Mo Cu Thach Hang Gon

Mo Cu Thach Hang Gon

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH
HÀNG GÒN

1.2 Page 2

▲back to top

1.3 Page 3

▲back to top
PGS. TS Phạm Đức Mạnh
TS. Nguyễn Hồng Ân
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH
HÀNG GÒN
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top

1.5 Page 5

▲back to top
Lôøi giôùi thieäu
Đồng Nai - vùng đất trù phú mệnh danh dòng chảy huyết mạch của
cả “miền Đông Nam Bộ gian lao mà anh dũng” từng chứng kiến sự
hình thành, nảy nở, giao động của cả một cộng đồng người cổ quần tụ
đông đảo, vùng đất từng chứa đựng trong lòng nó cả một phức thể di
tích - di vật khảo cổ học quan trọng và xuyên suốt từ buổi đầu của thời
đại đồng sang sơ kỳ thời đại sắt. Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy
hôm nay trên bản đồ khảo cổ học cổ xưa của vùng đất này cho thấy các
thế hệ tiền nhân đã khởi đầu quả cảm và sáng tạo, bằng lao động khai
phá, chiếm lĩnh, thích ứng với tự nhiên và xây dựng nên một trung tâm
văn hóa kim khí rực rỡ “vang bóng một thời” - một nền văn minh đặc
sắc mà ngày nay chúng ta quen gọi là văn minh sông Đồng Nai.
Bằng những cố gắng điền dã và nghiên cứu của các nhà khảo cổ
học và bảo tàng học từ nhiều thập kỷ nay ở nhiều di sản mang tên làng,
tên đất, tên sông, tên suối của Đồng Nai như: Phước Tân, Bình Đa, Gò
Me, Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Suối Linh, Suối Chồn, Núi Gốm,
Dầu Giây, Phú Hòa, Hàng Gòn, Bến Gỗ... đã trở nên quen thuộc và
thân thích với khoa học và với mỗi chúng ta. Vì từ nơi đó, ngôn ngữ
khảo cổ học và bảo tàng học đã mang từ ngàn xưa về cho hôm nay một
vóc dáng cụ thể và hài hòa của đất nước - con người Đồng Nai thời
tiền sử và sơ sử, với những biểu tượng văn hóa bản địa “không tiền
khoáng hậu” như những làng làm nông và chài lưới, những công xưởng
chế tạo trang sức (Đồi Phòng Không) và đàn đá tiền sử (Lithophone
préhistorique) (Bình Đa), những kho tàng chứa vũ khí đồng thau kiểu
qua đồng” và hình tượng con “trút” đồng (Manis Javanica) (Long
Giao), những “cánh đồng chum gốm” mang hình hài những nghĩa trang
5

1.6 Page 6

▲back to top
cộng đồng dày đặc thời sơ sắt và đặc biệt, cả quần thể kiến trúc đá lớn
độc đáo đã được phát hiện chính trong vùng từng là trung tâm sinh tụ
và tinh thần Đồng Nai thời sơ sắt - Mộ Cự thạch Hàng Gòn - di tích
quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm
2015 của Thủ tướng Chính phủ).
Tính đến nay, tỉnh Đồng Nai có 68 di tích được xếp hạng, trong
đó có 02 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt là: Mộ Cự thạch
Hàng Gòn và Vườn Quốc gia Cát Tiên, 29 di tích xếp hạng cấp Quốc
gia, 37 di tích cấp tỉnh và 1.500 di tích phổ thông được kiểm kê, hơn
400 ngôi nhà cổ, 40 mộ cổ, gần 100 địa điểm danh thắng có giá trị.
Ngoài ra, tỉnh còn sở hữu 3 hiện vật, nhóm hiện vật là bảo vật Quốc gia,
nhiều cổ vật có giá trị độc đáo tiêu biểu, nhiều di sản văn hóa thuộc 7
loại hình văn hóa phi vật thể.
Di tích Quốc gia đặc biệt Mộ Cự thạch Hàng Gòn được khám phá
và khai quật đầu tiên bởi viên kỹ sư cầu đường Pháp Jean Bouchot
từ gần một thế kỷ trước, từng được ghi nhận trong “Danh mục
những công trình lịch sử của xứ Nam Kỳ xưa” (Liste des monuments
historiques de l’ancienne Cochinchine) (năm 1930) và thu hút sự quan
tâm đặc biệt của nhiều học giả nổi tiếng trên thế giới (Henri Parmentier,
George Coedès, Van Stein Callenfels, Jean-Yves Claeys, Paul Lévy,
Ovlov. Jansé, Louis Bezacier, E. Garpardone, H.H.E. Loofs, Edmond
Saurin, Louis Malleret, Henri Fontaine, Peter Bellwood, Eiji Nitta...).
Người ta đã cho rằng đây là loại hình kiến trúc đá lớn kiểu hầm mộ
ghép phiến cùng các hàng trụ đá và liên hệ mộ Cự thạch Hàng Gòn với
các di sản cự thạch khắp Châu lục (bán đảo Deckker Transjordanie,
Assam, bắc Miến Điện, đảo Java, bắc Trung Hoa, Ấn Độ và
Tissamharama (Sri Lanca) và cả châu Úc... Nhưng nhiều nhận thức
lớn, đặc biệt về vị thế, niên đại và chủ nhân đích thực của cả quần thể
cự thạch độc đáo này vẫn còn là những “câu đố lịch sử” đầy bí ẩn.
Gần bảy thập kỷ sau khám phá mộ Cự thạch Hàng Gòn, từ cuối
năm 1995, công nhân xe ủi Xí nghiệp Đá lại phát hiện các tấm đan hoa
cương nằm gần hầm mộ xưa và di tích được các nhà khảo cổ và bảo
6 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

1.7 Page 7

▲back to top
tàng khai quật khẩn cấp, khám phá thêm nhiều dữ liệu quý báu bằng đá,
gốm, đồng và tập hợp mẫu than tro giám định bằng phương pháp phân
tích carbone 14 để định tuổi tuyệt đối cho di tích: 2.670 đến 2.220 ± 40
cách ngày nay. Các nhà khai quật tin rằng di tồn cự thạch vừa khám phá
liên kết chặt chẽ với quần thể kiến trúc mộ Cự thạch Hàng Gòn đã biết
và đó chính là nơi tập kết nguyên liệu và là dạng “công xưởng chế tác
đá lớn” (Megalithic workshop-site) lần đầu tiên được biết đến ở Việt
Nam và Đông Nam Á.
Từ những năm 2006-2010, để củng cố thêm dữ liệu khoa học cho
việc lập dự án trùng tu, tôn tạo di tích quốc gia Mộ Cự thạch Hàng Gòn
theo Luật Di sản văn hóa và xây dựng hồ sơ khoa học Di tích quốc gia
đặc biệt, Ban Quản lý Di tích - Danh thắng phối hợp với các nhà khoa
học đã tiến hành điều tra, thám sát và khai quật hàng ngàn mét vuông
trong cả khu vực rộng khoảng 4-5ha xung quanh di tích Mộ Cự thạch
Hàng Gòn, đã thu thêm nhiều di vật đá (2 bùa và 71 mảnh vỡ), gốm
(7155 mảnh), đồng thau (2 tù và cùng 10 mũi tên), đặc biệt thu thập
thêm các hệ thống mẫu than định tuổi carbone 14 cho cả trầm tích đất
đỏ xung quanh nó có khung niên đại rất rộng: Từ 26.600 ± 300 đến
1.570 ± 55 cách ngày nay); 35 mẫu đá phân tích thạch học, 3 mẫu đồng
và 22 mẫu gốm phân tích hóa - quang phổ và cả các hệ thống 18 mẫu
thổ nhưỡng để giám định bào tử phấn hoa vùng địa hình bazan trẻ chứa
di tồn cự thạch và các di sản văn hóa hữu quan. Đây là những dữ liệu
khoa học quý báu, hữu ích cho công cuộc tìm kiếm sự bí ẩn của cả quần
thể di tích cự thạch này.
Quyển sách Di tích quốc gia đặc biệt Mộ Cự thạch Hàng Gòn
chuyên khảo giới thiệu đầy đủ thông tin quan trọng nhất và các kết quả
nghiên cứu mới nhất về di sản quý báu này đến Nhân dân trong nước
và bạn bè quốc tế, với bố cục gồm ba phần:
Phần I, các tác giả giới thiệu đôi nét về điều kiện tự nhiên và nhân
văn tiểu vùng đất đỏ bazan phong hóa Đồng Nai đặt trong khung cảnh
chung của môi trường sinh thái toàn miền Đông Nam Bộ, với các hệ
thống dẫn liệu khảo cổ liên quan đến hoạt động cư trú và sáng tạo văn
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 7
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

1.8 Page 8

▲back to top
hóa của các tập thể người cổ từ buổi đầu đá cũ đến những làng cổ làm
nông, săn bắn, hái lượm lâm, thủy sản và hoạt động thủ công, những
nghĩa địa an táng người chết trong mộ đất, mộ chum vò gốm, các kho
tàng chôn đồ đồng trong miệng núi lửa thời kim khí - những cứ liệu “sử
đất” liên hệ đến nền cảnh văn hóa - kỹ thuật của chính quần thể kiến
trúc Mộ Cự thạch Hàng Gòn thời sơ sắt.
Phần II, là nội dung chính yếu của công trình, giới thiệu chi tiết về
lịch sử khám phá, khai quật và nghiên cứu quần thể kiến trúc Mộ Cự
thạch Hàng Gòn qua các giai đoạn từ năm 1927-2015, đặc biệt trình
bày các di tích liên quan trực tiếp đến hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn và
công xưởng chế tác Cự thạch Hàng Gòn, với các kết quả giám định
thạch học, thành phần chất liệu đá, gốm, đồng thau và hệ thống niên
đại carbone 14, với nhiều minh họa, thống kê chi tiết và hệ thống về các
hiện tượng ghi nhận chính trong hiện trường khảo cổ.
Phần III và kết luận, là những nhận định về đặc trưng văn hóa, về
vị trí lịch sử của quần thể kiến trúc Mộ Cự thạch Hàng Gòn đặt trong
mối quan hệ chặt chẽ với các di tích thời đại kim khí ở “miệt cao” Nam
Bộ nói riêng và trong bình diện văn hóa cự thạch hiện biết ở khu vực
và châu Á. Các tác giả cố gắng phác họa bức tranh văn hóa, xã hội đặc
sắc của cả miền Đông Nam Bộ mà trong đó, quần thể kiến trúc Mộ Cự
thạch Hàng Gòn được nhận thức như “một trung tâm tinh thần Đồng
Nai” thời kỳ “tiền Nhà nước” và cũng là công trình “có một không hai
khi đối sánh với các truyền thống tạo dựng cự thạch ở Việt Nam và
châu Á trong thời đại kim khí.
Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa (vật thể và phi vật
thể), cùng các giá trị văn hóa khác, tái hiện, tạo ra nhiều sản phẩm văn
hóa, sản phẩm du lịch đặc trưng, có chất lượng cao mang đậm bản sắc
Đồng Nai, phù hợp với xu thế thời đại. Tiếp tục giữ vững, phát huy hào
khí Đồng Nai và không ngừng lan tỏa tinh thần hào khí Đồng Nai trong
mọi phương diện của đời sống” là mục tiêu mà nghị quyết số 12-NQ/
TU ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa
XI về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở
8 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

1.9 Page 9

▲back to top
thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền
vững đã đề ra.
Chúng tôi kỳ vọng quyển sách Di tích quốc gia đặc biệt Mộ Cự
thạch Hàng Gòn đến với bạn đọc gần xa như một sản phẩm văn hóa
mang đậm bản sắc Đồng Nai, là nguồn tư liệu khoa học - văn hóa có
những thông tin bổ ích, những tư liệu lý thú và thiết thực, có thể làm
tài liệu tham khảo cho giới nghiên cứu, tài liệu học tập cho học sinh,
sinh viên, giúp cho các thế hệ trẻ hiểu biết nhiều hơn về hào khí Đồng
Nai, về truyền thống lao động, sáng tạo và thông minh của ông cha trên
mảnh đất này, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước và vận dụng trong
các hoạt động thực tiễn nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn
hóa dân tộc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Xin trân trọng giới thiệu quyển sách đến với đọc giả!
Đồng Nai, tháng 5 năm 2024
LÊ THỊ NGỌC LOAN
(Tỉnh ủy viên,
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai)
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 9
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

1.10 Page 10

▲back to top
Phần thứ I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NHÂN VĂN VÙNG
ĐẤT ĐỎ BAZAN Ở ĐỒNG NAI

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
Đồng Nai là tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, khu vực
có cơ sở hạ tầng phát triển và thuộc vùng kinh tế năng động nhất Việt
Nam. Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng,
Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và
tỉnh Bình Phước, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng Nai
có diện tích 5.897km2, chiếm 1,78% diện tích cả nước; dân số khoảng
3,2 triệu người (Cục Thống kê Đồng Nai, 2021), chiếm khoảng 3,2%
dân số cả nước. Tính đến năm 2021, tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành
chính cấp huyện gồm: Thành phố Biên Hòa, thành phố Long Khánh
và các huyện Tân Phú, Định Quán, Thống Nhất, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ,
Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu, 170 đơn vị cấp xã.
Thành phố Biên Hòa là trung tâm hành chính của tỉnh. Đồng Nai là tỉnh
đa dân tộc với 35 dân tộc như: Kinh, Hoa, Chơro, Stiêng, Mạ, Kơ Ho,
Chăm, Khơmer, Tày, Nùng... trong đó người Kinh chiếm 92,8%. Các
dân tộc sống tại chỗ như: Chơro, Mạ, Stiêng, Kơ Ho là chủ nhân vùng
đất Đông Nam Bộ từ rất lâu đời.
Với nền địa hình nghiêng thoải theo hướng Tây Bắc - Đông Nam
có đồi núi nhấp nhô (cao nhất là núi Chứa Chan 858m/mực nước biển)
xen kẽ các thung lũng bằng đất đỏ bazan phía Bắc, đất phù sa cổ chính
giữa và đất phù sa mới phía Tây Nam, toàn tỉnh nằm trong lưu vực
sông Đồng Nai và các chi lưu lớn như: Sông La Ngà, sông Mã Đà,
sông Buông... có nhiều danh thắng sơn thủy hữu tình nổi tiếng từ Định
Quán, Cát Tiên đến Trị An, Bửu Long... Trong các bản đồ phân vùng
địa mạo và cổ địa lý chung cho cả miền Đông Nam Bộ, tiểu vùng đất
đỏ bazan Long Khánh, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ nằm trọn trong vùng cao
nguyên đồi núi và đồng bằng bóc mòn cao, phân bố ở cực nam phụ
miền cao nguyên bình sơn Lâm Viên (cao độ 800-100m), với lớp vỏ
phong hóa 10-30m và lớp thổ nhưỡng đỏ, vàng nâu, tím đỏ nối tiếp bề
mặt đồng bằng bóc mòn lượn sóng, có mạng lưới thủy văn dạng tỏa
tia, có tiềm năng về rừng, chứa các nguồn liệu đá phun trào, cát kết,
phiến sừng, đá quý (saphir) và bán quý (opal, calcédoan) và các nguồn
sét núi mà con người có thể khai thác để chế tạo công cụ, vũ khí và đồ
gốm trong quá khứ.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 11
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.2 Page 12

▲back to top
Ngoài các bề mặt địa hình núi lửa, ở đây còn ghi nhận các bề mặt
bóc mòn san bằng từ các cao độ 300-250m đến 50-40m cắt vào bazan
Xuân Lộc tuổi QII; các bậc thềm sông cổ từ bậc III (70-50m) ở phía
Nam Xuân Lộc tuổi QI và bậc II (35-25m) tuổi QII-III, đến bậc I (15-
10m) dọc đôi bờ sông suối hiện tại (Hà Quang Hải, 1996). Với nền khí
hậu khá ổn định, có chế độ phân hóa hai mùa (mùa khô từ tháng 12
đến tháng 4; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, chiếm 140-160 ngày =
90% tổng lượng mưa), giàu nhiệt lượng (tổng nhiệt độ toàn năm 9.500-
10.000ºC) và ẩm độ, không có bão tố và sương muối, các thảm rừng
nhiệt đới - á nhiệt đới hiện còn bảo tồn thế giới động, thực vật giàu
lượng loại, đa sinh cảnh (chim, thú, cá, tôm, nhuyễn thể...). Nền cảnh
môi trường sinh thái vùng đất đỏ bazan phong hóa Long Khánh, Xuân
Lộc, Cẩm Mỹ và cả Đồng Nai nói chung chính là nơi “đất lành chim
đậu” có những điều kiện thiết yếu và thuận lợi cho cuộc sống định cư,
phát triển kinh tế, sáng tạo văn hóa, hội tụ văn minh của các cộng đồng
người ở mọi thời kỳ lịch sử.
Trong quá khứ gần, đây là miền đất “toàn là những đám rừng
hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng có chỗ rộng hơn nghìn dặm” (
Quý Đôn, 1776), là vùng cư trú lâu đời của các sắc dân “sơn cước
(montagnards) Chơro và Kơ Ho thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (loại
hình Bahnar theo H.Fontaine, 1972; loại hình Mạ theo J.Boubet,
1964). Khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa Nguyễn
mở đất xứ Biên Hòa hướng về Nam năm 1698 “lấy đất Nông Nại đặt
làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh
Trấn Biên” (Trịnh Hoài Đức, 1820), vùng Long Khánh, Xuân Lộc,
Cẩm Mỹ thuộc tổng Tân Chánh (Phước Long) còn là vùng hiểm địa
gò đồi trùng điệp, rừng rú liền dăng, cây cao lớn chọc trời, rậm rạp
vài trăm dặm” (Đại Nam nhất thống chí), nằm bên vùng bình địa “Lộc
Động” (Plaine des Cerfs) Biên Hòa - Đồng Nai (Malleret, L. 1963).
Trong quá khứ nguyên thủy, chính trên các bậc thềm cao nguyên
dung nham đất đỏ bazan, các bề mặt phù sa cổ và bãi bồi thung lũng
dọc theo nhiều dòng chảy đã tích tụ nhiều vết tích liên quan đến hoạt
12 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.3 Page 13

▲back to top
động của người xưa. Đó là các sưu tập công cụ bazan (rìu tay, rìu hình
hạnh nhân, công cụ hình rìu, công cụ chặt thô, mũi nhọn, nạo, hạch đá,
hòn ném, vuốt thú hóa thạch...) do các nhà địa chất, khảo cổ học khám
phá ở Hàng Gòn 6 và ở Dầu Giây 2 (Saurin, E. 1973), ở Núi Đất, Suối
Đá (Gia Liêu), Cẩm Tiêm, Bình Lộc, Bình Xuân (Phạm Đức Mạnh,
2004)... (H1).
Dù chưa ghi nhận “tại chỗ” (in situ) trong địa tầng khảo cổ học và
chưa thấy kèm theo các di tồn cổ nhân, cổ sinh tương ứng, nhiều tiêu
bản Xuân Lộc, đặc biệt rìu tay và công cụ hình rìu được nhiều nhà khoa
học Việt Nam và nước ngoài phân tích loại hình và phương thức chế
tác để thừa nhận là sản phẩm đích thực của những “bầy người vượn tối
cổ” tụ cư trên miền đồi gò bán bình nguyên đất đỏ bazan Đồng Nai,
gần như đồng thời với những “bầy người đứng thẳng” (Homo Erectus)
từng được các nhà nhân chủng học mệnh danh là “Mông Cổ phương
Nam” (Mongoloide méridionale) cư trú trong hang động đá vôi vùng
Lạng Sơn và ở miền châu thổ ngã ba sông Mã - sông Chu (Thanh Hóa).
Từ đây, trang sử mở đầu tiến trình chinh phục Đồng Nai ghi nhận sự
thành hình truyền thống chế tác công cụ từ đá cuội bazan mà những
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 13
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.4 Page 14

▲back to top
hoạt động đầu tiên của “xã hội người xác định Xuân Lộc tối cổ” và
truyền thống gia công cuội của họ tiếp tục được duy trì trong các cộng
đồng người cổ Đồng Nai nhiều vạn năm sau.
Sang thời đại Kim khí, tiểu vùng Long Khánh, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ
trở thành một địa bàn phát sinh và mật tập nhiều làng làm nông, làng
- xưởng, các nghĩa địa, kho tàng có tầm quan trọng bậc nhất của xã hội
cổ Đồng Nai trong suốt hai thiên kỷ kế cận Công lịch. Di tích tiền sử
được khảo cứu tốt nhất vùng này là Cầu Sắt - một làng cổ tọa lạc trên
gò đất đỏ bazan ven suối Săng Dốc được phát hiện và khai quật năm
1975-1976 và là một trong các di chỉ cư trú có mật độ tàng trữ công cụ
sản xuất đá và mảnh gốm dày đặc nhất Việt Nam với địa tầng dày 75cm
trong diện đào 320m² đã thu được 788 đồ đá (294 rìu - cuốc, 76 đục, 54
dao gặt, 60 mũi nhọn, 269 bàn mài, nhiều hòn ghè, hòn kê, chày nghiền
hạt, mảnh vòng tay) và hàng vạn mảnh gốm, xác thực sự hiện diện nền
nông nghiệp nương rẫy cổ sơ trong miền đất đỏ bazan phì nhiêu thưở
ấy, bên cạnh các nghề thủ công chế tác công cụ, trang sức đá, nghề làm
gốm bằng bàn xoay và kinh tế săn bắn hái lượm khai thác sản vật đồi
rừng nhiệt đới Đồng Nai xưa. Di tích Cầu Sắt, cùng với Suối Linh vùng
ngã ba Sông Bé - Đồng Nai, được coi là hai làng cổ tiêu biểu cho giai
đoạn khởi đầu của truyền thống văn hóa - kỹ thuật chế tác đá, gốm thời
Kim khí miền Đông Nam Bộ vào thời đoạn giáp ranh hai thiên kỷ III-II
trước Công nguyên.
Ở thời kỳ lịch sử “sau Cầu Sắt”, cư dân Đồng Nai nối tiếp truyền
thống lập làng cư trú trên sườn đồi gò đất đỏ bazan màu mỡ và thoáng
mát ven các dòng chảy. Có những khu vực quần cư lớn mà quy mô
từng “làng cổ” không thua diện tích một làng Việt hiện đại (1-3ha)
nằm xung quanh Mộ Cự thạch Hàng Gòn; ví như, quần thể 7 di chỉ do
E.Saurin phát hiện trong khu Đồn điền cao su Hàng Gòn (quan trọng
nhất là di chỉ Hàng Gòn 1 - Núi Gốm phát hiện 4 khuôn đúc đồng có
niên đại C14 rất xưa: 3.950 ± 250 cách ngày nay) (H2); quần thể di tích
thuộc địa phận Xuân Phú - Xuân Trường - Xuân Bình (Bình Xuân, Đồi
Mít, Đồi Xoài, Dầu Giây 3, Tân Lập, Lập Thành, Sông Nhạn...) với
niên biểu chung khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II trước Công nguyên.
14 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.5 Page 15

▲back to top
Trong thời đại sơ kỳ đồ Sắt, bên cạnh các làng cư trú làm nông, săn
bắn, hái lượm cổ truyền, đã xuất hiện các loại hình di tích đặc trưng
vùng Long Khánh, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ với các trầm tích văn hóa bản
xứ đã đưa ra ánh sáng khoa học nhiều di sản quý báu liên quan đến phát
minh kỹ nghệ tiên tiến mang tính thời đại - thuật luyện rèn sắt và ứng
dụng thành quả của tiến bộ kỹ thuật này trong thực tiễn sản xuất, chiến
đấu truyền thống, khởi đầu từ giữa Thiên niên kỷ I trước Công nguyên.
Đó là các di chỉ - xưởng đúc đồng rèn sắt - mộ thổ táng truyền thống và
các nghĩa trang chuyên dùng quan tài bằng chum vò gốm chôn người
chết ở Suối Chồn, Dầu Giây, Phú Hòa (C14: 2.590 ± 240, 2.400 ± 140
cách ngày nay), Hàng Gòn 9 (C14: 2.300, 2.190, 2.100 ± 150 cách
ngày nay) chứa đựng các sưu tập di vật nội địa và ngoại nhập giàu có
và phong phú về
lượng loại bằng
đá (rìu - cuốc,
đục, dao gặt, bàn
mài, chày nghiền,
bùa đeo, khuôn
đúc sa thạch,
vòng tay, khuyên
tai hai đầu thú,
hạt chuỗi gia
công tinh xảo từ
nhiều khoáng
chất), thủy tinh
(vòng
tay,
khuyên tai ba
mấu, hạt chuỗi),
gốm và đất nung
(dọi se sợi, bi,
quả cân, đồ
đựng), đồng (rìu
lưỡi trũng, chậu,
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 15
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.6 Page 16

▲back to top
vòng, lục lạc, lá đồng), sắt (thuổng, liềm, dao, kiếm, vòng và nhẫn),
quý kim (chuỗi vàng, hoa tai đồng mạ vàng), di tồn hữu cơ (xương vụn,
than tro, nhựa, da, sò biển)... (H3-4).
Các “Cánh đồng chum” dày đặc vùng Long Khánh, Xuân Lộc,
Cẩm Mỹ (Suối Chồn, Dầu Giây, Hàng Gòn 9, Phú Hòa) hình thành một
cụm di tích mang đầy đủ tính chất văn hóa bản địa hội tụ nhờ giao lưu
với nhiều tố chất văn minh ngoại nhập mà nổi nét nhất đến từ văn minh
Sa Huỳnh vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ và văn minh Ấn Độ cổ
từ Tây Phương Thiên Trúc. Cùng với cả cụm di tích độc đáo này, sự có
mặt của kho tàng Long Giao cũng minh định tiến trình giao lưu và hội
nhập văn hóa liên vùng và ghi dấu một “tầm cao” mới của cả miền này
thời sơ kỳ đồ Sắt. Với những di sản bản địa được tìm thấy (rìu - cuốc
đá, gốm thô, thẻ đeo dạng “bùa”, tượng động vật bằng đồng tạo hình
con “trút” (Manis javanica) nặng tới 3,4kg...) (H4), cùng hàng trăm vũ
khí bằng đồng biến cải “tiền mẫu” văn minh Trung Hoa kiểu “qua” (Ko
- Halberts) nhưng lại mang trên mình hoa văn trang trí theo “phong
cách Đông Sơn” Việt cổ (Phạm Đức Mạnh, 1985).
16 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.7 Page 17

▲back to top
Phát hiện kho tàng Long Giao nằm trong địa bàn quy tụ cụm di
tích tiêu biểu nhất văn minh Đồng Nai thời sơ Sắt - những “cánh đồng
chum” quây quần xung quanh mộ Cự thạch Hàng Gòn mà E.Saurin
(1973) tin chắc về “quan hệ họ hàng giữa chúng” trên những cánh rừng
già nhiệt đới xen cắt nhiều sông suối với tiềm năng lâm sản “cung ứng
vô tận cho đời sống săn bắn và lượm hái tiền sử” (Fontaine, H. 1972)
và những dải đồi gò đất đỏ bazan phong hóa “ở một trong những vùng
đất phì nhiêu nhất Đông Nam Á” (Bellwood, P. 1978) - một vùng đất
có nhiều công cụ sản xuất và khí giới sắt, nhiều đồ trang sức lộng lẫy,
có mộ đá đồ sộ và mộ chum dày đặc, có tượng đồng hình thú quý hiếm,
có vũ khí đồng “kiểu Hoa Hạ” và trống đồng “kiểu Đông Sơn” quyền
uy xứng danh một trung tâm sinh tụ và trung tâm tinh thần một thời
vang bóng của người cổ Đồng Nai. Và, các sưu tập trống đồng Việt cổ
ở Đông Nam Bộ xung quanh mộ Cự thạch Hàng Gòn cũng là những
dấu hiệu đầu tiên về sự hình thành và lớn lên của cơ cấu quyền lực tối
cao, vượt lên trên đội ngũ thủ lĩnh tiểu vùng có trang bị vũ khí kiểu qua
đồng của cộng đồng tộc người bản xứ cũng là những hiện tượng Đồng
Nai trong lịch sử thăng trầm của văn hóa và văn minh Đông Nam Á.
Những dấu tích hoạt động của người Đồng Nai xưa lược ghi trên
chính là hệ thống căn bản dẫn liệu khảo cổ học quan trọng nhất hiện
biết trên tiểu vùng đất đỏ bazan phong hóa Long Khánh, Xuân Lộc,
Cẩm Mỹ trong nền cảnh chung văn hóa Kim khí Đông Nam Bộ. Đó
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 17
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.8 Page 18

▲back to top
cũng chính là các dẫn liệu quan hệ đến cơ sở văn hóa kỹ thuật (Techno
- Cultural basis) hay bức phông văn hóa kỹ thuật (Techno - Cultural
backdrop) của quần thể công trình kiến trúc Cự thạch đặc sắc và “độc
nhất vô nhị” của miền văn hóa này từ tiền sử (H5).
18 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

2.9 Page 19

▲back to top
Phần thứ II
CÁC DI TÍCH VĂN HÓA CỰ THẠCH TRÊN VÙNG
ĐẤT ĐỎ LONG KHÁNH, XUÂN LỘC, CẨM MỸ
Các di tích Cự thạch đầu tiên trên miền đất
đỏ bazan Đông Nam Bộ thoạt đầu mang tên
Xuân Lộc, vì khi mới được phát hiện, chúng
nằm trong cương vực Đồn điền Cao su Xuân
Lộc (Société des plantations d’Hévens de Xuân
Lộc), thuộc địa phận xã Xuân Lộc, tổng Bình
Lâm Thượng, tỉnh Biên Hòa, ngày nay thuộc
ấp Hàng Gòn, xã Hàng Gòn, thành phố Long
Khánh, tỉnh Đồng Nai.

2.10 Page 20

▲back to top
Chương I.
DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN I (7A)
1. Phát hiện ban đầu
Đầu năm 1927, trong lúc đang chỉ huy thi công tuyến đường từ
Xuân Lộc đi Bà Rịa (nay là Quốc lộ 56), viên kỹ sư cầu đường người
Pháp Jean Bouchot đã được ông Mercier báo cho biết có các tảng đá
lớn hình thù rất kỳ lạ dựng ven lộ trình này và dường như chúng được
chôn sâu từ lâu đời trong lòng đất đỏ thuộc Đồn điền do ông William
Bazé (cha nuôi của vua Bảo Đại) làm Giám đốc. Cột đá lớn đứng thẳng
dưới tán cây cổ thụ đã từ lâu được cư dân sở tại coi như “một thạch
đài huyền hoặc”, họ kính cẩn gọi là “Ông Đá” (Monsier le Rocher)
và dựng một miếu thờ nhỏ bên cạnh “Ông Đá” về phía Đông. Vốn là
“Thông tín viên” của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO: École
francaise d’Extrême - Orient), Jean Bouchot nhận được ủy nhiệm là
“đại biểu” của tổ chức khoa học này để tiến hành các cuộc khai quật
khẩn cấp ở đây cùng với các nhân công vốn là tội hình do chính viên
Toàn quyền Pháp ở Nam Kỳ khi đó cung ứng.
2. Khai quật
Cuộc khai quật được khởi công từ ngày 14/4-16/5/1927. J.Bouchot
đã cho đào xung quanh “Ông Đá” một hố rộng gần tròn có lòng lõm
giống “lòng chảo” lớn. Ông phát hiện các phiến - cột trụ đá cắm đứng
hay hơi xiên chéo, sắp xếp gần như đối xứng với nhau thành hai hàng.
Ở giữa có một phòng đá lớn được gọi là “phòng mộ” (Tombeau
-Chambre), khép kín bởi 6 tấm đan hoa cương. “Phòng đá” hầu như
còn nguyên vẹn, ngoại trừ một vết vỡ nhỏ ở góc phòng phía Đông Bắc
do bị tấm phiến trụ granite bên cạnh ngã đè lên. Trước sự chứng kiến
của nhiều người dân sở tại, có cả ông chủ Đồn điền W.Bazé và nhiều
quan khách từ Sài Gòn đến (ông Blanchard de la Brosse, các nhà báo
và nhiếp ảnh gia...); hầm đá được tháo tấm đan ở đầu Đông ra, nhưng
không có của gì quý, ngoài “những đồ gốm hết sức mủn đến đỗi chúng
20 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3 Pages 21-30

▲back to top

3.1 Page 21

▲back to top
rơi nát vụn ngay khi bàn tay cầm tới”. Do không tìm thấy gì quý trong
hầm mộ đá kiên cố đến kỳ dị này, J.Bouchot dự tính sẽ tiếp tục khai
quật lại khi mùa mưa ở Long Khánh ngừng hẳn, với những phương
tiện kỹ thuật đào bới và chuyển vận đá tốt hơn; nhưng mơ ước của ông
không thực hiện được.
3. Các công bố đầu tiên của Jean Bouchot
Ngay sau khi cuộc đào kết thúc, các thông tin nóng sốt đầu tiên về
“Những cuộc khai quật” di tích Cự thạch Xuân Lộc được tạp chí của
Hội Nghiên cứu Đông Dương (Bulletin de la Société des Etudes Indo-
chinoises) đăng tải liền trong hai kỳ (N.2-3) của năm 1927, kèm theo
một ảnh chụp. Sau đó, vào năm 1929, J.Bouchot công bố thêm “Vài ghi
nhận bên lề cuộc khám phá ở Xuân Lộc”, cùng bốn bản ảnh nữa. Các
công bố đầu tiên của J.Bouchot bỏ qua nhiều chi tiết quan trọng, không
thỏa mãn các yêu cầu nghiên cứu khảo cổ học cơ bản nhất. Thậm chí,
những người tiếp tục muốn nghiên cứu về sau không thể biết hố đào
ban đầu của ông ra sao, sâu và rộng bao nhiêu, quan hệ địa tầng giữa
những hàng cột trụ với hầm mộ như thế nào, có bao nhiêu vò gốm tìm
thấy trong hầm đá và chúng đựng gì bên trong...
Theo tác giả, có “12 trụ cột xếp thành hàng đôi” theo hướng gần
Đông - Tây, trong đó: 2 phiến trụ lớn nhất làm bằng đá granite (dài tới
7,2m, rộng 1,1m và dày 35cm) dựng cao hơn nền phòng đá khoảng
10cm có đầu dưới tạo thành mấu phình rộng dường như dùng để lắp
vào một “hệ thống mộng kỳ lạ”. Đầu trên thanh hoa cương tạo thành
“võng lưng” giống cái “yên ngựa” dường như để chịu một loại đà thân
gỗ tròn đặt ngang qua hầm đá; 10 trụ nhỏ hơn bằng đá grès hoặc basalte
cao khoảng 2,5-3m, được đặt ngay trên đất, không cần “đế chống lún”
cao hơn nền phòng đá khoảng 60cm, cũng có “rãnh yên ngựa” ở đầu,
chế tác kỳ công với mặt cắt ngang thân hình bầu dục.
Với hầm đá Cự thạch ở giữa, tác giả xác định dứt khoát tính cách
giống với những loại hình mộ cổ trên thế giới được gọi là “thạch bằng”
(Dolmen). “Dolmen Xuân Lộc” có hình hộp chữ nhật, ghép kín bởi 6
tấm đan hoa cương đảm bảo cho sự an toàn của một hay nhiều thi hài
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 21
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.2 Page 22

▲back to top
và kho tàng chứa bên trong. Tấm đan làm nắp lớn (quy mô 4,2 x 2,7m,
dày 30cm), dựa vào tỷ trọng đá hoa cương có thể nặng tới 7 tấn.
J.Bouchot cho rằng giả thiết về các hàng trụ cột xung quanh hầm đá
là một hệ thống dùng cho việc xê dịch hay nâng hạ phiến đan trên nắp
mộ được dễ dàng hơn là sai lầm, vì các trụ cột và hầm đá không cùng
kiến tạo trong một thời kỳ lịch sử. Có lẽ là vào thời kỳ đầu, người xưa
kiến thiết riêng Dolmen và phụ kiện granite kèm theo, đây là loại vật
liệu mà người thợ đá cổ phải khai thác ở rất xa Xuân Lộc, mà các mỏ
đá thích hợp nhất chỉ có ở Nam Tây Nguyên (cách Đà Lạt khoảng 6km)
hay miền Trung Việt Nam. Ở các mỏ đá này, người cổ có thể dễ dàng
khai thác các tấm đan lớn và rộng (5-6m), dày 25-40cm, khi chuyển
vận về Xuân Lộc, họ chỉ cần gia công ghè đẽo cho chúng thành hình
chữ nhật, đục mài các đường “mương rãnh mộng” để lắp thành hình
hộp chữ nhật.
Sau “thời kỳ hoa cương”, người ta tiếp tục chế tạo và lắp dựng
thêm các trụ sa thạch theo “các hàng dài” cao hơn mặt đất của nền
hầm mộ khoảng 60cm. Đây là loại vật liệu mà người cổ có thể dễ dàng
tìm kiếm ngay trong các mỏ lộ thiên kế cận di tích, nhưng trình độ kỹ
thuật chế tác điêu luyện tinh xảo hơn. Những thanh đá grès hoặc basalte
ở thời kỳ muộn hơn có tính chất trang hoàng phụ tô thêm cho Dolmen.
Tác giả tin rằng đây chính là một công trình tượng đài Cự thạch
thuộc thời kỳ “Văn minh đá mới” trong bậc thang địa chất “đá mới
hiện tại” do Sir Gabriel de Mortilet đặt tên là “Robenbausien”. Sự
đóng kín hầm mộ Cự thạch Xuân Lộc do các nhà xây dựng tiền sử quan
tâm đến “sự bảo mật” giống như “bí truyền” thường thấy ở nhiều dân
tộc vùng Thái Bình Dương. Tác giả cố gắng tìm kiếm các đặc điểm
tương tự Dolmen Hàng Gòn ở vùng Caucase, Bắc Miến Điện (Haute
Birmanie), Assam, Bắc Trung Hoa... - theo quan sát của học giả Victor
Goloubew; ở Java - theo Dr. Van Stein Callenfels; ở Changkat Mentri
(Sungkai, Nam Perak) - theo thông báo của các học giả thuộc Bảo tàng
Straits Settlements (Mã Lai), các dạng mộ “Tumulus” ở Nagasaki,
Kyushiu “là mộ phần của những nhân vật quan trọng liên hệ với thời
22 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.3 Page 23

▲back to top
kỳ sơ khởi của lịch sử” - theo các linh mục Abbé de la Trappe và Martin
... Ông còn liên hệ cả các chi tiết kiến trúc Dolmen Xuân Lộc như các
“rầm chìa” hoặc “rãnh kiểu yên ngựa” của các trụ chính với các cấu
kiện tương tự trong các di tích Cự thạch giống mộ phòng “tombeaux”,
chamber de Pierre”, hoặc đền thờ “Sanctuaire” ở Transjordanie
(Palestine) qua tư liệu của Lubbock, Alfred Bertholet, Mader, Evans...
và tin rằng Dolmen Xuân Lộc còn có quan hệ với họ hàng Dolmen ở
Viễn Đông và là “đại diện cho gia đình Dolmen Châu Á”.
Khi ghi nhận sức lao động phi thường của người nguyên thủy bản
địa đã khai thác, chuyển vận đường trường và xây dựng nên Dolmen
Xuân Lộc với những cấu kiện kiến trúc mà ngay cả ở đền Angkor cũng
không thấy có những tảng đá nặng nề đến như vậy, tác giả vững tin đây
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 23
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.4 Page 24

▲back to top
hầm mộ Cự thạch dành riêng cho “thủ lĩnh” (Tombe de Chef), và
gợi ý cho công cuộc lần tìm hậu duệ của những người sáng tạo hầm mộ
kỳ lạ xưa trên đất Tây Nguyên, bởi: “Một dân tộc không bao giờ diệt
vong hoàn toàn” (Renan). Theo J.Bouchot, sự phối trí các hàng trụ cột
quanh mộ Cự thạch Xuân Lộc giống đến lạ lùng với cấu trúc nhà mồ
của “những người giàu có” (riches) hoặc các “thủ lĩnh” (chefs) trong
các nghĩa địa Gia Rai ở Plai Rlung (Đắk Lăk) minh họa cho tác phẩm
“Jungles mois” của Henri Maitre. Các cấu kiện kiến trúc cơ bản cho
phép thừa nhận hoặc liên tưởng rằng người Gia Rai đã bảo tồn một
cách cẩn trọng và cải tiến những nghi thức mai táng đặc thù vốn có từ
cổ xưa, khởi nguồn từ “thời đại Xuân Lộc” với ngôi mộ Đá lớn mang
các đặc trưng đồng nhất với “gia đình mộ cổ Dolmen toàn thế giới” như
một truyền thống chung hoặc một “phong tục xa xưa của nhân loại”
về Cự thạch (H.6).
4. Công trình nghiên cứu của Henri Parmentier và học giả
nước ngoài
Sau phát hiện của J.Bouchot, di tích kỳ lạ trong vùng đất đỏ bazan
Đông Nam Bộ đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu và chiêm ngưỡng của
nhiều học giả trên thế giới. Người đầu tiên đến hiện trường ngay sau khi
cuộc khai quật chấm dứt là nhà khoa học nổi tiếng - Chủ sự Sở Khảo cổ
học Đông Dương Henri Parmentier (ngày 3/5/1927). Ông hết sức sửng
sốt vì hơn ba thập kỷ phiêu liêu khắp Đông Dương chưa hề thấy một
công trình Đá lớn nào đồ sộ đến thế. Sau đó, trong khoảng thời gian từ
ngày 13/12/1927 đến cuối năm 1930, ông còn trở lại đây thêm ba lần
nữa, cùng các học giả G.Coedès và Van Stein Callenfels thăm viếng
“hầm mộ Cự thạch”, trước khi kiến nghị Toàn Quyền Đông Dương
xếp hạng “công trình Cự thạch” Xuân Lộc trong “Danh mục chung”
gồm những di tích lịch sử quan trọng nhất của Liên Bang Đông Dương.
Vốn là kiến trúc sư quốc gia, H.Parmentier cố gắng khôi phục trên bản
vẽ từ những “phế tích hoang tàng” (ruines) ngổn ngang quanh hầm
mộ Cự thạch quan trọng này. Ông ghi nhận tầng đất đỏ thuần nhất liên
tục đến 1m dưới nền phòng đá còn lẫn khá nhiều “sỏi cuội” thuộc loại
đất đỏ nổi tiếng được Chủ sự Sở Địa chất Đông Dương F.Blondel giám
24 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.5 Page 25

▲back to top
định thuộc Kỷ Đệ Tứ giống đất chocolate màu mỡ ở các cao nguyên
bazan Đông Dương.
Hầm đá có “hình khối chữ nhật”, quy mô 4,5 x 2m và cao 1,5m
(các số đo về sau được L.Malleret và H.Fontaine sử dụng), được ghép
bởi 6 tấm đan hình “khối độc thạch”, nằm dài theo hướng gần Đông -
Tây (vách đầu Đông hơi chếch sang Nam khoảng 2º). Ông khảo tả kỹ
hơn về các cấu kiện kiến trúc, các rãnh mộng ở đáy và nắp căn phòng,
hai đầu nhô của nắp dạng “tay nắm” rộng, về chất liệu hoa cương trắng
và vị trí các cột trụ sa thạch chính, các miếng đế lót chống lún trong đất
đỏ xốp, các mấu nhỏ và “rãnh yên ngựa” ở từng cột trụ... Ông ký hiệu
gần đủ các cặp trụ dựng (BB’, CC’, DD’, EE’, FF’), ghi nhận vị trí tại
chỗ hoặc các mảnh vỡ gốm ở bờ hố phía Đông, cung cấp cho chúng ta
cái nhìn tương đối” về bình đồ và thiết đồ di tích (H7), nhưng hết sức
quý giá mà cho đến tận ngày nay còn được nhiều người đánh giá là “với
cơ sở khoa học của nó, các bản vẽ có được sự thuyết phục cao và đáng
tin cậy” (Đỗ Bá Nghiệp, cb. 1993).
Theo H.Parmentier (1929), công trình Cự thạch Xuân Lộc là
những dấu hiệu khác thường độc nhất vô nhị ở Đông Dương thời bấy
giờ”. Ông so sánh những trụ đá Xuân Lộc với loại hình trụ tìm thấy ở
Châu Đại Dương, nhưng vì cuộc khai quật của J.Bouchot “không tìm
được gì” đáng được coi là “di chỉ”; ngoại trừ những bình đất khô nung
thấp chứng tỏ sự cổ kính, nên khó có thể xếp hầm mộ Xuân Lộc cùng
thời đại với Menhir hay Dolmen trên thế giới có chôn kèm theo “các
công cụ đá mài nhẵn”.
Về chức năng của quần thể Cự thạch Xuân Lộc, căn hầm chìm
xuống đất không thể vào được, gợi cho tác giả ấn tượng công trình
giống như một “hầm mộ” (Tumulus) chôn dưới gò đất với ít nhất một
ngõ” dẫn đến sát đầu hầm - tương tự các công trình “mộ táng thủ
lĩnh” hoặc “nấm mồ chung” chứa những thi hài của “các vị quan” hay
binh sĩ” mà “thi thể” của họ được bó và chôn chung sẽ bị tiêu nhanh
cả thịt lẫn xương do đặc tính chứa chất phosphore (P) của đất đỏ Xuân
Lộc. Theo tác giả, căn hầm giống như “một tiền sảnh thực sự của sự
bất tử”, với “tấm đan làm nắp trần” thấp có hai đầu lồi ra như dạng
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 25
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.6 Page 26

▲back to top
vành tai” có thể buộc dây để xê dịch mỗi khi cần mai táng lần lượt các
thủ lĩnh hay binh sĩ đã khuất núi.
Việc vận chuyển nắp đan trần hầm mộ được tác giả hình dung khá
đơn giản: Sau khi cào hết lớp đất đỏ phủ trên nắp hầm, người tiền sử
xưa có thể đặt một khúc cây dưới mỗi “chỗ khuyết” ở đầu tấm đan,
lồng dây qua hệ thống đà gỗ thân tròn gác ngang các cặp trụ đá theo
các “bậc” và huy động hai nhóm người chầm chậm kéo nắp đan theo
hai chiều đối nghịch nhau và giữ cho nắp đá ổn định trên hệ thống cây
tròn gác ngang các cặp trụ đá CC’, DD’, EE’ ở đầu hầm trong “suốt
thời gian hành lễ”. Chính cấu trúc hình thù như vậy gợi ý về nghề mộc
26 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.7 Page 27

▲back to top
nguyên thủy và cách thức sử dụng gỗ rất thông dụng của cư dân sơn
cước thời bấy giờ. Đặc biệt, hình dạng các cột trụ cao lớn vững chắc
BB’ chứng tỏ sự thiện nghệ của người thợ mộc cổ trong truyền thống
kiến dựng cấu trúc sườn nhà thời nguyên thủy và cùng với nhiều cặp
trụ đá cũng gợi mở khả năng “phòng mộ có thể được đóng mở nhiều
lần” trong tiền sử.
Theo H. Parmentier, đây là sự phối trí lạ lùng chưa từng thấy
trong các công trình kiến trúc cổ khác ở Đông Dương nên cần khảo
sát nghiên cứu và so sánh thêm trên toàn vùng đất đỏ Long Khánh,
Xuân Lộc, Cẩm Mỹ và ở các vùng khác nữa. Ví như, trong cương
vực Đồn điền Suzannah mà chính bản thân J. Bouchot đã ghi nhận có
“một hang đá mang những họa đồ tiền sử”, ở Võ Đất (Long Thành),
giữa sông La Ngà trong rừng rậm có nhiều đá hoa cương lộ thiên và
dường như còn vết tích một đường hầm đá. Ngoài ra, còn cần so sánh
với những tấm đan lớn cắm thẳng xuống đất trong “công trình đá ghép
vây quanh” giống hầm đá có bình đồ hình chữ nhật ở Đồng Phổ gần Sa
Huỳnh (Quảng Ngãi); những tấm đan dài mỏng thô nhưng công dụng
khó hiểu và không rõ xuất xứ còn lưu tồn trong Bảo tàng Phnom Penh
(Campuchia); những mộ chum đá lớn trên cao nguyên Trấn Ninh (Lào)
và những “công trình Cự thạch” với các cây cột chống có kiểu dáng
tương tự trụ Đá lớn Xuân Lộc ở Châu Đại Dương theo công bố của
F.Benoit (1912).
Sau các công trình nghiên cứu của J. Bouchot và H. Parmentier,
nhiều học giả nước ngoài đã viếng thăm hầm mộ Cự thạch Xuân Lộc
như: Giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ G. Coedès cùng viên Thanh
tra ủy viên thường trực Hội Khảo cổ học Jean - Yves Claeys, Dr Van
Stein Callenfels (1930-1931), O. Jansé (1934), L. Malleret, Paul Lévy,
L. Bezacier (1937, 1943), E. Saurin (1963) và H. Fontaine (1972)...
và cũng phát hiện thêm nhiều di tích văn hóa cổ xung quanh hầm mộ
Đá lớn.
Học giả nước ngoài đầu tiên coi hầm mộ là công trình Cự thạch
đích thực của cộng đồng người cổ bản địa thời kim khí là E. Saurin, khi
ông liên hệ hầm mộ Cự thạch với quần thể di tích tiền sử do ông khám
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 27
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.8 Page 28

▲back to top
phá và đặt tên ở chính Đồn điền Hàng Gòn này (các địa điểm Hàng
Gòn mang số 1-5, 8-10); đặc biệt, với khu mộ táng bằng chum vò gốm
Hàng Gòn 9 (suối Đá) và các liên hệ xa hơn với các cánh đồng Chum
Cự thạch Thượng Lào.
Trong công bố đại thành về: “Khảo cổ học ở đồng bằng sông Cửu
Long” (L’Archéologie du delta du Mékong), L. Malleret đánh giá thắng
tích Cự thạch “có tầm quan trọng lớn lao” đã khai mở những công
cuộc sưu tầm khảo cứu sâu xa hơn trong toàn địa phận khu đất đỏ màu
mỡ trải dài từ Long Khánh, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ về phía Nam đến tận
Bà Rịa và Xuyên Mộc. Ông coi di tích chính yếu là “phòng mộ Cự
thạch”, đã bổ sung thêm một số tri thức gắn kết với di tích và nêu giả
định riêng về di tích. Theo tác giả, phòng mộ có nắp nằm cách mặt đất
khoảng 1,5m không hề có vết tích của “gò đống” phủ trên nó, được bao
quanh bằng nhiều trụ cột mà phần lớn bằng sa thạch với đầu “có rãnh”
(gorge).
Với các mảnh gốm mủn nát, di tích phù hợp với cấu trúc của “một
gian tẩm thất”, có thể được một cái sườn nhà bằng gỗ che chở, với
những khúc cây hình trụ tròn bắc ngang những đường rãnh “yên
ngựa” của những hàng trụ đỡ độc thạch”. Một trong những “nhân
chứng” của cuộc khai quật hầm đá là nhà báo Pháp Jean Faget từ Sài
Gòn lên Xuân Lộc, đã thuật lại cho L. Malleret rằng: Ngôi mộ đá chứa
rất nhiều “đồ gốm lẫn trong đất đỏ” là những loại “bát xếp thành chồng
ở dưới đáy hầm hoặc đã bị đổ nhào”, trong bát có chứa than tro có thể
giả thiết được hầm đá lớn này là “mộ phần dành cho những di cốt đã
bị đốt thành tro”.
Các thông tin ban đầu về hầm mộ Cự thạch Xuân Lộc còn được
nhiều người sử dụng trong các chuyên khảo tổng hợp về tiền sử và
sơ sử khu vực và Châu lục. Các học giả đều thừa nhận đó là “hầm
mộ Cự thạch” (The Megalithic Tomb) (Garpardone, E., 1955; Loofs,
H.H.E., 1961), với quan niệm Châu Âu về “Cự thạch” và “công trình
Cự thạch” dạng “Dolmens” và “Menhirs” như những cấu trúc tiền sử
kiến tạo “từ những tảng - phiến đá lớn”. Có người coi các hàng đá
28 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.9 Page 29

