LSDB xa Phu Huu

LSDB xa Phu Huu



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LÒCH SÖÛ
ÑANÛ G BOÄ XAÕ PHUÙ HÖÕU
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỮU
LÒCH SÖÛ
ÑAÛNG BOÄ XAÕ PHUÙ HÖÕU
(1930 - 2020)
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Hữu
BAN CHỈ ĐẠO
1. P han Chí Thảo
- Bí thư Đảng ủy,
Trưởng ban.
2. Lê Thị Thanh Hồng
- Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Trưởng ban Thường trực.
3. L ê Thanh Tùng
- Chủ tịch UBND,
Phó Trưởng ban.
4. Võ Thanh Hoàng
- Phó Chủ tịch UBND,
Thành viên.
5. Trần Thái Cường
- Chủ tịch UBMTTQ,
Thành viên.
6. P hạm Huỳnh Thúy Hằng
- Công chức Kế toán,
Thành viên.
7. Nguyễn Thị Lệ Quỳnh
- Công chức VHXH,
Thành viên.
8. Phan Ngọc Hiệp
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh,
Thành viên.
9. N guyễn Thị Tám
- Chủ tịch Hội Phụ nữ,
Thành viên.
10. Dương Thị Thanh Hiền
- Cán bộ VP Đảng ủy,
Thư ký.

1.5 Page 5

▲back to top


BAN BIÊN SOẠN
1. Lê Thị Thanh Hồng
2. Đặng Thị Phương Trâm
3. Phạm Văn Giọt
4. Võ Thanh Hoàng
5. Bùi Văn Khỏe
6. Trần Thái Cường
7. Phan Ngọc Hiệp
8. Trần Quốc Toản
9. Trần Ngọc Tú
10. Nguyễn Trần Thanh
11. Trương Quốc Hùng
12. Lưu Tiến Khoa
13. Nguyễn Thị Lệ Quỳnh
14. Dương Thị Thanh Hiền
15. Lê Quang Cần
16. Phạm Thị Trang
Sự đóng góp ý kiến của các nhân chứng lịch sử đã công tác
tại xã Phú Hữu qua các thời kỳ và Ban Tuyên giáo Huyện ủy
Nhơn Trạch.

1.6 Page 6

▲back to top


1.7 Page 7

▲back to top


Lôøi giôùi thieäu
Phú Hữu tọa lạc trên vùng đất “Nhà Bè nước chảy chia
hai. Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. Năm 1927, hai làng
Phước Lương và Lương Thiện hợp nhất thành làng Phú Hữu1.
Sự định hình, phát triển Phú Hữu góp phần quan trọng mở rộng
không gian sinh tồn các thế hệ lưu dân Việt, các tộc người thiểu
số cùng dân cư tại chỗ của vùng đất Nhơn Trạch trong suốt
chiều dài lịch sử Biên Hòa - Đồng Nai hơn 320 năm qua. Thời
nhà Nguyễn, Phú Hữu thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long
Thành, tỉnh Biên Hòa. Năm 1960, Phú Hữu thuộc quận Nhơn
Trạch, tỉnh Biên Hòa; sau ngày 30-4-1975 Phú Hữu thuộc
huyện Long Thành; từ ngày 1-9-1994 Phú Hữu thuộc huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Với truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam,
người dân Phú Hữu tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược từ những ngày đầu chúng đặt chân lên vùng đất Biên
1  Nguyễn Đình Tư (2017), Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc
(1859-1954), Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.127.
7

1.8 Page 8

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Hòa cuối năm 1861. Sông Đồng Nai trở thành cầu nối gần gũi
giữa Phú Hữu với các địa phương Sài Gòn, Gia Định nên người
dân nơi đây tích cực tham gia các phong trào đấu tranh giải
phóng quê hương.
Trong suốt 45 năm (1930-1975), người dân, chiến sĩ cách
mạng ở Phú Hữu một lòng, một dạ son sắt theo Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Trong giai đoạn
này, người dân Phú Hữu vượt qua mọi hy sinh, mất mát để che
giấu, nuôi dưỡng nhiều cán bộ, tiếp tế bộ đội, nhất là phối hợp,
hỗ trợ chiến đấu cho Quân đoàn 2 tham gia Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử toàn thắng ngày 30-4-1975, góp phần đưa non
sông Việt Nam nối liền một dải.
Bước vào thời kỳ hòa bình, thống nhất đất nước, Đảng bộ
Phú Hữu tập trung lãnh đạo phát huy mọi nguồn lực địa phương
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định
chính trị, xây dựng xã hội mới. Giai đoạn 1975-2020, từ chi
bộ ban đầu, phát triển thành Đảng bộ Phú Hữu đạt được những
thành quả rất quan trọng trên mọi mặt, kinh tế phát triển ổn
định, đời sống vật chất, tinh thần người dân không ngừng tăng
lên, chính trị, quốc phòng - an ninh giữ vững. Thành quả xây
dựng nông thôn mới của Phú Hữu trong thời gian qua giúp cho
đời sống người dân địa phương phát triển về cả vật chất và tinh
thần.
Công trình biên soạn “Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930-
2020)” đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, tình cảm, lòng tri ân
sâu sắc của Ban Chấp hành Đảng bộ xã đối với sự cống hiến,
8

1.9 Page 9

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
hy sinh to lớn của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân; qua
đó, góp phần quan trọng giáo dục truyền thống cách mạng đối
với thế hệ trẻ ở địa phương hôm nay và mai sau, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã Phú Hữu, hội nhập quốc
tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Để thực hiện công trình này, ngoài tài liệu lưu trữ, điền dã,
Ban Biên soạn đã kế thừa tư liệu các công trình đã xuất bản
như “Long Thành những chặng đường lịch sử” do Nhà xuất
bản Đồng Nai ấn hành năm 1988; “Đất mẹ” của Nguyễn Văn
Thông (2015); “Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành (1930-
2015)” xuất bản năm 2015; “Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn
Trạch (1930-2015)” xuất bản năm 2020, “Huyện Nhơn Trạch
anh hùng” xuất bản năm 2020...
Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn công trình này, Đảng
bộ xã Phú Hữu đã nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên
của Ban Thường vụ Huyện ủy và sự giúp đỡ của Ban Tuyên
giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
Ban Biên soạn “Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930-2020)”
đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong công tác sưu tầm, phân tích,
bổ sung tư liệu để hoàn thành quyển sách này, song do nhiều
yếu tố chủ quan và khách quan, cuốn sách không tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Phú Hữu,
bạn đọc gần xa để bổ sung nâng cao chất lượng của sách trong
lần tái bản sau.
9

1.10 Page 10

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Đảng bộ và nhân dân xã Phú Hữu xin chân thành cảm ơn
các đồng chí cán bộ, đảng viên đã từng sống, công tác tại địa
phương, những nhân chứng lịch sử, các cơ quan, đơn vị đã giúp
đỡ trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn ấn phẩm này.
Ban chấp hành Đảng bộ xã Phú Hữu xin hân hạnh giới thiệu
sách “Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930-2020)” đến bạn đọc
gần xa.
T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỮU
BÍ THƯ
PHAN CHÍ THẢO
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


MỞ ĐẦU
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý
* Điều kiện tự nhiên
Phú Hữu nằm trong không gian của vùng phổ biến ở đồng
bằng ven sông rạch, nhất là địa bàn các xã Phú Hữu, Đại Phước,
Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Phước An. Vùng phổ biến nhóm
đất này chịu tác động của thủy triều, có độ chua (PH) từ ít đến
vừa và cao tùy theo đất phù sa. Nhóm đất này giàu bùn, đạm,
ka li nhưng nghèo lân, nên ở nơi không hoặc ít phèn thuận lợi
cho trồng lúa nhiều vụ hoặc trồng cây ăn trái, hoa màu, rau củ.
Ở nơi đất phèn, việc sử dụng đất tùy thuộc vào độ sâu tầng phèn
và mức độ ngập mặn. Đất phèn nông có ưu thế trồng lúa nước.
Đất phèn sâu có thể trồng lúa, hoa màu vào mùa khô. Đất phèn
nông hay sâu đều có thể rửa mặn nuôi trồng thủy sản đáp ứng
nhu cầu của người dân địa phương.
Phú Hữu có địa hình bãi bồi ven sông tương đồng với các
địa phương ở hạ lưu sông Đồng Nai như Nhơn Trạch, Long
Thành, Biên Hòa, Vĩnh Cửu. Nơi này có phù sa bồi lắng, nâng
yếu, dễ rửa trôi, bị xâm thực của sông nước. Địa hình Phú Hữu
thấp dần từ phía Đông xuống phía Tây. Ở ven sông Đồng Nai,
11

2.2 Page 12

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
sông Nhà Bè và Phú Hữu còn có các trầm tích sông tạo thành
nhiều bãi bồi với thành phần bột sét, mùn thực vật, một số nơi
có than bùn màu xám tro, xám tối, độ dày từ 2-5m.
Theo giới nghiên cứu khoa học, xã Phú Hữu nằm trong
không gian huyện Nhơn Trạch là thềm sông bậc I (cao độ
10-5m/mực nước biển) ở Tây - Tây Nam tích tụ aluvi và đất dốc
tụ động bùn, các giồng phù sa sông biển - các bãi bồi (5-2m/
mực nước biển), cấu tạo chủ yếu aluvi hiện đại phân bố thành
dãy rộng 0,3-3km dài 7-10km dọc các sông và các dải đất, bãi
lầy mọc sú, vẹt, đước ven biển Đông Nam thuộc Nhơn Trạch1.
Địa hình Phú Hữu có cấu tạo trầm tích Pleistocen, Holocen,
sét, bùn bão hòa nước vì ngập lũ thường xuyên, dòng chảy thưa
thớt, nhiễm mặn (vùng Nhà Bè, Bình Chánh, Cần Giờ - Thành
phố Hồ Chí Minh; Nhơn Trạch - Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng
Tàu)2. Xã Phú Hữu với phần lớn là đất phù sa, lớp phủ thổ chủ
đạo là trầm tích Pleistocen giai đoạn muộn, trầm tích đầm lầy,
phù sa sông hình thành từ các loại đất cát (Arenosols), đất phù
sa (Fluvisols), đất phèn (Thionic Fluvisoil).
Phú Hữu được ôm ấp bởi sông Đồng Nai, sông Nhà Bè từ
phía Tây, xen giữa xã là rạch Ông Mai, Ông Chuốc với chế độ
dòng chảy phù hợp với quy luật tự nhiên. Sông rạch ở Phú Hữu
1  Phạm Đức Mạnh (2019), Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai, tr.26.
2  Phạm Đức Mạnh (2019), Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai, tr.29.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
có lượng phù sa, bùn cát khá lớn vào mùa mưa, chịu ảnh hưởng
khá lớn chế độ thủy triều của sông Đồng Nai, rạch Ông Chuốc,
Ông Mai với nước mặn, lợ và ngọt. Sông Đồng Nai, sông Nhà
Bè có hướng chảy quanh co, khúc khuỷu. Rạch Ông Chuốc bồi
đắp phù sa màu mỡ, dễ canh tác sản xuất nông nghiệp, đánh bắt
thủy sản, thuận lợi đi lại bằng đường thủy đối với người dân địa
phương. Người dân địa phương cho rằng, Ông Mai là một trong
năm vị tướng của triều đình nhà Nguyễn có công trấn giữ các
đồn binh ở tả ngạn sông Cái (sông Đồng Nai) với nhiều công
lao ở vùng đất Nhơn Trạch, nên được người dân ở đây ghi nhớ
công ơn, tôn kính đặt tên các rạch, sông, cù lao vùng này.
Xã Phú Hữu có khí hậu mang đặc điểm chung của huyện
Nhơn Trạch là nhiệt đới gió mùa. Địa phương này có độ dài
ban ngày ít thay đổi, trung bình 12 giờ 47 phút/ngày; thời gian
nắng trung bình 4-9,5 giờ (chiếm 45-65% độ dài ban ngày), cả
năm có khoảng 2.500-2.860 giờ nắng; bức xạ luôn dương, trị
số hàng năm 70-74 kcail/cm2. Hàng năm, xã này chịu tác động
của 3 hệ thống gió mùa châu Á, trong đó rõ rệt nhất là gió mùa
Tây Nam. Địa phương này có hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa
khô kéo dài liên tục từ tháng 12 đến tháng 3 hoặc tháng 4 năm
sau; mùa mưa liên tục từ tháng 5 đến tháng 11. Lượng mưa
trung bình lớn hơn 100mm, nhiệt độ trung bình cao nhất trong
mùa khô khoảng 31,1-32,10C; thấp nhất trong mùa mưa khoảng
22,9-24,00C.
13

2.4 Page 14

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Nằm trong không gian đa dạng sinh học của vùng đất Nhơn
Trạch, Phú Hữu có hệ động thực vật khá phong phú với nhiều
đặc trưng của miền sông nước. Về động vật với các loài cá nâu,
cá dứa, chem chép, chim, rắn, tôm, cua... Thực vật với các loại
cây đước, bần, vẹt, mấm, dừa nước...
* Vị trí địa lý
Xã Phú Hữu nằm phía Bắc của huyện Nhơn Trạch với
tổng diện tích tự nhiên là 2.173,06ha, chiếm 5,29% diện tích
tự nhiên toàn huyện. Phía Bắc và Đông Bắc của Phú Hữu giáp
xã Đại Phước, phía Đông Nam giáp xã Phú Đông huyện Nhơn
Trạch, phía Tây và Tây Nam giáp TP. Hồ Chí Minh qua sông
Đồng Nai, sông Nhà Bè. Phú Hữu giáp với các địa phương của
TP. Hồ Chí Minh từ phía Tây và Tây Nam qua sông Đồng Nai,
sông Nhà Bè tạo điều kiện thuận lợi kết nối phát triển kinh tế,
xã hội ở địa phương.
Với vị trí ở ngã ba sông Soài Rạp (sông Nhà Bè) và sông Sài
Gòn, Phú Hữu có điều kiện giao thông đường thủy rất thuận lợi
với các địa phương xung quanh, nhất là huyện Nhà Bè, thành
phố Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh trong giao thương trao đổi hàng
hóa. Đường bộ ĐT769 từ trung tâm xã kết nối với TP. Hồ Chí
Minh về hướng Tây qua phà Cát Lái, theo hướng Đông đến các
xã Đại Phước, Phú Đông, Phú Thạnh... đến Quốc lộ 51. Phà Cát
Lái tọa lạc trên địa bàn xã Phú Hữu trở thành nút trung chuyển
hoạt động của người dân, hàng hóa trong kết nối giao thông của
14

2.5 Page 15

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
xã nói riêng, toàn huyện Nhơn Trạch, Quốc lộ 51 với TP. Hồ
Chí Minh nói chung.
Với mạng lưới giao thông thủy, bộ của Phú Hữu thuận lợi
đã tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của địa
phương thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là trong
xây dựng nông thôn mới. Đường bộ chủ đạo của xã là đường
ĐT769 (đường Lý Thái Tổ) hình thành trước năm 1975, toàn
tuyến dài 25km, trong đó tuyến trên địa bàn xã khoảng 2km, kết
nối hầu hết các địa phương trên địa bàn huyện Nhơn Trạch đến
Quốc lộ 51 về phía Đông và TP. Hồ Chí Minh qua phà Cát Lái
về phía Tây. Tuyến đường này có khoảng 70% lượng hàng hóa
và người dân của huyện Nhơn Trạch di chuyển qua địa bàn xã
Phú Hữu đến Sài Gòn. Phà Cát Lái với 6 chiếc có trọng tải trên
20 tấn/chiếc, trung bình mỗi ngày phục 5.000 lượt hành khách
qua lại, trên 2.000 phương tiện xe máy, ô tô, 15 tấn hàng hóa,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội huyện Nhơn Trạch
- Thành phố Hồ Chí Minh nói chung, xã Phú Hữu nói riêng.
Các hương lộ của xã là đường Nguyễn Văn Trị kết nối ấp
Cát Lái, ấp Câu Kê với chiều dài 1,5km; đường Phan Văn Đáng
kết nối qua các ấp Phước Lương, Cát Lái, Rạch Bảy với chiều
dài 7,2km. Các tuyến giao thông quy mô hương lộ này được
đầu tư kiên cố nhựa hóa, bê tông hóa, khang trang sạch đẹp,
ven đường được trồng hoa, cây hoàng yến... tạo điều kiện thuận
lợi đi lại cho người dân, trẻ em đến trường góp phần rất quan
15

2.6 Page 16

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
trọng đối với phát triển kinh tế, xã hội, thay đổi diện mạo của
địa phương.
Trước đây xã Phú Hữu có mạng lưới sông rạch khá chằng
chịt, đan xen, tủa khắp các ấp của xã như mạng nhện, tạo điều
kiện thuận lợi thuở khai cơ lập nghiệp, khi đường bộ chưa phát
triển. Do đó, “rạch” nơi đây trở thành nhân tố cấu tạo tên gọi
hành chính đó là ấp Rạch Bảy. Sông Đồng Nai chảy qua địa
bàn xã Phú Hữu có chiều dài 8km với độ sâu trung bình khoảng
10m, trở thành lợi thế tự nhiên, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã
hội địa phương. Theo thống kê, xã Phú Hữu có 11 rạch với
quy mô khá lớn kết nối với sông Đồng Nai, sông Lòng Tàu,
sông Đồng Tranh tạo điều giao thông đường thủy rất quan trọng
trước năm 1994. Rạch Ông Chuốc lớn hơn cả, nơi rộng nhất
đến 80m, hẹp nhất khoảng 15m, len lỏi kết nối hầu hết các ấp
trong xã, nối thông với mạng lưới rạch nhỏ hơn của vùng. Bên
cạnh đó, rạch Bà Hai ở ấp Câu Kê, ấp Cát Lái với chiều hơn
1,2km; rạch Ngọn Nò ở ấp Câu Kê có chiều dài hơn 1 km; rạch
Bờ Trúc trên địa bàn ấp Câu Kê dài hơn 3km; rạch Ông Cù Xây
có chiều dài hơn 1,2km ở ấp Câu Kê; rạch Tắt Cây Tràm chạy
qua ấp Câu Kê với chiều dài hơn 2km; rạch Tắt Bà Trường ở
ấp Phước Lương dài hơn 4km; rạch Miễu chạy trên địa bàn ấp
Rạch Bảy dài hơn 1,5km; rạch Cá chạy qua ấp Phước Lương và
ấp Rạch Bảy với chiều dài hơn 2,2km; rạch Bảy Nhỏ chạy qua
ấp Rạch Bảy có chiều dài 1km; rạch Bảy Lớn với hai nhánh uốn
16

2.7 Page 17

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
lượn trong ấp Rạch Bảy với chiều dài hơn 1,2km. Mạng lưới
rạch chằng chịt, đan xen, kết nối trên địa bàn xã Phú Hữu đã bồi
đắp lượng phù sa sông Đồng Nai màu mỡ, giúp đất đai nơi đây
mềm, giàu chất dinh dưỡng góp phần rất quan trọng đối với sản
xuất nông nghiệp.
Vùng đất Phú Hữu tương đối thấp so với địa hình huyện
Nhơn Trạch, quanh năm chịu ảnh hưởng của thủy triều, đất
đai sình lầy, chịu ảnh hưởng thường xuyên của gió mùa và sự
lắng đọng phù sa. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở địa phương, năm 1994 Phú Hữu đồng hành cùng huyện
Nhơn Trạch đắp đê dài 7km chạy dọc theo ven sông Đồng Nai
để ngăn nước từ sông chảy vào các rạch nhằm ngăn chặn sự tác
động tiêu cực của nước lợ, nước mặn thủy triều. Hoạt động sản
xuất nông nghiệp của Phú Hữu ngày càng phát triển đáp ứng
nhu cầu của người dân địa phương.
2. Sự hình thành và phát triển xã Phú Hữu
Xã Phú Hữu nằm trong không gian sinh tồn của con người
thời tiền sử qua các di chỉ Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá đã khẳng
định các hoạt động kiếm sống và định cư lâu niên của các thế hệ
người từ nhiều ngàn năm trước ở miền sinh thái ven sông Nhà
Bè, sông Đồng Nai. Di chỉ Gò Quéo thuộc phường Thạnh Mỹ
Lợi, Bình Trưng Đông1, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí
1  Nhiều tác giả (2018), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, Nxb
tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.80.
17

2.8 Page 18

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Minh cách xã Phú Hữu hơn 5km với niên đại hơn 2000 năm có
khá nhiều hiện vật khảo cổ học, minh chứng người tiền sử từng
cư trú nơi này.
Với điều kiện tự nhiên sông rạch, gò cao đan xen của Phú
Hữu, con người thời tiền sử nơi đây đã cư trú ổn định, sớm biết
sản xuất nông nghiệp, khai thác lâm, thủy hải sản, sản xuất thủ
công với nhiều loại công cụ lao động đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế. Phú Hữu trở thành một trong các địa phương góp
phần “định hình những sắc thái văn hóa riêng vùng cận biển
Nhơn Trạch, từ lối sống nông dân làm nương rẫy cổ truyền và
những người thợ săn bắn, hái lượm đến đời sống miệt vườn và
ngư dân, cư trú trên nhà sàn và trên thuyền, nấu ăn trên các hỏa
lò chống cháy kiểu “cà ràng”, xiên bắt cá bằng lao có ngạnh và
lưỡi câu đồng lớn, đào lượm hải sản có võ bằng mai gỗ, nặn
gốm bằng nguyên liệu bản địa,... cùng đời sống người thợ thủ
công chuyên nghiệp hay nghiệp dư lúc nông nhàn”1.
Phú Hữu nằm trong không gian huyện Nhơn Trạch, ngày
xưa in dấu bước chân của người nguyên thủy bên bờ sông Soài
Rạp (sông Nhà Bè) trong tiến trình khai thác chiếm cư, lập
làng, dựng ấp dọc sông rạch và các cù lao, luồng lạch để vững
vàng “đứng trước biển” từ gần 4000-3000 năm về trước2. Từ
1  Phạm Đức Mạnh (2019), Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai, tr.146.
2  Phạm Đức Mạnh (2019), Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai, tr.139.
18

2.9 Page 19

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
xa xưa vùng đất Phú Hữu đã có con người định cư, sinh sống,
dựng làng, lập ấp. Di tích Cái Vạn thuộc ấp 3, xã Long Thọ
cách Phú Hữu hơn 30km về hướng Đông với những hoạt động
sống tương hợp một thuở ở miền rừng ngập mặn ven hệ thống
sông Thị Vải và các đầm lầy cận biển1. Di tích Cái Lăng cách
Cái Vạn khoảng 2km thuộc ấp 4, xã Long Thọ. Di tích này cách
Phú Hữu khoảng 35km với nhiều hiện vật sử dụng của con
người thời tiền sử có niên đại hơn 3000 năm. Di tích Rạch Lá
thuộc ấp Quới Thạnh, xã Phước An, cách xã Phú Hữu khoảng
30km với nhiều công cụ lao động của con người sử dụng có
niên đại trên 3700 năm.
Phú Hữu nằm ở vị trí ngã ba sông “Nhà Bè nước chảy chia
hai, ai về Gia Định, Đồng Nai thì về” nên sớm tiếp thu giao lưu
kinh tế, văn hóa trong và ngoài nước với “thương hải cảng Cần
Giờ được xem là đầu nguồn quan trọng, một trung tâm hưng
thịnh giao lưu kinh tế - văn hóa trong vùng”2. Trên cơ sở nghiên
cứu khảo cổ học và sử liệu, Phú Hữu nói riêng, Đồng Nai nói
chung, dấu vết “con người tồn tại, phát triển khá liên tục từ thời
kỳ đồ đá cũ - mới - kim khí đến khi người Việt vào khai phá.
Cư dân ở đây không chỉ cùng chung con đường tiến hóa trong
vùng mà còn hội nhập, kế thừa, phát triển văn hóa bản địa với
địa sinh thái trong vùng”3.
1  Phạm Đức Mạnh (2019), Đến với lịch sử văn hóa Biên Hùng - Đồng Nai, Nxb
Đồng Nai, tr.142.
2  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3, Nxb Đồng Nai, tr.91.
3  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3, Nxb Đồng Nai, tr.91.
19

2.10 Page 20

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Từ đầu thế kỷ XVII, lưu dân người Việt từng bước đặt chân
lên vùng đất Bà Rịa, Bến Nghé, Sài Gòn. Để rồi từ Bà Rịa - địa
bàn đứng chân đầu tiên, di dân người Việt tiến dần vào vùng
Nhơn Trạch, Long Thành, Biên Hòa, Vĩnh Cửu, mà Phú Hữu
nằm trên tuyến đường di dân ấy, nên sớm trở thành một trong
các địa điểm định cư của các thế hệ cha ông. Các điểm định
cư sớm nhất của họ ở vùng đất Biên Hòa là Bàn Lân, Bến Gỗ,
Bến Cá, An Hòa, Long Thành, Cù lao Phố, cù lao Rùa, cù lao
Tân Chánh, cù lao Ngô, cù lao Kinh, cù lao Tân Triều...1. Với
địa thế ở ngã ba sông Soài Rạp (sông Nhà Bè) và sông Sài
Gòn, điều kiện thổ nhưỡng đất đai khá bằng phẳng, đi lại bằng
đường sông dễ dàng nên Phú Hữu sớm trở thành nơi định cư
của lưu dân Việt. Các giồng đất hai bên bờ sông thuộc vùng
Nhơn Trạch, Long Thành, Biên Hòa và các cù lao thuộc trấn
Biên Hòa là những nơi người Việt đến cư trú và khai khẩn đầu
tiên. Những lớp di dân Việt đầu tiên ấy đã chọn những địa điểm
thuận lợi. Ai muốn ở đâu, lập làng ấp chỗ nào tùy ý thích, vì
lúc ấy sự quản lý hành chính chưa được xác lập. Thường những
nơi có nước ngọt dùng cho sinh hoạt và canh tác, chắc chắn là
nơi định cư khai phá, lập làng của người dân di cư thời kỳ này2.
Qua tư liệu này, đối chiếu với điều kiện tự nhiên của Phú Hữu
hiện nay, đã khẳng định vùng đất này đã sớm có sự định cư của
lưu dân Việt trên bước đường xây dựng quê hương mới.
1  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3, Nxb Đồng Nai, tr.104
2  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3, Nxb Đồng Nai, tr.104-105
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII vùng đất Nhơn Trạch,
Long Thành, Biên Hòa, Vĩnh Cửu ngày càng phát triển gắn liền
sự hưng khởi của thương cảng Cù lao Phố. Sự phồn thịnh của
thương cảng Cù lao Phố với tư cách là trung tâm thương mại và
giao dịch quốc tế không chỉ riêng của Đồng Nai mà còn của đất
Gia Định kéo dài đến năm 1776 mới chấm dứt1. Ngã ba sông
Nhà Bè huyện Phước Long, tục gọi là phường Thương Đà, từ
xưa những ghe thuyền từ phía Bắc vào buôn bán bị thủng, bị
hỏng cần phải sửa chữa hay làm mới lại, phải đến đây, nên đã
nhóm thành thôn dân cư2 ở Phú Hữu. Với vị trí ở ngã ba sông
Nhà Bè và sông Sài Gòn nên Phú Hữu có sự phát triển nhất
định về dân cư, kinh tế, xã hội vào thời đó. Giai đoạn 1802 đến
trước khi thực dân Pháp xâm lược Gia Định năm 1859, Phú
Hữu tiếp tục định hình và phát triển kinh tế, xã hội đáp ứng yêu
cầu của người dân nơi đây.
Thực dân Pháp vũ trang tấn công Gia Định năm 1859, chiếm
Biên Hòa năm 1861. Năm 1862, sau hòa ước Nhâm Tuất, 3 tỉnh
Gia Định, Biên Hòa, Định Tường3 trở thành thuộc địa của thực
dân Pháp. Sau khi cơ bản đàn áp các cuộc kháng chiến của
quân dân các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, thực dân
1  Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3, Nxb Đồng Nai, tr.124
2  Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, tập 2, bản dịch
mới của Hoàng Văn Lâu, Nxb Lao động, tr.1653.
3  Tỉnh Gia Định nay chủ yếu là TP. Hồ Chí Minh; Biên Hòa nay chủ yếu tỉnh
Đồng Nai, Định Tường nay chủ yếu tỉnh Tiền Giang.
21

3.2 Page 22

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Pháp xác lập đơn vị hành chính các cấp để thuận lợi việc cai trị,
bóc lột nhân dân ta. Theo quyết định ngày 27-7-1871 giải thể
hạt Long Thành, nhập 3 tổng Long Vĩnh Thượng, Thành Tuy
Thượng, Thành Tuy Hạ và một phần tổng Long Vĩnh Hạ nhập
vào hạt thanh tra Biên Hòa.
Tổng thành Tuy Hạ có 16 thôn: An Phú, Bình Quới, Long
Điền, Long Hiệu, Lương Thiện, Mỹ Hội, Mỹ Khoan, Phước
Lý, Phước Thạnh, Phước Thành, Tân Tường, Phú Mỹ, Phước
Kiến, Phước Lai, Lương Phước, Thạnh Hòa1. Trong đó, hai
làng Lương Thiện và Lương Phước là tiền thân của xã Phú
Hữu. Theo Quyết định ngày 29-12-1877 đổi tên 5 làng, trong
đó tổng Thành Tuy Hạ đổi làng Lương Phước thành Phước
Lương2, làng Phước Lương trở thành một trong hai làng của
xã Phú Hữu về sau. Theo Biên Hòa sử lược của Lương Văn
Lựu, năm 1878 tỉnh Biên Hòa có 17 tổng, 158 làng; trong đó
Lương Thiện (rạch Ông Mai) có 4 ấp: Thành Hòa (Rạch Cá),
Rạch Bảy, Rạch Miễu, Rạch Miễng Sành; Phước Lương (Cảnh
Dương) có 3 ấp: Rạch Cá, Rạch Ông Đông, Rạch Ông Chuốc
(Cát Lái). Nghị định ngày 30-3-1897 điều chỉnh các làng trên
toàn hạt tham biện Biên Hòa. Tổng Thành Tuy Hạ có 19 làng:
An Phú, Bình Quới, Long Điền, Long Hiệu, Lương Thiện, Mỹ
1  Nguyễn Đình Tư (2017), Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc
(1859-1954), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.117, 118.
2  Nguyễn Đình Tư (2017), sđd, tr.119.
22

3.3 Page 23

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Hội, Mỹ Khoan, Phú Mỹ, Phước An, Phước Khánh, Phước
Kiển, Phước Lai, Phước Long, Phước Lương, Phước Lý, Phước
Thành, Phước Thiền, Phước Thọ, Tân Tường1. Hai làng Lương
Thiện và Phước Lương là tiền thân của xã Phú Hội không có sự
thay đổi về tên gọi.
Do điều chỉnh đơn vị hành chính cấp làng xã, năm 1900,
tỉnh Biên Hòa có 10 tổng, người Kinh có 116 làng. Làng Lương
Thiện và Phước Lương tiền thân của xã Phú Hữu tiếp tục là
2 trong 19 làng của tổng Thành Tuy Hạ gồm làng An Phú,
Bình Quới, Long Điền, Long Hiệu, Lương Thiện, Mỹ Hội, Mỹ
Khoan, Phú Mỹ, Phước An, Phước Khánh, Phước Kiển, Phước
Lai, Phước Long, Phước Lương, Phước Lý, Phước Thành,
Phước Thiền, Phước Thọ, Tân Tường2.
Nghị định ngày 10-11-1927, hợp hai làng Phước Lương,
Lương Thiện thành làng Phú Hữu thuộc tổng Thành Tuy Hạ3.
Như vậy, làng Phú Hữu chính thức được thành lập năm 1927 và
là tiền thân xã Phú Hữu ngày nay.
Năm 1939, sau nhiều lần tách nhập, đổi tên, tổng Thành
Tuy Hạ của tỉnh Biên Hòa có 7 làng bao gồm: Phú Hội, Phú
Hữu, Phú Thạnh, Phước An, Phước Khánh, Phước Lý, Long
Tân4. Năm 1957, Phú Hữu gọi là xã thuộc quận Long Thành,
1  Nguyễn Đình Tư (2017), sđd, tr.123.
2  Nguyễn Đình Tư (2017), sđd, tr.123.
3  Nguyễn Đình Tư (2017), sđd, tr.127.
4  Nguyễn Đình Tư (2017), sđd, tr.131.
23

3.4 Page 24

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
tỉnh Biên Hòa. Ngày 09-9-1960, xã Phú Hữu thuộc quận Nhơn
Trạch, tỉnh Biên Hòa. Giai đoạn 1960-1975, Phú Hữu tiếp tục
là đơn vị hành chính cấp xã không thay đổi.
Với chính quyền cách mạng, từ 1954-1960, Phú Hữu thuộc
huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa. Từ 1960-1966, Phú Hữu
thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa. Năm 1967-1972, Phú
Hữu thuộc huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa, Phân khu 4,
Phân khu Bà Rịa. Năm 1972-1975, Phú Hữu thuộc huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Biên Hòa. Tháng 1-1976, Phú Hữu thuộc huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Ngày 26-4-1994, Chính phủ ban
hành Nghị định số 51/CP chia huyện Long Thành 2 huyện mới
là Long Thành và Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch có 12 xã:
Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phú
Thạnh, Đại Phước, Phước An, Vĩnh Thanh, Long Thọ, Hiệp
Phước, Phú Đông.
II. VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG, TRUYỀN THỐNG
1. Văn hóa, truyền thống
Người dân Phú Hữu từ xa xưa đi liền với định cư, dựng
làng, lập ấp, sản xuất kinh tế là sự cố kết keo sơn cộng đồng
làng xã, cùng chung lưng đấu cật, chống lại thiên tai địch họa
trong suốt quá trình lịch sử của vùng đất ngã ba “Nhà Bè nước
chảy chia hai, ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. Người dân Phú
Hữu có nguồn gốc từ tứ phương hội tụ, cùng nhau đoàn kết,
24

3.5 Page 25

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tương thân tương ái xây dựng quê hương mới. Năm 1698 đến
năm 1976, trong không gian của huyện Nhơn Trạch, Phú Hữu
bước vào thời kỳ tương đối ổn định; năm 1976-2020 phát triển
đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Người dân Phú Hữu đã mang theo nét đặc trưng văn
hóa của nhiều vùng miền, hòa quyện, thích ứng với môi trường
tự nhiên, nếp sống với cư dân bản địa qua phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, tạo thành sự đa dạng của văn hóa địa phương.
Người dân làng Lương Thiện, Phước Lương tiền thân của
xã Phú Hữu đã hòa chung nét tương đồng văn hóa của người
dân Nhơn Trạch bên bờ sông Đồng Nai được hình thành từ rất
sớm. Theo giới nghiên cứu sử học, các làng ở dọc sông Nhà
Bè, Phước Long, Lòng Tàu, Thị Vải, Đồng Môn... đều là những
làng xã sớm có tên trong Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức. Người Việt ở Nhơn Trạch nói chung, Phú Hữu nói
riêng thuộc dạng hình thành sớm ở Nam Bộ, mang đặc điểm là
làng khai phá, định cư sớm, lan tỏa nhanh. Làng xã ở Phú Hữu
nói riêng, Nhơn Trạch nói chung có kết cấu mở, không bền
chặt, luôn trong trạng thái động, rộng đường giao lưu, khá bình
đẳng trong sinh hoạt và lao động, sự phân tầng xã hội ít căng
thẳng, sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị khó áp đặt nặng
nề. Trong mỗi làng thường có nhiều họ khác nhau, nhiều người
ngoài làng tới cùng khai phá phụ canh, khiến sinh hoạt trong
25

3.6 Page 26

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
làng trở nên cởi mở, tạo nên mối quan hệ giữa trong và ngoài
làng phóng khoáng, dễ thích ứng trong tương giao xã hội.
Làng xã Nhơn Trạch khá đậm nét tín ngưỡng thờ mẫu với
miếu, cầu, rạch... mang yếu tố bà với tên gọi địa danh như miếu
Bà, cầu Bà, rạch Bà... Trong không gian tín ngưỡng dân gian
thờ mẫu ở huyện Nhơn Trạch, với thần điện thờ cúng, uy linh
của nữ thần không kém nam thần. Miễu thờ Bà nhiều hơn đình
thờ Ông. Điều này có nguồn gốc từ vai trò của người phụ nữ
trong đời sống thực tế của người dân Nhơn Trạch nói chung,
Phú Hữu nói riêng.
Văn hóa nghệ thuật là sản phẩm tinh thần của người dân ở
mỗi vùng miền nói chung, ở Phú Hữu nói riêng nhằm phản ánh
đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Ca dao dân gian ở
Nhơn Trạch có nhiều biến thể gắn với cuộc sống quê hương
mới của bao thế hệ lưu dân Việt, các tộc người cộng cư:
Đến đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh.
Đi ra sợ đỉa cắn chưn
Xuống sông sấu ních lên rừng cọp tha.
Trà Phú Hội, nước Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân.
Cá bui, sò huyết Phước An
Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An...
26

3.7 Page 27

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
2. Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo
* Về phong tục, tập quán, tín ngưỡng
Phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người dân Phú Hữu
xưa nằm trong không gian văn hóa Đồng Nai, Thành phố Hồ
Chí Minh và Nam Bộ. Các yếu tố ma thuật, tín ngưỡng, tôn
giáo là những dữ kiện phản ánh quan niệm, tư tưởng của cộng
đồng về con người, cuộc sống, sự chết và những ước mơ của
mình về một thế giới vĩnh hằng nào đó. Trong các nền văn minh
khác nhau trên thế giới, những nét đặc thù của cộng đồng trong
phong tục, tập quán, truyền thống có sự chuyển biến theo sự
giao thoa văn hóa. Trong không gian phong tục, tập quán, tín
ngưỡng làng xã của người dân Phú Hữu nói riêng, Đông Nam
Bộ nói chung, ở “nhà thì cúng ông táo, làng có đình. Hàng năm
cúng kỳ an với các nghi thức túc yết, tế thần, dịch tế và đại đoàn
theo lệ xuân kỳ thu báo. Lại có tục thờ kính các nữ thần (chúa
Ngọc, chúa Động, bà Hỏa Tinh, cô Hồng, cô Hạnh...) Ngoài
đình, miếu thờ thành hoàng bổn kiểng, có miếu thờ các nữ thần,
thờ cô)”1. Phong tục, tập quán, tín ngưỡng dân gian của người
dân Phú Hữu xưa gắn liền quá trình khai hoang lập nghiệp, xây
dựng quê hương mới, nên “những lưu dân Thuận Quảng đã lập
nên làng với đình, miếu, chùa - Những thiết chế phong hóa của
xã hội nông nghiệp truyền thống mà họ đã thừa hưởng từ quê
1  Nhiều tác giả (2018), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 4, Nxb TP.
Hồ Chí Minh, tr.74.
27

3.8 Page 28

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
hương bổn quán của họ. Những tập tục nghi lễ ngoài làng xã
cũng như trong gia đình cổ truyền chưa có một khuôn mẫu nào
mới mặc dù họ đã phải va chạm với những thực tế tại chỗ có
khác, có xa lạ hơn - cả đến hai phương diện tự nhiên, xã hội”1.
* Đình Phước Lương
Đình thần Phước Lương tọa lạc tại ấp cùng tên xã Phú Hữu
trên diện tích 6.000m2. Theo Ban Quý tế2, đình Phước Lương
hình thành gắn liền sự khai hoang, mở đất, lập làng xã Phú Hữu.
Theo nội dung bản sắc phong của vua Tự Đức năm 1852 cho
đình Lương Phước còn lưu tại đình Phước Lương: “Sắc Lương
Phước Thành Hoàng chi thần nguyên tặng Bảo An, Chánh trực,
Hữu Thiện chi thần. Hộ quốc tý dân nhẫm trứ linh ứng. Tứ
kim phi ưng cảnh mệnh miến niệm thần ma khả gia tặng Bảo
An Chánh trực hữu thiện đôn ngưng chi thần. Những chuẩn
Long Thành huyện, Lương Phước thôn y cựu phụng sự thần kỳ
tương hựu bảo ngã lê dân khâm tai. Tự Đức ngũ niên, thập nhất
nguyệt, nhị thập cửu nhật”.
Theo quyết định ngày 29-12-1877 của chính quyền thực
dân Pháp đổi tên 5 làng, trong đó tổng Thành Tuy Hạ đã đổi tên
làng Lương Phước thành làng Phước Lương3. Đình làng Lương
Phước được đổi tên theo tên gọi đơn vị hành chính ở ấp sau năm
1  Nhiều tác giả (2018), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 4, Nxb TP.
Hồ Chí Minh, tr.74.
2  Ông Lê Văn Đã, Hồ Văn Tám.
3  Nguyễn Đình Tư (2017), sđd, tr.119.
28

3.9 Page 29

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
1897 thành đình Phước Lương đến ngày nay. Sau thời gian hoạt
động, đình Phước Lương xuống cấp, hư hỏng được người dân
trong làng trùng tu, sửa chữa lại vào năm 1920. Hiện nay, đình
Phước Lương trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn
giữ được nét đẹp của kiến trúc truyền thống. Cửa chính điện
của đình quay về hướng Tây, mặt tiền đình nhìn thẳng ra sông
Đồng Nai, cách sông này 50m. Tuy nhiên, cửa vào đình được
cấu trúc xây dựng đi từ phía sau đình tới, tạo điều kiện thuận lợi
việc bày trí các hoạt động của lễ hội. Ngôi đình được xây dựng
trong không gian thoáng đãng, khá nhiều cây che bóng mát như
dầu, me... tường bằng xi măng, cột gỗ căm xe hàng trăm năm
vững chãi theo thời gian, kèo, ruôi, mè bằng gỗ, lợp ngói âm
dương. Bên trong đình được bày trí quy củ theo phong tục, tập
quán truyền thống xưa.
Đình này trở thành một trong các địa điểm tập hợp, hội họp
của nghĩa quân Thiên Địa hội đấu tranh chống thực dân Pháp
những năm đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, đình Phước Lương trở thành địa điểm hội họp, nơi
cất giấu vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cán bộ,
chiến sĩ, người dân xã Phú Hữu. Nhiều cán bộ, chiến sĩ cách
mạng đã nhờ sự giúp đỡ, che chở của đình Phước Lương để
sống, chiến đấu chống quân xâm lược và tay sai như Nguyễn
Văn Nhiều (Tư Nhiều), Nguyễn Văn Tư (Tư Lớn), Lê Thanh
Mai (Hai Mai)...
29

3.10 Page 30

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Theo Ban Quý tế, yếu tố tâm linh đình Phước Lương luôn
luôn phù hộ, độ trì người dân xã Phú Hữu trong sản xuất kinh
tế, no cơm, ấm áo, chống lại thiên tai địch họa, nhất là đối với
những người đi ngược lại truyền thống yêu nước, thương nòi,
cấu kết giặc ngoại xâm, giày xéo lên quê hương. Thời thuộc
Pháp, ở địa phương có tên Tổng Báo làm tay sai cho chính
quyền thực dân Pháp, bóc lột nặng nề người dân, gây bao nỗi
oán than ở địa phương. Một hôm, tên này dùng súng 2 nòng bắn
vào đầu rồng trên nóc đình Phước Lương và nói “diệt trừ những
người kháng chiến chống thực dân Pháp”, ngay sau đó tên Tổng
Báo đã chết khi chưa về đến nhà. Một lần khác, năm 1969 tên
thiếu úy Kiệm - lính Việt Nam Cộng hòa thuộc sư đoàn 18 rất
ác ôn ở xã Phú Hữu đã dùng súng trèo lên cây chiêu liêu trước
cửa đình bắn vào đầu rồng trên nóc đình Phước Lương, sau đó
tên này tự té từ trên cây xuống đất chết tại chỗ.
Từ xưa đến nay, đình Phước Lương trở thành địa điểm sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng, nhằm tăng cường hơi thở tinh thần
cho người dân xã Phú Hữu vượt qua mọi gian khó, thiên tai
địch họa, vững chắc niềm tin cuộc sống, vươn lên phía trước
trong sản xuất kinh tế, đoàn kết tương thân tương ái của người
dân địa phương. Hàng năm, đình Phước Lương tổ chức cúng kỳ
yên ngày 14, 15 tháng Chạp âm lịch. Ngày 14 tháng Chạp, Ban
Quý tế tiến hành tổ chức cúng giỗ tiền hiền khai khẩn, hậu hiền
khai cơ. Ngày 15 tháng Chạp lễ cúng kỳ yên chính thức được
tiến hành từ 12 giờ đến đến 3 giờ sáng.
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Chương trình tế lễ được Ban Quý tế chuẩn bị bài bản, công
phu, có sự phân công cụ thể đối với từng thành viên. Người
được chọn vào Ban Tế lễ phải là người có phẩm chất đạo đức,
uy tín tốt, gia đình mẫu mực, con cái thảo hiền... Lễ vật cúng
đình là heo, xôi, gà, hoa quả trái cây, trà rượu... Các nghi lễ
được tiến hành theo nghi thức truyền thống, chánh tế đọc văn
khấn với nội dung ca ngợi trời đất, thần linh, công lao của các
bậc tiền hiền, hậu hiền, người có công tập hợp dân chúng, dựng
làng, lập ấp, xây chợ, phát triển sản xuất... Ngoài ra, còn có các
lễ thỉnh sắc phong, cúng tiền bối, hậu bối, thần nông, thổ địa...
Sau hoạt động nghi thức lễ được tổ chức nghiêm trang là
phần hội giúp mọi người dân trong ấp, xã thêm thắt chặt tình
làng nghĩa xóm. Phần hội là nội dung được người dân trong xã,
các xã bạn tham gia nhộn nhịp, đông vui nhất trong dịp cúng
đình hàng năm. Trong phần hội, mọi người với trang phục đẹp,
chỉnh tề đến đình để thưởng thức các trò chơi dân gian, diễn
trò hoặc tham gia hoạt động nghệ thuật quần chúng như hát cải
lương, hát bội... với số lượng mỗi năm 1.000 người. Lễ hội của
đình Phước Lương là cầu nối tâm linh giữa con người thực tại
với quá khứ, giữa ý thức con người với đời sống vật chất hàng
ngày, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa làng xã,
bảo tồn vốn quý giá những di sản văn hóa tinh thần của dân tộc
như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng căn dặn: “văn hóa soi đường
cho quốc dân đi”.
31

4.2 Page 32

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
* Đình thần Thành Hòa xây dựng năm 1968, đến năm 1972
bị pháo Mỹ phá sập, năm 1979 được xây dựng lại tại ấp Phước
Lương xã Phú Hữu. Đình này có diện tích 713m², vật liệu xây
dựng bằng tường gạch, mái tôn, thời kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là nơi hội họp của chiến sĩ cách mạng (1968-1972); lễ
hội kỳ yên của đình tổ chức vào ngày 16 tháng 12 âm lịch hàng
năm, có trên 300 người tham gia, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng
cho người dân địa phương.
* Miếu Bà
Xã Phú Hữu nằm trong không gian văn hóa làng xã của
huyện Nhơn Trạch khá đậm nét tín ngưỡng thờ mẫu như miếu
Bà, rạch Bà... Không gian tín ngưỡng dân gian thờ mẫu ở huyện
Nhơn Trạch, với thần điện thờ cúng, uy linh của nữ thần không
kém nam thần. Miễu thờ Bà nhiều hơn đình thờ Ông. Điều
này có nguồn gốc từ vai trò của người phụ nữ trong đời sống
thực tế. Tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Phật Bà là nét đẹp của tín
ngưỡng và tôn giáo ở địa phương. Các miếu Bà ở xã Phú Hữu
thờ chủ đạo là Bà Chúa Xứ - vị nữ thần rất quen thuộc trong hệ
thống bài trí thần linh ở mạng lưới miếu Nam Bộ. Tâm linh tín
ngưỡng thờ Mẫu Nam Bộ, Bà được tin tưởng với quyền lực linh
thiêng trong việc “ban phúc, giáng họa” cho với người dân. Bà
được suy tôn hiện thân cai quản một vùng đất nhất định ở làng
xã đã phản ánh thực trạng tín ngưỡng phái sinh của tín ngưỡng
thờ Mẫu dưới dạng thức Bà Chúa Xứ. Trên địa bàn xã Phú Hữu
32

4.3 Page 33

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
nói riêng, huyện Nhơn Trạch nói chung, hình thức thờ Bà Chúa
Xứ ở miếu Bà đã chi phối khá lớn đời sống tâm linh của người
dân địa phương.
Người dân xã Phú Hữu kính vọng thờ Bà với ước nguyện
mong Bà ban ơn phù hộ, độ trì sức khỏe, mùa màng tươi tốt,
mưa thuận gió hòa, đánh bắt thủy sản đầy ắp cá tôm, no cơm
ấm áo...; trừng trị kẻ gian tà, lòng dạ xấu xa, hại dân làng, làm
mất an ninh trật tự... Các miếu Bà trên địa bàn xã Phú Hữu đều
có điểm khá tương đồng thờ Ngũ hành với 5 vị thần nữ lần lượt
như Kim đức thánh phi, Mộc đức thánh phi, Thủy đức thánh
phi, Hỏa đức thánh phi và Thổ đức thánh phi. Phần đông người
dân trên địa bàn xã tin rằng các vị thần nữ này có nhiều quyền
năng liên quan đến coi sóc dân, bảo vệ dân chúng, mùa màng
khỏi thiên tai địch họa, phù hộ độ trì người dân làm ăn phát đạt,
no cơm ấm áo.
* Miếu Bà Cây Trôm tọa lạc khu C, ấp Phước Lương hình
thành thời thuộc Pháp. Theo người dân địa phương1, ngôi miếu
này được lập trên phần đất của ông Tổng Cang đã trải qua 3 đời
con cháu của ông, trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng thờ Bà của
người dân làng Phước Lương nói riêng, xã Phú Hữu nói chung.
Điều khá thú vị ở ngôi miếu Bà này, đó là cây trôm đã trải qua
3 vòng đời sinh trưởng, tiêu vong ở cùng một vị trí nhất định
và trở thành định danh miếu Bà Cây Trôm từ xưa đến ngày nay.
1  Bà Bùi Thị Mỹ, sinh 1936 ở tại khu C, ấp Lương Phước, xã Phú Hữu.
33

4.4 Page 34

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Năm 2015, miếu Bà Cây Trôm được người dân ấp Phước
Lương của ít lòng nhiều đã trùng tu sửa chữa lại ngôi miếu
khang trang, sạch sẽ với diện tích khoảng 30m2, mái lợp tôn
kiên cố, nền lát gạch bông; hàng ngày, đều có người dân trong
ấp thay phiên nhau nhang khói, quét dọn tươm tất. Chánh điện
miếu Bà Cây Trôm được bày trí với tượng Phật Bà Quan âm uy
nghiêm; bên trong, thờ Bà Chúa Xứ ở giữa, bà Cố bên phải và
Quan âm bên trái và 5 bà lần lượt Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Lễ cúng miếu Bà Cây Trôm diễn ra ngày 12 tháng 2 Âm lịch do
người dân địa phương ấp Lương Phước tiến hành. Lễ vật cúng
miếu Bà ở đây gồm xôi, hoa quả, hoặc hoa lợi của người dân
với lòng tùy tâm dâng lễ vật cho Bà bằng tình cảm chân thành,
chất phác cầu mong quý Bà ban phúc, phù hộ độ trì sức khỏe,
quốc thái, dân an, mùa màng tươi tốt, ấm no, hạnh phúc cho
người dân ấp Phước Lương nói riêng, xã Phú Hữu nói chung.
* Miếu bà Ngũ hành Cát Lái xây dựng năm 1892, trùng tu
mới nhất vào năm 2020, tọa lạc tại ấp Cát Lái, xã Phú Hữu, có
diện tích 427m², vật liệu xây dựng bằng xi măng, tường gạch,
mái tôn.
* Miếu Bà Cố Rạch Bảy xây dựng năm 1960, tọa lạc tại ấp
Rạch Bảy, xã Phú Hữu có diện tích 1000m², vật liệu xây dựng
bằng xi măng, gạch, mái tôn, thời kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là nơi hội họp của chiến sĩ cách mạng những năm 1961-
1965.
34

4.5 Page 35

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Về tôn giáo
Xã Phú Hữu có hai tôn giáo chính là Cao Đài và Hòa Hảo.
Các cơ sở tôn giáo này hoạt động đúng quy định pháp luật, là
nơi sinh hoạt tín ngưỡng của người dân theo đạo. Giáo dân ở
địa phương luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước và chấp hành tốt pháp luật, tích cực hưởng ứng
các phong trào của địa phương góp phần phát triển kinh tế, xã
hội, giữ vững quốc phòng - an ninh trên địa bàn xã.
* Thánh thất Cao Đài Cát Lái xây dựng năm 1948 và trải
qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa tại ấp Cát Lái, xã Phú Hữu,
có diện tích trên 1.209m², vật liệu xây dựng bằng xi măng cốt
thép, tường gạch, mái ngói, khang trang đáp ứng nhu cầu niềm
tin tôn giáo của người theo đạo ở địa phương.
* Thánh thất Cao Đài Câu Kê xây dựng năm 1951 và qua
nhiều lần trùng tu, sửa chữa tại ấp Câu Kê, xã Phú Hữu. Thánh
thất này có diện tích 385m², vật liệu xây dựng bằng xi măng,
tường gạch, mái tôn thu hút đông đảo tín hữu đạo Cao Đài đến
hành lễ tôn giáo.
III. KINH TẾ, XÃ HỘI
1. Về kinh tế
Từ thế kỷ XVII đến năm 1975, người dân Phú Hữu sống
bằng nghề nông nghiệp là chủ yếu, đánh bắt thủy sản mang
tính tự cung tự cấp gắn với môi trường sông nước, trồng trọt
và chăn nuôi. Trên các giồng đất cao, người dân trồng hoa màu
35

4.6 Page 36

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
như dưa, đậu, khoai lang..., cây ăn trái; nơi ngập nước trồng lúa
như lúa nàng tre, nàng trúc, nàng phệt... Phú Hữu được bao bọc
phần lớn sông Đồng Nai, sông Ông Chuốc, Rạch Bảy có nguồn
thủy sản phong phú, tạo sinh kế đánh bắt tôm cá cho người dân
địa phương. Vào mùa mưa, tôm cá ở địa phương này khá nhiều,
sinh sôi nảy nở nhanh, tạo nguồn lợi sinh kế khá thường xuyên
đối với người dân.
Giai đoạn 1975-1994, xã Phú Hữu cùng huyện Long Thành,
tỉnh Đồng Nai và cả nước bước vào thời kỳ hòa bình, ổn định
sản xuất kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Bước qua
giai đoạn khó khăn chung của địa phương (1975-1985), từ năm
1986-1994, Phú Hữu bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập khu
vực và thế giới dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Long
Thành. Phú Hữu đổi mới tư duy trong phát triển kinh tế, chú
trọng sản xuất nông nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu của người dân
địa phương, chuyển dịch cơ cấu lao động, từng bước đầu tư xây
dựng hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ.
Từ năm 1994, huyện Nhơn Trạch được tái lập, xã Phú Hữu
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội của tỉnh Đồng Nai thời kỳ đẩy mạnh hội
nhập. Từ năm 2010, xã Phú Hữu đẩy mạnh phát triển xây dựng
nông thôn mới, đã chuyển đổi căn bản, toàn diện diện mạo địa
phương theo hướng văn minh, hiện đại.
36

4.7 Page 37

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Năm 2020, cơ cấu kinh tế địa phương với loại hình kinh tế
nông lâm nghiệp chiếm hơn 11%, công nghiệp chiếm gần 45%,
xây dựng chiếm gần 26%, dịch vụ chiếm hơn 18%. Số người
trong độ tuổi lao động khoảng 12.213 người, số lao động đang
làm việc là 11.403 người; trong đó, lao động nông lâm nghiệp
chiếm hơn 15%, lao động công nghiệp chiếm 65%, trong lĩnh
vực xây dựng chiếm hơn 8%, lao động dịch vụ chiếm hơn 12%.
Người dân địa phương chủ yếu là công nhân của nhà máy xí
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; đời sống vật chất,
tinh thần ổn định, tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn
được giữ vững.
Năm 2020, tổng giá trị sản xuất theo giá hiện hành đạt trên
102,2 tỷ đồng; tiếp tục giữ vững và hoàn thiện các tiêu chí, chỉ
tiêu đã đạt nông thôn mới. Các lĩnh vực quốc phòng - an ninh
được giữ vững, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội ổn định.
Kinh tế nông nghiệp với trồng trọt cây mía 240ha, năng
suất 70 tấn/ha, rau màu các loại, chủ yếu cây sả 60ha, lúa vụ
hè thu 200ha, năng suất 4 tấn/ha, vụ đông xuân có 313ha, năng
suất 4,7 tấn/ha. Chăn nuôi heo đạt 200 con, trâu 140 con, bò
130 con, gia cầm gà vịt 10 ngàn con; nuôi trồng thủy sản với
26ha gồm các loại tôm, cá chép, mè...
Hạ tầng cơ sở vật chất của xã thường xuyên được đầu tư
nâng cấp, nhất là đường giao thông, nước sạch, điện, trạm y tế,
37

4.8 Page 38

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
trường học, chợ...; đường giao thông trên địa bàn xã do huyện
và xã quản lý đã được bê tông hóa, nhựa hóa 100%, tạo điều
kiện thuận lợi giao thương kinh tế đối với các địa phương lân
cận, bảo đảm nhu cầu sinh hoạt, đi lại và vận chuyển hàng hóa
của người dân địa phương.
Xã tiến hành nạo vét mương N9 dài 1km, rộng 4m; mương
N9-1 rộng 4m, dài 800m; mương N9-2 dài 1km, rộng 4m;
mương số 3 dài 580m, rộng 2m; ấp Cát Lái có các tuyến hẻm
nâng cấp bê tông hóa: Hẻm số 7 rộng 4m, dài 123m; hẻm số
1, khu 3 rộng 4m, dài 120m; hẻm Sáu Xệ rộng 4m, dài 440m;
nâng cấp bờ bao cánh đồng Cát Lái dài 200m; cải tạo và sửa
chữa nhánh rẽ cấp nước sinh hoạt vào Ủy ban nhân dân xã dài
88m, tổng kinh phí các công trình này gần 1,5 tỷ đồng.
Năm 2020, trên địa bàn xã có 55 tuyến đường với tổng
chiều dài trên 13,8km: 100% đường huyện quản lý (0,2km),
100% đường trục xã, liên xã (2,2km), 100% đường trục thôn
xóm (6,2km), 100% đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào
mùa mưa (3,1km) được nhựa hóa, bê tông hóa. Đường trục
chính nội đồng được nhựa hóa với chiều dài 1,24/2,04km, đạt
60,9% và còn lại 0,8km đảm bảo xe cơ giới đi lại thuận tiện.
Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện và
cung cấp điện sinh hoạt cho các hộ dân trên địa bàn xã. Trong
đó, đường dây trung thế 3 pha dài 11,8km, đường dây trung thế
1 pha dài 1,4km, đường dây hạ thế 3 pha dài 19,3km, đường
38

4.9 Page 39

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
dây hạ thế 1 pha dài 7,5km và 22 trạm biến áp trạm với tổng
công suất 3.703 KVA; tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an
toàn từ các nguồn đạt 100%.
Điện lực xây mới 3 trạm biến áp trên đường Lý Thái Tổ
và đường Phan Văn Đáng; hoàn thành thi công các lưới điện
hạ thế trên trục đường Lý Thái Tổ và các hẻm trên địa bàn xã,
hoàn thành lưới điện chiếu sáng công cộng đường Phan Văn
Đáng dài 7,2km với kinh phí 3,2 tỷ đồng.
Hoạt động thương mại, dịch vụ với tổng số hộ kinh doanh
700, chợ Phú Hữu với 32 tiểu thương buôn bán cố định, gần 20
tiểu thương buôn bán lưu động, chợ hoạt động đông đúc vào
buổi sáng, hàng hóa khá đa dạng gồm các loại rau xanh, bầu
bí, khoai lang... các loại thịt, cá, tôm, cua... hàng tạp hóa đủ
loại, với tổng số giao dịch hàng hóa đạt khoảng 350 triệu đồng
mỗi buổi chợ. Trên địa bàn toàn xã có 59 cơ sở nhà trọ với 519
phòng hoạt động ổn định.
Trụ sở làm việc của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã và các đoàn
thể chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang của xã tọa lạc tại ấp
Cát Lái được đầu tư xây dựng kiên cố, khang trang, sạch đẹp.
Các ấp trong xã đều có văn phòng làm việc, được kiên cố hóa,
tiện nghi khá đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết công
việc cho người dân.
39

4.10 Page 40

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
2. Về xã hội
* Về quan hệ làng xã, cư trú, ăn, ở
Người dân Phú Hữu có nguồn gốc tứ phương hội tụ, cùng
nhau đoàn kết, tương thân tương ái xây dựng quê hương mới.
Từ năm 1698 đến nay, trong không gian của huyện Nhơn
Trạch, Phú Hữu bước vào thời kỳ tương đối ổn định và phát
triển. Người dân Phú Hữu đã mang theo nét đặc trưng văn
hóa của nhiều vùng miền, hòa quyện, thích ứng môi trường tự
nhiên, nếp sống với cư dân tại chỗ qua phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tạo thành sự đa dạng của văn hóa địa phương.
Người Việt ở Nhơn Trạch nói chung, Phú Hữu nói riêng
thuộc dạng hình thành sớm ở Nam Bộ, mang đặc điểm là làng
khai phá, định cư sớm, lan tỏa nhanh, độ mở lớn phóng khoáng.
Làng xã của Phú Hữu nói riêng, Nhơn Trạch nói chung có kết
cấu đơn giản, không bắt buộc theo không gian làng xã Bắc Bộ:
Cây đa, giếng nước, sân đình. Làng xã ở đây không bền chặt,
luôn trong trạng thái động, rộng đường giao lưu, khá bình đẳng
trong sinh hoạt và lao động, sự phân tầng xã hội ít căng thẳng,
sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị khó áp đặt nặng nề
thời phong kiến tự chủ. Trong mỗi làng thường có nhiều họ
khác nhau, nhiều người ngoài làng tới cùng khai phá phụ canh,
khiến sinh hoạt trong làng trở nên cởi mở, tạo nên mối quan hệ
giữa trong và ngoài làng. Các làng của xã Phú Hữu nói riêng,
huyện Nhơn Trạch nói chung được thành lập ban đầu mang
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tính tự phát theo ý muốn chủ quan của người dân khai hoang;
dần dà về sau tuân theo quy ước của nhà Nguyễn, nhưng không
máy móc theo quy định khắt khe của chính quyền Trung ương
phong kiến. Thuở sơ khai, chúa Nguyễn để cho các làng mới
có quyền tự trị, tự quản. Từ năm 1852, tổ chức làng xã thực
hiện theo minh điền hương ước do vua Tự Đức ban hành: Mỗi
xã có từ 12 đến hai, ba mươi hương chức, chia làm hai nhóm:
Một nhóm lo việc hành chính, quản trị; một nhóm lo việc lễ hội,
đình, đám. Đến thời thuộc Pháp, chính quyền thực dân thực
hiện chủ trương phân hóa quyền lực của bộ máy hành chính
nông thôn, thừa nhận và sử dụng bộ phận hương chức, hội tề,
nhưng tách bộ phận hương chức, hội tề ra khỏi bộ máy hành
chính để thuận lợi việc thống trị. Tuy nhiên, hương chức làng
xã vẫn đóng vai trò hạt nhân, không mất đi tính đại diện ở nông
thôn làng xã Phú Hữu.
Quan hệ làng xã Phú Hữu nói riêng, huyện Nhơn Trạch nói
chung mang nét đặc trưng văn hóa Nam Bộ hào sảng, trọng tình
cảm, “anh em tứ bể một nhà”, luôn mở lòng thương yêu, đùm
bọc, ít phân biệt thân sơ. Đối với người dân Phú Hữu từ bao
đời nay truyền tụng câu chuyện Thủ Huồng giàu tình cảm yêu
thương con người trên dòng Phước Long giang cũng như người
dân xung quanh vùng đất “Nhà Bè nước chảy chia hai; ai về
Gia Định, Đồng Nai thì về”. Trong không gian văn hóa Đồng
Nai nói chung, huyện Nhơn Trạch nói riêng, người dân Phú
41

5.2 Page 42

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Hữu chan chứa tình cảm tình yêu thương con người, do cùng
chung nỗi niềm “tha phương cầu thực” một thuở nên tấm lòng
yêu thương của người dân nơi đây luôn đong đầy với hình ảnh
“nước sông trong đổ lộn nước sông ngoài. Thương người xa xứ
lạc loài tới đây...” hay “tới đây thì ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh
cây mới về” đậm đà tình cảm giữa người tại chỗ với người từ
nơi khác đến làng xã Phú Hữu.
Đối với ăn mặc, cư trú của người dân Phú Hữu nói riêng,
huyện Nhơn Trạch nói chung thích ứng với điều kiện tự nhiên
của đất trời phương Nam. Với khí hậu hai mùa mưa nắng, sản
vật cận biển, rừng, sông nước, vườn ruộng khá đa dạng, phong
phú. Thức ăn được lựa chọn tươi, khô cụ thể, ăn để no, ăn để
giao đãi khách; thức ăn nhiều rau, hoa quả, nhiều cá, thủy sản,
dùng khá nhiều gia vị, chế biến theo nhiều cách khác nhau,
công phu, kỹ lưỡng, đặc sản với những món chế biến từ nguyên
liệu nước lợ đáp ứng nhu cầu của người dân trong xã.
Người dân Phú Hữu và Nhơn Trạch mặc trang phục của
người dân Đàng Trong, dần dà cải biến thích ứng với môi
trường, điều kiện tự nhiên, văn hóa của vùng đất mới. Thuở
ban đầu người dân nơi đây thường đi chân đất, khi dự lễ hội sẽ
mặc lễ phục chỉnh tề. Người dân xưa nơi đây chuộng quần áo
bà ba đối với cả nam và nữ.
Người dân Phú Hữu cư trú với các kiểu nhà phổ biến ở Nam
Bộ. Hình thức làm nhà chọn nơi chủ yếu mặt đất, gò cao ráo,
42

5.3 Page 43

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
gần sông, rạch, đường bộ; dựng nhà ở hài hòa với thiên nhiên,
chuộng hướng Nam, Đông, quay mặt ra sông, rạch, đường,
vườn, ruộng. Người bình dân thường làm nhà bằng vật liệu
tranh tre, lợp tranh, lá dừa nước; gia đình khá giả xây dựng nhà
lợp ngói âm dương, làm vách bằng ván. Nhà của người Việt ở
Phú Hữu nói riêng, Nhơn Trạch nói chung theo các kiểu nhà
xông, nhà chái, nhà sắp đọi biến thể thành nhà chữ nhị, chữ
tam; nhà chữ đinh...
* Về thông tin liên lạc, điện, nước, giáo dục, y tế
Việc nắm bắt các thông tin từ huyện, tỉnh, Trung ương, thế
giới của người dân trên địa bàn xã giữ vai trò quan trọng. Xã
có 1 điểm phục vụ bưu chính viễn thông và dịch vụ viễn thông,
Internet; Đài truyền thanh và hệ thống loa đến các ấp với 60
cụm loa không dây đã tạo điều kiện thuận lợi tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các quy định của địa phương đến người dân kịp thời.
Ngành thông tin địa phương giúp người dân Phú Hữu nhận
thức, hiểu biết về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước được nâng lên, đời sống tinh thần của nhân dân ngày
càng thêm phấn khởi.
Ủy ban nhân dân xã tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác quản lý, điều hành với việc áp dụng phần
mềm I-Office. Xã có 1 điểm thông tin khoa học công nghệ đạt
chuẩn, cung cấp các thông tin khoa học công nghệ trên trang
thông tin điện tử xã đảm bảo liên tục, thông suốt.
43

5.4 Page 44

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Về điện, nước sinh hoạt, có lưới điện trung thế và hạ thế
được thường xuyên đầu tư nâng cấp, phủ kín toàn địa bàn với
100% hộ dân và doanh nghiệp sử dụng điện; trong đó, có trên
91% hộ điện kế chính, tạo điều kiện thuận lợi đối với sinh hoạt,
sản xuất của người dân địa phương. Hệ thống nước sạch của
địa phương được lắp đặt với ống dẫn chính dọc theo các tuyến
đường vào khu dân cư với số hộ sử dụng nước sạch đạt trên
98%, 100% hộ dân sử dụng nước giếng hợp vệ sinh, đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt và phục vụ sản xuất cho nhân dân.
Công tác cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền
kỷ cương, liêm chính, hành động được xã đặc biệt quan tâm.
Năm 2020, bộ phận một cửa tiếp nhận 13.138 hồ sơ, giải quyết
hoàn thành 13.119 hồ sơ, trong đó giải quyết đúng hẹn 13.116
hồ sơ (tỷ lệ 99,9%) đáp ứng nhu cầu người dân, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Đối với giáo dục, địa phương đã thực hiện tốt các chỉ tiêu
huy động trẻ em trong độ tuổi ra lớp ở các bậc học. Năm 2020,
trên địa bàn xã có 1 Trường Mầm non Phú Hữu với 45 cán bộ,
giáo viên, nhân viên, 16 lớp có 490 trẻ dự học, tỷ lệ trẻ ra lớp
có 70/116 cháu đạt trên 60%, trẻ 5 tuổi ra lớp 347 trẻ đạt tỷ lệ
100%.
Trường Tiểu học Phú Hữu có 54 cán bộ, giáo viên, nhân
viên, 30 lớp với 1.029 học sinh; hoàn thành chương trình học
tập có 990 học sinh đạt tỷ lệ 99%, chưa hoàn thành 14 học sinh,
44

5.5 Page 45

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
chiếm tỷ lệ 1%; hạnh kiểm đạt loại tốt có 333 học sinh, đạt tỷ lệ
trên 33%, đạt loại tốt có 671 học sinh đạt tỷ lệ 67%; giáo viên
giỏi cấp trường có 24 thầy cô, đạt tỷ lệ 57%.
Trường Trung học cơ sở Dương Văn Thì có 41 cán bộ, giáo
viên, nhân viên, 17 lớp, 685 học sinh; kết học tập, loại giỏi 147
học sinh (tỷ lệ gần 24%), khá 242 học sinh (tỷ lệ trên 39%),
trung bình 211 học sinh (tỷ lệ trên 34%), yếu 17 học sinh (tỷ lệ
gần 3%); học sinh giỏi cấp huyện có 15 học sinh; giáo viên giỏi
cấp trường có 27 thầy cô, cấp huyện 1 giáo viên.
Các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đều đạt
chuẩn quốc gia, xã duy trì đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, xóa mù chữ mức độ 2, phổ cập
giáo dục tiểu học mức độ 3 và đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung
học cơ sở mức độ 3. Mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1
năm 2015, mức độ 2 năm 2019; hoàn thành xóa mù chữ cấp
tiểu học, đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 năm 2013; trung học cơ
sở mức độ 2, đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 năm 2018.
Xã Phú Hữu không còn trường học ca 3, các trường học
duy trì tốt chất lượng dạy và học, tiếp tục thực hiện xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, làm tốt công tác
phổ cập giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông. Với
truyền thống hiếu học, học sinh của xã hàng năm đạt danh hiệu
học sinh giỏi cấp xã, cấp huyện; nhiều con em trong xã thoát ly
45

5.6 Page 46

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
địa phương trở thành lãnh đạo, quản lý, doanh nghiệp, công tác
và làm ăn hiệu quả trên địa bàn cả nước.
Về y tế, với nhiệm vụ là kiểm soát, phòng, chống dịch bệnh
trên địa bàn toàn xã, trạm y tế xã với 5 giường bệnh và 9 cán
bộ y tế (có 1 bác sĩ) thường xuyên khám chữa bệnh cho người
dân địa phương. Hạ tầng cơ sở vật chất trạm y tế xã được Nhà
nước đầu tư khang trang, hiện đại với các trang thiết bị khám
chữa bệnh tiên tiến đáp ứng nhu cầu cơ bản phục vụ người dân
và được công nhận đạt chuẩn quốc gia năm 2015. Theo thống
kê, số người điều trị bệnh tại trạm y tế năm 2020 có 8.327
lượt khám, chữa bệnh; trong đó, khám theo diện bảo hiểm y
tế (BHYT) là 3.425 lượt khám, BHYT hộ gia đình đạt 94%, tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên 0,9%, tiêm chủng trẻ em trong độ tuổi
272/276 trẻ (tỷ lệ 99%), suy dinh dưỡng cân nặng trẻ dưới 5
tuổi 51/1.077 trẻ (tỷ lệ 4,6%), suy dinh dưỡng chiều cao trẻ
dưới 5 tuổi 109/1.077 trẻ (tỷ lệ 10%). Ngoài ra, địa phương
còn có 1 cơ sở khám chữa bệnh về nha khoa và 10 cơ sở bán
thuốc tư nhân đáp ứng nhu cầu khám chữa nhiều loại dịch bệnh
cho người dân góp phần phát triển chất lượng dân số của địa
phương.
Về hoạt động thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ được các
ban ngành, đoàn thể từ xã đến ấp chú trọng. Năm 2020, tổ chức
văn nghệ mừng Đảng mừng xuân Canh Tý với các chương
trình giọng ca trữ tình, duyên dáng sắc xuân, kết quả đạt 2 giải
46

5.7 Page 47

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
nhất, 2 giải ba giọng ca trữ tình, tổ chức giao lưu văn nghệ đờn
ca tài tử.
Người dân trong xã thường xuyên tham gia tập thể dục thể
thao vào buổi sáng và buổi chiều, có khoảng 875 lượt người tập
luyện, tham gia giải vô địch bóng chuyền, giải bóng đá huyện
Nhơn Trạch năm 2020, tạo không khí phấn khởi, lành mạnh,
vui tươi cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trên địa bàn xã.
Công tác lao động thương binh, xã hội, xóa đói giảm nghèo
được xã Phú Hữu chú trọng xuyên suốt. Năm 2020, các ban
ngành phối hợp Công an xã xác nhận cho 300/200 hồ sơ lao
động, vượt nghị quyết đề ra, đạt 150%; giải quyết lao động tại
chỗ cho 100 người, tổ chức đào tạo nghề lao động nông thôn
đạt 73%.
Dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng tiêu cực đến người dân
lao động tự do, xã thống kê hỗ trợ kinh phí cho 234 người với
số tiền 739 triệu đồng; Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết
Đồng Nai hỗ trợ cho 76 người bán vé số lưu động với số tiền
68,4 triệu đồng, góp phần giải quyết khó khăn về sinh kế cho
người dân địa phương.
Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho gia đình chính
sách đạt kết quả tốt. Năm 2020, xã phối hợp các cơ quan chức
năng chi trả kinh phí cho 52 thân nhân gia đình người có công,
thương bệnh binh, liệt sĩ với số tiền hơn 1 tỷ đồng; quà tết
mừng xuân Canh Tý 723 suất trị giá trên 250 triệu đồng; đền
47

5.8 Page 48

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
ơn đáp nghĩa nhân ngày Thương binh, Liệt sĩ 27-7 với 736
suất quà trị giá trên 329 triệu đồng; gia hạn và cấp mới 128 thẻ
BHYT cho người cao tuổi; xây dựng 1 căn nhà tình nghĩa ở ấp
Phước Lương trị giá 60 triệu đồng.
Công tác chi trả chế độ, chính sách cho các đối tượng theo
quy định của nhà nước bảo đảm đúng, đủ, kịp thời cho 467
người thụ hưởng, tổng số tiền hơn 2,3 tỷ đồng; 607 suất quà
trị giá trên 185 triệu đồng; gia hạn 344 thẻ BHYT cho những
người thuộc diện bảo trợ xã hội.
Chính quyền, các ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội Phú
Hữu luôn chú trọng công tác chăm lo các hộ gia đình nghèo,
cận nghèo. Năm 2020, hộ nghèo loại A không còn, hộ nghèo
loại B theo chuẩn mới có 13, hộ cận nghèo là 35. Công tác
chăm lo đời sống vật chất vào dịp tết đến xuân về với 1.061 suất
quà, trị giá trên 369 triệu đồng; gia hạn 122 thẻ BHYT cho hộ
nghèo, 164 thẻ BHYT cho hộ cận nghèo; xây dựng 1 căn nhà
tình thương ở ấp Rạch Bảy trị giá 80 triệu đồng; giải ngân cho
16 hộ nghèo vay vốn với tổng số tiền 720/320 triệu đồng, đạt
225% so với nghị quyết.
Xã phối hợp các ban ngành tổ chức Đêm hội trăng rằm tặng
1.820 phần quà cho các em thiếu nhi với số tiền trên 49,5 triệu
đồng được vận động từ các mạnh thường quân trên địa bàn xã.
Năm 2020, trên địa bàn toàn xã Phú Hữu có 4 ấp, 5.453
hộ với 18.322 nhân khẩu, có 18.234 người gồm người Kinh
48

5.9 Page 49

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
chiếm 99,99% và đồng bào dân tộc thiểu số là 88 người chiếm
0,004%; đồng bào có đạo chiếm 0,125% (Thiên Chúa giáo
chiếm 0,001%; Phật giáo chiếm 0,002%, Cao Đài 0,122%).
Ấp Cát Lái đạt chuẩn ấp văn hóa năm 2000 và được duy
trì liên tục. Ấp có 23 tổ nhân dân; trong đó, có 5.220 người
dân thường trú, 2.452 người tạm trú, tổng số 7.672 nhân khẩu.
Năm 2020, Bí thư ấp là đồng chí Đặng Bình Phong. Chi bộ ấp
có 38 đảng viên, tuổi đảng cao nhất là Lê Minh Cảm (55 năm
tuổi Đảng). Hạ tầng ấp khá hoàn chỉnh với 100% đường giao
thông các tổ trong ấp được nhựa hóa và bê tông hóa. Kinh tế
chủ yếu của ấp là kinh doanh buôn bán, bình quân thu nhập của
người dân trong ấp năm 2020 là 66 triệu đồng/người/năm. Ấp
Cát Lái giàu truyền thống cách mạng trong 2 cuộc kháng chiến
bảo vệ độc lập quê hương với 6 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 41
gia đình liệt sĩ.
Ấp Câu Kê đạt chuẩn ấp văn hóa năm 2002 và được duy trì
liên tục. Ấp có 15 tổ nhân dân; trong đó, có 2.860 người thường
trú, 1.163 người tạm trú, tổng số 4.023 nhân khẩu. Bí thư ấp là
đồng chí Phạm Văn Ngọt. Chi bộ ấp có 30 đảng viên, tuổi đảng
cao nhất là Bùi Văn Tuội (41 năm tuổi Đảng). Hạ tầng ấp khá
hoàn chỉnh với 100% đường giao thông các tổ trong ấp được
nhựa hóa và bê tông hóa. Kinh tế chủ yếu của ấp là kinh doanh
buôn bán, bình quân thu nhập của người dân trong ấp năm 2020
là 65 triệu đồng/người/năm. Ấp Câu Kê giàu truyền thống cách
49

5.10 Page 50

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
mạng trong 2 cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập quê hương với
6 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 34 gia đình liệt sĩ.
Ấp Phước Lương đạt chuẩn ấp văn hóa năm 2003 và được
duy trì liên tục. Ấp có 16 tổ nhân dân; trong đó, có 3.500 người
thường trú, 1.254 người tạm trú, tổng số 4.758 nhân khẩu. Bí
thư ấp là đồng chí Lê Văn Tâm. Chi bộ ấp có 30 đảng viên, tuổi
đảng cao nhất là Võ Công Hạnh (61 năm tuổi Đảng). Hạ tầng
giao thông ấp khá hoàn chỉnh với 100% tổ trong ấp được nhựa
hóa và bê tông hóa. Kinh tế chủ yếu của ấp là sản xuất nông
nghiệp, bình quân thu nhập của người dân trong ấp năm 2020 là
63 triệu đồng/người/năm. Ấp Phước Lương giàu truyền thống
cách mạng trong 2 cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập quê hương
với 7 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 41 gia đình liệt sĩ.
Ấp Rạch Bảy đạt chuẩn ấp văn hóa năm 2003 và được
duy trì liên tục. Ấp có 8 tổ nhân dân; trong đó, có 1.750 người
thường trú, 123 người tạm trú, tổng số 1.873 nhân khẩu. Năm
2020, Bí thư ấp là đồng chí Nguyễn Hoàng Nghiệp. Chi bộ ấp
có 14 đảng viên, tuổi đảng cao nhất là Lê Văn Đông (58 năm
tuổi Đảng). Hạ tầng giao thông ấp khá hoàn chỉnh với 100% tổ
trong ấp được nhựa hóa và bê tông hóa. Kinh tế chủ yếu của
ấp là sản xuất nông nghiệp, bình quân thu nhập của người dân
trong ấp năm 2020 là 62 triệu đồng/người/năm. Ấp Rạch Bảy
giàu truyền thống cách mạng trong 2 cuộc kháng chiến bảo vệ
độc lập quê hương với 2 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 23 gia đình
liệt sĩ.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


CHƯƠNG I
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO ĐẤU TRANH
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1930-1954)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI - ÁNH
SÁNG SOI ĐƯỜNG NHÂN DÂN PHÚ HỮU ĐẤU TRANH
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1930-1945)
1. Đấu tranh cách mạng chống quân xâm lược trước khi
có Đảng
Năm 1858, thực dân Pháp vũ trang xâm lược nước ta từ
Đà Nẵng. Năm 1859, quân Pháp tiến đánh Sài Gòn - Gia Định.
Ngày 26-11-1861, quân Pháp do đại tá Diego chỉ huy tiến vào
Long Thành. Tổng lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy quân
đội triều đình nhà Nguyễn và nghĩa quân Long Thành chặn
đánh địch, tuy nhiên sự chênh lệch lớn về lực lượng, vũ khí
nên quân ta nhanh chóng bị thất thủ. Cuối tháng 11-1861, Long
Thành và Phú Hữu hoàn toàn lọt vào tay giặc Pháp. Người dân
Long Thành và làng Phú Hữu bước vào thời kỳ tủi nhục của
người dân mất nước. Vì vậy, người dân Phú Hữu đã đứng lên
chống thực dân Pháp ngay từ những ngày đầu. Hai cha con
Nguyễn Ngọc Hớn, Nguyễn Ngọc Sang ở Phú Hữu tham gia
trận tập kích đánh đắm tàu Primôghê ở vàm Đồng Môn ngày
51

