LSDB xa Phu Thanh

LSDB xa Phu Thanh



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


LÒCH SÖÛ
ÑANÛ G BOÄ XAÕ PHUÙ THANÏ H
(1930 - 2020)

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ THẠNH
LÒCH SÖÛ
ÑAÛNG BOÄ XAÕ PHUÙ THAÏNH
(1930 - 2020)
(tái bản, bổ sung)
Nhà xuất bản Đồng Nai 2023

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN UỶ NHƠN TRẠCH
CỐ VẤN NỘI DUNG
Huỳnh Minh Đức
(Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy,
nguyên Bí thư Đảng bộ xã Phú Thạnh)
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
Trưởng ban
Trương Quốc Thái - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã
Phó ban Thường trực
Huỳnh Văn Quan - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy
Phó ban
Đỗ Tấn Phát - PBT Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã
Phạm Huy Cường - Phó Chủ tịch UBND xã
BAN BIÊN SOẠN
Huỳnh Văn Tới (chủ biên)
Hà Thị Thanh Thúy
Huỳnh Văn Quan

1.5 Page 5

▲back to top


Lôøi môû ñaàu
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Đồng Nai theo Nghị
quyết 31/NQ-TU ngày 4 tháng 9 năm 2002 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy (khóa VII), đồng thời đáp ứng nguyện vọng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, cuối năm 2013, Đảng
bộ xã Phú Thạnh đã được Huyện ủy Nhơn Trạch phê duyệt, cho
phép thực hiện việc biên soạn, xuất bản “Lịch sử Đảng bộ xã
Phú Thạnh (1930 - 2010)”. Kế hoạch do Ban Chấp hành Đảng
bộ xã Phú Thạnh chủ trương, Ban Chỉ đạo gồm các đồng chí
Huỳnh Minh Đức, Lý Thanh Tùng, Trần Đại Thắng, Phạm Văn
Sảnh, Đoàn Thị Kin Thu, Nguyễn Văn Đức; do Huỳnh Văn Tới
chủ biên cùng Ban biên soạn gồm Hà Thanh Thúy, Huỳnh Tấn
Bửu, Đoàn Trung Kiên thực hiện. Bản thảo đã được nghiệm
thu, được biên tập xuất bản thành sách, Nhà xuất bản Đồng
Nai ấn hành năm 2014, có 244 trang chính văn với 5 chương
chính và phụ lục.
Quyển sách “Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh 1930 - 2010”
đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ ở thời điểm ấy,
5

1.6 Page 6

▲back to top


dừng lại tại cột mốc năm 2010, đến nay đã thêm 13 năm, xã
Phú Thạnh đổi mới, phát triển, có nhiều vấn đề được xác minh
thêm, nhiều nội dung cần cập nhật, bổ sung, bổ khuyết.
Thực hiện yêu cầu và hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Huyện
ủy Nhơn Trạch về việc hoàn thành đồng bộ hệ thống lịch sử
Đảng bộ các xã đến năm 2020, Đảng bộ xã Phú Thạnh lãnh
đạo thực hiện việc biên soạn, bổ sung, tái xuất bản “Lịch sử
Đảng bộ xã Phú Thạnh 1930 - 2020”.
Đây là việc tiếp nối, phát huy giá trị của quyển sách lịch
sử Đảng bộ xã Phú Thạnh đã xuất bản năm 2014; trên cơ sở
đó tiếp thu góp ý của người đọc, xác minh, làm rõ hơn những
vấn đề tồn nghi, bổ khuyết những sử liệu còn thiếu, bổ sung nội
dung thuộc các nhiệm kỳ Đại hội III và Đại hội IV từ năm 2010
đến 2020 cho đồng bộ, thống nhất với hệ thống lịch sử Đảng
bộ địa phương.
Việc thực hiện công trình này có thuận lợi cơ bản, được
quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy Nhơn Trạch, sự đồng thuận và
quyết tâm của hệ thống chính trị địa phương, sự giúp đỡ của
Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch, kế thừa thành quả đã có
cùng kinh nghiệm viết sử của những người tham gia biên soạn.
Tuy nhiên, việc thực hiện gặp rất nhiều khó khăn: Tiến hành
muộn nên nhiều nhân chứng lịch sử đã ra đi, những người còn
lại đã cao tuổi nên sức nhớ giảm sút; tài liệu phân tán, dòng
mạch sử liệu đứt đoạn và áp lực về thời gian hoàn thành. Vì
thế, việc biên soạn, xác minh, thẩm định để hoàn thành “Lịch
6

1.7 Page 7

▲back to top


sử Đảng bộ xã Phú Thạnh 1930 - 2020, tái bản, bổ sung” diễn
ra trong trạng thái khẩn trương, còn nhiều khó khăn.
Sau nhiều tháng thực hiện bằng tâm huyết và tinh thần
trách nhiệm cao, “Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh 1930 - 2020,
tái bản, bổ sung” được hình thành, bao gồm 7 chương, mỗi
chương được phân kỳ thống nhất với khung thời gian của lịch
sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch. Điều này có ý nghĩa: Lịch sử
Đảng bộ xã Phú Thạnh là một bộ phận của lịch sử Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai và huyện Nhơn Trạch, mang sắc thái của một Đảng
bộ địa phương ở vùng nghèo, khó khăn, là “vùng trắng nhưng
không trống vắng phong trào cách mạng”.
Gọi là lịch sử của Đảng bộ, nhưng những trang sử của xã
Phú Thạnh được bắt đầu từ nền văn hóa và phong trào yêu
nước của vùng đất và con người Phú Thạnh, khẳng định: Đảng
ra đời từ Nhân dân, trên nền chủ nghĩa yêu nước của Nhân
dân, sống trong lòng dân, kết tinh sức mạnh đoàn kết của dân,
nên lãnh đạo được toàn dân đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trong quá trình thực hiện, những người tham gia biên soạn
cố gắng làm rõ những sự kiện lịch sử gắn với con người cụ
thể, với phong tục tập quán và môi trường của con người Phú
Thạnh. Có những tên người, sự việc không nhớ hết đầy đủ,
nhưng đó là thực tiễn sinh động, giá trị đặc sắc, ý nghĩa thiêng
liêng, góp phần tạo nên thắng lợi chung, thể hiện mối quan hệ
biện chứng giữa “cái riêng và cái chung”, giữa “cái bộ phận
và cái toàn thể” của lịch sử cách mạng Việt Nam.
7

1.8 Page 8

▲back to top


Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng “Lịch sử Đảng bộ xã Phú
Thạnh 1930 - 2020 tái bản, bổ sung” ắt vẫn còn nhiều thiếu sót
ngoài ý muốn, do nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Rất
mong bạn đọc góp ý xây dựng. Đảng bộ xã Phú Thạnh xin chân
thành cảm ơn và tiếp thu mọi ý kiến góp ý xây dựng.
T/M Đảng ủy xã Phú Thạnh
BÍ THƯ
TRƯƠNG QUỐC THÁI
8

1.9 Page 9

▲back to top


Chương I
PHÚ THẠNH:
VÙNG ĐẤT - CON NGƯỜI
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Xã Phú Thạnh nằm phía Tây huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai, dọc theo trục lộ 17 cũ1, có tọa độ 100431B 1060512Đ. Để
đến xã Phú Thạnh, có hai hướng chính: hướng thứ nhất từ quốc
lộ 51 theo hướng Biên Hòa - Long Thành đến đoạn ngã ba Cầu
Xéo (thị trấn Long Thành, huyện Long Thành) rẽ phải chạy
thẳng theo đường Lý Thái Tổ qua các xã Phước Thiền, Phú
Hội, Long Tân (huyện Nhơn Trạch) đến xã Phú Thạnh; hướng
thứ hai từ thành phố Thủ Đức (trước đây là Quận 2, Thành phố
Hồ Chí Minh) qua phà Cát Lái, chạy thẳng theo đường Lý Thái
Tổ qua các xã Phú Hữu, Đại Phước, Phú Đông (huyện Nhơn
Trạch) cũng sẽ đến Phú Thạnh.
Phú Thạnh là một trong 12 xã, thị trấn của huyện Nhơn
Trạch. Địa giới hành chính xã Phú Thạnh xác định như sau:
- Phía Đông và Đông Bắc giáp xã Long Tân.
- Phía Tây Bắc giáp xã Đại Phước.
1  Lộ 17 là tên gọi cũ, có một thời gian còn được gọi là đường 25A, đường tỉnh
769, hiện nay là đường Lý Thái Tổ.
9

1.10 Page 10

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Phía Tây giáp xã Phú Đông.
- Phía Nam giáp xã Vĩnh Thanh.
Tổng diện tích tự nhiên của xã Phú Thạnh là 1.773,49 ha.
Theo số liệu của Công an xã, năm 2020 toàn xã có 3.609 hộ với
12.632 nhân khẩu; trong đó có 6.386 là nữ; có 9.545 nhân khẩu
từ 14 tuổi trở lên. Xã có 3 ấp gồm: ấp 1, ấp 2 và ấp 3, được chia
thành 61 tổ nhân dân.
Phú Thạnh trước đây còn có tên gọi là Phước Thạnh. Theo
Gia Định thành thông chí1, thôn Phước Thạnh thuộc tổng Thành
Tuy, huyện Long Thành. Chưa có tài liệu nào cho biết chính
xác thôn Phước Thạnh thành lập từ năm nào, nhưng lấy năm
Trịnh Hoài Đức biên soạn Gia Định thành thông chí (1820) làm
mốc, thời điểm đó thôn Phước Thạnh đã ra đời, là một trong 29
thôn, ấp của tổng Thành Tuy.
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu phái Thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phương Nam. Nguyễn Hữu
Cảnh đã thiết lập hệ thống hành chính, đặt miền đất mới - tức
cả vùng Nam Bộ ngày nay - thành phủ Gia Định, gồm 2 huyện
Tân Bình (đặt dinh Phiên Trấn) và Phước Long (đặt dinh Trấn
Biên). Trong đó, huyện Phước Long có địa giới hành chính rất
rộng, bao gồm các tỉnh phía Đông sông Sài Gòn ngày nay như:
Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu và
một phần tỉnh Bình Thuận.
1  Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng Nai 2005, trang 133.
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đến năm 1788, Nguyễn Ánh chia đất Gia Định thành 4
dinh và 1 trấn: Trấn Biên, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định và
trấn Hà Tiên. Ngày 12 tháng Giêng niên hiệu Gia Long thứ 7
(năm 1808), phủ Gia Định được đổi tên là thành Gia Định, các
dinh đổi thành trấn, trong đó dinh Trấn Biên đổi thành trấn Biên
Hòa, huyện Phước Long được nâng thành phủ. “Đó là căn cứ
và đất đai rộng hay hẹp, dân cư nhiều hay ít và thế đất liền nhau
mà chia đều ra. Lại đặt thêm tổng và phân chia giới hạn”1. Tuy
nhiên, vẫn chưa có tài liệu nào đề cập đến cấp hành chính: tổng,
xã, thôn ở thời điểm này.
Đến năm 1820, khi viết Gia Định thành thông chí, tác giả
Trịnh Hoài Đức đã liệt kê rất tỉ mỉ các đơn vị hành chính của trấn
Biên Hòa, bao gồm cả cấp tổng, thôn. Có thể nói, đây là tài liệu
về địa chí sớm nhất có đề cập đến địa danh Phước Thạnh. Theo
đó, trấn Biên Hòa gồm 1 phủ (Phước Long), 4 huyện (Phước
Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An), 8 tổng (Phước Vinh,
Chánh Mỹ, Bình Chánh, An Thủy, Long Vĩnh, Thành Tuy, An
Phú, Phước Hưng). Thôn Phước Thạnh là 1 trong 29 thôn thuộc
tổng Thành Tuy, huyện Long Thành. Huyện Long Thành “công
việc đơn giản, lỵ sở ở ấp Phước Lộc, tổng Thành Tuy2”.
Tổng Thành Tuy phía Đông giáp núi Nữ Ni (tức núi Thị
Vải) thuộc tổng An Phú (huyện Phước An) đến cửa sông Ngã
Bảy (còn có tên gọi là Thất Kỳ khẩu); Tây giáp sông Trao Trảo
(thuộc tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành) cho đến sông lớn
1  Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng Nai, 2005, trang 133.
2  Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng Nai, 2005, trang 233.
11

2.2 Page 12

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Nhà Bè; Nam giáp Phước Bình giang (tức sông Sài Gòn); Bắc
giáp các sách man ở rừng già cho đến sông Đồng Môn1.
Năm 1832, trấn Biên Hòa được đổi thành tỉnh Biên Hòa.
Theo Địa bạ tỉnh Biên Hòa năm 1836, tỉnh cũng gồm 1 phủ, 4
huyện như trước đây, nhưng số tổng đã nâng từ 8 lên 22 tổng;
số thôn, xã, phường giảm từ 307 còn 285 là do sáp nhập một
số thôn, xã nhỏ lại2. Trong đó, tổng Thành Tuy được chia thành
hai tổng, là tổng Thành Tuy Thượng (gồm 12 thôn) và tổng
Thành Tuy Hạ (gồm 13 thôn, ấp). Thôn Phước Thạnh thuộc
tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long Thành.
Năm 1861, thực dân Pháp đánh chiếm 2 tỉnh miền Đông
của Nam kỳ. Tỉnh Biên Hòa thất thủ, rơi vào tay giặc Pháp.
Ngày 9 tháng 5 năm 1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm
Tuất, nhượng đứt cho Pháp 3 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định
Tường. Thời điểm này, tuy triều đình Huế cắt đất giao cho giặc,
nhưng lòng dân và các sĩ phu, nghĩa binh yêu nước không phục
cũng như không chấp nhận cuộc sống nô lệ, đã nổi dậy chống
Pháp ở khắp nơi, số còn lại đa phần cũng bất hợp tác với giặc.
Vì thế, bước đầu thực dân Pháp phải lo ổn định các vùng tạm
chiếm, tạm thời giữ nguyên các đơn vị hành chính của triều đình
Nguyễn như trước đây. Lúc này, tỉnh Biên Hòa gồm 2 phủ, 4
huyện như cũ, các thôn được đổi thành làng. Riêng tổng Thành
Tuy Hạ có 21 làng, xã, tăng 8 làng xã so với năm 1836. Làng
Phước Thạnh thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện Long Thành.
1  Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng Nai 2005, trang 139.
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai 2001, trang 248.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Năm 1864, Thống soái Nam kỳ là Đô đốc Pierre-Paul Ma-
rie de La Grandière 1 chia 3 tỉnh miền Đông của Nam kỳ thành
7 tiểu khu chỉ huy, trong đó tỉnh Biên Hòa chia thành 2 tiểu
khu: Biên Hòa và Bà Rịa. Việc phân chia lãnh thổ này chủ yếu
phục vụ ý đồ quân sự của quân Pháp.
Đến năm 1865, thực dân Pháp bắt đầu ổn định sự cai trị tại
3 tỉnh miền Đông của Nam kỳ, đã chia 3 tỉnh này thành 13 sở
tham biện (tương đương cấp tỉnh). Tỉnh Biên Hòa có 5 sở tham
biện, gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo
Chánh. Làng Phước Thạnh thuộc tổng Thành Tuy Hạ, huyện
Long Thành, tỉnh Biên Hòa.
Tháng 6 năm 1866, tỉnh Biên Hòa lại chia thành 6 địa hạt
(tương đương cấp quận), gồm: Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành,
Thủ Đức, Bình An, Bảo Chánh.
Sau một vài thay đổi nữa của nhà cầm quyền Pháp, đến
năm 1878 tỉnh Biên Hòa có 17 tổng, 158 làng. Trong đó, tổng
Thành Tuy Hạ có 11 làng (giảm 10 làng so với năm 1863), bao
gồm: An Phú, Long Hiệu (Bến Lẫm), Lương Thiện (Rạch Ông
Mai), Mỹ Hội (Hòn Một), Phú Mỹ (Bến Cam), Phước An (Rạch
Cóc), Phước Khánh (Rạch Ông Thuộc), Phước Lương (Cảnh
Dương), Phước Lý (Ông Kèo), Phước Thạnh (Suối Nước), Tân
Tường (Rạch Chại). Làng Phước Thạnh lúc ấy có 4 ấp, gồm:
Rạch Giồng, Bến Cộ, Bàu Sen, Cù lao Ông Cồn.
1  Đô đốc Hải quân quân đội Pháp Pierre-Paul Marie de Lagrandière từng giữ
cương vị Thống soái Nam kỳ giai đoạn 1863-1864 và 1866-1868.
13

2.4 Page 14

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Trong giai đoạn từ khi thực dân Pháp bắt đầu đặt nền móng
cai trị từ năm 1864 đến năm 1945, các làng, xã của tỉnh Biên
Hòa nhiều phen nhập, tách1.
BẢNG ĐỐI CHIẾU CÁC LÀNG
CỦA TỔNG THÀNH TUY HẠ
(Từ năm 1881 đến 1939)
Năm 1881 Năm 1897 Năm 1901 Năm 1924 Năm 1939
(15 làng) (19 làng) (19 làng) (11 làng) (6 làng)
Phước An Phước An Phước An Phước An
Phước Lý Phước Lý Phước Lý Phước Lý
Phước Phước Khánh Phước Khánh Phước
Khánh Phước Thạnh Phước Thạnh Khánh
Phước Long Hiệu Long Hiệu Phước
Thạnh Phước Lương Phước Lương Thạnh
Long Hiệu Tân Lương Tân Lương Long Hiệu
Phước Mỹ Khoan Mỹ Khoan Phước
Lương
Mỹ Hội
Mỹ Hội
Lương
Tân Lương Phú Mỹ
Phú Mỹ Tân Lương
Mỹ Khoan An Phú
An Phú
Mỹ Hội
Lương Lương Thiện Lương Thiện Phú Mỹ
Thiện Bình Quới Bình Quới An Phú
Bình Quới Long Điền Long Điền Lương
Lung Điền Phước Kiển Phước Kiển Thiện
Phước Kiển Phước Lai Phước Lai
Phước Lai Phước Long Phước Long
Phước Thiền Phước Thiền Phước Thiền
Phước Thọ Phước Thọ Phước Thọ
Phước An
Phước Lý
Phước
Khánh
Phước
Thạnh
Long Tân
Phú Hội
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai 2001.
14

2.5 Page 15

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đáng chú ý, từ năm 1897, tổng Thành Tuy Hạ có thêm 4
làng Mỹ Hội, Phú Mỹ, Phước Long và An Phú (tăng từ 15 làng
vào năm 1881 lên 19 làng). Một số người dân cho rằng, tên xã
Phú Thạnh hiện nay là do sáp nhập 2 làng Phước Thạnh và An
Phú. Nhưng theo bảng tra cứu trên, đến năm 1939 các làng An
Phú và Mỹ Hội đã sáp nhập lại thành làng Phú Hội1. Tuy nhiên,
một phần An Phú nhập về Phú Thạnh, mà chứng tích là đình
thần của làng An Phú (Đình Trung cựu An Phú, còn gọi là Đình
ấp 1) hiện nay nằm ở ấp 1 xã Phú Thạnh.
Năm 1954, Hiệp định Genève ký kết, nước ta tạm thời phân
chia 2 miền Nam - Bắc. Tại miền Nam, từ cuối năm 1956, chính
quyền Sài Gòn chủ trương chia nhỏ các tỉnh miền Nam để phục
vụ cho ý đồ chiến lược quân sự. Tỉnh Biên Hòa được chia thành
2 tỉnh mới: Biên Hòa và Long Khánh. Tỉnh Biên Hòa có 4 quận:
Châu Thành, Long Thành, Tân Uyên và Dĩ An; 11 tổng gồm:
Phước Vĩnh Thượng, Phước Vĩnh Trung, Chánh Mỹ Thượng,
Chánh Mỹ Trung, Chánh Mỹ Hạ, Long Vĩnh Thượng, Long
Vĩnh Hạ, Thành Tuy Thượng, Thành Tuy Hạ, An Thủy, An
Phước Hạ. Tổng Thành Tuy Hạ vẫn thuộc quận Long Thành.
Năm 1957, chính quyền Sài Gòn đổi tên làng Phước Thạnh
thành xã Phú Thạnh. Tên gọi xã Phú Thạnh được bắt đầu từ thời
điểm này2.
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai 2001, trang 267.
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai 2001, trang 305.
15

2.6 Page 16

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Ngày 9 tháng 9 năm 1960, chính quyền Sài Gòn ký Nghị
định 858-NV thành lập quận mới Nhơn Trạch trên cơ sở tách từ
một phần quận Long Thành. Quận mới Nhơn Trạch gồm 2 tổng
với 12 xã: Phước Hội, Phước Thọ, Phước Long, Phước Lai,
Phước Mỹ, Phước Thiền (thuộc tổng Thành Tuy Thượng), Phú
Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh, Vĩnh Thạnh, Long
Tân (thuộc tổng Thành Tuy Hạ). Đến năm 1963, tỉnh Biên Hòa
bãi bỏ cấp tổng, tên gọi tổng Thành Tuy Hạ không còn, xã Phú
Thạnh trực thuộc quận Nhơn Trạch.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất. Đầu năm 1976, Trung ương Cục
miền Nam hợp nhất 3 tỉnh: Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa - Long
Khánh thành tỉnh Đồng Nai. Tỉnh Đồng Nai gồm 1 thành phố
Biên Hòa, 1 thị xã Vũng Tàu, 9 huyện: Thống Nhất, Vĩnh Cửu,
Xuân Lộc, Tân Phú, Long Thành (hai huyện Long Thành và
Nhơn Trạch sáp nhập lại), Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc,
Duyên Hải. Thời điểm này, Phú Thạnh là một xã thuộc huyện
Long Thành.
Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Chính phủ có Nghị định 51/
CP chia huyện Long Thành thành 2 huyện mới: Long Thành và
Nhơn Trạch. Xã Phú Thạnh trực thuộc huyện Nhơn Trạch (gồm
11 xã) cùng với các xã: Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân, Đại
Phước, Phước An, Phước Khánh, Vĩnh Thanh, Long Thọ, Hiệp
Phước, Phú Hữu.
Từ các cứ liệu trên, có thể thấy làng cổ Phước Thạnh có mặt
từ rất sớm ở tổng Thành Tuy, trước cả các thôn Vĩnh Xương,
16

2.7 Page 17

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Phú Mỹ An, An Thuận, Mỹ An1. Lịch sử hình thành làng Phước
Thạnh gắn liền với các cuộc di dân lớn của lưu dân Đàng Ngoài,
Đàng Trong (chủ yếu là vùng Ngũ Quảng) thời chúa Nguyễn,
như hầu hết các làng cổ khác của xứ Đồng Nai. Khi Thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống hành chính tại Đồng Nai
vào năm 1698, cùng với những chính sách khuyến khích khẩn
hoang mở đất, đã mở đầu cho các cuộc di dân có tổ chức vào
miền đất mới mà Đồng Nai chính là điểm đầu của hành trình
mở đất, khẩn hoang vùng Nam Bộ. Xứ Nhơn Trạch do những
đặc điểm thuận lợi về giao thông, đất đai thổ nhưỡng, khí hậu,
sản vật... nên là một trong những địa điểm được lưu dân tìm đến
và chọn làm nơi định cư.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, Phú Thạnh cũng như một số địa
phương khác trong tỉnh, tiếp nhận những đợt nhập cư lớn từ các
tỉnh miền Trung, miền Bắc, chủ yếu là những đợt mộ phu cao
su của các đồn điền, Sở Cao su trên địa bàn (Sở Tân Tường, sau
là Sở Cao su Thành Tuy Hạ). Ngoài ra, sau năm 1975, thực hiện
việc chuyển một bộ phận dân cư các tỉnh phía Bắc vào các tỉnh
phía Nam để bổ sung lực lượng lao động nhằm phát triển sản
xuất, nhất là phát triển nông nghiệp, một số địa phương trong
đó có xã Phú Thạnh đã tiếp nhận một lượng lớn lao động và gia
đình từ các tỉnh phía Bắc. Chính vì vậy, các giai đoạn này đã
làm tăng thêm dân số của địa phương, dẫn đến tình trạng nhập,
tách địa giới hành chính nhiều lần nhằm thuận tiện trong công
1  Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng Nai, 2005, trang 139.
17

2.8 Page 18

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
tác quản lý của chính quyền. Thôn Phước Thạnh có địa giới khá
rộng lớn, nên nhiều lần trải qua các cuộc chia tách, sáp nhập,
thay đổi về hành chính. Theo Địa chí Đồng Nai, năm 1957
chính quyền Sài Gòn tách một phần Phước Thạnh và Phước Lý
thành lập nên xã Đại Phước1.
Đảng bộ xã Phú Thạnh từ chi bộ được nâng thành Đảng cơ
sở vào năm 2000; thời điểm ấy có 97 đảng viên sinh hoạt tại 7
chi bộ. Ban Chấp hành Đảng bộ xã có 9 đồng chí, trong đó Ban
Thường vụ có 3 đồng chí.
Bộ máy chính quyền gồm: Hội đồng nhân dân xã có 28
người; Ủy ban nhân dân xã có 22 biên chế công chức phụ trách
các lĩnh vực: văn hóa - xã hội, địa chính, tài nguyên - môi
trường, văn phòng, tài chính, công an, xã đội. Thành viên Ủy
ban nhân dân xã có 5 người.
Lực lượng đoàn thể xã hội: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam xã có 5 thành viên, gồm các tổ chức đoàn thể chính trị xã
hội: Hội Liên hiệp Phụ nữ xã, Hội Nông dân xã, Đoàn Thanh
niên, Hội Cựu chiến binh.
Xã có 2 hợp tác xã, gồm: Hợp tác xã Nhân Hòa (kinh doanh
ngành nghề thu gom rác) và Hợp tác xã Kim Quý (kinh doanh
ngành nghề vàng bạc đá quý).
Phú Thạnh duy trì 3 ấp từ thời Nguyễn đến nay, gồm các ấp
1, ấp 2 và ấp 3. Xã có tổng cộng 61 tổ nhân dân.
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai năm 2001, trang 304.
18

2.9 Page 19

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
II. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
1/ Địa chất, thổ nhưỡng
Về điều kiện thổ nhưỡng, đất đai, xã Phú Thạnh nằm ở vị
trí cao, phần lớn là vùng đất giồng khô khan, chỉ có một ít đất
ruộng nằm ở Cù lao Ông Cồn. Trước đây Cù lao Ông Cồn thuộc
Phú Thạnh (làng cổ Phước Thạnh), sau này về địa giới hành
chính cù lao thuộc xã Đại Phước nhưng nhiều người dân xã Phú
Thạnh có ruộng đất ở đây nên vẫn đến canh tác.
Về địa tầng, Phú Thạnh nằm trên địa bàn huyện Nhơn
Trạch, thuộc hệ Trias, thống trung, bậc Anizi 1. Khảo sát cho
thấy, phụ hệ tầng dưới ở Nhơn Trạch gồm cuội kết, kích thước
thay đổi từ 3-5-10cm, độ mài tròn trung bình, độ chọn lọc kém,
có thành phần đa khoáng: sạn kết tuf andesit, granodiorit - bio-
tit porphyry, granit có biotit hạt vừa, đá phiến sét serisit - silic
nhiễm oxyt sắt. Chúng bị phủ bởi cát kết tuf của phụ hệ tầng
giữa, nhưng chưa rõ quan hệ dưới.
Về phân vùng địa mạo, Nhơn Trạch (trong đó có Phú
Thạnh) thuộc vùng đồng bằng đồi thềm, hạ tích tụ trong Plio-
cen - Pleistocen thượng, nâng yếu tạo thềm bậc IV, III, II và I
từ Pleistocen giữa đến Holocen. Quá trình hạ lún được thấy rõ
từ Pliocen muộn, được tiếp tục trong Pleistocen sớm. Quá trình
nâng bắt đầu từ Pleistocen giữa. Trên vùng phát triển thềm một
phía, thềm trẻ hơn, thấp hơn (thềm III, II và I) dịch dần về phía
Tây, Tây Nam. Chúng chuyển bậc với nhau qua các đoạn sườn
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai năm 2001, trang 8.
19

2.10 Page 20

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
thoải 3-50, chênh cao 5-10m. Hạ lún có xu hướng mạnh dần từ
Tây Bắc đến Đông Nam. Ở Nhơn Trạch, thành bề mặt móng đá
gốc chìm sâu đến (-50m) và sâu hơn, trầm tích Pliocen - Đệ tứ
dày > 55m.
Các bậc thềm tuy có độ cao khác nhau, nhưng lại liên kết
với nhau trên cơ sở các bề mặt cùng nguồn gốc, cùng được
nâng lên, rửa trôi là chủ yếu và xâm thực. Theo hướng Tây Tây
Nam, chúng thấp dần theo góc nghiêng chung < 10. Theo hướng
Nam, Đông Nam bề mặt bị chia cắt bởi các thung lũng xâm
thực sâu 10-30m, sườn dốc 3-100, cách nhau 5-7-10km. Do vậy,
vùng này nền vững, thích hợp để xây dựng và phát triển đô thị,
khu công nghiệp1.
Ngoài ra, dọc theo sông vùng Nhơn Trạch còn có các trầm
tích sông, thường tạo các bãi bồi cao 1-3m, rộng vài mét đến
vài trăm mét, gián đoạn hoặc kéo dài liên tục 1-2km. Thành
phần chủ yếu là bột pha cát mịn ít sét màu nâu vàng, độ chọn
lọc kém. Chúng phủ trên các trầm tích cổ hơn, trên đá gốc và
trên các trầm tích thềm I, dày 1,5-5m. Ở các phần trũng thấp
ven sông từ Long Hưng đến Bắc Nhơn Trạch và Phú Điền còn
có trầm tích sông - đầm lầy. Thành phần gồm: bột sét, mùn thực
vật, đôi nơi có than bùn màu xám tro, xám tối, bề dày thay đổi
từ 2-5m2.
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai năm 2001, trang 64 - 65.
2  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai năm 2001, trang 23.
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
2/ Hệ thống sông ngòi
Các sông, suối ở khu vực Phú Thạnh cũng giống như hệ
thống các sông, suối trong tỉnh, chế độ dòng chảy và quy luật
biến đổi khá phù hợp với quy luật chung. Một năm vẫn có hai
mùa (mưa, nắng) dòng chảy rõ rệt. Mùa cạn từ tháng 12 năm
trước cho đến tháng 5 năm sau. Mùa lũ từ tháng 6 cho đến
tháng 11. Mùa lũ thường sớm hơn lưu vực sông Đồng Nai và
sông La Ngà 1 tháng. Ba tháng có mực nước và lưu lượng lớn
là: tháng 8, 9, 10, lớn nhất thường là tháng 8. Ba tháng có mực
nước và lưu lượng nhỏ là: tháng 2, 3, 4, nhỏ nhất là tháng 3.
Lưu lượng phù sa và bùn cát trong sông, suối tập trung chủ
yếu vào các tháng mùa lũ và tháng đầu mùa mưa (tháng 5). Các
tháng mùa cạn lượng phù sa rất nhỏ, nhiều tháng hầu như bằng
0, như tháng 2, 3, 4, nước sông rất trong, độ đục gần như không
1.
Phía Bắc xã Phú Thạnh giáp xã Đại Phước có con Sông
Cái (tên dân gian thường gọi) là nhánh sông thuộc hạ lưu của
sông Đồng Nai (còn có tên khác là sông Sâu), con sông trải
dài từ Long Tân, Phú Thạnh, Đại Phước ra tắc Thầy Bảy qua
sông Nhà Bè, đoạn qua Phú Thạnh có chiều dài trên 3km. Có
độ nước sâu thuận lợi cho các tàu, bè có tải trọng từ 10-20 tấn
qua lại, là điểm trọng yếu “yết hầu” phục vụ cho công tác quân
sự, quốc phòng.
1  Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai, năm 2001, trang 126-127.
21

3.2 Page 22

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Ngoài ra, trên địa bàn xã Phú Thạnh còn có các rạch: rạch
Bà Sở, rạch Suối, rạch Ông Lương, rạch Bà Hiến, rạch Láng,
rạch Kiệu, rạch Chạy...
3/ Các cồn, cù lao
Phú Thạnh trước đây có Cù lao Ông Cồn (nay thuộc xã
Đại Phước). Tuy nhiên, phải nhìn tổng thể hệ thống cù lao,
cồn, rạch của cả khu vực này, trong đó có Phú Thạnh, mới thấy
hết nét văn hóa của người dân Nhơn Trạch. Năm xã thuộc khu
vực này, gồm xã Phú Đông có giồng Ông Đông, Phú Thạnh có
Cù lao Ông Cồn, xã Phước Khánh có rạch Ông Mai, xã Phú
Hữu có rạch Ông Thuộc, xã Vĩnh Thanh có ấp Ông Kèo. Theo
truyền thuyết, năm ông: Thuộc, Đông, Cồn, Kèo, Mai là 5 vị
tướng lĩnh của vua Gia Long, có công lao với vùng Nhơn Trạch
và được dân tôn làm thành hoàng, đồng thời đặt tên cho các
cù lao, cồn, rạch gắn liền với đời sống sản xuất, sinh hoạt của
người dân địa phương. Con số năm tương ứng với ngũ hành:
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ theo quan niệm của người phương
Đông.
4/ Sản xuất
Vùng Cù lao Ông Cồn là khu vực tập trung nhiều ruộng đất
nhất ở xã Phú Thạnh trước đây. Tuy nhiên, trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đất ruộng ở khu vực cù lao này tập trung
vào tay hai địa chủ lớn thời đó là bà Trịnh Thị Dung (Tám
Dung) và ông Sen. Riêng hai người này đã chiếm đến hơn 300
mẫu đất, trong đó phần lớn đất (gần 300 hecta) là của bà Tám
Dung. Bà Trịnh Thị Dung là người Việt có quốc tịch Pháp, sống
22

3.3 Page 23

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
ở Sài Gòn nhưng chuyên thuê người khai khẩn đất sau đó đăng
ký quyền sở hữu vào địa bạ với chính quyền. Bằng cách này,
bà Tám Dung sở hữu rất nhiều ruộng đất ở miền Tây và khu
vực xung quanh Sài Gòn, trong đó có Nhơn Trạch. Ngoài Cù
lao Ông Cồn, bà Tám Dung còn sở hữu 250 hecta đất ở xã Vĩnh
Thanh. Số ruộng đất sở hữu, phần lớn bà Tám Dung cho nông
dân thuê canh tác và thu tô, trở thành đại điền chủ lớn chỉ ngồi
không hưởng lợi ích từ sức lao động của tá điền.
Theo Gia Định thành thông chí, “tổng Thành Tuy thuộc
huyện Long Thành đều có ruộng sớm và ruộng muộn. Cây
trồng thích hợp ở đây là dưa, đậu phộng và khoai lang.
Ruộng sớm thì tháng 5 (âm lịch) gieo mạ, tháng 6 cấy,
tháng 11 gặt.
Ruộng muộn thì tháng 6 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 12
gặt”.
Trước đây vùng Phú Thạnh chỉ trồng được một vụ lúa, vì
giống lúa ở đây trồng đến 6 tháng. Về các giống lúa, người dân
Phú Thạnh trồng nhiều giống lúa nổi tiếng, như: nàng phệt,
nàng tre, nàng trúc, nhỏ chùm, nhỏ trắng, lúa tiêu... vừa thơm
vừa dẻo. Hiện nay, nông dân Phú Thạnh làm lúa 2 vụ, có nơi
đến 3 vụ, nhưng các giống lúa truyền thống trước đây không
còn nữa.
“Dưa1 thì tháng Giêng trồng, tháng 8 thu hoạch.
Đậu phộng tháng 4 trỉa, tháng Chạp thu hoạch.
1  Có thể là dưa gang. Ngày nay, vùng Nhơn Trạch vẫn nổi tiếng về các giống
dưa gang ngon, bán dọc theo quốc lộ 51 và đường Tôn Đức Thắng.
23

3.4 Page 24

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Khoai lang tháng 3 giâm, tháng 10 dỡ củ” 1. Hiện nay, khoai
lang ở Phú Thạnh vẫn còn trồng nhiều, nhưng thời gian thu
hoạch rút ngắn chỉ còn 1 tháng 10 ngày. Ngoài ra, nông dân Phú
Thạnh còn trồng nhiều các loại hoa màu, như: bầu, bí, mướp,
khổ qua, đậu đũa.
III. VĂN HÓA - CON NGƯỜI
1. Các cơ sở thờ tự
Trong quá trình phát triển, tại xã Phú Thạnh đã xuất hiện
nhiều cơ sở thờ tự của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Từ
các cơ sở thờ tự theo tín ngưỡng dân gian như: đình, miếu, cho
đến các chùa Phật giáo, thánh thất của đạo Cao Đài... đều có
mặt và phát triển hài hòa tại vùng Phú Thạnh.
Tôn giáo xuất hiện sớm nhất ở Phú Thạnh là Phật giáo, vào
khoảng giữa cuối thế kỷ XVIII với sự hiện diện của dòng Phật
giáo Lâm Tế. Điều này phù hợp với tiến trình phát triển xã hội
tại nước ta, và cũng giống như hầu hết các địa phương khác,
đặc biệt là khu vực Nam Bộ.
1.1. Chùa Khánh Lâm
Chùa Khánh Lâm được công nhận trực thuộc Giáo hội Phật
giáo Việt Nam từ năm 1982. Đến năm 2010, chùa có 354 Phật
tử. Theo lời kể của Tỳ kheo ni Thích Nữ Tắc Tâm (thế danh
Lưu Thị Ba), trụ trì chùa Khánh Lâm, đồng thời căn cứ vào
các lạc khoản của hoành phi, cột đá còn lưu tại chùa, Phật giáo
1  Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng Nai 2005, trang 194.
24

3.5 Page 25

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đã có mặt tại Phú Thạnh từ năm 1787, tức là năm chùa Khánh
Lâm được xây dựng. Tương truyền, chùa do một sư ông gốc
người Huế về ẩn tu, pháp danh là Tịnh Nhãn, húy Tiên Sắc,
thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 37. Ban đầu, do thôn Phước Thạnh
là vùng đất nghèo khó nên chùa cũng xây dựng rất đơn sơ, chỉ
là một am tranh nhỏ, xung quanh là rừng rậm mịt mù.
Vào đời Lâm Tế thứ 39, năm 1904, sư ông Chơn Hạnh, húy
Như Khải, vận động Phật tử khắp nơi trùng tu lại chùa. Đây
là đợt trùng tu lớn nhất, tạo ra dấu ấn mới còn lưu giữ được
đến ngày nay. Một số Phật tử giàu lòng mộ đạo đã phụng cúng
22 cây cột đá, trong đó có 8 cột cao đến 4,5m, những cây còn
lại thấp nhất cũng 3m. Cột được chế tác từ đá xanh Biên Hòa,
trên được chạm khắc hoa văn tinh xảo. Sư ông Chơn Hạnh cho
người chế tác cột ở làng đá Bửu Long, sau đó dùng xe bò kéo
về chùa, phải 2 chiếc xe bò đâu lại mới kéo nổi một cây cột
đá, một chuyến đi chỉ có thể vận chuyển được 4 cây cột. Tính
ra, phải mất 6 đợt đi về mới vận chuyển hết được số cột đá nói
trên. Giá mỗi cây cột ước khoảng trên 1 ngàn giạ lúa. Đầu thế
kỷ XX, giá lúa ở miền Nam xấp xỉ khoảng hơn 3 đồng/giạ, như
vậy bộ cột đá nói trên khoảng gần 70 ngàn đồng - một số tiền
rất lớn so với thời điểm ấy. So với bộ cột đá cũng chế tác từ đá
Biên Hòa tại Thất phủ cổ miếu (còn gọi là chùa Ông, tọa lạc tại
thành phố Biên Hòa, xây dựng vào năm 1684), bộ cột đá ở chùa
Khánh Lâm hơn hẳn về độ cao và số lượng.
Đợt trùng tu này kéo dài từ năm 1904 đến 1909 mới hoàn
thành, đã thay đổi hoàn toàn diện mạo, cấu trúc chùa, từ một
25

3.6 Page 26

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
gian mái lá đơn sơ đến kiến trúc gỗ và tường vôi như hiện nay.
Kiến trúc chùa Khánh Lâm theo lối truyền thống ba gian hai
chái. Điểm nổi bật là hệ thống cột, móng, nền đều làm bằng đá
xanh Biên Hòa, khung vì kèo bằng gỗ được chạm trổ, mái lợp
ngói vảy cá. Nội thất chánh điện trang nghiêm với rất nhiều
hoành phi, liễn đối, bao lam bằng gỗ chạm rồng, mây, dây hoa
lá cách điệu. Tất cả đều được sơn son thếp vàng, tạo nét uy nghi
lộng lẫy.
Ngoài bộ cột đá nói trên, các Phật tử còn đóng góp phụng
cúng bộ tượng Phật tạc bằng gỗ mít, gỗ mun rất công phu, nghệ
thuật. Bộ tượng gồm hơn 50 tượng, gồm: bộ tượng A Di Đà (3
tượng), tượng Địa tạng Vương, Quan Âm Bồ tát, tượng Nam
Tào - Bắc Đẩu, tượng Ngọc hoàng, tượng Thế Chí, tượng Văn
Thù, tượng Phổ Hiền, tượng Hộ pháp, bộ tượng Thập bát La
Hán (18 tượng), bộ tượng Thập điện Diêm Vương (10 tượng)...
Có thể nói, hệ thống tượng ở chùa Khánh Lâm không chỉ phong
phú về số lượng mà còn có giá trị nghệ thuật cao, phong cách
tạo hình mang đậm nét truyền thống, tính dân gian.
Những năm sau, vào các năm 1961, 1983, 1993, chùa cũng
trải qua những đợt trùng tu nhỏ khác, như thay ngói, sửa vì kèo.
Diện tích khuôn viên chùa hiện nay là 4.742m2, trong đó diện
tích xây dựng là 1.590m2. Chùa Khánh Lâm trước đây sở hữu 1
hecta rừng, 3 hecta ruộng để sản xuất từ đó chăm lo việc phụng
cúng, nhưng do một số biến động về lịch sử, thời gian, hiện nay
không còn.
26

3.7 Page 27

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Ngoài giá trị là cơ sở tôn giáo gắn bó lâu đời với đời sống
tinh thần của cư dân địa phương, chùa Khánh Lâm còn gắn
liền với lịch sử khẩn hoang mở đất, phát triển kinh tế - xã hội
của vùng đất Nhơn Trạch nói chung và Phú Thạnh nói riêng.
Theo truyền thống của Việt Nam, quy mô của các cơ sở thờ tự
thường phản ánh đời sống kinh tế của người dân địa phương.
Thời điểm mới xây dựng, đời sống người dân Phú Thạnh còn
khó khăn trong quá trình khai khẩn, mở đất nên chùa chỉ là một
chái am nhỏ lợp lá, nền đất. Khi đời sống người dân khá hơn,
ngôi chùa cũng được xây dựng bề thế.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhà chùa
đều ủng hộ phong trào cách mạng của Nhân dân. Năm 1968,
Mỹ bắn pháo trúng ngay sân chùa Khánh Lâm, may mắn pháo
lép không nổ. Cũng trong năm này, Hòa thượng Thích Trí Ngộ
trụ trì tại chùa Long Hương (xã Long Tân) vì nuôi giấu cán bộ,
chiến sĩ cách mạng tham gia trận đánh Tết Mậu Thân, bị quân
Mỹ phát hiện và đốt cháy chùa, nên hòa thượng tạm lánh về
chùa Khánh Lâm. Tại đây, hòa thượng vẫn tiếp tục tiếp tế, ủng
hộ cho cách mạng. Hòa thượng Thích Trí Ngộ có một người
con trai tham gia kháng chiến chống Mỹ, hy sinh và đã được
công nhận liệt sĩ.
Hiện, trụ trì chùa Khánh Lâm là Thích Nữ An Trí (thế danh
Nguyễn Thị Phương Thùy, sinh năm 1971).
27

3.8 Page 28

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Trong năm, chùa Khánh Lâm tổ chức các lễ:
- Cúng rằm tháng Giêng, rằm tháng bảy và rằm tháng mười.
- Lễ Phật đản 8/4 (âm lịch).
- Giỗ tổ 3/5 (âm lịch).
- Vía Phật Di Đà 16/11 (âm lịch).
1.2. Chùa Long Phú
Chùa Long Phú tọa lạc tại ấp 3 xã Phú Thạnh. Chùa được
xây dựng vào năm 1910, người khai sáng là hòa thượng Như
Xá (sinh năm Mậu Thìn 1869, người gốc ở xã Long Điền, Bà
Rịa - Vũng Tàu).
Lúc mới xây dựng, chùa cũ cách vị trí chùa mới hiện nay
300m. Chùa lợp tranh, vách lá đơn sơ. Vì chùa nằm ở vùng đất
trũng nên dân gian thường gọi là chùa Trũng Vượt. Ngày 25
tháng 11 Đinh Sửu (năm 1937), Hòa thượng Như Xá tạ thế,
được tín đồ Phật tử an táng và nhập tháp ở phía sau chùa. Sau
năm 1975, hài cốt của Hòa thượng Như Xá được cải táng nhập
tháp tại chùa Long Hoa (nay thuộc thị trấn Long Điền, huyện
Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Năm 1942, Hòa thượng Thích Trí Quang thuộc dòng Từ gia
phổ chánh tông đời thứ 39 ở chùa Bửu Thiền (nay thuộc thị trấn
Long Thành, huyện Long Thành) đến trụ trì chùa Long Phú.
Cùng đi với Hòa thượng là Thủ tạ thuộc phái Lục Hòa tăng.
Sau này, hòa thượng nhận đệ tử là Thích Quảng Thiền (tục danh
Nguyễn Văn Lô), pháp hiệu Lệ Mỹ. Năm 1944, Hòa thượng
28

3.9 Page 29

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Thích Trí Quang về chùa Khánh Lâm làm trụ trì, thầy Thích
Quảng Thiền tiếp nối làm trụ trì chùa Long Phú.
Năm 1946, thầy Thích Quảng Thiền bàn bạc với các bô lão
trong làng, đề nghị dời chùa về vị trí hiện nay để thuận lợi cho
bá tánh đi lại viếng chùa. Trên phần đất 5.000m2 do ông Trần
Văn Nhàn hiến, chùa Long Phú được xây dựng tại vị trí hiện
nay. Ban đầu, chùa cũng lợp tranh, vách đất đơn sơ, nhưng nhờ
vị trí thuận lợi, Phật tử đến chùa ngày càng đông.
Năm 1960, chùa được trùng tu khá quy mô. Chùa tọa lạc
trong khuôn viên rộng 2.231m2, diện tích xây dựng khoảng
gần 900m2, chánh điện được lợp ngói âm dương, hậu tổ lợp
mái tole. Sau khi thầy Thích Quảng Thiền qua đời, năm 1979
Thượng tọa Thích Quảng Tri (dòng Từ gia phổ chánh tông đời
42) từ chùa Khánh Lâm về trụ trì. Các bô lão trong làng cũng
bầu 2 ông Nguyễn Văn Chẩn và Ao Văn Ơi cùng Thượng tọa
Thích Quảng Tri lo hộ trì tam bảo. Đồng thời, chùa thành lập
hội tương trợ đặt tên là Hội Quan Âm với tinh thần tương thân
tương ái, hỗ trợ nhau lúc ốm đau, hữu sự (thăm viếng nhau lúc
hội viên bệnh, hoặc cúng tế khi hội viên qua đời).
Năm 1993, Giáo hội Phật giáo chi hội Nhơn Trạch cử Đại
đức Thích Kiến Thiện (thế danh Trần Quốc Việt, sinh năm
1970) thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 44 về trụ trì chùa
Long Phú cho đến nay. Trong thời gian trụ trì, thầy tiến hành
trùng tu hậu tổ, nhà khách, nhà bếp, cổng, hàng rào.
29

3.10 Page 30

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Trong năm, chùa Long Phú tổ chức các lễ:
- Cúng rằm tháng Giêng, rằm tháng bảy và rằm tháng mười.
- Từ 22 đến 29/1 (âm lịch) cúng cầu an đầu năm.
- 19, 20 tháng 2 (âm lịch) giỗ tổ.
- 12, 13 tháng 3 (âm lịch) giỗ tổ.
- Lễ Phật đản 8/4 (âm lịch)
- Lễ chuẩn tế và phát chẩn 25/7 (âm lịch).
- 9, 10 tháng 8 (âm lịch) giỗ tổ.
- 24, 25 tháng 11 (âm lịch) giỗ tổ.
1.3. Hội quán Hưng Thạnh
Hội quán Hưng Thạnh tọa lạc tại ấp 2 xã Phú Thạnh, là cơ
sở trực thuộc Tịnh Độ cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Hội quán được cư sĩ Diệu Thành Liễu Đạo (tục danh Trương
Thị Bảy, quê tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch) xây dựng
vào năm 1963.
Ban đầu, hội quán Hưng Thạnh được cất tạm bằng cây, lá
trên phần đất của ông Lê Văn Hoa. Một năm sau, tín đồ tham
gia ngày càng đông nên ông Lê Văn Hiển đã hiến 1.000m2 đất,
còn lại hội quán mua khoảng 1.227m2 để xây dựng mới hội
quán Hưng Thạnh và Phòng thuốc nam Phước Thiện.
Hội quán mới được xây dựng với mái ngói, tường tô, khang
trang hơn và cách nơi cũ khoảng 500m, khánh thành vào năm
1966 với diện tích sử dụng hơn 900m2. Đến năm 2013, Hội
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
quán Hưng Thạnh do ông Vương Văn Ba quản lý, đồng thời
là Trưởng ban Y tế Phước Thiện. Ban còn có Phó ban là ông
Trần Văn Sáu, 2 Thủ bổn là Trương Thị Lan Hương và Đào Thị
Hồng Tuyết. Ngoài Ban Y tế gồm 12 thành viên, còn có Ban
Đạo đức 6 người và Ban Hộ đạo 10 người. Tín đồ sinh hoạt tại
đây gồm 200 hội viên quy y và 300 hội viên tán trợ.
Hiện nay, Trưởng Ban Quản lý hội quán là cư sĩ Thiện Tài
(thế danh Nguyễn Đức Trọng, sinh năm 1960).
Hội quán Hưng Thạnh duy trì thường xuyên các hoạt động:
Châm cứu, chẩn bệnh và hốt thuốc nam miễn phí cho người
bệnh. Theo thống kê của hội quán, hàng năm có khoảng hơn
14 ngàn lượt người đến khám bệnh, phát miễn phí khoảng hơn
62 ngàn thang thuốc nam với tổng giá trị trên 500 triệu đồng.
Ngoài ra, có khoảng 22 ngàn lượt người điều trị bằng châm cứu
và các phương pháp khác. Hội quán cũng tham gia các hoạt
động từ thiện xã hội, như: ủng hộ quỹ Vì người nghèo, thiên tai
bão lụt, người khuyết tật, nạn nhân chất độc da cam.
Đặc biệt, nhiều năm nay Ban Hộ đạo Hội quán Hưng Thạnh
đều tổ chức nấu cơm phục vụ miễn phí cho những người đến
công quả và khám chữa bệnh.
Hàng năm, hội quán Hưng Thạnh tổ chức các lễ:
- Cúng rằm tháng Giêng, rằm tháng bảy và rằm tháng mười.
- Lễ giỗ bà Trương Thị Bảy ngày 7 tháng 3 (âm lịch).
31

4.2 Page 32

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
1.4. Đình Trung cựu An Phú
Đình Trung cựu An Phú tọa lạc tại ấp 1 xã Phú Thạnh. Đình
trước kia thuộc địa bàn thôn An Phú nên có tên gọi như trên.
Sau này, người dân lấy tên địa phương làm tên đình, thường gọi
là đình ấp 1.
Đình Trung cựu An Phú nằm trên một gò đất cao ráo, rộng
rãi thoáng đãng, có khuôn viên rộng 1.821m2, diện tích đình là
376m2. Đình có lối kiến trúc theo kiểu đình Nam Bộ, trống 4
mặt (không có vách), mái ngói âm dương, cột xi măng đắp rồng
nổi, xà bằng gỗ. Đặc biệt, trong đình hiện còn lưu giữ rất nhiều
hoành phi, đại tự, liễn đối theo phong cách hoa văn cổ.
Đình Trung cựu An Phú trước đây được xây dựng từ năm
1818 vào triều vua Gia Long thứ 17, kiến trúc rất đơn giản bằng
cây gỗ lợp lá. Đình thờ Thành hoàng bổn cảnh, thời Tự Đức
ngũ niên (năm Đinh Hợi 1852) được vua ban cho sắc phong
cùng đôi lọng có 40 ngù và biển “Hồi tỵ” - đây là lễ nghi nói lên
đẳng cấp của Thần được sắc phong (hiện nay vẫn còn). Năm
1959, thực dân Pháp lấy khu vực đình để xây dựng đồn, nên các
bô lão và Ban tế tự (Trưởng ban quý tế thời điểm đó là ông Trần
Văn Hương) quyết định di dời định về vị trí hiện nay1.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đình là nơi
cán bộ Việt Minh hội họp, đồng thời là nơi tiếp tế cho cán bộ,
1  Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Tám, Trưởng ban tế tự đình An Phú.
32

4.3 Page 33

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
chiến sĩ cách mạng. Dù đình chỉ cách đồn địch 500m, nhưng
cán bộ cách mạng như các đồng chí: Bùi Văn Hoằng, Nguyễn
Văn Cậy, Hồ Văn Sanh... thường xuyên về hoạt động. Đồng
thời, lấy cớ cúng Thần Nông (bàn thờ ở phía trước sân đình),
Ban tế tự đình thường đặt thức ăn nơi ban thờ thần, dùng ám
hiệu hẹn các cán bộ, chiến sĩ Đội du kích xã đến lấy mà bọn
địch không hề nghi ngờ gì.
Hàng năm, đình cúng lễ Kỳ yên vào ngày 15, 16 tháng 2 âm
lịch. Vì đình có sắc phong, nên trước kia có vị Hương trưởng
lo phụ trách việc cúng đình. Buổi chiều, theo tục lệ sẽ thỉnh sắc
Thần, nhưng hiện nay không còn ai biết chữ Nho để đọc sắc.
Theo tục lệ, trước kia trong lễ Kỳ yên dùng heo đen để cúng,
nhưng hiện nay tục lệ này không còn.
Phía trước đình có miếu thờ Ngũ hành nương nương, thường
gọi là miếu Bà. Trong lễ Kỳ yên, Ban tế tự cúng Thần hoàng
bổn cảnh cũng cúng luôn cả Bà.
Hiện nay, Trưởng ban quý tế đình là ông Tô Thiện Tâm
(sinh năm 1957), Phó ban quý tế gồm 2 ông: Bùi Văn Lăng
(sinh năm 1950) và Võ Thành Long (sinh năm 1963).
1.5. Đình Thần ấp 3
Đình Thần ấp 3 tọa lạc tại ấp 3, xã Phú Thạnh - người dân
theo thói quen lấy tên địa phương làm tên đình, giống như
trường hợp đình ấp 1.
33

4.4 Page 34

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Hiện nay, đình có khuôn viên rộng 4.402m2, diện tích của
đình khoảng 270m2. Ban đầu, đình theo lối kiến trúc chung của
đình làng Nam Bộ, mái lợp ngói âm dương, cột cây, không có
vách. Đến năm 1946, người dân đóng góp trùng tu đình, xây
thêm vách, đắp 6 cột xi măng có rồng nổi, thay mái ngói bằng
mái tole như hiện nay. Trong đình có một số hoành phi, liễn đối,
đại tự viết bằng chữ quốc ngữ.
Đình thờ Thần hoàng bổn cảnh là ngài Lê Văn Khiêm, một
vị tướng triều Nguyễn, đời Tự Đức thứ 12 (năm Kỷ Mùi 1859)
thất trận tự sát cùng với tuấn mã của mình1. Mộ của ngài hiện
còn ở xã Đại Phước (miễu Chòm Dầu). Dân làng kính trọng tinh
thần trung trinh của ngài nên tôn làm Thần hoàng, thờ ở đình.
Ban đầu, đình nằm ở thôn Phước Thạnh, khi chính quyền cắt
một phần Phước Thạnh và Phước Lý thành lập xã Đại Phước
thì đình nằm trên địa bàn xã Đại Phước. Năm 1932, đình dời
về xã Phú Thạnh. Đình trước kia có sắc phong của vua, nhưng
hiện nay không còn2.
Hiện nay Trưởng ban quý tế đình là ông Lưu Hiếu Thảo,
(sinh năm 1957, trước đây là Phó ban); Phó ban là ông Nguyễn
Tấn Minh (sinh năm 1963).
Trong năm, đình tổ chức các lễ:
- Lễ Kỳ yên ngày 15 và 16 tháng Chạp âm lịch.
- Lễ Tống Xuân ngày 15 và 16 tháng 3 âm lịch.
1  Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Lộc, Trưởng ban tế tự đình Thần ấp 3 vào
năm 2013.
2  Cũng có thông tin cho rằng Thần hoàng bổn cảnh của đình tên Võ Văn Dân,
nhưng chưa có chứng lý xác thực.
34

4.5 Page 35

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
1.6. Miễu Bạch Hổ
Miễu Bạch Hổ tọa lạc tại ấp 3, xã Phú Thạnh. Người dân
còn gọi là miễu Đôi, vì có 2 gian miễu thờ song song nhau, một
gian thờ Bạch Hổ và một gian thờ chiến sĩ trận vong.
Miễu được xây dựng năm 1928. Toàn bộ khuôn viên miễu
Bạch Hổ rộng 640m2, 2 gian miễu có diện tích mỗi gian khoảng
hơn 10m2. Tương truyền, gian miễu thờ Bạch Hổ có một gò
mối rất lớn đùn kín cả gian miễu, người dân cho đây là điều
may mắn nên không phá bỏ, cắm nhang nơi gò mối rất nhiều.
Năm 2018, người dân trong xã đóng góp kinh phí khoảng 150
triệu đồng trùng tu lại hai gian miễu của miễu Bạch Hổ, khá
khang trang.
Theo lời các bô lão, vùng Phú Thạnh ngày xưa có rất nhiều
cọp. Nhiều nhà phía hiên trước phải làm các thanh gióng ngang
để chặn không cho cọp vào trong nhà1. Cũng như một số địa
phương khác của vùng Nam Bộ, trong những ngày đầu mở cõi
khẩn hoang, người dân Phú Thạnh một mặt vẫn phải chiến đấu
với cọp để sinh tồn, một mặt vẫn tôn thờ cọp để mong được yên
ổn làm ăn. Vì thế, ở Phú Thạnh cũng có miễu thờ cọp, trong đó
tôn xưng Bạch Hổ là thần (với quan niệm Bạch Hổ là vua của
các loài cọp).
Tương truyền, trước đây có con hổ trắng lớn vẫn thường
hay về khu vực này, đặc biệt là vào ngày mùng 3 hàng tháng, vì
vậy người dân lập miễu để thờ. Lúc miễu mới xây dựng, có đôi
1  Theo lời kể của ông Võ Văn Anh.
35

4.6 Page 36

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
rắn thần, đầu có mồng thường đến miễu Bạch Hổ cuộn mình
nằm trên bệ thờ. Rắn hiền lành, không làm hại đến dân làng nên
người dân cũng tôn đây là đôi rắn thần.
Miễu cúng vào ngày 9, 10 tháng ba (âm lịch). Khi cúng,
ngoài Bạch Hổ còn cúng cả Thổ thần. Trước đây, Ban tế tự Đình
ấp 3 kiêm luôn việc cúng ở miễu Bạch Hổ. Hiện nay Trưởng
ban quý tế miễu là ông Trương Phúc Tỷ (sinh năm 1955), Phó
ban là ông Dương Gia Phú (sinh năm 1977).
1.7. Miễu Thổ thần
Miễu Thổ thần tọa lạc tại ấp 3, xã Phú Thạnh.
Miễu được xây dựng năm 2003. Đây chỉ là miễu nhỏ do
người dân địa phương tự đóng góp để hình thành, có diện tích
khoảng 50m2. Năm 2013, Trưởng ban tế tự là ông Bùi Kế Anh
(sinh năm 1938). Thành viên của của ban còn có các ông, bà:
Hồ Văn Nhiễu, Trần Văn Trang, Nguyễn Văn Nửa, Lê Văn
Của, Lâm Văn Thành, Võ Văn Nhị, Phạm Thị Hà, Lê Văn Tạ.
Hiện nay Trưởng ban tế tự là ông Võ Văn Nhị (sinh năm 1959).
Miễu cúng Thổ thần vào ngày 9, 10 tháng 3 âm lịch.
1.8. Miễu Bà Phú Hòa
Miễu Bà Phú Hòa tọa lạc tại ấp 2, xã Phú Thạnh.
Miễu thờ Bà Chúa Xứ (còn gọi là Chúa Xứ nương nương).
Đây là vị nữ thần được người dân Nam Bộ phụng thờ với ý
nghĩa Bà sẽ phù hộ cho phụ nữ tại gia và cộng đồng nói chung.
Miễu được người dân địa phương xây dựng năm 1909 trên
một gò đồi, địa thế rất đẹp. Cũng như phần lớn các cơ sở thờ
36

4.7 Page 37

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tự khác, ban đầu vách và mái của miễu chỉ lợp và dừng (dựng)
bằng lá. Năm 1944, miễu được tu sửa, thay bằng mái ngói. Đến
năm 2000, miễu được xây dựng như hiện nay, mái tole, tường
xây, cột xi măng, nền gạch men. Tổng khuôn viên miễu rộng
500m2, diện tích miễu rộng 300m2.
Năm 2013, Trưởng ban tế tự của miễu Bà Phú Hòa là ông
Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1955). Phó ban là: Trần Văn Tư,
Nguyễn Văn Linh. Thư ký: Nguyễn Văn Đạt. Cố vấn: Nguyễn
Văn Đông, Nguyễn Văn Ách. Hiện nay Trưởng ban tế tự là ông
Trần Văn Tư (sinh năm 1949), Phó ban là Nguyễn Văn Linh
(sinh năm 1972).
Miễu cúng vào các dịp:
- Vía Bà: 17 và 18 tháng 3 âm lịch (thường có loại hình diễn
xướng dân gian là múa bóng rỗi).
- Các rằm lớn: tháng Giêng, tháng 7 và tháng 10.
- Các ngày Tết Nguyên đán: mùng 1, 2 và 3.
1.9. Miễu Bà Bàu Sen
Miễu Bà Bàu Sen tọa lạc tại ấp 3 xã Phú Thạnh.
Cũng giống như miễu Bà Phú Hòa, miễu Bà Bàu Sen thờ
nữ thần.
Miễu được xây dựng trong khuôn viên rộng 6.000m2, diện
tích xây dựng 400m2. Năm 2014, miễu hoàn thành đợt trùng
tu lớn, kinh phí trùng tu khoảng 250 triệu đồng do các mạnh
thường quân và người dân địa phương đóng góp. Năm 2013,
Trưởng ban Hội miễu là ông Dương Văn Hà (sinh năm 1928).
37

4.8 Page 38

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Phó ban: Nguyễn Văn Tư. Ủy viên: Nguyễn Văn Lai. Thư ký:
Tăng Văn Ba. Hiện nay Trưởng ban là ông Nguyễn Văn Mười
(sinh năm 1958), Phó ban là các ông: Nguyễn Văn Hùng (sinh
năm 1970), Võ Văn May (sinh năm 1969).
Miễu cúng vía Bà vào ngày 15, 16 tháng 2 âm lịch.
1.10. Thánh thất Cao Đài Phú Thạnh
Thánh thất Cao Đài Phú Thạnh nằm trên địa bàn ấp 3, xã
Phú Thạnh.
Thánh thất được xây dựng vào năm 1961, trực thuộc Tòa
Thánh Tây Ninh.
Thánh thất có khuôn viên rộng 6.897m2, diện tích xây dựng
336m2. Số đạo hữu thuộc thánh thất là 1.423 người, trong đó
có 612 người nhập môn. Vào năm 2013, Trưởng ban cai quản
họ đạo Cao Đài Phú Thạnh là lễ sanh Lê Phát Tấn, thánh danh
Ngọc Tấn Thanh (sinh năm 1950), được phong phẩm vào năm
2003. Phó ban là Hương Mười, Thông sự là Đoàn Minh Hùng.
Hiện nay Trưởng ban là ông Nguyễn Văn Hết (sinh năm 1950),
thánh danh là Thái Hết Thanh, Phó ban là Huỳnh Kim Tuyến
(sinh năm 1957), thánh danh là Hương Tuyến.
Thánh thất Cao Đài Phú Thạnh có tổ chức hốt thuốc nam
miễn phí phục vụ bệnh nhân.
1.11. Điện thờ Phật mẫu
Họ đạo Cao Đài Phú Thạnh ngoài Thánh thất Cao Đài còn
có Điện thờ Phật mẫu, cũng nằm trên địa bàn ấp 3, xã Phú
Thạnh.
38

4.9 Page 39

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Điện thờ được xây dựng vào năm 1970 trong khuôn viên
rộng 2.931m2, diện tích xây dựng 610m2. Số tín hữu của họ đạo
là 1.423 người, nhập môn là 612 người. Năm 2013, Phụ trách
Điện thờ Phật mẫu là chức việc Lê Văn Nhơn (sinh năm 1937).
Hiện nay Phó chủ trường là Phạm Văn Chánh (sinh năm 1954).
Điện thờ cúng vía Phật mẫu ngày 15 tháng 8 âm lịch.
2. Các cơ sở giáo dục, y tế
Sau khi đất nước thống nhất, dù còn rất nhiều khó khăn,
nhưng chính quyền xã Phú Thạnh đã chú trọng xây dựng các
cơ sở giáo dục, y tế.
2.1. Trường mầm non Phú Thạnh
Trường mầm non Phú Thạnh được thành lập trên cơ sở của
Trường mẫu giáo Phú Thạnh.
Ban đầu, Trường mẫu giáo Phú Thạnh được thành lập tại
ấp 1 vào năm 1976, cơ sở vật chất là 2 phòng mượn của nhà
dân (ông Bảy Tý). Ban đầu, trường có 2 giáo viên, quản lý 2
lớp học. Năm 1978, trường mở thêm điểm thứ 2 ở ấp 3 (nhà
ông Hai Lũy) với 1 lớp học. Đến năm 1984, trường chính thức
có cơ sở riêng tại ấp 2 (cơ sở của Trường tiểu học Phú Thạnh).
Như vậy, cả 3 ấp của xã đều có lớp học mẫu giáo, thuận tiện cho
người dân gởi trẻ. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là cô Châu
Thanh Hương.
Năm 1992, trường thu hẹp còn 2 điểm (ấp 1 và ấp 2). Đến
năm 2002, trường còn 1 điểm chính tại ấp 1 với 5 lớp học.
39

4.10 Page 40

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Ngày 01 tháng 6 năm 2017, Trường mầm non Phú Thạnh
chính thức thành lập trên cơ sở của Trường mẫu giáo Phú Thạnh
theo Quyết định số 3587/QĐ-UBND ngày 19 tháng 5 năm 2017
của Ủy ban nhân dân huyện Nhơn Trạch. Trường có tổng diện
tích 7.770m2, trong đó diện tích cơ sở 1 (ấp 1) là 6.503m2, cơ
sở 2 (ấp 2) là 1.267m2. Trường có dãy nhà điều hành, sân thể
thao vui chơi cùng 13 lớp học với 13 phòng và 399 học sinh.
Hiệu trưởng của trường qua các năm từ năm 2002 đến năm
2020 lần lượt là các cô: Nguyễn Thị Diệp Ánh, Nguyễn Hoàng
Linh Phương, Nguyễn Thị Thanh Hà, Đặng Thị Đẹp, Nguyễn
Thị Kim Loan. Hiện nay, Ban Giám hiệu nhà trường gồm Hiệu
trưởng Đặng Thị Thảo, 2 Phó hiệu trưởng: Phạm Thị Ngọc và
Nguyễn Thị Ngọc Hân.
2.2. Trường tiểu học Phú Thạnh
Trường tiểu học Phú Thạnh tọa lạc trên đường 25A, nay là
đường Lý Thái Tổ. Trước năm 1975 đây là Chi khu quận Nhơn
Trạch. Sau ngày đất nước thống nhất, chính quyền đã chọn nơi
có cơ sở vật chất tốt nhất để làm trường học, nên nơi đây trở
thành Trường bổ túc văn hóa Phú Thạnh.
Từ tháng 5 năm 1982 đến tháng 6 năm 1994, nơi đây là
Trường THPT Nhơn Trạch.
Ngày 7 tháng 10 năm 1994, theo Quyết định số 20/QĐ-TC
của Sở Giáo dục và Đào tạo, nơi đây trở thành Trường tiểu học
Phú Thạnh. Trường có 11 phòng học và 3 phòng hiệu bộ.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Năm 1994 đến năm 2008, địa phương vận động 4 hộ dân
gần trường hiến 1.278m2 đất, xây dựng thêm 6 phòng học và 8
nhà vệ sinh. Diện tích của trường hiện nay là 10.184m2.
Ngày 4 tháng 8 năm 2010, trường hoàn thành công trình
xây mới khối phòng học 15 phòng, quy mô 1 trệt, 2 lầu và một
số hạng mục khác với tổng kinh phí hơn 4,6 tỷ đồng từ nguồn
vốn ngân sách của tỉnh và huyện.
Tháng 5 năm 2020, Trường tiểu học Phú Thạnh tiếp tục
được đầu tư sửa chữa. Trường hiện có 28 lớp học với tổng số
học sinh là 960 em.
Ngày 14 tháng 12 năm 2017, Trường tiểu học Phú Thạnh
được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai công nhận đạt chuẩn
quốc gia (mức độ 1) theo Quyết định số 4529/QĐ-UBND.
Chi bộ nhà trường được thành lập vào năm 2000, do cô Trần
Thị Gấm làm Bí thư chi bộ với 4 đảng viên. Đến năm 2010, chi
bộ nhà trường có 16 đảng viên. Hiện nay Ban Giám hiệu chỉ có
1 Hiệu trưởng là đồng chí Nguyễn Thị Phương Khanh, được bổ
nhiệm ngày 14 tháng 8 năm 2020 (do Phó Hiệu trưởng Châu
Văn Xê nghỉ hưu ngày 1 tháng 12 năm 2020, chưa có Phó Hiệu
trưởng mới được bổ nhiệm thay thế.)
2.3. Trường THPT Nhơn Trạch
Trường THPT Nhơn Trạch thành lập vào ngày 1 tháng 10
năm 1965. Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Phạm Hữu Lộc (1965-
1966), kế tiếp là các Hiệu trưởng: Nguyễn Văn Năm (1966-
1971), Lâm Hữu Tài (1972-1975). Lúc mới thành lập, trường
41

5.2 Page 42

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
chỉ có 2 khối: lớp 6 (Đệ thất) và lớp 7 (Đệ lục), mỗi khối có vài
chục học sinh.
Năm học 1992-1993, Trường THPT Nhơn Trạch và Trường
cấp 2 Phú Thạnh sáp nhập thành Trường cấp 2, 3 Nhơn Trạch.
Đến năm học 2002-2003, trường tách cấp 2, trở về với tên gọi
Trường THPT Nhơn Trạch. Hiệu trưởng qua các thời kỳ gồm:
Phạm Đăng Nam (1976-1977), Nguyễn Kim Sanh (1977-1984),
Nguyễn Đức Hiền (quyền hiệu trưởng 1984-1985), Nguyễn
Duy Hiển (quyền hiệu trưởng 1985-1986), Đặng Văn Tốt
(1986-1990), Huỳnh Thảo (1990-1999), Cao Văn Tư (1999-
2003), Huỳnh Thành Ngươn (2003-2007).
Trường có tổng diện tích là 7.357m2, với 27 phòng học.
Trường có 48 cán bộ, giáo viên, nhân viên.
Trước kia, do trường chỉ có 1 đảng viên nên sinh hoạt tại
chi bộ xã Phú Thạnh. Năm học 1994-1995, trường thành lập
chi bộ Đảng đầu tiên theo Quyết định số 59-QĐ/HU của Ban
Thường vụ Huyện ủy Nhơn Trạch với 5 đảng viên. Bí thư chi
bộ là Hiệu trưởng Cao Văn Tư. Từ khi thành lập chi bộ, bình
quân mỗi năm trường đều phát triển được 2 đảng viên mới, đến
năm học 2004-2005 (tách trường cấp 2), trường có 18 đảng
viên, chiếm tỷ lệ 22,5% so với tổng cố cán bộ, giáo viên, nhân
viên của trường. Hàng năm, chi bộ đều được công nhận là chi
bộ trong sạch, vững mạnh và trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu.
Trong năm học 2004-2005, trường có 47 học sinh đoạt giải học
sinh gỏi cấp tỉnh, xếp hạng 11/47 trường THPT trong toàn tỉnh.
42

5.3 Page 43

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Trường THPT Nhơn Trạch cũng tổ chức nhiều hoạt động
ngoại khóa, về nguồn sôi nổi, như: mời Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới
nói chuyện chuyên đề về văn nghệ dân gian; thăm hỏi và phụng
dưỡng mẹ liệt sĩ Trần Thị Lũy trên địa bàn xã Phú Thạnh...
Năm 2016, Trường THPT Nhơn Trạch được dời về xã Phú
Đông. Vị trí của trường được xây dựng trên Trường THCS Phú
Thạnh.
2.4. Trường THCS Phú Thạnh
Trường THCS Phú Thạnh được thành lập vào ngày 3 tháng
10 năm 2016 theo Quyết định số 3356/QĐ-UBND của Ủy ban
nhân dân huyện Nhơn Trạch. Ban Giám hiệu nhà trường có 2
đồng chí, gồm Hiệu trưởng Nguyễn Thanh Tùng, nguyên Hiệu
trưởng Trường THCS Long Tân chuyển về, và Hiệu phó Hồ
Thị Lan, nguyên giáo viên Trường THCS Long Thọ.
Trường tọa lạc tại số 1861 đường Lý Thái Tổ, ấp 2, xã Phú
Thạnh, cơ sở vật chất là từ Trường THPT Phú Thạnh chuyển
giao. Buổi đầu, quy mô của trường chỉ đạt loại 3 với 31 cán bộ,
giáo viên, nhân viên và 540 học sinh. Trường có diện tích là
5.359m2 (theo giấy chứng nhận số 082922 của Sở Tài nguyên
- môi trường tỉnh Đồng Nai). Cơ sở gồm 3 khu vực: dãy phòng
học gồm 1 trệt 3 lầu với 24 phòng học, dãy các phòng chức năng
và các phòng hành chính gồm 1 trệt 3 lầu, dãy hội trường gồm
1 trệt 1 lầu với hội trường lớn và thư viện. Bước đầu trường
được đầu tư sửa chữa một số hạng mục cũng như trang bị các
vật dụng cần thiết phục vụ nhu cầu giảng dạy của giáo viên và
43

5.4 Page 44

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
học tập của học sinh. Trong thời gian chờ sửa chữa, trường phải
mượn cơ sở của Trường THCS Long Tân để tiếp tục hoạt động.
Đến ngày 01 tháng 01 năm 2017, trường được nhận bàn giao
và chính thức đi vào hoạt động. Trường hiện có dãy phòng học
1 trệt 3 lầu với 24 phòng học dành cho 705 học sinh, dãy các
phòng chức năng, phòng hành chính cũng 1 trệt 3 lầu, dãy hội
trường 1 trệt 1 lầu gồm hội trường lớn và thư viện..
Trường có tổ chức Chi bộ Đảng và Chi bộ liên tục đạt danh
hiệu Chi bộ trong sạch vững mạnh, giữ vai trò hạt nhân của nhà
trường. Các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu
niên tiền phong, Ban đại diện cha mẹ học sinh đều hoạt động
tích cực, góp phần cùng nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ.
Thực hiện Cuộc vận động “Hai không”, Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”, “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học
và sáng tạo” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, Trường THCS Phú Thạnh luôn quan
tâm đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
và giáo viên, tích cực tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
nhằm đổi mới phương pháp quản lý và dạy học, đổi mới việc
kiểm tra, đánh giá học sinh; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị, đồ dùng dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Ngày 24 tháng 12 năm 2019, trường được Ủy ban nhân dân
tỉnh Đồng Nai công nhận đạt chuẩn quốc gia (mức độ 1) theo
44

5.5 Page 45

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Quyết định số 4189/QĐ-UBND; Sở Giáo dục và Đào tạo cấp
Giấy chứng nhận đạt kiểm định chất lượng giáo dục số 1089/
SQĐ-GDĐT.
2.5. Trạm Y tế xã Phú Thạnh
Năm 1963, Chi y tế quận Nhơn Trạch được xây dựng trên
địa bàn xã Phú Thạnh, do bác sĩ Phạm Đức Thiện làm Trưởng
Chi y tế. Mục tiêu chủ yếu của Chi y tế là chăm sóc sức khỏe
cho vợ con quân nhân chính quyền Sài Gòn.
Năm 1975, chính quyền cách mạng tiếp quản Chi y tế quận,
và đổi thành Phòng y tế huyện Nhơn Trạch, do y sĩ Nguyễn
Thị Thanh Dân làm Trưởng phòng. Năm 1976, phòng được đổi
thành Bệnh xá huyện Long Thành 2 (do 2 huyện Long Thành
và Nhơn Trạch sáp nhập). Năm 1983, bệnh xá đổi thành Phòng
khám khu vực Phú Thạnh, do y tá chính Ngô Văn Khen làm
Trưởng phòng. 3 năm sau, thành lập thêm Trạm y tế xã Phú
Thạnh (cạnh UBND xã).
Năm 1990, Phòng khám khu vực Phú Thạnh chuyển về
xã Đại Phước, cơ sở được chuyển giao cho Trạm y tế xã Phú
Thạnh. Năm 1993, Trạm y tế xã Phú Thạnh được xây dựng
thêm gồm 7 phòng. Năm 2009, trạm được xây dựng thêm với
14 phòng đạt chuẩn quốc gia theo quy định. Trưởng Trạm y tế
xã Phú Thạnh là Nguyễn Hoàn Mỹ.
3. Đội cao su Thành Tuy Hạ
Tiền thân là Sở Cao su Tân Tường, được người Pháp thành
lập khoảng thập niên 30 thế kỷ XX, nằm trên địa bàn 2 xã Phú
45

5.6 Page 46

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Thạnh và Long Tân. Sau này, Sở Cao su Tân Tường đổi tên
thành Sở Cao su Thành Tuy Hạ. Trước ngày 30 tháng 4 năm
1945, sở do viên quản lý người Pháp là Jean Beziat phụ trách.
Sau ngày giải phóng, chính quyền cách mạng tiếp quản cơ sở
này, đổi tên thành Nông trường Cao su Thành Tuy Hạ thuộc
Liên hiệp Nông trường Cao su Đồng Nai.
Giám đốc Nông trường lần lượt qua các thời kỳ gồm: Đỗ
Thị Thanh Vân (1975-1980), Nguyễn Thị Mừng, Mai Văn Hảo,
Trần Thành Hảo, Nguyễn Ngọc Anh, Lưu Phước Hùng, Nguyễn
Công Khanh và Nguyễn Ơi (1992-2014).
Từ khi thành lập cho đến giai đoạn năm 1975, Sở Cao su
Thành Tuy Hạ ngày càng mở rộng diện tích. Tuy nhiên, khi xây
dựng kho đạn Thành Tuy Hạ để phục vụ cho chiến lược quân
sự, Pháp đã phá hủy hơn 400 hecta cao su đồng thời quy hoạch
trồng mới ra các vùng lân cận1. Những thời điểm mở rộng diện
tích đáng lưu ý là các giai đoạn 1940-1941, 1958-1961, 1971-
1974 với tổng diện tích trồng mới gần 400 hecta, chiếm gần
50% tổng diện tích trồng cao su. Sản phẩm chính của Đội cao
su Thành Tuy Hạ trước năm 1975 gồm: mủ tờ xông khói, mủ
crêpes, mủ tạp; sản phẩm hiện nay gồm: mủ RSS, mủ latex.
Từ năm 1983, nông trường trực thuộc Công ty Cao su công
nghiệp Đồng Nai (xã Xuân Tân, huyện Xuân Lộc). Năm 2004,
UBND tỉnh Đồng Nai có quyết định chấp thuận chủ trương,
giới thiệu địa điểm là hơn 500 hecta đất thuộc nông trường cho
1  Theo lời kể của ông Nguyễn Ơi, Giám đốc Nông trường Cao su Thành Tuy Hạ.
46

5.7 Page 47

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Tổng công ty Tín Nghĩa và Công ty Cao su Đồng Nai lập thủ
tục đầu tư khu dân cư Long Tân - Phú Thạnh. Dự án này sau đó
thuộc Công ty cổ phần đầu tư Nhơn Trạch, một công ty con của
Tổng công ty Tín Nghĩa (trụ sở tại thành phố Biên Hòa). Nông
trường Cao su Thành Tuy Hạ giải thể.
Vùng đất và con người của Phú Thạnh được hình thành
sớm trong lịch sử mở đất của xứ Đồng Nai, được định danh và
định vị từ Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (năm
1820). Đất thiêng, ổn định, giàu sản vật, người tứ xứ hội tụ,
kết nối cộng đồng bằng giá trị văn hóa, ứng xử với nhau bằng
chuẩn mực văn hóa, hình thành thiết chế văn hóa của làng xã,
đình chùa, miếu mộ trên nền tảng văn hóa Việt Nam, thể hiện
nét riêng của xứ Đồng Nai đa dạng sinh thái và đa nguồn văn
hóa.
Người Phú Thạnh có cuộc sống thanh bình, yêu chuộng hòa
bình nên khi có thế lực ngoại xâm làm tổn hại đến đời sống thì
đất và người Phú Thạnh vùng lên thể hiện sức mạnh yêu nước
để bảo vệ quê hương, đất nước và cộng đồng.
47

5.8 Page 48

▲back to top


Chương II
TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH
CỦA NHÂN DÂN XÃ PHÚ THẠNH
(1930 - 1945)
I. ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Năm 1859 là cột mốc ghi dấu cuộc sống thanh bình của
người Phú Thạnh chuyển sang giai đoạn bất an vì gót giày xâm
lược của thực dân Pháp. Tàu chiến của thực dân Pháp tiến chiếm
Gia Định - Sài Gòn qua cửa Cần Giờ, nhanh chóng dập tắt sự
kháng cự yếu ớt của các đồn, bảo, pháo đài của triều Nguyễn
ven sông Đồng Nai. Sài Gòn - Gia Định sớm thất thủ, bị chiếm
đóng từ ngày 17 tháng 2 năm 1859, nhưng phong trào vũ trang
kháng chiến của nghĩa quân địa phương vùng Biên Hòa, Long
Thành, Nhơn Trạch kéo dài đến năm 1916 mới chấm dứt. Khi
triều đình Nguyễn ký hòa ước giao ba tỉnh miền Đông (năm
1862) rồi cả Nam kỳ lục tỉnh (năm 1874) cho thực dân Pháp,
lòng dân xứ Nhơn Trạch bất thuận, hướng theo cờ nghĩa Trương
Định, tham gia các “hội kín”, tìm mọi cách để “đánh Tây”, dù
không thành công nhưng thành đạo nghĩa ở đời. Nhiều tráng
đinh, nghĩa quân hy sinh thầm lặng, hiếm có trường hợp được
48

