiếp tục chống Pháp mong trả thù nhà nợ nước. Ngày
5.6.1862, triều đình Huế ký kết hòa ước giao các tỉnh Gia Định,
Định Tường, Biên Hòa cho Pháp, lòng dân không thuận, tôn Trương
Định làm Bình Tây Đại Nguyên soái, dựng cờ, mộ quân, xây dựng
căn cứ kháng chiến. Nguyễn Ngọc Sang đem quân ứng nghĩa về
với Trương Định, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh miền Đông,
góp phần tạo nên các chiến thắng ở Lý Nhơn, Gò Công trao trảo,
Rừng Lá, lũy Ký Giang. Sau khi Trương Định hy sinh, phong trào
kháng Pháp tàn lụi dần; cuối năm 1864, ông Nguyễn Ngọc Sang
lui về ẩn cư tại xóm Bến Bạ, làng Lương Thiện, cưới vợ, sống đời
thường dân, nhưng vẫn canh cánh tấm lòng ưu dân ái quốc, qua
đời năm 1890.
Khởi nghĩa vũ trang thất bại, lòng dân Nhơn Trạch - Long
Thành uất ức sống trong bộ máy cai trị của giặc Pháp, căm ghét
những tên tay sai do chính quyền Pháp dựng lên để đàn áp đồng
bào. Đầu năm 1881, nhà cầm quyền Pháp đưa Trần Bá Hựu (em
của Việt gian Trần Bá Lộc) về làm tri phủ Long Thành. Hựu là
tên gian ác làm dân căm ghét. Một nhóm nghĩa sĩ do sư Huyền
Vi (thế danh là Trần Văn Tấn) chủ trì bàn cách tiêu diệt Trần Bá
Hựu để trừ hại cho dân lành. Một buổi trưa, sư Huyền Vi cùng
ba người áo the khăn đóng mang hoa quả vào huyện đường Long
Thành nói là để biếu quan phủ. Hựu vắng nhà, vợ Hựu nhận lễ,
cho biết Hựu đang đi săn ở vùng Bà Ký, kỳ thực là Hựu đánh bài
ở nhà xã trưởng tên Ký Tài. Biết vậy, nhóm của sư Huyền Vi tìm
đến, dùng dao diệt gọn Trần Bá Hựu tại nơi y đánh bài. Vụ án gây
chấn động cả vùng, làm run sợ bọn tay sai cho giặc. Trần Bá Lộc
khóc thương em, thề trả thù bằng các cuộc khủng bố, bắt bớ, tra
tấn tàn độc.
63

7.4 Page 64

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
3. Hội kín/Thiên địa hội
Khởi nghĩa vũ trang bị dập tắt, hoạt động diệt ác bị khủng bố,
người Nhơn Trạch - Long Thành chuyển sang hoạt động bí mật,
tổ chức Hội kín dưới danh nghĩa Thiên địa hội. Thiên địa hội xuất
hiện ở địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành từ năm 1908 theo phong
trào Hội kín ở Nam kỳ, mục đích chung là lật đổ chính quyền thực
dân, tôn Phan Xích Long làm hoàng đế. Tổ chức Hội kín /Thiên
địa hội ở Nhơn Trạch - Long Thành không chặt chẽ lắm nhưng có
mặt ở hầu hết các xã, chia làm nhiều cụm:
- Cụm Phước Thái, Long An, Long Phước: Do cụ Lê Lưu Di
phụ trách, điểm liên lạc tại đình Long Phước.
- Cụm An Hoà Hưng, Phước Tân, Tam Phước, Tam An, An
Lợi: Do cụ Phan Văn Tập phụ trách, điểm liên lạc tại đình Tam
Phước.
- Cụm Phước Lộc, Phước Nguyên, Siph, Lộc An, Bình Sơn:
Do cụ Huỳnh Thanh Quang và Trần Nghĩa Khánh phụ trách, điểm
liên lạc tại khu Giàu Ba.
- Cụm Phú Hữu, Phước Khánh, Giồng Ông Đông: Do cụ
Nguyễn Xuân Sáng điều khiển, điểm liên lạc tại Phú Hữu.
- Cụm Phước Long, Phước Thọ, Phước An: Do cụ Đặng
Phùng chỉ huy, điểm liên lạc tại Phước An.
- Cụm Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiển: do cụ
Hồ Văn Tĩnh lãnh đạo, điểm liên lạc tại Xóm Hố.
Cụm ở Phú Hội, Long Tân, Phước Thiền, Phước Kiển có
nhiều hoạt động nổi trội, đông hội viên, có nội qui sinh hoạt bài
bản. Nòng cốt là các thành viên: Nguyễn Văn Nguyên (sinh 1885)
Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Sáng, Cả Tập, Cả Công, Tư
Lân ... Hội kín hoạt động suốt một dải từ Lương Thiện, Phước Lý,
64

7.5 Page 65

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Phước Khánh, Bình Quới tới Phước An, tuyên truyền yêu nước,
bày cho đông đảo người nghèo cách chống sưu cao thuế nặng,
chống sự bóc lột của bọn chủ điền tham lam. Trụ sở lúc đầu đặt
tại hốc Cây Da thuộc xã Phú Hội. Sau thấy họp ở đây không được
tiện, dễ bị lộ nên tổ chức quyết định xây dựng một miểu ở gò cao
giáp ranh xã Long Tân và Phú Hội, dưới hình thức là miểu Bà,
người địa phương gọi tên là miểu Thiên địa hội. Hằng năm, lấy
ngày rằm tháng Giêng là ngày cúng miểu, đó là ngày hẹn họp mặt
của hội viên. Hội viên gặp nhau có mật hiệu để nhận diện, ví dụ:
Một người chỉ tay lên trời, nói bâng quơ “Mây vẫn nặng nề”; hội
viên kia chỉ tay xuống đất và trả lời: “Cơn giông sắp nổ”. Khi đến
nhà nhau thì dùng mật hiệu cầm cây dù:
Dù mang bên tả, đảng viên
Đi việc cơ mật nói riêng chủ nhà.
Dù mang cái móc trở ra
Bàn sơ chút việc ghé qua đi liền.
Dù mang cái móc trở vô
Phải lo cơm nước với đồ nghỉ ngơi1.
Thiên địa hội có một chương trình học tập cho hội viên về
nội quy gia nhập, lời thề, có những bài ước để động viên. Một
đoạn của bài ước như sau:
“Bán dạ Minh khuê
Đánh đáo quê đình
Nghĩa huynh kết bài đồng minh
Thủy chung đệ lại đồng ẩm nhất”
1  Theo Trần Hiếu Thuận (Hoàng Thơ) - nhà nghiên cứu VHDG, đã mất.
65

7.6 Page 66

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Tại miểu Bà Giang Lò (xưa gọi là miểu Thiên địa hội) hiện
còn bàn thờ Thiên địa hội với bảng tên 22 hội viên được ghi danh
thờ cúng: Nguyễn Tử Cang, Hồ Văn Tỉnh, Hồ Văn Thái, Nguyễn
Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Phạch, Nguyễn Văn Trị, Lâm Văn Chấp,
Thái Văn Nhị, Đào Văn Triệu, Huỳnh Văn Đặng, Phan Văn Ngãi,
Lê Văn Quí, Nguyễn Văn Đột, Huỳnh Văn Phách, Huỳnh Văn
Hiệp, Quách Văn Súng, Trần Văn Đông, Đặng Văn Nghi, Lê Văn
Truyền, Lê Văn Đủ, Võ Văn Phò, Hồ Minh Quang.
Sau sự kiện ngày 12.1.1916, lực lượng Thiên địa hội ở Long
Thành tham gia phá khám Sài Gòn bị thất bại, quân Pháp ra sức
lùng bắt và đàn áp phong trào. Các ông Tiều, ông Quý, ông Dệch
bị địch bắt. Các hội viên khác mai danh ẩn tích. Phong trào Hội
kín/Thiên địa hội ở Nhơn Trạch - Long Thành tan rã.
4. Phản kháng áp bức
Từ khi thực dân Pháp toàn quyền cai quản Nam kỳ, đời sống
của người dân Nhơn Trạch ngày càng cơ cực, tủi nhục trong vòng
nô lệ. Giữa thế kỷ XIX, cả vùng Nhơn Trạch vẫn còn hoang vu,
hẻo lánh. Rừng còn chiếm phần lớn diện tích với nhiều loại gỗ quý
như cẩm, gõ, bằng lăng và đặc biệt là sao, dầu - hai loài thực vật
bản địa của rừng Đông Nam Bộ.
Người dân Nhơn Trạch sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Phần lớn diện tích đất sản xuất Nhơn Trạch là vùng giồng, nằm
trên cao, điều kiện tưới tiêu hạn chế. Ngoài một số ít người dân có
ruộng lúa, tập trung chủ yếu ở các vùng ven sông, cồn, cù lao; còn
lại người dân chỉ có thể làm rẫy, trồng các loại hoa màu nên đời
sống còn nhiều khó khăn. Không đủ đất để canh tác, nhiều người
phải đi làm thuê làm mướn. Cả một mùa lúa gieo cấy, trồng tỉa cực
nhọc, đến mùa gặt lúa phải đem cho trâu đạp, phơi khô, quạt sạch
xong mới được nộp tô. Tỷ lệ nộp tô lên đến 50%, nhưng trong
66

7.7 Page 67

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thực tế còn cao hơn bởi chủ điền thường đong lúa theo kiểu “trừ
hao”. Năm nào lúa trúng, nông dân đong thóc nộp tô xong, may
mắn lắm mới đủ lúa ăn đến năm sau. Năm nào thất mùa thì phải
nợ chủ điền. Cứ vậy, nợ mới chồng nợ cũ, người nông dân quanh
năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà nghèo vẫn hoàn nghèo.
Khoảng đầu thế kỷ XX rất ít nhà tường, nhà ngói, phần lớn là nhà
lá sơ sài, lụp xụp. Kinh tế tự cấp tự túc là chủ yếu.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều loại thuế của chính quyền thời bấy
giờ đặt ra làm cho đời sống người dân lâm vào cảnh bi đát. Cũng
giống như các địa phương khác trong cả nước, hàng năm thanh
niên trai tráng ở Nhơn Trạch phải đóng thuế thân. Mỗi người đàn
ông gọi là tráng đinh (18 tuổi trở lên), theo quy định mỗi năm phải
đóng đến 4-5 đồng thuế thân. Đến sau năm 1930, thuế thân tăng
lên 6,3 đồng/năm. Ai không có tiền đóng thì bị làng lính bắt trói,
đóng trăn cả tuần lễ, đánh đập cho tới chừng nào có đủ để nộp mới
tha. Vì vậy, tới “mùa” thu thuế thân ai cũng nơm nớp, cứ nghe chó
sủa rộ là đàn ông trai tráng ở Nhơn Trạch, những ai chưa đủ tiền
đóng thuế thân lại tìm cách chạy trốn, phần lớn là kéo nhau chạy
vô rừng, đến tối mới dám về nhà. Nhưng trốn cũng chỉ là giải pháp
tạm thời, muốn yên ổn làm ăn sau cùng cũng phải chạy vạy, vay
mượn, có khi là vay bạc nặng lãi để nộp thuế, nợ chồng thêm nợ.
Ngoài thuế thân, người nông dân còn phải nộp thuế ruộng,
rẫy. Có nhà trồng được mấy sào hoa màu như: bầu, bí, mướp...
cũng phải đóng thuế, sản phẩm làm ra nhiều khi bán không đủ nộp
thuế. Các loại phương tiện vận chuyển, như ghe, xe bò cũng phải
nộp thuế. Chính quyền thuộc Pháp quy định mỗi con bò kéo xe
phải có giấy “bề chỉ”, một dạng như “căn cước” của bò: màu gì,
xá gì, rất kỹ lưỡng. Khi qua mỗi đồn bót, trạm gác của chúng phải
trình giấy bề chỉ, nếu không có sẽ bị phạt rất nặng, có khi còn bị
67

7.8 Page 68

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
tịch thu cả bò lẫn xe. Đi đêm, mỗi xe bò đều phải treo hai cây đèn
phía trước và sau xe theo quy định, giống như ô tô bây giờ phải có
đèn trước và sau, nếu không cũng sẽ bị phạt nặng. Không chỉ vậy,
chính quyền còn quy định: 5 nhà chỉ được có một con dao dùng để
phát rẫy, vì thế đời sống người dân rất khó khăn, cơ cực. Nhà cầm
quyền Pháp ra sức tịch thu đất để mở đồn điền. Địa chủ cấu kết với
nhà cầm quyền để tước đoạt đất sản xuất của dân. Như ở Phước
Thiền, Phú Mỹ, có địa chủ Bảy Thê, Cổ Lẳng chiếm đến 256ha
đất màu mỡ của dân. Ở Cù lao Ông Cồn, hầu hết đất tốt (khoảng
300ha) nằm trong tay địa chủ Trần Thị Dung.
Năm 1929, quân Pháp bắt đầu xây dựng kho bom Thành
Tuy Hạ. Người dân Nhơn Trạch và một số xã xung quanh nhất là
ở Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Long Tân... đều phải đi làm
phu không công ít nhất 15 ngày/năm, công việc nào là chặt cây,
phá bụi, san bằng các gò, nỗng, đào ô đắp ụ để chứa bom, khiêng
vác vật liệu xây dựng. Kho đạn Thành Tuy Hạ xây dựng 4 năm
mới xong. Tiếp đó, đến năm 1939, Pháp xây dựng đồn Giồng Ông
Đông, người dân các xã xung quanh cũng phải đi làm phu xây
dựng. Đến lúc Nhật nhảy vào chiếm đóng, người dân lại phải đi
phu xây dựng sân bay Nước Trong (An Lợi) và Gò Dầu (Phước
Thái). Nhơn Trạch trong tình chung của cả nước, người dân phải
chịu một cổ hai tròng (Thực dân Pháp và Phát xít Nhật). Ai sống
trong thời gian này mới biết chế độ hà khắc của Thực dân - Phát
xit tàn bạo như thế nào. Người dân bị khủng bố tinh thần lẫn đời
sống vật chất; sưu cao, thuế nặng, thiếu thốn đủ thứ: Khi đau bệnh,
không thuốc thang; nhà không dầu thắp đèn (phải đốt đèn bằng
dầu phọng, mù u, dầu chai), vải không đủ mặc phải may quần áo
bằng vải bao bố chịu trận với rận rệp, nhiều cặp vợ chồng chỉ có
một quần dài. Thanh niên bị bắt đi làm xâu vài ba tháng mới được
về; làm xâu xa tận Bà Rịa, Hố Nai, Bến Gỗ, cực khổ trăm bề; nên
68

7.9 Page 69

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
có câu châm biếm truyền khẩu: “Làm xâu Bến Gỗ cực khổ gian
nan. Vợ con để lại nhờ các anh bảo an (lính Nhật) trông giùm”.
Cụ thể, ở ấp 2, Phước Long có anh Huỳnh Văn Tỉnh (Hai Tỉnh) bị
lính Nhật bắt đi làm xâu, rồi bắt đi lính; lao lực hà khắc, bệnh lao
phổi nặng, trả về, không thuốc, không trụ nổi 6 tháng, chết trong
tủi cực1.
Nhà cầm quyền Pháp chủ trương “ngu dân”. Từ năm 1929 -
1932, toàn huyện Long Thành chỉ có một trường dạy đến lớp 1 đặt
ở Phước Thiền, một trường dạy đến lớp 2 ở xã Phước Lộc. Có hai
bố con cầm đèn đi hỏi cả hai ấp Bến Cam, Bến Sắn không ai nhận
ra mặt chữ. Hầu hết người dân mù chữ, thất học. Một ít thanh thiếu
niên được học ở các trường làng đặt ở các cơ sở thờ tự (như chùa
Ông, đình Ông Mai ở Phú Hữu) được các thầy giáo như Phạm Văn
Hinh, Nguyễn Hảo Văn ngoài việc dạy chữ còn truyền lửa về đạo
nghĩa, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
Tức nước ắt có lúc võ bờ, người dân Nhơn Trạch - Long
Thành ngầm có sự phảng kháng trong lòng, mong đợi một điều gì
đó làm thay đổi kiếp sống tủi cực, u tối đang đè nặng cuộc đời.
5. Phong trào công nhân cao su
Từ năm 1862, Thống đốc Nam kỳ Bô na (Bonard) đã có chủ
trương “xung công” đất vô chủ, thực ra là chiếm đoạt ruộng đất,
mở đường cho chính sách khai thác thuộc địa, lập các đồn điền
nông nghiệp, trong đó lợi nhuận cao là đồn điền cao su. Năm 1906,
thực dân Pháp trồng thử 1.000 gốc cao su ở trang trại Dầu Giây.
Năm 1908, Công ty Cao su Les caoutchous du Donai (LCD) ra
đời. Tiếp theo là hàng loạt công ty đồn điền cao su được thành lập
ở Biên Hòa. Năm 1917, thực dân Pháp thành lập Hiệp hội trồng
1  Theo lời kể của bà Phan Thị Chi, sinh năm 1926, tại xã Long Thọ
69

7.10 Page 70

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
tỉa Đông Dương để khai thác cao su; đầu tư tối đa để mở rộng
phạm vi trồng cao su. Chỉ sau một thời gian ngắn, tư bản Pháp đã
mở thêm công ty Societe Indochinoise plantation d’heveas, gọi tắt
là Siph, do vợ chồng hầu tước Charle Rivieas des Lasune trông
coi. Sau đó, hàng loạt đồn điền cao su khác đã ra đời trên địa bàn
huyện Long Thành, như: sở Abôrati, sở De La, sở tư Trần Quang
An, sở Helena, sở Rơvec tiga, sở De George, sở Nguyễn Dưỡng,
sở Péra.
Tại xã Phú Thạnh, do thổ nhưỡng thích hợp với sự phát triển
của cao su nên một số cố đạo người Pháp đã đứng ra lập sở cao su
Tân Tường1, đồng thời lập thêm sở cao su ở xã Phú Hội - người
dân gọi là sở Ông Cố. Người dân Phú Thạnh, Phú Hội do không
đủ đất đai canh tác, nên một số người đã đi làm công nhân tại các
sở cao su, nhà máy chế biến mủ.
Lúc mới thành lập, các đồn điền cao su thuê người dân địa
phương phá rừng, phát hoang trồng cao su. Rừng khu vực Long
Thành - Nhơn Trạch thời kỳ này còn rậm rạp, nhiều chướng khí,
không ít người đã phải bỏ mạng vì nạn cây đè, bị rắn độc cắn, thú
dữ chụp, hoặc bị sốt rét, dịch bệnh. Theo tài liệu thống kê ngày
8.5.1976 của Nông trường cao su quốc doanh Thành Tuy Hạ, diện
tích của nông trường thời điểm này là 3.399 hecta, bao gồm cả
diện tích trồng cao su, nhà làm việc, nhà máy chế biến mủ. Chưa
có số liệu nào cho biết diện tích ban đầu của sở cao su Tân Tường
là bao nhiêu, nhưng từ số liệu thống kê năm 1976, trừ đi số cao
su trồng trong các năm 1940, 1941 (173 hecta), 1958, 1961 (280
1  Sở cao su Tân Tường ngoài diện tích trồng cao su, còn có khu nhà máy mủ, nhà xông,
nhà nêm để chế biến mủ. Khoảng năm 1950, chiến sự giữa ta và Pháp diễn ra ác liệt,
khu nhà máy bị ta tấn công nhằm tiêu hao sinh lực địch, chủ đồn điền đã bỏ khu vực
nhà máy, dời xuống khu vực Thành Tuy Hạ. Sở cao su Tân Tường đổi thành sở cao su
Thành Tuy Hạ (Plantation Thành Tuy Hạ)
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
hecta), 1971 đến 1974 (195 hecta), thì diện tích sở cao su Tân
Tường ban đầu khoảng trên 2.700 hecta - một con số cực kỳ lớn so
với điều kiện làm việc đầu thế kỷ XX. Biết bao mồ hôi, nước mắt,
máu xương của người dân Nhơn Trạch đã đổ ra để khai hoang,
trồng nên những vườn cao su bạt ngàn ấy.
Đi làm công nhân, nhưng đời sống người dân Phú Thạnh,
Phú Hội cũng không khấm khá hơn bởi công việc nặng nhọc, đồng
lương rẻ mạt.
Lương công nhân cạo mủ mỗi ngày 32 xu. Công nhân đứng
máy lương 40 xu. Những công nhân chưa đủ 18 tuổi được phát
cho một thẻ gọi là “thẻ nhau”, mỗi ngày lãnh 12 xu. Lương phụ
nữ thấp hơn nam giới, chỉ khoảng 30 xu hoặc thấp hơn. Nghỉ ngày
nào là cắt lương. Mắc bệnh không được cấp thuốc. Lao động nặng
nhọc, bệnh tật sốt rét, phù thủng làm nhiều người chết.
Do đồn điền cao su ngày càng mở rộng diện tích, số lượng
dân địa phương không đủ để đáp ứng nhu cầu về nhân công, chủ
các đồn điền cao su tiến hành chiêu mộ phu từ các tỉnh phía Bắc
vào làm phu công tra (contract). Đây là một trong những đợt di
dân lớn đến Đồng Nai góp phần tạo ra lớp công nhân đồn điền cao
su đầu tiên của vùng Đông Nam Bộ.
Đoàn công tra đầu tiên đến Bình Sơn, An Viễng gồm 81
người là công nhân thuộc mỏ than Cẩm Phả, Cửa Ông, Mông
Dương thuộc tỉnh Quảng Ninh. Đoàn thứ hai có 530 người ở các
tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam. Đoàn thứ ba có 1.025 người
ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng.
Trong vòng 10 năm (từ năm 1919 đến 1929), đã có 87.371
người ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung kỳ đăng ký làm phu công
71

8.2 Page 72

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
tra ở các đồn điền cao su Nam kỳ1. Cuối năm 1935, số dân công
tra từ miền Bắc, miền Trung vào làm trong các đồn điền cao su
ở Long Thành lên tới 11 ngàn người. Dù diện tích sở cao su Tân
Tường và sở Ông Cố ít, quy mô nhỏ hơn so với các sở khác,
nhưng vẫn phải tuyển phu công tra miền Bắc, miền Trung vào làm
việc vì không đủ nhân lực.
Đời sống của những người phu trong đồn điền cao su vô
cùng cực khổ. Họ phải ở trong những căn lán chật hẹp ẩm ướt, 6
người/căn rộng khoảng 24m2, mái lợp lá, nền đất, không giường,
không mùng mền, ăn cơm gạo hẩm, cá khô. Lán không có bếp nên
công nhân phải nấu ăn ngay cạnh giường nằm. Vào mùa mưa, hầu
hết các lán đều bị dột, nền đất nhão thành bùn. Muỗi ở khu vực
này nhiều như vãi trấu, nên công nhân thường bị sốt rét. Thêm vào
đó, vùng Nhơn Trạch đất giồng, nền cứng, khó đào giếng nên công
nhân rất thiếu nước để sinh hoạt, phải dè sẻn từng ca nước sạch.
Thiếu nước, điều kiện ăn ở, vệ sinh kém nên công nhân thường bị
bệnh, ngoài sốt rét thì bệnh phổ biến là kiết lỵ, lấy đi không biết
bao nhiêu sinh mạng con người. Nữ ký giả người Pháp Viollis
trong chuyến điều tra về đời sống công nhân cao su ở huyện Long
Thành năm 1949, đã viết: “Tôi trông thấy những người nông dân
khốn nạn Bắc kỳ khỏe mạnh khi đến đây, nhưng chỉ sau 3 hay 4
năm thì chỉ còn thân tàn ma dại: sốt rét, phù thủng, bị đục ruỗng
bởi sâu quãng... Đây là những xác chết thật sự, không còn sức
lực, họ gieo rắc xung quanh những mầm mống bệnh tật, nổi loạn
và thù hằn...”2.
Do đặc điểm của cao su là cho mủ nhiều trước khi mặt trời
lên, nên chế độ lao động của công nhân cao su cũng đặc biệt vất
1  Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam, NXB Lao Động năm 2003, trang 33
2  G iai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi có Đảng, NXB Khoa học xã hội, trang
213
72

8.3 Page 73

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
vả. Từ 4 giờ sáng, đồn điền đánh kẻng, công nhân mang theo cơm
nắm và cá khô bó trong mo cau, tập trung ra sân điểm danh rồi ra
các lô cao su để cạo mủ. Mỗi công nhân phải cạo từ 1 phần đến 1,5
phần cây (tức từ 1 hecta đến 1,5 hecta), phải cạo xong mới được
về. Tính ra, mỗi ngày công nhân cao su phải làm 13-14 giờ. Bọn
chủ trừng phạt rất nặng những công nhân cạo cây cao su phạm lỗi,
nếu bị phát hiện có thể bị đánh đến chết. Theo quy định, một tuần
công nhân được nghỉ ngày chủ nhật, nhưng trong thực tế, ngày
nghỉ công nhân cũng bị trưng dụng đi làm vệ sinh, làm cỏ, đắp đê
ngăn nước cuốn trôi đất màu. Tóm lại, công nhân cao su bị bóc lột
sức lực đến tối đa. Tài liệu còn lưu lại ở Sở cao su Đất Đỏ (Te-ru)
cho thấy, trong năm 1928, tại một đồn điền thuộc sở, tỷ lệ công
nhân chết trong năm là 19%. Ở đồn điền cao su Dầu Tiếng (tỉnh
Tây Ninh) tỷ lệ này lên đến 47,4%1. Ở Phú Thạnh, đời sống của
công nhân cao su ở cũng tương tự.
Làm phu công tra, công nhân không được coi là con người.
Chủ đồn điền đặt cho mỗi người một con số thay cho tên giống
như số tù, con số này theo người phu công tra cho đến lúc chết.
Thông thường, người phu công tra là người nghèo, túng
cùng mới đăng ký đi làm phu, trong tay không có tiền nên khi
vào đến đồn điền bước đầu phải mua chịu gạo, thực phẩm. Bọn
cai, xu, giám thị bán chịu với giá cắt cổ, vì thế khi công nhân lãnh
tiền lương, trả nợ thì không còn đồng nào, lại tiếp tục lẩn quẩn cái
vòng vay trả, hết hạn ký hợp đồng (3 năm) cũng không có tiền
trở về quê, họ đành phải nhắm mắt ký hợp đồng làm tiếp. Vì vậy,
người phu công tra Bắc kỳ thời ấy đã truyền tai nhau bài thơ về
thân phận mình với nỗi niềm cay đắng:
1  Lịch sử phong trào công nhân cao su, NXB Lao động năm 2003, trang 52
73

8.4 Page 74

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Con gà mày gáy Bắc Giang
Trời làm lụt lội mày sanh Nam kỳ
Nam kỳ lắm hãng cao su
Đi sương về mù khổ lắm trời ơi!
Thằng Tây, thằng Đội, thằng Cai
Cướp vợ bằng búa, giết người bằng dao
Ngày làm được ba cắc hai
Ăn hết ba cắc xài ngoài hai xu
Trốn đi thì sợ ở tù
Liều thân ở lại làm bù ba năm.
Lớp phu công tra này, ban đầu chỉ có thanh niên trai tráng
đăng ký. Sau này vì thiếu hụt lao động, chủ các đồn điền chấp
nhập cả những người đứng tuổi, có gia đình, và khi vào nơi ở mới
họ đã mang theo cả gia đình cùng đi. Số thanh niên sau một thời
gian gắn bó với sở cao su, chọn vùng đất mới làm quê hương, đã
lấy vợ/ chồng hoặc trong những người chung cảnh ngộ, hoặc là
dân địa phương. Từ đó, đã hình thành một bộ phận dân cư mới,
cùng với lớp cư dân bản địa trước đó tạo ra sự đa dạng, phong phú
trong đời sống sinh hoạt, văn hóa, tập quán, tín ngưỡng ở địa bàn
Nhơn Trạch.
Từ khi có tầng lớp công nhân cao su ra đời và khi Pháp cho
dời kho đạn Thị Nghè về Thành Tuy Hạ, công nhân cao su Tân
Tường, Sở Ông Cố và người làm công thợ cho Pháp có dịp là tiếp
xúc với những người cách mạng như ông Bảy Dài, được nghe
dẫn giải về truyền thống yêu nước của dân ta, về giai cấp công
nhân, về Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhiều người được tham
74

8.5 Page 75

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
gia mấy cuộc diễn thuyết của cán bộ Đảng, mỗi cuộc đông hàng
trăm người, có cuộc bị cảnh sát đàn áp dã man. Từ diễn thuyết
dẫn đến nhiều cuộc đình công yêu sách đấu tranh đòi tăng lương
giảm giờ làm. Cuộc đình công thu được một phần kết quả, chủ
phải nhượng bộ. Qua phong trào tham gia diễn thuyết, đình công,
người Nhơn Trạch tiếp nhận được nhiều lý luận mới mẻ về cách
mạng, về Đảng. Cuốn Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương âm
thầm phổ biến cho nhiều người, từ người biết chữ lan truyền trong
dân, từ người nhiều chữ đến người ít chữ. Người dân hiểu ra Bọn
địa chủ, bộ máy hội tề, chính quyền thực dân là nguồn gốc của áp
bức bóc lột bạo tàn. Muốn thoát khỏi cảnh ngựa trâu bóc lột đó,
muốn người cày có ruộng, thì nông dân phải kề vai sát cánh với
công nhân để lật đổ toàn bộ giai cấp thống trị cũ, dựng xây cuộc
đời mới.
Để phản kháng sự cai quản khắc nghiệt của địa chủ và thực
dân, người nông dân và công nhân cùng khổ ban đầu chỉ biết bỏ
trốn, hoặc phản đối rồi chịu cực hình. Dần dần, số đông biết lên
tiếng bảo vệ kẻ thế cô, xuất hiện hình thức bãi công tập thể để
trực diện yêu sách. Đến khi tiếng vang của các cuộc đấu tranh
của công nhân ở đồn điền Cam Tiên (tháng 12.1926), ở đồn điền
Phú Riềng (9.1927) vọng đến, công nhân ở Nhơn Trạch biết mình
có thể làm được gì để hội nhập với phong trào công nhân. Năm
1932, tại đồn điền Bình Sơn (thuộc huyện Long Thành) đã nổ ra
cuộc đấu tranh của công nhân đòi chủ Tây không được đánh đập
công nhân, chống cúp phạt lương. Tại Nhơn Trạch lúc này chưa
có tổ chức Đảng, nhưng những cuộc nổi dậy của công nhân cao
su và người dân Long Thành đã ít nhiều tác động đến nhận thức
của người dân Nhơn Trạch. Một số công nhân cao su của sở Tân
Tường, sở Ông Cố cũng tham gia hưởng ứng phong trào đấu tranh
của đồn điền Bình Sơn.
75

8.6 Page 76

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Các phong trào yêu nước chống Pháp từ vũ trang đến Hội
kín đều đã thất bại. Một phong trào yêu nước mới mẻ đang mở
ra. Lòng dân Nhơn Trạch đang như đồng khô trong nắng dữ, chờ
ngọn lửa cách mạng để bùng cháy.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
1. Đảng ra đời, gầy dựng phong trào cách mạng
Ngày 3.2.1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ sự kiện
vô cùng quan trọng này, phong trào đấu tranh của người dân và
công nhân cao su khu vực Long Thành - Nhơn Trạch nói chung
chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn có Đảng lãnh đạo.
Ở Nam Bộ, những năm 1930 - 1935, các đồng chí đảng viên
Đảng Cộng sản được phân công tuyên truyền, vận động quần
chúng theo Đảng làm cách mạng. các đồng chí Nguyễn Văn Tạo
(quê ở Long An), Nguyễn Văn Nguyễn (người Mỹ Tho), Dương
Bạch Mai (người Bà Rịa), Nguyễn An Ninh (quê ở Hóc Môn)
đã có những hoạt động viết báo, diễn thuyết đòi tự do dân chủ
gây tiếng vang, đáp ứng lòng mong đợi của người dân yêu nước.
Người Biên Hòa hướng theo tiếng gọi của Đảng thông qua các
đồng chí ấy.
Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản bị đàn áp, nhiều cơ sở
Đảng mới ra đời ở Nam kỳ đã tan vỡ, nhiều cán bộ ưu tú ở Nhà
máy cưa BIF, ga xe lửa Biên Hòa, đồn điền cao su Cam Tiêm,
Cẩm Mỹ, An Lộc bị giặc bắt, tù đày. Từ năm 1931 đến 1935, Xứ
ủy Nam kỳ cố gắng tái lập, nhưng lập rồi lại vỡ. Đến tháng 4.1935,
Xứ ủy mới móc nối lại các cơ sở, khôi phục phong trào.
Ở tỉnh Biên Hòa, đồng chí Lưu Văn Viết (Tư Chà) sau một
thời giam tạm lánh, năm 1933, trở lại với quê hương Tân Phong,
bám dân, xây dựng phong trào cơ sở, kết nạp em là Lưu Văn Văn
(Chín Văn) vào Đảng, mở rộng cơ sở cách mạng trong Bệnh viện
76

8.7 Page 77

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tâm thần, trong thanh niên học sinh Bến Cá và kết nạp thêm vài
đảng viên mới. Đầu năm 1935, đồng chí Hoàng Minh Châu (tức
Vĩ) quê ở Tiền Giang được Liên Tỉnh ủy miền Đông cử về hoạt
động ở Biên Hòa, liên lạc với các đảng viên cơ sở, vận động thành
lập Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều do Hoàng Minh Châu
làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Văn Phan làm Phó Bí thư, các đảng
viên là: Lưu Văn Viết, Lưu Văn Văn, Quánh Tỷ, Quách Sanh,
Trần Minh Triết, Phạm Văn Khoai. Đó là chi bộ Đảng đầu tiên ở
tỉnh Biên Hòa.
Từ tháng 4.1936, nương theo chủ trương của Mặt trận Bình
dân do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, phong trào cách mạng
ở nước ta phát triển khá thuận lợi, chuyển hình thức hoạt động
bí mật sang công khai hợp pháp và nửa hợp pháp; tập hợp và
hướng dẫn đông đảo quần chúng đấu tranh, thông qua đó giáo dục,
phát triển đội ngũ cách mạng. Thời gian này, một số người giàu
lòng yêu nước ở Nhơn Trạch - Long Thành tiếp cận tư tưởng cách
mạng của Đảng.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ nhất ở Thượng Hải (26.7.1936), mục tiêu đấu tranh chống
chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự
do dân chủ, cơm áo, hòa bình được truyên truyền, phổ biến rộng
khắp; người Nhơn Trạch được biết đến chủ trương thành lập Mặt
trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (sau trở thành
Măt trận Dân chủ Đông Dương), tập hợp mọi lực lượng dân chủ
tiến bộ để đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, chống
kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn phát xít Pháp và bọn phản động
thuộc địa. Sau khi, Ủy ban lâm thời Đông Dương Đại hội1 được
1  G ồm Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Trân, Võ Công
Tồn
77

8.8 Page 78

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
thành lập tại Sài Gòn (ngày 13.8.1936), ở Biên Hòa thành lập Ủy
ban hành động1 (do đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa làm Chủ tịch)
để vận động và điều hành phong trào cách mạng. Các đồng chí
Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nghĩa được Ủy ban Đông Dương
Đại hội phân công phụ trách Biên Hòa. Trong vòng một tháng
(tháng 8.1936), nhiều Ủy ban hành động cơ sở được thành lập ở:
Tân Triều, Bình Phước, Bình Thạnh, Tân Phong, Bình Hòa.
Chủ tịch Ủy ban hành động tỉnh phân công các đảng viên về
Long Thành, Nhơn Trạch, chú trọng khu vực thị trấn và đồn điền
cao su để tuyên truyền yêu nước, đấu tranh đòi dân chủ. Các tài
liệu của Đảng như: “Lời hiệu triệu của các Ủy ban hành động”,
báo “Lao động”, “Dân chúng” được phổ biến khá rộng rãi trong
các khu vực dân cư, đô thị, đồn điền cao su. Qua đó, phong trào đã
tập hợp rất nhiều trí thức, kể cả một số cai, xu, tiến bộ trong các
sở cao su tham gia phong trào cách mạng. Đồng chí Nguyễn Văn
Nghĩa (Nghĩa Xược) cùng với đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại) đi
sâu vào vùng cao su, như: Siph, Bình Sơn, An Viễng. Một số đồng
chí khác như: Dương Bạch Mai, Trương Văn Bang, Huỳnh Văn
Lũy, Nguyễn Văn Ký, Hồ Văn Giàu về các vùng khác nhau của
Long Thành - Nhơn Trạch.
Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều đã lãnh đạo các Ủy ban
hành động phát động các phong trào kêu gọi quần chúng hưởng
ứng cuộc vận động vì tự do, dân chủ, áo mặc, cơm ăn. Nhiều tổ
chức đoàn thể hình thành, nhiều cuộc mítting đã diễn ra. Các đồng
chí Nguyễn Văn Nghĩa, Huỳnh Văn Lũy, Phạm Văn Khoai, Phạm
Văn Thuận, Hồ Văn Đại là những đảng viên tiêu biểu. Tiếng vang
của hoạt động cách mạng và tấm gương của đảng viên ở Bình
Phước - Tân Triều trở thành ngọn lửa ấm đi vào lòng dân Nhơn
Trạch - Long Thành.
1  Cả Nam Kỳ có khoảng 600 Ủy ban hành động
78

8.9 Page 79

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Cuối năm 1936, đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang, Ba
Đen), nguyên Bí thư Xứ ủy Nam kỳ (1933-1934) được Liên Tỉnh
ủy miền Đông cử về Biên Hòa để vận động thành lập Tỉnh ủy, phát
triển cơ sở đảng. Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập
đầu năm 1937, đồng chí Trương Văn Bang được cử làm Bí thư,
Tỉnh ủy viên gồm có các đồng chí: Huỳnh Liễng, Trần Văn Triết,
Huỳnh Xuân Phan, Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ. Tỉnh ủy tiến
hành công tác xây dựng Đảng ở Biên Hòa với các bước phát triển
mới, nhiều tổ chức quần chúng được thành lập ở Long Thành như
Công hội, các Hội ái hữu như Hội tương tế, Hội chùa, Hội miếu,
Hội đá bóng, Hội lân ...được xây dựng ở các xã nông thôn, nhất là
trong các đồn điền cao su Bình Sơn, An Viễng, Ship, Tân Tường,
Sở Ông Cố.
Có Tỉnh ủy lãnh đạo, phong trào đấu tranh của nhân dân
Biên Hòa trong những năm 1937 - 1939 diễn ra sôi động và rộng
khắp, cả ở vùng đô thị, vùng đồn điền cao su và nông thôn; cả bí
mật và công khai; cơ sở Đảng và các hội, đoàn thể đều phát triển.
Qua phong trào đấu tranh, tổ chức đảng đã giúp quần chúng nhân
dân nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản
và mục tiêu đấu tranh của cách mạng. Cùng với tình hình chung,
phong trào cách mạng ở Nhơn Trạch - Long Thành bắt đầu đi vào
chiều sâu.
Từ tháng 9.1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Thực
dân Pháp khủng bố các phong trào đấu tranh cách mạng, tịch thu
tài sản của các tổ chức, hội đoàn, nghiêm cấm các cuộc hội họp,
lùng bắt người đứng đầu các Ủy ban hành động. Ngày 4.1.1940,
Toàn quyền Đông Dương Catru (Catroux) tuyên bố công khai chủ
trương tiêu diệt Cộng sản. Sau tuyên bố là hành động khủng bố,
bắt bớ, giam cầm người tham gia cách mạng.
79

8.10 Page 80

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã kịp thời thay đổi
hình thức đấu tranh, rút vào hoạt động bí mật, trọng tâm là xây
dựng cơ sở ở vùng nông thôn, chọn cách thích hợp ở từng vùng
đô thị. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần VI tại Bà
Điểm (Hóc Môn, Gia Định) tháng 11.1939 chủ trương “thành lập
mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tính đến
chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong
kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập”1. Hội nghị xác định: Giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu; đề ra khẩu hiệu chống địa tô cao, chống
cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản
động cho nông dân, nhằm tập trung lực lượng chống đế quốc và
bè lũ tay sai.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam
kỳ, Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ thị cho các tổ chức, cán bộ chuyển
từ hoạt động công khai sang bí mật và bán hợp pháp. Đồng chí
Nguyễn Văn Nghĩa bị địch bắt và bị đày lên căng Bà Rá. Các đồng
chí: Phạm Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại... tạm lánh
về các địa phương khác, tiếp tục hoạt động. Các đồng chí: Lê Văn
Tôn, Huỳnh Xuân Phan, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ, Trần
Văn Triết... rút vào rừng Tân Uyên, hoạt động bí mật.
Năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Tại Long
Thành, quân đội Nhật chia nhau đóng ở sở Bà Đầm, khu căn cứ
Nước Trong, khu Thái Thiện. Hằng ngày chúng lùng bắt từ 300
- 400 người đi làm xâu2 xây dựng sân bay, đồn bót. Thực dân
Pháp cấu kết với Nhật ra sức đàn áp nhân dân ta. Người dân Long
1  V ăn kiện Đảng, tập 3, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (nay là Viện Lịch sử
Đảng - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) xuất bản, Hà Nội, 1977, tr 56
2  L àm xâu, một hình thức lao động bắt buộc, tự túc về lương thực trong quá trình lao
động
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thành lúc này lâm vào cảnh một cổ hai tròng. Pháp bắt lính, Nhật
bắt phu. Lính Nhật ác độc, tàn bạo như lính Pháp. Một lần, lính
Nhật về ấp Bến Cam đánh chết anh Nhiều con chú Khị bằng thanh
sắt cài cửa và đánh bị thương nhiều người khác.
Đời sống người dân Nhơn Trạch thời điểm này vô cùng cơ
cực. Hột lúa vùng đất giồng làm ra đã vất vả, lính Nhật còn bắt dân
đóng lúa hương lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay cho than để
chạy máy. Không có gạo ăn, người dân phải mót khoai lang, khoai
mì, ăn độn rau cỏ các loại, nạn thiếu đói xuất hiện ở Nhơn Trạch.
Trước đây, người dân vẫn thường trồng bông vải, đánh thành
sợi rồi dệt vải, gọi là vải ta. Người nghèo, người bình dân mới
mặc đồ bằng vải ta, vì rẻ. Nhơn Trạch không trồng được bông vải,
người dân thường mua vật liệu (bông vải, chỉ, con cúi) về để tự dệt
vải. Đến thời Nhật, chúng cấm không cho người dân được dệt vải
hay mua bán, vận chuyển vải, bông vải cũng như các vật liệu, thiết
bị liên quan. Nguyên nhân là vì chúng đưa hàng vải dệt từ nước
Nhật sang, nên cấm dân dệt vải để tiêu thụ hàng Nhật. Nếu phát
hiện nhà nào có các thứ “quốc cấm” nói trên, chúng bắt bớ, đốt
nhà, tịch thu phương tiện vận chuyển. Nhưng vải của Nhật nhập
khẩu vào Việt Nam giá rất mắc, nhất là so với thu nhập của người
dân nông thôn, vì thế người dân Nhơn Trạch không có tiền mua
vải may quần áo. Nhiều nhà, cả gia đình chỉ có mỗi chiếc quần dài,
ai ra ngoài thì người ở nhà phải nhường quần cho người kia mặc.
Nhiều người phải lấy bao bố, bao tải làm quần áo mặc. Vải bao
bố mặc vừa ngứa, vừa xót, nhưng trong tình thế túng cùng người
dân cũng phải cam chịu. Ăn ở trong hoàn cảnh thiếu vệ sinh nên
đã sinh ra dịch rận. Trong làng trong xóm hầu như ai cũng có rận,
trị hoài không hết. Nhiều nhà trị rận bằng cách lấy cái chai lăn lên
quần áo, rận nổ nghe lụp bụp.
81

9.2 Page 82

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Không chỉ thiếu cơm ăn, áo mặc, mà dầu thắp sáng cũng
không có, vì trong thời kỳ chiến tranh cả Pháp lẫn Nhật đều cần
nhiên liệu phục vụ chiến trường. Tình cảnh nhân dân cơ cực không
sao kể xiết.
Pháp và Nhật tung ra các chiêu bài mị dân. Thực dân Pháp
tuyên truyền về chủ thuyết “Pháp - Việt đề huề”. Phát xít Nhật
thành lập khối “Đại Đông Á” kêu gọi đồng hội đồng thuyền “máu
đỏ da vàng”, theo Nhật đánh Pháp. Ở Long Thành, có tên Trần
Quang Vinh, Nguyễn Văn Sót làm tay sai đắc lực cho Nhật, tàn
hại dân lành.
Tháng 9.1940, Xứ ủy Nam kỳ họp tại xã Tân Xuân (Hóc
Môn, Gia Định), phân tích tình hình, dự báo thời cơ khởi nghĩa,
giao Ban Thường vụ Xứ ủy ra lệnh khởi nghĩa Nam kỳ vào đêm
22.11.1940. Rạng sáng ngày 23.11.1940, khởi nghĩa Nam kỳ nổ
ra ở một số địa phương. Tại Biên Hòa, sáng ngày 24.11.1940,
địch bao vây các địa điểm chuẩn bị khởi nghĩa, các đồng chí Lê
Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ bị địch bắt đày đi Côn Đảo. Đồng chí
Huỳnh Liễng hy sinh ở Lạc An. Nhiều đồng chí cán bộ đảng viên
khác cũng bị địch bắt, giam giữ tại Bà Rá, Tà Lài.
Khởi nghĩa Nam kỳ bị thất bại. Địch khủng bố rất ác liệt,
phong trào chìm lắng, tổ chức tan vỡ. Cán bộ một số lớn bị bắt,
bị đày, một số phải chuyển vùng lánh đi nơi khác. Nhưng, ở các
vùng nông thôn và các đồn điền cao su phong trào cách mạng vẫn
tiếp tục. Nông dân và công nhân bảo vệ, chở che cho cán bộ cách
mạng ẩn náu để gầy dựng lại phong trào.
Đầu năm 1943, Ban cán sự miền Đông cử đồng chí Trịnh
Văn Dục (Ba Dục) về quận Long Thành hoạt động. Đến cuối năm
1944 đồng chí đã tổ chức quân bộ Việt Minh đầu tiên của tỉnh
ở quận Long Thành, xây dựng được mạng lưới cơ sở Việt Minh
82

9.3 Page 83

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trong các đồn điền cao su, lập được Chi bộ Đảng ở cơ sở Bình
Sơn do đồng chí Vũ Hồng Phô (tức Vũ Khánh) làm Bí thư1. Đồng
chí Trịnh Văn Dục hóa trang lúc thì làm nghề bán thuốc lào, khi
thì chăn nuôi ngựa, đánh xe ngựa, khi thì làm người bán dạo, đi
khắp địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành để móc nối, xây dựng cơ
sở Đảng. Người dân thường gọi đồng chí là “Thầy Ba thuốc lào”,
“Thầy Ba xe ngựa”. Đồng chí Ba Dục dành nhiều thời gian tìm
hiểu và tiếp xúc với công nhân và cả cai, xu trong các đồn điền,
dần dần tuyên truyền, thuyết phục và giáo dục được nhiều người
giác ngộ cách mạng. Thông qua những anh em quen biết đồng chí
Ba Dục đã nắm được tình hình ở các sở và tạo ra một mối quan
hệ rộng rãi trong công nhân. Tiếp đó, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu
Khánh) được Đảng cử về hoạt động ở làng Đất Đỏ (Bình Sơn)
cùng đồng chí Ba Dục xây dựng cơ sở cách mạng ở địa bàn Nhơn
Trạch - Long Thành. Từ đó, những hạt giống đỏ của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được gieo cấy, nảy mầm ở đất lành Nhơn Trạch,
trước hết là ở địa bàn Phước An, Phước Thọ, Đại Phước, Phú
Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh. Như ở Phước An, người dân còn
nhớ tên các đảng viên Cộng sản đầu tiên ở địa phương: Cả Huy,
Tám Như, Tư Mùi, Tư Mậu, Ba Quy.
2. Xây dựng cơ sở Đảng, phát triển phong trào cách
mạng
Từ cuối năm 1942, tình hình thế giới và trong nước có nhiều
diễn biến quan trọng. Chiến tranh thế giới II vào giai đoạn quyết
liệt. Mâu thuẫn Nhật - Pháp sâu sắc. Thời cơ thắng lợi của cách
mạng Việt Nam hé mở. Cuối tháng 2.1943, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng họp phân tích tình hình, có chủ trương mở rộng Mặt
1  L ịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập 1, NXB Đồng
Nai, 1997, trang 48.
83

9.4 Page 84

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
trận thống nhất và đẩy mạnh việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Tháng 10.1943, Xứ ủy Nam kỳ được tái lập (gọi là Xứ ủy Tiền
phong) do Trần Văn Giàu làm Bí thư. Xứ ủy cử nhiều cán bộ đi
khắp nơi, bám cơ sở để liên lạc, móc nối, phục hồi các tổ chức đảng
địa phương. Các đảng viên kỳ cựu: Phạm Văn Búng, Nguyễn Văn
Nghĩa, Phạm Văn Khoai, Lê Thái, Hồ Văn Giàu, Nguyễn Văn Ký,
Hồ Hòa, Huỳnh Văn Lũy, Hồ Văn Đại, Phạm Văn Thuận ... dần
dần trở lại hoạt động tại địa bàn Biên Hòa. Đồng chí Hoàng Minh
Châu được Xứ ủy phân công phụ trách xây dựng cơ sở Đảng ở
Biên Hòa, đã bám trụ trong dân, kết nối các đảng viên cơ sở, xây
dựng được một số Chi bộ Đảng ở ga Biên Hòa, Tân Phong, Hóa
An, Tân Hạnh, Tân Bình.
Tại địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành, các cơ sở Đảng được
đồng chí Trịnh Văn Dục gầy dựng ở các xã và các đồn điền cao
su vẫn bí mật hoạt động, đang có nhiều cơ hội phát triển. Tháng
3.1944, đồng chí Lê Minh Định được Ban cán sự miền Đông giao
việc về Long Thành, gặp đồng chí Ba Dục bàn việc xây dựng và
phát triển cơ sở Đảng ở Long Thành. Cùng đi với đồng chí Định có
đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) và Lý Trần Hoan. Đồng chí
Định triển khai chủ trương của Xứ ủy, cho biết: Tình hình thế giới
đang tiến triển theo chiều hướng có lợi cho cách mạng và khẳng
định Đồng Minh sẽ đánh bại phát xít. Nhật - Pháp ở Đông Dương
thế nào cũng sẽ lật nhau, thời cơ cướp chính quyền sẽ đến. Trước
tình hình đó, Xứ ủy yêu cầu thành lập chi bộ để lãnh đạo phong
trào địa phương. Đồng chí Định thay mặt Ban Cán sự miền Đông
chỉ định đồng chí Trịnh Văn Dục làm Bí thư và cử đồng chí Vũ
Hồng Phô và Lý Trần Hoan hỗ trợ. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên ở
địa bàn Long Thành. Từ hạt nhân lãnh đạo này, phong trào cách
mạng ở Long Thành phát triển sâu rộng, xuất hiện thêm nhiều chi
bộ Đảng khác. Chi bộ nhanh chóng kết nạp thêm nhiều đảng viên
84

9.5 Page 85

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
mới, đưa đồng chí đảng viên đang hoạt động vùng Phước Thiền là
Trương Minh Kỷ (Bảy Kỷ) về sinh hoạt cùng chi bộ Long Thành,
trên cơ sở đó tiếp tục phát triển đảng ở địa bàn Nhơn Trạch.
Ngay sau khi được thành lập, chi bộ vận động mở “Hội tiết
kiệm” trong công nhân cao su. Mỗi hội có từ 10-15 người. Mỗi
tháng, mỗi người đóng một đồng. Số tiền góp được do tổ chức
điều hành, phân công người quản lý, chi tiêu cho việc chung. Nhờ
vậy, công nhân biết tiết kiệm, tích lũy tiền tiết kiệm cho việc lớn.
Phong trào này lan rộng trong huyện Long Thành, công nhân các
sở cao su Tân Tường, Ông Cố, Thành Tuy Hạ cũng thành lập các
hội tương trợ, hội tiết kiệm như thế. Đây là cơ sở có tổ chức đầu
tiên trong công nhân cao su, tiền đề để các đoàn thể sau này ra
đời.
Hội tiết kiệm ngày càng đông hội viên, hoạt động mở rộng
từ việc góp quĩ tiết kiệm thành các cuộc vận động tiết kiệm chi
tiêu, công nhân bớt đánh bạc, rượu chè, tiêu pha phung phí. Kỷ
luật chấp hành được đề ra. Tệ nạn rượu chè, bài bạc giảm rõ. Cuộc
sống công nhân tốt hơn. Đảng viên làm gương, uy tín nâng cao.
Vai trò của đảng viên được phát huy. Nhiều gia đình có việc hệ
trọng đều nhờ đến sự giải thích, hướng dẫn của đảng viên.
Để mở rộng, phát triển phong trào trong công nhân cao su,
Ban Cao su miền Đông cử đồng chí Lê Đình Cự về Long Thành
vận động thành lập Liên đoàn cao su Long Thành, mục đích là
để tập hợp và huy động công nhân cao su trong đấu tranh; trước
mắt là chống lại việc quân Nhật bắt phu dùng xe bò chở vật tư từ
Lào, Campuchia để xây dựng các căn cứ quân sự. Liên đoàn cao
su Long Thành được thành lập, liền đó “Nghiệp đoàn xe bò” ra
đời do đồng chí Bảy Kỷ (Trương Minh Kỷ) phụ trách. Có sự lãnh
đạo của Đảng, Nghiệp đoàn xe bò đấu tranh khôn khéo bằng nhiều
85

9.6 Page 86

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
hình thức lãng công, làm thất thoát vật tư, cáo bệnh bỏ việc khiến
vật tư từ Lào, Campuchia về bị gián đoạn, việc xây sân bay quân
sự Nhật bị kéo dài, không thành công.
Phong trào công nhân phát triển từ hành động chống đối
thành các cuộc biểu tình có tổ chức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhiều cuộc đấu tranh mạnh mẽ được chi bộ Đảng lãnh đạo đã diễn
ra. Đáng kể, cuộc biểu tình cuối năm 1944 do 500 công nhân ở đồn
điền Bình Sơn, An Viễng kéo ra quận lỵ gặp quận Phục đấu tranh
đòi “cấm đánh đập, cấm cúp lương”. Công nhân đấu lý thắng lợi.
Ở Nhơn Trạch, do các đồn điền cao su thuộc loại nhỏ và vừa,
công nhân ít hơn nên phong trào đấu tranh không quy mô rầm rộ,
nhưng từ khí thế của công nhân Bình Sơn, An Viễng, công nhân
sở cao su Tân Tường, Sở Ông Cố1 cũng thường xảy ra các cuộc
đấu tranh tham gia đấu tranh đòi cấm đánh đập và cúp phạt lương
khiến giới chủ phải nhượng bộ.
III. THAM GIA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
1. Tổ chức lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa
Đúng như dự báo, ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp,
chiếm lĩnh bộ máy chính quyền Pháp, làm chủ hệ thống quản lý
của Pháp.
Ứng biến với tình hình mới, ngày 12.3.19452, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng triệu tập hội nghị mở rộng ở Đình Bảng tỉnh
Bắc Ninh ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Hội
nghị vạch rõ kẻ thù chủ yếu trước mắt là phát xít Nhật và bè lũ tay
sai của chúng; nhiệm vụ cấp bách của Đảng lúc này là phát động
1  Sau này đổi tên thành Sở cao su Thành Tuy Hạ
2  Có tài liệu ghi: Đêm 9.3.1945
86

9.7 Page 87

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
và lãnh đạo phong trào kháng Nhật, tổng khởi nghĩa, giành lấy
chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị chủ trương thay đổi hình
thức tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền
khởi nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính
quyền.
Thực tế, từ chiều 10.3.1945, quân Pháp chính thức đầu hàng
Nhật trên toàn Đông Dương. Quan Tây, chủ Tây bị lính Nhật bắt,
quản thúc. Một số chạy về Sài Gòn ẩn náu, một số trốn vào rừng.
Bộ máy hội tề ở xã tan rã, các sở cao su vắng chủ. Các tổ chức
Đảng cơ sở đưa người của ta đứng ra làm chủ tình hình.
Nhật dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim làm bù nhìn, được
vài tháng thì đổ vỡ. Ngày 16.3.1945, Nhật đưa Nguyễn Văn Quý,
nguyên Quận trưởng Tân Uyên làm Tỉnh trưởng Biên Hòa. Ở
Long Thành, Quận Hội thân Nhật được đưa về thay Quận Phục,
chưa kịp ổn định tổ chức thì Chính phủ Trần Trọng Kim đã sụp
đổ. Được dịp, phong trào đấu tranh của quần chúng được củng cố,
rộ nở khắp nơi.
Nổi bật là phong trào Thanh niên Tiền phong. Thanh niên
Tiền phong được thành lập tại Sài Gòn vào ngày 21.4.19451. Bác
sĩ Phạm Ngọc Thạch (trước đó đã được Bí thư Xứ ủy Nam kỳ
Trần Văn Giàu bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam),
được cử làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Phong trào. Chủ trương
của Thanh niên Tiền phong là tập hợp thanh niên yêu nước chống
Nhật, chống Pháp; có lời hiệu triệu phù hợp với nguyện vọng và
tâm lý thanh niên cho nên được hưởng ứng mạnh mẽ. Từ trung
tâm Sài Gòn, Thanh niên Tiền phong nhanh chóng lan tỏa khắp
Nam kỳ, trong đó tỉnh Biên Hòa là nơi sớm có tổ chức Thanh niên
1  C ó tài liệu ghi Thanh niên Tiền Phong được thành lập tháng 5.1945. Cúng có tài liệu
ghi thành lập trong tháng 7.1945.
87

9.8 Page 88

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Tiền Phong giàu sức sống do thầy giáo Huỳnh Thiện Nghệ chỉ huy
(tháng 5.1945)1.
Ở quận Long Thành2, trong tháng 5.1945, lực lượng Thanh
niên Tiền phong được tổ chức do thầy giáo Nguyễn Văn Chỏi làm
thủ lĩnh, với sự tham gia chỉ huy của nhiều đảng viên gạo cội. Lực
lượng tham gia Thanh niên Tiền phong Long Thành phát triển rất
mạnh, lan tỏa nhanh, đều khắp ở các xã và đồn điền cao su, quy tụ
được nhiều thành phần thanh niên tham gia. Chi bộ Long Thành
phân công đồng chí Liêm, đồng chí Châu sát cánh cùng thầy giáo
Chỏi để nắm lực lượng.
Đoàn Thanh niên Tiền phong địa bàn Nhơn Trạch có lẽ bắt
nguồn từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) gắn với hoạt động của
đồng chí Trần Thị Ba3 - đảng viên cộng sản được cấp trên phái về
xứ Giồng Ông Đông hồi đầu năm 1945. Không rõ cô từ đâu tới;
vóc dáng cô thấp bé, nhưng rất lanh lợi, rất khéo trong nói năng,
giàu sức thuyết phục nên nhanh chóng tập hợp được nhiều thanh
niên vùng Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước thành
lực lượng Thanh niên Tiền phong ở địa phương.
Phong trào Thanh niên Tiền phong khu vực Nhơn Trạch hoạt
động sôi nổi, đều khắp. Tổ chức Thanh niên Tiền phong được biên
chế thành đội, mỗi đội vài mươi người nòng cốt, trang bị thô sơ,
chỉ vài khẩu súng lấy được hoặc mua được của lính Pháp, còn lại
là tầm vông, dây thừng, giáo mác tự tạo. Nhiệm vụ của các đội là
tuần tra canh gác xóm làng, chống trộm cắp, cướp phá trong làng;
1  L ịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập 1, NXB Đồng
Nai, 1997, trang 50.
2  Đ ến năm 1948, quận Long Thành mới đổi thành huyện Long Thành. Trong giao đoạn
này, xin viết “quận Long Thành” khi nói về tổ chức, “huyện Long Thành” khi nói về địa
bàn.
3  Theo lời kể của Phạm Văn Đạm - Cán bộ Tiền khởi nghĩa, xã Phú Thạnh, nay đã mất.
88

9.9 Page 89

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
hăng hái luyện tập quân sự sẵn sàng chiến đấu để giải phóng dân
tộc. Không khí sinh hoạt của Thanh niên Tiền phong gian khổ
nhưng rất vui, đêm đêm sân tập rầm rập bước chân “một hai .. một
hai”, rộn ràng tiếng nói cười, vang vang tiếng hát “Lên đàng” và
lời ca “Tiếng gọi thanh niên”. Tráng trưởng thanh niên luyện tập
hăng hái cuốn theo các thiếu trưởng thiếu nhi hào hứng làm theo.
Các chị các má tích cực chăm lo việc hậu cần.
Cụ thể ở xã Phú Thạnh, người vận động, kêu gọi thành lập
đội Thanh niên Tiền Phong là Đặng Văn Nữ1, còn có bí danh là Lý
Thiết Đầu. Anh Nữ được đi học ở Sài Gòn, sớm tiếp cận với với
các phong trào đấu tranh của thanh niên, nhất là Thanh niên Tiền
phong, nên đã vận động thanh niên của xã thành lập đội, tập hợp
được gần 20 thanh niên trong làng tham gia, như các ông: Trương
Văn Bội, Nguyễn Văn Cậy, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Văn Liềm,
Đặng Văn Ngưu (bí danh Đặng Văn Nghĩa, em ruột của Đặng
Văn Nữ). Đội trưởng đội Thanh niên Tiền phong là ông Trưng.
Đội viên thường vác tầm vông vạt nhọn, vai đeo cuộn dây thừng,
ban ngày tập luyện quân sự, ban đêm tập võ nghệ, khí thế rất hăng
say2. Trụ sở Thanh niên Tiền phong được đặt ở chùa Bà Sáu (nay
không còn), còn kêu là hội quán.
Cùng với các tổ chức hội, đoàn thể được Đảng gầy dựng,
lãnh đạo, phát triển về đấu tranh chính trị; tổ chức Thanh niên Tiền
phong ra đời kịp lúc, trở thành tổ chức có vũ trang thô sơ để làm
nòng cốt sẵn sàng cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chánh quyền.
1  Theo lời kể của ông Phạm Văn Đạm, cán bộ Tiền khởi nghĩa, xã Phú Thạnh, (đã mất).
2  Đ ội Thanh niên Tiền phong xã Phú Thạnh được xem là “giàu có” vì mua được vài khẩu
súng hai nòng của lính Nhật ở kho đạn Thành Tuy Hạ, trong đó có một khẩu súng săn
hai nòng loại calip đui (dollze) - vật lưu niệm của đồng chíThái Văn Xuân.
89

9.10 Page 90

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
2. Tham gia tổng khởi nghĩa, giành chính quyền
Năm 1945, Tình hình thế giới thuận lợi cho phong trào cách
mạng. Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Đức. Đức thất trận và
đầu hàng Đồng minh ngày 7.5.1945. Ngày 6.8, Hoa Kỳ ném hai
trái bom nguyên tử hủy diệt Hiroshima và Nagasaki; 9 ngày sau,
Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Từ Nam vĩ tuyến 16,
quân Nhật sẽ bị quân Đồng minh giải giới bởi quân đội Anh. Lính
Nhật ở Đông Dương lâm vào hoảng loạn.
Trong bối cảnh ấy, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị toàn
quốc ở Tân Trào ngày 13.8, xác định thời cơ đã đến, điều kiện cho
Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, hạ quyết tâm lãnh đạo toàn dân
khởi nghĩa, thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc gồm các đồng
chí: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh
Nghị và Chu Văn Tấn. Hội nghị phân công cán bộ trung ương
đến các vùng miền địa phương để bám thực tế, chỉ đạo tổng khởi
nghĩa; theo đó, các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh,
Nguyễn Thị Thập vào Sài Gòn trực tiếp chỉ đạo tổng khởi nghĩa ở
Nam Bộ. Ngày 16.8.1945, một đơn vị Giải phóng quân Việt Minh
tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên, mở màn cho cuộc tổng
khởi nghĩa toàn quốc.
Mệnh lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương, lời kêu gọi của
Việt Minh và tin thắng lợi từ Thái Nguyên lan nhanh toàn quốc,
rạo rực lòng dân.
Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Nam kỳ, ngày 23.8.1945, tại xã
Bình Trước, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp bàn kế
hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ Biên Hòa. Tham dự
cuộc họp có các đồng chí: Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn,
Phạm Văn Búng, Ngô Hà Thành, Hồ Văn Giàu, Lê Nguyên Đạt,
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đặng Nguyên, Hồ Hòa, Hồ Văn Đại. Hội nghị đã quán triệt nội
dung chỉ đạo của Xứ ủy, bàn bạc thống nhất và quyết định một số
việc cấp bách:
- Tập trung lực lượng tiến hành khởi nghĩa trước ở tỉnh lỵ,
phân công một số đảng viên về các quận huy động lực lượng quần
chúng về thị xã tham gia cướp chính quyền.
- Trung lập hóa quân Nhật, giao cho đồng chí Hồ Văn Đại và
một số đồng chí khác vận động lính mã tà, lính thủ hộ nộp súng
cho cách mạng, tránh xung đột vũ trang.
- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng Minh
Châu phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban Nhân dân cách
mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa.
- Giao trách nhiệm cho kinh lý Nguyễn Văn Tàng tiếp xúc
với tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý vận động y bàn giao chính quyền
cho cách mạng.
- Giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Ngọc Liệu và Nguyễn
Đình Ưu tổ chức đưa 500 người về tham gia khởi nghĩa ở Sài
Gòn.
- Huy động lực lượng xung kích trong nhân dân, Thanh niên
Tiền phong tự trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu hiệu sẵn
sàng nổi dậy biểu dương lực lượng cướp chính quyền.
Trên địa bàn Long Thành, từ lúc phát xít bại trận, Chi bộ
Đảng đã họp bàn, chỉ đạo các lực lượng tuyên truyền, vận động
công nhân lợi dụng lúc địch đang hoang mang dao động, tìm cách
giữ lấy súng, máy móc của chủ Tây. Khi kế hoạch tổng khởi nghĩa
của Ủy ban khởi nghĩa Biên Hòa được triển khai, huyện Long
Thành đã sẵn sàng.
91

10.2 Page 92

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Ngày 19.8.1945, Hà Nội giành chính quyền. Ngày 21.8.1945,
tại Long Thành, đồng chí Trịnh Văn Dục giao nhiệm vụ cho các
đồng chí trong chi bộ chuẩn bị khởi nghĩa.
Từ sáng ngày 23.8.1945, tình hình chuẩn bị khởi nghĩa sôi
động, khẩn trương ở nhà máy cưa BIF, ga Biên Hòa, Tân Mai,
Lân Thành, Vĩnh Thị. Ủy ban khởi nghĩa huyện Long Thành do
các đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, Mai Hiển Thái chủ
trì họp, phân công chuẩn bị kế hoạch huy động công nhân cao
su, nhân dân các xã kéo về quận lỵ tham gia giành chính quyền
trong ngày 24.8.1945. Tại cuộc họp, đồng chí Trịnh Văn Dục đọc
chỉ thị của Ủy ban Trung ương ra lệnh cho các nơi nhanh chóng
cướp chính quyền và thiết lập trật tự ở địa phương. Sau đó, hội
nghị phân công từng đồng chí phụ trách từng khu vực. Mục tiêu
kế hoạch đã quán triệt, nhiệm vụ đã rõ, mọi người phấn khởi thực
hiện phần việc được phân công.
Đến 4 giờ chiều cùng ngày, xảy ra sự cố bất ngờ. Giáo phái
Cao Đài tại huyện Long Thành do đạo trưởng Chín Lợi cầm đầu
kéo 200 người trang bị vũ khí ập vào huyện lỵ định thừa gió bẻ
măng gây sức ép buộc Quận Hội giao chính quyền cho chúng.
Thêm một kẻ địch xuất hiện, Ủy ban khởi nghĩa phân tích tình
hình, thông báo trong toàn lực lượng đấu tranh vạch mặt nhóm
Chín Lợi, làm vô hiệu hóa âm mưu của chúng.
Kế hoạch vẫn được tiến hành theo dự kiến. Từ 6 giờ sáng
ngày 24.8.1945, các đội xung phong nòng cốt là Thanh niên Tiền
phong ở Long Thành có mặt làm nhiệm vụ tại các vị trí được phân
công. Các ngã đường trên quốc lộ 15, tỉnh lộ 17 và 19 đều có đội
viên Thanh niên Tiền phong canh gác, làm chủ tình hình; khu vực
xung quanh quận lỵ bị phong tỏa. Một trung đội lính Nhật đóng ở
sở Bà Đầm án binh bất động, tâm trạng hoang mang. Từ 7 giờ 30
92

10.3 Page 93

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
phút, đồng bào từ các xã, các đồn điền theo đội hình có tổ chức
kéo về quận lỵ Long Thành. Đến 9 giờ, thị trấn Long Thành như
sôi lên trong biển người, rừng cờ phất phới, tiếng hát vang trời,
tiếng hô dậy đất, khí thế như thác lũ. Đúng 10 giờ, lực lượng xung
phong nòng cốt gồm 400 người chia thành hai mũi kéo vào dinh
quận, tạo đội hình bảo vệ cho Ủy ban Khởi nghĩa vào gặp quận
trưởng. Lúc bấy giờ, lực lượng của địch còn 11 tên lính do đội
Giám chỉ huy, có vũ khí, nhưng đứng ngơ ngác không dám chống
cự. Ban khởi nghĩa gồm 19 người do đồng chí Trịnh Văn Dục dẫn
đầu hiên ngang tiến vào. Tại văn phòng quận trưởng, Quận Hội và
đạo trưởng Chín Lợi cùng ngồi, mặt mày tái mét, im lặng chờ số
phận. Đồng chí Ba Dục nhân danh chính quyền cách mạng tuyên
bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền cũ phải chấm dứt hoạt động
từ huyện đến xã. Chính quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi
của nhân dân trong huyện bắt đầu làm việc. Quận trưởng thay
mặt chế độ cũ phải giao toàn bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ khí,
thả hết các phạm nhân. Cách mạng là sự nghiệp của mọi người,
sẵn sàng khoan hồng cho tất cả những ai đã trót tham gia chế độ
cũ”. Sau lời tuyên bố của đồng chí Dục, hàng ngàn người nhất loạt
hô vang: “Việt Nam độc lập muôn năm. Chính quyền cách mạng
muôn năm1.
Quận Hội ngoan ngoãn xin từ chức; bàn giao hết hồ sơ sổ
sách, kho tàng, vũ khí theo yêu cầu. Đạo trưởng Chín Lợi mặt như
chàm đổ, lặng lẽ cùng bộ hạ lẻn ra cửa sau chuồn mất.
Ngay sau khi tiếp nhận chính quyền, cuộc mít tinh mừng
thắng lợi diễn ra tại quận lỵ theo kế hoạch dự kiến, hơn 3.000
người tham dự, có phái đoàn cán bộ đại diện Xứ ủy miền Đông
gồm các đồng chí Dương Bạch Mai, Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp
1  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930 - 2015), trang 68, NXB Đồng Nai 2015
93

10.4 Page 94

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
cùng dự. Trong buổi mít tinh, đồng chí Trịnh Văn Dục thay mặt
Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền cũ
bị xóa bỏ. Chính quyền cách mạng huyện đại diện cho giai cấp
công nhân, nông dân trong huyện ra đời. Kể từ nay nam nữ bình
quyền, người dân sống bình đẳng, mọi người sống hạnh phúc1.
Sau đó Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện Long Thành được giới
thiệu và ra mắt đồng bào, gồm: Chủ tịch Trịnh Văn Dục, Phó Chủ
tịch Võ Văn Truyện và các ủy viên. 17 giờ, cuộc mít tinh kết thúc
trong tiếng hô vang trời: “Việt Nam độc lập muôn năm!. Mặt trận
Việt Minh muôn năm!”.
Sau đó, đoàn cán bộ Xứ ủy triệu tập họp đảng viên tuyên bố
thành lập Đảng bộ huyện Long Thành, biểu quyết bằng hình thức
giơ tay bầu Huyện ủy gồm: Bí thư Trịnh Văn Dục, Phó Bí thư Vũ
Hồng Phô, Ủy viên Thường vụ Trương Minh Kỷ, Ủy viên Nguyễn
Văn Phú và Lê Thành Liêm.
Cùng với việc giành chính quyền ở quận lỵ, chỉ trong ngày
24.8.1945, chính quyền của toàn bộ 21 xã thuộc huyện Long
Thành đã về tay nhân dân; riêng xã Phước Khánh đến ngày 25.8
mới giành thắng lợi. Ở xã Phước Lập, (nay là ấp Cù Lao, Phú
Hữu) sớm lập Ủy ban Hành chính kháng chiến do Dương Văn
Danh (đội viên nòng cốt Thanh niên Tiền phong) làm Chủ tịch;
các ông bà: Tám Chất, Chín Chứa, Hai Lắm và nhiều người khác
làm hạt nhân nòng cốt chung tay xây dựng và bảo vệ chính quyền.
Ở Phước Thọ, Phước Long cũng như các xã khác trong huyện, khi
được lệnh cướp chánh quyền bà con già như trẻ mừng như mở hội,
hăng hái tham gia. Thanh niên được huy động vây nhà việc, bắt
hội tề bàn giao sổ sách, giải tán hội tề, làm chủ tình hình.
1  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930 - 2015), trang 69, NXB Đồng Nai 2015
94

10.5 Page 95

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Ở Phú Hữu, sáng 25.8, Ban Đồng Nai tổ chức đoàn người
đông đảo giương cao cờ đỏ sao vàng năm cánh từ cầu Cháy qua
Giồng Ông Đông. Hàng trăm nam nữ thanh niên, ông bà già, trẻ
em ấp Giồng Ông Đông đã kéo về nhà hội xã; mọi người cùng
hô vang một “Việt Nam độc lập đồng minh muôn năm! Hồ Chí
Minh muôn năm!”. Tại căn cứ của lính Nhật ở Giồng Ông Đông,
quân Nhật đã rút nên bỏ trống, ta lấy làm hội quán, hơn 300 nam
nữ thanh niên họp mặt chính thức bổ sung đoàn Thanh niên Tiền
phong ở xã Phú Hữu. Nguyễn Sanh Thành được cử làm đoàn
trưởng, dưới sự chỉ đạo của Ban Đồng Nai1 do ông Nguyễn Văn
Đọt làm thủ lĩnh. Ban này đóng ở miểu Bà Bào gần ấp Xoài Minh,
xã Phước Lý.
Ban hội tề các xã lặng lẽ tự giải tán. Ở một số xã, ban hội tề
cử người đem hồ sơ sổ sách tới nhà làng giao cho Thanh niên Tiền
phong. Không một nơi nào có sự phản ứng của chính quyền cũ.
Khí thế cách mạng sôi nổi và mạnh mẽ của nhân dân làm cho số
địa chủ, tề xã hoảng sợ, tự nguyện liên lạc với chính quyền cách
mạng xin được lập công bằng cách đóng góp lương thực, thực
phẩm và tham gia tiếp tế cơm nước cho các đoàn thể của xã mình.
Trong ngày 25.8, Ủy ban Cách mạng lâm thời huyện phân công
từng đoàn cán bộ đến các xã hướng dẫn nhiệm vụ xây dựng chính
quyền cách mạng cơ sở, thu lại các ấn mộc của chính quyền cũ,
quản lý công sở, phong tỏa tài sản bọn Nhật còn ở trong huyện.
Ủy ban nhân dân lâm thời các xã lần lượt hình thành. Các
nơi có sở cao su như Phú Thạnh, Phú Hội bên cạnh Ủy ban nhân
dân lâm thời còn thành lập thêm các Ban chấp hành công nông
1  T rên địa bàn Phú Thạnh, Đại Phước, Long Tân, Phú Hữu lúc bấy giờ xuất hiện Ban Đồng
Nai - một đơn vị về tổ chức tương tự như đoàn Thanh niên Tiền phong, tập hợp gần
200 công nhân sở cao su Thành Tuy Hạ, do Nguyễn Văn Đọt (Ba Đọt) phụ trách, thường
gọi là “thủ lãnh Đọt”.
95

10.6 Page 96

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
liên đoàn để lãnh đạo công nhân kết hợp tham gia các hoạt động
cách mạng ở địa phương. Các xã đông giáo dân Thiên Chúa giáo
ở Phú Hội, Phước Khánh cả linh mục, chức sắc và giáo dân cũng
tham gia Thanh niên Tiền phong, tham gia họp hội hòa nhập vào
cuộc sống mới.
Trong ngày 25.8, Thực hiện chủ trương của Ủy ban cách
mạng lâm thời huyện, dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh và
Thanh niên Tiền phong, hàng ngàn nông dân các xã và công nhân
các đồn điền cao su ở huyện được tổ chức kéo về tỉnh lỵ Biên Hòa
tham gia giành chính quyền ở tỉnh. Các lực lượng từ Bình Sơn, An
Viễng, Ship, Phước Lộc, Thanh Nguyên, An Lợi, Phước Thiền,
Phú Hội, Long Tân, Phước An, Phước Thọ, Phước Long theo các
lộ 15, 17, 19 hội về Biên Hòa đúng hẹn, khí thế mạnh mẽ, không
khí sôi động như trăm sông hội về với biển.
Sau khi giành được chính quyền về tay, Ủy ban Cách mạng
lâm thời huyện chỉ đạo tổ chức nhiều cuộc mít tinh phát huy khí
thế thắng lợi của cách mạng. Tại các xã, nhiều cuộc mít tinh được
tổ chức ở Phú Hữu, Phước Thiền, Phú Hội, Phước Long, Phước
An đông người tham gia, không khí như ngày hội. Ở huyện, chiều
ngày 26.8, Ủy ban Cách mạng Lâm thời huyện tổ chức cho đồng
bào nghe Việt Minh (đồng chí Dương Bạch Mai) diễn thuyết tại
Tam An, hàng ngàn người các xã trong huyện tham dự. Ngày
27.8.1945, Huỳnh Thiện Nghệ, thủ lãnh Thanh niên Tiền phong
tỉnh Biên Hòa diễn thuyết tại chợ Long Thành với gần 1.000 quần
chúng tham dự. Các cuộc diễn thuyết làn cho quần chúng nhận
rõ tình hình chung của cách mạng tháng Tám trong toàn quốc, ý
nghĩa của thắng lợi và những việc cần phải làm để bảo vệ thành
quả của cách mạng.
96

10.7 Page 97

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
3. Ý nghĩa Cách mạng tháng Tám đối với Nhơn Trạch -
Long Thành
Cách mạng tháng Tám thành công là sự kiện trọng đại có
ý nghĩa lịch sử đối với thế giới và thời đại. Đó là thành quả cách
mạng to lớn của một dân tộc anh hùng, đoàn kết, yêu nước, vì độc
lập, tự do; là thành công của một chính đảng có đường lối đúng
đắn, hợp lòng dân, phương pháp lãnh đạo khoa học, biết tập hợp
lực lượng, chớp thời cơ, phát huy được chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần dân tộc, sức mạnh đoàn kết của toàn dân để giành chánh
quyền về tay nhân dân.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công khẳng định vị
thế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào giải
phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mới 15 năm tuổi,
khoảng 5.000 đảng viên, trong 15 ngày nổi dậy đã tổ chức Cách
mạng tháng Tám thành công đạt mục tiêu to lớn mà trăm năm qua
chưa làm được. Thắng lợi này do sự chuẩn bị kiên trì xây dựng
Đảng, tổ chức mặt trận Việt Minh, rèn luyện đảng viên trong phong
trào quần chúng; khi thời cơ đến, biết phát động quần chúng đấu
tranh bằng sức mạnh của chính nghĩa, của lòng yêu nước, của tinh
thần đoàn kết toàn dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng tháng 8
năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ trăm
năm của thực dân Pháp, làm sụp đổ bạo lực của phát xít Nhật,
chấm dứt nghìn năm chế độ phong kiến chuyên chế; lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra cho dân tộc Việt Nam con
đường độc lập, tự do vươn đến ước mơ hạnh phúc.
Với ý nghĩa chung, Cách mạng tháng Tám thắng lợi đem lại
sự đổi đời ở Long Thành. Đó là kết quả thắng lợi sớm nhất trong
tỉnh Biên Hòa; là bài học trong lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng phong
trào của Đảng; là kết quả của việc phát huy truyền thống đấu tranh
97

10.8 Page 98

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
của nhân dân địa phương, đặc biệt là đội ngũ công nhân cao su và
nông dân, lao động.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công chấm dứt chuỗi ngày
nô lệ tủi nhục của người dân Nhơn Trạch - Long Thành trong hoàn
cảnh mất nước, bị cai trị khắc nghiệt, bị tước đoạt tài sản, bị bóc
lột sức lao động, bị hạn chế quyền làm người. Cách mạng mở ra
một kỷ nguyên mới cho dân tộc nói chung, nhân dân Nhơn Trạch
- Long Thành nói riêng. Kể từ đây, mọi người thoát khỏi ách nô lệ
của thực dân, phong kiến, người dân tự do của một nước độc lập.
Cuộc sống mới bắt đầu.
Một khí thế hừng hực cách mạng, sôi động và hào hứng
bao trùm cả Long Thành, Nhơn Trạch trong những ngày đầu cách
mạng thành công, làm sinh động đời sống ở tất cả xóm ấp xa xôi,
hẻo lánh, vốn xưa nay vẫn quen sống trong không khí ảm đạm,
yên phận và nhẫn nhục. Đời sống mới mang đến không khí mới.
Ngày đêm, người dân được tự do làm ăn, đi lại, hứng khởi tập
trung ở nhà làng, trụ sở xã, ấp bàn tán, nghe nói chuyện về Việt
Minh, trông đợi ở Việt Minh.
Sự kiện thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ năm 1859 tạo một
bước ngoặt trong đời sống của người dân Nhơn Trạch nói riêng
và Nam Bộ nói chung, chuyển từ cuộc sống an bình sang đời sống
đấu tranh chống thực dân. Khi triều đình Huế ký hiệp ước dâng 3
tỉnh miền Đông, rồi cả Nam kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp, lòng
dân hướng theo cờ nghĩa, như của nghĩa quân Trương Định, của
các hội kín như Thiên địa hội, tìm mọi cách tham gia vào các cuộc
vũ trang chống quân xâm lược Pháp. Nhiều người đã thầm lặng
hy sinh. Đến khi các cuộc khởi nghĩa vụ trang bị dập tắt nhưng
lòng dân không tắt, vẫn âm ỉ mong chờ. Năm 1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, mang đến luồng gió mới, phương pháp đấu
98

10.9 Page 99

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tranh mới, lòng yêu nước của người dân Nhơn Trạch được thổi
bùng lên, cùng với cả tỉnh, cả nước vùng dậy theo Đảng chống
thực dân Pháp, lập nên nhiều thành tích. Đến năm 1945, người
dân Nhơn Trạch được sự lãnh đạo của Đảng tham gia cướp chính
quyền, xóa bỏ gông xiềng, đổi đời, vui hưởng không khí độc lập
tự do.
99

10.10 Page 100

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Chương III
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1946 - 1954)
I. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP TÁI CHIẾM
1. Cùng Nam Bộ quật khởi
Sau Cách mạng tháng Tám, tình hình đất nước có thuận lợi
cơ bản: Nhân dân đã giành quyền làm chủ, gắn bó với chế độ;
nước ta có Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong
trào cách mạng dâng cao ở nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc và
tư bản. Tuy nhiên, tình thế đặt ra nhiều khó khăn: Ngoại xâm và
nội phản âm mưu phá hại chính quyền cách mạng non trẻ; quân
đồng minh dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước ta; quân
Nhật vẫn còn chiếm đóng ở các căn cứ chờ giải giáp mong bắt
tay quân đồng minh để chống phá cách mạng. Nhiều thành phần
nội phản đang tìm cơ hội để làm tay sai. Trong bối cảnh ấy, Chính
quyền cách mạng chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu,
đời sống nhân dân khó khăn, thực lực về kinh tế, tài chính mỏng
manh, thế nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Đương đầu với khó khăn, chính quyền cách mạng non trẻ ở
Nam Bộ quyết bảo vệ thành quả cách mạng, chuẩn bị bước vào
giai đoạn mới. Ngay sau khi giành được chính quyền, Quận ủy
Long Thành, Ủy ban cách mạng lâm thời quận nhanh chóng triển
khai sáu nhiệm vụ cấp bách mà Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đã công bố: Một là, diệt giặc đói; hai là chống giặc dốt; ba là tổng
tuyển cử; bốn là thực hành CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH; năm là
bỏ thuế bóc lột, cấm thuốc phiện; sáu là đoàn kết lương giáo.
Ủy ban công bố bãi bỏ thuế thân, giảm tô tức, tịch thu ruộng
đất của bọn địa chủ phong kiến cấp cho dân nghèo để sản xuất.
Trước mắt, Ủy ban chỉ đạo tịch thu các kho lương thực của đồn
điền, bò nuôi của sở để giải quyết vấn đề lương thực cho công
nhân và hỗ trợ đồng bào nghèo; đồng thời tổ chức, động viên
công nhân khai phá rừng làm rẫy, trồng cây lương thực. Những
chính sách này giải quyết ngay những khó khăn trước mắt, đồng
thời đáp ứng được mong muốn của nhân dân nên được bà con ủng
hộ tích cực. Nhờ vậy, trên địa bàn Long Thành tuy còn khó khăn
nhưng không xảy ra tình trạng thiếu đói.
Trước khi Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa được thành lập1 Quận
ủy Long Thành trực tiếp xin ý kiến và nhận chỉ đạo của Xứ ủy
Nam Bộ về việc tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị,
củng cố chính quyền cách mạng. Được Xứ ủy Nam Bộ nhất trí,
đồng chí Trịnh Văn Dục, Vũ Hồng Phô, chỉ đạo việc vận động
xây dựng các tổ chức chính trị và đoàn thể từ huyện đến xã. Đầu
tháng 9.1945, Mặt trận Việt Minh quận Long Thành được thành
lập, Chủ nhiệm là ông Nguyễn Văn Chỏi (tức thầy giáo Chỏi)
nguyên Đoàn trưởng Thanh niên Tiền phong Long Thành; đồng
chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) Phó Bí thư Quận ủy làm Phó chủ
nhiệm; đồng chí Lê Trân Châu, đảng viên là ủy viên. Các đoàn thể
cứu quốc được thành lập gồm: Hội Phụ nữ Cứu quốc2, Thanh niên
Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ lão Cứu quốc, Thiếu nhi Cứu
quốc. Ngoài ra Mặt trận còn vận động thành lập tổ chức Công giáo
1  Sau Hội nghị Bình Trước đêm 23.9.1945, Tỉnh ủy lâm thời tinh Biên Hòa mới thành lập
2  Do bà Nguyễn Thị Canh làm Hội trưởng, Lâm Thị Huệ, Hội phó
101

11.2 Page 102

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc. Như vậy, So với toàn tỉnh Biên
Hòa bấy giờ, bộ máy lãnh đạo Đảng, Chính quyền và các đoàn thể
cách mạng của Long Thành hình thành sớm hơn nhiều nơi khác
trong tỉnh.
Đến cuối tháng 9, bộ máy chính quyền và đoàn thể ở các
xã cơ bản thành lập xong. Mỗi đoàn thể có Ban chấp hành từ 5-7
người, hội viên tham gia rất đông. Nhiều xã hầu như người dân
nào cũng tham gia đoàn thể. Nhờ đó, phong trào tăng gia sản xuất
đóng góp giúp đỡ kháng chiến trong toàn huyện được đẩy mạnh.
Quận ủy Long Thành liên lạc thường xuyên với Xứ ủy, nhanh
nhạy nắm chắc được diễn biến tình hình ở Sài Gòn và các nơi
khác, dự đoán thực dân Pháp sẽ quay trở lại xâm lược, do vậy tích
cực chủ động xây dựng lực lượng vũ trang để sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ nhân dân. Quận ủy Long Thành chú trọng công tác tuyên
truyền, động viên thanh niên tham gia công tác bảo vệ đất nước,
bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành được. Khẩu hiệu “Thanh
niên ta không nên do dự hãy lên đường chiến đấu giành độc lập”
được thể hiện bằng biểu ngữ, tranh vẽ, loa phóng thanh rộn rã
khắp nơi.
Các xã nhanh chóng thành lập dân quân tự vệ dưới quyền
chỉ huy trực tiếp của Ủy ban lâm thời xã, mỗi đội dân quan xã có
từ 30 - 36 đội viên, đội dân quân ấp có từ 10 đến 20 người. Đội
dân quân xã nào cũng có 1-2 cây súng và vài ba trái tạc đạn. Ở các
trạm gác Thành Tuy Hạ, Cát Lái, lính Nhật muốn đi qua phải đổi
đạn, lựu đạn, có khi cả súng. Phước Tân thì thanh niên tổ chức giật
súng của lính gác Nhật, lính gác sở cao su. Thanh niên dọc đuờng
15 truyền nhau kinh nghiệm làm câu liêm móc hàng trên xe Nhật
chạy qua, hoặc khôn khéo bố trí để lấy súng của chúng.
102

11.3 Page 103

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Như ở xã Phước Long1, chánh quyền nhân dân lâm thời được
thành lập gồm các anh: Phạm Văn Ngăn, Nguyễn Văn Tính, Phạm
Văn Tranh, anh Thành Phát, anh Tổ, Nguyễn Văn Kế, Nguyễn
Văn Sâm, Bùi Văn Hẳn, Huỳnh Văn Sùng, Nguyễn Văn Cơ, Bùi
Văn Xử, Đỗ Văn Tư, Nguyễn Văn Kim, và Ba anh Khắc.Chính
quyền lâm thời phân công: Anh Tính, anh Răng phụ trách công
tác chánh quyền; anh Nguyễn Hồng Sơn phụ trách công tác Mặt
trận, anh Huỳnh Văn Sùng phụ trách công tác thanh niên, chị Ba
Lầu phụ trách công tác phụ nữ, anh Văn Văn Tê phụ trách tổ tự
vệ chiến đấu. Tổ tự vệ chiến đấu đóng quân tại nhà má Hai Kiển,
hằng ngày canh gác cho chính quyền làm việc; thỉnh thoảng ra Sở
Ngựa ở Hang Nai bắt ngựa về xẻ thịt phân chia cho các cơ quan,
phần còn lại mang xuống chợ Mỹ Xuân bán, lấy tiền chi phí công
tác. Mặt trận và các đoàn thể phân công, tổ chức nhiều toán đi vận
động nhân dân thực hiện các mặt công tác do xã phân công. Khi
giặc Pháp tái chiếm Nam Bộ, chúng đưa quân càn quét, đóng bót,
kiềm kẹp gây cho ta nhiều khó khăn, một số dao động rời đi nơi
khác, cá biệt có người đầu hàng giặc, quay lại khủng bố dân còn
ác hơn giặc.
Ban đầu, các đội dân quân xã chưa có vũ khí, hầu hết đều
chỉ trang bị tầm vông vạt nhọn. Một ít xã có được vài khẩu súng
do Ban hội tề giao nộp lúc Tổng khởi nghĩa thành công. Các đội
viên dân quân tìm cách trao đổi lương thực với lính Nhật đã bị
giải giáp để lấy vũ khí. Ở căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ, sau Tổng
khởi nghĩa lính Nhật vẫn ở trong trại, nhưng ta đặt trạm gác phía
bên ngoài. Mỗi lần lính Nhật muốn đi qua trạm gác, phải đổi đạn
dược, lựu đạn, có khi cả súng, nên dần dần trang bị của Đội Dân
quân các xã Phú Thạnh, Đại Phước, Long Tân khá đầy đủ so với
1  Theo lời kể của bà Phan Thị Chi, đảng viên từ 1949, ấp 2, xã Long Thọ
103

11.4 Page 104

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
một số địa phương khác. Vũ khí được cất giữ ở Sở Ngựa1, một số
chuyển bớt cho huyện.
Ngày 14.9, Quận ủy và Ủy ban tổ chức một cuộc mít tinh
với đông đủ đại biểu và Thanh niên Cứu quốc các xã, phát động
tinh thần toàn dân cứu nước. Sau cuộc mít tinh, gần 100 thanh
niên hăng hái ghi tên tòng quân. Từ 16.9 đến 21.9 đã có 77 thanh
niên tự nguyện lên quận tập trung. Đội “Cộng hòa vệ binh” đầu
tiên của Long Thành được thành lập với 11 khẩu súng trường thu
được của lính mã tà sau khởi nghĩa, còn lại là tầm vông, giáo mác.
Ngoài đội Cộng hòa vệ binh, ở Long Thành còn hình thành một số
tổ chức vũ trang mang tính tự phát.
Tại tổng Thành Tuy Hạ có Ban Đồng Nai - là Ban thủ lĩnh
của một đoàn Thanh niên Tiền phong gồm gần 200 công nhân ở
Thành Tuy Hạ do Nguyễn Văn Đọt phụ trách, thường gọi là “thủ
lãnh Đọt”, cũng xây dựng một lực lượng vũ trang tập trung gồm
20 người với 7 súng. Ban Đồng Nai tuy là người Long Thành, hoạt
động trên đất Long Thành nhưng nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Ủy
ban kháng chiến Nam Bộ ở Sài Gòn, biệt lập với Quận ủy, Ủy ban
lâm thời quận.
Giữa tháng 9.1945, quân Pháp tiếp nhận quản lý kho đạn ở
Thành Tuy Hạ do Nhật bàn giao. Buổi sáng ngày 20.9, hai xuồng
máy từ Sài Gòn ngược sông Sâu vào Thành Tuy Hạ, mỗi xuồng
chở ba tên lính Pháp vũ trang. Ban Đồng Nai được tin, tổ chức
phục kích chặn đường về của chúng. Gần 3 giờ chiều, hai chiếc
xuồng quay về, lọt vào trận địa. Các chiến sĩ đồng loạt nổ súng,
bọn lính Pháp hoảng sợ chui hết vào khoang thuyền, rồ ga cho
xuồng phóng chạy thục mạng. Đêm hôm đó, đội cảm tử Ban Đồng
1  Nơi Pháp nuôi ngựa để cưỡi trong khu vực Thành Tuy Hạ và các vùng lân cận, do thời
đó hiếm xe cơ giới
104

11.5 Page 105

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Nai đột nhập, phá hủy một nhà máy mủ Thành Tuy Hạ. Tiếng súng
trên sông Sâu ngày 20.9 mở đầu cuộc chiến đấu của quân dân
Long Thành chống thực dân Pháp tái xâm lược Việt Nam.
Rạng sáng ngày 23.9.1945, quân Pháp tấn công đánh chiếm
Sài Gòn, chính thức tái xâm lược Việt Nam. Hưởng không khí
độc lập chưa tròn tháng, Nam Bộ bước vào giai đoạn kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai.
Ngày 23.9.1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn.
Nhân dân Sài Gòn, Gia Định đứng lên kháng chiến, mở đầu cho
cuộc kháng chiến toàn Nam Bộ.
Ngay trong đêm 23.9.1945, hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên
Hòa được tổ chức tại nhà hội Bình Trước, do đồng chí Hà Huy
Giáp, Xứ ủy viên chủ trì. Hội nghị đã chủ trương xây dựng Trường
huấn luyện du kích Vĩnh Cửu nhằm đào tạo cán bộ quân sự cho
tỉnh, đồng thời chủ trương tiến hành “tiêu thổ kháng chiến” và
nhiều biện pháp để chuẩn bị kháng chiến. Đồng chí Trần Công
Khanh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, Hoàng Minh Châu
làm Phó bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Tại Long Thành lúc bấy giờ hừng hực khí thế sẵn sàng chiến
đấu. Ở các xã địa bàn Nhơn Trạch, ngày nào cũng vậy, từ sáng
sớm tới xẩm tối lúc nào cũng vang dậy tiếng bước chân đi đều,
tiếng hô “Một! Hai!’ của các chiến sĩ Cộng hòa vệ binh. Anh em
tập đội ngũ, tập tháo ráp, sử dụng súng, tập các động tác cơ bản
trong chiến đấu, tập võ thuật, đánh dao, bắn ná.
Để tăng cường sức mạnh quân sự, thống nhất các lực lượng
vũ trang, Huyện ủy đã cử các đồng chí Trương Minh Kỷ, Nguyễn
Văn Lược đến Ban Đồng Nai, vận động đồng chí Ba Đọt hợp nhất
lực lượng của mình với lực lượng Cộng hòa vệ binh của Long
105

11.6 Page 106

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Thành. Đến cuối tháng 10, toàn bộ lực lượng vũ trang của Ban
Đồng Nai đã sát nhập về huyện.
Ngày 23.10.1945, Quận ủy Long Thành cử đồng chí Trương
Minh Kỷ (Bảy Kỷ) - Huyện ủy viên - về Phú Hữu bàn bạc với
đồng chí Trần Thị Ba gấp rút làm một số việc: Thành lập Mặt trận
Việt Minh, chính quyền và đoàn thể cứu quốc, sáp nhập Thanh
niên Tiền phong vào Đoàn Thanh niên cứu quốc, lập Đội Tự vệ
chiến đấu, có kế hoạch chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa I ngày
6.1.1946; có kế hoạch đánh địch bảo vệ dân gắn với việc “tiêu thổ
kháng chiến”. Xã Phú Hữu tách thành hai xã Phú Hữu và Phước
Thành, cả hai xã trực tiếp chịu sự lãnh đạo của Huyện ủy Long
Thành.
Cũng trong những ngày cuối tháng 10, sau khi mặt trận Sài
Gòn tan vỡ, các lực lượng vũ trang kháng chiến trong nội thành
lần lượt rút về các vùng nông thôn để bảo toàn lực lượng, chiến
đấu lâu dài. Từ mặt trận số 4 Sài Gòn, theo lệnh của Tư lệnh Bình
Xuyên Dương Văn Dương, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên kéo về
đóng quân khắp dải Rừng Sác, Long Thành, từ Bà Trao đến Phước
An, từ Thái Thiện đến Tam An. Chỉ trong thời gian không đầy nửa
tháng, trên địa bàn huyện đã có thêm hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ
với một số lớn trang bị máy móc của Công binh xưởng các đơn
vị.
Thời điểm này, chính quyền cách mạng còn non trẻ ở quận
Long Thành phải đối mặt với nhiều khó khăn. Bên ngoài, thực dân
Pháp chuẩn bị tấn công tái chiếm Long Thành. Bên trong, vừa phải
lo củng cố bộ máy tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn định các vấn đề
liên quan chính sách, ổn định đời sống nhân dân. Ở 8 xã của quận
Long Thành, gồm: Phú Hữu, Phú Thạnh, Đại Phước, Long Tân,
Tam An, Tam Phước, Phước Nguyên, Long Phước, chính quyền
106

11.7 Page 107

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
cách mạng đã tiến hành tạm cấp khoảng 1.000 ha ruộng của chủ
đất vắng mặt, chủ điền lớn hoặc bọn phản động, cho nhiều gia
đình nông dân nghèo không ruộng hoặc ít ruộng. Chính quyền
cách mạng cũng vận động một số chủ điền thực hiện giảm tô 25%,
hủy nợ lưu khối (nợ từ lâu không trả nổi) cho hàng ngàn người
nghèo. Chính sách này thể hiện sự quan tâm của chính quyền cách
mạng đến đời sống của tầng lớp nông dân nghèo dù đang trong
thời điểm rất nhiều khó khăn; nông dân nghèo rất phấn khởi, càng
đồng tình ủng hộ cách mạng. Có ruộng, người dân ra sức cày cấy,
đóng góp lương thực để kháng chiến chống Pháp. Như ở xã Phú
Thạnh, Ủy ban cách mạng lâm thời xã thu đất của địa chủ Trịnh
Thị Dung ở cù lao Ông Cồn tạm cấp cho người nghèo gần 300
mẫu đất ruộng, khiến người dân vô cùng phấn khởi; ra sức sản
xuất, đến đầu năm 1946 người dân đóng góp cho địa phương gần
100 tấn lúa.
Phong trào xóa mù chữ diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở các xã.
Buổi tối, người dân từ già đến trẻ thường rủ nhau đến lớp, chăm
chỉ học tập, không khí rất vui vẻ. Các đội thanh niên, phụ nữ còn
tổ chức biểu diễn văn nghệ. Người dân Nhơn Trạch - Long Thành
ai cũng phấn khởi, hăng hái sản xuất, học tập, tham gia công tác
đoàn thể góp phần xây dựng quê hương, bảo vệ chính quyền.
Ngày 23.9.1945, thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn. Ngay
trong đêm này, hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa diễn ra tại nhà
hội Bình Trước1 do đồng chí Hà Huy Giáp, thay mặt Xứ ủy chủ
trì. Hội nghị bầu đồng chí Trần Công Khanh làm Bí thư Tỉnh ủy
lâm thời, đồng chí Hoàng Minh Châu, Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy
ban hành chính tỉnh; chủ trương xây dựng Trại huấn luyện du kích
Vĩnh Cửu để đào tạo cán bộ quân sự cho tỉnh; thống nhất các nội
dung chuẩn bị kháng chiến, tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”.
1  Nay là nhà truyền thống thành phố Biên Hòa
107

11.8 Page 108

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Nghị quyết của Tỉnh ủy khẩn trương được triển khai. Nhơn
Trạch - Long Thành hừng hực khí thế sẵn sàng chiến đấu. Khi mặt
trận Sài Gòn - Gia Định tan vỡ, nhiều lực lượng kháng chiến ở
Sài Gòn kéo về đứng chân ở Long Thành. Long Thành phát sinh
nhiệm vụ hậu cần. Ủy ban Hành chính quận quyết định thành lập
một ban tiếp tế do đồng chí Ba Liêm (Ủy viên tài chính quận) phụ
trách, trụ sở tại chợ Long Thành. Ban tiếp tế hoạt động tích cực
phục vụ Cộng hòa và vệ binh, cán bộ và quân dân kháng chiến
đứng chân ở Long Thành; các đoàn thể vận động đồng bào đóng
góp lương thực, thực phẩm, vật phẩm thiết yếu; chị em phụ nữ
vận chuyển, nấu nướng, chăm sóc sức khỏe cho từng bộ phận; tổ
chức bếp ăn tập thể cho vài trăm người mỗi ngày, liên tục trong
cả tháng. Việc phục vụ, tiếp tế được thực hiện tốt, nhưng công tác
phối hợp hành động chưa tốt, nhất là trong xây dựng, phát triển
lực lượng vũ trang. Thực tế yêu cầu thống nhất các lực lượng vũ
trang để tập trung lãnh đạo.
Cuối tháng 9, một đơn vị Cộng hòa vệ binh gồm 50 chiến
sĩ với 12 súng từ vùng giáp ranh Sài Gòn - Thủ Đức rút về Long
Thành trong tình trạng chiến đấu độc lập hết đạn, lương thực. Ủy
ban lâm thời quận Long Thành tiếp nhận và quyết định sát nhập
vào lực lượng Cộng hòa vệ binh quận; bố trí đóng quân tại Bến
Cam (Phước Thiền).
Một đơn vị do Nguyễn Văn Du và Trịnh Công Tây chỉ huy
gồm hơn 70 người và 20 súng về đóng quân rải rác vùng Phước
Long, Bà Ký và Cầu Xéo. Lại thêm một toán vũ trang do Nguyễn
Văn Trực và Lê Văn Cảnh cầm đầu về sáp nhập cùng bộ phận của
Tây, Du và tự xưng là “đệ nhị sư đoàn”1. Thành phần của các đơn
1  Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban hành chính Nam Bộ tại Sài Gòn thành lập 4
đơn vị Cộng hòa vệ binh
108

11.9 Page 109

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
vị này phức tạp; chiến sĩ gồm thanh niên công nhân, nông dân,
học sinh yêu nước, nhưng chỉ huy thuộc tầng lớp trung lưu, lính
cũ của Nhật, Pháp nên cách sinh hoạt và tinh thần chiến đấu không
đồng bộ. Bốn tên Tây, Du, Trực, Cảnh bộc lộ hành vi sợ giặc,
xem thường lính, sách nhiễu dân nên nhiều chiến sĩ chán ghét,
lần lượt bỏ đệ nhị sư đoàn, gia nhập các đơn vị khác. Lực lượng
đệ nhị sư đoàn rơi rụng dần, còn lại chỉ hơn 100 quân với gần 40
súng các loại. Mặc dù được quân dân Long Thành đón nhận, tiếp
tế, nhưng nhóm Trực, Cảnh, Tây, Du ngày càng thể hiện bản chất
thổ phỉ, nhiều lần cướp bóc, tống tiền, cưỡng bức đồng bào; uy
hiếp chính quyền xã; không chịu sự lãnh đạo của Quận ủy và Ủy
ban hành chính quận; lại còn cấu kết với Lương Văn Tương, đội
Giám âm mưu tạo riêng quyền lực quân phiệt. Chúng tùy tiện bắt
thanh niên Trần Trọng Nghĩa, vu oan, rạch bụng tử hình tại chợ
quận; lộng hành trong bắt bớ, chiếm đoạt tài sản của dân; lại có
âm mưu uy hiếp, bắt cóc Bí thư Quận ủy. Sau nhiều lần cảnh báo,
dàn xếp, thuyết phục không thành, cuối tháng 10.1945, Quận ủy
và Ủy ban hành chính Long Thành quyết định giải tán lực lượng
đệ nhị sư đoàn; bắt giam 5 tên Tây, Du, Trực, Cảnh, Giám; mở
phiên tòa công khai tại sân banh Phước Thiền, tử hình tại chỗ Tây,
Du, Trực, Cảnh; tên Giám được khoan hồng, chạy về Sài Gòn. Vụ
án xử 5 tên lãnh đạo đệ nhị sư đoàn làm trong sạch lực lượng vũ
trang, củng cố lòng tin của quân dân Long Thành đối với Chính
phủ kháng chiến.
Cuối tháng 10.1945, Long Thành được tỉnh Biên Hòa tăng
cường 11 cán bộ quân sự vừa tốt nghiệp Trại huấn luyện du kích
Vĩnh Cửu với 11 khẩu súng trường. Đây là những cán bộ quân
sự cách mạng chính quy đầu tiên của quận. Số cán bộ quân sự
này đã được giao nhiệm vụ tổ chức xây dựng trường quân chính;
lớp huấn luyện quân chính đầu tiên được khai giảng ở Hang Nai
109

11.10 Page 110

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
(Phước An) giữa tháng 11.1945, 16 học viên là cán bộ dân quân
các xã, ấp trong toàn quận tham dự.
Để thống nhất các lực lượng vũ trang, tập trung sức mạnh
quân sự, Quận ủy giao các đồng chí Trương Minh Kỷ, Nguyễn
Văn Lược vận động Ba Đọt hợp nhất lực lượng của Ban Đồng Nai
với Cộng hòa vệ binh Long Thành. Cuộc vận động thành công,
đến cuối tháng 10.1945, toàn bộ lực lượng vũ trang Long Thành
hợp thành hệ thống thống nhất do Quận ủy lãnh đạo.
Cũng trong những ngày cuối tháng 10.1945, các lực lượng
vũ trang kháng chiến trong nội thành lần lượt rút về các vùng nông
thôn để bảo toàn lực lượng, chiến đấu lâu dài. Tư lệnh Dương Văn
Dương đưa bộ đội Bình Xuyên về đóng quân khắp dải Rừng Sác
Long Thành, từ Bà Trao đến Phước An, từ Thái Thiện đến Tam
An. Long Thành có thêm hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ với nhiều vũ
khí, máy móc được trang bị từ các công binh xưởng. Quân số tăng
nhưng nguồn lực hậu cần chưa kịp chuẩn bị, Long Thành gặp khó
khăn, cử đồng chí Võ Văn Truyện về tỉnh báo cáo tình hình, xin
chi viện, nhưng tỉnh còn khó khăn hơn, Long Thành phải nổ lực
tự quản. Ngày 10.10.1945 Quận ủy quyết định triệu tập hội nghị
cán bộ quân dân chính Đảng tại đình Phước Kiển để hạ quyết tâm,
bàn giải pháp thực hiện chủ trương “tự lực, tự cường” của Tỉnh
ủy. Kết luận hội nghị, đồng chí Trương Minh Kỷ kêu gọi quân dân
Long Thành triệt để thi hành chỉ thị của tỉnh bằng sức lực của quần
chúng ở địa phương. Tinh thần của hội nghị được quán triệt trong
toàn quận. Nhiều sáng kiến, nhiều giải pháp được triển khai thực
hiện. Phong trào tiết kiệm, đóng góp nuôi quân được phát động sôi
nổi. Dân tin tưởng cho chính quyền kháng chiến vay, mượn tài sản
để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến. Bộ đội đóng quân phân tán
trong dân được dân nuôi, nhường chỗ làm việc, nhường phương
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tiện đi lại. Bộ tư lệnh Bình Xuyên đóng trong nhà đồng bào Phước
An, Phước Thọ, Bà Ký, Tam Phước được dân phục vụ bếp ăn tập
thể. Mỗi xã đều tổ chức từ 30 đến 40 người hỗ trợ cán bộ, chiến
sĩ. Ở tất cả các xã đều có hình thức vận động đóng góp nuôi quân;
đồng bào tích cực hưởng ứng, lương giáo, giàu nghèo đều tham
gia; có người đóng góp hàng trăm giạ lúa, hàng ngàn đồng tiền
mặt để nuôi quân. Người dân Phước An, Phước Thọ, Phú Hữu
giao ghe xuồng cho bộ đội chuyển quân; đồng bào ở Phước Long,
Phước Thiền, Long Tân, Phú Hội ủng hộ xe bò cho bộ đội vận
chuyển. Trong “tuần lễ vàng”, nhiều phụ nữ đã tháo cả cà rá, bông
tai ủng hộ kháng chiến. Trong các đợt “tuần lễ đồng”, nhiều gia
đình hiến cả lư hương, chân đèn thờ cúng trong nhà. Phong trào tự
túc tự cường ở Long Thành được nhân dân ủng hộ nên thành công,
gia tăng nội lực cho kháng chiến.
Ngày 25.10.1945, quân Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa.
Quân Nhật ở Long Thành vốn án binh bất động từ khi chính quyền
về tay nhân dân, nay giương súng gây áp lực nhằm giải tán lực
lượng kháng chiến; nói là để bảo vệ quốc lộ 15 cho xe Đồng minh
xuống Bà Rịa, Vũng Tàu; kỳ thực đó là âm mưu thỏa hiệp của
quân Đồng minh Anh, Ấn dọn đường cho thực dân Pháp mở rộng
vùng chiếm đóng. Trước tình hình này, Quận ủy về xã Phước
Thiền, Ủy ban hành chính đóng tại chùa Nước Nhĩ, ấp Bến Sắn;
chủ trương sơ tán bộ máy lãnh đạo kháng chiến về các xã; triển
khai các phương án đánh giặc cả Anh, Pháp, Nhật.
Ngày 28.10, một đoàn xe của Anh, Pháp từ Biên Hòa đi Vũng
Tàu, bộ đội và dân quân Tam Phước, Phước Tân chặn đánh ở dốc
47, bắn cháy một xe, diệt một số lính, làm cho địch bỏ dở cuộc
hành quân rút về Biên Hòa. Trong trận này, đồng chí Nguyễn Văn
Tranh, dân quân Tam Phước hy sinh. Đó là chiến sĩ vũ trang đầu
111

12.2 Page 112

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
tiên ở Long Thành hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp tái xâm lược. Ở Thành Tuy Hạ, quân Pháp cũng liên tiếp mở
các cuộc hành quân thám sát và cướp bóc các xã lân cận, nhưng
chúng đều bị lực lượng vũ trang chận đánh phải rút lui.
Sau những lần bị chặn đánh, địch ngưng hành quân, tình
hình bớt căng thẳng. Huyện ủy, Ủy ban hành chính chuyển về
chùa Bà Phủ (Phước Kiển). Đồng chí Dương Bạch Mai - Trưởng
đoàn thanh tra chính trị miền Đông về kiểm tra tình hình kháng
chiến Long Thành. Sau kiểm tra, Ủy ban hành chính quận được
cải tổ. Đồng chí Trịnh Văn Dục, Bí thư Huyện ủy, kiêm chức Chủ
tịch Ủy ban Hành chính quận. Phó Chủ tịch là Võ Văn Truyện (tức
Hoàng Việt Hà). Đồng chí Trương Minh Kỷ: Phó Chủ tịch kiêm
ủy viên tư pháp. Đồng chí Trịnh Văn Kính: Ủy viên chính trị.
Đồng chí Huỳnh Văn Đạo: Ủy viên quân sự. Đồng chí Lương Văn
Nho: Ủy viên tài chánh. Chức Ủy viên xã hội giao cho Nguyễn
Văn Hội, Thư ký ủy ban là Nguyễn Văn Thai.
Vào lúc 1 giờ đêm ngày 11.11.1945, lính Nhật còn trú đóng
ở đồn binh Phước Kiển đột nhiên1 tổ chức bắt cóc đồng chí Bí thư
Quận ủy Trịnh Văn Dục và Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc Đỗ Hữu
Phú. Đây là động thái gây hấn với chính quyền cách mạng.
Sáng ngày 12, Quận ủy Long Thành tổ chức một cuộc họp
khẩn cấp do đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) chủ trì, quyết
định tổ chức biểu tình toàn huyện đòi Nhật phải trả hai đồng chí
Dục và Phú. Sau cuộc họp, cán bộ tỏa ngay về các xã, vận động
người dân tham gia biểu tình. Trước sự trở mặt trắng trợn của bọn
Nhật, người dân Nhơn Trạch, Long Thành ai cũng phẫn nộ.
1  Theo lệnh của chỉ huy Đồng minh Anh - Ấn
112

12.3 Page 113

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Mờ sáng ngày 13.11.1945, khắp các ngả đường trong huyện
đã rầm rập những bước chân người. Hơn 4.000 công nhân cao su
Bình Sơn - An Viễng và đồng bào Lộc An theo lộ 25 đi ra. Gần
5.000 người thuộc các xã dọc lộ 15 từ Thái Thiện, Tuy Long, Long
An dồn lên, từ Bến Gỗ Phước Tân, Tam Phước, An Lợi, Tam An,
Thanh Nguyên dồn xuống. Hơn 5.000 đồng bào Ông Kèo, Phước
An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiển theo lộ 19,
Phước Thành, Long Tân, Phú Thạnh, Mỹ Hội cũng theo tỉnh lộ
17 hội nhập tại Phước Thiền rồi tiến thẳng vào thị trấn. Xã nào
cũng có đoàn tham gia biểu tình, có cán bộ xã tổ chức hướng dẫn.
Ngay cả Phước Khánh xa xôi, hàng trăm đồng bào cũng theo ghe
tập trung ở Phú Hữu, Phước Thành từ chiều hôm trước để cùng
đi. Những dòng người nối tiếp nhau như nước; đến thị trấn Long
Thành thì gặp bọn lính Nhật cản đường, giựt băng ron, níu kéo
người cầm cờ, quyết cản bước đoàn biểu tình. Đoàn biểu tình
giằng co với lính Nhật, chị Nghi (bộ phận Y tế) cầm cờ kêu gọi
xông lên; đoàn người xông ào lên, giặc lui ta tiến, được khoảng
50 mét thì một xe nhà binh Nhật phóng đến, thắng gấp, lính Nhật
nhảy xuống xe, giương lê cản đường, đoàn người vẫn xông tới, lấy
số đông áp đảo, khí thế như nước lũ; lính Nhật yếu thế, lùi bước,
rồi nhảy lên xe chạy đi. Đoàn người kéo đến cổng Gà, một tốp lính
Nhật đang ngồi dưới gốc cao su đứng bật cả dậy, chĩa súng lên
trời nổ nhiều phát đe dọa dừng bước, nhưng đoàn người vẫn xông
tới, tràn vào cổng, bọn Nhật chặn không được nên mới chịu tiếp
chuyện, chúng nói rằng đã đưa ông Dục, ông Phú về Biên Hòa rồi,
nếu tiếp tục tràn vào chúng sẽ nổ súng. Anh Hưởng phiên dịch;
đồng chí Vũ Hồng Phô hội ý lãnh đạo rồi lệnh cho đoàn kết thúc
biểu tình, lúc đó hơn 12 giữa trưa.
Đồng chí Bí thư Quận ủy bị địch bắt là một tổn thất lớn của
cách mạng Long Thành. Ngay sau đó, thực hiện phương châm
113

12.4 Page 114

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
sách lược của Trung ương: “Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên
bố tự giải tán”, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật1. Theo
chỉ thị của trên, Đảng bộ Long Thành không còn tổ chức sinh
hoạt, lại thêm một khó khăn mới. Nhưng với tinh thần của người
cộng sản, các đảng viên vẫn tích cực hoạt động phát huy vai trò
của Mặt trận Việt Minh các cấp, lãnh đạo, đi sâu vào cơ sở vận
động quần chúng. Nhờ vậy phong trào kháng chiến trong huyện
vẫn phát triển mạnh mẽ. Thời điểm đó, một số xã thuộc địa bàn
Nhơn Trạch chưa có chi bộ Đảng nên sự lãnh đạo của Đảng thông
qua vai trò của Mặt trận Việt Minh và các đảng viên kỳ cựu.
Đến tháng 11.1945, cuộc vận động ủng hộ Chính phủ nuôi
quân vẫn sôi nổi, phát triển khắp nơi. Lương thực, thực phẩm cung
cấp cho bộ dội không thiếu. Công binh xưởng có nhiều đồ đồng
do dân đóp góp để chế tạo vũ khí. Các xã Tập Phước, Bà Ký, Tam
An, Phú Hữu, Phú Hội, Phước Khánh, Phước Thọ, Phước Long,
Phước Lai, Phước Thiền là những đơn vị thực hiện tốt phong trào.
Đời sống nhân dân còn nghèo khó, nhưng qua phong trào, nổi lên
nhiều tấm gương tiêu biểu, như: Bà Màu, bà Võ Thị Nhẫm, bà Võ
Thị Diệm (Phước Thọ); Lê Thị Nhàn, Phạm Thị Hiềm, Huỳnh Thị
Giác, má Kiển (Phước Long); Lê Thị Ngưu (Long Phước), Phạm
Hồng Ngọc, Ba Quân (An Phước); Nguyễn Văn Cận, Lê Văn Tám
(Phước Khánh), Má Bảy Có, Lê Văn Thâu, Đào Văn Bửu, Mai
Văn Năm, Dương Thị Chứa (ở Đại Phước) ... Sự đóng góp của
mỗi gia đình ít hay nhiều, bằng cách này hay cách khác đều toát
lên tinh thần ủng hộ kháng chiến, tin tưởng chính quyền kháng
chiến, ấm tình quân dân cá nước.
1  Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25.11.1945,
“Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” - trích văn kiện tập II - NXB sách giáo khoa Mác -
Lênin - trang 14
114

12.5 Page 115

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Phong trào đóng góp trong dân chỉ đủ để nuôi quân tạm ổn
trong giai đoạn trước mắt, ruộng rẫy ở địa phương không đủ đảm
bảo cung ứng lương thực cho yêu cầu lâu dài. Quận ủy nghĩ đến
việc huy động nguồn lực từ miền Tây. Mối quan hệ kết nối với
các tỉnh miền Tây bắt đầu từ chuyến giao liên đưa các đồng chí
Vũ Đức, Lê Trân Châu và 50 cán bộ, chiến sĩ tăng cường về Bến
Tre vào cuối tháng 10.1945. Việc rút kinh nghiệm cho chuyến đi
lần sau nảy sinh hình thức kết nối Long Thành với khu 8 bằng con
đường trao đổi hàng hóa hai chiều của dân.
Đồng ý với sáng kiến của Long Thành, đồng chí Dương
Bạch Mai có thư cho Gò Công, Bến Tre đề nghị vận động đồng
bào chở lúa gạo miền Tây theo đường thủy bán cho huyện Long
Thành và tỉnh Biên Hòa để nuôi bộ đội. Kết nối thuận lợi, kể từ
tháng 12.1945 trở đi, nhiều ghe thuyền từ miền Tây lần lượt cập
bến các xã Phước An, Phước Thọ, Thái Thiện, có đợt xuống hàng
hơn 500 tấn gạo. Đường dây lương thực này căn bản đảm bảo cho
chiến trường Long Thành và đáp ứng một phần cho nhu cầu của
tỉnh. Cũng từ đường dây này, chiến trường miền Đông - miền Tây
phối hợp nhịp nhàng với nhau, nghĩa tình đoàn kết kháng chiến
mở rộng. Ở mặt trận chống giặc dốt, phong trào xóa mù chữ được
phát động gắn với công cuộc xây dựng đời sống mới, nhiều lớp
học bình dân được tổ chức bằng nhiều hình thức, việc dạy và học
ở mọi nơi. Hầu hết các xã đều tổ chức được các lớp học quốc ngữ;
người nhiều chứ dạy người ít chữ. Khắp nơi đều có khẩu hiệu
“toàn dân biết chữ”. Trong thanh niên có phong trào “ai mù chữ
không được lấy vợ lấy chồng”. Các bài ca cách mạng được phổ
biến rộng rãi. Không khí trong làng xã rộn ràng tinh thần thi đua,
thi đua học chữ gắn với thi đua sản xuất.
115

12.6 Page 116

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Ở lĩnh vực huấn luyện vũ trang, đến giữa tháng 11.1945,
trường quân chính quận đã tổ chức hai khóa huấn luyện quân sự
cho hơn 100 cán bộ xã, và lớp cứu thương cho 50 học viên với mô
hình tủ thuốc cứu thương ở mỗi xã. Đây là kết quả đầy cố gắng của
trường quân chính quận trong điều kiện ban đầu còn trất nhiều khó
khăn. Trong thời gian này, Trung đội Giải phóng quân đầu tiên của
Long Thành được chính thức thành lập từ các lực lượng Cộng hòa
vệ binh của quận, quân số 200 người; vũ khí gồm 92 khẩu súng
các loại, 150 lựu đạn và hơn 1000 viên đạn. Trung đội có một
xưởng vũ khí nhỏ với 15 người chế tạo được bom mìn thô sơ. Lực
lượng Quốc gia tự vệ cuộc (tiền thân của công an) cũng được củng
cố, bổ sung nhân lực và trang bị, tăng cường công tác vũ trang,
tuyên truyền, xây dựng mạng lưới cơ sở với phương châm “dựa
vào bộ đội và đoàn thể để phát triển lực lượng”.
Tuy đã được thống nhất, nhưng thành phần các lực lượng vũ
trang vẫn chưa thuần nhất. Do thành phần xuất thân và nguồn gốc
tạo lập khác nhau, nhiều bộ phận chưa gắn kết với nhau. Có nhiều
nhóm hợp lại từ giang hồ hảo hán, chưa giác ngộ chính trị, thích
hành động theo cách riêng, gây phiền nhiễu nhân dân và chính
quyền địa phương. Trường hợp của Ba Nhỏ là điển hình, cần phải
xử lý để an lòng dân, chấn chỉnh quân phong quân kỹ.
Ba Nhỏ tên thật là Lê Văn Khôi, trước Cách mạng tháng
Tám cầm đầu một băng nhóm ở Xóm Củi, nhanh chóng trở thành
tay anh chị giang hồ, tham gia đánh giặc Pháp tại mặt trận Thị
Nghè - Bà Chiểu - Cầu Bông; gia nhập lực lượng Bình Xuyên,
xưng danh bộ đội cách mạng. Ỷ thế có công, Ba Nhỏ tập hợp
nhóm quân bản tính lưu manh làm nhiều điều bạo ngược. Khi kéo
quân về hội nhập các lực lượng kháng chiến ở Long Thành, nhóm
Ba Nhỏ cấu kết cùng nhóm Tư Cò Đá nhũng nhiễu nhân dân, giết
người không ghê tay, đe dọa chính quyền và các đoàn thể cách
116

12.7 Page 117

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
mạng địa phương, làm cho quần chúng nhân dân bất bình, nhiều
người hiểu sai về quân đội cách mạng. Mặc dù đã được nhắc nhở,
giáo dục, Ba Nhỏ vẫn ngang ngược, không thay đổi. Chính quyền
cách mạng quyết định trừng trị. Nhiều người không tin là trừng trị
được, vì Ba Nhỏ có quân, có súng, có cá tính giang hồ, lại được
kiêng nể trong lực lượng Bình Xuyên.
Nhận đơn tố cáo Ba Nhỏ, Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình
trực tiếp xử lý, thuyết phục các thủ lĩnh Bình Xuyên: Ba Dương,
Hai Vĩnh, Tám Mạnh, Năm Hà, Mười Lực đồng ý mở phiên tòa
xử tội Ba Nhỏ. Nhân chứng có dự xem phiên tòa1 cho biết: Phiên
tòa công khai mở tại chùa Phước Lai2 vào đầu tháng 12.1945.
Trung tướng Nguyễn Bình là chánh án, mặc áo xá xẩu màu xám
ngồi giữa; hai bên là Ba Dương và Tám Mạnh. Phiên tòa có dân
chúng, cán bộ, chiến sĩ xem rất đông, được đội vũ trang bảo vệ
trong ngoài nghiêm ngặt. Sau khi luận tội, Nguyễn Bình thay mặt
tòa tuyên án, nêu rõ những nội dung Ba Nhỏ đã phạm tội: Khủng
bố đồng bào, làm giảm lòng tin của đồng bào đối với lực lượng
vũ trang kháng chiến, làm mất thanh danh của Vệ quốc đoàn. Coi
thường chủ trương, đường lối, chính sách và các nghị quyết của
Chính phủ Trung ương, của thượng cấp. Dùng bạo lực uy hiếp,
khủng bố chính quyền và các đoàn thể cách mạng ở địa phương.
Thoái thác nhiệm vụ chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Khi địch
tiến công, không tổ chức chiến đấu mà bỏ chạy. Xét tội của Ba
Nhỏ, tòa tuyên án: Tử hình. Ba Nhỏ nhận tội, xin được đặc ân tự
xử. Tòa đồng ý. Ba Nhỏ xin nhận súng. Súng của Ba Nhỏ được
mang đến. Mọi người lo lắng cho tính mệnh của quan tòa. Ba Nhỏ
vuốt khẩu súng, tự dí vào đầu bóp cò. Súng không nổ. Một chiến sĩ
1  Đồng chí Phan Thị Chi, sinh năm 1926, đảng viên 90 năm tuổi Đảng, xã Long Thọ
2  Ở vị trí cũ, bên trái lộ 19. Có tài liệu ghi là ở đình Phước Lai, cũng có tài liệu ghi ở Phước
Long
117

12.8 Page 118

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
thi hành án đến giúp Ba Nhỏ kết liễu đời mình1. Xác Ba Nhỏ được
đưa vào chiếc hòm gỗ để sẵn, khâm liệm đàng hoàng, đưa đi chôn
cất. Phiên tòa xử Ba Nhỏ nghiêm minh, được dân chúng đồng
tình, quân dân Long Thành càng tin yêu chính quyền cách mạng.
Người người khâm phục phong thái của tướng Nguyễn Bình, cũng
có người cảm khái về thái độ nhận tội và tự xử của Ba Nhỏ.
Ngày 11.11.1945, thực dân Pháp đưa quân đóng giữ kho đạn
Thành Tuy Hạ Quân đi hai cánh. Một cánh đổ bộ lên ngay bến
Thành Tuy Hạ, cánh kia từ bến đò qua Cát Lái, theo đường 17 đi
lên. Đi đến đâu giặc bắn ran trời đến đó. Dân các ấp Câu Kê, Bến
Cộ, chợ Phước Lý hoang mang lo lắng.
Chiếm kho đạn Thành Tuy Hạ hơn một tháng thì quân Pháp
bắt đầu càn quét làng xóm chung quanh. Ngày 19.12.1945, gần
100 tên lính lê dương kéo đến cầu Cháy. Sáu tên lò dò theo đường
xứ 2 tiến về hướng Giồng Ông Đông. Chúng đốt một số nhà tranh
ven đường, khói lửa bốc cao ngất. Hai bên ven đường xứ, lúa cao
ngang lưng, chín vàng đồng. Đội Tự vệ Phú Hữu bí mật nằm áp
sát đường xứ dưới những ruộng lúa chờ địch. Khi chúng lọt vào
trận địa, tự vệ nổ súng. Các đội viên Chín Cát, Sum, Kiên ném
lựu đạn. Mấy tiếng nổ vang lên. Bọn lính lê dương vứt bỏ gà vịt
vừa bắt được, nằm lăn ra đất giương súng bắn trả loạn xạ. Lũ địch
ở đầu cầu Cháy lập tức nã cối vào trận địa rồi kéo quân đến tiếp
viện. Hàng trăm đồng bào già trẻ, gái trai có mặt ở đầu giồng dưới
hô vang: “Xung phong, xung phong” và hoan hô anh em tự vệ
đánh giặc mặc cho đạn địch nổ rền. Đó là lần đầu tiên quân dân
Nhơn Trạch thắng trận chống càn trước giặc Pháp tái chiếm Thành
Tuy Hạ.
1  Nhiều tài liệu ghi: Ba Nhỏ mượn súng của Trung tướng Nguyễn Bình, tự xiết cò
2  Là đường trải đá đỏ, ô tô, xe bò, xe ngựa chạy được
118

12.9 Page 119

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sau trận thua đau, quân địch ở kho đạn Thành Tuy Hạ thường
đi càn quét, bố ráp; chúng bắn người, cướp của, đốt nhà, hãm hiếp
phụ nữ. Ông Mười Ngải đi kéo vó tôm về đến đường bờ cộ giữa
hai ấp Bến Cộ và Câu Kê bị chúng bắn chết, cũng như chúng sát
hại ông cố Đỏ ở ấp Ông Mai. Hàng chục gia đình bị chúng cướp
đồ đạc, thóc lúa rồi đốt nhà. Chị Nguyễn Thị Ngọc T. bị giặc làm
nhục rồi bắn chết. Hàng chục bà và chị em khác sa vào tay giặc
cũng bị chúng hành hạ.
Sau trận thắng chống càn ở Phú Hữu, Mặt trận Việt Minh và
Ủy ban nhân dân các xã phát động phong trào “Toàn dân tham gia
bảo vệ sinh mạng và tài sản nhân dân”. Cán bộ đoàn thể phân công
nhau về các ấp vận động dân quân du kích xã lập nhiều điểm gác,
phát hiện giặc đi bố thì đánh mõ tre báo động dây chuyền. Nhân
dân còn được hướng dẫn đắp nền; làm chòi kín đáo cất giấu thóc
lúa, đồ đạc ở các đám bần, dừa nước ven sông rạch. Mỗi khi tiếng
mõ: “Cốc, cốc, cốc...” vang lên từ xóm nọ qua xóm kia, bà con lập
tức chạy trốn ra bìa rạch, ngoài đồng tùy theo hướng tiến của địch.
Ai có xuồng ghe thì chất cả gia đình xuống chèo vào rừng rậm, ai
không có thì tìm bờ bụi kín đáo ẩn nấp hoặc lội sông để trốn. Một
số nơi mực nước ngầm cao, chỉ khoét hố sâu một mét đã có nước
nên khó làm hầm. Các ông bà già ở lại sẽ ngăn chặn giặc đốt phá
nhà cửa, tài sản gia đình. Tây bố lúc nước cạn thì dân cùng nhau
lội sông, băng ruộng đầy đồng mặc cho súng giặc nổ chát chúa.
Tây rút về đồn bà con lại trở về xóm ấp như cũ. Cuộc sống thỉnh
thoảng bị đảo lộn bởi những cuộc càn nhưng nhanh chóng trở lại
bình thường.
Từ tháng 11.1945, giặc Pháp bung ra bố ráp quanh đồn bót
của chúng nên dân Phú Hội, Phú Thạnh, Long Tân và công nhân
sở cao su Tân Tường chạy về Bình Quới. Một số xóm ấp mới ra
đời: ấp Nhà Thờ, ấp Cầu Sắt, xóm Bàu Lòng... Do dân số tăng nên
119