6.2 Page 52

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
1-1-1861. Sau sự kiện nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy
tàu L’Espérance - Tàu Hy Vọng của quân Pháp ở làng Nhựt Tảo1
ngày 10-12-1861, ông Nguyễn Ngọc Hớn đưa quân về đóng bạ
(tạm bợ) từ vàm Ông Chuốc đến vàm Câu Kê. Trong trận đụng
độ ngày 26-12-1861 nghênh chiến với một cánh quân Pháp tại
Phú Hữu do viên đại tá Lơ Brít (Lơpơrít) chỉ huy, lực lượng và
trang bị của nghĩa quân chênh lệch lớn, hai ông Nguyễn Ngọc
Hớn, Nguyễn Ngọc Sang bị sa vào tay giặc. Bị tra trấn dã man,
khi được giặc Pháp trả tự do, ít lâu sau ông Nguyễn Ngọc Hớn
qua đời. Ông Nguyễn Ngọc Sang tiếp tục chiêu binh, mãi mã
mong trả thù nhà nợ nước và quê hương Phú Hữu.
Sau khi hoàn thành chiếm Long Thành, trong đó có làng
Phú Hữu, thực dân Pháp nhanh chóng thiết lập bộ máy cai trị
thông qua các thiết chế tri phủ, tri huyện, chánh tổng, xã trưởng
nhằm đàn áp phong trào yêu nước của người dân địa phương.
Tuy nhiên, người dân ở Long Thành và làng Phú Hữu với tinh
thần yêu nước nồng nàn đấu tranh chống sự kìm kẹp, áp bức
bóc lột, đàn áp của thực dân Pháp và tay sai bằng nhiều hình
thức khác nhau. Vì vậy, tri huyện Long Thành liên tục bị thay
thế. Tên Đường là tri huyện đầu tiên của Long Thành, không
lâu sau đó tên Huỳnh Công Trạch lên thay, tiếp đến tên Ân
1  Làng Nhựt Tảo ở xã Tân Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Nhà thơ yêu
nước Huỳnh Mẫn Đạt ca ngợi vị Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực: “Hỏa
hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa/ Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần/ Trời Nam
rực sáng gương tiết liệt/ Tượng đài Trung Trực giữa lòng dân/ Sanh vi tướng tử
vi thần/ Cầu vồng bảy sắc ánh hồng chói chang/ Ngàn năm trung nghĩa đá vàng/
Linh thần thượng đẳng sắc ban phẩm ngời”.
52

6.3 Page 53

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
đứng đầu huyện, năm 1881 tên Trần Bá Hựu làm tri phủ Long
Thành và tên này bị tiêu diệt sau đó.
Từ triết lý “áp lực cao, phản lực cường” của nhân dân Phú
Hữu nói riêng, huyện Long Thành nói chung trước sự cai trị,
bóc lột, đàn áp của thực dân Pháp và tay sai là quy luật khách
quan của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc nơi này. Năm
1908, phong trào yêu nước dưới danh nghĩa “Thiên Địa hội”1
về Long Thành, trọng tâm hoạt động ban đầu là địa bàn xã Phú
Hữu. Ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện Long Thành đều có tổ
chức Thiên Địa hội và được chia ra từng cụm cụ thể. Khu vực
Phú Hữu, Phước Khánh, Giồng Ông Đông do cụ Nguyễn Xuân
Sáng điều khiển (địa điểm liên lạc tại đình Phước Lương xã Phú
1  Về nguồn gốc tổ chức Thiên Địa hội ở Nam Kỳ là một chi hội của tổ chức
Nghĩa Hòa đoàn - một tổ chức vừa mang tính chất tương tế, vừa mang tính chất
chính trị của nông dân Trung Quốc được hình thành từ sau khi nhà Minh bị nhà
Thanh lật đổ năm 1644. Thiên Địa hội có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh,
mục tiêu là “Bài Thanh phục Minh”. Ở Nam Kỳ tổ chức Thiên Địa hội phát triển
khá mạnh và cuốn thu hút nhiều người tham gia và tôn Phan Xích Long (tức Phan
Phát Sanh) làm hội trưởng. Người Việt vào hội rất đông và sau đó tách ra thành
nhiều hội riêng. Đó chính là các tổ chức hội kín của người Việt mà mục tiêu là
chống thực dân Pháp và bọn phản động, giành lại độc lập, tự do cho Việt Nam
với khẩu hiệu: “phản Pháp, phục Nam”. Có thể nói, tổ chức các Thiên Địa hội
ở Nam Kỳ là những tổ chức yêu nước của quần chúng nhân dân. Động cơ tham
gia hội của quần chúng xuất phát từ tình cảm yêu nước, căm thù kẻ thù xâm lược
thống trị đất nước và bọn phong kiến tay sai. Đây là ý thức tự vệ chính đáng của
nhân dân Nam Kỳ đối với các thế lực áp bức của một xã hội thuộc địa. Vì vậy,
các tổ chức Thiên Địa hội thu hút nhiều thành phần tham gia và số hội viên lên
đến hàng ngàn, tùy theo từng nơi mà có người khởi xướng, lãnh đạo. Tổ chức của
Thiên Địa hội rất chặt chẽ, liên hệ và nhận nhau bằng dấu hiệu, hay nói tiếng lóng.
Phong trào gia nhập các Thiên Địa hội ngày càng đông, đặc biệt ở các vùng Biên
Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Bến Tre... làm cho thực dân Pháp hết sức
lo lắng và tổ chức các cuộc truy quét dữ dội.
53

6.4 Page 54

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Hữu). Đình Phước Lương trở thành nơi hội họp, luyện tập võ
nghệ của thành viên Thiên Địa hội. Giai đoạn đầu, đình Phước
Lương là trung tâm lãnh đạo, điều hành của những người trong
tổ chức Thiên Địa hội đối với toàn huyện Long Thành. Sau đó
thực dân Pháp tăng cường bố ráp, khủng bố dữ dội tổ chức này
ở Phú Hữu. Những thành viên lãnh đạo Thiên Địa hội chuyển
về xã Phú Hội, Phước Thiền, Long Tân tiếp tục hoạt động.
Thiên Địa hội có chương trình học tập cho hội viên về nội
quy gia nhập, lời thề, có cả những bài ước để động viên1 các
thành viên hăng hái đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai.
Thiên Địa hội hoạt động suốt một dải từ Lương Thiện, Phước
Lý, Phước Khánh, Bình Quới tới Phước An, tuyên truyền yêu
nước, bày cho đông đảo người nghèo cách chống sưu cao thuế
nặng, chống sự bóc lột của bọn chủ điền tham lam. Năm 1904,
ông Nguyễn Văn Nguyên tham gia Hội kín, ông đứng đầu nhóm
ở làng Lương Thiện, Phú Hữu; nhóm của ông có các hội viên
ở địa phương như Nguyễn Văn Long, Nguyễn Xuân Sáng...2.
Đầu năm 1916, lực lượng Thiên Địa hội ở Phú Hữu phát triển
mạnh và tham gia phá khám Sài Gòn để giải cứu những người
yêu nước bị thực Pháp giam cầm, tuy nhiên mưu cuộc của các
thành viên này bị thất bại. Quân Pháp tập trung lực lượng đàn
áp, truy lùng các thành viên của Thiên Địa hội ở Long Thành
1  Huyện ủy Long Thành (1988), Long Thành những chặng đường lịch sử, Nxb
Đồng Nai, tr.22, 23: “Bán dạ minh khuê. Đánh đáo quê đình. Nghĩa huynh kết bài
đồng minh. Thủy huynh đệ lai đồng ẩm nhất”, nghĩa là: Nửa đêm anh em cùng
nhau họp việc hội, nâng ly rượu chia nhau cùng uống, thề hiệp sức làm việc.
2  Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb Đồng Nai, tr.25.
54

6.5 Page 55

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
và Phú Hữu rất gắt gao. Các thành viên tham gia Thiên Địa hội
ở vùng này chuyển vào hoạt động bí mật, mai danh ẩn tích,
chờ thời cơ nổi dậy chống Pháp. Khi phong trào Hội kín lắng
xuống, có người ở địa phương phải thay tên đổi họ để tránh
thực dân Pháp truy nã như ông Nguyễn Văn Long đổi tên thành
Đào Mỹ Long.
Sau khi đàn áp các cuộc phản kháng của những người yêu
nước, chính quyền tay thực dân Pháp gia tăng cướp đoạt ruộng
đất, bóc lột sức lao động của người dân xã Phú Hữu và quận
Long Thành. Thực trạng thống khổ của người dân nơi đây được
được mô tả: “Đời sống nông dân càng khổ hơn. Phần lớn đất
đai bị thực dân Pháp tịch thu để mở đồn điền cao su. Có 2/3
diện tích còn lại rơi vào tay địa chủ, những địa chủ nổi tiếng
như hội đồng Thiềng,... Phủ Lố tức Lê Phát An chiếm 300 ha
vùng Phước Khánh. Em Phủ Lố là Lê Phát Châu chiếm 150
ha ở xã Phú Hữu...”. Bên cạnh đó, còn có những chủ điền lớn
trong vùng Phú Hữu với hàng trăm mẫu ruộng trở lên như Trịnh
Thị Dung (300 mẫu), Lý Văn Diệm, Huỳnh Văn Sửu chiếm
hàng trăm mẫu ruộng,... Ông Tám Lỏi ở Giồng Ông Đông là
điển hình cho người nghèo trong làng. Quanh năm ở đợ cho nhà
Huỳnh Văn Sửu, ông lao động quá sức đến mắc bệnh lao mà
vẫn bữa cháo bữa cơm. Vào các đêm mùa mưa, ông còn phải
lặn lội cắm câu ngoài ruộng kiếm tiền đóng thuế thân. Trong
khi đó, nhà của Huỳnh Văn Sửu khang trang to nhất làng, kho
vựa chứa hàng ngàn giạ lúa, đàn trâu tới hai trăm con. Các chủ
điền này có chung phương thức làm giàu trên mồ hôi, nước mắt
55

6.6 Page 56

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
của đông đảo tá điền nghèo đó là thúc ép nông dân nghèo để
chiếm ruộng đất, “có tiền sinh có tật”, nhiều tên địa chủ ức hiếp
một số phụ nữ trong vùng. Các cụ xưa nói: Của phù vân không
bền, chỉ hai đời sau gia đình Huỳnh Văn Sửu “khuynh gia bại
sản” tay trắng, nghèo khổ.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, toàn xã có 3.250ha
ruộng đất canh tác với 3.024 nhân khẩu già, trẻ, gái, trai; theo
đó, bình quân mỗi người hơn 1ha đất đai. Tuy nhiên, trên 85%
nông dân không có miếng đất cắm dùi, phải lĩnh canh ruộng đất
của một số chủ điền. Đến mùa gặt, lúa gánh hết về sân chủ điền
cho trâu đạp lấy hạt. Sau khi phơi khô, quạt sạch, người nông
dân nộp cho chủ điền 50%, phần còn lại đem về nhà. Năm nào
trúng mùa, tá điền đong xong thóc cho chủ ruộng, may mắn
lắm còn đủ ăn đến mùa năm sau. Gặp năm mất mùa, thì tá điền
không những không được giảm tô mà còn nợ mới chồng nợ cũ,
nên nhà nghèo làm mướn trả nợ từ năm này sang năm khác.
Một số chủ điền lớn còn “ăn bẩn” chuyên đi thu tô cho chủ, nên
người nông dân ngoài việc đóng thóc tô cho chủ điền, còn phải
“biết điều” với chúng, do đó, mức tô đều cao hơn 50% nộp cho
chủ ruộng. Vì bóc lột vô độ người dân vùng này, nên địa chủ,
hội đồng ở Phú Hữu sống xa hoa; ngược lại người dân vô cùng
cơ cực, không có ruộng vườn phải đi làm thuê, làm mướn cho
địa chủ, cường hào. Ngoài ra, người nông dân lãnh ruộng đất
của địa chủ để cày cấy phải nộp tô thuế rất nặng nề. Một trong
các loại thuế bất nhân nhất mà người dân Phú Hữu và Long
Thành phải đóng đó là thuế thân.
56

6.7 Page 57

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Để thâu tóm mọi quyền lợi, thực dân Pháp và chính quyền
tay sai của chúng ra lệnh cấm người dân Phú Hữu và quận
Long Thành không được nấu rượu, chúng độc quyền mặt hàng
này. Bọn tay sai ra sức lùng sục khám xét việc nấu rượu của
người dân, nhiều gia đình mất hết tài sàn vì bọn này. Trong khi
đó, thực dân Pháp thành lập những công ty rượu lớn ở Biên
Hòa, hàng ngày chúng chở rượu về vùng Long Thành và Phú
Hữu. Đặc biệt thâm độc hơn, thấy dân không mua, thực dân
Pháp liền ra lệnh cưỡng bức dân uống rượu. Chúng điều tra sổ
đinh, căn cứ sổ đinh trong xã rồi cho chở rượu về bắt xã trưởng
ra nhận. Xã trưởng lại bắt từng gia đình phải mua. Uống hay
không uống cũng mặc, buộc người dân trong xã phải mua rượu
của tư bản Pháp với giá cắt cổ.
Để tăng cường vũ khí đàn áp phong trào kháng chiến của
nhân dân miền Đông Nam Bộ và ở xã Phú Hữu, năm 1929, thực
dân Pháp xây dựng kho bom Thành Tuy Hạ cách Phú Hữu gần
5km. Người dân Long Thành và Phú Hữu bị chính quyền thực
dân bắt người dân đi làm phu công không dưới 15 ngày/năm,
công việc nào là chặt cây, phá bụi, san bằng các gò, đào ô đắp
ụ để chứa bom, khiêng các vật liệu xây dựng. Kho đạn Thành
Tuy Hạ xây dựng 4 năm mới xong. Tiếp đó, năm 1939, Pháp
xây dựng đồn Giồng Ông Đông, người dân các xã xung quanh
cũng phải đi làm phu xây dựng, nhất là người dân Phú Hữu làm
việc rất vất vả cho bọn chúng.
Từ năm 1861 đến 1930, người dân Long Thành và Phú Hữu
“bị thực dân phong kiến đàn áp, bóc lột, nỗi khổ của người dân
57

6.8 Page 58

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
đã không còn sức nén. Phú Hữu lúc này như một cánh đồng cỏ
khô, chỉ chờ một đốm lửa cách mạng lập tức nó sẽ bùng lên, đốt
cháy kẻ thù, thiêu hủy chế độ thống trị của bọn thực dân phong
kiến”. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đã đáp ứng
yêu cầu lịch sử lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam và người dân
Phú Hữu đứng lên đấu tranh giải phong cho quê hương, đổi đời
cho mỗi người dân nơi đây.
2. Đấu tranh giành độc lập dưới ánh sáng soi đường của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau thời gian dài hoạt động cách mạng ở phương Tây,
Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925. Tư tưởng, đường
lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từng bước, bằng nhiều hình
thức khác nhau chuyển về trong nước, thúc đẩy phong trào đấu
tranh của công nhân, nông dân, nhất là công nhân cao su ở miền
Đông Nam Bộ. Tháng 4-1926, cuộc đấu tranh của 400 công
nhân Đềpô xe lửa Dĩ An bùng nổ. Tháng 12-1926, công nhân
đồn điền cao su Cam Tiêm (Ông Quế) (nay là xã Xuân Quế,
huyện Cẩm Mỹ) đấu tranh chống bọn chủ tư bản Pháp; tháng
9-1927, công nhân đồn điền cao su Phú Riềng đấu tranh đòi
giới chủ cải thiện đời sống người công nhân.
Đêm 28-10-1929, tại khu rừng Suối Đá, thuộc Làng 3, đồn
điền cao su Phú Riềng1 diễn ra một sự kiện quan trọng có tính
lịch sử của Đảng và giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là Chi bộ
1  Hiện nay thuộc Nông trường cao su Thuận Phú, Công ty cổ phần Cao su Đồng
Phú, xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.
58

6.9 Page 59

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Phú Riềng được thành lập với 6 đảng viên1. Đồng chí Nguyễn
Xuân Cừ được cử làm Bí thư chi bộ. Các đảng viên trong Chi
bộ Phú Riềng khẩn trương bước vào cuộc chiến đấu mới, nhằm
đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân, đối phó với âm
mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Các đảng viên được học
tập về chủ trương của Đảng, trong đó có các vấn đề đem lại
ruộng đất cho dân cày, công nhân phải tiến lên giành nhà máy,
đồn điền và giải phóng dân tộc. Chi bộ Phú Riềng là chi bộ
Đảng Cộng sản đầu tiên của ngành cao su Việt Nam. Đây là
bước ngoặt trọng đại trong lịch sử phong trào công nhân cao
su Việt Nam có ảnh hưởng tích cực đến phong trào cách mạng
quận Long Thành và xã Phú Hữu.
Sự kiện thành lập Chi bộ Phú Riềng mãi mãi là mốc son
lịch sử trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, tác động tích
cực đến giai cấp công nhân và nhân dân tỉnh Biên Hòa. Nó trở
thành niềm tin, điểm tựa, động lực về tinh thần, tăng cường hơn
nữa ý chí tự lực, tự cường của công nhân đồn điền các quận
Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc, nhà máy BIF, ga xe lửa
Đềpô Dĩ An, ga xe lửa Biên Hòa... quần chúng nhân dân trên
địa bàn toàn tỉnh Biên Hòa hăng hái đứng lên chống thực dân
Pháp và tay sai.
Từ 6 đảng viên ban đầu, Chi bộ Chú Riềng đã giáo dục kết
nạp thêm một số đảng viên mới rồi đưa những “hạt giống đỏ”
này đi vào các đồn điền cao su, các nhà máy, xí nghiệp để vận
1  Nguyễn Xuân Cừ, Trần Tử Bình, Tạ, Hồng, Hòa và Doanh.
59

6.10 Page 60

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
động cách mạng, tổ chức mạng lưới cơ sở đảng ở một số địa
phương khác trên địa bàn tỉnh Biên Hòa.
Tại Phú Riềng, nối tiếp cuộc đấu tranh của công nhân đồn
điền cao su Cam Tiêm liên tiếp trong 2 tháng 8 và 10-1929,
dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên,
công nhân đồn điền cao su Phú Riềng đã nổi dậy đấu tranh, tổ
chức các cuộc bãi công và biểu tình với quy mô lớn chống sự
bóc lột tàn bạo của bọn tư bản thực dân.
Trong bối cảnh chung của đất nước năm 1930, Việt Nam
cùng một lúc tồn tại 3 tổ chức cộng sản1 đã hạn chế sự phát
triển của phong trào cách mạng, thậm chí có sự mâu thuẫn,
tranh giành ảnh hưởng đối với quần chúng nhân dân. Trước tình
hình đó, từ ngày 6-1 đến ngày 8-2-1930, Nguyễn Ái Quốc với
tư cách là đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập đại biểu các tổ
chức cộng sản họp tại Cửu Long, Hồng Kông (Trung Quốc) để
thống nhất 3 tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng. Tại Hội nghị
lịch sử này, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và
Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi tới toàn thể nhân dân
Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập... Đó
là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đấu tranh nhằm giải phóng cho
toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị
1  Tức Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Tân Việt, sau
chuyển thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo
Đảng...”1.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, mở đầu thời
kỳ mới, thời kỳ cách mạng do giai cấp công nhân và đội tiền
phong là Đảng Mác - Lênin lãnh đạo. Việc thống nhất các tổ
chức đảng ở Nam Bộ cũng được tiến hành sau đó một thời gian
ngắn, cấp ủy lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nam
Kỳ được thành lập do Ngô Gia Tự làm Bí thư.
Như nắng hạn lâu ngày gặp mưa đầu mùa, tư tưởng, đường
lối cứu nước của Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng được
chuyển về trong nước. Phong trào đấu tranh của người dân nói
chung, công nhân ở vùng Long Thành, Nhơn Trạch và Phú Hữu
nói riêng bước sang giai đoạn mới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là ánh sáng soi đường nhân dân Phú Hữu đấu tranh giành
độc lập.
Ở Phú Hữu, người dân sớm tiếp thu tư tưởng Cộng sản,
tiêu biểu có Nguyễn Sanh Thành. Từ tháng 6-1930 đến tháng
2-1931, Nguyễn Sanh Thành sang Phú Xuân (Nhà Bè) làm công
nhân hãng xăng dầu Ănglê. Ở đó, Nguyễn Sanh Thành gặp ông
Bảy Dài và được ông nói về truyền thống yêu nước của ông
cha ta, về giai cấp công nhân, về Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nguyễn Sanh Thành tham gia mấy cuộc diễn thuyết của cán bộ
đảng ở chợ Phú Xuân, mỗi cuộc có hàng trăm thợ, nhiều người
1  Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội, tr.210.
61

7.2 Page 62

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
khác tham gia. Trong đó, một cuộc diễn thuyết bị cảnh sát đàn
áp, Nguyễn Sanh Thành cùng một số thợ gan góc che chắn bảo
vệ diễn giả thoát hiểm. Đầu tháng 2-1931, Nguyễn Sanh Thành
tham gia đưa yêu sách đấu tranh đòi tăng lương giảm giờ làm.
Cuộc đình công thu được một phần kết quả, chủ phải nhượng
bộ cho người công nhân.
Giai đoạn 1930-1935, các đồng chí đảng viên Cộng sản tăng
cường công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, vận động
quần chúng đứng lên đấu tranh chống sự áp bức, bóc lột của
thực dân Pháp và tay sai. Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa nói chung,
ở Long Thành và Phú Hữu nói riêng người dân từng bước tiếp
nhận tinh thần đấu tranh, cứu nước mới dưới ánh sáng lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Do đó, “các đồng chí Nguyễn Văn Tạo
(quê Long An), Nguyễn Văn Nguyễn (quê Mỹ Tho), Dương
Bạch Mai (người Bà Rịa), Nguyễn An Ninh (quê Hóc Môn) đã
có những hoạt động viết báo, diễn thuyết đòi tự do dân chủ gây
tiếng vang, đáp ứng lòng mong đợi của người dân yêu nước.
Người Biên Hòa hướng theo tiếng gọi của Đảng thông qua các
đồng chí ấy”.
Trên địa bàn Phú Hữu, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời (sau đó là Đảng Cộng sản Đông Dương), nhiều người như
Nguyễn Sanh Thành, Nguyễn Háo Văn, Trần Văn Thê, Phạm
Văn Búp... nhanh chóng giác ngộ, tin tưởng ở đường lối cách
mạng đúng đắn của Đảng giúp họ thoát khỏi cảnh tăm tối lầm
than, giải phóng họ khỏi kiếp đêm dài nô lệ.
62

7.3 Page 63

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Từ cuối năm 1931 đến giữa năm 1935, Xứ ủy Nam Kỳ được
lập đi lập lại nhiều lần nhưng tồn tại không được bao lâu, chưa
móc nối với các hoạt động địa phương thì đã bị địch đánh tan
rã. Tháng 5-1933, đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang) được
cử làm Bí thư Xứ ủy (mới lập lại) và cử cán bộ về các tỉnh móc
nối với các đồng chí đảng viên còn lại để khôi phục phong trào.
Trong những năm 1932-1934, ở Bến Cá xã Tân Triều, quận
Châu Thành1 đã có sơ sở cách mạng, Bí thư Trương Văn Bang
về Bến Cá, Tân Triều được giới thiệu hoạt động cách mạng. Ở
Bửu Long, có những cơ sở cách mạng trải dài đến Tân Ba, Tân
Uyên, Võ Sa, Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Tịch (thuộc tỉnh Bình
Dương ngày nay). Bên này (tức huyện Vĩnh Cửu hiện nay) có
Tân Huệ, Tân Phú, Cây Đào lên Thiện Tân, Tân Định, Lạc An,
Bình Thạnh... đều có cơ sở cách mạng2 hoạt động liên tục.
Đầu năm 1935, Hoàng Minh Châu được Liên Tỉnh ủy miền
Đông cử về hoạt động ở Biên Hòa. Đồng chí đã bắt liên lạc với
nhóm Lưu Văn Viết đang hoạt động cách mạng tích cực ở đây.
Trên cơ sở này, việc vận động thành lập “Chi bộ Đảng xã Bình
Phước - Tân Triều”3 vào tháng 2-1935 tại nhà Huỳnh Văn Ngọc
(tức Năm Ông) xã Tân Triều thành công. Chi bộ có 7 đảng viên,
1  Bến Cá hiện nay là ấp Tân Triều, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
2  Đồng chí Trương Văn Bang: Tọa đàm ngày 12-12-1980: Ý kiến của các đồng
chí Trương Văn Bang - Nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí Phạm Văn
Thuận - Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, đồng chí Năm Quang, đồng chí Năm
Đính “về thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám 1945”, tr.4.
3  Di tich đã được UBND tỉnh Đồng Nai xếp hạng di tích cấp tỉnh.
63

7.4 Page 64

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Hoàng Minh Châu giữ chức vụ Bí thư, Huỳnh Xuân Phan giữ
chức vụ Phó Bí thư, cùng các đảng viên Lưu Văn Viết, Lưu
Văn Văn, Quách Tỷ, Quách Sanh, Trần Văn Triết. Đây là chi bộ
Cộng sản đầu tiên được thành lập ở tỉnh Biên Hòa (theo không
gian tỉnh Đồng Nai hiện nay) để lãnh đạo phong trào cách mạng
tại địa phương và là nòng cốt để xây dựng Tỉnh ủy lâm thời
Biên Hòa về sau.
Sự thành lập Chi bộ Bình Phước - Tân Triều có ý nghĩa to
lớn, mở ra bước ngoặt lịch sử mới quan trọng của phong trào
cách mạng tỉnh Biên Hòa. Đảng viên từ chi bộ này đã tỏa đi
khắp nơi trên địa bàn tỉnh xây dựng thêm nhiều cơ sở cách
mạng mới, tạo tiền đề phát triển phong trào cách mạng. Đây là
chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập sau Chi bộ Phú Riềng1
là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng trên địa bàn tỉnh
Biên Hòa.
Trong thời gian 1934-1935, những hoạt động công khai,
hợp pháp ở Sài Gòn của một số đảng viên cộng sản như Nguyễn
Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai... kết hợp với
những tri thức yêu nước như Nguyễn An Ninh đòi tự do dân
chủ, cải tiến thể chế chính trị ở thuộc địa... đã ảnh hưởng đến
các tầng lớp nhân dân tiến bộ trong tỉnh Biên Hòa. Xu hướng
dân chủ trong nhân dân ngày càng tăng lên, tạo tiền đề thành
lập các tổ chức quần chúng yêu nước. Đảng kịp thời đề ra khẩu
hiệu đấu tranh đòi “Dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hòa bình”
1  Phú Riềng trước thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Phước.
64

7.5 Page 65

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
đáp ứng đúng nguyện vọng cấp thiết của nhân dân các tỉnh,
thành Nam Bộ và Biên Hòa1.
Mùa thu năm 1936, Ủy ban trù bị Đông Dương Đại hội
được thành lập tại Sài Gòn và cử Dương Bạch Mai, Nguyễn
Văn Nghĩa về Biên Hòa để lãnh đạo phong trào, vận động cách
mạng thành lập các Ủy ban hành động hưởng ứng Đông Dương
Đại hội.
Ngày 26-7-1936, trên tờ báo Tranh đấu (La Lutte) phát
hành tại Sài Gòn, Nguyễn An Ninh - một trí thức yêu nước nổi
tiếng lúc bấy giờ đã đăng lời kêu gọi cổ động thành lập Ủy ban
trù bị tiến tới triệu tập Đông Dương Đại hội. Lời kêu gọi được
các tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội Nam Bộ
nhiệt liệt hưởng ứng.
Ở Biên Hòa, Nguyễn Văn Nghĩa về hoạt động công khai
để thành lập Đông Dương Đại hội. Phong trào ở các quận Tân
Uyên, Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc đều dâng cao2.
Truyền đơn phát đi khắp nơi trong tỉnh, tạo nên không khí sôi
nổi trong nhân dân, nhất là trong hai tổng Phước Vinh Trung,
1  Theo báo cáo của Nha cảnh Đông Dương Nam Kỳ ngày 8-11-1935, nhân dịp
kỷ niệm ngày chiến thắng Cách mạng Nga, trong đêm 6 rạng sáng ngày 7-11-
1935, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành rải truyền đơn với số lượng nhỏ
trong tỉnh Biên Hòa với 4 tờ, tỉnh lộ 12 từ Biên Hòa đi Trị An, 1 lá cờ đỏ với nội
dung: “Hỡi anh em công nông binh và tất cả những hạng người lao khổ, hãy đứng
lên kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga” góp phần kêu gọi nhân dân tỉnh Biên
Hòa đấu tranh đòi các quyền tự do dân sinh, dân chủ, nâng cao hơn nữa tinh thần
yêu nước chống thực dân Pháp và tay sai.
2  Biên bản cuộc Tọa đàm ngày 12-12-1980. tr.10. Tài liệu lưu Phòng nghiên cứu
lý luận Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
65

7.6 Page 66

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Phước Vinh Hạ, quận Châu Thành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng mới của Đảng.
Tháng 4-1936, Mặt trận Bình dân Pháp do Đảng Xã hội làm
nòng cốt đã giành được thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử có
56,6% số phiếu bầu với 72 ghế trong Quốc hội, một Chính phủ
cấp tiến được thành lập để thực hiện chương trình của Mặt trận
nhân dân. Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền đã
đề ra một số chủ trương cải cách tiến bộ theo hướng nới rộng
các quyền tự do, dân chủ ở Đông Dương. Cuộc đấu tranh đòi
các quyền lợi dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hòa bình trở
thành nguồn sinh khí chính trị mới ở thuộc địa. Đây chính là
những điều kiện hết sức thuận lợi cho Đảng Cộng sản và phong
trào đấu tranh chung ở Đông Dương nói chung, Việt Nam nói
riêng.
Người dân Phú Hữu và Nhơn Trạch được biết đến chủ
trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương (sau trở thành Mặt trận dân chủ Đông Dương), tập hợp
mọi lực lượng dân chủ tiến bộ để đấu tranh đòi tự do dân chủ,
cải thiện dân sinh, chống kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn thực
dân Pháp và bọn phản động thuộc địa. Các đồng chí đảng viên
phụ trách trên địa bàn tỉnh Biên Hòa đã tỏa đi các địa phương
để tuyên truyền, vận động, điều hành hoạt động của phong cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các đồng chí Dương Bạch
Mai, Trương Văn Bang, Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Văn Ký, Hồ
Văn Giàu về các vùng khác của Long Thành - Nhơn Trạch và
các làng của Phú Hữu hoạt động cách mạng.
66

7.7 Page 67

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Cuối năm 1936, Liên Tỉnh ủy miền Đông cử Trương Văn
Bang (Ba Bang), nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ (1933-1934)
về Biên Hòa để vận động thành lập Ban cán sự Đảng, xây dựng
thêm một số chi bộ mới ở các quận, đồn điền cao su, nhà máy,
xí nghiệp trong tỉnh.
Để nắm tình hình, Trương Văn Bang về ở nhà Huỳnh Xuân
Phan (Tư Phan) tại Bến Cá, xã Tân Triều, quận Châu Thành
là nơi tập trung đông dân và có phong trào tương đối mạnh.
Trương Văn Bang thường xuyên bí mật đi lại các xã, quận hoặc
thông qua giao liên là Lê Thị Trừ để xây dựng cơ sở đảng và
tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản nhằm thúc đẩy phong trào
cách mạng phát triển hơn nữa về quy mô, địa bàn hoạt động
của tổ chức đảng. Cùng với Trương Văn Bang, Lê Quang Sô,
Trần Văn Cừ, Nguyễn Văn Nghĩa và nhiều cán bộ khác về cùng
Xuân Lộc và các đồn điền cao su Cam Tiêm, An Lộc, Bình
Sơn... lập ra các Ủy ban hành động để tập hợp, lãnh đạo công
nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện
làm việc và đời sống.
Sau khi đến Biên Hòa, Trương Văn Bang móc nối đảng
viên của Chi bộ Bình Phước - Tân Triều, mở rộng địa bàn
hoạt động cách mạng cho đảng viên. Với bí danh “5 Lọ”, “5
Đen”, Trương Văn Bang làm nghề mộc, nghề thợ tiện ở tại nhà
Huỳnh Xuân Phan để qua mắt kẻ thù thường xuyên theo dõi
hoạt động của các chiến sĩ cách mạng. Nhà của Huỳnh Xuân
Phan trở thành địa điểm hội họp của Chi bộ Bình Phước - Tân
Triều, in ấn truyền đơn để tuyên truyền cách mạng ở quận Châu
67

7.8 Page 68

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Thành, Tân Uyên, thị xã Biên Hòa và nhiều địa phương khác.
Ban ngày Trương Văn Bang làm mộc, tối đến in truyền đơn, tổ
chức hội họp phổ biến kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng
Cộng sản Đông Dương về phương hướng, nhiệm vụ đấu tranh
cách mạng.
Hoạt động tuyên truyền cách mạng của cán bộ, đảng viên
Chi bộ Bình Phước - Tân Triều thúc đẩy phong trào đấu tranh
đòi tự do, dân sinh, dân chủ trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh
hơn trước, chính quyền tay sai huy động lực lượng đàn áp,
những người tổ chức đã khéo léo biến các cuộc mít tinh thành
cuộc biểu tình đả đảo cường hào ác bá, chống sưu cao thuế
nặng...
Trên cơ sở phát triển phong trào cách mạng, tháng 2-1937,
một cuộc họp gồm các đảng viên hoạt động ở hai quận Châu
Thành và Tân Uyên được tổ chức tại nhà đồng chí Huỳnh Văn
Ngọc (tức Năm Ông) xã Tân Triều. Hội nghị nhất trí thành lập
Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa. Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa được
thành lập do Trương Văn Bang làm Bí thư, Huỳnh Xuân Phan
làm Phó Bí thư, các Tỉnh ủy viên gồm Trần Văn Triết, Lê Văn
Tôn, Huỳnh Liễng, Nguyễn Hồng Kỳ...
Điều rất đặc biệt của sự kiện này là địa điểm hội nghị thành
lập Tỉnh ủy Lâm thời Biên Hòa chính là nơi mà hai năm trước
đó (tháng 2-1935) đã thành lập Chi bộ Bình Phước - Tân Triều.
Điều này tiếp tục khẳng định sự phát triển của Chi bộ Bình
Phước - Tân Triều trở thành hạt nhân nòng cốt cho sự thành lập
Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa.
68

7.9 Page 69

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa được thành lập là sự kiện
lịch sử vô cùng quan trọng đối với nhân dân, phong trào cách
mạng tỉnh Biên Hòa, tạo ra bước ngoặt mới trong tiến trình
cách mạng, kịp thời lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ
Đông Dương, làm tiền đề, cơ sở cuộc vận động Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Sau khi thành lập, Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa tăng cường
lãnh đạo, cử đảng viên về các địa phương có phong trào đấu
tranh mạnh mẽ, quyết liệt như đồn điền cao su Bình Sơn (Long
Thành), Cam Tiêm (Xuân Lộc),... các địa phương xa như Phú
Hữu, Phước Khánh,... của huyện Long Thành nói riêng, toàn
tỉnh nói chung. Qua phong trào đấu tranh, tổ chức đảng đã giúp
quần chúng nhân dân nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết
chủ nghĩa cộng sản và mục tiêu đấu tranh của cách mạng. Cùng
với tình hình chung, phong trào cách mạng ở Nhơn Trạch -
Long Thành bắt đầu đi vào chiều sâu, trong đó, sự thẩm thấu
tinh thần đấu tranh giải phóng quê hương dưới lãnh đạo của
Đảng ở xã Phú Hữu không là ngoại lệ.
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế thứ hai bùng nổ, đầu năm
1940 thực dân Pháp tiến hành khủng bố các chi bộ đảng, tổ
chức cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trên địa bàn toàn
tỉnh Biên Hòa. Trước tình hình này, Trung ương Đảng đã kịp
thời chuyển hướng lãnh đạo cách mạng, thay đổi hình thức đấu
tranh từ hoạt động chủ yếu công khai, hợp pháp sang bí mật,
bất hợp pháp, chuyển trọng tâm địa bàn hoạt động từ đô thị về
nông thôn.
69

7.10 Page 70

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Tháng 9-1940, phát xít Nhật tràn vào xâm lược nước ta,
Pháp - Nhật ra sức cấu kết bóc lột nhân dân Việt Nam. Người
dân Long Thành và Phú Hữu chịu cảnh “một cổ hai tròng” đó
là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đời sống kinh tế của người
dân Phú Hữu và toàn huyện Long Thành càng thêm phần cơ
cực. Nỗi khổ của người dân Phú Hữu càng thêm chồng chất, trở
thành một trong các yếu tố quan trọng để Đảng Cộng sản lãnh
đạo quần chúng nhân dân tiến hành phong trào cách mạng khi
thời cơ đến. Hột lúa vùng đất giồng làm ra đã vất vả, lính Nhật
còn bắt dân đóng lúa hương lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay
cho than để chạy máy. Không có gạo ăn, người dân phải mót
khoai lang, khoai mì, ăn độn rau cỏ các loại, nạn thiếu đói xuất
hiện ở Nhơn Trạch. Chưa hết, năm 1941 Nhật vào tỉnh Biên
Hòa, người dân Phú Hữu phải đi xâu làm sân bay ở Nước Trong
(An Lợi), Gò Dầu (Phước Thái), đào hầm hào cho bọn phát xít.
Bọn phát xít Nhật rất tàn ác, chúng dùng thanh sắt đánh những
ai chậm tay, chậm chân, có người chúng đánh đến chết. Cảnh
bắt phu, bắt lính diễn ra liên miên khiến người dân đã khổ vì đói
rách, còn khổ sở vì lao dịch nặng nề, hà khắc. Người dân Phú
Hữu oán hận chất chứa trong lòng như ngọn lửa sắp bùng cháy,
chỉ chờ cơ hội đến sẽ bùng phát ngất trời.
Trước khí thế hừng hực căm hờn của quần chúng nhân dân
Nam Bộ đối với sự cai trị, bóc lột tàn bạo, dã man của thực dân
Pháp, phát xít Nhật, Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định lãnh đạo
khởi nghĩa Nam Kỳ vào ngày 23-11-1940. Trên địa bàn tỉnh
Biên Hòa, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ theo kế hoạch, nhưng
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
kết quả đạt được không như mong muốn, nhiều đồng chí lãnh
đạo chủ chốt bị địch bắt đày đi Côn Đảo như Lê Văn Tôn,
Nguyễn Hồng Kỳ, Trần Văn Triết... Thực dân Pháp khủng bố
phong trào cách mạng khốc liệt trên địa bàn tỉnh Biên Hòa. Tuy
nhiên, vùng nông thôn tỉnh Biên Hòa và xã Phú Hữu phong trào
cách mạng tiếp tục hoạt động bí mật, chờ thời cơ.
Sau thời gian kiên trì xây dựng cơ sở cách mạng của các
đồng chí đảng viên, năm 1943 Ban cán sự miền Đông cử đồng
chí Trịnh Văn Dục (Ba Dục) về quận Long Thành hoạt động.
Đến cuối năm 1944, đồng chí đã tổ chức quân bộ Việt Minh đầu
tiên của tỉnh ở quận Long Thành, xây dựng được mạng lưới cơ
sở Việt Minh trong các đồn điền cao su, lập được chi bộ Đảng
ở cơ sở Bình Sơn do đồng chí Vũ Hồng Phô làm bí thư. Đồng
chí Trịnh Văn Dục hóa trang lúc thì làm nghề bán thuốc lào, khi
thì chăn nuôi ngựa, đánh xe ngựa, khi thì làm người bán dạo, đi
khắp địa bàn Nhơn Trạch - Long Thành để móc nối xây dựng
cơ sở Đảng.
Thời đó, mỗi đồng chí đảng viên hoạt động ở nhiều xã trên
địa bàn một huyện, hoặc nhiều huyện, nên người dân Phú Hữu
được các đồng chí đảng viên cốt cán như Trịnh Văn Dục, Vũ
Hồng Phô truyền lửa nhiệt huyết cách mạng, chỉ dẫn hình thức
đấu tranh hiệu quả, kiên trì chờ thời cơ khởi nghĩa giải phóng
quê hương. Trên cơ sở đó, những hạt giống đỏ của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được gieo cấy, nẩy mầm ở đất lành Nhơn
Trạch, mà trước hết là địa bàn Phước An, Phước Thọ, Đại
Phước, Phú Thạnh, Phú Hữu, Phước Khánh.
71

8.2 Page 72

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Năm 1943, Xứ ủy Nam Kỳ cử các đồng chí đảng viên dày
dạn kinh nghiệm như Phạm Văn Búng, Hồ Văn Giàu, Phạm
Văn Khoai... tăng cường hoạt động, xây dựng cơ sở cách mạng
trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, chuẩn bị lãnh đạo quần chúng nhân
dân bước vào giai đoạn đấu tranh cách mạng mới. Trên địa bàn
Nhơn Trạch - Long Thành, các cơ sở Đảng được đồng chí Trịnh
Văn Dục gầy dựng ở các xã và đồn điền cao su vẫn bí mật hoạt
động, đang có nhiều cơ hội phát triển. Tháng 3-1944, đồng chí
Lê Minh Định được Ban cán sự miền Đông giao việc về Long
Thành, gặp đồng chí Ba Dục bàn việc xây dựng và phát triển cơ
sở Đảng ở Long Thành. Từ hạt giống đỏ chi bộ ở Long Thành,
số lượng đảng viên không ngừng tăng lên, tỏa đi nhiều xã trong
quận, trong đó có xã Phú Hữu để gây dựng thêm cơ sở cách
mạng, chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ nổi dậy tiêu diệt quân xâm
lược và tay sai dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trên địa bàn xã Phú Hữu có nhiều gương thầy giáo yêu
nước, sớm giác ngộ theo cách mạng. Các thầy Phạm Văn Hinh,
Nguyễn Hảo Văn mặc dù hưởng lương của chế độ thực dân,
nhưng cảm nhận được thân phận trâu ngựa của đất nước nô lệ
nhục nhã, đau đớn, ngọn lửa yêu nước, thương nòi luôn âm ỉ
trong tim của quý thầy và được truyền lại cho thế hệ trẻ thời bấy
giờ. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bùng nổ, các thầy
đón chào cách mạng hồ hởi, hòa mình ngay vào dòng thác cứu
quốc sôi nổi của tất cả người dân trong xã Phú Hữu. Khi thực
dân Pháp tái xâm lược trở lại quê hương Phú Hữu, quý thầy lần
lượt thoát ly ra vùng tự do góp phần công sức vào cuộc kháng
72

8.3 Page 73

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
chiến, kiến quốc. Quý thầy đã đứng vào hàng ngũ tiên phong,
được kết nạp Đảng trong khi một số kẻ khác lăm le nhảy ra làm
tay sai cho giặc hòng duy trì quyền lợi ích kỷ của bản thân.
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai
đoạn cuối, hai tên xâm lược nước ta sẽ tiến hành loại trừ lẫn
nhau; ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp
trên toàn cõi Đông Dương, quân Pháp nhanh chóng đầu hàng
Nhật. Trước tình hình đó, ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra Chỉ thị: Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta.
Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, chính quyền tay sai Nhật được
dựng lên thay thế chính quyền tay sai Pháp tiếp tục áp bức, bóc
lột nhân dân, đàn áp phong trào cách mạng, khủng bố các tổ
chức đảng, truy bức đảng viên. Phong trào đấu tranh của quần
chúng bùng nổ ở nhiều nơi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy,
ở tỉnh Biên Hòa tổ chức thanh niên Tiền Phong được thành lập
do Huỳnh Thiện Nghệ làm thủ lĩnh1, xây dựng cơ sở ở nhiều
nơi và Phú Hữu để phối hợp đấu tranh giành chính quyền khi
thời cơ đến.
Trên cơ sở phát triển mạnh mẽ phong trào đấu tranh của
quần chúng, tại địa bàn Long Thành, lực lượng Thanh niên
Tiền phong được tổ chức do thầy giáo Nguyễn Văn Chỏi làm
thủ lĩnh, với sự tham gia chỉ huy của nhiều đảng viên dày dạn
1  Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai (1997),
Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930-1995, tập 1, Nxb
Đồng Nai, tr.88.
73

8.4 Page 74

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
kinh nghiệm. Lực lượng tham gia Thanh niên Tiền phong Long
Thành phát triển rất mạnh, lan tỏa nhanh, đều khắp ở các xã
và đồn điền cao su, quy tụ được nhiều thành phần thanh niên
tham gia và xã Phú Hữu không nằm ngoài tình hình chung của
phong trào cách mạng trước thềm của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
Đồng thời, Đoàn Thanh niên Tiền phong trên địa bàn Nhơn
Trạch có lẽ bắt nguồn từ khu vực cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) gắn
với hoạt động của đồng chí Trần Thị Ba - đảng viên cộng sản
được cấp trên phái về xứ Giồng Ông Đông hồi đầu năm 1945.
Không rõ cô từ đâu tới; vóc dáng cô thấp bé, nhưng rất lanh
lợi, rất khéo trong nói năng, giàu sức thuyết phục nên nhanh
chóng tập hợp được nhiều thanh niên vùng Phú Thạnh, Phú
Hữu, Phước Khánh... Bên cạnh đó, Nguyễn Sanh Thành hoạt
động ở Phú Hữu dưới vỏ bọc đi bán trâu bò tại địa phương và
cầu Lò Đúc (Phú Nhuận) cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho
cách mạng ở quận Long Thành.
Đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô và các nước Đồng
Minh từng bước làm suy yếu phát xít Đức. Ngày 7-5-1945, phát
xít Đức hoàn toàn đầu hàng phe đồng minh, chiến tranh thế
giới thứ 2 kết thúc tại châu Âu. Trên chiến trường châu Á, ngày
6-8-1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima,
ngày 9-8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử thứ 2 xuống thành phố
Nagasaki, ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng, chiến tranh thế
giới thứ 2 kết thúc ở châu Á.
74

8.5 Page 75

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Trước tình hình chuyển biến mau lẹ, tháng 8-1945, Trung
ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự
báo chính xác, kịp thời lãnh đạo cả nước tiến hành Cách mạng
Tháng Tám. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông
Dương. Ngày 16-8-1945, Đại hội đại biểu Quốc dân (tức Quốc
dân Đại hội Tân Trào) được triệu tập ở Tân Trào. Quốc dân Đại
hội Tân Trào là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa giành chính quyền
một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt
Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh mình và đất nước mình.
Trước khí thế cách mạng sục sôi trên phạm vi cả nước và chỉ
đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, tại xã Bình Trước quận Châu Thành,
ngày 23-8-1945, đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì họp bàn
kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Biên Hòa.
Trên địa bàn quận Long Thành bao gồm Nhơn Trạch, các chi
bộ đảng nắm bắt thông tin Cách mạng Tháng Tám bùng nổ từ
Hà Nội, Huế, đã lãnh đạo các lực lượng tuyên truyền, vận động
người dân chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt chờ Ủy ban khởi nghĩa
tỉnh Biên Hòa phát động sẽ vùng lên giành chính quyền về tay
nhân dân. Ủy ban khởi nghĩa Long Thành bao gồm cả Nhơn
Trạch nhanh chóng được thành lập gồm các đồng chí Trịnh Văn
Dục, Vũ Hồng Phô... xác định thời gian khởi nghĩa giành chính
quyền ngày 24-8-1945.
75

8.6 Page 76

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Theo kế hoạch, từ sáng sớm ngày 24-8-1945, lực lượng
nòng cốt Thanh niên Tiền phong, dân quân, du kích, quần chúng
cốt cán lần lượt chiếm giữ các vị trí quan trọng được xác định
trước trên địa bàn quận Long Thành. Đến hết buổi sáng, tại văn
phòng quận trưởng Long Thành, đồng chí Trịnh Văn Dục tuyên
bố: Kể từ giờ phút này chính quyền cũ phải chấm dứt hoạt động
từ huyện đến xã. Chính quyền cách mạng đại diện cho quyền
lợi của nhân dân trong huyện bắt đầu làm việc. Quận trưởng
thay mặt chế độ cũ phải giao toàn bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng,
vũ khí, thả hết các phạm nhân. Cách mạng là sự nghiệp của mọi
người, sẵn sàng khoan hồng cho tất cả những ai đã trót tham
gia chế độ cũ. Sau lời tuyên bố của Trịnh Văn Dục, hàng ngàn
người nhất loạt hô vang: Việt Nam độc lập muôn năm. Chính
quyền cách mạng muôn năm.
Sáng ngày 25-8-1945, tại xã Phú Hữu, Ban Đồng Nai tổ
chức đoàn người đông đảo giương cao cờ đỏ sao vàng năm
cánh từ cầu Cháy qua Giồng Ông Đông. Hàng trăm nam nữ
thanh niên, ông bà già, trẻ em kéo về nhà hội xã giải tán chính
quyền cũ. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi trên quê hương Phú
Hữu. Nguyễn Văn Thông mới 11 tuổi náo nức nhảy chân sáo
theo mọi người cùng hô vang một số khẩu hiệu “Việt Nam độc
lập đồng minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Ủy ban nhân dân lâm thời các xã của quận Long Thành và
xã Phú Hữu lần lượt được thành lập để ổn định tình hình chính
trị, xã hội ở địa phương. Một không khí phấn khởi bao trùm đầu
trên xóm dưới ở xã Phú Hữu mừng ngày quê hương sạch bóng
76

8.7 Page 77

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
quân xâm lược và tay sai. Ủy ban nhân dân lâm thời xã Phú
Hữu đã tổ chức mít tinh mừng thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám ở huyện Long Thành; đặc biệt là ngày 2-9-1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam) tại Hà Nội với không khí phấn khởi, vui tươi,
thỏa lòng mong ước độc lập, tự do của người dân Phú Hữu.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công vĩ đại dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh, với sự thành lập chính quyền cách mạng ở
Phú Hữu đã chấm dứt chuỗi ngày nô lệ đen tối, bị áp bức bóc
lột của quân xâm lược, tay sai, phong kiến đối với người dân
nơi đây. Chính quyền cách mạng của dân, do dân, vì dân xã Phú
Hữu bắt đầu đi vào hoạt động, một cuộc sống mới độc lập, tự
do bắt đầu hé mở, một cuộc đổi đời thành hiện thực. Khí thế
hăng say, hào hứng, vui mừng luôn hiện lên trên nét mặt của
mỗi người dân Phú Hữu từ xã đến ấp. Trên địa bàn xã Phú Hữu
và huyện Long Thành, đời sống mới mang đến không khí mới.
Ngày đêm, người dân được tự do làm ăn, đi lại, hứng khởi tập
trung ở nhà làng, trụ sở xã, ấp bàn tán, nghe nói chuyện về Việt
Minh, trông đợi ở Việt Minh đem lại cuộc sống cơm no, áo ấm,
hạnh phúc.
Trước sức mạnh vũ trang của thực dân Pháp, người dân
Phú Hữu và huyện Long Thành đều đứng lên chiến đấu chống
thực dân Pháp và tay sai. Từ hào khí quyết tâm bảo vệ mảnh
đất quê hướng đến lúc hy sinh của Nguyễn Đức Ứng, đến
77

8.8 Page 78

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
phong trào Thiên Địa hội hoạt động trên địa bàn rộng lớn từ
Phú Hữu, Phước Khánh,... chống thực dân Pháp bằng nhiều
hình thức khác nhau. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, năm 1935 Chi bộ Bình Phước - Tân Triều thành lập, năm
1937 Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa thành lập ở Bình Phước - Tân
Triều trở thành ánh sáng soi đường, mang đến luồng gió mới,
phương pháp đấu tranh mới, khơi dậy khát vọng độc lập tự do
cho người dân Phú Hữu cùng huyện Long Thành một lòng, một
dạ theo Đảng đồng tâm hiệp lực, đoàn kết thống nhất tiến hành
Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi ngày 25-8-1945, đưa
lịch sử Phú Hữu bước sang trang mới và ra sức bảo vệ những
thành quả có được.
II. CHIẾN ĐẤU CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TÁI
XÂM LƯỢC (1945-1954)
1. Bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Khát vọng độc lập, tự do:
Từ khi thực dân Pháp vũ trang xâm lược tỉnh Biên Hòa năm
1861 đến trước Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945,
người dân Phú Hữu và quận Long Thành chưa một ngày yên
ổn làm ăn, ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, Cách mạng Tháng
Tám thành công với sự thành lập chính quyền cách mạng ở Phú
Hữu chăm lo mọi mặt đối với người dân là một kỳ tích lịch sử
ở vùng đất nhiều bề gian khó này.
Sau khi chính quyền lâm thời Phú Hữu thành lập, cùng bối
cảnh chung của huyện Long Thành cũng như cả nước bước vào
78

8.9 Page 79

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
thời kỳ đầy gian khó, thử thách với thù trong, giặc ngoài, giặc
đói, giặc dốt... Để chuẩn bị bước vào giai đoạn thử thách mới,
dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, chính quyền cách mạng
trên địa bàn Long Thành - Nhơn Trạch quyết tâm bảo vệ thành
quả Cách mạng Tháng Tám dù phải hy sinh, mất mát. Quận ủy
Long Thành lãnh đạo Ủy ban cách mạng lâm thời triển khai
thực hiện các nhiệm vụ cấp bách của tỉnh Biên Hòa và Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu. Các vấn đề cấp bách đó là diệt giặc đói, giặc dốt,
chống giặc ngoại xâm, tổng tuyển cử bầu chính quyền chính
thức, thực hành tiết kiệm, bãi bỏ các loại thuế vô lý, đoàn kết
lương giao để xây dựng xã hội mới. Ủy ban cách mạng lâm thời
huyện Long Thành tiến hành bãi bỏ thuế thân, tịch thu ruộng
đất của đế quốc, địa chủ phong kiến tay sai cấp cho người dân
nghèo để canh tác, giải quyết nạn đói trước mắt.
Chính quyền cách mạng tịch thu các kho lương thực của
thực dân Pháp, phát xít Nhật và tay sai ở nhiều đồn điền cao
su, kho Thành Tuy Hạ để giải quyết lương thực cho người dân
nghèo; bên cạnh đó, tổ chức tuyên truyền, vận động, chỉ dẫn
người dân tập trung khai khẩn đất đai, tăng gia sản xuất, trồng
các loại hoa màu ngắn ngày rau, đậu, củ quả, bắp, lúa... Với các
chủ trương, chính sách này của Quận ủy, Ủy ban cách mạng
lâm thời quận Long Thành, chính quyền xã Phú Hữu đã vận
động người dân “nhường cơm sẻ áo”, tăng cường đánh bắt thủy
sản, khai thác lâm thổ sản, tận dụng các giồng đất cao trồng
tỉa nhiều loại hoa màu ngắn ngày như bắp, khoai lang, khoai
79

8.10 Page 80

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
mỳ, trồng lúa ở nơi nước ngọt... nên địa phương không có hiện
tượng đói kém, cùng cực xảy ra như nhiều địa phương khác.
Địa phương vận động bà con chuẩn bị tích trữ lương thực, nhu
yếu phẩm để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài sẽ đến.
Thành lập chính quyền xã Phú Hữu:
Trong bối cảnh mới giành chính quyền, ngày 9-9-1945,
Nguyễn Sanh Thành được cử làm trưởng Đoàn Thanh niên
Tiền phong xã Phú Hữu dưới sự chỉ đạo của Ban Đồng Nai do
Nguyễn Văn Đọt làm thủ lĩnh. Phong trào quần chúng yêu nước
diễn ra sôi nổi nhưng số đảng viên cộng sản ở Phú Hữu rất ít,
một số kẻ cơ hội giả danh cách mạng như cò Hảo, cò Hòa...
nhảy ra vỗ ngực xưng tên, lợi dụng thời cơ thực hiện ý đồ cát
cứ, tranh giành ảnh hưởng với Đảng tại khu vực này.
Để ổn định tình hình chính trị, xã hội ở địa phương sau khi
cách mạng giành chính quyền, xã Phú Hữu thành lập Mặt trận
Việt Minh và Ủy ban nhân dân cách mạng theo chỉ đạo của
Quận ủy Long Thành. Phạm Văn Lấm làm chủ nhiệm quân sự,
Nguyễn Ngọc Vui - Ủy viên quân sự, Nguyễn Sanh Thành - Ủy
viên chính trị; Lê Xuân Toản - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
Nguyễn Văn Thôi - Ủy viên giao thông, Võ Văn Đủ - Ủy viên
an ninh. Đoàn Thanh niên cứu quốc, Đoàn Phụ nữ cứu quốc,
Hội Phụ lão cứu quốc, Đội Thiếu niên nhi đồng cứu quốc lần
lượt ra đời bảo vệ chính quyền cách mạng ở xã.
Đoàn Thanh niên Tiền phong Phú Hữu sôi nổi luyện tập
quân sự, tuần tra canh gác xóm làng chặt chẽ, chống trộm cắp,
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cướp giật. Các đoàn viên trang bị chủ yếu bằng tầm vông vót
nhọn. Một khẩu súng săn hai nòng loại calip đui (donge) của
Thái Văn Xuân (hào Xuân) được giao cho người uy tín cất giữ.
Nguyễn Sanh Thành và một số anh em tìm mua được vài khẩu
súng hai nòng của lính Nhật ở kho Thành Tuy Hạ để tự trang bị
võ trang ở địa phương. Phú Hữu từ xưa im lìm vắng vẻ, thì nay
tối tối đường làng rộn rã đầy ắp tiếng hô, tiếng cười xôn xao
vang động tới khuya do tập võ nghệ, chuẩn bị bảo vệ quê hương
trước sự lăm le tái xâm lược của thực dân Pháp.
Trên địa bàn toàn quận Long Thành và xã Phú Hữu, đến
cuối tháng 9-1945, bộ máy chính quyền, đoàn thể ở các xã cơ
bản thành lập xong. Mỗi đoàn thể có Ban Chấp hành từ 5-7
người, hội viên tham gia rất đông. Nhiều xã hầu như người
dân nào cũng tham gia đoàn thể. Nhờ đó, phong trào tăng gia
sản xuất, đóng góp giúp đỡ kháng chiến trong toàn quận được
đẩy mạnh... Khẩu hiệu: Thanh niên ta không nên do dự hãy lên
đường chiến đấu bảo vệ độc lập được thể hiện bằng nhiều biểu
ngữ, tranh vẽ, loa phóng thanh rộn rã khắp nơi ở quận Long
Thành nói chung, xã Phú Hữu nói riêng.
Để bảo vệ chính quyền cách mạng lâm thời xã Phú Hữu,
các đội dân quân tự vệ, các hội đoàn thể như Hội Phụ nữ cứu
cuốc, Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ lão cứu
quốc, Thiếu nhi cứu quốc... nhanh chóng đi vào hoạt động. Xã
Phú Hữu và các xã nhanh chóng thành lập dân quân tự vệ dưới
sự chỉ huy trực tiếp của Ủy ban lâm thời xã, mỗi đội dân quân
81

9.2 Page 82

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
xã có từ 30-36 hội viên, đội dân quân ấp có từ 10 đến 20 người.
Đội dân quân xã nào cũng có từ 1-2 cây súng và vài ba trái tạc
đạn. Lực lượng bảo vệ chính quyền cách mạng ở xã Phú Hữu
cơ bản được trang bị phương tiện vũ khí, mặc dù còn ít ỏi, chủ
yếu sử dụng tầm vông vạt nhọn, với quân số ở xã, ấp khá đông
khoảng 70 người.
Ngày 14-9-1945, dưới sự lãnh đạo Quận ủy, Ủy ban cách
mạng lâm thời Long Thành tổ chức một cuộc mít tinh với đông
đủ đại biểu và Thanh niên cứu quốc các xã, phát động tinh thần
toàn dân cứu nước, bảo vệ chính quyền nhân dân vừa thành lập.
Đặc biệt, đội Cộng hòa vệ binh đầu tiên của Long Thành được
thành lập với 11 khẩu súng trường thu được của lính mã tà sau
khởi nghĩa, còn lại là tầm vông, giáo mác. Ngoài đội Cộng hòa
vệ binh, ở Long Thành còn hình thành một số tổ chức vũ trang
mang tính tự phát để bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám
ở các địa phương và xã Phú Hữu.
Chiến đấu chống thực dân Pháp tái xâm lược từ những
ngày đầu:
Các địa phương Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước... trở
thành nơi khởi đầu cuộc chiến đấu oanh liệt chống thực dân
Pháp tái xâm lược sau Cách mạng Tháng Tám thành công ở
Nam Bộ. Giữa tháng 9-1945, quân Pháp tiếp nhận kho đạn
Thành Tuy Hạ do phát xít Nhật bàn giao; dưới sự lãnh đạo của
Ủy ban cách mạng lâm thời các xã xung quanh kho đạn này đã
chủ động tấn công quân Pháp trước khi chúng tổ chức đàn áp
82

9.3 Page 83

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
phong trào kháng chiến ở các địa phương. Do đó, đêm hôm đó,
đội cảm tử Ban Đồng Nai1 đột nhập, phá hủy một nhà máy mủ
Thành Tuy Hạ. Tiếng súng trên Sông Sâu ngày 20-9-1945 mở
đầu cuộc chiến đấu của quân dân Long Thành chống thực dân
Pháp tái xâm lược Việt Nam nói chung, ở Phú Hữu nói riêng.
Âm mưu tái xâm lược nước ta của thực dân Pháp đã có từ
lâu, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chỉ 3 tuần sau ngày
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rạng sáng ngày 23-9-1945,
quân Pháp tấn công các cơ quan đầu não của trụ sở chính quyền
cách mạng ở Sài Gòn, chính thức tái xâm lược nước ta lần thứ
hai.
Trước tình hình đã được dự báo trước, ngay trong đêm 23-
9-1945, đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt Xứ ủy Nam Bộ triệu
tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Biên Hòa tại nhà Hội xã Bình
Trước, quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa. Hội nghị đã bầu Ban
Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời gồm 11 đồng chí, đề ra các nhiệm
vụ trước mắt củng cố Ủy ban nhân dân tỉnh, cử các đoàn cán bộ
tỉnh về thành lập các quận ủy2. Thực hiện sự lãnh đạo của Tỉnh
1  Ban Đồng Nai là ban thủ lĩnh của một đoàn Thanh niên Tiền phong gần 200
công nhân ở Thành Tuy Hạ do Nguyễn Văn Đọt phụ trách, xây dựng một lực
lượng vũ trang tập trung gồm 20 người với 7 súng. Ban Đồng Nai hoạt động theo
sự chỉ đạo của Ban kháng chiến Nam Bộ ở Sài Gòn (dẫn theo Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch (2015), Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (1930-2015), Nxb Đồng
Nai, tr.104).
2  Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai (1997), Lịch
sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai 1930-1995, tập 1, Nxb Đồng
Nai, tr.111, 112.
83

9.4 Page 84

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
ủy lâm thời Biên Hòa, Quận ủy Long Thành đề ra chủ trương,
đường lối để chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp tái
xâm lược. Xã Phú Hữu và các xã của quận Long Thành, lúc
bấy giờ hừng hực khí thế sẵn sàng chiến đấu. Ở các xã trên địa
bàn Long Thành, ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm tới xẩm tối
lúc nào cũng vang dậy tiếng bước chân đi đều, tiếng hô “Một!
Hai!” của các chiến sĩ Cộng hòa vệ binh, tạo không khí phấn
khởi đối với người dân từ xã đến xóm ấp sẵn sàng xông pha, đọ
sức với kẻ thù ngoan cố, thâm độc, chà đạp lên lẽ phải, nguyện
vọng chính đáng độc lập, tự do của người dân Phú Hữu.
Để chuẩn bị đối phó với quân xâm lược thực dân Pháp,
ngày 23-10-1945, Quận ủy Long Thành cử đồng chí Trương
Minh Kỷ (Bảy Kỷ) - Huyện ủy viên về Phú Hữu bàn bạc với
Trần Thị Ba gấp rút làm một số việc: Thành lập Mặt trận Việt
Minh, chính quyền và đoàn thể cứu quốc, sáp nhập Thanh niên
Tiền phong và Đoàn Thanh niên cứu quốc, lập đội tự vệ chiến
đấu, có kế hoạch chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa I ngày 6-1-
1946. Mờ sáng ngày 13-11-1945, ở xã Phú Hữu và khắp các
ngả đường trong quận đã rầm rập những bước chân người...
Hơn 5.000 đồng bào Ông Kèo Phước An, Phước Long, Phước
Thọ, Phước Lai, Phước Kiển theo lộ 19, Phước Thành, Long
Tân, Phú Thạnh, Mỹ Hội cũng theo tỉnh lộ 17 hội nhập tại
Phước Thiền rồi tiến thẳng vào thị trấn Long Thành. Xã nào
cũng có đoàn tham gia biểu tình, có cán bộ xã tổ chức hướng
dẫn. Hàng trăm đồng bào cũng theo ghe tập trung ở Phú Hữu,
Phước Thành từ nhiều hôm trước để cùng đi thể hiện niềm tin
84

9.5 Page 85

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tuyệt đối của người dân Long Thành đối với Đảng Cộng sản
Đông Dương, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đồng thời biểu
dương lực lượng quần chúng đối với quân xâm lược và tay sai.
Để thiết thực bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ ở xã
Phú Hữu và các xã trên địa bàn Long Thành, cuộc vận động ủng
hộ nuôi quân do địa phương phát động được người dân hưởng
ứng nhiệt liệt từ xã đến xóm ấp. Đến tháng 11-1945, trên địa
bàn xã Phú Hữu nói riêng, các xã của Long Thành nói chung,
đã vận động người dân ủng hộ lương thực, thực phẩm cung cấp
cho bộ đội không thiếu. Công binh xưởng có nhiều đồ đồng do
dân góp để chế tạo vũ khí. Các xã Tập Phước, Bà Ký, Tam An,
Phú Hữu, Phú Hội... là những đơn vị thực hiện tốt phong trào...
Qua sự đóng góp của mỗi gia đình Phú Hữu dù ít hay nhiều,
bằng nhiều cách thức khác nhau, song đều toát lên tinh thần
ủng hộ cách mạng, tin tưởng chính quyền mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh giai đoạn 1945-1954.
2. Chi bộ Phú Hữu lãnh đạo nhân dân thực hiện đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh
sinh
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo trên lĩnh vực quân sự:
Ngày 11-11-1945, quân Pháp trở lại chiếm kho đạn Thành
Tuy Hạ. Chúng tổ chức thành hai cánh, một cánh đổ bộ lên kho
Thành Tuy Hạ - nơi lính Nhật đang canh giữ kho vũ khí, chờ
85

9.6 Page 86

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
quân Đồng Minh đến giải giới. Cánh quân còn lại từ bến đò Cát
Lái theo đường 17 đi lên. Quân Pháp đi đến đâu, chúng bắn phá
bừa bãi, người dân các ấp Câu Kê, Bến Cộ... chạy tứ tán, hoang
mang hốt hoảng trước miệng súng của kẻ thù.
Đội tự vệ xã Phú Hữu gồm khoảng 40 thanh niên rút từ
Thanh niên Tiền phong các ấp lên, trong đó có những người
quả cảm, gan dạ như Nguyễn Văn Cát - Đội trưởng, Trần Văn
Sẵn, Trần Văn Hiệp, Trần Văn Thiên, Nhiều, Hùng, Phát, Tứ,
hai anh em người Khơme là Sum và Kiểu. Cả đội có 5 súng hai
nòng, 1 súng mút Nhật, lưu đạn... hiên ngang chống lại sự xâm
lược của kẻ thù.
Ngày 19-12-1945, gần 100 tên lính lê dương từ Thành Tuy
Hạ kéo đến cầu Cháy, chúng tiến về Giồng Ông Đông đốt một
số nhà tranh ven đường, bắt heo, gà, vịt của người dân. Trước
tình hình này, Đội tự vệ Phú Hữu bí mật nằm áp sát đường dưới
những ruộng lúa chờ địch. Khi chúng lọt vào trận địa, đội tự vệ
nổ súng. Anh Chín Cát và hai đội viên Sum, Kiên ném lựu đạn
vào chúng. Hàng trăm đồng bào già trẻ, gái trai có mặt ở đầu
giồng dưới hô vang: Xung phong, xung phong và hoan hô anh
em tự vệ đánh giặc mặc cho đạn địch nổ rền. Ngày hôm say,
Nguyễn Sanh Thành, Trương Minh Kỷ - Huyện ủy viên, và cô
Trần Thị Ba họp kiểm điểm trận đầu đánh Pháp sau khi giành
chính quyền, động viên tinh thần dũng cảm của anh em toàn
đội. Sau trận này, quân địch ở Thành Tuy Hạ thường xuyên càn
quét, bố ráp, chúng bắn người dân bừa bãi, cướp của, đốt nhà,
86

9.7 Page 87

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
hãm hiếp phụ nữ. Ông Mười Ngãi đi kéo vó tôm về đến đường
Cộ bị chúng bắn chết, hay chúng sát hại ông cố Đỏ, chị Nguyễn
Thị Ngọc T bị chúng làm nhục rồi bắn chết...
Để tuyên truyền công tác bầu cử Quốc hội, Đội Thiếu niên
nhi đồng cứu quốc xã Phú Hữu dùng loa phát các tin tức, chủ
trương, chính sách cấp trên. Nhiều đội viên thuộc lòng nội dung
tuyên truyền: Nghe đây, nghe đây... Ngày 2-9-1945, tại Thủ đô
Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chánh phủ lâm thời
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Nghe đây, nghe đây... Ngày 20-9-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh tổ chức bầu cử Quốc hội khóa I
trong cả nước. Vậy yêu cầu đồng bào trong xã từ 18 tuổi trở lên
đi bầu cử vào lúc 7 giờ sáng ngày 6-1-1946 tại trụ sở Ủy ban
nhân dân xã. Nghe đây, nghe đây... Ngày 3-9-1945, Hội đồng
Chính phủ quyết định phát động trong toàn quốc chiến dịch
tăng gia sản xuất, cứu đói. Yêu cầu đồng bào trong ấp, xã tiếp
tục trồng thêm nhiều khoai, lúa, chăn nuôi thêm nhiều gia súc,
gia cầm... Nghe đây, nghe đây... Ngày 25-11-1945, Trung ương
chỉ thị nhiệm vụ cần kíp của chúng ta là củng cố chính quyền
cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống nhân dân cả nước và địa bàn xã Phú Hữu.
Ngày bầu cử Quốc hội ở Phú Hữu diễn ra trong không khí
nhộn nhịp, lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Phú Hữu bao
đời chịu kiếp ngựa trâu, áp bức bóc lột của phong kiến, đế quốc,
phát xít được thực hiện quyền công dân của mình trong niềm
87

9.8 Page 88

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
vinh dự, hạnh phúc. Đội tuyên truyền của xã tiếp tục phát loa
nhắc nhở những ai chưa đi bầu cử hãy đi ngay để thực hiện
quyền công dân. Ngày 6-1-1946, xã Phú Hữu tiến hành bầu cử
Quốc hội trong tình hình giặc Pháp và tay sai uy hiếp, đàn áp,
nhưng kết quả hơn 90% cử tri tham gia bầu cử. Mặt trận Việt
Minh và các đoàn thể cứu quốc vừa tiếp tục phá đường, vừa bố
trí canh phòng nghiêm ngặt bảo vệ tốt cuộc bầu cử, nhân dân
phấn khởi tin tưởng vào sự điều hành, quản lý của chính quyền
cách mạng.
Xã Phú Hữu cùng các địa phương quận Long Thành tiến
hành tổ chức bầu cử Quốc hội khóa I (6-1-1946) thành công tốt
đẹp góp phần vào thắng lợi của cả nước bầu ra Quốc hội đầu
tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Cuộc bầu cử Quốc hội
khóa I thành công đã xác lập tính hợp pháp, hợp hiến của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng,
làm tăng uy tín, tính chính nghĩa, cơ sở pháp lý của nước ta
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược trên
trường quốc tế.
Trong diễn văn khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ: “Cuộc Tổng tuyển cử lại là cái kết quả của sự hy sinh, tranh
đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn
đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn
thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo,
88

9.9 Page 89

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành
một khối, hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập
cho Tổ quốc”1.
Cuối tháng 1-1946, quân Pháp từ Biên Hòa tiến công xuống
Long Thành, từ Sài Gòn chúng vượt phà Cát Lái tiến công Long
Thành từ phía Tây hòng tạo gọng kềm làm suy yếu sức kháng
cự của quân dân Long Thành. Đến chiều ngày 26-1-1946, chiến
sự tạm lắng dần trên địa bàn Long Thành, quân Pháp chiếm giữ
trung tâm Long Thành, một số xã xung quanh Thành Tuy Hạ,
chịu tổn thất nặng nề với hơn 100 tên lính Âu Phi bị chết, gần
100 tên bị thương, nhiều khí tài chiến tranh bị phá hỏng.
Đối với quân dân ta ở Long Thành, Nhơn Trạch bị tổn thất
lớn với 300 đồng bào, chiến sĩ hy sinh, gần 400 người khác bị
thương, 20 ghe của liên quân Bình Xuyên bị đánh đắm, 3 kho
gạo (15 tấn) bị cháy, một số xã như Phú Thạnh, Long Tân...
bị địch tràn vào cướp bóc. Chính quyền cách mạng non trẻ ở
nhiều xã bị tan rã, còn một vài đồng chí trung kiên bám trụ.
Các xã dọc theo tuyến lộ giao thông lớn như lộ 15, 17, 19 rút về
vùng Phước An, tiếp giáp Rừng Sác để chuẩn bị xây dựng căn
cứ chiến đấu lâu dài với kẻ thù. Mỗi xã nói chung, Phú Hữu nói
riêng bố trí một số đồng chí kiên trung, dày dạn kinh nghiệm
bám trụ địa phương, gầy dựng cơ sở cách mạng.
Trước tình hình tấn công lấn chiếm của quân Pháp và tay
sai vào vùng cách mạng, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy
1  Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.216.
89

9.10 Page 90

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
lâm thời Biên Hòa, Quận ủy Long Thành tổ chức họp ngày
20-2-1946 tại Phước Long nhằm phân tích, đánh giá tình hình
trước mắt, lâu dài và quyết định chia Long Thành ra 4 khu vực,
trong đó xã Phú Hữu thuộc khu III với các xã thuộc vùng Rừng
Sác gồm Phú Hữu, Phước An, Phước Thành, Phước Khánh. Xã
Phú Hữu tách thành 2 xã Phú Hữu và Phước Thành đặt dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quận ủy Long Thành. Việc
hình thành các khu vực trực thuộc Quận ủy Long Thành nhằm
cường hơn nữa công tác chủ động, sâu sát trong tác chiến trước
sự hung hăng tái xác lập sự cai trị của địch ở Phú Hữu.
Để thực hiện chủ trương kháng chiến trường kỳ, vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc, tháng 12-1946 Chiến khu Phước An thực
sự hình thành, trở thành địa bàn đứng chân của các cơ quan
Quận ủy Long Thành, một số cơ quan, đơn vị của Sài Gòn -
Chợ Lớn, huyện Nhà Bè, Thủ Đức và các lực lượng vũ trang
của trên về đứng chân ở nơi này. Đại đội C Vệ quốc đoàn Long
Thành ra đời tại Phước An do đồng chí Lương Văn Nho chỉ huy.
Tháng 6-1946, Chi đội 10 Biên Hòa thành lập, Vệ quốc đoàn
Long Thành trở thành Đại đội C. Theo chỉ đạo của Chi đội 10
Biên Hòa, Quận Long Thành tổ chức thành 4 liên thôn mang số
11, 12, 13, 14. Trong đó, liên thôn 13 gồm các xã Bình Thạnh,
Phước Lý, Phú Hữu, Phước Thành, Phước Khánh. Đồng chí Lê
Xuân Lịch là chỉ huy đội du kích liên thôn, Châu Thành Phát là
chỉ huy phó. Mỗi liên thôn tổ chức một trung đội du kích hoạt
động ở các xã, làm chỗ dựa cho chính quyền và các đoàn thể
hoạt động. Trên địa bàn Phú Hữu, cuối năm 1946, Đội tuyên
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
truyền xã đi khắp các xóm ấp thông tin đến người dân Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuối năm 1947, Chiến khu Phước An được nhiều người
mệnh danh là “Long Thành quốc”. Rừng Sác Long Thành nối
liền Rừng Sác Duyên Hải - Cần Giờ thành một dải liên tục, trở
thành nơi đồn trú của lực lượng vũ trang Bình Xuyên Dương
Văn Dương, Dương Văn Hà... lừng lẫy một thời; ngoài ra, còn
nhiều cơ quan của Nam Bộ như quân y, quân nhu... đứng chân
ở Chiến khu Phước An để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp
ở các địa phương Đông Nam Bộ và Phú Hữu. Thuyền bè Sài
Gòn - Chợ Lớn, Phú Hữu, Phước An... tấp nập tới lui. Lúa
gạo, các nhu yếu phẩm thuốc men từ đô thành buôn ra, chở tới
đây rồi chuyển cho các lực lượng cách mạng Rừng Sác và xã
Phú Hữu.
Năm 1951, Trung ương Cục miền Nam đã tiến hành phân
chia khu vực chiến trường để phù hợp với tình hình mới. Quận
ủy Long Thành được cắt chuyển về tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (tỉnh
Bà Chợ). Các cơ quan đầu não kháng chiến quận Long Thành
được chuyển về sâu trong vùng Rừng Sác đáp ứng yêu cầu mới
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Xã Phú Hữu trực
thuộc quận Long Thành, tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn.
Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc,
tăng cường lực lượng cán bộ cho cơ sở, Quận ủy Long Thành
có nghị quyết khẩn trương củng cố xã Phú Hữu. Hầu hết cán
bộ, du kích xã Phú Hữu đã hy sinh trong chiến đấu hoặc bị
91

10.2 Page 92

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
giặc bắt, cũng có một số ít cán bộ không chịu nổi gian khổ, sự
ruồng bố của kẻ thù nên bỏ vào Sài Gòn sinh sống. Quận ủy
Long Thành quyết định đưa Nguyễn Chiến Lũy (Nguyễn Văn
Thông) từ huyện về giữ chức vụ xã đội phó xã Phú Hữu kiêm
tổ trưởng vào tháng 7-1951.
Năm 1952, Nguyễn Sanh Thành chịu trách nhiệm làm
trưởng đoàn chỉ đạo khu III gồm 4 xã Phước Khánh, Phú Hữu,
Phước Thành, Phước Lý. Bên cạnh đó, đồng chí Nguyễn Sanh
Thành còn đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của huyện
là Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt
huyện... Cuộc kháng chiến của cán bộ, chiến sĩ, người dân Phú
Hữu ngày một trở nên ác liệt hơn so với trước.
Tháng 1-1952, Chi bộ Phú Hữu chỉ còn 4 đảng viên: Nguyễn
Văn Búp - Bí thư, các đồng chí Nguyễn Ngọc Dễ, Nguyễn
Ngọc Sánh, Nguyễn Tri Phương và hai quần chúng cảm tình là
Tống Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Năm. Thời gian trước, xã Phú
Hữu có lúc hơn 100 đảng viên. Đội du kích xã có 5 người, trong
đó, hai đội viên là Út Minh và Đoàn Văn Mãn với 1 cây súng
trường. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ cách mạng thời điểm đó rất
ít, địch không ngừng càn quét, ruồng bố, chúng dùng nhiều thủ
đoạn lôi kéo, dụ dỗ người dân làm tay sai cho chúng. Trong một
cuộc càn, địch bao vây bắt được Nguyễn Văn Búp - Bí thư Chi
bộ Phú Hữu. Chúng đưa đồng chí Búp về kho đạn Thành Tuy
Hạ tra tấn rất dã man, nhưng đồng chí kiên quyết giữ gìn khí
tiết của người chiến sĩ cách mạng, không khai một lời. Đồng
chí Nguyễn Văn Búp đã chửi xối xả vào mặt tên Việt gian ký
92

10.3 Page 93

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Hải, vạch mặt bọn cướp nước La-oọc. Không khuất phục được
Nguyễn Văn Búp, chúng đưa đồng chí đi bắn, để lại nỗi đau
quặn thắt bao tiếc thương cho gia đình, cán bộ, chiến sĩ, người
dân xã Phú Hữu. Chưa hết, tên ác ôn đội Sâm dẫn một tốp lính
com-măng-đô ở bót Giồng Ông Đông đột kích vào nhà bắn chết
Nguyễn Ngọc Dễ - Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính xã
Phú Hữu, phụ trách y tế. Sự hy sinh của hai đồng chí Búp, Dễ
đã thổi bùng hơn nữa ngọn lửa căm phẫn của người dân, cán bộ,
chiến sĩ xã Phú Hữu đối với thực dân Pháp và tay sai. Nguyễn
Chiến Lũy (Nguyễn Văn Thông) - Xã đội phó Phú Hữu quyết
tâm vạch trần, tiêu diệt Việt gian đã giết hại hai đồng chí Búp
và Dễ. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nguyễn Chiến Lũy vào
Giồng Ông Đông, bám trụ lại ven Rạch Cá Ta đầy cây bần và
dừa nước. Đồng chí đã móc nối được một số anh em: Lê Văn
Cớ, Huỳnh Văn Vinh, Nguyễn Văn Hùng, Ngô Thị Huy, Trần
Văn Thời và Thoàng, qua đó Nguyễn Chiến Lũy thăm hỏi tình
hình, động viên tinh thần yêu nước rồi giao nhiệm vụ cho từng
người.
Thứ nhất, anh chị em theo dõi bọn chỉ điểm dẫn lính com-
măng-đô vào giết chết đồng chí Dễ; thứ hai, theo dõi chặt tên ác
ôn đội Sâm. Sau khi nghiên cứu thực địa, tháng 3-1952, chi bộ
chấp thuận tờ trình vụ Mười T chỉ điểm cho giặc sát hại đồng
chí Nguyễn Ngọc Dễ. Nguyễn Chiến Lũy và Hai Sanh - Trưởng
Công an xã bí mật vào Giồng Ông Đông để bắt Mười T. Vào
nửa đêm, Nguyễn Chiến Lũy và Hai Sanh đột nhập vào nhà
tên Mười T bắt y đưa về ấp Thành Hòa để hỏi cung. Tuy nhiên,
93