5.9 Page 49

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
ghi danh như lãnh binh Nguyễn Đức Ứng (di tích mộ còn ở xã
Long Phước, huyện Long Thành). Theo chuyện kể truyền khẩu
không liền mạch ở người cao tuổi, nhiều lớp người Nhơn Trạch
có nguồn gốc ở Phú Thạnh đã tham gia các hoạt động chống
Tây ở các tỉnh miền Đông, góp phần tạo nên các chiến tích lịch
sử ở Lý Nhơn, Gò Công trao trảo, Rừng Lá, lũy Ký Giang...;
và nhiều tấm gương lẫm liệt như Lê Văn Khiêm, “Ông Mai”,
“Ông họ Lê”được người địa phương tôn vinh công đức.
Từ khi thực dân Pháp toàn quyền cai quản Nam kỳ, đời
sống của người dân Phú Thạnh ngày càng cơ cực, tủi nhục
trong vòng nô lệ.
Giữa thế kỷ XIX, xã Phú Thạnh nói riêng và cả vùng Nhơn
Trạch nói chung vẫn còn hoang vu, hẻo lánh. Rừng còn chiếm
phần lớn diện tích với nhiều loại gỗ quý như cẩm, gõ, bằng lăng
và đặc biệt là sao, dầu - hai loài thực vật bản địa của rừng Đông
Nam Bộ.
Người dân xã Phú Thạnh sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Phần lớn diện tích đất Phú Thạnh là vùng giồng, nằm trên cao,
điều kiện tưới tiêu hạn chế. Ngoài một số ít người dân có ruộng
lúa, tập trung chủ yếu ở Cù lao Ông Cồn, còn lại người dân chỉ
có thể làm rẫy, trồng các loại hoa màu nên đời sống còn nhiều
khó khăn. Không đủ đất để canh tác, nhiều người phải đi làm
thuê làm mướn. Theo lời kể của ông Võ Văn Anh, trước đây gia
đình ông có 5 hecta ruộng ở Cù lao Ông Cồn đã được xem là
khá giả, nhiều người dân khác trong vùng phải đi thuê ruộng,
hoặc làm mướn ở các miệt Phú Hội, Long Tân, Phú Hữu, hoặc
49

5.10 Page 50

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
lĩnh canh của các chủ điền như bà Tám Dung, ông Sen. Nông
dân lĩnh canh rất khổ. Cả một mùa lúa gieo cấy, trồng tỉa cực
nhọc, đến mùa gặt lúa phải đem cho trâu đạp, phơi khô, quạt
sạch xong mới được nộp tô. Tỷ lệ nộp tô lên đến 50%, nhưng
trong thực tế còn cao hơn bởi chủ điền thường đong lúa theo
kiểu “trừ hao”, nên mức tô có thể lên đến 60% hoặc 70%. Mức
nộp tô cao là gánh nặng của nông dân. Năm 1955 để “lấy lòng”
người dân Nam Bộ vốn đã được Việt Minh chia ruộng đất trước
đó trong thời kỳ chín năm, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban
hàng Dụ số 2 ngày 08/11/1955 quy định lại mức thu tô (giá
thuê đất) tối đa mà điền chủ được áp dụng là từ 10-15% trên số
lúa thu hoạch đối với ruộng làm một mùa/năm; từ 15-25% cho
ruộng 2 mùa/năm1. Như vậy, trước năm 1945, mức thu tô của
địa chủ ở Hiệp Phước thực tế lên đến từ 50-70%/ năm (ruộng
2 vụ). Năm nào lúa trúng, nông dân đong thóc nộp tô xong,
may mắn lắm mới đủ lúa ăn đến năm sau. Năm nào thất mùa
thì phải nợ chủ điền. Cứ vậy, nợ mới chồng nợ cũ, người nông
dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà nghèo
vẫn hoàn nghèo. Xã Phú Thạnh khoảng đầu thế kỷ XX rất ít nhà
tường, nhà ngói, phần lớn là nhà lá sơ sài, lụp xụp. Kinh tế tự
cấp tự túc là chủ yếu.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều loại thuế của chính quyền thời
bấy giờ đặt ra làm cho đời sống người dân trong nước cũng như
1  Trong khi đó, ở miền Bắc, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có Sắc
lệnh số 49-SL ngày 18/6/1949, quy định từ năm 1950 thuế điền thổ thu một số
thóc tương đương với 6% hoa lợi tính theo năng suất.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
ở Phú Thạnh lâm vào cảnh bi đát, trong đó nặng nề nhất là thuế
thân. Sau khi chiếm nước ta, ngay từ năm 1897, thực dân Pháp
đã định ra loại thuế khắc nghiệt là thuế thân và càng ngày càng
tăng dần. Thuế thân được thực dân Pháp định thành suất, nộp
theo từng năm, đánh vào người từ 18 tuổi đến 60 tuổi. Tất cả
những ai trong diện đóng thuế thân đều phải có thẻ thuế thân.
Trên thẻ có chữ ký hoặc điểm chỉ, có dấu triện của Lý trưởng.
Mỗi năm thay thẻ một lần, màu sắc thẻ cũng phải thay đổi hàng
năm. Thẻ thuế thân có các loại màu khác nhau để phân biệt
giữa nội đinh, ngoại đinh và các đối tượng miễn giảm thuế.
Dân đinh mang thẻ theo người và xuất trình khi cần thiết. Nếu
bị kiểm tra không có thẻ, dân đinh có thể bị bắt giam. Người bị
mất thẻ xin cấp lại phải nộp phạt bằng với khoản tiền thuế. Ở
Nam Kỳ, thuế thân tăng từ 5,58 đồng (năm 1913) lên 7,5 đồng
(năm 1929). “Tổng số tiền thu thuế ở ba kì từ 1912 đến 1929
tăng gấp ba lần so với thời kì trước đó. Trong các năm bình
thường, mức thuế này đã là một gánh nặng đối với người dân
nếu so với mức thu nhập kém cỏi của họ. Trong các năm khó
khăn, mất mùa, khủng hoảng kinh tế, gánh nặng đó trở nên đặc
biệt khủng khiếp. Tính đổ đồng đầu người, không phân biệt già
trẻ lớn bé, mỗi người dân Việt Nam phải nộp 8 đồng tiền thuế,
tương đương 70kg gạo trắng hạng nhất lúc bấy giờ”1. Do mức
đóng thuế thân quá cao, nhiều nơi nổ ra những cuộc biểu tình
chống thu thuế, nhất là ở miền Trung, nên sau năm 1930 thực
1  Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb. Giáo dục, tr.220-221.
51

6.2 Page 52

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
dân Pháp hạ mức thuế thân xuống còn 6,3 đồng/năm, nhưng
vẫn là một gánh nặng oằn lưng đối với người Việt Nam.
Cũng giống như các địa phương khác trong cả nước, hàng
năm thanh niên trai tráng ở Phú Thạnh phải đóng thuế thân.
Ai không có tiền đóng thì bị lính bắt trói, đóng trăn cả tuần lễ,
đánh đập cho tới chừng nào có đủ để nộp mới tha. Trong khi
đó, theo tài liệu còn lưu trữ, do tình trạng suy thoái kinh tế, giá
lúa ở Nam Bộ năm 1933 xuống chỉ còn có 40 xu/giạ (40 lít). Ở
Phú Thạnh, năng suất lúa lúc đó khoảng 30-40 giạ/hecta. Tính
ra, một năm làm ruộng vất vả “bán mặt cho đất, bán lưng cho
trời” người nông dân may mắn lắm cũng chỉ đủ nộp thuế thân.
Vì vậy, tới “mùa” thu thuế thân ai cũng nơm nớp, cứ nghe chó
sủa rộn là đàn ông trai tráng ở xã Phú Thạnh, những ai chưa đủ
tiền đóng thuế thân lại tìm cách chạy trốn, phần lớn là kéo nhau
chạy vô rừng, đến tối mới dám về nhà. Nhưng trốn cũng chỉ
là giải pháp tạm thời, muốn yên ổn làm ăn sau cùng cũng phải
chạy vạy, vay mượn, có khi là vay bạc nặng lãi để nộp thuế, nợ
chồng thêm nợ.
Bên cạnh thuế thân, thực dân Pháp vẫn không ngừng tăng
thêm các thứ thuế vô lý như: thuế ruộng, thuế muối, thuế rượu,
thuế thuốc phiện, thuế cư trú, thuế nhà, thuế thủy lợi, thuế thông
thương... Trong đó, nặng nề nhất là thuế ruộng, còn gọi là thuế
điền. Ở Phú Thạnh, ai có đất ruộng thì phải nộp thuế điền cho
chính quyền thuộc địa. Theo quy định, mức thuế tư điền (tức
thuế ruộng) ở Nam Bộ có 3 hạng tùy theo chất lượng, mỗi mẫu
ruộng đóng thuế từ 0,74-2,1 đồng. Trong thực tế, phần lớn các
52

6.3 Page 53

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
loại ruộng đều phải đóng theo mức “nhất đẳng điền” là 2,1
đồng/mẫu. So với năng suất và giá lúa thời đó, mức thuế trên
chiếm từ 9-25,4% thu nhập của nông dân. Đáng chú ý, chính
quyền Pháp còn tìm cách bóc lột tận cùng người dân bằng quy
định đơn vị mẫu nhỏ lại. Dưới thời Tự Đức nhà Nguyễn, một
mẫu ruộng xấp xỉ gần 5.000 m2 (người dân gọi là mẫu ta). Từ
năm 1897, thực dân Pháp quy định mỗi mẫu chỉ còn có 3.600m2
(người dân gọi là mẫu Tây), nên trên thực tế mức thuế ruộng
tăng hơn so với diện tích đất.
Ngoài ra, người nông dân còn phải nộp nhiều loại thuế khác
rất phi lý. Có nhà trồng được mấy sào hoa màu như: bầu, bí,
mướp... cũng phải đóng thuế, sản phẩm làm ra nhiều khi bán
không đủ nộp thuế. Các loại phương tiện vận chuyển như ghe,
xe bò cũng phải nộp thuế. Chính quyền thuộc Pháp quy định
mỗi con bò kéo xe phải có giấy “bề chỉ” (hay còn gọi là bài chỉ),
một dạng như “căn cước” của bò: màu gì, xá gì, rất kỹ lưỡng.
Khi qua mỗi đồn bót, trạm gác của chúng phải trình giấy bề chỉ,
nếu không có sẽ bị phạt rất nặng, có khi còn bị tịch thu cả bò lẫn
xe. Đi đêm, mỗi xe bò đều phải treo hai cây đèn phía trước và
sau xe theo quy định, giống như ô tô bây giờ phải có đèn trước
và sau, nếu không cũng sẽ bị phạt nặng. Không chỉ vậy, chính
quyền còn quy định: 5 nhà chỉ được có một con dao dùng để
phát rẫy, vì thế đời sống người dân rất khó khăn, cơ cực.
Không chỉ vậy, người dân còn phải đóng thuế lao dịch. Theo
Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 31/12/1907, mỗi
người phải đi lao dịch 8 ngày/năm, ai không đi thì phải đóng
53

6.4 Page 54

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
thuế lao dịch từ 0,1-0,5 đồng/ngày (tùy theo việc), ai không có
tiền đóng thì bị bắt đi lao dịch nặng nề, và trong thực tế thời
gian lao dịch lên đến cả tháng. Năm 1929, Pháp xây dựng kho
bom Thành Tuy Hạ. Người dân Phú Thạnh và một số xã xung
quanh đều phải đi làm phu không công ít nhất 15 ngày/năm,
công việc nào là chặt cây, phá bụi, san bằng các gò, nỗng, đào
ô đắp ụ để chứa bom, khiêng vác vật liệu xây dựng... Kho bom
Thành Tuy Hạ xây dựng 4 năm mới xong. Tiếp đó, đến năm
1939, Pháp xây dựng đồn Giồng Ông Đông, người dân Phú
Thạnh và các xã xung quanh cũng phải đi làm phu xây dựng.
Đến lúc Nhật nhảy vào chiếm đóng, người dân lại phải đi phu
xây dựng sân bay Nước Trong (An Lợi) và Gò Gầu (Phước
Thái). Cái ách của địa chủ, thực dân, phát xít đè nặng khiến đời
sống người dân vất vả, u tối, không có ngày mai nên việc “tức
nước vỡ bờ” là điều đương nhiên, chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG NHÂN CAO SU
Năm 1917, thực dân Pháp thành lập Hiệp hội trồng tỉa
Đông Dương để khai thác cao su. Sau khi trồng thí nghiệm
thành công, Pháp thành lập Công ty Societe des plantation des
Terres rouges (Công ty Đồn điền Đất Đỏ, người dân gọi tắt là
“Te-ru”) ở khu đất đỏ Bình Sơn, An Viễng. Để khai thác triệt
để cao su - cây công nghiệp được mệnh danh là “vàng trắng”,
Pháp đã đầu tư tối đa để mở rộng phạm vi trồng cao su. Chỉ sau
một thời gian ngắn, tư bản Pháp đã mở thêm công ty Societe
Indochinoise plantation d’heveas, gọi tắt là Siph, do vợ chồng
hầu tước Charle Rivieas des Lasune trông coi. Sau đó, hàng
54

6.5 Page 55

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
loạt đồn điền cao su khác đã ra đời trên địa bàn huyện Long
Thành, như: sở De La, sở tư Trần Quang An, sở Héléna, sở De
George, sở Nguyễn Dưỡng, sở Péra.
Tại xã Phú Thạnh, do thổ nhưỡng thích hợp với sự phát
triển của cao su nên một số cố đạo người Pháp đã đứng ra lập
Sở Cao su Tân Tường1, đồng thời lập thêm Sở Cao su ở xã Phú
Hội - người dân gọi là sở Ông Cố. Người dân Phú Thạnh do
không đủ đất đai canh tác, nên một số người đã đi làm công
nhân tại các Sở Cao su, nhà máy chế biến mủ.
Lúc mới thành lập, các đồn điền cao su thuê người dân địa
phương phá rừng, phát hoang trồng cao su. Rừng ở khu vực
Long Thành - Nhơn Trạch thời kỳ này còn rậm rạp hoang dã,
nhiều thú dữ, rắn độc, người dân Phú Thạnh đã phải bỏ mạng
không ít vì nạn cây đè, bị rắn độc cắn, thú dữ chụp, hoặc bị sốt
rét, dịch bệnh... để khẩn hoang, khai hóa đồn điền cao su. Theo
tài liệu thống kê ngày 8 tháng 5 năm 1976 của Nông trường
Cao su quốc doanh Thành Tuy Hạ, diện tích của nông trường
thời điểm này là 3.399 hecta, bao gồm cả diện tích trồng cao su,
nhà làm việc, nhà máy chế biến mủ... Chưa có số liệu nào cho
biết diện tích ban đầu của Sở Cao su Tân Tường là bao nhiêu,
nhưng từ số liệu thống kê năm 1976, trừ đi số cao su trồng trong
1  Sở Cao su Tân Tường ngoài diện tích trồng cao su, còn có khu nhà máy mủ,
nhà xông, nhà nêm để chế biến mủ. Khoảng năm 1950, chiến sự giữa ta và Pháp
diễn ra ác liệt, khu nhà máy bị ta tấn công nhằm tiêu hao sinh lực địch, chủ đồn
điền đã bỏ khu vực nhà máy, dời xuống khu vực Thành Tuy Hạ. Sở Cao su Tân
Tường đổi thành Sở Cao su Thành Tuy Hạ (Plantation Thành Tuy Hạ).
55

6.6 Page 56

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
các năm 1940, 1941 (173 hecta), 1958, 1961 (280 hecta), 1971
đến 1974 (195 hecta), thì diện tích Sở Cao su Tân Tường ban
đầu khoảng trên 2.700 hecta - một con số cực kỳ lớn so với điều
kiện làm việc đầu thế kỷ XX. Biết bao mồ hôi, nước mắt, máu
xương của người dân Phú Thạnh, Nhơn Trạch đã đổ ra để khai
hoang, trồng nên những vườn cao su bạt ngàn ấy!
Đi làm công nhân, nhưng đời sống người dân Phú Thạnh
cũng không khấm khá hơn bởi đồng lương rẻ mạt. Lương công
nhân cạo mủ mỗi ngày 32 xu. Công nhân đứng máy lương 40
xu. Những công nhân chưa đủ 18 tuổi được phát cho một thẻ
gọi là “thẻ nhau”, mỗi ngày lãnh 12 xu. Lương phụ nữ thấp hơn
nam giới, chỉ khoảng 30 xu hoặc thấp hơn. Nghỉ ngày nào là cắt
lương. Mắc bệnh không được cấp thuốc. Lao động nặng nhọc,
bệnh tật sốt rét, phù thủng làm nhiều người chết.
Do đồn điền cao su ngày càng mở rộng diện tích, số lượng
dân địa phương không đủ để đáp ứng nhu cầu về nhân công,
chủ các đồn điền cao su tiến hành chiêu mộ phu từ các tỉnh
phía Bắc vào làm phu “công tra”1. Đây là một trong những đợt
di dân lớn tại Đồng Nai nói chung và xã Phú Thạnh nói riêng,
đồng thời góp phần tạo ra lớp công nhân đồn điền cao su đầu
tiên của vùng Đông Nam Bộ.
Đoàn công tra đầu tiên đến Bình Sơn, An Viễng gồm 81
người là công nhân thuộc mỏ than Cẩm Phả, Cửa Ông, Mông
Dương thuộc tỉnh Quảng Ninh. Đoàn thứ hai có 530 người ở
1  Xuất phát từ chữ Contract trong tiếng Pháp, có nghĩa là giao ước, giao kèo.
56

6.7 Page 57

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam. Đoàn thứ ba có 1.025
người ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng.
Trong vòng 10 năm (từ năm 1919 đến 1929), đã có 87.371
người ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung kỳ đăng ký làm phu
công tra ở các đồn điền cao su Nam kỳ1. Cuối năm 1935, số
dân công tra từ miền Bắc, miền Trung vào làm trong các đồn
điền cao su ở Long Thành lên tới 11 ngàn người. Dù diện tích
Sở Cao su Tân Tường ít, quy mô nhỏ hơn so với các sở khác,
nhưng vẫn phải tuyển phu công tra miền Bắc, miền Trung vào
làm việc vì không đủ nhân lực.
Đời sống của những người phu trong đồn điền cao su vô
cùng cực khổ. Họ phải ở trong những căn lán chật hẹp, ẩm
ướt, 6 người/căn, rộng khoảng 24m2, mái lợp lá, nền đất, không
giường, không mùng mền. Lán không có bếp nên công nhân
phải nấu ăn ngay cạnh giường nằm. Vào mùa mưa, hầu hết các
lán đều bị dột, nền đất nhão thành bùn. Muỗi ở khu vực này
nhiều như vãi trấu nên công nhân thường bị sốt rét. Thêm vào
đó, vùng Phú Thạnh là đất giồng, nền cứng, khó đào giếng nên
công nhân rất thiếu nước để sinh hoạt, phải dè sẻn từng ca nước
sạch. Lương thực, thức ăn chỉ có gạo hẩm, cá khô. Thiếu nước,
điều kiện ăn ở, vệ sinh kém nên công nhân thường bị bệnh,
ngoài sốt rét thì bệnh phổ biến là kiết lỵ đã lấy đi không biết bao
nhiêu sinh mạng con người. Nữ ký giả người Pháp Viollis trong
1  Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam, Nxb. Lao động năm 2003,
trang 33.
57

6.8 Page 58

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
chuyến điều tra về đời sống công nhân cao su ở huyện Long
Thành năm 1949, đã viết “Tôi trông thấy những người nông
dân khốn khổ Bắc kỳ khỏe mạnh khi đến đây, nhưng chỉ sau 3
hay 4 năm thì chỉ còn thân tàn ma dại: sốt rét, phù thủng, bị
đục ruỗng bởi bệnh sâu quảng... Đây là những xác chết thật sự,
không còn sức lực, họ gieo rắc xung quanh những mầm mống
bệnh tật, nổi loạn và thù hằn...”1
Do đặc điểm của cao su là cho mủ nhiều trước khi mặt trời
lên, nên chế độ lao động của công nhân cao su cũng đặc biệt vất
vả. Từ 4 giờ sáng, đồn điền đánh kẻng, công nhân mang theo
cơm nắm và cá khô bó trong mo cau, tập trung ra sân điểm danh
rồi ra các lô cao su cách đó từ 3-4 km để cạo mủ. Mỗi công
nhân phải cạo xong từ 1 phần đến 1,5 phần cây (tức từ 1-1,5
hecta) mới được về. Tính ra, mỗi ngày công nhân cao su phải
làm 13-14 giờ. Bọn chủ trừng phạt rất nặng những công nhân
cạo phạm cây cao su, nếu bị phát hiện có thể bị đánh đến chết.
Theo quy định, một tuần công nhân được nghỉ ngày chủ nhật,
nhưng trong thực tế, vào ngày nghỉ công nhân cũng bị trưng
dụng đi làm vệ sinh, làm cỏ, đắp đê ngăn nước cuốn trôi đất
màu. Tóm lại, công nhân cao su bị bóc lột sức lực đến tối đa.
Tài liệu còn lưu lại ở Sở Cao su Đất Đỏ (Tere Rouge) cho thấy,
trong năm 1928, tại một đồn điền thuộc sở, tỷ lệ công nhân
chết trong năm là 19%. Ở đồn điền cao su Dầu Tiếng (tỉnh Tây
1  Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi có Đảng, Nxb. Khoa học
Xã hội, trang 213.
58

6.9 Page 59

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Ninh) tỷ lệ này lên đến 47,4% 1. Ở Phú Thạnh, đời sống của
công nhân cao su cũng tương tự.
Làm phu công tra, công nhân không được coi là con người.
Chủ đồn điền đặt cho mỗi người một con số thay cho tên giống
như số tù, con số này theo người phu công tra cho đến lúc chết.
Thông thường, phu công tra là những người nghèo, túng
cùng mới đăng ký đi làm phu, trong tay không có tiền nên khi
vào đến đồn điền bước đầu phải mua chịu gạo, thực phẩm. Bọn
cai, xu, giám thị bán chịu với giá cắt cổ, vì thế khi công nhân
lãnh tiền lương, trả nợ thì không còn đồng nào, lại tiếp tục lẩn
quẩn cái vòng vay trả, hết hạn ký hợp đồng (3 năm) cũng không
có tiền trở về quê, họ đành phải nhắm mắt ký hợp đồng làm
tiếp. Vì vậy, người phu công tra Bắc kỳ thời ấy đã truyền tai
nhau bài thơ về thân phận mình với nỗi niềm cay đắng:
Con gà mày gáy Bắc Giang
Trời làm lụt lội mày sanh Nam kỳ
Nam kỳ lắm hãng cao su
Đi sương về mù khổ lắm trời ơi!
Thằng Tây, thằng Đội, thằng Cai
Cướp vợ bằng búa, giết người bằng dao
Ngày làm được ba cắc hai
Ăn hết ba cắc xài ngoài hai xu
Trốn đi thì sợ ở tù
Liều thân ở lại làm bù ba năm.
1  Lịch sử phong trào công nhân cao su, Nxb. Lao động năm 2003, trang 52.
59

6.10 Page 60

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Lớp phu công tra này ban đầu chỉ có thanh niên trai tráng
đăng ký. Sau này vì thiếu hụt lao động, chủ các đồn điền chấp
nhập cả những người đứng tuổi, có gia đình, và khi vào nơi ở
mới họ đã mang theo cả gia đình cùng đi. Số thanh niên sau
một thời gian gắn bó với Sở Cao su, chọn vùng đất mới làm quê
hương, đã lấy vợ/chồng hoặc trong những người chung cảnh
ngộ, hoặc là dân địa phương. Từ đó, đã hình thành một bộ phận
dân cư mới, cùng với lớp cư dân bản địa trước đó tạo ra sự đa
dạng, phong phú trong đời sống sinh hoạt, văn hóa, tập quán,
tín ngưỡng... ở xã Phú Thạnh.
III. CĂN CỨ QUÂN SỰ THÀNH TUY HẠ
Đầu thế kỷ XX, về mặt quân sự huyện Long Thành (bao
gồm cả huyện Nhơn Trạch hiện nay) nằm vào giữa khu tam
giác Vũng Tàu - Biên Hòa - Sài Gòn, trở thành vị trí quan trọng,
xung yếu của cả miền Đông Nam Bộ. Về phía Tây của huyện
Long Thành có một đoạn của sông Nhà Bè có chiều dài khoảng
18km làm giới hạn tự nhiên. Về hướng Nam, huyện Long
Thành có rừng sác bao la chỉ cách Vũng Tàu 28km cũng là một
giới hạn tự nhiên. Hệ thống rừng sác Long Thành - Nhơn Trạch
là một vị trí rất quan trọng trong địa thế miền Đông Nam Bộ, vì
nó áp sát phía đông nam Sài Gòn, ôm gọn sông Lòng Tàu - “yết
hầu” của tuyến đường thủy từ Sài Gòn ra hải phận quốc tế. Bên
cạnh đó, từ xã Phú Thạnh đến quốc lộ 51 là đường chiến lược
nối Sài Gòn - Biên Hòa - Vũng Tàu cũng rất gần. Ngoài ra, khu
vực này còn có bến phà Cát Lái, bên kia bến phà là khu ngoại
ô Sài Gòn.
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Xuất phát từ vị trí quan trọng đó, từ năm 1939 thực dân
Pháp đã xây dựng trên đất Long Thành khu căn cứ quân sự
Thành Tuy Hạ, là kho bom đạn lớn nhất Đông Dương. Căn cứ
quân sự Thành Tuy Hạ, người dân địa phương còn gọi là Thành
Xăng Đá 1 nằm trên địa bàn xã Phú Thạnh, tiếp giáp với 3 xã
là Phú Đông, Đại Phước, Vĩnh Thanh, một mặt tiếp giáp sông
Sâu, một nhánh của Đồng Nai và cù lao Ông Cồn (thuộc địa
bàn xã Đại Phước và xã Long Tân). Căn cứ Thành Tuy Hạ được
thực dân Pháp tiến hành xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu đảm
bảo kỹ thuật, hậu cần phục vụ chiến tranh. Năm 1929, Pháp đã
cho quân đội trú tại Tuy Hạ xây cột cờ để khẳng định sự hiện
diện của thực dân Pháp tại đây. Đến năm 1936, căn cứ Thành
Tuy Hạ được xây dựng hoàn chỉnh, là căn cứ có kho bom, khí
tài quân sự lớn nhất Đông Dương.
Từ lúc Pháp xây dựng căn cứ quân sự tại đây, đời sống
người dân Phú Thạnh rất khổ sở. Hàng ngày, khoảng 7 giờ
sáng, lính Pháp thường hay đi tuần tra từ căn cứ Thành Tuy Hạ
đến khu vực xã Long Tân hiện nay, trên đường đi bọn chúng
bắn giết bừa bãi người dân mà chúng bắt gặp trên đường, đốt
phá nhà dân, bắt heo, gà, vịt một cách vô tội vạ, gây biết bao tội
ác với người dân Phú Thạnh và các vùng lân cận.
Theo lời kể của ông Phạm Văn Đạm2, có lần bọn lính đi
tuần, đến nhà ông nội của ông đột nhiên chúng xông vào đập bể
1  Xăng Đá là phiên âm từ solda trong tiếng Pháp, nghĩa là lính.
2  Cán bộ lão thành cách mạng ở xã Phú Thạnh, đã mất.
61

7.2 Page 62

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hết nguyên hàng lu chứa nước mưa của gia đình, chặt phá tan
tành vườn chuối của gia đình ông. Lần khác, ông chứng kiến
một nông dân đi móc cua, bất ngờ chạm mặt bọn lính Pháp đi
tuần, người đàn ông khốn khổ đã rẽ xuống mé sông, trốn trong
chiếc ghe lật úp của gia đình ông, nhưng bọn lính Pháp vẫn
đuổi theo và bắn chết người nông dân vô tội. Sau khi bọn lính
rút đi, ông tìm đến thấy thi thể người đàn ông xấu số đã chết
trong tư thế núp trong lòng ghe, trong lòng vừa thương người
dân vô tội chết oan, vừa trào dâng niềm căm giận bọn giặc xâm
lược tàn ác, dã man với đồng bào mình.
Sau hiệp định Genève, Pháp rút quân về nước, Mỹ thay
chân Pháp dựng lên chế độ ngụy quyền ở miền Nam, căn cứ
Thành Tuy Hạ do quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn quản
lý sử dụng, được đặt tên mới “Căn cứ Phan Bội Châu”, nhưng
người dân khu vực này vẫn thường gọi tên cũ là Thành Tuy Hạ.
Kho bom Thành Tuy Hạ lúc bấy giờ được địch canh gác, bảo
vệ cảnh mật: nhiều hàng rào thép gai, hàng rào mìn và hệ thống
lô cốt, chòi canh, chòi quan sát dày đặc hòng ngăn chặn sự tấn
công, phá hủy bom đạn, khí tài của quân giải phóng, nhất là lực
lượng đặc công.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ta tiếp quản khu căn cứ
Thành Tuy Hạ, giao cho Phòng 4 Cục Hậu cần miền Đông Nam
Bộ quản lý. Ngày 27 tháng 8 năm 1975, Cục Hậu cần miền
bàn giao về Tổng cục kỹ thuật (thuộc Bộ Tư lệnh căn cứ Long
Bình), đổi thành L.862, sau đó đổi thành K.862 Thành Tuy Hạ.
Cho đến nay, cái tên Thành Tuy Hạ vẫn được giữ nguyên như
62

7.3 Page 63

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đánh dấu một trong những mốc son hào hùng trong cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược.
Ngoài K.862, trên địa bàn xã còn có các đơn vị quân đội
đóng quân tại đây, như: Căn cứ bảo đảm hậu cần kỹ thuật 696
(thuộc Vùng 2 Hải quân), Vùng 2 Hải quân, K.62, Lữ đoàn 87,
Lữ đoàn Tàu pháo - tên lửa 167. Đảng bộ và chính quyền xã
thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trên để làm tốt
công tác quốc phòng - an ninh, công tác dân vận địa phương.
IV. DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời. Từ sự kiện vô cùng quan trọng này, phong trào đấu tranh
của người dân và công nhân cao su xã Phú Thạnh nói riêng và
khu vực Long Thành - Nhơn Trạch nói chung chuyển sang một
bước tiến mới.
Năm 1932, tại đồn điền Bình Sơn (thuộc huyện Long Thành)
đã nổ ra cuộc đấu tranh của công nhân đòi chủ Tây không được
đánh đập công nhân, chống cúp phạt lương. Tại xã Phú Thạnh
lúc này chưa có tổ chức Đảng, nhưng những cuộc nổi dậy của
công nhân cao su và người dân Long Thành đã ít nhiều tác động
đến nhận thức của người dân trong xã. Một số công nhân cao su
của sở Tân Tường, sở Ông Cố cũng tham gia hưởng ứng phong
trào đấu tranh của đồn điền Bình Sơn.
Tháng 5/1936, phong trào Mặt trận Bình dân Pháp, có Đảng
Cộng sản Pháp làm nòng cốt giành được thắng lợi trong cuộc
63

7.4 Page 64

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
tổng tuyển cử tại Pháp. Chính phủ Mặt trận Bình dân lên cầm
quyền đã ban hành nhiều đạo luật tiến bộ. Nắm thời cơ, Đảng
Cộng sản Đông Dương phát động phong trào Mặt trận dân chủ
Đông Dương, lấy kiến nghị của quần chúng chuẩn bị tiến tới
Đại hội Đông Dương.
Đảng chủ trương chuyển hình thức hoạt động bí mật, không
hợp pháp sang hoạt động công khai hợp pháp và nửa hợp pháp,
nhằm tập hợp và hướng dẫn đông đảo quần chúng đấu tranh từ
thấp đến cao, chủ yếu đòi dân sinh dân chủ cải thiện đời sống,
thông qua đó giáo dục, phát triển đội ngũ cách mạng.
Xứ ủy Nam Bộ đã chỉ đạo thành lập các Ủy ban hành động
ở các tỉnh thành. Tại Biên Hòa, Chủ tịch Ủy ban hành động
tỉnh là đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa phân công các đảng viên về
Long Thành, chú trọng khu vực thị trấn và đồn điền cao su để
tuyên truyền yêu nước, đấu tranh đòi dân chủ. Các tài liệu của
Đảng như: “Lời hiệu triệu của các Ủy ban hành động”, báo Lao
động, Dân chúng... được phổ biến khá rộng rãi trong các khu
vực dân cư, đô thị, đồn điền cao su. Qua đó, phong trào đã tập
hợp rất nhiều trí thức, kể cả một số cai, xu, tiến bộ trong các Sở
Cao su tham gia phong trào cách mạng. Đồng chí Nguyễn Văn
Nghĩa (Nghĩa Xược) cùng với đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại)
đi sâu vào vùng cao su, như: Siph, Bình Sơn, An Viễng. Một
số đồng chí khác như: Dương Bạch Mai, Trương Văn Bang,
Huỳnh Văn Lũy, Nguyễn Văn Ký, Hồ Văn Giàu về các vùng
khác nhau của Long Thành - Nhơn Trạch.
64

7.5 Page 65

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân
Pháp lùng sục bắt lính ở Việt Nam đưa ra chiến trường bảo vệ
“Mẫu quốc Đại Pháp”, làm bia đỡ đạn cho chúng. Năm 1940,
phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, tàn ác không kém gì bọn
Pháp. Ở xã Phú Thạnh, lính Nhật lùng bắt người đi làm xâu
xây dựng sân bay, đồn bót. Nhật bắt người trong làng đi xâu ở
tận Bến Gỗ, Hố Nai, rồi còn bắt phu đi vào rừng Cây Khế, Bàu
Lươn, Bàu Cạn chặt gỗ cừ chở về để xây dựng sân bay Nước
Trong. Đi làm xâu đã không có lương, tiền công mà còn phải
đem cơm nhà theo ăn. Quân Nhật còn trưng dụng xe bò, bắt phu
chở vũ khí, lương thực, thực phẩm sang Pắc - xế ở Lào. Khi đi
còn có bò, có xe, khi về thì bò chết, phải bỏ xe lại về tay không,
người dân bị trắng tay bởi chiếc xe bò là cả cơ nghiệp của nông
dân. Pháp bắt lính, Nhật bắt phu, cả Pháp lẫn Nhật đều ra sức
bóc lột, đàn áp khiến người dân chịu cảnh “một ách hai tròng”,
càng khổ sở hơn.
Đời sống người dân Phú Thạnh thời điểm này vô cùng cơ
cực. Hột lúa vùng đất giồng làm ra đã vất vả, lính Nhật còn bắt
dân đóng lúa hương lẫm, số lúa này chúng đem đốt thay cho
than để chạy máy. Không có gạo ăn, người dân phải mót khoai
lang, khoai mì, ăn độn rau cỏ các loại, nạn thiếu đói xuất hiện
ở Phú Thạnh.
Trước đây, người dân vẫn thường trồng bông vải, đánh
thành sợi rồi dệt vải, gọi là vải ta. Người nghèo, người bình
dân mới mặc đồ bằng vải ta vì giá rẻ. Phú Thạnh không trồng
được bông vải, người dân thường mua vật liệu (bông vải, chỉ,
65

7.6 Page 66

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
con cúi) về để tự dệt vải. Đến thời Nhật, chúng cấm không cho
người dân được dệt vải hay mua bán, vận chuyển vải, bông
vải cũng như các vật liệu, thiết bị liên quan. Nguyên nhân là
vì chúng đưa hàng vải dệt từ nước Nhật sang, nên cấm dân dệt
vải để tiêu thụ hàng Nhật. Nếu phát hiện nhà nào có các thứ
“quốc cấm” nói trên, chúng bắt bớ, đốt nhà, tịch thu phương
tiện vận chuyển. Nhưng vải của Nhật nhập khẩu vào Việt Nam
giá rất mắc, nhất là so với thu nhập của người dân nông thôn, vì
thế người dân Phú Thạnh không có tiền mua vải may quần áo.
Nhiều nhà, cả gia đình chỉ có mỗi chiếc quần dài, ai ra ngoài thì
người ở nhà phải nhường quần cho người kia mặc. Nhiều người
phải lấy bao bố, bao tải làm quần áo mặc. Vải bao bố mặc vừa
ngứa, vừa xót, nhưng trong tình thế túng cùng người dân cũng
phải cam chịu. Ăn ở trong hoàn cảnh thiếu vệ sinh nên đã sinh
ra dịch rận. Trong làng trong xóm hầu như ai cũng có rận, trị
hoài không hết. Nhiều nhà trị rận bằng cách lấy cái chai lăn lên
quần áo, rận nổ nghe lụp bụp.
Không chỉ thiếu cơm ăn, áo mặc, mà dầu thắp sáng cũng
không có, vì trong thời kỳ chiến tranh cả Pháp lẫn Nhật đều cần
nhiên liệu phục vụ chiến trường. Người dân Phú Thạnh phải ép
dầu từ hột trái mù u, hoặc trái dừa, lấy dầu thắp đèn. Dầu dừa,
dầu mù u thắp lên chỉ sáng mờ mờ nhưng khói rất nhiều. Tình
cảnh nhân dân cơ cực không sao kể xiết, có người vì quá khổ
đã phải tự tử mà chết để thoát kiếp nghèo.
Ngày 23 tháng 11 năm 1940, khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra ở
một số địa phương. Chủ trương khởi nghĩa bị thực dân phát
66

7.7 Page 67

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
hiện, nhiều đồng chí Trung ương và Xứ ủy bị thực dân Pháp
bắt, nên khởi nghĩa Nam kỳ bị thất bại. Nhiều nơi địch khủng
bố rất ác liệt, phong trào lắng xuống, tổ chức tan vỡ. Cán bộ
một số lớn bị bắt, bị đày, một số phải chuyển vùng lánh đi nơi
khác. Hầu hết các đảng viên về hoạt động ở Biên Hòa phải
chuyển vào hoạt động bí mật nơi khác để tránh sự truy lùng của
địch. Trong lúc đó, tại các đồn điền cao su ở quận Long Thành
phong trào cách mạng tiếp tục phát triển. Được sự bảo vệ của
công nhân, đây là nơi ẩn náu tốt và là chỗ rất thuận lợi cho cán
bộ lánh vào tiếp tục hoạt động. Tháng 9 năm 1942, ở Công ty
cao su Đất Đỏ (sở Bình Sơn), 200 công nhân đã đứng lên đấu
tranh, không về sở ăn cơm chiều, chống tên sếp người Pháp
bắt công nhân làm thêm giờ. Hưởng ứng phong trào của công
nhân Bình Sơn, công nhân các Sở Cao su ở Phú Thạnh như Tân
Tường, Ông Cố cũng tham gia đấu tranh chống cúp phạt, chống
làm thêm giờ.
Chiến tranh thế giới càng ác liệt thì mâu thuẫn giữa phát xít
Nhật và thực dân Pháp ở Đông Dương càng mâu thuẫn gay gắt.
Nhật - Pháp âm mưu lật đổ nhau, Trung ương và Xứ ủy Nam
Bộ nhận định đây là thời cơ thuận tiện cho phong trào cách
mạng quần chúng.
Tháng 3 năm 1943, Xứ ủy Nam Bộ (thuộc hệ thống Giải
phóng) thành lập Ban Cán sự Cao su miền Đông và cử đồng
chí Trịnh Văn Dục (Ba Dục) về hoạt động ở Long Thành, với
nhiệm vụ là đi sâu xây dựng phong trào cách mạng. Lúc đầu,
đồng chí Ba Dục đóng vai người đi bán thuốc lào, lân la vào
67

7.8 Page 68

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
các vùng công nhân ở. Lâu dần, cái tên “thầy Ba thuốc lào” trở
thành quen thuộc của nhiều người. Sau một thời gian đồng chí
Dục kết thân với ông Lê Thành Liêm làm nghề lái xe cho Sở
Cao su Bình Sơn, anh Hai Tốt làm thư ký, anh Ba Tiễu (công
nhân). Thông qua những anh em quen biết, đồng chí Dục đã
nắm được tình hình ở các sở và tạo ra một mối quan hệ rộng rãi
trong công nhân.
Đến tháng 3 năm 1944, đồng chí Lê Minh Định thay mặt
Ban Cán sự miền Đông xuống gặp đồng chí Dục. Cùng đi với
đồng chí Định còn có đồng chí Vũ Hồng (tức Phô) và Lý Trần
Hoan. Đồng chí Định cho biết: Tình hình thế giới đang tiến
triển theo chiều hướng có lợi cho cách mạng và khẳng định
rồi đây đồng minh sẽ đánh bại chủ nghĩa phát xít. Nhật - Pháp
ở Đông Dương thế nào cũng sẽ lật nhau, thời cơ cướp chính
quyền sẽ đến.
Trước tình thế cấp bách, Xứ ủy quyết định phải thành lập
chi bộ để chỉ đạo phong trào địa phương. Đồng chí Định thay
mặt Ban Cán sự miền Đông chỉ định đồng chí Trịnh Văn Dục
làm Bí thư và cử đồng chí Vũ Hồng (tức Phô) và Lý Trần Hoan
hỗ trợ. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên xuất hiện trên đất Long
Thành. Từ đốm lửa nhỏ này đã bùng lên một cao trào đấu tranh
cách mạng rộng lớn. Sau khi chi bộ được thành lập, các đồng
chí đảng viên đã tổ chức mở “Hội tiết kiệm” trong Sở Cao su.
Mỗi hội có từ 10-15 người. Mỗi tháng, mỗi người đóng một
đồng. Số tiền góp được dồn cho một người chủ quản. Người
này có nhiệm vụ tổ chức chi tiêu. Nhờ có hội như vậy nên từng
68

7.9 Page 69

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
công nhân đã tiết kiệm được tiền chi cho những việc lớn. Phong
trào này dần lan rộng trong huyện Long Thành, công nhân các
Sở Cao su Tân Tường, sở Ông Cố ở Phú Thạnh cũng thành lập
các hội tương trợ, hội tiết kiệm như thế. Đây là cơ sở có tổ chức
đầu tiên trong công nhân cao su, tiền đề để các đoàn thể sau
này ra đời.
Từ chỗ thành lập hội, các đồng chí đảng viên đề ra một số
quy định, như để có tiền góp hội thì công nhân không được
đánh bạc, rượu chè, bê tha. Nếu phát hiện hội viên nào còn
rượu chè thì sẽ phê bình, nếu không sửa chữa thì kiên quyết
đưa ra khỏi hội. Nhờ đó nạn cờ bạc, rượu chè ở vùng cao su
giảm đi nhiều. Thông qua công tác tuyên truyền về cách mạng
và những hoạt động cụ thể, các đồng chí đảng viên đã tạo được
uy tín lớn trong quần chúng. Nhiều gia đình có xích mích đều
đến nhờ các đồng chí giải quyết.
Giữa lúc này, Ban Cao su miền Đông tiếp tục cử đồng chí
Lê Đình Cự về tổ chức Liên đoàn Cao su tại Long Thành. Mục
đích việc thành lập Liên đoàn Cao su là để thống nhất trong
việc chỉ đạo và huy động sức mạnh của công nhân. Để chống
lại hành động bắt phu xây dựng các căn cứ quân sự, dùng xe bò
chở vật tư từ Lào, Campuchia về của phát xít Nhật, Liên đoàn
Cao su thành lập “Nghiệp đoàn xe bò” và cử đồng chí Bảy Kỷ
phụ trách. Có sự lãnh đạo của Đảng, anh em công nhân tìm mọi
cách chống lại. Việc làm sân bay của bọn Nhật kéo dài từ tháng
này qua tháng khác, anh em bảo nhau lấy cắp vật tư, lãn công.
Đoàn phu xe bò đi Lào, Campuchia cũng bảo nhau trốn, không
phục vụ.
69

7.10 Page 70

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công nhân nổi dậy đấu tranh
mạnh mẽ. Ở đồn điền Bình Sơn, An Viễng gần 500 công nhân
biểu tình kéo ra quận lỵ gặp quận Phục đấu tranh đòi “cấm
đánh đập, cấm cúp lương”. Ở Phú Thạnh, do các đồn điền cao
su thuộc loại nhỏ và vừa, công nhân ít hơn nên phong trào đấu
tranh không quy mô rầm rộ, nhưng từ khí thế của công nhân
Bình Sơn, An Viễng, công nhân Sở Cao su Tân Tường cũng
tham gia đấu tranh đòi cấm đánh đập và cúp phạt lương.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, hệ thống chính
quyền Pháp lọt vào tay phát xít Nhật. Những tên chủ Tây người
Pháp bị Nhật bắt, kẻ bỏ trốn về Sài Gòn, kẻ khác thì trốn vào
rừng. Nhiều Sở Cao su lúc này thực sự do người của ta làm
chủ. Ở các xã, ban hội tề tan rã. Chính phủ Trần Trọng Kim do
Nhật dựng lên được mấy tháng cũng sụp đổ. Ở Long Thành,
quận Phục phải đổi đi nơi khác. Quận Hội về thay, chưa sắp
xếp xong tổ chức thì chính phủ Trần Trọng Kim đã đổ. Trong
lúc đó, phong trào đấu tranh của quần chúng nổi lên khắp nơi
trong quận.
Tháng 5/1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong1 được tổ
chức ở Long Thành và phát triển rất mạnh, do thầy giáo Chỏi
lãnh đạo. Chi bộ Đảng cử đồng chí Liêm, đồng chí Châu vào
1  Tổ chức Thanh niên Tiền phong ra đời ở Sài Gòn ngày 1 tháng 7 năm 1945,
sau đó nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh Nam kỳ. Đây là tổ chức tập hợp thanh
niên yêu nước, tiền thân của tổ chức Thanh niên cứu quốc sau này, lấy đoàn kỳ là
cờ vàng sao đỏ, đoàn ca là bài hát “Lên đàng” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Tại
Biên Hòa, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong là Huỳnh Thiện Nghệ.
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
cùng làm việc với thầy giáo Chỏi để nắm lực lượng. Ở các Sở
Cao su gọi là Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp. Các xã ven
đường quốc lộ, tỉnh lộ 17, tỉnh lộ 19 nơi nào cũng có trụ sở của
Thanh niên Tiền phong với cờ vàng sao đỏ. Trên các ngã đường
từng đội Thanh niên Tiền phong đầu đội mũ ca lô, tay cầm gậy
tầm vông, vai đeo cuộn dây thừng tết bằng sợi dừa, tập luyện
võ thuật, bảo vệ cơ sở và nhân dân.
Ở Phú Thạnh, phong trào Thanh niên Tiền phong cũng rất
sôi nổi. Người vận động, kêu gọi thành lập đội là Đặng Văn
Nữ1, còn có bí danh là Lý Thiết Đầu (con của ông Đặng Văn
Phụng và bà Đinh Thị Tỵ2, cũng là người ở trong làng). Anh Nữ
được đi học ở Sài Gòn, sớm tiếp cận với với các phong trào đấu
tranh của thanh niên, nhất là Thanh niên Tiền phong, nên đã
vận động thanh niên của xã thành lập đội, tập hợp được gần 20
thanh niên trong làng tham gia, như các ông: Trương Văn Bội,
Nguyễn Văn Cậy, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Văn Liềm, Đặng
Văn Ngưu (bí danh Đặng Văn Nghĩa, em ruột của Đặng Văn
Nữ)... Đội trưởng đội Thanh niên Tiền phong là ông Trưng. Đội
không có súng ống, chỉ vác tầm vông vạt nhọn, vai đeo cuộn
dây thừng, ban ngày tập luyện quân sự, ban đêm tập võ nghệ,
khí thế rất hăng say. Trụ sở Thanh niên Tiền phong được đặt ở
chùa Bà Sáu (nay không còn), còn được gọi là hội quán. Thanh
niên Tiền phong cũng như hầu hết người trong làng lúc ấy chưa
1  Theo lời kể của ông Phạm Văn Đạm, cán bộ lão thành cách mạng xã Phú
Thạnh.
2  Sau này được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
71

8.2 Page 72

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hề biết cách mạng là gì, chỉ là vì bao đời bị thực dân phong kiến
bóc lột dã man, chèn ép quá uất ức, nghe tập luyện để đánh Tây
đuổi Nhật, bài phong kiến thì ai cũng hăng hái tham gia.
Tình hình thế giới lúc này có nhiều thuận lợi cho phong trào
cách mạng. Hồng quân Liên Xô đánh bại phát xít Đức1. Bọn
giặc Nhật ở Đông Dương lâm vào thời kỳ hoảng loạn. Lợi dụng
lúc địch đang hoang mang dao động, chi bộ liền chỉ đạo người
dân tìm cách giữ lấy súng, máy móc của chủ Tây.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng
đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương nhiều
tên tự sát, một số bỏ trốn, số còn lại chờ ngày nộp súng.
Thời gian quyết định đã đến. Ngày 16 tháng 8 năm 1945,
Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào, bầu ra Ủy ban Dân tộc giải
phóng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và ra lệnh tổng khởi
nghĩa.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hà Nội giành chính quyền.
Ngày 21 tháng 8 năm 1945, tại Long Thành, đồng chí Trịnh
Văn Dục giao nhiệm vụ cho các đồng chí trong chi bộ chuẩn bị
khởi nghĩa.
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, đồng chí Trịnh Văn Dục xin ý
kiến chỉ đạo của cấp trên trở về. Một cuộc họp khẩn cấp được
triệu tập gồm các đồng chí trong chi bộ. Tại cuộc họp, đồng chí
Trịnh Văn Dục đọc chỉ thị của Ủy ban Trung ương ra lệnh cho
1  Hồng quân Liên Xô phá tan phát xít Đức, Hít-le tự tử ở hầm ngầm vào chiều
ngày 01/5/1945. Quân đội Đức đầu hàng vô điều kiện.
72

8.3 Page 73

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
các nơi nhanh chóng cướp chính quyền và thiết lập trật tự ở địa
phương. Sau đó, hội nghị phân công từng đồng chí phụ trách
từng khu vực. Mọi người phấn khởi vì giờ mong đợi đã đến.
Đến 4 giờ chiều cùng ngày, một sự kiện xảy ra mà không
ai ngờ tới. Chín Lợi - đạo trưởng giáo phái Cao Đài tại huyện
Long Thành cùng 200 tên tay chân, có vũ khí, ùa vào quận lỵ,
“thừa gió bẻ măng” lén lút, bàn định với nhau đề nghị quận Hội
giao chính quyền cho bọn này. Thấy hành động này nguy hiểm,
gây bất lợi cho phong trào cách mạng, đồng chí Trịnh Văn Dục
liền thông báo cho tất cả các lực lượng vẫn tiến hành như kế
hoạch, đồng thời vạch rõ việc làm của Chín Lợi là âm mưu của
địch.
6 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1945, các đội Thanh niên
Tiền phong nòng cốt từ các làng, xã thuộc quận Long Thành
đã có mặt làm nhiệm vụ, canh gác ở các ngã đường trên quốc
lộ, tỉnh lộ. Ở xã Phú Thạnh, lực lượng Thanh niên Tiền phong
canh gác dọc theo tỉnh lộ 17 để đảm bảo an toàn cho người dân.
Tuy lực lượng chỉ có tầm vông vạt nhọn và vài cây mác thô sơ,
nhưng gần một trung đội lính Nhật đóng ở Thành Tuy Hạ vẫn
án binh bất động, không dám ho he.
Đến 7 giờ 30 phút, đồng bào từ các xã, trong đó có cả người
dân ở xã Phú Thạnh tiến vào thị trấn Long Thành. Đến 9 giờ, thị
trấn Long Thành như sôi lên trong biển người, cờ đỏ sao vàng,
tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu vang lên dậy đất. Đúng 10 giờ, gần
400 anh em trong lực lượng xung phong có vũ khí, chia làm
73

8.4 Page 74

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hai cánh kéo vào dinh quận. Tiếp đó, Ban khởi nghĩa gồm 19
người do đồng chí Trịnh Văn Dục dẫn đầu tiến vào văn phòng
quận trưởng. Lực lượng của địch lúc này chỉ còn 11 tên lính do
đội Giám chỉ huy, có vũ khí, nhưng trước khí thế của người dân
Long Thành, bọn chúng đứng ngơ ngác không dám chống cự.
Trong dinh quận trưởng, Chín Lợi cùng quận Hội ngồi bên
nhau, mặt mày xám ngắt, im lặng. Đồng chí Trịnh Văn Dục
nhân danh chính quyền cách mạng tuyên bố: “Kể từ giờ phút
này, chính quyền cũ phải chấm dứt hoạt động từ huyện đến xã.
Chính quyền cách mạng đại diện cho quyền lợi của nhân dân
trong huyện bắt đầu làm việc. Quận trưởng thay mặt chế độ cũ
phải giao toàn bộ hồ sơ, sổ sách, kho tàng, vũ khí, thả hết các
phạm nhân. Cách mạng là sự nghiệp của mọi người, sẵn sàng
khoan hồng cho tất cả những ai đã trót tham gia chế độ cũ”. Sau
lời tuyên bố của đồng chí Dục, hàng ngàn người nhất loạt hô
vang: “Việt Nam độc lập muôn năm. Chính quyền cách mạng
muôn năm”.
Quận Hội run rẩy, vội vã từ chức và bàn giao hết hồ sơ sổ
sách, kho tàng, vũ khí. Trong lúc đó, Chín Lợi mặt như chàm
đổ, hổ thẹn, ra hiệu cho tay chân lẻn ra sau nhà rồi trốn mất.
Sau khi giành được chính quyền, một cuộc mít tinh lớn
đuợc tổ chức với hơn 3.000 người tham dự. Trong buổi mít
tinh, đồng chí Trịnh Văn Dục thay mặt Ban khởi nghĩa tuyên
bố: “Kể từ giờ phút này chính quyền cũ bị xóa bỏ. Chính quyền
cách mạng huyện đại diện cho giai cấp công nhân, nông dân
74

8.5 Page 75

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trong huyện ra đời. Kể từ nay nam nữ bình quyền, người dân
sống bình đẳng, mọi người sống hạnh phúc”. Sau đó đồng chí
giới thiệu Ủy ban cách mạng lâm thời ra mắt đồng bào. Ủy ban
cách mạng lâm thời do đồng chí Trịnh Văn Dục là Chủ tịch,
ông Võ Văn Truyện là Phó Chủ tịch.
Giữa lúc ấy, phái đoàn cán bộ đại diện cho Xứ ủy miền
Đông là các đồng chí Dương Bạch Mai, Đào Duy Kỳ, Hà Huy
Giáp cũng về kịp để dự buổi lễ. Một cuộc họp gấp, gồm các
đồng chí đảng viên dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy đã bầu Huyện
ủy bằng cách giơ tay lấy biểu quyết. Kết quả, đồng chí Trịnh
Văn Dục được bầu làm Bí thư, đồng chí Vũ Hồng Phô làm Phó
Bí thư, đồng chí Trương Văn Kỷ làm Ủy viên Thường vụ, các
đồng chí Nguyễn Văn Phú, Lê Thành Liêm làm ủy viên.
Đến 17 giờ, cuộc mít tinh bế mạc. Tiếng hát, tiếng trống
vang lên không dứt, ca ngợi ngày đất nước được tự do, người
dân được hạnh phúc.
Tin “Việt Minh đã cướp chính quyền ở quận lỵ” theo chân
những đoàn biểu tình từ thị trấn trở về, như một luồng gió thổi
rất nhanh tới tất cả các xóm ấp. Mặc dù chưa thật hiểu nhiều về
Việt Minh, cộng sản, nhưng người dân xã Phú Thạnh rất náo
nức vui sướng khi Pháp, Nhật đều bị đánh đuổi. Một luồng gió
mới bao trùm, lan tỏa đến từng người dân trong xã, mọi người
đều tin rằng cuộc đời cực nhục đã qua.
Đội Thanh niên Tiền phong xã Phú Thạnh mang cờ đỏ sao
vàng, cờ vàng sao đỏ kéo tới nhà làng là nơi làm việc của hội tề
75

8.6 Page 76

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
xã (đặt ở Sở Cao su Tân Tường), công bố chính quyền từ nay
thuộc về cách mạng, về nhân dân. Tiếp đến, người dân trong
làng cũng kéo đến chật kín nhà làng, hô to khẩu hiệu: “Việt
Nam độc lập muôn năm”. Hương chức, hội tề xã Phú Thạnh
đem sổ sách bàn giao cho chính quyền cách mạng, rồi tự giải
tán. Ngày 24 tháng 8 năm 1945, chính quyền xã Phú Thạnh
chính thức về tay nhân dân. Ông Nguyễn Văn Dễ (Tư Dễ)1,
một nông dân có uy tín trong làng được nhân dân Phú Thạnh
tín nhiệm bầu là Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời xã Phú
Thạnh. Đây là vị Chủ tịch đầu tiên của xã Phú Thạnh độc lập,
tự do, do chính người dân bầu ra.
Cũng trong ngày này, chính quyền của toàn bộ 21 xã thuộc
huyện Long Thành đã về tay nhân dân. Mờ sáng ngày 25 tháng
8, khắp các lộ 25, lộ 15, lộ 17 và lộ 19 nườm nượp những người
giương cao cờ đỏ sao vàng và gậy tầm vông. Tiếng hô khẩu hiệu
ầm vang, phá tan bầu không khí vốn rất yên tĩnh của buổi sáng
nông thôn. Thực hiện chủ trương của Ủy ban cách mạng lâm
thời huyện, dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh và Thanh
niên Tiền phong, hàng ngàn công nhân, nông dân các xã Bình
Sơn, Phước Lộc, Thanh Nguyên, An Lợi, Phước Thiền, Phú
Hội, Long Tân, Phước An, Phú Thạnh hăng hái xung phong lên
Sài Gòn, Biên Hòa tham gia tuần hành cướp chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám ở Long Thành, trong đó có xã Phú
Thạnh giành thắng lợi sớm nhất trong tỉnh Biên Hòa. Đó là
1  Hy sinh năm 1952.
76

8.7 Page 77

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
thành quả trong lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng phong trào của
Đảng; là kết quả của việc phát huy truyền thống đấu tranh của
nhân dân địa phương, đặc biệt là đội ngũ công nhân cao su.
Cách mạng Tháng Tám 1945 chấm dứt 84 năm nô lệ tủi
nhục của người dân mất nước dưới ách thực dân nửa phong
kiến, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc nói chung, nhân
dân xã Phú Thạnh nói riêng. Kể từ đây, đất nước ta thoát khỏi
ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Người dân Việt Nam cũng
như xã Phú Thạnh đã trở thành người dân tự do của một nước
độc lập. Một thời đại mới bắt đầu từ đây.
Một khí thế hừng hực cách mạng, sôi động và hào hứng
bao trùm cả xã Phú Thạnh trong những ngày đầu cách mạng
thành công, khuấy động tới tất cả những xóm ấp xa xôi, hẻo
lánh, vốn xưa nay vẫn quen sống trong không khí ảm đạm, yên
phận và nhẫn nhục. Ngày và đêm, nhiều người bỏ cả đi làm,
tập trung tới nhà làng, trụ sở xã, ấp bàn tán, nghe nói chuyện
về Việt Minh.
Sự kiện thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ năm 1859 tạo một
bước ngoặt trong đời sống của người dân Phú Thạnh nói riêng
và người dân Nam Bộ nói chung, chuyển từ cuộc sống an bình
sang đời sống đấu tranh chống thực dân. Khi triều đình Huế
ký hiệp ước dâng 3 tỉnh miền Đông, rồi cả Nam kỳ lục tỉnh cho
thực dân Pháp, lòng dân hướng theo cờ nghĩa, như của nghĩa
quân Trương Định, của các hội kín như Thiên Địa hội, tìm mọi
cách tham gia vào các cuộc vũ trang chống quân xâm lược
77

8.8 Page 78

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Pháp. Nhiều người đã thầm lặng hy sinh (ông tướng họ Mai, họ
Lê...). Đến khi các cuộc khởi nghĩa vũ trang bị dập tắt nhưng
lòng dân không tắt, vẫn âm ỉ mong chờ.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mang đến
luồng gió mới, phương pháp đấu tranh mới, lòng yêu nước của
người dân Phú Thạnh được thổi bùng lên, cùng với cả nước
vùng dậy theo Đảng chống thực dân Pháp, lập nên nhiều thành
tích.
Khi thực dân Pháp xây dựng Thành Tuy Hạ ở Phú Thạnh để
làm căn cứ địa cho bộ máy cai trị, thì những hạt giống cộng sản
của Đảng cũng được gieo cấy vào lòng dân Phú Thạnh, dấy lên
phong trào cách mạng mạnh mẽ.
Đến năm 1945, người dân xã Phú Thạnh đã tham gia cướp
chính quyền, xóa bỏ gông xiềng, đổi đời, hưởng không khí độc
lập, tự do.
78

8.9 Page 79

▲back to top


Chương III
KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1946 - 1954)
Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Long Thành, trực tiếp là
đồng chí Ba Dục, Sáu Phô, cuộc vận động thành lập Mặt trận
Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc ở huyện, xã được tiến hành
trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Đến cuối tháng 9 năm 1945,
các đoàn thể ở xã Phú Thạnh đều thành lập xong. Mỗi đoàn thể
có Ban Chấp hành từ 5-7 người, hội viên tham gia rất đông.
Người dân trong xã hầu như ai cũng tham gia các đoàn thể. Nhờ
đó, phong trào tăng gia sản xuất đóng góp giúp đỡ kháng chiến
trong toàn xã được đẩy mạnh.
Song song đó, theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy, xã
Phú Thạnh bắt tay vào việc xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn
sàng kháng chiến. Đội dân quân xã nhanh chóng được thành
lập, có từ 30-36 người. 3 ấp của xã cũng thành lập đội dân quân
ấp có từ 10-20 người, các đội dân quân đặt dưới quyền chỉ huy
trực tiếp của Ủy ban lâm thời xã. Ngoài ra, các đội dân quân
còn thành lập tổ giao liên để đưa tin tức, do anh Hai Đông, con
của ông Năm Giỏi phụ trách.
79

8.10 Page 80

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Ban đầu, các đội dân quân của xã Phú Thạnh chưa có vũ
khí, hầu hết đều chỉ có tầm vông vạt nhọn. Ông Năm Giỏi đã
giao lại cho đội một số súng do Ban hội tề giao nộp lúc Tổng
khởi nghĩa thành công. Ngoài ra, anh em trong đội còn tìm cách
trao đổi lương thực để lấy vũ khí với lính Nhật. Nước Nhật thua
trận, tâm lý lính Nhật rất hoang mang, dao động, anh em thanh
niên cứu quốc lợi dụng tâm trạng thất trận của binh sĩ Nhật và
khó khăn về kinh tế vì bị ta bãi thị để buộc chúng bán hoặc đổi
vũ khí cho ta. Ở căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ, sau Tổng khởi
nghĩa lính Nhật vẫn ở trong trại, nhưng ta đặt trạm gác phía bên
ngoài. Mỗi lần lính Nhật muốn đi qua trạm gác, phải đổi đạn
dược, lựu đạn, có khi cả súng, nên dần dần trang bị của Đội Dân
quân xã Phú Thạnh khá đầy đủ so với một số địa phương khác.
Vũ khí chất đầy kho ở Sở Ngựa1, đội đã chuyển bớt cho huyện.
Đội còn được đồng chí Đào Sơn Tây ở Ủy ban cách mạng lâm
thời huyện Long Thành cấp cho 2 con lừa để vận chuyển vũ
khí.
Trên địa bàn Phú Thạnh lúc bấy giờ xuất hiện Ban Đồng
Nai - một đơn vị về tổ chức tương tự như Đoàn Thanh niên Tiền
phong, tập hợp gần 200 công nhân cao su sở Ba Lăng Xi và
công nhân Sở Cao su Thành Tuy Hạ, do Nguyễn Văn Đọt (Ba
Đọt) phụ trách, thường gọi là “thủ lãnh Đọt”. Ban Đồng Nai
cũng xây dựng lực lượng vũ trang tập trung gồm 20 người với
7 khẩu súng. Ban Đồng Nai và lực lượng vũ trang của Ban tuy
1  Nơi Pháp nuôi ngựa để cưỡi trong khu vực Thành Tuy Hạ và các vùng lân cận.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
là người Long Thành, hoạt động trên đất Phú Thạnh nhưng lại
không quan hệ gì với phong trào cách mạng tại xã Phú Thạnh
cũng như Huyện ủy và Ủy ban lâm thời quận Long Thành, mà
nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Ủy ban kháng chiến Nam Bộ ở Sài
Gòn. Ban Đồng Nai thường sinh hoạt ở nhà của ông Võ Văn
Nhu, có lúc vũ khí của Ban Đồng Nai chất đầy cả nhà liêu của
gia đình1.
Có một câu chuyện bắn cọp khá thú vị của thủ lĩnh Ba Đọt
và Ban Đồng Nai trên đất Phú Thạnh. Khoảng cuối năm 1945,
có lần cọp mò vào nhà ông Võ Văn Nhu. Cũng may mắn là vừa
vào nhà, cọp chỉ lo vồ con chó nên ông Nhu có cơ hội chạy ra
ngoài cầu cứu, và may mắn nữa là gặp lúc thủ lĩnh Ba Đọt vừa
đi công tác về. Ngay lập tức, Ba Đọt cùng vài anh em đội viên
xách súng chạy đến nhà ông Nhu. Con chó nhà ông Nhu là
giống chó săn, rất lanh lẹn, vẫn còn đang chống cự lại với con
cọp dù đã bị thương. Thủ lĩnh Ba Đọt giơ khẩu súng lục nhắm
ngay con cọp nã đạn, mấy anh em đội viên có súng cũng nhắm
bắn theo. Nhiều người cùng bắn một lúc, con cọp trúng đạn,
giãy giụa rồi chết tại chỗ, nhưng do vết đạn trổ quá nhiều nên
bộ da cọp không còn nguyên vẹn, không giữ lại được. Thủ lĩnh
Ba Đọt chỉ giữ lại chiếc nanh cọp làm kỷ niệm. Ông Nhu một
phen hú vía, chú chó dũng cảm dù bị thương nặng nhưng may
mắn vẫn còn sống.
1  Theo lời kể của ông Võ Văn Anh, cháu nội của ông Võ Văn Nhu.
81

9.2 Page 82

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Giữa tháng 9 năm 1945, theo lệnh của Đồng Minh, quân
Nhật ở Thành Tuy Hạ đã giao lại kho đạn cho thực dân Pháp
quản lý. Buổi sáng ngày 20 tháng 9, từ Sài Gòn có 2 xuồng
máy, mỗi xuồng chở 3 tên Pháp ngược sông Sâu vào Thành
Tuy Hạ. Được tin, anh em trong đội vũ trang của Ban Đồng Nai
phục kích chặn đường về của chúng. Gần 3 giờ chiều, hai chiếc
xuồng máy quay trở lại. Đợi cho chúng lọt vào trận địa, chiến sĩ
Ban Đồng Nai đồng loạt nổ súng. Bọn Pháp hoảng sợ chui hết
vào khoang thuyền, tăng ga cho tàu chạy thục mạng. Hôm sau,
chúng đưa một đại đội về bảo vệ việc tiếp quản kho, nhưng nhà
máy chế biến mủ ở Thành Tuy Hạ đã bị Cảm tử quân của Ban
Đồng Nai phá trong đêm đó.
Tiếng súng trên sông Sâu ngày 20 tháng 9 là câu trả lời
đanh thép của nhân dân Long Thành, trong đó có xã Phú Thạnh
đối với bọn thực dân Pháp xâm lược, thể hiện tinh thần quyết
tâm chiến đấu bảo vệ quê hương.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn
ở Sài Gòn. Nhân dân Sài Gòn, Gia Định đứng lên kháng chiến,
mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn Nam Bộ.
Ngay trong đêm 23 tháng 9 năm 1945, hội nghị cán bộ toàn
tỉnh Biên Hòa được tổ chức tại nhà hội Bình Trước, do đồng
chí Hà Huy Giáp, Xứ ủy viên chủ trì. Hội nghị đã chủ trương
xây dựng Trường huấn luyện du kích Vĩnh Cửu nhằm đào tạo
cán bộ quân sự cho tỉnh, đồng thời chủ trương tiến hành “tiêu
thổ kháng chiến” và nhiều biện pháp để chuẩn bị kháng chiến.
82

9.3 Page 83

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đồng chí Trần Công Khanh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy lâm
thời, Hoàng Minh Châu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh.
Tại Long Thành lúc bấy giờ hừng hực khí thế sẵn sàng
chiến đấu. Ở xã Phú Thạnh, ngày nào cũng vậy, từ sáng sớm tới
xẩm tối lúc nào cũng vang dậy tiếng bước chân đi đều, tiếng hô
“Một! Hai!của các chiến sĩ Cộng hòa vệ binh. Anh em tập đội
ngũ, tập tháo ráp, sử dụng súng, tập các động tác cơ bản trong
chiến đấu, tập võ thuật, đánh dao, bắn súng...
Để tăng cường sức mạnh quân sự, thống nhất các lực lượng
vũ trang, Huyện ủy đã cử các đồng chí Trương Minh Ký,
Nguyễn Văn Lược đến Ban Đồng Nai, vận động đồng chí Ba
Đọt hợp nhất lực lượng của mình với lực lượng Cộng hòa vệ
binh của Long Thành. Đến cuối tháng 10, toàn bộ lực lượng vũ
trang của Ban Đồng Nai đã sát nhập về huyện.
Cũng trong những ngày cuối tháng 10, sau khi mặt trận Sài
Gòn tan vỡ, các lực lượng vũ trang kháng chiến trong nội thành
lần lượt rút về các vùng nông thôn để bảo toàn lực lượng, chiến
đấu lâu dài. Từ mặt trận số 4 Sài Gòn, theo lệnh của Tư lệnh
Bình Xuyên Dương Văn Dương, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên
kéo về đóng quân khắp dải rừng sác, Long Thành, từ Bà Trao
đến Phước An, từ Thái Thiện đến Tam An. Chỉ trong thời gian
chưa đầy nửa tháng, trên địa bàn huyện đã có thêm hơn 2.000
cán bộ, chiến sĩ và được trang bị một số lượng lớn máy móc cho
công binh xưởng các đơn vị.
83

9.4 Page 84

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Thời điểm này, chính quyền cách mạng còn non trẻ ở quận
Long Thành phải đối mặt với nhiều khó khăn. Bên ngoài, thực
dân Pháp chuẩn bị tấn công tái chiếm Long Thành. Bên trong,
vừa phải lo củng cố bộ máy tổ chức, chính quyền, vừa lo ổn
định các vấn đề liên quan chính sách, ổn định đời sống nhân
dân. Ở 8 xã của quận Long Thành, gồm: Phú Hữu, Phú Thạnh,
Đại Phước, Long Tân, Tam An, Tam Phước, Phước Nguyên,
Long Phước, chính quyền cách mạng đã tiến hành tạm cấp
khoảng 1.000 hecta ruộng của chủ đất vắng mặt, chủ điền lớn
hoặc bọn phản động, cho nhiều gia đình nông dân nghèo không
ruộng hoặc ít ruộng. Chính quyền cách mạng cũng vận động
một số chủ điền thực hiện giảm tô 25%, hủy nợ lưu khối (nợ từ
lâu không trả nổi) cho hàng ngàn người nghèo. Chính sách này
thể hiện sự quan tâm đến đời sống của tầng lớp nông dân nghèo
của chính quyền cách mạng dù đang trong thời điểm rất nhiều
khó khăn, nông dân nghèo rất phấn khởi, càng đồng tình ủng
hộ cách mạng. Có ruộng, người dân ra sức cày cấy, đóng góp
lương thực để kháng chiến chống Pháp. Tại xã Phú Thạnh, Ủy
ban cách mạng lâm thời xã tạm cấp cho người nghèo gần 300
mẫu đất ruộng của địa chủ Trịnh Thị Dung ở Cù lao Ông Cồn,
khiến người dân vô cùng phấn khởi. Thông qua Hội Nông dân
xã (tên gọi lúc bấy giờ là Nông hội), đầu năm 1946 người dân
Phú Thạnh đóng góp cho địa phương gần 100 tấn lúa.
Phong trào xóa mù chữ diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở Phú
Thạnh trong thời gian này. Ở 3 ấp của xã, ấp nào cũng mở các
điểm dạy cho người dân học tập. Các anh Đặng Văn Nữ, Đặng
84

9.5 Page 85

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Văn Ngưu là người đi đầu trong phong trào xóa mù chữ cho
người dân Phú Thạnh. Buổi tối, người dân trong xã từ già đến
trẻ rủ nhau đến lớp, chăm chỉ học tập, không khí rất vui vẻ. Các
đội thanh niên, phụ nữ còn tổ chức biểu diễn văn nghệ. Một làn
gió mới dường như thổi qua khắp làng, người dân ai cũng phấn
khởi, hăng hái tham gia xây dựng chính quyền, quê hương.
Vào lúc 1 giờ đêm ngày 11 tháng 11 năm 1945, tại Phước
Kiển, lính Nhật từ trước đến nay vẫn án binh bất động, đột
nhiên bất ngờ tổ chức bắt cóc đồng chí Bí thư Huyện ủy Trịnh
Văn Dục và Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc Đỗ Hữu Phú. Đây là
động thái gây hấn với chính quyền cách mạng.
Sáng ngày 12, Huyện ủy Long Thành tổ chức một cuộc họp
khẩn cấp do đồng chí Vũ Hồng (tức Phô) chủ trì, quyết định tổ
chức biểu tình toàn huyện đòi Nhật phải trả hai đồng chí Dục và
Phú. Sau cuộc họp, cán bộ tỏa ngay về các xã, vận động người
dân tham gia biểu tình. Trước sự trở mặt trắng trợn của bọn
Nhật, người dân Long Thành ai cũng phẫn nộ.
Mờ sáng ngày 13 tháng 11 năm 1945, khắp các ngã đường
trong huyện đã rầm rập những bước chân người. Hơn 4.000
công nhân cao su Bình Sơn - An Viễng và đồng bào Lộc An
theo lộ 25 đi ra. Gần 5.000 người thuộc các xã dọc lộ 15 từ Thái
Thiện, Tuy Long, Long An dồn lên, từ Bến Gỗ, Phước Tân,
Tam Phước, An Lợi, Tam An, Thanh Nguyên dồn xuống. Hơn
5.000 đồng bào Ông Kèo, Phước An, Phước Hiệp, Phước Lai,
Phước Kiển theo lộ 19, Phước Thành, Long Tân, Phú Thạnh,
85

9.6 Page 86

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Mỹ Hội cũng theo tỉnh lộ 17 về Phước Thiền rồi tiến thẳng vào
thị trấn. Xã nào cũng có đoàn tham gia biểu tình, có cán bộ xã
tổ chức hướng dẫn. Ngay cả Phước Khánh xa xôi, hàng trăm
đồng bào cũng theo ghe tập trung ở Phú Hữu, Phước Thành từ
chiều hôm trước để cùng đi. Những dòng người nối tiếp nhau
như nước chảy cuồn cuộn đổ cả về thị trấn. Từ vườn thơm sở
Siph tới ngã ba Cầu Xéo đâu đâu cũng chỉ thấy người và cờ,
đông chật quốc lộ 15, tràn sang bờ bãi hai bên đường và lô cao
su. Một biển người đủ mọi sắc màu, công nhân, nông nhân,
tiểu thương, viên chức, Phật tử, Linh mục... dưới một rừng gậy
tầm vông, giáo, mác. Cờ đỏ phất phới bay. Thấp thoáng đây đó
những biểu ngữ viết bằng vôi trắng trên đệm cót. Tiếng hô khẩu
hiệu của hàng chục ngàn người vang dội khắp nơi, ầm ầm dồn
lên như sóng cồn: “Đả đảo phát xít Nhật bắt người”, “đả đảo
phát xít Nhật”, “Đả đảo thực dân Pháp xâm lược”, “Việt Nam
độc lập muôn năm”.
Để đối phó với cuộc biểu tình, bọn Nhật vội vã đưa quân
chặn các ngã đường vào Siph. Ở huyện lỵ, chúng cho một trung
đội giăng ngang đường từ nhà hội sang chợ cũ, súng ống lăm
lăm trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Những đoàn người đầu
tiên tới đây chựng lại một lúc, nhưng sau đó lại tiếp tục tiến tới.
Chị Năm dẫn đầu đoàn Phước Kiển xông thẳng vào đội hình
của lính Nhật. Bọn lính dùng súng cản lại. Chị giằng súng, hô
bà con tiến lên. Thanh niên cứu quốc tràn tới giành giật, quần
nhau với lính cản đường. Các đoàn biểu tình rùng rùng càn qua,
buộc địch phải dạt sang bên.
86

9.7 Page 87

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Lấy cớ đã giải hai đồng chí Trịnh Văn Dục và Đỗ Hữu Phú
về tỉnh Biên Hòa, bọn Nhật thoái thác việc trả người. Nhưng
bằng cuộc biểu tình quy mô lớn lên đến 15.000 người, người
dân Long Thành - Nhơn Trạch trong đó có người dân Phú
Thạnh, đã thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết, tinh thần hướng
về cách mạng, buộc kẻ thù phải kiêng nể.
Đồng chí Bí thư Huyện ủy bị địch bắt là một tổn thất lớn
của cách mạng Long Thành. Ngay sau đó, thực hiện phương
châm sách lược của Trung ương: “Đảng Cộng sản Đông Dương
tuyên bố tự giải tán”, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí
mật1. Theo chỉ thị của trên, Đảng bộ Long Thành không còn
tổ chức sinh hoạt, lại thêm một khó khăn mới. Nhưng với tinh
thần của người cộng sản, các đảng viên vẫn tích cực hoạt động
phát huy vai trò của Mặt trận Việt Minh các cấp, lãnh đạo, đi
sâu vào cơ sở vận động quần chúng. Nhờ vậy phong trào kháng
chiến trong huyện vẫn phát triển mạnh mẽ. Xã Phú Thạnh thời
điểm đó chưa có đảng viên là người tại chỗ, chi bộ Đảng địa
phương chưa có nên chủ trương này không ảnh hưởng đến tổ
chức cơ sở Đảng, nhưng cũng gây hoang mang, dao động trong
quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, sự tích cực hoạt động của Mặt
trận Việt Minh tại xã đã nhanh chóng giúp người dân củng cố
tinh thần, sẵn sàng cho công tác kháng chiến.
1  Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày
25/11/1945 (Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - trích văn kiện tập II - Nxb. Sách
giáo khoa Mác - Lênin - trang 14).
87

9.8 Page 88

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Sang đầu năm 1946, tình hình ngày càng căng thẳng. Thực
dân Pháp ráo riết tiến chiếm Biên Hòa, đánh lan rộng khắp nơi,
tiếng súng nổ từ phía Biên Hòa ngày càng gần. Trong tình thế
ấy, ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa I tại Long Thành vẫn được tiến hành long trọng và náo
nhiệt như một ngày hội lớn. Tại xã Phú Thạnh, có đến 90% cử
tri đi tham gia bầu cử. Mặt trận, thanh niên tích cực bố trí canh
gác nghiêm ngặt, bảo vệ tốt cuộc bầu cử nên đồng bào rất phấn
khởi.
Từ ngày 20 tháng 1 năm 1946, Pháp liên tiếp mở những
cuộc hành quân thám sát về phía Long Thành. Ngày 23 tháng
1, một đại đội Âu Phi có 2 xe thiết giáp yểm trợ tiến tới Dốc 47.
Tại đây, chúng đụng một đơn vị bộ đội đóng dọc Tam Phước.
Hai bên nổ súng tới gần trưa thì quân Pháp rút.
Mờ sáng ngày 25 tháng 1 năm 1946, đúng vào ngày 23
tháng Chạp Ất Dậu, khi đồng bào khắp nơi đang chuẩn bị bánh
trái cho ngày đưa Táo quân về trời theo tục lệ cổ truyền thì tiếng
súng tấn công của giặc Pháp bắt đầu nổ.
Từ Biên Hòa, một tiểu đoàn Âu Phi có xe tăng mở đường
rầm rộ theo quốc lộ 15 tiến xuống Long Thành. Tàu giặc chạy
dọc theo sông Đồng Nai, đổ quân vào khu vực Tam Phước, Tam
An, Long Điền, Long Tân, Phú Thạnh (qua ngõ căn cứ Thành
Tuy Hạ), đồng thời bắn đại bác lên bờ hỗ trợ cho bộ binh. Từ
Sài Gòn, một tiểu đoàn khác vượt bến phà Cát Lái tấn công
Long Thành ở phía tây. Giặc Pháp đánh vào Long Thành cả từ 3
hướng với ý định nhanh chóng thôn tính địa bàn chiến lược này.
88

9.9 Page 89

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
5 tháng ngắn ngủi sống trong không khí tự do, độc lập đã
chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng non
trẻ, nhân dân huyện Long Thành, trong đó có xã Phú Thạnh
đứng lên đối mặt với kẻ thù.
Ở Dốc 47, quân Pháp từ Biên Hòa xuống lọt vào trận địa
phục kích của bộ đội và dân quân Phước Tân, Tam Phước. Trận
đánh kéo dài tới nửa buổi sáng. Địch đông, vũ khí mạnh, bắn
trả dữ dội rồi tràn qua. Bộ đội cùng dân quân hai xã phải rút
khỏi trận địa, băng qua đồng Long Điền về Bến Cam (Phước
Thiền) chốt lại. Quân Pháp tới An Lợi lại bị chặn đánh. Lực
lượng ta ở đây có một phân đội giải phóng quân Long Thành.
Anh em vừa nổ súng, vừa dùng lựu đạn đánh diệt một số địch.
Nhưng ta không giữ trận địa được lâu vì thiếu đạn, số đạn dược
tích lũy quá ít ỏi không đủ để chống chọi với quân Pháp. Địch
tràn vào An Lợi, Tam An đốt phá.
Gần trưa, quân Pháp chiếm được thị trấn Long Thành, đặt
cối 60 li và 81 li bắn dọc theo quốc lộ 15. Sau đó chúng tiếp tục
tấn công để hợp quân với các cánh khác. Một mũi thẳng lộ 15
đến ấp Bà Ký (xã Long Phước) thì phải cụm lại vì bị ta chặn
đánh suốt từ Long An xuống.
Mũi thứ hai tiến theo phía tây quốc lộ 15 xuống tỉnh lộ
17, nhưng chỉ tới Bến Cam thì phải quay lui, co cụm lại tại xã
Phước Thiền. Trên đoạn đường từ ngã ba Cầu Xéo đến Bến
Cam, quân Pháp đã tổn thất hàng chục tên. Không tiến được,
chúng đặt súng cối tại chợ Phước Thiền bắn liên tục vào các xã
xung quanh. Buổi trưa và buổi chiều, máy bay phóng pháo đến
89