▲back to top
dựng mài nhẵn (upright polished stones) và tàn tích vò gốm đáy tròn
tìm thấy ở đáy hầm Đá lớn Xuân Lộc giống cấu trúc chung của nhiều
mộ đá ghép ở Perak hoặc của các “phòng hẹp” chứa công cụ - vũ khí
sắt, gốm, hạt chuỗi hình cầu, chày đập vải vỏ cây, mảnh đồng có patine
sáng màu ở Chankat Mentri, Sungkai (Mã Lai) do H.C. Robinson, H.
Gordon Graham khám phá và I.H.N. Evans khai quật (Evans, I.H.N.,
1928, 1931).
Theo quan sát của Dr Van Stein Callenfels và Louis Bezacier, việc
mai táng kiểu hầm mộ thời tiền sử ở Xuân Lộc, hoặc đựng di tồn nhân
cốt trong chum đá lớn ở Trấn Ninh (Lào) hay trong các chum vò gốm
ở Sa Huỳnh (Việt Nam) là những phong tục tín ngưỡng chỉ có vào
khoảng đầu Công nguyên, chứ không đi ngược lại quá xa vào thời đại
Đá mới (Bezacier, L., 1972). Với Dr Petter Bellwood (1978), các mộ
Cự thạch ở Hàng Gòn 7 và ở Đồng Phổ đều có khả năng quan hệ với
văn hóa Sa Huỳnh cổ điển vào sơ kỳ thời đại Sắt và chúng không có
đồng dạng trên đất liền Đông Nam Á, ngoại trừ một nhóm nhỏ ở bán
đảo Malacca (Mã Lai).
Từ năm 1975 đến nay, các nhà khảo cổ và bảo tàng học đã hướng
dẫn hàng trăm nhà khoa học từ nhiều nước (Nga, Đức, Bungaria, Hồng
Kông, Nhật Bản, Đài Loan, Hoa Kỳ...) đến thăm Hàng Gòn và cùng
thảo luận những vấn đề khoa học lớn liên hệ với quần thể di tích Cự
thạch đặc biệt này.
Đáng chú ý nhất là ý kiến của các học giả Nhật Bản. Ví như, GS.TS
Xumio Sakurai (University of Tokyo) rất quan tâm đến sự gần gũi về
điều kiện môi trường sinh thái đồi gò đất đỏ bazan phong hóa vùng
Hàng Gòn với các miền giàu Cự thạch trên cao nguyên Pasemah (In-
donesia). GS Eiji Nitta (University of Kagoshima) thì tin rằng hầm mộ
Đá lớn Hàng Gòn có thể gắn bó với sưu tập qua đồng khám phá ở “kho
tàng” Long Giao. Theo ông, nhóm qua đồng Long Giao được đúc theo
tiền mẫu có tuổi “sau Chiến Quốc” và có thể định niên đại từ cuối thế
kỷ III trước Công nguyên. Chúng được người xưa sưu tập và dự trữ qua
vài thế hệ”, giống như các bảo bối được lưu truyền qua các đời thủ
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 29
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

3.10 Page 30

▲back to top
lĩnh mà những người từng chiếm hữu qua đồng như các biểu chương
sẽ được chôn cất trong hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn (Nitta, E., 1998).
Nhận định của GS Eiji Nitta rất gần với ý tưởng của H. Parmentier
và rất đáng được lưu tâm. Tuy vậy, khác với ông, chúng tôi vẫn tin
rằng các thủ lĩnh được trang bị qua đồng Long Giao thuần túy là các
thủ lĩnh quân sự như học giả Lý Tề (1968) từng gợi ý, còn những di tồn
an nghỉ trong hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn mới thực sự là “người có
quyền lực tối cao nhất cộng đồng” (Chiefdom’s chieftain) (Phạm Đức
Mạnh, 2006).
5. Công cuộc khảo cứu di tích Cự thạch Hàng Gòn I (7A) của
giới khảo cổ học Việt Nam giai đoạn 1975-1995
Với giới khảo cổ học Việt Nam, công cuộc khảo cứu khu di tích
Cự thạch Hàng Gòn gắn liền với các chương trình điền dã nhằm không
ngừng mở rộng hiểu biết về các nền văn hóa cổ ở vùng cao nguyên và
đồng bằng châu thổ Nam Bộ. Từ những thông tin ban đầu của “Khảo
cổ học miền Nam sau chiến thắng” liên hệ mộ Cự thạch Hàng Gòn với
dạng mộ ốp đá ở Làng Vạc bên bờ sông Hiếu (Nghệ An) (Phạm Huy
Thông, 1978); một số nhà nghiên cứu dựa vào kết quả phát hiện mới
về văn hóa tiền sử - sơ sử Nam Bộ đã ủng hộ nhận định của E. Saurin
khi cho rằng mộ Cự thạch Hàng Gòn “là một ngôi mộ táng chôn dưới
hình thức hỏa thiêu được xây dựng vào thời kỳ Kim khí thuộc giai đoạn
Đồng phát triển, có khả năng chuyển sang sơ kỳ đồ sắt” và khẳng định
rằng: Giá trị lớn lao của công trình không phụ thuộc vào “thước tấc
của nó, mà vì chính nó chứa đựng trí sáng tạo của những người lao
động xây dựng tiền sử, là “di vật góp phần sáng tỏ nhiều vấn đề về văn
minh được giới khảo cổ mệnh danh là Văn minh sông Đồng Nai” (Lưu
Ánh Tuyết, 1982). Sau khi di tích khảo cổ học được xếp hạng cấp quốc
gia (Quyết định số 147/VH-QĐ ngày 24/12/1982), hầm mộ và các trụ
cột đá còn được coi như một biểu tượng quyền lực tối cao của cộng
đồng người bản địa ở vào sơ kỳ thời đại Sắt - “thời kỳ sau Dốc Chùa
hoặc “giai đoạn Suối Chồn”, giai đoạn phát triển đỉnh cao của truyền
thống văn hóa tiền sử - sơ sử Đồng Nai ở nửa sau Thiên niên kỷ I trước
30 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4 Pages 31-40

▲back to top

4.1 Page 31

▲back to top
Công nguyên (Phạm Đức Mạnh, 1991). Một số người lại ủng hộ giả
thiết của L. Malleret (1963) coi chủ nhân của di tích mộ Cự thạch Hàng
Gòn dường như là chủ nhân các di tích kiến trúc gạch đá dàn trải hầu
hết các tỉnh miền Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và
Lâm Đồng thuộc văn hóa Óc Eo có niên đại vào những thế kỷ đầu đến
thế kỷ VII (Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi Chí Hoàng, 1991).
Vào đầu năm 1992, TS. Nguyễn Văn Long và Lưu Văn Du đã tiến
hành khai quật tôn tạo di tích, nhằm cứu vãn hầm đá lớn khỏi tình trạng
bị đe dọa sụp đổ do thường xuyên bị ngập nước trong các mùa mưa.
Tổng số diện tích quy hoạch hơn 1.400m² (44 x 32m) được đào thành
khuôn viên bát giác, với tam cấp dạng vuông và gần vuông để chống
xói mòn (quy mô tam cấp là: 10,4 x 9,8m; 15 x 15m; 20 x 20m, cao
dần từ nền mộ (thềm 3) lên bề mặt (thềm 1). Toàn bộ các thanh, đoạn,
tảng của cột trụ hay của hầm đá được thu gom, quy tập trên bề mặt tam
cấp này.
Các cuộc khảo sát mới vào những năm 1997-1999, 2010-2011 của
chúng tôi tại đây ghi nhận rằng: Tuy rằng cuộc khai quật tôn tạo trên
chưa hướng tới việc phục chế nguyên trạng hiện trường di tích, ít nhất
theo phác thảo về bình đồ có thể tin được của H. Parmentier từ năm
1929, nhờ cuộc đào tôn tạo này mà gần như toàn bộ các thành tố tạo
dựng nên quần thể di tích Cự thạch Hàng Gòn 7A có thể khảo cứu để
kiểm chứng lại chính xác từng tiêu bản, đặc biệt những phần chôn chìm
trong đất mà các học giả tiền bối chưa thể khảo tả hoặc cung cấp số đo
tin cậy nhất.
Toàn bộ 55 tiêu bản được chúng tôi ghép lắp, đo đạc tỉ mỉ và ký
hiệu trong 22 thành tố khác nhau (H.4), với 2 nhóm chính:
5. 1. Hầm đá
Hầm đá bao gồm 6 tấm đan (ký hiệu: 27HG7A-HM-1-6) ghép
thành hình hộp chữ nhật, hiện vẫn còn 5 tấm nguyên vị trí cũ (in situ);
riêng tấm vách đan ở đầu Đông đã bị dỡ ra. Quy mô chung của hầm đá
là: Chiều cao toàn bộ từ 1,6m (ở đầu Tây) tới 1,7m (ở giữa hầm) và
1,65m (ở đầu Đông). Chiều dài từ 4,43m (đo hai đầu vách đứng từ
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 31
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.2 Page 32

▲back to top
Đông sang Tây) đến 5,25m (đo nắp hầm đá). Chiều rộng 1,65m -1,9m
(đo giữa 2 vách hông) - 2,7m (đo nắp hầm) (H5-6). Toàn bộ hầm đá lớn
có cùng chất liệu granit biotit hạt thô, lõi màu xám - trắng đục với nhiều
khoáng vật màu đen, vỏ ngoài phủ lớp patine màu đen hay nâu sẫm.
Các đặc điểm cần ghi nhận trong các tấm đan của hầm mộ Cự thạch
Hàng Gòn là:
Nắp đá khi phục nguyên có quy mô lớn và nặng nhất (5,65m x
2,2m x 0,24m), với hai đầu nhô như cán rìu có vai khổng lồ; mặt dưới
có gờ rãnh chạy viền quanh gần hình chữ nhật để ghép khít với bốn
vách hầm; mặt trên hơi vồng lên ở giữa.
Nền hầm là một phiến đan gần hình chữ nhật, với cạnh đầu Đông
thẳng và cạnh đầu Tây hơi cong lồi, các đường rãnh khoét khá sâu,
ghép khít bốn tấm đan vách tạo thành phòng trên nền đá.
Hai tấm làm vách Bắc (dày) và vách Nam (mỏng) được chế tác dày
dần từ rìa ghép với nền lên rìa ghép với nắp. Tấm vách Tây ghép hơi lệch
so với trục dọc của cả nền và nắp đá, có dạng hình chữ nhật song chờm
rộng sang hai bên phòng hầm mộ: dài 2,5m -2,52m. Tấm vách Đông
32 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.3 Page 33

▲back to top
vốn bị gỡ ra ngay
từ khi khai quật
năm 1927, khi
ghép các mảnh
còn lại còn quy
mô: 1,75m x
1,3m x 0,11m;
đặc biệt ở một
rìa cạnh còn rõ lỗ
khuyết lõm hình
bán cầu. Chính
lỗ bán cầu này
xác nhận hướng
mở của toàn bộ
hầm đá là hướng
Đông và có thể
còn mang ý nghĩa như “lỗ thoát hồn(H8) thường thấy ở nhiều công
trình Cự thạch hay các nghĩa địa quan tài bằng chum gốm ở Việt Nam
và Viễn Đông.
5. 2. Các phụ kiện khác
Các phụ kiện trong quần thể công trình này bao gồm: 2 tấm đế lót
(Semelle) và 40 tiêu bản vỡ 13 trụ cột khác nhau.
Đế lót (Semelle) dạng gần tròn hay tam giác đã được H. Parmen-
tier (1929) đặt ở vị trí cao hơn nền hầm đá để lót hai trụ hoa cương dài
BB’. Điều đáng chú ý là tấm đế ký hiệu: 27HG7A-PK-8a còn mang
vết đường rãnh giống tấm nền (hoặc mặt dưới tấm nắp) - điều này gợi
ý khả năng người cổ chế tác và ghép lắp hầm mộ hoàn chỉnh này ngay
tại chỗ và tận dụng vật hỏng làm đế lót trong quá khứ (H8).
Trụ cột: 40 tiêu bản, có thể ghép lắp thành 12 phiến - trụ (thuộc 6
cặp theo ghi nhận của J. Bouchot và H. Parmentier) và một đoạn cột
lẻ, trong đó:
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 33
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.4 Page 34

▲back to top
Cặp trụ ký hiệu 27HG7A-PK-B-9-B’-10 làm bằng đá granit diorite
có quy mô lớn nhất là 8,2m - 7,7m x 1,1m - 1,15m x 0,43m - 0,3m.
Cặp trụ ký hiệu 27HG7A-PK-C-11-C’-12 làm từ đá phiến cát kết
có felspat biến chất (quaczit), được gia công rất tỉ mỉ, mài kỹ nên mặt
ngoài láng nhẵn màu nâu vàng, mặt cắt ngang hình elip, quy mô lớn
nhất: 3,6m - 3,35m x 0,65m x
0,43m - 0,3m.
Cặp trụ ký hiệu 27HG7A-
PK-D-13 (đá granodiorit) và
27HG7A-PK-D’-14 (đá grès)
cũng có mặt cắt ngang hình
elip và đầu có rãnh lõm hình
yên ngựa” như cặp trên,
song lớn hơn: 4,07m - 3,85m
x 0,57m - 0,8m x 0,55m -
0,38m.
Ngoài 6 phiến - trụ chắc
chắn đã được H. Parmentier khảo tả ở trên, các trụ cột còn lại chỉ có thể
phỏng đoán qua các ký hiệu không rõ ràng trong bản phác thảo ở chính thời
ông. Trong đó, cặp trụ ký hiệu 27HG7A-PK-15 (đá grès) và 27HG7A-
PK-18 (đá gra-
nit) dường như
là cặp trụ FF’
có quy mô lớn
nhất: 4,75m -
3,95m x 0,45m
- 0,4m x 0,31m
- 0,3m.
Cặp trụ ký
hiệu 27HG7A-
PK-16 (đá
granit)
34 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.5 Page 35

▲back to top
27HG7A-PK-17 (đá grès) dường như là cặp trụ GG’ phục dáng còn
quy mô: 4m - 3,8m x 0,4m x 0,2m - 0,19m.
Cặp trụ ký hiệu 27HG7A-PK-19-20 làm bằng đá sa thạch, mặt cắt
ngang thân gần bầu dục, bị gẫy thành 5 đoạn, dường như là cặp trụ EE’
vốn bị vùi lấp nên còn thiếu trong miêu thuật của H. Parmentier; quy
mô hiện còn: 3,7m - 3,85m x 0,32m - 0,35m x 0,19m - 0,23m.
Trụ mang ký hiệu 27HG7A-PK-21 làm bằng sa thạch hạt mịn, chưa
hề thấy trong các công bố của học giả Pháp trước đây, quy mô lớn nhất:
1,6m x 0,32m x 0,23m. Quan sát phác thảo bình đồ hiện trường của H.
Parmentier, đây có lẽ là tiêu bản nằm sát cạnh cặp trụ CC’.
Tiêu bản ký hiệu 27HG7A-PK-22 là tảng sa thạch lớn nhất trong
các mảnh đá thu được qua lần khai quật tôn tạo. Các mảnh sa thạch này
không phải là cột trụ, mà dường như liên quan đến những hộc đá kê
chân của cặp trụ lớn nhất (27HG7A-PK-BB’-9-10) mà J. Bouchot và
H. Parmentier đã miêu thuật. Quy mô tảng lớn nhất còn 0,62m x 0,5m
x 0,26m (H8).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 35
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.6 Page 36

▲back to top
Bảng I. Thống kê hầm Cự thạch và trụ đá cùng mảnh vỡ
TT
Ký hiệu
Chất liệu
Kích thước phục gần
nguyên (cm)
Dài Rộng Dày
Tư liệu
Bouchot và
Parmentier
1 27HG7A-HM-1-6 Granit-biotit 443-525 225-270 160-170 Hầm mộ
1a
27HG7A-HM-1
(a-c)
Granit-biotit 450-565 200-220 18-24
Nắp Đông
hầm mộ
1b 27HG7A-HM-2
Granit-biotit 440-475 180-192
Nền hầm mộ
1c 27HG7A-HM-3
1d 27HG7A-HM-4
1e 27HG7A-HM-5
1f 27HG7A-HM-6
2 27HG7A-PK-7
3a 27HG7A-PK-8a
3b 27HG7A-PK-8b
3c 27HG7A-PK-8c
4
27HG7A-PK-B-9
(a-f)
5
27HG7A-PK-B’-10
(a-d)
Granit-biotit 400
140
Granit-biotit 400
140
Granit-biotit 250-252 139-142
Granit-biotit 175
130
Granit 115-120 89
Granit 105-132 120
Granit
Granit
Granodiorit 795-820 105-110
Granodiorit 755-770 80-115
10-15
9-12
13-19
9-11
5-10
16-17
38-43
18-30
Vách Bắc
hầm mộ
Vách Nam
hầm mộ
Vách Tây
hầm mộ
Vách Đông
hầm mộ
Đế lót chân
cột B
Đế lót chân
cột B’
Đế lót chân
cột B’
Đế lót chân
cột B’
Trụ B, chữ
nhật
Trụ B’, chữ
nhật, 750 x
110 x 40
6
27HG7A-PK-C-11
(a-b)
Phiến cát kết,
felspat biến 345-360 55-65
chất - quaczit
27-43
Trụ C, elip
300 x 80 x 50
36 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.7 Page 37

▲back to top
7 27HG7A-PK-C’-12
315-335 45-65 25-30 Trụ C’
8
27HG7A-PK-D-13
(a-b)
Granodiorit 405-407 45-57
9
27HG7A-PK-D’-14
(a-c)
Cát kết có fel-
spat biến chất
370-385
10
27HG7A-PK- 15
(a-b)
Cát kết 470-475
11
27HG7A-PK- 18
(a-e)
Granite 390-395
12
27HG7A-PK- 16
(a-e)
Granite 390-400
50-80
35-45
35-45
30-40
13
27HG7A-PK- 17
(a-b)
Cát kết có fel-
spat biến chất 370-380 28-40
- quaczit
14
27HG7A-PK- 19
(a-e)
15
27HG7A-PK- 20
(a-d)
Cát kết 365-370 28-32
Cát kết 375-385 25-35
16 27HG7A-PK- 21
Cát kết 145-160 20-32
Trụ D, Grès,
40-55 elip 420 x 80
x 50
38
20-31
Trụ D’, chữ
nhật
Trụ F? tròn,
500
25-30 Trụ F’?
12-21 Trụ G?
17-19
Trụ G’? chữ
nhật
13-19
17-23
Trụ E (hoặc
E’?), bầu dục
Trụ E (E’?),
chữ nhật
23
Vỡ
17 27HG7A-PK- 22
Cát kết
62 45-50 26 Đá kê BB’?
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 37
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.8 Page 38

▲back to top
Chương II.
DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN II (7B)
1. Phát hiện ban đầu
Gần bảy thập kỷ sau khám phá quần thể di tích Đá lớn Hàng Gòn I
(7A), vào đầu tháng 12/1995, công nhân lái xe ủi của Xí nghiệp Đá
thuộc Nông trường Cao su Hàng Gòn đã đụng phải những tấm đan
bằng hoa cương lớn nằm cách hầm mộ cũ khoảng 60m về phía Đông
Nam. Người bảo vệ khu di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn, ông Trần Tử
Oai đã điện báo cho Bảo tàng Đồng Nai về phát hiện mới này. Ngay sau
đó, Bảo tàng Đồng Nai và Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ học thuộc
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ tổ chức ba đợt điều tra di tích Cự
thạch vừa xuất lộ, thống nhất đặt tên là Hàng Gòn II (7B) để phân biệt
với quần thể mộ Cự thạch Hàng Gòn xưa (Hàng Gòn I - 7A) và đề xuất
Bộ Văn hóa - Thông tin và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai cho khai
quật khẩn cấp.
Được phép của Bộ Văn hóa - Thông tin (Quyết định số 537/BT-
QĐ) và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (Quyết định số 3359/UBT
ngày 22/12/1995), đoàn công tác do PGS.TS Phạm Đức Mạnh làm
Trưởng đoàn, có sự tham gia của TS. Nguyễn Văn Long (Viện Khoa
học Xã hội vùng Nam Bộ), Lưu Văn Du, Nguyễn Hồng Ân, Trần Minh
38 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.9 Page 39

▲back to top
Trí, Nguyễn Hữu Lộc, Nguyễn Vĩnh Huy (Bảo tàng Đồng Nai), GS.TS
Nishimura Masanari (Đại học Kansai, Nhật Bản) và TS. Mariko
Yamagata (Đại học Rikkyo, Nhật Bản) đã tiến hành khai quật di tích
Cự thạch Hàng Gòn II (7B) trong tháng 01/1996.
Trong quá trình khai quật, các ông Nguyễn Nam Ngữ - Giám đốc
Sở Văn hóa - Thông tin Đồng Nai, Đỗ Bá Nghiệp - Giám đốc Bảo tàng
Đồng Nai, cùng nhiều vị lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và
chính quyền địa phương, các đoàn khách đến từ Thành phố Hồ Chí
Minh, tỉnh Long An, Thủ đô Hà Nội thuộc nhiều cơ quan khoa học Việt
Nam (GS. Nguyễn Tấn Đắc, PGS.TS Phan An, Bùi Xuân Long - Viện
Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; TS. Vũ Quốc Hiền và TS. Ngô Thế
Phong - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam; TS. Nguyễn Kim Dung, PGS.TS
Nguyễn Lân Cường, Đoàn Đức Thành - Viện Khảo cổ học; TS. Bùi
Phát Diệm và Nguyễn Văn Thành - Bảo tàng Long An; TS. Phạm Hữu
Mý - Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh; PGS.TS Đặng
Văn Thắng - Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh;
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 39
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

4.10 Page 40

▲back to top
TS. Nguyễn Thị Hậu - Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ
Chí Minh; TS. Trịnh Thị Hòa, TS. Phí Ngọc Tuyến, Trần Thanh Đào,
Nguyễn Việt Trung, Phạm Giáng Thơ, Nguyễn Hoàng Mai, Đỗ Đức
Căn, Hoàng Nghị - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí
Minh; các nhà khoa học ngoài nước: GS.TS Xumio Sakurai, GS.TS
Keiji Imamura, Wakimoto Tomoe - Đại học Tokyo; Ono Mikiko - Đại
học Ritsumeikan Kyoto; Yamaguchi Eiko - Đại học Hokkaido;
Nakamura Rie - Đại học Washington, USA); các phóng viên báo chí,
truyền hình trung ương và địa phương đã đến thăm hiện trường di tích
(Phạm Đức Mạnh, Đỗ Bá Nghiệp, 1995).
2. Vị trí - cảnh quan hiện tại của khu di tích Cự thạch Hàng
Gòn II (7B)
Di tích Cự thạch vừa phát hiện (Hàng Gòn II - 7B) có tọa độ: 10º
51’ 43” vĩ Bắc - 107º 14’ 10” kinh Đông - ở điểm chuẩn 0 của hố khai
quật) hiện tại nằm cách mộ Cự thạch Hàng Gòn (Hàng Gòn I - 7A)
khoảng 60m về phía Đông Nam (tọa độ: 10º 51’ 44” vĩ Bắc - 107º 14’
07” kinh Đông - nơi chính giữa của cửa đã bị mở của hầm đá)
(H14-15).
40 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5 Pages 41-50

▲back to top

5.1 Page 41

▲back to top
Nhìn trên các bản đồ tỷ lệ: 1/10.000 và 1/50.000, khu di tích nằm
gần trung tâm Nông trường Cao su Hàng Gòn (cao độ 256m), cách suối
Đá khoảng 800-900m về phía Tây Nam, cách Quốc lộ 56 khoảng 97m
về phía Đông, giữa vùng dày đặc suối nhỏ (suối Đá, suối Gia Liêu, suối
Râm, suối Gia Góp...). Xung quanh di tích là khu dân cư thuộc ấp Hàng
Gòn, xã Hàng Gòn, Nhà máy chế biến cao su, xen lẫn các lô trồng cao
su, hồ tiêu và cây ăn trái.
Di tích Cự thạch Hàng Gòn II nằm ở giáp ranh giữa khu vực quy
hoạch bảo vệ khu mộ Cự thạch Hàng Gòn I và mặt bằng của Xí nghiệp
Đá. Khi Xí nghiệp Đá giải thể, các máy ủi tiến hành san đồi đào sâu tới
4-5m, làm lộ ra toàn bộ sườn đồi đất đỏ bazan phong hóa và nhiều đá
tảng có nguồn gốc phun trào núi lửa thời Pleistocene.
Theo bản đồ của E. Saurin (1968), quần thể Cự thạch Hàng Gòn có
vị trí gần như trung tâm, cách di chỉ Hàng Gòn 8 chỉ 250m, cách nghĩa
địa mộ chum Hàng Gòn 9 chỉ 1-1,1km, cách cụm di chỉ Hàng Gòn 1-5
khoảng 4-5,5km. Những cuộc điều tra khảo cổ học mới thu được nhiều
di vật tiền sử xung quanh khu di tích Cự thạch chỉ từ 100-300m đến
1000-1200m, chủ yếu là các công cụ đá (rìu, bôn, cuốc, đục, bàn mài
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 41
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.2 Page 42

▲back to top
và cả vật đeo giống bùa), hạt trang sức bằng đất nung, 4 viên bi đất,
mảnh vỡ của nồi, vò, bát, đặc biệt trong đợt đào năm 1996, TS. Nguyễn
Hồng Ân còn tìm thấy cả mảnh đồng thau... (H16).
Cùng với phát hiện của học giả Pháp trong thập kỷ 60-70 thế kỷ
trước (Saurin, E. 1966, 1968; Fontaine, H. 1968, 1975), các di tích và
di vật khảo cổ nguyên thủy đã xác nhận khu trung tâm đồn điền đất đỏ
Hàng Gòn là miền đất còn tiềm ẩn nhiều di sản văn hóa tiền sử - sơ sử
và cần sự quan tâm khảo cứu thường trực và hệ thống của các nhà Khảo
cổ học trong tương lai.
3. Điền dã khảo cổ học ở di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B)
3.1. Khai quật khảo cổ học
3.1.1. Các phương pháp nghiên cứu hiện trường
Hố khai quật chính được xác định theo hướng trục của tấm đan
granit đã lộ ra ngoài vách đất - hướng Đông Tây (cũng là hướng của
hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn I - 7A). Điểm chuẩn của toàn bộ khu vực
dự tính khai quật (điểm 0) được định vị chính góc của tấm đan đá hoa
cương đã lộ ra ngoài vách đất. Tùy theo vết tích các di tích Đá lớn, hố
khai quật chính sẽ phát triển theo các hướng liên quan cho tới khi phát
lộ toàn bộ di tích Cự thạch trong lòng đất. Cho dù hố khai quật có quy
mô tới đâu, ở xung quanh hố đào chính, tiến hành đào thám sát nhiều
hố thăm dò nhỏ ở các khoảng cách khác nhau trên bình diện khu vực
này, có ứng dụng phương pháp khoan tay khi kết thúc từng hố đào để
42 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.3 Page 43

▲back to top
dò tìm di tích Cự thạch. Trong hố đào chính, một con trạch với bờ đất
rộng 0,5m được giữ lại chạy dọc chính giữa hố theo chiều Đông Tây và
Bắc Nam (hình “thước thợ”) để giúp ích cho việc quan sát và đo vẽ
toàn bộ trắc diện hố đào ở chính nơi xuất lộ di tích Cự thạch (H14).
Cùng với trắc diện của con trạch này, hai trắc diện của vách đào cơ
bản của hố khai quật (vách Đông và vách Bắc) sẽ bổ trợ hiểu biết đầy
đủ của chúng ta về địa tầng khảo cổ học trên toàn bộ di tích Cự thạch
Hàng Gòn II (7B). Con trạch cắt dọc và ngang ở chính giữa tấm đan
đá chỉ được phá bỏ để tìm thêm tàn tích cổ khi kết thúc hoàn toàn cuộc
khai quật này.
3.1.2. Bình diện khảo cổ học
Tổng diện tích hố đào hoàn chỉnh ở di tích Cự thạch Hàng Gòn II
(7B) là 6,4 x 14m = 89,6m², trong đó: EF (vách Tây) = CD (vách Đông)
= 6,4m và ED (vách Nam) = FC (vách Bắc) = 14m. Trên bình diện hố
khai quật, được phân chia thành các ô vuông (2 x 2m = 4m²) và các ô
chữ nhật (2,4 x 2m = 4,8m²), ghi ký tự la - tinh: h - g, a - e (tính từ vách
Tây về vách Đông) và ghi số 1-3 (tính từ vách Nam về vách Bắc). Các
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 43
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.4 Page 44

▲back to top
lớp đất đào từ trên xuống lần lượt được cào phẳng nhẵn để tìm kiếm có
hay không đường biên cổ. Hố đào tiếp tục sâu xuống dưới các tấm đan
2-2,5m, với các phương pháp xử lý các khối đất đỡ các tấm đan đá
riêng biệt nhằm thu thập toàn bộ tàn tích vật chất nếu có ở phần này.
Sau khi hoàn tất cuộc khai quật, các tấm đan đá đã bị máy ủi làm
bật lên sẽ được xếp trở lại vị trí ban đầu trên bình đồ di tích, theo các
phương pháp vận chuyển đan đá được sử dụng thành công ở các vùng
thế giới (bằng cách buộc dây thừng vào tấm đan đá, đặt trên hệ thống
hai tầng ngang và dọc các cây tròn và sức người kéo thừng).
Việc xác định tọa độ và xây dựng bản vẽ bình diện và trắc
diện cả quần thể công trình Cự thạch Hàng Gòn, chụp ảnh và quay
video hiện trường do Nishimura Masanari, Mariko Yamagata, Lưu Văn
Du, Nguyễn Hồng Ân, Trần Minh Trí và Nguyễn Vĩnh Huy thực hiện
(H18).
44 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.5 Page 45

▲back to top
3.1.3. Địa tầng khảo cổ học
Ngoại trừ lớp đá rải lát đường ở bề mặt dày 20-40cm, về cơ bản,
trắc diện ở các vách đào Bắc và Đông của hố khai quật có thể nhận biết
bốn lớp như sau:
Lớp I. Đất nâu đỏ - “reddish brown”; màu chuẩn: 5 YR 4/6 (Oyama,
A., - Takehara, H., 1995). Đây là lớp đất mặt dày trung bình 20-70cm,
lẫn nhiều rễ cây, cỏ, đá cục, tro than, sành sứ và gạch ngói hiện đại.
Lớp II. Đất có màu nâu sáng - “brown - bright brown”; màu chuẩn:
7.5 YR 4/3 - 5/6 , cũng là lớp đất mới đắp dày dao động 20-62cm, lẫn
nhiều than gỗ và rễ cây cháy dỡ, các mảnh sứ hoa lam, gốm tráng men
nâu và gạch ngói hiện đại.
Lớp III. Đây là lớp đất nâu đỏ sáng - “bright reddish brown”; màu
chuẩn: 5 YR 5/6, dày trung bình 70-90cm, kết cấu tơi xốp khá thuần
nhất, lẫn rất ít sỏi nhỏ laterite, rễ cây, đôi chỗ tích tụ than tro. Đây là
nguyên thổ mặt đồi cũ, các mảnh vỡ của đá sa thạch và hoa cương,
cùng các phế liệu cuội có gia công phân bố góc Đông Bắc hố đào và
tập trung khá dày đặc thành lớp xung quanh và bên dưới các cụm đan
hoa cương.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 45
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.6 Page 46

▲back to top
Lớp IV. Lớp nguyên thổ, đất cũng có màu nâu đỏ nhưng sắc độ sẫm
hơn lớp trên - “dark reddish brown”; màu chuẩn: 2.5 YR 4/3 - 5/6. Đây
là tầng thổ nhưỡng có cấu tạo thuần nhất màu nâu đỏ sẫm rất đặc trưng
của nhiều khu vực trong Nông trường Cao su Hàng Gòn, với kết cấu
mịn chắc nhưng xốp, thuần nhất và hoàn toàn không còn rễ cây và lẫn
sỏi sạn laterite hay các khoáng vật khác. Sự tích tụ than tro ở sát các
tấm đan hoa cương, riêng góc Đông Bắc hố đào có nhiều cuội lớn bị
patine màu xám - xanh lục (H19).
Phần lớn các tấm đan bằng đá hoa cương nằm ngang trong tầng đất
nâu đỏ sẫm này. Di vật khảo cổ học chỉ bắt đầu xuất hiện ngay từ dưới
các tấm đan đá, từ độ sâu -10cm đến -14cm (so với chuẩn điểm 0), bao
gồm: 2 mẩu đồng thau, 24 mảnh gốm, nhiều mảnh tước, mảnh tách, đá
vỡ tích tụ thành lớp dày 15-46cm. Ở hai góc phía Đông Bắc và Đông
Nam hố đào còn có các vệt đất nung cháy màu xám trắng quy mô từ
1,8 x 0,68m đến 1,4 x 0,8m, với các khối đất nung màu nâu đỏ bị xám
đen có bề mặt rỗ thủng.
Tóm lại, đặc điểm nguyên thổ của địa tầng Hàng Gòn là đất nâu đỏ
thuần nhất, lẫn rất ít hoặc không có sỏi sạn laterite. Đương nhiên, xen
lẫn trong các phế liệu cuội, than tro bắt đầu xuất lộ từ độ sâu +27cm
đến +0,3cm (cách điểm chuẩn 0) và tích tụ nhiều hơn dưới các tấm đan
hoa cương.
3.2. Thám sát khảo cổ học
Ngoài hố khai quật hoàn chỉnh, để kiểm tra địa tầng khu vực này,
đặc biệt quan sát sự phân bố lớp phế liệu đá, đoàn công tác đào 9 hố
thám sát với tổng diện tích 36m² (2 x 2m = 4m²/hố), nằm cách hố khai
quật từ 4-8m đến 20-45m về cả bốn hướng chính: Đông - Bắc - Tây -
Nam. Trong các hố thám sát đã thu thêm 5 mảnh gốm thô, nhiều tảng
và mảnh đá sa thạch, hoa cương và cuội giống di vật trong hố khai quật
chính. Căn cứ vào tình trạng địa tầng của hố khai quật và các hố thám
sát xung quanh, có thể hình dung phân bố chính của lớp đá phế liệu
trong di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B) dàn trải về hướng Đông, phát
triển theo chiều Bắc Nam khoảng 12-14m (từ HTS1 đến HTS5) (H20).
46 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.7 Page 47

▲back to top
Chương III.
ĐIỀN DÃ (THÁM SÁT - KHAI QUẬT),
NGHIÊN CỨU HIỆN TRƯỜNG HÀNG GÒN
VÀ VÙNG PHỤ CẬN GIAI ĐOẠN 2006-2011
1. Đợt điền dã năm 2006-2007 xây dựng dự án trùng tu, tôn tạo
di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn
Từ tháng 3/2006 và các tháng 9-11/2007, để cung ứng cơ sở khoa
học cho việc lập dự án trùng tu, tôn tạo di tích khảo cổ học mộ Cự thạch
Hàng Gòn (I - II) theo đúng yêu cầu của Luật Di sản văn hóa và xây
dựng hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, Ban
Quản lý Di tích - Danh thắng Đồng Nai phối hợp với TS. Phạm Quang
Sơn và nhiều cộng sự1 tiến hành điều tra thám sát khu vực rộng khoảng
4-5ha xung quanh di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn 7A và đã tiến hành
đào thám sát và khai quật lớn rất kỹ lưỡng chiều sâu thổ nhưỡng khu
vực này (ít nhất tới độ sâu bằng nền hầm mộ đá lớn Hàng Gòn 7A),
với tổng diện đào lên tới gần 1.000m². Kết quả đáng lưu ý nhất của các
đợt đào này đã được TS. Phạm Quang Sơn công bố trong nhiều công
trình - các Hội thảo quốc gia ở Hà Nội, ở Đồng Nai và cùng với PGS.
1  Tham gia các đoàn điều tra thám sát và khai quật gồm có: Ông Lê Trí Dũng - Giám
đốc Ban Quản lý Di tích - Danh thắng Đồng Nai - phụ trách chung; TS. Phạm Quang
Sơn - Trưởng đoàn; các thành viên: TS. Nguyễn Văn Long và Th.S Nguyễn Thị Hoài
Hương - Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; PGS.TS Phạm Đức Mạnh - Giám đốc Bảo
tàng Lịch sử - Văn hóa, Trưởng bộ môn Bảo tàng học và Di sản, Trường ĐHKHXH&NV
- Đại học Quốc gia Tp.HCM); PGS.TS Lâm Mỹ Dung - Giám đốc Bảo tàng Nhân học,
Trường ĐHKHXH&NV - Đai học Quốc gia Hà Nội; TS. Nguyễn Thị Hậu - Phó viện
trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Tp.HCM); các ông, bà: Phan Thị Thịnh, Nguyễn
Xuân Nam, Đỗ Đăng Thắng, Phạm Văn Minh, Lê Thanh Thiện, Nguyễn Thị Tính - Ban
Quản lý Di tích - Danh thắng Đồng Nai. Trong các quá trình điền dã, đoàn công tác đón
tiếp các ông Nông Quốc Thành - Trưởng phòng Quản lý di tích Cục Di sản Văn hóa;
Nguyễn Minh Hùng - Phó giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Đồng Nai; đại diện chính
quyền địa phương, Ban giám đốc Công ty Cao su Hàng Gòn và đông đảo bà con nhân
dân địa phương (có nhiều người dân tộc Chơro).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 47
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.8 Page 48

▲back to top
TS Lâm Mỹ Dung giới thiệu ở Hội thảo Quốc tế IPPA tại Hà Nội năm
2009 (Phạm Quang Sơn, 2006, 2007, 2009; Lâm Mỹ Dung, 2009);
đã bổ sung thêm vào kết quả khai quật di tích - xưởng chế tác Đá lớn
Hàng Gòn II (7B) của chúng tôi trước đó và cung ứng thêm nhiều bằng
chứng để hiểu biết toàn diện và chân xác hơn về quần thể Cự thạch
Hàng Gòn nói chung, từ kỹ thuật xây dựng, chế tác tại chỗ, quan hệ văn
hóa, tục thờ Đá lớn và mai táng thủ lĩnh, cũng như nguồn liệu nghiên
cứu khung cảnh lịch sử văn hóa của chúng những thế kỷ trước và sau
Công nguyên.
Trong đợt điền dã từ 28/2-27/3/2006, trên mặt bằng quy hoạch bảo
vệ di tích Hàng Gòn hiện tại, đoàn đã tiến hành chia ô (mỗi ô vuông
quy mô 20 x 20m) hướng Bắc Nam và Đông Tây và mở hố thám sát ở
điểm giao tiếp các ô vuông. Ở khu vực kế cận kiến trúc mộ Cự thạch,
các ô nằm cách nhau từ 2-3m đến 10m. Tất cả có 58 hố thám sát với
tổng diện tích 153m² (6 hố quy mô 2 x 2m = 4m², 27 hố quy mô 3 x 1m
= 3m², 25 hố quy mô 2 x 1m = 2m²) thực hiện trên diện rộng khoảng
4ha, trải dài từ mép sân vận động Bắc mộ Cự thạch đến gần bờ tường
giới hạn Nam khu quy hoạch và tùy vị trí cao thấp của địa hình, chúng
tôi đào sâu trong khoảng 130-215cm.
Về cơ bản, mặt cắt địa tầng được nhận diện gồm ba lớp sau:
Lớp 1: Đất mặt, dày từ 7-35cm, có màu nâu đỏ hay nâu xám đen, là
lớp canh tác hiện đại, tơi xốp, lẫn nhiều rễ cây. Ở một số hố thám sát,
lớp mặt còn thấy lẫn đá dăm (HTS1, 7, 10, 13, 22, 23, 53, 57) và có khi
cả gạch xây hiện đại (HTS50). Ở một số hố khác (HTS12, 19) lớp mặt
hoàn toàn bị bóc mất.
Lớp 2: Nằm dưới lớp đất mặt, dày từ 20-30cm, thường kết thúc
ở độ sâu 50-60cm, là lớp đất đỏ bazan xốp, hơi sẫm màu và hơi cứng
hơn lớp dưới. Ở một số hố thám sát, lớp này vẫn còn lẫn đá dăm, than,
sành, thủy tinh, vỏ đạn, gạch xây hiện đại (HTS5, 13, 42, 44, 51); hoặc
có thể nhận diện thành hai phân lớp: Phía trên vón cục có khi lẫn sỏi
laterit sâu từ 9-17cm và 8-28cm đến 10-38cm và phía dưới là bazan đỏ
sẫm cứng sâu từ 17-40cm đến 28-50cm và 38-68cm (HTS8, 21, 33).
48 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.9 Page 49

▲back to top
Lớp 3: Nằm dưới lớp 2, cũng là đất đỏ bazan nhưng mềm, tơi và
tươi màu hơn lớp trên, ăn rất sâu xuống dưới. Trong tất cả các hố thám
sát chỉ dừng lại ở các độ sâu từ 80-159cm đến 160-215cm và đều chưa
ghi nhận được điểm kết thúc của lớp này (Phạm Quang Sơn, 2006).
Vết tích “tầng văn hóa” được nhận diện qua tàn dư than tro, vệt đất
nung, gốm và đá vỡ thông thường nằm dưới lớp bazan cứng (lớp 2) và
là phần trên lớn bazan mềm bở (lớp 3) ở độ sâu trung bình từ 30-35cm
đến 60-65cm (cá biệt, như HTS46 nằm ở độ sâu 65-95cm).
Trong 58 hố thám sát, phần lớn các hố (38 hố thám sát) không chứa
di sản văn hóa; 18 hố thám sát còn có ổ mối bên trong (cá biệt như
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 49
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

5.10 Page 50

▲back to top
HTS54 có tới 2 ổ mối). Chỉ có 7 hố thám sát ghi nhận có vết đất cháy
hay hố đất đen và 13 hố có gốm vỡ, 6 hố có hiện vật nguyên hình (tù
và đồng thau, vật đeo có lỗ bằng đá mài) hay mảnh đá hoa cương và
đá phế liệu khác. Ngoài 3 hố chỉ có vài mảnh gốm vỡ nhỏ, thống kê 10
hố thám sát (HTS31-34, 36-38, 46, 55, 58) đã thu được chủ yếu ở lớp
3 địa tầng 740 mảnh gốm (mật độ tích tụ trung bình 21,76 mảnh/m²).
Trong 12 mẫu than tro, đất cháy, đất nung thu được, đoàn đã tiến hành
phân tích C14 mẫu trong các HTS17, 28, 35, 39 (Phạm Quang Sơn,
2006) (Bảng II).
Trong đợt điền dã từ tháng 9-11/2007, đoàn đã tiến hành khai quật
34 hố, cùng một số hố thám sát mở đi kèm theo các hố khai quật, với
tổng diện tích 964,45m2. Các hố đào khai quật tập trung trên 3 khu vực:
Khu A gồm 24 hố (ký hiệu: 97HG-A-H1 - 97HG-A-H24) nằm trọn
trong khuôn viên hàng rào bảo vệ mộ Cự thạch Hàng Gòn 7A và sát
chân rào mé ngoài, chủ yếu ở các phía Đông và Bắc.
Khu B gồm 5 hố (ký hiệu: 97HG-B-H1 - 97HG-B-H5), nằm ở phía
Đông Nam cách mộ Cự thạch Hàng Gòn 7A khoảng 170m, sát tường
rào phía Bắc của Trường THPT Nguyễn Huệ hiện nay.
Khu C gồm 5 hố (ký hiệu: 97HG-C-H1 - 97HG-C-H5) cũng nằm ở
phía Đông Nam cách mộ Cự thạch Hàng Gòn 7A khoảng 60m.
Tất cả hố đào thường đạt độ sâu từ 1-2,2m đến 2,7-3,9m so với bề
mặt địa hình hiện nay, theo nguyên tắc đạt độ sâu điểm chuẩn (diểm O
quy ước đo bằng máy trắc đạt tương ứng với độ sâu nắp mộ), riêng các
hố khu A (3 x 1m = 3m2/hố) đạt độ sâu tấm đan đáy mộ. Nhìn chung,
hiện tại, trong khu vực 4ha khảo sát, cấu trúc địa tầng trong khu vực
xung quanh mộ Cự thạch có cấu tạo không phức tạp với bề mặt địa hình
khá mấp mô và có xu hướng thấp dần từ Tây và Tây Bắc qua Đông và
Đông Nam, mức độ chênh lệch tối đa giữa các điểm cao và điểm thấp
nằm trong khoảng ± 2m (H17).
Dựa vào mặt cắt địa tầng trong các hố khai quật, đoàn công tác ghi
nhận diễn biến các lớp đất cơ bản chung cho toàn bộ khu vực (từ trên
xuống) như sau:
50 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6 Pages 51-60

▲back to top

6.1 Page 51

▲back to top
Lớp 1: Đất mặt, dày từ 20-35cm, có màu nâu đỏ hay nâu xám đen,
là lớp canh tác hiện đại, tơi xốp, lẫn nhiều rễ cây.
Lớp 2: Nằm dưới lớp đất mặt, dày từ 20-30cm, thường kết thúc ở
độ sâu 50-60cm, là lớp đất đỏ bazan xốp, hơi sẫm màu và hơi cứng hơn
lớp dưới.
Lớp 3: Nằm dưới lớp 2, cũng là đất đỏ bazan nhưng mềm, tơi và
tươi màu hơn lớp trên, ăn rất sâu xuống dưới. Trong tất cả các hố thám
sát đều chưa ghi nhận được điểm kết thúc của lớp này (Phạm Quang
Sơn, 2008, 2009).
Tầng văn hóa được các nhà khai quật ghi nhận qua các cụm hay
vỉa gốm vỡ, đá nguyên và phế liệu thuộc nhiều thời kỳ tạo tác, di vật
đồng và mảnh, cục kim khí, than tro và các hố đất đen... xuất lộ rải rác
ở các độ sâu khác nhau nhưng đều nằm ở phần trên lớp bazan nâu đỏ
mềm (lớp 3).
So với bề mặt hiện tại, tại khu A, các hố H15 và H16 có tầng văn
hóa nằm ở độ sâu từ 1,00-1,30m. Ở độ sâu từ 0,80-1,00m có tầng văn
hóa trong các hố H2, H4 và H5. Còn trong các hố H1 và H6 tầng văn
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 51
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.2 Page 52

▲back to top
hóa nằm ở độ sâu 0,55-0,80m, tương ứng với các hố khai quật ở khu B.
Riêng ở H14 tầng văn hóa dày đến 40cm, nằm ở độ sâu 0,60-1,00m.
Khi so với điểm 0 qui ước là bề mặt tấm đan nắp mộ Cự thạch, cũng
thấy có sự chênh lệch cao thấp. Ở cao độ từ 0 - +20cm có tầng văn hóa
ở H1 và H2. Ở cao độ +30cm - +60cm có tầng văn hóa ở các hố H4,
H5, H15 và H16. Còn tầng văn hóa ở các hố H6 và H14 nằm ở cao độ
+60cm đến +105cm (H21-28).
Ở khu C, tầng văn hóa với vết tích là những tấm đan, cột đá, mảnh
phế liệu và ít mảnh gốm được phát hiện ở độ sâu tuyệt đối từ 0cm đến
+50cm. Riêng tầng văn hóa ở H4 khu B lại có cao độ từ 0cm đến
+50cm so với 0 qui ước. Nhận xét về hiện tượng này, các nhà khai quật
cho rằng bề mặt cổ khi xưa đã nằm cao hơn nắp mộ Cự thạch trong
khoảng từ 40-60cm, ứng với cao độ tầng văn hóa tại đa số các hố khai
quật ở các khu A và B. Khu C cũng được thu dọn làm lán trại cho một
công xưởng chế tác đá. Ở góc Tây - Nam mộ Cự thạch, trong các hố
H6 và H14, tầng văn hóa nằm khá cao trên 0 qui ước, có lẽ chúng được
hình thành trên bề mặt lớp đất đào từ hầm mộ lấp lên. Đối với trường
hợp hố khai quật H4 khu B, bề mặt tầng văn hóa chỉ xuất lộ ở cao độ
52 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.3 Page 53

▲back to top
52cm và đáy nằm ở cao độ 2,5cm trên 0 qui ước. Điều đó có nghĩa là
bề mặt “tầng văn hóa” ở đây nằm ngay bề mặt địa hình cổ. Đáy “tầng
văn hóa” lại nằm sâu trong lòng đất gần 50cm. Như vậy ở đây không
phải là “tầng văn hóa” với nghĩa là dấu vết của một lớp cư trú, mà là
một cụm gốm nằm trong một hố đào. Phạm vi cụm gốm với chiều dài
1,80m, rộng 0,80m (như trên đã nói) cho phép xác định kích thước hố
đào, ngoài ra, hố đào này có kích thước và tính chất tương ứng với một
huyệt mộ (H29-32).
Trong các hố khai quật H1, H10 và H13 thuộc khu A và H3 khu
C đã phát hiện được các dấu vết than tro và những vùng đất cháy. Đặc
biệt ở hai hố H13 khu A và H3 khu C đất cháy cứng, có màu hồng như
gạch non, tạo thành một sàn hình gần tròn, đường kính 1,20m - 3m, dày
40-55cm, nằm ở độ sâu tương đương với nắp mộ. Lớp đất cháy ở H10
khu A lại nằm ở độ sâu -60cm đến -114cm. Trong quá trình xử lý chỉ
thấy có một ít than tro. Đất cháy có kết cấu không chặt thành một khối
mà bở rời, xen kẽ với đất đỏ bazan.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 53
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.4 Page 54

▲back to top
Ngoài ra, trong quá trình khai quật còn ghi nhận được dấu vết
những cột đất cháy, thường có hình trụ tròn, đường kính 20-60cm, cao
30-50cm, nằm ở các độ sâu khác nhau. Có thể đây chỉ là vết tíh của cây
rừng bị cháy. 5 mẫu than trong đất cháy được đoàn công tác sử dụng để
phân tích C14 (Phạm Quang Sơn, 2006-2009).
Trong đợt khai quật năm 1996, Phạm Đức Mạnh đã nói đến một
công xưởng chế tác đá bên cạnh mộ Cự thạch. Đợt khai quật lần này
đã cung cấp thêm tư liệu củng cố cho quan điểm trên. Trong khu vực
xưởng chế tác đá, ngoài những tấm đan, cột dường như chưa qua sử
dụng đã được phát hiện trước đây, nay còn thấy vương vãi nhiều phế
vật, mảnh tước đá cùng những công cụ lao động. Rõ ràng người xưa
đã có công vận chuyển những khối đá lớn về Hàng Gòn để gia công,
tạo ra những tấm đan, cột đá sử dụng cho kiến trúc mộ (Phạm Quang
Sơn, 2008).
54 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.5 Page 55

▲back to top
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 55
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.6 Page 56

▲back to top
56 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.7 Page 57

▲back to top
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 57
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.8 Page 58

▲back to top
58 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.9 Page 59

▲back to top
Bảng IIA. THỐNG KÊ CÁC HỐ KHAI QUẬT - THĂM DÒ
HÀNG GÒN 2006-2007
Năm
Hố
Quy
Hướng
Độ sâu
(cm)
HTS1 2m² Đ-T -156
Vết tích khảo cổ học
HTS2 2m² Đ-T -155
HTS3 2m² Đ-T -143
HTS4 2m² Đ-T -138 Than đen rải rác ở độ sâu 70-90cm
HTS5 2m² Đ-T -142
HTS6 2m² Đ-T -136 Than đen rải rác ở độ sâu 50-75cm
HTS7 2m² Đ-T -142 Than đen rải rác ở độ sâu 30-35cm
HTS8 2m² Đ-T -148 Than đen rải rác ở độ sâu 35-40cm
HTS9 2m² Đ-T -144 Than đen rải rác ở độ sâu 85cm
HTS10 2m² Đ-T -148 Than đen rải rác ở độ sâu 38cm
HTS11 4m²
-162 Than đen rải rác ở độ sâu 40-75cm
HTS12 4m²
-135 Than đen rải rác ở độ sâu 35-60cm
HTS13 2m² Đ-T -140
2006: HTS14 2m² Đ-T -132
58 hố = HTS15 3m² B-N -145
158m² HTS16 3m² B-N -130
HTS17 3m² B-N -210
Than đen rải rác ở độ sâu 70cm
Than đen rải rác ở độ sâu 30-35cm
Hố đất nung đen xám nâu, xỉ, lẫn
gốm, than cỡ 32 x 115cm, sâu 145cm
HTS18 3m² B-N -207
HTS19 3m² B-N -187 Than đen rải rác ở độ sâu 90-95cm
HTS20 3m² B-N -215 Than đen rải rác độ sâu 150-160cm
HTS21 2m² Đ-T -175
Hố đất nung xám trắng cỡ 45cm, sâu
50-170cm
HTS22 2m² Đ-T -142
HTS23 2m² Đ-T -138 Vệt than độ sâu 50cm
HTS24 3m² B-N -180 Vệt than ở độ sâu 10-40cm
HTS25 3m² B-N -155
HTS26 3m² B-N -128
Vệt than, 2 mảnh đá dăm
Hố đất nung lẫn than, đá vỡ cỡ 110-
200cm, sâu 80cm
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 59
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

6.10 Page 60

▲back to top
HTS27 3m² B-N -147
HTS28 3m² B-N -127
HTS29 3m² B-N -114
HTS30 3m² B-N -168
HTS31 3m² B-N -159
HTS32 3m² B-N -163
HTS33 3m² B-N -160
HTS34 3m² B-N -164
HTS35 3m² Đ-T -80
HTS36 3m² Đ-T -170
HTS37 4m²
-147
HTS38 3m² Đ-T -157
HTS39 3m² B-N -175
2006: HTS40 3m² B-N -160
58 hố = HTS41 3m² B-N -149
158m² HTS42 3m² B-N -138
HTS43 3m² B-N -153
HTS44 3m² B-N -151
HTS45 2m² Đ-T -168
HTS46 4m²
-160
HTS47 3m² TB-ĐN -195
HTS48 3m² B-N -206
HTS49 2m² Đ-T -173
HTS50 2m² Đ-T -166
HTS51 2m² Đ-T -147
HTS52 2m² Đ-T -154
HTS53 2m² Đ-T -147
HTS54 2m² Đ-T -135
HTS55 2m² Đ-T -160
HTS56 2m² Đ-T -67
HTS57 4m²
-177
HTS58 4m²
-162
Vệt than
Vệt than, vài mảnh gốm sâu 15-40cm
Vệt than, 1 mảnh đá sâu 15-40cm
2 cụm gốm sâu 55-57cm, 2 đá bazan
Than lẫn gốm sâu 60-70cm
Gốm sâu 60cm, cụm than sâu 152cm
2 đá granit cỡ 15x20cm, gốm 65cm
Vết than, vài mảnh gốm 40-90cm
Hố đất nung lẫn xỉ sâu 17cm; 2 tù và
đồng ở sâu 65cm, than sâu 55-75cm
Ít than, gốm độ sâu 30-85cm
Gốm ở độ sâu 65-80cm
Gốm và 1 mảnh đá sâu 75cm
Hố đất nung lẫn than cỡ 40-100cm;
mẫu than thu ở độ sâu 150-200cm
Hố đất nung màu gạch sâu 60-115cm
Vệt than độ sâu 60-70cm
Vệt than, 1 bùa đeo đá sâu 65cm
Vệt than, xáo trộn
Vệt than độ sâu 60-80cm
3 cụm gốm sâu 65-95cm, than 140cm
Vết than sâu 145cm, rễ cây tươi
Cụm đất nung, than 162cm, 1 gốm
Vệt than độ sâu 50cm
Vệt than, đất nung, bị xáo trộn
Vệt than, vài mảnh gốm sâu 110cm
Vệt than, đất nung độ sâu 80cm
Vệt gốm sâu 60-90cm, 2 đá 20-25cm
Vệt than độ sâu 30-50cm
than, đất nung, cụm gốm sâu 36cm
60 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7 Pages 61-70