10.4 Page 94

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
chưa kịp hỏi cung tên Mười T, bọn đặc cảnh miền Đông kéo về
bủa vây nơi các đồng chí đang ở. Súng địch bắn dồn dập, anh
em vội chạy xuống Rạch Miễng Sành. Trong khi đó, Nguyễn
Chiến Lũy cởi trói cho tên Mười T, lập tức hắn ta vụt chạy. Rồi
từ cự ly 100m, Nguyễn Chiến Lũy kê súng, nín thở, bóp cò, tên
Mười T gục xuống như cây bị đốn gốc, tên Việt gian chỉ điểm
phải đền tội, nhân dân Phú Hữu vui mừng khi biết tên mật thám
chỉ điểm Mười T gian ác đền tội, củng cố thêm niềm tin cho
người dân chiến đấu chống quân xâm lược và tay sai.
Ngày 9-3-1952, đồng chí Nguyễn Chiến Lũy (Nguyễn Văn
Thông) và Hai Sanh vào Rạch Miễng Sành để tiếp tục tìm cách
tiêu diệt tên ác ôn đội Sâm. Ngày 10-3-1952, bọn lính đặc cảnh
miền Đông tổ chức càn quét, gặp hai đồng chí Lũy và Sanh,
chúng bắn đạn như vãi trấu, sau đó mỗi người tản đi một hướng
khác nhau. Tuy nhiên, không may đồng chí Hai Sanh bị chúng
bao vây bắt được, sau đó chúng giết chết đồng chí, rồi thả xác
trôi ra sông Nhà Bè; gia đình, người dân, cán bộ, chiến sĩ Phú
Hữu lại bị mất đi một người chiến sĩ trung kiên, hy sinh vì độc
lập tự do cho quê hương.
Chiến tranh luôn khắc nghiệt, do không chịu nổi gian nan,
khổ cực nên Út Minh, Võ Thành Lân và Đoàn Văn Mãng ra
đầu hàng địch nhưng không hợp tác với chúng, không dẫn giặc
về đánh phá căn cứ cách mạng. Đội du kích xã Phú Hữu còn
lại hai cán bộ là Võ Văn Vĩnh - Xã đội trưởng, Nguyễn Chiến
Lũy (Nguyễn Văn Thông) - Xã đội phó với 1 súng trường. Đến
ngày 5-4-1952, Nguyễn Chiến Lũy từ huyện về sau kết thúc
94

10.5 Page 95

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
khóa học quân báo được trang bị thêm 4 trái mìn gài do công
binh xưởng ta chế tạo nhằm tăng cường hơn nữa vũ khí chống
thực dân Pháp và tay sai.
Tội ác của binh lính đội Sâm thêm chồng chất, khi chúng
giết chết anh Huỳnh Văn Vinh là một cảm tình của cách mạng
xã Phú Hữu. Sáng đó, anh Vinh đi phát lác, thì trên lô cốt gác
ở đồn Giồng Ông Đông, lính của đội Sâm bắn chết anh vô cớ.
Vì vậy, Nguyễn Văn Thông càng quyết tâm hơn nữa việc tiêu
diệt tên Việt gian ác ôn đội Sâm. Sau khi cùng các tình nguyện
cách mạng nghiên cứu, điều nghiên kỹ lưỡng đồn của tên ác ôn
này ở Giồng Ông Đông, một giờ sáng ngày 30-4-1952, Nguyễn
Văn Thông mang 4 trái mìn và khoanh dây kẽm, qua các thao
tác, mìn đặt đúng vị trí đã xác định, dây kẽm buộc kỹ vào khoen
ngòi nổ, tất cả đều ngụy trang kỹ. Đến 4 giờ sáng, Nguyễn Văn
Thông kiểm tra lại lần cuối, rồi giật mạnh 4 sợi kẽm, bốn tiếng
nổ đồng loạt như sét đánh, lửa nháng xanh lét, các đụn khói bốc
lên mù mịt, mà địch không một tiếng súng bắn trả với kết quả
8 tên bị tiêu diệt tại chỗ, 4 tên bị thương. Lần đầu tiên, Nguyễn
Văn Thông ra tay tiêu diệt địch đã đem lại thắng lợi vang dội,
làm cho bọn lính Giồng Ông Đông nhốn nháo hoảng sợ, còn
dân tình ai cũng vui mừng, phấn khởi ủng hộ cách mạng.
Địch ở xã Phú Hữu rất xảo quyệt, dã man, những đồng chí
không may bị chúng bắt được, sau khi tra tấn đòn roi cực kỳ
man rợ nhưng khai thác không được kết quả, chúng đưa chiến
sĩ cách mạng lên máy bay đầm già (loại máy bay do thám,
chuyên lấy thông tin, không tham gia tác chiến) để kêu gọi
95

10.6 Page 96

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
đồng đội chiêu hàng, trong đó có đồng chí Nguyễn Sanh Thành
làm trưởng đoàn chỉ đạo khu III gồm 4 xã, có Phú Hữu. Ngày
17-11-1953, đồng chí Thành cùng Đào Văn Bảo, Mai Văn
Trí đang công tác ở Phú Hữu bị quân Pháp ở Thành Tuy Hạ
càn quét bắt giữ. Với khí tiết của người cách mạng, đồng chí
Nguyễn Sanh Thành đã bảo vệ thành công bí mật cơ quan, đơn
vị, đồng đội, buộc chúng thả không điều kiện đối với đồng chí
Bảo và Trí. Tuy nhiên, chúng đưa đồng chí Thành lên máy bay
kêu gọi các chiến sĩ cách mạng chiêu hồi, nhưng bọn chúng đã
thất bại, buộc chúng trả tự do cho đồng chí Nguyễn Sanh Thành
vào ngày 21-1-1954.
Ngày 8-3-1954, điều không may mắn đến với Lê Văn Trí là
bộ đội khu III bị địch phục kích, anh Trí bị thương sa vào tay
giặc và chúng đã giết anh. Như vậy, gia đình của anh, người
dân, cán bộ, chiến sĩ xã Phú Hữu tiếp tục mất đi một chiến sĩ
cách mạng gan dạ, mưu trí trong đấu tranh chống ngoại xâm và
tay sai.
Sau những hoạt động cách mạng không mệt mỏi, luôn luôn
gan dạ, dũng cảm, mưu trí, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, nhất là kết quả đánh đồn giặc ngày 30-4-1952 giành
thắng lợi, Nguyễn Văn Thông được Quận ủy Long Thành tổ
chức kết nạp vào Đảng vào ngày 13-3-1954. Nguyễn Văn
Thông cùng Nguyễn Tri Phương, Đoàn Văn Kỉnh về Phú Hữu
tiếp tục bám trụ địa bàn lãnh đạo cách mạng. Ngày 17-3-1954,
mất mát nữa lại đến với chiến sĩ Phú Hữu, đó là Nguyễn Tri
Phương bị lính Cao Đài ở Cát Lái bao vây ở Rạch Ông Chuốc.
96

10.7 Page 97

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đồng chí Phương bị gãy tay và chúng bắt giải về khám đường
Biên Hòa (hiện nay là di tích nhà lao Tân Hiệp); bị địch tra tấn
rất man rợ, nhưng đồng chí Phương không khai một lời, giữ gìn
khí tiết của người chiến sĩ cách mạng.
Lực lượng đảng viên của Phú Hữu đã mỏng, đến tháng
3-1954 càng ít ỏi, eo hẹp hơn, nhưng Nguyễn Văn Thông, Đoàn
Văn Kỉnh luôn giữ vững niềm tin tất thắng của cách mạng.
Các đồng chí tiếp tục gầy dựng cơ sở cách mạng mật ở các
ấp của địa phương. Các đồng chí xây dựng hơn 20 thành viên
dũng cảm như Lê Văn Cơ, Đào Văn Tố, Mai Văn Rỗ, Trần Văn
Thời, Đoàn Danh Dự, Mai Văn Hai, Châu Văn Phú...; các mẹ
kiên cường giúp đỡ cách mạng như Phan Thị Nho, Nguyễn Thị
Nhiễu, Mai Thị Điển, Lê Thị Trâm, Lê Thị Mua... Các đồng
chí Lũy, Kỉnh tổ chức cho một số thanh niên cơ sở cốt cán như
Phạm Văn Bồi (Giồng Ông Đông), Nguyễn Văn Thái (Bến Cộ)
ra rừng để xây dựng lại đội du kích của xã Phú Hữu.
Bước vào năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên
phạm vi cả nước diễn ra quyết liệt, giành nhiều thắng lợi vang
dội, tạo niềm tin, không khí phấn khởi trong dân chúng ở xã
Phú Hữu. Ngày 13-3-1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
bắt đầu khởi sự, do đó dịch điên cuồng chống phá, bố ráp ở Phú
Hữu hòng lấy lại thanh thế, tinh thần của bọn chúng nên gây
nhiều khó khăn, tổn thất cho người dân, chiến sĩ cách mạng.
Ngày 7-5-1954, chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu” toàn thắng của dân tộc Việt Nam đã
97

10.8 Page 98

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
chấm dứt hoàn toàn cuộc tái xâm lược của thực dân Pháp (1945-
1954). Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết, miền Bắc
nước ta được hoàn toàn độc lập, miền Nam và người dân Phú
Hữu tiếp tục “đi trước, về sau”, oằn mình, vượt qua bao giông
tố của chiến tranh trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ và
tay.
Đến tháng 11-1954, đoàn tập kết của Long Thành đến
Phước Thái lên tàu ra miền Bắc; trong đó, xã Phú Hữu có các
đồng chí Phạm Văn Bồi, Nguyễn Văn Thái, Bảy Thơ, Tánh.
Tuy nhiên, Nguyễn Văn Thông, Đoàn Văn Kỉnh tiếp tục bám
trụ ở Phú Hữu theo chỉ đạo của Quận ủy Long Thành để xây
dựng cơ sở cách mạng chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới
chống đế quốc Mỹ và tay sai kéo dài suốt 21 năm (1954-1975).
Công tác vận động, đóng góp của nhân dân:
Thời kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược 1945-
1954, Phú Hữu nổi tiếng là “vú sữa” của quận Long Thành vì
đóng góp mỗi năm hàng trăm tấn thóc thuế đủ nuôi cán bộ, bộ
đội địa phương, còn giao nộp quan trọng lên quận, tỉnh cho
cách mạng. Sáng ngày 9-3-1946, Nguyễn Sanh Thành chỉ huy
đoàn ghe 6 chiếc chở lúa từ Phú Hữu về Phước An (căn cứ
Phước An) cho quận Long Thành. Quân Pháp mở cuộc càn vào
Phước An, chúng nổ súng bừa bãi. Đoàn ghe chở lúa đến ngã
ba Vạn Phước bị máy bay khu trục của Pháp phát hiện. Nguyễn
Sanh Thành cho ghe tấp vào các rạch nhỏ cây cối xòe ra gần
kín mặt nước. Ghe của Nguyễn Sanh Thành đi cuối chở 400
giạ lúa còn ở giữa sông Ông Kèo bị địch quần đảo, nã súng xối
98

10.9 Page 99

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
xả. Nguyễn Sanh Thành cùng ông Tiến, ông Lựu cố bảo vệ lúa,
nhưng cuối cùng bị địch bắn dữ dội, ghe lúa bị chìm, hủy hoại
mọi nỗ lực, cố gắng của các đồng chí vận tải lương thực cho
Chiến khu Phước An từ Phú Hữu.
Phong trào tạm cấp ruộng đất và thực hiện giảm tô diễn
ra đều khắp các xã, nhưng tập trung ở Phú Hữu, Phú Thạnh...
Chính quyền kháng chiến tịch thu 300ha ruộng đất của chủ điền
Trịnh Thị Dung, chia cho hơn 300 hộ tá điền không có ruộng
hoặc bần nông ít ruộng đất. Nhờ đó, bà con vui mừng, đẩy
mạnh sản xuất, đóng góp hàng năm vài chục ngàn giạ lúa ủng
hộ kháng chiến.
Tháng 8-1951, Phạm Văn Búp - Bí thư Chi bộ Phú Hữu
cùng các đồng chí Tống Văn Hiểu, Nguyễn Ngọc Dễ, Nguyễn
Ngọc Sánh, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thông... họp bàn
kế hoạch bảo vệ mùa màng. Cán bộ xã sẽ phối hợp chặt chẽ
với bộ đội khu III không để thóc gạo lọt vào tay giặc hoặc để
chúng tự do đốt phá. Trong thời gian này, địch tăng cường bố
ráp, càng quét ở xã Phú Hữu, bắt bớ nhiều người dân vô tội.
Lính Cao Đài phản động bắt giam bà Phan Thị Nho1 ở đồn Câu
Kê. Chúng đánh tới tấp vào tấm thân mảnh mai, gầy yếu của
bà Phan Thị Nho nhằm bắt bà khai ra những cơ sở cách mạng,
nhưng bà không nói một lời. Sau mấy tuần, không khai thác
được gì, địch buộc trả tự do cho bà Phan Thị Nho. Sau đó, bà
1  Là vợ đồng chí Nguyễn Sanh Thành và mẹ ruột của Nguyễn Chiến Lũy
(Nguyễn Văn Thông).
99

10.10 Page 100

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
tranh thủ đi các xóm ấp ở Phú Hữu vận động người dân tham
gia giúp đỡ cách mạng.
Nguyễn Văn Thông cùng mẹ của mình là bà Phan Thị Nho
tích cực xây dựng cơ sở cách mạng ở Phú Hữu. Vụ mùa năm
1952-1953, cán bộ cách mạng đẩy mạnh xây dựng cơ sở các ấp,
vận động bà con đóng góp nuôi quân; chuẩn bị đưa anh chị em
cán bộ vào bám trụ ấp Bến Cộ từ mùa mưa năm 1953. Ấp nào
ở Phú Hữu cũng có cơ sở cách mạng như ấp Câu Kê có bà Sáu
Gấm, ông bà Ba Đóc, ông Năm Ề, vợ chồng Chín Đức...; ấp
Bến Bạ có vợ chồng Ba Thẩn, vợ chồng Năm Xem... Ngoài ra,
còn nhiều cơ sở nữa, bà Phan Thị Nho đã trực tiếp gặp gỡ, động
viên, ai cũng sẵn sàng đóng góp tiền bạc, lúa gạo cho kháng
chiến, có người nuôi cán bộ trong nhà.
Lãnh đạo nhân dân xây dựng xã chiến đấu:
Trên địa bàn Phú Hữu, Mặt trận Việt Minh và Ủy ban nhân
dân xã phát động phong trào “toàn dân tham gia bảo vệ sinh
mạng và tài sản nhân dân”. Cán bộ đoàn thể phân công nhau về
các ấp vận động dân quân du kích xã lập nhiều điểm gác, phát
hiện giặc đi bố ráp thì đánh mõ tre báo động dây chuyền. Nhân
dân trong xã còn được cán bộ, du kích hướng dẫn đắp nền, làm
chòi kín đáo cất giấu thóc lúa, đồ đạc ở các đám bần, dừa nước
ven sông rạch trên địa bàn xã. Mỗi khi tiếng mõ “cốc, cốc, cốc”
vang lên từ xóm nọ qua xóm kia, bà con nhân dân lập tức chạy
trốn ra bìa sông rạch Ông Chuốc, Ông Mai, ngoài đồng tùy theo
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
hướng càn quét của quân địch. Ai có xuồng ghe, chất cả gia
đình xuống chèo vào rừng rậm, ai không có thì tìm bờ bụi kín
đáo ẩn nấp hoặc lội sông để trốn, kiên quyết bất hợp tác mọi
mặt với giặc.
Trên địa bàn xã Phú Hữu có mực nước ngầm cao, chỉ đào
sâu 1m đã có nước nên khó làm hầm ngầm, chỉ dùng lu rồi
khoét đất ruộng, sau đó đặt lu xuống đất ruộng để làm hầm
tránh, trú đạn của giặc. Thông thường ông bà già ở lại làng để
ngăn chặn giặc đốt phá nhà cửa, cướp bóc tài sản. Giặc thường
bố ráp lúc nước cạn, người dân cùng nhau lội sông, băng ruộng
mặc cho súng giặc nổ ì đùng. Kết thúc cuộc càn của giặc, bà
con lại trở về xóm ấp như cũ, tiếp tục bám đất, giữ làng nuôi
giấu, giúp đỡ cán bộ cách mạng. Cuộc sống của người dân Phú
Hữu thỉnh thoảng bị đảo lộn bởi những cuộc càn quét của giặc
Pháp và tay sai, nhưng nhanh chóng trở lại bình thường của
thời chiến tranh. Nhiều gia đình nuôi giấu, giúp đỡ, che chở hết
mình cho cách mạng ở ấp Câu Kê như ông bà Năm Trừ, Mười
Huynh, Mười Đệ...
Cuối năm 1947, thực hiện chủ trương kháng chiến, kiến
quốc, Quận ủy Long Thành phát động phong trào chống Tây
nhảy dù và ngăn chặn tàu giặc trên sông phát triển rầm rộ, thu
hút đông đảo người dân tham gia. Hàng ngàn nam nữ thanh
niên, cán bộ chiến sĩ, dân quân du kích các xã Phú Hữu thi đua
cắm cọc khắp các cánh đồng, sông rạch. Phú Hữu sôi nổi nhiều
101

11.2 Page 102

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
phong trào tịch thu ruộng đất, đồn điền của thực dân Pháp và
địa chủ Việt gian phản động cấp cho nông dân không có ruộng
hoặc thiếu ruộng đất sản xuất. Bên cạnh đó, phát động phong
trào đẩy mạnh trồng trọt, chăn nuôi, giảm tô 25% đối với tá
điền, phong trào thanh niên xung phong tòng quân phát triển
mạnh... trên địa bàn xã.
Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động người dân,
nhiều đoạn đường tráng nhựa trở thành hố lớn, sâu chặn xe địch
lưu thông, nhiều đoạn lộ 17, 19 bị phá banh bằng mặt ruộng,
ở Phú Hữu, Cầu Cháy, ta còn vận động bà con ngăn sông Cây
Tràm để cản tàu địch càn quét vào địa phương. Phú Hữu có vị
trí chiến lược quan trọng tiếp giáp với căn cứ Phước An, cạnh
kho đạn Thành Tuy Hạ, bên kia sông Sài Gòn là Nhà Bè, Thủ
Đức nên địch quyết tâm đánh phá địa phương này bằng mọi
âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Địch thực hiện biện pháp cổ điển
“dùng người Việt trị người Việt”, chúng dùng những thành phần
Cao Đài phản động đóng bót ở Cát Lái, Câu Kê... nhằm gom
dân Phú Hữu để chúng dễ kiểm soát, quản lý, tách người dân
ra khỏi cách mạng. Chỉ huy lực lượng Cao Đài phản động là
trung tá Lê Thành Kham đóng bót ở Phú Thạnh, vệ úy Tư đóng
đồn ở Câu Kê, đội Sâm chỉ huy một đội com-măng-đô đóng
bót ở Giồng Ông Đông, tên ký Hải là thông ngôn cho tên quan
La-oọc ở kho đạn Thành Tuy Hạ có nhiều hoạt động gây thiệt
hại đến người dân, cách mạng ở Phú Hữu và các xã lân cận.
102

11.3 Page 103

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đến năm 1950, ở vùng Phú Hữu địch tăng cường chống phá,
bọn biệt kích chống phá dữ dội vùng Lòng Chảo, chúng chà đi
xát lại, gây tổn thất, khó khăn cho chính quyền, chi bộ, người
dân Phú Hữu. Địch thường giết hại đồng bào, chiến sĩ yêu nước
rồi chúng cột chùm neo xuống đáy sông Ông Kèo, sông Lòng
Tàu rất tàn ác. Trên địa bàn Phú Hữu, Phước Khánh có tên đội
Lạc là đồn trưởng bót Nhà Thờ ở Phước Khánh rất tàn ác, giết
người không chút ghê tay. Đồn của đội Lạc có nhiệm vụ bảo
vệ kho xăng Nhà Bè từ xa, mặt khác đánh phá các cơ sở cách
mạng ven sông ở Phú Hữu, Phước Khánh... Tên đội Lạc thường
xuyên kiểm soát giấy thông hành gắt gao gây biết bao khó khăn
cho cán bộ, chiến sĩ và người dân ở Phú Hữu.
Đến tháng 6-1952, xã Phú Hữu có sự thiếu hụt lớn số lượng
đảng viên ảnh hưởng phần nào đến sức chiến đấu để chống
kẻ thù; toàn xã còn 3 cán bộ với 2 đảng viên là Nguyễn Tri
Phương, Đoàn Văn Kỉnh (Huyện ủy mới điều động) và quần
chúng Nguyễn Văn Thông. Cả ba người càng quyết tâm hơn
nữa bám trụ các ấp, tổ chức phát động nhân dân hành động
cách mạng, chuẩn bị những trận đánh táo bạo hơn. Từ cuối
tháng 6 đến 11-1952, cả ba người vào ăn ở tại xóm Gò Keo,
xóm mới Câu Kê và bám trụ địa hình ấp Vườn Trúc. Xóm Gò
Keo có 2-3 chục hộ, gần 100 nhân khẩu, nhưng nhà nào cũng
giành nuôi cán bộ cách mạng như gia đình bác Sáu Sang, các
gia đình Huỳnh Văn Đức, Lê Văn Lộ, mẹ Tứ... xóm Vườn Trúc
103

11.4 Page 104

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
đem cho các chiến sĩ cách mạng từng chén cơm, con cá. Một
hôm, mẹ Tứ bưng cơm xuống đập lá ông Năm Trừ, nơi có 3
chiến sĩ cách mạng đang cư trú, thì đụng bọn vệ Tư Cao Đài đi
bố ráp, càn quét; mẹ Tứ nhanh trí giả vờ xuống ruộng bắt cá để
phi tang gói cơm; sau đó, mẹ Tứ về nhà bưng cơm khác ra để
nuôi 3 đồng chí Phương, Kỉnh, Thông. Ngoài ra, gia đình chú
Ba Đóc, ông Hai Khỏe dám nuôi 3 đồng chí Phương, Kỉnh,
Thông trong nhà, giặc đi bố ráp, các đồng chí ấy nằm trong bồ
lúa. Đồng chí Nguyễn Văn Thông đi công tác bị thương, được
chú thím Ba, bà Sáu Gấm, cậu mợ Chín Đức hết lòng chăm sóc,
giúp đỡ, nuôi giấu.
Anh em cán bộ xã Phú Hữu kiên trì bồi dưỡng, giáo dục
các anh Huỳnh Văn Đức, Lê Văn Lộ, Lê Phước Thọ... thành
nòng cốt công khai lãnh đạo xóm ấp mà địch không phát hiện.
Ở Giồng Ông Đông, các đồng chí Phương, Kỉnh bám sát đồng
bào xây dựng nhiều cơ sở cốt cán trực tiếp lãnh đạo bà con. Các
đồng chí đặc biệt quan tâm lực lượng cốt cán thanh thiếu niên
các ấp mà tiêu biểu là Lê Văn Cơ, Trần Văn Thời, Trần Văn E,
Mai Văn Hai, Đoàn Danh Dự, Trần Thị Kim Thanh, Nguyễn
Thị Thắm... dũng cảm nhận lãnh mọi nhiệm vụ được giao. Lực
lượng “lộ” chỉ có 3 người (Đức, Lộ, Thọ), nhưng đội ngũ cán
bộ cốt cán rải ra nắm được đông đảo bà con nên phong trào
cách mạng phát triển cả bề mặt lẫn bề sâu. Từ thực tiễn cách
mạng địa phương, Nguyễn Văn Thông đúc kết thành thơ:
104

11.5 Page 105

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Ngày đi, bác Cát1 dặn rằng.
Khi về Phú Hữu luôn cần bám dân.
Khó khăn tìm cách gỡ dần.
Chăm lo du kích việc cần trước tiên...
Ngày 20-10-1952, bắt đầu trận lũ lịch sử năm Nhâm Thìn ở
Long Thành. Xã Phú Hữu gần sông Đồng Nai, nên nước lũ gần
như cuốn đi hết mọi thành quả lao động sản xuất của bà con,
việc tiếp tế cho cán bộ, chiến sĩ cách mạng trở nên kiệt quệ. Bà
Phan Thị Nho - mẹ của đồng chí Nguyễn Văn Thông bị giặc bắt
giam ở đồn Câu Kê nên không còn ai tiếp tế trong lúc nước lũ
dâng cao. Các anh phải ăn bần, uống nước lã, làm bạn với bầy
chim én trong 3 ngày mưa lũ xụt xùi. Sau đó, bà Phan Thị Nho
bưng cơm từ xóm mới Câu Kê lội ra gò Nai để tiếp tế cho các
anh chiến sĩ cách mạng.
Để bảo vệ mùa màng, năm 1953, Nguyễn Văn Thông gặp
đồng chí Phương, Kỉnh bàn kế hoạch, phân công cán bộ cốt cán
chịu trách nhiệm từng cánh đồng, chọn địa điểm các gò hoang
để ban đêm tập trung lúa thu lúc ban ngày. Lúa trên đồng chín
tới đâu, bà con gặt tới đó. Ta vận động chủ ruộng giao nộp, lúa
để ở bờ, đến tối cán bộ, cơ sở mật vác xuống xuồng chở tới gò
hoang chọn trước, từ khuya tới gần sáng giao cho đoàn vận
chuyển khu III. Khi bị địch phát hiện, cán bộ, chiến sĩ chuyển
sang cánh đồng khác, tối đến lực lượng cách mạng tiếp tục vận
chuyển lúa để cung cấp lương thực cho cách mạng. Cuối vụ
1  Nguyễn Trọng Cát - Bí thư Huyện ủy Long Thành.
105

11.6 Page 106

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
tổng kết được 25.000 giạ lúa (500 tấn) và hàng chục ngàn đồng
(ở nơi thu lúa khó khăn, người dân đóng tiền) chở về huyện và
tỉnh an toàn. Trong hoàn cảnh khó khăn sau lũ dữ 1952, số lúa
của Phú Hữu đóng góp cho kháng chiến là thắng lợi to lớn của
đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng lãnh đạo. Hàng ngàn
nông dân được giáo dục, tuyên truyền tư tưởng và giác ngộ
cách mạng, tạo niềm tin vững chắc, đội ngũ cốt cán mật được
tăng cường về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng ở địa phương.
***
Từ lòng yêu nước nồng nàn của người dân Phú Hữu, sau
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đã soi đường,
dẫn lối người dân nơi đây đấu tranh chống thực dân Pháp và tay
sai giành độc lập cho quê hương ngày 25-8-1945. Hòa chung
không khí độc lập của đất nước, tỉnh Biên Hòa, người dân Phú
Hữu phấn khởi cùng các xã tiến về trung tâm quận Long Thành
mít tinh chào mừng ngày quê hương sạch bóng quân xâm lược
của thực dân Pháp và tay sai vào ngày 2-9-1945.
Quê hương Phú Hữu giành được độc lập không bao lâu,
người dân nơi đây tiếp tục oằn mình trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp tái xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của chính
quyền lâm thời xã Phú Hữu, hầu hết người dân đóng góp sức
người, sức của để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, cùng
nhân dân quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa bước vào cuộc
kháng chiến kiến quốc theo phương châm “toàn dân, toàn diện,
106

11.7 Page 107

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
trường kỳ, tự lực cánh sinh”. Bằng tất cả tinh thần và lực lượng,
người dân Phú Hữu từng bước làm tiêu hao sinh lực địch, tiêu
diệt những tên sai Việt gian ác ôn, làm hậu phương vững chắc,
cung cấp lương thực, thực phẩm cho cách mạng, cho quận
Long Thành, cho Chiến khu Phước An, thấm đậm tình nghĩa
quân dân “như cá với nước”.
Tuy nhiên, “cây muốn lặng, gió chẳng đừng” người dân
Phú Hữu lại phải tiếp tục đứng lên đoàn kết, chung sức đồng
lòng, không sợ hy sinh, mất mát cùng nhân dân Long Thành -
Nhơn Trạch tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ 21 năm ròng
rã chống đế quốc Mỹ và tay sai đến ngày thắng lợi hoàn toàn
30-4-1975.
107

11.8 Page 108

▲back to top


CHƯƠNG II
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)
I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ VÀ CHÍNH
QUYỀN SÀI GÒN (1954-1965)
1. Đấu tranh chính trị chống đế quốc Mỹ và chính quyền
tay sai
Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội:
Sau năm 1954, tình hình kinh tế Phú Hữu gặp không ít khó
khăn do chiến tranh tàn phá. Hơn 60% diện tích đất sản xuất
nông nghiệp của địa phương bị bom đạn băm vằm nham nhở,
hàng trăm cuộc càn quét của quân Pháp và tay sai làm cho hơn
80% cây trồng lâu năm bị hư hại, gãy đổ; bom đạn còn rơi vãi ở
các cánh đồng Câu Kê, Rạch Bảy... tiềm ẩn nguy hiểm đến tính
mạng, sức khỏe của người nông dân.
Hàng trăm gia đình có người thân hy sinh, mất mát, tù đày
dưới chính quyền thực dân Pháp và tay sai, làm cho sức lao
động người dân địa phương giảm sút; đời sống đa phần nhân
dân gặp khó khăn.
Trong khi đó, đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại Hiệp định
Giơnevơ, buộc thực dân Pháp về nước, trực tiếp can thiệp vào
108

11.9 Page 109

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
miền Nam Việt Nam. Ngày 7-7-1954, đế quốc Mỹ đưa Ngô
Đình Diệm về miền Nam lập Chính phủ bù nhìn. Tháng 9-1954,
các nước Anh, Pháp, Mỹ, đứng đầu là đế quốc Mỹ, ký Hiệp
ước Ma-li, thành lập khối Liên minh phòng thủ Đông Nam Á
(SEATO), tạo điều kiện cho đế quốc Mỹ xâm chiếm ba nước
Đông Dương và phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Tháng 11-1954, chúng cử tướng Cô-lin (Colins) sang miền
Nam Việt Nam làm đại sứ và thực hiện kế hoạch 6 điểm của
chính quyền Ai-xen-hao (Eisenhower) nhằm áp đặt chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
chúng ở vùng Đông Nam Á.
Trước sức ép của Mỹ, Pháp cam kết ủng hộ chính quyền
Ngô Đình Diệm, chấp nhận để Mỹ trực tiếp viện trợ quân sự
cũng như huấn luyện quân đội cho Ngô Đình Diệm; gây sức ép,
buộc Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân đội quốc
gia của Chính phủ Bảo Đại từ chức, chuyển quân đội cho chính
quyền Ngô Đình Diệm. Thực dân Pháp thực sự bị bắt buộc rút
khỏi Việt Nam về nước.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng:
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng mới, Trung ương
Cục miền Nam ban hành Chỉ thị số 43/CT.TWC, ngày 11-8-
1954 “về việc lãnh đạo đấu tranh chính trị sắp tới ở xã” nhấn
mạnh trong tình hình mới “Phải dứt khoát không còn dùng
những hành động ám sát hoặc những hình thức đấu tranh võ
109

11.10 Page 110

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
trang khác như trong thời kỳ kháng chiến. Mỗi cuộc đấu tranh
phải phục vụ cho việc củng cố phát triển cơ sở”1.
Đến cuối năm 1954, Xứ ủy Nam Bộ và Liên Tỉnh ủy miền
Đông đã quyết định tách tỉnh Thủ Biên, lập lại hai tỉnh Biên
Hòa và Thủ Dầu Một. Tỉnh ủy Biên Hòa được Thường vụ Liên
Tỉnh ủy chỉ định, đồng chí Phạm Văn Thuận làm Bí thư, đồng
chí Huỳnh Văn Lũy giữ chức vụ Phó Bí thư2.
Đến đầu năm 1955, Thường vụ Xứ ủy quyết định điều động
Vũ Ngọc Hồ (Bảy Hồng Vũ) từ Liên Tỉnh ủy miền Đông về
làm Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, đồng chí Phạm Văn Thuận làm
Phó Bí thư. Một thời gian ngắn sau đó, đồng chí Phạm Văn
Thuận thay thế Vũ Ngọc Hồ làm Bí thư Tỉnh ủy.
Tỉnh Biên Hòa có thị xã Biên Hòa và 5 huyện nông thôn
gồm: Vĩnh Cửu, Long Thành, Tân Uyên, Xuân Lộc và Bà Rá.
Tỉnh ủy Biên Hòa phân công các đồng chí chủ chốt phụ trách
địa bàn: Thị xã Biên Hòa do Nguyễn Văn Long làm Bí thư;
Huyện ủy Vĩnh Cửu do Phạm Văn Bính làm Bí thư; Huyện ủy
Long Thành do Vũ Hồng Phô làm Bí thư; Huyện ủy Tân Uyên
do Huỳnh Văn Đính làm Bí thư; Huyện ủy Xuân Lộc do Ngô
Tiến làm Bí thư; huyện Bà Rá do Ba Phú làm Trưởng ban cán
sự Đảng.
1  Chỉ thị 43/CT.TWC ngày 11-8-1954. Tài liệu lưu Phòng Lý luận Chính trị -
Lịch Sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
2  Các đồng chí: Hoàng Tam Kỳ, Tỉnh ủy viên phụ trách Tuyên huấn; Ngô Bá
Cao, Tỉnh ủy viên phụ trách giao thông căn cứ địa; Ngô Tiến, Bí thư Xuân Lộc;
Vũ Hồng Phô, Bí thư Long Thành...
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Về phía địa phương, thực hiện sự đạo của Huyện ủy Long
Thành, ngày 10-9-1954, Đoàn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Thông
về đến Phú Hữu tiếp tục xây dựng cơ sở cách mạng trong dân
chúng. Nguyễn Văn Thông về xóm Câu Kê, Vườn Trúc, còn
Đoàn Văn Kỉnh về Gò Keo và Giồng Ông Đông. Với chiến
thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) đã tạo không khí phấn khởi, tự
tin của người dân Phú Hữu đối với cách mạng, ngược lại bọn
tay sai hoang mang co cụm lại. Các đồng chí này đi lại thoải
mái trên địa bàn xã cả ngày lẫn đêm để hoạt động cách mạng.
Tuy nhiên, các đồng chí luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước
các thủ đoạn thâm độc mới của kẻ thù.
Đầu tháng 9-1954, tin vui ùa về với Chi bộ Phú Hữu là
Nguyễn Tri Phương được địch trả tự do ở Bạc Liêu trở về địa
phương tiếp tục hoạt động cách mạng. Ngày 13-9-1954, Chi bộ
Phú Hữu kết nạp thêm 3 đảng viên mới là Huỳnh Văn Đức, Lê
Phước Thọ, Lê Văn Lộ (các đồng chí này được bồi dưỡng trong
năm 1952-1953) đã tăng cường hơn nữa sức chiến đấu của chi
bộ cả về số lượng và chất lượng đảng viên.
Bên cạnh việc xây dựng lực lượng cách mạng, Chi bộ Phú
Hữu còn quan tâm đến củng cố cơ sở cách mạng để tăng cường
đấu tranh chính trị với tay sai và đế quốc Mỹ. Nhiều cơ sở cách
mạng được gầy dựng thời chống Pháp, nay tiếp tục được củng
cố và mở rộng thêm ở các ấp. Các gia đình cô Bông, cô Ngọc,
ông bà Ba Bảo, Lân Năm... tiếp tục che chở, nuôi giấu, giúp đỡ
các đồng chí hoạt động cách mạng trên địa bàn xã Phú Hữu.
111

12.2 Page 112

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Các hoạt động đấu tranh chính trị chống chính quyền Sài
Gòn tay sai của đế quốc Mỹ được thực hiện dưới sự lãnh đạo
của Chi bộ Phú Hữu. Chính quyền tay sai bắt người dân Phú
Hữu treo khẩu hiệu: Ủng hộ Chính phủ quốc gia do Thủ tướng
Ngô Đình Diệm lãnh đạo”. Một buổi sáng, ông Hai Khỏe (cơ sở
cách mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp) mặc quần
xà lỏn, áo vắt vai, đi vào xóm Câu Kê, rồi xuống bến đò Cát
Lái, vừa đi ông vừa hô thật lớn: “Ủng hộ Ngô Đình Diệm hai
năm!”. Người dân trong xã Phú Hữu đều ngầm hiểu rằng: Hai
năm nữa tổng tuyển cử thống nhất đất nước thì chế độ Diệm
tiêu liền! Bọn lính làng và cảnh sát chính quyền Sài Gòn ở Phú
Hữu bắt ông Hai Khỏe và hỏi:
- Tại sao ông ủng hộ Thủ tướng chỉ có hai năm?
- Ông Hai Khỏe nói: Tôi già lắm rồi, hai năm nữa tôi chết
thì tôi ủng hộ hai năm. Ai nói ủng hộ “muôn năm” thì họ sẽ là
kẻ nói láo!
Trước lý lẽ mộc mạc, đơn giản, mà sắc sảo, đầy ẩn ý tinh
thần độc lập tự do chống chính quyền Ngô Đình Diệm, mà bọn
địch không thể nào khép tội cho ông Hai Khỏe, buộc chúng
phải trả tự do cho ông.
Các đồng chí Nguyễn Văn Thông, Đoàn Văn Kỉnh, Nguyễn
Tri Phương cùng anh Nguyễn Văn Chính - Giáo viên do huyện
bố trí về tiến hành các hoạt động công khai chống chính quyền
tay sai và đế quốc Mỹ. Ban ngày, các đồng chí này đi làm ruộng
nhà hoặc phát cỏ, cuốc đất mướn cho người dân trong xã. Các
112

12.3 Page 113

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
đồng chí tổ chức nhiều tổ vần đổi công, bạn cấy, hội đình miễu,
hội ma chay... nhằm tập hợp, giáo dục quần chúng đấu tranh
buộc địch chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản thỏa thuận
của Hiệp định Giơnevơ. Bên cạnh đó, các đồng chí này còn bố
trí thầy giáo Nguyễn Háo Văn cùng các anh Võ Văn Truyện,
Lưu Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Thoàng, Lê Phước Thọ, Mai Văn
Trí... vào làm công chức trong bộ máy chính quyền địa phương
của địch để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài với đế quốc và
tay sai.
Tết Đinh Mùi (1955), Tết hòa bình đầu tiên, Huyện ủy Long
Thành tổ chức hoạt động văn hóa truyền thống như đua thuyền,
múa lân, cúng đình, cúng miễu... Ở một số xã vùng căn cứ
kháng chiến cũ, có cơ sở mạnh như Phước An, Phước Khánh,
vùng Lòng Chảo..., lồng vào các hoạt động là những nội dung
ca ngợi kháng chiến, mừng hòa bình, thể hiện tinh thần đoàn
kết, tình hữu ái trong các tầng lớp nhân dân. Một vài nơi có
treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc, căng biểu ngữ. Tại một số cuộc mít
tinh, cán bộ đứng lên kêu gọi quần chúng nhân dân đoàn kết
đấu tranh đòi các quyền lợi dân sinh dân chủ, đòi Mỹ - Diệm
thực thi các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ để sớm thống
nhất đất nước.
Giữa tháng 5-1955, Vũ Hồng Phô (Sáu Khánh) - Bí thư
Huyện ủy Long Thành dẫn các đồng chí Phạm Văn Thuận (Ba
Thu) - Phó Bí thư Tỉnh ủy phụ trách công tác binh vận tỉnh Biên
Hòa, Nguyễn Duy Đán (Nguyễn Trọng Tâm) là cán bộ binh vận
Xứ ủy Nam Bộ xuống địa bàn Phú Hữu công tác để nắm tình
113

12.4 Page 114

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
hình chuẩn bị đối phó với chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm
và đế quốc Mỹ. Cán bộ huyện bàn với các đồng chí xã Phú Hữu
về nhiệm vụ chi bộ Đảng lãnh đạo đấu tranh chính trị, công tác
xây dựng thực lực nói chung, xây dựng cơ sở cách mạng trong
lòng địch nói riêng. Các đồng chí Huyện ủy Long Thành hướng
dẫn xã Phú Hữu đối phó với lực lượng Bình Xuyên của Bảy
Viễn ở Rừng Sác ngày càng manh động, ít nhiều làm cho người
dân Phú Hữu lo sợ.
Huyện ủy cho in hàng ngàn truyền đơn kêu gọi nhân dân
đoàn kết đấu tranh, kêu gọi binh sĩ Sài Gòn không đàn áp nhân
dân, đồng tình với nhân dân chống Mỹ; vạch trần bộ mặt phản
động của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Truyền đơn
phân phát rộng rãi khắp các làng xã, đồn điền, trường học trong
huyện.
Lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn trở thành thổ phỉ, và
là nỗi bất an đối với người dân Phú Hữu. Bên cạnh đó, Ngô
Đình Diệm tung từng tốp mật thám, mật vụ đội lốt, giả danh
người đi rừng săn bắt, đốn củi, nhất là bắt cá sấu ở sông Ông
Kèo, điển hình nhất là nhóm do tên Quởn ở Vườn Trúc cầm đầu
nhằm phục vụ chính quyền Ngô Đình Diệm truy sát lực lượng
Bình Xuyên của Bảy Viễn và lực lượng cách mạng ở Phú Hữu.
Công tác dân vận, vận động quần chúng nhân dân đấu
tranh:
Năm 1957, địch tổ chức cướp 300 ha ruộng đất của gần
300 hộ dân ở cù lao Ông Còn (xã Phú Thạnh, Đại Phước) nhằm
lập vành đai trắng bảo vệ kho đạn Thành Tuy Hạ của chính
114

12.5 Page 115

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
quyền Sài Gòn. Huyện ủy Long Thành đã chỉ đạo chi bộ các
xã nói chung, Phú Hữu nói riêng tổ chức hàng trăm nông dân
kéo xuống quận lỵ đấu tranh quyết liệt với tên quận trưởng.
Hai bà Phạm Thị Nho và Phạm Thị Hoa đã vận động, tổ chức
bà con nông dân đấu tranh bảo vệ ruộng đất bằng lý lẽ: “Nông
dân nghèo nhờ có đất làm ruộng mới có ăn, nếu mấy ông lấy
300 ha đất thì nông dân lấy gì sống? Chính phủ nói lo cho dân,
sao lại lấy đất ruộng của nông dân?”. Kết quả địch không đo
đạc, không làm được hàng rào và nông dân giữ được ruộng để
sản xuất. Bà con nông dân quyết tâm “sẵn sàng thí mạng, chứ
không để mất đất”. Có chị em tranh thủ khuyên giải con, em
đi lính đứng về phía nhân dân. Cuối cùng bọn địch phải rút lui.
Phong trào đấu tranh của nhân dân trong việc chống “cải cách
điền địa” của chính quyền Sài Gòn thắng lợi đã làm cho đồng
bào huyện Long Thành1 và xã Phú Hữu phấn khởi.
2. Đấu tranh vũ trang chống đế quốc Mỹ và chính quyền
Sài Gòn
Củng cố, xây dựng căn cứ kháng chiến, sáng tạo trong
chiến đấu:
Trước cuộc chiến đấu lâu dài chống lại kẻ thù là không
tránh khỏi, nên Nguyễn Văn Thông bàn bạc với các đồng chí
Kỉnh, Phương về chuẩn bị củng cố lại căn cứ sở Dừa có từ thời
chống Pháp 9 năm. Nguyễn Văn Thông phối hợp với các anh
1  Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai (2018), Lịch sử phong trào nông dân và hội nông
dân tỉnh Đồng Nai (1930-2015), Nxb Đồng Nai, tr.155.
115

12.6 Page 116

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Đoàn Danh Dự, Mai Văn Mai, Lê Văn Thời chuẩn bị lúa gạo,
nồi niêu, thuốc men... đủ vài chục người ăn trong thời gian từ
một tháng trở lên, tất cả phải vận chuyển vào căn cứ sở Dừa
trước ngày 20-9-1955 để chuẩn bị mọi tình huống có thể xảy ra
khi địch tấn công chính quyền cách mạng.
Để tiếp tục xây dựng lực lượng nội tuyến trong lòng địch,
Nguyễn Văn Thông không ngừng đeo bám cơ sở nội tuyến
anh Châu Văn Phú (xây dựng nội tuyến từ thời chống Pháp)
trong đồn Phước Khánh với suy nghĩ phải hành động kịp thời
trước sự phá hoại Hiệp định Giơnevơ của chính quyền Sài Gòn,
gây bao đau thương cho người dân Phú Hữu, Phước Khánh.
Nguyễn Văn Thông tiếp tục viết thư cho anh Châu Văn Phú với
nội dung: “... Hai chúng ta là bạn chiến đấu thân nhau nhưng
chưa từng biết mặt nhau. Giờ đây tôi xin nói rõ ý định. Anh và
chị Kim, hai vợ chồng nắm thật chắc đa số anh em binh sĩ trong
đơn vị anh, cảnh giác cao độ với tên đội Lạc, rồi đưa toàn bộ
binh sĩ cùng vũ khí ra rừng tham gia kháng chiến. Anh hãy trả
lời và nhất thiết chờ lệnh tôi. Xin gửi lời chào thân ái và quyết
thắng”. Tiếp đó, bà Phan Thị Nho và mẹ của Phú là cô Nhiễu
chuyển thư của đồng chí Thông đến anh Phú. Sau đó, anh Châu
Văn Phú phúc đáp với nội dung gửi đồng chí Thông: “Tôi quyết
tâm làm theo thư anh và chờ anh trả lời lần chót”.
Trước sự chuyển biến tinh thần theo cách mạng của anh
Châu Văn Phú, Nguyễn Văn Thông bàn bạc với Nguyễn Tri
Phương, Đoàn Văn Kỉnh và Chi bộ Phú Hữu hoàn toàn đồng
tình. Nguyễn Văn Thông chuẩn bị 20 cơ sở cách mạng để phối
116

12.7 Page 117

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
hợp thực hiện đưa Châu Văn Phú và lính của anh ấy ra căn cứ
sở Dừa.
Sau khi chuẩn bị mọi mặt, Nguyễn Văn Thông đã báo cáo
với Vũ Hồng Phô - Bí thư Huyện ủy Long Thành, Hai Thắng
- Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa. Thường vụ Huyện
ủy Long Thành nhất trí để Châu Văn Phú làm binh biến ở đồn
Phước Khánh, rồi kéo đơn vị ra rừng. Mọi việc trực tiếp chỉ đạo
Châu Văn Phú giao cho đồng chí Nguyễn Văn Thông thực hiện.
Mặc dù đã trù liệu mọi mặt, được Thường vụ Huyện ủy
Long Thành chấp thuận, song Nguyễn Văn Thông vẫn băn
khoăn, trăn trở về phương pháp cách mạng trong thời điểm
bấy giờ. Nếu xây dựng lực lượng vũ trang lúc bấy giờ liệu
có trái với chủ trương của Đảng không? Có phù hợp với thực
tiễn cách mạng ở địa phương không? Còn đấu tranh thống nhất
đất nước nhà bằng phương pháp hòa bình theo chủ trương của
Đảng, thì có ổn không? Sau đó, Nguyễn Văn Thông tự nhủ với
lòng rằng: giải đáp, cương lĩnh và đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ của Đảng từ trước đến nay đều thể hiện rõ quan điểm
bạo lực cách mạng, chính vận dụng quan điểm này mà cuộc
kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp thành công, giải
phóng nửa đất nước. Giờ đây đương đầu với đế quốc Mỹ, chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm, chúng dùng súng đạn đàn áp
phong trào đấu tranh chính trị, cớ sao ta buông quan điểm bạo
lực cách mạng? Có điều, phương pháp vận dụng thế nào cho
phù hợp tình hình thực tế mà thôi. Qua sự cân nhắc, trù liệu,
sự chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, thực tiễn cách
117

12.8 Page 118

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
mạng trong kháng chiến chống thực dân Pháp ở địa bàn Phú
Hữu trước tình hình, nhiệm vụ cách mạng mới, Nguyễn Văn
Thông luôn suy nghĩ đến đại cuộc cách mạng, cá nhân từng anh
em, chiến sĩ và người dân ở Phú Hữu.
Nguyễn Văn Thông dự kiến đưa đơn vị của Châu Văn Phú
trong đồn Phước Khánh ra căn cứ sở Dừa và lấy tên lính Bình
Xuyên như là một giải pháp tránh việc không tuân thủ chủ
trương của Đảng về việc chỉ đấu tranh chính trị, không được
đấu tranh quân sự lúc bấy giờ. Chủ trương của Nguyễn Văn
Thông về thành lập lực lượng vũ trang mang tên tạm thời lính
Bình Xuyên, là một sáng tạo độc đáo lúc bấy giờ, mang bản
lĩnh của người cách mạng dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung
của cách mạng. Nguyễn Văn Thông còn tính toán những anh
em trong đồn Phước Khánh sau khi ra căn cứ cùng với Châu
Văn Phú không có điều kiện tham gia kháng chiến lâu dài thì
cho về gia đình, cử đoàn viên thanh niên cốt cán thay thế đáp
ứng yêu cầu cách mạng lúc bấy giờ.
Trước giờ G tổ chức binh biến ở đồn Phước Khánh, Nguyễn
Văn Thông hẹn gặp Châu Văn Phú và được anh ấy báo cáo:
Tất cả anh em trong đồn sẵn sàng diệt tên ác ôn đội Lạc, vũ khí
của đồn gồm 1 súng cối 60 ly, 3 trung liên, còn lại 30 khẩu tiểu
liên Tom - xơn (Thompson), súng trường Mát (Mas). Các anh
đi đến thống nhất, đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23-9-1955 anh
em binh sĩ sẽ tiêu diệt tên đội Lạc. Mọi công tác chuẩn bị phối
hợp được Nguyễn Văn Thông hoàn tất cho cuộc binh biến ở
đồn Phước Khánh.
118

12.9 Page 119

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Trưa ngày 22-9-1955, Nguyễn Văn Thông mượn 3 chiếc
xuồng cùng đi với Nguyễn Văn Thoàng, Lê Văn Thời, Mai Văn
Mai đến địa điểm hẹn trước lúc 6 giờ chiều. Đúng giờ hành
động ngày 23-9-1955, từ đồn Phước Khánh lửa bùng lên dữ dội
như chào mừng kỷ niệm 10 năm Nam Bộ kháng chiến (23-9-
1945 đến 23-9-1955), tên đội Lạc ác ôn đã bị tiêu diệt, toàn bộ
đồn Phước Khánh đã bị phá hỏng.
Đến 2 giờ sáng ngày 23-9-1955, toàn bộ binh sĩ của Châu
Văn Phú cùng với vũ khí, quân trang quân dụng về đến căn cứ
du kích Phú Hữu ở sở Dừa an toàn. Kế hoạch binh biến đồn
Phước Khánh dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Phú Hữu thành công
trọn vẹn, đã diệt trừ tên đội Lạc ác ôn gây biết bao nợ máu, tang
thương đối với cán bộ, chiến sĩ, người dân Phú Hữu nói riêng,
các xã lân cận nói chung trong thời gian dài.
Đầu tháng 10-1955, Huyện ủy Long Thành quyết định rút
một số đảng viên đưa vào đơn vị của Châu Văn Phú đóng ở sở
Dừa và thành lập chi bộ do Nguyễn Văn Sơn giữ chức vụ Bí thư,
cùng các đảng viên Mười Tuồng, Tạ Nông, Chín Nhẫn, Mười
Hương. Chi bộ xã Phú Hữu chuẩn bị đưa đoàn viên thanh niên
cốt cán tham gia lực lượng vũ trang ở sở Dừa. Đơn vị của Châu
Văn Phú đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Long
Thành, và mang danh nghĩa quân Bình Xuyên để hoạt động
theo chủ trương của Huyện ủy. Chi bộ Phú Hữu, Đại Phước đã
chuẩn bị hơn chục cơ sở cốt cán như Lê Văn Cơ, Mai Văn Rỗ,
Đào Thanh Xuân, Đào Văn Sang, Nguyễn Văn Sắt, Nguyễn
119

12.10 Page 120

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Văn Tư (Nguyễn Văn Thanh, tự Tư Thanh), Đoàn Danh Dự,
Mai Văn Mai, Đào Văn Tuấn (Chốp), Trương Tư Minh, Trần
Văn Đực, Trần Minh Cảnh (Phạm Văn Muộn)...
Trước sự manh động, tàn ác của bọn tay sai chỉ điểm của
tên Ký, Hải, Kham ở các xã Phú Hữu, Phước Khánh..., Nguyễn
Văn Thông bàn với Châu Văn Phú đang đóng quân ở sở Dừa kế
hoạch tiêu diệt bọn Việt gian này, Châu Văn Phú nhiệt liệt ủng
hộ chủ trương này của Nguyễn Văn Thông. Được quần chúng
nhân dân cung cấp thông tin hành tung bọn ác ôn này, Châu
Văn Phú cùng các chiến sĩ mang danh nghĩa lực lượng Bình
Xuyên tiêu diệt bọn Ký, Hải, Kham vào ngày 11-10-1955 làm
nức lòng người dân Phú Hữu và các xã xung quanh.
Đến đầu năm 1957, Huyện ủy Long Thành bố trí Nguyễn
Văn Thông về công tác ở huyện phụ trách các xã vùng IV, trong
đó có xã Phú Hữu. Đoàn cán bộ lãnh đạo vùng IV gồm Châu
Minh Sỹ - Ủy viên Thường vụ Huyện ủy làm trưởng đoàn, Trần
Văn Hiệp - Huyện ủy viên làm phó trưởng đoàn, cùng Lê Văn
Lộ, Đoàn Văn Kỉnh và Nguyễn Văn Thông. Ở địa bàn xã Phú
Hữu do Nguyễn Văn Thông là cán bộ của huyện chi viện phụ
trách. Khi về xã Phú Hữu công tác, Nguyễn Văn Thông đã bám
trụ các gia đình bao bọc, che chở cách mạng như gia đình ông
bà Trần Văn Lẫm, Sáu Sánh, Sáu Ngữ, Bảy Mua... Để thuận lợi
việc xây dựng cơ sở cách mạng các ấp, mỗi gia đình này ở một
ấp với một lòng, một dạ theo Đảng, Bác Hồ, ủng hộ hết mình
cho cách mạng.
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Huyện ủy Long Thành bố trí Nguyễn Tri Phương, Nguyễn
Ngọc Yến về xã Phú Hữu công tác. Xã Phú Hữu lúc bấy giờ có
số lượng đảng viên ngày càng tăng, Hai Giò giữ chức vụ Bí thư.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Long Thành về chủ trương
“xanh vỏ đỏ lòng”, các đồng chí lãnh đạo khu IV và xã Phú
Hữu tiến hành đưa người của ta vào hàng ngũ của địch từ tề
ấp, xã, đến quận, tỉnh. Những cơ sở nội tuyến này kịp thời thu
thập tin tức, chủ trương, chính sách, âm mưu, thủ đoạn của địch
chống phá ta để báo cáo lãnh đạo cấp trên và bảo vệ cơ sở cách
mạng. Xã Phú Hữu tổ chức đưa Thái Văn Sáu giữ chức vụ xã
trưởng của chính quyền địch; thầy giáo Nguyễn Háo Văn tham
gia đại biểu Quốc hội chính quyền Sài Gòn, Võ Văn Truyện là
đại biểu Hội đồng tỉnh Biên Hòa trong bộ máy chính quyền tay
sai. Thầy Nguyễn Háo Văn đã đấu tranh bảo vệ hàng chục gia
đình cách mạng khỏi bị địch bắt bớ, tù đày...
Tháng 7-1958, Nguyễn Văn Thông trở lại Phú Hữu công
tác, tích cực xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở cách mạng mật
ở nhiều xóm ấp. Sau khi trở lại xã Phú Hữu công tác, qua nắm
thông tin, đồng chí phát hiện Tư Nở đang làm tay sai chỉ điểm
cho địch. Tên Tư Nở là anh em bạn dì của Hai Giò - Bí thư
xã Phú Hữu. Vấn đề nội bộ của xã Phú Hữu trở nên phức tạp,
trong khi chính quyền Sài Gòn không ngừng chống phá cách
mạng. Đặc biệt, tinh thần, sức chiến đấu của Hai Giò ngày càng
sa sút, ít nhiều ảnh hưởng đến cán bộ, chiến sĩ, người dân ở xã
Phú Hữu.
121

13.2 Page 122

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Nguyễn Văn Thông cùng Đào Văn Chỉ (Tám Cheo) tổ chức
rải truyền đơn tố cáo Mỹ - Diệm gây vụ đầu độc thảm sát tù
nhân ở nhà tù Phú Lợi ngày 1-12-1958 trên địa bàn xã Phú Hữu
để mọi người dân biết rõ hơn nữa bản chất thâm độc, dã man
của chính quyền Mỹ - Diệm. Địch nổ súng vào các đồng chí rải
truyền đơn, đồng chí Nguyễn Văn Thông bị thương nhẹ. Các
gia đình chú Ba Đóc, bà Sáu Gấm ở xóm Câu Kê tích cực chữa
trị cho Nguyễn Văn Thông, sau vài ngày lành lặn, tiếp tục chiến
đấu chống địch.
Ngày 9-9-1960, chính quyền Sài Gòn tách Quận Long
Thành thành hai quận là quận Long Thành và quận Nhơn Trạch.
Cuối năm đó, Tỉnh ủy Biên Hòa có chủ trương tách huyện Long
Thành, lập thêm huyện Nhơn Trạch theo ranh giới của chính
quyền Sài Gòn để thuận lợi trong công tác lãnh đạo kháng
chiến. Tỉnh ủy Biên Hòa cử Nguyễn Trọng Cát, Vũ Hồng Phô
tìm cách bắt liên lạc với Huyện ủy Long Thành ở xóm Hố, xã
Phú Hội để lãnh đạo cách mạng ở huyện Nhơn Trạch.
Theo chủ trương của Tỉnh ủy Biên Hòa, huyện mới Nhơn
Trạch thành lập do Võ Văn Định giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy,
Nguyễn Văn Thông giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy; Ủy viên
Thường vụ gồm Phạm Minh Chính, Nguyễn Văn Liềm; các
đồng chí huyện ủy viên gồm Trần Văn Thọ (Mười Thọ), Nguyễn
Thanh Vân (Ba Vân), Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Văn Sương
(Năm Hà), Nguyễn Văn Bền (Bảy Bền), Nguyễn Văn Quang.
Năm 1960, Nguyễn Văn Thông về địa phương phụ trách
chủ yếu xã Phú Hữu, Phước Khánh,... trong điều kiện các địa
122

13.3 Page 123

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
phương không còn lực lượng vũ trang mật, không có vũ khí,
thiếu cơ sở cách mạng sau vụ đầu hàng giặc của Hai Giò, Tư
Nở... Sự truy bức của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở
các xã này rất dã man theo chính sách “tố cộng, diệt cộng”. Sự
căm phẫn của người dân Phú Hữu đối với chính quyền Sài Gòn
dâng lên cuồn cuộn, ngọn lửa yêu nước sục sôi. Nguyễn Văn
Thông tập hợp gần 30 người như Phan Lố, Nguyễn Văn Em,
Đoàn Thanh Toàn, Dương Thị Điếc... tiến hành diệt ác, phá kìm
đồng loạt ở các xã Phú Hữu, Phước Khánh,...
Trong tháng 6 - 7 năm 1961, Nguyễn Văn Thông tiến hành
lãnh đạo chấn chỉnh các xã vùng IV nói chung, Phú Hữu nói
riêng. Đồng chí tập trung phát triển đảng viên mới, thành lập
chi bộ mật, phát triển đoàn viên, thành lập chi đoàn, bố trí cán
bộ xã đội, nông hội, thanh niên, phụ nữ, cán bộ binh vận... tổ
chức giao liên hoạt động trên địa bàn toàn xã Phú Hữu.
Năm 1961, trên địa bàn xã Phú Hữu nói riêng, vùng Lòng
Chảo, Nhơn Trạch nói chung quân đội Sài Gòn tiến hành càn
quét, bình định, gây nhiều tội ác. Huyện ủy Nhơn Trạch quán
triệt đến cán bộ, chiến sĩ cách mạng của xã Phú Hữu phải bám
vào các ấp để lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh
chống địch khủng bố, chống bắt lính, tiếp tục củng cố, xây dựng
cơ sở mật trong ấp. Lực lượng cách mạng lộ (hoạt động công
khai) với vũ khí thô sơ như súng trường, súng ngựa trời, đào hố
đinh, làm hầm chông... trong điều kiện cho phép, tiến hành tiêu
diệt sinh lực địch. Đồng thời, cán bộ, anh em du kích trên địa
bàn xã đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất vũ khí thô sơ, lập
123

13.4 Page 124

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
làng chiến đấu. Trong thời gian ngắn, du kích xã Phú Hữu đã
làm được súng ngựa trời, súng trường bắn từng viên một.
Công tác tuyên truyền được Huyện ủy Nhơn Trạch triển
khai đến xã Phú Hữu bằng nhiều hình thức khác nhau như người
dân trong xã loan tin đến binh lính của chính quyền Sài Gòn
rằng, cách mạng thường xuyên về hoạt động trong địa bàn xã
nhằm hù dọa bọn dân vệ, lính bảo an góp phần làm cho chúng
hoang mang, co cụm lại. Huyện ủy đánh giá tình hình vùng IV
phát triển tốt, anh em Phú Hữu vừa đẩy mạnh hoạt động bên
trong các ấp, vừa triển khai công tác bảo vệ mùa màng, thu và
cất giấu, vận chuyển lương thực cho huyện; chỉ riêng vụ mùa
1961-1962, các địa phương đã chuyển cho huyện hàng mấy
ngàn giạ lúa góp phần giải quyết khó khăn về lương thực trên
địa bàn huyện Nhơn Trạch.
Chiến đấu với nội gián, phản động và tay sai:
Ngày 11-10-1955, Nguyễn Văn Thông bị tên Nhung1 chỉ
điểm nên bị bắt cùng với Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn
Chính, Đào Văn Linh. Nguyễn Văn Thông bị địch giam cầm
trong ngục Catina ở Sài Gòn tra tấn rất dã man, thừa chết thiếu
sống, nhưng đồng chí luôn giữ gìn khí tiết của người cách mạng.
Ở Sài Gòn, đồng chí bị địch giải qua nhiều địa điểm khác nhau
như nhà tù Catina, căng Gia Định; đến ngày 17-1-1956 chúng
đưa đồng chí về nhà tù Tân Hiệp ở Biên Hòa. Tại nhà tù Tân
1  Về sau tên Đào Văn Nhung thực sự cải tà quy chánh, không làm tay sai cho
giặc, hai con trai của ông ta vào bộ đội huyện chiến đấu kiên cường, rồi anh dũng
hy sinh. Đến lúc qua đời, ông ta vẫn giữ trọn lời hứa không làm tay sai cho giặc.
124

13.5 Page 125

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Hiệp, đồng chí đã móc nối, liên lạc với Đảng bộ nhà tù, gia
đình, với Huyện ủy Long Thành và tham gia tổ chức thoát khỏi
nhà tù Tân Hiệp vào ngày 2-12-1956 thành công, với hàng trăm
chiến sĩ cách mạng lần lượt trở về tổ chức, địa phương bằng
nhiều cách thức khác nhau. Cuộc thoát khỏi nhà tù Tân Hiệp có
462 cán bộ, đảng viên, người dân yêu nước cùng 42 khẩu súng,
tăng cường hơn nữa sức chiến đấu cho tổ chức đảng, đảng viên
lúc bấy giờ nói chung, ở xã Phú Hữu nói riêng.
Ngày 23-12-1956, Nguyễn Văn Thông cùng Nguyễn Tri
Phương, Nguyễn Ngọc Yến sau khi thoát khỏi trại giam Biên
Hòa (Tân Hiệp) về đến Phú Hữu tiếp tục củng cố lực lượng,
xây dựng cơ sở cách mạng để chiến đấu chống đế quốc Mỹ và
tay sai.
Với bản lĩnh chính trị, tư duy sáng tạo, sâu sắc trong công
tác địch vận, binh vận, dũng cảm dám nghĩ, dám làm của
Nguyễn Văn Thông về xây dựng lực lượng vũ trang xã Phú
Hữu dưới danh nghĩa Bình Xuyên, vừa không trái chủ trương
của Đảng, lại đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng địa phương.
Để rồi hơn một năm sau, tháng 12-1956 Xứ ủy Nam Bộ quyết
định: “Do nhu cầu của cách mạng miền Nam, trong chừng mực
nào đó cần có lực lượng tự vệ và vũ trang tuyên truyền để hỗ
trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng lực lượng
vũ trang đó để làm cách mạng đánh đổ Mỹ - Diệm... Tích cực
xây lực lượng vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ rừng núi, tranh
thủ vận động, cải tạo, tập hợp lực lượng giáo phái bị Mỹ - Diệm
125

13.6 Page 126

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
đánh tan rã đứng vào hàng ngũ nhân dân, lấy danh nghĩa giáo
phái ly khai để diệt ác ôn”1.
Tháng 10-1959, Nguyễn Văn Thông từ Phú Hữu về Huyện
ủy Long Thành công tác với chức vụ Chánh Văn phòng Huyện
ủy. Những dự cảm của Nguyễn Văn Thông về Hai Giò - Bí thư
xã Phú Hữu có dấu hiệu đầu hàng giặc từng bước hiện hữu ở
địa phương. Cuối tháng 10-1959, Hà Tư - Bí thư Huyện ủy và
Hai Giò - Bí thư xã Phú Hữu đầu hàng giặc và dẫn đường cho
địch bắt nhiều đồng chí trong Huyện ủy như Trần Văn Hiệp,
Nam Khôi, Chín Râu ở Phú Hữu, Đại Phước. Nhiều đảng viên
và cơ sở cách mạng sa vào tay giặc như Huỳnh Văn Đức, Lê
Văn Lộ, Lê Phước Thọ... Khoảng 300 cán bộ, đảng viên, cơ sở
mật trong đó có Phan Thị Nho và nhiều người khác đều bị giặc
bắt. Một số chi bộ còn một, hai đảng viên như Phú Hữu, Đại
Phước... Sau khi phản bội đồng chí, đồng đội, nhân dân Phú
Hữu, tên Hai Giò liên tục lùng sục bắt bớ những cơ sở cách
mạng đã cưu mang y, bắn giết những đồng chí cũ đã từng sớm
hôm gian khổ với hắn một thời. Nên đến cuối năm 1959, Huyện
ủy Long Thành hoàn toàn bị mất liên lạc với Tỉnh ủy Biên Hòa.
Tháng 1-1961, Nguyễn Văn Thông cùng Phạm Văn Lố,
Đoàn Thanh Toàn về ấp Rạch Bảy tổ chức học tập nâng cao
giác ngộ cách mạng cho anh em mới đi thoát ly, phát động lòng
căm thù giặc và tay sai. Tháng 2-1961, thông tin từ Lê Văn Hai
1  Trích nghị quyết Xứ ủy Nam bộ tháng 12-1956. Lưu phòng Lý luận Chính
trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
126

13.7 Page 127

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
(Lê Văn Chánh) báo tin phát hiện Tư Nở là tay sai, ác ôn đang
ở Phú Hữu. Ngay lập tức, Nguyễn Văn Thông cùng nhiều anh
em như Tâm, Toàn và bà con người dân địa phương đã bắt được
tên Tư Nở và trừng trị hắn để tế cáo trước sự hy sinh của những
người đã khuất. Nguyễn Văn Thông đã gầy dựng lại lực lượng
gần 30 người ở căn cứ sở Dừa, anh em được học tập chính trị và
từng người được giao nhiệm vụ cụ thể. Lực lượng cách mạng ở
sở Dừa tiến hành triển khai diệt ác, phá kìm đồng loạt ở ba xã
Phú Hữu, Đại Phước, Phước Khánh.
Đến tháng 3-1961, Huyện ủy tăng cường cho vùng IV tổ
chức vũ trang có 2 súng trường do anh Đoàn Danh Dự làm tổ
trưởng. Chị Phan Thị Chi (Ba Chi) là cán bộ Phụ nữ tỉnh Biên
Hòa được bố trí xuống vùng IV cùng Nguyễn Văn Thông lãnh
đạo phong trào đấu tranh, nhất là diệt ác trừ gian, phá thế kìm
kẹp của chính quyền Sài Gòn ở Phú Hữu.
Nguyễn Văn Thông và chị Phan Thị Chi đột nhập ấp Phước
Lương, Phú Hữu bắt và trừng trị nhiều tên ác ôn, giải tán toàn
bộ tề ấp, tổ chức chính trị phản động của chính quyền Sài Gòn ở
địa phương. Lực lượng thanh niên cốt cán ở Phú Hữu và Phước
Khánh khoảng 50 người được rút ra sở Dừa, lực lượng ở địa
phương 2 xã này tăng lên 80 người. Một số thanh niên được
đưa về huyện tăng cường cho đơn vị 19/5, một số anh em được
bồi dưỡng trong thực tiễn ở địa phương trở thành cán bộ nòng
cốt về sau. Các đồng chí ở Phú Hữu tiến hành vũ trang tuyên
truyền ở các ấp Câu Kê, Rạch Bảy, Phước Lương... Tên Quởn
127

13.8 Page 128

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
là nhóm trưởng tình báo tay sai của địch trên sông, là dân ấp
Câu Kê, hắn rất gian ác, tàn bạo đối với chiến sĩ, cơ sở cách
mạng. Chi bộ Phú Hữu hạ quyết tâm tiêu diệt tên này để phong
trào cách mạng địa phương phát triển tiến lên. Cơ sở cách mạng
ở Phú Hữu vào nhà của Quởn bắt hắn ra đồng Phèn, nêu rõ tội
trạng và xử tử hình.
Nguyễn Văn Thông bố trí nội tuyến Nguyễn Văn Thoàng
đeo bám Hai Giò - tên phản bội cách mạng, ác ôn khét tiếng ở
Phú Hữu. Ngày 20-5-1961, Nguyễn Văn Thông dẫn Toàn, Đấu,
Thắng, Quang, Tâm lội về Câu Kê và phát hiện Hai Giò, hắn
đang ở nhà. Nguyễn Văn Thông cùng các chiến sĩ vào nhà Hai
Giò bắt hắn vào đêm tối, hắn vùng dậy bỏ chạy, Mai Văn Thắng
đã dùng dao kết liễu tên ác ôn, gây bao nợ máu đối với cán bộ,
chiến sĩ, người dân Phú Hữu, tạo niềm tin cho người dân địa
phương và các xã lân cận. Đồng thời, tại ấp Cát Lái có tên Rỡ
ác ôn cũng bị tiêu diệt trong đợt này.
Các thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ và tay sai:
Giai đoạn 1961-1965, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược
chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, trong đó “ấp chiến lược”
được địch xem là quốc sách hàng đầu nhằm thực hiện âm mưu
“tát nước bắt cá” hết sức thâm độc, ly gián người dân ra khỏi
các lực lượng cách mạng, thực chất là nhốt dân trong các trại
tập trung để kìm hãm mối liên hệ giữa quần chúng nhân dân
đối với cách mạng. Địch xây dựng ấp chiến lược nhằm triệt hạ
các cơ quan đầu não của cách mạng ở nông thôn, triệt hạ nguồn
128

13.9 Page 129

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cung cấp nhân lực, vật lực, tài lực, triệt nguồn thông tin, phá vỡ
cơ sở cách mạng nội tuyến; triệt hạ mọi khả năng biến hóa vô
hình của lực lượng cách mạng. Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa, đế
quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn chọn huyện Nhơn Trạch để
thực hiện thí điểm “quốc sách ấp chiến lược”.
Mỗi ấp chiến lược được chính quyền Sài Gòn cấu trúc kiên
cố, có chu vi hình vuông, lớp bên ngoài là hàng rào kẽm gai với
chiều dài 1,5km và chiều cao 2m; lớp trong hàng rào là bờ đất,
có hàng cọc với 5 dây kẽm gai, (nếu không có bờ đất, thêm 2
dây kẽm gai nữa là tổng cộng 7 dây kẽm gai). Bốn xung quanh
phía trong của ấp chiến lược có 4 chòi canh gác nghiêm ngặt.
Mỗi ấp chiến lược có 2 cửa ra vào ở giữa 2 cạnh của ấp chiến
lược và có 2 chòi canh ở 2 cửa ra vào. Hàng rào bên ngoài ấp
chiến lược có chiều cao 2m, có 7 dây kẽm gai kiên cố. Đồng
thời, bên ngoài ấp chiến lược địch trồng tre dày đặc làm hàng
rào, gài mìn, lựu đạn; đào hào nước sâu, cắm chông dưới đáy
xung quanh ấp chiến lược; xung quanh bờ đất của ấp chiến
lược, địch lập nhiều lỗ châu mai để bắn đạn từ trong ra bên
ngoài. Mỗi ấp chiến lược, chính quyền Sài Gòn lập một đội vũ
trang với vũ khí súng Mã Lai (súng một nòng nửa tự động bắn
được nhiều phát liên tục).
Bên trong ấp chiến lược ở Phước Lương, chính quyền Sài
Gòn chia thành nhiều lô với chiều ngang 7m, dài 22m; trong
đó, chúng chia 3 thành phần dân cư: Thành phần thân và theo
chính quyền Sài Gòn, thành phần trung lập và thành phần gia
129

13.10 Page 130

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
đình theo cách mạng hoặc thân thiện với cách mạng để chúng
phân biệt đối xử, nhất là chúng giám sát, đàn áp những gia đình
có người thân làm cách mạng hoặc theo cách mạng. Trong ấp
chiến lược, địch thành lập bộ máy tay sai phản động như thanh
niên cộng hòa, phụ nữ liên đới, mật vụ, chỉ điểm... để theo dõi,
đàn áp những gia đình cách mạng hoặc gia đình có cảm tình
với cách mạng, ngăn chặn việc chi viện, tiếp tế thuốc men,
lương thực từ trong ấp chiến lược ra vùng tự do, hoặc Chiến
khu Phước An, căn cứ Rừng Sác... Theo tài liệu tuyên truyền
của chính quyền Sài Gòn, các tổ chức của địch trong ấp chiến
lược rất chặt chẽ, rất phản động nhằm thực hiện mưu đồ “tát
nước bắt cá” đối với chiến sĩ cách mạng, hoặc những người
theo cách mạng ở xã Phú Hữu.
Người dân trong ấp chiến lược bị địch kiểm soát gắt gao,
quản lý chặt chẽ với việc lập sổ gia đình và phiếu lý lịch. Địch
bố trí lực lượng chia thành tổ 2, mỗi tổ có 3 người, mỗi tổ phụ
trách vài liên gia (các gia đình cạnh nhau); mỗi tổ đến từng gia
đình, tiếp xúc từng cá nhân1 để nắm tình hình từng người dân
trong ấp chiến lược.
1  Sổ gia đình do gia chủ khai có sự hiện diện của tất cả thành viên trong gia đình.
Phiếu lý lịch do đương sự tự khai, trừ trường hợp vắng mặt sẽ do gia chủ khai thay
thế. Sau khi lập xong sổ gia đình, phiếu lý lịch được gửi cho trưởng ấp kiểm soát
và chứng thực. Trong đó, sổ gia đình lập 3 bản lưu tại gia đình, xã, quận; phiếu lý
lịch lập thành 2 bản lưu tại xã, quận; chụp ảnh cả gia đình và dán vào sổ gia đình
để chúng kiểm soát người dân trong ấp chiến lược.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Thâm độc hơn, chính quyền Sài Gòn còn xem ấp chiến lược
là nơi thu thuế, làm cho người dân trong ấp vốn bức bối về
cuộc sống, bị giam cầm không được tự do sản xuất, phát triển
kinh tế. Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn ban hành văn bản số
06394-BNV/HC/12/M, ngày 25-9-1962 về “hành thâu các sắc
thuế tại ấp chiến lược”: Việc thiết lập các ấp chiến lược, ngoài
việc thực hiện cuộc cách mạng nông thôn về mặt xã hội, kinh
tế, quân sự... còn tạo điều kiện thuận tiện cho việc hành thâu
các sắc thuế làm tăng thêm phần thu cho ngân sách. Như vậy,
song song với số ấp chiến lược ngày càng hoàn thành, số thuế
thu được ngày một tăng1. Chính quyền Sài Gòn ban hành Kế
hoạch số 036/K31CT/BTV/KH, ngày 25-10-1962 của Ủy ban
đặc trách ấp chiến lược Khu 31 chiến thuật về “xây dựng ấp
chiến lược 31 chiến thuật”2 nhằm cô lập, siết chặt sự giúp đỡ,
hỗ trợ của quần chúng nhân dân đối với cách mạng trên địa bàn
miền Đông Nam Bộ nói chung, tỉnh Biên Hòa nói riêng. Trên
địa bàn quận Nhơn Trạch, chính quyền Sài Gòn lập 20 ấp chiến
lược3, trong đó có xã Phú Hữu.
1  Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Tài liệu tuyên truyền của chính quyền Sài Gòn
về ấp chiến lược, tr.1.
2  Trung tâm lưu trữ quốc gia II. Khu 31 chiến thuật gồm 09 tiểu khu: Biên Hòa,
Bình Dương, Bình Long, Bình Tuy, Long Khánh, Phước Thành, Phước Long,
Phước Tuy, Tây Ninh với diện tích ước lượng 29.339km2.
3  Ấp chiến lược Nhơn Trạch - quận lỵ, ấp chiến lược Câu Kê - XS, Cát Lái, Ấp
II - YS, Ấp II, Vĩnh Phước, Nghĩa Mỹ, Giồng Ông Đông, Nghĩa Yên, Bắc Minh,
Đại Thanh, Nhà Thờ - XS, Thạnh Lợi - YS, Đại Điền, Trung Thành, Thiết Nham,
Ấp C, Ấp Chợ, Ấp A, Ấp I, Ấp Chợ. Tài liệu Trung tâm lưu trữ quốc gia II, tr.14
131

14.2 Page 132

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Trong mỗi ấp chiến lược, địch tổ chức Đoàn ngũ với cơ cấu
rất chặt chẽ để kiểm soát việc liên hệ, tiếp tế của cơ sở cách
mạng nội tuyến trong ấp. Mỗi ngõ hoặc liên gia có 1 tiểu tổ
thiếu niên (từ 13 đến 17 tuổi), 1 tiểu tổ thanh niên từ 18 đến 35
tuổi), 1 tiểu tổ tráng niên (36-50 tuổi), 1 tiểu tổ phụ nữ (18-50
tuổi), 1 tiểu tổ lão ông, lão bà (từ 51 tuổi trở lên)1. Mỗi xóm sẽ
có 1 liên tổ thiếu niên, thanh niên tráng niên, phụ nữ, lão ông
và lão bà.
Chi bộ lãnh đạo đấu tranh chính trị, vận động nhân dân
đóng góp cho cách mạng:
Trước các thủ đoạn thâm độc của chính quyền Sài Gòn qua
việc thiết lập mạng lưới ấp chiến lược ở miền Nam nói chung,
ở Nhơn Trạch nói riêng, Đảng ta chủ trương phá thế bao vây,
kìm kẹp của địch bằng các giải pháp khai thác mọi mâu thuẫn
của người dân đối với chính quyền Sài Gòn, hàng ngũ binh lính
địch trong ấp chiến lược. Tổ chức tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam cho các đoàn thể quần chúng, thân nhân, bạn bè của
cán bộ, chiến sĩ cách mạng tập kết, những người dân vì lý tưởng
độc lập tự do trong ấp chiến lược. Nhờ đó, chúng ta xây dựng
được cơ sở cách mạng ngay trong lòng ấp chiến lược do địch
lập ra.
1  Tài liệu Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Vấn đề vận dụng quần chúng, tr.4.
132

14.3 Page 133

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đầu năm 1962, chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh lập ấp chiến
lược trên địa bàn tỉnh Biên Hòa; trong đó, chúng lấy quận Nhơn
Trạch làm thí điểm. Đến tháng 5-1962, chính quyền Sài Gòn
đã lập được một số ấp chiến lược liên hoàn ở xã Vĩnh Thanh
và một số nơi khác trên địa bàn huyện Nhơn Trạch. Sau khi lập
xong ấp chiến lược ở xã Vĩnh Thanh, địch gom dân ở các xã
xung quanh, trong đó có xã Phú Hữu vào ấp chiến lược. Tuy
nhiên, người dân ở Phú Hữu phản đối quyết liệt chính sách gom
dân vào ấp chiến lược của chính quyền Sài Gòn. Chính quyền
Sài Gòn ghép người dân Phú Hữu không vào ấp chiến lược là
theo Việt Cộng chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nên
chúng bắt bớ, đánh đập người dân. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ
địa phương, người dân Phú Hữu liên tục đấu tranh chống địch
quyết liệt với các khẩu hiệu “đả đảo bọn bắn giết dân”, “phải
trừng trị bọn ác ôn”.
Trước tình hình đó, ngày 3-2-1962, Ban Thường vụ Huyện
Nhơn Trạch họp và quyết định một số nhiệm vụ đấu tranh
chống chính quyền Sài Gòn. Phát động toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong huyện mở đợt đồng loạt phá ấp chiến lược.
Hoạt động phá ấp chiến lược chú trọng thu toàn bộ cọc sắt, dây
kẽm gai để xây dựng ô, ụ chiến đấu gắn với phong trào “bao
vây, uy hiếp đồn bót” của địch ở địa phương. Phong trào phá
nội dung và hình thức hàng chục ấp chiến lược rộ lên liên tục
ở cả những vùng sâu như Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước.
Cách mạng đã giáo dục, răn đe, cảnh cáo tề ấp, xã, diệt một số
133

14.4 Page 134

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
tên ác ôn. Việc diệt ác, trừ gian, cách mạng từng bước phá thế
kìm kẹp, nhất là ở ấp chiến lược của địch trên địa bàn xã Phú
Hữu phát triển.
Ngày 18-5-1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch khai mạc, có gần 30 đoàn đại biểu xã, các
cơ quan, ban ngành trên địa bàn huyện với 250 đại biểu tham
dự, trong đó có đại diện của xã Phú Hữu. Đại hội thông qua lời
kêu gọi toàn thể đồng bào trong huyện vùng lên liên tục phá
toàn diện quốc sách ấp chiến lược của địch, giành chính quyền,
làm chủ các xóm ấp, đem hết sức người sức của phục vụ kháng
chiến góp phần vào sự nghiệp giải phóng quê hương. Ngày
19-5-1962, Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức mít tinh mừng Đại
hội Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện thành công tốt đẹp ở xã
Phước An, đã thu hút hàng ngàn bà con từ các xã xung quanh về
tham dự đông đảo, trong đó có người dân xã Phú Hữu. Ủy ban
Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch ra mắt đồng
bào huyện, người dân trong huyện vui mừng, nhất là từ các xã
vùng gần Chiến khu Phước An như Phú Hữu, Phước Khánh,...
đều biểu thị quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Mặt trận giải
phóng huyện chống chính quyền Mỹ - Diệm.
Mặt trận giải phóng huyện Nhơn Trạch ra đời đã đánh dấu
một bước phát triển của phong trào cách mạng ở địa phương.
Đồng bào phấn khởi càng ra sức đóng góp sức người sức của,
hầu hết các xã trong toàn huyện đều đóng góp đầy đủ số lương
thực, thực phẩm, nhiều nhất là các xã Phú Hữu, Long Phước,
134