9.10 Page 90

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
ném bom, bắn phá các xã dọc lộ 19. Nhiều đám cháy bùng lên
ở Phước Kiển, Phước Lai, Phước Long.
Cánh quân từ Cát Lái qua chia làm hai mũi. Mũi thứ nhất
theo đường Phước Lý, phối hợp với lực lượng đổ quân ở khu
vực Thành Tuy Hạ tiến đến Long Tân thì đụng đơn vị bộ đội
đóng ở khu vực này. Bộ đội cùng dân quân 3 xã Long Tân,
Phú Thạnh, Phú Hội chặn đánh giặc cả ngày 25 tháng 1. Phụ
nữ xã Phú Thạnh thay phiên nhau chuyển gạo nấu cơm cho bộ
đội, dân quân đánh giặc. Địch chết và bị thương gần một đại
đội, nhưng ta cũng hết đạn. Bộ đội phải cắt rừng về Phước An
trong đêm. Sáng hôm sau quân Pháp tiến tới Phú Hội thì cụm
quân. Mũi thứ hai theo tỉnh lộ 19 tới Xoài Minh bị bộ đội Bình
Xuyên do Dương Văn Dương chỉ huy cùng giải phóng quân
Long Thành chặn đánh. Suốt ngày 25 tháng 1, quân Pháp chỉ
tiến không đầy 10 cây số. Đến sáng 26 tháng 1, chúng phải rút
lui, nhưng một số khu vực xung yếu đã rơi vào tay địch, trong
đó có Phú Thạnh bởi vị trí chiến lược của căn cứ quân sự Thành
Tuy Hạ nên địch quyết tiến chiếm cho bằng được.
Chiều ngày 26 tháng 1, tiếng súng lắng dần. Hai ngày chiến
đấu ác liệt mở đấu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Pháp trên đất Long Thành đã trôi qua. Những người lính cách
mạng lần đầu cầm gươm, cầm súng, trong tay chỉ có vũ khí hết
sức thô sơ và nghèo nàn đã giáng trả kẻ thù một đòn nặng nề:
hơn 100 tên lính Âu Phi bị chết, gần 100 tên khác bị thương.
Nhưng thắng lợi đó cũng phải đổi bằng một giá đắt: 300 đồng
bào, cán bộ chiến sĩ hy sinh, gần 400 người khác bị thương, 20
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
chiếc ghe của liên quân Bình Xuyên bị đánh đắm, ba kho gạo
(mỗi kho 5 tấn) bị cháy. Ở xã Phú Thạnh, khi quân Pháp đổ bộ
vào làng thì một số người dân, trong đó chủ yếu là người già và
trẻ em đã đi tránh nạn, nhưng chúng bộc lộ bộ mặt dã man tàn
ác của quân cướp nước, bắn giết bừa bãi đồng bào vô tội còn ở
lại, đốt cháy cả trăm căn nhà của người dân. Cả làng Phú Thạnh
tan hoang, xơ xác, nhưng lòng người dân thì ngùn ngụt lửa căm
thù. Bọn Pháp cũng bắt bớ một số người dân Phú Thạnh mà
chúng tình nghi, như đồng chí Nguyễn Văn Liềm bị bắt đưa về
giam giữ tại Khám Lớn Biên Hòa 25 ngày, đánh đập tra khảo
đủ các kiểu.
Tại Sở Chỉ huy bộ đội Bình Xuyên ở Phước An, một cuộc
họp gồm các đồng chí lãnh đạo huyện và các đơn vị bộ đội
trong huyện được tổ chức, dưới sự chủ trì của Tư lệnh Dương
Văn Dương. Hội nghị đã đánh giá cao tinh thần chiến đấu và
phục vụ chiến đấu của bộ đội, chính quyền và nhân dân trong
huyện, đồng thời phổ biến lệnh của Khu bộ trưởng Nguyễn
Bình: chuyển một bộ phận bộ đội Bình Xuyên về chiến trường
Bến Tre.
Chấp hành mệnh lệnh của Khu bộ khu 7, sau ngày 26 tháng
1, các đơn vị bộ đội từ các xã dọc đường 15, 17 và 19 lần lượt
rút về Phước An, tổ chức lại lực lượng, tách riêng một bộ phận
trang bị gọn nhẹ lên đường đi Khu 8, dưới sự chỉ huy trực tiếp
của Dương Văn Dương. Bộ đội ra đi trong lúc tình hình đang
căng thẳng, nhưng huyện vẫn đảm bảo cung cấp được 20 ghe
91

10.2 Page 92

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
lớn chở quân, 6 tấn gạo và 20 ngàn đồng Đông Dương cho các
đơn vị chiến đấu.
Trong thời gian này, giặc Pháp bắt đầu củng cố vị trí đóng
quân các nơi chúng mới chiếm được. Tại thị trấn Long Thành,
chúng xây dựng một đồn lớn gọi là chi khu quân sự gồm một
đại đội Âu Phi do tên đại úy Rebone chỉ huy. Chúng đưa Tô
Hàm từ Biên Hòa về làm quận trưởng hành chánh để tổ chức
chính quyền bù nhìn trong huyện. Ở An Lợi, Tam An, Phước
Nguyên, Phước Lý, Phú Thạnh, Phú Hội, Phước Thiền địch đều
đóng bót. Mỗi bót khoảng một trung đội Âu Phi do một thiếu úy
hoặc một trung úy Pháp chỉ huy. Riêng tại Phú Thạnh, do vị trí
hiểm yếu và để bảo vệ kho đạn khu căn cứ Thành Tuy Hạ, địch
đóng bót dày đặc: tua 21, tua 15, tua 1...
Sau khi có chỗ đóng quân, từ thượng tuần tháng 2 năm
1946, địch liên tiếp mở các cuộc hành quân lùng sục ra các
vùng xung quanh cướp phá đồ đạc của dân, lùng bắt cán bộ
Việt Minh, bắt lính và từng bước thành lập bộ máy tề xã nhằm
ổn định khu vực chiếm đóng. Chính quyền kháng chiến non trẻ
tại các xã Phước Tân, Tam An, An Lợi, Phước Nguyên, Phước
Lý, Phú Thạnh và thị trấn Long Thành vừa mới thành lập hầu
như tan rã, chỉ còn một vài đồng chí trung kiên bám trụ. Lực
lượng Bình Xuyên phải chuyển công binh xưởng vào sâu trong
khu Rừng Sác. Một số đơn vị nhỏ vẫn đóng trong khu vực Lòng
Chảo. Các cơ quan huyện cũng rút về các xã dọc lộ 19 từ Phước
Lai đến Phước An.
92

10.3 Page 93

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Trước tình hình đó, huyện vẫn cố gắng duy trì các hoạt
động trong vùng tự do. Lớp Mặt trận Việt Minh ở Phước An
vẫn mở mỗi khóa 7 ngày cho cán bộ các xã và bộ đội. Mặt khác,
huyện chủ trương chia nhỏ một số xã lớn để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc liên lạc và lãnh đạo phong trào cơ sở1. Đồng thời
với việc chia xã, Ủy ban huyện cho đào số súng mà Nguyễn
Tam Nguyên chôn giấu, nhanh chóng tập hợp lại lực lượng giải
phóng quân, giao cho Huỳnh Văn Đạo làm trung đội trưởng,
Nguyễn Văn Lung làm trung đội phó, biên chế thành ba phân
đội. Lực lượng Tự vệ cuộc (tiền thân của lực lượng Công an)
được củng cố lại và tổ chức thêm một công binh xưởng của
ngành tại Phước An.
Tiếp đó, ngày 20 tháng 2 năm 1946, các đồng chí lãnh đạo
huyện tổ chức một cuộc họp tại Phước Long, phân tích tình
hình và quyết định chia địa bàn huyện thành 4 khu2 để thuận
tiện trong việc chỉ đạo, liên lạc. Các khu phân chia như sau:
1  Các xã được phân chia như sau;
- Phước Hiệp chia thành 2 xã Phước Long, Phước Thọ.
- Phước Kiển thành 2 xã Phước Kiển, Phước Mỹ.
- Phú Hữu thành 2 xã Phú Hữu, Phước Thành.
- Phú Hội thành 2 xã Phú Mỹ, Mỹ Hội.
- Long Phước thành 2 xã Tuy Long, Tập Phước.
- Long Điền thuộc Phước Thiền thành 2 xã Long Điền.
- An Hòa do quá xa, khó liên lạc nên giao về quận Châu Thành (thành phố Biên
Hòa ngày nay).
2  “Khu ủy” là tên cơ quan lãnh đạo từng khu vực do huyện tự phân chia trong
năm 1946.
93

10.4 Page 94

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Khu I gồm 7 xã dọc lộ 17 từ Phước Thiền tới Phước Lý,
do đồng chí Trương Minh Kỷ phụ trách. Xã Phú Thạnh thuộc
Khu I.
- Khu II gồm 5 xã dọc lộ 19 từ Phước Kiển tới Phước Thọ,
do đồng chí Huỳnh Văn Đạo và ông Võ Văn Truyện phụ trách.
- Khu III gồm 4 xã thuộc Rừng Sác: Phước An, Phước
Khánh, Phước Thành, Phú Hữu và hai ấp Xoài Minh, Ông Kèo
(thuộc Phước Lý), do đồng chí Trịnh Minh Kính phụ trách.
- Khu IV gồm tất cả các xã dọc đường 15 từ Thái Thiện tới
Phước Tân, kể cả các Sở Cao su do đồng chí Lương Văn Nho
phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo các khu được gọi là Khu ủy. Các Khu ủy
có trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp và toàn diện phong trào kháng
chiến trên địa bàn (và làm cả nhiệm vụ chính quyền cơ sở).
Phương thức hoạt động của Khu ủy được quy định là cơ động,
bám địa bàn, không cần trụ sở. Mỗi tháng các khu trưởng chỉ
tập trung một lần ở Phước An để báo cáo và trao đổi công tác.
Hội nghị Phước Long còn đề ra chủ trương xây dựng và
củng cố lực lượng tự vệ chiến đấu các xã. Giải phóng quân
Long Thành được phân về mỗi khu một phân đội, phối hợp với
Tự vệ cuộc bảo vệ Khu ủy, hỗ trợ xã xây dựng lực lượng để
đánh địch.
Trong hoàn cảnh Long Thành lúc này, việc thành lập các
khu và giao quyền lãnh đạo toàn diện cho Khu ủy là một chủ
trương tình thế phù hợp, đã tạo nên một bước chuyển quan
94

10.5 Page 95

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trọng cho phong trào kháng chiến trong toàn huyện. Không
những các lực lượng phân tán hợp lý tránh được tổn thất, mà
với phương thức hoạt động sáng tạo thông qua các Khu ủy,
huyện đã luôn bám được xã, trực tiếp lãnh đạo từng xã và chủ
động phát huy được thế mạnh từng vùng.
Sự có mặt thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo huyện
và lực lượng giải phóng quân trên mọi địa bàn, thực tế đã có tác
dụng động viên và hỗ trợ rất lớn cho phong trào quần chúng ở
các xã. Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn cuối tháng 2, đầu
tháng 3 năm 1946, chính quyền các xã bị tan rã trước đây lại
được củng cố.
Tại xã Phú Thạnh, ông Nguyễn Hữu Chí1, Phó ban Quân
báo huyện Long Thành được sự phân công, chỉ đạo của Huyện
ủy đã về xã củng cố lại Ủy ban hành chánh kháng chiến. Theo
lời kể của ông Nguyễn Văn Cậy2, ông Nguyễn Hữu Chí đã liên
lạc với ông và một số đồng chí khác. Ủy ban hành chánh kháng
chiến xã Phú Thạnh ra đời trong bối cảnh xã bị chiếm đóng,
kềm kẹp như trên. Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến xã
vẫn là ông Nguyễn Văn Dễ (Tư Dễ), ông Nguyễn Văn Cậy là
Ủy viên phụ trách quân sự, lấy bí danh là Lê Thành Long, Ủy
viên phụ trách chính trị là Đặng Văn Nữ. Chủ tịch Mặt trận Việt
1  Nguyễn Hữu Chí sau này đầu hàng Pháp (theo Lịch sử Đảng bộ Long Thành,
Nxb. Đồng Nai năm 2008, trang 140-142).
2  Ông Nguyễn Văn Cậy sinh năm 1926, ngụ tại ấp 1, xã Phú Thạnh, tham gia lực
lượng Thanh niên Tiền phong từ trước Cách mạng Tháng Tám, thời điểm diễn ra
sự kiện đang là công nhân Sở Cao su Thành Tuy Hạ.
95

10.6 Page 96

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Minh xã là ông Ao Văn Viên1. Phụ trách kinh tài xã là ông Lê
Văn Triện2.
Với nhiệm vụ trên, ông Nguyễn Văn Cậy được đồng chí
Lương Văn Nho, Ủy viên quân sự huyện Long Thành giới thiệu
về tỉnh Biên Hòa tham dự lớp đào tạo bán quân sự. Từ khóa học
trở về, với cơ sở của đội Dân quân tự vệ trước đây, ông Nguyễn
Văn Cậy thành lập Đội du kích xã Phú Thạnh và giữ nhiệm vụ
Chính trị viên xã đội. Tiểu đội trưởng du kích là ông Trương
Văn Bội. Theo lời kể của ông Bội, trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, đội du kích xã Phú Thạnh nhiều lần phối hợp, đưa
lực lượng bộ đội chính quy tấn công các mục tiêu trọng điểm
trên địa bàn xã Phú Thạnh, thu nhiều đạn dược, súng ống và
lương thực.
Ngày 19/12/1946, cả nước Việt Nam bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Đảng bộ và quân dân Long Thành
sau một năm kiên cường vừa xây dựng tổ chức lực lượng, vừa
đẩy mạnh các hoạt động đã có những bước phát triển mới để
sẵn sàng cùng cả tỉnh, cả nước bước vào cuộc chiến đấu trường
kỳ.
Phước An là vùng đất ở phía nam của huyện Nhơn Trạch,
nằm dọc theo tỉnh lộ 19 trên chiều dài 13km, diện tích tự nhiên
10.997 hecta, địa hình phức tạp trở thành căn cứ kháng chiến
của huyện và nhiều đơn vị của tỉnh, khu.
1  Bị Pháp bắt và hy sinh trong trại tù Phú Lâm năm 1949.
2  Hy sinh ngày 18 tháng năm 1948 tại tắc Tài Bảy, cù lao Ông Cồn.
96

10.7 Page 97

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Do tính chất chiến lược của vùng đất này, ngay từ đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, Phước An đã trở thành nơi
đứng chân của lực lượng vũ trang Bình Xuyên, của khu như
liên quân Hoàng Thọ, chi đội 7, chi đội 6, bộ đội Sài Gòn - Chợ
Lớn... Từ chiến khu Phước An, bộ đội vừa tìm cách tự túc nuôi
quân, vừa tiến công tiêu hao sinh lực địch.
Phước An có địa thế, vị trí tự nhiên rất thuận lợi. Phía bắc là
một vùng rừng giồng bạt ngàn, rậm rạp rộng lớn nối liền với dải
rừng Lòng Chảo hàng chục ngàn hécta. Trong rừng giồng có
hàng trăm đường mòn, đường đất, từ đó có thể bí mật vượt qua
các trục lộ 17, 15 để về Hắc Dịch, về Chiến khu Đ, hay Bà Rịa,
Xuân Lộc. Phía nam Phước An là rừng sác bao la, với những
rạch, tắc chằng chịt có thể dễ dàng liên hệ với Nhà Bè, Sài Gòn,
Gò Công, Bến Tre hay ngược lên Vũng Tàu.
Phú Thạnh nằm ở giáp ranh vùng rừng giồng của chiến khu
Phước An. Mặc dù giặc Pháp vẫn thường xuyên bắn phá, càn
quét chiến khu, nhưng nhiều gia đình ở Phú Thạnh vẫn rời quê
hương về Phước An sinh sống theo lời kêu gọi của chính quyền
Việt Minh để được hưởng không khí tự do, độc lập. Ở Phước
An lúc ấy rất đông vui, hàng trăm ngôi nhà mới theo cùng kiểu
một mái hai chái mọc lên khắp khu vực Bà Trường, Bàu Bông,
Vũng Gấm. Giữa những vườn cây trái xanh tươi, hai bên đường
19 nhà cửa san sát, ban đêm đèn măng-xông thắp sáng rực. Bộ
đội, cán bộ, đồng bào nam nữ thanh niên đi lại nhộn nhịp. Bộ
đội và dân quân huyện gỡ một khung nhà bằng sắt ở sở Bàu
97

10.8 Page 98

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Lòng, đem về Phước An lắp làm chợ, bà con thường gọi là chợ
sắt Phước An, nằm trên phía rừng giồng ấp Chợ, cách đường
19 chừng 50 mét, dưới những lùm cây râm mát. Chợ có đủ thứ
hàng quán, nhân dân buôn bán tấp nập cả ngày lẫn đêm, có cả
“Quán cơm bình dân” do bộ phận Kinh tài huyện tổ chức bán
giá rẻ phục vụ cán bộ và nhân dân qua lại công tác. Các cửa
hiệu may đồ, chụp hình, đóng giày dép, cặp, xắc cốt, vải vóc
các loại và thuốc tây đều có. Cá, tôm, cua, mắm từ các ấp rừng
Sác, Cần Đước, Cần Giuộc, Nhà Bè theo ghe tới. Hoa màu,
trái cây mùa nào thứ đó được nhân dân từ Long Tân, Phú Hội,
Phú Thạnh, Phước Thiền đưa về Phước An, góp phần cung cấp
lương thực, thực phẩm cho kháng chiến.
Thời điểm này, nhân dân các xã ở Long Thành - Nhơn Trạch
sử dụng hai loại tiền khác nhau. Ở những xã thuộc khu vực căn
cứ kháng chiến, như Bàu Bông, Vũng Gấm, Phước An, người
dân sử dụng “tiền Cụ Hồ”, tức tiền do Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa phát hành, trên một mặt tờ tiền có in hình Hồ
Chủ tịch nên mọi người thường gọi là “tiền Cụ Hồ”. Người dân
vùng kháng chiến thường nói với nhau “Chỉ cần nhìn thấy râu
Cụ Hồ là tiền còn xài được”. Những xã thuộc vùng địch chiếm
đóng như Phú Thạnh thì sử dụng “tiền Đông Dương” do Pháp
lưu hành. Điều thú vị là hai loại tiền tệ này lưu hành song song,
có giá trị như nhau và có thể đổi lẫn nhau được.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa, xây dựng căn
cứ kháng chiến, phát triển du kích chiến tranh, tháng 01/1947,
Ủy ban hành chính kháng chiến, Mặt trận Việt Minh và các
98

10.9 Page 99

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đoàn thể huyện Long Thành đã về đứng chân xây dựng căn cứ ở
Phước An. Trụ sở của các cơ quan là những căn nhà lá dừa nước
gọn gàng trải dài từ rẫy thơm đầu sân banh ấp Bàu Bông đến
xóm Ngọn, trên phía rừng Giồng, cách lộ 19 từ 30 mét đến 50
mét. Các cơ quan chỉ huy và các đơn vị của liên chi Bình Xuyên
kể cả quân y viện và công binh xưởng, cũng chuyển về đóng
quân ở nam lộ 19, trong rừng Sác, Phước An, Ba Gioi (Phước
Đức). Sau đó, khoa Quân giới Nam Bộ được Bộ Tư lệnh Nam
Bộ điều từ miền Tây về lập các phân xưởng sản xuất vũ khí ở
đồng Ông Trúc. Căn cứ của các đơn vị đều được xây dựng qui
mô, có bến ghe, vọng gác, phòng tuyến chống địch, bãi tập để
huấn luyện quân sự.
Đầu năm 1947, dù đã tăng cường quân sự nhưng địch vẫn
chưa thể chiếm đóng hoàn toàn được quận Long Thành, phạm
vi quản lý của chính quyền và các ban hội tề do Pháp dựng lên
chưa rộng, kể cả tại một số vùng địch tạm chiếm. Đến giữa năm
1947, địch tiến hành gom dân về quanh các đồn bót và trục lộ
giao thông quốc lộ 15, tỉnh lộ 17, tiến hành càn quét liên tục.
Chính quyền kháng chiến vận động nhân dân chống lại, đòi trở
về đất cũ sản xuất. Tuy nhiên, với sự kiểm soát, lùng sục gắt
gao của địch, tuyến đường liên lạc giữa Long Thành với tỉnh
Biên Hòa bị cắt đứt, liên lạc giữa xã với huyện, xã với xã rất
khó khăn. Nguyễn Tam Nguyên, Trung đội trưởng giải phóng
quân Long Thành và một số người dao động trong đơn vị chôn
súng, trốn đi nơi khác sinh sống. Chủ nhiệm Việt Minh huyện
là Nguyễn Văn Chỏi bỏ chạy. Những phần tử là con cháu hội
99

10.10 Page 100

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
tề, phú nông và một số cán bộ trong Ủy ban hành chánh các xã,
ấp mất tinh thần cũng bỏ việc, lánh đi nơi khác.
Trong lúc những người dân theo đạo Cao Đài chân chính
vẫn sống hòa hợp với mọi người, thì dưới sự chỉ đạo của Pháp,
nhóm đầu đạo và Ban Trị sự Cao Đài phản động ra sức lôi kéo
người dân theo đạo. Chúng dựng chuyện: “Ai theo Cao Đài thì
không bị Pháp đốt nhà, thanh niên Cao Đài không phải đi lính”
rồi tổ chức phát thẻ xanh của Cao Đài cho từng gia đình, từng
người có đạo. Để hỗ trợ cho luận điệu đó, quân Pháp khi càn
quét vào các xã tập trung đốt phá, cướp bóc những nhà không
có đạo, còn nhà có thẻ xanh chúng không đụng đến. Bị rúng ép,
nhiều người phải chấp nhận theo đạo để được yên thân. Đồng
bào Long Thành gọi đạo Cao Đài khi đó là “đạo lôi”, nghĩa là
“lôi người ta vào đạo”.
Cùng với việc ép dân vào đạo bằng mọi thủ đoạn, giặc Pháp
ra sức củng cố phát triển lực lượng vũ trang Cao Đài. Đồn Cao
Đài mọc lên ở hầu hết các xã. Lính Cao Đài hoạt động mạnh
và ngang ngược hơn cả Pạt-ti-san (lính do quân đội Pháp thành
lập). Khi càn quét, chúng mang theo thuổn sắt xăm tìm đồ đạc
đồng bào chôn giấu, đem theo vợ con mang gùi, mang gánh,
gặp gì cướp nấy, nhất là xúc lúa, dỡ nhà. Ở Phú Thạnh, khoảng
hơn 2 ngàn tín đồ Cao Đài từ Mỹ Hội, Long Tân, Phú Hữu tập
trung về thành một khu ở dài theo tỉnh lộ 17 gần 1 cây số, sát
khu vực kho bom Thành Tuy Hạ, trong đó có không ít người chỉ
muốn được sinh sống làm ăn đàng hoàng, muốn được yên thân.
Khu Cao Đài có hàng rào, bót canh do lực lượng vũ trang Cao
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đài quản lý đóng thành hai đồn, đồn lớn ở Nỗng Bến Đá do tên
Đại úy Lê Thành Kham chỉ huy có tới một đại đội. Dân trong
xã, ai qua đường trước mặt đồn đều phải lột nón, nếu không sẽ
bị phạt, bị đánh.
Vào tháng 5 năm 1947, trên phạm vi toàn huyện, một số
phần tử xấu trong đạo Cao Đài tiến hành một cuộc vận động
rộng rãi kêu gọi tín đồ ra vùng tạm chiếm để “Chính phủ Pháp
bảo vệ đạo tránh hiểm họa Việt Minh”. Thực ra, đó là âm mưu
tăng cường lực lượng để đánh phá kháng chiến của giặc Pháp.
Ta có chủ trương vận động đồng bào Cao Đài ở lại, đồng thời
bắt giữ trừng trị những tên đầu sỏ. Do nhận thức chưa đầy đủ,
du kích, công an ở một số xã đã bắt và giết một số tín đồ thường
trong đạo, gây nên một tình trạng căng thẳng trong các vùng tự
do. Lợi dụng tình hình đó, địch ra sức tuyên truyền “Việt Minh
tảo thanh Cao Đài”, gây thù oán giữa người có đạo và kháng
chiến. Được sự chỉ đạo của tỉnh, huyện kịp thời chấn chỉnh
những sai lầm, ổn định dần được tinh thần của đồng bào Cao
Đài trong vùng tự do những tháng sau đó.
Công tác diệt tề trừ gian được đẩy mạnh trong toàn huyện
dưới nhiều hình thức, mạnh nhất là ở các xã ấp tạm chiếm ven
vùng tự do. Các ban hội tề thường nhận được thư của Mặt trận
Việt Minh kêu gọi nghỉ việc, giải tán hoặc tản cư ra vùng tự do.
Thư đưa tới nhà từng hội tề. Người lừng chừng được giáo dục.
Những tên ngoan cố đều bị trừng trị. Tại xã Phú Thạnh, ngay
trên dốc Bình Phú, sát kho đạn Thành Tuy Hạ, tên Thông chỉ
điểm bị các chiến sĩ quân báo bắn hạ. Đội du kích xã đề xuất
101

11.2 Page 102

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
chủ trương vận động, thuyết phục những người trong Ban hội
tề (ông Thơ làm trưởng ban) không tham gia tiếp tay cho Pháp,
đồng thời “dằn mặt” những tên ác ôn trên địa bàn, và được
Huyện ủy đồng ý. Các chiến sĩ du kích đến từng nhà những
người trong ban hội tề, đưa thư vận động của Huyện ủy. Kết
quả, toàn bộ ban hội tề của xã Phú Thạnh đã tự nguyện đưa cả
gia đình vào vùng kháng chiến do ta kiểm soát.
Năm 1947, đồng chí Đặng Văn Nữ được kết nạp Đảng. Đây
có thể là người đảng viên đầu tiên, được kết nạp sớm nhất của
xã Phú Thạnh. Năm 1948-1949, đồng chí Nguyễn Thành Trai
được Huyện ủy điều về làm Bí thư chi bộ xã Phú Thạnh. Đây là
Bí thư chi bộ Đảng đầu tiên của xã1.
Trong hai năm 1947 và 1948, Đội du kích xã lập được một
số chiến công, như: phục kích tiêu diệt lính pac-ti-san, thu vũ
khí; đột nhập đồn điền cao su Thành Tuy Hạ, đốt cháy dãy nhà
phơi mủ cao su, thu được máy đánh chữ, máy bơm nước phục
vụ kháng chiến; phối hợp với bộ đội địa phương phục kích bắn
chết tên Pháp chủ đồn điền cao su Thành Tuy Hạ, thu vũ khí và
xe Jeep... Du kích xã cũng phối hợp với bộ đội tiêu diệt hơn 20
lính Cao Đài, thu gần 10 súng.
Xã Phú Thạnh do có vị trí chiến lược quan trọng, địch đóng
nhiều đồn bót, kiểm soát chặt chẽ, nhưng thanh niên trong xã
vẫn thoát ly theo bộ đội kháng chiến rất đông. Năm 1947, hưởng
ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, nhiều thanh niên xã Phú
1  Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Liềm.
102

11.3 Page 103

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Thạnh đã gia nhập các lực lượng vũ trang của huyện, tỉnh, khu,
như: Phạm Văn Đạm (chiến sĩ Đại đội C, Chi đội 10), Dương
Văn Hà (Quân giới Bà Rịa - Vũng Tàu)... Nhiều người dân Phú
Thạnh cũng trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, tiếp
tế nuôi quân, đưa thư liên lạc, dù phải chấp nhận hy sinh. Ông
Bùi Văn Muộn (Sáu Muộn) là du kích xã, đi liên lạc đưa đón
cán bộ Việt Minh, bị Pháp bắn chết ngay cánh đồng ấp 1 ngày
15 tháng 11 năm 1947. Ông Chín Cửu đi liên lạc cũng bị Pháp
bắn chết, ông Đỗ Văn Lẹ1 ủng hộ nuôi quân bị bắt ở tù. Nhiều
người là con, em Phú Thạnh tham gia kháng chiến đã hy sinh
tại các địa phương khác, như: Trần Văn Lời, tiểu đội trưởng du
kích xã Long Điền, hy sinh ngày 1 tháng 3 năm 1949; Châu
Văn Biện, bộ đội, hy sinh tại xã Phú Hữu năm 1949; Trương
Văn Cộm, cán bộ thông tin xã, hy sinh tại khu Cầu Xéo, huyện
Long Thành ngày 26 tháng 6 năm 1946; Nguyễn Văn Muôn, hy
sinh tại xã Phú Hội năm 1945; Cao Văn Tám, đội viên du kích
hy sinh ngày 23 tháng 6 năm 1948; Nguyễn Văn Nết, hy sinh
năm 1951 tại khu Bàu Cá, huyện Long Thành...
Dọc theo lộ 17, mặc dù giặc Pháp đóng hai bót ở Phước
Thiền, hai bót ở Mỹ Hội, nhưng Bến Cam, Bến Sắn, Phú Mỹ,
Xóm Hố vẫn được coi là vùng tự do. Bộ đội, công an xung
phong qua lại đóng quân thường xuyên. Ở xã Long Tân, dù vị
trí nằm sát bên cạnh Phú Thạnh nhưng địch càn vô là bị đánh.
Hầu như suốt hai năm 1948, 1949, quân Pháp không dám vào
1  Cha của đồng chí Đỗ Thị Thanh Vân.
103

11.4 Page 104

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
xóm Long Hiệu, Vĩnh Tuy, chỉ dùng cối 81 ly từ Mỹ Hội bắn
sang quấy rối cuộc sống tự do ở đây.
Năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc (cuối năm 1947), chiến
lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp bị thất bại.
Chúng chuyển hướng quay về thực hiện bình định Nam Bộ với
chủ trương “dùng người Việt giết người Việt”, tăng cường xây
dựng đồn bót, tháp canh và các hoạt động tâm lý chiến, tình báo
gián điệp.
Đây cũng là năm khởi đầu cho thời kỳ phát triển mạnh của
phong trào du kích chiến tranh của huyện Long Thành, chiến
khu Phước An được củng cố và phát triển toàn diện. Mờ sáng
ngày 12 tháng 1 năm 1948, hơn 300 lính Pháp, lính Cao Đài với
hơn 20 ghe xuồng do tên ác ôn thường gọi là sếp Ốm chỉ huy, đi
hướng sông Đồng Nai tiến vào đồng Long Điền. Được hệ thống
liên lạc báo tin, đồng bào An Định, Long Điền nhanh chóng thu
xếp cất giấu thóc lúa, đồ đạc phòng giặc cướp phá. Lực lượng ta
ngoài trung đội 2 của huyện và du kích Long Điền còn có thêm
trung đội 8 do đồng chí Đạm chỉ huy từ Long Tân về phối hợp.
Nhiều chiến sĩ xã Phú Thạnh đã tham gia trận đánh này, như
ông Phạm Văn Đạm, ông Mười...
10 giờ sáng, 21 chiếc ghe chở đầy lính và đồ đạc cướp được
của đồng bào chậm chạp quẹo vào rạch Ngã Bắc để về Tam An.
18 chiếc đi đầu lọt vào đội hình phục kích của ta, 3 chiếc sau
chưa qua khúc quẹo nhưng đã vào tầm bắn của trung đội 2. Cả
trận địa nổ súng. Từ những lùm chuối nước rậm rạp ven bờ, lựu
đạn quăng xuống liên tiếp, lọt vào ghe địch nổ tung. Trung liên,
104

11.5 Page 105

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tiểu liên, súng trường nhằm vào bọn lính đang cuống cuồng
giữa sông nhả đạn. Hàng chục tên chết ngay trên ghe. Những
tên sống sót nhào xuống sông định tìm đường tẩu thoát cũng bị
những loạt đạn bắn tỉa rất chính xác lần lượt nhận chìm. Cả 18
ghe đi đầu đều bị đánh đắm. Hơn 50 tên giặc đền tội tại chỗ.
Sếp Ốm, tên trưởng đồn Tam An khét tiếng hung ác, chết gục
cạnh một gốc cây bần bên kia sông. Tên Mới, con xã Chồn ở
Tam An - một tên Cao Đài ác ôn, trước khi đi càn còn hùng hổ
tuyên bố “chuyến này ra Long Điền tao phải lấy mấy cái đầu
Việt Minh về chơi”, cũng cùng chung số phận.
Đêm ấy du kích Long Điền, Tam An ra mò khúc sông xảy ra
trận đánh thu được 25 súng, trong đó có 2 trung liên. Trận ngã
ba Long Điền là trận thắng lớn nhất trên đường sông kể từ đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp ở Long Thành, đã gây được tiếng
vang rộng lớn trong huyện.
Dọc theo lộ 17, lộ 19, tuy đồn bót giặc vẫn còn, nhưng các
hoạt động của cán bộ, các lực lượng vũ trang không gặp nhiều
khó khăn, thế làm chủ của nhân dân vẫn giữ được.
Cuối năm 1949, thực dân Pháp càng tăng cường công tác
bình định ở Nam Bộ nói chung và Biên Hòa - Long Thành
nói riêng. Giặc Pháp tổ chức lại lực lượng quân sự trong toàn
huyện. Tại chi khu, địch đóng hai đại đội: một đại đội chính
quy gồm 120 lính, phần đông là người dân tộc (thường gọi
là lính Thổ), một đại đội Pạc-ti-san 120 lính, trang bị hỏa lực
mạnh. Pháo binh chi khu được tăng cường 1 khẩu 105 ly. Các
bót Phước Thiền, Phước Long, Siph, Héléna... mỗi nơi 2 trung
105

11.6 Page 106

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đội, trong đó có 1 trung đội chính quy do sĩ quan Pháp chỉ huy.
Bên cạnh đó, thực dân xây dựng nhiều bót lính Cao Đài cấp
trung đội, có nơi cấp đại đội. Ở xã Phú Thạnh, bọn Cao Đài
vẫn duy trì bót ở Nỗng Bến Đá, rất ngang ngược với người dân
trong xã. Nhưng Đoàn Thanh niên cứu quốc của xã Phú Thạnh
vẫn bí mật hoạt động, do đồng chí Nguyễn Văn Liềm chỉ huy.
Đầu năm 1951, địch bắt đầu xúc tiến mạnh việc giải tỏa
lộ 15 - con lộ chiến lược đã bị ta cắt đứt từ năm 1946. Chúng
đưa công binh về khôi phục lại các cầu cống bị sập, đắp lại một
phần đường xá và tổ chức việc bảo vệ từng đoạn đường bằng
các tháp canh. Ngày 20 tháng 9 năm 1951, bằng một cuộc càn
quét lớn có bộ binh, hải quân, không quân phối hợp, giặc Pháp
đã chiếm được Phước An và xây dựng đồn bót. Tình hình Long
Thành càng trở nên khó khăn hơn.
Tháng 5 năm 1951, Trung ương Cục miền Nam tổ chức lại
chiến trường. Toàn Nam Bộ tổ chức hai phân liên khu miền
Đông và miền Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Tỉnh Biên Hòa
và Thủ Dầu Một sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên; tỉnh Bà Rịa và
Chợ Lớn sáp nhập thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (thường gọi là
Bà Chợ). Huyện Long Thành thuộc tỉnh Bà Chợ. Trước những
diễn biến gay go của phong trào kháng chiến Long Thành,
Thường vụ Tỉnh ủy Bà Chợ chỉ đạo:
“Long Thành là một địa bàn chiến lược, một vùng căn cứ,
một chiến khu quan trọng trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Phong
trào Long Thành, cơ sở Long Thành tốt, quần chúng tốt. Bằng
106

11.7 Page 107

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
giá nào cũng phải ổn định cho được chiến trường Long Thành
để đảm bảo chỗ đứng của tỉnh”. Trên cơ sở đánh giá đó, Tỉnh
ủy Bà Chợ quyết định tăng cường cán bộ cho huyện.
Trước tình hình đó, tháng 2 năm 1952, Thường vụ Huyện
ủy quyết định phải đánh thắng một trận để mở thế cho phong
trào kháng chiến trong toàn huyện. Đồng chí Hai Xuất được
giao nhiệm vụ nghiên cứu vùng lộ 15. Đồng chí Sáu Thịnh
nghiên cứu vùng Ông Kèo, Xoài Minh. Đồng chí Hương (quân
báo huyện) nghiên cứu 2 xã Phú Thạnh, Phước Lý.
Tháng 5 năm 1952, một tổn thất lớn xảy ra cho phong trào
cách mạng xã Phú Thạnh: trên đường đi công tác, 2 đồng chí là
Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến Nguyễn Văn Dễ và
Ủy viên phụ trách chính trị Đặng Văn Nữ bị địch phục kích, hy
sinh tại Rạch Dọp (xã Phước Khánh).
Trước tổn thất đó, Huyện ủy Long Thành cử đồng chí Trần
Văn Dứt (Chín Dứt) giữ nhiệm vụ Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch
Ủy ban hành chánh kháng chiến xã Phú Thạnh. Các đồng chí:
Nguyễn Văn Liềm, Tô Văn Tiếu là Ủy viên Ủy ban hành chánh
kháng chiến xã. Một thời gian sau, đồng chí Chín Dứt bị Pháp
bắt, đày ra Côn Đảo và hy sinh tại đó. Đồng chí Võ Hồng Ân
lên thay làm Bí thư chi bộ xã Phú Thạnh. Đến năm 1954, chi bộ
Đảng xã Phú Thạnh có 7 đảng viên, gồm: Võ Hồng Ân, Huỳnh
Ngọc Ẩn, Nguyễn Văn Cậy, Phạm Văn Đạm, Hai Nhứt, Tô Văn
Tiếu, Bùi Văn Hoằng1.
1  Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Liềm.
107

11.8 Page 108

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Tháng 8 năm 1953, đồng chí Phạm Văn Đạm đang là tiểu
đội trưởng du kích tại huyện Vĩnh Cửu đã được điều về tăng
cường cho xã Phú Thạnh, giữ nhiệm vụ xã đội phó1. Đội du
kích xã Phú Thạnh đã hỗ trợ cho lực lượng bộ đội chính quy
tiến công nhiều đồn bót của địch, diệt ác phá kềm trên địa bàn
xã. Đội cũng diệt được một lính Pac-ti-san tên Thử, thu được
một súng Mác 36.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954,
thực dân Pháp phải tuyên bố thua trận, chấm dứt mộng tái
chiếm và đặt ách đô hộ ở nước ta. Ngày 20 tháng 7 năm 1954,
hiệp định Genève về đình chiến ở Đông Dương đã được ký kết,
và sau đó ngày 1 tháng 8 năm 1954, lệnh ngưng bắn được thực
hiện.
Tin hiệp định Genève được ký kết tạo nên một không khí
phấn khởi to lớn trong toàn huyện. Ngay trong thời gian chưa
có lệnh ngưng bắn, đồng bào vẫn tìm mọi cách truyền nhau tin
tức, báo chí về nội dung hiệp định. Các cuộc mít tinh mừng
hòa bình, mừng thắng lợi hiệp định do các đội vũ trang tuyên
truyền tổ chức trong các ấp xã vẫn được đông đảo đồng bào
đến dự. Ở Rừng Sác, mỗi lần tổ chức nói chuyện ngoài sông,
chỉ cần treo tấm nilon, cắm cờ, treo ảnh Bác và thắp ngọn đèn
lên là ghe của đồng bào tấp nập đổ tới. Binh lính địch được ban
địch vận, thông qua cơ sở, gặp gỡ tuyên truyền, gửi truyền đơn
1  Đồng chí Phạm Văn Đạm đã được kết nạp Đảng ngày 1 tháng 11 năm 1951.
Đây là đảng viên thứ hai là người xã Phú Thạnh, sau đồng chí Đặng Văn Nữ.
108

11.9 Page 109

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
nắm được nội dung hiệp định, nhiều người bỏ trốn về nhà làm
ăn sinh sống.
Kể từ trung tuần tháng 8 năm 1954, thi hành hiệp định
Genève, cán bộ chiến sĩ Long Thành lần lượt chuyển sang vùng
căn cứ Xuyên Phước Cơ (Bà Rịa). Tại đây, sau khi được học
tập, quán triệt tinh thần Hiệp định, Huyện ủy đã chọn lọc một
bộ phận cán bộ, đảng viên từ Huyện ủy viên trở xuống ở lại. Số
anh em đi tập kết hầu hết là thuộc lực lượng vũ trang huyện, xã.
Trong những ngày cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1954,
không khí Long Thành nhộn nhịp. Các xã đều cử đoàn đại biểu
mang theo quà của nhân dân gửi tặng bộ đội, hàng ngàn lượt
đồng bào, bà con thân nhân của cán bộ, chiến sĩ cũng tìm mọi
cách sang Xuyên Phước Cơ đưa tiễn con em quê hương mình
lên đường tập kết.
Xã Phú Thạnh cũng có nhiều cán bộ, chiến sĩ lên đường tập
kết, như: Dương Văn Hà, Phạm Văn Đạm, Nguyễn Văn Đọt...
Một số đồng chí nhận nhiệm vụ ở lại, chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến cam go sau này, như: Trương Văn Bội, Võ Hồng Ân,
Nguyễn Văn Liềm, Huỳnh Ngọc Ẩn, Bùi Văn Hoằng, Minh...
Hưởng không khí độc lập tự do ngắn ngủi, nhân dân Phú
Thạnh lại tiếp tục sự nghiệp kháng chiến chống sự tái chiếm
Nam Bộ của thực dân Pháp. Với sức mạnh của chính quyền non
trẻ, tổ chức Đảng còn mỏng manh, đảng viên chưa nhiều, Phú
Thạnh đã trường kỳ gian khổ tham gia kháng chiến, tạo nhiều
thành tích.
109

11.10 Page 110

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Giặc Pháp quyết tâm chiếm đóng, xây dựng và phát triển
căn cứ Thành Tuy Hạ cùng hệ thống đồn bót để trấn áp, hòng
đánh bật lực lượng kháng chiến ra khỏi khu vực. Tổ chức Đảng,
đoàn thể và lực lượng quần chúng của xã Phú Thạnh vẫn kiên
cường bám trụ ngay trong lòng địch cho đến thắng lợi của Hiệp
định năm 1954.
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Chương IV
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)
I. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ TIẾN LÊN KẾT HỢP
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ - VŨ TRANG (1954 - 1960)
Hiệp định Genève (ngày 20 tháng 7 năm 1954) về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn cõi Đông
Dương là một thắng lợi lớn của dân tộc Việt Nam. Theo tinh
thần Hiệp định, thực dân Pháp phải công nhận độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, lấy vĩ tuyến
17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, tháng 7 năm 1956 sẽ tiến
hành hiệp thương và tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Với âm mưu xâm lược đất nước ta, tháng 7 năm 1954 Mỹ
đưa Ngô Đình Diệm về nước lập chính phủ bù nhìn, xây dựng
hệ thống chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam.
Tại Phú Thạnh, lính Pac-ti-san đóng ở chợ rút đi thì lính
Cao Đài thế vào, nhưng lính cũng như dân, đi lại bình thường,
không mang súng, không xét hỏi ai, không hành quân càn quét.
Ở thị trấn, những người theo Pháp ngao ngán không biết tương
lai sẽ đi tới đâu. Hội đồng Hương chính coi như tê liệt.
111

12.2 Page 112

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Trong khí thế cách mạng còn sôi nổi sau hiệp định, số cán
bộ, đảng viên trong huyện Long Thành ra hợp pháp theo tất cả
các hướng đều gặp thuận lợi. Từ tháng 10 đến hết tháng 11,
hơn 100 đồng chí được sự giúp đỡ của đồng bào và gia đình ra
ngay tại địa phương. Xã Phú Thạnh là nơi Cao Đài hoạt động
mạnh, các đồng chí Võ Hồng Ân, Huỳnh Ngọc Ẩn, Nguyễn
Văn Liềm, Minh phải lên Sài Gòn tạm lánh, đến cuối tháng 11
đều trở về xã hoạt động trở lại.
Trước tình hình đó, Huyện ủy chỉ thị: Cán bộ, đảng viên
không được tham gia học “tố Cộng”1 và tổ chức vận động quần
chúng tẩy chay “tố Cộng” bằng mọi hình thức. Mặt khác, dưới
sự chỉ đạo của tỉnh, sau khi thành lập Ban Binh vận (tháng 4
năm 1956) huyện chủ trương tăng cường gài người vào chính
quyền ngụy để tạo thế lâu dài và trước mắt là hạn chế sự đánh
phá ở cơ sở.
Thực hiện chủ trương đó, Phú Hữu, Phước An, Bình Sơn,
Long Phước, Tam Phước, Long Tân đã đưa được một số cán bộ
kháng chiến cũ, đảng viên vào hội đồng xã, đưa thanh niên vào
dân vệ. Lực lượng này hoạt động ngay, phân hóa hàng ngũ của
địch, lôi kéo những phần tử lừng chừng. Do đó, hoạt động tố
cộng của địch ở cấp xã không đều khắp và gắt gao như chúng
muốn. Học chỉ có tính hình thức, ai đi thì đi, không đi thì thôi.
1  “Tố Cộng” là chính sách do Ngô Đình Diệm triển khai tại miền Nam, bắt đầu
từ năm 1955 với mục đích truy tìm và tiêu diệt những người tham gia hoặc có liên
quan đến Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp.
112

12.3 Page 113

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Trong khi đó các Hội ái hữu vẫn hoạt động tạo được sự gắn bó
trong quần chúng, bảo vệ được cán bộ và cơ sở.
Đầu tháng 6, đồng chí Sáu Phong, Phó Bí thư Huyện ủy đi
nhận chỉ thị 4 HBC của Trung ương về. Nội dung chính của chỉ
thị này là điều lắng mai phục, đưa đảng viên vào quần chúng để
bảo vệ lực lượng và xây dựng cơ sở trong quần chúng.
Việc triển khai chỉ thị 4 HBC ở Long Thành bước đầu
có khó khăn. Hầu hết cán bộ đảng viên đều lo lắng. Một số
không muốn ra vì sợ địch bắt. Tuy vậy, sau hai tháng quán triệt
từ Huyện ủy tới cơ sở, các cán bộ đảng viên vẫn chấp hành
nghiêm chỉnh chỉ thị của Đảng, lần lượt ra dân tạo thế hợp pháp
để xây dựng phong trào. Chỉ riêng cấp ủy huyện vẫn giữ bán
công khai để nắm và chỉ đạo phong trào toàn huyện.
Đầu tháng 12 năm 1954, đồng chí Vũ Khánh (tức Vũ Hồng,
tức Phô) được Tỉnh ủy Biên Hòa chỉ định về làm Bí thư Huyện
ủy Long Thành thay cho đồng chí Trần Bình Khê. Từ vùng Mỹ
Lộc (Tân Uyên), đồng chí được giao liên tỉnh đưa theo đường
dây bí mật qua địa bàn An Hòa Hưng về tới xã Tam Phước. Để
bắt liên lạc với giao liên tỉnh, các đảng viên ở Tam Phước lúc
đó thường giả làm dân đi giăng câu bên bờ sông Buông. Tại
đây, một đảng viên trong vai người đi câu cá đã đón đồng chí
Vũ Khánh đưa về Phước Nguyên. Từ đây, theo đường dây bí
mật đồng chí về Rừng Sác (Phước Thọ) vào cuối tháng 12 năm
1954 để họp Huyện ủy và nhận nhiệm vụ thay đồng chí Trần
Bình Khê về Khu nhận nhiệm vụ mới.
113

12.4 Page 114

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Huyện ủy Long Thành đóng tại căn cứ Rừng Sác, có các
đồng chí Chín Hinh và Sáu Tưởng (người thuộc địa bàn Phước
Khánh) làm công tác giao liên, bảo vệ. Lính đặc cảnh miền
Đông và công an địch thường giả dạng người làm củi, đánh
bắt thủy sản trong khu vực Rừng Sác để khai thác, nắm tin tức
của cách mạng. Vì vậy, Huyện ủy Long Thành phải thay đổi, di
chuyển thường xuyên (trong vùng căn cứ) để bảo đảm bảo bí
mật, bảo toàn lực lượng. Chiến sĩ chủ yếu là ngủ ghe, còn cán
bộ, đảng viên, cơ sở đến họp theo quy định chỉ cho gặp ngoài
căn cứ.
Tháng 1 năm 1955, tại căn cứ Rừng Sác, Phước Thọ, Hội
nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Long Thành được tổ chức.
Hội nghị đánh giá tình hình của địa phương và đề ra chủ trương:
Tiếp tục tuyên truyền thắng lợi của Hiệp định Paris, vận động
nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng các tổ chức quần chúng
hợp pháp; kiện toàn cơ sở Đảng ở tất cả các xã.
Huyện ủy phân công các đồng chí ủy viên về từng địa bàn
chỉ đạo trực tiếp, xây dựng phong trào đấu tranh: đồng chí Út
Mười Hai (tức Út Vồ) phụ trách khu vực Tam An, An Lợi; đồng
chí Ba Đông phụ trách địa bàn Long An, Long Phước; đồng chí
Tám Tánh phụ tách xã Phú Hội, Long Tân; đồng chí Mai Hiển
Thái (Ba Thái) phụ trách vùng đồn điền cao su; đồng chí Tư
Lộc về Phú Hữu, Phước Khánh, Phước Lý, Phú Thạnh; đồng
chí Võ Văn Lượng (Tư Định) phụ trách địa bàn Phước An,
Phước Thọ...
114

12.5 Page 115

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Phong trào đưa dân về làng cũ được đẩy mạnh. Hàng trăm
héc ta ruộng đất ven sông Đồng Nai, Đồng Môn thuộc xã Tam
Phước, Tam An, Long Điền, Long Tân bị bỏ hoang trong suốt
những năm chiến tranh giờ đây tấp nập người về canh tác. Nhiều
hộ dân còn nghi ngại cất nhà ven lộ 17, 19 cũng dời cả xuống
các khu vườn an tâm sinh sống, làm ăn. Các khu dồn dân trước
đây trống vắng dần. Thị trấn Long Thành là nơi tập trung khá
đông dân trước đây cũng thưa hơn do nhiều người trở về quê cũ
sinh sống. Các vùng đất hoang vắng ở Long Thành trong những
năm tháng chiến tranh ác liệt bắt đầu được nhân dân về khai
hoang, dựng nhà. Chợ, trường học trong các xã, ấp được dựng
lại. Ở những vùng công nhân cao su Bình Sơn, Siph..., khí thế
quần chúng rất mạnh. Thắng lợi của cách mạng và phong trào
đấu tranh mạnh mẽ của công nhân cao su trong kháng chiến
còn sâu sắc khiến bọn cai, xu không dám hung hăng như trước.
Trong tình hình đó, Huyện ủy chủ trương xây dựng các tổ
chức quần chúng hợp pháp nhằm tập hợp lực lượng, tăng cường
tuyên truyền, giáo dục nhân dân và đấu tranh khi cần thiết. Các
xã đều xuất hiện hội đình, hội chùa, hội lương hữu, hội banh...
mỗi hội đều có đảng viên làm nòng cốt và thu hút hàng trăm hội
viên. Đông nhất là các hội mang màu sắc tín ngưỡng dân gian:
Tam Phước có tổ chức “Nam quan”, “Nữ quan”. Ở Phước Thái
lập hội “Khai sơn” của những người làm nghề rừng với 200 hội
viên. Ở Bình Sơn có tổ chức “Nữ Oa”...
115

12.6 Page 116

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Các cán bộ kháng chiến được đưa vào lãnh đạo các tổ chức
quần chúng để hướng dẫn hoạt động. Hội viên tùy hảo tâm, tài
lực của mình đóng góp tiền cho hội làm quỹ sinh hoạt. Hình
thức vạn cày, vạn cấy trong nông dân hay ca, kíp trong công
nhân đã tạo nên sự gắn bó, sự tương thân tương trợ trong hội
viên giúp nhau tăng gia, sản xuất. Các hội hoạt động công khai,
nhưng bên trong ta đã bước đầu hình thành các đoàn thể thanh
niên, phụ nữ, nông dân có Ban Cán sự, có đóng hội phí hàng
tháng. Thông qua các hội đoàn quần chúng, các chi bộ tập hợp
được quần chúng, tuyên truyền làm thất bại âm mưu gây mất
đoàn kết của địch. Thông qua những buổi họp hội, cán bộ,
đảng viên lồng vào nội dung tuyên truyền thắng lợi Hiệp định
Genève, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở, giương cao khẩu
hiệu đấu tranh: “không được trả thù người kháng chiến cũ”,
“Thực hiện điều 14C của hiệp định”.
Từ tháng 3 năm 1955, chính quyền tay sai Sài Gòn bắt đầu
bố trí một bộ phận đồng bào ở miền Bắc bị địch cưỡng ép di
cư vào Nam, vào Long Thành. Chỉ trong vòng 4 tháng, số đồng
bào di cư đã lên tới trên 7.000 người và hình thành các trại định
cư ở Liên Kim Sơn vòng ngoài thị trấn; ở Phước Lý, Ông Kèo
bao quanh phía nam Lòng Chảo, tổng kho Thành Tuy Hạ và
đông nhất là ở Phước Khánh với gần 4.000 người. Thực tế cho
thấy, việc chính quyền địch lấy đất của người dân địa phương
để lập trại đưa đồng bào di cư đến, kèm theo những chính sách
“ưu đãi” như cấp đất, khoanh vùng, cấp đồ dùng, vật dụng,
116

12.7 Page 117

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
làm nhà, cho tự do khai phá rừng Giồng, rừng Sác... nhằm thực
hiện âm mưu tạo ra một vành đai bảo vệ những khu vực quan
trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm; đồng thời tạo nên sự
mâu thuẫn giữa người miền Nam và người miền Bắc, chia rẽ
tôn giáo, tín ngưỡng giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo ở địa
phương. Đây là một âm mưu thâm độc của địch nhằm chia rẽ
khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Trong năm đầu nắm chính quyền, Ngô Đình Diệm tiến
hành thanh trừng các lực lượng vũ trang giáo phái thân Pháp và
chống đối chính quyền Sài Gòn để thống nhất, xây dựng quân
đội tay sai thân Mỹ. Đầu tháng 5 năm 1955, gần 4.000 quân
của lực lượng Bình Xuyên do Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) cầm đầu
sau hơn một tháng chống cự với quân đội Sài Gòn, đã rút về
Rừng Sác của Long Thành với ý đồ biến vùng này thành căn cứ
chống chính quyền Ngô Đình Diệm lâu dài. Các đơn vị của lực
lượng Bình Xuyên đóng rải rác trong các xóm ấp Rừng Sác1.
Tình hình an ninh trật tự của huyện Long Thành mất ổn định
khi lực lượng Bình Xuyên tràn về. Nhiều người dân vô tội bị
lính Bình Xuyên giết người cướp của, ghe thuyền của dân chài
bị cướp giật, nhiều người bị bắt đi làm không công để xây dựng
căn cứ cho quân Bình Xuyên. Thậm chí, ở một số xã, quân đội
Bình Xuyên đòi thành lập chính quyền riêng.
1  Tiểu đoàn 3 của Võ Văn Môn (Bảy Môn) đóng dọc địa bàn Phước An, Phước
Thọ. Đài Phát thanh đặt trên tàu do Lại Hữu Sang phụ trách ngày ngày chạy từ
sông Ông Kèo ra sông Lòng Tàu bêu xấu, khiêu khích đánh nhau với quân đội
Diệm. Đại đội Bình Xuyên do Ba Phú chỉ huy đóng ở Phước Khánh.
117

12.8 Page 118

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Trước tình hình đó, Huyện ủy Long Thành đề nghị về Tỉnh
ủy Biên Hòa và Xứ ủy cho hướng giải quyết vấn đề đối với
quân lính Bình Xuyên và vấn đề dân di cư do địch đưa đến.
Song song đó, nhằm ổn định tình hình của địa phương, hạn chế
tổn thất cho nhân dân, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo cho các
xã có lực lượng Bình Xuyên đóng quân tích cực liên hệ, vận
động để phân hóa hàng ngũ chỉ huy, lôi kéo những phần tử tiến
bộ về với cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, đồng
bào các xã, các gia đình có lính Bình Xuyên đóng đã đối xử tốt
hơn với lực lượng này và tạo điều kiện cho cán bộ của ta tiếp
xúc với chỉ huy, binh lính. Công tác vận động đối với lực lượng
Bình Xuyên đã đem lại những kết quả đáng kể1. Vừa vận động,
ta vừa đưa người của cách mạng vào hàng ngũ Bình Xuyên. Lợi
dụng sự mâu thuẫn giữa quân Bình Xuyên và quân lính Diệm,
ta vận động binh lính Bình Xuyên tiêu diệt một số tên ác ôn tại
địa phương.
Ban Địch vận Xứ ủy Nam Bộ đã cử đồng chí Nguyễn Trọng
Tâm (Bảy Tâm) về Long Thành liên lạc với Huyện ủy. Đồng
chí Bí thư Huyện ủy Vũ Hồng Phô trực tiếp đưa đồng chí Bảy
Tâm về ở nhà đồng chí Nguyễn Văn Thông ở ấp Bến Cộ, xã Đại
Phước, bám các xã Phước An, Phước Thọ để thâm nhập vào lực
lượng Bình Xuyên gặp Ban Chỉ huy tiểu đoàn 3 Bình Xuyên,
1  Được sự đồng ý của Huyện ủy, tháng 7/1955 các đồng chí ở Phước An, Phước
Thọ đã vận động tiểu đoàn 3 bao vây bức hàng đồn Phước Thọ. Tên Đáp đoàn
trưởng cùng toàn bộ đại đội ở đồn này phải đem súng ra đầu hàng. Tiếp đó tiểu
đoàn 3 bức rút đồn Phước Long. Quân Diệm ở Phước Thiền co lại trong đồn bót.
118

12.9 Page 119

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
từng bước giáo dục và hướng lực lượng này về với nhân dân.
Đồng chí Võ Văn Lượng, Bí thư chi bộ Phước An thông qua
Nguyễn Văn Chiêm (Phó Bí thư chi bộ Phước An), nguyên
là cậu vợ của Võ Văn Môn đã nắm được tình hình nội bộ lực
lượng Bình Xuyên để báo áo cho Huyện ủy.
Tháng 8 năm 1955, Ngô Đình Diệm chuẩn bị mở chiến dịch
tấn công vào căn cứ Rừng Sác. Lực lượng Bảy Viễn đã bị phân
hóa lại càng hoang mang. Lúc bấy giờ, Bảy Viễn phải cử Bảy
Môn tìm gặp Huyện ủy Long Thành. Sau khi xin ý kiến của
Tỉnh ủy, đồng chí Vũ Hồng Phô, Bí thư Huyện ủy gặp Bảy Môn
tại nhà một cán bộ xã Phước An. Tại cuộc họp này, đại diện lực
lượng Bình Xuyên đề nghị: xin được gặp đại diện Xứ ủy Nam
Bộ, được đứng chân trên đất Long Thành, được tiếp tế và quan
hệ với cách mạng, được cung cấp tin tức... để chống lại chính
quyền Diệm. Đây là cơ hội và điều kiện thuận lợi để ta lôi kéo
những lực lượng tiến bộ trong Bình Xuyên về với cách mạng1.
Tháng 8/1955, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm, Vũ Khánh (Bí
thư Huyện ủy Long Thành), Mười Thọ đã tổ chức cho đồng
chí Võ Văn Khánh (Bảy Khánh), Xứ ủy viên dự khuyết đại
diện Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí Phạm Văn Thuận (Bí thư Tỉnh
ủy Biên Hòa) theo đường hợp pháp về Phước Thọ, ra tàu Ban
Chỉ huy Bình Xuyên làm việc. Nhưng đó cũng là thời gian
chính quyền Sài Gòn mở cuộc tổng tiến công trong chiến dịch
1  Tiểu đoàn 3 và Ban Chỉ huy của Bảy Môn đã ngã về cách mạng. Lực lượng Ba
Phú có xu hướng ly khai Bảy Viễn và liên lạc với các chi bộ khu 3.
119

12.10 Page 120

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
“Hoàng Diệu” đánh vào Rừng Sác để tiêu diệt lực lượng Bình
Xuyên do Lê Văn Viễn cầm đầu1. Đồng chí Bảy Khánh từ tàu
Bảy Viễn về được một ngày thì quân Diệm nổ súng tấn công
Bình Xuyên.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, đồng bào ở các xã có chiến sự
gấp rút di tản, chỉ để lại lực lượng thanh niên, trung niên bảo vệ
nhà cửa, tài sản. Tiểu đoàn 64 quân chính quy của chính quyền
Diệm tấn công tiểu đoàn 3 Bình Xuyên và chiếm xã Phước
Thọ. Mặc dù chỉ có vài trận đụng độ nhỏ nhưng tinh thần quân
Bình Xuyên đã rệu rã nên chỉ chưa đầy nửa tháng, 4.000 quân
Bình Xuyên đã bị quân của chính quyền Diệm đánh tan. Viên
chỉ huy Bình Xuyên là Lê Văn Viễn bỏ chạy ra Vũng Tàu rồi
sang Pháp.
Nhân thời cơ này, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa,
Huyện ủy Long Thành đã nhanh chóng nắm các đơn vị Bình
Xuyên trước đây có xu hướng ngả theo cách mạng. Bảy Môn
cùng một nửa tiểu đoàn 3 được các đồng chí Tư Thái, Mười
Thọ dẫn đường vượt lộ 15 về căn cứ Suối Cả của tỉnh. Một bộ
phận tàn quân khác cũng thuộc tiểu đoàn 3 do Mười Đôi, Tư
Đại chỉ huy chạy về núi Thị Vải được Huyện ủy Long Thành
nắm. Ở Phước Khánh, đại đội Ba Phú (Châu Văn Phú) tan rã
gần hết chỉ còn 12 người, được Diệm đưa về đóng đồn Phước
Khánh.
1  Ngày 2 tháng 1 năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố mở chiến dịch “Hoàng
Diệu” truy kích tàn quân Bình Xuyên rút về Rừng Sác.
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Quân Bình Xuyên tan rã, vũ khí vứt khắp nơi trong Rừng
Sác. Huyện ủy Long Thành chủ trương cho thu gom để sử dụng.
Mặc dù thời gian này quân đội chính quyền Diệm vẫn đang truy
lùng trong căn cứ Rừng Sác, nhưng lực lượng cách mạng đã
thu gom được một lượng vũ khí, khí tài lớn do lực lượng Bình
Xuyên bỏ lại1.
Năm 1956, địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu đánh vào
phong trào cách mạng miền Đông. Bọn chỉ điểm, do thám hoạt
động mạnh, một số tên rất lợi hại như Mười Hiếm (Phước An),
Lưu, Bảy Sĩ, Bảy Nhỏ, Mum (Phú Hội), Chín Đối (Phước Thọ).
Ở Phú Thạnh, các tên ác ôn như Tư Lâm, Toàn, Tám Tiến, Út
Hồ ra sức khủng bố, chỉ điểm, bắt bớ cán bộ cách mạng, người
kháng chiến cũ lẫn người dân có cảm tình cách mạng. Xã Phú
Thạnh lúc này có chi bộ mật do đồng chí Võ Hồng Ân làm Bí
thư chi bộ. Đồng chí Võ Hồng Ân về nhà trong đêm lấy lương
thực liền bị chỉ điểm kêu lính bao vây nhà và bắt ngay, sau đó
bị đày ra Côn Đảo và bị tra tấn đến chết. Cùng bị bắt với đồng
chí Ân là đồng chí Dương Văn Thi, cán bộ binh vận Biên Hòa.
Nhiều đồng chí cũng bị bắt.
Thời điểm này địch khống chế, kiểm soát tại xã Phú Thạnh
rất chặt chẽ. Toàn xã chỉ còn 2 đồng chí đảng viên, nhưng phải
1  Chi bộ Phước An đã kịp thời cất giấu được hàng chục tấn vũ khí đạn dược và
2 máy thông tin lớn. Chi bộ Phước Khánh gom giấu được 4 khẩu cối 61, gần 20
súng và rất nhiều đạn. Đồng chí Tư Thái đưa Mười Đôi, Tư Đại đi tìm kho đạn
và lựu đạn của tiểu đoàn 3 đã lấy được 5 ghe lớn, huy động cán bộ, đảng viên và
đồng bào Phước Thọ chở về đồng Ông Trúc chôn giấu an toàn.
121

13.2 Page 122

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
bật về Xóm Hố (xã Phú Hội) và chỉ có thể bám xã theo lối “móc
cần câu”1. Tuy nhiên, phong trào cách mạng vẫn bám rễ được
trong lòng người dân Phú Thạnh, nhất là các gia đình có con,
em, người thân đi kháng chiến. Giai đoạn này, tại xã Phú Thạnh
có 4 tổ thanh niên, 2 tổ phụ nữ và 2 tổ công nhân cao su tham
gia công tác binh vận2. Nhiệm vụ của các cán bộ hoạt động bí
mật tại xã lúc này là phải dựa vào quần chúng để làm nhiệm vụ
tuyên truyền, giáo dục, xây dựng và tập hợp quần chúng, trong
đó cơ bản là các gia đình nghèo, bị địch áp bức phải đi theo
hoặc làm việc cho chúng để giác ngộ họ theo cách mạng. Sau
khi đồng chí Võ Hồng Ân bị bắt, đồng chí Nguyễn Văn Liềm là
Bí thư chi bộ, đảng viên còn lại là Bùi Văn Hoằng.
Để hạn chế sự kìm kẹp của địch ở những vùng yếu, đồng
thời hỗ trợ cho phong trào thanh khiết ở các xã mạnh, Huyện ủy
chủ trương đưa lực lượng vũ trang tuyên truyền vào hoạt động.
Chiều 11 tháng 10 năm 1955, lực lượng vũ trang của ta dưới
danh nghĩa là lính Bình Xuyên đã tổ chức phục kích tiêu diệt
tên Đại úy ác ôn Lê Thành Kham, Đồn trưởng đồn Cao Đài ở
Phú Thạnh, Dốc Lớn (Xoài Minh) khiến người dân Phú Thạnh
rất vui mừng.
Mùa mưa năm 1957, địch cướp 300ha đất của do chính
quyền cách mạng cấp cho gần 300 hộ dân nghèo trước đây ở Cù
1  Cụm từ ám chỉ việc bám từ địa bàn này để từ đó đột nhập vào địa bàn khác
hoạt động rồi trở về.
2  Theo lời kể của ông Lâm Văn Thành.
122

13.3 Page 123

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
lao Ông Cồn, mục đích của chúng là muốn lập “vành đai trắng”
bảo vệ kho đạn Thành Tuy Hạ. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ, hai
bà: Phan Thị Nho1 và Phạm Thị Hoa đã vận động và tổ chức bà
con nông dân đấu tranh bảo vệ ruộng đất. Hơn 300 nông dân,
trong đó hơn phân nửa là phụ nữ xông đến bao vây địch. Chị
em quyết tâm “sẵn sàng thí mạng, chứ không để mất đất”. Có
chị em tranh thủ khuyên giải con, em đi lính đứng về phía nhân
dân. Cuối cùng, bọn địch phải rút lui.
Cuối năm 1957, ta diệt xã Lâm, xã trưởng Long Tân. Tên
Lâm nguyên là một cán bộ kháng chiến cũ đầu hàng địch. Y
quan hệ rất chặt chẽ với lính Cao Đài ở Phú Thạnh kìm kẹp
đồng bào trong xã để làm tiền người dân, nhất là những gia đình
kháng chiến cũ.
Đầu năm 1958, lực lượng vũ trang tuyên truyền của tỉnh
sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Nhà Bè, Cần Giuộc về Long
Thành liên tiếp mở nhiều đợt tuyên truyền ở các xã khu III.
Truyền đơn được rãi khắp nơi, cả ngày lẫn đêm.
Những chủ trương đúng hướng của Huyện ủy đã tạo thế cho
phong trào cách mạng trong toàn huyện từng bước đi lên. Đầu
năm 1958, Long Tân thành lập lại chi bộ 4 đảng viên, có căn
cứ ở Rừng Giồng nằm trên địa bàn xã. Truyền đơn qua cơ sở
đã rải được vào Phú Thạnh, tới tay công nhân Sở Cao su Thành
Tuy Hạ.
1  Mẹ của đồng chí Nguyễn Văn Thông, năm 2014 được phong tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
123

13.4 Page 124

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Để triển khai Nghị quyết 15, Huyện ủy chia vùng và phân
công từng Huyện ủy viên xuống phụ trách. Vùng I: các xã từ
Phước Nguyên, Tam An đến xã Tam Phước, Phước Tân do các
đồng chí Út Mười Hai, Sáu Hiếu, Ba Tấn phụ trách. Vùng II
gồm các xã: từ Long An đến Phước Thái do các đồng chí Ba
Đông, Mười Thọ phụ trách. Vùng III gồm các xã: Phú Hội,
Phước Thiền, Phước Kiển đến xã Phước An, Vĩnh Thanh do
đồng chí Tư Định phụ trách. Vùng IV từ các xã: Long Tân,
Phú Thạnh đến xã Phước Khánh, do các đồng chí Nguyễn Văn
Thông và Nguyễn Văn Liềm phụ trách. Thời điểm này, đồng
chí Nguyễn Văn Liềm đã được điều về huyện, là cán bộ Huyện
ủy Long Thành, phụ trách địa bàn Phú Thạnh, Phước Lý và Sở
Cao su Thành Tuy Hạ.
Ngày 23/12/1959, tại ấp Xoài Minh (xã Vĩnh Thanh), các
đồng chí Mười Xinh, Ba Lệnh, Bảy Sang tổ chức phối hợp lực
lượng du kích 3 xã: Vĩnh Thanh, Phú Thạnh, Đại Phước phục
kích tiêu diệt tên cảnh sát Nghĩa. Nghĩa là dân Công giáo di cư,
sống ở giáo xứ Nghĩa Yên (xã Vĩnh Thanh), làm cảnh sát ở xã
Đại Phước thay cho tên cảnh sát Ngân đổi đi nơi khác. Với ý
thức hệ chống Cộng sản điên cuồng, mới về Đại Phước chưa
được một tháng tên Nghĩa đã lùng sục và bắt bớ những người
tham gia kháng chiến cũ; khủng bố, tống tiền gia đình, người
thân của họ. Nghĩa bố trí phục kích bắn bị thương rồi bắt đồng
chí Tám Chỉ, một cán bộ nằm vùng của ta ở Đại Phước, đồng
thời còn tuyên bố sẽ bắt cho được đồng chí Tư Phương (Trương
Văn Phương), một cán bộ cách mạng khác. Trước sự hung hăng
124

13.5 Page 125

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
và nguy hiểm của cảnh sát Nghĩa, đồng chí Nguyễn Văn Liềm
chỉ đạo các đội du kích phối hợp tìm cách tiêu diệt tên này.
Sau nhiều ngày cử người điều nghiên, các đội viên du kích
nắm được quy luật hàng ngày khoảng từ 5 giờ đến 7 giờ sáng,
tên Nghĩa cùng với một tên tay chân khác thường đi chiếc xe
máy màu vàng từ giáo xứ Nghĩa Yên theo lộ 19 đến đến xã
Đại Phước để làm việc. Phát hiện quy luật này, vào khoảng 3
giờ sáng ngày 23/12, các đội viên du kích phục kích ở ấp Xoài
Minh, đoạn này nằm trên đường đi của tên Nghĩa. Đồng chí
Đặng Văn Thì (Năm Thì), du kích xã Vĩnh Thanh được đội
bố trí theo dõi trên mặt đường để làm ám hiệu. Khoảng 6 giờ
kém 10, thấy tên Nghĩa đi xe máy từ phía Nghĩa Yên đến, Năm
Thì ra hiệu cho các đội viên du kích khác rồi vác một đoạn
cây chuối đi ngược lại phía tên Nghĩa. Khi tên Nghĩa đến gần,
Năm Thì xuất kỳ bất ý dùng đoạn cây chuối xô cho xe máy
của tên Nghĩa ngã ra đường, 3 đội viên du kích Mười Xinh, Ba
Lệnh, Bảy Sang xông ra chém chết tên Nghĩa rồi lấy khẩu súng
Rouleau1 của hắn, cả nhóm rút an toàn về phía Rừng Sác.
Đầu năm 1960, địch tách quận Long Thành thành 2 quận:
Long Thành và Nhơn Trạch. Trụ sở quận lỵ Nhơn Trạch xây
dựng tại xã Phú Thạnh, ngoài chi khu Nhơn Trạch địch còn xây
1  Súng Rouleau là loại súng ngắn có hộp đạn kiểu ổ xoay, thông thường chứa
6 viên vì thế thường được gọi là súng lục, nhưng cũng có thiết kế sử dụng nhiều
đạn hơn. Đây là loại súng cá nhân, kích thước nhỏ, nhẹ, hộp đạn quay 6 lỗ (hoặc
5, 8, 10, 12), trong đó luôn có một ngăn chứa đạn ở vị trí đồng trục với nòng súng.
Súng có khả năng sát thương ở cự li ngắn, từ 25-70m.
125

13.6 Page 126

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
dựng thêm một số căn cứ hành chính, quân sự khác. Trên địa
bàn Phú Thạnh thời điểm ấy dày đặc các cơ quan hành chính,
quân sự của chính quyền Ngô Đình Diệm. Cuộc sống của người
dân Phú Thạnh càng bức bối, ngột ngạt hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, thời gian đầu phong trào hoạt động cách mạng
hai địa bàn này vẫn là một. Cuối năm 1960, Huyện ủy Long
Thành có chủ trương tách thành 2 huyện Long Thành và Nhơn
Trạch. Bí thư Huyện ủy Long Thành là đồng chí Vũ Hồng Phô,
Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch là đồng chí Võ Văn Định. Phó
Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch là đồng chí Nguyễn Văn Thông,
đồng chí Nguyễn Văn Liềm là Ủy viên Thường vụ phụ trách
các Sở Cao su: Bình Sơn, An Viễn, Bà Đầm (sở Siph). Căn cứ
Huyện ủy đặt tại rừng Xóm Hố, gần sở Ông Cố, xã Phú Hội. Tại
đây, đồng chí Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) đã thay mặt Tỉnh ủy
truyền đạt Nghị quyết 15 cho các đồng chí trong Ban Thường
vụ Huyện ủy Nhơn Trạch, mở ra phong trào kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang nhằm củng cố lực lượng, chuẩn
bị đồng khởi trong thời gian tới.
Đầu năm 1961, Tỉnh ủy quyết định chia Long Thành - Nhơn
Trạch thành 4 vùng (ngoài ra, còn có vùng cao su), trong đó xã
Phú Thạnh thuộc vùng IV do đồng chí Nguyễn Văn Liềm phụ
trách. Bí thư chi bộ xã Phú Thạnh thời điểm này là đồng chí
Nguyễn Văn Tình1. Mỗi vùng lại được chia thành hai hoặc ba
cụm nhỏ để triển khai học tập Nghị quyết 15. Huyện ủy Nhơn
1  Hy sinh năm 1963 (theo lời kể của đồng chí Nguyễn Văn Liềm).
126

13.7 Page 127

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Trạch được bổ sung thêm các đồng chí Huyện ủy viên: Năm Hà
(Nguyễn Văn Sương), Nguyễn Văn Bền, Nguyễn Văn Quang.
Cuối năm 1960, sau chiến thắng Tua Hai (Tây Ninh),Tỉnh
ủy điều cho huyện Nhơn Trạch một tiểu đội bộ đội, trong đó
có các đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Đoàn Danh Dự, Dương Văn
Mai, Bảy Phú, Tạ Nông (trước ở đơn vị bộ đội Bình Xuyên của
Châu Văn Phú). Đơn vị có đầy đủ vũ khí, huyện có chủ trương
rút thêm một số cán bộ, thanh niên các xã trên địa bàn bổ sung
cho đơn vị, lấy phiên hiệu là 19/5. Đây là lực lượng vũ trang
đầu tiên của huyện Nhơn Trạch. Đầu năm 1961, đơn vị 19/5
tiêu diệt một trung đội địch tại đường ủi Lòng Chảo, thu nhiều
vũ khí bổ sung cho đơn vị. Từ đó trở đi, đơn vị liên tục được bổ
sung quân số do thanh niên các xã thoát ly tham gia.
Tháng 11 năm 1961, Tỉnh ủy điều đồng chí Võ Văn Định về
làm Bí thư Huyện ủy Vĩnh Cửu, đồng chí Nguyễn Văn Thông
được cử làm Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch. Đồng chí Nguyễn
Văn Liềm là Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Nhơn Trạch.
Tháng 4 năm 1962, địch ráo riết thực hiện kế hoạch Staley
Taylor. Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chủ trương xây
dựng ấp chiến lược, xem đây là xương sống của chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”. Tất cả các lực lượng của địch đều bung
ra, vừa đánh phá phong trào cách mạng, vừa xây dựng ấp chiến
lược để “tát nước bắt cá”, cách ly nhân dân ra khỏi phong trào
cách mạng. Nhơn Trạch được chọn là trọng điểm xây dựng ấp
chiến lược của tỉnh lỵ Biên Hòa. Ở quận Nhơn Trạch, địch chọn
127

13.8 Page 128

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hai xã là Phú Thạnh và Vĩnh Thanh là “điểm” để xây dựng ấp
chiến lược.
Ở Phú Thạnh, nơi địch đặt quận lỵ, toàn xã lúc ấy có 5 ấp,
địch chủ trương tát dân vào xây dựng thành 2 ấp kiểu mẫu.
Đồng bào ở đây chống lại bằng cách bỏ đi nơi khác, hoặc quyết
ở lại giữ nhà, giữ vườn, ruộng. Ban ngày, địch gom dân vào,
đến đêm bà con bảo nhau phá rào trở về vườn cũ. Kế hoạch tát
dân của địch bị thất bại. Mặc dù xây dựng điểm chưa xong, địch
vẫn tiến hành xây dựng một loạt các ấp chiến lược, ở các xã ven
theo lộ 19 và Tỉnh lộ 17.
Để hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc xây dựng các ấp chiến
lược, địch rải quân đóng thành nhiều đồn bót ven theo các lộ
17, 19 và dọc ven theo dòng sông Đồng Môn. Chúng cũng xây
dựng 2 bãi pháo 105 li tại Bến Sắn thuộc xã Phước Thiền và
1 bãi pháo đặt ngay tại chi khu Nhơn Trạch. Địch cũng tăng
cường lực lượng bằng cách điều về đây 2 tiểu đoàn và xây
dựng thêm 4 trung đội địa phương. Bộ Chỉ huy đặt tại quận lỵ.
Có thể nói, xã Phú Thạnh dày đặc lính của chính quyền Ngô
Đình Diệm, hầu như sắc lính nào cũng có mặt: lính thủy, lính
bộ, pháo binh, biệt động, biệt kích, tình báo, địa phương quân,
lính Cao Đài... Bọn lính còn đưa theo gia đình, vợ con, sống tập
trung gần chi khu Nhơn Trạch hoặc Thành Tuy Hạ. Một số hộ
dân đã sống nhờ vào các hoạt động buôn bán, dịch vụ cho quân
đội và chính quyền dân sự.
“Ấp chiến lược kiểu mẫu” Phú Thạnh nằm giữa Bàu Lòng
và Long Tân, địch gom dân Phú Thạnh và các vùng xung quanh
128

13.9 Page 129

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
vào đó. Tháng 5 năm 1962, địch đã xây dựng xong hàng loạt ấp
chiến lược liên hoàn tại các xã Phú Thạnh, Vĩnh Thanh, Phước
Thọ, Phú Hội... Tại xã Phú Thạnh, chúng cắm mốc rào khu vực
rộng tới mấy cây số vuông, ngoài cùng đào hào cắm chông, đất
đem đắp lũy trổ nhiều lỗ châu mai. Bót đặt giữa ấp với đủ hầm
hố chiến đấu. Chúng bắt dân học quốc sách “ấp chiến lược”,
làm xâu không công. Dân khổ cực vì công việc nặng nhọc lại
còn bị chửi mắng thúc ép nên rất bất mãn. Cán bộ và cơ sở,
nòng cốt của ta tuyên truyền giáo dục nhân dân chống phá âm
mưu thâm độc của địch.
Huyện ủy Nhơn Trạch được Khu ủy và Tỉnh ủy chỉ đạo
các cấp phải tích cực chống phá kế hoạch lập ấp chiến lược
của Mỹ - Diệm. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy
đã họp bàn: nếu phá ngay khi địch chưa xây dựng hoàn chỉnh
thì ít khó khăn, tránh tổn thất. Cơ sở mật thông báo tin tức:
địch gom dân vào ấp chiến lược, số dân bị gom còn ít, bà con
bất mãn nên làm chiếu lệ; bên ngoài ấp chiến lược đào hào
chữ A, quây bằng kẽm gai, có khúc hào đào xong, có khúc dở
dang chưa có rào; ban ngày lính canh gác, xét người ra vào rất
nghiêm ngặt, từ 6 giờ tối trở đi là có lịnh giới nghiêm, hàng đêm
đều có lính đi tuần tra; ở giữa ấp có nhà kho chứa cuốc xẻng...
Đồng chí Nguyễn Văn Liềm đã đích thân đột nhập vào Phú
Thạnh điều nghiên, vạch phương án tác chiến. Lực lượng phá
ấp chiến lược huy động khoảng 100 cán bộ, đồng bào các xã:
Phú Thạnh, Phước An, Phước Thọ, Vĩnh Thanh, Phú Hội, theo
kế hoạch sẽ đồng loạt phá ấp chiến lược. Những người tham gia
129

13.10 Page 130

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
phá ấp chiến lược bí mật chuẩn bị một cây dài chừng 5 mét làm
cầu vượt hào. Một đêm cuối tháng 3 năm 1962, ta ra quân. Lực
lượng vũ trang huyện 19/5 và du kích các xã triển khai đội hình
bảo vệ phía ngoài. Ban Chỉ huy ra lệnh tiến công. Anh em bắc
cây làm cầu vượt hào, vào phá các sườn nhà đang dựng, phá kho
lấy dao rựa, cuốc xẻng bang đất san lấp vài đoạn hào. Khoảng
một giờ sau, lực lượng ta rút lui an toàn. Bộ đội bắn vài loạt
súng thị uy để bữa sau dân bị gom có cớ đấu tranh không làm.
Sáng ra, đồng bào thấy hàng rào bị phá, càng thêm vững lòng
tin vào cách mạng, bọn địch thì ngán ngại. Đây là trận mở màn
phá ấp chiến lược đầu tiên trong hai quận Long Thành, Nhơn
Trạch. Khu ủy miền Đông cử các đồng chí Hai Lực và Sáu Phát
về kiểm tra, đánh giá phong trào đấu tranh do Huyện ủy Nhơn
Trạch lãnh đạo có bước phát triển. Rõ ràng việc chống phá ấp
chiến lược phải kết hợp cho được hai lực lượng bên trong và bên
ngoài ấp; kết hợp được hoat động vũ trang với đấu tranh chính
trị và sự góp sức của đồng bào cơ sở bên trong ấp.
Thời điểm này, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm mở
rộng kho đạn Thành Tuy Hạ, đồng thời xây dựng thêm Tổng
kho Long Bình (phường Long Bình, thành phố Biên Hòa hiện
nay), khu quân sự tại căn cứ Nước Trong, có trường Thiết
giáp, trường Sĩ quan, trường Biệt kích trên địa bàn huyện Long
Thành, tạo thành thế liên hoàn tiếp ứng lẫn nhau, đồng thời
kiểm soát chặt chẽ người dân, triệt tiêu phong trào cách mạng.
Cuối tháng 6 năm 1962, nhằm thống nhất việc lãnh đạo
phong trào vùng các đồn điền cao su, Tỉnh ủy Biên Hòa quyết
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
định thành lập Ban Cán sự Cao su trực thuộc tỉnh với nhiệm vụ
lãnh đạo cuộc đấu tranh trong công nhân cao su. Ban Cán sự
Cao su lãnh đạo các đồn điền: Trảng Bom, An Viễng, Bình Sơn,
De La (Đờ La), Thành Tuy Hạ. Bí thư Ban Cán sự là đồng chí
Nguyễn Thành A, đồng chí Huỳnh Thị Phượng là Phó Bí thư.
Lúc này, địch bung ra càn quét mạnh các xã trong huyện
Nhơn Trạch. Lực lượng vũ trang 19/5 tuy khá đông nhưng vũ
khí trang bị không đủ. Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương cán bộ
phải bám dân trong các ấp, lãnh đạo cơ sở cách mạng cốt cán
đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống khủng bố.
Tại hội nghị ngày 3 tháng 2 năm 1962, Ban Thường vụ
Huyện ủy Nhơn Trạch họp kiểm điểm tình hình, phân tích đặc
điểm chiến lược chiến tranh đặc biệt của địch, đề ra nhiệm vụ
chiến lược của địa phương. Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ
Huyện ủy quyết định một số vấn đề quan trọng:
- Thứ nhất, toàn Đảng bộ, quân và dân trên địa bàn quán
triệt sâu sắc đường lối đấu tranh võ trang phải đi đôi với đấu
tranh chính trị trên ba vùng chiến lược: rừng núi - đồng bằng
- đô thị, đánh địch bằng ba mũi giáp công: vũ trang - chính trị -
binh vận. Ta tấn công địch liên tục nhằm phá lỏng, phá rã, tiến
tới phá banh ấp chiến lược, gắn chặt với phát huy giành quyền
làm chủ của nhân dân, phát triển thực lực toàn diện cả bên trong
xóm, ấp lẫn bên ngoài.
- Thứ hai, khẳng định huyện Nhơn Trạch là vị trí chiến lược
của ta cũng như của địch. Vì thế, cuộc chiến đấu dự kiến dần
dần ác liệt và lâu dài như Nghị quyết 15 của Đảng đã nêu ra.
131