▲back to top

7.1 Page 61

▲back to top
Bảng IIB. THỐNG KÊ CÁC HỐ KHAI QUẬT - THĂM DÒ
HÀNG GÒN 2006-2007
Ký hiệu
Năm Hố
H1
Quy mô (m2)
Độ sâu (cm)
HKQ
HTS Hướng
HKQ/ HTS/
mặt điểm 0
Vết tích khảo cổ học
33m2
TB-ĐN
3m2
(B
lệch T
160-165
500)
-220
Cụm đất cháy 25x25cm;
cụm gốm bầu dục
140x60cm, 3 chân đế,
2 mảnh quai gốm hình
quả ớt
H2
H3
H4
H5
2007 H6
Khu
A H7
H8
H9
H10
H11
H12
56m2
40m2
24m2
30m2
30m2
30m2
20m2
15m2
40m2
36m2
18m2
3m2 Đ-T
Cụm đất cháy - than tro
110x130cm, dải gốm
120 -170 600x210cm, chân đế,
miệng loe gấp; mẫu C14
= 255cm
3m2 Đ-T 140-160 -24-35 Vài cụm đá
3m2
Đ-T
130-145
-170
Các viên đá, cụm gốm
70x30cm, chân đế
3m2 Đ-T 150-160 -180 Các mảnh gốm, đá vỡ
3m2
Đ-T
155-165
-180
2 cụm gốm 20-45cm, đá,
3 cụm than
3m2 B-N
210
-160
Đất cháy, than tro, 1 đá
màu trắng
3m2 B-N 160-170 -183
3m2 B-N 175 -184,3 1 đá phong hóa xanh
3m2
Đ-T
95-115
-176
Cụm đất cháy, than tro.
5 viên đá vỡ
3m2
ĐN mộ
HGI
155
-177 Vệt than gỗ, than tro
3m2
B-N
120-125
-173,5
Các cụm đá vỡ, mảnh
tước
H13 30m2 3m2
Đ-T
160-170
-180
1 đá granit vỡ của đầu
cột F’, cụm đất cháy
H14 26,85m2
B-N 160-190
Lớp gốm dày 40cm
H15 26,85m2 3m2
ĐB mộ
HGI
160-175
-195
1 đá xanh, cụm gốm, vết
than tro
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 61
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.2 Page 62

▲back to top
Ký hiệu
Năm Hố
H16
Quy mô (m2)
HKQ HTS
35,5m2 3m2
Hướng
B
Độ sâu (cm)
HKQ/ HTS/
mặt điểm 0
165-200 -179
Vết tích khảo cổ học
Cụm gốm mỏng rộng
400x200cm
H17 36m2
B-N 180-220
6 đá xám xanh, vài mảnh
gốm
H18
H19
Khu
A
H20
H21
H22
6,6m2
14m2
10m2
10m2
10m2
Đ-T 130-135
Đ-T
0
Đ-T
0
Đ-T
0
Đ-T
0
H23 24m2
TB-ĐN
0
Ít gốm, mảnh đá, đất
cháy, than tro
H24 5m2
H1 52,5m2
H2 42,5m2
B mộ HGI
Đ-T(N-
HGII)
B-N(Đ-
HGII)
160
150
>110
-90
0→ +15
1 đá mài schite, các công
cụ ghè, nhiều đá vỡ
+5→ +15 Các cụm đá ghè
Khu H3 52,5m2
C
H4 33,75m2
(B - HGII)
+5→
+20
Các cụm đá
than tro, đất
ghè, cụm
cháy, gốm
vỡ
B-N(T-
HGII)
40
Ít mảnh gốm, đá vỡ
H5 112,25m2
(Giữa
HGII)
40
+30→ Tấm đan và cột đá HGII
+45 = +30
H1 9m2
-11
Cụm gốm 150x120cm, 1
đá vuông, than tro
H2 9m2
+50 +67
1 đá phong hóa xanh, vết
than tro
Khu H3 9m2
B
H4 9m2
220
135-190
+2,5 +52
Cụm gốm, nồi nhỏ, hàm
răng cháy (mộ?)
H5 9m2
185-190
+45
1 đá xanh, vài gốm vụn,
than
Nguồn: Phạm Quang Sơn, 2006-2009; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Hoài Hương, 2008
62 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.3 Page 63

▲back to top
2. Đợt điền dã năm 2010-2011 nghiên cứu trầm tích Hàng Gòn
và vùng bazan trẻ phụ cận
Trong mùa điền dã năm 2010-2011, được phép của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch (Quyết định số 3052/QĐ-BVHTTDL) và của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai (Văn bản số 894/SVHTTDL-
VH), đoàn điền dã khảo cổ học do PGS.TS Phạm Đức Mạnh - Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh làm Trưởng đoàn và TS. Nguyễn Hồng Ân - Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Đồng Nai làm Phó trưởng đoàn, cùng các thành
viên là: Trần Anh Thỉnh - Bảo tàng Đồng Nai, Nguyễn Văn Trung -
Ban Quản lý Di tích - Danh thắng Đồng Nai, Nguyễn Văn Hùng -
Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Long Khánh đã tiến hành điều
tra thám sát một số địa điểm khảo cổ học tại các xã thuộc địa bàn thành
phố Long Khánh và huyện Cẩm Mỹ (di chỉ khảo cổ học thời tiền sử
Cầu Sắt, di chỉ - mộ táng thời sơ sử Suối Chồn, mộ Cự thạch Hàng Gòn
I-II (7A-B), kho tàng thời Sơ sử Long Giao).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 63
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.4 Page 64

▲back to top
Đoàn đã tiến hành khảo sát toàn bộ bề mặt hiện nay của quần thể
di tích kiến trúc Cự thạch Hàng Gòn và các di tích tiền sử và sơ sử
cùng địa hình bazan trẻ Long Khánh, Xuân Lộc và Cẩm Mỹ, thực hiện
đào một số hố thăm dò khảo cổ học (quy mô mỗi hố 2 x 1m = 2m²) để
kiểm chứng địa tầng và phục vụ cho việc thu thập các hệ thống mẫu
thổ nhưỡng gửi Viện Địa chất và Viện Khảo cổ học Việt Nam phân tích
bào tử phấn hoa (20 mẫu).
Tại di tích hầm mộ và công xưởng chế tác Cự thạch Hàng Gòn 7A-
B, đoàn công tác tiến hành khảo sát toàn bộ mặt bằng hiện tại của di
sản. Toàn bộ các hố đào của TS. Phạm Quang Sơn cùng Ban Quản lý
Di tích - Danh thắng Đồng Nai năm 2004-2007 đã lấp hoàn toàn không
còn vết các miệng hố. Di tích phủ dày và đều màu đất nâu đỏ sẫm đặc
trưng bazan trẻ vùng Long Khánh, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ (H33). Chúng
tôi lượm được 4 mảnh gốm nhỏ ở góc Tây Nam hầm mộ - loại hình và
chất liệu nâu sẫm như mảnh vò đã khai quật ở Hàng Gòn 7B. Đoàn đã
tiến hành đào 2 hố thám sát, trong đó: Hố thám sát ký hiệu 10HG7B-
HTS1 có quy mô 2 x 1m = 2m² nằm dọc cạnh góc Đông Nam hố đào
của chúng tôi năm 1996 và hố thám sát ký hiệu 10HG7A-HTS2 có quy
mô 2 x 1m = 2m² nằm về phía Đông hầm mộ Cự thạch, cách hố đào
trước cổng của TS. Phạm Quang Sơn khoảng 17-18m về hướng Quốc
lộ 56, hố cùng hướng với hầm mộ, trải dài hướng Đông (lệch Bắc 2º)
(tọa độ: 10º 51’ 44.5” vĩ độ Bắc - 107º 14’ 06.4” kinh độ Đông) (H33).
Ngoài 4 mẫu gốm thu trên bề mặt gần 10HG-A-HTS2 và các mẫu
thổ nhưỡng thu thập trong địa tầng các hố thám sát gần mộ Cự thạch và
công xưởng Hàng Gòn 7B, đáng chú ý nhất là trong hố thám sát ký hiệu
10HG7B-HTS1 chúng tôi đã thu thêm 1 tiêu bản đá hoa cương còn
mang dấu vết ghè lớn và rộng ở vách Đông hố (độ sâu 35-40cm), quy
mô đo được 21 x 17,5 x 9-9,8cm, góp thêm vào danh mục tổng thể hiện
vật khảo cổ học liên quan đến cả quần thể di tích kiến trúc Cự thạch nổi
danh này (Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010).
64 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.5 Page 65

▲back to top
Chương IV.
HIỆN VẬT KHẢO CỔ HỌC
1. Di tích Cự thạch
Di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B) được chế tạo từ đá hoa cương
và sa thạch. Trong phạm vi hố khai quật, chúng được bố trí gần như
trên cùng bình độ và phân chia thành ba cụm, trong đó:
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 65
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.6 Page 66

▲back to top
1.1. Cụm A
Cụm A được cấu tạo thành mặt phẳng đá hoa cương gần hình chữ
nhật, nằm dài theo hướng Đông Tây, quy mô 5,1m x 1,6m - 1,75m x
0,05 - 0,1m, hiện tại bị nứt thành 9 tấm song ghép liền nhau, ký hiệu
từ A1 đến A9.
1.2. Cụm B
Cụm B gồm 2 phiến đá hoa cương ghép tạo thành hình chữ nhật,
nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, cách đầu góc cụm A khoảng
1m, quy mô 2,6m x 1,5m x 0,12m.
Ở cả 2 cụm đá hoa cương, các phiến đan còn rõ dấu vết chế tác,
đặc biệt các vết đục phẳng ở rìa, các rãnh khuyết gần hình chữ nhật quy
mô 10 x 50cm hay hình bán cầu (chưa rõ chức năng của các chi tiết gia
công thêm này).
1.3. Cụm C
Cụm C gồm 2 trụ đá sa thạch dài và 1 hòn cuội nằm riêng ở vách
Tây hố đào. 2 trụ sa thạch màu xám nâu hạt mịn được gia công kỹ tạo
cho mặt cắt có hình vuông hay gần chữ nhật, quy mô 3,25m x 0,3m x
0,2m và 3,4m x 0,3m x 0,2 - 0,23m. 2 trụ đá chụm đầu vào nhau hướng
Đông Nam và phần đuôi xòe ra tạo góc 27º. Hòn cuội cò hình bầu dục
nằm cách trụ đá khoảng 30cm về phía Nam, quy mô 19,6 x 12,3 - 14 x
8,7 - 9,2cm (H34-35).
2. Hiện vật khảo cổ học khác
Hiện vật khảo cổ học thu thập ở Hàng Gòn qua các đợt điền dã
1996-2010 có tới 11.672 tiêu bản, với 4.487 hiện vật đá = 38,44%, 4 đồ
đồng = 0,04% và 7.181 mảnh gốm = 61,52%; trong đó, riêng trong hố
khai quật di tích công xưởng Hàng Gòn II (7B) năm 1996 thu thập dưới
các tấm đan hoa cương (dưới chuẩn điểm 0) đã có tới 4.441 tiêu bản,
bao gồm 2 mảnh - cục bằng đồng thau, 24 mảnh gốm cổ, 4.413 phế liệu
đá các loại. Trong 16/58 hố thám sát năm 2006 thu được 754 tiêu bản
gồm 2 tù và đồng thau, bên trong có chứa 10 mũi tên đồng (mỗi tù và
chứa 5 mũi tên) (Nguyễn Hồng Ân, 2023), 1 vật đeo có lỗ và 11 mảnh
66 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.7 Page 67

▲back to top
đá, 740 mảnh gốm. Trong các hố khai quật lớn năm 2007 thu được
6476 tiêu bản gồm 61 mảnh đá, 6415 mảnh gốm. Trong các hố thám sát
năm 2010 chỉ có 1 mảnh hoa cương và 2 mảnh gốm (Bảng VI-VII).
2.1. Đồ đồng
2.1.1. Tù và, mũi tên
2 chiếc tù và được tìm thấy ở độ sâu 65cm của một hố thám sát năm
2006 nằm cách bờ rào phía Nam của di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn
khoảng 80cm. Bề mặt đất ở đây cao hơn nắp mộ Cự thạch Hàng Gòn
là 1,33m. Chúng nằm song song và úp vào nhau giữa vùng tích tụ khá
nhiều than tro, bên cạnh một vệt đất bị nung cháy hình vòng cung. Cả 2
chiếc tù và đều cong hình cung tròn có dáng giống như chiếc sừng bò,
bên trong mỗi chiếc chứa 5 mũi tên đồng, thân để trơn. Chúng bị han rỉ
nhiều, phủ dày lớp patine xanh sáng. Một chiếc đã bị mục gẫy mất đầu
nhỏ ở phần miệng loe. Chiếc còn lại nguyên vẹn hơn về dáng chung.
Chiếc thứ nhất dài 21,5cm, đường kính đầu nhỏ 1,5cm, đường kính đầu
lớn còn 4,6cm (nhưng miệng nguyên sẽ còn loe rộng hơn nhiều), thành
dày 0,3cm, trên thân có 1 lỗ tròn nhỏ rộng khoảng 0,3cm. Chiếc còn lại
dài thẳng từ chuôi đến miệng là 23,5cm, đầu nhỏ có núm hơi phình ra
dùng để ngậm thổi (đường kính chỗ phình rộng 1,3cm, đường kính chỗ
thắt nhỏ phía trong 1,1cm, đường kính miệng loe là 5,5cm). Chiếc này
bị gẫy thành hai đoạn và có hai vết vỡ nhỏ, trên thân có 2 lỗ tròn nhỏ
rộng khoảng 0,2cm (H36).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 67
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.8 Page 68

▲back to top
Trong quá trình xử lý, bóc tách phần đất đỏ bazan bên trong 2 chiếc
tù và, phát hiện trong mỗi chiếc tù và có chứa 5 mũi tên đồng. Trong đó
5 mũi tên đồng bên trong tù và 1 đã được đưa ra khỏi lòng tù và, được
kí hiệu như sau:
Mũi tên 1 còn khá nguyên vẹn, mũi tên nhọn, dạng hình tam giác
cân, vát đều từ trục mũi tên về hai rìa, sắc bén; dài toàn bộ: 7,7cm; phần
mũi tên hình tam giác dài: 5cm, đáy rộng: 2,7cm; chuôi tên dạng hình
chữ T rộng thân: 0,6cm, đuôi dài 2cm, rộng 0,5cm.
Mũi tên 2 phần mũi tên còn khá nguyên vẹn, đuôi bị phong hóa,
mũi tên nhọn, dạng hình tam giác cân, vát đều từ trục mũi tên về hai
rìa, sắc bén; dài toàn bộ: 7,7cm; phần mũi tên hình tam giác dài: 5cm,
đáy rộng: 2,7cm; chuôi tên dạng hình chữ T rộng thân: 0,6cm, đuôi dài
1,5cm, rộng 0,5cm.
Mũi tên 3 ngắn hơn, phần mũi tên còn khá nguyên vẹn, đuôi tên
bị phong hóa, mũi tên nhọn, dạng hình tam giác cân, vát đều từ trục
mũi tên về hai rìa, sắc bén; dài toàn bộ: 6,5cm; phần mũi tên hình tam
giác dài: 3,4cm, đáy rộng: 2,2cm; chuôi tên dạng hình chữ T rộng thân:
0,6cm, đuôi dài 1,8cm, rộng 0,5cm.
Mũi tên 4 còn khá nguyên vẹn, có hình dáng khác xa với các mũi
tên còn lại ở phần mũi tên và phần đuôi tên, mũi tên nhọn, dạng hình
tam giác nhưng phần đáy vát sâu vào bên trong tạo ngạnh, phần đuôi
tên cũng vát đều vào bên trong tạo cân xứng với phần lưỡi; dài toàn bộ:
6,4cm; phần mũi tên dài: 4,7cm, đáy rộng: 2,2cm, phần vát nhọn vào
bên trong là 1,2cm; chuôi tên rộng thân: 0,6cm, đuôi dài 1,8cm, rộng
0,5cm.
Mũi tên 5 có kích thước lớn nhất, nhọn hơi vát vào bên trong, dạng
hình tam giác cân, vát đều từ trục mũi tên về hai rìa, sắc bén; dài toàn
bộ: 4,5cm; phần mũi tên hình tam giác dài: 3,2cm, đáy rộng: 2,5cm;
chuôi tên bị phong hóa mất phần hình chữ T rộng thân: 0,5cm.
Ở chiếc tù và còn lại, cũng phát hiện 5 mũi tên, đầu mũi tên xuôi
vào lòng tù và, có dạng chuôi hình chữ T giống như những mũi tên đã
68 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.9 Page 69

▲back to top
phát hiện và xử lý; 5 mũi tên này vẫn giữ nguyên vị trí hiện hữu để
phục vụ công tác trưng bày và nghiên cứu.
Theo TS. Phạm Quang Sơn, 2 chiếc tù và đồng chứa đựng mũi tên
đồng này rõ ràng có quan hệ với phát hiện vũ khí qua đồng Long Giao,
cách Hàng Gòn khoảng 5km, trong ý nghĩa là một phần tổ hợp vũ khí
của những chiến binh. Như vậy, 2 chiếc tù và có thể được coi là gạch
nối - nối liền vũ khí kiểu qua Long Giao và mộ Cự thạch Hàng Gòn,
chủ nhân của qua đồng và mộ Cự thạch Hàng Gòn cùng là một cộng
đồng người và một thủ lĩnh đầy quyền uy của một cộng đồng người
(bộ lạc hoặc liên minh các bộ lạc) hùng mạnh về kinh tế và rất thông
thạo binh nghiệp. Các cuộc xung đột, kể cả xung đột vũ trang, giữa cư
dân bản địa và các thế lực bên ngoài, nếu có xảy ra, cũng là điều có thể
hiểu được. Niên đại C14 của 2 mẫu than trong hố thám sát 35 bên cạnh
2 chiếc tù và chính là niên đại của cộng đồng người này (Phạm Đức
Mạnh, 1985; Phạm Quang Sơn, 2007; Nguyễn Hồng Ân, 2023).
2.1.2. Mảnh đồng
2 tiêu bản phát hiện trong hố khai quật chính năm 1996, đều có mặt
ngoài bị phủ lớp patine màu xanh thẫm, phần gãy lộ lõi màu xám đen.
Trong đó, tiêu bản lớn bị gãy thành 3 đoạn nhưng có thể gắn liền lại với
nhau, được tìm thấy ở độ sâu -8cm (cách chuẩn điểm 0) và sâu 55cm
(cách đường tiếp xúc giữa các phân lớp II-IV của địa tầng khảo cổ học
ở chính tọa độ này). Các mảnh này nằm dưới tấm đan hoa cương mang
ký hiệu A2, cách bờ vách Đông 3,6m và cách vách Nam 3,4m.
Khi ghép các
mảnh vỡ lại, hiện vật
hoàn chỉnh trông gần
giống như vành cong
tròn của nắp đậy hoặc
vành miệng của đồ
đựng kiểu thạp hay
thố nhỏ (?), có đường
kính rộng khoảng 31-
31,6cm.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 69
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

7.10 Page 70

▲back to top
Phần mép miệng của hiện vật này khá dày, tạo đường gờ nổi ở gần
sát mép làm cho thiết diện cắt ngang đầu mép tạo thành hình gần giống
tam giác với bề dày ở cạnh đầu tới 0,8cm. Từ mép trở xuống mỏng dần
(độ mỏng nhất của mảnh vỡ đo được chỉ 0,35cm). Sau khi gắn chắp lại
với nhau, hiện vật cung cấp số đo còn lại là 7,6-8,7 x 2-3,5cm (H37).
1 cục đồng nhỏ có hình dạng gần bầu dục, phần bể lộ lõi đen, mặt
ngoài phủ lớp patine màu xanh đậm, quy mô còn lại chỉ 0,9 x 0,7 x
0,5cm. Tiêu bản này phát hiện ở độ sâu 58cm cách đường tiếp xúc giữa
2 phân lớp II-IV của địa tầng khảo cổ học ở chính tọa độ này, trong
phạm vi ô đào ký hiệu e2, cách vách Đông khoảng 1,68m và cách vách
Nam 3,9m.
2.2. Đồ gốm
Gốm có khá nhiều trong trầm tích văn hóa Hàng Gòn xung quanh
mộ Đá lớn. Không kế các hố khai quật và thám sát năm 2007 chỉ ghi
nhận vết tích đá và gốm vụn có trong tầng văn hóa (các hố khai quật
07HG-A-5, 17, 23; 07HG-C-2, 4; 07HG-B-4), tổng số mảnh gốm có
thống kê từ năm 1996-2010 là 7.181 tiêu bản, trong đó:
Hố khai quật di tích Cự thạch II (7B) chỉ có 24 mảnh (6 mảnh
miệng, 16 mảnh thân với 12 thân trơn và 4 có hoa văn, 2 mảnh đế) đều
được phát hiện nằm dưới tấm đan hoa cương ký hiệu B1 và rải rác chỉ
trong phạm vi ô khai quật e2, ở các độ sâu khác nhau (khoảng từ 55-
65cm cách đường tiếp xúc giữa các phân lớp II-IV của địa tầng khảo
cổ học ở chính tọa độ ghi nhận được).
Trong các hố thám sát năm 2010 chỉ có 2 mảnh nhỏ (1 mảnh miệng
và 1 mảnh thân). Trong đợt đào thăm dò tại khu di tích Hàng Gòn năm
2006, đồ gốm đã được phát hiện trong 16/58 hố thám sát với tổng số
740 mảnh, đa số là mảnh thân trơn (614 mảnh), gốm có văn thừng
ít (17 mảnh), cùng 59 mảnh miệng và 50 mảnh đế. Các hố có nhiều
gốm ký hiệu 06HG-HTS31 (193 mảnh), 06HG-HTS46 (164 mảnh),
06HG-HTS38 (114 mảnh), 06HG-HTS58 (71 mảnh), 06HG-HTS55
(68 mảnh) và 06HG-HTS37 (62 mảnh). Các hố còn lại có rất ít, 06HG-
HTS34 (24 mảnh), 06HG-HTS36 (16 mảnh), 06HG-HTS32 (14 mảnh)
và 06HG-HTS33 (14 mảnh).
70 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8 Pages 71-80

▲back to top

8.1 Page 71

▲back to top
Trong đợt khai quật đào thăm dò tại khu di tích Hàng Gòn năm
2007, ở cả ba khu vực (khu A, khu B và khu C) đã thu được 6.415
mảnh (375 mảnh miệng, 5355 mảnh thân với 5265 thân trơn và 90
thân có hoa văn, 655 mảnh đế, cùng 2 quai gốm). Đồ gốm phát hiện
nhiều nhất ở xung quanh khu vực mộ Cự thạch, với 8/24 hố khai quật
khu A thu thập được 6.200 mảnh, chủ yếu trong các hố: 07HG-A-H14
(3491 mảnh), 07HG-A-H2 (1698 mảnh), 07HG-A-H16 (568 mảnh);
các hố có ít gốm là: 07HG-A-H1 (22 mảnh), 07HG-A-H4 (85 mảnh),
07HG-A-H6 (66 mảnh); các hố khai quật 07HG-A-H5, 07HG-A-H15,
07HG-A-H17, 07HG-A-H23 chỉ ghi nhận có gốm vụn bở, không thu
thập và thống kê.
Ở khu B có trong hố 07HG-B-H1 (211 mảnh); các hố 07HG-B-H4
và 07HG-B-H5 chỉ ghi nhận có gốm vụn bở, không thu thập và thống
kê số lượng. Riêng trong 07HG-B-H4, cụm gốm (1,8 x 0,8m) nằm theo
hướng Bắc Nam dọc vách Tây, ở độ sâu cao hơn so với điểm giả định
(nắp mộ Cự thạch) 19cm, cách mặt đất hiện tại là 1,35-1,85m, có lẫn
những viên đất nhỏ bị cháy được các nhà khai quật giám định là mộ
đất. Ở khu C (07HG-C-H1) có 4 mảnh gồm 1 mảnh miệng và 3 thân
trơn (H38).
Hầu hết đồ gốm được phát hiện trong các hố khai quật nằm ở độ
sâu 60-80cm so với bề mặt hiện tại. Các mảnh gốm đều bị vỡ vụn, mủn
nát và bong tróc hầu hết lớp áo gốm bên ngoài.
Về chất liệu chung, gốm Hàng Gòn phần lớn thuộc loại gốm cứng
thô, được làm bằng bàn xoay từ sét mịn, nhưng pha khá nhiều cát, hạt
nhuyễn thể nghiền vụn màu trắng đục, với độ nung không cao nên gốm
thường mềm bở và dễ thấm nước. Xương thường có màu nâu, mặt
ngoài gốm thường được phủ lớp nước đất màu nâu vàng gần như cùng
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 71
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.2 Page 72

▲back to top
màu với một phần phôi gốm, phần phôi gốm còn lại có màu nâu sắc
độ sẫm hơn. Theo ThS. Nguyễn Thị Hoài Hương, có 2 loại chất liệu
cơ bản:
Loại 1: Gốm làm bằng chất liệu cát pha sét trộn nhiều vỏ nhuyễn
thể nghiền nhỏ. Xương và áo gốm màu nâu sáng, có nhiều đốm trắng.
Áo gốm miết láng cả hai mặt trong và ngoài, lớp áo ngoài đã bong tróc
nhưng vẫn còn nhìn thấy lớp áo gốm bên trong dày hơn bên ngoài. Chất
liệu loại này áo gốm có các màu nâu sáng, nâu hồng và nâu xám.
Loại 2: Chất liệu khá giống loại 1 nhưng tỷ lệ cát trong xương
gốm nhiều hơn. Xương gốm có màu xám xanh, xám vàng nhạt, cũng
có nhiều đốm trắng, áo ngoài màu nâu sáng, phần lớn bị bong tróc gần
hết (H38).
Về loại hình, gốm Hàng Gòn phần lớn thuộc các đồ đựng cỡ nhỏ
và trung bình, theo quan điểm phân loại của chúng tôi, có thể nhận biết
2 loại hình miệng chính:
Loại 1: Miệng loe, với 6 kiểu cơ bản sau:
Kiểu 1: 3 tiêu bản trong hố khai quật Hàng Gòn II (7B) năm 1996,
miệng loe cong ưỡn đơn giản, mép miệng vuốt gần nhọn hoặc tròn đều
và mỏng dần xuống thân, cổ thắt lại. Đường kính miệng rộng trung
bình khoảng 16-30cm. Ở 2 tiêu bản, thành miệng phía trong gần như
được vuốt tạo thành vành ngắn bẻ gập ra. Ở 1 mảnh miệng khác, phía
trong vành miệng còn nhận thấy những vết rãnh chải mờ viền xung
quanh và cách đều gần như song song với nhau. Các mảnh miệng gốm
loe ưỡn hay gấp khúc có phôi dày trung bình 0,5-1cm.
Kiểu 2: Miệng loe ưỡn đơn giản, mép miệng dày, được vuốt gần
như tạo thành gờ phía ngoài, cổ thắt, thân mỏng. Trong các hố khai quật
năm 2007, kiểu này được tìm thấy gần hầm mộ Cự thạch (07HG-A-
H2) và khu vực xa về phía Nam (07HG-B-H1) được các nhà chỉnh lý
xếp vào loại 7 với đặc điểm bình vò có mép miệng khá dày được vê tạo
ngấn ngoài có đường kính phổ biến 26-28cm.
Kiểu 3: Miệng loe, thành miệng gần thẳng đứng, mép vuốt gần tròn
hơi bẻ ra ngoài và mỏng dần xuống nơi tiếp xúc với vai. Đây là kiểu
72 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.3 Page 73

▲back to top
miệng của vò có đường kính dao động từ 24-26cm đến 28-30cm, xương
dày 0,5-0,6cm. Các nhà chỉnh lý ghi nhận kiểu này có chất liệu gốm
loại 1 tìm thấy ở 07HG-A-H1 và 07HG-B-H1 và xếp vào loại 3.
Kiểu 4: Gần giống kiểu 3 với miệng loe, thành miệng gần như
thẳng đứng, điểm khác là mép miệng vuốt gần nhọn và dày dần xuống,
phần tiếp xúc vai cong gập rõ và được miết láng. Đây là miệng vò
kích cỡ nhỏ, với xương dày 0,4-0,5cm, đường kính miệng phổ biến
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 73
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.4 Page 74

▲back to top
14-16cm. Các nhà chỉnh lý ghi nhận kiểu này có chất liệu gốm loại 1
và xếp vào loại 5.
Kiểu 5: Miệng có phần đầu mép vuốt tròn đều hơi bẻ loe ra bên
ngoài, vành miệng dưới gần như thẳng đứng nhưng hơi xiên ra về nơi
tiếp xúc với vai, vai gấp khúc rõ. Đây là miệng vò cỡ trung bình, đường
kính miệng phổ biến 18-20cm, thân gốm thường để mộc và tìm được
gần mộ Cự thạch Hàng Gòn I (7A). Các nhà chỉnh lý ghi nhận kiểu này
có chất liệu gốm loại 1 và xếp vào loại 4.
Kiểu 6: Miệng loe khum, với phần đầu mép vuốt gần nhọn và thẳng
đứng, lòng miệng xiên vào trong, có thể là miệng của đồ đựng nhỏ như
bát, thân mỏng (0,3-0,6cm), đường kính miệng phổ biến 14-16cm. Các
nhà chỉnh lý ghi nhận kiểu này có chất liệu gốm loại 2 và xếp kiểu này
vào loại 2.
Loại 2: Miệng khum, với 2 kiểu:
Kiểu 1: Miệng khum đều, mép miệng vuốt mỏng gần nhọn. Là
miệng của hũ khá mỏng (xương dày 0,3-0,5cm) có đường kính miệng
14-16cm. Các nhà chỉnh lý ghi nhận kiểu này có chất liệu gốm loại 1
và xếp kiểu này vào loại 1.
Kiểu 2: Miệng khum, phần mép miệng vuốt nhọn và bẻ lên gần
như thẳng đứng, thân phình gần tròn, là miệng hũ có xương mỏng (0,3-
74 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.5 Page 75

▲back to top
0,4cm), pha nhiều cát và vỏ nhuyễn thể, áo ngoài màu nâu - xám nâu,
đường kính miệng chỉ rộng 9-10cm. Các nhà chỉnh lý xếp kiểu này vào
loại 6 (H39-40).
Thân gốm Hàng Gòn chủ yếu để mộc (5.891 mảnh thân trơn đa số
được miết láng nhưng áo ngoài bong tróc nhiều, độ dày thân dao động
từ 0,3-0,5cm đến 0,5-0,6cm).
Trong 112 mảnh có hoa văn, đa số là văn thừng đập chỉ tìm thấy ở
loại chất liệu gốm 1 trong hố 07HG-A-H2 và 07HG-B-H1.
Trong hố khai quật Hàng Gòn II (7B) năm 1996, có 3 mảnh thân
có cùng chất liệu và màu sắc nâu nhạt và nâu vàng như miệng và đế
gốm được trang trí văn chải, tạo thành những đường rãnh song song
với nhau (2 mảnh), hoặc ở một nữa tiêu bản có những rãnh chải ngang
và phần còn lại được chải chéo (1 tiêu bản). Ở mảnh vai của một đồ
đựng kiểu vò có cổ thắt, còn dấu vết một băng khắc vạch rộng khoảng
0,9cm, được khống chế bằng hai đường chỉ chìm, phía trong là những
đoạn vạch thẳng đứng song song với nhau nhưng cách nhau không đều
(thông thường dao động từ 0,2cm đến 0,6cm) (H41).
Tay cầm: Trong 07HG-A-H1 còn tìm thấy 2 mảnh gốm có thể là
tay cầm của một loại đồ đựng. Chúng có dáng hình quả ớt cong, tiết
diện ngang hình tròn. Một đầu lớn xiên, phẳng, hơi lõm, có vết gắn với
đồ đựng thân mỏng. Một đầu được vuốt nhọn. Hiện vật đặc biệt này
được Th.S Nguyễn Thị Hoài Hương (2007) định chức năng “tay cầm
khi so sánh với gốm Triều Tiên qua công bố của TS. Trịnh Hoàng Hiệp
(H42).
Chân đế gốm Hàng Gòn
có 3 kiểu chính:
Kiểu 1: Đế choãi cao
rộng, mép tiếp đất vuốt gần
nhọn và bẻ gập vào, phần gắn
với thân dày. Đây là chân đế
đặc trưng của loại hình bát
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 75
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.6 Page 76

▲back to top
bồng Đông Nam Bộ, đường kính rộng phổ biến 10-12cm, 1 tiêu bản ở
hố khai quật Hàng Gòn II (7B) năm 1996 là mảnh của loại đồ đựng có
đế cao, thành đế phẳng, mép tiếp đất gần vuông, đường kính vành đế
rộng khoảng 22cm.
Kiểu 2: Đế choãi cao hẹp, phần gắn thân dày và vuốt gần nhọn về
phần tiếp đất, là đế của loại đồ đựng nhỏ kiểu chén tách, đường kính
chỉ rộng 4-5cm.
Kiểu 3: Đế choãi thấp, phần gắn thân gốm rất dày và vuốt gần nhọn
về mép tiếp đất, là đế của các loại bình, vò đường kính rộng 9-12cm. 1
tiêu bản ở hố khai quật Hàng Gòn II (7B) năm 1996 là mảnh của loại
đồ đựng có chân đế thấp, mép tiếp xúc với đất được vuốt nhọn, làm cho
thiết diện cắt ngang chân đế gần có hình tam giác đều, đường kính chân
đế rộng 18cm (H43).
76 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.7 Page 77

▲back to top
Trong nhóm gốm khai quật năm 2006-2007, các nhà chỉnh lý ghi
nhận rằng đồ gốm thu được ở khu vực xa hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn
nhất (khu B) có khả năng là đồ tùy táng chôn theo trong mộ, còn đồ
gốm tìm thấy gần hầm mộ Cự thạch có thể liên quan với việc tổ chức
nghi lễ, thờ cúng tại đây. Hầu hết đồ gốm được làm bằng tay, khá đẹp,
đạt trình độ khá cao, chất liệu phù hợp với chức năng sử dụng của từng
loại hình đồ đựng (Nguyễn Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn,
Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008).
2.3. Đồ đá
2.3.1. Vật đeo có lỗ
1 tiêu bản làm bằng đá màu xanh đen tìm thấy ở độ sâu 65cm trong
lớp đất đỏ bazan mềm. Hiện vật được mài kỹ toàn thân nhưng còn vết
ghè đẽo ở một mặt, có dạng gần hình thang dài với các cạnh cong lồi,
ở giữa hơi phình to, thân dày và mỏng dần về rìa, mặt cắt ngang hình
giống tang trống với 4 rìa xung quanh dày khoảng 0,4cm. Hiện vật dài
15,6cm, rộng 2,5cm (đầu nhỏ) - 4,8cm (đầu lớn), ở giữa phình rộng
5,5cm và dày 1,4cm, có lỗ khoan trổ thủng gần đầu nhỏ ngay trục giữa
(đường kính rộng 0,4cm) (H44). Vật đeo này cùng loại với di vật do
Nhân dân địa phương tìm thấy ở Hàng Gòn (16,5 x 5,5 x 1,3cm, quy
mô 2 đầu là 3,6 x 0,8cm và 2,5 x 1cm, trên cả hai bề mặt có dấu mài
xéo lõm hình thang).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 77
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.8 Page 78

▲back to top
Những hiện vật đá có lỗ tương tự từng thấy ở ngay quanh vùng này
ở các di tích như: Đồi Mít, Suối Chồn, Dầu Giây, Núi Gốm, Phú Hòa,
Cái Lăng... từng được H.Fontaine gọi là “vật đeo” (pendeloque) (Fon-
taine, H. 1971), hoặc “bùa đeo” (Lê Xuân Diệm, Phạm Quang Sơn, Bùi
Chí Hoàng, 1991). Trịnh Sinh và cộng sự khi khai quật Cái Lăng gọi
chúng là “bàn mài có lỗ để đeo” (2001). Căn cứ vào tính chất nham
thạch đặc biệt đá cát rất phổ biến ở Đồng Nai, chúng tôi cho rằng đây
là dạng “bùa đá” thì hợp lý hơn (Phạm Đức Mạnh, 1996-2006).
2.3.2. Bàn mài
1 tiêu bản là bàn mài bằng làm từ đá cát mịn màu nâu tìm thấy
trong hố khai quật 07HG-C-H1, quy mô: 12,6cm x 10,5cm x 5,9cm.
Hiện vật có 2 mặt mài lõm, mặt lớn có vết mài lõm sâu 0,4cm, quy mô
11,1 x 6,1cm (chiếm gần hết chiều dài viên đá), cùng một vết mài rãnh
sâu, mặt cắt hình cung tròn, sâu 0,7cm, dài 7,1cm, rộng hai đầu 1,5cm
và 1,9cm (H45).
2.3.3. Đồ đá nhỏ1
4.485 tiêu bản, chủ yếu thu thập trong hố khai quật Hàng Gòn II
(7B) năm 1996 (4.413 tiêu bản = 98,4% tổng số) và chỉ có 72 tiêu bản
= 1,6% thu thập trong các đợt đào thám sát và khai quật năm 2006-
2007 và năm 2010; trong đó, 16/58 hố thám sát năm 2006 chỉ có 12 tiêu
bản (2 đá hoa cương trong hố 06-HG-HTS33 và 9 mảnh cuội trong các
hố 06HG-HTS25-26, 29-30, 38, 55). 12/34 hố khai quật năm 2007 có
61 tiêu bản thu thập chủ yếu quanh di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B)
là khu A (35 tiêu bản gồm 6 đá hoa cương và 29 đá khác; ngoài 1 mảnh
hoa cương ở hố 07HG-A-H13 được xác định là của cột trụ đá F’, sưu
tập đá còn lại thu trong các hố đào 07HG-A-H3 (2 mảnh hoa cương, 3
mảnh sa thạch, 1 đá khác), 07HG-A-H12 (3 mảnh hoa cương, 3 mảnh
sa thạch, 8 đá khác), 07HG-A-H16 (6 mảnh), 07HG-A-H10 (5 mảnh),
các hố 07HG-A-H7, 9, 15 chỉ có 1 đá/hố và các hố 07HG-A-H4-6, 23
1  Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “đá nhỏ” chỉ với ý nghĩa phân biệt chúng với các tấm
đan hay phiến trụ đủ tư cách gọi là “Cự thạch”.
78 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.9 Page 79

▲back to top
chỉ ghi nhận có đá) và khu C (23 tiêu bản với 6 đá hoa cương và 16 đá
khác, trong đó ở hố 07HG-C-H1 có 4 mảnh hoa cương và 7 đá khác, hố
07HG-C-H3 có 2 mảnh hoa cương, 2 đá cát và 1 đá khác, hố 07HG-C-
H12 có 3 đá cát và 3 đá khác, các hố 07HG-C-H2, 4 chỉ ghi nhận có
đá). Ở khu vực khai quật xa hầm đá Cự thạch nhất là khu B chỉ có 3
mảnh đá trong các hố 07HG-B-H1-2, 5.
Vì các sưu tập đá nhỏ phát hiện trong các hố thám sát và khai quật
các năm 2006-2007 chỉ có khảo tả và thống kê một số tiêu bản quan
trọng, trong công trình tổng hợp tư liệu về cả quần thể Cự thạch Hàng
Gòn, chúng tôi tập trung trình bày và phân tích dữ liệu đá nhỏ thu được
ở hố khai quật Hàng Gòn II (7B) năm 1996 (Phạm Đức Mạnh, 1997-
2009). Trong hố khai quật quan trọng này đá nhỏ tập trung phần lớn ở
phần phía Đông của hố đào; trong đó có 299 phế vật của đá hoa cương
cùng loại chất liệu và màu sắc xương hay lớp phủ patine với các tấm
đan trong hố (chiếm tỷ lệ gần 6,8% tổng số hiện vật đá nhỏ), 4.114
phế liệu cuội các loại (chiếm tỷ lệ hơn 93,2% tổng số di vật đá nhỏ thu
thập được).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 79
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

8.10 Page 80

▲back to top
- Đá hoa cương: Đá hoa cương cỡ nhỏ được phát hiện nhiều nhất ở
các khu vực ký hiệu ô d2 và e2-3 (với 281 tiêu bản = 94% tổng số phế
liệu hoa cương thu thập được). Đây là những mảnh tách - mảnh tước
được tạo ra nhờ ghè đập trực tiếp và loại bỏ sau quá trình gia công các
tấm đan hoa cương lớn, và đục đẽo để tạo thêm những đường vát hay
rãnh khuyết trên những phụ kiện của di tích Cự thạch đã miêu tả.
Căn cứ vào phân loại màu sắc chất liệu, chúng chủ yếu thuộc về 2
loại:
+ Hoa cương trắng: 153 tiêu bản = hơn 51% tổng số phế liệu hoa
cương. Trong thống kê chung của chúng tôi, loại này được gọi là loại
A.
Đây là các mảnh vỡ, mảnh tách - tước của đá hoa cương (grano-
diorit) màu xám trắng, loại đá mác-ma xâm nhập thành phần axit trung
tính, có kết cấu mềm, dễ ghè đục, thường lẫn nhiều hạt khoáng vật màu
đen nhạt. Chúng bao gồm nhiều hình dáng và kích thước khác nhau.
Về cơ bản, có thể phân thành 2 kiểu theo hình dạng và kích thước
chung:
Kiểu rộng (tỷ lệ chiều dài/chiều rộng < 2) có 145 tiêu bản = 95%
tổng số hiện vật cùng loại. Phần lớn các tiêu bản thuộc về cỡ nhỏ (có
chiều dài nhỏ từ 10cm trở xuống, trong thống kê chung của chúng tôi,
các tiêu bản này gọi là cỡ 4 và cỡ 5) có 100 tiêu bản = gần 69% tổng số
di vật cùng kiểu. Ngoài ra, còn 44 tiêu bản có chiều dài thuộc cỡ 2 và
cỡ 3 (10-20cm), chiếm tỷ lệ hơn 30,3% tổng số hiện vật cùng kiểu và
chỉ có 1 tiêu bản thuộc về cỡ 1 (hơn 20cm trở lên).
Kiểu hẹp (tỷ lệ chiều dài/chiều rộng > 2) có 8 tiêu bản = hơn 5%
tổng số phế liệu hoa cương cùng loại, các tiêu bản có chiều dài nhất
thuộc về các cỡ 3 và 4 (5-15cm) (H46).
+ Hoa cương xám xanh: Thuộc nham thạch granit-kataclazit hoặc
amfibiotit, loại đá mác-ma xâm nhập axit, bị tác động biến chất nhiệt
động. Hoa cương màu xám xanh thu được 146 tiêu bản trong hố khai
quật, chiếm tỷ lệ gần 49% tổng số phế liệu đá cùng loại ở Hàng Gòn,
được gọi là loại B, trong đó:
80 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9 Pages 81-90

▲back to top

9.1 Page 81

▲back to top
Kiểu rộng có 144 tiêu bản, với 133 tiêu bản (hơn 92%) có chiều
dài từ <10cm, thuộc các cỡ 4 và 5, 11 tiêu bản (gần 8%) có chiều dài
10-15cm, thuộc cỡ 3.
Kiểu hẹp có 2 tiêu bản, thuộc cỡ 5, chiều dài chỉ 5cm (H46).
Hoa cương xám xanh hay xám đen (loại B) khác biệt rất rõ rệt với
hoa cương trắng (loại A) không chỉ ở màu sắc mà chủ yếu ở độ cứng
lớn hơn nhiều. Rất có khả năng nhiều chiếc trong nhóm này, với dạng
gần hình cầu hay khối bầu dục được người xưa sử dụng giống như
những hòn ghè hoặc có chức năng tương tự như một loại búa hay vồ
để đục đẽo đá (?). Ở một số hòn ghè như vậy, khi lấy mẫu vật gửi phân
tích, chúng tôi phải dùng đục sắt và búa tạ mới có thể tách ra được các
mảnh nhỏ. Những chức năng giả định này phần nào được chứng thực
qua nhiều lần thực nghiệm kiểm chứng tại hiện trường Hàng Gòn của
chúng tôi.
- Các dạng đá khác: Ngoài đá hoa cương dễ nhận biết nhất trong
các phế liệu đá Hàng Gòn II (7B), chúng tôi còn thống kê tới 4.114 tiêu
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 81
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.2 Page 82

▲back to top
bản khác, thuộc về các nhóm chịu sự tác động của phong hóa ở mức độ
khác nhau. Một số tiêu bản của sa thạch thường thuộc các nhóm phủ
dày lớp patine nhất ở các bề mặt. Trong thống kê chung, chúng tôi phân
biệt thành 3 nhóm:
+ Vỏ cuội không bị lớp phủ patine thuộc loại C có 394 tiêu bản =
9,6% tổng số di vật đá phế liệu. Đây là các tiêu bản có thể thuộc dạng
cuội suối, thường có xương đá màu xám hoặc đen nhạt, với đặc điểm
lớn nhất của toàn nhóm là gần như hoàn toàn không chịu tác động của
phong hóa, mà còn giữ nguyên vỏ ngoài cuội khá dày màu đen, xám
nâu hoặc nâu sẫm.
Trong các mẫu của nhóm này được phân tích, cuội vỏ đen thường
là đá sừng có kiến trúc biến tinh với cấu tạo khối của thạch anh, epidot
có hocblen; cuội vỏ nâu thường là đá basalt olivin, có cấu tạo khối và
kiến trúc ban trạng; còn cuội vỏ xám nâu là đá basalt olivin có nguồn
gốc mác-ma hoặc đá quaczit có kiến trúc hạt vảy biến tinh, cấu tạo khối
của xerixit, clorit... (H47-48).
82 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.3 Page 83

▲back to top
Chính nhờ không chịu tác động của phong hóa nên vết tích kỹ thuật
còn để lại trên những di vật thuộc dạng cuội suối này rất rõ ràng, căn cứ
vào vết tích ghè đẽo và tu chỉnh nguyên thủy, chúng ta có thể nhận diện
được chắc chắn từng thể loại hiện vật như: Hạch đá, mảnh tước, mảnh
tách, mảnh tước có gia công rìa lưỡi và kể cả một số ít hơn là những
mảnh đá vỡ giống như được tạo ra do va đập hoàn toàn ngẫu nhiên.
Mặt khác, cũng nhờ phân tích vết tích kỹ thuật ghè đẽo, đập, đục
còn để lại ở từng dạng di vật của nhóm này, chúng ta có thể quy chiếu,
phân loại toàn sưu tập còn lại, các dạng phế liệu chịu tác động phong
hóa ở nhiều mức độ khác nhau. Điều quan trọng nhất là, nhờ chúng,
toàn bộ phế liệu đá không phải mảnh hoa cương ở Hàng Gòn II (7B)
thu thập được trong mùa khai quật, thám sát khảo cổ học năm 1996
không phải là “lớp đá dăm” bị bể vỡ ngẫu nhiên như phỏng đoán của
một số nhà nghiên cứu kỹ thuật chế tác đá cổ, mà chính là tàn tích vật
chất do bàn tay người thợ đá Hàng Gòn tạo ra từ nguyên thủy và cũng
bị thải bỏ sau quy trình chế tác đá nhỏ tại đây.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 83
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.4 Page 84

▲back to top
Những vết tích của quá trình gia công ghè đẽo tạo nên toàn nhóm
mảnh này chủ yếu là ghè đẽo trực tiếp, một số tiêu bản có gia công lần
thứ hai còn mang vết ghè và tu chỉnh gián tiếp, những đặc điểm kỹ
thuật từng thể hiện trong các di tích xưởng thủ công chế tác đá Đông
Nam Bộ có tuổi nguyên thủy hơn thời đại của chủ nhân quần thể di tích
Cự thạch Hàng Gòn rất nhiều; ví như, trong các di chỉ xưởng được coi
là khởi đầu cho truyền thống văn hóa kỹ thuật tiền sử, sơ sử Đồng Nai
như Cầu Sắt (xã Bình Lộc, thành phố Long Khánh) và Suối Linh (xã
Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu) (H49)...
Vì tầm quan trọng của toàn nhóm phế liệu, chúng tôi sẽ tiến hành
nghiên cứu giám định và phân tích thống kê kỹ lưỡng ở tầm mức chuyên
khảo riêng về kỹ nghệ chế tác đá nguyên thủy Đông Nam Bộ thể hiện
trong những công xưởng chế tạo công cụ lao động, vũ khí chiến đấu,
đồ trang sức bằng nham thạch bản địa thời tiền sử, sơ sử, với những
tiêu chí kỹ thuật đặc thù của cả miền văn hóa này xét trong bình diện
84 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.5 Page 85

▲back to top
Đá mới - Kim khí Việt Nam và khu vực. Ở đây, trong chuyên khảo về
Cự thạch, chúng tôi chỉ ghi nhận bước đầu mối liên quan của nhóm phế
liệu cuội có gia công với di tích Đá lớn trong quan hệ địa tầng như
những bằng chứng văn hóa vật chất bản địa “tại chỗ” (in situ; in site)
chính trên mảnh đất mà chủ nhân văn hóa tiền sử, sơ sử Đồng Nai lựa
chọn để kiến thiết mộ phần thủ lĩnh.
Trong toàn nhóm cuội C, chúng tôi chỉ phân biệt các phế liệu đá
loại này thành 2 kiểu:
Kiểu rộng có 344 tiêu bản = 87,3% tổng số cuội cùng loại, trong
đó chỉ có 8 tiêu bản thuộc cở 3 (chiều dài nhất 10-15cm); đại đa số còn
lại (336 tiêu bản = gần 97,7% tổng số phế liệu cuội cùng kiểu) có kích
thước nhỏ từ 10cm trở xuống (thuộc các cỡ 4 và 5).
Kiểu hẹp có 50 tiêu bản = gần 0,7% tổng số hiện vật cùng loại, chủ
yếu có chiều dài thuộc cỡ 4 và cỡ 5 (nhỏ <10cm).
Ngoài dạng cuội suối dễ nhận diện vỏ ngoài nhất, trong tổng thể
phế liệu đá khác ở Hàng Gòn II (7B), chúng tôi còn thống kê nhiều
nhóm cuội chịu tác động của phong hóa ở nhiều mức độ nên lớp phấn
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 85
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.6 Page 86

▲back to top
phủ ngoài có bề dày và màu sắc rất khác nhau: Vàng nhạt và vàng đậm
giống như màu nghệ, xám trắng hay trắng đục, xanh lục sáng và xanh
lục sẫm, nâu nhạt hay nâu đậm... Những lớp phấn phủ do tác động của
phong hóa này hiển nhiên là chỉ thị các loại đá khác nhau của toàn
nhóm. Ở đây, để tiện cho phân loại và khảo tả, chúng tôi phân thành 2
nhóm lớn:
+ Đá cuội có lớp phủ phong hóa sáng màu được phân loại D trong
thống kê chung của chúng tôi. Loại này có lớp phủ patine chủ yếu
màu xanh lục sáng; ngoài ra, còn một ít tiêu bản mang màu vàng nhạt,
vàng nghệ, xám trắng hay trắng đục... Phân tích thạch học ghi nhận
các mảnh nham thạch có lớp phấn patine phủ ngoài màu vàng đậm hay
gần như màu nghệ thường là đá mác-ma phun trào trung tính á kiềm -
trachit daxit porfia, hay garbro (garbronorit) có cấu tạo khối; đá có lớp
vỏ phong hóa màu vàng nhạt là đá sừng có cấu tạo khối trạng với kiến
trúc hạt biến tinh hoặc đá với kiến trúc granofir, hay đá microdiorit có
kiến trúc porfir nền vi hạt, đã bị biến đổi nhiệt dịch mạnh; đá có vỏ màu
vàng ngả nâu sáng là fenzit porfir, có kiến trúc ban trạng, nền fenzit
porfir (phun trào axit); đá có vỏ màu nâu nhạt là đaxit porfir có nguồn
gốc mác-ma (phun trào axit); các mảnh có vỏ ngoài xanh lục ở các sắc
độ sáng khác nhau thường là đá cấu tạo khối với kiến trúc ban trạng
(andezit porfirit - microdiorit porfirit bị biến đổi mạnh, tái kết tinh) hay
kiến trúc forfir (tuf andezit biến đổi - andezit daxit (họng) hay micro-
diorit bị biến đổi nhiệt dịch tiếp xúc, giàu quặng).
Một số tiêu bản cát kết tuf giống như đá bọt có nguồn gốc trầm
tích núi lửa với lớp vỏ phong hóa mầu xám trắng, trắng đục hoặc xám
ximăng có mặt thủng lỗ chỗ...Thuộc nhóm này, chúng tôi thống kê
chung tới 1.449 tiêu bản, chiếm tỷ lệ gần 32,9% tổng số hiện vật đá thu
thập được, trong đó:
Kiểu rộng có 1.259 tiêu bản = gần 86,9% tổng số di vật cuội cùng
loại.
Kiểu hẹp có 190 tiêu bản = hơn 13,1% tổng số phế liệu cuội cùng
loại.
86 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.7 Page 87