14.5 Page 135

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Phước Khánh... Tại xã Phú Hữu, đồng bào chở về huyện góp
1.500 giạ lúa. Người góp nhiều nhất là má Sáu Ngữ, gia đình
của má góp tới 150 giạ.
Năm 1963, các đồng chí xã Phú Hữu đã bố trí anh Phạm
Văn Sơn ở trong ấp chiến lược Cát Lái để nắm thông tin, tình
hình của địch, kịp thời báo cáo với tổ chức để có giải pháp ứng
phó phù hợp. Phạm Văn Sơn còn chở ván đi giúp đỡ cho cách
mạng ở Rạch Ông Mai để làm hầm trú ẩn chiến đấu, chở 10
giạ lúa tiếp tế cho cách mạng ở Bến Cộ qua mặt được lính Mỹ
và chính quyền Việt Nam Cộng hòa; lúc nước cạn ông bắt cá,
đốn củi đóng góp cho cách mạng, bị lính Sài Gòn bắt, quy kết
là Việt cộng, nhưng ông kiên quyết không khai một lời và một
lòng theo cách mạng.
Tháng 12-1964, theo chỉ đạo của Huyện ủy Nhơn Trạch,
hội đồng lương thực đã chuyển về tỉnh 400 tấn lương thực để
đóng góp cho kháng chiến. Tại đồi Tâm Tình thuộc xã Phước
Thái, tối nào cũng có từ 100 đến 200 dân công vận chuyển
lương thực, thực phẩm, trong số này có 50 người là đồng bào
dân tộc thiểu số. Huyện ủy còn cử 1 đội dân công hỏa tuyến
gồm 120 anh chị em và cử Tư Mùi phụ trách. Đồng bào các xã
trong huyện thi đua đóng góp lương thực, thực phẩm. Ủy ban
xã Phước Khánh phải xây dựng thêm 4 kho, mỗi kho chứa tới
10 tấn lúa. Xã Phú Hữu điều hẳn một đội dân công chuyên làm
nhiệm vụ vận chuyển lương thực, thực phẩm.
135

14.6 Page 136

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Chi bộ lãnh đạo chiến đấu trên mặt trận quân sự:
Các đồng chí Bí thư của xã Phú Hữu có Dương Văn Sinh,
Phạm Văn Ngọc, Sáu Xuân, Tám Tấn, Phạm Ngọc Thảo làm Bí
thư 1973-1974, Võ Văn Sáu làm Bí thư 1974-19751.
Đêm 23 rạng sáng 24-11-1963, du kích xã Phú Hữu đột
kích ấp chiến lược Phước Lương, diệt 6 tên dân vệ, trong đó có
tên Cả Lý - một tên ác ôn khét tiếng, bắt sống 9 tên khác, thu
12 súng, phá tan ấp chiến lược tạo khí thế phấn khởi cho người
dân ở xã Phú Hữu.
Tháng 10-1964, phong trào cách mạng trên địa bàn xã Phú
Hữu phát triển tương đối đều và vững chắc. Các ấp chiến lược
Phước Lương, Cát Lái, Câu Kê bị người dân địa phương phá
từng mảng, công tác binh vận kêu gọi binh sĩ chính quyền Sài
Gòn đào ngũ, rã ngũ ngày càng đạt kết quả cao.
Nỗi đau mất mát lớn đổ ập lên người dân Phú Hữu cùng các
xã lân cận, đó là chiều ngày 27-9-1964, nhiều tốp máy bay của
Mỹ đến ném bom, bắn phá hơn 200 ghe xuồng ở ngã ba Giồng
Sắn (nay thuộc xã Phú Đông), giết hại 536 người dân. Tội ác
man rợ của đế quốc Mỹ và tay sai được báo chí cả nước đưa tin,
càng dấy lên làn sóng chống đế quốc Mỹ và tay sai hơn nữa ở
Phú Hữu. Huyện ủy Nhơn Trạch tổ chức đưa hàng trăm quần
chúng các địa phương Phú Hữu, Phước Khánh, Đại Phước,...
biểu tình ở Biên Hòa, Sài Gòn để phản đối chiến tranh, tố cáo
tội ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
1  Thông tin cung cấp từ nhân chứng Nguyễn Ngọc Lan ở ấp Cát Lái.
136

14.7 Page 137

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Ngày 6-3-1965, được nội tuyến dẫn đường, du kích các xã
cùng đồng nào phá rã nhiều ấp chiến lược; theo lộ 19, phá các
ấp chiến lược ở Long Tân, Phú Hữu, Đại Phước, làm cho địch
hoang mang lo sợ, hạn chế quân đội Sài Gòn bố ráp, càn quét
vào vùng kiểm soát của cách mạng trên địa bàn xã.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Nhơn Trạch trong những
năm 1963-1965, xã Phú Hữu tăng cường mở các đợt phát động
nông dân nâng cao giác ngộ cách mạng để tiếp tục chiến đấu
chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ và tay sai, góp phần cùng
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa đánh bại chiến lược chiến
tranh đặc biệt cuối năm 1964 - đầu năm 1965.
II. CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ VÀ CHÍNH
QUYỀN SÀI GÒN (1965-1975)
1. Chiến đấu chống các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn (1965-1973)
Với chiến thắng của quân dân ta ở Bình Giã1 (cuối năm
1964, đầu năm 1965), An Lão2 (1964), Ba Gia3 (1965), Đồng
Xoài4 (1965), chiến lược chiến tranh đặc biệt (1961-1965) của
đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
Để tiếp tục can thiệp vào nước ta, leo thang chiến tranh phá
hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược Chiến tranh
1  Bình Giã hiện nay là xã Bình Giã, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2  An Lão hiện nay là huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
3  Ba Gia hiện nay thuộc xã Tịnh Đông, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
4  Đồng Xoài hiện nay là thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.
137

14.8 Page 138

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
cục bộ (1965-1968) với quy mô, cường độ ác liệt hơn nhiều
lần so với chiến tranh đặc biệt. Chiến lược Chiến tranh cục
bộ là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được
tiến hành bằng quân Mỹ, đồng minh và quân đội Sài Gòn với
phương tiện chiến tranh hiện đại. Thủ đoạn của chiến tranh
này là Mỹ nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực có
thể áp đảo quân chủ lực ta bằng chiến lược: “Tìm diệt”, “bình
định” giành thế chủ động trên chiến trường, đẩy ta về phòng
ngự, buộc ta phải phân tán nhỏ... làm cho chiến tranh tàn lụi
dần. Âm mưu của nó là nhằm nhanh chóng tạo ưu thế về quân
sự, giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lùi lực lượng
cách mạng của ta về phía phòng ngự.
Được đế quốc Mỹ hỗ trợ mọi mặt, chính quyền Sài Gòn
thực hiện kế hoạch bình định cấp tốc. Tiểu khu Biên Hòa chọn
Long Thành - Nhơn Trạch, Tân Uyên để thực hiện kế hoạch
này. Địch chọn hai địa phương Long Thành, Nhơn Trạch làm
thí điểm âm mưu “tiêu diệt hạ tầng Cộng sản”; chúng đưa các
đoàn cán bộ bình định nông thôn về các địa phương này. Chúng
nhận định thực hiện âm mưu “tiêu diệt hạ tầng Cộng sản” là
điều không hề dễ dàng. Tên quận trưởng Long Thành Nguyễn
Văn Huy nói: “Đánh Việt cộng trong rừng sâu đã là việc khó,
việc tìm ra và phá vỡ cơ sở nuôi giấu Việt cộng ở trong ấp còn
khó hơn nhiều, vì họ được dân tin yêu, bảo vệ”.
Trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ đối với miền Nam và
miền Bắc, ngày 17-7-1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu
gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Trong đó, Bác Hồ nói rõ: Đế quốc Mỹ dã man, gây ra chiến
tranh xâm lược hòng ăn c­ướp nước ta, nhưng chúng đang thua
to. Chúng ồ ạt mang gần 30 vạn quân viễn chinh vào miền Nam
nước ta. Chúng nuôi dư­ ỡng ngụy quyền ngụy quân làm công cụ
hại dân phản nước. Chúng dùng những ph­ương tiện chiến tranh
cực kỳ man rợ, như­ chất độc hóa học, bom napan,... Chúng
dùng chính sách đốt sạch, giết sạch, phá sạch. Bằng những tội
ác ấy, chúng hòng khuất phục đồng bào miền Nam ta... Như­ng
dưới sự lãnh đạo kiên quyết và khôn khéo của Mặt trận Dân tộc
giải phóng, quân và dân miền Nam ta đoàn kết chặt chẽ, chiến
đấu anh dũng, đã thắng lợi vẻ vang và quyết tâm chiến đấu
đến thắng lợi hoàn toàn, để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà... Chiến tranh có thể kéo dài
5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!1. Lời kêu gọi của Bác đã cũng cố
hơn nữa niềm tin chiến đấu chống đế quốc Mỹ và tay sai đối với
cán bộ, đảng viên, người dân Phú Hữu.
Để tiến hành bình định các huyện Nhơn Trạch, Long Thành
địch phân loại các xã như sau: Xã loại A gồm Phước Lộc, Long
An, Lộc An, Vĩnh Thanh, Phú Thạnh, Đại Phước; những xã
này địch cho là có thể làm chủ cả ngày lẫn đêm. Xã loại B gồm
1  Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.130
139

14.10 Page 140

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Phước Thái, Phước Tân, An Hòa Hưng, Long Phước, Phước
Thiền, Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Kiển, Phước Lai; những
xã này địch đánh giá chỉ làm chủ ban ngày và một số ấp ban
đêm. Qua việc đánh giá, phân loại xã của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa, xã Phú Hữu có phong trào cách mạng phát triển
mạnh, khá toàn diện, nên địch chỉ kiểm soát ban ngày, còn ban
đêm là địa bàn hoạt động của cách mạng.
Bước sang năm 1966, ngay từ những ngày đầu tháng Giêng,
lữ đoàn 199 thủy quân lục chiến Mỹ từ Phú Xuân, Nhà Bè
được địch điều về Long Thành, Nhơn Trạch. Sau khi đến Nhơn
Trạch, địch bung ra chiếm đóng ở một số vị trí. Theo tỉnh lộ 17,
địch đóng đồn ở chùa Nước Nhĩ, ấp Phước Lý, Phước Lương
ở Phú Hữu, Giồng Ông Đông gây nhiều khó khăn cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ và tay sai ở Phú Hữu.
Ngày 29-7-1966, xã đội trưởng Phú Hữu Nguyễn Quyết
Chiến cùng với Tư Thắng - xã đội phó, có sự hỗ trợ của Đoàn
10 đã đánh lui một cuộc càn của địch, đồng thời bắn rơi 1 máy
bay lên thẳng của Mỹ, tạo niềm tin, khí thế cho người dân Phú
Hữu đánh Mỹ và tay sai. Tại hội nghị thi đua cuối năm 1966,
nghệ thuật bắn tỉa của chiến sĩ Ngọc xã đội Phú Hữu được khen
thưởng, trở thành bài học kinh nghiệm trong kháng chiến chống
Mỹ ở Nhơn Trạch và toàn tỉnh Biên Hòa.
Xã Phú Hữu ôm đoạn ngã ba sông Sài Gòn và sông Đồng
Nai - tuyến đường huyết mạch nối sông Sài Gòn với sông Lòng
Tàu và Rừng Sác với sông Nhà Bè. Theo Điện số 370/TGK,
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
ngày 22-9-1966 của Quân ủy Miền xác định tính chất của Đặc
khu Rừng Sác là một khu quân sự chứ không phải Quân khu, có
một cấp ủy phụ trách cả về quân chính và phong trào cách mạng
địa phương. Địa bàn hoạt động của Đặc khu Rừng Sác trải rộng
trên 10 xã, chia làm 2 khu: Khu A ở phía Đông sông Lòng Tàu,
khu B ở phía Tây sông Lòng Tàu. Sau một thời gian, mỗi xã
đều có một tiểu đội du kích, như Phú Hữu, Phước Khánh. Đảng
bộ Đặc khu có 372 đảng viên, trong đó có 69 người thuộc 10
chi bộ xã1, trong đó có xã Phú Hữu. Du kích mỗi xã có từ 5
đến 10 người, xây dựng theo phương châm “không chiến đấu
không thành du kích”. Các xã Phú Hữu, Phước Khánh, Long
Sơn là những xã có hoạt động du kích mạnh, có thời gian, đội
viên du kích lên đến 20 người2. Du kích xã Phú Hữu có nhiều
đóng góp cho lực lượng chiến đấu Đặc khu Rừng Sác ở khu vực
sông Lòng Tàu.
Đến giữa tháng 4-1966, Trung ương Cục miền Nam và
Quân ủy Miền quyết định thành lập Đặc khu Rừng Sác. Đặc
khu Rừng Sác mang tên Đoàn 10 (đặc công thủy) ban đầu có
614 chiến sĩ, sau đó tăng dần lực lượng, phần đông chiến sĩ là
đảng viên; bên cạnh đó, Đặc khu Rừng Sác có 10 chi bộ ở các
xã với 69 đảng viên, trong đó có xã Phú Hữu. Để thực hiện
nghị quyết thành lập Đặc khu Rừng Sác, huyện Nhơn Trạch cắt
1  Nhiều tác giả (2013), Rừng Sác Cần Giờ những chiến công huyền thoại, Nxb
Văn hóa Văn nghệ, tr.37.
2  Nhiều tác giả (2013), Rừng Sác Cần Giờ những chiến công huyền thoại, Nxb
Văn hóa Văn nghệ, tr.39.
141

15.2 Page 142

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
hai xã Phú Hữu và Phước Khánh giao cho Đảng bộ Đoàn 10.
Đặc khu Rừng Sác sẽ lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động du kích
và phong trào quần chúng của xã Phú Hữu để hỗ trợ tiến công
địch về quân sự. Huyện ủy Nhơn Trạch sẽ đảm nhận lãnh đạo,
chỉ đạo xã Phú Hữu về phong trào đấu tranh chính trị, công tác
binh vận nhằm xây dựng lực lượng cách mạng quần chúng, đấu
tranh công khai đối với địch. Như vậy, từ năm 1966 trở đi xã
Phú Hữu được sự lãnh đạo của Đặc khu Rừng Sác và Huyện ủy
Nhơn Trạch nhằm hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, quân sự
do yêu cầu mới của cách mạng đặt ra.
Để phù hợp với tình hình mới của cuộc chiến đấu chống
chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, Khu ủy miền Đông tiến
hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính để phù hợp với chiến
trường. Ngày 9-10-1966, Tỉnh ủy Biên Hòa (U3) ra Quyết định
số 028/QĐ sáp nhập hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch
thành huyện Long Thành.
Đến tháng 12-1966, Ban Thường vụ Khu ủy miền Đông
quyết định nhập các địa phương Tỉnh ủy Biên Hòa (U3), tỉnh
Bà Rịa và Long Khánh, thành lập tỉnh Bà Biên. Xã Phú Hữu
thuộc huyện Long Thành, tỉnh Bà Biên. Địa bàn của xã Phú
Hữu, khu vực Nhơn Trạch, Rừng Sác, sông Lòng Tàu trở thành
nơi càn quét liên tục của quân Mỹ, quân đồng minh Mỹ và tay
sai. Đơn vị vũ trang 19/5 của huyện Nhơn Trạch cũ tích cực
cùng đội du kích xã Phú Hữu, sau đó có thêm lực lượng vũ
trang C240 của tỉnh Bà Biên tăng cường cho địa phương. Đầu
mùa khô năm 1967, quân Mỹ cùng quân đồng minh mở nhiều
142

15.3 Page 143

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cuộc hành quân càn quét vào khu vực đứng chân của các lực
lượng cách mạng ở Rừng Giồng, căn cứ Rừng Sác. Thâm độc
nhất là việc Mỹ sử dụng máy bay rải chất độc hóa học xuống
nhiều khu vực ở Phú Hữu, nhất là ở vùng dừa nước theo các
sông rạch trên địa bàn xã.
Trước sự càn quét của quân Mỹ, quân đồng minh Mỹ, công
tác đấu tranh chính trị được Huyện ủy Long Thành lãnh đạo,
chỉ đạo thường xuyên trên địa bàn các xã, trong đó có xã Phú
Hữu. Chúng ta đã rải hơn 200.000 truyền đơn bằng các ngôn
ngữ Anh, Thái, Việt với nội dung cụ thể: Chiến tranh xâm lược
của Mỹ là phi nghĩa và đầy tội ác; cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam là chính nghĩa. Truyền đơn kêu gọi binh sĩ Sài
Gòn buông súng về nhà làm ăn, lính Mỹ và Thái Lan chống
lệnh hành quân bằng mọi cách, đấu tranh đòi về nước để không
chết vô nghĩa... Ta cũng trực tiếp giáo dục gần 50.000 lượt binh
sĩ các loại, khiến hàng trăm lính Sài Gòn đào, rã ngũ.
Trên địa bàn xã Phú Hữu, chi bộ tổ chức được nhiều đội tự
vệ mật có trang bị lựu đạn, mìn ở ấp Cát Lái, Bến Bạ, Câu Kê...
để đối phó với quân Mỹ và tay sai. Du kích xã lập nhiều chốt để
bao vây, bắn tỉa, làm nhiều hầm chông, hố đinh để chống địch
càn quét, bố ráp vào làng xóm trong xã.
Trung tuần tháng 7-1967, quân đồng minh Mỹ là Thái Lan
đóng quân ở An Lợi gần căn cứ Nước Trong của ta ở Long
Thành. Quân dân Nhơn Trạch, Long Thành lại phải đương đầu
với một kẻ thù mới là giặc Thái Lan. Cũng từ đầu tháng 7-1967,
143

15.4 Page 144

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Mỹ cho máy báy rải chất độc hóa học, phá hủy hàng ngàn ha
Rừng Sác, thiệt hại nhất là ở khu sở Dừa căn cứ Phú Hữu. Trên
Rừng Giồng, địch càng ra sức rải chất độc hóa học, âm mưu
phá hoa màu của dân, đánh vào cơ sở hậu cần của quân dân ta.
Kể từ ngày Đoàn 10 được thành lập, rồi xã Phú Hữu được
cắt giao cho Đoàn 10 lãnh đạo, từng gia đình của xã này trở
thành cơ sở cách mạng, người dân lo từng bữa cơm ăn, chén
nước uống, cung cấp tình hình, phương tiện xuồng ghe đi lại
để Đoàn 10 đánh giặc, góp phần cùng Đoàn 10 lập được nhiều
chiến công vang dội. Đoàn 10 với hai xã Phú Hữu, Phước
Khánh như một cơ thể sống, thể hiện sống động tình “quân dân
như cá với nước”.
Ngày 23-7-1967, đồng chí Dương Văn Sinh (Mười Sinh)
cán bộ huyện được tăng cường về xã Phú Hữu, sau đó đồng chí
cải trang như nông dân, sang khu Phú Xuân - Nhà Bè nắm tình
hình địch để cung cấp thông tin cho Đoàn 10. Không ngờ khi
về Phú Hữu bị tên Tư Ù, mật thám của địch, theo dõi rồi báo
cho địch phục kích bắt đồng chí Mười Sinh. Trải qua nhiều nhà
tù của địch ở Long Thành, Biên Hòa, Thủ Đức, chúng tra tấn
đồng chí Mười Sinh rất dã man, nhưng không khai thác được
gì, cuối cùng chúng đày đồng chí Sinh ra Côn Đảo, nhưng đồng
chí luôn luôn giữ vững niềm tin tất thắng của cách mạng vào
ngày mai.
Tháng 7-1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định bố
trí lại chiến trường, giải thể Khu ủy miền Đông, thành lập 5
144

15.5 Page 145

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
phân khu, hình thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn nhằm chuẩn
bị cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968. Đến tháng 10-
1967, phân khu 4 chính thức được thành lập bao gồm huyện
Long Thành (kể cả Nhơn Trạch), huyện Thủ Đức... Xã Phú
Hữu thuộc phân khu 4 huyện Long Thành.
Cũng như nhiều địa phương của huyện Long Thành, quân
dân Phú Hữu tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm
1968 diễn ra quyết liệt. Du kích Phú Hữu phối hợp cùng Đoàn
10 trên lộ 17, sử dụng cối 81 ly bắn vào chi khu Nhơn Trạch và
kho bom Thành Tuy Hạ phá hủy một số cơ sở quân sự của địch.
Tại Phú Hữu, đồng bào cùng du kích bao vây diệt đồn Giồng
Ông Đông, tiêu diệt 7 tên giặc, bắt sống 4 tên, trong đó có tên
trung sĩ trưởng đồn, tạo sự phấn khởi đối với người dân địa
phương trong chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Sau những thắng
lợi ban đầu, ở ấp Phước Lương, đồng chí Út Ngọc cùng tổ du
kích bao vây phá rã toán dân vệ, san bằng ấp đời mới, bắt và
cảnh cáo tên trưởng ấp; đồng thời, tiêu diệt tên thám báo gián
điệp Sáu Râu ở Cát Lái.
Thi đua với phong trào đặc công, các đội săn tàu trên sông
của Đoàn 10 cũng đánh thắng nhiều trận giòn giã, bắn cháy
7 tàu vận tải từ 7-10 ngàn tấn của Mỹ. Chỉ riêng trong tháng
5-1968, Đoàn 10 đã thực hiện 11 trận đánh. Trong đó, nổi bật là
trận đánh ác liệt ngày 19-5-1968, kỷ niệm ngày sinh nhật Bác
Hồ. Trận này có sự phối hợp của pháo hỏa tiễn ĐKB (Trung
đoàn 27), xây dựng trận địa đặt trên bệ ngắm trực tiếp. Đơn
vị bắn 4 trái hỏa tiễn ĐKB đã được cải tiến vào tàu vận tải
145

15.6 Page 146

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
quân sự của địch trên sông Lòng Tàu tại Rạch Bàng, xã Phước
Khánh. Trong vòng 30 phút chiến đấu, Đội 2 đã bắn cháy 1 tàu
dầu 10.000 tấn và 1 tàu hàng quân sự 7.000 tấn trên khúc sông
Độ Hòa - Rạch Bàng dài 3km. Tại ngã ba Đồng Tranh - Phước
Khánh, một tổ hỏa lực khác cũng bắn trọng thương 1 tàu LCM
và 1 tàu dầu 7.000 tấn, diệt nhiều sinh lực địch1.
Phú Hữu là một trong các xã vừa tham gia cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy năm 1968, vừa góp phần quan trọng cung cấp
lương thực cho huyện Long Thành và phân khu để phục vụ
chiến đấu. Sang đầu tháng 6-1968, do tình hình khó khăn của
Miền nhất là lương thực, thực phẩm, Phân khu ủy yêu cầu Long
Thành - Nhơn Trạch đóng góp lương thực, thực phẩm để giải
quyết cho chiến trường. Thực hiện chỉ thị của cấp trên, đồng
chí Tám Hà - Bí thư Huyện ủy trực tiếp làm chủ tịch hội đồng
cung cấp. Rút đồng chí Hai Quang làm phó chủ tịch hội đồng
để thu lương thực, thực phẩm ở các xã. Số lúa của xã Phước
Long, Long Phước, Tam An, Phú Hữu và Phước Khánh thu
được bao nhiêu chuyển hết về trên. Số lúa thu ở các xã còn lại
thì cung cấp ở địa phương. Để bớt phần vận chuyển, Huyện ủy
chỉ đạo cho bộ đội đóng ở xã nào, thì xã đó cung cấp luôn, rồi
lập danh sách báo cáo về trên. Không đầy một tháng, gần 2.000
tấn lương thực được chuyển về phân khu. Cửa khẩu Bình Sơn
có ngày rút hàng ngàn lít gạo, hàng tấn thuốc và nhu yếu phẩm
phục vụ cách mạng.
1  Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Lịch sử Trung đoàn 10 Rừng Sác
anh hùng (1966-2014), Nxb Quân đội nhân dân, tr.97.
146

15.7 Page 147

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Phát huy tinh thần đạt được sau đợt II của Tổng tiến công và
nổi dậy năm 1968, đợt III được mở màn đêm mùng 9-7-1968,
nhân dân Long Thành - Nhơn Trạch tiếp tục đồng loạt nổi dậy,
chủ động bao vây tấn công địch. Ở xã Phú Hữu, đồng chí Sáu
Chiến chỉ huy lực lượng du kích, cắt rào bí mật luồn vào chốt
Mỹ ở ấp Phước Lương. Sau khi đặt trái ĐH10, đồng chí bò ra
ngoài ném trở lại một trái lưu đạn, đồng thời chập điện để cho
ĐH10 nổ, cả tiểu đội lính Mỹ bị tiêu diệt, làm nức lòng người
Phú Hữu và các địa phương xung quanh.
Một trong những chiến công cuối cùng của du kích xã Phú
Hữu trong đợt III của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968
là trận diệt nhiều lính Mỹ ở Giồng Ông Đông. Đêm 29 rạng
ngày 30-12-1968, đội du kích Phú Hữu do đồng chí Sáu Chiến
chỉ huy đã đột kích vào ấp Giồng Ông Đông diệt gọn 1 trung
đội lính Mỹ. Qua trinh sát báo về, 1 đại đội lính Mỹ thuộc sư
đoàn 9 mới chuyển về, chúng chia nhau đóng làm 3 điểm. Theo
liên lạc dẫn dường, đồng chí Chiến cùng các chiến sĩ du kích
xã Phú Hữu đến bao vây nhà ông Năm Tàu nơi một đơn vị Mỹ
đóng quân. Lúc đó vào khoảng 11 giờ đêm, đồng chí Chiến bò
vào, để anh em bên ngoài. Bọn lính Mỹ đang ngủ say ở 3 gian
nhà trên. Lối trước cửa vào có 2 lính gác. Chủ nhà với con gái
ngủ ở khu nhà dưới. Đồng chí Chiến nhận định: Từ phía nhà
dưới có thể đột kích lên nhà trên, ngặt vì chủ nhà để ngọn đèn
sáng. Anh bò lại thổi tắt ngọn đèn, chủ nhà thấy đèn tắt ngỡ là
gió thổi. Bà Năm Tàu dậy quẹt diêm đốt đèn rồi lại đi ngủ. Anh
Chiến lại phải chờ thêm 5 phút nữa, mới bò lại thổi tắt đèn, và
147

15.8 Page 148

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
lần này anh Chiến rút luôn cả tim đèn. Bà Năm Tàu lại dậy quẹt
diêm, nhưng đốt mãi không thấy cháy, xem lại thấy đèn mất
tim, bà càu nhàu rồi đi ngủ. Lợi dụng bóng tối, đồng chí Chiến
bò lên nhà trên, đặt 2 trái ĐH10 rồi bò gần vào chỗ lính Mỹ
lấy 2 khẩu M72 rồi vòng dây bò ra đúng như kế hoạch, sau hai
tiếng nổ của ĐH10, ngôi nhà trên sụp đổ hoàn toàn, bọn lính
Mỹ bị diệt gọn, các chiến sĩ ta nhanh chóng rút xuống xuồng
về căn cứ an toàn. Trận tiêu diệt lính Mỹ này của du kích xã
Phú Hữu gây tiếng vang lớn đối với toàn xã Phú Hữu và huyện
Long Thành, tiếp tục củng cố niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ,
người dân chắc thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân ta.
Sang năm 1969, mặc dù phải đương đầu với những đợt
đánh phá ác liệt, những trận càn quét chà đi xát lại nhiều lần,
chịu đựng mọi sự thiếu thốn, gian khổ vượt qua sức chịu đựng
của con người, nhưng cán bộ, chiến sĩ Đoàn 10, nhân dân xã
Phú Hữu vẫn kiên cường bám trụ địa bàn để chiến đấu. Trong
bức thư viết bằng máu của Đội 6 gửi Ban Chỉ huy Đoàn 10 viết:
“Chúng tôi quyết một tấc không đi, một ly không rời, khi chưa
có lệnh. Còn người còn chiến đấu, còn người còn trận địa”,
thể hiện quyết tâm của Đoàn 10 Rừng Sác và quân dân Phú
Hữu. Mặc dù bị bao vây tứ phía, nhưng Đoàn 10, quân dân Phú
Hữu vẫn chủ động tác chiến đánh địch trong mọi tình huống.
Ban chỉ huy Đoàn 10 không những chỉ đạo chống càn, bảo vệ
căn cứ, bảo tồn lực lượng mà còn tìm mọi cách đánh sâu vào
căn cứ của địch. Tháng 6-1969, Đội 3 luồn sâu vào lòng địch,
pháo kích nhiều trận vào Bộ Tư lệnh quân đội Sài Gòn, kho
148

15.9 Page 149

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
xăng Nhà Bè, gây cho địch một số thiệt hại. Những trận đánh
này nhằm đập lại luận điệu huênh hoang của quân Mỹ và tay
sai rằng: Đã đẩy Việt Cộng ra xa Sài Gòn, đã lột da Rừng Sác1.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm
1968, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn tổ chức nhiều cuộc càn
quét, bố ráp vào các căn cứ cách mạng trên địa bàn huyện Long
Thành nói chung, xã Phú Hữu nói riêng. Sáng 27-2-1969, quân
địch dọn đường từ Nhà Bè, Thủ Đức bắn cấp tập vào sông Ông
Mai và khu Giồng Sắn của Phú Hữu. Sau một ngày càn quét,
địch chốt lại một đại đội ở ngã ba Giồng Sắn. Mặc dù lực lượng
chênh lệch lớn, du kích Phú Hữu vẫn quyết tâm đánh tiêu diệt
bọn địch này. Theo đó, 2 giờ sáng ngày 28-2-1969, có 7 chiến
sĩ du kích Phú Hữu do đồng chí Nguyễn Quyết Chiến chỉ huy
áp sát địa điểm địch đóng quân. Đồng chí Sáu Chiến bò lên đặt
trái mìn Claymor thứ nhất cách chỗ tên lính Mỹ ngủ khoảng
15m, kéo dây giao cho đồng chí Bảy. Trái thứ hai cách bọn lính
Mỹ 7m, kéo dây giao cho đồng chí Tâm. Còn lại 01 trái ĐH10,
đồng chí Sáu Chiến nhẹ nhàng băng xuống sông Ông Mai, bò
lên bờ đặt cách bọn lính Mỹ khoảng 1m. Sau khi đặt trái xong,
đồng chí vác luôn 1 cây đại liên cùng dây đạn 250 viên cạnh
một tên lính Mỹ đang ngủ ra giao cho đồng chí Bảy. Sợ trái nổ
trong lúc địch đang ngủ thì diệt chúng không được nhiều, Sáu
Chiến ném 2 trái tạc đạn đánh thức chúng dậy. Sau đó, tạc đạn
nổ, 3 trái mìn nổ, tiếp theo súng bộ binh đồng loạt nổ. Các chiến
1  Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Lịch sử Trung đoàn 10 Rừng Sác
anh hùng (1966-2014), Nxb Quân đội nhân dân, tr.136.
149

15.10 Page 150

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
sĩ du kích xung phong chiếm lĩnh trận địa thu thêm 10 súng AR
15, 5 thùng đạn. Đội du kích Phú Hữu rút về căn cứ an toàn.
Bị mất 1 trung đội lính Mỹ, sáng 1-3-1969 địch cho số lính
Mỹ còn lại về cắn cứ của chúng, và thay vào đó 1 tiểu đoàn biệt
động quân Sài Gòn. Huyện ủy Long Thành yêu cầu các xã tìm
giải pháp đánh bọn địch này. Đêm ngày 3 rạng ngày 4-3-1969,
một trận tập kích táo bạo, bất ngờ diễn ra; chỉ sau 5 phút chiến
đấu, 5 du kích xã Phú Hữu dưới sự chỉ huy của đồng chí Sáu
Chiến đã diệt gọn 1 trung đội biệt động quân, thu 12 súng AR
15, 1 đại liên, 1 côn 45, 1 máy PRC-25. Chỉ trong vòng 4 ngày,
đồng chí Nguyễn Quyết Chiến - Xã đội trưởng Phú Hữu đã chỉ
huy và tham gia trực tiếp 2 trận đánh diệt gọn 2 trung đội địch.
Bằng một lối đánh hết sức dũng cảm, táo bạo, mưu trí, tên tuổi
của Nguyễn Quyết Chiến nổi lên qua các trận đánh: Tắc sở Dừa
(1966), ngã ba Ông Mai (3-1967), Phước Lương (7-1968), nhà
ông Năm Tàu (10-1968). Với những chiến công anh dũng đó,
đồng chí Nguyễn Quyết Chiến đã được huyện Long Thành cử
về dự hội nghị “mừng công dũng sĩ diệt Mỹ ngụy” của phân khu
4, được đại hội bầu là chiến sĩ thi đua và được Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào mùa xuân năm 1969.
Sang năm 1969, khó khăn trăm bề đối với cán bộ, chiến sĩ,
người dân ở Phú Hữu. Ngoài việc địch tăng cường càn quét,
bố ráp vào làng xóm, thì việc thiếu thốn vũ khí chiến đấu ngày
càng gay go. Để có nguyên liệu chế tạo lựu đạn, các chiến sĩ
cách mạng bất chấp hy sinh tính mạng, dũng cảm cưa bom chưa
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
nổ để lấy nguyên liệu chế tạo mìn. Để có trái, mỗi khi địch
ném bom, bắn pháo, đội du kích phải cử những đồng chí có
kinh nghiệm tới khu vực quan sát và đếm trái để xác định được
bao nhiêu trái nổ và bao nhiêu trái không nổ. Công việc tháo
gỡ, vận chuyển sau đó rất cực nhọc và rất nguy hiểm. Một lần
5 đồng chí chở trái từ Phú Hữu, Phước Khánh về nhưng chưa
được nửa đường trái nổ, cả 5 đồng chí hy sinh. Đồng chí Đông
và Trung cưa trái bị nổ, đều hy sinh để lại bao nỗi tiếc thương
đối với gia đình, đồng đội, người dân các địa phương.
Đến giữa năm 1969, tình hình Phú Hữu ngày càng căng
thẳng hơn, địch tăng cường đóng đồn bót, càn quét, bố ráp khắp
địa bàn trong xã. Địch còn sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc
khác nhau để ly gián giữa người dân với cách mạng, nhất là
các gia đình cách mạng trong xã. Tháng 7-1969, địch đã điều
liên đoàn 6 quân đội Sài Gòn về án ngữ ở Phú Hữu. Chúng xây
dựng đài ra đa ở Rạch Miễu, sửa lại cầu Cháy. Trong xã chúng
đóng hơn 30 chốt, lính địch phân chia xuống các gia đình, nhất
là gia đình cách mạng, mỗi nhà ba, bốn tên. Khu 52 là trung
tâm chỉ huy, máy bay lên xuống hàng ngày. Bọn chỉ huy liên
đoàn 6 biệt động quân còn ban thưởng 500đ đến 1000đ cho
binh lính thuộc quyền mà lấy được vợ là con em gia đình cách
mạng. Ngoài sông, rạch, đồng ruộng chúng dựng hàng trăm
chốt. Địch thường xuyên phối hợp cùng lực lượng của 7 tiểu
khu Gò Công, Long An, Gia Định, Biên Hòa, Phước Tuy, Vũng
Tàu, Đặc khu Rừng Sác càn quét liên tục vào Phú Hữu. Trên
đồng ruộng, sông, rạch không lúc nào vắng bóng địch, trong
151

16.2 Page 152

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
ấp lính nhiều hơn dân. Do đó, việc sinh hoạt và bảo đảm công
tác của anh em gặp rất nhiều khó khăn. Trung đội của đồng
chí Quyết được giao nhiệm về đứng chân vùng này chỉ có hơn
chục đồng chí cũng không ở tập trung được, phải phân ra thành
từng tổ hai, ba đồng chí. Ban ngày, các đồng chí phải luồn lách
trong các bụi dừa nước, hay các cụm chuối nước. Tối đến thì ra
ruộng, ẩn vào các đống rơm, rạ của đồng bào để ngủ bám trụ
địa bàn hoạt động cách mạng.
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai của nhân
dân ta đã quá gian nan, hy sinh, mất mát; rồi ngày 2-9-1969
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu về với thế giới người hiền cùng
C. Mác, Lênin để lại nỗi buồn sâu thẳm đối với toàn thể dân
tộc Việt Nam và người dân Phú Hữu. Huyện ủy Long Thành tổ
chức các hoạt động để tang Người, xã Phú Hữu cũng bí mật tổ
chức Lễ tang cho Bác bằng nhiều hình thức khác nhau như thắp
hương, để tang trên ngực áo... Trong những ngày để tang Bác,
Huyện ủy phát động một phong trào biến đau thương thành
hành động cách mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày đầu tháng 9, lực
lượng Đại đội C240 và du kích các xã liên tục đánh nhiều trận ở
Phú Hữu, Phước Thọ... diệt hơn 40 tên địch, trong đó có 1 lính
Mỹ, thu 20 súng các loại.
Sang năm 1970 trở đi, cuộc kháng chiến của quân dân Phú
Hữu và Đoàn 10 Rừng Sác ngày một khó khăn. Con đường liên
lạc giữa Rừng Sác - Chiến khu Đ gặp muôn vàn khó khăn, thiếu
thốn lương thực, vũ khí rất nghiêm trọng. Đến tháng 6-1971,
Đội vận tải bám trụ địa bàn để chăm lo lương thực bị hy sinh
152

16.3 Page 153

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
hơn một phần ba chiến sĩ. Đôi vai, sức kéo con người từng bước
thay thế cho xuồng ghe để vận chuyển lương thực, quân trang,
quân dụng. Bên cạnh sự hy sinh của đồng chí Lê Công Nghĩa
(bị cá sấu tấn công), người dân Rừng Sác nói chung, Phú Hữu
nói riêng cũng như cán bộ, chiến sĩ Đoàn 10, vẫn thường nhắc
tới đồng chí Huấn, Liên thuộc đội vận tải1 không quản ngại
gian khổ, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng quê hương.
Trước những tổn thất lớn về quân sự trên địa bàn huyện
Long Thành, địch càng điên cuồng chống phá cách mạng hơn
nữa ở xã Phú Hữu. Những xã vùng giáp căn cứ cách mạng, vựa
lúa Phú Hữu, Long An, Long Phước bị địch quy định khi gặt
lúa xong, 15 ngày sau mới được đem lúa về nhà máy chà (xay
lúa) ở thị trấn... Tàn ác hơn, những gia đình địch nghi tiếp tế
cho Việt cộng chẳng cần khám xét, chúng dùng súng đạn để
đàn áp... Bọn lính ở Phú Hữu chặn đường bắt ông Chệt đánh
đập ông tàn nhẫn đến chết, khi ông tắt thở chúng kéo bỏ xuống
cống. Chẳng còn thiếu một thủ đoạn, hình thức nào mà địch
không sử dụng, chúng còn dùng cả máy bay trực thăng để bắt
bớ cán bộ, chiến sĩ, người dân. Chị Tư Xả ở xã Phú Hữu đi bắt
cua ở rạch Mương, địch đã dùng máy bay bắt chị về ấp, kêu
trưởng ấp ra nhận diện, đúng là người của ấp chúng mới thả chị
về... Đêm thì chúng dùng trực thăng soi trên ruộng. Chúng đã
bắn chết anh Bảnh, vợ chồng chị Tám Chề và 2 con, anh Dẫu
thuộc xã Phú Hữu gây nhiều phẫn nộ đối với người dân toàn xã
Phú Hữu.
1  Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (2014), sđd, tr.139.
153

16.4 Page 154

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Một trong rất nhiều khó khăn của Đoàn 10 là nước ngọt
để sử dụng, anh em vừa thiếu gạo, thiếu thuốc, thiếu cả nước
uống. Cơm nấu cũng bằng nước mặn, đến khi mềm hạt gạo mới
chắt khô nước, rồi lấy một chén nước ngọt đổ lên, đến lúc chín
chẳng còn mùi thơm của gạo nữa. Do đó, người dân Phú Hữu
luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các đồng chí Đoàn 10. Anh Xi đổ
2 thùng nước ngọt dưới lòng ghe chở ra cho bộ đội Đoàn 10,
nhưng một hôm bị địch bắt, anh đã nhanh trí đổ nước mặn vào
ghe. Bọn lính lên ghe khám xét, chúng lấy tay thọc xuống lòng
ghe, rồi đưa lên miệng nếm thử thấy mặn chúng cho đi. Qua đó,
cho thấy sự gan dạ, dũng cảm, mưu trí của người dân Phú Hữu
hết lòng, hết dạ giúp đỡ cho cách mạng, bất chấp hy sinh tính
mạng, của cải.
Bước sang năm 1971, tình hình mọi mặt ở Phú Hữu gặp
nhiều khó khăn hơn. Sự đóng góp lương thực, thực phẩm của
người dân để cán bộ, chiến sĩ tồn tại, bám đất, bám dân, bám
địch chiến đấu chống quân xâm lược và tay sai càng thêm ý
nghĩa. Ở Phú Hữu thường nhắc đến những gương giúp đỡ cách
mạng như má Hai ở Cát Lái, anh Bảy Xi, chị Tám Hiến... Trên
địa bàn xã Phú Hữu không phải chỉ có quán má Út, nhà má
Hai, mà hàng ngày có hàng trăm xuồng ghe đi làm củi, chặt lá
dừa đều là những cơ sở mua hàng, thực phẩm cho Đoàn 10...
Ngay khi Đoàn 10 đặt chân xuống vùng Rừng Sác Long Thành
đã được nhân dân nơi đây giúp đỡ đùm bọc, đặc biệt đồng bào
7 xã cặp Rừng Sác như Phước Thái, Phước Long, Phước Thọ,
Phước An, Phú Hữu, Phước Khánh vừa là xã hậu cứ, vừa là xã
154

16.5 Page 155

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
bàn đạp. Anh em đội 5 đặc công thủy được nhân dân các xã này
chỉ dẫn những tập tục sinh hoạt của nhân dân Nam Bộ, dạy cho
biết cách chèo ghe, đào chem chép, quăng chài, thả lưới... Nhờ
có đồng bào các xã xung quanh Rừng Sác mà Đoàn 10 đã đứng
vững trên địa bàn hoạt động suốt một thời kỳ quyết liệt. Đồng
chí Bảy Ước, chính ủy Đoàn 10 đã khẳng định: Bao nhiêu chiến
công của Đoàn 10 là Phước Khánh, Phú Hữu phải chịu đựng
bấy nhiêu tàn khốc, quyết liệt của địch dội vào, nhưng bao giờ
Phước Khánh, Phú Hữu cũng vẫn là căn cứ cách mạng tuyệt vời
nhất của đơn vị này.
Đến năm 1972, chúng ta xác định xã Phú Hữu thuộc vùng
thứ ba nên chú trọng xây dựng cơ sở, nắm nghĩa quân để phá
lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của địch. Việc đấu tranh với địch
bình định đáp ứng yêu cầu phát động quần chúng kết hợp với
cơ sở binh vận trong lực lượng phòng vệ dân sự của địch.
Do đó, Huyện ủy Nhơn Trạch quyết định thành lập chi bộ B
(tức chi bộ mật) hoạt động công khai trên địa bàn xã Phú Hữu
gồm 4 đồng chí: Trần Thanh Nhung, Trần Kim Thanh (Tám
Hiến), Trương Thị Kiếm, Trần Thanh Liên, do Trần Thanh Liên
làm Bí thư1 đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình
hình mới.
Đầu năm 1972, trên địa bàn Rừng Sác, sau khi Mỹ rút hết
quân, quân đội Sài Gòn huy động lực lượng thay thế, đảm nhiệm
công việc do quân Mỹ tiến hành trước đó. Quân đội Sài Gòn
1  Tư liệu do Trần Kim Thanh cư trú tại xã Phú Đông cung cấp ngày 01/10/2022.
155

16.6 Page 156

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
bố trí lại vị trí chiếm đóng, củng cố lại các chi khu, lập thêm
nhiều phân chi khu, xây dựng một số trận địa pháo ở Nhà Bè,
An Thít..., chúng lập ba trạm ra đa ở Phước Lương (Phú Hữu).
Một số phân chi khu trọng điểm ở Cần Giờ, Quảng Xuyên,
Nhơn Trạch, Phước Khánh... được trang bị mạnh để khống chế
các khu vực xung quanh, đồng thời đảm bảo cho quân đội Mỹ
rút quân khỏi nước ta bằng đường sông Lòng Tàu. Trên địa bàn
xã Phú Hữu, chính quyền Sài Gòn tiếp tục gieo rắc tội ác đối
với nhân dân, nhất là đại đội 99 ở ấp Phước Khánh nổi tiếng tàn
bạo, dã man, giết hại bao đồng bào, chiến sĩ ở địa phương và
các vùng xung quanh.
Ngã ba sông Sài Gòn - Đồng Nai là một trong các tuyến
đường thủy rất quan trọng, hoạt động nhộn nhịp đối với quân
Mỹ, quân đồng minh Mỹ, chính quyền Sài Gòn về vận chuyển
nguyên nhiên liệu, phương tiện, lương thực... phục vụ chiến
tranh cho cả miền Đông Nam Bộ và Nam Bộ. Mỗi ngày trên
các tuyến sông này có hàng chục lượt tàu, thuyền lớn nhỏ, có
loại với trọng tải hàng chục ngàn tấn trở lên di chuyển qua lại.
Xã Phú Hữu ôm trọn đoạn ngã ba sông Sài Gòn và Đồng Nai
gần 10km nên giữ vị trí chiến lược rất quan trọng đối với cách
mạng trong việc tấn công các loại phương tiện chuyên chở vũ
khí, nguyên nhiên liệu phục vụ chiến tranh của địch. Trong
chiến dịch Nguyễn Huệ (1-4-1972 đến 19-1-1973), quân dân
xã Phú Hữu luôn kề vai sát cánh cùng Đoàn 10 đánh sâu vào
hậu cứ địch, nhất là tấn công các phương tiện chuyên chở vũ
156

16.7 Page 157

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
khí, nguyên nhiên liệu... phục vụ chiến tranh, tập kích kho xăng
Nhà Bè, kho đạn Thành Tuy Hạ.
Mùa khô năm 1972, địch đã có sự chuẩn bị đối phó nhưng
vẫn bị bất ngờ và tổn thất nặng ngay từ đầu chiến dịch Nguyễn
Huệ. Quân đội Sài Gòn lồng lộn tung lực lượng vào các khu
vực mà chúng chắc chắn là căn cứ xuất phát của ta như căn cứ
sở Dừa (Phú Hữu), Phước Khánh, sông Ông Kèo, Rạch Lá...
Tuy nhiên, thế trận vững chắc của Đoàn 10 đã nhanh chóng bẻ
gãy các cuộc càn quét của quân ngụy. Hỏa lực B41 của đơn vị
đã bắn cháy nhiều tàu địch trên sông Đồng Tranh, sông Ông
Kèo, tắc Hố Bài. Đến tháng 9-1972, Đoàn 10 hạ quyết tâm sử
dụng và triển khai lực lượng, đồng thời điều chỉnh, bố trí lại
một số mục tiêu, phân công thêm nhiệm vụ “thời cơ chồm lên”
chiếm và làm chủ các ấp ở xã Phú Hữu, Phước Khánh... Đội 21
chiếm ấp Phước Khánh (sông Lòng Tàu), Đội 12 chiếm ấp Ông
Kèo (lộ 19).
Cán bộ, chiến sĩ, nhân dân xã Phú Hữu luôn kề vai sát cánh
cùng Đoàn 10 thực hiện nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo của
Quân ủy Miền, song song với đẩy mạnh hoạt động vũ trang đã
mở rộng đánh sâu, đánh chặn quân địch khi chúng nong ra lấn
chiếm vùng giải phóng của cách mạng. Đoàn 10 chỉ thị cho các
đội, một mặt chủ động đánh địch, buộc chúng phải co cụm để
quân ta tiêu hao chúng, mặt khác ra sức đánh kho tàng, đánh
tàu, bến cảng, đồng thời tấn công vào đồn bót, chi khu, ấp chiến
lược, diệt ác phá kìm, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy. Để
thực hiện mục tiêu này, các đội của Đoàn 10 chia thành từng tổ
157

16.8 Page 158

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
nhỏ, thành lập đội vũ trang tuyên truyền để vừa đánh địch, vừa
vận động nhân dân đấu tranh, xây dựng thêm nhiều cơ sở cách
mạng, phát triển phong trào chiến tranh du kích ở địa phương
vùng sông Lòng Tàu nói chung, xã Phú Hữu nói riêng. Sau một
thời gian hoạt động, các đội của Đoàn 10 xây dựng được nhiều
cơ sở cách mạng. Trong tổng số 37 ấp chiến lược, các đơn vị
đã xây dựng được 12 ấp có nhiều cơ sở mạnh, khó khăn như ấp
Phước Khánh, nơi phần lớn theo đạo Thiên Chúa, cũng là nơi
có đại đội bảo an 99 khét tiếng ác ôn đóng chốt, vẫn có nhiều cơ
sở cách mạng ngày đêm ủng hộ mọi mặt cho cách mạng.
2. Chiến đấu chống chính quyền Sài Gòn, giành thắng
lợi hoàn toàn (1973-1975)
Sau Hiệp định Pari 1973, quân Mỹ và quân đồng minh Mỹ
lần lượt rút khỏi miền Nam và huyện Nhơn Trạch. Chính quyền
Sài Gòn tập trung lấn chiếm vùng giải phóng, xóa thế “da beo”,
đẩy lực lượng cách mạng ra xa khỏi vùng kiểm soát của chúng.
Địch tăng cường đóng chốt, đồn bót giữ các tuyến đường giao
thông quan trọng.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Biên Hòa lãnh đạo các lực
lượng vũ trang kiên quyết giữ vững vùng giải phóng, đánh địch
nống ra theo Hiệp định Pari, quan tâm công tác tư tưởng tiến
công đánh địch; phát động phong trào toàn dân bung ra sản
xuất. Trong đó, đánh địch bằng ba mũi giáp công: vũ trang -
chính trị - binh vận nhằm chống địch vi phạm Hiệp định Pari,
giữ vững vùng tự do ta kiểm soát, không ngừng phá thế kìm kẹp
158

16.9 Page 159

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
của địch. Trên địa bàn xã Phú Hữu, dưới sự lãnh đạo của chi bộ,
địa phương kiên quyết giữ vững vùng kiểm soát, khuyến khích
người dân tích cực sản xuất kinh tế.
Đi đôi với hành động lấn đất, giành dân ở Phú Hữu, nhiều
thủ đoạn địch tiếp tục thực hiện ở Nhơn Trạch như chúng sử
dụng luật “Người cày có ruộng” để cướp ruộng đất của nhân
dân. Trong lúc cướp ruộng đất của đồng bào thì địch lại tăng
cường bóc lột bằng nhiều thứ thuế hết sức vô lý như thuế kiệm
ước, thuế giá trị gia tăng. Về nông nghiệp năm 1972, mỗi mẫu
ruộng đóng thuế 300 đồng, năm 1973 tăng lên 3.000 đồng.
Không những thế, nạn tham nhũng trở thành phổ biến: Làm
một tờ giấy khai sinh cho trẻ nhỏ phải nộp 500đ. Xin một tấm
giấy căn cước cũng phải tốn kém tới hàng ngàn đồng.
Trước áp lực cao về quân sự, kinh tế của chính quyền Sài
Gòn đối với người dân ở Nhơn Trạch dẫn đến phản lực cường
của đồng bào vùng đất này dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên
mảnh đất Nhơn Trạch đã đánh bại các lực lượng quân sự nổi
tiếng của Mỹ như sư đoàn I Anh Cả Đỏ, lữ đoàn dù 173, sư đoàn
119 thủy quân lục chiến, những tên còn sống sót của những đơn
vị này khi về bên kia bán cầu, không bao giờ quên được những
địa danh đã từng làm cho chúng khiếp sợ: Rừng Suối Cả, khu
Lòng Chảo, khu Rừng Sác, sông Đồng Môn, sông Lòng Tàu,
Thành Tuy Hạ, cảng Nhà Bè... Ngày 31-3-1973, Huyện ủy
Nhơn Trạch và Huyện ủy Long Thành tổ chức mít tinh trọng
thể chào mừng thắng lợi của dân tộc ta về Hiệp định Pari, đồng
thời đón nhận huân chương của Chính phủ Cách mạng lâm thời
159

16.10 Page 160

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng thưởng. Tại buổi lễ, Phú
Hữu là một trong 8 xã được đón nhận Huân chương Giải phóng
hạng Hai bao gồm Phước An, Phú Hội, Tam An, Bình Sơn,
Long Phước, Phú Hữu, Phước Thọ, Phước Thái.
Trên địa bàn Phú Hữu, địch tăng cường đồn trú, lập thêm
bót mới, sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc để ly gián, tạo sự
nghi kỵ lẫn nhau, làm hoang mang cho người dân cùng xóm
ấp, gây bất lợi đối với hoạt động cách mạng của cán bộ, chiến
sĩ. Địch phân loại giữa ấp này với ấp khác, gia đình này với gia
đình khác, tạo ra cuộc sống ngột ngạt, nghi ngờ giữa mọi người
với nhau. Địch nghiêm cấm không ai được quan hệ đến những
gia đình có người thân đi làm cách mạng. Gia đình đồng chí
Mười Sinh ở ấp Phước Lý, xã Đại Phước, địch phát hiện đồng
chí là cán bộ huyện ở vùng căn cứ, chúng treo biển để theo dõi,
tìm mọi cách để cô lập. Một hôm vợ đồng chí đi làm ruộng, ở
nhà có 3 cháu nhỏ, chẳng may cháu Dương Thị Nhiệm lên 8 tuổi
bị té xuống ao, hai cháu nhỏ hơn đứng ở trên bờ kêu khóc rối
rít. Chị Tư nhà gần đó ra ngó trông thấy vội gọi chồng: Con ông
Mười bị té xuống ao, anh sang cứu mau lên. Chồng chị hoảng
hốt “nhà ông Mười bị cấm ai đến là bị bắt bỏ tù liền”. Qua đây,
địch đã khủng bố tinh thần tương thân tương ái của người dân
cùng ở chòm xóm với nhau, “thấy chết không dám cứu”.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng giữa cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ và tay sai, tháng 6-1973 tên Hai Tấn - Bí thư Huyện
ủy Long Thành đầu hàng giặc. Địch đánh phá ác liệt vào căn
cứ, cơ sở cách mạng ở huyện Long Thành, chúng cũng tăng
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cường càn quét, lấn chiếm vùng Nhơn Trạch. Chúng cho máy
bay ném bom bắn phá đường vận chuyển lương thực, thực
phẩm giữa vùng Lòng Chảo và Rừng Sác. Chúng điều chiến
đoàn 43, 48 thuộc sư đoàn 18 về phong tỏa tỉnh lộ 17 và 19.
Đồng thời đánh kiểm soát gắt gao xã Phú Hữu, Phước Khánh
nơi tập trung nhiều lương thực, thực phẩm của huyện Nhơn
Trạch. Hai xã này, ngoài đồng ruộng, địch cho lính đến cắt
hết lúa chở đi. Trong nhà thì cho lính đến đập phá, cướp lúa
gạo, bắt hết gà heo, trâu bò. Đồng bào không còn cách nào để
chuyển lương thực, thực phẩm về huyện. Ban quân lương cũng
không chuyển được lương thực, thực phẩm về trên. Cơ quan
huyện ủy, lực lượng võ trang địa phương cũng phải dạt vào căn
cứ trong rừng, phân tán thành từng tổ nhỏ để bám trụ địa bàn
tiếp tục chiến đấu chống kẻ thù.
Trước sự càn quét, bố ráp, bao vây chống phá của quân đội
và chính quyền Sài Gòn, để phá thế bao vây, kìm kẹp của địch,
cuối tháng 9-1973 Huyện ủy Nhơn Trạch phát động phong trào:
“Tìm diệt bình định áo đen”, coi những tên này nguy hiểm như
những tên ác ôn có nhiều nợ máu. Tập trung tấn công đồn bót,
đón đánh địch phục kích trên các lộ giao thông. Cuối tháng
11-1973, được sự chỉ đạo của Miền “phải tập trung đánh vào
căn cứ hậu cần của địch”, Đoàn 10 lại tổ chức phá kho xăng
Nhà Bè. Được đồng bào Phước Khánh, Phú Hữu cung cấp tình
hình và tạo điều kiện, Ban chỉ huy Đoàn 10 giao cho Đại đội
5 anh hùng thực hiện. Đêm ngày 2 rạng sáng ngày 3-12-1973,
các chiến sĩ ta bí mật đột nhập vào mục tiêu gài mìn phá 72
161

17.2 Page 162

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
bồn xăng, dung lượng 200 triệu lít thuộc 3 khu vực Shell, Esso,
Caltes. Ngoài ra, cuộc tập kích còn làm thiệt hại một kho hóa
chất Btaga, 2 nhà máy trộn nhớt, hai nhà máy phát điện và toàn
bộ số xăng. Một tàu có sức chứa 12 ngàn tấn bị bốc cháy và
chìm, gây nỗi kinh hoàng đối với kẻ thù, tạo niềm tin đối với
quân dân Phú Hữu.
Đêm 15-12-1974, Đoàn 10 cùng lực lượng địa phương lại
tấn công phá sập hệ thống viễn thông của địch tại ấp Phước
Lương, xã Phú Hữu, phá luôn nhà máy đèn gần cầu Đại Phước,
diệt trung đội địa phương quân tại đây, tăng cường niềm tin,
phấn khởi đối với người dân Phú Hữu.
Sang đầu năm 1975, địch rút quân ở một số nơi về lập vành
đai bảo vệ Sài Gòn. Phú Hữu cách trung tâm đầu não chính
quyền Sài Gòn chưa đến 10km, nên địch tăng cường bố trí quân
sự ở địa phương này. Khoảng trung tuần tháng 1-1975, địch
đưa tiểu đoàn 58 biệt động quân, tiểu đoàn 349 bảo an, chiến
đoàn cơ giới 318 với 10 xe tăng về tái chiếm lộ 17, 19 lập vành
đai bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Nam.
Thắng lợi của chiến dịch Đường 14 - Phước Long (13-12-
1974 đến 6-1-1975) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Lần đầu tiên, ta tiến công giải phóng hoàn toàn
một tỉnh ở miền Nam (tỉnh Phước Long, nay thuộc tỉnh Bình
Phước), uy hiếp trực diện tuyến phòng thủ phía Bắc Sài Gòn
của địch, qua đó giúp Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
162

17.3 Page 163

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Chiến thắng Phước Long dội về địa phương, nên đồng bào
Phú Hữu phấn khởi cho con em tòng quân diệt giặc, 164 tân
binh của địa phương lên đường trong những ngày giáp tết.
Huyện đội còn rút 32 du kích ở các xã về bổ sung cho Đại đội
I, Đại đội 240 của huyện đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng
ở địa phương.
Trước phong trào cách mạng phát triển mạnh ở Nhơn Trạch,
liên tục từ ngày 20 đến 25-1-1975, quân đội Sài Gòn tổ chức 3
cuộc hành quân lớn vào khu vực Lòng Chảo. Cơ quan Huyện
ủy Nhơn Trạch phải chuyển từ căn cứ Hang Nai về xóm Hố,
Phú Hội và Long Tân. Tình hình chiến sự trên tỉnh lộ 17, 19
trở nên căng thẳng. Ngày 27-1-1975, Đoàn 10 điều Đại đội 2
từ Giồng Ông Đông, Đại đội 3 từ Phú Hữu về hỗ trợ cho vùng
Lòng Chảo đối phó với quân đội Sài Gòn.
Đến 10 giờ ngày 29-4-1975, xã Phú Hữu được giải phóng,
là một trong bốn xã cuối cùng của huyện Nhơn Trạch sạch bóng
quân thù. Điều này đã khẳng định chiến trường Phú Hữu diễn
ra rất quyết liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Lúc 17 giờ 30 ngày 29-4-1975, hai tiểu đội trinh sát của ta
đã đến bến phà Cát Lái ở Phú Hữu và được đồng bào xã này
giúp đỡ phương tiện chuẩn bị vượt sông Đồng Nai. Đồng chí
Ba Thà và Bảy Bền đã đưa gần 100 thuyền, ghe máy ém ở bờ
sông chờ đợi quân giải phóng ở Cát Lái. Đến 22 giờ 30 phút
cùng ngày, trên tỉnh lộ 17, xe tăng, xe thiết giáp của ta đã rải
kín từ ngã ba Đại Phước đến phà Cát Lái. Bộ binh được phân
tán vào những xóm ấp cạnh đường, tất cả trong tư thế chuẩn bị,
163

17.4 Page 164

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
2 tiểu đội trinh sát của Sư 325 được lệnh vượt sông Đồng Nai
ở Cát Lái tiến vào Sài Gòn. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Phú
Hữu, người dân ở các ấp chuẩn bị lương thực, thực phẩm như
nấu cơm, xôi để phục vụ ăn uống cho chiến sĩ cách mạng vượt
sông Đồng Nai ở Cát Lái, tiến vào trung tâm đầu não của chính
quyền Sài Gòn.
Trong những ngày cuối cùng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, xã Phú Hữu đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với cuộc
hành quân vượt sông Đồng Nai ở Cát Lái của quân Đoàn 2 -
một trong các mũi tiến công vào sào huyệt chính quyền Sài
Gòn. Vào lúc 0 giờ ngày 30-4-1975, hàng trăm ghe, thuyền
của đồng bào Phú Hữu chở bộ đội ào ào vượt sông Đồng Nai
ở Cát Lái, tiến vào nội ô Sài Gòn, cánh cửa hướng Đông Nam
Sài Gòn chính thức mở cửa. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, cờ
chiến thắng tung bay trên nóc dinh Độc Lập, Chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng.
***
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975),
dưới sự lãnh đạo của chi bộ, người dân Phú Hữu cùng nhân dân
huyện Long Thành, Nhơn Trạch làm nên những chiến thắng lớn
góp phần bảo vệ thành quả cách mạng được các thế hệ cha ông
gầy dựng suốt từ những năm 1930.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đồng bào
cùng du kích xã Phú Hữu đã chiến đấu và kết hợp với bộ đội
164

17.5 Page 165

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
của cấp trên đánh 430 trận bao gồm chống địch càn quét, phá
đồn bót, ấp chiến lược, tiêu diệt bình định, diệt ác, trừ gian.
Toàn quân, toàn dân Phú Hữu chiến đấu, tiêu diệt 651 tên địch,
loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên, phá hủy 17 xe quân sự, trong
đó có 2 xe tăng; bắn cháy 2 máy bay, bắn chìm, hư hỏng 14 ghe
thuyền quân sự của địch. Đồng bào đã thực hiện 9.500 ngày
công phục vụ chiến đấu như đắp sông Long Điền với chiều dài
2km, làm hỏng 3.000m đường, phá sập 3 cầu lớn, đào 1.500m
giao thông hào, 2.500m hàng rào chiến đấu.
Trong hai cuộc kháng chiến (1945-1975), cấp trên khen
thưởng quân dân Phú Hữu 1 Huân chương Độc lập, 19 Huân
chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, 39 hạng Hai, 57 hạng
Ba; 24 Huân chương Chiến thắng, 28 Huân chương Chiến công,
37 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, 134 huy chương các loại.
Năm 1994, xã được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân. Trên địa bàn xã có 2 Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân là Nguyễn Quyết Chiến và Dương
Văn Thì. Những thành quả cách mạng của quân dân Phú Hữu
được ghi vào lịch sử địa phương như những trang chói lọi nhất.
165

17.6 Page 166

▲back to top


CHƯƠNG III
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
CÁCH MẠNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI,
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI (1975-1994)
I. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, PHÁT
TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, GIỮ VỮNG QUỐC PHÒNG -
AN NINH (1975-1986)
1. Thành lập chi bộ, xây dựng chính quyền cách mạng
xã Phú Hữu
* Các kỳ Đại hội Chi bộ
Sau ngày 30-4-1975, Ủy ban quân quản huyện Nhơn Trạch
thành lập để lãnh đạo ổn định tình hình chính trị, xã hội trên địa
bàn huyện. Ban quân quản xã Phú Hữu được thành lập nhằm ổn
định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bắt tay
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Cán bộ ban
quân quản xã Phú Hữu là đảng viên, du kích, cơ sở cách mạng
tham gia quản lý địa phương mới giải phóng. Chi bộ quân quản
xã Phú Hữu do đồng chí Võ Văn Sáu (Sáu Nhà) giữ chức vụ Bí
thư; Lê Minh Cảm giữ chức vụ Phó Bí thư kiêm xã đội trưởng;
Hồ Trung Thành giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Trần
Văn Trừ giữ chức vụ Trưởng an ninh; Nguyễn Văn Trường giữ
chức vụ xã đội phó; Trần Kim Thanh giữ chức vụ Chủ tịch Hội
Phụ nữ; Trần Trung Kiên giữ chức vụ Bí thư Đoàn Thanh niên.
166

17.7 Page 167

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Các nhiệm vụ được ban quân quản xã Phú Hữu thực hiện
trước mắt là ổn định tình hình xã hội, chính trị để người dân tin
tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật Nhà nước. Chính quyền quân quản kêu gọi người dân xã
Phú Hữu tiếp tục sản xuất kinh tế, khắc phục hậu quả chiến
tranh, thu gom vũ khí, chất nổ, san lấp hố bom, hầm hào, ổn
định cuộc sống. Chính quyền quân quản xã Phú Hữu thực hiện
việc truy quét tàn quân của chính quyền Sài Gòn, kêu gọi binh
lính chế độ cũ ra trình diện chính quyền cách mạng, để được
hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước. Lực lượng
du kích, an ninh tập trung tuần tra, canh gác, bảo vệ chính quyền
cách mạng trên địa bàn xã.
Để tăng cường ổn định kinh tế, xã hội, chính quyền quân
quản xã tổ chức phân phối lưu thông, điều tiết lương thực, thực
phẩm, hàng hóa cho người dân trong xã; xóa bỏ tàn dư văn hóa
của chế độ cũ, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa;
tuyên truyền chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc trên địa
bàn xã.
Trên địa bàn huyện Nhơn Trạch có hơn 6.500 người bao
gồm binh lính, công chức của chế độ cũ tiến hành trình diện,
khai báo với chính quyền ở các xã. Xã Phú Hữu tiến hành thống
kê, phân loại những người tham gia trong chính quyền chế độ
cũ để tổ chức học tập cải tạo tại chỗ từ 3-7 ngày, cấp giấy
chứng nhận trao quyền công dân cho 563 người; trong đó, sĩ
quan quân đội Sài Gòn có 85 người đã học tập cải tạo tốt, làm
167

17.8 Page 168

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
ăn sinh sống ở địa phương1. Các loại vũ khí, chất nổ của người
dân cất giấu giúp đỡ cách mạng và những gia đình có người
thân tham gia chế độ cũ có cất giữ vũ khí đều thu gom nộp cho
chính quyền xã.
Hội Phụ nữ xã Phú Hữu được thành lập do Trần Kim Thanh
giữ chức vụ Chủ tịch Hội tập hợp, kêu gọi chị em phụ nữ đoàn
kết giúp đỡ nhau ổn định cuộc sống gia đình. Đoàn Thanh niên
xã nhanh chóng được thành lập do Trần Trung Kiên làm Bí thư
thu hút đông đảo thanh niên xã tham gia các phong trào cách
mạng ở địa phương.
Tháng 1-1976, hai huyện Long Thành, Nhơn Trạch sáp
nhập, lấy tên là huyện Long Thành. Ngày 1-7-1976, Hội nghị
thành lập Đảng bộ huyện Long Thành được tiến hành nêu rõ
quyết tâm: Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố chính
quyền với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo, đưa địa
phương phát triển nông nghiệp, công nghiệp theo phương thức
sản xuất mới.
Chi bộ lâm thời xã Phú Hữu đến tháng 3-1976 có 21 đảng
viên2 do đồng chí Võ Văn Sáu (Sáu Nhà) giữ chức vụ Bí thư;
Trần Văn Hiệp giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân; đến
tháng 4-1976, Lê Minh Cảm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân
1  Chi bộ Phú Hữu (1992), Báo cáo công tác xây dựng Đảng cơ sở (từ sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đến nay), ngày 25-8-1992.
2  Huyện ủy Long Thành (1976), Biên bản Hội nghị Thường vụ Huyện ủy bàn về
tình hình chi bộ xã và bàn hướng tổ chức 1 bước, tháng 3-1976. Chi ủy viên gồm:
Sáu Hoa, Ba Mới, Lê Minh Cảm.
168

17.9 Page 169

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
dân; đồng chí Hồ Trung Thành (Sáu Hoa) giữ chức vụ Trưởng
an ninh, đồng chí Ba Mới phụ trách hợp tác xã; Hồ Văn Đường
(Bảy Đường) phụ trách tài chính; Phan Trung Nở (Bảy Nở)
giữ chức vụ Thư ký Ban Chấp hành Nông hội. Đến cuối tháng
4-1976, chi ủy xã Phú Hữu còn các đồng chí: Võ Văn Sáu, Lê
Minh Cảm, Trần Kim Thanh, Trần Thanh Nhung.
Để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, Huyện ủy
Long Thành chỉ đạo xã Phú Hữu tiến hành Đại hội Chi bộ. Đại
hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ I, nhiệm kỳ 1976-1978 được tổ
chức ngày 23-11-1976. Đại hội Chi bộ có 15 đảng viên tham
dự, bầu chi ủy Chi bộ xã Phú Hữu do đồng chí Võ Văn Sáu giữ
chức vụ Bí thư, Lê Minh Cảm giữ chức vụ Phó Bí thư1. Sau Đại
hội Chi bộ khóa I, chi ủy tập trung lãnh đạo thực hiện phương
hướng, nhiệm vụ Đảng bộ huyện Long Thành và xã để ổn định
tình hình chính trị, xã hội, phát triển kinh tế, giữ vững quốc
phòng - an ninh.
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ II, nhiệm kỳ 1978-1980
diễn ra ngày 8-12-1978. Đại hội Chi bộ có 22 đảng viên tham
dự, bầu chi ủy do đồng chí Võ Văn Sáu (Sáu Nhà) giữ chức vụ
Bí thư; Lê Minh Cảm giữ chức vụ Phó Bí thư.
Đại hội Chi bộ tập trung phân tích, đánh giá tình hình của
xã Phú Hữu sau hơn 3 năm giải phóng, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ phấn đấu phát triển kinh tế, ổn định xã hội, giữ vững
1  Huyện ủy Long Thành (1976), Quyết định số 11 ngày 23-12-1976, Quyết nghị
chuẩn y Chi ủy xã Phú Hữu gồm 7 đồng chí: Võ Văn Nhà, Lê Minh Cảm, Trần
Trung Kiên, Trần Kim Thanh, Trần Thanh Nhung, Phạm Văn Mới, Trần Văn Trừ.
169

17.10 Page 170

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong đó, chi bộ tập
trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ
huyện Long Thành đề ra: Phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân dân lao động để tiến hành cải tạo nông nghiệp, trọng
tâm là đẩy mạnh sản xuất lương thực; kết hợp chặt chẽ giữa cải
tạo và xây dựng, lấy xây dựng là chủ yếu; cải tiến một bước
lưu thông phân phối, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa; không
ngừng củng cố an ninh - quốc phòng, trật tự xã hội...
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ III, nhiệm kỳ 1980-1982
diễn ra ngày 13-11-1980. Đại hội Chi bộ có 25 đảng viên tham
dự, bầu chi ủy do đồng chí Lê Minh Cảm giữ chức vụ Bí thư;
Trần Trung Kiên giữ chức vụ Phó Bí thư, Lê Văn Rắc giữ chức
vụ chi ủy viên và Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Đại hội Chi bộ tập trung phân tích, đánh giá tình hình của
xã Phú Hữu thực hiện cải tạo nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất
lương thực đáp ứng nhu cầu người dân, đề ra các giải pháp phát
triển địa phương những năm tiếp theo. Trong đó, chi bộ tập
trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ huyện
Long Thành lần thứ II (1979-1982) đề ra trong giai đoạn mới:
Không ngừng nâng cao vai trò của cấp ủy, khả năng tổ chức
thực hiện của các cấp chính quyền và vai trò các đoàn thể quần
chúng theo tinh thần độc lập, sáng tạo, tự lực tự cường, thực sự
phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân
lao động; tập trung toàn bộ nguồn lực trong toàn huyện để đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện mà trọng tâm là sản xuất
lương thực, thực phẩm. Phát triển nhanh sự nghiệp văn hóa,
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
giáo dục, y tế, xã hội, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân.
Tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và nền
quốc phòng toàn dân nhằm bảo vệ vững chắc những thành quả
giành được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và tính mạng,
tài sản của nhân dân, sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu
bạo loạn của kẻ thù giai cấp và hành động xâm lăng của kẻ thù
bên ngoài. Kiên quyết xây dựng huyện Long Thành thành một
huyện nông - công nghiệp và thành pháo đài chiến đấu, bảo vệ
Tổ quốc.
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ IV, nhiệm kỳ 1982-1984
diễn ra ngày 10-12-1982. Đại hội Chi bộ có 30 đảng viên tham
dự, bầu chi ủy do đồng chí Võ Văn Sáu (Sáu Nhà) giữ chức vụ
Bí thư, Trần Trung Kiên giữ chức vụ Phó Bí thư; Trần Hồng
Minh giữ chức vụ chi ủy viên và Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ V, nhiệm kỳ 1984-1986
diễn ra ngày 14-12-1984. Đại hội Chi bộ có 34 đảng viên tham
dự, bầu chi ủy do Trần Trung Kiên giữ chức vụ Bí thư; Trần
Hồng Minh giữ chức vụ Phó Bí thư.
Chi bộ xã Phú Hữu nhiệm kỳ (1982-1984), (1984-1986)
lần thứ IV, lần thứ V tập trung lãnh đạo hệ thống chính của địa
phương thực hiện các chủ trương, phương hướng của Đảng bộ
huyện Long Thành nhiệm kỳ 1982-1986: Nâng cao chất lượng
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, vận động tập hợp sức
mạnh quần chúng trong các tổ chức cách mạng đoàn kết xây
dựng quê hương; bằng nhiều biện pháp tích cực từng bước phát
triển nông nghiệp toàn diện; khuyến khích phát triển chăn nuôi
171

18.2 Page 172

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
gia đình và chú trọng chăn nuôi quốc doanh, tập thể; phát triển
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tăng cường cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các ngành nghề và các thành phần kinh tế;
nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa xã hội nhằm phục vụ
xây dựng văn hóa mới, con người mới; đảm bảo an ninh trật tự
xã hội.
* Xây dựng chính quyền
Trong giai đoạn (1976-1986), hệ thống chính quyền Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiến hành 4 kỳ bầu cử. Năm
1976, theo sự chỉ đạo của Huyện ủy Long Thành về bầu cử
Quốc hội và Hội đồng nhân dân 3 cấp, Chi bộ xã Phú Hữu đã
chủ động lãnh đạo thực hiện theo đúng quy định của cấp trên,
bộ máy chính quyền xã Phú Hữu được kiện toàn. Năm 1977,
Hội đồng nhân dân xã được bầu cử dân chủ, được huyện Long
Thành xét chuẩn y với 17 người và bầu ra Ủy ban nhân dân có
5 người. Sau khi chính quyền xã Phú Hữu được kiện toàn, củng
cố đã bắt tay ngay vào thực hiện các nghị quyết phát triển kinh
tế, xã hội của chi bộ đề ra.
Đầu năm 1976, chính quyền lâm thời xã Phú Hữu thành lập,
Trần Văn Hiệp giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Phạm
Ngọc Thạch giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; xã đội
trưởng do Hồ Minh Cảm phụ trách; Trần Văn Trừ giữ chức vụ
Trưởng ban an ninh; Phan Trung Nở phụ trách nông nghiệp;
Trần Kim Thanh (Tám Hiến) giữ chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ;
Trần Trung Kiên giữ chức vụ Bí thư Đoàn Thanh niên.
172

18.3 Page 173

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Chính quyền xã lãnh đạo cử tri địa phương tham gia bầu
cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất vào ngày
26-4-19761. Cử tri xã Phú Hữu hăng hái tham gia bầu cử khá
đầy đủ, đạt trên 96%, sự kiện này trở thành ngày hội lớn ở địa
phương.
Năm 1978-1980, Lê Minh Cảm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Trần Văn Trừ giữ chức vụ trưởng an ninh; Hồ
Văn Xem giữ chức vụ xã đội trưởng; Nguyễn Thị Hường giữ
chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ; Nguyễn Ngọc Anh giữ chức vụ
Bí thư Đoàn Thanh niên...
Năm 1980-1982, Lê Văn Rắc giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban
nhân dân; Đoàn Văn Le giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân; Đặng Văn Ba giữ chức vụ trưởng ban an ninh; Hồ Văn
Xem giữ chức vụ xã đội trưởng; Nguyễn Thị Hường giữ chức
vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ; Lê Thị Kim Huyền là Bí thư Đoàn
Thanh niên...
Năm 1982-1984, Trần Hồng Minh giữ chức vụ Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Đoàn Văn Le giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân, sau đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Châu Văn Năm
giữ chức vụ trưởng an ninh; Hồ Văn Xem giữ chức vụ xã đội
trưởng; Nguyễn Thị Nam - Chủ tịch Hội Phụ nữ; Nguyễn Ngọc
Anh - Bí thư Đoàn Thanh niên, Phạm Văn Hành giữ chức vụ
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc...
1  Khóa VI của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
173

18.4 Page 174

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Năm 1984-1986, Đoàn Văn Le giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban
nhân dân; Hồ Văn Xem giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân; Châu Văn Năm giữ chức vụ trưởng an ninh; Lê Văn Non
giữ chức vụ xã đội trưởng; Nguyễn Thị Nam - Chủ tịch Hội Phụ
nữ; Nguyễn Ngọc Anh - Bí thư Đoàn Thanh niên, Nguyễn Thị
Hường giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc...
Chi bộ đã lãnh đạo chính quyền bám sát vào yêu cầu nhiệm
vụ chung của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Long Thành;
qua bầu cử, đã kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương tương
đối hoàn chỉnh. Chính quyền xã Phú Hữu đã củng cố lại một
bước về nhân sự và tổ chức. Xây dựng ý thức cán bộ, đảng viên
có quan điểm phục vụ nhân dân, tác phong, thái độ đúng đắn,
giờ giấc làm việc nghiêm túc, nâng cao hiệu suất công tác. Sau
giải phóng, chính quyền xã thường xuyên bàn bạc dân chủ,
củng cố xây dựng các ban ngành địa phương: Ban khai hoang,
Ban kinh tế mới, Ban trật tự, Ban tư pháp, Ban quản trị hợp
tác xã mua bán, Ban nhân dân 5 ấp Giồng Ông Đông, Phước
Lương, Rạch Bảy, Câu Kê, Cát Lái được kiện toàn 1 bước, đi
vào hoạt động nhằm phục vụ nhân dân.
Đến tháng 10-1982, xã Phú Hữu đã kiện toàn tổ chức, bố
trí cán bộ, đảng viên vào phụ trách các ngành kinh tế: Út Kiên
vào ban cải tạo, Sáu Nhà phụ trách Thường trực Nông hội. Qua
giáo dục cải tạo, xây dựng kết hợp đồng bộ tuyên truyền xã đã
vận động bà con xây dựng 24 tập đoàn sản xuất nông nghiệp
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế địa phương.
174

18.5 Page 175

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Qua cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân đã kiện toàn Ủy ban
nhân dân có 7 đồng chí để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản
lý xã hội bằng pháp chế xã hội chủ nghĩa; xác định vị trí, vai
trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
ở địa phương từng bước được phát huy. Thường trực Hội đồng
nhân dân đã tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Đảng, Nhà nước và hoàn thành đạt, vượt chỉ tiêu kế hoạch
của huyện Long Thành đề ra. Các mặt phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội, quốc phòng - an ninh được Hội đồng nhân dân quan
tâm hàng đầu. Chi bộ lãnh đạo chính quyền xây dựng, kiện
toàn, củng cố tổ chức 5 ấp đi vào hoạt động nề nếp.
Tuy nhiên, công tác chỉ đạo của chính quyền còn nặng nề
về năng suất chỉ tiêu nhưng không chú ý bồi dưỡng năng lực
lãnh đạo, từ đó thực hiện nhiệm vụ chính trị đôi khi chưa chặt
chẽ, nhất là các ấp chấp hành chỉ đạo của xã còn rời rạc. Công
tác chỉ đạo ban đầu thường có tính chất rầm rộ, lấy biện pháp
đông, rộng, nhưng thiếu đi sâu, liên tục; phong trào xây dựng
nếp sống mới, vệ sinh, làm ăn tập thể chưa nâng lên thành tự
giác của quần chúng.
2. Xây dựng đoàn thể chính trị - xã hội
* Về Mặt trận Tổ quốc
Các đoàn thể chính trị-xã hội là cầu nối rất quan trọng giữa
Đảng với nhân dân. Vai trò lãnh đạo của chi bộ đối với các
đoàn thể chính trị-xã hội là xuyên suốt, sâu sát. Từ sau tháng
5-1975 đến giữa 1977, xã Phú Hữu chưa có cán bộ chuyên
175