14.2 Page 132

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Thứ ba, không ngừng kiện toàn, phát triển toàn diện “thế
mới, lực mới” của ta trên địa bàn huyện, góp phần cùng tỉnh
không ngừng tạo thế mới, lực mới. Muốn đạt mục tiêu này, toàn
Đảng bộ và các lực lượng phải quyết tâm bám trụ địa bàn Lòng
Chảo, bám trụ từng ấp, xã.
- Thứ tư, thực hiện một số chủ trương cụ thể theo quan điểm
nêu trên và theo Nghị quyết của Tỉnh ủy:
+ Phát động toàn Đảng, toàn quân và dân trong huyện mở
đợt đồng loạt phá ấp chiến lược.
+ Chú trọng thu toàn bộ cọc sắt, dây kẽm gai của ấp chiến
lược để xây dựng ô, ụ chiến đấu trong vùng kháng chiến, gắn
với phong trào: “bao vây, uy hiếp đồn bót” ở các xã Phước Thọ,
Phước An, Phú Hội, Phước Thiền... Các cơ quan huyện, căn cứ
du kích xã tổ chức xây dựng hàng rào chiến đấu để bảo vệ cơ
quan, căn cứ của mình.
+ Tổ chức đào địa đạo từng cơ quan và một số xã, kết hợp
với phát triển hầm bí mật trong các ấp vùng sâu và ngoài địa
hình. Thường vụ Huyện ủy tiến hành đào thí điểm địa đạo.
+ Tăng cường chỉ đạo, củng cố công trường, sưu tầm bom
đạn ở bãi hủy Bàu Sen để sản xuất mìn, lựu đạn phục vụ công
tác xây dựng ô, ụ, hàng rào chiến đấu của các cơ quan, đơn vị.
+ Ráo riết chuẩn bị Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng
huyện Nhơn Trạch đúng vào ngày 19 tháng 5 năm 1962.
Đầu tháng 4 năm 1962, ấp chiến lược các xã ở dọc hai trục
Tỉnh lộ 17 và 19 bị phá đồng loạt. Khu vực xã Phú Thạnh - nơi
132

14.3 Page 133

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đóng chân của chi khu Nhơn Trạch cũng bị phá nhiều mảng.
Riêng đồng chí Bí thư Huyện ủy Nguyễn Văn Thông trực tiếp
chỉ huy phá khu trù mật Hang Nai (xã Phước An) - một trong
11 khu trù mật do chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện thí
điểm ở miền Nam. Kết quả, khu trù mật này bị phá banh. Toàn
bộ số cọc sắt, kẽm gai thu được đều mang về xây dựng ô, ụ và
căn cứ chiến đấu theo chỉ đạo của Huyện ủy. Chi bộ xã Phước
An do các đồng chí Mười Nhất, Năm Nguyện, Tám Ngời và má
Nguyễn Thị Hầu tổ chức đưa 48 hộ gia đình bị gom vào khu trù
mật Hang Nai trở về nơi ở cũ, xóa hoàn toàn khu trù mật này.
Sáng 18 tháng 5 năm 1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải
phóng huyện Nhơn Trạch khai mạc tại khu căn cứ cao su gần
bìa rừng Đồng Lớn ở khu Lòng Chảo. 250 đại biểu của 30 đoàn
từ các xã, cơ quan, ban ngành đã về dự. Đại hội xác định dưới
sự lãnh đạo của Đảng, quân dân huyện Nhơn Trạch đoàn kết
một lòng, quyết tâm góp phần cùng quân dân miền Nam đánh
đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội bầu Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện
Nhơn Trạch gồm 13 người:
- Ông Ngô Quang Thanh, đại diện giới tư sản dân tộc, là
Chủ tịch Mặt trận1.
- Ông Nguyễn Văn Bền, Thư ký Nông hội huyện, là Phó
Chủ tịch Mặt trận.
1  Sau này ông được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Biên Hòa.
133

14.4 Page 134

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Ông Nguyễn Văn Thông, đại diện Đảng nhân dân cách
mạng huyện Nhơn Trạch, là Phó Chủ tịch Mặt trận.
- Ông Võ Văn Công, Bí thư Huyện đoàn, là Tổng Thư ký.
- Bà Huyền Tâm, Hội trưởng Phụ nữ huyện, Ủy viên.
- Bà Đỗ Thị Thanh Vân, Phụ trách Công nhân, Ủy viên.
- Ông Nguyễn Văn Sơn, Huyện đội trưởng, Ủy viên.
- Ông Phạm Văn Ngươn (Minh Chính), Trưởng ban Binh
vận, Ủy viên.
- Ông Nguyễn Văn Đôi (pháp danh Thích Đạt Minh), trụ trì
chùa Dốc Lớn (xã Đại Phước), Ủy viên.
- Ông Nguyễn Đắc Cầu, linh mục nhà thờ Phú Hội, Ủy
viên.
- Ông Nguyễn Minh Trí, đại diện giới học sinh, Ủy viên.
Trong số 13 ủy viên của Mặt trận huyện, có bà Đỗ Thị
Thanh Vân là người của xã Phú Thạnh. Bà Đỗ Thị Thanh Vân
tham gia cách mạng năm 1960, thoát ly theo kháng chiến vào
tháng 5 năm 1962, phụ trách công tác cao su. Chồng của bà
Đỗ Thị Thanh Vân là ông Lê Văn Bê (Lê Minh Hướng) cũng
là người của xã Phú Thạnh, tham gia cách mạng từ năm 1960,
thoát ly từ năm 1961, được phân công phụ trách về chính trị địa
bàn xã Phú Thạnh.
Đại hội thông qua Lời kêu gọi toàn thể đồng bào trong
huyện vùng lên, phá toàn diện “quốc sách” ấp chiến lược của
địch, giành quyền làm chủ các xóm, ấp, đem hết sức người, sức
134

14.5 Page 135

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
của phục vụ kháng chiến, góp phần vào sự nghiệp giải phóng
quê hương.
Rạng sáng ngày 19 tháng 5 năm 1962, hàng ngàn đồng bào
trên địa bàn huyện đã về đồng Mu Rùa (xã Phước An) dự lễ mít
tinh mừng Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện Nhơn Trạch ra
đời. Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng huyện ra mắt trong
niềm hân hoan, phấn khởi của mọi người.
Đầu mùa mưa năm 1962, văn phòng Huyện ủy Nhơn Trạch
dời về nhà mẹ Phan Thị Mỹ ở ấp Hố (xã Phú Hội). Công tác đào
hầm bí mật ở đây thành công, Huyện ủy Nhơn Trạch chỉ đạo
nhân rộng mô hình này ra các xã ở vùng kềm, dọc trục đường
lộ 17 và vùng Lòng Chảo như Đại Phước, Phước Khánh, Phú
Thạnh... để cán bộ có thể bám trụ công tác và chiến đấu. Chung
quanh Lòng Chảo Nhơn Trạch thời điểm ấy có đến hàng chục
hầm bí mật lớn nhỏ, có hầm chứa được một bán đội, chứa vũ
khí, tài liệu, cũng có lúc là nơi quân ta xuất kích đánh địch.
Ngày 3 tháng 2 năm 1962, địa đạo Nhơn Trạch được tiến hành
xây dựng. Đồng chí Lê Văn Tâm (Mười Tâm) được giao làm
đội trưởng, chỉ huy khoảng 20 anh em thường xuyên làm việc.
Địa đạo có dạng chữ Z, mỗi đoạn dài 100m, cao 1,8m, bề ngang
0,8m. Từ mặt đất, cửa địa đạo sâu thẳng đứng xuống khoảng
5-7m rồi mới bắt đầu đào ngang, đảm bảo các loại pháo lớn
hoặc bom loại nhỏ của địch có bắn trúng cũng không bị sụp.
Cửa địa đạo thường được mở ở các gốc bụi tre, rễ tre chằng chịt
giữ đất không sụt lở trong mùa mưa. Để đảm bảo bí mật, khúc
135

14.6 Page 136

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
địa đạo đầu tiên đào ngay dưới rừng tre xã Phước An (hiện nay
di tích địa đạo nằm trước cửa cổng Đền thờ liệt sĩ Nhơn Trạch).
Đội đào địa đạo chia thành nhiều tổ, mỗi tổ đều thi đua
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để đào nhanh, chắc chắn,
đảm bảo an toàn. Các cán bộ Huyện ủy, Mặt trận, đoàn thể của
huyện cũng tham gia đào địa đạo sau mỗi đợt công tác. Quanh
miệng địa đạo có các cơ quan Huyện ủy Nhơn Trạch, rồi sau
này là Huyện ủy Long Thành cũng đóng ở đây. Hàng ngàn lượt
cán bộ chiến sĩ đã bám trụ vùng Lòng Chảo, trú ẩn và chiến đấu
ở địa đạo khi bị địch càn quét. Đến năm 1967, đường xương
sống của địa đạo đã dài khoảng 1.500m, có thể chứa được 300-
400 người.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ tại huyện Nhơn Trạch,
địa đạo Phước An đã là nơi ẩn náu, chiến đấu hiệu quả cho lực
lượng cách mạng. Ngày 24 tháng 4 năm 1964, địch mở cuộc
càn lớn vào địa đạo Phước An. Anh em dựa vào ô, ụ chiến đấu
của địa đạo để chống trả. Trong vòng một ngày, 112 tên lính
địch bị tiêu diệt, trong đó có 2 tên cố vấn Mỹ. Về phía ta, đội
trưởng du kích xã Phước An, Nguyễn Văn Minh hy sinh. Chiều
26 tháng 4 năm 1964, cán bộ, chiến sĩ tổ chức lễ truy điệu đồng
chí Minh, đồng thời công nhận đảng viên chính thức cho đồng
chí.
Ngày 27 tháng 1 năm 1966 (tức mùng 7 Tết Bính Ngọ), lữ
đoàn 199 Mỹ dùng trực thăng đổ quân xuống Bàu Điền, cách
địa đạo chỉ 1,5km. Hàng trăm xe tăng, thiết giáp, GMC cũng
136

14.7 Page 137

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đưa bộ binh từ căn cứ Nước Trong (huyện Long Thành) xuống.
Pháo địch dàn hàng sẵn sàng ở đình Long Thuận (xã Lộc An,
huyện Long Thành). Trên trời, máy bay địch liên tục quần đảo.
Dựa vào địa đạo Phước An, quân ta bình tĩnh chống trả hiệu
quả khiến địch phải rút giãn ra xa. Ngày hôm sau, địch đã dội
3.000 quả pháo và bom các cỡ để hủy diệt địa đạo Phước An.
Một trái bom 500kg nổ làm sụp một góc địa đạo, năm đồng chí
hy sinh. Sau 7 ngày càn quét, địch buộc phải rút lui sau khi chịu
nhiều tổn thất.
Khoảng năm 1973, địa đạo Phước An cũng trở thành nơi
“tạm trú” của Đoàn 10, Đặc công Rừng Sác. Anh hùng lực
lượng vũ trang, Đại tá Lê Bá Ước kể lại “Đầu năm 1973, tình
hình rất căng thẳng. Ở Rừng Sác, địch bắn phá liên tục, anh em
không “ngoi đầu” lên được. Vì vậy, Đoàn 10 quyết định đến “ở
nhờ” tại địa đạo, vừa tránh bom đạn, vừa chữa thương cho các
chiến sĩ, đồng thời tranh thủ chế tạo vũ khí chiến đấu.
Tại xã Phú Thạnh, dù là vùng yếu, là nơi đóng chân của chi
khu Nhơn Trạch với vô số các sắc lính, bọn ác ôn, chỉ điểm rình
mò ngày đêm, lúc nào cũng có nguy cơ bị bắt bớ, giam cầm,
nhưng cơ sở cách mạng tại xã đã bí mật đào hầm ngay trong
lòng địch. Hầm bí mật nằm trong vườn ông Tám Bình ở ấp 2,
thuộc lô cao su 20, rộng đủ chỗ cho 6 người ở. Chính tại nơi
này, năm 1963 lực lượng vũ trang C240 do đồng chí Hai Quyết
chỉ huy đã “chém vè” gần 2 tháng trời để điều nghiên tình hình,
lên phương án diệt Tám Tho, một tên ác ôn khét tiếng thời
điểm đó.
137

14.8 Page 138

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Nói đến Tám Tho, người dân Phú Thạnh lẫn khu vực Long
Thành - Nhơn Trạch đều phải rùng mình vì mức độ tàn ác của
hắn. Tám Tho vốn là người xã Phú Thạnh, trước đó không hề
có điều tiếng hay hành vi gì chống phá cách mạng. Sau khi
chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập, hắn đi lính nghĩa quân,
từ đó bắt đầu nổi lên và được chính quyền Mỹ - Diệm tin dùng,
điều khiển để chống phá cách mạng. Năm 1960, hắn là Trung
đội trưởng Trung đội 60, và là “con cưng” của quận trưởng
Nhơn Trạch (tên Trọng). Gia đình nào có con em, người thân
là người kháng chiến cũ, hay có tham gia cách mạng là hắn giở
trò khủng bố để ly khai cách mạng. Gia đình đồng chí Phạm
Văn Đạm (lúc ấy đã đi tập kết) bị hắn khủng bố, phải dời nhà đi
nơi khác. Đồng chí Nguyễn Phước Mừng, người xã Phú Thạnh,
tham gia kháng chiến từ năm 1960 sau đó thoát ly, vợ đồng chí
Mừng là Trương Thị Kiều có thai, bị Tám Tho o ép quá, phải
giả vờ lên ở khu Chuồng Chó1 gần Thành Tuy Hạ để làm quen,
đi lại với mấy tên lính huấn luyện chó ở đây, sau đó mấy tháng
thì trở về, phao tin “lấy lính” có thai để che mắt Tám Tho, chịu
gánh tiếng xấu “lấy trai chửa hoang” để bảo vệ đồng chí Mừng.
Năm 1964, trong một buổi tối về xã Phú Thạnh hoạt động, đồng
chí Mừng lọt vào ổ phục kích của Tám Tho, bị bắn bể gót chân,
đồng đội cõng về đến Phú Hội thì hy sinh. Bà Trương Thị Kiều
âm thầm đưa xác chồng về chôn mà không dám làm đám tang.
1  Để canh gác kho đạn Thành Tuy Hạ, Mỹ lập một khu vực rộng lớn nuôi và
huấn luyện khoảng 100 con chó berge, người dân Phú Thạnh gọi khu vực này là
Chuồng Chó.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Được sự “cổ vũ” của quan thầy là quận trưởng Trọng, sau
này là Thiếu tá Long, Tám Tho ngày càng tàn ác, bắt được cán
bộ, chiến sĩ cách mạng hắn mổ bụng, moi gan khiến người dân
Phú Thạnh rất căm phẫn. Năm 1968, cũng chính Tám Tho bắn
chết đồng chí Nguyễn Văn Phước, người xã Phú Thạnh thoát
ly theo cách mạng, trở về xã hoạt động ngay tại Bàu Trâm, ấp
3, xã Phước Thạnh. Năm 1969, đồng chí Nguyễn Minh Quang
người xã Phú Thạnh thoát ly cách mạng, công tác tại C240
được điều về công tác ở Biệt động thị trấn Nhơn Trạch. Đêm
12 tháng 2 năm 1969, đồng chí Quang đi công tác bảo vệ mùa
màng ở Phú Thạnh thì rơi vào ổ phục kích của quân Tám Tho,
bị bắn trúng chân. Sau khi bình tĩnh vùi hết tài liệu đóng góp
lương thực của bà con cho cách mạng xuống ruộng, đồng chí cố
gắng lết ra xa khu vực giấu tài liệu thì bị bắt. Bằng máy bộ đàm,
bọn lính gọi về chi khu Nhơn Trạch, lập tức có trực thăng đến
ngay, 2 tên Mỹ từ trên máy bay nhảy xuống lôi đồng chí Quang
lên máy bay. Về đến chi khu Nhơn Trạch, đồng chí Quang rơi
ngay vào tay Tám Tho. Tên này rất ác, cứ nhắm vào vết thương
của đồng chí để tra tấn hòng moi tin tức về cách mạng. Trải qua
nhiều nhà giam Hố Nai, Phú Quốc, năm 1973 đồng chí Quang
được trao trả tại Tây Ninh theo tinh thần của Hiệp định Paris.
C240 lên kế hoạch phục kích Tám Tho, sau gần 2 tháng
điều nghiên, nắm được quy luật đi lại của Tám Tho, đồng chí
Hai Quyết cùng một số anh em C240 quyết định tổ chức phục
kích Tám Tho và đám lính nghĩa quân tại một trại hòm ở ấp 3,
139

14.10 Page 140

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
gần nhà bà Nguyễn Thị Vững, một cơ sở cách mạng. Tuy nhiên,
trận đó Tám Tho thoát chết vì không đi cùng đám nghĩa quân
như thường lệ. Trong trận này, hơn một chục tên lính của Tám
Tho đã bị C240 diệt.
Một tên khác cũng bị người dân Phú Thạnh liệt vào hàng ác
ôn, là Nguyễn Văn Cẩm, thường gọi là Hai Cẩm, Trưởng Ban
an ninh của chi khu Nhơn Trạch, cũng là “con cưng” của quận
trưởng Nhơn Trạch1.
Nhiều người dân Phú Thạnh nhận xét rằng, do Phú Thạnh
nằm trong vùng địch kềm kẹp, lọt giữa căn cứ Thành Tuy Hạ
và chi khu Nhơn Trạch nên ngoài việc có mặt của hầu hết các
lính, còn xuất hiện rất nhiều tên ác ôn. Những tên này, thực
chất cũng là chỉ con em địa phương, trước khi tham gia bộ máy
kềm kẹp của chính quyền Sài Gòn đều là những người bình
thường, thậm chí có người rất hiền lành. Nhưng do sự kích
động, khuyến khích và dung dưỡng, thậm chí khen thưởng của
“quan thầy” mới trở nên tàn ác.
Cũng do đặc điểm nằm trong vùng kềm kẹp, ở Phú Thạnh,
nhiều gia đình có con em tham gia cả “hai phía”, người này
tham gia cách mạng, người khác lại tham gia chính quyền, quân
đội Sài Gòn. Đây là hoàn cảnh lịch sử tất yếu. Bên cạnh đó,
cũng có nhiều người tuy làm việc cho chế độ Sài Gòn, nhưng
1  Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, người dân Phú Thạnh phát hiện xác của Tám
Tho và Hai Cẩm nằm cạnh nhau ở Cù lao Ông Cồn với vết đạn bắn vào đầu, bên
cạnh còn chai rượu và con gà luộc. Mặc dầu được cách mạng khoan hồng, nhưng
có lẽ cảm thấy nợ máu quá lớn nên Tám Tho và Hai Cẩm đã tự sát.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
thông qua người thân vẫn âm thầm giúp đỡ cách mạng, cung
cấp đạn dược, vũ khí như trường hợp của ông Nguyễn Văn Bé
(anh thứ Tám của bà Nguyễn Thị Võ), hay chồng của bà Trần
Ngọc Thanh.
Khoảng cuối tháng 7 năm 1963, đồng chí Nguyễn Văn
Thông đi họp trên tỉnh về và phổ biến tình hình. Theo nhận
định của trên, địch có thể tăng cường lực lượng và mở chiến
dịch đánh vào vùng căn cứ của cách mạng, đặc biệt khu Lòng
Chảo. Vì thế Huyện ủy Nhơn Trạch chủ trương phá tỉnh lộ 19
để cản đường xe quân sự của địch.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tổng thống chính quyền Sài
Gòn Ngô Đình Diệm và em trai là cố vấn Ngô Đình Nhu bị
quân đảo chính lật đổ và giết chết. Tiếp sau đó là những cuộc
giành giật về chính trị của chính quyền tay sai. Nhân thời cơ
này, lực lượng cách mạng tiến hành củng cố, mở rộng hoạt
động, đồng thời đẩy mạnh công tác binh vận kêu gọi binh lính
rã ngũ, đào ngũ.
Tại xã Phú Thạnh, nhân cơ hội bọn lính ở chi khu Nhơn
Trạch đang hoang mang, đồng chí Nguyễn Văn Liềm chỉ đạo
đảng viên chi bộ mật và cơ sở cách mạng tăng cường hoạt động.
Ở các ấp trong xã đều có đảng viên thuộc chi bộ mật chỉ đạo
hoạt động, hình thành các cơ sở cách mạng. Bí thư chi bộ mật
là đồng chí Lê Bá Hùng (Hai Hùng). Tổ phụ nữ cũng được hình
thành ở các ấp, là đầu mối rất quan trọng trong công tác tuyên
truyền, binh vận, rải truyền đơn, đóng góp tài chính cho cách
141

15.2 Page 142

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
mạng. Ở ấp 3 có bà Trần Ngọc Thanh, ấp 2 có bà Năm Phụng,
Năm Đành, ấp 1 có bà Nguyễn Thị Võ. Truyền đơn được đồng
chí Hai Hùng đưa vào theo đường giao liên hợp pháp, sau đó
chuyển cho các tổ phụ nữ, từ đó truyền đơn xuất hiện ở khắp
nơi, kể cả trong khu vực Thành Tuy Hạ. Đội du kích mật cũng
được thành lập, có các đồng chí như Phạm Văn Rành1, Đặng
Văn Mọi2, Trần Văn A3, Nguyễn Văn Chỉnh4...
Ngày 9 tháng 10 năm 1966, Tỉnh ủy Bà Biên (lúc này Biên
Hòa - Long Khánh - Bà Rịa sáp nhập, gọi là Bà Biên) có Quyết
định số 028/QĐ sáp nhập huyện Long Thành và Nhơn Trạch
thành huyện Long Thành, gồm 23 xã5 và 2 thị trấn Long Thành,
Nhơn Trạch. Ngày 2 tháng 5 năm 1967, Ban Thường vụ Khu
ủy miền Đông có Quyết định số 12/QĐ-K do đồng chí Phạm
Lực ký, chỉ định Ban Chấp hành Huyện ủy Long Thành gồm
15 đồng chí:
- Nguyễn Văn Thông, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy.
- Châu Văn Lòng, Tỉnh ủy viên dự khuyết, Phó Bí thư.
- Phạm Minh Chính, Ủy viên thường vụ Huyện ủy.
1  Hy sinh năm 1969 tại cù lao Ông Cồn.
2  Hy sinh năm 1967 tại xã Long Tân.
3  Hy sinh năm 1972 tại xã Phú Thạnh.
4  Hy sinh năm 1972 tại xã Phú Thạnh, lúc đó là xã đội phó.
5  23 xã gồm: Phước Thái, Long Phước, Long An, Lộc An, Phước Nguyên, An
Lợi, Tam An, Tam Phước, Phước Tân, Long Hưng, An Hòa, Long Bình, Phước
Thiền, Phước Kiển, Phước Lai, Phước Long, Phước Thọ, Phước An, Phú Mỹ, Mỹ
Hội, Long Tân, Đại Phước, Vĩnh Thanh.
142

15.3 Page 143

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Nguyễn Quang Hạnh1, Ủy viên Thường vụ.
- Huỳnh Văn Sang, Huyện ủy viên.
- Dương Văn Thà, Huyện ủy viên.
- Nguyễn Văn Sanh2, Huyện ủy viên.
- Trần Trung Tấn, Huyện ủy viên.
- Thành Minh, Huyện ủy viên.
- Nguyễn Văn Hà, Huyện ủy viên.
- Nguyễn Văn Đức, Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ Long
Phước.
- Trương Văn Bông, Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ Đại
Phước.
- Trần Văn Nhiệm (Mười Thọ), Huyện ủy viên.
- Nguyễn Nghi Phát, Huyện ủy viên, cán bộ an ninh.
- Đồng chí Nguyễn Văn Bền, Huyện ủy viên, Bí thư Long
Tân.
Giữa tháng 4/1966, Trung ương Cục và Quân ủy Miền
quyết định thành lập Đặc khu Rừng Sác, bao gồm cả hai xã Phú
Hữu và Phước Khánh. Đồng chí Lương Văn Nho được cử làm
Trưởng đặc khu kiêm Chính ủy. Đặc khu Rừng Sác mang tên
Đoàn 10, lúc đầu có 614 cán bộ, chiến sĩ. Trong quá trình hoạt
động, Đoàn 10 luôn có sự phối hợp chặt chẽ và gắn bó mật thiết
với phong trào đấu tranh cách mạng của huyện Nhơn Trạch.
1  Theo đồng chí Nguyễn Văn Thông, là Nguyễn Công Hạnh.
2  Theo đồng chí Nguyễn Văn Thông, là Lê Văn Sanh.
143

15.4 Page 144

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Thời điểm này, địch tiến hành củng cố, mở rộng kho bom
Thành Tuy Hạ, tổng kho Long Bình, xây dựng căn cứ Nước
Trong, liên tục càn quét, đánh phá các tuyến đường sông khu
vực Rừng Sác, sông Lòng Tàu, các căn cứ của ta ở Đông quốc
lộ 15 và khu vực Nhơn Trạch. Tháng 6 năm 1967, quân Mỹ và
chưa hầu Thái Lan liên tục càn quét khắp Rừng Giồng, Rừng
Sác. Máy bay Mỹ rải thuốc hóa học khai quang ở nhiều khu
vực, nhất là vùng Sở Dừa, Phước Khánh và ven sông Đồng Nai.
Các vườn cây trái ở các xã Phú Hội, Tam An, Phú Mỹ bị thiệt
hại nặng nề.
Ngày 1 tháng 3 năm 1967, Huyện ủy Long Thành chỉ đạo
tổ chức đấu tranh chống Mỹ rải thuốc khai quang. Vào khoảng
6 giờ sáng, dưới sự chỉ đạo của các đảng viên mật như: Nguyễn
Thị Ngời (Phước An), Lưu Thị Thương (Phước Thọ), Tư Trang
(Tam An), đồng bào các xã Phú Hữu, Đại Phước đã kéo đến
tập trung tại khu chợ gần bến thuyền lối ngã ba đi về xã Vĩnh
Thanh. Cùng lúc đó một số thuyền từ xã Phước Khánh, Giồng
Ông Đông cũng cập bến, đưa gần 200 đồng bào đến tham gia.
Một số bà con ở ấp Ông Kèo, ấp Xoài Minh, ấp Nhà Máy thuộc
xã Vĩnh Thanh cũng đến tham dự. Khoảng 7 giờ, đoàn người
kéo về quận lỵ, mỗi đoàn đều có 2-3 giao liên, liên tục báo cáo
tình hình để Huyện ủy kịp thời chỉ đạo. Trên đường đi đồng bào
mang khẩu hiệu “Rải chất độc hóa học là phá hoa màu của dân,
là giết dân”, “Phải bồi thường tính mạng tài sản cho dân”, “Phải
thống nhất đất nước”.
144

15.5 Page 145

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Bọn cảnh sát mật vội báo về quận. Địch liền đưa một trung
đội bảo an xuống ngăn chặn. Khi bọn địch đến ngã ba gần lối
rẽ vào nhà thờ Đại Phước thì gặp đoàn biểu tình. Bọn lính lăm
lăm khẩu súng trong tay, quát tháo mọi người dừng lại không
thì bắn. Nhưng đoàn người vẫn bình tĩnh tiến lên. Má Tám
Ứng, đại diện đoàn biểu tình nói: “Chúng tôi cày cấy trồng trọt,
các ông rải chất độc làm cho chết hết lúa, hoa màu, như vậy
là các ông giết dân rồi. Chúng tôi lên hỏi quận trưởng xem lời
tuyên bố của ông ta như thế nào khi ông về làm quận trưởng ở
đây, nào là thực hiện dân sinh, dân chủ, nào là hạnh phúc, ấm
no, vậy rải chất độc có đúng với lời ông ta không?”. Nghe má
Tám Ứng nói, bà con ùa lên phía trước. Bọn lính khiếp sợ vì
số người quá đông, không ngăn cản nổi, vội về quận báo tin.
Khi đoàn người tới quận thì lúc này đồng bào các xã Phú Hội,
Long Tân, Phú Thạnh đang trà trộn từ trước trong phiên chợ
Phú Thạnh, cũng xuất hiện gia nhập cùng đoàn biểu tình và kéo
vào quận lỵ. Bọn lính, bọn nhân viên bảo vệ lẩn trốn. Đồng bào
hô lớn: “Yêu cầu quận trưởng ra nói chuyện”. Lúc đầu Trương
Bảo Thiện lánh mặt, cho Chánh văn phòng là Võ Văn Loài ra
tiếp. Đồng bào không chịu, làm dữ, ném đá. Tình hình căng
thẳng buộc tên quận trưởng ra tiếp dân. Trước lý lẽ đanh thép
của đồng bào, tên này chối quanh “Việc này là do ở trên mấy
ông ấy làm, tôi không can dự”. Trương Bảo Thiện hứa sẽ thỉnh
thị về trên, đền bù tài sản của dân đã bị phá hủy và không rải
chất độc hóa học nữa. Đồng bào đưa 3 bản kiến nghị với hàng
ngàn chữ ký tố cáo tội ác của địch.
145

15.6 Page 146

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Được tin về cuộc biểu tình của đồng bào Nhơn Trạch, quận
trưởng Long Thành vội vã ra lệnh giới nghiêm trên đoạn đường
quốc lộ 15 từ Phước Tân đến thị trấn Long Thành, xuống tới
xã Phước Thái. Chúng đặt 8 trạm canh gác, khám xét đồng bào
qua lại rất nghiêm ngặt. Chúng chỉ cho những người có hàng
hóa mới được vào thị trấn để bán. Trước tình hình trên, Huyện
ủy Long Thành quyết định tổ chức đồng bào đi bằng xe lam,
đóng giả làm người buôn bán để che mắt địch. Đồng bào cũng
kéo đến quận Long Thành, buộc quận trưởng phải cam kết bồi
thường và không rải chất độc hóa học nữa. Do tổ chức chặt chẽ,
chỉ đạo kịp thời, cuộc đấu tranh của người dân Long Thành -
Nhơn Trạch đã đạt kết quả tốt đẹp, biểu dương được lực lượng
và sức mạnh của quần chúng.
Tháng 1 năm 1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định
bố trí lại chiến trường, giải thể Khu miền Đông, thành lập 5
phân khu từ Phân khu 1 đến Phân khu 5 để hình thành 5 mũi
tiến công vào Sài Gòn, thực hiện cuộc tổng tiến công vào năm
1968. Theo đó, Phân khu 4 bao gồm huyện Long Thành (kể cả
Nhơn Trạch), huyện Thủ Đức, quận 1, quận 9, huyện Cần Giờ
và huyện cao su Bình Sơn. Bí thư Phân khu 4 là đồng chí Mười
Chiến. Văn phòng Phân khu ủy đặt tại ngã ba Long Điền, giữa
2 xã Phước Thiền và Phước Nguyên để tiện việc chỉ đạo.
Giữa tháng 1 năm 1967, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm được
Trung ương Cục cử làm đặc phái viên đến căn cứ Rừng Sác
(Phước An) triển khai nhiệm vụ và kế hoạch tổng tiến công
Xuân Mậu Thân 1968 cho Phân khu ủy Phân khu 4 và Đặc khu
146

15.7 Page 147

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Rừng Sác. Bộ Chỉ huy mặt trận Phân khu 4 được thành lập, do
đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh. Một trong những mục
tiêu của các đơn vị lực lượng vũ trang ở huyện Nhơn Trạch là
chi khu Nhơn Trạch, đóng tại xã Phú Thạnh.
Để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968,
từ trước đó ở Phú Thạnh, đồng chí Hai Hùng, Bí thư chi bộ mật
xã Phú Thạnh đã vận động các cơ sở cách mạng đóng góp tài
chính, làm liên lạc, đưa đường cho bộ đội. Mỗi ấp đều có đầu
mối để nhận tiền nhân dân đóng góp tài chính cho cách mạng.
Ở ấp 1 có bà Nguyễn Thị Võ, ấp 3 có bà Bảy, cô Bảy Thông, bà
Năm Đành làm đầu mối của các ấp nhận ủng hộ, sau đó chuyển
cho bà Nguyễn Thị Võ, bà Võ lại chuyển cho ông Phạm Văn
Đấu, một đảng viên chi bộ mật sinh hoạt cùng tổ. Sau khi ông
Đấu hy sinh, bà Võ chuyển tiền đóng góp của người dân Phú
Thạnh cho ông Tám xe bò. Mỗi một đợt chuyển tiền lên đến cả
triệu đồng - một số tiền rất lớn thời bấy giờ, qua rất nhiều khâu
vận chuyển nhưng không hề bị suy suyển đồng nào.
Lúc 0 giờ đêm 30 tháng 1, rạng 31 tháng 1 năm 1968 (tức
mùng Một tết Mậu Thân), các mũi tiến công khắp nơi đồng
loạt nổ súng. Ở xã Phú Thạnh, tiểu đoàn 240 do các đồng chí
Nguyễn Công Hạnh, Trần Hai trực tiếp chỉ huy tiến công bao
vây chi khu Nhơn Trạch, cắt đứt giao thông lộ số 19. Cùng
hỗ trợ, pháo binh của Phân khu 4 đặt pháo tại lô cao su 20 nã
pháo dồn dập vào khu vực chi khu Nhơn Trạch và kho Thành
Tuy Hạ. Cán bộ cũng phát động quần chúng nổi dậy truy lùng
bọn ác ôn, chỉ điểm. Tuy nhiên, sau lúc bất ngờ ban đầu, địch
147

15.8 Page 148

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đã nhanh chóng phản công, đồng thời đưa quân càn vào vùng
Lòng Chảo, vùng Rừng Sác. Lúc này tỉnh lộ 19 đã bị phá hủy.
Tất cả các loại xe không thể qua được. Địch liền đổ quân từ Phú
Thạnh rồi theo lô cao su Tân Tường để càn vào Vũng Gấm, Bàu
Bông. Một cánh quân từ xã Vĩnh Thanh tràn qua Quới Thạnh
đánh tạt lại. Từ phía quốc lộ 15 theo lối Nhà Mát, địch theo qua
đường Bà Ký đổ vào chà xát hai xã Phước Long, Phước Thọ.
Trong trận tổng tiến công Xuân Mậu Thân năm 1968 tại xã Phú
Thạnh, tiểu đoàn 240 diệt được 20 tên lính bảo an và cảnh sát,
đồng thời gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đây cũng là lần đầu
tiên chi khu Nhơn Trạch của địch bị tiến công về quân sự.
Ở hướng Rừng Sác, Đoàn 10 đặc công bắn cháy 5 tàu quân
sự trên sông Lòng Tàu và cảng Cát Lái.
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Mỹ tăng
cường đổ quân hỗ trợ, chính quyền Sài Gòn đề ra kế hoạch
“bình định cấp tốc”. Tiểu khu Biên Hòa đã chọn Long Thành -
Nhơn Trạch và Tân Uyên để thực hiện âm mưu này. Tại Long
Thành - Nhơn Trạch, địch đã tiến hành lượng giá để phân loại
xã, ấp, trong đó các xã: Phước Lộc, Long An, Lộc An, Vĩnh
Thanh, Phú Thạnh và Đại Phước xếp loại A1.
Ngày 10 tháng 5 năm 1968, Phân khu ủy Phân khu 4 có
quyết định tách huyện Long Thành thành 2 huyện Long Thành
và Nhơn Trạch.
1  Xã loại A là những xã địch cho rằng chúng có thể làm chủ cả ngày lẫn đêm.
148

15.9 Page 149

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Tại huyện Nhơn Trạch, đồng chí Nguyễn Công Hạnh là
quyền Bí thư Huyện ủy, đồng chí Phạm Minh Chính là Phó Bí
thư, đồng chí Dương Văn Thả là Huyện đội trưởng.
Rút kinh nghiệm mở vùng Bình Sơn, Huyện ủy chỉ đạo phải
tập trung mở vùng yếu Phú Thạnh, Đại Phước và Vĩnh Thanh.
Trong giai đoạn này, địch tung chiến thuật “Ong ruồi” kết
hợp với hoạt động biệt kích phục kích, gây cho ta nhiều tổn
thất. Tại khu Lòng Chảo Nhơn Trạch, quân chư hầu Thái Lan
và Úc đóng thành từng cụm, có xe tăng thiết giáp và pháo yểm
trợ. Ban ngày, chúng bung ra càn quét, bình định, ban đêm cụm
lại phòng thủ, lính Úc chia thành từng tốp nhỏ lùng sục căn cứ
của ta. Đánh quân Úc không dễ như đánh quân Mỹ, vì chúng
cũng áp dụng chiến thuật du kích của ta. Đặc biệt, từ sân bay
quân sự Biên Hòa, máy bay địch liên tục lên xuống, quần đảo
và ném bom bất cứ khu vực nào mà chúng tình nghi, gây cho
ta nhiều tổn thất.
Trước tình hình đó, Huyện ủy Nhơn Trạch trực tiếp lãnh
đạo toàn Đảng, toàn quân kiên cường bám trụ chiến trường,
“bám thắt lưng” để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời trừng trị
bọn ác ôn điệp báo nằm trong dân. Phong trào bắn hạ máy bay
cũng được phát động trong toàn lực lượng vũ trang.
9 giờ sáng ngày 15 tháng 12 năm 1969, một chiếc trực thăng
rà thấp lùng sục ven mu rùa (Đồng Lớn) cách căn cứ quân y của
huyện Nhơn Trạch chừng 500 mét. Y tá Nguyễn Văn Thơi xách
súng AK luồn rừng theo hướng trực thăng, đợi chiếc trực thăng
149

15.10 Page 150

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đứng xoáy, Thơi bắn một loạt đạn. Chiếc máy bay bốc cháy rơi
tại Đồng Lớn. 30 phút sau, trực thăng chiến đấu lên bắn bừa bãi
một chập rồi cẩu xác chiếc máy bay về hướng rừng Sác. Đó là
trận mở đầu cho phong trào hạ máy bay rà thấp của huyện. Tiếp
đó du kích Phước An, đại đội I, đại đội 240, du kích cao su Bình
Sơn liên tục hạ nhiều máy bay. Điển hình đại đội phó trinh sát
Nguyễn Thành Phương (Đoàn 10) trong một ngày đã bắn cháy
2 chiếc máy bay.
Phối hợp với phong trào diệt máy bay rà thấp, bộ đội, du
kích các xã Bình Sơn, Phú Hội, Lộc An, Tam An, Phước Thiền,
Phú Thạnh đã chủ động đẩy mạnh hoạt động võ trang. Đối với
những xã bị địch khống chế mạnh như Phú Thạnh, Phước Kiển,
Phước Lai, Tam Phước, Long An thì huyện tăng cường thêm
cán bộ về hỗ trợ xã gây dựng cơ sở.
Khí thế quần chúng được nâng lên, lực lượng cách mạng
được củng cố và phát triển. Khởi đầu là tiếng súng diệt ác của
du kích Phú Hội, diệt cảnh sát Tư và trung sĩ bảo an tại cầu Sắt,
cách bót địch không đầy 100m. Sau đó, du kích Bình Sơn, Phú
Thạnh, Phước Thiền, Tam An cũng tăng cường diệt ác ôn. Lực
lượng vũ trang địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức
tập kích, pháo kích vào các đồn Bình Lâm, Long Phước, Bình
Sơn.
Tại xã Phú Thạnh, đội du kích mật đã tổ chức diệt tên ác ôn
Sáu Mót. Đây là tên ác ôn khét tiếng ở chi khu Nhơn Trạch, rất
ranh ma, việc di chuyển, đi đứng không bao giờ theo kế hoạch,
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
lại thường hay đổi hướng nên C240 nhiều lần tổ chức diệt mà
chưa được. Nắm được đặc điểm của y là rất mê gái, đội du kích
mật nhờ một nữ cơ sở cách mạng nhà ở xã Long Tân giả vờ đến
làm quen, sau đó hẹn Sáu Mót đến nhà chơi. Khi Sáu Mót đến,
các đội viên du kích đã phục sẵn, tiêu diệt gọn.
Chỉ trong thời gian ngắn từ những ngày cuối tháng 2 tới
trung tuần tháng 6 năm 1972, hơn 100 tên địch bị diệt, hàng
chục tên ác ôn bị trừng trị, bị bắt, bị cảnh cáo, ba đội phòng vệ
dân sự bị phá rã, ta thu 24 súng các loại và 2 máy truyền tin.
Đáng chú ý là việc diệt tên thám báo Thêm ở ấp Tân Mai 2 vào
ngày 16 tháng 5 năm 1972 làm bọn tề xã và lính bót Phước Tân
co lại, không dám hoạt động. Nắm thời cơ, cán bộ xã đột ấp
tổ chức mít tinh hai đêm 17 và 18, có gần 200 đồng bào tham
dự, vạch rõ tội ác của Thêm. Sáng 19 tháng 5, gần hai chục gia
đình đi gặp hội đồng xã đòi cho họ được làm ăn trên ruộng đất
của mình.
Năm 1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải
thể Phân khu 4. Các huyện Long Thành, Nhơn Trạch cùng với
Đảng ủy cao su nhập vào phân khu Bà Rịa. Đầu tháng 12 năm
1971, Ban Chấp hành Khu ủy Bà Rịa họp hội nghị mở rộng
tại núi Bể. Hội nghị đã tập trung khái quát tình hình toàn diện,
những khó khăn, thuận lợi của từng huyện. Hội nghị cũng kiểm
điểm việc chấp hành Chỉ thị 33 của Trung ương Cục về “Tập
trung chỉ đạo đánh phá bình định, phát triển phong trào làm chủ
xã, ấp trên khắp nông thôn”. Trong 4 năm từ 1968 đến 1971,
lực lượng cách mạng trên địa bàn đã tiêu diệt và làm bị thương
151

16.2 Page 152

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
1.617 tên lính chư hầu Thái Lan. Hội nghị cũng quán triệt chủ
trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Thường vụ Trung
ương Cục miền Nam về “Quyết tâm mở cuộc phản công chiến
lược trên toàn miền Nam, đánh bại cơ bản chương trình bình
định nông thôn của địch, hỗ trợ đắc lực cho cuộc hội đàm tại
Hội nghị Paris”. Phần cuối, hội nghị xác định nhiệm vụ cụ thể
từng địa bàn thuộc phân khu để thực hiện Chỉ thị 33 trong năm
1972, và phân công cán bộ chỉ đạo từng huyện, từng vùng.
Đồng chí Nguyễn Văn Thông được phân công phụ trách các
huyện Long Thành, Nhơn Trạch và cao su Bình Sơn.
Sau hội nghị, các Huyện ủy, Đảng ủy cao su được hướng
dẫn kế hoạch đẩy mạnh hoạt động đánh phá bình định trong
mùa mưa, tạo thế mới, lực mới chuẩn bị “chồm lên” trong năm
1972-1973.
Tháng 7 năm 1972, Huyện ủy Nhơn Trạch do đồng chí
Phạm Thanh Lý, quyền Bí thư Huyện ủy (thay đồng chí Phạm
Minh Chính, Bí thư Huyện ủy hy sinh vào năm 1971) triệu tập
hội nghị quán triệt Chỉ thị 33 tại địa đạo Phước An. Hội nghị tập
trung thảo luận và xác định:
- Vùng trọng điểm số 1 của đợt đánh phá bình định nông
thôn là các xã: Phú Hội, Long Tân, Phú Mỹ và Phước Thiền.
Yêu cầu đặt ra là lực lượng hoạt động công khai phải làm chủ
cả ban đêm và bàn ngày, đánh phá bình định cần đi đôi với xây
dựng và phát triển lực lượng cách mạng.
152

16.3 Page 153

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Vùng trọng điểm thứ 2 gồm các xã: Phước Thọ, Phước
Long, Phước Lai, Phước Kiểng, cần sử dụng nội tuyến kết hợp
với lực lượng vũ trang huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt
các đoàn bình định nông thôn.
- Vùng thứ 3 gồm các xã: Phú Thạnh, Đại Phước, Phú Hữu,
Phước Khánh, đánh phá bình định kết hợp với yêu cầu phát
động quần chúng kết hợp với cơ sở binh vận trong lực lượng
phòng vệ dân sự. Chú ý xây dựng cơ sở và nắm nghĩa quân
cùng dân vệ để phá lỏng, phá rã bộ máy kềm kẹp của địch.
Riêng vùng Vĩnh Thanh là nơi có đông đồng bào miền Bắc
di cư, phần lớn theo đạo Thiên Chúa thì bố trí một số cán bộ
có kinh nghiệm hoạt động ở vùng giáo dân như đồng chí Phạm
Văn Duyên (Hai Duyên), vận động đồng bào bung ra trồng trọt
ở vùng Bàu Sen, Hang Nai.
Hội nghị thảo luận và quyết định vấn đề phát động nông,
ngư dân bám ruộng đồng trồng tỉa, bám sông rạch đánh bắt cá
tôm. Chú ý bố trí đảng viên mật lãnh đạo chặt chẽ bà con làm ăn
ở những cánh đồng rộng như: Ông Mai, Ông Thuộc, Chà Là...
Hội nghị đánh giá: Nhơn Trạch tuy có nhiều khó khăn,
nhưng hoàn toàn có khả năng thực hiện Chỉ thị 33.
Trong năm 1972, Trung ương Cục giải thể các phân khu,
thành lập lại Khu ủy miền Đông, lập lại các tỉnh Biên Hòa
và Bà Rịa - Long Khánh. Huyện Nhơn Trạch thuộc tỉnh Biên
Hòa. Căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòa nằm ở Bàu Hàm (huyện Trảng
Bom hiện nay). Hội nghị Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên Hòa
153

16.4 Page 154

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
họp phiên đầu tiên từ ngày 15 đến 20 tháng 10 năm 1972 xác
định: “Tỉnh Biên Hòa có vị trí chiến lược quan trọng, địch xây
dựng nhiều căn cứ quan trọng như: sân bay Biên Hòa, kho bom
Thành Tuy Hạ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Nha cảnh sát đặc
biệt miền Đông, tổng kho Long Bình, căn cứ Nước Trong...
Biên Hòa chưa có xã giải phóng như một số địa phương khác,
nhưng cán bộ huyện, xã đều bám được địa bàn, bám dân xây
dựng cơ sở, phát động tổ chức phong trào quần chúng nổi dậy,
thực lực cách mạng nơi nào cũng phát triển. Phát huy thắng lợi
đã giành được, lực lượng cách mạng ở Biên Hòa tập trung tiến
công địch, chống càn quét lấn chiếm, kết hợp chặt chẽ ba mặt
võ trang: chính trị, binh vận, quân sự; phát động quần chúng
diệt ác phá kềm, trấn áp bọn phản cách mạng ở vùng yếu, vùng
tranh chấp, tạo điều kiện cho dân bung mạnh ra sản xuất, bao
vây lấn địch giành quyền làm chủ ấp, xã, tạo thế lực mạnh mẽ
chuẩn bị “chồm lên” tiến công địch, mở rộng vùng khi có giải
pháp chính trị, đồng thời sẵn sàng cùng toàn Miền đánh bại âm
mưu ngoan cố kéo dài chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn”.
Sau đợt “Đồng khởi năm 1972” và “chồm lên chiếm lĩnh”
của lực lượng cách mạng, địch đã rất hoang mang lo sợ, thì tiếp
theo đó các trận đánh hiểm vào kho đạn Thành Tuy Hạ càng
làm cho địch dao động và hoảng sợ hơn.
Từ năm 1972, chiến trường miền Nam trở nên ác liệt. Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã làm chủ nhiều vùng đất
trên khắp miền Nam, địch tăng cường sử dụng lực lượng không
154

16.5 Page 155

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
quân ném bom đánh phá vùng giải phóng và hỗ trợ cho quân
đội Sài Gòn trong các đợt càn quét, đồng thời tăng cường ném
bom đánh phá miền Bắc. Để hạn chế sức mạnh quân sự của
địch và cổ vũ cho phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam,
lực lượng của Đoàn 429 đặc công miền Đông Nam Bộ, Đoàn
10 đặc công Rừng Sác của quân giải phóng đã nhiều lần đột
nhập tấn công kho bom Thành Tuy Hạ phá hủy hàng chục ngàn
tấn bom đạn gây tổn thất nặng nề, làm cho địch hoang mang lo
sợ. Những trận tấn công vào kho tàng địch đã tạo tiếng vang
ở trong nước cũng như trên thế giới, điều đó đã cổ vũ mạnh
mẽ cho phong trào cách mạng của các địa phương làm cho
nhân dân ta vô cùng phấn khởi và tin tưởng vào thắng lợi của
cách mạng.
Khi quân Pháp rút khỏi nước ta, đế quốc Mỹ thay chân,
đã mở rộng phạm vi khu kho Thành Tuy Hạ, nhất là giai đoạn
Chiến tranh cục bộ (từ năm 1965).
Đến năm 1965, diện tích khu kho Thành Tuy Hạ đã lên
đến 378,5 hecta, chia làm 6 khu nhỏ. Các tàu trọng tải 10.000
- 20.000 tấn chở vũ khí từ Mỹ hoặc các căn cứ quân sự khác
vào miền Nam, theo sông Lòng Tàu đến đậu giữa sông Đồng
Nai, Cát Lái rồi bốc hàng vào kho Thành Tuy Hạ, sau đó mới
chuyển về Tổng kho Long Bình và các khu vực khác. Những
năm sau đó, Mỹ đẩy mạnh chiến tranh tại Việt Nam, tăng cường
vũ khí, phương tiện chiến tranh nên quy mô của kho Thành Tuy
Hạ càng được mở rộng.
155

16.6 Page 156

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Năm 1972, lực lượng bảo vệ khu kho Thành Tuy Hạ gồm 2
tiểu đoàn bảo an, 2 đại đội quân cụ, 1 đơn vị pháo 105 li và trên
100 con chó berge. Bao quanh kho có hệ thống 10 lô cốt cách
nhau khoảng 200m, giữa mỗi lô cốt đều có bố trí chó berge tuần
phòng, canh giữ. Từ ngoài cổng vào có 11 hàng rào, ở lớp hàng
rào thứ 7 có một số đoạn truyền điện cực mạnh để chống xâm
nhập; 10 bờ đê đất cao 3m có đường xe ở giữa xen trong rào,
có bãi mìn và hệ thống đèn pha ánh sáng cực mạnh. Trên mỗi
lô cốt cũng có đèn pha, ban đêm cứ 5 phút lại quét rọi một lần;
cứ 10-15 phút lại có bộ binh và xe tuần tiễu chạy xung quanh.
Với hệ thống phòng thủ như trên, địch cho rằng kho bom Thành
Tuy Hạ là bất khả xâm phạm1.
Đầu năm 1972, sau hội nghị tổng kết tại Trung ương Cục
miền Nam, các lực lượng được thông báo tình hình phía Mỹ
không chịu ký Hiệp định Paris đúng thời gian thỏa thuận với
Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, đồng thời
ráo riết chuẩn bị tập kích miền Bắc bằng không quân, âm mưu
đưa miền Bắc XHCN “trở về thời kỳ đồ đá”. Đoàn trưởng kiêm
Chính ủy Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác Lê Bá Ước đã đề xuất ý
kiến đánh kho bom Thành Tuy Hạ để phối hợp với chiến trường
chung. Ý kiến này được cấp trên chấp thuận, giao cho Đoàn 10
phối hợp với Huyện đội Nhơn Trạch nghiên cứu thực hiện.
Ngày 15 tháng 3 năm 1972, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường
cho Huyện đội Nhơn Trạch một đội đặc công 7 người (thuộc
1  Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Đồng
Nai 2013, trang 178.
156

16.7 Page 157

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trung đoàn 16, Đoàn 429 Đặc công miền Đông Nam Bộ) do
đồng chí Nguyễn Văn Đơ làm đội trưởng, đồng chí Phan Xuân
Nghĩa là chính trị viên, cùng các đồng chí Nguyễn Văn Hòa,
Nguyễn Văn Vận và 3 chiến sĩ: Long, Tình, Ly1. Huyện đội
Nhơn Trạch lúc đó do đồng chí Huỳnh Văn Quyết (Tám Quyết)
làm Huyện đội trưởng. Đồng chí Tám Quyết đã củng cố đội
đặc công, lấy phiên hiệu là B3, rút đồng chí Võ Văn Quyết (Hai
Quyết), Đại đội phó C240 về làm đội trưởng đội đặc công, cùng
với 2 chiến sĩ của Huyện đội Nhơn Trạch.
Cuối tháng 3 năm 1972, đội đặc công rời phân khu Bà Rịa
về Rừng Sác, nghỉ ở đội trinh sát của Trung đoàn 10 gần 2 ngày.
Người đưa đội đặc công về là bà Trần Ngọc Thanh2. Khoảng 2
giờ chiều, với vỏ bọc là ghe chở lá dừa nước, bà Thanh từ Phú
Thạnh đến nơi hẹn ở vàm Rạch Suối (Tân Tường) thì cắm sào
đợi, giả nghỉ mệt. Đồng chí Hai Quyết dùng đất cục chọi xuống
sông, nhận được ám hiệu, bà Thanh ghé vào bến. Không ai nói
năng gì, 3 đồng chí đặc công trong đó có Hai Quyết, từ lùm dừa
nước chui ra lủi nhanh xuống đám lá dừa nước ngụy trang sẵn
nơi lòng ghe, bà Thanh quay mũi chèo về Phú Thạnh (4 đồng
chí còn lại đi chuyến khác, do tổ khác đón). Trên đường về do
ngược nước, ghe lại nặng nên khẳm hơn bình thường, lại liên tục
gặp tàu tuần giang của địch nhưng bà Thanh bình tĩnh chèo cặp
theo bờ nên bọn địch không nghi ngờ gì chiếc ghe chở lá dừa
nhỏ bé do người phụ nữ lam lũ cặm cụi chèo chống. Khoảng 5
1  Kho K862 - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân, năm 2006, trang 13.
2  Còn có tên gọi là Trần Thị Sang, tham gia cách mạng từ năm 1968.
157

16.8 Page 158

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
giờ chiều, ghe về đến Rạch Kè (Phú Thạnh), bà Thanh đưa cho
các anh mấy hộp sữa đặc đã nấu chín từ trước và vài vắt cơm,
sau đó lại có ghe khác đón cả đội về Vũng Gấm (xã Phước An).
Cách tổ chức của lực lượng cách mạng địa phương rất chặt chẽ
trong công tác phối hợp, người nào việc nấy vừa đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ, vừa hạn chế tổn thất trong trường hợp bất trắc,
bị lộ.
Đội B3 đóng quân ở căn cứ Cây Trắc, gần khu Bàu Lòng.
Kế hoạch của đội là phải tiến hành điều nghiên khu kho Thành
Tuy Hạ, khi nắm chắc là tổ chức đánh ngay.
Để điều nghiên tình hình địch và địa hình kho Thành Tuy
Hạ, đội đặc công đã phối hợp với chi bộ Đảng xã Phú Thạnh
và cơ sở cách mạng tại đây thông qua đầu mối là đồng chí Tám
Quyết1. Thời điểm đó, do hoạt động mật nên đảng viên chỉ sinh
hoạt theo tổ 3 người, mỗi tổ có nhiệm vụ riêng, không ai biết rõ
người và hoạt động của tổ khác.
Trong kế hoạch đột kích phá hủy kho vũ khí Thành Tuy Hạ,
tổ của bà Nguyễn Thị Võ được giao nhiệm vụ tiếp tế cho đội
đặc công. Thời điểm đó, địch tập trung dân Phú Thạnh trong ấp
chiến lược, mỗi sáng khi người dân đi làm, phải qua cổng ấp
chiến lược, địch bố trí khám xét, lục soát rất gắt gao. Ai mang
nhiều cơm, gạo, thức ăn là bọn chúng nghi ngờ, hạch sách ngay.
1  Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Võ. Bà Võ tham gia cách mạng từ năm 1962,
kết nạp Đảng năm 1967, là tổ viên của tổ giao liên mật thuộc chi bộ xã Phú Thạnh
và an ninh huyện Nhơn Trạch, được chi bộ xã Phú Thạnh tổ chức vào làm công
nhân cao su sở Bàu Lòng.
158

16.9 Page 159

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Bà Võ phải giả vờ là nấu cơm đem cho cha đang bị bệnh nặng
để bọn địch không nghi ngờ. Sáng sớm khi đi cạo mủ, bà Võ
giấu cơm, thức ăn (chủ yếu là cá hộp và nước tương), nước
uống trong thùng đựng mủ, đến điểm hẹn thì để ở nơi quy định
trước, giả vờ tróc chó, kêu “Mực, Mực” rồi đi, sau đó sẽ có
người chuyển tiếp đến cho đội. Bà Võ cũng là người mua pin
gởi cho đội đặc công để chế tạo mìn hẹn giờ đánh kho bom.
Về nhiệm vụ điều nghiên, bà Trần Ngọc Thanh kiếm cớ
vào Thành Tuy Hạ thăm người quen đang làm việc tại đây. Bà
Thanh có lợi thế là có chồng đi lính cho chính quyền Sài Gòn,
tạo vỏ bọc tốt nên bà không bị nghi ngờ. Mỗi ngày, bà Thanh
đi từ cổng vào nơi làm việc, dùng khoảng cách bước chân để
đo khoảng cách từ cổng vào kho, ghi nhận các lớp rào, cách bố
phòng của địch, sau đó vẽ thành sơ đồ, có ghi chú. Tài liệu này,
bà Thanh gởi cho đội đặc công qua hộp thư mật đặt ở đầu lô
cao su 7 bằng cách cuốn nhỏ, đặt vào trong chai và chôn dưới
gốc cây lồng mứt ở đầu lô theo quy định trước. Đêm 29 tháng
3 năm 1972, tổ điều nghiên của đội đặc công B3 gồm các đồng
chí: Hai Quyết, Đơ1 và 4 đồng chí nữa đột nhập nghiên cứu kho
đạn Thành Tuy Hạ từ phía Tây. Qua khỏi vòng rào thứ 3, một
đồng chí đạp phải pháo sáng. Địch phát hiện, nên cả tổ phải
lùi ra.
Hôm sau, tổ lại đột nhập kho đạn Thành Tuy Hạ từ hướng
Nam. Vượt qua được 10 lớp rào, bất ngờ đụng bộ binh địch rất
đông, nên lại phải rút ra vì sợ bị lộ.
1  Theo tài liệu Kho K892 - Biên niên sự kiện, tên đồng chí là Đỏ.
159

16.10 Page 160

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Hai ngày sau, tổ đột nhập vào kho đạn lần thứ 3, từ hướng
Bắc. Không ngờ, đây là khu vực bãi mìn cố định dày đặc, không
vượt qua được, các đồng chí trong tổ phải nằm ém lại trong rào
để dò xét. Đêm sau, cả tổ tiếp tục vượt được 6 lớp rào, nhưng bị
địch phát hiện nên phải lùi ra. Trong quá trình di chuyển, một
đồng chí làm rớt lại một chiếc dép râu, thế là lộ hướng đột nhập.
Ba lần đột nhập từ các hướng khác nhau mà chưa tìm ra
được kẽ hở trong bố phòng của địch, Ban Chỉ huy B3 nhận
định: “Vì đã lộ ý định đột nhập kho đạn Thành Tuy Hạ, địch
chắc chắn đã đề phòng, tăng cường đối phó. Muốn thành công,
phải tìm một hướng thật bất ngờ để lọt vào kho đạn”.
Hôm sau nữa, bốn đồng chí trong tổ lại tìm hướng đột nhập.
Lần này, chia làm hai hướng: hai đồng chí vào hướng Tây - Tây
Bắc sát nách quân cảng, chui qua được 8 lớp rào thì trời sáng,
phải tìm chỗ nấp ém lại đến đêm sau thì lọt được vào khu kho.
Riêng hai đồng chí đột nhập theo hướng Nam thì đụng địch, lúc
lùi trở ra đồng chí Bèo bị vấp trái nổ, hy sinh.
Tuy nhiên, bước đầu xem như đội đã thành công: “xoi”
được kẽ hở bố phòng của địch. Quá trình điều nghiên, các đồng
chí nhận định có thể đánh, và phải đánh ngay khi địch chưa kịp
thay đổi cách bố phòng. Phương án đánh báo cáo về trên, được
Huyện ủy Nhơn Trạch đồng ý1. Đồng chí Tình - một đội viên
của đội lấy thuốc bom đúc thành trái nổ, mỗi trái nặng 5kg, có
1  Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, năm 2012, trang
100-106.
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
5 lỗ, một lỗ ở giữa để tra kíp nổ hẹn giờ MI8, 4 lỗ còn lại tra
kíp số 8, mỗi lỗ đều có một ít thuốc nổ C4 để kích thích gây nổ
hết thuốc.
Chiều ngày 7 tháng 4 năm 1972, đơn vị B3 làm lễ xuất
quân. Đồng chí Huyện đội trưởng Tám Quyết đã xuống dự lễ
xuất quân, động viên anh em. Đội hình gồm 3 đồng chí biệt
động thị trấn đi trước làm nhiệm vụ cảnh giới và dẫn đường,
đưa qua lô cao su Tân Tường. Tiếp theo đội hình là mũi đánh
vào bên trong kho, gồm các đồng chí: Đơ, Hai Quyết, Nghĩa,
Vận, Hòa. Phía sau còn có 2 đồng chí Tình, Ly1.
Tổ trưởng Hòa2 chỉ huy 3 chiến sĩ, ôm 16 khối thuốc nổ
âm thầm đột nhập theo hướng Tây - Tây Bắc đã điều nghiên
từ trước. Riêng Hai Quyết mang thuốc nổ đi đầu, khắc phục 6
lớp vòng rào để mở đường vào đến đường tuần tra bên trong.
Vào đến khu vực hàng rào, lực lượng đi đầu và phía sau ở lại,
đội 5 người tiếp tục vào bên trong kho. Vượt qua đường tuần,
đội gặp lớp hàng rào B40, phải trèo lên cây cao su để vượt qua.
Sau khi vào đến mục tiêu, đội bố trí trái nổ đánh theo đội hình
cuốn chiếu trừ trong ra: trái nổ đặt ở 1 kho, bỏ 1 kho, đặt 1 dãy
bỏ 1 dãy để khi đánh trái kích thích nổ được nhiều hơn, hoặc
nếu không cũng buộc được địch phải tổ chức hủy bom đạn vì
không còn an toàn.
1  Theo sách Kho 862 - Biên niên sự kiện, tên đồng chí là Ty.
2  Mất tại huyện Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh vào năm 2014.
161

17.2 Page 162

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Sau khi vào kho, đồng chí Hai Quyết bị kẹt lại do bất ngờ
có một xe quân sự vào trong xuống hàng, phải đến 15-20 phút
sau mới ra được. Thời gian để kíp nổ là từ 1 giờ đến 1 giờ 30,
do vậy anh em phải nhanh chóng thoát ra ngoài. Vừa ra đến
hàng rào cuối cùng thì bom nổ. Các anh em cùng rút qua lô cao
su Tân Tường trở về căn cứ. Riêng đồng chí Đơ bị chó berge
phát hiện, không ra kịp. Hôm sau, tin từ cơ sở cách mạng cho
hay đồng chí Đơ hy sinh trong trận đánh1. Theo lời kể của bà
Thanh, địch đã lôi xác đồng chí Đơ ra phơi ngoài chợ, không
cho đồng bào chôn cất, đến tối thì địch bí mật đem chôn, sau
này Đoàn Đặc công Rừng Sác nhiều lần tổ chức tìm kiếm hài
cốt, nhưng không tìm thấy. Trận đánh này, anh em B3 phá hủy
hơn 10.000 tấn bom đạn của địch. Với chiến công này, đơn vị
được Trung ương Cục miền Nam điện khen ngợi, đồng thời
nhận Huân chương chiến công hạng Nhất2.
Lần thứ hai, vào ngày 13 tháng 8 năm 1972, cũng theo
phương thức trên, anh em B3 một lần nữa đã đặt mìn phá hủy
kho bom Thành Tuy Hạ (chưa thống kê cụ thể được về số lượng
bom mìn đã phá hủy)3.
Lần thứ ba, ngày 12 tháng 11 năm 1972, các chiến sĩ đặc
công B3 tiếp tục bí mật đột nhập, đặt mìn đánh kho bom Thành
Tuy Hạ, phá hủy 50 tấn bom đạn4.
1  Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa - Đồng Nai, Nxb. Đồng
Nai, năm 2013, trang 178-179.
2  Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, Nxb. Văn hóa Văn nghệ 2012, trang 103.
3  Kho K862 - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân 2006, trang 13.
4  Kho K862 - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân 2006, trang 13.
162

17.3 Page 163

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Sau một tháng nghỉ ngơi, Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác chỉ
đạo Đại đội 32 điều nghiên tiếp hướng quân cảng là nơi bố
phòng mỏng để tìm hướng đánh tiếp. Đoàn trưởng kiêm Chính
ủy Lê Bá Ước nhận định: “Ta vừa đánh, địch chưa kịp hoàn
hồn, còn sơ hở. Chúng cũng không nghĩ rằng đặc công dám
đánh tiếp. Vì vậy, cần chớp thời cơ”.
Đêm 12 tháng 12 năm 1972, đội đặc công lúc ấy chỉ còn 7
người vẫn tiếp tục đột kích vào kho bom Thành Tuy Hạ. Hai
Quyết chỉ huy một mũi, đồng chí Hòa chỉ huy một mũi, thọc
sâu vào trung tâm kho. Nằm ém một đêm ở trung tâm kho, đêm
13 tháng 12, cũng theo phương cách như trước, các chiến sĩ đặt
bom rồi rút lui. 2 giờ 55 phút, khi tổ về đến Bàu Sen thì kho
bom nổ tung. Tiếng nổ dây chuyền của hàng ngàn quả bom,
đạn pháo đã làm rung chuyển cả mặt đất, kho bom Thành Tuy
Hạ chìm trong những quầng lửa khổng lồ. Đây là đợt tập kích
lớn nhất, làm kho nổ và cháy suốt 3 ngày đêm, rung chuyển cả
nội ô Sài Gòn, quét sạch chướng ngại vật, 1 tiểu đoàn bảo an, 1
tiểu đoàn quân cụ và đại đội quân khuyển. Theo tài liệu lưu trữ
của địch, 80 kho bị phá hủy sạch, chứa khoảng 60.000 trái bom
tương đương 80.000 tấn, riêng kho bom CBU đóng kín trong
thùng của 15 kho tương đương 33.000m3, loại đạn pháo 105 li
chứa trong 17 nhà kho hơn 1.000.000 quả bị phá hủy 60%, khu
bom thiệt hại 80%1.
1  Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, Nxb. Văn hóa Văn nghệ 2012, trang 109.
163

17.4 Page 164

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Sau trận đánh, các cơ sở cách mạng ở xã Phú Thạnh đã hỗ
trợ trận đánh được Đoàn trưởng Lê Bá Ước mời vào căn cứ
Rừng Sác để khen thưởng, tuyên dương.
Theo lời kể của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Đại
tá Lê Bá Ước, nguyên Chính ủy kiêm Đoàn trưởng Đoàn 10
Đặc công Rừng Sác, trong bốn trận tấn công kho bom Thành
Tuy Hạ thành công, công đầu thuộc về đồng chí Hai Quyết.
Trước đó, Huyện đội Nhơn Trạch do đồng chí Huỳnh Văn
Quyết (Tám Quyết) chỉ huy đã nhiều lần tìm cách đánh kho
bom này, nhưng không thành công. Khi nhiệm vụ được giao
cho Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác, đoàn cũng nhiều lần điều
nghiên tìm cách đánh, nhưng chưa tìm được cách tiếp cận kho
bom vì địch bố phòng rất chặt chẽ. Đồng chí Hai Quyết quê
ở xã Phú Hữu, là con của một công nhân nhà máy Thành Tuy
Hạ, lúc nhỏ nhà nghèo phải đi chăn trâu nên biết rõ từng ngóc
ngách địa thế của vùng này. Khi cùng với các đồng chí đặc
công Đoàn 10 điều nghiên kho bom, đồng chí Hai Quyết đã nhớ
ra một vị trí kín đáo, có thể ẩn nấp để từ đó đột nhập vào khu
kho Thành Tuy Hạ. Nhờ vậy, đội đã hoàn thành nhiệm vụ phá
hủy kho bom. Đồng chí cũng là người rất dũng cảm, mưu trí, có
nhiều cách đánh sáng tạo, luôn xung phong đi đầu trong những
nhiệm vụ hiểm nguy.
Theo lời kể của các nhân chứng, như Đại tá Lê Bá Ước,
bà Trần Ngọc Thanh, ông Nguyễn Minh Quang, khoảng năm
1973, Đại đội 32 Đặc công Đoàn 10 Rừng Sác do đồng chí Hai
Quyết chỉ huy quyết định tiếp tục đánh vào kho bom Thành Tuy
164

17.5 Page 165

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Hạ. Từ Rạch Kè, 5 chiến sĩ đặc công lội xuôi dòng xuống khu
vực Thành Tuy Hạ thì bị hải quân địch phát hiện. Hai Quyết bị
địch bắn gãy tay, bắt sống rồi lôi lên máy bay trực thăng đưa
thẳng về chi khu Nhơn Trạch. Địch đã đưa đồng chí qua nhiều
nhà giam khác nhau, sau đó mất tích. Sau ngày miền Nam giải
phóng, đất nước thống nhất, đồng chí, đồng đội cố tìm tung tích
đồng chí Hai Quyết nhưng vẫn bặt tin...
Sau trận đánh vào kho bom Thành Tuy Hạ của Đặc công
Đoàn 10 Rừng Sác và quân dân xã Phú Thạnh, tinh thần bọn
địch hoang mang, rệu rã. Nhiều đội phòng vệ dân sự trong
huyện đã trả súng, bỏ gác. Lính dân vệ không dám bung ra lùng
sục hoặc có đi là bị bắt buộc. Quận trưởng Nhơn Trạch phải ra
lệnh, bọn lính ở Phú Thạnh mới chịu bung ra lùng sục, nhưng
chúng chỉ kéo lên lô cao su đánh bài, uống rượu suốt ngày đến
chiều tối mới về.
Từ tháng 6 đến hết năm 1973, ở hai huyện Long Thành
và Nhơn Trạch, nhiều tiểu đoàn bảo an, tiểu đoàn thuộc sư 18
quân đôi Sài Gòn tập trung đóng quân ở căn cứ Nước Trong,
làng Cô nhi dọc quốc lộ 15. Địch tập trung hàng trăm xe quân
sự, xe ủi để ủi phá khu vực Bàu Năng, Phước Hòa. Hơn một
chục đoàn cán bộ bình định nông thôn cũng tung về hai huyện
Long Thành và Nhơn Trạch, tiến hành kềm kẹp gắt gao, gây
căng thẳng ở vùng nông thôn. Tỉnh ủy Biên Hòa đã tập trung
chỉ đạo các Huyện ủy, các chi bộ xã và thị trấn tích cực vừa tiến
công địch giành quyền làm chủ tại các xóm, ấp, khu phố, vừa
xây dựng thực lực cách mạng, tạo thế mới ngày càng rộng lớn.
165

17.6 Page 166

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Năm 1973, ở Nhơn Trạch, du kích Phú Thạnh phục kích đón
đánh đoàn bình định nông thôn từ Phước An về, diệt 6 tên, bắt
sống một thiếu úy, thu 8 súng.
Đầu tháng 11 năm 1974, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Biên Hòa
họp mở rộng, đề ra kế hoạch hoạt động cuối năm 1974 và đầu
năm 1975. Hội nghị nhận định: “Thời gian tới, địch sẽ tập trung
đối phó ở những vùng tranh chấp quyết liệt, nhất là các huyện
Long Thành, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu. Về phương hướng, tiếp
tục đẩy mạnh kết hợp chặt 3 mũi: võ trang, chính trị, binh vận
tại cơ sở; mở mảng, mở vùng khi có thời cơ. Các lực lượng vũ
trang trên địa bàn tỉnh bao vây tiêu diệt một số đơn vị bảo an,
dân vệ và bộ máy kềm kẹp ở phân chi khu, ấp, xã, bức hàng đồn
bót vùng tranh chấp, cắt đứt giao thông trên các trục lộ 1, 15,
17, 19 và sông Lòng Tàu; khẩn trương tạo thế và lực mới làm
thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch”.
Sau hội nghị, Huyện ủy Nhơn Trạch tập trung tổ chức thực
hiện tấn công địch trong đợt mở màn đầu mùa khô 1974-1975
trên địa bàn. Vùng trọng điểm của huyện được xác định là các
xã dọc lộ 17, 19, từ Phú Hội, Phú Mỹ, Phước Thiền đến các xã
Phước Kiểng, Phước Lai, Phước Long và Phước Thọ. Riêng xã
Phú Thạnh do địch đóng quân dày đặc tại chi khu Nhơn Trạch,
lực lượng mạnh nên tạm thời chưa tiến công để tránh tổn thất.
Lực lượng địa phương gồm các đơn vị C240, D6, 19/5 và lực
lượng du kích các xã.
12 giờ đêm 7 rạng sáng ngày 8 tháng 12 năm 1974, ta đồng
loạt nổ súng ở các vùng trọng điểm. Hàng chục tên địch bị tiêu
166

17.7 Page 167

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
diệt, 7 đội phòng vệ dân sự bị giải tán, nhiều ban tề, xã bỏ việc
vì sợ hãi. Đoàn 10 cũng phối hợp với du kích Phước An tiến
công vây đánh thiệt hại nặng 1 trung đội bảo an ở đồn Vũng
Gấm.
Đến ngày 31 tháng 12 năm 1974, 12 ấp ở huyện Long
Thành và Nhơn Trạch đã được giải phóng, nhiều đồn bót trên
trục lộ 17, 19 bị bao vây. Nhiều khu vực liên hoàn được giải
phóng như Sở Cao su Bình Sơn, các xã: Tam An, Phước Thái,
Phước Thọ, Phước An.
Ngày 31 tháng 3 năm 1975, Ban Chấp hành Tỉnh ủy Biên
Hòa họp tại căn cứ (gần Sở Cao su Bình Sơn), nhận định: thời
cơ chiến lược đã xuất hiện. Hội nghị quyết định: “Khẩn trương
lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh sẵn sàng khi
có lệnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn tỉnh”.
Theo đó, Ban Thường vụ có các quyết định sau:
- Điều động toàn bộ lực lượng vũ trang và 160 cán bộ ban,
ngành, đoàn thể của tỉnh tập trung vào vùng trọng điểm Long
Thành, Nhơn Trạch.
- Sử dụng toàn bộ lực lượng nội tuyến, cơ sở cảm tình phục
vụ cho đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
- Quyết định thành lập Ủy ban quân quản tỉnh do đồng chí
Võ Văn Định là Chủ tịch.
- Giải phóng đến đâu, tổ chức cứu đói, cấp lương thực,
phương tiện đưa dân về quê cũ, nhất là số đồng bào miền Trung
mới chạy dạt vào.
167

17.8 Page 168

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Tỉnh đội triển khai chu đáo, không để sai sót trong thực
hiện chính sách thương binh, liệt sĩ.
- Huyện Nhơn Trạch chuẩn bị ít nhất 100 xuồng, ghe, tàu
thuyền tại phà Cát Lái (xã Phú Hữu) đưa bộ đội vượt sông tiến
về Sài Gòn.
Năm 1975, xã Phú Thạnh, xã Đại Phước là nơi địch đặt
quận lỵ, vốn là những xã yếu, đến thời kỳ này trở thành địa
bàn tranh chấp mạnh với địch. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh,
Quân đoàn 2 được Bộ Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ đánh
chiếm chi khu Long Thành, Nhơn Trạch để bao vây và tấn công
vào Sài Gòn, Gia Định từ phía Đông Nam.
17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, pháo lớn của ta đặt ở
đồng Xã Hoàng nã vào các mục tiêu ở chi khu Long Thành
và căn cứ Nước Trong. Cùng lúc, xe tăng ta mở đường cho bộ
binh từ khu vực Bình Sơn tiến công vào các mục tiêu. Ngày 27
tháng 4, lực lượng của ta cơ bản làm chủ thị trấn Long Thành.
Quân đoàn 2 được giao nhiệm vụ chia làm hai mũi: một mũi
đánh chi khu Long Thành dọc quốc lộ 15 xuống Bà Rịa - Vũng
Tàu, một mũi đánh tạt sang Nhơn Trạch để mở mặt trận bao vây
Sài Gòn từ phía Đông Nam. Lực lượng vũ trang tỉnh chịu trách
nhiệm đánh cụm pháo Phước Thiền. Bí thư Huyện ủy Nhơn
Trạch Phạm Thanh Lý cùng Đảng bộ cơ sở chỉ đạo lực lượng 3
mũi tại ấp, xã đã bao vây, bức hàng một số đồn địch. Hàng trăm
đồng bào các xã Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân hăng hái góp
phần lo cơm nước cho các đơn vị bộ đội chủ lực theo đường 17
tiến về Sài Gòn.
168

17.9 Page 169

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Sáng 28 tháng 4, ta tiến công chi khu Nhơn Trạch. Du kích,
cơ sở cách mạng và người dân xã Phú Thạnh đã tích cực đưa
đường, tiếp tế lương thực cho các chiến sĩ để sớm giải phóng
quê hương. Đến chiều, bọn địch ở chi khu Nhơn Trạch tháo
chạy về phía phà Cát Lái. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo
tiếp quản chi khu. Ủy ban quân quản được thành lập, do đồng
chí Phạm Văn Đạm làm Chủ tịch.
16 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 2 nổ
súng tấn công, đồng thời bắn pháo vào kho đạn Thành Tuy Hạ.
Sau 1 giờ chiến đấu, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 tràn vào,
đánh chiếm và làm chủ hoàn toàn yếu khu Thành Tuy Hạ. Lực
lượng ngụy quân đóng ở Thành Tuy Hạ do Thiếu tá Trần Thành
Châu, Phó chỉ huy trưởng cùng toàn bộ binh lính kho Thành
Tuy Hạ đã đầu hàng quân giải phóng, một số bỏ chạy ra hướng
quân cảng, dùng tàu thủy tháo chạy. Đúng 17 giờ 30 phút ngày
29 tháng 4 năm 1975, kho bom Thành Tuy Hạ và các xã trong
khu vực như: Vĩnh Thanh, Đại Phước, Phú Hữu, Phước Khánh
và quận lỵ Nhơn Trạch hoàn toàn giải phóng. Trung đoàn 46
và Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325) là hai đơn vị trực tiếp giải
phóng và chốt giữ bảo vệ kho Thành Tuy Hạ1. Số xuồng, ghe
do Huyện ủy Nhơn Trạch chuẩn bị từ trước đã đưa bộ đội Quân
đoàn 2 vượt sông tiến về Sài Gòn.
Tuy nhiên, trong lúc bọn địch tìm cách chống lại quân giải
phóng hòng giữ Thành Tuy Hạ, đã dùng pháo bắn ra ngoài,
1  Kho K862 - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân, năm 2006, trang 14.
169

17.10 Page 170

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
trúng khu ấp Chợ của Phú Thạnh, làm cháy hàng chục căn nhà
của dân. Pháo địch cũng bắn trúng trường cấp 3 ở Phú Thạnh.
Tại đây có cả trăm người dân từ miệt Long Khánh, Trảng Bom
tản cư đang trú ngụ, pháo bắn trúng làm hàng chục người chết,
trong đó có cả trẻ con, rất tang thương. Một số người dân xung
quanh đã đào hố chôn những người xấu số này ngay trong
khuôn viên trường1.
Trưa 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống chính quyền Sài
Gòn Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng quân giải phóng.
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước ta hoàn toàn thống nhất.
Thế nhưng, đến 14 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nhóm
4 tên trong đó có quận phó Nhơn Trạch là Trung úy Đức vẫn
ngoan cố chống trả, tìm cách mở đường để ra tàu thủy ở Quân
cảng, gây thương vong cho nhiều chiến sĩ Quân đoàn 2.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, thực dân Pháp rút, đế
quốc Mỹ thế chân. Lực lượng nòng cốt kháng chiến tập kết
ra Bắc. Đế quốc Mỹ thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn tàn
ác, thâm độc, tinh vi hơn cả thực dân Pháp, nên người dân
Phú Thạnh chịu đựng sự khủng bố, gian khổ, mất mát, hy sinh
nhiều hơn.
Đế quốc Mỹ tăng cường lực lượng, biến Thành Tuy Hạ
thành kho vũ khí khổng lồ, căn cứ quân sự bất khả xâm phạm,
sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại để tận diệt phong trào
cách mạng, xây dựng ấp chiến lược, dồn dân, nuôi dưỡng bọn
1  Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Võ.
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tay sai ác ôn để người Việt hãm hại người Việt, biến Phú Thạnh
thành vùng trắng. Cuộc đấu tranh càng ác liệt, quân dân Phú
Thạnh càng tạo nhiều chiến công oanh liệt. Đảng đã bí mật tổ
chức được các lực lượng đoàn thể nòng cốt trong công nhân
cao su, trong các giới, kết hợp với các lực lượng vũ trang góp
phần tạo nên nhiều chiến công vang dội, như bốn lần đốt cháy
kho bom Thành Tuy Hạ. Tưởng là Phú Thạnh đã bị địch biến
thành vùng trắng, nhưng nơi đây đã trở thành mảnh đất gieo
cấy, trưởng thành nhiều hạt giống đỏ cho cách mạng.
Đến năm 1975, Phú Thạnh góp công quan trọng vào việc
giải phóng căn cứ Thành Tuy Hạ, chi khu Nhơn Trạch, đưa đại
quân giải phóng vượt sông tiến về Sài Gòn.
171