12.10 Page 120

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Ủy ban kháng chiến huyện Long Thành lập xã mới Bình Thạnh.
Ủy ban nhân dân lâm thời xã Phú Hữu gồm các vị: Chủ tịch Đoàn
Ngọc Minh, Phó Chủ tịch Nguyễn Ký Kiệt, ủy viên thư ký Trần
Ngọc Mai. Ủy ban xã, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu
quốc đều có trụ sở gần ngôi nhà thờ thuộc ấp Nhà Thờ.
Xã Bình Thạnh chia làm ba phần rõ rệt. Phía Đông lộ 19 là
rừng giồng có nhiều bụi tre rậm rạp, lác đác có những chòm cây
cổ thụ nằm ven các bàu đầy nước quanh năm; rừng chồi xen kẽ,
tiếp giáp sở cao su Bàu Lòng và ngọn Vũng Gấm. Bìa Rừng Sác
có tràm, chen vào đó là những lõm bàng bà con cắt đươn đệm và
nóp. Cây bàng là nguồn thu nhập của nhiều gia đình vùng Bình
Thạnh, Phước An hồi đó.
Về công tác chuẩn bị bầu cử Quốc hội, nhiệm vụ được triển
khai từ cuối tháng 9, theo lộ trình từng bước đến tháng 11 công
việc ngày càng khẩn trương, mục tiêu ngày bầu cử 6.1.1946 đến
gần.
Ngay sau khi đoàn đại biểu quận được tỉnh tập huấn, việc
triển khai ở quận được thực hiện đồng bộ, rộng khắp; vừa giáo dục
nhận thức về bầu cử dân chủ, phổ biến thể lệ, vừa tuyên truyền
vận động đồng bào đi bầu. Trong hai tháng liên tục, Mặt trận Việt
Minh phân công cán bộ lặn lội tuyên truyền khắp các xóm ấp,
khu ở của đồng bào. Các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ
cứu quốc, Nông hội cứu quốc tổ chức nhiều buổi học tập, tuyên
truyền trong đoàn viên, hội viên của mình. Hình thức tuyên truyền
thô sơ giản đơn nhưng có chiều sâu ở tấm lòng của người dân đối
với Chính phủ Cụ Hồ. Việc bầu cử mới mẻ, còn nhiều ngỡ ngàng
nhưng người dân tiếp thu nhanh vì đó là điều hệ trọng, là khát
vọng ngàn đời của người dân mong có nhà nước độc lập, tự do,
dân chủ.
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Công tác chuẩn bị kỹ lưỡng nên việc bầu cử ở Long Thành
thành công. Trong vòng vây của thực dân Pháp, mặc cho bom rơi
đạn nổ, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I ngày 6.1.1946 được
thực hiện với tinh thần phấn khởi, không khí náo nhiệt như ngày
hội lớn. Đồng chí Nguyễn Sanh Thành, một cán bộ Mặt trận Việt
Minh quận ghi trong nhật ký: “Năm ngày đầu tháng 1.1946, đội
tuyên truyền Phú Hữu được giao hai cái loa bằng tôn thiếc phục
vụ cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Đội phát loa ở hai ấp Cầu Sắt, Bàu Lòng. Hoạt và 5 đội viên
phát loa ở hai ấp Nhà Thờ, Vũng Gấm. Ban phụ trách đã viết nội
dung trên giấy, đội viên thuộc lòng, phát loa hùng hồn, đến nay có
người còn nhớ nội dung. Ngày 6 tháng giêng năm 1946, tại Phú
Hữu tiến hành bầu cử quốc hội trong không khí bao vây của giặc,
nhưng kết quả cũng đến 90% cử tri đi tham gia bầu cử. Mặt trận,
thanh niên tích cực phá hoại cầu đường và bố trí gác nghiêm ngặt,
bảo vệ tốt đối với cuộc bầu cử nên đồng bào rất phấn khởi”.
Cũng như Phú Hữu, ở tất cả các xã khác đều có hơn 90% cử
tri lần đầu sử dụng quyền công dân của mình bầu ra đại biểu nhân
dân của chính mình. Đại biểu Quốc hội ở tỉnh Biên Hòa trúng cử 3
đồng chí gồm: Hoàng Minh Châu (tức Nguyễn Thành Vĩ) Dương
Bạch Mai và Điểu Xiển.
Sau bầu cử là các cuộc mít tinh mừng thắng lợi, biểu dương
lực lượng, tinh thần, tình cảm của quân dân Long Thành cùng cả
nước hướng về Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực dân Pháp chứng kiến việc này căm tức nhưng không làm
sao ngăn được, dự báo làn sóng cách mạng ở địa phương sẽ bừng
dậy, lan rộng, giáng đòn mạnh mẽ hơn vào mưu đồ xâm lược của
chúng những năm tiếp theo.
121

13.2 Page 122

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
2. Chống lấn chiếm vùng kháng chiến
Quân dân Long Thành đã góp phần vào thắng lợi của cả
nước bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
Hòa. Với thắng lợi này, công cuộc kháng chiến chống Pháp dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã có Nhà nước hợp hiến điều hành, có
Chính phủ thống nhất chỉ huy, làm tăng uy thế chính nghĩa và
tính pháp lý trên thế giới. Kết quả bầu cử là căn cứ để khẳng định
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp,
dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao
phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến
kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc
tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Quốc hội khóa I là: “Kết
quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự
đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta,
sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già, trẻ, lớn, bé, gồm
tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn
kết chặt chẽ thành một khối, hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy
nền độc lập cho Tổ quốc”1.
Theo lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết quả thắng lợi của
bầu cử Quốc hội là đóng góp của cả nước và cả nước cùng ra sức
bảo vệ thành quả ấy, trong đó có sự góp phần của quân dân Long
Thành. Từ đây, công cuộc kháng chiến của quân dân Long Thành
bước sang một giai đoạn mới với tư thế mới. Sau bầu cử thắng lợi,
Quận ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm tiếp theo là tăng cường lãnh
đạo, củng cố các tổ chức Đảng ở cơ sở, mở rộng mặt trận đoàn
kết toand dân, phát triển lực lượng vũ trang thống, đánh thắng mọi
cuộc càn quét, lấn chiếm của địch.
1  Phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội Khóa I, ngày
2.3.1946
122

13.3 Page 123

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trước thành quả đạt được của cách mạng, thực dân Pháp
càng lo lắng, càng điên cuồng tổ chức nhiều cuộc hành quân đánh
chiếm vùng kháng chiến. Long Thành đang là vùng độc lập, là
cái gai trước mắt và là hiểm họa lâu dài buộc quân Pháp tập trung
quân lực để đánh chiếm. Từ Biên Hòa, quân Pháp tổ chức cuộc
hành quân nhiều mũi theo các hướng sông Lòng Tàu, lộ 17, 15 và
quốc lộ 15 hòng bao vây, chia cắt, tiêu diệt các lực lượng kháng
chiến, chiếm đóng Long Thành. Đoán biết ý đồ của địch, Quận ủy
lãnh đạo toàn hệ thống xây dựng kế hoạch chiến đấu, thực hiện
“tiêu thổ kháng chiến”, chiến tranh nhân dân, kết hợp lối đánh du
kích với chủ động tiến công địch. Ở các xã, đồng bào tự dỡ nhà
rút vào rừng lập làng kháng chiến. Các tổ thanh niên tình nguyện
cùng dân quân tháo dở công sở, đình miểu, cất giấu tài sản công
quyết không để địch chiếm giữ biến thành công cụ tấn công quân
kháng chiến. Vì vậy, những nơi giặc Pháp chiếm được gần như
vườn không nhà trống, không còn gì để cướp phá, không có thóc
lúa để làm quân lương.
Sau bầu cử Quốc hội, Long Thành chuẩn bị đón Tết Bính
Tuất 1946, tết độc lập đầu tiên của dân tộc, nhưng luôn cảnh giác
với quân Pháp. Cảnh giác không thừa. Ngày 20.1.1946 nhằm 18
tháng Chạp, quân Pháp bắt đầu nổ súng. Từ hướng Biên Hòa,
quân Pháp nhiều đợt hành quân thăm dò trên tuyến lộ 15, sau đó,
ngày 23.1, tổ chức một đại đội lính Âu Phi có xe thiết giáp yểm trợ
tiến về Long Thành, đến dốc 47, bị một đơn vị bộ đội chặn đánh.
Hai bên nổ súng tới gần trưa thì quân Pháp rút về Biên Hòa, bỏ dở
cuộc hành quân.
Mờ sáng ngày 25.1.1946, đúng vào lúc đồng bào chuẩn bị
đưa ông Táo về Trời thì tiếng súng tấn công của giặc Pháp lại nổ
vang. Tàu giặc qua ngõ căn cứ Thành Tuy Hạ chạy dọc theo sông
Đồng Nai, đổ quân vào khu vực Tam Phước, Tam An, Long Điền,
123

13.4 Page 124

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Long Tân, Phú Thạnh, đồng thời bắn đại bác lên bờ hỗ trợ cho bộ
binh. Từ Sài Gòn, một tiểu đoàn khác vượt bến phà Cát Lái tấn
công Long Thành ở phía Tây. Giặc Pháp đánh vào Long Thành cả
từ 3 hướng với ý định nhanh chóng thôn tính địa bàn chiến lược
này.
Cánh quân từ Biên Hòa gồm một tiểu đoàn Âu Phi có xe bọc
thép mở đường rầm rộ theo quốc lộ 15 tiến xuống Long Thành.
Đến Dốc 47, lọt vào trận địa phục kích của bộ đội và dân quân
Phước Tân, Tam Phước. Trận đánh kéo dài tới nửa buổi sáng. Địch
đông, vũ khí mạnh, bắn trả dữ dội rồi tràn qua. Bộ đội cùng dân
quân hai xã phải rút khỏi trận địa, băng qua đồng Long Điền về
Bến Cam (Phước Thiền) chốt lại. Quân Pháp tới An Lợi lại bị chặn
đánh. Lực lượng kháng chiến ở đây có một phân đội giải phóng
quân Long Thành. Anh em vừa nổ súng, vừa dùng lựu đạn đánh
diệt một số địch. Nhưng ta không giữ trận địa được lâu vì thiếu
đạn. Địch tràn vào An Lợi, Tam An đốt phá.
Gần trưa, quân Pháp chiếm được thị trấn Long Thành, đặt
cối 60 li và 81 li bắn dọc theo quốc lộ 15. Sau đó chúng tiếp tục
tấn công để hợp quân với các cánh khác. Một mũi quân giặc theo
lộ 15 đến ấp Bà Ký (xã Long Phước) thì phải cụm lại vì bị chặn
đánh quyết liệt suốt từ Long An xuống.
Mũi giặc thứ hai tiến theo phía Tây quốc lộ 15 xuống tỉnh lộ
17, tới Bến Cam cũng phải quay lui, co cụm lại tại xã Phước Thiền
vì bị chặn đánh, thương vong lớn. Trên đoạn đường từ ngã ba Cầu
Xéo đến Bến Cam, quân Pháp đã tổn thất hàng chục tên. Không
tiến được, chúng đặt súng cối tại chợ Phước Thiền bắn liên tục vào
các xã xung quanh. Buổi trưa và buổi chiều, máy bay phóng pháo
đến ném bom, bắn phá các xã dọc lộ 19. Nhiều đám cháy bùng lên
ở Phước Kiển, Phước Lai, Phước Long.
124

13.5 Page 125

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Cánh quân từ Cát Lái qua chia làm hai mũi. Mũi thứ nhất
theo đường Phước Lý, phối hợp với lực lượng đổ quân ở khu vực
Thành Tuy Hạ tiến đến Long Tân, thì đụng đơn vị bộ đội đóng ở
khu vực này. Bộ đội cùng dân quân 3 xã Long Tân, Phú Thạnh,
Phú Hội chặn đánh giặc cả ngày 25.1. Phụ nữ xã Phú Thạnh suốt
ngày hôm ấy thay phiên nhau chuyển gạo nấu cơm cho bộ đội, dân
quân đánh giặc. Địch chết và bị thương gần một đại đội, nhưng
quân ta cũng hết đạn. Bộ đội phải cắt rừng về Phước An trong
đêm. Sáng hôm sau quân Pháp tiến tới Phú Hội thì co cụm lại.
Mũi thứ hai theo tỉnh lộ 19 tới Xoài Minh bị bộ đội Bình Xuyên
do Dương Văn Dương chỉ huy cùng giải phóng quân Long Thành
chặn đánh. Suốt ngày 25.1, quân Pháp tiến được không đầy 10 cây
số. Đến sáng 26.1, chúng phải rút lui ở một số nơi, nhưng quyết
chiếm bằng được một số khu vực xung yếu quanh căn cứ quân sự
Thành Tuy Hạ.
Chiều ngày 26.1, tiếng súng lắng dần. Hai ngày chiến đấu ác
liệt ở Long Thành trôi qua. Quân Pháp chiếm được nội thị Long
Thành và một số nơi xung yếu quanh Thành Tuy Hạ, chịu tổn thất
lớn, chưa đạt mục đích yêu cầu. Quân ta chiến đấu anh dũng, chặn
địch trên tất cả các mũi, làm chủ được vùng nông thôn, bảo vệ
được các căn cứ, làm thất bại âm mưu chia cắt của địch, có một số
thương vong nhưng đạt được thắng lợi cơ bản về tinh thần kháng
chiến, nghĩa tình quân dân và phối hợp các lực lượng. Địch bị
giáng đòn nặng nề, hơn 100 tên lính Âu Phi bị chết, gần 100 tên
khác bị thương, nhiều khí tài bị phá hủy. Quân ta thiệt hại lớn: 300
đồng bào, cán bộ chiến sĩ hy sinh, gần 400 người khác bị thương,
20 chiếc ghe của liên quân Bình Xuyên bị đánh đắm, ba kho gạo
(mỗi kho 5 tấn) bị cháy. Ở một số xã như Phú Thạnh, Long Tân,
Bình Thạnh, khi quân Pháp đổ bộ vào làng thì một số người dân,
trong đó chủ yếu là người già và trẻ em đã đi tránh nạn, nhưng
125

13.6 Page 126

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
chúng bộc lộ bộ mặt dã man tàn ác của quân cướp nước, bắn giết
bừa bãi đồng bào vô tội còn ở lại, đốt cháy cả trăm căn nhà của
người dân. Chúng bắt bớ một số người tình nghi, trong đó có đồng
chí Nguyễn Văn Liềm bị bắt đưa về giam giữ tại Khám lớn Biên
Hòa 25 ngày, đánh đập tra khảo tàn nhẫn.
Tại Sở chỉ huy bộ đội Bình Xuyên ở Phước An, một cuộc họp
gồm các đồng chí lãnh đạo huyện và các đơn vị bộ đội trong huyện
được tổ chức, dưới sự chủ trì của Tư lệnh Dương Văn Dương. Hội
nghị đã đánh giá cao tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu của
bộ đội, chính quyền và nhân dân trong huyện, đồng thời phổ biến
lệnh của Khu bộ trưởng Nguyễn Bình: chuyển một bộ phận bộ đội
Bình Xuyên về chiến trường Bến Tre.
Chấp hành mệnh lệnh của Khu bộ khu 7, sau ngày 26.1, các
đơn vị bộ đội từ các xã dọc đường 15, 17 và 19 lần lượt rút về
Phước An, tổ chức lại lực lượng, tách riêng một bộ phận trang bị
gọn nhẹ lên đường đi Khu 8, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Dương
Văn Dương. Bộ đội ra đi trong lúc tình hình đang căng thẳng,
nhưng huyện vẫn đảm bảo cung cấp được 20 ghe lớn chở quân, 6
tấn gạo và 20 ngàn đồng Đông Dương cho các đơn vị chiến đấu.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí đóng
quân các nơi chúng mới chiếm được. Tại thị trấn Long Thành,
chúng xây dựng một đồn lớn gọi là chi khu quân sự gồm một đại
đội Âu Phi do tên đại úy Rebone chỉ huy. Chúng đưa Tô Hàm từ
Biên Hòa về làm quận trưởng hành chánh để tổ chức chính quyền
bù nhìn trong huyện. Ở An Lợi, Tam An, Phước Nguyên, Phước
Lý, Phú Thạnh, Phú Hội, Phước Thọ, Phước Long, Bà Ký, Phước
Thiền địch đều đóng bót. Mỗi bót khoảng một trung đội Âu Phi
do một thiếu úy hoặc một trung úy Pháp chỉ huy. Riêng tại Phú
Thạnh, do vị trí hiểm yếu và để bảo vệ kho đạn khu căn cứ Thành
Tuy Hạ, địch đóng bót dày đặc, lại thêm nhiều tua.
126

13.7 Page 127

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sau khi có chỗ đóng quân, từ thượng tuần tháng 2.1946, địch
liên tiếp mở các cuộc hành quân lùng sục ra các vùng xung quanh
cướp phá đồ đạc của dân, lùng bắt cán bộ Việt Minh, bắt lính và
từng bước thành lập bộ máy tề xã nhằm ổn định khu vực chiếm
đóng. Chính quyền kháng chiến non trẻ tại các xã Phước Tân,
Tam An, An Lợi, Phước Nguyên, Phước Lý, Phú Thạnh và thị trấn
Long Thành vừa mới thành lập hầu như tan rã, chỉ còn một vài
đồng chí trung kiên bám trụ. Lực lượng Bình Xuyên phải chuyển
công binh xưởng vào sâu trong khu Rừng Sác. Một số đơn vị nhỏ
vẫn đóng trong khu vực Lòng Chảo. Các cơ quan huyện cũng rút
về các xã dọc lộ 19 từ Phước Lai đến Phước An.
Trong khi lực lượng vũ trang Bình Xuyên của Dương Văn
Dương chuyển xuống Bến Tre thì địch nống ra chiếm đóng Phước
An, Phước Thọ; cuối tháng 4.1946 chúng đóng tua 8 ấp Cầu Sắt.
Quân số địch ở đây không đông, mỗi lần càn bố chúng thực hiện
ba sạch: Đốt sạch, phá sạch, giết sạch.
Phong trào diệt ác trừ gian manh nha ở một số nơi khiến địch
không lập được tề xã; nổi lên ở Long Tân với huyền thoại Nguyễn
Kim Quy (Ba Quy). Ba Quy quê ở ấp Long Hiệu, xã Long Tân;
là người gan dạ, thông minh, “xuất quỉ nhập thần”, một mình một
súng có thể tạo trận đánh táo bạo, bất ngờ, diệt giặc, bắt tề ở nhiều
xã khắp vùng Lòng Chảo. Tháng 4.1946, Ba Quy bắt sống 6 tên tề
ngụy xã Phú Hội, thu 6 súng đưa về chiến khu. Những năm 1948
- 1950, Ba Quy cùng đội tự vệ bắt, giáo dục hàng chục tề, xã ấp,
làm chết và bị thương nhiều lính Pháp; giặc lo sợ treo giải thưởng
lớn cho ai lấy được đầu của ông1.
Quận rút một số cốt cán đội tự vệ chiến đấu các xã thành
lập bộ đội địa phương tập trung. Cấp trên cho biết: các lực lượng
1  Nguyễn Kim Quy bị lính Cao Đài phục kích tại ấp Long Hiệu, hy sinh tháng 7.1952.
127

13.8 Page 128

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
tỉnh tăng cường về huyện Long Thành hoạt động khá đông, sớm
muộn gì địch cũng rút khỏi vùng ta. Giặc hoang mang lo sợ. Sáng
20.6.1946, địch rút bỏ tua 8. Nhân dân trong vùng kéo đến đập
tan tua 8, phá hủy cầu sắt. Theo đó, các tua bót địch ở Phước An,
Phước Thọ, Ông Kèo, Xoài Minh cũng rút chạy. Quân ta làm chủ
một vùng rộng lớn từ rừng Giồng đến Rừng Sác bao la.
3. Củng cố, phát triển lực lượng kháng chiến
Quân Pháp chiếm đóng Long Thành, tăng cường bố phòng
giữ vị trí quan trọng, đóng đồn bót khắp nơi để kiểm soát các tuyến
lộ. Quận ủy chỉ đạo cố gắng duy trì các hoạt động trong vùng tự
do. Lớp Mặt trận Việt Minh ở Phước An vẫn mở mỗi khóa 7 ngày
cho cán bộ các xã và bộ đội. Mặt khác, huyện chủ trương chia nhỏ
một số xã lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên lạc và lãnh
đạo phong trào cơ sở. Theo đó, các xã được chia: Phước Hiệp
chia thành 2 xã Phước Long, Phước Thọ; Phước Kiển thành 2 xã
Phước Kiển, Phước Mỹ; Phú Hữu thành 2 xã Phú Hữu, Phước
Thành; Phú Hội thành 2 xã Phú Mỹ, Mỹ Hội; Long Phước thành
2 xã Tuy Long, Tập Phước; Phước Thiền thành 2 xã Phước Thiền
và Long Đức.
Cùng với việc chia xã, Ủy ban quận cho đào số súng mà
Nguyễn Tam Nguyên chôn giấu, nhanh chóng tập hợp lại lực
lượng giải phóng quân, giao cho Huỳnh Văn Đạo làm trung đội
trưởng, Nguyễn Văn Lung làm trung đội phó, biên chế thành ba
phân đội. Lực lượng Tự vệ cuộc (tiền thân của lực lượng Công an)
được củng cố lại và tổ chức thêm một công binh xưởng của ngành
tại Phước An.
Tiếp đó, ngày 20.2.1946, các đồng chí lãnh đạo quận tổ chức
một cuộc họp tại Phước Long, phân tích tình hình và quyết định
128

13.9 Page 129

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
chia địa bàn Long Thành thành 4 khu1 để thuận tiện trong việc chỉ
đạo, liên lạc. Các khu phân chia như sau:
- Khu I gồm 7 xã dọc lộ 17 từ Phước Thiền tới Phước Lý, do
đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách.
- Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiển tới Phước Thọ,
do đồng chí Huỳnh Văn Đạo và Võ Văn Truyện phụ trách.
- Khu III gồm 4 xã thuộc Rừng Sác: Phước An, Phước Khánh,
Phước Thành, Phú Hữu và hai ấp Xoài Minh, Ông Kèo (thuộc
Phước Lý), do đồng chí Trịnh Minh Kính phụ trách.
- Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 từ Thái Thiện tới
Phước Tân, kể cả các sở cao su do đồng chí Lương Văn Nho phụ
trách.
Cơ quan lãnh đạo các khu được gọi là khu ủy. Các khu ủy có
trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong trào kháng chiến
trên địa bàn (và làm cả nhiệm vụ chính quyền cơ sở). Phương thức
hoạt động của khu ủy được quy định là cơ động, bám địa bàn,
không cần trụ sở. Mỗi tháng các khu trưởng chỉ tập trung một lần
ở Phước An để báo cáo và trao đổi công tác.
Hội nghị Phước Long còn đề ra chủ trương xây dựng và
củng cố lực lượng tự vệ chiến đấu các xã. Giải phóng quân Long
Thành được phân về mỗi khu một phân đội, phối hợp với Tự vệ
cuộc bảo vệ khu ủy, hỗ trợ xã xây dựng lực lượng để đánh địch.
Việc thành lập các khu và giao quyền lãnh đạo toàn diện cho
khu ủy là một chủ trương xử lý tình thế phù hợp, đã tạo nên một
bước chuyển quan trọng cho phong trào kháng chiến trong toàn
quận. Các lực lượng phân tán hợp lý tránh được tổn thất. Thông
1  “ Khu ủy” là tên cơ quan lãnh đạo từng khu vực do huyện tự phân chia trong năm
1946
129

13.10 Page 130

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
qua các khu ủy, quận ủy đã luôn bám sát tình hình địa phương,
trực tiếp lãnh đạo từng xã và chủ động phát huy được thế mạnh
từng vùng.
Sự có mặt thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo huyện và
lực lượng giải phóng quân trên mọi địa bàn đã có tác dụng động
viên và hỗ trợ rất lớn cho phong trào quần chúng ở các xã. Chỉ
trong một thời gian ngắn cuối tháng 2, đầu tháng 3.1946, chính
quyền các xã bị tan rã trước đây lại được củng cố.
Đến tháng 11.1946, đội tự vệ chiến đấu các xã được bổ sung
lực lượng, đổi thành đội dân quân du kích xã. Trong mấy tháng
địch tạm chiếm, cán bộ, chiến sĩ tự vệ và nhân dân bước đầu được
trui rèn thử thách trong máu lửa.
Như ở xã Phú Thạnh, đồng chí Nguyễn Hữu Chí, Phó ban
Quân báo huyện Long Thành được sự phân công, chỉ đạo của
Huyện ủy đã về xã củng cố lại Ủy ban hành chánh kháng chiến. Ủy
ban hành chánh kháng chiến xã Phú Thạnh ra đời trong bối cảnh xã
bị chiếm đóng, kềm kẹp. Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến
xã vẫn là ông Nguyễn Văn Tư, đồng chí Nguyễn Văn Cậy là Ủy
viên phụ trách quân sự, lấy bí danh là Lê Thành Long, Ủy viên phụ
trách chính trị là Đặng Văn Nữ. Chủ tịch Mặt trận Việt Minh xã là
ông Ao Văn Viên1. Phụ trách kinh tài xã là ông Lê Văn Triện2. Với
nhiệm vụ trên, đồng chí Nguyễn Văn Cậy được đồng chí Lương
Văn Nho, Ủy viên quân sự huyện Long Thành giới thiệu về tỉnh
Biên Hòa tham dự lớp đào tạo bán quân sự. Từ khóa học trở về,
với cơ sở của đội Dân quân tự vệ trước đây, đồng chí Nguyễn Văn
Cậy thành lập Đội du kích xã Phú Thạnh và giữ nhiệm vụ Chính trị
viên xã đội. Tiểu đội trưởng du kích là ông Trương Văn Bội. Đội
1  Bị Pháp bắt và hy sinh trong trại tù Phú Lâm năm 1949
2  Hy sinh ngày 18.5.1948 tại tắc Tài Bảy, Cù lao Ông Cồn (xã Đại Phước).
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
du kích xã Phú Thạnh nhiều lần phối hợp, đưa lực lượng bộ đội
chính quy tấn công các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn xã Phú
Thạnh, thu nhiều đạn dược, súng ống và lương thực.
Sau 16 tháng quật khởi, quân dân Long Thành củng cả tỉnh,
cả Nam Bộ đương đầu với âm mưu của thực dân Pháp, ngăn cản
bước chân tái xâm lược, xây dựng cơ sở Đảng, thống nhất các lực
lượng vũ trang, mở rộng mặt trận Việt Minh, phát động phong
trào quần chúng, tổ chức các hoạt động kháng chiến, chiến đấu
anh dũng gây tổn thất lớn cho quân thù, hoàn thành các nhiệm vụ
Xứ ủy, Tỉnh ủy giao, thực hiện tốt công tác bầu cử Quốc hội. Đến
thời điểm tháng 12.1946, căn bản các nhiệm vụ đều hoàn thành,
tạo thế và lực cùng cả nước bước vào giai đoạn toàn dân kháng
chiến theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
II. CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN
DIỆN
Sau khi những nỗ lực đàm phán với thực dân Pháp để cứu
vãn hòa bình không thành, sáng ngày 20.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho truyền thanh “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nội
dung đã chuẩn bị từ đêm trước. Lời kêu gọi như tiếng kèn xung
trận là nức lòng quân dân cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa. Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc.
Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
131

14.2 Page 132

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Tiếng kèn xung trận ấy thôi thúc quân dân Long Thành vốn
đã đi được một chặng đường dài chống thực dân Pháp nay hòa
nhịp cùng cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện. Nhiệm vụ của
Đảng bộ Long Thành lúc này là tiếp tục lãnh đạo toàn đảng bộ,
chính quyền, mặt trận, lực lượng vũ trang củng cố tổ chức, huy
động các nguồn lực xây dựng đời sống kháng chiến, căn cứ kháng
chiến, nâng cao thực lực chiến đấu, đánh bại âm mưu của địch,
bảo vệ quê hương, chia lửa với chiến trường cả nước.
1.  Xây dựng chiến khu Phước An, căn cứ Bà Bông
Thực hiện nhiệm vụ được Tỉnh ủy giao, Quận ủy chủ trương
xây dựng địa bàn, bố trí lại lực lượng cho phù hợp tình hình mới.
Theo hệ thống chỉ huy lực lượng vũ trang, Long Thành tổ chức 4
liên thôn mang số 11, 12, 13, 14. Liên thôn 13 gồm các xã Bình
Thạnh, Phước Lý, Phú Hữu, Phước Thành, Phước Khánh. Ông Lê
Xuân Lịch chỉ huy đội du kích liên thôn, ông Châu Thành Phát
là Chỉ huy phó. Mỗi liên thôn tổ chức một trung đội du kích hoạt
động ở các xã, làm chỗ dựa cho chính quyền và các đoàn thể.
Phước An được xem là địa bàn có ý nghĩa chiến lược. Từ
tháng 12.1946, Phước An đã là nơi đứng chân của các cơ quan
quận Long Thành và nhiều đơn vị thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn, Nhà
Bè, Thủ Đức. Tại đây, Chi đội 10 Biên Hòa thành lập tháng 6.1946,
chính thức trở thành Đại đội C thuộc Vệ quốc đoàn Long Thành
do Lương Văn Nho chỉ huy. Phước An là vùng đất ở phía nam của
huyện Nhơn Trạch, nằm dọc theo tỉnh lộ 19 trên chiều dài 13km,
diện tích tự nhiên 10.997 hecta, địa hình phức tạp trở thành căn
cứ kháng chiến của huyện và nhiều đơn vị của tỉnh, khu. Do tính
chất chiến lược của vùng đất này, ngay từ đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp ở Nam Bộ, lực lượng Bình Xuyên đã chọn Phước An
132

14.3 Page 133

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
làm căn cứ đóng quân của liên quân Hoàng Thọ, chi đội 7, chi đội
6, bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn.
Phước An có địa thế, vị trí tự nhiên rất thuận lợi. Phía Bắc
là một vùng rừng Giồng bạt ngàn, rậm rạp rộng lớn nối liền với
dải rừng Lòng Chảo1 hàng chục ngàn héc ta. Trong rừng Giồng
có hàng trăm đường mòn, đường đất, từ đó có thể bí mật vượt
qua các trục lộ 19, 17, 15 để về Hắc Dịch, về Chiến khu Đ, hay
Bà Rịa, Xuân Lộc. Phía Nam Phước An là Rừng Sác bao la, với
những rạch, tắc chằng chịt có thể dễ dàng liên hệ với Nhà Bè, Sài
Gòn, Gò Công, Bến Tre hay ngược lên Vũng Tàu. Rừng Sác Long
Thành nối liền Rừng Sác Duyên Hải - Cần Giờ thành một dải
liên tục, dung trú các bộ đội Bình Xuyên của Dương Văn Dương,
Dương Văn Hà, Mai Văn Vĩnh lừng lẫy một thời, ngoài ra còn cơ
quan quân giới Nam Bộ, quân y, quân nhu và nhiều lực lượng vũ
trang khác. Các cơ quan xã Phước Đức cũng đóng ở đây.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa về xây dựng căn
cứ kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh, tháng 1.1947, Ủy
ban hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể
quận Long Thành đã về đứng chân xây dựng căn cứ ở Phước An.
Trụ sở của các cơ quan là những căn nhà lá dừa nước gọn gàng trải
dài từ rẫy thơm đầu sân banh ấp Bàu Bông đến xóm Ngọn, trên
phía rừng Giồng, cách lộ 19 từ 30 mét đến 50 mét. Các cơ quan chỉ
huy và các đơn vị của liên chi Bình Xuyên kể cả quân y viện và
công binh xưởng, cũng chuyển về đóng quân ở nam lộ 19, trong
Rừng Sác Phước An, Ba Doi2 (Phước Đức). Sau đó, khoa Quân
giới Nam Bộ được Bộ Tư lệnh Nam Bộ điều từ miền Tây về lập
các phân xưởng sản xuất vũ khí ở Đồng Ông Trúc. Căn cứ của các
1  C ó người giải thích: Tên gọi là Lồng Chảo vì địa hình giống như cái chảo úp hình chiếc
lồng, quen gọi là Lòng Chảo
2  Có tài liệu ghi là Ba Gioi
133

14.4 Page 134

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
đơn vị đều được xây dựng qui mô, có bến ghe, vọng gác, phòng
tuyến chống địch, bãi tập để huấn luyện quân sự.
Ủy ban kháng chiến huyện Long Thành đóng ở rừng Giồng,
ấp Bà Trường, xã Phước An. Chủ tịch là Trần Bình Khê, Phó Chủ
tịch là Trần Khánh Dư, chánh văn phòng Phạm Đình Dũng, nhân
viên đánh máy là Nguyễn Thị Tuyết.
Đời sống ở chiến khu Phước An rất đông vui, hàng trăm
ngôi nhà mới theo cùng một kiểu: một mái hai chái mọc lên khắp
khu vực Bà Trường, Bàu Bông, Vũng Gấm. Giữa những vườn cây
trái xanh tươi, hai bên đường 19 nhà cửa san sát, ban đêm đèn
măngxông thắp sáng rực. Bộ đội, cán bộ, đồng bào nam nữ thanh
niên đi lại nhộn nhịp. Bộ đội và dân quân gỡ một khung nhà bằng
sắt ở sở Bàu Lòng, đem về Phước An lắp làm chợ, bà con thường
gọi là chợ sắt Phước An, nằm trên phía rừng Giồng ấp Chợ, cách
đường 19 chừng 50 mét, dưới những lùm cây râm mát. Chợ có
đủ thứ hàng quán, nhân dân buôn bán tấp nập cả ngày lẫn đêm,
có cả “Quán cơm bình dân” do bộ phận Kinh tài huyện tổ chức
bán giá rẻ phục vụ cán bộ và nhân dân qua lại công tác. Các cửa
hiệu may đồ, chụp hình, đóng giày dép, cặp, xắc cốt, vải vóc các
loại và thuốc tây đều có. Cá, tôm, cua, mắm từ các ấp Rừng Sác,
Cần Đước, Cần Giuộc, Nhà Bè theo ghe tới. Hoa quả, trái cây
mùa nào thứ đó được nhân dân từ Long Tân, Phú Hội, Phú Thạnh,
Phước Thiền đưa về Phước An, góp phần cung cấp lương thực,
thực phẩm cho kháng chiến.
Thời điểm này, nhân dân các xã ở Long Thành - Nhơn Trạch
sử dụng hai loại tiền khác nhau. Ở những xã thuộc khu vực căn
cứ kháng chiến, như Bàu Bông, Vũng Gấm, Phước An, người dân
sử dụng “tiền Cụ Hồ”, tức tiền do Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa phát hành, trên một mặt tờ tiền có in hình Chủ tịch Hồ
134

14.5 Page 135

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Chí Minh nên thường gọi là “tiền Cụ Hồ”. Người dân vùng kháng
chiến thường nói với nhau: “Chỉ cần nhìn thấy râu Cụ Hồ là tiền
còn xài được”. Những xã thuộc vùng địch chiếm đóng thì sử dụng
“tiền Đông Dương” do Pháp lưu hành. Điều thú vị là hai loại tiền
tệ này lưu hành song song, có giá trị như nhau và có thể qui đổi
lẫn nhau được.
Thuyền bè Sài Gòn, Chợ Lớn, Phú Xuân, Phước Khánh, Phú
Hữu... tấp nập tới lui. Lúa gạo, các nhu yếu phẩm, thuốc men từ
đô thành buôn ra, chở tới đây rồi chuyển cho các lực lượng cách
mạng Rừng Sác. Xã Phước Khánh có lúc hình thành “chợ Sài Gòn
mới” ở vùng Rạch Bàng - Chà Là. Gần một trăm cơ quan lớn nhỏ
các huyện, các xã của Long Thành, Thủ Đức, nhiều đơn vị bộ đội
(như bộ đội Hoàng Thọ bộ đội quân khu 7) đóng ở rừng Giồng
ven hai trục lộ 17 và 19 quanh Lòng Chảo từ Phước Thiền, Long
Tân, Phú Hội đến Phước Kiển, dài tới Phước Thọ, Phước An, Bình
Thạnh.
Trong khu kháng chiến, cán bộ kháng chiến đi lại như con
thoi, họp hành không kể sáng hay đêm. Các đoàn thể cứu quốc tổ
chức sinh hoạt học tập trong đoàn thể mình, nâng dần hiểu biết
chủ trương chính sách cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở đó
biến giác ngộ cách mạng thành phong trào hành động thiết thực
tham gia kháng chiến.
Trường Tiểu học kiêm bị 1 Phước An do Phòng Giáo dục
huyện Long Thành lập ở rừng Giồng giữa hai ấp Bà Trường và ấp
Chợ. Dãy nhà tranh lá đơn sơ có bốn gian dài, năm, sáu chục học
trò, mỗi lớp học một gian. Cô Lương Thị Tâm dạy lớp nhất, các
lớp còn lại do các thầy: Võ Hồng Thái, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn
1  Có đủ từ lớp năm (nay là lớp một) đến lớp nhất (lớp năm bây giờ). Còn trường có ba
lớp thì gọi là trường sơ học
135

14.6 Page 136

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Thành Trì, Nguyễn Háo Văn, Phạm Văn Hinh phụ trách. Trường
thiếu sinh quân mở ở phía Tây cầu Vũng Gấm.
Việc in ấn với kỹ thuật thô sơ nhưng nhiều công văn, tài liệu
được phát hành phục vụ kháng chiến kịp thời và thông suốt. Có
cán bộ tuyên huấn còn nhớ rành rọt kỹ thuật in: Rau câu (rong
biển) thành sương sa rồi đổ khuôn, dùng mực pô-li-cốp-pi viết vào
giấy trắng trải ngược tờ giấy lên khối sương sa ít phút cho mực
ngấm xuống rồi bắt đầu in; chỉ độ hai mươi lăm tờ thì mực đã lạt
màu, chữ mờ khó đọc; muốn in tiếp thì viết tờ khác.
Đề phòng giặc càn tới, các cơ quan của quận đều phải bố
trí trận địa, đào giao thông hào, tổ chức canh gác cẩn mật. Mọi
người đều được phân công tác, tham gia đào giao thông hào, rào
cơ quan; thay phiên canh gác; ít bữa lại đi tải gạo từ chợ Phước An
về hoặc đi tải cá ở bến Mương Điều. Đời sống kháng chiến tuy cực
mà vui, có người nói: Tham gia cách mạng như đi trẩy hội!.
Cuối năm 1947, phong trào cắm cọc chống Tây nhảy dù và
ngăn tàu giặc trên sông phát triển sâu rộng. Hàng ngàn lượt nam
nữ thanh niên, cán bộ chiến sĩ, dân quân du kích và nhân dân
huyện Long Thành thi đua cắm cọc khắp các cánh đồng: đồng
Lớn, đồng xóm Ngọn, đồng Gò Cát... Có người sáng tác thơ1:
... Hàng trăm chiến sĩ đồng bào
Thi đua cắm cọc ngăn tàu trên sông
Rừng cây vót nhọn thành chông
Lính chông đồng Lớn đứng trông quân thù
Một hôm giặc Pháp nhảy dù
Chông cùng du kích diệt thù trăm tên...
1  Trích thơ của đồng chí Nguyễn Văn Thông
136

14.7 Page 137

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa về xây dựng căn
cứ kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh, tháng 1.1947, Ủy
ban hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể
quận Long Thành đã về đứng chân xây dựng căn cứ ở Phước An.
Trụ sở của các cơ quan là những căn nhà lá dừa nước gọn gàng trải
dài từ rẫy thơm đầu sân banh ấp Bàu Bông đến xóm Ngọn, trên
phía rừng Giồng, cách lộ 19 từ 30 mét đến 50 mét. Các cơ quan chỉ
huy và các đơn vị của liên chi Bình Xuyên kể cả quân y viện và
công binh xưởng, cũng chuyển về đóng quân ở nam lộ 19, trong
Rừng Sác Phước An, Ba Doi (Phước Đức). Sau đó, khoa Quân
giới Nam Bộ được Bộ Tư lệnh Nam Bộ điều từ miền Tây về lập
các phân xưởng sản xuất vũ khí ở Đồng Ông Trúc. Căn cứ của các
đơn vị đều được xây dựng qui mô, có bến ghe, vọng gác, phòng
tuyến chống địch, bãi tập để huấn luyện quân sự.
2. Củng cố lực lượng, phát triển phong trào chiến tranh
du kích
Đầu năm 1947, dù đã tăng cường quân sự nhưng địch vẫn
chưa thể chiếm đóng hoàn toàn được quận Long Thành, phạm vi
quản lý của chính quyền và các ban hội tề do Pháp dựng lên chưa
rộng, kể cả tại một số vùng địch tạm chiếm. Đến giữa năm 1947,
địch tiến hành gom dân về quanh các đồn bót và trục lộ giao thông
quốc lộ 15, tỉnh lộ 17, tiến hành càn quét liên tục. Chính quyền
kháng chiến vận động nhân dân chống lại, đòi trở về đất cũ sản
xuất. Tuy nhiên, với sự kiểm soát, lùng sục gắt gao của địch, tuyến
đường liên lạc giữa Long Thành với tỉnh Biên Hòa bị cắt đứt,
liên lạc giữa xã với huyện, xã với xã rất khó khăn. Nguyễn Tam
Nguyên, trung đội trưởng giải phóng quân Long Thành và một
số người dao động trong đơn vị chôn súng, trốn đi nơi khác sinh
sống. Nguyễn Văn Chỏi, Chủ nhiệm Việt Minh bỏ chạy. Những
137

14.8 Page 138

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
phần tử là con cháu hội tề, phú nông và một số cán bộ trong Ủy
ban hành chánh các xã, ấp mất tinh thần cũng bỏ việc, lánh đi nơi
khác. Năm 1947, lực lượng du kích liên thôn 12 qua công tác binh
vận đã đánh úp đồn Phú Hội, bắt sống toàn bộ trung đội địch thu
27 súng các loại, nhiều đạn và lựu đạn.
Trận cầu Lò Rèn1 nổi tiếng trong toàn tỉnh diễn ra vào năm
1946, do bộ đội Mai Văn Vĩnh thuộc lực lượng Bình Xuyên (Chi
đội 3, Chi đội 4) phối hợp với tự vệ địa phương thực hiện. Ngày
9.3.1946, buổi sáng sớm, trận địa diễn ra tại khu vực cầu Lò Rèn
(ấp 2, Phước Long), bộ đội Bình Xuyên Mai Văn Vĩnh phục kích
xe quân Pháp, giặc Pháp bỏ chạy để lại 2 xác lính Việt và một xe
GMC. Buổi chiều cùng ngày, tiếp tục phục kích tại miểu Mặt Trăng,
4 lính Pháp chết tại trận, 1 tên bỏ chạy xuống bến Ông Hội cũng
bị bắt và bị diệt. Đó là thắng lợi đầu tiên của kháng chiến chống
Pháp tái chiếm ở Phước Long khơi động tinh thần không sợ giặc
Pháp, có thể đánh thắng quân Pháp. Để trả hận, ngày 13.3.1946,
địch huy động số quân gấp nhiều lần 4 hôm trước, có pháo binh
dẫn đường, quyết càn diệt vào khu vực bị phục kích. Trước khi
bộ binh dọn đường, chúng thả bom vào chợ Phước Long làm chết
8 người, bị thương 3 người; bắn pháo vào làng làm chết 5 người,
bị thương một người; chúng bắt và giết hại 3 người. Chúng tiến
quân, ta chặn đánh, hai ngày liền không truy diệt được bộ đội,
chúng ôm thất bại kéo xe GMC về.
Thực hiện chủ trương cổ điển “dùng người Việt đánh người
Việt”, thực dân Pháp dùng bọn Cao Đài phản động đóng bót ở Cát
Lái, Câu Kê, Phú Thạnh, Long Tân. Tàu địch tăng cường kiểm
soát sông Lòng Tàu nhằm chia cắt các căn cứ kháng chiến, phá
thế liên hoàn với chiến khu Rừng Sác và cao nhất là đẩy mọi lực
1  Theo lời kể của nhân chứng Phan Thị Chi, sinh năm 1926, xã Long Thọ
138

14.9 Page 139

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lượng kháng chiến ra khỏi địa bàn huyện Long Thành để tăng
cường bảo vệ đầu não Sài Gòn. Các lực lượng thủy quân Pháp,
đặc cảnh miền Đông P.S.E. kết hợp máy bay và lính các đồn bót
Nhà Bè, Phú Xuân càn bố sâu vào các sông rạch Rừng Sác.
Địch tập trung đẩy mạnh hoạt động tình báo, cài cắm gián
điệp vào lực lượng kháng chiến đóng trên địa bàn Long Thành.
Chúng nắm được lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn và Tư
Huỳnh. Tên Nguyễn Quang Minh chui sâu, leo lên tới chức phó
Bí thư Huyện ủy, tên Sáu Sang (Lại Văn Sang) leo lên chức ủy
viên thường vụ Huyện ủy - trưởng công an huyện Long Thành. Hệ
thống gián điệp này có mưu đồ lật đổ và tiêu diệt lực lượng cách
mạng chiến khu Phước An. Năm 1949, Tỉnh ủy Biên Hòa phát
hiện được, kịp thời chỉ đạo đập tan âm mưu nham hiểm kể trên.
Ta tổ chức quét sạch bọn phản động cài cắm vào hàng ngũ cách
mạng, bắt và xử tử hình tên Tư Huỳnh tại đồng xóm Ngọn, xã
Phước An có hàng ngàn đồng bào tham dự. Một số tên khác cũng
bị xử lý thích đáng.
Ở rừng Giồng, Lòng Chảo, bọn gián điệp mặc quần áo như
bộ da cọp rằn ri hoạt động ban đêm hòng ngăn cán bộ, bộ đội,
nhân dân đi lại, hội họp, công tác. Chuyện cọp ba móng ở Chiến
khu Đ kết hợp với sự xuất hiện bọn giả cọp um có tác động ít
nhiều vào tâm lý sợ hãi của quân dân kháng chiến.
Năm 1949, bọn Bảy Viễn cầm đầu số Bình Xuyên phản động
đầu hàng thực dân Pháp. Vì sống và quen thuộc địa bàn Rừng Sác,
bọn này đánh phá ta rất ác liệt. Thực dân Pháp đưa tên ba Xuy-
a-cô (Suacot) khét tiếng ác ôn về làm chỉ huy trưởng khu Long
Thành cho đến Hắc Dịch, Châu Pha. Chỉ huy lực lượng Cao Đài
phản động là trung tá Lê Thành Kham đóng ở Phú Thạnh, vệ úy
Tư đóng đồn Câu Kê, đội Sâm chỉ huy một đội com-măng-đô ở
139

14.10 Page 140

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
bót Giồng Ông Đông, tên ký Hải - thông ngôn cho tên quan La-
oọc ở kho đạn Thành Tuy Hạ.
Trong lúc những người dân theo đạo Cao Đài chân chính vẫn
sống hòa hợp với mọi người, thì dưới sự chỉ đạo của Pháp, nhóm
đầu đạo và ban trị sự Cao Đài phản động ra sức lôi kéo người dân
theo đạo. Chúng dựng chuyện: “Ai theo Cao Đài thì không bị
Pháp đốt nhà, thanh niên Cao Đài không phải đi lính” rồi tổ chức
phát thẻ xanh của Cao Đài cho từng gia đình, từng người có đạo.
Cấu kết với thủ đoạn đó, quân Pháp khi càn quét vào các xã tập
trung đốt phá, cướp bóc những nhà không có đạo, còn nhà có thẻ
xanh chúng không đụng đến. Bị rúng ép, nhiều người phải chấp
nhận theo đạo để được yên thân. Đồng bào Long Thành gọi đạo
Cao Đài khi đó là “đạo lôi”, nghĩa là “lôi người ta vào đạo”.
Cùng với việc ép dân vào đạo bằng mọi thủ đoạn, giặc Pháp
ra sức củng cố phát triển lực lượng vũ trang Cao Đài. Đồn Cao Đài
mọc lên ở nhiều xã. Lính Cao Đài hoạt động mạnh và ngang ngược
hơn cả Pạt-ti-san (lính do quân đội Pháp thành lập). Khi càn quét,
chúng mang theo thuổn sắt xăm tìm đồ đạc đồng bào chôn giấu,
đem theo vợ con mang gùi, mang gánh, gặp gì cướp nấy, nhất là
xúc lúa, dỡ nhà. Khoảng hơn 2 ngàn tín đồ Cao Đài từ Mỹ Hội,
Long Tân, Phú Hữu tập trung về thành một khu ở dài theo tỉnh lộ
17 gần 1 cây số, sát khu vực kho bom Thành Tuy Hạ. Khu Cao Đài
có hàng rào, bót canh do lực lượng vũ trang Cao Đài quản lý đóng
thành hai đồn, đồn lớn ở Nỗng Bến Đá do tên Lê Thành Kham1 chỉ
huy có tới một đại đội. Dân trong xã, ai qua đường trước mặt đồn
đều phải lột nón, nếu không sẽ bị phạt, bị đánh.
Tháng 5.1947, trên phạm vi toàn huyện, đạo Cao Đài tiến
hành một cuộc vận động rộng rãi kêu gọi tín đồ ra vùng tạm chiếm
1  Có tài liệu ghi là Nguyễn Thành Kham
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
để “Chính phủ Pháp bảo vệ đạo tránh hiểm họa Việt Minh”. Thực
ra, đó là âm mưu của giặc Pháp tăng cường lực lượng để đánh phá
quân dân kháng chiến. Ta có chủ trương vận động đồng bào chung
sống với Cao Đài để ủng hộ kháng chiến, đồng thời bắt giữ trừng
trị những tên đầu sỏ gây tội ác. Do nhận thức chưa đầy đủ, du kích,
công an ở một số xã đã bắt và giết một số tín đồ thường trong đạo,
gây nên tình trạng căng thẳng trong các vùng tự do. Có trường hợp
hơn 30 nông dân Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai bị hại tại
Bàu Năng (Long Phước) ngày mồng 6.6 Âm lịch năm 19471. Có
cả người không theo Cao Đài cũng bị vạ lây như trường hợp của
ông Trọng, ông Ba Lùng ở Phước Long. Lợi dụng tình hình đó,
địch ra sức tuyên truyền “Việt Minh tảo thanh Cao Đài”, gây thù
oán giữa người có đạo và kháng chiến, mãi đến khi 12 phái trong
Cao Đài hợp nhất do ông Cao Triều Phát đại diện mới bớt căng
thẳng giữa giáo dân Cao Đài với kháng chiến. Được sự chỉ đạo
của tỉnh, huyện kịp thời chấn chỉnh sai lầm. Trong việc xây dựng
cơ sở, cán bộ Việt Minh đến gia đình có người bị hại kiên trì vận
động, xin lỗi; các gia đình mới nguôi dần, ổn định tinh thần.
Công tác diệt tề trừ gian được đẩy mạnh trong toàn huyện
dưới nhiều hình thức, mạnh nhất là ở các xã ấp tạm chiếm ven
vùng tự do. Các ban hội tề thường nhận được thư của Mặt trận
Việt Minh kêu gọi nghỉ việc, giải tán hoặc tản cư ra vùng tự do.
Thư đưa tới nhà từng hội tề. Người lừng chừng được giáo dục.
Những tên ngoan cố đều bị trừng trị. Tại xã Phú Thạnh, ngay trên
dốc Bình Phú, sát kho đạn Thành Tuy Hạ, tên chỉ điểm Thông bị
các chiến sĩ quân báo bắn hạ. Đội du kích xã đề xuất chủ trương
vận động, thuyết phục những người trong Ban hội tề không tham
gia tiếp tay cho Pháp, đồng thời “dằn mặt” những tên ác ôn trên
địa bàn, và được Huyện ủy đồng ý. Các chiến sĩ du kích đến từng
1  Thông báo số 45/BTC-TU Ngày 11.3.1991 kết luận làm rõ trường hợp tử nạn này
141

15.2 Page 142

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
nhà những người trong ban hội tề, đưa thư vận động của Việt
minh. Kết quả, nhiều ban hội tề của xã tự rã, Ban hội tề xã Phú
Thạnh đã tự nguyện đưa cả gia đình vào vùng kháng chiến.
Trong hai năm 1947 và 1948, Đội du kích xã Phú Thạnh lập
được một số chiến công, như: phục kích tiêu diệt lính pac-ti-san,
thu vũ khí; đột nhập đồn điền cao su Thành Tuy Hạ, đốt cháy dãy
nhà phơi mủ cao su, thu được máy đánh chữ, máy bơm nước phục
vụ kháng chiến; phối hợp với bộ đội địa phương phục kích bắn
chết tên Pháp chủ đồn điền cao su Thành Tuy Hạ, thu vũ khí và xe
Jeep... Du kích xã cũng phối hợp với bộ đội tiêu diệt hơn 20 lính
Cao Đài, thu gần 10 súng.
Từ năm 1948, phong trào tạm cấp ruộng đất và thực hiện
giảm tô diễn ra đều khắp các xã, nhưng tập trung ở Phú Hữu, Phú
Thạnh, Long Tân, Tam An, Phước Nguyên, Long Phước và Phước
An. Điển hình là ở cù lao Ông Cồn, chính quyền kháng chiến tịch
thu hơn 300 ha ruộng màu mỡ của chủ điền Trịnh Thị Dung chia
cho hơn 300 hộ tá điền không ruộng hoặc bần nông ít ruộng. Bà
con vui mừng đẩy mạnh sản xuất, đóng góp hàng năm vài chục
ngàn giạ lúa ủng hộ kháng chiến. Chính việc tạm cấp ruộng đất
cho nông dân nghèo này - tuy không nhiều - song có ý nghĩa sâu
xa suốt hai thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dài ba
thập niên.
Do công tác tuyên truyền tốt, hàng trăm thanh niên nam nữ
các địa phương hăng hái đi thoát ly vào các cơ quan, tham gia du
kích xã và xung phong tòng quân. Dưới sự chỉ huy của Huyện ủy,
đông đảo nhân dân chặt phá cao su các sở đồn điền, gây nhiều
thiệt hại cho bọn chủ thực dân. Để chặn xe tăng, thiết giáp và cam
nhông (xe tải quân sự) nhà binh, bà con phá cầu, lộ 15 nhất là đoạn
từ Long An, Long Phước xuống tới Phước Thái, Thái Thiện, Cầu
142

15.3 Page 143

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Hưu, cầu Sông Cả bị phá sập; nhiều đoạn đường tráng nhựa phẳng
lì trở thành hố sâu chặn xe địch lưu thông. Nhiều đoạn lộ 17, 19 bị
phá banh bằng mặt ruộng; ở Phú Hữu, cầu Cháy, ta còn vận động
bà con ngăn sông Cây Tràm cản tàu địch càn quét.
Long Thành là địa bàn chiến lược quan trọng. Phía Bắc giáp
căn cứ du kích Bình Đa, hiện nằm trên đường dây giao liên từ
chiến khu Đ xuống Bà Rịa; phía Nam giáp Cần Giờ - Duyên Hải;
phía Đông giáp với căn cứ kháng chiến Hắc Dịch - Châu Pha của
Bà Rịa; phía Tây giáp Sài Gòn - Chợ Lớn, hang ở đầu não của
thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Ở Long Thành, rừng Giồng và
Rừng Sác tạo nên căn cứ chiến khu dung trú các lực lượng cách
mạng.
Dọc theo lộ 17, mặc dù giặc Pháp đóng hai bót ở Phước
Thiền, hai bót ở Mỹ Hội, nhưng Bến Cam, Bến Sắn, Phú Mỹ,
Xóm Hố vẫn được coi là vùng tự do. Bộ đội, công an xung phong
qua lại đóng quân thường xuyên. Ở Long Tân, sát nách kho đạn
Thành Tuy Hạ nhưng địch càn vô là bị đánh. Hầu như suốt hai
năm 1948, 1949, quân Pháp không dám vào xóm Long Hiệu, Vĩnh
Tuy, chỉ dùng cối 81 ly từ Mỹ Hội bắn sang quấy rối cuộc sống tự
do ở đây.
Năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc (cuối năm 1947), chiến
lược “Đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp bị thất bại.
Chúng chuyển hướng quay về thực hiện bình định Nam Bộ với
chủ trương “dùng người Việt giết người Việt”, tăng cường xây
dựng đồn bót, tháp canh và các hoạt động tâm lý chiến, tình báo,
gián điệp. Chúng cũng tiến hành ruồng bố, lùng bắt cán bộ kháng
chiến đưa về giam cầm, tra khảo; ở Phú Hữu bắt đồng chí Dương
Văn Chất cùng một số cán bộ khác đưa về Thành Tuy Hạ thủ tiêu
mất xác.
143

15.4 Page 144

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Đây cũng là năm khởi đầu cho thời kỳ phát triển mạnh của
phong trào du kích chiến tranh của huyện Long Thành, chiến khu
Phước An được củng cố và phát triển toàn diện. Mờ sáng ngày
12.1.1948, hơn 300 lính Pháp, Cao Đài với hơn 20 ghe xuồng do
tên ác ôn thường gọi là sếp Ốm chỉ huy, đi hướng sông Đồng Nai
tiến vào đồng Long Điền. Được hệ thống liên lạc báo tin, đồng bào
An Định, Long Điền nhanh chóng thu xếp cất giấu thóc lúa, đồ
đạc phòng giặc cướp phá. Lực lượng ta ngoài trung đội 2 du kích
tập trung huyện và du kích Long Điền còn có thêm trung đội 8 do
đồng chí Đạm chỉ huy từ Long Tân về phối hợp.
10 giờ sáng, 21 chiếc ghe chở đầy lính và đồ đạc cướp được
của đồng bào chậm chạp quẹo vào rạch Ngã Bắc để về Tam An.
18 chiếc đi đầu lọt vào đội hình phục kích của ta, 3 chiếc sau chưa
qua khúc quẹo nhưng đã vào tầm bắn của trung đội 2. Cả trận địa
nổ súng. Từ những lùm chuối nước rậm rạp ven bờ, lựu đạn quăng
xuống liên tiếp, lọt vào ghe địch nổ tung. Trung liên, tiểu liên,
súng trường nhằm vào bọn lính đang cuống cuồng giữa sông nhả
đạn. Hàng chục tên chết ngay trên ghe. Những tên sống sót nhào
xuống sông định tìm đường tẩu thoát cũng bị những loạt đạn bắn
tỉa rất chính xác lần lượt nhận chìm. Cả 18 ghe đi đầu đều bị đánh
đắm. Hơn 50 tên giặc đền tội tại chỗ. Sếp Ốm, tên trưởng đồn Tam
An khét tiếng hung ác, chết gục cạnh một gốc cây bần bên kia
sông. Tên Mới, con xã Chồn ở Tam An, một tên Cao Đài ác ôn,
trước khi đi càn còn hùng hổ tuyên bố “chuyến này ra Long Điền
tao phải lấy mấy cái đầu Việt Minh về chơi”, cũng cùng chung số
phận.
Đêm ấy du kích Long Điền, Tam An ra mò khúc sông xảy ra
trận đánh thu được 25 súng, trong đó có 2 trung liên. Trận ngã ba
Long Điền là trận thắng lớn nhất trên đường sông kể từ đầu cuộc
144

15.5 Page 145

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
kháng chiến chống Pháp ở Long Thành, đã gây được tiếng vang
rộng lớn trong huyện.
Từ đầu năm 1948, dọc theo lộ 17, lộ 19, tuy đồn bót giặc
vẫn còn, nhưng các hoạt động của cán bộ, các lực lượng vũ trang
không gặp nhiều khó khăn, thế làm chủ của nhân dân vẫn giữ
được. Các tổ chức chính quyền, đoàn thể, mặt trận được củng cố,
hoạt động tốt. Phong trào mạnh dần, giặc bớt hung hăng, chúng rút
bỏ bót Phước Thọ, bót chùa Bà Ký, chỉ còn đóng lại ở bót Phước
Long. Vùng giải phóng được mở rộng dần, liền lạc từ ấp Bà Ký
đến Phước Thái, từ ấp 1 Phước Long đến Phước An. Hoạt động
càn quét của giặc khuôn hẹp lại, thưa dần đi. Công tác phá đường
để ngăn giặc được phát động. Quân dân Phước Long, Phước Thọ
được huy động phá đường 15 đoạn từ Tam Thiện đến Phước Thái,
phong trào đông vui, chia nhiều tổ, phân rõ công việc đào đường,
hậu cần, canh gác, mỗi đợt đi hàng tuần mới về. Sau đào phá
đường 15 là đào đường Hang Nai, cắm cọc Đồng Lớn.
Đến giữa năm 1948, các đoàn thể khối mặt trận được hình
thành. Đầu năm 1949, Phụ nữ huyện mở lớp tập huấn chính trị -
quân sự, thời gian 1 tháng cho cán bộ trưởng, phó phụ nữ các xã;
giảng viên có chị Khanh, chị Phi ở tỉnh về báo cáo chuyên đề.
3. Đấu tranh chống chiếm đóng, bao vây
Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ huyện Long Thành khai mạc
(đầu năm 1949) với gần một trăm đại biểu, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của đồng chí Phạm Hùng, ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Đại hội bầu ra ban chấp hành, ban thường vụ Huyện ủy gồm: Bí
thư Sáu Khánh (Võ Hồng Phô), Trần Bình Khê, Trương Minh Kỷ,
Nguyễn Sanh Thành và Lê Hữu Tài (Lê Hữu Thướu) là những
đồng chí hoạt động trước Cách mạng tháng 8.1945. Đây là một sự
kiện lịch sử quan trọng của Đảng bộ huyện Long Thành.
145

15.6 Page 146

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Sáng ngày 19.6.1949, hai chiếc máy bay khu trục ném bom,
bắn phá bừa bãi vào trường học ở căn cứ kháng chiến và xóm có
bộ đội đóng quân ở Bình Quới, Bình Thạnh. Hai ngôi trường bị
bắn nát, thầy Nguyễn Văn Sưa hy sinh tại trường. Thầy Nguyễn
Văn Tao và mấy chục học trò kịp chạy ra hầm trú ẩn.
Trưa hôm ấy, Hàng chục xe cam-nhông chở đầy bọn lính lê
dương và lính ngụy từ hướng cầu Sắt lộ 19 đổ quân lùng sục các
xóm, ấp. Các chiến sĩ đại đội vệ binh dàn trận, trụ trong công sự
và các líp cau. Đại liên, súng cối, súng trường anh em hờm sẵn
chờ địch. Đúng theo dự kiến, đội hình chúng lọt vào thế trận bày
trước của ta. Mìn nổ, súng bộ đội nhả đạn ở cự ly gần. Rồi tiếng
súng vang dậy góc trời, không phân biệt bên nào, kéo dài suốt một
tiếng đồng hồ. Gần trưa, địch tháo chạy tán loạn mang theo gần
trăm tên chết hoặc bị thương. Bên ta, đồng chí Nguyễn Văn Lẽ và
đồng chí Nguyễn Văn Bề hi sinh.
Cuối năm 1949, thực dân Pháp càng tăng cường công tác
bình định ở Nam Bộ nói chung và Biên Hòa - Long Thành nói
riêng. Do địch đánh phá vùng Lòng Chảo ngày càng nhiều, mức
độ ác liệt càng tăng, thầy giáo và các học sinh phải trở về trở về cơ
quan, đơn vị tiếp tục công tác, nên giải thể trường kiêm bị.
Giặc Pháp tổ chức lại lực lượng quân sự trong toàn huyện.
Tại chi khu, địch đóng hai đại đội: một đại đội chính quy gồm 120
lính, phần đông là người dân tộc (thường gọi là lính Thổ), một
đại đội Pạt-ti-san 120 lính, trang bị hỏa lực mạnh. Pháo binh chi
khu được tăng cường 1 khẩu 105 ly. Các bót Phước Thiền, Phước
Long, Siph, Hêlêna... mỗi nơi 2 trung đội, trong đó có 1 trung đội
chính quy do sĩ quan Pháp chỉ huy. Bên cạnh đó, thực dân xây
dựng nhiều bót lính Cao Đài cấp trung đội, có nơi cấp đại đội. Ở
xã Phú Thạnh, bọn Cao Đài vẫn duy trì bót ở Nỗng Bến Đá, rất
146

15.7 Page 147

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ngang ngược với người dân trong xã. Nhưng đoàn Thanh niên cứu
quốc của xã Phú Thạnh vẫn bí mật hoạt động, do đồng chí Nguyễn
Văn Liềm chỉ huy.
Bọn biệt kích Xuy-a-cô (Suacot) liên tục đánh phá các xã
vùng Lòng Chảo. Chúng bắt được ông Nguyễn Văn Năng, Bí
thư Chi bộ Phú Hội, đem chặt đầu bêu giữa chợ Phú Hội sáng
12.5.1950.
Xuy-a-cô còn dẫn lính biệt kích gây vô vàn tội ác đau thương
với đồng bào các xã dọc quốc lộ 15 từ An Lợi đến Phước Thái.
Ở vùng Cầu Vạc (Phước Thái), chúng vây nhà anh Nguyễn Văn
Cường, bắn chết gần chục người gồm cha, anh chị em, châm lửa
đốt nhà rồi ném xác vào. Trong cuộc càn lớn ở Phước Tân, chúng
giết hại hơn 100 người đồng thời bắn chết hơn 300 trâu bò theo
chủ trương dã man “phá sạch, đốt sạch, giết sạch”. Ở vùng Phước
Khánh, Phú Hữu địch cũng tăng cường đánh phá ta. Địch chà đi
sát lại, gây cho ta một số khó khăn, tổn thất lớn.
Cuối năm 1949, anh Sáu Phô về Tỉnh ủy, anh Năm Hà (Năm
Trị) được phân công làm Bí thư Long Thành. Đến giữa năm 1950,
anh Năm Hà lại về tỉnh, anh Ngô Tiến thay làm Bí thư Long Thành.
Đầu năm 1951, Bí thư Long Thành là đồng chí Ba Đắc.1
Trong thời gian này, phụ nữ huyện rút một số cán bộ xã về
huyện, tổ chức bầu Ban Chấp hành Phụ nữ huyện, gồm:
1. Chị Mười Luận: Hội trưởng2
2. Chị Bạch Tuyết: Phó Hội trưởng
3. Chị Mộng Sơn: Thư ký
1  Theo nhân chứng lịch sử Phan Thị Chi, ấp 2 xã Long Thọ
2  Giữa năm 1950, chị Luận về tỉnh, chị Bạch ở Phước Thiền về thay chị Luận.
147

15.8 Page 148

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
4. Chị Thanh Phú: Tuyên huấn
5. Chị Cầu (Ba Chi): Tài chính, Sản xuất
6. Chị Tuyết Lầu: Ủy viên
7. Chị Kim Ngọc: Dân quân
8. Chị Tý Hoa: Thiếu nhi
9. Chị Thành: Ủy viên
10. Chị Sáng: Ủy viên
11. Chị Út: Ủy viên
Từ giữa tháng 5.1950 trở đi, chiến khu Phước An bị địch lấn
chiếm, thực hiện chiến thuật Đờ la Tua (De Latour), chúng đóng
nhiều tua bót giăng dọc trục lộ 19 ở các xã Phước Kiển1, Phước
Lai, Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Bình Thạnh.
III. ĐẤU TRANH CHỐNG LẤN CHIẾM, GIỮ VỮNG
VÀ MỞ RỘNG ĐỊA BÀN LÀM CHỦ, GÓP PHẦN KẾT THÚC
THẮNG LỢI 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
1. Bố trí lại chiến trường, củng cố lực lượng kháng
chiến
Đầu năm 1951, địch bắt đầu xúc tiến mạnh việc giải tỏa lộ 15,
quốc lộ chiến lược đã bị ta cắt đứt từ năm 1946. Chúng đưa công
binh về khôi phục lại các cầu cống bị sập, đắp lại một phần đường
xá và tổ chức việc bảo vệ từng đoạn đường bằng các tháp canh;
địch tăng cường càn quét, đánh phá căn cứ của huyện, nhất là bọn
lính Comando hay đột kích bất ngờ gây thiệt hại cho du kích các
xã. Ở Phước Thọ, đồng chí Lê Duy Linh bị thương nặng, 2 du kích
hy sinh. Ở Phước Thái, do tên Trung xã đội trưởng Long An hàng
1  Người địa phương cho là Phước Kiểng (kiêng chữ cảnh)
148

15.9 Page 149

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
giặc, chỉ điểm, tên ác ôn Subaco dẫn quân bắn chết rồi mổ bụng
vợ anh Dũng (một chủ quán bên đường 15). Vợ anh Đang (đang
mang thai), lúc đó là Hội phó Hội Phụ nữ xã Phước Thái.
Trước tình hình giặc đánh phá rừng giồng ác liệt, cơ quan
dời xuống Sở Dừa ở Bà Bông, phân tán cán bộ về bám dân các xã;
chị Bạch và vài cán bộ ở lại cơ quan tại đồng Ông Trúc. Giặc đột
kích, bắn chết anh Tôn (cán bộ mặt trận) và 2 đồng chí, chị Bạch
bị bắt. Chị Bạch Tuyết công tác về Long Tân cũng bị giặc bắt,
tra tấn đến chết. Đồng chí Ba Chi (Phan Thị Chi) về Phước Long
cũng bị giặc phục bắt, đày đi nhà tù Thủ Đức gần 4 năm.
Tháng 5.1951, Trung ương Cục miền Nam tổ chức lại chiến
trường. Toàn Nam Bộ tổ chức hai phân liên khu miền Đông và
miền Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu
Một sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn sáp
nhập thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (thường gọi là Bà Chợ). Huyện
Long Thành thuộc tỉnh Bà Chợ. Trước những diễn biến gay go của
phong trào kháng chiến Long Thành, Thường vụ Tỉnh ủy Bà Chợ
chỉ đạo: “Long Thành là một địa bàn chiến lược, một vùng căn cứ,
một chiến khu quan trọng trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Phong
trào Long Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt. Bằng giá
nào cũng phải ổn định cho được chiến trường Long Thành để đảm
bảo chỗ đứng của tỉnh”. Trên cơ sở đánh giá đó, Tỉnh ủy Bà Chợ
quyết định tăng cường cán bộ cho huyện.
Đồng chí Nguyễn Trọng Cát được điều về làm Bí thư Huyện
ủy Long Thành. Các cơ quan huyện di chuyển nhiều địa điểm
trong vùng Rừng Sác: xóm Bà Riêu (Phước Thái), đồng Ông Trúc,
tắc Le Le, Vũng Gấm (Phước An), tắc Rạch Lá (Bình Thạnh). Khi
cơ quan văn phòng Huyện ủy về tắc Rạch Lá. Đồng chí Nguyễn
Văn Hoạt, trước là Đội phó Đội truyền tin, đang là Xã đội trưởng
149

15.10 Page 150

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Bình Thạnh hy sinh trong một trận chỉ huy du kích chống càn.
Đồng chí Đoàn Ngọc Minh - Chủ tịch Ủy ban Hành chính xã Phú
Hữu cũng hy sinh vì địch phục kích.
Một lần, tàu “há mồm” địch chở quân đánh vào căn cứ tắt
Rạch Lá. Một trung đội bộ đội địa phương chặn đánh quyết liệt,
bắn chìm tàu, mấy chục tên giặc chết chìm làm mồi cho cá sấu
Rừng Sác. Đồng chí Nguyễn Văn Ngôn, chỉ huy chiến đấu anh
dũng hy sinh, được đồng đội an táng tại rừng Chà Là, vàm Rạch
Lá.
Trước tình hình đó, tháng 2.1952, Thường vụ Huyện ủy quyết
định phải đánh thắng một trận để mở thế cho phong trào kháng
chiến trong toàn huyện. Đồng chí Hai Xuất được giao nhiệm vụ
nghiên cứu vùng lộ 15. Đồng chí Sáu Thịnh nghiên cứu vùng Ông
Kèo, Xoài Minh. Đồng chí Hương (quân báo) nghiên cứu 2 xã
Phú Thạnh, Phước Lý.
Tháng 5.1952, một tổn thất lớn xảy ra cho phong trào cách
mạng xã Phú Thạnh: Trên đường đi công tác, 2 đồng chí là Chủ
tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến Nguyễn Văn Dễ và Ủy viên
phụ trách chính trị Đặng Văn Nữ bị địch phục kích, hy sinh tại
Rạch Dọp (xã Phước Khánh).
Sáng 16.7, lính kho đạn Thành Tuy Hạ đột kích vào căn cứ
giao liên Rạch Đá ở xã Phước Khánh. Súng địch nổ chát chúa theo
bước tiến của chúng. Gần chục anh em cán bộ huyện và xã rút
sâu vào trong rừng vô sự. Các đồng chí lãnh đạo: Phạm Văn Búp,
Tống Văn Hiểu, Nguyễn Ngọc Dễ, Nguyễn Ngọc Sánh, Nguyễn
Tri Phương được dân bảo vệ an toàn.
Ngày 20.9.1951, bằng một cuộc càn quét lớn có bộ binh,
hải quân, không quân phối hợp, giặc Pháp đã chiếm được Phước
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
An và xây dựng đồn bót. Tình hình Long Thành càng trở nên khó
khăn hơn.
Sau những đợt càn bố của giặc, lực lượng địa phương và cơ
sở cách mạng bị tổn thất, như ở chi bộ Phú Hữu trước có hàng
trăm đảng viên, đến tháng giêng 1952 chỉ còn bốn đảng viên: Bí
thư Phạm Văn Búp và Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Ngọc Sánh,
Nguyễn Ngọc Dễ với hai quần chúng cảm tình: Tống Văn Hiếu,
Nguyễn Ngọc Năm, đội du kích còn 5 người với một cây súng
trường mat.
Đội ngũ thực sự của địa phương lúc đó rất ít, tình hình chung
căng thẳng vì địch ruồng bố liên miên. Một sáng chúng càn quét
từ đồn Giồng Sắn đến vàm Ông Mai. Chúng bắn trúng hầm đồng
chí Phạm Văn Búp (Năm Búp) - Bí thư xã Phú Hữu, vây bắt được
ông, đem về kho đạn Thành Tuy Hạ tra tấn tàn khốc. Nhưng đồng
chí Bí thư vẫn giữ được khí tiết, không khai một lời; chửi xối xả
vào mặt tên Việt gian Ký Hải. Chúng mang ông đi bắn, phi tang
mất xác.
Đầu tháng 3.1952, chi bộ xã Phú Hữu chấp thuận phương án
diệt Việt gian. Một tổ công tác bí mật được cử vào ấp Giồng Ông
Đông bắt Mười T. đền tội chỉ điểm cho giặc sát hại đồng chí Năm
Búp và đồng chí Sáu Dễ. Sáng 15.3, Út Minh, Võ Thành Lân và
Đoàn Văn Mãng ra đầu hàng nhưng không dẫn giặc đánh phá căn
cứ. Một giờ sáng 30.4.1952, một tổ du kích Phú Hữu đặt mìn, tiêu
diệt một tiểu đội giặc đi càn mở đường ở Giồng Sắn.
Phong trào đẩy mạnh xây dựng cơ sở các ấp vận động bà con
đóng góp nuôi quân vụ mùa 1952-1953; ấp Giồng Ông Đông có
các ông bà trùm Chụp, Chín Kính, Hai Đôi, Chín Ráng; Ấp Câu
Kê có bà Sáu Gấm, ông bà Ba Đóc, ông Năm Ề, vợ chồng Chín
Đức; xóm Bến Bạ có vợ chồng Ba Thẩn, vợ chồng Năm Xem; ấp
151

16.2 Page 152

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Bến Cộ và chợ Phước Lý có bà Nhiều, vợ chồng Bảy Ngọt, ông bà
Bảo, ông bà Năm Lân, ông bà Hai Trí...Ngoài ra còn nhiều cơ sở
nữa. Hưởng ứng vận động của Việt Minh, ai cũng sẵn sàng đóng
góp tiền bạc, lúa gạo cho kháng chiến, có người nuôi cán bộ trong
nhà. Bà con dân nghèo một lòng một dạ theo cách mạng.
Từ tháng 12.1952 đến tháng 2.1953 phong trào quần chúng
lên cao, tích cực góp phần hoàn thành bảo vệ mùa màng, động
viên thanh niên ra rừng xây lại đội du kích; ủng hộ sáng kiến “bám
dân xây dựng cơ sở”.
Tống Văn Hiểu và Nguyễn Ngọc Năm bỏ về thành. Huyện
ủy quyết định cử đồng chí Đoàn Văn Kỉnh (Thể Nhân), thương
binh đơn vị 303, từ huyện đội về tăng cường cho xã Phú Hữu. Đây
là một đảng viên có chí chiến đấu cao, quê ở Giồng Ông Đông.
2. Khắc phục thiên tai
Ngày 20.10.1952 bắt đầu trận lũ lịch sử Nhâm Thìn ở Long
Thành. Lũ lụt xảy ra ở Biên Hòa sớm hơn hai ba ngày. Tại chòm
mả Gò Nai, có cây bần to ngả rạp, các cây khác vặn mình trong
giông bão tơi bời, nước dâng cao dần mênh mông như biển cả.
Cơn bão đi qua, nước rút cạn dần. Lúa đồng xanh lại, xuồng ghe
đi lại bình thường.
Huyện ủy lãnh đạo thực hiện kế hoạch bảo vệ mùa màng
sắp tới, phân công cốt cán chịu trách nhiệm từng cánh đồng, chọn
địa điểm là các gò cao để ban đêm tập trung lúa thu lúc ban ngày.
Số lúa này giao cho đoàn vận chuyển của huyện chở đi. Lúa cánh
đồng nào chín tới đâu, bà con gặt tới đó. Ta vận động chủ ruộng
giao nộp, lúa để ở bờ, đến tối cán bộ và cơ sở mật vác xuống xuồng
chở tới gò hoang chọn trước, từ khuya tới gần sáng giao cho đoàn
vận chuyển khu III. Địch càn quét cánh đồng này, ta sang cánh
152

16.3 Page 153

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đồng khác, tối đến ta tiếp tục vận chuyển lúa. Tháng 1.1953, địch
càn đồng rạch Miểng Sành, bắt được bác Đức, chúng tra khảo dã
man nhưng không thu được lời khai nào, chúng bắn bác rồi ném
xác xuống sông Nhà Bè. Công tác bảo vệ mùa màng duy trì trong
gian khó, cuối vụ tổng kết huy động được hàng trăm ngàn giạ lúa
(riêng xã Phú Hữu khoảng 25.000 giạ) và hàng chục ngàn đồng (ở
nơi thu lúa khó khăn, dân đóng tiền) chở về huyện và tỉnh an toàn.
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo năm đó, số lúa của Nhơn Trạch đóng
góp cho kháng chiến là thắng lợi to lớn của đường lối chiến tranh
nhân dân do Đảng lãnh đạo. Hàng vạn nông dân được giáo dục,
phát động tư tường thì giác ngộ cách mạng, có niềm tin vững chắc,
đội ngũ cốt cán mật được tăng cường cả về số và chất lượng.
3. Cùng cả nước tiến công địch, kết thúc kháng chiến
Cuối tháng 8.1953, đồng chí Lê Hiền - cán bộ an ninh huyện
tập hợp dăm sáu chục bà con ở Phú Hữu, phổ biến tin chiến thắng
các chiến trường, động viên đồng bào cho em tòng quân để xây
dựng lực lượng du kích.
Một đêm tháng 8.1953, đội Sâm đi một xuồng bảy lá dẫn
một tiểu đội lính com-măng-đô đồn Giồng Ông Đông tuần tra trên
sông. Xuồng thả xuôi dòng sông Cây Tràm, nước đang ròng chảy
xiết. Thấy ghe đồng bào tập trung đông, chúng cặp ghe, rọi đèn
pin sáng quắc, chĩa súng ra lệnh: “Tất cả ngồi im, giơ tay lên!”.
Trước tình huống bất ngờ Lê Hiền định rút chốt lựu đạn ném,
nhưng sợ làm đồng bào thương vong nên ngưng tay. Anh nhào
xuống nước, lặn một hơi rồi bơi ra xa.
Gần trưa 17.11.1953 lính Cao Đài của Lê Thành Kham ở
Phú Thạnh phối hợp với bọn Việt gian ở kho đạn Thành Tuy Hạ
mở cuộc bao vây ấp Bến Cộ. Chúng bắt được đồng chí Nguyễn
Sanh Thành và các ông Đào Văn Bảo, Mai Văn Trí; chày giã gạo,
153

16.4 Page 154

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
báng súng đánh tới tấp những người sa vào tay chúng. Lúc này,
đồng chí Nguyễn Sanh Thành giữ nhiều chức vụ: Ủy viên thường
vụ Huyện Ủy, chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện, Trưởng đoàn
chỉ đạo khu III gồm 4 xã: Phước Khánh, Phú Hữu, Phước Thành,
Phước Lý. Chiều ngày 17.11, địch đưa các đồng chí Hai Thành,
Bảo, Tri về giam ở kho đạn Thành Tuy Hạ. Không khai thác được
gì, chúng làm đủ trò chiêu hàng nhưng thất bại, đành thả về tính
kế rình bắt các đồng chí lãnh đạo liên lạc lại.
Lúc này trên phạm vi cả nước và Đông Dương, ta tiến công
như vũ bão và chiến thắng nở rộ khắp nơi: Liên khu V, miền Đông
Nam Bộ, mở màn trận Thượng Lào Điện Biên. Nhưng ở địa bàn
Nhơn Trạch vẫn còn không ít khó khăn.
Trưa 17.3, đồng chí Nguyễn Tri Phương bị lính Cao Đài ở
Cát Lái bao vây ở Ông Chuốc. Anh gãy tay trái, bị chúng bắt, giải
về khám đường Biên Hòa song thà chết không khai báo. Bọn điều
tra ác ôn chặt cánh tay anh rồi đày qua nhiều nhà tù, được trao trả
tháng 9.1954.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954, thực dân Pháp
phải tuyên bố thua trận, chấm dứt mộng tái chiếm và đặt ách đô
hộ ở nước ta. Ngày 20.7.1954, Hiệp định Genève về đình chiến ở
Đông Dương đã được ký kết, và sau đó ngày 1.8.1954, lệnh ngưng
bắn được thực hiện.
Tin Hiệp định Genève được ký kết tạo nên một không khí
phấn khởi to lớn trong toàn huyện. Ngay trong thời gian chưa có
lệnh ngưng bắn, đồng bào vẫn tìm mọi cách truyền nhau tin tức,
báo chí về nội dung hiệp định. Các cuộc mít tinh mừng hòa bình,
mừng thắng lợi hiệp định do các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức
trong các ấp xã vẫn được đông đảo đồng bào đến dự. Ở Rừng Sác,
mỗi lần tổ chức nói chuyện ngoài sông, chỉ cần treo 1 tấm nilon,
154

16.5 Page 155

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
cắm cờ, treo ảnh Bác và thắp ngọn đèn lên là ghe của đồng bào
tấp nập đổ tới. Binh lính địch được ban địch vận, thông qua cơ sở,
gặp gỡ tuyên truyền, gửi truyền đơn nắm được nội dung hiệp định,
nhiều người bỏ trốn về nhà làm ăn sinh sống.
Kể từ trung tuần tháng 8.1954, thi hành Hiệp định Genève,
cán bộ chiến sĩ Long Thành lần lượt chuyển sang vùng căn cứ
Xuyên Phước Cơ (Bà Rịa). Tại đây, sau khi được học tập, quán
triệt tinh thần Hiệp định, Huyện ủy đã chọn lọc 1 bộ phận cán bộ,
đảng viên từ huyện ủy viên trở xuống ở lại. Số anh em đi tập kết
hầu hết là thuộc lực lượng vũ trang huyện, xã.
Trong những ngày cuối tháng 8 và đầu tháng 9.1954, không
khí Long Thành nhộn nhịp. Các xã đều cử đoàn đại biểu mang
theo quà của nhân dân gửi tặng bộ đội, hàng ngàn lượt đồng bào,
bà con thân nhân của cán bộ, chiến sĩ cũng tìm mọi cách sang
Xuyên Phước Cơ đưa tiễn con em quê hương mình lên đường tập
kết.
Ở Nhơn Trạch nhiều cán bộ, chiến sĩ lên đường tập kết, như:
Dương Văn Hà, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Văn Đọt. Một số đồng
chí nhận nhiệm vụ ở lại, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến cam go
sau này, như: Trương Văn Bội, Võ Hồng Ân, Nguyễn Văn Liềm,
Huỳnh Ngọc Ẩn, Bùi Văn Hoằng, Minh, Nguyễn Văn Thông, Võ
Văn Lượng, Nguyễn Văn Xuân ...
***
Hưởng không khí độc lập tự do ngắn ngủi, quân dân Nhơn
Trạch - Long Thành lại tiếp tục sự nghiệp kháng chiến chống sự
tái chiếm Nam Bộ của thực dân Pháp. Với sức mạnh của chính
quyền non trẻ, tổ chức Đảng còn mỏng manh, đảng viên chưa
nhiều, Nhơn Trạch đã trường kỳ gian khổ tham gia kháng chiến,
tạo nhiều thành tích.
155

16.6 Page 156

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Giặc Pháp quyết tâm chiếm đóng Long Thành, xây dựng và
phát triển căn cứ Thành Tuy Hạ cùng hệ thống đồn bót để trấn
áp, hòng bao vây, chia cắt, tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Tổ
chức Đảng, mặt trận đoàn thể và lực lượng quần chúng của Nhơn
Trạch vẫn kiên cường bám trụ ngay trong lòng địch cùng cả nước
kháng chiến toàn dân, góp phần tạo nên thắng lợi của Hiệp định
Genève năm 1954.
156

16.7 Page 157

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Chương IV
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
I. TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẾN ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ KẾT HỢP ĐẤU TRANH VŨ TRANG
1. Củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể
Hiệp định Genève (ngày 20.7.1954) về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương là một thắng
lợi lớn của dân tộc Việt Nam. Theo tinh thần Hiệp định thực dân
Pháp phải công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
dân tộc Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời,
tháng 7.1956 sẽ tiến hành hiệp thương và tổng tuyển cử thống nhất
đất nước.
Với âm mưu xâm lược đất nước ta, tháng 7.1954 Mỹ đưa
Ngô Đình Diệm về nước lập chính phủ bù nhìn, xây dựng hệ thống
chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam.
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng có chủ trương mới.
Tháng 10.1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập. Xứ ủy quyết định
thành lập Liên Tỉnh ủy miền Đông do đồng chí Phan Đức làm Bí
thư. Xứ ủy xác định quân thù chính hiện nay là đế quốc Mỹ, hiếu
chiến Pháp và bè lũ tay sai; nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền
Nam là: Gìn giữ củng cố hòa bình, tranh thủ thực hiện tự do dân
chủ, cải thiện dân sinh, đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định
Genève, tiến tới thực hiện thống nhất, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ trong cả nước; Xứ ủy chủ trương: Động viên toàn thể
157

16.8 Page 158

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
nhân dân đấu tranh bắt buộc, nhân dân phải đấu tranh bắt buộc
đối phương phải thực hiện đúng đắn Hiệp định đình chiến, thực
hiện quyền tự do dân chủ, bộ máy chính quyền của đối phương.
Phương châm hành động cách mạng trong tình hình mới: Phải
nắm vững nguyên tắc bí mật, công khai và bán công khai. Kết hợp
công tác bí mật với công tác công khai. Cơ sở bí mật là cơ sở căn
bản của quần chúng để mở rộng phong trào1.
Cuối năm 1954, để phù hợp với tình hình mới, Xứ ủy Nam
Bộ và Liên Tỉnh ủy miền Đông quyết định tách tỉnh Thủ Biên, lập
lại hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Thường vụ Liên Tỉnh ủy
chỉ định đồng chí Phạm Văn Thuận làm Bí thư, đồng chí Huỳnh
Văn Lũy, Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa (2). Tỉnh Biên Hòa gồm thị
xã Biên Hòa và 5 huyện nông thôn. Tỉnh ủy Biên Hòa phân công
các đồng chí chủ chốt: Thị xã Biên Hòa, đồng chí Nguyễn Văn
Long (Sáu Long) Bí thư; Huyện ủy Vĩnh Cửu, đồng chí Phạm Văn
Bính (Hai Bính) Bí thư; Huyện ủy Long Thành, đồng chí Vũ Hồng
Phô (Sáu Khánh) Bí thư; Huyện ủy Tân Uyên, đồng chí Huỳnh
Văn Đính (Hai Đính) Bí thư; Huyện ủy Xuân Lộc, đồng chí Ngô
Tiến (Ba Tiến) Bí thư; huyện Bà Rá, đồng chí Ba Phú làm Trưởng
ban cán sự Đảng.
Lực lượng cách mạng trong xã sau tập kết được củng cố,
hầu hết các xã trong tỉnh đều có đảng viên. Một số xã trong vùng
căn cứ xây dựng chi bộ có đến 20 - 30 đảng viên. Nhiều xã ở các
huyện có chi bộ từ 5 đến 10 đảng viên. Vùng yếu, thị xã, thị trấn
1  Báo cáo Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 10.1954.
2  C ác đồng chí: Hoàng Tam Kỳ, Tỉnh ủy viên phụ trách Tuyên huấn, Ngô Bá Cao, Tỉnh ủy
viên phụ trách giao thông căn cứ địa; Ngô Tiến, Bí thư Xuân Lộc; Vũ Hồng Phô, Bí thư
Long Thành. Đến đầu năm 1955, Thường vụ Xứ ủy quyết định điều động đồng chí Vũ
Ngọc Hồ (Bảy Hồng Vũ) từ Liên Tỉnh ủy miền Đông về làm Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa,
đồng chí Phạm Văn Thuận làm Phó Bí thư. Một thời gian ngắn sau đó, đồng chí Phạm
Văn Thuận thay thế làm Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 5.1955, đồng chí Huỳnh Văn Lũy hy sinh
tháng 6.1956 ở Cù lao Mỹ Quới.
158

16.9 Page 159

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
có chi bộ từ 3 đến 5 đảng viên và có xã có đảng viên lẻ, có xã còn
trắng. Các đoàn thể cách mạng trong thời kỳ này chỉ còn lại tổ
chức Đoàn Thanh niên Lao động.
Sau khi ổn định xong bộ máy lãnh đạo các cấp, Tỉnh ủy Biên
Hòa lường trước âm mưu thâm độc của kẻ thù. Tỉnh ủy có nghị
quyết quy định tổ chức hoạt động của các cán bộ Đảng từ tỉnh,
huyện, xã phải thực hiện đúng nguyên tắc bí mật, công khai, bán
công khai. Mỗi cán bộ được bố trí công tác ở đâu đều phải tạo việc
làm hợp pháp, hòa mình trong dân, xây dựng cốt cán quần chúng,
qua đó mà tuyên truyền, vận động tổ chức, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh. Xây dựng các tổ chức công khai, bán công khai và lợi
dụng tổ chức tự nhiên đã có của quần chúng, đưa đảng viên vào
nắm để tập hợp, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân
chủ, bảo vệ quyền lợi của quần chúng.
Tỉnh ủy đề ra chủ trương đấu tranh cách mạng trong giai
đoạn mới: Các cán bộ bố trí ở lại phải bám trụ trong dân, tạo thế
công khai hợp pháp, dựa vào pháp lý của Hiệp định Genève để
lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh dân chủ, đòi
hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước; bảo vệ cán bộ bảo
vệ tính mạng và tài sản, quyền lợi của nhân dân, chống chiến dịch
bắt bớ khủng bố của cán bộ kháng chiến cũ (điều 14C Hiệp định).
Tỉnh ủy chỉ đạo các cuộc đấu tranh dù nhỏ hay lớn, đều phải đấu
tranh thủ lôi kéo gia đình binh sĩ thành ngòi pháo trong các cuộc
đấu tranh, đấu tranh phải có lý có lẽ và đúng mực. Thời kỳ này,
Tỉnh ủy chủ trương xây dựng người đưa vô làm nội tuyến trong
lòng địch, xây dựng chọn người đưa vào làm tề (xã trưởng, ấp
trưởng), đưa người vào dân vệ, bảo an, chủ lực của địch1.
1  L ịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930 - 1995, tập II, NXB Đồng
Nai, 2000, tr 7 - 9.
159

16.10 Page 160

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Tại các xã vùng Thành Tuy Hạ, lính Patigiang1 đóng ở chợ
rút đi thì lính Cao Đài thế vào, nhưng lính cũng như dân, đi lại
bình thường, không mang súng, không xét hỏi ai, không hành quân
càn quét. Ở thị trấn, những người theo Pháp ngao ngán không biết
tương lai sẽ đi tới đâu. Hội đồng Hương chính coi như tê liệt.
Ngày 2.9.1954, đoàn cán bộ huyện Long Thành không đi
tập kết, từ Xuyên Mộc trở lại địa bàn huyện. Ba ngày sau học tập
tình hình mới, nhiệm vụ mới và nội dung hiệp định Genève. Số ở
lại không nhiều, Phước Lai còn 3 cán bộ: Ông Tám Đổng, ông Tư
Lời, ông Mười Trong; Phước Thọ có: ông Nhiệm (Mười Thọ), ông
Trị (Sáu Thợ), ông Mười Bông, ông Tư Thái; Phước Long có chị
Ba Chi. Lớp học tổ chức tại huyện, thời gian 1 tuần, do các anh
Tám Thạch, Sáu Phô hướng dẫn. Học xong, học viên xã nào về
lại bám dân xã đó, tập trung công tác tuyên truyền, giải thích cho
quần chúng tốt để vẫn động xây dựng cơ sở cách mạng, chuẩn bị
cho tổng tuyển cử.
Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về làm Thủ tướng Chính phủ
bù nhìn ngày 7.7.1954. Pháp bị hất cẳng khỏi miền Nam Việt Nam
sau khi Hiệp định Genève kí kết. Các phần tử thân Pháp lần lượt
bị loại bỏ khỏi các cấp chính quyền từ trung ương xuống cơ sở.
Để thâu tóm mọi quyền lực trong tay thủ tướng và gia đình, Ngô
Đình Diệm một mặt mua chuộc những ai có thể mua chuộc như
Trịnh Minh Thế (Cao Đài), Năm Lửa (Hòa Hảo), một mặt ra lệnh
cho tay chân mở chiến dịch Hoàng Diệu dẹp các giáo phái Bình
Xuyên của Lê Văn Viễn, Hòa Hảo của Ba Cụt, Cao Đài của Phạm
Công Tắc... Tiếng súng râm ran ở vùng cầu chữ Y (Sài Gòn) - nơi
các cứ của Bảy Viễn - vọng về rõ mồn một. Địch ở kho đạn Thành
Tuy Hạ bắt dân treo khẩu hiệu “Ủng hộ chính phủ quốc gia do
Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo”.
1  Lính khố đỏ Nam kỳ.
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Người Nhơn Trạch có hình thức phản ứng khôn khéo. Ông
Hai Khỏe mặc quần xà lỏn, áo vắt vai, vừa đi ông vừa hô lớn:
Ủng hộ Ngô Đình Diệm hai năm!”. Ai cũng hiểu ý ông là chờ hai
năm tổng tuyển cử. Bọn lính làng và cảnh sát Phú Hữu bắt ông
hạch hỏi: “Tại sao ông ủng hộ thủ tướng có hai năm?”. Ông trả lời
tỉnh bơ: “Tôi già lắm rồi, hai năm nữa tôi chết thì tôi ủng hộ hai
năm. Ai nói ủng hộ “muôn năm” thì họ là kẻ nói láo”. Giặc chào
thua lý lẽ của ông già nông dân.
Tết Trung thu năm 1955, Ngô Đình Diệm gởi thư cho thiếu
nhi. Thiếu nhi Phước Khánh cùng hát to: “Thiếu nhi là cháu Bác
Hồ. Ai thèm làm cháu thằng Ngô bao giờ!”.
Từ đầu năm 1955 (Ất Mùi), Mỹ - Diệm bố trí đồng bào Công
giáo miền Bắc di cư đến định cư ở nhiều địa điểm thuộc huyện
Long Thành: thị trấn, ấp Tân Mai II, từ chợ Phước Lý đến cầu Ông
Kèo. Chính quyền Sài Gòn có ý đồ lập tuyến phòng thủ Đông Tây
lộ 15, lá chắn phía Đông - Đông Nam “thủ đô Việt Nam cộng hòa”
của chế độ gia đình trị họ Ngô.
Ở Phước Lý, dân theo đạo Thiên Chúa hình thành các xứ
đạo: Thiết Nham, Trung Lai, Nghĩa Mỹ. Hồi ấy mùa Giáng sinh
1954 cả vùng Phước Lý chỉ có một nhà thờ. Bà con nghèo khổ,
đời sống lam lũ cơ cực. Phần đông bà con di cư kéo lên rừng giồng
chặt cây lấy củi, một số đốn tre về chẻ, chuốt đóng giường tre đem
bán ở chợ Phước Lý.
Bị Diệm tập trung quân đội quốc gia tấn công, đầu tháng
5.1955, lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn khoảng 4.000 tên bỏ
khu vực cầu chữ Y chạy về Rừng Sác. Bọn này là nỗi lo của nhân
dân trong huyện.
Về tâm trạng của người dân kháng chiến, khi Cách mạng
tháng Tám thành công, tinh thần cán bộ cũng như phong trào quần
161

17.2 Page 162

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
chúng bùng lên khí thế mạnh mẽ. Khi giặc Pháp tái chiếm, có một
số người dao động bỏ kháng chiến ra vùng tạm chiếm làm ăn, đa
số cán bộ ta tạm lắng; nhưng khi phong trào lên, cơ sở được củng
cố thì cán bộ, quần chúng lại bùng dậy, tiếp tục sự nghiệp cách
mạng. Còn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khác hẳn, bắt
đầu với tình hình mới, phương pháp mới, nhiệm vụ mới, vô vàn
khó khăn. Lòng dân nhiều lo lắng, từ chỗ ta có chính quyền, đoàn
thể, bộ đội, nay không còn tổ chức nào, chỉ còn một vài cán bộ
không vũ khí, không căn cứ cách mạng, chỉ bám dân mà sống, đợi
ngày tuyển cử. Phía chính quyền của Diệm quân đông, đủ trò dụ
dỗ, đủ kiểu tuyên truyền đe dọa, đàn áp quyết diệt tận gốc cộng
sản. Trước tình hình ấy, cán bộ ta ra sức tuyên truyền, giải thích
cho dân hiểu rõ tình hình và âm mưu của địch, sinh hoạt theo tổ
tam tam, dựa cơ sở tốt làm nòng cốt mở rộng dần trong các xóm
ấp. Cán bộ ta quen dần với nhiệm vụ mới, vận động, hướng dẫn
quần chúng dựa trên quyền lợi của mình đấu tranh chống bắt dân
vô tội, chống bắt lính, đòi thi hành Hiệp định đình chiến - tổng
tuyển cử; chống các trò tuyên truyền bầu cử của Diệm. Bước đầu,
tổ chức được cơ sở làm nhiệm vụ giao liên nối liên lạc giữa các
xã với huyện và tỉnh. Trong đó, nhà má Hai Kiển là đầu mối liên
lạc giữa huyện và xã Phước Long, nhiều lúc giao liên tỉnh cũng
đến nhà má Hai; đồng chí Ba Bắt, giao liên huyện định kỳ về nhà
má Hai để giao nhận thư cho cánh Bình Sơn vì ở Phước Long có
nhiều công nhân cạo mủ ở Sở Cao su Bình Sơn cần được xây dựng
thành cơ sở cách mạng.
Giữa tháng 5.1955, đồng chí Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) - Bí
thư Huyện ủy đưa các đồng chí Ba Thu (Ba Thuận, Phạm Văn
Thuận) - Phó Bí thư Tỉnh ủy phụ trách binh vận tỉnh Biên Hòa và
đồng chí Nguyễn Duy Đán - cán bộ binh vận của xứ ủy Nam Bộ
về ở Bến Cộ. Các anh triển khai nhiệm vụ chi bộ Đảng lãnh đạo
162

17.3 Page 163

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đấu tranh chính trị, công tác xây dựng thực lực nói chung và công
tác xây dựng cơ sở trong lòng địch nói riêng; hướng dẫn cách đối
phó với lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn ở Rừng Sác.
Việc đối phó, chinh phục lực lượng Bình Xuyên là một quá
trình gian khó, do Ban Binh vận Xứ ủy chủ trương, Ban Binh vận
tỉnh Biên Hòa thực hiện1. Từ 2.1.1955, đồng chí Nguyễn Trọng
Tâm nhận nhiệm vụ cán bộ binh vận của Xứ ủy Nam Bộ do đồng
chí Hai Văn (Hai Đáng) phụ trách, sau đó hình thành bộ máy
binh vận của Biên Hòa - Bà Rịa thuộc Liên Tỉnh ủy miền Đông.
Ban Binh vận Tỉnh ủy Biên Hòa có các đồng chí: Ba Thu, Trần
Bình Khê, Chín Băng; căn cứ đóng tại Tân Triều. Lúc này, Xứ
ủy tổ chức 2 bộ phận làm công tác vận động các lực lượng vũ
trang - giáo phái, giao đồng chí Huỳnh Văn Một phụ trách Cao
Đài vận, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm phụ trách công tác theo
dõi, vận động Bình Xuyên. Thời điểm cuối năm 1954, lực lượng
Bình Xuyên là một đội quân ô hợp, đông người, nhiều súng nhưng
thiếu kỷ luật, không mục đích chính trị rõ ràng. Do lực lượng Bình
Xuyên không tuân theo lệnh của Ngô Đình Diệm nên bị quân đội
Diệm tấn công. Đến tháng 5.1955, Bình Xuyên yếu thế rút về
Rừng Sác thuộc địa bàn huyện Long Thành; Tiểu đoàn 3 của Bảy
Môn trấn giữ khu vực Phước Thọ, Phước An; việc thường làm
của quân Bình Xuyên là cướp phá, giết hại nhà giàu và dân di cư;
những chỉ huy của Bình Xuyên thường ra uy ở Long Thành gồm
có Tài, Sang, Bảy Môn, Tư Hiếu, Mười Lực ...
Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm
làm việc với Tỉnh ủy Biên Hòa, trực tiếp đến Long Thành gặp
đồng chí Sáu Khánh (Bí thư Huyện ủy) và đồng chí Ba Lang (Phó
1  T heo lời kể của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm - Anh hùng LLVTNDVN, cán bộ binh vận
Xứ ủy những năm 1955 - 1956; tài liệu do Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Đồng Nai
ghi âm, văn bản hóa
163

17.4 Page 164

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Bí thư Huyện ủy) truyền đạt chủ trương của Xứ ủy và Tỉnh ủy
Biên Hòa, bàn cách vận động Bình Xuyên. Huyện ủy Long Thành
tạo thế hợp pháp, giới thiệu đồng chí Tâm đến cơ sở, tiếp xúc
với đồng chí Tư Định ở xã Phước An và đồng chí Mười Thọ ở
xã Phước Thọ, trụ lại ở nhà ông Tư Trì (anh ruột đồng chí Mười
Ánh Tuyết) ở xã Phước Thọ. Nhiệm vụ của đồng chí Trọng Tâm
là tuyên truyền, giải thích để chi bộ và quần chúng nhân dân cơ
sở nhận ra bản chất của lực lượng Bình Xuyên, cùng vận động
binh lính của Bình Xuyên thôi cướp giết, đừng gây hại cho dân
lành, dần đến với cách mạng, giương súng bắn vào kẻ thù là chính
quyền Ngô Đình Diệm. Lúc ấy, cách mạng chưa có lực lượng vũ
trang, chỉ có chính nghĩa và lý lẽ, nắm được lực lượng vũ trang
Bình Xuyên là việc rất khó nhưng rất tốt.
Sau một thời gian ngắn, tình hình có chuyển biến. Quần
chúng địa phương từ chỗ cô lập binh lính Bình Xuyên trở thành
thân thiện, lính Bình Xuyên cũng bớt, bắn phá, bức hại dân lành.
Qua quần chúng ở cơ sở, đồng chí Trọng Tâm quan hệ với ông Ba
Trưởng - nguyên là một cán bộ kinh tài của tỉnh Bà Chợ, quê vợ
ở Phước An, không đi tập kết, làm nghề buôn bán củi, do bị chính
quyền Diệm o ép nên chạy theo Bình Xuyên, làm cố vấn chính
trị cho Tiểu đoàn 3 của Bảy Môn. Bảy Viễn cũng muốn qua Ba
Trưởng liên lạc với cách mạng. Sau lần trao đổi đầu tiên thông qua
Ba Trưởng, phía Bình Xuyên có yêu cầu tổ chức tiếp xúc trực tiếp
giữa lãnh đạo hai bên (Bình Xuyên và phía cách mạng). Đồng chí
Sáu Khánh và bộ phận công tác binh vận đồng ý tiếp xúc, ta lấy
danh nghĩa của Mặt trận Liên Việt Thủ Biên cho phù hợp với nội
dung Hiệp định Genève; mục đích của cuộc tiếp xúc là xem xét
khả năng, tinh thần và ý muốn của Bình Xuyên, thuyết phục Bình
Xuyên nghiêng về cách mạng, vận động Bình Xuyên thôi cướp
phá bảo vệ dân; đối tượng vận động chủ yếu là binh lính các cấp.
164

17.5 Page 165

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Kế hoạch tiếp xúc được báo cáo Xứ ủy, đồng chí Hai Văn phụ
trách binh vận Xứ ủy nhất trí, lập đoàn tiếp xúc gồm đồng chí Ba
Thu (Phạm Văn Thuận), Sáu Khánh và đồng chí Nguyễn Trọng
Tâm.
Giữa tháng 6.1955, đoàn công tác theo ngã Phú Hữu, do
đồng chí Hai Thông (Nguyễn Văn Thông) dẫn đường, đến Phước
Khánh, trụ ở nhà đồng chí Sáu Lộc - Bí thư xã. Tại chi bộ Phước
Khánh, các đồng chí Ba Hống, Tám Đẹt, Mười Yên báo cáo tình
hình lính Bảy Viễn ở Rừng Sác về quấy nhiễu, buộc đồng bào
Chà Là, rạch Mương, Ông Thuộc cung cấp lương thực cho chúng.
Nhân dân Phước Khánh rất lo sợ bọn thổ phỉ này. Trong khi đó,
Ngô Đình Diệm cho từng tốp thám báo, mật vụ giả đi làm rừng, đi
săn cá sấu sông Ông Kèo, điển hình là nhóm do tên Quởn ở Vườn
Trúc cầm đầu nhằm phục vụ lính quốc gia diệt lực lượng Bình
Xuyên (Bảy Viễn). Nắm được tình hình, đoàn công tác chuẩn bị
tiếp xúc với đại diện Bình Xuyên.
Cuộc tiếp xúc diễn ra tại một địa điểm gần ngã ba đường
làng xã Phước Khánh. Đại diện bên cách mạng, đồng chí Ba Thu
phân tích âm mưu của Mỹ - Diệm, cam kết sẽ vận động nhân dân
hỗ trọ quân Bình Xuyên mua nhu yếu phẩm, không báo với chính
quyền Mỹ - Diệm về lực lượng và hoạt động của Bình Xuyên,
đồng thời vận động Bình Xuyên bảo vệ dân, cùng nhân dân chống
Mỹ - Diệm. Bên phía Bình Xuyên gồm các chỉ huy của Tiểu đoàn
3 của Bảy Môn, đồng ý là sẽ bảo vệ dân, đề nghị tiếp theo tổ chức
một cuộc tiếp xúc nữa giữa đại diện Xứ ủy và Bảy Viễn, trong đó
có nội dung muốn giao cách mạng 1.000 khẩu súng (đã bị nhiễm
nước mặn). Hai bên nhất trí giao đồng chí Tâm trực tiếp liên hệ
với tham mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên là Tư Hiển và Tiểu
đoàn 3 của Bảy Mỏn Môn để chuẩn bị cho cuộc tiếp xúc cấp cao.
165

17.6 Page 166

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Sau cuộc tiếp xúc lần thứ nhất, tình hình có nhiều chuyển
biến tốt, quân Bình Xuyên bớt đánh phá trong dân; quan hệ giao
tiếp, mua bán, trao đổi với dân thiện cảm hơn, dân không tố giác
Bình Xuyên với chính quyền Diệm, giúp binh lính Bình Xuyên
nhiều việc trong sinh hoạt; chỉ huy Bình Xuyên lắng nghe ý kiến
góp ý của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm về cách bố phòng, huấn
luyện, quản lý vũ khí. Ban binh vận xứ ủy nhận định: Với tình
hình này, Bình Xuyên muốn tồn tại chỉ có thể đi với cách mạng,
nếu không sẽ tự tan rã hoặc bị tiêu diệt.
Cuộc tiếp xúc lần 2 diễn ra vào tháng 9.1955 tại Rừng Sác.
Xứ ủy giao đồng chí Bảy Khánh (Ủy viên Thường vụ Liên tỉnh ủy
miền Đông, phụ trách công tác binh vận) làm trưởng đoàn, thành
viên gồm có đồng chí Hai Đời, Ba Thu, Trọng Tâm. Bảy Viễn đến
đúng hẹn, không cho bọn Tài, Sang biết tin, niềm nở tiếp đoàn
của Xứ ủy, khoe thư của Bác Hồ được trân trọng cất kỹ. Nội dung
chính chưa bàn được mấy câu thì có tin báo quân lực của Diệm
tấn công vào Rừng Sác quyết tiêu diệt Bình Xuyên.Bảy Viễn vội
vàng rời cuộc tiếp xúc, về căn cứ để chỉ huy kháng cự. Đoàn của
Xứ ủy rút êm về hướng Phước Thọ, nhờ cơ sở ở đây đưa ra khỏi
vòng vây.
Cuộc tiếp xúc với Bảy Viễn bị gián đoạn, nhưng công tác dân
vận đạt được kết quả tốt đẹp đã chinh phục được lực lượng Bình
Xuyên, đặc biệt là Tiểu đoàn 3 của Bảy Môn. Trước tháng 7.1955,
Tiểu đoàn 3 của Bảy Môn (gồm 4 đại đội, khoảng 500 quân) đã
được cơ sở trợ giúp đánh bót Phước An, Phước Thọ khiến địch rút
chạy. Cũng chính Tiểu đoàn 3 của Bảy Môn tiếp nhận nhóm phản
chiến hình thành bộ đội Châu Văn Phú, xây dựng tổ chức đảng
trong lực lượng Bình Xuyên. Sau khi Bình Xuyên bị quân đội
Diệm đánh bại, Bảy Viễn đào tẩu sang Pháp, Bảy Môn đưa Tiểu
166

17.7 Page 167

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đoàn 3 (lúc ấy còn khoảng 200 quân) tìm về chiến khu Đ, gia nhập
đội quân đội giải phóng.
Cuối tháng 6.1955, hai đồng chí Sáu Phô và Hai Thắng - Ủy
viên Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa lại về Bến Cộ, cho chủ trương
nội tuyến Châu Văn Phú làm binh biến rồi kéo đơn vị ra rừng1.
Theo kế hoạch, đơn vị Phú ra căn cứ sở Dừa2 mang danh lính Bình
Xuyên. Huyện ủy phải trực tiếp lãnh đạo toàn diện. Đơn vị của
Phú lập công đầu diệt đội Lạc.
Đúng 6 giờ chiều ngày 22.9.1955 đơn vị hẹn tập kết tại cầu
Bà Cổ; khoảng 1 giờ đêm 22 rạng 23.9.1955 anh em binh sĩ xử tội
tên Lạc, đốt đồn, kéo toàn bộ lực lượng về với căn cứ cách mạng
ở sở Dừa.
Đầu tháng 10, Thường vụ Huyện ủy quyết định rút năm đảng
viên ở năm xã đưa vào đơn vị Phú, lập chi bộ: Nguyễn Văn Sơn
(ở xã Long Tân) làm Bí thư chi bộ, Mười Tuồng (xã Phú Hội), Tạ
Nông (xã Phước Thọ), Chín Nhẫn (xã Phước Nguyên) và Mười
Hương (xã Tam An). Chi bộ các xã Phú Hữu, Đại Phước, Phước
Khánh chuẩn bị đưa đoàn viên thanh niên cốt cán thay thế. Thường
vụ Huyện ủy đặt vấn đề: Từ nay trở đi, thường vụ trực tiếp lãnh
đạo toàn diện đơn vị của Phú (mang danh quân Bình Xuyên) để
hoạt động theo chủ trương của Huyện ủy. Tiếp theo, Huyện ủy
Long Thành - Nhơn Trạch bổ sung 18 thanh niên cốt cán đưa về
1  Giữa tháng 10.1953, tổ công tác binh vận vận động bà Nguyễn Thị Tư (Tư Nhiễu) có
chồng bị Pháp bắn thả xác trôi sông Ông Kèo thuyết phục con trai Châu Văn Phú tham
gia cách mạng. Phú là thanh niên hiền lành, cương trực, bị bắt lính bảo an đóng ở Nhà
Bè, sau làm đồn phó đồn Phước Khánh. Nhận được thư của mẹ, Phú đồng ý làm nội
tuyến, lập nhiều chiến công.
2  Sở Dừa vốn là đồn điền trồng dừa do một linh mục người Pháp lập ở vùng Phước
Khánh từ cuối thế kỷ XIX, diện tích khoảng hơn 250 ha, kinh doanh không thành công,
buông bỏ. Nơi đây trở thành căn cứ kháng chiến ở huyện suốt giai đoạn chống Pháp
và chống Mỹ.
167

17.8 Page 168

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
đơn vị do đồng chí Nguyễn Quốc Chánh (quê ở Long Thành) làm
đội trưởng, trong đó có các đồng chí Lương Văn Nho (Hai Nhã)
và Nguyễn Minh Ninh (Năm Ninh)1.
Châu Văn Phú vui mừng nhận chủ trương của Huyện ủy về
việc điều động 5 đảng viên lập chi bộ đơn vị, đề nghị được lập
công bằng việc đánh một vài đồn bót ở Phước An, Phước Thọ,
trừng trị bọn Ký, Hải, đại úy Lê Thành Kham - những tên ác ôn
khét tiếng không thua gì đội Lạc. Lúc này bọn mật vụ của Diệm
bám sát địa bàn như đỉa đói. Số lính ở kho đạn Thành Tuy Hạ và
chính quyền Sài Gòn có âm mưu cướp 300 mẫu ruộng do kháng
chiến trước đây tạm cấp cho hàng trăm hộ nông dân đang cày cấy
ở cù lao Ông Cồn. Chúng nêu là để mở rộng vành đai bảo vệ kho
đạn.
Chiều ngày 11.10, “lính Bình Xuyên” do Châu Văn Phú chỉ
huy đã phục kích, đánh mìn lật xe jeep tại dốc Lớn diệt gọn ba tên
ác ôn Ký, Hải và Lê Thành Kham. Đơn vị vũ trang mang danh
nghĩa Bình Xuyên của Châu Văn Phú và Đào Thanh Xuân đột vào
vũ trang tuyên truyền ở ấp Thị Cầu - ngã ba Vườn Chuối. Cuối
tháng 8.1956, anh em đụng bọn dân vệ do đội Ngân cầm đầu.
Súng đôi bên nổ dữ dội. Phú bị thương nặng, trụ lại để anh em
thoát qua sông. Sáng hôm sau, bọn đội Ngân, cai Dần lò dò kéo
đến. Phú bình tĩnh bắn từng phát, địch hoảng hốt không dám tiến
lại gần. Viên đạn cuối cùng Phú dành cho mình. Đồng bào, đồng
chí và gia đình vô cùng thương tiếc, nhớ mãi anh. Phú hy sinh
ngày 19.7 năm Bính Thân (nhằm năm 1956).
1  T heo lời kể của đồng chí Nguyễn Minh Ninh trong sách Lực lượng vũ trang tình Bà Rịa -
Vũng Tàu: Biên niên sự kiện 1945 - 2015, năm 2020: 18 đồng chí này sau trở thành nòng
cốt của Đại đội 445, phát triển thành Tiểu đoàn 445 anh hùng.
168

17.9 Page 169

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Năm1956, Huyện ủy chỉ thị: Cán bộ, đảng viên không được
tham gia học tố cộng và tổ chức vận động quần chúng tẩy chay
tố cộng bằng mọi hình thức. Dưới sự chỉ đạo của tỉnh, tháng 4,
Huyện ủy thành lập Ban Binh vận, chủ trương tăng cường gài
người vào chính quyền Sài Gòn để tạo thế lâu dài và trước mắt là
hạn chế sự đánh phá ở cơ sở.
Thực hiện chủ trương đó, Phú Hữu, Phước An, Bình Sơn,
Long Phước, Tam Phước, Long Tân đã đưa được một số cán bộ
kháng chiến cũ, đảng viên vào hội đồng xã, đưa thanh niên vào
dân vệ. Lực lượng này hoạt động ngay, phân hóa hàng ngũ của
địch, lôi kéo những phần tử lừng chừng. Do đó, hoạt động tố cộng
của địch ở cấp xã không đều khắp và gắt gao như chúng muốn.
Học chỉ có tính hình thức, ai đi thì đi, không đi thì thôi. Trong khi
đó các Hội Ái hữu vẫn hoạt động tạo được sự gắn bó trong quần
chúng, bảo vệ được cán bộ và cơ sở.
Đầu tháng 6, đồng chí Sáu Phong, Phó bí thư Huyện ủy đi
nhận Chỉ thị 4 HBC của Trung ương về. Nội dung chính của chỉ
thị này là điều lắng mai phục, đưa đảng viên vào quần chúng để
bảo vệ lực lượng và xây dựng cơ sở trong quần chúng.
Việc triển khai Chỉ thị 4 HBC ở Long Thành bước đầu có
khó khăn. Hầu hết cán bộ đảng viên đều lo lắng. Một số không
muốn ra vì sợ địch bắt. Tuy vậy, sau hai tháng quán triệt từ Huyện
ủy tới cơ sở, các cán bộ đảng viên vẫn chấp hành nghiêm chỉnh
chỉ thị của Đảng, lần lượt ra dân tạo thế hợp pháp xây dựng phong
trào. Chỉ riêng cấp ủy huyện vẫn giữ bán công khai để nắm và chỉ
đạo phong trào toàn huyện.
Đầu tháng 12.1954, đồng chí Vũ Khánh (tức Vũ Hồng Phô)
được Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư Quận ủy Long
Thành thay cho đồng chí Trần Bình Khê. Từ vùng Mỹ Lộc (Tân
169

17.10 Page 170

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Uyên), đồng chí được giao liên tỉnh đưa theo đường dây bí mật
qua địa bàn An Hòa Hưng về tới xã Tam Phước. Để bắt liên lạc
với giao liên tỉnh, các đảng viên ở Tam Phước lúc đó thường giả
làm dân đi giăng câu bên bờ sông Buông. Tại đây, một đảng viên
trong vai một “ông già câu cá” đã đón đồng chí Vũ Khánh đưa về
Phước Nguyên. Từ đây, theo đường dây bí mật đồng chí về Rừng
Sác (Phước Thọ) để họp Huyện ủy và nhận nhiệm vụ thay đồng
chí Trần Bình Khê về Khu nhận nhiệm vụ mới.
Quận ủy Long Thành đóng tại căn cứ Rừng Sác, có các đồng
chí Chín Hinh và Sáu Tưởng (người thuộc lòng địa bàn Phước
Khánh) làm công tác giao liên, bảo vệ. Lính đặc cảnh miền Đông
và công an địch thường giả dạng người làm củi, đánh bắt thủy sản
trong khu vực Rừng Sác để khai thác, nắm tin tức của cách mạng.
Vì vậy, Quận ủy Long Thành phải thay đổi, di chuyển thường
xuyên (trong vùng căn cứ) để bảo đảm bảo bí mật, bảo toàn lực
lượng. Chiến sĩ chủ yếu là ngủ ghe, còn cán bộ, đảng viên, cơ sở
đến họp quy định chỉ cho gặp ngoài căn cứ.
Tháng 1.1955, tại căn cứ Rừng Sác ở Phước Thọ, Hội nghị
Ban chấp hành huyện Đảng bộ Long Thành được tổ chức. Hội
nghị đánh giá tình hình của địa phương và đề ra chủ trương: “Tiếp
tục tuyên truyền thắng lợi của hiệp định, vận động nhân dân tăng
gia sản xuất, xây dựng các tổ chức quần chúng hợp pháp; kiện
toàn cơ sở Đảng ở tất cả các xã”.
Huyện ủy phân công các đồng chí ủy viên về từng địa bàn chỉ
đạo trực tiếp, xây dựng phong trào đấu tranh: đồng chí Út Mười
Hai (tức Út Vồ) phụ trách khu vực Tam An, An Lợi; đồng chí Ba
Đông phụ trách địa bàn Long An, Long Phước; đồng chí Tám
Tánh phụ tách xã Phú Hội, Long Tân; đồng chí Mai Hiển Thái
(Ba Thái) phụ trách vùng đồn điền cao su; đồng chí Tư Lộc về
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý, Phú Thạnh; đồng chí Võ Văn
Lượng (Tư Định) phụ trách địa bàn Phước An, Phước Thọ1...
Phong trào đưa dân về làng cũ được đẩy mạnh. Hàng trăm
héc ta ruộng đất ven sông Đồng Nai, Đồng Môn thuộc xã Tam
Phước, Tam An, Long Điền, Long Tân bị bỏ hoang trong suốt
những năm chiến tranh giờ đây tấp nập người về canh tác. Nhiều
hộ dân vốn nghi ngại cất nhà ven lộ 17, 19 giờ cũng dời cả xuống
các khu vườn an tâm sinh sống, làm ăn. Các khu dồn dân trước
đây trống vắng dần. Thị trấn Long Thành là nơi tập trung khá đông
dân trước đây cũng thưa hơn do nhiều người trở về quê cũ sinh
sống. Các vùng đất hoang vắng ở Long Thành trong những năm
tháng chiến tranh ác liệt bắt đầu được nhân dân về khai hoang,
dựng nhà. Chợ, trường học trong các xã, ấp được dựng lại. Ở
những vùng công nhân cao su Bình Sơn, Siph. khí thế quần chúng
rất mạnh. Thắng lợi của cách mạng và phong trào đấu tranh mạnh
mẽ của công nhân cao su trong kháng chiến còn sâu sắc khiến bọn
cai xu không dám hung hăng như trước.
Trong tình hình đó, Huyện ủy chủ trương xây dựng các tổ
chức quần chúng hợp pháp nhằm tập hợp lực lượng, tăng cường
tuyên truyền, giáo dục nhân dân và đấu tranh khi cần thiết. Các
xã đều xuất hiện hội đình, hội chùa, hội lương hữu, hội banh mỗi
hội đều có đảng viên làm nòng cốt và thu hút hàng trăm hội viên.
Đông nhất là các hội mang màu sắc tín ngưỡng dân gian: Tam
Phước có tổ chức “Nam quan”, “Nữ quan”. Ở Phước Thái lập hội
“khai sơn” của những người làm nghề rừng với 200 hội viên. Ở
Bình Sơn có tổ chức “Nữ Oa”.
Các cán bộ kháng chiến được đưa vào lãnh đạo các tổ chức
quần chúng để hướng dẫn hoạt động. Hội viên tùy hảo tâm, tài lực
1  Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý, Phước An, Phước Thọ nay thuộc huyện Nhơn Trạch.
171

18.2 Page 172

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
của mình đóng góp tiền cho hội làm quỹ sinh hoạt. Hình thức vạn
cày, vạn cấy trong nông dân hay ca, kíp trong công nhân đã tạo
nên sự gắn bó, sự tương thân tương trợ trong hội viên giúp nhau
tăng gia, sản xuất. Các hội hoạt động công khai, nhưng bên trong
ta đã bước đầu hình thành các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông
dân có Ban cán sự, có đóng hội phí hàng tháng. Thông qua các
hội đoàn quần chúng, các chi bộ tập hợp được quần chúng, tuyên
truyền làm thất bại âm mưu gây mất đoàn kết của địch. Thông qua
những buổi họp hội, cán bộ, đảng viên lồng vào nội dung tuyên
truyền thắng lợi Hiệp định Genève, đồng thời từng bước xây dựng
cơ sở, giương cao khẩu hiệu đấu tranh: “không được trả thù người
kháng chiến cũ”, “Thực hiện Điều 14C của Hiệp định”.
2. Lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ,
thi hành Hiệp định Genève
Từ tháng 3.1955, chính quyền tay sai Sài Gòn bắt đầu bố
trí một bộ phận đồng bào ở miền Bắc di cư vào Nam vào Long
Thành. Chỉ trong vòng 4 tháng, số đồng bào di cư đã lên tới trên
7.000 người và hình thành các trại định cư ở Liên Kim Sơn vòng
ngoài thị trấn; ở Phước Lý, Ông Kèo bao quanh phía nam Lòng
Chảo, tổng kho Thành Tuy Hạ và đông nhất là ở Phước Khánh với
gần 4.000 người. Thực tế cho thấy, việc chính quyền địch lấy đất
của người dân địa phương để lập trại đưa đồng bào di cư đến, kèm
theo những chính sách mị dân như cấp đất, khoanh vùng, cấp đồ
dùng, vật dụng, làm nhà, cho tự do khai phá rừng Giồng, Rừng
Sác nhằm thực hiện âm mưu tạo ra một vành đai bảo vệ những
khu vực quan trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm; đồng thời
tạo nên sự mâu thuẫn giữa người miền Nam người miền Bắc, chia
rẽ tôn giáo, tín ngưỡng giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo ở địa
phương. Đây là một âm mưu thâm độc của địch nhằm chia rẽ khối
đại đoàn kết của nhân dân ta.
172

18.3 Page 173

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trong năm đầu nắm chính quyền, Ngô Đình Diệm tiến hành
thanh trừng các lực lượng vũ trang giáo phái thân Pháp và chống
đối chính quyền Sài Gòn để thống nhất, xây dựng quân đội tay sai
thân Mỹ. Đầu tháng 5-1955, gần 4.000 quân của lực lượng Bình
Xuyên do Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) cầm đầu sau hơn một tháng
chống cự với quân đội Sài Gòn, đã rút về Rừng Sác của Long
Thành với ý đồ biến vùng này thành căn cứ chống chính quyền
Ngô Đình Diệm lâu dài. Các đơn vị của lực lượng Bình Xuyên
đóng rải trong các xóm ấp Rừng Sác1. Tình hình an ninh trật tự của
huyện Long Thành mất ổn định khi lực lượng Bình Xuyên tràn
về. Nhiều người dân vô tội bị lính Bình Xuyên giết người cướp
của, ghe thuyền của dân chài bị cướp giật, nhiều người bị bắt đi
làm không công để xây dựng căn cứ cho quân Bình Xuyên. Thậm
chí, ở một số xã, quân đội Bình Xuyên đòi thành lập chính quyền
riêng.
Trước tình hình đó, Quận ủy Long Thành đề nghị về Tỉnh
ủy Biên Hòa và Xứ ủy cho hướng giải quyết vấn đề đối với quân
lính Bình Xuyên và vấn đề dân di cư do địch đưa đến. Song song,
nhằm ổn định tình hình của địa phương, hạn chế những tổn thất
do chúng gây nên đối với nhân dân, Quận ủy Long Thành chỉ đạo
cho các xã có lực lượng Bình Xuyên đóng tích cực liên hệ, vận
động để phân hóa hàng ngũ chỉ huy, lôi kéo những phần tử tiến bộ
về với cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, đồng bào các
xã, các gia đình có lính Bình Xuyên đóng đã đối xử tốt hơn với
lực lượng này và tạo điều kiện cho sự tiếp xúc giữa cán bộ của ta
với chỉ huy, binh lính. Công tác vận động đối với lực lượng Bình
1  T iểu đoàn 3 của Võ Văn Môn (Bảy Môn) đóng dọc địa bàn Phước An, Phước Thọ. Đài
phát thanh đặt trên tàu do Lại Hữu Sang phụ trách ngày ngày chạy từ sông Ông Kèo ra
sông Lòng Tàu bêu xấu, khiêu khích đánh nhau với quân đội Diệm. Đại đội Bình Xuyên
do Ba Phú chỉ huy đóng ở Phước Khánh
173

18.4 Page 174

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Xuyên đã đem lại những kết quả đáng kể1. Vừa vận động, ta vừa
đưa người của cách mạng vào hàng ngũ Bình Xuyên. Lợi dụng sự
mâu thuẫn giữa quân Bình Xuyên và quân lính Diệm, ta vận động
binh lính Bình Xuyên tiêu diệt một số tên ác ôn tại địa phương.
Ban Địch vận Xứ ủy Nam Bộ đã cử đồng chí Nguyễn Trọng
Tâm (Bảy Tâm), về Long Thành liên lạc với Huyện ủy. Đồng
chí Bí thư Huyện ủy Vũ Hồng Phô trực tiếp đưa đồng chí Bảy
Tâm về ở nhà đồng chí Nguyễn Văn Thông ở ấp Bến Cộ, xã Đại
Phước, bám các xã Phước An, Phước Thọ để thâm nhập vào lực
lượng Bình Xuyên gặp Ban chỉ huy Tiểu đoàn 3 Bình Xuyên, từng
bước giáo dục và hướng lực lượng này về với nhân dân. Đồng chí
Võ Văn Lượng, Bí thư chi bộ Phước An thông qua Nguyễn Văn
Chiêm (Phó bí thư chi bộ Phước An), nguyên là cậu vợ của Võ
Văn Môn đã nắm được tình hình nội bộ lực lượng Bình Xuyên để
báo cáo cho Huyện ủy.
Tháng 8.1955, Ngô Đình Diệm chuẩn bị mở chiến dịch tấn
công vào căn cứ Rừng Sác. Lực lượng Bảy Viễn đã bị phân hóa
lại càng hoang mang. Lúc bấy giờ, Bảy Viễn phải cử Bảy Môn tìm
gặp Huyện ủy Long Thành. Sau khi xin ý kiến của Tỉnh ủy, đồng
chí Vũ Hồng Phô, Bí thư Huyện ủy gặp Bảy Môn tại nhà một cán
bộ xã Phước An. Tại cuộc họp này, đại diện lực lượng Bình Xuyên
đề nghị: xin được gặp đại diện Xứ ủy Nam Bộ, được đứng chân
trên đất Long Thành, được tiếp tế và quan hệ với cách mạng, được
cung cấp tin tức... để chống lại chính quyền Diệm. Đây là một cơ
hội và điều kiện thuận lợi để ta lôi kéo những lực lượng tiến bộ
trong Bình Xuyên về với cách mạng2.
1  Đ ược sự đồng ý của Huyện ủy, tháng 7.1955 các đồng chí ở Phước An, Phước Thọ đã
vận động Tiểu đoàn 3 bao vây bức hàng đồn Phước Thọ. Tên Đáp đoàn trưởng cùng
toàn bộ đại đội ở đồn này phải đem súng ra đầu hàng. Tiếp đó Tiểu đoàn 3 bức rút đồn
Phước Long. Quân Diệm ở Phước Thiền co lại trong đồn bót.
2  T iểu đoàn 3 và Ban chỉ huy của Bảy Môn đã ngã về cách mạng. Lực lượng Ba Phú ly khai
Bảy Viễn và liên lạc phối hợp với các chi bộ khu III.
174

18.5 Page 175

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Tháng 8.1955, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm, Vũ Khánh (Bí
thư Huyện ủy Long Thành), Mười Thọ đã tổ chức cho đồng chí
Võ Văn Khánh (Bảy Khánh), Xứ ủy viên dự khuyết đại diện Xứ
ủy Nam Bộ, đồng chí Phạm Văn Thuận (Bí thư Tỉnh ủy Biên
Hòa) theo đường hợp pháp về Phước Thọ, ra tàu Ban chỉ huy Bình
Xuyên làm việc. Nhưng đó cũng là thời gian chính quyền Sài Gòn
mở cuộc tổng tiến công trong chiến dịch “Hoàng Diệu” đánh vào
Rừng Sác để tiêu diệt lực lượng Bình Xuyên do Lê Văn Viễn cầm
đầu1. Đồng chí Bảy Khánh từ tàu Bảy Viễn về được một ngày thì
quân Diệm nổ súng tấn công Bình Xuyên.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, đồng bào ở các xã có chiến sự
gấp rút di tản chỉ để lại lực lượng thanh niên, trung niên bảo vệ nhà
cửa, tài sản. Tiểu đoàn 64 quân chính quy của chính quyền Diệm
tấn công Tiểu đoàn 3 Bình Xuyên và chiếm xã Phước Thọ. Mặc
dù chỉ có vài trận đụng độ nhỏ nhưng tinh thần quân Bình Xuyên
đã rệu rã nên chỉ chưa đầy nửa tháng, 4.000 quân Bình Xuyên đã
bị quân của chính quyền Diệm đánh tan. Viên chỉ huy Bình Xuyên
là Lê Văn Viễn bỏ chạy ra Vũng Tàu rồi sang Pháp.
Nhân thời cơ này, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa,
Quận ủy Long Thành đã nhanh chóng nắm các đơn vị Bình Xuyên
trước đây có xu hướng ngả theo cách mạng. Bảy Môn cùng một
nửa Tiểu đoàn 3 được các đồng chí Tư Thái, Mười Thọ dẫn đường
vượt lộ 15 về căn cứ Suối Cả của tỉnh. Một bộ phận tàn quân khác
cũng thuộc Tiểu đoàn 3 do Mười Đôi, Tư Đại chỉ huy chạy về núi
Thị Vải được Quận ủy Long Thành nắm. Ở Phước Khánh, Đại đội
Ba Phú (Châu Văn Phú) tan rã gần hết chỉ còn 12 người.
1  2.1.1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố mở chiến dịch “Hoàng Diệu” truy kích, tàn quân
Bình Xuyên rút về Rừng Sác.
175