▲back to top
Ở cả hai kiểu này, phần lớn phế liệu cuội có chiều dài nhất thuộc về
cỡ 4 và cỡ 5 (chiều dài <10cm), với 1.415 tiêu bản = gần 97,7% tổng
số hiện vật cùng loại. Chúng tôi chỉ thu được 34 tiêu bản thuộc về cỡ 3
(chiều dài dao động trong khoảng 10-15cm) (H50).
+ Đá cuội có lớp phủ phong hóa sẫm màu là dạng đá có số lượng
lớn nhất trong tổng thể phế liệu đá thu thập được trong hố khai quật
Hàng Gòn II (7B), chúng được tính chung vào nhóm E, với tất cả 2.271
tiêu bản, chiếm tỷ lệ tới gần 51,5% tổng số di vật đá các loại, được chia
thành hai kiểu:
Kiểu rộng có 1.999 tiêu bản chiếm tỷ lệ hơn 88% tổng số phế liệu
cuội cùng loại.
Kiểu hẹp có 272 tiêu bản chiếm tỷ lệ gần 12% tổng số hiện vật đá
cùng loại.
Ở cả hai kiểu này, đại đa số tiêu bản là mảnh phế liệu cuội có chiều
dài nhỏ < 10cm, thuộc các cỡ 4 và 5, với 2.241 di vật = gần 98,7% tổng
số hiện vật đá cùng loại. Chỉ thu được 29 tiêu bản thuộc các cỡ 2-3 và
1 tiêu bản thuộc cỡ lớn nhất ở di tích Hàng Gòn II (chiều dài nhất
20cm) (H51).
Đá cuội có lớp phủ
phong hóa sẫm màu
thường có vỏ bột phấn
rất dày màu nâu đậm
hay màu xanh lục sẫm.
Đây là các dạng đá cát
kết tuf có nguồn gốc
núi lửa biến chất với
xương đá xám xanh lục
có nhiều chấm khoáng
vật đen hoặc các dạng
đá basalt, basalt olivin,
dolerit diabaz có cấu tạo khối hoặc hạnh nhân, kiến trúc porfir (ban
trạng), nền dolezit...
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 87
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.8 Page 88

▲back to top
Cũng như nhóm cuội loại C, những mảnh tước, mảnh tách và hạch
đá của cả hai loại D và E sẽ được chúng tôi nghiên cứu và giải mã cụ
thể trong chuyên khảo riêng về kỹ nghệ chế tác đá tiền sử và sơ sử
Đông Nam Bộ với các tiêu chí tái dựng đặc thù và có thể khác nhiều tổ
hợp cuội gia công thường gặp cùng thời đoạn lịch sử này ở Việt Nam
và khu vực.
Về thống kê cụ thể kích thước của từng chủng loại phế liệu đá,
cũng như phân bố của từng kiểu nhóm thu thập được trong phạm vi hố
khai quật Hàng Gòn II (7B) mùa điền dã năm 1996, chúng ta có thể
theo dõi Tổ chức đồ (H52) và các bảng thống kê tổng hợp theo ô khai
quật và theo chiều dài mẫu vật... (Bảng III-IV).
Bảng III. HÀNG GÒN II (7B), PHẾ LIỆU ĐÁ THỐNG KÊ
THEO KÍCH THƯỚC (chiều dài nhất)
LOẠI
KIỂU
CỠ 1
>
20cm
2
> 15-
20cm
3
> 10-
15cm
4
5
5-
10cm
< 5cm
TỔNG SỐ
Rộng 1
A
Hẹp
11 33
4
82 18 145
153
4
8
Rộng
B
Hẹp
11 84 49 144
146
2
2
Rộng
C
Hẹp
8 175 161 344
394
1
23 26 50
Rộng
D
Hẹp
27 347 885 1259
1449
7
66 117 190
Rộng 1
E
Hẹp
4 23 577 1394 1999
2271
2 133 137 272
TỔNG SỐ
2
15 116 1491 2789
4413
88 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.9 Page 89

▲back to top
Bảng IV. HÀNG GÒN II (7B), PHẾ LIỆU ĐÁ THỐNG KÊ
THEO Ô KHAI QUẬT
a
b
c
d
Ô
e
TỔNG
LOẠI 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3 SỐ
A
1
1 6 73 2 4 29 37 153
B
2
3 102 32 1 1 5 16
C
1
3 1 7 22 8 182 40 59 64 7 394
D 4 3 1 5 9 13 23 79 83 120 235 98 383 145 248 1449
E 14 4 14 4 6 13 122 262 131 219 465 321 308 179 209 2271
TỔNG
SỐ
18
8
15 9 15 29 147 350 237 356 1057 493 755 1057 493
4413
Trong các đợt đào lớn năm 2006-2007 và thám sát năm 2010, đá
phế liệu tập trung chủ yếu gần khu di tích Hàng Gòn II (7B) và phát
triển gần phía hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn I (7A) trong các hố khai
quật 07HG-A-H3-7, 9-10, 12-13, 15. Theo các báo cáo khai quật, chỉ
có một số tiêu bản đá được thu về để chỉnh lý và phân tích thạch học.
Một số khác là phế liệu của công trường chế tác đá còn giữ nguyên
tại hiện trường, nhằm phục vụ cho việc trưng bày ngoài trời sau này.
Trong số hiện vật đá được ghi nhận, phần lớn là những mảnh vỡ không
định hình, mảnh tách trong quá trình chế tác những tấm đan và cột đá.
Các nhà khai quật đặc biệt chú ý đến hai nhóm hiện vật xuất hiện nhiều
ở các hố khai quật thuộc khu C, gồm: Nhóm 1 có khoảng 30 viên đá có
hình dáng gần với mu rùa (16 tiêu bản) hay hình bán cầu, tuy bị phong
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 89
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

9.10 Page 90

▲back to top
hóa nhiều nhưng vẫn thấy những vết ghè đẽo chế tác tạo dáng (đường
kính từ 10-15cm, cao 5,5-6,0cm) và Nhóm 2 có 8 tiêu bản ghè hình
cầu (đường kính 7-10cm) có thể được sử dụng như công cụ ghè đập đá
hoặc các con lăn để di dời những phiến đá nặng. Ngoài ra, còn 1 tiêu
bản hoa cương có thể là đầu cột ký hiệu B (theo H.Parmentier, 1929), 1
tiêu bản granit và 2 tiêu bản đá cát có vết mài nhẵn hình sóng trâu hoặc
hình chữ nhật, cùng một số tiêu bản vỡ nhỏ không định hình được các
nhà khai quật cho là “phế liệu hoặc mảnh vỡ trong quá trình chế tác
và vận chuyển các tấm đan và cột đá” (Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị
Hoài Hương, 2008).
Bảng V. PHẾ LIỆU ĐÁ THỐNG KÊ Ở HÀNG GÒN (2006-
2007 và 2010)
TT Chất liệu Màu sắc
Hình
dáng
KÝ HIỆN
DI VẬT
KÍCH THƯỚC (cm)
Ghi
Đường
kính
Dài
Rộng
Dầy
chú
1 Granit
Đầu cột 07HG-A-H13
43
38
31
Mảnh
Trụ B
2 Granit Xám trắng Chữ nhật 07HG-A-H12-21
10,6 6,5
6,5
Mài
nhẵn
3 Granit, thô Đen
Mu rùa 07HG-C-H1-3 10,1 4,5
4
Granit, hạt
vừa
Trắng đen
Mu rùa
07HG-C-H1-5
9,4 7,2 4,2
5 Granit Xám trắng Mu rùa 07HG-A-H3-3
8,8 2,6
6 Granit Xám trắng Mu rùa 07HG-A-H3-6
8 2,1
7 Granit Trắng đen Bán cầu 07HG-C-H1-7 8,1 5,1
8 Granit, thô Trắng đen Cầu
07HG-C-H1-6 7,1
90 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10 Pages 91-100

▲back to top

10.1 Page 91

▲back to top
9 Granit, thô Trắng đen Cầu 07HG-A-H12-20 8,5
10 Sa thạch Xám Mu rùa 07HG-A-H12-18 11,3 4,8
11 Sa thạch Xám xanh Mu rùa 07HG-A-H3-4
7,7 3
12 Sa thạch Xám xanh Mu rùa 07HG-A-H3-5
7,4 6,2 2
13 Sa thạch Xám xanh Bầu dục 07HG-A-H12-9
10 8,2 5,2
14 Sa thạch Xám Bầu dục 07HG-A-H12-19
10 8,2 3,6
15
Sa thạch
Xám xanh
Không
định hình
07HG-C-H1
16 Sa thạch
Nâu
Không
định hình
07HG-A-H3-1
17
Andesit,
mịn
Xám trắng
Mu rùa
07HG-C-H1-1
38 24
11,7 9,1
6,5
Mài
nhẵn
11 5,4
18 Basalt Xanh đen Mu rùa 07HG-C-H1-4 11,4 5,1
19 Basalt Xám xanh Bầu dục 07HG-A-H3-2
11,2 8,9 5,2
20 Basalt
Xám Bầu dục 07HG-A-H12-12
9,2 7,3 3,3
21 Basalt
Xám Bầu dục 07HG-A-H12-15
12,6 10,2 8,4
22 Mịn Xám xanh Bầu dục 07HG-C-H1-2
10 8,9 4,5
23
Granit
Xám trắng
Không
định hình
10HG-HTS2
21 17,5 9,8 2010
Nguồn: Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 91
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.2 Page 92

▲back to top
Bảng VI. THỐNG KÊ TỔNG THỂ HIỆN VẬT HÀNG GÒN
1996-2010
LOẠI HÌNH
SỐ
LƯỢNG
(tiêu bản)
TỶ LỆ
(%)
DI TÍCH Tấm đan hoa cương
CỰ
Cột trụ sa thạch
THẠCH Cuội lớn
5
2
0,07
1
Tù và
Đồ đồng
Mảnh - cục
2
0,03
2
Miệng
469
DI VẬT Đồ gốm
KHẢO
CỔ
KHÁC
Thân
Đế
Quai
Vật đeo
trơn
có hoa văn
5891
112
61,5
707
2
1
Bàn mài
Đồ đá nhỏ
Hoa cương
loại A & B
1
38,4
314
Cuội các loại loại C, D & E 4171
TỔNG SỐ
11.680 100
Nguồn
Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, 2006;
Nguyễn Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị
Hoài Hương, 2008; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010-
2011
92 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.3 Page 93

▲back to top
Bảng VII. THỐNG KÊ TỔNG THỂ HIỆN VẬT HÀNG GÒN
1996-2010
Đá
Đồng
Gốm
Năm
điền
Hố
đào
bazan,
Thân
Vật
đeo
Bàn
mài
Hoa
cương
andesit
sừng,
Cộng
mảnh
- cục
đá cát
Miệng
trơn
văn
Đế
quai Cộng
HKQ
1996 HGII
(7B)
299 4114 4413
2 6 12 4 2
24
2006
16/58
HTS
1
2 9 12 2
59 614 17 50
740
2007
- khu
A
16/24
HKQ
2007
- khu
B
2/5
HKQ
2007
- khu
C
6 29 >35
3 >3
1 6 16 >23
375 5093 75 655 2 6200
27 169 15
211
13
4
2010
HTS
1&2
1
1
1
1
2
Cộng 1 1 314 4171 4487 2 2 469 5891 112 707 2 7181
Tỷ lệ (%)
4487/11.672 = 38,44%
4/11.672
= 0,04%
7181/11.672 = 61,52%
Nguồn
Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, 2006; Nguyễn
Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương,
2008; Phạm Đức Mạnh, 2010; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân,
2010-2011
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 93
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.4 Page 94

▲back to top
Chương V.
KẾT QUẢ GIÁM ĐỊNH THỔ NHƯỠNG,
MẪU VẬT Ở HÀNG GÒN VÀ VÙNG PHỤ CẬN
TỪ NĂM 1996-2011
1. Phân tích bào tử phấn hoa ở Hàng Gòn và vùng phụ cận
Trong vùng địa hình đất bazan phong hóa đặc trưng của cả Nam
Tây.
94 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.5 Page 95

▲back to top
Nguyên và miền Đông Nam Bộ, hiển nhiên khả năng bảo tồn phấn
hoa và bào tử không cao như miền thấp và sình lầy cận biển, trước hết
vì độ bào mòn bề mặt cường độ mạnh và độ thẩm thấu rất cao của thổ
nhưỡng. Trong nền cảnh địa hình sinh thái chứa đựng các di tích văn
hóa tiền sử và sơ sử miền cao Nam Bộ, khu vực phát triển huyền vũ
nham trẻ từ Tây sang Đông gồm cả vùng cao nguyên Xuân Lộc - Lộc
Ninh (cao độ 150-200m) có bề mặt nằm ngang khá bằng phẳng hoặc
nghiêng thoải nhấp nhô lượn sóng với các rãnh xâm thực sâu 10-20m
và mạng suối dạng tỏa tia phát triển trên nền đá gốc bazan phong hóa
dạng bóc vỏ, tầng đất đỏ dày 10-16m với tuổi thành tạo cuối Pleis-
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 95
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.6 Page 96

▲back to top
tocène sớm (Phạm Hùng, 1978; Nguyễn Ngọc, Phạm Hùng, 1984).
Chúng tôi tiến hành lấy hệ thống mẫu đất phân tích để góp thêm tư liệu
tìm hiểu thành phần thực vật, cấu trúc địa tầng, phác thảo cảnh quan
thiên nhiên và cổ môi trường sống của cư dân miền cao Nam Bộ thời
tiền sử và sơ sử.
1.1. Các mẫu thổ nhưỡng
1.1.1. Di tích Hàng Gòn 7 (A, B)
10 mẫu đất trong cả hai hố thám sát giám định và phân tích bào tử
phấn hoa tại Viện Khảo cổ học và Viện Địa chất thu thập lần lượt từ
đáy sinh thổ trở lên bề mặt (cách nhau từng phân lớp khoảng 20-30cm),
với màu sắc trầm tích được nhận dạng bằng mắt thường từ dưới lên
theo Bảng màu đất chuẩn (Standard Soil Color Charts) của Masatada
Oyama và Hideo Takehara, 1996 và kiểm chứng qua Colour Chart,
2006 (H53).
Các mẫu đều có kết cấu xốp nhẹ, mịn, màu nâu đỏ sẫm, ẩm và ở
Hàng Gòn II (7B) đều bảo lưu bào tử (20 hạt) và phấn hoa (65 hạt),
trong đó:
Thành phần hạt phấn hoa và bào tử được bảo tồn tốt nhất trong
trầm tích ở Hàng Gòn I (7A) với 56 hạt (chiếm 65,9% tổng số hạt
ở Hàng Gòn) bao gồm: Bào tử ngành dương xỉ (Polypodiophyta) có
Polypodiaceae gen. indet (5 hạt) và Polypodium sp. (2 hạt); ngành
thông đất (Licopodiophyta) có Lycopodium sp. (1 hạt) và Lygodium
sp. (2 hạt); của thực vật thân gỗ hạt trần như Dicksonia sp. (2 hạt) và
của Triletes sp. (5 hạt).
Phấn hoa của thực vật thân gỗ chủ yếu là các đại diện của hạt trần
như: Quercus sp. (họ sồi dẻ) (1 hạt), Sequoia sp.n (chi bụt mọc) (1 hạt).
Phấn hoa của thực vật thân thảo có Chenopodium sp. (1 hạt),
Compositae gen. indet (họ cúc) (3 hạt), Pilea sp. (1 hạt), Poaceae
gen. indet (họ hòa thảo) (22 hạt) và các loài như Carex sp. (1 hạt),
Coniogramme sp. (1 hạt), Disitaria sp. (4 hạt), Flagellaria sp. (1 hạt),
96 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.7 Page 97

▲back to top
Ophiopogon sp. (1 hạt), Solanaceae gen. indet (1 hạt) và Umbelliferae
gen. indet (1 hạt).
Riêng các mẫu M4 (13 hạt) và M5 (33 hạt) bảo lưu lượng bào tử và
phấn hoa nhiều hơn, có thể điều kiện ẩm ướt ở đây giúp hạt phấn được
bảo tồn tốt hơn. Chúng đều là di tích của các loài thực vật nhiệt đới ưa
nóng ẩm và ôn đới ấm.
Ở trầm tích Hàng Gòn II (7B), số lượng hạt bào tử và phấn hoa bảo
tồn ít hơn, với thành phần rất nghèo và kém đa dạng, trong đó:
Bào tử ngành dương xỉ (Polyodiophyta) có Polypodiaceae gen.
indet (1 hạt), ngành thông đất (Licopodiophyta) có Lycopodium sp. (1
hạt) và Lygodium sp. (1 hạt). Phấn hoa thực vật thân bụi có Myrica sp.
(1 hạt) và thực vật thân thảo có Amaranthaceae gen. indet (họ rau dền)
(1 hạt), Compositae gen. indet (họ cúc) (3 hạt), Eriocaulon sp. (2 hạt),
Poaceae gen. indet (họ hòa thảo) (13 hạt) và của các loài như Flagellaria
sp. (2 hạt), Leleba sp. (3 hạt) và Polygala sp. (1 hạt) (H55A-C).
Đây là các giống loài thực vật nhiệt đới, cận nhiệt đới. Theo các
nhà phân tích, thực vật thân gỗ không tìm thấy trong trầm tích Hàng
Gòn II (7B) đã ghi nhận khu vực lấy mẫu rất thoáng đãng và không có
cây gỗ lớn.
1.1.2. Di tích Cầu Sắt
4 mẫu đất sét với kết cấu từ tơi xốp đến mịn chặt, màu nâu đỏ nhạt
đến sẫm đều bảo lưu bào tử (9 hạt) và phấn hoa (38 hạt), trong đó:
Bào tử ngành dương xỉ (Polypodiophyta) có Polypodiaceae gen.
indet (2 hạt) và Polypodium sp. (1 hạt); ngành thông đất (Licopodiophyta)
có Lycopodium sp. (2 hạt) và Lygodium sp. (1 hạt); của thực vật thân
gỗ hạt trần như Dicksonia sp. (1 hạt), của Osmunda sp. (1 hạt) và của
Triletes sp. (1 hạt).
Phấn hoa của thực vật thân gỗ chủ yếu là các đại diện của hạt trần
như: Quercus sp. (họ sồi dẻ) (1 hạt), Sequoia sp. (chi bụt mọc) (2 hạt).
Phấn hoa của thực vật thân bụi có Rubiaceae gen.indet (họ cà phê) (3
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 97
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.8 Page 98

▲back to top
hạt). Phấn hoa của thực vật thân thảo có Compositae gen. indet (họ cúc)
(4 hạt), Eriocaulon sp. (2 hạt), Leguminosae gen. indet (bộ đậu) (3 hạt),
Pilea sp. (3 hạt), Poaceae gen. indet (họ hòa thảo) (11 hạt), Bromus
sp. (Poaceae) (1 hạt) và các loài như Albizia sp. (1 hạt), Lecanthus sp.
(Urticaceae) (1 hạt), Leleba sp. (2 hạt), Myrtus sp. (1 hạt), Pterocarya
sp. (1 hạt), Sapindus sp. (1 hạt) và Solanaceae gen.indet (1 hạt).
Đây là di tích của các loài thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới (một số hạt
phấn của thực vật ôn đới) (H54-55).
1.1.3. Di tích Suối Chồn
Các mẫu đất sét ẩm màu nâu và nâu đỏ cũng đều bảo lưu bào tử (8
hạt) và phấn hoa (41 hạt), trong đó:
Bào tử ngành dương xỉ (Polypodiophyta) có Polypodiaceae gen.
indet (1 hạt) và Polypodium sp. (3 hạt); ngành thông đất (Licopodiophyta)
có Lycopodium sp. (2 hạt) và của Triletes sp. (2 hạt).
Phấn hoa của thực vật thân gỗ chủ yếu là các đại diện của hạt
trần như: Quercus sp. (họ sồi dẻ) (1 hạt), Sequoia sp. (chi bụt mọc)
(2 hạt) và Magnolia sp. (2 hạt). Phấn hoa của thực vật thân bụi có
Rubiaceae gen.indet (họ cà phê) (2 hạt). Phấn hoa của thực vật thân
thảo có Compositae gen. indet (họ cúc) (4 hạt), Leguminosae gen. indet
(bộ đậu) (1 hạt), Poaceae gen. indet (họ hòa thảo) (23 hạt), của Palmae
gen.indet (họ cọ cau) (1 hạt) và các loài như Alternanthera sp. (2 hạt),
Burmania sp. (1 hạt), Leleba sp. (3 hạt).
Đây là di tích của các loài thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới. (H54-55).
1.1.4. Di tích Long Giao
Ở chân đồi 57 (thị trấn Long Giao, huyện Cẩm Mỹ), 1 mẫu đất
màu nâu đỏ kết cấu mịn, xốp, còn bảo lưu 3 hạt bào tử của ngành
dương xỉ (Polypodiophyta) - Polypodium sp. (1 hạt) và ngành thông
đất (Licopodiophyta) - Lycopodium sp. (1 hạt) và của Triletes sp. (1
hạt), cùng 11 hạt phấn hoa của thực vật thân thảo như Pilea sp. (2
hạt), Poaceae gen. indet (họ hòa thảo) (4 hạt) và Polygonum sp. (4 hạt)
(H54-55).
98 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.9 Page 99

▲back to top
1. 2. Nhận xét chung
Nhìn chung, các mẫu ở Hàng Gòn và vùng phụ cận Long Khánh,
Xuân Lộc, Cẩm Mỹ đều có thành phần hạt phấn và bào tử tương tự
nhau, trong đó bào tử của dương xỉ bao gồm các đại diện: Lycopodium
sp., Polypodium sp., Triletes sp., Polypodiaceae gen. indet.; thực vật
thân bụi có: Myrica sp., Rubiaceae gen indet., Myrica sp.; thực vật thân
thảo có: Poaceae gen. indet., Compositea gen. indet., Eriocaulon sp.,
Chenopodium sp., Amaranthaceae gen. indet., Pilea sp.; phấn hoa thực
vật thân gỗ chủ yếu là: Magnolia sp., Quercus sp và một số đại diện của
hạt trần: Sequoia sp., Dicksonia sp., Quercus sp.
Có thể thấy hệ thực vật ở đây chủ yếu là dương xỉ, cây thân thảo và
cây bụi, cây gỗ rất ít và chủ yếu là các cây thuộc lớp hạt trần và chúng
là những thực vật nhiệt đới, ưa nóng ẩm và ôn đới ấm. Thêm vào đó,
hầu hết các mẫu trầm tích đều là loại xốp, mịn; có màu đỏ và nâu đỏ là
loại đất đặc trưng trầm tích đồi, lượng hữu cơ lưu giữ trong trầm tích
rất ít. Với điều kiện như vậy, hạt phấn rất khó được bảo tồn, đây có thể
là lý do số lượng hạt phấn và bào tử trong các mẫu không nhiều.
Những trầm tích vùng đất đỏ bazan Long Khánh và phụ cận thuộc
tỉnh Đồng Nai chứa di tích bào tử và phấn hoa đã nêu có thể đối sánh
với các tập hợp mẫu được phân tích trong các miền địa hình kế cận ở
Nam Bộ (Bình Phước, An Giang) và trên đất cao nguyên Tây Nguyên
(Lâm Đồng, Kon Tum) mới đây (Bảng VIII-IX).
Ở miền Đông Nam Bộ, trong địa phận di tích thành đất đắp hình
tròn An Khương (huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước) và Lộc Tấn 2
(huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước), TS. Nguyễn Trung Đỗ đã tiến
hành lấy 15 mẫu đất gửi Phòng Thí nghiệm Liên đoàn Địa chất Thủy
văn - Địa chất công trình miền Nam để phân tích hàm lượng pH. Kết
quả ghi nhận đất đỏ bazan trẻ Bình Phước chỉ thị chất đất acide mạnh
từ chua (1 mẫu An Khương có độ pH 5.1 và 10 mẫu An Khương độ pH
dao động 3.96-3.62) đến hơi chua (4 mẫu Lộc Tấn có độ pH dao động
4.38-4.18) (Nguyễn Trung Đỗ, 2002).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 99
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

10.10 Page 100

▲back to top
Trong điều kiện đất nhiễm acide tương tự, TS. Nguyễn Trung Đỗ
cũng lấy thêm 12 mẫu đất trên các vách hố đào An Khương và Lộc
Tấn 2 gửi tới Phòng Thí nghiệm Cổ sinh - Địa tầng (Viện Địa chất và
Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội) để xử lý theo quy trình mẫu trầm tích
Đệ Tứ, phân tích khả năng chứa bào tử phấn hoa.
Trong tập hợp mẫu An Khương, ngoài 1 mẫu đất nâu đen (AK4
- sâu 220cm) không có bào tử phấn hoa, 7 mẫu còn lại gồm 3 mẫu
là đất màu nâu đen, kết cấu hạt mịn bở rời (AK1 - sâu 40cm, AK5
- sâu 40cm; AK6 - sâu 90cm), 4 mẫu là đất đỏ bazan, cấu trúc hạt
mịn (AK2 - sâu 90cm, AK3 - sâu 140cm, AK7 - sâu 140cm, AK8 -
sâu 220cm) chứa bào tử Polypodium sản phẩm thuộc họ dương xỉ
(3 hạt) và phấn hoa các loài như: Asteaceae thuộc họ cúc (6 hạt),
Chenopodiaceae thuộc họ rau muối (16 hạt), Malvaceae thuộc
họ bông (3 hạt), Oenothera sp thuộc họ rau mương (4 hạt), Poa-
ceae thuộc họ hòa thảo (9 hạt), Pteris sp thuộc họ chi ráng (1 hạt),
Rununlaceae thuộc họ mao cân (1 hạt), Thymelaceae thuộc họ dó (3
hạt), Thypha sp thuộc họ hòa thảo (1 hạt).
Trong tập hợp mẫu Lộc Tấn 2, hai mẫu đất nâu đen kết cấu hạt
mịn (LT2-13 - sâu 20cm; LT2-14 - sâu 70cm) và hai mẫu đất đỏ
bazan kết cấu hạt mịn (LT2-15 - sâu 120cm, LT2-16 - sâu 190cm) có
chứa bào tử Polypodium thuộc họ dương xỉ (3 hạt) và phấn hoa các
loài như: Asteaceae thuộc họ cúc (2 hạt), Chenopodiaceae thuộc họ rau
muối (21 hạt), Poaceae thuộc họ hòa thảo (5 hạt), và bào tử phấn hoa
không xác định (1 hạt). Theo nhận xét của nhà phân tích, tập hợp mẫu
ở cả hai di tích này chủ yếu là thự vật Holocene. Màu sắc đất cũng như
sự phân bố đồng đều của hạt phấn theo độ sâu của địa tầng chứng tỏ
khu vực này không có sự biến động lớn về môi trường và khí hậu. Mặt
khác, bào tử các loài thuộc họ và ngành dương xỉ thu được ít cũng xác
thực khí hậu vùng này khô và nóng không thích hợp với sự sinh trưởng
và phát triển của loại cây này (Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Văn Hải,
Phạm Quỳnh Anh, 2001).
100 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11 Pages 101-110

▲back to top

11.1 Page 101

▲back to top
Bảng VIII. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hàng Gòn và
vùng phụ cận
HẠT
Dicksonia sp.
HÀNG GÒN CẦU SUỐI LONG Tổng Tỷ lệ
I (7A)
II
(7B)
SẮT CHỒN GIAO
số
(%)
21
3 1,5
Lycopodium sp.
1 12 2
1 7 3,6
Lygodium sp.
1 21
42
BÀO Osmunda sp.
1
TỬ
Polypodiaeceae gen. Indet 1 5 2 1
1 0,5
9 4,6
Polypodium sp.
21 3
1 7 3,6
Triletes sp.
51 2
1 9 4,6
Albizia sp.
1
1 0,5
Amaranthaceae
1
1 0,5
Alternanthera sp.
2
21
Burmania sp.
1
1 0,5
Carex sp.
1
1 0,5
Quercus sp.
PHẤN
HOA Chenopodium sp.
11 1
1
3 1,5
1 0,5
Compositae gen. Indet
3 34 4
14 7,2
Coniogramme sp.
1
1 0,5
Digitaria sp.
4
42
Eriocaulon sp.
2
2
42
Flagellaria sp.
21
3 1,5
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 101
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.2 Page 102

▲back to top
Lecanthus sp. (Urticaceae)
1
Leguminosae gen. Indet
31
Leleba sp.
3
23
Magnolia sp.
2
Morus sp.
Myrica sp.
1
Myrtus sp.
1
Ophiopogon sp.
1
Palmae gen. Indet
1
Pilea sp.
13
Poaceae gen. Indet
13 22 11 23
Poaceae (Bromus sp.)
1
Polygala sp.
1
Polygonum sp.
Pterocarya sp.
1
Rubiaceae gen. Indet
32
Sapindus sp.
1
Sequoia sp.
12 1
Solanaceae gen. Indet
11
Umbelliferae gen. Indet
Tổng
số
Tỷ lệ
(%)
1
29 56 47 49
85/195 = 43,6 24,1 25,1
1 0,5
42
84
21
1 1 0,5
1 0,5
1 0,5
1 0,5
1 0,5
2 63
4 73 37,4
1 0,5
1 0,5
4 42
1 0,5
5 2,6
1 0,5
42
21
1 0,5
14 195 100
7,2 100
102 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.3 Page 103

▲back to top
Trong địa tầng chứa di tích khảo cổ học Lung Leng bên bờ Bắc
sông Krong Poko thuộc tiểu vùng địa lý đồi núi thấp Sa Thầy kế vùng
trũng Kon Tum, với các mức laterite (tuổi Late Pleistocene) và phù sa
(tuổi Holocene), các nhà khảo cổ học đã tiến hành lấy 44 mẫu đất ở các
vị trí khác nhau (năm 1999: 1,5-2,6m: Đất cát vàng loang lổ sét xanh
laterite (M1-6), 1-1,5m: Tầng văn hóa sét đen nhạt kết dính yếu (M7-
9), 0,5-1m: Lớp mặt phù sa đen đậm (M10-11), mộ 3: Đất vàng đậm
(M12); năm 2001: Hố B1: 0,34-0,1m có 4 mẫu, Hố C7: 0,55-0,25m có
13 mẫu, Hố I 6: 1,3-1,56m có 4 mẫu, C12: 2,06-2,73m có 6 mẫu, Hố
O2: 0,98-1,04m có 5 mẫu) để phân tích tại Viện Nghiên cứu Địa chất
Khoáng sản.
Kết quả ghi nhận, trong hệ thống mẫu 1999, các mẫu lấy trong tầng
laterite hóa niên đại Pleistocene (M1-6) không có bào tử phấn hóa (có
thể do đất phong hóa dữ dội phá hủy cấu trúc vỏ). 6 mẫu M7-11 phong
phú với tập hợp phấn hoa chủ yếu của cây thân gỗ như thông (Pinus
sp.), thầu dầu (Euphorbiaceae), cà phê (Rubiaceae), bông (Malvaceae),
một số loài cây thân thảo như: Cúc (Compositae), lúa (Poaceae), dương
xỉ (Polypodiaceae), quyển bá (Selaginella), mẫu 12 còn có Amarantha-
ceae gen. indet giống phấn lớp đất mặt (M11).
Sự có mặt khá sớm của các loài cây thuộc họ cà phê (Rubiaceae),
bông (Malvaceae) và đặc biệt là lúa (Poaceae) trên đất Tây Nguyên rất
cần lưu ý.
Ngoài các mẫu sét - bột xám vàng, nâu, đỏ, xám xanh không chứa
bào tử phấn hoa (01B1-4; 01C7-2-4; 01I6-1,3; 01O2-2,4), hệ thống
mẫu năm 2001 gồm ba phức hệ chứa nhiều Diatomeae (Aulocosira -
tảo silic nước ngọt) cùng bào tử phấn hoa với các đặc trưng sau:
- Phức hệ 1 (C7-10, 13; C2-11; O2-10) phát triển phong phú đa
dạng giống loài gồm: Bào tử thực vật 2 ngành: Polypodiophyta (dương
xỉ) và Licopodiophyta (thông đất). Phấn hoa thực vật: Cây thân gỗ
thuộc họ Hamamelidaceae (sau sau) có Liquidambar; họ Fagaceae (sồi
dẻ) có Quercus, Castanopsis; họ Juglandaceae (hồ đào) có Juglans,
Pterocarya. Cây thân bụi thuộc họ Ericaceae (đỗ quyên), họ Rubiaceae
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 103
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.4 Page 104

▲back to top
(cà phê). Cây thân thảo có họ Chenopodiaceae (rau muối), Compositae
(cúc), Poaceae (hòa thảo) (có thể trong họ này có phấn Oryza sativa).
- Phức hệ 2 (B1-6,8; C7-5-9; C12-5-9; I6-5-7; O2-6-8) rất nghèo
chỉ có vài dạng: Bào tử thực vật 2 ngành Polypodiophyta (dương xỉ) và
Licopodiophyta (thông đất). Phấn hoa thực vật: Cây thân gỗ thuộc họ
Hamamelidaceae (sau sau) có Liquidambar.
- Phức hệ 3 (B1-2; C7-1; C12-1) phát triển phong phú đa dạng
giống loài: Họ Juglandaceae (hồ đào) có Carya, Pterocarya; họ Palmae
(cau); họ Euphorliaceae (thầu dầu) có Jatropha; họ Pinaceae (thông) có
Pinus (H56).
Kết hợp tài liệu khảo cổ học và phân tích bào tử phấn, bức tranh
thiên nhiên và môi trường nơi đây được hình dung từ khoảng 4.000
năm cách ngày nay thật tươi đẹp rất gần gũi với khí hậu hiện đại, với
thảm thực vật có tập hợp mẫu thuộc lớp Holocene đặc trưng cho khí
hậu nóng ẩm, phát triển rừng cây thân gỗ và cây bụi, có cây thân thảo
thủy sinh và thân thảo sống trên cạn (Nguyễn Mai Hương, Nguyễn
Khắc Sử, 2000; Phan Ngọc Hải, Nguyễn Khắc Sử, 2005)
104 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.5 Page 105

▲back to top
Cũng trên phần đất đỏ bazan Nam Tây Nguyên, năm 2007, PGS.
TS Nguyễn Khắc Sử và TS. Trần Văn Bảo đã thu thập hai tập hợp mẫu
ở các di chỉ - xưởng Thôn Bốn (xã Gia Lâm, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm
Đồng tọa độ: 11º48’694” vĩ Bắc - 108º19’369” kinh Đông) và Phù Mỹ
(huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng tọa độ: 11º48’694” vĩ Bắc - 108º19’369”
kinh Đông). Các mẫu xử lý bằng phương pháp hóa học và kết quả thu
nhận như sau:
Ở Thôn Bốn, trầm tích sưu tập mẫu đều là đất đỏ bazan kết cấu rất
cúng, có thành phần bào tử phấn hoa nghèo và giảm dần theo độ sâu lấy
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 105
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.6 Page 106

▲back to top
mẫu, hầu hết các họ và loài bào tử phấn hoa còn bảo lưu là những loại
cây thích hợp với khí hậu ôn đới có tuổi thành tạo Holocene muộn
(Q2³) rất gần gũi với hiện đại. Cụ thể: những mẫu phát hiện chủ yếu là
bào tử của họ dương xỉ (Polypodiaceae), thông đất (Lycopodiaceae),
bòng bong (Selaginellaceae) và phấn hoa chủ yếu của thực vật thân
thảo và thân bụi như họ cúc (Compositae), họ mua (Myrtaceae), họ hòa
thảo (Poaceae), rau muối (Chenopodium), dền (Amaranthaceae), thanh
mai (Myrica sp.), dâu tằm (Morus sp.)... Phấn hoa của thực vật thân gỗ
106 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.7 Page 107

▲back to top
gồm Larix sp., họ cà phê (Rubiaceae), Jatropha sp., bụt mọc (Sequoi)
(Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Văn Hải, Trần Văn Bảo, 2007).
Ở Phù Mỹ, tập hợp 12 mẫu đất trong địa tầng bảo lưu tốt nhất ở
hố khai quật ô A10 cũng ghi nhận thành phần bào tử phấn hoa có tuổi
thành tạo Holocene rất gần gũi với hiện đại và tình trạng bảo tồn có xu
hướng giảm dần theo độ sâu (các mẫu trên khá nhiều, các lớp dưới chỉ
bảo lưu vài hạt, hai mẫu M7 và M8 không có có thể do xảy ra thời kỳ
lớp đất này (dày 20cm) bị oxy hóa khá mạnh phân hủy hết. Tảo nước
ngọt xuất hiện ở độ sâu từ bề mặt xuống 20 cm ghi nhận có thời kỳ
đọng nước cương vực này. Thành phần bào tử chủ yếu của họ dương xỉ
(Polypodiaceae), bòng bong (Selaginellaceae), Cyathea sp... cho thấy
khu vực này có độ ẩm khá cao. Phấn hoa thực vật thân thảo chiếm ưu
thế hơn so với thân gỗ và thân bụi, bao gồm các họ - loài như họ cúc
(Compositae), họ hòa thảo (Poaceae), chi rau muối (Chenopodium)...
Phấn hoa thực vật thân gỗ gồm chi thanh mai (Aralia sp.), họ cà phê
(Rubicaceae), chi Jatropha sp., chi dâu tằm (Morus sp.), chi bụt mọc
(Sequoia sp.) là loài cây thích hợp với khí hậu ôn đới (Nguyễn Thị Mai
Hương, Phạm Văn Hải, Trần ,Văn Bảo, 2007).
Tử các hệ thống kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở miền Nam
Việt Nam, có thể ghi nhận thêm rằng: về cơ bản, bào tử và phấn hoa
phát hiện trong các hệ thống mẫu thổ nhưỡng thuộc các di chỉ khảo cổ
học trong miền địa hình bazan phong hóa ở vùng Hàng Gòn và phụ cận
(Long Khánh, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ) khá nghèo nàn về số lượng hạt và
lượng loại thực vật.
Về bào tử, các giống loài thực vật hiện diện trong trầm tích Hàng
Gòn I-II (7A-B) như Dicksonia sp. (thân gỗ hạt trần), Lygodium sp. và
Lycopodium sp. (ngành thông đất), Polypodiaceae ge.indet và Poly-
podium (ngành dương xỉ), Triletes sp thường gặp trong các di chỉ Cầu
Sắt, Suối Chồn, Long Giao (Long Khánh) và trong cả các di chỉ ở
Tây Nguyên (Lung Leng - Kon Tum, Thôn Bốn và Phù Mỹ - Lâm
Đồng), các di chỉ ở Gò Cây Tung và Gò Tư Trâm - An Giang. Riêng
hạt bào tử Osmunda sp gặp ở Cầu Sắt và cả ở Phù Mỹ, Gò Cây Tung và
Gò Tư Trâm.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 107
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.8 Page 108

▲back to top
Bảng IX. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Tây Nguyên và
Nam Bộ (Việt Nam)
VÙNG - MIỀN Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Tây Nam Bộ
Tỉnh
Kon Lâm
Tum Đồng
Bình Phước
Đồng Nai
An Giang Tổng
số
Di chỉ khảo cổ học
Lung Thôn Phù
Leng Bốn Mỹ
An
Khương
Lộc
Tấn
Cầu
Sắt
Suối
Chồn
Long
Giao
Hàng
Gòn
7
Cây
Tung
Trâm
Linh
Sơn
Nam
hạt
Dicksonia sp.
thân gỗ hạt trần
Lycopodium sp.
(ngành thông đất:
Licopodiophyta)
Lygodium sp.
2
14 2
15 25 6
1
2
4
9
2 2 1 3 4 11
39
1
2 2 36
87
Osmunda sp.
2
1
31
7
Polypodiaceae gen.
indet (ngành dương 21 5 18
xỉ:Polypodiophyta)
21
6 4 47
104
Polypodium sp.
(ngành dương xỉ:
11 13 8 3 3 1 3 1 2
Fougeres triletes)
Triletes sp.
1
12 1 5
35
rất
nhiều
80
10
Vittaria sp.
12
12
Albizia sp.
Amaranthaceae -
thực vật thân thảo
(họ rau dền)
Alternanthera sp.
32
1
1
2
1
6
2
Burmania sp.
2
2
Carex sp.
1
1
Quercus sp.
(thân gỗ họ
Fagaceae - sồi dẻ)
27 3 1
Chenopodium sp.
thực vật thân thảo
7 27
Compositae gen.indet
thực vật thân thảo
4
10 19
Coniogramme sp.
11
44
1
11
45
1 10 2
29
6 78
62
1
1
108 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.9 Page 109

▲back to top
Digitania sp.
Eriocaulon sp
thực vật thân thảo
Flagellaria sp.
4
4
2
2
4
3
3
Lecanthus sp.
1
1
Leleba sp.
Magnolia sp.
thực vật thân gỗ
Morus sp.
9
4
23
3
8
2
15
17
1
18
23
Myrica sp.
17 3 4
1 3 26
54
Myrtus sp.
12
1
12
7
Ophyopogon sp.
Palmae gen.indet
(họ cọ - cau)
4
Leguminosae gen.
indet (bộ đậu)
Pilea sp.
thực vật thân thảo
Poaceae gen.indet.
(họ hòa thảo)
Poaceae (Brunus sp.)
thực vật thân thảo
(họ hòa thảo)
13 17 9
Polygala sp.
1
1
1
6 17 có 28
31
3 3 có 10
3
21
6
5 11 23 4 35
117
1
1
1
1
Polygonum
4
4
Pterocarya sp.
Rubiaceae gen.indet
(thân bụi họ cà phê)
22
3
Sapindus sp.
1
Sequoia sp.
Thực vật thân gỗ họ
1
trần
Solanaceae gen.indet
Umbelliferae gen.
indet
Tổng số hạt
159 80 88 12
1
32
1
1
3 8 có 41
2
21
1 21
8
1
1
2
1
1
8 47 50 14 85 49 247
841
Nguồn: Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Khắc Sử, 2000; Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Văn Hải, Phạm
Quỳnh Anh, 2001; Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Đức Mạnh, 2011.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 109
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

11.10 Page 110

▲back to top
Ở các nhóm hạt phấn hoa, ngoại trừ các giống loài chỉ thấy trong
địa tầng Cầu Sắt (Albizia sp., Myrtus sp., Pterocarya sp.), Suối Chồn
(Alternanthera sp., Burmania sp. và thực vật thân gỗ Maglolia sp.),
Long Giao (Morus sp.), Hàng Gòn 7 (A-B) (Carex sp., Coniogramme
sp., Digitania sp., Flagellaria sp., Ophyopogon sp., Polygala sp., Um-
belliferae ge.indet); các loài khác như Eriocaulon sp., Leleba sp., Myri-
ca sp., Sapindus sp., Solanaceae gen.indet; Polygonum sp., Sequoia sp.
(thực vật thân gỗ họ trần), Quercus sp. (thân gỗ họ sồi dẻ Fagaceae),
Palmae gen.indet (họ cọ - cau), Rubiaceae gen.indet (thân bụi họ cà
phê), Leguminosae gen.indet (bộ đậu) và các loài thực vật thân thảo
như Chenopodium sp, Compositae gen.indet, Pilea sp và Amarantha-
ceae sp. (thực vật thân thảo họ rau dền), Poaceae gen.indet (họ hòa
thảo) cũng hay gặp ở Lung Leng, Thôn Bốn, Phù Mỹ, An Khương, Lộc
Tấn và cả ở Gò Cây Tung, Linh Sơn Nam và Gò Tư Trâm (An Giang).
Một số phấn hoa còn thấy có trong các tập hợp mẫu chuẩn của thực
vật các tỉnh phía Nam Việt Nam ngày nay: Leguminosae gen.indet (bộ
đậu), Amaranthaceae sp. (thân thảo họ rau dền), Palmae gen.indet (họ
cọ - cau), Rubiaceae gen.indet (thân bụi họ cà phê)... Đặc biệt, loài
hòa thảo Poaceae gen.indet (nhóm chung có chứa các giống lúa) có rất
nhiều trong các trầm tích ở Tây Nguyên (Thôn Bốn: 13 hạt, Phú Mỹ: 17
hạt) và miền Đông Nam Bộ trong địa hình bazan trẻ ở Bình Phước (An
Khương: 9 hạt, Lộc Tấn: 5 hạt) và vùng Hàng Gòn (Cầu Sắt: 11 hạt,
Suối Chồn: 23 hạt, Long Giao: 4 hạt); riêng trầm tích Hàng Gòn 7 (A-
B) hiện biết là địa điểm chứa nhiều hòa thảo nhất ở miền Nam: 35 hạt.
2. Phân tích thạch học dưới kính hiển vi phân cực
Sau đợt đào năm 1996, chúng tôi gửi 35 mẫu đá gửi phân tích tại
các phòng thí nghiệm Khoa Địa chất, Đại học Tự nhiên - Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh: 26 mẫu và Viện Địa chất: 9 mẫu, trong
đó có 9 mẫu thu thập từ di tích Cự thạch Hàng Gòn I (7A) và 26 mẫu
thu trong hố khai quật chính ở Hàng Gòn II (7B). Năm 2007, TS. Phạm
Quang Sơn gửi thêm 8 mẫu đá thu trong các hố khai quật, thăm dò
xung quanh mộ Cự thạch Hàng Gòn I để phân tích tại Liên đoàn Bản
đồ Địa chất miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
110 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12 Pages 111-120

▲back to top

12.1 Page 111

▲back to top
Về cơ bản, các dạng đá granit được người xưa khai thác, chế tác
làm phụ kiện xây cất công trình kiến trúc Cự thạch ở Hàng Gòn chứa
nhiều plagiocla (25-50%), felspat kali (15-40%), quartz (20-30%). Các
khoáng vật biotit, biotit-hocblen có tỷ lệ đáng kể (5-15%) và ít quặng,
pyroxene, ziricon, apatit (<3%). Chúng thường có kiến trúc hạt vừa
hoặc lớn, cấu tạo khối, một số đá granodiorit-biotit-hocblen có kiến
trúc monzonit, khoáng vật màu phân bố khá đều. Những tấm đan và
mảnh tước, mảnh tách, mảnh vỡ ở di tích Hàng Gòn II (7B) hoàn toàn
giống đá granit của hầm mộ Cự thạch Hàng Gòn I (7A) (H57). Các
dạng đá granit và granodiorit Hàng Gòn phổ biến trong các sơn khối
thuộc Nam Tây Nguyên (Lâm Đồng) và cực Nam Trung Bộ (Bình
Thuận).
Một số đá cục lẫn trong sưu tập phế liệu granit Hàng Gòn II (7B)
có thành phần khoáng vật riêng biệt về plagiocla (20-45%), felspat kali
(hạt vừa: 30-60%, hạt nhỏ: 5-7%), quartz (5-15%), biotit (10-20%),
amfibon (10-25%) thường là đá magma xâm nhập (grano-diorit, granit-
kataclazit, amfibiotit) là loại đá rất cứng, có thể được người xưa sử
dụng như các hòa ghè (hòn đập) trong gia công chế tác đá tại chỗ, hoặc
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 111
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.2 Page 112

▲back to top
cả chức năng làm “con lăn” vận chuyển các phiến đan. Chúng có thể
tìm thấy trong các vùng Định Quán, Xuân Lộc (Đồng Nai) hoặc xa hơn
(Phạm Đức Mạnh, 1999, 2008).
Các loại đá sa thạch biến chất, grès acko, grès tuf được người xưa
sử dụng chế tạo cột trụ thường có cỡ hạt nhỏ và vừa, cấu tạo khối đồng
nhất, với thành phần chủ đạo là hạt vụn (70-80%) gồm: Quartz (70-
85%), felspat (10-25%) và silic (quaczit, andesit) (5-10%); cùng chất
gắn kết (20-25%) gồm: Serisit (70-80%), clorit (biotit) (15-30%)...
(H58).
Các đá sa thạch thường tạo thành lớp nhỏ trong các trầm tích biến
chất tuổi Jura (J1-2bđ) khá phổ biến ở Nam Tây Nguyên (Lâm Đồng),
cực Nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) và cả ở chính miền
Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Phước).
Các dạng đá khác chịu tác động của phong hóa phủ lớp phấn với
độ dày và màu sắc khác nhau thường có nguồn gốc trầm tích núi lửa vì
hiện tượng epidot và clorit phát triển đặc trưng riêng. Trong đó:
112 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.3 Page 113

▲back to top
Các mẫu đá có mặt ngoài phủ lớp phấn màu vàng đậm thường là:
Trachit-daxit-porfir có nguồn gốc magma (đá phun trào trung tính á
kiềm), với thành phần nền (95%) và ban tính (5%) bao gồm: Felspat,
felspat-kali, thạch anh; đá garbo (garbonorit) có kiến trúc garbo với
plagiocla (55%), pyroxen (40%) và ít hạt quặng.
Các mẫu đá có mặt ngoài phủ lớp phấn màu vàng sáng thường là:
Cát kết tuf, với thành phần hạt vụn (90%) bao gồm: Felspat, thạch anh,
porfirit, riolit và xi măng (10%) bao gồm: Dung nham trachit, tro núi
lửa (thủy tinh, biotit, cacbonat); felzit-porfir (phun trào axit) có kiến
trúc ban trạng, với thành phần ban tính (20%) bao gồm: Plagiocla
(10%), felspat-kali (40%), thạch anh (15%), cụm granofir (30%) và
nền (80%) bao gồm: Thạch anh, felspat, quặng; đá sừng có cấu tạo khối
trạng, kiến trúc hạt biến tinh, chủ yếu gồm các khoáng vật như: Thạch
anh (45%), xerixit (20%), clorit (15%), zoizit (15%) và ít hạt quặng; đá
microdiorit-porfirit, với 20% ban tính, 80% nền, bao gồm: Plagiocla
(70-90%), epidot (10-25%) có kiến trúc porfir, nền vi hạt, biến đổi
nhiệt dịch mạnh; đá granofir có cấu tạo khối...
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 113
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.4 Page 114

▲back to top
Các mẫu đá có mặt ngoài phủ lớp phấn màu xanh đậm gồm: Cát kết
tự biến chất, với các mảnh thạch anh (40%), felspat (20%), khoáng vật
màu amfibon, mica (40%) được thành tạo thứ sinh, nhiều chỗ thạch anh
tái kết tinh; các dạng đá bazan (dolerit, dolerit-diabaz, olivin) thường
có kiến trúc porfir (ban trạng), cấu tạo khối hay hạnh nhân, với ban tính
(15-20%) và nền (80-85%), gồm các thành phần khoáng vật chủ yếu
là: Olivin (70-90%) hoặc plagiocla (65-70%), với các phụ chất pyroxen
(10-20%), thủy tinh, quặng.
Các mẫu đá có mặt ngoài phủ lớp phấn màu xanh sáng thường
là: Tuf andezit-daxit (họng) biến đổi, andezit (microdiorit-porfirit)
có kiến trúc porfir, cấu tạo khối, có khi kiến trúc dăm, chịu biến đổi
nhiệt dịch tiếp xúc mạnh, tái kết tinh, giàu quặng, với thành phần ban
tính (30-40%) gồm: Plagiocla (70-90%) và các khoáng vật khác như:
Thạch anh, epidot, andezit, clorit (khoảng 10-20%) và nền (60-70%)
gồm: Plagiocla (khoảng 60%) và các khoáng vật khác như: Epidot,
clorit, biotit (chiếm dưới 40%) (cá biệt có mẫu gồm khoáng vật chính
là plagiocla chiếm khoảng 50-55% và hocblen chiếm 35-45%) (H59).
Các dạng đá không chịu nhiều tác động của phong hóa nên còn
mang vỏ cuội ngoài trơn láng màu nâu và đen, xám với các sắc độ khác
nhau, thường là đá cuội bazan olivin có nguồn gốc magma, quaczit hay
đá sừng có kiến trúc hạt, hạt vảy biến tinh, cấu tạo khối, với thành phần
ban tính (khoảng 15-30%) gồm: Olivin (15-40%), pyroxen (60%) và
nền (70%) gồm: Thạch anh (55-65%), felspat (10%), epidot có hocblen
(5-35%), xerixit và clorit (25%). Cá biệt, có mẫu với thành phần khoáng
nền chủ đạo là plagiocla (90%) và olivin (5%), hay plagiocla dạng que
(50%), bụi manhetit (15%), thủy tinh phân hủy cà nát (35%).
8 mẫu đá thu trong các hố khai quật, thăm dò xung quanh mộ Cự
thạch Hàng Gòn I thuộc các loại đá granit granophyr, diorit hornblend
biotit, bazan olivin, tuf andesit và thạch anh-turmalin (Phạm Quang
Sơn, 2007).
114 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.5 Page 115