18.2 Page 172

▲back to top


Chương V
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
(1975 - 2020)
I. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
CHIẾN TRANH, ỔN ĐỊNH KINH TẾ - XÃ HỘI (1975 -
1985)
1. Giai đoạn 1975-1981
Sau chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng
4 năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, chính quyền cách
mạng tiếp quản xã Phú Thạnh. Đồng chí Lê Bá Hùng giữ nhiệm
vụ Bí thư xã, đồng chí Nguyễn Văn Thừng giữ nhiệm vụ Chủ
tịch xã.
Cũng như nhiều địa phương khác, ngay sau ngày đất nước
thống nhất, xã Phú Thạnh đứng trước muôn vàn khó khăn. Toàn
xã lúc đó có khoảng 1.000 hộ dân, thì khoảng gần 60% là lính,
nhân viên hoặc có liên quan đến chính quyền Sài Gòn trước
đây; hoặc sống tập trung quanh chi khu Nhơn Trạch, kho Thành
Tuy Hạ và các trại gia binh làm các nghề buôn bán, dịch vụ,
“chợ trời” để sinh sống, kinh tế hoàn toàn lệ thuộc. Khi chế
độ Sài Gòn tan rã, các hộ gia đình này mất nguồn thu nhập,
172

18.3 Page 173

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
lại không có đất đai để sản xuất nên ngay lập tức lâm vào tình
trạng khó khăn, thậm chí thiếu đói. Các hộ sống bằng nông
nghiệp đời sống cũng khó khăn, lúa chỉ trồng được một mùa,
năng suất lại kém, chưa đầy 1 tấn/hecta. Vì thế, việc giải quyết
lương thực, thực phẩm cho người dân trong xã những ngày đất
nước mới thống nhất là vấn đề nan giải của chính quyền cách
mạng xã Phú Thạnh lúc bấy giờ. Nhiều gia đình trong xã phải
ăn độn bo bo do Liên Xô (cũ) viện trợ.
Xã Phú Thạnh thời điểm đó đất đai còn bị bỏ hoang hóa rất
nhiều. Diện tích nông nghiệp kể cả trồng lúa, trồng hoa màu
chỉ khoảng trên 100 hecta. Chính quyền và các đoàn thể trong
xã, nhất là Đoàn Thanh niên do đồng chí Sáu Trang làm Bí thư
Đoàn xã đã tích cực vận động người dân tăng gia sản xuất, làm
rẫy khoai, rẫy mì để giải quyết nạn đói trước mắt. Tuy nhiên, do
bom mìn trong chiến tranh còn sót lại trên địa bàn xã khá nhiều
nên nhiệm vụ khai hoang phục hóa gặp không ít khó khăn.
Nhưng với quyết tâm của chính quyền cách mạng địa phương,
nạn đói dần được khắc phục.
Một trong những nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu tại
xã lúc ấy là ổn định tình hình chính trị. Trong chiến tranh, số
người dân trong xã đi lính, làm việc cho chế độ cũ không ít,
trong đó có một số ác ôn, gây nhiều nợ máu với nhân dân.
Nhưng với chính sách khoan hồng, “đánh kẻ chạy đi, không
đánh người chạy lại”, chính quyền cách mạng đã vận động, kêu
gọi số đối tượng này đăng ký học tập cải tạo. Sau năm 1975,
số đối tượng tập trung cải tạo trên địa bàn xã là 332 người, đa
173

18.4 Page 174

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
số được tham gia học tại chỗ. Việc tổ chức học tập cải tạo diễn
ra thuận lợi, suôn sẻ, hầu như không xảy ra sự xung đột nào do
chính quyền xã làm tốt công tác vận động. Tuy nhiên, cũng có
một vài trường hợp người dân, kể cả một số anh em chiến sĩ vì
quá căm thù, uất ức nên đã thủ tiêu những tên ác ôn, như trường
hợp của Trưởng chi cảnh sát tên Hùng, gây rắc rối trong công
tác ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Chính quyền
xã đã kịp thời chỉnh đốn, giải quyết tình hình.
Các giáo phái trên địa bàn xã, trong đó có các phần tử đạo
Cao Đài phản cách mạng cũng dần chấp hành tốt các chính sách
của chính quyền.
Trước năm 1975, tại xã Phú Thạnh chính quyền Sài Gòn chỉ
chú trọng đến tăng cường quân sự để đảm bảo an toàn cho chi
khu Nhơn Trạch và kho bom Thành Tuy Hạ, không quan tâm
đến vấn đề dân trí. Toàn xã có khoảng 70% dân số bị mù chữ,
cả xã chỉ có một trường công lập Phú Thạnh1 với 80 học sinh
theo học 2 lớp đệ thất, đệ lục, đến năm 1972 mới có 7 lớp từ
lớp 6 đến lớp 12. Do trình độ dân trí thấp nên công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội của xã gặp nhiều hạn chế. Người dân làm
nông nghiệp theo kiểu “xưa bày nay vẽ”, không có sáng tiến cải
tiến, chưa biết áp dụng khoa học kỹ thuật nên khó phát triển và
đổi mới. Ngay sau khi vừa ổn định, chính quyền cách mạng đã
tập trung cho phong trào xóa mù chữ. Nhiều giáo viên đã tích
cực bám trụ tại các ấp để tham gia lớp học bình dân học vụ, xóa
1  Xây dựng và khánh thành đưa vào sử dụng vào ngày 1 tháng 10 năm 1965.
174

18.5 Page 175

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
mù chữ cho người dân. Được sự chấp thuận của UBND huyện
Long Thành, trụ sở chi khu Nhơn Trạch - nơi làm việc của ngụy
quyền Sài Gòn cũ tại xã Phú Thạnh với cơ sở vật chất khang
trang nhất đã ưu tiên dành cho giáo dục, trở thành Trường bổ
túc văn hóa xã Phú Thạnh.
Thời điểm này, xã Phú Thạnh chưa có Đảng bộ, chi bộ Đảng
xã có 7 đảng viên đều là cán bộ cách mạng hoạt động trong thời
kỳ kháng chiến, gồm các đồng chí: Lê Bá Hùng (Bí thư chi bộ),
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Minh Quang, Huỳnh Hữu Nghĩa,
Nguyễn Thị Võ, đồng chí Cốc (tự Nhứt) và đồng chí Hanh.
Năm 1976, xã Phú Thạnh cũng như nhiều địa phương khác
bước vào giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 1 (1976-
1980). Tình trạng thiếu lương thực vẫn rất gay gắt, nhiều gia
đình trong xã vẫn còn bị đứt bữa, nhất là thời điểm giáp hạt.
Thế nhưng, mặc dù khó khăn, thiếu thốn, nhưng chính quyền
xã vẫn ưu tiên xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế phục vụ cho
người dân trong xã.
Ngoài Trường công lập Phú Thạnh (cấp 2, 3), chính quyền
xã Phú Thạnh đã mượn đất nhà ông Bảy Tý tại ấp 1 xây dựng
Trường mẫu giáo Phú Thạnh với 2 lớp học, do 2 giáo viên đảm
trách. Năm 1976, Trường công lập Phú Thạnh tách cấp 2 ra
khỏi hệ thống, chỉ còn lại cấp 3, là Trường THPT Nhơn Trạch.
Về Sở Cao su Thành Tuy Hạ, ngày 5 tháng 5 năm 1975, Ủy
ban quân quản (sau đổi thành Ủy ban nhân dân cách mạng) tỉnh
Biên Hòa tiếp quản. Ngày 8 tháng 11 năm 1975, Ủy ban nhân
175

18.6 Page 176

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
dân cách mạng tỉnh Biên Hòa có Quyết định số 43/QĐ/UBT về
thành phần Ban Giám đốc Sở Cao su Thành Tuy Hạ như sau:
- Giám đốc: Đỗ Thị Thanh Vân (phụ trách từ tháng 5 năm
1975 đến tháng 10 năm 1976).
- Phó Giám đốc phụ trách hành chính: Phạm Văn Hinh.
- Ủy viên phụ trách nhà mủ, nhà niêm, kho vật tư: Lê Văn
Ngàn.
- Ủy viên phụ trách máy móc, nhiên liệu: Võ Văn Anh.
- Ủy viên phụ trách cạo mủ và trồng trọt: Cao Văn Nuôn.
Trong tổng diện tích 3.399 hecta, có 454 hecta cao su đang
lấy mủ. Số công nhân chính thức của nông trường là 249 người.
Ngoài ra, còn khoảng 30-40 công nhân thời vụ (trồng mới, dẫy
cỏ các lô chưa lấy mủ, trồng dậm, ghép giống...). Thu nhập của
công nhân từ 59-72 xu/ngày (5 tiếng cạo mủ buổi sáng), ngoài
ra còn có phụ cấp 0,93kg gạo/ngày. Bình quân, nông trường
thu hoạch mủ 550 tấn/năm. Với giá thành 30 xu/kg mủ, còn lời
ròng khoảng 187.000 đồng/năm.
Ngay sau khi tiếp quản, nông trường đã xây dựng kế hoạch
sản xuất kinh doanh năm 1976. Theo đó, toàn thể nông trường
phấn đấu mức thu 550 tấn mủ/năm, trồng mới 200 hecta cao su,
mở rộng nhà xông nhằm tăng năng suất vượt năm 1975.
Trước 30 tháng 4 năm 1975, Sở Cao su Thành Tuy Hạ có
một văn phòng thương mãi tại số 252 Cống Quỳnh (Sài Gòn)
do viên quản lý người Pháp Jean Beziat và một số nhân viên
như Ngô Ngọc Đồng, Thạch Văn Chơn, Nguyễn Văn Chất phụ
176

18.7 Page 177

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trách. Sau khi tiếp quản, những người nói trên đã sử dụng tư
cách pháp nhân của văn phòng thương mãi để rút 59.823 đồng
của Sở Cao su Thành Tuy Hạ từ 2 ngân hàng là Pháp Quốc ngân
hàng và Mékông ngân hàng. Vì thế, ngày 23 tháng 3 năm 1976,
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đồng Nai (lúc
này đã thành lập tỉnh Đồng Nai) Nguyễn Văn Hòa đã có văn bản
số 215/UBT gởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng Quận I,
Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị thu hồi cơ quan văn phòng nói
trên cùng cả 2 tài khoản của Sở Cao su Thành Tuy Hạ, giao về
cho Ban Giám đốc Sở Cao su Thành Tuy Hạ điều hành.
Năm 1977, đồng chí Dương Văn Hà làm Chủ tịch xã thay
đồng chí Nguyễn Văn Thừng nghỉ mất sức. Năm 1979, đồng
chí Nguyễn Văn Thu làm Bí thư xã thay cho đồng chí Lê Trung
Chánh về làm Bí thư xã An Lợi; đồng chí Nguyễn Minh Quang
làm Chủ tịch xã thay cho đồng chí Dương Văn Hà nghỉ hưu
theo chế độ.
Năm 1981, đồng chí Lê Bá Hùng giữ nhiệm vụ Bí thư xã,
đồng chí Phan Trường Xuân làm Chủ tịch xã. Ngày 15 tháng
8 năm 1981, đảng viên đầu tiên của địa phương được kết nạp
từ sau ngày đất nước thống nhất là Bí thư Đoàn Thanh niên xã
Phạm Văn Sảnh.
2. Giai đoạn 1982-1986
Năm 1982, chi bộ xã Phú Thạnh có 16 đảng viên, sinh hoạt
ở 4 tổ Đảng, trong đó có 1 tổ cán bộ hưu trí. Từ năm 1983 đến
1985, đồng chí Nguyễn Thế Hòa là Bí thư chi bộ thay đồng chí
177

18.8 Page 178

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Lê Bá Hùng. Đến năm 1985, đồng chí Lê Văn Tâm là Bí thư
chi bộ.
Bước vào giai đoạn này, tình hình xã Phú Thạnh vẫn còn
rất nhiều khó khăn. Toàn xã có 1.128 hộ với 6.438 nhân khẩu,
trong đó có đến 89% sống bằng nông nghiệp, nhưng diện tích
gieo trồng chỉ có 235 hecta, trong đó có 95 hecta lúa nước có
sản lượng, còn lại là vườn tạp, rẫy trồng mì, khoai lang, mía,
cho thu nhập không đáng kể. Năng suất lúa đạt thấp, bình quân
đạt 1,7 tấn/hecta, cả xã có 87 con trâu (37 con cày kéo), 172 con
bò (21 con cày kéo), 340 con heo (29 con nái), đàn vịt 1.500
con. Dụng cụ kỹ thuật nông nghiệp rất ít, chỉ có 2 máy xới, 7
máy xay xát lúa. Về công thương nghiệp, toàn xã có 135 hộ
kinh doanh, buôn bán.
Xã cũng có một hợp tác xã mua bán quốc doanh phục vụ
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng các loại cho người dân.
Ngày 15 tháng 11 năm 1982, chi bộ xã Phú Thạnh tổ chức
Đại hội Đảng lần thứ IV (nhiệm kỳ 1982-1986). Đại hội đã chỉ
ra những hạn chế, khuyết điểm trong thời gian trước như sau:
- Số đảng viên trong chi bộ hoạt động yếu, thiếu kinh
nghiệm, trình độ thấp nên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Một
số lo kinh tế riêng, ít tham gia các hoạt động của địa phương.
- Giữa chính quyền và tổ chức Đảng địa phương chưa có sự
thống nhất cao trong hoạt động chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ.
Các ban ngành, đoàn thể hoạt động yếu, rời rạc.
178

18.9 Page 179

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đại hội nhất trí đề ra các phương hướng, nhiệm vụ và chỉ
tiêu cho nhiệm kỳ 1982-1986 như sau:
- Tiếp tục tổ chức các lớp văn hóa cho cán bộ xã học hết
cấp 1, nâng cao trình độ. Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ phát triển
mới 19 đảng viên.
- Phấn đấu tăng diện tích nông nghiệp lên trên 300 hecta,
trong đó 140 hecta trồng màu (100 hecta trồng mía). Đưa năng
suất lúa đạt trên 2 tấn/hecta. Quyết tâm chuyển sang trồng lúa
2 vụ để tăng cao sản lượng.
- Tăng đàn trâu lên trên 120 con (87 con cày kéo), đàn bò
lên 200 con (172 con cày kéo), đàn heo lên trên 1.000 con (340
con nái), đàn vịt 2.500 con (1.000 vịt đẻ).
- Mở rộng Hợp tác xã mua bán quốc doanh ra 2 đại lý ở ấp
2, ấp 3, vận động số vốn 30.000 đồng để lo nguồn hàng phục
vụ nhân dân. Tổ chức 1 hợp tác xã cơ khí, mua bán nông nghiệp
để phục vụ cho các tập đoàn nông nghiệp và các tổ vần công.
- Sửa chữa và tu bổ nhà làm việc Ủy ban nhân dân xã, xây
dựng 3 lớp mẫu giáo ở 3 ấp và 2 lớp mẫu giáo ở 2 tập đoàn phục
vụ nhu cầu gởi con em của người dân. Sửa chữa trường cấp 1,
2 để có đủ chỗ cho 1.500 học sinh.
- Đầu tư xây dựng trạm y tế, vận động nhân dân giữ vệ sinh
bằng cách ăn chín, uống sôi; làm hố xí hợp vệ sinh, lấp hồ nước
đọng để diệt ruồi, muỗi, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân trên
địa bàn. Vận động nhân dân sửa chữa lại khu chợ để có chỗ mua
bán phù hợp, theo hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm.
179

18.10 Page 180

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Đại hội cũng đưa ra chủ trương sắp xếp các hộ làm nông
nghiệp vào 2 tập đoàn, gồm 1 tập đoàn lúa nước (30 hecta) và 1
tập đoàn mía (40 hecta), số còn lại đưa vào tổ đoàn kết sản xuất.
Thực hiện cải tạo công thương nghiệp, số hộ buôn bán cũng
phải vào làm ăn tập thể nhằm quản lý chặt chẽ nguồn hàng thực
phẩm, lương thực, hướng đến xóa dần kinh doanh để đưa ra lao
động nông nghiệp.
Riêng 71 hộ phi nông nghiệp (734 nhân khẩu), chủ trương
địa phương là giải quyết đưa vào lao động nông nghiệp, quy
định mỗi nhân khẩu phải làm 1 công đất trồng màu hoặc mía.
Giai đoạn này, đồng chí Phạm Văn Sảnh là Chủ tịch xã.
II. LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI - XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1986 - 2010)
1. Giai đoạn 1986 - 1990
Ngày 28 tháng 6 năm 1986, chi bộ xã Phú Thạnh tổ chức
Đại hội Đảng lần thứ V (nhiệm kỳ 1986-1990).
Trong nhiệm kỳ qua, một số chỉ tiêu của xã đạt và vượt.
Diện tích nông nghiệp toàn xã tăng lên 342 hecta (vượt chỉ tiêu
42 hecta), năng suất lúa cũng tăng lên 2,2 tấn/hecta (vượt chỉ
tiêu 0,2 tấn/hecta). Năng suất các loại rau màu cũng tăng đạt
chỉ tiêu nghị quyết. Về chăn nuôi, tổng đàn trâu trong xã có 200
(vượt 80 con), đàn bò 240 con (vượt 40 con). Các loại gia cầm
như gà, vịt đều tăng vượt chỉ tiêu, đảm bảo được nguồn thực
phẩm cho địa phương. Thành lập được 3 tập đoàn ở ấp 1, 2 và
Bàu Sen. Đặc biệt, những năm qua đã vận động nhân dân trồng
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
được 20 hecta rừng, giao cho tập đoàn và hợp tác xã quản lý.
Tổ hợp cơ khí cũng được thành lập, phục vụ sửa chữa máy móc
nông nghiệp, rèn các loại nông cụ cầm tay (cuốc, xẻng, dao,
rựa, lưỡi hái) cho nông dân địa phương. 3 nhà máy xay xát lúa
gạo cũng đưa vào tập đoàn.
Về tiểu thủ công nghiệp, đã thành lập tổ hợp đan lát mây tre
xuất khẩu trên nền tảng sử dụng nguyên vật liệu sẵn có của địa
phương như tre, trúc, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho
người dân địa phương lúc nông nhàn.
Trong thời điểm tỉnh Đồng Nai xây dựng thủy điện Trị An,
xã Phú Thạnh ngoài đóng góp bằng vật chất còn có 100 lượt
người tham gia xây dựng thủy điện.
Về cơ sở hạ tầng, địa phương đã xây dựng thêm điểm trường
mẫu giáo ở Bàu Sen, thành lập đài truyền thanh xã, củng cố sửa
chữa trạm y tế và cửa hàng hợp tác xã.
Giai đoạn 1986-1990, toàn xã xây dựng được 1 hợp tác xã,
4 tập đoàn sản xuất. Chủ nhiệm hợp tác xã là ông Nguyễn Văn
Cậy, sau khi ông Cậy nghỉ, ông Châu Văn Xinh làm chủ nhiệm.
4 tập đoàn gồm: tập đoàn 1 (tập đoàn trưởng là ông Nguyễn
Trung Tâm), tập đoàn 2 (tập đoàn trưởng là ông Dương Văn
Chỗ), tập đoàn 3 (tập đoàn trưởng Lê Văn Bông), và tập đoàn
Cù Lao (tập đoàn trưởng Châu Văn Hội). Trong giai đoạn này,
xã cũng phát động phong trào trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi
trọc. Người dân trồng được 156 hecta rừng theo hình thức Nhà
nước và nhân dân cùng làm.
181

19.2 Page 182

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Thế nhưng, do cách làm chưa phù hợp, cùng với một số yếu
tố lịch sử chung của cả nước, từ năm 1989 đến 1993 phong trào
làm ăn tập thể tan rã, đất của các hợp tác xã, tập đoàn được giao
trả về cho nông dân.
2. Giai đoạn 1990 - 2000
Đây là một trong những cột mốc quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội của xã Phú Thạnh.
Trước năm 1993, chi bộ luôn bị đánh giá xếp loại là yếu
kém, một số đảng viên nắm các chức danh chủ chốt bị thi hành
kỷ luật do vi phạm nguyên tắc tổ chức Đảng. Nhưng đến năm
1993 đã phấn đấu đạt loại khá, và đến năm 1994 đã đạt danh
hiệu chi bộ trong sạch, vững mạnh. Đây là một trong những nỗ
lực lớn, thể hiện quyết tâm vươn lên của đảng viên chi bộ xã
Phú Thạnh.
Về công tác xây dựng Đảng, sau Đại hội Đảng lần thứ VIII
bầu ra chi ủy mới gồm 5 đồng chí, trong đó có 1 Bí thư phụ
trách chung công tác tổ chức, 1 Phó Bí thư phụ trách công tác
Nhà nước và 3 ủy viên (1 đồng chí phụ trách khối vận, 1 đồng
chí phụ trách khối nội chính và 1 đồng chí phụ trách công tác
kiểm tra). Tổng số đảng viên sau đại hội là 35 đồng chí, chia
làm 4 tổ Đảng sinh hoạt theo địa bàn dân cư, gồm ấp 1, ấp 2, ấp
3 và Bàu Sen (cũng thuộc ấp 3). Trong nhiệm kỳ trước, đã phát
triển được 6 đảng viên (đạt 40% chỉ tiêu Nghị quyết), xây dựng
được đội ngũ trung kiên 16 người. Có 2 đảng viên bị kỷ luật,
1 kỷ luật cảnh cáo và 1 khiển trách; vận động 2 đảng viên gián
đoạn sinh hoạt Đảng ra sinh hoạt chi bộ trở lại.
182

19.3 Page 183

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Thời điểm này, toàn xã Phú Thạnh có 163 hecta ruộng lúa,
60 hecta đất trồng màu, 44 hecta vườn cây ăn trái và 250 hecta
điều. Dân số toàn xã có 1.393 hộ với 6.425 nhân khẩu, trong
đó 70% sống về nông nghiệp, còn lại là công nhân cao su Nông
trường Cao su Thành Tuy Hạ.
Do kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, nên đời sống nhân dân
trong xã còn rất nhiều khó khăn. Lao động thất nghiệp chiếm
đến 30%. Cả xã có đến 329 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ gần 24% tổng
số dân của xã. Trình độ dân trí trong xã còn thấp nên việc lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng còn hạn chế.
Từ năm 1993, Chi ủy xã Phú Thạnh đã đề ra nhiều chương
trình hành động thực hiện cụ thể, đặc biệt là chú trọng đổi
mới sản xuất nông nghiệp. Địa phương đã vận động nhân dân
chuyển đổi được 14/44 hecta vườn tạp sang trồng cây ăn trái
các loại như: mít tố nữ, cam, quýt, mãng cầu và hoa màu các
loại. 163 hecta lúa đều đạt năng suất 3 tấn/hecta (tăng gấp 3
lần so với năm 1975), 250 hecta điều cho năng suất đạt 500kg/
hecta. 60 hecta màu quy ra thóc tương đương 4 tấn/hecta. Tổng
sản lượng thu nhập năm 1994 là 2.605 tấn, bình quân đầu người
đạt 388kg/người (tăng hơn năm 1993 là 68kg/người).
Về chăn nuôi, người dân duy trì và phát triển được đàn bò
139 con, đàn trâu 129 con, đàn vịt 1.500 con, đàn gà 1.200 con
(xuất chuồng 1,5 tấn thịt/năm), đàn heo thịt 55 con (xuất chuồng
55 tấn/năm), heo nái 80 con, hàng năm cung cấp 1.280 con heo
sữa. Ngoài ra, trong năm 1995 có 7 hộ trong xã tiến hành nuôi
thử nghiệm gà công nghiệp với số lượng 21.300 con, thu nhập
183

19.4 Page 184

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
khoảng 3 triệu đồng/45 ngày. Toàn xã cũng có 15 hecta mặt
nước nuôi tôm (đạt 75% kế hoạch), 7 hecta cá các loại (đạt kế
hoạch). Có 30 hộ vay tiền từ quỹ đầu tư quốc gia 60 triệu đồng
để phát triển sản xuất, đều hoàn trả vốn và lãi đúng hạn.
Trong năm 1994, thu ngân sách của xã đạt 102,7 triệu đồng,
đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch. Trong đó, 50% thu từ công thương
nghiệp, 45% thu từ nông nghiệp. Tổng chi ngân sách là 91,2
triệu đồng.
Cũng trong năm 1994, xã Phú Thạnh xây dựng được 9
phòng học (trường mẫu giáo 2 phòng, tiểu học 7 phòng); xây
dựng được 4 căn nhà tình nghĩa cho 4 hộ gia đình liệt sĩ. Số nhà
kiên cố của nhân dân trong xã tăng khoảng 4%. 33% hộ dân
có điện để sử dụng. Tỷ lệ học sinh chuyển cấp đạt 97,88%. Xã
cũng được công nhận hoàn thành công tác xóa mù chữ trong
năm này.
Tình hình an ninh trật tự cũng được giữ vững. Số vụ phạm
pháp hình sự giảm gần 30% so với nhiệm kỳ trước. Lực lượng
Công an xã, ấp gồm 14 người, trong đó có 2 đảng viên. 18 tổ an
ninh nhân dân được củng cố, đánh giá xếp loại từ kém lên khá.
Tổ dân phòng ở Bàu Sen cũng được xây dựng, nâng tổng số tổ
dân phòng lên 4 đơn vị, tổ chức tuần tra canh gác luân phiên,
xây dựng lực lượng thường trực 24/24.
Toàn xã có 94 đội viên lực lượng dân quân tự vệ (chiếm tỷ
lệ 1,4% so với tổng số dân), đạt 93,4% chỉ tiêu kế hoạch. Trong
đó, có 2 người là đảng viên, lực lượng thường trực 12 người, 1
184

19.5 Page 185

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trung đội cơ động 26 người, còn lại là lực lượng các ấp. Hàng
năm, lực lượng dân quân đều được tổ chức huấn luyện theo kế
hoạch. Từ năm 1994, xã luôn đạt 100% chỉ tiêu tuyển quân,
không có quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.
Sau bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã, 21 đại biểu do nhân
dân bầu ra (trong đó có 11 đảng viên) phân thành 3 tổ đại biểu,
hoạt động thường xuyên.
Ngày 11 tháng 8 năm 1995, chi bộ xã Phú Thạnh đã tổ chức
tổng kết nhiệm kỳ VIII (1993-1995) và đề ra phương hướng
nhiệm vụ giai đoạn 1995-1997, chỉ ra một số tồn tại cần khắc
phục, như:
- Cần khắc phục thiếu sót trong công tác lãnh đạo và chỉ
đạo.
- Trong quá trình đổi mới, cần quan tâm công tác bồi dưỡng
chính trị tư tưởng cho từng đảng viên, nâng cao trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ, nhất là trình độ văn hóa cho cán bộ chủ chốt
để tiếp thu nhanh chóng trong tình hình đất nước đổi mới.
- Cần quan tâm quản lý đất công chặt chẽ, không để người
dân lấn chiếm, phải có biện pháp xử lý nghiêm các trường hợp
vi phạm.
- Trong công tác nhân sự cần chọn “đúng người, đúng việc”,
đảm bảo tính kế thừa.
- Công tác an ninh quốc phòng cần kiểm tra chế độ trực gác
của lực lượng vũ trang và các đội dân phòng từng ấp, xây dựng
từng bước lực lượng theo dạng chính quy và chế độ chính trị
185

19.6 Page 186

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
viên trong lực lượng vũ trang, chăm lo đời sống cho lực lượng
thường trực ngành công an, xã đội.
Đại hội cũng đề ra một số phương hướng, chỉ tiêu như sau:
- Làm tốt công tác đảng viên, tăng cường công tác kiểm
tra đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, thường xuyên tổ chức
tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao quyền làm chủ tập thể,
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng mối đoàn kết thực sự trong
chi bộ.
- 100% đảng viên tham gia học tập đầy đủ các nghị quyết
của Đảng. Phấn đấu 2/3 đảng viên tham gia họp chi bộ đầy đủ
tại các buổi sinh hoạt định kỳ. 80% đảng viên phân loại đạt
loại 1. Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Về công tác phát triển
Đảng, cần quan tâm đến lực lượng quy hoạch và kế thừa, nâng
cao trình độ; phấn đấu cả nhiệm kỳ phát triển 12 đảng viên mới,
xây dựng củng cố 1 tổ trung kiên 30 đồng chí.
- Rà soát lại hồ sơ về chính sách người có công, không để
bỏ sót những trường hợp người có công trong hai cuộc kháng
chiến mà không báo công.
- Xây dựng lực lượng dân quân đạt 1,5-2% theo chỉ tiêu.
Phấn đấu đến năm 1996 tỷ lệ hội viên các đoàn thể đạt 70%.
- Phấn đấu thu ngân sách giai đoạn 1995-1996 tăng từ
5-10% mỗi năm. Trong đó, chú trọng thu đúng, thu đủ ở đối
tượng hộ kinh doanh, hoàn thành chỉ tiêu thuế; tổ chức tốt việc
thăm đồng để miễn, giảm thuế cho nông dân theo đúng quy
định.
186

19.7 Page 187

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Quy hoạch tổng thể toàn bộ diện tích trên địa bàn xã, phân
bổ từng vùng thích hợp với cây con, góp phần nâng thu nhập
cho người dân. 2 cây chủ lực được xác định là lúa và điều.
Trong 162 hecta lúa, phấn đấu chuyển vụ đông xuân năm
1996 lên 30 hecta, vụ hè thu 80 hecta; năng suất bình quân đạt
4 tấn/hecta. Khu vực Bàu Sen không thích hợp trồng lúa, năng
suất kém, vận động nhân dân chuyển sang trồng hoa màu thí
điểm 15 hecta, sẽ nhân rộng mô hình trong những năm sau nếu
phù hợp.
- Phấn đấu tổng sản lượng năm 1995 đạt 2.800 tấn thóc,
bình quân đầu người đạt 380kg; năm 2010 bình quân đầu người
là 400kg.
- Vận động nhân dân tăng diện tích trồng màu lên 40 hecta,
nhất là khu vực Bàu Sen; trồng xen đậu phộng, mì trong các
vườn điều, cao su.
- Giữ vững diện tích trồng điều 200 hecta tại khu vực Bàu
Sen, lô 38, 40, 41, 44. Số diện tích còn lại chuyển sang trồng
cây hàng năm, không được trồng cây lâu năm theo chủ trương
quy hoạch của huyện.
- Vận động nhân dân chuyển đổi vườn tạp đạt 15/34 hecta
trong năm 1996.
- Giữ vững đàn trâu bò hiện có, chỉ phát triển đàn bò sữa
theo dự án vay quỹ quốc gia. Phấn đấu tăng đàn heo nái lên
100 con, heo thịt 1.500 con, gà công nghiệp lên 60.000 con, vịt
187

19.8 Page 188

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
thịt tăng từ 3.000-4.000 con, chú trọng phát triển vịt siêu trứng;
đảm bảo phòng dịch bệnh tốt.
- Xây 2 cầu bê tông thay thế cầu khỉ, kết hợp với Nông
trường Cao su Thành Tuy Hạ làm đường lên sở 15; xây dựng
hội trường (kinh phí 70 triệu đồng, trong đó xã tự lo 30% kinh
phí). Nâng tỷ lệ hộ sử dụng điện từ 80% trở lên, tạo điều kiện
cho hộ nghèo được sử dụng điện, quản lý việc thu tiền điện,
không được để thất thoát.
- Học sinh thi chuyển cấp đạt tỷ lệ từ 98% trở lên. Giảm tỷ
lệ học sinh bỏ học, vận động học sinh bỏ học ra lớp.
- Nâng tỷ lệ hộ nghèo lên khá đạt 20%/năm. Hạ tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên xuống còn 1,7%.
Đến năm 1996, xã Phú Thạnh gặp một số khó khăn trong
phát triển kinh tế - xã hội. Diện tích lúa nước tuy tăng 10 hec-
ta nhưng năng suất chỉ đạt 3 tấn/hecta (chỉ tiêu 4 tấn/hecta),
nguyên nhân là do nước sông Đồng Nai dùng tưới tiêu bị nhiễm
mặn, giống lúa IR50404, MTL100 sử dụng gieo trồng đã bị
thoái hóa, các vụ lúa thiệt hại khoảng 30%. Cải tạo vườn tạp
sang các loại cây trồng khác chỉ đạt 70% chỉ tiêu. Riêng cây
điều, do mất mùa rớt giá liên tục, người dân chặt bỏ gần 271
hecta điều.
Về chăn nuôi, đàn trâu bò không phát triển được vì thiếu
đồng cỏ. Phát triển gà công nghiệp ban đầu thuận lợi, thấy có
lãi nên các dân làm tự phát. Nhiều hộ dân vay vốn ngân hàng
xây dựng trại nuôi gà gia công cho các công ty Việt Thái, CP,
188

19.9 Page 189

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
số trại gà tăng lên đến 91 (vượt chỉ tiêu 66 trại), nhưng bên
cạnh những hộ nuôi thành công vẫn còn nhiều hộ do thiếu kinh
nghiệm, kỹ thuật nuôi chưa đạt chất lượng đã dẫn đến thua lỗ,
đồng thời xảy ra ô nhiễm môi trường, làm dịch ruồi nảy sinh
ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của các hộ khác. Công ty đã
cắt hợp đồng 14 trại. Một số hộ phải bán đất để trả nợ, đời sống
khó khăn.
Tổng thu ngân sách trong năm 1996 là 217 triệu đồng, chỉ
đạt 71,6% chỉ tiêu nghị quyết, trong khi đó tổng chi ngân sách
lại vượt 25,6%. Phòng học của trường tiểu học thiếu nghiêm
trọng, phải chia làm 2 ca sáng và chiều. Xã cũng củng cố được
54 tổ an ninh nhân dân, 4 đội dân phòng hoạt động thường
xuyên.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu thì đạt và vượt, như: năng suất
hoa màu đạt 100% chỉ tiêu; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 264 hộ
(giảm 20%); xây dựng được hội trường Ủy ban nhân dân xã
làm nơi sinh hoạt, học tập. Mạng lưới điện hạ thế đã bao trùm
90% khu vực, trừ khu vực Bàu Sen.
Năm 1999, người dân xã Phú Thạnh đã bầu cử tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân xã gồm 21 người.
3. Giai đoạn 2000 - 2005
Năm 2000, Chi bộ Đảng xã Phú Thạnh được nâng lên thành
Đảng bộ xã với 36 đảng viên. Tổ Đảng tổ 1, tổ Đảng tổ 2 được
nâng lên thành chi bộ ấp 1, chi bộ ấp 2 như hiện nay, tổ Đảng
hưu trí được nâng lên thành chi bộ ấp 3. Việc thành lập Đảng bộ
189

19.10 Page 190

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
là cột mốc quan trọng đối với sự phát triển chính trị, kinh tế - xã
hội của địa phương, củng cố toàn hệ thống chính trị, đảm bảo
sự chỉ đạo toàn diện của Đảng.
Trong 2 ngày 29 và 30 tháng 8 năm 2001, Đảng bộ xã Phú
Thạnh tổ chức Đại hội Đảng lần thứ I nhiệm kỳ 2001-2005 với
sự tham dự của 38/40 đảng viên. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp
hành Đảng bộ xã gồm 7 đồng chí:
- Phạm Văn Sảnh: Bí thư.
- Võ Thị Hoa: Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã.
- Nguyễn Văn Nguyên, Chủ tịch UBMTTQ xã.
- Dương Văn Quý, Trưởng Công an xã.
- Trần Văn Hai, Xã đội trưởng.
- Lâm Văn Thành, Phó Chủ tịch HĐND xã.
- Phạm Ngọc Nghĩa, Phó ban Tuyên giáo xã.
Đại hội có Nghị quyết xác định mục tiêu, nhiệm vụ của địa
phương như sau:
- Thành tựu của nhiệm kỳ qua là phát triển lĩnh vực kinh
tế và công tác vận động quần chúng, công tác xây dựng Đảng.
- Trong lãnh đạo phải lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm
nền tảng, tăng cường kiểm tra quản lý chặt chẽ thực hiện nhiệm
vụ.
- Phấn đấu phân loại cuối năm tỷ lệ đảng viên ở mức I đạt
70-80%. Đảng bộ phấn đấu đạt trong sạch vững mạnh. Phát
triển 8-10% so với tổng số đảng viên trong Đảng bộ.
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cả năm quy ra
thóc đạt từ 400kg trở lên. Thu ngân sách hàng năm đạt chỉ tiêu
giao.
- Phấn đấu đạt 100% trẻ em trong độ tuổi được đến trường.
Xây dựng khu văn hóa của xã, đăng ký thực hiện nghĩa vụ quân
sự đạt 90% trở lên. Tiêm chủng mở rộng đạt từ 95%. Hạ tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên còn 1,5%. 80% hộ sử dụng điện và nước
sạch. Giới thiệu và giải quyết việc làm cho 500 lao động. Phấn
đấu không còn tổ an ninh trật tự yếu.
Một số giải pháp được thống nhất như sau:
- Tập trung phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
nông nghiệp nông thôn; tạo đột phá trong xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng, kỹ thuật; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân. Một số định hướng chủ yếu như sau:
- Đối với 80 hecta lúa nước ở cánh đồng ấp 1, 2, 3: xác định
lúa là cây trồng chủ đạo, hàng năm làm 2 vụ đông xuân và hè
thu. Những vùng đất thấp trũng không cấy lúa được thì tiến
hành trồng sen và nuôi tôm càng xanh thiên nhiên.
- Tiếp tục vận động nhân dân chuyển đổi vườn tạp thành
vườn chuyên canh những cây trồng có hiệu quả kinh tế cao,
như: mít, bưởi đường, sầu riêng, dâu...
- Vùng đất thuộc khu vực lô 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44 và
Bàu Sen: giữ nguyên diện tích cây cao su, chuyển cây điều sang
điều cao sản. Khuyến khích thành lập mô hình trang trại; kết
hợp trồng trọt với chăn nuôi, chủ yếu phát triển heo, gà công
191

20.2 Page 192

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
nghiệp; theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài”. Trồng các cây
ngắn ngày, có nguồn thu nhập ổn định như: mì, đậu phộng, rau
màu các loại. Riêng khu vực Bàu Sen: kiến nghị các ngành
chức năng kết hợp kinh nghiệm người dân địa phương để tìm
loại cây trồng thích hợp, cải tạo đất, tìm nguồn nước để phát
triển vùng rau sạch; kiến nghị huyện sớm hạ thế công trình điện
ở khu vực Bàu Sen để phát triển chăn nuôi và trồng trọt; kiến
nghị huyện thành lập ấp Bàu Sen để dễ quản lý về mặt tổ chức,
thành lập bộ máy hoạt động vì khu vực này địa bàn quá rộng;
trang bị hệ thống đài truyền thanh ở khu vực này; củng cố các
tổ an ninh nhân dân, dân phòng.
- Trong chăn nuôi cần có biện pháp ngăn chặn ô nhiễm vệ
sinh môi trường, xử lý dứt điểm các điểm ô nhiễm nhằm đảm
bảo sức khỏe cho người dân.
4. Giai đoạn 2005-2010
Ngày 8 tháng 3 năm 2005, Đảng bộ xã Phú Thạnh tổ chức
Đại hội lần thứ II nhiệm kỳ 2005-2010.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã gồm 7 đồng chí:
- Võ Thị Hoa, Bí thư Đảng ủy.
- Lê Văn Tây, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã.
- Phạm Văn Sảnh, Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND xã.
- Dương Văn Quý, Đảng ủy viên, Trưởng công an xã.
- Nguyễn Thị Ánh Hồng, Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch
UBND xã.
192

20.3 Page 193

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Dương Kim Phượng, Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội Liên
hiệp Phụ nữ xã.
- Nguyễn Văn Nguyên, Đảng ủy viên, Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam xã.
Ở giai đoạn này, xác định nông nghiệp có vị trí, vai trò quan
trọng của kinh tế địa phương, nên Đảng bộ xã Phú Thạnh đã tập
trung lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế bao gồm cả về trồng
trọt lẫn chăn nuôi.
Về trồng trọt, Đảng bộ chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tập trung cải tạo
vườn tạp thành vườn chuyên trồng những cây có hiệu quả kinh
tế cao, như: bưởi, xoài, cam, quýt...
Về diện tích gieo trồng lúa, do chủ trương của huyện Nhơn
Trạch là quy hoạch xã Phú Thạnh nằm trong vùng thành phố
mới nên diện tích đất nông nghiệp giảm dần hàng năm. Năm
2000 toàn xã có 416 hecta đất nông nghiệp, đến năm 2005 giảm
còn 312 hecta. Trong đó, diện tích trồng lúa là 76 hecta, gieo sạ
2 vụ/năm, năng suất đạt từ 3,5-4 tấn/hecta, tăng 0,5 tấn/hecta
so với năm 2000. Tuy nhiên, vụ Đông - Xuân năm 2005 năng
suất lúa giảm chỉ còn 2,5-3 tấn/hecta do bị nước mặn xâm nhập
vào đồng ruộng.
Xã Phú Thạnh cũng có chủ trương khuyến khích nông dân
trồng cây sen, vì thu nhập ổn định và hiệu quả gấp 2 lần so với
trồng lúa. Đến năm 2005, toàn xã có 80-90 hecta trồng sen.
Về hoa màu các loại, chủ yếu tập trung ở vùng Bàu Sen với
193

20.4 Page 194

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
diện tích trồng khoảng 60 hecta với các loại bầu, bí, mướp, dưa
chuột, khổ qua, năng suất ổn định. Riêng về cây mì, vì đây là
loại cây trồng đầu tư ít, không tốn nhiều công chăm sóc, thu
nhập khá nên nông dân cũng tăng diện tích trồng từ 110 hecta
vào năm 2000 lên 150 hecta vào năm 2005, năng suất đạt bình
quân từ 25-30 tấn/ha.
Về chăn nuôi, đây là ngành quan trọng tạo nguồn thu nhập
lớn cho nhiều hộ gia đình. Từ năm 2000, nhiều hộ nông dân tập
trung đầu tư mạnh cho chăn nuôi, đạt từ 21.000-25.000 con/
năm, đời sống người dân vì thế nâng cao. Nhưng đến khoảng
năm 2005 do tình hình dịch cúm gia cầm nên chăn nuôi gia
cầm có sút giảm, còn khoảng 10.000 con. Riêng các loại gia súc
khác, như: đàn heo vẫn được giữ vững từ 1.500-2.000 con/năm,
hàng năm xuất chuồng trên 100 tấn thịt, đạt chỉ tiêu Nghị quyết;
trâu bò tăng từ 90 con vào năm 2000, đến năm 2005 là 350 con;
tôm càng xanh có diện tích mặt nước từ 10-15 hecta, thu lãi từ
4-5 triệu đồng/lứa, đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Riêng chăn nuôi dê
có một hộ gia đình đảng viên hưu trí nuôi thử nghiệm từ 80-100
con, thu nhập bình quân từ 1-2 triệu đồng/tháng.
Về lâm nghiệp, trong 5 năm 2000-2005, Đảng bộ chủ trương
vận động nhân dân trồng 119 hecta rừng tràm bông vàng phân
tán, chủ yếu cải tạo đất bạc màu. Sau 5 năm, có 90 hecta tràm
được thu hoạch, chuyển sang trồng mì, 29 hecta còn lại tiếp tục
tập trung chăm sóc.
Về hoạt động tổ hợp tác và hợp tác xã, thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 Khóa III về phát triển kinh tế tập thể, Đảng bộ
194

20.5 Page 195

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
vận động nhân dân thành 2 tổ hợp tác nuôi tôm càng xanh với
32 hộ trên địa bàn ấp 1, ấp 2 tham gia. Tuy nhiên, do chưa
ứng dụng khoa học kỹ thuật nên hiệu quả chưa cao, đồng thời
do việc nước bị nhiễm mặn nên ảnh hưởng đến năng suất, thu
nhập.
Vào tháng 2 năm 2002, Hợp tác xã Ái Nhân được thành lập
với 3 thành viên quản trị và 22 xã viên. Tuy nhiên, do ban quản
trị thiếu kinh nghiệm, phương án kinh doanh không phù hợp,
vốn góp thấp (20 triệu đồng) nên hoạt động không hiệu quả.
Sau khi Đảng ủy chỉ đạo chính quyền và kiến nghị các ngành
cấp trên hỗ trợ, củng cố, hướng dẫn xây dựng phương án kinh
doanh, hợp tác xã đổi tên là Nhân Hòa, tổ chức bầu lại ban quản
trị, từng bước củng cố hoạt động.
Ngành tiểu thủ công nghiệp sản xuất, gia công chế biến
nông sản thực phẩm ở giai đoạn này có sự phát triển ở các
ngành: hàng gia dụng, sửa chữa, gia công, lò bánh mì, lò bún...
Tuy nhiên, vẫn còn sản xuất nhỏ lẻ, chưa xây dựng được mô
hình sản xuất lớn. Khu tiểu thủ công nghiệp do huyện Nhơn
Trạch thành lập trên địa bàn Phú Thạnh có diện tích 100 hecta,
có 1 công ty cơ khí Hà Nam đang tiến hành xây dựng cơ sở vật
chất trên diện tích 3 hecta.
Trong 5 năm 2000-2005, được sự đầu tư từ ngân sách huyện,
cộng thêm chủ trương xã hội hóa của xã, đã đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng như: điện dân dụng, đường giao thông nông thôn,
cầu bê tông thay thế cho cầu tạm, trụ sở UBND xã và trụ sở các
195

20.6 Page 196

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
ấp. Tổng số đầu tư gần 4 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp
trên 1,4 tỷ đồng. Số nhà kiên cố chiếm tỷ lệ 70%. Mạng lưới
điện quốc gia được mở rộng, đường dây hạ thế đến tất cả các
khu vực địa bàn dân cư, ngay cả khu vực xa như Bàu Sen. Hệ
thống đèn đường chiếu sáng cũng được thực hiện dọc lộ 25A
và một số khu vực đường liên ấp. Số hộ sử dụng điện đạt 95%.
Toàn xã có 148 hộ buôn bán nhỏ, tăng 81 hộ so với năm
2000, chủ yếu kinh doanh: bách hóa tổng hợp, ăn uống giải
khát, cung ứng vật tư nông nghiệp, vật tư xây dựng, lương thực
thực phẩm và một số dịch vụ khác. Xã có 2 chợ nhỏ, hoạt động
2 buổi sáng và chiều, chưa có chợ đầu mối.
Tổng thu ngân sách năm 2000 là 996 triệu đồng, đến năm
2005 là 3,9 tỷ đồng, tăng 16% so với chỉ tiêu Nghị quyết. Thu
nhập bình quân đầu người đầu giai đoạn này (năm 2005) là 6
triệu đồng/người/năm, tăng gấp 2 lần so với năm 2000 (vượt
chỉ tiêu Nghị quyết 1,2 lần).
Tỳ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi đạt 100%. Hàng năm,
tỷ lệ học sinh tiểu học lên lớp đạt 98%, đậu tốt nghiệp tiểu học
là 98%, học sinh vào lớp 6 đạt 96%. Năm 2002, địa phương
được Sở Giáo dục và Đào tạo công nhận hoàn thành công tác
phổ cập tiểu học. Năm 2004 được công nhận hoàn thành công
tác phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở. Tổng số đảng viên
trong chi bộ nhà trường là 9 đồng chí, đạt trong sạch vững
mạnh nhiều năm liền. Năm 2004, xã thành lập Trung tâm học
tập cộng đồng, tuy nhiên chất lượng hoạt động chưa cao.
196

20.7 Page 197

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Về chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân trong xã, năm
2005 số người được khám chữa bệnh là 6.665 người, đạt 120%
so với chỉ tiêu. 100% trẻ em được tiêm chủng đúng định kỳ. Tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên còn 1.3%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết là
0,2%. Năm 2004, Trạm y tế xã được công nhận đạt chuẩn quốc
gia về y tế.
Về các hoạt động văn hóa, thể thao, năm 2005 có trên 1.500
người tham gia phong trào tập luyện thể dục thể thao, tăng
1.250 người so với năm 2000. Hàng năm có 90% gia đình đăng
ký Gia đình văn hóa, có 92% được công nhận danh hiệu. Có 2
ấp được công nhận là ấp văn hóa.
197

20.8 Page 198

▲back to top


Chương VI
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
(2010 - 2020)
I. NHIỆM KỲ 2010 - 2015
1. Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đại hội III Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (nhiệm kỳ 2010 -
2015) xác định nhiệm vụ chính trị toàn huyện: Tiếp tục phát
triển kinh tế, xã hội trong đường hướng đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững.
Sau 35 năm phát triển, đặc biệt là sau 24 năm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng và nghị quyết của Đảng bộ huyện
Nhơn Trạch, xã Phú Thạnh có thuận lợi cơ bản và những bước
phát triển tích cực, đã từng bước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, tạo được điều kiện cơ sở để thực hiện công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế:
sản xuất công nghiệp chưa xứng tầm tiềm năng, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chưa thật vững chắc, chất lượng đội ngũ nhân lực
trong hệ thống tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền, đoàn thể
chính trị xã hội vẫn chưa đồng bộ.
198

20.9 Page 199

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Xã Phú Thạnh có lợi thế và hạn chế chung của toàn huyện
Nhơn Trạch, cũng có những nét riêng của một xã thuộc vùng
còn nhiều khó khăn, dân cư mới vừa ổn định, tài nguyên đất
đai sông nước còn dồi dào nhưng cơ sở hạ tầng chưa được đầu
tư đúng mức, nhân lực còn phân tán ở nhiều ngành nghề; điều
kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn rất nhiều
khó khăn.
Theo định hướng của Huyện ủy, xã Phú Thạnh xác định
nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng, thực hiện tốt công tác lãnh
đạo ở địa phương, kiên trì với sự nghiệp đổi mới; tăng cường
công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, quán triệt Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết của Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI cho cán bộ, đảng viên; thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ; tạo điều kiện cho đảng viên học tập để nâng cao
trình độ nhận thức, kiến thức và kỹ năng công tác; cán bộ đảng
viên trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Toàn Đảng
bộ tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; tăng cường
sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước; phát huy vai trò tích cực của Mặt trận và các đoàn thể
trong công tác giáo dục và vận động quần chúng, phát huy dân
chủ trong việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.
Đảng bộ xã Phú Thạnh xác định mục tiêu trước mắt theo
định hướng lãnh đạo của Đảng bộ huyện:
199

20.10 Page 200

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Ổn định và phát triển theo chiều sâu đối với kinh tế nông
nghiệp, chú trọng chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, phát triển mở rộng sản xuất công nghiệp, phát triển
nhanh đảm bảo phục vụ các loại hình dịch vụ trên địa bàn, dần
dần hình thành cơ cấu kinh tế mới theo định hướng phát triển.
- Nâng cao chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh,
thực hiện tiết kiệm trong điều hành ngân sách, tập trung đầu tư
nâng cấp phát triển cơ sở hạ tầng và kỹ thuật; kết hợp với kinh
tế quốc phòng; thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm trong quá trình xây dựng và phát triển địa phương.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo giải
quyết nhu cầu cơ bản cho nhân dân về y tế, văn hóa, giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ. Tích cực thực hiện các chính
sách xã hội, vì lợi ích nhân dân, tiếp tục thực hiện công tác đền
ơn đáp nghĩa; phát huy hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn từ
các nguồn quỹ quốc gia, quỹ xóa đói giảm nghèo và các nguồn
khác.
- Đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, phòng
thủ vững chắc, chống xâm nhập, bạo loạn lật đổ, thường xuyên
phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc,
phòng chống các loại tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn.
- Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; tăng cường
sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tăng cường hiệu quả quản lý
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Nhà nước; phát huy vai trò tích cực của Mặt trận và các đoàn
thể trong công tác giáo dục và vận động quần chúng, phát huy
dân chủ trong việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh.
Theo Quyết định số 2683/QĐ-UBND ngày 29 tháng 8 năm
2013 của UBND huyện Nhơn Trạch, đến năm 2020, xã Phú
Thạnh phấn đấu đạt mục tiêu xây dựng nông thôn mới với các
nội dung tổng quát: có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo
hướng đô thị hiện đại; có cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý, chuyển nhanh từ sản xuất nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ; đời sống vật chất và tinh thần của
người dân ngày càng được nâng cao theo định hướng xã hội
chủ nghĩa...
Mục tiêu cụ thể: về kinh tế, ở giai đoạn từ 2011 - 2015 tăng
trưởng hàng năm là 14%, giai đoạn từ 2015 - 2020 mức tăng
trưởng sẽ từ 16 đến 17%/năm; thu nhập bình quân đầu người
đạt 38 triệu đồng/năm; tỷ lệ nhựa hóa hoặc bê - tông hóa đường
huyện quản lý, đường trục xã và liên xã, đường hẻm các ấp đạt
100%; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 1%, tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt trên 60%...
Về quy mô diện tích, cơ cấu dân số, năm 2012 xã Phú Thạnh
có diện tích 1.773,49 hecta, dân số là 10.780 người. Tổng số lao
động là 2.920 người (chiếm 27%). Trong đó, lao động nông
nghiệp chiếm tỷ lệ 11,6%, lao động công nghiệp - xây dựng
chiếm tỷ lệ 81,5% và lao động thương mại dịch vụ chiếm tỷ lệ
6,8%. Theo quy hoạch, đến năm 2015, xã Phú thạnh có 2.878
201

21.2 Page 202

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hộ với 11.680 nhân khẩu (tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,75),
trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 68,7%.
Giai đoạn 2016-2020, toàn xã sẽ có 3.178 hộ với 12.580 nhân
khẩu (tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,7), trong đó số người trong
độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 75.8%.
Về nhu cầu đất đến năm 2015 là 138,49 hecta, trong đó đất
ở là 28,78 hecta, giao thông 95,88 hecta, công trình sản xuất
kinh doanh 7,44 hecta, giáo dục 1,7 hecta, cơ sở văn hóa 0,15
hecta.
Nhu cầu đất trong giai đoạn 2016-2020 là 215,93 hecta,
trong đó đất ở 92,16 hecta (tăng 63,38 hecta so với năm 2015),
giao thông 122,29 hecta (tăng 26,41 hecta), cơ sở giáo dục 0,84
hecta, cơ sở y tế 0,04 hecta, cơ sở thể thao 0,6 hecta.
Theo quy hoạch định hướng phát triển giao thông và định
hướng phát triển không gian đến năm 2020, xã Phú Thạnh có
các trục giao thông lớn, gồm: đường Tôn Đức Thắng, đường
Vành đai Quận 9, đường Nguyễn Ái Quốc, đường Quách Thị
Trang, đường Lý Thái Tổ. Từ đặc điểm này, xã Phú Thạnh hình
thành những khu dân cư và khu vực sản xuất gồm:
- Điểm dân cư số 1 (ấp 1, ấp 2): 30,31 hecta (năm 2015);
61,19 hecta (năm 2020).
- Điểm dân cư số 2 (ấp 2, ấp 3): 26,99 hecta (năm 2015);
33,58 hecta (năm 2020).
- Điểm dân cư số 3 (ấp 2, ấp 3): 34,94 hecta (năm 2015);
60,19 hecta (năm 2020).
202

21.3 Page 203

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Điểm dân cư số 4 (ấp 3): 7,02 hecta (năm 2015); 15,5
hecta (năm 2020).
- Điểm dân cư số 5 (ấp 1, ấp 2, ấp 3): 37,13 hecta (năm
2015); 48,6 hecta (năm 2020).
- Điểm dân cư số 6 (ấp 1, ấp 2): 16,32 hecta (năm 2015);
25,81 hecta (năm 2020).
Xây dựng và hoàn thiện các công trình sau:
- Cải tạo, mở rộng Trạm Y tế xã Phú Thạnh.
- Cải tạo, mở rộng chợ Sáng.
- Xây mới khu thể thao ngoài trời ấp 1.
- Xây mới nhà văn hóa kết hợp văn phòng ấp 1, ấp 2, ấp 3.
- Cải tạo và mở rộng tuyến đường Lý Thái Tổ.
- Chuyển Trường THPT Nhơn Trạch hiện hữu sang thành
lập Trường THCS Phú Thạnh.
- Xây mới Trường Mầm non Phú Thạnh 2.
Một số chỉ tiêu nông thôn mới như sau:
- Đến cuối năm 2020, 100% ấp có nhà văn hóa, sân thể dục
- thể thao đạt chuẩn.
- Năm 2015 nhựa hóa hoặc bê tông hóa 100% các tuyến
đường trên địa bàn.
- Năm 2020 đầu tư, nâng cấp, mở mới các tuyến đường đến
các điểm dân cư, khu sản xuất mới.
- Năm 2020: Tỷ lệ cấp nước đến người dân đạt 95%.
203

21.4 Page 204

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Về giải pháp thực hiện, ngoài nguồn ngân sách Nhà nước
thực hiện theo Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010-2020, sẽ thực hiện đa dạng các nguồn
vốn huy động của doanh nghiệp, nhân dân và các nguồn tài
chính hợp pháp khác.
2. Đại hội III (nhiệm kỳ 2010 - 2015)
Đại hội III (nhiệm kỳ 2010 - 2015) là Đại hội đại biểu của
Đảng bộ xã Phú Thạnh được tổ chức tại Hội trường trụ sở xã
từ ngày 21 tháng 4 năm 2015, 85/86 đại biểu được triệu tập
tham dự đại diện cho 131 đảng viên thuộc 8 chi bộ cơ sở. Đồng
chí Trần Văn Tư - Tỉnh ủy viên, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Tỉnh ủy và đồng chí Phan Thị Mỹ Thanh - Tỉnh ủy viên, Bí thư
Huyện ủy Nhơn Trạch cùng nhiều lãnh đạo ban, ngành, đoàn
thể tham dự.
Đại hội III đã được chuẩn bị và tổ chức đúng qui trình theo
hướng dẫn của Huyện ủy Nhơn Trạch. Sau phần nghi thức khai
mạc, Đại hội đã báo cáo tư cách đại biểu tham dự, cử chủ tọa và
thư ký đại hội, đại biểu cấp trên đại diện Ban Thường vụ Huyện
ủy Nhơn Trạch phát biểu, đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và thiếu nhi xã chúc mừng. Đại hội đã tập trung
thông qua chương trình làm việc, thông qua dự thảo “Báo cáo
kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa II”,
“Báo cáo kiểm điểm kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban
Chấp hành Đảng bộ xã”, báo cáo tổng hợp và giải trình việc
204

21.5 Page 205

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tiếp thu ý kiến góp ý đóng góp xây dựng các văn kiện Đại hội,
tiếp tục thảo luận, tham luận tại hội trường; biểu quyết thông
qua các văn kiện Đại hội với tinh thần nhất trí cao.
Đại hội III đã thực hiện qui trình tập trung dân chủ, bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Thạnh nhiệm kỳ III (2010 -
2015) gồm 9 đồng chí: Võ Thị Hoa, Lê Văn Tây, Lý Thanh
Tùng, Trần Đại Thắng, Phạm Văn Sảnh, Nguyễn Văn Nguyên,
Dương Văn Quý, Nguyễn Thanh Sang, Lê Bình Phước1.
Tại phiên họp lần thứ nhất, Ban Chấp hành hành Đảng bộ
xã Phú Thạnh vừa trúng cử đã bầu Ban Thường vụ gồm 3 đồng
chí gồm: Võ Thị Hoa (Bí thư Đảng ủy)2 và hai Phó Bí thư là Lê
Văn Tây và Lý Văn Tùng.
Kết quả bầu cử Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các
chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy được Huyện ủy Nhơn
Trạch chuẩn y theo Quyết định số 491 - QĐ/HU ngày 05 tháng
5 năm 2010.
1  Sau Đại hội, Đảng bộ xã củng cố tổ chức, phân công nhân sự: Võ Thị Hoa,
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã; Lý Thanh Tùng, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ
nhiệm UBKT xã; Trần Đại Thắng, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã; Phạm
Văn Sảnh, Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND xã; Lê Văn Tây, Đảng ủy viên,
Phó Bí thư xã; Dương Văn Quý, Đảng ủy viên, Trưởng Công an xã; Nguyễn Văn
Nguyên, Đảng ủy viên, Phó khối vận xã; Nguyễn Thanh Sang, Đảng ủy viên,
Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự xã; Lê Bình Phước, Đảng ủy viên, Chủ tịch
UBMTTQ xã.
2  Tháng 3.2012, Huyện ủy Nhơn Trạch rút đồng chí Võ Thị Hoa về huyện, quyết
định điều động đồng chí Huỳnh Minh Đức tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường
vụ Đảng ủy xã, giữ chức Bí thư Đảng ủy; Đảng ủy xã giới thiệu Hội đồng Nhân
dân xã bầu Huỳnh Minh Đức kiêm Chủ tịch UBND xã.
205

21.6 Page 206

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Phiên họp thứ nhất Ban Chấp hành khóa mới cũng đã bầu
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy gồm 3 đồng chí: Lý Thanh Tùng, Lê
Bình Phước, Nguyễn Hồng Chí do đồng chí Lý Thanh Tùng là
Chủ nhiệm.
Đại hội III cũng đã bầu đoàn đại biểu tham dự Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch khóa IV theo đúng cơ cấu
hướng dẫn gồm 8 đồng chí: Lý Thanh Tùng, Trần Đại Thắng,
Lê Bình Phước, Đoàn Thị Kim Thu, Nguyễn Văn Đức, Dương
Văn Quý, Nguyễn Thanh Sang; Đỗ Tấn Phát, (Nguyễn Thị
Thùy Trang là đại biểu dự khuyết).
Thực hiện chủ trương thí điểm nhất thể hóa bí thư và chủ tịch
của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 30 tháng 8 năm 2010
Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch có Quyết định số 2743/QĐ/
UBND phê chuẩn kết quả bổ sung đồng chí Bí thư Đảng ủy Võ
Thị Hoa giữ chức vụ Chủ tịch UBND xã Phú Thạnh nhiệm kỳ
2010-2015. Năm 2012, thực hiện kế hoạch luân chuyển, điều
động cán bộ, đồng chí Huỳnh Minh Đức thay đồng chí Võ Thị
Hoa làm Bí thư kiêm Chủ tịch xã, tiếp tục thực hiện chủ trương
nhất thể hóa. Đồng chí Đoàn Thị Kim Thu được huyện điều
động và bổ nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND xã, sau đó được
bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã thay đồng chí Lê
Văn Tây (do chuyển công tác).
3. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ II
Đại hội III kiểm điểm, đánh giá: Thời điểm này, xã Phú
Thạnh với tổng diện tích đất tự nhiên là 1.874 hecta, trên địa
206

21.7 Page 207

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
bàn xã có 4 đơn vị quân sự và Nông trường Cao su Thành
Tuy Hạ (thuộc Công ty cổ phần đầu tư Nhơn Trạch) chiếm 823
hecta; khu tiểu thủ công nghiệp 100 hecta, quy hoạch đất cao
su của Công ty cổ phần đầu tư Nhơn Trạch là 752 hecta. Vì vậy,
đất nông nghiệp và đất ở trên địa bàn chỉ còn trên 600ha.
Về dân số, toàn xã có 2.814 hộ với số khẩu là 10.148, sinh
sống ở 3 ấp và khu vực Bàu Sen, tăng 51,6% với năm 1995.
Toàn xã có khoảng 50% hộ dân sống bằng nghề nông, giảm
20% so với năm 1995, số còn lại sống bằng nghề kinh doanh
thương mại, mua bán nhỏ và làm công nhân cao su, công nhân
các công ty trên địa bàn huyện. Hộ nghèo trên toàn xã là 174 hộ
(theo chuẩn mới của Đồng Nai), chiếm tỷ lệ 6,1%, giảm 155 hộ
so với năm 1995.
Đại hội đã tập trung đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết
của nhiệm kỳ trước. Theo đó, những năm qua xã Phú Thạnh
tiếp tục tăng trưởng cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế, phát triển dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ
sở hạ tầng, điện, đường, trường, trạm, thiết lập được một nền
tảng vật chất, tinh thần quan trọng, từng bước đáp ứng được
yêu cầu xây dựng xã Phú Thạnh thành xã nông thôn mới giai
đoạn năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Bộ máy chính quyền được tiếp tục củng cố, kiện toàn nhằm
đảm bảo nâng cao hiệu quả trong công tác điều hành quản lý
Nhà nước. Được tăng cường thêm 1 Phó Chủ tịch UBND xã
phụ trách khối kinh tế, đã ổn định bộ máy hoạt động. Thực hiện
207

21.8 Page 208

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
tốt bầu cử Quốc hội khóa XII, vận động nhân dân đi bầu 100%,
khen thưởng kịp thời cho một số tập thể và cá nhân nhằm động
viên tinh thần cho cán bộ, đảng viên.
Công tác cải cách hành chánh đã tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong việc đi lại, giảm bớt thời gian, giảm chi phí,
tạo được niềm tin trong nhân dân, hiệu quả cơ chế đạt cao (chủ
yếu về thủ tục đất đai). Đây là mô hình cải cách hành chánh cần
được phát huy nhằm tránh được môi giới làm ảnh hưởng trực
tiếp về vật chất của nhân dân.
Bộ phận một cửa: Đã niêm yết công khai các khoản thu,
chi, đóng góp, thủ tục hành chính tại bộ phận tiếp nhận và trả
kết quả, tuyên truyền trên Đài Truyền thanh theo tinh thần Nghị
định 79/CP nay là pháp lệnh 34/PLUBTVQH về thực hiện dân
chủ cơ sở. Công tác cải cách hành chính thực hiện cơ chế “một
cửa” đã được triển khai thực hiện, quy trình tiếp nhận giải quyết
hồ sơ một cửa, một cửa liên thông. Thực hiện cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, từng
bước cải cách khắc phục có hiệu quả. Kết quả đã nhận và giải
quyết 8.817 hồ sơ đúng thời gian, không có hồ sơ tồn đọng.
3 chi bộ ấp thường xuyên tổ chức đối thoại đảng viên với
dân, vận động người dân thực hiện sửa chữa 9 con đường dài
4.600m và trải 143m3 đất, kinh phí dân đóng góp: 59,3 triệu
đồng; nạo vét 140m đường cống thoát nước và đặt 5 cống thoát
nước.
208

21.9 Page 209

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” đã trao tặng 889
suất quà cho hộ nghèo, neo đơn, khó khăn trị giá 177,8 triệu
đồng, Quỹ vì người nghèo là 104,8 triệu đồng, trao 45 suất học
bổng, xây mới và sửa chữa 36 căn nhà tình thương, 2 căn nhà
tình nghĩa. Kết hợp cùng HĐND xã tổ chức tiếp xúc cử tri ở
các cấp có 3.500 lượt người dự. Ban Thanh tra nhân dân và ban
Giám sát đầu tư cộng đồng luôn hoạt động thường xuyên, tổ
chức tham gia giám sát.
Tổ chức triển khai từng bước cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến toàn thể đảng
viên trong toàn Đảng bộ đạt 98%, trong đó cán bộ tham dự là
100% và 80% quần chúng nhân dân học tập, tổ chức 2 cuộc thi
kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, viết cảm nhận
về Di chúc của Bác Hồ, tổ chức sơ kết hàng năm, qua đó đề
nghị khen thưởng cá nhân điển hình tiên tiến trong học tập và
làm theo lời Bác. Hàng tháng đều có đề ra chủ đề chung cho
hoạt động của hệ thống chính trị ở đia phương. Tỷ lệ đảng viên
trong toàn Đảng bộ tham gia học tập đạt từ 98% trở lên.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2005-2010 có 7 đồng
chí, trong đó có 3 nữ. Từ sau Đại hội đến tháng 3 năm 2009,
Ban Chấp hành bổ sung 2 đồng chí cấp ủy viên và thành lập
Ban Thường vụ gồm 3 đồng chí hoạt động ổn định về nhân sự,
từng ủy viên đều được cơ cấu phân công từng lĩnh vực. Đảng
bộ cơ sở có 7 chi bộ trực thuộc với tổng số đảng viên từ đầu
nhiệm kỳ là 56 đồng chí, đến năm 2010 là 87 đồng chí. Tỷ lệ
đảng viên được kết nạp hàng năm đạt 100% so với chỉ tiêu
209

21.10 Page 210

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
được giao. Kết quả phân tích chất lượng đảng viên hàng năm
phần lớn đảng viên đều đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ,
Đảng bộ được đánh giá trong sạch vững mạnh năm 2006, 2007,
2008, 2009.
Trong nhiệm kỳ qua, Đảng ủy đã tiến hành xử lý 2 đảng
viên vi phạm (1 khiển trách, 1 bị khai trừ), so với cùng kỳ tăng
2 trường hợp. Cả nhiệm kỳ đã đưa đi đào tạo: 1 cử nhân kinh tế
chính trị; 3 đại học hành chính quốc gia; 6 cán bộ theo học lớp
Đại học hành chính công; 1 đại học văn hóa; 1 đại học ngành
Luật dân sự; Trung cấp quân sự 2; Trung cấp an ninh 3; trung
cấp chính trị 13; sơ cấp chính trị 30; trung cấp thanh vận, phụ
vận 2.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: Thương mại dịch
vụ - tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp, trong đó tỷ trọng
thương mại dịch vụ từ 45% năm 2006 lên 47% năm 2010; tiểu
thủ công nghiệp từ 30% năm 2006 lên 33% năm 2010; nông
nghiệp giảm dần từ 25% năm 2006 xuống còn 20% năm 2010.
Tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp tăng do nhân dân tham gia lao
động sản xuất tại các công ty có thu nhập ổn định. Dịch vụ,
thương mại phát triển mạnh nhất là loại hình dịch vụ nhà trọ.
Thu nhập bình quân đầu người đạt từ 9 triệu đồng/người/năm
2006 đến cuối năm 2009 đạt 13 triệu đồng/người/năm, vượt chỉ
tiêu nghị quyết 1,4 lần.
Hoạt động thương mại dịch vụ: Phát triển nhanh cùng với
sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp, hiện có 181 hộ kinh
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
doanh (tăng 33 hộ so với đầu nhiệm kỳ). Trong đó hộ thương
nghiệp là 77 hộ, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 4 hộ, dịch
vụ 66 hộ, ăn uống 34 hộ. Ngoài ra còn hơn 300 hộ dân tham
gia buôn bán nhỏ tại 3 khu vực chợ phục vụ các mặt hàng tiêu
dùng hàng ngày của người dân. Tình hình kinh doanh trên địa
bàn tiếp tục phát triển đa dạng hóa các ngành nghề kinh doanh,
dịch vụ phát triển mạnh nhất là dịch vụ nhà trọ. Năm 2005 chưa
có dịch vụ nhà trọ, cuối năm 2009 có 46 hộ với 329 phòng, giải
quyết kịp thời nhà ở cho công nhân lao động.
Về tiểu thủ công nghiệp: trên địa bàn xã tập trung các ngành
nghề sản xuất như xay xát, hàn xì, lò bún, bánh mì, cơ sở sản
xuất nước khoáng... Tuy mô hình phát triển chưa lớn, số lượng
chưa nhiều, nhưng cũng góp phần tăng trưởng kinh tế ở địa
phương. Khu tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đã có 4 công ty
đi vào hoạt động ổn định, tăng 3 công ty so với nhiệm kỳ, thu
hút trên 1.500 lao động tham gia, góp phần giải quyết việc làm
cho người dân địa phương.
Về sản xuất nông nghiệp: Diện tích sản xuất nông nghiệp
giảm dần hàng năm (năm 2005 là 416 hecta, đến năm 2010
còn 200 hecta), trong đó diện tích lúa giảm dần từ 76 hecta
(vào năm 2005) còn 60 hecta (vào năm 2010); hoa màu không
tăng, cây sen từ 90 hecta (năm 2005) còn 30 hecta (năm 2010);
cây mì từ 150 hecta năm 2005, giảm còn 50 hecta năm 2010.
Nguyên nhân là do đất tiếp tục đưa vào quy hoạch khu tiểu thủ
công nghiệp nên người dân không đầu tư canh tác. Diện tích
211

22.2 Page 212

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đất sản xuất nông nghiệp tuy có giảm dần hàng năm, nhưng do
nhân dân đầu tư thâm canh tăng vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật
trên diện tích còn lại, kết quả sản xuất đạt theo chỉ tiêu được
giao hàng năm.
Về chăn nuôi: Do ảnh hưởng chung của tình hình dịch bệnh
như cúm gia cầm, dịch heo tai xanh, bệnh lở mồm long móng
trên đàn gia súc, đồng cỏ bị thu hẹp, giá cả không ổn định cho
nên đàn gia súc, gia cầm giảm dần, ảnh hưởng không nhỏ đến
phát triển kinh tế địa phương. Đàn heo từ 2.000 con (năm 2005)
giảm còn 1.045 con (năm 2010), bò từ 500 con giảm xuống 400
con, dê 100 (năm 2005) nhưng đến năm 2010 không còn hộ nào
chăn nuôi dê. Tuy nhiên, đàn gà tăng dần hàng năm, từ 15.000
con đến 17.000 con, đàn trâu từ 100 con (năm 2005) lên đến
165 con, đều vượt so với nghị quyết.
Về lâm nghiệp: Tổng diện tích rừng phân tán hiện còn
27 hecta. Ban Chỉ đạo phòng chống cháy rừng gồm 14 thành
viên, thường xuyên được củng cố, công tác tuyên truyền phòng
chống cháy rừng được triển khai hàng năm, không xảy ra vụ
cháy rừng nào.
Hợp tác xã Nhân Hòa đi vào hoạt động ổn định, có 13 xã
viên với mô hình hoạt động ban đầu là thu gom rác thải. Riêng
2 tổ kinh tế hợp tác nuôi tôm càng xanh ở ấp 1 và ấp 3 làm ăn
không hiệu quả, năng suất thấp nên đến cuối năm 2008 đã giải
thể.
Quỹ tín dụng nhân dân Nhơn Trạch được thành lập vào
tháng 6 năm 2008, có trên 10 nhân viên phục vụ, huy động tiền
212

22.3 Page 213

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
gởi của người dân trong xã trên 8 tỷ và đã cho vay trên 200 hộ
số tiền hơn 5 tỷ đồng, đáp ứng được nhu cầu về vốn của một số
hộ cận nghèo, hộ kinh doanh nhỏ lẻ và các hộ ngành nghề khác.
Về giao thông nông thôn: Tổ chức vận động nhân dân cùng
Nhà nước thực hiện 17 hạng mục công trình như: nâng cấp sửa
chữa đê bao ngăn lũ; nâng cấp làm đường nông thôn bằng sỏi
đỏ, đổ đá dăm và bê tông hóa, kinh phí trên 500 triệu đồng, đã
làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân đi lại. Nổi bật như đường Bàu Sen, đường ấp 2 chợ chiều,
đường liên ấp 1, 2, đường chùa Long Phú...
Về xây dựng cơ bản: Thực hiện một số công trình như phòng
làm việc Công an - Xã đội, Hội trường Ủy ban nhân dân xã, trụ
sở dân phòng ấp 3, xây chốt dân phòng khu bộ đội, phòng một
cửa và trang bị một số trang thiết bị cho bộ máy hoạt động.
Về công tác địa chính, xây dựng, tài nguyên môi trường:
Tiếp tục triển khai lập thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2008-
2010 và đang điều chỉnh giai đoạn 2010-2020. Đã thành lập
2 tổ thu gom rác thải sinh hoạt trong nhân dân, thường xuyên
kiểm tra các hoạt động khai thác cát trái phép trên địa bàn.
Quản lý xây dựng nhà ở trong nhân dân, xử lý trên 50 trường
hợp xây dựng lấn chiếm hành lang lộ giới và không phép.
Quản lý tài nguyên trên địa bàn có 1 điểm khai thác nước
ngầm, các hoạt động khai thác đất, cát được thường xuyên kiểm
tra
213

22.4 Page 214

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Về công trình điện: Vận động kinh phí kéo 2 nhánh rẽ đường
ấp 1 và đường lòng chảo ấp 2 với kinh phí 100 triệu đồng do
dân đóng góp. Ngân sách xã sửa chữa và lắp mới 30 bóng đèn
đường trong ấp phục vụ nhân dân.
Mạng lưới bưu điện tiếp tục được quan tâm đầu tư, trên địa
bàn xã có 3 đại lý bưu điện, 6 điểm mua bán điện thoại và 4
điểm truy cập internet. Ngoài ra tỷ lệ người dân sử dụng điện
thoại di động đạt cao nên việc thông tin liên lạc luôn thông suốt,
thuận lợi và nhanh chóng.
Thu ngân sách qua các năm đều đạt và vượt so với chỉ tiêu
nghị quyết đề ra. Mức chi hàng năm tăng bình quân từ 20% đến
30%, việc thực hiện chi có tăng nhưng vẫn thực hiện theo đúng
luật ngân sách.
Địa phương cũng tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn sản
xuất, chăn nuôi từ Ngân hàng Nông nghiệp - Phát triển Nông
thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội, hàng năm số vốn vay trên
5 tỷ đồng. Ngoài ra, vay từ các dự án 120 giải quyết việc làm,
vay nguồn quỹ từ CEP1 được 421,3 triệu đồng cho 138 hộ vay,
đã giải quyết phần nào nhu cầu về vốn cho một số hộ khó khăn
trên địa bàn xã.
Xã cũng phối hợp với Hội đồng bồi thường huyện bốc được
554 mộ ở khu nghĩa địa ấp 2 về cải táng nơi khác. Đã san ủi mặt
1  CEP viết tắt từ Capital Aid Fund for Employment of the Poor, tên tiếng Việt là
Quỹ trợ vốn cho người lao động nghèo tự tạo việc làm, trực thuộc Liên đoàn Lao
động Thành phố Hồ Chí Minh, có chi nhánh tại nhiều tỉnh thành cả nước.
214

22.5 Page 215

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
bằng giới thiệu địa điểm xây dựng trường mẫu giáo và được
huyện phê duyệt.
Trong lĩnh vực văn hoá xã hội: Duy trì chất lượng dạy và
học ở hai trường tiểu học và mẫu giáo. Tỷ lệ học sinh khá giỏi
thể hiện qua từng năm có tăng lên, không có học sinh bỏ học
giữa kỳ. Đã giới thiệu địa điểm xây dựng trường mẫu giáo,
trường cấp II và đã xây dựng được 15 phòng học cho trường
tiểu học, tiếp tục khảo sát xây dựng thêm 15 phòng học trường
tiểu học nhằm đạt chuẩn quốc gia.
Trong 5 năm qua, Hội Khuyến học xã đã quan tâm vận
động kinh phí tặng quà cuối năm cho học sinh khá, giỏi và cấp
học bổng gần 79 triệu đồng. Tổ chức khui heo đất được 50,6
triệu đồng dành phát thưởng cho học sinh khá giỏi, học sinh
nghèo hiếu học và tiếp sức sinh viên. Trung tâm học tập cộng
đồng được thành lập, đã mở nhiều lớp học phục vụ nhu cầu của
nhân dân như: tập huấn trồng rau sạch, lúa nước, nuôi trùn chỉ,
tập huấn kỹ thuật trong chăn nuôi phòng ngừa dịch bệnh trên
gia súc, gia cầm, phục vụ cho công tác học tập và tập huấn,
triển khai pháp luật của các ngành, đoàn thể, mở các lớp võ
thuật, liên kết với Trung tâm dạy nghề quận 2, Thành phố Hồ
Chí Minh chiêu sinh thi cấp giấy phép lái xe đường bộ hạng A1.
Xã cũng được công nhận phổ cập giáo dục xóa mù chữ: đạt
chuẩn phổ cập ở 3 bậc học trong năm học 2009-2010.
Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được Đảng
và Nhà nước quan tâm, các chỉ tiêu về chương trình y tế quốc
215

22.6 Page 216

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
gia đều đạt, năm sau cao hơn năm trước. Tỷ lệ trẻ được uống
Vitamin A, tiêm đủ 6 liều vắcxin bình quân hàng năm đều đạt
100%. Xây dựng Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia đã khánh thành
và đưa vào sử dụng, đã có bác sĩ phục vụ, được trang bị một
số dụng cụ y tế cần thiết phục vụ nhân dân. Công tác vệ sinh
phòng dịch được thực hiện tốt, hàng năm đều triển khai công
tác phun thuốc diệt muỗi trên địa bàn trọng điểm, diệt lăng
quăng tại từng hộ gia đình, nhờ vậy mà đã ngăn chặn được dịch
sốt xuất huyết và sốt rét. Tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh là
98%, số hộ có nhà vệ sinh hợp vệ sinh từ 78% (năm 2005) lên
95% (năm 2009).
Chương trình dân số, gia đình và trẻ được chú trọng, hạn
chế các cặp vợ chồng sinh con thứ 3, tỷ lệ suy dinh dưỡng của
trẻ dưới 14%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn khoảng 1,2%.
Phong trào đăng ký nếp sống văn minh, gia đình văn hoá
hàng năm đều đạt từ 98-100% số hộ, xét cuối năm đạt 97% trở
lên, gần 100% số hộ đạt gia đình văn hóa. Có 9 cơ quan hàng
năm đăng ký và xét đạt cơ quan văn hóa.
Công tác chính sách xã hội: Công tác đền ơn đáp nghĩa
được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Các dịp lễ, tết đều
tổ chức thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình chính sách, vận
động tặng trên 2.774 phần quà cho hộ nghèo, xây dựng, sửa
chữa 36 căn nhà tình thương, 2 căn nhà tình nghĩa, tặng 5 sổ
tiết kiệm, vận động quỹ vì người nghèo trên 30 triệu đồng, vận
động cứu trợ xã hội trong các đợt thiên tai lũ lụt, hạn hán được
216

22.7 Page 217

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trên 35,6 triệu đồng. Triển khai khảo sát các hộ xuống cấp cần
làm nhà tình thương, ngân sách do Trung ương hỗ trợ có 23 hộ.
Có 1.226 trẻ em được cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí. 857
người nghèo cũng được cấp bảo hiểm y tế.
Giải quyết 1.000 lao động thông qua các dự án vay vốn
chăn nuôi, trồng trọt giải quyết việc làm ở địa phương và giới
thiệu vào làm các công ty đứng chân trên địa bàn. Tính đến nay
tỷ lệ hộ có mức sống khá của người dân chiếm 59%; trung bình
39%, hộ có mức sống thấp 2%. Hộ có nhà kiên cố và bền vững
77% tăng 6,5%; số hộ sử dụng điện 99%, tăng 13% so với năm
2005; phương tiện đi lại bình quân 1 hộ hơn 1 xe, phương tiện
nghe nhìn đạt 100%, tăng 6%.
Hoạt động tôn giáo trên địa bàn tương đối ổn định, Đảng
và chính quyền đều tổ chức thăm, tặng quà các cơ sở thờ tự, tín
ngưỡng trong dịp tết Nguyên đán. Thành lập được 1 câu lạc bộ
tuyên truyền pháp luật gồm 33 thành viên đã ra mắt đi vào hoạt
động. Trang bị 5 bảng công khai thủ tục hành chính và 4 tủ sách
pháp luật đặt tại Ủy ban nhân dân xã và trụ sở các ấp để người
dân tìm hiểu pháp luật và quy trình thủ tục hành chính.
Nhìn chung, đời sống người dân từng bước được nâng lên.
Hạ tầng cơ sở địa bàn xã được chú trọng xây dựng ngày càng
khang trang, sạch đẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, công tác xây
dựng cơ bản hoàn thành đúng kế hoạch. An ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định. Công tác xây dựng
Đảng được tập trung chỉ đạo, hoạt động cấp uỷ Đảng đảm bảo
217