18.6 Page 176

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Quân Bình Xuyên tan rã, vũ khí vứt khắp nơi trong Rừng
Sác. Quận ủy Long Thành chủ trương cho thu gom để sử dụng.
Mặc dù thời gian này quân đội chính quyền Diệm vẫn đang truy
lùng trong căn cứ Rừng Sác, nhưng lực lượng cách mạng đã thu
gom được một lượng vũ khí, khí tài lớn do lực lượng Bình Xuyên
bỏ lại1.
Năm 1956, địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu đánh vào
phong trào cách mạng miền Đông. Bọn chỉ điểm, do thám hoạt
động mạnh, một số tên rất lợi hại như Mười Hiếm (Phước An),
Lưu, Bảy Sĩ, Bảy Nhỏ, Mum (Phú Hội), Chín Đối (Phước Thọ).
Ở Phú Thạnh, các tên ác ôn như Tư Lâm, Toàn, Tám Tiến, Út Hồ
ra sức khủng bố, chỉ điểm, bắt bớ cán bộ cách mạng, người kháng
chiến cũ lẫn người dân có cảm tình cách mạng. Xã Phú Thạnh lúc
này có chi bộ mật do đồng chí Võ Hồng Ân làm Bí thư chi bộ.
Đồng chí Võ Hồng Ân về nhà trong đêm lấy lương thực liền bị
chỉ điểm kêu lính bao vây nhà và bắt ngay, sau đó địch đày đi Côn
Đảo và bị tra tấn đến chết. Cùng bị bắt với đồng chí Ân là đồng chí
Dương Văn Thi, cán bộ binh vận Biên Hòa. Nhiều đồng chí cũng
bị khác cũng bị bắt.
Thời điểm này địch khống chế, kiểm soát tại xã Phú Thạnh
rất chặt chẽ. Toàn xã chỉ còn 2 đồng chí đảng viên, nhưng phải bật
về Xóm Hố (xã Phú Hội) và chỉ có thể bám xã theo lối “móc cần
câu”2.
Tuy nhiên, phong trào cách mạng vẫn bám rễ được trong
1  C hi bộ Phước An đã kịp thời cất giấu được hàng chục tấn vũ khí đạn dược và 2 máy
thông tin lớn. Chi bộ Phước Khánh gom giấu được 4 khẩu cối 61, gần 20 súng và rất
nhiều đạn. Đồng chí Tư Thái đưa Mười Đôi, Tư Đại đi tìm kho đạn và lựu đạn của Tiểu
đoàn 3 đã lấy được 5 ghe lớn, huy động cán bộ, đảng viên và đồng bào Phước Thọ chở
về Đồng Ông Trúc chôn giấu an toàn.
2  Cụm từ ám chỉ việc bám từ địa bàn này để từ đó đột nhập vào địa bàn khác hoạt động
rồi trở về
176

18.7 Page 177

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lòng người dân, nhất là các gia đình có con, em, người thân đi
kháng chiến. Nhiệm vụ của các cán bộ hoạt động bí mật tại các xã
lúc này là phải dựa vào quần chúng để làm nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục, xây dựng và tập hợp quần chúng, trong đó cơ bản là
các gia đình nghèo, bị địch áp bức phải đi theo hoặc làm việc cho
chúng để giác ngộ họ theo cách mạng.
Để hạn chế sự kềm kẹp của địch ở những vùng yếu, đồng
thời hỗ trợ cho phong trào thanh khiết ở các xã mạnh, Huyện ủy
chủ trương đưa lực lượng vũ trang tuyên truyền vào hoạt động.
Mùa mưa năm 1957, địch cướp 300 ha đất của do chính
quyền cách mạng cấp do dân nghèo trước đây gần 300 hộ dân
ở cù lao Ông Cồn, mục đích lập vành đai trắng bảo vệ kho đạn
Thành Tuy Hạ. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ, hai bà: Phan Thị Nho1
và Phạm Thị Hoa đã vận động và tổ chức bà con nông dân đấu
tranh bảo vệ ruộng đất. Hơn 300 nông dân, trong đó hơn phân nửa
là phụ nữ xông đến bao vây địch. Chị em quyết tâm “sẵn sàng thí
mạng, chứ không để mất đất”. Có chị em tranh thủ khuyên giải
con, em đi lính đứng về phía nhân dân. Cuối cùng, bọn địch phải
rút lui.
Cuối năm 1957, ta diệt tên Lâm, xã trưởng Long Tân. Tên
Lâm nguyên là một cán bộ kháng chiến cũ đầu hàng địch. Y quan
hệ rất chặt chẽ với quân Cao Đài kềm kẹp đồng bào trong xã để
làm tiền người dân, nhất là những gia đình kháng chiến cũ.
Đầu năm 1958, lực lượng vũ trang tuyên truyền của tỉnh sau
khi hoàn thành nhiệm vụ ở Nhà Bè, Cần Giuộc về Long Thành
liên tiếp mở nhiều đợt tuyên truyền ở các xã khu III. Truyền đơn
được rải khắp nơi, cả ngày lẫn đêm.
1  Mẹ của đồng chí Nguyễn Văn Thông, năm 2014 được phong tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng
177

18.8 Page 178

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Những chủ trương đúng hướng của Huyện ủy đã tạo thế cho
phong trào cách mạng trong toàn huyện từng bước đi lên. Đầu
năm 1958, Long Tân thành lập lại chi bộ 4 đảng viên, có căn cứ
ở Rừng Giồng nằm trên địa bàn xã. Truyền đơn qua cơ sở đã rải
được vào Phú Thạnh, tới tay công nhân sở cao su Thành Tuy Hạ.
3. Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng
Tình hình chiến trường ở Nam Bộ từ giữa năm 1959 đã có
hàng loạt cuộc đấu tranh vũ trang như Minh Thạnh (Tây Ninh);
Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một); Gò Quản Cung, Gò Măng Ða (Ðồng
Tháp); Tà Lốc, Tà Léc (Bình Ðịnh); Tam Ngân (Bình Thuận);
Nóc Ông Tía, Trà Bồng (Quảng Ngãi); Biên Hòa có trận đánh diệt
Mỹ ở Nhà Xanh ngày 7.7.1959, Long Thành đã có lực lượng vũ
trang mang danh nghĩa Bình Xuyên đánh nhiều trận diệt ác phá
kìm. Thực tế và yêu cầu chung của Nam Bộ là được chủ trương
của Trung ương Đảng chuyển sang giai đoạn mới được đấu tranh
vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị. Tháng 1.1959, Ban Chấp
hành Trung ương Ðảng họp mở rộng lần thứ 15, đã xác định con
đường phát triển của cách mạng miền Nam, vạch rõ mục tiêu và
phương pháp cách mạng ở miền Nam; xác định mối quan hệ giữa
hai chiến lược cách mạng ở miền Nam và miền Bắc, giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải phóng Miền
Nam, bảo vệ Miền Bắc, thống nhất nước nhà. Ngày 15.7.1959,
Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được thông
qua và phổ biến. Nghi quyết 15 xác định nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam; trước mắt là đánh
đổ tập đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ;
phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo
lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang; dự kiến xu hướng phát triển từ
178

18.9 Page 179

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
khởi nghĩa của nhân dân tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường
kỳ. Ðây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử đã đáp ứng đúng đòi
hỏi của thực tế, đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo
đấu tranh cách mạng, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển đi lên
của cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng, phải
chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang, là ngọn lửa thắp sáng cao
trào đồng khởi trên quy mô lớn ở Nam Bộ.
Nghị quyết đã được Đảng bộ và nhân dân miền Nam đón
nhận trong với niềm vui khôn tả, tinh thần mạnh mẽ và niềm tin
chiến thắng. Tỉnh ủy Biên Hòa nhanh chóng triển khai Nghi quyết
trong toàn Đảng bộ. Huyện ủy Long Thành tiếp nhận Nghị quyết
với quyết tâm chính trị cao, vừa phổ biến, học tập vừa triển khai
các phương án lãnh đạo xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang
trong tình hình mới.
Tin đồng khởi ở Bến Tre tháng 1.1960, chiến thắng Tua Hai
ở Tây Ninh (26.1.1960) mang đến cho quân dân Long Thành động
lực to lớn. Nhưng lúc này, Long Thành gặp nạn do Hà Tư (tên thật
là Trần Xuân Hà, Tỉnh ủy viên dự khuyết tỉnh Biên Hòa, Bí thư
Huyện ủy Long Thành) đầu hàng, chỉ điểm địch lùng bắt, sát hại
cán bộ đảng viên, gần 300 cán bộ, nhân dân bị bắt, phần lớn cơ
sở cách mạng bị đánh phá đến tan rã. Hiểm họa do Hà Tư gây ra
tai hại không kể xiết. Người dân Nhơn Trạch - Long Thành không
bao giờ quên việc phải đấu trí, đương đầu với Hà Tư. Đồng chí
Phan Thị Chi (đảng viên 70 tuổi Đảng) kể: Tên Hà Tư đóng ở căn
cứ trong khu rừng xã Tam Phước, hắn thường ở nhà chú Ba Du,
cũng thường công khai đến ở nhà má Hai Kiển ở Phước Long nên
khi đầu hàng giặc, việc đầu tiên là Hà Tư dẫn lính đến nhà chú Ba
Du bắt số cán bộ ta đang trụ ở đó, may các anh chạy thoát. Sau
đó, chúng kéo đến Long Thành bắt anh Bảy Diệp, anh Sáu Đoan,
179

18.10 Page 180

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
anh Một thợ may, (chị Hai Não chạy khỏi); rồi vô Bình Sơn bắt
anh Chiến, chị Khanh, anh Sáu Chánh, anh Hai Tuyền và một số
cán bộ khác; đến hộp thơ bắt anh Bảy Thuyền. Hà Tư nhiều lần
dẫn lính đến nhà má Hai Kiển ở Phước Long khủng bố tinh thần,
yêu cầu má Hai gọi các con về đầu hàng, má Hai Kiển phải nhiều
lần đấu lý khôn khéo hắn mới chịu buông tha. Ở Phú Hội, các ông
Huỳnh Văn Khôi, Nguyễn Văn Mến, Hai Sang, Ba Cam, Tư Nhỏ
vốn là cán bộ kháng chiến chống Pháp; sau 1954, hoạt động hợp
pháp cũng bị chỉ điểm, giặc bắt đày đi Côn Đảo đến năm 1969 mới
được thả.
Cuối tháng 02.1960, Thường vụ Huyện ủy Long Thành mới
họp được tại Xóm Hố (Phú Hội)1 phân tích tình hình và quyết
định: Phải cầm súng, phải chiến đấu; phân công cán bộ đi cơ sở
triển khai thực hiện Nghị quyết 15.
Để triển khai Nghị quyết 15, Huyện ủy chia vùng và phân
công từng Huyện ủy viên xuống phụ trách. Vùng I: các xã từ Phước
Nguyên, Tam An đến xã Tam Phước, Phước Tân là các đồng chí
Út Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba Tấn. Vùng II gồm các xã: từ Long
An đến Phước Thái là các đồng chí Ba Đông, Mười Thọ. Vùng
III gồm các xã: Phú Hội, Phước Thiền, Phước Kiển đến xã Phước
An, Vĩnh Thanh là đồng chí Tư Định. Vùng IV từ các xã: Long
Tân, Phú Thạnh đến xã Phước Khánh, do các đồng chí Nguyễn
Văn Thông và Nguyễn Văn Liềm phụ trách. Thời điểm này, đồng
chí Nguyễn Văn Liềm đã được điều về huyện, là cán bộ Huyện ủy
Long Thành, phụ trách địa bàn Phú Thạnh, Phước Lý và sở cao su
Thành Tuy Hạ.
1  Nay thuộc huyện Nhơn Trạch. Tháng 12.1959, chính quyền Sài Gòn tách Long Thành
thành 2 huyện Long Thành (tổng Thành Tuy Thượng) và huyện Nhơn Trạch (tổng
Thành Tuy Hạ)
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, Đầu tháng 3.1960, Đồng
chí Võ Văn Lượng (Tư Định) về Phước An móc nối cơ sở rút tân
binh, đào vũ khí chôn giấu từ thời kỳ Bình Xuyên, xây dựng lực
lượng vũ trang đánh địch. Chủ trương xây dựng lực lượng du kích
để đấu tranh nhanh chóng được truyền về các xã. Tại xã Vĩnh
Thanh, các đồng chí Mười Xinh, Ba Lệnh, Bảy Sang đã chỉ huy
lực lượng du kích Phú Thạnh, Đại Phước phục kích diệt tên Nghĩa
ác ôn. Nghĩa quê ở Bắc Ninh di cư vào năm 1954, sau khi cảnh
sát Ngân phải đổi đi nơi khác, địch đưa Nghĩa về thay thế. Mới về
chưa được 1 tháng, Nghĩa đã lùng sục bắt đồng chí Tám Chỉ, một
cán bộ nằm vùng của ta. Nghĩa còn tuyên bố sẽ bắt Tư Phương,
một cán bộ nằm vùng khác. Thấy tên Nghĩa nguy hiểm, sau khi
cử người theo dõi biết Nghĩa hàng ngày cứ vào khoảng từ 5 đến 7
giờ y cùng với một tên tay chân đi qua ấp Xoài Minh. Dấu hiệu là
y thường đi chiếc xe máy sơn màu vàng. Vào khoảng 3 giờ sáng,
các chiến sĩ ta đi phục kích ở hai bên đường, bố trí một người theo
dõi trên mặt đường để làm ám hiệu. Khoảng 6 giờ kém 10, thấy
Nghĩa đi xe từ phía Xoài Minh lại, người của ta nhắc ám hiệu rồi
vác đoạn chuối trên vai đi ngược lên. Khi đến gần, anh thanh niên
đó dùng cả đoạn chuối xô cho xe của Nghĩa đổ, cùng lúc đó, 3
chiến sĩ của ta xông ra chém Nghĩa chết, lấy súng rồi rút an toàn.
Tin Nghĩa chết làm cho nhiều người phấn khởi.
Đầu hôm đêm 2.11.1959, hai anh Bảy Thuyền (Trần Văn Bí)
và Sáu Cẩu (Sáu Bê) đi công tác lọt ổ phục kích của địch ở đầu
sở Đờ La. Hà Tư (Trần Xuân Hà) - nguyên Tỉnh ủy dự khuyết, Bí
thư Quận ủy Long Thành phản bội, đầu hàng đã dẫn lính bao vây
nơi đặt hộp thư mật của huyện. Bảy Thuyền và Sáu Cẩu dùng lựu
đạn và súng đánh trả quyết liệt, diệt nhiều tên. Nhưng Bảy Thuyền
trúng đạn địch, bị thương nặng vào bụng. Địch bắt cả hai đồng
181

19.2 Page 182

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
chí đem về chi khu Long Thành. Sáng hôm sau 3.11, địch cho y sĩ
đến băng bó vết thương cứa chữa Bảy Thuyền để khai thác cơ sở
cách mạng. Bảy Thuyền kiên quyết không chịu để giặc băng bó,
dồn sức dùng tay móc đoạn ruột dài và bứt đứt không tiếng rên la.
Bọn kinh hồn.
Cuối năm 1959, chính quyền Sài Gòn ủi phá địa hình làm
con đường sỏi đỏ từ ngã ba Phước Lai băng ngang Lòng Chảo1
trổ ra gần cầu Vũng Gấm, Hang Nai. Giặc âm mưu xây dựng
khu trù mật2 Hang Nai, để chia cắt địa bàn kháng chiến theo kiểu
khoanh vùng tát nước bắt cá, lấy đây làm thí điểm để lập thêm các
ấp chiến lược khác, hòng đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi Lòng
Chảo. Mặt khác, chúng bố trí dân Công giáo di cư từ miền Bắc vô
thành vành đai ngăn chặn, bảo vệ cho chúng từ Đại Phước đến khu
trù mật Phước An.
Ngày 9.9.1960, chính quyền Diệm tách quận Long Thành
thành 2 quận: Long Thành và Nhơn Trạch3. Tuy nhiên, phong trào
hoạt động cách mạng hai địa bàn này vẫn là một. Trụ sở quận lỵ
Nhơn Trạch xây dựng tại xã Phú Thạnh, ngoài chi khu Nhơn Trạch
địch còn xây dựng thêm một số căn cứ hành chính, quân sự khác.
Cuối năm 1960, Quận ủy Long Thành có chủ trương tách
thành 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Ban cán sự Quận ủy
Long Thành gồm: Bí thư Vũ Hồng Phô, Phó Bí thư Út Dồ, các
1  Gọi là lòng chảo Nhơn Trạch vì hình thái toàn vùng giống cái chảo lật úp, Hai con
đường 17 và 19 đánh đai vùng đất giồng nhô cao. Xóm làng, ruộng vườn ven hai bên
đường 17 và 19 giống như các múi mít dính cùi. Lòng chảo xưa có nhiều rừng cây cao
to, có khu vực tre mọc dày đặc, cũng có nhiều bàu quanh năm không cạn như bàu
Sen, bàu Sao, bàu Điều...
2  H ình thức tập trung dân vào khu kiểm soát ở miền Nam mà Mỹ - Diệm học kinh
nghiệm từ Mã Lai
3  Quận Nhơn Trạch gồm 14 xã: Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước
Kiểng, Phú Mỹ, Phú Hội, Phước Thiền, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh,
Vĩnh Thanh, Long Tân
182

19.3 Page 183

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Ủy viên Thường vụ: Lương Văn Tấn, Ba Đông (Võ Văn Đông),
Nguyễn Thị Hồng, một số ủy viên khác.
Ban cán sự Huyện ủy Nhơn Trạch gồm: Bí thư Võ Văn Định,
Phó Bí thư Nguyễn Văn Thông, hai Ủy viên Thường vụ Phạm
Minh Chính và Nguyễn Văn Liềm: các Huyện ủy viên Mười Thọ
(Trần Văn Thọ), Ba Vân (Nguyễn Thanh Vân), Nguyễn Văn Sơn.
Căn cứ Huyện ủy đặt tại rừng Xóm Hố, gần sở Ông Cố, xã Phú
Hội. Tại đây, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) đã thay mặt
Tỉnh ủy truyền đạt Nghị quyết 15 cho các đồng chí trong Ban
Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch, mở ra phong trào kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang nhằm củng cố lực lượng,
chuẩn bị đồng khởi trong thời gian tới.
Tỉnh ủy cử tiếp đồng chí Sáu Khánh (Vũ Hồng Phô) về Long
Thành. Đường đi của đồng chí Sáu Khánh cũng vòng vèo như
đồng chí Cát: Từ căn cứ của tỉnh về Sài Gòn, qua sông Nhà Bè
về rạch Bãi (Phú Hữu). Khi đồng chí về ở nhà ông bà Bảy ở xóm
Rạch Cá thì Hà Tư và Hai Giò đánh hơi được, dẫn địch đến bao
vây. Chúng bắt cô Trần Thị Hiến (Trần Thị Kim Thanh) 1 chèo
xuồng đưa chúng đi. Khi gần tới nhà ông bà Bảy (ông bà nội của
Hiến) cô đoán có cán bộ trong nhà nên nhanh trí vờ té xuống
sông làm xuồng chao đảo, vô nước, địch kêu la í ới. Đồng chí Sáu
Khánh nghe có động kịp thời rút êm.
4. Diệt ác phá kiềm, cùng miền Nam đồng khởi
Cùng với đấu tranh chính trị, theo chỉ đạo của Khu, Tỉnh ủy
chỉ định Huyện ủy Long Thành phải xây dựng lực lượng vũ trang
để kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị, binh vận; trước mắt
tập trung 12 thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đưa về trên học tập
1  Con gái đồng chí Trần Văn Hiệp. Đồng chí Hiệp là Huyện ủy viên bị địch bắt mùa mưa
năm 1959.
183

19.4 Page 184

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
đào tạo vào tháng 7.1957. Chi bộ xã Phước Khánh, Phú Hữu điều
động 12 thanh niên tập trung theo đường công khai đưa về huyện
(do đồng chí Thường hướng dẫn). Ngày 17.7.1957, 12 thanh niên,
trong đó có: Đoàn Danh Dự, Lê Văn Mai, Nguyễn Văn Nhân, Đào
Văn Sang, Đào Văn Tuấn, Đào Văn Tơ, Lê Văn Tư, Lê Văn Cơ
lên đường về dự lớp huấn luyện tại Chiến khu Đ. Sau huấn luyện,
các đồng chí này đã cùng các đơn vị miền Đông đánh trận Tua Hai
(26.1.1960).
Sau trận Tua Hai, Bộ chỉ huy Miền đã cử đồng chí Huỳnh
Văn Phú chỉ huy 12 chiến sĩ với 12 súng về tăng cường xây dựng
vũ trang huyện. Đoàn đến căn cứ huyện Long Thành tháng 3.1960
(lúc đó Văn phòng Huyện ủy ở hào cao su Phước Thọ - Phước
An). Trước đó, Huyện ủy đã phát động và tổ chức được một số
thanh niên ở tất cả các xã, ấp vùng IV; đầu tiên rút em Cường ở
Phước An, Dũng, Hùng, Cảm (dân Cần Giuộc lên Phước An làm
ăn); lớn tuổi nhất là chú Năm Nguyên chuẩn bị cho việc lập đơn vị
vũ trang; tiếp đó huyện đã nhận thêm11 thanh niên được gia đình
tự nguyện đưa đi kháng chiến. Như vậy, lực lượng vũ trang đầu
tiên của huyện có quân số 29 người, hình thành trung đội vũ trang
19/5 (còn gọi là 195). Trong đó, đồng chí Huỳnh Văn Phú - Chỉ
huy trưởng; đồng chí Đoàn Danh Dự - Chỉ huy phó; đồng chí Võ
Văn Định - Bí thư Huyện ủy kiêm Chính trị viên. Đơn vị tổ chức
thành 3 tiểu đội.
Đồng chí Nguyễn Trọng Cát cho ý kiến: “Khi nào đơn vị lập
được chiến công khi đó mới chính thức mang phiên hiệu 19/5”.
Để có phiên hiệu, đơn vị quyết chí lập công, ba trận đầu tiên đều
thắng.
Trận đầu tiên, bộ phận vũ trang chặn đường đánh xe đại úy
Trọng, tên này thường chạy xe zep từ Long Thành đến Phước An,
184

19.5 Page 185

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đội vũ trang chọn điểm phục kích, nổ súng, xe lật ngang, đại úy
Trọng và 2 tên lính bỏ chạy, ta xung phong, diệt 2 tên lính, thu 3
súng (1 tomson và 2 súng trường) rồi rút đi an toàn.
Trận thứ hai, chặn đánh xe địch trên đường đến Hang Nai.
Để chuẩn bị đánh trận, ta phải 2 đêm đi tải nước tận giếng nước
gần cầu Lò Rèn ở Phước Long. 20 chiến sĩ được chuẩn bị, súng
trường cùng mã tấu, phối hợp cùng 3 du kích ở Phước Lai, 2 ở
Phước Thọ. Ban đầu nắm tin, giặc chỉ 1 tiểu đội hành quân, khi ta
xung phong mới phát hiện có cả 1 trung đội bảo an. Dầu vậy, trận
đánh vẫn thắng. Mìn nổ, giặc bị sát thương nhiều, một số tên chết
tại chỗ, số còn lại bỏ chạy. Ta xông lên, thu nhiều súng đạn. Khi
rút về đến Đường Ủi, ta đụng trận với bọn lính tiếp viện, chạm
súng ác liệt, 1 đồng chí hy sinh, đồng chí Hai Sơn bị thương nhẹ.
Trận thứ ba, kết hợp nội tuyến đánh dân vệ ở Phước An, diệt
tên trưởng bót, rút đồng chí nội tuyến Chín Nóp (Phạm Minh Lý)
ra căn cứ. Đầu mùa khô 1961, Bộ đội huyện mang phiên hiệu 19/5
chính thức ra đời. Lực lượng 19/5 còn phối hợp bộ đội 445 phục
kích tốp lính mở đường rồi công đồn Phước Thọ khiến tên đồn
trưởng Thiện cùng lính trong đồn bỏ chạy, bộ đội chiếm đồn, thu
được nhiều chiến lợi phẩm. Sau đợt chống phá bầu cử chính quyền
Diệm; đồng chí Mười Nông (Tạ Nông) hy sinh, đồng chí Cảm bị
thương, đồng chí Hai Sơn về thay Mười Nông.
Trong 2 năm 1960 - 1961, hoạt động của lực lượng 19/5 tạo
nhiều thắng lợi gây tiếng vang, thúc đẩy phong trào cách mạng
phát triển với ba mũi giáp công vũ trang, chính trị, binh vận; ba
vùng tranh chấp: Vùng mạnh, vùng yếu, vùng sâu/vùng xa. Qua
đó, các cơ sở nội tuyến và gia đình binh sĩ được hỗ trợ tinh thần,
tăng thêm sức mạnh trong 3 mũi giáp công thắng lợi. Sở trường
của lực lượng 19/5 là vận dụng cách đánh thọc sâu vào vùng yếu,
185

19.6 Page 186

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
vùng sâu để lực lượng vũ trang tiếp tục tuyên truyền tạo thế cho cơ
sở quần chúng, cho du kích, đẩy mạnh hoạt động. Thắng lợi của
đơn vị 19/5 tạo phấn khởi, niềm tin trong thanh niên. Đồng bào
mừng vui hưởng ứng phong trào vận động tòng quân, không chỉ
đưa con em đi chiến đấu mà còn ủng hộ gạo, tiền bạc nuôi quân.
Ở công tác diệt ác trừ gian, lực lượng vũ trang 19/5 đã cảnh
cáo, xử tội nhiều ác gian gây thanh thế cho quân giải phóng. Tên
Lưu là cán bộ kháng chiến chống Pháp ở Phước Long, sau về Phú
Mỹ, bị mua chuộc, làm tay sai đắc lực cho giặc, chỉ hầm cho giặc
bắt chị Khánh Phương (cán bộ tỉnh), đón bắt anh Tư Thái trên
đường đi công tác, và nhiều đồng chí khác nữa. Tên Lưu tội ác
rõ ràng, lực lượng vũ trang cử người đến tận nhà, đọc bản án và
trừng trị. Tiếp đó, Một tổ vũ trang đột vào nhà tên Đối (bộ hạ của
ác gian Mười Hiếm) lúc 3 giờ khuya, bắt hắn đưa ra đường, tuyên
án rồi xử tội vì đã chỉ điểm cho giặc bắt anh Hai Lê, chị Tư Nở,
anh Trạch và một số người khác.
Ở Phước An, đồng chí Tư Định (Võ Lực Lượng) cũng dẫn
một số anh em: Nguyễn Văn Sơn, Tú Thanh, Minh Chính trừng
trị tên Mười Hiếm trong lực lượng cảnh sát đặc biệt miền Đông
(PSE).
Ở Giồng Ông Đông, Hai Thông mời ba thanh niên cơ sở:
Phạm Văn Lố, Trần Văn Thời và Nguyễn Văn Thoàng họp bàn kế
hoạch diệt tên Tư Thức - thám báo của yếu khu, kho đạn Thành
Tuy Hạ do thượng sĩ Liễu cầm đầu. Không súng đạn trong tay,
đêm đó Lố lấy con dao phay của gia đình làm vũ khí. Bốn người
đột nhập trừng trị tên Thức tại nhà, sau đó phát loa: “Sẽ trừng trị
bất kỳ kẻ nào ngoan cố làm tay sai cho địch”, ra lệnh giải tán tề ấp
Giồng Ông Đông. Tên Thức chết, bà con cả vùng rất mừng vì bớt
được một tên ác ôn gieo tai họa. Phong trào “nổi mõ” uy hiếp địch
186

19.7 Page 187

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đồng loạt ở nhiều ấp, xã làm khí thế cách mạng của đông đảo quần
chúng dâng lên cao không ngờ.
Ở Phước An, ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt chống
gom dân vào khu trù mật. Ở các xã Tam An, Phước Nguyên, Bình
Sơn, Long Phước (huyện Long Thành), phong trào diệt ác phá
kềm diễn ra sôi nổi, đều khắp. Thanh niên tham gia du kích và
tòng quân đi bộ đội giải phóng phát triển mạnh. Cơ sở bên trong
được củng cố vững chắc và đông hơn trước nhiều. Phong trào nổi
dậy ở các địa phương kế cận có tác động qua lại rất mạnh, thắng
lợi ở một nơi thúc đẩy các nơi khác xốc tới.
II. BA MŨI GIÁP CÔNG, GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI
ÂM MƯU “ẤP CHIẾN LƯỢC” VÀ “CHIẾN TRANH ĐẶC
BIỆT”
1. Phong trào Đồng khởi, phá “Ấp chiến lược”, mở rộng
vùng giải phóng
Tháng 1.1961, Ban chấp hành Huyện ủy Nhơn Trạch họp
nhằm kiểm điểm, ổn định tình hình tách huyện và phương hướng
hoạt động cả năm. Huyện ủy Nhơn Trạch bổ sung thêm các Huyện
ủy viên Năm Hà (Nguyễn Văn Sương), Bảy Bền (Nguyễn Văn
Bền) và Nguyễn Văn Quang. Ban An ninh huyện gồm 4 đồng chí
Nguyễn Văn Quang, Trần Văn Nhàn, Năm Hà (Nguyễn Văn Hà)
và Hai Thông bàn thảo xây dựng bàn kế hoạch và phân công trực
tiếp diệt ác phá kìm mạnh mẽ hơn, giành quyền làm chủ rộng hơn
ở các ấp xã, kiến nghị về tổ chức lực lượng cán bộ an ninh cấp
xã.
Tháng 3.1961, Huyện ủy tăng cường cho vùng IV tổ chức
vũ trang có 2 súng trường do anh Đoàn Danh Dự làm tổ trưởng
đặt dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy. Lúc này Nguyễn Văn Thông
187

19.8 Page 188

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
đã được đề bạc làm Phó Bí thư Huyện ủy, Trưởng Ban An ninh
huyện, Trưởng đoàn khu vực IV. Anh Minh Chính là Thường vụ
Huyện ủy, Trưởng Ban Binh vận huyện Nhơn Trạch. Nữ đồng chí
Ba Chi (Phan Thị Chi), cán bộ phụ nữ tỉnh Biên Hòa được bố trí
xuống vùng IV góp phần lãnh đạo phong trào đấu tranh ở vùng
này, chuẩn bị đồng loạt diệt ác phá kềm hai xã Phú Hữu, Phước
Khánh.
Trong cùng một đêm, ba tên ác ôn ở ấp Phước Lương bị
trừng trị, bọn tề ấp bị giải tán. Tên Mười Chục ở ấp Chợ - một
chỉ điểm ác ôn nhiều nợ máu với dân cũng bị đội vũ trang tuyên
truyền tiêu diệt tại nhà.
Ở các ấp Bến Cộ, Câu Kê, tên ác ôn Quởn cậy có lính và
cảnh sát ở quanh khá đông, y ngang nhiên hoành hành như chốn
không người. Rồi đội vũ trang tuyên truyền cũng nhờ được cơ sở
giúp đỡ đột nhập vào nhà tên Quởn, dẫn hắn ra đồng Phèn, nêu rõ
tội trạng rồi xử lý.
Không lâu sau, lực lượng cách mạng tổ chức mít tinh ở giồng
Ông Đông, tập trung bọn tề, ấp ở sân lễ trước hàng trăm bà con
tham dự, hài tội và đánh mỗi tên ba roi để thị uy rồi giải tán. Đồng
bào vui mừng hả dạ.
Còn tên đầu hàng Hai Giò, lòng dân căm phẫn, có người
treo thưởng mạng của Hai Giò bằng một thúng bánh ú. Nội tuyến
Nguyễn Văn Thoàng được bố trí đeo bám Hai Giò và bọn yếu khu
để lên kế hoạch diệt Hai Giò.
Một tình huống xảy ra: Bọn lính bảo an Nhà Bè đóng bót
Rạch Miểu đang càn bố vùng Bình Khánh, Lý Nhơn. Hiện chỉ
còn bốn, năm tên người Việt gốc Khơ-me ở lại. Cơ hội rõ nét, kế
hoạch diệt Hai Giò tạm hoãn lại để tập trung đánh bót Rạch Miểu.
188

19.9 Page 189

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Kế hoạch đánh bót được phác họa; mũi chủ lực số 1 từ Rạch Miểu
bí mật tiếp cận bót, bất ngờ lao vào vật lộn bắt sống địch, ba mũi
khác bò sát hàng rào kẽm gai, khi nghe mũi một hô “xung phong”
thì đồng loạt hô theo và tràn vào đốt bót. Nhưng lực lượng ta chỉ
hơn chục người thì không đủ bố trí như trên, nên tăng cường thêm
hơn hai chục anh em các xóm Rạch Bãi, xóm Đập Bù Mắt. 11 giờ
đêm 18.5.1961, các mũi vào đúng vị trí. Đúng như dự tính, năm
tên lính say sưa châu đầu vào ván bài. Tiếng hô “xung phong”
vang lên, anh em ập vào, đè trói nghiến cả 5 tên chưa đầy 2 phút.
Anh em thu 4 thùng lựu đạn, không để ý mấy khẩu súng chúng để
trên gác lô cốt. Khi toàn đội đi khỏi bót quãng ngắn, anh Dự nổi
lửa đốt đồn. Lửa sáng rực góc trời, bọn địch ở Nhà Bè nã pháo 105
ly cấp tập nhưng anh em đã ra khỏi mục tiêu bắn phá.
Sau trận diệt bót Rạch Miểu, đội vũ trang tuyên truyền quyết
tâm thực hiện kế hoạch diệt Hai Giò ở Phú Hữu, tên Tường ở
Phước Khánh, tên Tố ở Bến Cộ (Đại Phước). Ngày 20.5, cơ sở
xác định được chỗ ngủ của Hai Giò, cạnh nhà y có tiểu đội lính
yếu khu kho đạn Thành Tuy Hạ đóng. Tổ vũ trang tuyên truyền
đột nhập vào nhà, Hai Giò lập tức tông dậy, bỏ chạy nhưng không
thoát được, y đền tội xứng đáng. Bọn lính yếu khu không kịp ứng
cứu, bắn mấy loạt súng vu vơ và truy kích hời hợt.
Sáng hôm sau, tên Tố - mật báo viên chuyên dò la động tĩnh
cách mạng từ Đại Phước đến Giồng Ông Đông cũng bị diệt ở cầu
Giữa bởi một phát súng trường. Cùng thời gian, ở Phước Khánh
đội vũ trang tuyên truyền cũng diệt tên Tường, cảnh cáo và giải
tán bộ máy tề ấp Chợ, ấp Đèn Xanh, ấp Đạo. Ác ôn bị diệt, phong
trào đang lên, lòng dân tin tưởng cách mạng, hàng trăm thanh niên
gia nhập bộ đội giải phóng.
189

19.10 Page 190

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Hai tháng 6 và 7.1961, bộ máy các xã được chấn chỉnh: Phát
triển đảng viên lập chi bộ mật, phát triển đoàn viên lập chi đoàn,
bố trí cán bộ xã đội, nông hội, thanh niên, phụ nữ, cán bộ binh vận
cho đến tổ chức giao liên, xây dựng căn cứ cho xã Phước Khánh.
Một số chọn lựa đưa đi đào tạo cán bộ cho xã, số ít được đào tạo
cán bộ cho huyện.
Riêng ở Đại Phước, tình hình cho thấy chưa thể hình thành
khung bộ máy như các xã khác nên lực lượng xã Phú Hữu sẽ
choàng gánh cả địa bàn Đại Phước. Một số cơ sở nòng cốt như gia
đình Phan Thị Nho, Đào Văn Lịnh, Dương Văn Sinh lợi dụng thế
hợp pháp và nửa hợp pháp, đẩy mạnh việc giáo dục, tổ chức, lãnh
đạo quần chúng đấu tranh trực diện chống địch khủng bố, chống
bắt lính, chống địch đặt bộ máy kềm kẹp, đồng thời lựa rút một
số thanh niên xây dựng tổ vũ trang bám địa bàn, giúp các xóm ấp
thuộc xã Đại Phước vùng lên.
Đầu tháng 7.1961, đồng chí Minh Chính, Ủy viên Thường
vụ, Trưởng Ban Binh vận huyện Nhơn Trạch được Huyện ủy
quyết định về làm phó đoàn chỉ đạo vùng IV, đồng chí Nguyễn
Văn Thông nhận quyết định đi học lớp cán bộ an ninh do R mở,
lên đường đầu tháng 8.
Trong thời gian này (tháng 7.19611) Đại đội 240 được thành
lập với 40 cán bộ, chiến sĩ lấy từ Đại đội 380 tỉnh Thủ Biên; do
đồng chí Phạm Văn Thương làm Đại đội trưởng; đồng chí Nguyễn
Văn Bảo làm Đại đội phó; đồng chí Nguyễn Văn Bé làm Chính
trị viên; cán bộ, chiến sĩ có 42 đồng chí tổ chức làm hai trung đội
thiếu, đóng quân và hoạt động trên địa bàn khu Lòng Chảo huyện
Nhơn Trạch; từ tháng 10.1972 phát triển thành Tiểu đoàn 240. Từ
khi hình thành đến khi phát triển, Tiểu đoàn 240 là lực lượng vũ
1  Có tài liệu ghi: Tháng 1.1961.
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trang nòng cốt huyện, bám trụ, cơ động trên các chiến trường Long
Thành - Nhơn Trạch, liên tục tiến công địch, phối hợp cùng các
đơn vị khác vũ trang tuyên truyền, diệt ác phá kìm, hỗ trợ phong
trào đấu tranh chính trị quần chúng; đánh địch, chống càn bảo vệ
căn cứ; đánh phá ấp chiến lược, phối hợp chủ lực tác chiến trong
các chiến dịch lớn; làm nòng cốt trong tiến công và nổi dậy giải
phóng địa phương trong chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng1. Khi
vừa thành lập, Đại đội 240 đã cùng lực lượng huyện Nhơn Trạch
đánh diệt 1 trung đội dân vệ tại khu trù mật Hang Nai, Phước An,
thu 7 súng. Trong trận này ta hy sinh 1 đồng chí. Tháng 6.1962,
C240 cùng D800 của Quân khu đánh diệt gọn 1 trung đội bảo an
tại Phước Lai, Phước Thọ.
Các xã vùng thuộc khu vực Lòng Chảo, nhất là Phước An,
liên tục diệt ác phá kìm. Nội tuyến Phạm Văn Nốp (Phạm Thanh
Lý) cùng anh em dân vệ xã nổi dậy diệt tên xã trưởng, mang theo
gần chục khẩu súng rồi đi tham gia kháng chiến. Chị Chín Lý, chị
Tám Ngời và mẹ Nguyễn Thị Hầu kéo lên gặp quận trưởng Nhơn
Trạch đòi chồng con. Khi về xã, các chị vận động các chị vợ lính
dân vệ kéo nhau lên nhà làng dẫn chồng con về nhà làm ăn. Chưa
đầy 24 giờ, đội dân vệ Phước An tan rã hoàn toàn. Tiếp theo chi bộ
1  T rong 15 năm chiến đấu, Tiểu đoàn 240 Biên Hòa đã đánh 502 trận lớn, nhỏ, loại khỏi
vòng chiến đấu 2597 ngụy, 357 Mỹ, 115 lính Thái, bắt sống 720 ngụy, thu 756 súng các
loại, phá hủy 16 xe tăng, 82 xe quân sự, 16 xe ủi, bắn rơi 7 máy bay trực thăng, diệt 8
đồn cấp trung đội, 83 bót, diệt gọn 14 đại đội, 85 trung đội ngụy, diệt 1 trung đội lính
Mỹ, đánh tiêu hao 2 tiểu đoàn Mỹ, 1 tiểu đoàn lính Thái; trong đó có nhiều trận thắng
tiêu biểu ở địa bàn Nhơn Trạch: Đánh bại các cuộc càn của địch qui mô lớn có cố vấn
Mỹ chỉ huy vào căn cứ Lòng Chảo; năm 1962, phối hợp du kích các xã giúp nhân dân
nổi dậy phá khu trù mật Phước An, giải phóng nhiều ấp thuộc các xã Phước An, Phước
Thọ, Phước Long (lộ 19), Phú Hội, Phú Mỹ, Phước Thiền, Long Tân (lộ 17); đánh diệt
2 đại đội bảo an vào ngày 27.9.1972 ở Hang Nai, Phước An. tiến công chi khu Long
Thành, Nhơn Trạch pháo kích gây thiệt hại nặng kho bom Thành Tuy Hạ mùa xuân
Mậu Thân năm 1968; hai lần đặc công làm nổ kho bom Thành Tuy Hạ (đêm 10.4.1972
và đêm 12.8.1972)... Với nhiều thành tích tiêu biểu, năm 2012, Tiểu đoàn 240 được Nhà
nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
191

20.2 Page 192

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Phước An vận động, tổ chức lực lượng phối hợp với một bộ phận
đơn vị 19/5 bao vây đồn Gò Cát, gây cho địch hoang mang, ngăn
chặn từng bước tiến tới đẩy lùi âm mưu lập khu trù mật của địch.
Có những tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng. Chiến sĩ
Mai Văn Mực (Thắng) mới được rút từ xã lên đơn vị 19/5 gần hai
tháng, trong trận chống địch càn ấp Bà Bông, bị trọng thương, cắn
răng chịu đau, hy sinh do thiếu thuốc men. Ngày 1.11.1961 chiến
sĩ Nguyễn Văn Tư đi thư hỏa tốc từ Phú Hữu tới Phước Khánh,
bị địch phục kích ở ngã ba rạch Mương, kịp hủy thư trước khi rơi
vào tay giặc, bị tra khảo dã man, không khai báo; địch mổ bụng
rồi ném xác xuống sông Nhà Bè.
Địch bung ra càn quét, bình định các xã. Lực lượng ta khá
đông nhưng trang bị vũ khí không đủ. Do vậy cán bộ phải bám vào
ấp lãnh đạo cốt cán đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống khủng
bố, chống bắt lính, tiếp tục củng cố và phát triển cơ sở mật trong
ấp. Lực lượng lộ mỗi xã phát triển vũ khí thô sơ súng trường, súng
ngựa trời, mìn, hố đinh, bàn chông. Căn cứ phải có hàng rào chiến
đấu bảo vệ mình, nếu địch vào thì tiêu hao, tiêu diệt. Mặt khác hạn
chế đi lại trên sông rạch tránh địch phục kích. Tất cả anh em cán
bộ, du kích các xã được quán triệt đẩy mạnh phong trào thi đua
sản xuất vũ khí thô sơ, lập hàng rào chiến đấu. Chỉ trong thời gian
ngắn, các đội du kích đã làm được súng ngựa trời, súng trường
bắn viên một mà tầm sát thương không thua kém súng địch bao
nhiêu.
Tình hình vùng IV phát triển tốt, anh em Phú Hữu, Phước
Khánh vừa đẩy mạnh hoạt động bên trong các ấp vừa triển khai
công tác bảo vệ mùa màng, thu và cất giấu, vận chuyển giao nộp
cho huyện; chỉ riêng mùa 1961-1962 đã giao nộp huyện mấy ngàn
giạ mà không mất mát hư hao.
192

20.3 Page 193

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Tháng 11.1961, Tỉnh ủy điều động đồng chí Võ Văn Định
về làm Bí thư Huyện ủy Vĩnh Cửu, đồng chí Nguyễn Văn Thông
thay đồng chí Định làm Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch. Huyện ủy
Nhơn Trạch được sắp xếp củng cố: Nguyễn Văn Thông - Bí thư,
Tư Liềm (Nguyễn Văn Liềm) - Phó Bí thư thường trực, Phạm
Minh Chính - Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban Binh vận; Hai Sơn
(Nguyễn Văn Sơn) - Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng. Các
Huyện ủy viên bao gồm: Mười Thọ (Trần Văn Nhiệm), Ba Vân
(Nguyễn Thanh Vân), Bảy Bền (Nguyễn Văn Bền), Nguyễn Văn
Quang, Lê Văn Sanh.
Tháng 4.1962, địch ráo riết thực hiện kế hoạch Staley Taylor.
Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương xây dựng ấp
chiến lược, xem đây là xương sống của chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt”. Tất cả các lực lượng của địch đều bung ra, vừa đánh phá
phong trào cách mạng, vừa xây dựng ấp chiến lược để “tát nước
bắt cá”, cách ly nhân dân ra khỏi phong trào cách mạng. Nhơn
Trạch được chọn là trọng điểm xây dựng ấp chiến lược của tỉnh
lỵ Biên Hòa. Ở quận Nhơn Trạch, địch chọn hai xã Phú Thạnh và
Vĩnh Thanh là “điểm” để xây dựng ấp chiến lược.
Ở xã Vĩnh Thanh, địch lập một số ấp chiến lược liên hoàn.
Phía ngoài các ấp trồng hàng rào tre dày, kế đến mấy lớp hàng rào
kẽm gai; gài mìn nhảy và lựu đạn, đào hào ngăn đột nhập cắm
chông dưới đáy, lũy có lỗ châu mai để bắn ra ngoài. Mỗi ấp chiến
lược, địch lập một đội nhân dân tự vệ trang bị súng Mã Lai. Bộ
máy tề xã, tề ấp và các tổ chức chính trị phản động như thanh niên
cộng hòa, phụ nữ liên đới gắng với mật vụ, chỉ điểm kiểm soát
dân gắt gao.
Ở Phú Thạnh, nơi địch đặt quận lỵ, toàn xã lúc ấy có 5 ấp,
địch chủ trương tát dân vào xây dựng thành 2 ấp kiểu mẫu. Đồng
193

20.4 Page 194

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
bào ở đây chống lại bằng cách bỏ đi nơi khác, hoặc quyết ở lại giữ
nhà giữ vườn, ruộng. Ban ngày, địch gom dân vào, đến đêm bà
con bảo nhau phá rào trở về vườn cũ. Kế hoạch tát dân của địch
bị thất bại. Mặc dù xây dựng điểm chưa xong, địch vẫn tiến hành
xây dựng một loạt các ấp chiến lược, ở các xã ven theo lộ 19 và
Tỉnh lộ 17.
Để hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc xây dựng các ấp chiến
lược, địch rải quân đóng thành nhiều đồn bót ven theo các lộ 17,
19 và dọc ven theo dòng sông Đồng Môn; địch xây dựng 2 bãi
pháo 105 li tại Bến Sắn thuộc xã Phước Thiền và 1 bãi pháo đặt
ngay tại chi khu Nhơn Trạch. Địch cũng tăng cường lực lượng
bằng cách điều về đây 2 tiểu đoàn và xây dựng thêm 4 trung đội
địa phương. Bộ chỉ huy đặt tại quận lỵ.
“Ấp chiến lược kiểu mẫu” Phú Thạnh nằm giữa Bàu Lòng
và Long Tân, địch gom dân Phú Thạnh và các vùng chung quanh
vào đó. Tháng 5.1962, địch đã xây dựng xong hàng loạt ấp chiến
lược liên hoàn tại các xã Phú Thạnh, Vĩnh Thanh. Làm xong ở
Vĩnh Thanh, địch mở rộng gom tát dân các xã Phú Hội, Phước An,
Phước Thọ, Phú Mỹ, Phước Thiền. Chúng vấp phải sự chống đối
quyết liệt của đông đảo nhân dân đấu tranh chống cào nhà, dồn
dân vào ấp vì chẳng ai thích cảnh cá chậu chim lồng. Chúng ghép
những người này vào tội “theo Việt cộng kích động chống chính
quyền” đã bắt bớ, đánh đập một số bà con. Bà Hai Sửu ở Phú Hội
bị địch bắn chết. Ngay lập tức chi bộ và cơ sở mật huy động hơn
một ngàn dân Phú Hội, Phú Mỹ khiêng xác bà Hai đi từ Phú Hội,
Phú Mỹ đến Phước Thiền, khi qua các đồn bót và trụ sở xã đều
lớn tiếng tố cáo tội ác của giặc. Đoàn người hô vang các khẩu
hiệu “Đả đảo bọn bắn giết dân”, “Phải trừng trị bọn ác ôn”. Ngày
hôm sau, nhân dân nhiều xã kéo đến gặp quận trưởng Nhơn Trạch
194

20.5 Page 195

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tố cáo bọn giết người, đòi bồi thường sinh mạng. Địch hoảng sợ
buộc phải nhận yêu sách.
Huyện ủy Nhơn Trạch được Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ đạo các
cấp phải tích cực chống phá kế hoạch lập ấp chiến lược của Mỹ -
Diệm. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp bàn:
nếu phá ngay khi địch chưa xây dựng hoàn chỉnh thì ít khó khăn,
tránh tổn thất. Cơ sở mật thông báo tin tức: địch gom dân vào ấp
chiến lược, số dân bị gom còn ít, bà con bất mãn nên làm chiếu
lệ; bên ngoài ấp chiến lược đào hào chữ A, quây bằng kẽm gai, có
khúc hào đào xong, có khúc dở dang chưa có rào; ban ngày lính
canh gác, xét người ra vào rất nghiêm ngặt, từ 6 giờ tối trở đi là
có lịnh giới nghiêm, hàng đêm đều có lính đi tuần tra; ở giữa ấp
có nhà kho chứa cuốc xẻng... Đồng chí Nguyễn Văn Liềm đã đột
vào Phú Thạnh điều nghiên, vạch phương án tác chiến. Lực lượng
phá ấp chiến lược huy động khoảng 100 cán bộ, đồng bào các xã:
Phú Thạnh, Phước An, Phước Thọ, Vĩnh Thanh, Phú Hội sẽ đồng
loạt phá ấp chiến lược. Những người tham gia phá ấp chiến lược
bí mật chuẩn bị một cây dài chừng 5 mét làm cầu vượt hào. Một
đêm cuối tháng 3.1962, ta ra quân. Lực lượng vũ trang huyện 19/5
và du kích các xã triển khai đội hình bảo vệ phía ngoài. Ban chỉ
huy ra lệnh tiến công. Anh em bắc cây làm cầu vượt hào, vào phá
các sườn nhà đang dựng, phá kho lấy dao rựa, cuốc xẻng bang đất
san lấp vài đoạn hào. Khoảng một giờ sau, lực lượng ta rút lui an
toàn. Bộ đội bắn vài loạt súng thị uy để bữa sau dân bị gom có
cớ đấu tranh không làm. Sáng ra, đồng bào thấy hàng rào bị phá,
càng thêm vững lòng tin vào cách mạng, bọn địch thì ngán ngại.
Đây là trận mở màn phá ấp chiến lược đầu tiên trong hai quận
Long Thành, Nhơn Trạch. Khu ủy miền Đông cử các đồng chí Hai
Lực và Sáu Phát về kiểm tra, đánh giá phong trào đấu tranh do
Huyện ủy Nhơn Trạch lãnh đạo có bước phát triển. Rõ ràng việc
195

20.6 Page 196

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
chống phá ấp chiến lược phải kết hợp cho được hai lực lượng bên
trong và bên ngoài ấp; kết hợp được hoat động vũ trang với đấu
tranh chính trị và sự góp sức của đồng bào cơ sở bên trong ấp. Kế
hoạch ấp chiến lược của Mỹ - Diệm học tập kinh nghiệm chống
cộng ở Malaysia nhưng thất bại thảm hại ở Nam Bộ do bởi chúng
đầy tham vọng ngưng không hiểu hết văn hóa đời sống của đân
làng Nam Bộ: Yêu quê hương, bám đất bám làng, kiên cường, bất
khuất, sống chết bảo vệ từng gốc cây ngọn cỏ vườn nhà. Có Đảng
lãnh đạo, phẩm chất ấy càng trở nên mạnh mẽ, bạo lực dồn dân
vào ấp chiến lược không thể nào thành công.
2. Các đợt đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang
Ngày 3.2.1962, Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch họp
kiểm điểm tình hình, phân tích sâu sắc đặc điểm chiến lược chiến
tranh đặc biệt của Mỹ Diệm, địa bàn và nhiệm vụ chiến lược của
huyện Nhơn Trạch. Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ quyết định một
số vấn đề quan trọng:
- Thứ nhất, toàn đảng bộ, toàn dân và các lực lượng vũ trang
trên địa bàn huyện quán triệt sâu sắc đường lối vũ trang đi đôi
chính trị trên ba vùng chiến lược rừng núi - đồng bằng - đô thị,
đánh địch bằng ba mũi giáp công vũ trang - chính trị - binh vận. Ta
tấn công địch liên tục nhằm phá lỏng, phá rã tiến tới phá ấp chiến
lược. Gắn chặt việc phá ấp chiến lược với phát huy giành quyền
làm chủ của nhân dân, phát triển thực lực toàn diện cả bên trong
xóm ấp lẫn bên ngoài.
- Thứ hai, khẳng định huyện Nhơn Trạch là vị trí chiến lược
đối với ta cũng như đối với địch, cuộc chiến đấu dần dần ác liệt và
lâu dài như nghị quyết 15 của Đảng đã nêu.
196

20.7 Page 197

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
- Thứ ba, không ngừng kiện toàn, phát triển toàn diện “thế
mới, lực mới” của ta trên địa bàn huyện, góp phần cùng tỉnh không
ngừng tạo thế mới, lực mới. Muốn đạt mục tiêu này, toàn đảng bộ
và các lực lượng phải quyết tâm bám trụ địa bàn “Lòng Chảo”,
bám trụ từng ấp, xã.
- Thứ tư, thực hiện một số chủ trương cụ thể theo quan điểm
nêu trên và theo nghị quyết của Tỉnh ủy: Phát động toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân trong huyện mở đợt đồng loạt phá ấp chiến
lược. Chú trọng thu toàn bộ cọc sắt, dây kẽm gai để xây dựng ô,
ụ chiến đấu gắn với phong trào “bao vây, uy hiếp đồn bót” ở các
xã Phước An, Phước Thọ, Phú Hội, Phước Thiền. Các cơ quan
huyện, căn cứ du kích xã tổ chức xây dựng hàng rào chiến đấu,
phát triển mạnh hầm chông, hố đinh, ụ chiến đấu để bảo vệ cơ
quan, căn cứ của mình. Tăng cường chỉ đạo củng cố công trường,
sưu tầm bom đạn ở bãi hủy Bàu Sen để sản xuất mìn gài, lựu đạn
phục vụ công việc xây dựng ô, ụ hàng rào chiến đấu của các cơ
quan đơn vị. Tổ chức đào địa đạo từng cơ quan và một số xã kết
hợp với phát triển hầm bí mật trong các ấp vùng sâu và ngoài địa
hình. Thường vụ Huyện ủy tiến hành đào thí điểm địa đạo. Bí thư
Huyện ủy trực tiếp chịu trách nhiệm phác họa sơ đồ rồi điều động
một tiểu đội gồm đảng viên, đoàn viên đủ tiêu chuẩn chính trị và
sức khỏe chuyên đào địa đạo. Nội bộ tuyệt đối giữ bí mật.
- Thứ năm, Ráo riết chuẩn bị Đại hội Mặt trận dân tộc giải
phóng huyện Nhơn Trạch đúng ngày 19.5.1962.
Từ sau hội nghị, phong trào toàn huyện chuyển biến tích
cực. Đầu tháng 4.1962, các ấp chiến lược ở các xã dọc hai trục lộ
17 và 19 bị phá đồng loạt. Tỉnh chỉ đạo huyện làm thí điểm ở hai
nơi. Đồng chí Võ Văn Lượng trực tiếp dẫn hàng trăm đồng bào
các xã Phú Hội, Long Tân phá ấp chiến lược cả về nội dung lẫn
197

20.8 Page 198

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
hình thức ở chi khu Nhơn Trạch. Cùng đêm này, đồng chí Nguyễn
Văn Thông tổ chức hàng trăm bà con Phước An, Phước Thọ phá
banh khu vực trù mật Hang Nai. Tất cả số cọc sắt, dây kẽm gai
được thu gom về xây ô, ụ và căn cứ chiến đấu. Chi bộ Phước An
do các đồng chí Mười Nhứt, Năm Nguyện, Tám Ngời và Nguyễn
Thị Hầu tổ chức đưa 48 hộ dân bị gom vào khu trù mật Hang Nai
trở về nơi ở cũ, xóa sổ hoàn toàn trại tập trung - nhà tù trá hình
này.
Phong trào phá nội dung và hình thức hàng chục ấp chiến
lược rộ lên liên tục ở cả những vùng sâu như Phú Hữu, Phước
Khánh, Đại Phước. Ta giáo dục cảnh cáo hàng chục tề ấp, xã, diệt
một số ác ôn như hai tên Rõ và Rực là cảnh sát chi khu. Diệt ác,
ta phá được thế kềm kẹp của địch ở nhiều nơi, gây phấn khởi lớn
cho đồng bào trong huyện.
Việc xây dựng ô, ụ, căn cứ chiến đấu từ huyện đến xã phát
triển mạnh ở hai khu vực trọng điểm: nổng ven lộ Phú Hội, Bà
Trường, ấp chợ Phước An. Đây là mô hình chiến đấu sáng tạo ở
địa bàn Nhơn Trạch. Các đội du kích và nhân dân mấy xã trên bám
ô, ụ chiến đấu thường xuyên bao vây, vừa đẩy mạnh công tác binh
vận, vừa bắn tỉa các đồn Gò Cát (Phước An), đồn Phước Thọ, bót
Phú Mỹ, đồn Phú Hội kéo dài nhiều tháng.
Cùng với phong trào phá ấp chiến lược, xây dựng thế chiến
đấu trên chiến trường Lòng Chảo, Huyện ủy chỉ đạo gấp rút chuẩn
bị Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện. Các chi bộ xã đều
lập đoàn đại biểu địa phương mình.
Sáng 18.5.1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện
Nhơn Trạch khai mạc, có gần 30 đoàn đại biểu xã, cơ quan, ban
ngành với 250 đại biểu về dự. Đại hội diễn ra tại khu căn cứ cao
su gần bìa rừng Đồng Lớn ở Lòng Chảo. Đại hội xác định dưới sự
198

20.9 Page 199

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lãnh đạo của Đảng, quân dân toàn huyện đoàn kết một lòng, quyết
tâm góp phần cùng quân dân cả nước đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm
lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội bầu Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Nhơn
Trạch gồm các vị 1:
- Ngô Quang Thanh, đại diện giới tư sản dân tộc, Chủ tịch
Mặt trận. (Sau ông làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam tỉnh Biên Hòa).
- Nguyễn Văn Bền, Thư ký Nông hội huyện, Phó Chủ tịch.
- Nguyễn Văn Thông, đại diện Đảng Nhân dân cách mạng
huyện, Phó chủ tịch.
- Võ Văn Công, Bí thư huyện đoàn, Tổng thư ký.
- Nguyễn Tâm, Hội trưởng phụ nữ huyện, Ủy viên.
- Đỗ Thị Thanh Vân, phụ trách công nhân, Ủy viên.
- Phạm Văn Ngươn (Minh Chính), Trưởng ban Binh vận, Ủy
viên.
- Nguyễn Văn Đôi (pháp danh Thích Đạt Minh), trụ trì chùa
Dốc lớn (Đại Phước), Ủy viên
- Nguyễn Đắc Cầu, linh mục nhà thờ Phú Hội, Ủy viên.
- Nguyễn Minh Trí, đại diện giới học sinh, Ủy viên.
Còn khuyết 2 vị, sẽ bổ sung sau 2.
1  Có tài liệu ghi 13 hoặc 11 vị nhưng chỉ kể tên được 10 vị.
2  V ề Đại hội này, theo Võ Văn Ba, Trai Rừng Sác Phước An, NXB Đồng Nai, 2012, trang 118
- 119; ghi có khác đôi chỗ: Ngày khai mạc 16.1.1961, số lượng đại biểu khoảng 150;
Chủ tịch được bầu: Ông Ngô Văn Thập (Xuân Thu); các Phó Chủ tịch: Lương Văn Tấn,
Nguyễn Văn Thương; các Ủy viên: Nguyễn Minh Trí, Nguyễn Tâm, Đỗ Thị Thanh Vân, Võ
Minh Công, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Văn Đợi, Nguyễn Hữu Cẩn. Đêm mít tinh chào
mừng thắng lợi: 19.1.1961.
199

20.10 Page 200

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Đại hội thông qua Lời kêu gọi toàn thể đồng bào trong huyện
“vùng lên liên tục phá toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch,
giành chính quyền, làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người sức
của phục vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng quê
hương”. Hồi 18 giờ cùng ngày, Đại hội bế mạc trong bầu không
khí phấn khởi.
Đêm 18 rạng 19.5, tại đồng Mu Rùa, xã Phước An ta tổ chức
cuộc mít-tinh hàng ngàn đồng bào từ các xã về dự. Nhiều bà con
vùng IV phải vượt qua đồn bót giặc, đường sông rạch trên một
chục cây số với hàng trăm ghe, xuồng lớn nhỏ. Ủy ban Mặt trận
huyện ra mắt đồng bào, mọi người hoan nghênh sự thành công của
Đại hội và biểu thị quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Mặt trận.
Tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên nhằm đánh bại
Chiến tranh đặc biệt của Mỹ, các lực lượng vũ trang phối hợp
dân quân, du kích và quần chúng trên địa bàn Long Thành - Nhơn
Trạch cùng thực hiện chiến thuật “Bao, bó, tấn, lấp, diệt”, liên tục
tấn công, liên tục nổi dậy phá rã ấp chiến lược, tiêu diệt, tiêu hao
nhiều sinh lực địch, khống chế bộ máy tề ấp xã, bức rút, bức hàng
hàng chục đồn, bót ở các xã cặp trục đường lộ 17, 19 huyện Nhơn
Trạch; kết quả các đồn bót ven quốc lộ 15, lộ 19, lộ 17 bị cô lập,
ta mở rộng vùng giải phóng rộng lớn ở các xã Phước Long, Phước
Thọ, Phước An, Phú Hội, Phú Hữu ...
3. Bám trụ, chống càn, đánh địch, giữ vững thế trận nhân
dân
Đầu mùa mưa 1962, văn phòng Huyện ủy dời về nhà mẹ
Phan Thị Mỵ ở ấp xóm Hố, xã Phú Hội. Mẹ chỉ có một con gái
là Châu Thị Ngọc. Thửa vườn nhà mẹ khá rộng kề bãi đất dốc tre
mọc dày đặc. Chỉ vài người trực tiếp đào hầm bí mật dài mấy chục
mét, ăn sâu dưới lòng đất, chui ngầm các bụi tre, có thể chịu đựng
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đạn pháo 105 ly của địch, có sức chứa hàng chục lượt cán bộ xã,
huyện, tỉnh1.
Đào hầm bí mật ở đây thành công, Huyện ủy chỉ đạo nhân
rộng đào hầm bí mật ở các xã vùng kềm như Đại Phước, Phước
Khánh, các xã dọc trục đường 17 và vùng Lòng Chảo để cán bộ
có thể bám trụ mà công tác và chiến đấu. Chung quanh Lòng Chảo
Nhơn Trạch có hàng chục hầm bí mật lớn nhỏ, có hầm chứa được
một bán đội, chứa vũ khí, cất giấu tài liệu, cũng là nơi lực lượng ta
xuất kích đánh địch. Có nhiều hầm bí mật trong nhà dân, ở ấp Bến
Cộ (1 hầm), ấp Cù Lao (1 hầm), ấp Phước Lý (5 hầm), cán bộ và
du kích bám trụ ở đấy bất ngờ trấn áp, trừng trị diệt ác, phá kìm,
vận động nhân dân phá ấp chiến lược.
Từ cuối tháng 6.1962, nhằm thống nhất việc lãnh đạo phong
trào vùng các đồn điền cao su, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định thành
lập “Ban Cán sự cao su” trực thuộc tỉnh với nhiệm vụ lãnh đạo
cuộc đấu tranh trong công nhân cao su. Ban cán sự Cao su lãnh
đạo các đồn điền Trảng Bom, An Viễng, Bình Sơn, Đờ La, Thành
Tuy Hạ. Bí thư ban cán sự là đồng chí Nguyễn Thành A, đồng chí
Huỳnh Thị Phượng là Phó Bí thư.
Lúc này, địch bung ra càn quét mạnh các xã trong huyện
Nhơn Trạch. Lực lượng vũ trang 19/5 tuy khá đông, nhưng vũ khí
trang bị không đủ. Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương cán bộ phải
bám dân trong các ấp, lãnh đạo cơ sở cách mạng cốt cán đẩy mạnh
phong trào đấu tranh chống khủng bố.
1  Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, có lúc đồng chí Nguyễn Trọng
Cát và Nguyễn Văn Thông trụ ở hầm bí mật này. Gia đình mẹ Mỵ cũng như bao đồng
bào xóm Hố tận tình đùm bọc, nuôi giấu cán bộ, nhân viên văn phòng Huyện ủy suốt
từ mùa mưa 1962 đến mùa mưa 1965.
201

21.2 Page 202

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Phong trào vận động bà con trở lại quê cũ làm ăn để củng
cố, xây dựng lực lượng được triển khai tốt, bà con ở vùng Cù
Lao (Đại Phước) dần dần phục hồi sản xuất, ổn định đời sống, trở
thành cơ sở của cách mạng; các gia đình ông Năm, ông Ba Bảo,
ông Hai Thâu, bà Bảy Có, bà Chín Chứa ... là địa chỉ liên lạc tin
cậy của căn cứ Sở Dừa; nhà ông Năm là nơi nuôi giấu cán bộ
không tập kết như ông Tri Phương, Hai Thành. Từ cơ sở vững xây
dựng thành phong trào mạnh, nhiều tề xã ác gian bị tiêu diệt, cảnh
cáo; giặc bớt hống hách với đồng bào. Phong trào mạnh dần, lan
dần từ cù Lao đến Phước Lý, Bến Cộ và nhiều nơi khác.
Cuối năm 1963, lợi dụng tình hình chính trị của Mỹ - Diệm
và chế độ Sài Gòn lâm vào cảnh rối ren, binh lính khắp nơi
hoang mang, rệu rã.
Xác định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc
chiến lâu dài, gian khổ, mức độ ác liệt ngày càng tăng, cùng với
nhân dân miền Nam thành đồng Tổ quốc đang anh dũng chiến
đấu, Ban Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch hạ quyết tâm bám trụ,
đứng vững trong Lòng Chảo. Xa rời Lòng Chảo, không bám vào
dân, nhất định lực lượng cách mạng Nhơn Trạch sẽ tổn thất lớn,
không hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao.
Ban Thường vụ Huyện ủy cho lập đề án xây dựng địa đạo
để bám trụ trong lòng đất, lòng dân. Bắt đầu từ ngày 3.2.1962, địa
đạo Nhơn Trạch được khởi công. Đồng chí Mười Tâm (Lê Văn
Tâm) được giao làm đội trưởng chỉ huy 20 anh em thường xuyên
tiến hành công việc. Địa đạo có dạng chữ Chi (Z), mỗi đoạn dài
100 mét, cao 1,8 mét, bề ngang 0,8 mét. Từ mặt đất, cửa địa đạo
sau thẳng đứng từ 5 đến 7 mét rồi mới đào ngang, đảm bảo pháo
lớn hoặc bom loại nhỏ của địch ném trúng địa đạo không bị sụp.
Cửa địa đạo thường mở ở gốc bụi tre, rễ tre chằng chịt giữ đất
202

21.3 Page 203

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
không sụt lở trong mùa mưa. Để đảm bảo bí mật, khúc địa đạo đầu
tiên đào ngay dưới rừng tre xã Phước An.
Đội đào địa đạo chia thành nhiều tổ, mỗi tổ đều thi đua phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Có tổ vào rừng chặt tre, đan ki hốt
đất cho đỡ tiền mua; có tổ làm cần quay chuyển đất từ dưới sâu
lên đỡ công gánh gồng vất vả; có tổ đổ đất làm như gò mối, san
bằng hố bom và trồng cỏ ngụy trang để địch khó phát hiện. Hàng
trăm lượt cán bộ, đảng viên cơ quan huyện ủy, mặt trận, đoàn thể
của huyện luân phiên tham gia cùng đội chuyên trách của đồng
chí Tâm.
Quanh địa đạo Lòng Chảo có các cơ quan Huyện ủy Nhơn
Trạch rồi Quận ủy Long Thành đóng quân. Hàng ngàn lượt cán
bộ, chiến sĩ, hàng chục đơn vị cấp trên, cấp dưới bám trụ vùng
Lòng Chảo, Nhơn Trạch đều có dịp vào địa đạo này khi địch đánh
mạnh toàn vùng. Đầu năm 1963, văn phòng Huyện ủy và nhiều
ban, ngành, đoàn thể chuyển tới làm việc trong địa đạo. Ngày
7.1.1966 lính Mỹ càn vào căn cứ Huyện ủy, cán bộ Huyện ủy rút
xuống hầm an toàn. Ngày 8.1.1966, bom Mỹ đánh sập xương sống
địa đạo. Địa đạo tiếp tục được triển khai. Đến giữa năm 1967,
đường xương sống địa đạo đã dài khoảng 1500 mét, có thể chứa
ba, bốn trăm cán bộ chiến sĩ trong nhiều ngày.
Một hầm bí mật kiểu địa đạo nữa được làm đồng thời ở xã
Phú Hội, tại nhà cơ sở cốt cán bà Phan Thị Mỵ. Huyện ủy dự
định nếu chiến tranh kéo dài, hệ thống địa đạo sẽ phát triển nhiều
kilômét, nối liền nhiều xã, như hệ thống địa đạo Củ Chi. Nhưng
địa đạo Phú Hội chỉ đào được dăm chục mét thì ngưng để tập
trung công sức làm địa đạo Phước An.
Địa đạo Phước An đã trải qua nhiều thử thách to lớn. Sáng
24.4.1964, Mỹ - Ngụy mở cuộc càn lớn vào khu Lòng Chảo -
203

21.4 Page 204

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Phước An. Anh em du kích dựa vào địa đạo và ô ụ chiến đấu
đánh trả quyết liệt gần suốt ngày. Đội trưởng du kích Nguyễn Văn
Minh chỉ huy linh hoạt, dũng cảm. Địch ném lựu đạn vào ụ chiến
đấu, Minh bình tĩnh chụp được và ném trả, gây cho chúng nhiều
thương vong. Khi Minh đã đuối sức, địch rút chốt lựu đạn để mấy
giây rồi ném vào, anh lấy thân mình đè lên quả lưu đạn, chấp nhận
hy sinh để cứu đồng đội. Cuộc chiến đấu kéo dài gần một ngày
thì địch rút lui, 112 tên bị tiêu diệt trong đó có 2 cố vấn Mỹ. Ngay
sau trận đánh, Ban Thường vụ Huyện ủy họp khẩn cấp, kiểm điểm
việc chỉ đạo xây dựng ô, ụ chiến đấu, tìm ra những thiếu sót để kịp
thời bổ khuyết. Đồng thời, Huyện ủy công nhận đồng chí Nguyễn
Văn Minh là đảng viên chính thức. Chiều 26.4 trong cuộc lễ truy
điệu liệt sĩ có khoảng 500 cán bộ chiến sĩ và đồng bào Phước An
tham dự.
Sáng 2.1.1966 tức mùng 7 Tết Bính Ngọ, lữ đoàn 199 Mỹ
dùng trực thăng đổ xuống Bàu Điền cách địa đạo khoảng 1,5
kilômét. Hàng trăm xe tăng, thiết giáp, xe GMC chở quân từ Long
Thành xuống. Pháo địch dàn ở đình Long Thuận bắn cấp tập. Trên
trời hàng chục máy bay các loại quần đảo. Địch nổ súng cấp tập
trước rồi quân bộ tràn lên. Bộ đội, cán bộ ta bình tĩnh đánh trả.
Quần nhau từ sáng đến trưa, bộ binh chúng giãn ra, máy bay trực
thăng bu lại bắn rocket. Sau hai loạt súng máy, quân ta bắn rơi 2
trực thăng Mỹ, 2 chiếc khác trúng đạn bị cháy.
Rạng sáng ngày 28.1.1966, Ban Thường vụ Huyện ủy họp
khẩn cấp nhận định: Có thể địch sẽ dùng phi pháo với mật độ cao,
do vậy tổ chức đánh địch ngoài công sự, đồng thời khui các ngách
bí mật chuẩn bị cho tình huống khó khăn. Sáng ngày 2.2.1966
địch nã 3.000 quả pháo các cỡ và máy bay ném hàng trăm trái
bom hòng hủy diệt địa đạo Phước An. Nhưng chỉ có 1 trái bom
204

21.5 Page 205

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
500 kilogam ném trúng làm sụp một góc địa đạo, 5 đồng chí hy
sinh do bị ngạt trong địa đạo: Minh Đức, Dũng, Ánh Nguyệt, Bé,
Nhung (mãi tới năm 1996 mới tìm thấy hài cốt), 5 đồng chí khác
bị vùi 1 ngày nhưng vẫn sống. Cuộc càn thất bại sau 7 ngày giằng
co, Mỹ Ngụy chịu nhiều tổn thất nghiêm trọng.
Sau đó, Huyện ủy tiếp tục bám trụ địa đạo này để chỉ đạo
phong trào cho đến ngày 30.4.19751. Địa đạo Nhơn Trạch một
thởi gian là nơi che chở các chiến sĩ Đoàn 10 Rừng Sác. Theo Đại
tá Lê Bá Ước: “Khoảng đầu năm 1973, tình hình rất căng thẳng,
Ở vùng Rừng Sác, địch bắn phá không ngoi đầu lên được. Vì vậy,
Đoàn 10 đã quyết định “ở nhờ” địa đạo để vừa tránh bom đạn,
vừa chữa thương cho các chiến sĩ, vừa tranh thủ chế tạo vũ khí
chiến đấu”.
Tại xã Phú Thạnh, dù là vùng yếu, là nơi đóng chân của
chi khu Nhơn Trạch với vô số các sắc lính, bọn ác ôn, chỉ điểm
rình mò ngày đêm, lúc nào cũng có nguy cơ bị bắt bớ, giam cầm,
nhưng cơ sở cách mạng tại xã đã bí mật đào hầm ở vườn ông Tám
Bình ở ấp 2, thuộc lô cao su 20, ngay trong lòng địch. Hầm bí mật
rộng đủ chỗ cho 6 người ở. Chính tại nơi này, năm 1963, lực lượng
vũ trang C240 do đồng chí Hai Quyết chỉ huy đã “chém vè” gần 2
tháng trời để điều nghiên tình hình, lên phương án diệt Tám Tho,
một tên ác ôn khét tiếng thời điểm đó.
Nói đến Tám Tho, người dân Long Thành - Nhơn Trạch đều
phải rùng mình vì mức độ tàn ác của hắn. Tám Tho vốn là người xã
Phú Thạnh, trước đó không hề có điều tiếng hay hành vi gì chống
phá cách mạng. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập,
1  Địa đạo Phước An (Địa đạo Nhơn Trạch) được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số
04/2001/QĐ-BVHTT ngày 19.01.2001.
205

21.6 Page 206

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
hắn đi lính nghĩa quân, từ đó bắt đầu nổi lên và được chính quyền
Mỹ - Diệm tin dùng, điều khiển để chống phá cách mạng. Năm
1960, hắn là Trung đội trưởng Trung đội 60, và là “con cưng” của
quận Trọng (Quận trưởng quận Nhơn Trạch). Gia đình nào có con
em, người thân là người kháng chiến cũ, hay tham gia cách mạng
là hắn giở trò khủng bố để ly khai cách mạng. Gia đình đồng chí
Phạm Văn Đạm (lúc ấy đã đi tập kết) bị hắn o ép, phải dời nhà đi
nơi khác. Đồng chí Nguyễn Phước Mừng, người xã Phú Thạnh,
tham gia kháng chiến từ năm 1960 sau đó thoát ly, vợ đồng chí
Mừng là Trương Thị Kiều có thai, bị Tám Tho o ép quá, phải giả
vờ lên ở khu Chuồng Chó1 gần Thành Tuy Hạ làm quen, đi lại với
mấy tên lính huấn luyện chó ở đây, sau đó mấy tháng thì trở về,
phao tin “lấy lính” có thai để che mắt Tám Tho, chịu gánh tiếng
xấu “lấy trai chửa hoang” để bảo vệ đồng chí Mừng. Năm 1964,
trong một buổi tối về xã Phú Thạnh hoạt động, đồng chí Mừng lọt
vào ổ phục kích của Tám Tho, bị bắn bể gót chân, đồng đội cõng
về đến Phú Hội thì hy sinh. Bà Trương Thị Kiều âm thầm đưa xác
chồng về chôn mà không dám làm đám tang.
Được sự “cổ vũ” của quan thầy là quận trưởng Trọng, sau
này là Thiếu tá Long, Tám Tho ngày càng tàn ác, bắt được cán bộ,
chiến sĩ cách mạng hắn mổ bụng, moi gan ăn ngay tại chỗ khiến
người dân rất căm phẫn. Năm 1968, cũng chính Tám Tho bắn chết
đồng chí Nguyễn Văn Phước, người xã Phú Thạnh thoát ly theo
cách mạng, trở về xã hoạt động ngay tại Bàu Trâm, ấp 3 xã Phước
Thạnh. Năm 1969, đồng chí Nguyễn Minh Quang người xã Phú
Thạnh thoát ly cách mạng, công tác tại C240 được điều về công tác
ở Biệt động thị trấn Nhơn Trạch. Đêm 12.2.1969, đồng chí Quang
đi công tác bảo vệ mùa màng ở Phú Thạnh thì rơi vào ổ phục kích
1  Đ ể canh gác kho đạn Thành Tuy Hạ, Mỹ lập một khu vực rộng lớn nuôi và huấn luyện
khoảng 100 con chó berge, người dân Phú Thạnh gọi khu vực này là Chuồng Chó
206

21.7 Page 207

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
của quân Tám Tho, bị bắn trúng chân. Sau khi bình tĩnh vùi hết tài
liệu đóng góp lương thực của bà con cho cách mạng xuống ruộng,
đồng chí cố gắng lết ra xa khu vực giấu tài liệu thì bị bắt. Bằng
máy bộ đàm, bọn lính gọi về chi khu Nhơn Trạch, lập tức có trực
thăng đến ngay, 2 tên Mỹ từ trên máy bay nhảy xuống lôi đồng chí
Quang lên máy bay. Về đến chi khu Nhơn Trạch, đồng chí Quang
rơi ngay vào tay Tám Tho. Tên này rất ác, cứ nhắm vào vết thương
để tra tấn hòng moi tin tức về cách mạng. Trải qua nhiều nhà giam
Hố Nai, Phú Quốc, năm 1973 đồng chí Quang được trao trả tại
Tây Ninh theo tinh thần của Hiệp định Paris.
C240 lên kế hoạch phục kích Tám Tho, sau gần 2 tháng
điều nghiên, nắm được quy luật đi lại của Tám Tho, đồng chí Hai
Quyết cùng một số anh em C240 quyết định tổ chức phục kích
Tám Tho và đám lính nghĩa quân tại một trại hòm ở ấp 3, gần nhà
bà Nguyễn Thị Vững, một cơ sở cách mạng. Tuy nhiên, trận đó
Tám Tho mạng lớn thoát chết vì không đi cùng đám nghĩa quân
như thường lệ. Trong trận này, hơn một chục tên lính của Tám Tho
đã bị C240 diệt.
Một tên khác cũng bị liệt vào hàng ác ôn, là Nguyễn Văn
Cẩm, thường gọi là Hai Cẩm, Trưởng Ban an ninh của chi khu
Nhơn Trạch, cũng là “con cưng” của quận trưởng Nhơn Trạch1.
Khoảng cuối tháng 7.1963, đồng chí Nguyễn Văn Thông đi
họp trên tỉnh về và phổ biến tình hình cho Nhơn Trạch. Theo nhận
định của trên, địch có thể tăng cường lực lượng và mở chiến dịch
đánh vào vùng căn cứ của cách mạng, đặc biệt khu Lòng Chảo. Vì
1  S au ngày 30.4.1975, người dân phát hiện xác của hai tên Tám Tho và Hai Cẩm nằm
cạnh nhau ở cù lao Ông Cồn với vết đạn bắn vào đầu, bên cạnh còn chai rượu và con
gà luộc đang ăn dở dang. Người dân suy đoán, có lẽ hai tên này cảm thấy nợ máu đối
với cách mạng quá lớn nên đã tự sát. Cũng có dư luận cho rằng hai tên này sau khi ăn
nhậu đã dẫn đến cãi vả, sau đó xử lẫn nhau.
207

21.8 Page 208

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
thế Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương phá tỉnh lộ 19, để cản đường
xe quân sự của địch.
Để đối phó, địch điên cuồng ném bom, bắn phá ở các ấp
Bà Trường, ấp Chợ, Bà Bông (Phước An) và nhiều ấp thuộc xã
Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Phước Kiển; giết hại và làm
bị thương hàng mấy trăm dân thường vô tội, phá hủy hàng trăm
ngôi nhà và làm hư bao nhiêu tài sản khác của bà con.
Đêm 10.10.1963, một trường hợp nổ trái hy sinh tại căn cứ xã
Phước Lai khiến phải đau lòng. Chiều hôm ấy, Ba Cang (Nguyễn
Văn Bảnh) được phép vào ấp, về gia đình hỏi vợ. Đụng phải tốp
lính đi càn, Ba Cang trở lại căn cứ, định lấy đèn dầu tự chế để thắp
sáng. Đèn tự chế của Ba Cang là một quả lựu đạn đã bỏ hết thuốc
nổ và kíp nổ, thay vào đó là dầu hỏa và tim đèn, trông giống như
lựu đạn thật. Đó là trò vui tinh nghịch thường có của các chiến sĩ
trẻ. Không ngờ, thay vì đốt đèn bằng lựu đạn giả, Ba Cang rút chốt
nhầm trái lựu đạn thật. Nhiều người chứng kiến kể lại: Lựu đạn
bật chốt, lóe sáng, Ba Cang biết đã nhầm, kêu lên, rồi ôm trọn trái
lựu đạn vào bụng, ý là để lãnh trọn riêng mình. Nhưng, lựu đạn
sát thương quá mạnh, bụng Ba Cang nát bấy, 4 đồng chí đứng gần
là Thành Trung, Thành Đào, Nghĩa, Sang bị thương nặng, cấp cứu
không kịp, hy sinh; hai nữ đồng chí Tư Nga, Ba Ngọc bị thương
nhẹ, kinh hoàng, nhớ mãi. Sự cố thương tâm được rút kinh nghiệm
về trò tinh nghịch cùng tính bất cẩn của chiến sĩ trẻ; và nỗi thương
tiếc, xác nhận trường hợp hy sinh day dứt mãi không nguôi1.
1  N hân chứng lịch sử: Nguyễn Thị Liên, xã Hiệp Phước; Trần Văn Sang (Hai Sang) ở xã
Phước Lai, Huỳnh Minh Tấn ở thị trấn Long Thành.
208

21.9 Page 209

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đặc biệt, chiều 27.9.1964 nhiều tốp máy bay địch đến ném
bom, bắn phá hơn 200 xuồng, ghe ở ngã ba Giồng Sắn 1 (Phú Hữu,
nay thuộc Phú Đông) giết hại 536 đồng bào. Tội ác tày trời của
giặc bị báo chí giải phóng và báo chí Sài Gòn lên án mạnh mẽ.
Để trả thù cho đồng bào bị thảm sát, đêm 31.10.1964, pháo binh
quân giải phóng đã bắn phá dữ dội sân bay Biên Hòa gây cho địch
nhiều tổn thất nghiêm trọng. Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương và
tổ chức đưa hàng trăm quần chúng biểu tình ở Biên Hòa, Sài Gòn
và tố cáo tội ác của chế độ Mỹ Ngụy.
Trong những năm 1963-1965, thực hiện chủ trương của Tỉnh
ủy Biên Hòa, Đảng bộ huyện Nhơn Trạch liên tiếp mở các đợt
phát động nông dân nhằm nâng cao giác ngộ cách mạng cho đội
quân chủ lực của công cuộc giải phóng dân tộc. Huyện ủy dồn sức
tổ chức học tập cho bà con mấy xã trọng điểm: Phước Thiền, Phú
Mỹ, Phú Hội, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt
của Mỹ Ngụy, chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng bước vào giai đoạn ác
liệt nhất; trực tiếp đối đầu với lính Mỹ và chư hầu trong chiến lược
chiến tranh cục bộ.
Đồng chí Văn Công Văn là trưởng đoàn cán bộ của Tỉnh ủy,
nữ đồng chí Sáu Ngàn làm phó đoàn với hơn một chục thành viên
cùng số cán bộ huyện và xã lo tổ chức các lớp. Hàng trăm nông
dân gồm trung niên và nam nữ thanh niên lần lượt thành từng đợt
đến Bến Cam (xã Phước Thiền) học trong dăm bảy ngày. Hoàn
cảnh lúc ấy chỉ cho phép tổ chức lớp có quy mô nhỏ khoảng một,
hai chục người. Nội dung cơ bản về tình hình, nhiệm vụ mới,
đường lối hai chân (đấu tranh chính trị song song với đánh địch
bằng ba mũi (chính trị, quận sự, binh vận) trên cả ba vùng chiến
1  Đ ây là ngã ba sông, nơi tụ tập ghe thương hồ từ miền Tây lên mua bán rất đông. Giồng
Sắn đã được công nhận Di tích cấp tỉnh và làm hồ sơ Di tích Quốc gia. Năm 2004, di
tích đã được trùng tu, tôn tạo.
209

21.10 Page 210

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
lược (đồng bằng, rừng núi, đô thị). Qua học tập, anh chị em xác
định rõ: Đế quốc Mỹ là kẻ thù số 1 đang thực hiện âm mưa xâm
lược miền Nam, chia cắt lâu dài Tổ quốc ta; quá trình giải phóng
quê hương là quá trình liên tục tiến công làm sụp đổ chính quyền
ấp, xã của địch để giành quyền làm chủ tại ấp, xã; ta phải không
ngừng xây dựng và phát triển thế lực ở từng ấp, xã. Toàn đảng bộ,
toàn dân, toàn quân trong huyện kiên trì liên tục đánh phá “quốc
sách” ấp chiến lược, chương trình “bình định nông thôn”, các âm
mưu “dồn dân bắt lính”, vơ vét sức người sức của địch. Bà con tố
cáo tội ác chồng chất của Mỹ - Ngụy từng gây vô vàn đau thương
cho nhân dân từng xóm, ấp, qua đó mọi người nâng cao giác ngộ
cách mạng, tinh thần yêu nước.
Ở những xã vùng sâu còn bị kềm kẹp nặng, cán bộ các đoàn
thể mặt trận, thanh niên, phụ nữ được cử xuống ấp, xã móc ráp
các nòng cốt cơ sở, tổ chức lớp học gọn nhỏ. Sau đó số này về
triển khai trong nhóm xâu chuỗi. Dù không học quy mô trong thời
gian ngắn song số cơ sở cốt cán ở xóm ấp đã nắm được cốt lõi chủ
trương, đường lối, yêu cầu của đợt phát động nông dân. Hầu hết
hội viên các ban ngành và đoàn thể thanh niên, phụ nữ, binh vận,
an ninh đã phát động sâu rộng trong nhân dân, kể cả người dân
trong ấp chiến lược (trừ một số ấp di cư ở xã Vĩnh Thanh).
Một phong trào được phát động mạnh mẽ: Phục vụ chiến
dịch Bình Giã. Hàng trăm nam nữ thanh niên hăng hái tham gia
du kích, xung phong tòng quân giết giặc, dân công tải đạn ra
chiến trường, góp phần vào chiến thắng Bình Giã vang dội (tháng
12.1964). Bà con cùng du kích phối hợp với bộ đội địa phương
của huyện tổ chức “vành đai bao bó” đồn bót địch ở Phú Hội, Phú
Mỹ, Phước Thọ, Phước An, tiến lên làm chủ nhiều ấp trong nhiều
xã. Việc phá ấp chiến lược cứ rỉ rả, lúc mạnh lúc yếu song liên tục
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đã có tác động phá lỏng, phá rã ách kìm kẹp của địch ở nhiều nơi
trong huyện. Nhiều cán bộ kiên cường bám trụ gây niềm tin tưởng
cho nhân dân như Đào Văn Lịnh, Dương Văn Sinh, Ba Thảo (Trần
Văn Thảo), Trương Văn Bông, Nguyễn Văn Mỹ. Ngày 2.12.1964,
chiến dịch Bình Giã mở màn. Bộ Tư lệnh Quân khu giao nhiệm vụ
cho Đại đội 240 cùng Tiểu đoàn 800 của Quân khu chận viện trên
quốc lộ 15 (nay là quốc lộ 51), đánh tất cả các đơn vị quân địch từ
Biên Hòa xuống chi viện cho Bình Giã - Bà Rịa. Đại đội 240 cùng
Tiểu đoàn 800 đã kiên cường bám trụ liên tục đánh viện binh địch,
có trận đánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Bom pháo của địch
đánh phá vào trận địa ta ác liệt. Liên tục 2 tháng từ khi chiến dịch
mở ra cho đến ngày 3.1.1965.
Kết thúc chiến dịch Bình Giã - Bà Rịa, Đại đội 240 cùng
Tiểu đoàn 800 đã đánh diệt và làm bị thương trên 600 tên giặc, bắn
rơi 1 máy bay, bắn cháy 100 xe quân sự, trong đó có xe tăng, thu
150 súng các loại, đã góp phần cùng quân giải phóng Miền giành
thắng lợi chiến dịch Bình Giã, đánh dấu sự thất bại của chiến lược
Chiến tranh đặc biệt của Mỹ - ngụy.
Trong phong trào đóng góp sức người, sức của cho kháng
chiến, có biết bao gương bà mẹ kiên cường, bám trụ xóm làng,
bảo vệ cán bộ chiến sĩ như má Nguyễn Thị Dương, má Trương Thị
Liễu, má Hai Bông ở Bến Cam (Phước Thiền); má Hai Phấn, má
Phan Thị Ớn, má Phan Thị Mỵ ở Phú Hội; má Ba, má Nguyễn Thị
Hầu ở Phước An; má Lưu Thị Thương ở Phước Thọ, má Huỳnh
Thị Giác ở Phước Long. Các mẹ Mai Thị Cơ, Lân Năm, Phan Thị
Nho đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ trong nhà hoặc bảo vệ cán
bộ ngoài địa hình, trong xóm ấp. Hàng chục thanh niên chiến đấu
anh dũng như Trần Minh Rạng, Lê Thanh Nhàn, Tâm, Chiến, Bảy
Ú, Hai Lục, chị Mười Lý, chị Thanh Đào. Số cán bộ đảng viên gạo
cội nêu gương bất khuất không ít: Nguyễn Văn Ngữ, Trương Văn
211

22.2 Page 212

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Giàu, Nguyễn Tri Phương, Đoàn Văn Kỉnh, đồng chí Thời (cán
bộ xã đội Phú Hữu). Chính anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Nguyễn Quyết Chiến và nhiều cán bộ chiến sĩ du kích đã trưởng
thành qua phong trào đấu tranh của nhân dân toàn huyện.
Phong trào thanh niên xung phong tòng quân và đi làm nghĩa
vụ dân công lên cao, rầm rộ, sôi nổi, điển hình là hai huyện Long
Thành, Nhơn Trạch. Hàng ngàn thanh niên đi bộ đội giải phóng
hoặc tham gia du kích địa phương, hàng ngàn lượt thanh niên,
công nhân, nông dân công tải vũ khí, lương thực, thực phẩm phục
vụ chiến trường.
Ở những ấp xã vùng sâu, địch ra sức khủng bố, kìm kẹp gắt
gao những gia đình có người thân đi kháng chiến. Tháng 3.1962,
một trung đội nghĩa quân đến dời nhà mẹ Phan Thị Nho từ ấp Bến
Cộ về Gò Phèn, treo trước và sau nhà tấm bảng đỏ ghi dòng chữ
“nhà Việt cộng”. Chúng bố trí một số lính ngay trong nhà. Mẹ Nho
lần lượt tranh thủ khéo léo giải thích cho từng người lính nguồn
gốc cảnh “nồi da nấu thịt, huynh đệ cốt nhục tương tàn” do bọn
cướp nước và bè lũ bán nước gây ra. Dần dần nhiều binh sĩ hiểu
ra, tỏ thái độ thông cảm với “gia đình Việt cộng”, nới lỏng kìm
kẹp mẹ.
Qua dư luận nhân dân, một số tề ấp không thuộc loại ác ôn
(như hai xã trưởng Thái Văn Bê, Thái Văn Sáu ở Đại Phước, Phú
Hữu) được tuyên truyền vận động thành cảm tình của cách mạng,
giúp ích rất nhiều cho kháng chiến.
Giữa năm 1965, đồng chí Nguyễn Văn Thông được điều
động làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp tỉnh Biên Hòa.
Hội đồng cung cấp tỉnh có nhiệm vụ: chuẩn bị cung ứng
lương thực thực phẩm phục vụ lực lượng chủ lực Khu đánh địch
trên quốc lộ 15. Một số cửa khẩu quan trọng vùng Long Thành
212

22.3 Page 213

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
được mở: Bình Sơn, Phước Thái, Long An, Long Phước. Ta tổ
chức quần chúng liên tục thu mua, bảo vệ, cất giấu hàng trăm tấn
lương thực thực phẩm, thuốc men; dùng hàng trăm xe đạp làm xe
thồ. Cơ sở ở tỉnh lỵ Biên Hòa bí mật vận động tham gia một số xe
be mua, vận chuyển mỗi quý hàng chục tấn gạo và thuốc từ nội ô
ra vùng Cầu Vạt, Chòi Đồng, Gia Cấp (Phước Thái) hoặc ra vùng
Châu Pha, Hắc Dịch. Hàng ngàn lượt công nhân cao su Bình Sơn
tích cực tham gia thu gom, vận chuyển, bảo vệ hàng hóa an toàn.
Ở thị trấn Long Thành có lần địch phát hiện bà con vận chuyển
hàng, mẹ Chín khôn khéo tranh thủ binh sĩ cô lập bọn cảnh sát
ác ôn để bảo vệ hàng hóa. Anh Tư Lộc (Nguyễn Văn Lung) vận
chuyển hàng từ tỉnh lỵ Biên Hòa về suối Châu Pha đã lọt ổ phục
kích của địch. Anh hy sinh giữa năm 1965, để lại một vợ yếu và
bầy con thơ.
III. ĐÁNH BẠI KẾ HOẠCH TÌM DIỆT VÀ BÌNH
ĐỊNH, CÙNG CẢ NƯỚC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968
1. Tạo thế tiến công, giữ vững vùng làm chủ
Mùa khô 1965, khi quân đội Mỹ vừa chân ướt chân ráo nhảy
vào Biên Hòa, một đoàn khoảng một chục xe vận tải thực phẩm
của Mỹ từ Vũng Tàu chạy về Sài Gòn. Các xe này chạy lưa thưa
cách quãng, chừng sợ bộ đội ta đánh phục kích. Đơn vị vũ trang
của anh Văn Công Văn dũng cảm xông ra trận bắt 4 chiếc chở đầy
đường, củ cải, bơ sữa các loại buộc lái xe quanh vào Bàu Năng
phía Đông quốc lộ 15, thuộc phạm vi xã Long Phước. Đơn vị tổ
chức chuyển hết chiến lợi phẩm về căn cứ.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, lượng lượng vũ trang
huyện, tỉnh và du kích xã tìm cách tổ chức đánh địch, chống càn.
Năm 1966, ghi nhận nhiều trận thắng lớn. Đầu năm 1966, lính
213

22.4 Page 214

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Mỹ mở đợt càn vào ấp xóm Hố, Phú Hội, đi đến đâu đốt phá, bắn
giết đến đấy. Các du kích xã Phú Hội đồng chí Đức Thắng (xã đội
trưởng), đồng chí Hai Lực (xã đội phó) cùng 6 chiến sĩ C 240 tổ
chức phục kích đánh địch, diệt và làm bị thương 50 lính Mỹ. Đó
là trận đầu tiên lực lượng đầu tiên đánh thắng và diệt được nhiều
lính chính quy của quân đội Mỹ1.
Tháng 6.1966, một trung đội Mỹ mở đường từ Bàu Điều
đến Phước Lai. Bộ đội C 240 cùng du kích Phước Lai chọn đoạn
đường gần xã Phước Lai, đặt mìn DDH10 phục kích. Lính Mỹ lọt
vào trận địa, mìn và súng cùng nổ, sau 10 phút, 15 lính Mỹ bị diệt,
trận đánh thắng lợi nhanh gọn, thu được 8 súng. Trận đánh chứng
tỏ lược lượng vũ trang địa phương đã trưởng thành, đủ sức đánh
thắng giặc sát ngay bên căn cứ giặc.Tháng 12.1966, Khi C 240
làm công tác dân vận ở Phú Hội, địch đưa lên 2 đại đội bảo an từ
chi khu Nhơn Trạch tấn công vào vị trí đóng quân của C 240; hai
bên nổ súng; hơn 20 tên lính bị diệt2.
Ngày 9.10.1966, Tỉnh ủy Bà Biên (lúc này, Biên Hòa, Long
Khánh và Bà Rịa sáp nhập, gọi là Bà Biên) có Quyết định số
028/QĐ sáp nhập huyện Long Thành và Nhơn Trạch thành huyện
Long Thành, gồm 23 xã3 và 2 thị trấn Long Thành, Nhơn Trạch.
Ngày 2.5.1967, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông có Quyết định
số 12/QĐ-K do đồng chí Phạm Lực ký, chỉ định Ban chấp hành
Quận ủy Long Thành gồm 15 đồng chí:
1  Theo lời kể của đồng chí Hồ Minh Lực - Nguyên xã đội phó Phú Hội.
2  Trận này, Đồng chí Thủy và đồng chí Đành bị thương, vẫn chiến đấu quyết liệt. Đồng
chí Đành để nghị đồng đội rút lui, mở chốt lựu đạn gài xuống bụng và bắn cầm chừng.
Giặc tràn đến, quả lựu đạn nổ tung. Đành hy sinh anh dũng, kéo theo 4 xác giặc và 6
tên khác bị thương. Giặc căm tức chặt đầu đồng chí Đành đưa về bêu ở đồn Phú Hội.
3  2 3 xã gồm: Phước Thái, Long Phước, Long An, Lộc An, Phước Nguyên, An Lợi, Tam An,
Tam Phước, Phước Tân, Long Hưng, An Hòa, Long Bình, Phước Thiền, Phước Kiểng,
Phước Lai, Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Phú Mỹ, Mỹ Hội, Long Tân, Đại Phước,
Vĩnh Thanh
214

22.5 Page 215

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
- Nguyễn Văn Thông, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy.
- Châu Văn Lồng, Tỉnh ủy viên dự khuyết, Phó bí thư.
- Phạm Minh Chính, Ủy viên thường vụ Huyện ủy.
- Nguyễn Công Hạnh, Ủy viên thường vụ.
- Huỳnh Văn Sang, Huyện ủy viên.
- Dương Văn Thà, Huyện ủy viên.
- Nguyễn Văn Sanh1, Huyện ủy viên.
- Trần Trung Tấn, Huyện ủy viên.
- Thành Minh, Huyện ủy viên.
- Nguyễn Văn Hà, Huyện ủy viên.
- Nguyễn Văn Đức, Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ Long
Phước.
- Trương Văn Bông, Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ Đại
Phước.
- Trần Văn Nhiệm (Mười Thọ), Huyện ủy viên.
- Nguyễn Nghi Phát, Huyện ủy viên, cán bộ an ninh.
- Đồng chí Nguyễn Văn Bền, Huyện ủy viên, Bí thư Long
Tân.
Năm 1966, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định
thành lập Đặc khu Rừng Sác. Theo Quyết định ngày 15.4.1966,
đặc khu Rừng Sác là một khu quân sự đặc biệt gồm một khu vực
rộng 60.000 héc ta, phía Đông giáp quốc lộ 15, phía Tây giáp sông
Soài Rạp (gồm sông Soài Rạp), phía Bắc giáp lộ 19 (không gồm
Nhơn Trạch), phía Nam giáp biển. Đây là một khu vực gồm 10
1  Theo đồng chí Nguyễn Văn Thông, là Lê Văn Sanh
215

22.6 Page 216

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
xã thuộc nhiều tỉnh khác nhau: xã Phú Hữu, Phước Khánh (thuộc
quận Nhơn Trạch tỉnh Biên Hòa), Long Sơn (Bà Trao, núi Nứa
thuộc quận Châu Đức, tỉnh Bà Rịa), xã Lý Nhơn, Bình An (quận
Nhà Bè), xã Đồng Hòa, Cần Thạnh, Tân Thạnh, Thạnh An, xã
Tam Thôn Hiệp (quận Cần Giờ). Quyết định này qui định 4 nhiệm
vụ của đặc khu Rừng Sác:
1. Xây dựng thành một khu căn cứ bàn đạp vững chắc ngày
càng củng cố, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang của khu đứng
vững tại chỗ luôn luôn tấn công địch trong mọi tình huống.
2. Chiến đấu bằng mọi cách trên các dòng sông chủ yếu là
địch trên sông Lòng Tàu, kiên quyết tiêu diệt và phá hủy thật
nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch.
3. Kết hợp chặt chẽ các tổ chức Đảng, dân chính, tiến hành
công tác tranh thủ nhân dân, xây dựng cơ sở, phát động mạnh mẽ
chiến tranh du kích trong toàn khu.
4. Bảo vệ an toàn hành lang vận chuyển chuyển hàng chiến
lược của Miền.
Các nhiệm vụ chiến lược được cụ thể hóa thành nhiệm vụ
hoạt động thường xuyên của đặc khu: Đảm nhiệm một hướng tấn
công vào cơ quan đầu não, sào huyệt cuối cùng của địch; tấn công
liên tục vào các mục tiêu, bến cảng, đánh chìm tàu chở hàng quân
sự ở cảng Nhà Bè, cảng Rạch Dừa, cảng Cát Lái, Thành Tuy Hạ,
phá hủy nhiều dụng cụ, phương tiện chiến tranh, đánh chìm tại
chỗ, đánh trúng tàu chở bom đạn, xăng dầu; dánh phá các kho
tàng có tính chất chiến lược của địch như Thành Tuy Hạ, Nhà
Bè, Cát Lái, chủ yếu là kho xăng và bom đạn; cùng với các đơn
vị B41, các đơn vị đặc công, thủy, dùng nhiều phương thức đánh
chìm cháy nhiều tàu vận tải hàng quân sự vận chuyển trên sông
Lòng Tàu, chọn đúng đối tượng là tàu chở xăng, bom đạn và dụng
216

22.7 Page 217

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
cụ chiến tranh làm chủ yếu, nhằm ngăn chặn, cản trở, gián đoạn
sông trong từng thời gian nhất định; tích cực hoạt động hỗ trợ
phong trào cách mạng địa phương, diệt ác, phá kềm, phát động
quần chúng nổi dậy và xây dựng lực lượng võ trang ở xã ấp; xây
dựng bàn đạp, hành lang, tạo thế đứng vững chắc để trong mọi
điều kiện có thể hoạt động được, có kế hoạch chống càn đánh địch
chạy vào sông nhỏ bằng thủy lôi để bảo vệ bàn đạp của ta. Trong
các nhiệm vụ nêu trên, lấy nhiệm vụ đánh chìm tàu tại cảng và
đánh các kho tàng lớn của địch làm chính.
Quân ủy Miền xác định tính chất của đặc khu Rừng Sác là
một khu quân sự chứ không phải quân khu, có Đảng ủy đặc khu
trực thuộc quân ủy Miền, phụ trách cả công tác quân chính và
phong trào cách mạng địa phương. Cơ quan chỉ huy đầu tiên của
đặc khu Rừng Sác gồm các đồng chí:
- Lương Văn Nho (Hai Nhã): Đặc khu trưởng kiêm Chính
ủy.
- Nguyễn Văn Mây (Chín Mây): Chỉ huy phó.
- Sáu Tâm (tức Sáu Điệc): Chỉ huy phó.
- Trần Việt Hoa (Mười Thà): Chỉ huy phó.
- Trần Mân (Năm Mân): Tham mưu trưởng.
- Nguyễn Văn Quảng (Năm Phòng): Chủ nhiệm chính trị.
Do yêu cầu cụ thể của chiến trường, đặc khu bổ nhiệm thêm
một số đồng chí chỉ huy:
- Cao Thanh Tao (Sáu Tao): Chỉ huy trưởng khu B (phía Tây
sông Lòng Tàu)
-Trần Thành Lập (Tám Lập): Chính trị viên khu A (phía
Đông sông Lòng Tàu).
217

22.8 Page 218

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Lực lượng của đặc khu Rừng Sác mang tên Đoàn 10, có
13 chi bộ với 285 đảng viên, 614 chiến sĩ. Cơ sở của Đoàn trên
địa bàn 10 xã với trên 20 ngàn dân, 10 chi bộ xã, 67 đảng viên,
trong đó có 12 đảng viên sinh hoạt hợp pháp. Đoàn 10 luôn có
sự gắn bó, phối hợp chặt chẽ với Huyện ủy và phong trào cách
mạng ở huyện Nhơn Trạch tạo nhiều chiến công vang dội: Đánh
chìm tàu vạn tấn Baton Rugiơ Victory trên sông Lòng Tàu (ngày
23.8.1966), rót đạn vào nội đô phá hoại lễ Quốc Khánh của chính
quyền Thiệu (1.11.1966); hai lần làm nổ tung khu kho bom Thành
Tuy Hạ (tháng 11 và tháng 12.1972), thiêu hủy kho xăng Nhà Bè
(3.12.1973).
Thời điểm cuối năm 1966, địch tiếp tục củng cố, mở rộng
kho bom Thành Tuy Hạ, từ năm 1965 xây dựng tổng kho Long
Bình, căn cứ Nước Trong, cụm pháo Bến Sắn đã được triển khai
xây dựng, giặc liên tục càn quét, đánh phá các tuyến đường sông
khu vực Rừng Sác, sông Lòng Tàu, các căn cứ của ta ở Đông quốc
lộ 15 và khu vực Nhơn Trạch. Tháng 6.1967, quân Mỹ và chư hầu
Thái Lan liên tục càn quét khắp Rừng Giồng, Rừng Sác. Máy bay
Mỹ rải thuốc hóa học khai quang ở nhiều khu vực, nhất là vùng Sở
Dừa Phước Khánh và ven sông Đồng Nai. Các vườn cây trái ở các
xã Phú Hội, Tam An, Phú Mỹ bị thiệt hại nặng nề., Quận ủy Long
Thành chỉ đạo tổ chức đấu tranh chống Mỹ rải thuốc khai quang.
Tài liệu của Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ (1974) đã
thú nhận: “Có gần 57% diện tích Rừng Sác bị phun thuốc diệt
cỏ. Khi bay ngang qua Rừng Sác người ta có cảm tưởng như một
vùng rộng lớn đất trụi hay đồng lầy rải rác vài thân cây hoặc vài
cụm cây” 1.
1  Dẫn theo Chiến khu Rừng Sác của Lương Văn Nho, NXB Đồng Nai, 1982
218

22.9 Page 219

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Vào khoảng 6 giờ sáng ngày 1.3.1967, dưới sự chỉ đạo của
các đảng viên mật như: Nguyễn Thị Ngời (Phước An), Lưu Thị
Thương (Phước Thọ), Huỳnh Thị Giác (Phước Long), Tư Trang
(Tam An), đồng bào các xã Phú Hữu, Đại Phước đã kéo đến tập
trung tại khu chợ gần bến thuyền lối ngã ba đi về xã Vĩnh Thanh.
Cùng lúc đó một số thuyền từ xã Phước Khánh, Giồng Ông Đông
cũng cập bến, đưa gần 200 đồng bào đến tham gia. Một số bà con
ở ấp Ông Kèo, ấp Xoài Minh, ấp Nhà Máy thuộc xã Vĩnh Thanh
cũng đến tham dự. Khoảng 7 giờ, đoàn người kéo về quận lỵ, mỗi
đoàn đều có 2-3 giao liên, liên tục báo cáo tình hình để Huyện ủy
kịp thời chỉ đạo. Trên đường đi đồng bào mang khẩu hiệu “Rải
chất độc hóa học là phá hoa màu của dân, là giết dân”, “Phải bồi
thường tính mạng tài sản cho dân”, “Phải thống nhất đất nước”.
Bọn cảnh sát mật vội báo về quận. Địch liền đưa một trung
đội bảo an xuống ngăn chặn. Khi bọn địch đến ngã ba gần lối rẽ
vào nhà thờ Đại Phước thì gặp đoàn biểu tình. Bọn lính lăm lăm
khẩu súng trong tay, quát tháo mọi người dừng lại không thì bắn.
Nhưng đoàn người vẫn bình tĩnh tiến lên. Má Tám Ứng đại diện
đoàn biểu tình nói: “Chúng tôi cày cấy trồng trọt, các ông rải chất
độc làm cho chết hết lúa, hoa màu, như vậy là các ông giết dân
rồi. Chúng tôi lên hỏi quận trưởng xem lời tuyên bố của ông ta
như thế nào khi ông về làm quận trưởng ở đây, nào là thực hiện
dân sinh, dân chủ, nào là hạnh phúc, ấm no, vậy rải chất độc có
đúng với lời ông ta không?”. Nghe má Tám Ứng nói, bà con ùa lên
phía trước. Bọn lính khiếp sợ vì số người quá đông, không ngăn
cản nổi, vội về quận báo tin. Khi đoàn người tới quận thì lúc này
đồng bào các xã Phú Hội, Long Tân, Phú Thạnh đang trà trộn từ
trước trong phiên chợ Phú Thạnh, cũng xuất hiện gia nhập cùng
đoàn biểu tình và kéo vào quận lỵ. Bọn lính, bọn nhân viên bảo vệ
lẩn trốn. Đồng bào hô lớn: “Yêu cầu quận trưởng ra nói chuyện”.
219

22.10 Page 220

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Lúc đầu Trương Bảo Thiện lánh mặt, cho Chánh văn phòng là Võ
Văn Loài ra tiếp. Đồng bào không chịu, làm dữ, ném đá. Tình hình
căng thẳng buộc tên quận trưởng ra tiếp dân. Trước lý lẽ đanh thép
của đồng bào, tên này chối quanh: “Việc này là do ở trên mấy ông
ấy làm, tôi không can dự”. Trương Bảo Thiện hứa sẽ thỉnh thị về
trên, đền bù tài sản của dân đã bị phá hủy và không rải chất độc
hóa học nữa. Đồng bào đưa 3 bản kiến nghị với hàng ngàn chữ ký
tố cáo tội ác của địch.
Được tin về cuộc biểu tình của đồng bào Nhơn Trạch, quận
trưởng Long Thành vội vã ra lệnh giới nghiêm trên đoạn đường
quốc lộ 15 từ Phước Tân đến thị trấn Long Thành, xuống tới xã
Phước Thái. Chúng đặt 8 trạm canh gác, khám xét đồng bào qua
lại rất nghiêm ngặt. Chúng chỉ cho những người có hàng hóa mới
được vào thị trấn để bán. Trước tình hình như vậy, Quận ủy Long
Thành quyết định tổ chức đồng bào đi bằng xe lam, đóng giả làm
người buôn bán để che mắt địch. Đồng bào cũng kéo đến quận
Long Thành, buộc quận trưởng phải cam kết bồi thường và không
rải chất độc hóa học nữa. Do tổ chức chặt chẽ, chỉ đạo kịp thời, cuộc
đấu tranh của người dân Long Thành - Nhơn Trạch đã đạt kết quả
tốt đẹp, biểu dương được lực lượng và sức mạnh của quần chúng.
2. Bố trí lại chiến trường, phối hợp đánh bại kế hoạch
tìm diệt và bình định của địch
Tháng 7.1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định bố trí
lại chiến trường, giải thể Khu miền Đông, thành lập 5 phân khu từ
Phân khu 1 đến Phân khu 5 để hình thành 5 mũi tiến công vào Sài
Gòn, thực hiện cuộc tổng tiến công vào năm 1968. Theo đó, Phân
khu 4 bao gồm huyện Long Thành (kể cả Nhơn Trạch), huyện Thủ
Đức, quận 1, quận 9, huyện Cần Giờ và huyện cao su Bình Sơn.
Bí thư Phân khu 4 là đồng chí Mười Chiến. Văn phòng Phân khu
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ủy đặt tại ngã ba Long Điền, giữa 2 xã Phước Thiền và Phước
Nguyên để tiện việc chỉ đạo.
Ban chấp hành Phân Khu ủy có 16 đồng chí, Ban Thường
vụ gồm:
1. Đồng chí Nguyễn Văn Chiến (Mười Chiến), Bí thư.
2. Đồng chí Lê Quang Chữ (Sáu Nhân), Phó Bí thư.
3. Đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc), Phó Bí thư.
4. Đồng chí Lương Văn Nho (Hai Nhã), Tư lệnh Phân khu.
5. Đồng chí Đặng Văn Long (Tám Quang), Chính ủy Phân
khu.
6. Đồng chí Nguyễn Văn Thông, Bí thư Huyện ủy Long
Thành.
7. Đồng chí Lê Nhị Hà, Bí thư quận 9.
Các ủy viên Phân khu gồm:
1. Đồng chí Nguyễn Văn Cam, phụ trách cánh Thủ Đức.
2. Đồng chí Phạm Thị Nghĩa, Hội trưởng Hội Phụ nữ phân
khu.
3. Đồng chí Võ Văn Lượng, Trưởng ban Kinh tài.
4. Đồng chí Huỳnh Thị Phượng, Bí thư Đảng ủy Huyện
cao su Bình Sơn.
5. Đồng chí Hồ Sĩ Hành, Trưởng ban Tuyên huấn.
6. Đồng chí Nguyễn Hải, Trưởng ban An ninh.
7. Đồng chí Nguyễn Văn Tâm, Phó Chính ủy.
8. Đồng chí Bảy Thông, Phó ban An ninh.
9. Đồng chí Lê Đức Sanh, Chánh văn phòng phân khu.
221

23.2 Page 222

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Từ đầu năm 1967, Ban Chấp hành Huyện ủy phân công nhau
trực tiếp chỉ đạo từng vùng, nhằm hình thành thế tiến công quân
Mỹ. Theo đó, các xã vùng sâu như Đại Phước, các ấp như Cát
Lái, Bến Bạ, Bến Cộ tổ chức được nhiều tự vệ mật trang bị lựu
đạn và mìn. Du kích các xã Phước Thiền, Phước Thọ, Phú Mỹ lập
chốt bao vây bắn tỉa đồn địch. Đặc biệt, thường trực Huyện ủy
và huyện đội chỉ đạo xã Phú Hội đào hào, xây ụ chiến đấu ngay
trên nổng miếu ven lộ, chuẩn bị thế đánh Mỹ ngay trên lộ 17. Nơi
không có điều kiện xây thế chiến đấu thì ra sức xây dựng cơ sở
binh vận trong lòng địch, phục vụ cho du kích đánh đồn bót như
xã Long Phước nằm dọc quốc lộ 15.
Chiến trường Nhơn Trạch - Long Thành được Trung ương
Cục phân tích, xác định vị trí chiến lược quan trọng, từ đó có chủ
trương bố trí lại chiến trường, và có giải pháp ứng phó phù hợp.
Theo đó, Nhơn Trạch là vùng tranh chấp rất quyết liệt giữa ta và
địch; bởi vì khu Lòng Chảo có chiều Bắc Nam dài khoảng 9 km,
chiều Đông Tây dài 12 km có đường giao thông (lộ 17 và lộ 19)
như vòng tay kết nối, có sông Đồng Nai, sông Nhà Bè, sông Lòng
Tàu chảy ra biển Đông; chỉ cách Sài Gòn khoảng 10 - 12 km;
trong vùng có vườn cây trái sum suê, rừng chồi rậm rạp, sở cao su
bạt ngàn, Thành Tuy Hạ vững chãi.
Địch xem đây là trọng địa của chiến trưởng, yết hầu của
cơ quan đầu não, dạ dày của bộ máy chiến tranh nên bố trí lực
lượng dày đặt với các binh chủng hùng mạnh, trang thiết bị hiện
đại; tiến hành ủi trắng gần như toàn bộ địa bàn khu Lòng Chảo;
tăng cường lực lượng chiếm đóng dọc lộ 17, 19 trên 41 đồn, bót,
tua; trên 20 chốt chiếm đóng; 1 tiểu đoàn lính Mỹ chốt ở ngã ba
đường ủi Phước Lai, 1 trung đoàn Thái Lan sư Hắc Báo từ Long
Thành chuyển qua chốt 1 tiểu đoàn ở Chù Nước Nhĩ, Bến Sắn,
222

23.3 Page 223

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Phước Thiền; 1 tiểu đoàn xây căn cứ ở Vườn Điều Phước An, 1
tiểu doàn biệt động quân Ngụy rải quân từ Phú Hữu đến Phước
Khánh. Với vòng vây dày đặc như thế, địch tiến hành nhiều cuộc
càn quét, bình định hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng, muốn đẩy
lực lượng vũ trang ta ra xa Sài Gòn 10 km (khỏi tầm pháo ĐKB),
bảo vệ kho xăng Nhà Bè, kho đạn Thành Tuy Hạ, sông Lòng Tàu,
bảo vệ các đoàn tàu Mỹ chở vũ khí, phương tiện chiến tranh vào
miền Nam.
Vì vậy, cách mạng cũng bố trí địa bàn Nhơn Trạch thành
vùng trọng điểm, lấy Lòng Chảo làm bàn đạp để xây dựng căn cứ,
tập kết các lực lượng phân khu 4, Đoàn 10 Rừng Sác, D2, E4, D6
pháo, C240; nơi đứng chân của Bộ chỉ huy phân khu 4 lãnh đạo
tấn công vào Sài Gòn đợt Mậu Thân 1968 và là nơi mới đường
tiến quân vào Sài Gòn từ hướng Đông Nam.
Cuối tháng 10.1967, Huyện ủy tổ chức hội nghị ban chấp
hành mở rộng gồm 30 đồng chí tại căn cứ địa đạo Lòng Chảo xã
Phước An. Hội nghị diễn ra giữa lúc quân Thái Lan1 triển khai
đánh phá ác liệt vùng Lòng Chảo. Mặc cho tiếng máy bay hòa
tiếng xe tăng thiết giáp địch gầm rú, Hội nghị vẫn làm việc dưới
địa đạo. Hội nghị phân tích kỹ thuận lợi, khó khăn, nhược điểm
địch và ta trên chiến trường Long Thành. Huyện ủy khẳng định
thuận lợi cơ bản nhất: nhân dân các xã nói chung chí cốt với cách
mạng, một lòng tin tưởng ở Đảng và Bác Hồ kính yêu. Tuy nhiên
cái khó lớn nhất là âm mưu và hoạt động của Mỹ - ngụy sẽ tiếp
tục gây thêm nhiều thiệt hại về người và của của nhân dân Nhơn
Trạch - Long Thành. Trên cơ sở đó, lãnh đạo tất cả các tổ chức lực
lượng đứng chân trên địa bàn huyện đều phải bám sát dân, ở vùng
1  T háng 9.1967, Lữ đoàn Hổ Mang hay gọi là Mãng Xà Vương có mặt ở miền Nam, tháng
7.1968 thay bằng Lữ đoàn Báo Đen. Năm 1969, tuyên bố rút 12.000 quân, đến 1971
mới rút hết.
223

23.4 Page 224

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
sâu, vùng yếu thì phải trụ lại trong dân. Tất cả các vùng không
ngừng tạo thế chiến đấu và không ngừng bổ sung, xây dựng lực
lượng chiến đấu. Bất cứ trong hoàn cảnh chiến tranh xảy ra ác liệt
như thế nào, Đảng bộ cũng kiên quyết tổ chức phát động quần
chúng bung ra đồng ruộng sản xuất, bám sông rạch làm ăn, gắn
chặt với phá nội dung “bình định lập ấp chiến lược của địch”; huy
động sức người, sức của phục vụ cho kháng chiến. Hội nghị quyết
định một số vấn đề cụ thể; xây thế chiến đấu ở ven nổng Phú Hội,
lập bãi mìn kết hợp hầm chông, hố đinh ở Bà Bông (Phước An),
xây dựng bãi mìn kết hợp với giao thông hào địa đạo ở hai khu
vực Tam An, Tam Phước, xây dựng các chốt bắn tỉa ở Phước Thọ,
Phước Long, Phước Thiền.
Huyện ủy cũng phát động phong trào “Toàn dân đánh giặc”
ở nhiều nơi như Cát Lái, Bến Bạ (Phú Hữu), Bình Sơn (vùng cao
su). Các đơn vị vũ trang C1 (Long Thành), 19/5 (Nhơn Trạch) giữ
nguyên vị trí hoạt động, tích cực hỗ trợ dìu dắt các đội du kích xã.
Ít lâu sau, tỉnh Bà Biên tăng cường đơn vị C240 cho huyện làm lực
lượng cơ động. Các ban, ngành và đoàn thể được củng cố thống
nhất về tổ chức, đội ngũ cán bộ hoạt động ở chiến trường nào vẫn
ở nguyên địa bàn đó.
Cuối cùng hội nghị quyết định văn phòng Quận ủy Long
Thành đóng tại địa bàn Lòng Chảo, cơ động giữa hai điểm Phú
Hội và Phước An (là căn cứ của huyện Nhơn Trạch cũ).
Qua phân tích, đánh giá của Huyện ủy, chiến trường Nhơn
Trạch - Long Thành nổi lên một số nét:
- Về phía địch, một mặt quân Mỹ leo thang, liên tục mở
nhiều cuộc càn lớn nhỏ khắp địa bàn huyện; mặt khác, chúng triển
khai sư đoàn quân Thái Lan mãng xà vương ở căn cứ Nước Trong.
Lính Thái bung ra đóng chốt thành nhiều cụm ở Bình Sơn, Lòng
224

23.5 Page 225

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Chảo, vườn điều Phước Thọ. Bên trong các ấp, xã lính ngụy và
các đoàn bình định nông thôn tiếp tục chương trình bình định gom
dân, cào nhà ở một số nơi và củng cố bộ máy kìm kẹp nhân dân.
- Về phía ta, các lực lượng vũ trang huyện xã sôi nổi tiến
công địch bằng ba mũi vũ trang - chính trị - binh vận. Huyện sử
dụng 28 cơ sở nội tuyến phục vụ cho lực lượng 19/5 và C1, C240
cùng các đội du kích đánh 23 trận, diệt và bắt sống 392 tên (trong
đó có 192 tên bình định ác ôn), thu 264 súng các loại. Xuất hiện
mô hình “vành đai bắn tỉa” ở Phước Thọ, Phú Hội. Chỉ tính từ
19.9 đến 27.11.1967, ta đã đánh 5 trận, diệt 80 lính Thái Lan, 2 tên
lính Mỹ và 7 lính ngụy. Đội du kích Phước Thiền do hai anh em
Trương Hữu Lộc, Trương Hữu Phước chỉ huy dũng cảm tiêu diệt
giữa ban ngày một đoàn bình định ở Bến Cam.
Ta rải hơn hai trăm ngàn truyền đơn viết bằng các thứ tiếng
Anh, Thái, Việt vạch rõ: chiến tranh xâm lược của Mỹ là phi nghĩa
và đầy tội ác; cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là chính
nghĩa. Truyền đơn kêu gọi binh sĩ Sài Gòn buông súng về nhà làm
ăn, lính Mỹ và Thái chống lệnh hành quân bằng mọi cách, đấu
tranh đòi về nước để khỏi chết vô nghĩa. Ta cũng trực tiếp giáo dục
gần 50 ngàn lượt gia đình binh sĩ các loại, khiến hàng trăm lính
Sài Gòn đào, rã ngũ.
Đến cuối năm 1967, hầu hết các xã và thị trấn Long Thành,
thị trấn quận lỵ Nhơn Trạch đã tạo được thế và lực mới vừa tấn
công lính Mỹ, Thái, Ngụy vừa chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Như ở xã Phú Thạnh, để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và
nổi dậy năm 1968, từ trước đó, đồng chí Hai Hùng, Bí thư chi bộ
mật của xã đã vận động các cơ sở cách mạng đóng góp tài chính,
làm liên lạc, đưa đường cho bộ đội; mỗi một đợt chuyển tiền lên
225

23.6 Page 226

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
đến cả triệu đồng - một số tiền rất lớn thời bấy giờ, qua rất nhiều
khâu nhưng không hề bị suy suyển đồng nào.
3. Tham gia cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân
1968
Một sự kiện đáng ghi nhớ: Đêm 20.12.1967, Tiểu đoàn 2
trung đoàn 4 Sư đoàn 5 bộ binh phối hợp với C240 Biên Hòa tập
kích kích quân chư hầu Tiểu đoàn Mãng xà vương Thái Lan đóng
quân tại căn cứ Vườn Điều, xã Phước Thọ. Trận đánh góp phần cổ
vũ tinh thần quân và dân ta mở đầu cuộc tổng tấn công và nổi dậy
mùa xuân Mậu Thân 1968. Nhưng do điều nghiên cứu không tốt,
không nắm được quy luật thay đổi của quân Thái, trận đánh chưa
đạt mục tiêu cuối cùng, quân ta bị thiệt hại nặng, hơn 100 chiến
sĩ hy sinh1.
Giữa tháng 1.1968, đồng chí Hai Lực (Nguyễn Trọng Tân),
nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông, được cử làm đặc phái viên
của Trung ương Cục đến căn cứ Rừng Sác (Phước An) triển khai
nhiệm vụ và kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa cho Phân
khu ủy phân khu 4 và Đặc khu Rừng Sác (Đoàn 10). Bộ chỉ huy
mặt trận Phân khu 4 thành lập do đồng chí Lương Văn Nho làm
Tư lệnh, đồng chí Tám Quang (Đặng Quang Long) làm Chính ủy,
đồng chí Lê Quang Chữ, Phó Bí thư phân khu 4, chịu trách nhiệm
kế hoạch kiểm tra toàn bộ lực lượng bên ngoài. Đồng chí Mười
Chiến, Bí thư Phân Khu ủy, cùng đồng chí Ba Cam phụ trách kế
hoạch xây dựng cơ sở và phát động nhân dân nội thành.
Bộ Tư lệnh tiền phương đứng chân ở vùng Bưng Sáu Xã (Thủ
Đức) gồm các đồng chí Mười Chiến, Năm Chữ, Hai Nhã, Tám
Quang, Ba Đắc quyết định điều động Tiểu đoàn 4 của quân khu
1  Đến tháng 8.2014 mới qui tập được hài cốt, làm lễ truy điệu, an táng tại nghĩa trang
liệt sĩ Nhơn Trạch.
226

23.7 Page 227

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
2, trung đội trinh sát cùng lực lượng vũ trang của huyện Thủ Đức
áp sát mục tiêu, từ cầu Rạch Chiếc trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa
đến ngã tư Hàng Xanh. Đoàn 10 do đồng chí Mười Thà (Nguyễn
Việt Hoa) và đồng chí Sáu Tâm chỉ huy phụ trách hướng tiến công
Nhà Bè, Quảng Xuyên, Cần Giờ và trục sông Lòng Tàu. Phân khu
4 còn điều động bố trí một số cán bộ: đồng chí Hồ Sĩ Hành, vợ
chồng đồng chí Trương Văn Bông - Huyện ủy viên, huyện Long
Thành, các nữ đồng chí Ba Cơ, Mười Ánh Tuyết, Nga, Sáu Ngàn
đi đường công khai hợp pháp từ Hưng Nghĩa vào nội thành Sài
Gòn.
Quận ủy Long Thành phụ trách mục tiêu quận lỵ Nhơn
Trạch; huyện Duyên Hải có mục tiêu là thị trấn Cần Giờ. Vùng
cao su tập trung đánh địch ở Bình Sơn. Mỗi xã, mỗi thị trấn đều
có mục tiêu đánh phá bộ máy kèm kẹp tại ấp, xã và bao vây bắn
tỉa đồn bót địch.
Tất cả cán bộ chiến sĩ chiến trường Phân khu 4 đều được
phát động học tập thư kêu gọi của Thường vụ Trung ương Cục. Ai
cũng phấn khởi “sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Vượt
qua vô vàn khó khăn gian khổ, mọi lực lượng chờ giờ G ngày N
đồng loạt nổ súng tiến công các mục tiêu được phân công cho đơn
vị mình đảm trách.
Lúc 0 giờ đêm 30.1, rạng 31.1.1968 (tức mùng một tết Mậu
Thân), các mũi tiến công khắp nơi đồng loạt nổ súng. Tổng kho
Long Bình, kho đạn Thành Tuy Hạ, Kho xăng Nhà Bè đồng loạt
bị tấn công, bom đạn nổ vang trời, lính Mỹ - ngụy và chư hầu hồn
xiêu phách lạc.
Ở Nhơn Trạch, các đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai
trực tiếp chỉ huy Đại đội 240 tiến công chi khu, diệt 20 lính bảo an
227

23.8 Page 228

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
và cảnh sát, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đây là lần đầu tiên chi
khu Nhơn Trạch bị tiến công quân sự.
Ở tất cả các xã, du kích và tự vệ mật tiếp tục đánh địch, diệt
ác phá kìm, phát động quần chúng chống phá âm mưu bình định,
khoanh gom dân của địch. Nổi bật là chi bộ Phước An dùng lực
lượng du kích phối hợp với nhân dân bằng ba mũi giáp công chính
trị - binh vận - vũ trang bao vây bót Vũng Gấm suốt 10 ngày làm
bọn bảo an ở đây khiếp vía, cố thủ trong bót. Ở hướng Rừng Sác,
Đoàn 10 liên tục đánh địch trên sông Long Tàu, đánh cảng hải
quân Nhà Bè và kho tàng địch ở Nhà Bè. Bộ đội bắn cháy 5 tàu
quân sự trên sông Lòng Tàu và cảng Cát Lái.
Tuy nhiên, sau lúc bất ngờ ban đầu, địch đã nhanh chóng
phản công, đồng thời đưa quân càn vào vùng Lòng Chảo, vùng
Rừng Sác. Lúc này Tỉnh lộ 19 đã bị phá hủy. Tất cả các loại xe
không thể qua được. Địch liền đổ quân từ Phú Thạnh rồi theo lô
cao su Tân Tường để càn vào Vũng Gấm, Bàu Bông. Một cánh
quân từ xã Vĩnh Thanh tràn qua Quới Thạnh đánh tạt lại. Từ phía
quốc lộ 15 theo lối Nhà Mát, địch tràn qua đường Bà Ký đổ vào
chà xát hai xã Phước Long, Phước Thọ.
Cuộc tiến công và nổi dậy đợt hai bắt đầu từ ngày 5.5.1968.
Tại chiến trường phân khu 4, lực lượng vũ trang ta (cả chủ lực và
bộ đội địa phương) bám trụ vùng Bưng sáu xã. Ban ngày anh em
đánh địch phía sau, ban đêm đánh địch trên xa lộ và khu nhà máy
xi măng Hà Tiên, nhà máy dệt Phong Phú tiêu diệt và làm tan rã
hàng trăm tên Mỹ - ngụy, bắn cháy hàng chục xe tăng thiết giáp
và xe nhà binh địch. C 240 lại đánh vào chi khu Nhơn Trạch, tiêu
hao một bộ phận sinh lực địch và phối hợp cùng du kích diệt ác
ở trục lộ 19 và 17 làm cho bọn địch hoang mang. Ta mở ra được
một số xã giải phóng như Phước An, Phú Hội, Phú Mỹ.
228

23.9 Page 229

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Mỹ tăng cường
đổ quân hỗ trợ, chính quyền Sài Gòn đề ra kế hoạch “bình định
cấp tốc”. Tiểu khu Biên Hòa đã chọn Long Thành - Nhơn Trạch
và Tân Uyên để thực hiện âm mưu này. Tại Long Thành - Nhơn
Trạch, địch đã tiến hành lượng giá để phân loại xã, ấp, trong đó
các xã: Phước Lộc, Long An, Lộc An, Vĩnh Thanh, Phú Thạnh và
Đại Phước xếp loại A. Những xã này địch cho là có thể làm chủ
cả ngày lẫn đêm.
IV. BÁM TRỤ, GIỮ VỮNG CÁC PHONG TRÀO BA
MŨI GIÁP CÔNG, THAM GIA CHIẾN DỊCH NGUYỄN
HUỆ
1. Bám trụ, chống càn, giữ vững các phong trào ba mũi
giáp công
Ngày 10.5.1968, Phân khu ủy phân khu 4 có quyết định tách
huyện Long Thành thành 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch.
Theo quyết định này, Huyện ủy Nhơn Trạch gồm:
1. Ban Thường vụ:
- Đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Quyền Bí thư.
- Đồng chí Phan Minh Chính, Phó bí thư.
- Đồng chí Dương Văn Thà, Ủy viên Thường vụ, Huyện đội
trưởng.
- Đồng chí Lê Văn Sanh, Ủy viên Thường vụ.
- Đồng chí Nguyễn Văn Hà, Ủy viên Thường vụ.
2. Huyện ủy viên: Gồm các đồng chí Nguyễn Văn Bền,
Nguyễn Văn Sơn, Phạm Minh Lý, Nguyễn Thị Nữ, Huỳnh Văn
Tám, Lê Văn Đạt.
229