18.6 Page 176

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
trách Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên chi bộ trực tiếp lãnh đạo
các nội dung công tác mặt trận. Năm 1979, chi bộ cử 1 đồng
chí đảng viên ứng cử Ban Chấp hành Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam xã, thông qua bầu cử dân chủ gồm 9 thành viên mặt trận:
Cơ cấu đủ các thành phần tôn giáo, công nông, thanh phụ, giáo
chức. Trong thành viên mặt trận do Phạm Văn Hành, sau đó là
Nguyễn Thị Hường trực tiếp làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam xã, 1 cán bộ tôn giáo vận, chi bộ ủy quyền Mặt trận
Tổ quốc trực tiếp phụ trách các đoàn thể: Phụ nữ, Nông hội,
Phụ lão (Hội người cao tuổi). Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh trực thuộc sự lãnh đạo của chi bộ. Củng cố đoàn thể
Ban nhân dân 5 ấp để phát triển hội viên mới theo chủ trương
của Tỉnh ủy, Huyện ủy Long Thành đáp ứng yêu cầu vận động
nhân dân tăng gia sản xuất, ổn định đời sống mới.
* Công tác Đoàn Thanh niên
Tháng 10-1976, Ban Chấp hành Chi đoàn Thanh niên xã
Phú Hữu do Trần Trung Kiên giữ chức vụ Bí thư. Năm 1976,
Đoàn Thanh niên vận động 40 thanh niên tham gia nghĩa vụ
quân sự, đưa 813 thanh niên tham gia lao động xã hội chủ nghĩa
đắp đập sông Bến Ngự; có gần 2,8 ngàn thanh niên đi làm thủy
lợi ở địa phương phục vụ tăng gia sản xuất.
Đoàn vận động thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa dài
hạn 3 năm có 918 người, thời gian 1 năm có 354 thanh niên.
Chi đoàn xã có 31 đoàn viên gồm 1 Bí thư, 1 Phó Bí thư; đầu
năm 1977, kết nạp thêm 7 đoàn viên mới đáp ứng yêu cầu tăng
cường sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã.
176

18.7 Page 177

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Công tác giáo dục, tổ chức quản lý thanh niên, thiếu niên,
phân công cán bộ đoàn đi sâu chuyên trách thanh niên đến từng
ấp. Công tác giáo dục học tập, nâng cao về quan điểm lập trường
tư tưởng tiến công được chú trọng, làm cho mỗi đoàn viên thể
hiện vai trò đầu tàu gương mẫu. Năm 1980-1982, Đoàn Thanh
niên xã Phú Hữu có 5 chi đoàn cơ sở, đoàn viên TNCS Hồ Chí
Minh có 312 người. Công tác lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh chú ý bồi dưỡng học tập nâng cao quan điểm
lập trường, nhưng ý chí chiến đấu, năng lực công tác, kế hoạch
và biện pháp thực hiện chưa liên tục.
* Công tác Phụ nữ
Hội Phụ nữ giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nếp sống
mới của gia đình, chăm sóc con cái, là thành phần quan trọng
của Mặt trận đoàn thể chính trị-xã hội ở xã. Sau ngày 30-4-
1975, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã là Trần Kim Thanh, Nguyễn
Thị Nam giữ chức vụ Phó Chủ tịch, các ủy viên Nguyễn Thị
Hường, Trần Thị Bắc...
Năm 1977, Hội Phụ nữ từng bước được kiện toàn với 35
người được bầu từ 5 ấp lên xã; trong đó, tham gia Ban Chấp
hành có 7 chị em. Hội mạnh dạn đưa những người không đủ
điều kiện ra khỏi tổ chức, giáo dục chị em về khả năng lãnh
đạo kém hoặc có tên mà không hoạt động ra khỏi Hội để chọn
nhân tố mới thay thế. Hội cương quyết chống tư tưởng cục bộ,
ích kỷ, cá nhân, hẹp hòi gây mất đoàn kết, làm lợi cho kẻ xấu.
177

18.8 Page 178

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Hội kiểm điểm từ Ban Chấp hành Hội đến Ban cán sự ấp
ra quần chúng. Chi bộ bố trí đảng viên theo dõi, lãnh đạo sâu
sát và kiểm điểm thực hiện đúng theo tinh thần của Huyện ủy
Long Thành. Năm 1980-1982, Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã
Phú Hữu có 7 người với 312 hội viên. Năm 1984-1985, Ban
Chấp hành Hội Phụ nữ có 7 người với 5 ban cán sự ở 5 ấp, 5 tổ
Phụ nữ đoàn kết, có 421 hội viên, góp phần cùng các đoàn thể
chính trị-xã hội xã phát triển kinh tế, chăm lo gia đình, nuôi con
khỏe, dạy con ngoan, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
* Công tác Nông hội
Sau khi Chi bộ xã Phú Hữu thành lập năm 1976, công tác
Nông hội được chi ủy quan tâm nhằm động viên, quản lý nông
dân toàn xã tăng gia sản xuất nông nghiệp góp phần ổn định
lương thực cho người dân trong xã. Nông hội xã Phú Hữu do
Phan Trung Nở làm hội trưởng. Năm 1978, Nông hội củng cố
lại Ban Chấp hành, chấn chỉnh ban thư ký, phát huy mặt tích
cực, kiểm điểm, phê bình mặt tiêu cực theo yêu cầu, chú trọng
chất lượng hơn số lượng. Hội đã cương quyết thay thế, đưa
những người không tốt, không đúng tiêu chuẩn ra khỏi tổ chức.
Hội củng cố lại tổ chức, lề lối làm việc, hướng dẫn, chỉ đạo
nông dân thực hiện kế hoạch cấy lúa vụ mùa đúng thời vụ nhằm
tăng năng suất.
Đến tháng 10-1982, Nông hội có 413 hội viên được cấp thẻ.
Bước đầu Hội đã giáo dục, tập hợp bà con vào làm ăn tập thể
178

18.9 Page 179

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
xã hội chủ nghĩa trong các tập đoàn sản xuất. Tuy nhiên, sản
xuất kinh tế gặp một số khó khăn do giá cả giữa quản lý nhà
nước và thị trường quá chênh lệch. Thu nhập nông nghiệp và
các ngành nghề khác còn bấp bênh. Một số bà con chưa yên
tâm làm ăn nên sản xuất bị ảnh hưởng. Hạn hán, sâu rầy diễn ra
phức tạp nhưng bà con rất chí thú làm ăn, đời sống có phần dễ
chịu hơn. Trong giai đoạn 1982-1986, công tác Nông hội tiếp
tục được chi bộ xã quan tâm, chú trọng lãnh đạo nhằm nâng
cao năng suất sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu người dân
ở địa phương.
3. Lĩnh vực kinh tế
* Đối với nông nghiệp
Trên địa bàn xã Phú Hữu chia thành 5 ấp, với dân cư sinh
sống lâu đời, có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm từ
những ngày đầu thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự
lãnh đạo của chi bộ, chính quyền xã Phú Hữu định hướng phát
triển kinh tế theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà
nước, của tỉnh, huyện Long Thành để xây dựng hạ tầng kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Qua các kỳ Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu, phát
triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, trong
đó sản xuất lúa là vấn đề quan trọng nhất nhằm đáp ứng nhu
cầu lương thực cho người dân, ổn định trật tự để xây dựng xã
hội mới.
Trong thời kỳ chính quyền quân quản, chi ủy vận động cán
bộ, đảng viên, các đoàn thể chính trị - xã hội, người dân đẩy
179

18.10 Page 180

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
mạnh trồng trọt, chăn nuôi đạt kết quả khá tốt. Năm 1976, địa
phương bước vào thời kỳ xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa,
phát triển nông nghiệp theo chủ trương làm ăn tập thể với mục
tiêu thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích canh tác ở những
nơi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi. Đất trên địa bàn xã bị bỏ
hoang, hoặc do chiến tranh tàn phá được người dân trong xã cải
tạo như đắp đê ngăn mặn, làm công tác thủy lợi, thau chua rửa
phèn, lên luống... với 37 ngàn ngày công để trồng rau màu đáp
ứng yêu cầu phong trào xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp.
Ngày 10-9-1977, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Ban
Cải tạo nông nghiệp miền Nam do đồng chí Võ Chí Công, Ủy
viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp làm trưởng ban. Ngày 26-12-1977, Ban Bí thư ban hành
Chỉ thị số 28-CT/TW về việc hoàn thành xóa bỏ triệt để tàn tích
phong kiến về ruộng đất, phát triển các hình thức tổ chức hợp
tác lao động sản xuất, xây dựng huyện trọng điểm và hợp tác
xã thí điểm. Ban Bí thư cũng ban hành Chỉ thị số 29-CT/TW
ngày 26-12-1977 về chính sách được áp dụng ở các hợp tác xã
thí điểm ở miền Nam, quy định điều kiện kết nạp xã viên, tập
thể hoá toàn bộ ruộng đất của xã viên, trừ vườn cây, ao cá lẻ tẻ
và đất đai để lại cho gia đình. Xã viên không được tự tiện khai
phá ruộng đất, thuê mượn ruộng đất, thuê mượn nhân công để
sản xuất riêng.
Tuy nhiên, tập quán sản xuất trồng trọt, chăn nuôi của người
dân trong xã theo lối cũ cá thể, nhỏ lẻ, việc tăng năng suất, cải
tiến công cụ lao động chưa được người dân chú ý đúng mức,
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
nên trong những năm đầu thực hiện quản lý sản xuất kinh tế,
chi bộ, chính quyền xã Phú Hữu gặp nhiều khó khăn. Mặc khác,
phần nhiều hộ dân trong xã không có ruộng đất, phải làm thuê
để sinh kế, nên cuộc sống bấp bênh, chưa ổn định.
Từ khi có các Nghị quyết số 03-NQ/TW1 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khóa IV), Nghị quyết số 61-CP của Hội
đồng Chính phủ2, Nghị định số 275-CP của Hội đồng Chính
phủ3... về cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp miền Nam, Chi bộ xã Phú Hữu lãnh đạo, vận động
nhân dân vào hợp tác xã nông nghiệp theo tinh thần chỉ đạo từ
Trung ương, tỉnh, huyện Long Thành.
Trên địa bàn huyện Long Thành nói chung, xã Phú Hữu nói
riêng mô hình hợp tác nông nghiệp dần hình thành với sự ra đời
của 24 tập đoàn sản xuất, có 1.631 hộ dân, 7.241 nhân khẩu,
4.197 lao động tham gia. Diện tích trồng lúa có 421ha, trồng
rau màu 25ha, mía có 413ha, các loại cây trồng khác 2,3ha.
Phần diện tích đất còn lại phân bổ trong các hộ gia đình để cư
trú, trồng trọt, chăn nuôi.
Năm 1977, sản xuất nông nghiệp xã Phú Hữu trúng mùa,
năng suất lúa đạt 3,1 tấn/ha, hoa màu đạt 2,6 tấn/ha, đáp ứng
1  Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 19/8/1977, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp
hành Trung ương đảng (khoá IV) về “tập trung cao độ lực lượng cả nước thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp”.
2  Nghị quyết số 61-CP ngày 5-4-1976 của Hội đồng chính phủ “về cuộc vận
động tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp từ
cơ sơ theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
3  Nghị định số 275-CP ngày 8-10-1977của Hội đồng chính phủ về “tổ chức bộ
máy quản lý nông nghiệp”.
181

19.2 Page 182

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
nhu cầu lương thực kịp thời cho người dân, tạo sự phấn khởi
cho nông dân chuẩn bị bắt tay vào phát triển kinh tế theo chủ
trương mới của Đảng, Nhà nước.
Để tổ chức nông dân vào làm ăn tập thể, chi bộ tuyên truyền
cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên của xã thông suốt
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về làm ăn tập thể; xây dựng đội ngũ nòng cốt của
phong trào sản xuất mới, xem đây là lực lượng đi đầu, làm
gương cho người dân trong xã noi theo. Chi bộ lãnh đạo chính
quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội xã Phú Hữu như Mặt
trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... lựa chọn những
người có uy tín với dân, tích cực, nhiệt tình trong công việc,
hăng hái với phong trào hợp tác xã và tự nguyện cùng gia đình,
dòng họ xin vào hợp tác xã. Những cán bộ, đảng viên, đoàn
viên, hội viên, người dân có uy tín với nông dân được tập huấn,
tuyên truyền, nắm chắc các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về làm ăn theo hình thức
hợp tác trở thành cầu nối hữu hiệu giúp chi bộ, chính quyền xã
lãnh đạo nhân dân thực hiện chính sách phát triển kinh tế mới.
Người dân trong xã được giải thích, vận động, hiểu được quyền
lợi của bản thân vào tập đoàn sản xuất; từ đó, họ hăng hái đăng
ký, tự nguyện tham gia vào tập đoàn sản xuất.
Năm 1978, Chi bộ lãnh đạo chính quyền thực hiện nghị
quyết Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu về phát triển kinh tế, mà trọng
tâm là khuyến khích, vận động nông dân vào tập đoàn sản xuất
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Công tác
182

19.3 Page 183

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
quy hoạch, chia vùng đất đai của tập đoàn sản xuất ở 5 ấp. Để
thực hiện chủ trương này, Chi bộ ra nghị quyết phân công cho
24 anh chị em là cán bộ, đảng viên, cá nhân có uy tín với người
dân giữ vị trí đội trưởng sản xuất, đội phó, thư ký. Bên cạnh các
đội sản xuất nòng cốt, hợp tác xã còn tổ chức các đội chuyên
làm công tác thủy lợi, tổ bảo vệ an ninh trật tự, tổ máy xới...
Sau khi thành lập 24 tập đoàn sản xuất đồng loạt tiến hành
sản xuất kịp thời vụ, chính quyền vận động người dân trong xã
nhường cơm sẻ áo, tổ chức vần đổi công được 327 ngàn ngày
công, đổi ruộng cho những hộ xâm canh trong khu vực quanh
vùng tập đoàn sản xuất. Chi bộ lãnh đạo chính quyền kịp thời
cùng nhân dân thu hoạch lúa, hoa màu sản xuất, đạt trên 3,1tấn/
ha, đảm bảo kế hoạch của huyện Long Thành đề ra. Tuy nhiên,
mô hình làm ăn tập thể khá xa lạ đối với người dân miền Nam
nói chung, xã Phú Hữu nói riêng, nên một số bà con tập đoàn
viên còn lo ngại, chưa thật sự nhiệt tình tham gia, có hộ gia đình
sau thời gian vào tập đoàn sản xuất xin rút khỏi mô hình làm
ăn tập thể này.
Trên cơ sở thắng lợi sản xuất nông nghiệp vụ mùa năm
1984, Chi bộ lãnh đạo chính quyền tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động, thuyết phục, giải thích để người dân xã Phú
Hữu hiểu các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật Nhà nước về tập đoàn sản xuất với tinh thần “tập đoàn sản
xuất là nhà, tập đoàn viên là chủ”, “mình vì tập đoàn sản xuất,
tập đoàn sản xuất vì mình”...
183

19.4 Page 184

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Để tăng cường kỷ cương, kỷ luật lao động cho tập đoàn sản
xuất xây dựng định mức lao động, lập kế hoạch lao động cho
từng vụ mùa, cả năm; kế hoạch giao khoán đối với các đội sản
xuất, đội làm công tác thủy lợi, phát động phong trào thi đua
sản xuất. Đồng thời, công tác tài chính, kế toán, thu chi trong
tập đoàn sản xuất được thực hiện chặt chẽ, mở sổ sách quyết
toán, thanh toán công điểm của tập đoàn viên; thường xuyên
công khai tài chính hàng tháng, hàng quý, theo vụ mùa... Với
công tác quản lý chặt chẽ, rõ ràng của các tập đoàn sản xuất,
đã cổ vũ, động viên tập đoàn viên hăng hái ra đồng thi đua sản
xuất.
Trên địa bàn tỉnh, đến năm 1980 cải tạo và xây dựng quan
hệ sản xuất trong nông nghiệp cơ bản hoàn thành công tác hợp
tác hóa nông nghiệp, trong toàn tỉnh có 11 hợp tác xã, với 2.974
hộ. Đến năm 1981 có 613 tập đoàn sản xuất với 26.800 hộ
chiếm 16% hộ nông nghiệp toàn tỉnh. Đến năm 1985, toàn tỉnh
có 22 hợp tác xã, 1.793 tập đoàn sản xuất với 103.281 hộ và
70.802ha đất canh tác đã đưa 60% số khẩu và 56% diện tích
canh tác vào làm ăn tập thể1.
Trong vụ mùa năm 1983, 24 tập đoàn sản xuất ở xã Phú
Hữu gieo trồng đạt trên 92% diện tích đất. Tuy nhiên, trong vụ
Đông Xuân năm 1984 và vụ Xuân Hè năm 1985, diện tích canh
1  UBND tỉnh Đồng Nai (2002), Đồng Nai 25 năm xây dựng và phát triển kinh
tế-xã hội (1975-2000), tr.13.
184

19.5 Page 185

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tác của các tập đoàn sản xuất bị dịch rầy nâu, sâu cuốn lá phá
hại nặng, nhiều diện tích mất mùa gần như hoàn toàn. Nhiều
diện tích đất đai của tập đoàn sản xuất bị bỏ hoang, tập đoàn
viên không tập trung sản xuất, không cày cấy, sức kéo phục vụ
sản xuất giảm sút, đời sống tập đoàn viên lâm vào khó khăn,
cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên xã Phú Hữu lâm vào
thiếu đói.
Trong chi bộ, chính quyền xã Phú Hữu tự phê bình và phê
bình về kinh nghiệm trong quản lý hoạt động sản xuất từ tập
đoàn đến các đội sản xuất, đội thủy lợi, đội bảo vệ; mặc dù có
xây dựng kế hoạch nhưng thiếu đôn đốc, kiểm tra, giám sát
thường xuyên, việc điều hành lao động theo bình quân, chấm
điểm của tập đoàn viên còn cào bằng, chưa rõ ràng về khen
thưởng, phê bình tập đoàn viên... dẫn đến tâm lý so bì, tỵ nạnh
của một bộ phận tập đoàn viên, nên chưa thích nghi với làm ăn
tập thể.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế nhưng đến năm 1986,
phong trào làm ăn tập thể xã Phú Hữu với mô hình tập đoàn sản
xuất cơ bản ổn định. Trên địa bàn 5 ấp của xã, có 24 tập đoàn
sản xuất, còn một số ít hộ dọc theo sông Ông Chuốc chưa vào
tập đoàn sản xuất, toàn xã có trên 87% bà con tham gia làm ăn
tập thể, thiết lập quan hệ sản xuất mới - Sản xuất xã hội chủ
nghĩa.
Thực hiện nghị quyết Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu khóa V
nhiệm kỳ 1984-1986 về phát triển sản xuất nông nghiệp xã gắn
185

19.6 Page 186

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
với thực hiện Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban
Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm
đến nhóm lao động và người lao động” trong tập đoàn sản xuất
nông nghiệp nhằm bảo đảm phát triển sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái
lao động, kích thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt đất
đai và các cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, áp dụng tiến bộ kỹ
thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất; củng cố và tăng cường quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn; không ngừng nâng
cao thu nhập và đời sống của xã viên, tăng tích lũy của hợp tác
xã, làm tròn nghĩa vụ và không ngừng tăng khối lượng nông
sản cung ứng cho Nhà nước. Đội sản xuất khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động (gọi tắt là khoán sản phẩm)
là một hình thức quản lý sản xuất và trả công lao động có gắn
trách nhiệm và quyền lợi của người lao động với sản phẩm cuối
cùng một cách trực tiếp1. Do đó, sản xuất nông nghiệp đạt 4,3
tấn/ha, hoa màu đạt 3,2 tấn/ha.
* Về thương nghiệp
Năm 1976-1981, Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu chỉ đạo Ban
Thương nghiệp xã tiếp tục xây dựng, củng cố hợp tác xã mua
1  Nó phát huy được mạnh mẽ tính tích cực, tự giác của xã viên, lôi cuốn mọi
người tăng thêm công sức (kể cả lao động phụ), chủ động tận dụng đất đai, phân
bón, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, tận thu mùa màng,
đưa đến tăng năng suất, sản lượng thu hoạch và nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng
cao thu nhập của xã viên, tăng tích luỹ của hợp tác xã và làm cho hợp tác xã thực
hiện tốt hơn nghĩa vụ nông sản đối với Nhà nước.
186

19.7 Page 187

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
bán đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân. Năm 1984-1985, trên
lĩnh vực phân phối lưu thông, Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương,
Tỉnh ủy, Huyện ủy Long Thành về tổ chức, thực hiện trên mặt
trận phân phối lưu thông gắn với Nghị quyết số 188-HĐBT,
ngày 23-11-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về “tăng cường
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và quản lý thị trường” nhằm
quản lý thị trường phải kết hợp chặt chẽ với cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với thương nghiệp tư doanh cũng như đối với công
nghiệp tư doanh và nông nghiệp cá thể1.
Chi bộ lãnh đạo chính quyền thực hiện Nghị quyết số 25-
NQ/TW, ngày 17-6-1985 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa V) “về giá - lương - tiền”. Do hàng hóa chưa đáp ứng
theo quy luật cung - cầu, giá cả luôn biến động tăng vọt, ảnh
hưởng đến đời sống nhân dân lao động và cán bộ, công nhân
viên trong khu vực nhà nước trên địa bàn xã.
1  Quản lý thị trường cuối cùng phải đạt được mục đích mở rộng lưu thông hàng
hoá một cách có tổ chức, có trật tự, thúc đẩy sản xuất, phục vụ tốt đời sống nhân
dân. Quản lý không phải là cấm chợ, ngăn sông làm cho lưu thông hàng hoá bị
ách tắc, thị trường bị chia cắt và gây phiền hà cho nhân dân. Phải áp dụng đồng bộ
các biện pháp kinh tế và hành chính, tư tưởng và tổ chức, trong đó nắm vững biện
pháp kinh tế là cơ bản, mà biện pháp kinh tế quan trọng nhất là thương nghiệp Xã
hội chủ nghĩa phải nắm nguồn hàng tận gốc, phải mở rộng kinh doanh Xã hội chủ
nghĩa, chiếm lĩnh thị trường. Về tư tưởng và tổ chức, phải động viên cho được
lực lượng quần chúng, dựa vào quần chúng, và phải tổ chức tốt sự hiệp đồng giữa
các ngành, các cấp.
187

19.8 Page 188

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
4. Văn hóa xã hội, Quốc phòng - An ninh
* Xây dựng văn hóa xã hội mới
* Thông tin tuyên truyền
Công tác thông tin tuyên truyền quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thông suốt đến
cán bộ, đảng viên, nhân dân. Công tác này bám sát yêu cầu
của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện
Long Thành. Năm 1976-1977, lĩnh vực Văn hóa Thông tin có 1
đồng chí chuyên trách. Chi ủy lãnh đạo tổ chức học tập đường
lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Việc triển khai học tập chính sách ruộng đất cho
người dân với 915 lượt người tham dự. Xã tổ chức quán triệt
học tập, tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên, các đoàn thể, nhân
dân về ý nghĩa của Đại hội Đảng lần thứ IV với 1.378 lượt
người tham dự.
Năm 1978, Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu chỉ đạo sửa lại
hệ thống phát thanh của xã đến tận 5 ấp, đảm bảo chế độ phát
thanh hàng ngày. Xã xây dựng tổ thông tin lưu động thường
xuyên, phản ánh kịp thời tin tức tình hình địa phương về đài
truyền thanh huyện Long Thành. Nội dung tuyên truyền tập
trung vào phong trào bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, “người tốt việc tốt”, con người mới xã hội chủ nghĩa. Xã
chú trọng việc học tập giáo dục quan điểm lập trường tư tưởng,
tinh thần trách nhiệm; chống tư tưởng lười biếng, vô tổ chức,
vô kỷ luật trong cán bộ, đảng viên, nhân dân.
188

19.9 Page 189

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Từ năm 1984-1985, công tác thông tin tuyên truyền, phục
vụ phát thanh 219 lượt về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, Tỉnh
ủy, huyện Long Thành và địa phương. Địa phương thực hiện 37
băng rôn, khẩu hiệu các loại và triển lãm 16 hình ảnh kỷ niệm
các ngày lễ lớn của đất nước.
* Giáo dục
Các năm 1976, 1977, chi bộ thực hiện sự chỉ đạo của Huyện
ủy Long Thành về công tác bình dân học vụ và bổ túc văn hóa
đối với cán bộ, nhân dân. Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của chính
quyền địa phương nên giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực.
Xã có Trường Tiểu học Phú Hữu và điểm trường ở Giồng Ông
Đông với tổng số 50 cán bộ, giáo viên; tổ chức 10 lớp bổ túc
văn hóa; có 12 giáo viên không chuyên, xóa mù chữ đối với
1.531 người.
Trên cơ sở kết quả giáo dục bước đầu, năm 1980, địa phương
phát triển thêm 6 phòng học ở trường học cấp II. Địa phương
vận động cán bộ, nhân viên tham gia phong trào học bổ túc văn
hóa đảm bảo đạt số lượng và chất lượng theo yêu cầu đề ra.
Năm 1980-1982, Chi bộ đã cử 1 đồng chí đảng viên được
cơ cấu vào Ủy ban nhân dân phụ trách công tác văn hóa thông
tin, y tế, giáo dục, thương binh xã hội. Xã Phú Hữu có trường
cấp 1, 2 với 31 lớp; trường mẫu giáo có 61 cháu. Cơ sở vật chất
còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhà trẻ mẫu giáo năm 1986
giảm từ 61 cháu xuống còn 49 cháu.
189

19.10 Page 190

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
* Văn hóa - văn nghệ
Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu chấn chỉnh công tác văn hóa,
văn nghệ nhằm đẩy lùi văn hóa nô dịch thực dân mới của đế
quốc Mỹ để lại, bài trừ tàn dư văn hóa đồi trụy của chế độ cũ;
địa phương đã mở thư viện nhân dân, mua sách từ tỉnh, huyện
Long Thành về phục vụ nhân dân được 1.023 quyển sách và 61
ấn phẩm văn hóa.
Văn nghệ là món ăn tinh thần phục vụ nhân dân trong ngày
lễ tết, các ngày nghỉ sau thời gian lao động mệt nhọc. Ban văn
nghệ của xã Phú Hữu đã đem những lời ca tiếng hát cách mạng
bổ ích đến nhân dân. Năm 1979, địa phương thường xuyên
củng cố sinh hoạt phát triển đội văn nghệ nghiệp dư của xã với
30 anh chị em, đã biểu diễn 14 lượt phục vụ 913 lượt người
xem. Đội bóng đá xã thường xuyên thi đấu giao lưu với các
xã bạn. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được phát
động trực tiếp trong nhân dân, với 1.089 hộ đăng ký xây dựng
gia đình văn hóa mới.
Lĩnh vực văn hóa văn nghệ còn hạn chế như hoạt động chưa
phong phú về nội dung và hình thức còn nghèo nàn, đơn điệu,
chưa tổ chức các câu lạc bộ để thu hút hết mọi tầng lớp nhân
dân tham gia.
* Y tế
Để không ngừng chăm lo sức khỏe, tinh thần người dân
toàn xã, Ủy ban nhân dân xã sâu sát quản lý các hoạt động y tế
ở địa phương. Từ năm 1976-1977, xã có 1 trạm xá hộ sinh với
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
4 giường bệnh và 2 cán bộ y tế. Năm 1978, Ủy ban nhân dân xã
thường xuyên chỉ đạo chăm sóc y tế gia đình thương binh, liệt
sĩ, gia đình có công với cách mạng theo đúng chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước.
Đối với nhân dân, giáo dục ý thức phòng bệnh, thường
xuyên tham gia vệ sinh sạch nhà, sạch đường, nơi công cộng.
Đối với trạm y tế hộ sinh: Củng cố và tu bổ phương tiện hiện
có, giáo dục tư tưởng phục vụ của đội ngũ y sĩ, là người thầy
thuốc trị bệnh cứu người, thể hiện quan điểm “lương y như từ
mẫu”.
Ủy ban nhân dân xã thường xuyên tuyên truyền, vận động
nhân dân làm vệ sinh nhà cửa, đường sá giao thông công cộng.
Các hoạt động này được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tham
gia, khai thông cống rãnh 512m, trong đó có 154m dọc theo
sông Ông Chuốc; sửa chữa 1.069m đường từ ấp Phước Lương
lên ấp Cát Lái và Câu Kê.
Năm 1984-1986, Ủy ban nhân dân xã tiếp tục sâu sát chỉ
đạo các hoạt động chăm sóc sức khỏe, khám điều trị bệnh cho
nhân dân đạt kết quả khá tốt. Y tế xã đã khám và điều trị 713
lượt người, chuyển viện 23 người, tổ chức các đợt tiêm phòng
ngừa bệnh cho 2.315 lượt người. Tổ đông y đi vào hoạt động nề
nếp, điều trị bệnh cho nhân dân 27 lượt người.
* Công tác Thương binh, liệt sĩ
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, Ủy ban nhân dân xã
191

20.2 Page 192

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể địa phương thực hiện tốt chế
độ chính sách đối với gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, gia
đình có công với cách mạng. Ủy ban nhân dân xã thực hiện các
hoạt động thăm viếng, giúp đỡ những gia đình chính sách, gia
đình neo đơn, tổ chức trọng thể ngày 27-7 hàng năm, tiếp tục
hoàn thành hồ sơ xét gia đình thương binh, liệt sĩ. Năm 1978,
địa phương tiếp tục công tác thương binh, liệt sĩ, gia đình có
công với cách mạng theo chính sách của Đảng, Nhà nước được
thực hiện đầy đủ, giải quyết 12kg gạo/người/tháng và được ưu
tiên phân phối hàng hóa nhu yếu phẩm ngoài các mặt hàng do
huyện Long Thành cấp; đồng thời, ưu tiên thu mua hàng hóa
của gia đình chính sách ở địa phương, tạo điều kiện để gia đình
thương binh, liệt sĩ, có công cách mạng tăng gia sản xuất, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần.
* Quốc phòng - An ninh
Quốc phòng - an ninh giữ vai trò quan trọng để ổn định tình
hình chính trị, xã hội ở địa phương, thúc đẩy phát triển kinh
tế, xã hội. Phú Hữu tiệm cận Thành phố Hồ Chí Minh, nên sau
năm 1975 các phần tử của chế độ cũ đến ẩn náu. Chi bộ xác
định nhiệm vụ lãnh đạo lực lượng quân sự, an ninh xã giữ vai
trò rất quan trọng, xuyên suốt, sâu sát. Lực lượng an ninh của
xã phối kết hợp với an ninh huyện Long Thành và tỉnh phát
động quần chúng truy tìm, trấn áp bọn phản cách mạng, phát
huy quyền làm chủ tập thể để bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương. Năm 1977, lực lượng an ninh xã có 7
người để duy trì an ninh trật tự.
192

20.3 Page 193

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Xã đội có 31 chiến sĩ, có 1 xã đội trưởng, 1 xã đội phó. Trật
tự xã hội còn nhiều phức tạp, nạn trộm cắp, buôn bán gian lận
móc ngoặt nhằm tiêu thụ tài sản của Nhà nước vẫn tiếp diễn,
các đảng phái phản động chống đối cách mạng chưa trình diện,
còn sống lén lút trong dân chúng, gây nhiều tệ nạn, mất an ninh
trật tự trong địa bàn xã.
Năm 1977, lực lượng an ninh, quân sự phối hợp bảo vệ
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã; tổ chức học tập chính trị
về chức năng, trách nhiệm của người dân quân; tổ chức huấn
luyện quân sự cán bộ, chiến sĩ đạt kết quả trên 90%. Phối hợp
các đơn vị chuyên môn tháo gỡ 312 trái mìn và thu gom đạn
dược các loại 135 trái.
Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Long Thành về công
tác bầu cử 3 cấp nên an ninh, quân sự tăng cường bảo đảm an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của sự kiện chính trị quan
trọng ở địa phương. Chi ủy lãnh đạo thành lập Hội đồng bầu
cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử nhằm đẩy mạnh công tác học tập về
ý nghĩa, mục đích bầu cử và thực hiện theo pháp lệnh bầu cử.
Hội đồng bầu cử tổ chức ra mắt ứng cử viên để trao đổi với cử
tri, vận động nhân dân học tập theo ngành, giới của mình và
thảo luận về cơ cấu thành phần. Qua hai bước hiệp thương đã
nêu rõ “hai lên ba xuống” tức là cân nhắc kỹ lưỡng các ứng cử
viên, hiểu rõ về quyền làm chủ tập thể của nhân dân, giúp cử
tri thông suốt được hướng chỉ đạo của chính quyền địa phương.
193

20.4 Page 194

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Chính quyền xã Phú Hữu còn quan tâm đến quyền lợi của một
số binh sĩ chế độ cũ đang bị quản chế, đã giải quyết phục hồi
công dân cho 13 người. Thành lập hội đồng xét duyệt phần C
lên phần A. Số người này đã phấn khởi được chính quyền quan
tâm chẳng những đời sống vật chất mà cả về quyền lợi chính trị.
Năm 1980-1981, Bí thư Chi bộ kiêm chính trị viên đối với
lực lượng quân sự và an ninh. Chi ủy đánh giá đúng tình hình
âm mưu của kẻ địch hoạt động trên địa bàn xã với 3 tên quân
đội Sài Gòn tan rã tại chỗ. Chúng dựa vào sự quản lý yếu kém
của chính quyền và đang gặp khó khăn về kinh tế do bên ngoài
bành trướng xâm lược phía Bắc với nhiều thủ đoạn bao vây nhà
nước. Từ tình hình đó, trong năm 1980, 1981, đầu 1982 chi ủy
đã chú trọng lãnh đạo 2 lực lượng vũ trang, củng cố kiện toàn
tổ chức, nâng cao năng lực chỉ huy, chủ động mọi tình huống
xấu xảy ra.
Năm 1984-1985, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội cơ bản ổn định. Lực lượng an ninh chú trọng phân loại
các đối tượng như cư trú trái phép, người có ý định vượt biên,
buôn bán trái pháp luật... nhằm đảm bảo quốc phòng - an ninh.
Địa phương xây dựng mạng lưới an ninh ở 5 ấp; kết hợp Đoàn
Thanh niên xây dựng lực lượng xung kích tham gia công tác
giữ gìn an ninh trật tự.
194

20.5 Page 195

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Xã thành lập Hội đồng nghĩa vụ quân sự có 11 người, cơ
cấu đủ thành phần, mỗi ấp tổ chức 1 đội vận động nghĩa vụ
quân sự. Chính quyền địa phương chăm lo công tác hậu phương
quân đội và nuôi quân; tổ chức hũ gạo nuôi quân được duy trì
tốt, năm 1980 thu được 513kg lương thực, năm 1981 thu được
783kg lương thực; số thu được chi phụ thêm 2 bữa ăn cho chiến
sĩ du kích và cứu tế xã hội. Dân quân thông thường có 250
người, khi cần biểu dương lực lượng hoặc công tác đột xuất sẽ
huy động lực lượng này. Công tác quản lý thanh niên, lứa tuổi
bước đầu có sổ bộ theo dõi, thể hiện sự cố gắng sắp xếp của xã
đội. Công tác nghĩa vụ quân sự ở xã Phú Hữu mỗi năm đều tăng
lên rõ rệt, có nhiều thanh niên tự giác viết đơn tình nguyện nhập
ngũ và đăng ký khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
Xã Phú Hữu giữ vững truyền thống của địa phương trong
công tác động viên tuyển quân, từ 1976-1986 giao 301 thanh
niên lên đường lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, có 1
liệt sĩ Trương Văn Cu hy sinh trên chiến trường biên giới Tây
Nam. Công tác giáo dục quân nhân đào ngũ được chú trọng, với
3 quân nhân làm đơn tình nguyện trở lại quân đội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, về quốc phòng, an ninh
còn hạn chế, chưa triệt để truy quét tội phạm chính trị, hình sự,
sử dụng ma túy, tình trạng cư trú bất hợp pháp còn phổ biến,
công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong đơn vị chưa được
thường xuyên.
195

20.6 Page 196

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
II. THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN ĐỊA PHƯƠNG (1986-1994)
1. Chi bộ xã Phú Hữu lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi
mới
* Các kỳ Đại hội Chi bộ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) đã mở ra thời
kỳ đổi mới toàn diện đất nước về kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đặc biệt là đổi mới về
kinh tế; đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích tư nhân, cá thể phát triển
nhiều ngành, nghề thuộc thế mạnh của mình. Trong lĩnh vực
kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ cấu kinh tế, đầu tư, đổi
mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý nhằm khai thác
mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng
nhanh sản phẩm xã hội, thực hiện mục tiêu ổn định tình hình
kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Đường lối đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thổi luồng sinh khí mới đối
với sự phát triển của đất nước nói chung, xã Phú Hữu nói riêng.
Đại hội Đảng lần VII (6-1991) được tiến hành trong bối
cảnh quốc tế có những diễn biến phức tạp. Đó là sự khủng
hoảng trầm trọng dẫn đến sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu (1989) và Liên Xô năm 1991, chủ nghĩa xã hội thế
giới bước vào giai đoạn thoái trào, các thế lực thù địch gia tăng
chống phá chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin và các đảng
Cộng sản; những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
196

20.7 Page 197

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
quốc tế hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tác động tiêu
cực đến tư tưởng, tình cảm của một số ít cán bộ, đảng viên xã
Phú Hữu.
Đảng bộ huyện Long Thành trải qua 3 kỳ Đại hội, Đại hội
lần thứ IV1, nhiệm kỳ 1986-1988; Đại hội lần thứ V2 nhiệm kỳ
1988-1990; Đại hội lần thứ VI3, nhiệm kỳ 1991-1995 đều xác
định phát triển mạnh mẽ nền kinh tế theo cơ cấu công - nông
nghiệp hợp lý; phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, lương thực là trọng tâm
theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa. Phát huy các mũi nhọn:
Công nghiệp chế biến, nông sản xuất khẩu và công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng, giải quyết tích cực có hiệu quả thiết
thực ba chương trình về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng
1  Tiếp tục quy hoạch lại sản xuất, bố trí sử dụng lao động, ruộng đất phù hợp với
tình hình, đặc điểm của địa phương, với cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp (nông
nghiệp bao gồm lâm nghiệp, ngư nghiệp) nhằm phát triển sản xuất, ổn định đời
sống nhân dân, an ninh quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội
chủ nghĩa (Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành ngày 16-19/9/1986).
2  Tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, làm trong sạch nội bộ Đảng,
chính quyền, làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội; đẩy mạnh sản xuất phát triển,
ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng trên cơ sở tập trung
vào ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu (Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Long Thành ngày 22-24/11/1988).
3  Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo đường lối của Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo, điều hành các tổ chức của Đảng và chính quyền, phát huy vai trò
tích cực của các đoàn thể quần chúng, động viên nhân dân đoàn kết; phát triển
kinh tế toàn diện theo cơ cấu nông - công nghiệp và dịch vụ gắn phát triển kinh
tế với phát triển các sự nghiệp văn hóa, y tế, kế hoạch hóa dân số, chăm lo giáo
dục và đào tạo, chăm sóc đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng, giữ vững
an ninh, ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. (Văn kiện Đại hội Đảng
bộ huyện Long Thành ngày 11-15/11/1991).
197

20.8 Page 198

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
thiết yếu và hàng xuất khẩu. Tiếp tục nhiệm vụ cải tạo xã hội
chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới; xây dựng cơ chế
quản lý mới, nhất là quản lý kinh tế mới, phát huy quyền chủ
động sản xuất, kinh doanh ở cơ sở, xây dựng đảng bộ vững
mạnh mọi mặt.
Giai đoạn 1986-1994, Chi bộ xã Phú Hữu trải qua 4 kỳ đại
hội. Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ VI, nhiệm kỳ 1986-
1988 diễn ra ngày 28-11-1986. Đại hội Chi bộ có 35 đảng viên
tham dự, bầu chi ủy mới do Trần Trung Kiên giữ chức vụ Bí
thư; Đoàn Văn Le giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân, đến tháng 7-1987 giữ chức vụ quyền Bí thư; Tô Ngọc
Anh giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đến tháng
7-1987 giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Hồ Văn Xem
giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân kiêm Trưởng Công
an; Lê Văn Đức giữ chức vụ xã đội trưởng; Nguyễn Thị Nam
- Chủ tịch Hội Phụ nữ; Đoàn Văn Tám - Bí thư Đoàn Thanh
niên, Nguyễn Thị Hường giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc,...
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ VII, nhiệm kỳ 1988-
1991 diễn ra vào 19-8-1988. Đại hội Chi bộ có 36 đảng viên
tham dự, bầu chi ủy mới có 5 người do Đoàn Văn Le giữ chức
vụ Bí thư, Tô Ngọc Anh giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Hồ Văn Mến giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân; Lê Văn Non giữ chức vụ Trưởng Công an; Lê Văn
198

20.9 Page 199

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đức giữ chức vụ xã đội trưởng; Đỗ Thị Quăn - Chủ tịch Hội
Phụ nữ; Đoàn Văn Tám - Bí thư Đoàn Thanh niên; Nguyễn Thị
Hường sau đó là Phan Trung Nở giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc,...
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1991-
1993 diễn ra ngày 3-12-1991. Đại hội Chi bộ có 37 đảng viên
tham dự, bầu chi ủy mới gồm 5 người do Đoàn Văn Le giữ
chức vụ Bí thư; Tô Ngọc Anh giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ
tịch Ủy ban nhân dân; Hồ Văn Mến giữ chức vụ Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân; Lê Văn Đức giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân kiêm Trưởng Công an; Lê Văn Non giữ chức vụ
xã đội trưởng; Lê Thị Kim Huyền - Chủ tịch Hội Phụ nữ; Đoàn
Văn Tám - Bí thư Đoàn Thanh niên; Phan Trung Nở giữ chức
vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc,...
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ IX, nhiệm kỳ 1994-1995
diễn ra ngày 12-1-1994. Đại hội Chi bộ có 38 đảng viên tham
dự, bầu chi ủy mới gồm 7 đồng chí1 do Đoàn Văn Le giữ chức
vụ Bí thư; Tô Ngọc Anh giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch
Ủy ban nhân dân; Hồ Văn Mến giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Lê Văn Đức, sau đó là Võ Văn Đáng giữ chức vụ
Trưởng Công an; Trần Minh Hoàng giữ chức vụ xã đội trưởng;
Lê Thị Kim Huyền - Chủ tịch Hội Phụ nữ; Đoàn Văn Tám - Bí
1  Danh sách chi ủy 7 đồng chí: Đoàn Văn Le giữ chức vụ Bí thư, Tô Ngọc Anh
giữ chức vụ Phó Bí thư, Chi ủy viên: Lê Văn Sang, Hồ Văn Mến, Nguyễn Thanh
Yên, Bùi Văn Tuội, Trần Minh Hoàng.
199

20.10 Page 200

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
thư Đoàn Thanh niên; Phan Trung Nở giữ chức vụ Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc, Lê Văn Sang giữ chức vụ Chủ tịch Hội
đồng nhân dân.
Huyện Nhơn Trạch được tái thành lập theo Nghị định số 51/
CP ngày 21-6-1994 của Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động
từ ngày 1-9-19941. Để thành lập xã mới Phú Đông, Huyện ủy
Nhơn Trạch giải thể Chi bộ xã Phú Hữu, thành lập Chi bộ lâm
thời Phú Hữu từ ngày 1-9-1994 đến 1-9-1995; trong đó, tháng
9-1994 Chi bộ lâm thời Phú Hữu có 28 đảng viên, chia thành
3 tổ đảng2, chi ủy gồm 7 đồng chí do Lê Văn Sang giữ chức
vụ Bí thư và Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Bùi Văn Tuội giữ
chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Hồ Văn Mến
giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách kinh tế;
Võ Văn Đáng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ
trách nội chính, Công an; Trần Minh Hoàng phụ trách xã đội;
Lê Thị Kim Huyền - Chủ tịch Hội Phụ nữ; Lê Thanh Tùng - Bí
thư Đoàn Thanh niên; Phan Trung Nở - Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc.
1  Ngày 25-8-1994, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai chính thức tổ
chức lễ bàn giao giữa hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch
gồm 11 xã: Xã Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước, Phú
Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Phước An, Long Thọ, Hiệp Phước; trung tâm
huyện Nhơn Trạch đặt tại xã Hiệp Phước.
2  Chi bộ Phú Hữu (1999), Nghị quyết chương trình hành động thực hiện nghị
quyết Trung ương 6 lần 2 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay.
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Xây dựng chính quyền
Chi bộ xã lãnh đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
xã Phú Hữu tăng cường hiệu lực hoạt động của bộ máy quản
lý Nhà nước, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động. Phát huy vai trò, chức năng của Hội đồng nhân dân, là cơ
quan quyền lực cao nhất ở địa phương, nâng cao chất lượng qua
8 kỳ họp Hội đồng nhân dân, trách nhiệm của từng thành viên
quyết định những vấn đề thiết thực, đẩy mạnh sản xuất kinh tế,
ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần nhân dân địa
phương. Địa phương tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
tích cực tham gia giám sát hoạt động của nhà nước và quản lý
xã hội. Chi ủy lãnh đạo tập trung kiện toàn, củng cố, đổi mới
chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, thực hiện đúng
chức năng, quyền hạn của chính quyền cơ sở; thực hiện cơ chế
quản lý mới tinh gọn bộ máy hành chính từ xã đến ấp, xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ chính trị, năng lực
công tác và phong cách làm việc theo cơ chế mới.
Chi bộ lãnh đạo kiên quyết xóa bỏ 100% cơ chế tập trung,
quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, hách dịch; tăng cường công
tác bồi dưỡng chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng đối với
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chính quyền. Các ban
chuyên môn làm tốt chức năng tham mưu, giúp việc cho chi
ủy, Ủy ban nhân dân, tránh thủ tục rườm rà gây phiền hà chờ
đợi đối với người dân. Chính quyền xã sâu sát nắm thực tế,
lắng nghe tiếp thu chọn lọc ý kiến đóng góp của quần chúng
nhân dân.
201

21.2 Page 202

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Chi bộ lãnh đạo bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp các nhiệm
kỳ từ 1986-1994 đảm bảo theo kế hoạch đề ra, bầu ra các ban
Hội đồng nhân dân theo đúng cơ cấu, chỉ tiêu 35 người và Ủy
ban nhân dân gồm 7 người. Các cơ quan chuyên môn của Ủy
ban nhân dân được củng cố, hoạt động có chuyển biến tích cực,
đi vào nề nếp, ổn định. Ủy ban nhân dân quyết tâm, mạnh dạn
vận dụng các quan điểm chỉ đạo của Đảng, tập hợp, động viên
từ xã đến 5 ấp, các đoàn thể, nhân dân phát triển kinh tế, ổn
định xã hội. Đến năm 1994, xã Phú Hữu tiếp tục kiện toàn các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội mang tính chất quần chúng
rộng rãi đến tổ nhân dân.
Hội đồng nhân dân xã hoạt động theo đúng quy định của
pháp luật, bảo đảm dân chủ, đặt dưới sự lãnh đạo của chi bộ.
Hội đồng nhân dân tổ chức 34 lượt giám sát các hoạt động
của Ủy ban nhân dân, cùng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tiếp dân,
giải quyết 127 đơn thư khiếu kiện, khiếu nại bức xúc, thắc
mắc của công dân về đất đai, tranh chấp tài sản... Đơn cử năm
1993, Hội đồng nhân dân đã tiếp nhận 17 đơn thư; trong đó,
tranh chấp dân sự 11 đơn, hôn nhân gia đình 6 đơn; địa phương
đã giải quyết thành công 15 đơn, chuyển cơ quan cấp trên
2 đơn.
Chính quyền địa phương thực hiện Nghị quyết của các kỳ
Đại hội Chi bộ trong tình hình kinh tế, xã hội có nhiều khó khăn
gay gắt, ách tắc từ sản xuất, chưa có biện pháp tháo gỡ hữu
hiệu, do đó sản xuất bị đình trệ, kém phát triển, giá cả thị trường
202

21.3 Page 203

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
biến động phức tạp; một bộ phận người lao động không có việc
làm, đời sống của cán bộ, đảng viên, công chức, cán bộ hưu trí,
người lao động nghèo gặp nhiều khó khăn. Trong xã hội tồn tại
không ít những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, hối lộ... đã tác
động không tốt đến công tác giáo dục tư tưởng của toàn chi bộ.
* Công tác xây dựng Đảng
Chi bộ lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng, tiếp tục quán
triệt tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
VII, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, Tỉnh ủy,
Huyện ủy Long Thành sâu rộng đến 100% cán bộ, đảng viên,
lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên
và quần chúng nhân dân. Trong giai đoạn 1986-1994, tình hình
chính trị thế giới có nhiều biến động bất lợi đối với sự phát triển
của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một bộ phận quần chúng thanh
niên thiếu lý tưởng, không thiết tha trở thành đảng viên Đảng
Cộng sản. Chi bộ tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ chính
trị nội bộ, thường xuyên nắm bắt tâm tư, tình cảm của cán bộ,
đảng viên, để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những suy nghĩ,
biểu hiện lệch lạc về sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi
mới dưới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chi bộ lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh
tế, xã hội và quản lý Nhà nước với tinh thần chủ động, sáng
tạo, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao, kiên
quyết chống các tư tưởng trì trệ, bảo thủ thiếu trách nhiệm, vô
kỷ luật. Đấu tranh kiên quyết tư tưởng cá nhân, bè phái, trù dập
203

21.4 Page 204

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
cán bộ, quần chúng, thường xuyên duy trì công tác phê và tự
phê, xây dựng nội bộ Đảng trên tinh thần đảng viên góp ý xây
dựng đồng chí mình; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng
viên thoái hóa biến chất. Xây dựng chi bộ trong sạch, vững
mạnh, xác định chỉ tiêu 100% đảng viên đủ tư cách hoàn thành
tốt nhiệm vụ trở lên.
Chi bộ thực hiện đúng quy chế làm việc, chấp hành nghiêm
Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Tỉnh
ủy, Huyện ủy Long Thành. Chi bộ thực hiện nghiêm túc chế độ
sinh hoạt, nguyên tắc tập trung dân chủ, tỷ lệ đảng viên tham
dự, sinh hoạt học tập đạt từ 85-97% và tham gia sinh hoạt định
kỳ đạt từ 97% trở lên. Hàng năm, chi bộ bồi dưỡng để đưa
vào đội ngũ trung kiên từ 2-3 người, kết nạp đảng viên mới từ
5-10% so với tổng số đảng viên ở đầu mỗi nhiệm kỳ với việc
kết nạp 27 đảng viên mới.
Chi bộ chú trọng tổ chức cán bộ, đảng viên học tập, nghiên
cứu các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng như Nghị quyết
số 07-NQ/TW, ngày 24-8-1989 của Ban Chấp hành Trung ương
“một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình
trong nước và quốc tế hiện nay”; Nghị quyết số 05-NQ/TW,
ngày 10-6-1993 của Ban Chấp hành Trung ương về “hướng dẫn
một số vấn đề trong Điều lệ Đảng”... Toàn thể cán bộ, đảng viên
trong chi bộ xã kiên định lập trường giai cấp, tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên đều thấy
204

21.5 Page 205

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tự hào về sự vững mạnh của Đảng ta và khẳng định con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, sự nghiệp cách mạng
chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chi bộ xã quyết tâm, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo
về chính trị tư tưởng để phát triển đảng viên, đến năm 1994 đã
kết nạp được 27 đảng viên mới ở ấp và giáo dục. Năm 1994,
công tác phát triển đội ngũ trung kiên và đảng viên mới được
chi ủy thường xuyên quan tâm, có nhiều cố gắng, bồi dưỡng
đưa vào đội ngũ trung kiên với tổng số 41 người, kết nạp 27
đảng viên mới (đạt 94% so với chỉ tiêu giao của Huyện ủy Long
Thành).
Chi bộ lãnh đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nhằm
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng ở địa phương. Chi ủy lãnh đạo triển khai,
quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 29-6-
1992 của Ban Chấp hành Trung ương “về một số nhiệm vụ đổi
mới và chỉnh đốn Đảng”; tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và
hành động, kiên trì đấu tranh đẩy lùi 4 nguy cơ1; đảng viên phải
nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ
Đảng và pháp luật Nhà nước; kiên định những vấn đề về quan
1  Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20-25/1/1994), Hội
nghị xác định 4 nguy cơ trước mắt là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy
cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm
mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
205

21.6 Page 206

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
điểm có tính nguyên tắc. Chi ủy chủ động nắm diễn biến nhận
thức tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên, thường xuyên
cung cấp thông tin, giúp đỡ nhau tạo ra sự nhất trí về quan
điểm, đường lối của Đảng, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, phê
phán và xử lý nghiêm minh những đảng viên vi phạm nguyên
tắc tổ chức của Đảng đã được tổ chức đảng giúp đỡ nhưng vẫn
nói và làm trái với Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng.
Tuy nhiên, việc quán triệt, tuyên truyền học tập, thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đối với đoàn viên, hội viên và nhân dân chưa
sâu, có lúc thiếu đầy đủ, số người tham dự còn ít. Việc cụ thể
hóa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng thành chương
trình hành động của tổ chức, đơn vị có lúc, có nơi chưa được
nghiêm túc, phương pháp còn hạn chế, đơn giản, xây dựng và
thực hiện các phong trào chưa thường xuyên, chưa sâu rộng,
chất lượng hoạt động của chi ủy và thường trực các tổ chức
đoàn thể, chính trị - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, có
tổ chức còn để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ, hoạt động
kém hiệu quả, đảng viên bị kỷ luật từ khiển trách đến cảnh cáo,
khai trừ ra khỏi Đảng.
2. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội
* Mặt trận Tổ quốc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Phú Hữu, các đoàn thể chính
trị - xã hội thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công
tác dân vận như Nghị quyết số 08B-NQ/TW, ngày 27-3-1990
206

21.7 Page 207

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
của Ban Chấp hành Trung ương “về đổi mới công tác quần
chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân”. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã có nhiều hoạt động,
giữ vững các phong trào chung, thể hiện vai trò, chức năng của
từng tổ chức trong việc phối kết hợp tuyên truyền, vận động
học tập chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước cho đoàn viên, hội viên và nhân dân. Hoạt động
của khối vận luôn đi sâu vào công tác vận động quần chúng
phòng, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình
văn hóa, ấp văn hóa, vận động nhân dân tích cực làm công tác
nhân đạo từ thiện với số tiền 9,3 tỷ đồng góp phần giúp đỡ
người dân có hoàn cảnh khó khăn ở địa phương và đồng bào bị
lũ lụt, thiên tai trên phạm vi cả nước. Thực hiện cuộc vận động
“Nhà nước và nhân dân cùng làm” với số tiền 7,6 tỷ đồng để
xây dựng đường giao thông trong 5 ấp, kiên cố hóa hệ thống
cống rãnh thoát nước. Giai đoạn 1986-1994, công tác vận động,
quyên góp được hơn 2,7 tỷ đồng tiền mặt và hàng hóa trị giá
hơn 3,1 tỷ đồng ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thiên tai. Người dân
địa phương đóng góp hơn 931 triệu đồng để xây dựng 1.042m
cống thoát nước. Nhà nước đầu tư 1,8 tỷ đồng xây dựng mới 5
phòng học ở Trường Tiểu học Phú Hữu, nhân dân đóng góp 0,9
tỷ đồng sửa chữa, nâng cấp trường trung học cơ sở, bảo đảm
việc dạy và học, chấm dứt tình trạng học ca 3 trên địa bàn xã.
* Hội Liên hiệp Phụ nữ
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Phú Hữu duy trì các hoạt động,
207

21.8 Page 208

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
xây dựng phong trào Hội đi vào chiều sâu của giới nữ, nhất
là công tác giáo dục tư tưởng. Xây dựng kế hoạch cụ thể, vận
động 100% chị em tham gia phong trào người phụ nữ mới, gia
đình văn hóa mới, gửi tiền tiết kiệm 961 triệu đồng, vận động
kế hoạch hóa gia đình, động viên con em lên đường thực hiện
nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo quyền lợi chính
đáng của người phụ nữ trong sản xuất và đời sống gia đình,
duy trì phong trào hũ gạo nuôi quân. Hội quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng đạt 10% cán bộ nữ, giới thiệu những chị em có năng lực
phẩm chất tốt tham gia công tác tại địa phương.
* Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên xã Phú Hữu đổi mới nội dung và phương
pháp hoạt động của Đoàn, sáng tạo những hình thức hoạt động
phù hợp đặc điểm của tuổi trẻ. Đoàn nâng cao chất lượng hoạt
động của từng chi đoàn, đoàn viên; duy trì sinh hoạt, học tập
nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước,
phấn đấu hoàn thành 100% chỉ tiêu, nghị quyết của Đảng, Đoàn
đề ra. Đoàn xã tổ chức 71 lượt giáo dục chính trị tư tưởng trong
đoàn viên thanh niên, thực hiện “sống chiến đấu, học tập, lao
động theo gương Bác Hồ vĩ đại” với 1.038 lượt đoàn viên thanh
niên tham gia. Đoàn viên thanh niên thường xuyên học tập, bồi
dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, lý tưởng Cộng
sản chủ nghĩa, ý thức làm chủ xã hội, xác định nhiệm vụ, vai
trò cách mạng của mình. Hội Liên hiệp thanh niên tổ chức 37
hoạt động tích cực, có biện pháp tập hợp 315 lượt thanh niên
208

21.9 Page 209

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
vào tổ chức, nhất là các đơn vị kinh tế, lực lượng thanh niên
du kích, dân quân tự vệ xung kích đi đầu trên các mặt trận lao
động, sản xuất, phân phối lưu thông hàng hóa và bảo vệ an ninh
Tổ quốc. Đoàn xã quan tâm công tác bồi dưỡng, giới thiệu đoàn
viên thanh niêu ưu tú đứng vào hàng ngũ của Đảng. Hàng năm
kết nạp 18-21 đoàn viên và hội viên mới, chiếm 80% tổng số
thanh niên toàn xã.
* Hội Nông dân
Hội củng cố hoạt động, các chi hội vận động 1.093 nông dân
vào làm ăn tập thể, đẩy mạnh sản xuất kinh tế, vận động 100%
nông dân nộp thuế bán nông sản cho nhà nước, tập trung hoàn
thành công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp.
Hội chú trọng xây dựng kế hoạch phối hợp Phòng nông nghiệp
huyện Long Thành tổ chức 12 lớp với 863 lượt nông dân tham
gia học tập kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, tạo sự chuyển biến về
phát triển sản xuất kinh tế ở địa phương.
* Hội Người cao tuổi
Mặt trận Tổ quốc phối hợp Hội Người cao tuổi vận động
321 cụ tham gia sinh hoạt Hội góp phần giáo dục con cháu
chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Hội huy trì xây dựng tổ chức quỹ bảo thọ cho 184
cụ, xây dựng kế hoạch thường xuyên thăm hỏi giúp đỡ, cứu tế
các hội viên gặp khó khăn góp phần ổn định an sinh xã hội ở
địa phương.
209

21.10 Page 210

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
3. Trên lĩnh vực kinh tế
Chi bộ xã Phú Hữu lãnh đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy Long Thành đối với
phát triển kinh tế như Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 9-4-
1987 của Ban Chấp hành Trung ương “giải quyết những vấn đề
cấp bách về phân phối, lưu thông hàng hóa”; Nghị quyết số 03-
NQ/TW, ngày 28-8-1987 của Ban Chấp hành Trung ương “về
chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế”; Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 10-6-1993
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) “về tiếp tục
đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”.
* Về nông nghiệp
Năm 1989, các tập đoàn sản xuất trên địa bàn xã giải thể
hoàn toàn, người dân bắt tay vào phát triển nông nghiệp theo
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về trồng trọt, năm 1992, xã Phú Hữu có diện tích tự nhiên
3.841ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 2.312ha. Sau thời
gian nghiên cứu, xã đã phân loại đất đai thành 3 tiểu vùng: đất
đồng bằng, đất cao ráo, đất ngập úng. Xã tập trung vận động
nhân dân sản xuất ở 3 tiểu vùng này.
Năm 1981, ở tiểu vùng đất đồng bằng, xã vận động được 7
thành viên trên diện tích 12ha đưa vào sản xuất thử nghiệm, vụ
sản xuất Hè Thu đạt kết quả tốt, nhờ ngân hàng đầu tư vốn và
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
kết hợp một phần vốn, lao động của gia đình đầu tư 1 triệu/ha,
sau 2 vụ/năm đã thu hồi vốn ban đầu.
Đối với tiểu vùng đất cao trồng cây ăn trái, nuôi tôm cá
trong bờ bao ngăn mặn, năm 1990, xã lên kế hoạch vận động
55 thành viên cho 250ha, nhưng thiếu vốn, vận động được 21
thành viên, với diện tích 95ha. Đến năm 1992, xã vận động
được 39 thành viên với diện tích 336ha tham gia sản xuất nông
nghiệp.
Việc đầu tư bao tiêu sản phẩm đã mang lại hiệu quả đáng
kể, một vụ lúa lúc chưa bao tiêu sản phẩm, năng suất từ 1-1,5
tấn/ha đối với năm thuận lợi nhất; đến khi bao tiêu sản phẩm
đã cho năng suất từ 6-7 tấn/ha, kết quả bao tiêu sản phẩm được
nhân dân phấn khởi, tin tưởng ở chính sách đúng đắn của Đảng,
Nhà nước.
Tổng diện tích gieo trồng hàng năm tăng rõ rệt, năm 1990
so với năm 1988 tăng 315ha, vụ Hè Thu năm 1991 cấy sạ trên
400ha, đạt năng suất bình quân 4tấn/1 vụ. Lúa mùa dài ngày thu
hẹp dần, đất dành cho lúa 2 vụ tăng lên. Lúa mùa trước đây đạt
năng suất dưới 2 tấn/ha, năm 1992 tăng lên 2,5-2,7 tấn/ha/năm.
Bình quân lương thực năm 1991 là 460kg so với năm 1990
là 379kg/người/năm. Việc đẩy mạnh mô hình bao tiêu sản phẩm
của xã đã hình thành nhóm khuyến nông bảo vệ cây trồng, triển
khai các lớp tập huấn về quy trình sản xuất nông nghiệp cho
nông dân và xây dựng mạng lưới kỹ thuật viên cơ sở từ 1-3
211

22.2 Page 212

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
người, thường xuyên kiểm tra đồng áng, có chế độ báo cáo kịp
thời tình hình sản xuất, sâu rầy, dịch bệnh. Nhóm khuyến nông
này còn giúp nông dân tổ chức gieo trồng đúng thời vụ, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng nhằm đưa năng suất đạt hiệu quả cao hơn.
Nhóm khuyến nông đã đưa về phục vụ nông dân trên 10 tấn lúa
giống mới như IR.29723 - 35546, IR 50401, miên trắng, miên
đen, đéc trắng; đặc biệt trong năm 1992 nhóm khuyến nông xây
dựng 1 điểm trình diễn giống lúa mới và điểm nhân giống, qua
thử nghiệm đạt hiệu quả cao.
Về chăn nuôi, có sự tăng trưởng mạnh, giá cả phù hợp, có
lãi khá, đến năm 1992 đàn gia cầm trên toàn xã có 65.000 con,
gia súc trâu bò với 2.500 con góp phần tăng thu nhập đối với
người nông dân.
Về ngư nghiệp, toàn xã có 38ha ao hồ mặt nước, nuôi cá,
tôm; bên cạnh đó có 27 tiểu vùng với diện tích 110 ha chủ yếu
nuôi cá tự nhiên. Việc đánh bắt thủy sản có nhiều thuận lợi từ
mạng lưới sông rạch chằng chịt với mức bình quân hàng năm
đạt trên 100 tấn các loại.
Người dân trên địa bàn xã đầu tư máy cày, máy xới, máy
tuốt lúa, máy bơm nước, dịch vụ phân bón... ước tính giá trị
đầu tư trên 500 triệu đồng/năm góp phần giải quyết lao động
trong xã.
* Về tài chính
Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu duy trì công tác kiểm tra tài
212

22.3 Page 213

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
chính công khai hàng tháng, quý kể cả các đơn vị sản xuất kinh
tế. Địa phương đảm bảo sổ sách thu chi rõ ràng, tiền mặt đầy
đủ, hoạt động tài chính đúng nguyên tắc của phòng tài chính
quy định. Trên tinh thần tiết kiệm chi, địa phương tận dụng
nguồn thu xây dựng các công trình phúc lợi của địa phương.
Trong các năm 1991-1993, thu trên 137 triệu, tổng chi trên 133
triệu. Thu thuế nông nghiệp, thuế nhà đất đạt trên 236 triệu
đồng, tổng chỉ tiêu phải thu 343 triệu/566 triệu, đạt trên 60%.
4. Về Văn hóa xã hội, Quốc phòng - An ninh
Chi bộ xã lãnh đạo thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Trung ương về phát triển văn hóa xã hội như Nghị quyết số
04-NQ/TW, ngày 14-1-1993 của Ban Chấp hành Trung ương
“về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”.
* Về văn hóa thông tin
Chính quyền xã chỉ đạo Ban Văn hóa thông tin tiếp tục tăng
cường mở rộng mạng lưới thông tin tuyên truyền xuống tận
quần chúng lao động xóm ấp, quán triệt đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh các
hoạt động của địa phương; xã nâng cấp đài truyền thanh, mở
rộng mạng lưới loa công cộng trong 5 ấp, thực hiện bắt thêm 21
loa truyền thanh.
Trong các năm 1991-1993, xã tổ chức tuyên truyền 71 lần,
cắt dán 44 băng rôn, khẩu hiệu, 3.700 khẩu hiệu bướm nhỏ,
gọn; biên tập, viết tin trang trí phục vụ tuyên truyền các ngày lễ
lớn trong năm với 30 lượt.
213

22.4 Page 214

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Phục vụ văn hóa, văn nghệ 25 lần với gần 22.000 lượt người
xem, tổ chức 3 điểm video kinh doanh hợp pháp. Xã thành lập
3 đội thể thao gồm bóng đá, bóng chuyền, cờ tướng đáp ứng
nhu cầu người dân trong xã, nhất là thanh niên để rèn luyện sức
khỏe người dân.
* Về giáo dục
Ủy ban nhân dân xã chỉ đạo Ban giáo dục tăng cường công
tác giáo dục tư tưởng đối với đội ngũ giáo viên, nêu cao tinh
thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp, đảm bảo chất lượng
giảng dạy theo chương trình cải cách giáo dục, bồi dưỡng thế
hệ trẻ về phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa, chỉ tiêu lên lớp
và thi hết cấp từng năm từ 94-100%, tốt nghiệp tiểu học từ 95%
trở lên, trung học cơ sở từ 96% trở lên, trẻ em 6 tuổi 100% được
vào lớp 1, không để người học tái mù chữ, giảm tỷ lệ người bỏ
học dưới 1%, duy trì lớp học bình thường, có 70-80% trẻ em
vào mầm non.
Đến năm 1992, tổng số học sinh của xã có 2.400 học sinh,
còn 5 lớp học ca 3 ở Giồng Ông Đông, sửa chữa 9 phòng học,
có 2 giáo viên dạy giỏi cấp huyện Long Thành.
Công tác giáo dục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày
14-1-1993 của Ban Chấp hành Trung ương “về tiếp tục đổi mới
sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, thường xuyên phát động phong
trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, chú trọng giáo dục đạo đức học
đường. Các nhà trường hưởng ứng phát động phong trào học
tập và làm theo lời Bác Hồ như học sinh hoa điểm 10, giáo viên
dạy giỏi... Kết quả lên lớp và chuyển cấp khá tốt: năm 1988-
214

22.5 Page 215

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
1989 đạt 86%, năm 1989-1990 đạt 87%, năm 1990-1991 đạt
95% và lên lớp 90%. Trường Tiểu học Phú Hữu được xếp loại
trường đạt thành tích tiên tiến; có 2 lớp 5 học sinh tốt nghiệp
100%; Trường Trung học cơ sở Phú Hữu, năm 1989-1991 đạt
danh hiệu tiên tiến.
* Về công tác y tế
Năm 1992, xã tổ chức phun thuốc để ngăn chặn dịch bệnh
sốt xuất huyết. Y tế xã tổ chức tuyên truyền trong nhân dân tác
hại của 6 loại dịch bệnh ở trẻ em, kết quả hàng tháng đạt từ 90%
trở lên. Ngoài ra, xã còn chú trọng vận động người dân vệ sinh
môi trường, nạo vét cống rãnh thoát nước tại khu 3 ấp Cát Lái
nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Hàng năm, y tế xã khám
bệnh và cấp thuốc miễn phí trên 100 lượt người, giúp đỡ cấp
quà suy dinh dưỡng cho 30 cháu gia đình gặp khó khăn.
Chi ủy lãnh đạo chính quyền thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy Long Thành
về Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 14-1-1993 của Ban Chấp
hành Trung ương “về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân”. Nhờ làm tốt công
tác phòng, chống dịch bệnh như phun thuốc diệt muỗi chống
sốt xuất huyết, trên địa bàn xã không xảy ra dịch bệnh, thực
hiện chương trình tiêm chủng mở rộng cho các cháu, trên 80%
trẻ em độ tuổi từ 0-6 tuổi được chích ngừa 6 bệnh nguy hiểm
với 1.038 lượt cháu; khám bệnh và chuyển lên tuyến trên 6.312
người.
215

22.6 Page 216

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Cuối năm 1993, y tế xã đã phun thuốc diệt muỗi, tẩm mùng
với 1.114 chiếc, điều trị bệnh 568 người, chống tái phát bệnh
266 người. Y tế xã tiêm chủng mở rộng cho 752 trẻ đạt tỷ lệ
trên 98%, trong đó tiêm đủ 6 mũi cho 710 trẻ đạt trên 90%;
phòng chống bại liệt đạt trên 96% tổng số trẻ trong diện bảo vệ
là 3.200 trẻ.
Cuối năm 1993, xã thành lập ban công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình gồm 15 người, trong đó có 1 chuyên trách, 2 kỹ
thuật; xây dựng mạng lưới cộng tác viên gồm 45 người trên
địa bàn 5 ấp; tổ chức tuyên truyền dân số ở các ấp với 660 lượt
người dự.
Thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 14-1-1993 của
Ban Chấp hành Trung ương “về chính sách dân số và kế hoạch
hóa gia đình”, công tác khám chữa bệnh, mỗi năm trung bình
là 3.130 người với 3.337 lượt người khám, số người bệnh cấp
cứu là 22 người/năm; số lượng phụ nữ sinh con trong năm
376 người. Địa phương giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống
còn dưới 1,3%, giảm tỷ lệ vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên đạt
từ 80%.
* Công tác thương binh xã hội
Năm 1992, xã đề nghị giải quyết trợ cấp đối với 21 trường
hợp là cha mẹ liệt sĩ có cuộc sống khó khăn, tổ chức cứu tế đột
xuất 16 gia đình; giải quyết mở 2 sổ tiết kiệm với số tiền 40.000
đồng cho 2 gia đình thương binh. Hoàn thành giải quyết hồ
sơ tồn đọng sau chiến tranh cho 16 trường hợp gia đình chính
216

22.7 Page 217

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
sách, góp phần giải quyết khó khăn đối với người có công cách
mạng.
Năm 1992, địa phương tạo điều kiện để người dân trong
xã bị hạn mặn mất mùa, huyện Long Thành hỗ trợ đột xuất 3
đợt cho 345 hộ với số tiền trên 10 triệu đồng. Năm 1993, xã
tiến hành chi trả trợ cấp hơn 167 triệu đồng, tặng quà 4 đợt (tết
nguyên đán, ngày 27-7...) với tổng số tiền gần 60 triệu đồng
cho gia đình chính sách, gia đình khó khăn. Xã giải quyết hồ
sơ chính sách tồn đọng cho 68 trường hợp, được Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội công nhận 23 trường hợp; trợ cấp khó
khăn 4 đợt với số tiền trên 154 triệu đồng cho 64 hộ; tổ chức
cứu tế xã hội 33 lượt với số tiền 1,2 triệu đồng. Địa phương
khảo sát gia đình chính sách khó khăn với 31 hộ khá, 48 hộ đủ
ăn, 9 hộ thiếu ăn, thiếu ăn 6 tháng có 178 hộ, thiếu ăn cả năm 5
hộ để xin chủ trương huyện Long Thành có giải pháp hỗ trợ an
sinh xã hội đối với người dân.
Về môi trường: Địa phương tuyên truyền vận động nhân
dân nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường trong cuộc sống. Xã
vận động nhân dân sử dụng nước máy, nước sạch đạt từ 65%
trở lên. Tuy nhiên, một bộ phận người dân chưa đề cao ý thức
giữ gìn vệ sinh môi trường, xả rác bừa bãi ra đường, vứt rác
sinh hoạt xuống dòng sông Ông Chuốc, cống rãnh thoát nước
làm cản trở dòng chảy. Bên cạnh đó, tình trạng gây ô nhiễm rác
thải sinh hoạt, nhiễm mặn nguồn nước gia tăng. An toàn vệ sinh
thực phẩm chưa được kiểm tra thường xuyên, tiềm ẩn nguy cơ
ngộ độc thực phẩm đối với người dân ở địa phương.
217

22.8 Page 218

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
* Về Quốc phòng - An ninh
Chi ủy lãnh đạo lực lượng vũ trang địa phương thực hiện tốt
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo Nghị quyết số 03-NQ/TW,
ngày 29-6-1992 của Ban Chấp hành Trung ương “về nhiệm vụ
quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hòa
bình của địch”. Kế thừa những kinh nghiệm lãnh đạo của chi bộ
lấy “yên dân, vì dân và do dân” làm mục tiêu, nhiệm vụ trong
lãnh đạo xuyên suốt quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết của
chi bộ xã về an ninh trật tự.
Về công an, năm 1993, trên địa bàn xã xảy ra 162 vụ việc
(trộm cắp tài sản, đánh nhau gây thương tích, gây rối trật tự
công cộng...), xử lý làm rõ 155 vụ, phạt hành chính 119 vụ,
cảnh cáo giáo dục 21 vụ với 71 đối tượng, 7 vụ chuyển về
huyện Long Thành xử lý, thu hồi tài sản trả lại cho người dân
với số tiền hơn 18 triệu đồng. So sánh với các năm trước, năm
1989-1990 xảy ra 247 vụ, năm 1992-1993 giảm 85 vụ (tỷ lệ
trên 65%). Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh xã hội đạt kết
quả tích cực, xây dựng 65 tổ bảo vệ an ninh trật tự, củng cố 51
tổ, thành lập 3 đội dân phòng.
Chi ủy lãnh đạo Công an xã cải tiến cơ chế quản lý mới, tổ
chức tiếp dân, tránh phiền hà chờ đợi, mất mát đơn từ của dân,
bảo đảm tốt hồ sơ lưu trữ công văn bảo mật. Công an phát động
đơn vị tham gia tự túc sản xuất 3 tháng trong năm; xây dựng xã
an toàn, đạt danh hiệu quyết thắng, giảm các vụ trật tự an toàn
xã hội, nâng cao tỷ lệ phá án từ 50-70%, tăng cường bảo vệ an
ninh trật tự trên địa bàn các ấp.
218

22.9 Page 219

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Về quân sự, công tác tuyển quân các năm 1992-1993 đạt
100% chỉ tiêu huyện giao; công tác dự bị động viên là 112
người; quân sự dự bị 97 người gồm sĩ quan có 7 người; hạ sĩ
có 57 chiến sĩ; binh sĩ có 33 người. Công tác phúc tra độ tuổi
17 có 163 thanh niên; kiên quyết xử người tham gia nghĩa vụ
quân sự đào ngũ, bỏ ngũ 18 trường hợp. Xã đội phối hợp các
ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội vận động con em bỏ ngũ
tự giác làm đơn quay lại đơn vị, hoàn thành nghĩa vụ quân sự
theo quy định.
***
Giai đoạn 1975-1986, cả hệ thống chính trị xã Phú Hữu
đã chủ động vận động cán bộ, đảng viên, người dân ra sức,
đồng lòng khôi phục sản xuất kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh, ổn định tình hình chính trị-xã hội. Giai đoạn này, dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời, liên tục của Huyện ủy
Long Thành nên Chi bộ xã Phú Hữu tăng cường sức chiến đấu
của cán bộ, đảng viên để thực hiện thành công các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất
là cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Chi bộ lãnh đạo
phát huy hiệu quả khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở địa phương,
chuẩn bị mọi mặt để thực hiện tốt công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng năm 1986, đưa địa phương
bước sang một chặng đường phát triển mới (1986-1994).
Từ năm 1986-1994, Chi bộ xã Phú Hữu thực hiện thành
công các nghị quyết của các nhiệm kỳ đại hội Chi bộ trong bối
219

22.10 Page 220

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
cảnh đất nước, quốc tế có nhiều thay đổi trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, quốc phòng - an ninh.
Trong bối cảnh, điều kiện khó khăn chung của huyện Long
Thành, Chi bộ Phú Hữu đã chủ động, sâu sát lãnh đạo chính
quyền địa phương thực hiện đổi mới, vận động các tầng lớp
nhân dân nỗ lực, cố gắng, khắc phục những khó khăn trở ngại;
vận dụng sáng tạo các điều kiện thực tế để động viên cán bộ,
nhân dân toàn xã hoàn thành các nhiệm vụ của Huyện ủy Long
Thành, Ủy ban nhân dân huyện giao. Trên mặt trận kinh tế, xã
hội, chính quyền đã khuyến khích các tầng lớp nhân dân mạnh
dạn bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn
việc làm, bảo đảm và từng bước nâng cao đời sống cho người
lao động. Chi bộ, chính quyền phát động và khơi dậy ý thức
tự lực, tự cường, tận dụng mọi khả năng đất đai, vốn liếng, tay
nghề để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Mặc
dù còn khó khăn nhưng đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân vẫn giữ được ổn định, đặc biệt là tinh thần và khí thế của
nhân dân tích cực hăng hái trong lao động sản xuất.
Các mặt công tác xã hội: Hoạt động văn hóa thông tin,
tuyên truyền, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, thương binh xã
hội đạt nhiều kết quả tốt, vận động nhân dân sửa sang đường
sá, cầu cống, bảo đảm việc đi lại, sinh hoạt cho người dân được
thuận tiện, an toàn.
Trên các mặt an ninh - quốc phòng đạt được những kết quả
quan trọng ổn định tình hình chính trị, xã hội ở địa phương. Mặc
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
dù xã hội có những diễn biến phức tạp, Chi bộ đã lãnh đạo xây
dựng lực lượng bảo vệ trật tự an toàn xã hội từ xã đến các ấp,
tổ nhân dân. Lực lượng an ninh và nhân dân đã phát hiện, bắt
giữ các đối tượng trộm cắp tài sản, thu hồi nhiều đồ dùng tang
vật trả lại cho người bị mất; đồng thời, tích cực giáo dục các đối
tượng gây mất trật tự trong nhân dân, đem lại sự bình yên trong
từng tổ dân nhân, nhân dân an tâm sản xuất, ổn định cuộc sống,
đưa toàn Phú Hữu bước vào giai đoạn mới với những thắng
lợi mới theo hướng văn minh, hiện đại với sự tái lập huyện
Nhơn Trạch.
221

23.2 Page 222

▲back to top


CHƯƠNG IV
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(1994-2010)
I. TẬP TRUNG XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ
1. Các kỳ Đại hội Chi bộ, Đảng bộ
Sau khi xã Phú Đông thành lập, xã Phú Hữu còn 4 ấp gồm
Phước Lương, Cát Lái, Câu Kê, Rạch Bảy.
Đại hội Chi bộ xã Phú Hữu lần thứ I, nhiệm kỳ 1995-1999
tổ chức ngày 10-8-1995 có 39 đảng viên tham dự. Đại hội bầu
chi ủy mới gồm 5 đồng chí, Lê Văn Sang giữ chức vụ Bí thư;
Hồ Văn Mến giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân
dân, Trần Minh Hoàng phụ trách công tác kiểm tra Đảng và
kiêm xã đội trưởng; Lê Văn Đức giữ chức vụ Trưởng Công an;
Lê Thị Kim Huyền giữ chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ; Lê Thanh
Tùng - Bí thư Đoàn Thanh niên; Phan Trung Nở giữ chức vụ
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Lê Văn Sang giữ chức vụ
Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
Tại Đại hội này, Chi bộ Phú Hữu đề ra chỉ tiêu phấn đấu
đưa diện tích lúa mùa lên 300ha, năng suất 3 tấn/ha; lúa Hè
Thu 4 tấn/ha; vụ Đông Xuân là 3,7 tấn/ha; chăn nuôi heo 8.000
222

23.3 Page 223

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
con, gia cầm các loại 18.000 con; nuôi cá, tôm từ 10-15 ha. Xã
thu thuế công thương nghiệp đạt 70-80%; nông nghiệp thu đạt
80% trở lên. Về văn hóa xã hội, thực hiện nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa đạt 80% trở lên; phổ cập giáo dục tiểu học đạt
95% trở lên; xóa mù chữ đạt 100%, xây dựng mới 3 phòng học
mẫu giáo. Y tế, tiêm chủng mở rộng đạt 98% trở lên; dân số kế
hoạch hóa gia đình giảm sinh còn 1,8%. Số hộ sử dụng điện
phấn đấu ¾ ấp, hộ sử dụng điện 40-50%. Đối với quốc phòng -
an ninh, xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu đạt 1,5% tổng
dân số; củng cố 3 đội dân phòng, xây dựng thêm đội dân phòng
ấp Rạch Bảy, xóa ấp trắng về lực lượng dân phòng; xã đội tăng
cường 1 đảng viên vào xã đội. Công tác đoàn thể, Đoàn Thanh
niên phát triển mới 60-70 đoàn viên; chuyển tên gọi Hội Phụ
lão thành Hội Người cao tuổi. Hội Người cao tuổi phát triển
mới 300-400 hội viên; Hội Bảo thọ xây dựng nâng quỹ tăng lên
từ 10-12 triệu đồng; xây dựng ban công tác Mặt trận trên địa
bàn dân cư. Công tác xây dựng Đảng, phấn đấu hàng năm đảng
viên mức I đạt 70% trở lên; phát triển đội ngũ trung kiên từ 20-
30 người, phát triển đảng từ 10-12 đồng chí; phấn đấu xây dựng
1 tổ đảng, xóa ấp trắng về đảng viên.
Lập Đảng bộ lâm thời xã Phú Hữu (1999-2000) có 41 đảng
viên với 7 Đảng ủy viên, Lê Văn Sang giữ chức vụ Bí thư và
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Hồ Văn Mến giữ chức vụ Phó
Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Võ Văn Bạch giữ chức
vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Trần Minh Hoàng giữ chức
vụ trưởng Công an; Trần Ngọc Tú giữ chức vụ xã đội trưởng;
223