▲back to top
Tất cả các dạng đá trầm tích nguồn gốc núi lửa với các mỏ lộ thiên
phổ biến ở cả Nam Tây Nguyên, miền Nam Trung Bộ và miền Đông
Nam Bộ, thường được người xưa khai thác sử dụng làm nguyên liệu để
chế tạo công cụ lao động, vũ khí chiến đấu và cả vật phẩm nghệ thuật
phục vụ đời sống vật chất, tinh thần, tín ngưỡng trong thời tiền sử và
sơ sử bản địa.
3. Phân tích thành phần chất liệu gốm bằng phương pháp hóa
học - quang phổ định lượng
Sau đợt khai quật năm 1996, chúng tôi đã gửi 7 mẫu gốm để phân
tích thành phần định lượng gốm bằng phương pháp hóa học - quang
phổ (Chemical - Spectroscopic Methods) tại Viện Địa chất (người phân
tích: TS. Phan Ngọc Hà). Các mẫu đều thu trong hố khai quật chính,
trong các ô E1 (96HG7B-E1MG4-MG7) và E2 (96HG7B-E2MG1-
MG3).
Năm 2007, TS. Phạm Quang Sơn và TS. Nguyễn Thị Hoài Hương
tiếp tục gửi giám định thêm 5 mẫu gốm thu thập trong các hố khai
quật và thăm dò xung quanh mộ Cự thạch Hàng Gòn 7A (3 mẫu ở
khu A: 07HG-A-H2C5M1, 07HG-A-H14-M2-3) và 2 mẫu ở khu B:
07HGB-H1-M4-5, cách khu A 180m về về phía Đông Nam) tại Liên
đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh (người phân
tích: Vũ Thị Hồng Thái và Hà Đức Hùng). Cả 5 mẫu được nhận dạng
chung có chất liệu cơ bản là sét, vỏ nhuyễn thể và hạt laterite nghiền
vụn (Nguyễn Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị
Hoài Hương, 2008).
Năm 2010, chúng tôi gửi thêm 1 mẫu gốm ở di tích Hàng Gòn II
(7B) (10HGII(7B)-HTS2(2)-MG1) và 9 mẫu gốm ở di chỉ Cầu Sắt
(2 mẫu, 10CS-HTS1(M)-MG2-MG3), Long Giao (1 mẫu, 10LG(M)-
MG4) và Suối Chồn (6 mẫu, 10SC-HTS1(2)-MC-MG5-MG8 và 10SC-
HTS1(3)-DC-MG9-MG10). Các mẫu gốm có đặc điểm nhận dạng cơ
bản như sau (H60).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 115
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.6 Page 116

▲back to top
Kết quả giám định nhóm mẫu gốm phát hiện trong địa tầng di tích
Cự thạch ở Hàng Gòn II (7B) cho biết rằng: Ngoài SiO2, tỷ lệ lớn nhất
trong thành phần chất liệu làm gốm cổ ở di tích này thuộc về các hợp
chất Al2O3 (chiếm tới 5,13-12,8%) và Fe2O3 (chiếm 3,57-5%). Các
thành phần khác chênh lệch khá nhiều giữa từng nhóm mẫu (Phạm
Đức Mạnh, 1999-2010). Với 5 mẫu gốm ở hai khu A và B cho thấy hai
loại chất liệu đã được phân loại trên, ứng với các loại hình nhất định.
Chất liệu đặc trưng cơ bản ở khu vực này là sét, vỏ nhuyễn thể, hạt
laterit nghiền nhỏ (Nguyễn Thị Hoài Hương, 2007) (Bảng X).
116 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.7 Page 117

▲back to top
Bảng X. Kết quả phân tích gốm ở Hàng Gòn và vùng phụ cận
HỢP CHẤT
KÝ HIỆU MẪU
MKN
SiO2 Al2O3 Fe2O3 K2O MgO TiO2 Na2O CaO MnO P2O5 ZnO PbO CuO
96HG7B-e2MG1 CY 8,12 3,57 1,3 1,99
0,08 0,12
0,14 0,003 0,06
96HG7B-e2MG2 CY 12,8 4,42 2,63 1,24
0,03 0,06 0,1 0,04 0,001 0,22
96HG7B-e2MG3 CY 7,35 4,28 2,65 0,25
0,02 0,09
0,04 0,002 0,046
96HG7B-e1MG4 CY 5,13 5,0 1,8 3,45
9,89 0,19
0,025 0,001 0,041
96HG7B-e1MG5 CY 11,3 4,0 2,53 1,05
8,76 0,18
0,15 0,001 0,02
96HG7B-e1MG6 CY 11,9 3,71 2,77 0,28
4,46 0,12 0,04 0,19 0,003 0,012
96HG7B-e1MG7 CY 6,25 4,57 1,8 1,39
0,02 0,26
0,25 0,001 0,025
07HGAH2C5M1 56.14 17.33 10.75 1.45 0.33 1.77 0.15 0 0.11 0.21
10.48
07HGA-H14-M2 54.44 17.81 11.05 1.51 0.16 2.02 0.15 0 0.09 0.21
11.16
07HGA-H14-M3 57.42 17.99 10.31 1.84 0.58 1.36 0.18 0.11 0.08 0.14
8.42
07HG-B-H1-M4 59.56 18.16 6.92 2.01 0.41 0.84 0.58 0 0.03 0.42
9.91
07HG-B-H1-M5 66.42 14.79 6.33 2.83 0.58 0.72 0.26 0 0.03 0.28
6.81
Ghi chú
CY: Hợp chất chủ yếu. MKN: Mất khi nung. Nguồn: Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du,
1996; Phạm Đức Mạnh, 1999-2010; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008
4. Phân tích thành phần hợp kim đồng thau bằng phương
pháp quang phổ định lượng
3 mẫu đồng phát hiện trong mùa điền dã năm 1996 ở di tích Cự
thạch Hàng Gòn II (7B). Trong đó, 2 mẫu tìm thấy trong hố khai quật
chính, ở dưới tấm đan đá hoa cương A2 (96HG7B-d2-M3) và ở gần
vách Đông của hố khai quật chính (96HG7B-e2-M2). Mẫu vật còn lại
thu nhặt trên bề mặt di tích, cách hố khai quật chính khoảng 45m về
phía Tây (96HG-ST-M1).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 117
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.8 Page 118

▲back to top
Các mẫu đồng có đặc điểm nhận dạng cơ bản như sau: Mẫu 1 (ký
hiệu: 96HN-B1-96HG-ST-MĐ1) là mảnh của công cụ có rìa lưỡi mỏng
sắc, thiết diện ngang thân lưỡi hình chữ V, sống công cụ thẳng và khá
dày, mặt ngoài phủ patine màu xanh sáng. Mẫu 2 (ký hiệu: 96HN-B2-
96HG7B-e2 -MĐ2) là cục đồng nhỏ có hình gần bầu dục, lõi đen, mặt
ngoài phủ patine màu xanh đậm. Mẫu 3 (ký hiệu: 96HN-B3-96HG7B-
d2 -MĐ3) là mảnh của vành nắp (hoặc vành miệng của đồ đựng) (?)
với thiết diện đầu mép có hình gần tam giác, lõi đen, mặt ngoài phủ lớp
patine màu xanh đậm.
Kết quả giám định quang phổ được TS. Phan Ngọc Hà (Viện Địa
chất) ghi nhận cả 3 mẫu đồng Hàng Gòn đều là hợp kim Cu + Sn, các
nguyên tố Pb và Zn đều không đáng kể (Bảng XI)
Bảng XI. Kết quả phân tích đồ đồng ở Hàng Gòn II (7B)
TT
NGUYÊN TỐ
KÝ HIỆU MẪU
Cu
Sn
Pb
Zn
Hợp
kim
1 96HG-ST-M1 61,92 16,2 0,035 < 0,01 Cu + Sn
2 96HG7B-e2-M2 74,13 6,34 0,017 < 0,01 Cu + Sn
3 96HG7B-d2-M3 84,21 1,21 < 0,001 < 0,01 Cu + Sn
Nguồn
Phạm Đức Mạnh, 1996-2010; Phạm Đức Mạnh,
Lưu Văn Du, 1996
Kết quả giám định các mẫu đồng thu được ở Hàng Gòn II (7B)
trong mùa điền dã năm 1996 đã cho biết, thành phần hợp kim chủ yếu
là đồng (Cu) và thiếc (Sn). Tỷ lệ chì (Pb) ít và tỷ lệ kẽm (Zn) rất nhỏ
(0,01%). Tuy rằng các tỷ lệ hợp kim còn chênh lệch nhau ở từng mẫu
cụ thể, nhưng thành phần hợp kim chủ đạo của cả nhóm mẫu vật này
gần giống với các nhóm mẫu từng được phân tích thu thập trong sưu
tập đồ đồng thau Dốc Chùa (Bình Dương), Long Giao và Hiệp Hòa,
Cái Vạn (mẫu giáo), Cầu Sắt (Đồng Nai) (Diệp Đình Hoa, 1977,1978;
Đào Linh Côn, Nguyễn Duy Tỳ, 1955; Phạm Đức Mạnh, 1991; Phạm
Đức Mạnh, Nguyễn Giang Hải, 1996; Nguyễn Giang Hải, 1996).
118 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.9 Page 119

▲back to top
5. Phân tích niên đại tuyệt đối bằng phương pháp C14
Năm 1996, chúng tôi gửi 4 mẫu than gỗ trong địa tầng nguyên
thổ màu nâu đỏ sẫm hoàn toàn không bị xáo trộn của hố khai quật di
tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B) phân tích C14 tại Trung tâm Kỹ thuật
Hạt nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả giám định cho khung tuổi
chung nửa sau Thiên niên kỷ I trức Công nguyên, dao động từ 2.720
± 50BP (HCMV-03/96-96HG7B-e2-MT4) và 2.590 ± 50BP (HCMV-
01/96-96HG7B-d2-MT1), 2.570 ± 50BP (HCMV-02/96-96HG7B-c2-
MT2) đến 2.220 ± 55BP (HCMV-04/96-96HG7B-c2-MT7).
Trong tập hợp mẫu cho kết quả này, tất cả các mẫu đều có vị trí
quan hệ gần nhất với các tấm đan đá bằng hoa cương xuất lộ trong
địa tầng và trên bình đồ di tích. Chúng đều được thu thập trong tầng
nguyên thổ nâu đỏ sẫm, hoàn toàn không bị xáo trộn. Các mẫu này
thường nằm dưới những tấm đan đá nhưng cùng chung bình độ với lớp
phế liệu đá thu thập được, kể cả các phế liệu hoa cương màu trắng và
xanh sẫm đã khảo tả ở trên. Vì thế, có thể tin chắc rằng: Chúng chỉ thị
cho khởi điểm chế tạo các công trình Cự thạch ở Hàng Gòn từ khoảng
giữa Thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến những thế kỷ 3-2 trước
Công nguyên. Những di tích Cự thạch Hàng Gòn đã hoàn chỉnh cấu
trúc của quần thể ở đây có thể muộn hơn ít nhiều so với thời điểm mà
các kết quả C14 đã chỉ thị, có thể vào khoảng từ những thế kỷ 2-1 trước
Công nguyên đến đầu Công nguyên. Đương nhiên, những phế liệu cuội
tìm được ở di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B), với những dấu ấn kỹ
thuật còn để lại, lại gợi ý cho chúng ta liên tưởng đến những sản phẩm
đá nhỏ Đông Nam Bộ cổ sơ hơn rất nhiều so với thời điểm mà các chỉ
dẫn niên đại C14 vừa đem lại (Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996).
Trong các năm 2006-2007, TS. Phạm Quang Sơn cũng gửi thêm
9 mẫu than gỗ thu trong các hố thám sát (06-HG-TS17, 28, 35, 39) và
các hố khai quật quanh hầm mộ Cự thạch (07HG-KA-H2C7-2,55m,
H2-0,8m; H3-1,0m; H11-1,8m) phân tích C14 tại Trung tâm Kỹ thuật
Hạt nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả thu được cho các khung
tuổi khá chênh lệch nhau:
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 119
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

12.10 Page 120

▲back to top
2 mẫu già nhất tới 26.600 ± 300BP (HCM02/08-07HG-KA-H2C7-
2,55m) và 9.750 + 150BP (HCM03/08-07HG-KA-H11-1,8m). Các
mẫu còn lại đều trẻ và rất trẻ, từ 2.100 ± 55BP (HCMV05/06-06-HG-
TS39) và 1.960 ± 50BP (HCMV06/06-06-HG-TS35), 1.890 ± 50BP
(HCMV08/06-06-HG-TS35), 1.790 ± 45BP (HCMV07/06-06-HG-
TS28), 1.710 ± 45BP (HCMV04/06-06-HG-TS17), đến 1.650 ± 60BP
(HCM04/08-07HG-KA-H3-1,0m) và 1.570 ± 55BP (HCM05/08-
07HG-KA-H2-0,8m) (Bảng XII).
Theo các tác giả (Phạm Quang Sơn, Nguyễn Hoài Hương, 2008),
Mẫu 1 của hố H11 có độ sâu 1,80m, mẫu 4 của H2 có độ sâu 2,55m so
với bề mặt, tương ứng -40cm và -155cm so với 0 qui ước. Do đó những
niên đại này có trước tầng văn hóa và sớm như vậy là hoàn toàn hợp
lý. Mẫu 2 và mẫu 3 được lấy trong tầng văn hóa của H3 và H2, có cao
độ tương ứng +40cm và +20cm so với điểm 0 qui ước. Kết quả niên
đại của hai mẫu này là 300 năm và 380 năm sau Công nguyên cũng
có thể là hợp lý. Tuy nhiên, đối chiếu với một số niên đại C14 của các
di tích trong khu vực Hàng Gòn và lân cận đã có trước đây như Hàng
Gòn 1 (Lô 72) 3.950 ± 250BP; mộ chum Hàng Gòn 9 (Suối Đá) 2.300
± 150BP, 2.190 ± 150BP; mộ chum Phú Hòa 2.400 ± 140 và 2.590 ±
240BP, chúng tôi cho rằng di tích mộ Cự thạch có niên đại ngay trước
hoặc sau Công nguyên như kết quả phân tích năm 2006 là hợp lý hơn.
Tuổi của di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn muộn hơn giai đoạn của các
di tích mộ chum thuộc thời đại sắt sớm và sớm hơn hoặc trùng với thời
kỳ khởi đầu của văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam (thế kỷ II sau
Công nguyên)”.
Bảng XII. Kết quả phân tích niên đại C14 ở Hàng Gòn (1996-
2007)
TT Ký hiệu mẫu Ký hiệu mẫu gốc
1 HCMV 01/96
2 HCMV 02/96
3 HCMV 03/96
96-HGII (7B) - M1
96-HGII (7B) - M4
96-HGII (7B) - M2
Loại
mẫu
Than
Than
Than
Niên đại
(năm BP)
2.590 + 50
2.570 + 50
2.720 + 50
120 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13 Pages 121-130

▲back to top

13.1 Page 121

▲back to top
4 HCMV 04/96 96-HGII (7B) - M7
Than 2.220 + 55
5 HCMV 04/2006 06-HG-TS17
Than 1.710 ± 45
6 HCMV 05/2006 06-HG-TS39
Than 2.100 ± 55
7 HCMV 06/2006 06-HG-TS35
Than 1.960 ± 50
8 HCMV 07/2006 06-HG-TS28
Than 1.790 ± 45
9 HCMV 08/2006 06-HG-TS35
Than 1.890 ± 50
10 HCM 03/08
07HG-KA-H11-1,8m Than gỗ 9.750 + 150
11 HCM 04/08
07HG-KA-H3-1,0m Than gỗ 1.650 ± 60
12 HCM 05/08
07HG-KA-H2-0,8m Than gỗ 1.570 ± 55
13 HCM 02/08
07HG-KA-H2C7-2,55m Than gỗ 26.600 ± 300
Nguồn: Phạm Đức Mạnh, 1996-2010; Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du,
1996; Phạm Quang Sơn, 2006-2009; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị
Hoài Hương, 2008
Chúng tôi không thật tin như vậy. Đơn giản vì lẽ chúng ta, với địa
bàn, máy trắc đạc, máy định vị tọa độ theo vệ tinh trong tay, không thể
lấy “tư duy và kỹ nghệ hiện đại của thế kỷ 21” để “triển suy quá khứ”,
mà về thực chất là gán ghép khiên cưỡng cho tư duy nguyên thủy.
Trong điều kiện đồi rừng nguyên sinh ngút ngàn cổ thụ thời tiền sử,
chủ nhân quần thể mộ Cự thạch Hàng Gòn hoàn toàn xác định hướng
Đông theo mặt trời mọc (cửa mộ lệch 2º) và không bao giờ định vị
chuẩn xác được nền mộ Cự thạch (hay nắp mộ) (Khu A) cho “ngang
bằng” với công xưởng chế tác phụ kiện cách đó hơn 60m (Khu C) hoặc
với miền đồi rừng nhấp nhô cách đó tới 170m (Khu B). Chúng ta có
thể dễ dàng tin được rằng chính họ đã lựa chọn cương vực quần cư của
tổ tiên để dựng lên khu thánh thạch thời Sắt sớm mà toàn bộ cương
vực thánh thạch này chỉ là mảng rất nhỏ kết gắn huyết tộc với “Không
gian nhân văn tiền sử và sơ sử” mà E.Saurin là người đầu tiên có công
phác thảo ít ra từ thời Núi Gốm - Hàng Gòn I (C14: 3.950 ± 250 BP
- 2.000 ± 250 BC). Riêng chúng tôi còn có niềm tin xưa hơn thế khi
nhìn nhận di tồn đá nhỏ mang dấu ấn kỹ nghệ chế tác đá cổ sơ như “Đá
cũ” (Paleolithique) từng làm nổi cả địa danh “Xuân Lộc” (Phạm Đức
Mạnh, 2003-2008).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 121
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.2 Page 122

▲back to top
PHẦN THỨ BA
QUẦN THỂ DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN
TRONG BÌNH DIỆN VĂN MINH KIM KHÍ ĐỒNG
NAI VÀ VĂN HÓA CỰ THẠCH CHÂU LỤC

13.3 Page 123

▲back to top
Chương I.
QUẦN THỂ DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN
- TRUNG TÂM VĂN HÓA TINH THẦN ĐỒNG NAI
THỜI KỲ TIỀN NHÀ NƯỚC
Vì nằm bên cạnh di tích quốc gia đặc biệt Mộ Cự thạch Hàng Gòn
(7A), việc khám phá và khai quật kịp thời di tích công xưởng Cự thạch
mới xuất lộ thêm không chỉ cứu vãn nguyên vẹn tàn tích vật chất đá
lớn nguyên thủy còn nằm “tại chỗ” (in situ), mà còn góp phần soi
rọi nhiều vấn đề khoa học
lớn còn tồn đọng suốt
nhiều thập kỷ qua về khu
mộ Cự thạch nổi danh
nhưng huyền bí này. Nhờ
thế, “Chúng ta đã có thêm
những hiểu biết mới về di
tích Cự thạch qua cuộc
khai quật Hàng Gòn”
(Hà Văn Tấn, 1996).
Cũng thật dễ hiểu về sự
lưu tâm sát sao của giới
thông tấn báo chí ngay
tại hiện trường khai quật,
với nhiều tin tức ghi nhận
khám phá mới ở đây trên
Đài phát thanh, Truyền
hình Đồng Nai và trên
các báo: Đồng Nai, Tuổi
Trẻ, Sài Gòn Giải Phóng,
The Saigon Times Dailly,
Saigon Eco...
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 123
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.4 Page 124

▲back to top
Những kết quả khai quật, giám định khoa học và nghiên cứu bước
đầu về các di tích Cự thạch và các tàn tích vật chất liên hệ với chúng
cũng được giới thiệu ở nhiều hội nghị khoa học trong và ngoài nước
(các hội nghị thông báo “Những phát hiện mới về khảo cổ học” và về
lịch sử - văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á ở Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh; các hội nghị khoa học quốc tế về Việt Nam học; về “Phát
hiện mới về khảo cổ học Đông Nam Á” ở Berlin (Đức), về “Di sản văn
hóa Phương Đông - truyền thống và sự liên hệ văn hóa trong quá trình
phát triển văn hóa, văn minh cổ” ở Saint Petersburg (Nga); về “Khảo
cổ học Đông Nam Á trong Thiên niên kỷ III” ở Penang (Malaysia). Đặc
biệt, các tham luận chuyên về Cự thạch Hàng Gòn và Cự thạch Việt
Nam của PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng, PGS.TS Trình Năng Chung ở
các hội nghị “Văn hóa Cự thạch” tổ chức ở Kanghwa, Seoul (Hàn
Quốc) và của TS. Phạm Quang Sơn, PGS.TS Lâm Mỹ Dung ở Hội nghị
IPPA lần 9 tại Hà Nội... (Phạm Đức Mạnh, 2010).
Những di tích Cự thạch ở khu vực Hàng Gòn vừa khai quật, dù bị
ủi đào làm xuất lộ 3 tấm đan hoa cương, nhưng vẫn còn phần cấu trúc
lớn nhất nằm nguyên vẹn “tại chỗ” (in situ, in site) trong lòng đất. Về
địa tầng khảo cổ học, những phân lớp thổ nhưỡng nằm dưới quan trọng
nhất (phân lớp III-IV) còn bảo tồn nguyên vẹn bình độ mà chính ở
trong đó, các di tích Cự thạch và di vật khảo cổ học, mẫu vật hữu quan
124 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.5 Page 125

▲back to top
định vị từ tiền sử. Về cơ
bản, đây là các tầng đất
nâu đỏ với các sắc thái
khác nhau, kết cấu chặt
nhưng mềm xốp và khá
thuần nhất, với lượng
sỏi sạn laterite không
đáng kể hay hoàn toàn
vắng mặt - dạng địa
tầng khá đặc trưng cho
địa hình đồi gò Hàng
Gòn và cả vùng phụ cận
thuộc Xuân Lộc, Cẩm Mỹ mà từ non thế kỷ gần đây nhất được khai phá
và trồng đại trà cây công nghiệp hoặc cây cho củ và cho trái.
Di tích Cự thạch ở Hàng
Gòn II (7B) bao gồm những
tấm đan chế tác bằng đá hoa
cương được xếp liền khoảnh
theo hướng Đông Tây (cụm A)
và Đông Bắc - Tây Nam (cụm
B), cùng hai trụ dài đẽo gọt từ
sa thạch được xếp chụm đầu
hướng Đông vào nhau (cụm
C). Tất cả Cự thạch đều được
người xưa bố trí ở tư thế nằm
ngang, ở bình độ chỉ cao hơn
hầm đá Cự thạch Hàng Gòn
I (7A) vào khoảng 50cm. Về
chất liệu, màu sắc và kết cấu hạt của khoáng thạch, kết quả phân tích
dưới kính hiển vi phân cực ghi nhận rằng, các tấm đan hoa cương và
cột đá sa thạch được chế tác ở khu di tích Hàng Gòn II (7B) có cùng
nguồn gốc với quần thể công trình kiến trúc đá lớn granit - grès do
J.Bouchot khai đào ở cạnh đó từ hơn 7 thập kỷ trước. Dù còn các vết
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 125
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.6 Page 126

▲back to top
tích gia công khác lạ về chi tiết (những rãnh khuyết hình chữ nhật hoặc
bán cầu, những đường đục gọt vát dọc một bên thành của tấm đan...),
các di tích Cự thạch vừa khám phá cũng được người thợ cổ xưa ứng
dụng những thủ pháp kỹ thuật chế tác hoa cương và sa thạch từ nguyên
phiến - khối, để phác thảo, tu chỉnh và mài chuốt làm phẳng các bề mặt
và tạo rãnh hoặc tạo ngàm hay bậc theo ý đồ phục vụ cho kiến trúc lắp
ghép Cự thạch giống như quần thể công trình mộ Hàng Gòn I (7A).
Người thợ nguyên thủy Hàng Gòn có thể khai thác sa thạch từ các
nguồn lộ thiên ngay trong vùng đất đỏ huyền vũ nham Đông Nam Bộ,
nhưng nguồn đá hoa cương có khả năng cung ứng những phiến dài và
lớn tương đương các cấu kiện trác thạch và trụ thạch Hàng Gòn I-II
(7A-7B) như vậy, trong tình hình hiện nay, chưa có phát kiến địa chất
học mới nào phản bác lại giả định của J.Bouchot về các mỏ hoa cương
phù hợp chỉ ở Nam Tây Nguyên hay miền Nam Trung Bộ (Bouchot, J.,
1929). Khai thác và tập kết về Long Khánh, Đồng Nai hàng trăm tấn
hoa cương trong điều kiện địa hình núi non rừng rậm hiểm trở không
có đường thủy, quả là sự nỗ lực phi thường của cả cộng đồng người
tiền sử Đồng Nai. Tính hiện thực của luận điểm này còn nguyên giá
trị qua nhiều công cuộc thực nghiệm chuyển vận Cự thạch thành công
bằng sức người kéo và sử dụng đòn bẩy vận chuyển các phiến - tảng
hay tượng đài Cự thạch nặng nhiều tấn trên hệ thống gỗ lăn đơn sơ
nhất qua các bề mặt địa hình khác nhau ở nhiều vùng sinh thái trên thế
giới (Pháp, Anh, Indonesia, đảo Phục Sinh, Ai Cập, Mehico, Peru...)
(H61-62).
Từ những vết tích còn in lại trên nhiều phiên bản Cự thạch ở cả hai
khu vực phân bố (Hàng Gòn I- II; 7A-7B) và những mảnh tách, mảnh
tước, đá bể bằng hoa cương hay cát kết vừa khai quật được, chúng ta
hình dung việc đẽo gọt tạo tác tại chỗ những công trình Cự thạch hiện
hữu dường như phải có sự trợ giúp của nhiều kiểu loại đục kim loại có
mũi nhọn, mũi bằng với thiết diện rìa lưỡi có hình chữ V cân xứng hay
vát hẳn ở một mặt (kiểu đục bạt). Đặc biệt, việc tạo ra những khe rãnh
gần hình chữ nhật, hình bán cầu hoặc những khe mộng để lắp khít các
126 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.7 Page 127

▲back to top
vách đứng vào tấm nền hay tấm nắp phía trên của hầm Cự thạch ở
Hàng Gòn I (7A) - những “đường soi vũm” theo cách gọi của L.Maller-
et (1963), dường như lại gợi mở mối liên quan kỹ thuật của chính nghề
chế tác Cự thạch với nghề mộc Nam Bộ xưa. Chúng tôi cũng rất tin như
vậy khi quan sát những ngôi mộ Hán được ghép lắp bởi các phiến gỗ
lớn và rộng không kém các tấm đan hoa cương Hàng Gòn với sức nặng
hàng tấn theo những “đường soi vũm” kiểu như vậy ở Trung Hoa. Sự
hiện diện khả thi những công cụ kim loại trong gia công cấu kiện các
thành tố của quần thể Cự thạch ở Hàng Gòn có thể hình dung cụ thể
hơn qua nhiều công trường khai thác, chế tác đá lớn, các làng nghề
truyền thống chuyên khai thác andezit, diabaz, granit cung ứng nguyên
liệu “đá sống” về cung cấp cho các xưởng nhỏ chuyên chế tác đá tại
làng, để những người thợ chạm khắc, tạo tác thành “đá chín” để “điêu
khắc các tác phẩm đá nghệ thuật” ở phường Bửu Long, thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai (Nguyễn Tuyết Hồng, 1999), ở làng chế tác “đá
gấm” cẩm thạch (marbre) và sa thạch Ngũ Hàng Sơn, thành phố Đà
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 127
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.8 Page 128

▲back to top
Nẵng (Trần Quốc Vượng, Nguyễn Văn Hán, Phạm Văn Hiệp, 1978;
Huynh Hoa, 1997) (H63-64); hoặc ở chính các sưu tập tượng tròn sa
thạch và các dạng đá khác (bazan-porfir, đá trắng điểm đốm đen granit-
biotit, đá xanh điểm đốm trắng tuf daxit, diabaz-permatit, granit dạng
porfir hạt nhỏ) của đồng bào Chăm.
Những kinh nghiệm truyền thống “cha truyền con nối” các bí quyết
làng nghề từ khai thác, chuyển vận “đá sống” đến mọi công đoạn chạm
khắc làm “đá chín” mang tính chất phân công chuyên hóa từ lâu đời,
đã giúp chúng ta phần nào hình dung tiến trình kiến thiết các quần thể
Cự thạch nguyên thủy ở Hàng Gòn; đặc biệt từ các thao tác kỹ thuật
gọt đẽo sáng chế những phiến đan có rãnh và “đường soi vũm” khá đều
đặn, có khuyết hình vuông, hình chữ nhật hoặc bán cầu, các trụ cột có
rãnh lõm kiểu “yên ngựa” hoặc ghép lắp thành hình cả quần thể công
trình kiến trúc Cự thạch Hàng Gòn xưa.
Việc phát hiện các tấm đan và trụ cột cùng toàn bộ vật thải là mảnh
tách, mảnh tước granit, grès cung cấp tư liệu mới cho việc nghiên cứu
tìm hiểu kỹ thuật tạo tác thạch vật, minh định tính chất bản địa của việc
sản xuất và chế dựng tại chỗ các di tích Cự thạch, gợi mở khả năng bổ
sung phụ tùng cho quần thể công trình hoàn chỉnh là trung tâm di tích
phục vụ cho các hoạt động chung của cả cộng đồng người cổ Đồng Nai
xưa.
Các di tích Cự thạch ghi nhận trong hố đào Hàng Gòn II (7B) gắn
kết chặt chẽ với quần thể kiến trúc hoa cương và sa thạch hiện biết ở
vùng đất đỏ này nhiều khả năng là nơi tập kết nguyên liệu và là một
“công xưởng chế tác đá lớn” (Megalithic Workshop-Site) đầu tiên
được biết ở Đông Nam Á”. Những mảnh tách, mảnh tước, mảnh vỡ
bằng hoa cương hay sa thạch loại bỏ sau quá trình chế tác đá lớn ấy
cùng chung một lát cắt địa tầng với tổng thể tàn tích vật chất bằng than
tro, bằng hợp kim đồng và bằng đất nung và các dạng đá cuội khác góp
phần giải đáp các vấn đề khoa học liên quan đến cả quần thể di tích
kiến trúc Cự thạch Hàng Gòn còn bỏ ngỏ bấy lâu, mà quan trọng nhất
chính là về niên biểu hình thành, công dụng chủ đạo và chủ nhân đích
128 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.9 Page 129

▲back to top
thực của chúng. Trước hết, các di tồn vật chất liên hệ trực tiếp với di
tích Cự thạch ở đây là đồ đồng và gốm cổ. Nhìn bề ngoài, các mảnh di
vật đồng nằm dưới các tấm đan hoa cương với lớp phủ dày patine màu
xanh không khác các di vật định hình trong bộ đồ đồng tiền sử, sơ sử
từng biết ở miền Đông Nam Bộ (Dốc Chùa, Cái Vạn, Suối Chồn, Hiệp
Hòa, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Long Giao, La Ngà, Giồng Cá Vồ...).
Qua phân tích bằng phương pháp hóa - quang phổ định lượng (Chemical-
spectroscopic method) tại Viện Địa chất, mẫu vật Hàng Gòn là hợp
kim: Đồng (Cu) + thiếc (Sn) - thành phần chủ đạo của bộ di vật đồng ở
miền Đông Nam Bộ (30 mẫu = 44,1% tổng số), tập trung nhiều nhất
trong các loại hình công cụ sản xuất (rìu: 12 mẫu) và vũ khí chiến đấu
(giáo, lao, qua: 12mẫu), rất ít ở đồ đựng (2 mẫu) và đồ trang sức (1
mẫu); trong khi, ở các nhóm hợp kim khác như: Cu + Pb + Sn (16 mẫu
= 23, 5%), Cu + Sn + Pb (11 mẫu = 16, 2%) ghi nhận ở hầu hết loại
hình di vật; Cu + Pb chỉ có 6 mẫu (8,8%) ghi nhận ở vũ khí; các hợp
kim: Cu + Pb + As và Cu + Pb +Sn +As (4 mẫu = 5,9%) chỉ có ở các
trống kiểu Đông Sơn (H65-66) (Malleret, L., 1954; Saurin, E., 1973;
Diệp Đình Hoa, Nguyễn Văn Bửu, 1977; Đào Linh Côn, Nguyễn Duy
Tỳ, 1995; Nguyễn Kim Dung, Trịnh Sinh, Vũ Quốc Hiền, 1994; Phạm
Đức Mạnh, 1991-1999; Nguyễn Giang Hải, 1996; Nguyễn Giang Hải,
Phạm Đức Mạnh, 1996). Về những mảnh vỡ của đồ đựng gốm cổ cỡ
nhỏ và trung bình tìm thấy trong các hố đào xung quanh hầm mộ Hàng
Gòn I (7A) và di tích công xưởng Hàng Gòn II (7B), việc khảo cứu chất
liệu, phân tích loại hình và hoa văn trang điểm cho biết sự tương đồng
của chúng với gốm cổ ở Hàng Gòn 9 (Suối Đá), Suối Chồn, Phú Hòa,
Dốc Chùa, Bưng Bạc, Bưng Thơm. Nhìn chung, gốm Hàng Gòn thuộc
loại gốm thô, pha cát, khoáng vật và vỏ nhuyễn thể nghiền vụn. Kết quả
phân tích hóa học - quang phổ ghi nhận chúng khá gần gũi với các
nhóm mẫu ở Cầu Sắt, Suối Chồn, Long Giao, Lộc Hòa, Cái Vạn và ít
mẫu ở các di chỉ như: Bến Đò, Gò Đá, Lộc Giang, Giồng Phệt... Chúng
thường là loại sét gầy (tỷ lệ SiO₂/Al₂O₃ trung bình = 2,9-4,4%, với các
hàm lượng phụ gia cơ bản chênh lệch nhau không nhiều và lẫn các tạp
chất đáng lưu ý về nồng độ trong mẫu phân tích, nhất là các nguyên tố:
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 129
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

13.10 Page 130

▲back to top
Fe, Mg, Mn và K... Dù vậy, ở các mẫu gốm Hàng Gòn, hàm lượng hợp
chất Al₂O₃ nói chung rất thấp (dao động trong khoảng 5,13-12,8%,
thông số trung bình chỉ 8,97%), thuộc loại ít nhất so với mẫu vật ở
nhiều làng gốm khác ở Đông Nam Bộ và ở Việt Nam. Hàm lượng CaO
chênh lệch nhiều giữa các mẫu trộn nhiều vỏ nhuyễn thể nghiền vụn (từ
4,46% đến 8,76-9,98%) đến các mẫu không trộn (0,02-0,08%). Hàm
lượng Fe₂O₃3 (3,75-5%) thấp; trong khi hàm Mg cao hơn nhiều nơi
khác ở miền Đông Nam Bộ. Những mảnh vỡ của đồ đồng và đồ gốm
thu được trong các cuộc khai quật Hàng Gòn còn ít, nhưng rõ ràng là,
bên cạnh khối lượng lớn đến ngạc nhiên của phế liệu đá gồm các loại
hình và kích cỡ khác nhau (mảnh tước, mảnh tách với không ít tiêu bản
có thể còn được xem như công cụ mảnh “đã có gia công” (éclats-
galets aménagés), sản phẩm mang dấu vết tạo tác của bàn tay con người
mà khái niệm khảo cổ học phương Tây gọi là “văn hóa cuội”
130 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14 Pages 131-140

▲back to top

14.1 Page 131

▲back to top
Chú dẫn Hình 62
CÁC TIỂU VÙNG VĂN HÓA THUỘC VÀ CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA PHỨC HỆ
ĐỒNG NAI
I. Vùng đồi đá phiến - bazan đất đỏ Đồng Nai (tiểu vùng động lực của truyền thống văn
hóa - kỹ thuật Đồng Nai): 1. Hàng Gòn 1 (di chỉ); 2-3. Phú Hòa (mộ chum gốm); 4-6. Hàng
Gòn 9 (mộ chum gốm); 7-10. Công xưởng chế tác Cự thạch Hàng Gòn II (7B); 11-19. Di
chỉ quanh quần thể Cự thạch Hàng Gòn (khu A-C).
II. Vùng đồi đá phiến - bazan đất đỏ Bình Phước và vùng ven (tiểu vùng cư trú, phòng
hộ Bắc - Tây Bắc phức hệ): 20-21. Phù Mỹ (di chỉ); 22-23. Đa Kai (di chỉ - thành đất đắp
tròn?); 24. Lộc Hòa (di chỉ); 25. Lộc Tấn 2 (thành đất đắp tròn); 26. An Khương (thành đất
đắp tròn).
III. Vùng liên kết đồi basalt-đá phiến-phù sa cổ dọc hệ thống sông Bé-Đồng Nai (tiểu vùng
quần tụ đậm đặc nhất Phức hệ): 27. Bình Đa (di chỉ); 28-29. Bến Đò (di chỉ); 30-31. Cù Lao
Rùa (di chỉ); 32. Long Bửu (di chỉ); 33-34. Dốc Chùa (di chỉ - mộ đất); 35-38. Phú Chánh
(di chỉ nhà sàn và mộ chum gỗ, nắp trống đồng).
IV. Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm Cỏ và vùng ven (tiểu vùng chiếm cư
và khai thác cực Nam): 39-55. An Sơn (di chỉ - mộ đất); 56-57. Lộc Giang (di chỉ); 58-59.
Gò Cao Su (di chỉ); 60-61. Rạch Rừng (di chỉ nhà sàn - mộ đất); 62-64. Cổ Sơn tự (di chỉ);
65-66. Bà Đao (di chỉ - lò gốm).
V. Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu sông Đồng Nai - sông Vàm Cỏ và
những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển (tiểu vùng kinh tế - văn hóa mới thành tạo
khoảng giao thời hai thiên kỷ II- I trước Công nguyên): 67-70. Rạch Núi (di chỉ sình lầy);
71-72. Cái Vạn (di chỉ nhà sàn); 73-75. Cái Lăng (di chỉ nhà sàn); 76-78. Rạch Lá (di chỉ nhà
sàn); 79-81. Gò Cây Me (di chỉ - mộ đất); 82-91. Bưng Bạc (di chỉ nhà sàn); 92-93. Bưng
Thơm (di chỉ nhà sàn); 94-95. Giồng Lớn (di chỉ - mộ đất - mộ nồi gốm); 96-97. Giồng
Cá Vồ (di chỉ - mộ đất - mộ chum gốm); 98-100. Giồng Phệt (di chỉ - mộ chum gốm); 101.
Giồng Am (di chỉ - lò gốm?).
VI. Địa tầng phù sa cổ - mới và chứa vết tích cư trú sử sớm miền Tây Nam Bộ: 102-132. Gò
Ô Chùa (di chỉ -mộ đất - mộ vò gốm); 133-135. Thành Mới (di chỉ); 136-139. Gò Cây Tung
(di chỉ - mộ đất); 140-142. Giồng Nổi (di chỉ - mộ đất)
Tài liệu dẫn: Fontaine, H., 1971, 1972, 1975; Fontaine, H.-Délibrias, G., 1973; Đặng Văn
Thắng và cộng sự, 1998; Hà Văn Tấn-cb. 2002; Lê Xuân Diệm, Nguyễn Văn Long, 1983;
Đào Linh Côn, Nguyễn Duy Tỳ, 1995; Nguyễn Hồng Ân, 2008; Nguyễn Khánh Trung Kiên,
2007; Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn, 2009; Nguyễn Kim Dung, 1999; Nguyễn Trung
Đỗ, 2005; Nguyễn Văn Đoàn, Trương Đắc Chiến, 2007; Nguyễn Văn Long, 2010; Nishimu-
ra, M., Nguyễn Duy Tỳ, Nguyễn Xuân Lý,2009; Phạm Đức Mạnh, 1998-2000; Phạm Lý
Hương, Nguyễn Quang Miên, 2001; Phạm Quang Sơn, 2007, 2009; Saurin,E., 1968; Trần
Anh Dũng, Lại Văn Tới, 2007; Trần Quang Toại-cb, 2006; Vũ Quốc Hiền, Trương Đắc
Chiến, Lê Văn Chiến, 2008; Vương Thu Hồng, 2007.
+ Chữ viết tắt: AD (Anno Domini) = sau Công nguyên; BC (before Christ) = trước Công
nguyên; BP (before Present = cách 1950. (*) Niên đại nhiệt phát quang. Niên đại C14-
AMS: Mẫu than, gỗ và mẫu xương, răng, vỏ sò
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 131
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.2 Page 132

▲back to top
(Pebble Culture); bên cạnh các hạch đá, hòn ghè, mảnh vỡ tự nhiên...,
xen lẫn với nguyên liệu hoa cương và sa thạch trong một địa tầng bình
ổn của hố khai quật chính Hàng Gòn II (7B) chứng cớ chắc chắn và
xác đáng để minh định tuổi hình thành của các công trình di tích Cự
thạch hữu quan. Mặt khác, chúng cũng chính là bằng cớ, góp phần làm
sáng tỏ tính chất khảo cổ học của toàn bộ cương vực kiến thiết quần
thể di tích Cự thạch độc đáo này. Đây cũng chính là một phần hình hài
của một công xưởng chế tác đồ đá nhỏ hoàn chỉnh đã hiện diện từ lâu
trước cả sự hình thành các ý tưởng tập kết nguyên liệu và khởi công
kiến thiết các công trình Cự thạch sau đó ở trung tâm Hàng Gòn - một
công xưởng chế tác đồ đá lớn tạo lập về sau chính trên nền công xưởng
tiền sử truyền thống. Niên đại gần nhất của dạng “di chỉ - xưởng”
(Workshop-Site) tiền sử này liên quan trực hệ với công xưởng chế tác
đá lớn thời sơ sử và với cả quần thể công trình kiến trúc hoa cương và
sa thạch hoàn chỉnh sau đó vài thế kỷ.
Kết luận này được chứng thực bằng nhiều niên đại Carbone 14 ở
các tọa độ khác nhau trên bình đồ và thiết đồ di tích xưởng này, ghi nhận
sự hình thành và tồn tại của nó trong khoảng 2.670 ± 40 BP. đến 2.220
± 40 cách ngày nay. Hệ thống niên đại C14 của Hàng Gòn II (7B) quí
giá này cũng là những niên đại tuyệt đối đầu tiên liên quan với các công
trình và tàn tích Cự thạch ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Từ những
kết quả giám định niên đại C14 Hàng Gòn đặt chung trong khung niên
biểu niên đại tuyệt đối C14 ở riêng miền văn hóa này (H67), chúng ta
có thể hình dung được sự khởi đầu của một thời đoạn lịch sử hào hùng
và ở mức phát triển vật chất, tinh thần đỉnh cao của phức hệ văn hóa
tiền sử, sơ sử trong toàn miền Đông Nam Bộ của Việt Nam, giai đoạn
hậu kỳ đồ Đồng - sơ kỳ đồ Sắt, với những trung tâm quần cư sinh sống,
mật tập lao động, đẩy mạnh các hoạt động khai thác đa dạng sản vật tự
nhiên và sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công đa ngành nghề, khai
triển thông thương giao lưu kinh tế, trao đổi kỹ thuật và sáng tạo văn
hóa nghệ thuật ở tầm mức khu vực và châu lục của cộng đồng nhiều
tộc người cùng cư ngụ sinh tồn và cùng kiến thiết xây dựng miền thiên
nhiên này trong quá khứ. Quá khứ tiền sử, sơ sử hào hùng sôi nổi ấy có
132 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.3 Page 133

▲back to top
nhu cầu từ nội hàm (endogenous purpose) và có những nỗ lực của trí
tuệ và lao động nguyên thủy ở mức phi thường để khẳng định với chính
bản thân nó, với quanh nó và cả với sự trường tồn của thời gian. Những
ý tưởng xây dựng các công trình kiến trúc lớn dạng Cự thạch sớm được
ươm mầm và nảy sinh chính trong lòng một xã hội nguyên thủy đã tiến
triển ở tầm cao cần và đủ của thời đại kim loại. Mà hình mẫu ban đầu
(Proto-type) các công trình khả dĩ thỏa đáp lòng mong muốn kiến tạo
của những người ngự trị và điều hành đời sống vật chất, tinh thần và tín
ngưỡng của xã hội sơ sử này kiểu Cự thạch (Megalithic Monuments)
tới được vùng đồi gò bán bình nguyên đất đỏ bazan huyền vũ nham
Đông Nam Bộ nhiều khả năng đến từ các thế giới hải đảo Đông Nam Á
và cả Tây Phương Thiên Trúc ở xa hơn với những tài liệu về Cự thạch
mà chúng tôi có thể tìm được để tham khảo.
Có thể hình mẫu Cự thạch ban đầu từ những công trình giống “mộ
Đá lớn” dạng “Big-Stone Cist”, “Megalithic Tomb” hay “Trác thạch”
(Dolmen); tuy nhiên, trong tiềm thức tiền sử, sơ sử bản địa nơi miền địa
hình sinh thái khuyết vắng các hang động thiên tạo, những người thợ
đá bản địa (đã từng là chủ nhân ông các sưu tập đá, khuôn đúc lớn nhất
Việt Nam và các sưu tập đán đá đặc sắc nhất khu vực), đã xây dựng và
sáng tạo nên một công trình Cự thạch hoàn toàn mang bản sắc Đồng
Nai từ rất lâu trước khi có ảnh hưởng rõ nét của văn hóa kiến trúc nghệ
thuật Bà La Môn và Phật giáo đến vùng này. Cả quần thể công trình
kiến trúc chủ yếu từ Cự thạch, với hầm đá hình hộp chữ nhật ở trung
tâm và những hàng cột dựng thành từng cặp đối xứng thấp hoặc cao
vây quanh nó. Đấy là hình hài của một bình đồ kiến trúc nguyên thủy
lớn lao thuộc về “kỳ tích” lao động tập thể, lao động có kinh nghiệm cổ
truyền, có sáng tạo và có tổ chức chặt chẽ trong nhiều tháng năm - “một
kỳ tích” mang dáng dấp một “hang động nhân tạo” giữa bình nguyên,
một căn hầm thạch mộ chỉ xứng đáng dành riêng cho thủ lĩnh tối cao
và xa xưa nhất của cả cộng đồng đa tộc người này - một khu “thánh
thạch” độc nhất vô nhị giữa vùng đất trung tâm của phức hệ văn hóa
cổ Đồng Nai.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 133
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.4 Page 134

▲back to top
Có thể chính vùng đất này, nơi có nhiều công cụ sản xuất, khí giới
bằng sắt ưu việt nhất, nhiều đồ trang sức bằng đá quý, bán quý, thủy
tinh màu và bằng kim loại hiếm (vàng, bạc...) là các đồ ngoại nhập lộng
lẫy nhất, có cả “bùa” (amulette) và tượng thú bản địa, có cả vũ khí quý
như qua, các “bảo bối” kiểu gương đồng và nhạc khí kiểu trống giống
như các biểu tượng uy quyền và sang giàu của giới quý tộc nơi đây,
cũng chính là trung tâm sinh tụ, trung tâm tinh thần một thời vang bóng
của người cổ Đồng Nai. Và, phải chăng quần thể công trình kiến trúc là
thánh thạch” độc nhất vô nhị ấy chính là những dấu hiệu đầu tiên và
cuối cùng về toàn bộ diễn trình hình thành và lớn lên của một cơ cấu
quyền lực tối thượng, vượt cao hơn cả đội ngũ thủ lĩnh tôn giáo, quân
sự, bộ lạc địa phương, đội ngũ quý tộc có đặc quyền trang bị kiếm sắt,
kiếm thờ hay nghi trượng bằng danh mộc, vũ khí đồng quý như qua và
có thực lực trang bị và trang điểm đồ “nội sản” và “ngoại nhập” tinh
chế cầu kỳ lộng lẫy và đắt giá nhất..., của cả cộng đồng đa tộc người
này ở các giai đoạn phát triển được xem như là “đỉnh điểm” Suối Chồn
- Phú Hòa - Cần Giờ từ thời đại sơ Sắt (?). Đây cũng chính là đỉnh
cao nhất của cuộc sống đích thực của những người xây dựng kiến tạo
công trình kiến trúc Cự thạch duy nhất của cả miền văn hóa này, một
cuộc sống mà gian lao và hào hùng trãi ra trong nhiều thế kỷ trước
Công nguyên, với các sưu tập công cụ lao động, vũ khí đá lớn nhất Việt
Nam ở Cầu Sắt, Suối Linh, Mỹ Lộc, Phước Tân; những bộ khuôn đúc
nhiều nhất khu vực Đông Nam Á ở Dốc Chùa, Bưng Bạc, Bưng Thơm,
Cái Vạn, Suối Chồn; những sưu tập kiếm, dao, nỏ, suốt đan lưới bằng
căm xe hay gõ đỏ chưa từng thấy trong các làng nhà sàn “chài - nông
- thương” vùng cửa sông ven biển; những nghĩa địa dày đặc quan tài
bằng chum vò gốm kiểu Sa Huỳnh; những ngôi mộ thủ lĩnh mai táng
trong “chum” khoét rỗng từ gốc sao đại thụ (Parashorea) và có “nắp
đậy” bằng trống đồng kiểu Đông Sơn và có chứa gương đồng kiểu Tây
Hán đặt bên kiếm thờ - nghi trượng và thảo mộc bản xứ; những bộ đàn
đá tinh chế từ cornéence là “đá thiêng - đá quý - đá của Giàng cho” ở
Bình Đa, Lộc Hòa, Gò Me, Đa Kai; hoặc kho tàng chứa qua, rìu, tượng
trút bằng đồng đồ sộ trong đỉnh chóp núi lửa cổ Long Giao và quần
134 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.5 Page 135

▲back to top
thể công trình kiến trúc mộ Cự thạch Hàng Gòn. Tất cả làm nên những
hiện tượng Đồng Nai” trong lịch sử thăng trầm của văn hóa và văn
minh Đông Nam Á” (Phạm Đức Mạnh, 1985,1999, 2001).
Cũng không phải ngẫu nhiên khi GS. Eiji Nitta ở University of
Kagoshima (Japan) lại đặc biệt quan tâm đến “kho tàng” (Depot) vũ
khí ở Long Giao và mộ Cự thạch Hàng Gòn, khi ông tin rằng, sưu tập
vũ khí kiểu “qua” (Ko-daggers) Long Giao có thể chế tạo phỏng theo
hình mẫu qua đồng có niên đại “hậu Chiến quốc” ở Trung Nguyên,
niên đại chung khoảng cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên. Qua đồng
Long Giao được tích lũy và dự trữ qua nhiều thế hệ như “biểu tượng
của thủ lĩnh” (Regalia for the Bigmen) của cả vùng này. Vị thủ lĩnh
chiếm hữu sưu tập “qua” như biểu tượng quyền uy của mình có thể
được chôn cất chính trong ngôi “mộ Đá lớn” (The big stone cist) ở
Hàng Gòn. Sau khi “cha truyền con nối” dăm thế hệ, sưu tập qua đồng
mới được chôn xuống kho tàng Long Giao, có thể vì ở Nam Bộ đã xuất
hiện các “biểu tượng mới” (New regalia) cho quyền uy thủ lĩnh toàn
vùng này thay thế chúng. Sự thay thế này liên quan đến những đổi thay
xã hội và tôn giáo xuất hiện ở lưu vực Đồng Nai vào khoảng đầu Công
nguyên mà một trong những nguyên do cần tính đến là “ảnh hưởng từ
thế giới bên ngoài” (Nitta, E., 1998). Dự cảm của vị giáo sư Nhật Bản
cần được thảo luận thêm, song dù còn chưa rõ các ý tưởng của ông xây
dựng trên nền tảng tư liệu cụ thể nào, chúng ta hoàn toàn có thể đồng
ý với ông về niên biểu chung của cả sưu tập qua đồng Long Giao, về
giá trị tinh thần ẩn chứa trong “kho tàng Long Giao” và về “tiền mẫu
Trung Nguyên” của vũ khí kiểu này ở Nam Bộ (Việt Nam). Nhưng
khởi hình sớm nhất” của vũ khí kiểu “qua” có thể trung chuyển qua
cương vực phân bố cơ bản của phức hệ văn hóa Đông Sơn hoặc qua cao
nguyên Cò Rạt theo dòng Mékong vào Nam Bộ (Việt Nam). Mặt khác,
chính ở Đông Nam Bộ, chúng ta đã phát hiện được các “tiền mẫu trực
tiếp” hoặc các “khởi hình trực tiếp” của sưu tập qua Long Giao chính
từ Dốc Chùa (Bình Dương), Gò Quéo (Thành phố Hồ Chí Minh), Bàu
Hoè (Bình Thuận) vào khoảng giữa Thiên niên kỷ I trước Công nguyên
và xưa hơn nữa, từ “nhóm binh khí mũi nhọn bằng đá” Cù Lao Rùa,
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 135
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.6 Page 136