23.10 Page 230

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Thực hiện Nghi quyết của Phân khu ủy Phân khu 4, ngày
19.5.1968, Ban Thường vụ Quận ủy Long Thành họp tại căn cứ
địa đạo Nhơn Trạch, kiểm điểm và đánh giá kết quả hoạt động
đợt 1, đợt 2; bàn kỹ việc lãnh đạo toàn Đảng bộ và lực lượng vũ
trang “bám trụ chiến trường bằng mọi cách, liên tục tiến công tiêu
diệt Mỹ, Thái, lính Sài Gòn”; triển khai công tác tổ chức tách hai
huyện Long Thành, Nhơn Trạch như cũ theo chỉ đạo của Phân khu
4; phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ được phân công
đi từng khu vực triển khai những công việc nêu trên; chỉ đạo trung
mở vùng yếu Phú Thạnh, Đại Phước và Vĩnh Thanh.
Lúc này lính Úc đang càn đi quét lại địa bàn, ta và địch sát
bên nhau, có lúc đan xen, giành giật quyết liệt. Phía trước, Mỹ đổ
hàng trăm cụm lính đến khắp đồng ruộng các xã An Hòa, Long
Hưng, Tam An dọc sông Đồng Nai đến các cánh đồng Long Hiệu
(Long Tân), cù lao Ông Cồn, Bến Bạ, Cát Lái, Ông Mai, Giồng
Ông Đông (Phú Hữu và Đại Phước).
Tại khu Lòng Chảo Nhơn Trạch, phía Đông quốc lộ 15 huyện
Long Thành, quân chư hầu Thái Lan và Úc đóng từng cụm có xe
tăng, thiết giáp và pháo binh yểm trợ. Ban ngày, chúng bung ra
càn quét, bình định, ban đêm cụm lại phòng thủ. Một phần lính Úc
càn từ phía Tây đến phía Đông suối Cả chạy dài tới đồn Tâm Tình,
con đường Chòi Đồng tới Phước Thái. Lính Úc chia thành những
tốp nhỏ lùng sục căn cứ ta, hai bên giành giật quyết liệt từng căn
hầm, từng đoạn giao thông hào căn cứ. Đôi khi lính Úc và bộ đội
ta cùng ở trong một căn cứ. Đánh quân Úc không dễ so với đánh
Mỹ vì chúng cũng theo chiến thuật du kích. Khi đôi bên nổ súng,
chúng gọi pháo tầm xa bắn ngay vào đội hình đôi bên đang đánh
nhau.
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trong giai đoạn này, địch tung chiến thuật “Ong ruồi” kết
hợp với hoạt động biệt kích phục kích. Đặc biệt, từ sân bay quân
sự Biên Hòa, máy bay địch liên tục lên xuống, quần đảo và ném
bom bất cứ khu vực nào mà chúng tình nghi, gây cho ta nhiều tổn
thất.
Trước tình hình đó, Huyện ủy Nhơn Trạch trực tiếp lãnh đạo
toàn Đảng, toàn quân kiên cường bám trụ chiến trường, “bám thắt
lưng” để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời trừng trị bọn ác ôn điệp
báo nằm trong dân.
Phong trào “thi đua diệt Mỹ, chư hầu Thái, Úc” dấy lên sôi
nổi, đều khắp Long Thành, Nhơn Trạch, Bình Sơn. Một số gương
dũng cảm chiến đấu xuất hiện:
Anh tự vệ mật ấp Bến Bạ là Sơn (Phạm Văn Lượm) có 4 trái
lựu đạn. Anh bám các chốt Mỹ đóng ở đường 17 gần phà Cát Lái
và ở đồng ruộng suốt 2 tháng 7 và 8.1968, đánh 4 trận, mỗi trận
chỉ dùng 1 trái lựu đạn. Kết quả 64 tên Mỹ - ngụy bị tiêu diệt, 1 xe
GMC bị phá hủy (có 14 lính Mỹ). Trận cuối cùng, Sơn bị thương,
rơi vào tay địch. Chúng đem về khám đường Biên Hòa tra khảo dã
man nhưng anh không hề khai báo điều gì. Để trả thù, chúng chặt
một chân anh.
Cùng thời điểm trên, anh Hai Trường (Phạm Văn Hiếu - anh
ruột Sơn) là cán bộ nông hội Nhơn Trạch đã lượm bom, pháo lép
của địch làm mìn. Anh phá tan 2 xe tăng - thiết giáp Mỹ ở căn cứ
địa đạo Phước An.
Tháng 7.1968, Nguyễn Quyết Chiến, Xã đội trưởng Phú
Hữu, dẫn đội du kích xã tiến công diệt 1 trung đội lính Mỹ ở ngã
ba Giồng Sắn. Đêm 29.12.1968, anh chỉ huy đội du kích diệt một
trung đội lính Mỹ đóng trong nhà ông Năm Tàu ở ấp Giồng Ông
231

24.2 Page 232

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Đông. Anh được dự hội nghị “Mừng công dũng sĩ diệt Mỹ” do
Phân khu 4 tổ chức ở rừng Bưng Lùn - cầu Vạt (Phước Thái) đầu
năm 1969. Sau đó, Nguyễn Quyết Chiến được Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam tuyên dương là Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Những năm 1968 - 1969, tình hình căng thẳng, ác liệt; giặc
ra sức đánh phá để trừ họa “Mậu Thân”, ta kiên cường đánh trả để
bảo vệ căn cứ, phát triển phong trào. Có những thành tích được
tuyên dương anh hùng, cũng có những sự hy sinh thầm lặng, đau
lòng. Trường hợp của nữ đồng chí Huyền Tâm đọng lại trong ký
ức nhiều người. Cán bộ kháng chiến và nhân chứng lịch sử Nhơn
Trạch đều biết “chị Ba Huyền Tâm”. Nữ đồng chí Huyền Tâm tên
khai sinh là Lưu Thị Xinh, sinh 1942, người xã Long Tân, thoát ly
tham gia kháng chiến năm 1962, kiên cường với công tác phụ nữ,
từng làm Chủ tịch Hội Phụ nữ huyện Nhơn Trạch. Trong kháng
chiến, Ba Huyền Tâm đã vượt lên những khó khăn của một nữ cán
bộ, xả thân trong mọi phong trào, nhiều lần thoát chết, nhiều mất
mát hy sinh trong đời riêng. Ba Huyền Tâm kết hôn cùng đồng
chí Lư Văn Chắc (Ba Vân) - Phó Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch,
sinh 2 người con; năm 1966, Ba Vân hy sinh khi Huyền Tâm ở
độ tuổi 24. Cám cảnh của nữ đồng chí trẻ, tổ chức mai mối cho
Huyền Tâm gá nghĩa với đồng chí Phạm Minh Chính, cũng là Phó
Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch, vợ là Trà Thị Ánh Nguyệt đã hy
sinh. Hai người đồng cảnh ngộ, chung chí hướng, mặn nồng tình
đồng chí nghĩa vợ chồng. Ba Huyền Tâm có mang trong đời sống
kháng chiến khắc khổ. Khoảng giữa năm 1968, Ba Huyền Tâm
cùng đoàn công tác của Huyện ủy đến xã Long An, đêm nghỉ lại ở
xóm Gốc. Máy bay Mỹ soi đèn, phát hiện, nã đạn vào đoàn công
tác, mấy cán bộ hy sinh, nhiều người bị thương. Ba Huyền Tâm bị
232

24.3 Page 233

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trúng đạn từ ngực trổ ra lưng, vỡ xương vai. Chị Ba đang kỳ thai
nghén, bị thương nặng nên Ban Thường vụ Huyện ủy bàn, thống
nhất ý kiến đưa chị ra cơ sở để trị thương và sinh nở. Người quyết
định là đồng chí Nguyễn Văn Thông - Bí thư Huyện ủy Nhơn
Trạch. Người thực hiện là bà Phan Thị Nho (mẹ của đồng chí Hai
Thông) và Võ Thị Quyện (vợ của đồng chí Phạm Minh Lý). Nơi
ở để trị thương là nhà bà Mười Xéo (cơ sở cách mạng) xã Đại
Phước. Được hơn một tháng, Ba Huyền Tâm sinh được một bé
gái, nhưng bé yếu quá, không nuôi được. Ba Huyền Tâm buồn rầu,
vết thương tái phát nên không qua khỏi, mấy ngày sau thì mất”.
Năm 1972, đồng chí Phạm Minh Chính cũng hy sinh, không tìm
thấy xác. Trường hợp đồng chí Ba Huyền Tâm không thuộc diện
được công nhận liệt sĩ1 nhưng sự hy sinh của gia đình và của bản
thân đồng chí đáng được lưu danh2.
Ngày 20.12.1968, Ban Thường vụ Phân khu 4 họp tại căn
cứ suối Cù ở phía Bắc suối Cả, gồm các đồng chí Lê Quang Chữ,
Nguyễn Trọng Cát, Nguyễn Việt Hoa, Nguyễn Hải, Võ Văn Định,
Phạm Thị Nghĩa, Nguyễn Văn Thông, Lê Đức Sanh từ 8 giờ sáng,
bàn kỹ 3 việc:
1. Quyết định đầu năm 1969 mở hai đại hội “Bình bầu chiến
sĩ thi đua và dũng sĩ diệt Mỹ” “Đaị hội đại biểu quốc dân” bầu
Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Long Thành - Thủ Đức.
2. Phân công chuẩn bị căn cứ cho hai đại hội trên. Hội nghị
xác định xây căn cứ suối Đá Vàng gần khu vực Chòi Đồng (xã
Phước Thái).
1  Công văn số 1392/LĐTBXH-TBLS ngày 10.5.2000 do Thứ trưởng Nguyễn Đình Liêu ký.
2  Nhân chứng lịch sử: Nguyễn Văn Thông - Mai Thị Liễu ở Biên Hòa, Võ Thị Quyện ở xã
Phước An.
233

24.4 Page 234

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
3. Chuẩn bị gạo và thức ăn cho hai đại hội đó (mỗi đại hội
trên 100 đại biểu).
Đầu tháng 2.1969, Đại hội chiến sĩ thi đua Phân khu 4 khai
mạc gồm trên 200 đại biểu. Đại hội nghe nhiều báo cáo điển hình
về những trận đánh của các đội du kích xã, của bộ đội địa phương
huyện và lực lượng vũ trang phân khu diệt hàng trăm tên Mỹ, Thái
và vô số bình định ác ôn. Đại hội bình bầu hàng chục dũng sĩ diệt
Mỹ. Xã đội trưởng Nguyễn Quyết Chiến được bình bầu là điển
hình của Đại hội.
Tháng 3.1969, Nông hội Phân khu 4 mở đợt tập huấn cho cán
bộ cốt cán cấp huyện về nhiệm vụ “bám ruộng đồng, đẩy mạnh
sản xuất”. Đoàn đại biểu Long Thành, Nhơn Trạch, Thủ Đức về
Phước Thái đến Cầu Vạt thì trúng bom B52 rải thảm.
Tháng 4.1969, đồng chí Lê Đức Sanh chỉ đạo Nhơn Trạch
tập trung lực lượng chống phá địch bình định, giành quyền làm
chủ, xây dựng thế và lực mới ở các xã quanh Lòng Chảo. Làm việc
xong với Huyện ủy, anh xuống kiểm tra tình hình Phước Thiền,
Phú Mỹ. Vừa đến căn cứ Phước Thiền, đồng chí lọt vào vòng vây
lính Thái. Chúng rải quân từ sở Ba Lương đến đầu sở Ông Cố,
cứ vài mét một tên trên cự ly gần chục kilômét. Cuộc càn kéo dài
một tuần, gây tổn thất nặng cho đội du kích Phước Thiền. Đồng
chí Năm Sanh phải nhịn đói, nhịn khát khi vượt qua thử thách ác
liệt này.
Trong năm 1969, xã Đại Phước bị tổn thất lớn. Giặc gồm
nhiều sắc lính, bao vây, khui hầm bí mật bắt đồng chí Ba Lệnh
(Đào Minh Chánh) - Bí thư xã và 8 cán bộ xã, từ đó phong trào bị
gián đoạn, lâu sau mới phục hồi.
234

24.5 Page 235

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sáng ngày 5.4.1969, đồng chí Ba Liêm - giao liên của phân
khu chịu trách nhiệm dẫn đoàn vận tải vũ khí từ phía sau qua chiến
trường Thủ Đức. Đoàn đặt chân tới bìa phía Đông sông Đồng Nai
thì Mỹ đổ quân ngay nơi đoàn tạm nghỉ. Ba Liêm ra lệnh cho anh
chị em vượt khỏi vòng vây, một mình anh ở lại chiến đấu với Mỹ.
Anh bình tĩnh chất mìn DH.8, DH.10 thành nhiều đống về hướng
địch sẽ tràn lên gò, tay giữ khối pin điểm hỏa. Hàng chục tên Mỹ
trắng, Mỹ đen xông lên định chiếm điểm cao. Anh điểm hỏa, mìn
nổ đồng loạt gây thương vong toàn bộ số này. Trận đánh dai dẳng
từ sáng đến xế chiều, lâu lâu loạt mìn nổ, anh đếm khoảng gần
trăm tên thương vong nằm la liệt, kêu âm ỉ. Chúng không thể lấy
số thương vong ra, đã kêu máy bay, ném bom vào trận địa, hủy
diệt xác đồng bọn. Đã dự kiến tình huống này, Ba Liêm rút lui vô
sự trước khi máy bay ào tới.
Tháng 6.1969, Ban Chấp hành Phân khu 4 họp kiểm điểm
tình hình, bổ sung kế hoạch tiến công địch sáu tháng cuối năm.
Đồng chí Lê Đình Nhơn được Trung ương Cục chỉ định làm Bí
thư Phân khu ủy Phân khu 4. Theo chỉ đạo của Thường vụ Trung
ương Cục và Ban Cán sự T.7 thì Ban Thường vụ Phân khu ủy về
cùng Tỉnh ủy Bà Rịa tổ chức quán triệt Nghị quyết hội nghị lần
thứ 9 của Trung ương Cục.
Đoàn cán bộ phân khu gồm: Mười Thà, Tám Hà, Tư Định,
Hai Thông lên đường ngày 31.8 thì ngày 2.9 đến căn cứ Sông Ray.
Chiều 3.9, nhận được điện khẩn: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng
báo tin đau buồn: Bác Hồ qua đời”. Đoàn công tác phối hợp với
các lực lượng vũ trang cùng các cơ quan ở Bà Rịa tổ chức lễ truy
điệu Bác vào ngày 4.9.
235

24.6 Page 236

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Hơn 300 cán bộ chiến sĩ tập họp nghiêm trang trước bàn thờ
đơn giản bằng cây rừng, cờ Đảng và ảnh Bác treo phía trên, một
băng rôn với dòng chữ: “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại”, dưới đặt những vòng hoa rừng. Đồng chí Hai Nhã (Lương
Văn Nho) điều khiển lễ chào cờ, mặc niệm sau đó đọc điếu văn,
không ai cầm được nước mắt. Lễ truy điệu Bác gọn một tiếng
đồng hồ. Liền sau đó, máy bay Mỹ đến ném bom vào nơi làm lễ,
nhưng không ai hề hấn gì. Sáng 6.9, đoàn đến căn cứ Tỉnh ủy Bà
Rịa ở núi Bể. Vừa tới nơi, nhiều tốp máy bay Mỹ tới ném bom dữ
dội.
Hội nghị học tập nghị quyết lần thứ 9 của Trung ương Cục
thảo luận sôi nổi về tình hình và nhiệm vụ chiến trường miền
Đông, đánh giá thành quả, tổn thất và tiềm lực phát triển thế tiến
công, góp phần vây ép trung tâm đầu não Mỹ - ngụy, góp phần to
lớn phá kế hoạch phòng thủ của chúng, trở thành chiến trường tiêu
hao, tiêu diệt sinh lực địch rất quan trọng.
Hội nghị hoàn toàn nhất trí về nhiệm vụ của cách mạng miền
Nam mà nghị quyết lần thứ 9 của Trung ương Cục đề ra: tiếp tục
đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công
đến đỉnh cao nhất, đánh mạnh, đánh đau quân Mỹ - ngụy và chư
hầu, phá kế hoạch bình định nông thôn. Do vậy, toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân tập trung thực hiện bảy công tác lớn đó là: quân
sự, dân vận, chính trị, binh vận, chính quyền, an ninh, kinh tế tài
chính, xây dựng căn cứ địa, công tác Đảng, công tác chính trị tư
tưởng.
Cuối tháng 9, Ban Thường vụ Phân khu 4 họp triển khai tinh
thần hội nghị liên tịch vừa qua, xây dựng chương trình hành động
cụ thể hóa bảy công tác lớn từ tháng 10.1969 đến tháng 10.1971.
Hội nghị Ban Thường vụ quyết định vừa tập trung chỉ đạo tấn
236

24.7 Page 237

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
công ba mũi đánh phá bình định, mở rộng vùng tranh chấp và
đánh quân Mỹ và chư hầu, vừa chuẩn bị Đại hội đại biểu lần thứ I
của Phân khu. Hội nghị Thường vụ dự kiến chọn địa điểm đại hội
tại Lòng Chảo Nhơn Trạch, thời gian trung tuần tháng 3.1970.
Năm 1969 là năm bọn Mỹ - ngụy phản kích quyết liệt trên
chiến trường Nhơn Trạch, quân Mỹ, Thái Lan, lính ngụy sư 18
thường xuyên đổ quân càn quét địa bàn Nhơn Trạch, rừng Nhơn
Trạch bị bom pháo chà xát, không ngày nào vắng tiếng bom pháo.
Có lúc, tổng quân số giặc huy động càn quét lên đến hơn 20 ngàn
quân, lớn hơn số dân cư trú ở huyện.
Trên chiến trường Nhơn Trạch, bọn địch xây dựng, phát triển
thêm một số căn cứ lớn như trung đoàn Thái Lan phiên hiệu Mãng
Xà Vương đóng ở Đồng Lớn, Phước Thọ - Phước An, căn cứ Bàu
Điều sát nách căn cứ Huyện ủy Nhơn Trạch, chốt Mỹ Thái ở ngã
ba Phước Thiền. Hàng ngày, chúng tung lực lượng cấp đại đội, tiểu
đoàn đánh phá vào vùng căn cứ cách mạng. Bên trong, Mỹ - Ngụy
và chư hầu thực hiện chiến thuật “Tát nước bắt cá”. Địch dùng cả
trăm xe tẹt, hàng chục xe tăng và bộ binh Mỹ yểm trợ, ủi phá, chia
cắt khu rừng nguyên sinh. Chỉ trong vòng 2 năm 1969 - 1970, Mỹ
và bọn chư hầu đã san bằng gần 10.000 ha. Nhiều căn cứ các cơ
quan huyện, các xã bị phá hủy. Lúc bấy giờ, lực lượng dân quân
chính Đảng do địch đánh phá ác liệt bị tổn thất nặng, phải phân
tán, bám trụ trong dân nhằm bảo toàn lực lượng và tiếp tục nuôi
dưỡng, phát triển phong trào cách mạng của quần chúng.
Trước tình hình địch tập trung lực lượng đánh phá ác liệt,
ủi phá địa hình, Huyện ủy Nhơn Trạch đã xác định tư tưởng, lãnh
đạo thực hiện phương châm kiên cường bám trụ, khắc phục gian
khổ, ác liệt hy sinh, mưu trí dũng cảm chiến đấu, sáng tạo linh
hoạt, vận dụng phong phú đa dạng cách đánh địch, đứng vững
237

24.8 Page 238

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
địa bàn. Huyện ủy, huyện đội đề ra chủ trương phải chuyển ngay
phương thức ăn, ở, đi lại hoạt động, cách đánh địch v.v... chuẩn
bị gạo rang, gạo sấy, nước uống từ 10 ngày đến một tháng, trong
huyện chia thành 4 vùng nhỏ (vùng 1 lộ 17, vùng 2 dọc lộ 19, vùng
3 lộ 19 di cư, vùng 4 xã Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước). Cấp
ủy, Ban chỉ huy Huyện đội tăng cường cán bộ phụ trách các vùng.
Đại đội C240 cũng bố trí từng trung đội bám các vùng, phân tán
từng tổ nhỏ (3 người) đào hầm bí mật, tận dụng các đoạn địa đạo
cũ, vận động vòng lại phía sau nơi địch ủi qua các bụi tre, gốc cây,
triền xóm để đào hầm trú ẩn và hầm bí mật thực hiện 4 bám: Bám
dân, bám địa bàn, bám phong trào, bám địch để tấn công địch.
Cụ thể, bắt đầu từ 15h30 ngày 14.7.1969, địch dọn bãi ở
Trảng Lớn, Hang Nai, đưa 45 xe ủi, xe tăng, thực hiện kế hoạch
ủi phá địa hình khu Lòng Chảo. Ngày đầu, chúng dàn hàng ngang
như thả vạt cày ủi từ Phước Thọ đến Phước Kiển. Dưới đất, tiếng
máy gầm rú ầm đùng của xe ủi, xe tăng. Trên trời, máy bay L19,
cá lẹp (OH5, OH6) quần đảo quan sát sẵn sàng phóng hỏa tiễn.
Ủi ngày đầu không đụng lực lượng chống trả, chúng rất hí hửng.
Trong đêm, đồng chí Huyện đội trưởng (Tám Quyết) lệnh cho
xưởng công binh đổ 10 khối thuốc nổ (mỗi khối 10 - 12 kg) để
công binh, trinh sát gài giáp mí đất địch đang ủi; du kích xã Phước
An thì dùng đầu đạn cải tiến thành mìn gài nơi địch sẽ ủi tới. Sáng
15.7.1969, địch ủi qua Phước An, mìn nổ phá hủy hai xe tăng, trực
thăng xuống lấy xác, bị du kích phục bắn rơi 1 chiếc. Du kích xã
Phước An mở đầu phong trào đánh xe và bắn rơi máy bay địch, cổ
vũ lực lượng vũ trang trong toàn huyện.
Mỗi lần Mỹ leo thang hay xuống thang chiến tranh đều dùng
bom đạn và binh lực cày xới địa bàn Long Thành và Nhơn Trạch.
Ngày 21.9.1969, một trung đoàn Thái Lan và 2 tiểu đoàn lính
238

24.9 Page 239

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Ngụy mở đợt càn quét 12 ngày đêm vào hai xã Phước Thiền, Phú
Mỹ. Lực lượng địa phương chống càn quyết liệt, hai đội du kích
Phước Thiền và Phú Mỹ thiệt hại nặng. Lính Thái càn vào Phú Hội
phát hiện hầm, chúng ném lựu đạn vào làm hai bà má chết tại chỗ,
phẫn uất, trên 200 đồng bào khiêng xác ra đồn tố cáo tội ác bọn
Thái và ngụy, tên Quận trưởng hứa sẽ bồi thường.
Tiếp theo, địch càn vào khu Rừng Sác, Phước An, chà xát
21 ngày đêm trên khu Lòng Chảo; trực thăng đã bắn vào khu vực
quân y huyện Nhơn Trạch, cả 8 thương bệnh binh đều hy sinh,
trong đó có 2 phụ nữ đang mang thai (chị Hoa, Dung). Trong
xóm ấp, bọn tề ngụy bình định kìm kẹp nhân dân gắt gao, thường
xuyên kiểm tra, kiểm soát ngặt nghèo. Mật độ trọng lượng bom
đạn bình quân trên mỗi người có thể lên đến hàng tạ.
Từ tháng 10.1969 đến tháng 1.1970, dân quân du kích các xã
cùng C240 kiên cường bám trụ, đánh Mỹ, Thái Lan hơn 18 trận,
tiêu diệt 190 tên Mỹ và Thái Lan, bắn cháy 4 xe tăng M41 và 5 xe
ủi đất, bắn rớt 4 máy bay trực thăng, phản lực.
Phong trào bắn máy bay được thực hiện sôi động. 9 giờ sáng
ngày 15.12.1969, một chiếc trực thăng rà thấp lùng sục ven mu
rùa (Đồng Lớn) cách căn cứ quân y của huyện Nhơn Trạch chừng
500 mét. Y tá Nguyễn Văn Thơi xách súng AK luồn rừng theo
hướng trực thăng, đợi chiếc trực thăng đứng xoáy, Thơi bắn một
loạt đạn. Chiếc máy bay bốc cháy rơi tại Đồng Lớn. 30 phút sau,
trực thăng chiến đấu lên bắn bừa bãi một chập rồi cẩu xác chiếc
máy bay về hướng Rừng Sác. Đó là trận mở đầu cho phong trào
hạ máy bay rà thấp của huyện. Tiếp đó du kích Phước An, Đại đội
1, C240, du kích cao su Bình Sơn liên tục hạ nhiều máy bay. Điển
hình Đại đội phó trinh sát Nguyễn Thành Phương (Đoàn 10) trong
một ngày đã bắn cháy 2 chiếc máy bay.
239

24.10 Page 240

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Phối hợp với phong trào diệt máy bay rà thấp, bộ đội, du
kích các xã Bình Sơn, Phú Hội, Lộc An, Tam An, Phước Thiền,
Phú Thạnh đã chủ động đẩy mạnh hoạt động võ trang. Đối với
những xã bị địch khống chế mạnh như Phú Thạnh, Phước Kiển,
Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai, Tam Phước, Long An thì
huyện tăng cường thêm cán bộ về hỗ trợ xã gây dựng cơ sở.
Khí thế quần chúng được nâng lên, lực lượng cách mạng
được củng cố và phát triển. Khởi đầu là tiếng súng diệt ác của du
kích Phú Hội, diệt cảnh sát Tư và trung sĩ bảo an tại cầu Sắt, cách
bót địch không đầy 100m. Sau đó, du kích Bình Sơn, Phú Thạnh,
Phước Thiền, Tam An cũng tăng cường diệt ác ôn. Lực lượng vũ
trang địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức tập kích,
pháo kích vào các đồn Bình Lâm, Long Phước, Bình Sơn.
Tại xã Phú Thạnh, đội du kích mật đã tổ chức diệt tên ác ôn
Sáu Mót. Đây là tên ác ôn khét tiếng ở chi khu Nhơn Trạch, rất
ranh ma, việc di chuyển, đi đứng không bao giờ theo kế hoạch, lại
thường hay đổi hướng nên C240 nhiều lần tổ chức diệt mà chưa
được. Nắm được đặc điểm của y là rất mê gái, đội du kích mật nhờ
một nữ cơ sở cách mạng nhà ở xã Long Tân giả vờ đến làm quen,
sau đó hẹn Sáu Mót đến nhà chơi. Khi Sáu Mót đến, các đội viên
du kích đã phục sẵn, tiêu diệt gọn.
Chỉ trong thời gian ngắn từ những ngày cuối tháng 2 tới
trung tuần tháng 6.1972 hơn 100 tên địch bị diệt, hàng chục tên
ác ôn bị trừng trị, bị bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ dân sự bị
phá rã, ta thu 24 súng các loại và 2 máy truyền tin. Đáng chú ý là
việc diệt tên thám báo Thêm ở ấp Tân Mai 2 vào ngày 16.5.1972
làm bọn tề xã và lính bót Phước Tân co lại, không dám hoạt động.
Nắm thời cơ, cán bộ xã đột ấp tổ chức mít tinh hai đêm 17 và 18,
có gần 200 đồng bào tham dự, vạch rõ tội ác của Thêm. Sáng 19.5,
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
gần hai chục gia đình đi gặp hội đồng xã đòi cho họ được làm ăn
trên ruộng đất của mình.
Sau cuộc họp Ban Thường vụ Phân khu 4 đầu tháng 2.1970,
đồng chí Chín Lê và đồng chí Nguyễn Hải đi khu Lòng Chảo
chuẩn bị địa điểm đại hội, đúng lúc hàng trăm xe quân sự Mỹ đổ
quân càn quét dài ngày thực hiện việc “lột da Lòng Chảo”. Tình
hình không cho phép mở Đại hội ở khu Lòng Chảo, Nhơn Trạch,
Ban Thường vụ Phân khu 4 bàn, chọn khu căn cứ Ông Trữ làm
địa điểm tiến hành Đại hội. Đại hội tiến hành trong hai ngày 19
và 20.3.1970.
Sáng 19.3, bản báo cáo chính trị của Đại hội và một số tham
luận được đọc. Buổi chiều, tiến hành bầu cử Ban Chấp hành, riêng
Ban Thường vụ gồm các đồng chí:
- Đồng chí Lê Đình Nhơn - Bí thư Phân Khu ủy.
- Đồng chí Nguyễn Hải - Phó Bí thư thường trực.
- Đồng chí Nguyễn Việt Hoa - Phó Bí thư Phụ trách quân
sự.
- Đồng chí Võ Văn Lượng - Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban
Kinh tài.
- Đồng chí Lê Minh Hà - Ủy viên Thường vụ, phụ trách cánh
Thủ Đức.
- Đồng chí Nguyễn Văn Thông - Ủy viên Thường vụ, phụ
trách khối dân vận.
- Đồng chí Huỳnh Thị Phượng - Ủy viên, Bí thư Đảng ủy
cao su.
- Đồng chí Nguyễn Văn Mỹ - Ủy viên, Chánh văn phòng
Phân khu ủy.
241

25.2 Page 242

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
- Đồng chí Lê Đức Sanh - Ủy viên.
- Đồng chí Hồ Sĩ Hành (Hai Quỳnh) - Ủy viên, Trưởng ban
Tuyên huấn.
Đại hội bầu cử chưa xong thì hàng trăm xe tăng thiết giáp
Mỹ ào ạt kéo vào chốt chặn toàn bộ khu rừng cầu Ông Trữ, toàn
đại biểu đại hội nằm gọn trong vòng vây dày đặc của xe tăng thiết
giáp địch. Do đã có chuẩn bị dự phòng, toàn thể đại biểu dự đại
hội được bảo vệ an toàn, được dẫn đường về địa điểm dự bị là
đồi Trâm Lang. Tại đồi Trâm Lang, Đại hội tiếp tục bàn một số
công việc quan trọng khác: bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt nhất là
hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch; phân công cán bộ đi chiến
trường và vấn đề xây dựng căn cứ, vận động lương thực.
Sơ kết từ tháng 7.1969 đến tháng 7.19701, quân dân huyện
Nhơn Trạch vượt qua nhiều gian khổ hy sinh đã nỗ lực xây dựng
phát triển lực lượng đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự,
chính trị, binh vận). Mũi quân sự: Lực lượng địa phương và lực
lượng tỉnh đánh 117 trận, có 10 trận do du kích và tự vệ mật. Làm
chết và bị thương 1.199 tên địch, có 90 lính Mỹ, 2 lính Úc, diệt
gọn 2 tiểu đội, tiêu hao 2 trung đội, 1 đại đội Mỹ, thu 19 súng, phá
hủy 64 xe (M41, 21 xe ủi), bắn rơi 21 phi cơ (phần lớn là OH6),
bắn chìm 2 bo bo. Mũi chính trị: Tuyên truyền 17.369 người, có
5.000 quần chúng hành động cách mạng, có 120 cuộc đấu tranh
chính trị, 145 đơn đấu tranh kiến nghị với 2.017 quần chúng. Mũi
binh vận: Vận động đào ngũ 258 lính, có 400 lượt phòng vệ dân
sự đấu tranh trả súng, 1 cơ sở đánh lựu đạn làm chết, bị thương 20
tên, có 137 gia đình lính đấu tranh đòi chồng con, vận động đưa ra
1  T heo tài liệu của Huỳnh Văn Tám (Tám Quyết), nguyên Huyện đội trưởng Nhơn Trạch
và sổ tay của đồng chí Nguyễn Văn Xuân - Nguyên Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch (có
khác nhau ở một vài số liệu: Số hy sinh 116 đồng chí; bị thương 49 đồng chí; bị bắt 23
đồng chí).
242

25.3 Page 243

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
3 súng. Về tổn thất: Các đơn vị hy sinh 122 đồng chí; bị thương
64 đồng chí, bị bắt 25 đồng chí; mất 73 súng các loại; 62 người
chiêu hồi (trong đó có 3 Bí thư xã và 1 Phó Bí thư Huyện ủy kiêm
Trưởng Công An huyện - Năm Hà).
Đến cuối tháng 3.1970, Trung ương Cục lại quyết định điều
động đồng chí Lê Đình Nhơn về tỉnh Bà Rịa, chỉ định đồng chí
Nguyễn Hải làm Quyền Bí thư; sau đó, Ban Thường vụ Phân khu
ủy tiến hành bầu cử, đồng chí Nguyễn Hải trúng cử Bí thư Phân
Khu ủy Phân khu 4.
Tháng 10.1970, Tỉnh ủy rút đồng chí Ba Hạnh (Nguyễn Công
Hạnh) Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch về tỉnh, điều đồng chí Nguyễn
Văn Xuân - Phó Bí thư Huyện ủy Long Thành về lại Nhơn Trạch
thay đồng chí Ba Hạnh làm Bí thư Nhơn Trạch. Theo chỉ đạo của
Ban Thường vụ Phân khu ủy, Huyện ủy Nhơn Trạch phải quyết
tâm bám trụ, chỉ đạo các xã thuộc hệ đường 17 (Long Tân, Phú
Hội, Phú Mỹ, Phước Thiền) phát động quần chúng các xã bung
ra chăm sóc lúa trên đồng, chuẩn bị thu hoạch vụ mùa. Đồng chí
Phạm Minh Chính, Quyền Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo
các ngành cấp huyện phân công cán bộ xuống xã, vừa công tác
vừa phân tán lực lượng tránh tập trung để giảm bớt hy sinh tổn
thất. Đồng thời, Huyện ủy chỉ đạo địa phương liên tục đánh phá
bình định của giặc, giữ vững phong trào trong xóm ấp.
Cuối tháng 3.1971, đoàn cán bộ phân khu gồm Nguyễn Văn
Thông, Nguyễn Văn Y (Phó Ban kinh tài tỉnh), Quang, Phương và
Liễu (vợ đồng chí Hai Thông), từ khu Lòng Chảo vượt đường 17
ở xã Phú Mỹ băng ra cánh đồng Miểu Dinh Ông gặp một trung đội
lính bảo an đóng quân, cả đoàn phải lội qua sông nước đang ròng
chảy xiết để tránh giặc, cả đoàn suýt bị nước cuốn trôi, một đồng
chí (đồng chí Phương hy sinh).
243

25.4 Page 244

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Chiều 25.8.1971, đồng chí Nguyễn Văn Thông cùng đồng
chí Tám Huệ - Ủy viên Thường vụ Quận ủy Long Thành- từ trạm
giao liên sông Cả đi qua xóm Gò, đường 15 thì lọt ổ phục kích của
địch ở giữa cánh đồng Phước Kiểng, Phước Lai. Cả hai nằm dưới
ruộng đầy nước. Tổ giao liên dẫn đường nổ súng chống trả quyết
liệt. Máy bay trực thăng đến quần đảo, thả pháo sáng rực trời.
Chúng bắn nhiều trái rốc-két khiến cả ba giao liên hy sinh. Đồng
chí Hai Thông và đồng chí Tám Huệ thoát nạn. Hôm sau, Tám
Huệ đến căn cứ Rừng Sác Bà Kí - Cầu Mít rồi cùng đồng chí Trần
Văn Đức và ba giao liên từ Cầu Mít băng dọc cánh đồng Phước
Lai - Phước Kiểng, lại bị phục kích, ba anh em dẫn đường và đồng
chí Tám Huệ hy sinh, đồng chí Đức bị thương lòi ruột, phải gượng
sức lấy ny-lông buộc vết thương, hai tay ôm bụng ráng bò về đến
căn cứ cầu Mít thì ngất xỉu.
Sáng 5.9.1971, máy bay Mỹ ném bom bắn phá rồi đổ quân
chụp căn cứ quân y Nhơn Trạch ở rạch Cái Tròn. 12 anh chị em
hy sinh, trong đó Nguyễn Thị Kim Dung (em gái của đồng chí
Nguyễn Văn Thông). Địch bắn Lê Văn Tâm bị thương nặng rồi
bắt đi.
2. Chuyển thế trận, mở rộng vùng làm chủ
Tháng 5.1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải
thể Ban Cán sự T7, thành lập 2 Phân khu: Phân khu Thủ Biên và
Phân khu Bà Rịa. Các huyện Long Thành, Nhơn Trạch cùng với
Đảng ủy cao su nhập vào phân khu Bà Rịa. Đầu tháng 12.1971,
Ban chấp hành Phân Khu ủy Bà Rịa họp hội nghị mở rộng tại núi
Bể. Hội nghị đánh giá thành tích chiến đấu trong 4 năm của Phân
khu 4 (Long Thành, Nhơn Trạch, Cao su và tỉnh Bà Rịa - Long
Khánh):
244

25.5 Page 245

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
1. Toàn dân, toàn quân và toàn Đảng bộ Phân khu 4 kiên
cường bám trụ chiến trường, liên tục tấn công địch, thu kết quả:
Tiêu diệt hơn 4000 lính Mỹ, Thái, Úc và ngụy (trong đó có hơn
2000 quân Mỹ, 1660 quân Thái Lan) và hàng trăm tên bình định
nông thôn, tề, điệp ác ôn. Bắn rơi 69 trực thăng, đánh chìm khoảng
300 tàu lớn nhỏ, bắn cháy hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, đốt
cháy hàng triệu tấn xăng dầu và bom đạn các loại. Tổ chức hàng
ngàn cuộc đấu tranh trực diện với hàng trăm lượt quần chúng công
nhân, nông dân tham gia. Vận động hàng ngàn binh sĩ Sài Gòn đào
ngũ, rã ngũ; họ làm hàng chục cuộc binh biến diệt ác, phá đồn,
vác súng trở về với cách mạng. Nhiều ấp, xã phát triển đoàn viên,
đảng viên, lập được chi đoàn mật, chi bộ mật trong xóm ấp. Củng
cố và phát triển các hội quần chúng, phát triển trên cơ sở nội tuyến
trong lòng địch, hơn 500 thanh niên nam nữ tham gia du kích, vào
bộ đội chống Mỹ, hàng chục ngàn lượt dân công tham gia phục vụ
chiến trường.
2. Phân khu 4 đã hoàn thành nhiệm vụ trên giao “Cùng cả
nước đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào
bàn hội nghị Paris, phải từng bước xuống thang rút dần quân Mỹ
và chư hầu về nước; tạo tiền đề đạt tới nhiệm vụ “đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào” như lời của Bác Hồ kính yêu.
3. Quân dân Phân khu 4 vượt qua một chặng đường đầy gian
khổ, chấp nhận mất mát đau thương không bờ bến chưa từng có.
Toàn dân, toàn quân, toàn Đảng bộ Phân khu 4 trải qua thực tiễn
đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo và tổ chức thực
hiện. Bài học xuyên suốt là: trung với Đảng, hiếu với dân, nắm
vững chủ trương đường lối của Đảng với tư tưởng tiến công cách
mạng trong mọi hành động, tổ chức. Bài học bám đất, bám dân để
phát huy sức mạnh vô địch của lòng yêu nước tiềm ẩn trong mọi
tầng lớp nhân dân.
245

25.6 Page 246

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Điểm lại tình hình lực lượng của ta trên địa bàn Nhơn Trạch,
nhiều tổn thất, hy sinh. Có nhiều trường hợp đau lòng.
Vào một chiều đầu mùa hè 1969, đồng chí Nguyễn Văn Đạt
(quê ở xã Phú Hữu) cùng mấy anh em ở xã Vĩnh Thanh lấy vó làm
te xuống kéo tôm ở vịnh Cây Mắm đoạn giữa sông Ông Kèo. Đạt
ở giữa dòng, anh em ở phía cạn. Một con sấu lớn táp gọn Đạt rồi
lặn mất tăm. Sau khi anh Đạt bị cá sấu gắp, anh em du kích Vĩnh
Thanh bắn rơi một trực thăng Mỹ ngay vịnh Cây Mắm. Mấy con
cá sấu cư ngụ vịnh này bao vây chiếc máy bay rơi, đuôi chúng
quật “ành ành” vào thân nhôm máy bay.
Đồng chí Lê Văn Sanh sinh năm 1919 ở Phú Hội. Anh tham
gia Cách mạng tháng Tám năm 1945, từng làm Xã đội trưởng, cán
bộ quân báo huyện Long Thành. Sau Hiệp định Genève 1954, anh
được bố trí ở lại làm cán bộ binh vận huyện. Từ năm 1967 đến
năm 1970, anh là Ủy viên Ban Binh vận Phân khu 4, cán bộ trung
cấp của Đảng. Đi công tác xã Phước Long (Nhơn Trạch), anh bị
lính Mỹ vây bắt bắn chết ngày 28.10.1971 (nhằm ngày 10.9 âm
lịch Tân Hợi). Anh đã nhắm mắt xuôi tay nhưng chúng còn sợ một
Việt cộng, mặt khác muốn hù dọa, khủng bố tinh thần nhân dân
địa phương. Chúng hành xác người quá cố bằng cách lấy xích cột
thi hài đằng sau chiếc xe tăng cuối cùng. Đoàn tăng thiết giáp chạy
từ Phước Long, Phước Thọ, Phước An rồi quanh lại Phước Kiển ra
tới thị trấn Long Thành, quãng đường dài mấy chục cây số. Máu
và thịt da anh vãi suốt mặt đường lổn nhổn đá, nham nhở vết xích.
Bà con Long Thành, Nhơn Trạch chứng kiến cảnh thương đau đó,
lòng đầy phẫn uất.
Vào cuối tháng 8.1971, đồng chí Liễu đi công tác ở xã Long
Tân để cùng anh chị em trong Ban Chấp hành Nông hội xã phát
động, tổ chức bà con chuẩn bị thu hoạch vụ mùa và đóng góp đảm
246

25.7 Page 247

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
phụ nông nghiệp. Vừa qua bên kia đường 17 xuống ấp Long Hiệu
thì đoàn của đồng chí Liễu lọt ổ phục kích của bọn Tám Thọ biệt
kích Cánh Dơi chi khu Nhơn Trạch. Tiểu liên và M.79 nổ như bắp
rang, mỗi người chạy tản một hướng. Liễu chạy lạc ra cánh đồng
Vĩnh Tuy, dưới sông Đồng Nai, tàu tuần Mỹ chạy ngược, chạy
xuôi như mắc cửi, đạn M.79 nổ “tróc, tróc” như tiếng mõ nhà sư
tụng kinh niệm phật. Các chòi ruộng của bà con không có ai ở,
lúa ruộng đang làm đòng, may mà chòi ruộng nào cũng có ít gạo,
muối, nước mắm, chiếc nồi om bằng đất, đến mấy hôm sau mới
băng qua lộ về được căn cứ hố Bà Đại (Long Tân).
Hơn 100 cán bộ nhân viên Phân khu 4 tổ chức đi từ suối Cả
(Long Thành) về Bà Rịa dự hội nghị hình thành bộ máy Phân khu
Bà Rịa. Đoàn đông băng qua sông, suối và những cánh rừng bị Mỹ
rải chất độc xơ xác. Khi lọt vào sở cao su cặp phía Đông lộ 2 thì
quân Úc bắn pháo sáng và nổ súng. Anh em chạy tứ tán. Chị Mười
Anh trúng đạn bị thương nơi bả vai. Một số lạc trong rừng già gần
tuần lễ, nhịn đói.
Hội nghị Phân khu Bà Rịa đã tập trung khái quát tình hình
toàn diện, những khó khăn, thuận lợi của từng huyện. Hội nghị
cũng kiểm điểm việc chấp hành Chỉ thị 33 của Trung ương Cục về
“Tập trung chỉ đạo đánh phá bình định, phát triển phong trào làm
chủ xã, ấp trên khắp nông thôn”. Hội nghị quán triệt chủ trương
của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Cục
miền Nam về “Quyết tâm mở cuộc phản công chiến lược trên toàn
miền Nam, đánh bại cơ bản chương trình bình định nông thôn của
địch, hỗ trợ đắc lực cho cuộc hội đàm tại Hội nghị Paris”. Phần
cuối, Hội nghị xác định nhiệm vụ cụ thể từng địa bàn thuộc phân
khu để thực hiện Chỉ thị 33 trong năm 1972, và phân công cán
bộ chỉ đạo rừng huyện, từng vùng. Đồng chí Nguyễn Văn Thông
247

25.8 Page 248

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
được phân công phụ trách các huyện Long Thành, Nhơn Trạch và
cao su Bình Sơn.
Sau hội nghị, các Huyện ủy, Đảng ủy cao su được hướng dẫn
kế hoạch đẩy mạnh hoạt động đánh phá bình định trong mùa mưa,
tạo thế mới, lực mới chuẩn bị “chồm lên” trong năm 1972-1973.
Tháng 7.1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí Phạm
Thanh Lý, quyền Bí thư Huyện ủy (thay đồng chí Phạm Minh
Chính, Bí thư Huyện ủy hy sinh vào năm 1971) triệu tập hội nghị
30 cán bộ chủ chốt tại địa đạo Phước An quán triệt Chỉ thị 33. Hội
nghị tập trung thảo luận và xác định:
- Vùng trọng điểm số 1 của đợt đánh phá bình định nông
thôn là các xã: Phú Hội, Long Tân, Phú Mỹ và Phước Thiền. Yêu
cầu đặt ra là lực lượng hoạt động công khai phải làm chủ cả ban
đêm và bàn ngày, đánh phá bình định cần đi đôi với xây dựng và
phát triển lực lượng cách mạng.
- Vùng trọng điểm thứ 2 gồm các xã: Phước Thọ, Phước
Long, Phước Lai, Phước Kiển, cần sử dụng nội tuyến kết hợp với
lực lượng vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt các đoàn
bình định nông thôn.
- Vùng thứ 3 gồm các xã: Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh, đánh phá bình định kết hợp với yêu cầu phát động
quần chúng kết hợp với cơ sở binh vận trong lực lượng phòng vệ
dân sự. Chú ý xây dựng cơ sở và nắm nghĩa quân cùng dân vệ để
phá lỏng, phá rã bộ máy kềm kẹp của địch.
Riêng vùng Vĩnh Thanh là nơi có đông đồng bào miền Bắc
di cư, phần lớn theo đạo Thiên Chúa thì bố trí một số cán bộ có
kinh nghiệm hoạt động ở vùng giáo, như đồng chí Hai Duyên, vận
động đồng bào bung ra trồng trọt ở vùng Bàu Sen, Hang Nai.
248

25.9 Page 249

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Hội nghị thảo luận và quyết định vấn đề phát động nông,
ngư dân bám ruộng đồng trồng tỉa, bám sông rạch đánh bắt cá
tôm. Chú ý bố trí đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ bà con làm ăn ở
những cánh đồng rộng như: Ông Mai, Ông Thuộc, Chà Là...
Hội nghị đánh giá: Nhơn Trạch tuy có nhiều khó khăn,
nhưng hoàn toàn có khả năng thực hiện Chỉ thị 33.
Đầu tháng 9.1972, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông triệu
tập hội nghị tập trung bàn, quyết định ba vấn đề quan trọng:
1. Sử dụng toàn bộ lực lượng thực hiện nhiệm vụ giành dân
lấn đất với địch trong mùa khô 1972-1973.
2. Chuẩn bị triển khai chỉ thị số 08/CT của Thường vụ Trung
ương Cục về “Gấp rút xây dựng phát triển, bố trí lực lượng chính
trị thành thế chiến lược vững mạnh, kịp thời đáp ứng yêu cầu,
trách nhiệm trước mắt. Hoàn chỉnh việc trang bị cho cán bộ các
cấp và đảng viên về tinh thần và vật chất vững chắc nhằm giành
thắng lợi trước mắt và sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phát
triển của tình hình”.
3. Thông báo Quyết định của Trung ương Cục: Giải thể các
phân khu, lập lại khu ủy miền Đông, lập lại các tỉnh Biên Hòa và
Bà Rịa-Long Khánh. Huyện Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên Hòa.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương Cục, ngày 28.9 hơn 50 cán
bộ chiến sĩ trong đó có các đồng chí Nguyễn Trọng Cát, Nguyễn
Việt Hoa, Nguyễn Văn Thông, Võ Văn Định, Lưu Thị Huấn, Mai
Thị Liễu từ căn cứ của tỉnh Bà Rịa về Bàu Hàm (huyện Trảng
Bom). Dựa vào căn cứ cũ của đơn vị bộ đội Đoàn 113, Tỉnh ủy
Biên Hòa lập căn cứ ở Bàu Sao phía Bắc Trảng Bom (bờ Nam
sông Đồng Nai).
249

25.10 Page 250

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
3. Tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ, 4 lần tập kích kho
bom Thành Tuy Hạ
Hội nghị Ban chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp phiên đầu
tiên từ ngày 15 đến 20.10.1972 xác định: “Tỉnh Biên Hòa có vị
trí chiến lược quan trọng, địch xây dựng nhiều căn cứ quan trọng
như: sân bay Biên Hòa, kho bom Thành Tuy Hạ, Bộ tư lệnh Quân
đoàn 3, Nha cảnh sát đặc biệt miền Đông, tổng kho Long Bình, căn
cứ Nước Trong. Biên Hòa chưa có xã giải phóng như một số địa
phương khác, nhưng cán bộ huyện, xã đều bám được địa bàn, bám
dân xây dựng cơ sở, phát động tổ chức phong trào quần chúng nổi
dậy, thực lực cách mạng nơi nào cũng phát triển. Phát huy thắng
lợi đã giành được, lực lượng cách mạng ở Biên Hòa tập trung tiến
công địch, chống càn quét lấn chiếm, kết hợp chặt chẽ ba mặt võ
trang: chính trị, binh vận, quân sự; phát động quần chúng diệt
ác phá kềm, trấn áp bọn phản cách mạng ở vùng yếu, vùng tranh
chấp, tạo điều kiện cho dân bung mạnh ra sản xuất, bao vây lấn
địch giành quyền làm chủ ấp, xã, tạo thế lực mạnh mẽ chuẩn bị
“chồm lên” tiến công địch, mở rộng vùng khi có giải pháp chính
trị, đồng thời sẵn sàng cùng toàn Miền đánh bại ấm mưu ngoan cố
kéo dài chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn”.
Sau hội nghị, các đồng chí Ủy viên Thường vụ và Tỉnh ủy
viên nhanh chóng tỏa đi khắp các địa phương Vĩnh Cửu, Trảng
Bom, Long Thành, Nhơn Trạch, Dĩ An, Tân Uyên, Duyên Hải,
Đảng ủy cao su và thị xã Biên Hòa triển khai nghị quyết và xây
dựng kế hoạch hoạt động cụ thể.
Ngày 23.12.1972, Thường vụ Trung ương Cục chính thức
ra quyết định Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa gồm 19 đồng
chí, do đồng chí Nguyễn Trọng Cát - Ủy viên Thường vụ Khu ủy
miền Đông làm Bí thư Tỉnh ủy; Phó Bí thư Tỉnh ủy là đồng chí
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Nguyễn Văn Thông, Phan Văn Trang. Theo quyết định này, đồng
chí Nguyễn Văn Xuân (Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch) là Tỉnh ủy
viên phụ trách địa bàn Nhơn Trạch. Đại hội đại biểuTrung đoàn 4
phối hợp tại địa bàn Nhơn Trạch gồm 2 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 1 và
Tiểu đoàn 4).
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa, quân dân Nhơn
Trạch cùng toàn tỉnh mở đợt tiến công đồng khởi từ đêm 24.10
đến ngày 5.11.1972. Kết quả tổng hợp toàn tỉnh:
- Diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 1814 tên, bắt sống 6 tên
(có 1 đại úy). Diệt gọn 4 đại đội bảo an, 20 trung đội dân vệ, 1
trung đội trinh sát biệt động quân. Đánh thiệt hại nặng 16 đại đội,
18 trung đội bảo an, dân vệ.
- Bắn rơi 6 máy bay, bắn cháy xe quân sự, phá 6 khẩu pháo.
- Thu 172 súng các loại.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy Biên Hòa, quân dân Nhơn
Trạch cùng toàn tỉnh mở đợt tiến công đồng loạt nổ ra từ đêm
24.10 đến ngày 5.11.1972. Kết quả được tổng hợp toàn tỉnh:
- Diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 1814 tên, bắt sống 6 tên
(có 1 đại úy). Diệt gọn 4 đại đội bảo an, 20 trung đội dân vệ, 1
trung đội trinh sát biệt động quân. Đánh thiệt hại nặng 16 đại đội,
18 trung đội bảo an, dân vệ.
- Bắn rơi 6 máy bay, bắn cháy xe quân sự, phá 6 khẩu pháo.
- Thu 172 súng các loại.
- Hàng chục ngàn đồng bào đấu tranh chính trị, binh vận
nhằm chống địch đàn áp khủng bố, làm rã bộ máy kềm kẹp ấp, xã
ở nhiều huyện.
251

26.2 Page 252

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Sau đợt “Đồng khởi năm 1972” và “chồm lên chiếm lĩnh”
của lực lượng cách mạng, địch đã rất hoang mang lo sợ, thì tiếp
theo đó các trận đánh hiểm vào kho đạn Thành Tuy Hạ càng làm
cho địch dao động và hoảng sợ hơn.
Từ năm 1972, chiến trường miền Nam trở nên ác liệt. Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam đã làm chủ nhiều vùng đất trên
khắp Miền Nam, địch tăng cường sử dụng lực lượng không quân
ném bom đánh phá vùng giải phóng và hỗ trợ cho quân đội Sài
Gòn trong các đợt càn quét, đồng thời tăng cường ném bom đánh
phá miền Bắc. Để hạn chế sức mạnh quân sự của địch và cổ vũ
cho phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam, lực lượng của
đoàn 113 đặc công miền Đông Nam Bộ, đoàn 10 đặc công Rừng
Sác của quân giải phóng đã nhiều lần đột nhập tấn công kho bom
Thành Tuy Hạ phá hủy hàng chục ngàn tấn bom đạn gây tổn thất
nặng nề, làm cho địch hoang mang lo sợ. Những trận tấn công vào
kho tàng địch đã tạo tiếng vang ở trong nước cũng như trên thế
giới, điều đó đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng của các
địa phương làm cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi và tin tưởng
vào thắng lợi của cách mạng.
Khi quân Pháp rút khỏi nước ta, đế quốc Mỹ thay chân, đã
mở rộng phạm vi khu kho Thành Tuy Hạ, nhất là giai đoạn Chiến
tranh cục bộ (từ năm 1965).
Đến năm 1965, diện tích khu kho đạn Thành Tuy Hạ đã lên
đến 378,5 hecta, chia làm 6 khu nhỏ. Các tàu trọng tải 10.000 -
20.000 tấn chở vũ khí từ Mỹ hoặc các căn cứ quân sự khác vào
miền Nam, theo sông Lòng Tàu đến đậu giữa sông Đồng Nai, Cát
Lái rồi bốc hàng vào kho Thành Tuy Hạ, sau đó mới chuyển về
Tổng kho Long Bình và các khu vực khác. Những năm sau đó, Mỹ
đẩy mạnh chiến tranh tại Việt Nam, tăng cường vũ khí, phương
252

26.3 Page 253

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tiện chiến tranh nên quy mô của kho Thành Tuy Hạ càng được mở
rộng.
Đầu năm 1972, sau hội nghị tổng kết tại Trung ương Cục
miền Nam, các lực lượng được thông báo tình hình phía Mỹ không
chịu ký Hiệp định Paris đúng thời gian thỏa thuận với Chính phủ
cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, đồng thời ráo riết chuẩn
bị tập kích miền Bắc bằng không quân, âm mưu đưa miền Bắc
XHCN “trở về thời kỳ đồ đá”.
Năm 1972, Bộ Tư lệnh miền Quân giải phóng mở chiến dịch
mang tên Nguyễn Huệ nhằm mục tiêu mở rộng vùng giải phóng
trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ uy hiếp Sài Gòn từ hướng Bắc
và Tây Bắc. Hướng tiến công chủ yếu và thứ yếu nhằm vào Lộc
Ninh, Tây Ninh; tỉnh Biên Hòa là địa bàn phối hợp nhằm thu hút,
chia lửa chiển trường. Nhiệm vụ của chiến trường Nhơn Trạch lúc
này là thọc sâu, đánh hiểm vào trung tâm đầu não của giặc, kéo
căng, phân tán sinh lực địch để chia lửa cho các hướng chủ yếu
chiến dịch Nguyễn Huệ. Kho bom Thành Tuy Hạ là mục tiêu quan
trọng hàng đầu.
Khu kho Thành Tuy Hạ, thuộc địa phận huyện Nhơn Trạch,
cách Sài Gòn về hướng Đông Nam khoảng 10 km đường chim bay,
phía Bắc - Đông Bắc là lộ 17, Tây Nam là sông Nhà Bè và sông
Lòng Tàu ra Biển Đông, hướng Đông là lô cao su Tân Trường, xã
Long Tân. Khu kho này do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1929,
được xem là dạ dày chiến tranh của quân Pháp và Mỹ ở Việt Nam.
Cường độ chiến tranh quy mô ngày càng cao, số lượng bom đạn,
phương tiện chiến tranh Mỹ - ngụy tập trung ở đây càng lớn. Diện
tích khu kho rộng 378,5 ha (chia thành 6 khu nhỏ). Thành Tuy Hạ
là khu kho “đầu cầu” chứa và cung ứng bom đạn để Mỹ - ngụy đi
gây tội ác ở Đông Dương. Các tàu từ 10.000 - 12.000 tấn từ Mỹ
253

26.4 Page 254

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
vào sông Lòng Tàu đến đậu giữa sông Đồng Nai, Cát Lái, rồi bốc
hàng vào khu kho, sau đó mới chuyển về tổng kho Long Bình
và các nơi khác. Năm 1972, lực lượng bảo vệ khu kho có 2 tiểu
đoàn bảo an, 2 đại đội quân cụ, 1 đơn vị pháo 105 ly, trên 100 chó
becgiê. Bao quanh kho có hệ thống 10 lô cốt cách nhau 200m,
khoảng giữa có một con chó becgiê. Từ ngoài vào có 11 hàng rào
các loại, giữa rào số 7 có một số dây chuyền điện, 10 bờ đê đất,
cao độ 3 mét; có đường xe xen ở giữa trong rào, có bãi mìn, cả hệ
thống ánh sáng, đèn pha cực mạnh. Trên mỗi lô cốt có đèn pha,
ban đêm cứ 5 phút rọi một lần, cứ 10-15 phút có bộ binh và xe
tuần tiễu chạy chung quanh. Với hệ thống phòng thủ nghiêm ngặt,
chúng cho kho bom Thành Tuy Hạ là bất khả xâm phạm.
Tháng 3.1970, phân khu bổ sung cho 240 một bán đội đặc
công. Huyện đội Nhơn Trạch lúc bấy giờ do đồng chí Huỳnh Văn
Tám (Tám Quyết) làm Huyện đội trưởng; rút đồng chí Võ Văn
Quyết (Hai Quyết) đang làm Đại đội phó C240 huyện về làm Đội
trưởng đặc công; đồng chí Đơ - Đội phó, đồng chí Nghĩa làm
Chính trị viên (lấy phiên hiệu là B3). Thành phần B3 gồm có
7 chiến sĩ đặc công phân khu tăng cường về (Nguyễn Văn Đơ,
Nghĩa, Nguyễn Hữu Hòa, Vận, Long, Trình và Ty); bổ sung 10
chiến sĩ của trung đội 1 và 2 C240. Đồng chí Hai Quyết được cử
làm Đội trưởng B3, đồng chí Đơ làm Đội phó để tiến hành nghiên
cứu đánh kho đạn. Ban chỉ huy đội quyết tâm trong tháng 4.1972
tiến hành điều nghiên khu kho Thành Tuy Hạ, khi nắm chắc là tổ
chức đánh ngay.
Lần thứ nhất, đầu tháng 4.1972, đơn vị chính thức lấy tên là
trung đội 3 của Đại đội 240 huyện Nhơn Trạch, đứng chân tại căn
cứ Cây Trắc nằm gần khu Bàu Lòng, thực hiện nhiệm vụ nghiên
cứu đánh kho bom Thành Tuy Hạ. Huyện đội điều thêm 3 đồng
254

26.5 Page 255

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
chí ở đội biệt động thị trấn Vĩnh Thanh phối thuộc làm nhiệm vụ
đưa đường gồm: đồng chí Học, đồng chí Thắng, đồng chí Bảy
Quyết. Huyện đội điều đồng chí Tám Chữ cùng đồng chí Lê Hoài
Nam và đồng chí Trình lấy thuốc bom đúc thành trái nổ, mỗi trái
nặng 5kg có 5 lỗ để tra kíp nổ và kíp hẹn giờ.
Đêm 6.4.19721, đội đặc công (B3) gồm 6 đồng chí cảnh giới
cho hai đồng chí Hai Quyết và Đơ đột nhập nghiên cứu kho Thành
Tuy Hạ để báo cáo quyết tâm với Huyện ủy. Được Huyện ủy đồng
ý, Ban chỉ huy Huyện đội quyết định tấn công vào đêm 10.4.1972.
Sáng 10.4.1972, đồng chí Huyện đội trưởng Tám Quyết dự lễ xuất
quân, giao nhiệm vụ cho đội đặc công (B3). Toàn đội xác định
mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng trận đánh vào khu kho Thành
Tuy Hạ. Mục đích: Đáp lời kêu gọi của Trung ương Cục, Bộ chỉ
huy Miền, quyết giành thắng lợi cao nhất để hợp đồng chung trên
chiến trường toàn Miền; phá hủy một số lượng vũ khí, phương
tiện chiến tranh của địch, gây thối động, đẩy mạnh du kích chiến
tranh tạo đà phấn khởi trong quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm
giành quyền làm chủ; nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, kỹ - chiến
thuật cho đơn vị (B3); lập thành tích kỷ niệm ngày Quốc tế Lao
động 1.5, ngày chiến thắng Điện Biên Phủ 7.5 và ngày 19.5, sinh
nhật Bác Hồ. Yêu cầu của trận đánh: Chuẩn bị chu đáo tỉ mỉ vật
chất, quyết tâm dù tình huống nào cũng đánh cho bằng được, bảo
đảm chính sách thương binh tử sĩ, giữ vững ý chí chiến đấu, nếu
bị lộ vẫn đánh, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Tham
gia trận đánh: Gồm cả 10 chiến sĩ đặc công; Chỉ huy trưởng là
đồng chí Hai Quyết, Chỉ huy phó là đồng chí Đơ và đồng chí Học,
Chính trị viên là đồng chí Nghĩa. Cánh 1: Đánh vào điểm với 5
đồng chí Quyết, Đơ, Hòa, Vận, Nghĩa, trang bị 9 khối thuốc nổ,
1  Có tài liệu ghi: 4.4.1972
255

26.6 Page 256

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
1 súng ngắn, 1 lựu đạn, 1 kìm cắt kẽm. Cánh 2: Gồm 5 đồng chí
của đội thị trấn do đồng chí Học chỉ huy, trang bị 1 B40, 1 M79, 2
AK giữ cửa mở, chế áp vào lô cốt chi viện khi lộ để cánh 1 xông
vào đánh.
Lúc 18 giờ ngày 8.4.19721 xuất quân; đội tập kết ở căn cứ
đội biệt động thị trấn Vĩnh Thanh; một tổ gồm 3 đồng chí đi trước
cảnh giới và dẫn đường qua lô cao su Tân Tường, tiếp theo là mũi
đánh bên trong kho gồm các đồng chí: Hai Quyết, Đơ, Nghĩa,
Vận, Hòa. Tổ phía sau có đồng chí Ty, y tá và Trình. Tổ 5 người
đột nhập vào kho với 9 khối thuốc nổ, vượt qua 6 lớp rào, nép
mình thoát các tổ tuần tra bằng xe đạp, honda và ánh đèn quét từ
các lô cốt; có lúc phải vượt rào lưới B40 cao 3 mét và leo cây cao
su để lọt vào trong; vào tới mục tiêu, bố trí đánh theo đội hình
cuốn chiếu từ trong đánh ra: trái nổ đặt 1 kho, bỏ 1 kho, đặt 1 dãy,
bỏ 1 dãy để khi đánh trái kích thích nổ được nhiều hơn. Sau khi
vào kho, đồng chí Hai Quyết bị kẹt bên trong do có 1 xe quân sự
của địch, phải mất 15 đến 20 phút mới ra được. Khi vượt ra khỏi
đường tuần tra bên trong thì chó bảo vệ phát hiện. Đồng chí Đơ
kẹt lại, hy sinh trong hàng rào. Số còn lại, về đến căn cứ du kích xã
Phú Hội an toàn. Đúng 5h00, kho đạn nổ long trời, địch thú nhận
75.000 tấn bom đạn bị phá hủy, chết: 15, bị thương: 25.
Đây là trận đánh lớn đầu tiên gây thiệt hại nặng cho kho bom
Thành Tuy Hạ làm nức lòng quân dân cả nước, quân giặc kinh
hồn, dư luận thế giới xôn xao.
Lần thứ hai diễn ra vào tháng 8.1972. Sau trận thứ nhất, B3
được giao nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu để đánh Kho bom Thành
Tuy Hạ lần 2. Địch đã đề phòng, tăng cường chó nghiệp vụ và lính
canh gác cẩn mật, tuần tra vòng trong vòng ngoài suốt ngày đêm.
1  Có tài liệu ghi: Ngày 8.4.1972
256

26.7 Page 257

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Tổ công tác phải điều nghiên nhiều lần mới lên được phương án
đột nhập.
Đêm 4.8.1972, đồng chí Hai Quyết và Hòa mang theo khối
nổ quyết tâm vào kho bom. Ba đồng chí: Vận, Trình, Ty đi đưa
đường. Gần tới mục tiêu, đồng chí Hai Quyết và Hòa tiềm nhập
vào bên trong; đến chỗ bãi trống, làm công tác ngụy trang, may
gặp trời mưa, chó và lính canh không phát hiện, vượt 2 bờ đê và
mấy lớp rào; tiếp cận mục tiêu, đặt bom vào nhà kho lớn; cài giờ
hẹn nổ từ 2,5 tiếng đến 10 tiếng; rút lui an toàn. Đến 7 giờ sáng
hôm sau, kho Thành Tuy Hạ phát nổ; hơn 100.000 tấn bom mìn
bị hủy.
Sau đó, 3 đồng chí trong B3 công tác lần lượt hy sinh, các
đồng chí Hòa, Hai Quyết, Ty, Long sáp nhập về Đại đội 32 thuộc
Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác làm nhiệm vụ đánh tiếp kho
Thành Tuy Hạ hai trận nữa vào tháng 11 và tháng 12.19721.
Trận thứ ba do Đoàn 10 đặc công Rừng Sác lập công vào
7.11.1972.
Đội đặc công nhận nhiệm vụ trinh sát trước trận đánh tập
trung ở căn cứ Trung đoàn 10 nhiều ngày. Một trong những người
đưa đón chiến sĩ đặc công làm nhiệm vụ là bà Trần Ngọc Thanh2.
Với vỏ bọc là ghe chở lá dừa nước, bà Thanh từ Phú Thạnh đến nơi
hẹn thì cắm sào đợi, giả nghỉ mệt. Đồng chí Hai Quyết dùng đất
cục chọi xuống sông, nhận được ám hiệu, bà Thanh ghé vào bến.
Không ai nói năng gì, 3 đồng chí đặc công, trong đó có Hai Quyết
từ lùm dừa nước chui ra, lủi nhanh xuống đám lá dừa nước ngụy
1  T heo lời kể của Nguyễn Hữu Hòa, Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa -
Đồng Nai
2  C òn có tên gọi là Trần Thị Sang, cơ sở mật ở xã Phú Thạnh, tham gia cách mạng từ
năm 1968
257

26.8 Page 258

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
trang sẵn nơi lòng ghe, bà Thanh quay mũi chèo về Phú Thạnh
(4 đồng chí còn lại đi chuyến khác, do tổ khác đón). Trên đường
về do ngược nước, ghe lại nặng nên khẳm hơn bình thường, trên
đường đi liên tục gặp tàu tuần giang của địch, nhưng bà Thanh
bình tĩnh chèo cặp theo bờ nên bọn địch không nghi ngờ gì Ghe về
đến Rạch Kè (Phú Thạnh), bà Thanh đưa cho các anh mấy hộp sữa
đặc đã nấu chín từ trước và vài vắt cơm, sau đó lại có ghe khác đón
cả đội về Vũng Gấm (xã Phước An). Cách tổ chức của lực lượng
cách mạng địa phương rất chặt chẽ trong công tác phối hợp, người
nào việc nấy vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, vừa hạn chế tổn
thất trong trường hợp bất trắc, bị lộ.
Để điều nghiên tình hình địch và địa hình kho Thành Tuy
Hạ, đội đặc công đã phối hợp với chi bộ Đảng xã Phú Thạnh và cơ
sở cách mạng tại đây thông qua đầu mối là đồng chí Tám Quyết1.
Thời điểm đó, do hoạt động mật nên đảng viên chỉ sinh hoạt theo
tổ 3 người, mỗi tổ có nhiệm vụ riêng, không ai biết rõ người và
hoạt động của tổ khác.
Trong kế hoạch đột kích phá hủy kho vũ khí Thành Tuy Hạ,
tổ của bà Nguyễn Thị Võ được giao nhiệm vụ tiếp tế cho đội đặc
công. Thời điểm đó, địch tập trung dân Phú Thạnh trong ấp chiến
lược, mỗi sáng khi người dân đi làm, phải qua cổng ấp chiến lược,
địch bố trí khám xét, lục soát rất gắt gao. Ai mang nhiều cơm, gạo,
thức ăn là bọn chúng nghi ngờ, hạch sách ngay. Bà Võ phải giả
vờ là nấu cơm đem cho cha đang bị bệnh nặng để bọn địch không
nghi ngờ. Sáng sớm khi đi cạo mủ, bà Võ giấu cơm, thức ăn (chủ
yếu là cá hộp và nước tương), nước uống trong thùng đựng mủ,
1  T heo lời kể của bà Nguyễn Thị Võ. Bà Võ tham gia cách mạng từ năm 1962, kết nạp
Đảng năm 1967, là tổ viên của tổ giao liên mật thuộc chi bộ xã Phú Thạnh và an ninh
huyện Nhơn Trạch, được chi bộ xã Phú Thạnh tổ chức vào làm công nhân cao su sở
Bàu Lòng.
258

26.9 Page 259

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đến điểm hẹn thì để ở nơi quy định trước, giả vờ tróc chó, kêu
“Mực, mực” rồi đi, sau đó sẽ có người chuyển tiếp đến cho đội.
Bà Võ cũng là người mua pin gởi cho đội đặc công để chế tạo mìn
hẹn giờ đánh kho bom.
Về nhiệm vụ điều nghiên, bà Trần Ngọc Thanh kiếm cớ vào
Thành Tuy Hạ thăm người quen đang làm việc tại đây. Bà Thanh
có lợi thế là chồng đi lính cho chính quyền Sài Gòn, tạo vỏ bọc tốt
nên bà không bị nghi ngờ. Mỗi ngày, bà Thanh đi từ cổng vào nơi
làm việc, dùng khoảng cách bước chân để đo khoảng cách từ cổng
vào kho, ghi nhận các lớp rào, cách bố phòng của địch, sau đó vẽ
thành sơ đồ, có ghi chú. Tài liệu này, bà Thanh gởi cho đội đặc
công qua hộp thư mật đặt ở đầu lô cao su 7 bằng cách cuốn nhỏ,
đặt vào trong chai và chôn dưới gốc cây lồng mứt ở đầu lô theo
quy định trước. Tổ điều nghiên của đội đặc công gồm các đồng
chí: Hai Quyết, Hòa1 và 4 đồng chí nữa đột nhập nghiên cứu kho
đạn Thành Tuy Hạ từ phía Tây. Qua khỏi vòng rào thứ 3, một đồng
chí đạp phải pháo sáng. Địch phát hiện, nên cả tổ phải lùi ra.
Hôm sau, tổ lại đột nhập kho đạn Thành Tuy Hạ từ hướng
Nam. Vượt qua được 10 lớp rào, lại đụng bộ binh địch rất đông,
nên lại phải rút ra vì sợ bị lộ. Hai ngày sau, tổ đột nhập vào kho
đạn lần thứ 3, từ hướng Bắc. Không ngờ, đây là khu vực bãi mìn
cố định dày đặc, không vượt qua được, các đồng chí trong tổ phải
nằm ém lại trong rào để dò xét. Đêm sau, cả tổ tiếp tục vượt được
6 lớp rào, nhưng bị địch phát hiện nên phải lùi ra. Trong quá trình
di chuyển, một đồng chí làm rớt lại một chiếc dép râu, thế là lộ
hướng đột nhập.
Ba lần đột nhập từ các hướng khác nhau mà chưa tìm ra được
kẽ hở trong bố phòng của địch, Ban chỉ huy nhận định: “Vì đã lộ ý
1  Theo tài liệu Kho K892 - biên niên sự kiện, tên đồng chí là Đỏ
259

26.10 Page 260

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
định đột nhập kho đạn Thành Tuy Hạ, địch chắc chắn đã đề phòng,
tăng cường đối phó. Muốn thành công, phải tìm một hướng thật
bất ngờ để lọt vào kho đạn”.
Hôm sau nữa, bốn đồng chí trong tổ lại tìm hướng đột nhập.
Lần này, chia làm hai hướng: hai đồng chí vào hướng Tây - Tây
Bắc sát nách quân cảng, chui qua được 8 lớp rào thì trời sáng, phải
tìm chỗ nấp ém lại đến đêm sau thì lọt được vào khu kho. Riêng
hai đồng chí đột nhập theo hướng Nam thì đụng địch, lúc lùi trở ra
đồng chí Bèo bị vấp trái nổ, bị thương rồi hy sinh.
Qua tám lần đột nhập, một chiến sĩ hy sinh, cuối cùng đội
cũng thành công “soi” được kẽ hở bố phòng của địch. Quá trình
điều nghiên, các đồng chí nhận định có thể đánh, và phải đánh
ngay khi địch chưa kịp thay đổi cách bố phòng. Phương án được
báo cáo về trên, Huyện ủy Nhơn Trạch đồng ý1.
Rạng sáng ngày 12.11.1972, kho bom Thành Tuy Hạ lại rực
lửa, tiếng nổ vang rền, khói đen bốc cao suốt 2 ngày đêm. Mấy
ngày sau, nguồn tin nội bộ và tin báo chí xác định 23 nhà kho chứa
thuốc nổ và 9 nhà kho bom napan bị thiêu rụi, khoảng 200.000 quả
bom mìn phát nổ.
Lần thứ tư, diễn ra một tháng sau. Đoàn 10 Đặc công Rừng
Sác chỉ đạo Đại đội 32 điều nghiên tiếp hướng quân cảng là nơi
bố phòng mỏng để tìm hướng đánh tiếp. Đoàn trưởng kiêm Chính
ủy Lê Bá Ước nhận định: “Ta vừa đánh, địch chưa kịp hoàn hồn,
còn sơ hở. Chúng cũng không nghĩ rằng đặc công dám đánh tiếp.
Vì vậy, cần chớp thời cơ”. Tối ngày 10 tháng 12, tổ công tác đặc
công hẹn gặp ở bến Bắc Rừng bàn phương án, nhận khí tài, trang
bị, kỹ đến mức chuẩn bị cả mứt gừng chống ho; lần này với 25 quả
1  Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, NXB Văn hóa văn nghệ năm 2012, trang 100-106
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
mìn lõm công phá mạnh, quyết tâm đánh kho Bom Thành Tuy Hạ
cao hơn, sẽ gây thiệt hại nhiều hơn.
Trước 4 giờ sáng ngày 12.12.1972, cả tổ đặc công 5 người đã
tiềm nhập vào giữa khu kho. Đồng chí Hai Quyết một mũi, đồng
chí Hòa một mũi vừa tìm đúng kho bom thì trời sáng, phải ém lại
qua ngày, phải khống chế một tên lính vô tình phát hiện, mãi đến
nửa đêm mới cài xong bom vào các vị trí mục tiêu. 2 giờ 55 phút
sáng hôm sau, tổ đặc công thoát ra an toàn, vừa về đến Bàu Sen thì
Thành Tuy Hạ phát nổ làm rung chuyển mặt đất, đỏ rực vùng trời,
tiếng nổ và lửa khói làm rúng động Sài Gòn, kéo dài 3 ngày đêm.
Đây là đợt tập kích lớn nhất, gây tiếng vang lớn nhất và
làm Thành Tuy Hạ thiệt hại nhiều nhất. Theo tài liệu lưu trữ của
địch, 80 kho bị phá hủy sạch, chứa khoảng 60.000 trái bom tương
đương 80.000 tấn, riêng kho bom CBU đóng kín trong thùng của
15 kho tương đương 33.000m3, loại đạn pháo 105 li chứa trong
17 nhà kho hơn 1.000.000 quả bị phá hủy 60%, khu bom thiệt hại
80%1.
Đáng lẽ có thêm lần thứ năm tập kích Thành Tuy Hạ nếu
không có việc địch tình cờ phát hiện tổ trinh sát đặc công do đồng
chí Hai Quyết điều nghiên cho trận đánh tiếp theo dự kiến vào
đầu năm 1973. Từ Rạch Kè, 5 chiến sĩ đặc công lội ngược dòng
xuống khu vực Thành Tuy Hạ thì bị hải quân địch phát hiện. Giặc
bắn vào đám lục bình khả nghi, đồng chí Hai Quyết gãy tay, bị
bắt sống, sau đó bị lôi lên máy bay trực thăng đưa thẳng về chi
khu Nhơn Trạch. Địch đã đưa đồng chí qua nhiều nhà giam khác
nhau, rồi bặt tin, mất tích. Sau ngày miền Nam giải phóng, đất
nước thống nhất, đồng chí, đồng đội cố tìm tung tích đồng chí Hai
Quyết nhưng vẫn bặt tin.
1  Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, NXB Văn hóa văn nghệ năm 2012, trang 109
261

27.2 Page 262

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Các trận tập kích kho bom Thành Tuy Hạ đã tiêu hao phần
lớn sinh lực địch, làm cho dạ dày chiến tranh của địch bị trọng
thương, tinh thần và thực lực của địch giảm sút khiến cho chiến
dịch Nguyễn Huệ ở các mặt trận nghiêng lợi thế về cho quân giải
phóng.
Cùng với các trận tập kích Thành Tuy Hạ, Tỉnh đội còn chỉ
đạo gài thế để đánh địch, tạo ra những trận đánh tiêu diệt lớn tác
động hỗ trợ phong trào ở địa phương, mở thế thoát kìm cho dân,
phối hợp trong chiến dịch Nguyễn Huệ. Quân khu tăng cường về
huyện Nhơn Trạch trung đoàn. Ban chỉ huy thống nhất có đồng chí
Hai Phê, Trung đoàn trưởng, Tám Quyết, Huyện đội trưởng Nhơn
Trạch, Trung đoàn 4 sử dụng D1 và Đại đội 240 huyện Nhơn
Trạch. Kế hoạch của Ban Chỉ huy là dùng đội du kích Phước An,
rải truyền đơn rắc máu dọc theo lộ ủi khu trù mật Hang Nai, phóng
đầu pal vào đồn Phước An, bắn phá hoại để dụ địch trong đồn
bung ra theo hướng ta bố trí. Lúc đó, địch đóng đồn ở Phước An
do một đại đội bảo an trấn giữ, ấp Vũng Gấm có dân vệ, tề ngụy
rất ác ôn, hung hăng, khi ta rải truyền đơn hoặc du kích bắn phá,
chúng đi nhặt, truy lùng tìm dấu máu. Đêm 27.9.1972, du kích
Phước An bắt đầu rải truyền đơn rắc máu vịt vô mé rừng và phóng
1 đầu pal vô đồn Phước An. Bọn địch lập tức bắn 12,7 ly và cối
ra. Sáng 28.9, dân vệ đi mở đường phát hiện có truyền đơn ta rải,
chúng không đi ngay lộ ủi mà bọc sau dãy mìn buộc ta nổ làm bị
thương 5 tên chạy về Vũng Gấm. Đến trưa, địch điều 1 đại đội
bảo an bảo vệ phía Nam kho Thành Tuy Hạ, cùng đại đội bảo an ở
Phước An gần chia thành hai cánh lần theo dấu vết tìm diệt quân
giải phóng. Quân giải phóng vẫn bí mật ém quân, chờ địch lọt vào
trận địa đồng loạt nổ súng, diệt gọn hai đại đội bảo an, làm thương
vong 94 tên, bắt 1 đại úy và 2 trung úy, thu 24 súng. Quân giải
phóng hy sinh 1 đồng chí, bị thương 18 đồng chí.
262

27.3 Page 263

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trận đánh diệt gọn 2 đại đội bảo an ở khu trù mật Phước
An có ỷ nghĩa chia lửa với chiến trường chính trong chiến dịch
Nguyễn Huệ, kéo căng địch ra mà đánh, khiến giặc hoang mạng,
sợ hãi, co cụm; tạo lợi thế cho các phong trào 3 mũi giáp công, tấn
công địch trên toàn huyện Nhơn Trạch.
Ngoài ra, D240 còn phối hợp các lực lượng diệt hai đại đội
sư đoàn 18 ngụy tại Hang Nai và xã Phước An, bắt sống tên đại
úy Tùng, diệt nhiều tên và thu các loại súng hiện đại khác. Ngày
9.11.1972, D240 cùng Tiểu đoàn 2 tiến công đại đội bảo an từ Phú
Hội sang Long Tân diệt 35 tên, làm bị thương 17 tên và tịch thu
16 súng.
Đó là những hoạt động thiết thực của Nhơn Trạch tham gia
vào chiến dịch Nguyễn Huệ góp phần tiêu hao, phân tán, kéo dãn
binh lực địch để tạo thắng lợi trên chiến trường miền Đông.
V. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG THẾ TRẬN, NẮM THỜI
CƠ, THAM GIA TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY, GIẢI
PHÓNG QUÊ HƯƠNG (1973 - 30.4.1975)
1. Lãnh đạo quân dân giữ vững địa bàn, chống lấn chiếm
sau Hiệp định Paris
Thắng lợi trên chiến trường miền Nam của quân giải phóng
buộc các bên Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa cùng ký với đại diện
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Hiệp định Paris ngày 27.1.1973. Các bên thảo luận dằng dai đã
lâu, vừa đánh vừa đàm, đến khi tình thể không thể đảo ngược,
buộc phải thống nhất nội dung Hiệp định gồm 23 điều, trong đó
các điều chủ yếu ghi nhận mong muốn của quân dân cả nước: Hoa
Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam; ngừng bắn trên toàn Việt Nam bắt đầu từ
27.1.1973; các bên cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện
263

27.4 Page 264

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; nhân dân miền
Nam Việt Nam sẽ quyết định tương lai chính trị của mình; sự tái
thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện
pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc
và miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính
bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài. Như vậy, về
mặt quân sự, buộc Mỹ và đồng minh phải rút khỏi miền Nam Việt
Nam, ngừng tấn công miền Bắc. Coi như mục tiêu đấu tranh của
quân giải phóng miền Nam đã thắng lợi cơ bản.
Sau hai tháng thực hiện Hiệp định Paris, ngày 31.3.1973,
Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp phân tích tình hình:
1. Có những vấn đề mới xuất hiện đáng chú ý. Địch tăng
cường liên tục mở rộng cuộc hành quân cảnh sát vào các xóm
ấp (nông thôn) và khu phố (thị trấn, tỉnh lỵ Biên Hòa), phân loại
quần chúng khủng bố những ai chúng nghi ngờ. Chúng ráo riết
bắt lính, đơn quân để bù số bỏ ngũ, rã ngũ sau khi Hiệp định Paris
ký kết. Chúng buộc nhân dân sơn cờ vàng ba sọc đỏ lên nóc hoặc
cửa nhà, rêu rao “nơi nào có “cờ quốc gia” đều thuộc “vùng chính
phủ Việt Nam cộng hòa kiểm soát”. Chúng đẩy mạnh chiến tranh
tâm lý, vu khống phía giải phóng “vi phạm lệnh ngưng bắn”, gây
tâm lý không tin vào pháp lý của Hiệp định Paris “hiệp định kí vậy
thôi, chớ không có giá trị gì”. Chúng “cảnh sát hóa” bộ máy chính
quyền xã, thúc ép bọn ác ôn bung ra hoạt động vùng ven. Chúng
đàn áp phong trào đấu tranh đòi hòa bình, đòi các quyền tự do, dân
sinh dân chủ. Đặc biệt, chúng ngăn cấm không cho nhân dân trở
về ruộng đồng để sản xuất.
2. Từ giữa tháng 3.1973, địch mở các cuộc hành quân lấn
chiếm nhiều vùng nông thôn trong tỉnh. Nguyễn Văn Thiệu ban
hành luật “Người cày có ruộng” ngày 23.6.1973 hòng nắm đông
264

27.5 Page 265

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đảo nông dân. Mặt khác, chúng cho phép các nhà tư sản có phương
tiện khai thác gỗ cùng với một số công chức ngụy tổ chức làm be
mà thực chất là phá địa bàn căn cứ cách mạng. Trong xóm ấp,
chúng tăng cường tổ chức gián điệp, chỉ điểm, chú trọng huấn
luyện và trang bị vũ khí cho lực lượng phòng vệ dân sự xung kích
ở những vùng đồng bào Công giáo di cư như Trảng Bom, thị trấn
Long Thành, tỉnh lỵ Biên Hòa, xã Vĩnh Thanh (Nhơn Trạch).
Ý đồ của địch là địch tập trung lấn chiếm vùng giải phóng,
xóa thế “da beo”, đẩy lực lượng cách mạng ra xa, đóng chốt giữ
các đường giao thông và các địa bàn do chúng kiểm soát.
3. Về phía ta, Tỉnh ủy chỉ đạo các lực lượng vũ trang kiên
quyết chốt giữ vùng giải phóng, đánh địch nống ra vi phạm Hiệp
định Paris và quan tâm lãnh đạo tư tưởng tiến công chống tư tưởng
hữu khuynh sợ địch tố cáo ta vi phạm hiệp định. Mặt khác, Tỉnh
ủy tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp phát động phong trào toàn
dân bung ra sản xuất, xây dựng vùng căn cứ Bến Nôm - Bàu Hàm
với yêu cầu có dân, xây dựng trường học và trạm y tế.
4. Hội nghị thông qua kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện
hai chỉ thị 02 và điện số 775 của Thường vụ Trung ương Cục:
“Tập trung chỉ đạo tấn công bằng ba mũi vũ trang - chính trị - binh
vận nhằm chống địch vi phạm hiệp định, giữ vùng ta và không
ngừng phá thế kềm kẹp của địch đi đôi với đẩy mạnh phong trào
mỗi địa phương xã, thị trấn, huyện, thị xã quan tâm đúng mức
công tác phát triển lực lượng cách mạng tại chỗ”.
Ngay sau hội nghị Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Trọng Cát - Bí
thư Tỉnh ủy đi chiến trường Nhơn Trạch kiểm tra tình hình cụ thể,
trực tiếp chỉ đạo Đảng bộ Nhơn Trạch triển khai thực hiện nghị
quyết của Tỉnh ủy. Các đồng chí khác trong Ban Thường vụ cũng
xuống các huyện, thị xã.
265

27.6 Page 266

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Giữa tháng 4.1973, Hai Tấn (Trần Minh Tấn), từng là Bí thư
Quận ủy Long Thành ra đầu hàng địch, dẫn giặc về phá 8 chi bộ,
bắt và giết 16 đồng chí đảng viên, bắt đưa đi tù đày hơn 100 cơ sở
cách mạng ở nhiều xã trong huyện Long Thành. Hành động phản
bội của y gây khó khăn lớn cho phong trào cách mạng hai huyện
Long Thành, Nhơn Trạch và vùng cao su Bình Sơn. Nguyên nhân
sâu xa: Hai Tấn bị biến chất, sa đọa trong lối sống ưa nhậu nhẹt bê
tha, quan hệ trai gái bất chính. Huyện ủy đã giáo dục kiểm điểm,
Tỉnh ủy thi hành kỷ luật cách chức Bí thư song y không tu tâm
dưỡng tính mà bất mãn cam tâm nhảy ra làm tay sai cho giặc, phản
dân hại nước. Ta đã mấy lần tìm cách diệt nhưng y ranh ma lủi trốn
thoát sự trùng phạt của cách mạng.
Tháng 6.1973, Thường vụ Trung ương Cục chỉ đạo tách tỉnh
Biên Hòa làm hai bộ phận. Tỉnh Biên Hòa không có thị xã Biên
Hòa (còn gọi là tỉnh Biên Hòa Nông thôn) gồm các huyện Vĩnh
Cửu, Thống Nhất1, Long Thành, Nhơn Trạch, Duyên Hải, Tân
Uyên, vùng cao su Dĩ An.
Ban chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa gồm các đồng chí: Nguyễn
Văn Thông (Quyền Bí thư Tỉnh ủy); Nguyễn Hải (,Phó Bí thư
Tỉnh ủy), Nguyễn Việt Hoa (Phó Bí thư Tỉnh ủy); Nguyễn Công
Hạnh (Ủy viên Thường vụ); và các ủy viên: Nguyễn Văn Xuân,
Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Bờ, Huỳnh Văn Dậm, Lương Văn
Tấn, Lê Quốc Bình, Út Đoàn, Nguyễn Thị Ngọc Liên, Phạm Hòa,
Lê Quân, Lưu Thị Huấn, Trần On, Nguyễn Quang Đạo.
Tỉnh ủy xác định: “Hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch là
điểm tập trung đánh phá bình định nông thôn và xây dựng căn cứ,
đặc biệt là từ khu vực Bình Sơn đến phía Đông xã Phước Thái”.
1  Huyện Trảng Bom được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa quyết định đổi tên thành
huyện Thống Nhất vào tháng 5/1973.
266

27.7 Page 267

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Tỉnh cử hơn năm mươi đồng chí cán bộ tăng cường cho các xã
thuộc hai huyện. Lực lượng vũ trang tại đây gồm Tiểu đoàn 240,
bộ đội địa phương hai huyện.
Về phía địch, từ tháng 6 đến hết năm 1973, ở hai huyện Long
Thành và Nhơn Trạch, nhiều tiểu đoàn bảo an, nhiều tiểu đoàn
thuộc sư 18 quân đội Sài Gòn đóng quân ở căn cứ Nước Trong
làng Cô Nhi dọc quốc lộ 15. Địch tập trung hàng trăm xe quân
sự, xe ủi kết hợp một số chức sắc đạo Thiên Chúa ủi phá khu vực
Bàu Năng, Phước Hòa xã Long Phước. Hơn một chục đoàn cán bộ
bình định nông thôn được tung về hai huyện Long Thành, Nhơn
Trạch tiến hành kềm kẹp gắt gao, gây tình hình căng thẳng ở nông
thôn.
Với quyết tâm cao, Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo các Huyện ủy,
các chi bộ xã và thị trấn tích cực vừa tiến công địch giành quyền
làm chủ tại xóm ấp, khu phố, vừa xây dựng thực lực cách mạng
tạo thế mới ngày càng rộng lớn. Kết quả tóm tắt: 80/217 ấp tranh
chấp mạnh và vừa ở 57 xã. Phân nửa số ấp còn lại thì ở mức độ
tranh chấp khác nhau. Phong trào bám ruộng đồng để khai hoang
phục hóa phát triển tốt ở các huyện, tạo thế liên hoàn trong đó; 13
xã huyện Nhơn Trạch cày cấy 13022 ha (bao gồm phục hóa 290
ha). Giặc treo cờ ở đầu làng cuối xóm, ép các hộ vẽ cờ vàng ba sọc
đỏ trên nóc nhà để đánh dấu lấn đất giành dân; nhưng vẽ được cờ
trên nóc nhà dân, không vẽ được cờ trong lòng dân.
Mặt khác, quân lực Sài Gòn tập trung binh lực đánh chiếm
các khu vực Lòng Chảo để giành dân, lấn đất; tháng 3.1973 địch
tập trung lực lượng tổ chức cuộc càn quét vào căn cứ Lòng Chảo
với bộ binh cùng hàng trăm xe ủi, xe tăng, có máy bay, pháo binh
yểm trợ, thực hiện ủi phá rừng. Chúng dội xuống khu Lòng Chảo
hàng ngàn tấn bom đạn. Quân giải phóng quyết liệt đánh trả để bảo
267

27.8 Page 268

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
vệ vùng làm chủ. Từ ngày 15.5 đến ngày 30.5.1973, Lực lượng du
kích các xã vùng Lòng Chảo phối hợp D240 đánh hàng trăm trận,
đánh bộ binh, đánh xe tăng, đánh xe ủi, phá hủy 7 xe ủi, tiêu diệt
nặng 2 trung đội Ngụy. Tháng 6.1973, Tiểu đoàn 240 chận đánh
trung đội bảo an Bến Cam, xã Phước Thiền, diệt 7 tên, bắt sống
7 tên, thu 17 súng. Kế hoạch “lật đổ Lòng Chảo” của địch bị thất
bại.
2. Phát triển thế trận tiến công địch
Tháng 11.1974, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp mở rộng bao
gồm các đồng chí trong Ban Chấp hành Tỉnh ủy nhằm: “Đánh giá
tình hình địch và ta, dự kiến xu thế phát triển tình hình trong tỉnh
và toàn Miền, trên cơ sở đó đề ra một số nhiệm vụ cụ thể trong
mùa khô 1974 - 1975 chung cho toàn tỉnh Biên Hòa và đề ra một
số biện pháp tổ chức cụ thể: về tổ chức, củng cố một bước các ban,
ngành cấp tỉnh và bổ sung các cấp ủy huyện”.
Hội nghị nhận định: “Thời gian tới, địch sẽ tập trung đối
phó ở những vùng tranh chấp quyết liệt, nhất là các huyện Long
Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu. Về phương hướng, tiếp tục đẩy
mạnh kết hợp chặt 3 mũi: võ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở;
mở mảng, mở vùng khi có thời cơ. Các lực lượng vũ trang trên
địa bàn tỉnh bao vây tiêu diệt một số đơn vị bảo an, dân vệ và bộ
máy kềm kẹp ở phân chi khu, ấp, xã, bức hàng đồn bót vùng tranh
chấp, cắt đứt giao thông trên các trục lộ 1, 15, 17, 19 và sông
Lòng Tàu; khẩn trương tạo thế và lực mới làm thay đổi tương
quan lực lượng giữa ta và địch”.
Phương hướng phấn đấu trong mùa khô 1974 - 1975 là: Kết
hợp chặt ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận tại cơ sở với lực
lượng của huyện, tỉnh liên tục tiến công địch giành quyền làm chủ
tại ấp xã, đồng thời kết hợp với lực lượng của trên đứng trên địa
268

27.9 Page 269

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
bàn tỉnh làm tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, mở mảng,
mở vùng, khi có thời cơ.
Mục tiêu cụ thể là chuyển hầu hết các ấp xã vùng tranh chấp
lên thế tranh chấp mạnh và vùng giải phóng. Chuyển vùng địch
kềm, vùng di cư, vùng di dân, thị trấn, thị tứ thành vùng tranh chấp
với nhiều mức độ khác nhau, xây dựng cơ sở các đoàn thể quần
chúng, phát triển đoàn viên, đảng viên đảm bảo lãnh đạo phong
trào.
Theo Nghị quyết hội nghị, Thường vụ Tỉnh ủy phân công
một số cán bộ chủ chốt tỉnh trực tiếp chỉ đạo huyện trọng điểm
gồm: Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Công Hạnh, Trần On và đồng
chí Lê Quân (Chín Dũng).
Huyện ủy Nhơn Trạch tập trung tổ chức thực hiện tấn công
địch trong đợt mở màn đầu mùa khô 1974-1975 trên địa bàn. Vùng
trọng điểm của huyện được xác định là các xã dọc lộ 17, 19, từ
Phú Hội, Phú Mỹ, Phước Thiền đến các xã Phước Kiểng, Phước
Lai, Phước Long và Phước Thọ.
Mở đầu chiến dịch mùa khô 1974 - 1975, tỉnh điều động
D240 sang vùng trọng điểm Nhơn Trạch. Lực lượng tỉnh (D240 và
D6), bộ đội huyện (đơn vị 19-5) cùng du kích các xã dọc các trục
lộ 17 và 19, đồng loạt tiến công địch vào ngày 10-11-1974. Sau 3
ngày chiến đấu, các xã Phước Thiền, Phước Long, Phước Thọ, ta
đã tiêu diệt hơn 100 tên địch trong đó có 43 tên bảo an, buộc địch
phải đưa chiến đoàn 48 sư 18 đến đối phó.
Tháng 12.1974, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Tỉnh đội điều động
Tiểu đoàn 240 xuống địa bàn huyện Nhơn Trạch, cùng với Tiểu
đoàn 6 đặc công và lực lượng địa phương huyện đánh địch càn
quét để bảo vệ khu căn cứ Lòng Chảo. Từ ngày 12.12.1974, D240
269

27.10 Page 270

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
và D6 phối hợp cùng du kích Phước Thọ dùng hỏa lực tiến hành
bao bó đồn Phước Thọ, Phước Long 7 ngày đêm. Đại bộ phận
lực lượng của Tiểu đoàn, kết hợp lực lượng huyện phục kích trên
trục lộ 19 (đoạn giữa Phước Long, Phước Thọ) để đánh địch đi
giải tỏa. Sau 4 ngày đêm bị bao bó, bọn địch ở đồn Phước Thọ,
Phước Long rất hoang mang. Chúng yêu cầu tiểu khu Biên Hòa
cho máy bay tiếp tế lương thực và nước. Đồng thời, Tiểu khu Biên
Hòa điều động Tiểu đoàn bảo an 346 xuống Nhơn Trạch giải tỏa.
Địch từ Biên Hòa hành quân về Nhơn Trạch theo trục lộ 19 với
một trung đội mở đường. Ta lập tức nổ súng diệt ngay trung đội
này trong những phút đầu tiên, thu 12 súng. Cùng lúc ở hướng chủ
yếu, Tiểu đoàn nổ súng tấn công vào đội hình địch. Sau 1 giờ 40
phút chiến đấu, ta diệt đại đội đi đầu của địch trên 70 tên, chúng
bỏ lại một số súng và xác chết, rút chạy về phía sau không dám
tiến lên. Bộ Tư lệnh quân đoàn III ngụy ở Biên Hòa cho máy bay
lên đánh trái màu phân tuyến, ném bom để ngăn chặn không cho
lực lượng ta xung phong và xóa dấu vết của chúng. Đúng 16 giờ
cùng ngày, chúng rút về Tiểu khu Biên Hòa. Hai ngày sau, địch
điều một đơn vị của sư đoàn 18 xuống Nhơn Trạch để giải tỏa cho
đồn Phước Thọ, Phước Long. Căn cứ tình hình thực tế, để bảo
toàn lực lượng sau 4 ngày đêm phục kích, Tỉnh đội lệnh cho các
đơn vị rút khỏi vị trí, sẵn sàng chờ lệnh chiến đấu. Sau khi giải
tỏa đồn Phước Thọ, Phước Long, khai thông đường 19, tối ngày
20.12.1974, địch cụm lại đóng quân dã chiến trên đường ủi ngã ba
Phước Lai. Nắm được tình hình, Tỉnh đội lệnh cho D240 bắn pháo
vào chỉ huy sở của địch, đồng thời cho một bộ phận bộ binh trang
bị mạnh tập kích vào cụm tiền tiêu địch. Kết quả ta diệt trên 20 tên
địch. Bị thiệt hại nặng, sáng ngày 21.12.1974, địch rút toàn bộ lực
lượng về Biên Hòa.Trận đánh thể hiện được khả năng chiến đấu
của lực lượng võ trang địa phương, ít thắng nhiều, phối hợp tốt
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
giữa các đơn vị, làm cho địch chủ động thành bị động. Lính trong
đồn Phước Thọ, Phước Long hết thói hung hăng, co cụm trong
đồn, không dám bung ra càn quét. Do đó, lực lượng cách mạng
làm chủ được nhiều xóm ấp.
Từ tháng 12.1974 đến tháng 3.1975, đơn vị D240 phối hợp
bộ đội huyện Nhơn Trạch và du kích các xã: Phước Thiền, Phú
Hội, Long Tân và Đội võ trang thị trấn Nhơn Trạch liên tục bám
sát xóm ấp, phát động quần chúng phá kìm, diệt ác, chuyển thế
làm chủ tất cả các ấp thuộc các xã nêu trên, vận động đồng bào
bung ra đồng ruộng, bám ruộng đồng sản xuất tạo thêm thế mới,
lực mới.
Chiều 9.12, Huyện ủy sơ bộ kiểm điểm đánh giá tình hình.
Trước giờ nổ súng, địch có cảnh giác điều quân đối phó, tuy vậy
địch vẫn bất ngờ khi ta tấn công, hàng chục tên bị chết, bị thương,
7 đội phòng vệ dân sự bị giải tán, hàng chục tên tề xã, tề ấp bỏ
việc, các đồn bót Phú Mỹ, Phước Long, Phước Thọ và đồn Gò Cát
(Phước An) bị lực lượng 3 mũi vũ trang, chính trị, binh vận bao
vây. Đoàn 10 cũng phối hợp với du kích Phước An tiến công vây
đánh thiệt hại nặng 1 trung đội bảo an ở đồn Vũng Gấm.
Đến ngày 31.12.1974, 12 ấp ở huyện Long Thành và Nhơn
Trạch đã được giải phóng, nhiều đồn bót trên trục lộ 17, 19 bị bao
vây. Nhiều khu vực liên hoàn được giải phóng như sở cao su Bình
Sơn, các xã: Tam An, Phước Thái, Phước Thọ, Phước An.
Từ ngày 16 đến ngày 20.1.1975, địch đưa một chiến đoàn
của sư 18 có xe tăng, máy bay, pháo binh yểm trợ mở cuộc hành
quân càn quét ven Rừng Sác, khu vực Vũng Gấm, Bà Bông, Phước
An, Phước Thọ, đồng Mu Rùa. Mục tiêu của địch là các cơ quan
trọng yếu như trạm dân y, cơ sở hậu cần, xưởng sản xuất vũ khí
của Đoàn 10 Rừng Sác. Đêm 20.1, chúng đóng quân dã chiến tại
271

28.2 Page 272

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
vườn điều Phước Thọ. D240 kết hợp với lực lượng Đoàn 10, dùng
hỏa lực pháo kích vào chỉ huy sở của địch, đồng thời cho bộ binh
tập kích vào cụm dã chiến của chúng. Kết quả: Diệt trên 100 tên,
phá hủy 5 xe tăng. Sáng ngày 21.1.1975, toàn bộ chiến đoàn địch
rút về Biên Hòa. Trận này ta gây tổn thất nặng một chiến đoàn của
sư 18, phá tan âm mưu càn quét đánh phá vùng căn cứ Lòng Chảo
ven Rừng Sác, giữ vững vùng bàn đạp, bảo tồn được lực lượng và
các cơ quan trọng yếu của huyện.
3. Phối hợp tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương
Từ cuối năm 1974 đến đầu năm 1975, tình hình chiến trường
miền Nam có nhiều thay đổi tạo lợi thế cho cách mạng. Bộ Chính
trị họp mở rộng (từ 18.12.1974 đến 8.1.1975) phân tích tình hình
và bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tình thế sau
Chiến thắng Phước Long đem lại quyết tâm chiến lược cho Bộ
Chính trị về hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam. Bộ Chính
trị chủ trương: Năm 1975 tranh thủ thời cơ, bất ngờ tiến công trên
quy mô lớn, rộng khắp, tạo điều kiện tiến hành tổng công kích
- tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nghị quyết
của Bộ Chính trị được triển khai thực hiện bằng các chiến dịch
lớn diễn ra trong 3 tháng đầu năm 1975: Chiến dịch Tây Nguyên,
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Đến tháng 3.1975, thắng lợi lớn và
thời cơ lớn cho phép mở chiến dịch Hồ Chí Minh tổng tiến công
vào Sài Gòn kết thức chiến tranh.
Ngày 31.3.1975, Ban chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa họp tại
căn cứ (gần Sở cao su Bình Sơn), nhận định: Thời cơ chiến lược
đã xuất hiện. Hội nghị quyết định: “Khẩn trương lãnh đạo toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh sẵn sàng khi có lệnh tổng
công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn tỉnh”.
272

28.3 Page 273

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Theo đó Ban Thường vụ có các quyết định sau:
- Điều động toàn bộ lực lượng vũ trang và 160 cán bộ ban,
ngành, đoàn thể của tỉnh tập trung vào vùng trọng điểm Long
Thành, Nhơn Trạch.
- Sử dụng toàn bộ lực lượng nội tuyến, cơ sở cảm tình phục
vụ cho đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
- Quyết định thành lập Ủy ban quân quản tỉnh do đồng chí
Võ Văn Định là Chủ tịch.
- Giải phóng đến đâu, tổ chức cứu đói, cấp lương thực,
phương triện đưa dân về quê cũ, nhất là số đồng bào miền Trung
mới chạy dạt vào.
- Tỉnh đội triển khai chu đáo, không để sai sót trong thực
hiện chính sách thương binh, liệt sĩ.
- Huyện Nhơn Trạch chuẩn bị ít nhất 100 xuồng, ghe, tàu
thuyền tại phà Cát Lái (xã Phú Hữu) đưa bộ đội vượt sông tiến về
Sài Gòn.
- Các đồng chí Nguyễn Văn Thông, Lê Quang Thành, Nguyễn
Công Hạnh Trần On, Lê Quân (Chín Dũng) được Tỉnh ủy phân
công trực tiếp chỉ đạo chiến trường Nhơn Trạch.
Sáng ngày 17.4.1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp khẩn cấp
nghe và thảo luận kỹ ý kiến truyền đạt của đồng chí Lê Đình Nhơn
và ý kiến của đồng chí Nguyễn Trọng Cát, phái viên của Trung
ương Cục, đặc biệt những ý kiến của đồng chí Lê Quang Thành
(Đoàn Hồng Đoàn), Ủy viên Thường vụ Khu ủy miền Đông trực
tiếp góp phần chỉ đạo chiến trường Biên Hòa.
273

28.4 Page 274

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Hội nghị Ban Thường vụ kết luận:
- Phát động tư tưởng tiến công giải phóng quê hương trong
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh dựa vào lực lượng 3 mũi
tại chỗ là chủ yếu.
- Lập tức hình thành Ban Quân quản ở các thị trấn, chuẩn bị
cán bộ hình thành Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời cấp cơ
sở và cấp huyện sau ngày giải phóng. Bố trí một số đồng chí trực
tiếp cùng lực lượng cấp trên góp phần chỉ đạo tác chiến và chỉ đạo
công kích, khởi nghĩa tại các địa bàn trọng điểm.
- Long Thành, Nhơn Trạch là hai huyện có vị trí quan trọng
đặc biệt ở hướng Đông Sài Gòn. Do vậy, sau hội nghị, Thường vụ
Tỉnh ủy tăng cường tập trung lực lượng vũ trang và đội ngũ cán
bộ, tổ chức chỉ đạo chặt chẽ từ huyện đến cơ sở công kích, khởi
nghĩa từng phần, khi thời cơ cho phép, kịp thời đồng loạt tiến công
địch, giải phóng từng mảng, từng huyện.
Trước thời cơ lớn, bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Xuân Lộc
từ 9.4 đến 21.4.1975.
Tám giờ sáng ngày 21.4.1975, chính quyền Sài Gòn tỉnh
Long Khánh tan rã hoàn toàn. Tuyến phòng thủ Xuân Lộc bị đập
tan, cửa ngõ tiến quân về Sài Gòn đã mở.
Ngày 24.4.1975, cuộc họp liên tịch giữa một số đồng chí
chủ chốt trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hoà với 3 đồng chí
trong Bộ Chỉ huy Quân đoàn 2 để phối hợp hành động, đồng chí
Lê Quang Thành - Ủy viên Khu ủy miền Đông tham dự và phát
biểu ý kiến chỉ đạo.
Cuộc họp thống nhất ý kiến và hạ quyết tâm:
1. Đúng 17 giờ ngày 26.4.1975, tiếng súng lệnh Chiến dịch
Hồ Chí Minh ở hướng Đông Sài Gòn bắt đầu.
274

28.5 Page 275

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
2. Bố trí mục tiêu và lực lượng. Quân đoàn 2 gồm các sư
đoàn với mục tiêu và hướng phát triển: Sư đoàn 304, đánh chiếm
ngã ba Thái Lan, khu căn cứ Nước Trong, Long Bình, vượt xa lộ
tiến về Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Ủy viên Thường
vụ, Chính trị viên Tỉnh đội Biên Hòa đi cánh này. Sư đoàn 325,
tiến công vào các mục tiêu chi khu Long Thành, chi khu Nhơn
Trạch và yếu khu kho đạn Thành Tuy Hạ. D240 và D6 của tỉnh
đánh cụm pháo Phước Thiền và cầu Phước Thiền. Hướng phát
triển của sư đoàn 325 vượt phà Cát Lái tiến về Sài Gòn. Cánh này
hai đồng chí Nguyễn Văn Thông - Quyền Bí thư Tỉnh ủy cùng
đồng chí Trần On - Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội trưởng cùng đi.
3. Tổ chức điều động bằng được 100 xuồng thuyền có tại bến
đò Cát Lái, xã Phú Hữu để góp phần chuyển quân nhanh chóng
tiến qua Thủ Đức - Sài Gòn.
4. Đơn vị D240 và 2 đội du kích Phú Hội, Long Tân bao
vây đánh chiếm đồn Phú Hội và bót cầu Long Tân để bảo đảm an
toàn cho pháo 130 ly của Quân đoàn đặt tại khu vực đồi Bình Phú
thuộc xã Long Tân.
Hội nghị kết thúc vào buổi sáng cùng ngày với niềm tin
chiến thắng. Cùng với công việc khẩn trương chỉ đạo triển khai
kế hoạch tác chiến trên địa bàn tỉnh, Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo
thành lập Ban Quân quản thị trấn Long Thành, Ủy ban Nhân dân
Cách mạng lâm thời từng huyện trong toàn tỉnh, và chỉ đạo chuẩn
bị kế hoạch “giãn quân về chỗ cũ”.
Ngày 27.4.1975, bất ngờ, đồng chí Lê Quân, Tỉnh ủy viên,
Trưởng ban Tuyên huấn bị tàn quân phục kích, hy sinh tại chiến
trường Nhơn Trạch. Trước đó không lâu, đồng chí Mai Văn Rỗ
dẫn một trung đội về khu tải đạn, lọt ổ phục kích địch, tất cả đều
hy sinh và mất xác.
275

28.6 Page 276

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Thời điểm lịch sử đã đến. Khu ủy, Bộ Tư lệnh quân khu giao
nhiệm vụ Huyện ủy Long Thành, Nhơn Trạch tạo địa bàn cho Sư
đoàn 325 pháo 130 ly đánh chiếm quận lỵ Long Thành, Nhơn
Trạch; D240 và lực lượng địa phương diệt địch giữ cầu Phước
Thiền, tạo thuận lợi cho Sư 325 phát triển tiêu diệt địch dọc lộ 17,
đánh chiếm quận lỵ Nhơn Trạch, khu kho Thành Tuy Hạ, vượt
sông Đồng Nai (đoạn Cát Lái) phát triển về Sài Gòn; trong ngày
27.4, chậm là ngày 28.4 phải chiếm cho được Nhơn Trạch để đặt
pháo 130 ly khống chế sân bay Tân Sơn Nhất, không để địch dùng
không quân đánh chặn các cánh quân của ta.
Quán triệt nhiệm vụ cấp trên giao, Huyện ủy Nhơn Trạch
chuẩn bị sẵn trên 200 tấn lương thực, thực phẩm, huy động hàng
trăm các chị, các má xã Phú Hội hăng hái vui vẻ nấu cơm. Trong
ngày 27 và 28.4.1975, các mẹ đã nấu được 1.350 suất cơm tiếp tế
cho bộ đội. Các ngày sau, các mẹ, các chị nấu hàng vạn suất cơm,
quà bánh đưa ra dọc tuyến lộ 17 phục vụ bộ đội ăn no, hành tiến
chiến đấu. Tỉnh đội Biên Hòa cử hai cán bộ tiểu đoàn (Bảy Đức,
Ba Thà), cùng Ban Dân vận Huyện ủy do đồng chí Huỳnh Minh
Tấn phụ trách vận động nhân dân ven sông Đồng Nai chuẩn bị
xuồng ghe, giữ phà Cát Lái để đưa Sư 325 vượt sông Đồng Nai
tiến vào Sài Gòn.
Cánh quân hướng đông, đồng chí Lê Trọng Tấn đề nghị cho
nổ súng trước 1 ngày mới kịp đánh chiếm Nhơn Trạch. Đồng chí
Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến dịch chấp thuận. Lúc 17 giờ ngày
26.4.1975, các cỡ pháo bắn trên 2.000 quả đạn vào các mục tiêu
đã định, bộ binh cơ giới Sư đoàn 325 cùng lực lượng vũ trang địa
phương giải phóng Bình Sơn, Sư 325 theo trục đường 10 đánh
chiếm quận lỵ Long Thành. Sáng ngày 27.4, trung đoàn 101 Sư
325 hành tiến về hướng chi khu Nhơn Trạch vượt cầu Phước
276

28.7 Page 277

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thiền. Trước đó, D240 đã diệt lính dân vệ ven lộ 17, chiếm giữ
cầu Phước Thiền; phối hợp xe tăng của bộ đội chủ lực khóa nòng
cụm pháo 105 ly ở Bến Sắn cùng du kích bao vây bức hàng, bức
rút các đồn bót dân vệ, bảo an ở Phú Hội, Long Tân dọn đường
cho Trung đoàn 101 Sư 325 hướng về mục tiêu chi khu Nhơn
Trạch. Trung đoàn 95 Sư 325 theo lộ 19 tiến về đường ủi Phước
Lai cắt qua Phước An, bao vây tấn công vào khu kho Thành Tuy
Hạ. Địch dựa trên cao điểm ngoan cố chống trả rất quyết liệt. Cuối
cùng, tên thiếu tá Châu, Chỉ huy phó dẫn hơn 1 tiểu đoàn ra đầu
hàng nộp súng.
Tại Chi khu Nhơn Trạch, Sư 325 tập trung xe tăng, bộ binh
tấn công dồn dập. Trung đoàn 101 tràn vào chiếm được Chi khu.
Tên Trung tá Phương, Quận phó Nhơn Trạch, ra hàng dẫn theo
gần 200 lính. Sau đó, Trung đoàn 101 bàn giao chi khu cho Ủy
ban Quân quản Nhơn Trạch và lực lượng vũ trang địa phương.
Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo tiếp quản chi khu lúc này đã tan
hoang. Ủy ban Quân quản quận lị ra mắt nhân dân gồm: Đồng chí
Ba Đạm là Chủ tịch, đồng chí Năm Thành là Phó Chủ tịch, các Ủy
viên Tư Nhân, Năm Hải, Sáu Báo và nữ đồng chí Sáu Vân. Đồng
chí Phạm Thanh Lý, Bí thư Huyện ủy chỉ đạo Đảng bộ cơ sở chỉ
đạo lực lượng 3 mũi tại ấp, xã đã bao vây bức rút, bức hàng số đồn
bót địch còn lại.
Từ 11 giờ ngày 26.4, pháo 130 ly đã được lực lượng vũ trang
địa phương và nhân dân hỗ trợ kéo lên đặt ở Nổng Ven Lò và đồi
Bình Phú, Vĩnh Tuy, chỉnh nòng súng, chờ lệnh dội bão lửa vào
sân bay Tân Sơn Nhất. Đến 17 giờ 30 ngày 29.4, hai tiểu đội trinh
sát của Sư 325 đã đến bến phà Cát Lái. Hàng trăm xuồng ghe ém
sẵn mé sông đưa Sư 325 vượt sông Đồng Nai tiến về Sài Gòn.
277

28.8 Page 278

▲back to top


Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930-1975)
Lực lượng quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở Thành Tuy
Hạ do Thiếu tá Trần Thành Châu, Phó chỉ huy trưởng cùng toàn
bộ binh lính kho Thành Tuy Hạ dù đã đầu hàng quân giải phóng
nhưng một số tàn quân vẫn ngoan cố, đã dùng pháo bắn ra ngoài,
trúng khu ấp Chợ của Phú Thạnh, làm cháy hàng chục căn nhà
của dân. Pháo địch cũng bắn trúng trường cấp 3 ở Phú Thạnh. Tại
đây có cả trăm người dân từ miệt Long Khánh, Trảng Bom tản cư
đang trú ngụ, pháo bắn trúng làm hàng chục người chết, trong đó
có nhiều phụ nữ và trẻ em, cảnh tượng rất tang thương. Một số
người dân xung quanh đã đào hố chôn những người xấu số này
ngay trong khuôn viên trường1.
Đến chiều 28.4.1975, cơ bản các xã ở huyện đều được giải
phóng, phần lớn do địch bỏ chạy hoặc lực lượng quần chúng vận
động lính giao đồn. Riêng ở xã Vĩnh Thanh, đến ngày 1.5, lực
lượng giải phóng mới hoàn toàn làm chủ tình hình. Lúc 14 giờ
ngày 30.4.1975, vẫn còn một nhóm 4 tên trong đó có quận phó
Nhơn Trạch là Trung úy Đức ngoan cố chống trả, tìm cách mở
đường để ra tàu thủy ở quân cảng, gây thương vong cho nhiều
chiến sĩ Quân đoàn 2.
Trong thời gian tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh từ 26 đến
30.4.1975, quân dân Nhơn Trạch - Long Thành cùng các đơn vị
chủ lực đã diệt 680 tên địch, bắt sống 708 tên, địch ra trình diện
4.598 tên, trong đó có hai đại tá, 9 trung tá, 14 thiếu tá, 265 cấp úy
góp phần quan trọng kết thúc thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử.
1  Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Võ xã Phú Thạnh
278

28.9 Page 279

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
***
Sau Hiệp định Genève năm 1954, thực dân Pháp rút, đế
quốc Mỹ thế chân, lực lượng kháng chiến thì tập kết. Đế quốc Mỹ
thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn tàn ác, thâm độc, tinh vi hơn
cả thực dân Pháp, nên người Nhơn Trạch chịu đựng sự khủng bố,
gian khổ, mất mát, hy sinh nhiều hơn.
Đế quốc Mỹ tăng cường lực lượng, biến Thành Tuy Hạ thành
kho vũ khí khổng lồ, căn cứ bất khả xâm phạm, sử dụng phương
tiện kỹ thuật hiện đại để tận diệt phong trào cách mạng, xây dựng
ấp chiến lược, dồn dân, nuôi dưỡng bọn tay sai ác ôn để người
Việt hãm hại người Việt, biến Nhơn Trạch thành địa bàn tranh
đấu quyết liệt. Cuộc đấu tranh càng ác liệt, quân dân Nhơn Trạch
càng tạo nhiều chiến công oanh liệt. Đảng đã bí mật tổ chức được
các lực lượng đoàn thể nòng cốt trong công nhân cao su, trong
các giới, kết hợp với các lực lượng vũ trang góp phần tạo nên
nhiều chiến công vang dội, như bốn lần đốt cháy kho bom Thành
Tuy Hạ. Tưởng Nhơn Trạch bị địch biến thành bình địa, nhưng nơi
đây đã trở thành mảnh đất gieo cấy, trưởng thành nhiều hạt giống
đỏ cho cách mạng.
279

28.10 Page 280

▲back to top


280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
VĂN HÓA LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
HUYỆN NHƠN TRẠCH
(1930 - 2015)
281

29.2 Page 282

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Ban Chấp hành Tinh ủy Biên Hòa tại căn cứ, tháng 2.1975
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930-2015)
Họp Ban Chấp hành Tinh ủy Biên Hòa mở rộng tại căn cứ, 1975
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930-2015)
282

29.3 Page 283

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đồng chí Vũ Hồng Phô, Bí thư Huyện ủy Long Thành tại căn cứ
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930-2015)
Đồng chí Nguyễn Công Hạnh, Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch tại căn cứ
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930 - 2015)
283

29.4 Page 284

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đồng chí Lương Văn Nho, Đại đội trưởng Đại đội C,
Chi đội 10 - Tư lệnh đầu tiên của Đặc khu Rừng Sác, năm 1966
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930-2015)
Chiến sĩ tiểu đội trinh sát tại đặc khu Rừng Sác, năm 1972
(Nguồn: Tư liệu gia đình của Đại tá AHLLVTND Phạm Hạnh Phúc)
284

29.5 Page 285

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đặc công Rừng Sác (Nguồn: Ảnh tư liệu)
Sinh hoạt ở chiến khu Rừng Sác (Nguồn: Ảnh tư liệu)
285

29.6 Page 286

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đồng chí Lê Bá Ước - Trung đoàn trưởng Đoàn 10 Đặc công
Rừng Sác thăm lại cán bộ cơ sở xã Phú Thạnh, năm 2014
(Nguồn: Thanh Thúy)
Ban Chấp hành Huyện ủy Long Thành tại hội nghị hợp nhất
Long Thành - Nhơn Trạch, tháng 7.1976 (Nguồn: Ảnh tư liệu)
286

29.7 Page 287

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Hiện trường và hiện vật di chỉ Cái Vạn, năm 1984
(Nguồn: Ảnh tư liệu Bảo tàng Đồng Nai)
Hiện vật di chỉ Cái Lăng, năm 1996 Hiện vật di chỉ Rạch Lá, năm 2003
287

29.8 Page 288

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Di tích lịch sử văn hóa “Địa đạo Nhơn Trạch”
(Nguồn: Ảnh tư liệu)
288

29.9 Page 289

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Khai thông địa đạo Nhơn Trạch, qui tập hài cốt 5 liệt sĩ, năm 1996
(Nguồn: Ảnh tư liệu)
289

29.10 Page 290

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Danh sách 22 vị hội viên Hội kín/Thiên địa hội
tại miểu Bà Giang Lò (miếu Thiên địa hội), xã Phú Hội
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Ba bức hoành phi ở đình Phú Mỹ II, xã Phú Hội
291

30.2 Page 292

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Nhà trưng bày di tích Địa đạo Nhơn Trạch
Di tích LSVH “Bia tưởng niệm liệt sĩ Vườn Điều” tại xã Long Thọ
(Nguồn: Ảnh tư liệu)
292

30.3 Page 293

▲back to top


PHẦN III
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN QUÊ HƯƠNG
(1975 - 2015)

30.4 Page 294

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
CHƯƠNG V
GIAI ĐOẠN 1975 - 1986
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
CÁCH MẠNG, ỔN ĐỊNH XÃ HỘI,
ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
I. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ QUÂN QUẢN 1975 - 1976
1. Xây dựng chính quyền cách mạng
Chính quyền của chế độ Sài Gòn trên địa bàn Nhơn Trạch
hoàn toàn sụp đổ ngày 28.4.1975. Lực lượng cách mạng và quần
chúng địa phương với khí thế cách mạng dâng cao đã nổi dậy giành
lấy quyền làm chủ. Ngày 30.4.1975, miền Nam Việt Nam được
hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam Bắc của đất nước thống nhất.
Nhơn Trạch bước vào thời kỳ lịch sử mới trong thắng lợi chung
của cách mạng Việt Nam sau 21 năm kháng chiến, đấu tranh giải
phóng dân tộc. Trong niềm vui quê hương độc lập, huyện Nhơn
Trạch đối diện với những khó khăn, thách thức thời kỳ hậu chiến.
Cuối tháng 4.1975, chiến trường miền Nam khá hỗn loạn khi
những toán quân của chế độ Việt Nam Cộng hoà từ địa bàn Vũng
Tàu - Bà Rịa, Long Khánh trốn chạy qua địa bàn vùng ven Nhơn
Trạch để về thủ phủ Sài Gòn và sau đó ẩn nấp chống phá chính
quyền cách mạng. Những ngày đầu thống nhất, người dân tham
gia cách mạng, hoạt động trong vùng căn cứ và một số người dân
đi địa phương khác, lánh nạn chiến tranh trở lại các làng, xã Nhơn
Trạch sinh sống. Trong khi đó, một bộ phận binh lính, người thân
tham gia chính quyền cũ trước đây lo lắng khi cách mạng quản lý.
294

30.5 Page 295

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Một bộ phận dân chúng từ các nơi, đặc biệt vùng Sài Gòn cũng
tìm đến Nhơn Trạch trú ẩn do biến động xã hội lúc bấy giờ. Những
hậu quả nặng nề của chiến tranh, yếu tố bất ổn của xã hội thời kỳ
đầu thống nhất đất nước tác động, ảnh hưởng đến Nhơn Trạch.
Thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy Miền Đông, các địa phương
tiến hành thành lập các Ủy ban Quân quản để quản lý địa bàn sau
giải phóng nhằm kịp thời ổn định tình hình xã hội. Ủy ban Quân
quản huyện Nhơn Trạch thành lập gồm các đồng chí: Phạm Văn
Đạm (Chủ tịch), Năm Thành (Phó Chủ tịch). Các Ủy viên gồm:
Trần Trọng Nhân, Nguyễn Thị Thanh Vân, Phạm Văn Duyên, Sáu
Báu, Năm Khôi, Năm Hải, Sáu Dân, Ngô Thanh Thúy, Hà Yêm.
Ủy ban Quân quản huyện và Ban Quân quản các xã triển
khai nhanh việc tiếp quản địa bàn. Ủy ban Quân quản của huyện
Nhơn Trạch hầu hết là những cán bộ hoạt động kháng chiến trên
địa bàn. Cán bộ, du kích và cơ sở cách mạng tại các xã, ấp tham
gia vào các Ban Quân quản để quản lý địa bàn. Một số nhiệm vụ
cấp thiết được Ủy ban Quân quản huyện, Ban Quân quản các xã
thực hiện để ổn định tình hình xã hội, chính trị và đảm bảo cho
người dân tin tưởng vào được lối cách mạng trong thời kỳ mới:
- Tuyên truyền chính sách 10 điểm của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam1. Trong đó, nhấn
mạnh đến chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc.
- Kêu gọi quần chúng tham gia bảo vệ chính quyền cách
mạng, tiếp tục sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục hậu quả
chiến tranh: chôn cất người chết do chiến tranh, thu gom vũ khí,
chất nổ trên địa bàn.
1  T ừ ngày 6 đến ngày 8.6.1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh
các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam ở miền Nam cùng các lực lượng yêu
nước khác đã họp Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam, nhất trí bầu ra Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ.
295

30.6 Page 296

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
- Kêu gọi những quân nhân, những người tham gia vào bộ
máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa trình diện giao nộp vũ khí,
tài liệu để hưởng chính sách khoan hồng của cách mạng.
- Các ban ngành của chính quyền Quân quản quan tâm chăm
lo cho người dân, cứu chữa người bị nạn trong chiến tranh, vận
động nhân dân góp tiền, của giúp đỡ những gia đình khó khăn.
- Lực lượng bộ đội, du kích tập trung tổ chức tuần tra, canh
gác, bảo vệ chính quyền cách mạng, tài sản chung.
Nhằm trang bị cho cán bộ tham gia công tác quản lý, Ủy ban
Quân quản tổ chức cho cán bộ học tập 5 nhiệm vụ chính trong thời
kỳ đầu giải phóng: Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền
cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; truy
quét tàn binh, trấn áp những đối tượng phản cách mạng, giữ gìn
an ninh trật tự; đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, tổ chức lưu
thông phân phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa; xóa bỏ sản
phẩm phi văn hóa, đồi trụy, tập trung xây dựng nền văn hóa mới:
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; Đẩy mạnh tuyên truyền,
củng cố mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc.
Những hoạt động của Ủy ban Quân quản huyện, Ban Quân
quản xã, ấp đã góp phần quan trọng trong việc tiếp quản, quản lý
địa bàn ở Nhơn Trạch cho đến cuối năm 1975 khi Ủy ban Quân
quản bàn giao cho chính quyền địa phương.
Dù vẫn còn những khó khăn nhưng chính sách hòa hợp, hòa
giải dân tộc của cách mạng đã tác động lớn đến đại bộ phận nhân
dân. Trên toàn huyện (lúc bấy giờ cả địa phận huyện Long Thành),
trong tháng đầu kêu gọi của chính quyền cách mạng, có trên 6.500
người gồm binh lính, những người tham gia bộ máy chính quyền
cũ trình diện, khai báo. Trên cơ sở phân loại, chính quyền huyện
thực hiện các hình thức phù hợp trong quản lý. Những binh lính,
296

30.7 Page 297

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
những người tham gia bộ máy chính quyền cũ cấp xã, ấp ở địa
phương được tổ chức học tập cải tạo tại chỗ trong thời gian từ
3 đến 7 ngày, sau đó, cấp giấy chứng nhận và được trao quyền
công dân. Những sĩ quan trong quân đội Việt Nam cộng hòa từ
cấp bậc thiếu úy trở lên được đưa lên tỉnh tổ chức học tập cải tạo
tập trung. Những vũ khí, đạn dược, chất nổ, các phương tiện máy
móc còn phát hiện trên địa bàn, người dân thu gom giao nộp cho
chính quyền.
Các tổ chức đoàn thể trên địa bàn huyện được thành lập như
Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên thu hút nhiều người tham gia. Người
dân đã tham gia nhiều phong trào của cách mạng phát động, vận
động. Các xã đều thành lập Chi đoàn Thanh niên. Với tinh thần và
khí thế cách mạng, người dân - đặc biêt là giới trẻ tham gia hăng
hái vào các phong trào hoạt động. Xã Vĩnh Thanh là điển hình tiêu
biểu khi có 2.000 hội viên tham gia vào Hội Thanh niên.
2. Ổn định xã hội, đời sống nhân dân
Nhằm giúp dân ổn định sản xuất, duy trì việc làm tại chỗ,
chính quyền huyện chủ trương cấp giấy tờ ruộng đất cho người
dân khi họ trở về địa phương sinh sống. Đồng thời, để sử dụng
diện tích đất hoang hóa bị hoang hóa trong chiến tranh, huyện đã
thành lập Ban tháo gỡ bom mìn. Đội Tháo gỡ bom mìn huy động
từ lực lượng bộ đội, du kích, người dân tình nguyện; trong đó, có
những người từng tham gia lực lượng công binh chế độ cũ với hiểu
biết của mình tham gia. Những địa điểm phát hiện bom mìn trên
huyện khá nhiều đã được Đội Tháo gỡ giải quyết với hàng chục
héc ta, thu gom nhiều loại vũ khí, bom mìn. Trong quá trình tháo
gỡ, đã xảy ra những mất mát, hy sinh của chiến sĩ, người dân. Việc
tháo gỡ bom mìn đã đem lại sự an toàn trên một diện tích rộng để
người dân canh tác, sản xuất. Mùa vụ đầu tiên khi chính quyền
297

30.8 Page 298

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
cách mạng quản lý, người dân đã cấy trên 12 ngàn héc ta ruộng,
khai phá thêm 7 ngàn héc ta đất hoang, 350 héc ta rẫy từ khai phá.
Nhiều hộ dân trở về các xã Phước An, Phước Thọ, Phước Long
khai phá trên 200 héc ta ruộng.
Tình hình phân phối lương thực, thực phẩm trong những
tháng cuối năm 1975, trên địa bàn huyện có những khó khăn. Tình
hình giao thương, buôn bán bị đình trệ. Để ổn định và giúp người
dân duy trì nhu yếu phẩm, huyện thành lập cửa hàng ở các địa bàn
để phân phối các mặt hàng thiết yếu theo chế độ tem phiếu. Dù
hàng hóa không nhiều, số cửa hàng đặt ở các khu vực trung tâm
hay ở các xã nhưng đã góp phần trong việc giải quyết khó khăn
trong đời sống đối với người dân.
Lĩnh vực văn hóa được huyện quan tâm với việc kêu gọi,
vận động người dân tham gia. Huyện huy động và tổ chức mở
lớp tập huấn, bồi dưỡng về nhận thức chính trị và nội dung giảng
dạy trong xã hội mới cho nhiều giáo viên, tạo cơ sở cho việc duy
trì dạy học tại các địa bàn. Sau thời gian dài bị xáo trộn bởi chiến
tranh, nay người dân đã ổn định và đưa con em đến trường. Chủ
trương xây dựng xã hội mới theo đường lối cách mạng được tuyên
truyền sâu rộng, phát động người dân thực hiện. Huyện cử cán bộ
xuống các địa bàn tuyên truyền về đời sống mới, xóa bỏ những
tập tục lạc hậu, mê tín trước đây để cùng nhau xây dựng nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa. Cán bộ tham gia và vận động người
dân không tàng trữ những sách báo mang tính chất phản động, đồi
trụy, giao nộp cho chính quyền để thiêu hủy.
Đội ngũ y tế của huyện thiếu hụt rất nhiều từ trước và sau
những tháng đầu giải phóng. Huyện chủ trương tăng cường những
y tế, y sĩ đến các cơ sở trạm xá ban đầu thành lập đảm nhiệm việc
khám chữa bệnh cho dân. Lực lượng thầy thuốc ít nhưng với tinh
298