23.4 Page 224

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Nguyễn Thị Tám - Chủ tịch Hội Phụ nữ; Lê Thanh Tùng - Bí
thư Đoàn Thanh niên; Phạm Văn Nghiệp giữ chức vụ Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc.
Giai đoạn 1995-2000, xã Phú Hữu xác định tiếp tục phát huy
những thành tựu đạt được phát triển theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, xây dựng vùng chuyên
canh, khai thác mọi tiềm năng hỗ trợ đáp ứng các nhu cầu về
dịch vụ, phát triển tiểu thủ công nghiệp, mở rộng thương mại
ở cơ sở. Xây dựng mô hình tổ hợp tác kinh tế trong sản xuất,
chăn nuôi làm nền tảng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
xã theo hướng công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; bảo đảm
giải quyết hợp tác hóa tốt các nhu cầu xã hội phục vụ nhân dân
trên địa bàn xã.
Chi bộ Phú Hữu xác định phương hướng, mục tiêu từ năm
1995 đến năm 2000 là xây dựng đoàn kết thống nhất trong cấp
ủy, đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để cán bộ học văn hóa,
chuyên môn nghiệp vụ theo quy hoạch nhằm nâng cao trình độ
nhận thức, lý luận chính trị. Chi bộ xác định vượt qua khó khăn,
nêu cao tinh thần tự lực tự cường, phát huy nội lực địa phương;
tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới của Đảng, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, khai thác thế mạnh ở địa phương.
Lĩnh vực kinh tế, chi bộ xác định chỉ tiêu phấn đấu sản xuất
nông nghiệp theo hướng bố trí cây trồng phù hợp, sử dụng diện
tích đất hoang trong vùng đê bao đạt 95% trở lên; đưa diện tích
cây trồng hàng năm lên 1.300ha bằng các biện pháp thâm canh
224

23.5 Page 225

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tăng vụ; đưa diện tích lúa vụ Hè Thu lên 300ha, năng suất bình
quân 3,5 đến 4 tấn/ha; đưa diện tích cây mía lên 700ha, năng
suất bình quân 70-80 tấn/ha. Chăn nuôi phấn đấu đưa tổng đàn
heo toàn xã lên 5.000 con, trong đó có 300-400 heo nái; gia
cầm phấn đấu đạt từ 15-20 ngàn con, trong đó có 5.000 vịt đẻ
trứng. Xã xây dựng 3 phòng học ở ấp Câu Kê, mở rộng và san
lấp 500m mặt bằng Trường Tiểu học Cát Lái; xây dựng trạm y
tế mới; quy hoạch, hoàn thành thủ tục xây dựng khu chợ mới
Cát Lái; đầu tư điện hạ thế, tạo điều kiện để người dân sử dụng
điện đạt 70%, sử dụng điện thoại 1 máy/100 hộ dân.
Trong lĩnh vực giáo dục, phấn đấu đưa kết quả học tập của
học sinh hàng năm đạt 99% lên lớp, thi tuyển vào các cấp đạt
98% trở lên; xóa tình trạng học ca ba, đảm bảo 100% các em
trong độ tuổi được đến trường. Đối với y tế, phấn đấu 100% trẻ
em được tiêm ngừa vắcxin, vận động sinh đẻ có kế hoạch, đưa
tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,3%.
Đối với các lĩnh vực thương binh xã hội, văn hóa thông tin,
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng, Mặt
trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội đều xác định các mục
tiêu phấn đấu cụ thể đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội,
giữ vững quốc phòng - an ninh ở địa phương.
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần thứ I, nhiệm kỳ 2000-2005
tổ chức ngày 29-8-2000 có 47 đảng viên tham dự. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ có 7 đồng chí, do Lê Văn Sang giữ
225

23.6 Page 226

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
chức vụ Bí thư Đảng bộ và Chủ tịch Hội đồng nhân dân (2000-
2004), từ 2004-2005 giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Lê Hoàng Tuấn giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy
và Chủ tịch Ủy ban nhân dân (2000-2002); Đặng Phước Hồng
giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
(2002-2004), từ 2004-2005 giữ chức vụ Bí thư và Chủ tịch Hội
đồng nhân dân; Võ Văn Bạch giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân; Trần Minh Hoàng giữ chức vụ trưởng Công an; Trần
Ngọc Tú giữ chức vụ xã đội trưởng; Nguyễn Thị Tám - Chủ
tịch Hội Phụ nữ; Lê Thanh Tùng - Bí thư Đoàn Thanh niên;
Phạm Văn Nghiệp giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc.
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần thứ II, nhiệm kỳ 2005-
2010 tổ chức ngày 3-8-2005 có 67 đảng viên, 7 tổ đảng trực
thuộc tham dự. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới có
9 đồng chí, Đặng Phước Hồng giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ và
Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Phạm Văn Nghiệp giữ chức vụ
Thường trực Đảng ủy; Lê Văn Sang giữ chức vụ Phó Bí thư
Đảng bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Võ Văn Bạch giữ chức
vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Trần Minh Hoàng giữ chức
vụ trưởng Công an; Trần Ngọc Tú giữ chức vụ xã đội trưởng;
Nguyễn Thị Tám - Chủ tịch Hội Phụ nữ; Võ Thị Diệu - Bí thư
Đoàn Thanh niên; Nguyễn Ngọc Tuấn giữ chức vụ Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc.
226

23.7 Page 227

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
2. Công tác xây dựng Đảng
* Về chính trị tư tưởng
Giai đoạn 1994-2010, cấp ủy xã Phú Hữu thực hiện tốt công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng bộ ngày
càng trong sạch vững mạnh. Xác định công tác nâng cao nhận
thức chính trị tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên, lực lượng
vũ trang, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên là yếu tố
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Cấp ủy lãnh đạo hệ
thống chính trị thường xuyên gắn nội dung sinh hoạt đảng với
công tác chính trị tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên. Trong 16 năm (1994-2010), Đảng bộ xã đã triển
khai 118 nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trương ương, Tỉnh
ủy, Huyện ủy Nhơn Trạch cho 1.513 lượt cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên. Cấp ủy quán triệt
kỹ, đầy đủ các nghị quyết của Trung ương1, Tỉnh ủy, Huyện ủy
Nhơn Trạch đến cán bộ, đảng viên và quần chúng cốt cán. Cấp
ủy chú trọng quán triệt thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VII, VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch lần
1  Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 18-3-2002 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa IX) “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới”, Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18-3-2002 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa IX) “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn”, Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 25-01-2002 của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa IX) “Về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn thời kỳ 2001-2010”.
227

23.8 Page 228

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
thứ I, II, Kế hoạch số 01-KH/BCĐ, ngày 9-1-2007 của Ban Chỉ
đạo về tổ chức cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” của huyện Nhơn Trạch theo tinh thần
Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị (khóa
X)1. Đảng bộ xã lãnh đạo các ban ngành xây dựng chương trình
hành động cụ thể gắn với nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng
viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên chức ở địa phương.
Thông qua các buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ, đảng viên còn
được nghe bản tin thông báo nội bộ của Ban Tư tưởng văn hóa
Trung ương (năm 2007 là Ban Tuyên giáo Trung ương) nhằm
tăng cường sự hiểu biết, nhận thức và trách nhiệm của mình
trong tình hình nhiệm vụ mới, xây dựng niềm tin, ý chí kiên
định mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau Đại hội Đảng bộ xã, cấp ủy đã sửa chữa và bổ sung quy
chế làm việc; hàng năm, Đảng ủy ra nghị quyết thực hiện nhiệm
vụ chính trị ở cơ sở, phân công cụ thể đối với từng cấp ủy viên,
đồng thời tổ chức 22 cuộc giám sát việc thực hiện quy chế chặt
chẽ, nên năng lực của từng cấp ủy viên được phát huy hiệu quả.
Nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng ủy xây dựng chương trình
hành động cụ thể về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
100% tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, các tổ chức chính trị
- xã hội, quần chúng nhân dân, quán triệt các nghị quyết, chỉ
1  Trước khi thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, địa phương thực hiện tốt Chị thị
số 23-CT/TW, ngày 27-3-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về đẩy mạnh
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”.
228

23.9 Page 229

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
thị, chính sách của Đảng, Nhà nước. Ngoài các tổ chức chính
trị - xã hội, Đảng ủy tổ chức học tập cho đoàn viên, hội viên và
nhân dân với 1.670 lượt; số người dự đạt 49.920 lượt, đạt trên
95% kế hoạch đề ra. Qua học tập, nhận thức của cán bộ, đảng
viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, đoàn viên, hội
viên về giữ vững lập trường quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội tăng lên, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhân dân phấn khởi trước thành tựu hơn 20 năm đổi
mới của Đảng, đời sống kinh tế, văn hóa xã hội ngày càng được
nâng cao, quốc phòng - an ninh giữ vững.
Việc học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được Đảng
bộ đẩy mạnh, phát động rộng rãi đến cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân. Đảng ủy xã tổ chức học tập cho 105/105 đảng
viên, đạt 100%; 22/22 cán bộ cốt cán các ban ngành, đoàn thể
tham dự đạt 100%. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội tổ chức tuyên truyền học tập trong đoàn viên,
hội viên và quần chúng nhân dân với 65 cuộc cho 3.945 hội
viên/4.229 hội viên, đạt gần 96%. Các đoàn thể triển khai học
tập cho 64 tổ nhân dân đạt 100%; và tuyên truyền học tập đến
1.450 lượt đại diện hộ dân/2.853 hộ toàn xã đạt trên 51%. Các
ban ngành, đoàn thể tổ chức 3 hội thi với 69 người tham dự và
243 cổ động viên; 20 bài viết về cảm nhận làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, lan tỏa gương người tốt, việc tốt trên địa
bàn xã.
229

23.10 Page 230

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
* Xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Từ năm 1994-2000, trong điều hành tổ chức thực hiện nghị
quyết của chi bộ, chi ủy thành lập 24 đoàn công tác đến từng ấp;
trong đó, các đồng chí chi ủy viên được phân công làm trưởng
đoàn nhằm nắm sát tình hình để kịp thời có hướng chỉ đạo kịp
thời các nhiệm vụ đặt ra. Hàng năm, chi ủy tổ chức 2 đợt giáo
dục tư tưởng cho đảng viên, từng đảng viên xác định được vị
trí, vai trò của mình để có phương hướng phấn đấu phù hợp.
Giai đoạn 2000-2005, với bối cảnh tình hình kinh tế phát
triển, cùng diễn biến nhanh chóng, phức tạp, xu hướng toàn
cầu hóa đã tác động lớn đến đời sống vật chất, tinh thần của
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trên địa bàn xã Phú
Hữu, nhất là lĩnh vực tư tưởng, nhận thức, bản lĩnh chính trị.
Đảng bộ xác định công tác chính trị tư tưởng là một trong các
nhiệm vụ thường xuyên, là nền tảng thống nhất trong mọi hành
động của toàn Đảng bộ. Đảng ủy xây dựng chương trình hành
động, kế hoạch cụ thể trong tổ chức triển khai học tập quán triệt
các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hàng năm, Đảng bộ xã có trên 98% đảng viên và 95% cán bộ
chủ chốt từ xã đến ấp được quán triệt học tập các nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng. Ngoài ra, các đoàn thể chính trị - xã
hội thực hiện tổ chức học tập cho đoàn viên, hội viên và nhân
dân với hơn 1.395 lượt người tham dự đạt từ 60-70%.
Từ năm 2005-2010, công tác tạo nguồn phát triển đảng viên
mới được chú trọng, hàng năm Đảng ủy xây dựng kế hoạch,
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
đặt ra chỉ tiêu phát triển đảng và phân bổ cho từng chi bộ trực
thuộc, kết quả trong nhiệm kỳ phát triển được 53 đảng viên
mới, đạt tỷ lệ hàng năm trên 100%, đạt chỉ tiêu nghị quyết Đại
hội Đảng bộ đề ra1.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được cấp ủy tăng cường
thực hiện, đồng chí Bí thư Đảng ủy trực tiếp làm trưởng ban, rà
soát chất lượng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên; hàng
năm, Đảng ủy thực hiện việc bố trí sắp xếp cán bộ, chuẩn bị
nhân sự để cơ cấu vào cấp ủy mới, và xem xét kết nạp đảng viên
mới trung bình từ 5-9 quần chúng ưu tú.
* Công tác tổ chức cán bộ
Từ năm 1994-2005, Đảng bộ lãnh đạo hệ thống chính trị
thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30-11-2004 của Bộ
Chính trị (khóa IX) “Về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng
viên được cấp ủy thường xuyên quan tâm, thực hiện tốt công
tác đánh giá tuyển chọn cán bộ theo hướng dẫn của Ban Tổ
chức Huyện ủy. Đảng ủy tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với
các đồng chí trong diện quy hoạch, đào tạo đúng trình tự nhằm
xây dựng nguồn cán bộ trước mắt và lâu dài. Đảng ủy lãnh đạo
các ban ngành xây dựng kế hoạch cử cán bộ, đảng viên được
quy hoạch tham gia đào tạo theo sự chiêu sinh của các ngành
1  Đảng viên mới qua các năm 2005: 9 đảng viên, 7 chi bộ trực thuộc; năm 2006:
7 đảng viên; năm 2007: 13 đảng viên với 8 chi bộ trực thuộc.
231

24.2 Page 232

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
chức năng. Địa phương cử đào tạo trung cấp lý luận chính trị
cho 19 người. Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ
Chính trị (khóa IX) ngày 25-1-2002 “về việc luân chuyển cán
bộ lãnh đạo và quản lý”, xã Phú Hữu được Huyện ủy, Ủy ban
nhân dân huyện Nhơn Trạch luân chuyển các đồng chí Phó Bí
thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã về công tác tại các xã khác.
Địa phương chú trọng bổ sung quy chế, nội dung sinh hoạt
các chi bộ trực thuộc thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong
Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 2-2-1999
Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) “về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay”. Đảng ủy lãnh đạo các ngành xây
dựng kế hoạch bổ sung quy hoạch cán bộ kế cận trước mắt và
lâu dài, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn tốt sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Cấp ủy tổng kết kịp
thời các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, huyện và Đảng
bộ. Công tác tổ chức cán bộ đạt được kết quả theo yêu cầu chỉ
đạo của cấp trên; đến năm 2005, Đảng bộ có 67 đảng viên;
trong đó, trẻ nhất có 15 người, tuổi đời cao nhất có 3 người,
trình độ học vấn cấp I có 6 người, cấp II có 10 người, cấp III có
45 người, trình độ lý luận chính trị cao cấp có 1 đồng chí, trung
cấp 15 đồng chí và sơ cấp 43 người; đảng viên có chuyên môn
nghiệp vụ 21 người.
Công tác phát triển đảng được Đảng ủy thường xuyên quan
tâm, chú trọng việc tạo nguồn qua các phong trào, phát hiện
232

24.3 Page 233

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
nhân tố mới tích cực để phát triển đảng viên, vừa đảm bảo
phẩm chất chính trị, vừa hoàn thành nhiệm vụ của người đảng
viên. Kết quả hàng năm đều đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra, kết
nạp đảng viên mới đạt trên 96%; trong đó, chú trọng lực lượng
trí thức và đảng viên nữ của Đảng bộ.
Từ năm 2005-2010, xã Phú Hữu cử đào tạo cao cấp lý luận
chính trị 1 người, trung cấp có 11 người, sơ cấp có 21 người; về
chuyên môn đại học có 21 người; cao đẳng có 4 người; trung
cấp có 30 người; về bổ túc văn hóa có 15 người đáp ứng nhu
cầu nhân lực của địa phương.
* Công tác kiểm tra, giám sát
Giai đoạn 1994-2005, thực hiện nghị quyết Đại hội Chi bộ,
Đảng bộ xã Phú Hữu lần I, công tác kiểm tra, giám sát luôn
được Đảng ủy coi trọng và được tăng cường thường xuyên. Ủy
ban kiểm tra của chi bộ, sau đó là Đảng bộ tiến hành 21 cuộc
kiểm tra, giám sát. Việc kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết,
chỉ thị của Đảng được chi ủy, sau đó là Đảng ủy thực hiện theo
kế hoạch, định kỳ 2 lần/năm và đột xuất để chấn chỉnh những
thiếu sót trong tổ chức đảng và đảng viên; đồng thời, kịp thời
xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm có liên quan đến đảng viên.
Hàng năm, chi bộ, sau đó là Đảng bộ xây dựng kế hoạch nội
dung kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, kiểm tra
các chi bộ trực thuộc về chế độ sinh hoạt thể hiện qua sổ sách
lưu trữ hồ sơ, việc nộp tiền đảng phí của đảng viên; giai đoạn
2000-2005, 6/6 chi bộ được kiểm tra định kỳ đều thực hiện tốt
233

24.4 Page 234

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
qua các nội dung kiểm tra, giám sát. Công tác kiểm tra tự phê
bình và phê bình cùng 19 điều đảng viên không được làm được
tiến hành thường xuyên; và tăng cường kiểm tra, giám sát đảng
viên thực hiện 4 nhiệm vụ của người đảng viên, tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí, đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm,
thường xuyên thực hiện công tác tự phê bình và phê bình trong
các kỳ sinh hoạt Đảng.
Đảng bộ chú trọng giải quyết đơn thư tố cáo đối với tổ chức
đảng và đảng viên, qua kiểm tra phát hiện có dấu hiệu vi phạm
đã kịp thời làm rõ, uốn nắn những thiếu sót của đảng viên,
không để xảy ra trường hợp nghiêm trọng. Kết quả tiếp nhận
4 đơn khiếu nại tố cáo và đã làm rõ kết luận đều sai sự thật,
hoặc chỉ đúng một phần với mục đích động cơ cá nhân, xử lý
kỷ luật 1 trường hợp bằng hình thức khiển trách. Hàng tháng,
chi ủy, sau đó là Đảng ủy phân công đảng ủy viên phụ trách địa
bàn lãnh đạo, kiểm tra toàn diện các lĩnh vực ở các chi bộ trực
thuộc; ngoài ra hàng tháng đồng chí Bí thư Đảng ủy tham dự
sinh hoạt chi bộ để nắm bắt tình hình và chỉ đạo củng cố chất
lượng sinh hoạt của chi bộ.
Kết quả phân tích chất lượng hàng năm, có 100% đảng viên
chấp hành tốt, có 2 đảng viên xuất sắc; tổng số đảng viên năm
2005 có 67 đảng viên; Đảng bộ cơ sở đạt trong sạch vững mạnh
nhiều năm liền.
234

24.5 Page 235

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng ủy và Ủy ban kiểm tra Đảng
ủy chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát theo Điều
lệ Đảng quy định, tổ chức 11 cuộc kiểm tra, giám sát theo kế
hoạch, kịp thời chấn chỉnh những sai phạm của tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên; đồng thời, xử lý nghiêm những vụ việc sai
phạm, có 10/10 chi bộ được kiểm tra, giám sát; qua kết quả
kiểm tra, giám sát các chi bộ điều thực hiện tốt thu chi, sử dụng
tài chính đảng, công tác tự phê bình và phê bình trong đảng,
quy định những điều đảng viên không được làm1, và các nhiệm
vụ của người đảng viên, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Công tác xây dựng Đảng mặc dù có nhiều chuyển biến tích
cực, song kết quả cụ thể trên từng mặt còn hạn chế, việc quan
tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên chưa thực sự đúng mức. Chất lượng triển khai quán triệt và
tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng bộ chưa cao. Nhiều nghị
quyết chưa được phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
Công tác kiểm tra, giám sát tự phê bình và phê bình chưa thật
sự triệt để nên vẫn còn đảng viên vi phạm kỷ luật. Qua kiểm tra,
giám sát đã phát hiện xử lý kỷ luật 13 đảng viên với hình thức
từ khiển trách đến cách chức; nhắc nhở 16 đảng viên.
1  Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 12-5-1999 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về
những điều đảng viên không được làm; Quy định số 19-QĐ/TW, ngày 3-1-2002
của Bộ Chính trị (khóa IX) về những điều đảng viên không được làm; Quy định
số 115-QĐ/TW, ngày 7-12-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về những điều đảng
viên không được làm.
235

24.6 Page 236

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
3. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước
* Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
Từ năm 1994-2000, chi ủy, sau đó là Đảng ủy tập trung lãnh
đạo Nhà nước ở địa phương phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững
quốc phòng - an ninh.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân đi vào chiều sâu, nâng
cao chất lượng nhiều hơn giai đoạn trước. Mặc dù trình độ các
đại biểu hoạt động chưa đồng đều nhưng cơ bản đã phát huy
được vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực Nhà nước ở cơ sở.
Hội đồng nhân dân ban hành 12 nghị quyết về phát triển kinh
tế, xã hội, quốc phòng - an ninh. Các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân đã cụ thể hóa từ các nghị quyết của Đảng bộ, phù
hợp với ý chí và nguyện vọng của cử tri. Hội đồng nhân dân tổ
chức 23 kỳ họp theo luật định và thực hiện 27 cuộc giám sát
thực hiện nghị quyết đối với Ủy ban nhân dân theo chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn đúng luật định.
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, thực
hiện các mục tiêu Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân. Đẩy mạnh thực hiện quản lý Nhà nước theo quy định
pháp luật; cụ thể hoá nghị quyết của Đảng, Hội đồng nhân dân
các cấp trong tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh. Ủy ban nhân
dân xã chỉ đạo các cơ quan, ban ngành triển khai thực hiện cải
236

24.7 Page 237

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cách hành chính, bước đầu thực hiện cơ chế một cửa đối với
một số ban ngành theo quy định, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, giảm bớt thủ tục phiền hà cho nhân dân. Đẩy mạnh
công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ xã, ấp, cả về trình
độ lý luận chính trị và năng lực chuyên môn kịp thời đáp ứng
nhu cầu lực lượng kế thừa cho địa phương.
Giai đoạn 2000-2010, hoạt động Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân được phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của Đảng ở địa phương. Hội đồng nhân dân
ban hành 21 nghị quyết và tổ chức 17 cuộc giám sát Ủy ban
nhân dân các vấn đề kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh; tổ
chức 31 lượt tiếp xúc cử tri cho đại biểu hội đồng nhân dân các
cấp và đại biểu Quốc hội, tiếp nhận 413 ý kiến của cử tri về đầu
tư hạ tầng giao thông, nước sạch, an sinh xã hội...
Mỗi năm Hội đồng nhân dân họp 2 kỳ gồm 6 tháng và cả
năm nhằm đánh giá kết quả việc thực hiện các chỉ tiêu Nghị
quyết Hội đồng nhân dân đã đề ra. Trong đó, vai trò của Hội
đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiều tiến bộ,
nhất là giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân;
tổ chức tiếp dân, trả lời ý kiến đóng góp của cử tri, trên cơ sở đó
Hội đồng nhân dân đã yêu cầu chính quyền giải quyết kịp thời
những bức xúc của nhân dân về hạ tầng giao thông, xây dựng
cơ bản, an ninh chính trị..., tạo niềm tin giữa nhân dân và đại
biểu Hội đồng nhân dân, đưa Nghị quyết Hội đồng nhân dân đi
vào cuộc sống ở địa phương.
237

24.8 Page 238

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Về hoạt động của Ủy ban nhân dân, là cơ quan thực hiện
các chỉ tiêu nghị quyết Hội đồng nhân dân đề ra, các chỉ đạo
của cấp trên, và những quy định của pháp luật ban hành; do đó,
nửa tháng Ủy ban nhân dân họp 1 lần với các thành viên Ủy
ban nhân dân, khi cần thiết mở rộng đến các ngành và ấp. Trong
cải cách hành chính giai đoạn 2005-2010, Ủy ban nhân dân
xây dựng Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thủ tục hành
chính: Tổng số hồ sơ trả đúng hẹn 12.789 hồ sơ đạt trên 97%,
tổ chức triển khai một cửa liên thông đã giải quyết các thủ tục
hành chính, tránh phiền hà cho nhân dân đi lại nhiều lần, giảm
bớt thời gian cho người dân khi thực hiện các thủ tục giấy tờ.
* Công tác thanh tra, tư pháp
Ủy ban nhân dân chỉ đạo công tác thanh tra, tư pháp thực
hiện chức năng tiếp công dân, xác minh giải quyết khiếu nại,
tổ chức hòa giải. Năm 1994, xã tiếp nhận 47 đơn với nội dung
tranh chấp ruộng đất, dân sự, hôn nhân, hộ tịch...
Năm 2005, xã tổ chức 7 cuộc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật. Chất lượng hoạt động tiếp công dân bảo đảm theo đúng
trình tự, xác minh thẩm tra cụ thể để giải quyết sự vụ, sự việc,
hòa giải đúng chức năng cấp cơ sở, đồng thời làm tốt công tác
hộ tịch của người dân theo quy định của pháp luật. Giai đoạn
2000-2005, xã đã nhận và tổ chức hòa giải thành công 103/155
đơn (đạt trên 66%), chuyển 48 đơn lên cơ quan cấp trên để tiếp
tục giải quyết theo chức năng quyền hạn. Xã vận động giải
238

24.9 Page 239

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
thích rút 4 đơn do người dân khiếu nại không có chứng cứ để
giải quyết. Kết quả giải quyết đơn thư, người dân trả lại người
khiếu nại 5.022m2 đất sản xuất, gần 30m2 đất thổ cư và trên 65
triệu đồng, thu hồi về Nhà nước số tiền gần 1,5 tỷ đồng. Đầu
năm 2005, ngành Thanh tra Tư pháp thực hiện cơ chế một cửa
theo quy định pháp luật, tạo niềm tin đối với người dân ở địa
phương.
Giai đoạn 2005-2010, công tác này tổ chức 18 cuộc tuyên
truyền, phát thanh và phổ biến pháp luật vào các buổi sáng hàng
tuần với nội dung về phòng, chống ma túy, các loại tội phạm,
an toàn giao thông... Đảng ủy xã lãnh đạo tổ chức tuyên truyền
trực tiếp đến cán bộ, đảng viên và nhân dân 23 lần với số lượng
người tham dự 2.878 lượt người. Đảng ủy lãnh đạo các ngành
tổ chức 13 cuộc đối thoại với người dân; việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo được các ban ngành duy trì, công khai lịch thời gian
tiếp công dân đúng pháp luật. Xã nhận và giải quyết hòa giải
thành công 64/92 đơn đạt trên 69%, chuyển 28 đơn lên cơ quan
cấp trên để tiếp tục giải quyết theo chức năng quyền hạn.
* Tài nguyên môi trường, xây dựng cơ bản
Một trong các vấn đề được chi bộ, sau đó là Đảng bộ tập
trung lãnh đạo, chính quyền tăng cường chỉ đạo là tài nguyên
môi trường, xây dựng cơ bản đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở địa phương.
239

24.10 Page 240

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Tình hình quản lý đất đai, xây dựng nhà ở trên địa bàn
xã diễn biến khá phức tạp, nhất là việc lấn chiếm các bãi bồi
ven sông, rạch ở ấp Cát Lái, Phước Lương... Địa phương tăng
cường các biện pháp kiểm tra, xử lý những trường hợp vi phạm
với 173 vụ, tổng số tiền phạt hành chính hơn 130 triệu đồng;
cắm mốc 10 điểm thường xuyên xảy ra tranh chấp, đăng ký bổ
sung đất đai đạt 95%, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đạt trên 99%, chuyển đổi đất thổ cư 74 trường hợp, chuyển mục
đích sử dụng đất cho 217 trường hợp; thực hiện bản đồ quy
hoạch mới cấp xét 16 dự án trên địa bàn toàn xã.
Trên địa bàn xã, tình hình đất bỏ hoang tập trung nhiều nhất
ở ấp Rạch Bảy trên 5ha, diện tích đất hoang còn lại rải rác ở các
ấp, xã đã tiến hành kiểm tra yêu cầu các chủ hộ không để đất
hoang. Nguyên nhân chủ yếu là sản xuất kém hiệu quả do đất
còn bị nhiễm phèn nặng, giá cả nông sản bấp bênh nên chưa tạo
thế bền vững để người dân sản xuất nông nghiệp.
Đến năm 2010, được sự quan tâm của cấp trên, Phú Hữu
xây dựng văn phòng một cửa, tường rào ủy ban nhân dân xã;
hội trường, Trường Trung học cơ sở Dương Văn Thì, san lấp
mặt bằng ban ấp Câu Kê, tiền đầu tư các công trình công cộng
này từ nguồn vốn ngân sách cấp trên và xã với tổng số tiền 27
tỷ đồng.
Xã hoàn thành chỉ tiêu nâng cấp đường giao thông nông
thôn với 56 tuyến lớn, nhỏ, tổng chiều dài trên 26km; trong
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
đó, thực hiện bê tông hóa xi măng, lát đan 15 tuyến đường với
chiều dài hơn 13km. Người dân trong toàn xã đóng góp với
số tiền gần 1 tỷ đồng và nguồn ngân sách hỗ trợ từ cấp trên
200 triệu đồng để làm đường giao thông nông thôn. Ngoài ra,
huyện Nhơn Trạch đầu tư địa phương 4 tuyến đường với chiều
dài gần 5km; trong đó, 2 tuyến đường nhựa dài hơn 2km với
tổng số tiền 1,7 tỷ đồng tạo điều kiện thuận lợi đi lại sản xuất
kinh tế, mua bán trao đổi hàng hóa, học tập của người dân ở địa
phương.
* Lĩnh vực tài chính, tín dụng
Lĩnh vực tài chính, tín dụng được Đảng ủy lãnh đạo chính
quyền thực hiện đúng các quy định của Nhà nước góp phần cân
đối đầy đủ ngân sách theo luật định. Giai đoạn 1994-2010, việc
thu ngân sách của xã đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra; tuy nhiên,
do ảnh hưởng chung của sự khủng hoảng tài chính, biện pháp
kích cầu của Chính phủ ảnh hưởng phần nào việc thu ngân
sách; trong những năm 2008, 2010, tổng thu ngân sách trên
địa bàn đạt trên 22 tỷ đồng mỗi năm, các khoản thu khác đạt
100% dự toán. Việc chi thường xuyên, đầu tư phát triển của xã
được cân đối hài hòa giữa thu và chi; năm 2009 tổng chi trên
9,3 tỷ đồng, tổng thu đạt trên 20 tỷ đồng, thực hiện tốt tiết kiệm
trong chi ngân sách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị tại địa
phương.
Việc hỗ trợ nguồn vốn người dân vay đầu tư, phát triển sản
xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp có ý
241

25.2 Page 242

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
nghĩa rất quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần xóa
đói giảm nghèo người dân trên địa bàn xã. Giai đoạn 1994-
2010, địa phương làm cầu nối các tổ chức tín dụng hỗ trợ người
dân vay 839 tỷ đồng đối với 7.413 lượt hộ dân vay vốn. Năm
2010, các tổ chức tín dụng hỗ trợ vay vốn cho 1.603 lượt hộ,
với tổng số tiền trên 50 tỷ; bên cạnh đó, quỹ tín dụng Nhơn
Trạch và chương trình CEP cho vay hỗ trợ việc làm đối với 618
hộ, tổng số tiền 24 tỷ đồng. Các nguồn vốn vay này góp phần
đảm bảo nguồn lực hỗ trợ người dân trong sản xuất kinh doanh,
ổn định cuộc sống.
4. Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội
Đảng bộ tập trung lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
chính trị - xã hội phối hợp ban ngành ở địa phương thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, Tỉnh ủy,
Huyện ủy Nhơn Trạch về phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững
quốc phòng - an ninh.
Đảng bộ lãnh đạo chính quyền xã thực hiện Nghị định số
71/1998/NĐCP, ngày 8-9-1998 của Chính phủ về ban hành quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan; Pháp lệnh
số 34/2007/PL UBTVQH (khóa XI), ngày 20-4-2007 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn; Nghị định số 79/2003/NĐCP, ngày 7-7-2003 của Chính
phủ về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Đảng ủy đã
củng cố Ban chỉ đạo Quy chế dân chủ xã có 16 đồng chí, do Bí
242

25.3 Page 243

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
thư Đảng ủy làm Trưởng ban chỉ đạo; phó ban thường trực do
Trưởng khối Dân vận và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
Hoạt động của ban chỉ đạo và các cơ quan Nhà nước có
chuyển biến tích cực, quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy, chất lượng cải cách thủ tục hành chính và hiệu quả quản
lý Nhà nước được nâng lên, công khai việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các
chương trình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, xây dựng kết
cấu hạ tầng, các khoản đóng góp của nhân dân, tạo điều kiện để
cán bộ, công chức và nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các chế độ, chính sách, chương trình dự án triển khai
tại cơ sở; tích cực thực hành tiết kiệm, phòng, chống lãng phí,
tiêu cực. Toàn xã xây dựng 4/4 ấp văn hóa, xây dựng hương
ước, quy ước của ấp, hàng năm tổ chức kiểm điểm các chức
danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trưởng
công an xã và trưởng các ấp, tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp
bầu trưởng ấp đúng theo quy trình luật định.
* Mặt trận Tổ quốc
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội tổ chức 37
cuộc tuyên truyền, nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng đạt
25.319 lượt cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên,
hội viên và quần chúng nhân dân tham dự. Mặt trận Tổ quốc
xác định công tác nâng cao nhận thức chính trị trong đoàn viên,
hội viên và nhân dân là yếu tố quan trọng của công tác vận
243

25.4 Page 244

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
động quần chúng. Khối vận đã gắn nội dung sinh hoạt chính trị
tư tưởng với học tập, quán triệt các nghị quyết, quy định, chỉ
thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương
trình phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh của địa
phương đến cộng đồng dân cư thông qua các buổi sinh hoạt các
đoàn thể và họp tổ nhân dân...
Năm 1994, Mặt trận Tổ quốc xã có 3 người; 4 ban công tác
Mặt trận ở 4 ấp với 20 người; ban thanh tra nhân dân xã có 5
cán bộ; 4 chi hội phụ lão ở 4 ấp với 57 tổ nhân dân có 531 hội
viên với độ tuổi từ 50 trở lên. Tổng số hội viên Hội bảo thọ 170
người (số tiền quỹ bảo thọ ở 4 ấp là hơn 2,4 triệu đồng); Hội
phụ lão xã có 7 người; 4 ban quản lý Hội bảo thọ có 28 người
góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội ở địa phương.
Mặt trận Tổ quốc làm tốt công tác vận động nhân dân ủng
hộ Đồng bằng sông Cửu Long được hơn 1,2 triệu đồng; Ban
Thường trực Mặt trận Tổ quốc thực hiện 6 chương trình hội
nghị hiệp thương công tác bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp và
tổ chức 12 cuộc tiếp xúc cử tri cho các ứng cử viên Hội đồng
nhân dân.
Giai đoạn 2000-2005, công tác vận động quần chúng có
nhiều đổi mới và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa khu dân cư, phong trào phát động rộng rãi đến
từng ấp và bám sát các mục tiêu của nghị quyết Đảng ủy. Mặt
trận Tổ quốc xã chủ động xây dựng 5 kế hoạch tổ chức vận
244

25.5 Page 245

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
động quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở ấp dân cư như gia đình văn hóa, ấp văn hóa, xây
dựng 22 căn nhà tình thương, chăm lo 17 gia đình chính sách,
gia đình khó khăn neo đơn; tặng học bổng trẻ em nghèo hiếu
học tổng trị giá 39 triệu đồng, phong trào dân giúp dân về vốn,
giống cây trồng vật nuôi, thay đổi cây trồng năng suất và hiệu
quả kinh tế cao với tổng trị giá hơn 97 triệu đồng.
Về mặt văn hoá xã hội được nhân dân hưởng ứng và thực
hiện có hiệu quả như giảm tỷ lệ tăng dân số 1,02%, hạ tầng cơ
sở được nâng cấp do người dân đóng góp với hơn 1,2km đường
đất cao ráo, kinh phí 98 triệu đồng. Cuộc sống của người dân
được cải thiện, mức sống thụ hưởng được nâng lên về vật chất
và tinh thần.
Qua các cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc xã, mạnh
thường quân, các cơ quan, ban ngành ở địa phương đóng góp
quỹ đền ơn đáp nghĩa hơn 700 triệu đồng xây dựng, sửa chữa
31 căn nhà tình nghĩa, nhà tình thương, cứu trợ xã hội 17 hộ gia
đình khó khăn.
Mặt trận Tổ quốc xã phối hợp cùng các ban ngành địa
phương tổ chức 12 cuộc tuyên truyền các nghị quyết của Đảng
và pháp luật Nhà nước hàng năm đều đạt từ 70% trở lên cho
đoàn viên, hội viên trong toàn xã. Mặt trận Tổ quốc tổ chức ký
kết liên tịch với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Công
245

25.6 Page 246

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
an xã, xã đội về mối liên hệ công tác, tạo điều kiện cho các tổ
chức thành viên Mặt trận tham gia giám sát và xây dựng chính
quyền. Mặt trận cùng các cơ quan, ban ngành phát động các
phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, tố
giác các loại tội phạm đạt hiệu quả cao. Mặt trận Tổ quốc xã
hàng năm đều đạt vững mạnh, riêng năm 2001, 2002 khá; 4 ban
công tác Mặt trận ấp đều đạt vững mạnh 100% hàng năm với
2/3 tổ nhân dân các ấp đạt vững mạnh trong công tác hoạt động
của tổ nhân dân toàn xã; tạo điều kiện cho 11 cuộc tiếp xúc cử
tri của đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân 3 cấp tiến hành
tổ chức bầu chức danh trưởng ấp đúng theo hướng dẫn; định
kỳ, thường xuyên tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp cho 4
chức danh quy định theo kế hoạch 3 tháng, 6 tháng và năm; thể
hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân thông qua sự đóng góp ý
kiến để xây dựng chính quyền về kinh tế, văn hóa xã hội, quốc
phòng - an ninh.
Giai đoạn 2005-2010, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội tổ chức được 83 cuộc tiếp xúc cử tri với đại
biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp và đại biểu Quốc hội đạt 4.265
lượt cử tri tham dự, đóng góp 312 ý kiến. Vai trò Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia xây dựng chính
quyền ngày càng được thể chế hóa. Mặt trận tổ chức 12 lượt lấy
phiếu tín nhiệm chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân với tỷ lệ tín nhiệm từ 83-100%. Ban
thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng được củng
246

25.7 Page 247

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cố với 9 thành viên đã tổ chức 11 cuộc giám sát theo quy định.
Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai thực hiện khá tích cực
và đồng bộ, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy trong
tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội, công tác
dân vận chính quyền và lực lượng vũ trang được tăng cường, có
nhiều chuyển biến tích cực, không để xảy ra tình trạng vi phạm
quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị tại địa phương.
Đảng bộ đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới công tác
vận động quần chúng theo tinh thần Nghị quyết 8B/TW1; các
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX)2 và Nghị quyết của Đảng
các cấp, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị
- xã hội, tăng cường công tác vận động quần chúng của chính
quyền theo Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg, ngày 21-9-2000 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận.
1  Nghị quyết số 08B-NQ/TW, ngày 27-3-1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
2  Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12-3-2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số
24-NQ/TW ngày 12-3-2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn
giáo; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 12-3-2003 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
247

25.8 Page 248

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2005-2010, Ban Chấp hành Đảng bộ
củng cố khối Dân vận xã có 16 người theo hướng dẫn của Ban
Dân vận Trung ương, do đồng chí Ủy viên Thường vụ Đảng
ủy làm trưởng ban, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc làm phó
ban. Khối Dân vận xã đề ra Quy chế hoạt động và phân công
nhiệm vụ từng thành viên, sơ tổng kết kịp thời; hàng năm tổ
chức ngày Dân vận 15-10, tổ chức 2 hội thi cán bộ làm công tác
Dân vận khéo với 14 người tham gia, phối kết hợp với huyện
đội thực hiện 10 lượt công tác dân vận giúp dân có hiệu quả.
Mặt trận Tổ quốc vận động quỹ vì người nghèo hàng năm
đạt vượt 130% trở lên, vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa đạt
100%. Việc xây dựng, sửa chữa nhà tình nghĩa, nhà tình thương
và vận động tặng học bổng các em học sinh nghèo hiếu học
đạt từ 150% đến 200 % chỉ tiêu giao với tổng số tiền hơn 19
tỷ đồng. Trong giai đoạn 2005-2010, các ban ngành, đoàn thể
xã xây dựng 40 căn nhà tình thương, tổng số tiền trên 804 triệu
đồng, sửa chữa 12 căn nhà tình thương với số tiền gần 35 triệu
đồng, sửa chữa 2 căn nhà tình nghĩa với số tiền 12 triệu đồng,
tặng 25 sổ tiết kiệm số tiền là gần 30 triệu đồng; tặng 88 suất
học bổng số tiền là gần 180 triệu đồng góp phần giải quyết khó
khăn đối với người dân ở địa phương.
* Công tác Hội Phụ nữ
Hội Phụ nữ với 6 tổ ở 4 ấp và 126 hội viên, năm 1994 bầu
Ban Chấp hành mới 9 chị em; Hội tổ chức 26 lượt học tập, quán
triệt pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
248

25.9 Page 249

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
pháp luật của Nhà nước với 915 lượt chị em tham gia. Hội chú
trọng công tác giúp nhau làm kinh tế gia đình, nuôi con khỏe,
dạy con ngoan; thành lập 3 tổ Phụ nữ tiết kiệm gồm 41 chị em
với tổng số vốn hơn 11,9 triệu đồng. Hội phối hợp với ban dân
số, y tế xã vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình, tham gia
cùng các ngành giải quyết 5 vụ hòa giải thành công.
Từ năm 2000-2005, Đảng ủy xã quan tâm bố trí phụ nữ
trong các vị trí lãnh đạo. Hội chú trọng công tác tuyên truyền,
học tập các nghị quyết của Đảng, của Hội được đẩy mạnh, tổ
chức 808 cuộc tuyên truyền lớn nhỏ với 5.254 lượt chị em tham
dự. Năm 2005, Hội có 1.519 hội viên, tỷ lệ phát triển trên 91%;
ngoài Ban Chấp hành, Hội có 5 chi hội hoạt động ở 4 ấp chia
ra 39 tổ phụ nữ ở các xóm. Hàng năm, Hội tiến hành phân tích
chất lượng của Hội chặt chẽ, có 2 chi hội vững mạnh, khá 2,
trung bình 1; trong đó, 7 tổ Hội vững mạnh, 12 khá, 13 trung
bình, 7 yếu. Việc thực hiện nghị quyết Đảng bộ xã lần thứ nhất,
nhiệm kỳ 2000-2005 của Hội Phụ nữ đạt được những kết quả
như giúp nhau làm kinh tế gia đình để xóa đói giảm nghèo,
bằng các biện pháp vay vốn và hỗ trợ giúp nhau 648 triệu đồng
cùng tiền, vàng, cây giống, con giống, tạo điều kiện cho 263 hội
viên trong sản xuất chăn nuôi. Ngoài ra, Hội giới thiệu việc làm
cho 491 chị em ở các nhà máy, xí nghiệp; phát động các phong
trào bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em, vận động đóng góp quỹ vì
trẻ em nghèo để tặng học bổng các em học sinh nghèo hiếu học
được 7,9 triệu đồng.
249

25.10 Page 250

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Giai đoạn 2005-2010, Đảng bộ xã luôn quan tâm vai trò
của phụ nữ trong lãnh đạo, nâng cao trọng trách theo tinh thần
Nghị quyết số 4-NQ/TW, ngày 14-1-1993 của Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về chính sách
dân số và kế hoạch hoá gia đình. Hội tổ chức 16 cuộc tuyên
truyền học tập Nghị quyết số 7/TU của Tỉnh ủy về thực hiện
Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị
(khoá VII) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội Phụ nữ tổ chức 905 cuộc tuyên
truyền lớn nhỏ Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ
X và Nghị quyết Đại hội Phụ nữ các cấp đi vào chiều sâu, với
6.425 lượt người tham dự. Hội phát triển mới 771 hội viên đạt
100% so với nghị quyết đề ra, nâng tổng số lên 2.428 hội viên
đạt 75% tổng số phụ nữ toàn xã. Công tác phát triển hội viên
nòng cốt gồm 471 người đạt 100% so với nghị quyết, nâng tổng
số lên 1.028 người đạt 43%. Ban Chấp hành Hội xã có 9 chị em
với 6 chi hội.
Hội Phụ nữ xã Phú Hữu phối hợp với ngân hàng chính sách
xã hội, quỹ hỗ trợ vốn CEP, quỹ tín dụng nhân dân giúp 425
lượt chị em vay với số tiền gần 5,5 tỷ đồng để chăn nuôi, sản
xuất, kinh doanh buôn bán nhỏ. Qua tiếp cận các nguồn vốn với
lãi suất thấp giúp chị em thoát nghèo, 63 chị em có điều kiện
kinh tế giúp đỡ 63 chị em gặp hoàn cảnh khó khăn với số tiền
63 triệu đồng, tăng cường hơn nữa tinh thần tương thân tương
ái ở địa phương.
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Hội Cựu chiến binh
Năm 1994, tổng số hội viên có 27 người gồm 2 chi hội trên
địa bàn 4 ấp; đa số hội viên là đảng viên, thường xuyên tham
gia học tập nghị quyết của Đảng; tổ chức học tập nghị quyết 15
lần có 85 lượt người tham gia; tổ chức học tập điều lệ hội 100%
hội viên.
Năm 2005, Đảng ủy tổ chức thực hiện Nghị quyết số 09-
NQ/TW, ngày 8-1-2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) “về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cựu chiến binh
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”. Thành viên Hội
tăng lên 55 người phân bổ 5 chi hội ở các ấp; Ban Chấp hành
Hội có 5 người, đã xoá tên 5 hội viên. Hội phát triển 8 hội viên
mới, có 11 đảng viên. Hàng năm, Hội tiến hành phân tích chất
lượng Hội, 3 chi hội vững mạnh, 2 chi hội khá. Phong trào Hội
luôn giữ phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ và tổ chức 15 cuộc giáo
dục truyền thống cho thế hệ trẻ về cách mạng, quê hương xã
nhà anh hùng, luôn gương mẫu trong các phong trào thi đua.
Hội viên luôn chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng gia đình
hội viên gương mẫu trong tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá,
ấp văn hoá. Hội viên luôn nêu cao tinh thần đồng đội, giúp nhau
xóa đói giảm nghèo với kinh phí hơn 136 triệu đồng, làm giàu
hợp pháp cùng vận động đóng góp xây dựng được 3 căn nhà
hội viên gặp khó khăn có nhu cầu về nhà ở, mỗi căn trị giá 5,3
triệu đồng.
251

26.2 Page 252

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Giai đoạn 2005-2010, Hội phát triển 10 hội viên mới, nâng
tổng số lên 55 đồng chí, chia làm 5 chi hội ở 4 ấp và 1 chi hội cơ
quan. Hội phối hợp Đoàn Thanh niên, các trường học trên địa
bàn xã tổ chức 15 buổi nói chuyện về truyền thống cách mạng,
góp phần giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.
* Hội Nông dân
Năm 1994, Ban Chấp hành Hội có 9 người, trong đó thường
trực có 3 người. Hội Nông dân đã vận động hội viên vào tổ chức
Hội góp phần xây dựng nông thôn mới, phát động phong trào
nông dân sản xuất giỏi với 231 hộ đăng ký thực hiện; kết quả
được tỉnh và huyện công nhận 9 hộ nông dân có thành tích sản
xuất giỏi nổi bật nhất, vận động tập hợp nông dân vào tổ hợp
tác kinh tế gồm 3 tổ trồng mía và trồng lúa, bước đầu hoạt động
làm ăn có hiệu quả, trở thành cơ sở việc hình thành hợp tác xã
sau này, kế hoạch xây dựng mô hình sản xuất đạt 50 triệu/ha.
Hội Nông dân tổ chức 78 cuộc tuyên truyền các nghị quyết
của Đảng và tổ chức hội đạt 83% hội viên với 2.255 lượt người
tham gia, qua đó giúp người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác phát triển hội hàng năm đạt từ 89-94% chỉ tiêu giao.
Năm 2005, Hội thu hút được 1.017 hội viên tham gia, trong đó
có 327 hội viên nòng cốt. Hội vận động quỹ hỗ trợ nông dân
được gần 19 triệu đồng để giải quyết 4 hội viên có hoàn cảnh
khó khăn, thiếu vốn sản xuất vay. Hội Nông dân xã có 9 đảng
viên, thường xuyên củng cố kiện toàn 15 chi hội trên địa bàn 4
252

26.3 Page 253

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
ấp, qua bình xét thi đua đạt vững mạnh 5 chi hội, khá 9 chi hội
và 1 chi hội trung bình.
Giai đoạn 2005-2010, Hội vận động, tập hợp hội viên vào
tổ chức hội góp phần xây dựng nông thôn mới theo tinh thần
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5-8-2008 của Ban Chấp hành
Trung ương (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển phong
trào nông dân sản xuất giỏi, có 56 hộ đăng ký thực hiện, được
tỉnh, huyện công nhận 16 hộ nông dân có thành tích nổi bật.
Hội Nông dân tổ chức 332 cuộc tuyên truyền về xây dựng
nông thôn mới, học tập khuyến nông kỹ thuật sản xuất mới với
7.522 lượt người tham dự. Hội phát triển 391 hội viên mới đạt
100%; nâng tổng số lên 839 hội viên. Hội Nông dân xã phát
triển hội viên nòng cốt 219 người; nâng tổng số lên 671 người
đạt 45%; hội viên sinh hoạt thường xuyên đạt trên 70% góp
phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã.
* Công tác Đoàn Thanh niên
Đoàn Thanh niên tổ chức công tác giáo dục chính trị tư
tưởng đối với đoàn viên, hội viên với 21 cuộc tuyên truyền
học tập đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước với 1.035 đoàn viên và 1.937 hội viên tham
gia học tập; giai đoạn 2000-2005, Đoàn xã đã phát triển được
180 đoàn viên, 56 đoàn viên học sinh chuyển về địa phương,
chuyển đi 80 đoàn viên trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, xóa tên
41 đoàn viên lớn tuổi và lập gia đình.
253

26.4 Page 254

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Năm 2005, Đoàn Thanh niên xã có 196 đoàn viên, trong
đó 10 đoàn viên ưu tú kết nạp vào Đảng và 25 người tham gia
vào đội trung kiên. Trong 5 chi đoàn của xã, qua phân tích chất
lượng có 4 chi đoàn đạt vững mạnh và 1 chi đoàn trung bình,
đoàn cơ sở đạt vững mạnh. Hội Liên hiệp Thanh niên chú trọng
củng cố kiện toàn hàng năm xây dựng phát triển mới 459 hội
viên thanh niên, giới thiệu và phát triển đoàn 155 hội viên ưu
tú tích cực.
Đoàn xã thực hiện 4 chương trình thanh niên thi đua làm tốt
các phong trào như: rèn luyện vì sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ Tổ quốc và tham gia
phòng, chống các loại tội phạm. Hàng năm, Đoàn xã phối hợp
Hội Cựu chiến binh tổ chức nói chuyện truyền thống đến thanh
thiếu niên gồm 5 cuộc với 1.500 học sinh và 48 thầy cô giáo
tham dự.
Giai đoạn 2005-2010, Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo xây
dựng củng cố Đoàn Thanh niên theo tinh thần Nghị quyết số
63/TU của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW,
ngày 25-7-2008, Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Đoàn Thanh niên chủ động tổ chức giáo dục chính
trị tư tưởng đoàn viên, hội viên về các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được 32 cuộc
với 1.469 lượt đoàn viên, 2.378 hội viên tham gia sinh hoạt học
254

26.5 Page 255

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tập. Đoàn Thanh niên giới thiệu được 19 đoàn viên ưu tú để
Đảng bộ xã xem xét và kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam;
phát triển được 20 đoàn viên trung kiên; 243 đoàn viên mới;
nâng tổng số đoàn viên lên 250 người. Đoàn Thanh niên làm
lễ trưởng thành 97 đoàn viên. Công tác tập hợp đoàn viên, hội
viên đạt trên 71%; trong đó, hội viên nòng cốt đạt 47% trên
tổng số đoàn viên.
Về công tác thi đua có 7 chi đoàn, trong đó 4 chi đoàn xuất
sắc, 3 chi đoàn tiên tiến; Đoàn Thanh niên được công nhận xuất
sắc nhiều năm liên tục; tham gia vận động hiệu quả đoàn viên,
thanh niên hàng năm lên đường nhập ngũ đều đạt chỉ tiêu. Tuy
nhiên, việc xây dựng Đoàn, Hội chất lượng chưa cao, các mô
hình tập hợp quần chúng chưa đổi mới kịp tình hình, nên các
phong trào còn nhiều mặt hạn chế.
* Hội Người cao tuổi
Đến năm 2010, Hội có 742 hội viên với 4 chi hội; cấp thuốc
94 cụ số tiền hơn 7 triệu đồng; trợ cấp thường xuyên 93 cụ, quỹ
hội có trên 13 triệu đồng, hàng năm được công nhận trong sạch
vững mạnh.
* Hội Chữ thập đỏ
Đến năm 2010, Hội phát triển 166 hội viên mới, đạt 100%,
nâng tổng số lên 416 hội viên. Hội viên xung kích 26 người;
tổng số tiền cứu trợ hơn 500 triệu đồng, đạt 102%; hiến máu
nhân đạo có 124 người đạt 100%, hàng năm được công nhận
255

26.6 Page 256

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
xuất sắc. Hội Chữ thập đỏ trở thành cầu nối quan trọng đối với
người dân gặp hoàn cảnh khó khăn ở các ấp, kịp thời tham mưu
Đảng ủy, Ủy ban nhân dân trợ cấp, hỗ trợ đến cá nhân, hộ gia
đình khó khăn trong cuộc sống.
II. ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
1. Phát triển kinh tế
* Sản xuất nông nghiệp
Năm 1994, xã Phú Hữu có tổng diện tích gieo trồng 1.050ha,
trong đó vụ Hè Thu 156ha, vụ mùa có 814ha gồm lúa mùa sớm
(massri và mắt nai), năng suất bình quân 24 tạ/ha, giảm so với
năm 1993 do bị sâu đục thân, rầy nâu. Diện tích mía các loại
80ha, năng suất đạt 60 tạ/ha; cây ăn quả 6ha; cải tạo vườn tạp
đẩy mạnh sang trồng cây ăn quả chuyên canh mãng cầu 3,5ha.
Chăn nuôi thủy sản với 75ha mặt nước, trong đó ao đập
25ha; diện tích mặt nước tiểu vùng 50ha, chủ yếu nuôi tôm
càng xanh, cá tra, rô phi... Tôm càng xanh bị thất thu so với năm
1993, đạt 40%; đàn bò của xã 6 con, đàn trâu 120 con, đàn gia
cầm 18.040 con, đàn heo 2.500 con. Để hỗ trợ vốn người nông
dân mở rộng sản xuất kinh doanh, Nhà nước hỗ trợ người dân
vay hơn 586 triệu cho 223 hộ (ngân hàng hỗ trợ vay 486 triệu
đồng, kho bạc Nhà nước cho vay 100 triệu đồng nuôi tôm).
Đến năm 2005, sản xuất nông nghiệp đạt 75% (trong đó
chăn nuôi 25%, tăng 10% so với giai đoạn trước); tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ đạt 25% (trong đó dịch vụ chiếm 15%). Đối
256

26.7 Page 257

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
với trồng trọt phân loại 9 tiểu vùng sản xuất, bố trí cây trồng
phù hợp từng loại đất; kết hợp với chăn nuôi, ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật, nhất là cơ cấu giống bảo đảm nông dân
sản xuất đi vào thâm canh có hiệu quả kinh tế cao. Địa phương
với tổng diện tích gieo trồng 1.607ha, tăng vòng quay của đất
1,26 lần so với giai đoạn trước. Diện tích vụ lúa Hè Thu 390ha,
năng suất bình quân 4 tấn/ha (tăng 40ha); diện tích lúa mùa
830ha, năng suất bình quân 3,5 tấn/ha (tăng 79ha); diện tích
mía đạt 390ha, năng suất bình quân 70 tấn/ha; diện tích hoa
màu 24ha, đạt 120%; vườn cây ăn trái 28ha đạt 100%. Tổng sản
lượng lương thực trên địa bàn xã đạt 4.405 tấn, bình quân lương
thực đầu người đạt 440kg/người, cơ bản đáp ứng nhu cầu lương
thực người dân ở địa phương.
Đến năm 2010, tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt
1.582ha, so với giai đoạn 2000-2005 giảm 70ha, tăng vòng
quay của đất 1,25 lần; trong đó, cây lương thực 1.160ha (gồm
lúa một vụ 750ha, Hè Thu 30ha, Đông Xuân 10ha) sản lượng
hàng năm trên 5.000 tấn, bình quân 1ha đạt 4,2 tấn, tăng 1 tấn
so với giai đoạn trước; đủ đảm bảo cân đối lương thực tại chỗ
cho người dân. Bên cạnh cây trồng hàng năm, cây công nghiệp
có 375ha gồm mía 350ha; sả 25ha so với cùng kỳ tăng 10ha,
sản lượng mía ước đạt 20.000 tấn/ha, sả 30 tấn/ha. Cây lâu năm
có 42ha, tăng 34ha, hoa màu 23ha gồm rau các loại, dưa hấu...
Diện tích cây lương thực, cây công nghiệp và các loại cây trồng
khác đều đạt theo điều chỉnh kế hoạch hàng năm đáp ứng yêu
cầu lương thực, thực phẩm cho người dân địa phương.
257

26.8 Page 258

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Nuôi nuôi trồng thủy sản có diện tích đất kết hợp nuôi tôm
cá 6ha. Ngoài ra, người dân địa phương tận dụng ao, đìa để
nuôi tôm cá trên 10ha; sử dụng phương tiện đánh bắt thủy sản
ven sông Đồng Nai và trong vùng đê bao sông Ông Mai, Ông
Chuốc với sản lượng hàng năm đạt hàng trăm tấn tôm cá các
loại, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tăng thu nhập cho
người dân. Chăn nuôi gia súc, gia cầm đạt kết quả tốt, trong đó
gia cầm đạt 10.000 con; heo 30.000 con (tăng bình quân 6.000
con/năm), heo nái 600 con; trâu bò 300 con đã góp phần nâng
cao giá trị sản phẩm trên diện tích đất sản xuất.
Đến năm 2010, chăn nuôi gia cầm, gia súc giảm dần; thủy
sản nuôi tập trung ở ấp Rạch Bảy với diện tích 10ha không đạt
như yêu cầu đề ra, do nguồn nước ngày càng ô nhiễm, giá thức
ăn cao, việc chăn nuôi tôm không ổn định.
Chăn nuôi gia cầm (gà, vịt) hàng năm đạt bình quân 17.000
con đạt gần 50% so với nghị quyết của Đảng bộ đề ra. Nguyên
nhân vì dịch bệnh, diện tích đất nông nghiệp thu hẹp, giá cả đầu
ra không ổn định làm ảnh hưởng đến việc chăn nuôi của người
dân. Đàn heo phát triển hàng năm bình quân gần 5.000 con đạt
80% so với nghị quyết; chăn nuôi trâu, bò 120 con. Ngoài ra,
người dân trên địa bàn xã còn chăn nuôi các loại gia súc khác
như: cá sấu, nhím, dê... nhưng không ổn định.
* Công tác khuyến nông, bảo vệ thực vật
Giai đoạn 1994-2010, chi bộ, sau là Đảng bộ chú trọng lãnh
đạo công tác khuyến nông, bảo vệ thực vật đáp ứng yêu cầu sản
258

26.9 Page 259

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
xuất nông nghiệp ở địa phương. Xã phối hợp các ban ngành cấp
trên tổ chức 35 cuộc học tập chuyển giao khoa học kỹ thuật, các
mô hình trồng trọt và chăn nuôi được 136 lượt; 38 lần học tập
mô hình nơi khác, với số người tham dự 1.878 người; xây dựng
41 mô hình trình diễn khảo nghiệm như nhân giống mới, nuôi
cá lăng, cá sặt rằn, gà sao, dưa hấu, giống mía lai, giống lúa mới
và một số cây trồng khác... góp phần nâng cao năng suất, giá trị
kinh tế của người dân ở địa phương.
Xã phối hợp phòng nông nghiệp huyện Nhơn Trạch tổ chức
5 hội thảo chọn lọc những mô hình có kết quả để nhân rộng
như: Giống lúa OM 6162, OM 4900, OM 2127, IR 64, AS 96,
MTL 110, góp phần tăng năng suất lúa bình quân từ 3,5 tấn lên
4,8 tấn/ha. Đối với cây mía, địa phương nhân rộng nhiều giống
mía mới như giống lai Thái, Mỹ, K8865 với năng suất bình
quân 70 tấn/ha, hộ thâm canh tốt đạt đến 100 tấn/ha, cung cấp
nông dân 4 máy sạ hàng góp phần cơ giới hóa trong sản xuất
nông nghiệp.
Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Đảng ủy, chính quyền xã về
công tác khuyến nông nên tình hình sâu bệnh, dịch bệnh trên
cây trồng, vật nuôi được ngăn chặn kịp thời hàng năm; công tác
phòng, chống dịch bệnh được tăng cường, một số diện tích nhỏ
bị bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, tuy nhiên không gây ảnh hưởng
đến diện tích gieo trồng. Cơ giới hóa nông nghiệp ngày càng
phát triển để tăng năng suất lao động, toàn xã có 12 máy xới, 4
máy cày chảo, 2 máy gặt đập liên hợp, 2 lò sấy lúa, góp phần
259

26.10 Page 260

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
giải quyết tình hình thiếu hụt lao động trong nông nghiệp ở địa
phương.
* Đối với mô hình hợp tác xã
Xã Phú Hữu chú trọng xây dựng mô hình kinh tế hợp tác
nông nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt động 2 tổ Hợp tác kinh
tế; hình thành mới 2 tổ hợp tác có quy mô lớn về trồng trọt và
chăn nuôi nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp ở địa
phương.
Đến năm 2010, địa phương xây dựng 4 tổ hợp tác kinh tế
gồm 2 trồng lúa, 1 chăn nuôi heo, 1 trồng mía với tổng số hộ
tham gia là 64 hộ. Xã thành lập thêm hợp tác xã Thuận Phát,
kinh doanh đa ngành nghề, gồm 7 thành viên, vốn góp 10 tỷ
đồng đi vào hoạt động và hoàn thành chỉ tiêu đề ra.
Bên cạnh cạnh kết quả đạt được về sản xuất nông nghiệp,
một số chỉ tiêu trong trồng trọt không đạt do giá cả nông sản,
phân bón không ổn định ảnh hưởng đến lợi nhuận trong sản
xuất của nông dân; sự kết hợp giữa sản xuất và tiêu thụ đầu ra
sản phẩm chưa gắn chặt, một số diện tích đất bỏ hoang khoảng
25ha do bị nhiễm phèn nặng sản xuất không có hiệu quả.
Việc quy hoạch trong sản xuất nông nghiệp còn ảnh hưởng
quy hoạch chung của huyện làm cho người dân không an tâm,
từ đó không mạnh dạn đầu tư vốn để tái sản xuất mở rộng. Sự
liên kết để phát triển tổ Hợp tác kinh tế chất lượng hoạt động
chưa cao, tầm quan trọng của sản xuất hàng hóa về chất lượng
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
và cạnh tranh sản phẩm làm ra thấp; làm cho việc thâm canh
cây trồng, vật nuôi chưa hiệu quả.
* Hoạt động tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp
Năm 1994, xã có 4 nhà may xay xát, 1 cơ sở mộc, 2 cơ sở
đóng xuồng ghe đáp ứng nhu cầu giải quyết việc làm của người
dân địa phương.
Năm 2005, tiểu thủ công nghiệp tăng 10-15%/năm tập trung
vào các ngành gia công và chế biến hàng hóa. Xã lãnh đạo nâng
cao chất lượng hoạt động dịch vụ thương mại của chợ Phú Hữu;
mở rộng mô hình dịch vụ gắn với sản xuất nông nghiệp ở địa
phương.
Đến năm 2010, hoạt động tiểu thủ công nghiệp, thương
nghiệp tăng so với trước nhưng quy mô còn nhỏ lẻ, vốn đầu tư
thấp, tổng số hộ kinh doanh 471 hộ, tăng hơn 20% so với năm
1994. Về tiểu thủ công nghiệp có 46 hộ tăng 12% so với năm
1994, tổng số vốn kinh doanh đạt hơn 5,7 tỷ đồng. Trên địa bàn
toàn xã có 11 doanh nghiệp, 4 công ty. Chợ Phú Hữu có số sạp
hoạt động 27/87 đạt 31% chưa tương xứng với quy mô và tiềm
năng của chợ này.
* Ngân sách tài chính
Về ngân sách thực hiện và quản lý các nguồn thu đúng theo
luật Ngân sách, trong đó tăng cường công tác thu thuế đạt và
vượt chỉ tiêu giao. Các nguồn thu trong chương trình xã hội
hóa, kênh mương cấp 2, 3 đạt theo kế hoạch chỉ tiêu giao.
261

27.2 Page 262

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Trong nhiệm kỳ (2000-2005), tổng thu ngân sách xã đạt
trên 13 tỷ đồng, trong đó năm 2004 có số thu cao nhất đạt 234%
so chỉ tiêu. Về công tác chi thực hiện đúng theo hướng dẫn của
cấp trên với tổng chi gần 2,5 tỷ đồng, hàng năm đều có kết dư
tích lũy và thực hiện đúng theo luật Ngân sách đề ra.
* Công trình xây dựng phúc lợi
Năm 1994, địa phương tổ chức đắp mặt đường Rạch Bảy
96m2, sửa chữa 2 phòng học ở ấp Rạch Bảy, xây mới 2 phòng
học cấp I với kinh phí gần 5 triệu đồng; xây mới trụ sở công an
xã với kinh phí 18 triệu đồng.
Năm 2005, xã nâng cấp các tuyến đường giao thông nông
thôn và mở rộng theo quy định; bê tông hóa các tuyến đường ấp
đạt 50%. Hàng năm, xã chỉ đạo các ngành nạo vét kênh mương
thủy lợi nội đồng, sửa chữa, xây cống tưới tiêu các mương để
phục vụ sản xuất nông nghiệp ở địa phương với tổng kinh phí
trên 32 tỷ đồng.
Bên cạnh sự phát triển các mặt về đời sống kinh tế, xã hội,
vấn đề vệ sinh môi trường đang nảy sinh những phức tạp do
dân cư ngày càng đông; ý thức một bộ phận người dân còn hạn
chế, chưa thấy sự tác hại của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe
chính mình.
2. Văn hóa xã hội
* Văn hóa thông tin
Về tổ chức bộ máy, văn hóa thông tin xã có 4 cán bộ, 4 cụm
loa truyền thanh ở 4 ấp. Năm 1994, xã tiến hành phát thanh lưu
262

27.3 Page 263

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
động 53 lần, phát thanh tại các cụm loa truyền thanh mỗi tuần 6
lần, 19 bài viết tin ngắn, cắt dán 34 khẩu hiệu băng rôn, trang trí
hội nghị, phục vụ nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương
để kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, phục vụ công tác bầu cử
Hội đồng nhân dân 3 cấp...
Về văn hóa văn nghệ, tổ chức múa lân 27 tiết mục phục vụ
tết Nguyên đán, các điểm chiếu video, karaoke phục vụ ngày
tết, chiếu phim Việt, các bài hát lành mạnh, phục 1.972 lượt
nhân dân các ấp; đặc biệt chiếu phim tài liệu chiến thắng Điện
Biên Phủ 6 buổi ở các điểm phục vụ nhân dân, 8 buổi chiếu
phim sinh hoạt hè cho học sinh; ngoài ra, trong năm ngành văn
hóa thường xuyên kiểm tra, xử lý các hoạt động của 2 loại hình
video, karaoke nhằm chấn chỉnh những văn hóa phẩm chưa
được nhà nước cho phép, 12 lần nhắc nhở, giáo dục.
Trong thể dục thể thao, phong trào phát triển hơn so với
những năm trước 1994, các bộ môn như bóng đá, bóng chuyền,
võ thuật, cờ tướng... tham gia thi đấu giao lưu nhiều nơi và 2
lần tham dự giải do huyện Nhơn Trạch tổ chức.
Phong trào vận động thực hiện nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa hàng năm đều tăng. Năm 2000, toàn xã có trên 91%
hộ đăng ký và đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa 80% so với hộ
đăng ký; năm 2004 có trên 98% hộ đăng ký và đạt tiêu chuẩn
gia đình văn hóa gần 97% so với hộ đăng ký; trung bình số hộ
đăng ký tăng trên 70% và hộ đạt tiêu chuẩn tăng trên 16%. Xã
xây dựng đạt 2 ấp văn hóa và 2 ấp tiên tiến đủ điều kiện hoạt
263

27.4 Page 264

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
động, giữ vững phong trào ổn định an ninh trật tự, an toàn xã
hội. Thành lập Trung tâm học tập cộng đồng phục vụ rộng rãi
yêu cầu lao động sản xuất và học tập đối với mọi tầng lớp nhân
dân để phát triển kinh tế, xã hội thời kỳ đổi mới công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Mạng lưới truyền thanh xã được đầu tư xây dựng mở rộng,
hệ thống đường dây từ 5km tăng lên 11km trải dài toàn xã trên
địa bàn 4 ấp, trang thiết bị được đầu tư mới, tăng công suất máy
để phục vụ 4 ấp đạt 95% với 28 loa phóng thanh rộng khắp.
Trong việc tuyên truyền nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa
phương cùng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước kịp thời đến nhân dân thông qua 2 buổi sáng,
chiều trên hệ thống Đài truyền thanh xã với tổng số phát thanh
hơn 12.639 giờ.
Phong trào thể dục thể thao của xã được coi trọng để rèn
luyện sức khỏe thân thể, tạo điều kiện tốt để lao động sản xuất
và học tập ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
người cao tuổi tập dưỡng sinh. Ngoài các phương pháp luyện
tập rèn luyện sức khỏe của từng đối tượng, địa phương còn từng
bước hình thành, phát triển theo mô hình xã hội hóa, đội bóng
đá, bóng chuyền, cờ tướng, bơi lội thường xuyên hoạt động vui
chơi giải trí, tổ chức thi đấu giữa các ấp và tham gia thi đấu giải
cấp huyện, tỉnh tổ chức. Xã tổ chức tốt 2 lần Đại hội thể dục thể
thao thành công, làm cơ sở việc phát động phong trào rèn luyện
thân thể đạt hiệu quả cao ở giai đoạn sau.
264

27.5 Page 265

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đến năm 2010, các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể
thao, thông tin tuyên truyền tiếp tục được xã tổ chức 12 hội thi
với nhiều loại hình, nội dung giáo dục truyền thống cách mạng,
bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần nhân dân và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị
của địa phương.
Phong trào vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa hàng năm đều tăng. Năm 2010, toàn xã
số hộ gia đình đăng ký trên 98% và cuối năm xét đạt tiêu chuẩn
gia đình văn hóa trên 97% so với số hộ đăng ký; năm 2009, số
hộ gia đình đăng ký 100% và xét đạt tiêu chuẩn gia đình văn
hoá 97% so với số hộ đăng ký; trung bình đăng ký so với nhiệm
kỳ trước đạt gần 90% và hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa đạt
17%. Xây dựng hoàn thành 4/4 ấp văn hoá đạt 100%.
* Về giáo dục
Năm học 1993-1994, mặc dù tình hình cơ sở vật chất và
các điều kiện phục vụ yêu cầu dạy và học gặp nhiều khó khăn,
nhưng chất lượng học tập tiếp tục giữ vững ở tất cả các khối
lớp, tốt nghiệp chuyển cấp đạt trên 73%; giáo viên dạy giỏi cấp
trường 6 thầy cô, dạy giỏi cụm 4 thầy cô, dạy giỏi cấp huyện 4
thầy cô.
Thực hiện xóa mù chữ 30 học sinh, phổ cập giáo dục với
116 học sinh; năm 1994-1995, tổng số học sinh 1.414 em, tăng
107 em so với năm học 1993-1994; tổng số giáo viên 38 thầy
265

27.6 Page 266

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
cô. Khối mẫu giáo 148 cháu. Cơ sở vật chất 2 phòng học ở ấp
Rạch Bảy được hoàn thiện đáp ứng nhu cầu học tập của học
sinh.
Đến năm 2005, được sự chú trọng quan tâm thường xuyên
lãnh đạo của Đảng ủy, chính quyền và đặc biệt là ngành giáo
dục và đào tạo, Trường Tiểu học Phú Hữu với sĩ số học sinh
hàng năm đều giảm do làm tốt công tác dân số kế hoạch hóa
gia đình; đầu năm 2000 có 904 học sinh, cuối nhiệm kỳ còn
854 học sinh; tỷ lệ học sinh Tiểu học giảm hàng năm trung bình
1,1%.
Cơ sở vật chất trường lớp hàng năm đều được nâng cấp
và đầu tư xây mới bằng nguồn kinh phí xã hội hóa giáo dục
và cấp trên hỗ trợ, với tổng kinh phí hơn 17 tỷ đồng, đảm bảo
công tác dạy và học ở điểm trường các ấp, đủ số lượng phòng
học theo yêu cầu. Đội ngũ giáo viên hàng năm được chuẩn hóa
chuyên môn phục vụ việc giảng dạy, với 2 giáo viên dạy giỏi
cấp huyện. Tỷ lệ học sinh lên lớp hàng năm đạt trên 95% và tốt
nghiệp Tiểu học từ 98 đến 100%; học sinh khá, giỏi hàng năm
đều tăng, riêng học sinh giỏi cuối 2005 đạt 20% so với học sinh
toàn trường ở các khối; trong đó, 6 học sinh giỏi cấp huyện.
Năm 2002, xã Phú Hữu được cấp trên công nhận cơ bản hoàn
thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và được duy trì kiểm
tra thường xuyên chất lượng làm tiền đề việc phát triển phổ cập
giáo dục Trung học phổ thông những năm về sau. Xã Phú Hữu
266

27.7 Page 267

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
hình thành 1 chi bộ trường học gồm 17 đồng chí (kể cả Tiểu
học và Mẫu giáo).
Công tác chăm sóc giáo dục mầm non và mẫu giáo được
Đảng ủy lãnh đạo quan tâm đúng mức ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ; sau mỗi năm học đều có bổ sung mới về cơ sở vật
chất và đồ dùng trang thiết bị mẫu giáo. Năm 2003, Trường
Mẫu giáo Phú Hữu được huyện đầu tư xây dựng đạt chuẩn quốc
gia ngành học mầm non một trệt, một lầu, với đầy đủ phương
tiện được trang bị đúng theo mô hình giáo dục mầm non và đưa
vào sử dụng trong năm học 2004-2005 với tổng kinh phí 13 tỷ
đồng. Xã chú trọng phát triển trường mầm non giúp các cháu
có điều kiện trau dồi phát triển kỹ năng và sức khỏe tốt theo chế
độ dinh dưỡng của ngành; từ 3 lớp hơn 100 cháu đầu nhiệm kỳ
năm 2000 đến năm 2005 phát triển 8 lớp với gần 300 cháu, do
21 cán bộ giáo viên, công nhân viên quản lý điều hành trường
chuẩn quốc gia về mẫu giáo của xã.
Giai đoạn 2005-2010, tỷ lệ học sinh ra lớp của xã đều đạt
chỉ tiêu; huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%, học sinh tốt
nghiệp tiểu học vào lớp 6 đạt từ 99% trở lên và tốt nghiệp trung
học cơ sở đạt trên 98%, giáo viên đạt 100% trình độ chuẩn hóa
về chuyên môn nghiệp vụ. Các trường trên địa bàn toàn xã đều
có đủ giáo viên, không còn tình trạng học sinh học ca ba. Xã
duy trì công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung
học cơ sở, năm 2009 hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
267

27.8 Page 268

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Xã Phú Hữu xây dựng mới trường Trung học cơ sở mang
tên Dương Văn Thì với 16 phòng học, Trường Tiểu học Phú
Hữu theo tiêu chuẩn quốc gia, sửa chữa nâng cấp 6 phòng học
và xây dựng công trình phụ bằng nguồn vốn của tỉnh và huyện;
các trường đều có đủ trang thiết bị dạy và học.
Trung tâm học tập cộng đồng xã hoạt động thường xuyên
tổ chức được 16 lớp theo đề án, kế hoạch hàng năm với phương
châm “cần gì học nấy” đáp ứng nhu cầu thiết thực của nhân
dân, đem lại nhiều kết quả tích cực như chăn nuôi, trồng trọt...
Nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong trồng trọt,
chăn nuôi nên năng suất các loại cây trồng, vật nuôi đều tăng
so với trước.
Hội Khuyến học xã hoạt động hiệu quả, công tác vận động
mạnh thường quân giúp đỡ học sinh nghèo vượt khó đạt kết quả
tích cực, tổng kinh phí vận động hỗ trợ hội khuyến học đạt trên
440 triệu đồng và trên 15.000 quyển vở.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục đạo
đức trong nhà trường chưa được coi trọng, sự kết hợp phương
châm giáo dục chưa thật sự đồng bộ, nên chất lượng dạy và học
chưa đạt yêu cầu đổi mới; sự nổi bật sáng tạo về chuyên môn
nghiệp vụ còn hạn chế; cơ sở vật chất chỉ sửa chữa, nâng cấp
chưa xây mới kịp thời trường lớp theo đà phát triển của xã hội
đối với giáo dục và đào tạo.
268

27.9 Page 269

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Công tác Y tế
Y tế được chính quyền xã quan tâm thường xuyên, nhất là
công tác phòng, chống dịch bệnh, khám chữa bệnh; trong đó,
tiêm chủng mở rộng hàng tháng đều đạt từ 90% trở lên; tiêm
vắc xin 6 loại bệnh tật đạt 95%; chương trình thanh toán bệnh
bại liệt ở trẻ em đến cuối năm 1994 là 2.376/2.432 đạt trên
97%. Y tế xã khám chữa bệnh năm 1994 đối với 847 người, số
lượt người khám đạt 991 lượt.
Xã xác định hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là một trong các
nhiệm vụ trọng tâm đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội. Củng
cố ban dân số kế hoạch hóa gia đình xã có 16 người, mạng lưới
cộng tác viên phụ trách từng tổ, từng khu vực ở 4 ấp với 38
người. Năm 1994, xã tổ chức 15 buổi tuyên truyền miệng về
dân số kế hoạch hóa gia đình với 363 lượt người tham dự, tuyên
truyền qua loa phát thanh 17 bài viết với 101 buổi (4.780 phút)
trên địa bàn 4 ấp. Xã tổ chức 28 cuộc truyền thông dân số kế
hoạch hóa gia đình kết hợp dịch vụ tránh thai nhân ngày dân số
thế giới, khám phụ khoa 298 lượt chị em.
Năm 2000, Trạm y tế Phú Hữu được xây dựng mới đúng
tiêu chuẩn với đầy đủ trang thiết bị tối thiểu việc khám chữa
bệnh tuyến xã với 4 y, bác sĩ. Từ năm 2000 đến năm 2005,
Trạm y tế đã khám và điều trị được 21.847 lượt bệnh nhân
(trong đó có 2.851 lượt người có bảo hiểm y tế thuộc diện chính
269

27.10 Page 270

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
sách). Ngoài ra, y tế xã thực hiện công tác quản lý bệnh xã hội,
vệ sinh an toàn thực phẩm, hướng dẫn thực hành dinh dưỡng
cho trẻ để chống suy dinh dưỡng, cùng kết hợp thực hiện kế
hoạch hóa gia đình với 713 biện pháp tránh thai hiện đại rộng
rãi trong nhân dân góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên theo
định hướng của Đảng bộ xã.
Chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình được triển khai
toàn diện thông qua mạng lưới cộng tác viên. Đội ngũ cộng tác
viên thường xuyên tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, các
đợt truyền thông lồng ghép đã giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
từ 1,3% năm 2000 xuống 1,01% năm 2005, giảm 0,29% đạt
chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Xã chú trọng công tác bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe gia đình trẻ em, nhất là trẻ em nghèo hoàn cảnh
khó khăn thông qua vận động các tổ chức, cá nhân hỗ trợ giúp
đỡ các trẻ em khuyết tật, mồ côi không người nuôi dưỡng; địa
phương đề nghị cấp trên trợ cấp thường xuyên và phục hồi chức
năng cho trẻ khuyết tật.
Đến năm 2010, mạng lưới y tế xã được tăng cường củng
cố, đủ phục vụ người dân ở địa phương. Trạm y tế xã có tổng
số 8 cán bộ y tế gồm bác sĩ, y sĩ, diều dưỡng, dược và đông y.
Hạ tầng cơ sở vật chất trạm y tế xây dựng đạt chuẩn quốc gia.
Chất lượng khám và điều trị bệnh cho nhân dân luôn được chú
trọng, số lần khám bệnh trung bình của người dân trên địa bàn
từ 1,4 đến 1,5 lần năm 2009 với gần 17.000 lượt người khám,
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
chữa bệnh. Các chương trình y tế quốc gia về phòng, chống sốt
rét, lao và các bệnh khác được thực hiện tốt. Công tác vệ sinh
phòng bệnh được thực hiện gắn liền với công tác bảo vệ môi
trường, tỷ lệ dùng nước hợp vệ sinh trên 98% hộ dân. Chương
trình dân số kế hoạch hóa gia đình được triển khai toàn diện, tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên còn 1% vượt chỉ tiêu, công tác bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em được chú trọng, nhất là đối với trẻ
em từ 12% suy dinh dưỡng xuống còn 8%.
Việc tăng cường cán bộ y tế trạm y tế xã còn lệ thuộc ngành
cấp trên, số lượng nhân sự thiếu và yếu ảnh hưởng đến việc
thực hiện các chương trình y tế cộng đồng theo yêu cầu còn
hạn chế.
3. Công tác đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội
* Thương binh xã hội
Việc thực hiện chăm lo các đối tượng chính sách được các
ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội địa phương quan tâm.
Năm 1994, địa phương chi trả trợ cấp trên 115 triệu đồng các
đối tượng chính sách; trợ cấp gia đình khó khăn có từ 2 liệt sĩ
trở lên với 23 suất tổng số tiền trên 1,4 triệu đồng; tặng quà đối
tượng chính sách vào dịp tết nguyên đán, ngày Thương binh,
Liệt sĩ với số tiền trên 29 triệu đồng; trợ cấp xã hội 82 hộ với
số tiền trên 3,5 triệu đồng. Công tác giải quyết chính sách tồn
đọng chiến tranh đối với 8 liệt sĩ, 9 thương binh, giám định
271