22.8 Page 218

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
duy trì nề nếp theo đúng quy chế làm việc đề ra. Công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ của
xã có tập trung vào những trọng tâm, trọng điểm. Tổ chức bộ
máy, nhân sự trong hệ thống Đảng, chính quyền tiếp tục được
củng cố kiện toàn.
Đại hội đã có Nghị quyết về các mục tiêu chính trị, kinh tế
- xã hội, quốc phòng - an ninh như sau:
- Ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tỷ lệ giao
quân hàng năm đạt 100% theo chỉ tiêu được giao.
- Phát triển đoàn viên, hội viên hàng năm đạt 100% chỉ tiêu.
Tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ chức đoàn thể trong độ tuổi
hàng năm đạt 80% (riêng Đoàn Thanh niên đạt 40%, Hội Liên
hiệp Thanh niên đạt 60%). Tỷ lệ đoàn viên, hội viên tham gia
sinh hoạt thường xuyên đạt từ 75% trở lên; tỷ lệ đoàn viên, hội
viên nòng cốt trên 35%. Chất lượng hoạt động của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam xã và các tổ chức đoàn thể hàng năm
đều đạt vững mạnh.
- Công tác triển khai nghị quyết của Đảng: trên 98% cán
bộ đảng viên được học tập và quán triệt. Phấn đấu tỷ lệ kết nạp
đảng viên mới hàng năm đạt 8-10% so với tổng số đảng viên
hiện có đầu năm. Hàng năm có 100% chi bộ đạt trong sạch
vững mạnh, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh (phấn đấu hàng
năm có 100% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có
từ 10-15% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ)
218

22.9 Page 219

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật
trong Đảng. Phấn đấu không để đảng viên sai phạm đến mức
phải xử lý kỷ luật.
- Thương mại dịch vụ: 50%.
- Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp: 35%.
- Nông nghiệp: 15%.
- Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015: đạt 20 triệu
đồng/người /năm.
- Phấn đấu thu ngân sách hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2015 dưới 1,1%.
- Duy trì tỷ lệ hộ sử dụng điện 100%, hộ sử dụng nước hợp
vệ sinh 100%.
- Giảm hộ nghèo theo chuẩn hiện nay xuống mức thấp nhất
hàng năm. Giới thiệu việc làm hàng năm cho 200 lao động.
- Duy trì 3/3 ấp đạt ấp văn hóa, đăng ký gia đình văn hóa
hàng năm đạt 100%, xét đạt 98% trở lên, được công nhận xã
văn hóa.
- Làm tốt công tác chính sách xã hội.
Để thực hiện Nghị quyết, Đại hội cũng nhất trí đề ra các
giải pháp như sau:
- Về công tác xây dựng Đảng: Đổi mới phương thức lãnh
đạo, cải tiến lề lối làm việc của cấp uỷ và các chi bộ. Củng cố
kiện toàn tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ, thường xuyên chỉnh đốn Đảng. Tiếp tục thực hiện tốt công
219

22.10 Page 220

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
tác quy hoạch - đào tạo cán bộ kế thừa, tập trung đào tạo cán bộ
trẻ. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ nội bộ.
- Tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Về xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền: Ủy ban
nhân dân xã thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, sắp
xếp cán bộ đúng theo quy hoạch đảm bảo tiêu chuẩn, trình độ
chuyên môn theo qui định. Hội đồng nhân dân xã phát huy cao
vai trò đại biểu Hội đồng nhân dân trước cử tri, xây dựng các
nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải thể hiện đầy đủ đường
lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời
phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử tri.
- Về công tác vận động quần chúng: Thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về các chủ trương, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tiếp tục thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt công
tác phát triển đoàn viên, hội viên đạt chỉ tiêu hàng năm
- Về lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (Khóa IX) để phát triển các thành phần kinh tế ở địa
phương. Chủ động về giống, vốn, áp dụng khoa học kỹ thuật
trong sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt để tăng năng suất, mang
lại hiệu quả cao.
Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trên lĩnh vực kinh
tế - xã hội, thúc đẩy phát triển đúng hướng, từng bước ổn định
và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Về văn hóa xã hội: Nâng cao chất lượng giáo dục, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự nghiệp giáo dục ở địa phương. Không
ngừng nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân và
phòng chống tốt các loại dịch bệnh. Mở rộng các loại hình văn
hóa, văn nghệ phục vụ đời sống tinh thần nhân dân. Vận động
nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. Thực
hiện tốt các chính sách xã hội, nhân đạo, từ thiện, cứu trợ xã
hội. Tập trung lớn cho công tác xóa đói giảm nghèo, nhằm đạt
mục tiêu đến cuối năm 2015 giảm 100% hộ nghèo theo chuẩn
của Đồng Nai (thu nhập ở thành thị dưới 800.000 đồng/người/
tháng, thu nhập ở nông thôn dưới 650.000 đồng/người/tháng).
- Về quốc phòng an ninh: Thường xuyên xây dựng lực
lượng vũ trang, dân quân đủ số lượng, đảm bảo trực sẵn sàng
chiến đấu. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng chủ động xử lý mọi
tình huống, sẵn sàng đối phó với âm mưu diễn biến hoà bình,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác
giữ gìn an ninh trên địa bàn, bảo vệ an toàn tuyệt đối khu vực
trọng điểm của xã, tích cực phòng chống các loại tội phạm.
Thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm. Làm tốt công tác quản lý giáo dục đối tượng trên địa bàn.
Đại hội cũng kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ
lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phú Thạnh tiếp tục phát
huy truyền thống cách mạng, ra sức khắc phục khó khăn, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ mà Đại hội
đã quyết định, phấn đấu xây dựng xã nhà ngày càng tiến lên
vững chắc.
221

23.2 Page 222

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phú Thạnh cùng với cả
huyện Nhơn Trạch bắt tay vào việc khắc phục hậu quả chiến
tranh, kiến thiết xây dựng lại quê hương.
Xứ khó, dân nghèo, hậu quả chiến tranh nặng nề, nên Phú
Thạnh vươn lên nhiều gian nan trắc trở. Đội ngũ cán bộ mỏng,
nhiều thay đổi, nên có lúc chưa phát huy hết sức mạnh của
tập thể. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của khối
đoàn kết toàn dân, các nhiệm kỳ của Chi bộ, Đảng bộ đã nối
tiếp nhau lãnh đạo đưa xã Phú Thạnh vượt qua các cột mốc khó
khăn, bước vào thời kỳ đổi mới.
Đến thời điểm năm 2010, Phú Thạnh đã có hệ thống chính
trị và đầy đủ các thiết chế kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh
của một xã ổn định, phát triển, hướng đến mục tiêu phát triển
bền vững
4. Nghị quyết Đại hội III
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ III, nhiệm kỳ 2010-
2015 đã nêu cao khẩu hiệu “Tiếp tục nâng cao hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh; phát huy tinh thần đoàn kết toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu hoàn thành mọi
nhiệm vụ đã đề ra, góp phần cùng huyện nhà tiến lên công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Đại hội xác định: xã Phú Thạnh có xuất phát điểm là nông
nghiệp, đời sống nhân dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông
và buôn bán nhỏ; trong những năm qua theo định hướng của
222

23.3 Page 223

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Đảng, đã có thay đổi cơ cấu từ nông nghiệp - công nghiệp
và dịch vụ chuyển sang dịch vụ - công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và nông nghiệp; có chuyển biến tốt về kinh tế, xã hội,
quốc phòng an ninh; nâng cao được chất lượng cuộc sống của
nhân dân cả về vật chất cũng như tinh thần; an ninh chính trị ổn
định; hoàn thành mọi nhiệm vụ với kết quả ngày càng cao. Đó
là kết quả chung của toàn hệ thống chính trị, chứng tỏ sự lãnh
đạo hiệu lực của Đảng bộ.
Sau khi thảo luận, Đại hội thống nhất xác định mục tiêu
phấn đấu trong nhiệm kỳ: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - Thương mại, dịch
vụ - Nông nghiệp (35% - 50% - 15%); thu nhập bình quân đầu
người 20 triệu đồng/người/năm; thu ngân sách hàng năm đạt và
vượt chỉ tiêu được giao; tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1,1%; tỉ
lệ gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hóa 98%; tỉ lệ ấp đạt danh
hiệu Ấp văn hóa 100%; giới thiệu việc làm cho 1.000 người;
tỉ lệ giảm hộ nghèo theo chuẩn hiện hành còn dưới 3,5%; tỉ lệ
hộ dùng điện là 100%; tỉ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh là 100%;
đạt chỉ tiêu giao quân hàng năm là 100%; tỉ lệ số người trong
độ tuổi tham gia đoàn thể xã hội là 80%; tỉ lệ thanh niên trong
độ tuổi tham gia Đoàn Thanh niên là 40%; tỉ lệ thanh niên độ
tuổi tham gia Hội Liên hiệp Thanh niên là 60%; tỉ lệ đoàn viên,
hội viên sinh hoạt và công tác thường xuyên là 75%; tỉ lệ đoàn
viên, hội viên nòng cốt trong các đoàn thể chính trị, xã hội trên
35%; tỉ lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã và các đoàn thể đạt
danh hiệu Trong sạch vững mạnh là 100%; tỉ lệ kết nạp đảng
223

23.4 Page 224

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
viên mới là 8 - 10%; tỉ lệ đảng viên tham gia học tập Nghị quyết
là 98%; tỉ lệ tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh là 100%; tỉ lệ
đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 80% trở lên.
5. Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội III
Cuối nhiệm kỳ, Đảng bộ xã Phú Thạnh kiểm điểm đánh
giá: kinh tế xã hội đạt và vượt 19/22 chỉ tiêu, 3 chỉ tiêu chưa
đạt là: tỉ lệ thương mại dịch vụ trong cơ cấu kinh tế (đạt 48%/
chỉ tiêu kế hoạch 50%), tỉ lệ hộ dùng điện (đạt 99%/chỉ tiêu kế
hoạch 100%), tỉ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh (đạt 99%/chỉ tiêu
kế hoạch 100%).
Thực hiện đúng phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp Đại
hội đề ra, Đảng bộ xã Phú Thạnh đã lãnh đạo phát triển toàn
diện, chuyển biến tích cực ở các lĩnh vực.
Về kinh tế:
Tiếp tục phát triển; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng và mục tiêu
Nghị quyết của Đại hội lần thứ III đề ra: Dịch vụ - Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp - Nông nghiệp. Trong đó tỷ trọng ngành
dịch vụ tăng dần qua các năm, đạt 50% (đạt mục tiêu Nghị
quyết); công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 35% và nông
nghiệp giảm dần qua các năm, đến nay còn 15% (đều đạt so
với Nghị quyết). Thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng
khoảng 10%, mục tiêu Nghị quyết đến năm 2015 đề ra 20 triệu
đồng/người/năm, nhưng đến nay đã đạt 30 triệu đồng /người/
năm, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2010.
224

23.5 Page 225

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Thương mại, dịch vụ phát triển khá nhanh, nhất là khi khu
tiểu thủ công nghiệp được đi vào hoạt động. Số hộ kinh doanh
cá thể tăng 30 hộ so với năm 2010; dịch vụ kinh doanh nhà trọ
tăng 03 cơ sở và 108 phòng; có 2 chợ truyền thống, hoạt động
ổn định. Xã đã thực hiện tốt chủ trương “đưa hàng Việt về nông
thôn” và “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” bằng
nhiều hình thức phù hợp. Các dịch vụ khác phát triển đa dạng
về phương thức và nội dung hoạt đông, như: dịch vụ vận tải
hành khách, đưa rước công nhân, bưu chính viễn thông... Đáng
chú ý, năm 2014 dịch vụ cụm cảng - kho bãi (Công ty vận
chuyển xếp dỡ Tân Cảng, Bến bãi ICD) bước đầu hình thành
với quy mô phát triển khá lớn, mở ra hướng phát triển loại hình
dịch vụ mới, có giá trị gia tăng lớn và có nhiều tiềm năng khai
thác trên địa bàn xã.
Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng
về qui mô và chất lượng. Có 6 công ty hoạt động, thu hút trên
1.500 lao động (tăng 2 công ty so với trước), có 2 công ty đang
triển khai xây dựng nhà xưởng và 27 doanh nghiệp được giới
thiệu địa điểm đầu tư dự án. Các hạng mục hạ tầng kỹ thuật đã
được huyện hỗ trợ thực hiện đạt khoảng 90% khối lượng. Trên
địa bàn xã còn có một số cơ sở sản xuất như gia công cơ khí,
sản xuất bún, bánh mì, nước khoáng phát triển với quy mô sản
xuất vừa và nhỏ. Các hộ kinh doanh hoạt động ổn định và phát
triển đã góp phần tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được tổ chức
thực hiện đúng quy định, hợp với điều kiện và nhu cầu phát
225

23.6 Page 226

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
triển ở địa phương. Đã hoàn thành phê duyệt đề án quy hoạch
xây dựng nông thôn mới và các quy hoạch chi tiết xây dựng
phân khu tỷ lệ 1/2.000 làm cơ sở kêu gọi đầu tư, phát triển theo
quy hoạch. Các hồ sơ quy hoạch đều được thực hiện công khai,
lấy ý kiến người dân và các đơn vị có liên quan theo đúng qui
trình. Tổ chức công bố Quyết định số 2214/QĐ-UBND ngày
27/8/2010 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc phê duyệt Quy
hoạch xây dựng mạng lưới điểm dân cư nông thôn của xã đến
năm 2020; Quyết định số 2787/QĐ-UBND ngày 03/9/2013 của
UBND tỉnh Đồng Nai về quy hoạch sử dụng đất của xã đến
năm 2020.... Phối hợp tốt với các cơ quan chức năng thực hiện
tốt việc quy hoạch sử dụng đất xây dựng các cơ sở hạ tầng như:
Khu Trung tâm hành chính - phối hợp khu phố, chợ; khu dân cư
Long Tân - Phú Thạnh, dự án bến xe, bến thủy nội địa.
Lĩnh vực đầu tư xây dựng được chú trọng. Trên địa bàn xã
đã thực hiện xây dựng mới 09 công trình với số vốn đầu tư gần
20 tỷ đồng. Kết cấu hạ tầng nông thôn có bước phát triển rõ rệt,
trên địa bàn xã đã có: 01 trường PTTH với quy mô 29 lớp; 01
trường tiểu học (xây mới) với quy mô 29 lớp; 01 trường mẫu
giáo với quy mô 11 lớp; 01 trạm y tế đạt chuẩn, quy mô 14
phòng. Mạng lưới điện quốc gia và hệ thống chiếu sáng đảm
bảo cho trên 99% số hộ sử dụng. Đặc biệt, thực hiện theo Nghị
quyết số 25-NQ/HĐND của HĐND huyện Nhơn Trạch về kiên
cố hóa đường giao thông nông thôn, xã đã triển khai thực hiện
6 đường bê tông, cứng hóa 9/9 tuyến đường thôn xóm nối liền
226

23.7 Page 227

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
các ấp đảm bảo giao thông được thông suốt, đồng thời xã có
tuyến đường 769 (tỉnh lộ) nối liền với các xã xung quanh thuận
lợi cho người dân lưu thông.
Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đạt kết quả tích
cực. Đã phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất huyện thực
hiện bồi thường, giao mặt bằng cho 42/49 dự án; kịp thời xem
xét và đề xuất kiến nghị huyện bố trí tái định cư cho 33/53
hộ dân theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy
và Nghị quyết 85/2006/NQ-HĐND của HĐND tỉnh đúng quy
định; cũng đã đề xuất, kiến nghị huyện bố trí đất ở thuộc diện
xã hội cho 7 hộ đặc biệt khó khăn do thu hồi đất tại các dự án.
Công tác quản lý, điều hành ngân sách đảm bảo đúng Luật
ngân sách, đã tập trung triển khai thực hiện thu, chi và quản
lý ngân sách Nhà nước đúng theo hướng dẫn; hàng năm tăng
10%. Các nguồn thu cân đối ngân sách được tập trung quản lý
khai thác đều đạt và vượt so chỉ tiêu kế hoạch đề ra; kết quả
nguồn thu năm 2011 đạt 108%, năm 2012 đạt 129%, năm 2013
đạt 98%, năm 2014 đạt 169% và ước năm 2015 đạt 120%. Các
nguồn vận động như thu quỹ quốc phòng - an ninh, thu phí sử
dụng đường bộ đều đạt và vượt mức yêu cầu. Chi ngân sách
đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của bộ máy theo đúng
quy định và hướng dẫn của cấp trên, nhất là cân đối nguồn vốn
bố trí cho chi đầu tư xây dựng cơ bản và và hoạt động của các
đơn vị đơn vị sự nghiệp.
227

23.8 Page 228

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Nông nghiệp phát triển đều, mạnh, có sự chuyển dịch tốt
về chất lượng. Mặc dù diện tích cây trồng hàng năm giảm, từ
270ha (năm 2009) xuống còn 165ha theo mục tiêu nghị quyết
nhưng năng suất, sản lượng các loại cây trồng chính (lúa, sen
và rau các loại...) đều tăng và vượt kế hoạch. Việc chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, ứng dụng khoa học kỹ thuật cao được chú
trọng nên năng suất hàng năm đều tăng. Đối với cây lúa, sen, có
nhiều sáng kiến ứng phó với thay đổi thời tiết, được luân canh,
đảm bảo diện tích 30ha/mùa vụ, bảo đảm gieo trồng 2 vụ/năm,
thu nhập bình quân đạt 30 triệu đồng/ha cho mùa vụ. Cây lúa
trung bình năng suất từ 4 tấn đến 5 tấn/ha cho 01 mùa vụ; các
loại hoa màu (dưa chuột, khổ qua, bí, bầu, mướp, ớt...) đạt lợi
nhuận từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng/ha cho một mùa vụ,
góp phần làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn. Giá
trị sản xuất bình quân 01 ha đạt 100 triệu đồng/năm, tăng 50%
so với đầu nhiệm kỳ.
Chăn nuôi có sự thay đổi về lượng, vẫn đạt chỉ tiêu phấn
đấu. Tổng đàn gia súc, gia cầm phát triển không đáng kể từ
30.557 con lên 31.126 con, đạt 102% so với kế hoạch, trong đó:
đàn trâu 274 con, bò 100 con, heo 752 con, gia cầm 30.000 con.
Thủy sản có suy giảm về diện tích do môi trường biến đổi,
diện tích thủy sản trên địa bàn xã vẫn là 16ha chủ yếu là nuôi cá
và tôm thiên nhiên, giảm 15ha so với Nghị quyết.
Lâm nghiệp và bảo vệ rừng được chú trọng đặc biệt, tổng
diện tích rừng phân tán là 20,5ha (giảm 6,5ha do thu hồi đất để
228

23.9 Page 229

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
xây dựng các dự án). Công tác chăm sóc, bảo vệ và trồng rừng
tiếp tục được chú trọng thực hiện. Công tác phòng chống cháy
rừng được thực hiện tốt nên các năm qua không xảy ra cháy
rừng gây thiệt hại lớn. Tỷ lệ che phủ cây xanh trên địa bàn đạt
20,6%.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
mục tiêu trọng tâm. UBND xã đã ban hành Quyết định thành
lập Ban Chỉ đạo nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ban Chỉ
đạo đã phân công nhiệm vụ cho từng cấp ủy viên, cán bộ chủ
chốt phụ trách từng nhiệm vụ cụ thể tương ứng với 19 tiêu chí.
Căn cứ đề án xây dựng nông thôn mới xã Phú Thạnh giai đoạn
2011 - 2020 và Quyết định số 2683/QĐ-UBND ngày 29/8/2013
của UBND huyện Nhơn Trạch về việc phê duyệt quy hoạch xây
dựng nông thôn mới xã Phú Thạnh. Hàng năm Ban Chỉ đạo
đều xây dựng kế hoạch triển khai đến các ban ngành, đoàn thể.
Đồng thời, phối kết hợp với đơn vị Trung đoàn 87 thuộc binh
chủng hóa học để thực hiện chương trình “Quân đội chung sức
xây dựng nông thôn mới” trên địa bàn xã giai đoạn năm 2011 -
2020. Đến thời điểm năm 2010, đã đạt được 15/19 tiêu chí, đạt
kế hoạch đề ra, các tiêu chí còn lại tiếp tục triển khai thực hiện
từ nay đến năm 2020.
Về công tác quản lý tài nguyên, quản lý xây dựng cơ bản
và bảo vệ môi trường:
Công tác quản lý đất đai trên địa bàn được quan tâm chỉ
đạo, đã tổ chức thực hiện tốt các quy hoạch được duyệt, tổ chức
229

23.10 Page 230

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
niêm yết công khai đúng quy định các quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2015 - 2020 theo
quy hoạch. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
lần đầu đủ điều kiện cấp giấy đạt 100%, đặc biệt là hoàn thành
việc xét cấp giấy và giao đất cho các hộ dân tại khu vực đất Chi
khu quận Nhơn Trạch cũ; công tác phát giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cấp đổi đồng loạt đến nay là 1.487 giấy (tỷ lệ 87%);
công tác quản lý quy hoạch xây dựng cơ bản: đã thực hiện ký
xác nhận cho 16 trường hợp xin cấp phép xây dựng và tiến hành
kiểm tra 65 trường hợp, qua kiểm tra phát hiện 65 trường hợp
vi phạm, lập tờ trình trình UBND huyện xử phạt vi phạm hành
chính 65 trường hợp, thu nộp ngân sách 223.750.000 đồng.
Triển khai công tác đánh số và gắn biển số nhà cho 1.129 hộ
với số tiền 32.176.000 đồng trên địa bàn 3 ấp.
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng, quan tâm
chỉ đạo thực hiện. Trong 5 năm qua, đã kiểm tra nhắc nhở 62
trường hợp và đề nghị khắc phục. Vận động được 1.988 hộ
cam kết xử lý rác thải sinh hoạt, trong đó có 665 hộ đăng ký thu
gom với các đơn vị thu gom và 1.323 hộ cam kết tự xử lý đào
hố tiêu hủy rác. Tỷ lệ thu gom rác thải toàn xã đạt 92,8%. Xã
có 2 đơn vị thu gom rác thải sinh hoạt với tần suất thu gom 2
lần/tuần, khối lượng bình quân thu gom rác thải sinh hoạt là 4,5
tấn/ngày. Ngoài ra, UBND xã đã xây dựng 02 hệ thống mương
thoát nước thải cuối đường chợ sáng, ấp 1 có nắp đậy với kinh
phí 170 triệu đồng.
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ:
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có bước phát triển đồng bộ,
được đầu tư phát triển theo hướng mở rộng về quy mô và đa
dạng hóa các loại hình đào tạo. Hệ thống trường lớp tiếp tục
được đầu tư theo hướng kiên cố hóa, tiếp cận hiện đại; trong 5
năm qua, đã được đầu tư xây mới 01 trường học tiểu học với
quy mô 27 lớp với 940 học sinh. Xây mới 01 trường mẫu giáo
với quy mô nhỏ, gồm 3 phòng học và 2 phòng chức năng cho
105 cháu. Duy trì kết quả xóa mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở đạt mục
tiêu Nghị quyết; hàng năm tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học đều
giảm. Tỷ lệ học sinh khá giỏi thể hiện qua từng năm đều tăng
lên (năm 2010 đạt 53,3 %, năm 2015 đạt 79,5%).
Trung tâm học tập cộng đồng mở trên 52 lớp với trên 1.000
lượt người tham gia học tập như: tập huấn kỹ thuật trồng trọt
trên hoa màu, chăn nuôi, tuyên truyền luật hôn nhân gia đình.
Hoạt động khuyến học khuyến tài ngày càng phát triển, đã
hình thành được 12 tổ chức hội với trên 892 hội viên, thực hiện
vận động được hơn 93.900.000 đồng và cấp 225.770 suất học
bổng, khen thưởng cho học sinh, sinh viên, giáo viên dạy giỏi,
đã góp phần tích cực xây dựng xã hội học tập theo chủ trương
của Đảng và Nhà nước.
Hoạt động khoa học công nghệ đạt những kết quả quan
trọng, ngày càng đi vào chiều sâu. Kết cấu hạ tầng hệ thống ứng
dụng khoa học và công nghệ được quan tâm đầu tư. Tất cả cán
231

24.2 Page 232

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
bộ, công chức xã đều được trang bị bộ máy vi tính để làm việc
với 100% cán bộ, công chức đều biết sử dụng máy tính. Từ năm
2012, huyện đầu tư cho phòng Khoa học - Công nghệ 02 bộ
máy vi tính với đầy đủ thiết bị cần thiết và đường truyền mạng
internet tốc độ cao, đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết cho cán
bộ, các ban ngành, đoàn thể xã và nhân dân đến truy cập khi
cần thiết. Số lượt người yêu cầu cung cấp thông tin: 347 lượt;
UBND xã thường xuyên cập nhật thông tin lên website khoa
học công nghệ: 234 tin; chiếu phim phục vụ nhân dân 03 lần/01
năm; phát thanh, tuyên truyền trên đài xã 83 lượt/01 năm.
Về văn hóa - xã hội:
Có bước phát triển tích cực, các vấn đề xã hội được quan
tâm giải quyết, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận
nhân dân trên địa bàn tiếp tục được nâng cao.
Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục- thể thao được tổ
chức với nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
văn hóa của quần chúng nhân dân. Đảm bảo phát thanh tuyên
truyền về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước
ngày 2 buổi sáng, chiều. Tiếp âm thời sự của đài Trung ương và
địa phương, bổ sung 24 cụm loa để phủ sóng toàn xã. Tổ chức
chương trình văn nghệ gây quỹ vì người nghèo “Chung sức yêu
thương”, xây dựng 11 chương trình văn nghệ phục vụ nhiệm
vụ chính trị, thực hiện 19 lượt chiếu phim hè phục vụ thiếu nhi.
Hàng năm đều tổ chức văn nghệ vui Tết Trung thu.
232

24.3 Page 233

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
trên địa bàn hàng năm đạt theo chỉ tiêu đề ra: hộ gia đình đăng
ký gia đình văn hóa đạt 99%, cuối năm xét đạt 98,5%, 3/3 ấp
đạt danh hiệu ấp văn hóa.
Tổ chức thành công Đại hội Thể dục Thể thao xã lần thứ V
với 5 bộ môn thi đấu, thu hút 250 vận động viên đăng ký tham
gia, đã trao 16 giải thưởng. Trong nhiệm kỳ, đã tổ chức 14 giải
thể thao thu hút hơn 920 vận động viên tham gia; kết quả, trao
tặng 72 giải thưởng. Duy trì hoạt động 02 lớp võ thuật Vovinam
và Taekwondo với 86 võ sinh theo học thường xuyên; tham dự
2 giải bóng đá mini, 2 giải cờ tướng do huyện tổ chức, kết quả
đạt 1 giải nhất, 1 giải nhì, 02 giải ba, 1 giải khuyến khích.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được đảm
bảo, đạt chỉ tiêu phấn đấu. Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng ở trẻ em
hàng năm đạt chỉ tiêu kế hoạch. Các chương trình y tế quốc
gia, phòng chống bệnh xã hội, phòng chống HIV/AIDS và vệ
sinh an toàn thực phẩm đạt kết quả khả quan. Đảm bảo công
tác khám chữa bệnh ban đầu cho 32.240 người với số lần khám
bệnh là 50.728 lượt. Có 2.395 người dùng các biện pháp tránh
thai; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%; tỷ lệ trẻ dưới 05 tuổi
suy dinh dưỡng thể trọng theo tuổi là 8%, suy dinh dưỡng thể
chiều cao theo tuổi là 22,3% đều đạt so với Nghị quyết. Quản
lý bệnh xã hội tiếp tục được duy trì thực hiện, các chương trình
y tế quốc gia, y tế cộng đồng, phòng chống dịch bệnh và truyền
thông trực tiếp bệnh tay chân miệng và sốt xuất huyết tại hộ gia
đình có trẻ dưới 06 tuổi.
233

24.4 Page 234

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Trạm y tế đảm bảo có bác sĩ phục vụ và xã được công nhận
đạt tiêu chí quốc gia về y tế (đạt mục tiêu Nghị quyết), có 01
bác sỹ và 06 y sĩ phục vụ thường xuyên. Ngoài ra, trên địa bàn
còn 12 cơ sở y, dược tư nhân, góp phần cùng hệ thống y tế
Nhà nước đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Công
tác quản lý ngành y tế tư nhân và vệ sinh an toàn thực phẩm
cũng được xã quan tâm, thường xuyên thực hiện việc kiểm tra,
chấn chỉnh.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được triển khai
thực hiện tốt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 0,95%, làm
tốt công tác cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề có nhiều tiến
bộ, đã giải quyết việc làm cho 3.720 lao động, nâng cao tỷ lệ
lao động nông thôn được qua đào tạo đạt 53%. Nâng tỷ lệ lao
động qua đào tạo nghề từ 23% năm 2011 lên 43% vào cuối
năm 2015 (đạt mục tiêu Nghị quyết). Tổ chức nhiều lớp đào
tạo nghề lao động nông thôn như: nấu ăn, trang điểm, chăm
sóc cây cảnh, chăn nuôi gà thả vườn có hơn 150 học viên
theo học.
Công tác giảm nghèo luôn được quan tâm chỉ đạo, hàng
năm đều tiến hành điều tra, cập nhật nắm bắt tình hình tâm tư,
nguyện vọng của hộ nghèo để kịp thời hỗ trợ tạo điều kiện giúp
hộ nghèo thoát nghèo bền vững. Đã thực hiện nhiều giải pháp
và thực hiện tốt các chính sách như tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nhà
ở, y tế, giáo dục, khuyến nông. Kết quả thoát nghèo hàng năm
234

24.5 Page 235

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đều đạt và vượt chỉ tiêu, cụ thể năm 2011 toàn xã có 280 hộ
nghèo chiếm tỷ lệ 11,63%, đến năm 2014 chỉ còn 21 hộ/2.980
hộ, chiếm tỷ lệ 0,7%.
Công tác chăm lo đối tượng chính sách, người có công với
cách mạng được quan tâm và thực hiện tốt. Trong 5 năm đã vận
động đóng góp quỹ Đền ơn đáp nghĩa được trên 50 triệu đồng
để xây dựng, sửa chữa nhà tình nghĩa cho các gia đình chính
sách, gia đình có công gặp khó khăn về nhà ở. Thực hiện tốt
các chế độ, trợ cấp thường xuyên, đột xuất cho các đối tượng
có công và đối tượng bảo trợ xã hội. Ngoài các chế độ cho đối
tượng chính sách, xã đã tích cực, chủ động tổ chức vận động
quà tết và trực tiếp xuống từng gia đình để tặng quà và thăm
hỏi; tổ chức vận động 05 đoàn y, bác sĩ về khám bệnh cho các
đối tượng; kiến nghị huyện hỗ trợ sửa chữa 02 căn nhà tình
nghĩa; vận động xây mới 01 căn nhà tình nghĩa tại ấp 1; vận
động đơn vị Tân Cảng nhận đỡ đầu cho 02 mẹ Việt Nam Anh
hùng.
Công tác nội chính, quốc phòng an ninh:
Công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân luôn được
củng cố, kiện toàn, xây dựng theo hướng tinh gọn, chất lượng,
phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Nhiệm vụ
tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu, đảm bảo về số lượng và
chất lượng; chính sách hậu phương quân đội được quan tâm,
thực hiện tốt; đã tổ chức lại, đưa vào hoạt động có hiệu quả
mô hình chính trị viên Ban Chỉ huy quân sự xã, lực lượng dân
235

24.6 Page 236

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên được xây dựng, duy trì
và phát triển ngày càng tăng về số lượng. Số lượng dân quân
năm 2010 từ 108 dân quân đến năm 2015 tăng lên 126 dân
quân, đạt tỷ lệ 1,24% so với dân số (hàng năm đều đạt và vượt
chỉ tiêu Nghị quyết). Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng ngày càng
tăng, từ 12,8% tăng lên 22,8%; tỷ lệ đoàn viên tăng từ 48% lên
77,8%. Lực lượng dự bị động viên tăng từ 4,23% lên 10,52%
năm 2015. Đảng viên trong lực lượng dân quân là 28 đồng chí,
đạt tỷ lệ 22,22%. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh, công tác đào tạo, huấn luyện được thực hiện
thường xuyên góp phần nâng cao chất lượng, phẩm chất chính
trị tốt cho lực lượng.
Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu
vực phòng thủ và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
tiếp tục được cấp ủy Đảng quan tâm, chỉ đạo thường xuyên;
phát huy hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định chính trị tại địa
phương.
An ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội được đảm bảo trên
tất cả các lĩnh vực an ninh chính trị, an ninh tôn giáo, an ninh
nông thôn. Cấp ủy, chính quyền xã huy động sức mạnh của cả
hệ thống chính trị tham gia thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia về phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Trong
nhiệm kỳ qua các lực lượng đã tham gia giải quyết 197 vụ với
283 đối tượng vi phạm về hành chính, phạm pháp hình sự (so
với nhiệm kỳ trước giảm 3 vụ với 29 đối tượng). Qua đấu tranh,
điều tra đã làm rõ 158 vụ vi phạm hành chính và 39 vụ phạm
236

24.7 Page 237

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
pháp hình sự, xử lý 254 đối tượng, giảm tội phạm hình sự, nhất
là tội phạm nguy hiểm như: giết người, cướp tài sản, hiếp dâm
và xâm hại trẻ em. Tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông được
kéo giảm, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên bàn.
Công tác hòa giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt hiệu quả
tích cực. Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ tư vấn, bổ trợ pháp lý
tiếp tục được chú trọng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật của nhân dân; công tác tiếp dân được thực
hiện thường xuyên, lịch tiếp dân của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
xã vào ngày thứ sáu hàng tuần được duy trì thường xuyên, thực
hiện nghiêm túc. Trong 5 năm qua, đã tiếp 263 lượt người dân,
nội dung chủ yếu về tranh chấp đất đai, thừa kế, tranh chấp hợp
đồng dân sự, hôn nhân gia đình; xét, hòa giải 127 đơn khiếu nại
của công dân, kết quả đã giải quyết xong 125 đơn (còn tồn 02
đơn). Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật kịp
thời, tập trung cho các nhiệm vụ chính trị: Tuyên truyền Luật
an toàn giao thông, công tác tuyển quân, tuyên truyền Luật Bầu
cử Quốc hội và HĐND các cấp, Luật phòng chống bạo lực gia
đình, Luật bình đẳng giới, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo
năm 2011, Luật Đất đai 2013, Luật phòng chống tham nhũng,
lãng phí... Qua đó đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao
hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật cho người dân.
Việc hòa giải, đối thoại được chú trọng, quy trình giải quyết,
kết quả giải quyết đơn công khai, đảm bảo đúng quy định, trình
tự, có sự tham gia của các ban ngành đoàn thể để đảm bảo việc
ban hành quyết định giải quyết cho người dân được thấu tình
237

24.8 Page 238

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đạt lý, kết quả giải quyết nhận được sự đồng thuận cao của
người khiếu nại. Tỷ lệ hòa giải, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo
hàng năm đều đạt trên 95%, đạt mục tiêu Nghị quyết.
Cải cách hành chính công khai, minh bạch, hiệu lực, niêm
yết kịp thời các thủ tục hành chính đúng theo quy định tại trụ
sở cơ quan, bảng thông tin nội bộ tại phòng một cửa, niêm yết
giá các khoản thu theo quy định của Nhà nước. Hàng năm, Ủy
ban Nhân dân xã rà soát bộ thủ tục hành chính của xã, qua đó đề
xuất, kiến nghị hủy bỏ những văn bản, thủ tục không cần thiết,
hết hiệu lực nhằm tinh gọn thủ tục hành chính. Xã đã tập trung
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mô hình “một cửa
liên thông” tại xã và hướng đến thực hiện mô hình “một cửa
liên thông hiện đại”, rút ngắn thời gian cho người dân khi giải
quyết thủ tục hành chính, góp phần nâng cao chất lượng giải
quyết thủ tục hành chính, ngăn chặn tình trạng quan liêu, cửa
quyền, nhũng nhiễu; nâng cao đạo đức, tinh thần trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, công chức; làm minh bạch hoạt động của
bộ máy hành chính; cải thiện tốt mối quan hệ giữa cơ quan Nhà
nước với tổ chức và công dân.
Công tác phòng chống tham nhũng được thực hiện tốt, các
biện pháp phòng và chống, thực hiện công khai minh bạch,
đúng các chế độ, định mức tiêu chuẩn trong hoạt động của cơ
quan Nhà nước, thực hiện các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức
nghề nghiệp, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, hoàn
thành báo cáo kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ công chức
theo quy định.
238

24.9 Page 239

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Bộ máy chính quyền:
Hội đồng nhân dân xã tiếp tục được nâng cao về chất lượng.
Đã tổ chức các kỳ họp Hội đồng nhân dân đúng theo luật định,
ban hành nhiều nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
- quốc phòng, các nghị quyết chuyên đề kịp thời, phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương. Thực hiện tốt chức năng khảo
sát, giám sát, công tác tiếp xúc cử tri, tiếp dân, đôn đốc kiểm
tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố
cáo của công dân; tổng hợp ý kiến và nguyện vọng của nhân
dân để báo cáo tại kỳ họp, công tác giám sát của Hội đồng nhân
dân tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, các vấn đề lớn mà
nhân dân bức xúc, quan tâm như: bồi thường, giao mặt bằng,
xây dựng cơ bản, tài nguyên môi trường, cải cách hành chính...
Trong nhiệm kỳ, HĐND xã đã ban hành 39 Nghị quyết, trong
đó có 23 Nghị quyết chuyên đề, có 11 Nghị quyết về công tác
tổ chức nhân sự của bộ máy Nhà nước địa phương nhiệm kỳ
2011-2016, 01 Nghị quyết về Ban hành Quy chế hoạt động của
HĐND xã khoá X, 01 Nghị quyết về Chương trình hoạt động
và Chương trình giám sát của HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016,
03 Nghị quyết về Chương trình hoạt động và Chương trình
giám sát của HĐND xã năm 2012, 2013 và 2014.
Hoạt động tiếp xúc cử tri có nhiều đổi mới, được thực hiện
ngày càng khoa học, hiệu quả hơn, đảm bảo cho đại biểu lắng
nghe các tâm tư nguyện vọng chính đáng của cử tri. Hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn trong các kỳ họp được thực hiện tốt
hơn. Hoạt động của Ban Hội đồng nhân dân ngày càng nâng
239

24.10 Page 240

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
cao hiệu quả trong các nội dung giám sát, tổ chức giám sát trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, ngân sách.
Xây dựng bộ máy chính quyền luôn được thực hiện nghiêm
túc; chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý được nâng lên. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng luôn được chú trọng. Việc bố trí, sắp xếp
luôn được đảm bảo phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực,
sở trường công tác của cán bộ, công chức. Đa số cán bộ sau khi
đào tạo đều được bố trí đúng chuyên ngành đào tạo nên phát
huy được năng lực, sở trường và vận dụng được những kiến
thức mới vào công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Qui chế dân chủ cơ sở được thực hiện nghiêm túc, triển
khai rộng rãi Pháp lệnh 34/CP và Nghị định 71/CP về Qui chế
dân chủ ở cơ sở cho nhân dân, công khai các hoạt động của Nhà
nước để nhân dân tham gia góp ý giám sát; thực hiện dân chủ
trong sinh hoạt của cơ quan, xây dựng cơ quan trong sạch vững
mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc có năng
suất, chất lượng, hiệu quả, ngăn chặn và chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu dân.
Công tác vận động quần chúng:
Được Nghị quyết Đại hội III xác định là nhiệm vụ chính trị
quan trọng, huy động cả hệ thống chính trị thực hiện thường
xuyên, sâu rộng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã và các
tổ chức đoàn thể đều đã tiến hành bổ sung chương trình hành
động của mình để thực hiện Nghị quyết. Dưới sự lãnh đạo của
cấp ủy Đảng, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã phát huy
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
mạnh mẽ tính chủ động trong mọi hoạt động. Công tác tuyên
truyền vận động, phát triển đoàn viên, hội viên đều đạt và vượt
chỉ tiêu phấn đấu. Việc giám sát tăng hàng năm 2 đến 3 lần.
Xã đã triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết 25-NQ/TW
ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới” gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay”. Đã triển khai, tổ chức học tập
quán triệt Quyết định 217 -QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc
ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ
Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội, Quyết định 218-
QĐ/TW Quy định về MTTQVN và các đoàn thể chính trị -
xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền.
Nhận thức của hệ thống chính trị về công tác dân vận ngày
càng được nâng lên; vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể càng thể hiện rõ hơn trong công tác xây dựng hệ
thống chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công
tác dân vận có nhiều tiến bộ trong thực hiện chức năng cầu nối
giữa Đảng, chính quyền với nhân dân và làm nòng cốt trong
các phong trào của quần chúng ở cơ sở, công tác giám sát, phản
biện xã hội, đề xuất các giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng hệ thống chính trị, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
241

25.2 Page 242

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho các đối tượng
chính sách, các đối tượng bảo trợ xã hội được duy trì thường
xuyên, thu hút nhiều cá nhân, đơn vị tham gia bằng nhiều hình
thức sinh động, đậm nghĩa tình, do đó các đối tượng được hưởng
chính sách xã hội được chăm sóc về vật chất và tinh thần trong
vòng tay tình nghĩa của chính quyền và nhân dân; đã xây dựng
được 1 căn và sửa chữa 2 căn nhà tình nghĩa; xây dựng 49 căn
và sửa chữa 9 căn nhà tình thương.
Công tác an sinh xã hội được chú trọng, cuộc vận động
“ngày vì người nghèo” được thực hiện bằng nhiều hình thức
sinh động, đạt được nhiều kết quả thiết thực, góp phần cùng
với huyện thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về xóa
đói giảm nghèo.
Tỷ lệ tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào tổ chức đoàn thể
đạt từ 85% trở lên, đạt chỉ tiêu so với Nghị quyết. Riêng Đoàn
Thanh niên đạt 46,6%, Hội Liên hiệp Thanh niên đạt 59,6%;
lực lượng đoàn viên, hội viên nòng cốt đạt từ 21% trở lên; tỷ lệ
vững mạnh của từng đoàn thể hàng năm đạt 100%, không có
cơ sở yếu kém.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị:
Xã Phú Thạnh thực hiện tốt mô hình hợp nhất chức danh Bí
thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được chú trọng hàng
đầu, từng bước được đổi mới cả nội dung và hình thức, thống
nhất cao trong toàn Đảng bộ xã, tạo được chuyển biến mạnh mẽ
242

25.3 Page 243

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân; triển khai học tập, quán triệt đầy đủ các Nghị
quyết, Chỉ thị của các cấp, có trên 98% đảng viên tham dự học
tập. Quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 03- CT/TW của
Bộ Chính trị và kế hoạch của Trung ương, kế hoạch Huyện ủy
về việc tiếp tục thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” với chất lượng học tập trong cán bộ, đảng
viên được nâng lên rõ nét. Hàng năm đều xây dựng và đăng ký
mô hình học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Triển khai và thực hiện di chúc Hồ Chí Minh; tổ chức kiểm
điểm cá nhân, tập thể theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4.
Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng và chủ động nắm bắt
tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân. Mạng lưới các tổ nhân dân ngày càng đóng vai trò tích cực
trong việc đưa nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi
vào cuộc sống.
Công tác bồi dưỡng, học tập nâng cao lý luận chính trị về
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thường xuyên
được quan tâm, tập trung chỉ đạo thực hiện Quy định 55-QĐ/
TW về công tác kiểm tra của tổ chức Đảng đối với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên gắn với việc
thực hiện Quy định 101-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng, Quyết định 272-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và
Quyết định 419-QD/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về ban
hành Quy chế nêu gương của cán bộ, đảng viên.
243

25.4 Page 244

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Công tác tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ, nâng cao
chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên được Ban
Chấp hành Đảng bộ xã đã tập trung chỉ đạo quán triệt và tổ
chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết về xây dựng Đảng,
nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay”.
Sau mỗi đợt tiến hành kiểm điểm, Đảng bộ đều xây dựng
kế hoạch, chương trình khắc phục khuyết điểm. Đến năm 2010
đã khắc phục xong 14/14 nội dung còn hạn chế. Qua kiểm điểm
và khắc phục khuyết điểm, đã có sự chuyển biến tích cực về
nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ. Số lượng và chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm đều tăng; tỷ
lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đều đạt 90% trở lên; chi
bộ đạt trong sạch vững mạnh tăng theo các năm: 2011: 7/8 chi
bộ, 2012: 8/8 chi bộ, năm 2013: 8/8 chi bộ, năm 2014: 9/9 chi
bộ đạt, vượt chỉ tiêu Nghị quyết.
Công tác cán bộ được sự hỗ trợ của Huyện ủy, Đảng ủy
xã đã tập trung củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ trên nguyên
tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, toàn
diện; thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ như: Đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ. Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý được nâng lên; từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
đặt ra. Huyện tăng cường 4 đồng chí về nhận nhiệm vụ tại địa
244

25.5 Page 245

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
phương, được sắp xếp bố trí phụ trách từng lĩnh vực góp phần
xây dựng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực ở địa phương.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm thực
hiện, chú trọng gắn kết chặt chẽ giữa công tác đào tạo và quy
hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Hàng năm Đảng ủy xã đều cử,
giới thiệu cán bộ tham gia các lớp do huyện, tỉnh tổ chức và tạo
điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên được học tập nâng
cao trình độ. Trong nhiệm kỳ qua đã đưa đào tạo: 1 cử nhân
kinh tế chính trị; 14 đại học theo các chuyên ngành; trung cấp
quân sự 2; trung cấp an ninh 2; trung cấp chính trị 16; sơ cấp
chính trị 15; trung cấp thanh vận 01, đã góp phần chuẩn hóa đội
ngũ cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; 100% công chức
cấp xã đạt trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên; 91% công
chức cấp xã có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
Công tác phát triển đảng viên mới có nhiều chuyển biến
tích cực, phát triển đảng hàng năm đều đạt chỉ tiêu huyện giao,
đã phát triển mới được 49 đảng viên, nâng tổng số đảng viên từ
86 đảng viên lên 135 đảng viên; mỗi năm tăng từ 8 đến 10%,
luôn đạt và vượt chỉ tiêu. Chất lượng phát triển đảng viên ngày
càng được chú trọng, đảng viên mới có trình độ từ trung học
phổ thông chiếm tỷ lệ 95% trở lên, đảng viên đều được học các
lớp bồi dưỡng và đối với các đảng viên trẻ, triển vọng còn được
giới thiệu dự học các lớp cao hơn nhằm đảm bảo nguồn nhân
lực kế thừa của Đảng bộ. Công tác phát triển đảng viên mới
trong thanh niên nhập ngũ hàng năm đều đạt từ 1 đến 2 đảng
245

25.6 Page 246

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
viên, đều đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Đảng ủy có bước chủ
động trong công tác tạo nguồn và giới thiệu quần chúng ưu tú
để được xem xét kết nạp Đảng. Quy trình kết nạp Đảng được
thực hiện chặt chẽ, đối tượng phát triển đảng được chú trọng
trong đội ngũ giáo viên, lực lượng vũ trang, đội ngũ cán bộ xã,
ấp và các đoàn thể, đặc biệt là đối tượng nữ, đối tượng trẻ.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong toàn
Đảng bộ nhiệm kỳ qua được tăng cường và đổi mới, chất lượng,
hiệu quả ngày được nâng lên. Đảng ủy, cấp ủy các chi bộ luôn
coi trọng việc lãnh đạo, tổ chức triển khai, quán triệt các nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; xây dựng kế hoạch trong
từng năm và phân công trách nhiệm cho từng cấp ủy viên; tổ
chức thực hiện toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát theo Điều lệ Đảng quy định; thường xuyên kiểm tra, giám
sát và giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh.
Kết quả trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra thường xuyên
42 lượt đối với các chi bộ trực thuộc. Hàng năm xây dựng kế
hoạch và tiến hành kiểm tra đảng viên chấp hành đối với các
đảng viên và chi bộ, mỗi năm 2 lần; tổ chức giám sát 40 lượt;
kiểm tra 03 tổ chức đảng và 06 trường hợp đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm; giải quyết 01 thư tố cáo 01 đảng viên; giám sát
chuyên đề đối với 05 đồng chí Đảng ủy viên và 10 đồng chí là
đảng viên, trưởng các ngành thuộc diện Đảng bộ quản lý. Qua
kết quả kiểm tra, giám sát đã phát hiện 03 tổ chức đảng và 06
đảng viên có sai phạm. Trong nhiệm kỳ có 05 trường hợp đảng
viên vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật (khiển trách 02;
246

25.7 Page 247

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
cảnh cáo 02; khai trừ 01) và 01 trường hợp kiểm điểm rút kinh
nghiệm. Trong nhiệm kỳ qua có 03 đảng viên làm đơn xin ra
khỏi Đảng do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn phải đi làm
ăn xa và không có thời gian tham gia sinh hoạt chi bộ, học tập
các nghị quyết.
Phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo của
tổ chức cơ sở đảng tiếp tục đổi mới, đổi mới nội dung sinh hoạt
của chi bộ, thực hiện nghiêm Quyết định 419-QĐ/HU của Ban
Thường vụ Huyện ủy về Quy chế nêu gương của cán bộ, đảng
viên, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành trong việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Đảng
ủy triển khai và tổ chức thực hiện đến toàn thể cán bộ, đảng
viên công chức, bán chuyên trách toàn xã và triển khai đến các
đoàn thể chính trị xã hội và quần chúng nhân dân. Đảng ủy rất
coi trọng công tác đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của
các tổ chức Đảng, đặc biệt việc đổi mới phương thức lãnh đạo
thông qua việc nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ,
nhất là chi bộ các ấp. Đảng ủy đã ban hành Quy chế làm việc
của Ban Chấp hành Đảng bộ toàn khóa; ban hành nhiều văn
bản để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung văn bản trên
như: quy định về trách nhiệm của người đứng đầu; quy định về
nêu gương.
Kết quả tổng quát:
Thành quả đạt được là quan trọng, cơ bản. Trong nhiệm kỳ
vừa qua, Đảng bộ xã đã tập trung lãnh đạo thực hiện các nhiệm
247

25.8 Page 248

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
vụ chính trị theo đúng định hướng và mục tiêu của Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng. Các công trình
hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, từng bước đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của xã. Văn hóa - xã hội có sự tiến bộ trên
nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên, an sinh xã hội được chăm lo, an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững, ổn định. Công tác vận
động quần chúng có những chuyển biến khá tích cực. Công tác
xây dựng Đảng được chú trọng trên cả 3 mặt tư tưởng, chính trị
và tổ chức. Đặc biệt qua triển khai và thực hiện theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” và Chỉ thị số 03 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về Cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã làm thay đổi nhận thức, tư duy
của cán bộ về thái độ, trách nhiệm đối với công việc và việc
“nêu gương” đã góp phần phát huy sức mạnh của cả hệ thống
chính trị, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tồn tại, hạn chế là thực tế, khách quan. Một số tồn tại, hạn
chế được phân tích, nhận diện, cần khắc phục, vượt qua:
- Cơ cấu các ngành chuyển dịch đúng hướng, lĩnh vực dịch
vụ tuy có sự tăng trưởng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng
và lợi thế của địa phương, tốc độ phát triển của khu tiểu thủ
công nghiệp chậm; một số dự án chậm được triển khai theo quy
hoạch làm cho cơ cấu tỷ lệ nông nghiệp của xã còn cao so với
mục tiêu Nghị quyết đề ra.
248

25.9 Page 249

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới bước
đầu mang lại hiệu quả, đạt chỉ tiêu nghị quyết nhưng xã không
đủ khả năng để đầu tư hạ tầng, trong khi huyện đầu tư cơ sở hạ
tầng chậm dẫn đến các chỉ tiêu về cơ sở vật chất chưa đạt.
- Sản xuất nông nghiệp mặc dù đạt nhiều kết quả tích cực,
nhưng còn phân tán, thiếu tính tập trung, ứng dụng khoa học
công nghệ trong sản xuất cây trồng, vật nuôi chưa cao cộng với
thời tiết diễn biến phức tạp, nhiễm mặn, lũ lụt, mưa bão... nên
hiệu quả sản xuất nông nghiệp và giá trị sản xuất trên một hécta
đất còn thấp. Mặt khác, chất lượng hoạt động của các mô hình
kinh tế tập thể như tổ hợp tác, hợp tác xã... còn nhiều hạn chế.
Việc hỗ trợ cho nông dân cũng còn nhiều bất cập như giống,
vốn và đầu ra sản phẩm là những lực cản cho sự phát triển kinh
tế ở địa phương.
- Công tác quản lý, bảo vệ môi trường, công tác quản lý trật
tự xây dựng cơ bản mặc dù đã có những chủ trương, giải pháp
quản lý nhưng vẫn còn xảy ra tình trạng vứt rác bừa bãi, hoạt
động thu gom rác của dịch vụ thu gom rác thải trên địa bàn vẫn
chưa hiệu quả và các tổ tự quản ở các ấp vẫn chưa mang lại hiệu
quả cao; tình hình xây dựng trái phép, sai phép trong dân vẫn
còn diễn ra.
- Công tác giáo dục - đào tạo tuy có bước phát triển về quy
mô, cơ sở vật chất nhưng chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng
phát triển của địa phương. Xã chưa có trường trung học cơ sở,
cơ sở vật chất trường mẫu giáo chưa đảm bảo cho nhu cầu của
bà con nhân dân ở địa phương.
249

25.10 Page 250

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục - thể thao: Tuy được
quan tâm thực hiện nhưng các thiết chế văn hóa chưa được đầu
tư đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu vui chơi, giải trí của
người dân. Ít có phong trào hoạt động rộng rãi, thường xuyên
được nhân dân hưởng ứng mà chủ yếu các hoạt động tập trung
vào các dịp lễ, tết hoặc phục vụ các sự kiện chính trị, văn hóa
nổi bật trong năm.
- Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn vẫn còn tiềm ẩn
những yếu tố phức tạp như ma túy, đánh đề, đánh bài, đá gà,
trộm cắp ngày càng tinh vi, khó phát hiện, đã gây nhiều bức xúc
trong nhân dân. Công tác đấu tranh, phòng chống, xử lý các đối
tượng chưa mang lại hiệu quả cao, nhất là các đối tượng ma túy.
Tình hình biển Đông, tình hình tôn giáo cũng là những yếu tố
dễ bị các phần tử quá khích, cơ hội lợi dụng để làm mất an ninh
trật tự trên địa bàn.
- Việc triển khai thực hiện các kiến nghị của HĐND huyện
sau giám sát có lúc chưa được thực hiện kịp thời. Còn trường
hợp trả lời các ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa thỏa đáng để cử
tri kiến nghị nhiều lần.
- Sự phối hợp giữa các ngành, giữa các cán bộ, công chức
có lúc chưa đồng bộ, chặt chẽ, thiếu nhạy bén dẫn đến giải
quyết một số vấn đề bức xúc của nhân dân đôi lúc còn chậm.
- Vai trò của Thường trực Đảng ủy chưa cao, còn lúng
túng trong lãnh đạo, chỉ đạo và định hướng đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
chính trị - xã hội. Tỷ lệ đoàn viên, hội viên được phát triển mới,
tỷ lệ đoàn viên hội viên nồng cốt đạt cao nhưng việc sinh hoạt,
tập hợp còn nhiều hạn chế, chưa phát huy vai trò nồng cốt trong
các phong trào. Từ đó công tác dân vận, công tác vận động và
tổ chức các phong trào đạt hiệu quả chưa cao.
- Trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng: một bộ phận
nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nghiêm túc tham gia nghiên cứu,
học tập Nghị quyết của Đảng. Cấp ủy và chính quyền chưa
có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất trong thực hiện mô hình
“Đảng bộ xã lãnh đạo công tác khoa giáo”.
- Công tác đào tạo, nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo
thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy đã được tập trung
thực hiện nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn đặt ra. Nhất là cán bộ chủ chốt chưa được đào tạo cao
cấp lý luận chính trị.
- Công tác kiểm tra, giám sát được các cấp ủy tăng cường
thực hiện thường xuyên, song vẫn còn một số cán bộ, đảng viên
thiếu tính gương mẫu, rèn luyện, chưa nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong công việc, chấp hành chưa nghiêm Điều lệ Đảng
và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước từ đó vẫn
có một số ít đảng viên vi phạm dẫn đến phải xem xét kỷ luật.
Bộ máy cán bộ kiểm tra chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm
trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế do chủ quan và khách
quan. Khách quan là do điều kiện vị trí địa lý không thuận lợi,
251

26.2 Page 252

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
ít có lợi thế cạnh tranh; sản xuất thuần nông chuyển sang công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững còn nhiều khó
khăn, thiếu cơ sở hạ tầng và giải pháp đồng bộ; nhiều dự án lớn
trên địa bàn chưa triển khai thực hiện đầy đủ; phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng; tình hình kinh tế khó khăn cả nước
làm chậm chính sách đầu tư ở địa phương, khiến nhiều mặt
kinh tế - xã hội trên địa bàn đạt kết quả không cao; cũng khiến
cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nghề ở địa phương
đang chuyển dần sang hướng dịch vụ - công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp - nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, chậm đạt mục
tiêu phấn đấu.
Chủ quan là do chậm cụ thể hóa một số chủ trương, Nghị
quyết của Đảng thành các chương trình, kế hoạch để triển khai
thực hiện; công tác lãnh đạo, chỉ đạo đôi lúc còn thiếu nhạy bén
trong vận dụng vào thực tế địa phương, thiếu biện pháp tích
cực để giải quyết các nguồn vốn, các nhu cầu của nhân dân.
Đội ngũ cán bộ của xã trong nhiệm kỳ qua có sự thay đổi, luân
chuyển, trình độ, năng lực cán bộ chưa đồng đều, vẫn còn một
số ít cán bộ chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm; còn một
bộ phận nhỏ cán bộ chưa tích cực học tập rèn luyện, ngại khó,
ngại khổ, chưa bám sát chức trách nhiệm vụ của mình để tự
giác thực hiện. Chậm đổi mới nội dung, phương thức vận động
quần chúng, chưa nhiều mô hình hay để thu hút đông đảo quần
chúng tham gia các tổ chức, đoàn thể và các phong trào xã hội;
chưa thật sự phát huy hết nguồn lực trong nhân dân để thực
252

26.3 Page 253

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Một số cán bộ chưa quan
tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công
tác kiểm tra, giám sát. Công tác đào tạo, nâng cao kiến thức,
năng lực lãnh đạo thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Bài học kinh nghiệm
Từ thành công và hạn chế, Đảng bộ đúc kết 7 bài học kinh
nghiệm của nhiệm kỳ III nhằm để vận dụng trong những giai
đoạn tiếp theo:
Một là, phải bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hành và mở rộng dân chủ trong công tác lãnh
đạo chỉ đạo của Đảng. Chú trọng phát huy cao trí tuệ, tinh thần
trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng
ủy trong việc bàn bạc thảo luận và thống nhất đưa ra các chủ
trương, giải pháp hiệu quả, phù hợp để lãnh đạo các nhiệm vụ
chính trị ở địa phương trong từng giai đoạn. Đồng thời, phải
thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng đồng
chí ủy viên thường vụ, ủy viên Ban Chấp hành nhằm nâng cao
năng lực điều hành, tổ chức hoạt động của Đảng bộ. Cấp ủy
Đảng và toàn thể đảng viên phải nêu cao tinh thần đoàn kết nội
bộ, thống nhất từ tư tưởng đến hành động, giữ vững vai trò lãnh
đạo, điều hành, nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, kịp thời khắc phục những
sai lầm khuyết điểm, luôn luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến
của quần chúng nhân dân.
253

26.4 Page 254

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Hai là, phải quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo cho
phù hợp với tình hình thực hiện nhiệm vụ theo hướng sâu sát
ở địa bàn dân cư, nắm bắt tốt tình hình hoạt động của các chi
bộ, nhất là chi bộ ở các ấp, lắng nghe phản ánh từ các chi bộ
nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; đồng thời,
đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoạt động theo quy chế.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, thực
hiện tốt nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Phát huy tinh thần trách nhiệm của các cán bộ,
công chức ở địa phương, quản lý điều hành phát triển kinh tế
xã hội - an ninh quốc phòng, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, giữ gìn kỷ cương phép nước, ý thức kỷ luật trong mọi
hoạt động xã hội.
Ba là, trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, phải
luôn bám sát các chủ trương, quan điểm, các Nghị quyết, chỉ
thị của Đảng. Đồng thời, phải có sự chủ động, sáng tạo trong
việc vận dụng để cụ thể hóa thành những kế hoạch, chương
trình hành động với những mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, trọng
điểm, có tính đột phá, thúc đẩy hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm
vụ có liên quan khác để tập trung chỉ đạo thực hiện.
Bốn là, phải có sự đoàn kết nhất trí cao của cả hệ thống
chính trị, phải xem công tác xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo của Đảng là khâu
then chốt trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ
địa phương. Tăng cường công tác vận động quần chúng, nắm
chắc và lãnh đạo cho được lực lượng quần chúng trong mọi
254

26.5 Page 255

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
điều kiện, kịp thời nắm bắt diễn biến về tư tưởng cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân, giải quyết tốt những bức xúc mà
xã hội đặt ra.
Năm là, thực hiện tốt công tác qui hoạch, bồi dưỡng - đào
tạo, bố trí - sử dụng cán bộ vừa mang tính thực tiễn, vừa đảm
bảo lực lượng kế thừa nhất là cán bộ chủ chốt. Trình độ năng
lực của cán bộ phải ngang tầm với nhiệm vụ mới, biết vận dụng
một cách sáng tạo các chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh thực tiễn ở địa
phương.
Sáu là, mô hình Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch UBND
cần phải thực hiện tốt các nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng như
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách và các nguyên tắc quản lý, điều hành trong hoạt động của
UBND. Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch phải là trung tâm
đoàn kết, thống nhất cao trong mọi hoạt động của Đảng bộ.
Bảy là, cần sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời các
nghị quyết của Đảng cấp trên và các chương trình hành động
của địa phương, đúc kết những bài học quý báu, phát huy những
mặt mạnh, khắc phục những thiếu sót tồn tại.
II. NHIỆM KỲ IV (2015 - 2020)
1. Đại hội Đảng bộ lần thứ IV (nhiệm kỳ 2015 - 2020)
Đại hội đại biểu lần thứ IV (nhiệm kỳ 2015 - 2020) của
Đảng bộ xã Phú Thạnh được tổ chức tại Hội trường trụ sở xã
từ ngày 4 đến ngày 5 tháng 6 năm 2015, 122/123 đại biểu được
255

26.6 Page 256

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
triệu tập1 tham dự đại diện cho 241 đảng viên thuộc 9 chi bộ
cơ sở. Đồng chí Nguyễn Hữu Nghị - Phó Bí thư Thường trực
Huyện ủy cùng nhiều lãnh đạo các ban ngành tham dự.
Chủ đề của Đại hội: “Đoàn kết, trách nhiệm, giữ vững hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy mọi nguồn lực
đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới”.
Đại hội IV đã được chuẩn bị và tổ chức đúng qui trình theo
hướng dẫn của Huyện ủy Nhơn Trạch. Sau phần nghi thức khai
mạc, Đại hội đã báo cáo tư cách đại biểu tham dự, cử chủ tọa và
thư ký đại hội, đại biểu cấp trên đại diện Ban Thường vụ Huyện
ủy Nhơn Trạch phát biểu, đại diện Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và thiếu nhi xã chúc mừng. Đại hội đã tập trung
thông qua chương trình làm việc, thông qua dự thảo báo cáo
kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa III,
báo cáo kiểm điểm kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban
Chấp hành Đảng bộ xã, báo cáo tổng hợp và giải trình việc tiếp
thu ý kiến góp ý đóng góp xây dựng các văn kiện Đại hội, tiếp
tục thảo luận, tham luận tại hội trường; biểu quyết thông qua
các văn kiện Đại hội với tinh thần nhất trí cao.
Sau phần nội dung, Đại hội IV đã thực hiện qui trình tập
trung dân chủ, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phú Thạnh
nhiệm kỳ IV (2015 - 2020) gồm 9 đồng chí: Huỳnh Minh Đức,
Đỗ Tấn Phát, Lê Bình Phước, Dương Văn Quý, Nguyễn Thanh
Sang, Trần Đại Thắng, Đoàn Thị Kim Thu, Nguyễn Thị Thùy
Trang, Lý Thanh Tùng.
1  Một đại biểu vắng mặt vì lý do sức khỏe.
256

26.7 Page 257

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Tại phiên họp lần thứ nhất, Ban Chấp hành hành Đảng bộ
xã Phú Thạnh vừa trúng cử đã bầu Ban Thường vụ gồm 3 đồng
chí: Huỳnh Minh Đức, Trần Đại Thắng, Lý Thanh Tùng. Sau
đó, bầu Bí thư Đảng ủy là Huỳnh Minh Đức1, hai Phó Bí thư
là Trần Đại Thắng và Lý Thanh Tùng. Phiên họp thứ nhất Ban
Chấp hành khóa mới cũng đã bầu Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy gồm
3 đồng chí: Lý Thanh Tùng, Nguyễn Thị Thùy Trang, Nguyễn
Thanh Sang, do đồng chí Lý Thanh Tùng là Chủ nhiệm.
Kết quả nhân sự Đại hội IV được Huyện ủy chuẩn y tại
Quyết định số số 1016-QĐ/HU ngày 15/06/2015.
Đại hội IV cũng đã bầu đoàn đại biểu tham dự Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện Nhơn Trạch khóa V theo đúng cơ cấu
hướng dẫn gồm 8 đồng chí: Nguyễn Văn Đức, Đỗ Tấn Phát,
Lê Bình Phước, Dương Văn Quí, Nguyễn Thanh Sang, Trần
Đại Thắng2, Đoàn Thị Kim Thu, Nguyễn Thị Thùy Trang3, Lý
Thanh Tùng4.
1  Năm 2015, Huyện ủy quyết định điều động đồng chí Huỳnh Minh Đức về
huyện làm nhiệm vụ Trưởng ban Dân vận Huyện ủy kể từ 15/9/2015 (theo QĐ số
15 - QĐ/HU ngày 15/9/2015). UBND cũng có Quyết định số 3735/QĐ-UBND
ngày 21/9/2015 về việc đồng chí Huỳnh Minh Đức bàn giao nhiệm vụ Chủ tịch
UBND xã. Thay đồng chí Huỳnh Minh Đức là đồng chí Dương Văn Mẫn.
2  Năm 2020, đồng chí Trần Đại Thắng về huyện, làm Phó Giám đốc Trung tâm
dịch vụ Nông nghiệp huyện.
3  Năm 2016, đồng chí Nguyễn Thị Thùy Trang nghỉ việc, đã bầu bổ sung đồng
chí Nguyễn Hồng Chí vào Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ với chức danh Đảng
ủy viên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng.
4  Năm 2020, đồng chí Lý Thanh Tùng được điều động về huyện làm Phó Chủ
tịch Hội Nông dân huyện.
257

26.8 Page 258

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội
khóa III, dự báo các yếu tố tác động và bối cảnh trong giai đoạn
2015 - 2020, Đại hội IV thảo luận, thông qua phương hướng,
nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp chủ yếu cho nhiệm kỳ mới.
Thuận lợi và khó khăn:
Thuận lợi là cơ bản do kết quả đã đạt được và lợi thế địa
phương trong phát triển. Những thành tựu và những bài học
kinh nghiệm qua gần 30 năm đổi mới của đất nước là điều kiện
thuận lợi cơ bản để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
Đảng bộ trong những năm tới. Việc quy hoạch xây dựng nông
thôn mới và việc tỉnh, huyện tập trung đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng kỹ thuật như: đường vành đai 3, khu dân cư Long Tân
- Phú Thạnh, khu trung tâm hành chính kết hợp khu phố văn
hóa, chợ, hạ tầng giao thông kết nối, bến xe, bến thủy nội địa,
việc mở rộng bến bãi ICD cùng các công trình theo quy hoạch
sẽ tác động rất lớn tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương. Mặc khác sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận trong
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân là sức mạnh tổng hợp nội
sinh đảm bảo việc thực hiện thành công mọi nhiệm vụ.
Khó khăn là thách thức lớn. Tình hình bất ổn chính trị của
các nước trên thế giới và khu vực, tình hình biển Đông, tôn giáo
và trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn vấn đề phức tạp sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của địa phương. Diễn biến
bất thường về giá cả thị trường, các vấn đề về nhu cầu nhà ở,
258

26.9 Page 259

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm, các loại
tội phạm, tệ nạn xã hội gia tăng, tình hình dịch bệnh, tình trạng
ô nhiễm môi trường, bất lợi thời tiết do biến đổi khí hậu tiếp tục
là những yếu tố tác động bất lợi đến quá trình tổ chức thực hiện
nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
Đại hội IV phân tích, nhận diện đầy đủ thuận lợi và khó
khăn, quyết tâm khai thác thuận lợi, vượt qua khó khăn, huy
động mọi nguồn lực biến thuận lợi và khó khăn thành động lực
phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ chính trị.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát:
Đại hội IV xác định: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân; tập trung huy động các nguồn lực, khai thác hiệu
quả tiềm năng, lợi thế của xã để phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật; nâng cao chất lượng cuộc
sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị- xã hội; đẩy mạnh
xây dựng nông thôn mới trước năm 2020.
Các chỉ tiêu chủ yếu:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2020 theo hướng
thương mại dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp
(Thương mại dịch vụ: 52%, Tiểu thủ công nghiệp: 40%, Nông
nghiệp: 8%).
- Tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước trên địa bàn thực
hiện đạt và vượt dự toán hàng năm được giao.
259

26.10 Page 260

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Tỷ lệ thu gom chất thải rắn độc hại, tỷ lệ xử lý rác thải y
tế đạt 100%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt, chất thải
rắn không nguy hại đạt 96%.
- Tỷ lệ che phủ cây xanh đạt trên 31%, trong đó, tỷ lệ che
phủ rừng đạt trên 20,6%.
- Xây dựng xã đạt tiêu chí Quốc gia về y tế, Trạm Y tế có
bác sĩ phục vụ thường xuyên.
- Tỷ lệ trẻ em dưới 01 tuổi tiêm chủng đầy đủ các loại
vaccine đạt trên 98,5%.
- Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng theo cân nặng đối với trẻ em 5
tuổi còn dưới 6,5%.
- Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng theo chiều cao đối với trẻ em
5 tuổi còn dưới 16,5%.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn dưới 1%.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện và sử dụng nước hợp vệ sinh
đạt trên 98%.
- Huy động trên 80% trẻ trong độ tuổi đi nhà trẻ vào năm
2020. Giữ vững kết quả và nâng cao chất lượng thực hiện công
tác xóa mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ
cập giáo dục trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông.
- Hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp tiểu học và THCS đạt
99,5%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông trên 95%.
Phấn đấu đến năm 2020, có đủ cơ sở vật chất cho 3 cấp học:
mẫu giáo, tiểu học và trung học cơ sở.
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Phấn đấu hàng năm có trên 99% hộ đăng ký gia đình văn
hóa, cuối năm xét đạt từ 98% hộ gia đình được công nhận danh
hiệu gia đình văn hóa, 100% ấp đạt danh hiệu Ấp văn hóa.
- Phấn đấu đến trước năm 2020 xã được công nhận xã văn
hóa nông thôn mới.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 1% (theo chuẩn mới).
- Giải quyết việc làm cho trên 2.000 lao động. Đến năm
2020, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65%.
- Thực hiện tốt công tác hòa giải, giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo thuộc thẩm quyền của xã đạt từ 95% trở lên.
- Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính trên địa bàn xã,
niêm yết công khai các thủ tục hành chính kịp thời đúng theo
quy định của pháp luật.
- Hoàn thành chỉ tiêu giao quân hàng năm và đạt về chất
lượng, số lượng.
- Giữ vững an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã
hội trong mọi tình huống.
- Đảm bảo tỷ lệ tập hợp số người trong độ tuổi tham gia vào
các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội đạt từ 80% trở lên. Riêng
tỷ lệ tập hợp vào Đoàn Thanh niên đạt từ 60% và Hội Liên hiệp
Thanh niên đạt từ 70% trở lên.
- Đảm bảo tỷ lệ đoàn viên, hội viên tham gia sinh hoạt
thường xuyên đạt từ 80% trở lên. Tỷ lệ lực lượng đoàn viên,
hội viên nòng cốt đạt từ 45% trở lên và phấn đấu từng đoàn thể
có trên 85% cơ sở vững mạnh, không có cơ sở yếu kém.
261

27.2 Page 262

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Đảm bảo tỷ lệ đảng viên tham gia học tập, quán triệt các
Nghị quyết của Đảng đạt trên 98% (trừ các đồng chí được miễn
sinh hoạt).
- Đến năm 2020 đội ngũ cán bộ, công chức các cấp của xã
đều đạt chuẩn theo quy định.
- Phấn đấu tỷ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 8%/năm trở
lên so với tổng số đảng viên có tại thời điểm cuối năm.
- Phấn đấu hàng năm có trên 80% tổ chức cơ sở đảng đạt
danh hiệu “trong sạch, vững mạnh”; có trên 80% đảng viên
được công nhận đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.
Giữ vững 100% chi bộ ấp có chi ủy. Phấn đấu đến năm 2020 có
3/3 chi bộ đều thực hiện mô hình bí thư đồng thời là trưởng ấp.
- Hàng năm giải quyết dứt điểm trên 95% đơn thư tố cáo đối
với tổ chức đảng, đảng viên và 95% đơn khiếu nại kỷ luật của
đảng viên thuộc thẩm quyền.
Giải pháp chủ yếu:
Đại hội xác định 5 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung
lãnh đạo để hoàn thành nhiệm vụ, đạt các chỉ tiêu phấn đấu.
1. Xây dựng Đảng, hệ thống chính trị:
- Cấp ủy cần chú trọng chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực
hiện đồng bộ và hiệu quả một số nhiệm vụ trọng tâm bằng
chương trình hành động, kế hoạch cụ thể sát với thực tế cho
từng năm.
- Về công tác cán bộ: tiếp tục thực hiện công tác rà soát, bổ
sung quy hoạch cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, dự bị
262

27.3 Page 263

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
cho các chức danh chủ chốt ở các nhiệm kỳ tiếp theo. Trên cơ
sở quy hoạch cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo, luân chuyển
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận có chất lượng và đảm
bảo số lượng, hướng đến năm 2020 tất cả cán bộ đều đạt chuẩn.
Sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường
công tác. Xây dựng phương pháp đánh giá cán bộ nhằm nâng
cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ của cán bộ công chức, bán
chuyên trách.
- Tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên đi đôi với đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí, thực hành tiết kiệm; tiếp tục thực
hiện đồng bộ các khâu của công tác cán bộ; tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phong cách công tác, lề lối làm việc, phương pháp
chỉ đạo, điều hành trên tinh thần thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, nêu cao
trách nhiệm cá nhân, trước hết là vai trò người đứng đầu; cải
cách thủ tục hành chính; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trách nhiệm, tác phong,
lề lối làm việc, giờ giấc làm việc, thái độ ứng xử, phục vụ nhân
dân theo phương châm “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân
và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin”.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh đảm bảo kết quả cao, trong đó chú trọng
đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống, phát huy vai trò
263

27.4 Page 264

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn
viên, hội viên cốt cán, nhất là cán bộ lãnh đạo.
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nhằm tạo
chuyển biến trong công tác xây dựng Đảng, củng cố lòng tin
của nhân dân với Đảng.
- Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, tăng cường trách
nhiệm của các cấp ủy Đảng, nhất là cấp ủy các ấp về xây dựng
đội ngũ trung kiên, chú ý phát triển đảng viên ở các ấp, đảm bảo
các chi bộ ấp thật sự vững mạnh.
- Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng. Trong nhiệm kỳ tới, chú trọng lãnh đạo, thực hiện
thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và không ngừng
nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt đảng, việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, phát
huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên; chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng
viên, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
- Tăng cường và đổi mới nội dung công tác dân vận của
chính quyền; tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức
xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là đời sống,
việc làm, thu nhập, giải tỏa, đền bù, đất đai, giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân.
264

27.5 Page 265

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội
quần chúng để tập hợp nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao. Tăng cường hơn nữa vai trò, giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo Quyết định
217-QĐ/TW; đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong sạch vững mạnh của MTTQ và các đoàn thể theo Quyết
định 218-QĐ/TW.
- Quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán
bộ dân vận, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu về trình độ lý luận chính trị, năng lực thực tiễn và kỹ
năng công tác dân vận; đổi mới nội dung, chương trình đào
tạo, tập huấn cho cán bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội.
2. Phát triển kinh tế - xã hội:
- Tiếp tục thực hiện định hướng phát triển đô thị giai đoạn
2015 - 2020; tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác lập quy
hoạch xây dựng và đẩy mạnh việc phát triển đô thị, xây dựng
kết cấu hạ tầng; thường xuyên liên hệ tỉnh, huyện cấp kinh phí
xây dựng các công trình trọng điểm cho xã như: Trung tâm
hành chính kết hợp khu phố, chợ, khu dân cư Long Tân - Phú
Thạnh, đường vành đai 3, bến thủy nội địa, cảng, bến bãi ICD
và các hạ tầng dịch vụ khác.
- Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về xây dựng, đảm
bảo tiến độ, khối lượng, chất lượng, hiệu quả trong hoạt động
đầu tư, xây dựng để phát triển nhanh về diện tích nhà ở với các
265

27.6 Page 266

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
loại hình thức thích hợp nhằm giải quyết cơ bản nhu cầu nhà ở
và nâng cao điều kiện sống của dân cư địa phương.
- Thực hiện tốt công tác công bố, công khai các qui hoạch
được duyệt. Làm tốt công tác quản lý các khu vực đã được qui
hoạch cây xanh, đất dự trữ phát triển sau năm 2020. Vận động
các nhà đầu tư thực hiện các dự án công viên - cây xanh để từng
bước tạo cảnh quan nông thôn mới.
- Phấn đấu thực hiện đạt và vượt dự toán thu ngân sách Nhà
nước do huyện giao hàng năm. Đảm bảo quản lý chặt và khai
thác tốt các nguồn thu. Tuân thủ đúng định mức, kế hoạch trong
thực hiện chi ngân sách. Quan tâm bố trí nguồn để đảm bảo chi
cho các hoạt động, chi cho con người.
- Tập trung thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và có bước chuyển dần sản xuất nông nghiệp
nông thôn sang nông nghiệp đô thị. Đẩy mạnh thực hiện chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng đô thị đến năm 2020.
- Tăng cường huy động các nguồn lực để triển khai có hiệu
quả chương trình xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch, đề
án được duyệt; phấn đấu hoàn thành 19/19 tiêu chí nông thôn
mới, xã đạt chuẩn về xây dựng nông thôn mới trước năm 2020
và đạt một số tiêu chí nâng cao.
- Có biện pháp hỗ trợ nông nghiệp phát triển và nâng cao
hiệu quả, khắc phục tình trạng tự phát, hiệu quả thấp. Đồng thời
có biện pháp để phát triển kinh tế hộ. Có giải pháp tiêu thụ nông
sản cho nông dân, khuyến khích thực hiện liên kết giữa các
266

27.7 Page 267

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
doanh nghiệp với nông dân trong đầu tư sản xuất và tiêu thụ
nông sản hàng hóa. Có biện pháp khai thác hết diện tích đất
nông nghiệp; ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến,
công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp; đồng thời, chú trọng
thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho cây trồng, vật
nuôi; làm tốt công tác thủy lợi, phòng chống lụt bão; bảo đảm
năng suất các loại cây trồng, vật nuôi chính không ngừng tăng.
- Giữ vững, ổn định diện tích rừng. Làm tốt công tác quản
lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và chăm sóc tốt diện tích
rừng đã có.
- Tiếp tục phát triển các ngành nghề, dịch vụ nông nghiệp,
nông thôn nhằm tạo thêm nhiều việc làm cho lao động và có
định hướng từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp
sang lao động công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện có hiệu quả
công tác khuyến công gắn với giải quyết việc làm, nhất là cho
các hộ dân thuộc diện thu hồi đất, tái định cư. Tiếp tục thực hiện
các chương trình đào tạo nghề cho lực lượng lao động, bảo đảm
nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn, quan tâm đào tạo
nghề cho lao động lớn tuổi, lao động thuộc diện bị thu hồi đất.
- Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thu gom, xử lý rác thải
ở các khu dân cư; đồng thời thực hiện các giải pháp hiệu quả
nhằm tổ chức tốt việc thu gom và xử lý theo đúng tiêu chuẩn vệ
sinh môi trường các loại rác thải, chất thải trên địa bàn.
- Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả chiến lược phát
triển giáo dục và chương trình hành động của Chính phủ thực
267

27.8 Page 268

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Chú trọng công tác đào tạo nghề.
Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục để bảo đảm nhu cầu
học tập của các đối tượng, nhất là giáo dục mầm non.
- Duy trì kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5
tuổi; công tác xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học cơ sở, tiến tới phổ cập giáo dục bậc trung học. Nâng
cao chất lượng hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng gắn
với xây dựng mô hình xã hội học tập trên địa bàn xã.
- Duy trì nâng cao chất lượng hoạt động của trạm y tế, đảm
bảo tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu cho người dân và làm
tốt công tác chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng. Tiếp
tục triển khai tuyên truyền tốt công tác kế hoạch hóa gia đình
trên địa bàn xã.
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HU ngày
20/9/2006 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về “Chương
trình trọng tâm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 2005 - 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020”.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở địa phương,
cộng đồng dân cư. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh trên cơ sở
thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa trên cơ
sở huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy
268

27.9 Page 269

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị
văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn
hóa dân tộc.
- Khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, kỹ thuật
và công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa, tạo
thuận lợi cho các cơ sở văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu
hút các nguồn lực xã hội để phát triển. Đầu tư hợp lý cho các
thiết chế văn hóa để tổ chức đa dạng các hình thức sinh hoạt
nhằm nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho các tầng lớp nhân
dân.
- Trên cơ sở tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao quần chúng, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu để
hình thành các đội, nhóm, câu lạc bộ thành tích cao làm nòng
cốt cho các phong trào và tham gia dự thi cấp huyện, cấp tỉnh.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với lĩnh vực văn hóa và thông tin. Tăng cường công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và
toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế
và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Tăng
cường công tác kiểm tra văn hóa đồng thời phát huy vai trò
giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng
dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động
văn hóa.
269