30.9 Page 299

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thần phục vụ cho dân đã góp phần ngăn chặn những dịch sốt nảy
sinh trên một số địa bàn. Tiêu biểu là việc cấp phát thuốc, điều trị
kịp thời ngăn chặn dịch sốt lây lan ở địa bàn Giồng Ông Đông của
xã Phú Hữu, cứu chữa cho 354 trường hợp người dân trong dịch
bệnh khá nghiêm trọng. Nhằm đảm bảo sức kéo phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp, huyện thành lập một số cơ sở Thú y để tiêm
ngừa cho nguồn gia súc của các hộ dân.
Những khó khăn thời kỳ Quân quản ở huyện Nhơn Trạch
được khắc phục với sự nỗ lực của bộ máy chính quyền và người
dân, tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức trong kinh tế, chính trị
cũng như trong việc bảo vệ bộ máy chính quyền. Một số địa bàn
do thiếu cán bộ quản lý, tình hình an ninh chưa đảm bảo. Lợi
dụng những khó khăn trong đời sống, những người bất mãn, một
số binh lính trước đây trốn tránh, không trình diện chính quyền
cách mạng, các tổ chức phản cách mạng nhen nhóm lôi kéo, gây
rối trật tự xã hội ở các điểm nóng Vĩnh Thanh, Phú Thạnh, Đại
Phước, Phước Khánh, Giồng Ông Đông. Huyện phải tăng cường
lực lượng an ninh để xây dựng, bảo vệ bộ máy, trong đó hình
thành các Cụm an ninh liên xã, thành lập Ban Công an khu vực,
Tổ an ninh nhân dân để kịp thời phát hiện, trấn áp.
Trong tình hình khó khăn chung của miền Nam sau ngày đất
nước thống nhất, huyện Nhơn Trạch thực hiện những chủ trương
của cách mạng để xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới, nền văn
hóa mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần cách mạng dâng cao
trong quần chúng, các phong trào thu hút nhiều người tham gia,
những chính sách, chủ trương đúng đắn, kịp thời góp phần ổn
định, biến chuyển tích cực đối với người dân. Thế nhưng, những
khó khăn chung ở huyện Nhơn Trạch trong khắc phục hậu quả
chiến tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, thực hiện tốt nhiệm vụ
299

30.10 Page 300

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
bảo vệ chính quyền, lãnh đạo quần chúng nhân địa phương xây
dựng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của bộ máy
chính quyền. Thời kỳ xã hội có nhiều biến động, đặc biệt, khi tiếp
quản các địa bàn, các Ủy ban Quân quản trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, huyện Nhơn Trạch đã thực hiện tốt những nhiệm vụ đặt ra.
Tháng 8.1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa III) đề ra nhiệm vụ: Xây
dựng chính quyền cách mạng nhân dân ở các cấp để nhanh chóng
ổn định chính trị và trật tự xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bảo
vệ thành quả cách mạng, đủ sức làm nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; trấn áp phản cách mạng,
xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản và các tàn dư của giai cấp địa chủ
phong kiến; khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết nạn thất
nghiệp do chế độ cũ để lại; giải quyết tốt các vấn đề lưu thông, tín
dụng, tài chính, ngân hành, tiền tệ; phát triển văn hóa, giáo dục, y
tế, xã hội; tăng cường công tác xây dựng Đảng. Thực hiện những
nhiệm vụ trên, cuối tháng 12.1975, các Ủy ban Quân quản ở Biên
Hòa bàn giao công tác quản lý cho chính quyền cách mạng. Ở
Đồng Nai, tháng 1.1976, huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch
sáp nhập, lấy tên là huyện Long Thành. Như vậy, sau những lần
chia tách cho phù hợp công tác chiến trường trong thời kỳ kháng
chiến, huyện Nhơn Trạch sáp nhập vào huyện Long Thành, thuộc
tỉnh Đồng Nai. Đảng bộ huyện Long Thành chỉ đạo, lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1976 - 1979
1. Thành lập Huyện ủy lâm thời
Trên cơ sở thành lập huyện đầu năm 1976, Huyện ủy lâm thời
Long Thành hình thành. Đồng chí Nguyễn Văn Thông (nguyên
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) được cử giữ chức vụ Bí thư, đồng
chí Phạm Thanh Lý giữ chức Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBND.
Huyện ủy Long Thành thời điểm có quyết định sáp nhập gồm
25 đồng chí. Trên toàn huyện có 24 chi bộ cấp xã với 326 đảng
viên trưởng thành trong kháng chiến và có những đóng góp tích
cực trong đấu tranh cách mạng tại địa phương. Thế nhưng, bước
vào tình hình mới, chất lượng của đảng viên của huyện vẫn còn
nhiều hạn chế so với yêu cầu đặt ra. Huyện ủy chỉ đạo cho các cấp
ủy cơ sở tạo điều kiện, tổ chức để đảng viên học tập nghị quyết,
chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, thực hiện tốt nhiệm
vụ được phân công. Nguồn đảng viên được bồi dưỡng chính trị,
chuyên môn đã bổ sung vào nguồn cán bộ cho tổ chức đảng, trong
bộ máy chính quyền các cấp của địa phương.
2. Hội nghị thành lập Đảng bộ (1976 - 1977)
Ngày 1.7.1976, Hội nghị Đảng bộ Long Thành được tổ chức
lần thứ nhất. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành huyện ủy gồm
29 đồng chí ủy viên chính thức1, và 05 đồng chí dự khuyết2. Ban
Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Thông (Bí
thư), Lương Văn Tấn (Phó Bí thư thường trực), Nguyễn Văn Xuân
(Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân), Phạm Thanh Lý
(Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân) và các ủy viên Nguyễn Minh Sơn,
Nguyễn Thanh Minh, Nguyễn Cao Sơn, Nguyễn Quyết Chiến,
Phạm Văn Đạm, Nguyễn Minh Công.
1  Danh sách 29 Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành được
bầu tại hội nghị thành lập Đảng bộ huyện Long Thành ngày 1.7.1976: Nguyễn Văn
Thông, Lương Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thanh Minh,
Phạm Thanh Lý, Nguyễn Cao Sơn, Nguyễn Quyết Chiến, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Minh
Công, Trần Văn Sang, Dương Minh Ngà, Hoàng Trọng Tiến, Lê Quyết Chiến, Đặng Minh
Quang, Đặng Dân Trí, Đặng Tấn Cộng, Trần Văn Lực, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Thị
Thanh Vân, Nguyễn Lý, Phạm Thanh Châu, Huỳnh Minh Tấn, Đỗ Thị Thu Vân, Trần Thị
Mỳ, Nguyễn Tri Phương, Phan Thị Lan, Đặng Văn Thì, Trương Quốc Thống.
2  Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành, NXB Đồng Nai, 2015
301

31.2 Page 302

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Hội nghị đánh giá cụ thể tình hình của địa phương sau một
năm kể từ ngày giải phóng trên nhiều lĩnh vực, nhận diện những
thuận lợi, khó khăn và rút ra những bài học kinh nghiệm trong
việc quản lý, định hướng phát triển trong giai đoạn mới. Ban Chấp
hành đã thống nhất đồng thuận đề ra phương châm, phương hướng
và mục tiêu cụ thể để thực hiện. Nghị quyết của Hội nghị Đảng
bộ huyện nêu rõ: “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, củng
cố chính quyền với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo,
đưa địa phương phát triển nông nghiệp, công nghiệp theo phương
thức sản xuất mới1.
3. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ I
(1977 - 1979)
Ngày 21.6.1977, Đại hội Đảng bộ Long Thành lần thứ I được
tổ chức tại Huyện ủy (văn phòng trên tại xã Phước Thiền). Đại hội
bầu Ban Chấp hành gồm 33 đồng chí2. Ban Thường vụ Huyện ủy
gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Thông (Bí thư), Lương Văn Tấn
(Phó Bí thư Thường trực), Nguyễn Văn Xuân (Phó Bí thư kiêm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân) và các Ủy viên: Nguyễn Minh Sơn,
Nguyễn Thanh Minh, Nguyễn Cao Sơn, Nguyễn Quyết Chiến,
Dương Minh Ngà, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Minh Công, Đặng
Minh Quang.
Đánh giá thành quả và những bài học kinh nghiệm trong quá
trình lãnh đạo địa phương, Đảng bộ huyện đề ra nhiệm vụ chung:
1  Trích Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ huyện Long Thành năm 1976.
2  D anh sách 33 Ủy viên BCH được bầu tại Đại hội: Nguyễn Văn Thông, Lương Văn Tấn,
Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thanh Minh, Phạm Thanh Lý, Nguyễn
Cao Sơn, Dương Minh Ngà, Phạm Văn Đạm, Trần Văn Sang, Đặng Minh Quang, Đặng
Tấn Cộng, Nguyễn Minh Công, Lê Quyết Chiến, Đặng Dân Trí, Nguyễn Quyết Chiến,
Nguyễn Ngọc Điệp, Nguyễn Thị Thanh Vân, Huỳnh Minh Tấn, Đỗ Thị Thu Vân, Trần Thị
Mỳ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Thị Lan, Đặng Văn Thì, Trương Quốc Thống, Nguyễn
Thanh Liêm, Phan Thanh Châu, Trần Văn Lực, Nguyễn Chính Nghĩa, Nguyễn Minh Tánh,
Phạm Văn Duyên, Lê Minh Cảnh, Nguyễn Lý.
302

31.3 Page 303

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động để tiến
hành cải tạo nông nghiệp, trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất lương
thực; kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng, lấy xây dựng là
chủ yếu; cải tiến một bước lưu thông phân phối, phát triển y tế,
giáo dục, văn hóa; không ngừng củng cố an ninh - quốc phòng,
trật tư xã hội... Từng bước khẩn trương xây dựng huyện Long
Thành thành một huyện nông - công nghiệp vững mạnh1.
4. Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
- Lĩnh vực kinh tế
Sau thời gian khắc phục hậu quả của chiến tranh trong năm
đầu đất nước thống nhất, Huyện ủy xác định và định hướng trong
xây dựng, phát triển của địa phương theo đúng chủ trương, đường
lối của Đảng, cùng toàn tỉnh và cùng cả nước xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Căn cứ tình hình địa phương, qua những kỳ đại hội, Huyện
ủy định hướng phát triển trong từng giai đoạn với mục tiêu trên
từng lĩnh vực cụ thể. Đối với địa phương, phát triển nông nghiệp
là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó sản xuất lương thực là vấn đề
quan trọng tập trung chỉ đạo nhằm đáp ứng, đảm bảo được đời
sống nhân dân, ổn định trật tự xã hội và làm cơ sở để xây dựng
xã hội mới. Trong năm đầu Quân quản, chính sách khai hoang
phục hóa đã đem lại kết quả tốt. Bước vào con đường xây dựng
phát triển nông nghiệp theo hướng tập thể, nông nghiệp được xác
định là mặt trận hàng đầu trong mục tiêu “Thâm canh, tăng vụ,
tăng năng suất và mở rộng diện tích sản xuất”. Việc tăng cường
diện tích đất sản xuất nông nghiệp được quan tâm trong phong
trào xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp. Các vùng đất bị hoang
hóa trên địa bàn Nhơn Trạch được nhân dân tăng cường phục hóa,
canh tác. Công tác thủy lợi được phát động ở nhiều địa bàn không
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1977.
303

31.4 Page 304

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
những đáp ứng cho mùa vụ các diện tích thuần nông mà còn góp
phần mở rộng diện tích bỏ hoang, cải tạo nguồn đất cho nhân dân.
Phong trào làm thủy lợi được phát động và cũng là nhiệm vụ cấp
bách từ năm 1976 trở đi. Trong thành tích chung của huyện, công
tác thủy lợi phục vụ nông nghiệp1, xã Vĩnh Thanh là điển hình với
thành tích không chỉ huy động được 36.696 ngày công từ nhiều
thành phần thanh niên, học sinh, giáo viên, tu sĩ... hưởng ứng chủ
trương lớn của địa phương mà còn đem lại kết quả cao với 11 km
đê được đào, đắp ngăn nước mặn xâm nhập, đảm bảo diện tích đất
canh tác.
Năm 1977, huyện Long Thành được Trung ương chọn làm
điểm xây dựng và cải tạo nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa. Huyện tiến hành điều tra, thống kê nguồn lao
động, diện tích canh tác và thực hiện quy hoạch tổng thể để tiến
hành. Một số xã được huyện chọn tập trung đẩy mạnh phong trào
hợp tác hóa, phong trào thủy lợi, khai hoang và cải tạo đồng ruộng
để làm cơ sở tiến hành cho việc triển khai kế hoạch phát triển sản
xuất lớn. Đến năm 1978, nông trường Đồng Khởi (khu vực Lòng
Chảo xã Phước Thiền) khai phá được 540 héc ta, đưa vào sản xuất
240 hétc ta. Từ kinh nghiệm của việc chọn thực hiện trên cánh
đồng Đất Mới của xã Long Phước, huyện có nhiều bài học từ quản
lý đến điều hành, thực hiện, triển khai các kế hoạch sản xuất trên
địa phương. Mô hình HTX nông nghiệp được hình thành và các
xã xuất hiện nhiều tập đoàn sản xuất với sự tham gia của nhiều hộ
dân. Dù có những khó khăn trong vận động người dân tham gia
1  T heo số liệu báo cáo, lưu trữ tại Huyện ủy Long Thành, cụ thể như sau:
- Năm 1975, huyện huy động 141.000 ngày công, đào đáp 22 đập, hồ chứa nước (mỗi
hồ có sức chứa từ 8.500 đến 10.000 m3 nước), nạo vét 7.600 m kinh mương, 3 đập
chứa nước ngọt, tưới tiêu trên 300 héc ta lúa.
- Năm 1976, huyện huy động 315.372 lượt ngày công, đào đắp 349.463 m3 đất, 51
công trình thủy lợi lớn nhỏ, 66.773 m kinh mương, 25 ao hồ chứa nước ngọt.
304

31.5 Page 305

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
hình thức sản xuất mang tính tập thể nhưng chủ trương lớn này đã
được tuyên truyền, vận động tốt, thu hút được nhiều xã viên tham
gia. Qua phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp, người dân ở
địa phương tin tưởng vào chính sách nông nghiệp của nhà nước.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, huyện đã thu được những kết quả quan
trọng: 1.878.883 tấn lúa; trong đó có 1.413.340 tấn từ thu thuế
nông nghiệp, 573 tấn qua thu mua, 59 tấn qua trưng mua và 4.750
tấn khoai mì. Từ nguồn lương thực này, huyện thực hiện nghĩa vụ
và phân phối cho các tầng lớp nhân dân trong việc xuất bán, cứu
tế. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, huyện đẩy mạnh
việc chăn nuôi từ các hộ dân để bảo đảm nguồn thực phẩm, sức
kéo. Ngân hàng huyện tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn để phát
triển chăn nuôi. Đồng thời, huyện thành lập một số cơ sở quốc
doanh chăn nuôi từ nguồn vốn đầu tư và giống của nhà nước.
Tháng 10.1976, Lâm trường Lòng Tàu được thành lập nhằm
khôi phục thảm thực vật, nguồn thủy sản bị tàn phá trong chiến
tranh. Huyện đã đầu tư kinh phí mua 10 tấn hạt đước tại Cà Mau để
nhân giống, trồng tái tạo ở các mảng bị chết trắng. Các vùng Lòng
Chảo, giồng Phước An, Vĩnh Thanh với lượng gỗ nhiều được khai
thác cung cấp các nhu cầu thiết yếu, đồng thời mở rộng diện tích
sản xuất. Mặc dù có những hạn chế nhưng các khu rừng giồng,
Rừng Sác trên địa bàn Nhơn Trạch được quan tâm bảo vệ.
Trong hoạt động thương nghiệp, các xã ở địa bàn Nhơn
Trạch bắt đầu hình thành mô hình cửa hàng bách hóa mua bán để
cung cấp lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm. Sự ra đời của
các cửa hàng bách hóa giúp cho sự phân phối hàng hóa đến được
với người dân địa bàn các xã trong tình hình khó khăn chung về
khan hiếm nguồn cung. Đến đầu năm 1979, mạng lưới phân phối
hàng hóa của huyện được quy hoạch, góp phần trong việc bình
305

31.6 Page 306

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
ổn giá cả thị trường. Trên địa bàn các xã khu vực Nhơn Trạch,
hình thành các cụm phát triển Tập đoàn sản xuất, HTX trong 8
cụm của toàn huyện Long Thành như sau: Cụm 1 gồm xã Vĩnh
Thanh, xã Phú Hữu (xây dựng HTX điểm), xã Đại Phước, xã Phú
Thạnh, xã Phước Khánh (thành lập Tập đoàn sản xuất); Cụm 2
gồm xã Phước Thiền, xã Long Tân (HTX), xã Phú Hội (Tập đoàn
sản xuất); Cụm 3 gồm xã Phước Kiển (HTX), xã Phước Lai, xã
Phước Long, xã Phước Thọ (Tập đoàn sản xuất). Xã Đại Phước
là địa phương tiêu biểu trong duy trì và phát triển tốt các tập đoàn
sản xuất của huyện.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục
Văn hóa, giáo dục được sự quan tâm lớn của địa phương
ngay từ khi đất nước thống nhất. Hướng đến xây dựng xã hội mới,
con người mới xã hội chủ nghĩa theo đường lối của Đảng, huyện
đã tiến hành công tác tuyên truyên vận động người dân tích cực
tham gia các hoạt động văn hóa mới, ổn định đời sống để đưa con
em đến các trường học tập, thực hiện công tác y tế chăm sóc sức
khỏe cho người dân.
Công tác văn hóa thực hiện xuyên suốt, đặc biệt trong công
tác tổ chức của bộ máy nhà nước, tập trung vào nhiệm vụ tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, vận động
người dân tham gia các phong trào trên nhiều lĩnh vực ở địa bàn.
Nguồn lực cán bộ được phân công qua đào tạo, bồi dưỡng nhưng
hoạt động văn hóa, thông tin ở huyện buổi đầu gặp những khó
khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị. Công tác tuyên truyền, vận
động công cộng trên địa bàn qua hệ thống loa truyền thanh. Huyện
tổ chức hình thức tuyên truyền qua tờ tin theo hình thức báo chí
cách mạng. Thông qua nhiều hình thức, cùng với sự cổ động từ
các hội, đoàn thể, người dân hưởng ứng tích cực, tham gia vào
306

31.7 Page 307

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
các phong trào được phát động: xây dựng đời sống văn hóa mới,
xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong cộng đồng, tích
cực thực hiện và tham gia phong trào sản xuất, hợp tác hóa nông
nghiệp, làm ăn tập thể với tinh thàn, khí thế sôi nổi. Thư viện
huyện được đầu tư xây dựng và bổ sung hàng ngàn đầu sách phục
vụ cho học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Phong trào thể dục thể thao
để giữ gìn sức khỏe được phát động sâu rộng. Một hình thức tuyên
truyền đáp ứng đời sống tinh thần của người dân là chiếu phim
lưu động thông qua các tổ chiếu bóng của huyện. Hình thức giải
trí khá mới này đem lại sự hưởng ứng tích cực cho người dân, đặc
biệt là giới trẻ phản ánh sự nỗ lực tích cực của ngành văn hóa.
Năm 1979, bộ máy ngành văn hóa được tăng cường. Hệ
thống phát thanh được mở rộng đến các xã. Thông tin của địa
phương, nội dung vận động qua các phong trào phát động trong
các đợt sinh hoạt chính trị, phục vụ các ngày lễ lớn, mít tinh được
truyền thông kịp thời. Trong lĩnh vực bảo tồn văn hóa, huyện được
hỗ trợ từ các cơ quan chuyên môn, phối hợp với các xã tiến hành
sưu tầm nhiều tư liệu, hiện vật lịch sử, truyền thống đấu tranh của
địa phương qua các thời kỳ. Từ năm 1976 đến năm 1979, dù tình
hình khó khăn nhưng công tác giáo dục của huyện phát triển phản
ánh sự quan tâm và nỗ lực chung của toàn xã hội. Toàn huyện có
hệ thống trường các cấp (22 trường mẫu giáo), 27 trường cấp 1,
cấp 2, 2 trường cấp 3.
- Tổ chức Đảng, hệ thống chính trị
Sau hội nghị thành lập Đảng bộ, huyện có 164 đảng viên,
tham gia công tác tại các ban ngành và 24 chi bộ cơ quan. Mỗi
chi bộ có từ 03 đến 16 đảng viên. Trong nhiệm kỳ, từ chỉ đạo của
Đảng bộ, các cơ quan quản lý, sự nỗ lực của hệ thống chính trị địa
phương, người dân địa phương đã tham gia, thực hiện tốt những
307

31.8 Page 308

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
nhiệm vụ chính trị. Trong đó, tiêu biểu là 95% cử tri địa phương
tham gia với tinh thần cách mạng cao khi bầu cử đại biểu Quốc
hội đầu tiên của đất nước sau ngày thống nhất vào ngày 26.4.1976
(khóa VI của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa)1. Đảng bộ Long
Thành tiếp tục chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân Long Thành - Nhơn
Trạch bước vào giai đoạn mới khi với nhiệm vụ chiến lược được
Quốc hội đề ra: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” trong tình
hình miền Nam “phải đồng thời cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm kỳ thứ nhất, Huyện ủy xác định kiện toàn đội ngũ,
nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức Đảng là yếu tố quan
trọng trong công tác lãnh đạo quần chúng thực hiện nhiệm vụ
kinh tế, xã hội. Vì vậy, sau đại hội, cán bộ, đảng viên các cấp
ủy được huy động tham gia học tập chủ trương, chính sách của
Đảng, nhà nước trong tình hình mới, nắm bắt kịp thời và nhận
thức trách nhiệm cao trong việc đưa nghị quyết đi vào cuộc sống.
Đồng thời, nhằm nâng cao đội ngũ chất lượng cán bộ chủ chốt,
tạo nguồn đội ngũ cán bộ kế cận, huyện cử một số đảng viên tham
gia học tập chính trị, chuyên môn, nghiêp vụ. Trong hai năm 1976
và 1977, có 54 đồng chí được cử học tập chính trị hệ trung, cao
cấp (tại Hà Nội, trường Nguyễn Ái Quốc, trường Chính trị tỉnh);
93 cán bộ được đào tạo vê quản lý nhà nước, xây dựng hợp tác xã
(HTX); 85 cán bộ học ngành nông nghiệp, 25 cán bộ học ngành
công nghiệp, 06 cán bộ học ngành xây dựng, 10 cán bộ học ngành
thương nghiệp, 10 cán bộ học ngành thống kê, kế hoạch, 01 cán
bộ học ngành an ninh.
1  Đ ể thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, Quốc hội
khóa VI quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
308

31.9 Page 309

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thực hiện Chỉ thị 12 của Tỉnh ủy Đồng Nai, huyện Long
Thành tiếp nhận 43 cán bộ từ Trung ương, các tỉnh phía Bắc tăng
cường cho địa phương trong phong trào xây dựng HTX nông
nghiệp và nông trường. Toàn Đảng bộ có 63 chi bộ cơ sở, 748
đảng viên. Đánh giá quá trình hoạt động, có 19 chi bộ đạt loại
khá, 36 chi bộ đạt trung bình, 08 chi bộ hoạt động kém. Trong
quá trình thực hiện lãnh đạo, Huyện ủy đã kịp thời kiện toàn các
chi bộ với việc thay thế nhưng bí thư chi bộ hoạt động không hiệu
quả. Công tác kiểm tra của Đảng bộ được tiến hành chặt chẽ nhằm
xác minh, kiểm tra rõ những trường hợp đảng viên, tổ chức trực
thuộc vi phạm và áp dụng những hình thức kỷ luật, chấn chỉnh kịp
thời. Trong nhiệm kỳ, Huyện ủy xác minh, bồi dưỡng chính trị tạo
nguồn đoàn viên trung kiên, kết nạp 37 đảng viên. Từ thực tế của
cơ sở, Huyện ủy phân công, tăng cường lực lượng cán bộ, đảng
viên xuống cơ sở, đơn vị. Từ sự chi viện của Huyện ủy cũng như
tăng cường giáo dục, tuyên truyền, nhận thức của đảng viên được
nâng cao, các tổ chức cơ sở đi vào hoạt động nề nếp, phát huy
được vai trò lãnh đạo của Đảng trong nhiệm vụ xây dựng, kiện
toàn bộ máy chính quyền, phát triển kinh tế, xã hội ở cấp xã.
Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, bộ máy UBND được kiện
toàn. Thực tiễn xây dựng địa phương yêu cầu hình thành các đơn
vị, ban ngành để quản lý, điều hành, huyện thành lập các Ban
Công nghiệp, Lâm nghiệp, Ban Kinh tế mới, Lâm trường Lòng
Tàu, phòng Lao động, phòng Tài chính. Tại các xã, nguồn nhân
lực của UBND được tăng cường với số lượng từ 05 đến 07 ủy
viên. Đơn vị ấp thành lập Ban Nhân dân cách mạng. Những cán
bộ, đảng viên tham gia bộ máy chính quyền được tạo điều kiện
tham gia bồi dưỡng văn hóa, chính trị để nâng cao về nhận thức,
kiến thức để thực hiện nhiệm vụ, chức trách đạt hiệu quả.
309

31.10 Page 310

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Hệ thống đoàn thể chính trị được thành lập, quan tâm trong
chất lượng hoạt động nhằm tăng cường tuyên truyền, phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết của quần chúng. Thông qua các tổ chức
đoàn thể, chủ trương, chính sách, phong trào của Đảng, nhà nước,
của địa phương được tuyên truyền rộng rãi đến các tầng lớp nhân
dân. Các phong trào được địa phương phát động thông qua các
đoàn thể đem lại hiệu quả cao, được người dân hưởng ứng tích
cực. Trong phong trào làm thủy lợi, khai hoang phục hóa đất đai,
xoá mù chữ, bài trừ mê tín, xây dựng nếp sống mới... được người
dân tham gia với số lượng nhiều, thực hiện từ địa bàn cơ sở tổ,
xã, ấp. Tinh thần cách mạng trong quần chúng được nâng cao đã
góp phần quan trọng trong bảo vệ an ninh trật tự xã hội, xây dựng
xã hội mới, con người mới. Trong đó, tại các xã, hoạt động của
Ban Phụ nữ, Nông hội, Cán sự ấp, Chi đoàn Thanh niên có hiệu
quả trong tập họp lực lượng. Tiêu biểu là hoạt động của tầng lớp
thanh niên, toàn huyện có 7.500 hội viên tham gia vào Hội Thanh
niên giải phóng, Thanh niên đoàn kết, Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Thiếu niên tiền phong. Đến cuối năm 1978, Mặt trận
và đoàn thể của huyện kiện toàn, hoạt động đem lại chất lượng,
hiệu quả. Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng hướng
vào nhiệm vụ chính yếu “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa”, phục vụ tốt những đợt sinh hoạt chính trị, lễ lớn ở địa
phương, trong đó có công tác bầu cử HĐND cấp huyện, cấp xã.
- Lĩnh vực an ninh, quốc phòng
Tình hình an ninh, quốc phòng của huyện được quan tâm
ngay từ năm đầu giải phóng bởi tính phức tạp của vùng chiến
tranh, vùng chiến sự và giáp đô thành Sài Gòn. Địa bàn của huyện
khá rộng, trong đó có những nơi thuộc “vùng sâu, vùng xa” với
việc đi lại khó khăn, quản lý thiếu nhân sự nên nhiều tội phạm,
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đối tượng trốn cải tạo, các tổ chức chống phá cách mạng từ các
địa phương khác tìm đến lẩn trốn. Khi chính sách Quân quản được
thực thi, các đơn vị vũ trang bắt tay vào việc ổn định xã hội, bảo
vệ thành quả cách mạng.
Năm 1976, lực lượng vũ trang huyện được thành lập trên cơ
sở sáp nhập Tiểu Đại đội 240 huyện Nhơn Trạch và Đại đội C1
Long Thành với phiên hiệu C17. Lực lượng vũ trang duy trì hoạt
động trong công tác bảo đảm tình hình an ninh quốc phòng. Ở các
xã, duy trì lực lượng dân quân tự vệ trong công tác nắm bắt tình
hình, tuần tra phát hiện, xử lý, sẵn sàng bảo vệ địa phương. Sau
thời gian xây dựng cơ sở, tăng cường đội ngũ, các xã của huyện
hình thành Ban Chỉ huy xã đội. Biên chế của xã đội gọi là du kích
xã với số lượng từ một tiểu đội đến trung đội, các ấp hình thành
lực lượng dân quân. Các cơ quan trên địa bàn huyện thành lập lực
lượng tự vệ. Ngoài nhiệm vụ chính trong bảo vệ địa phương, lực
lượng huyện đội, dân quân tích cực tham gia các phong trào giúp
dân tại địa bàn cư trú, hỗ trợ dân sản xuất, làm kinh tế, phá dỡ bom
mìn.
Tháng 12.1976, huyện thành lập Hội đồng Quân sự, tổ chức
vận động, tuyển quân, khám tuyển thanh niên thi hành nghĩa vụ
quân sự. Các xã thực thi vận động thanh niên địa phương tình
nguyện tham gia hoặc thi hành khi đúng độ tuổi được lệnh nhập
ngũ. Hằng năm, công tác tuyển quân của huyện luôn được thực
hiện tốt. Số lượng thanh niên nhập ngũ, thực hành nghĩa vụ quân
sự được đảm bảo đạt các chỉ tiêu của Quân khu, tỉnh và huyện.
Cuối năm 1978, thực hiện chỉ đạo của tỉnh, huyện cử một đại đội
tham gia nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia. Ban Chỉ huy đại đội
gồm các đồng chí: Nguyễn Thái Học (Đại đội trưởng), Nguyễn
Văn Phối (Đại đội phó), Đặng Văn Hải (Chính trị viên).
311

32.2 Page 312

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Tình hình trấn áp các tổ chức phản cách mạng trên địa bàn
huyện khá quyết liệt. Các thế lực phản động ra sức tuyên truyền
chống phá chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, kêu gọi
đánh phá chính quyền cách mạng. Địa bàn huyện vẫn còn một số
binh lính không trình diện, trốn cải tạo hay từ các nơi khác đến
gầy dựng cơ sở, tổ chức hoạt động, gây nguy hại cho xã hội. Các
tổ chức phản cách mạng hình thành, lấy danh nghĩa của Mặt trận
quốc gia toàn lực giải phóng miền Nam, Đảng Dân chủ, Đảng Cấp
tiến, Đảng Cần lao Nhân vị, Mặt trận Việt tiến, Quốc dân Đảng,
Thanh niên Phục quốc Đại đội 307, Đảng Phi Long, Mặt trận Cứu
nguy Dân tộc, Mặt trận Giải phóng Dân tộc. Một số địa bàn ở
Nhơn Trạch trở thành những điểm nóng về an ninh. Tại xã Vĩnh
Thanh, nhóm phản cách mạng sử dụng vũ trang ám sát hai cán bộ;
xã An Lợi bị kẻ xấu đánh cắp tài liệu lưu trữ; xã Phú Khánh có
một số du kích bị mua chuộc đem vũ khí tham gia vào các nhóm
tàn quân. Bên cạnh đó, tình hình một số nơi xảy ra những trọng án
về cướp của, giết người, trộm cắp, gây dư luận không tốt, tác động
đến đời sống người dân. Trước tình hình và những diễn tiến phức
tạp, Huyện ủy chỉ đạo các lực lượng an ninh, phát động nhân dân
phát hiện, trấn áp. Từ sự chi viện của tỉnh, lực lượng an ninh, vũ
trang huyện đã thực hiện một số chiến dịch, truy lùng, truy quét,
bắt giữ nhiều tàn quân, phá nhiều vụ án, phá vỡ các tổ chức phản
động. Tình hình an ninh, trật tự của huyện, những điểm nóng được
giải quyết. Các đợt sinh hoạt chính trị quan trọng về bầu cử Quốc
hội, HĐND, đại hội Đảng được đảm bảo an toàn.
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1979 - 1986
1. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ II
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ II được tổ chức từ
ngày 19 đến 23.6.1979. Tham dự có 149 đại biểu (trong đó có 09
312

32.3 Page 313

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đại biểu cấp tỉnh được phân công tham gia ứng cử vào Ban Chấp
hành huyện). Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 33 đồng chí1, có 02
ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng chí:
Nguyễn Hải (Đỗ Văn Kinh) giữ chức Bí thư, Nguyễn Văn Minh
(Phó Bí thư thường trực), Nguyễn Văn Xuân (Phó Bí thư kiêm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân) và các ủy viên: Đặng Minh Quang,
Nguyễn Minh Sơn, Lương Văn Tấn, Phạm Văn Đạm, Nguyễn
Trung Trực, Nguyễn Văn Thọ.
Đánh giá kết quả của nhiệm kỳ thứ I từ thành quả, nguyên
nhân thắng lợi và hạn chế, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã xác
định nhiệm vụ, phương hướng triển của địa phương trong giai
đoạn mới: “Không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy,
khả năng tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền và vai trò các
đoàn thể quần chúng theo tinh thần độc lập, sáng tạo, tự lực tự
cường, thực sự phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
của nhân dân lao động; tập trung toàn bộ nguồn lực trong toàn
huyện để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm
là sản xuất lương thực, thực phẩm. Phát triển nhanh sự nghiệp
văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội; ổn định và đảm bảo đời sống nhân
dân. Tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và
nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ vững chắc những thành
quả giành được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và tính mạng,
tài sản của nhân dân, sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu
bạo loạn của kẻ thù giai cấp và hành động xâm lăng của kẻ thù
1  Danh sách 33 đồng chí Ủy viên Ban chấp hành được bầu tại Đại hội: Nguyễn Hải (Đỗ
Văn Kinh), Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Thanh Minh, Đặng Minh Quang, Nguyễn Minh
Sơn, Lương Văn Tấn, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Thọ, Trần Văn
Sang, Vũ Anh Tín, Lê Quyết Chiến, Nguyễn Ngọc Điệp, Nguyễn Hùng, Nguyễn Văn
Hoàng, Trần Trọng Nhân, Nguyễn Văn Quang, Trần Thị Mỳ, Nguyễn Văn Khỏe, Trần
Thị Ức, Nguyễn Văn Bảo, Tạ Điển, Phạm Văn Duyên, Đặng Văn Thì, Huỳnh Minh Tấn,
Nguyễn Minh Chính, Nguyễn Ngọc Thảo, Dương Văn Xinh, Ninh Văn Tiếp, Nguyễn Thị
Đào, Lê Bá Hùng, Ngô Văn Bình, Vũ Lường.
313

32.4 Page 314

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
bên ngoài. Kiên quyết xây dựng huyện Long Thành thành một
huyện nông - công nghiệp và thành pháo đài chiến đấu, bảo vệ Tổ
quốc1.
Làm cơ sở cho việc thực hiện nghị quyết, Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện đề ra những nhiệm vụ cụ thể:
- Kiểm tra toàn bộ số lượng, chất lượng cơ sở vật chất xã hội
hiện có của địa phương: dân số, đất đai, vật tư kỹ thuật... Tập trung
cao độ cho sản xuất nông nghiệp; trọng tâm là sản xuất lương
thực, thực phẩm và hàng xuất khẩu.
- Củng cố bộ máy chính quyền vô sản, đặc biệt là cấp cơ sở,
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Thực hiện triệt để nghị quyết của Bộ Chính trị
về chống mọi biểu hiện tiêu cực.
- Quyết tâm hoàn thành cơ bản việc đưa nông dân cùng tư
liệu sản xuất (ruộng đất, máy móc, trâu bò...) vào tập đoàn sản
xuất và hợp tác nông nghiệp.
- Xúc tiến xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chủ yếu cho
nông nghiệp, cụ thể phát triển các trại giống, chế biến lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng.
- Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế,
xã hội nhằm chăm lo đời sống tinh thần, sức khỏe cho nhân dân
và thế hệ trẻ.
- Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và nền quốc phòng
toàn dân đủ sức diệt bọn phản cách mạng và chiến thắng kẻ thù
xâm lược.
1  Trích Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành năm 1979.
314

32.5 Page 315

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Trong tình hình chung của đất nước trong giai đoạn này,
sự thiếu hụt về lương thực đã dẫn đến những khó khăn lớn, cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam đang diễn ra, các thế lực
phản cách mạng gia tăng gây rối, chống phá, Đảng bộ huyện xác
định vai trò lãnh đạo và xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh,
vừa xây dựng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa vừa sẵn
sàng đấu tranh để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ đất nước.
2. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ
III
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ III được tổ chức từ
ngày 10 đến 12.6.1982. Tham dự có 150 đại biểu. Đại hội bầu
Ban Chấp hành gồm 36 đồng chí, có 02 ủy viên dự khuyết1. Ban
Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Xuân (Bí
thư), Dương Minh Ngà (Phó Bí thư Thường trực), Phạm Thanh
Lý (Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân) và các ủy viên:
Nguyễn Thanh Minh, Dương Văn Xinh, Huỳnh Minh Hà, Đặng
Minh Quang, Tạ Điển, Phạm Hùng Sơn, Nguyễn Ngọc Thảo,
Nguyễn Ngọc Điệp, Đặng Tân.
Đại hội đánh giá tình hình hoạt động trong nhiệm kỳ trước,
trên cơ sở thực tiễn của địa phương, đã nêu phương hướng cho gai
đoạn mới: “Nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ, vận động tập hợp sức mạnh quần chúng trong các tổ
1  D anh sách Ủy viên BCH Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Nguyễn Hải (Đỗ Văn Kỉnh),
Dương Minh Ngà, Phạm Thanh Lý, Dương Văn Xinh, Nguyễn Thanh Minh, Huỳnh Minh
Hà, Đặng Minh Quang, Tạ Điển, Phạm Hùng Sơn, Nguyễn Ngọc Thảo, Nguyễn Ngọc
Điệp, Đặng Tấn, Nguyễn Quyết Chiến, Nguyễn Hùng, Nguyễn Văn Thuận, Lê Quyết
Chiến, Ngô Văn Bình, Phạm Văn Dưỡng, Đào Văn Minh, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Minh
Chính, Trịnh Phẩm Hạnh, Võ Văn Sáu, Đào Minh Tiến, Nguyễn Văn Hộ, Trần Thị Điệp,
Trần Minh Việt, Nguyễn Minh Tuân, Lê Văn Tâm, Lê Văn Hiệp, Huỳnh Thị Hương, Trần
Kim Thanh, Nguyễn Hoàng Minh, Huỳnh Văn Tấn. Hai Ủy viên dự khuyết: Võ Thị Quyện,
Hoàng Nghĩa Thái.
315

32.6 Page 316

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
chức cách mạng đoàn kết xây dựng quê hương; bằng nhiều biện
pháp tích cực từng bước phát triển nông nghiệp toàn diện; khuyến
khích phát triển chăn nuôi gia đình và chú trọng chăn nuôi quốc
doanh, tập thể; phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp,
tăng cường cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành nghề và
các thành phần kinh tế; nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa
xã hội nhằm phục vụ xây dựng văn hóa mới, con người mới; đảm
bảo an ninh trật tự xã hội1.
3. Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
- Lĩnh vực kinh tế
Với mục tiêu đưa nông nghiệp phát triển toàn diện, từ năm
1982, Huyện ủy chỉ đạo tiến hành điều tra, đo đạc, phân loại các
hạng đất để bố trí, điều chỉnh, hình thành các vùng chuyên canh.
Ngoài các vùng trọng điểm đê ngăn mặn ở khu vực Ông Kèo
(Phước Khánh), huyện đã cải tạo hàng trăm héc ta đât sản xuất từ
1 vụ lên 2 vụ mỗi năm. Công tác thủy lợi được đẩy mạnh và phù
hợp với từng vùng để đảm bảo sản xuất. Các xã Phước Khánh,
Phước Thiền, Vĩnh Thanh đã huy động đông đảo nhân lực làm
thủy lợi. Quá trình thâm canh trên diện tích trồng lúa được đầu tư
giống, phân phù hợp đã tăng năng suất trong vụ mùa. Cánh đồng
cao sản các xã Long Phước, Phước Thiền, Long Tân đạt năng suất
8 tạ/ha mỗi vụ. Các tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất ở Nhơn Trạch
đã đánh bắt, thu mua hàng chục tấn thủy sản phục vụ cho tiêu
dùng của huyện, tham gia hàng xuất khẩu.
Các ngành nghề thủ công trên địa bàn huyện được quan tâm
phát triển. Các xã địa bàn Nhơn Trạch có lợi thế về khai thác trong
đánh bắt thủy sản được huyện tập hợp lực lượng, phương tiện
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1982.
316

32.7 Page 317

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đánh bắt và tổ chức đánh bắt với phương thức thỏa thuận trao đổi
mua bán. Tuy chưa hình thành cơ sở quốc doanh hay tổ chức các
trạm nuôi thả nhưng đây là cơ sở bước đầu để tập trung khai thác
nguồn lợi, đáp ứng nhu cầu thiết thực của địa phương.
Trong định hướng phát triển lấy nông nghiệp làm trọng tâm
phù hợp với đặc điểm của địa phương, huyện thực hiện phát triển
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng quốc doanh,
công tư hợp doanh và một số theo dạng tổ hợp. Ngoài những cơ
sở hình thành trước, huyện thành lập nhiều cơ sở với quy mô đáp
ứng phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp. Ban đầu, khi thực
hiện sắp xếp hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo
hướng tập thể hay hợp doanh cũng gặp những khó khăn nhưng
từng bước người dân thông hiểu và đồng thuận. Các xưởng cơ khí,
tổ hợp sữa chữa, các máy xay xát, lò đường, chế biến thức ăn gia
súc, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản, sản xuất các loại
hàng hóa nhỏ... trên địa bàn huyện đã tạo nên mạng lưới phục vụ
tốt cho nhu cầu của đời sống nhân dân, sản xuất chung của các tập
đoàn, mua bán tại các HTX. Nhiều hộ tiểu thương đăng ký kinh
doanh theo chủ trương chung hoặc chuyển sang sản xuất.
Trong những năm đầu thập niên 80, công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp của huyện phát triển. Để tạo nguồn nguyên liệu cho
sản xuất, huyện có cơ chế khuyến khích tinh thần tự lực, tự cường
của người dân, đồng thời thực hiện liên kết, liên doanh với các địa
phương khác tạo thêm nguồn hàng. Vì vậy, sản phẩm toàn huyện
cuối năm 1985 tăng, đáp ứng sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu.
Trên lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hóa, huyện chủ
động quản lý được nguồn hàng, phục vụ kịp thời nhu cầu tiêu
dùng ở địa phương, đồng thời thực hiện nghĩa vụ điều chuyển
hàng hóa cùng với tỉnh. Mạng lưới thương nghiệp quốc doanh
317

32.8 Page 318

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
(công ty cấp 3, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cửa hàng bán lẻ thực
phẩm, cửa hàng ăn uống, điện máy, HTX mua bán, HTX tiểu thủ
công nghiệp) được thành lập ở nhiều địa bàn của huyện. Ngành
giao thông vận tải huyện thành lập được 3 HTX giao thông đường
bộ, 1 HTX đường sông, 1 đội xe quốc doanh phục vụ nhu cầu đi
lại, vận chuyển hàng hóa.
Từ năm 1985, nguồn tài chính của huyện từ nhiều nguồn thu
vượt kế hoạch. Từ nguồn lực xã hội được huy động, chính sách
phát triển theo hướng tập thể đã tạo nguồn vốn cho huyện đầu tư
xây dựng các cơ sở vật chất, trang thiết bị đối với trường lớp, trạm
y tế, nhà trẻ và một số lĩnh vực khác (công trình giao thông công
cộng, công nghiệp, thương nghiệp và các công trình đền ơn đáp
nghĩa).
Ngành lâm nghiệp của huyện được ổn định, hoạt động hiệu
quả trong công tác bảo vệ và khai thác rừng. Những năm cuối thập
niên 70, sản lượng khai thác lâm sản, trồng rừng của huyện, đặc
biệt với các lâm trường trên địa bàn đạt hiệu quả và chất lượng cao.
Những thành tích trong bảo vệ, phát triển, khai thác lâm nghiệp
của huyện được đánh giá cao với việc đón nhận lẵng hoa của Chủ
tịch nước Tôn Đức Thắng trao tặng.
Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”
trong công tác bảo vệ, trồng rừng, từ năm 1982, huyện giao đất
HTX, tập đoàn và hộ gia đình tham gia. Việc làm này đem lại hiệu
quả với trách nhiệm của nhà nước, nghĩa vụ và quyền lợi của tổ
chức, hộ dân tham gia. Trên địa bàn huyện, diện tích rừng đầu
nguồn đảm bảo độ che phủ, các khu đồi trọc, đất hoang được tăng
cường trồng cây. Tham gia trong phong trào thủy điện của miền
Nam, huyện huy động lực lượng thanh niên từ các xã tham gia
công trường trọng điểm quốc gia vùng Trị An. Những thành tựu
318

32.9 Page 319

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đạt được của ngành lâm nghiệp, huyện được Hội đồng Bộ trưởng
tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục
Văn hóa, giáo dục được sự quan tâm lớn của địa phương
ngay từ khi đất nước thống nhất. Hướng đến xây dựng xã hội mới,
con người mới xã hội chủ nghĩa theo đường lối của Đảng, huyện
đã tiến hành công tác tuyên truyên vận động người dân tích cực
tham gia các hoạt động văn hóa mới, ổn định đời sống để đưa con
em đến các trường học tập, thực hiện công tác y tế chăm sóc sức
khỏe cho người dân.
Công tác văn hóa thực hiện xuyên suốt, đặc biệt trong công
tác tổ chức của bộ máy nhà nước, tập trung vào nhiệm vụ tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, vận động
người dân tham gia các phong trào trên nhiều lĩnh vực ở địa bàn.
Nguồn lực cán bộ được phân công qua đào tạo, bồi dưỡng nhưng
hoạt động văn hóa, thông tin ở huyện buổi đầu gặp những khó
khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị. Công tác tuyên truyền, vận
động công cộng trên địa bàn qua hệ thống loa truyền thanh. Huyện
tổ chức hình thức tuyên truyền qua tờ tin theo hình thức báo chí
cách mạng. Thông qua nhiều hình thức, cùng với sự cổ động từ
các hội, đoàn thể, người dân hưởng ứng tích cực, tham gia vào
các phong trào được phát động: xây dựng đời sống văn hóa mới,
xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong cộng đồng, tích
cực thực hiện và tham gia phong trào sản xuất, hợp tác hóa nông
nghiệp, làm ăn tập thể với tinh thàn, khí thế sôi nổi. Thư viện
huyện được đầu tư xây dựng và bổ sung hàng ngàn đầu sách phục
vụ cho học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Phong trào thể dục thể thao
để giữ gìn sức khỏe được phát động sâu rộng. Một hình thức tuyên
truyền đáp ứng đời sống tinh thần của người dân là chiếu phim
319

32.10 Page 320

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
lưu động thông qua các tổ chiếu bóng của huyện. Hình thức giải
trí khá mới này đem lại sự hưởng ứng tích cực cho người dân, đặc
biệt là giới trẻ phản ánh sự nỗ lực tích cực của ngành văn hóa.
Năm 1979, bộ máy ngành văn hóa được tăng cường. Hệ
thống phát thanh được mở rộng đến các xã. Thông tin của địa
phương, nội dung vận động qua các phong trào phát động trong
các đợt sinh hoạt chính trị, phục vụ các ngày lễ lớn, mít tinh được
truyền thông kịp thời. Trong lĩnh vực bảo tồn văn hóa, huyện được
hỗ trợ từ các cơ quan chuyên môn, phối hợp với các xã tiến hành
sưu tầm nhiều tư liệu, hiện vật lịch sử, truyền thống đấu tranh của
địa phương qua các thời kỳ.
Hoạt động lĩnh vực văn hóa của huyện và các xã ngày càng
hiệu quả với việc đầu tư cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết bị chủ
yếu. Hoạt động văn hóa được tăng cường về địa bàn ấp xã, phong
trào văn nghệ, cổ động tuyên truyền tổ chức bằng nhiều hình thức
đa dạng. Mức hưởng thụ văn hóa của người dân được cải thiện.
Nhiều xã, cơ quan, đơn vị tham gia các chương trình hội diễn,
thông tin cổ động đạt giải các cấp. Trong đó, năm 1983, huyện đạt
02 huy chương Vàng, 08 huy chương Bạc trong các hội thi cấp
tỉnh. Phong trào rèn luyện thể dục thể thao được phát động rộng
rãi; đặc biệt, thế hệ trẻ tích cực hưởng ứng, tham gia. Xã Phú Hội
làm tốt công tác bảo vệ di sản văn hóa với nhà truyền thống.
Về giáo dục, huyện đầu tư kinh phí, sữa chữa nâng cấp các
trường học trên địa bàn, phát triển một số trường lớp ở các xã. Đội
ngũ giáo viên các cấp được đào tạo, bồi dưỡng kíp thời để đảm
trách việc giảng dạy. Song song với đào tạo chính quy tại các cấp
trường, huyện mở nhiều lớp đào tạo xóa mù và bổ túc văn hóa cho
nhiều đối tượng. Trong hoàn cảnh chiến tranh, nhiều người không
có điều kiện đến trường, năm đầu khi đất nước thống nhất, nhiều
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
người bị gián đoạn viêc học tập. Vì vậy, phong trào xóa mù chữ
và bổ túc văn hóa được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Những nỗ lực trong công tác của ngành giáo dục đã đem lại những
thành quả, huyện được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng cờ, bằng
khen. Năm 1979, dù tình hình khó khăn nhưng công tác giáo dục
của huyện phát triển phản ánh sự quan tâm và nỗ lực chung của
toàn xã hội. Toàn huyện có hệ thống trường các cấp (22 trường
mẫu giáo), 27 trường cấp 1, cấp 2, 2 trường cấp 3. Đến năm 1985,
hệ thống trường, lớp của huyện tăng đảm bảo yêu cầu cho học sinh
các cấp tham gia học tập dù có một số địa bàn phải tăng ca. Đội
ngũ giáo viên các cấp học được tuyển dụng, có chất lượng, tham
gia công tác với tinh thần trách nhiệm cao dù đời sống có nhiều
khó khăn. Tiêu biểu có những giáo viên đạt danh hiệu trong các
Hội giảng cấp tỉnh, một số học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi
cấp quốc gia.
Ngành thương binh - xã hội tiến hành điều tra, thống kê,
lập hồ sơ thực hiện chính sách có công với cách mạng. Huyện có
2.541 trường hợp liệt sĩ được xác định và tiếp tục duy trì công tác
tìm mộ liệt sĩ. Với đối tượng chính sách, huyện tiến hành công tác
chăm sóc, khám chữa bệnh, bù đắp những mất mát, hỗ trợ trong
lúc khó khăn. Năm 1985, huyện được Hội đồng Bộ trưởng tặng
Huân chương Lao động hạng Ba về thành tích thực hiện chính
sách thương binh, xã hội. Huyện giải quyết kịp thời chính sách
đền ơn đáp nghĩa (xây dựng nguồn quỹ chăm sóc đối tượng chính
sách, xây tặng nhà tình nghĩa, tình thương), hậu phương quân đội,
trong đó quy tập 1.476 hài cốt liệt sĩ.
Trong hoạt động y tế, những năm đầu, huyên được sự hỗ
trợ tích cực từ các đơn vị quân y trong công tác chăm sóc sức
khỏe, khám chữa bệnh cho người dân, phòng chống dịch bệnh.
321

33.2 Page 322

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Sau khi được bàn giao, huyện tiến hành sửa chữa, nâng cấp các cơ
sở khám chữa bệnh. Bệnh viện của huyện đầu tư sữa chữa, nâng
số giường để phục vụ tốt điều trị bệnh nhân. Đội ngũ thầy thuốc
được tăng cường. Tại các xã, thành lập các Ban Y tế và kết hợp
phương thức chữa bệnh Đông - Tây y kết hợp, vừa điều trị được
cho bệnh nhân vừa góp phần giải quyết tình trạng khan hiếm về
nguồn thuốc chữa bệnh. Quần chúng nhân dân tích cực tham gia
phong trào xây dựng nếp sống mới, giữ gìn vệ sinh, phòng chống
dịch bệnh tại địa bàn cư trú. Các xã Phú Hữu, Phú Hội, Phước An,
Đại Phước, Phú Khánh là những địa bàn có hoạt động y tế phát
triển mạnh của huyện. Đến năm 1986, mạng lưới y tế trên địa bàn
huyện được mở rộng, tăng cường đến địa bàn xã. Huyện đầu tư
xây dựng bệnh viện huyện tại trung tâm thị trấn Long Thành, các
trạm y tế được đầu tư các thiết bị cho nhu cầu khám chữa bệnh từ
cơ sở. Công tác tiêm chủng, phòng ngừa, kế hoạch hóa gia đình
được thực hiện tốt.
- Hệ thống chính trị
Từ năm 1979 đến 1982, trong tình hình chung của đất nước
về sự thiếu hụt về lương thực đã dẫn đến những khó khăn lớn,
cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam đang diễn ra, các thế
lực phản cách mạng gia tăng gây rối, chống phá, Đảng bộ huyện
xác định vai trò lãnh đạo và xây dựng bộ máy chính quyền vững
mạnh, vừa xây dựng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa
vừa sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ đất
nước.
Sau đại hội, có sự chuyển thay đổi về nhân sự lãnh đạo của
Huyện ủy. Do yêu cầu công tác, Tỉnh ủy Đồng Nai điều động
đồng chí Nguyễn Hải - Bí thư về tỉnh nhận nhiệm vụ mới. Đồng
chí Nguyễn Văn Xuân - Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBND thay
322

33.3 Page 323

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thế. Huyện ủy tiếp tục thực hiện công tác kiện toàn bộ máy, tuyên
truyền, giáo dục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Huyện tiếp tục cử 600 cán bộ, đảng viên tham gia các khóa học
bồi dưỡng do Trung ương, tỉnh tổ chức. Tại địa phương, huyện
tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ kế cận gồm 178 đoàn viên ưu trú,
trung kiên và phát triển, kết nạp trên 60 đảng viên. Nguồn cán bộ,
đảng viên được đào tạo góp phần trong việc nâng cao chất lượng
đơn vị, chi bộ cơ sở. Một số chi bộ có những yếu kém, Huyện ủy
điều động đội ngũ đảng viên chủ chốt, thực thi kỷ luật nghiêm
minh những cá nhân, tổ chức vi phạm. Các hoạt động tổ chức cấp
ủy trên địa bàn huyện có những chuyển biến tích cực. Đến năm
1981, toàn huyện có 65 chi bộ gồm 754 đảng viên, số chi bộ hoạt
động hiệu quả tăng dần và giảm về chi bộ yếu kém.
Hoạt động trong các tổ chức đoàn thể chính trị được đẩy
mạnh, đặc biệt gắn kết sức mạnh quần chúng nhân dân trong các
tổ chức hội, đoàn. Chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước
được tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân. Các tổ
chức đoàn thể ngày càng tăng về số lượng hội viên và hoạt động
hiệu quả. Số liệu thống kê trong nhiệm kỳ của cả huyện (Long
Thành, Nhơn Trạch): Đoàn Thanh niên 1.371 đoàn viên, Hội Phụ
nữ có 3.297 hội viên, Nông hội có 2.002 hội viên. Việc tuyên
truyền, vận động hội viên tham gia các phong trào của huyện được
thực hiện tốt, trong đó, vận động cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp đang là chủ trương lớn.
Trong hoạt động của nhiệm kỳ Đảng bộ lần thứ III, cơ cấu
nhân sự Huyện ủy có những thay đổi. Tháng 6.1983, đồng chí
Nguyễn Thanh Minh được bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy,
giữ chức vụ Chủ tịch UBND huyện thay đồng chí Phạm Thanh Lý
được phân công phụ trách khối Nội chính.
323

33.4 Page 324

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Nhằm kiện toàn và xây dựng tổ chức Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh, Đảng bộ huyện tăng cường tổ chức các đợt sinh hoạt,
học tập chính trị, tư tưởng cho hơn 3.000 lượt cán bộ, đảng viên.
Từ Huyện ủy đến các tổ chức cấp ủy trực thuộc, cơ sở đều xây
dựng quy chế làm việc, tăng cường kiểm tra việc chấp hành điều
lệ và những quy định liên quan. Công tác phát triển trong toàn
Đảng bộ tăng với 180 đảng viên. Chất lượng đảng viên, các tổ
chức đảng được nâng lên với nhiều chi bộ đạt danh hiệu trong
sạch vững mạnh. Số lượng chi ủy, chi bộ yếu kém so với nhiệm kỳ
trước giảm. Tuy nhiên, vẫn xảy ra những trường hợp đảng viên vi
phạm, được kiểm tra, xử lý kỷ luật kịp thời.
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể trong giai đoạn này phát huy
tốt vai trò nòng cốt, vận động quần chúng thực hiện chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng, nhà nước. Các phong trào chính
trị, xã hội trên địa bàn được phát động rộng rãi, vận động thu hút
đông đảo quần chúng tham gia, nâng cao tinh thần đoàn kết, phát
huy truyền thống yêu nước, góp phần huy động nguồn lực xây
dựng địa phương. Tổ chức Công đoàn có 2.642 đoàn viên, thực
hiện tốt vai trò và lập trường giai cấp, nêu gương trong thực hiện
nhiệm vụ được giao. Hội Nông dân tập thể số lượng hội viên khá
đông đảo với 8.132 hội viên, sinh hoạt trong 385 tổ có mặt hầu hết
ở các địa bàn cơ sở xã, ấp, tập đoàn. Hội Nông dân tập thể đóng
vai trò quan trọng trong việc vận động người dân tham gia làm ăn
tập thể, giúp đỡ nhau làm kinh tế. Hội Liên hiệp Phụ nữ thu hút
nhiều hội viên trên các địa bàn cơ sở với 31.556 hội viên. Các Ban
cán sự của tổ chức Hội có mặt ở các xã, ấp, tập đoàn làm tốt công
tác phát huy vai trò nữ giới trong các hoạt động từ sản xuất đến
hoạt động xã hội, chăm sóc gia đình. Đoàn Thanh niên của huyện
tập hợp 9.778 đoàn viên, phát triển tổ chức đến các xã, tham gia
tích cực trong hoạt động tuyên truyền, phục vụ nhiệm vụ chính
324

33.5 Page 325

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trị của địa phương. Trong tình hình với những khó khăn chung,
những kết quả của huyện trên nhiều lĩnh vực có sự đóng góp quan
trọng của đoàn viên, hội viên các tổ chức đoàn thể từ tuyên truyền
vận động thực hiện đến sự tham gia trực tiếp trên nhiều lĩnh vực,
mặt trận.
- Lĩnh vực an ninh, quốc phòng
Tình hình an ninh, quốc phòng của huyện luôn được quan
tâm. Kế thừa sự trưởng thành của lực lượng an ninh vũ trang và
kinh nghiệm đấu tranh qua những năm đầu đất nước thống nhất,
huyện chú trọng xây dựng đội ngũ mạnh, chinh quy và phòng
chống hiệu quả đê bảo vệ chinh quyền. Hàng năm, huyện thành
lập Hội đồng Quân sự, đến cấp xã, công tác tuyển quân thực hiện
tốt. Số lượng thanh niên nhập ngũ đảm bảo chất lượng và chỉ tiêu
được giao. Lực lượng dân quân, tự vệ được xây dựng và phát
triển mỗi năm và hình thành tổ an ninh nhân dân cơ sở. Trong chủ
trương phòng chống địch đổ bộ xâm lấn hướng biển, nhân dân
được phát động tham gia làm chông, cọc sắt bảo vệ tuyến bờ biển
chặt chẽ.
5 năm đầu thập niên 80, huyện tiếp tục tăng cường đảm bảo
tình hình trật tự, an ninh quốc phòng trên địa bàn. Huyện tiến hành
công tác tuyển quân hằng năm và luôn vượt chỉ tiêu. Lực lượng
vũ trang, an ninh duy trì sẵn sàng, giữ thế chủ động, đặc biệt các
địa bàn xung yếu, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các
thế lực phản động. Công tác tuyên truyền, vận động trong quần
chúng tham gia giữ thế trận an ninh với việc xây dựng mạng lưới
an ninh (tổ an ninh nhân dân, tổ dân quân, tự vệ) đến cơ sở (thôn,
ấp, tập đoàn sản xuất, HTX, cơ quan, đơn vị nhà nước). Từ mạng
lưới an ninh cơ sở, quần chúng kịp thông báo và phối hợp với các
lực lượng công an ngăn chặn nhiều vụ việc vi phạm pháp luật,
325

33.6 Page 326

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
bắt nhiều đối tượng phạm tội. Đặc biệt, ngăn chặn được nhiều
vụ việc tổ chức của các nhóm người từ ngoài địa phương tập kết,
vượt biên ra nước ngoài trái phép. Một số vụ việc vi phạm tài sản
công, những vụ án hình sự được điều tra, xử lý kịp thời. Tiêu biểu,
trên mặt trận an ninh quốc phòng trong giai đoạn này, huyện tổ
chức trấn áp, dập tắt tổ chức phản động cách mạng với danh xưng
“Việt Nam phục quốc”, bắt 250 tên, thu nhiều tài liệu tuyên truyền
chống phá và một số vũ khí. Đây là tổ chức có nhiều cơ sở trên
địa bàn huyện, có hệ thống chân rết tại các xã Đại Phước, Vĩnh
Thanh và gắn với một số đối tượng ở các địa phương trong khu
vực (Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Sông Bé). Tình hình trật
tự, an toàn xã hội và mặt trận an ninh quốc phòng của huyện được
giữ vững, góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.
*
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, Nhơn Trạch hòa trong niềm vui chung của huyện
Long Thành, của tỉnh Đồng Nai và cả nước thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trước
mắt là khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống của dân,
khôi phục sản xuất, phát triển đồng bộ. Từ chính sách quân quản
áp dụng trong tình hình cấp bách, thành lập huyện ủy lâm thời,
hội nghị thành lập Đảng bộ đến các kỳ đại hội, Đảng bộ huyện
xây dựng hệ thống chinh trị, chính quyền nhân dân, xây dựng
khối đoàn kết dân tộc, bám sát thực tế địa phương, kịp thời đề ra
phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể lãnh đạo toàn hệ thống
chính trị ở địa phương thực hiện.
Chặng đường 10 năm, bên cạnh thành tựu đạt được trong
mỗi nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo
địa phương phát triển đều thực hiện đánh giá toàn diện, làm rõ
326

33.7 Page 327

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
nguyên nhân và hạn chế, đúc kết những bài học kinh nghiệm quý
báu. Định hướng phát triển nông nghiệp - công nghiệp đúng đắn
với tiềm năng, lợi thế nhưng quá trình thực hiện còn những hạn
chế, tác động bởi các yếu tố chủ quan và khách quan. Năm 1978,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, nghĩa vụ nhà nước về
lương thực không hoàn thành và phải nhận sự chi viện từ tỉnh.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa tương xứng,
chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.
Kinh tế quốc doanh có chuyển biến nhưng chưa phát triển mạnh.
Cải tạo quan hệ sản xuất trên địa bàn chưa tập trung, phân phối
lưu thông hạn chế. Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế có nhiều nỗ
lực nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu với sự phát triển; đặc biệt đối
với các địa bàn vùng sâu, vùng xa. Hoạt động của hệ thốn chính
trị, trong đó có mộtsố đoàn thể chưa đồng đều, hiệu quả. Một số
cơ sở chính quyền, nguồn nhân lực trong bộ máy nhà nước chưa
được kiện toàn, một số tổ chức cơ sở cấp ủy còn yếu, thiếu quy
hoạch. Những tồn tại, hạn chế trên đã ảnh hưởng đến sự phát triển
của địa phương.
Mỗi nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện đánh giá và rút kinh nghiệm,
tìm hướng khắc phục kịp thời. Đảng bộ huyện luôn chú trọng, xây
dựng, nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, đảng viên, nêu cao ý
thức rách nhiệm và tình thần đoàn kết nội bộ. Công tác xây dựng
Đảng luôn gắn với phong trào, hành động cách mạng thiết thực và
nhiệm vụ từ thực tiễn địa phương. Nhờ vậy, Đảng bộ huyện được
phát triển về lượng và chất, bộ máy nhà nước vững mạnh, nhân
dân doàn kết, kinh tế tăng trưởng, văn hóa xã hội tiến bộ. Thành
quả lãnh đạo của Đảng bộ huyện đã tạo ra tiềm lực kinh tế xã hội
và động lực tinh thần để vươn đến mục tiêu đổi mới, phát triển.
327

33.8 Page 328

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
CHƯƠNG VI
GIAI ĐOẠN 1986 - 1994
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI,
PHÁT TRIỂN ĐỊA PHƯƠNG
I. CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHIỆM
VỤ ĐỊA PHƯƠNG
1. Đường lối đổi mới của Đảng
Năm 1986 là cột mốc đánh dấu một sự kiện quan trọng trong
toàn Đảng, đó là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi mới của cách mạng Việt
Nam. Đại hội đã bàn, thảo luận, thông qua đường lối đổi mới của
Đảng nhằm mục tiêu khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải
phóng năng lực sản xuất, phát huy sức mạnh nhân tố con người,
cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở đánh giá thành tựu và hạn chế của cả nước trong thời
gian qua và yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới, Đại hội đúc
kết 4 bài học kinh nghiệm quí báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây
dựng và phát triển quyền làm chủ của nhân dân lao dộng. Hai là,
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo
quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải chăm lo xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo
328

33.9 Page 329

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Với những
bài học kinh nghiệm làm vũ khí tư tưởng, Đại hội đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện với những nội dung cơ bản sau:
- Đổi mới tư duy lý luận: Nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội,
về các quy luật khách quan những đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Trong nhiều năm qua, những quan niệm lạc hậu về chủ nghĩa xã
hội, nhất là về công nghiệp hóa, về cải tạo xã hội Chủ nghĩa, về cơ
chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông chính là nguyên nhân
chậm phát triển trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Vì vậy,
phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy không
phải phủ nhận thành tựu lý luận đã đạt được mà là bổ sung và phát
triển những thành tựu ấy.
- Đổi mới quan điểm chính sách kinh tế: Đổi mới cơ cấu kinh
tế, sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, có chính
sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, sử dụng
nhiều hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp,
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với
nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; bố trí lại
cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho
được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đi đôi với cơ cấu kinh tế
phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp không còn phù hợp nên “Phương hướng
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập
trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy
luật khách qua: và với trình độ phát triển của nền kinh tế”.
- Để đáp ứng yêu cầu đổi mới về tư duy kinh tế, Đại hội còn
chủ trương đổi mới về chính sách đối ngoại, đổi mới về quản lý
329

33.10 Page 330

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
nhà nước, đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của đảng, tăng
cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.
Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI là toàn diện, sâu
sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và
cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước,
trước nhân dân. Đảng Bộ huyện Long Thành cùng toàn Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai có nhiệm vụ phải quán triệt đầy đủ đường lối đổi
mới của Đảng, vận dụng thực hiện gắn với nhiệm vụ chính trị ở
địa phương, có phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng
trước mắt và lâu dài.
2. Tình hình và nhiệm vụ của huyện thực hiện đổi mới
Bước vào thời kỳ đổi mới, huyện Long Thành có những
thuận lợi: giữ vững ổn định chính trị, kiên định theo con đường xã
hội chủ nghĩa, phát huy truyền thống đoàn kết, tự lực tự cường.
Đảng bộ huyện đoàn kết, đội ngũ cán bộ, đảng viên có tinh thần
trách nhiệm, trưởng thành từ thực tiễn xây dựng quê địa phương.
Những thành tựu của nhân dân Long Thành đã tạo nên cơ sở, tiền
đề quan trọng trên nhiều lĩnh vực được kế thừa, phát huy. Huyện
Long Thành tiếp tục được xác định là địa bàn trọng điểm sản xuất
lương thực của tỉnh. Tuy nhiên, Đảng bộ Long Thành cũng còn
nhiều hạn chế: Bộ máy của huyện được sắp xếp theo tinh thần đổi
mới nhưng chưa đáp ứng được nhiệm vụ, nhiều cơ sở còn yếu
kém. Kinh tế của huyện ổn định nhưng chưa thật sự mạnh, tiềm
năng chưa khai thác đúng mức. Dân số tăng nhanh, đời sống nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn, giải quyết việc làm chưa ổn định. Cơ
chế quản lý còn trì trệ, chưa bắt nhịp với công cuộc đổi mới. Quy
hoạch chưa ổn định, tranh chấp đất đai diễn ra căng thẳng, công
tác quản lý đất đai và quản lý ngành chưa đồng bộ. Quyền làm chủ
tập thể của của quần chúng còn hạn chế, tiêu cực xã hội vẫn còn
phát triển.
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thực hiện các Nghị quyết thể hiện tinh thần đổi mới của
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IV, Đảng bộ huyện Long
Thành xác định nhiệm vụ đổi mới ở địa phương mình gồm những
nội dung chủ yếu:
- Nghiêm khắc phê bình, tự phê bình, phân tích thành tựu
và hạn chế trong thời gian qua, đúc kết bài học kinh nghiệm, xác
định lợi thế địa phương, xu thế phát triển của thừi đại để vận dụng
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng phù hợp, đúng hướng, đạt
hiệu quả cao.
- Đại hội Đảng bộ huyện lần IV và các lần tiếp theo quán
triệt đầy đủ đường lối đổi mới của Đảng, của tỉnh, đưa vào nghị
quyết đại hội, lãnh đạo tập trung nhằm đạt các mục tiêu, chỉ tiêu
phấn đấu, có bước đi phù hợp, từng bước vững chắc.
- Đổi mới tư duy kinh tế gắn chặt và đồng bộ với đổi mới
phong cách lãnh đạo và quản lý, đổi mới công tác cán bộ và
phương pháp lãnh đạo, điều hành. Tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế tham gia sản xuất, trong đó thành phần kinh tế quốc
doanh đóng vay trò chủ đạo, không làm thay, không cản trở các
thành phần kinh tế khác.
- Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ huyện
giai đoạn 1986 - 1990: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế theo cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý; phát triển nông nghiệp một cách toàn
diện, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, lương thực là trọng
tâm theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa. Phát huy các mũi nhọn:
công nghiệp chế biến, nông sản xuất khẩu và công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng, giải quyết tích cực có hiệu quả thiết thực ba
chương trình về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu
và hàng xuất khẩu. Tiếp tục nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và
củng cố quan hệ sản xuất mới; xây dựng cơ chế quản lý mới, nhất
331

34.2 Page 332

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
là quản lý kinh tế mới, phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh
doanh ở cơ sở, xây dựng đảng bộ vững mạnh mọi mặt.
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1986 - 1991
1. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ IV
Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ IV được tổ chức
từ ngày 16 - 19.9.1986. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện được bầu
gồm 36 đồng chí1. Ban Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng chí:
Dương Minh Ngà (Bí thư), Phạm Thanh Lý (Phó Bí thư thường
trực) và các Ủy viên: Đặng Minh Quang, Huỳnh Minh Hà, Nguyễn
Quyết Chiến, Nguyễn Hùng, Phạm Minh Dưỡng, Lâm Thị Nguyệt,
Võ Văn Sáu, Trần Mạnh, Đào Văn Minh. Đại hội đề ra nhiệm vụ
chung của huyện trong giai đoạn bắt đầu thực hiện đường lối đổi
mới: “Tiếp tục quy hoạch lại sản xuất, bố trí sử dụng lao động,
ruộng đất phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương, với cơ
cấu kinh tế nông, công nghiệp (nông nghiệp bao gồm lâm nghiệp,
ngư nghiệp) nhằm phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân,
an ninh quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội
chủ nghĩa2.
Trên tinh thần nghị quyết đồi mới của Đảng, huyện nhận
thức sâu sắc về các vấn đề phát triển cơ bản của địa phương:
- Cơ cấu kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, thực hiện ba chương trình: Lương thực, thực phẩm và hàng
1  Danh sách 37 Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Dương Minh Ngà,
Phạm Thanh Lý, Đặng Minh Quamg, Huỳnh Minh Hà, Nguyễn Quyết Chiến, Nguyễn
Hùng, Phạm Văn Dưỡng, Lâm Thị Nguyệt, Võ Văn Sáu, Trần Mạnh, Đào Văn Minh, Hồ
Thị Anh, Phạm Văn Cường, Nguyễn Văn Dũng, Phạm Văn Duyên, Trần Thị Điệp, Dương
Thị Huyền, Huỳnh Thế Hùng, Nguyễn Thành Hoàng, Đặng Văn Hải, Lê Văn Hiệp, Lê Văn
Ý, Đỗ Tiến Khải, Nguyễn Khôi, Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Mai, TRần Văn Huỳnh Minh
Phương, Võ Thị Quyện, Hoàng Đình Tuấn, Trần Kim Thanh, Đặng Tấn, Đào Minh Tiến,
Nguyễn Minh Tuân, Nguyễn Thị Kim Sang, Nguyễn Hồng Viêt.
2  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1986.
332

34.3 Page 333

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
xuất khẩu; tăng cường củng cố các cơ sở kinh tế, quốc doanh, tích
cực cải tạo và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế khác; xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tập trung vào các thế mạnh và vùng
quan trọng của huyện để đem lại hiệu quả cao, khắc phục mất cân
đối giữa các vùng.
- Đổi mới công tác tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền các
cấp cho phù hợp với nhiệm vụ mới, quan tâm đến các cụm kinh tế,
kỹ thuật và phù hợp với cơ sở. Phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhìn thẳng vào
sự trì trệ của nền kinh tế, xã hội, mạnh dạn sửa chữa khuyết điểm,
tích cực phấn đấu đi lên.
2. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ V
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ V được tổ chức từ
ngày 22 - 24.11.1988. Ban Chấp hành Huyện ủy được bầu gồm 35
đồng chí1. Ban Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng chí: Dương
Minh Ngà (Bí thư), Phó Bí thư: Huỳnh Minh Hà (Thường trực),
Đặng Minh Quang, Lâm Thị Nguyệt, Nguyễn Hồng Việt và các
Ủy viên: Phạm Văn Dưỡng, Nguyễn Quyết Chiến, Nguyễn Hùng,
Nguyễn Thị Kim Sang, Trần Mạnh.
Sau khi bàn thảo, đánh giá và phân tích toàn diện những lĩnh
vực trong nhiệm kỳ trước, Đại hội nhất trí các mục tiêu của những
năm còn lại trong kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) và đề ra phương
1  D anh sách 35 Ủy viên Ban Chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Dương Minh
Ngà, Huỳnh Minh Hà, Phạm Văn Dưỡng, Đặng Minh Quang, Nguyễn Quyết Chiến,
Nguyễn Hùng, Nguyễn Thị Kim Sang, Trần Mạnh, Lâm Thị Nguyệt, Nguyễn Văn Dũng,
Nguyễn Hồng Việt, Nguyễn Thành Hưng, Hồ Thị Anh, Nguyễn Thành Hoàng, Đào Văn
Le, Trần Thị Điệp, Từ Ngọc Chiếu, Nguyễn Văn Điệp, Trần Văn Nén, Phạm Văn Cường,
Nguyễn Văn Tuân, Phạm Văn Đức, Phạm Thị Kim Dung, Trần Trung Kiên, Nguyễn Văn
Hải, Nguyễn Khôi, Trịnh Phẩm Hạnh, Nguyễn Văn Quân, Hoàng Đình Tuấn, Nguyễn Thị
Huệ, Dương Quang Linh, Trần Thịu, Châu Phước Thuận, Huỳnh Minh Phương, Phan
Trường Xuân.
333

34.4 Page 334

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
châm “Tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, làm trong
sạch nội bộ Đảng, chính quyền, làm lành mạnh các mối quan hệ
xã hội; đẩy mạnh sản xuất phát triển, ổn định đời sống nhân dân,
giữ vững an ninh quốc phòng trên cơ sở tập trung vào ba chương
trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu1.
Các mục tiêu cụ thể được xác định:
- Đẩy mạnh sản xuất ổn định đời sống nhân dân, hoàn thành
nghĩa vụ với cấp trên và từng bước tích lũy.
- Xây dựng hoàn chỉnh cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp để
quy hoạch đầu tư hợp lý, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế, mở rộng liên doanh liên kết.
- Tập trung sức củng cố các đơn vị kinh tế quốc doanh và
ngoài quốc doanh phù hợp với điều kiện đất đai, lao động hiện
có.
- Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
cho sản xuất và đời sống, tập trung xây dựng các cụm kinh tế kỹ
thuật.
- Củng cố tăng cường đúng mức cho nhiệm vụ an ninh quốc
phòng, khôi phục trật tự an toàn trên địa bàn huyện.
3. Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
- Lĩnh vực kinh tế
Trên mặt trận nông nghiệp, với nhiệm vụ nhanh chóng giải
phóng lực lượng sản xuất, phát huy các nguồn lực hiện có, phát
triển toàn diện trồng trọt và chăn nuôi, bằng các biên pháp linh
hoạt thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, huyện xác định cơ
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1988.
334

34.5 Page 335

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi, ngành nghề phù hợp với đất đai,
tập quán lao động và đầu tư nguồn vốn, vật tư theo trọng điểm.
Cơ chế quản lý trong nông nghiệp được đổi mới, thực hiện khoán
sản phẩm để tạo động lực. Tổng diện tích gieo trồng toàn huyện
tăng lên. Phục vụ cho sản xuất, huyện đẩy mạnh công tác thủy
lợi, giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đồng thời mở rộng
phong trào thâm canh, tăng vụ. Từ cơ sở này, diện tích trồng lúa
tăng đồng thời tăng tổng sản lượng lương thực. Các diện tích đất
nhiễm mặn địa bàn vùng Nhơn Trạch được chuyển đổi trồng dừa,
các khu vực còn lại nghiên cứu điều chỉnh giống cây trồng cho
hoa màu, điều. Các loại cây công nghiệp ưu tiên phát triển và có
kế hoạch đầu tư lâu dài. Cây công nghiệp trên địa bàn tăng diện
tích và sản lượng thu nhập, đem lại hiệu quả cao trong cung ứng
nhu cầu địa phương, tạo nguồn tiêu dùng và trao đổi. Bên cạnh đó,
diện tích rừng và công tác bảo vệ, trồng mới được thực hiện tốt.
Trong chăn nuôi, chủ trương phát triển toàn diện được đẩy
mạnh, tạo nên đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn với hình thức hộ
dân, tập thể và các đơn vị quốc doanh tham gia tích cực. Vì vậy,
sức kéo, nguồn phân bón cho sản xuất nông nghiệp và nguồn thực
phẩm cung ứng cho nhu cầu người dân được đảm bảo. Nguồn lợi
thủy sản được khai thác hiệu quả, đặc biệt các xã giáp với sông,
rạch, ao, hồ, đầm. Huyện tổ chức đăng kiểm các hộ gia đình tham
gia đánh bắt thủy sản để tạo điều kiện về hành nghề, có nguồn ổn
định thu mua sản phẩm. Ngoài ra, huyện đầu tư kinh phí cho việc
đắp đập, mở rộng hàng trăm héc ta nuôi tôm, cá. Sản phẩm thu
từ chăn nuôi, đánh bắt đáp ứng cho địa phương và được chế biến
hàng xuất khẩu.
Trong nhiệm kỳ, huyện quy hoạch 500 héc ta ở khu vực
Lòng Chảo để Trung ương đầu tư xây dựng Khu công nghiệp
335

34.6 Page 336

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
hóa dầu. Cơ sở của ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của
huyện được sắp xếp theo quy hoạch, định hướng. Các đơn vị, xí
nghiệp phân theo ngành sản xuất, thực hiện khoán sản phẩm, đảm
bảo quyền tự do sản xuất kinh doanh đã khuyến khích nhiều cá
nhân, hộ gia đình đầu tư, mở rộng kinh doanh. Các cơ sở sản xuất
vật liệu xây dựng, chế biến lương thực, thực phẩm, làm hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu được thành lập, tạo sự chuyển biến tích cực
trong cung ứng nhu cầu địa phương, giải quyết nguồn lao động,
tham gia trong chủ trương đẩy mạnh hàng xuất khẩu.
Cơ sở vật chất của một số lĩnh vực của huyện được đầu tư
nâng cấp, sửa chữa, xây dựng; trong đó có kho dự trữ lương thực
tại xã Đại Phước, Long Phước, hệ thống đường ống dẫn nước ngọt
xã Vĩnh Thanh, Phước Khánh. Hệ thống đường giao thông của
huyện được đầu tư nâng cấp. Hệ thống giao thông xã Hiệp Phước,
đập ngăn, cầu cống xã Phước Khánh, Phước An, Long Thọ được
sửa chữa. Nhu cầu về đi lại, vận chuyển hàng hóa trên địa bàn
thuận lợi, phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống nhân dân.
Hoạt động tín dụng của huyện được mở rộng đến các xã, tuy
chưa hiệu quả nhưng cũng dần thu hút nguồn vốn từ nhân dân đầu
tư cho sản xuất. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện
được giữ vững với các hình thức: HTX nông nghiệp, tập đoàn sản
xuất, liên doanh tập đoàn. Chính sách khoán sản phẩm được thực
hiện tạo điều kiện thuận lợi và xem như cởi trói cho sản xuất phát
triển.
Sau hai năm thực hiện cơ chế đổi mới, từ thực tiễn và kinh
nghiệm, huyện tiến hành thực hiện các vùng chuyên canh, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng. Các chính sách, chủ trương đem lại hiệu quả
như khoán sản phẩm tiếp tục duy trì. Đến năm 1990, diện tích sản
xuất lương thực, cây công nghiệp, hoa màu tăng lên; đồng thời,
336

34.7 Page 337

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tổng sản phẩm lương thực và các mặt hàng đạt kết quả cao. Công
nghiệp trên địa bàn có những khởi sắc khi Trung ương đầu tư hình
thành một số xí nghiệp, phát triển môt số ngành quan trọng. Các
thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất tích cực; đặc
biệt là thành phần kinh tế tư nhân mạnh dạn đầu tư phát triển sản
xuất công nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 90% tổng sản
lượng công nghiệp trong khi kinh tế quốc doanh hoạt động chưa
hiệu quả. Thương nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ phát triển mạnh
ở các dịch vụ cung ứng nhu cầu buôn bán, ăn uống trên các địa bàn
cơ sở. Trong giai đoạn 1988 đến 1990, mạng lưới điện quốc gia
được đầu tư nguồn vốn lớn để mở rộng đến các xã tuy chưa “phủ
sóng” toàn huyện.
Trong tình hình khó khăn về sự phát triển của kinh tế quốc
doanh, nguồn thu của ngân sách địa phương chưa đáp ứng, phụ
thuộc vào từ sự hỗ trợ của tỉnh, nhưng trên bình diện chung, kinh tế
của địa phương có những khởi sắc, trên một số mặt: vùng chuyên
canh trồng lúa, cây công nghiệp theo cơ cấu đã xác định và làm
chuyển biến tích cực đối với địa phương. Đời sống của người dân
những năm cuối thập niên 80 được cải thiện với bình quân lương
thực đầu người có tăng so với trước.
- Lĩnh vực văn hóa xã hội
Trong tình hình mới của đất nước, huyện đã đặt nhiệm vụ
quan trọng trên lĩnh vực văn hóa xã hội: Vừa thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị vừa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Với chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, hoạt động văn
hóa thông tin của huyện ngày càng đa dạng bởi sự chung tay, góp
sức tham gia của nhân dân. Huyện duy trì các đội văn nghệ, chiếu
phim lưu động đến các địa bàn cơ sở phục vụ nhân dân. Các dịp
lễ quan trọng, lễ tết cổ truyền, nhiều hoạt động vui chơi giải trí
337

34.8 Page 338

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
lành mạnh được tổ chức, thu hút người dân tham gia. Hệ thống đài
truyền thanh huyện tăng cường buổi phát, cải tiến chương trình để
tuyên truyền, phổ biến nội dung đến quần chúng. Thư viện, nhà
truyền thống làm tốt công tác phục vụ bạn đọc, bảo tồn những giá
trị di sản văn hóa cộng đồng. Phong trào rèn luyện thể dục thể
thao được phát động từ đơn vị, cơ quan đến dân cư, thu hút nhiều
người tham gia. Các hộ dân tích cực đăng ký thực hiện gia đình
văn hóa, chung tay xây dựng nếp sống văn hóa mới tạo nên phong
trào sâu rộng.
Ngoài chính sách chăm lo của Nhà nước theo quy định, công
tác đền ơn đáp nghĩa được vận động trong nhân dân đem lại ý
nghĩa tích cực về truyền thống đạo lý và gắn kết cộng đồng dân
cư. Huyện tiếp tục tiến hành điều tra, thống kê, lập hồ sơ các gia
đình, cá nhân có công với cách mạng, có thành tích trong kháng
chiến, quy tập mộ liệt sĩ trên địa bàn. Đến cuối năm 1988, toàn
huyện được nhà nước tặng thưởng 1.902 huân, huy chương và 245
bằng khen (91 tập thể, 65 cá nhân cấp tỉnh, 485 Huân chương hạng
Nhất, 258 Huân chương hạng Nhì, 557 Huân hương hạng Ba của
Hội đồng nhà nước, 587 Huy chương hạng Nhất, 417 Huy chương
hạng Nhì, 245 bằng khen của Hội đồng Bộ trưởng).
Sự nghiệp giáo dục huyện được đẩy mạnh, phát triển ở các
cấp học. Cơ sở trường học được đầu tư kinh phí sửa chữa, nâng
cấp và xây dựng mới, đáp ứng nhu cầu học sinh ngày càng tăng.
Đội ngũ giáo viên các cấp được bổ sung, tăng cường. Tại xã Long
Phước mở thêm phân hiệu trường cấp ba. Công tác dạy nghề được
chú trọng với việc đầu tư các lớp cho các đối tượng trẻ.
Trên lĩnh vực y tế, ngoài việc đầu tư mở rộng bệnh viện
tuyến huyện, các trạm y tế xã được bố trí đội ngũ y thầy thuốc, đầu
tư trang thiết bị cho việc khám, chữa trị bệnh ban đầu tại cơ sở.
338

34.9 Page 339

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Công tác chăm sóc sức khỏe, giữ vệ sinh môi trường, an toàn thực
phẩm, phòng chống dịch bệnh, kế hoạch hóa gia đình được tuyên
truyền rộng rãi, nhiều người tham gia.
Hai năm sau đổi mới, những chuyển biến về kinh tế tác động
mạnh đến lĩnh vực văn hóa thông tin trên địa bàn huyện. Các
phương tiện thông tin, loại hình sản phẩm đa dạng phổ biến rộng
trong xã hội, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giải trí của
người dân nhưng đồng thời cũng đã có những ảnh hưởng tiêu cực
đến đời sống. Vì vậy, huyện đã quan tâm đến kiện toàn bộ máy và
đầu tư nguồn kinh phí trong việc xây dựng thiết chế, trang thiết
bị trong lĩnh vực văn hóa. Các phong trào văn nghệ, rèn luyện
thể dục thể thao, xây dựng nếp sống mới được duy trì nhưng nhìn
chung, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội khi
cơ chế mở cửa vận hành. Nguồn kinh phí cho hoạt động văn hóa,
thông tin, thư viện, bảo tồn di sản chưa tương xứng với yêu cầu
cấp thiết trước sự nở rộ của các loại hình văn hóa có tính chất mới
và chưa được quản lý chặt chẽ. Nhiều địa bàn cơ sở quản lý hoạt
động văn hóa còn buông lỏng, nảy sinh những sai phạm trong kinh
doanh trái phép, lưu hành sản phẩm phản văn hóa.
Ngành thương binh xã hội hoạt động tốt, tạo nên những
chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chính sách đối với người
có công. Huyện huy động được nguồn vốn đóng góp thực hiện
chương trình tặng nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm, trợ cấp cho những
đối tượng theo quy định. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành và
huyện đội đã làm tốt công tác hậu phương quân đội, đặc biệt đối
với cán bộ, chiến sĩ, chuyên gia hoàn thành nghĩa vụ quốc tế từ
Campuchia. Toàn huyện có 2.145 trường hợp được đề nghị khen
thưởng trong công tác chăm lo đối tượng chính sách (1.549 người
dân, 876 cán bộ).
339

34.10 Page 340

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Sự nghiệp giáo dục ở địa phương được quan tâm khi nhu cầu
người học tăng lên. Huyện quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng, tu
bổ, mở rộng cơ sở trường lớp theo phương châm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm”. Đội ngũ giáo viên được tăng cường, bổ sung.
Công tác xóa mù trên toàn địa bàn huyện được đẩy mạnh. Tuy
nhiên, trong giai đoạn này có những khó khăn về đời sống, xảy ra
học sinh bỏ học, giáo viên rời khỏi ngành do cuộc sống khó khăn,
còn duy trường hợp học ca ba.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư phục vụ tốt cho
nhu cầu khám, chữa, điều trị bệnh của người dân. Các hoạt động
tiêm chủng cho trẻ em, phòng ngừa dịch bệnh được tiến hành đến
các địa bàn cơ sở xã, ấp. Đặc biệt, phong trào vận động thực hiện
kế hoạch hóa gia đình được người dân tích cực hưởng ứng, góp
phần giảm tỷ lệ tăng dân số. Bên cạnh khám chữa bệnh bằng y
học hiện đại, ở huyện hình thành những cơ sở y dược học dân tộc
đã góp phần trong hoạt động chữa bệnh cho người dân tại các khu
dân cư.
- Tổ chức Đảng, hệ thống chính trị
Tinh thần đổi mới là động lực cho Đảng bộ huyện thực hiện
ngay những nhiệm vụ đặt ra trong tình hình khẩn trương. Huyện
ủy tổ chức học tập, quán triệt cho toàn cán bộ, đảng viên về tinh
thần đổi mới của Đảng, chính sách nhà nước. Đảng bộ huyện kiện
toàn các tổ chức trực thuộc, tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao
sức chiến đấu trong tình hình mới. Các tổ chức đảng bắt tay vào
việc xây dựng quy chế hoạt động, đổi mới phương thức, nâng cao
chất lượng sinh hoạt, thực hiện chức năng lãnh đạo kinh tế, xã hội,
tổ chức quản lý đảng viên chặt chẽ, tăng cường công tác phê bình
và tự phê bình. Trong nhiệm kỳ 1986 - 1988, toàn Đảng bộ phát
triển thêm 178 đáng viên. Toàn huyện có 76 cơ sở đảng với 1.315
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đảng viên. Qua sinh hoạt chính trị, quá trình thực thi nhiệm vụ,
toàn huyện có 28 chi bộ, đảng bộ đạt danh hiệu vững mạnh, 30 đạt
loại khá và 01 chi bộ yếu. Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị,
kiến thức tổ chức cho đảng viên đươc duy trì.
Huyện ủy lãnh đạo công tác bầu cử HĐND, UBND đạt được
kết quả tốt. Bộ máy chính quyền từ huyện đến các xã được tinh
giản hợp lý. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên
cùng với tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ
được giao. Tổ chức mặt trận, các đoàn thể địa phương được củng
cố về tổ chức, nhân lực kiện toàn, trở thành yếu tố quan trọng
trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Công tác vận động
quần chúng với nền tảng “lấy dân làm gốc”, thâm nhập, hòa mình
trong thực tiễn, nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng,
gắn kết lợi ích tập thể hài hòa với lợi ích cá nhân. Các tổ chức Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên thực hiện tốt
phương châm đổi mới, các hình thức sinh hoạt phù hợp, thu hút,
tập hợp được đông đảo hội viên, đoàn viên. Những phương thức
đa dạng của các đoàn thể đã thu hút hội viên không ngừng tăng lên
về số lượng cũng như chất lượng trong tổ chức, hoạt động. Công
tác vận động, tuyên truyền của các tổ chức đoàn thể đa dạng và
gắn kết chặt với nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế của huyện
đề ra. Sức mạnh của quần chúng được phát huy tích cực trong các
phong trào của huyện về phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo cơ chế
“Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, nhà nước quản lý”.
Sự phối hợp giữa các cấp hính quyền, đoàn thể, ban ngành được
tăng cường đã đem lại hiệu quả trong quản lý kinh tế, chăm lo đời
sống cho nhân dân.
Để thực hiện tốt nghị quyết và các mục tiêu cụ thể trong kế
hoạch, Đảng bộ huyện tiếp tục duy trì, tổ chức các sinh hoạt chính
341

35.2 Page 342

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên được học tập
quán triệt nghị quyết, chủ trương, đường lối hành động và tinh
thần trách nhiệm trong công tác, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Các sinh hoạt chính trị góp phần quan trọng trong việc củng cố về
nhận thức, lập trường quan điểm, những nguyên tắc cơ bản trong
quá trình đổi mới và xây dựng xã hội chủ nghĩa trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên. Đồng thời, khắc phục những biểu hiện lệch lạc
trong nhận thức về mục tiêu xã hội chủ nghĩa đang chịu tác động
bởi tình hình của thế giới và suy thoái trong nước, thực hiện đúng
đắn mục tiêu về đổi mới và dân chủ, về phương thức hoạt động
hiệu quả của hệ thống chính trị, gắn kết mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và quần chúng nhân dân.
Trong công tác tổ chức, Huyện ủy kiện toàn 09 tổ chức cơ
sở, trong đó giải thể và chuyển một số cơ sở cho phù hợp thực
tế. Hoạt động kiểm tra được duy trì và phát huy trong đấu tranh
chống tiêu cực. Trường hợp xử lý vi phạm của tổ chức, đảng viên
giảm. Các cấp ủy kịp thời củng cố các tổ chức cơ sở yếu kém, tăng
cường nguồn cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm
cho cơ sở. Phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, ý thức tổ chức
kỷ luật, tinh thần, trách nhiệm, nề nếp sinh hoạt của cán bộ, đảng
viên được nâng lên. Số cán bộ, đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ tăng. Cuối năm
1990, Đảng bộ huyện có 40% cơ sở đạt danh hiệu vững mạnh,
50% đạt loại khá, và 10% xếp loại yếu.
Bộ máy nhà nước từ cơ chế tập trung, bao cấp chuyển sang
cơ chế quản lý mới về kinh tế, xã hội có những chuyển biến, được
sắp xếp theo hướng tinh gọn. Huyện bổ sung kịp thời nguồn nhân
lực kế thừa trong giải quyết tinh gọn bộ máy, thực hiện đúng chính
sách về nghỉ theo chế độ cũng như điều động, bổ sung, tiếp nhận
342

35.3 Page 343

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
cán bộ. Vai trò quản lý nhà nước được tăng cường. HĐND, UBND
các cấp thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo. Các cấp chính
quyền làm tốt các nhiệm vụ chính trị quan trọng trong nhiệm kỳ
bầu cử HĐND huyện, thị trấn, xã.
Mặt trận và các đoàn thể tham gia tích cực công tác vận động
quần chúng thực hiện công cuộc đổi mới bằng nhiều hình thức,
phương pháp phù hợp. Những hoạt động tập trung hướng về cơ
sở chặt chẽ, nhất là ở địa bàn ấp, khóm, khu dân cư. Những cuộc
vận động xây dựng tình làng nghĩa xóm, tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau, chung tay giữ gìn an ninh trật tự đem lại hiệu quả cao trong
huy động sức dân, sức mạnh tập thể ở cơ sở, thành phong trào sâu
rộng. Công tác tôn giáo được quan tâm với việc tuyên truyền sâu
rộng, hợp lý trong cộng đồng đông người có đạo.
Các đoàn thể chính trị hoạt động tích cực. Hội Nông dân phối
hợp với chính quyền tham gia trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Trong hội, xuất hiện nhiều nhân tố mới, điển hình tốt về sản xuất
giỏi. Hội Liên hiệp Phụ nữ thực hiện hiệu quả các phong trào: nuôi
dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng, giúp nhau làm kinh tế
gia đình, đưa trẻ em đến trường, ngăn dòng bỏ học. Đoàn Thanh
niên kiện toàn các tổ chức cơ sở, nâng cao chất lượng đoàn viên;
đặt biệt xây dựng mô hình tập hợp thanh niên theo sở thích, nghề
nghiệp. Liên đoàn Lao động huyện góp phần tích cực trong công
cuộc đổi mới, phát huy vai trò và quyền làm chủ của người lao
động. Hội Cựu chiến binh, Tổ liên lạc tù chính trị được thành lập,
hoạt động hiệu quả. Các tổ chức Hội Phụ lão, quỹ bảo thọ được
hình thành ở các địa bàn cơ sở thu hút hội viên tham gia đông đảo,
đáp ứng nhu cầu của xã hội. Hội Chữ thập đỏ làm tốt công tác cứu
trợ, tham gia vận động các chương trình y tế đến địa bàn dân cư.
Sự phối hợp giữa chính quyền, đoàn thể hay giữa các đoàn thể
343

35.4 Page 344

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
với nhau đem lại kết quả tốt trong xây dựng địa phương. Trong
đó, tiêu biểu là sự phối hợp giữa Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên
đẩy mạnh công tác khuyến nông, tạo thành phong trào tuổi trẻ lao
động sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh ở địa phương.
- Lĩnh vực an ninh quốc phòng
Thực hiện đường lối đổi mới đặt ra những vấn đề quan trọng
trong đảm bảo trật tự xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương
bởi những thế lực phản cách mạng có thể lợi dụng để chống phá.
Huyện thực hiện nhiều biện pháp trong tăng cường xây dựng lực
lượng vũ trang, an ninh, dân quân chiến đấu và mạng lưới an ninh
đến địa bàn cơ sở. Công tác tuyển quân hằng năm đều đáp ứng
chỉ tiêu quân số. Trên địa bàn, lực lượng an ninh phát hiện, xử lý
nhiều vụ vi phạm kinh tế, hình sự, chính trị. Một số tổ chức phản
động bị lực lượng vũ trang triệt phá. Tinh thần cảnh giác của quần
chúng và mạng lưới an ninh nhân dân đem lại hiệu quả trong phát
hiện, ngăn chặn một số các hoạt động phá hoại chính quyền. Tiêu
biểu là vụ bắt gọn nhóm tàn dư của tổ chức phản động “Việt Nam
phục quốc” tại khu vực Rừng Sác. Từ thông tin quần chúng, lực
lượng vũ trang phối hợp với các xã tấn công vào hang ổ, bắt gọn
nhóm phản động này.
Công tác thanh kiểm tra của huyện được duy trì, tuân thủ
theo đúng qui định của Đảng. Đơn khiếu nại, tố cáo của công dân
được giải quyết kịp thời, giải quyết nhiều vụ việc tồn đọng đã gây
nhiều bức xúc trong quân chúng. Các ngành và tổ chức đoàn thể
phối hợp, tuyên truyền về pháp luật, lấy ý kiến nhân dân rộng rãi.
Cuối thập niên 80, tình hình thế giới có những biến động
phức tạp, đặc biệt trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô, Đông Âu tác động tiêu cực đến tình hình trong nước. Huyện
đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, duy trì công tác an ninh trật tự
344

35.5 Page 345

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
kịp thời nhằm ngăn chặn những bất ổn xã hội. Các ngành chức
năng mở nhiều đợt tập huấn, tuyên truyền trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên, quần chúng nhân dân về pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Mạng lưới an ninh nhân dân được củng cố
và phát triển đến các khu vực, địa bàn cơ sở. Công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm đạt nhiều kết quả, ngăn chặn nhiều hoạt
động sai pháp luật. Hoạt động kiểm sát, tòa án, thanh tra được
phối hợp chặt chẽ, ngăn chặn, xử lý kịp thời các tiêu cực trong
quản lý kinh tế, tham ô, chiếm dụng tài sản công, làm ăn phi pháp,
tranh chấp dân sự, phạm pháp hình sự, gây rối, chống phá chính
quyền. Công tác tuyển quân nghĩa vụ hàng năm thực hiện tốt, bổ
sung nguồn cho lực lượng vũ trang địa phương cũng như hoàn
thành chỉ tiêu đối với tỉnh, quân khu. Lực lượng dân quân được
duy trì, kiện toàn và bồi dưỡng, nâng cao tinh thần phối hợp, trách
nhiệm cao. Tổ chức xã đội ở các xã được củng cố. Huyện đội tiến
hành các đợt diễn tập theo kế hoạch phòng thủ, nâng cao tinh thần
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng vũ trang địa phương.
Tình hình an ninh, trật tự xã hội được giữ vững dù có những tác
động tiêu cực từ yếu tố bên ngoài.
Trong hai năm đầu đổi mới, các mục tiêu kinh tế, xã hội
của địa phương đề ra được thực hiện, có những thành quả nhất
định. Đặc biệt, những giải pháp khoa học, quy hoạch sản xuất từ
thực tiễn, hình thành các vùng chuyên canh hợp lý đem lại hiệu
quả cao. Tiềm năng của địa phương được khai thác, phát huy và
tạo lợi thế để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn của nhà nước,
phù hợp với địa phương, đáp ứng nhu cầu phục vụ đời sống nhân
dân và hoàn thành nghĩa vụ được giao theo chỉ tiêu của nhà nước.
Các thành phần kinh tế trong xã hội được quan tâm, khuyến khích
tham gia phát triển địa phương. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được
quan tâm đầu tư, xây dựng, mặt trận an ninh quốc phòng, trật tự
345

35.6 Page 346

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
xã hội của huyện được đảm bảo. Chủ trương, đường lối của Đảng,
nhà nước được tuyên truyền rộng rãi, đi vào đời sống của nhân
dân. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế bởi nhiều
nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Quản lý, điều hành của
bộ máy chính quyền có những bất cập, nhân lực và trình độ chưa
ngang tầm với nhiệm vụ mới. Các cụm kinh tế, kỹ thuật hình thành
nhưng nguồn đầu tư còn hạn chế, chưa đúng mức. Các tổ chức tập
thể với hình thức tập đoàn, HTX chưa hoạt động hiệu quả. Hoạt
động văn hóa chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân trước những
chuyển biến mới về đời sống, tình hình xã hội nảy sinh những diễn
biến phức tạp. Dầu được đầu tư nhưng hiệu quả trong các ngành
giáo dục, y tế chưa hoàn thành tốt so với yêu cầu xã hội.
Từ năm 1988 đến năm 1991, mặc dù trong tình hình khó khăn
do tác động từ chuyển biến của tình hình thế giới, đặc biệt sự mất
ổn định các nước khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, huyện đã nỗ
lực thực hiện từng bước đi hiệu quả trong xây dựng, phát triển địa
phương trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa. Tổ chức đảng,
chính quyền, khối đoàn thể đổi mới phương thứ hoạt động, phối
hợp hặt chẽ, đồng bộ, đem lại hiệu quả chung trong sự phát triển.
Bộ máy điều hành của chính quyền tiếp tục chuyển đổi, nâng cao
hiệu quả, linh hoạt, năng động trong cơ chế quản lý mới. Hệ thống
chính quyền các cấp được kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng
cao chất lượng nhân lực và năng lực giải quyết thực thi nhiệm vụ.
Sức mạnh của nhân dân được phát huy với sự tham gia tích cực
vào các phong trào, đặc biệt các thành phần kinh tế được khuyến
khích trong chính sách xây dựng, phát triển của địa phương (quốc
doanh, ngoài quốc doanh, hộ gia đình) đã tạo thuận lợi trong thu
hút nguồn vốn đầu tư, đa dạng hóa các ngành nghề, đáp ứng nhu
cầu xã hội. Sản xuất phát triển với nhiều chương trình thiết thực
trong công tác khuyến nông, định hướng phát triển vùng, chuyển
346

35.7 Page 347

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với đặc điểm tự nhiên, đẩy mạnh sản
xuất hàng hóa, sử dụng nhiều thành phần kinh tế trên địa bàn.
Bên cạnh những thành quả, huyện vẫn có những hạn hế, yếu
kém trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội. Quản lý
của một số bộ máy chính quyền cấp xã, quản lý, điều hành trong
các đơn vị, cơ quan nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ thiếu nhạy
bén, linh hoạt trong vận dụng chính sách vào thực tiễn cơ sở. Áp
dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuât nông nghiệp chưa toàn
diện. Thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định, chưa được mở
rộng. Các đơn vị quốc doanh chưa năng động trong chuyển đổi,
thích ứng với nền kinh tế thị trường. Định hướng phát triển các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong phạm vi hẹp. Nguồn
lao động địa phương chưa được sử dụng hiệụ quả. Văn hóa xã hội
được đầu tư nhưng vẫn còn những hạn chế, chưa kịp thời với xu
thế của đời sống xã hội có những chuyển biến nhanh. Lĩnh vực an
ninh xã hội còn những yếu tố bất ổn, tình trạng phạm pháp hình
sự, tai nạn giao thông nhiều.
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1991 - 1994
1. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ VI
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Long Thành lần thứ VI được
tổ chức từ ngày 11 - 15.11.1991. Ban Chấp hành Đảng bộ được
bầu gồm 31 đồng chí1. Ban Thường vụ Huyện ủy gồm các đồng
chí: Dương Minh Ngà (Bí thư), Phó Bí thư: Đặng Minh Quang
1  Danh sách 31 Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Dương Minh
Ngà, Lâm Thị Nguyệt, Nguyễn Hồng Việt, Đặng Minh Quang, Nguyễn Quyết Chiến,
Trần Mạnh, Nguyễn Hùng, Phạm Thị Kim Dumg, Phạm Văn Đức, Đoàn Văn An, Phạm
Văn Đức, Phạm Cường, Trịnh Sanh Châu, Từ Ngọc Chiếu, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn
Văn Tuân, Trần Thị Điệp, Phạm Thành Đạt, Trần Văn Đạo, Châu Phước Thuận, Nguyễn
Thành Hoàng, Đặng Văn Hải, Nguyễn Thành Hưng, Nguyễn Ngọc Hiệp, Dương Quang
Linh, Huỳnh Ngọc Lánh, Trần Hồng Minh, Trần Văn Nén, Huỳnh Minh Phương, Nguyễn
Văn Quân, Bùi Văn Rua.
347

35.8 Page 348

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
(thường trực), Lâm Thị Nguyệt, Nguyễn Hồng Việt và các Ủy
viên: Nguyễn Quyết Chiến, Trần Mạnh, Nguyễn Hùng, Phạm Thị
Kim Dung, Phạm Văn Đức.
Xuất phát từ thực tiễn địa phương, căn cứ nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh, Đảng bộ huyện xác định nhiệm vụ, mục
tiêu trong giai đoạn 1991 - 1995: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đồi mới theo đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
điều hành các tổ chức của Đảng và chính quyền, phát huy vai trò
tích cực của các đoàn thể quần chúng, động viên nhân dân đoàn
kết; phát triển kinh tế toàn diện theo cơ cấu nông - công nghiệp
và dịch vụ gắn phát triển kinh tế với phát triển các sự nghiệp văn
hóa, y tế, kế hoạch hóa dân số, chăm lo giáo dục và đào tạo, chăm
sóc đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh,
ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội1.
Cơ cấu kinh tế của huyện được xác định:
- Nông nghiệp: Tập trung khai thác tốt nhất nguồn đất đai,
lao động để phát triển toàn diện, mang tính chất sản xuất hàng hóa
ở chiều sâu, ổn định cơ cấu, diện tích cây trồng, phát triển ngành
chăn nuôi (gia súc, gia cầm, thủy sản) trong mô hình kinh tế gia
đình mang tính chất công nghiệp, tạo hàng hóa đáp ứng nhu cầu
các vùng công nghiệp và địa phương.
- Công nghiệp: Gắn với quy hoạch các vùng, cụm dân cư,
khuyến khích các thành phần kinh tế tập trung phát triển công
nghiệp chế biến (lương thực, nông sản) và sản phẩm khai thác
cung ứng vật liệu xây dựng tạo ra nhiều hàng hóa phục vụ sản
xuất, xuất khẩu và đời sống. Đồng thời gắn kết kế hoạch phát triển
của tỉnh, các ngành công nghiệp Trung ương và nước ngoài đầu tư
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1991.
348

35.9 Page 349

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trên địa bàn để phát triển công nghiệp của huyện với quy mô nhỏ
và dịch vụ công nghiệp là chủ yếu.
- Dịch vụ: Mở rộng các ngành dịch vụ, phục vụ kịp thời các
yêu cầu sản xuất và đời sống. Trước hết, đảm bảo giao thông,
thông tin liên lạc, cơ khí sửa chữa, dịch vụ vật tư nhà nước, dịch
vụ cho công nghiệp tỉnh, Trung ương, nước ngoài đầu tư trên địa
bàn huyện.
Những nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho phương hướng phát triển
của huyện:
- Ổn định và phát triển chiều sâu với kinh tế nông nghiệp,
phát triển mở rộng công nghiệp và dịch vụ công nghiệp, tạo nên
cơ cấu kinh tế mới tiến bộ về chất, phát triển hài hòa, tốc độ cao.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh,
phấn đấu cân đối thu chi ngân sách, tạo tích lũy tài chính từ nền
kinh tế huyện đều tư phát triển cơ sở vật chất các ngành. Kết hợp
kinh tế quốc phòng trong quá trình xây dựng và phát triển. Kết
hợp nhà nước và nhân dân cùng làm trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển.
- Cải thiện đời sống vật chất, bảo đảm nhu cầu cơ bản về y
tế và văn hóa, phát triển giáo dục và khoa học công nghệ. Thực
hiện đúng các chính sách xã hội vì lợi ích nhân dân, xây dựng con
người mới có lý tưởng và hành động xã hội chủ nghĩa.
- Đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh.
- Tiếp tục công cuộc đổi mới theo đường lối của Đảng, tăng
cường sự quản lý toàn diện của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước, phát huy vai trò tích cực của đoàn thể cách mạng trong
công tác giáo dục và vận động quần chúng, phát huy dân chủ và
đề cao vai trò làm chủ xã hội chủ nghĩa.
349

35.10 Page 350

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
2. Hội nghị Đảng bộ huyện giữa nhiệm kỳ
Trên cơ sở ba năm thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ VI,
Ban chấp hành Đảng bộ huyện tiến hành hội nghị giữa nhiệm kỳ
vào tháng 4.1994. Về tổ chức, cơ cấu của Ban chấp hành được
ổn định trong quá trình hoạt động. Theo yêu cầu của công tác tổ
chức, hội nghị đã bổ sung các đồng chi vào Ban chấp hành, gồm:
Nguyễn Văn Bé, Lê Minh Hoàng, Đoàn Văn Le.
Hội nghị tiến hành đánh giá tình hình của địa phương qua
những kết quả đạt được so với những chi tiêu, yêu cầu đề ra trong
nghị quyết, xác định những hạn chế, nguyên nhân những tồn tại,
yếu kém để khắc phục trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ. Ban
Chấp hành xác định nhiệm vụ tiếp tục thực hiện, hoàn thành các
chỉ tiêu của đại hội, nhiệm vụ trung tâm hàng đầu là đẩy mạnh hơn
nữa tốc độ tăng trường kinh tế, cải thiện đời sống của mọi tầng lớp
nhân dân. Trong đó, nhiệm vụ then chốt là tích cực nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, xem đây là là
nhân tố quyết định của mọi thắng lợi.
3. Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
- Lĩnh vực kinh tế
Từ năm 1991, thực hiện chủ trương công nghiệp hóa của đất
nước, Đảng bộ huyện lãnh đạo địa phương tự lực tự cường để tiếp
tục con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến
năm 1994, tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện gắn với sự chuyển
dịch cơ cấu chung và sản xuất của từng ngành. Nông nghiệp tăng
năng suất và giá trị nông sản. Từ sự linh hoạt trong vận dụng chủ
trương phù hợp, hoạt động sản xuất nông nghiệp huyện phát triển.
Người dân được giao quyền sử dụng đất, việc áp dụng khoa học
kỹ thuật ngày càng sâu rộng, nguồn vốn đầu tư cho vật nuôi, cây
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trồng, sản xuất từ nhiều nguồn, trong đó có sự mạnh dạn đầu tư
của kinh tế tư nhân đã tạo nên chuyển biến tích cực, đưa nhịp độ
sản xuất và hiệu quả trong nguồn sản phẩm được làm ra. Điều tích
cực trong giai đoạn này là kinh tế hộ gia đình phát triển rộng rãi
với những mô hình hiệu quả, có tính chất năng động trong thúc
đẩy phong trào phát triển chung về nông nghiệp, chăn nuôi. Phong
trào cải tạo vườn tạp, hình thành vườn cây đặc sản, chăn nuôi (gia
cầm, gia súc, thủy sản, dược liệu, thú quý cho thu nhập kinh tế
cao) được nhân rộng. Chủ trương và chính sách hợp lý trong quản
lý điều hành, đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình đã tác động
tích cực trong xã hội. Người dân mạnh dạn đầu tư và tiếp tục phát
triển những phương thức hiệu quả: xen canh, gối vụ, liên kết mô
hình VAC (vườn - ao - chuồng). Bên cạnh đó, hình thành một số
mô hình liên kết hợp tác phát triển mới: tổ liên kết vay vốn, vần
đổi công trong cộng đồng, giúp nhau để cùng phát triển. Lương
thực, thực phẩm và các nguồn lợi từ địa phương trên các lĩnh vực
phát triển đa dạng.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh và đa
dạng về loại hình trong thời gian thực hiện chính sách mới về công
nghiêp hóa. Các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm, sản
xuất vật liệu xây dựng, mộc dân dụng có nguồn khai thác tại chỗ
và mở rông thị trường tiêu thụ do nhu cầu tăng. Một số ngành nghề
mới phát triển như gốm mỹ nghệ, sản xuất giấy, gia công hàng vải,
cao su với nhu cầu xuất khẩu cao. Sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp đem lại nguồn hàng hóa đa dạng. Trên địa bàn huyện,
vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu tăng mạnh với nhiều dự án được
cấp phép. Một số đơn vị đi vào sản xuất đem lại sản lượng lớn,
tạo nguồn thu cho địa phương, đồng thời giải quyết việc làm cho
nhân lực địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện,
tăng tỷ trọng công nghiệp. Đây là giai đoạn công nghiệp, thương
351

36.2 Page 352

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
nghiệp huyện phát triển mạnh, hoạt động hiệu quả với nhiều hình
thức: công ty, xí nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài, công
ty trách nhiệm hữu hạn và cơ sở hộ cá thể gia tăng. Kinh tế quốc
doanh đổi mới phương thức hoạt động, tác động đền sản xuất,
kinh doanh hiệu quả, vừa tích lũy vừa hoàn thành nghĩa vụ nhà
nước.
Hệ thống mạng lưới thương nghiệp phát triển đáp ứng nhu
cầu chung trên địa bàn, phục vụ đắc lực cho nhu cầu chung ở địa
phương. Hệ thống chợ, cửa hàng hình thành ven các tuyến giao
thông, vùng tập trung dân cư, đảm bảo được nguồn cung cấp hàng
hóa, nhu cầu thiết yếu cho người dân bên cạnh hệ thống của kinh
tế nhà nước. Thông tin liên lạc trên địa bàn huyện được đầu tư từ
ngành bưu chính viễn thông, tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại
ngày càng tăng. Các tuyến giao thông chính được đầu tư nâng cấp
và hệ thống đường bộ liên xã, ấp bắt đầu được quy hoạch, đầu tư
xây dựng, tạo thuận lợi cho nhu cầu người dân và sản xuất, vận
chuyển hàng hóa.
Đầu tư cho khoa học công nghệ được quan tâm trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và tác động tích cực đến phát triển
trong các mặt của địa phương. Vùng nông thôn được tiến hành
điều tra cơ bản để quy hoạch phát triển, áp dụng khoa học kỹ
thuật. Ngoài vốn đầu tư trực tiếp sản xuất kinh doanh từ các thành
phần kinh tế, huyện thực hiện hiệu quả vai trò chủ đạo trong đầu
tư xây dựng cơ bản, hoạt động tín dụng, ngân hàng. Kinh tế phát
triển tác động tích cực đến nguồn thu ngân sách và được tái đầu tư
sử dụng trên nhiều lĩnh vực: cơ sở vật chất, công trình điện nông
thôn, mở rộng hệ thống giao thông, cung cấp nước sạch, các thiết
chế văn hóa xã hội. Cơ sở hạ tầng được đầu tư làm thay đổi diện
mạo nông thôn của địa phương.
352

36.3 Page 353

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Bắt đầu chặng đường đổi mới đến đẩy mạnh phát triển công
nghiệp hóa, cơ cấu kinh tế huyện phát triển toàn diện, đúng cơ cấu
xác định và điều chỉnh qua từng giai đoạn cụ thể.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Từ năm 1990, song song với tập trung phát triển kinh tế,
huyện tích cực, đẩy mạnh chăm lo trên mặt trận văn hóa xã hội.
Sau nhiều khó khăn, hoạt động văn hóa đạt được tiến bộ đáng kể,
mức hưởng thụ văn hóa của người dân nâng cao. Chính sách quản
lý chặt chẽ và kíp thời đầu tư, nhiều loại hình văn hóa, giải trí và
nội dung chương trình văn hóa - văn nghệ được tổ chức đáp ứng
nhu cầu cho người dân trong mặt bằng chung của thời kỳ kinh tế
phát triển. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa được đẩy mạnh. Những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động
văn hóa giảm.
Hệ thống trường học được sắp xếp theo hướng đa dạng hóa
giáo dục và nâng cao chất lượng. Ngành giáo dục đầu tư xây dựng
mới nhiều phòng học để giải quyết nhu cầu học sinh tăng lên ở các
địa phương. Công tác bồi dưỡng, chuẩn hóa sư phạm đối với giáo
viên đã nâng cao chất lượng giảng dạy. Một số xã làm tốt công tác
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Nhằm đáp ứng nhu cầu
học tập, một số cơ sở đào tạo trong giáo dục được thành lập: đào
tạo ngoại ngữ, đào tạo xúc tiến việc làm thu hút nhiều người học
trong điều kiện xã hội cần lực lượng lao động theo yêu cầu.
Huyện thực hiện nhiều chương trình tổng hợp, lồng ghép
mang tính xã hội: quỹ quốc gia giải quyết việc làm, mở rộng các
hình thức dạy nghề, giới thiệu việc làm, tương trợ giúp nhau làm
kinh tế gia đình; đặc biệt, chương trình xóa đói giảm nghèo đem
lại hiệu quả, mang ý nghĩa thiết thực, được người dân hưởng ứng,
tham gia. Tình trạng thất nghiệp của thanh niên giảm dần khi được
353

36.4 Page 354

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
đào tạo nghề, giới thiệu việc làm trong các đơn vị, xí nghiệp thu
hút nguồn lao động trên địa phương. Tình trạng hộ gia đình thiếu
đói giảm.
Công tác đền ơn đáp nghĩa luôn được duy trì. Các đối tượng
chính sách được quan tâm từ các chính sách và nguồn kinh phí từ
nhà nước, nhân dân đóng góp. Từ năm 1991 đến 1995, huyện tiếp
tục quy tập được 58 hài cốt liệt sĩ và xây mới hàng trăm nhà tình
nghĩa, hàng chục sổ tiết kiệm hỗ trợ cho các gia đình chính sách.
Thực hiện chủ trương của nhà nước về danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, huyện tiến hành lập hồ sơ cho 50 trường hợp đề nghị
nhà nước phong tặng; vận động trợ cấp, phụng dưỡng cho 17 bà
mẹ liệt sĩ.
Hoạt động chăm sóc sức khỏe người dân được tăng cường,
đạt những kết quả tốt. Cơ sở các trạm y tế cấp xã đầu tư xây dựng
kiên cố. Bên cạnh đó, từ chủ trương thông thoáng cùng thực hiện
chăm sóc sức khỏe người dân, tại các xã, số cơ sở y tế tư nhân, y
dược học dân tộc đủ điều kiện được thành lập và ngày càng tăng
lên. Các chương trình phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu
đẩy mạnh, giảm nguy cơ bệnh tật cho trẻ em. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên của huyện giảm.
- Tổ chức Đảng, hệ thống chính trị
Trong nhiệm kỳ, hệ thống chính trị của huyện được kiện
toàn, đổi mới phương thức hoạt động, phát huy dân chủ và hoạt
động gắn bó mật thiết với nhân dân. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới, Huyện ủy tập trung công tác xây dựng Đảng.
Các cấp ủy coi trọng, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư
tưởng, góp phần củng cố niềm tin đối với đội ngũ cán bộ, đảng
viên vào sự nghiệp, đường lối đổi mới của Đảng. Phương thức, lề
lối làm việc được quán triệt tinh thần đổi mới với tinh thần trách
354

36.5 Page 355

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
nhiệm cao. Từ Huyện ủy đến cấp ủy cơ sở quan tâm và chú trọng
trong thực hiện quy chế làm việc, quy chế dân chủ, duy trì mối
quan hệ chặt chẽ, đúng nguyên tắc với bộ máy chính quyền, các
đoàn thể để nâng cao hiệu quả. Huyện ủy thực hiện sự phân công
phân nhiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo và điều hành hoạt động của
huyện. Cấp ủy xã, thị trấn thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện
ở địa phương, duy trì mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ. Trong hoạt
động, nhận thức cán bộ, đảng viên được nâng cao chất lượng với
việc duy trì công tác kiểm điểm, đánh giá kết quả. Cán bộ, đảng
viên trẻ nòng cốt được quan tâm đào tạo bồi dưỡng để quy hoạch
nguồn nhân lực. Đảng bộ huyện gia tăng số lượng với sự kết nạp
đảng viên mới, nâng cao về chất lượng đảng viên và tổ chức trực
thuộc. Toàn huyện có 55 tổ chức cơ sở Đảng với 1.404 đảng viên.
Số cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, khá tăng lên;
đặc biệt không có tổ chức đảng cơ sở yếu kém.
Bộ máy chính quyền của huyện hoạt động hiệu quả. HĐND
các cấp đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, phát huy
chức năng giám sát của đại biểu. Chính quyền từ huyện đến các
xã, thị trấn được kiện toàn, củng cố và hoạt động theo hướng tinh
gọn. Mặt trận, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở được quan tâm
trong tổ chức bộ máy, cách thức hoạt động hướng về cơ sở, triển
khai sâu rộng các chương trình chăm lo lợi ích thiết thực đối với
đời sống nhân dân, vận động sức mạnh của các tầng lớp quần
chúng tham gia các chương trình phát triển kinh tế, xã hội trên
địa bàn. Liên đoàn lao động tổ chức nhiều chương trình thiết thực
giới thiệu việc làm, chăm lo đời sống công nhân. Đặc biệt, tổ
chức công đoàn hoạt động hiệu quả, điểm nhấn là thành lập công
đoàn trong các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Số lượng đoàn
viên, hội viên tham gia các tổ chức đoàn thể ngay càng tăng về
số lượng. Đoàn Thanh niên duy trì các tổ chức hoạt động đến các
355

36.6 Page 356

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
ấp, góp phần tập hợp đoàn viên trong phong trào thanh niên tình
nguyện, thanh niên lập nghiệp. Các tổ chức Hội Cựu chiến binh,
Nông dân, Liên hiệp Phụ nữ, Liên hiệp Thanh niên, Chữ thập đỏ
đông đảo hội viên tham gia, hỗ trợ tốt trong các phong trào hoạt
động từ chính trị xã hội đến đời sống.
Trong nhiệm kỳ, tổ chức Huyện ủy và bộ máy chính quyền
kiện toàn tổ chức theo nhiệm vụ, chuyển đổi cơ chế quản lý,
phương thức hoạt động đã đáp ứng được yêu cầu công tác. Các tổ
chức từ Mặt trận và các thành viên đã củng cố, mở rộng, tạo sự đa
dạng trong hoạt động phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân ở địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế ở một
số cơ sở Đảng, bộ phận điều hành trong bộ máy chính quyền, một
số cán bộ, đảng viên chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Đảng bộ huyện nhận diện được thực trạng và nỗ lực
khắc phục trong Hội nghị giữa nhiệm kỳ vào tháng 4.1994. Trong
Hội nghị này, Ban chấp hành Đảng bộ huyện bổ sung các đồng chí
Nguyễn Văn Bé, Lê Minh Hoàng, Đoàn Văn Le.
- Lĩnh vực an ninh, quốc phòng
Năm 1991 trở đi, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức
tạp, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”.
Huyện quán triệt và thực hiện nghị quyết Trung ương 3 khóa VII
về tình hình nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong giai đoạn mới.
Các cấp ủy tăng cường lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng đối
với cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang, an ninh nhân dân.
Lực lượng vũ trang địa phương được tăng cường củng cố và xây
dựng kế hoạch phòng thủ, tổ chức diễn tập chống bạo loạn, nâng
cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ trấn áp, giữ
ổn định tình hình trước những tình huống dự liệu xảy ra. Bên cạnh
đó, lực lượng dân quân tự vệ địa phương được tăng cường ở các
356

36.7 Page 357

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
địa bàn cơ sở. Hình thức tổ an ninh nhân dân tạo nên mạng lưới
rộng khắp các địa bàn đến đơn vị ấp. Huyện đội duy trì công tác
huấn luyện, tuần tra, bảo vệ địa bàn và phối hợp chặt chẽ với các
đoàn thể tiến hành vận động nhân dân xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân.
Nguồn tuyển nghĩa vụ quân sự hằng năm ở các xã và huyện
đều thực hiện tốt so với yêu cầu, chỉ tiêu đề ra. Công tác phòng
ngừa trấn áp tội phạm được đẩy mạnh qua các đợt truy quét, xử lý,
giáo dục, kiểm tra góp phần làm trong sạch địa bàn. Những khiếu
nại của công dân, mâu thuẫn khu dân cư được quan tâm, giải quyết
kịp thời. Lực lượng an ninh làm tốt công tác ngăn chặn các thế lực
hoạt động phá hoại chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân. Trật tự xã hội được giữ vững, thế trận an ninh quốc phòng
đảm bảo, tình hình chính trị ổn định tạo môi trường thuận lợi cho
nhân dân an tâm xây dựng, phát triển kinh tế và tạo thêm niềm tin
vào sự nghiệp cách mạng ở địa phương.
Từ thực tế ở địa phương trong thực hiện kế hoạch 5 năm
(1986 - 1990), Đảng bộ huyện rút ra những bài học quý báu trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đẩy mạnh cơ chế mới, phát huy nội lực
để hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra: “Nâng cao trình độ năng
lực lãnh đạo kinh tế, xã hội của Đảng bộ huyện phải xuất phát trên
cơ sở quán triệt đường lối đổi mới của đất nước; đánh giá đúng
thực trạng của địa phương, mọi lợi ích kinh tế xã hội phải hướng
vào lợi ích của nhân dân lao động; chính sách phát triển phải
được cụ thể hóa, thực hiện đồng bộ đến câp cơ sở; tập trung củng
cố từ cơ sở, các ngành kinh tế mũi nhọn và không ngừng nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ1. Kế thừa những thành quả được xây
dựng trong những năm đầu đổi mới, nhận diện những yếu kém
1  Trích Nghị quyết văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành năm 1988.
357

36.8 Page 358

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
trên các lĩnh vực, huyện đúc kết bài học kinh nghiệm, tiếp tục lãnh
đạo địa phương trong giai đoạn tới: Vận dụng sự năng động, linh
hoạt những chủ trương, chính sách đổi mới, phát triển phù hợp với
tình hình địa phương, phát huy sức mạnh toàn dân và trên cơ sở
lợi ích của quần chúng để thực hiện các nhiệm vụ. Quá trình thực
hiện nhiệm vụ ở các cấp phải được sự thống nhất cao, lãnh đạo tập
trung, có quy hoạch, định hướng và thí điểm, nhân rộng điển hình
để phát huy. Đội ngũ cán bộ phải nêu cao tinh thần trách nhiệm,
đoàn kết và không ngừng được bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kiến
thức, chuyên môn phù hợp với yêu cầu phát triển.
Sau 19 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ huyện Long
Thành (bao gồm Nhơn Trạch) đã tăng về số lượng và chất lượng
đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng lớn mạnh ở các xã và cơ quan, kinh
tế tăng trưởng nhanh, văn hóa xã hội phát triển mạnh, nhiều mô
hình tốt, điển hình hay xuất hiện, đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ
về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Sự phát triển toàn diện, đồng
bộ của thực tế đặt yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, và
quản lý của chính quyền; vậy nên cần thiết tái lập Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch cho phù hợp với tình hình mới.
Trong nhiệm kỳ này, có sự thay đổi về hành chính của địa
phương, năm 1994 tái lập huyện Nhơn Trạch trên cơ sở tách ra từ
huyện Long Thành. Nghị quyết số 15 của HĐND huyện khóa VI,
kỳ họp thứ 14, kiến nghị chia huyện Long Thành thành hai đơn
vị hành chính cấp huyện: huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch.
Nghị quyết 51 của Chính phủ về việc thành lập huyện Nhơn Trạch
trên cơ sở tách từ huyện Long Thành. Cơ cấu huyện Nhơn Trạch
gồm 11 xã: Xã Phước Thiền, xã Phú Hội, xã Long Tân, xã Phú
Thạnh, xã Đại Phước, xã Phú Hữu, xã Phước Khánh, xã Vĩnh
Thanh, xã Phước An, xã Long Thọ, xã Hiệp Phước. Trung tâm
huyện Nhơn Trạch đặt tại xã Hiệp Phước.
358

36.9 Page 359

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sự thay đổi về hành chính dẫn đến những thay đổi phù hợp
về nhân sự. Nhơn Trạch chuẩn bị bước vào thời kỳ mới với việc
xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực của Đảng bộ huyện, bộ máy
chính quyền và các ban ngành, đoàn thể tương ứng. Chặng đường
xây dựng và phát triển theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa của
địa phương đứng trước những thách thức đòi hỏi sự nỗ lực, phấn
đấu và đường hướng trong nhiều lĩnh vực để phát triển kinh tế, xã
hội. Những thành quả của giai đoạn đã qua tiếp tục được kế thừa
để phát huy, cũng là những yếu tố thuận lợi: tình hình kinh tế có
những chuyển biến tích cực, tăng trưởng, chuyển dịch theo cơ cấu,
cơ sở hạ tầng được đầu tư, sự nghiệp văn hóa, xã hội tiến bộ. An
ninh, trật tự xã hội giữ vững. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân được cải thiện. Đặc biệt, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng,
bộ máy chính quyền, hoạt động đoàn thể được nâng cao qua thực
tiễn trong cơ chế mới khi thực hiện đổi mới.
***
Bước vào thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới do Đảng
khởi xướng, Đảng bộ Long Thành đã quán triệt sâu sắc các Nghị
quyết của Đảng, của Tỉnh ủy Đồng Nai, vận dụng vào thực tế
địa phương, xây dựng nghị quyết, chương trình hành động với
phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp; lãnh đạo toàn hệ
thống chính trị thực hiện từng bước vững chắc; phát huy thành
quả và lợi thế, vượt qua khó khăn hạn chế; tạo sự phát triển ở
Đảng bộ Long Thành toàn diện, đồng bộ, thực sự đổi mới. Kết quả
đổi mới đã được đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm tạo đà cho
các bước phát triển tiếp theo, tạo tiền đề cho Nhơn Trạch bước
vào giai đoạn mới hướng đến mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển bền vững.
359

36.10 Page 360

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
CHƯƠNG VII
GIAI ĐOẠN 1994 - 2015
ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
ĐỊA PHƯƠNG THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
I. TÁI LẬP HUYỆN NHƠN TRẠCH VÀ CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN
1. Tái lập huyện Nhơn Trạch
Năm 1994 đánh dấu một bước mới trong lịch sử của Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch. Sau 20 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ
huyện Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) đã tăng về số lượng và
chất lượng đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng lớn mạnh ở các xã và cơ
quan; kinh tế tăng trưởng nhanh, văn hóa xã hội phát triển mạnh,
nhiều mô hình tốt, điển hình hay xuất hiện, đã có sự chuyển dịch
mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Địa bàn Nhơn Trạch
có sự phát triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực, tạo lập nhiều cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật đủ
điều kiện cho một đơn vị hành chính cấp huyện hướng đến mục
tiêu phát triển bền vững, công nghiệp, hiện đại, đáp ứng tiến trình
xây dựng đô thị mới theo định hướng của Trung ương và của Tỉnh
ủy Đồng Nai. Thực tế ấy và mục tiêu phát triển đặt ra yêu cầu tái
lập Đảng bộ huyện Nhơn Trạch cho phù hợp với tình hình mới,
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thuận lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, và quản lý
của chính quyền địa phương.
Huyện Nhơn Trạch được tái thành lập theo Nghị định số 51/
CP ngày 21.6.1994 của Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động
từ ngày 01.9.1994. Ngày 25.8.1994, Tỉnh ủy và UBND tỉnh Đồng
Nai chính thức tổ chức lễ bàn giao giữa hai huyện Long Thành
và Nhơn Trạch. Theo đó, huyện Nhơn Trạch gồm 11 xã: Phước
Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Phước An, Long Thọ, Hiệp Phước;
trung tâm huyện Nhơn Trạch đặt tại địa chỉ ấp Xóm Hố, xã Phú
Hội; dân số 101.882 người với 17.948 hộ, mật độ dân số 254
người/km2; diện tích tự nhiên 41.089 héc ta1, trong đó đất nông
nghiệp chiếm 17.657 héc ta, đất lâm nghiệp chiếm 12.023 héc ta,
đất chuyên dùng có 940 héc ta, đất dân cư có 1.472 héc ta và các
loại khác có 8.054 héc ta; diện tích đất nông nghiệp bình quân
1.733 m2/người.
Sự thành lập huyện trên cơ sở tách ra từ huyện Long Thành
đáp ứng nguyện vọng của nhân dân địa phương và yêu cầu của
phát triển. Về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh quốc
phòng, Nhơn Trạch vẫn phát triển gắn kết với huyện Long Thành
và không gian của vùng trọng điểm kinh tế Đông Nam Bộ. Tuy
nhiên, việc thành lập huyện Nhơn Trạch tuy là tái lập cũng đặt ra
nhiều khó khăn thách thức về nhân lực và nguồn lực đầu tư, qui
hoạch, quản lý qui hoạch, xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng
dân sinh, xác định mục tiêu phát triển hiện đại và bản sắc, vừa gia
tăng nội lực của huyện vừa đóng góp chung cho sự phát triển của
tỉnh, của đất nước. Những khó khăn thách thức ấy đòi hỏi Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch đoàn kết, quyết tâm, bản lĩnh, sớm ổn định bộ
1  Có tài liệu ghi diện tích tự nhiên 40.146 héc ta.
361