▲back to top
Bến Đò, Bình Đa có niên biểu chung từ cuối Thiên niên kỷ II đến đầu
Thiên niên kỷ I trước Công nguyên. (Phạm Đức Mạnh, Trần Thanh
Đào, 1995).
Hiện tượng mà người cổ Đồng Nai tập trung quặng đồng cùng hợp
kim cơ bản để chế tạo hàng loạt vũ khí kiểu qua có kích thước và trọng
lượng lớn nhất châu Á đã được chúng tôi xem như “một hiện tượng
khảo cổ học thuộc về thời kì mà đồ sắt đã phổ biến”, thay thế vai trò
của công cụ, vũ khí bằng đồng thau tương ứng trong đời sống người cổ.
Ngoại trừ qua đồng - loại vũ khí đặc biệt với các giá trị tinh thần (biểu
tượng) và nghệ thuật (hình trang trí đẹp) mà đồ sắt không có khả năng
thay thế được - loại vũ khí là sản phẩm tiêu biểu của “giai đoạn Suối
Chồn” ở nửa sau Thiên niên kỷ I trước Công nguyên - thời điểm tương
đương với niên đại C14 ghi nhận ở Phú Hòa và Suối Đá (Hàng Gòn 9).
136 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.7 Page 137

▲back to top
THỐNG KÊ SƯU TẬP QUA ĐỒNG ĐỒNG NAI
Số
STT đăng
Kích thước
(cm)
Trọng
lượng
(gram)
Tình trạng,
màu sắc hiện vật
I. Long Giao 1982 - Bảo vật quốc gia
Dài toàn bộ: 62
1
LG 01
Lưỡi (dài x rộng): 52 x 11,5
Chuôi (dài x rộng): 11 x 8
Đốc (dài x rộng): 30 x 9,5
Dài toàn bộ: 40
2
LG 03
Lưỡi (dài x rộng): 30,8 x 10
Chuôi (dài x rộng): 8,7 x 6,4
Đốc(dài x rộng): 21,5 x 8
Gãy giữa lưỡi, rìa lưỡi mẻ,
1.350 hoa văn bị mờ ở phần lưỡi
gãy
750
Còn nguyên, bị ôxy hóa
màu nâu
Dài toàn bộ: 40,2
3
LG 04
Lưỡi (dài x rộng): 32 x 9,7
Chuôi (dài x rộng): 8,5 x 7
Đốc (dài x rộng): 21,3 x 8
850
Có một đường nứt ở giữa
lưỡi, rìa trên của lưỡi bị mẻ
Dài toàn bộ: 50,2
4
LG 05
Lưỡi (dài x rộng): 40 x 15
Chuôi (dài x rộng): 12 x 9
Đốc (dài x rộng): 30,9 x 12
1.400 Bị gãy phần mũi
5
LG 06
+
LG 19
Dài toàn bộ: 65,2
Lưỡi (dài x rộng): 54,2 x 8,6
Chuôi (dài x rộng): 10 x 5,2
Đốc (dài x rộng): 22,2 x 8
Gãy lưỡi, gãy mất một đoạn
chốt tra cán ở đốc, hai bên
1.100 rìa lưỡi bị mẻ, bị ôxy hóa
nặng ở phần đầu lưỡi, toàn
thân màu xanh nâu
Dài toàn bộ: 53,7
6
LG 07
Lưỡi (dài x rộng): 42 x 15
Chuôi (dài x rộng): 11,5 x 9
Đốc (dài x rộng): 31 x 12,5
1.350 Còn nguyên
Dài toàn bộ: 38,5
Gãy mất một phần lưỡi, hai
7
LG 08
Lưỡi (dài x rộng): 22 x 14,5
Chuôi (dài x rộng): 11,2 x 8,7
1.000
bên rìa toàn thân bị mẻ, bị
phong hóa những đốm màu
Đốc (dài x rộng): 27,5 x 11
nâu đen
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 137
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.8 Page 138

▲back to top
Dài toàn bộ: 60,5
8
LG 09
Lưỡi (dài x rộng): 50 x 7,8
Chuôi (dài x rộng): 10 x 5,5
Đốc (dài x rộng): ? x 7
Gãy gần giữa lưỡi, đốc bị
630 mất quá nửa, phần rìa trên
bị mẻ
Dài toàn bộ: 43
9
LG 10
Lưỡi (dài x rộng): 42 x 6,5
Chuôi (dài x rộng): ? x 4,7
Đốc (dài x rộng): 20,3 x 6,7
650
Gãy mất chuôi, lưỡi bị gãy
gần về phía chuôi
Dài toàn bộ: 39,7
10
LG 11
Lưỡi (dài x rộng): 32 x 7,3
Chuôi (dài x rộng): 7,5 x 6,1
Đốc (dài x rộng): 18,8 x 1,5
900 Còn nguyên
Dài toàn bộ: 36
11
LG 12
Lưỡi (dài x rộng): 31,5 x 9
Chuôi (dài x rộng): 4,7 x 5,8
Đốc (dài x rộng): 21 x 7,8
Còn nguyên, hai bên rìa
570
lưỡi bị mẻ, chỗ đốc tra cán
bị mòn, hoa văn mờ do bị
ôxy hóa
Dài toàn bộ: 58
12
LG 13
Lưỡi (dài x rộng): 46,5 x 8
Chuôi (dài x rộng): 11,5 x 6,5
Đốc (dài x rộng): 19,7 x 7,2
Gãy thành ba phần, phía
ngang lưỡi và ngang đốc,
gãy mất phần mũi nhọn của
820 lưỡi. Dọc đốc cũng bị gãy
phần nhỏ dọc rãnh tra cán.
Toàn thân bị ôxy hóa màu
nâu, hoa văn mờ
Dài toàn bộ: 50,2
13
LG 14
Lưỡi (dài x rộng): 39,5 x 6,7
Chuôi (dài x rộng): ? x 6,7
Đốc (dài x rộng): 9,5 x 5,1
Gãy làm ba phần, phần đốc
gần như gãy mất hoàn toàn,
800 một phần mũi nhọn của lưỡi
bị gãy, hai bên rìa toàn thân
bị mẻ
Dài toàn bộ: 55,9
14
LG 15
Lưỡi (dài x rộng): 51 x 7
Chuôi (dài x rộng): ?
Đốc (dài x rộng): 12,5 x 6
990
Bị mất chuôi, đốc bị mất vát
một phần
Dài toàn bộ: 61,5
15
LG 16
Lưỡi (dài x rộng): 49,6 x 8
Chuôi (dài x rộng): 11,5 x 6
Đốc (dài x rộng): 21,5 x 8
1.100
Còn nguyên, toàn thân
ôxy hóa màu nâu đồng
bị
138 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.9 Page 139

▲back to top
II. Long Giao 2-2006
Dài toàn bộ: 27,2
16
L G - Lưỡi (dài x rộng): 20,7 x 7,3
06-A1 Chuôi (dài x rộng): 6,5 x 4,5
Đốc(dài x rộng): 15,5 x 6
Dài toàn bộ: 26,7
17
L G - Lưỡi (dài x rộng): 26,7 x 7
06-A2 Chuôi (dài x rộng): 7,2 x 4,7
Đốc (dài x rộng): 16,3 x 5,5
Dài toàn bộ: 27,7
18
L G - Lưỡi (dài x rộng): 22,2 x 8
06-A3 Chuôi (dài x rộng): 5,5 x 4,7
Đốc (dài x rộng): 16,7 x 6,5
Dài toàn bộ: 26,5
19
L G - Lưỡi (dài x rộng): 21 x 8,5
06-A4 Chuôi (dài x rộng): 5,5 x 4,5
Đốc (dài x rộng): 16,4 x 7
Dài toàn bộ: 27,7
20
L G - Lưỡi (dài x rộng): 21,2 x 7
06-A5 Chuôi (dài x rộng): 6,5 x 4,5
Đốc (dài x rộng): 15,1 x 5,5
Dài toàn bộ: 26,4
21
L G - Lưỡi (dài x rộng): 19,5 x 6,3
06-B1 Chuôi (dài x rộng): 6,9 x 4,8
Đốc (dài x rộng): 16,2 x 6
Dài toàn bộ: 23
22
L G - Lưỡi (dài x rộng): 21,1 x 7,5
06-B2 Chuôi (dài x rộng): 1,2 x 4,5
Đốc (dài x rộng): 13 x 6,4
Dài toàn bộ: 29,8
23
L G - Lưỡi (dài x rộng): 23,8 x 8
06-B3 Chuôi (dài x rộng): 6 x 4,5
Đốc (dài x rộng): 16,5 x 6,8
Dài toàn bộ: 28,5
24
L G - Lưỡi (dài x rộng): 22,7 x 8
06-B4 Chuôi (dài x rộng): 5,8 x 4,5
Đốc (dài x rộng): 17 x 6,5
400
Ôxy hóa màu xanh đậm, lổ
chốt cán bị bít chặt
450
Ôxy hóa màu xanh đậm,
đốc hỏng
450 Ôxy hóa màu xanh đậm
500 Ôxy hóa màu xanh đậm
400
Ôxy hóa màu xanh đậm,
chuôi bị cong vênh
350 Ôxy hóa màu xanh đậm
300
Ôxy hóa màu xanh đậm,
gãy chuôi, đốc hỏng
450 Ôxy hóa màu xanh đậm
450 Ôxy hóa màu xanh đậm
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 139
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

14.10 Page 140

▲back to top
III. La Ngà 6-2006
Dài toàn bộ: 34,5
25
L N - Lưỡi (dài x rộng): 26,5 x 5,3
06-1 Chuôi (dài x rộng): 8 x 5,5
Đốc (dài x rộng): 9,5 x 3
Dài toàn bộ: 32
26
L N - Lưỡi (dài x rộng): 24,2 x 7,5
06-2 Chuôi (dài x rộng): 7,8 x 5,3
Đốc (dài x rộng): 14,6 x 5,5
Dài toàn bộ: 42,5
27
L N - Lưỡi (dài x rộng): 26,5 x 2,7
06-3 Chuôi (dài x rộng): 16 x 5,5
Đốc (dài x rộng): 8 x 2,5
Dài toàn bộ: 39,7
28
L N - Lưỡi (dài x rộng): 25,5 x 3,5
06-4 Chuôi (dài x rộng): 14,2 x 5,5
Đốc (dài x rộng): 12,8 x 2,2
250
Gãy ba đoạn, ôxy hóa nặng,
màu xanh rêu
320 Chuôi gần gãy
250
Gãy hai đoạn, ôxy hóa
nặng, màu xanh rêu
300 Gãy ba đoạn, ôxy hóa nặng
Đây cũng chính là khởi điểm thời kỳ lịch sử mới - thời kỳ hình
thành một “mạng lưới phân quyền thời sơ sử ở Đồng Nai”, thời kỳ định
hình các quyền lực liên vùng và tiểu vùng, cùng với các “biểu tượng
quyền uy liên vùng tương ứng ở miền Đông Nam Bộ (quần thể kiến
trúc Cự thạch Hàng Gòn) và các biểu tượng quyền uy quý tộc tiểu vùng
hoặc các biểu tượng sang giàu của đại gia tiểu vùng, ghi nhận được từ
vùng đồi cao đá phiến - đất đỏ huyền vũ nham thuộc Đồng Nai - Sông
Bé, đến vùng đồi thấp, các thung lũng phù sa cổ, các đồng bằng phù sa
mới và các đầm lầy ở cửa sông cận biển... Trong suốt nửa thiên kỷ lao
động, chiến đấu sôi nổi hào hùng ấy, quần thể kiến trúc có khung sườn
bằng Cự thạch độc nhất vô nhị ở miền đất này hoàn toàn xứng danh là
công trình của thiên niên kỷ”, là công trình kiến trúc ưu tú nhất của
trí tuệ Đồng Nai thời sơ sử, từ tài tổ chức lao động tập thể, khai thác
và chuyển vận đường trường hàng trăm tấn Cự thạch trong điều kiện
kỹ nghệ và địa hình; đến óc sáng tạo kiến trúc nên mô hình cả quần thể
thánh địa” cân xứng, hài hòa mà hùng vĩ - đã chứng minh năng lực
kiến tạo phi thường của “những người thầy của đá” Đồng Nai xưa. Các
140 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15 Pages 141-150

▲back to top

15.1 Page 141

▲back to top
nỗ lực ở mức siêu phàm đến khó tin của trí tuệ và sức lao động cộng
đồng Đồng Nai từ thuở ấy chỉ có thể giải thích giống như một công
cuộc huy động toàn lực, tổ chức lao động chặt chẽ để kiến tạo nên trong
thực tiễn một công trình giống như “thạch tự tháp” của riêng miền văn
hóa này để dành riêng cho thủ lĩnh - các thủ lĩnh (chiefdom, chiefship,
chieftain, chieftaincy) Đồng Nai - biểu tượng rõ rệt nhất của “khối kết
tinh văn hóa - hình nổi văn hóa” (Cultural Crystallic block or Stereo-
type) hay “tầm cao văn hóa” của riêng Đồng Nai, không giống với
tầm cao văn hóa” của Sa Huỳnh và “tầm cao văn hóa” của Đông Sơn
ở sơ kỳ thời đại Sắt.
Được chọn lựa vị thế đất cao để kiến thiết “thánh địa” giữa một
cương vực quần cư và sáng tạo văn hóa liên tục, sầm uất và quan trọng
vào bậc nhất của cả cộng đồng đa tộc người Đồng Nai từ nhiều thế kỷ
trước Công nguyên và lại nằm gần sát các “cánh đồng chum” dày đặc
và “kho tàng” vũ khí, tượng quý hiện biết là duy nhất Đồng Nai thuở
ấy, sự thành tạo quần hợp công trình kiến trúc Cự thạch Hàng Gòn bộc
lộ một phần diện mạo trung tâm tinh thần thự sử Đông Nam Bộ nổi
trội giữa các trung tâm kinh tế, văn hóa, thông thương ở các lãnh địa
khác, các khu vực tụ cư kiểu mật tập quanh những “thị trấn” hạt nhân
và những “tiền thị cảng” đang manh nha nhờ sự tiếp tế cung ứng nông
phẩm, thực phẩm và cả lâm, thủy sản làm thương phẩm của các quần
thể làng làm nông, chài lưới, các lò gốm và xưởng đá, các xưởng đúc
và lò rèn, lò nấu thủy tinh, các xưởng dệt và xưởng mộc, các nhóm
chuyên đi săn và các nhà chuyên buôn bán..., vào thời kỳ “tiền nhà
nước” - thời kỳ phôi thai nhà nước sơ khởi kiểu Nam Bộ (Việt Nam)
của phương Đông (Phạm Đức Mạnh, 1991-2010)1.
1  Trong nhiều công trình nghiên cứu của mình, nhóm tác giả sử dụng thuật ngữ:
Thời kỳ tiền nhà nước” hay “Cấu trúc tiền nhà nước” (Predgosudarstvennye period;
Predgosudarstvennye struktury; Pre-State or Chiefdom periods), tương đương về học
thuật với các thuật ngữ: “Thời kỳ tiền giai cấp” (Predklasovyi period; Pre-Class or Elite
periods) hay “Tiền sử muộn” (Late Prehistory) và “Sơ sử “ (Protohistory), để biểu thị
chung cho thời kỳ mà các xã hội người cổ ở Đồng Nai và Đông Nam Á đất liền và hải
đảo chuyển mình từ trạng thái nguyên thủy qua “ngưỡng cửa” của thời đại mà F.Engels
gọi là: “Văn minh” (Civilisation; Civilization).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 141
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.2 Page 142

▲back to top
Chương II.
QUẦN THỂ DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN (ĐỒNG NAI, VIỆT NAM)
TRONG BÌNH DIỆN VĂN HÓA CỰ THẠCH
KHU VỰC VÀ CHÂU LỤC
Quần thể di tích quốc gia đặc biệt mộ Cự thạch Hàng Gòn nằm trên
vùng cao nguyên phát triển bazan trải dài về vùng cận biển. Phân bố
dọc duyên hải trong đất liền vùng bán đảo hay ngoài hải đảo theo kiểu
viền biển, ven biển và hướng biển” vốn là đặc hữu ở nhiều quần thể
công trình thuộc “nền văn hóa có những kiến trúc làm từ Đá lớn”
châu Á từ tiền sử. Trong kho tàng văn minh nhân loại tính từ “xã hội
quyển” (socio-sphère), những “công trình Cự thạch” thuộc hình loại di
sản văn hóa kỳ vĩ nhưng hiện thực của trí tưởng tượng loài người trên
nhiều Châu lục của hành tinh xanh, ngoại trừ Australia.
Cự thạch (Megaliths) khởi nguyên tự Hy Lạp: “Đá” (Lithos) và
lớn” (Mega) tưởng có thể hiểu đơn giản như là các sản phẩm cổ nhân
sáng chế từ “Đá lớn” là đủ, thế nhưng trong thực tiễn, di sản thuộc loại
142 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.3 Page 143

▲back to top
hình văn hóa đặc sắc này có muôn hình vạn dạng. Từ những tảng đá thô
kệch không hoặc có sơ chế thành trụ được người xưa chôn đứng làm
cột thờ” hay “đá mồ” đơn giản nhất, hoặc chôn theo “cặp” theo hàng
dãy, có khi tới vài trăm trụ “Menhir” kiểu Stonehenge ở Anh và “trường
thạch” kiểu Carnac và Morbilan ở Pháp, các hàng đá dựng cao 3m ở
Skara Brae, Đảo Shetland, Orkney (Scotland) hoặc cao tới 6m ở Loc-
merjaquer; hoặc cả vành đai “đá dựng khổng lồ” khép thành hình móng
ngựa, chữ U, vòng tròn và giống “thiên lộ” viền biển Atlantic từ Tây
Ban Nha, miền Tây Pháp, miền Bắc Đức, miền Nam Anh, ven biển
Đông Brittany và Bắc Âu...; cho đến những công trình kiến trúc làm từ
đá lớn xếp đặt dày công hơn, chế tác điệu nghệ hơn, phối trí cầu kỳ hơn,
ghép lắp thành quần thể gồm cả bàn đá, ghế đá, phòng đá trên mặt đất,
hay cấu trúc thành hầm chìm trong đất dạng “Dolmen”, “mộ có quan và
quách đá” và những công trình “thánh địa” huyền bí, những đại phẩm
nghệ thuật dị thường như tượng nữ cao gần 300m ở giữa Địa Trung
Hải, bên các bức tường đá có văn khắc “mã hóa” thông tin tiền sử
5.000 năm trước, đến hàng trăm pho tượng nặng hàng chục tấn trẻ hơn
vài thiên kỷ trên đảo Phục Sinh giữa Thái Bình Dương, các đầu thần
khắc trên bazan-andesite, các “đền đá” và “tự tháp Mặt Trăng” ở Trung
Mỹ... (H68-70).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 143
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.4 Page 144

▲back to top
Thậm chí, có người còn ghép vào “Cự thạch” nhiều loại hình đá
lớn khác như các “cánh đồng Chum đá”, các bình đá lớn làm quan tài
táng người, các cấu trúc thềm đá, thạch lộ, bàn thờ, máng xối hay cối
giã đá lớn và cả hàng triệu tác phẩm “thạch họa” khắp năm châu, đẩy
Cự thạch” ra ngoài tầm với nhiều chuyên ngành.
Trong thực tế nghiên cứu lịch sử văn hóa vật thể, di sản văn hóa Cự
thạch đến nay vẫn còn hàm chứa nhiều câu đố về quá khứ tiền sử, từ
nguồn gốc của “tục thờ đá” và các mục đích kiến thiết Cự thạch đích
thực (thờ cúng linh hồn tổ tiên, phụng sự các quyền năng siêu nhiên,
biểu tượng đài quan sát thiên văn, hiện thân vũ trụ, lễ tang ma và ma
thuật tín ngưỡng, biểu tượng địa vị xã hội và tôn vinh thủ lĩnh cộng
đồng...); chủ nhân và các văn hóa nguyên thủy liên hệ với Cự thạch,
các điều kiện kinh tế, xã hội, tôn giáo quan trọng, sự biến diễn loại hình
và phổ biến qua thời gian và không gian phẳng...
Sự dàn trải Cự thạch khắp thế giới đẻ ra nhiều lý thuyết lãng mạn,
từ quan niệm gắn liền Cự thạch với “cư dân đi biển”, với những cuộc
viễn du của “những đứa con của Mặt Trời” (W.J.Perry); đến các lý
thuyết “thiên di” (Ratzei) hay quan điểm về “nguồn gốc Caucasia
của lớp cư dân sống giữa biển Hắc Hải và Caspia - những người Châu
Âu di cư sang Châu Á, Đông Nam Thái Bình Dương và Châu Mỹ, để
lại những công trình đá khổng lồ đến dị thường trên đường đi của họ;
hoặc gắn với các nhà sáng tạo ở từng miền văn hóa cụ thể có yếu tố
Targedanken” (Bastian) hay “Caucasian” (A.N.Keane, A.C. Haddon,
J.H.F. Kohlbrugge)... không ngừng tranh luận với nhau suốt cả thế
kỷ nay.
Trong bình diện Châu Á - vùng đất chiếm tới 1/5 diện tích và 1/2
dân số thế giới, các loại hình di tích được xếp chung vào truyền thống
văn hóa Cự thạch cũng không kém phần đa dạng, phức tạp và ngoại
trừ những nhóm nhỏ nằm sâu trong nội địa từ Bắc Trung Quốc đến cao
nguyên Đông Nam Á và Đông Bắc Ấn Độ, chúng cũng thường phân
bổ dọc theo các bán đảo và quần đảo, tạo hình như cánh cung khổng lồ
từ Triều Tiên - Nhật Bản, qua Đài Loan - Indonesia và cực Nam bán
144 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.5 Page 145

▲back to top
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 145
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.6 Page 146

▲back to top
đảo Mã Lai về miền Nam Ấn Độ, ghi nhận “các bước đi của nhân loại
(Hugo, H.J. 1998) ở châu lục này liên tục từ tiền sử cho đến ngày nay.
1. Các trung tâm văn hóa cự thạch miền Đông Bắc Á
Các trung tâm
được coi là “giàu
Cự thạch” nhất ở
miền đảo này hình
thành từ rất sớm,
mật tập dày đặc
nhất trên bán đảo
Triều Tiên và các
quần đảo thuộc
Nhật Bản. Một số
di tích đơn lẻ phân
bố rải rác từ vùng
cận biển Đông Bắc
lục địa Trung Quốc, Nam Siberia, Mongolia, Manchuria, đến tận Tây
Tạng và quần đảo Đài Loan...
1.1. Bán đảo Triều Tiên
Ghi chép sớm nhất về những công trình Cự thạch tiền sử trên bán
đảo Triều Tiên từng được Lee Kyu-bo thời cuối triều đại Kiryo thực
hiện ngay từ thế kỷ XII. Nhưng nghiên cứu nghiêm túc về chúng chỉ
tính từ nửa đầu thế kỷ XX, khi các công trình Đá lớn gọi là “Goindol,
Jisokmyo” kiểu Dolmen tiền sử được khảo cứu loại hình theo trường
phái Nhật Bản (Torii, R., 1917).
Trên đại thể, các học giả sử dụng thuật ngữ: “Cự thạch” (Megalithes)
cho các loại hình di tích trụ đá dựng kiểu: “Sondol” (Menhir) và ghép
lắp thành vòm kiểu: “Giondol” (Dolmen), thành buồng - phòng mộ
kiểu Chamber graves, Stone-Cists. Cự thạch dạng Menhir ở bán đảo
Triều Tiên thường có kích thước dao động từ 0,5-3,5m chiều dài, được
dựng đơn lẻ, 1 hoặc 2 thanh trên các cánh đồng thấp. Chúng là đối
tượng được thờ cúng, là “dấu hiệu” để phân định đất đai giữa các buôn
146 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.7 Page 147

▲back to top
làng nhỏ với nhau; hoặc được coi là “mốc giới hạn” khoanh vùng đặc
biệt thiêng liêng “bất khả xâm phạm” của một cộng đồng dân cư nhất
định. Có khi các cặp Menhir đứng gần nhau được gọi là “đá Ông” và
đá Bà” (Kim, B.M. 1982; Whang, Y.H. 1982) (H71).
Các công trình gọi là “mộ đá” Triều Tiên thường có cấu trúc của
một “quan tài đá” (stone coffin) có hình hộp chữ nhật, ghép bằng 6
phiến đan lớn (giống kiểu xếp của hầm đá Hàng Gòn nhưng nhỏ hơn
nhiều).
Các trường hợp ngoại lệ ở Triều Tiên thì mộ đá có một vách tường
ghép bằng nhiều phiến nhỏ, hoặc không có tấm đan nền, hoặc buồng
mộ lại ghép từ các tảng đá lớn, tạo ra hộc cửa thông với khoang chứa
thi hài bên trong... Nhưng toàn bộ cấu trúc tạo hình hộp như vậy đều
được người xưa sử dụng để mai táng thi thể người chết, với “chức năng
tang ma” rõ ràng có thể gọi chung bằng thuật ngữ“Mộ Cự thạch”.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 147
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.8 Page 148

▲back to top
Cự thạch dạng “Dolmen” phân bố gần khắp bán đảo Triều Tiên,
ngoại trừ tỉnh Ham Kyungbuk-do, đặc biệt mật tập dày đặc ở miền Tây
bán đảo, dọc theo các dòng sông từ thượng nguồn trở xuống. Đây là
loại hình di tích tiêu biểu nhất, là “thành tố chủ yếu của văn hóa Cự
thạch Triều Tiên”, với các trung tâm danh tiếng nhất ghi nhận ở Kochang
(Tây Nam Chollabuk-do) có khoảng 2.000 Dolmen trong 85 địa điểm
(Dolmen lớn nhất Triều Tiên cao 5m, rộng 7m, dài 7m ở Dosan-ri,
Wungok-ri thuộc Asan-myon; trong đó các địa điểm Chuklim-ri và
Sang Kap-ri được coi như “di tích quan trọng của thời đại Đồng Triều
Tiên, là nguồn liệu cơ yếu để nghiên cứu nguồn gốc và kiểu loại mộ
táng, hình ảnh của phong tục thờ cúng tế lễ trong xã hội tinh thần và
văn minh cổ bản địa” (Jin, L.Y., 1991).
148 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.9 Page 149

▲back to top
Ở Chollanam, thường 50-100 Dolmen tập trung thành nhóm. Ở
Chuklim-ri, Sangkap-ri, Dolmen phân bố thành dãy (ví như ở làng
Maesan dãy Dolmen dài tới 1764m theo hướng Đông. Trong hàng ngàn
Dolmen do Đại học Wonkwang và tỉnh Chollabukdo phát hiện, có tới
550 Dolmen được khai quật, phần lớn có chiều dài 1-2m (79%), chỉ có
2 Dolmen nhỏ dưới 1m và 6 Dolmen lớn hơn 5m.
Từ trước năm 1945, các học giả Nhật Bản như: Fujita, Torii,
Umehare đã chia Dolmen Triều Tiên thành hai loại hình gọi là: Nam
(loại hình có “nắp đơn lẻ”) và Bắc (loại hình giống “bàn”). Một số học
giả Nhật Bản như Mikami, Komoto còn quan tâm đến trật tự niên đại
chung của Dolmen Triều Tiên từ đầu thập kỷ 60 thế kỷ XX. Theo nhiều
công bố sau đó (Kim, W.Y., 1974; Hwong, K.D., 1965; Jo, Y.J., 1979;
Whang, Y.H., 1982; Kim, B.M., 1982), Dolmen Triều Tiên là phức hợp
3 loại hình chính (H72-73) (với 5-8 phụ kiểu tùy cách phân loại từng
học giả) như sau:
- Loại 1 (Table type Dolmen): Phân bố ở bờ biển Tây Bắc, tập trung
dày đặc phía Nam tỉnh Pyongan và Hwanghae. Một số di tích phân bố
dọc bờ biển phía Đông từ Manchuria đến Muckho ở bờ Tây. Di tích
nằm xa nhất về phía Nam chính là Gochang thuộc tỉnh Cholla. Đây là
loại hình sớm nhất của Dolmen ở Triều Tiên và chúng chính là “chìa
khóa” nhận thức những lý thuyết về sự truyền bá tập tục xây dựng kiến
trúc Cự thạch kiểu Dolmen từ miền Bắc xuống miền Nam bán đảo này
(Whang, Y.H., 1982).
- Loại 2 (Go-Table type Dolmen): Đây là loại hình mà trước đây
các học giả Nhật Bản xếp là “phụ kiểu” của loại hình Nam; nhưng
chính cấu trúc rất đặc biệt của chúng lại khiến giới khảo cổ học Hàn
Quốc coi như một “hình loại chính”. Chúng được kiến thiết như một
phòng mộ” do 4 hoặc nhiều hơn tảng đá đỡ lấy 1 phiến đan lớn làm
nắp”. Loại hình gần giống cấu trúc chiếc bàn này phổ biến ở tỉnh
Cholla và Kyong-shang; một nhóm phân bố rải rác ở vùng trung tâm
bán đảo, xung quanh sông Hàn và chưa thấy chúng xâm nhập sâu vào
bờ biển phía Tây Bắc hoặc phía Đông Triều Tiên. Gần đây, các học giả
Hàn Quốc nhận định rằng đây không phải là “hình thức thoái hóa” của
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 149
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

15.10 Page 150

▲back to top
loại hình Dolmen cấu trúc vòm kiểu bàn như quan niệm cũ, mà có thể
chúng là “biến thể từ loại hình “không được chống đỡ” tiếp thu từ bờ
biển trung tâm Trung Hoa và vì thế đó là sản phẩm muộn nhất của Cự
thạch Triều Tiên (Kim, W., 1964).
- Loại 3 (Unsupported cap stone type Dolmen): Loại này không
có phong cách rõ ràng, thường chỉ là một nắp đá đơn giản úp trên mặt
đất, mà đôi lúc chúng ta thật khó phân biệt với những tảng phiến đá
tự nhiên khác. Chúng thường được phát hiện tập trung trong một vùng
có giới hạn, đôi khi tạo thành hàng - dãy Cự thạch, mà thống kê sơ bộ
đã ghi nhận tới hơn vạn di tích (chỉ tính riêng vùng ven sông Yongsan
đã có khoảng 6.000 di tích (Choi, M.L., 1978). Thêm nữa, bản thân
chúng cũng không “thuần nhất”, bởi vì phòng mộ “chìm dưới đất”
của chúng rất đa dạng, mang nhiều phong cách kiến tạo khác nhau, với
7 kiểu (Rim, B.T., 1964), 8 kiểu (Kim,C.V. - Youn, M.B., 1967), hay 12
kiểu (Im, S.G., 1976).
Hiện nay, khung niên đại tuyệt đối của Cự thạch Triều Tiên với
những bằng cớ khoa học thật cụ thể cho từng “nấc - mức” chưa được
tạo lập. Trên đại thể, các học giả cho rằng Cự thạch Triều Tiên manh
nha từ thời đại Đá mới (Kim, C.W., - Youn, M.B., 1967), hay vào “thời
đại Đá mới muộn” (Late Neolithic Stone Age) (Rim, B.T., 1964); cùng
với các nền văn hóa nông nghiệp hình thành trên bán đảo màu mỡ này.
Truyền thống xây dựng các công trình kiến trúc Cự thạch định
hình vững chắc trong các văn hóa thuộc thời đại đồ Đồng, với các bằng
chứng kèm theo Dolmen là: Gốm thô đơn giản, những con dao găm
bằng đá mài nhẵn và đôi khi có cả hiện vật bằng đồng (như dao găm
đồng đào được trong mộ đá Songgukri và một số di vật đồng khác).
Các công trình Cự thạch dạng Dolmen truyền thống dần biến mất vào
cuối thời đại Đồng - sơ kỳ thời đại Sắt, với niên đại chung từ thế kỷ 8
đến thế kỷ 3 trức Công nguyên (Kim, W.Y., - Youn, M.B., 1967), tương
ứng với các giai đoạn văn hóa vật chất ở từng vùng.
Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về niên đại chung (ví dụ, có người
coi “giới hạn trên” chỉ tới thế kỷ 4-6 trức Công nguyên - B.T.Rim,
150 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16 Pages 151-160

▲back to top

16.1 Page 151

▲back to top
C.W.Kim, hay tới thế kỷ 10 trức Công nguyên - Y.H.Do và “giới hạn
dưới” tới thế kỷ 2 trức Công nguyên - C.W.Kim hoặc thế kỷ 1 sau Công
nguyên - B.T.Rim); về nguồn gốc từ đâu văn hóa Cự thạch đến Triều
Tiên; về lý do thịnh hành của truyền thống xây dựng Cự thạch ở cả
Đông Bắc Á, sự biến hóa phong cách Dolmen...; nhưng điều có thể tin
chắc rằng: Dolmen Triều Tiên là thành tố quan trọng của văn hóa Cự
thạch, là cơ sở vật chất có giá trị biểu đạt thế giới tinh thần phong phú
và bí ẩn của tiền bối chúng ta.
Chúng được kiến thiết để làm nơi trú ngụ các linh hồn tổ tiên.
Con người xây dựng công trình Đá lớn vì chính họ tin rằng, trong “Cự
thạch” có “năng lực huyền bí” chứ không chỉ đơn giản coi Đá lớn như
vật liệu xây dựng thô thiển. Họ tin rằng có “linh hồn trong Đá lớn” có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới “thần thiên mệnh” và đem lại các vận may cho
họ và cả cộng đồng của họ. Họ thờ Đá lớn thành kính như “vật linh” -
nơi ẩn chứa “linh hồn” biểu tượng cho sức mạnh vô biên của các “hiện
tượng tự nhiên và vũ trụ” (Whang, Y.H., 1982).
Trong thế giới Đá lớn linh thiêng dày đặc “bậc nhất thế giới” trên
đất Hàn, di tích Goindol (Dolmen) làng Mae miền Kochang ở Ganhwa,
Hwasoonguchang đã được UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa thế
giới” vào tháng 11-2000 (H73).
1. 2. Quần đảo Nhật Bản
Hơn một thế kỷ trước, một kỹ sư người Anh tên là William Gowland
đã gọi những nấm mồ dạng “tumulus” của Nhật Bản là “Dolmen”,
nhưng quan điểm của ông đã bị những nghiên cứu gần đây phản bác
lại. Các cấu tạo đá rộng xếp thành phòng hẹp có hành lang bị phủ dưới
mô đất của tumulus giống như ở Ishibutai thuộc quận Nara và nhiều
nơi khác trên quần đảo này không còn được coi là có mang đặc trưng
của một công trình “Cự thạch” đích thực, như cảm nghĩ Châu Âu về
thuật ngữ này.
Những cấu trúc giống mộ đá xuất hiện trong các giai đoạn muộn
của văn hóa Jomon ở miền Tây Nhật Bản như Kyushu, Chumoku,
Shikoku..., thực ra cũng chỉ là một cấu trúc “ngầm dưới đất” của loại
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 151
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.2 Page 152

▲back to top
hình Dolmen mà thôi. Và, ở Nhật Bản, các học giả thường coi các loại
Dolmen và cấu trúc kiểu “hoàn thạch” là những công trình thực sự
“hàm chứa các đặc trưng Cự thạch” trên quần đảo này (Kagamiyama,
T., 1955).
1. 2. 1. Dolmen.
Các công trình dạng Dolmen phân bố giới hạn ở bờ biển cực Bắc
Nhật Bản (Komoto, M., 1978, 1982). Chỉ riêng thống kê thực hiện ở
miền Tây Bắc Kyushu đã có tới khoảng 500 di tích kiểu này, nằm dọc
bờ biển Tây hoặc ven các dòng sông chảy ra biển Đông Trung Hoa, với
nhiều cấu trúc khác nhau dưới nắp đá như: “Hầm mộ”, “hầm mộ với
vành xếp bằng đá cuội”, “mộ đá” hoặc như “vạc chứa hài cốt”. Qua
nghiên cứu kỹ thuật xây cất công trình, người ta phân biệt kiến trúc
kiểu Dolmen ở Nhật Bản thành 3 loại chính:
152 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.3 Page 153

▲back to top
- Loại 1. Công trình không có đá đỡ dưới nắp: Ở những di tích loại
này, nắp đan nằm ngay trên mặt đất; phía dưới nắp đậy thường chỉ có
những cột đá đặt trên cấu trúc mộ dạng “Stone-cist” hoặc “Pit-grave
với “quách gỗ” (wooden coffin) chức đựng thi hài người chết. Loại
hình này phổ biến trong vùng duyên hải ven biển Đông Trung Hoa như:
Harayama, Fukandaka, Maruyama.
- Loại 2. Công trình có 3-4 đá đỡ dưới nắp đậy: Ở các di tích loại
này cũng có những cột đá tương tự đặt trên cấu trúc mộ, nhưng chỉ
trong giai đoạn muộn thì ở các cấu trúc “hầm mộ” thường thay thế trụ
cột bằng một “vành đá”. Các cấu trúc mộ dưới nắp đậy ở những công
trình loại này khá đa dạng (kiểu như: “Pit-graves”, “Stone-cists”,
“Urns”); chúng thường phân bổ rộng hơn công trình loại 1 trong vùng
Đông Bắc Kyushu thuộc sơ kỳ văn hóa Yayoi.
Trong phần Đông của miền Tây Bắc Kyushu, người ta cũng phát
hiện nhiều cấu trúc mộ táng mà ở trên có nắp đá và Dolmen cùng tồn
tại với các di tích mộ táng thuộc nhiều phong cách khác nhau (kiểu
như “Urns”, “Stone-cists”, “Pit-graves” với quách gỗ). Cùng lúc đó,
ở phần Tây của miền Bắc Kyushu, Dolmen thường quy tụ thành các
nghĩa trang riêng. Đồ tùy táng tìm thấy trong những Dolmen loại này
thường là những mũi tên bằng đá mài thuộc loại hình Triều Tiên và các
đồ gốm có vẽ màu đỏ bóng.
- Loại 3. Công trình không có đá đỡ xung quanh, nhưng ở dưới nắp
đậy, thay cho những cột đá nhỏ, người xưa xếp nhiều cuội dạng gần
vuông lên trên cấu trúc hầm mộ: Dolmen loại này thường chỉ được phát
hiện giới hạn ở vùng cửa sông thuộc quận Kumamoto trong giai đoạn
cuối cùng của truyền thống xây dựng Dolmen ở quần đảo Nhật Bản.
Trong các Dolmen loại 3 thường không tìm thấy đồ tùy táng chôn theo.
Về cơ bản, Dolmen Nhật Bản hoàn toàn đồng dạng với Dolmen
Triều Tiên, trong đó: Loại hình Dolmen không có đá đỡ dưới nắp đan
(với các di tích tiêu biểu như: Harayama, Fukandake, Maruyama), phân
bổ ở bờ biển cực Tây Bắc Kyushu. Loại hình di tích này có niên đại
khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên, được ghi nhận có liên hệ với tục
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 153
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.4 Page 154

▲back to top
hỏa táng, cùng sự manh nha của nông nghiệp ruộng khô. Chúng có thể
quan hệ với đồng loại Dolmen ở Tây Nam Triều Tiên và do giới hạn
phân bố nhỏ, không có nhiều ảnh hưởng lớn trong lịch sử Nhật Bản.
Loại hình có đá chèn đỡ dưới nắp đậy tập trung ở vùng Đông Bắc
Kyushu, khá giống với Dolmen ở địa điểm Kokah-ri thuộc Nam Triều
Tiên và ngược lại với loại trên, chúng gắn liền với nhiều đổi thay xã hội
trong lịch sử Nhật Bản.
Từ khởi đầu văn hóa Yayoi, Dolmen thuộc những vùng này dường
như được người xưa xây dựng dựa trên những ảnh hưởng trực tiếp đến
từ miền Đông Nam Triều Tiên. Những công trình Cự thạch loại này
mang nhiều dạng cấu trúc mộ khác nhau (kiểu như: “Dolmens”, “Pit-
graves”, “Urns”, “Pit-graves” với quách gỗ hay với đá xếp) và liên
quan với nền nông nghiệp làm ruộng ướt ở trình độ kỹ thuật phát triển
cao lan truyền đến quần đảo Nhật Bản. Về sau, lớp con cháu của họ,
nhờ công cụ kim loại bằng đồng hay bằng sắt với các bằng chứng liên
quan đến miền Đông Triều Tiên, đã thành lập nên một hệ thống chính
trị mới trên phần lớn quần đảo Nhật Bản (Komoto, M., 1982).
Một trong những quần thể Cự thạch nổi tiếng chỉ có Dolmen
mang nguồn gốc Nam Hàn trong các giai đoạn lịch sử hậu kỳ văn hóa
Jomon và sơ kỳ văn hóa Yayoi ở những vùng cận biển Đông Trung
Hoa là Harayama thuộc quận Nagasaki nằm ven Mt.Unzen ở bán đảo
Shimabara. Các tập hợp di tích Dolmen nơi đây đã được học giả Baba
phát hiện từ sau thế chiến thứ hai, được nhà khảo cổ học Shichida và
GS. Kagamiyama điều tra khảo sát rất hệ thống từ năm 1953 (Matsuo,
T., 1957) đến tận năm 1984 và sau đó còn có nhiều cuộc khai quật khác.
Ở đây, Dolmen phân bố thành 3 nhóm riêng biệt, trong đó:
- Nhóm A: Gồm 10 Dolmens thuộc loại hình có 3-4 đá đỡ nắp đậy.
Chúng tập trung ở phần cửa quần thể di tích Harayama, với hầm mộ
dạng “Stone-cists” hay “Pit-graves” với cột đá bày trên, chứa gốm tùy
táng liên quan đến thời hậu kỳ văn hóa Jomon và những mẩu than gỗ.
- Nhóm B: Gồm hơn 30 Dolmens cũng thuộc loại hình có đá đỡ
nắp đậy, tập trung ở phần trung tâm quần thể di tích, trong số đó chỉ có
154 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.5 Page 155

▲back to top
3 Dolmen được khai quật. Dưới nắp đậy là mộ đá có cấu trúc hình chữ
nhật, quy mô 80 x 30cm, sâu 50cm, có chứa nhiều hạt chuỗi hình ống,
mũi tên đá, tượng đất nung hình cá và các mảnh gốm.
- Nhóm C: Gồm hơn 100 Dolmens được khai quật tập trung phía
sau quần thể di tích. Chúng gồm cả 2 loại có hoặc không có đá chèn
đỡ nắp trên, với cấu trúc mộ dưới dưới nắp thông dụng (kiểu “Urns”,
“Stone-cists”, “Pit-graves”), có chứa gốm giai đoạn hậu kỳ văn hóa
Jomon và sơ kỳ văn hóa Yayoi.
Quần thể di tích Nakanohara thuộc quận Yamaguchi phân bố ở bờ
phía Đông biển Nhật Bản đã được các nhà khảo cổ học khai quật tới 8
lần. Nghĩa địa rộng lớn này là phức hợp của 4 cụm di tích, nhưng chỉ
thấy có 1 Dolmen, cùng với rất nhiều mộ đá (dạng “Stone-cists” và
Pit-graves” với vành miệng đá). Cách phối trí này chúng ta còn gặp ở
nhiều địa điểm có Cự thạch khác ở phần Đông của miền Bắc Kyushu
dọc bờ biển Nhật Bản (Odomo, Tokusue, Shito, với 1-10 Dolmen với
cấu trúc hầm mộ, huyệt và vành miệng đá có chứa gốm, hạt chuỗi hình
ống và mũi tên đá mài kiểu Triều Tiên).
Các quần thể di tích quy tụ Dolmen khác ở Nhật Bản còn ghi nhận
ở hàng chục địa điểm khác như: Maruyama (17 Dolmens), Morita
(16 Dolmens), Setoguchi (14 Dolmens), Sakogashira (13 Dolmens),
Kishidaka (9 Dolmens), Wariishi (6 Dolmens), Gotanda và Hayamajtri
(cùng có 5 Dolmens), Nishi Ishinari (3 Dolmens), Funaishi (2 Dolmens)
và các di tích Minamikoji, Kouda, Kawayori, Saori (cùng có 1 Dolmen)
thuộc quận Saga; Oda, Higashikota, Shikafunaishi, Kagaishi, Yốc,
Hayamadai, Asada thuộc quận Fukuoka; Yatsuwari (12 Dolmens),
Fujio (9 Dolmens), Kogayama (5 Dolmens), Toshinokami và Asobaru
(cùng có 2 Dolmens), Nakabaru và Tonomoto (cùng có 1 Dolmen)
thuộc quận Kumamoto; Fukandake (20 Dolmens), Ogawanai (10
Dolmens), Onodai (8 Dolmens), Satotabaru (3 Dolmens), Matsubara
(2 Dolmens), Izaki, Tanukiyama và Keikaen (cùng có 1 Dolmen) thuộc
quận Nagasaki (H74).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 155
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.6 Page 156

▲back to top
Về cơ bản, ở các quần thể di tích có Dolmen này người ta cũng ghi
nhận các cấu trúc mộ dưới nắp đá, cũng như các tùy táng phẩm thông
dụng thường thấy ở Nhật Bản như: Mũi tên đá có dấu chạm trổ, hạt
chuỗi hình ống, chuỗi bằng đá jade, gốm vẽ màu đỏ bóng...
Theo quan điểm của GS. Masayuki (1975, 1978, 1982), Dolmen
loại 1 được người xưa kiến tạo trong giai đoạn hậu kỳ văn hóa Jomon;
còn Dolmen loại 2 thuộc sơ kỳ văn hóa Yayoi (khung niên đại C14 từ
610 ± 100 trước Công nguyên đến 350 ± 30 sau Công nguyên) và đến
trung kỳ văn hóa Yayoi (khung niên đại C14 từ 480 ± 105 trước Công
nguyên đến 520 ± 150 sau Công nguyên) thì Dolmen biến mất. Với vết
tích rơm rạ lúa ở đáy hoặc thân chum vò gốm tùy táng trong Dolmen
ở các di tích Harayama và Maruyama thuộc hậu kỳ văn hóa Jomon
và các vết tích hạt lúa hóa than và lúa mạch ở Uenoharu (miền Bắc
Kyushu) cùng thời (Kotami, Y., 1972), một số học giả tin rằng cư dân
nông nghiệp thuộc giai đoạn văn hóa này đã trồng lúa và lúa mạch trên
những cánh đồng khô bằng phương pháp “phát, đốt”.
Ở phần Đông của miền Bắc Kyushu ven bờ biển Nhật Bản, trong
những vùng nổi tiếng là “cái nôi” (Cradle land) của nghề trồng trọt
đồng ướt (Wet-field) và Dolmen ở đây gắn bó vững chắc với nông
nghiệp và chung sống cùng thời với phức hợp nông nghiệp cùng kỹ
thuật trên đồng ướt và đồ nông cụ đá mài, đồ dệt, đan... Phù hợp với
phân tích của T.Kanaseki và M.Nagai, thì những cư dân có vóc dáng
cao đã đến các vùng này đem theo kỹ thuật trồng lúa từ Nam Hàn vào
buổi đầu thời đại văn hóa Yayoi. Dolmen loại mới với đá đỡ dưới nắp
tạo thành vòm rộng được xây dựng bởi những người Triều Tiên nhập
cư hòa trộn với thổ dân dưới những nghi thức lịch sử này.
1. 2. 2. Hoàn thạch (Stone circles)
Di tích dạng hoàn thạch phân bố chủ yếu ở Hokkaido và các vùng
núi cao từ huyện Tohoku đến Chu bu, đã được Dr K.Komai, một
chuyên viên khảo cổ học lục địa rất uyên bác về lịch sử Cự thạch Châu
Âu, nghiên cứu từ sau thế chiến thứ hai. Sau ông, những công trình đá
giống hoàn thạch đã được khám phá thêm khắp miền Đông quần đảo
156 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.7 Page 157

▲back to top
Nhật Bản. Đó là các di tích có dạng hàng rào với ụ đá đắp bằng đất hình
tròn, những hàng rào đá với các cột đá chôn ở giữa, các hàng rào cắt
gọt bằng gỗ tròn và những cấu trúc đá khác được giả thiết có nguồn gốc
phát sinh từ hoàn thạch. Ngoài ra, còn rất nhiều công trình Cự thạch
với quy mô nhỏ hơn, được kiến thiết tương tự với loại di tích có cấu
trúc những hàng ụ đá hình “tháp” (Cairns) phổ biến ở miệt chân núi
hay đỉnh đồi trong các sơn khối phía Bắc quần đảo Nhật Bản. Người
ta thường phân biệt trong các công trình gọi là “hoàn thạch Nhật Bản”
thành 4 loại chính:
- Loại 1. Ụ đá nhỏ: Đây là dạng công trình được khám phá nhiều
nhất ở Nhật Bản. Chúng thường có cấu trúc khung tròn hay chữ nhật, đá
được xếp viền xung quanh. Đá xếp thường không dựng đứng và cũng
không có cột bao bọc cấu trúc đá dạng này. Ở di tích Otoe, Hokkaido,
người ta ghi nhận có tới 13 ụ đá nhỏ như vậy được xếp thành hàng trên
đỉnh đồi gần sông Ishikari. Mỗi ụ đá có đường kính rộng khoảng 3-4m,
bên trong có xếp cuội và sỏi. Phần lớn các ụ đá có hầm mộ bên dưới
cấu tạo hình chữ nhật hay gần hình quả trám, quy mô trung bình: 2,5-
1,4 x 1m; đồ tùy táng thường thấy là các loại mũi tên đá, hạt chuỗi và
dây chuyền bằng đá jade, đồ đựng gốm và cả bát có sơn mài.
Một số di tích còn có hàng rào với ụ đất, giống như ở địa điểm
Shuen A. Ở địa điểm Kin Sei thuộc quận Yamanashi, hơn 10 cấu trúc
đá với cột đá chôn khá sâu được khai quật. Cột đá được xếp thành từng
hàng, kiến tạo hình chữ nhật xung quanh cột đá chính ở trung tâm. Cấu
trúc kiểu này có thể liên quan với các ụ hình tháp phân bố dưới chân
núi với nhiều gốm vỡ nằm ở xung quanh các ụ đá này, cùng kiếm đá,
dây chuyền, tượng đất nung và cả di cốt hỏa táng.
Các ụ đá cùng loại cũng được nghiên cứu ở vùng Hokkaido
(Gotenyama: 73 ụ đá chứa nhiều mảnh gốm, hạt chuỗi, rìu đá, lao đá
có ngạnh, bàn chải và cả tượng đất nung; Hoknei - 5 di tích, Takidai,
Jichinyama cũng tìm thấy chuỗi và dây chuyền bằng đá jade, mũi tên
đá và gốm vỡ... và ở Kabayama, Sawanai thuộc vùng Iwate; Unjono,
Kurokura, Sodeno thuộc vùng Akita; Sengo thuộc vùng Shizuoka có
chứa các dao đá đẽo và nhiều mảnh gốm cổ...
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 157
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.8 Page 158

▲back to top
- Loại 2. Ụ đá xếp thành vòng tròn: Ở Nishizakiyama, Katsuyama,
Sodeno, Oyu Nonakado và Manza, Kamijo, Samuki, Teraji. Ở di chỉ
Nishizakiyama, 7 ụ đá nhỏ với đường kính trung bình 1-1,5m, tạo bởi
vòng tròn cuội và ở dưới là cấu trúc hầm mộ nhỏ có chứa gốm.
Các di chỉ hoàn thạch nổi tiếng nhất Nhật Bản là Oyu Nonakado và
Manza có 2 vòng tròn đồng tâm và ở góc hay ngoài di tích có khá nhiều
cấu trúc dạng ụ đá (44-45 ụ), đường kính phía trong hoàn thạch trung
bình: 6-13m và 6-12m và đường kính ngoài là 30-45m và 32-52m.
Riêng hoàn thạch ở các địa điểm Nonakado (đường kính ngoài khoảng
40m), Manza, Samuki (đường kính ngoài khoảng 50m) đã được một
số học giả coi như “đồng hồ mặt trời”. Thông thường, trong các công
trình dạng này, cấu trúc đá thường xếp thành các tia tỏa tròn với cột
đá trung tâm ở giữa 2 vòng tròn và vành viền cuội nhỏ. Các hầm mộ
nằm dưới cấu trúc đá có hình ellip và đủ rộng để chứa thi hài người
chết chôn ở tư thế co gập lại. Đây là những công trình dạng “lăng mộ”
(Komoto, M. 1982).
158 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.9 Page 159