27.10 Page 270

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Nâng cao chất lượng hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân
dân; làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh trong cộng đồng.
Duy trì Trạm y tế có bác sĩ phục vụ thường xuyên. Thực hiện
tốt chương trình phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, thực
hiện tốt công tác chăm sóc bảo vệ bà mẹ, trẻ em. Tăng cường
công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm không để
xảy ra trường hợp ngộ độc tập thể trên địa bàn.
- Đa dạng hóa các loại hình thức tổ chức chăm sóc sức khỏe
nhân dân (nhà nước, tư nhân), đầu tư trang thiết bị để nâng
cao chất lượng hoạt động của Trạm y tế. Nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh, đồng thời kết hợp Đông - Tây y trong công
tác khám và điều trị.
- Đẩy mạnh công tác xã hội hóa y tế và huy động mọi nguồn
lực xã hội tiếp tục đầu tư, trang bị các trang thiết bị y tế hiện
đại góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các đơn
vị y tế.
- Thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Tiếp tục củng cố mạng lưới cộng tác viên dân số ở cơ sở. Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân tích cực tham
gia bảo vệ môi trường và có ý thức tự phòng bệnh cho bản thân,
gia đình và cộng đồng.
- Thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước dành cho
các đối tượng xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu giảm hộ
nghèo. Thường xuyên liên hệ với các trung tâm đào tạo việc
làm mở các lớp đào tạo nghề ngắn hạn để cho người lao động
tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn, lao động có
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tay nghề nhằm tạo công ăn việc làm cho người dân ngày càng
tốt hơn.
- Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “đền ơn đáp nghĩa”,
chăm sóc gia đình chính sách, làm tốt công tác thương binh liệt
sĩ. Đẩy mạnh cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa để sửa chữa, xây
dựng nhà tình nghĩa.
3. Tăng cường công tác quốc phòng - an ninh và hoạt động
pháp luật:
- Kiện toàn hệ thống tổ chức, bố trí cán bộ, lực lượng công
an, quân sự từ xã đến ấp. Củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng
các đội dân phòng, dân quân và tổ nhân dân.
- Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết liên tịch giữa công an
- quân sự với các ngành, đoàn thể, MTTQ, phát động phong
trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, phòng chống tội phạm
và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân một cách vững chắc.
- Quản lý chặt nhân, hộ khẩu, công tác tạm trú tạm vắng.
Quản lý chặt thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự, lứa tuổi
17, dự bị động viên. Chỉ tiêu giao quân hàng năm đạt 100%
(đối với công an và quân sự). Tích cực xây dựng lực lượng dân
quân chiến đấu, dân quân tại chỗ đạt chỉ tiêu và có chất lượng.
- Làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật, giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật trong nhân dân nhất là cán bộ, đảng viên
phải gương mẫu. Thực hiện chế độ tiếp dân, nâng cao chất
lượng tổ hòa giải cơ sở, hội đồng hòa giải trong giải quyết đơn
271

28.2 Page 272

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
thư khiếu nại của công dân đúng pháp luật, không để đơn tồn
động kéo dài.
- Chấn chỉnh lại hoạt động của các cơ quan nhà nước, khắc
phục có hiệu quả tình trạng buông lỏng quản lý, đảm bảo thực
hiện đúng, đầy đủ các quy định pháp luật ngay từ đầu nhằm hạn
chế tình trạng phát sinh khiếu nại, phản ánh, tố cáo; chủ động,
tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc quá trình xử lý,
công khai, minh bạch kết quả xử lý; tăng cường công tác tiếp
dân, đối thoại trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết,
đảm bảo việc giải quyết khắc phục sai sót kịp thời, không để
diễn biến phức tạp; tăng cường công tác hòa giải, xử lý dứt
điểm ngay các mâu thuẫn mới phát sinh.
- Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống
chính trị, thực hiện tốt các nhiệm vụ quốc phòng; chủ động
khắc phục các hạn chế trong công tác huấn luyện và diễn tập trị
an, đảm bảo bám sát thực tế, phát huy hiệu quả; xây dựng thế
trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ
quốc. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với đảm bảo trật
tự an toàn xã hội.
4. Xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền:
- Phát huy vai trò trách nhiệm của các đại biểu Hội đồng
nhân dân, đại diện cho quyền lợi hợp pháp của nhân dân. Các
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải sát với thực tế. Cụ thể
hóa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và chương trình hành động của Đảng ủy, thực hiện chức
272

28.3 Page 273

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
năng giám sát các kỳ họp phải đúng qui trình và đảm bảo chất
lượng.
- Tổ chức triển khai và nghiêm túc thực hiện các Nghị quyết
của Ban Chấp hành Đảng bộ, ban hành những quyết định kịp
thời đúng đắn, phù hợp theo chức năng của chính quyền cấp xã,
ra sức xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch vững mạnh.
Nghị quyết Đại hội
Sau khi thống nhất ý kiến, Đại hội IV đã biểu quyết nhất trí
cao thông qua Nghị quyết của Đại hội. Nghị quyết thống nhất
kết quả bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tại đại hội và các chức
danh được Ban Chấp hành Đảng bộ thông qua tại phiên họp
thứ nhất, kết quả bầu đoàn đại biểu dự đại hội cấp trên; nhất
trí thông qua báo cáo chính trị và báo cáo kiểm điểm của Ban
Chấp hành khóa III; nhất trí thông qua phương hướng, mục tiêu
tổng quát, 26 chỉ tiêu phấn đấu và 5 nhóm giải pháp chủ yếu đã
được đại biểu nhất trí nêu trong văn kiện.
Đại hội giao trách nhiệm cho Ban Chấp hành Đảng bộ khóa
IV hoàn thiện thủ tục về kết quả Đại hội, tổ chức triển khai thực
hiện Nghị quyết của Đại hội theo qui định.
Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực
lượng vũ trang và nhân dân trong toàn xã Phú Thạnh tiếp tục
phát huy truyền thống cách mạng, ra sức khắc phục khó khăn,
thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ của Đảng bộ do Đại
hội đề ra.
273

28.4 Page 274

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Diễn văn bế mạc
Diễn văn bế mạc do đồng chí Huỳnh Minh Đức đại diện
Đoàn Chủ tịch Đại hội tổng kết, đánh giá cao kết quả thực hiện
chương trình Đại hội, tiếp thu ý kiến phát biểu của đại diện lãnh
đạo Huyện ủy và góp ý của các đại biểu; cảm ơn các cá nhân
và tập thể đã đóng góp tâm sức phục vụ Đại hội và chúc mừng
Đại hội.
3. Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IV
Kết quả thực hiện Nghị quyết đại hội IV của Đảng bộ xã
Phú Thạnh được đánh giá tại Đại hội V được tổ chức tại Hội
trường trung tâm xã tháng 3 năm 2020.
Đại hội V Đảng bộ xã Phú Thạnh đánh giá: thời điểm năm
2020, xã Phú Thạnh có tổng diện tích tự nhiên 1.773,49 ha,
toàn xã có 3.577 hộ (thường trú 3.037 hộ) và 12.350 nhân khẩu
(trong đó nữ: 6.305 khẩu, độ tuổi từ 14 tuổi trở lên là 9.526
khẩu, tạm trú 1.418 khẩu), chiếm 4,32% diện tích và 6,41%
dân số toàn huyện, xã có 3 ấp và khu gia đình bộ đội, được chia
thành 70 tổ nhân dân.
Qua hơn 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV
nhiệm kỳ 2015-2020 của Đảng bộ, Nghị quyết của Huyện ủy
nhiệm kỳ V (nhiệm kỳ 2015-2020) trong tình hình đất nước nói
chung và địa phương nói riêng cũng còn nhiều khó khăn, thách
thức; Ban Chấp hành Đảng bộ đã bám sát Nghị quyết, tranh thủ
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, tập trung lãnh đạo thực hiện
các nhiệm vụ chính trị theo đúng định hướng. Kinh tế tiếp tục
274

28.5 Page 275

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tăng trưởng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng. Các
công trình hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, từng bước đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của xã. Văn hóa - xã hội có
sự tiến bộ trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên, an sinh xã hội được chăm lo, an ninh
chính trị, an ninh tôn giáo, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được
giữ vững, ổn định. Công tác vận động quần chúng có những
chuyển biến khá tích cực. Công tác xây dựng Đảng được chú
trọng trên cả 3 mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức. Đặc biệt qua
triển khai và thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách
Hồ Chí Minh, đã làm thay đổi nhận thức, tư duy của cán bộ về
thái độ, trách nhiệm đối với công việc và việc “nêu gương” đã
góp phần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, được
nhân dân đồng tình ủng hộ; đạt và vượt tất cả các chỉ tiêu Nghị
quyết; được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới và nông thôn
mới nâng cao; được nhân dân đoàn kết, đồng thuận, đồng tình.
Về phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường:
Kinh tế tiếp tục phát triển, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển
dịch theo đúng định hướng và mục tiêu Nghị quyết của Đại hội
lần thứ IV đề ra: dịch vụ - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp -
275

28.6 Page 276

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
nông nghiệp duy trì cơ cấu kinh tế ổn định qua các năm, trong
đó: tỷ trọng ngành dịch vụ đạt 50% (đạt mục tiêu Nghị quyết),
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 35% (đạt mục tiêu Nghị
quyết), nông nghiệp đạt 15% (đạt mục tiêu Nghị quyết).
Công tác quản lý, điều hành ngân sách đảm bảo đúng Luật
ngân sách, chặt chẽ, hiệu quả; thực hiện thu, chi và quản lý
ngân sách Nhà nước đúng quy định, các nguồn thu cân đối
ngân sách đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, mỗi năm đều tăng
từ 10 - 15%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 65 triệu đồng/
người/năm, hàng năm tăng khoảng 10%, tăng 1,8 lần so với đầu
nhiệm kỳ.
Nông nghiệp: chú trọng việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
ứng dụng khoa học kỹ thuật nên năng suất hàng năm đều tăng.
Cây lúa, sen luân canh theo mùa vụ, đảm bảo diện tích gieo
trồng 170/170ha đạt 100% chỉ tiêu kế hoạch. Riêng cây lúa,
mỗi năm thực hiện 50/50 ha đạt 100% kế hoạch, áp dụng giống
mới MTL 110, năng suất ước đạt 5 tấn/ha. Cây sen cũng đạt
40/40ha năng suất ước tính 6 tấn/ha. Các loại cây mì và hoa
màu đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch về diện tích, năng suất
và sản lượng.
Chăn nuôi: duy trì tổng đàn gia súc, gia cầm 5.259 con, đạt
101% kế hoạch; đàn gia súc là 959 con (đàn trâu 152 con, bò
103 con, đàn heo 704 con); thực hiện tiêu độc sát trùng hàng
năm; giám sát chặt chẽ công tác giết mổ; tiêm phòng phòng
ngừa dịch cúm trên gia súc, gia cầm; tuyên truyền phòng chống
276

28.7 Page 277

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
dịch tả heo Châu Phi trên địa bàn xã. Trong năm 2019 trên địa
bàn xã đã xảy ra bệnh dịch tả heo Châu Phi xuất hiện tại 02 đơn
vị, đã tập trung các giải pháp phòng chống và dập dịch hiệu
quả.
Lâm nghiệp: duy trì rừng trồng phân tán trên địa bàn xã với
diện tích 120,91 ha đạt 100% kế hoạch, chủ yếu là cây tràm
bông vàng với mô hình dân trồng, tự chăm sóc, thụ hưởng.
Thủy sản: duy trì tổng diện tích nuôi trồng 16ha, gồm 09ha
nuôi tôm thiên nhiên, 07 ha nuôi cá; chủ yếu là quảng canh,
nguồn gốc tự nhiên, khai thác tự nhiên, ít đầu tư kỹ thuật nên
năng suất và sản lượng không cao.
Xây dựng nông thôn mới: được xác định là nhiệm vụ chính
trị trọng tâm, Đảng ủy xã tập trung lãnh đạo; củng cố và kiện
toàn Ban Chỉ đạo nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phân công
cụ thể cho từng cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt phụ trách thực
hiện từng tiêu chí; hàng năm đều có kế hoạch triển khai đến
các ban ngành, đoàn thể, có lộ trình, giải pháp phù hợp nhằm
đạt đồng bộ 19 tiêu chí với 47 chỉ tiêu. Kết quả, năm 2016 xã
Phú Thạnh được xét, công nhận danh hiệu Nông thôn mới theo
Quyết định số 4198/QĐ- UBND ngày 08/12/2016 của Chủ tịch
UBND tỉnh Đồng Nai và đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
năm 2020 theo quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 20/01/2020
của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai.
Để đánh giá kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới, năm 2019, Đảng ủy đã tổ chức
277

28.8 Page 278

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hội nghị sơ kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 26 -NQ/TW
ngày 05/8/2008 và kế hoạch số 97-KH/TU ngày 29/12/2008 về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, biểu dương khen thưởng
các thành tích đã đạt được, rút kinh nghiệm thực tế, đề ra nhiệm
vụ, phương hướng mới.
Giao thông nông thôn: trong nhiệm kỳ qua, đã vận động
nhân dân trên địa bàn làm 23 tuyến đường bê tông hóa với
chiều dài 2.495m, làm thêm 2 con đường bê tông từ nguồn tiền
thưởng nông thôn mới1: Ủy ban Nhân dân huyện hỗ trợ 4 công
trình2; phối hợp Ban Quản lý dự án huyện tổ chức thi công
và nghiệm thu 02 công trình hệ thống thoát nước tại ấp 1 và
ấp 3 xã Phú Thạnh; gắn đèn chiếu sáng các tuyến đường giao
thông nông thôn trên địa bàn xã phục vụ cho nhu cầu đi lại của
người dân.
Thủy lợi: được chú trọng; thường xuyên kiểm tra tình hình
cung cấp nước tưới tiêu vụ Đông Xuân tại cánh đồng ấp 1, ấp 2;
thăm đồng, kiểm tra tình hình sâu bệnh; khảo sát hệ thống kênh
mương thoát nước nhằm kịp thời hạn chế tình trạng ứ đọng,
ngập úng trong mùa mưa; mở 07 lớp tập huấn cho bà con nông
dân về ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới; thực hiện
mô hình trồng cây bạc hà hợp đồng bao tiêu sản phẩm với công
ty thực phẩm NFC; phối hợp với Phòng Kinh tế, Ban Quản lý
1  Đường tổ 13, ấp 1, xã Phú Thạnh với chiều dài 100 mét, và đường tổ 15, ấp 3,
xã Phú Thạnh với chiều dài 340 mét.
2  Đường Sở 15, đường Cầu Ván ấp 1, nâng cấp đường bờ bao cánh đồng ấp 1,
và đường Cây Sai liên ấp 1, 2, 3.
278

28.9 Page 279

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
công trình thủy lợi huyện thi công và nghiệm thu bờ bao đường
ra cánh đồng ấp 1 với chiều dài 550m, gia cố bờ bao ấp 1 đảm
bảo an toàn sản xuất nông nghiệp cho dân.
Phòng chống cháy rừng: hàng năm đều xây dựng phương
án bảo vệ rừng trong mùa khô; tổ chức cho các hộ có rừng ký
cam kết thực hiện việc bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng,
triển khai cho các hộ trồng rừng thực hiện các biện pháp phòng
cháy chữa cháy, dọn vệ sinh rừng, làm đường ranh cản lửa.
Trong 05 năm qua, xảy ra 03 vụ cháy; thiệt hại hơn 1ha, đã huy
động các lực lượng chữa cháy, khắc phục sự cố.
Phòng chống lụt bão: hàng năm thường xuyên kết hợp với
các ấp theo dõi về tình hình mưa bão trên địa bàn xã; từ đầu
nhiệm kỳ, trên địa bàn xã xảy ra tình hình mưa lớn trái mùa đã
làm sập 02 căn nhà, đã phối hợp hỗ trợ người dân khắc phục
hậu quả thiên tai.
Tiểu thủ công nghiệp: trong nhiệm kỳ qua đã phát triển
thành lập mới 10 doanh nghiệp so với đầu nhiệm kỳ trước, nâng
tổng số doanh nghiệp hiện nay trong khu công nghiệp lên 17,
tất cả đang hoạt động ổn định.
Thương mại dịch vụ: tổng số hộ kinh doanh là 394 hộ, tăng
170 hộ so với đầu nhiệm kỳ; đã phối hợp tổ chức kiểm tra tình
hình mua bán, vệ sinh an toàn thực phẩm, lập điểm tập trung
mua bán ở ấp 1; tập huấn nghiệp vụ công tác quản lý, kinh do-
anh và khai thác đối với cán bộ quản lý chợ truyền thống; phát
triển mô hình kinh doanh nhà trọ với 83 cơ sở.
279

28.10 Page 280

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: đầu tư
xây dựng tăng nhanh. Trong 5 năm qua, kết cấu hạ tầng nông
thôn có bước phát triển rõ rệt, đã thực hiện xây dựng mới và
nâng cấp sửa chữa hơn 07 công trình: nâng cấp sửa chữa trụ sở
làm việc của xã, sửa chữa nâng cấp Nhà văn hóa ấp 3, nâng cấp
sửa chữa trường Trung học cơ sở Phú Thạnh sau khi tiếp nhận
cơ sở cũ của trường Trung học phổ thông Phú Thạnh; xây mới
trường mầm non, trung tâm văn hóa xã, Nhà văn hóa ấp 1, hàng
rào Trung tâm văn hóa.
Công tác địa chính - tài nguyên môi trường: tổ chức công
bố điều chỉnh một số nội dung quy hoạch sử dụng đất đến năm
2020, đóng góp ý kiến kế hoạch sử dụng đất năm 2015 cho
huyện Nhơn Trạch; thực hiện tốt công tác quản lý đất công trên
địa bàn xã, hiện trên địa bàn xã có tổng cộng 69 thửa đất công
với diện tích 179,769m2; phối hợp với Phòng Tài nguyên - Môi
trường, Hội đồng bồi thường huyện, Trung tâm phát triển quỹ
đất tổ chức kiểm tra hiện trạng, kiểm kê phục vụ cho công tác
bồi thường giải phóng mặt bằng đường vành đai 3 đoạn qua địa
bàn xã Phú Thạnh, họp xét tái định cư cho các hộ dân có đất bị
thu hồi thuộc dự án đường vành đai 3, khu dân cư Phú Thạnh
- Long Tân - Vĩnh Thanh; xác nhận nguồn gốc đất do công ty
Long Đức làm chủ đầu tư và nhà đất cho khu tập thể gia đình;
tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với các tuyến địa giới hành
chính bị bất cập trên địa bàn xã.
Xây dựng cơ bản: tình hình quản lý xây dựng cơ bản của
xã được triển khai quản lý tốt, người dân đã chấp hành tốt chủ
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trương trong việc xin phép xây dựng; hướng dẫn xác nhận cho
66 trường hợp xin cấp giấy phép xây dựng đúng theo quy định;
hướng dẫn và lập tờ trình cho 06 trường hợp xin phép san lắp
cải tạo mặt bằng đúng theo quy định; triển khai công tác lập lại
hành lang an toàn đường bộ của tuyến đường Lý Thái Tổ và
đường Quách Thị Trang; thực hiện việc xác định phần diện tích
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tình hình môi trường: thường xuyên kiểm tra, đã phát hiện
và nhắc nhở, khắc phục 77 trường hợp gây ô nhiễm môi trường;
đẩy mạnh công tác tuyên truyền về môi trường tại các điểm dân
cư, ra quân tổng vệ sinh môi trường tại các tuyến đường Quách
Thị Trang, đường Lý Thái Tổ... góp phần thực hiện tốt phong
trào “Toàn dân bảo vệ môi trường”; xây dựng khu dân cư đạt
chuẩn vệ sinh môi trường; bố trí thùng rác xuống địa bàn các ấp
và dọc theo các tuyến đường chính; bàn giao 06 xe đẩy rác cho
đơn vị thu gom tiến hành thu gom tại các con hẻm nhỏ; phối
hợp Trung tâm dịch vụ đô thị huyện tổ chức thực hiện tổng vệ
sinh môi trường trong khu tiểu thủ công nghiệp; chi bộ các ấp
thực hiện tổng vệ sinh môi trường trên địa bàn từng ấp, nâng
cao diện mạo nông thôn mới; phối hợp Phòng Tài nguyên và
Môi trường huyện tổ chức Lễ phát động ra quân tổng vệ sinh
môi trường hưởng ứng chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn
năm 2019.
Tỷ lệ hộ đăng ký thu gom, xử lý rác trên địa bàn xã đến thời
điểm hiện nay là 3178/3483 hộ đạt 91,2%. Tỷ lệ thu gom, xử lý
rác thải, chất thải sinh hoạt trên địa bàn xã: 3.483 hộ/3.483 hộ,
281

29.2 Page 282

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đạt 100% (trong đó, cam kết tự hủy: 305 hộ, đăng ký thu gom
rác thải sinh hoạt: 3.178 hộ).
Phát triển giáo dục đào tạo - khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo: các trường hàng năm đều tổ chức tốt
tổng kết năm học theo quy định; thực hiện tốt công tác giảng
dạy theo chương trình; duy trì và đảm bảo sĩ số học sinh đến
lớp; chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên rõ rệt.
Hàng năm số lượng học sinh tham gia thi học sinh học giỏi cấp
huyện, tỉnh ngày càng tăng. Tỷ lệ học sinh vào lớp 1 hàng năm
đạt 100%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc tiểu học và trung học đạt
trên 99%. Cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng nhu cầu dạy và học.
Tổ chức đón nhận quyết định công nhận trường đạt chuẩn quốc
gia: trường Mầm non năm 2017, trường Tiểu học Phú Thạnh
năm 2018 và trường Trung học cơ sở Phú Thạnh năm 2019.
Hoàn thành công tác thi công và sửa chữa nâng cấp lại trường
THCS Phú Thạnh nhằm phục vụ tốt cho năm học 2019 - 2020.
Khuyến học: Hội Khuyến học ngày được củng cố và hoạt
động có hiệu quả, đã thu hút nhiều hội viên tham gia vào các
hoạt động của hội; thực hiện tốt các hoạt động xây dựng gia
đình hiếu học, cộng đồng học tập; tổ chức vận động và xây
dựng quỹ hội hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu. Lập kế hoạch thi
đua và phong trào trào nuôi heo đất khuyến học; Hội Khuyến
học ban hành Nghị quyết “gia đình hiếu học sang gia đình học
tập”, lập danh sách hội viên của 3 chi hội; tổ chức điều tra gia
đình học tập hàng năm; phối hợp Hội Khuyến học huyện hỗ
trợ cho 206 em học sinh, sinh viên nghèo; phối hợp trường tiểu
282

29.3 Page 283

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
học Phú Thạnh gây quỹ mùa xuân cho học sinh nghèo; vận
động quỹ bảo trợ trẻ em nghèo, khó khăn; thực hiện Quyết định
số 46/QĐ-UBND tỉnh về gia đình học tập, xã hội học tập; xét,
công nhận 838 gia đình đạt danh hiệu “Gia đình học tập”.
Học tập cộng đồng: kết hợp giáo viên chủ nhiệm vận động
học sinh không bỏ học; mở lớp tuyên truyền phòng chống dịch
bệnh; cập nhật hồ sơ học sinh các bậc học hàng năm đúng qui
định.
Được kiểm tra, công nhận đạt chuẩn phổ cập đúng độ tuổi
bậc mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở; kết hợp Trạm y tế xã
tổ chức cho 150 em học sinh tiểu học tuyên truyền diệt lăng
quăng phòng chống bệnh sốt xuất huyết trên địa bàn; mở lớp
tập huấn “phòng ngừa bệnh do vi rút Zika”; phối hợp Phòng Tư
pháp huyện tổ chức tuyên truyền Luật trợ giúp pháp lý và Luật
bồi thường của Nhà nước; tuyên truyền về sàng lọc trước và sau
sinh; duy trì lớp võ thuật gồm 43 học viên.
Khoa học công nghệ: đạt kết quả quan trọng, ngày càng đi
vào chiều sâu. Hạ tầng hệ thống ứng dụng khoa học và công
nghệ được quan tâm đầu tư; cán bộ, công chức xã đều được
trang bị vi tính, 100% cán bộ, công chức đều biết sử dụng máy
tính; ứng dụng I-office hiệu quả, thực hiện tốt việc sử dụng
phần mềm e-gov tại bộ phận nhận và trả kết quả của xã. Duy
trì hoạt động của điểm khoa học - công nghệ với đường truyền
mạng internet tốc độ cao, đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết
cho cán bộ, các ban ngành, đoàn thể xã và nhân dân.
283

29.4 Page 284

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Phát triển văn hóa - xã hội
Hoạt động văn hóa, thể thao, thông tin: được quan tâm tổ
chức với nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
văn hóa của quần chúng nhân dân.
Hàng năm, Trung tâm Văn hóa huyện hỗ trợ biểu diễn phục
vụ nhân dân trong dịp Tết và tổ chức các chương trình văn
nghệ mừng Đảng, mừng Xuân, lễ đón bằng công nhận xã Nông
thôn mới, khai mạc hè, ngày Quốc tế thiếu nhi; tham gia hội thi
“Ngày Tết gia đình” do huyện tổ chức, đạt 01 giải Nhất; tổ chức
01 đêm văn nghệ gây quỹ vì người nghèo; chiếu phim hè 3 buổi
phục vụ thiếu nhi; tham gia hội thi tài tử - cải lương huyện; tổ
chức văn nghệ vui tết Trung thu cho thiếu nhi.
Hoạt động thể dục, thể thao phong phú, phát động phong
trào chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; lắp đặt 02 bộ dụng cụ
thể dục thể thao; phối hợp với sân bóng đá tư nhân Sài Gòn Đô
tổ chức giải bóng đá mini 7 người chào mừng kỷ niệm ngày
Quốc khánh 2/9, mở lớp dạy đá bóng căn bản; tham gia giải
bóng chuyền chào mừng Quốc khánh 2/9 do huyện tổ chức
hàng năm.
Trên địa bàn xã có 03 đội bóng đá, 03 đội bóng chuyền, 01
đội lân, 02 sân bóng chuyền, 01 sân bóng đá, 01 câu lạc bộ thể
hình, 03 câu lạc bộ võ thuật; tất cả đều duy trì hoạt động thường
xuyên, xã hội hóa.
284

29.5 Page 285

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Thông tin truyền thanh hoạt động thường xuyên, hiệu quả.
Đài Truyền thanh xã đã tổ chức tuyên truyền 4.950 giờ phục vụ
nhiệm vụ chính trị và nội dung trọng tâm ở xã do Đảng bộ xã
lãnh đạo thực hiện; thực hiện tài liệu hỏi - đáp về tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2019, về dịch bệnh, về giờ Trái Đất, về
cảnh báo và phòng chống tệ nạn xã hội; cung cấp dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, trang bị, bổ sung thêm 08 cụm loa không
dây, nâng tổng số hệ thống bộ thu không dây của xã lên 42 cụm
với 84 loa phủ khắp địa bàn 3 ấp.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng ở trẻ em hàng năm đạt chỉ tiêu
kế hoạch. Các chương trình y tế quốc gia, phòng chống bệnh
xã hội, phòng chống HIV/AIDS và vệ sinh an toàn thực phẩm
đạt kết quả khả quan. Trạm y tế đảm bảo có bác sĩ phục vụ và
xã được công nhận đạt tiêu chí quốc gia về y tế (đạt mục tiêu
Nghị quyết). Trạm y tế xã có 01 bác sĩ, 1 dược sĩ, 03 y sĩ, 2
điều dưỡng, 1 phụ trách công tác dân số; thực hiện tốt nhiệm vụ
thường trực, khám chữa bệnh ban đầu cho 44.997 người.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 0,94%. Tỷ lệ trẻ dưới 05
tuổi suy dinh dưỡng thể trọng theo tuổi là 8%, suy dinh dưỡng
thể chiều cao theo tuổi là 2,17% đều đạt so với Nghị quyết.
Thực hiện tiêm chủng mở rộng đúng đối tượng, đạt 100% kế
hoạch. Số người tham gia bảo hiểm y tế đạt 90,54%. Trong
nhiệm kỳ qua, xảy ra 103 trường hợp bệnh sốt xuất huyết, 50
trường hợp bệnh tay chân miệng và 01 trường hợp bệnh sởi,
285

29.6 Page 286

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đều đã được điều trị khỏi. Tổ chức kiểm tra 193 cơ sở ăn uống
giải khát đều đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Gia đình và trẻ em
Đã nhận cấp phát và đổi 1.436 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ
em dưới 6 tuổi đúng thời gian qui định; phối hợp giữa các ban
ngành, đoàn thể xã tổ chức ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6, ngày
gia đình Việt Nam 28/6, tết Trung thu hàng năm. Duy trì hoạt
động các câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững, phòng chống
bạo lực gia đình, không có trường hợp bạo lực gia đình trên địa
bàn xã.
Đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết việc làm và đào tạo
nghề
Công tác chăm lo đối tượng chính sách, người có công với
cách mạng được quan tâm và thực hiện tốt; vận động đóng góp
quỹ đền ơn đáp nghĩa; thực hiện tốt các chế độ, trợ cấp thường
xuyên, đột xuất cho các đối tượng có công và đối tượng bảo
trợ xã hội đúng chính sách; ngoài ra, xã tích cực, chủ động tổ
chức vận động quà tết và trực tiếp xuống từng gia đình để tặng
quà và thăm hỏi; tổ chức vận động 01 đoàn y, bác sĩ về khám
bệnh cho các đối tượng, phối hợp với Bệnh viện Huyết học
Thành phố Hồ Chí Minh đi thăm chúc tết và tặng quà cho Mẹ
Việt Nam Anh hùng. Tổ chức điều tra hộ nghèo tiếp cận thông
tin đa chiều; hoàn thành công tác điều tra nguồn cung lao động
năm 2017 (giai đoạn 2017-2022); triển khai công tác điều tra
hộ nghèo đa chiều theo chuẩn mới; họp xét 61 hồ sơ đề nghị
286

29.7 Page 287

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trợ cấp xã hội thường xuyên; tổ chức tốt kỷ niệm ngày thương
binh, liệt sĩ hàng năm; lập 01 hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và hồ sơ đề nghị tặng huân chương
Độc lập cho 07 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Công tác giảm nghèo: Đảng bộ xã quan tâm chỉ đạo, hàng
năm đều tiến hành điều tra, cập nhật nắm bắt tình hình tâm tư,
nguyện vọng của hộ nghèo để kịp thời hỗ trợ tạo điều kiện giúp
hộ nghèo thoát nghèo bền vững. Bằng nhiều giải pháp và thực
hiện tốt các chính sách như tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nhà ở, y tế,
giáo dục, khuyến nông. Kết quả hộ thoát nghèo hàng năm đều
đạt và vượt chỉ tiêu. Phối hợp Hội Khuyến nông huyện khảo sát
đề nghị hỗ trợ cho 06 hộ nghèo về con giống để chăn nuôi tăng
thu nhập, ổn định cuộc sống vươn lên thoát nghèo bền vững.
Công tác giải quyết việc làm và đào tạo nghề: bằng nhiều
chương trình khác nhau đã giải quyết việc làm cho 1.869 lao
động, nâng cao tỷ lệ lao động nông thôn được qua đào tạo đạt
75,7%. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 43% năm 2015
lên 75,7% năm 2019 (đạt mục tiêu Nghị quyết). Tổ chức nhiều
lớp đào tạo nghề lao động nông thôn tại xã.
Nội chính, quốc phòng, an ninh, pháp luật
Công tác nội chính, quốc phòng, an ninh, pháp luật tiếp tục
được tăng cường, củng cố. Hoạt động pháp luật được nâng cao
chất lượng về mọi mặt.
Công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục
được củng cố, kiện toàn, xây dựng theo hướng tinh gọn, chất
287

29.8 Page 288

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
lượng, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Nhiệm
vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng
thủ và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được cấp ủy
Đảng quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, phát huy hiệu quả, góp
phần giữ vững ổn định chính trị tại địa phương. Đã thực hiện tốt
công tác hậu phương quân đội, phối hợp với Ban Chỉ huy quân
sự huyện tổ chức khảo sát, vận động nguồn kinh phí xây dựng
được 3 căn nhà cho gia đình quân nhân và dân quân có hoàn
cảnh khó khăn; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu,
kết hợp cùng công an tổ chức tuần tra bảo vệ an toàn các mục
tiêu, địa bàn trọng điểm.
Công tác xây dựng lực lượng, huấn luyện được thực hiện
tốt, biên chế đảm bảo 100%; hàng năm đều xây dựng kế hoạch
huấn luyện, huy động công dân trong độ tuổi dân quân tham
gia các lớp huấn luyện do huyện, tỉnh tổ chức, đạt 1,15% so với
tổng dân số của xã; tổ chức giáo dục chính trị cho chiến sỹ, dân
quân, đạt 100% tham gia học tập. Công tác hậu phương quân
đội được thực hiện nghiêm túc, đậm nghĩa tình.
Công tác tuyển quân hàng năm hoàn thành chỉ tiêu giao
quân; trong nhiệm kỳ đã đưa 44 thanh niên nhập ngũ; đạt 100%,
trong đó có 03 đảng viên tình nguyện; tổ chức đón tiếp 36 quân
nhân xuất ngũ về địa phương, hỗ trợ giải quyết việc làm, đăng
ký vào ngạch dự bị động viên đúng quy định.
An ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội được đảm bảo trên
tất cả các lĩnh vực. Đảng bộ lãnh đạo, huy động cả hệ thống
288

29.9 Page 289

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
chính trị tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia
về phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Qua thử test 163 đối
tượng nghi vấn, phát hiện 64 đối tượng sử dụng ma túy, tất cả
đều được vận động, xử lý theo hướng dẫn.
Tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn là 14 vụ (16 người
chết); va chạm giao thông là 123 vụ làm bị thương 198 người;
kéo giảm được số vụ và số người thương vong vì tai nạn giao
thông, đạt chỉ tiêu Nghị quyết.
Cải cách tư pháp được quan tâm với các hoạt động tuyên
truyền, tư vấn, hỗ trợ pháp lý thường xuyên; công tác tiếp dân
được thực hiện nghiêm túc; từng thành viên Ban Chấp hành đều
xây dựng và thực hiện lịch tiếp dân; trong nhiệm kỳ đã tiếp 209
lượt người dân, nội dung chủ yếu về tranh chấp đất đai, thừa kế,
tranh chấp hợp đồng dân sự, hôn nhân gia đình. Công tác xét
hòa giải đơn thư khiếu nại của công dân có nhiều cố gắng, nhận
55 đơn, giải quyết theo đúng qui định 55 đơn, không tồn đọng.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đạt hiệu quả tốt;
tập trung tuyên truyền Luật an toàn giao thông, công tác tuyển
quân hàng năm, tuyên truyền Luật bầu cử Quốc hội và Hội
đồng Nhân dân các cấp, Luật phòng chống bạo lực gia đình,
Luật bình đẳng giới, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật đất đai
2013, Luật phòng chống tham nhũng, lãng phí, qua đó đã góp
phần quan trọng vào việc nâng cao hiểu biết và ý thức chấp
hành pháp luật cho người dân.
289

29.10 Page 290

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Việc hòa giải, đối thoại được chú trọng, quy trình giải quyết,
kết quả giải quyết được công khai, đảm bảo đúng quy định,
trình tự, có sự tham gia của các ban ngành đoàn thể để đảm bảo
việc ban hành quyết định giải quyết cho người dân được thấu
tình đạt lý, kết quả giải quyết nhận được sự đồng thuận cao của
người khiếu nại. Tỷ lệ hòa giải, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo
hàng năm đều đạt trên 95%, đạt mục tiêu Nghị quyết.
Phòng chống tham nhũng
Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa tham nhũng như:
công khai minh bạch hoạt động, thực hiện đúng các chế độ,
định mức tiêu chuẩn trong hoạt động của cơ quan Nhà nước,
thực hiện các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và
chuyển đổi vị trí công tác, minh bạch tài sản, thu nhập, nâng
cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hàng năm, Đảng bộ đều
xây dựng kế hoạch phòng, chống tham nhũng, kiểm tra việc
thực hiện kế hoạch, hoàn thành báo cáo kê khai tài sản, thu
nhập của cán bộ công chức theo quy định.
Xây dựng chính quyền
Bộ máy chính quyền tiếp tục được củng cố, kiện toàn theo
hướng nâng cao chất lượng phục vụ, năng lực quản lý, hiệu quả
hoạt động.
Hội đồng nhân dân xã: tiếp tục nâng cao về chất lượng. Đã
tổ chức các kỳ họp Hội đồng Nhân dân đúng theo luật định,
ban hành nhiều nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh - quốc phòng, và nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ của
xã phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Thực hiện
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tốt chức năng khảo sát, giám sát, công tác tiếp xúc cử tri, tiếp
dân, đôn đốc kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến và nguyện
vọng của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp; công tác giám sát
của Hội đồng Nhân dân xã tập trung vào các vấn đề quan trọng
mà nhân dân bức xúc, quan tâm; đã ban hành 62 Nghị quyết,
trong đó có 38 Nghị quyết thường kỳ, 15 Nghị quyết về công
tác tổ chức nhân sự của bộ máy Nhà nước địa phương, 02 Nghị
quyết chuyên đề về phân loại hành chính xã và công nhận xã
đạt chuẩn nông thôn mới, 05 Nghị quyết về Chương trình hoạt
động và Chương trình giám sát của Hội đồng Nhân dân xã hàng
năm; công tác giám sát, khảo sát của Hội đồng nhân dân xã đã
tổ chức đúng trọng tâm, có nhiều cải tiến trong phương pháp
làm việc. Các đại biểu Hội đồng nhân dân xã tích cực đi cơ sở,
lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các ban ấp và nhân dân. Kết
thúc mỗi cuộc giám sát, khảo sát đều có những kiến nghị cụ thể
đối với Ủy ban nhân dân xã và các cơ quan, đơn vị có liên quan
để xem xét giải quyết những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc,
những nội dung mà cử tri xã quan tâm. Hoạt động tiếp xúc cử
tri được thực hiện ngày càng hiệu quả hơn, đảm bảo cho đại
biểu lắng nghe các tâm tư nguyện vọng chính đáng của cử tri; tổ
chức thành công 54 đợt tiếp xúc cử tri với hơn 2.681 lượt cử tri
tham dự, nêu 294 lượt ý kiến. Hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn trong các kỳ họp được thực hiện tốt hơn. Hoạt động của
Ban ngày càng nâng cao hiệu quả trong các nội dung giám sát,
tổ chức giám sát trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, ngân sách.
291

30.2 Page 292

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
Công tác xây dựng chính quyền
Tổ chức nghiệm thu việc sửa chữa lại trụ sở và hội trường
Ủy ban Nhân dân xã; triển khai giao dự toán ngân sách hàng
năm cho các ngành và ký kết thi đua hàng năm; xây dựng và
triển khai kế hoạch công tác thi đua khen thưởng xã; tổ chức
bộ máy, công tác cán bộ, việc sắp xếp, bố trí, luân chuyển đối
với công chức xã... luôn được thực hiện nghiêm túc; chất lượng
cán bộ lãnh đạo, quản lý được nâng lên. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng luôn được chú trọng. Việc bố trí, xắp sếp luôn được đảm
bảo phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực, sở trường công
tác. Nhìn chung, đa số cán bộ sau khi đào tạo đều được bố trí
đúng chuyên ngành đào tạo nên phát huy được năng lực, sở
trường và vận dụng được những kiến thức mới vào công tác,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Cải cách hành chính: công khai, niêm yết kịp thời các thủ
tục hành chính đúng theo quy định tại trụ sở cơ quan, bảng
thông tin nội bộ tại bộ phận một cửa, niêm yết giá các khoản
thu theo quy định của Nhà nước. Hàng năm, Ủy ban Nhân dân
xã rà soát toàn bộ thủ tục hành chính của xã, qua đó đề xuất,
kiến nghị hủy bỏ những văn bản, thủ tục không cần thiết, hết
hiệu lực nhằm tinh gọn thủ tục hành chính. Xã đã tập trung
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mô hình “một cửa
liên thông” tại xã và hướng đến thực hiện mô hình “một cửa
liên thông hiện đại” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, ngăn chặn
tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu; nâng cao đạo
292

30.3 Page 293

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức; làm
minh bạch hoạt động của bộ máy hành chính; cải thiện tốt mối
quan hệ giữa cơ quan Nhà nước với tổ chức và công dân.
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả: đã giải quyết kịp thời các
hồ sơ theo yêu cầu của người dân đúng thủ tục hành chính. Tiếp
nhận 22.476 hồ sơ các loại, giải quyết đúng hạn định, không
có hồ sơ tồn đọng. Giải quyết hồ sơ liên thông Chương trình 3
trong 1 gồm: đăng ký thường trú cho trẻ mới sinh - cấp thẻ bảo
hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi - xóa đăng ký thường
trú - cấp mai táng phí. Giải quyết và tiếp nhận 175 hồ sơ liên
thông trong lĩnh vực đất đai trả kết quả trên phần mềm Egov,
được người dân đồng tình, đánh giá cao.
Công tác dân vận
Công tác vận động quần chúng có bước chuyển biến tích
cực, góp phần thực hiện đạt kết quả cao nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội; được Đảng bộ tập trung lãnh đạo ngày càng
đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực. Cấp ủy đề ra nhiều chủ
trương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân vận; thực
hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp
nhân dân. Hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
từ xã đến ấp được củng cố, kiện toàn giữ vai trò nòng cốt trong
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trong các phong trào thi
đua yêu nước.
Công tác dân vận của chính quyền ngày càng được chú
trọng, đạt kết quả tiến bộ. Chính quyền đã phát huy vai trò, chức
293

30.4 Page 294

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
năng, nhiệm vụ trong quản lý, điều hành, phối hợp tốt với Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể triển khai các giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội; vận động và phát huy nội lực toàn dân hoàn
thành chương trình xây dựng nông thôn mới vào năm 2016;
đồng thời, chính quyền tiếp tục tổ chức thực hiện các đề án về
xây dựng xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2018 - 2020, các
thiết chế văn hóa, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường,
trường, trung tâm văn hóa...); đã hoàn thành 19/19 tiêu chí xây
dựng nông thôn mới nâng cao; công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân hàng năm đạt từ 95% trở lên; đảm bảo an
ninh trật tự, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; định kỳ tổ
chức tiếp dân, tổ chức đối thoại với công dân, để lắng nghe và
giải quyết những bức xúc của người dân cũng như hỗ trợ, tạo
điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh.
Khối vận, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể đã không ngừng
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình như:
Mặt trận thực hiện Kết luận số 02/KL-ĐCT ngày 29/12/2015
của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã trong công tác tôn giáo; phát
huy được vai trò của chức sắc, chức việc. Nội dung, phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể được đổi
mới, cải tiến lề lối làm việc theo hướng sát thực tế, sát địa bàn,
hợp đối tượng; chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động các
tổ chức đoàn, hội, mở rộng các mô hình tập hợp quần chúng.
Nhiều cuộc vận động, phong trào của Mặt trận Tổ quốc, các
294

30.5 Page 295

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đoàn thể đạt nhiều kết quả thiết thực, góp phần quan trọng cùng
Nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội. Tuyên truyền, vận
động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016 - 2020, từ đó góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa
bàn xã từ 2,7% năm 2015 xuống còn 0,23% cuối năm 2019, đạt
chỉ tiêu nghị quyết. Nhiều mô hình “Dân vận khéo” như khéo
vận động nhân dân hiến đất xây dựng nhà tình thương, làm
đường giao thông nông thôn, dân giúp dân làm kinh tế gia đình,
tương trợ vốn, hỗ trợ giống chăn nuôi, đất nuôi hải sản; đã phát
huy hiệu quả, góp phần xây dựng nông thôn mới, nâng cao chất
lượng cuộc sống nhân dân; xây dựng được nhiều mô hình, câu
lạc bộ hoạt động hiệu quả, thiết thực như: Mô hình Tổ tự quản
an ninh - trật tự; Tổ hợp tác trồng rau sạch, mô hình mỗi ngày
một ngàn đồng cho người nghèo và nhiều hoạt động văn hóa
truyền thống của địa phương được phát huy, đem lại hiệu quả
thiết thực trong sinh hoạt đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân.
Tỷ lệ tập hợp quần chúng trong độ tuổi vào tổ chức đoàn
thể; tỷ lệ đòan viên, hội viên nòng cốt đều vượt chỉ tiêu nghị
quyết. Hàng năm, các đoàn thể đều đạt trong sạch vững mạnh.
Hàng năm, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội đã phát huy tốt vai trò, chức năng giám sát, phản biện xã hội;
tham gia, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền theo Quyết định
số 217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013
295

30.6 Page 296

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
của Bộ Chính trị (khóa XI). Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã
thực hiện được 9 cuộc giám sát.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân
dân tham gia góp ý với tổ chức đảng, đảng viên và góp ý xây
dựng chính quyền ở địa phương được 12 lượt, về tăng cường
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo dức lối sống, tác phong phục
vụ nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy
nhà nước.
Việc tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến cho đảng viên
ở khu dân cư trong quá trình thực hiện Chỉ thị 05/CT-TW của
Bộ Chính trị; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số
vấn đề xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết 04 - NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường
xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện: “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ được thực hiện theo đúng
quy trình, thể hiện dân chủ. Các ý kiến góp ý của nhân dân đều
thể hiện tâm huyết, trách nhiệm với tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên trong xã, các ý kiến đều nêu chính xác những mặt
được và chưa được của cán bộ đảng viên từ đó đảng viên tiếp
thu và khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện nhiệm
vụ.
Việc thực hiện quy chế dân chủ được chú trọng, ngày càng
đi vào chiều sâu, nhất là trong xây dựng các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, công tác bồi thường, thu hồi
296

30.7 Page 297

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
đất, tái định cư. Chú trọng đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, đôn
đốc thực hiện, chế độ thông tin, báo cáo. Duy trì thường xuyên
việc lấy ý kiến nhân dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên.
Trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam xã Phú Thạnh đã phối hợp cùng với khối vận tham
mưu cấp ủy và tổ chức đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền với nhân dân, các chủ đề đối thoại là các vấn đề
được bà con nhân dân quan tâm, đã phối hợp tổ chức 10 buổi
đối thoại, có 45 ý kiến, với 412 lượt người tham dự, các ý kiến
được lãnh đạo cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên môn
ở địa phương trả lời và kiến nghị cấp trên xem xét giải quyết,
góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước
ở địa phương.
Thường xuyên củng cố, hướng dẫn Ban Thanh tra nhân dân,
Ban Giám sát đầu tư cộng đồng về tổ chức hoạt động, nhằm
thực hiện chủ trương phòng chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, trong xây dựng cơ bản, sử dụng ngân
sách Nhà nước và các nguồn thu xã hội hóa; kịp thời phản ánh
những vấn đề có dư luận và biểu hiện tiêu cực đến chính quyền
xem xét giải quyết, góp phần hạn chế những thiếu sót trong
hoạt động quản lý Nhà nước ở địa phương.
Công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và thực hiện
chính sách đến các tầng lớp nhân dân, các cơ sở tôn giáo, dân
tộc được chú trọng thực hiện, hoạt động đúng chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước như tặng quà cho gia
297

30.8 Page 298

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đình chính sách, hộ nghèo trong các dịp lễ tết; phối hợp tốt các
cơ sở tôn giáo trong việc triển khai các cuộc vận động, các hoạt
động phong trào do địa phương phát động đặc biệt là công tác
chăm lo cho người nghèo.
Mỗi năm, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã và các
đoàn thể thành viên đều được bình xét, công nhận trong sạch
vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ.
Công tác xây dựng Đảng
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đạt
nhiều kết quả tích cực, mô hình nhất thể hóa chức danh Bí thư,
đồng thời là Chủ tịch UBND xã được phát huy.
Công tác củng cố, xây dựng tổ chức Đảng đã được Đảng
ủy xã nghiêm túc tổ chức thực hiện và đạt được kết quả quan
trọng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ chuyển
biến tích cực. Công tác kết nạp đảng viên được quan tâm, trong
nhiệm kỳ qua Đảng bộ đã kết nạp 54 đảng viên (đạt chỉ tiêu
Nghị quyết đề ra) trong đó hơn 58% có trình độ Đại học, gần
87% là đoàn viên thanh niên.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan
tâm thực hiện, trong nhiệm kỳ qua Đảng bộ đã tạo điều kiện
đưa 63 quần chúng đi bồi dưỡng nhận thức về Đảng, cử 2 cán
bộ đi học lớp cao cấp chính trị, 5 cán bộ đào tạo Đại học chuyên
ngành, 11 cán bộ học trung cấp chính trị, 23 cán bộ học quản
lý nhà nước; đội ngũ cán bộ, công chức được trẻ hóa, năng lực,
trình độ chuyên môn ngày càng được nâng lên; chất lượng sinh
298

30.9 Page 299

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
hoạt chi bộ chuyển biến tích cực; Đảng bộ và các chi bộ trực
thuộc hàng năm luôn đạt trong sạch, vững mạnh.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng từng bước được đổi
mới cả nội dung lẫn hình thức, tạo được sự thống nhất cao trong
toàn Đảng bộ. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, học tập
quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã góp phần nâng cao nhận thức, tự chuyển biến về hành động
trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Ngoài ra,
công tác giáo dục chính trị tư tưởng luôn được tăng cường qua
các mô hình “Đảng bộ xã lãnh đạo công tác khoa giáo trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “Học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã giúp cán bộ,
đảng viên nâng cao nhận thức, kiên định lập trường tư tưởng,
quan điểm của Đảng, kiên quyết chống tư tưởng cơ hội, cục bộ,
bè phái mất đoàn kết nội bộ.
Công tác tổ chức triển khai học tập, quán triệt các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, xây dựng chương trình hành động đạt
kết quả khá tốt, có trên 98% đảng viên học tập các nghị quyết
và có viết bài thu hoạch sau khi học tập. Tổ chức sơ - tổng kết,
việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng đảm bảo theo sự
chỉ đạo của Huyện ủy. Qua đó, đã kịp thời rút kinh nghiệm, bổ
sung giải pháp phù hợp, cụ thể để tiếp tục thực hiện đạt hiệu
quả cao hơn.
Công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên được quan tâm. Đồng thời, triển khai
299

30.10 Page 300

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
thực hiên có hiệu quả Nghị quyết TW 4 (khóa XI, XII) của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng. Qua đó hầu hết cán bộ, đảng viên
đều nâng cao ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống trong sạch, lành mạnh, tích cực học tập, nâng cao năng
lực công tác và chấp hành nghiêm túc các quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên nâng cao
ý thức tự phê bình và phê bình để giúp nhau tiến bộ, đồng thời
kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về đạo đức,
lối sống; từ đó tạo được lòng tin của quần chúng đối với Đảng,
Nhà nước.
Công tác cán bộ được sự hỗ trợ của Huyện ủy, Đảng ủy
xã đã tập trung củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ trên nguyên
tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, toàn
diện; thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ như: đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ. Qua đó, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý được nâng lên; từng bước nâng cao năng
lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của thực tiễn.
Xã Phú Thạnh được tiếp tục thực hiện thí điểm mô hình Bí
thư Đảng ủy xã đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng được tăng
cường và đổi mới; chất lượng, hiệu quả nâng cao. Đảng ủy, cấp
ủy các chi bộ luôn coi trọng việc lãnh đạo, tổ chức triển khai,
quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng có liên
quan đến công tác kiểm tra, giám sát và cụ thể hóa bằng các
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
chương trình, kế hoạch của cấp mình. Đảng ủy cũng xây dựng
kế hoạch trong từng năm và phân công trách nhiệm cho từng
cấp ủy viên phụ trách từng lĩnh vực và chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch đã được đề ra.
Đã lãnh đạo, tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng quy định, thường xuyên
kiểm tra, giám sát và giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh.
Kết quả trong nhiệm kỳ, Đảng ủy, Ủy ban kiểm tra Đảng ủy đã
tiến hành kiểm tra thường xuyên 72 lượt đối với cá nhân, chi
bộ trực thuộc trong việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết hàng năm
của Đảng. Hàng năm đều xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm
tra đảng viên chấp hành đối với các đảng viên và chi bộ, mỗi
năm 1 lần; tổ chức giám sát 15 lượt đối với các chi bộ và cá
nhân trong việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết và thực hiện nhiệm
vụ được giao; kiểm tra 03 tổ chức đảng và 09 trường hợp đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết 01 thư tố cáo 01 đảng
viên; giám sát chuyên đề đối với 05 đồng chí Đảng ủy viên
và 10 đồng chí là đảng viên, trưởng các đầu ngành thuộc diện
Đảng bộ quản lý. Qua kết quả kiểm tra, giám sát đã phát hiện
04 đảng viên có sai phạm. Trong nhiệm kỳ có 04 trường hợp
đảng viên vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật (khiển trách
03; cảnh cáo 01). Trong nhiệm kỳ qua có 05 đảng viên làm đơn
xin ra khỏi Đảng do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và
không có tham gia sinh hoạt chi bộ, học tập các nghị quyết...
Công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần ngăn ngừa, phát hiện
và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha,
301

31.2 Page 302

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
đồng thời xử lý nghiêm minh những trường hợp có sai phạm,
đảm bảo kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ. Từ đó thúc đẩy việc hoàn
thành các mục tiêu, chỉ tiêu nghị quyết hàng năm của Đảng bộ;
giúp sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ được sâu sát,
toàn diện và hiệu quả hơn, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính
trị chung, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã
khóa IV, nhiệm kỳ 2015-2020.
Tồn tại, hạn chế
Đảng bộ đánh giá, kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ xã lần thứ IV còn những tồn tại, hạn chế:
- Sản xuất nông nghiệp còn phân tán, chưa xác định cây
trồng vật nuôi chủ lực, phù hợp với điều kiện, thổ nhưỡng ở
địa phương, cộng với thời tiết diễn biến phức tạp, nhiễm mặn,
lũ lụt, mưa bão, dịch bệnh nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp
và giá trị sản xuất trên một hécta đất còn hạn chế. Chất lượng
hoạt động của các mô hình kinh tế tập thể chưa mang lại hiệu
quả cao.
- Tình trạng rác thải, nước thải ở ven các tuyến đường chính
vẫn còn do ý thức của người đi đường chưa cao và việc thu gom
xử lý chưa kịp thời.
- Các thiết chế văn hóa, thông tin, thể dục - thể thao chưa
được đầu tư đúng mức nên chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vui
chơi, giải trí của người dân. Ít có phong trào hoạt động rộng rãi,
302

31.3 Page 303

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
thường xuyên được nhân dân hưởng ứng, chỉ hoạt động chủ
yếu vào các dịp lễ, tết hoặc phục vụ các sự kiện chính trị, văn
hóa nổi bật trong năm.
- Tình hình an ninh - trật tự xã hội cơ bản được giữ vững,
tuy nhiên tình trạng vi phạm an toàn giao thông còn nhiều, ý
thức nhiều người tham gia giao thông còn kém; tình hình sử
dụng ma túy ngày một gia tăng làm ảnh hưởng đến gia đình,
nhà trường và xã hội.
- Công tác Khối vận - Mặt trận - Đoàn thể chưa đồng bộ;
chưa phối hợp chặt chẽ trong giám sát, phản biện xã hội; thiếu
chủ động trong thực hiện nhiệm vụ, nhất là trong công tác vận
động nhân dân vào hội, sinh hoạt hội thường xuyên; phát triển
hội viên nòng cốt; xây dựng, nhân rộng động viên khen thưởng
mô hình hay.
- Công tác kiểm tra, giám sát được các cấp ủy tăng cường
thực hiện thường xuyên, song vẫn còn một số cán bộ, đảng viên
thiếu tính gương mẫu, rèn luyện, chưa nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong công việc, chấp hành chưa nghiêm Điều lệ Đảng
và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; vẫn có một
số đảng viên vi phạm dẫn đến phải xem xét kỷ luật.
Những bài học kinh nghiệm
Qua hơn 05 năm lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần
thứ IV (nhiệm kỳ 2015-2020), Đảng bộ rút ra những bài học
kinh nghiệm:
303

31.4 Page 304

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
- Trước hết phải tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân, tạo sự chuyển biến hơn nữa
trong nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động, về sự phát triển bền vững của địa phương; từ đó đánh
giá đúng khả năng, tiềm năng, lợi thế so sánh và xu thế phát
triển của địa phương, tạo nên động lực, sức mạnh đột phá trong
phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa xã hội và giải quyết
tốt các vấn đề bức xúc trong cuộc sống của nhân dân, phấn
đấu hoàn thành xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trong
năm 2020.
- Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể từ xã đến ấp
phải nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng,
phải xây dựng được kế hoạch thực hiện các Nghị quyết một
cách cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương,
của từng ngành, từng đoàn thể; nội dung các kế hoạch phải
thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh
vực, vấn đề then chốt và đề ra giải pháp, biện pháp thực hiện
một cách khả thi, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với
quyết tâm cao nhất. Khắc phục tình trạng làm cho có, qua loa,
chiếu lệ.
- Thường xuyên củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng bộ, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tích cực đổi mới
phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của Đảng bộ từ xã đến
304

31.5 Page 305

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
ấp; đồng thời chú trọng đúng mức vai trò quản lý điều hành,
tổ chức thực hiện của chính quyền, vai trò vận động, giáo dục,
thuyết phục của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã
hội, từ đó phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, tạo
được sự đồng thuận về chính trị từ trong Đảng đến nhân dân
trong việc thực hiện Nghị quyết của Đảng và nhiệm vụ của
Nhà nước.
Tăng cường củng cố, kiện toàn, đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị từ xã đến ấp, gắn với việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng lực lượng nòng cốt trong
các tổ chức đoàn thể, Mặt trận từ xã đến ấp. Tập trung chỉ đạo
thực hiện tốt quy chế dân chủ, thực hiện đúng phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với những vấn
đề kinh tế - xã hội có liên quan đến lợi ích thiết thực của quần
chúng nhân dân.
305

31.6 Page 306

▲back to top


Chương VII
NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ
TRONG ĐẤU TRANH, XÂY DỰNG
Nội dung của bản thảo Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh dừng
lại ở cột mốc năm 2020, nhưng giá trị của nó không khép lại,
mà đọng lại những bài học quý làm cơ sở định hướng cho Phú
Thạnh tiếp tục phát triển hướng tới tương lai bền vững. Từ thực
tiễn cách mạng đấu tranh giải phóng và xây dựng, phát triển xã
Phú Thạnh suốt 90 năm, Đảng bộ cơ sở xã đúc kết 6 bài học lịch
sử không chỉ ý nghĩa đối với xã Phú Thạnh:
1. Phát huy lợi thế địa phương
Trong quá trình hình thành và phát triển, Phú Thạnh là vùng
đất có nhiều khó khăn trong sản xuất và giao thông, nhưng là
vùng đất “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”. Xã Phú Thạnh có
thành tích anh hùng trong kháng chiến, cần cù trong lao động,
quyết tâm cao trong xây dựng nông thôn mới. Đảng bộ xã Phú
Thạnh biết khơi dậy, phát huy truyền thống cách mạng của xã
Phú Thạnh anh hùng, biến truyền thống thành sức mạnh tổng
hợp, tạo động lực trong xây dựng và phát triển, vun đắp thành
306

31.7 Page 307

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
tài sản tinh thần của địa phương, xây dựng thành bản sắc của
Phú Thạnh trong đời sống văn hóa, lấy đó làm hạt nhân nòng
cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Phú Thạnh là bộ phận máu thịt của Nhơn Trạch, là hình ảnh
thu nhỏ của Biên Hòa - Đồng Nai trong quá trình hình thành và
phát triển. Phú Thạnh có “địa lợi”, “nhơn hòa”, cư dân của Phú
Thạnh hội tụ từ tứ xứ, định hình làng, ấp từ rất sớm trong buổi
đầu khẩn hoang, mở đất. Trong khi chế định pháp luật của triều
Nguyễn còn mờ nhạt, cư dân địa phương đã kết nối với nhau
bằng văn hóa Việt Nam, được vun đắp bằng những sắc thái của
vùng đất mới rộng mở, đậm chất hào khí Đồng Nai. Có dân là
có văn hóa. Hệ thống đình chùa, miếu, mộ (chùa Khánh Lâm,
chùa Long Phú, đình Ấp 1, đình Ấp 3, miễu Bạch Hổ...) và
phong tục, tập quán của cộng đồng gia đình, làng, ấp luôn được
vun đắp, trở thành tài sản tinh thần vô giá của người Phú Thạnh.
Đó là cuộc sống nông nghiệp, không giàu sản vật nhưng thanh
bình, trọng đạo lý, giàu nghĩa tình.
Người dân Phú Thạnh yêu chuộng hòa bình, nhưng tình
thế buộc phải đấu tranh chống thực dân xâm lược, bảo vệ quê
nhà. Năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định,
triều đình Huế bất lực, giao cả Nam kỳ cho Pháp, lòng dân
Phú Thạnh cùng với nhân dân phương Nam hướng theo cờ đại
nghĩa chống Pháp, chịu nhiều hy sinh, mất mát, bị đàn áp dã
man nhưng lòng ái quốc vẫn ngầm chảy trong dòng mạch chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam.
307

31.8 Page 308

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
2. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh trong lòng
dân, từ gương sáng đảng viên, được nhân dân tin yêu
Xây dựng Đảng là then chốt. Đảng trong sạch, vững mạnh
đủ năng lực, trí tuệ để lãnh đạo cách mạng là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi; đó là bài học chung. Bài học ấy rất quan
trọng, được Đảng bộ xã Phú Thạnh vận dụng thành công trong
kháng chiến cũng như trong xây dựng, phát triển. Trong xây
dựng Đảng, Đảng bộ Phú Thạnh còn rút ra bài học từ thực tiễn
của mình, là việc xây dựng Đảng trong lòng dân, từ dân, gắn
kết mật thiết với dân, được dân tin yêu, bảo vệ và bổ sung lực
lượng. Từ những đóm lửa nhỏ, chi bộ ít người, giặc tập trung
lực lượng đánh phá, có lúc đã làm rã cơ sở, đảng viên hy sinh
hoặc bị bắt, bị tù gần hết; nhưng những đảng viên còn lại vẫn
tập hợp, xây dựng lại chi bộ, kiên trì đấu tranh, chiến đấu, chiến
thắng và trưởng thành như ngày nay. Ấy là do Đảng được xây
dựng trong lòng dân, được dân tin yêu, bảo vệ, nuôi dưỡng, bổ
sung lực lượng.
Muốn được dân tin yêu, trong kháng chiến, đảng viên thực
sự là người của dân, sống, chiến đấu vì lợi ích của dân, sẵn
sàng hy sinh; trong xây dựng và phát triển, Đảng bộ phải thật
sự trong sạch, vững mạnh, là tiêu biểu của đạo đức, văn minh,
tiến bộ, dân chủ. Đảng bộ xã Phú Thạnh nhiều năm liền được
công nhận trong sạch, vững mạnh do đã lãnh đạo toàn diện hệ
thống chính trị vì lợi ích của dân, không vì lợi ích riêng. Mọi
thành công của Đảng bộ cũng là ở phát huy sức mạnh tổng hợp
của dân, tập hợp được quần chúng Nhân dân vào các đoàn thể
308

31.9 Page 309

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
cách mạng do Đảng bộ lãnh đạo, hướng dẫn. Bài học sinh tồn
của việc xây dựng Đảng trong mọi trường hợp là: kiên trì với lý
tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng trong lòng
dân, vì sự nghiệp chung của nhân dân, được dân tin yêu, bảo vệ
và góp sức vun đắp. Dân là nguồn lực, là tiêu chí, là thước đo
của công tác xây dựng Đảng.
Việc xây dựng Đảng bộ ở Phú Thạnh không chủ yếu bằng
hệ thống lý luận cách mạng mà thường là bằng gương sáng của
đảng viên - những con người cụ thể từ trong dân, mang phong
cách và đạo lý của dân, được học tập lý luận, có đạo đức cách
mạng, nêu gương trong hoạt động cách mạng.
Phần lớn người Phú Thạnh thuần nông, ít chữ nghĩa, chơn
chất làm ăn, giàu lòng yêu nước nhưng ít lý luận, căm thù giặc
sâu sắc nhưng thiếu phương pháp cách mạng; nhiều mất mát hy
sinh, thất bại trong phong trào kháng Pháp không thành công
nên dễ bị thương, cam chịu. Ban đầu, vai trò của các nhân sĩ
trí thức gồm các thầy tu, thầy giáo làng có tác động đến tâm
trí của thanh thiếu niên địa phương. Phải đến khi một số thanh
niên người Phú Thạnh tiếp xúc với những đảng viên cốt cán
được Đảng cử về gây dựng phong trào thì lý luận cách mạng,
con đường cách mạng giải phóng dân tộc mới dần sáng tỏ, lan
rộng trong dân. Lớp đảng viên đầu tiên của Phú Thạnh như
Đặng Văn Ngưu, Đặng Văn Nữ, Nguyễn Văn Liềm, Phạm Văn
Đạm là những thanh niên hăng hái, giàu lòng yêu nước, bắt gặp
được đường lối cách mạng, con đường giải phóng dân tộc do
Đảng lãnh đạo như đồng khô gặp mưa lành trở thành những
309

31.10 Page 310

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
hạt nhân cộng sản, gieo vào lòng dân những điều mới mẻ, đáng
tin, đáng theo. Những đảng viên lớp đầu tiên này vừa là người
tuyên truyền, vừa là người thực hiện, làm tấm gương mẫu mực
để vận động quần chúng, đưa lý luận cách mạng đi vào quần
chúng một cách tự nhiên, ít luận đề khó hiểu, bằng hoạt động
thực tiễn dễ làm theo.
Trong xây dựng Đảng ở Phú Thạnh, cách tốt nhất để xây
dựng Đảng từ công tác giáo dục, tuyên truyền, tổ chức, vận
động đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào lòng dân là
thông qua tấm gương của đảng viên. Vậy nên, việc giáo dục
đảng viên, xây dựng đảng viên thành đội ngũ có đạo đức cách
mạng, học tập và làm theo Hồ Chí Minh, nêu gương tự giác,
tiên phong, gương mẫu là việc quan trọng, cần thiết; là bài học
thiết thực trước mắt và lâu dài.
Thập niên 40 thế kỷ XX, những người cộng sản đầu tiên
xuất hiện ở Phú Thạnh như là những hạt mầm được gieo cấy,
nở hoa trong lòng dân đang khao khát tìm con đường mới,
phương thức mới để chống Tây. Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh
góp phần chứng minh rằng: chủ nghĩa yêu nước luôn thường
trực trong lòng người Việt Nam, bình thường thì nó tiềm ẩn
trong đời thường, khi quốc biến nó bừng dậy như những đợt
sóng, sóng sau dồn sóng trước, kết nối, cuốn hút mọi người hợp
thành sức mạnh vô địch, nhấn chìm mọi lực lượng xâm lược.
Khi có Đảng lãnh đạo, sức mạnh ấy được phát huy, nhân lên
gấp bội, hướng đến mục tiêu cao đẹp: thống nhất, hòa bình, độc
lập, tự do, chủ nghĩa xã hội.
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
- Phú Thạnh có địa thế đặc biệt, cách Sài Gòn chỉ một cửa
sông, nằm trên một vùng đồi có tầm bao quát rộng. Vì thế, ngay
trong giai đoạn đầu thực dân Pháp đã khai thác tối đa lợi thế
này, xây dựng kho đạn Thành Tuy Hạ, biến nơi đây thành căn
cứ bảo vệ Sài Gòn. Đến thời đế quốc Mỹ, ý đồ này càng tinh
vi, thâm độc hơn để bảo vệ bộ máy chính quyền đầu não. Chính
quyền Sài Gòn với sự hậu thuẫn của Mỹ đã tập trung tại đây
nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại, xây dựng hệ thống đồn
bót, mở rộng căn cứ quân sự Thành Tuy Hạ, hệ thống chính
quyền (chi khu Nhơn Trạch), lập ấp chiến lược kiểu mẫu Phú
Thạnh, sử dụng bộ máy tay sai, ác ôn nhằm đẩy lùi, tiêu diệt và
tận diệt mầm mống cách mạng, biến Phú Thạnh thành “vùng
trắng”.
Trong vòng kềm kẹp của địch, Phú Thạnh tưởng như là
“vùng trắng”. Nhưng với sự lãnh đạo của Đảng, trong thực tế
Phú Thạnh “trắng mà không trống”. Ngay trong lòng địch Phú
Thạnh vẫn tiềm ẩn lực lượng, sức mạnh cách mạng không bờ
bến, hạt giống cách mạng vẫn được âm thầm gieo cấy, lan tỏa
tạo nên sức chiến đấu mạnh mẽ.
Là “vùng trắng”, nên so với các địa phương khác, sự lãnh
đạo của Đảng ở Phú Thạnh phải có sự khác biệt. Đó chính là
nghệ thuật lãnh đạo bằng cách sống trong dân, thu phục lòng
dân, huy động sức dân, xả thân vì dân; kết hợp nhiều giải pháp
chính trị, quân sự, binh vận; xây dựng lực lượng trong các tầng
lớp công nhân, phụ nữ, thanh niên; đảm bảo bí mật, bất ngờ, nở
hoa ngay trong lòng địch. Có những lúc các lực lượng vũ trang
xã, huyện tổ chức khử ác trừ gian, tiêu diệt sinh lực địch ngay ở
311

32.2 Page 312

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
nơi địch cho là an toàn nhất. Đặc biệt, kho bom Thành Tuy Hạ
tưởng chừng như bất khả xâm phạm đã bốn lần bị nổ tung dưới
sự kết hợp chiến đấu của lực lượng vũ trang và người dân Phú
Thạnh. Tổ chức Đảng ở Phú Thạnh đã sống trong lòng dân -
lòng đất, tin dân và được dân tin. Nhiều đảng viên mật vẫn bám
dân, hoạt động ngay trong lòng địch, người dân Phú Thạnh vẫn
âm thầm đào hầm bí mật nuôi giấu, bảo vệ, giúp đỡ cách mạng.
Nhiều cán bộ, đảng viên bị địch bắt, tù đày, nhưng vẫn giữ vững
khí tiết (Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Minh Quang, Nguyễn Thị
Vững, Nguyễn Văn Cậy...). Phong trào đấu tranh chính trị của
nhân dân Phú Thạnh liên kết chặt chẽ với các xã trong huyện,
tạo nên sức mạnh đấu tranh của quần chúng.
3. Phát huy nhân tố con người
- Điều cốt lõi trong nghệ thuật lãnh đạo của Đảng ở Phú
Thạnh là nhân tố con người. Trong hai cuộc kháng chiến, đảng
viên tại chỗ chưa nhiều, tổ chức đảng chưa phủ khắp, thông tin
liên lạc chưa thông suốt, việc lãnh đạo của Đảng chủ yếu thông
qua vai trò của đảng viên. Hình ảnh của những người đảng viên
yêu nước, trung kiên, dũng cảm, thương dân, sống và chiến đấu
cùng dân, không vụ lợi; xả thân, hy sinh vì lý tưởng cao đẹp,
người này hy sinh người khác tiếp nối... đó chính là “tiếng nói
thuyết phục của Đảng”, khiến dân tin Đảng, theo Đảng, bảo vệ
Đảng, hết sức, hết lòng vì Đảng. Vai trò gương mẫu, tiên phong
của cán bộ, đảng viên trong kháng chiến năm xưa luôn có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển thời nay.
312

32.3 Page 313

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tiếp nối bài học lịch sử và
truyền thống trong kháng chiến, Đảng lãnh đạo nhân dân Phú
Thạnh xây dựng quê hương. Đến nay, nhân dân Phú Thạnh đã
được đổi đời, an lành trong đời sống tự do, tiến bộ, hạnh phúc;
xã Phú Thạnh tuy còn nhiều khó khăn so với các xã khác nhưng
đã có đủ thiết chế của một xã phát triển toàn diện, ổn định hệ
thống chính trị, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, an ninh quốc
phòng. Thành quả này chứng tỏ trong hành trình hình thành và
phát triển, chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới giúp cho người dân
Phú Thạnh làm nên điều kỳ diệu ấy, đưa xã Phú Thạnh từ nghèo
khó vươn lên, thay đổi về chất, vững vàng hướng đến tương lai.
Xã Phú Thạnh có đặc điểm là vùng nghèo, ít lợi thế phát
triển như các xã khác, có rất nhiều khó khăn trong lãnh đạo,
quản lý, trong đó có công tác cán bộ. Nhiều cán bộ đảng viên
giàu thành tích chiến đấu nhưng lúng túng, thiếu kinh nghiệm
trong xây dựng, chậm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Nhiều thay đổi cán bộ ở các vị trí chủ chốt, khiến cho việc
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thiếu liền mạch; chậm
củng cố các tổ chức cơ sở yếu kém, có lúc không phát huy hết
sức mạnh tổng hợp ở địa phương, ảnh hưởng đến nhịp độ tăng
trưởng kinh tế và thực hiện chính sách xã hội. Cán bộ là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi. Trong khó khăn, cán bộ càng lúng
túng thì càng phải được quan tâm giúp đỡ, động viên, hỗ trợ,
tăng cường lãnh đạo. Giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch,
phát triển tốt hơn là giải pháp thay thế. Đây là bài học về công
tác cán bộ, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong thời
kỳ đổi mới.
313

32.4 Page 314

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
4. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thế trận lòng
dân
Lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt tạo ra sức mạnh
để chiến đấu chống giặc ngoại xâm thời chiến và tự vệ trong
thời bình. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt
Nam thắng lợi là bởi xây dựng được lực lượng vũ trang nhân
dân. Đảng bộ xã Phú Thạnh xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân từ các lực lượng nhân dân ở địa phương, từ phong trào quần
chúng cách mạng bắt đầu chỉ với gậy tầm vông và giáo mác tự
tạo. Việc xây dựng lực lượng vũ trang bắt đầu từ công tác vận
động quần chúng, xây dựng các đội tuyên truyền vũ trang từ
cơ sở. Lấy công tác tuyên truyền làm chính, vũ trang kết hợp
tạo sức mạnh tổng hợp trong quần chúng. Việc xây dựng lực
lượng vũ trang gắn liền với xây dựng căn cứ địa cách mạng, kết
hợp vũ khí tự tạo với lấy vũ khí địch đánh địch, đánh địch bảo
vệ căn cứ, đánh địch trong lòng địch, diệt ác trừ gian để lung
lạc tinh thần địch. Lực lượng vũ trang gồm các thứ quân: dân
quân, du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực; phối hợp
dân quân địa phương với bộ đội chủ lực Đặc công Rừng Sác.
Khi đánh địch, có kết hợp công tác quân sự, chính trị và binh
vận, có sự chủ động của dân quân du kích cơ sở, có sự kết hợp
bài bản giữa các đơn vị. Mặc dù địch tập trung càn bố, hủy diệt,
muốn làm trắng chiến trường Phú Thạnh nhưng quân dân Phú
Thạnh vẫn bám trụ, giữ vững địa bàn trong lòng đất, trong lòng
dân; nhiều lúc tổn thất về quân lực nhưng lực lượng vũ trang
luôn được bổ sung, mạnh hơn, đông hơn, thiện chiến hơn.
314

32.5 Page 315

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
Lực lượng vũ trang Phú Thạnh được xây dựng từ không
đến có, do dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, chiến đấu
trong hình thức chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân; được
dân cung cấp lương thực, vũ khí, thông tin, xã thân bảo vệ cán
bộ; và chính các bộ phận nhân dân cũng là lực lượng trực tiếp
chiến đấu và hỗ trợ tiềm lực cho lực lượng vũ trang trên mặt
trận chính trị.
Trong thời bình, xã Phú Thạnh đã có Đảng bộ vững mạnh,
chính quyền hiệu lực, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân đoàn kết, lực lượng vũ trang nhân dân càng được chú trọng
xây dựng vững mạnh, thể hiện rõ bản chất do dân vì dân, làm
nòng cốt cho việc đảm bảo an ninh quốc phòng trên địa bàn,
làm tốt công tác dân vận, sẵn sàng thế trận nhân dân bảo vệ
Tổ quốc, duy trì và thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự để lực
lượng vũ trang nhân dân ở Phú Thạnh luôn được các tầng lớp
nhân dân chung tay xây dựng, bồi đắp. Thời gian qua, Đảng bộ
xã Phú Thạnh luôn hoàn thành, đạt và vượt các chỉ tiêu về an
ninh, quốc phòng và nghĩa vụ quân sự; đó là do vận hành tốt bài
học lịch sử về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong hai
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
5. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân
chủ
Cội nguồn của Đảng là dân. Mục đích của Đảng là vì dân.
Cho nên, Đảng giương cao ngọn cờ dân chủ, đoàn kết được
nhân dân ủng hộ, tin theo. Việc phát huy dân chủ được Đảng
315

32.6 Page 316

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
bộ ở Phú Thạnh thực hiện trước hết trong Đảng, từ vận động
xây dựng Đảng, đến xây dựng tổ chức đảng, đánh giá, bình xét,
giao nhiệm vụ đảng viên. Bài học cho thấy, khi dân chủ trong
Đảng phát huy thì tạo nên thắng lợi. Khi dân chủ trong Đảng
không được tôn trọng hoặc bị vi phạm thì Đảng yếu đi, phạm
sai lầm, tổn thất. Có dân chủ mới tập hợp và phát huy được
khối đại đoàn kết toàn dân, và có đoàn kết toàn dân mới có
được dân chủ thực chất. Các tầng lớp nhân dân thông qua các
tổ chức, đoàn thể tin theo Đảng là do nhận thấy Đảng vì dân,
Đảng thể hiện dân chủ (điều đặc biệt không thấy được trong thể
chế phong kiến, thực dân). Dân chủ luôn gắn với đoàn kết. Có
dân chủ mới có đoàn kết. Thiếu đoàn kết thì không thực hành
dân chủ được.
Trong kháng chiến, bài học dân chủ đoàn kết được thực
hiện trong chiến đấu, gắn với nhiệm vụ từng đảng viên, từng
Đảng bộ, cùng hoạt động đánh giặc cứu nước. Lúc ấy, lợi ích
riêng chưa chi phối lợi ích chung, bí mật chiến đấu là vấn đề
sống còn, cùng được giữ gìn. Nay, trong thời bình, bài học dân
chủ, đoàn kết dân tộc của Đảng bộ xã Phú Thạnh được vận
dụng có khác, cần thích ứng với thực tế của công cuộc đổi mới,
phát triển đất nước, chống lợi ích nhóm, chống tham nhũng,
công khai minh bạch các quyết sách liên quan đến lợi ích của
các tầng lớp nhân dân.
Việc mở rộng, phát huy dân chủ được Đảng bộ tiến hành
trước hết và gương mẫu trong nội bộ Đảng, chính quyền bằng
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
316

32.7 Page 317

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
trách. Các cấp ủy Đảng đều có quy chế hoạt động cụ thể, rõ
ràng, gắn trách nhiệm với quyền lợi, trong tổ chức đảng mọi
đảng viên đều bình đẳng, không có đặc quyền, đặc lợi. Thông
qua tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn Lao động,
Cựu chiến binh, cùng các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác,
Đảng bộ không chỉ tập hợp được các tầng lớp trong xã hội,
mà điều quan trọng hơn chính các tổ chức quần chúng là cầu
nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền. Thông qua các
đoàn thể, nhân dân thực thi quyền làm chủ trực tiếp và gián
tiếp. Đồng thời, Đảng bộ, chính quyền huyện còn tạo điều kiện
để nhân dân tiếp xúc trực tiếp với đại biểu do mình bầu ra; tổ
chức nhiều cuộc đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo với các tầng
lớp nhân dân để lắng nghe ý nguyện người dân. Biết lắng nghe
nguyện vọng của dân, Đảng bộ kịp thời chỉ đạo chỉnh sửa việc
vận dụng chính sách, tạo được niềm tin trong dân với Đảng, với
cách mạng.
Trong thực tế, hiện còn nhiều việc khiến lòng dân bất bình
nhất là ở các lĩnh vực qui hoạch, quản lý qui hoạch, chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, giải tỏa đền bù. Ấy là do lỗi
hệ thống cùng lỗi lãnh đạo, điều hành cần được đúc kết kinh
nghiệm, chân thành khắc phục khuyết điểm, tuyên truyền giải
thích cặn kẻ, kiên trì vận động quần chúng để mỗi chủ trương,
chính sách, kế hoạch, dự án được thực hiện đều đạt các tiêu chí:
thống nhất trong lãnh đạo, minh bạch trong điều hành, đoàn kết
đồng thuận trong dân, thế mới thành công.
317

32.8 Page 318

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
6. Kết hợp công tác chính trị, vũ trang, dân vận, phát
triển kinh tế hài hòa với tiến bộ xã hội
Phương pháp lãnh đạo của Đảng là huy động tổng lực, phối
hợp nhiều lực lượng để giải quyết mục tiêu xác định. Phương
pháp này được Đảng bộ xã Phú Thạnh vận dụng vào thực tế địa
phương hiệu quả và thành công.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
Đảng lấy ít đánh nhiều, yếu thắng mạnh, trường kỳ thắng cường
tập, làm thay đổi tình hình theo ý mình, ấy là nhờ biết vận dụng
linh hoạt bài học kết hợp các Mặt trận, các lực lượng, các mũi
tiến công. Công tác chính trị là hình thức đấu tranh đặc biệt của
công tác tư tưởng, của chính nghĩa; công tác binh vận là công
tác vận động quần chúng đối với đối tượng binh lính và gia
đình binh lính; đấu tranh vũ trang là hình thức chiến đấu trực
diện đánh trả hoặc tiến công địch. Ba mặt công tác đều được
Đảng xem trọng, xây dựng lực lượng và vận dụng thực hiện.
Tùy theo tình hình, mục tiêu chiến lược hoặc chiến thuật, Đảng
bộ lãnh đạo sự kết hợp cả ba mặt công tác khi đậm khi nhạt mặt
này hay mặt kia. Khi thế giặc mạnh trong giai đoạn đầu kháng
chiến, công tác đấu tranh chính trị được chú trọng hàng đầu,
các lực lượng đoàn thể nhân dân được lãnh đạo đấu tranh bằng
chính nghĩa, bằng lý lẽ sắc bén, bằng lực lượng đông đảo của
các mẹ, các chị, đạt nhiều thắng lợi. Trong đấu tranh chính trị,
công tác binh vận được thực hiện kiên trì, đạt hiệu quả tích cực,
xây dựng được cơ sở nội tuyến tin cậy trong lòng địch. Đấu
tranh vũ trang được thực hiện trên cơ sở kết hợp với đấu tranh
318

32.9 Page 319

▲back to top


Đảng bộ xã Phú Thạnh
chính trị, binh vận; từ trận đánh nhỏ đến đánh lớn, lối đánh du
kích đến cường tập; có lúc đấu tranh chính trị, binh vận, vũ
trang cùng lúc tiến công và nổi dậy tạo nên nhiều chiến công
vang dội.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
Đảng bộ xã Phú Thạnh luôn vận dụng kết hợp công tác chính
trị, vận động quần chúng với xây dựng lực lượng vũ trang để
thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương trong tình hình mới.
Ba mặt công tác này được cụ thể hóa trong mọi nghị quyết,
chương trình, kế hoạch công tác, rõ nhất trong các dự án, kế
hoạch phát triển có mục tiêu cụ thể về kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh.
Đảng bộ đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, công tác khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định xã hội,
xây dựng đời sống mới là quan trọng. Vì vậy, ở lĩnh vực nông
nghiệp, Đảng bộ tập trung lãnh đạo khôi phục sản xuất, thực
hiện các giải pháp khai hoang phục hóa, quy hoạch vùng
chuyên canh, cải tạo đất chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
đưa giống mới năng suất cao và kỹ thuật cao vào sản xuất, huy
động các nguồn lực cho nông nghiệp, phát động phong trào
hợp tác hoá nông nghiệp, đầu tư xây dựng hạ tầng ở nông thôn
tất cả nhằm mục tiêu phát triển kinh tế dựa trên lợi thế về nông
nghiệp, ổn định đời sống của nhân dân.
Tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ quan tâm
đến việc xây dựng đời sống văn hóa xã hội hài hòa với phát
triển kinh tế trên nền móng ổn định về chính trị. Mặc dù còn
319

32.10 Page 320

▲back to top


Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh (1930 - 2020)
nhiều khó khăn về nguồn lực đầu tư, Đảng bộ và chính quyền
huyện sớm có nghị quyết đầu tư phát triển về văn hóa xã hội.
Xã sớm đạt và vượt các chỉ tiêu về bình đẳng giới, xóa mù chữ,
phổ cập giáo dục, chăm sóc trẻ em, thực hiện chính sách xã hội,
xây dựng nông thôn mới. Các phong trào xã hội và chính sách
xã hội được Đảng bộ lãnh đạo thực hiện do hợp lòng dân nên
các tầng lớp nhân dân đồng thuận, tham gia tích cực, đóng góp
tâm trí và kinh phí “Nhà nước và nhân dân cùng làm” kết quả
đạt được thiết thực, duy trì lâu dài, sức sống bền vững.
Bài học kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận, vũ trang, phát
triển kinh tế hài hòa với tiến bộ xã hội là nguyên nhân, là động
lực đem lại sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ xã Phú Thạnh
trong lãnh đạo kháng chiến thắng lợi cũng như trong xây dựng
và phát triển đồng bộ, toàn diện, vững chắc.
***
Các bài học lịch sử được đúc kết là thành quả đồng thời là
tài sản quí báu của Đảng bộ và quân dân Phú Thạnh, nó luôn
luôn mới và có ý nghĩa quan trọng cho Đảng bộ thực hiện vai
trò lãnh đạo của mình trong các chặng đường tiếp theo. Lịch
sử là một dòng chảy liên tục, giai đoạn này phát triển trên nền
tảng của giai đoạn trước và là cơ sở phát triển cho giai đoạn
sau. Từ thời điểm này, lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh tạo được
cơ sở và niềm tin cho Đảng bộ và nhân dân Phú Thạnh hướng
đến tương lai phát triển bền vững.
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


BẢN ĐỒ QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN NĂM 2020
XÃ PHÚ THẠNH, HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI
321

33.2 Page 322

▲back to top


322
Bản đồ quy hoạch Sở Nông nghiệp Xã hội Thành Tuy Hạ
thời kỳ chống Pháp (1929-1936)

33.3 Page 323

▲back to top


323

33.4 Page 324

▲back to top


HÌNH ẢNH NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
Nguyễn Văn Liềm
Phạm Văn Đạm
Nguyễn Thị Võ
(Đảng viên mật đầu tiên
hoạt động trong
công nhân cao su)
324
Đỗ Thị Thanh Vân
(Giám đốc đầu tiên của
Nông trường Cao su
Thành Tuy Hạ)

33.5 Page 325

▲back to top


Lê Thị Tươi
(Mẹ 2 liệt sĩ)
Nguyễn Thị Bảy
(Mẹ liệt sĩ)
Nguyễn Thị Vững
(Cơ sở mật, liên lạc,
nuôi giấu cán bộ)
Trần Ngọc Thanh
(Cơ sở mật, đưa đón
chiến sĩ đặc công đánh
kho bom Thành Tuy Hạ)
325

33.6 Page 326

▲back to top


Vàm Rạch Kè -
nơi bà Trần Ngọc Thanh
đón các chiến sĩ
đặc công đánh
Thành Tuy Hạ
năm 1972.
326
Ông Phạm Văn Đạm
và ông Thái Văn Tật
chỉ nơi diễn ra trận đánh
Long Điền năm 1948.
Góc rẫy nhà ông
Tám Bình ở ấp 2,
nơi có hầm bí mật
nuôi giấu cán bộ cách
mạng trong kháng chiến
chống Mỹ.