37.2 Page 362

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
máy, phát huy các nguồn lực và lợi thế địa phương, xây dựng kế
hoạch từng bước khẩn trương và vững chắc đạt và vượt các nhiệm
vụ, mục tiêu, chỉ tiêu được giao.
2. Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ vừa được tái lập của huyện Nhơn Trạch xác định
nhiệm vụ: Trên cơ sở của những thành quả đạt được trong nhiệm
kỳ VI Đảng bộ huyện Long Thành, huyện Nhơn Trạch tiếp tục phát
triển kinh tế, xã hội trong đường hướng đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững.
Sau 20 năm phát triển, đặc biệt là sau 8 năm thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, huyện Nhơn Trạch có thuận lợi cơ bản và
những bước phát triển tích cực. Nhơn Trạch đã từng bước thoát
khỏi tình trạng khủng khoảng, tạo được điều kiện cơ sở để thực
hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, khi tách
huyện, trên cơ sở thực tiễn, Đảng bộ huyện đã tiến hành quy hoạch,
định hướng phát triển địa phương làm nền tảng vững chắc cho tiến
trình xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội theo hướng phát triển bền
vững.
Là địa bàn nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam
của đất nước, vị trí gắn với các đô thị lớn Thành phố Hồ Chí
Minh, Biên Hòa, Vũng Tàu, Nhơn Trạch có điều kiện thuận lợi
trong chính sách hoạch định liên vùng để phát triển. Hệ thống giao
thông được đầu tư xây dựng từ Thành phố Hồ Chí Minh qua Nhơn
Trạch, dự án đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành
- Dầu Giây, hệ thống cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, Sài Gòn tiếp
giáp huyện, tiếp giáp với quy hoạch sân bay quốc tế Long Thành.
Trong quy hoạch của tỉnh, Nhơn Trạch quy hoạch phát triển lên
thành phố công nghiệp, nhiều khu đô thị hình thành, nhiều khu
công nghiệp tiếp tục được mở rộng nhằm thu hút và nâng cao chất
362

37.3 Page 363

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lượng ngành nghề đầu tư theo hướng công nghệ cao. Mạng lưới cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, chất lượng, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh cùng
với sự ổn định về tình hình xã hội đã tạo điều kiện cho Nhơn Trạch
tiếp tục có nhiều dự án đầu tư mới, nhất là các dự án có vốn đầu tư
nước ngoài. Cơ sở hạ tầng của huyện tiếp tục được đầu tư đáp ứng
cho nhu cầu làm việc, thực hiện nhiệm vụ trên nhiều lĩnh vực.
Bên cạnh đó, Nhơn Trạch vẫn còn nhiều hạn chế: Sản xuất
công nghiệp chưa được quản lý chặt chẽ khiến ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng đến khu dân cư. Cơ cấu kinh tế chưa thật vững
chắc để tạo cho địa phương phát triển đồng bộ trên nhiều lĩnh vực,
đảm bảo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đời sống nhân dân.
Chất lượng đội ngũ nhân lực trong hệ thống tổ chức Đảng, bộ máy
chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội vẫn chưa đồng bộ, cần tăng
cường bổ sung về số lượng và cả chất lượng mới đáp ứng được
yêu cầu; khoa học kỹ thuật có phát triển nhưng chưa được ứng
dụng đồng bộ trong sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.
Huyện ủy xác định xây dựng Đảng bộ vững mạnh là then
chốt, nâng cao sức chiến đấu và thực hiện tốt công tác lãnh đạo địa
phương tiếp tục sự nghiệp đổi mới. Song song với việc kiện toàn
cấp ủy các ban ngành, cơ sở về tổ chức, xây dựng quy chế hoạt
động đúng nguyên tắc, hiệu quả, Huyện ủy tăng cường công tác
giáo dục tư tưởng, chính trị, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
cho cán bộ, đảng viên. Nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng
trong sinh hoạt, tổ chức. Các cấp ủy tạo điều kiện, động viên đảng
viên thường xuyên học tập để nâng cao trình độ kiến thức về mọi
mặt, trao dồi phẩm chất đạo đức, kiên định lập trường, quan điểm
để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Đảng bộ huyện kiện toàn
tổ chức, bộ máy từ những bài học kinh nghiệm đúc kết trong quá
trình chỉ đạo, lãnh đạo địa phương, bám sát những mục tiêu đặt
363

37.4 Page 364

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
ra. Những thuận lợi từ thành quả đạt được của đất nước trong giai
đoạn 10 năm sau đổi mới, những kết quả của tỉnh, huyện trong quá
trình thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cùng với tình hình thế giới
ổn định đã ảnh hưởng tích cực đối với địa phương trong công cuộc
đẩy mạnh công nghiệp hóa ở địa phương.
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH 1994 - 2005
1. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lâm thời
Thực hiện Nghị quyết về chia tách, thành lập huyện, tổ chức
Đảng, bộ máy nhà nước và các tổ chức đoàn thể chính trị được hình
thành để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Theo quyết định 304 - QĐ/
TU của Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Nhơn Trạch lâm thời có
31 đồng chí1. Ban Thường vụ Huyện ủy gồm: Đồng chí Lâm Thị
Nguyệt giữ chức vụ Bí thư, Phạm Văn Đức (Phó Bí thư), Nguyễn
Văn Điệp (Phó Bí thư) và các ủy viên: Đào Minh Tiến, Phạm Thị
Kim Dung, Huỳnh Minh Phương, Trần Thị Điệp, Nguyễn Văn Bé,
Phạm Điền Trung.
Đảng bộ huyện xác định mục tiêu phấn đấu, trước mắt là cho
nhiệm kỳ khởi đầu khi tái thành lập huyện:
- Ổn định và phát triển kinh tế chiều sâu đối với kinh tế nông
nghiệp, chú trọng chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
phát triển mở rộng sản xuất công nghiệp, phát triển nhanh đảm
bảo phục vụ các loại hình dịch vụ trên địa bàn, dần dần hình thành
cơ cấu kinh tế mới theo định hướng phát triển.
1  Danh sách 31 Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lâm thời theo Quyết
định 304 QĐ/TU: Lâm Thị Nguyệt, Phạm Văn Đức, Nguyễn Văn Điệp, Trần Thị Điệp,
Đào Minh Tiến, Phạm Thị Kim Dung, Nguyễn Văn Bé, Phạm Điền Trung, Huỳnh Minh
Phương, Trần Văn Nam, Huỳnh Ngọc Tầm, Võ Kim Vinh, Trần Thị Thu, Dương Quang
Linh, Từ Ngọc Chiếu, Trần Văn Nén, Trần Thành Trai, Lương Tấn Thanh, Quách Hữu Đức,
Võ Thành Thái, Giang Chí An, Châu Phước Thuận, Nguyễn Ngọc Nào, Nguyễn Ngọc
Hải, Trần Minh Việt, Đoàn Văn Le, Trần Văn Đạo, Hồ Văn Chi, Châu Văn Lộc, Nguyễn Hữu
Nghị (bổ sung 7. 1996), Nguyễn Văn Minh (bổ sung 8.1998).
364

37.5 Page 365

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
- Nâng cao chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh,
thực hiện tiết kiệm trong điều hành ngân sách, tập trung đầu tư
nâng cấp phát triển cơ sở hạ tầng và kỹ thuật; kết hợp với kinh tế
quốc phòng; thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm trong quá trình xây dựng và phát triển địa phương.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đàm bảo giải quyết
nhu cầu cơ bản cho nhân dân về y tế, văn hóa, giáo dục đào tạo
và khoa học công nghệ. Tích cực thực hiện các chính sách xã hội,
vì lợi ích nhân dân, tiếp tục thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa;
phát huy hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn từ các nguồn quỹ quốc
gia, quỹ xóa đói giảm nghèo và các nguồn khác.
- Đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, phòng thủ
vững chắc, chống xâm nhập, bạo loạn lật đổ, thường xuyên phát
động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, phòng chống
các loại tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn.
- Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; tăng cường
sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tăng cường hiệu quả quản lý nhà
nước; phát huy vai trò tích cực của Mặt trận và các đoàn thể trong
công tác giáo dục và vận động quần chúng, phát huy dân chủ trong
việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.
2. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ I
Sau hai năm tách huyện, huyện Nhơn Trạch tiến hành Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ I. Từ sự hỗ trợ của tỉnh, của
nhiều ngành các cấp; huyện Nhơn Trạch phấn đấu vượt qua những
khó khăn ban đầu, từng bước thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát
365

37.6 Page 366

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
triển kinh tế, xã hội của địa phương. Từ thực tiễn của địa phương,
Đảng bộ lâm thời huyện đánh giá tổng quát tình hình, thành quả
đạt được và cả những hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm
để hoạch định chính sách phát triển trong 5 năm cuối thế kỷ XX.
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch tổ chức Đại hội lần thứ I từ ngày
4 -6.3.1996. Đại biểu chính thức tham dự gồm 100 đồng chí thay
mặt 815 đảng viên ở 35 tổ chức cơ sở Đảng toàn huyện. Đại hội
bầu ra Ban chấp hành nhiệm kỳ 1996 - 2000 gồm 29 đồng chí1.
Tại cuộc họp lần thứ nhất, Ban Chấp hành nhiệm kỳ I bầu Ban
Thường vụ Huyện ủy gồm 8 đồng chí: Lâm Thị Nguyệt giữ chức
Bí thư, Phạm Văn Đức (Phó Bí thư), Nguyễn Văn Điệp (Phó Bí
thư) và các Ủy viên: Trần Thị Điệp, Đào Minh Tiến, Phạm Thị
Kim Dung, Nguyễn Văn Bé, Phạm Điền Trung. Ủy ban Kiểm tra
Huyện ủy được Đại hội bầu gồm 4 đồng chí do Phạm Thị Kim
Dung làm Chủ nhiệm. Đoàn đại biểu đi dự đại hội cấp trên được
Đại hội bầu 15 đồng chí.
Đảng bộ huyện đề ra định hướng phát triển kinh tế, xã hội của
địa phương: “Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa nông thôn, chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khai
thác mọi tiềm năng trên, trong lòng đất kể cả trên mặt nước; đáp
ứng nhu cầu cơ bản về dịch vụ; đẩy nhanh phát triển công nghiệp
địa phương. Tăng dần công nghiệp chiếm 34,6%, thương mại dịch
vụ chiếm 32,9%, nông nghiệp còn 32,5% đến năm 2000. Từ đó, cơ
cấu kinh tế của huyện chuyển dần theo hướng công nghiệp, dịch
1  Danh sách 29 Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Lâm Thị Nguyệt,
Phạm Văn Đức, Nguyễn Văn Điệp, Trần Thị Điệp, Đào Minh Tiến, Phạm Thị Kim Dung,
Nguyễn Văn Bé, Phạm Điền Trung, Nguyễn Văn Tám, Nguyễn Thị Ánh Hồng, Lê Thị Lộc,
Phan Thị Hiếu, Lương Tấn Thanh, Thái Bảo, Trần Thành Trai, Từ Ngọc Chiếu, Châu Phước
Thuận, Lê Vân Chính, Giang Chí An, Quách Hữu Đức, Nguyễn Văn Sang, Vi Văn Đức,
Trần Văn Đạo, Nguyễn Hồng Hải, Mai Xuân Chiến, Phạm Thị Phú, Đoàn Văn Le, Huỳnh
Minh Phương, Nguyễn Hữu Nghị.
366

37.7 Page 367

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
vụ và nông nghiệp. Song song với phát triển kinh tế, Huyện ủy
lãnh đạo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo, chăm
lo sức khỏe nhân dân, hạ tỉ lệ tăng dân số tự nhiên, đẩy mạnh
công tác hậu phương quân đội và các chính sách xã hội khác;
phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và
cũng cố vững chắc quốc phòng, an ninh; khai thác và vận dụng
mọi nguồn lực để tập trung cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội. Phấn đấu đến năm 2000, Nhơn Trạch là một huyện
công nghiệp phát triển, nông nghiệp vững chắc, đẩy mạnh thương
mại dịch vụ đảm bảo giải quyết các nhu cầu xã hội đặt ra1.
3. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ II
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ II nhiệm
kỳ 2000 - 2005 được tổ chức từ ngày 7 - 10.11.2000. Tham dự đại
hội có 108 đại biểu chính thức được bầu từ đại hội cơ sở của 49
tổ chức cơ sở Đảng, đại diện cho 1.091 đảng viên. Đại hội bầu ra
Ban chấp hành nhiệm kỳ 2000 - 2005 gồm 29 đồng chí2. Ban Chấp
hành nhiệm kỳ II bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 8 đồng chí:
Lâm Thị Nguyệt (Bí thư), Phạm Văn Đức (Phó Bí thư), Nguyễn
Văn Điệp (Phó Bí thư) và các Ủy viên: Đào Minh Tiến, Nguyễn
Văn Bé, Phạm Thị Kim Dung, Trần Thị Điệp, Phạm Điền Trung.
Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy được Đại hội bầu 8 đồng chí, Chủ
nhiệm là Phạm Thị Kim Dung. 17 đại biểu được Đại hội bầu dự
đại hội cấp trên.
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch năm 1996.
2  Danh sách 29 Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Lâm Thị Nguyệt,
Phạm Văn Đức, Nguyễn Văn Điệp, Trần Thị Điệp, Đào Minh Tiến, Phạm Thị Kim Dung,
Nguyễn Văn Bé, Phạm Điền Trung, Nguyễn Văn Tám, Nguyễn Thị Ánh Hồng, Lê Thị Lộc,
Phan Thị Hiếu, Lương Tấn Thanh, Thái Bảo, Trần Thành Trai, Từ Ngọc Chiếu, Châu Phước
Thuận, Lê Vân Chính, Giang Chí An, Quách Hữu Đức (bổ sung Ban Thường vụ 10.2002),
Nguyễn Văn Sang, Vi Văn Đức, Trần Văn Đạo, Nguyễn Hồng Hải, Mai Xuân Chiến, Phạm
Thị Phú, Đoàn Văn Le, Huỳnh Minh Phương, Nguyễn Hữu Nghị.
367

37.8 Page 368

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Bước vào giai đoạn mới, huyện có những bước thuận lợi
khi kế hoạch 5 năm cuối thế kỷ XX đạt được những kết quả quan
trọng, đặt nền tảng cho định hướng phát triển kinh tế, xã hội của
địa phương trong tình hình mới. Bên cạnh đó, giai đoạn này vẫn
còn những thách thức, khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa
vững chắc, một số chỉ tiêu chưa đạt trong quá trình thực hiện, tình
hình thế giới và đặc biệt cuộc suy thoái với các nước đang phát
triển, trong khu vực tác động tiêu cực.
Với tinh thần tự lực tự cường, phát huy sức mạnh của nhân
dân đoàn kết, Đảng bộ huyện xác định phương hướng tổng quát
giai đoạn 2000 - 2005: “Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi nhanh
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển cách ngành nghề phi nông
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; tranh thủ mọi nguồn vốn và khả
năng phát triển công nghiệp trên địa bàn gắn với khai thác hiệu
quả các nguồn tài nguyên, tiềm năng thế mạnh của huyện nhằm
tiếp tục chuyển dần cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch
vụ và nông nghiệp. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với thực
hiện tiến bộ công bằng xã hội, tạo bước chuyển mạnh mẽ để phát
huy nhân tố con người, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo,
chăm lo sức khỏe nhân dân, giải quyết vấn đề bức xúc về việc làm,
ổn định và cải thiện vững chắc đời sông nhân dân, nhất là các
gia đình chính sách. Giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường an ninh quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế; đẩy mạnh cải cách bộ
máy nhà nước và hệ thống hành chính các cấp; tăng cường đoàn
kết, lãnh đạo thực hiện tốt công tác vận động quần chúng và thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch
vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ thời kỳ mới1.
1  Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch năm 2000.
368

37.9 Page 369

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
4. Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
- Lĩnh vực kinh tế
Trong giai đoạn từ năm 1994 trở đi, địa phương đã có những
kết quả bước đầu trong xây dựng và phát triển khi tách huyện.
Từ một huyện thuần nông, diện tích sản xuất nông nghiệp gần 20
ngàn héc ta, huyện đã quan tâm, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
trên diện tích hiện có bởi tổng sản lượng từ nông nghiệp là cơ sở
quan trọng để đảm bảo đời sống nhân dân. Trên cơ sở đặc điểm đất
đai, huyện hình thành 4 tiểu vùng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi phù hợp, thay đổi tập quán sản xuất năng suất thấp
ở người dân. Trên 675 héc ta trồng lúa chuyển sang trồng mía và
các loại cây khác và thực hiện thí điểm tại xã Phú Hội, Long Thọ
về chuyên trồng các loại cây ăn trái. Trên 5.000 héc ta vùng đập
Ông Kèo được đắp đập, ngọt hóa để chuyển đổi cây trồng. Một số
diện tích vùng ngập mặn được cải tạo nuôi thủy sản. Những bước
hoạch định, cải tạo trong sản xuất đã đem lại những hiệu quả,
người dân hưởng ứng. Nông nghiệp tăng trưởng khá, giá trị tổng
sản lượng ngày càng cao. Bên cạnh duy trì chăn nuôi gia súc gia
cầm, nuôi thủy sản được hình thành dù chưa đem lại hiệu quả cao
bởi tác động của môi trường. Việc áp dụng kỹ thuật vào sản xuất
góp phần tăng năng suất trên một số diện tích canh tác, tiêu biểu ở
xã Phước Thiền, Hiệp Phước. Ngoài diện tích rừng hiện có được
bảo vệ, công tác trồng cây được phát động trong nhân dân, tăng
độ phủ xanh trên diện tích chung của huyện; đặc biệt là những mô
hình vườn cây ăn trái tại một số xã.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển
nhanh về tốc độ và tăng bình quân hằng năm. Tuy nhiên, do nền
tảng chưa căn bản, giá trị trong cơ cấu tổng sản lượng ở địa phương
chưa cao. Công nghiệp chỉ tập trung ở các cơ sở có loại hình gia
369

37.10 Page 370

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
công, chế biến phục vụ tiêu dùng hằng ngày. Huyện kêu gọi thu
hút 11 dự án phát triển công nghiệp mang tính chất hiện đại nhưng
đến năm 1995 chỉ có 6 dự án thực hiện. Bước đầu, đây là điểm tích
cực để sử dụng đất hiệu quả, đặt nền móng cho cơ cấu chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, tạo thuận lợi giải quyết việc
làm cho nhân dân.
Thương nghiệp và dịch vụ được duy trì nhưng ở quy mô nhỏ,
mỗi năm, số hộ kinh doanh tăng dần, tạo thành mạng lưới trong
các địa bàn, phục vụ tích cực cho cơ sở. Trong khi đó, thương
nghiệp quốc doanh và các HTX hoạt động không thường xuyên.
Ngành ngân hàng với những nguồn vốn phát triển đã thực hiện
cho hộ dân vay kinh doanh, sản xuất với số lượt vay, nguồn vốn
tăng, đáp ứng nhu cầu xã hội. Tính hiệu quả của nguồn vốn vay
tập trung trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi công nghiệp phù
hợp với quy hoạch của địa phương.
Từ đẩy mạnh sản xuất và tập trung chuyển dịch cơ cấu của
huyện trong phát triển kinh tế, xã hội, nguồn thu ngân sách của
huyện tăng dần. Thế nhưng, tổng giá trị nguồn thu chưa cung ứng
đầy đủ so với nhu cầu; trong đó có nhu cầu lớn đầu tư cho cơ sở
vật chất của các cơ quan, đơn vị nhà nước khi tách huyện, mở rộng
hệ thống giao thông, hình thành mạng lưới thông tin. Trong giai
đoạn 1994 - 1995, huyện nhận sự hỗ trợ ngân sách từ tỉnh. Những
đầu tư hợp lý đã làm thay đổi diện mạo của huyện trong cơ sở hạ
tầng, mạng lưới điện quốc gia phủ đến 11/12 xã, các trục lộ giao
thông chính được đầu tư, nâng cấp, người dân có điều kiện sử
dụng liên lạc thông tin dù tỷ lệ chưa cao.
Trong giai đoạn 1996 đến năm 2000, kế thừa thành quả giai
đoạn trước, từ lĩnh vực kinh tế của Nhơn Trạch tiếp tục tăng trưởng
cùng với sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp - nông
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
nghiệp và dịch vụ, đặt nền tảng cho yêu cầu đẩy mạnh phát triển
công nghiệp hóa, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Các kết quả đạt được phản ánh sự tăng trưởng, trong đó tổng sản
phẩm nội địa (GDP) bình quân hằng năm của huyện tăng 16,7%,
trong đó, tính riêng khu vực kinh tế do huyện quản lý đạt tăng bình
quân 7,14%.
Phát triển nông nghiệp gắn bó với quá trình xây dựng nông
thôn, cải thiện đời sống người dân. Diện tích trồng trọt mở rộng
từ việc khai thác, cải tạo đưa diện tích phù hợp; tiêu biểu là vùng
đất giồng Ông Kèo được cải tạo, chống nhiễm phèn. Diện tích và
sản lượng từ trồng trọt tăng. Từ chủ trương chuyển dịch cơ cấu
cây trồng vật nuôi, người dân tham gia cải tạo, chuyển đổi vườn
cây tạp sang chuyên canh cây cao sản, cây ăn trái giá trị thu nhập
cao (1.471 héc ta lúa 1 vụ, 1.201 héc ta chuyển sang trồng mía, các
cây công nghiệp; 500 héc ta trồng sen, 150 héc ta sử dụng giống
điều cao sản). Ngành chăn nuôi phát triển, đàn gia súc tăng mạnh,
chiếm tỷ trọng 30% trong ngành nông nghiệp đến cuối năm 2000.
Ngư nghiệp phát triển với các hình thức chăn nuôi áp dụng khoa
học kỹ thuật và sử dụng mặt nước lợ. Diện tích nuôi thủy sản và
giá trị sản lượng tăng, góp phần tạo nguồn hàng cho địa phương
trong cung ứng và phục vụ nhu cầu người dân. Tiêu biểu trong
nuôi trồng thủy sản ở các xã Long Thọ, Phước An. Trong mô hình
phát triển, huyện hình thành 3 tổ hợp kinh tế: trồng mía ở xã Phú
Đông, chăn nuôi heo (xã Hiệp Phước), nuôi tôm càng xanh (xã
Đại Phước). Những chính sách, chủ trương và thực hiện kịp thời,
hợp lý trong kinh tế đã góp phần cho giá trị sản xuất bình quân
hằng năm của nông nghiệp vượt chỉ tiêu đề ra, trong đó trồng trọt
tăng 2,5%, chăn nuôi tăng 15,7%.
Công tác bảo vệ rừng duy trì tốt. Đặc biệt, huyện thực hiện
hiệu quả các chương trình của Chính phủ về sử dụng đất trống, đồi
371

38.2 Page 372

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước (chương trình 327) và
huy động tối đa mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế ở trong
nước và nguồn vốn ngoài nước trong khai thác, sử dụng có hiệu
quả quỹ đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở
các vùng đồng bằng chưa được khai thác, nhằm tăng thêm diện
tích sản xuất, tăng sản lượng hàng hoá nông - lâm - ngư nghiệp,
bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng ven biển để bảo vệ
môi trường và giữ cân bằng sinh thái, từng bước ổn định và nâng
cao đời sống (chương trình 773). Huyện tiến hành trồng 30 héc ta
rừng tập trung, chăm sóc tu bổ lũy kế đạt 5.367 héc ta, khai thác
hiệu quả nguồn gỗ các loại.
Công nghiệp phát triển trên nhiều mặt, trong đó, góp phần
quan trọng cho giá trị sản xuất đến năm 2000 đạt nguồn thu cao
đạt 998,5 tỷ 1.000 tỷ đồng, tăng 125 lần so với năm 1995. Công
nghiệp quốc doanh có mức tăng trưởng hàng năm 13,35%. Công
nghiệp ngoài quốc doanh có nhiều hình thức, loại hình, quy mô đa
dạng. Từ xuất phát điểm phát triển thấp, đã tăng thêm 330 cơ sở
sản xuất công nghiệp, nâng tổng số lên 790 trên toàn huyện (trong
đó có 02 doanh nghiệp tư nhân và 788 hộ cá thể). Các ngành nghề
đa dạng: chế biến lương thực, sản xuất, gia công cơ khí, vật dụng,
sản phẩm mộc đáp ứng nhu cầu trên nhân dân, tạo thêm việc làm,
cải thiện kinh tế gia đình, tạo mạng lưới cung ứng, trao đổi hàng
hóa. Thành công đáng kể trên lĩnh vực công nghiệp của huyện là
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn đầu tư
nước ngoài tăng vượt bậc. Trên cơ sở quy hoạch của địa phương,
Chính phủ chấp thuận thành lập 3 khu công nghiệp với diện tích
1.173 héc ta. Có 14 dự án được triển khai với số vốn đầu tư 570,8
triệu USD đi vào sản xuất, giải quyết trên 7.500 việc làm cho
người lao động.
372

38.3 Page 373

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thương nghiệp, dịch vụ phát triển thuận lợi từ công nghiệp.
Thương nghiệp quốc doanh chủ động thành lập nhiều chi nhánh,
đại lý của các doanh nghiệp tỉnh, thực hiện chức năng thu mua,
sơ chế hàng nông sản và cung ứng vật tư. Đặc biệt thành phần
ngoài quốc doanh kịp thời nắm bắt nhu cầu, yếu tố tác động từ
thị trường, theo luật định với chiều hướng khuyến khích mở rộng
của nhà nước. Trên địa bàn huyện có 11 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh với số vốn trên 2 tỷ đồng, tập trung các mặt hàng: xăng dầu,
vàng bạc. hàng tiêu dùng. Kinh doanh cá thể tăng lên đến 1.667
hộ, số lao động ngoài quốc doanh có 2.022 người. Mạng lưới chợ
nông thôn được sắp xếp ổn định với 20 chợ, góp phần ổn định và
trao đổi hàng hóa ở các địa bàn xã.
Nằm trong địa bàn kinh tế là vùng trọng điểm phía Nam,
Nhơn Trạch được Chính phủ quy hoạch thành phố công nghiệp.
Trên cơ sở này, các cấp nhà nước đã quan tâm trong đầu tư kinh
phí cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng hệ thống giao thông đường
bộ, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, thủy lợi, cơ sở vật chất giáo
dục, ý tế. Tổng nguồn vốn đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng
mỗi năm đều tăng, trong đó vốn ngân sách nhà nước đạt 98,719
tỷ đồng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.029,62 tỷ đồng.
Những công trình trong xây dựng cơ bản trọng điểm: trụ sở của
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, xã Long Thọ, Hiệp Phước
đưa vào sử dụng. Nguồn thu hàng năm của huyện tăng bình quân
11.2%, dù chưa đạt so với chỉ tiêu nhưng huyện đã đảm bảo cân
đối tài chính cho hoạt động bộ máy nhà nước các cấp bên cạnh sự
hỗ trợ của tỉnh.
Những chỉ tiêu trong cơ cấu kinh tế đặt ra chưa đạt nhưng
hướng chuyển dịch trên các lĩnh vực cho thấy hoạch định phát
triển đi đúng hướng, đem lại hiệu quả. Công nghiệp tăng trường
373

38.4 Page 374

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
nhanh, vượt ngành nông nghiệp. Tỉ lệ nông nghiệp trong cơ cấu
kinh tế giảm nhưng giá trị gia tăng tăng cao. Tỉ lệ ngành dịch vụ
vươn lên. Đây là tiền để để huyện chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
tính chất thuần nông sang công nghiệp, tạo cơ sở cho tiến trình
công nghiệp hóa phát triển với những nền tảng cơ sở.
Thực hiện kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ XX, trên lĩnh vực kinh
tế, huyện đã đạt được những thành tựu: kinh tế địa phương không
ngừng tăng trường, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng định
hướng đã tạo tiền đề đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tổng sản phẩm nội địa
tăng trưởng bình quân hằng năm tăng 15,2% (vượt chỉ tiêu). Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ, nông
nghiệp. Đến năm 2005, công nghiệp - xây dựng đạt 52%, dịch vụ
đạt 26%, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản giảm còn 22%. Tổng
sản phẩm nội địa tính theo đầu người có tốc độ tăng trưởng đạt tỷ
lệ 14% (chỉ tiêu 10,9%).
Sản xuất công nghiệp phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng
tăng dần. Khu vực đầu tư các doanh nghiệp trong và ngoài nước
tăng trưởng nhanh, mạnh. Các Khu công nghiệp của huyện đều
có chủ đầu tư và Khu công nghiệp Ông Kèo, cụm tiểu thủ công
nghiệp tiến hành lập dự án. Toàn huyện có 184 dự án đầu tư vào
các khu công nghiệp trên địa bàn, trong đó có dự án lớn của các
tập đoàn Formosa, công ty Hwaseung, trong số đó, 86 dự án đi
vào hoạt động, giải quyết 32.000 lao động. Tiểu thủ công nghiệp
có mức tăng trường bình quân mỗi năm tăng, đạt 101 tỷ đồng vào
cuối năm 2005. Tư những thuận lợi trong môi trường phát triển,
có 190 cơ sở thành lập mới, tiểu thủ công nghiệp của huyện lên
980 cơ sở, kinh doanh nhiều ngành nghề.
374

38.5 Page 375

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Công nghiệp của huyện phát triển vừa thúc đẩy và đặt ra
yêu cầu về đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn đầu
tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của huyện đạt 12.395, 68
tỷ đồng (ngân sách 534 tỷ đồng, đầu tư nước ngoài 11.861,68 tỷ
đồng). Hạ tầng trung tâm huyện được đầu tư trong giai đoạn hoàn
chỉnh với cơ sở hạ tầng khang trang, đáp ứng nhu cầu làm việc
của bộ máy. Các công trình xây dựng trọng điểm: Trung tâm văn
hóa huyện, Đài Phát sóng, Trường cấp II Long Tân, trường Mẫu
giáo Phú Hữu, các trung tâm văn hóa xã các xã, trụ sở Ủy ban
nhân dân các xã được đưa vào sử dụng. Hệ thống giao thông, cầu
cống được đầu tư nâng cấp, mở rộng, gia cố (trục đường số 1,2 và
25C, hương lộ 19, 25B, cầu Giang Lò, cầu Cháy, cầu Láng Cát,
cầu Vàm Mương, cầu Vũng Gấm). Từ nguồn xã hội hóa, 40 km
đường giao thông nông thôn các khu vực xóm, ấp được xây dựng,
chỉnh trang. Mạng lưới điện quốc gia trên địa bàn huyện phát triển
thêm 130 km, cùng với việc đầu tư chiếu sáng trên các trục lộ giao
thông. Số hộ sử dụng điện đạt tỷ lệ 92%/số hộ dân. Mạng lưới
thông tin phát triển, đáp ứng nhu cầu của người dân trong sử dụng,
đạt 12.000 máy (tỷ lệ 10 máy/100 dân).
Sự phát triển mạnh của công nghiệp trên địa bàn có ảnh hưởng
tích cực đối với thương mại, dịch vụ. Mạng lưới mua bán ở các địa
bàn hình thành nhiều với sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Kinh doanh cá thể tăng lên, đạt 3.775 hộ. Một số chợ được cải tạo
mặt bằng (Phước Thiền, Phước Khánh), xây mới, quy hoạch (Cát
Lái, Đại Lộc, Hiệp Phước, Long Thọ). Hình thành 33 dịch vụ kinh
doanh, cung ứng xăng dầu trên các tuyến giao thông, đáp ứng nhu
cầu của người dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ của huyện
tăng trưởng hàng năm, đạt 17,5% (chỉ tiêu 15,65%). Hoạt động
ngân hàng phát triển trên cả hai lĩnh vực huy động và cho vay vốn
sản xuất, kinh doanh và nhiều chương trình dân sinh khác.
375

38.6 Page 376

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Nguồn thu ngân sách của huyện tăng mỗi năm và sự điều
phối ngân sách đảm bảo cho đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật
và phát triển kinh tế, xã hội. Huyện trình Chính phủ về điều chỉnh
quy hoạch thành phố mới Nhơn Trạch (khu đô thị 10.000 héc ta,
hoàn thành chi tiết 6 khu công nghiệp tập trung 2.700 héc ta, khu
công nghiệp Ông Kèo 800 héc ta, cụm tiểu thủ công nghiệp 100
héc ta). Huyện triển khai 03 khu đô thị mới tại Long Thọ, Phước
An (diện tích quy hoạch 508 héc ta).
Trên lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất gắn với phát triển và
xây dựng nông mới, cải thiện đời sống người dân. Diện tích gieo
trồng có xu hướng giảm do quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp, tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi được chú trọng với đặc điểm từng vùng, đáp ứng
yêu cầu thị trường (chuyển đổi 1.669 héc ta đất năng suất thấp
sang trồng mía, nuôi trồng thủy sản; cải tạo 160 héc ta cây ăn trái).
Huyện tập trung đầu tư phát triển các vùng nông sản hàng hóa tập
trung cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến (hình thành
vùng chuyên canh mía 2.100 héc ta, 214 héc ta dứa,1.500 héc ta
mì, 1.700 héc ta lúa đặc sản). Công tác thủy lợi được đẩy mạnh
với sự đầu tư hệ thống đê, đập, bờ bao kênh vùng ông Kèo, bê tông
hóa đập Vũng Gấm, xây dựng cầu cống Câu Kê, Rạch Cá, Phú
Hữu, Người dân các vùng sông, rạch đầu tư nuôi thủy sản tăng
mạnh (1.497 héc ta) với hình thức chọn con giống cho giá trị cao
(tôm sú, tôm càng xanh) với phương thức thâm canh, quảng canh
cải tiến. Về lâm nghiệp, bên cạnh giao đất phát triển công nghiệp,
ngành làm tốt công tác bảo vệ, trồng mới 35 héc ta rừng tập trung,
khai thác lâm sản phù hợp.
Huyện xây dựng mô hình phát triển mới với 16 tổ hợp tác
kinh tế và 06 HTX được chủ động trong hoạt động. Song song
376

38.7 Page 377

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
với phát triển công nghiệp, nông nghiệp, công tác bảo vệ môi
trường được chú trọng; trong đó, thành lập 01 HTX dịch vụ môi
trường thu gom rác thải trong khu dân cư và các xã gần khu công
nghiệp.
Trong kế hoạch từ năm 2000 đến năm 2005, cơ cấu kinh tế,
công nghiệp - xây dựng của địa phương phát triển nhanh nhưng
dịch vụ chưa tương xứng. Diện tích sản xuất nông nghiệp giảm
nhưng năng suất và tổng giá trị sản xuất của nông, lâm, thủy sản
của huyện tăng.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Khi tách huyện, cơ sở và nguồn nhân lực của huyện còn
thiếu và yếu. Đến năm 1996, tổ chức ngành văn hóa được kiện
toàn. Hoạt động văn hóa thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của
địa phương và góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa đối với
nhân dân. Đài Phát thành huyện và 9 xã được đầu tư xây dựng,
góp phần tích cực trong truyền thông đường lối, chủ trương, chính
sách đến với nhân dân. Trong sự phát triển khá mạnh ở xã hội các
loại hình giải trí, ngành văn hóa đã tổ chức nhiều chương trình
hội thi, hội diễn, thể thao thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia,
hưởng ứng. Những vụ việc vi phạm về hoạt động văn hóa trên địa
bàn kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý. Cuộc vận động thực hiện
nếp sống văn minh, gia đình văn hóa được phát động rộng rãi đến
các đơn vị, cơ quan và nhân dân địa bàn cơ sở. Hoạt động bảo tồn
di sản văn hóa được chú trọng, hiệu quả. Một số di tích, địa điểm
liên quan đến lịch sử, văn hóa, truyền thống đấu tranh cách mạng
ở địa phương được tiến hành xác minh, lập hồ sơ khoa học, xây
dựng bia tưởng niệm. Trong giai đoạn này, xã Long Thọ được nhà
nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.
377

38.8 Page 378

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Sự nghiệp giáo dục của huyện được hỗ trợ từ các cấp để
nâng cấp, mở rộng về cơ sở vật chất, phòng học, trang thiết bị
do mới tách huyện. Nguồn vốn từ tỉnh đã đầu tư rất lớn cho việc
xây dựng trường lớp, đáp ứng cho 21.697 học sinh các cấp vào
cuối năm 1995. Đội ngũ giáo viên các cấp không chỉ được tăng
cường về số lượng (710 cán bộ, giáo viên) mà còn nâng cao về
chất lượng. Giáo viên được tuyển dù chưa đầy đủ nhưng đáp ứng
những yêu cầu về chuẩn hóa đội ngũ; đồng thời, huyện tiến hành
liên kết đào tạo giáo viên tại chỗ kịp thời chuẩn hóa về chuyên
môn. Một số địa bàn xã vẫn còn tình trạng cơ sở vật chất tạm bợ,
trường hợp học ca ba, chưa được đầu tư nhưng nhìn chung, lĩnh
vưc giáo dục có những chuyển biến tích cực. Có 7/12 xã đạt chuẩn
quốc gia về xóa mù chữ và tiếp tục thực hiện phổ cập cấp I trên
địa bàn huyện.
Công tác chăm lo sức khỏe cho người dân được thường
xuyên duy trì. Trong giai đoạn này, các trạm xá ở xã hoạt động tốt;
trong đó giải quyết vấn đề khan hiếm thuốc bằng sự phối hợp hiệu
quả mạng lưới tổ y dược học dân tộc được thành lập ở các địa bàn.
Từ sự hỗ trợ của ngành y tế tỉnh, huyện thực hiện tốt các chương
trình y tế cộng đồng, phòng chống dịch bệnh, tiêm chủng mở rộng
đối với trẻ em, tuyên truyền thực hiên kế hoạch hóa gia đình. Tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên của huyện giảm tích cực còn 1,92% năm
1995.
Trên cơ sở kế thừa trong hoạt động của huyện trước năm
1994, huyện thống kê, rà soát và tiếp tục thực hiện các hoạt đông
trong công tác chính sách xã hội. Toàn huyện có 25/67 bà mẹ Việt
Nam anh hùng còn sống, 33 bà mẹ liệt sĩ trong hoàn cảnh khó
khăn. Huyện tiến hành vận động từ nhiều nguồn để hỗ trợ, nhận
phụng dưỡng, chăm sóc các bà mẹ. Tiếp tục duy trì các hoạt động
378

38.9 Page 379

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tìm kiếm, và quy tập mộ liệt sĩ về nghĩa trang bởi địa bàn huyện
có nhiều địa điểm xảy ra chiến tranh ác liệt, có sự hy sinh của cán
bộ, chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ chưa được phát
hiện. Từ nhiều nguồn vận động xã hội, huyện xây dựng, bàn giao
59 nhà tình nghĩa, trao 49 sổ tiết kiệm cho đối tượng chính sách.
Thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo, huyện huy động nguồn
vối xã hội, với nguồn ngân sách giải quyết cho 1.284 hộ/4.744
gia đình trong diện vay vốn. Từ nguồn vốn này, nhiều hộ gia đình
thoát nghèo. Huyện giải quyết, giới thiệu, tạo điều kiện việc làm
cho gần 2.000 người.
Đến năm 2000, sự nghiệp văn hóa, giáo dục và y tế có những
bước phát triển tích cực, góp phần nâng cao dân trí, chăm lo bồi
dưỡng nhân tố con người. Bộ máy nguồn nhân lực ngành văn hóa,
thể thao được kiện toàn các cấp, các thiết chế cơ bản cấp huyện
được đầu tư xây dựng. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao đi
vào chiều sâu, phát huy hiệu quả tính giáo dục truyền thống, phục
vụ thiết thực nhiệm vụ của địa phương, đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần của người dân. Ngoài cơ sở vật chất, trang thiết bị, xuất
bản phẩm cấp huyện, một số thư viện trên địa bàn được đưa vào
hoạt động. Bên cạnh hệ thống trang thiết bị truyền thanh từ huyện
đến xã được đầu tư; trong giai đoạn này, hình thành mạng lưới các
điểm bưu điện văn hóa xã, cung cấp nhu cầu thông tin kịp thời ở
địa bàn cơ sở. Các phong trào văn hóa, thể thao được phát động
rộng rãi, đặc biệt, phong trào thực hiện nếp sống văn minh, gia
đình văn hóa được duy trì đến địa bàn dân cư, người dân hưởng
ứng, đăng ký, tham gia (80% số hộ gia đình của các xã đăng ký,
trong đó tỷ lệ công nhận đạt 74,6%). Về xây dựng mô hình văn
hóa cấp ấp được thực hiện, có 12/16 ấp được công nhận ấp văn
hóa điểm của huyện. Trong công tác bảo tồn di sản, từ sự quan
tâm của tỉnh, hỗ trợ trong và ngoài tỉnh, công trình Đền thờ liệt
379

38.10 Page 380

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
sĩ, Tượng đài Chiến sĩ đặc công Rừng Sác hoàn thành, đưa vào sử
dụng, góp phần giáo dục hiệu quả cho các tầng lớp nhân dân, đặc
biệt thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh cách mạng của cha ông
trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.
Ngành giáo dục phát triển khá toàn diện, đội ngũ giáo viên
đảm bảo chất lượng với 880 giáo viên, đáp ứng yêu cầu các cấp
học, thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Hệ thống trường lớp được
tu bổ và xây dựng mới (187 phòng học các cấp). Bên cạnh đầu
tư ngân sách nhà nước, nguồn xã hội hóa thực hiện để đầu tư xây
dựng phòng học bổ sung đã giải quyết tình trạng thiếu phòng và
học ca ba. Tại xã Phước Thiền, huyện hoàn thành xây dựng trường
Trung học phổ thông, đáp ứng yêu cầu cho số lượng học sinh tăng
trong mỗi năm của cấp học này, đồng thời tạo thuận lợi trong
việc học tập cho các xã xa trung tâm huyện. Số lượng học sinh
các cấp ngày càng tăng nhưng huyện vẫn đảm bảo điều kiện học
tập (97,8% trẻ em trong độ tuổi lớp đầu cấp tiểu học, 23.538 học
sinh phổ thông và 2.241 trẻ em học mẫu giáo). Toàn huyện hoàn
thành mục tiêu xóa mù chữ, phổ cập tiểu học (năm 1998) và tiếp
tục nhiệm vụ phổ cập trung học cơ sở (7/12 xã hoàn thành cuối
năm 2000).
Hệ thống cơ sở vật chất của huyện, xã được đầu tư cùng với
sự tăng cường đội ngũ thầy thuốc. Trung tâm y tế huyên được xây
dựng, đưa vào sử dụng với 40 giường bệnh, 50 y bác sĩ. Các trạm
y tế đầy đủ đội ngũ thầy thuốc, có 9/12 trạm ở xã có bác sĩ phụ
trách. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên, đáp ứng cho
nhu cầu chăm lo sức khỏe, điều trị bệnh của nhân dân địa phương.
Các phong trào, chương trình y tế được thực hiện, hướng đến các
đối tượng xã hội, các khu dân cư: tiêm phòng, chủng ngừa bệnh
trẻ em, chống suy dinh dưỡng, phòng chống sốt rét, lao, vệ sinh
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
môi trường, sử dụng nước sạch và các bệnh dịch. Chương trình
dân số, kế hoạch hóa gia đình triển khai toàn diện, giảm tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên đến năm 2000 còn 1,49%.
Các chính sách xã hội được thực thi tốt trên toàn địa bàn.
Thông qua các chương trình lồng ghép, mục tiêu và các nguồn
vốn, hoạt đông trung tâm dịch vụ việc làm giới thiệu nhiều viêc
làm phù hợp, đặc biệt đối với nguồn lao động thanh niên tại địa
phương. Nguồn vốn xóa đói giảm nghèo được sử dụng hiệu quả,
trong đó giải quyết nạn thất nghiệp (7.450 trường hợp), tạo điều
kiện mưu sinh. Những chính sách xã hội đem lại hiệu quả: giải
quyết tình trạng hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo (5.019 hộ năm 1995
xuống còn 1.049 hộ năm 2000), nâng tỷ lệ hộ có mức sống cao (hộ
có điều kiện sử dụng điện, ti vi, xe máy, nhà kiên cố...). Đối tượng
diện chính sách: Bà mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ liệt sĩ, thương
bệnh binh, gia đình có công được quan tâm chăm sóc bằng nhiều
hình thức thiết thực. Từ sự hỗ trợ tỉnh, huyện tập trung xây dựng,
trao tặng 302 nhà tình nghĩa, 185 sổ tiết kiệm, phụng dưỡng 23
trường hợp Bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ nâng cao mức
sống 145 gia đình chính sách. Đến năm 2000, huyện làm hồ sơ
và có thêm 04 xã được trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực
lượng vũ trang, nâng tổng số lên 7/12 xã. Đây là niềm tự hào trong
truyền thống đấu tranh cách mạng và cũng là động lực để huyện
tiếp tục thực hiện tốt công tác chính sách, hậu phương quân đội.
Năm 2005, ngành văn hóa hoạt động hiệu quả với sự đầu
tư xây dựng các thiết chế cấp huyện (trung tâm văn hóa huyện,
đài truyền thanh, 04 trung tâm văn hóa - thông tin xã), kiện toàn
nhân sự trong ngành đến các cấp xã về biên chế. Hoạt động văn
hóa ngày càng đa dạng với nhiều phong trào thiết thực (hội thi,
hội diễn văn nghệ, thể dục thể thao, ...) phục vụ quần chúng, công
381

39.2 Page 382

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
nhân. Công tác tuyên truyền được tổ chức rộng khắp đến các xã,
các địa bàn dân cư, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị. Phong trào nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa được phát động sâu rộng, đem lại
hiệu quả. Toàn huyện có 98,69% số hộ dân đăng ký tham gia, tất
cả 53 ấp đăng ký thực hiện ấp văn hóa (có 40 ấp được công nhận
danh hiệu). Toàn huyện có 7 thư viện, số lượng xuất bản phẩm
được tăng cường, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Công tác bảo
tồn di sản văn hóa được quan tâm. Từ nguồn đầu tư các cấp và của
huyện, khu di tích địa đạo Phước An được trùng tu, tôn tạo, khu
công viên tưởng niệm Giồng Sắn được mở rộng, đền thờ liệt sĩ
huyện được nâng cấp, tôn tạo. Hướng đến mở rộng nhu cầu phục
vụ nhân dân, đặc biệt tuổi trẻ, huyện hoạch định thực hiện công
trình Thế giới tuổi thơ.
Ngành giáo dục phát triển trên nhiều mặt. Cơ sở trường lớp
được đầu tư xây dựng (xây mới: trường trung học cơ sở Phước
Thiền, Long Tân, trường mẫu giáo Phú Hữu và 58 phòng học, sửa
chữa nâng cấp 25 phòng học và 14 công trình phụ). Toàn huyện có
12 trường phổ thông kiên cố, đầu tư trang thiết bị dạy học. 12 xã
của huyện đều có trung tâm học tập cộng đồng. Đội ngũ giáo viên
được bổ sung về số lượng (1.042 người), trình độ chuyên môn
được nâng cao và chuẩn hóa, đạt tỷ lệ 91%. 100% các trường đều
bố trí đủ giáo viên, không còn tình trạng học ca ba. Chất lượng
giáo dục các cấp được nâng cao, đạt hiệu quả về huy động học
sinh, tỷ lệ tốt nghiệp và học sinh đậu các trường cao đẳng, đại
học tăng lên. Công tác xóa mù được duy trì hiệu quả, phổ cập cấp
trung học cơ sở tại các trường địa bàn xã. Trường tiểu học Phước
Thiền 1, trung học cơ sở Phước Thiền đạt chuẩn quốc gia.
Mạng lưới y tế của huyện được tăng cường, củng cố từ đội
ngũ thầy thuốc và sự đầu tư cơ sở (xây mới trạm y tế xã Đại
382

39.3 Page 383

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Phước, Hiệp Phước), trang thiết bị khám, chữa bệnh. Tất cả các
trạm ở xã đều có biên chế bác sĩ, 100% các ấp có nhân viên y tế.
Có 7/12 trạm y tế được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng
khám, chữa, điều trị bệnh được nâng cao về chất. Các chương
trình y tế quốc gia, phòng chống sốt rét, lao, phòng dịch, chăm sóc
sức khỏe trẻ em, chống suy dinh dưỡng... được thực hiện hiệu quả.
Công tác phòng bệnh gắn với vận động nhân dân tích cực tham gia
bảo vệ môi trường. Chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình
tiếp tục triển khai sâu rộng, phối hợp với tổ chức hội Phụ nữ các
cấp đem lại kết quả. Từ nhận thức đúng và đảm bảo cho điều kiện
sống, phụ nữ hưởng ứng góp phần làm giảm tỷ lệ gia tăng dân số
tự nhiên (đạt 1,14%).
Chính sách xã hội được quan tâm, duy trì. Thông qua các
chương trình mục tiêu, nguồn vốn ngân sách, xã hội hóa, huyện
giải quyết hiệu quả việc làm cho người lao động (22.000 lao động),
xóa hoàn toàn hộ đói, giảm hộ nghèo (từ 1.049 hộ còn 584 hộ cuối
năm 2005). Các đối tượng chính sách ở địa phương được chăm lo
(xây dựng trao tặng 62 nhà tình nghĩa, 594 nhà tình thương, sửa
chữa 182 nhà gia đình khó khăn).
Sự nghiệp văn hóa, xã hội, giáo dục và y tế tiếp tục phát
triển đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần, trình độ dân trí của
nhân dân trên địa bàn. Công tác giải quyết việc làm, thực hiện các
chương trình xóa đói giảm nghèo, chăm lo đối tượng chính sách,
chăm sóc sức khỏe người dân đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
- Tổ chức Đảng, hệ thống chính trị
Khi thành lập Đảng bộ lâm thời, Ban Chấp bắt tay vào công
việc với những nhiệm vụ: Tập trung xây dựng bộ máy lãnh đạo,
hệ thống chính trị, quản lý nhà nước; kiện toàn tổ chức phù hợp
với thực tiễn, phân công nhiệm vụ, chỉ đạo xây dựng bộ máy chính
383

39.4 Page 384

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
quyền, các đoàn thể trên cơ sở kế thừa và xây dựng mới, chỉ đạo
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Huyện ủy xác định
công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Công tác giáo
dục chính trị tư tưởng được quan tâm hàng đầu với việc tổ chức
học tập, quán triệt nghị quyết các cấp, thực hiện từ huyện xuống
xã. Hầu hết cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân thống nhất
với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, ra sức khắc phục
khó khăn, đoàn kết để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, phát
triển huyện. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên uốn nắn kịp thời những
lệch lạc về nhận thức, mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Năm
1996, Đảng bộ huyện kiện toàn 34 tổ chức đảng cơ sở gồm 573
đảng viên. Huyện ủy xây dựng quy chế làm việc, tập trung khắc
phục những cấp ủy xã còn hạn chế ở Phước Khánh, Phú Thạnh,
Long Tân, Hiệp Phước. Hoạt động kiểm tra được duy trì, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách đã tạo nên những chuyển biến tích cực từ cơ sở. Kỷ luật
được thực hiện nghiêm minh, xử lý các trường hợp đảng viên vi
phạm (03 khiển trách, 03 cảnh cáo, 02 cách chức; 09 xóa tên, 01
đình chỉ sinh hoạt, 03 công nhận sửa chữa khuyết điểm 03; trong
đó có 03 Huyện ủy viên). Đảng bộ huyện phát triển được 35 đảng
viên mới, tiếp tục đào tạo bồi dưỡng tạo nguồn cho 77 đối tượng
trung kiên. Cán bộ, đảng viên chủ chốt được bồi dưỡng nâng cao
trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ (05 cử nhân chính trị,
04 cử nhân xây dựng Đảng, 03 cử nhân luật, 02 cao cấp chính trị,
45 trung cấp chính trị, pháp lý).
Đại biểu HĐND từ huyện đến được củng cố và nâng cao
chất lượng trong hoạt động giám sát. Bộ máy chính quyền đi vào
hoạt động dù có những khó khăn nhưng đã có những tiến bộ trên
các mặt, trong đó thực thi quản lý, điều hành nhà nước đi vào quy
củ, tuân thủ pháp luật, cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương trong
384

39.5 Page 385

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thực hiện ở địa bàn, cải tiến về phương pháp, giảm thủ tục phiền
hà cho nhân dân. Công tác tiếp thu ý kiến nhân dân được duy trì,
giải quyết kịp thời các yêu cầu chính đáng của quần chúng.
Mặt trận và các đoàn thể được quan tâm củng cố về tổ chức
trong thời kỳ thành lập huyện. Hoạt động của đoàn thể bám sát
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đồng thời tuân thủ theo sự chỉ
đạo của ngành dọc cấp trên, đổi mới về nội dung, phương pháp
vận động và hình thức tập hợp quần chúng. Sức mạnh của khối
đại đoàn kết được phát huy tốt trong công tác tuyên truyền đường
lối, chính sách của Đảng, nhà nước, xây dựng chính quyền, thực
hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội ở địa phương. Liên đoàn lao động
tích cực thành lập 13 tổ chức cơ sở trong thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh trên địa bàn với 60 đoàn viên. Đoàn Thanh niên củng
cố tổ chức, xây dựng mô hình mới về cách thức, tập hợp thanh
niên: thành lập sinh hoạt theo sở thích, theo nghề nghiệp. Trong
lao động sản xuất, mô hình tổ khuyến nông (hướng dẫn kỹ thuật,
cung cấp vật tư...) góp phần thúc đẩy phong trào sản xuất ở nông
thôn. Các phong trào Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ giữ nước
phát động rộng rãi, thu hút nhiều người tham gia kết hợp với các
dự án giải quyết việc làm, giúp thanh niên khởi nghiệp, làm kinh
tế nông thôn. Hội Liên hiệp phụ nữ kiện toàn tổ chức đến các xã,
hình thành các tổ, nhóm hoạt động hiệu quả trong các chương
trình: Phụ nữ tiết kiệm, tổ tương trợ, xây dựng giúp nhau làm kinh
tế gia đình...Hội Nông dân phát triển mạnh, có 58 chi hội cơ sở với
hoạt động thiết thực qua vận động giúp nhau, tương trợ về vốn,
hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Hội Cựu
chiến binh song song với việc thực hiện nhiệm vụ chính đã làm tốt
công tác phối hợp với các đoàn thể, tổ chức học tập, tuyên truyền
giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, gương mẫu trong việc giữ gìn
an ninh trật tự xóm ấp, làm nòng cốt chính sách hậu phương quân
385

39.6 Page 386

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
đội, vận động tuyên truyền làm tốt nghĩa vụ quân sự. Hội Phụ lão
chuyển thành Hội Người cao tuổi. Hội Chữ thập đỏ làm tốt công
tác nhân đạo. Sự năng động trong hoạt động và phối hợp giữa các
đoàn thể đã tạo nên mạng lưới cơ sở tốt, đặc biệt trong giai đoạn
này, hướng đến địa bàn cơ sở, hình thành các tổ nhóm phù hợp, đã
góp phần trong các phong trào ở địa bàn hiệu quả trong các lĩnh
vực, đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu của địa phương.
Nhiệm kỳ từ 1996 đến năm 2000, Huyện ủy đã tổ chức tập
huấn cho 4.288 lượt cán bộ, đảng viên (cấp ủy: 1.088 người, nhà
nước: 414 người, đoàn thể: 2.786 người). Tổ chức bộ máy các cơ
quan Đảng củng cố, kiện toàn, đổi mới lề lối làm việc và nâng cao
hiệu quả hoạt động. Đặc biệt, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng được phát động, hưởng ứng tích cực đã thể hiện trách nhiệm,
sức chiến đấu của đảng viên và các tổ chức. Những tổ chức yếu
kém được tập trung khắc phục, có những chuyển biến tích cực. Vai
trò các cấp ủy được phát huy trong các hoạt động, lề lối làm việc
và mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chặt chẽ. Đội
ngũ đảng viên phát triển. Hằng năm, cấp ủy xây dựng chỉ tiêu phát
triển và phân bổ đối với từng cơ sở. Trong nhiệm kỳ, phát triển
268 đảng viên, vượt chỉ tiêu đề ra. Đến tháng 7.2000, toàn Đảng
bộ có 39 tổ chức cơ sở với 788 đảng viên. Mỗi năm, công tác đánh
giá đảng viên được thực hiện tốt với các mức đánh giá cụ thể, tạo
ra sự phấn đấu tích cực ở mỗi đảng viên cũng như chuyển biến ở
các tổ chức cấp ủy. Việc xử lý kỷ luật được làm chặt chẽ, kịp thời
(xử lý 58 đảng viên, 02 tập thể với các hình thức khiển trách: 23,
cảnh cáo: 24, cách chức: 06, khai trừ: 05). Công tác kiểm tra Đảng
được duy trì và tăng cường. Cuối năm 2000, có 11 cơ sở Đảng (02
xã, 9 cơ quan) đạt trong sạch, vững mạnh nhiều năm liền.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được phát huy trong việc xây
dựng bộ máy chính quyền, kiện toàn tổ chức các cơ quan, đơn vị
386

39.7 Page 387

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trực thuộc, chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao năng lực điều hành
theo nguyên tắc nhất quán nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hoạt động của HĐND các cấp đi vào chiều sâu, phát huy vai trò
trong giám sát chính quyền thực hiện những Nghị quyết của Đảng
bộ địa phương. Nghị quyết của HĐND cụ thể hóa việc thực hiện
nghị quyết của Đảng bộ huyện, phù hợp với ý chí, nguyện vọng
cử tri, đi vào thực tiễn của cuộc sống. Bộ máy chính quyền được
kiện toàn từ nhân lực và cách thức tổ chức theo hướng cải cách thủ
tục, nâng cao hiệu lực quản lý. Cán bộ trong bộ máy chính quyền
các cấp được quan tâm trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp; đặc biệt, nguồn cán bộ
cấp xã được tạo điều kiện học tập, bồi dưỡng phù hợp để đáp ứng
yêu cầu việc tinh gọn bộ máy, quy hoạch phát triển (toàn huyện có
168 lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng trình độ trung cấp chính
trị, 1.862 lượt bồi dưỡng kiến thức chuyên môn).
Công tác dân vận và hoạt động của mặt trận, các tổ chức
đoàn thể được phát huy tốt trong quá trình xây dựng, thực hiện
nhiệm vụ của huyện. Các đoàn thể đã tập hợp được quần chúng
tham gia tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên (Đoàn Thanh niên
đạt 17,8%, Hội Thanh niên đạt 22,46%, Hội Phụ nữ đạt 38,67%,
Hội Cựu Chiến binh đạt 99,13%, Hội Nông dân đạt 51,20%, Hội
Chữ thập đỏ đạt 20,93%).
Chất lượng hoạt động của các đoàn thể luôn được quan tâm
từ đổi mới nội dung, phương thức với phương châm hướng về cơ
sở. Hoạt động tiêu biểu, hiệu quả của hệ thống chính trị trong việc
vận động nhân dân bầu cử Quốc hội, HĐND 3 cấp. Bên cạnh đó,
sự phối hợp tích cực của mặt trận, đoàn thể với HĐND trong công
tác hòa giải, tham gia giám sát thi hành chính sách, pháp luật, bảo
vệ lợi ích quần chúng. Qua vận động, các tầng lớp nhân dân ở địa
387

39.8 Page 388

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
phương tham gia tích cực các phong trào: xây dựng đời sống khu
dân cư, giúp nhau vượt nghèo, ủng hộ xây dựng nhà tình nghĩa,
nhà tình thương, cấp học bổng cho học sinh, làm đường nông
thôn, vệ sinh môi trường. Vai trò của nhân dân lao động được phát
huy trên các lĩnh vực.
Trong nhiệm kỳ 2000 đến năm 2005, công tác xây dựng
Đảng được chú trọng đẩy mạnh trên cả ba mặt: tư tưởng, chính
trị, đạo đức lối sống và tổ chức nâng cao năng lực lãnh đạo, tinh
thần chiến đấu của cán bộ, đảng viên. Huyện ủy đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, triển khai, quán triệt các nghị quyết của Đảng
kịp thời và hiệu quả. Huyện ủy tổ chức 116 lớp tập huấn, bồi
dưỡng đối với 11.483 lược học viên (hệ Đảng: 6.485 lượt, đoàn
thể: 3.895 lượt, nhà nước: 1.103 lượt). Huyện thực hiện mô hình
“Đảng bộ xã lãnh đạo công tác khoa giáo trong sự nghiệp Công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở tất cả các khối
xã”. Công tác tuyên truyền, giáo dục đã tạo nên chuyển biến tích
cực trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở địa phương.
Công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên được củng cố. Những cơ sở
hoạt động yếu kém được tập trung kiện toàn, nâng cao chất lượng
hoạt động để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện
chặt chẽ, duy trì và giám sát hiệu quả góp phần ngăn chặn sự suy
thoái tư tưởng, đạo đức, tệ tham nhũng, lãng phí và nâng cao nhận
thức, phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên. Công tác cán bộ
làm chặt chẽ theo quy trình trong đào tạo nguồn cán bộ chủ chốt
(xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn A1, A2, A3). Nguồn cán bộ chủ
chốt được luân chuyển phù hợp, tập trung nâng cao tổ chức, kiện
toàn bộ máy những xã trọng yếu. Nguồn cán bộ đảng viên được
đào tạo nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn tăng dần để đáp
388

39.9 Page 389

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ứng yêu cầu nhiệm vụ, chức trách (luân chuyển 45 đồng chí, bổ
nhiệm 63 cán bộ, 10 đồng chí bồi dưỡng cao cấp chính trị, 03 cử
nhân chính trị, 121 trung cấp chính trị, 93 đồng chí học các chuyên
ngành khác trình độ cao đẳng, đại học).
Công tác kiểm tra được duy trì bằng các kế hoạch cụ thể
hàng năm, giúp tổ chức và đảng viên khắc phục những hạn chế,
nhận thức và sửa chữa khuyết điểm, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ
luật trong nội bộ Đảng. Huyện ủy đã xử lý kỷ luật theo đúng quy
định, nghiêm minh 76 trường hợp (khiển trách 24, cảnh cáo 31,
cách chức 5, khai trừ 16) do những sai phạm chủ yếu về làm trái
quy định, vi phạm đạo đưc, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Đồng thời, trong công tác phát triển Đảng, Huyện ủy xây dựng
chỉ tiêu và phân bổ cho từng cơ sở, phát triển 357 đảng viên. Đến
tháng 7.2005, Đảng bộ huyện có 51 tổ chức cơ sở với 1.163 đảng
viên; trong đó có 14 Đảng bộ cơ sở (14 xã, 2 cơ quan). Tổ chức cơ
sở và đảng viên đều được đánh giá hàng năm theo quy định. Các
tổ chức cơ sở Đảng chuyển biến tích cực trong phương thức điều
hành, chất lượng sinh hoạt, giữ vững mối quan hệ hài hòa giữa cấp
ủy với chính quyền và đoàn thể.
Bộ máy chính quyền các cấp từ huyện xuống xã được quan
tâm củng cố trên nhiều mặt, trong đó chú trọng nguồn nhân lực,
cải cách thủ tục hành chính và không ngừng nâng cao hoạt động
của HĐND. Đại biểu HĐND tiếp tục phát huy vai trò trong hoạt
động, công tác giám sát, tìm hiểu và nắm bắt được nguyện vọng
của nhân dân. Nghị quyết của Đảng được cụ thể hóa trong hoạt
động của hội đồng, làm cơ sở cho chính quyền tổ chức, điều hành
đảm bảo những mục tiêu phát triển của địa phương. Bộ máy chính
quyền trong giai đoạn này kiện toàn theo hướng tinh giản biên
chế, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên. Cùng
389

39.10 Page 390

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
với thực hiện quy chế dân chủ, hoạt động của cơ chế “một cửa”
được áp dụng, đem lại những hiệu qua trong cải cách hành chính
đáp ứng yêu cầu và sự hài lòng của người dân với chính quyền.
Ở địa bàn dân cư cơ sở cấp ấp, các quy ước, hương ước phù hợp
được ban hành.
Công tác vận động quần chúng, phát huy khối đại đoàn kết
toàn dân qua mặt trận, các đoàn thể trong thực hiện xây dựng, phát
triển địa phương được đẩy mạnh. Các tổ chức đoàn thể với những
hình thức đa dạng, phù hợp đối tượng thu hút quần chúng tham
gia góp phần đẩy mạnh các phong trào xã hội, thi đua trên địa bàn.
Thành lập một chi đoàn Thanh niên trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Trong nhiệm kỳ, Mặt trận, đoàn thể của huyện
đã thực hiện tốt trong vận động, tuyên truyền người dân hưởng
ứng tích cực, tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội (khóa XI), HĐND
các cấp (2004 - 2009). Đồng thời, phối hợp với các cấp ủy, chính
quyền cơ sở giám sát việc thực thi pháp luật, tuyên truyền pháp
luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, làm tốt công tác hòa
giải, đóng góp nghĩa vụ ở địa phương.
- Lĩnh vực an ninh quốc phòng
Trong hai năm đầu khi tách huyện, tình hình an ninh, chính
trị, trật tự xã hội của huyện được ổn định, góp phần đảm bảo việc
phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Lực lượng vũ trang, an
ninh được học tập quán triệt, giáo dục về giữ vững tinh thần, kiên
định lập trường và sẵn sàng bảo vệ cách mạng, chống diễn biến
hòa bình của các thế lực thù địch. Ngành công an nắm chắc tình
hình, tham mưu kịp thời trong xử lý, giải quyết các vấn đề xã hội,
điểm nóng gây xáo trộn xã hội. Đồng thời, phối hợp với các cơ
quan chức năng, giải quyết tốt các vụ việc xâm phạm tài sản nhà
nước, tội phạm hình sự, vi phạm kinh tế và các tệ nạn xã hội. Đặc
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
biệt, an ninh huyện đã phối hợp với ngành cấp trên, triệt phá băng
nhóm cướp ở xã Phú Đông. Những phát hiện, xử lý kịp thời của
lực lượng an ninh đem lại hiệu quả ổn định ở địa bàn dân cư.
Tổ chức huyện đội được kiện toàn, duy trì tinh thần sẵn sàng
chiến đấu cao. Các xã hình thành Ban Chỉ huy xã đội với biên chế
đầy đủ, thực hiện đúng vai trò, chức năng và nhiệm vụ được giao
trên địa bàn cơ sở. Lực lượng vũ trang huyện thực hiện diễn tập
các kế hoạch phòng thủ với các phương án A1, A2 trên địa bàn đạt
yêu cầu. Công tác tuyển quân hằng năm luôn đạt chỉ tiêu, trong 2
năm, huyện tuyển 185 thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự. Trên
địa bàn huyện, có các đơn vị vũ trang của tỉnh, quân khu thuộc các
binh chủng đóng quân, có sự phối hợp chặt chẽ trong phòng thủ,
vận động nhân dân tham gia thế trận quốc phòng toàn dân, thực
hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Công tác huấn luyện cho
các lực lượng vũ trang địa phương được duy trì (1.658 dân quân
chiến đấu, 510 dân quân tự vệ và các lực lượng khác). Thế trận
an ninh, quốc phòng của huyện được xây dựng tốt. Công tác xây
dựng lực lượng vũ trang tiến hành đều khắp ở địa bàn cấp xã, các
cơ quan, đơn vị, xí nghiệp đạt tỷ lệ 1,4% so với dân số và 22% với
công, nhân viên. Mạng lưới an ninh nhân dân phát huy hiệu quả:
xây dựng 53 đội dân phòng, 624 tổ an ninh nhân dân.
Trong nhiệm kỳ 1996 - 2000, an ninh quốc phòng của huyện
được bảo đảm vững chắc, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng
cường, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Lực
lượng vũ trang huyện thực hiện tốt nắm chắc tình hình, điều chỉnh,
bổ sung các phương án, hoàn chỉnh kế hoạch bảo vệ địa bàn, xây
dựng huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc của tỉnh. Chủ
trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh
nhân dân được quán triệt, đầy đủ trong lực lượng vũ trang và thực
391

40.2 Page 392

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
hiện tổ chức trên khắp các địa bàn đáp ứng yêu cầu đề ra. Lực
lượng dân quân tự vệ được xây dựng (dân quân đạt tỷ lệ 2,97%,
tự vệ đạt 39%). Ban Chỉ huy xã đội được nâng chất lượng, trong
đó tiêu chí Chỉ huy trưởng là đảng viên đạt 100%, xã đội phó đạt
80%, đảng viên trong khối tự vệ đạt 19%. Tất cả các lực lượng vũ
trang, bán vũ trang duy trì chế độ huấn luyện, nâng cao trình độ,
tinh thần sẵn sàng chiến đấu. Các kế hoạch phòng thủ, tác chiến
đối với cấp xã cấp trên phê duyệt và thực hiện tốt. Công tác tuyên
quân hằng năm đạt chỉ tiêu. Trong giai đoạn này, huyện quản lý,
đưa vào biên chế lực lượng dự bị động viên đạt 76,6% chỉ tiêu cấp
trên giao.
An ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững
dù có những tác động tiêu cực do khó khăn trong quản lý địa bàn
giáp ranh với các khu vực lân cận. Với tinh thần chủ động phòng
ngừa, đấu tranh ngăn chặn từ đầu, lực lượng công an đã bám sát
tình hình cơ sở. Phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc được phát động
rộng khắp địa bàn dân cư, mạng lưới an ninh nhân dân ở cơ sở với
676 tổ luôn duy trì, 62 đội dân phòng góp phần trong nắm bắt kịp
thời tin tức, ngăn chặn ngay các thế lực phản động lợi dụng tình
hình thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, chống xâm phạm an
ninh quốc gia. Trong 5 năm, an ninh huyện làm rõ 400/596 vụ vi
phạm pháp luật (xử lý theo pháp luật 595 đối tương, xóa 11 điểm
tệ nạn mãi dâm, vận động 70 đối tượng bị truy nã đầu thú).
Các cơ quan bảo vệ pháp luật củng cố nhân lực về số lượng,
nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn. Hoạt động tư pháp bắt
giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực thi, có tác dụng trong
răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm trên các lĩnh vực. Ngành
thanh tra hoạt động, tham mưu hiệu quả trong tình hình xã hội có
nhiều khiếu tố khiếu kiện ở các lĩnh vực của đời sống (giải quyết
392

40.3 Page 393

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
1.494/1.519 đơn khiếu tố, thực hiện 49 cuộc thanh tra, phát hiện
và truy hồi tài sản vi phạm trong các vụ việc).
Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều chuyển
biến, tác động trên nhiều mặt khi đất nước hội nhập, thực hiện
“Chiến lược an ninh quốc gia”, “Chiến lược bảo vệ đất nước trong
tình hình mới”1, huyện tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xuyên suốt lực
lượng an ninh, vũ trang của địa phương. Lực lượng vũ trang kịp
thời điều chỉnh, bổ sung các phương án chiến đấu, tổ chức tốt huấn
luyện, diễn tập các kế hoạch A1, A2 ở cấp huyện, xã. Chú trọng
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 2,55% tổng số dân;
quản lý, đưa vào hoạt động biên chế lực lượng dự bị đạt 100%.
Tuyển quân hằng năm đều duy trì đạt và vượt chỉ tiêu về số lượng
và chất lượng (tình nguyện nhập ngũ 86,42%, đảng viên tham gia
8,05%, đoàn viên 82,85%).
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn
định. Ngành công an chủ động xây dựng kế hoạch, phương án
phòng chống các vụ bạo loạn nhằm lật đổ, chống phá chính quyền.
Công tác phòng ngừa vi phạm an ninh từ địa bàn cơ sở được duy
trì, đặc biệt với các địa bàn dễ nảy sinh điểm nóng, gây rối tình
hình. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc
được phát động, người dân hưởng ứng tích cực, trong đó, thu thập,
phát hiện nguồn tin từ cơ sở trong việc phòng ngừa tệ nạn xã hội
đem lại hiệu quả. Dù có những khó khăn trong bảo vệ các khu
công nghiệp do đặc điểm dân cư đa dạng, phức tạp nhưng huyện
đảm bảo sự ổn định trong an ninh vùng cư trú, an ninh xã hội tạo
sự tin tưởng về ổn định chính trị đối với các nhà đầu tư. Trong 5
năm, huyện đã phát hiện, giải quyết kịp thời 41 vụ việc vi phạm
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, 67 vụ việc về an ninh nông
1  Nghị quyết 08 của Bộ Chinh trị (khóa VIII) và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX).
393

40.4 Page 394

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
thôn, giải quyết 18 vụ đình công, 415/615 vụ phạm pháp hình sự,
truy bắt 21 đối tượng truy nã.
Hoạt động của các cơ quan pháp luật có những bước chuyển
biến tich cực từ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/TW1
của Bộ chính trị. Chất lượng công tác tư pháp được nâng cao, sự
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, xây dựng quy chế phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng (giam giữ, điều tra, xét xử, thi hành án).
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được triển khai rộng rãi
trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân qua nhiều hình
thức phù hợp (tuyên truyền trực tiếp 124.444 cán bộ, viên chức,
người lao động, nhân dân); đồng thời tiếp 2.833 lượt khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, giải quyết 1.760/1.813 đơn. Trong 5 năm đầu thế
kỷ XXI, huyện Nhơn Trạch đã làm tốt công tác quốc phòng, an
ninh, trật tự xã hội được giữ vững, ổn định, pháp chế xã hội chủ
nghĩa được phát huy, góp phần quan trọng trong xây dựng, phát
triển địa phương.
Từ năm 1994 đến năm 2000, tình hình thế giới có sự biến
động về chính trị trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; có
khủng hoảng kinh tế thế giới, khu vực chấu Á bị tác động mạnh,
có nhiều xung đột lợi ích quốc gia và khu vực; tình hình ấy tác
động, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển ở địa phương. Nhơn
Trạch phải vượt qua những khó khăn để phát triển. Năm 2000, khi
đất nước bắt đầu tiến trình hội nhập sâu rộng, huyện Nhơn Trạch
có sự chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp - dịch vụ và
nông nghiệp; đặc biệt là sự thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài tăng
mạnh trong phát triển. Cơ cấu kinh tế của Nhơn Trạch chuyển sang
mô hình công nghiệp xây dựng - nông nghiệp - dịch vụ với tỉ lệ
cân đối. Kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ XXI với những bước đi mang
1  Nghị quyết 08 /TW của Bộ Chinh trị (01.01.2002) về Cải cách tư pháp.
394

40.5 Page 395

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tính đột phá, linh hoạt trong lãnh đạo, điều hành đã đem lại những
thành quả trong phát triển của Nhơn Trạch, tạo nên những thuận
lợi cho giai đoạn phát triển mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch, giai đoạn 10 năm tái thành lập huyện (1994-
2005) là cơ sở đặt nền tảng cho sự phát triển trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa và hội nhập của địa phương; giai đoạn phát
triển trong thời kỳ hội nhập sâu rộng.
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH 2005 - 2015
1. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ
III
Từ ngày 26 - 27.9.2005, Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
lần thứ III được tổ chức được tiến hành với sự tham dự của 160 đại
biểu chính thức đại diện cho 1.862 đảng viên của 64 tổ chức cơ sở
Đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 33 đồng chí1.
Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành khóa III bầu Ban Thường
vụ Huyện ủy gồm 8 đồng chí; trong đó, Phó Bí thư gồm các đồng
chí: Phạm Văn Đức, Quách Hữu Đức, Từ Ngọc Chiếu và các ủy
viên Phạm Thị Kim Dung, Trần Ngọc Khải, Nguyễn Hữu Nghị,
Châu Phước Thuận. Sau Đại hội, Tỉnh ủy quyết định bổ sung đồng
chí Trần Minh Phúc tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, giữ
chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Thị Ánh Hồng và đồng
chí Nguyễn Văn Kim bổ sung tham gia Ban Thường vụ Huyện ủy.
Đại hội bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy gồm 8 ủy viên, do đồng
1  Danh sách Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Phạm Văn Đức,
Quách Hữu Đức, Từ Ngọc Chiếu, Phạm Thị Kim Dung, Trần Ngọc Khải, Nguyễn Hữu
Nghị, Châu Phước Thuận, Dương Thị Mỹ Châu, Lê Mạnh Dũng (bổ sung Ban Thường
vụ 3.2009), Dương Văn Em, Trần Thành Trai, Nguyễn Văn Lo, Nguyễn Thị Ánh Hồng, Bùi
Văn Tuội, Lê Thị Lộc, Bùi Xuân Thống, Phan Thị Hiếu, Nguyễn Thị Hồng Vân, Giang Chí
An, Lê Vân Chính, Nguyễn Văn Kim, Ngô Thanh Hùng, Mai Xuân Chiến, Lê Xuân An,
Phạm Thị Phú, Võ Tấn Đức, Lê Văn Vang, Vi Văn Đức, Cao Văn Tự, Đoàn Văn Le, Trần Văn
Đạo, Huỳnh Minh Phương. Tháng 2.2009, bổ sung Phạm Sỹ Linh.
395

40.6 Page 396

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
chí Phạm Thị Kim Dung làm Chủ nhiệm. Đại hội cũng bầu đoàn
đại biểu 13 đồng chí cùng 1 đồng chí đương nhiên tham dự đại
hội cấp trên.
Từ thực tế của địa phương, Đảng bộ huyện đánh giá cụ thể
trên những thành tựu và hạn chế, tìm những nguyên nhân, yếu tố
tác động trong kế hoạch 5 năm trước, Đảng bộ huyện xác định
phương hướng trong giai đoạn 2005 - 2010: “Tiếp tục thực hiện
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp
hóa. Tập trung sức cho việc phát triển Nhơn Trạch bước đầu cơ
bản trở thành thành phố mới, là đô thị loại 2 vào năm 2010, có
công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp phát triển, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng cao; đồng thời, chuẩn các
tiền đề vật chất để tạo điều kiện thuận lợi cho việc định hình, phát
triển và hoàn thiện thành phố Nhơn Trạch nhằm phấn đấu trở
thành đô thị loại 1 trong các năm tiếp theo. Tạo thêm nhiều việc
làm có trình độ cao cho người lao động và thực hiện tốt công tác
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân. Xây dựng hệ thống chính trị huyện thực sự trong sạch vững
mạnh ngang tầm nhiệm vụ của thời kỳ mới; ngăn chặn có hiệu quả
tệ tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong mọi lĩnh vực để tạo điều
kiện cho đầu tư, phát triển. Tiếp tục phát huy quyền làm chủ của
nhân dân và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc1.
Những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trên từng lĩnh vực được
Đảng bộ huyện đề ra nhằm thực hiện thành công mục tiêu đề ra:
- Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng về nhận thức, tư tưởng
chính trị. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cụ thể hóa đường lối của
Đảng. Tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Đổi mới hoạt động của mặt trận và các đoàn
1  Trích Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch năm 2005.
396

40.7 Page 397

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
thể trong công tác vận động quần chúng, phát huy sức mạnh đoàn
kết dân tộc.
- Phát triển mạnh công nghiệp để làm động lực thúc đẩy phát
triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lao động và phát triển đô thị. Chú
trọng, tạo mọi điều kiện để phát triển tiểu thủ công nghiệp với
nhiều ngành nghề đa dạng.
- Phát triển mạnh hệ thống thương mại - dịch vụ để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội với tốc độ cao. Khuyến khích,
tạo mọi điều kiện phát triển hệ thông dịch vụ trên các lĩnh vực đầu
tư, thương mại để phục vụ tốt sản xuất công nghiệp, nông nghiệp
cũng như phát triển dịch vụ xây dựng đô thị và nông thôn mới, mở
rộng các hoạt động dịch vụ đời sống.
- Tiếp tục tập trung thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn và có bước chuẩn bị chuyển dần nền sản
xuất nông nghiệp nông thôn sang nền nông nghiệp đô thị. Tiếp tục
củng cố mô hình kinh tế hợp tác theo hướng phát huy vai trò kinh
tế hộ, khuyến khích các hộ nông dân tiếp tục phát triển hình thức
kinh tế trang trại.
- Giữ vững ổn định diện tích rừng ngập mặn để làm rừng
phòng hộ, cân bằng môi trường sinh thái cho thành phố Nhơn
Trạch.
- Có kế hoạch khái thác tài nguyên để phục vụ nhu cầu xây
dựng, phát triển kinh tế của địa phương. Hoàn thành cơ bản hệ
thống xử lý nước thải của các khu công nghiệp, khu dân cư đô
thị.
- Thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể được duyệt, làm
tốt công tác xây dựng kế hoạch sử dụng đất, công tác quản lý đô
thị, hệ thống các khu công nghiệp, dân cư, hệ thống giao thông.
397

40.8 Page 398

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
- Tăng cường huy động vốn đầu tư để phát triển sản xuất,
đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Tăng cường công tác quản lý hoạt động văn hóa, thông tin,
thể thao. Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động của các
loại hình văn hóa, văn nghệ phục vụ đời sống tinh thần cho nhân
dân. Tích cực thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát huy các giá trị
di sản văn hóa trên địa bàn.
- Nâng cao chất lượng giáo dục, chuẩn hóa nguồn nhân lực
và đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học để phát triển các
ngành học, cấp học.
- Chú trọng thực hiện phát triển khoa học công nghệ trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi đây là động lực quan
trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa nông thôn.
- Đa dạng hóa các hình thức chăm sóc sức khỏe nhân dân,
tăng cường công tác tổ chức bộ máy ngành y tế, chất lượng đội
ngũ thầy thuốc. Hoàn thành chương trình chuẩn hóa mạng lưới y
tế quốc gia. Nâng cao chất lượng công tác dân số, kế hoạch hóa
gia đình.
- Thực hiện tốt các chính sách của nhà nước dành cho các đối
tượng xã hội, chống tái đói, xóa hộ nghèo và tập trung giải quyết
việc làm cho người lao động.
- Đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội nhằm phục vụ tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ vững chắc đất nước.
Nhằm thực hiện có hiệu quả kế hoạch đề ra, Đảng bộ huyện
bắt tay ngay vào xây dựng nghị quyết về mục tiêu, nhiệm vụ, đánh
giá mỗi năm, rút những bài học kinh nghiệm, đưa ra những giải
398

40.9 Page 399

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
pháp kịp thời trên từng lĩnh vực trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
ở địa phương.
2. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ
IV
Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ IV được tổ chức
từ ngày 15 - 16.7.2010. Tham dự Đại hội có 179 đại biểu chính
thức được bầu cử từ 49 cơ sở Đảng, đại diện cho 2.841 đảng viên
toàn huyện. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 39 đồng
chí1. Ban chấp hành nhiệm kỳ IV bầu Ban Thường vụ Huyện ủy
gồm 13 đồng chí: Đồng chí Phan Thị Mỹ Thanh làm Bí thư, Phó
Bí thư gồm các đồng chí: Quách Hữu Đức, Từ Ngọc Chiếu và các
ủy viên: Phạm Văn Đức, Nguyễn Hữu Nghị, Nguyễn Thị Ánh
Hồng, Dương Thị Mỹ Châu, Dương Văn Em, Lê Mạnh Dũng, Lê
Vân Chính, Nguyễn Văn Kim, Vũ Văn Điền, Châu Phước Thuận.
Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy được Đại hội bầu gồm 7 ủy viên do
đồng chí Dương Thị Mỹ Châu làm Chủ nhiệm. Đại hội bầu đoàn
đại biểu dự Đại hội cấp trên gồm 18 đồng chí.
Đảng bộ huyện đánh giá đầy đủ những thành tựu đạt được
và những hạn chế, yếu kém, đúc kết những bài học kinh nghiệm
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo địa phương thực hiện nhiệm vụ
kinh tế, xã hội, đặt trong bối cảnh mới sau 10 năm thực hiện xây
dựng, phát triển đất nước thời kỳ hội nhập. Tiếp tục kế thừa thành
1  D anh sách 39 Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Phan Thị Mỹ
Thanh, Quách Hữu Đức, Từ Ngọc Chiếu, Phạm Văn Đức, Nguyễn Hữu Nghị, Nguyễn Thị
Ánh Hồng, Dương Thị Mỹ Châu, Dương Văn Em, Lê Mạnh Dũng, Lê Vân Chính, Nguyễn
Văn Kim, Vũ Văn Điền, Châu Phước Thuận, Lê Xuân An, Dương Quốc Bình, Mai Xuân
Chiến, Trần Văn Đạo, Bùi Phước Đức, Huỳnh Minh Đức, Vi Văn Đức, Võ Tấn Đức, Ngô
Minh Hùng, Chung Thị Hương, Lương Hữu Ích, Phan Thị Hiếu, Nguyễn Văn Hồng, Mai
Thanh Hùng, Lê Ngọc Lân, Đoàn Văn Le, Phạm Sỹ Linh, Nguyễn Văn Lo, Lê Thành Mỹ,
Nguyễn Văn Sơn, Trần Thành Trai, Lâm Ngọc Trao, Nguyễn Anh Tuấn, Lương Văn Út, Lê
Văn Vang, Phan Thị Xuân.
399

40.10 Page 400

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
tựu của nhiệm kỳ trước, Đảng bộ huyện xác định mục tiêu trong
giai đoạn 2010 - 2015: “Tập trung huy động các nguồn lực trong
và ngoài địa bàn, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của huyện
để phát triển kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao đi đôi với quan
tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội; bảo đảm ổn định an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ huyện trong giai đoạn phát
triển mới, đẩy mạnh phát triển thành phố Nhơn Trạch đến năm
2020 đạt tiêu chí đô thị loại II và trở thành một trong các trung
tâm công nghiệp, thương mại - dịch vụ, du lịch, giáo dục và đào
tạo và khoa học - công nghệ của tỉnh, của vùng trọng điểm kinh
tế phía Nam1.
Bước vào giai đoạn mới, khi đất nước có những kết quả lớn
trong quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới, Nhơn Trạch có
những thuận lợi nhất định. Với tiềm năng và lợi thế từ thành quả
đã có, địa phương là địa bàn thu hút đầu tư nước ngoài mạnh trong
tỉnh, nhiều ngành, lĩnh vực có chất lượng tăng trưởng tốt, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng có cơ sở nền tảng cho phát
triển theo hướng đô thị hình thành. Đồng thời, huyện Nhơn Trạch
cũng đứng trước những thách thức trong xây dựng các nhiệm vụ
kinh tế xã hội, đòi hỏi yêu cầu cao hơn và những vấn đề về nguồn
nhân lực lao động các lĩnh vực, an toàn xã hội, ô nhiễm môi trường
cần được giải quyết hiệu quả. Đảng bộ huyện đề ra những nhiệm
vụ và các giải pháp chủ yếu để thực hiện trong từng lĩnh vực.
Trên lĩnh vực kinh tế: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và
xây dựng theo hướng hiện đại hóa nhằm tạo động lực thúc đẩy
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao; chú trọng gắn kết với yếu tố
bảo vệ môi trường. Tập trung huy động các nguồn lực phát triển
1  Trích văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch năm 2010.
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
nhanh, đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn và các khu
dân cư đô thị theo quy hoạch. Đẩy mạnh phát triển lĩnh vực dịch
vụ nhằm tưng bước tăng dần tỷ trọng của ngành trong cơ cấu kinh
tế. Tiếp tục nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động tài chính, tín
dụng. Phát triển ngành nông nghiệp theo hướng chuyên dịch từ
sản xuất nông nghiệp nông thôn sang nông nghiệp đô thị.
Trên lĩnh vực quản lý: Đẩy mạnh cải cách hành chính, tiếp
tục nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, hiệu lực quản lý nhà
nước. Tăng cường công tác an ninh -quốc phòng và hoạt động
pháp luật. Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi
trường. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đẩy
nhanh ứng dụng khoa học và công nghệ. Phát huy vai trò công tác
dân vận trong thời kỳ thực hiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy
mạnh phát triển địa phương.
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra theo Nghị quyết Đại hội.
3. Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
- Lĩnh vực kinh tế
Thực hiện các nghị quyết trong giai đoạn từ năm 2005 đến
năm 2015, Nhơn Trạch đã đạt được những thành tựu tích cực trong
tình hình có những thuận lợi và khó khăn chung. Kinh tế phát triển
với tốc độ tăng trưởng cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tổng sản phẩm
GDP bình quân mỗi năm tăng 16,15%, vượt với chỉ tiêu đề ra
14,5% đặc biệt trong 3 năm đầu nhiệm kỳ tăng trên 16,3%. Thu
nhập bình quân đầu người tăng hàng năm đạt 18,72 triệu đồng (tỷ
lệ 15,8%). Kinh tế của huyện phát triển theo cơ cấu đề ra trong
401

41.2 Page 402

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
định hướng phát triển: Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, đạt
56%, dịch vụ tăng, đạt 33%, nông lâm ngư nghiệp giảm, đạt 11%.
Tổng vốn đầu tư phát triển tăng cao với tỷ lệ 490% từ sự thu hút
nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước trên địa bàn; trong đó vốn
đầu tư nước ngoài khá cao.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, trở thành
yếu tố chủ đạo thúc đẩy kinh tế ở địa phương và tác động tích cực
nhiều mặt đến đời sống xã hội. Huyện có 8 khu công nghiệp với
tổng diện tích quy hoạch 2.600 héc ta, thu hút 328 dự án đầu tư
vào lĩnh vực công nghiệp, trong đó 201 dự án có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 4,65 tỷ USD và 127 dự án đầu trong nước, tổng vốn đầu
tư đạt 1,785 tỷ USD. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp, xây dựng
tăng 21,57% mỗi năm, giải quyết trên 50.000 lao động. Cơ sở vật
chất của huyện được đầu tư xây dựng với tổng số vốn 628 tỷ đồng
(Khu trung tâm huyện 71 héc ta, các công trình giao thông: đường
số 1, D9, đường từ ĐT 319 đến HL 19, các đường vào trung tâm
xã, các trạm y tế cơ sở...) cùng các công trình thủy lợi, trường
học, chợ. Huyện đã quy hoạch và phát triển các khu dân cư đô thị
tập trung trong quy hoạch đô thị mới Nhơn Trạch (600 héc ta), 5
xã thuộc khu vực phát triển đô thị và các điểm dân cư nông thôn.
Tổng diện tích của 10 khu dân cư đô thị gồm 1.378 héc ta và quy
hoạch các khu tái định cư, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân ở Phước
Khánh, Phước An, Đại Lộc, Phước Thiền, Long Thọ, Phú Hội,
Hiệp Phước.
Thương mại, dịch vụ phát triển về quy mô và ngành nghề.
Doanh nghiệp thành lập, hộ kinh doanh cá thể tăng về số lượng và
nguồn vốn. Ngành du lịch mới phát triển nhưng đã khai thác được
tiềm năng, lợi thế của địa phương: các khu du lịch sinh thái. Dịch
vụ vận tải phát triển với các tuyến xe buýt cùng với kinh doanh
402

41.3 Page 403

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
vận tải từ các hộ gia đình. Bưu chính - viễn thông tăng trưởng
nhanh với sự tham gia của nhiều hộ, cá nhân và các nhà máy, xí
nghiệp. Đến năm 2010, người dân sử dụng điện thoại tăng với tỷ
lệ 47 máy/100 dân. Hình thành các mạng lưới kinh doanh về nhà
trọ, đáp ứng nhu cầu của nguồn công nhân từ các nơi đến làm việc
cho các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp trên địa bàn. Huyện
quy hoạch mạng lưới trung tâm thương mại, siêu thị đến năm
2020 nhằm đáp ứng cho nhu cầu đô thị mới. Mạng lưới chợ ở các
xã được quy hoạch, di dời, nâng cấp, đầu tư xây dựng mới đáp ứng
nhu cầu trao đổi hàng hóa và chuẩn hóa chất lượng hoạt động.
Đặc biệt, đáp ứng nhu cầu của hoạt động đầu tư công nghiệp
trên địa bàn, dịch vụ cụm cảng, kho bãi của huyện được hình
thành với quy mô lớn, tiềm năng lớn và đem lại giá trị cao. Huyện
thu hút 16 dự án đầu tư xây dựng hệ thống cảng vận tải, cảng
chuyên dụng và các dịch vụ hậu cần với 1.209,4 héc ta, trong đó
cụm cảng Phước An có quy mô 731 héc ta với tổng vốn đầu tư 1,1
tỷ USD. Hoạt động tín dụng phát triển trong huy động và cho vay
vốn. Huyện có 6 ngân hàng hoạt động hiệu quả, trong nhiệm kỳ
thành lập 4 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng nhân dân. Tổng nguồn
vốn huy động hàng năm tăng 145% và tổng doanh thu cho vay đạt
156%, đều vượt chỉ tiêu đề ra. Công tác quản lý, điều hành ngân
sách hiệu quả với nguồn thu được tập trung, tổng thu hàng năm
đều đạt và vượt dự toán của tỉnh giao từ 150% trở lên.
Ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao. Huyện thực
hiện các đề án quy hoạch tiểu vùng sản xuất nông nghiệp, chuyển
đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng và tập trung thực hiện xây dựng
nông thôn mới. Từ định hình cơ cấu, diện tích cây trồng giảm
(khoảng 3.440 héc ta) nhưng ứng dụng khoa học công nghệ vào
nông nghiệp được đẩy mạnh nên năng suất, sản lượng tăng. Chăn
403

41.4 Page 404

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
nuôi của huyện phát triển ổn định với sự gia tăng số lượng đàn
gia súc, gia cầm. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng cùng với sản
lượng; đặc biệt là sự đầu tư vùng nuôi trồng thủy sản xã Phước
An. Cùng với những yếu tố khác, giá trị sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp của Nhơn Trạch tăng bình quân 5,42%/
năm. Kinh tế nông nghiệp huyện có những chuyển biến tích cực,
các dịch vụ và ngành nghề nông nghiệp phát triển, góp phần giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Mô
hình hợp tác, kinh tế trang trại được quan tâm đầu tư. Toàn huyện
có 30 tổ hợp tác kinh tế, 15 HTX 1 quỹ tín dụng nhân dân, 100
trang trại. Xã Long Thọ được chọn làm điểm trong kế hoạch xây
dựng nông thôn mới.
Công tác quản lý tài nguyên, môi trường được chú trọng.
Huyện thành lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đai cấp
huyện, xã giai đoạn 2006 - 2010 theo quy hoạch chung được Chính
phủ phê duyệt. Nguồn đất đai được quản lý chặt chẽ theo quy định,
cấp giấy chứng nhận sử dụng đạt 95,8% về số thửa, 91,2% trên
tổng diện tích của địa phương. Công tác quản lý tài nguyên được
tăng cường, hạn chế khai thác trái phép. Có 6/8 khu công nghiệp
trên địa bàn đã xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước
thải. Huyện hoàn thành báo cáo đánh giá hiện trạng môi trường và
xây dựng, triển khai thu gom, vận chuyển chất thải rắn, sinh hoạt
giai đoạn 2010 - 2015.
Từ định hướng phát triển được đề ra, huyện Nhơn Trạch đã
đạt được những kết quả trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015
trên lĩnh vực kinh tế. Kinh tế phát triển và cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo định hướng. Mức tăng trường GDP bình quân
luôn tăng. Tỷ trọng ngành công nghiệp chiếm 52%, dịch vụ đạt
42% và nông nghiệp 6%. Thu nhập bình quân hàng năm tính theo
404

41.5 Page 405

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
dân số đạt 38,5 triệu đồng tăng gấp đôi so với đầu nhiệm kỳ. Tổng
nguồn vốn đầu tư phát triển ở địa phương đạt 56.014 tỷ đồng.
Ngành công nghiệp tăng trưởng mạnh, giá trị sản xuất bình
quân hàng năm đạt 21,5%. Trong nhiệm kỳ, huyện thu hút thêm
65 dự án đầu tư mới, nâng số lượng toàn huyện đạt 345 dự án với
tổng vốn đầu tư 6,97 tỷ USD. Đặc biệt, giai đoạn này, chú trọng
thu hút các dự án thuộc nhóm ngành công nghệ cao, công nghệ
sạch, đảm bảo môi trường, giảm dần các ngành gia công. Diện tích
đất cho thuê ở các khu công nghiệp đạt 80%, nhiều dự án đi vào
hoạt động, giải quyết 76.000 lao động.
Lĩnh vực thương mại, dịch vụ phát triển về số lượng, chất
lượng với sự đa dạng về loại hình, phục vụ đáp ứng nhu cầu phát
triển đô thị và các khu công nghiệp. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tăng bình quân hàng năm trên 33%. Hệ thống
cơ sở vật chất của huyện trên địa bàn được đầu tư xây mới, nâng
cấp, mở rộng mạng lưới (04 chợ xây mới, 03 chợ nâng cấp), mạng
lưới kinh doanh xăng dầu hoạt động ổn định (23 trạm, điểm theo
quy hoạch, 03 kho và cảng chuyên dùng). Dịch vụ phục vụ nhu
cầu từ các khu công nghiệp được triển khai, đáp ứng và hỗ trợ tốt
cho người lao động (tín dụng, giáo dục, đào tạo, y tế, thông tin,
vận chuyển, nhà ở). Đến đầu năm 2015, dự án nhà ở xã hội cho
công nhân và người thu nhập thấp được triển khai với 3.520 căn
hộ, 1.797 hộ gia đình kinh doanh nhà trọ, 772 đầu xe dùng trong
kinh doanh vận chuyển công nhân, 52 dịch vụ cung cấp suất ăn
công nghiệp cho công nhân, 255 cơ sở y dược phụ vụ nhu cầu
khám chữa bệnh, trong đó có 123 cơ sở tập trung các xã giáp ranh
các khu công nghiệp, 283 cơ sở, tụ điểm kinh doanh dịch vụ vui
chơi, giải trí, 01 sân golf duy trì hoạt động cho thể thao cao cấp.
405

41.6 Page 406

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Hệ thống dịch vụ cảng, kho bãi được quy hoạch, một số đi
vào hoạt động, đem lại hiệu quả giá trị kinh tế cao (Tân cảng Nhơn
Trạch hoạt động hiệu quả, tiếp tục đầu tư cảng tổng hợp, chuyên
dùng Phú Hữu, Phú Đông, Phước An và các dịch vụ Logistic cung
ứng vận tải, công tác hậu cần).
Tỷ trọng của lĩnh vực nông nghiệp tăng phù hợp trong cơ cấu
chung của định hướng phát triển kinh tế, xã hội địa phương. Một
số chủ trương của huyện được thực hiện tốt trong sản xuất nông
nghiệp: chuyển dịch nông nghiệp nông thôn sang nông nghiệp đô
thị theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lợi thế trong từng
tiểu vùng được khai thác phù hợp, hình thành các vùng sản xuất
chuyên canh phù hợp (vùng nguyên liêu mía Ông Kèo, sản xuất
lúa dọc sông Đồng Nai, nuôi trồng thủy sản Phước An, sản xuất
rau an toàn Long Thọ, Phước An, Phú Đông). Giá trị sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 4,07% hàng
năm (sản xuất nông nghiệp đạt tỷ lệ 72%, chăn nuôi ổn định đạt tỷ
lệ 3,31%, nuôi trồng thủy sản tăng và đạt 5,40%).
Cùng với việc phát triển trên nhiều lĩnh vực, huyện quan tâm
trong công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Quản lý đất
đai đi vào nề nếp với công tác giám sát, điều tra, lập hồ sơ, cơ sở
dữ liệu từng bước hoàn thiện. Trên địa bàn, công tác thu gom, xử
lý chất thải rắn sinh hoạt, nguy hại đạt kết quả tốt, có 8/9 khu công
nghiệp xây dựng và đưa vào hoạt dộng hệ thông xử lý nước thải,
202/209 doanh nghiệp đấu nối vào hệ thống thu gom xử lý nước
thải (tỷ lệ đạt 97,337%).
Các thành phần kinh tế của Nhơn Trạch được tạo điều kiện
thuận lợi phát triển. Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực ngân
hàng hoạt động ổn định, đáp ứng nguồn vốn phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh
406

41.7 Page 407

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
doanh cá thể phát triển đa dạng, nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Kinh
tế hợp tác, kinh tế trang trại chuyển biến tích cực, tăng về số lượng
và chất lượng (thành lập mới 6 tổ hợp kinh tế, thành lập mới 5
HTX nâng tổng số lên 18 đơn vị HTX, 18 tổ hợp tác).
Nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn
được quan tâm, duy trì và đầu tư hợp lý. Đến năm 2015, có 05 xã
được công nhận đạt chuẩn, 07 xã đạt từ 15 đến 19 tiêu chí. Chương
trình xây dựng nông thôn mới góp phần thay đổi diện mạo các địa
bàn cơ sở, kinh tế nông thôn chuyển biến tích cực, kết cấu hạ tầng
cơ sở cải thiện, dịch vụ, ngành nghề phát triển, đem lại lợi ích cho
người dân cải thiện, nâng cao chất lượng sống.
Sự phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế tạo thuận lợi
cho đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, diên mạo địa phương thêm
hiện đại. Hệ thống kết cấu hạ tầng chung của huyện được quy
hoạch khoa học, phù hợp thực tiễn, từng bước đồng bộ. Hệ thống
giao thông chính của Nhơn Trạch được nhựa hóa, đảm bảo tính
liên thông giữa các vùng, kết nối Nhơn Trạch và các địa phương
như: đường Long Thọ 1, ĐT 769, đường 319 B, 25C; đặc biệt
đoạn qua Nhơn Trạch của cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long
Thành - Dầu Giây. Hệ thống cấp nước sạch được qui hoạch đầu
tư và hỗ trợ xây dựng các nhánh, đảm bảo nguồn cung cấp đối với
nhu cầu của nhân dân, trước hết là địa bàn các xã Phú Hữu, Đại
Phước. Mạng lưới điện quốc gia trung thế, hạ thế được mở rộng,
đạt tỷ lệ 100% hộ gia đình sử dụng. Công tác quy hoạch và quản
lý thực hiện đáp ứng nhu cầu của địa phương. Trên cơ sở đánh
giá, huyện điều chỉnh quy hoạch tổng thể kinh tế, xã hội đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2025 và thực hiên đồ án điều chỉnh quy
hoạch xây dựng thành phố mới Nhơn Trạch đến năm 2030 và tầm
nhìn 2050.
407

41.8 Page 408

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Theo qui hoạch phát triển, đến năm 2015, 9 khu công nghiệp
ở Nhơn Trạch được đầu tư, xây dựng theo đúng qui chuẩn, gồm:
1. Khu công nghiệp Nhơn Trạch 1: 449ha; 2. Khu công nghiệp
Nhơn Trạch 2 - D2D: 347ha; 3. Khu công nghiệp Nhơn Trạch
2 - Lộc Khang: 70ha; 4. Khu công nghiệp Nhơn Trạch 2 - Nhơn
Phú: 183ha; 5. Khu công nghiệp Nhơn Trạch: 697 ha; 6. Khu công
nghiệp Nhơn Trạch 5: 309ha; 7. Khu công nghiệp Nhơn Trạch 6:
327ha; 8. Khu công nghiệp Nhơn Trạch Dệt may Nhơn Trạch:
184ha; 9. Khu công nghiệp Nhơn Trạch Ông Kèo: 856ha.
- Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Trong giai đoạn 2005 đến năm 2010, lĩnh vực văn hóa, xã
hội của Nhơn Trạch đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các thiết
chế văn hóa cấp huyện và cấp xã được đầu tư xây dựng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ truyền tải thông tin đến với người dân. Thực
hiện kế hoạch đầu tư trung tâm cấp xã, có 5/12 xã có trung tâm
văn hóa thể thao, học tập cộng đồng. Các hoạt động văn hóa, thông
tin, thể dục, thể thao được tổ chức với nhiều hình thức, nội dung
phong phú, đa dạng. Các phong trào tuyên truyền về đường lối,
chủ trương và chính sách pháp luật của Đảng, nhà nước được phát
động sâu rộng, nhân dân hưởng ứng tích cực. Đặc biệt, phong trào
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở liên tục được duy trì, gắn với
chương trình thực hiện “4 giảm” ở địa bàn dân cư đi vào chiều
sâu, tạo chuyển biến tích cực. Trên toàn huyện có 49/53 ấp được
công nhận ấp Văn hóa và 100% cơ quan, đơn vị có đời sống văn
hóa tốt. Qua sự hỗ trợ của tỉnh, huyện chú trọng đầu tư trong công
tác bảo tồn di sản văn hóa, phát huy các di tích truyền thống đấu
tranh cách mạng. Một số di tích lịch sử, nhà truyền thống, công
trình văn hóa được đầu tư nâng cấp, sửa chữa, đáp ứng nhu cầu
giáo dục về di sản, truyền thống của địa phương.
408

41.9 Page 409

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục kế thừa và phát huy
tích cực trong nhà trường, đạt những kết quả tích cực. Cơ sở vật
chất của trường, lớp, trang thiết bị được tăng cường, hoàn thành
chương trình kiên cố hóa giai đoạn 1, xây dựng 110 phòng học.
Đặc biệt, trong nhiệm kỳ thành lập 1 trường trung cấp kỹ thuật
công nghiệp, 3 trường trung học cơ sở, 4 trường mầm non. Đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đủ về số lượng, chất lượng được
nâng lên. 100% giáo viên đạt trình độ chuẩn hóa và 40,35 đạt trên
chuẩn. Toàn huyện, qua quá trình chuẩn bị, kiện toàn nhiều mặt,
có 5 trường đạt chuẩn quốc gia. Về học sinh các cấp tăng về số
lượng và chất lượng đào tạo được nâng lên. Tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào
lớp 1 và học sinh tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở, bổ túc văn
hóa, trung học nghề đạt chỉ tiêu. Kết quả xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở
được duy trì. Có 10/12 xã hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung
học. Nhiều học sinh của huyện đạt giải cao trong các kỷ thi cấp
tỉnh, toàn quốc.
Hoạt động y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được duy trì,
đảm bảo. Hệ thống y tế của huyện nói chung, cấp cơ sở được tăng
cường đầu tư về cơ sở vật chất, củng cố về lực lượng đội ngũ thầy
thuốc có trình độ bác sĩ. Bệnh viện đa khoa huyện mở rộng, tăng
cường số giường, đầu tư thiết bị y tế công nghệ cao phục vụ tốt
trong chẩn đoán, điều trị bệnh. 12/12 xã đều có trạm y tế, đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh tại địa bàn. Hoạt động y tế dự phòng
được chú trọng, kịp thời ngăn chặn, phòng chống những dịch bệnh
trên địa bàn. Chế độ khám, chữa bệnh cho trẻ em được thực hiện
tốt theo quy định, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng. Công tác kế
hoạch hóa gia đình được tuyên truyền sâu rộng, đi vào thực chất,
đúng đối tượng, đem lại kết quả trong giảm tỷ lệ dân số. Từ nguồn
xã hội hóa được vận động tốt, sự tham gia của tư nhân trong việc
409

41.10 Page 410

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
thành lập phòng khám đa khoa đã góp phần quan trọng trong công
tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Các xã đều được công
nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Trên lĩnh vực xã hội, các chính sách được thực thi kịp thời.
Các phong trào Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn duy trì
không chỉ đem lại hiệu quả trong tuyên truyền mà còn thiết thực
trong chăm sóc các đối tượng có công, cống hiến cho địa phương
qua các thời kỳ. Huyện đã vận động hơn 2 tỷ đồng đóng góp
quỹ chăm lo chính sách,12 xã được công nhận làm tốt công tác
thương binh, liệt sĩ. Công tác xóa đói giảm nghèo thu nhiều kết
quả. Huyện không có hộ nghèo theo chuẩn năm 2005 nhưng theo
chuẩn mới vẫn còn với tỷ lệ giảm. Các hộ nghèo được thực hiện
các chính sách xã hội như tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề miễn
phí, khuyến công, khuyến nông, hỗ trợ y tế, giáo dục. Trong tình
hình ưu tiên quy hoạch dùng quỹ đất cho phát triển công nghiệp,
việc thu hồi nguồn đất đã ảnh hưởng đến một bộ phận nhân dân
liên quan các vùng quy hoạch. Huyện đã thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định: bồi thường, giải tỏa
đi đôi với chăm lo, ổn định đời sống người dân. Có hơn 1.500 hộ
trong 76 dự án triển khai, có 1.014 hộ trong diện di dời, giải tỏa.
Huyện thực hiện hỗ trợ bằng nhiều giải pháp thiết thực, xây dựng
5 khu tái định cư. Tình trạng người lao động thất nghiệp trên địa
bàn giảm nhiều từ các chính sách của chính quyền và thu hút lao
động trong phát triển công nghiệp ở địa phương. Huyện đã giải
quyết việc làm cho 26.855 lao động. Khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh thu hút nguồn lao động lớn, chiếm tỷ lệ 90%. Nhân lực lao
động qua đào tạo đạt 425 người. Cơ cấu lao động các ngành nghề
nông thôn, nghề truyền thống được quan tâm đào tạo, thay đổi
trong chính sách chuyển đổi cơ cấu.
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Từ năm 2010, lĩnh vực văn hóa xã hội, giáo dục, y tế phát
triển đáp ứng yêu cầu đề ra, góp phần trong thực thi những nhiệm
vụ chung của địa phương. Hoạt động thông tin tuyên truyền đổi
mới về nội dung, hình thức, kết hợp thông tin lưu động, cổ động
trực quan, lồng ghép các loại hình văn nghệ, áp dụng khoa học,
kỹ thuật công nghệ kịp thời đưa chủ trương, chính sách đến với
các tầng lớp quần chúng. Hoạt động văn hóa, thể thao được tổ
chức bằng nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
và sáng tạo của nhân dân; trong đó, có những hoạt động thiết thực
hướng đến phục vụ lực lượng công nhân khá đông đảo trên địa
bàn huyện. Huyện kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư
cơ sở cho thể thao (thành lập nhiều cụm sân bóng đá mi ni). Hệ
thống thư viện một số xã được chọn được đầu tư theo mô hình
điện tử, tiêu biểu thư viện xã Phước Thiền thu hút được nhiều
người sử dụng. Huyện đã tổ chức hơn 300 hội thi, hội diễn, biểu
diễn nghệ thuật trong các dịp lễ, sinh hoạt cộng đồng, thu hút trên
200.000 lượt người. Những giá trị di sản văn hóa của huyện tiếp
tục được quan tâm trong bảo tồn và phát huy: đờn ca tài tử, múa
lân, đua thuyền, các trò chơi dân gian. Một số di tích lịch sử Địa
đạo Nhơn Trạch, Bia tưởng niệm Giồng Sắn, Căn cứ Đặc công
Rừng Sác phát huy hiệu quả, thu hút khách tham quan. Các thiết
chế văn hóa cơ sở được đầu tư (nâng cấp, xây dựng mới 1 trung
tâm thể thao cấp huyện, 8 trung tâm văn hóa, thể thao và học tập
cộng đồng xã). Người dân hưởng ứng tích cực các phong trào xã
hội, văn hóa và tham gia tích cực trong các nhiệm vụ kinh tế, xã
hội của địa phương, nổi bật là chương trình xây dựng nông thôn
mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Tỷ lệ trên 98 % hộ đạt danh
hiệu gia đình văn hóa, 52/52 ấp được công nhận ấp văn hóa, 100%
cơ quan, đơn vị đăng ký đạt chuẩn văn hóa.
411

42.2 Page 412

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Lĩnh vực giáo dục tiếp tục phát triển, được đầu tư phát triển
theo hướng mở rộng vê quy mô và đa dạng hóa các loại hình đào
tạo. Hệ thống trường lớp được đầu tư nâng chất lượng kiên cố,
trang thiết bị hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ trong quản
lý, giảng dạy. Hoạt động giáo dục thường xuyên, khuyến học,
khuyến tài được đẩy mạnh trong chủ trương xã hội học tập (240
chi hội, tổ khuyến học với 16.000 hội viên). Ngoài hệ thống giáo
dục công lập, công tác xã hội hóa giáo dục triển khai, tạo điều kiện
và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vưc giáo
dục. Huyện xây mới 9 trường học, 1 trung tâm giáo dục thường
xuyên. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được tăng cường, đáp
ứng nhu cầu chỉ tiêu ở các trường, nâng cao chất lượng qua tăng
cường bồi dưỡng học tập chuyên môn, nghiệp vụ (100% giáo viên
đạt chuẩn trình độ, nghiệp vụ sư phạm; 54,4% trên chuẩn). Qua
giảng dạy với sự đầu tư áp dụng công nghệ, đổi mới phương pháp
giảng dạy, phát huy tính chủ động tích cực của học sinh, công tác
đánh giá đã góp phần cho chất lượng đào tạo ở các cấp chuyển
biến tích cực. Ngành giáo dục đảm bảo tỷ lệ huy động học sinh
trong độ tuổi vào các cấp học, duy trì kết quả xóa mù chữ, phổ
cập từ cấp tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông trung học đúng
độ tuổi. Trong 5 năm, huyện đã liên kết mở trên 30 lớp trung cấp,
đại học với hơn 1.600 học viên theo học nhiều ngành nghề. Tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp các cấp tăng mỗi năm, trên 35% học sinh tốt
nghiệp phổ thông trung học trúng tuyển vào học bậc cao đẳng, đại
học. Huyện có 14/43 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 11 trường so
với đầu nhiệm kỳ.
Trong lĩnh vực y tế, cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu
tư từ nhiều nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với
nhân dân và người lao động trên địa bàn. Bệnh viện huyện nâng
số giường bệnh mỗi năm, đầu tư trang thiết bị phục vụ khám, điều
412

42.3 Page 413

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
trị kỹ thuật hiện đại. Các trạm y tế đảm bảo nhân lực có trình độ
bác sĩ và duy trì chất lượng với tiêu chuẩn quốc gia. Các chương
trình mục tiêu quốc gia được thực hiện tốt, kết quả cao. Tỷ lệ tiêm
chủng mở rộng đối với trẻ em, phòng suy dinh dưỡng hàng năm
đều đạt kế hoạch. Tình hình dịch bệnh trên địa bàn huyện được
kiểm soát qua công tác tuyên truyền thực hiện từ địa bàn cơ sở. Tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên của huyện giảm, còn tỉ lệ 0,99%. Huyện
có tỷ lệ 3 bác sĩ,13 giường bệnh/ 1.000 dân. Công tác quản lý hoạt
đông y tế tư nhân, vệ sinh an toàn thưc phẩm được duy trì, kiểm
tra thường xuyên.
Các vấn đề xã hội của địa phương được quan tâm giải quyết
kịp thời. Ngành lao động, thương binh - xã hội phối hợp, liên kết
tổ chức các chương trình giải quyết việc làm thiết thực, đồng bộ
chính sách an sinh xã hội. Huyện giải quyết cho 26.365 lao động,
trong đó số lao động qua đào tạo chiếm 67%, lao động được đào
tạo nghề chiếm 52%. Trên 98% người lao động trong độ tuổi ở
địa phương có việc làm, thu nhập ổn định. Công tác giảm nghèo
thực hiện hiệu quả, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 3,68% xuống
0,46%. 100% người thuộc diện hộ nghèo và thu nhập hộ nghèo
từng bước được cải thiện. Những hộ dân trong diện giải tỏa đất
đai, nơi cư trú được hỗ trợ, giải quyết kịp thời về tái định cư, đào
tạo nghề, việc làm ổn định đời sống. Huyện hoàn thành xây dựng
Công viên nghĩa trang, duy tu các đài tưởng niệm, nhà thờ liệt
sĩ, chăm sóc tốt các gia đình, đối tượng chính sách. Các gia đình
chính sách được hỗ trợ để nâng cao mức sống. Phối hợp với các
cấp, huyện tổ chức tốt công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ
trên địa bàn. 100 hài cốt của chiến sĩ (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4,
Sư đoàn 5 và Đại đội 240) phát hiện tại ấp 5, xã Long Thọ được
quy tập, tổ chức truy điệu, an táng.
413

42.4 Page 414

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
- Tổ chức Đảng, hệ thống chính trị
Trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị của Nhơn Trạch đạt nhiều kết quả tích
cực. Vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng được phát huy. Công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng được các cấp ủy tập trung thực hiện,
đảm bảo về nội dung, phong phú về hình thức. Số lượng cán bộ,
đảng viên, tổ chức các lớp học, bồi dưỡng tăng lên với 175 lớp
cho 18.897 lượt tham dự. Chất lượng học tập được nâng cao qua
việc ứng dụng công nghệ trong tuyên truyền, giảng dạy. Mô hình
“Đảng bộ xã lãnh đạo công tác khoa giáo trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” đem lại hiệu
quả từ cơ sở. Mạng lưới các tổ nhân dân từ địa bàn cơ sở được
tuyên truyền đóng vai trò tích cực đưa nghị quyết, chính sách đi
vào cuộc sống. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai sâu rộng, thu hút 151.000
lượt cán bộ, đảng viên, quần chúng, gắn với thực tiễn cơ sở, có sức
lan tỏa sâu rộng.
Tổ chức Đảng được tập trung kiện toàn với việc xây dựng
đề án biên chế cụ thể, phù hợp với chức năng, chức trách ở các cơ
quan, đơn vị, đoàn thể. Huyện hoàn thành công tác quy hoạch cán
bộ đối với chức danh chủ chốt các cấp, thực hiện đồng bộ công tác
đánh giá, luân chuyển, đào tạo, quy hoạch. Quy hoạch các chức
danh chủ chốt tổng số có 78 đồng chí, tuyển cử 171 đồng chí học
tập chính trị, 256 cán bộ học chuyên môn, luân chuyển 7 đồng chí
trong nguồn cán bộ trẻ. Trong nhiệm kỳ, Huyện ủy thành lập mới
14 chi bộ cơ sở, trong đó có 5 chi bộ thành lập mới trong doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Trên địa bàn huyện, địa bàn ấp, các
trường học đều có chi bộ. Chất lượng đảng viên được nâng lên về
trình độ đào tạo học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị. Đảng
414

42.5 Page 415

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
bộ huyện phát triển 691 đảng viên mới, nâng tổng số của huyện
lên 1.875 đảng viên.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, hoạt động kiểm tra giám sát
được duy trì thường xuyên, đem lại hiệu quả. Huyện ủy tổ chức 5
đợt kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị đối với 64 tổ chức trực
thuộc; chống lãng phí đối với 14 cơ sở, 35 cuộc giám sát chuyên
đề. 100% Ủy viên Ban chấp hành tham gia giám sát 792 lượt đối
với hoạt động, sinh hoạt của chi, đảng bộ được phân công. Ban
Kiểm tra của Huyện ủy xử lý 73 trường hợp đảng viên vi phạm với
các hình thức kỷ luật theo quy định (31 khiển trách, 29 cảnh cáo,
9 cách chức, 4 khai trừ).
Các tổ chức Đảng đóng vai trò hạt nhân chính trị ở từng địa
bàn, cơ quan, đơn vị. Tỷ lệ cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch
vững mạnh tăng lên 91,07%, không có cơ sở yếu kém. Tỷ lệ đảng
viên được công nhận từ mức đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ là
87,2%, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 13,5%. Năm 2009,
Đảng bộ huyện được trao tặng Cờ thi đua xuất sắc cho đơn vị dẫn
đầu của tỉnh.
Bộ máy chính quyền từ huyện đến xã được củng cố theo
hướng nâng cao năng lực quản lý, hiệu quả hoạt động. Đại biểu
HĐND đảm bảo về chất lượng, trình độ chuyên môn phù hợp.
Hoạt động giám sát, xây dựng nghị quyết kịp thời, phù hợp với
thực tiễn góp phần hiệu quả cho bộ máy chính quyền thực hiện vai
trò, chức năng quản lý, điều hành. Tổ chức bộ máy các đơn vị trực
thuộc, các xã, thị trấn được sắp xếp, kiện toàn, đảm bảo hoạt động,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác cải cách hành chính duy trì
với cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông ở cấp huyện, các xã đi
vào nề nếp”. Các cơ quan, đơn vị, cấp xã đạt 100% tỷ lệ trong việc
thành lập Ban chỉ đạo và thực hiện Quy chế dân chủ. Căn cứ kế
415

42.6 Page 416

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
hoạch Đảng bộ, chính quyền thực hiện đánh giá toàn diện đội ngũ
cán bộ xã, xác định kế hoạch bố trí, đào tạo chuẩn hóa nhân lực và
thu hút cán bộ. Huyện tiến hành xây dựng, triển khai đề án phát
triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006 tầm nhìn đến năm 2020.
Mặt trận và các đoàn thể làm tốt công tác vận động trong việc
phát huy sức mạnh khối đoàn kết dân tộc ở địa phương trong thực
hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội. Chất lượng hoạt động ngày càng
nâng cao, hiệu quả với nội dung tuyên truyền, hướng về cơ sở, gắn
với thực tiễn cùng với phương thức đa dạng, bám sát địa bàn dân
cư, nắm bắt kịp thời nguyện vọng quần chúng. Nhiều phong trào
do Mặt trận, các đoàn thể phát động đi vào chiều sâu, mang tính
thiết thực, đem lại hiệu quả cao. Công tác tôn giáo, dân tộc được
chú trọng, đảm bảo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, nhà
nước. Huyện thành lập, kiện toàn các tổ chức Ban Đại diện Phật
giáo huyện, Ban Đoàn kết Công giáo huyện và 4 Hội liên lạc kiều
bào và thân nhân cấp xã.
Tỷ lệ tập hợp quần chúng trong các đoàn thể, tổ chức xã hội
tăng về số lượng, hoạt động nâng cao về chất lượng. Tỷ lệ tập
hợp và phát triển hội viên của các đoàn thể đạt: Hội Nông dân có
14.292 hội viên, đạt 81,80%; Hội Liên hiệp phụ nữ có 30.247 hội
viên, đạt 75,30%; Liên đoàn Lao động có 44.276 công đoàn viên,
đạt 90,80%; Hội Cựu Chiến binh có 766 hội viên, đạt 98,10%;
Đoàn Thanh niên có 11.500 đoàn viên, đạt 45,40%; Hội Liên hiệp
Thanh niên có 22.000 hội viên, đạt 60,60%; Hội Chữ thập đỏ có
7.816 hội viên, đạt 14,28%; Hội Người cao tuổi có 7.842 hội viên,
đạt 82,30%.
Lực lượng đoàn viên, hội viên nòng cốt trong các tổ chức,
đoàn thể chiếm 41,30%, tỷ lệ cơ sở vững mạnh của từng đoàn thể
hàng năm đạt 80% trở lên, không có cơ sở yếu kém. Đặc biệt, hoạt
416

42.7 Page 417

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
động của Đoàn Thanh, Hội Liên hiệp Thanh niên khá hiệu quả
gắn với địa bàn, đem lại sự tích cực nơi làm việc, địa bàn dân cư:
thành lập 6 chi đoàn trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 8 chi
hội thanh niên khu vực nhà trọ. Thông qua các hoạt động, Mặt trận
huyện và các đoàn thể vận động nguồn quỹ Vì người nghèo đạt 4
tỷ đồng, xây dựng 243 nhà tình thương, cấp phát 2.946 suất học
bổng, trao tặng 300 xe đạp cho học sinh nghèo hiếu học. Nhiều
đợt ra quân gúp dân gắn với địa bàn dân cư trong công tác vệ sinh,
sửa chữa, nâng cấp, làm mới đường giao thông, kênh mương thủy
lợi, chăm sóc sức khỏe với hơn 10.000 lượt cán bộ, chiến sĩ, đoàn
viên, hội viên, nhân dân tham gia.
Từ năm 2010, từ những giải pháp thiết thực, công tác xây
dựng Đảng, hệ thống chính trị của huyện ủy Nhơn Trạch đạt những
kết quả tích cực. Các tổ chức cấp ủy được kiện toàn nhân sự, tăng
cường chất lượng nhân lực và phát huy vai trò lãnh đạo. Công tác
giáo dục chính trị đối với cán bộ, đảng viên, quần chúng được duy
trì do đội ngũ báo cáo viên có năng lực, với các phương thức sinh
động, chú trọng giải thích vận động, định hướng tư tưởng gắn với
thực tiễn địa phương, tạo nên sự đồng thuận. Tỷ lệ cán bộ, đảng
viên học tập, quán triệt chủ trương, nghị quyết, đường lối ngày
càng cao với ý thức trách nhiệm thực hiện. Huyện ủy xây dựng mới
Trung tâm bồi dưỡng chính trị hiện đại, ứng dụng khoa học công
nghệ, kết nối thuận lợi trong đào tạo, bồi dưỡng, học tập cho cán
bộ, đảng viên. Những nội dung nghị quyết của Trung ương, trong
đó nghị quyết 04 (khóa IX) về “Một số vấn đề cấp bách trong xây
dựng Đảng hiện nay” được Huyện ủy quán triệt đến đảng viên.
Các cuộc vận động, phong trào được tuyên truyền, phổ biến đến
cấp ủy để nêu gương thực hiện; trong đó cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trở thành hoạt động
chính trị thường xuyên trong các cấp ủy. Mô hình “Đảng bộ lãnh
417

42.8 Page 418

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
đạo công tác khoa giáo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn” tiếp tục được duy trì. Bô phận Tuyên
giáo và mạng lưới tổ nhân dân ngày càng đóng vai trò tích cực
trong việc đưa nghị quyết, pháp luật đi vào cuộc sống.
Tổ chức các cấp ủy được kiện toàn. Nguồn cán bộ, đảng
viên được đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí đáp ứng quy trình,
lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo đánh
giá, bổ nhiệm. Trong nhiệm kỳ, có 390 đồng chí được cử học bồi
dưỡng lý luận chính trị. Huyên tổ chức 258 lớp đào tạo bồi dưỡng
chính trị, tập huấn công tác nghiệp vụ với 38.837 lượt cán bộ,
đảng viên. Tỷ lệ cán bộ, đảng viên đạt chuẩn được nâng lên, phát
huy được năng lực trong thực tế công tác. Trong nhiệm kỳ, Đảng
bộ phát triển thêm 1.014 đảng viên mới, tỷ lệ bình quân mỗi năm
đạt 9,67%.
Các công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiểm tra, giám sát được
các cấp ủy chỉ đạo thường xuyên, tăng cường thực hiện theo quy
định. Từ sự phân công phụ trách cơ sở của Ban Thường vụ, 100%
Ủy viên Ban Chấp hành tham gia giám sát 920 lượt đối với hoạt
động, sinh hoạt của các chi, đảng bộ trực thuộc trên nhiều mặt,
đem lại hiệu quả. Hoạt động kiểm tra và phối hợp giữa các cấp ủy,
các cơ quan, đơn vị liên quan đã kịp thời phát hiện, xử lý, cảnh
báo, ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống, vi phạm
các quy định của tổ chức, đảng viên. Đồng thời, căn cứ tính chất
vi phạm, Huyện ủy đã xử lý nghiêm minh tổ chức, 136 đảng viên
vi phạm bảo vệ kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Tỷ lệ đảng viên vi
phạm giảm xuống với tỷ lệ thấp 0,53% so với nhiệm kỳ trước, góp
phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng, củng cố
tổ chức Đảng vững mạnh.
418

42.9 Page 419

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Cuối năm 2015, có 08 tổ chức cơ sở thành lập mới trong
các doanh nghiệp trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài, 100%
trường học xây dựng chi bộ. Thực hiện hướng dẫn hoàn thiện mô
hình tổ chức cơ sở đảng của Trung ương1, Huyện ủy sắp xếp 79
chi, đảng bộ cơ sở tinh gọn thành 49 tổ chức cơ sở Đảng. Qua
kiện toàn, chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ sở trực thuộc
nâng lên, phát huy được vai trò hạt nhân ở cấp xã, đơn vị, cơ quan.
Toàn Đảng bộ có 2.913 đảng viên, tăng 51,17% so với đầu nhiệm
kỳ. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh bình quân đạt
85,94%, tỷ lệ đảng viên đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 92%,
đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bình quân đạt 12,87%.
Bộ máy chính quyền từ huyện đến cơ sở hoạt động tích cực
theo hướng nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động. Hoạt động
của HĐND huyện, xã đi vào chiều sâu. Các nghị quyết ban hành
kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Công
tác giám sát được chú trọng, có mục tiêu cụ thể, liên quan đến
những vấn đề bức xúc từ phản ánh của nhân dân. Bộ máy chính
quyền huyện được sắp xếp theo hướng tinh gọn, điều hành hiệu
quả công việc với những cải cách về thủ tục hành chính. Đội ngũ
cán bộ được bố trí đúng chuyên ngành đào tạo, phát huy năng lực,
sở trường đề hoàn thành nhiệm vụ. Hiệu quả công việc quản lý,
điều hành phản ánh thiết thực qua những cải tiến lề lối làm việc,
đơn giản thụ tục hành chính, đảm bảo đúng pháp luật, hướng đến
thuận lợi cho người dân thông qua các văn phòng Tư vấn pháp
luật miễn phí cho người dân, công khai “đường dây nóng” tiếp
thu phản ánh, nguyện vọng, đóng góp ý kiến, thực hiện mô hình
từ văn phòng “một cửa liên thông hiện đại” cấp huyện, từng bước
triển khai đến cấp xã.
1  Hướng dẫn số 38/BTCTW ngày 9.3.2010 của Ban Tổ chức Trung ương về xây dựng,
hoàn thiện mô hình tổ chức một số loại hình tổ chức cơ sở Đảng.
419

42.10 Page 420

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
Đến cuối năm 2015, thực hiện đề án phát triển nguồn nhân
lực và thu hút cán bộ1, bộ máy chính quyền của huyện, xã được
tăng cường. Đối với cán bộ cấp huyện,100% cán bộ công chức đạt
chuẩn về chuyên môn, 65,3% cán bộ lãnh đạo đạt chuẩn về chính
trị. Các xã có tỷ lệ 80,09 cán bộ chuyên trách, 100% công chức
cấp xã đạt trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, 85,49% cán
bộ chuyên trách và 55,17% công chức cấp xã có trình độ trung
cấp lý luận chính trị trở lên. Huyện thu hút 143 cán bộ có trình độ
cao đẳng, đại học đến công tác tại cấp xã. Quy hoạch đội ngũ cán
bộ, đảng viên từ huyện đến xã đi vào nề nếp, thực hiện đúng quy
định. Huyện ủy xây dựng đề án luân chuyển cán bộ cho giai đoạn
2015 - 2020.
Mặt trận và các đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội của huyện
đã thực hiện tốt công tác dân vận, góp phần trong xây dựng đảng,
chính quyền thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội. Hệ thống Mặt
trận đoàn thể từ huyện đến xã được củng cố, kiện toàn, giữ vai trò
nòng cốt trong xây dựng, khối đại đoàn kết, thực hiện các phong
trào thi đua được phát động rộng rãi. Tổ chức cấp ủy, chính quyền
đã có những phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với mặt trận, đoàn thể
trong tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia tích cực thực hiện
các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế, xã hội, chung tay xây
dựng nông thôn mới, xây dựng văn hóa ở khu dân cư, gìn giữ trật
tự an toan, phối hợp nắm bắt nguyện vọng, đối thoại, giải quyết
các khiếu nại, tố cáo. Nội dung, phương thức hoạt động của mặt
trận, đoàn thể được đổi mới cải tiến nếp làm việc, bám sát thực tế,
địa bàn, đối tượng; thu hút, tập hợp quần chúng tham gia tích cực.
Tỷ lệ quần chúng tham gia vào các đoàn thể tăng về số lượng. Hội
Nông dân có 7.186 hội viên, đạt 98,90%; Hội Liên hiệp phụ nữ có
1  Quyết định 140 -QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc“Thu hút cán bộ có trình độ
đại học, cao đẳng về công tác tại xã, phường, thị trấn”.
420