28.2 Page 272

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
thương tật 5 trường hợp; lập 1 sổ tiết kiệm trị giá 2 triệu đồng,
xây dựng 1 căn nhà tình nghĩa trị giá 15 triệu đồng.
Đến năm 2005, công tác đền ơn đáp nghĩa được Đảng ủy,
chính quyền xã quan tâm kịp thời chăm lo 65 lượt gia đình
đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, gia đình
thương binh liệt sĩ, vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa hàng trăm
triệu đồng; ngoài ra, sửa chữa 37 căn nhà cho các đối tượng
chính sách, người có công đang gặp khó khăn về nhu cầu nhà ở.
Các ban ngành đoàn thể xã nhận đỡ đầu hỗ trợ nuôi dưỡng hàng
tháng 13 gia đình chính sách khó khăn neo đơn. Hướng dẫn lập
hồ sơ giải quyết tồn đọng theo Nghị định số 28/CP, ngày 29-
4-1995 của Chính phủ1 về giải quyết chế độ cho các đối tượng
chính sách, người có công với cách mạng; thường xuyên thăm
viếng, giúp đỡ các gia đình chính sách trong các dịp lễ, tết hàng
năm hoặc lúc gặp hoạn nạn khó khăn đột xuất.
Công tác xã hội nhân đạo, từ thiện được xã quan tâm, tạo
điều kiện giúp đỡ những gia đình còn khó khăn trong cuộc
sống, giai đoạn 2000-2005, đã vận động xây được 70 căn nhà
tình thương góp phần giải quyết nhu cầu về nhà ở cho các gia
đình nghèo, khó khăn trong cuộc sống; đồng thời, hỗ trợ giúp
10 người già neo đơn, tàn tật hàng tháng 100kg gạo và hàng
1  Nghị định số 28/CP ngày 29-4-1995 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình
liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp
đỡ cách mạng.
272

28.3 Page 273

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
trăm triệu đồng cứu trợ đột xuất thiên tai hỏa hoạn, bệnh tật,
vui hưởng tết cổ truyền hàng năm đối với người nghèo không
có điều kiện vui xuân.
* Công tác xóa đói giảm nghèo
Công tác xóa đói giảm nghèo được xã chú trọng, năm 1994
xã có 364 hộ, 77 hộ gia đình nhận vay vốn với số tiền 385 triệu
đồng. Đời sống nhân dân có nhiều chuyển biến tốt, nhà ở kiên
cố và bán kiên cố chiếm trên 50%. Năm 2005, thu nhập bình
quân đầu người xã Phú Hữu đạt 6 triệu đồng/người/năm.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn
2000-2005 đạt kết quả khả quan vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Giảm hộ nghèo toàn xã từ 11,2% (226 hộ) xuống còn 2,06%
(43 hộ). Chương trình xóa đói giảm nghèo của xã đã giảm tỷ lệ
hộ nghèo được 9,1%, bình quân hàng năm giảm gần 2%. Thông
qua Ngân hàng phục vụ người nghèo và Ngân hàng chính sách
xã hội giúp vay ưu đãi để giải quyết việc làm lãi suất thấp đối
với 99 hộ, số tiền 225 triệu đồng để sản xuất chăn nuôi, dịch
vụ việc làm tại chỗ; thu nhập của người lao động từng bước ổn
định cuộc sống, thoát nghèo. Ngoài ra, người dân thuộc diện
xóa đói giảm nghèo được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước cấp trên, cấp phát phiếu khám chữa bệnh miễn phí bằng
bảo hiểm y tế, tạo điều kiện bảo đảm sức khỏe hộ nghèo an tâm
sản xuất, từng bước nâng dần đời sống vật chất, tinh thần, hòa
nhập sự phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
273

28.4 Page 274

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Thông qua giải quyết việc làm tại chỗ, xã đã giảm tỷ lệ lao
động chưa có việc làm từ 60% xuống còn 20%, nhờ sự chuyển
dịch cơ cấu lao động của xã từ nông nghiệp đa phần sang công
nghiệp. Nhiều khu công nghiệp trong huyện Nhơn Trạch hình
thành, địa bàn xã tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh, đã thu hút
một lượng lớn thanh niên vào làm công nhân trong nhà máy, xí
nghiệp; nghề nông chỉ còn lao động trung niên cùng máy móc
nông cơ phục vụ nông nghiệp hỗ trợ theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế tăng trưởng nhanh nên sinh hoạt đời sống xã hội
của người dân cũng tăng theo nhu cầu thiết thực với hơn 80%
hộ sử dụng điện sinh hoạt, 15% hộ dùng điện thoại, 91% hộ sử
dụng nước sạch (trong đó 50% hộ dùng nước máy); có 50,3%
hộ xây dựng hố xí kiên cố đúng quy cách hợp vệ sinh.
Đến năm 2010, bình quân thu nhập đầu người đạt
12.500.000đ/người/năm, so với cùng kỳ tăng 4.000.000đ, bình
quân mỗi năm tăng trên 9%, so với nghị quyết đạt 99,2%. Công
tác giải quyết việc làm ở xã được đẩy mạnh và thực hiện có
hiệu quả thông qua việc lồng ghép các chương trình mục tiêu,
các nguồn vốn; trong đó, nguồn vốn xóa đói giảm nghèo giữ
vai trò chủ đạo. Địa phương giải quyết việc làm trên 2.035 lao
động, vượt chỉ tiêu đề ra. Xã xóa hoàn toàn hộ đói, giảm số hộ
nghèo từ 135 hộ năm 2006, chiếm 6,4%, đến cuối năm 2009,
hộ nghèo toàn xã còn 102 hộ chiếm tỷ lệ 4,3% theo chuẩn mực
nghèo mới.
274

28.5 Page 275

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Xã phối hợp vận động cứu trợ thường xuyên 4 hộ, mỗi tháng
10 kg gạo; cứu trợ xã hội với tổng số tiền trên 281 triệu đồng
và 1.062 ngày công tham gia. Hiến máu nhân đạo hàng năm đạt
tỷ lệ 100%. Việc chăm lo các đối tượng chính sách được chính
quyền, các ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên
quan tâm. Xã xây dựng mới 4 căn và sửa chữa 9 căn nhà tình
nghĩa xuống cấp các đối tượng chính sách, người có công cách
mạng, nhận hỗ trợ nuôi dưỡng hàng tháng 8 đối tượng khó khăn
neo đơn và tặng 23 sổ tiết kiệm trị giá gần 50 triệu đồng. Xã
được cấp trên công nhận xã làm tốt công tác thương binh liệt sĩ
và người có công đạt 100%, giải quyết thêm 8 hồ sơ tồn đọng
sau chiến tranh các đối tượng chính sách; đời sống vật chất của
nhân dân trên địa bàn xã ngày càng được cải thiện tốt hơn.
4. Giữ vững Quốc phòng - An ninh
* Đối với Quốc phòng
Năm 1994, công tác tuyển quân đạt chỉ tiêu giao 100%,
củng cố quân dự bị 48 thanh niên, có 3 sĩ quan. Ngoài công tác
tuyển quân là trọng tâm, xã đội xây dựng lực lượng dân quân
tự vệ đảm bảo theo yêu cầu; tổ chức huấn luyện hàng năm theo
quy định. Năm 1994, tổ chức huấn luyện 1 đợt 7 ngày, 4 đồng
chí tham gia huấn luyện tại huyện, tỉnh với tổng số 13 ngày.
Công tác xử lý quân nhân bỏ ngũ và chống đối 3 người, đưa 4
quân nhân về huyện Nhơn Trạch cải tạo lao động; đồng thời xử
phạt 3 quân nhân và 8 thanh niên chống lệnh kêu gọi nhập ngũ.
275

28.6 Page 276

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Đến năm 2005, công tác thực hiện nhiệm vụ thường xuyên
theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần thứ I về nhiệm
vụ Quốc phòng - An ninh trong tình hình mới đã tạo nhiều
chuyển biến tích cực trong việc xây dựng lực lượng, xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Hàng năm, xã đội
hoàn thành công tác triển khai kế hoạch sẵn sàng chiến đấu,
thực hiện đợt diễn tập A2 đạt kết quả tốt, phát huy được sức
mạnh tại chỗ, xây dựng củng cố dân quân chiến đấu đạt 2,25%
so với dân số, chất lượng chiến sĩ ngày càng nâng lên trong
cơ chế Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang được tăng cường.
Công tác huấn luyện đi vào nề nếp, chỉ tiêu tuyển quân hàng
năm 6-8 người đều đạt và vượt. Làm tốt công tác vận động
quần chúng đạt kết quả có ý nghĩa chính trị sâu sắc, thực hiện
chính sách hậu phương quân đội và chăm sóc, thăm hỏi các gia
đình thương binh, liệt sĩ, quân nhân dự bị động viên được thực
hiện tốt.
Giai đoạn 2005-2010, xã đội luôn luôn hoàn thành công tác
triển khai kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, công tác huấn luyện đi
vào nề nếp, chỉ tiêu tuyển quân hàng năm đều đạt và vượt, có
76 thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Ban Chỉ huy quân sự
xã làm tốt công tác vận động quần chúng để thực hiện chính
sách hậu phương quân đội, chăm sóc, thăm hỏi các gia đình
thương binh, liệt sĩ; quân nhân dự bị động viên được thực
hiện tốt.
276

28.7 Page 277

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Đối với an ninh
Công an xã xác định nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội là một trong hai nhiệm vụ quan trọng trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1994, chi bộ tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo chính quyền xã củng cố lực lượng công an xã,
ấp đảm bảo thường trực từ xã đến ấp 3-4 cán bộ, chiến sĩ. Xã
tổ chức được 57 tổ an ninh trật tự trên địa bàn 4 ấp, 3 đội dân
phòng, bổ sung 7 chiến sĩ vào làm nhiệm vụ công an ấp.
Năm 1994, trên địa bàn xã xảy ra 45 vụ việc như trộm cắp,
đánh nhau, gây rối, tệ nạn xã hội... Công an xã thu hồi 1 ghe
máy trị giá hơn 10 triệu đồng trả lại người bị mất; thu hồi 4 chỉ
vàng, 1 xe đạp, 600 ngàn tiền mặt trả lại người bị hại; kiểm
điểm trước dân 7 đối tượng, giáo dục răn đe, phòng ngừa cho
96 đối tượng.
Đến năm 2010, Đảng ủy xã lãnh đạo các ban ngành, đoàn
thể chính trị - xã hội phối kết hợp các lực lượng triển khai thực
hiện nhiệm vụ với thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn, bảo
đảm tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững và ổn định, không để xảy ra điểm nóng.
Công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội được tăng cường,
các vụ việc xảy ra đều được giải quyết đúng pháp luật. Phong
trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục phát
triển trên cả 2 hướng chiến lược ngoài xã hội và trong nội bộ
các ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội. Công an thường
277

28.8 Page 278

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
xuyên củng cố các tổ nhân dân và đội dân phòng các ấp đi vào
hoạt động có hiệu quả, chất lượng được nâng lên góp phần bảo
vệ trật tự trị an tại chỗ, giáo dục ngăn chặn tội phạm, nhất là
tội phạm trong thanh thiếu niên. Chủ động phát hiện tấn công
triệt phá kịp thời các biểu hiện băng nhóm tội phạm và tệ nạn
xã hội. Công tác quản lý đối tượng, địa bàn được chú trọng, tổ
chức công tác truy quét trấn áp các loại tội phạm và bài trừ tệ
nạn xã hội đạt kết quả tốt.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình an ninh trật tự
xã hội trên địa bàn xã còn diễn biến phức tạp. Công tác phối kết
hợp tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân nêu cao tinh
thần cảnh giác và giáo dục pháp luật trong nhân dân chưa đáp
ứng với yêu cầu phát triển nhanh của xã hội. Các vi phạm tệ nạn
xã hội, cờ bạc, ma túy, tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng sự
ý thức của người dân tham gia giao thông trong việc chấp hành
pháp luật chưa cao.
***
Từ năm 1994-2010, cấp ủy xã Phú Hữu trải qua hình thức
chi bộ lâm thời, phát triển thành Đảng bộ và 2 kỳ Đại hội Đảng
bộ dưới sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của chi ủy, sau đó là Đảng
ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã đạt được những kết quả rất
quan trọng các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng
- an ninh đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm
tiền đề để xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
278

28.9 Page 279

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước
được cải thiện; công tác chăm lo đối tượng chính sách, sức
khỏe nhân dân, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người dân
được quan tâm; cuộc vận động “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc” gắn với chương trình mục tiêu “4 giảm” (giảm ma túy,
tội phạm, mại dâm và tai nạn giao thông) đã góp phần kéo giảm
tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông trên địa bàn. Hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
ngày càng có nhiều tiến bộ, góp phần cùng Đảng bộ và chính
quyền giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội, ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường và
tập trung trên các mặt như giáo dục chính trị tư tưởng, công
tác tổ chức cán bộ, phát triển đảng viên, nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng. Nội bộ Ban Chấp hành Đảng bộ luôn đoàn kết, thống
nhất; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy
cao vai trò tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Trong giai đoạn 1994-2010, chi bộ, sau đó là Đảng bộ đã
tăng cường lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh nhằm phát
huy mọi nguồn lực địa phương phát triển kinh tế, ổn định chính
trị, an toàn xã hội, cũng cố quốc phòng - an ninh. Các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
279

28.10 Page 280

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
nước được Đảng bộ xã đưa vào cuộc sống, tăng cường hơn nữa
niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước, tạo tiền để
địa phương bước vào thời kỳ đẩy mạnh xây dựng nông thôn
mới góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo nông thôn ở
giai đoạn sau.
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


CHƯƠNG V
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
(2010-2020)
I. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG,
CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN, ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ
- XÃ HỘI
1. Các kỳ đại hội Đảng bộ
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần III (nhiệm kỳ 2010-2015)
diễn ra ngày 30-12-2009, có 121 đảng viên tham dự. Đại hội
bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm 7 đồng chí, Lê Văn Sang
giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ và Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Hồ Văn Thắng giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng bộ và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân; Lê Thanh Tùng giữ chức vụ Thường trực Đảng
ủy; Võ Thị Diệu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
Lê Hoàng Duẩn giữ chức vụ trưởng công an; Trương Quốc
Hùng giữ chức vụ chỉ huy trưởng quân sự; Nguyễn Thị Tám
giữ chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ; Bùi Văn Khỏe giữ chức vụ
Bí thư Đoàn Thanh niên; Nguyễn Ngọc Tuấn giữ chức vụ Chủ
tịch Mặt trận.
Đại hội Đảng bộ lần III xác định phương châm là phát huy
truyền thống anh hùng, tập trung trí tuệ phát huy, nắm bắt thời
281

29.2 Page 282

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
cơ thuận lợi vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Xã Phú Hữu tiếp tục thực
hiện mạnh mẽ cơ cấu kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ngang tầm với định hướng phát triển đô thị của huyện Nhơn
Trạch, chuẩn bị các điều kiện về vật chất để các đơn vị đầu tư
hình thành và phát triển các dự án đến năm 2015, đào tạo nhân
lực tại chỗ, thu hút nhân tài, nâng cao đời sống của người dân,
không ngừng học tập, xây dựng hệ thống chính trị của xã vững
mạnh ngang tầm với nhiệm vụ mới, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, chống các biểu hiện tiêu cực,
lãng phí, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội xác định các mục tiêu cụ thể, phấn đấu thực hiện giai
đoạn 2010-2015 theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, đến
năm 2015 nông nghiệp còn 50%, thương mại - dịch vụ 32%,
tiểu thủ công nghiệp 18%; tăng bình quân thu nhập hàng năm
13%, đến năm 2015 thu nhập đầu người 23 triệu đồng/người/
năm; hoàn thành đường bê tông 100% với 41 tuyến đường lớn
nhỏ chiều dài 3km; thu gom rác sinh hoạt đạt 80%; các tổ hợp
tác kinh tế và hợp tác xã đạt loại khá trở lên; thu ngân sách đạt
và vượt chỉ tiêu đề ra; huy động trẻ ra lớp hàng năm đạt 100%;
giải quyết việc làm cho 1.500 người; phấn đấu đến năm 2014
tỷ lệ hộ nghèo chiếm 0,9% so với số dân; tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên dưới 1%; giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống còn dưới
5%; giữ vững mục tiêu chương trình chuẩn quốc gia về y tế; tỷ
282

29.3 Page 283

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
lệ hộ dùng điện 100%, dùng nước hợp vệ sinh 98% (trong đó
sử dụng nước máy 80%), hố xí hợp vệ sinh 90% và 50% hộ sử
dụng điện thoại cố định; duy trì vững chắc chống mù chữ, phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tiếp tục hoàn thành
phổ cập giáo dục bậc trung học; giữ vững 4/4 ấp văn hoá, 100%
cơ quan văn hoá, phấn đấu đạt danh hiệu xã văn hoá; tuyển
quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu trên giao; đảm bảo ổn định
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống.
Công tác xây dựng Đảng, phấn đấu phát triển đảng viên đạt
98% trở lên, trừ đảng viên già yếu, miễn sinh hoạt, miễn công
tác; đoàn viên, hội viên đạt 75% được học tập; phấn đấu hàng
năm phát triển đảng viên mới từ 8-10% so với đảng viên đầu
năm; 100% chi bộ trực thuộc có nguồn trung kiên và phát triển
đảng viên đạt chỉ tiêu trên giao; phấn đấu hàng năm có 100% tổ
chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ, trên 85% tổ chức cơ
sở đảng “trong sạch vững mạnh”; có trên 97% đảng viên đủ tư
cách hoàn thành nhiệm vụ, Đảng bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ,
trong sạch vững mạnh.
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần IV (nhiệm kỳ 2015-2020)
diễn ra ngày 25-7-2015, có 129 đảng viên tham dự. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm 9 đồng chí, Nguyễn Bình
Nam giữ chức vụ Bí thư; Võ Thị Diệu giữ chức vụ Phó Bí thư
và Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Lê Thị Thanh Hồng giữ chức vụ
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Nguyễn Văn Điệp giữ chức vụ
trưởng công an; Trương Quốc Hùng giữ chức vụ chỉ huy trưởng
283

29.4 Page 284

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
quân sự; Nguyễn Thị Tám giữ chức vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ;
Bùi Văn Khỏe giữ chức vụ Bí thư Đoàn Thanh niên; Phạm Văn
Nghiệp, sau sau đó là Bùi Văn Khỏe giữ chức vụ Chủ tịch Mặt
trận; Võ Thị Diệu giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
Đến năm 2020, Đảng bộ xã gồm có 8 chi bộ trực thuộc với
tổng số 180 đảng viên; trong đó, 4 chi bộ/4 ấp, 3 chi bộ Trường
học gồm Trung học cơ sở Dương Văn Thì; Trường Tiểu học
Phú Hữu; Trường Mầm non và 1 chi bộ quân sự; các chi bộ trực
thuộc đều đã có ban Chi ủy với số lượng 24 đồng chí.
Đại hội Đảng bộ lần thứ IV xác định mục tiêu tổng quát là
xây dựng hệ thống chính trị của xã vững mạnh để hoàn thành
xây dựng nông thôn mới; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ
sở, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Địa phương phấn đấu
giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, đầu tư tăng dần tỷ trọng tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ. Xã Phú Hữu đẩy mạnh xây dựng mô
hình sản xuất gắn với phát triển dịch vụ để nâng cao giá trị thu
nhập và đảm bảo phát triển bền vững; nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt công
tác an sinh xã hội, công tác đền ơn đáp nghĩa; đảm bảo tình hình
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; huy động
và phát huy tốt hiệu quả các nguồn lực, tiếp tục xây dựng kết
cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân; phấn đấu
năm 2015 hoàn thành 19/19 tiêu chí và nâng dần chất lượng xã
nông thôn trong các năm tiếp theo.
284

29.5 Page 285

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đại hội tập trung phân tích tình thế giới, trong nước, tỉnh
Đồng Nai, huyện Nhơn Trạch kỹ lưỡng, xác định các chỉ tiêu
phấn đấu, thu nhập bình quân đầu người đạt 38 triệu đồng vào
cuối năm 2015; tăng dần 10% trở lên trong mỗi năm, phấn đấu
đến cuối năm 2020 đạt 58 triệu đồng/người/năm; các tổ hợp tác
kinh tế và hợp tác xã đạt loại khá trở lên; đến năm 2020 xây
dựng xong 12 con đường giao thông nông thôn, 15 nhánh sông
rạch nước ngọt; tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải đạt 100%, trong
đó tỷ lệ đăng ký thu gom đạt trên 98%; rác thải y tế được thu
gom xử lý 100%; rác thải nguy hại đúng quy định 100%; hoàn
thành và nâng cao chất lượng xây dựng xã nông thôn mới theo
các tiêu chí của tỉnh.
Về văn hóa xã hội, xác định chỉ tiêu phấn đấu tăng dân số tự
nhiên dưới 1%; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi thể
cân nặng theo tuổi còn dưới 7%, suy dinh dưỡng thể chiều cao
theo tuổi là 16,5%; đảm bảo công tác chăm lo gia đình chính
sách, các chính sách an sinh xã hội, thực hiện tốt công tác giảm
nghèo bền vững; giải quyết việc làm cho 1.600 người; đào tạo
lao động nông thôn hàng năm từ 1-2 lớp; lao động qua đào tạo
đạt trên 65%; phấn đấu hàng năm giảm 30% tổng số hộ nghèo,
đến năm 2020 giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 0,5% theo chuẩn
nghèo quy định tại Nghị quyết số 126/NQ-HĐND của Hội
đồng nhân dân tỉnh về chuẩn hộ nghèo, chuẩn cận hộ nghèo
và chính sách hỗ trợ đối với hộ mới thoát nghèo tỉnh Đồng Nai
giai đoạn 2015-2020; đảm bảo huy động học sinh trong độ tuổi
ra lớp 100%; giáo viên 100% đạt trình độ chuẩn; hàng năm tỷ
285

29.6 Page 286

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
lệ tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 100%; duy trì công tác chống
mù chữ, phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục
tiểu học và trung học cơ sở, tiếp tục hoàn thành phổ cập giáo
dục bậc trung học; giữ vững 4/4 ấp văn hoá, 100% cơ quan văn
hoá, phấn đấu đạt danh hiệu xã văn hoá; số người tham gia rèn
luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 31%; tỷ lệ hộ dùng
điện 100%, dùng nước hợp vệ sinh 100% (trong đó sử dụng
nước máy 80%), trên 95% hộ có hố xí hợp vệ sinh; 100% hộ sử
dụng điện thoại; nhà kiên cố 70% và bán kiên cố 30%.
Công tác quốc phòng - an ninh, tư pháp, hộ tịch đạt kết quả
tốt, phấn đấu tuyển quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu trên giao;
đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong
mọi tình huống, không để xảy ra các đột biến, bất ngờ; giải
quyết đơn đạt từ 95% trở lên.
Công tác dân vận, xây dựng Đảng phấn đấu đảm bảo tỷ lệ
tập hợp đoàn viên, hội viên trên 85% so với số người trong độ
tuổi tham gia vào tổ chức các đoàn thể chính trị - xã hội; Đoàn
Thanh niên tập hợp vào Đoàn trên 65% so với thanh niên trong
độ tuổi vào Đoàn; Hội Liên hiệp Thanh niên tập hợp trên 85%
thanh niên trong độ tuổi; đảm bảo đoàn viên, hội viên tham
gia sinh hoạt thường xuyên và tham gia công tác phải đạt trên
80%; tỷ lệ đoàn viên, hội viên nòng cốt trong các đoàn thể
chính trị - xã hội đạt trên 45%; tỷ lệ đánh giá hàng năm các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội đạt danh hiệu vững mạnh trên
85%; phấn đấu đảng viên học tập chỉ thị, nghị quyết đạt 99%
trở lên (trừ đảng viên già yếu, miễn sinh hoạt); phấn đấu tỷ lệ
286

29.7 Page 287

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
kết nạp đảng viên mới đạt chỉ tiêu huyện giao và 100% chi bộ
trực thuộc có nguồn trung kiên phát triển được đảng viên mới;
đảm bảo 100% chi bộ có nguồn trung kiên phát triển đảng viên
hàng năm; đảm bảo 100% chi bộ trực thuộc có chi ủy; phấn đấu
hàng năm 100% chi bộ đảng trực thuộc hoàn thành tốt nhiệm
vụ; trong đó, trên 85% đạt “trong sạch vững mạnh”; trên 97%
đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ; 100% đảng viên
đăng ký và thực hiện tốt quy chế nêu gương; trong đó, 100%
cấp trưởng thực hiện tốt việc nêu gương; Đảng bộ hoàn thành
tốt nhiệm vụ, đạt trong sạch vững mạnh.
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần V (nhiệm kỳ 2020-2025)
diễn ra ngày 30-6-2020, có 180 đảng viên tham dự. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ mới 9 đồng chí, Võ Thị Diệu giữ chức
vụ Bí thư và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, đến tháng 8-2021,
đồng chí Diệu thôi giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ; Huyện ủy Nhơn
Trạch điều động đồng chí Phan Chí Thảo về xã Phú Hữu giữ
chức vụ Bí thư Đảng bộ từ tháng 8-2021; Lê Thị Thanh Hồng
giữ chức vụ Phó Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân (2019-
2021), năm 2022 Lê Thanh Tùng giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban
nhân dân; Bùi Văn Khỏe và Võ Thanh Hoàng giữ chức vụ Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Trần Quốc Việt, sau đó Nguyễn
Trần Thanh giữ chức vụ trưởng công an; Trương Quốc Hùng
giữ chức vụ chỉ huy trưởng quân sự; Nguyễn Thị Tám giữ chức
vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ...
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần V xác định mục tiêu tổng
quát giai đoạn 2020-2025 là tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
287

29.8 Page 288

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị; phát huy dân chủ và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đảm bảo
quốc phòng - an ninh; tập trung huy động các nguồn lực, khai
thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
mới; nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân gắn với bảo vệ
môi trường; tạo ra những nhân tố, tiền đề quan trọng để sớm
đưa xã Phú Hữu hoàn thành xây dựng nông thôn mới nâng
cao, nông thôn mới kiểu mẫu, phát triển hạ tầng theo hướng
văn minh, hiện đại. Đại hội tiến hành thảo luận các chỉ tiêu
phấn đấu, biểu quyết thông qua các định hướng phát triển địa
phương giai đoạn 2020-2025 trên tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội,
quốc phòng - an ninh đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững của xã Phú Hữu.
2. Lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính
trị - xã hội vững mạnh
Đảng ủy xã thường xuyên, sâu sát, kịp thời lãnh đạo Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tập hợp mọi
tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức mặt trận đạt trên 84%,
quan tâm phát triển các thành viên dân tộc và tôn giáo. Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên
chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục tôn chỉ,
mục đích, điều lệ đối với đoàn viên, hội viên; qua đó, giúp họ
chủ động xây dựng các mô hình tự quản ở địa bàn phức tạp. Chị
em tham gia Hội Phụ nữ đạt tỷ lệ 94%, nông dân tham gia Hội
288

29.9 Page 289

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Nông dân đạt 90%, thanh niên tham gia Đoàn Thanh niên đạt
70%, thanh niên tham gia Hội Liên hiệp Thanh niên đạt 47%,
người cao tuổi tham gia Hội Người cao tuổi đạt 78%, bộ đội
xuất ngũ tham gia Hội Cựu chiến binh đạt 100%...
Hàng năm, Mặt trận Tổ quốc, các hội đoàn thể như Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... tổ chức vận
động cơ quan, doanh nghiệp được 2,8 tỷ đồng để giúp đỡ người
khuyết tật, hộ gia đình khó khăn ở địa phương. Hội Chữ thập đỏ
vận động nhân dân ủng hộ tiền, vật chất để chăm lo các gia đình
chính sách, người nghèo; giới thiệu người dân bệnh tật về mắt
để được mổ mắt nhân đạo miễn phí, cấp xe lăn người khuyết
tật; phối hợp mặt trận, y tế vận động xây dựng nhà tình thương,
cấp phát thuốc miễn phí cho hàng trăm người dân trên địa bàn
xã với kinh phí 9,8 tỷ đồng.
Đảng ủy xã không ngừng lãnh đạo công tác dân vận trong
tình hình mới. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
phát huy, từng bước tập hợp quần chúng tham gia vào tổ chức;
phát triển thực lực đoàn viên, hội viên. Vai trò tham mưu, làm
nòng cốt của khối vận, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội
về công tác dân vận của Đảng được phát huy; tạo chuyển biến
mới về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, nhất
là từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày
3-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về “tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân
vận trong tình hình mới”. Công tác dân vận chính quyền gắn với
289

29.10 Page 290

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở được quan tâm thực hiện1
Nghị định số 149/2018/NĐ-CP, ngày 7-11-2018 của Chính phủ
“về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc”; cùng
với việc tổ chức triển khai thực hiện các quyết định của Tỉnh ủy
về “Quy chế đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu các cấp ủy
Đảng, người đứng đầu chính quyền các cấp trong tỉnh với nhân
dân” đạt kết quả tốt2; tổ chức 34 buổi tiếp xúc cử tri với đại biểu
Hội đồng nhân dân 3 cấp và đại biểu Quốc hội với 1.689 lượt
cư tri tham dự, đóng góp 517 kiến nghị. Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội phối hợp tổ chức góp ý, lấy phiếu tín
nhiệm cho các đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân đạt
kết quả tín nhiệm từ 86-93%.
Các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực triển khai thực hiện
chỉ đạo của Huyện ủy Nhơn Trạch về tổ chức các hoạt động
thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (XI), Chỉ thị
1  Theo Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH, ngày 20-4-2007 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội “về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”; Nghị định số
04/2015/NĐ-CP, ngày 9-1-2015 của Chính phủ “về thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”.
2  Quyết định số 728-QĐ/TU, ngày 12-9-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
“Quy chế đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu các cấp ủy Đảng, người đứng
đầu chính quyền các cấp trong tỉnh với nhân dân”; Quyết định số 729-QĐ/TU,
ngày 12-9-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Quy định trách nhiệm của cấp
ủy, tổ chức Đảng, chính quyền tiếp thu ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền”; Quyết định số 801-QĐ/TU, ngày 14-10-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về “Quy định thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh”.
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (XII) về “đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Ban
Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo thực hiện phong trào
xây dựng gương “người tốt, việc tốt” điển hình tiên tiến huyện
Nhơn Trạch năm 2015 và những năm tiếp theo. Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức các mô hình học
tập và làm theo Bác thiết thực, hiệu quả, tạo sức lan tỏa lớn
trong cộng đồng như: Hội Phụ nữ với “Phong trào phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”;
“tổ phụ nữ góp vốn xoay vòng” cho hội viên phụ nữ mượn vốn
để sản xuất, ổn định kinh tế gia đình. Xây dựng và duy trì câu
lạc bộ như câu lạc bộ gia đình “5 không 3 sạch”; Hội Nông dân
với “Phong trào nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi”, “Phong
trào Nông dân tham gia xây dựng Nông thôn mới”. Đoàn Thanh
niên với các hoạt động tình nguyện, an sinh xã hội như tham
gia dọn vệ sinh, sơn sửa lại nhà, thăm hỏi, tặng quà các gia đình
chính sách, chăm lo học sinh nghèo, hộ nghèo, cận nghèo, gia
đình khó khăn, xây cầu dân sinh... Phong trào chung tay xây
dựng nông thôn mới nâng cao, các hoạt động ngày thứ Bảy tình
nguyện, ngày Chủ nhật xanh với các nội dung như tham gia
phát quang các tuyến đường, dọn vệ sinh môi trường, thu gom
rác thải; phong trào “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”. Hội
Cựu chiến binh với “Phong trào hội Cựu chiến binh tham gia
bảo vệ giữ gìn trật tự an toàn xã hội”; “Hội viên gương mẫu,
phát triển sản xuất kinh doanh giỏi”, giúp hội viên khó khăn
phát triển kinh tế đạt hiệu quả.
291

30.2 Page 292

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Công tác tôn giáo, dân tộc được địa phương quan tâm thực
hiện; Đảng ủy tổ chức triển khai, quán triệt Luật số 02/2016/
QH14, ngày 18-11-2016 của Quốc hội về “Luật tín ngưỡng,
tôn giáo”, và đặc biệt là triển khai thực hiện Hướng dẫn số 05-
HD/BDVHU của Ban Dân vận Huyện ủy về “xây dựng cốt cán
phong trào trong tôn giáo”1, thực hiện chính sách tự do bình
đẳng tôn giáo, dân tộc, qua đó tình hình an ninh tôn giáo trên
địa bàn xã được giữ vững ổn định.
Công tác dân vận của Đảng, chính quyền được đổi mới, có
nhiều chuyển biến tích cực, đi vào chiều sâu. Người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền thực hiện tốt công tác đối thoại với nhân
dân, công khai các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
xã giai đoạn 2010-2015, tổ chức 10 cuộc đối thoại trực tiếp tại
4 ấp với hơn 90 ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp đối với
địa phương về các tuyến đường đèn chiếu sáng ngõ hẻm, đường
nhánh nước ngọt liên ấp Câu Kê và Cát Lái, đường Thành Hòa
ấp Phước Lương, mương thoát nước ở ấp Phước Lương và các
nhánh nước ngọt ấp Rạch Bảy.
Các ý kiến của nhân được Đảng ủy đã chỉ đạo các ngành có
liên quan của xã giải quyết dứt điểm cho nhân dân, cụ thể nổi
bật là vấn đề nước sinh hoạt, đường giao thông nông thôn và
1  Được cụ thể hóa từ Kết luận số 27-KL/TU, ngày 5-8-2013 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về Đề án “Xây dựng cốt cán phong trào trong tôn giáo”; Kế hoạch số
138-KH/TU, ngày 3-4-2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Đề án
“Xây dựng cốt cán phong trào trong tôn giáo”.
292

30.3 Page 293

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
lắp đèn chiếu sáng, đường Thành Hòa và mương thoát nước ấp
Phước Lương đến nay đã hoàn thành.
Công tác giám sát, phản biện xã hội đối với các vấn đề liên
quan đến đời sống nhân dân luôn được Đảng ủy xã quan tâm
chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Hàng năm, Đảng ủy xã xây dựng
kế hoạch “tổ chức đối thoại trực tiếp giữa Bí thư Đảng ủy với
Nhân dân trên địa bàn xã” được 12 lượt trên địa bàn 4 ấp với
506 người dự. Qua đối thoại, người đứng của xã kịp thời lắng
nghe những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Ban Thường vụ Đảng ủy kịp thời chỉ đạo các ngành có liên
quan triển khai thực hiện tốt những ý kiến, kiến nghị của quần
chúng nhân dân có hiệu quả.
3. Lãnh đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
* Công tác chính trị tư tưởng
Ban Chấp hành Đảng bộ xã xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Đảng bộ tập
trung quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng đến
cán bộ, đảng viên. Toàn Đảng bộ trên 98% cán bộ, đảng viên,
lực lượng vũ trang, công chức, viên chức; 85% đoàn viên, hội
viên và nhân dân học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng bằng nhiều hình thức thích hợp, từ đó tạo sự thống nhất
cao về chính trị tư tưởng trong toàn Đảng bộ.
Đảng bộ xã xác định sự lãnh đạo công tác tư tưởng giữ
vai trò rất quan trọng đối với xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm
ổn định hệ thống chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội,
293

30.4 Page 294

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
quốc phòng - an ninh ở địa phương. Công tác triển khai, thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng1, của Tỉnh ủy2
và Huyện ủy Nhơn Trạch được Đảng bộ xã chú trọng thường
xuyên, kịp thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
1  Chị thị số 23-CT/TW, ngày 27-3-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về
đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn mới”; Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị về tổ chức
cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị
quyết số 22-NQ/TW, ngày 2-2-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quy định số
101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Chỉ thị số
05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-
2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) “về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai
trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 109-QĐ/TW, ngày 3-1-2018
của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-
QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy
viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 214-QĐ/TW,
ngày 2-2-2018 của Ban Chấp hành Trung ương “Quy định về giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán
bộ, đảng viên”.
2  Kết luận số 34-KL/TU, ngày 7-7-2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Đề
án “Nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành trong Đảng bộ tỉnh”; Quy định số 30-
QĐi/TU, ngày 5-7-2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh”.
294

30.5 Page 295

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Đảng bộ, phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân, tăng cường kỷ cương, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị,
xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch từ xã đến ấp và
tổ nhân dân, đoàn kết - năng động - sáng tạo. Trong đó, duy trì
100% cán bộ, đảng viên, công chức xã, ấp đăng ký và thực hiện
việc nêu gương theo cuộc vận động “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với đăng ký nêu
gương theo từng nhiệm vụ cụ thể. Xã đưa việc “Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành
hoạt động sinh hoạt chính trị thường xuyên, sâu rộng trong toàn
Đảng bộ. Ban Thường vụ Đảng ủy đã chỉ đạo triển khai thực
hiện “sổ đăng ký học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” nhằm giúp cán bộ, đảng viên tự giác rèn
luyện, nêu gương trên mọi lĩnh vực. Thực hiện theo Hướng
dẫn số 35-HD/BTGHU, ngày 26-2-2018 của Ban Tuyên giáo
Huyện ủy Nhơn Trạch về việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Ban Chấp hành
Đảng bộ xã đã tổ chức triển khai trong toàn Đảng bộ, đến năm
2020, có 30/30 cán bộ chủ chốt thực hiện đăng ký nêu gương đạt
100%; 167/172 đảng viên đang sinh hoạt đăng ký nêu gương,
đạt 100% (5 đồng chí đảng viên cao tuổi được miễn sinh hoạt)
và cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên cốt cán
(chưa là đảng viên) đăng ký thực hiện. Qua đánh giá hàng năm,
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
295

30.6 Page 296

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Quy chế nêu gương đã tạo
được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động
của cán bộ, đảng viên. Hầu hết cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ chủ chốt từ xã đến ấp đều đã tự giác thực hiện tốt việc nêu
gương, tu dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, nêu cao tinh thần trách nhiệm,
tận tụy phục vụ nhân dân; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm; các hoạt động nêu gương về sáng tạo, hiệu quả, phấn
đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được phát huy mạnh mẽ ở hầu hết
các cơ quan, đơn vị; nhiều khuyết điểm của các tổ chức đảng và
đảng viên đã được khắc phục; gương điển hình học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt xuất hiện ngày càng nhiều,
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên, nâng cao chất lượng
phục vụ nhân dân, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
Đảng ủy xã luôn quan tâm quán triệt đến cán bộ, đảng viên
và nhân dân đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh với
mọi luận điệu xuyên tạc, kích động, chia rẽ, âm mưu “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch, giúp cán bộ, đảng viên, lực
lượng vũ trang, công chức, viên chức và nhân dân tin tưởng
tuyệt đối vào chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng ủy chú trọng bồi dưỡng
nghiệp vụ đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; thường
xuyên củng cố lực lượng nòng cốt thực hiện công tác tuyên
296

30.7 Page 297

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
truyền, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tư tưởng (tỷ lệ đảng
viên tham gia học tập nghị quyết đạt trên 95%, đoàn viên, hội
viên và nhân dân đạt trên 85%); qua đó, việc nêu gương của cán
bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, đoàn
viên, hội viên ngày càng có tác dụng tích cực và đi vào chiều
sâu, trở thành nề nếp sinh hoạt chính trị của cấp ủy ở cơ quan,
đơn vị. Thông qua việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với các mô hình hay, cách làm hiệu
quả như mô hình “Vận động nhân dân tham gia xây dựng nông
thôn mới”; mô hình “Vận động nhân dân tham gia phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc”; mô hình bảo vệ môi trường “5 không,
3 sạch”; mô hình “phòng, chống bạo lực gia đình; mô hình thực
hiện nếp sống văn minh, không sinh con thứ 3”...
Năm 2020, toàn Đảng bộ xã có 180 đảng viên, tăng 51 đảng
viên so với năm 2015 (năm 2015 có 129 đảng viên), đa số đảng
viên đều thể hiện rõ lập trường, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, luôn nêu cao tinh
thần khắc phục khó khăn, tận tụy, phát huy tính tiên phong
gương mẫu, có phẩm chất đạo đức tốt, làm nòng cốt và lãnh
đạo quần chúng trong sự nghiệp đổi mới. Kết quả đánh giá chất
lượng đảng viên hàng năm, đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt
nhiệm vụ trở lên đạt trên 86%. Công tác phát triển đảng viên
được chú trọng, hàng năm đều đạt nghị quyết đề ra, trong giai
đoạn 2015-2020 đã tổ chức kết nạp được 51 đảng viên mới.
297

30.8 Page 298

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Đảng bộ xã quan tâm, phối hợp thực hiện tốt Quy định số
76-QĐ/TW, ngày 15-6-2000 của Bộ Chính trị “về việc đảng
viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở
và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”, sau đó
là Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020 của Bộ Chính trị
(khóa XII) “về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường
xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”,
hầu hết đảng viên đã nhận thức vai trò, trách nhiệm của mình;
từ đó, mỗi đảng viên thực hiện tốt mối quan hệ với cấp ủy nơi
cư trú về thực hiện nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước và các
quy định của địa phương; góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, chính quyền địa phương ngày càng gắn bó
chặt chẽ hơn.
Tuy nhiên, việc quán triệt, triển khai thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết, quy định của Đảng ở một số chi bộ còn hạn chế.
Một số đảng viên chưa thật sự tự giác trong việc học tập lý luận
chính trị, chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng; có đồng chí
Ủy viên Ban Chấp hành được phân công phụ trách chi bộ trực
thuộc nhưng chưa thường xuyên sâu sát, tham gia sinh hoạt
định kỳ cùng chi bộ để nắm bắt tình tình hoạt động của chi bộ
và tâm tư, nguyện vọng của đảng viên. Kết quả hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể có lúc còn hạn chế,
298

30.9 Page 299

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
các hình thức hoạt động còn chung chung, chưa đủ sức hấp dẫn
để thu hút người dân tham gia.
* Về công tác tổ chức cán bộ
Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Ban Thường
vụ Huyện ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy Nhơn Trạch nên công tác
tổ chức cán bộ, sắp xếp bộ máy của xã từng bước đi vào nề nếp,
thực hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ của cấp trên giao.
Đảng bộ xã lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ trẻ tạo nguồn kế cận
về sau, kết nạp 51 đảng viên mới; Đảng ủy đã cử 15 đồng chí
tham gia đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính, tạo
điều kiện để 14 người tham gia các lớp đại học chuyên ngành
kế toán, luật, công nghệ thông tin... đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
tại địa phương.
Giai đoạn 2015-2020, Ban Thường vụ Đảng ủy tiến hành
rà soát, bổ sung vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhiệm
kỳ 2020-2025 đúng theo hướng dẫn của Ban Thường vụ Huyện
ủy Nhơn Trạch “về việc sửa đổi bổ sung một số nội dung về
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, nhiệm kỳ 2020-2025”.
Ban Thường vụ Đảng ủy đã chọn những đồng chí đủ trình độ,
năng lực và độ tuổi để bổ sung vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý, nhiệm kỳ 2020-2025 thay thế những đồng chí đã đưa
ra khỏi quy hoạch để đảm bảo đúng cơ cấu và số lượng theo
quy định.
299

30.10 Page 300

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Hàng năm, Ban Thường vụ Đảng ủy tiến hành rà soát về
tiêu chuẩn đối với cán bộ nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý, nhiệm kỳ 2020-2025 theo Quyết định số 39/2015/QĐ-
UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Đảng ủy xã có Tờ
trình số 19-TTr/ĐU, ngày 13-10-2017 “về việc kiến nghị cử
cán bộ thuộc diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhiệm
kỳ 2020-2025 đi đào tạo” gửi đến Huyện ủy xem xét cử cán bộ
nguồn quy hoạch tham gia đào tạo để đảm bảo đủ về trình độ
chuyên môn và chính trị. Thực hiện theo văn bản của Huyện
ủy, Đảng ủy xã cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia học
tập các lớp: trung cấp lý luận chính trị, lớp bồi dưỡng kiến
thức Nhà nước, lớp đảng viên mới và lớp nhận thức về Đảng...
Thực hiện Công văn số 372-CV/BTC ngày 19-3-2019 của Ban
Tổ chức Huyện ủy Nhơn Trạch về việc tổ chức sưu tra đối với
cán bộ thuộc diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm
kỳ 2020-2025, Ban Thường vụ Đảng ủy đã triển khai đến các
đồng chí thuộc diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm
kỳ 2020-2025 thực hiện kê khai bổ sung lý lịch và gửi xác minh
theo quy định.
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của
Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Đảng ủy xã xây dựng
kế hoạch và thực hiện bố trí tinh gọn đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng yêu cầu mới của địa phương. Ban Thường vụ Đảng
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
ủy xã đã giải thể chi bộ cơ quan và chi bộ Công an xã, đồng
thời chuyển các đồng chí đảng viên đang sinh hoạt tại 2 chi bộ
này về sinh hoạt tại các chi bộ ấp, sắp xếp 10 chi bộ trực thuộc
xuống còn 8 chi bộ, tất cả các chi bộ đều có Ban chi ủy. Chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng trong
Đảng bộ không ngừng được nâng lên, phát huy vai trò hạt nhân
chính trị ở từng ấp, cơ quan, đơn vị. Qua đánh giá, tỷ lệ tổ chức
cơ sở đảng trong sạch vững mạnh bình quân đạt 90% và tỷ lệ
đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên bình quân
đạt trên 90%, trong đó đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ bình quân chiếm 11,7%; tỷ lệ cán bộ chủ chốt về
chuyên môn đạt chuẩn 100%; 100% tỷ lệ cán bộ chủ chốt và
chuyên trách của xã đạt chuẩn về chính trị; 100% tỷ lệ cán bộ
chuyên trách đạt chuẩn về chuyên môn; 100% tỷ lệ công chức
của xã đạt chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ; 100% tỷ lệ công
chức của xã đạt chuẩn về chính trị.
Tuy nhiên, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
đạt chuẩn theo quy định nhưng còn khó khăn, chưa đáp ứng
được nhu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, công tác phát triển
đảng viên còn khó khăn về tạo nguồn trung kiên, nhất là ở các
chi bộ ấp.
* Công tác kiểm tra giám sát và kỷ luật
Đảng ủy xã chú trọng đổi mới, tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên, góp phần giữ gìn đoàn
301

31.2 Page 302

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
kết thống nhất trong Đảng. Công tác triển khai, quán triệt các
quy định của Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, kỷ luật trong
Đảng được kịp thời, thường xuyên. Công tác này luôn có trọng
tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng
và đảng viên về thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận
của Đảng, nhất là việc triển khai thực hiện kiểm điểm tự phê
bình và phê bình đối với cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.
Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy, Ủy ban kiểm tra Đảng ủy đã tổ
chức kiểm tra, giám sát được 13 đợt, tổ chức đảng cấp dưới và
cấp ủy viên cùng cấp, đảng viên thuộc diện Đảng ủy quản lý;
9 đợt giám sát chuyên đề đối với 9 chi bộ trực thuộc. Ngoài ra,
các chi bộ trực thuộc tiến hành giám sát định kỳ 11 cuộc thông
qua sinh hoạt chi bộ hàng tháng. Qua kiểm tra, giám sát các
đơn vị đều thực hiện tốt các chỉ tiêu quan trọng mà Nghị quyết
Đảng bộ hàng năm đề ra, đã kịp thời nhắc nhở, uốn nắn những
thiếu sót, hạn chế của các tập thể, cá nhân trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được giao; đồng thời, giúp các chi bộ, đảng viên
302

31.3 Page 303

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
được giám sát phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn
chế, tồn tại để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Trong giai
đoạn 2010-2020, Đảng ủy xã đã xử lý kỷ luật 8 trường hợp với
các hình thức từ khiển trách đến khai trừ ra khỏi Đảng.
* Công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI, XII)
Đảng bộ xã đã nghiêm túc tổ chức thực hiện việc kiểm điểm
tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ, tập trung khắc
phục sau kiểm điểm đạt được những kết quả quan trọng.
Trên lĩnh vực công tác chính trị tư tưởng, thường xuyên
phê bình, kiểm điểm, giáo dục đảng viên thiếu tinh thần tự giác
trong học tập các chỉ thị, nghị quyết, quy định, kết luận của
Đảng; định kỳ tổ chức các đợt sinh hoạt tư tưởng, chính trị
trong cơ quan, đơn vị. Các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện
tốt Chỉ thị số 03-CT/TW, Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” gắn với Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng “về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”;
Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành
Trung ương “về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương” và Quy định số 30-QĐi/TU, ngày
5-7-2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Trách nhiệm nêu
303

31.4 Page 304

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường
vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh”; Quy định
số 08-QĐ/TU, ngày 11-10-2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
về “Thực hiện văn hóa trong Đảng tại Đảng bộ tỉnh Đồng Nai”.
Thực hiện hiệu quả việc “học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” với các chuyên đề hàng năm
gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cuộc vận động
được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng bộ và nhân dân, kết
quả tổ chức triển khai học tập đến 100% cán bộ, đảng viên và
trên 85% đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. Đảng
ủy xã triển khai đến các tập thể, cá nhân đăng ký nội dung học
tập, làm theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện việc
mỗi cán bộ, đảng viên kể chuyện dưới cờ vào sáng thứ 2 hàng
tuần, và ghi chép sổ tay công việc được thực hiện nghiêm túc.
Qua học tập và làm theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, hầu hết
cán bộ, đảng viên, nhân dân đều đồng tình hưởng ứng, tích cực
công tác, học tập, lao động, sản xuất. Trên địa bàn toàn xã đã
xuất hiện hàng trăm gương điển hình tiên tiến trong học tập và
làm theo Bác. Đảng ủy xã lãnh đạo thực hiện tốt quy chế nêu
gương, 100% cán bộ, đảng viên đăng ký nêu gương và cam kết
thực hiện làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hầu hết, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý đã
thể hiện tính tiên phong gương mẫu, đi đầu trong thực hiện mọi
nhiệm vụ được giao.
304

31.5 Page 305

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Đổi mới phương thức lãnh đạo, cải tiến lề lối làm việc
Đảng ủy xã, các chi bộ trực thuộc từng bước đổi mới
phương thức lãnh đạo và cải tiến lề lối làm việc trên nguyên tắc
tập trung dân chủ, mọi công việc của Đảng ủy đều được thảo
luận dân chủ, quyết định theo đa số. Đầu mỗi nhiệm kỳ, Đảng
ủy xây dựng và ban hành quy chế hoạt động toàn khóa, trong
đó phân công nhiệm vụ cụ thể từng đồng chí Ủy viên Ban chấp
hành Đảng bộ phụ trách trên từng lĩnh vực. Hàng năm, Đảng
ủy đều bổ sung quy chế làm việc phù hợp, cụ thể hóa thành
chương trình hành động theo từng năm, 6 tháng, quý và hàng
tháng để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương
đạt hiệu quả. Đảng bộ duy trì tốt chế độ họp Đảng ủy, họp Ban
Thường vụ, hội ý đầu tuần với thường trực Hội đồng nhân dân
- Ủy ban nhân dân - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, giao ban các chi
bộ trực thuộc với nội dung cụ thể, các đồng chí Đảng ủy viên
tăng cường xuống địa bàn để nắm bắt tình hình, trực tiếp chỉ
đạo để giải quyết công việc.
4. Xây dựng chính quyền liêm chính, hành động vì người
dân
Đảng ủy xã xác định xây dựng chính quyền vững mạnh,
liêm chính, hành động vì người dân là điều kiện tiên quyết để
củng cố, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước; đồng thời, đảm bảo công tác lãnh đạo quản lý của Nhà
nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở địa phương.
305

31.6 Page 306

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Đảng ủy xã tăng cường lãnh đạo cải cách thủ tục hành chính
theo hướng liên thông hiện đại, với bộ phận một cửa hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, lấy sự hài lòng của người dân làm tiêu chí
bình xét thi đua đối với cán bộ, công chức.
Đảng bộ lãnh đạo chính quyền xã xây dựng nền hành chính
dân chủ, minh bạch, chuyên nghiệp, từng bước hiện đại; sắp
xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có
năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân; tích
cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.
Xã có 21 cán bộ, công chức nằm trong biên chế; trong đó, 9
cán bộ chuyên trách và 12 công chức xã đạt chuẩn chuyên môn,
chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học và bồi dưỡng
theo chức danh vị trí việc làm đạt chuẩn theo quy định.
Xã xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ
phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Xây dựng và
phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số, góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh; nâng cao mức độ hài
lòng của người dân, doanh nghiệp, lấy sự hài lòng của người
dân, doanh nghiệp là mục tiêu phục vụ của cơ quan hành chính
nhà nước.
Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân từng bước
đi vào nề nếp, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đề ra
306

31.7 Page 307

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
phù hợp với mục tiêu của Đảng bộ và quy định của pháp luật
đáp ứng yêu cầu chính đáng của nhân dân. Công tác giám sát
việc thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân được tiến hành
thường xuyên, tổ chức tiếp xúc cử tri với đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp theo đúng luật định. Hoạt động của
Hội đồng nhân dân xã ngày càng phát huy có hiệu quả, thể hiện
là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước ở địa phương.
Giai đoạn 2015-2020, chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân tiếp tục được nâng cao, tổ chức 11 kỳ họp đúng theo
luật định (trong đó, 2 kỳ họp bất thường để miễn nhiệm đại biểu
Hội đồng nhân dân và bầu bổ sung nhân sự Chủ tịch và Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã). Bên cạnh đó, Hội đồng nhân
dân xã ban hành 62 nghị quyết chính thức về phát triển kinh tế,
xã hội, quốc phòng - an ninh và nghị quyết chuyên đề kịp thời,
phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Công tác giám
sát được tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, các vấn đề lớn
mà nhân dân bức xúc, quan tâm. Thường trực Hội đồng nhân
dân xã đã ra quyết định thành lập 20 đoàn khảo sát và giám sát
chuyên đề đối với các ngành chuyên môn Ủy ban nhân dân xã
như: Giao thông thủy lợi, địa chính, tư pháp hộ tịch, tài chính,
công an xã ... trong việc thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động tiếp
xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện ngày càng
khoa học, hiệu quả hơn, đảm bảo đại biểu lắng nghe được các
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cư tri. Hội đồng nhân dân
307

31.8 Page 308

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
xã đã tổ chức tiếp xúc cử tri được 96 lượt, có 1.920 cử tri tham
gia, trong đó có 195 ý kiến đóng góp được các ngành chuyên
môn của Ủy ban nhân dân tiếp thu và thực hiện nghiêm túc.
Thực hiện công tác tiếp dân của Thường trực và hai ban Hội
đồng nhân dân được thường xuyên vào ngày thứ sáu hàng tuần,
tổng cộng tiếp dân được 192 lượt (nhận được 2 đơn phản ánh
khiếu nại về tranh chấp đất và lấn chiếm mương thoát nước làm
ách tắc đường chảy, ảnh hưởng đến môi trường xung quanh,
đơn được chuyển đến Ủy ban nhân dân xã trả lời và giải quyết
kịp thời)... Các đại biểu Hội đồng nhân dân đã thực hiện, phát
huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người đại biểu Hội
đồng nhân dân của người dân.
Giai đoạn 2010-2020, Hội đồng nhân xã đã tổ chức 17 cuộc
khảo sát, giám sát trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội,
quốc phòng - an ninh, lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Hội đồng nhân dân bầu, tiếp xúc cử tri trước và sau
kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp, có ý kiến trên các lĩnh vực
đã được đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trả lời trực tiếp;
đồng thời, tiến hành thành công các kỳ họp Hội đồng nhân dân
theo luật định; bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân đã kịp thời giải
quyết, kiến nghị những vấn đề bức xúc của cử tri, chuyển các
ý kiến, kiến nghị của nhân dân đến với các cấp có thẩm quyền
xem xét giải quyết, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại
địa phương.
308

31.9 Page 309

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ngày càng được nâng
cao, công tác xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh
gắn với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí luôn được
quan tâm chỉ đạo. Ủy ban nhân dân xã đã tổ chức thực hiện đạt
và vượt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an
ninh đề ra hàng năm. Đội ngũ cán bộ, công chức của Ủy ban
nhân dân xã luôn đoàn kết, thể hiện tinh thần trách nhiệm trong
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao. Trong điều hành của
Ủy ban nhân dân xã luôn tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ,
“tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”; tranh thủ sự lãnh đạo
của Đảng, sự phối kết hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội đã trở thành điều kiện tiên quyết
để hoàn thành xây dựng nông thôn mới theo định hướng của
huyện Nhơn Trạch và tỉnh Đồng Nai.
Công tác cải cách thủ tục hành chính được chú trọng, xã
Phú Hữu thành lập mới văn phòng “một cửa” từ năm 2007,
phòng tiếp dân qua “đường dây nóng” tại bộ phận một cửa từ
xã xuống ấp để người dân có thể phản ảnh kịp thời về cơ quan
lãnh đạo, góp phần tuyên truyền và nâng cao nhận thức của
người dân. Địa phương thực hiện mô hình “một cửa liên thông
hiện đại” cấp xã để góp phần rút ngắn thời gian giải quyết thủ
tục hành chính cho người dân, minh bạch hóa hoạt động của bộ
máy hành chính, được nhân dân trên địa bàn đồng tình ủng hộ;
qua đó, cải thiện tốt mối quan hệ và cầu nối giữa cơ quan Đảng,
Nhà nước với tổ chức và công dân.
309

31.10 Page 310

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Việc tiếp nhận và trả kết quả trên 92.318 hồ sơ cho người
dân, tỷ lệ hồ sơ được giải quyết đúng hạn đạt trên 99%; phong
cách, thái độ phục vụ của cán bộ, công chức thực thi công vụ
luôn niềm nở, ân cần, vui vẻ, không gây khó dễ, phiền hà cho
nhân dân. Ủy ban nhân dân xã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
niêm yết công khai, đầy đủ bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của cấp xã, bộ hồ sơ mẫu, hướng dẫn thực
hiện thủ tục hành chính mức độ 3... gắn với thực hiện cơ chế
“một cửa, một cửa liên thông”, duy trì chế độ làm việc thêm giờ
vào sáng thứ 7 hàng tuần để kịp thời tiếp nhận và giải quyết các
thủ tục hành chính cho nhân dân. Mức độ hài lòng của người
dân đối với cán bộ, công chức xã đạt trên 99%, xã Phú Hữu
thực sự là chính quyền liêm chính, hành động vì người dân.
II. PHÁT HUY ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC THÚC
ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG
- AN NINH
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng Nông thôn
mới
Đảng ủy xã lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường công tác tuyên truyền,
vận động, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân cùng chung tay
giữ vững thành quả xây dựng nông thôn mới và tích cực xây
dựng nông thôn mới nâng cao.
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đều ban hành nghị
quyết thực hiện phát triển kinh tế, xã hội để lãnh đạo chính
quyền chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể xây dựng kế hoạch thực
hiện nhiệm vụ chính trị gắn với xây dựng nông thôn mới. Chính
quyền xã chú trọng công tác tuyên truyền, vận động cán bộ,
đảng viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, đoàn viên,
hội viên chung sức, đồng lòng xây dựng nông thôn mới đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Chính
quyền xã chủ động cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn do
huyện, tỉnh tổ chức về công tác khuyến nông như kỹ thuật sản
xuất nông nghiệp công nghệ cao, chăn nuôi hiệu quả...
Đảng bộ xã triển khai đầy đủ, kịp thời Nghị quyết số 26-
NQ/TW, ngày 5-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Kế hoạch số 97-KH/TU, ngày 29-12-2008 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh (khóa VIII), về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
Quyết định số 74/2008/QĐ-UBND, ngày 31-10-2008 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc phê duyệt Đề án xây dựng
nông thôn mới tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2008-2010 và tầm nhìn
đến năm 2015; Kế hoạch số 81-KH/HU, ngày 7-5-2009 của
Ban chấp hành Đảng bộ huyện Nhơn Trạch về “nông nghiệp,
nông dân, nông thôn”; Quyết định số 280-QĐ/HU, ngày 19-12-
2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nhơn Trạch về việc
ban hành Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn huyện Nhơn Trạch giai đoạn 2011-
2015 và định hướng đến năm 2020; Kế hoạch số 01/KH-BCĐ,
311

32.2 Page 312

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
ngày 10-2-2012 của Ban chỉ đạo nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và xây dựng nông thôn mới của huyện Nhơn Trạch về việc
xây dựng nông thôn mới huyện Nhơn Trạch giai đoạn 2011-
2015 và định hướng đến năm 2020; Quyết định số 5022/QĐ-
UBND, ngày 24-12-2012 của Ủy ban nhân dân huyện Nhơn
Trạch về việc phê duyệt: “Đề án xây dựng nông thôn mới xã
Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-
2020”1; Kế hoạch số 70/KH-UBND, ngày 11-4-2017 về việc
1  Quyết định số 3461/QĐ-UBND ngày 21-12-2010 của UBND tỉnh Đồng Nai về
việc ban hành bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Đồng Nai; Quyết định số 1527/QĐ-
UBND ngày 22-5-2013 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc sửa đổi, một số tiêu chí
trong bộ tiêu chí nông thôn mới tỉnh Đồng Nai, ban hành kèm theo Quyết định
số 3461/QĐ-UBND ngày 21-12-2010 của UBND tỉnh Đồng Nai; Quyết định số
2276/QĐ-UBND ngày 18-7-2013 của UBND tỉnh Đồng Nai về sửa đổi bổ sung
bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ban hành kèm
theo Quyết định số 3461/QĐ-UBND ngày 21-12-2010 của UBND tỉnh Đồng Nai.
Quyết định số 4466/QĐ-UBND ngày 26-12-2016 của UBND tỉnh Đồng Nai về
việc Ban hành bộ tiêu chí xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 tỉnh Đồng Nai;
Quyết định số 1753/QĐ-UBND ngày 23-5-2018 của UBND tỉnh Đồng Nai về
việc Ban hành Bộ tiêu chí xã nông thôn mới nâng cao tỉnh Đồng Nai giai đoạn
2016-2020; Hướng dẫn số 01/BCĐ-VPĐP ngày 1-3-2017 của Ban chỉ đạo Nông
nghiệp nông dân nông thôn và xây dựng nông thôn mới tỉnh Đồng Nai về việc
thực hiện các tiêu chí xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; Hướng dẫn số 83/
BCĐ-VPĐP ngày 6-7-2018 của Ban chỉ đạo Nông nghiệp nông dân nông thôn
và xây dựng nông thôn mới tỉnh Đồng Nai về việc thực hiện Bộ tiêu chí xã nông
thôn mới nâng cao tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016-2020.
Quyết định 3671/QĐ-UBND ngày 28-9-2010 của UBND huyện về việc phê
duyệt Đề án xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện giai đoạn 2010-2015 và
định hướng đến năm 2020; Quyết định số 1064/QĐ-UBND ngày 8-4-2013 của
UBND huyện Nhơn Trạch về phê duyệt “Nhiệm vụ quy hoạch xây dựng Nông
thôn mới xã Phú Hữu huyện Nhơn Trạch”; Quyết định số 2685/QĐ-UBND ngày
29-8-2013 của UBND huyện Nhơn Trạch về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng
nông thôn mới xã Phú Hữu huyện Nhơn Trạch.
312

32.3 Page 313

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao tại xã
Phú Hữu năm 2017.
Đảng ủy xã ban hành Quyết định số 69-QĐ/ĐU, ngày 10-
5-2012 về “phê duyệt và ban hành chương trình phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015; Quyết
định số 303-304-305-306/QĐ-UBND, ngày 12-10-2011 của Ủy
ban nhân dân xã Phú Hữu về việc thành lập Ban vận động (Ban
phát triển) xây dựng nông thôn mới trên địa bàn 4 ấp xã Phú
Hữu; Nghị quyết số 44/NQ-ĐU, ngày 27-12-2013 của Đảng
ủy xã về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm
2014; Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu ban hành Kế hoạch số 47/
KH-BQL, ngày 22-5-2015 về hoàn thành xây dựng nông thôn
mới năm 2015; Nghị quyết số 22-NQ/ĐU, ngày 10-2-2017 của
Đảng ủy xã về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp năm 2017; Nghị
quyết số 37-NQ/ĐU, ngày 29-9-2017 về việc tăng cường sự
lãnh đạo của các chi bộ trực thuộc trong việc thực hiện 19 tiêu
chí nông thôn mới kiểu mẫu; Kế hoạch số 37/KH-UBND, ngày
11-4-2017 của Ủy ban nhân dân xã về việc triển khai thực hiện
xây dựng nông thôn mới nâng cao tại xã Phú Hữu; Quyết định
số 139/QĐ-UBND, ngày 18-10-2017 của Ủy ban nhân dân xã
về việc kiện toàn Ban chỉ đạo Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; Quyết
định số 140-141-142-143/QĐ-UBND, ngày 23-10-2017 của
Ủy ban nhân dân xã về việc củng cố thành lập Ban vận động
313

32.4 Page 314

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
(Ban phát triển) xây dựng nông thôn mới trên địa bàn 4 ấp xã
Phú Hữu.
* Đối với sản xuất nông nghiệp
Công tác tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới được
Đảng ủy xã lãnh đạo chính quyền thực hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau. Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã đã tổ chức học
tập 553 lượt, với trên 15.500 lượt cán bộ, đảng viên và nhân
dân tham dự; phát 6.500 tờ rơi, tổ chức lồng ghép tuyên truyền
phổ biến trong sinh hoạt của các đoàn thể, tổ nhân dân và trên
hệ thống truyền thanh của xã nhằm tạo sự chuyển biến về nhận
thức, hành động trong hệ thống chính trị và nhân dân về quan
điểm, chủ trương của Đảng về “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn”.
Ngoài công tác tuyên truyền trực tiếp, địa phương tổ chức
tuyên truyền bằng nhiều hình thức khác như băng rôn trên
1.000m, trên 50m2 panô...; tổ chức tuyên truyền trên đài truyền
thanh của xã và thông tin lưu động với gần 300 giờ, phối hợp tổ
chức 3 buổi biểu diễn văn nghệ tuyên truyền về xây dựng nông
thôn mới.
Xã tổ chức17 lớp tập huấn, đào tạo cán bộ xây dựng nông
thôn mới với 140 lượt cán bộ Ban chỉ đạo, 4 ấp tham gia. Nội
dung tập huấn về công tác tuyên truyền, vận động, quy trình lấy
ý kiến người dân, công tác lập Đề án “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”; kỹ thuật chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh trên cây
314

32.5 Page 315

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
trồng, vật nuôi; các buổi hội thảo về phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật, các giống mới năng suất cao; qua đó, người dân chủ
động học hỏi, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn làm
cơ sở để mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, mang lại giá trị
kinh tế cao.
Về trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp phát triển
toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa và ngành nghề dịch
vụ. Giai đoạn 2010-2015, tổng diện tích đất nông nghiệp
1.050/1.300 ha; diện tích gieo trồng hàng năm đạt 900ha; vòng
quay của đất đạt 1,25 lần. Diện tích cây lương thực 850/900 ha
(gồm lúa một vụ 650ha, hè thu 200ha) đạt 94%, sản lượng hàng
năm đạt gần 4.000 tấn, năng suất bình quân đạt 4,2 tấn/ha, thấp
hơn so với nghị quyết là 5 tấn/ha, đủ đảm bảo cân đối lương
thực tại chỗ cho người dân. Diện tích cây công nghiệp 340/320
ha, đạt 106% so với nghị quyết. Xã xây dựng cánh đồng mẫu
rộng 5ha gieo trồng giống lúa mới, năng suất đạt 4 tấn/ha.
Từ năm 2015-2020, xã tổ chức vận động nhân dân đẩy
mạnh sản xuất cùng với sự hỗ trợ của tỉnh và huyện trong xây
dựng nông thôn mới với các biện pháp như thăm đồng để phát
hiện và ngăn chặn kịp thời các loại sâu bệnh trên cây trồng, tổ
chức 17 lớp tập huấn về cây, con giống mới, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất cao, đầu tư vốn
kịp thời nên thúc đẩy sản xuất phát triển. Tổng diện tích gieo
trồng là 5.270ha/5.100ha (đạt 103%); hệ số sử dụng đất là 1,03
lần; diện tích cây mía là 1.230ha, năng suất bình quân 70 tấn/
315

32.6 Page 316

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
ha, diện tích cây lúa là 3.730ha, năng suất bình quân 3,6 tấn/ha;
diện tích cây sả và rau màu các loại, chủ yếu cây sả 300ha, cây
dừa và các cây trồng khác 10 ha đáp ứng nhu cầu nâng cao giá
trị kinh tế sản xuất nông nghiệp.
Đến năm 2015, chăn nuôi thủy sản của xã tập trung ở ấp
Rạch Bảy 6ha. Số lượng gia cầm hàng năm bình quân 10.000
con; đàn heo phát triển hàng năm bình quân gần 2.250 con,
giảm 50%. Năm 2020, ngành chăn nuôi của xã chủ yếu thực
hiện nhỏ lẻ, ở quy mô hộ gia đình. Tuy nhiên, đàn gia cầm hàng
năm đều phát triển chủ yếu bằng hình thức thả đồng sau thu
hoạch lúa nên ít tốn thức ăn. Năm 2019, dịch tả heo châu Phi
làm thiệt hại 26 con với tổng số tiền 36 triệu đồng. Diện tích
nuôi trồng thủy sản của xã 26ha, chủ yếu nuôi tôm thẻ chân
trắng, tăng 4ha so với năm 2015. Trên địa bàn xã nhân rộng mô
hình nuôi tôm công nghệ cao, giá trị sản phẩm thu hoạch bình
quân trên 1ha trồng trọt và nuôi trồng thủy sản (theo giá thực
tế), năm 2017 đạt bình quân trên 141 triệu đồng/ha/năm, tăng
136% so với năm 2015 là 59,9 triệu đồng/ha/năm.
Về ứng dụng khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng cơ giới hóa
phục vụ sản xuất nông nghiệp được người dân chú trọng, quan
tâm nhằm nâng cao năng suất lao động. Năm 2020, trên địa bàn
xã có 32 máy xới, máy cày, 2 máy gặt đập liên hợp, 4 máy suốt
lúa, 1 lò sấy lúa, đã giải quyết tình hình thiếu hụt lao động trong
nông nghiệp.
316

32.7 Page 317

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Về các mô hình sản xuất, địa phương chú trọng thành lập
câu lạc bộ sản xuất kinh doanh giỏi nhằm tạo dựng môi trường
chia sẻ, học hỏi, lan tỏa các mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu
quả, đạt giá trị kinh tế cao. Hoạt động câu lạc bộ năng suất cao
và tổ hợp tác được chỉ đạo chặt chẽ và sự hưởng ứng nhiệt tình
của người dân. Năm 2020, toàn xã chỉ có 1 tổ hợp tác trồng lúa,
thành lập mới 1 tổ hợp tác trồng mía, thành lập 1 hợp tác xã
kinh doanh đa ngành nghề.
Đến năm 2020, xã tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện phát
triển các thành phần kinh tế hợp tác xã; định kỳ hàng quý,
tháng các thành viên hợp tác xã thường xuyên gặp gỡ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn để kịp thời hỗ trợ, tháo
gỡ vướng mắc trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng hoạt
động ổn định, đáp ứng nguồn vốn phục vụ nhu cầu phát triển
kinh tế, xã hội trên địa bàn. Các doanh nghiệp tư nhân, các hộ
kinh doanh cá thể phát triển đa dạng. Kinh tế hợp tác, kinh tế
trang trại có chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng;
hình thành thêm 2 tổ hợp tác kinh tế, 4 tổ hợp tác với 201 thành
viên và 1 hợp tác xã với 7 thành viên trên địa bàn xã; hỗ trợ giải
quyết việc làm và tạo thu nhập đối với các thành viên tham gia.
Thông qua hoạt động của các mô hình tổ hợp tác đã giúp hội
viên sản xuất học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, chia sẻ những tiến
bộ của khoa học công nghệ để ứng dụng vào thực tiễn sản xuất
317

32.8 Page 318

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
và là cơ sở giúp phát triển vùng sản xuất chuyên canh, sản xuất
an toàn, tiền đề trong thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản
phẩm” (OCOP) giai đoạn 2020-2025.
* Đối với tiểu thủ công nghiệp
Địa phương chú trọng phát triển đối với tiểu thủ công
nghiệp và công nghiệp góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế nông
nghiệp. Với chính sách khuyến công và động viên các thành
phần kinh tế, xã hội, huy động nguồn vốn từ xã hội, nên tiểu
thủ công nghiệp trên địa bàn xã có mức tăng trưởng cao, một số
lĩnh vực phát triển nhanh và đúng hướng.
Trên địa bàn xã có 16 công ty, doanh nghiệp hoạt động
chủ yếu trong các ngành nghề như đóng tàu, kinh doanh du
lịch, nhà hàng, xăng dầu... các doanh nghiệp này đã giải quyết
việc làm khoảng 1.000 lao động/năm với thu nhập bình quân
khoảng 75 triệu đồng/người/năm.
Năm 2020, hoạt động tiểu thủ công nghiệp có tăng trưởng
nhưng quy mô còn nhỏ lẻ, vốn đầu tư thấp, tổng số hộ kinh
doanh 700 hộ, tăng 27% so với năm 2010. Tình hình chợ truyền
thống Phú Hữu hoạt động ở mức trung bình, số sạp đang hoạt
động 37/87 đạt 42%. Lượng khách tham quan du lịch đảo Dừa
Lửa bình quân đạt khoảng 30.000 lượt khách/năm. Trên địa bàn
toàn xã có 24 hộ kinh doanh thuê nhà trọ với 155 phòng. Xã
chú trọng khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài
địa phương đầu tư mở rộng quy mô sản xuất như cơ sở sản xuất
318

32.9 Page 319

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
ống nhựa, sửa chữa nông cơ... Địa phương tập trung triển khai
chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp, công tác
khuyến công được duy trì thường xuyên bằng việc triển khai
phối hợp huyện Nhơn Trạch mở các lớp đào tạo ngành, nghề
lao động nông thôn như đan lát, may gia công... góp phần giải
quyết việc làm người lao động tại địa phương.
Lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
trên địa bàn xã trong những năm qua liên tục phát triển, góp
phần nâng cao đời sống và thu nhập của nhân dân. Thu nhập
bình quân đầu người trên địa bàn xã năm 2020 đạt 68,2 triệu
đồng/người/năm tăng 22,16 triệu đồng người/năm, tương ứng
tăng 61,49% so với năm 2010.
* Đối với thương mại dịch vụ
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ giữ vai trò rất quan trọng
đối với sự phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn xã. Các lĩnh
vực thương mại, dịch vụ được củng cố và phát triển, các cơ sở
đan lát, may gia công, hàn xì với đầu ra sản phẩm ổn định ở địa
phương; các cơ sở tiểu thủ công nghiệp tăng từ 241 năm 2010
lên 463 cơ sở năm 2020, giải quyết việc làm từ 643 lao động
(năm 2010) lên hơn 1.321 lượt lao động (năm 2020) với tổng
giá trị sản xuất tăng từ hơn 61 tỷ đồng năm 2010 lên gần 612
tỷ đồng năm 2020; tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tăng bình
quân hàng năm gần 12% vào thời điểm năm 2010, đến năm
319

32.10 Page 320

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
2020 tăng bình quân hàng năm hơn 19%, đảm bảo phục vụ nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh
tế phát triển. Thị trường hàng hóa của địa phương phong phú,
đa dạng. Hàng năm, địa phương phối hợp với Trung tâm xúc
tiến thương mại tỉnh Đồng Nai tổ chức phiên chợ “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, hàng bình ổn giá phục vụ
nhu cầu tiêu dùng cho hàng ngàn lượt người dân. Các hoạt động
dịch vụ tín dụng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông từng
bước phát triển, đảm bảo phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị và nhu
cầu của nhân dân.
* Đối với đầu tư xây dựng cơ bản
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản giữ vai trò xương sống
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, nhất là
điện, đường, trường, trạm... Xã Phú Hữu là một trong những
địa phương có nhiều sông rạch của huyện Nhơn Trạch, nên
việc đầu tư xây dựng cơ bản được cấp trên quan tâm đúng mức;
tập trung đầu tư xây dựng các công trình đường giao thông
nông thôn, điện, trường, trạm được bố trí hợp lý. Trong 10 năm
(2010-2020), xã đã tổ chức khởi công và đưa vào sử dụng 76
công trình công cộng.
Giai đoạn 2010-2015, Đảng bộ đã triển khai thực hiện 31/41
tuyến đường giao thông nông thôn với tổng vốn đầu tư khoảng
3,1 tỷ đồng, đạt trên 75% kế hoạch. Công tác quản lý xây dựng
cơ bản trên địa bàn được quan tâm thực hiện, kịp thời xử lý các
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
trường hợp vi phạm. Việc quản lý quy hoạch và triển khai thực
hiện đảm bảo đúng theo Quyết định số 289/QĐ-UBND, ngày
23-1-2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc phê
duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng
đất 5 năm kỳ đầu (2011-2015) của huyện Nhơn Trạch.
Để thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”,
địa phương đã tích cực vận động người dân đóng góp tùy theo
khả năng gia đình, nên đến năm 2020, xã Phú Hữu bê tông hóa
55 tuyến đường với chiều dài 13,8km, cứng hóa 1 tuyến đường
với chiều dài 0,8km, đảm bảo tính liên kết giữa các ấp (đường
Lý Thái Tổ, ĐT 769, đường chợ Phú Hữu, đường Dương Văn
Thì...) với tổng số tiền hơn 12 tỷ đồng. Xã phối hợp với các
ngành chức năng huyện triển khai thực hiện các công trình giao
thông nông thôn: đường Phan Văn Đáng kết nối đường nội
đồng phục vụ sản xuất, vận chuyển hàng hóa,... Xã đã tập trung
đầu tư hệ thống cấp nước sạch phục vụ nhân dân, đồng thời xin
hỗ trợ kinh phí đầu tư các tuyến nhánh rẽ từ huyện và Công ty
cổ phần công nghiệp Nhơn Trạch; năm 2020 có 46 nhánh rẽ
được đầu tư xây dựng với chiều dài 10,8km, 9 đồng hồ tổng và
một bể chứa nước 30m3 với tổng số tiền đầu hơn 7 tỷ đồng, đảm
bảo cấp nước máy phục vụ các hộ dân, nhất là ở khu vực vùng
sâu như ấp Phước Lương và ấp Rạch Bảy.
Hạ tầng mạng lưới điện giữ vai trò rất quan trọng đối với
việc sử dụng máy móc phục vụ sản xuất kinh tế và sinh hoạt của
321

33.2 Page 322

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
người dân. Địa phương chủ động phối hợp với Phòng Kinh tế
và hạ tầng (làm chủ đầu tư) tổ chức thi công tuyến đường dây
trung thế 3 pha dài 11,85km, 1 pha dài 1,4km; đường dây hạ thế
3 pha dài 19,3km; 1 pha dài 7,5km; trạm biến áp 22 với tổng
công suất 3.703 KVA tổng số tiền gần 2,6 tỷ đồng. Hộ sử dụng
điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 99,6%. Hệ thống
thông tin truyền thông ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn toàn xã.
Đảng ủy xã tập trung lãnh đạo chính quyền chỉ đạo tổ chức
thực hiện một số công trình trọng điểm, trong đó ưu tiên đầu
tư xây dựng, sửa chữa trụ sở Ủy ban nhân dân xã, xây mới
Trung tâm Văn hóa thể thao - Học tập cộng đồng xã, Nhà văn
hóa ấp, Trường Trung học cơ sở Dương Văn Thì, Trường Mầm
non Phú Hữu... với tổng kinh phí khoảng 17 tỷ đồng; tạo tiền
đề thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, nhất là hoàn thành
các tiêu chí về cơ sở vật chất trong xây dựng nông thôn mới và
nông thôn mới nâng cao trên địa bàn xã.
Để tạo điều kiện hỗ trợ nguồn lực nông dân đầu tư phát
triển kinh tế, Đảng ủy lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã phối hợp
cùng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện
Nhơn Trạch ưu tiên giải ngân vốn vay 163 tỷ cho nhân dân đầu
tư phát triển nông nghiệp, đầu tư mới trang thiết bị, mở rộng
sản xuất, kinh doanh góp phần ổn định và phát triển kinh tế, xã
hội ở địa phương.
322

33.3 Page 323

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Ngân hàng chính sách xã hội hỗ trợ 156 hộ nghèo vay với
số tiền 2,3 tỷ đồng, bên cạnh đó quỹ tín dụng Nhơn Trạch và
chương trình CEP cho vay hỗ trợ việc làm 126 hộ dân với số
tiền 1,2 tỷ đồng, đảm bảo nguồn vốn vay người dân trong sản
xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống nhân dân.
* Đối với quản lý, sử dụng đất đai
Công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, môi trường
giữ vai trò quan trọng đối với định hướng trước mắt, lâu dài
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Đảng ủy xã lãnh đạo
chính quyền thường xuyên kiểm kê, rà soát việc sử dụng đất
đai, tài nguyên đáp ứng yêu cầu quy hoạch của địa phương,
huyện Nhơn Trạch. Công tác rà soát, đăng ký kê khai diện tích
đất sử dụng và xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(CNQSDĐ) cho nhân dân thực hiện đúng kế hoạch, cơ bản
hoàn thành đúng chỉ tiêu cấp giấy CNQSDĐ về diện tích đủ
điều kiện cấp giấy; đồng thời, triển khai đúng quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất giai đoạn 2010-2020 theo Luật Đất đai năm
2013, thực hiện cấp mới giấy CNQSDĐ được 125 hồ sơ/125
thửa/10,6 ha, đạt 100% chỉ tiêu huyện giao; thẩm tra xét duyệt
2.320/2.405 hồ sơ cấp đổi, đạt tỷ lệ 96,5%. Công tác giải quyết
khiếu nại, tranh chấp về đất đai, môi trường cơ bản thực hiện
đúng pháp luật.
Công tác bảo vệ môi trường được xã chú trọng, thường
xuyên nhắc nhở công tác thu gom rác thải và bảo vệ môi trường,
đến năm 2020 tỷ lệ thu gom, xử lý rác thải y tế, rác thải nguy
hại đạt 100%. Tỷ lệ xử lý rác thải sinh hoạt đạt 5.236/5.236
323