33.7 Page 327

▲back to top


HÌNH ẢNH MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bảy
(1921 - 2015)
Lý Thị Huệ
(1918 - 2000)
Nguyễn Thị Mua
(1896 - 1983)
Nguyễn Thị Nhiều
(1893 - 1978)
Nguyễn Thị Di
(1903 - 1977)
327

33.8 Page 328

▲back to top


HÌNH ẢNH BÍ THƯ XÃ TỪ NĂM 1975 - NAY
Lê Bá Hùng
(1975 - 1976,
1981- 1982)
Lê Trung Chánh
(1977 - 1978)
Nguyễn Văn Thu
(1979 - 1981)
Nguyễn Thế Hòa
(1983 - 1985)
Lê Văn Tâm
(1985 - 1989)
328

33.9 Page 329

▲back to top


Phạm Văn Sảnh
(1992 - 2003)
(Chủ tịch UBND:
1983 - 1989)
Võ Thị Hoa
(2004 - 2011)
(Chủ tịch UBND:
1998 - 2004, 2010 - 2011)
Huỳnh Minh Đức
Bí thư Đảng ủy -
Chủ tịch UBND
(từ 2012)
Dương Văn Mẫn
(Bí thư Đảng ủy -
Chủ tịch UBND xã
2015 - 2021)
Trương Quốc Thái
(Bí thư Đảng ủy -
Chủ tịch UBND xã
từ 2021 - nay)
329

33.10 Page 330

▲back to top


HÌNH ẢNH CHỦ TỊCH XÃ TỪ 1975 - NAY
Nguyễn Văn Thừng
(1975 - 1976)
Dương Văn Hà
(1977 - 1978)
Nguyễn Minh Quang
(1979 - 1980)
Nguyễn Hồng Tâm
(1990 - 1997)
Lê Văn Tây
(2005 - 2010)
Phan Trường Xuân
(1981 - 1982)
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Trụ sở HĐND, UBND xã Phú Thạnh.
Tập thể cán bộ công chức xã Phú Thạnh, 2014.
331

34.2 Page 332

▲back to top


Hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ của Ban Chấp hành
Đảng bộ xã Phú Thạnh (nhiệm kỳ 2000 - 2005).
Kỳ họp thứ 1 (khóa IX) HĐND xã Phú Thạnh,
nhiệm kỳ 2004 - 2009.
332

34.3 Page 333

▲back to top


Toàn cảnh Đại hội Đảng bộ xã lần thứ II,
nhiệm kỳ 2005 - 2010.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2005 - 2010
ra mắt Đại hội.
333

34.4 Page 334

▲back to top


Đại hội Đảng bộ xã lần thứ III, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Thanh niên xã Phú Thạnh lên đường nhập ngũ, 2002.
334

34.5 Page 335

▲back to top


Lễ kết nghĩa giữa đơn vị hóa học với xã Phú Thạnh.
Đại biểu xã Phú Thạnh dự Lễ Kỷ niệm ngày thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam tại đơn vị Hải quân Vùng 2,
ngày 22/12/1998.
335

34.6 Page 336

▲back to top


Khen thưởng cho các thí sinh đoạt giải trong Hội thi
“Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2009.
Lễ kết nạp hội viên mới của Hội Phụ nữ xã.
336

34.7 Page 337

▲back to top


Hội thi Mẹ khỏe bé thông minh xã Phú Thạnh.
Trường Tiểu học Phú Thạnh.
337

34.8 Page 338

▲back to top


Trường THPT Nhơn Trạch đóng trên địa bàn xã Phú Thạnh.
Trạm y tế xã Phú Thạnh.
338

34.9 Page 339

▲back to top


Đình ấp 1 (Trung Cựu An Phú).
Đình thần ấp 3.
339

34.10 Page 340

▲back to top


Nhân chứng lịch sử, Ban Chỉ đạo, Ban Biên soạn
chụp ảnh lưu niệm, ngày 31/5/2014.
Đại tá Lê Bá Ước gặp gỡ các cơ sở cách mạng
tại xã Phú Thạnh, ngày 31/5/2014.
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


Ban Biên soạn khai thác tài liệu nhân chứng lịch sử
tại chùa Khánh Lâm, ngày 29/3/2014.
Ban Biên soạn khai thác tài liệu nhân chứng lịch sử
Phạm Văn Đạm (Ba Đạm), ngày 29/3/2014.
341

35.2 Page 342

▲back to top


Triển khai biên soạn cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Phú Thạnh
1930-2010 vào ngày 21/9/2013.
Nhân chứng lịch sử về dự Hội nghị triển khai biên soạn
ngày 21/9/2013.
342

35.3 Page 343

▲back to top


Hội nghị thẩm định nội dung dự thảo cuốn Lịch sử Đảng
bộ xã Phú Thạnh 1930-2010.
Khảo sát “tuyến đường giao liên mật trên Sông Cái, đưa đón
bộ đội đặc công Rừng Sác trong kháng chiến chống Mỹ”,
ngày 31/5/2014.
343

35.4 Page 344

▲back to top


NHỮNG CÔNG TRÌNH DÂN SINH
GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
Sửa chữa trụ sở UBND xã Phú Thạnh, khởi công
tháng 06/2022, khánh thành 04/2023.
Trung tâm Văn hóa Thể thao - Học tập cộng đồng xã Phú Thạnh,
khởi công tháng 8/2019, khánh thành tháng 9/2020.
344

35.5 Page 345

▲back to top


Nhà Văn hóa ấp 1, khởi công tháng 3/2015,
khánh thành tháng 12/2015.
Trường Mầm non xã Phú Thạnh,
khởi công tháng 3 năm 2016, khánh thành tháng 4/2017.
345

35.6 Page 346

▲back to top


Sửa chữa trường Tiểu học Phú Thạnh,
khởi công tháng 05/2020, khánh thành 06/2022.
Đường cây xăng Sáu Trắng khu Bàu Sen, ấp 3 với chiều dài 310m
ngang 6m với tổng kinh phí thực hiện 374 triệu đồng do nhân dân
đóng góp 100%, khởi công ngày 05/12/2019, khánh thành
346
ngày 11/12/2019.

35.7 Page 347

▲back to top


Đường ra cánh đồng liên ấp 1-2 với chiều dài 450m, ngang 4m
với tổng kinh phí thực hiện 451 triệu đồng do nhân dân đóng góp
100%, khởi công ngày 09/11/2020, khánh thành ngày 26/11/2020.
Đường tổ 4, ấp 2 với chiều dài 230m, ngang 3m với tổng kinh phí
thực hiện 176 triệu đồng do nhân dân đóng góp 100%,
khởi công ngày 26/10/2022 khánh thành ngày 04/11/2022.
347

35.8 Page 348

▲back to top


Đường tổ 17, liên ấp 1-2 với tổng chiều dài 240m, ngang 3m
tổng kinh phí thực hiện 165 triệu đồng do nhân dân đóng góp
100%, khởi công ngày 18/8/2019 khánh thành ngày 23/8/2019.
Đường tổ 7, ấp 1 với tổng chiều dài 165m, ngang 3m kinh phí
thực hiện 165 triệu đồng do nhân dân đóng góp 100%,
khởi công ngày 16/12/2020, khánh thành 22/12/2020.
348

35.9 Page 349

▲back to top


DANH SÁCH BÍ THƯ XÃ PHÚ THẠNH
QUA CÁC THỜI KỲ
Stt
Họ và tên
Thời gian
công tác
Địa chỉ
1 Lê Bá Hùng
1975 - 1976
Phú Hội
2 Lê Trung Chánh 1977 - 1978 Long Thành
3 Nguyễn Văn Thu 1979 - 1980 Ấp 3 - Phú Thạnh
4 Lê Bá Hùng
1981 - 1982
Phú Hội
5 Nguyễn Thế Hòa 1982-1984
Phú Thạnh
6 Lê Văn Tâm
1984 - 1989
Đại Phước
7 Trần Trung Kiên 1990 - 1991
Phú Hữu
8 Phạm Văn Sảnh 1992 - 2004 Ấp 1 - Phú Thạnh
9 Võ Thị Hoa
2005- 2012 Ấp 3 - Phú Thạnh
09 Huỳnh Minh Đức 2012 - 2015 Long Thành
10 Dương Văn Mẫn 2015 - 2021
11 Trương Quốc Thái Từ 2021 - nay
349

35.10 Page 350

▲back to top


DANH SÁCH CHỦ TỊCH XÃ PHÚ THẠNH
QUA CÁC THỜI KỲ
Stt
Họ và tên
Thời gian
công tác
Địa chỉ
01 Nguyễn Văn Thừng 1975 - 1976 Long Tân
02 Dương Văn Hà
1977 - 1978
03 Nguyễn Minh Quang 1979 - 1980
04 Phan Trường Xuân 1981 - 1982
Ấp 3,
Phú Thạnh
Ấp 3,
Phú Thạnh
Ấp 1,
Phú Thạnh
05 Phạm Văn Sảnh
1983 - 1989 Ấp 1, Phú Thạnh
06 Nguyễn Hồng Tâm 1990 - 1997
07 Võ Thị Hoa
1998 - 2004
08 Lê Văn Tây
2005 - 2010
09 Võ Thị Hoa
2012
Ấp 2,
Phú Thạnh
Ấp 3,
Phú Thạnh
Ấp 2,
Phú Thạnh
Ấp 3,
Phú Thạnh
10 Huỳnh Minh Đức 2012 - 2015 Long Thành
11 Dương Văn Mẫn 2015 - 2021
11 Trương Quốc Thái Từ 2021 - nay
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


DANH SÁCH Ban Chấp hành ĐẢNG BỘ
GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
NHIỆM KỲ III (2010 - 2015)
(QĐ chuẩn y của Huyện ủy số 491-QĐ/HU ngày 05 tháng
05 năm 2010)
1. Đ/c Võ Thị Hoa - Bí thư1
2. Đ/c Lê Văn Tây - Phó Bí thư
3. Đ/c Lý Thanh Tùng - Phó Bí thư
4. Đ/c Trần Đại Thắng
5. Đ/c Phạm Văn Sảnh
6. Đ/c Dương Văn Quý
7. Đ/c Nguyễn Văn Nguyên
8. Đ/c Nguyễn Thanh Sang
9. Đ/c Lê Bình Phước.
1  Tháng 3/2012, Huyện ủy Nhơn Trạch rút đồng chí Võ Thị Hoa về huyện, điều
động đồng chí Huỳnh Minh Đức tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng
ủy xã, giữ chức Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch UBND xã.
351

36.2 Page 352

▲back to top


NHIỆM KỲ IV (2015 - 2020)
(Quyết định chuẩn y của Huyện ủy số 1016 - QĐ/HU ngày
15 tháng 6 năm 2015)
1. Huỳnh Minh Đức - Bí thư 1
2. Lý Thanh Tùng - Phó Bí thư2
3. Trần Đại Thắng - Phó Bí thư3
4. Lê Bình Phước
5. Đoàn Thị Kim Thu4
6. Dương Văn Quý
7. Nguyễn Thanh Sang
8. Nguyễn Thị Thùy Trang5
9. Đỗ Tấn Phát.
1  Năm 2015, Huyện ủy quyết định điều động đồng chí Huỳnh Minh Đức về
huyện làm Trưởng ban Ban Dân vận Huyện ủy kể từ 15/9/2015 (theo QĐ số 15-
QĐ/HU). Thay đồng chí Huỳnh Minh Đức là Dương Văn Mẫn.
2  Năm 2020, đồng chí Lý Thanh Tùng được điều động về huyện làm Phó Chủ
tịch Hội Nông dân huyện.
3  Năm 2020, đồng chí Trần Đại Thắng về huyện làm Phó Giám đốc Trung tâm
dịch vụ Nông nghiệp huyện.
4  Năm 2016, đồng chí Đoàn Thị Kim Thu chuyển về huyện làm Phó phòng Kinh
tế. Năm 2016, đồng chí Nguyễn Văn Đức - Phó Chủ tịch UBND xã được chỉ định
bổ sung vào Ban Chấp hành.
5  Năm 2016, đ/c Nguyễn Thị Thùy Trang nghỉ việc, đã bầu bổ sung đồng chí
Nguyễn Hồng Chí, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ với chức danh Đảng ủy viên,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng.
352

36.3 Page 353

▲back to top


Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
Stt
Họ và tên
1 Đinh Thị Tỵ
2 Nguyễn Thị Nhiều
3 Ngô Thị Quờn
4 Nguyễn Thị Di
5 Nguyễn Thị Mua
6 Ngô Thị Ngàn
7 Lý Thị Huệ
8 Lê Thị Hạng
9 Nguyễn Thị Bảy
10 Phan Thị Thiệt
11 Lê Thị Tươi
Năm sinh
1891
1893
1895
1903
1905
1912
1918
1919
1921
1923
1925
Hiện trạng
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
Đã mất
353

36.4 Page 354

▲back to top


Đinh Thị Tỵ
Má Đinh Thị Tỵ sinh năm 1891 - thập niên cuối cùng của
thế kỷ 19. Má là người xã Phú Thạnh - Nhơn Trạch, một trong
những vùng đất lừng danh trong lịch sử đấu tranh chống quân
xâm lược của dân tộc ta. Thời thanh xuân, má Tỵ kết hôn với
ông Đặng Văn Phụng và từ đó, bắt đầu nặng gánh hai vai việc
nhà, việc nước. Má có bốn người con trai thì ba người đã lần
lượt lên đường trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Hai anh Đặng Văn Nữ (sinh năm 1924 - bí danh Lý
Thiết Đầu) và Đặng Văn Ngưu (sinh năm 1926 - bí danh Đặng
Văn Nghĩa) cùng thoát ly gia đình năm 1945 - trước ngày cuộc
tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Từ một đội viên
thanh niên cứu quốc, anh Đặng Văn Nữ đã liên tục phấn đấu trở
thành cán bộ Mặt trận Việt Minh và được kết nạp Đảng Cộng
sản Việt Nam vào năm 1947. Hai năm sau (1949), anh được
cách mạng giao nhiệm vụ chính trị viên xă đội Phước Khánh,
Chi ủy viên phụ trách công tác chính trị. Sự nghiệp hoạt động
cách mạng của anh đang rộng mở thì tháng 5/1952, Đặng Văn
Nữ hy sinh khi đang trên đường công tác cùng với đồng chí
Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến. Đồng bào đã chôn
cất anh tại Rạch Đọp (xã Phước Khánh), nhưng không bao lâu,
bom đạn chiến tranh đã xóa mất dấu tích ngôi mộ của người
chiến sĩ chưa đầy ba mươi tuổi.
Một năm sau, nỗi đau mất con chưa nguôi ngoai thì má Đinh
Thị Tỵ lại nhận thêm một bất hạnh mới: anh Đặng Văn Ngưu hy
sinh khi đang cùng đội du kích chống địch càn quét vào chiến
354

36.5 Page 355

▲back to top


khu Đ - khu căn cứ của cách mạng. Cũng như người anh ruột
Đặng Văn Nữ, anh Đặng Văn Ngưu đã trải qua một quá trình
phấn đấu bền bỉ, bắt đầu từ một đội viên Thanh niên Cứu quốc
xã Phú Thạnh (1945) trở thành cán bộ huyện Đoàn Long Thành
(1947) rồi thành Phó thư ký Mặt trận Liên Việt tỉnh Biên Hòa.
Anh mất đi là một tổn thất lớn cho phong trào cách mạng của
địa phương. Riêng với má Tỵ - người mẹ rứt ruột sinh thành thì
cái chết của anh vĩnh viễn là nỗi đau không gì bù đắp nổi. Ác
nghiệt thay, vào năm 1953 ấy, má còn mất thêm người con trai
là anh Đặng Văn Tám (sinh năm 1922). Anh nhập ngũ tháng
6/1949, là cán bộ Công trường Tỉnh đội Biên Hòa (cũ). Tháng
6/1953, trong khi đang mở kíp bom, chẳng may bom nổ, anh hy
sinh, thi hài không toàn vẹn của anh về sau cũng bị chiến tranh
làm thất lạc không tìm lại được.
Ba người con trai - một phần xương thịt của má Tỵ đã ra đi
mà không trở về. Má trở thành người mẹ đau khổ nhất mà cũng
đáng tự hào nhất vì đã hiến dâng ba núm ruột thân yêu của mình
cho nền hòa bình - độc lập của dân tộc. Với những hy sinh to
lớn đó, má Đinh Thị Tỵ đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
355

36.6 Page 356

▲back to top


Nguyễn Thị Bảy
(1921 - 2015)
Mẹ Nguyễn Thị Bảy sinh năm 1921 tại xã Phú Thạnh,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Sống trong vùng chiến sự, gia đình mẹ Bảy hiểu được
những đau thương, mất mát do chiến tranh đem đến. Bản thân
mẹ Bảy đã chứng kiến nhiều bà mẹ tiễn con đi tham gia chiến
đấu và không còn được đón con trở về. Tuy vậy, với lòng yêu
nước, căm thù giặc, mẹ Bảy vẫn ủng hộ các con vào bộ đội.
Và, như nhiều bà mẹ anh hùng khác trên khắp đất nước
Việt Nam, các con trai của mẹ đã nằm lại trên chiến trường để
đổi lấy độc lập, tự do cho dân tộc. Mẹ Bảy có hai người con hy
sinh trong kháng chiến chống Mỹ là liệt sĩ Nguyễn Văn Hết (hy
sinh tháng 2/1971) và liệt sĩ Nguyễn Văn Thiệt (hy sinh tháng
8/1969).
Những ngày cuối đời, mẹ Bảy sống cùng con trai út là ông
Nguyễn Văn Ngang tại khu vực Bàu Sen, ấp 3, xã Phú Thạnh,
huyện Nhơn Trạch. Mẹ mất ngày 22/9/2015 và được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định
số 2392/QĐ-CTN ngày 26/9/2014. Trước đó, gia đình mẹ Bảy
được tặng Bảng vàng gia đình danh dự theo Quyết định số 17/
QĐ-TTg ngày 19/9/1986.
356

36.7 Page 357

▲back to top


Ngô Thị Quờn
(1895 - 1975)
Trên quê hương Long Thành - Nhơn Trạch, những ngày
đầu Cách mạng Tháng Tám, phong trào cách mạng thật sôi nổi.
Chính quyền nhân dân đầu tiên được thành lập là niềm vui, tự
hào của mọi người dân. Tưởng rằng đất nước sạch bóng quân
thù, thế nhưng thực dân Pháp núp bóng đồng minh dã tâm xâm
lược nước ta lần thứ hai. Nhân dân Long Thành - Nhơn Trạch
đứng lên sẵn sàng kháng chiến bảo vệ quê hương. Nhà nhà,
người người khắp nơi góp công, góp của ủng hộ chính quyền
cách mạng nuôi quân. Trước sức tiến công của kẻ thù, nhân
dân thực hiện chính sách vườn không nhà trống, tiêu thổ kháng
chiến.
Mẹ Ngô Thị Quờn ở làng quê còn nhiều cực nhọc, nghèo
túng ấy đã góp công cho kháng chiến bằng cách hiến dâng đứa
con trai duy nhất của mình cho cách mạng. Trước bao cảnh hy
sinh mất mát vì sự tàn phá của kẻ thù, hẳn mẹ Quờn đã suy
nghĩ nhiều về đứa con trai của mình. Đó là núm ruột duy nhất,
niềm hy vọng của họ hàng, là nơi nương tựa của vợ chồng mẹ
khi tuổi già xế bóng, là người nối dõi của họ Bùi nhà chồng.
Nhưng đất nước đang kêu gọi mẹ vượt qua tất thảy ý nghĩ riêng
tư, cùng dân làng tiễn đưa con mình tham gia kháng chiến.
Giặc Pháp chiếm được Long Thành - Nhơn Trạch, lập bót
dựng tề nhưng chúng không khống chế được lòng dân ở đây với
cách mạng. Như bao người thanh niên quê nhà, Bùi Văn An lên
đường với tinh thần chiến đấu anh dũng:
357

36.8 Page 358

▲back to top


Giặc còn mộng lại cơ đồ
Thì ta lấy máu điểm tô sơn hà
Từ xã Phú Thạnh, bước chân anh rảo khắp Long Tân và các
xã kế cận để tuyên truyền cho cách mạng.
Cùng với phong trào quần chúng, lực lượng vũ trang và
dân quân du kích phát triển mạnh. Nhiều trận đánh mưu trí, táo
bạo gây cho địch bao nỗi kinh hoàng. Bởi vậy, địch cũng ra sức
khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng. Chúng tổ chức nhiều
cuộc bố ráp, phục kích. Trong một lần cùng đồng đội vượt trở
ngại từ xã Phú Thạnh đến xã Long Tân để làm nhiệm vụ tuyên
truyền, anh An bị giặc Pháp phục kích và ngã xuống trên mảnh
đất quê hương khi tuổi đời còn rất trẻ.
Lòng mẹ Quờn quặn đau. Con mất mà nghiệp nước nhà
chưa xong. Nỗi kỳ vọng người con trai duy nhất sẽ là người
thừa tự cho mẹ tiêu tan. Mẹ buồn, song mẹ tự hào, con trai
đã đi theo chính nghĩa, theo cách mạng. Trên mảnh đất quê
hương, máu con mẹ đã hòa vào thành khí thiêng của non nước
này. Niềm tự hào về con là niềm an ủi mẹ đi suốt quãng đường
đời còn lại cho đến khi mẹ ra đi mãi. Mẹ Quờn mất năm 1979
trong sự chăm sóc của xóm làng. Ngày 11/4/1995, Nhà nước
truy tặng mẹ danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
358

36.9 Page 359

▲back to top


Phan Thị Thiệt
(1923 - 1973)
Mẹ Phan Thị Thiệt sinh năm Ất Sửu 1923 trong một gia
đình nông dân nghèo ở ấp Vọng Đông, làng Phú Hữu, tổng
Thành Tuy Hạ, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa cũ (nay là
xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai). Mẹ lấy chồng là
ông Trần Văn Sổ, cũng là một bần nông và khi ra ở riêng, hai
người chỉ có vài công ruộng một vụ nên phải làm mướn mới đủ
nuôi thân. Đôi vợ chồng trẻ dựng chiếc chòi lá nhỏ xíu trên đất
người ta suốt hơn nửa thế kỷ; thay nhiều lần cây và lá nhưng
chiếc chòi chỉ đủ chỗ cho ba người dung thân. Mẹ sinh hạ một
con trai là Trần Văn Sách vào năm 1940.
Ông Năm Sổ cả đời quần quật lam lũ đánh vật với mấy
công ruộng rồi đi làm mướn nên không có điều kiện tham gia
việc xã hội. Mẹ Thiệt phần lo nuôi con, phần lo chạy giặc cho
đến khi Sách khôn lớn.
Sau cao trào Đồng khởi 1960, ông Tám Lục (Trần Văn Lục)
- em ruột ông Năm Sổ - có mấy người con được cán bộ mật
giáo dục, móc nối đi thoát ly. Người chú ruột này thấy cháu
đã đến tuổi quân dịch, bèn động viên anh Sách tham gia cách
mạng. Vừa cưới vợ được ít lâu, anh nghe lời chú và cán bộ
cách mạng, gia nhập du kích xã một thời gian ngắn. Sau đó anh
xin đi bộ đội thuộc đơn vị C240 huyện Long Thành. Ấp Vọng
Đông thuộc vùng sâu, địch kềm chặt nên anh không thể về
thăm cha mẹ và vợ con. Mẹ Phan Thị Thiệt chỉ có một con duy
359

36.10 Page 360

▲back to top


nhất nên rất nhớ anh. Mỗi khi được móc nối, mẹ mượn chiếc
xuồng nhỏ, mang theo ít gạo và thực phẩm một mình một mái
chèo len lách qua nhiều tua bót giặc xuống tận rừng Sác Phước
An tìm gặp con. Đó là những giờ phút sung sướng của người
mẹ già khi thấy con mình vẫn mạnh khỏe, được đồng đội quý
mến, và nhất là Sách khác hẳn khi còn ở nhà. Anh vẫn hiền lành
nhưng năng nổ công tác, được bà con nơi đóng quân tin yêu.
Ngày 12/9/1972, Tiểu đội trưởng Trần Văn Sách được giao
nhiệm vụ đưa thương binh từ rừng Sác lên tuyến trên. Khi
nhóm tải thương đi ngang đường ủi Phước Lai (nay thuộc thị
trấn Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch) thì các anh lọt ổ phục
kích địch. Anh Sách hy sinh được đồng đội an táng chu đáo.
Một thời gian sau, mẹ Thiệt mới nghe tin con hy sinh, xiết bao
đau xót. Mẹ thương khóc con đến sinh bệnh, vì gia đình quá
nghèo không tiền thuốc thang nên năm 1973 mẹ qua đời. Ông
Năm Sổ cũng chỉ sống đến năm 1975.
Có công sinh hạ, nuôi dưỡng rồi dâng hiến giọt máu duy
nhất cho Tổ quốc hòa bình, thống nhất nên mẹ Phan Thị Thiệt
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17/12/1994.
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Lê Thị Tươi
(1925 - 2019)
Mẹ Lê Thị Tươi sinh năm 1925 tại xã Phú Thạnh, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Khi đến tuổi lập gia đình, mẹ kết hôn cùng ông Trần Tấn
Nghiệp và sinh được hai người con (1 trai, 1 gái). Thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, ông Nghiệp tham gia cách mạng và
hy sinh trong một trận đánh ở xã Long Tân vào ngày 4/2/1949.
Sau khi chồng mất, mẹ Tươi đi bước nữa và sinh thêm được 5
người con (2 trai, 3 gái).
Người con trai đầu Trần Nguyễn Long (sinh năm 1944, con
ruột của liệt sĩ Trần Tấn Nghiệp) khi lớn lên đã noi gương cha,
tham gia kháng chiến chống Mỹ và đã anh dũng hy sinh vào
ngày 18/11/1971.
Người chồng sau của mẹ cũng tham gia hoạt động công
khai trong kháng chiến chống Mỹ. Bản thân mẹ tuy phải làm
lụng vất vả để nuôi 6 người con nhưng vẫn bớt xén phần lương
thực của gia đình để ủng hộ cho bộ đội ta.
Hòa bình lập lại, mẹ có niềm vui được sum vầy bên các con
cháu. Mẹ Tươi sống cùng người con trai út là ông Nguyễn Văn
Hiếu tại ấp 1, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch. Mẹ tuy tuổi đã
cao nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Mẹ được phong tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-
CTN ngày 26/9/2014.
Mẹ Lê Thị Tươi mất ngày 4/12/2019 tại xã Phú Thạnh.
361

37.2 Page 362

▲back to top


Lý Thị Huệ
(1918 - 2000)
Mẹ Lý Thị Huệ sinh năm 1918 tại xã Phú Thạnh, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trong cả hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, địa bàn xã Phú Thạnh có
vị trí chiến lược quan trọng.
Sau khi chiếm được miền Nam, năm 1929, thực dân Pháp
xây dựng ở xã Phú Thạnh một công trình có tên gọi là căn cứ
quân sự Thành Tuy Hạ để bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, làm hậu
thuẫn cho việc bình định, vơ vét tài nguyên. Sau Hiệp định Ge-
nève, Mỹ thay chân Pháp và từ đây Thành Tuy Hạ được đặt tên
mới là “Căn cứ Phan Bội Châu”. Mỹ đã đầu tư sửa chữa, nâng
cấp và mở rộng, biến thành một kho chứa các loại vũ khí, đạn
dược lớn chỉ sau Tổng kho Long Bình.
Là một địa bàn nằm cạnh khu căn cứ quân sự, bị địch kiểm
soát gắt gao, nhưng lòng người dân xã Phú Thạnh vẫn hướng về
cách mạng, kiên trì đấu tranh chống địch. Bản thân mẹ Lý Thị
Huệ cũng tham gia tiếp tế lương thực, thuốc men cho bộ đội ta
trong kháng chiến chống Mỹ.
Mẹ Huệ sinh được 7 người con (4 trai, 3 gái), trong đó hai
người con trai Phạm Trí Phú (sinh năm 1947, là con thứ 5) và
Phạm Hữu Đức (sinh năm 1950, là con thứ 6) cũng noi theo chí
hướng của mẹ, tham gia chiến đấu tại địa phương và đều là bộ
đội đặc công. Ngày 2/1/1966, mẹ Huệ nhận tin con trai thứ 5 hy
sinh. Không lâu sau đó, vào tháng 1/1969, con trai thứ 6 của mẹ
362

37.3 Page 363

▲back to top


cũng hy sinh. Cả hai người con này đều được mẹ Huệ tìm cách
đem về chôn cất tại đất nhà. Sau khi đất nước được giải phóng,
các anh được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ địa phương.
Những ngày cuối đời, mẹ Huệ sống cùng người con gái
thứ hai (theo cách gọi của người Nam Bộ) Phạm Thị Thanh tại
quê nhà (ấp 1, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch). Mẹ qua đời
năm vào 2000 và được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày
26/9/2014.
Lê Thị Hạng
(1919 - 2004)
Mẹ Lê Thị Hạng sinh năm 1919 tại xã Hành Phước, huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Nghĩa Hành, Quảng Ngãi là vùng đất giàu truyền thống
cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, quân và dân Nghĩa
Hành đã dốc sức vào cuộc kháng chiến kiến quốc, trở thành thủ
phủ của vùng tự do Liên khu V. Ở đây có trụ sở Ủy ban Kháng
chiến Hành chính miền Nam Trung Bộ, nơi đồng chí Phạm Văn
Đồng, đại diện của Đảng và chính phủ ở và làm việc. Cụ Huỳnh
Thúc Kháng cũng đã sống, làm việc và mất ở đây. Nghĩa Hành
là nơi tập trung nhiều cơ quan của Liên khu V và của tỉnh, các
đơn vị quân đội, các trường trung học nổi tiếng như trường
Trung học Lê Khiết, trường Trung học Bình dân miền Nam
Trung Bộ.
363

37.4 Page 364

▲back to top


Từ khi cuộc kháng chiến chuyển sang tổng phản công,
Nghĩa Hành trở thành hậu phương chi viện nhiều sức người,
sức của, góp phần đắc lực vào cuộc kháng chiến đi đến thắng
lợi với chiến dịch Bắc Tây Nguyên giải phóng toàn tỉnh Kon
Tum đầu năm 1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, Nghĩa Hành
tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, kiên trì đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất giàu truyền thống cách
mạng, mẹ Hạng tích cực tham gia phong trào đấu tranh, cùng
nhân dân Hành Phước chống lại sự càn quét của địch. Từ năm
1945-1952, mẹ tham gia du kích tại địa phương. Những năm
1952-1975, mẹ tham gia Ban Chấp hành Phụ nữ thôn, Trưởng
ban Nông hội thôn ở xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành. Noi
gương mẹ Hạng, các con của mẹ cũng tình nguyện nhập ngũ.
Năm 1972, người con trai cả Nguyễn Kiểm của mẹ hy sinh.
Chưa đầy một năm sau, con gái Nguyễn Thị Đương cũng hy
sinh (năm 1973) khi đang trên đường làm nhiệm vụ.
Hòa bình lặp lại, mẹ Hạng cùng con trai Nguyễn Văn Hợp
vào Đồng Nai định cư. Mặc dù gia đình khó khăn nhưng mẹ
Hạng vẫn tảo tần, chăm lo cho các con ăn học đầy đủ, nên
người. Những năm cuối đời, mẹ Hạng sống hạnh phúc, đoàn
tụ bên con cháu. Mẹ mất vào tháng 9/2004, hiện được con trai
thờ phụng tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trước những đóng góp, thành tích và cống hiến của mẹ cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch nước đã ký
Quyết định số 2393/QĐ-CT ngày 26/9/2014 truy tặng cho mẹ
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
364

37.5 Page 365

▲back to top


Ngô Thị Ngàn
(1912 - )
Mẹ Ngô Thị Ngàn sinh năm 1912 tại xã Phú Thạnh, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược
quan trọng, được quân đội Mỹ thành lập căn cứ quân sự và
kiểm soát gắt gao. Tuy vậy, điều này không ngăn được tấm lòng
yêu nước và quyết tâm đấu tranh giành độc lập của nhân dân
địa phương. Mẹ Ngàn cũng không nằm ngoài số đông người
dân ấy. Những năm kháng chiến huyện Nhơn Trạch cùng cả
nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mẹ Ngàn
thường xuyên đóng góp tiền của cho cách mạng, nuôi giấu cán
bộ. Tấm gương của mẹ Ngàn đã góp phần un đúc tinh thần yêu
nước cho các con của mẹ.
Mẹ Ngô Thị Ngàn có hai người con trai hy sinh trong cuộc
chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Người con trai Nguyễn Phước
Mừng, hy sinh tháng 3/1970. Chỉ 3 tháng sau đó (tháng 6/1970),
mẹ lại phải đón nhận tin hy sinh của người con trai Nguyễn
Hữu Tính.
Sau chiến tranh, mẹ Ngàn sống cùng người con trai Nguyễn
Kim Lãng tại ấp 3, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch. Mẹ được
Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 945/QĐ-CTN ngày 16/5/2016.
365

37.6 Page 366

▲back to top


Nguyễn Thị Mua
(1896 - 1983)
Mẹ Nguyễn Thị Mua sinh năm 1896 tại xã Phú Thạnh,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Vùng đất Nhơn Trạch, Đồng
Nai là nơi có truyền thống cách mạng. Tinh thần chiến đấu, hy
sinh vì độc lập dân tộc đã ngấm sâu vào trong mẹ. Trong những
tháng năm ác liệt nhất của chiến tranh, mẹ đã động viên hai
người con trai của mình tham gia cách mạng.
Người con trai tên Nguyễn Văn Cu là cán bộ giao bưu, hy
sinh tháng 8/1964. Chỉ hơn nửa năm sau, vào tháng 3/1965, mẹ
lại tiếp tục đón nhận một tin buồn: người con trai Nguyễn Văn
Phước cũng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ.
Những ngày cuối đời, mẹ có niềm vui sống là được quây
quần cùng gia đình người con gái tên là Nguyễn Thị Võ. Mẹ mất
vào năm 1983. Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo quyết định số 2679/QĐ-CTN ngày 1/12/2015.
Nguyễn Thị Nhiều
(1893 - 1978)
Mẹ Nguyễn Thị Nhiều sinh năm 1893 tại xã Phú Thạnh,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong thời kỳ kháng chiến, mẹ Nhiều hoạt động trên địa
bàn quan trọng Nhơn Trạch nơi có Chiến khu Rừng Sác. Trong
giai đoạn khó khăn gian khổ ấy, không quản ngại hiểm nguy do
366

37.7 Page 367

▲back to top


kẻ thù thường xuyên vây ráp, khủng bố, cùng với nhiều phụ nữ
khác trong xã, mẹ Nhiều đã tích cực tham gia đóng góp lương
thực, thực phẩm nuôi giấu cán bộ, du kích đánh địch.
Mẹ Nguyễn Thị Nhiều sớm kết hôn và có 8 người con,
trong đó, có 5 người đi bộ đội và tham gia du kích ở địa phương.
Nhiều người từng bị địch bắt, đánh đập tù đày. Sau khi được thả
ra, họ tiếp tục tham gia du kích rồi hy sinh khi đang trên đường
làm nhiệm vụ. Đó là liệt sĩ Hoàng Văn Độ, hy sinh 1947 và liệt
sĩ Hoàng Thị Thích hy sinh năm 1953.
Mẹ Nguyễn Thị Nhiều là người phụ nữ đã sống qua 2 cuộc
kháng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cả cuộc đời mẹ sẵn
sàng hiến dâng những điều quý giá nhất cho hòa bình, thống
nhất đất nước. Khi Tổ quốc cần, mẹ không ngần ngại đưa tiễn
chồng, con ra lên đường làm nhiệm vụ.
Đất nước hòa bình cũng là lúc tuổi mẹ đã già (hơn 80 tuổi).
Vào thời điểm đó, mẹ Nhiều sống cùng 6 người con còn lại tại
xã Phú Thạnh. Sau khi mẹ mất, các con, cháu của mẹ cùng nhau
thờ phụng và lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống gia đình.
Do tuổi già, sức yếu và bệnh tật, cả 6 người con của mẹ Nhiều
đều đã mất.
Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26/9/2014. Hiện, cháu
nội Hoàng Minh Phụng thờ phụng mẹ tại xã Phú Thạnh, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
367

37.8 Page 368

▲back to top


Nguyễn Thị Di
(1903 - 1977)
Mẹ Nguyễn Thị Di sinh năm 1903 tại thôn Long Sơn, thị
trấn Long Điền, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Long
Đất là huyện cũ ở phía nam tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. Nơi đây
nổi tiếng với cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Bình Tây Đại
Nguyên soái Trương Định, Phong trào kháng chiến chống Pháp
do tri phủ địa phương là Nguyễn Thành Ý khởi xướng, cũng là
nơi sản sinh người con gái anh hùng Võ Thị Sáu...
Năm 1930, mẹ Di sinh được một người con trai, đặt tên
là Nguyễn Văn Chỉ. Đây cũng là người con duy nhất của mẹ.
Cũng như rất nhiều Bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác trên khắp
đất nước Việt Nam, bằng tình yêu nước nồng nàn, mẹ đã dâng
hiến người con yêu quý nhất cho đất nước. Con trai của mẹ, liệt
sĩ Nguyễn Văn Chỉ hy sinh năm 1953 khi đang trên đường đi
công tác ở huyện Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Những ngày cuối đời, mẹ được người cháu là Nguyễn
Thành Hải phụng dưỡng tại nguyên quán. Mẹ mất vào ngày
22/5/1977. Năm 1986, ông Nguyễn Thành Hải chuyển đến
sinh sống tại ấp 2, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch và thờ
phụng mẹ tại đây. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 522/KT-CTN ngày
22/8/1995.
368

37.9 Page 369

▲back to top


DANH SÁCH LIỆT SĨ
Stt
Họ và tên
1 Cao Văn Tám
2 Bùi Văn An (Châu)
3 Nguyễn Văn Cơ (Dũng)
4 Phan Văn Quang (Dao)
5 Nguyễn Văn Hết
6 Nguyễn Văn Thiệt
7 Nguyễn Văn Xạ (Thanh)
8 Trần Thị Huệ
9 Phan văn Bảy
10 Nguyễn Văn Cu (Lập)
11 Nguyễn Văn Phước
12 Phan Văn Quang
13 Trần Tấn Nghiệp
14 Nguyễn Văn Sắt
15 Dương Tấn Thành
16 Phạm Văn Rành (Tài)
17 Nguyễn Văn Tám
Năm sinh Năm hy sinh
23/6/1948
12/5/1948
3/1968
10/1970
2/1971
8/1969
09/10/1970
1952
2/1974
1954
8/1969
1944
8/1964
1934
3/1965
1947
11/9/1971
1920
20/4/1949
1948
1963
1958
4/7/1978
1946
23/2/1969
1951
3/3/1968
369

37.10 Page 370

▲back to top


18 Phạm Trí Phú
19 Trần Văn Sách
20 nguyễn Hữu Tính (Tâm)
21 Nguyễn Văn Đích
22 Trần Văn Dứt (Hồng Ân)
23 Nguyễn Phước Mừng (Tỉnh)
24 Đặng Văn Mọi
25 Ngô Văn Tâm
26 Phạm Hữu Đức
27 Đào Văn Sót
28 Lê Hữu Nghĩa
29 Châu Văn Phú
30 Bùi Văn Muộm
31 Trần Văn Lời
32 Lê Văn Triện
33 Nguyễn Ngọc Dễ
34 Hoàng Văn Độ
35 Đinh Văn Hai
1946
1940
1953
1922
1922
1940
1955
1940
1949
1944
1957
1924
1916
1929
1918
1919
1926
1950
370
01/2/1967
13/9/1969
6/1970
1948
1959
3/1970
3/1967
1969
1/1969
10/10/1968
15/9/1978
8/1956
15/11/1947
03/1/1949
18/5/1948
1/1952
6/10/1947
15/12/1966

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


36 Trương Văn Cộm
37 Hồ Văn Lành
38 Võ Văn Tấn
39 Châu Văn Biện
40 Nguyễn Văn Tư (Đức Dũng)
41 Nguyễn Văn Nết
42
Trần Nguyên Long
(Thượng)
43 Nguyễn Văn Chỉ
44 Nguyễn Văn Điền
45 Ao Văn Viên
46 Nguyễn Kiểm
47 Nguyễn Thị Đương
48 Đặng Đăng Vang
49 Phan Văn Hạnh
50 Hà Văn Thông
51 Nguyễn Quốc Dương
52 Phạm Văn Xình
53 Trần Văn Diệu
1925
1935
1951
1925
1942
1925
1943
1923
1931
1902
1953
1948
1982
1940
1940
24/6/1946
2/1968
4/1970
5/1/1949
20/4/1969
24/2/1951
18/11/1971
7/1953
12/8/1966
1949
2/1972
3/8/1973
19/2/1978
17/1/2014
27/6/1968
16/8/1971
01/12/1969
27/6/1969
371

38.2 Page 372

▲back to top


DANH SÁCH THƯƠNG BINH, BỆNH BINH
STT
Họ và tên
Năm Ngày Ngày bị Tỷ lệ
sinh nhập ngũ thương TT
1 Đỗ Thị Thanh Vân 1939 10/1961 11/1970 21
2 Bùi Văn Hoàng
1915
1945 10/1956 31
3 Phạm Văn Quyết 1944 1/1964 3/2/1974 21
4 Huỳnh Hữu Nghĩa 1940 10/12/1967 20/9/1969 21
5 Nguyễn Văn Trung 1943 6/1964 18/8/1969 21
6 Nguyễn Thế Hòa 1932 9/1948 12/1970 21
7 Trương Văn Bội 1921
1945 8/1952 31
8 Bùi Thị Nở
1948 10/1964 7/3/1970 21
9 Nguyễn Văn Hởn 1955 10/1974 21/4/1975 31
10 Châu Thành Tâm 1964 12/1982 1/15/1983 82%
11 Phạm Khắc Toản 1948
21
12 Nguyễn Văn Hợp 1947
45
13 Nguyễn Văn Thu 1937 12/12/1960 9/11/1969 41
14 Nguyễn Minh Quang 1938
372

38.3 Page 373

▲back to top


DANH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
Stt
Họ và tên
1 Trần Tấn Mến
2 Trần Ngọc Trai
3 Lê Văn Mười
4 Võ Tuấn Anh
5 Nguyễn Ngọc Tuấn
6 Phạm Văn Chẩn
7 Bùi Thanh Bừng
8 Lê Văn Vĩnh
9 Lê Văn Hai
10 Lương Văn Mến
11 Nguyễn Thị Hoa
12 Nguyễn Thành Long
13 Nguyễn Văn Nhường
14 Vũ Đức Thẩm
15 Lê Thành Đạo
16 Vũ Đức Phối
17 Lê Văn Minh
18 Huỳnh Văn Lân
19 Nguyễn Thị Vững
20 Trần Ngọc Thanh
21 Huỳnh Thị Một
22 Trần Thanh Liên
23 Nguyễn Văn Đại
24 Lê Văn Nhơn
25 Phạm Văn Ba
Ghi chú
Hưu trí
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Theo QĐ 62
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
Hưởng chế độ một lần
373

38.4 Page 374

▲back to top


NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
(Thời điểm biên soạn, xuất bản năm 2014)
NGUYỄN VĂN LIỀM
Ông Nguyễn Văn Liềm (Tư Liềm) sinh năm 1921 tại xã Phú
Thạnh, huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai). Cha mẹ ông đều là công
nhân Sở Cao su Thành Tuy Hạ. Vì thế, ông đã sớm biết đến cảnh
nghèo khó, cực nhục, bị bóc lột của giai cấp công nhân.
Năm 1945, như bao thanh niên của xã Phú Thạnh, ông tham
gia lực lượng Thanh niên Tiền phong của xã, cùng người dân
trong xã cướp chính quyền và lập ra chính quyền cách mạng,
tham gia bầu cử Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc
lập. Tháng 10 năm 1946, khi thực dân Pháp quay trở lại đánh
chiếm Thành Tuy Hạ, ông bị địch bắt đưa đi giam giữ tại khám
lớn Biên Hòa gần một tháng. Sau khi ra tù, ông thoát ly theo
kháng chiến.
Năm 1948 đến năm 1949, ông là Thư ký Ban Chỉ huy
Thanh niên cứu quốc xã Phú Thạnh. Năm 1950, ông là Đoàn
phó Đoàn Thanh niên cứu quốc xã. Từ năm 1953 đến 1954, ông
là Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chánh xã Phú Thạnh.
Sau Hiệp định Genève 1954, ông được tổ chức phân công
ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động. Ngày 14 tháng 3 năm 1955,
ông được kết nạp Đảng.
Năm 1956, địch mở chiến dịch Trương Tấn Bửu, đánh phá
phong trào cách mạng ở miền Nam rất ác liệt. Bí thư chi bộ xã
374

38.5 Page 375

▲back to top


Phú Thạnh là Võ Hồng Ân, Phó Bí thư chi bộ xã là Bùi Văn
Hoằng đều bị địch bắt, cả chi bộ còn lại một đảng viên duy nhất
là ông, Huyện ủy Long Thành đã cử ông làm Bí thư chi bộ xã
Phú Thạnh với nhiệm vụ gầy dựng lại cơ sở, đẩy mạnh phong
trào cách mạng chống Mỹ tại địa phương. Thực hiện nhiệm vụ
của Đảng giao phó, từ một xã “trắng”, ông đã xây dựng được
3 tổ nòng cốt làm công tác binh vận, liên lạc, vận chuyển đóng
góp của nhân dân trong xã cho cách mạng.
Năm 1958, ông là cán bộ Huyện ủy Long Thành, phụ trách
địa bàn Sở Cao su Thành Tuy Hạ và các xã Phú Thạnh, Phước
Lý. Trong giai đoạn địch dồn dân lập ấp chiến lược, ông đã chỉ
huy lực lượng du kích và nhân dân phá ấp chiến lược tại các xã
Phú Thạnh, Phước Lý.
Năm 1961, huyện Nhơn Trạch được thành lập trên cơ sở
tách ra từ huyện Long Thành, ông được phân công về Huyện
ủy Nhơn Trạch. 1962, ông phụ trách công tác Tuyên huấn của
Huyện ủy. Năm 1963, ông là Phó Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch.
Từ năm 1964 cho đến năm 1976, ông là cán bộ Ban Tổ chức
Trung ương Cục miền Nam. Khi tỉnh Đồng Nai được thành lập,
ông là Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Đồng Nai cho đến khi
nghỉ hưu (tại xã Hóa An, TP. Biên Hòa).
Các hình thức khen thưởng:
- Huân chương Quyết thắng hạng Nhất.
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
- Huân chương Độc lập hạng Ba.
375

38.6 Page 376

▲back to top


- Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp xây dựng Đảng.
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
PHẠM VĂN ĐẠM
Ông Phạm Văn Đạm (Ba Đạm) sinh năm 1925 tại xã Phú
Thạnh, huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai). Gia đình ông vốn đều
là nông dân nghèo, phải đi làm thuê, làm mướn để kiếm sống,
đời sống cũng như bao nông dân vùng Phú Thạnh lúc đó, rất
vất vả. 13 tuổi, ông đã phải nghỉ học đi làm kiếm tiền phụ giúp
gia đình. Từ nhỏ, ông đã chứng kiến cảnh bọn lính Pháp đóng
ở căn cứ Thành Tuy Hạ bắn giết dân lành một cách vô tội vạ,
nhìn thấy cảnh địa chủ phong kiến bóc lột nông dân nghèo đến
tận xương tủy nên ông rất căm phẫn.
Tháng 8 năm 1945, ông cùng với nhiều thanh niên trai tráng
trong làng tham gia Đội Thanh niên Tiền phong tại địa phương,
hăng hái tập luyện võ nghệ, học tập văn hóa và tham gia cướp
chính quyền của bọn thực dân, phong kiến ngay tại xã nhà,
cùng nhân dân bầu lên chính quyền cách mạng lâm thời - chính
quyền của nhân dân. Năm 1946, khi thực dân Pháp quay trở lại
chiếm Nam Bộ, đánh chiếm Thành Tuy Hạ tại xã Phú Thạnh,
ông tham gia Quốc gia tự vệ cuộc chiến đấu tại xã.
Ngày 5 tháng 3 năm 1947, ông thoát ly, tham gia Vệ quốc
đoàn, là chiến sĩ Đại đội C, Chi đội 10. Ông kết nạp Đảng vào
tháng 11 năm 1951 tại xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Cửu. Từ tháng
8 năm 1953 đến tháng 8 năm 1954, ông được điều về làm Đội
376

38.7 Page 377

▲back to top


phó Đội du kích xã Phú Thạnh. Đội du kích Phú Thạnh đã lập
nhiều thành tích: tiêu diệt địch, thu nhiều vũ khí, trừng trị bọn
ác ôn tay sai, góp phần vào thắng lợi chung của phong trào
kháng chiến huyện Long Thành.
Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra miền Bắc, vẫn công
tác trong quân đội. Chiến trường miền Nam ác liệt, cuộc kháng
chiến chống Mỹ còn nhiều gian khổ, ông đã tình nguyện đi B,
trở về phục vụ cho miền Nam. Từ tháng 8 năm 1972 đến năm
1982, ông là Thường vụ Huyện ủy, Chính trị viên Huyện đội
Nhơn Trạch, sau đó là Huyện đội Long Thành. Năm 1982, ông
nghỉ hưu theo chế độ tại xã Phú Thạnh. Dù nghỉ hưu, nhưng
ông vẫn tích cực tham gia các phong trào, hoạt động tại địa
phương, như: Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Nhơn Trạch,
Tổ trưởng tổ Đảng...
Các hình thức khen thưởng:
- Huân chương Chiến thắng hạng Ba (4/1947).
- 3 huân chương Vẻ vang (1/1959).
- Huân chương Chiến công hạng Ba (7/1971).
- Huân chương Huân công hạng Ba (4/1975).
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng (1/1970).
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba (5/1975).
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất (11/1987).
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
- 6 bằng khen các loại.
377

38.8 Page 378

▲back to top


ĐỖ THỊ THANH VÂN
Bà Đỗ Thị Thanh Vân (còn có tên là Đỗ Thị Bánh) sinh
ngày 11 tháng 12 năm 1939 tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn
Trạch (Đồng Nai). Gia đình nghèo khó, lại mồ côi mẹ từ năm 6
tuổi, 12 tuổi bà đã phải theo chân những công nhân cao su, làm
công việc trút mủ mướn để sinh sống. 17 tuổi, bà trở thành công
nhân Sở Cao su Thành Tuy Hạ.
Đời công nhân nhiều cực nhục, không những bị chủ người
Pháp bóc lột trên mồ hôi nước mắt mà còn bị bọn cai, xu, xếp
cậy thế hiếp đáp. Vì vậy bà đã sớm giác ngộ cách mạng. Tháng
10 năm 1961, bà tham gia hoạt động bí mật tại xã Phú Thạnh,
không chỉ nắm tình hình địch báo cáo lại cho cách mạng mà còn
trực tiếp tham gia xây dựng cơ sở Hội Phụ nữ xã Phú Thạnh,
xây dựng cơ sở, phong trào trong Sở Cao su Thành Tuy Hạ.
Tháng 6 năm 1962, bà bị lộ, phải thoát ly vào căn cứ. Từ
bộ đội 23/9, bà lần lượt công tác ở nhiều vị trí, địa bàn khác
nhau của tỉnh, như: quân bưu, binh vận, phụ nữ... Bà cũng là
một trong số các ủy viên đầu tiên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
huyện Nhơn Trạch. Năm 1969, bà được kết nạp Đảng, từ đó
đến năm 1975, bà lần lượt là Bí thư chi bộ các xã Đại An, Thiện
Tân (huyện Vĩnh Cửu).
Tháng 5 năm 1975, bà được điều về tiếp quản Sở Cao su
Thành Tuy Hạ, được bổ nhiệm làm Giám đốc - là Giám đốc đầu
tiên của Sở Cao su Thành Tuy Hạ do chính quyền cách mạng
bổ nhiệm, đồng thời là Huyện ủy viên Huyện ủy Nhơn Trạch.
378

38.9 Page 379

▲back to top


Từ tháng 5 năm 1977, bà là Trưởng ban Công đoàn huyện Long
Thành. Đến năm 1980, bà nghỉ do mất sức lao động. Bà Đỗ Thị
Thanh Vân hiện sống tại ấp 3, xã Phú Thạnh. Chồng bà là ông
Nguyễn Thế Hòa cũng là đồng chí, cùng hoạt động cách mạng
thời kháng chiến chống Mỹ tại xã Phú Thạnh.
Các hình thức khen thưởng:
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
NGUYỄN MINH QUANG
Ông Nguyễn Minh Quang (còn có tên là Nguyễn Văn Hạnh)
sinh năm 1938 tại xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai).
Gia đình ông cũng thuộc thành phần bần cố nông.
Khi chính quyền Ngô Đình Diệm nắm quyền tại miền Nam
sau Hiệp định Genève 1954, đã tăng cường bắt lính để bổ sung
lực lượng quân đội, trấn áp các phe phái và phong trào cách
mạng miền Nam. Tháng 4 năm 1959, ông cũng bị bắt đi quân
dịch, nhưng sau đó đã tìm cách trốn vì không thể cầm súng bắn
vào đồng bào, người dân vô tội. Năm 1964, nhận thấy trốn chui
trốn nhủi không phải là cách hay, ông đã mạnh dạn tìm đến với
cách mạng. Năm 1966, ông là Đội trưởng Đội du kích xã Long
Tân. Long Tân có địa bàn giáp ranh với xã Phú Thạnh, 2 đội du
kích thường xuyên phối hợp với nhau trong công tác diệt ác trừ
gian, phá ấp chiến lược. Năm 1967, ông được điều về đội biệt
động thị trấn Nhơn Trạch.
379

38.10 Page 380

▲back to top


Ngày 12 tháng 2 năm 1969, trên đường làm nhiệm vụ bảo
vệ mùa màng tại xã Phú Thạnh, ông bị địch phục kích bắn gãy
chân, sau đó bắt sống đưa về chi khu Nhơn Trạch tra tấn dã
man nhằm khai thác về cơ sở cách mạng. Ông đã giữ vững khí
tiết người cộng sản, quyết không khai báo. Do không khai thác
được, địch đã đưa ông từ chi khu Nhơn Trạch về trại giam Hố
Nai, sau đó đưa đi giam giữ tại nhà tù Phú Quốc. Tại các trại
giam, ngoài việc không khai báo, ông còn cùng các đồng chí ở
trong tù tham gia đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống chào
cờ, chống ly khai Đảng. Đến năm 1973, ông được trao trả tại
Tây Ninh theo tinh thần Hiệp định Paris 1972 và tiếp tục công
tác.
Năm 1979, ông Nguyễn Minh Quang được bổ nhiệm làm
Chủ tịch xã Phú Thạnh thay cho ông Dương Văn Hà nghỉ hưu
theo chế độ. Đến năm 1980, ông nghỉ hưu tại xã Phú Thạnh.
NGUYỄN VĂN THU
Ông Nguyễn Văn Thu sinh năm 1937 tại xã Phú Thạnh,
huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai). Năm 1959, ông thoát ly theo
kháng chiến với nhiệm vụ làm giao liên, đưa thư liên lạc, đưa
đón và bảo vệ cán bộ từ huyện về các xã và ngược lại, sau đó
chuyển lên làm giao liên của tỉnh Biên Hòa.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông được tổ chức phân
công ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động, công tác ở lực lượng
C2 của tỉnh Biên Hòa. Ngày 9 tháng 11 năm 1969, ông bị địch
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


bắt, giam giữ tại trại giam Hố Nai (tỉnh Biên Hòa cũ). Dù bị
địch dùng nhiều cực hình tra tấn để khai thác thông tin về cơ sở
cách mạng, ông vẫn giữ vững khí tiết, không khai báo.
Tháng 2 năm 1973, ông được trao trả tại sân bay Lộc Ninh
theo tinh thần của Hiệp định Paris năm 1972. Sau khi đi an
dưỡng, điều trị các chấn thương, bệnh tật trong thời gian tù đày,
ông nhận nhiệm vụ tại Ban Tổ chức Trường Đảng tỉnh Biên
Hòa đến năm 1976.
Từ năm 1978 đến năm 1980, ông được điều về giữ nhiệm
vụ Bí thư chi bộ xã Phú Thạnh. Sau đó, ông tiếp tục giữ các
nhiệm vụ: cán bộ tuyên giáo xã, xã đội trưởng xã Phú Thạnh,
cán bộ tổ chức xã... cho đến khi nghỉ hưu.
Các hình thức khen thưởng:
- Dũng sĩ diệt Mỹ hạng Nhất.
- Dũng sĩ diệt Mỹ hạng Nhì.
- Huân chương Quyết thắng hạng Nhì.
- Huân chương Quyết thắng hạng Nhất.
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
NGUYỄN THỊ VÕ
Bà Nguyễn Thị Võ (bí danh Nguyễn Thị Nghĩa) sinh năm
1942 tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai). Như
phần lớn người dân Phú Thạnh khác, gia đình bà rất nghèo. 8
tuổi bà mới được đến trường, nhưng chỉ học được hết lớp Một
381

39.2 Page 382

▲back to top


bà phải nghỉ học, làm việc phụ giúp gia đình. Bà cũng sớm giác
ngộ cách mạng, là tổ viên tổ giao liên mật thuộc chi bộ mật xã
Phú Thạnh và an ninh quận Nhơn Trạch.
Năm 1962, lúc vừa 20 tuổi, bà được tổ chức phân công vào
làm công nhân cao su với nhiệm vụ xây dựng cơ sở mật, phát
triển phong trào công nhân. Bà thường xuyên nhận các nhiệm
vụ vận chuyển truyền đơn về xã Phú Thạnh giao cho các cơ sở
cách mạng và tổ chức rải truyền đơn ngay trong ấp chiến lược
dù nơi này năm ngay chi khu Nhơn Trạch, cơ quan đầu não
của địch ở quận Nhơn Trạch. Bà cũng nhận các nhiệm vụ mua,
chuyển lương thực, vận động nhân dân đóng góp tài chính cho
phong trào cách mạng và chuyển về căn cứ kháng chiến. Trong
suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, số tiền nhân dân Phú
Thạnh ủng hộ cho cách mạng rất lớn được vận chuyển qua
đường dây do bà tổ chức, không hề bị lộ hoặc xảy ra thất thoát.
Năm 1968, trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân, bà tham gia vận chuyển lương thực, thực phẩm, đưa
đường cho các chiến sĩ C240 tấn công vào các yếu điểm chi khu
Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ.
Năm 1972, bà đã tham gia nuôi giấu, cung cấp lương thực,
thực phẩm, mua và chuyển các dụng cụ chế tạo mìn hẹn giờ cho
các chiến sĩ đặc công Rừng Sác đánh kho bom Thành Tuy Hạ.
Đầu năm 1975, do một tên chiêu hồi chỉ điểm, bà bị lộ nên
phải thoát ly ra căn cứ. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, bà trở
về địa phương, tiếp tục làm công nhân tại Nông trường Cao su
Thành Tuy Hạ, tham gia hoạt động tại địa phương với nhiệm
382

39.3 Page 383

▲back to top


vụ Trưởng ban Chấp hành Phụ nữ xã Phú Thạnh, góp phần xây
dựng quê hương Phú Thạnh.
Các hình thức khen thưởng:
- Huân chương Chiến công hạng Ba (1975).
- Các bằng khen, giấy khen.
TRẦN TẤN MẾN
Ông Trần Tấn Mến (Ba Mến) sinh năm 1930 tại xã Phú
Thạnh, huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai). Ông là cháu của đồng
chí Trần Văn Dứt (Chín Dứt), Bí thư Chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy
ban Hành chánh kháng chiến xã Phú Thạnh trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp. Nối tiếp truyền thống gia đình, năm 1947,
ông tham gia Vệ đoàn khi mới tròn 17 tuổi, lần lượt là chiến sĩ
các đơn vị: Chi đội 9 (tỉnh Biên Hòa), Chi đội 2 (tỉnh Bà Rịa),
Tỉnh đội Bà Rịa cho đến năm 1954.
Tháng 10 năm 1954, ông theo đơn vị tập kết ra Bắc, tiếp tục
công tác trong quân đội với chức vụ Thượng sĩ, A trưởng thuộc
C4, D14, F338 tại Hà Đông. Sau khi theo học tại các trường
Công nhân kỹ thuật điện Hà Nội, trường Hậu cần Quân khu 5,
ông tiếp tục công tác trong quân đội với cấp bậc Trung úy cho
đến lúc nghỉ hưu vào năm 1980.
Trở về quê hương Phú Thạnh, ông tiếp tục tham gia công tác
tại địa phương, giữ nhiệm vụ Phó Bí thư chi bộ xã Phú Thạnh,
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã nhiệm kỳ đầu tiên. Ông
còn là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh của xã đến năm 2001.
383

39.4 Page 384

▲back to top


TRƯƠNG VĂN BỘI
Ông Trương Văn Bội là một trong những cán bộ tiền khởi
nghĩa hiện nay của xã Phú Thạnh. Ông sinh năm 1921, 19 tuổi
đã tham gia hoạt động cách mạng, là một trong những người
có công xây dựng lực lượng Thanh niên Tiền phong của xã Phú
Thạnh trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi thực dân
Pháp quay lại đánh chiếm Thành Tuy Hạ năm 1946, ông tham
gia xây dựng đội du kích xã Phú Thạnh. Trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp, đội du kích xã Phú Thạnh lập nhiều thành
tích trong công tác trừ gian, diệt tề, đưa đường cho bộ đội Việt
Minh tiến công nhiều cứ điểm quân sự trên địa bàn.
Năm 1952, ông bị địch bắt tù đày đến năm 1954. Trở về quê
hương, ông tiếp tục bắt liên lạc với tổ chức, được phân công
hoạt động bí mật tại địa phương. Đến năm 1956, ông lại bị địch
bắt, giam giữ qua các nhà lao Gia Định, Thủ Đức, Biên Hòa.
Năm 1958, ông ra tù, sức khỏe suy giảm vì những đòn tra tấn
của địch nên được tổ chức đồng ý cho ngưng hoạt động cách
mạng.
NGUYỄN VĂN CẬY
Ông Nguyễn Văn Cậy (bí danh Lê Thành Long) cũng là
một trong những cán bộ tiền khởi nghĩa của quê hương Nhơn
Trạch. Ông sinh năm 1926 tại xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch
(Đồng Nai). 16 tuổi, ông đã làm công nhân cao su tại Sở Cao
384

39.5 Page 385

▲back to top


su Thành Tuy Hạ, được giác ngộ cách mạng và đã tham gia lực
lượng Thanh niên Tiền phong từ trước tháng 8 năm 1945.
Sau khi Pháp tái chiếm kho đạn Thành Tuy Hạ, ông được
phân công tiếp tục làm công nhân tại Sở Cao su Thành Tuy Hạ
để gầy dựng và duy trì cơ sở cách mạng trong công nhân cao
su. Năm 1947, ông là một trong những người xây dựng lại Ủy
ban hành chánh kháng chiến xã Phú Thạnh, giữ nhiệm vụ Ủy
viên phụ trách quân sự.
Sau khi đi học lớp bán quân sự do tỉnh Biên Hòa tổ chức,
ông về xã Phú Thạnh xây dựng đội du kích xã và giữ nhiệm
vụ Chính trị viên. Đội du kích xã Phú Thạnh đã thực hiện tốt
nhiệm vụ giải tán ban hội tề xã, vận động một số người trong
ban hội tề vào chiến khu Phước An, không hợp tác với quân
Pháp; cảnh cáo và tiêu diệt một số ác ôn, thu giữ nhiều vũ khí.
Năm 1953, ông bị bệnh nặng, được tổ chức đồng ý cho trở
về gia đình nghỉ dưỡng để điều trị. Đến năm 1954, nhiều cán
bộ địa phương tập kết ra miền Bắc, ông mất liên lạc với phong
trào cách mạng.
Năm 1975, ông được chính quyền xã Phú Thạnh cử học lớp
nghiệp vụ thương nghiệp, trở về thành lập Hợp tác xã mua bán
quốc doanh của xã Phú Thạnh, giữ nhiệm vụ Chủ nhiệm Hợp
tác xã. Đến năm 1986, ông xin nghỉ vì sức khỏe yếu.
385

39.6 Page 386

▲back to top


DƯƠNG VĂN HÀ
Ông Dương Văn Hà (Năm Hà) sinh năm 1928 tại xã Phú
Thạnh, huyện Nhơn Trạch (Đồng Nai). Như nhiều thanh niên
trong làng, ông tham gia hoạt động cách mạng từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945. Năm 1947, ông là chiến sĩ Quân
giới tỉnh Bà Rịa, đóng góp sức mình trong công cuộc kháng
chiến chống Pháp của quê hương.
Năm 1954, ông cùng đơn vị tập kết ra miền Bắc, công tác
trong ngành dường sắt, tại Đội cầu Long Biên. Từ năm 1974,
ông trở về miền Nam, góp phần giải phóng quê hương.
Năm 1977, ông được điều về giữ chức vụ Chủ tịch UBND
xã Phú Thạnh. Năm 1980, ông nghỉ hưu theo chế độ.
Các hình thức khen thưởng:
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
LÊ TRUNG CHÁNH
Ông Lê Trung Chánh sinh năm 1942 tại huyện Nhơn Trạch
(Đồng Nai). Lớn lên trong sự kềm kẹp của địch, ông sớm giác
ngộ cách mạng, thoát ly theo kháng chiến từ tháng 10 năm
1961, là chiến sĩ thuộc C240. Sau cuộc tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968, ông là trung đội trưởng.
Ngay sau ngày đất nước thống nhất, tháng 6 năm 1975, ông
được Huyện ủy Long Thành cử về làm Bí thư xã Phú Thạnh.
Năm 1977, chấp hành sự phân công của Huyện ủy, ông về làm
386

39.7 Page 387

▲back to top


Bí thư xã An Lợi (nay là xã An Phước) cho đến lúc nghỉ hưu tại
xã Tam An, huyện Long Thành.
Các hình thức khen thưởng:
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba.
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.
- Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất.
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
NGUYỄN VĂN THỪNG
Ông Nguyễn Văn Thừng sinh năm 1927 tại huyện Nhơn
Trạch (Đồng Nai). Sau chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, ông
tham gia kháng chiến, hoạt động mật để tiếp tế cho phong trào
cách mạng địa phương.
Ngay sau khi xã Phú Thạnh giải phóng, ông được Huyện ủy
Long Thành phân công về làm Chủ tịch UBND xã. Những năm
đầu sau khi đất nước thống nhất, tình hình kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh địa phương gặp nhiều khó khăn, ông đã cùng
với chi bộ Đảng và người dân trong xã từng bước vượt qua, ổn
định đời sống.
Năm 1977, ông nghỉ hưu tại xã Long Tân.
387

39.8 Page 388

▲back to top


NHỮNG THAY ĐỔI, PHÁT TRIỂN ĐÁNG CHÚ Ý
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
THAY ĐỔI HỒ SƠ QUẢN LÝ
+ Bổ sung liệt sĩ: Trần Minh Thăng ở ấp 1.
+ Bổ sung thương binh: Phạm Khắc Toản ở khu bộ đội.
+ Bổ sung người có công với cách mạng nhận trợ cấp 1 lần:
Nguyễn Văn Đại ở Đại Phước chuyển về.
- Giảm 2 Mẹ Việt Nam Anh hùng từ trần gồm:
+ Nguyễn Thị Bảy: Từ trần ngày 22 tháng 09 năm 2015.
+ Lê Thị Tươi: Từ trần ngày 04 tháng 12 năm 2019.
NÔNG THÔN MỚI
Xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016
theo quyết định 4198/QĐ- UBND ngày 08/12/2016 của CT.
UBND tỉnh Đồng Nai và đạt chuẩn nông thông mới nâng cao
năm 2020 theo quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 20/01/2020
của CT. UBND tỉnh Đồng Nai.
13 CÔNG TRÌNH DÂN SINH ẤN TƯỢNG
1. Sửa chữa trụ sở UBND xã Phú Thạnh, do UBND xã Phú
Thạnh quản lý.
2. Trung tâm Văn hóa Thể thao - Học tập cộng đồng xã Phú
Thạnh, khởi công tháng 8 năm 2019, khánh thành tháng 9 năm
2020, do UBND xã Phú Thạnh quản lý.
388

39.9 Page 389

▲back to top


3. Trường Mầm non xã Phú Thạnh, khởi công tháng 3 năm
2016, khánh thành tháng 4 năm 2017 do Phòng GD&ĐT huyện
Nhơn Trạch quản lý.
4. Nhà Văn hóa ấp 1, khởi công tháng 3 năm 2015, khánh
thành tháng 12 năm 2015, do UBND xã Phú Thạnh quản lý.
5. Sửa chữa trường Tiểu học Phú Thạnh, khởi công tháng 5
năm 2020, do Phòng GD&ĐT huyện Nhơn Trạch quản lý.
6. Sửa chữa trường Trung học cơ sở Phú Thạnh, khởi công
tháng 4 năm 2015, khánh thành tháng 6 năm 2016, do Phòng
GD&ĐT huyện Nhơn Trạch quản lý.
7. Đường ra cánh đồng liên ấp 1-2 với chiều dài 450m,
ngang 4m với tổng kinh phí thực hiện 451 triệu đồng do nhân
dân đóng góp 100%, khởi công ngày 9 tháng 11 năm 2020,
khánh thành ngày 26 tháng 11 năm 2020 do UBND xã Phú
Thạnh quản lý.
8. Đường cây xăng Sáu Trắng khu Bàu Sen, ấp 3 với chiều
dài 310m, ngang 6m với tổng kinh phí thực hiện 374 triệu đồng
do nhân dân đóng góp 100%, khởi công ngày 5 tháng 12 năm
2019, khánh thành ngày 11 tháng 12 năm 2019 do UBND xã
Phú Thạnh quản lý.
9. Đường tổ 4 ấp 2 với tổng chiều dài 230m, ngang 3m với
tổng kinh phí thực hiện 176 triệu đồng do nhân dân đóng góp
100%, do UBND xã Phú Thạnh quản lý.
10. Đường tổ 17 liên ấp 1-2 với tổng chiều dài 240m, ngang
3m tổng kinh phí thực hiện 165 triệu đồng do nhân dân đóng
389

39.10 Page 390

▲back to top


góp 100%, khởi công ngày 18 tháng 8 năm 2019 khánh thành
ngày 23 tháng 8 năm 2019 do UBND xã Phú Thạnh quản lý.
11. Đường tổ 7, ấp 1 với tổng chiều dài 165m, ngang 3m
kinh phí thực hiện 165 triệu đồng do nhân dân đóng góp 100%,
khởi công ngày 16 tháng 12 năm 2020, khánh thành ngày 22
tháng 12 năm 2020 do UBND xã Phú Thạnh quản lý.
12. Đường tổ 13, ấp 1 với tổng chiều dài 200m, ngang 3m
kinh phí thực hiện 102 triệu đồng do nhân dân đóng góp 100%,
do UBND xã Phú Thạnh quản lý.
13. Đường Cây Sai ấp 3, xã Phú Thạnh với tổng chiều dài
1000m, ngang 4m, với tổng kinh phí thực hiện 1.700.000.000
đồng trong đó nhân dân đóng góp 510 triệu đồng, khởi công
tháng 5 năm 2019, khánh thành tháng 11 năm 2019 do UBND
xã Phú Thạnh quản lý.
DỰ ÁN CẤP TRÊN QUẢN LÝ THỰC HIỆN TRÊN
ĐỊA BÀN XÃ
1. Tuyến đường Lý Thái Tổ mở rộng đoạn qua địa bàn xã
Phú Thạnh có chiều dài 2000m được khởi công tháng 4 năm
2013, khánh thành tháng 3 năm 2015, do Sở Giao thông Vận tải
tỉnh Đồng Nai quản lý.
2. Tuyến đường 25C đoạn qua địa bàn xã Phú Thạnh có
chiều dài khoảng 2.200m đang thực hiện bồi thường cấp tái
định cư, do Bộ GTVT quản lý.
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


3. Tuyến đường vành đai 3 đoạn qua địa bàn xã Phú Thạnh
có chiều dài 5.700m đang thực hiện thu hồi đất, do Bộ Giao
thông Vận tải quản lý.
4. Cụm công nghiệp Phú Thạnh - Vĩnh Thanh được UBND
tỉnh phê duyệt từ năm 2001, với diện tích hơn 87ha thuộc địa
bàn hai xã Phú Thạnh và Vĩnh Thanh. Chủ đầu tư: Trung tâm
Dịch vụ Đô thị huyện Nhơn Trạch. Cụm công nghiệp Phú
Thạnh - Vĩnh Thanh đã thu hút được 32 doanh nghiệp đầu tư
vào đây. Trong đó, có 19 doanh nghiệp đang hoạt động, giải
quyết việc làm cho hơn 3,3 ngàn lao động địa phương, còn lại
3 doanh nghiệp đang xây dựng và 10 doanh nghiệp đang làm
thủ tục đầu tư.
THÀNH TÍCH XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
- Trong 10 năm từ nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020,
Đảng ủy, UBND xã đã thực hiện đạt một số thành tích tiêu biểu
như:
+ Xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016
theo quyết định 4198/QĐ-UBND ngày 08/12/2016 của CT.
UBND tỉnh Đồng Nai và đạt chuẩn nông thông mới nâng cao
năm 2020 theo quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 20/01/2020
của CT. UBND tỉnh Đồng Nai.
+ Tổ chức vận động kinh phí giữa nhà nước và nhân dân
đóng góp làm 43 đường giao thông nông thôn trên địa bàn xã
với chiều dài 10.509m, với tổng kinh phí 14.675.000.000 đồng
391

40.2 Page 392

▲back to top


(trong đó kinh phí Nhà nước 10.278.000.000 đồng và nhân dân
đóng góp 4.397.000.000 đồng).
+ Tổng thu ngân sách thu đạt và vượt chỉ tiêu hàng năm.
+ Sửa chữa mới lại trụ sở làm việc của UBND xã; xây dựng
mới trụ sở làm việc của Ban Chỉ huy Quân sự xã, Trung tâm
Văn hóa thông tin - Học tập cộng đồng xã, trường Mầm non
Phú Thạnh, trường Tiểu học Phú Thạnh và thành lập trường
THCS Phú Thạnh.
+ Hiện nay 3 trường Mầm non, Tiểu học và THCS đều đạt
chuẩn quốc gia mức độ 1 và được công nhận đạt chuẩn xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục từ bậc Mầm non, Tiểu học và THCS.
+ Thực hiện tốt công tác giao quân hàng năm đạt 100% chỉ
tiêu huyện giao (giao quân hàng năm đều có từ 1 đến 2 đảng
viên theo chỉ tiêu huyện giao).
+ Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn xã ổn định. Triển
khai thực hiện đề án 06 của BCĐ tỉnh, triển khai thực hiện cài
đặt Vneid mức độ 1 và mức 2 cho người dân trên địa bàn xã.
+ Triển khai sử dụng phần mềm quản lý văn bản và điều
hành công việc I-Office đến cán bộ, công chức. 100% cán bộ,
công chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử công vụ
và hệ thống phần mềm VNPT I-Office trong xử lý công việc và
trao đổi thông tin. Văn bản chỉ đạo của cấp trên được chuyển
đến nhanh chóng, kịp thời.
392

40.3 Page 393

▲back to top


+ Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách
hành chính và trong hoạt động của cơ quan. Tất cả các ban,
ngành đều được trang bị máy vi tính để phục vụ cho công tác
chuyên môn. 100% cán bộ, công chức thành thạo máy vi tính,
sử dụng thành thạo các phần mềm, ứng dụng dùng chung mà
huyện đã triển khai.
+ Duy trì hoạt động trang Zalo OA riêng của UBND xã và
trang tin điện tử của UBND xã để tạo kênh giao tiếp riêng giữa
UBND xã và người dân, qua đó kịp thời ghi nhận và giải quyết
các ý kiến đóng góp, xây dựng, thắc mắc của người dân một
cách kịp thời.
393

40.4 Page 394

▲back to top


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb. Đồng
Nai 2005.
2. Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành, 1930 - 1975, NXB
tổng hợp Đồng Nai, 2008.
3. Lịch sử Đảng bộ huyện Nhơn Trạch 1930 - 2020, Nxb.
Đồng Nai, 2020.
4. Các băn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Nhơn Trạch (tài
liệu lưu hành nội bộ).
5. Địa chí Đồng Nai, tập II, Nxb. Đồng Nai 2001.
6. Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam, Nxb. Lao
động năm 2003.
7. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - trích văn kiện tập II -
Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin.
8. Tiểu đoàn 240 với Đảng bộ và nhân dân Biên Hòa -
Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai 2013.
9. Kho K862 - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân
năm 2006.
10. Lê Bá Ước, Một thời Rừng Sác, tập 1, Nxb. Văn hóa
Văn nghệ năm 2012.
11. Những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tỉnh Đồng Nai.
12. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ xã Phú Thạnh lần thứ
II, nhiệm kỳ 2005- 2010.
13. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ xã Phú Thạnh lần thứ
III, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
14. Các văn kiện chính trị của xã Phú Thạnh từ năm 1975-
2020 (tài liệu lưu hành nội bộ).
394

40.5 Page 395

▲back to top


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................5
Chương I:
PHÚ THẠNH: VÙNG ĐẤT - CON NGƯỜI...........................9
Chương II:
TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN
XÃ PHÚ THẠNH (1930 - 1945)...........................................48
Chương III:
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
XÂM LƯỢC (1946 - 1954)....................................................79
Chương IV:
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954 - 1975)........................................................................ 111
Chương V:
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1975 - 2010)...................172
Chương VI:
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG....................198
Chương VII:
NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ.............................................306
PHỤ LỤC............................................................................321
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH...................................394

40.6 Page 396

▲back to top


LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ XÃ PHÚ THẠNH (1930 - 2020)
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Đảng bộ xã Phú Thạnh
Maõ ISBN: 978-604-42-0218-1
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC
TRƯƠNG VĂN TUẤN
Bieân taäp:
Biên tập kĩ thuật:
Trình baøy:
Söûa baûn in:
Bìa:
Võ Thị Thanh Hiếu
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Thanh Hiếu
Hoàng Phương
............................................................................................................
In: 100 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Số xác nhận ĐKXB: 46 - 2024 / CXBIPH / 1 - 02 / ÑoN, Cục Xuất
bản, In và Phát hành xác nhận ngay: 08/01/2024, Quyết định xuat
bản số: 02/QĐA-NXBĐN, do NXB Đồng Nai cấp ngày: 27/05/2024.
In xong và nộp lưu chiểu: quý 2/2024.
............................................................................................................
Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh: 946 521 - P Kế toán: 946 520
Fax: (02513) 946 530 - Email: nxbdongnai@hcm.vnn.vn