▲back to top
Ở các di tích khác, hoàn thạch mang những đặc trưng riêng. Ví
như, 77 ụ tạo thành vòng với đường kính ngoài khoảng 45-90m ở
Katsuyama; 4 ụ ở Sodeno và ở Teraji vòng rộng 10-16m có tìm thấy
gốm và cả xương người được hỏa táng.
- Loại 3. Công trình có hàng rào với đá tròn: Số lượng ít ở
Koyo, Okushibetsu, Tabata... Địa điểm Okushibetsu nằm ở cực Đông
Hokkaido có cấu tạo hình tròn, do đá thô tròn xếp bằng cuội và đá nhỏ,
đường kính hoàn thạch khoảng 11m, với 1 hầm mộ và 4 lỗ như chỗ để
“hỏa thiêu” ở gần đó - các chi tiết dường như gợi ý rằng vòng tròn này
đang được xây dựng để trở thành một “di tích nghi lễ” (?).
- Loại 4. Vòng tròn đá dạng “Cromlech”: Ở một số địa điểm như:
Wappara (đường kính rộng chỉ khoảng 2m), Jichinyama, Mikasayama...
Ở địa điểm Mikasayama gần thành phố Otaru (Hokkaldo), “Cromlech
tạo bởi vòng tròn hàng trăm cột đá dựng cao trung bình khoảng 1m,
đường kính vòng tròn khoảng 22-30m (Komai, K., 1973) (H75). Vì
bên trong các vòng tròn kiểu này chưa được khai quật nên chúng ta
chưa biết cấu trúc đá có hầm mộ hay không. Trên cơ sở giám định niên
đại các di vật thu thập được, người ta cho rằng việc khởi sự xây cất
các công trình dạng này dường như được tiến hành vào sơ kỳ văn hóa
Jomon, nhưng việc phổ cập di tích gọi là “Cromlech” ở quần đảo Nhật
Bản chỉ tính từ hậu kỳ văn hóa Jomon (Fujimoto, T., 1979).
Ngoài các kiến trúc công trình đá cơ bản trên, một số di tích mộ
táng khác được coi có nguồi cội hoặc liên quan với hoàn thạch, từng
ghi nhận ở Hokkaido. Ví như, ở di tích Kashiwagi B, người ta đã khai
quật 21 cấu trúc ụ tròn, với 3 rào đất đắp hình tròn đồng tâm, cùng với
vòng ụ có đường kính ngoài khoảng 21m và đường kính trong khoảng
12-13m, cao trung bình 45-60cm. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn khám
phá tới 47 hầm mộ (Pit-graves) có cấu tạo bên trong hình oval, cùng
với các vành đất đắp và nhiều lỗ nhỏ (Otani, T., 1978).
Các cấu trúc hình tròn tương tự ghi nhận ở Kurisawa (21 cấu trúc
với đường kính trong rộng khoảng 28-32m, cao trung bình 65-67cm,
với cấu tạo hầm mộ hình tròn hoặc oval) và những địa điểm khác ở
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 159
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

16.10 Page 160

▲back to top
Kiusu, Marukoyama, Ichani, Nobana Minami..., với đồ tùy táng gồm
các rìu đá, dùi đá có ngạnh, mũi tên đá, các di vật hình móng hay vuốt
thú, hạt chuỗi bằng đá jade, bát gỗ có sơn mài và các mảnh gốm thuộc
đồ đựng loại hình muộn thời đại hậu kỳ văn hóa Jomon. Vì vậy, những
công trình có hàng rào đất với các vành hình tròn được coi là các di tích
bản địa và có gắn bó nguồn cội với kiến trúc dạng hoàn thạch đầu tiên
ở Nhật Bản. Những hoàn thạch và các công trình có liên hệ cội nguồn
với chúng phân bố rộng trong vùng Đông Nhật Bản có nhiều khả năng
được người xưa kiến tạo sau những công trình Siberia. Ở miền Đông
Siberia và miền Bắc Trung Hoa, các nhà khảo cổ học đã khám phá
nhiều di tích hoàn thạch có cấu trúc tương tự mà niên đại được phỏng
định từ sơ kỳ Đá mới như ở Harai.
Trên quần đảo Nhật Bản, các cấu trúc hoàn thạch dường như được
du nhập đến vào sơ kỳ thời đại văn hóa Jomon, vào khoảng 5.000 năm
trước Công nguyên, nhưng chúng được kiến thiết phổ cập và gia tăng
về số lượng chỉ tính từ hậu kỳ văn hóa Jomon, vào khoảng 2.000-1.000
năm trước Công nguyên. Một số cấu trúc đá chứa nhiều than tro và
xương cháy sém gợi ý rằng hoàn thạch được xây dựng dành cho tục
hỏa táng người chết. Hiển nhiên, giả thiết cần được chứng minh thêm
như nhiều vấn đề khoa học và các giả định tương tự như vậy quan hệ
đến hoàn thạch Nhật Bản. Mà khởi đầu chính từ các câu hỏi lớn liên
quan đến “tư cách Cự thạch” của chúng, về niên đại chính xác hơn, về
chức năng “tế lễ” hoặc “mai táng” đích thực và sự liên hệ của chúng
với những công trình thuộc loại hình kiến trúc Cự thạch khác trên quần
đảo Nhật Bản và các vùng, miền văn hóa xung quanh... Trong mối liên
hệ xa hơn, các công trình Cự thạch có chứa mộ đá phiến ghép của Nhật
Bản với ước định niên biểu kiến tạo trong Thiên niên kỷ I trước Công
nguyên (và cả dạng mộ đá phiến lớn ghi nhận ở Bắc Trung Hoa) được
liên tưởng với truyền thống mộ táng bằng chum vò gốm cùng thời đại
ở miền Nam quần đảo Nhật Bản (Bellwood, P., 1978).
1. 3. Lục địa Trung Quốc và Đài Loan
Những “dấu vết Cự thạch ở Trung Quốc và các vùng ngoại vi” đã
được biết đến qua các tác phẩm giới thiệu và nghiên cứu của các học
160 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17 Pages 161-170

▲back to top

17.1 Page 161

▲back to top
giả Tsugio Mikami (1961), Trịnh Đức Côn (1963), Lăng Thuần Thanh
(1967) và B.M.Kim (1982). Người ta thường coi những công trình di
tích gọi là “thạch phong” (Shih-peng hay Sokbung) mang đặc điểm
loại hình Dolmen ở Trung Nguyên, dù còn nhiều nhà khoa học chưa
thừa nhận sự hiện diện các di tích mang đúng nghĩa “Cự thạch” của
Châu Âu trong cả đại lục rộng lớn này. Ở Trung Quốc, các di tích có
sử dụng Đá lớn để kiến thiết công trình rõ ràng nhất là kiến trúc gọi là
“mộ đá”. Chính các dấu vết của mộ đá dạng này với cấu hình “hầm
mộ” có gia cố bằng Đá lớn làm người ta liên tưởng đến truyền thống
văn hóa Cự thạch” trên nhiều vùng khác. Chúng được ghi nhận có
mặt ở Bạt Tra Lộ Khẩu, Lạc Dương từ đời Thương và ở di tích mộ đá
số 2 trong địa phận thôn Cố Vĩ - Hồ Nam từ thời Chiến Quốc (Kuo,
Pao-chun, 1955-1956). Tuy nhiên, cấu trúc chính của di tích này lại là
hầm mộ hình vuông hay chữ nhật với phòng ngầm được gia cố bằng
cây gỗ. Những ngôi mộ kiến thiết bằng Đá lớn tạo thành hình vòm gần
gũi với các loại hình di tích văn hóa Cự thạch như “Dolmen”, “Stone-
cists”, ụ tháp đá dạng “Cairns” chỉ tìm thấy ở một số địa điểm thuộc
Cam Túc trong miền Tây Bắc (Cheng, T.K., 1963); Tây Tạng (Tucci,
G., 1973; Macdonald, A., 1975) và Tứ Xuyên trong miền Tây Nam
(Cheng, T.K., 1946); Đài Loan (Fleming, M.E., 1963; Ling, S.S., 1967)
và Triết Giang trong miền Đông Nam (Mikami, T., 1961); Sơn Đông ở
phía Đông (Torii, R., 1931); Hồ Bắc trong miền Đông Bắc; Manchuria
và Triều Tiên vượt xa ngoài “Vạn lý trường thành” Trung Hoa (Mi-
kami, T., 1961; Kim, B.M., 1982). Nói cách khác, truyền thống sử dụng
Đá lớn để kiến thiết các công trình mộ táng đã được phổ biến trong các
cộng đồng cư dân sống xung quanh vùng trung tâm Hoa Hạ - Trung
Nguyên, mà theo quan điểm của các “Thiên tử Trung Nguyên” xưa là
các tộc người “du cư man di” (Kim, B.M., 1982). Vì thế nên, sang đến
đời nhà Chu, trong lúc lớp con cháu của nhà Thương ở Thiểm Tây, Sơn
Tây và Hồ Nam vẫn tiếp tục bảo lưu, gìn giữ những truyền thống mai
táng độc đáo của cha ông họ với các phòng mộ kè gỗ có từ thời Đá
mới, các cư dân du cư thuộc các “xã hội vệ tinh” phân tán xung quanh
Trung Nguyên lại thích dành cho người thân xấu số của họ những di
tích “mộ đá” hơn.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 161
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.2 Page 162

▲back to top
Về cơ bản, các di tích được coi là “mộ đá”, với cấu trúc của 1 quan
tài đá hình hộp chữ nhật ghép bằng các phiến đan, khám phá ở miền
Đông Bắc Trung Quốc mang đặc điểm chung của “truyền thống vững
chắc của văn hóa mộ đá ở Đông Nam Siberia và Đông Á” (Kim, B.M.,
1982), một truyền thống kiến tạo Cự thạch dành để “tang ma” ghi nhận
dọc bở biển từ Sungari, bán đảo Liêu Ninh và vùng Đường Sơn thuộc
tỉnh Hồ Bắc, kéo dài đến tận Đài Loan và Tây Tạng. Sự hiện diện “vành
đai mộ đá” dạng “Stone-cist tombs” rải rác nhưng viền khắp các vùng
biên giới phía Bắc từ Tứ Xuyên về Cam Túc, cùng các công trình kiểu
mộ ghép bằng đá phiến” ở Lý Phiên từng được học giả Trịnh Đức
Côn lưu ý đến từ lâu, dù ông chưa miêu thuật chi tiết hơn về chúng
(Cheng, T.K., 1946,1963). Đương nhiên, những di tích có cấu trúc được
Trịnh Đức Côn gọi bằng thuật ngữ “mộ đá phiến” phát giác ở Lý Phiên
dường như mang đặc điểm mộ Cự thạch dạng “Stone-cists” thực thụ.
Các ngôi mộ “đá phiến” như vậy được thống kê tới gần 100 công trình
nằm dọc đôi bờ thượng nguồn Mẫn Giang thuộc tỉnh Phúc Kiến (Cheng,
T.K., 1946,1963; Feng, Han-chi, et al., 1973).
162 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.3 Page 163

▲back to top
Ở miền này, các “mộ đá phiến” thường có cấu tạo đơn giản, với
những phiến đan đá ghép thành hình quan tài có kích cỡ trung bình đo
được khoảng 2,1-1,5m chiều dài, 0,6-0,9m chiều rộng, bề ngang quan
tài đá ở phần đặt đầu thi thể người chết thường rộng hơn phần cuối,
với chiều sâu khoảng 70cm. Phần đáy và nắp đậy huyệt phía trên cũng
được sử dụng bằng một trong sáu tấm đan ghép quan tài đá. Các tấm
đan làm vách đứng ở hai đầu quan tài được làm nguyên phiến khối;
các tấm đan dài làm hai vách hông quan tài cũng được ghép liền nhau
nhưng bằng ba phiến tấm nhỏ gắn lại. Phần lớn quan tài đá trong các
ngôi mộ nằm trên cùng một bình độ, ngoại trừ 1 ngôi (mang ký hiệu
SZM3) được đặt nằm nghiêng với góc chếch khoảng 10º. Trong trường
hợp quan tài đặt nghiêng cá biệt này, nắp trên mộ đá được đậy kín với
năm phiến đan ghép cũng nghiêng đều dần từ cao xuống thấp (theo
kiểu mái ngói lợp hiện đại).
Các di tích dạng “Dolmens” và “Stone-cists” còn được A.Macdonald
(1975) ghi nhận như là vết tích của “Cự thạch Tây Tạng” phân bố ở
Tây Tạng và vùng Tây Nam Trung Quốc, khi ông miêu tả các “bàn thờ
đá” (hay còn gọi là “Iha-t’o”) ở miền này. Các công trình đá xếp này
thường bao gồm hai tảng - phiến đá rộng xếp cách quãng trên nền đất
phẳng và cùng đỡ lấy một nắp đá dài và lớn, được nhiều người thừa
nhận là “một Dolmen đích thực”.
Ngoài ra, còn có “một mộ đá hình chữ nhật tiêu biểu” phát hiện ở
Shigatse, Tsang (Macdonald, A., 1975), dù chưa rõ niên đại chính xác
của nó. Cũng trong các vùng Tây Tạng - Tứ Xuyên, nơi mà học giả
Trịnh Đức Côn đã khai quật các mộ đá dọc thượng nguồn Mẫn Giang,
người ta còn lưu ý đến khả năng còn nhiều công trính Cự thạch dạng
Menhirs được người xưa dựng thẳng từ lâu đời.
Các công trình di tích Cự thạch giống Dolmen cũng được Trịnh
Đức Côn quan sát thấy ở một số địa điểm như Miêu Ninh và Di Long,
dọc thượng nguồn sông Dương Tử. Những kiến trúc này chưa biết thật
chuẩn xác đặc điểm hình thể và kích cỡ của chúng, nhưng, theo ghi
chép sơ lược của ông, chúng có thể thuộc dạng “Dolmen có đá đỡ tạo
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 163
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.4 Page 164

▲back to top
thành vòm” hoặc “Dolmen loại hình có chân” theo cách phân loại của
học giả Hàn Quốc. Những công trình mang dáng dấp Dolmen ở đây
thường được thổ dân gọi là “thiên đài”. Chúng có các mặt bàn đá rất
lớn, có khi chứa được 10 người ngồi ở trên (Cheng, T.K., 1963).
Trong các vùng đất cận biển phía Đông Trung Quốc, một số di tích
giống Dolmen cũng được tìm thấy, nhưng mang thuật ngữ Trung văn
gọi là “thạch bằng”. Ví như, hai công trình “thạch bằng” phát hiện ở
Thái Thạch Sơn và Thủy An Huyện vùng Triết Giang; trong đó, một di
tích đã bị sụp đổ, một di tích khác còn nguyên vẹn cấu trúc, với 4 tảng
đá xếp ở 4 góc đỡ lấy 1 nắp đan phẳng rộng cỡ 2,7 x 2,1m, dày trung
bình 48-65cm (H76).
Ngoài ra, còn có các công trình kiến trúc “thạch bằng” khác được
các học giả Hàn Quốc ghi nhận thuộc loại hình “Dolmen có chân” ở
Sơn Đông và thuộc loại hình “Dolmen không chân” hoặc “Dolmen
giống bàn chân” ở Triết Giang (Kim, B.M., 1982). Các Dolmen Sơn
Đông khám phá ở địa điểm Vương Mẫu Sơn thuộc thôn Đỗ Pha, huyện
Trung Xuyên thường có nắp đá cỡ 5,4 x 2,92 x 1,5m và 1,84 x 1,16
x 0,88m, cao 1,8m. Ở một số di tích như Thạch Môn Từ và Nhị Nữ
Thạch thuộc huyện Vĩnh Thành, các nhà khảo cổ học cũng tìm được
một số công trình đá xếp kiểu Dolmen phân bố đơn lẻ hay tập trung
thành từng nhóm (Mikami, T., 1961).
Ở miền Tây và Tây Nam Trung Quốc, theo thông báo của học giả
Lăng Thuần Thanh, một số di tích kiến trúc bằng Đá lớn hiện diện ở
Thạch Bằng Sơn trong quần thể gọi là “đồi Dolmen” ở Dương Dương
thuộc tỉnh Hồ Nam (Ling, S.S., 1967), nhưng cần thêm bằng chứng
minh định là Dolmen thực sự. Ở Hồ Bắc, theo An Chí Mẫn, người ta
cũng đã phát hiện thấy một số di tích có chứa mộ đá dạng “Stone-cist
với niên đại tiền Hán ở thành phố Đường Sơn. Ngoài ra, còn có thể tính
thêm các “mộ đá lớn” thuộc các giai đoạn muộn hơn trong nhóm di tích
Hồ Bắc (An, C.M., 1954). Ở tỉnh Liêu Ninh (Đông Bắc Trung Quốc),
các cuộc khảo cứu thực địa mới đây của nhà khảo cổ học Ha Moongsig
ở Khoa Lịch sử, Đại học Sejong - Hàn Quốc (2009) ghi nhận rằng, tục
164 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.5 Page 165

▲back to top
thờ Dolmen ở đây tương thích với tín ngưỡng truyền thống bản địa.
Các công trình Dolmen được dựng nên nơi thoáng đãng mà mọi người
đều có thể dễ dàng quan sát thấy. Cấu trúc chung của chúng dạng “trác
thạch” - bàn đá gồm nắp dựng trên các tảng chân đỡ, mái nắp thường
trùm lên quá khổ, có khi như ở công trình Dolmen Shipengshan, mái
phía Bắc chìa ra có chiều dài tới 3,25m. Các công trình Dolmen ở Taizei
và Shipengshan với miếu thờ và đền thiêng chính là đối tượng thờ cúng
linh thiêng trong ký ức cư dân cổ bản xứ. Tục thờ Dolmen kiểu trác
thạch Liêu Ninh còn đi kèm theo vết tích đáng chú ý như chữ khắc kỷ
niệm, thành phẩm bằng đất nung và dấu tích than tro của hương thắp
nằm dưới các hầm mộ. Riêng ở di tích Dolmen Xienrentang, đối diện
hầm đá là ván thớt đá dùng để giết heo phục vụ cho lễ tiết hiến sinh tế
thần dành cho người quá cố
Trên quần đảo Đài Loan, dọc bời biển Bắc, GS. Lăng Thuần Thanh
đã thống kê tới hơn 80 Dolmens, với không ít công trình “trác thạch
được người xưa kiến tạo làm thạch mộ. Tuy nhiên, dường như chỉ có
một số Dolmen trên quần đảo này được tác giả giám định thuộc thời
tiền sử, còn không ít công trình trác thạch khác là thuộc các thời kỳ lịch
sử muộn hơn về sau, thậm chí có trác thạch chỉ mới kiến tạo trong các
thế kỷ gần đây nhất.
Bên cạnh Dolmen, Lăng Thuần Thanh cũng khai quật nhiều mộ đá
trong các di tích tiền sử vùng Tỳ Nam (Ling, S.S., 1967). Theo học giả
Hàn Quốc B.M.Kim (1982), chính các phát hiện mới ở đây đã cung
ứng thêm một “cầu nối” cho “văn hóa mộ đá” giữa miền Đông Bắc
Á với các thế giới hải đảo ở Đông Nam Á (Java, Sumatra - Indonesia)
và ở Tây Nam Á (Ấn Độ). Các dạng di tích Cự thạch khác gọi là “mộ
đá phiến ghép” ghi nhận ở Đông Nam Đài Loan có cội nguồn xa xưa
từ truyền thống văn hóa Peinan qua tư liệu của Chian Chian và Jin
YehJin được nhà khảo cổ học Pipad Krajaejun (chuyên ban Lịch sử,
Khoa Nghệ thuật Liberal của Đại học Thammasat, Thái Lan) công bố
trong Hội nghị IPPA ở Hà Nội - 2009 rất giống các cấu trúc mộ đá ghép
tương tự ở tỉnh Tak, miền Tây Thái Lan, ở bán đảo Mã Lai và quần đảo
Java (H76).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 165
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.6 Page 166

▲back to top
2. Các trung tâm văn hóa Cự thạch miền Tây Nam Á
Tiểu lục địa Ấn Độ có vai trò quan trọng trong diễn trình tạo hình
và phổ biến văn hóa Cự thạch thuộc nhiều loại hình khác nhau từ cổ
xưa. Lịch sử nghiên cứu văn hóa Cự thạch Ấn Độ bắt đầu từ hơn
một thế kỷ trước, khi mà “những công trình đá thô kệch” lần đầu tiên
hấp dẫn sự quan tâm của các học giả, như các nhóm mộ đá ở miền
Bắc Kerala (Babington, J., 1823), các ụ tháp hoặc “nấm mồ đá” gọi là
Kist” ở Vindhyas và Uttar Pradesh (Mesurier, H.P., 1867; Taylor, M.,
1873), các “dấu tích Cự thạch” vùng đồi Delhi, Mitzapur và Orissa
(Cunningham, A., 1871).
Ở buổi đầu nghiên cứu Cự thạch Ấn Độ, các học giả đã ứng dụng
phương pháp tiếp cận tổng hợp, vạch ra khuynh hướng lần theo dấu
vết của tổ tiên những người xây dựng Cự thạch ở Celts, Druids hay
Scythias (Fergusson, J., 1872); hoặc khảo cứu truyền thống xây dựng
Cự thạch bản địa còn tồn tại trong tập quán nghi lễ của các bộ lạc ở
vùng đồi Nilgris,Tamil Nadu (Breeks, J.W., 1873). Từ những năm cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, một số chương trình điền dã thăm dò và
khai quật Cự thạch được xúc tiến tại các di tích Cự thạch “cổ điển”
ở huyện Tinnevelly (Tamil Nadu), Junapani (Maharashtra). Madras,
Adichanallur, Perumbair, Andhra Pradesh... (Sewell, R., 1882; Rea, A.,
1915; Hunt, E.H., 1924). Vào năm 1930, phần lớn di tích Cự thạch
khai quật trong 1/4 thế kỷ này được giới thiệu trên tạp chí “Con người”
(Man) số XXX.
Sau thế chiến thứ II, qua kết quả các mùa khai quật ở Karnataka,
học giả nổi tiếng Mortimer Wheeler bắt tay vào xây dựng phổ hệ chung
cho các công trình Cự thạch ở miền Nam Ấn Độ từ phía Nam vĩ độ 18,
từ miền Bắc Hyderabad và miền Nam hệ thống Godavari và đề xuất
nhiều luận điểm về “nguồn cội xa xăm” từ Phương Tây của văn hóa
Cự thạch Nam Ấn (Wheeler, R.E.M., 1948, 1959, 1968)... Sau “phổ hệ
niên đại” của Mortimer Wheeler, các di tích Cự thạch mới khai quật
thêm ở nhiều vùng khác của tiểu lục địa Ấn lần lượt được công bố thêm
(Soundara, Rajan, K.V., 1959, 1963; Sharmar, G.R., 1985; Banerjee,
166 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.7 Page 167

▲back to top
N.R., 1965; Gururaja, Rao, 1972; Deo, S.B., 1973; Sundara, A., 1975,
1985; Singh, O.K., 1985...). Đặc biệt, thư mục của K.S.Ramachandra
(1971), các tư liệu của Hội nghị khoa học quốc tế về “Tiền sử Ấn Độ
- Thái Bình Dương” năm 1985 (Misra, V.N., - Bellwood, P., 1985)
về Cự thạch thế giới đã hệ thống nhiều công trình Ấn và Sri Lanka
(Seneviratne, S., 1999).
2. 1. Sự phân bố chung
Sự phân bố các công trình Cự thạch ở tiểu lục địa này quy tập trong
ba vùng chính: Bán đảo Nam Ấn, miền Bắc - Tây Bắc và miền Đông
Bắc Ấn Độ. Tuy nhiên, các di tích Cự thạch quan trọng nhất mang
đặc trưng của “những công trình tang lễ” tập trung dày đặc nhất trên
cao nguyên Deccan ở phần Nam bán đảo Ấn Độ trong khoảng Thiên
niên kỷ I trước Công nguyên đến đầu Công nguyên (Sarkar, H.,1982).
Trong miền này, người ta đã khám phá hàng ngàn di tích Đá lớn thuộc
nhiều hình loại và kích cỡ khác nhau (Menhir, Dolmen và các cấu trúc
mộ táng có đá lớn, những hoàn thạch có ụ tháp, các hầm đá lát lạ, các
công trình mộ có hành lang kè đá, hoặc được đậy bằng đá tảng tạo hình
mũ hay hình nấm... (Krishnaswami, V.D., 1949; Gururaja, Rao, 1972).
Cự thạch phân bố rời rạc hơn trong các vùng thuộc miền Tây Bắc Ấn
Độ và Pakistan như Baluchistan và bờ biển Makran (Ba Tư), Waghodur
và Murad Memon gần Karachi, Asota gần Mardan, thung lũng Leh
của Ladakh, Burzahom gần Srinagar, Deosa gần Jaipur, Khera gần
Fatehpur Sikri, Agra, Deodhoora gần Almora và các địa điểm hiện nay
thuộc địa phận các huyện Allahabab, Mirzapur và Varanasi... (Wheeler,
R.E.M., 1948).
Vùng Cự thạch miền Đông Bắc Ấn Độ từ biên giới giáp Burma
vào gần trung tâm bán đảo, mang những đặc điểm riêng của các truyền
thống văn hóa bản địa có quan hệ nhiều với truyền thống kiến thiết
công trình Cự thạch Đông Nam Á. Theo nhiều học giả, có thể ghi
nhận “một truyền thống kiến thiết Cự thạch tiền sử cổ xưa” cùng tất
cả khuynh hướng biến thể của nó giới hạn ở riêng miền Nam Ấn Độ
và “một truyền thống kiến thiết Cự thạch hiện hữu” của các thổ dân cư
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 167
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.8 Page 168

▲back to top
trú tập trung ở miền Đông Ấn Độ - những người đã dựng thẳng Menhir
hay xây dựng Dolmen từ lâu đời vẫn coi như là “những kỷ niệm của tự
nhiên” (Krishnaswami, V.D., 1949; Sarkar, H., 1982).
Từ trước năm 1962, nhiều học giả đã cho rằng văn hóa Cự thạch
của miền Nam Ấn Độ chỉ giới hạn trong bang Karnataka, Andhra
Pradesh, Kerala và Tamil Nadu, với nhiều cuộc khai quật quan trọng ở
Tadakanahall, Porkalan, Trichur, Vellinatu - Kunnu (Calicut), Cheruppa,
Pallikkai (Malappuram), Cananore, Marayur (Idukki), Wynad, Palghat,
Ernakulam, Kottayam...
Sau năm 1962, công cuộc khảo sát của Đại học Allahabad trên các
vùng đồi rừng Hathinia và hữu ngạn Chandraprabha ở Chakia và Đông
Nam Uttar Pradesh dài tới 320km từ thung lũng Karmanasa phía Đông
đến thung lũng Paisuni - Mandakini ở Bonda - Satna phía Tây, với 3
nhóm di tích văn hóa Cự thạch tiêu biểu nhất Vindhyas là Varanasi,
Chunar - Ahraura và Chachai.
Trên bình diện chung, ngoài các địa điểm mộ Cự thạch gắn với di
chỉ cư trú như: Maski, Takalghat, Palyampalli, Naikund gần Nagpur ở
Maharashtra (Sharma, G.R. 1962; Deo, S.B., 1970); các vùng phân bố
Cự thạch nói chung thường khan hiếm dấu tích cư trú.
Các học giả tập trung nghiên cứu hệ thống các điểm dân cư có khả
năng gắn bó với chủ nhân các công trình Cự thạch, với hai đặc trưng
cơ bản của văn hóa bản địa là việc sử dụng “gốm đen - đỏ” và phổ cập
đồ sắt.
Các công trình Cự thạch có cội nguồn Nam Ấn còn có ở Sri Lanka -
khu vực cực Nam của “phức hệ văn hóa - kỹ thuật Sắt sớm Nam Á” - nơi
có gần 50 di tích có kiến trúc “tưởng niệm đá lớn”, hoặc thuộc “loại
hình mai táng”, với mật độ trung bình khoảng 100-200 mộ/1 mẫu Anh
(Acre), cùng với cả một số di chỉ cư trú ở Amuradhapura, Ibbankatuwa,
Pinwewa - Galsohonkanotta... Học giả S.Seneviratne (1999) tin rằng:
Chủ nhân văn hóa Cự thạch ở đây chính là cư dân thời đại Sắt sớm liên
quan với các nhóm tộc người “Aryan” di cư từ Bắc Ấn vào thế kỷ 5
168 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.9 Page 169

▲back to top
trước Công nguyên, cùng một số cộng đồng nhỏ đến từ vùng bán đảo
và Nam Ấn, mang theo lúa Oriza Sativa, Millet và các cây trồng khác,
ngựa, động vật thuần dưỡng, kỹ thuật đúc đồng đỏ, rèn sắt, làm đồ
trang sức, kỹ nghệ làm gốm đen và gốm đen - đỏ với các biểu tượng
màu chì cùng các công trình Cự thạch (Seneviratne, S.,1999).
2. 2. Loại hình di tích Cự thạch cơ bản
Trên cơ sở tiếp thu tri thức khoa học tiền bối (Taylor, M., 1851,
1873; Breeks, J.W., 1873; Burgess, J., 1874; Codrington, K. de B.,
1930...), từ năm 1949, V.D. Krishnaswami đã đề xuất một hệ thống
phân loại các di tích thuộc truyền thống văn hóa Cự thạch ở Ấn Độ khá
toàn diện và khoa học. Sau ông, một số học giả đã chi tiết hóa các loại
hình địa phương, như ở Uttar Pradesh (Sharma, G.R., 1957-1958,
1960-1964), ở Karnataka (Allchin, B. - F.R., 1968, Sundara, A.,
1970,1975)... Về cơ bản, người ta nhận dạng các loại hình di tích Cự
thạch chủ yếu của miền văn hóa Tây Nam Á qua hoàn thạch, mộ đá
ghép, Menhir, Dolmen... trong cả hệ thống kiến trúc hoàn chỉnh của
chúng.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 169
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

17.10 Page 170

▲back to top
Các di tích “hoàn thạch” ở vùng cao bán đảo Ấn phân bố thành 2
nhóm lớn ở Baluchistan (Pakistan) (dạng “Cairn-circles”) và ở đồng
bằng Ganga (dạng “Stone-circles”). Hoàn thạch dạng “Cairn-circles
ghi nhận ở Madras, Chingleput... thường gồm một gò nổi do đá thô
kè xếp bao quanh mà bề ngoài khá giống với các ngôi mộ đá kiến tạo
kiểu Dolmen. Sự khác biệt rõ nhất thể hiện trong cách thức mai táng
với quách mộ hình chữ nhật, hầm mộ kiểu ghép ván, hoặc giả là mộ
chum hay vò có thân hình giống trái lê... Trong các ngôi mộ thuộc cấu
170 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18 Pages 171-180

▲back to top

18.1 Page 171

▲back to top
trúc gọi là “hoàn thạch”, người ta thường tìm thấy gốm mang đặc điểm
trang trí hình xoáy ốc, các bằng chứng về việc sử dụng sắt và kiến thức
về nuôi ngựa (Gordon, D.H., 1954-1955).
Các loại hình mộ Cự thạch rất phong phú về số lượng và kiểu
dáng. Nhóm di tích được coi là sớm nhất mật tập ở phía Bắc Karnataka
thường có cấu trúc phòng và cửa mộ, với 3 phụ kiểu:
- Kiểu mộ “dạng Dolmen có ngách cửa” với hành lang ngắn.
- Kiểu “Dolmen có ngách cửa”.
- Kiểu mộ “dạng Dolmen hình quả trám và có ngách cửa”.
Sự hiện diện của “ngách cửa” là một đặc trưng có liên hệ với các
công trình cùng kiểu ở miền Tây Á, có niên đại sau năm 800 trước
Công nguyên. (Sandara, A., 1975) và cả ở vùng Địa Trung Hải (Childe,
V.D., 1948).
Các phụ kiểu khác của mộ Cự thạch có khi còn được phân biệt
qua cấu hình “phòng mộ”, hoặc các “hành lang mộ”, các loại hình
mộ “giống Dolmen” hay mộ được “chắn ngang” hoặc “vòng tròn đá
phiến”, với các cấu trúc đặc thù ở từng nơi (như cấu trúc hình chữ
thập, mộ “dạng Dolmen” có chứa 1 hay nhiều quách đá, mộ cấu trúc
phòng ngoài”, cấu trúc “hầm đá khoét” hay “hình mũ”... (H77-78)
(Ramachandra, K.S., 1971; Sandara, A., 1975).
Di tích đá dựng dạng Menhir rất phổ biến ở miền Bắc Kerala, dù
không nhiều bằng các hầm mộ táng. Những hàng Menhir đứng thẳng
cũng rất đặc trưng cho vùng Burzahom ở Kashmir. Đá còn dựng lẻ tẻ
hay xếp thành hàng hoặc nhóm phát hiện ở vùng Coimbatore của Tamil
Nadu, ở miền Bắc Karnataka (Narasimbaiah, B., 1980). Đặc biệt, ở
miền Tây Bắc Andhra Pradesh, người ta thông báo có tới 43 di tích
Menhir. Ở Deccan, người ta ghi nhận thành hai hoặc nhiều hàng dọc
theo các đại lộ và, dù không phát hiện được các dấu tích văn hóa vật
chất kèm theo, chúng vẫn được giả định như “những cột đài kỷ niệm”
trong thiên nhiên hoặc là các phiến trụ đá để thờ các Anh hùng vô danh
hay hữu danh ở các thời kỳ lịch sử về sau (H78) (Sarkar, H.B., 1969-
1973).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 171
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.2 Page 172

▲back to top
2. 3. Phổ hệ niên đại chung và đôi nét phác dựng xã hội Cự
thạch cổ Ấn Độ.
Phổ hệ niên đại chung của văn hóa Cự thạch cổ ở tiểu lục địa là
vấn đề khoa học được thảo luận ngay từ thế kỷ XIX đến nay, với những
khung biểu phác dựng riêng ở từng học giả. Ví như, R.E.M. Wheeler
(1948) tin rằng sự khởi đầu văn hóa Cự thạch ở Ấn Độ vào khoảng thế
kỷ II trước Công nguyên. Theo D.H. Gordon và Haimendorf, thời điểm
dàn trải Cự thạch trên bán đảo Ấn Độ từ giữa thế kỷ VII đến thế kỷ IV
trước Công nguyên. Còn với M.Seshadri (1956) thì phổ hệ này được
kéo dài từ giữa thế kỷ VI trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công
nguyên. Nhiều người vẫn coi Cự thạch Ấn Độ có nguồn gốc bản địa,
có cội rễ từ “Đá mới Ấn” (Aiyppan, A., 1945; Sundara, A., 1969-1970).
Riêng GS G.R. Sharma đã sử dụng thuật ngữ “Cự thạch Đồng - Đá”
cho nhóm di tích Uttar Pradesh, hoặc thuật ngữ “giai đoạn tiếp xúc
Đá - Đồng và Cự thạch” ở Maharashtra vào khoảng thế kỷ VII trước
Công nguyên, với các niên đại C14 các mẫu thu trong di tích Cự thạch
Takalgat (Maharashtra), Vidarbha cũng đồng thời khoảng các thế kỷ
VII-VI trước Công nguyên.
Những niên biểu sớm hơn nữa đã được nhiều người ủng hộ ở Ter-
dal (1.100 trước Công nguyên), đặc biệt ở Hallur (1.000-1.100 trước
Công nguyên), khi văn hóa Cự thạch vùng Karnataka được đẩy lên
giai đoạn Cự thạch Đá mới” (Sundara, 1969-1970; Deo, S., 1973).
Với học giả S. Seneviratne (1999), sự bắt đầu của Cự thạch Ấn Độ
phải được sửa đổi lên tận 1.200 trước Công nguyên, bởi vì trong khi Cự
thạch Châu Âu đặt trong “khung cảnh Đá mới” với niên đại tận Thiên
niên kỷ III trước Công nguyên, thì ở miền Tây và Nam Á, các công
trình Cự thạch “tưởng niệm” gắn kết với những cộng đồng làng “tiền
đô thị” - cấu trúc xã hội hiện hữu từ các văn hóa Đá giữa - Đá mới và
Đồng - Đá Nam Á và “nền tảng kỹ thuật - văn hóa” của Cự thạch tiểu
lục địa chính là nền văn hóa thời đại Sắt - nền văn hóa đặc trưng nhờ
các công trình Cự thạch tưởng niệm.
172 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.3 Page 173

▲back to top
Nhìn chung, niên đại C14 và những bằng chứng hiện có minh định
những công trình Cự thạch sớm nhất ở miền Nam Ấn Độ được kiến
tạo vào khoảng đầu Thiên niên kỷ I trước Công nguyên, nếu chưa phải
là sớm hơn. Từ những niên đại xưa nhất liên quan đến Cự thạch ở
miền Bắc Karnataka (1.000 trước Công nguyên), qua những công trình
Takalgat - Maharashtra (600 trước Công nguyên), đến các di tích văn
hóa Cự thạch miền Bắc Ấn như Kotia - Allahabad - Uttar Padesh (300-
200 trước Công nguyên), phổ hệ C14 hợp thành bức tranh chung biểu
diễn sự dàn trải di tích từ Nam lên Bắc Ấn chứ không phải là ngược lại
(Agrawal, D.P., - Kusumgat, 1974). Các văn hóa hiện hữu vùng Đông
Bắc bán đảo còn có khả năng thu hút một số ảnh hưởng tinh thần tiền
sử Đông Nam Á , với những vết tích Cự thạch rất cổ xưa của khu vực
này. Vì hiện tại chưa có niên đại C14 trực tiếp giám định từ mẫu vật
thu thập được trong Cự thạch đáng tin cậy ở nửa sau Thiên niên kỷ II
trước Công nguyên (Misra, V.D., 1977) và vấn đề nguồn gốc sáng tạo
đích thực Cự thạch Ấn vẫn cần thảo luận thêm, các văn hóa Đá lớn dàn
trải trên toàn bán đảo này với niềm tin rộng nhất từ khoảng 1.000 trước
Công nguyên đến thế kỉ III sau Công nguyên. Sự xuất hiện của các
di tích Đá lớn như vậy thường gây ấn tượng sâu sắc, nhưng đáng tiếc
thường ít có thông tin liên hệ với chủ nhân kiến tạo chúng, ngoại trừ dấu
tích cuả cư dân Cự thạch ở Maski, Sanganakallu, Hallur, Brahmagiri
(Karnataka), Kunnattur, Sengamedu, Pailyampalli, Tirukkampuliyar
(Tamil Nadu), Dharanikota, Kesarapalle (Andhra Pradesh)...
Trong khung niên biểu khảo cổ học truyền thống về Cự thạch Ấn
Độ từ 1.000 trước Công nguyên đến 300 sau Công nguyên, các công
trình Đá lớn có chứa mộ chum vò, những hầm mộ có hành lang và các
hoàn thạch phủ dày ụ tháp đá được coi như khởi đầu cho “những tín
hiệu đầu tiên” về Cự thạch nơi đây; còn Dolmen và các hầm mộ ghép
bằng phiến đan dường như là có tuổi muộn hơn và trẻ nhất là những
công trình độc đáo mang hình giống như cây nấm, hình chiếc mũ khổng
lồ hoặc các hầm đá khoét ở Kerala... Trong đó, mộ ghép bằng phiến
- tấm hoặc có “dạng Dolmen” nổi bật như là một trong ba đặc trưng
cơ bản của các nền văn hóa đặc thù chứa đựng chúng; và cùng với hai
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 173
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.4 Page 174

▲back to top
yếu tố quan trọng khác là việc sử dụng sắt và chế tạo loại gốm gọi là
đen - đỏ”, dường như chúng hợp sức tạo lập một phức hệ đặc trưng
văn hóa - kỹ thuật Cự thạch phát đạt ở giai đoạn cực thịnh của nó. Gốm
là thể loại di vật được quan tâm nhiều nhất, đặc biệt là loại gốm “đen
- đỏ” ở miền Nam bán đảo, ở các hoàn thạch Vidarbha (Maharathtra),
Andhra Pradesh và Tamil Nadu và loại gốm màu và “vẽ màu đen trên
nền đỏ” liên quan với Cự thạch vùng Andhra - Karnataka, Vidarbha
(Maharashtra), Takalghat, Naikund..., với các loại hình khác nhau (ly,
chén hoặc bình, ấm, đồ đựng có nắp, tay cầm, tạo hình chim hay động
vật, hoặc trang trí biểu tượng giống chữ chữ tượng hình Brahmi và Ai
Cập cổ (Lal, B.B., 1960).
Ngoài đồ gốm, Cự thạch Ấn Độ còn cung ứng nhiều di vật bằng các
chất liệu khác, đặc biệt là sắt và đồng đỏ. Cho đến gần đây, đồ sắt phát
hiện trong các kiến trúc Cự thạch được coi là những dẫn liệu sớm nhất
của việc sử dụng sắt trên cả tiểu lục địa. Vì “không có bằng chứng vật
chất về việc sử dụng sắt ở Ấn Độ và Pakistan sớm hơn 250 trước Công
nguyên, ngoại trừ những cư dân xây dựng mộ Cự thạch Baluchistan”
(Gordon, D.R., 1950), một số học giả tin rằng: Chính những người Ba
Tư “Hy Lạp hóađã giới thiệu tri thức luyện rèn sắt ở miền Bắc Ấn
Độ từ cuối thế kỷ 6 trước Công nguyên, và truyền thống ứng dụng
sắt của những người xây dựng Cự thạch miền Nam Ấn nhận được từ
miền Bắc (Wheeler, R.E.M., 1959). Những khám phá khảo cổ học mới
chỉ ra rằng sự xuất hiện sắt gắn liền với gốm tô màu nâu ở Bắc Ấn có
niên đại chung khoảng 700 trước Công nguyên (Banerjee N.R. 1965).
Tuy nhiên, cuộc khai quật các địa điểm Hallur, Dharwar, Karnataka
minh định sự hiện diện sắt Nam Ấn có tuổi khoảng 1.000 trước Công
nguyên, cũng chính là những niên đại được xem là xưa nhất về việc
ứng dụng sắt ở toàn bán đảo này (Rao, N., 1967, 1971). Về hình loại,
đồ sắt thu thập trong các di tích Cự thạch gồm công cụ, vũ khí, dụng
cụ dùng trong sản xuất nông nghiệp, hoạt động thủ công và trong chiến
đấu, có cả tùy táng phẩm mang chức năng nghi lễ; cùng với công cụ, vũ
khí, hiện vật nghi lễ bằng đồng đỏ và đồng thau, các vòng tay đồng đỏ,
các chiếc chuông có hình động vật, một số đĩa hoặc nồi vò có quai cầm
174 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.5 Page 175

▲back to top
và có nắp trang trí trên núm tạo hình chim hay nụ hoa chủ yếu dùng cho
mai táng và có khả năng là đồ ngoại nhập.
Bên cạnh thuật luyện kim, kim hoàn, cư dân Cự thạch còn rất giỏi
trong kỹ nghệ mài ngọc, chế tạo hạt chuỗi, dây chuyền bằng mã não
(Agate), hồng mã não (Carnelian), huyết thạch (Blood-stone) và nấu
thủy tinh từ các nguồn liệu bản địa phong phú trên cao nguyên Deccan.
Có thể tin được rằng chủ nhân văn hóa Cự thạch Ấn Độ có nền kinh
tế nông nghiệp và mục đồng, với các bằng chứng đem lại không chỉ
từ công cụ và nông cụ tương hợp, mà còn qua các di tích thức ăn như:
Xương, răng, sừng động vật (cừu, dê, trâu bò...) và các hình thú khắc vẽ
trang trí trên đồ gốm (Deo, S.B., 1989), các vết tích hạt lúa nguyên, vỏ
trấu, hạt cháy thành than thuộc nhiều giống loài ngũ cốc (Ragi, green
gram - đậu xanh...) thu thập trong các công trình Cự thạch vùng Tamil
Nadu, Coorg, Kapa, Karnataka, cao nguyên Deccan, với những điều
kiện sinh thái khác nhau. Theo một số nhà nghiên cứu, ngoài ragi và lúa
nương thích hợp trồng trên các cánh đồng “nửa khô cằn” hơn là “ẩm
ướt”, nông nghiệp lúa nước và việc sử dụng bể chứa nước dẫn điền đã
được cư dân chủ nhân các công trình Cự thạch miền Nam Ấn Độ biết
tới thuở bấy giờ (Deo, S.B., 1989).
Nguồn gốc và chủ nhân đích thực của các văn hóa Cự thạch ở tiểu
lục địa Tây Nam Á hiển nhiên không khi nào thỏa mãn giới nghiên cứu
xưa cũng như nay. Các học giả phương Tây rất sớm đã chỉ ra những
nguồn cội Celts, Scythia, hay liên quan với các bộ lạc Trung Á (Rinett,
- Carnac, J.H., 1879), hoặc giả cố gắng gắn họ với những cư dân sử
dụng ngôn ngữ Dravidian.
Một số nhà nghiên cứu tin rằng các địa điểm Cự thạch ở miền Nam
Ấn Độ tồn tại trong các bộ lạc bản xứ nhưng liên hệ chặt chẽ với một
số khu vực khác ở miền Đông Bắc của bán đảo (Singh, P., 1989)... Dù
hàng trăm di cốt người thu được trong nhiều cuộc khai quật Cự thạch
từ đầu thế kỷ XIX đến ngày nay, rất ít tiêu bản còn bảo tồn trong tổng
số 70 cốt sọ rải khắp vùng đa sinh thái rộng lớn từ Bengal đến Tamil
Nadu và về hướng Nam ở Sri Lanka. Các nghiên cứu nhân trắc học
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 175
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.6 Page 176

▲back to top
ủng hộ quan điểm về nguồn gốc chủng tộc của chủ nhân văn hóa Cự
thạch nói riêng và văn hóa thời đại Kim khí Ấn Độ nói chung là “hỗn
chủng” của hai dạng người có “đầu ngắn” (Brachy-crany) và “đầu
dài” (Dolicho-crany). Chủ nhân văn hóa Cự thạch Ấn Độ được các
tác giả hình dung như một tổng thể cộng đồng lớn sau 1.000 trước
Công nguyên và có hai lớp cư dân chủ yếu là đại biểu, mà sớm nhất
là những người có “sọ dài” và sau là lớp người được gọi là “Hyper-
chamaerrhine” (Sen, A.K., Promotti, De, 1985, 1989). Những lớp cư
dân này có nguồn cội rất xưa, từ trong lòng các di tích văn hóa Đá mới
và Đồng - Đá, thậm chí từ những giai đoạn sớm nhất của thời đại Đá
giữa được gọi là “Blade-bladelet phases” (Promotti, De, 1978) và tiếp
tục hiện diện trong những thời kỳ lịch sử về sau, liên quan với sự phát
triển độc đáo của thực tiễn xây dựng mộ Đá lớn nơi đây. Có thể còn
một lớp cư dân khác mang hình thái sọ từ “trung bình” đến “ngắn”,
hoặc gọi là “Chamaerrhine; Hyper-chamaerrhine” chịu trách nhiệm
với sự hình thành một số cấu trúc Cự thạch của Ấn Độ. Từ nghiên cứu
nhân học và loại hình di tích ở những vùng sinh thái khác nhau, các
học giả đề cập các luồng di cư của cư dân văn hóa Cự thạch vào Ấn Độ
từ nhiều hướng khác và ngược lại. Ví như, cư dân có sọ trung bình và
ngắn liên hệ với các mộ đá phiến dạng Dolmen có thể là những người
di cư từ Tây Á đến Ấn Độ khoảng 1.000 trước Công nguyên (Sarkar,
H., 1972); hoặc cư dân Cự thạch di cư từ miền Bắc đến miền Nam Ấn
Độ trên các ngả đường trung chuyển qua Rajasthan và phần trung tâm
bán đảo (Subbrarao, B., 1962). Các học giả Soundara Rajan (1963) và
B. Allchin, F.R. Allchin (1968) lại phỏng định sự có mặt của họ ở cả
bán đảo này có thể từ đa hướng và vì thế mà nhiều hơn một nguồn gốc
của chủng tộc và văn hóa.
Dù thực tiễn Cự thạch hiện biết ở bán đảo Ấn Độ do nhập cư hay
bản địa, sự bắt đầu của các văn hóa sở hữu công trình kiến trúc Đá lớn
nơi đây liên hệ không chỉ với các cốt tích chủ nhân chôn trong chúng,
mà còn cả đến đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa vật chất, tinh thần, tín
ngưỡng và ngôn ngữ của họ. Các học giả đều ghi nhận sự hiện diện
176 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.7 Page 177

▲back to top
Cự thạch biểu hiện những truyền thống siêu phàm về văn hóa tinh
thần của các cộng đồng người bản địa, các niềm tin tôn giáo, các nghi
lễ ma thuật ngự trị trong xã hội Cự thạch, với nhiều bằng chứng liên
quan đến các chức năng cơ bản là tang ma và tế lễ trong đời sống xã
hội của nhiều tộc người khác nhau về sinh thái, văn hóa và ngôn ngữ
(Gurdon, 1914; Das, T.C., Chatterjce, A.N, 1927; Majumdar, 1959;
Nakane, 1967; Ghosh, 1965, 1972; Deo, S., 1973).
Sự liên hệ nhiều mặt của cư dân Cự thạch Tây Nam Á còn được gợi
lên gắn với tục “thờ cúng người chết”, những lễ “tang ma” cổ truyền,
các lễ nghi “sau mai táng”, “cải táng” như cách thức cơ bản nhất để
chôn người chết cùng tùy táng phẩm trong các hầm mộ có đá, trong khi
hỏa táng và chôn nguyên có thể là các tập quán ngoại sinh trong văn
hóa Cự thạch Ấn Độ (Sarkar, H., 1985). Các tài liệu về kiến tạo Đá lớn,
hầm mộ Cự thạch xuất hiện trong nhiều văn kiện Vệ Đà, dù hỏa táng là
táng tục phổ cập cả giai đoạn này, ví như, về việc sử dụng đá trong mộ
táng để ngăn người chết xâm nhập dương thế, về cách thức xây dựng
mộ đá và truyền thống mai táng dành cho người “tôn sùng Thượng
Đế”... Chức năng Cự thạch còn gắn với những niềm tin bản địa, ví như,
các cấu trúc Cự thạch mà thổ dân Uttar Pradesh gọi là “Bhiraharis
được xem là “những kho tàng bí mật” (Pant, P.C., 1989); các phong tục
tôn sùng người chết, hồn ma, các lễ hội báo công bên các “đài tưởng
niệm Cự thạch”... làm cho truyền thống văn hóa Cự thạch cổ xưa Tây
Nam Á còn bảo lưu nhiều đặc trưng tinh thần Ấn Độ trong cái gọi là
“Living Megalithic Tradition” ở khắp xứ sở của “truyện kể 1.001 đêm
giàu huyền thoại này...
Trong khung cảnh châu Á, khu vực Đông Nam Á có vị thế “cầu
nối” và hiển nhiên, với vai trò quan trọng trong đời sống vật chất,
tinh thần của nhiều cộng đồng tộc người bản địa từ tiền sử, những
công trình kiến trúc Cự thạch là đối tượng hàng đầu được quan tâm
chiêm ngưỡng, đặc biệt trong thế giới hải đảo. Ngoại trừ quần đảo
Philippines, nơi những dấu tích kiến trúc Đá lớn kiểu Dolmen còn hi
hữu và được coi như “những bằng chứng khảo cổ học đầu tiên” của
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 177
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.8 Page 178

▲back to top
cư dân cổ Ivuhos thuộc xã hội Barangay với việc sử dụng đá nhỏ - Cự
thạch ở quần đảo Batanes (Eusebio Z.D., 1999); các trung tâm giàu Cự
thạch hơn của thế giới hải đảo thuộc Indonesia và Malaysia, đã được
quan sát ghi chép, thậm chí đã có chuyên khảo lớn ngay từ giữa thế kỷ
XIX và những dấu vết liên quan đến chúng vẫn còn được tiếp tục khám
phá và thảo luận đến tận ngày nay...
3. 1. Quần đảo Indonesia
Địa phận Nam Dương chứa đựng nhiều công trình Cự thạch rất
khác biệt về hình loại, niên đại xây dựng và sử dụng. Phần lớn các
công trình Đá lớn này được kiến tạo ngay từ thời tiền sử. Học giả Áo
nổi tiếng Robert Von Heine-Geldern (1937, 1945) đã cho rằng: Truyền
thống văn hóa Cự thạch Indonesia có nguồn gốc từ Vân Nam (Nam
Trung Quốc) vào giai đoạn văn hóa Đá mới khoảng 6.500 trước Công
nguyên và giai đoạn văn hóa Đồng thau khoảng 2.500 trước Công
nguyên, đặc biệt các văn hóa Cự thạch được bảo tồn trên các đảo Nias,
Flores và Sumba thuộc về thời đại Đá mới. Nhưng theo một số nhà
khoa học khác (Bellwood P., 1978; Sukendar H.B., 1999), thì không
có di tích nào trong số này có tuổi “trước thời đại Kim khí”, dù trong
một số mộ Cự thạch có chứa rìu bôn bằng đá mài, hạt chuỗi và đồ
gốm. Phần lớn “nhóm” hay “truyền thống Cự thạch tiền sử” có thể
thuộc Thiên niên kỷ I trước Công nguyên và thường liên quan với táng
tục và nghi lễ, dưới các dạng Menhir hay tượng đá, những cấu trúc
đá ghép bằng phiến đan tạo thành các “bậc thềm”, “mộ phần” hoặc
giống Dolmen, các quan tài đá... Một số công trình Cự thạch có niên
đại muộn hơn, thuộc về các thời kỳ lịch sử mà miền đất này tiếp nhận
những ảnh hưởng ngày càng gia tăng của các nền văn minh lớn Ấn
Độ - Trung Hoa và các tôn giáo lớn của châu lục và thế giới (Hindu,
Islam...). Truyền thống kiến tạo và tôn thờ Cự thạch ở Indonesia và cả
Châu Đại Dương còn tiếp tục kéo dài đến thời gian gần đây ở Niah,
Sumba, Flores, Timor, Sabu, vùng núi Kalimantan, xung quanh Kota
Kanabalu - Sabah... (Schnitger, F.W., 1930; Harrisson, T., 1958, 1973;
Loof H.H.E., 1965; Bellwood P., 1978; Sukendar H.B., 1999...).
178 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.9 Page 179