43 Pages 421-430

▲back to top


43.1 Page 421

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
38.507 hội viên, đạt 88,40%; Liên đoàn Lao động có 79.061 công
đoàn viên, đạt 93,70%; Hội Cựu Chiến binh có 1.007 hội viên, đạt
95,30%; Đoàn Thanh niên có 17.662 đoàn viên, đạt 66,20%; Hội
Liên hiệp Thanh niên có 24.335 hội viên, đạt 91,20. Lực lượng
đoàn viên, hội viên nòng cốt trong các tổ chức, đoàn thể chiếm
46,60%, tỷ lệ cơ sở vững mạnh của từng đoàn thể hàng năm đạt
trên 85,2% trở lên, không có cơ sở yếu kém. Nhiều mô hình của
mặt trận, đoàn thể chủ trì thực hiện: vận động nhân dân hiến đất
xây nhà tình thương, làm đường giao thông nông thôn, giúp nhau
làm kinh tế gia đình, nuôi heo đất hỗ trợ hoàn cảnh khó khăn...
đáp ứng được nguyện vọng, tạo sự gắn kết gữa nhân dân, sự đồng
thuận trong các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ của địa phương.
Những nguồn vận động tạo quỹ Vì người nghèo, Đền ơn đáp
nghĩa đem lại ý nghĩa thiết thực (nhận 368m2 đất hiến xây nhà cho
hộ nghèo, xây dựng, sửa chữa 415 nhà tình thương, 109 nhà tình
nghĩa, tặng 99 sổ tiết kiệm, cho 2.421 lượt hộ nghèo vay vốn, trao
4,467 suất học bổng, 202 xe đạp). Trên địa bàn huyện,100% khu
dân cư đều xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa.
- Lĩnh vực an ninh, quốc phòng
Tình hình an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của
huyện tiếp tục được giữ vững trong giai đoạn 2005 - 2015. Công
tác tuyên truyền và huấn luyện quân sự được duy trì thường xuyên
trong lực lượng vũ trang khi quán triệt về Chiến lược bảo vệ an
ninh quốc gia trong tình hình mới của đất nước1. Nhiệm vụ xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng khu vực phòng thủ
của huyện được các cấp ủy thường xuyên chỉ đạo, đi vào chiều
sâu, đem lại hiệu quả. Huyện kịp thời điều chỉnh, bổ sung phương
1  N ghị quyết số 08-NQ/TW của Bô Chính trị (khóa VIII) và nghị quyết 08 - NQ-TW của
Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình
hình mới.
421

43.2 Page 422

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
án chiến đấu theo kế hoạch A1, A2 và xây dựng kế hoạch B sẵn
sàng ứng phó, chiến đấu bảo vệ địa bàn. Công tác tuyên truyền,
giáo dục về ý thức cảnh giác, nâng cao tinh thần chiến đấu, sẵn
sàng trong mọi tình huống, chống diễn biến hòa bình, bạo loạn
lật đổ chính quyền của các thế lực chống phá cách mạng được
thực hiện tốt. Lực lượng vũ trang chính quy duy trì công tác huấn
luyện, nâng cao kỹ năng, trình độ. Lực lượng dân quân tự vệ có
những bước chuyển biến tích cực, quân số đạt 1,45% trên tổng
dân số (tỷ lệ đảng viên trong lực lượng đạt 17,36%, đoàn viên
48,9%). Huyện tiến hành và quản lý đầy đủ lực lượng dự bị động
viên, đưa vào biên chế đạt 97,61%. Nguồn nhân lực chỉ huy quân
sự các xã được củng cố theo hướng trẻ hóa, đạt chuẩn 83% qua
đào tạo. Tuyển quân hàng năm của huyện đều hoàn thành chỉ tiêu
giao ở cấp huyện, xã và chất lượng tuyển nghĩa vụ quân sự theo
tiêu chuẩn.
Lực lượng an ninh chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết
hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh trên lĩnh vực an ninh nông
thôn, an ninh kinh tế, chính trị nội bộ, văn hóa tư tưởng, các hoạt
động kích động, tranh chấp lao động gây phương hại đến an toàn
xã hội. Các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm,
chương trình “4 giảm” (giảm ma túy, giảm tội phạm, tệ nạn xã
hội, tai nạn giao thông) được thực hiện đầy đủ, sâu rộng, chặt chẽ.
Công tác vận động quần chúng tham gia phong trào bảo vệ an
ninh Tổ quốc được người dân hưởng ứng. Một số địa bàn thường
phát sinh điểm nóng về an ninh tại các xã Hiệp Phước, Đại Phước,
Long Tân, Phú Hội, Phước Khánh được chuyển hóa rõ rệt, giảm
thiểu những nguy cơ.
Cải cách tư pháp của huyện được quan tâm với những nhiệm
vụ cụ thể theo kế hoạch của Huyện ủy nhằm thực hiện Nghị quyết
của Bộ Chính trị (Nghị quyết 49-NQ/TW). Chất lượng hoạt động
422

43.3 Page 423

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
của công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan
chức năng được nâng cao chất lượng, hiệu lực thi hành theo tinh
thần cải cách tư pháp, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Bên
cạnh đó, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật được huyện
quan tâm thực hiện qua nhiều hình thức, phương tiện, các cấp, ban
ngành, đoàn thể đến với cán bộ, quần chúng.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, công tác nội
chính, an ninh quốc phòng tiếp tục được tăng cường. Hoạt động
pháp luật của địa phương được nâng cao chất lượng, đem lại hiệu
quả, thuận lợi cho việc quản lý, phát triển kinh tế, xã hội. Huyện
thực hiện nâng cao chất lượng công tác xây dựng nền quốc phòng
gắn với an ninh nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục
được củng cố, kiện toàn, phù hợp tình hình địa phương. Lực lượng
vũ trang chính quy của huyện duy trì huấn luyện, diễn tập các
phương án xử lý tình huống, tác chiến theo kế hoạch, khu vực, các
địa bàn. Lực lượng tự vệ của huyện gồm 39 trung đội, đặc biệt có
14 trung đội tự vệ tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trrên địa bàn. Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên tiếp tục
duy trì, bổ sung, phát triển về số lượng, đảm bảo chất lượng, đáp
ứng tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, bảo đảm sẵn sàng phối hợp,
xử lý tốt các tình huống trên địa bàn. Nhiệm vụ tuyển quân hằng
năm từ cấp xã được tuyên truyền, vận động, thực hiện tốt, đã góp
phần chung trong tuyển quân đạt, vượt chỉ tiêu của huyện. Tỷ lệ
đảng viên trong lực lượng nhập ngũ tăng từ 7 đến 10% hàng năm.
Bên cạnh công tác tuyên truyền sâu rộng về an ninh quốc phòng
đối với nhân dân, công tác vận động quần chúng tham gia phong
trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được thực hiện tốt, duy trì thành hoạt
động truyền thống. Các đơn vị lực lượng vũ trang đóng trên địa
bàn đã phối hợp với huyện thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
dân vận, giúp dân, tạo thêm mối quan hệ gắn bó giữa quân đội với
nhân dân địa phương.
423

43.4 Page 424

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của Nhơn Trạch được
đảm bảo trên các lĩnh vực. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã huy
động được sức mạnh hệ thống chính trị, nhân dân tham gia tích
cực các phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện
hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống
tội phạm, tệ nạn xã hội, kéo giảm tai nạn giao thông. Công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được chính quyền, các
ngành, các cấp thực hiện sâu rộng cho mọi đối tượng, từ đơn vị,
cơ quan đến địa bàn dân cư cơ sở. Hoạt động các cơ quan tư pháp
của địa phương có sự phối hợp chặt chẽ, chuyển biến tích cực
theo tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo chất lượng và phát huy
hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử. Những bức xúc, khiếu
nại, nguyện vọng của công dân được tiếp thu kịp thời. Huyện đã
thành lập Ban Chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Ban
Tiếp công dân và phối hợp với mặt trận, đoàn thể hoạt động hiệu
quả trong giải quyết những vấn đề xã hội đạt tỷ lệ 95%. Tình trạng
những địa bàn phát sinh điểm nóng, tạo dư luận với phản ứng tiêu
cực được giải quyết kịp thời, giảm thiểu hậu quả.
4. Nghị quyết Đại hội V xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp giai đoạn 2015 - 2020
Đại hội V diễn ra tại Hội trường Huyện ủy trong 3 ngày (5, 6
và 7.8.2015) với 218 đại biểu chính thức thay mặt cho 4.013 đảng
viên thuộc 57 tổ chức cơ sở Đảng toàn huyện tham dự. Đồng chí
Trần Đình Thành - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí
thư Tỉnh ủy Đồng Nai dự và trao bức trướng lưu niệm. Đại hội
đã bầu Ban chấp hành Huyện ủy Khóa V gồm 39 đồng chí1. Ban
1  Danh sách 39 Ủy viên Ban chấp hành Huyện ủy được bầu tại Đại hội: Quách Hữu Đức,
Nguyễn Hữu Nghị, Châu Phước Thuận, Lê Mạnh Dũng Dương Thị Mỹ Châu, Phạm Sỹ
Linh, Huỳnh Minh Đức, Dương Văn Em, Cao Hữu Nguyên, Lê Vân Chính, Nguyễn Tấn
Linh, Trần Thành Trai, Nguyễn Văn Lo, Phạm Hoàng An, Bùi Xuân Cảnh, Trần Văn Đạo,
424

43.5 Page 425

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thường vụ được Bầu gồm 13 đồng chí: Bí thư: Quách Hữu Đức,
các Phó Bí thư: Nguyễn Hữu Nghị, Châu Phước Thuận, Lê Mạnh
Dũng; các Ủy viên Thường vụ: Dương Thị Mỹ Châu, Phạm Sỹ
Linh, Huỳnh Minh Đức, Dương Văn Em, Cao Hữu Nguyên, Lê
Vân Chính, Nguyễn Tấn Linh, Trần Thành Trai, Nguyễn Văn Lo.
Ủy Ban Kiển tra gồm 7 ủy viên do đồng chí Dương Thị Mỹ Châu
làm Chủ nhiệm. Đại hội bầu đoàn đại biểu dự Đại hội cấp trên
gồm 18 đồng chí.
Đại hội đánh giá: Đến năm 2015, kinh tế Nhơn Trạch tiếp tục
tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hượng hoạch định
phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng - kỹ thuật được đầu tư, từng
bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Xây dựng nông thôn mới đạt được những kết quả tích cực, góp
phần thay đổi diện mạo địa phương. An sinh xã hội được đảm bảo,
đời sống của nhân dân được cải thiện. Lĩnh vực văn hóa, xã hội
tiến bộ trên nhiều mặt, nâng cao chất lượng hưởng thụ văn hóa
của người dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội giữ vững,
ổn định. Khối đại đoàn kết dân tộc của huyện được phát huy bằng
nhiều hoạt động, vận động, phong trào thiết thực. Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đảng viên
nâng lên. Hướng đến phát triển hiện đại gắn với các mục tiêu đem
lại sự bền vững, Nhơn Trạch hoạch định sự phát triển đô thị với
tầm nhìn đến năm 2050.
Bên cạnh kết quả đạt được, huyện Nhơn Trạch đánh giá
những hạn chế và đúc kết các bài học kinh nghiệm để tiếp tục tiếp
Bùi Phước Đức, Vi Văn Đức, Võ Tấn Đức, Võ Thị Hoa, Đặng Kim Hoàn, Trần Thanh Hoàng,
Mai Thanh Hùng, Lương Hữu Ích, Lê Ngọc Lân, Trương Bùi Nhã Linh, Lê Đức Long,
Dương Văn Mẫn, Lê Thành Mỹ, Nguyễn Bình Nam, Cao Văn Thành, Nguyễn Hữu Thành,
Phạm Thị Kiều Thu, Lâm Ngọc Trao, Huỳnh Thị Thanh Trúc, Tại Quang Trường, Lang Văn
Út, Lê Văn Vang, Phan Thị Xuân.
425

43.6 Page 426

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
tục xây dựng, phát triển địa phương theo hướng đề ra được thực
hiện với quá trình: 29 năm thực hiện đường lối đổi mới của đất
nước (1986), 21 năm xây dựng và phát triển kể từ khi thành lập lại
(1994). Đảng bộ huyện xác định mục tiêu và phương hướng trong
giai đoạn 2015 - 2020: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, hiệu quả hoạt động của
tổ chức chính trị; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng -
an ninh; tập trung huy động các nguồn lực, khia thác hiệu quả
tiềm năng, lợi thế của huyện để phát triển nhanh, bền vững, đầu
tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho đô thị mới; nâng cao chất lượng
cuộc sống nhân dân gắn với bảo vệ môi trường; tạo ra những
nhân tố,tiền đề quan trọng để sớm xây dựng Nhơn Trạch trở thành
một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật
của tỉnh Đồng Nai; hỗ trợ các chức năng giáo dục, đào tạo, y tế,
thương mại, dịch vụ hỗn hợp, là đô thị vệ tinh, vùng Thành phố
Hồ Chí Minh, có vị trí quan trọng về giao thông, vận tải, an ninh,
quốc phòng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam1.
Với tinh thần đoàn kết, thống nhất, quyết tâm chính trị cao,
Đại hội V Đảng bộ Nhơn Trạch ban hành Nghị quyết đề ra những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để toàn đảng bộ thực hiện trong giai
đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp theo:
a. Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị;
phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh; tập trung
1  Trích văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch năm 2015. Đại hội Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch lần thứ V tổ chức từ ngày 6 - 7.8.2015 với 218 đại biểu tham dự.
426

43.7 Page 427

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
huy động các nguồn lực, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của
huyện để phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đầu tư kết cấu hạ
tầng kỹ thuật cho đô thị mới; nâng cao chất lượng cuộc sống nhân
dân gắn với bảo vệ môi trường; tạo ra những nhân tố, tiền đề quan
trọng để sớm xây dựng Nhơn Trạch trở thành một trong những
trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của tỉnh Đồng Nai;
hỗ trợ các chức năng giáo dục - đào tạo, y tế, thương mại, dịch vụ
hỗn hợp, là đô thị vệ tinh, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí
quan trọng về giao thông vận tải, an ninh, quốc phòng của vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
b. Các lĩnh vực đột phá trong 5 năm tới
- Tập trung đầu tư, phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật kinh
tế, xã hội, nhất là hạ tầng đô thị và nông thôn.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển đô
thị và lao động khu vực nông thôn để góp phần thực hiện chuyển
dịch cơ cấu lao động.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác quản lý Nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của
huyện.
c. Các chỉ tiêu chủ yếu.
- Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng bình quân từ
18 - 19%/năm (giá so sánh 2010).
- Giá trị sản xuất toàn ngành nông - lâm - ngư nghiệp tăng từ
3,5 - 4%/năm (giá so sánh 2010).
- Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ tăng 25-26%/năm.
427

43.8 Page 428

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm (2015 - 2020)
phấn đấu đạt trên 60.000 tỷ đồng.
- Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thực hiện đạt
hoặc vượt dự toán hàng năm được giao.
- Đến năm 2020, thu gom và xử lý 100% rác thải y tế, rác
thải sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp không nguy hại; thu gom
100% và xử lý 95% chất thải nguy hại.
- Tỷ lệ cây xanh che phủ đạt 31%, trong đó tỷ lệ che phủ
rừng đạt 20 - 21%.
- Phấn đấu đến năm 2020 bình quân 16-17 giường trên vạn
dân và có từ 04-05 bác sĩ trên vạn dân.
- Đến năm 2020, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng chiều cao
theo độ tuổi xuống còn 17,5%.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2020 dưới 1%.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện từ các nguồn và sử dụng nước
hợp vệ sinh đạt 100%, trong đó tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt tiêu
chuẩn quốc gia 80%.
- Giữ vững kết quả và nâng cao chất lượng thực hiện công
tác xóa mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập
giáo dục trung học cơ sở ở mức độ 2.
- Phấn đấu có 50% trường mầm non, 90% trường tiểu học,
trung học cơ sở và 01 trường trung học phổ thông đạt các tiêu chí
của trường chuẩn quốc gia.
- Phấn đấu 99% hộ gia đình được công nhận danh hiệu gia
đình văn hóa, 100% ấp đạt danh hiệu ấp văn hóa.
428

43.9 Page 429

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
- Đến cuối năm 2015, đạt chuẩn huyện nông thôn mới; cuối
năm 2016, phấn đấu 12/12 xã được công nhận xã nông thôn mới;
đến cuối năm 2020 phấn đấu 15% xã đạt chuẩn nông thôn mới
nâng cao.
- Phấn đấu đến năm 2020 tỉ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 1%
(theo chuẩn mới).
- Giải quyết việc làm cho trên 27.000 lao động. Đến năm
2020, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%.
- Phấn đấu giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo đạt trên 95%.
- Hoàn thành chỉ tiêu giao quân hàng năm và đạt về chất
lượng, số lượng ở cả 2 cấp huyện, xã.
- Giữ vững an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trong mọi tình huống.
- Đảm bảo tỷ lệ tập hợp số người trong độ tuổi tham gia vào
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đạt từ 88% trở lên, riêng
Đoàn thanh niên đạt từ 60% trở lên.
- Đảm bảo tỷ lệ đoàn viên, hội viên tham gia sinh hoạt thường
xuyên đạt từ 80% trở lên. Tỷ lệ lực lượng đoàn viên, hội viên nồng
cốt đạt từ 45% trở lên và phấn đấu từng đoàn thể có trên 85% cơ
sở vững mạnh, không có cơ sở yếu kém.
- Đảm bảo tỷ lệ đảng viên tham gia học tập, quán triệt các
Nghị quyết của Đảng đạt trên 99% (trừ các đồng chí được miễn
sinh hoạt).
- Đến năm 2020 đội ngũ cán bộ, công chức các cấp của huyện
đều đạt chuẩn theo quy định.
- Phấn đấu tỷ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 6-7%/năm so
với tổng số đảng viên có tại thời điểm cuối năm.
429

43.10 Page 430

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
- Hàng năm phấn đấu thành lập từ 01-02 tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài; thành lập
từ 02-03 tổ chức Đoàn, Hội trong các doanh nghiệp và khu vực
nhà trọ.
- Phấn đấu hàng năm có trên 80% tổ chức cơ sở đảng đạt
danh hiệu “trong sạch, vững mạnh”; trên 85% đảng viên được
công nhận đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phấn đấu hết năm
2020 có 90% chi bộ ấp có chi ủy.
- Hàng năm, có 100% cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức đăng ký và trên 95% đảng viên thực hiện tốt việc nêu gương;
100% cấp ủy thực hiện tốt quy chế.
- Hàng năm, giải quyết dứt điểm 95% đơn thư tố cáo đối với
tổ chức đảng, đảng viên và 100% đơn khiếu nại kỷ luật của đảng
viên thuộc thẩm quyền; tỷ lệ đảng viên trong toàn Đảng bộ bị
thi hành kỷ luật hàng năm dưới 1% so với tổng số đảng viên của
Đảng bộ.
d. Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp gắn với phát triển về dịch
vụ, các khu dân cư đô thị và bảo vệ môi trường. Tăng dần tỷ trọng
của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế. Tập trung hỗ trợ, phát
triển ngành nông nghiệp theo hướng chuyển dịch từ sản xuất nông
nghiệp nông thôn sang nông nghiệp đô thị.
- Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng
đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản theo hướng hợp lý, hiệu quả
và bền vững. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện các biện pháp, giải
pháp bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng môi trường sống,
xây dựng cảnh quang xanh, sạch, đẹp.
430

44 Pages 431-440

▲back to top


44.1 Page 431

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
- Tập trung nguồn lực xây dựng và nâng cao chất lượng nông
thôn mới, phấn đấu đến cuối năm 2015 huyện đạt chuẩn nông thôn
mới, đến cuối năm 2016 có 100% xã trên địa bàn đạt chuẩn xã
nông thôn mới.
-Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Giữ
vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục
trung học cơ sở và tiến tới phổ cập bậc trung học.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ năng lực,
trình độ và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi.
- Đảm bảo hiệu quả hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
nhân dân, phòng chống dịch bệnh; xây dựng đội ngũ cán bộ ngành
y tế đủ số lượng, có chuyên môn cao, đạo đức tốt.
- Đẩy mạnh thực hiện chiến lược an ninh quốc gia; phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới. Xây
dựng khu vực phòng thủ huyện vững chắc. Từng bước xây dựng,
hoàn chỉnh các công trình quốc phòng, góp phần hoàn chỉnh thế
trận phòng thủ của địa phương.
- Chú trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt
động của các cơ quan tu pháp và đội ngũ cán bộ làm công tác tư
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án; không để xảy ra oan sai; hạn chế thấp nhất tình
trạng án tồn quá hạn luật định, án bị hủy, bị sửa.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành
chính, tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, hiệu lực
quản lý Nhà nước.
431

44.2 Page 432

▲back to top


Lãnh đạo xây dựng, phát triển quê hương (1975-2015)
- Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; tăng cường công tác
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể;
tích cực tham gia đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong sạch, vững mạnh.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực
và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ đảng viên,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI), Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị và
Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
***
Giai đoạn 2005 - 2015 là một chặng đường phát triển không
dài nhưng có ý nghĩa quan trọng, đã kế thừa, phát huy thành quả
của nhiều năm trước, tiếp tục thực hiện Đường lối đổi mới của
Đảng, tạo cho Nhơn Trạch có những bước tiến có tính chất đột
phá, phát triển về chất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã
hội theo hướng phát triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế - văn hóa
xã hội - an ninh quốc phòng. Trên nền thành quả ấy, Nhơn Trạch
được qui hoạch phát triển theo định hướng Nghị quyết 13 của
Tỉnh ủy và qui hoạch được phê duyệt của Chính phủ nâng bước
phát triển lên tầm cao mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông
thôn mới, đô thị văn minh. Tạo được kết quả đó là do Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo hiệu lực toàn
hệ thống chính trị thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của Đảng,
của Tỉnh ủy phù hợp với điều kiện và lợi thế của địa phương, có
sáng tạo trong điều hành, có bản lĩnh trong đổi mới và vượt khó,
được nhân dân tin tưởng, ủng hộ.
432

44.3 Page 433

▲back to top


PHẦN IV
BÀI HỌC KINH NGHIỆM

44.4 Page 434

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
Chương VIII
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG
ĐẤU TRANH, XÂY DỰNG
1. Phát huy lợi thế địa phương
Trong quá trình xây dựng và phát triển, Nhơn Trạch khởi
phát từ một vùng “đất rộng người thưa”, kinh tế thuần nông, đón
nhận nhiều nguồn cư dân từ nhiều vùng miền của đất nước, tụ hội
làm ăn, kết nối nghĩa tình, chinh phục tự nhiên, chống quân xâm
lược, bảo vệ quê hương, góp phần giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước. Nay, huyện Nhơn Trạch trở thành huyện phát triển năng
động trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều lợi thế trở
thành đô thị phát triển bền vững, văn minh, hiện đại. Trong những
chặng đường vẻ vang, Nhơn Trạch phát hiện và luôn phát huy lợi
thế của địa phương “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”.
- Về địa lợi; Nhơn Trạch có địa thế thuận lợi cho giao thương,
sản xuất, sinh sống và đấu tranh. Địa hình Nhơn Trạch có đủ dạng
ruộng, vườn, gò đồi, đồng, vàm, hang, tắt; rừng giồng nối liền
Rừng Sác; sinh thái giao hòa nước mặn - nước ngọt - nước lợ,
hệ thống sông rạch như những vòng tay kết nối huyết mạch quê
hương. Sông Cái (sông Đồng Nai) qua địa bàn Nhơn Trạch như
đại lộ của thời khẩn hoang cũng như thời đại công nghiệp; hệ
thống sông Thị Vải, sông Lòng Tàu, sông Đồng Môn đều mang
dấu ấn lịch sử và lợi thế của công nghiệp. Sông ngòi ở Nhơn Trạch
luôn trẻ trung cùng nhịp sống, kết nối Nhơn Trạch với các điểm
nhấn phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu,
434

44.5 Page 435

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
cảng hàng không quốc tế Long Thành. Thêm các tuyến đường 15,
17, 19, 25 thuận tiện cho giao thông đường bộ nội vùng và kết nối
liên vùng. Vì vậy mà, trong chiến tranh, chính quyền Pháp, Nhật,
Mỹ và Sài Gòn đều chọn Nhơn Trạch là địa bàn trọng điểm, xây
dựng căn cứ quân sự với kho đạn Thành Tuy Hạ khổng lồ và tập
trung hoạt động quân sự với cường độ cao. Cũng vì vậy mà, Đảng
tập trung lãnh đạo quân dân Nhơn Trạch xây dựng căn cứ địa cách
mạng, kiên cường đấu tranh giữ đất, đánh giặc tạo nhiều chiến
công lừng lẫy góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
Huyện Nhơn Trạch được chọn để xây dựng căn cứ địa cách
mạng vì có những đặc điểm: Huyện tiếp giáp với Rừng Sác tiếp
nối rừng giồng, thông với biển; yết hầu của chính quyền Sài Gòn,
bàn đạp để tiến công vào đầu não của địch; cửa ngõ để thông giao
quốc tế. Huyện Nhơn Trạch cũng có khu Lòng Chảo với hệ sinh
thái đa dạng, cây cối rậm rạp lợi thế cho việc đóng quân, bám dân,
bám đất, tiến công và tự vệ, dễ bám trụ thực hiện chiến tranh du
kích lâu dài, thuận cho việc hội quân đánh những đòn quyết định.
Nhơn Trạch được đầu tư, nhanh chóng phát triển theo hướng công
nghiệp, hiện đại, nông thôn mới, đô thị văn minh cũng nhờ có ưu
thế “địa lợi”.
- Về thiên thời; Nhơn Trạch cùng cả tỉnh, cả nước sống và
chiến đấu trong thời đại Hồ Chí Minh, được Đảng lãnh đạo toàn
dân phát huy truyền thống yêu nước, tổng hợp sức mạnh đoàn
kết dân tộc, chấp nhận gian khổ hy sinh để bảo vệ quê hương,
góp phần giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước thống nhất, hòa
bình, phát triển theo hướng bền vững. Có Đảng lãnh đạo, quân dân
Nhơn Trạch được dẫn dắt bởi lý luận đúng đắn, hợp qui luật cách
mạng, vượt khó vươn lên đạt được mục đích cao nhất.
435

44.6 Page 436

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
Từ thời Cần Vương, đồng bào Nhơn Trạch yêu nước, theo
bóng cờ nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định,
không thành công. Thời kỳ Pháp đô hộ, dấy lên phong trào Hội
kín/ Thiên địa hội hoạt động chống Tây nhưng đều thất bại. Từ khi
Xứ ủy Nam kỳ cử đảng viên về xây dựng cơ sở, nhen nhóm ngọn
lửa đấu tranh cách mạng từ những cơ sở đầu tiên ở Phú Hội, Phú
Hữu, Phú Thạnh, Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai,
Nhơn Trạch bừng lên ánh sáng của phong trào cách mạng, được
Đảng trực tiếp lãnh đạo mới tạo được thành tích kỳ diệu, từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.Trong xây dựng và phát triển, Đảng
nắm bắt thời cơ, hoạch định chiến lược đổi mới, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu xã hội hợp lý, huy động các nguồn lực đầu tư
phát triển đúng hướng. Điều đó hợp qui luật, là sức mạnh của thời
đại, là đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng; được xem là yếu
tố thuộc “thiên thời”.
- Về nhân hòa; lòng dân Nhơn Trạch qui về một mối hướng
theo cờ Đảng như trăm sông hội về với biển, chủ nghĩa yêu nước
bắt gặp lý luận cách mạng khoa học, sức mạnh đoàn kết dân tộc
được phát huy, mọi tiềm lực được huy động tạo nên sức mạnh kỳ
diệu đánh thắng ngoại xâm, vượt mọi gian khó xây dựng và phát
triển quê hương.
Từ năm 1929, khi giặc Pháp xây dựng kho đạn Thành Tuy
Hạ khổng lồ, rồi năm 1955, Mỹ đưa Nhơn Trạch lên thành Yếu
khu ThànhTuy Hạ, tăng lượng bom đạn gấp nhiều lần so với thời
Pháp, ngỡ là giặc sẽ thiêu đốt Nhơn Trạch thành bình địa. Nhưng,
quân dân Nhơn Trạch vẫn giữ vững căn cứ địa cách mạng, bảo vệ
cơ sở Đảng an toàn, giữ vững vị trí là bàn đạp để lực lượng cách
mạng tấn công Sài Gòn, cơ quan đầu não của địch. Phong trào
cách mạng ở Nhơn Trạch thực hiện phương châm Đảng với dân
436

44.7 Page 437

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
là một, kháng chiến toàn dân, toàn diện, đoàn kết toàn dân đánh
bại cả Pháp và Mỹ cùng bọn lính chư hầu. Nhơn Trạch cũng là địa
phương đóng góp lương thực - thực phẩm nhiều nhất cho tỉnh, cho
các chiến dịch tổ chức những trận đánh thắng lớn, làm phấn khởi
lòng dân, làm cho địch hoang mang, góp phần chiến thắng trong
cả nước. Cụ thể: Quân dân Nhơn Trạch đánh thắng trên 5.870
trận (giai đoạn kháng chiến chống Pháp 1945-1954) và 7.560 trận
(giai đoạn kháng chiến chống Mỹ 1954 - 1975) trong đó, đồng bào
Nhơn Trạch chịu mất mát hy sinh lớn nhất, đóng góp ngày công,
tài sản quí nhất cho kháng chiến, trực tiếp tham gia phục vụ chiến
trường, thực hiện các công trình cắm chông, đắp đập, đào hào, đân
công hỏa tuyến, vận chuyển lương thực, nuôi giấu cán bộ ... thời
bình xây dựng và phát triển, Đảng chủ trương, lãnh đạo đường lối
đổi mới; người thực hiện là các lực lượng nhân dân với lòng tin
vào Đảng, nhà nước, với tinh thần đoàn kết, quyết tâm, sáng tạo.
Ấy là lòng dân, sức mạnh của nhân dân, cốt lõi của yếu tố “nhân
hòa”.
2. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nhân dân tin
yêu, đảng viên nêu gương
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, trí tuệ
để lãnh đạo cách mạng đó là bài học chung, có ý nghĩa quyết định
trong mọi thắng lợi. Bài học này đã được vận hành rất tốt trong
hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và công cuộc đổi mới, xây
dựng và phát triển ở Nhơn Trạch. Từ việc xây dựng Đảng ở Nhơn
Trạch, thêm nhiều bài học cụ thể được đúc kết từ thực tế đấu tranh
và xây dựng quê hương ở các lĩnh vực: Công tác tư tưởng, tuyên
truyền, kiểm tra, vận động nhân dân, nêu gương đảng viên, từng
bước xây dựng cơ sở đảng, lãnh đạo huy động sức mạnh tổng hợp
để giành thắng lợi trong chiến đấu thời chiến tranh cũng như trong
xây dựng thời bình.
437

44.8 Page 438

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
Ở lĩnh vực tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng học tập lý luận, phát huy tinh thần yêu nước chống ngoại
xâm, theo Đảng làm cách mạng được Đảng xem trọng, chú trọng
thực hiện mọi nơi mọi lúc. Nhưng thực hiện ở Nhơn Trạch không
phải là công việc dễ dàng; vì dân Nhơn Trạch phần lớn là thuần
nông, ít chữ nghĩa, chơn chất làm ăn, giàu lòng yêu nước nhưng
ít lý luận, căm thù giặc sâu sắc nhưng thiếu phương pháp cách
mạng; nhiều mất mát hy sinh, thất bại trong phong trào kháng
Pháp không thành công nên dễ bị tổn thương, cam chịu. Ban đầu,
vai trò của các nhân sĩ trí thức gồm các thầy tu, thầy giáo làng
có tác động đến tâm trí của thanh thiếu niên trường làng, nhưng
khuôn gọn trong tư tưởng nho gia và tinh thần dân tộc đang bế tắc.
Phải đến khi một số thanh niên người Nhơn Trạch làm công nhân
ở Sở Cao su Tân Tường, Sở Ông Cố và công trường xây dựng
Thành Tuy Hạ những năm 40 của thế kỷ XX tiếp xúc được với
những đảng viên cốt cán như Ba Dục, Vũ Hồng Phô, Trương Thị
Ba. được Đảng cử về gây dựng phong trào thì lý luận cách mạng,
con đường cách mạng giải phóng dân tộc mới dần sáng tỏ, lan
rộng trong lòng dân yêu nước. Lớp đảng viên đầu tiên của Nhơn
Trạch như Ba Đạm, Tư Liềm, Hai Thành, Tư Định đều là những
thanh niên hăng hái, giàu lòng yêu nước, vững chí phấn đấu bắt
gặp được đường lối cách mạng, con đường giải phóng dân tộc do
Đảng lãnh đạo như đồng khô gặp mưa lành trở thành những hạt
nhân cộng sản gieo vào lòng dân những điều mới mẻ, đáng tin,
đáng theo. Những đảng viên lớp đầu tiên này vừa là người tuyên
truyền, vừa là người thực hiện, làm tấm gương mẫu mực để vận
động quần chúng, đưa lý luận cách mạng đi vào quần chúng một
cách tự nhiên, ít luận đề khó hiểu, bằng hoạt động thực tiễn dễ làm
theo. Từ đó, như hạt lành gieo đất tốt, lý luận cách mạng, đường
lối cách mạng rộ nở, được dân tin theo; những đảng viên lớp đầu
438

44.9 Page 439

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tiên dần vận động xây dựng được tổ chức Đảng ở cơ sở. Những
chi bộ Đảng đầu tiên không nhiều đảng viên nhưng giàu sức sống,
từ những chi bộ mật sớm có ở Sở Cao su Tân Tường, Phú Hội,
Phước An, Phú Hữu, Long Tân, Phước Thọ, Phước Long, Phước
Lai rồi lan rộng toàn huyện. Có những lúc địch khủng bố làm rã
hầu hết tổ chức Đảng (mỗi xã chỉ còn vài đảng viên), nhất là khi
có người phản bội chỉ điểm (như Hà Tư, Hai Tấn, Năm Hà đầu
hàng, dẫn địch đánh phá cơ sở cách mạng), nhưng chi bộ vẫn được
tái sinh, phát triển. Có lúc do yêu cầu của chiến trường, nhiều lần
tổ chức Đảng trên địa bàn phải tách nhập, có lúc hoạt động bí
mật, nhiều khi tổ chức cơ sở Đảng cấp dưới đứt liên lạc với cấp
trên nhưng chi bộ Đảng, các tổ chức Đảng trên địa bàn vẫn giữ
vững vai trò lãnh đạo, hoàn thành nhiệm vụ, đạt mọi mục tiêu
Nghị quyết. Cũng có lúc, lúc nơi này, nơi nọ có đảng viên phạm
khuyết điểm, phải xử lý nhưng tổ chức Đảng biết khắc phục, sửa
sai, vươn lên. Việc xử lý kỹ luật đảng viên kịp thời, minh bạch có
làm giảm số lượng đảng viên nhưng làm tăng sức mạnh của Đảng;
vụ xử án công khai Ba Nhỏ và nhóm 4 tên (Trực, Cảnh, Tây, Du)
có ý nghĩa làm trong sạch lực lượng vũ trang, củng cố lòng tin của
dân đối với Đảng. Bài học sinh tồn của việc xây dựng Đảng trong
mọi trường hợp như thế là: Kiên trì với lý tưởng, đường lối lãnh
đạo của Đảng, xây dựng Đảng trong lòng dân, vì sự nghiệp chung
của nhân dân, được dân tin yêu, bảo vệ và góp sức vun đắp. Dân là
nguồn lực, là tiêu chí, là thước đo của công tác xây dựng Đảng.
Trong xây dựng Đảng ở Nhơn Trạch, đưa đường lối, chủ
trương của Đảng vào lòng dân bằng nhiều cách: Chỉ thị, hội nghị
triển khai, tuyên truyền miệng đều thực hiện đủ. Nhưng, cách tốt
nhất và là bài học quí nhất là thông qua tấm gương của đảng viên.
Những đảng viên, nhất là lớp đảng viên đầu tiên, đảng viên lãnh
đạo ở Nhơn Trạch đều là những nhà tuyên truyền vận động giỏi
439

44.10 Page 440

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
bởi đó là những đồng chí gương mẫu, sống trong dân, vì dân,
mang giá trị văn hóa của nhân dân, vững vàng trong tư tưởng
cách mạng, trọn lòng với công việc cách mạng, dũng cảm, chân
thành, sẵn sàng hy sinh, không mưu lợi riêng. Vì thế, được dân tin
yêu, nghe theo, làm theo. Nhiều tấm gương hy sinh lẫm liệt của
đảng viên làm tăng thêm sức mạnh cho quần chúng, có sức mạnh
“hơn vạn bài diễn văn”. Thực tế, có nhiều thanh niên, nhiều liệt
sĩ chưa kịp hiểu gì về cách mạng, về lý luận cộng sản; chỉ vì cảm
phục, học và làm theo những tấm gương ấy mà có động lực tham
gia các mạng, có nhiều đóng góp cho đất nước. Có thể nói, nêu
gương đảng viên là bài học quí cho công tác xây dựng Đảng ở
Nhơn Trạch. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
Đế quốc Mỹ, đảng viên nêu gương ở hoạt động kháng chiến, dũng
cảm, hy sinh trong chiến đấu. Trong thời bình xây dựng và phát
triển Nhơn Trạch, đảng viên nêu gương ở tính tiên phong, gương
mẫu, tự giác trong thực hiện nhiệm vụ, trọng tâm là rèn luyện và
thực hành đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tận tụy
phục vụ nhân dân, không tham ô tham nhũng; mỗi đảng viên như
thế là viên gạch góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
đạo đức, văn minh. Các cuộc vận động học tập, làm theo tấm
gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh ở Nhơn Trạch trong
thời gian qua đều mang ý nghĩa của bài học lịch sử này.
Vận dụng bài học xây dựng Đảng trong công tác lãnh đạo
của Đảng bộ Nhơn Trạch thời nay, Đảng bộ xác định luôn là bộ
phận trong đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, Đảng mạnh trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố quyết định cho thắng lợi
của cách mạng. Đảng bộ Nhơn Trạch luôn quán triệt lời di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
440

45 Pages 441-450

▲back to top


45.1 Page 441

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Để tạo nên sự thống nhất và đoàn kết, Đảng bộ Nhơn Trạch
lấy công tác giáo dục chính trị tư tưởng làm nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu. Việc triển khai học tập quán triệt đường lối, chủ trương
cua Đảng, chính sách Nhà nước được tiến hành thường xuyên,
nghiêm túc bằng nhiều hình thức phù hợp với điều kiện từng loại
hình tổ chức Đảng từ huyện đến cơ sở. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
triển khai thực hiện sâu rộng (cả trong Đảng bộ và các thành phần
xã hội) cuộc vận động học tập và làm tấm gương đạo đức, tư
tưởng Hồ chí Minh theo từng chủ đề hướng dẫn của Trung ương,
đã xây dựng nhiều mô hình học tập và làm theo tốt, góp phần nâng
cao nhận thức chính trị tư tưởng trong Đảng bộ, đồng thời tạo ra
động cơ để toàn đảng viên, cán bộ rèn luyện nhân cách, phẩm chất
đạo đức cách mạng, nêu gương tốt trong đời sống và thực hiện
công vụ, từ đó thực hiện đổi mới về phong cách, thái độ ứng xử
và phục vụ nhân dân tốt hơn để nâng cao niềm tin của quần chúng
nhân dân với Đảng.
Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của Ban chấp hành
Chi bộ, Đảng bộ từ Huyện ủy tới các đảng ủy, chi ủy tạo mối quan
hệ lãnh đạo tốt trong các cấp ủy với hệ thống chính trị. Giữ vững
nguyên tắc dân chủ tập trung, công khai, nguyên tắc tự phê bình
và phê bình trong Đảng được quán triệt và là phương châm hàng
đầu trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ đối với các cấp chi
đảng bộ cơ sở. Đồng thời Đảng bộ thường xuyên tiến hành kiểm
tra việc thực hiện điều lệ Đảng, chấp hành đường lối, nghị quyết
của Đảng, qua đó giúp cho tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, cán bộ
nhận thức được điểm mạnh để phát huy và điểm yếu để khắc phục
sửa chữa vươn lên.
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch rất chú trọng công tác tổ chức,
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ đảng viên, cán bộ trẻ, đảm bảo về chất
441

45.2 Page 442

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
lượng bản lĩnh chính trị và năng lực chuyên môn, nhiều độ tuổi kế
thừa sự nghiệp cách mạng.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thế trận lòng
dân
Lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt tạo ra sức mạnh
để chiến đấu chống giặc ngoại xâm thời chiến và tự vệ trong thời
bình. Mọi quốc gia ở mọi nơi mọi lúc đều chú trọng xây dựng lực
lượng vũ trang theo quan niệm của mình và cách thức của mình.
Lực lượng vũ trang Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân được
Đảng lãnh đạo, do dân, vì dân, chiến đấu trong thế trận lòng dân.
Đây là bản chất của “người lính cụ Hồ” được trui rèn, đúc kết
trong thực tế. Ở thực tế lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang của
Đảng bộ Nhơn Trạch thấy rõ điều này.
Khi Pháp nổ súng tiến chiếm Gia Định, Biên Hòa, quân binh
triều Nguyễn chống cự quyết liệt nhưng nhanh chóng thất bại do
lực lượng vũ trang triều Nguyễn chưa đủ mạnh so với giặc Pháp.
Các đồn bảo dọc sông Lòng Tàu (nhiều đồn bảo ở địa bàn Nhơn
Trạch) nhanh chóng bị triệt hạ, Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng bị
tử thương. Trong thời gian thuộc Pháp, nhiều người Nhơn Trạch
tập hợp lực lượng theo bóng cờ nghĩa quân Trương Định, hội kín
(Thiên Địa hội) rồi cũng bị giặc đàn áp làm tan rã, một trong nhiều
lý do là chưa có lực lượng vũ trang đủ sức để chống lại quân thù.
Khi có ánh sáng soi đường của Đảng, phong trào quần chúng cách
mạng bắt đầu chỉ với gậy tầm vông và giáo mác tự tạo. Khi tham
gia nổi dậy cướp chánh quyền làm nên Cách mạng tháng Tám, lực
lượng quần chúng cách mạng có được các tổ chức do Đảng lãnh
đạo như Thanh niên Tiền Phong, các hội cứu quốc, tuy đông người
nhưng thiếu vũ khí võ trang. Một số đội thanh niên Tiền Phong có
được vài khẩu súng “tận dụng” của lính Pháp, Nhật. Khi bước vào
442

45.3 Page 443

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
giai đoạn trường kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp tái chiếm
Nam Bộ, Tỉnh ủy đã chú trọng chỉ đạo và tổ chức thực hiện xây
dựng lực lượng vũ trang. Không có lực lượng vũ trang thì không
có quả đấm thép để tạo sức mạnh cho mặt trận chính trị. Việc
xây dựng lực lượng vũ trang bắt đầu từ công tác vận động quần
chúng, xây dựng các đội tuyên truyền vũ trang từ cơ sở. Lấy công
tác tuyên truyền làm chính, vũ trang kết hợp tạo sức mạnh tổng
hợp trong quần chúng. Việc xây dựng lực lượng vũ trang gắn liền
với xây dựng căn cứ địa cách mạng, kết hợp vũ khí tự tạo với lấy
vũ khí địch đánh địch, đánh địch bảo vệ căn cứ, đánh địch trong
lòng địch, diệt ác trừ gian để lung lạc tinh thần địch. Lực lượng
vũ trang gồm các thứ quân: Dân quân, du kích, bộ đội địa phương
và bộ đội chủ lực. Sự linh hoạt trong việc xây dựng lực lượng vũ
trang Nhơn Trạch làm xuất hiện bộ đội Châu Văn Phú có sứ mệnh
đặc biệt, tạo nhiều chiến công đặc biệt trước khi có Nghị quyết 15
của Trung ương, làm nòng cốt cho bộ đội 19/5 của huyện. Từ các
đội dân quân, hình thành bộ đội 19/5, D240 và phối hợp chặt với
bộ đội chủ lực Đặc công Rừng Sác, bộ đội của tỉnh và các trung
đoàn chủ lực miền trên địa bàn. Khi đánh địch, có sự kết hợp với
công tác chính trị và binh vận, có sự chủ động của dân quân du
kích cơ sở, có sự kết hợp bài bản giữa các đơn vị, có sự phân công
cụ thể trong các chiến dịch, cho nên, mặc dù địch tập trung càn bố,
hủy diệt, muốn làm trắng chiến trường Nhơn Trạch nhưng quân
dân Nhơn Trạch vẫn bám trụ, giữ vững địa bàn trong lòng đất,
trong lòng dân; nhiều lúc tổn thất về quân lực nhưng lực lượng vũ
trang luôn được bổ sung, mạnh hơn, đông hơn, thiện chiến hơn;
làm cho địch luôn bất ngờ, không đánh giá được tiềm lực và thực
lực của quân dân Nhơn Trạch. Từ địa bàn Nhơn Trạch, các đơn vị
lực lượng vũ trang đã đánh thắng giặc nhiều trận có ý nghĩa chiến
lược: Nhiều lần đánh chìm tàu chiến, bốn lần tập kích làm nổ tung
443

45.4 Page 444

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
khu kho Thành Tuy Hạ, nhiều lần nã pháo vào đầu não Sài Gòn,
bẻ gãy toàn bộ các cuộc hành quân ruồng bố hòng chia cắt chiến
trường Nhơn Trạch - Long Thành - Bà Rịa, mở ngõ cho đại quân
tiến về giải phóng Sài Gòn.
Lực lượng vũ trang Nhơn Trạch được xây dựng từ không đến
có, do dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, chiến đấu trong hình
thức chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân; được dân cung cấp
lương thực, vũ khí, thông tin, xã thân bảo vệ cán bộ; và chính các
bộ phận nhân dân cũng là lực lượng trực tiếp chiến đấu và hỗ trợ
tiềm lực cho lực lượng vũ trang trên mặt trận chính trị. Kết quả,
Đảng bộ và nhân dân 7/12 xã và toàn huyện Nhơn Trạch được Chủ
tịch nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Sự tổn thất về nhân lực của lực lượng vũ trang trên địa bàn Nhơn
Trạch khá lớn gần 1.500 liệt sĩ được Tổ quốc ghi công, 2 cá nhân
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều cá nhân và tập thể
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khác lập thành tích trên
địa bàn Nhơn Trạch, 255 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 2.000 gia
đình thương binh, liệt sĩ và người có công; nhiều tấm gương sáng
cựu chiến binh trong chiến đấu cũng như trong xây dựng. Đó là
tinh hoa của dân góp phần tạo sức mạnh cho lực lượng vũ trang,
lập thế trận lòng dân cho lực lượng vũ trang tổ chức chiến đấu.
Trong thời bình, Nhơn Trạch đã có Đảng bộ vững mạnh,
chính quyền hiệu lực, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
đoàn kết, lực lượng vũ trang nhân dân càng được chú trọng xây
dựng vững mạnh, thể hiện rõ bản chất do dân vì dân, làm nòng cốt
cho việc đảm bảo an ninh quốc phòng trên địa bàn, làm tốt công
tác dân vận, sẵn sàng thế trận nhân dân bảo vệ Tổ quốc, duy trì và
thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự để lực lượng vũ trang nhân
dân ở Nhơn Trạch luôn được các tầng lớp nhân dân chung tay xây
444

45.5 Page 445

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
dựng, bồi đắp. Thời gian qua, Đảng bộ Nhơn Trạch luôn hoàn
thành đạt và vượt các chỉ tiêu về an ninh, quốc phòng và nghĩa
vụ quân sự; đó là do vận hành tốt bài học lịch sử về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm.
4. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân
chủ, phục vụ dân sinh.
Cội nguồn của Đảng là dân. Mục đích của Đảng là vì dân.
Cho nên, Đảng giương cao ngọn cờ dân chủ, đoàn kết được nhân
dân ủng hộ, tin theo. Việc phát huy dân chủ được Đảng bộ ở Nhơn
Trạch, Long Thành trước hết thực hiện trong Đảng, từ vận động
xây dựng Đảng, đến xây dựng tổ chức Đảng, đánh giá, bình xét,
giao nhiệm vụ đảng viên. Bài học cho thấy, khi dân chủ trong
Đảng phát huy thì tạo nên thắng lợi. Khi dân chủ trong Đảng
không được tôn trọng hoặc bị vi phạm thì đảng yếu đi, phạm sai
lầm, tổn thất. Có dân chủ mới tập hợp và phát huy được khối đại
đoàn kết toàn dân, và có đoàn kết toàn dân mới có được dân chủ
thực chất. Các tầng lớp nhân dân thông qua các tổ chức, đoàn thể
tin theo Đảng là do nhận thấy Đảng vì dân, Đảng thể hiện dân chủ
(điều đặc biệt không thấy được trong thể chế phong kiến, thực
dân). Dân chủ luôn gắn với đoàn kết. Có dân chủ mới có đoàn kết.
Thiếu đoàn kết thì không thực hành dân chủ được. Bài học dân
chủ, đoàn kết trong kháng chiến chống ngoại xâm ở Nhơn Trạch
vô cùng quí báu, được đúc kết bằng xương máu. Sau đại hội Mặt
trận Tổ quốc huyện Nhơn Trạch được tổ chức ở Phước An năm
1962, khối đoàn kết toàn dân được xây dựng bền chặt, thể hiện rõ
bài học phát huy dân chủ, đoàn kết của Đảng bộ đem lại sức mạnh
thần kỳ, tạo được chiến công kỳ diệu.
445

45.6 Page 446

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
Trong kháng chiến, bài học dân chủ đoàn kết được thực hiện
trong chiến đấu, gắn với nhiệm vụ từng đảng viên, từng đảng bộ,
cùng hoạt động đánh giặc cứu nước. Lúc ấy, lợi ích riêng chưa chi
phối lợi ích chung, bí mật chiến đấu là vấn đề sống còn, cùng được
giữ gìn. Nay, trong thời bình, bài học dân chủ, đoàn kết dân tộc
của Đảng bộ Nhơn Trạch được vận dụng có khác, cần thích ứng
với thực tế của công cuộc đổi mới phát triển đất nước, chống lợi
ích nhóm, chống tham nhũng, công khai minh bạch các quyết sách
liên quan đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
Việc mở rộng, phát huy dân chủ được Đảng bộ tiến hành
trước hết và gương mẫu trong nội bộ Đảng, chính quyền bằng
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Các cấp ủy Đảng đều có quy chế hoạt động cụ thể, rõ ràng, gắn
trách nhiệm với quyền lợi, trong tổ chức đảng mọi đảng viên đều
bình đẳng, không có đặc quyền đặc lợi. Thông qua tổ chức Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ
nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động, Cựu chiến binh, cùng
các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, Đảng bộ không chỉ tập hợp
được các tầng lớp trong xã hội, mà điều quan trọng hơn chính
các tổ chức quần chúng là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và
chính quyền. Thông qua các đoàn thể, nhân dân thực thi quyền
làm chủ của mình. Đồng thời, Đảng bộ, chính quyền huyện còn
tạo điều kiện để nhân dân tiếp xúc trực tiếp với đại biểu HĐND
tỉnh, huyện, xã; tổ chức nhiều cuộc đối thoại trực tiếp giữa lãnh
đạo với các tầng lớp nhân dân để lắng nghe ý nguyện người dân.
Biết lắng nghe nguyện vọng của dân, Đảng bộ kịp thời chỉ đạo
chỉnh sửa việc vận dụng chính sách, tạo được niềm tin trong dân
với Đảng, với cách mạng.
446

45.7 Page 447

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đi đôi với việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao
nhận thức của nhân dân trong việc “sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật”, việc thực thi pháp luật trong huyện ngày càng
được các cơ quan hữu quan tiến hành nghiêm túc, thực hiện quyền
bình đẳng mọi công dân trước pháp luật. Trên lĩnh vực kinh tế và
sản xuất, thông qua các đoàn thể, huyện triển khai những chính
sách như cho vay vốn, trợ vốn đảm bảo cho người nghèo, khó
khăn được vốn để sản xuất. Với các đối tượng chính sách, việc xét
duyệt trợ cấp đảm bảo tính công khai, dân chủ, công bằng, huy
động sức dân cùng với nhà nước chăm sóc các đối tượng.
Thực hiện công bằng, từng bước mở rộng dân chủ từ trong
nội bộ Đảng ra ngoài quần chúng, đáp ứng nguyện vọng của dân,
uy tín của Đảng, Chính quyền không ngừng được nâng lên, đó
là cách thực hiện phương châm “dân tin Đảng, Đảng tin và dựa
vào dân” - một trong những nguyên nhân tạo nên sức mạnh trong
kháng chiến để đánh thắng kẻ thù.
Mục đích cao nhất của đoàn kết, dân chủ là để phục vụ dân
sinh, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Nếu có độc lập, tự
do, đoàn kết, dân chủ mà không chăm lo cho cuộc sống của dân,
không bảo vệ dân thì dân chủ, đoàn kết, tự do, độc lập đều vô
nghĩa. Đó là nguyên tắc, là bài học chung của Đảng được thực
hiện có hiệu quả ở Nhơn Trạch. Trong kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ, việc bảo vệ dân, lo cho cuộc sống của dân được đặt lên
hàng đầu; nhiều khi vì điều ấy mà nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh;
nhiều lúc thực hiện vườn không nhà trống, nhường địa bàn cho
giặc chiếm cũng là để an toàn cho dân; nhiều thành quả cách mạng
trong xây dựng căn cứ kháng chiến, làng kháng chiến, đặc biệt là
chiến khu Phước An được xem là bài học vì an sinh của dân trong
chiến đấu. Ở thời xây dựng phát triển sau chiến thắng ngoại xâm,
447

45.8 Page 448

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
các chiến lược, kế hoạch, dự án, công trình đều nhằm mục đích
tạo cho dân cuộc sống tốt hơn; công tác an sinh xã hội được xem
là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Thời gian qua, mức sống, điều
kiện sống của dân địa bàn Nhơn Trạch đã được nâng cao, nhiều
khu dân cư mới xuất hiện ở nông thôn mới, đô thị văn minh đó là
kết quả của bài học phục vụ dân sinh. Nhiều dự án còn gặp khó
khăn, bị nhiều phản ứng, chỉ trích cũng là do không vận dụng tốt
bài học này vì lấy lợi ích cục bộ làm chuẩn, không xem mục đích
dân sinh là trọng.
5. Kết hợp công tác chính trị, vũ trang, dân vận; phát
triển kinh tế hài hòa với tiến bộ xã hội.
Phương pháp lãnh đạo của Đảng là huy động tổng lực, phối
hợp nhiều lực lượng để giải quyết mục tiêu xác định. Phương pháp
này được Đảng bộ Nhơn Trạch vận dụng vào thực tế địa phương
hiệu quả và thành công.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
Đảng lấy ít đánh nhiều, yếu thắng mạnh, trường kỳ thắng cường
tập, làm thay đổi tình hình theo ý mình, ấy là nhờ biết vận dụng
linh hoạt bài học kết hợp các mặt trận, các lực lượng, các mũi tiến
công. Công tác chính trị là hình thức đấu tranh đặc biệt của công
tác tư tưởng, của chính nghĩa; công tác binh vận là công tác vận
động quần chúng đối với đối tượng binh lính và gia đình binh lính;
đấu tranh vũ trang là hình thức chiến đấu trực diện đánh trả hoặc
tiến công địch. Ba mặt công tác đều được Đảng xem trọng, xây
dựng lực lượng và vận dụng thực hiện. Tùy theo tình hình, mục
tiêu chiến lược hoặc chiến thuật, Đảng bộ lãnh đạo sự kết hợp cả
ba mặt công tác khi đậm khi nhạt mặt này hay mặt kia. Khi thế giặc
mạnh trong giai đoạn đầu kháng chiến, công tác đấu tranh chính trị
được chú trọng hàng đầu, các lực lượng đoàn thể nhân dân được
448

45.9 Page 449

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lãnh đạo đấu tranh bằng chính nghĩa, bằng lý lẽ sắc bén, bằng lực
lượng đông đảo của các mẹ, các chị, đạt nhiều thắng lợi (như các
cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ trước cách Mạng tháng Tám,
đấu tranh chống khủng bố, chống càn quét, chống cử mị dân của
chính quyền Diệm, đền mạng, đòi thả người). Trong đấu tranh
chính trị, công tác binh vận được thực hiện kiên trì, đạt hiệu quả
tích cực, xây dựng được cơ sở nội tuyến tin cậy trong lòng địch
(như Chín Nốp, Phúc, Lượng), vận động binh lính đem vũ khí và
lực lượng về với cách mạng (như trường hợp đơn vị Châu Văn
Phú). Đấu tranh vũ trang được thực hiện trên cơ sở kết hợp với
đấu tranh chính trị, binh vận; từ trận đánh nhỏ đến đánh lớn, lối
đánh du kích đến cường tập; có lúc đấu trach chính trị, binh vận,
vũ trang cùng lúc tiếng công và nổi dậy tạo nên Cách mạng tháng
Tám, xuân Mậu Thân 1968 và cao nhất là cuộc tổng tiến công và
nổi dậy đạt thắng lợi cuối cùng vào 30.4.1975. Mỗi trận đánh của
lực lượng đặc công rót pháo vào Sài Gòn, nổ tung kho đạn Thành
Tuy Hạ, hoặc hơn 500 trận thắng của lực lượng C240 đều có dấu
ấn của công tác kết hợp đấu tranh, chính trị, binh vận.
Ngay trong thời chiến, công tác kết hợp đấu tranh vũ trang,
chính trị, binh vận cũng đã được thể hiện trong lãnh đạo xây dựng
đời sống kháng chiến, xây dựng chiến khu Phước An thành “thủ
đô kháng chiến” với sự kết hợp hài hòa các hoạt động quân sự,
chính trị, sản xuất, văn hóa, giáo dục, giải trí; mô hình kết hợp
này trở thành hình ảnh đẹp đến mức có người mong “bao giờ cho
đến ngày ấy”. Ở các xã vùng địch chiếm, vẫn có các hoạt động
xây dựng đoàn thể cách mạng vừa tổ chức sản xuất, vận động gia
đình xã hội tương trợ nhau, giúp nhau theo đời sống tiến bộ (như
ở Phước An, Phước Thọ, Phước Long, Phú Hội). Từ sau Hiệp định
Paris, địch xuống thang chiến tranh, nhiều vùng ta làm chủ được
các tổ chức đoàn thể vận động thực hiện nhiều phong trào văn hóa
449

45.10 Page 450

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
xã hội tiến bộ (Phong trào mẹ chiến sĩ của phụ nữ, phong trào học
tập, rèn luyện thể chất của thanh niên).
Kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang của Đảng
được xem là nghệ thuật lãnh đạo trong chiến tranh, đồng thời là
bài học quí trong thời bình ở Nhơn Trạch.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
Đảng bộ Nhơn Trạch luôn vận dụng kết hợp công tác chính trị,
vận động quần chúng với xây dựng lực lượng vũ trang để thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương trong tình hình mới. Ba mặt
công tác này được cụ thể hóa trong mọi nghị quyết, chương trình,
kế hoạch công tác, rõ nhất trong các dự án, kế hoạch phát triển có
mục tiêu cụ thể về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch đã xác định nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, công tác khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn
định xã hội, xây dựng đời sống mới là quan trọng. Vì vậy, ở lĩnh
vực nông nghiệp, Đảng bộ tập trung lãnh đạo khôi phục sản xuất,
thực hiện các giải pháp khai hoang phục hóa, quy hoạch vùng
chuyên canh, cải tạo đất chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
đưa giống mới năng suất cao và kỹ thuật cao vào sản xuất, huy
động các nguồn lực cho nông nghiệp, phát động phong trào hợp
tác hoá nông nghiệp, đầu tư xây dựng hạ tầng ở nông thôn tất cả
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên lợi thế về nông nghiệp,
ổn định đời sống của nhân dân.
Tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ quan tâm đến
việc xây dựng đời sống văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh
tế trên nền móng ổn định về chính trị. Mặc dù còn nhiều khó khăn
về nguồn lực đầu tư, Đảng bộ và chính quyền huyện sớm có nghị
quyết đầu tư phát triển về văn hóa xã hội. Huyện sớm đạt và vượt
các chỉ tiêu về bình đẳng giới, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục, tỉ
450

46 Pages 451-460

▲back to top


46.1 Page 451

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
lệ trạm y tế và bác sĩ trên địa bàn; hệ thống các thiết chế văn hóa
cổ truyền được trùng tu tôn tạo hợp lý (Đình Phước Thiền, Chùa
Ông, đình Phú Mỹ). Hệ thống thiết chế văn hóa mới được đầu tư
xây dựng đầy đủ: Hệ thống truyền thanh, trung tâm văn hóa xã,
trạm xá, trường học 100% ở các xã đủ chỗ chữa bệnh, học hành
và thông tin; huyện có nhà văn hóa trung tâm huyện, hai trường
PTTH. Nhiều công trình văn hóa ở huyện được xây dựng mang ý
nghĩa văn hóa lịch sử sâu sắc: Đền thờ Liệt sĩ, Địa đạo Nhơn Trạch,
Căn cứ Đặc công Rừng Sác, nhà tưởng niệm nạn nhân chiến tranh
Giồng Sắn, bia tưởng niệm liệt sĩ trận đánh Vườn Điều. Đặc biệt
phong trào đền ơn đáp nghĩa và phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng văn hóa với mục tiêu thiết thực, đã thu hút đông đảo nhân
dân tham gia. Việc đầu tư phát triển sự nghiệp văn hóa, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, đồng thời tạơ ra động
lực mới thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển. Các phong trào xã hội
và chính sách xã hội được Đảng lãnh đạo thực hiện do hợp long
dân nên các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực, đóng góp tâm
trí và kinh phí “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nên kết quả đạt
được thiết thực, duy trì lâu dài, sức sống bền vững.
Bài học kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang, phát
triển kinh tế hài hòa với tiến bộ xã hội là nguyên nhân, là động lực
đem lại sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ Nhơn Trạch trong lãnh
đạo kháng chiến thắng lợi, trong xây dựng Nhơn Trạch phát triển
đồng bộ, toàn diện, vững chắc.
6. Tích cực chủ động chuyển hướng lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu
Trong lãnh đạo kháng chiến cũng như trong xây dựng, phát
triển thời bình, Đảng bộ Nhơn Trạch luôn giữ nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hiện nghiêm điều lệ, đường lối, chiến lược của Đảng
451

46.2 Page 452

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
và kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Để tạo thắng lợi và thực hiện
nhiệm vụ phù hợp với thực tế, Đảng bộ Nhơn Trạch còn phải chủ
động tích cực trong việc xây dựng Nghị quyết sát đúng với thực
tiễn, biết chuyển hướng tập trung lãnh đạo vào các nhiệm vụ chủ
yếu cấp bách đặt ra ở địa phương.
Trong kháng chiến, ngay khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, Đảng
bộ Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) đã nhanh chóng chuyển
hướng tập trung lãnh đạo vào việc chuẩn bị chiến đấu, vừa xây
dựng chính quyền non trẻ, vừa chuẩn bị lực lượng kháng chiến
còn mỏng và yếu. Các yếu tố cần cho kháng chiến đều được tính
đến: Vũ khí, lương thực, thực phẩm, căn cứ, phương án chiến đấu.
Nhờ vậy, khi giặc đến, quân dân kháng chiến không bị bất ngờ,
nhanh chóng tiến dần đến chiến thắng.
Cũng trong năm đầu kháng chiến, Đảng tập trung lãnh đạo
thống nhất các lực lượng vũ trang, xử lý các trường hợp làm ô
danh quân kháng chiến để làm trong sạch Đảng và chính quyền
kháng chiến, củng cố lòng tin của dân. Trong thời đầu chống Mỹ
và chính quyền tay sai, khi chưa có Nghị quyết 15 về bạo lực cách
mạng, Đảng bộ Long Thành bản lĩnh chuyển hướng đấu tranh
chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang
Châu Văn Phú dưới danh nghĩa Bình Xuyên để giáng đòn mạnh
mẽ vào quân giặc, diệt ác trừ gian làm thất bại âm mưu kẻ thù.
Rất nhiều trường họp bản lĩnh chuyển hướng lãnh đạo của
Đảng tạo nên thành công kỳ diệu. Những năm 1965 - 1979, địch
dồn toàn lực ủi rừng, “tát nước bắt cá” bao vây, càn quét, huy động
lực lượng và khí tài hùng mạnh nhất quyết tiêu diệt, đánh bật lực
lượng kháng chiến ra khỏi khu Lòng Chảo. Tình thế tưởng không
chịu nổi, có tính đến phương án rời địa bàn, Nhưng, Huyện ủy
quyết chuyển hướng sang đào địa đạo, trụ lại trong lòng đất, lòng
dân, bám thắt lưng địch mà đánh. Cuối cùng đánh thắng.
452

46.3 Page 453

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Với tư duy đổi mới về kinh tế, từ năm 1986, Đảng bộ khi
còn thuộc huyện Long Thành cũng như khi trở thành Huyện ủy
Nhơn Trạch đã chuyển hướng lãnh đạo từ định hướng phát triển
nông nghiệp là chủ yếu sang xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- công nghiệp - dịch vụ, và đến giai đoạn 2000 - 2015, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch hợp lý sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Trong quá trình chuyển hướng phát triển kinh tế, Đảng bộ đã chọn
các giải pháp hợp lý với bước đi vững vàng, từng bước xóa cơ
chế tập trung bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đầu tư phát triển cả công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ; các thành phần kinh tế đều được tạo điều kiện
phát triển; từ đó phát huy được các nguồn lực trong xã hội phục
vụ cho sản xuất. Phát huy lợi thế của Nhơn Trạch, Đảng bộ tham
mưu, được tỉnh và Trung ương chấp thuận xây dựng các khu công
nghiệp tập trung hiện đại thỏa nhu cầu trước mắt và định hướng
lâu dài. Các khu công nghiệp trên địa bàn Nhơn Trạch lần lượt
hình thành với qui trình chặt chẽ, đồng bộ, liên hoàn, đẹp và hiện
đại.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế, có lúc phạm sai lầm (những
năm từ 1978 - 1985, trong phong trào xây dựng hợp tác hóa nông
nghiệp, đi lên sản xuất lớn là tất yếu, nhưng phương thức vận
động cải tạo nông nghiệp chưa thật sự thuyết phục với nông dân),
Đảng bộ kịp thời phát hiện, tự phê bình, tự điều chỉnh, đưa khoán
10, khoán 100 vào nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông dân phát
triển, mở rộng quy mô sản xuất, sản xuất hàng hóa nông nghiệp có
giá trị kinh tế cao thích ứng với thị trường.
Bài học tích cực chủ động chuyển hướng tập trung lãnh đạo
của Đảng bộ huyện Nhơn Trạch đã tạo cho Nhơn Trạch những
chuyển biến quan trọng trong quá trình đấu tranh xây dựng, nó thể
453

46.4 Page 454

▲back to top


Bài học kinh nghiệm
hiện bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm cao và sự đoàn kết
nhất trí của Đảng bộ xuyên suốt các nhiệm kỳ.
***
Các bài học kinh nghiệm được đúc trong đấu tranh, xây dựng
từ thành công hay thất bại đều là thành quả và là tài sản quí báu
của Đảng bộ và quân dân Nhơn Trạch, nó vừa là tinh hoa trong
nghệ thuật lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa và bản sắc
kết tinh từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ Nhơn Trạch; nó có sức
sống lâu dài, cần được vận dụng thực hiện và bổ sung trong các
nhiệm kỳ tiếp theo.
454

46.5 Page 455

▲back to top


PHỤ LỤC
PHẦN I
TÀI LIỆU THÔNG TIN CƠ BẢN

46.6 Page 456

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
PHỤ LỤC I. LÃNH ĐẠO CÁC KHÓA
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
LONG THÀNH (BAO GỒM) NHƠN TRẠCH1
I. BAN CHẤP HÀNH HỢP NHẤT NHƠN TRẠCH - LONG
THÀNH (Tháng 7.1976)
STT
Họ và tên
1
Nguyễn Văn Thông
2
Lương Văn Tấn
3
Nguyễn Văn Xuân
4
Nguyễn Thanh Sơn
5
Nguyễn Thanh Minh
6
Phạm Thanh Lý
7
Nguyễn Cao Sơn
8
Nguyễn Quyết Chiến
9
Phạm Văn Đạm
10 Nguyễn Minh Công
11 Trần Văn Sang
12 Dương Minh Ngà
13 Hoàng Trọng Tiến
14 Lê Quyết Chiến
15 Đặng Minh Quang
16 Đặng Dân Trí
17 Đặng Tấn Cộng
18 Trần Văn Lực
19 Nguyễn Thanh Liêm
20 Nguyễn Thị Thanh Vân
21 Nguyễn Lý
22 Phạm Thanh Châu
23 Huỳnh Minh Tấn
24 Đỗ Thị Thu Vân
25 Trần Thị Mỳ
26 Nguyễn Tri Phương
27 Phan Thị Lan
28 Đặng Văn Thì
29 Trương Quốc Thống
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư trường trực
Phó Bí thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
1  Theo: Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930 - 2015), NXB Đồng Nai 2015
456

46.7 Page 457

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
II. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN LONG THÀNH
NHIỆM KỲ (1977 - 1979)
STT
Họ và tên
1
Nguyễn Văn Thông
2
Lương Văn Tấn
3
Nguyễn Văn Xuân
4
Nguyễn Minh Sơn
5
Nguyễn Thanh Minh
6
Phạm Thanh Lý
7
Nguyễn Cao Sơn
8
Dương Minh Ngà
9
Phạm Văn Đạm
10 Trần Văn Sang
11 Đặng Minh Quang
12 Đặng Tấn Cộng
13 Nguyễn Minh Công
14 Lê Quyết Chiến
15 Đặng Dân Trí
16 Nguyễn Quyết Chiến
17 Nguyễn Ngọc Điệp
18 Nguyễn Thị Thanh Vân
19 Huỳnh Minh Tấn
20 Đỗ Thị Thu Vân
21 Trần Thị Mỳ
22 Nguyễn Tri Phương
23 Nguyễn Thị Lan
24 Đặng Văn Thì
25 Trương Quốc Thống
26 Nguyễn Thanh Liêm
27 Phan Thanh Châu
28 Trần Văn Lực
29 Nguyễn Chính Nghĩa
30 Nguyễn Minh Tánh
31 Phạm Văn Duyên
32 Lê Minh Cảnh
33 Nguyễn Lý
Chức vụ, chức danh
Bí thư
Phó Bí thư trường trực
Phó Bí thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
457

46.8 Page 458

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
* Giữa nhiệm kỳ, Huyện ủy điều động, sắp xếp một số nhân
sự:
- Đồng chí Huỳnh Minh Tấn thôi giữ chức Bí thư Huyện
đoàn, nhận nhiệm vụ Phó phòng Tổ chức.
- Đồng chí Võ Văn Công giữ chức Bí thư Huyện đoàn
- Đồng chí Dương Minh Ngà giữ chức Trưởng phòng Tổ
chức
- Đồng chí Nguyễn Thanh Minh giữ chức Trưởng Ban Nông
nghiệp
- Đồng chí Đặng Minh Quang - Thường trực Ủy ban nhân
dân
- Đồng chí Trần Văn Sang giữ chức Trưởng Ban Kiểm tra.
- Đồng chí Nguyễn Chính Nghĩa tham gia Ban Kiểm tra
- Đồng chí Đặng Dân Trí giữ chức Chánh Văn phòng
UBND.
- Đồng chí Trần Thị Mỳ giữ chức Phó Ban Khoa giáo.
- Đồng chí Phạm Thanh Lý làm Bí thư xã điểm Long
Phước.
458

46.9 Page 459

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
III. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ LONG
THÀNH NHIỆM KỲ 1979 - 1982
Stt
Họ và tên
01 Nguyễn Hải (Đỗ Văn Kinh)
02 Nguyễn Văn Xuân
03 Nguyễn Thanh Minh
04 Đặng Minh Quang
05 Nguyễn Minh Sơn
06 Lương Văn Tấn
07 Phạm Văn Đạm
08 Nguyễn Trung Trực
09 Nguyễn Văn Thọ
10 Trần Văn Sang
11 Vũ Anh Tín
12 Lê Quyết Chiến
13 Nguyễn Ngọc Điệp
14 Nguyễn Hùng
15 Nguyễn Văn Hoàng
16 Trần Trọng Nhân
17 Nguyễn Văn Quang
18 Trần Thị Mỳ
19 Nguyễn Văn Khỏe
20 Trần Thị Ức
21 Nguyễn Văn Bảo
22 Tạ Điển
23 Phạm Văn Duyên
24 Đặng Văn Thì
25 Huỳnh Minh Tấn
26 Nguyễn Minh Chính
27 Nguyễn Ngọc Thảo
28 Dương Văn Xinh
29 Ninh Văn Tiếp
30 Nguyễn Thị Đào
31 Lê Bá Hùng
32 Ngô Văn Bình
33 Vũ Lường
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư - Chủ tịch UBND
Phó Bí thư Thường trực
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên (dự khuyết)
Huyện ủy viên (dự khuyết)
459

46.10 Page 460

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
IV. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN LONG THÀNH
NHIỆM KỲ 1982 - 1986
STT
Họ và tên
1
Nguyễn Hải (Đỗ Văn Kinh)
2
Dương Minh Ngà
3
Phạm Thanh Lý
4
Dương Văn Xinh
5
Nguyễn Thanh Minh
6
Huỳnh Minh Hà
7
Đặng Minh Quang
8
Tạ Điển
9
Phạm Hùng Sơn
10 Nguyễn Ngọc Thảo
11 Nguyễn Ngọc Điệp
12 Đặng Tân
13 Nguyễn Quyết Chiến
14 Nguyễn Hùng
15 Nguyên Văn Thuận
16 Lê Quyết Chiến
17 Ngô Văn Bình
18 Phạm Văn Dưỡng
19 Đào Văn Minh
20 Nguyễn Văn Bảo
21 Nguyễn Minh Chính
22 Trịnh Phẩm Hạnh
23 Võ Văn Sáu
24 Đào Minh Tiến
25 Nguyễn Văn Hộ
26 Trần Thị Điệp
27 Trần Minh Việt
28 Nguyễn Minh Tuân
29 Lê Văn Tâm
30 Lê Văn Hiệp
31 Huỳnh Thị Hương
32 Trần Kim Thanh
33 Nguyễn Hoàng Minh
34 Huỳnh Văn Tấn
35 Võ Thị Quyện
36 Hoàng Nghĩa Thái
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư trường trực
Phó Bí thư thường trực
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên thường vụ
Ủy viên thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên (dự khuyết)
Huyện ủy viên (dự khuyết)
460

47 Pages 461-470

▲back to top


47.1 Page 461

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
V. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN LONG THÀNH
NHIỆM KỲ 1986 - 1988
STT
Họ và tên
1
Dương Minh Ngà
2
Phạm Thanh Lý
3
Đặng Minh Quang
4
Huỳnh Minh Hà
5
Nguyễn Quyết Chiến
6
Nguyễn Hùng
7
Phạm Văn Dưỡng
8
Lâm Thị Nguyệt
9
Võ Văn Sáu
10 Trần Mạnh
11 Đào Văn Minh
12 Hồ Thị Anh
13 Phạm Văn Cường
14 Nguyễn Văn Dũng
15 Phạm Văn Duyên
16 Trần Thị Điệp
17 Dương Thị Huyền
18 Huỳnh Thế Hùng
19 Nguyễn Thành Hoàng
20 Đặng Văn Hải
21 Lê Văn Hiệp
22 Lê Văn Ý
23 Đỗ Tiến Khải
24 Nguyễn Khôi
25 Nguyễn Thị Liên
26 Nguyễn Thị Mai
27 Trần Văn Nén
28 Huỳnh Minh Phương
29 Võ Thị Quyện
30 Hoàng Đình Tuấn
31 Trần Kim Thanh
32 Đặng Tân
33 Đào Minh Tiến
34 Nguyễn Văn Tuân
35 Nguyễn Thị Kim Sang
36 Nguyễn Hồng Việt
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư trường trực
Phó Bí thư - Chủ tịch UBND
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
461

47.2 Page 462

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
VI. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN LONG
THÀNH NHIỆM KỲ 1988 - 1990
STT
Họ và tên
1
Dương Minh Ngà
2
Huỳnh Minh Hà
3
Phạm Văn Dưỡng
4
Đặng Minh Quang
5
Nguyễn Quyết Chiến
6
Nguyễn Hùng
7
Nguyễn Thị Kim Sang
8
Trần Mạnh
9
Lâm Thị Nguyệt
10 Nguyễn Văn Dũng
11 Nguyễn Hồng Việt
12 Nguyễn Thành Hưng
13 Hồ Thị Anh
14 Nguyễn Thành Hoàng
15 Đào Văn Le
16 Trần Thị Điệp
17 Từ Ngọc Chiếu
18 Nguyễn Văn Điệp
19 Trần Văn Nén
20 Phạm Văn Cường
21 Nguyễn Văn Tuân
22 Phạm Văn Đức
23 Phạm Thị Kim Dung
24 Trần Trung Kiên
25 Nguyễn Văn Hải
26 Nguyễn Khôi
27 Trịnh Phẩm Hạnh
28 Nguyễn Văn Quân
29 Hoàng Đình Tuấn
30 Nguyễn Thị Huệ
31 Dương Quang Linh
32 Trần Thịu
33 Châu Phước Thuận
34 Huỳnh Minh Phương
35 Phan Trường Xuân
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư trường trực
Phó Bí thư - Chủ tịch UBND
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên (dự khuyết)
Huyện ủy viên (dự khuyết)
462

47.3 Page 463

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
VII. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN LONG
THÀNH NHIỆM KỲ 1991 - 1995
STT
Họ và tên
1
Dương Minh Ngà
2
Lâm Thị Nguyệt
3
Nguyễn Hồng Việt
4
Đặng Minh Quang
5
Nguyễn Quyết Chiến
6
Trần Mạnh
7
Nguyễn Hùng
8
Phạm Thị Kim Dung
9
Phạm Văn Đức
10 Đoàn Văn An
11 Phạm Văn Đức
12 Phạm Văn Cường
13 Trịnh Sanh Châu
14 Từ Ngọc Chiếu
15 Nguyễn Văn Dũng
16 Nguyễn Văn Tuân
17 Trần Thị Điệp
18 Phạm Thành Đạt
19 Trần Văn Đạo
20 Châu Phước Thuận
21 Nguyễn Thành Hoàng
22 Đặng Văn Hải
23 Nguyễn Thành Hưng
24 Nguyễn Ngọc Hiệp
25 Dương Quang Linh
26 Huỳnh Ngọc Lánh
27 Trần Hồng Minh
28 Trần Văn Nén
29 Huỳnh Minh Phương
30 Nguyễn Văn Quân
31 Bùi Văn Rua
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư trường trực
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
463

47.4 Page 464

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH
ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH GIAI ĐOẠN 1994 - 2015
I. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
LÂM THỜI (NHIỆM KỲ 1994 - 1996)
STT
Họ và tên
1
LâmThị Nguyệt
2
Phạm Văn Đức
3
Nguyễn Văn Điệp
4
Trần Thị Điệp
5
Đào Minh Tiến
6
Phạm Thị Kim Dung
7
Nguyễn Văn Bé
8
Phạm Điền Trung
9
Huỳnh Minh Phương
10
Trần Văn Nam
11
Huỳnh Ngọc Tầm
12
Võ Kim Vinh
13
Trần Thị Thu
14
Dương Quang Linh
15
Từ Ngọc Chiếu
16
Trần Văn Nén
17
Trần Thành Trai
18
Lương Tấn Thanh
19
Quách Hữu Đưc
20
Võ Thành Thái
21
Giang Chí An
22
Châu Phước Thuận
23
Nguyễn Ngọc Nào
24
Nguyễn Hồng Hải
25
Trần Minh Việt
26
Đoàn Văn Le
27
Trần Văn Đạo
28
Hô Văn Chi
29
Châu Văn Lộc
30
Nguyễn Hữu Nghị
31
Nguyễn Văn Minh
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
(bổ sung tháng 7.1996)
Huyện ủy viên
(bổ sung tháng 8.1998)
464

47.5 Page 465

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
II. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
KHÓA I (NHIỆM KỲ 1996 - 2000)
STT
Họ và tên
1
Lâm Thị Nguyệt
2
Phạm Văn Đức
3
Nguyễn Văn Điệp
4
Trần Thị Điệp
5
Đào Minh Tiến
6
Phạm Thị Kim Dung
7
Nguyễn Văn Bé
8
Phạm Điền Trung
9
Nguyễn Văn Tám
10 Nguyễn Thị Ánh Hồng
11 Lê Thị Lộc
12 Phan Thị Hiếu
13 Lương Tấn Thanh
14 Thái Bảo
15 Trần Thanh Trai
16 Từ Ngọc Chiếu
17 Châu Phước Thuận
18 Lê Vân Chính
19 Giang Chí An
20 Quách Hữu Đức
21 Nguyễn Văn Sang
22 Vi Văn Đức
23 Trần Văn Đạo
24 Nguyễn Hồng Hải
25 Mai Xuân Chiến
26 Phạm Thị Phú
27 Đoàn Văn Le
28 Huỳnh Minh Phương
29 Nguyễn Hữu Nghị
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
465

47.6 Page 466

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
III. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN
TRẠCH KHÓA II (NHIỆM KỲ 2000 - 2005)
STT
Họ và tên
1
LâmThị Nguyệt
2
Phạm Văn Đức
3
Nguyễn Văn Điệp
4
Trần Thị Điệp
5
Đào Minh Tiến
6
Phạm Thị Kim Dung
7
Nguyễn Văn Bé
8
Phạm Điền Trung
9
Nguyễn Văn Tám
10 Nguyễn Thị Ánh Hồng
11 Lê Thị Lộc
12 Phan Thị Hiếu
13 Lương Tấn Thanh
14 Thái Bảo
15 Trần Thành Trai
16 Từ Ngọc Chiếu
17 Châu Phước Thuận
18 Lê Vân Chính
19 Giang Chí An
20 Quách Hữu Đức
21 Nguyễn Văn Sang
22 Vi Văn Đức
23 Trần Văn Đạo
24 Nguyễn Hồng Hải
25 Mai Xuân Chiến
26 Phạm Thị Phú
27 Đoàn Văn Le
28 Huỳnh Minh Phương
29 Nguyễn Hữu Nghị
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên, bổ sung UVTV
tháng 10.2002
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
466

47.7 Page 467

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
IV. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
KHÓA III (NHIỆM KỲ 2005 - 2010)
STT
Họ và tên
Chức vụ
1
Phạm Văn Đức
Phó Bí thư
2
Quách Hữu Đức
Phó Bí thư
3
Từ Ngọc Chiếu
Phó Bí thư
4
Phạm Thị Kim Dung
Ủy viên Thường vụ
5
Trần Ngọc Khải
Ủy viên Thường vụ
6
Nguyễn Hữu Nghị
Ủy viên Thường vụ
7
Châu Phước Thuận
Ủy viên Thường vụ
8
Dương Thị Mỹ Châu
Ủy viên Thường vụ
9
Lê Mạnh Dũng
Ủy viên Thường vụ, bổ sung tháng 3.2009
10 Dương Thị Mỹ Châu Ủy viên Thường vụ, bổ sung tháng 10.2009
11 Dương Văn Em
Huyện ủy viên
12 Trần Thành Trai
Huyện ủy viên
13 Nguyễn Văn Lo
Huyện ủy viên
14 Nguyễn Thị Ánh Hồng
Huyện ủy viên
15 Bùi Văn Tuội
Huyện ủy viên
16 Lê Thị Lộc
Huyện ủy viên
17 Bùi Xuân Thống
Huyện ủy viên
18 Phan Thị Hiếu
Huyện ủy viên
19 Nguyễn Thị Hồng Vân
Huyện ủy viên
20 Giang Chí An
Huyện ủy viên
21 Lê Vân Chính
Huyện ủy viên
22 Nguyễn Văn Kim
Huyện ủy viên
23 Ngô Thanh Hùng
Huyện ủy viên
24 Mai Xuân Chiến
Huyện ủy viên
25 Lê Xuân An
Huyện ủy viên
26 Phạm Thị Phú
Huyện ủy viên
27 Võ Tấn Đức
Huyện ủy viên
28 Lê Văn Vang
Huyện ủy viên
29 Vi Văn Đức
Huyện ủy viên
30 Cao Văn Tư
Huyện ủy viên
31 Đoàn Văn Le
Huyện ủy viên
32 Trần Văn Đạo
Huyện ủy viên
33 Huỳnh Minh Phương
Huyện ủy viên
34 Phạm Sỹ Linh
Huyện ủy viên, bổ sung tháng 2.2009
1. Đại hội III Đảng bộ huyện Nhơn Trạch không bầu Bí thư Huyện ủy. Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Đồng Nai quyết định bổ sung đồng chí Trần Minh Phúc tham gia Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ, giữ chức Bí Thư Huyện ủy.
467

47.8 Page 468

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
V. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN
NHƠN TRẠCH KHÓA IV (NHIỆM KỲ 2010- 2015)
STT
Họ và tên
1
Phan Thị Mỹ Thanh
2
Quách Hữu Đức
3
Từ Ngọc Chiếu
4
Phạm Văn Đức
5
Nguyễn Hữu Nghị
6
Nguyễn Thị Ánh Hồng
7
Dương Thị Mỹ Châu
8
Dương Văn Em
9
Lê Mạnh Dũng
10 Lê Vân Chính
11 Nguyễn Văn Kim
12 Vũ Văn Điền
13 Châu Phước Thuận
14 Lê Xuân An
15 Dương Quốc Bình
16 Mai Xuân Chiến
17 Trần Văn Đạo
18 Bùi Phước Đức
19 Huỳnh Minh Đức
20 Vi Văn Đức
21 Võ Tấn Đức
22 Ngô Thanh Hùng
23 Chung Thị Hương
24 Lương Hữu Ích
25 Phan Thị Hiếu
26 Nguyễn Văn Hồng
27 Mai Thanh Hùng
28 Lê Ngọc Lân
29 Đoàn Văn Le
30 Phạm Sỹ Linh
31 Nguyễn Văn Lo
32 Lê Thành Mỹ
33 Nguyễn Văn Sơn
34 Trần Thành Trai
35 Lâm Ngọc Trao
36 Nguyễn Anh Tuấn
37 Lang Văn Út
38 Lê Văn Vang
39 Phan Thị Xuân
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
468

47.9 Page 469

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
VI. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN
NHƠN TRẠCH KHÓA V (NHIỆM KỲ 2015- 2020)
STT
Họ và tên
1
Quách Hữu Đức
2
Nguyễn Hữu Nghị
3
Châu Phước Thuận
4
Lê Mạnh Dũng
5
Dương Thị Mỹ Châu
6
Phạm Sỹ Linh
7
Huỳnh Minh Đức
8
Dương Văn Em
9
Cao Hữu Nguyên
10 Lê Vân Chính
11 Nguyễn Tấn Linh
12 Trần Thành Trai
13 Nguyễn Văn Lo
14 Phạm Hoàng An
15 Bùi Xuân Cảnh
16 Trần Văn Đạo
17 Bùi Phước Đức
18 Vi Văn Đức
19 Võ Tấn Đức
20 Võ Thị Hoa
21 Đặng Kim Hoàn
22 Trần Thanh Hoàng
23 Mai Thanh Hùng
24 Lương Hữu Ích
25 Lê Ngọc Lân
26 Trương Bùi Nhã Linh
27 Lê Đức Long
28 Dương Văn Mẫn
29 Lê Thành Mỹ
30 Nguyễn Bình Nam
31 Cao Văn Thành
32 Nguyễn Hữu Thành
33 Phạm Thị Kiều Thu
34 Lâm Ngọc Trao
35 Huỳnh Thị Thanh Trúc
36 Tạ Quang Trường
37 Lang Văn Út
38 Lê Văn Vang
39 Phan Thị Xuân
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí thư
Phó Bí Thư
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Ủy viên Thường vụ
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
Huyện ủy viên
469

47.10 Page 470

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
PHỤ LỤC II. TỔNG HỢP DỮ LIỆU CƠ BẢN
LIỆT SĨ, GIA ĐÌNH CHÍNH SÁCH
HUYỆN NHƠN TRẠCH QUA CÁC THỜI KỲ
(Tổng hợp phiếu1 cung cấp thông tin “Lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch”)
1994
2000
2005
2010
2015
LS GĐCS LS GĐCS LS GĐCS LS GĐCS LS GĐCS
1. ĐẠI PHƯỚC
122 166 109 150 108 140 96 135 81 135
2. PHÚ HỮU
112 166 112 166 112 166 112 166 112 166
3. PHƯỚC AN
111 179 121 187 132 210 124 264 137 284
4. HIỆP PHƯỚC
115 124 119 124 120 128 123 136 132 152
5. VĨNH THANH
51 68 51 68 51 68 51 68 51 68
6. LONG TÂN
113 168 113 166 113 147 113 132 113 136
7. PHƯỚC THIỀN 120 170 120 170 120 170 120 172 127 174
8. LONG THỌ
133 139 133 139 133 139 133 139 133 139
9. PHÚ THẠNH
56 72 56 72 56 72 58 74 60 76
10. PHÚ ĐÔNG
131 124 131 145 131 145 131 145 134 147
11. PHÚ HỘI
301 478 301 478 301 478 301 478 301 478
12. PHƯỚC KHÁNH 102 87 111 103 111 109 114 112 116 125
TỔNG
1.579 1.941 1.477 1.968 1.488 1.972 1.476 2.021 1.497 1.923
1  Do thường trực cấp ủy các xã cung cấp tháng 2 năm 2020
470

48 Pages 471-480

▲back to top


48.1 Page 471

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG, ĐẢNG VIÊN
HUYỆN NHƠN TRẠCH QUA CÁC THỜI KỲ
(Tổng hợp phiếu1 cung cấp thông tin “Lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch”)
1994
2000
2005
2010
2015
TCCS ĐV TCCS ĐV TCCS ĐV TCCS ĐV TCCS ĐV
1. ĐẠI PHƯỚC
01 28 05 36 07 54 08 81 10 129
2. PHÚ HỮU
01 25 01 36 06 61 10 110 10 144
3. PHƯỚC AN
01 24 04 36 06 58 09 98 11 134
4. HIỆP PHƯỚC
01 32 06 48 10 94 10 143 11 226
5. VĨNH THANH
01 18 01 26 09 44 16 92 17 153
6. LONG TÂN
01 31 01 60 09 71 10 121 10 173
7. PHƯỚC THIỀN 09 69 09 102 10 133 12 162 12 209
8. LONG THỌ
01 20 04 40 08 63 10 101 12 157
9. PHÚ THẠNH
04 40 07 56 07 56 07 97 09 135
10. PHÚ ĐÔNG
01 18 07 43 07 62 10 107 11 158
11. PHÚ HỘI
04 75 05 87 06 95 12 115 12 127
12. PHƯỚC KHÁNH 03 21 05 31 05 54 08 81 08 119
TỔNG
28 401 55 601 90 845 114 1.308 133 1.864
1  Do thường trực cấp ủy các xã cung cấp tháng 2 năm 2020
471

48.2 Page 472

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ĐẢNG VIÊN MỚI KẾT NẠP, ĐẢNG VIÊN BỊ KỶ LUẬT
HUYỆN NHƠN TRẠCH QUA CÁC THỜI KỲ
1994
2000
2005
2010
2015
KN KL KN KL KN KL KN KL KN KL
1. ĐẠI PHƯỚC
04 00 08 05 21 02 25 05 47 02
2. PHÚ HỮU
00 00 11 00 26 01 49 05 51 05
3. PHƯỚC AN
15 00 22 00 32 03 43 06 54 04
4. HIỆP PHƯỚC
04 00 16 00 41 00 58 07 60 01
5. VĨNH THANH
00 02 08 03 48 00 57 01 61 00
6. LONG TÂN
06 00 11 00 49 00 50 00 52 00
7. PHƯỚC THIỀN
02 00 22 00 24 00 24 00 33 01
8. LONG THỌ
05 00 20 00 21 01 36 00 53 00
9. PHÚ THẠNH
00 00 03 00 05 00 09 02 10 01
10. PHÚ ĐÔNG
03 00 04 03 03 04 03 03 06 00
11. PHÚ HỘI
05 00 07 01 08 01 09 01 11 02
12. PHƯỚC KHÁNH 02 00 09 00 23 02 27 00 38 01
TỔNG
49 02 141 12 301 14 390 30 476 17
472

48.3 Page 473

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
TỔNG HỢP THÔNG TIN CƠ BẢN
CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
(CÁC NHIỆM KỲ I, II, III, IV, V)1
NỘI DUNG
1996 - 2000 2000 - 2005 2005 - 2010 2010 - 2015 2015 - 2020
(Khóa I) (Khóa II) (Khóa III) (Khóa IV) (khóa V)
1. Thời gian đại
hội (từ ngày ... đến
ngày ...)
4.3 đến
6.3.1996
7.11 đến 26.9 đến
10.11.2000 27.9.2005
15.7 đến
16.7.2010
6.8 đến
7.8.2015
2. Số lượng đại biểu
dự đại hội
100
108
160
179
218
3. Tỉ lệ đại biểu nữ
4. Số lượng ủy viên
Ban Chấp hành
được bầu
5. Họ tên Bí thư
Huyện ủy
29
Lâm Thị
Nguyệt
29
Lâm Thị
Nguyệt
6. Họ tên Phó Bí Phạm Văn Phạm Văn
thư Thường trực
Đức
Đức
7. Họ tên Phó bí thư Nguyễn Văn Nguyễn Văn
- Chủ tịch UBND
Điệp
Điệp
8. Số lượng UBKT
được Đại hội thông
4
5
qua
9. Chủ nhiệm
UBKT được Đại
hội bầu
Phạm Thị
Kim Dung
Phạm Thị
Kim Dung
10. Số lượng đoàn
đại biểu được bầu
đi dự đại hội cấp
15
17
trên
31
8
Phạm Thị
Kim Dung
13
39
39
Phan Thị Quách Hữu
Mỹ Thanh
Đức
Nguyễn
Quách Hữu Hữu Nghị
Đức Châu Phước
Thuận
Từ Ngọc
Chiếu
Lê Mạnh
Dũng
7
7
Dương Thị Dương Thị
Mỹ Châu Mỹ Châu
18
18
1  Theo phiếu cung cấp thông tin của Ban Tổ chức Huyện ủy, ngày 4.5.2020
473

48.4 Page 474

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
11. Số lượng tổ
chức cơ sở Đảng
35
trong nhiệm kỳ
12. Số lượng đảng
viên trong nhiệm 815
kỳ
13. Số lượng đảng
viên được kết nạp
35
mới trong nhiệm kỳ
16. Số lượng tổ
chức cơ sở Đảng
trong các doanh
nghiệp ngoài quốc
doanh
17. Số lượng đảng
viên trong các
doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
18. Số lượng đảng
viên có tôn giáo
trong nhiệm kỳ
19. Tỉ lệ đảng viên
nữ trong nhiệm kỳ
20. Số lượng đảng
viên 50 tuổi đảng
trở lên trong nhiệm
kỳ (trong đó 60 tuổi
đảng trở lên)1
49
1091
454
64
1862
724
49
2841
1014
57
4013
1034
34
80
81
86
45
116
43
314
28
78
140
248
350
689
1011
1551
79
(70 năm: 2
đv)
Phạm Thị
17
11
25
Chi (Long
Thọ) và
Đỗ Hồng
Giang
(Hiệp
Phước)
474

48.5 Page 475

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
DANH SÁCH ĐẢNG VIÊN CÓ HUY HIỆU ĐẢNG
TỪ 50 NĂM TRỞ LÊN
(Thời điểm 5.2020)1
STT Họ và tên
Ngày,
tháng,
Ngày, tháng, năm Số Thẻ Tên tổ chức Loại
Vào Đảng Chính thức đảng viên cơ sở đảng HHĐ
1
2
3
4
5
6
7
8
Nguyễn Thị
Minh Yến
07.01.1948 17.12.1968 17.09.1969 42011541
Đảng bộ xã
Phú Hội
50 năm
Huỳnh Văn Sơn 01.01.1940 27.07.1966 22.07.1967 42000019
Đảng bộ xã
Phú Hội
50 năm
Trần Thị Phỉ
01.01.1947 17.10.1967 17.10.1968 42000025
Đảng bộ xã
Phú Hội
50 năm
Nguyễn Thị
Hồng
1946
15.03.1969 15.03.1970 42019604
Đảng bộ xã
Phú Hội
50 năm
Nguyễn Đình
Thiệu
11.12.1944
16.11.1969
17.08.1970 42011448
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Trần Văn Tiến
20.10.1947
03.03.1968 31.12.1968 42011449
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Lê Thị Giây
1949
03.05.1968 03.02.1969 42011466
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Trương Khắc Ba
07.10.1933
10.05.1968 10.02.1969 42000009
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Nguyễn Minh
Tân
09.1940
20.07.1965 20.07.1966 42011451
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Đào Duy Linh
10.01.1936
19.05.1966 19.05.1967 42011454
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Đoàn Quýnh
01.05.1942
08.02.1967 08.11.1967 42011470
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Lê Hồng Sơn
1945
27.07.1968 27.04.1969 42011455
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
1  Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy, ngày 4 tháng 5.2020
475

48.6 Page 476

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Nguyễn Văn
Thâm
1937
24.08.1967 24.08.1968 42011442
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Phạm Văn Tam
1945
23.07.1966 23.07.1967 16112968
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Nguyễn Văn
Lênh
10.01.1948 08.11.1966 08.11.1967
Đảng bộ xã
Phước Thiền
50 năm
Nguyễn Thị Liên 1947
20.03.1968 20.12.1968 42011835
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
50 năm
Nguyễn Văn
Tuống
10.03.1940 27.12.1968 27.09.1969 42011831
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
50 năm
Cao Lê Hoàng
1940
06.03.1967 06.12.1967 42011834
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
50 năm
Vũ Tín
29.12.1941
29.5.1969
29.02.1970 14068423
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
50 năm
Ngô Thị Nghìn 1943 28.06.1966 28.06.1967
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
50 năm
Trương Văn Quý 1941
23.09.1969 23.09.1970 42011833
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
50 năm
Nguyễn Thị
Hạnh
01.11.1943 05.05.1968 05.02.1969 42000099
Đảng bộ xã
Long Thọ
50 năm
Phạm Đức Sắc
08.1945
22.06.1968 22.06.1969 42000765
Đảng bộ xã
Long Thọ
50 năm
Lê Thanh Hải
01.01.1951 30.11.1969 30.06.1970 42000093
Đảng bộ xã
Long Thọ
50 năm
Lê Hiền Lương
01.01.1937 03.04.1969 01.04.1970 42000096
Đảng bộ xã
Long Thọ
50 năm
Lương Hoàng
Mai
22.06.1941 04.05.1969 04.05.1970
Đảng bộ xã
Vĩnh Thanh
50 năm
Nguyễn Đức Uẩn 27.07.1946 09.01.1969 09.10.1969 42011763
Đảng bộ xã
Vĩnh Thanh
50 năm
Trần Quang Vinh 1947
02.09.1967 01.06.1968 42011757
Đảng bộ xã
Vĩnh Thanh
50 năm
Nguyễn Trọng
Hùng
07.07.1944 16.06.1969 03.03.1970 42094572
Đảng bộ xã
Phú Hữu
50 năm
476

48.7 Page 477

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Lê Minh Cảm
1947
01.05.1967 01.05.1968 42011686
Đảng bộ xã
Phú Hữu
50 năm
Nguyễn Thị
Hồng Diệu
20.10.1949 16.06.1968 16.06.1969 42029746
Đảng bộ xã
Phú Đông
50 năm
Cao Văn Tòng
01.01.1943 06.07.1968 06.04.1969 42000060
Đảng bộ xã
Đại Phước
50 năm
Đào Minh Thắng 01.01.1941 12.09.1968 12.09.1969 40036010
Đảng bộ xã
Đại Phước
50 năm
Đỗ Hùng
Phương
03.01.1940 16.09.1967 16.06.1968 42011618
Đảng bộ xã
Đại Phước
50 năm
Nguyễn Công
Khanh
1930
01.09.1965 01.09.1966 42011588
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
50 năm
Nguyễn Văn
Hợp
01.02.1947 03.02.1968 11.03.1969 42011581
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
50năm
Nguyễn Thị Võ
14.10.1942 20.03.1968 20.12.1968 42011584
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
50năm
Phạm Thị Mùi
10.10.1947 18.03.1967 18.06.1968 42006595
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
50 năm
Đỗ Thị Thanh
Vân
11.12.1939
01.05.1969 01.02.1970 42011580
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
50 năm
Nguyễn Huyền
Lan
12.05.1946 15.05.1968 12.02.1969 42011545
Đảng bộ xã
Long Tân
50 năm
Nguyễn Thị Đào
1940
24.11.1968 24.11.1969 42011550
Đảng bộ xã
Long Tân
50 năm
Lê Hồng Phong
1944
23.08.1967 23.08.1968 42011570
Đảng bộ xã
Long Tân
50 năm
Dương Văn Hà
1928
07.09.1964 07.06.1965 42011579
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
55 năm
Nguyễn Văn Thu 10.02.1937 12.12.1963 12.12.1964 42011578
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
55 năm
Nguyễn Văn
Thuận
12.07.1928 10.12.1962 10.09.1963 42000062
Đảng bộ xã
Phú Đông
55 năm
Hà Xuân Lâm
01.01.1942 23.04.1964 15.02.1965 42011500
Đảng bộ xã
Phú Hội
55 năm
477

48.8 Page 478

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Nguyễn Văn
Sang
1937
10.1964
08.10.1966 42011502
Đảng bộ xã
Phú Hội
55 năm
Nguyễn Thanh
Tuyền
10.06.1941 24.09.1962 24.09.1963 42000028
Đảng bộ xã
Phú Hội
55 năm
Nguyễn Văn
Thiên
12.10.1941
05.04.1964
05.01.1965
42000094
Đảng bộ xã
Phước Khánh
55 năm
Nguyễn Khắc
Tòng
1945
24.03.1964 24.12.1964 42011761
Đảng bộ xã
Vĩnh Thanh
55 năm
Nguyễn Thị Sức 01.01.1945 28.04.1963 28.04.1964 16025902
Đảng bộ xã
Đại Phước
55 năm
Lê Thị Nga
01.01.1938 10.05.1962 08.05.1963 42000057
Đảng bộ xã
Đại Phước
55 năm
Võ Công Hạnh
20.12.1939 29.09.1961 09.05.1962 42000065
Đảng bộ xã
Phú Hữu
55 năm
Lê Văn Đông
1940
30.12.1964 30.09.1965 42011703
Đảng bộ xã
Phú Hữu
55 năm
Nguyễn Thị Mỹ 25.11.1943 01.06.1964 01.06.1965
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
55 năm
Huỳnh Minh Hà 01.01.1941 29.04.1963 29.01.1964 42000104
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
55 năm
Mai Văn Phước
05.06.1932 12.11.1961 14.02.1963 42000101
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
55 năm
Nguyễn Văn
Liêm
1945
20.08.1963 20.08.1964 42011800
Đảng bộ xã
Phước An
55 năm
Phan Sên
01.10.1933 12.01.1962 10.12.1962 42000083
Đảng bộ xã
Phước An
55 năm
Võ Thị Quyện
13.05.1941 20.03.1964 20.11.1964 42000090
Đảng bộ xã
Phước An
55 năm
Lê Dũng
01.01.1941 07.09.1961 07.06.1962 42000086
Đảng bộ xã
Phước An
55 năm
Nguyễn Chí
Công
01.01.1933 10.03.1963 10.12.1963 42000095
Đảng bộ xã
Long Thọ
55 năm
Nguyễn Văn
Xuân
01.12.1941 18.05.1962 27.11.1962 42000097
Đảng bộ xã
Long Thọ
55 năm
478

48.9 Page 479

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Lưu Thị Ánh
Tuyết
1938
17.04.1964 17.01.1965 42019613
Đảng bộ xã
Long Thọ
55 năm
Trần Minh Trí 17.04.1905 25.08.1963 12.09.1964
Đảng bộ xã
Phước Thiền
55 năm
Trần Minh Việt
05.11.1941
10.03.1962
10.09.2962
42000003
Đảng bộ xã
Phước Thiền
55 năm
Lương Viết
Thạnh
10.05.1932
06.02.1965 01.01.1966 42011499
Đảng bộ xã
Phước Thiền
55 năm
Phan Thành Bao 15.06.1932 24.02.1960 10.09.1960 40003937
Đảng bộ xã
Long Tân
60 năm
Phan Châu Lai
(Lê Bân)
26.03.1931 06.01.1958 06.05.1959 42000033
Đảng bộ xã
Phú Hội
60 năm
Nguyễn Thế Hòa 21.12.1933 30.03.1959 30.09.1959 42000046
Đảng bộ xã
Phú Thạnh
60 năm
Trương Văn Sáu 01.01.1922 05.03.1958 23.08.1958 42000077
Đảng bộ xã
Vĩnh Thanh
60 năm
Hồ Văn Nguyên 01.01.1931 06.01.1960 10.10.1960 42000076
Đảng bộ xã
Vĩnh Thanh
60 năm
Nguyễn Văn Lễ
01.01.1931
05.06.1957 05.12.1957 42000014
Đảng bộ xã
Phước Thiền
60 năm
Nguyễn Văn
Thường
10.02.1931 24.11.1952 24.04.1953 42000042
Đảng bộ xã
Long Tân
65năm
Bùi Ngọc Am
01.01.1928 16.06.1952 16.12.1952 42000108
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
65 năm
Phan Thị Chi
03.03.1926 03.09.1949 03.03.1950 42000098
Đảng bộ xã
Long Thọ
70 năm
Đỗ Hồng Giang
01.09.1928 03.03.1946 06.06.1946 42002888
Đảng bộ xã
Hiệp Phước
70 năm
479

48.10 Page 480

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
CÁC DI TÍCH VĂN HÓA LỊCH SỬ Ở NHƠN TRẠCH
ĐƯỢC XẾP HẠNG CẤP TỈNH, CẤP QUỐC GIA
ĐỊA ĐẠO NHƠN TRẠCH
- Tên gọi: Địa đạo Nhơn Trạch, Địa đạo Phước An
- Địa chỉ: ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai.
- Quyết định và thời gian xếp hạng: Số 04/2001/QĐ-
BVHTT của Bộ Văn hóa - Thông tin, ngày 19.01.2001.
- Loại hình: Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
- Cảnh quan: Khu di tích địa đạo tọa lạc trên diện tích đất
khá rộng, trước vốn là rừng, sau được người dân khai thác làm
vườn. Hiện nay, toàn bộ hệ thống địa đạo đươc quy hoạch trong
tổng thể của khu tượng đài anh hùng liệt sĩ Nhơn Trạch. Một khu
công viên, tượng đài khá hoành tráng nằm bên phải hương lộ
19B.
- Lịch sử xây dựng
+ Địa đạo Nhơn Trạch - nguyên là căn cứ Huyện ủy Nhơn
Trạch, được xây dựng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ trong
giai đoạn chính quyền Việt Nam Cộng hòa đẩy mạnh chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”.
+ Tháng 2.1963, trước sức tấn công mạnh của kẻ thù, Ban
Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch đề ra chủ trương, bằng mọi
cách phải bám vào dân để hoạt động. Để thực hiên được việc bám
dân, Huyện ủy quyết định chọn địa bàn để xây dựng hệ thống địa
đạo. Địa điểm được chọn là địa bàn có nhiều nhiều tre rừng, cây
cao thuộc khu vực Hang Nai rừng Lòng Chảo.
480

49 Pages 481-490

▲back to top


49.1 Page 481

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
+ Ngày 19.5.1963, nhân dịp kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Huyện ủy Nhơn Trạch chọn khởi công đào địa đạo và
kết thúc vào cuối năm 1964 với gần 1.500.000 mét.
+ Lực lượng tham gia gồm: đồng chí Nguyễn Văn Tâm (đội
trưởng), Phan Văn Trường, Lê Văn Hiếu, Bình, Hồng, Kết, Chơn,
Tài, Nhân lớn, Nhân nhỏ, Quyết, Ú, Nhung và chị Sáu Đức, được
chia thành hai tổ thay phiên nhau đào vào ban đêm. Đất đào lên
rải đều trên mặt đất, ó trồng cỏ lên trên hoặc lấy lá cây rừng phủ
kín để xoá dấu vết.
Sau năm 1975, địa đạo xuống cấp và bị hoang phế. Cơ sở
làm việc trên mặt đất, hệ thống giao thông hào và lòng địa đạo bị
sạt lở nhiều. Sau khi phát hiện, tỉnh Đồng Nai tiến hành trùng tu
địa đạo, các đoạn giao thông hào, lòng địa đạo được khôi phục
một phần. Trên nền của phạm vi có địa đạo, xây dựng những công
trình: nhà tưởng niệm, văn bia, tượng đài chiến sĩ Đoàn 10 đặc
công rừng Sác.
- Kiến trúc, kết cấu di tích
+ Theo dự kiến, địa đạo sẽ bắt đầu đào từ hai địa điểm thuộc
khu vực Hang Nai - rừng Lòng Chảo, đào qua Ban Chỉ huy Huyện
đội. Từ Huyện ủy đào xuống các xã Phước An, Phước Thiền, Phước
Thọ, Phú Hội... tạo thành hệ thống địa đạo liên hoàn khép kín.
Phần giao thông hào được bố trí như một tam giác đều, (cạnh
dài 70m) với ba mặt là giao thông hào sâu 2m, rộng 1m20 tạo
thành hệ thống khép kín. Đây là cách bố trí theo kiểu “kiềng ba
chân”. Cả ba mặt giao thông hào được xây dựng 7 ụ chiến đấu,
mỗi ụ có kích thước (ngang 2m, dài 3m, sâu 1m20); phía trên lắp
cây, đắp đất dày 1m, ba mặt bố trí ba lỗ châu mai. Bên ngoài hệ
thống giao thông hào bố trí hai hàng chông sắt, tầm vông xen kẽ.
Trong cùng có ba lớp hàng rào kẽm gai.
481

49.2 Page 482

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
+ Trên mặt đất, xây dựng cơ sở làm việc của Huyện ủy Nhơn
Trạch gồm: hội trường, văn phòng, mặt trận, các đoàn thể (thanh
niên, phụ nữ, nông dân) và một bếp ăn làm cây, tre, lá.
+ Hệ thống địa đạo liên hoàn khép kín bố trí có dạng gần
giống chữ chi (Z), với nhiều đoạn gấp khúc bố trí bên dưới căn cứ
Huyện ủy. Ngăn cách giữa các đoạn có nắp đậy kín. Miệng chính
địa đạo được bố trí tại trung tâm căn cứ, dẫn vào đường chính như
xương sống có độ sâu 7m tính từ mặt đất tới đáy, đào theo hình
dích dắc bậc thang. Kích thước địa đạo tính từ vòm tới đáy có độ
cao từ 1m80 đến 2m, ngang 1m đến 1m20. Nóc có cấu trúc hình
vòm. Đường xương sống địa đạo bố trí lỗ thông hơi hình phễu
úp song song ở những gốc cây lớn. Trong lòng địa đạo bố trí các
phòng làm việc.
- Sự kiện liên quan
Từ căn cứ với hê thống địa đạo Phước An, Huyện ủy Nhơn
Trạch bám trụ lâu dài ở địa bàn rừng Lòng Chảo, chỉ đạo phong
trào đấu tranh của quân dân huyện Nhơn Trạch với nhiều trận tấn
công vào quân địch.
+ Từ ngày 01 đến ngày 03.7.1965, du kích Phước An, bám ụ,
vận động dưới địa đạo đánh bật nhiều đợt xung phong của hai đại
đội bảo an cùng bốn cố vấn Mỹ càn vào khu Lòng Chảo.
+ Từ ngày 27.01.1966 đến ngày 02.02.1966, lực lượng cách
mạng Nhơn Trạch bẻ gãy nhiều cuộc càn quy mô lớn (kết hợp
giữa bộ binh, pháo binh, xe tăng thiết giáp và phi cơ oanh tạc) của
quân đội Việt Nam Cộng hòa. Dầu tương quan lực lượng không
cân xứng nhưng dựa vào hệ thống địa đạo, 20 chiến sĩ cùa văn
phòng Huyện ủy đẩy lùi các đợt tiến công, bảo vệ căn cứ, gây cho
địch những tổn thất nặng nề (167 lính Mỹ bị diệt, bắn rơi 6 máy
bay trực thăng, bắn cháy 5 xe tăng).
482

49.3 Page 483

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
+ Từ ngày 21.2 đến 23.3.1970, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ
đạo toàn dân đánh giặc, đập tan kế hoạch “lột da” khu Lòng Chảo
của chính quyền Sài Gòn, làm cho địch bị tổn thất nặng: 43 xe
tăng, xe ủi bị cháy, 20 máy bay bị bắn rơi, nhiều lính Mỹ bị diệt.
+ Từ năm 1972, địa đạo Nhơn Trạch đã trở thành nơi bám trụ
dài ngày của 500 cán bộ chiến sĩ Đoàn 10 Rừng Sác, là nơi xuất
phát của nhiều trận đánh ở các hướng sông Lòng Tàu, kho bom
Thành Tuy Hạ...
ĐỊA ĐIỂM NGÃ BA GIỒNG SẮN
- Tên gọi: Ngã ba giồng Sắn, Vàm Xoắn
- Địa chỉ: ấp Bến Đình, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
- Quyết định và thời gian xếp hạng: Số 5160/QĐ-CT.UBT
của UBND tỉnh Đồng Nai, ngày 22.10.2004.
- Loại hình: Di tích lịch sử cấp tỉnh
- Cảnh quan: Khu vực ngã ba Giồng Sắn (trước đây thuộc
xã Phú Hữu, nay thuộc xã Phú Đông) là một đầu mối giao thông
đường thủy giữa sông Ông Kèo, Ông Mai và Thị Vải. Trước đây,
địa điểm này tập trung nhiều ghe xuồng của người dân địa phương
và các vùng Long Thành, Bình Khánh, Nhà Bè, ngư dân tỉnh Bến
Tre, Long An để trao đổi hàng hoá. Hiện nay, công trình Nhà bia
tưởng niệm và công viên Giồng Sắn tọa lạc trên diên tích 15.000
m2, không gian thoáng rộng, chung quanh cảnh sông nước hữu
tình.
- Lịch sử xây dựng:
Để tưởng nhớ những người dân vô tội bị thảm sát trong sự
kiện ngày 27.9.1965, ngày 25.10.2005, huyện Nhơn Trạch khởi
công xây dựng công trình Bia- Công viên tưởng niệm Giồng Sắn.
483

49.4 Page 484

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đây là di tích ghi dấu, tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù trong cuộc
thảm sát thường dân vô tội diễn ra trên vùng đất Nhơn Trạch của
tỉnh Đồng Nai.
- Kiến trúc
Nhà Bia tưởng niệm có diện tích 100 m2, được thiết kế theo
kiểu mái vòm hình lục giá, mái lợp ngói, dáng khum, kiểu cổ lầu
(hai tầng mái) chung quanh không có tường bao. Nền cao, lát đá
hoa cương, có tám bậc tam cấp. Phía chính giữa đặt bia, nội dung
về cảnh thảm sát mà người dân vô tội gánh lấy với lối văn biền
ngẫu. Phía trên bia hình tượng cách điệu quả bom khổng lồ thả
xuống chiếc ghe nhỏ của người dân trên bến sông có nhiều cây
dừa nước. Chiếc ghe cháy thành ngọn lửa với cột nước bốc lên
cao. Ba mặt còn lại là phù điêu diễn tả cảnh ném bom, bắn pháo
thảm sát của địch và cuộc đấu tranh của người dân Long Thành -
Nhơn Trạch với chính quyền Sài Gòn.
+ Nhà trưng bày có diện tích 20 m2 thiết kế lục giác, mái
nhọn, lợp ngói. Nội thất trưng bày có những hình ảnh, tài liện liên
quan đến vụ thảm sát, quá trình trùng tu tôn tạo di tích.
+ Phần sân lễ khá rộng với diện tích 700 m2, lát gạch và tôn
tạo cảnh quan với hệ thống đường nội bộ, rạch nhân tạo và những
hàng cây xanh.
- Sự kiện liên quan
Thực hiện kế hoạch bình định có trọng điểm miền Nam trong
vòng 2 năm 1964 - 1965, chính quyền Sài Gòn đã tổ chức nhiều
cuộc hành quân về hướng Đông Bắc và Đông Nam Sài Gòn; trong
đó địa bàn Nhơn Trạch là một điểm được chọn. Thế nhưng, tìm
diệt lực lượng cách mạng không được, chính quyền Sài Gòn đã
thực hiện cuộc tấn công thảm sát vào thường dân mà địa điểm
Giồng Sắn phải gánh chịu vào ngày 25.10.1965.
484

49.5 Page 485

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Người dân các xã Phú Hữu, Đại Phước, Giồng Ông Đông,
Vĩnh Thanh, Phước Khánh đi kiếm củi dăng câu tập trung về bến
Giồng Sắn vào buổi chiều như thường lệ. Vào khoảng 4 giờ, máy
bay địch xuất hiện hàng chục đợt, mỗi đợt 3 chiếc tiếng động cơ
gầm rú dữ dội. Chúng thi nhau cắt bom xuống chỗ ghe xuồng đậu
có nhiều người dân đang tập trung. Cảnh vật trở nên hỗn loạn với
hàng trăm con người tranh nhau tìm chỗ trú thân trước làn bom
đạn của quân đội Sài Gòn. Những quả bom thả xuống khiến cảnh
tan thương xảy ra nặng nề. Những cột khói đen cuồn cuộn bốc
lên, những cột nước dâng cao hàng chục mét rồi dập xuống bắn
tung toé làm cho ghe xuồng lật úp, nhiều chiếc bị vỡ ra thành từng
mảnh. Một số người chết này tại chỗ, số chạy thoạt lên bờ thì bị
máy bay quần theo tấn công. Sau đợt thả bom, quân đội Sài Gòn
còn cho pháo từ Nhà Bè bắn qua cấp tập như vãi trấu làm cho số
người chết và bị thương càng tăng lên.
Cuộc oanh kích của địch làm bến Giồng Sắn trở nên hoang
tàn, tang tóc. Hàng trăm ghe xuồng bị bom đạn giặc phá tan tành.
Tổng cộng có 536 thường dân chết và rất nhiều người khác bị
thương. Sau sự kiện này, huyện ủy Nhơn Trạch đã tổ chức một
cuộc biểu tình với hơn 1.000 người tham gia, phản đối hành động
sát hại dân lành của chính quyền Sài Gòn. Cuộc biểu tình gây nên
dư luận căm phẫn lớn trong mọi giới trong cả nước, lên án sự độc
ác, tàn bạo của quân đội Sài Gòn. Cuộc thảm sát này cũng dấy lên
dư luận, được báo chí nước ngoài đưa tin, lên án.
- Lễ hội: Hằng năm vào ngày 22.8 (âm lịch), tại di tích tổ
chức lễ giỗ cho những người bị chết trong vụ thảm sát kinh hoàng
năm 1965. Người dân địa phương và những gia đình có người
thân bị chết đến tham dự. Trong một số ngày lễ của năm, người
dân và thế hệ trẻ tổ chức những đoàn viếng, thăm di tích, để ôn lại
truyền thống yêu nước, nhắc lại những tộc ác của chính quyền Sài
Gòn đối với người dân vô tội.
485

49.6 Page 486

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ĐÌNH PHÚ MỸ
- Tên gọi: Đình Phú Mỹ
- Địa chỉ: ấp Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
- Quyết định và thời gian xếp hạng: Số 3525/QĐCT.UBND
của UBND tỉnh Đồng Nai, ngày 10.10.2005.
- Loại hình: Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.
- Cảnh quan: Đình Phú Mỹ tọa lạc trên một diện tích gần
7.500 m2, bên trái đường lộ 25 (hướng Long Thành đi Nhơn Trạch)
chạy xuyên qua địa bàn xã Phú Hội. Đây là phần của một ngọn đồi
được người dân khai phá cách đây gần hai thế kỷ. Chung quanh
đình có nhiều cây cổ thụ quanh năm tỏa bóng mát. Hiện nay, chung
quanh đình là khu dân cư khá đông đúc. Toàn bộ đình được bao
bọc bởi tường rào bảo vệ khá kiên cố. Có ý kiến lý giải rằng, toàn
bộ cảnh quan, địa thế, kiến trúc đình Phú Mỹ thể hiện triết lý tự tại
phản ánh tư tưởng hòa hợp với thiên nhiên của cộng đồng người
Việt nói chung, của người dân Phú Hội nói riêng.
- Lịch sử xây dựng
+ Năm 1802, dân làng Phú Mỹ dựng ngôi miếu nhỏ tại gò
đất cao trong cánh đồng Ông Bồn. Năm 1820, để tránh tình trạng
ngập nước, dân làng Phú Mỹ dời ngôi miếu lên phía khu rừng có
địa thế cao và nhiều cây cổ thụ. Lúc bấy giờ, miếu được cải thành
đình, mái ngói. Năm 1832, dân làng Phú Mỹ quyết định dời đình
về ngọn đồi gần khu dân cư hơn - vị trí tồn tại cho đến hôm nay.
+ Đình trải qua nhiều lần trùng tu: năm 1969, bổ sung, thay
thế một số hoành phi, liễn đối, năm 1998, thay mái ngói âm dương
486

49.7 Page 487

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
bằng ngói tây ở tiền đình, chánh điện và xây một số bệ thờ, năm
2006, gia cố, tu bổ nền, mái và cấu kiện gỗ, đồ thờ, hoành phi, liễn
đối và hai miếu, năm 2010, xây dựng cổng tam quan, cổng phụ và
hệ thống tường rào bảo, năm 2012, xây dựng Nhà Võ (thờ Tiên
sư).
- Đối tượng và bài trí thờ
+ Thờ Thần Thành hoang bổn cảnh. Bài trí thờ trong trung
tâm chánh điện với chữ Hán đại tự, màu vàng trong khám thờ sơn
đỏ. Theo các bô lão làng Phú Hội, đình Phú Mỹ trước đây có sắc
phong nhưng do chiến tranh nên sắc thất lạc
+ Bài trí trong nội thất chánh điện có các ban thờ: Tả ban,
Hữu ban, Bạch Mã Thái giám, Ngủ cốc, Ngũ thổ,
+ Bài trí ở hậu điện có Tiền hiền, Hậu hiền
+ Trong phạm vi di tích, có các miếu, đàn thờ: Tiên sư, Thần
Nông, Chiến sĩ trận vong, Ngũ Hành, Sơn quân.
Đặc biệt, trong di tích, có thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiên
qua ba bức hoành phi treo trong chánh điện. Sau này, có tượng
Bác Hồ đặt trong chánh điện do Bộ tư lệnh lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh trao tặng tượng cho nhân dân Phú Hội.
- Kiến trúc
Kiến trúc hiện tồn của đình Phú Mỹ với những thành tố hợp
thành cho thấy đình Phú Mỹ đã trải qua những lần trùng tu tôn tạo,
mở rộng và bổ sung các cấu kiện.
+ Lúc mới xây dựng, ngôi miếu ban đầu được làm đơn giản,
thô sơ bằng cây, tre, lá. Lần dịch chuyển lần thứ nhất vào năm
1820, đình được xây dựng với quy mô lớn hơn trước. Lần thứ ba
dịch chuyển năm 1832, đình đình được mở rộng và kiến trúc đình
được sửa chữa, làm mới một cách kiên cố.
487

49.8 Page 488

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
+ Quần thể kiến trúc đình Phú Mỹ gồm tiền đình, chánh điện
và nhà khách xếp theo lối chữ Tam ().Tiền điện làm bằng gỗ với
kiểu thức nhà ba gian hai chái, hai mái. Móng bằng đá ong, không
tường bao, nền gạch, mái ngói, bờ nóc trang trí tương “lưỡng long
tranh châu” bằng gốm men xanh. Kết cấu bốn hàng gồm 18 cột gỗ.
Bộ khung mái gắn kết theo kiểu ghép mộng, chốt.
+ Chánh điện có kiểu thức nhà ba gian, hai chái. Bờ nóc
trang trí các tượng bằng gốm: lưỡng long chầu pháp (hai con rồng
chấp pháp), Ba mặt của chánh điện được bao bọc bởi tường xây
ở hai bên và phía sau... Nội thất chánh điện dạng nhà tứ trụ (nhà
vuông) với hệ thống xuyên trính chạy trên bốn cột cái và các vì
kèo đỡ mái. Từ đầu cột cái chạy qua đầu cột quân ra đầu cột hiên
là những kẻ suốt, từ cột hiên ra cột bên ngoài là những kẻ chuyền
nối nhau đỡ mái, tạo ra không gian nội thất vuông vức.
+ Nhà khách, nhà bếp sau chánh điện, kết cấu đơn giản không
tường bao, dạng nhà ba gian hai chái với hệ thống cột, xuyên trính,
vì kèo bằng kỹ thuật mộng chốt. Không gian khá rộng và thông
thoáng, không trang trí.
+ Trong không gian kiến trúc trúc của đình có nhiều hoành
phi, liễn đối, hương án bằng gỗ quý, chạm trổ tinh xảo với các đề
tài: rồng, phụng, hoa lá... sơn son thếp vàng.
- Sự kiện liên quan
+ Năm 1946, khi diễn ra lễ Kỳ yên, Ban Quý tế của đình khi
đọc văn tế đã xưng danh Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa với chủ ý
ủng hộ nhà nước cách mạng hình thành sau Cách mạng tháng Tám
trước sự theo dõi của kẻ địch nhưng chúng không dám bắt bớ.
+ Tháng 9.1969. Khi nghe tin Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần,
người dân Phú Hội lúc bây giờ sống trong vòng kìm tỏa của chính
488

49.9 Page 489

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
quyền Sài Gòn. Trước sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người
dân Phú Hội ghi nhớ công ơn của Người đã vận dụng một cách
tài tình, khéo léo, tránh sự theo dõi của chính quyền Sài Gòn, sử
dụng ba bức hoành phi: Hồ nhiên nhi thiên, Chí vọng thâm ân,
Minh hoài hậu đức (Ba chữ đầu ghép lại thành tên Người - Hồ
Chí Minh hàm ý Công ơn của Người lồng lộng như trời cao, đức
của Người còn lưu mãi muôn đời) qua mặt kẻ địch một cách tài
tình. Người dân Phú Hội tôn kính Người như một nhân thần, thể
hiện trong văn tế cúng và nghi thức rước linh trong lễ Kỳ yên của
đình năm 1969.
- Lễ hội
+ Hằng năm, tại di tích tổ chức nhiểu lễ cúng theo âm lịch:
Lễ cúng Tiên sư, Tống phong (ngày 12 tháng Giêng), lễ Thượng
nguyên (ngày 15 tháng Giêng), lễ Trung nguyên (ngày 15.7), lễ
Hạ nguyên (ngày 15.10). Đặc biệt, lễ hội Kỳ yên diễn ra trong từ
ngày 15 - 16.11).
+ Lễ dâng hương Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 19.5 và
ngày 2.9 dương lịch.
489

49.10 Page 490

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ĐÌNH PHƯỚC THIỀN
- Tên gọi: Đình Phước Thiền, đình Ông Cọp.
- Địa chỉ: ấp Trầu, xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
- Quyết định và thời gian xếp hạng: Số 3607/QĐ-UBND
của UBND tỉnh Đồng Nai, ngày 7.12.2009.
- Loại hình: di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật (cấp
tỉnh).
- Cảnh quan: Đình Phước Thiền tọa lạc trong một khu đất
bằng phẳng, rộng 14.601m2, thế đất bằng phẳng; trong khuôn viên
đình có nhiều cây cổ thụ như: sao, bạch đàn, dầu. Đặc biệt, ở
phía bên phải đình có cây đa cổ thụ trên 100 tuổi, gốc to đến năm
người ôm không xuể, luôn xanh tốt, tỏa bóng mát quanh năm,.
Phía trước đình giáp Hương lộ 769, phía bên trái giáp với UBND
xã Phước Thiền, phía bên phải giáp với nhà dân, phía sau giáp con
đường nhỏ.
- Lịch sử xây dựng
Đình Phước Thiền lúc ban đầu là ngôi miếu được khởi dựng
khoảng đầu thế kỷ XIX với quy mô nhỏ, bằng cột tre, vách đất,
mái lá ở khu vực Bến Chùa. Giữa thế kỷ XIX, miếu dời về địa
điểm hiện nay, trên khu đất công của làng có diện tích khoảng
3.000 m2. Từ đây, đình có tên của làng là Phước Thiền. Đình được
tu bổ, tôn tạo vào các năm 1939, 1985, 1989, 2002.
- Đối tượng và bài trí thờ
+ Đình thờ Thần hoàng bổn cảnh ở trung tâm của chánh
490

50 Pages 491-500

▲back to top


50.1 Page 491

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
điện. Phối thờ có Tả ban, Hữu ban, Tiên sư, Thổ công, Tiền bối,
Bạch mã Thái giám, Ngũ hành tinh nương
+ Đặc biệt là hai miếu thờ Thiên Phi nương nương, Bà Chúa
Sắt, Chúa Lồi và thờ các Anh hùng liệt sỹ trong khuôn viên di
tích.
- Kiến trúc
Đình Phước Thiền có bố cục mặt bằng dạng chữ Công (I),
gồm tiền đình, chánh điện và hậu đình nối tiếp nhau. Đây là một
trong những lối kiến trúc đặc trưng, tiêu biểu của ngôi đình làng
Nam Bộ. Ngoài ra, trong khuôn viên đình còn xây dựng các hạng
mục khác như: miếu thờ ông Hổ, Đài và Nhà bia liệt sỹ, nhà kho,
nhà bếp, bàn thờ chúa Ngung, bàn thờ thần Nông.
+ Tiền đình có xây kiểu nhà ngang, ba gian, hai chái. Bờ nóc
trang trí Lưỡng long triều dương (rồng chầu mặt trời) bằng gốm
men xanh, trắng Đối xứng hai bên cặp rồng chầu mặt trời, cặp
lân.
+ Chánh điện xây theo kiểu nhà tứ trụ (nhà vuông), mái dạng
bánh ít (hai mái chính và hai mái phụ), lợp ngói âm dương, nền và
mái đều được nâng cao hơn so với các hạng mục khác. Nội thất bài
trí, trang trí các đồ thờ, hệ thống hoành phi, liễn đối khá đa dạng.
Nội dung hoành phi, liễn đối ca ngợi công ơn che chở của thần
linh và bày tỏ lòng thành kính của người dân dân địa phương.
+ Hậu đình kết cấu kiểu nhà tứ trụ làm bằng gỗ bằng lăng, gỗ
căm xe có dạng “Thượng thu hạ thách”. Trên các cột, xà ngang có
treo liễn đối và hoành phi chạm trổ khá công phu, trang trí đề tài
dây hoa lá, rồng phượng, dơi ngậm quả đều viết bằng chữ Hán, nội
dung ca ngợi công đức của các vị Tiền hiền, Hậu hiền.
491

50.2 Page 492

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
- Lễ hội
Hàng năm, đình tổ chức Lễ Kỳ yên vào ngày 15.8 (âm lịch).
Đáo lệ 3 năm, đình tổ chức đại lễ Kỳ yên với nhiều nghi thức, hoạt
động đa dạng, gắn kết các cơ sở tín ngưỡng của địa phương, thu
hút nhiều người từ các nơi tham dự.
- Sự kiện lịch sử có liên quan
+ Trong những ngày khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng
Tám năm 1945, đình Phước Thiền là địa điểm lực lượng Thanh
niên Tiền Phong huyện Long Thành sử dụng tập luyện, hội họp.
+ Trong năm đầu kháng chiến chống Pháp, Ban Quý tế đình
Phước Thiền hiến cho cách mạng một đại hồng chung để đúc vũ
khí, phục vụ chiến đấu.
+ Đình Phước Thiền tồn tại trên 200 năm, gắn liền với quá
trình hình thành, phát triển xã Phước Thiền và các địa phương lân
cận.
492