33.4 Page 324

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
hộ, đạt 100%. Số hộ đăng ký với đơn vị thu gom đến cuối năm
2019 là 4.712/5.236 hộ đạt 90%; số hộ tự xử lý 524 hộ (do các
hộ trên sinh sống rải rác tại khu C ấp Phước Lương và ấp Rạch
Bảy, đường nhỏ hẹp). Ngoài ra, Ủy ban nhân dân xã tổ chức ra
quân tổng vệ sinh môi trường định kỳ 4 lần/tháng, bảo đảm vệ
sinh môi trường vào các dịp lễ tết.
Về công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, đến năm 2020,
trên địa bàn xã có 9 dự án triển khai đầu tư với tổng diện tích
khoảng trên 608ha; trong đó, 1 dự án kho xăng dầu Tín Nghĩa
với diện tích khoảng 20ha hoàn thành bồi thường, hỗ trợ tái
định cư 100%; 1 dự án khu dân cư Sen Việt với diện tích khoảng
174ha đã có quyết định thu hồi đất cá nhân, bồi thường trên
90% và đã xét hỗ trợ tái định cư trong dự án 18 trường hợp; các
trường hợp còn lại tiếp tục thỏa thuận; 4 dự án với diện tích trên
102ha đã có thông báo thu hồi đất, thực hiện kiểm kê hiện trạng
và các bước theo quy định; 2 dự án đã thông báo thu hồi đất
nhưng chậm triển khai (Công ty TNHH xây dựng Việt Thuận
Thành với 69,2ha; cảng tổng hợp Tín Nghĩa khoảng 40ha) và
1 dự án khu dân cư Phú Thịnh Land - Tây Hồ xin đầu tư theo
quy hoạch.
2. Về văn hóa xã hội
* Công tác thông tin tuyên truyền, văn hóa, thể dục thể
thao
Nhằm đưa thông tin kịp thời, chính thống đến với người
dân ở các ấp, Đảng ủy xã lãnh đạo chính quyền chú trọng công
324

33.5 Page 325

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, khoa học công nghệ đến mọi
công dân. Ủy ban nhân dân xã đã bố trí hệ thống 60 cụm loa
không dây truyền thanh trên địa bàn 4 ấp, kết hợp với tờ tin nội
bộ của Ban Tuyên giáo xã và tiếp sóng đài truyền thanh của
huyện, tỉnh với hàng chục ngàn giờ tiếp sóng, phát thanh nhằm
đáp ứng tốt yêu cầu tuyên truyền trong nhân dân; cụ thể năm
2020, công tác thông tin đảm bảo truyền thanh ngày hai buổi,
chủ yếu là tiếp âm đài Trung ương, tỉnh và đài huyện được 312
giờ phát thanh, tuyên truyền trực quan được 32m băng rôn, bọc
mới 17 pano, tuyên truyền an toàn giao thông, an toàn thực
phẩm, sốt xuất huyết, virus zika... tuyên truyền dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3; tuyên truyền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội; dịch tả heo châu Phi, tuyên truyền công tác phòng, chống
dịch bệnh COVID-19... Qua công tác thông tin tuyên truyền,
đại bộ phận nhân dân đã nhận thức đầy đủ và đồng tình hưởng
ứng tích cực các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhất là chung tay xây dựng nông thôn
mới nâng cao tại địa phương.
Bênh cạnh chú trọng phát triển kinh tế, địa phương quan
tâm đến đời sống văn hoá tinh thần nhân dân. Phong trào “toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội gắn với việc xây
dựng gia đình văn hóa, ấp văn hoá; cơ quan, đơn vị có đời sống
văn hóa đi vào chiều sâu, chất lượng tốt.
325

33.6 Page 326

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Năm 2020, toàn xã có trên 99% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn
gia đình văn hoá, tăng 2% so với năm 2010 (năm 2010 đạt 97%),
4 ấp đạt, giữ vững danh hiệu ấp văn hoá và 100% cơ quan đạt
chuẩn văn hóa. Xã tiếp nhận 2 buổi lưu diễn văn nghệ do Trung
tâm Văn hóa thông tin và Thể thao huyện Nhơn Trạch, Trung
tâm Văn hóa nghệ thuật tỉnh Đồng Nai về biểu diễn, phối hợp
tổ chức 31 buổi văn nghệ tại địa phương thu hút hơn 7.213 lượt
người tham gia và cổ vũ; tiếp nhận và tổ chức 17 buổi chiếu
phim, phục vụ cho khoảng hơn 3.189 lượt người xem.
Ngành văn hóa địa phương tổ chức nhiều hội thi, hội diễn
văn nghệ, thể dục thể thao và tạo điều kiện các đoàn biểu diễn
nghệ thuật quần chúng của huyện phục vụ tại xã. Đông đảo
người dân ở địa phương tham gia các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục, thể thao như: bóng đá, bóng chuyền, kéo co, cầu
lông, tiếng hát tuổi trẻ..., được cơ quan chuyên môn cấp trên
đánh giá cao.
Giai đoạn 2010- 2020, xã tham gia các giải thể dục thể thao
(TDTT) do huyện Nhơn Trạch tổ chức với kết quả đạt 2 huy
chương vàng, 3 huy chương bạc, 6 huy chương đồng. Phối hợp
tổ chức 13 giải TDTT tại xã, các giải TDTT của xã được tổ
chức vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, thu hút
đông đảo vận động viên và nhân dân tham gia cổ vũ; Ủy ban
nhân dân xã trao 13 giải cho các tập thể và cá nhân có thành
tích xuất sắc, thu hút trên 13.568 lượt người tham gia và cổ vũ.
326

33.7 Page 327

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
* Đối với giáo dục và đào tạo
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được Đảng bộ xã, huyện
Nhơn Trạch quan tâm đầu tư cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị
giảng dạy đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, tích cực xã hội hóa các hoạt động giáo dục, phát huy
mối quan hệ “nhà trường - gia đình - xã hội” cùng chăm lo phát
triển công tác giáo dục. Cơ sở vật chất từng bước được quan
tâm đầu tư khang trang, kiên cố với các thiết bị khá hiện đại,
đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân, tỷ lệ phòng học
kiên cố đạt 100%, không có tình trạng học ca 3, góp phần đưa
các trường học đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất.
Năm 2010, địa phương chưa có trường đạt chuẩn quốc gia,
đến năm 2020 các trường đạt chuẩn quốc gia gồm có: Trường
Tiểu học Phú Hữu đạt chuẩn Quốc gia năm 2014, Trường Trung
học cơ sở Dương Văn Thì đạt chuẩn quốc gia năm 2019, Trường
Mầm non Phú Hữu đạt chuẩn quốc gia năm 2020; 100% giáo
viên đạt chuẩn trình độ đào tạo theo quy định; trong đó, đạt trên
chuẩn trình độ đào tạo 92,6%, đạt phổ cập mầm non 5 tuổi năm
2015.
Trung tâm học tập cộng đồng hoạt động thường xuyên theo
đề án, kế hoạch hàng năm với phương châm “cần gì học nấy”
đối với nhu cầu thiết thực của nhân dân. Trung tâm học tập
cộng đồng mở 48 chuyên đề, có 7.021 lượt người tham gia, với
những kiến thức và kỹ thuật đã đem lại nhiều hiểu biết bổ ích
phục vụ hiệu quả bà con nhân dân trong lao động sản xuất...
327

33.8 Page 328

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Chất lượng giáo dục xã Phú Hữu từng bước được nâng lên,
tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp các cấp được duy trì, số
học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện đều tăng qua hàng năm.
Địa phương chú trọng công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục,
phong trào khuyến học, khuyến tài, xã hội học tập được nhân
dân hưởng ứng tích cực; trung tâm học tập cộng đồng được
củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả; xã tiếp tục duy trì đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung
học cơ sở đúng độ tuổi.
* Lĩnh vực khoa học nông nghệ
Điểm khoa học công nghệ ở xã được các ban ngành, đoàn
thể địa phương quan tâm và tuyên truyền đến người dân, cung
cấp nhiều loại tài liệu, thông tin bổ ích, thiết thực phục vụ sản
xuất kinh tế với hơn 1.701 lượt người tham gia truy cập. Địa
phương phối hợp Phòng Văn hóa thông tin huyện Nhơn Trạch
tổ chức 21 buổi chiếu phim về Khoa học công nghệ, thu hút
hơn 1.029 lượt người đến xem, học tập. Đồng thời, địa phương
khuyến khích nhân dân ứng dụng các thành tựu khoa học và
công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống, góp phần tạo điều kiện
phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng tiếp cận thông tin, ứng dụng
vào sản xuất...
Nhân rộng các mô hình áp dụng khoa học - công nghệ trên
địa bàn xã như mô hình trồng thí điểm nấm mối đen tại khu
vực Thành Hòa ấp Phước Lương, mô hình nuôi tôm thẻ chân
328

33.9 Page 329

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
trắng tại ấp Cát Lái và ấp Rạch Bảy; kịp thời cung cấp thông tin
mới nhất về ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, chăn
nuôi, trồng trọt để bà con nắm bắt, khuyến khích người dân tự
truy cập thông tin trên Internet để tìm hiểu các ứng dụng khoa
học kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế ở địa phương.
* Trên lĩnh vực y tế
Trạm y tế xã được củng cố, nâng cấp từ 3 cán bộ năm 2010
đến năm 2020 có 8 cán bộ và nhân viên, gồm có 1 bác sĩ, 1 nữ
hộ sinh trung cấp, 1 cán bộ dân số, 3 y sĩ đa khoa, 2 dược sĩ cao
đẳng và 1 y sĩ đông y. Hàng năm, trạm y tế xã đã tiếp nhận trên
9.132 lượt người đến khám và chữa bệnh. Ngành y tế tổ chức
thực hiện các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng, đặc
biệt thực hiện tốt công tác phòng, chống sốt xuất huyết, bệnh
tay chân miệng. Trạm y tế xã thường xuyên tổ chức ra quân
đồng loạt chiến dịch diệt lăng quăng, phun xịt tiêu độc, khử
trùng đúng theo quy định, kịp thời chặn đứng dịch tay chân
miệng. Trẻ em của địa phương được tiêm chủng các loại vắc
xin phòng bệnh theo quy định Nhà nước đạt 100%; tỷ lệ trẻ
bị suy dinh dưỡng thể trạng thấp còi (chiều cao theo tuổi) còn
hơn 10%.
Công tác truyền thông dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em được tăng cường, lồng ghép công
tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản phụ nữ, giáo dục giới tính cho
329

33.10 Page 330

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
trẻ vị thành niên, tuyên truyền thực hiện cân bằng giới tính và
các biện pháp tránh thai hiện đại, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên xuống còn 0,94% vào năm 2020 (giảm 0,11% so
với năm 2010).
Hàng năm, xã luôn được huyện công nhận duy trì xã đạt
chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2020, công tác y tế của xã đáp
ứng đầy đủ cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 đạt kết
quả tốt.
* Thực hiện các chính sách an sinh xã hội
Địa phương xác định các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước trong xây dựng nông thôn mới nhằm mục đích cuối
cùng là thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đối với
người dân trong toàn xã. Đảng ủy xã tăng cường lãnh đạo Ủy
ban nhân dân chỉ đạo các bộ phận chuyên môn thực hiện tốt
chính sách an sinh xã hội đối với các đối tượng người có công
với nước, gia đình khó khăn, neo đơn, hộ nghèo...
Xã thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo đạt
hiệu quả, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ hơn 20% năm 2010 xuống
còn 0,29% năm 2020 theo chuẩn nghèo mới. Địa phương thực
hiện tốt các chương trình giải quyết việc làm, triển khai kịp
thời, đồng bộ các chính sách an sinh xã hội. Xã giải quyết việc
làm cho gần 3.520 lao động; trong đó, số lao động qua đào tạo
chiếm 73%; đến năm 2020 trên 99% người lao động trong độ
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tuổi có việc làm, thu nhập ổn định. Công tác giảm nghèo thực
hiện có hiệu quả, 100% người dân thuộc diện hộ nghèo, đối
tượng chính sách, bảo trợ xã hội được thụ hưởng kịp thời các
chính sách do nhà nước quy định. Năm 2020, xã có 136 hộ
thoát nghèo và thu nhập của các hộ nghèo tăng 1,2 lần so với
năm 2015; 100% hộ gia đình người có công với cách mạng đạt
mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người
dân trên địa bàn (không còn gia đình chính sách thuộc diện
hộ nghèo).
Bằng các nguồn vốn dự án trồng trọt, chăn nuôi, cải tạo
vườn tạp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, địa phương đã
kết hợp với ngân hàng chính sách xã hội huyện giải quyết cho
vay 487 hồ sơ với số tiền hơn 6,5 tỷ đồng. Đời sống vật chất
của đại bộ phận người dân cơ bản ổn định, tỷ lệ nhà kiên cố và
bán kiên cố tăng từ hơn 72% năm 2010 lên 100% năm 2020,
tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh tăng từ gần 89% năm 2010 lên
100% năm 2020.
Trong 10 năm (2010-2020), Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội vận động mạnh thường quân xây dựng và trao
tặng 78 căn nhà tình thương, nhà đại đoàn kết với tổng số tiền
gần 5,7 tỷ đồng; trao tặng 29.315 phần quà, với tổng số tiền hơn
5,6 tỷ đồng; cấp phát và trao tặng 1.273 thẻ BHYT các thành
viên hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn
với tổng số tiền trên 800 triệu đồng. Trung tâm Khuyến nông
331

34.2 Page 332

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
tỉnh hỗ trợ 12 hộ dân, với tổng số tiền 75 triệu đồng để mua bò
giống phục vụ chăn nuôi, góp phần công tác xóa nghèo ở địa
phương đạt hiệu quả.
Đảng bộ xã Phú Hữu luôn luôn chú trọng lãnh đạo chính
quyền chỉ đạo ngành thương binh xã hội thực hiện đầy đủ chính
sách của Nhà nước đối với người có công, gia đình cách mạng.
Địa phương thực hiện tốt pháp lệnh ưu đãi người có công, kịp
thời giải quyết các chế độ chính sách đúng quy định Nhà nước;
thường xuyên tổ chức thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính
sách nhân dịp lễ, tết với tổng số tiền hơn 1 tỷ đồng. Ngoài ra,
chính quyền xã tổ chức xây dựng, sửa chữa nhà cửa cho 48 đối
tượng chính sách với tổng số tiền 940 triệu đồng. Do đó, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân Phú Hữu không ngừng
nâng lên trong thời gian qua; các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo nên không
khí phấn khởi đối với mỗi người dân trên miền đất hoàn thành
xây dựng nông thôn mới, tiến lên xây dựng nông thôn mới
nâng cao.
3. Công tác Quốc phòng - An ninh
* Về An ninh
Đảng ủy xã chú trọng lãnh đạo công tác giữ gìn an ninh
trật tự, an toàn xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội ở địa phương. Lực lượng công an xã phối hợp quân
sự, cùng Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tăng
332

34.3 Page 333

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
cường công tác nắm tình hình, tuyên truyền, vận động quần
chúng nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, không để bị các thế lực
thù địch lôi kéo, chống phá, gây rối an ninh trật tự trên địa bàn.
Công an từ xã đến ấp chú trọng công tác hòa giải, giải quyết các
vụ mâu thuẫn, tranh chấp nên tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội cơ bản giữ vững ổn định. Giai đoạn 2010-2015,
Công an xã tiến hành củng cố, nâng cao trách nhiệm của các Tổ
hòa giải ở cơ sở, hạn chế các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân
nên đã hòa giải thành công 157 vụ việc, đạt 76%; giải quyết kịp
thời các vấn đề liên quan đến nhân thân, hộ tịch, khai sinh, kết
hôn, nhất là giúp người dân thực hiện các loại giấy tờ có liên
quan được nhanh chóng và kịp thời.
Giai đoạn 2015-2020, công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn xã được đảm bảo các lĩnh vực,
nhất là an ninh nông thôn để phục vụ xây dựng nông thôn mới.
Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã lãnh đạo, chỉ đạo các ban ngành,
đoàn thể tăng cường đối thoại với nhân dân liên quan đến an
ninh trật tự, kịp thời nắm bắt và giải quyết các khó khăn của
nhân dân trên các lĩnh vực về an ninh đạt hiệu quả. Địa phương
đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường dân vận giúp dân,
qua đó huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị và nhân dân tham gia tích cực phong trào “Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Thực hiện có hiệu quả các chương
trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ
333

34.4 Page 334

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
nạn xã hội và kéo giảm tai nạn giao thông. Xã đã tuyên truyền
172 lượt, với 10.175 lượt người tham dự, cung cấp 150 nguồn
tin có giá trị, từ đó góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự
trên địa bàn.
Công an xã đã tổ chức vận động, xây dựng, duy trì hoạt
động hiệu quả 15 tổ tự quản về an ninh trật tự (ANTT) gắn với
mô hình “Tiếng kẻng an ninh”, xây dựng mới 58 tổ nhân dân
tự quản trên địa bàn toàn xã, lắp đặt 16 mắt camera an ninh, 3
câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình với 90 thành viên, góp
phần làm cho địa bàn toàn xã không có các tụ điểm phức tạp về
ANTT, không thuộc xã trọng điểm phức tạp về ANTT, không
có trọng án theo quy định của nhà nước. Tình hình tội phạm,
tệ nạn xã hội ở địa phương được kiềm chế, kéo giảm qua hàng
năm. Từ những kết quả đạt được, Công an xã Phú Hữu đạt danh
hiệu “Đơn vị tiên tiến” 4 năm liên tục và hàng năm xã Phú Hữu
đều được cấp trên công nhận đạt chuẩn “An toàn về an ninh trật
tự”, “đơn vị quyết thắng năm 2020”.
Ngoài ra, công an xã chú trọng công tác đăng ký, quản lý
hộ tịch và chứng thực đáp ứng nhu cầu nguyện vọng người dân;
phối hợp các ngành chức năng tổ chức câu lạc bộ trợ giúp pháp
lý hoạt động khá tốt nhằm tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật như: các Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư, Hướng
dẫn... được kịp thời; công tác triển khai các văn bản quy phạm
pháp luật đúng theo kế hoạch đến người dân.
334

34.5 Page 335

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Tuy nhiên, tình an ninh trật có lúc còn diễn ra phức tạp, giai
đoạn 2015-2020, về phạm pháp hình sự đã xảy ra 46 vụ với 29
đối tượng, giảm 1 vụ so với nhiệm kỳ trước (46/47 vụ); ma túy
bắt 6 vụ, 10 đối tượng tàng trữ và mua bán trái phép chất ma
túy, tăng 2 vụ so với nhiệm kỳ trước (4/6 vụ). Công an kiểm tra
52 lượt đối tượng nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy, phát
hiện 43 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, lập hồ sơ đưa
đi cai nghiện bắt buộc 22 đối tượng, xử phạt hành chính 21 đối
tượng...
* Về Quốc phòng
Đảng ủy xã tăng cường lãnh đạo xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng
khu vực phòng thủ ở địa phương vững chắc. Xã đội thường
xuyên xây dựng kế hoạch luyện tập các phương án chiến đấu
bảo vệ các mục tiêu đạt yêu cầu. Qua đó, cán bộ, chiến sĩ được
nâng cao nhận thức, cảnh giác sẵn sàng đấu tranh ngăn chặn
mọi âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” của các
thế lực thù địch. Thực hiện tốt Đề án 02 của Ủy ban nhân dân
tỉnh và kế hoạch của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Nhơn
Trạch về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, đảm bảo về chất
lượng và số lượng; dân quân tự vệ đạt gần 1,5%/tổng dân số.
Công tác phát triển đảng của xã đội được quan tâm thực hiện,
từ đó góp phần nâng cao tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân
quân đạt tỷ lệ 25%.
335

34.6 Page 336

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Xã đội chủ động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày
22-9-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) “về tiếp tục xây dựng
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng
thủ vững chắc trong tình hình mới”. Xã đội thường xuyên phối
hợp với Công an xã thực hiện tốt Nghị định số 133/NĐ-CP,
ngày 28-12-2015 của Chính phủ và các hướng dẫn của Bộ quốc
phòng, Quân khu 7, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Ban Chỉ huy
Quân sự huyện Nhơn Trạch về tổ chức lực lượng, phương tiện
tuần tra sau 21 giờ, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn, tham gia khắc phục hậu quả thiên
tai, dịch bệnh khi xảy ra. Đảng ủy xã ban hành Nghị quyết số
03-NQ/ĐU ngày 13-1-2016 về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng năm 2016 đối với lực lượng quân sự địa
phương. Do đó hàng năm, xã đội đều được Ban Chỉ huy Quân
sự huyện công nhận đơn vị “vững mạnh”.
Giai đoạn 2010-2020, xã đội có 143 chiến sĩ, trong đó lãnh
đạo có 2 đồng chí (Xã đội trưởng và xã đội phó). Xã đội phối
hợp Công an hoạt động trấn áp tội phạm như an ninh trật tự,
ma túy, trộm cắp, cướp giật, xung đột mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân. Xã đội tuyên truyền trách nhiệm công dân về nghĩa
vụ quân sự như Luật nghĩa vụ Quân sự 2005 (sửa đổi bổ sung),
và Luật nghĩa vụ Quân sự sửa đổi bổ sung 2015. Kết quả giao
quân hàng năm đều đạt 100% chỉ tiêu trên giao, có 130 công
dân tham gia nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc.
336

34.7 Page 337

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
Trong công tác giới thiệu việc làm cho thanh niên xuất ngũ,
có 118 quân nhân về địa phương tham gia làm việc trong các
công ty, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước góp phần giải quyết
việc làm và ổn định cuộc sống đối với anh em sau khi hoàn
thành nghĩa vụ. Đồng thời, xã đội thực hiện công tác dân vận
xây dựng, sửa chữa 3 căn nhà đồng đội trị giá 150 triệu đồng.
Ngoài ra, xã đội phối hợp với các ban ngành đoàn thể tham
gia các công trình đường giao thông, chăm sóc cây cảnh... góp
phần đưa xã nhà trở thành xã nông thôn mới, từng bước nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần người dân.
4. Nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân
Phú Hữu là xã xa nhất của huyện Nhơn Trạch, kinh tế phát
triển trung bình. Trước năm 2010, giao thông đi lại khó khăn,
đời sống nhân dân nhiều vất vả, nhưng từ khi triển khai hiệu
quả các chương trình phát triển kinh tế, xã hội; đặc biệt trong
xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, Phú Hữu
từng bước khoác lên mình tấm áo mới, đời sống vật chất và tinh
thần của người dân Phú Hữu được nâng cao rõ rệt.
Cách trung tâm huyện Nhơn Trạch hơn 20km, tiệm cận
Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Hữu trở thành nơi “đất lành chim
đậu”, hội tụ người dân từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây sinh
sống, cùng các tộc người anh em tại chỗ lập nghiệp, xây dựng
quê hương mới. Năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương ban
hành chủ trương phát triển về nông nghiệp, nông thôn, nông
337

34.8 Page 338

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
dân; đến năm 2011 các hoạt động thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới dần đi vào thực tiễn đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.
Về phát triển kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại dịch vụ đạt kết quả khả quan; người nông dân
thường xuyên tham dự những lớp tập huấn kỹ thuật phòng ngừa
dịch bệnh trên các loại cây trồng, vật nuôi; nhân dân trong toàn
xã đã được xét hỗ trợ vay vốn hơn 163 tỷ đồng để đầu tư mở
rộng sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần.
Trên địa bàn xã có hơn 73% hộ dân sản xuất nông nghiệp
trên tổng diện tích tự nhiên 2.173,05ha, số diện tích còn lại
phát triển kinh tế trang trại và các dịch vụ khác. Trong 10 năm
(2010-2020), địa phương tập trung mọi nguồn lực đạt hơn 930
tỷ đồng từ ngân sách tỉnh, huyện, xã, vay vốn tín dụng, nguồn
vốn do doanh nghiệp và nhân dân đóng góp hơn 790 tỷ đồng để
phát triển kinh tế, xã hội địa phương. Địa phương đã tạo điều
kiện phối hợp với Trung tâm giới thiệu việc làm và được các
công ty, xí nghiệp trong, ngoài huyện nhận trên 1.356 lượt lao
động tham gia làm việc tại các doanh nghiệp với thu nhập khá
cao.
Hệ thống điện trên địa bàn toàn xã đảm bảo yêu cầu kỹ
thuật của ngành điện và cung cấp điện sinh hoạt, sản xuất cho
người dân. Đường dây trung thế 3 pha dài trên 11km, đường
338

34.9 Page 339

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
dây trung thế 1 pha dài trên 2km, đường dây hạ thế 3 pha dài
trên 19km và 22 trạm biến áp với tổng công suất 3.703 KVA;
tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt
100%.
Về giao thông đi lại, trên địa bàn xã có 55 tuyến đường với
tổng chiều dài trên 13km được rải nhựa, bê tông hóa 100%;
trong đó, 100% đường trục xã, liên xã, đường trục thôn xóm,
đường ngõ, xóm sạch đẹp, không còn bụi vào mùa nắng, lầy
lội vào mùa mưa. Đường trục chính nội đồng được nhựa hóa
với chiều dài 1,24/2,04 km (đạt trên 60%) và còn lại 0,8 km
đảm bảo xe cơ giới đi lại thuận tiện. Bê tông hóa đường hẻm
số 1, khu 3 ấp Cát Lái rộng 4m, dài 120m; có hệ thống mương
thoát nước kiên cố, kinh phí 530 triệu đồng; bê tông hóa đường
hẻm Sáu Xệ, ấp Cát Lái, rộng 3m, dài 440m với kinh phí 822
triệu đồng.
Năm 2020, theo số liệu thống kê toàn xã có 5.236/5.137 hộ
đạt chuẩn gia đình văn hóa, đạt tỉ lệ trên 98%. Cơ sở vật chất,
đội ngũ y bác sĩ đảm bảo thực hiện tốt công tác chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho nhân dân và các chương trình y tế quốc gia.
Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 94%; tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên ở xã giảm dần theo từng năm là 0,94%; tỷ lệ suy
dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đạt 10,1%.
Về môi trường, công tác bảo vệ môi trường được xã đặc
biệt chú trọng, hàng năm địa phương tổ chức 2 cuộc tuyên
339

34.10 Page 340

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
truyền vận động nhân dân tham gia bảo vệ môi trường; đăng
ký thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt, đổ rác đúng nơi quy định;
vận động người dân sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh nhằm nâng
cao chất lượng môi trường sống của người dân và trồng cây
xanh trên địa bàn xã. Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh đạt
100%; trong đó, tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt 100%; diện
mạo nông thôn phát triển với nhiều mảng xanh và đường sá
sạch đẹp.
Trong công tác chăm lo hộ nghèo, xã phối hợp ngân hàng
chính sách xã hội huyện Nhơn Trạch giải quyết cho 725 hộ
nghèo, cận nghèo vay số tiền trên 25 tỷ đồng để phát triển sản
xuất kinh tế. Hàng năm, xã tổ chức vận động quỹ “Ngày vì
người nghèo” đạt trên 130%. Năm 2019, các ban ngành, đoàn
thể chính trị - xã hội xã xây mới 9 căn nhà tình thương với số
tiền 450 triệu đồng. Ngoài ra, xã hỗ trợ người nghèo về y tế,
giáo dục, giá điện sinh hoạt, trợ cấp lễ, tết góp phần giảm nghèo
bền vững ở địa phương. Bằng những việc làm thiết thực, giải
pháp hiệu quả, đến năm 2019 tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giai đoạn
2016-2020 theo chuẩn của tỉnh.
Về nhà ở người dân, trên địa bàn xã 100% căn hộ xây dựng
đạt chuẩn theo quy định. Trong đó, căn hộ kiên cố gần 51%, căn
hộ bán kiên cố hơn 49%, không có nhà tạm, dột nát. Căn hộ có
diện tích bình quân hơn 14m2/người, niên hạn sử dụng trên 20
năm, đầy đủ công trình phụ trợ sinh hoạt như điện, nước sạch,
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
nhà vệ sinh..., 100% căn hộ đều phù hợp với phong tục tập
quán, lối sống và nằm trong quy hoạch dân cư.
Trong Chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ,
chính quyền, toàn thể nhân dân xã Phú Hữu đã đồng tâm, hiệp
lực phát triển kinh tế, xã hội. Đến năm 2015, xã Phú Hữu hoàn
thành xây dựng nông thôn mới và tiếp tục xây dựng nông thôn
mới nâng cao. Năm 2020, địa phương hoàn thành 19/19 tiêu chí
với 53/53 chỉ tiêu theo quy định của Bộ tiêu chí xã nông thôn
mới nâng cao.
Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới, Đảng bộ, chính quyền, toàn thể nhân dân xã
Phú Hữu gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ, được Ủy
ban nhân dân tỉnh Đồng Nai khen thưởng, công nhận xã nông
thôn mới và đang tiếp tục xây dựng nông thôn mới nâng cao
đạt 19/19 tiêu chí; bằng sự quyết tâm nỗ lực không ngừng duy
trì và phát triển kinh kế, xã hội cao hơn nữa, đưa đời sống của
người dân Phú Hữu ngày càng phát triển về mọi mặt.
***
Trong suốt 10 năm (2010-2020), trải qua các kỳ Đại hội
dưới sự lãnh đạo chủ động, sâu sát, kịp thời, sáng tạo của Đảng
ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Hữu đạt được những kết
quả rất quan trọng các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội, quốc phòng - an ninh đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của huyện Nhơn Trạch.
341

35.2 Page 342

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Đời sống vật chất, tinh thần của người dân từng bước được
cải thiện; công tác chăm sóc đối tượng chính sách, sức khỏe
nhân dân, giảm nghèo, giải quyết việc làm người dân được quan
tâm; cuộc vận động “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” gắn với
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt
kết quả ấn tượng, năm 2015 đạt chuẩn nông thôn mới, tiếp tục
xây dựng nông thôn mới nâng cao. Hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng có nhiều tiến
bộ, góp phần cùng Đảng bộ và chính quyền giải quyết tốt các
vấn đề an sinh xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, tập
trung trên các mặt như giáo dục chính trị tư tưởng, công tác tổ
chức cán bộ, phát triển đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi
bộ và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nội
bộ Ban Chấp hành Đảng bộ xã luôn đoàn kết, thống nhất; thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy cao vai trò
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Việc kiểm điểm tự phê bình
và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI,
XII) được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc trong toàn Đảng
bộ. Mỗi cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên
chức, đoàn viên, hội viên luôn phát huy cao vai trò trách nhiệm,
tính tiền phong, gương mẫu, tích cực vận động nhân dân thực
hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
342

35.3 Page 343

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
luật của Nhà nước gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW,
ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các nghị
quyết, chỉ thị, quy định khác của Đảng, Nhà nước.
Trong giai đoạn 2010- 2020, Đảng bộ xã Phú Hữu đã tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh nhằm phát huy mọi
nguồn lực địa phương để phát triển kinh tế, ổn định chính trị,
an toàn xã hội, cũng cố quốc phòng - an ninh như Bác Hồ kính
yêu đã dạy: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
công”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành
lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân
ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”
đưa Phú Hữu phát triển theo hướng văn minh, hiện đại.
343

35.4 Page 344

▲back to top


KẾT LUẬN
Trải qua 90 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930-
2020), cũng là quãng thời gian người dân, cán bộ, chiến sĩ xã
Phú Hữu liên tục đứng lên chiến đấu bảo vệ và xây dựng quê
hương bằng nhiều hình thức khác nhau. Cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, Phú Hữu là địa bàn đứng chân đầu tiên của phong
trào Hội kín chống thực dân Pháp, tay sai trên địa bàn tỉnh Biên
Hòa.
Giai đoạn 1930-1954, với vị trí tiếp giáp Sài Gòn, Gia Định,
người dân Phú Hữu sớm tiếp thu tư tưởng, trào lưu yêu nước
tiến bộ, rồi bất chấp gian khổ, mất mát, hy sinh chống lại sự
xâm lược, cai trị của thực dân Pháp và tay sai.
Từ năm 1954-1975, đế quốc Mỹ, quân đồng minh Mỹ và
tay sai xâm lược miền Nam, người dân Phú Hữu dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đứng
lên chống lại kẻ thù của dân tộc với chân lý “không có gì quý
hơn độc lập tự do”, từ trẻ đến già luôn “có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
344

35.5 Page 345

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” tiếp tục phát huy, mà đỉnh cao là Chiến
dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ngày 30-4-1975 của dân tộc nói
chung, người dân Phú Hữu nói riêng.
Từ năm 1975-2020, từ chi bộ quân quản, chi bộ lâm thời
phát triển thành Đảng bộ xã Phú Hữu năm 2000 là một chặng
đường dài với nhiều khó khăn trong phục hồi sản xuất, phát
triển kinh tế, đổi mới, hội nhập; nhưng cán bộ, đảng viên, người
dân nơi đây vững tin một lòng, một dạ theo Đảng trước những
biến động của tình hình chính trị thế giới ở các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào
giai đoạn thoái trào.
Mặc dù chịu sự tác động tiêu cực của tình hình chính trị thế
giới đến Việt Nam, nhưng dưới lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Tỉnh ủy Đồng Nai, Huyện ủy Long Thành, sau là
Huyện ủy Nhơn Trạch, Đảng bộ và nhân dân xã Phú Hữu từng
bước vượt qua mọi khó khăn khách quan và chủ quan để viết
lên những trang sử tươi đẹp đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Phú Hữu là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, người
dân, chiến sĩ đấu tranh chống ngoại xâm từ những ngày đầu
theo chủ trương kiên trì bám trụ địa bàn “một tấc không đi, một
ly không rời”, xây dựng mối quan hệ “quân với dân như cá với
345

35.6 Page 346

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
nước”, “nắm thắt lưng địch mà đánh” góp phần cùng quân dân
tỉnh Biên Hòa (nay là tỉnh Đồng Nai) chiến đấu đến ngày giành
thắng lợi hoàn toàn, non sông Việt Nam nối liền một dải.
Từ 1975-2020, người dân Phú Hữu đồng hành cùng huyện
Long Thành, từ năm 1994 là huyện Nhơn Trạch khôi phục kinh
tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại quê hương.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã, người dân Phú Hữu cùng cả
nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện kinh tế, xã hội. Chi bộ
Phú Hữu đã chủ động, kịp thời lãnh đạo chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vai trò năng
động, sáng tạo trong điều hành, vận động các tầng lớp nhân dân
thi đua sản xuất, phát triển kinh tế, chấp hành và thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với nhiều vận hội mới. Đảng bộ Phú Hữu chủ động lãnh
đạo hệ thống chính trị thực hiện hội nhập, ứng dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất, tạo sự chuyển mới về kinh tế, xã hội.
Hạ tầng cơ sở vật chất phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
như điện, đường, chợ, trạm y tế, trường học... được tăng cường
đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
Công tác xây dựng Đảng và chính quyền được Đảng ủy xã
quan tâm đào tạo ngồn nhân lực, tăng cường giáo dục chính trị
346

35.7 Page 347

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
tư tưởng cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong đơn vị
nhà nước; sự nghiệp giáo dục và đào tạo được sự quan tâm sâu
sát của gia đình, nhà trường, đoàn thể xã hội, công tác chăm sóc
sức khỏe được người dân quan tâm, chính quyền sâu sát.
Bước vào thế kỷ XXI cùng với Đảng bộ, chính quyền huyện
Nhơn Trạch, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Phú Hữu đã
chủ động phát huy những thành quả cách mạng của địa phương,
đẩy mạnh sản xuất kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần của
người dân không ngừng tăng lên, hạ tầng cơ sở vật chất ngày
càng hoàn thiện, đồng bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn
mới.
Tấm áo nông thôn mới của Phú Hữu thay da đổi thịt từng
ngày, kinh tế phát triển đi lên bền vững, bộ mặt địa phương
khang trang, hiện đại; quốc phòng - an ninh giữ vững, cuộc
sống người dân ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đảng bộ địa phương đã phát huy tinh thần chủ động, sáng
tạo, kịp thời trong lãnh đạo hệ thống chính trị, xây dựng nền
hành chính “kiến tạo, liêm chính, hành động, vì người dân”,
lấy sự hài lòng của người dân làm mục tiêu phấn đấu, giá trị đo
lường đối với đánh giá chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng
viên, lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, đoàn viên, hội
viên; xây dựng chính quyền thực sự “của dân, do dân, vì dân”
đã làm nên kỳ tích trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới.
347

35.8 Page 348

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
Trong hành trang đi tới tương lai, mỗi người con Phú Hữu
hôm nay trang bị cho mình niềm tự hào truyền thống tốt đẹp
của quê hương “miền Đông gian lao mà anh dũng” để vững
vàng vượt qua mọi phong ba, bão táp thẳng tiến theo con đường
xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kính yêu đã chọn với tinh thần, nhiệt huyết của tuổi trẻ:
“Không có việc gì khó - Chỉ sợ lòng không bền - Ðào núi và
lấp biển - Quyết chí ắt làm nên”1. Quá trình lãnh đạo hệ thống
chính trị của Đảng bộ xã Phú Hữu đã để lại những bài học kinh
nghiệm quý đối với các thế hệ hôm nay và mai sau.
Trước hết, trong cuộc đấu tranh giành độc lập, chiến đấu
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai để bảo vệ thành
quả cách mạng và quê hương, người dân Phú Hữu luôn giàu
lòng yêu nước, kiên trì bám đất, giữ làng, một lòng một dạ, sắt
son tin theo Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh - ánh sáng soi đường giải phóng quê hương. Mỗi
người dân, cán bộ, chiến sĩ cách mạng sống, chiến đấu trên
vùng đất Phú Hữu luôn sáng tạo, phát huy triết lý mối quan hệ
“quân với dân như cá với nước” để vượt qua mọi sự hiểm nguy,
hy sinh, bám trụ địa bàn giành nhiều thắng lợi trong cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Thứ hai, trong cuộc chiến đấu chống thực dân, đế quốc và
tay sai, công tác tư tưởng, tuyên truyền; công tác binh vận, địch
1  Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.440.
348

35.9 Page 349

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
vận các chủ trương, đường lối của Đảng đối với người dân Phú
Hữu luôn đi trước, đi cùng, đi sau để khơi dậy khát vọng độc
lập dân tộc, phát huy ý chí tự lực, tự cường “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”, để hiện thực hóa lý tưởng, mục đích “không có
gì quý hơn độc lập tự do”. Sức mạnh đại đoàn kết của người
dân Phú Hữu được khơi dậy mạnh mẽ, huy động tối đa sức
người, sức của, không sợ hy sinh để nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ
cách mạng, thực hiện tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu
phẩm vào chiến khu kháng chiến, vận chuyển lúa gạo về huyện
trong những thời khắc chiến tranh ác liệt “như ngàn cân treo sợi
tóc”, để cùng cả dân tộc giành chiến thắng sau cùng.
Thứ ba, thời kỳ độc lập, hồi sinh đất nước sau năm 1975,
chi bộ, chính quyền xã Phú Hữu luôn quán triệt, thực hiện kịp
thời các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước vào công tác ổn định chính trị, xã
hội, phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, giữ vững
quốc phòng - an ninh. Chi bộ Phú Hữu lãnh đạo, kiểm tra, giám
sát toàn diện hệ thống chính trị thực hiện xây dựng nền sản xuất
mới xã hội chủ nghĩa, củng cố văn hóa xã hội mới, tiến hành
công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo
của Đảng, từng bước mang lại sự ổn định mọi mặt cho người
dân trên quê hương.
Thứ tư, từ Chi bộ Phú Hữu phát triển thành Đảng bộ đã tăng
cường hơn nữa sức chiến đấu của Đảng ở địa phương. Đảng bộ,
349

35.10 Page 350

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
chính quyền Phú Hữu quyết tâm xây dựng chính quyền liêm
chính, hành động, phục vụ nhân dân, lấy sự hài lòng của người
dân làm mục tiêu quản lý xã hội. Từ khi thành lập đến nay, dưới
sự lãnh đạo Đảng bộ, xã đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng
về kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh, đời sống vật
chất, tinh thần của người dân không ngừng tăng lên, tình hình
chính trị, xã hội ổn định, bộ mặt nông thôn mới có nhiều thay
đổi nhanh chóng, bền vững theo hướng văn minh, hiện đại.
Thứ năm, Đảng bộ xác định củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân là cơ sở, điều kiện tiên quyết để phát huy mọi nguồn lực
của địa phương và bên ngoài thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội. Cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, ban ngành địa
phương thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp, luôn thể
hiện tinh thần cầu thị, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân,
giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng, đúng pháp luật cho
người dân. Cán bộ, đảng viên luôn nắm vững quy định, nguyên
tắc của pháp luật, chủ động vận dụng sáng tạo đường lối, chủ
trương các nghị quyết, chỉ thị của Đảng phù hợp với tình hình
thực tế địa phương theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Thứ sáu, cấp ủy Đảng xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm
của mình, phát huy tập trung dân chủ, theo phương châm tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cá nhân phục tùng tập thể, cấp
dưới phục tùng cấp trên, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Hữu
bình, luôn bám sát các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
và sự chỉ đạo của cấp trên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được cấp ủy, Đảng bộ Phú Hữu thực hiện thường xuyên theo
các nghị quyết, quy định của Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy
Long Thành, sau là Huyện ủy Nhơn Trạch gắn với trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý từ xã đến ấp và tổ nhân dân.
Thứ bảy, thành quả từ xây dựng nông thôn mới mang lại
hạnh phúc cho người dân, giúp nhân dân ngày càng tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Địa phương xác
định phát triển kinh tế gắn liền với nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân theo quy định pháp luật. Chính
quyền địa phương thường xuyên quan tâm, xây dựng, củng cố
các thiết chế văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thụ hưởng các lĩnh
vực thông tin, giáo dục, y tế, để mọi người dân “không để ai
bị bỏ lại phía sau”. Phú Hữu có kết cấu hạ tầng đồng bộ, môi
trường nông thôn “sáng - xanh - sạch - đẹp”, đời sống người
dân được nâng cao rõ rệt.
Thứ tám, những thành quả đạt được của Phú Hữu về kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh trong thời gian qua là do
Đảng bộ địa phương đoàn kết, đồng lòng; người dân hăng hái,
nhiệt tình giúp sức và thực hiện tốt mọi chủ trương của Đảng,
Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội chủ
351

36.2 Page 352

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu (1930 - 2020)
động, kịp thời nắm bắt nhanh tình hình, tâm tư, nguyện vọng,
bức xúc của người dân để kịp thời tham mưu Đảng bộ, chính
quyền địa phương điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương,
chính sách, pháp luật cũng như công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều
hành. Việc bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhân dân, cổ vũ, động
viên các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế, xã hội,
đã nhân lên nguồn sức mạnh nội lực của khối đại đoàn kết toàn
dân trong sự nghiệp xây dựng địa phương giàu mạnh. Trong đó,
cán bộ lãnh đạo quản lý của địa phương tăng cường phát huy
tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm vì lợi ích chung, xây dựng chính quyền Phú Hữu thực
sự của dân, do dân, vì dân; cùng huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai không ngừng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh “về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong thế kỷ XXI.
352

36.3 Page 353

▲back to top


BẢN ĐỒ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH XÃ PHÚ HỮU
353

36.4 Page 354

▲back to top


HÌNH ẢNH MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
Lê Thị Thể
(1919-1990)
Trần Thị Tranh
(1900-1980)
Võ Thị Thấy
(1910-1982)
354
Trần Thị Như
(1919-2008)

36.5 Page 355

▲back to top


Nguyễn Thị Chiếm
(1914-2005)
Nguyễn Thị Hiển
(1911-2004)
Phạm Thị Thất
(1923-1999)
Nguyễn Thị Chuộng
(1934-1964)
355

36.6 Page 356

▲back to top


HÌNH ẢNH BÍ THƯ, PHÓ BÍ THƯ CHI - ĐẢNG BỘ
QUA CÁC THỜI KỲ
Phạm Ngọc Thảo
Bí thư (1973-1975)
Lê Minh Cảm
P.Bí thư (1975-1980)
Bí thư (1980-1982)
Trần Trung Kiên
P.Bí thư (1980-1984)
Bí thư (1984-1988)
356
Đoàn Văn Le
P.Bí thư (1986-1988)
Bí thư (1988-1993)

36.7 Page 357

▲back to top


Lê Văn Sang
P. Bí thư (2005-2010)
Bí thư (2010-2015)
Đặng Phước Hồng
P. Bí thư (1980-1984)
Bí thư (2005-2010)
Nguyễn Bình Nam
Bí thư (2015-2020)
Phan Chí Thảo
Bí thư (2020-2025)
357

36.8 Page 358

▲back to top


Hồ Văn Mến
P. Bí thư (1995-1997)
(1999-2000)
Lê Hoàng Tuấn
P. Bí thư (2000-2005)
Võ Thị Diệu
P. Bí thư (2015-2020)
Bí thư (2019-2021)
358

36.9 Page 359

▲back to top


HÌNH ẢNH CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH UBND
QUA CÁC THỜI KỲ
Lê Minh Cảm
Chủ tịch (1978-1980)
Đoàn Văn Le
P. Chủ tịch (1980-1985)
Chủ tịch (1985-1995)
Hồ Văn Mến
P. Chủ tịch (1994-1995)
Chủ tịch (1995-1999)
Đặng Phước Hồng
P. Chủ tịch (2000-2002)
Q.Chủ tịch (2002)
359

36.10 Page 360

▲back to top


Lê Văn Sang
Chủ tịch (2004-2011)
Võ Thị Diệu
P. Chủ tịch (2011-2012)
Chủ tịch (2012-2019)
Lê Thị Thanh Hồng
P. Chủ tịch (2013-2019)
Chủ tịch (2019-2021)
Lê Thanh Tùng
Chủ tịch (2022 đến nay)
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Trần Thanh Nhung
P. Chủ tịch
(1977)
Hồ Văn Xem
P. Chủ tịch
(1985-1987)
Võ Văn Bạch
P. Chủ tịch
(2000-2005)
Nguyễn Thanh Yên
P. Chủ tịch
(2004-2019)
Võ Thanh Hoàng
P. Chủ tịch
(2019 đến nay)
Bùi Văn Khỏe
P. Chủ tịch
(2021 đến nay)
361

37.2 Page 362

▲back to top


HÌNH ẢNH TƯ LIỆU VỀ XÃ PHÚ HỮU
Trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã Phú Hữu.
Tập thể cán bộ, đảng viên, công chức xã Phú Hữu.
362

37.3 Page 363

▲back to top


Đền thờ Liệt sĩ xã Phú Hữu.
Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần IV.
363

37.4 Page 364

▲back to top


Đại hội Đảng bộ xã Phú Hữu lần V.
Xã Phú Hữu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2015.
364

37.5 Page 365

▲back to top


Xã Phú Hữu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
năm 2018.
Trạm y tế xã Phú Hữu.
365

37.6 Page 366

▲back to top


Trường Mầm non Phú Hữu (phân hiệu Phước Lương).
Trường Mầm non Phú Hữu (phân hiệu Câu Kê).
366

37.7 Page 367

▲back to top


Trường Tiểu học Phú Hữu (cơ sở ấp Rạch Bảy).
Trường Tiểu học Phú Hữu.
367

37.8 Page 368

▲back to top


Trường Trung học cơ sở Dương Văn Thì.
Đình Phước Lương.
368

37.9 Page 369

▲back to top


Điện thờ phật mẫu.
Đồng lúa Phú Hữu.
369

37.10 Page 370

▲back to top


Các nhân chứng lịch sử góp ý Lịch sử Đảng bộ xã Phú Hữu.
Nhà văn hóa ấp Cát Lái.
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


Nhà văn hóa ấp Phước Lương.
Nhà văn hóa ấp Câu Kê.
371

38.2 Page 372

▲back to top


Nhà văn hóa ấp Rạch Bảy.
372

38.3 Page 373

▲back to top


DANH SÁCH MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
STT
HỌ TÊN
1 Đinh Thị Tỵ
2 Lê Thị Thể
3 Trần Thị Tranh
4 Võ Thị Thấy
5 Huỳnh Thị Trà
6 Phạm Thị Bảy
7 Nguyễn Thị Vảng
8 Lê Thị Vở
9 Nguyễn Thị Định
10 Trần Thị Như
11 Phạm Thị Rớt
STT
HỌ TÊN
12 Nguyễn Thị Chiếm
13 Lê Thị Trọng
14 Nguyễn Thị Là
15 Đặng Thị Còn
16 Đặng Thị Thà
17 Nguyễn Thị Hiển
18 Châu Thị Ngân
19 Phạm Thị Đầy
20 Phạm Thị Thất
21 Bạch Thị Đời
22 Nguyễn Thị Chuộng
373

38.4 Page 374

▲back to top


DANH SÁCH LIỆT SĨ
STT
HỌ TÊN
1 Hồ Văn Thơ
2 Nguyễn Văn Lùng
3 Phạm Văn Đẹp
4 Phạm Văn Phúc
5 Lê Văn Danh
6 Phạm Văn Bình
7 Phan Văn Thuận
8 Nguyễn Hoàng Hoa
9 Phan Tấn Mao
10 Nguyễn Văn Xuân
11 Nguyễn Văn Chiến
12 Huỳnh Văn Chót
13 Dương Văn Thắng
14 Nguyễn Văn Hai
15 Trần Văn Cộng
16 Đặng Ngọc Thành
17 Trương Văn Cục
STT
HỌ TÊN
25 Võ Ngọc Thành
26 Trương Văn Hết
27 Lê Quang Nghĩa
28 Trương Văn Lý
29 Võ Văn Chuẩn
30 Võ Minh Toàn
31 Võ Văn Thích
32 Nguyễn Văn Cát
33 Nguyễn Văn Liêu
34 Trương Văn Giàu
35 Đặng Văn Mùi
36 Dương Văn Danh
37 Lê Văn Kim
38 Phạm Văn Nên
39 Võ Văn Thêm
40 Trần Văn Sẳn
41 Nguyễn Văn Đắc
374

38.5 Page 375

▲back to top


18 Nguyễn Văn Út
19 Lê Văn Sạn
20 Trương Văn Dứt
21 Bùi Văn Đực
22 Nguyễn Văn Nguyện
23 Trương Văn Cu
24 Mai Chí Dũng
49 Nguyễn Thị Mai
50 Nguyễn Văn Nhờ
51 Nguyễn Văn Quân
52 Lê Văn Trình
53 Võ Văn Dơn
54 Nguyễn Văn Thân
55 Võ Văn Chính
56 Lê Văn Kia
57 Dương Văn Cân
58 Trần Văn Sỹ
59 Phạm Văn Phúc
60 Phạm Văn Giác
61 Lê Thị Chương
42 Hồ Văn Tám
43 Huỳnh Văn Màng
44 Trần Văn Biết
45 Nguyễn Văn Cường
46 Lê Văn Lung
47 Trần Văn Năm
48 Phạm Bình Minh
76 Trương Văn Hết
77 Trương Văn Chổ
78 Đào Văn Xuyên
79 Trần Văn Bích
80 Mai Văn Ghe
81 Nguyễn Văn Niên
82 Nguyễn Văn Ánh
83 Lê Minh Hòa
84 Lê Văn Đực
85 Nguyễn Văn Lộc
86 Nguyễn Văn Lợi
87 Nguyễn Văn Tư
88 Nguyễn Văn Năm
375

38.6 Page 376

▲back to top


62 Lê Văn Biết
63 Lê Văn Chiến
64 Nguyễn Văn Tặc
65 Nguyễn Văn Diệt
66 Nguyễn Văn Đường
67 Nguyễn Văn Thanh
68 Nguyễn Văn Lai
69 Nguyễn Văn Châu
70 Lê Thị Ân
71 Đặng Văn Đức
72 Nguyễn Văn Do
73 Nguyễn Ngọc Đạo
74 Nguyễn Văn Sao
75 Nguyễn Văn Kèn
103 Võ Văn Cường
104 Võ Văn Trọng
105 Võ Văn Nghiêm
106 Võ Văn Bòn
107 Đoàn Văn Cầu
108 Đặng Văn Nghĩa
89 Hồ Văn Sơn
90 Hồ Văn Sổ
91 Nguyễn Văn Mách
92 Lê Thị Tạo
93 Hồ Văn Một
94 Nguyễn Văn Cao
95 Trần Văn Tấn
96 Võ Văn Bê
97 Lê Văn Thép
98 Lê Văn Ơn
99 Trần Văn Sum
100 Trương Văn Út
101 Nguyễn Văn Bé
102 Hồ Văn Bảy Chính
122 Nguyễn Văn Bé
123 Nguyễn Văn Nhiều
124 Nguyễn Văn Tý
125 Nguyễn Văn On
126 Lê Văn Tàu
127 Nguyễn Văn Lớn
376

38.7 Page 377

▲back to top


109 Đặng Văn Nữ
110 Đặng Văn Tám
111 Lê Văn Cảnh
112 Lê Văn Đành
113 Phạm Văn Chà
114 Huỳnh Văn Đoàn
115 Võ Văn Xê
116 Nguyễn Văn Bốn
117 Dương Văn Dìa
118 Nguyễn Văn Đông
119 Lê Văn Chạy
120 Nguyễn Văn Mẫm
121 Phạm Văn Búp
128 Lê Văn Rớt
129 Nguyễn Văn Vàng
130 Phạm Văn Y
131 Lê Văn Tâm
132 Phạm Ngọc Khuê
133 Nguyễn Văn Vậy
134 Phan Văn Kim
135 Phan Thị Liên
136 Nguyễn Văn Nhiều
137 Phạm Văn Nhan
138 Ngô Văn Chiêu
139 Nguyễn Văn Tý
377

38.8 Page 378

▲back to top


DANH SÁCH CHI ỦY, BCH ĐẢNG BỘ
XÃ PHÚ HỮU QUA CÁC NHIỆM KỲ
I. Giai đoạn 1945-1975
STT
Họ và tên
1 Nguyễn Văn Búp
2 Trần Văn Hiệp
3 Dương Văn Sinh
4 Phạm Văn Ngọc
5 Tám Tâm
6 Sáu Xuân
Chức vụ
Bí thư
Bí thư
Bí thư
Bí thư
Bí thư
Bí thư
Thời gian
1952
1956-1958
1967
1970
1971
7 Trần Thanh Liên
Bí thư Chi bộ B (chi
bộ mật hoạt động
công khai tại xã)
1972
8 Phạm Ngọc Thảo
9 Võ Văn Sáu
Bí thư
Bí thư
1973-1974
1974-1975
II. Giai đoạn 1975-2020
1. Chi ủy quân quản
STT
Họ và tên
1 Võ Văn Sáu (Sáu Nhà)
2 Lê Minh Cảm
3 Trần Kim Thanh
2. Chi ủy lâm thời
STT
Họ và tên
1 Võ Văn Sáu (Sáu Nhà)
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Chi ủy viên
Thời gian
5-12/1975
5-12/1975
5-12/1975
Chức vụ Thời gian
Bí thư 1-11/1976
378

38.9 Page 379

▲back to top


2 Lê Minh Cảm
3 Trần Kim Thanh
Phó Bí thư 1-11/1976
Chi ủy viên 1-11/1976
3. Chi ủy khóa I nhiệm kỳ (1976-1978)
STT
Họ và tên
1 Võ Văn Sáu (Sáu Nhà)
2 Lê Minh Cảm
3 Trần Trung Kiên
4 Trần Kim Thanh
5 Trần Thanh Nhung
6 Phạm Văn Mới
7 Trần Văn trừ
Chức vụ Thời gian
Bí thư 1976-1978
Phó Bí thư 1976-1978
Chi ủy viên 1976-1978
Chi ủy viên 1976-1978
Chi ủy viên 1976-1978
Chi ủy viên 1976-1978
Chi ủy viên 1976-1978
4. Chi ủy khóa II nhiệm kỳ (1978-1980)
STT
Họ và tên
1 Võ Văn Sáu (Sáu Nhà)
2 Lê Minh Cảm
3 Trần Trung Kiên
4 Trần Kim Thanh
Chức vụ Thời gian
Bí thư 1978-1980
Phó Bí thư 1978-1980
Chi ủy viên 1978-1980
Chi ủy viên 1978-1980
5. Chi ủy khóa III nhiệm kỳ (1980-1982)
STT
Họ và tên
1 Lê Minh Cảm
2 Trần Trung Kiên
3 Lê Văn Rắc
4 Đặng Văn Ba
5 Hồ Văn Xem
Chức vụ Thời gian
Bí thư 1980-1982
Phó Bí thư 1980-1982
Chi ủy viên 1980-1982
Chi ủy viên 1980-1982
Chi ủy viên 1980-1982
379

38.10 Page 380

▲back to top


6. Chi ủy khóa IV nhiệm kỳ (1982-1984)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Võ Văn Sáu (Sáu Nhà)
Bí thư 1982-1984
2 Trần Trung Kiên
Phó Bí thư 1982-1984
3 Trần Hồng Minh
Phó Bí thư 1982-1984
4 Châu Văn Năm
Chi ủy viên 1982-1984
5 Hồ Văn Xem
Chi ủy viên 1982-1984
7. Chi ủy khóa V nhiệm kỳ (1984-1986)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Trần Trung Kiên
Bí thư 1984-1986
2 Trần Hồng Minh
Phó Bí thư 1984-1986
3 Nguyễn Thị Hường
Chi ủy viên 1984-1986
4 Hồ Văn Xem
Chi ủy viên 1984-1986
5 Lê Văn Non
Chi ủy viên 1984-1986
8. Chi ủy khóa VI nhiệm kỳ (1986-1988)
STT
Họ và tên
Chức vụ
1 Trần Trung Kiên
Bí thư
2 Đoàn Văn Le
Phó Bí thư
3 Nguyễn Thị Hường
Phó Bí thư
4 Hồ Văn Xem
Chi ủy viên
5 Lê Văn Đức
Chi ủy viên
Thời gian
1986-1988
1986-1988
1986-1988
1986-1988
1986-1988
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


9. Chi ủy khóa VII nhiệm kỳ (1988-1991)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Đoàn Văn Le
Bí thư 1988-1991
2 Tô Ngọc Anh
3 Lê Văn Đức
Phó Bí thư 1988-1991
Phó Bí thư 1988-1991
4 Trần Minh Hoàng
Chi ủy viên 1988-1991
5 Nguyễn Thị Hường
Chi ủy viên 1988-1991
10. Chi ủy khóa VIII nhiệm kỳ (1991-1993)
STT
Họ và tên
1 Đoàn Văn Le
2 Tô Ngọc Anh
Chức vụ Thời gian
Bí thư 1991-1993
Phó Bí thư 1991-1993
3
Lê Văn Đức,
sau đó Võ Văn Đáng
Chi ủy viên 1991-1993
4 Trần Minh Hoàng
5 Phan Trung Nở
Chi ủy viên 1991-1993
Chi ủy viên 1991-1993
11. Chi ủy lâm thời (1-9-1994 đến 1-9-1995)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Lê Văn Sang
Bí thư 1994-1995
2 Bùi Văn Tuội
3 Hồ Văn Mến
Phó Bí thư 1994-1995
Chi ủy viên 1994-1995
4 Nguyễn Thanh Yên
Chi ủy viên 1994-1995
5 Võ Văn Đáng
Chi ủy viên 1994-1995
6 Trần Minh Hoàng
Chi ủy viên 1994-1995
7 Trần Trung Kiên
Chi ủy viên 1994-1995
381

39.2 Page 382

▲back to top


12. Chi ủy khóa I nhiệm kỳ (1995-1999)
STT
Họ và tên
1 Lê Văn Sang
2 Hồ Văn Mến
3 Lê Văn Đức
4 Trần Minh Hoàng
5 Phạm Văn Nghiệp
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Chi ủy viên
Chi ủy viên
Chi ủy viên
Thời gian
1995-1999
1995-1999
1995-1999
1995-1999
1995-1999
13. BCH Đảng bộ lâm thời (1999-2000)
STT
Họ và tên
1 Lê Văn Sang
2 Hồ Văn Mến
3 Phạm Văn Nghiệp
4 Trần Minh Hoàng
5 Võ Văn Đáng
6 Lê Thị Kim Huyền
7 Võ Văn Bạch
Chức vụ
Thời gian
Bí thư Đảng bộ 1999-2000
Phó Bí thư Đảng bộ 1999-2000
Đảng ủy viên 1999-2000
Đảng ủy viên 1999-2000
Đảng ủy viên 1999-2000
Đảng ủy viên 1999-2000
Đảng ủy viên 1999-2000
14. BCH Đảng bộ khóa I nhiệm kỳ (2000-2005)
STT
Họ và tên
1 Lê Văn Sang
2 Đặng Phước Hồng
3 Lê Hoàng Tuấn
4 Phạm Văn Đắc
5 Phạm Văn Nghiệp
6 Võ Văn Bạch
7 Trần Minh Hoàng
8 Lê Thị Kim Huyền
Chức vụ
Bí thư
Bí thư
Phó Bí thư
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Thời gian
2000-2004
2004-2005
2000-2005
2000-2005
2000-2005
2000-2005
2000-2005
2000-2005
382

39.3 Page 383

▲back to top


15. BCH Đảng bộ khóa II nhiệm kỳ (2005-2010)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Đặng Phước Hồng
Bí thư 2005-2010
2 Lê Văn Sang
Phó Bí thư 2005-2010
3 Phạm Văn Nghiệp
Thường trực
Đảng ủy
2005-2010
4 Phạm Văn Đắc
5 Võ Văn Bạch
Đảng ủy viên 2005-2010
Đảng ủy viên 2005-2010
6 Trần Minh Hoàng
Đảng ủy viên 2005-2010
7 Nguyễn Thị Tám
8 Trần Ngọc Tú
Đảng ủy viên 2005-2010
Đảng ủy viên 2005-2010
9 Nguyễn Ngọc Tuấn
Đảng ủy viên 2005-2010
16. BCH Đảng bộ khóa III nhiệm kỳ (2010-2015)
STT Họ và tên
1 Lê Văn Sang
Chức vụ
Bí thư
Thời gian
2010-2015
2 Hồ Văn Thắng
Phó Bí thư
2011-2015
3 Võ Thị Diệu
4 Lê Thanh Tùng
Phó Bí thư
2012-2015
Thường trực Đảng ủy 2010-2015
5 Phạm Văn Nghiệp
Đảng ủy viên 2010-2015
6 Nguyễn Văn Điệp
7 Lê Hoàng Duẩn
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
2013-2015
2013-2015
8 Phạm Văn Giọt
Đảng ủy viên 2013-2015
9 Trần Văn Tuấn
Đảng ủy viên 2013-2015
10 Trương Quốc Hùng Đảng ủy viên 2013-2015
383

39.4 Page 384

▲back to top


17. BCH Đảng bộ khóa IV nhiệm kỳ (2015-2020)
STT
Họ và tên
1 Nguyễn Bình Nam
2 Võ Thị Diệu
3 Lê Thanh Tùng
4 Lê Thị Thanh Hồng
5 Nguyễn Thanh Yên
Chức vụ
Bí thư
Phó Bí thư
Thường trực
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Thời gian
2015-2020
2015-2020
2015-2020
2015-2020
2015-2020
6 Trương Quốc Hùng
7 Nguyễn Văn Điệp
8 Bùi Văn Khỏe
9 Phạm Văn Giọt
10 Võ Thanh Hoàng
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
Đảng ủy viên
2015-2020
2015-2020
2015-2020
2015-2020
2015-2020
11 Trần Văn Tuấn
Đảng ủy viên 2015-2020
18. BCH Đảng bộ khóa V nhiệm kỳ (2020-2025)
STT Họ và tên
Chức vụ
Thời gian
1 Phan Chí Thảo
Bí thư
2020-2025
2 Lê Thị Thanh Hồng
Phó Bí thư
2020-2025
3 Lê Thanh Tùng Thường trực Đảng ủy 2020-2025
4 Phạm Văn Giọt
Đảng ủy viên 2020-2025
5 Võ Thanh Hoàng
Đảng ủy viên 2020-2025
6 Trần Văn Tuấn
Đảng ủy viên 2020-2025
7 Bùi Văn Khỏe
Đảng ủy viên 2020-2025
8 Trương Quốc Hùng Đảng ủy viên 2020-2025
9 Trần Quốc Toản
Đảng ủy viên 2020-2025
10 Võ Thị Diệu
Đảng ủy viên 2020-2025
11 Nguyễn Trần Thanh Đảng ủy viên 2020-2025
384

39.5 Page 385

▲back to top


CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH UBND XÃ PHÚ HỮU
QUA CÁC THỜI KỲ
I. Năm 1945-1975
STT
Họ tên
1 Lê Xuân Toản
II. Năm 1975-2020
STT
Họ tên
1 Hồ Trung Thành
2 Trần Văn Hiệp
3 Lê Minh Cảm
4 Lê Văn Rắc
5 Trần Hồng Minh
6 Đoàn Văn Le
7 Hồ Văn Mến
8 Lê Hoàng Tuấn
9 Đặng Phước Hồng
10 Lê Văn Sang
11 Hồ Văn Thắng
Chức vụ
Chủ tịch
Thời gian
1945
Chức vụ
Chủ tịch
Chủ tịch
Chủ tịch
Chủ tịch
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Chủ tịch
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Quyền Chủ tịch
Chủ tịch
Chủ tịch
Thời gian
5-1975 đến
7-1975
8-1975 đến
1-1976
1978-1980
1980-1982
1982-1986
1980-1985
1985-1995
1994-1995
1995-1999
1999-2002
2000-2002
2002-2004
2004-2011
2011-2012
385

39.6 Page 386

▲back to top


12 Võ Thị Diệu
13 Lê Thị Thanh Hồng
14 Lê Thanh Tùng
15 Phạm Ngọc Thạch
16 Trần Thanh Nhung
17 Hồ Trung Thành
18 Dương Tấn Ngọc
19 Đặng Văn Ba
20 Châu Văn Năm
21 Bùi Văn Tuội
22 Hồ Văn Xem
23 Lê Văn Đức
24 Võ Văn Bạch
25 Nguyễn Thanh Yên
26 Bùi Văn Khỏe
Phó Chủ tịch
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Chủ tịch
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
27 Võ Thanh Hoàng
Phó Chủ tịch
2011-2012
2012-2019
2013-2019
2019-2021
2022 đến
nay
1976
1977
1978-1980
1978-1980
1980-1982
1982-1986
1985-1994
1985-1987
1995-1999
2000-2005
2004-2019
2021 đến
nay
2019 đến
nay
386

39.7 Page 387

▲back to top


CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CÔNG AN, QUÂN SỰ,
ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI QUA CÁC THỜI KỲ
1. Trưởng, Phó Công an (1975-2020)
STT Họ và tên
Chức vụ
Thời gian
1 Hồ Trung Thành
Trưởng an ninh 1976-1977
2 Trần Văn Trừ
Trưởng an ninh 1978-1980
3 Đặng Văn Ba
Trưởng Công an 1980-1982
4 Châu Văn Năm
Trưởng Công an 1982-1985
5 Hồ Văn Xem
Trưởng Công an 1985-1987
6 Bùi Văn Tuội
Trưởng Công an 1987-1988
7 Đặng Văn Hùng
Trưởng Công an 1988-1989
8 Lê Văn Non
Trưởng Công an 1990-1994
9 Lê Văn Đức
Trưởng Công an 1994-1998
10 Võ Văn Đáng
Trưởng Công an 1998-2001
11 Trần Minh Hoàng Trưởng Công an 2001-2009
12 Lê Hoàng Duẩn
Phó trưởng Công an 1998-2008
Trưởng Công an 2009-2013
13 Nguyễn Văn Điệp Trưởng Công an 2013-2020
14 Phạm Ngọc Hùng Phó trưởng Công an 1980-1994
15 Lê Văn Mau
Phó trưởng Công an 1978-1986
16 Trần Thái Cường Phó trưởng Công an 2003-2009
17 Phạm Ngọc Tùng Phó trưởng Công an 2011-2020
18 Nguyễn Minh Trung Phó trưởng Công an 2007-2020
387

39.8 Page 388

▲back to top


2. Xã đội trưởng, phó (1975-2020)
STT
Họ và tên
Chức vụ
1 Hồ Minh Cảm
Xã đội trưởng
2 Hồ Văn Xem
Xã đội trưởng
3 Lê Văn Non
Xã đội phó
Xã đội trưởng
4 Lê Văn Đức
Xã đội phó
Xã đội trưởng
5 Trần Minh Hoàng
Xã đội phó
Xã đội trưởng
6 Trần Ngọc Tú
Xã đội phó
Xã đội trưởng
7 Trương Quốc Hùng Xã đội trưởng
8 Đoàn Văn Trí
Xã đội phó
9 Châu Văn Năm
Xã đội phó
10 Lê Văn Tâm
Xã đội phó
11 Nguyễn Văn Tư
12 Đoàn Văn Cưỡng
Xã đội phó
Xã đội phó
13 Nguyễn Văn Đông
14 Lê Văn Dũng
Xã đội phó
Xã đội phó
15 Hồ Phong Vũ
Xã đội phó
16 Lê Huỳnh Anh
Xã đội phó
17 Bùi Chân Lý
Xã đội phó
18 Lưu Tiến Khoa
Xã đội phó
Thời gian
1975-1979
1979-1984
1982-1984
1984-1986
1985-1986
1986-1988
1986-1987
1988-2001
1987-2001
2001-2010
2010 đến nay
1979-1983
1979-1982
1983-1985
1983-1986
1988-1994
2002-2011
2001-2002
2011-2014
2012-2018
2014- nay
2018- nay
388

39.9 Page 389

▲back to top


3. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
(1975-2020)
STT
Họ và tên
Chức vụ
Thời gian
1 Phạm Văn Hành
Chủ tịch 1975-1985
2 Nguyễn Thị Hường
3 Phan Trung Nở
Chủ tịch
Chủ tịch
1986-1990
1990-1993
4 Phạm Văn Nghiệp
Chủ tịch
1994-2005
2010-2018
5 Nguyễn Ngọc Tuấn
6 Bùi Văn Khỏe
Chủ tịch
Chủ tịch
2005-2010
2018-2020
7 Lê Văn Sang
Phó Chủ tịch 1989-1993
8 Võ Văn Kiệp
Phó Chủ tịch 2001-2010
9 Trần Hữu Phước
10 Trịnh Thị Phương
11 Nguyễn Ngọc Tuấn
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
2005-2017
2013-2020
1994-2005
12 Nguyễn Văn Đông Phó Chủ tịch 2011-2013
13 Đoàn Minh Lẹ
Phó Chủ tịch 2018-nay
4. Bí thư, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên (1975-2020)
STT
Họ và tên
1 Trần Trung Kiên
2 Đoàn Văn Tám
Chức vụ
Bí thư
Bí thư
Thời gian
1975-1980
1980-1994
3 Lê Thanh Tùng
Bí thư
1995-2005
4 Trần Minh Sĩ
Bí thư
2005-2007
5 Võ Thị Diệu
Bí thư
2007-2011
389

39.10 Page 390

▲back to top


6 Bùi Văn Khỏe
Bí thư
2011-2018
7 Trần Quốc Toản
Phó Bí thư 2014-2018
Bí thư
2018 đến nay
8 Đặng Minh Khang Phó Bí thư 1995-2000
9 Lê Thị Hồng Phượng Phó Bí thư 2000-2005
10 Trần Việt Quốc
Phó Bí thư 2007-2013
11 Trần Phước Sang
Phó Bí thư 2018-2020
5. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ (1975-2020)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Trần Kim Thanh
Chủ tịch 1975-1976
2 Lê Thị Đảnh
Chủ tịch 1977-1978
3 Nguyễn Thị Hường
Chủ tịch 1978-1982
4 Nguyễn Thị Nam
Phó Chủ tịch 1975-1978
Chủ tịch 1982-1988
5 Đỗ Thị Quăn
Chủ tịch 1988-1992
6 Lê Thị Kim Huyền
Chủ tịch 1992-2003
7 Nguyễn Thị Tám
Phó Chủ tịch 2000-2003
Chủ tịch 2003 đến nay
8 Nguyễn Thị Bích Hạnh Phó Chủ tịch 1990-1995
9 Trịnh Thị Phương
Phó Chủ tịch 1993-2000
10 Phạm Thị Hồng Phượng Phó Chủ tịch 2003-2019
11 Võ Thị Thùy Vân
Phó Chủ tịch 2019 đến nay
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


6. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội Nông dân (1975-2020)
STT
Họ và tên
Chức vụ Thời gian
1 Phan Trung Nở
Chủ tịch 1975-1985
2 Đoàn Văn Đạm
Chủ tịch 1986-1994
3 Lê Văn Hai
Chủ tịch 1995-2000
4 Hồ Văn Mến
Chủ tịch 2000-2014
5 Trần Ngọc Tú
Chủ tịch 2014 đến nay
6 Nguyễn Trung Cang Phó Chủ tịch 1995-2009
7 Nguyễn Văn Tào
Phó Chủ tịch 2009-2013
8 Hồng Văn Lam
Phó Chủ tịch 2014 đến nay
7. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh (1975-
2020)
STT
Họ và tên
Chức vụ
Thời gian
1 Trần Minh Hoàng
Chủ tịch 1990-1992
2 Lê Minh Cảm
Chủ tịch 1993-1995
3 Lê Văn Đông
Chủ tịch 1995-2005
4 Trần Minh Hoàng
Chủ tịch 2005-2017
5 Phan Ngọc Hiệp
Chủ tịch 2017 đến nay
6 Nguyễn Ngọc Yển
Phó Chủ tịch 1990-1992
7 Hồ Văn Nho
Phó Chủ tịch 1993-1995
391

40.2 Page 392

▲back to top


8 Lê Văn Ba
9 Lê Văn Ba
10 Nguyễn Văn Đông
11 Nguyễn Văn Đông
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Phó Chủ tịch
1995-2005
2005-2010
2010-2016
2019- nay
8. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (1975-
2020)
STT
Họ tên
Chức vụ
Thời gian
1 Lê Văn Sang
Chủ tịch
1994-2004
2011-2015
2 Đặng Phước Hồng
Chủ tịch 2004-2011
3 Phan Văn Giọt
Phó Chủ tịch
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
2011-2015
2015-2016
2016-2021
4 Võ Thị Diệu
Chủ tịch 2016 đến nay
5 Nguyễn Thanh Yên Phó Chủ tịch 1994-2004
6 Lê Thị Kim Huyền Phó Chủ tịch 2004-2011
392

40.3 Page 393

▲back to top


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị
quốc gia sự thật.
2. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
3. Phạm Đức Mạnh (2019), Đến với lịch sử văn hóa Biên
Hùng - Đồng Nai, Nxb Đồng Nai.
4. Nguyễn Văn Thông (2015), Đất mẹ, Nxb Đồng Nai.
5. Nguyễn Đình Tư (2017), Địa chí hành chính các tỉnh
Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1859-1954), Nxb Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
6. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), Lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch (1930-2015), Nxb Đồng Nai.
7. Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (2020), huyện Nhơn Trạch
anh hùng, Nxb Đồng Nai.
8. Nhiều tác giả (2018), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh, tập 1, tập 4, Nxb tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
9. Nhiều tác giả (2001), Địa chí Đồng Nai, tập 3, Nxb
Đồng Nai
10. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất
thống chí, tập 2, bản dịch mới của Hoàng Văn Lâu, Nxb Lao
động.
11. Huyện ủy Long Thành (1988), Long Thành những
chặng đường lịch sử, Nxb Đồng Nai.
393

40.4 Page 394

▲back to top


12. Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai (2018), Lịch sử phong
trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đồng Nai (1930-2015),
Nxb Đồng Nai.
13. Nhiều tác giả (2013), Rừng Sác Cần Giờ những chiến
công huyền thoại, Nxb Văn hóa Văn nghệ.
14. Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh
Đồng Nai (1997), Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
tỉnh Đồng Nai 1930-1995, tập 1, Nxb Đồng Nai.
15. Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Lịch sử
Trung đoàn 10 Rừng Sác anh hùng (1966-2014), Nxb Quân đội
nhân dân.
16. Biên bản cuộc Tọa đàm ngày 12-12-1980. Tài liệu lưu
Phòng nghiên cứu lý luận Lịch sử đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy Đồng Nai.
17. Trung ương Cục miền Nam (1954), Chỉ thị 43/CT.TWC
ngày 11-8-1954. Tài liệu lưu Phòng Lý luận Chính trị - Lịch Sử
Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
18. Xứ ủy Nam Bộ (1956), Nghị quyết Xứ ủy Nam bộ
tháng 12-1956. Lưu phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai.
19. Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tài liệu lưu trữ.
394

40.5 Page 395

▲back to top


MỤC LỤC
Lời giới thiệu................................................................................... 7
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - LỊCH SỬ HÌNH THÀNH........... 11
1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý.............................................. 11
2. Sự hình thành và phát triển xã Phú Hữu................................ 17
II. VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG, TRUYỀN THỐNG................. 24
1. Văn hóa, truyền thống............................................................ 24
2. Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo............................. 27
III. KINH TẾ - XÃ HỘI............................................................... 35
1. Về kinh tế............................................................................... 35
2. Về xã hội................................................................................ 40
CHƯƠNG I
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO ĐẤU TRANH KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1930-1954)
I. Đ ẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI - ÁNH SÁNG
SOI ĐƯỜNG NHÂN DÂN PHÚ HỮU ĐẤU TRANH
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1930-1945).............................. 51
1. Đấu tranh cách mạng chống quân xâm lược
trước khi có Đảng.................................................................. 51
2. Đấu tranh giành độc lập dưới ánh sáng soi đường
của Đảng Cộng sản Việt Nam................................................ 58

40.6 Page 396

▲back to top


II. C HIẾN ĐẤU CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TÁI XÂM
LƯỢC (1945-1954).................................................................. 78
1. Bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945............ 78
2. C hi bộ Phú Hữu lãnh đạo thực hiện đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.................... 85
CHƯƠNG II
LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954-1975
I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG QUỐC MỸ VÀ
CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN (1954-1965................................ 108
1. Đấu tranh chính trị chống đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn............................................................ 108
2. Đấu tranh vũ trang chống đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn............................................................ 115
II. CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ VÀ
CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN (1965-1975)............................. 137
1. Chiến đấu chống các chiến lược chiến tranh
của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn (1965-1973......... 137
2. C hiến đấu chống chính quyền Sài Gòn,
giành thắng lợi hoàn toàn (1973-1975)................................ 158
CHƯƠNG III
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG,
PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI,
THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI (1975-1994)
I. X ÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ,
PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, GIỮ VỮNG
QUỐC PHÒNG - AN NINH (1975-1986).............................. 166
1. Thành lập chi bộ, xây dựng chính quyền cách mạng........... 166

40.7 Page 397

▲back to top


2. Xây dựng đoàn thể chính trị - xã hội................................... 175
3. Lĩnh vực kinh tế................................................................... 179
4. Văn hóa xã hội, Quốc phòng - An ninh............................... 188
II. THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN
TOÀN DIỆN ĐỊA PHƯƠNG (1986-1994)........................... 196
1. C hi bộ xã Phú Hữu lãnh đạo toàn diện
công cuộc đổi mới................................................................ 196
2. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội................ 206
3. Trên lĩnh vực kinh tế............................................................ 210
4. Về văn hóa xã hội, Quốc phòng - An ninh........................... 213
CHƯƠNG IV
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(1994-2010)
I. TẬP TRUNG XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ...................................................... 222
1. Các kỳ Đại hội Chi bộ, Đảng bộ.......................................... 222
2. Công tác xây dựng Đảng..................................................... 227
3. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước.............................. 236
4. Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội...................... 242
II. ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.... 256
1. Phát triển kinh tế.................................................................. 256
2. Văn hóa xã hội..................................................................... 262
3. Công tác đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội.......................... 271
4. Giữ vững Quốc phòng - An ninh......................................... 275

40.8 Page 398

▲back to top


CHƯƠNG V
LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
(2010-2020)
I. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG,
CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN, ĐOÀN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI........................................................... 281
1. Các kỳ đại hội Đảng bộ....................................................... 281
2. L ãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
chính trị - xã hội vững mạnh................................................ 288
3. Lãnh đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.................... 293
4. Xây dựng chính quyền liêm chính, hành động
vì người dân......................................................................... 305
II. PHÁT HUY ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC THÚC ĐẨY
PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG
- AN NINH.............................................................................. 310
1. C ông tác lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng
Nông thôn mới..................................................................... 310
2. Về văn hóa xã hội................................................................ 324
3. Công tác Quốc phòng - An ninh.......................................... 332
4. Nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân................................. 337
Kết luận................................................................................. 344
Phụ lục.......................................................................................... 353

40.9 Page 399

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ HỮU (1930-2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ xã Phú Hữu
Mã ISBN: 978-604-42-0409-3
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Đào Thị Thu Thanh
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Đào Thị Thu Thanh
Hoàng Phương
............................................................................................................
In: 200 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn -
134/8 Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM. Số xác nhận
ĐKXB: 420 - 2024 / CXBIPH / 1 - 44 / ÑoN, Cục Xuất bản, In và
Phát hành xác nhận ngay: 01/02/2024, Quyết định xuat bản số: 05/
QĐA-NXBĐN, do NXB Đồng Nai cấp ngày: 10/06/2024. In xong
và nộp lưu chiểu: quý 2/2024.

40.10 Page 400

▲back to top


Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh: 946 521 - P Kế toán: 946 520
Fax: (02513) 946 530 - Email: nxbdongnai@hcm.vnn.vn