50.3 Page 493

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
ĐỊA ĐIỂM DIỄN RA TRẬN ĐÁNH GIỮA TIỂU ĐOÀN 2
(TRUNG ĐOÀN 4, SƯ ĐOÀN 5) VÀ ĐẠI ĐỘI 240
BIÊN HÒA VỚI TIỂU ĐOÀN MÃNG XÀ VƯƠNG
THÁI LAN NGÀY 20.12.1967 TẠI XÃ LONG THỌ,
HUYỆN NHƠN TRẠCH
- Tên gọi: Địa điểm diễn ra trận đánh giữa Tiểu đoàn 2
(Trung đoàn 4, Sư đoàn 5) và Đại đội 240 Biên Hòa với Tiểu
đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan ngày 20.12.1967 tại xã Long
Thọ, huyện Nhơn Trạch.
- Địa chỉ: ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai.
- Quyết định và thời gian xếp hạng: Số 636/QĐ-UBND
của UBND tỉnh Đồng Nai ngày 01.3.2013.
- Loại hình: di tích lịch sử (cấp tỉnh).
- Cảnh quan: Di tích tọa lạc tại khu đất rộng 374,4 m2 được
bao bọc bởi hệ thống rừng tràm bạt ngàn, tiếp giáp với địa đạo
Nhơn Trạch và khu căn cứ cách mạng Rừng Sác. Xen kẻ là địa bàn
sinh sống của các khu dân cư.
- Lịch sử xây dựng
Để ghi nhớ, tri ân và tưởng niệm các cán bộ, chiến sĩ Tiểu
đoàn 2 (Trung đoàn 4, Sư đoàn 5) và Đại đội 240 Biên Hòa đã
anh dũng hi sinh trong trận chiến với Tiểu đoàn Mãng Xà Vương
Thái Lan ngày 20.12.1967 tại xã Phước Thọ (nay là xã Long Thọ);
UBND xã Long Thọ và Ban Liên lạc Tiểu đoàn 2 và Đại đội 240
Biên Hòa xây dựng Bia tưởng niệm Liệt sĩ Tiểu đoàn 2 và Đại
đội 240 Biên Hòa. Địa điểm xây dựng Bia tưởng niệm trên phần
493

50.4 Page 494

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
đất của gia đình ông Đỗ Ngọc Quyền Quang (trước đây là chiến
trường Vườn Điều/nay thuộc ấp 5, xã Long Thọ) hiến tặng năm
1994. Năm 2012, huyện Nhơn Trạch thực hiện cải tạo, nâng cấp,
mở rộng công viên nhà Bia tưởng niệm.
- Kiến trúc
+ Khu công viên rộng 374,4m2. Nhà bia tưởng niệm có diện
tích khoảng 29m2 được thiết kế dạng nhà lục giác, với các chi tiết
cột kèo bằng bê tông cốt thép sơn giả gỗ, mái lợp ngói mũi hài,
các đầu mái được trang trí chi tiết rồng. Chính giữa đặt bia dạng
hình khối chữ nhật, chất liệu đá granit màu đen (cao 2,90m, rộng
1,02m). Phía trên bia phía trên trang trí sao vàng năm cánh. Mặt
bia khắc nội dung: “Nơi đây, vào lúc 21 giờ ngày 20.12.1967,
Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4, Sư đoàn 5 cùng với lực lượng C240
địa phương tổ chức đánh trực diện vào một Tiểu đoàn Mãng Xà
Vương, Thái Lan có cơ giới và cố vấn Mỹ. Trận đánh diễn ra 1
đêm, làm địch bị tiêu hao nặng. Về phía ta gần 80 đồng chí hy sinh
và bị địch bắt do bị thương”.
- Sự kiện lịch sử liên quan
Sau thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965),
Mỹ đưa quân trực tiếp vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam cùng
với một số lực lượng đồng minh; trong đó có quân đội Thái Lan
(phiên hiệu Mãng Xà Vương) tham chiến trên chiến trường Long
Thành - Nhơn Trạch.
Với quyết tâm đánh phủ đầu quân Thái Lan gây áp lực, đầu
tháng 12.1967, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sử dụng lực lượng
Tiểu đoàn 2 (đóng tại huyện Nhơn Trạch) gồm 3 Đại đội, bổ sung
thêm 1 Đại đội của Tiểu đoàn 1 (từ Phan Thiết vào) kết hợp Đại
đội 240 Biên Hòa đánh tập kích Tiểu đoàn Mãng Xà Vương, Thái
494

50.5 Page 495

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Lan tại khu vực Vườn Điều. Trận đánh do đồng chí Hai Phê (Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 1) chỉ huy trưởng, đồng chí Chín Hướng
(Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2) Chỉ huy phó; đồng chí Tám Còn
(Chính trị viên Tiểu đoàn 2), Bí thư kiêm Chính trị viên. Vào lúc
21 giờ đêm 20.12.1967, Tiểu đoàn 2 và Đại đội 240 Biên Hòa chia
làm ba hướng tấn công đồn quân Thái Lan theo kế hoạch. Lực
lượng cách mạng tiêu diệt một bộ phận lực lượng Tiểu đoàn Mãng
Xà Vương Thái Lan, phá hủy nhiều vũ khí, buộc chúng phải rút
lui khỏi khu vực Vườn Điều, góp phần cổ vũ tinh thần cách mạng
ở địa phương, tỉnh Biên Hòa và chiến trường Nam Bộ nói chung,
chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân (1968).
Lực lượng cách mạng có trên 80 đồng chí thuộc Tiểu đoàn 2 và
Đại đội 240 Biên Hòa hi sinh. Hiện nay, còn nhiều đồng chí hi
sinh chưa tìm thấy được hài cốt.
- Hoạt động tại di tích
Hằng năm, chính quyền huyện Nhơn Trạch, xã Long Thọ tổ
chức gặp mặt, mít tinh, dâng hương tri ân cán bộ, chiến sĩ đã hy
sinh trong trận tấn công địch vào các ngày: 25.4 (họp mặt truyền
thống của Tiểu đoàn 240 Biên Hòa), ngày 27.7 (Kỷ niệm ngày
Thương binh liệt sĩ); đặc biệt ngày 20.12 (diễn ra trận đánh ác liệt
với Tiểu đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan). Đồng đảo người dân
địa phương và các Cựu chiến binh thuộc Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn
1 (Trung đoàn 4, Sư đoàn 5) và Đại đội 240 Biên Hòa ở các nơi
đến dự.
495

50.6 Page 496

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
CĂN CỨ SỞ CHỈ HUY ĐẶC KHU RỪNG SÁC
VÀ ĐOÀN 10 ĐẶC CÔNG RỪNG SÁC
- Tên gọi: Căn cứ Sở Chỉ huy Đặc khu Quân sự Rừng Sác và
Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác.
+ Từ năm 1966 đến năm 1967 là Căn cứ Sở Chỉ huy Đặc khu
Quân sự Rừng Sác.
+ Từ năm 1967 đến 1973 là Căn cứ Sở Chỉ huy Đoàn 10 Đặc
công Rừng Sác.
- Địa chỉ: ấp Bà Bông, xã Phước An, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
- Quyết định và thời gian xấp hạng: 2105/QĐ-BVHTTDL
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 08.7.2014.
- Loại hình: Di tích lịch sử (cấp quốc gia).
- Cảnh quan:
Rừng Sác là tên gọi chung của một khu vực rừng ngập mặn
nguyên sinh rộng lớn gồm Rừng Sác Nhơn Trạch (thuộc huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) và Rừng Sác Cần Giờ (nằm trên địa
phận Thành phố Hồ Chí Minh). Rừng Sác Nhơn Trạch là một
vùng rừng ngập mặn rộng lớn ở phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai
nối liền với Rừng Sác Cần Giờ. Địa bàn này có hệ sinh thái rừng
ngập mặn với điều kiện môi trường rất đặc biệt, trung gian giữa
hệ sinh thái thủy vực với hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước
ngọt và hệ sinh thái nước mặn. Hệ thống động vật, thực thực vật
Rừng Sác khá phong phú: động vật nhiều loại thủy sản và loài bò
sát, thực vật có trên 150 loài; đặc biệt là quần thể đước đan xen,
tạo cảnh quan đặc trưng. Bên cạnh đó, rừng Sác còn có hệ động
496

50.7 Page 497

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
vật phong phú, có loại xuất hiện theo mùa, có loại sống quanh năm
với nhiều loài như khỉ, sóc, chuột... nhiều loại chim như cò quắm,
sếu, diệc, vẹt, chàng bè, bìm bịp, cú quạ, hồng hộc, le le... nhiều
loại bò sát như cá sấu, tắc kè, trăn, rắn, rùa và nhiều loại cá, tôm,
cua, ốc...
- Lịch sử xây dựng
+ Đặc khu Quân sự Rừng Sác
Đầu năm 1966, Quân ủy Trung ương chỉ đạo thành lập một
khu quân sự ở phía Đông Nam Sài Gòn nhằm khống chế con đường
huyết mạch của địch ở sông Lòng Tàu. Ngày 15.4.1966, Đặc khu
Quân sự Rừng Sác chính thức được thành lập với mật danh là T10.
Căn cứ Sở Chỉ huy được đặt ở Rạch Tràm sau chuyển qua tắc Cái
Ngang, sông Ba Gioi. Ngày 01.10.1966, tổ chức Đặc khu Quân
sự Rừng Sác chính thức hình thành. Quân số đầu tiên 614 người,
gồm 3 cơ quan, 6 đơn vị cấp đại đội, hai đội công binh nước đánh
thủy lội dây, một đội cối 82, một trung đội ĐKZ 75 ly, một đơn vị
pháo cao xạ 12 ly 8, một đơn vị bộ binh, một đơn vị trinh sát, một
đơn vị vận tải hàng chiến lược do đồng chí: Lương Văn Nho làm
Đặc khu trưởng kiêm Chính ủy.
+ Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác
Tháng 10.1967, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức lại chiến trường
chuẩn bị cho kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân
(1968). Đặc khu Quân sự Rừng Sác nằm trong Phân khu 4 trực
thuộc Miền, có tính chất độc lập với nhiệm vụ đặc biệt tấn công
tuyến đường thủy, tàu, kho tàng, bến cảng của địch bằng lối đánh
đặc công. Đặc khu Quân sự Rừng Sác thành lập Đoàn 10 Đặc công
Rừng Sác. Ban Chỉ huy gồm: Đồng chí Nguyễn Việt Hoa - Đoàn
trưởng. Sở Chỉ huy đóng ở khu vực Sở Chỉ huy của Đặc khu Quân
497

50.8 Page 498

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
sự Rừng Sác. Đến cuối năm 1969, đồng chí Lê Bá Ước được cử
làm Đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác.
- Kiến trúc, kết cấu di tích
Hiện nay, những dấu tích của cơ sở làm việc, hoạt động trên
địa điểm đã không còn. Trên cơ sở hồi ức của những cán bộ, chiến
sĩ đã từng hoạt động qua các thời kỳ, căn cứ Sở Chỉ huy Đặc khu
Rừng Sác và Sở chỉ huy Đoàn 10 đặc công Rừng Sác như sau:
+ Sở Chỉ huy Đặc khu Quân sự Rừng Sác
Sở Chỉ huy gồm nhiều cơ sở làm việc, chiến đấu được xây
dựng bằng các loại cây đước, chà là gai, dừa nước, phân bố trên
một diện tích được bố trí đảm bảo an toàn cho hoạt động chung.
- Trạm gác của Đội Vệ binh (gọi là Nhà cảnh) có diện tích
khoảng 6m2
- Nhà khách cách trạm gác Đội vệ binh khoảng 200m về phía
Đông Bắc, nhà dạng lán dài, diện tích 50m2.
- Ban Tham mưu cách nhà khách khoảng 150m về phía Tây;
có diện tích khoảng 20m2
- Ban Chính trị cách nhà khách khoảng 200m về phía Nam;
có diện tích khoảng 20m2.
- Nhà làm việc của Phó Chính ủy cách nhà khách khoảng
300m về hướng Đông Nam; có diện tích 15m2. Nhà hai mái, xung
quanh có tường dạng song làm bằng đước. Phía trong bố trí một
bàn làm việc và giường ngủ.
- Nhà làm việc của Phó Tư lệnh: tọa lạc cách nhà khách
khoảng 400m về hướng Đông Bắc; có diện tích 15m2, Kiểu dáng,
bài trí giống như Nhà làm việc của Phó Chính ủy.
498

50.9 Page 499

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
- Ban Quân y - nơi khám chữa bệnh, cứu thương có diện tích
khoảng 35m2.
- Hội trường: ở vị trí trung tâm của khu căn cứ, có diện tích
khoảng 100m2 .Hội trường dạng lán dài
- Nhà thông tin cơ yếu: có diện tích khoảng 20m2
- Nhà làm việc của Đặc khu trưởng kiêm Chính ủy ở hướng
Tây Nam, có diện tích 15m2, giống như Nhà làm việc của Phó
Chính ủy.
- Nhà bếp:Nằm cách hội trường khoảng 500m về phía Nam,
diện tích khoảng 20m2
- Hầm trú ẩn: Dưới mỗi nhà làm việc, hội trường đều có làm
hầm trú ẩn dạng chữ H hoặc chữ L. Do địa hình là một khu vực
rừng ngập mặn với sình lầy, ngập nước quanh năm nên hệ thống
hầm được đào sâu khoảng 1,5 m, lấy đước làm khung phủ trên mặt
đất khoảng 1m rồi đắp bùn. Trong căn cứ có khoảng 15 hầm trú
ẩn. Mỗi hầm có diện tích khoảng 5m2.
+ Căn cứ Sở Chỉ huy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác
Sở Chỉ huy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác trước đây có các
hạng mục:
- Trạm gác của Đội Vệ binh: có kiểu dáng kích thước giống
như Trạm gác của Đội Vệ binh Đặc khu Quân sự Rừng Sác.
- Nhà khách có diện tích khoảng 50m2, dạng lán dài, bài trí
các bàn bằng gỗ đước, chà là gai
- Nhà làm việc của Chỉ huy trưởng có diện tích khoảng 10m2,
Nhà làm việc của Chính ủy có dạng nhà hai mái. Nhà làm việc của
Chỉ huy phó cách nhà làm việc của Chính ủy khoảng 100m về
499

50.10 Page 500

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
hướng Tây Bắc. Phía trong các nhà bố trí bàn làm việc và giường
ngủ.
- Hội trường: có diện tích khoảng 150m2, dạng lán dài
- Nhà thông tin cơ yếu cách hội trường khoảng 100m về phía
Tây Nam, diện tích khoảng 25m2.
- Ban Chính trị: có diện tích khoảng 20m2, Ban Hậu cần:
có diện tích khoảng 36m2, Ban Tham mưu: có diện tích khoảng
20m2.
Nhà bếp có diện tích khoảng 49m2, nhà Quân nhu có diện
tích khoảng 36m2.
- Bệnh xá có diện tích khoảng 56m2, Công binh xưởng có
diện tích khoảng 100m2
- Hầm trú ẩn: Dưới mỗi nhà làm việc, hội trường đều có làm
hầm trú ẩn dạng chữ H hoặc chữ L. Trong căn cứ có khoảng 18
hầm trú ẩn. Mỗi hầm có diện tích khoảng 5m2.
- Sự kiện lịch sử liên quan
Từ căn cứ Đặc khu Quân sự Rừng Sác, Sở Chỉ huy Đoàn 10
Đặc công Rừng Sác đã hình thành những kế hoạch, tổ chức những
trận tấn công vào các mục tiêu của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa.
+ Các trận tấn công tàu địch trên sông Lòng Tàu năm 1966:
Ngày 2.7.1966: bắn cháy 01 tàu tải trọng 10.000 tấn, trọng thương
02 tàu tuần tiểu địch. Ngày 3.7: bắn trọng thương 02 tàu tuần tra.
Ngày 10 tháng 7: bắn cháy 02 tàu quét mìn và 01 tàu hộ tống.
Ngày 23.7 tổ chức trận đánh quân Mỹ càn vào căn cứ của Đội 4,
loại 135 quân địch khỏi vòng chiến đấu. Ngày 23.8, lực lượng vũ
trang cách mạng tại Rừng Sác dùng thủy lôi diệt tàu Victory của
500

51 Pages 501-510

▲back to top


51.1 Page 501

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
địch (trên tàu có: 100 xe tăng, 03 máy bay phản lực, hàng trăm
khẩu pháo, hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm). Sau trận đánh
này, Đặc khu Quân sự Rừng Sác được Bộ Chỉ huy Miền tặng
thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất. Ngày 01.11.1966,
lực lượng của Đặc khu Rừng Sác tổ chức trận địa pháo tấn công lễ
Quốc khánh của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
+ Các trận đánh vào kho tàng địch ở Nhà Bè năm 1967: Trận
pháo kích vào kho xăng Nhà Bè vào ngày 13 và 15.8; trận đánh
vào cảng Nhà Bè đêm 25.12.1967.
+ Đoàn 10 Rừng Sác tham gia tiến công nổi dậy tết Mậu
Thân 1968: đánh đồn Phú Hữu (Nhơn Trạch); đồn Lý Nhơn (Cần
Giờ). 6 ấp chiến lược, cảng Cát Lái, cảng Nhà Bè, kho Thành Tuy
Hạ, đánh vận tải địch trên sông Lòng Tàu. Trận đánh trên sông Đá
Hàn (ngày 10.2).
* Trận năm tấn công kho bom Thành Tuy Hạ đêm 11 rạng
ngày 12 tháng 11: phá hủy 23 nhà kho chứa đầy thuốc nổ (tương
đương 23.000m3), 19 nhà kho chứa đầy bom napan (với khoảng
60.000 quả) đã bị hủy diệt (tương đương với khoảng hơn 18.000
tấn bom đạn), phá hủy 17 kho đạn pháo 105 ly, phá hủy 17 nhà
kho chứa bom CBU. Trận đánh này, Đoàn 10 được cấp trên tặng
thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất.
* Trận đánh kho xăng Nhà Bè đêm 12.12.1973: Kho xăng
cháy suốt 12 ngày đêm, thiêu hủy, cháy 35.000 Gallon xăng dầu,
tương đương 250 triệu lít, 12 bồn Butagas, 1 tàu dầu Hà Lan
12.000 tấn, một cơ sở lọc dầu, một cơ sở trộn nhớt, một khu chứa
lương thực, một khu nhà lính. Đoàn 10 được tặng danh hiệu vẻ
vang: “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang Quân giải phóng miền
Nam” và tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
501

51.2 Page 502

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
PHỤ LỤC III. TỔNG HỢP THÀNH TÍCH TIÊU BIỂU
DANH SÁCH TẬP THỂ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH
STT
TÊN TẬP THỂ ANH HÙNG
1
Đội dân quân du kích xã Phước An
2
Đội dân quân du kích xã Phú Hội
3
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Hữu
4 Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Nhơn Trạch
5
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Long Thọ
6 Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phước Khánh
7
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Long Tân
8
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Đông
9
Tiểu đoàn 240
Năm phong
tặng
1978
1978
1994
1996
1996
2000
2000
2000
2012
DANH SÁCH
CÁ NHÂN ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH
STT
HỌ VÀ TÊN
1
Nguyễn Văn Quang
2
Nguyễn Quyết Chiến
3
Dương Văn Thì
Năm phong tặng
1967
1969
6.11.1978
502

51.3 Page 503

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
DANH SÁCH
BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG1
STT
Họ
1
Đỗ Thị
2
Võ Thị
3
Châu Thị
4
Nguyễn Thị
5
Nguyễn Thị
6
Dương Thị
7
Nguyễn Thị
8
Trương Thị
9
Nguyễn Thị
10
Nguyễn Thị
11
Phạm Thị
12
Nguyễn Thị
13
Lê Thị
14
Nguyễn Thị
15
Mai Thị
16
Lê Thị
17
Đặng Thị
18
Phan Thị
19
Đào Thị
20
Nguyễn Thị
21
Nguyễn Thị
22
Nguyễn Thị
23
Trương Thị
24
Nguyễn Thị
25
Đặng Thị
26
Nguyễn Thị
27
Nguyễn Thị
28
Nguyễn Thị
29
Nguyễn Thị
30
Dương Thị
31
Lê Thị
32
Nguyễn Thị
33
Phạm Thị
34
Nguyễn Thị
35
Huỳnh Thị
36
Nguyễn Thị
37
Võ Thị
38
Nguyễn Thị
Tên
Tiên
Út
Sang
Bộn
Huệ
Chính
Đống
Hai
Út
Bảy
Điểu
Chọn
Châu
Còn
Sao
Xinh
Tỉnh
Nho
Huyền
Ớn
Ba
Năm
Đồng
Ngà
Cửu
Hương
Nớt
Dính
Phụ
Y
Nhung
Bánh
Huề
Đâu
Thậm
Sáu
xã, thị trấn
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Hiệp Phước
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
1  Danh sách quản lý của Sở LĐTBXH tỉnh Đồng Nai cung cấp năm 2018, kết hợp tài liệu
khảo sát tại các xã tháng 2.2020
503

51.4 Page 504

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
39
Mai Thị
40
Lê Thị
41
Nguyễn Thị
42
Huỳnh Thị
43
Nguyễn Thị
44
Phan Thị
45
Phạm Thị
46
Lê Thị
47
Bùi Thị
48
Nguyễn Thị
49
Hồ Thị
50
Nguyễn Thị
51
Nguyễn Thị
52
Nguyễn Thị
53
Đổng Thị
54
Nguyễn Thị
55
Mã Thị
56
Nguyễn Thị
57
Lê Thị
58
Nguyễn Thị
59
Diệp Thị
60
Huỳnh Thị
61
Võ Thị
62
Nguyễn Thị
63
Phạm Thị
64
Nguyễn Thị
65
Lê Thị
66
Nguyễn Thị
67
Hồ Thị
68
Lê Thị
69
Nguyễn Thị
70
Phan Thị
71
Hồ Thị
72
Võ Thị
73
Phạm Thị
74
Ngô Thị
75
Nguyễn Thị
76
Nguyễn Thị
77
Trương Thị
78
Nguyễn Thị
79
Lê Thị
80
Võ Thị
81
Nguyễn Thị
82
Nguyễn Thị
Hiện
Trừng
Dương
Thâu
Hóa
Nhỏ
Ngọt
Mười
Bờ
Chiều
Khiêm
Bông
Nhiều
Sang
Sáu
Chiến
Khương
Ai
Hai
Nhựt
Rông
Hết
Én
Rớt
Trước
Bảy
Chuột
Ba
Quý
Nhàn
Tính
Bảy
Khanh
Nữa
Đồng
Thi
Cảnh
Bướm
Hường
Kính
Liền
Bi
Viết
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Phước Thiền
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Tân
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
504

51.5 Page 505

▲back to top


83
Nguyễn Thị
84
Huỳnh Thị
85
Dương Thị
86
Huỳnh Thị
87
Nguyễn Thị
88
Bùi Thị
89
Đoàn Thị
90
Nguyễn Thị
91
Nguyễn Thị
92
Lê Thị
93
Trần Thị
94
Đặng Thị
95
Bùi Thị
96
Hồ Thị
97
Lê Thị
98
Huỳnh Thị
99
Nguyễn Thị
100
Nguyễn Thị
101
Trần Thị
102
Nguyễn Thị
103
Phạm Thị
104
Phan Thị
105
Lê Thị
106
Nguyễn Thị
107
Nguyễn Thị
108
Nguyễn Thị
109
Phạm Thị
110
Lê Thị
111
Trần Thị
112
Lê Thị
113
Nguyễn Thị
114
Hồ Thị
115
Nguyễn Thị
116
Trần Thị
117
Lê Thị
118
Bùi Thị
119
Dương Thị
120
Lê Thị
121
Thái Thị
122
Trần Thị
123
Phạm Thị
124
Trần Thị
125
Đào Thị
126
Nguyễn Thị
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đẩu
Hạng
Tốt
Chẩm
Kiển
Bầy
Mần
Cốc
Chuộc
Nghị
Chính
Bi
Hết
Mai
Nở
Thế
Biểu
Phá
Hóa
Tứ
Lành
Em
Cầm
Lài
Bài
Trừ
Tiết
Dần
Nga
Mua
Lẹt
Biên
Biết
Của
Hai
Hoa
Đẹt
Ba
Liên
Thiệt
Phấn
Phương
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Long Thọ
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Đông
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
505

51.6 Page 506

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
127
Trần Thị
128
Nguyễn Thị
129
Nguyễn Thị
130
Bùi Thị
131
Nguyễn Thị
132
Nguyễn Thị
133
Trần Thị
134
Trần Thị
135
Huỳnh Thị
136
Trần Thị
137
Nguyễn Thị
138
Lê Thị
139
Lư Thị
140
Huỳnh Thị
141
Lư Thị
142
Đặng Thị
143
Nguyễn Thị
144
Trần Thị
145
Lư Thị
146
Đặng Thị
147
Đặng Thị
148
Nguyễn Thị
149
Lê Thị
150
Đặng Thị
151
Nguyễn Thị
152
Lê Thị
153
Nguyễn Thị
154
Đặng Thị
155
Võ Thị
156
Lương Thị
157
Lâm Thị
158
Trà Thị
159
Đặng Thị
160
Lý Thị
161
Nguyễn Thị
162
Đặng Thị
163
Nguyễn Thị
164
Nguyễn Thị
165
Nguyễn Thị
166
Võ Thị
167
Nguyễn Thị
168
Dương Thị
169
Nguyễn Thị
170
Trần Thị
Dương
Đổ
Chánh
Chính
Thiếp
Thế
Sắc
Nhị
Cận
Nhạt
Mành
Đối
Lụa
Thạnh
Tứ
Tám
Ba
Hòa
Phương
Thôi
Mười
Bộ
Nghĩa
Thâu
Dứa
Thiệp
He
Giệng
Phát
Bửu
Rang
Phước
Thưa
Hảo
Lúa
Biển
Nhỉ
Sinh
Le
Bén
Tửu
Sâm
Trực
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
506

51.7 Page 507

▲back to top


171
Đặng Thị
172
Võ Thị
173
Nguyễn Thị
174
Nguyễn Thị
175
Lê Thị
176
Huỳnh Thị
177
Nguyễn Thị
178
Lý Thị
179
Phan Thị
180
Nguyễn Thị
181
Huỳnh Thị
182
Võ Thị
183
Lê Thị
184
Lê Thị
185
Trần Thị
186
Đinh Thị
187
Phạm Thị
188
Phạm Thị
189
Phạm Thị
190
Bạch Thị
191
Nguyễn Thị
192
Châu Thị
193
Lê Thị
194
Trần Thị
195
Nguyễn Thị
196
Nguyễn Thị
197
Đặng Thị
198
Đặng Thị
199
Nguyễn Thị
200
Phạm Thị
201
Nguyễn Thị
202
Trần Thị
203
Nguyễn Thị
204
Phan Thị
205
Ngô Thị
206
Lê Thị
207
Lý Thị
208
Ngô Thị
209
Nguyễn Thị
210
Lê Thị
211
Nguyễn Thị
212
Nguyễn Thị
213
Nguyễn Thị
214
Nguyễn Thị
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Quốc
Huyến
Nguyệt
Giang
Ba
Nhỏ
Vĩnh
Ớn
Mười
Trà
Thấy
Thể
Trọng
Tranh
Tỵ
Đầy
Rớt
Bảy
Đời
Chiếm
Ngân
Vở
Như
Định
Vảng
Còn
Thà
Hiển
Thất
Chuộng
Đâu
Thiệt
Quờn
Hạng
Huệ
Ngàn
Bảy
Tươi
Di
Mua
Nhiều
Chơn
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hội
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Hữu
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phú Thạnh
Phước An
507

51.8 Page 508

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
215
Nguyễn Thị
216
Hồ Thị
217
Huỳnh Thị
218
Phan Thị
219
Nguyễn Thị
220
Phạm Thị
221
Nguyễn Thị
222
Bùi Thị
223
Nguyễn Thị
224
Nguyễn Thị
225
Lê Thị
226
Huỳnh Thị
227
Nguyễn Thị
228
Trần Thị
229
Trần Thị
230
Huỳnh Thị
231
Nguyễn Thị
232
Lê Thị
233
Phạm Thị
234
Nguyễn Thị
235
Nguyễn Thị
236
Nguyễn Thị
237
Bùi Thị
238
Lê Thị
239
Phan Thị
240
Trần Thị
241
Trần Thị
242
Lê Thị
243
Nguyễn Thị
244
Nguyễn Thị
245
Nguyễn Thị
246
Nguyễn Thị
247
Nguyễn Thị
248
Nguyễn Thị
249
Lê Thị
250
Nguyễn Thị
251
Phan Thị
252
Trần Thị
253
Đặng Thị
254
Lê Thị
255
Trần Thị
256
Nguyễn Thị
257
Lê Thị
258
Nguyễn Thị
Hoa
Canh
Sớm
Phàn
Bạn
Biền
Hoa
Bay
Nuôi
Hỏi
Quảng
Hầu
Lời
Đường
Lừa
Nhành
Rít
Xinh
Ngọc
Rằng
Út
Nên
Yến
Của
Mười
Chanh
Trinh
Nơi
Huỳnh
Bảy
Ba
Lâu
Nên
Hảo
Sang
Đặng
Kiều
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước An
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Phước Khánh
Vĩnh Thanh
Vĩnh Thanh
Vĩnh Thanh
Vĩnh Thanh
508

51.9 Page 509

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
ĐÓNG GÓP NHIỀU TƯ LIỆU1
Gia đình truyền thống yêu nước, cách mạng; ông sơ là
Nguyễn Ngọc Hớn tham gia kháng chiến chống Pháp đánh
chiếm Biên Hòa, ông nội là Nguyễn Ngọc Sang tham gia
nghĩa quân Trương Định, cha là Nguyễn Sanh Thành cán bộ
01
Nguyễn
Văn
Thông
Quê quán
ở xã Phú
Hữu;
hiện ngụ
tại Biên
Hòa,
Đồng Nai
tiền khởi nghĩa, mẹ là Phan Thị Nho và hai người cô là Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng. Gia đình nhiều người tham gia cách
mạng, tham gia chống Pháp, chống Mỹ, 3 liệt sĩ. Vợ là Mai
Thị Liễu cũng là cán bộ tham gia kháng chiến chống Mỹ, Đại
biểu Quốc hội khóa VI; trong gia đình có 1 Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng, 4 liệt sĩ.
Bản thân tham gia cách mạng từ năm 1945, góp phần vào
nhiều chiến công ở Nhơn Trạch, tham gia cuộc nổi dậy nhà
lao Tân Hiệp 1956, từng là Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch,
Quyền Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, Ủy viên Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBMTTQVN tỉnh, chuyên gia làm
nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng.
Gia đình căn bản, làm nghề hạ bạc lâu đời ở Phước An, mẹ là
Trần Thị Phước, thọ 106 tuổi, mẹ chiến sĩ trong 2 cuộc kháng
chiến; cha là Võ Văn Hợi tham gia công tác kháng Nhật; gia
đình vợ nhiều người tham gia cách mạng.
02
Võ Văn
Ba
(Võ Văn
Lượng)
Ba Doi,
xã Phước
An
Bản thân tham gia Đội Thiếu niên cứu quốc năm 1945, vào
Đảng 1948; trải qua nhiều công tác quan trọng trong hai cuộc
kháng chiến ở Long Thành - Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu, từng là
Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch 1960 - 1961, Ủy viên Thường
vụ Tỉnh ủy Bà Biên (1966 - 1967, Thường vụ Phân khu ủy
Phân khu 4 1968 - 1969, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Đồng
Nai, Bí thư Thành ủy Biên Hòa 1979 - 1981; Huy hiệu 70 năm
tuổi Đảng năm 2018.
Gia đình truyền thống cách mạng, nhiều người thân tham gia
kháng chiến, mẹ là Trần Thị Của - Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
03
Nguyễn
Văn Xuân
Ấp 4, xã
Long Thọ
có 3 con là liệt sĩ.
Bản thân tham gia cách mạng từ trước 1960, được kết nạp
Đảng 1962, thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ ở địa phương, Bí thư
Huyện ủy Nhơn Trạch 1970, Bí thư Huyện ủy Long Thành
1979 - 1984; Huy hiệu 55 tuổi Đảng.
1  Hơn 100 nhân chứng lịch sử đã dự hội nghị, đóng góp ý kiến cho dự thảo Lịch sử Đảng
bộ Nhơn Trạch 1930 - 2015; trong đó có những nhân chứng lịch sử ngoài ý kiến đóng
góp quan trọng, hoạt động của gia đình và bản thân còn là nhân chứng sống có ý
nghĩa chân thực, sinh động.
509

51.10 Page 510

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Gia đình truyền thống cách mạng; vợ là Võ Thị Quyện cũng
04
Phạm
Thanh Lý
Ấp Bà
Trường,
xã Phước
An
tham gia cách mạng, nhiều người thân trong gia đình là liệt sĩ.
Bản thân tham gia cách mạng từ trước năm 1960, khởi đầu
lập công trong công tác nội tuyến với mật danh Chín Nóp,
hoàn tốt mọi nhiệm vụ Đảng giao, từng là Bí thư Huyện ủy
huyện Long Thành 1975 - 1976; Huy hiệu 55 tuổi Đảng.
Gia đình cơ bản, truyền thống cách mạng, mẹ là Nguyễn Thị
Kiển cơ sở cách mạng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, có 3 con trai là liệt sĩ.
Bản thân tham gia cách mạng tháng 10.1945, thoát ly kháng
05
Phan Thị
Chi
Ấp 2, xã
Long Thọ
chiến từ năm 1949, được kết nạp Đảng ngày 3.9.1949, trưởng
thành trong công tác phụ nữ cách mạng, từng trãi qua các
nhiệm vụ: Ủy viên Ban Chấp hành Phụ nữ Long Thành trong
kháng chiến chống Pháp, Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Biên
Hòa, Trưởng Văn phòng Phụ nữ Khu ủy miền Đông; Huy hiệu
70 năm tuổi Đảng năm 2019; hiện đóng góp nhiều cho công
tác giáo dục truyền thống và công tác xã hội ở địa phương.
Gia đình truyền thống yêu nước, cách mạng: Ông sơ Hồ Văn
Tỉnh, ông cố Hồ Văn Thái, ông nội Hồ Văn Tố tham gia Hội
kín/ Thiên Địa hội; cha là Hồ Văn Ba tham gia kháng chiến
chống Pháp; mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị
Mành có 3 người con hy sinh. Gia đình vợ có nhiều người
06
Hồ Minh
Lực
Ấp Xóm tham gia cách mạng, vợ Huỳnh Thị Kim Anh cũng là cán bộ
Hố - xã kháng chiến. Nhiều người thân trong gia đình là liệt sĩ.
Phú Hội Bản thân tham gia cách mạng từ năm 1962, vào Đảng chính
thức 5.7.1966, hoàn thành mọi công tác cách mạng giao, góp
công trong nhiều trận thắng quan trọng. Sau 30.4.1975, tham
gia công tác ở địa phương, từng là Bí thư Đảng ủy xã Phú Hội.
Từ khi nghỉ hưu 2004, cùng gia đình tham gia công tác xã hội
ở địa phương. Huy hiệu 50 tuổi Đảng.
Gia đình truyền thống cách mạng, các anh chị em ruột đều
tham gia kháng chiến (Huỳnh Thị Giác, Huỳnh Thị Thế,
Huỳnh Minh Cường, Huỳnh Thị Phượng, Huỳnh Thế Hùng),
nhiều người thân trong gia đình tham gia kháng chiến hoặc
cơ sở cách mạng, 2 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 6 liệt sĩ, 2
thương binh.
07
Huỳnh
Minh Tấn
Ấp 2, xã
Long Thọ
Bản thân thoát ly tham gia cách mạng năm 1961, vào Đảng
năm 1963, hoàn thành mọi nhiệm vụ Đảng giao, bám trụ
hoạt động ở Nhơn Trạch, từng là Phó Ban Dân vận Huyện ủy
Nhơn Trạch trong kháng chiến chống Mỹ; Bí thư Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh huyện Long Thành, Bí thư Đảng ủy thị trấn
Long Thành, Trưởng phòng Lao động Thương binh và Xã
hội huyện Nhơn Trạch; là Ủy viên Ban Chấp hành Huyện ủy
Long Thành từ năm 1976 đến 1982 (3 nhiệm kỳ); là thương
binh nhiều lần bị thương, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng.
510

52 Pages 511-520

▲back to top


52.1 Page 511

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Sinh năm 1953, tại Bến Sắn, nhà nghèo, được giao nhiệm
Ấp Bến vụ liên lạc từ tuổi chăn trâu, năm 1972 tham gia du kích địa
08
Huỳnh
Văn Bảy
Cam, xã phương, sau đó gia nhập C240, lập công trong nhiều trận
Phước đánh, trong đó có trận Vũng Gấm, bị thương trong trận đánh
Thiền đồn Phước Long; cùng đơn vị C240 đánh chiếm cụm pháo
Bến Sắn ngày 27.4.1975 để đại quân theo đường 17 tiến về
Sài Gòn.
Bí danh là Ba Hảo, sinh 1937 tại Cát Lái, gia đình truyền
thống yêu nước, có cha, chú, bác tham gia Thanh niên Tiền
09
Phạm
Ngọc
Thảo
Ấp Cát
Lái, xã
Phú Hữu
phong và công tác cách mạng tiền khởi nghĩa. Bản thân được
cách mạng giao nhiệm vụ từ nhỏ, năm 1961 tham gia cơ sở
mật, được kết nạp Đảng năm 1961 tại căn cứ Sở Dừa do đồng
chí Phạm Minh chính và Mười Sinh giới thiệu; thực hiện
nhiều nhiệm vụ cán bộ phong trào ở địa bàn các xã Phú Hữu,
Đại Phước, Phước Khánh; năm 1976 đảm nhận nhiệm vụ Bí
thư Chi bộ xã Phước Khánh.
Phạm Văn
10
Đạm
Ấp 3,
xã Phú
Thạnh
Sinh ngày 1.6.1925, tại xã Phú Thạnh, gia đình cơ bản, làm
nông, đội viên tự vệ chiến đấu Thanh niên Tiền phong từ năm
1945, thoát ly vào tự vệ Vệ quốc đoàn 1947, chiến sĩ Đại
đội C, Chi đội 10; được kết nạp Đảng ngày 1.11.1951 (chính
thức 1.5.1962); kinh qua nhiều chức vụ trong nhiều đơn vị bộ
đội trên khắp chiến trường miền Nam; khi Giải phóng miền
Nam là Đảng ủy viên Đoàn 84 K76A; từ 1976 - 1982 Ủy viên
Thường vụ Huyện ủy Long Thành (bao gồm Nhơn Trạch) 2
nhiệm kỳ. Đến năm 1982, nghỉ hưu, tiếp tục tham gia công
tác cựu chiến binh ở địa phương. Huy hiệu 65 tuổi Đảng ngày
3.2.2017 (theo QĐ số 704 QĐ/TU ngày 18.1.2017).
Gia đình truyền thống cách mạng; có cha, chồng và em trai
đều thoát ly tham gia kháng chiến, chồng là liệt sĩ Đoàn Danh
Dự hy sinh năm 1963; em trai là Trần Quyết Thắng cũng là
liệt sĩ.
Bản thân tham gia cách mạng từ năm 1961, ban đầu làm
11
Trần Kim
Thanh
Ấp Giồng
Ông
Đông, xã
Phú Đông
nhiệm vụ Hội phó Phụ nữ xã Phú Hữu; năm 1972 làm tự vệ
mật xã Phú Hữu, được kết nạp Đảng ngày 2.5.1972; bị thương
năm 1963, bị địch bắt giam 1972 (lúc đang có mang); sau khi
được thả, về lại xã Phú Hữu tiếp tục làm công tác phụ nữ, chức
vụ Hội trưởng Hội Phụ nữ xã; sau giải phóng, được đi học bổ
túc văn hóa, từ 1978 đảm nhận nhiệm vụ Thường trực Chi bộ
xã Phú Hữu, đến năm 1979 là Ủy viên UBKT huyện ủy Long
Thành; từ năm 1982 đến năm 1988 là Ủy viên Ban Chấp hành
Huyện ủy Long Thành (2 nhiệm kỳ), Phó Chủ nhiệm UBKT
Huyện ủy, nghỉ hưu từ năm 1991; 48 tuổi Đảng.
511

52.2 Page 512

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sinh năm 1940, tham gia cách mạng năm 1962, công tác
mật ở địa phương; được kết nạp Đảng 26.11.1968, đảng
viên chính thức ngày 26.11.1969; trong khánh chiến chống
12
Nguyễn
Thị Đào
Ấp Long
Hiệu, xã
Long Tân
Mỹ, góp nhiều công sức ở công tác mặt trận, dân vận, phụ
nữ huyện. Sau ngày 30.4.1975, là cán bộ xã Long Tân, đảm
nhiệm chức vụ Bí thư cấp ủy xã từ năm 1977, Ủy viên Ban
chấp hành Huyện ủy Long thành nhiệm kỳ 1979 - 1982; đến
1994 nghỉ hưu. Sau nghỉ hưu, vẫn tham gia nhiều công tác xã
hội ở địa phương.
Gia đình truyền thống, nhà chồng có nhiều người tham gia
cách mạng, chồng là Trương Văn Quí sinh năm 1941 là cán
bộ tham gia nhiều hoạt động kháng chiến chống Mỹ ở địa
phương.
Bản thân tham gia cách mạng từ năm 1964, bắt đầu với nhiệm
13
Nguyễn
Thị Liên
Khu phố
1, thị
trấn Hiệp
Phước
vụ du kích xã Phú Hội; được kết nạp Đảng ngày 20.12.1968;
9 tháng sau được công nhận đảng viên chính thức; đã tham
gia nhiều trận đánh, có trận dẫn đường cho C240 đánh thắng
trận Cầu Sắt; từng bị thương trong chiến đấu; đến năm 1968
nhận nhiệm vụ Xã đội phó xã Phú Hội; năm 1975 được phân
công Hội phó Hội Phụ nữ Nhơn Trạch; sau đó Phó Phòng
Giáo dục huyện Nhơn Trạch; từ năm 1994 làm Bí thư Đảng
bộ xã Hiệp Phước cho đến khi nghỉ hưu năm 2000; là Ủy viên
Ban Chấp hành Huyện ủy Long Thành nhiệm kỳ 1986 - 1988,
Huy hiệu 50 tuổi Đảng năm 2019.
Bí danh Ba Tâm, sinh năm 1941 trong gia đình truyền thống
cách mạng, cha là Lê Văn Ba thanh gia Thanh niên Tiền
phong, Ủy ban Hành chính kháng chiến xã. Bản thân tham gia
Ấp Phước cách mạng năm 1960, nhiệm vụ đầu tiên là chiến sĩ quân giải
Lê Văn Lý, xã phóng ấp Phước Lý, được kết nạp Đảng ngày 24.3.1972 do
14 Trọng
Đại đồng chí Dương Văn Tài và Phạm Ngọc Thảo giới thiệu; ba
Phước tháng sau là Bí thư Chi bộ ấp. Trong kháng chiến chống Mỹ,
tham gia nhiều công tác, nhiều lần thoát hiểm; sau 30.4.1975,
Bí thư Chi bộ xã Đại Phước 1982 - 1986, Bí thư chi bộ xã Phú
Thạnh 1985 - 1989.
Sinh năm 1940 tại ấp Cát Lái xã Phú Hữu, gia đình cơ bản,
cha mẹ làm ruộng, cơ sở cách mạng; có anh và hai em em trai
đều tham gia cách mạng. Bản thân tham gia du kích xã Phú
Ấp Thanh Hữu từ trước1961, được kết nạp vào Đảng 10.10.1961 (chính
Đặng Văn Minh, thức tháng 10.1962), chiến sĩ C240, tham gia nhiều trận đánh,
15
Thì
xã Vĩnh bị thương, bị địch bắt năm 1972, bị giam tại Phú Quốc, trao
Thanh trả 1973; tiếp tục công tác tại tỉnh đội Biên Hòa rồi huyện đội
Nhơn Trạch, năm 1976 là Bí thư Chi bộ xã Vĩnh Thanh; là
Huyện ủy viên huyện Long Thành 2 nhiệm kỳ (1977 - 1978
và 1979 - 1982).
512

52.3 Page 513

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA CƯ DÂN NHƠN TRẠCH
Lễ thức và tập quán trong một vòng đời người: Người
Nhơn Trạch chú trọng đến việc sinh, dưỡng, giáo, thọ, hôn, tang
của con người trong cộng đồng bằng tri thức dân gian nên truyền
đời thực hành các lễ thức và tập quán theo phong tục của người
Việt cả nước.
Vòng đời người được tính từ khi “đậu thai” trong bụng mẹ
cho đến khi “mãn tang”. Việc sinh dưỡng được chú tâm hàng
đầu. Bắt đầu là chuyện “dưỡng thai” với nhiều kiêng giữ trong ăn
uống, cử động, giao tiếp. Việc sinh nở quan trọng hơn. Giai đoạn
“dưỡng thai” gắn với mẹ ruột, mẹ chồng, việc sinh nở gắn với vai
trò của các “bà mụ”. Mỗi làng thường có một bà mụ (mụ vườn) lo
việc sinh đẻ cho cộng đồng; mụ thường được học tập kinh nghiệm
ở các mụ tiền bối và tự tích lũy thêm kinh nghiệm, biết đỡ đẻ,
làm thuốc và cúng bái. Có những mụ giàu kinh nghiệm (như mụ
Hồng ở Phước Thiền) nắn sửa được thai, đoán định chính xác cả
giới tính của thai nhi. Sinh con đầu lòng thường ở nhà mẹ ruột, lần
sinh thứ hai mới ở nhà chồng “con so nhà mạ, con rạ nhà chồng”.
Nhiều thao tác, lễ thức liên quan đến việc sinh nở: Cắt rốn bằng
miểng sành hoặc tre nứa, chôn nhau thầm kín tại vườn nhà; lễ móc
miếng sau sinh ba ngày; sản phụ “ở cử”, nằm lửa buồng kín; đặt
đoạn củi tắt lửa trước sân và treo xương rồng trước hiên nhà; lễ
cúng mụ khi bé đầy tháng; lễ thôi nôi (có tục thử nghề) khi đầy
năm; ngừa trẻ bệnh có tục đeo niệc (bùa); trẻ khó nuôi có tục “gởi
nuôi”, trẻ bị hoảng sợ có tục hú vía, trẻ tròn 12 tuổi có cúng lễ tròn
con giáp. Sau lễ tròn giáp mới an tâm xem bé “ở lại với gia đình”,
hàng năm có thể cúng sao giải hạn.
Do tri thức khoa học phát triển, hiện nay danh mục những
điều kiêng giữ và những lễ cầu cúng trong việc sinh dưỡng trẻ
513

52.4 Page 514

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
ngày càng thu gọn theo hướng lược bỏ những điều lạc hậu, nặng
về mê tín đồng thời vận dụng kinh nghiệm dân gian trong kho tàng
tri thức y học của nhân dân.
Việc hôn nhân: Quan niệm về hôn nhân không khe khắt, chỉ
những nhà gia thế mới tính chuyện môn đương (đăng) hộ đối, còn
lại số đông trong dân dã vốn ít phân biệt giàu - nghèo, chủ - tớ,
sang - hèn. Việc tìm hiểu giữa trai gái cũng được tự do, phóng
khoáng; ít bị ràng buộc phải tìm hiểu người cùng làng. Làng Việt
ở Nhơn Trạch có cơ cấu mở, thường gồm nhiều họ, đa nguồn gốc,
nhiều người làng khác đến phụ canh. Thanh niên nam nữ được dịp
giao tiếp rộng cho nên việc tìm hiểu cũng trong mối quan hệ rộng
và trong vòng kiểm soát nới lỏng của gia đình. Tục xưa, người
Nhơn Trạch theo tập tục Trung Hoa, thực hiện đủ sáu lễ: Nạp thái,
vấn danh, nạp kiết, nạp tệ, thỉnh kì, thân nghinh. Theo thời gian,
các lễ thức cưới xin phức tạp giảm dần; còn chú trọng lễ: Lễ hỏi, lễ
rước dâu, lễ lại mặt, có nơi thêm lễ thăm nhà, còn gọi là lễ chạm
ngõ trước lễ hỏi. Lễ cưới theo tục xưa được họ hàng, làng xóm
cùng chăm lo. Trai lo việc dựng cổng, trang trí bàn ghế, gái lo việc
làm bánh, bếp núc. Chăm lo phụ giúp cho lễ cưới là niềm vui và
trách nhiệm của cộng đồng. Đôi vợ chồng mới cưới được chăm
lo cảm thấy hãnh diện, ấm cúng và có trách nhiệm với nhau hơn
trong cuộc sống, vậy nên ít ly hôn.
Việc tang: Người Nhơn Trạch quan niệm chết không phải là
hết, còn được gia đình và cộng đồng chăm lo chu đáo nên bình
thản đón nhận cái chết, có khi chuẩn bị sẵn cổ sự (quan tài) và kim
tỉnh (huyệt mộ). Việc tăng được thực hiên căn bản theo sách “Thọ
mai gia lễ” gốc của Trung Hoa có cải biến đôi chút theo quan niệm
địa phương. Nhiều thao tác lễ tục trong việc tang: Hú vía người
vừa tắt nghỉ; mộc dục (tắm rửa); phạn hàm (bỏ ba hạt gạo hoặc
đồng xu vào miệng người chết); đặt một nải chuối xanh (chuối sứ)
514

52.5 Page 515

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
trên bụng người chết để hút tà khí; nhốt mèo chó để phòng hiện
tượng quĩ nhập tràng; coi thầy chọn ngày giờ để tẩm liệm, thành
phục, di quan an táng; tẩm liệm (có thể tiểu liệm hoặc đại liệm); Lễ
thành phục (nhiều nghi thức về tang phục, tụng kinh, cúng cơm);
lễ phúng điếu (nhiều qui ước về bái lạy lễ vật của họ hàng, làng
xóm, hội đoàn, sui gia); lễ động quan (nhiều nghi thức về tụng
kinh, di quan, hoạt động của đạo tì;lễ an táng (tại huyệt mộ). Có
gia đình còn tổ chức nhạc lễ, kèn đồng, đờn đờn ca tài tử tại tang
lễ, “đánh động phá hoàng” khi di quan. Sau an táng 3 ngày là lễ
mở cửa mả tại mộ; tiếp theo gia đình Phật tử có lễ cúng thất (còn
gọi là làm tuần, tụng kinh 7 ngày một lần, lần cuối là chung thất);
Sau lễ chung thất, gia chủ vẫn phải cúng cơm ngày hai bữa cho
đến lễ 100 ngày, gọi là lễ tốt khốc; đúng một năm sau cúng giỗ đầu
gọi là tiểu tường; lần giỗ thứ hai gọi là đại tường, còn gọi là lễ xả
tang; sau đó, người nhà cúng giỗ hàng năm. Người nhà chăm sóc
mộ hàng năm, chạp mã vào cuối tháng Chạp, nhiều người theo tục
người Hoa tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng 3 âl. Tại Nhơn Trạch
xưa, không có tục cải táng. Gần đây, thêm tục hỏa táng, cải táng,
lưu cốt ở nhà chùa với ý nghĩ rằng vong linh người chết sẽ nương
cửa Phật, sớm siêu thoát, được nhang khói ngày đêm.
Người theo tôn giáo khác Phật giáo có nghi thức tang lễ theo
cách riêng nhưng cũng với quan niệm “nghĩa tử là nghĩa tận” nên
tận tình với người mất.
Trong vòng đời người, còn có những tập quán khác, lễ mừng
thọ đối với người cao tuổi, lễ khao đối với người thành đạt, hiển
vinh. Những sinh hoạt như trên thường theo thông lệ chung.
Việc thờ cúng trong nhà: Theo tín ngưỡng người Việt Nam,
gia đình là cộng đồng quan trọng, ngôi nhà không chỉ để ở, còn là
trú sở của tổ tiên và thần linh. Cho nên, việc thờ cúng trong nhà
được xem trọng, có thờ cúng tổ tiên và thờ cúng các thần bản gia.
515

52.6 Page 516

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Căn nhà dù nhỏ vẫn dành nơi trang trọng nhất (gian chính)
thờ ông, bà. Bàn thờ ông bà nếu không còn di ảnh thì thờ bằng
thần chủ (bằng gỗ hoặc giấy ghi danh và thông tin về ngày tháng).
Từ xa xưa, người Nhơn Trạch cũng như người Nam Bộ có tục
“Ngũ đại mai thần chủ” (năm đời thì chôn thần chủ) để hội nhập
vào bảng chung “cửu huyền thất tổ”. Ở Nhơn Trạch, ít thấy có
nhà thờ họ riêng biệt; phổ biến là bàn thờ họ trong nhà từ đường;
không phải là nhà từ đường cũng có bàn thờ ông bà (thờ vọng
hoặc thờ tượng trưng) ở bàn thờ giữa gian chính. Phối thờ với bàn
thờ ông bà là bàn thờ cha mẹ nội, ngoại hoặc những người thân
khác ở hai bên trái, phải.
Cách bày trí bàn thờ không khác mấy so với phong tục phổ
biến, ngày càng có phần đơn giản hơn nhưng không kém vẻ trang
nghiêm. Thường có hai lớp: Lớp trong là bàn giỗ để bày đồ cúng,
lớp ngoài là bàn thờ để bày đồ thờ theo bộ tam sự (3 món: chân
đèn, lư hương, bình bông), hoặc ngũ sự (5 món, gồm: tam sự có
thêm cặp hạc - rùa và hộp trầu), hoặc thất sự (7 món, gồm: ngũ
sự có thêm hai món khác). Tủ thờ, vật thờ bằng gỗ, thường được
chạm cẩn xà cừ tinh xảo, đồ đồng luôn giữ bóng, đồ gốm sứ càng
cổ càng quý giá.
Thờ phụng ông bà không chỉ ở bàn thờ mà còn thể hiện ở
việc bài trí hoành phi, liễn đối, không phải chỉ để trang trí mà
trong đó kết tinh tinh thần, ý chí, truyền thống của ông bà để lại
cho con cháu học tập, làm theo.
Thờ phụng gắn với cúng giỗ, việc thờ càng trang nghiêm,
việc cúng càng trang trọng.
Trong ngày giỗ, nhất là giỗ ông bà nội ngoại; cha mẹ, anh
em, con cháu họp mặt, góp công sức chung lo bữa giỗ. Người
trong họ không đến dự được có thể gửi đồ cúng đến cúng gọi
gửi giỗ. Cũng có thể cúng tại gia cùng lúc với giỗ chính ở từ
516

52.7 Page 517

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
đường gọi là cúng vọng. Đồ cúng tùy theo phong tục của gia đình,
thường đủ các món: Kho, xào, nướng, canh, rau, bánh, trái cây,
giải khát. Thường chuẩn bị ít nhất là 3 mâm cúng: Một mâm cúng
bày ở bàn thờ người được cúng, một mâm bày ở bàn giữa nhà cho
các vị phối hưởng, một mâm đất đai âm Trạch (có nơi gọi đất đai
nhơn trạch) cho những người khuất mặt hữu danh vô vị, hữu vị
vô danh.
Trong nhiều thức cúng, một số gia đình còn giữ tục “luôn
phải cúng một món gì đó” gắn với sở thích hoặc đặc điểm của ông
bà, gọi là cúng lề. Có gia đình cúng khoai mì, rau chạy, cháo cá
ám, ốc luộc vì các món này vốn được ông bà ưa thích hoặc nhờ
nó mà vượt khó khăn. Nhiều khi qua món cúng lề mà họ hàng xa
cách nhận ra nhau.
Thờ cúng ông bà trong gia đình là truyền thống đẹp của cư
dân Việt được thể hiện thống nhất trong cả nước. Cư dân Việt ở
Nhơn Trạch lưu truyền, gìn giữ tục thờ cúng ông bà như gia bảo,
có khuynh hướng đơn sơ, giản tiện hơn nhưng vẫn giữ được ý
nghĩa của nó. Ấy là: Lòng tôn kính, biết ơn, kế thừa công đức tổ
tiên; và sự cảm hóa giáo dục con cháu “uống nước nhớ nguồn”,
“ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Tục thờ cúng ông bà đã kết nối các lớp
cư dân Việt ở Nhơn Trạch với nhau: Lớp trước lớp sau, vùng này
vùng khác, làng này làng nọ, tôn giáo này tôn giáo kia. Các Phật
tử và giáo dân (Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo) đều coi việc
thờ cúng ông bà là phận sự hiển nhiên.
Trong gia đình cư dân Việt ở Nhơn Trạch, ngoài việc thờ
cúng ông bà để nhớ nguồn cội, còn thờ thần độ mạng để được phù
trợ, che chở, như: Quan âm Bồ tát Quan Công, các bà mẹ sanh, mẹ
độ... Ngoài ra, một số gia đình còn thờ các vị thần bản gia gồm:
Ông Địa - Thổ Công, Thần Tài, Táo quân, Ngũ phương Ngũ thổ
long thần, Bàn trời, tổ sư ...
517

52.8 Page 518

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Gia đình theo các tôn giáo khác Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian có cách thờ cúng riêng của tôn giáo mình nhưng việc thờ
phụng ông bà vẫn là điều thiêng liêng.
Việc thờ cúng trong nhà đã trở thành thông tục của người
Biên Hòa - Nhơn Trạch. Người ta nghĩ rằng: mái nhà không chỉ
để ở mà còn là nơi con người giao hòa với ông bà, tổ tiên, trời đất,
thánh thần; nơi ấy con người được che chở, bảo vệ, được truyền
thừa sức mạnh, và ân đức của lớp người trước đem lại cho lớp
người sau. Và cũng ở nơi ấy, con người được vun đắp về nhân
cách nên cần có bổn phận tri ân các bậc ông bà, thánh thần và
sửa mình sống sao cho xứng đáng. Bởi vậy, việc thờ cúng trong
nhà được xem trọng như việc tạo ra căn nhà.
Tết là lễ tiết quan trọng trong chu kỳ mỗi năm của cư dân
Việt đánh dấu một điều gì đó hệ trọng trong đời sống tinh thần của
công chúng. Người Biên Hòa - Nhơn Trạch lưu tâm đến các Tết
phổ biến: Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung thu. Mỗi
Tết đều có ý nghĩa riêng được người Nhơn Trạch thực hiện chung
như cả tỉnh, cả nước.
Đối với những ngày rằm của Phật tử và người theo đạo ông
bà cũng vậy, Ngoài rằm tháng tám là Tết Trung thu, có ba ngày
rằm quan trọng được thực hiện lễ thức cầu cúng đặc biệt; đó là
rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười.
Vào những ngày rằm tháng giêng, tháng bảy, tháng mười, các
chùa mở hội lễ Phật, cúng cầu siêu, có thể có chay đàn ứng phú.
Ngoài việc dự lễ chùa, người địa phương còn có lễ cúng tại gia,
cúng Phật, vào ngày 15 bằng lễ chay và cúng thí cô hồn vào ngày
16 bằng lễ mặn. Lễ cúng thí thường có bánh cúng, bánh cấp.
Với tục cầu siêu, cúng thí, các lễ cúng rằm của cư dân Việt
Nhơn Trạch thể hiện lòng nhân đạo mang đậm sắc thái dân tộc
518

52.9 Page 519

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
và màu sắc Phật giáo. Chính vì vậy, nó được phổ biến và có sức
sống lâu dài.
Về những tập quán, tín ngưỡng gắn với cộng đồng xã hội:
Con người gắn bó với gia đình, gia đình không thể tách rời cộng
đồng xã hội. Cư dân Việt ở Nhơn Trạch do “tứ chiếng” hợp lại,
gặp cảnh “xứ sở lạ lùng”, “chim kêu vượn hú” càng có nhu cầu
hợp quần, nương tựa, tương trợ nhau trong đời sống; từ đó hình
thành tập quán, tín ngưỡng gắn với cộng đồng xã hội; phổ biến là
những sinh hoạt xoay quanh cái đình, cái miểu.
Đình và lễ hội cúng đình: Ý niệm về “cái đình” được người
Nhơn Trạch mang theo trong tâm tưởng người xa xứ, đến vùng đất
mới được tái hiện trong làng xã nơi cư trú; không thể như nguyên
mẫu ở cố hương, bắt đầu từ cái miểu làng thờ thần hoàng với qui
mô của làng và tài lực của người thời khai phá.
Theo khảo sát chưa đầy đủ, ở Nhơn Trạch có 21 đình được
xem là đình cổ được người dân Nhơn Trạch xây dựng, bảo tồn,
duy trì hoạt động tế lễ1, trong đó có nhiều cổ đình niên đại thế kỷ
XX về trước: Đình Phước Lương (Phú Hữu), đình Phước Khánh,
đình thần ấp Bà Trường (Phước An), đình Ông Mai (Phú Đông),
đình Ông Kèo (ấp Chính Nghĩa), đình Tân Tường (Long Tân),
đình Phú Mỹ I, II (Phú Hội), đình Ông Cọp (Phước Thiền), đình
Cựu An Phú (Phú Thạnh), đình Ông Cọp (ấp 2, Long Thọ) ...
Nhiều đình có sắc thần triều Nguyễn nhưng đã thất lạc trong chiến
tranh.
Đình, miểu, chợ, chùa là trung tâm văn hóa của người địa
phương cho nên thường được xây dựng gần nhau ở khu đông dân
cư, nơi cao ráo, có phong cảnh đẹp, có chòm cổ thụ vừa mát vừa
1  P hiếu Cung cấp thông tin Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch 1930 - 2015, cấp ủy xã
cung cấp, tháng 2.2020
519

52.10 Page 520

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
oai linh. Phần lớn đình cổ gần sông và quay hướng ra sông, đình
trẻ hơn lập ở gần lộ và quay hướng ra lộ; hướng đình không lệ
thuộc theo hướng Nam và kiêng hướng Bắc.
Kiến trúc đình ở Nhơn Trạch thường theo kiểu nhà rường tứ
trụ được chăm chút xây dựng bằng vật liêu tốt, bàn tay thợ khéo và
tấm lòng thành của người địa phương. Do đó mỗi đình có vẻ đẹp
riêng, đậm sắc thái địa phương. đình An Hòa ở Long Thành, đình
Phú Mỹ ở Phú Hội, đình Phước Thiền ở xã Phước Thiền được xem
là những đình sắc nét ở Nhơn Trạch.
Đình cổ thường không có cửa, kiến trúc ba gian hình chữ
tam, gồm chánh điện, nhà khói (nhà làm tiệc) và võ ca (sân khấu
hát tuồng). Bày trí thần điện trong nội thất gồm: Chánh điện
khám thờ Thành Hoàng bổn cảnh, hai bên là Tả ban, Hữu ban;
phía trước là hai dãy các bàn phối thờ chư vị như: Bạch mã Thái
giám, Nhạc sư, Tiên sư... Trước mặt bàn thờ Thành Hoàng là bàn
La Liệt để bày lễ vật cúng; tiếp đó là bàn Hội đồng. Tiếp theo bàn
Hội đồng bàn Chánh bái, hai bên bàn Chánh bái là Tả hữu bồi
tế. Đối diện với chánh điện là Võ ca có mái che nối hoặc không
nối với gian chính; nếu không Võ ca thì cũng là khoảng sân rộng
để có thể dựng rạp hát. Bên trái, bên phải, mặt trước đình thường
bàn thờ thần Nông, thần Hổ, Rái Cá.
Nhà hậu (sau đình) có gian thờ: Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền,
Tiền đại hương chức, Hậu đại hương chức. Liền mái với nhà hậu
là nhà khói dùng làm nơi nấu nướng chuẩn bị cỗ cúng. Bố cục
trong đình cơ bản là giống nhau, nhưng tùy theo các đối tượng thờ
cúng trong đình mà các bàn cúng thờ vị này hay vị kia.
Lễ Kỳ yên là lễ chính của đình gọi là lễ vía thần, nhưng thực
là lễ hội nông nghiệp để cầu an: Cầu cho quốc thái dân an, phong
điều võ thuận. Mỗi đình định ngày cúng Kỳ yên riêng, phổ biến là
520

53 Pages 521-530

▲back to top


53.1 Page 521

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
trong 3 tháng đầu năm hoặc 3 tháng cuối năm âm lịch. Nghi thức
cúng lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ tuân theo điển lệ của triều
đình nên trình tự cúng tế của các đình căn bản giống nhau, có thể
khác ở vài tiểu tiết. Lễ hội thường diễn ra trong 3 ngày, gồm có 3
lễ chính: Túc Yết, Đàn cả (Đoàn cả), Tiền hiền - Hậu hiền. Những
nghi lễ khác như: Rước sắc thần, Xây chầu- đại bội, Đưa khách
(Tống phong) là những lễ thức phụng sự trong 3 lễ chính.
Lễ hội cúng đình ở Nhơn Trạch xưa thường có Lễ xây chầu
- đại bội - hát tuồng được thực hiện sau lễ Đàn cả, theo lịch lễ
hằng năm hoặc đáo lệ vài ba năm một lần. Nghi thức các lễ xây
chầu - đại bội - hát tuồng liên thông nối tiếp nhau, trình diễn ở võ
ca (sân khấu đình). Thực chất của lễ xây chầu là nghi thức đánh
trống “Khai thông thái cực”; tiếng trống tượng trưng cho tiếng
sấm, thể hiện niềm vui, nỗi mong “mưa thuận gió hòa” của cư
dân nông nghiệp.
Khi tiếng trống xây chầu dứt, bắt đầu lễ Đại bội, tiếp tục hình
tượng hóa sự biến dịch theo quan niệm thái cực sinh lưỡng nghi,
tam tài, tứ tượng, ngũ hành, bát quái qua diễn xuất của các diễn
viên hát bội. Lời hát và vũ điệu của diễn viên khuôn phép, mang
ý nghĩa nghi lễ. Đại bội gồm các tiết mục diễn múa nghi thức theo
trình tự như sau:1. Khai thiên thông địa (một người múa); 2. Xang
nhật nguyệt (Hai diễn viên, nam - nữ, tương trưng nhật - nguyệt,
âm dương). 3.Tam tài (Còn gọi là Tam đa, 3 ông Phúc - Lộc - Thọ
tượng trưng cho Thiên -Địa - Nhân); 4. Tứ Thiên vương (4 ông,
tứ phương: Đông, Tây, Nam, Bắc); 5. Đứng cái (5 diễn viên, ngũ
hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ, hành chủ là Thổ, trang phục màu
vàng). 6. Bát tiên hiến thọ (8 diễn viên hóa trang thành 8 vị tiên
trong Bát tiên); 7. Lễ gia quan tấn tước (là lễ phụ do một người
đóng vai Linh quan hoặc ông Địa ứng tác chúc mừng, ban chữ).
Nếu chỉ trình diễn một phần trong 7 tiết mục trên gọi là tiểu bội.
521

53.2 Page 522

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Sau Đại bội là tuồng hát bội. Tuồng hát ở đình được chọn
lựa cẩn thận, tránh bi thương, chém giết; tuồng tích thường xoay
quanh chủ đề:”Vua băng - Nịnh tiếm - Bà thứ lên chùa - Chém
nịnh - Định đô - Tôn vương - Tức vị. Tuồng thường được chọn
nhiều nhất là San Hậu.
Lễ Tôn vương tiếp ngay sau cảnh quân vương tức vị của
tuồng hát, thường là tuồng San Hậu được chọn hát đêm cuối để Lễ
Tôn Vương liền sau. Kết thúc lễ tôn vương thường là câu hát:
Tôn vương tức vị
Nối dõi tiên hoàng
Chúc thọ tỷ Nam san
Phước như Đông hải
Đáng lưu ý ở Nhơn Trạch có tục thờ Bác Hồ ở đình1. Tượng
ảnh Bác thường được thờ ở bàn Hội đồng hoặc lập bàn thờ Bác ở
chính điện mỗi khi tiến hành cúng Kỳ yên. Đặc biệt, Đình Phú Mỹ
2 (xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch) nổi tiếng với cách thờ Bác Hồ
qua mắt được kẻ địch.
Tương truyền, đình được khởi dựng vào thời Gia Long
(khoảng năm 1802), bằng vật liệu thô sơ; ban đầu, ngôi đình là
ngôi miếu nhỏ ở đất ông Bồn, năm 1832, dựng mới trên gò cao,
nhiều lần trùng tu (vào các năm 1820, 1969, 2000). Đình hiện hữu
có tổng diện tích 7.358m2, kiến trúc chữ tam kiểu nhà vuông, nhiều
cột, có chòm cây cổ thụ; bày trí thờ cúng, tổ chức lễ hội xuân thu
nhị kỳ như bao đình cổ khác. Hàng năm đình Phú Mỹ diễn ra lễ kỳ
yên vào các ngày 15 và 16.11 (âm lịch) theo niên lệ cổ truyền.
1  Sau năm 2000, còn có tục thờ cúng liệt sĩ trong lễ kỳ yên và giỗ liệt sĩ ngày 27.7, một
số đình xây dựng Nhà Bia Liệt sĩ trong khuôn viên đình
522

53.3 Page 523

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Được tin Bác Hồ mất, quân dân Nhơn Trạch đau buồn,
thương tiếc Bác, nghĩ cách thờ phụng Bác trong vòng vây địch.
Tháng 10. 1969, các bô lão Chín Xuân, Tám Liệp chủ trì bàn cách
thờ hương linh của Bác ở đình làng. Sáng kiến của thầy thuốc
thâm nho Chín Phương được thực hiện: Chọn và rút từ cổ văn ba
câu chữ Hán, trân trọng khắc lên ba bức hoành phi sơn son thếp
vàng. Ba chữ đầu mỗi câu hợp thành HỒ CHÍ MINH:
Hồ nhiên như thiên
Chí vọng thâm ân
Minh hoài hậu đức
Ba bức hoành phi treo ở ba vị trí khác nhau. Các buổi cúng
lễ, hương chức hội tề đến viếng, đốt nhang, bái lạy nhưng không
nhận ra, chẳng hiểu gì; chỉ lòng dân mới hiểu, đó là tấm lòng kính
yêu tưởng nhớ công ơn Bác Hồ1.
Ngay sau ngày giải phóng, ảnh Bác được rước vào chánh
điện; lễ giỗ Bác trang trọng hàng năm. Sau năm 2000, tượng đồng
Hồ Chí Minh (từ chương trình giọt đồng danh nhân của Hội Sử
học Việt Nam) được đưa vào thở ở chính điện, hội nhập cùng hệ
thống đền thờ Hồ chí Minh ở khắp nơi cả nước.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều
ngôi đình là trú sở của cách mạng, nơi hội họp để bàn việc kháng
chiến, cũng là nơi cung cấp lương thực, thuốc men cho cán bộ du
kích dưới hình thức cúng kiến. Như đình trung An Phú ở ấp 1 xã
Phú Thạnh chẳng hạn, được xây dựng từ năm 1818 thờ thần Thành
hoàng bổn cảnh, thời Tự Đức ngũ niên (năm Đinh Hợi 1852) được
vua ban cho sắc phong cùng đôi lọng có 40 ngù và biển “Hồi tỵ”.
1  Đ ình Phú Mỹ 2 đã được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ
thuật cấp tỉnh (QĐ số 3525/QĐ.UBND ngày 10.10.2005)
523

53.4 Page 524

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Năm 1949, thực dân Pháp lấy khu vực đình để xây dựng đồn,
nên các bô lão và Ban tế tự (Trưởng ban quý tế thời điểm đó là
ông Trần Văn Hương) quyết định di dời định về vị trí hiện nay1.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đình An Phú là
nơi cán bộ kháng chiến hội họp, đồng thời là nơi tiếp tế cho cán
bộ, chiến sĩ cách mạng; dù Đình Trung chỉ cách đồn địch 500m,
nhưng cán bộ cách mạng thường xuyên về hoạt động, như các
đồng chí: Bùi Văn Hoằng, Nguyễn Văn Cậy, Hồ Văn Sanh. Ban tế
tự đình thường lấy cớ cúng Thần Nông (bàn thờ ở phía trước sân
đình), đặt thức ăn nơi ban thờ thần, dùng ám hiệu hẹn các cán bộ,
du kích xã đến lấy mà bọn địch không hề nghi ngờ gì.
Miểu và lễ hội cúng Bà: Ở Nhơn Trạch, miểu đa dạng và số
lượng nhiều hơn đình. Xét về hình thức, miểu ở Nhơn Trạch có
mấy dạng chính: Miểu độc lập ở làng xã; miểu nhỏ ở khuôn viên
đình, chùa; miểu ở đất vườn; thổ chủ ở ven sông ven đường.
Qua phiếu khảo sát2, ở Nhơn Trạch có 52 miểu độc lập trên
địa bàn cả 12 xã, xã có nhiều miểu cổ nhất là xã Phước An (7 miểu)
và xã Phước Khánh (7 miểu);nhiều cổ miếu hình thành sớm, gắn
với tên đất tên làng từ thời mới khai phá: Miểu Chòm Dầu, miểu
Chùm Dừa, miểu Vàm Ô, miểu Cù Lao (xã Đại Phước); Miểu Bà
Sở Dừa, miểu Bà Ông thuộc, miểu Chà Là (xã Phước Khánh),
miểu Bà Ngũ Hành Ấp Cát Lái, miểu Bà Cố ấp Rạch Bảy (xã Phú
Hữu); miểu Bà Trường, miểu Bà đồng Ông Trúc, miểu Bà Ba Doi
(xã Phước An), miếu Rạch Miểu, miếu Ông Mai (xã Phú Đông),
miểu Bà Hổ, miểu Bà Vàm Môn (xã Long Tân); miểu Ông Thiện,
miểu Cái Vạn (xã Long Thọ). Đặc biệt, ở xã Phú Hội có miểu
Giang Lò, còn gọi tên là miểu Thiên địa hội vốn xưa là cơ sở của
1  Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Tám, Trưởng ban tế tự đình
2  P hiếu Cung cấp thông tin Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch 1930 - 2015, cấp ủy xã
cung cấp, tháng 2.2020
524

53.5 Page 525

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Hội kín/Thiên địa hội, nay đã biến đổi thành miểu Bà, vẫn còn bàn
thờ có tên 22 vị tiền bối Hội kín còn rõ lai lịch ở địa phương.
Đình thờ Ông, miểu thờ Bà. Tục thờ Bà ở miểu gắn liền với
tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt cả nước; phổ biến nhất là
thờ: Bà Ngũ Hành, Bà Âu Cơ, Bà Chúa Xứ, Bà Thủy Long, Bà
Cửu Thiên Huyền Nữ, thi thoảng có thờ nhiều Bà khác. Cũng có
miểu thờ sơn quân (thờ Hổ) như miểu Ông Hổ (còn gọi là miểu
Đôi) ở ấp 3 xã Phú Thạnh. Miểu được xây dựng năm 1928, khuôn
viên rộng 640m2, 2 gian, gian thờ Bạch Hổ có một gò mối rất lớn
đùn kín cả gian thờ, dân địa phương cho đó là điều thiêng, điềm
may. Tương truyền, trước đây có con cọp trắng to lớn, thường về
khu vực này vào ngày mùng 3 hàng tháng, vì vậy người dân lập
miểu thờ, lệ cúng vào ngày mùng 3 tết.
Điện thờ bài trí hết sức đơn giản, chính điện thường là thờ
tranh tượng hoặc biểu trưng Hán tự nền đỏ chữ vàng; hiện vật gồm
bát nhang, bình bông, chén nước, chân đèn; những ngày cúng có
nước trong, bông tươi, nhang thơm, đèn sáng; nhiều nơi vật thờ
còn có thêm: gương, lược, trâm cài, quạt và một vài món trang sức
khác của nữ giới. Phối thờ có Tả ban, Hữu ban; Nhị vị công tử,
Nhị vị công nương, Cậu Chài, Cậu Quới. Vì là thờ nữ thần, cho
nên án thờ dù nhỏ vẫn thường được trang hoàng sặc sỡ, có lộng
che, rèm phủ. Liễn đối xuất hiện nhiều nhất ở miểu Bà:
Vạn cổ đào hoa chiêu Thánh nữ
Thiên thu vân tập hội Thần tiên.
Lễ hội cúng Bà ở mỗi Miểu một khác, tùy vào ngày vía của
mỗi Bà. Có nơi cúng thường niên như nhau, có nơi đáo lệ 2, 3 năm
một lần. Lễ cúng Vía Bà thường vào ban đêm (thuộc âm), trong 3
tháng Âm lịch đầu năm. Sau nghi thức cầu cúng dâng lễ đơn giản,
tục xưa thường có Hát bóng rỗi, Chặp Địa - Nàng. Hát bóng rỗi,
525

53.6 Page 526

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Chặp Địa -Nàng là diễn xướng dân gian vừa mang tính nghi lễ (để
cúng) vừa để giải trí, vui chơi trong lễ hội. Đó là hình thức diễn
xướng tổng hợp, gồm nhiều tiết mục liên hoàn. Thông thường mỗi
chương trình cúng miểu Bà gồm các tiết mục: 1. Khai tràng, 2.
Chầu mời - thỉnh tổ, 3. Chặp Địa - Nàng, 4. Hát bóng rỗi.
Trong bóng rỗi, các tiết mục tạp kỹ đem đến người xem
nhiều cảm xúc nhất bởi kỹ thuật khéo léo, phi thường với tài nghệ
như xiếc: Múa ghế, múa khạp da bò, múa bông huệ, múa xe đạp,
múa dao, múa xoay đĩa, rót rượu bằng đầu... Một thời, Bóng Rỗi
bị mai một vì chiến tranh, vì cách hiểu mơ hồ về mê tín; nay đã
được phục hồi ở một số nơi.
Ngoài lễ hội cúng đình, cúng miểu, vào dịp xuân sau Tết
Nguyên Đán, một số nơi ở Nhơn Trạch còn tổ chức hội vui chung
của làng như đua ghe, bơi bắt vịt, múa lân. Các đội lân, ghe của xã
Phước An từng đã giật nhiều giải cao trong các hội thi tỉnh Biên
Hòa.
Hệ thống chùa: Người tứ xứ đến Nhơn Trạch mang theo
hình bóng của thần Phật cho nên chùa chiền xuất hiện ở Nhơn
Trạch từ khi mới khai khẩn, nhiều hệ phái, tích hợp với tín ngưỡng
dân gian, là một bộ phận quan trọng trong văn hóa làng xã của
người Nhơn Trạch. Cũng theo phiếu khảo sát (tài liệu đã dẫn),
địa bàn Nhơn Trạch có 21 chùa được xem là chùa cổ, trong đó có
chùa trong dạng tịnh thất, tịnh xá. Nhiều chùa tích cực hoạt động
xã hội gắn với đời sống an sinh ở địa phương: Chùa Pháp Hoa
(xã Đại Phước), chùa Bửu Quang (xã Phước An), chùa Linh Bửu
(Thị Cầu, xã Phú Đông), chùa Long Hương (xã Long Tân), chùa
Phú Quang (xã Phú Hội), chùa Phước Hưng (xã Phước Thiền),
chùa Quang Mỹ (1xã Hiệp Phước), chùa Khánh Vân (xã Phước
Khánh). Chùa cốt là để thờ Phật, nhưng chùa ở Nhơn Trạch còn
tích hợp thực hiện nhiều hoạt động thiện nguyện khác như bốc
526

53.7 Page 527

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
thuốc, dạy học, tập võ. Có ngôi miếu của người Hoa ở xã Hiệp
Phước dù thờ cúng Quan Thánh Đế Quân nhưng cũng được dân
gian quen gọi là chùa Ông.
Phật giáo gắn với dân gian nên nhiều chùa cũng gắn với hoạt
động cách mạng. Tiêu biểu là chùa Khánh Lâm1 ở ấp 1 xã Phú
Thạnh. Chùa Khánh Lâm khai sơn năm 1787, do một sư ông gốc
người Huế ẩn tu, pháp danh là Tịnh Nhãn, húy Tiên Sắc, thuộc
dòng Lâm Tế chính tông đời thứ 37. Vào đời Lâm Tế thứ 39, năm
1904, sư ông Chơn Hạnh, húy Như Khải vận động Phật tử khắp
nơi trùng tu lại chùa. Đây là đợt trùng tu lớn nhất, tạo ra dấu ấn
mới còn lưu giữ được đến ngày nay. Một số Phật tử giàu lòng mộ
đạo, đã phụng cúng 22 cây cột đá (có 8 cột cao đến 4,5m), được
chế tác từ đá xanh Biên Hòa, trên được chạm khắc hoa văn tinh
xảo.
Kiến trúc chùa Khánh Lâm theo lối truyền thống ba gian
hai chái. Điểm nổi bật là hệ thống cột, móng, nền đều làm bằng
đá xanh Biên Hòa, khung vì kèo bằng gỗ được chạm trổ, mái lợp
ngói vảy cá. Nội thất chánh điện trang nghiêm với rất nhiều hoành
phi, liễn đối, bao lam bằng gỗ chạm rồng, mây, dây hoa lá cách
điệu. Tất cả đều được sơn son thếp vàng, tạo nét uy nghi lộng lẫy.
Ngoài bộ cột đá nói trên, các Phật tử còn đóng góp phụng cúng bộ
tượng Phật (hơn 50 tượng) tạc bằng gỗ mít, gỗ mun rất công phu,
giàu giá trị mỹ thuật.
Chùa Khánh Lâm gắn liền với lịch sử khẩn hoang mở đất,
phát triển kinh tế - xã hội của vùng đất Nhơn Trạch.Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhà chùa đều ủng hộ phong trào
cách mạng của nhân dân. Năm 1968, Mỹ bắn pháo trúng ngay sân
chùa Khánh Lâm, may mắn pháo lép không nổ. Cũng trong năm
1  Theo lời kể của Tỳ kheo ni Thích Nữ Tắc Tâm (thế danh Lưu Thị Ba), trụ trì tại chùa Khánh
Lâm, và căn cứ vào các lạc khoản hoành phi, cột đá còn lưu tại chùa.
527

53.8 Page 528

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
này, Hòa thượng Thích Trí Ngộ trụ trì tại chùa Long Hương nuôi
giấu cán bộ, chiến sĩ cách mạng tham gia trận đánh Tết Mậu Thân,
bị quân Mỹ phát hiện và đốt cháy chùa, nên hòa thượng tạm lánh
về chùa Khánh Lâm. Tại đây, hòa thượng vẫn tiếp tục tiếp tế, ủng
hộ cho cách mạng. Hòa thượng Thích Trí Ngộ có một người con
trai tham gia kháng chiến chống Mỹ, hy sinh và đã được công
nhận liệt sĩ.
Nhà thờ: Có một bộ phận người Nhơn Trạch theo đạo Công
giáo nên một số làng xã ở Nhơn Trạch cũng có giáo xứ, nhà thờ
gắn với đời sống văn hóa ở địa phương. Có 13 nhà thờ tại các giáo
xứ ở Đại Phước, Phú Đông; Phú Hội, Phước Khánh, Long Tân;
nhiều nhất là Vĩnh Thanh (8 giáo xứ). Trước năm 18791, một số
giáo dân sinh sống tại Gò Nổng (Phú Hội), 1879 lập Trại đạo Gò
Nổng, sau nâng lên thành giáo xứ với tên gọi Mỹ Hội, khởi công
xây nhà thờ Mỹ Hội 1893. Từ năm 1882, thêm giáo dân từ nơi
khác đến vùng Phước Khánh, hình thành giáo họ Phước Khánh,
nâng lên thành giáo xứ và lập nhà thờ Phước Khánh năm 1887. Ở
Phước Lý, khoảng năm1885, một số gia đình Công giáo từ Bến
Gỗ, Tân Triều, Tân Khánh về vùng đất Phước Khánh làm ăn, ban
đầu dựng lên căn nhà lá nhỏ để đọc kinh cầu nguyện2; giáo họ
Phước Lý được cha xứ ở Mỹ Hội coi sóc, dựng nhà thờ đầu tiên
bằng gỗ lá tại Bầu Chua, năm 1900 xây nhà thờ Phước Lý tại vị
trí ngày nay, giữ nguyên kiến trúc đến giờ. Thế kỷ XIX, dân công
giáo không nhiều, Mỹ Hội: hơn 700 hộ, khoảng 3.147 người, tỉ lệ
4,32%; Phước Khánh: 598 hộ, 2.347 người, tỉ lệ 14,67%; Phước
Lý: Thời điểm 1935, 131 hộ, 1.000 người, tỉ lệ 13,1%. Sau nhiều
đợt chuyển cư từ nơi khác đến, dần hình thành một số giáo họ,
giáo xứ ở Vĩnh Thanh. Năm 1955, chính Quyền Ngô Đình Diệm
1  Theo tài liệu của Giáo phận Xuân Lộc, 2016
2  Theo tài liệu của giáo xứ Phước Lý, 2020
528

53.9 Page 529

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
đưa khoảng 7.000 giáo dân di cư từ miền Bắc, bố trí lập làng ở
Phước Khánh và Vĩnh Thanh, về sau dân công giáo di cư chuyển
dần đến Vĩnh Thanh lập nhiều giáo xứ, ổn định sinh sống ở đây,
khiến xã Vĩnh Thanh có nhiều giáo xứ và đông giáo dân nhất ở
Nhơn Trạch (Năm 2015: 8 giáo xứ, tỉ lệ giáo dân 85%).
Dân có đạo công giáo ở Nhơn Trạch sinh sống ổn định, hài
hòa với tín ngưỡng văn hóa ở địa phương, tốt đời đẹp đạo; trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều giáo dân và chức sắc
công giáo có công đóng góp cho kháng chiến; có người được lưu
danh như linh mục Nguyễn Văn Hầu (tự Hiệu) ở Phước Khánh.
Cơ sở thánh thất của Đạo Cao Đài ở Nhơn Trạch không
nhiều, do người dân Nhơn Trạch theo đạo Cao Đài ít. Tài liệu
khảo sát ở địa phương ghi nhận có 4 thánh thất Cao Đài ở Phước
Khánh, Phú Hữu, Đại Phước, Phú Thạnh. Trong kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ, có hệ phái Cao Đài theo giặc gây nhiều
thiệt hại cho cách mạng và người dân ở Nhơn Trạch, sự việc đã
được ổn định sau chiến tranh.
Môi trường văn hóa làng xã sản sinh con người văn hóa. Ở
Nhơn Trạch, một số người được lưu danh. Người xưa, có bà Trần
Thị Hiển, ở ấp Bến Bạ, nổi danh bậc nữ lưu tài ba mở lớp dạy
chữ Nho tại nhà. Nhà Nho thường giỏi chữ nghĩa lý luận, biết bốc
thuốc kê đơn. Bà được triều đình ban tặng danh hiệu “nữ lưu y
đức” (người đàn bà có đạo đức chữa bệnh cứu người) năm Canh
Thìn (1880) làm rạng danh cho vùng đất quê mùa quanh năm phèn
mặn1.
Ở xã Hiệp Phước hiện còn lưu truyền chuyện kể về danh nhân
Đào Trí Phú. Đào Trí Phú2 hiệu là Giới Tử, sinh tại làng Phước
1  Theo Đất mẹ của Nguyễn Văn Thông, NXB Đồng Nai, 2015
2  Q uốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 3, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam,
Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, 2004, tr.94-95
529

53.10 Page 530

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Kiển, (nay thuộc xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai), không rõ năm sinh, mất năm 1854. Sử liệu triều Nguyễn Đại
Nam thực lục ghi chép sự kiện liên quan đến Đào Trí Phú. Ông
học giỏi, thi đỗ cử nhân năm 1825, làm quan to dưới 3 triều vua
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nhiều công lao, nhiều thăng trầm;
cuối đời bị tai họa bởi sự kiện rối ren triều Tự Đức. Công đức của
Đào Trí Phú được người đời truyền tụng là hai bài văn bia tâm
huyết và tài hoa khắc dựng ở mộ của thân phụ và thân mẫu còn di
tích ở xã Hiệp Phước.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nhơn
Trạch được đầu tư phát triển đồng bộ, kinh tế tăng trưởng, xã hội
tiến bộ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Hệ thống cơ sở văn
hóa và giá trị văn hóa trên dịa bàn huyện được bảo tồn, vun đắp, bổ
sung nhiều công trình mới. Đã điều tra phân loại, phân cấp quản
lý 130 di tích lịch sử văn hóa; trùng tu, tôn tạo nhiều đình miếu,
chùa, nhà thờ; xây dựng thêm nhiều di tích lịch sử văn hóa cách
mạng như: Đền thờ liệt sĩ Nhơn Trạch, Tượng đài Đặc công Rừng
Sác, Địa đạo Nhơn Trạch, Di tích tưởng niệm nạn nhân chiến tranh
Giồng Sắn, Căn cứ Đặc công Rừng Sác; trong đó, 3 di tích được
xếp loại di tích cấp quốc gia là: Địa đạo Nhơn Trạch, Căn cứ Sở
Chỉ huy Đặc khu Quân sự Rừng Sác và Đoàn 10 Đặc công Rừng
Sác và 03 di tích cấp tỉnh là: Đình Phú Mỹ, Đình Phước Thiền,
Chiến thắng của Đại đội 240 Biên Hòa ngày 20.12.1967.
530

54 Pages 531-540

▲back to top


54.1 Page 531

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 13
CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY VỀ KINH TẾ XÃ HỘI,
AN NINH QUỐC PHÒNG1
Từ năm 1996, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt qui hoạch
phát triển Nhơn Trạch thành đô thị mới. Theo đó, đô thị mới Nhơn
Trạch được quy hoạch gồm 8 phân khu chức năng. Trong quá
trình thực hiện qui hoạch, nhiều nội dung đã lập kế hoạch, được
phê duyệt, đang triển khai thực hiện từng bước, như: Qui hoạch
chi tiết phân khu 7 (hoàn chỉnh qui hoạch xây dựng cảng Phước
An) và một phần phân khu 3; triển khai thực hiện các hạng mục
các phân khu 1, 2, 6; điều chỉnh bổ sung phân khu 4, 5 phát triển
khu vực khu công nghiệp và khu vực thị trấn Hiệp Phước; tiếp tục
qui hoạch chi tiết phân khu 8 là khu vực bảo tồn rừng ngập mặn.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy hoạch được Chính phủ phê
duyệt hiện còn rất nhiều khó khăn phải điều chỉnh hoặc phải tập
trung lãnh đạo để đạt mục đích yêu cầu: Tính toán kỹ mật độ xây
dựng, mật độ dân cư; quỹ đất dành cho các công trình công cộng;
đan xen, kết hợp xây dựng các khu thương mại dịch vụ; các tuyến,
nút giao thông, cơ sở hạ tầng cần thiết ...
Để tiếp tục xây dựng, phát triển Nhơn Trạch theo qui hoạch
của Chính phủ, ngày 30.7.2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành
Nghị quyết số 13-NQ/TU về xây dựng thành phố Nhơn Trạch đến
năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Đây là nghị quyết chuyên
đề mang tính đặc thù của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với việc xây dựng
Nhơn Trạch thành thành phố văn minh, hiện đại. Nghị quyết 13
phân tích tình hình, xác định phương hướng, mục tiêu và các giải
1  Theo tài liệu tại hội nghị ngày 14.2.2020 “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU
ngày 30.7.2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng thành phố Nhơn Trạch đến năm
2105 và định hướng đến năm 2020
531

54.2 Page 532

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
pháp để xây dựng và phát triển Nhơn Trạch thành đô thị mới, đề
ra 11 chỉ tiêu chủ yếu.
Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, UBND tỉnh đã có
văn bản giao nhiệm vụ các sở ngành quán triệt và triển khai thực
hiện, thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng thành phố mới Nhơn Trạch
thống nhất chỉ đạo việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã
hội nhằm đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
Huyện ủy Nhơn Trạch xác định triển khai thực hiện Nghị
quyết 13 là nhiệm vụ chính trị quan trọng, hàng đầu, xuyên suốt
nhiều nhiệm kỳ của Đảng bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy đã tổ
chức hội nghị quán triệt trong toàn Đảng bộ, tuyên truyền sâu rộng
trong nhân dân; ban hành chương trình hành động số 70A-CTr/
HU ngày 14.01.20101. Nhiệm kỳ IV (2010 - 2015) Huyện ủy xây
dựng 4 chương trình trọng tâm xây dựng thành phố mới Nhơn
Trạch: Chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; chương
trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; chương
trình bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, ổn định cuộc sống của
người dân; chương trình nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
qui hoạch, quản lý qui hoạch gắn với phát triển các đô thị và đầu
tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Đến nhiệm kỳ V (2015 - 2020), trên cơ
sở đánh giá kết quả thực hiện 4 chương trình nhiệm kỳ IV, Huyện
ủy tiếp tục chỉ đạo xây dựng 3 chương trình mục tiêu trọng điểm:
Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; đẩy mạnh công tác cải cách
hành chính huyện; đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật kinh
tế - xã hội, nhất là hạ tầng đô thị và nông thôn.
1  U BND huyện có Kế hoạch số 09/KH-UBND ngày 29.1.2010 triển khai thực hiện mục
tiêu Nghị quyết 13 và Chương trình hành động số 70A của Huyện ủy
532

54.3 Page 533

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Qua sơ kết đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết, giai đoạn
2010 - 2020 Huyện Nhơn Trạch đạt được những kết quả quan
trọng trên lĩnh vực kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng:
1. Về các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015
Đã đạt 8/11 chỉ tiêu Nghị quyết; còn 3 chỉ tiêu chưa đạt, cụ
thể:
STT
Tên chỉ tiêu
Tốc độ tăng trưởng
1 GDP bình quân hàng
năm
2
Cơ cấu kinh tế
Mục tiêu
(2011 - 2015)
GDP đạt 17%
Tỉ trọng công
nghiệp 51 - 52%,
dịch vụ 42 - 43%,
nông lâm nghiệp
6%
Kết quả
(2011 - 2015)
GDP 17%
Tỉ trọng công
nghiệp 52,3%,
dịch vụ 42,2%,
nông lâm nghiệp
5,5%
Đánh
giá
Đạt
Đạt
3
Qui mô dân số
398.000 người 220.000 người Chưa đạt
4
Số giường bệnh và bác
sĩ/vạn dân
Đến năm 2020:
44,5 giường và 8
bác sĩ
14,2 giường bệnh
và 4,06 bác sĩ
Chưa đạt
5
Tỉ lệ trẻ độ tuổi đi nhà
trẻ
80%
80%
Đạt
6
Sử dụng điện
100%
7 Sử dụng nước máy Năm 2020: 100%
8 Độ che phủ rừng
17%
100%
70,36%
17%
Đạt
Chưa đạt
Đạt
9
Thu gom và xử lý rác
thải
100%
100%
Đạt
10 Xử lý nước thải
11
Chuẩn hóa đội ngũ cán
bộ, công chức các cấp
70%
Hoàn thành
> 70%
Đạt
Hoàn thành
Đạt
533

54.4 Page 534

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
2. Về phát triển kinh tế
Đã hoàn thành quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn
huyện đến năm 2020; xác định rõ các ngành và nhóm sản phẩm
công nghiệp chủ lực; tập trung phát triển và kêu gọi đầu tư vào các
khu công nghiệp cụm công nghiệp. Trên địa bàn huyện hiện có 9
khu công nghiệp tập trung được Chính phủ phê duyệt trung với
tổng diện tích khoảng 3.342 ha (chiếm gần 30% tổng số khu công
nghiệp toàn tỉnh) và một cụm công nghiệp với diện tích 94 ha. Hệ
thống hạ tầng các khu, cụm công nghiệp được quan tâm đầu tư
thu hút 498 dự án; trong đó 293/498 dự án đi vào hoạt động, giải
quyết việc làm cho hơn 110.000 lao động, mức lương trung bình
của công nhân khoảng 6,5-8,5 triệu đồng/người/tháng; thu hút vốn
đầu tư nước ngoài đăng ký 11.256 tỳ USD với 398 dự án.
Trong phát triển công nghiệp, huyện đã chú trọng chuyển
sang thu hút đầu tư các dự án có qui mô vốn lớn, công nghệ cao,
công nghiệp hỗ trợ; giảm dần các ngành gia công, sử dụng nhiều
lao động. Qua đó, đã góp phần phát triển và chuyển dịch mạnh mẽ
cơ cấu ngành công nghiệp, tạo tiền đề đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa theo mục tiêu Nghị quyết
13.
Các loại hình thương mại dịch vụ có bước phát triển cả về số
lượng và chất lượng, đa dạng loại hình hoạt động. Các loại hình
doanh nghiệp, HTX được khuyến khích phát triển, hệ thống chợ
được đầu tư xây dựng, xây mới 7 chợ ở các xã (nâng lên tổng số13
chợ ở 12 xã). Trong qui hoạch, dự kiến phát triển thêm 2 trung tâm
thương mại, 9 siêu thị.
Dịch vụ phục vụ khu công nghiệp (như các dịch vụ cung cấp
suất ăn công nghiệp, xe đưa rước, nhà ở công nhân, đào tạo, công
nghệ thông tin) được tạo điều kiện tốt để triển khai, đáp ứng nhu
534

54.5 Page 535

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
cầu phát triển của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp
và phục vụ đời sống công nhân. Các chủ đầu tư đang lập thủ tục
xây dựng các cảng tổng hợp, kho và cảng chuyên dùng xăng đầu
trong Quy hoạch Cụm cảng biển nhóm 5 và các khu dịch vụ hậu
cần, logistic phục vụ cho các hoạt động cảng biển trên địa bàn. Đã
có 03 dự án kho và cảng chuyên dùng xăng dầu đi vào hoạt động,
đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách.
Hoạt động du lịch phát triển cả về quy mô và đa dạng về
hình thức hoạt động; đã huy động xã hội hóa đầu tư các khu du
lịch sinh thái: Khu du lịch Ông Kèo; cù lao Ông Cồn; khu du lịch
Tre Việt; sân golf (95 ha); và 4 dự án khác đang chuẩn bị đầu tư.
Hàng năm, các khu du lịch ở Nhơn Trạch thu hút hơn 100.000 lượt
du khách.
Thu ngân sách trên địa bàn mỗi năm đều đạt và vượt chỉ tiêu
dự toán năm được giao; đảm bảo phục vụ kịp thời cho hoạt động
quản lý Nhà nước. Huy động và giải ngân vốn đầu tư đạt kết quả
tích cực, tổng vốn đầu tư hơn 9.600 tỉ đồng tăng gần 150% so
với năm 2009 (6.500 tỉ); trong đó, vốn đầu tư từ ngân sách chiếm
3,5%. Hoạt động ngân hàng phát triển mạnh; hệ thống ngân hàng
gồm 6 chi nhánh ngân hàng thương mại, 1 chi nhánh ngân hàng
chính sách xã hội, 2 quĩ tín dụng nhân dân; tất cả đều hoạt động
tốt thông suốt mạch máu tiền tệ trên địa bàn huyện.
Về nông nghiệp, cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch
đúng hướng; công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi được
tập trung chỉ đạo, thực hiện hiệu quả; việc ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong nông nghiệp có dấu hiệu chuyển biến tích cực;
giá trị sản phẩm trên mỗi ha tăng nhanh (năm 2015 đạt 115,3 triệu/
ha, tăng 1,8 lần so với 62 triệu của năm 2011). Nông thôn đổi mới
về hạ tầng, sản xuất và mức sống của người dân; đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được cải thiện, tăng thu nhập và điều
535

54.6 Page 536

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
kiện sinh hoạt; hệ thống thủy lợi được đầu tư, hình thành vùng
nuôi trồng thủy sản tập trung; từng bước chuyển dịch nông nghiệp
nông thôn sang nông nghiệp đô thị theo hướng công nghiệp, hiện
đại. Vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung ở khu vực Ông
Kèo (gồm 3 xã Phước Khánh, Đại Phước, Phú Hữu) chuyên canh
cây mía, tuy thu nhập chưa cao, nhưng thành công về mô hình sản
xuất hứa hẹn sẽ phát triển tốt nếu chọn được cây trồng phù hợp
hơn.
Trong định hướng phát triển nông nghiệp đô thị, Huyện ủy
tập trung lãnh đạo, vận động xây dựng chuỗi liên kết giá trị sản
xuất nông nghiệp từ sản xuất đến tiêu dùng; chuỗi liên kết của
công ty NFC đối với các loại rau gia vị và chuỗi liên kết của công
ty Lương Gia đối với một số cây ăn quả (đu đủ, xoài, mít, thanh
long) được xem là 2 chuỗi liên kết phù hợp mô hình sản xuất nông
nghiệp theo mục tiêu Nghị quyết 13.
Trong chăn nuôi, trên địa bàn huyện có 1.076 hộ với tổng
đàn 103.084 con, gồm đủ gia cầm, gia súc (nhiều nhất là gà 36.159
con)1. Huyện ủy chủ trương không phát triển chăn nuôi tập trung,
chọn hình thức chăn nuôi qui mô nhỏ phù hợp địa bàn, không gây
ô nhiễm môi trường, chuyển dần sang chăn nuôi ứng dụng công
nghệ cao. Trong nuôi tròng thủy sản cũng vậy, tổng diện tích 1.092
ha, nhiều nhất là nuôi tôm thâm canh khoảng 217 ha; xuất hiện
mô hình nuôi tôm theo công nghệ CP ở Phước An, Vĩnh Thanh đạt
hiệu quả cao, thu nhập khoảng 4 tỉ đồng/ha/năm.
Phục vụ cho sản xuất và đời sống nông nghiệp, toàn huyện
có 11 công trình thủy lợi được xây đắp, cải tạo đủ năng lực cho
tưới tiêu, phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu. Nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn đảm bảo cho hơn 70% hộ gia đình,
1  Theo số liệu báo cáo của Tỉnh ủy, tháng 4.2020
536

54.7 Page 537

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
hướng đến đạt chỉ tiêu 100% vào năm 2020. Rừng trên địa bàn
huyện được bảo vệ, độ che phủ đạt chỉ tiêu 17%, phấn đấu đạt
20% vào năm 2020 theo chỉ tiêu Nghị quyết. Lâm phận trên địa
bàn ổn định, không xảy ra các vụ vi phạm lớn gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tài nguyên rừng.
3. Công tác quy hoạch phát triển đô thị
Huyện Nhơn Trạch đã được phê duyệt quy hoạch phát triển
thành đô thị loại 2 văn minh hiện đại, theo các tiêu chuẩn của Bộ
Xây dựng. theo qui hoạch, hạ tầng kỹ thuật và hạ tâng dân sinh
được qui hoạch đồng bộ, hiện đại kết nối nội vùng và ngoại vùng,
đáp ứng yêu cầu phát triển từng bước và lâu dài.
Về giao thông, đã hoàn thành các dự án: Nâng cấp mở rộng
đường 769, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành
- Dầu Giây đoạn qua Nhơn Trạch, đường 25B, đường 319 nối dài;
đường ra cảng Phước An; đang phối hợp triển khai các dự án theo
qui hoạch: Cầu đường quận 9 (vành đai 3 đoạn qua Nhơn Trạch),
cầu cảng Phước An, đường liên cảng Cái Mép, đường cao tốc Bến
Lức - Long Thành; đã đưa vào khai thác một số cảng nhóm 5: Cảng
xăng dầu 186, cảng gỗ mảnh Phú Đông, cảng Phước Khánh, cảng
xi măng Công Thanh, cảng xăng dầu Hồng Mộc, cảng Tín Nghĩa,
cảng hóa dầu AP, cảng tổng hợp Phúc Khánh; đang triển khai xây
dựng cảng Vĩnh Hưng, cảng Hóa sinh Vàm Cỏ, cảng chuyên dùng
khu công nghiệp Ông Kèo. Huyện cũng đang triển khai việc nâng
cấp tuyến đê Ông Kèo thành đường giao thông liên cảng.
Về hệ thống cấp nước, hệ thống cấp nước Nhơn Trạch được
đầu tư thành mạng lưới khắp các khu dân cư theo qui hoạch với
tổng công suất 34.100 m3/ngày; hoàn thành lắp đặt 26,534 km
đường ống theo các tuyến đường trục chính qua các địa bàn Phú
Hội, Long Thọ, Phước An, Đại Phước. Đang triển khai các dự án
537

54.8 Page 538

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
tiếp theo để khép kín, phủ khắp hệ thống cấp nước sạch cho toàn
dân trên địa bàn huyện. Hệ thống thoát nước cũng được đầu tư
trọng điểm và lan rộng; đã hoàn thành dự án thoát nước Khu công
nghiệp Nhơn Trạch 6 đến rạch Cái Sình, rạch Bà Ký; xây dựng
và đưa vào sử dụng hệ thống thoát nước mưa và nước bẩn cống
Lò Rèn và các tuyến lộ 25B, 319, 19, đường số 2. Các khu công
nghiệp đều trạm xử lý nước thải đạt chuẩn. 9 khu công nghiệp đều
xây dựng, đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung có
quan trắc tự động với công suất thiết kế 75.000 m3/ngày, thực tế
xử lý nước thải qua hệ thống 39.000 m3/ngày.
Các dự án hạ tầng điện, viễn thông từng bước được đầu tư
đạt chuẩn, phủ khắp, đáp ứng yêu cầu cho sản xuất, sinh hoạt
24/24 cho tất cả các khu công nghiệp, khu dân cư và 100% hộ
dùng điện.
Huyện hoàn thành công tác quy hoạch và xây dựng nông
thôn mới, 12/12 xã đạt chuẩn; năm 2015 tỉnh thẩm định và trình
Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Nhơn Trạch đạt chuẩn xây
dựng nông thôn mới1.
Về nhà ở, đã triển khai 74 dự án khu dân cư; các dự án,
nhất là dự án nhà ở xã hội được chính quyền khuyến khích, hỗ
trợ, tạo điều kiện thuận lợi; xuất hiện một số khu dân cư phù hợp
mục tiêu phát triển: Khu đô thị Long Thọ - Phước An, khu đô thị
Thành Hưng, khu Đông Sài Gòn, khu dân cư Long Tân, khu phố
thương mại chợ Đại Phước, khu phố thương mại chợ Long Thọ,
khu Thăng Long Homes. Các khu chung cư cho công nhân như
của Fosmosa đang được khuyến khích nhân rộng. Các khu tái định
cư phục vụ phát triển hạ tâng đô thị ở Hiệp Phước, Phước Khánh,
Phước Thiền, Long Thọ, Phú Hội đã được qui hoạch, đang được
1  Quyết định số 542/QĐ-TTg ngày 4.4.2016
538

54.9 Page 539

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
triển khai từng bước theo nhịp thực hiện các dự án xây dựng. Nhà
trọ cho thuê tại các xã quanh các khu công nghiệp phát triển tự
phát, dần được quản lý tốt, nâng cao về điều kiện sinh hoạt căn
bản đáp ứng nhu cầu ở của công nhân.
Tải nguyên - môi trường được quản lý, khai thác đúng qui
định. Việc sử dụng đất đai và tài nguyên khoáng sản được thực
hiện theo qui hoạch, kế hoạch cụ thể và qui trình chặt chẽ; đã
được phê duyệt và công bố kế hoạch sử dụng đất hàng năm; đã
hoàn thành việc cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
39.272/39.272 giấy, đạt tỉ lệ 100%. Thường xuyên tuyên truyền và
triển khai chủ trương, quy định về môi trường sâu rộng trong dân,
vận động nhân dân cùng thực hiện; thu gom và xử lý rác thải công
nghiệp đạt chỉ tiêu 100%; tỷ lệ người dân thu gom xử lý rác thải
sinh hoạt là 99%; hàng tháng đều có các đợt vận động ra quân làm
vệ sinh môi trường, trồng và chăm sóc cây xanh (chỉ tiêu 2.500
cây xanh mỗi xã). Để tạo môi trường xanh, các khu công nghiệp,
khu dân cư đều có qui hoạch và thực hiện cây xanh theo chuẩn
đô thị; hành lang cây xanh và công viên cây xanh được qui hoạch
2.700 ha; hai nghĩa trang (một nghĩa trang liệt sĩ, một nghĩa trang
nhân dân ở Long Thọ) đang vận hành cũng theo tiêu chí nhiều cây
xanh gắn với mục tiêu bảo vệ môi trường.
4. Lĩnh vực văn hóa - xã hội
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo bám sát mục tiêu nâng cao
trình độ dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, triển khai
nhiệm vụ đồng bộ, toàn diện, xuyên suốt. Từ năm 2010, huyện
đã đầu tư xây dựng thêm 28 công trình, gồm: 11 công trình cấp
Tiểu học (Long Thọ, Phú Hữu, Phước An, Long Tân, Phước Lai,
Phú Đông, Phú Thạnh, Phủ Hội, Vũih Thạnh, Phước Khánh, Đại
Phước); 10 công trình cấp mầm non (Phước Thiền, Phước An, Phú
539

54.10 Page 540

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đông, Đại Phước, Vĩnh Thanh, Nhơn Thanh, Long Thọ, Phước
Long, Phước Khánh, Phú Thạnh) và 07 công trình cấp THCS
(Phước Khánh, Hiệp Phước, Đại Phước, THCS Vĩnh Thanh,
Phước An, Long Thọ, Long Tân), với tổng kinh phí đầu tư khoảng
gần 500 tỳ đồng. Đến năm 2015, toàn huyện có 17/44 trường đạt
chuẩn quốc gia, các trường khác củng cố hồ sơ để được công nhận
chuẩn quốc gia vào những năm sau. Công tác xã hội hóa giáo dục
được xã hội ủng hộ, nhiều doanh nghiệp, tổ chức, các nhân tập thể
trong và ngoài nước tham gia bằng nhiều hình thức đóng góp xây
sửa trường hoặc hỗ trợ mua trang thiết bị dạy học, góp phần chi 11
xã đạt tiêu chí về trường học.
Công tác chuẩn hóa đội ngũ giáo viên được tập trung thực
hiện tốt, 100% giáo viên đạt chuẩn, trong đó 70% trên chuẩn. Tỉ lệ
học sinh độ tuổi đến lớp đạt trên 95%; riêng tỷ lệ học sinh 6 tuổi
vào lớp 1 hàng năm thực hiện vượt kế hoạch. Huyện Nhơn Trạch
đã phối hợp với Công ty VNPT Đồng Nai xây dựng trung tâm tích
hợp dữ liệu giáo dục triển khai dịch vụ SMS nhắn tin đảm bảo liên
hệ tốt giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
Công tác xóa mù chữ tiếp tục được thực hiện tốt; 100% các
xã có trung tâm học tập cộng đồng; tỷ lệ phổ cập giáo dục cấp
tiểu học và bậc THCS đạt 100% số xã; 11/12 xã đạt chuẩn phổ
cập giáo dục bậc trung học theo chuẩn tạm thời của tinh. Trên địa
bàn huyện có 01 Trường trung cấp kinh tế - kỹ thuật Đồng Nai, 01
trung tâm Giáo dục thường xuyên, đồng thời thỏa thuận địa điểm
cho các đơn vị đầu tư xây dựng các trường đại học, làng đại học.
Sự nghiệp văn hóa và thể thao phục vụ ngày càng tốt hơn
đời sống tinh thần và sức khỏe người dân. Giai đoạn 2011-2015,
huyện đã đầu tư xây dựng 04 công trình nhà văn hóa và khu thể
thao ở xã Hiệp Phước, Phước Khánh, Đại Phước, Phú Hữu; sửa
chữa, nâng cấp: Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao huyện,
540

55 Pages 541-550

▲back to top


55.1 Page 541

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Trung tâm văn hóa thể dục thể thao và học tập cộng đồng xã Phú
Đông; các Nhà văn hóa và khu thể thao ấp tại xã Phú Đông, Phú
Hữu, Phú Hội, Đại Phước; tổng kinh phí thực hiện hơn 32,3 tỷ
đồng. Đến nay, 12 xã đều có Trung tâm Văn hóa, Thể thao và
Học tập cộng đồng đạt chuẩn; 52/52 ấp có nhà văn hỏa đạt 100%.
Trung tâm Văn hóa Thông tin và Thể thao huyện được nâng cấp
tích có hội trường 350 chỗ ngồi, đủ các phòng chức năng; nhà
thi đấu đa năng đạt chuẩn, 02 sân quần vợt và khu vực biểu diễn
ngoài trời thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ,
thể dục thể thao thu hút hàng ngàn lượt người tham gia. Cơ sở vật
chất văn hóa tại các xã, thị trấn, huyện đáp ứng như cầu sinh hoạt
văn hóa và các hoạt động vui chơi, giải trí và thể thao cho trẻ em
và người cao tuổi theo quy định. 11 xã đạt tiêu chí về Cơ sở vật
chất văn hóa. Phục dựng đưa vào hoạt động công trình Di tích lịch
sử địa đạo Nhơn Trạch, hàng năm phục vụ trên 02 vạn lượt khách
tham quan.
5. Chính sách lao động, xã hội, việc làm
Các chính sách về người nghèo, hộ nghèo được tập trung thực
hiện, đạt hiệu quả tốt. Tổ chức cho trên 3.169 lượt hộ hộ nghèo, hộ
cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn với số tiền 64,771 tỉ đồng;
cho vay để phát triển sản xuất kinh doanh 24,8 tỷ đồng; hỗ trợ xây
nhà cho người nghèo 553 căn trị giá 17,3 tỉ đồng; cấp 42.918 thẻ
bảo hiểm y tế; giảm hộ nghèo từ 5,42% năm 2011 còn 0,46% vào
cuối năm 2014. Trong 10 ăm kể từ 2005, giải quyết việc làm cho
54.518 lao động, tỉ lệ lao động có việc làm tăng đều hàng năm.
Mức sống của người lao động không ngừng được cải thiện bởi tiền
được trả công tăng cao và hưởng thụ phúc lợi xã hội.
Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tích cực
triển khai, tuyển sinh và đào tạo 2.116 lao động nông thôn; góp
phần nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo từ 53,1% của năm 2009 lên
541

55.2 Page 542

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
70% năm 2015. Qua kiểm tra đánh giá, 11/12 xã đạt tiêu chí về lao
động và việc làm.
6. Khoa học công nghệ
Xây dựng và đưa vào hoạt động Trung tâm đo kiểm tại
Hiệp Phước, thành lập trạm quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi
trường; đẩy mạnh nghiên cứu triển khai ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ, thực hiện dự án nuôi tôm siêu thâm canh trên địa
bàn huyện, đưa vào thực tế kết quả nghiên cứ đề tài ứng dụng công
nghệ thông minh vào mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng; xây dựng
12 điểm thông tin khoa học công nghệ tại các Trung tâm học tập
cộng đồng ở các xã; thực hiện hệ thống thông tin điều hành của
ủy ban nhân dân huyện; triển khai hệ thống quản lý và điều hành
hoạt động của Trường THCS Long Tân và Vĩnh Thanh; nghiên
cứu ứng dụng khả năng chuyển đổi diện tích nuôi trồng thủy sản
không hiệu quả sang nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) ở khu vực
nước lợ; thí điểm giải pháp tìm kiếm và quản lý phòng trọ thanh
niên công nhân; huyện nghiên cứu mô hình chuyển đổi đất trồng
mía kém hiệu quả sang thâm canh một số loại cây ăn trái ở xã
Phước Khánh; thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008 (TCVN 9001:2008); duy trì hoạt
động 09 trạm cân đối chứng tại các chợ; ứng dụng khoa học công
nghệ hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo
hộ tài sản sở hữu trí tuệ cho 321 đơn vị; 321 đơn vị, tổng số đơn
vị thực hiện hỗ trợ là: 300 đơn vị.
7. Chăm sóc sức khỏe nhân dân
Huy động các nguồn lực đầu tư, phát triển hệ thống khám
chữa bệnh cho nhân dân; nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện; xây
mới 7 trạm y tế xã, sửa mở rộng 6 trạm y tế khác; có 9 trạm y tế
được trang bị gói trang thiết bị đủ bộ máy siêu âm, điện tim, ghế
542

55.3 Page 543

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
nha khoa; nhiều trang thiết bị hiện đại như máy X quang, nội soi,
phẫu thuật ở bệnh viện huyện được đầu tư bằng nguồn xã hội
hóa.
Cùng với hệ thống y tế công lập là 203 cơ sở y dược tư
nhân hoạt động đúng qui định, trong đó có 30 phòng khám chuyên
khoa, 03 phòng khám đa khoa và 02 nhà thuốc. Đội ngũ y bác sĩ,
nhân viên y tế được thu hút, đào tạo, bồi dưỡng theo chuẩn; 12
trạm y tế đều có bác sĩ, số lượng bác sĩ ở huyện chưa đạt chỉ tiêu 8
bác sĩ/vạn dân nhưng đã có tăng so với nhiều năm trước (đạt 4,06
bác sĩ/vạn dân); đang triển khai dự án đầu tư Bệnh viện đa khoa
thành phố Nhơn Trạch tại xã Vĩnh Thanh và bệnh viện đa khoa tại
xã Phú Hội.
8. An ninh - Quốc phòng
An ninh - quốc phòng luôn được giữ vững theo nhiệm vụ của
địa bàn chiến lược vùng trọng điểm Đông Nam Bộ. Lượng lượng
vũ trang trên địa bàn huyện được quan tâm đào tạo, xây dựng theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước trang bị hiện
đại, đảm bảo yêu cầu sẵn sàng chiến đấu; lực lượng dự bị động
viên được đăng ký quản lý chặt chẽ, đúng qui định; lực lượng dân
quân tự vệ đủ số lượng, ngày càng nâng cao chất lượng; đảm bảo
tốt việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Hàng năm đạt
và vượt các chỉ tiêu về tuyển quân; phong trào toàn dân bảo vệ Tổ
quốc được duy trì tốt, nhiều tiến bộ.
Đã triển khai thực hiện 02 đề án (01 02) xây dựng Ban Chi
huy quân sự xã, vững mạnh toàn diện và bảo đảm chế độ chính
sách cho lực lượng dân quân tự vệ; tổ chức diễn tập chiến đấu
phòng thủ và phòng không nhân dân cấp xã đạt yêu cầu; thực hiện
tốt việc bổ sung điều chỉnh kế hoạch B, quyết tâm A và hệ thống
kế hoạch A2, A4 theo chi đạo; đang triển khai dự án “công trinh
543

55.4 Page 544

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
quốc phòng kết hợp sản xuất nông nghiệp trong thời bình” với
diện tích khoảng 150ha; từng bước thực hiện kế hoạch xây dựng
thế trận phòng thủ của huyện giai đoạn 2011-2020; thành lập 03
trung đội dân quân thường trực khu công nghiệp; 18/25 đơn vị tự
vệ trong doanh nghiệp vốn FD1.
Công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn
được thực hiện thường xuyên, nâng cao hiệu lực; khám phá và
làm rõ 378/479 vụ phạm pháp hình sự, truy tố 406 vụ án - 760 bị
can; triệt phá 23 băng, ổ nhóm tội phạm; tiếp 8.014 lượt công dân;
tiếp nhận và giải quyết 95% trong số 2.000 đơn; thực hiện nghiêm
các quy định về phòng, chống tham nhũng; quán triệt, triển khai
Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ đến từng cán bộ, đảng viên
nhằm thực hiện tốt chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn; tổ chức công khai,
minh bạch trong hoạt động của các ngành, lĩnh vực, nhất là trong
lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, đầu tư xây dựng cơ
bản, tài chính ngân sách, mua sắm trang thiết bị; thực hiện nghiêm
chủ trương tiết kiệm, giảm chi hiệu quả, điều hành ngân sách minh
bạch, đúng qui định.
An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo; kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, bức xúc trong xã
hội, tạo được sự đồng thuận trong dân, không để hình thành điểm
nóng, không để kẻ xấu lợi dụng kích động, xuyên tạc. Huyện ủy
chỉ đạo các ngành chức năng chủ động, tinh nhạy trong việc nắm
và xử lý kịp thời tình hình an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an
ninhvăn hóa tư tưởng, thông tin truyền thông; phát huy và gắn kết
trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể
với lực lượng công an làm nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc.
544

55.5 Page 545

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
CHÂN DUNG BÍ THƯ HUYỆN ỦY
HUYỆN LONG THÀNH - NHƠN TRẠCH
(GIAI ĐOẠN 1944 - 1994)
Đ/c TRỊNH VĂN DỤC
(Ba Dục)
(1944-1946)
Đ/c VŨ HỒNG PHÔ
(Sáu Khánh)
(1947-1949), (1954-1958)
Đ/c NGUYỄN TRỌNG CÁT
(Ba Đắc)
(1951-1954)
Đ/c VÕ VĂN LƯỢNG
(Tư Định)
(1960-1961)
545

55.6 Page 546

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đ/c NGUYỄN VĂN THÔNG
(Hai Thông)
(10/1961-1967), (1977-1979)
Đ/c NGUYỄN CÔNG HẠNH
(Ba Hạnh)
(1968-1969)
Đ/c NGUYỄN VĂN XUÂN
(Ba Xuân)
(1970), (1979-1984)
Đ/c PHẠM MINH LÝ
(Chín Lý)
(1975-1976)
546

55.7 Page 547

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đ/c NGUYỄN HẢI
(Tám Hải)
(1982-1985)
Đ/c DƯƠNG MINH NGÀ
(Tư Ngà)
(1986-1994)
547

55.8 Page 548

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
CHÂN DUNG BÍ THƯ HUYỆN ỦY
HUYỆN NHƠN TRẠCH
(GIAI Đ1994 - 2020)
Đ/c LÂM THỊ NGUYỆT
(1994-2005)
Đ/c TRẦN MINH PHÚC
(2006-2009)
Đ/c PHAN THỊ MỸ THANH
(2009-2011)
Đ/c QUÁCH HỮU ĐỨC
(2011-2020)
548

55.9 Page 549

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
549

55.10 Page 550

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ I
(nhiệm kỳ 1996-2000).
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ II
(nhiệm kỳ 2000-2005).
550

56 Pages 551-560

▲back to top


56.1 Page 551

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ III
(nhiệm kỳ 2005-2010).
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ IV
(nhiệm kỳ 2010-2015).
551

56.2 Page 552

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần thứ V
(nhiệm kỳ 2015-2020).
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch nhận bức trướng
của Tỉnh ủy Đồng Nai trao tặng năm 2015.
552

56.3 Page 553

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Chủ tịch nước Trần Đức Lương
thăm, làm việc tại Nhơn Trạch, ngày 3.11.1999.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi sổ lưu niệm
khi viếng thăm Đền thờ liệt sĩ huyện Nhơn Trạch, ngày 13.1.2000.
553

56.4 Page 554

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Thủ tướng Phan Văn Khải
thăm, làm việc tại Nhơn Trạch, ngày 7.2.2000.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng thăm, làm việc tại Nhơn Trạch, ngày 26.2.2000.
554

56.5 Page 555

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
thăm, làm việc tại Nhơn Trạch, ngày 20.4.2003.
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm
viếng Đền thời liệt sĩ huyện Nhơn Trạch, năm 2000.
555

56.6 Page 556

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
trồng cây lưu niệm tại Đền thờ liệt sĩ huyện Nhơn Trạch, năm 2006.
Khánh thành công trình “Đền thờ liệt sĩ huyện Nhơn Trạch”,
ngày 1.9.1999.
556

56.7 Page 557

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Kỷ niệm 25 năm thành lập huyện Nhơn Trạch (1.9.1994 - 2019).
Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Phú Cường
trao huy hiệu 70 tuổi Đảng cho đồng chí Phan Thị Chi, ngày 1.9.2019.
557

56.8 Page 558

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Bản đồ Qui hoạch đô thị Nhơn Trạch đến năm 2030 - tầm nhìn 2050.
558

56.9 Page 559

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Hội nghị nhân chứng lịch sử, ngày 31.8.2017.
Hội nghị nhân chứng lịch sử, ngày 31.8.2017.
559

56.10 Page 560

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đồng chí Quách Hữu Đức, Bí thư Huyện ủy
kết luận Hội nghị nghiệm thu bản thảo ngày 9.6.2020.
Hội nghị nghiệm thu bản thảo, ngày 9.6.2020.
560

57 Pages 561-570

▲back to top


57.1 Page 561

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đồng chí Nguyễn Văn Xuân - Nhân chứng lịch sử, nguyên Bí thư
Huyện ủy Long Thành trao tài liệu viết tay cho Ban Biên soạn,
ngày 23.2.2020 (Nguồn: Ban Biên soạn)
Trao đổi với nhân chứng lịch sử Phan Thị Chi, ngày 23.2.2020
(Nguồn: Ban Biên soạn)
561

57.2 Page 562

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phú Hội, ngày 31.8.2017
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phú Thạnh, ngày 31.8.2017
562

57.3 Page 563

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phú Đông, ngày 31.8.2017
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Đại Phước, ngày 31.8.2017
563

57.4 Page 564

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phú Hữu, ngày 31.8.2017
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phước Khánh, ngày 31.8.2017
564

57.5 Page 565

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Vĩnh Thanh, ngày 31.8.2017
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phước An, ngày 31.8.2017
565

57.6 Page 566

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Long Thọ, ngày 31.8.2017
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Hiệp Phước, ngày 31.8.2017
566

57.7 Page 567

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Hội nghị họp mặt nhân chứng lịch sử xã Phước Thiền, ngày 31.8.2017
Ban Biên soạn làm việc với Đảng uỷ xã Phú Hữu, ngày 14.2.2020
567

57.8 Page 568

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Hội nghị góp ý sơ thảo lịch sử Đảng bộ huyện, ngày 27.2.2020
Đồng chí Phan Thị Chi phát biểu góp ý
(Hội nghị góp ý sơ thảo lịch sử Đảng bộ huyện, ngày 27.2.2020)
568

57.9 Page 569

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Ông Nguyễn Văn Xuân phát biểu góp ý
(Hội nghị góp ý sơ thảo lịch sử Đảng bộ huyện, ngày 27.2.2020)
Đồng chí Huỳnh Minh Tấn phát biểu góp ý
(Hội nghị góp ý sơ thảo lịch sử Đảng bộ huyện, ngày 27.2.2020)
569

57.10 Page 570

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
Đồng chí Lâm Thị Nguyệt - Nguyên Bí thư Huyện ủy phát biểu góp ý
(Hội nghị góp ý sơ thảo lịch sử Đảng bộ huyện, ngày 27.2.2020
PGS.TS. Lâm Nhân, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học
Văn hóa TP. HCM phát biểu góp ý, ngày 27.2.2020
570

58 Pages 571-580

▲back to top


58.1 Page 571

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đồng chí Trần Quang Toại, Phó chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học
và kỹ thuật tỉnh, Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Đồng Nai phát
biểu góp ý, ngày 27.2.2020
ThS Lê Thị Cát Hoa, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh
phát biểu góp ý, ngày 27.2.2020
571

58.2 Page 572

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
PGS.TS Hồ Sơn Đài phản biện khoa học, ngày 9.6.2020
ThS Trần Quang Toại phản biện khoa học, ngày 9.6.2020
572

58.3 Page 573

▲back to top


Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH1
1. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, NXB Đồng Nai,
2018
2. Chiến khu Rừng Sác, Lương Văn Nho, NXB Đồng Nai,
1982
3. Chuyện đời tự kể, Huỳnh Thị Phượng, NXB Đồng Nai,
2011
4. Công báo VNCH, Trung tâm Lưu trữ TW 2
5. Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh, (2 tập), NXB Đồng Nai,
2018
6. Biên Hòa sử lược toàn biên, Tập I, Lương Văn Lựu, NXB
Thế giới, 2016
7. Đất mẹ, Nguyễn Văn Thông, NXB Đồng Nai, 2015
8. Đại Nam nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB
Thanh niên, 2012
9. Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Phạm Đức
Mạnh, NXB Đồng Nai, 2019
10. Địa chí Đồng Nai, 5 tập, NXB Đồng Nai năm 2001
11. Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức, bản dịch Lý
Việt Dũng, NXB Đồng Nai, 2005
12. Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng
Nai 1930 - 1995, (3 tập), NXB Đồng Nai, tập I:1997, tập II: 2000,
tập III: 2007
13. Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930 - 2015), NXB
Đồng Nai 2015
1  Sắp xếp theo A,B,C tên sách, tài liệu.
573

58.4 Page 574

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930 - 2015)
14. Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2010), NXB Đồng
Nai, 2014
15. Lịch sử Đảng bộ xã Bình Sơn (1930 - 2010), NXB Đồng
Nai, 2011
16. Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam, NXB
Lao Động năm 2003
17. Lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Biên niên
sự kiện 1945 - 2015”, năm 2020
18. Một thời Rừng Sác, (2 tập), Lê Bá Ước, NXB Văn hóa
Văn nghệ, 2012
19. Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai, nhiều tập, Nhà Xuất
bản Thống Kê 2018
20. Nhân dân Bình Sơn chống Mỹ cứu nước, Huỳnh Minh
Cường, NXB Đồng Nai, 2008
21. Phủ Biên tạp lục, Lê Quí Đôn, bản dịch của Nguyễn Khắc
Thuần, NXB Giáo dục, 2007
22. Phước An xã anh hùng, tư liệu lịch sử truyền thống,
1985
23. Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa -
Đồng Nai, NXB Đồng Nai, 2012
24. Trai Rừng Sác Phước An, Võ Văn Ba, NXB Đồng Nai,
2012
25. Văn kiện các Đại hội Đảng bộ Long Thành, Nhơn Trạch
26. Văn kiện Đảng, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương
xuất bản, Hà Nội, 1977.
574

58.5 Page 575

▲back to top


Muïc luïc
PHẦN I
TỔNG QUAN
Chương I
NHƠN TRẠCH: VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI,
TRUYỀN THỐNG............................................................................10
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN.........................................................10
II. DI TÍCH TIỀN SỬ................................................................23
III. ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI CƯ DÂN VIỆT.................28
PHẦN II
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
(1930 - 1975)
Chương II
TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH ĐẾN
KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1945..............................60
I. TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẤU TRANH..................60
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG..........76
III. THAM GIA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945...........86
Chương III
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946 - 1954)...........................100
I. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP TÁI CHIẾM............................................100
II. CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN TOÀN
DIỆN........................................................................................ 131

58.6 Page 576

▲back to top


III. ĐẤU TRANH CHỐNG LẤN CHIẾM, GIỮ VỮNG VÀ
MỞ RỘNG ĐỊA BÀN LÀM CHỦ, GÓP PHẦN KẾT THÚC
THẮNG LỢI 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP........148
Chương IV
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954 - 1975).....................................................................................157
I. TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẾN ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ KẾT HỢP ĐẤU TRANH VŨ TRANG..............157
II. BA MŨI GIÁP CÔNG, GÓP PHẦN LÀM THẤT BẠI
ÂM MƯU “ẤP CHIẾN LƯỢC” VÀ CHIẾN TRANH
ĐẶC BIỆT”..............................................................................187
III. ĐÁNH BẠI KẾ HOẠCH TÌM DIỆT VÀ BÌNH ĐỊNH,
CÙNG CẢ NƯỚC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968.......................................................213
IV. BÁM TRỤ, GIỮ VỮNG CÁC PHONG TRÀO BA MŨI
GIÁP CÔNG, THAM GIA CHIẾN DỊCH NGUYỄN HUỆ...229
V. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG THẾ TRẬN, NẮM THỜI CƠ,
THAM GIA TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY,
GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG..................................................263
PHẦN III
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN QUÊ HƯƠNG
(1975 - 2015)
CHƯƠNG V
GIAI ĐOẠN 1975 - 1986
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG,
ỔN ĐỊNH XÃ HỘI, ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN..............................294
I. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ QUÂN QUẢN 1975 - 1976............294
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1976 - 1979........................................300
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1979 - 1986......................................312

58.7 Page 577

▲back to top


CHƯƠNG VI
GIAI ĐOẠN 1986 - 1994
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI,
PHÁT TRIỂN ĐỊA PHƯƠNG. ......................................................328
I. CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
VÀ NHIỆM VỤ ĐỊA PHƯƠNG.............................................328
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1986 - 1991........................................332
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN 1991 - 1994......................................347
CHƯƠNG VII
GIAI ĐOẠN 1994 - 2015
ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐỊA PHƯƠNG THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG............................................360
I. TÁI LẬP HUYỆN NHƠN TRẠCH VÀ CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN...........................................................................360
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH 1994 - 2005.............364
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH 2005 - 2015...........395
PHẦN IV
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Chương VIII
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG ĐẤU TRANH,
XÂY DỰNG......................................................................................434
1. Phát huy lợi thế địa phương.................................................434
2. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nhân dân tin yêu,
đảng viên nêu gương................................................................437
3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thế trận lòng dân...442
4. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ, phục
vụ dân sinh...............................................................................445

58.8 Page 578

▲back to top


5. Kết hợp công tác chính trị, vũ trang, dân vận; phát triển kinh
tế hài hòa với tiến bộ xã hội.....................................................448
6. Tích cực chủ động chuyển hướng lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ, mục tiêu chủ yếu................................................................451
PHỤ LỤC
PHẦN I: TÀI LIỆU THÔNG TIN CƠ BẢN.....................................455
PHẦN II: HÌNH ẢNH.......................................................................545
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH...................................................573
MỤC LỤC.........................................................................................575

58.9 Page 579

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
(1930 - 2015)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Mã ISBN: 978-604-52-9409-3
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GĐ - TBT. BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PGĐ. TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Nguyễn Thị Kim
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Nguyễn Thị Kim
Hoàng Phương
.................................................................................................................
In: 1.000 bản. Khổ: 16 x 24 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Số XNKHXB: 1770 - 2020 / CXBIPH / 1 - 190 / ĐoN, Cục Xuất bản,
In và Phát hành xác nhận ngày: 21/5/2020, Quyết định xuất bản số: 09/
QĐA-ĐoN, do NXB Đồng Nai cấp ngày: 16/7/2020.
In xong và nộp lưu chiểu: quý 3/2020.
.................................................................................................................

58.10 Page 580

▲back to top


Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh - phát hành: 946 521 - 946530
- Email: dongnainxb@gmail.com