▲back to top
Các vết tích đầu tiên về Cự thạch Indonesia được đề cập trong
những báo cáo quân sự của S.Ullmann (1850), thống sứ Palembang
(1861), E.P.Tombrink (1970), H.O.Forbes (1885), H.E.D.Engelhard
(1891), H.E.Steinmetz (1898) về các điêu khắc, tượng, Menhir, thềm
hay máng xối đá ở cao nguyên Pasemah, Palembang (Nam Sumatra).
Sang thế kỷ XX, nhiều công trình Cự thạch khác được phát hiện thêm
ở Kalisat - Banjoewangi, Mahakam Kajan, Borneo, Besoa, Napoe
(Celebes), Timor (Hubenet, J.B., 1903; Nieuwenhuis, A.W., 1907; Kruut
A.C., 1908, 1909; Krom, N.J., 1914; Westenenk, L.C., 1915, 1922;
Hoven, W., 1927). Từ năm 1918-1923, W.J.Perry xuất bản hai chuyên
khảo về Cự thạch Indonesia và đề xuất giả thuyết về cuộc viễn du của
những đứa con của Mặt Trời” từ Hy Lạp đến châu Mỹ. Năm 1922,
L.C.Westenenk sử dụng nhiều minh họa điêu khắc đá bí ẩn Pasemah
để nghĩ về “một cuộc viễn du của hoàng tử Phù Nam” đến xứ này. Các
khảo tả chi tiết về nhiều di tích Cự thạch và thông báo kết quả điền dã,
khai quật nghiên cứu mới trên các quần đảo Indonesia được giới thiệu
qua nhiều công trình khác (Haan, B.de, 1921; Giffen, A.N.van, 1927;
Tricht, B.van, 1929; Eerde, I.C.van, 1929; Bosch, F.D.K., 1930, Raven
H.C., 1926; Kruut A.C., 1932; Arndt P.P., 1932; Bie D., 1932; Heekeren
H.R.van., 1931; Willem W.J.A., 1938). Đáng chú ý nhất là các chương
trình khảo sát dài ngày và dày công của tiến sĩ Van der Hoop từ năm
1931-1935 ở khắp bốn vùng từ Palembang, Pageralam, Soeroelangoen
và Tandjoengsakti đến Pasemah, Lampung và miền Tây Java, với hàng
ngàn di tích, di vật các loại được ghi nhận trong 50 địa điểm. Chuyên
khảo đầu tiên về văn hóa Cự thạch Nam Sumatra của tác giả (1932),
cùng với các chuyên khảo của Tom Harrison về Cự thạch miền Đông
Java và của Riesenfeld (1950) về Cự thạch ở Melanesia được coi là các
tổng kết quan trọng về văn hóa Cự thạch miền hải đảo Đông Nam Á và
châu Đại Dương nhiều năm sau còn được giới nghiên cứu lịch sử văn
hóa tộc người châu Á và thế giới sử dụng.
Các tài liệu về Cự thạch còn được trích dẫn trong nhiều công trình
khoa học phục dựng tiền sử Indonesia và thế giới hải đảo (Schinitger,
1939; Ter Haar, 1948; Van Leur, Schrieke, 1955; Geertz, 1956; Van
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 179
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

18.10 Page 180

▲back to top
Heekeren, 1958; Wertheim, 1959; Veekke, 1960); đặc biệt nhiều kiến
giải khoa học về Cự thạch (phân loại, niên biểu và công dụng chức
năng, những truyền thống và phong cách nghệ thuật) do R.von Heine
Geldern đề xuất từ năm 1945, được khá đông học giả cùng thời và
thuộc các thế hệ sau ông sôi nổi thảo luận để ủng hộ hay phản bác đến
tận ngày nay.
Từ khoảng giữa thập kỷ 70 đến nay, nhiều cuộc khảo sát dân tộc
học, khảo cổ học của Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ học quốc gia
tại Jakarta, Trường Đại học Tổng hợp Indonesia và các bảo tàng địa
phương đã cung ứng nhiều thông tin bổ ích (Kapita O.H., 1976; Sutaba
I.M., 1976; Soejono R.P., 1977-1981; Bellwood, P., 1978; Sukendar
H.B., 1980-1985; Bintarti D.D., 1981; Gunadi N., 1980, 1986).
Nhìn chung, các trung tâm văn hóa Cự thạch được nhiều người
xem là lớn nhất Indonesia (Sumatra, Java, Sulawesi, Bali, Sumbawa,
Sumba, Kalimantan, Flores, Timor) ghi nhận sự phát triển bản địa rất
nhiều loại hình di tích khác nhau. Trong từng khu vực, những phát hiện
180 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19 Pages 181-190

▲back to top

19.1 Page 181

▲back to top
Cự thạch đứng đơn độc rất hiếm thấy, các loại hình riêng biệt thường
gắn kết với nhau và với các kiểu công trình khác, cùng phối trí trong
bình đồ có giới hạn diện tích nhất định gồm các kiểu hình khác nhau
về cấu tạo hình dáng, kích cỡ tiêu bản, quy mô công trình và chức năng
sử dụng (11 loại theo Van der Hoop, 1932; 12 loại theo R.Von Heine
Geldern, 1945).
Trên đại thể, Cự thạch Indonesia được xác định qua hai nhóm lớn:
3. 1. 1. Di tích mộ táng
Di tích thuộc nhóm này bao gồm các công trình Cự thạch chứa
đựng những bằng chứng của sự mai táng người chết, ví như, di cốt
người hay tùy táng phẩm còn sót lại... Mộ Cự thạch gồm rất nhiều kiểu
thức, nhưng về cơ bản, chúng thường được kiến tạo tối thiểu cũng từ 2
phiến, tảng đá rộng ghép lại, trong đó:
- Quách đá: Là hình thức đơn giản làm từ 2 phiến, khối đá ghép với
nhau, đôi khi có dáng như “nắp” đậy trên “quan tài” hình trụ, giống
như loại Sarcophagus gọi là “Kalamba” thường thấy ở Bali. Các tiêu
bản đặc trưng nhất ghi nhận ở Besuki, Batutring, Bali, Tây Sumba,
Minahasa (Bắc Sulawesi) có khi được chạm khắc trang trí hình người
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 181
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.2 Page 182

▲back to top
và động vật (thằn lằn, đầu trâu bò), hoặc các đồ án hình học (vòng tròn,
chữ nhật...) (Soejono B.P., 1977; Purusa M., 1981).
- Mộ đá ghép: Thường do các tấm đan đá mỏng và nhám ghép
lại tạo hình chữ nhật, các phiến tường có khi trang trí hình người hay
hình trâu bò bằng các màu khác nhau (đỏ, đen, vàng, trắng), được phát
hiện nhiều ở Pasemah: 9 địa điểm, Swahs gần Tandjoengan, Tjiawang,
Tegoerwangi. Chúng thường làm bằng nham thạch Pyroxene-andesite,
cấu tạo hình hộp chữ nhật, quy mô chung dao động từ 2,35 x 1,3m
đến 2 x 1,2m, cao trung bình 1,2-1,3m, trục dài hầm mộ nằm dọc theo
hướng Đông - Tây, chếch Bắc 17,5-23°.
Các cuộc khai quật của tiến sĩ Van der Hoop tại di tích Tegoerwangi
11-12 ghi nhận rằng: Đất lấp đầy trong khoang hầm mộ (như trường
hợp mộ đá Hàng Gòn ở Việt Nam theo tư liệu Pháp) và phát hiện trong
đó rất nhiều di vật quý như hạt chuỗi, hạt cườm bằng đá đỏ và thủy tinh
màu, hiện vật có hoa văn xoáy ốc và mảnh đồng, ghim vàng, mảnh đất
nung (H79).
Những mộ ghép bằng các phiến đá mỏng hơn và không có trang trí
còn được ghi nhận ở nhiều địa điểm thuộc Java như: Besoeki, Kuningan,
Wonosari, Bojonegoro (Gunadi, 1980) và ở cả Mã Lai, Nam Việt Nam.
- Phòng mộ đá ghép: Được kiến thiết ngầm dưới đất, thường được
tạo bằng cách ghép lắp các khối đá rộng để nguyên trạng hoặc có dấu
khắc chạm, một số phòng chứa đựng các vết tích liên quan đến tục mai
táng người chết (Sukendar H., 1999). Có khi các phòng mộ được khoét
tạc sâu trong vách đá chỉ tìm thấy ở Sumatra, Besuki và Toraja (Bie
C.W.P.de., 1932; Soejono R.P., 1982).
- Mộ đá dạng Dolmen: Là loại hình cấu trúc sử dụng đá lớn
(andesite, basalt, silicfied limestone) xếp nổi trên mặt đất, với 4-6 (hay
nhiều hơn) trụ đá nhỏ đỡ 1 phiến đá phẳng, rộng, tạo dáng giống như
hình “một chiếc bàn đá”. Loại “bàn đá không chân” (đúng hơn là các
trụ đá làm chân chìm trong đất) hiếm thấy. Nắp đá thường phẳng, một
số nổi cao giống mu rùa. Trong các hầm mộ Dolmen có chôn theo vòng
tay hay nhẫn đồng, lục lạc đồng, di vật đá và thủy tinh, nhẫn vàng, gốm
182 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.3 Page 183

▲back to top
(H80). Các mộ Dolmen thường liên kết với các kiểu Cự thạch khác
như Menhir xếp theo hướng Đông Tây ở Pasemah, hay với các trụ mà
W.J.Perry gọi là “Dissolith” ở Nias hoặc với các cặp trụ đá “đực - cái
ở Flores và các tượng đá.
Dolmen rất phổ biến ở Nam Sumatra (20 địa điểm: Paelaupanggoeng,
Tegoerwangi, Pematang, Tandjoeng, Menanggara, Batoettjawang,
Batoeberak, Sumberjaya - Lampung...); ở Java (Pasir Padang, Besuki,
Bojonegoro, Tlagamukmin - Sumberjaya, Baturanjang - Pandegelang);
ở Besoeki, Nias, trung tâm Celebes, Sumba... (Gurdon, P.R., 1907;
Perry, W.J., 1918; Giffen, A.E., 1927; Hoop, Van der, 1932; Kruyt,
A.C., 1932; Heekeren, Van, 1931, 1958; Rapita, 1976; Sukendar, H.,
1981, 1999).
- Chum và vại đá: Thường có hình trụ, bên trong rỗng hay được
ngăn thành hai phần, có nắp đậy giống cái đĩa lớn bằng đá. Các di tích
ở Bada, Napu, Besoa thuộc trung tâm Sulawesi đôi khi được chạm nổi
các băng viền hay khắc kiểu phù điêu thể hiện giống mặt nạ đầu người,
hình toàn thân người với hai tay giơ lên và hình các con vật như khỉ hay
thằn lằn (Raven H.C., 1926; Kruut A.C., 1932). Chúng khá giống với
các chum và đĩa đá trên cao nguyên Trấn Ninh (Thượng Lào) nhưng
vì khoảng cách giữa Sulawesi và miền Bắc Lào tới hơn 3.000km, các
học giả thường coi hai vùng mộ chum và đĩa đá trên có sự phát triển
văn hóa độc lập với nhau. Theo P.Bellwood (1978), chum và nắp đá có
trang trí ở Napu - Bada - Besoa được sáng chế bởi cư dân đảo Minakasa
(miền Bắc Sulawesi) và vùng gần đảo Toba (miền Bắc Sumatra) vào
cùng một thời kỳ, với những bằng chứng quan sát dân tộc học hiện có.
Ông còn gợi ý về các liên hệ có thể giữa chum vại đá với các chum
vò gốm được cư dân cổ sử dụng làm quan tài chôn người chết phân
bố rộng trên quần đảo Philippines và trong các hang động phía Nam
Mindanao và các đảo ở Đông Bắc Indonesia.
- Mộ quây rào và có bậc thềm, tháp đá: Thường làm bằng đá
kalistone giống cấu trúc đá xếp bằng các phiến, tảng các cỡ khác nhau,
phối trí gần trụ đá Menhir hay nhóm trụ dựng dạng “Tetraliths” ở miền
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 183
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.4 Page 184

▲back to top
Nam Sumatra (Leba Sibedoeg, Pelangkenidal, Mingkik - Pasemah); ở
Java, Kosala, miền Đông Nusa, Kewar, Lewalutas, Đông Timor, Nias,
Nam Banten. Các kiểu di tích này không được thừa nhận trong phân
loại Cự thạch của R.von Heine Geldern và một số học giả khác; nhưng
không ít người vẫn coi như “dấu hiệu quan trọng” của quần thể di tích
Cự thạch, ví như ở Kewar và Nias chúng còn là kiểu mộ dành cho thủ
lĩnh (Sukendar, H., 1999).
Trong các công trình Cự thạch chứa đựng bằng chứng mai táng
trên, ngoài một số tùy táng phẩm, các di cốt người ghi nhận tư thế chôn
đơn hoặc đa thi thể, nằm thẳng hay cong gập (Soejono, B.P., 1982).
Tuy nhiên, sự vắng bóng nhân cốt, đôi khi cả đồ tùy táng trong mộ Cự
thạch còn gợi ý các tục hỏa táng hay “chôn tượng trưng” giống nhiều
công trình Cự thạch tưởng niệm khác (Triclit, Van, 1929; Sutaba, 1976;
Bintarti, 1981; Sukendar, H., 1985, 1999).
3. 1. 2. Các loại hình di tích và kiến trúc Cự thạch liên hệ với thế
giới tinh thần tiền sử - sơ sử
Nhóm này bao gồm gần hết di tích Cự thạch ở hải đảo Indonesia,
từ các đá tảng nguyên khối liên quan với những lễ nghi tín ngưỡng tôn
giáo, những sáng tạo nghệ thuật và hoạt động tinh thần tiền sử; đến
những kiến trúc phức tạp hơn, liên kết nhiều đối tượng Cự thạch hơn,
nan giải vì tính quần thể đa năng hơn.
- Ụ đá: Đây là loại kiến trúc Cự thạch có cấu tạo đơn giản nhất, vì
chỉ gồm đá hay cuội nhỏ xếp dồn thành ụ làm chỗ để thờ cúng thần lực
tự nhiên hoặc thờ cúng tổ tiên, rất tiêu biểu ở Bali. Một số ụ đá có hình
thức giống dạng mộ kè đá kiểu “Tumulus” hay “Kurgan” hoặc loại gọi
là “ụ để thờ sọ” ghi nhận ở Melanesia (Sukendar, H., 1985).
- Hoàn thạch: Cấu trúc hoàn thạch thông thường là phần chủ yếu
xây dựng ở trung tâm của các kiến trúc Cự thạch mà bên trong sử dụng
như chỗ thờ cúng, ví dụ ở Kenar (Soejono R.P., 1982); ở nơi khác có
khi lại làm chỗ mai táng, giống như Ruteng (miền Tây Flores) và Jerjan
(trung tâm Java) (Sukendar H.B., 1981). Cấu trúc kiểu hoàn thạch phân
bố rất rộng ở châu Á, đặc biệt ở Nhật Bản và Đông Bắc Á.
184 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.5 Page 185

▲back to top
- Thạch lộ: Di tích kiến tạo bởi các tảng khối đá dựng gần nhau
thành hàng thẳng ghi nhận trên cao nguyên Pasemah, như thạch lộ
Talangpadang có 4 hàng đá cao 1-1,25m dựng thẳng gần theo hướng
Đông Tây. Ở Nias và Kewar (Timor), các đường đá được xây dựng gắn
kết với các công trình kiến trúc Cự thạch khác.
- Nơi hội họp và sinh hoạt cộng đồng: Di tích thường tạo hình
những nền đá phẳng, có khi kèm theo các hàng ghế dài bằng đá, được
coi như “chỗ tập hợp cộng đồng”, ví như ở Sumatra, Nias, Kewar
(Timor). Một số bãi lát đá chuyên dùng cho các lễ hội, vũ hội cộng
đồng ở Melanesia cũng có các mặt nền phẳng tương tự.
- Trụ đá dựng: Trụ thạch kiểu Menhir là hình thức đơn giản và phân
bố rất rộng. Chúng thường là những tảng đá tự nhiên không có dấu
vết chế tác hoặc có chạm khắc tạo thiết diện ngang gần hình chữ nhật,
dựng đứng đơn lẻ hay tập hợp sát nhau thành từng cụm ở gần các kiến
trúc Cự thạch hoàn chỉnh. Ví như, ở Pasemah: 8 cụm, cao trung 0,5-
5m, cá biệt có “trụ khổng lồ” ở Toraja - Sulawesi cao tới hơn 5m). Một
số trụ xếp gần hình vuông hay chữ nhật gọi là “Tetraliths” ở Pasemah,
Tây và Đông Java, Nias, trung tâm Celebes thường được dựng với mục
đích “thờ cúng tổ tiên” (Sukendar H.B., 1999).
- Ghế hoặc băng đá: Các di tích này mang đặc điểm Dolmen, vì
chúng cũng thường là 1 phiến đá phẳng, có các chân đỡ rời bên dưới.
Ghế băng thường mang nhiều vết khắc chạm (như ở Nias), trong khi
ghế ngồi ngắn đơn giản hơn nhưng không định hình và chỉ chế tác sơ
sài ở mặt lưng (như ở Bali). Có tiêu bản gồm 2 tảng lớn xếp lại với
nhau, trong giống như kiểu “ghế tựa”, như ở Terjan, trung tâm Java.
Nhiều di tích hiện vẫn còn được sử dụng như “thạch đẩu” khá phổ
biến ở miền Nam Nias, trông khá giống các Dolmen cỡ nhỏ ở Sumba
và Java.
- Cối giã: Di tích thường là những khối đá tự nhiên hoặc có dấu
vết gia công chạm khắc, có 1-7 lỗ khoét thủng tròn (chỉ 1 trường
hợp lỗ vuông). Ở Salak Datar, lỗ rộng 21-24cm, sâu 12-14cm. Ở
Tandjoengsirik, di vật có 6 lỗ được cư dân địa phương gọi là “cối
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 185
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.6 Page 186

▲back to top
giã gạo”. Các tiêu bản “có lỗ” quy mô nhỏ hơn 3cm ở Matesih và
Wonosari (trung tâm Java) được thổ dân gọi là “Batu dakon”. Cối giã
thấy nhiều ở miền Nam Sumatra (20 tiêu bản) và còn có ở trung tâm
Celebes (Hoop, Van der, 1932; Bintarti, 1977).
- Máng xối: Đây là những khối đá khoét hình chữ nhật hay gần
tròn, quy mô từ 55 x 22cm đến 104 x 18cm, sâu 11-13cm. Cá biệt có
phiến đá khoét 2 hình chữ nhật. Các máng đá thường để trơn, rất ít tiêu
bản có chạm khắc hình người. 12 tiêu bản phát hiện ở Pasemah có kiểu
gần giống với “mộ sọ” ở Nias, Sarcophagi cỡ nhỏ ở Đông Java, các
quách ở trung tâm Celebes và Bata Lands. Ngoài ra, còn các tiêu bản
khác mang dấu chạm khắc, đục lỗ vuông, hình cầu còn nhiều bí ẩn ở
Nam Sumatra và Borneo.
- Tượng và các điêu khắc đá: Đây là loại hình di vật đặc biệt
hấp dẫn trong các quần thể Cự thạch Indonesia. Riêng ở cao nguyên
Pasemah, Van der Hoop thống kê tới 53 tiêu bản ngay từ năm 1932,
chưa kể các vùng khác như Tây và Đông Java, Nias, trung tâm Celebes,
186 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.7 Page 187

▲back to top
Bataklands... (H81). Nhìn chung, điêu khắc đá thể hiện nhiều dạng
người và động vật theo các phong cách mà R.Heine Geldern (1935) gọi
là “nguyên thủy” giống như “yếu tố nội sinh” và “tiến hóa hơn” giống
như kết quả của ảnh hưởng bên ngoài đến từ văn hóa Đông Sơn và từ
Trung Quốc ở xa hơn. Phong cách “nguyên thủy” thể hiện ở các nhóm
tượng Menhir và Polynesian tập trung trên cao nguyên Pasemah, Java,
Bali, Sulawesi, Timor (Kruut A.C., 1904; Kinsbergen J.van., 1914;
Krom N.J., 1914-1931; Heekeren H.R.van., 1931; Hoop A.N.J.van der.,
1932; Kaudern, 1938; Kapita, 1976; Sukendar, H., 1980, 1985, 1999).
Tượng Polynesian thể hiện hình người ở tư thế ngồi, ngồi xổm chạm
khắc khá thô, ngoại trừ các tiêu bản có những nét khắc tinh tế thể hiện
lông mi, móng tay, đồ trang sức... Nhiều pho tượng thể hiện người cưỡi
voi hay bò Ấn Độ, có khi còn bế 1-2 đứa trẻ trên tay, mặc quần áo hay
đóng khố, nịt, thường mang đồ trang sức vòng cổ, vòng bao tay chân,
đeo kiếm, với dung mạo thường thấy là mặt rộng, quai hàm gần như
vuông, mắt lồi, mũi ngắn, miệng rộng, tai to. R.Heine Geldern còn coi
phong cách tượng “tiến hóa hơn” và các mộ Cự thạch Pasemah chịu
ảnh hưởng văn hóa Hán sớm từ Trung Quốc, dường như là kết quả của
một cuộc chiếm cư” từ đất liền Đông Á đến quần đảo này vào khoảng
giữa các thế kỷ II-I trước Công nguyên.
Các tượng mang phong cách “động” này được Van der Hoop so
sánh với nghệ thuật tạo hình Java và Ai Cập, nhưng các phù điêu khác
(Batoegadjan, Airpurah) (H82) lại được người khác coi như chỉ dẫn
rõ ràng về tuổi và sự gắn kết của Cự thạch Pasemah với thời đại Đồng
Đông Nam Á và nền văn hóa Đông Sơn trong Thiên niên kỷ I trước
Công nguyên (Hoop, Van der, 1932; Vonk, H.W., 1934; Heekeren, Van,
1958; Soejono, R.P., 1982).
Theo P.Bellwood (1978), những hình người và động vật trên các
điêu khắc đá ở cao nguyên Pasemah, với các vòng ống bao tay, bao
chân, mũ trụ có chỏm sau, thắt lưng là các hình loại trang sức quen
thuộc ở cao nguyên Trấn Ninh, Thượng Lào. Đặc biệt, bức phù điêu
Batoegadjah chạm hình voi nằm cùng 2 người lính ở hai bên hông,
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 187
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.8 Page 188

▲back to top
với 1 người lính ở trần, đóng khố, mang dao, kiếm, có cả 1 trống đồng
Heger loại I buộc dây đeo ngang vai, Hình trống Heger loại I còn khắc
trên đá Airpurah cùng 2 người và 1 con chó đã chứng minh mối liên
hệ của cụm di tích Cự thạch này với văn hóa Đông Sơn vào cuối Thiên
niên kỷ I trước Công nguyên (H82).
Van der Hoop rất có lý khi cho rằng: Một số hình tượng Pasemah
liên quan với mộ táng, Dolmen, Menhir, “với sự cẩn trọng thành kính
và chứa đựng biết bao lao động, thời gian và công trí để dựng đứng
và điền đầy các pho tượng khổng lồ” cho các quần thể Cự thạch chung
rộng ấy. Chính điều đó đã gợi cho chúng ta ấn tượng vì chúng phải
được làm để phục vụ cho mục đích thờ cúng. Vì vậy, dù không cần thiết
tiếp nhận quan điểm Reinach coi tất cả nghệ thuật nguyên thủy phải
liên hệ với tôn giáo hoặc tín ngưỡng ma thuật giống như là thứ “đặc
quyền biểu lộ của nghệ thuật và của mơ ước sáng tạo”; song những
đối sánh dân tộc học có thể gắn những hình tượng thuộc loại hình Nam
Sumatra ở Pasemah và Archipelago phải là những hình tượng do tổ tiên
họ để lại.
Những loại hình di tích cơ bản kiến thiết trong các trung tâm Đá
lớn Indonesia liên quan đến thế giới tinh thần đầy bí ẩn của quá khứ
Nam Đảo từ tiền sử. Mặc cho những khác biệt về mật độ, lượng loại,
kích cỡ và biểu tượng của Cự thạch trong các loại hình kiến trúc và các
trung tâm, đây là cả một quần thể văn hóa độc đáo lớn rộng, nhưng hợp
nhất của thế giới Nam Dương, kết gắn với những nét đặc trưng chung
của vành đai công trình Cự thạch nhiệt đới - cận nhiệt đới danh tiếng
nhất châu Á. Thế giới tinh thần Nam Đảo với các biểu tượng Cự thạch
trong vành đai châu lục của riêng mình, còn có chung ý tưởng với cả
vành đai lớn ở tầm mức toàn cầu của Cự thạch và tục thờ Mặt Trời do
L.Flobenius (1923) và J.H.F.Kohlbrugge (1930) từng xây dựng.
Theo nhiều học giả, các ý tưởng chính phụng thờ Cự thạch nói
chung là thờ cúng tổ tiên, phong tục cổ truyền đã xâm nhập toàn bộ
quan niệm tín ngưỡng và xã hội nguyên thủy. Theo Van der Hoop, tục
thờ thần Mặt Trời” dường như gắn với văn hóa Đồng thau nhiều hơn
188 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.9 Page 189

▲back to top
là văn hóa Cự thạch, song Cự thạch vẫn hoàn toàn có thể phục vụ cho
định hướng mặt trời mọc, ví dụ như sự bắt đầu của “thời kỳ gieo hạt”...
Với một số học giả, các hầm mộ có cửa hướng Đông ở Sumatra,
Archipelago, Seram và tập tục mai táng xếp đặt đầu người hướng về
nhà của họ ở hướng Đông và chân hướng về “đất của linh hồn” (Mar-
tin, K., 1894; Rivers, W.H.R., 1913; Alkema, B., - Bezemer, T.J., 1927).
Về đại thể, các trung tâm Đá lớn ở Indonesia thường được coi như
những khu “thánh địa”, là những “chỗ thần diệu” mà việc kiến tạo
Cự thạch là công việc của “thiên nhân” như Serunting Sakti (Pahit
Lidan) rất phổ biến trong truyền thuyết ở Sumberjaya và các vùng đồi
núi thuộc Lampung (Sumatra) (Sukendar, H.B., 1981). R.von Heine
Geldern (1945) từng quan niệm văn hóa Cự thạch như là “mắt xích”
giữa sự sống và cái chết và cũng chính Cự thạch gắn liền với những
quan niệm đặc biệt liên quan tới “cuộc sống sau khi chết”. J.L.Peacock
(1962) đã cố gắng diễn giải Cự thạch Pasemah như những dấu hiệu
thượng lưu” trong xã hội có giai cấp. Theo P.Bellwood (1978), nhiều
Cự thạch Indonesia có thể gắn bó với nghi lễ mai táng thủ lĩnh tôn giáo
và ở châu Đại Dương, hệ chức năng của chúng nhìn chung rộng hơn
nhiều, mà về nhiều mặt liên hệ với thế giới tinh thần, với bằng chứng có
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 189
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

19.10 Page 190

▲back to top
mặt mộ táng, bàn thờ hoặc các tượng thờ... Theo H.Sukendar (1999),
hệ chức năng có thể ghi nhận ở nhiều loại hình Cự thạch Indonesia là
đài quan sát thiên văn, biểu tượng quyền lực, địa vị xã hội, tôn vinh
thủ lĩnh, đáp ứng các niềm tin tôn giáo và tín ngưỡng. Ông tin rằng
phần lớn Cự thạch tiền sử dành cho việc thờ cúng tổ tiên và xã hội có
Cự thạch nguyên thủy thường tin rằng “thế giới linh hồn tổ tiên” ngự
trên các “núi thiêng” nên nhiều cấu trúc Cự thạch hướng về chúng
(Sarcophagi ở Bali hướng núi Agung, mộ đá Muningan, Cirebon hướng
núi Dempoi, Cự thạch Pasemah và Tây Sumatra hướng núi Sago; các
cấu trúc thềm đá Indonesia xây dựng để “thờ núi thiêng” (giống như
Zigurat ở Mesopotamia hay Kim tự tháp Ai Cập), Dolmen và mộ đá ở
Tây và Đông Sumba hướng về “đồi thiêng” như Pornombor, Sasar...),
cùng các tục lệ thờ tượng đá lớn thể hiện “thiên nhân”, Mặt Trời, Mặt
Trăng, các vì sao, thánh thần ở Sumatra, Sumba...
Ai là người xây dựng Cự thạch xưa ở Indonesia và thế giới hải đảo?
Đời sống vật chất, tinh thần, lao động sáng tạo nghệ thuật và các niềm
tin siêu phàm của họ thời tiền sử - sơ sử ra sao? Những liên hệ đích
thực của Cự thạch trong thời gian và không gian dàn trải? Những câu
hỏi đặt ra ngay từ đầu thế kỷ XX, câu trả lời cũng có tuổi hơn thế kỷ,
vẫn luôn biến đổi theo thời gian, với các nỗ lực kiếm tìm, khảo cứu,
tích lũy tri thức về Cự thạch khu vực và châu lục đến tận ngày nay.
Với các học giả tiền bối, ngay từ năm 1932, Van der Hoop đã phản
đối các quan điểm coi hình khắc Pasemah mang những đặc điểm thể
hình của chủng tộc “Caucasia” hay “Negroid” mà theo ông, có khả
năng liên hệ với Malay - một nhánh của cư dân Mongoloid. Họ có
thể gắn bó với một trong những dòng người di cư đến quần đảo từ
Đông Á, phổ biến ở Archipelago - dòng người mà N.J.Krom (1923)
gọi là “người Indonesien” hay J.P.Kleiwey de Zwaam (1925) gọi là
“người Nguyên Mã Lai”. Theo A.C.Kruut (1932), những hình khắc và
Cự thạch phát hiện ở vùng trung tâm Celebes gợi ý khả năng có 4 lớp
cư dân như sau: Một chủng tộc có liên hệ với Melenesia. Một chủng
tộc mà dấu vết của họ còn bảo tồn ở Toradjas ngày nay, với màu da
đậm, mặt tròn rộng, mũi tẹt. Một chủng tộc ở sâu trong núi chế tác
190 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20 Pages 191-200

▲back to top

20.1 Page 191

▲back to top
điêu khắc, mộ phủ đá, cối giã và những làng đá là những cư dân đến
từ phương Bắc, từ hướng Nhật Bản, có thể trung chuyển qua Formosa,
Poelau Botol, Munahassa, Lore (Napoe Besoa, Bada) và xuống miền
Đông Java. Một chủng tộc làm gốm, với tập tục hỏa thiêu, chôn cốt
người chết trong quan tài gốm, là nhóm người di cư đến dưới ảnh
hưởng của Ấn Độ Dương có thể mang theo nghề trồng lúa nước ở thời
điểm muộn hơn. Qua phác thảo mặt người trên điêu khắc đá, tác giả
cho rằng lớp cư dân bản địa ở trung tâm Celebes có mắt hình tròn và
lớp cư dân đến Celebes từ miền Bắc Á qua Nhật Bản là những người
thợ đá Mongoloid có mắt hình quả trám hay “hình hạnh nhân” và đấy
cũng là hai dạng mắt cơ bản ghi nhận trong nghệ thuật Java và ở Bali,
Kekasaran (mắt tròn) và Kemanisang (mắt quả trám) (H82).
Theo Soejono, dạng “mắt tròn” ở Pasemah, Toraja khắc họa những
đặc trưng Melanesoid và dạng mắt “hình khối chữ nhật hoặc hình quả
trám” ở miền Tây Java là chỉ thị loại hình nhân chủng Mongoloid (Soe-
jono, R.P., 1982).
Thế giới ngàn đảo của khu vực từ Đá mới hậu kỳ đến sơ kỳ Sắt chứa
đựng bao biến động. Cuộc truy tìm quê hương đích thực của người Nam
Đảo - chủ nhân ông các công trình Cự thạch đa dạng và kỳ vĩ ở giữa
vành đai Đá lớn khổng lồ của khu vực và bao cuộc di chuyển của họ
trên mặt biển Thái Bình đã được R.von Heine Geldern gắng sức hình
dung và phác thảo từ hơn nửa thế kỷ trước (1937, 1945); lại được nhiều
học giả các thế hệ sau ông tiếp tục... Từ các giả thiết của P.Benedict
(1942, 1976) về các khối cư dân “Autro - Thai”, “Austroasiatic”; từ
giả định của W.Marshall (1968, 1974) với người Nam Đảo đến các đảo
Đông Nam Á từ lục địa sau 1.500 trước Công nguyên và mang theo
mình thuật luyện kim, nông nghiệp lúa nước và truyền thống kiến thiết
Cự thạch...; đến các quan điểm của W.G.Solheim (1975, 1976) về sự
hình thành khối cư dân mang tên mới “Nusantao” là chủ nhân các kỹ
nghệ công cụ vỏ sò ở miền Nam Philippines - miền Đông Indonesia
và các cuộc thiên di của họ vào lục địa Đông Nam Á, mang theo mình
truyền thống gốm “Sa Huỳnh - Kalanay” từ 1.500 trước Công nguyên
và xuống châu Đại Dương, mang theo gốm Lapita...
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 191
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.2 Page 192

▲back to top
Theo P.Bellwood (1978), sự phân rã của ngữ hệ tiền Nam Á diễn
ra trong khoảng thời gian lịch sử 7.000-5.000 năm về trước ở nơi gọi
là “trung tâm thế giới hải đảo khu vực” gồm: Philippines, Indonesia
và Đài Loan, chuẩn bị mọi cơ sở cho việc khai triển người Nam Đảo
trên đất liền Đông Nam Á và châu Đại Dương. Đại diện của người
tiền Nam Đảo” di cư đến vùng này từ miền Nam Trung Quốc hoặc
Nhật Bản sớm hơn mốc 5.000 năm, mang theo kỹ thuật mảnh và nông
nghiệp và nhờ những cuộc di cư như vậy mà củng cố sự tiến lên của
cư dân Mongoloid, đặc biệt ở Đài Loan, Philippines và Sulawesi. Nếu
kỹ thuật chế luyện đồng - sắt xuất hiện nhờ sự liên hệ với lục địa châu
Á, thì truyền thống mộ chum xuất hiện do sự phát triển độc lập bản
địa ở Philippines, Indonesia và văn hóa Sa Huỳnh (Việt Nam). Các
truyền thống mộ chum (bằng gốm hay bằng cả Cự thạch) còn được
nhiều học giả đề cập và mở ra rất rộng, vượt khỏi hải phận Đông Nam
Á (Sulawesi), vào lãnh địa Môn - Khmer (Hủa Phăn - Xiêng Khoảng),
sang cả Tây Á (Cachar)... Thế giới Cự thạch của Nam Đảo dường như
không lúc nào ngừng khơi gợi những dự cảm và ý tưởng, sự hồi cố và
suy luận khoa học mới... Một trong những câu trả lời mà chúng tôi tin
là đúng (hay gần đúng nhất) vẫn là của R.Heine Geldern (1945) chỉ với
luận điểm lớn và cơ bản nhất của ông về các truyền thống sáng tạo Cự
thạch gọi là “già hơn” và “trẻ hơn” của thế giới Nam Đảo từ cuối Đá
mới sang thời đại Sắt sớm, với sự trưởng thành của “phong cách Đông
Sơn” trong Thiên niên kỷ I trước Công nguyên và trước khi các làn
sóng ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ - Trung Hoa dội đến địa vực này.
3. 2. Bán đảo và địa đảo thuộc Malaysia
Ở Malaysia, thời đại Kim khí gắn bó với các công trình Cự thạch
sử dụng làm mộ táng được biết ngay từ thế kỷ XIX ở miền Nam Perak,
miền Bắc Selangor, đến một số vùng thuộc bang Negri Sembilan và bán
đảo Malacca. Vào năm 1895, Juneir Surveyor đã khám phá 1 ngôi mộ
đá granite có tường ghép bằng các phiến đan mỏng, tạo thành hình khối
chữ nhật, quy mô gần 2,5 x 0,6m và sâu hơn 1,5m, bên trong có chứa đồ
gốm cùng 2 hạt chuỗi cornelian, 1 chày đập vỏ cây, một số mảnh vỡ của
bình đồng (H77) (Evans, I.H.N., 1927, 1929; Twedie, M.W.F., 1957).
192 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.3 Page 193

▲back to top
Năm 1928, lại thêm 3 hầm mộ ghép đá phiến hoa cương được phát
hiện gần làng Sungkai, bang Sungai Kruit và 1 hầm mộ có cấu trúc
tương tự khám phá gần bang Sungai Kiah (Evans, I.H.N., 1929, 1931).
Vào cuối năm 1935, H.D.Noone thông báo phát hiện các quan tài bằng
đá hoa cương ở gần làng Slim (miền Nam Sungkai) và từ tháng 2-1936,
Viện bảo tàng Raffler đã tổ chức khai quật 3 ngôi mộ ghép phiến hoa
cương rộng ở trong vùng này. Về sau, khi khai thác mở rộng đất trồng
cao su ở đây, người ta còn phát hiện thêm 7 hầm mộ ghép phiến đá
granite tương tự và phá hủy chúng. Tất cả mộ ghép phiến granite Perak
được miêu thuật lại gần giống cấu trúc mộ dạng “Stone-cist” Pasemah
(Nam Sumatra - Indonesia), nhưng dài và hẹp hơn nhiều. Chúng thường
được xây dựng bởi 3 phiến đan hoa cương chính; trong đó, 2 phiến
dựng thành hông hơi khép vào trong làm cho phần tiếp xúc với phiến
nắp đậy hơi khép lại (H83).
Trục dọc của các hầm mộ Perak thường nằm theo nhiều hướng
khác nhau (Bắc Nam và Đông Tây). Các hầm mộ chứa nhiều đồ tùy
táng, bao gồm: Cuốc sắt giống sưu tập “Tulang mawas” ở Selangor,
cùng khá nhiều cục đất nung, một số mảnh đồng thau, nhiều hạt chuỗi
hồng mã não và các hạt cườm nhỏ xâu chuỗi thành vòng (Evans, I.H.N.,
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 193
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.4 Page 194

▲back to top
1929, 1931; Loewenstein, J., 1953; Choo, A., 1987; Winstedt, R.O.,
1941). Những công cụ sắt dạng này được một số nhà nghiên cứu coi
như dụng cụ dùng khai thác quặng thiếc (Loewenstein, J., 1956) và là
một trong các căn cứ dữ liệu xếp toàn bộ quần thể hầm mộ hoa cương
miền Nam Perak vào thời kỳ Sắt trong tiền sử Malaysia (Jeshurun, C.,
1982), vì công cụ sắt có thể là biến cải nhiều của “phong cách Đông
Sơn” (Bellwood, P., 1978).
Trong vùng Đông
Bắc Selangor, từ tháng
8-1934, 1 hầm mộ
cổ ghép bằng những
phiến đá granite rời
tương tự các cấu trúc
Nam Perak đã được
phát hiện tại một di
tích nằm gần Kerling,
với sưu tập di vật liên
quan gồm 7 di vật gọi
là “rìu” và 2 giáo sắt
(Collings, H.D., 1937;
Choo, A., 1987).
Ở vùng Negri
Sembilan, quần thể
di tích Cự thạch nổi tiếng nhất là những hàng đá dựng ở Pengkalan
Kempas. Chúng phân bố thành 3 hàng chính, cùng một số dấu tích Cự
thạch như trụ đá khắc chữ “Alhah”, đĩa đá tròn trang trí hoa văn hình
thú và lá cây, cùng với một số phiến đá phẳng nhẵn chưa rõ công dụng
được các thổ dân gọi là “đá nằm ngửa”... Tại một di tích khác nằm gần
làng Terachi (Kuala Pilah), vào năm 1962, Mubin Sheppard đã miêu
tả những hàng đá dựng phân bố thành từng cặp, trong mỗi cặp thường
có 1 thanh cao (khoảng 5-6ft = khoảng 1,5-1,8m) có dáng thân hơi gập
vào trong và 1 thanh nhỏ hơn (khoảng 3-4ft = khoảng 1-1,2m). Ở vùng
Malacca, những hàng đá dựng tương tự ghi nhận từ miền giáp ranh
194 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.5 Page 195

▲back to top
bang Negri Sembilan và tập trung trong huyện Alor Gajah. Các tảng đá
nhỏ hơn dựng trong nhiều khu vực thuộc địa phận trung tâm Malacca,
đặc biệt các di tích ở gần thị trấn Machap được cư dân bản địa gọi là
Kramat” được họ tôn thờ như nơi chứa thánh tích của các linh hồn có
quyền năng vô hạn và được tín đồ thập phương sùng kính dâng lễ vật
cầu xin đặc ân thường niên (H84) (Chandran, J., 1978).
Trong vùng Penang, ngay từ năm 1846, người ta đã ghi nhận có
1 tảng đá lớn rộng khoảng 30 x 15ft = khoảng 9 x 4,5m, có khắc một
số chữ lạ tại Batu Bertulis. Ở gần thị trấn Bukit Mertajam củng phát
hiện thêm 1 tảng đá đứng thẳng cao khoảng 1,77m, chiều rộng trung
bình khoảng 0,91-0,12m, khá giống với nhiều thanh trụ dựng dọc theo
đường sắt Malaya vùng Sabah. Theo các nhà nghiên cứu thuộc Viện
bảo tàng quốc gia Malaysia, các di tích đá dựng Mertajam là một “mắt
xích” trong vành đai Cự thạch của bán đảo này và trong thực tế vẫn
chưa phải là “điểm cực Bắc” của quần thể di tích và công trình kiến
trúc Cự thạch từ trung tâm Nam Perak, vì gần Nakon Sri Thamerat
(miền Nam Thái Lan), họ có thông tin rằng H.H.E. Loofs đã phát hiện
một hàng đá dựng khác được coi là “Cự thạch” (Kauffmann, H.E.,
1971; Chandran, J., 1982; Loofs, H.H.E., 1989). Ở Sarawak, các dấu
tích Cự thạch rõ ràng nhất bao gồm tới 150 hàng đá dựng và nhiều
đá chạm khắc, phân bố từ đầu nguồn sông Baram và các phụ nhánh
chính vùng Murud cùng Dolmens mà thổ dân gọi là “Batu Ritong” trên
cao nguyên Kelabit, các tảng đá rộng chạm khắc hình người, các cặp
Menhir dựng thẳng (thanh cao nhất 4 ft = khoảng 1,2m, các thanh nhỏ
cao 3ft = khoảng 1m) ở ven làng Bario và các ụ đá (Harrison, T., 1958;
Chandran, J., 1982).
Trong địa giới bang Sabah, các di tích Cự thạch dọc vành đai viền
sát thủ phủ Kota Kinabalu, đặc biệt ven đường Papar và Tuaran, với
các trụ Menhir bằng sa thạch thô màu xám trắng, cao 1,2-1,8m, nặng
mỗi tảng tới hơn 1 tấn. Các hàng đá dựng khổng lồ này trông giống
như “những người lính canh yên lặng của quá khứ” (Chandran, J.,
1982) (H84).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 195
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.6 Page 196

▲back to top
Về cơ bản, những dấu tích thuộc truyền thống văn hóa Cự thạch
ở Malaysia có thể phân thành 3 loại hình cơ bản nhất: Mộ đá ghép và
Dolmen; trụ đá dựng thẳng dạng Menhir và đá các loại mang dấu vết
hình khắc chạm. Những ngôi mộ Cự thạch bằng các phiến đan đá ghép
ở miền Nam Perak và miền Đông Bắc Selangor và Dolmen ở Batu
Ritong (Sarawak) được coi là các kiểu khác nhau trong cùng một loại
hình kiến trúc Cự thạch mang biểu tượng tang lễ ở Malaysia.
Menhir mang những đặc trưng chung về hình dáng, vị trí và công
dụng nhưng có những đặc điểm riêng ở mỗi vùng. Ví như, những
Menhir Sabah thường dựng trên bờ đê hay ven bờ các cánh đồng lúa
nước bằng phẳng, có dáng gần tròn với đầu thon bóp nhọn, có chạm
khắc hình hay “chữ”. Còn Menhirs vùng Negri Sembilan - Malacca
thường dựng thành “cặp” được thổ dân gọi là “đá cưới” có “đá đực
hay “đá chồng” và “đá cái” hay “đá vợ” ở Pengkalan trên cao nguyên
Kelabit thuộc bang giới Sarawak (Chandran, J., 1982). Một loại
Menhir cắm thẳng gần như vuông góc trên cao nguyên Kelabit trông
hình dáng bên ngoài rất giống những trụ đá Menhir đặc trưng cho các
di tích Cự thạch thuộc vùng Toraja của Sulawesi, Celebes (Indonesia).
Các hình khắc trên đá tạo thành nhóm riêng ở bang Sarawak, trong đó
có những tiêu bản mang những vết tích khắc chạm dường như muốn
miêu tả hình người dang rộng tay, với dáng nét khá rõ của bộ phận sinh
dục (Chandran, J., 1982).
Trong tình hình khan hiếm tư liệu vật chất kèm theo Cự thạch
Malaysia (gốm, hạt chuỗi bằng corlanine và thủy tinh, di vật sắt), các
học giả cố gắng phân tích so sánh loại hình di tích Cự thạch và tùy
táng phẩm với nhiều khu vực văn hóa khác. Theo I.H.N.Evans (1928,
1931), các ngôi mộ xây bằng đá phiến granite ở Malaysia có thể liên hệ
với mộ Cự thạch ở Philippines. Tom Harrison (1958) thì muốn so sánh
chúng với những di tích Cự thạch ở miền Trung Borneo (Indonesia);
còn P.Bellwood (1978) thì cho rằng một nhóm nhỏ Cự thạch ở Malacca
có thể đồng dạng với cấu trúc mộ Cự thạch Hàng Gòn (Việt Nam). H.C.
Beck (1937) đã dựa vào hạt chuỗi corlanine và thủy tinh để định tuổi
mộ đá ghép Malaysia vào khoảng thế kỷ I-IV sau Công nguyên. Vũ
196 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.7 Page 197

▲back to top
Công Quý (1994) cho rìu sắt Malaysia giống rìu văn hóa Đông Sơn,
còn lao sắt lại giống lao tìm trong mộ chum đá Xiêng Khoảng (Thượng
Lào) và đồ gốm gần gũi với văn hóa Sa Huỳnh, Kalanay - Tabon và
trong mộ vò ở Indonesia. Theo Choo, A (1987), những ngôi mộ Đá lớn
lắp ghép từ phiến đan Malaysia thuộc thời đại Sắt, dường như cùng
niên đại ở nửa sau Thiên niên kỷ I sau Công nguyên, tương ứng với
những cấu trúc mộ đá phiến và quan tài đá dạng “Sarcophagi” chứa
những công cụ kim loại ở miền Đông Java, trên cao nguyên Pasemah ở
miền Nam Sumatra, Bali...
Đương nhiên, thời đại Sắt Malaysia lại có quan hệ với truyền thống
văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc Việt Nam và phổ biến hơn với kỹ nghệ
sắt của văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam (với niên đại chung
từ 600 trước Công nguyên đến cuối Công nguyên, có thể cả các thế kỷ
đầu Công nguyên) và cả những di tích ở miền Tây Nam Thái Lan (như
Hang Ongbah, Ban Don Taphet...).
Về đại thể, những công trình Đá lớn ở Malaysia gắn bó với những
nhu cầu tang lễ theo các truyền thống vốn có tự lâu đời. Theo J.Chandran
(1982), ở Negri Sembilan, văn hóa dân gian làng xã còn nói đến thuật
ngữ “đá cưới” như là đại diện cho nơi mai táng cổ truyền để nhận biết
tổ tiên, mà thông thường tiền nhân là một quân nhân hoặc mộ phần
của “những người anh hùng danh tiếng”. Ở Kadazana (Sabah), các
công trình Cự thạch riêng biệt có quan hệ chặt chẽ với những truyền
thống nông nghiệp lâu đời của tiền nhân bản xứ. Chúng được dựng
lên nhằm đánh dấu sự mở mang đất đai canh tác được và tục lệ thờ
Menhir nhằm đảm bảo mùa màng bội thu hoặc tín ngưỡng coi chúng
như các dấu hiệu “đường biên” ấn định quyền sở hữu của các địa chủ
bản xứ khác nhau. Một số học giả cũng liên hệ chức năng khác của Cự
thạch Malaysia như là ghi dấu tri thức thiên văn cổ, phục vụ cho nông
lịch... Sự phổ biến nhiều loại hình tín ngưỡng văn hóa dân gian, những
niềm tin cổ truyền về những thế lực siêu nhiên bản xứ còn in dấu trong
truyền thống kiến thiết di tích và công trình kiến trúc Cự thạch còn phổ
cập sống động bền lâu dù rằng cho đến tận ngày nay, không ai dám nói
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 197
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.8 Page 198

▲back to top
là hoàn toàn hiểu hết ý nghĩa lịch sử của Cự thạch nói chung và của Cự
thạch ở Malaysia nói riêng.
3. 3. Miền Tây Thái Lan
Trên đất Thái Lan, ngoài một số thạch họa trên hang động đã biết,
các dấu tích “Cự thạch” rõ ràng nhất được công bố gần đây liên quan
đến 2 khu mộ táng tiền sử và sơ sử ở Nai Sian và Ban Wang Pra Chop,
tỉnh Tak ở miền Tây Thái Lan (Krajaejun, P., 2009).
Ở Ban Wang Chop (khai quật năm 2006), 5 mộ đá phiến ghép, với
quy mô trung bình: Dài 217,5cm, rộng 72,25cm và cao cỡ 49,75cm có
chôn theo các nồi hay bát gốm thô, đĩa đá và vòng trang sức đeo tay ở
đầu hay giữa thạch quan. Ở đây, có 2 mẫu than phân tích C14 cho kết
198 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.9 Page 199

▲back to top
quả: 2.350 ± 260 và 2.520 ± 260 cách ngày nay. Ở Nai Sian (gần với
di chỉ cư trú Kang Hin), các nhà khảo cổ học ghi nhận có cả quần thể
nhiều mộ đá ghép gọi là “Slab Coffins” và tập trung khai quật 2/30 mộ
đá ghép. Về cơ bản, cả 2 khu mộ táng này có cấu trúc hình dáng và lối
mai táng độc đáo rất giống với các mộ đá phiến ghép đã từng khai quật
ở Malaysia, Java và Đài Loan (H85).
3. 4. Vùng cao nguyên Thượng Lào
Các di tích Cự thạch rất phổ cập trong các xã hội Nam Đảo sớm ở
Indonesia và châu Đại Dương, nhưng càng vào sâu trong đất liền Đông
Nam Á, Cự thạch với đúng nghĩa mà người ta hay đòi hỏi phải là những
di tích cấu trúc bởi các tấm, phiến đá rộng và lớn (Loofs, H.H.E., 1967)
thường vắng mặt, ngoại trừ miền Bắc Lào và Việt Nam.
Những công trình thực sự “Cự thạch” ở Thượng Lào gắn liền với
danh tiếng Madelène Colani, tác giả 2 tập chuyên khảo lớn mang tên:
“Cự thạch miền Thượng Lào” (Colani, M., 1935). Sau bà, nhiều học
giả ngoại quốc từng đến đây khảo sát các di tồn Cự thạch bí ẩn, đặc
biệt là “các cánh đồng Chum đá” mà đáng kể nhất là đợt khảo cứu của
nhóm học giả Nhật Bản do GS Eiji Nitta (Đại học Kaghoshima) dẫn
đầu vào tháng 11-1994 (Niita, E., 1995, 2004); đặc biệt, 3 đợt điều tra
của Bảo tàng và Trung tâm Khảo cổ học Lào, Trung tâm Thông tin -
Văn hóa tỉnh Xieng Khuang, Trung tâm UNESCO thuộc Bộ Thông tin
- Văn hóa quốc gia Lào do TS. Thongsa Sayavongkhamdy lãnh đạo từ
năm 1998-2003 nhằm mục tiêu thống kê, kiến tạo bản đồ “cánh đồng
Chum” theo các chương trình GIS và UXO, xây dựng hồ sơ tổng hợp
đệ trình UNESCO xếp hạng “di sản văn hóa Thế giới” (Thepsimuong,
B., 2003).
Qua các công bố chung, chủ yếu qua tài liệu quan trọng nhất của
TS. M.Colani (1934-1935), có thể ghi nhận đầy đủ thông tin nhất về
các quần thể Đá lớn đặc sắc phân bố trên hai cao nguyên ở phía Đông
và vùng trung tâm miền Bắc Lào là Hủa Phăn (thuộc tỉnh Sầm Nưa) và
Mường Phuôn (thuộc tỉnh Xiêng Khoảng).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 199
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

20.10 Page 200

▲back to top
3. 4. 1. Cao nguyên Hủa Phăn (tỉnh Sầm Nưa)
Tại cao nguyên này, M.Colani khám phá nhiều cụm di tích kiểu
Menhir, các hầm mộ đậy bằng những đĩa đá lớn ở San Kong Phan,
Kéo Hintan, Vieng Nokkhouai. Ở di tích San Kong Phan, trên đỉnh đèo
từ Bản Koute đến Bản Pha Kha, có 11 cụm đá dựng như vậy, với 115
tiêu bản các kiểu loại và kích cỡ khác nhau. Ở di tích Kéo Hin Tan, có
121 trụ đá mật tập thành nhiều cụm trên khoảng diện tích 60 x 20m =
1.200m². Các trụ đá thường cao 2-3m, một số cao hơn 3m, được xếp
thành hàng thẳng kiểu “trường thạch”, hoặc giả thành đường cong hay
hình tròn kiểu “hoàn thạch”, với các thanh trụ cao nhất thường được
bố trí xếp giữa, các thanh đá thấp bé được dựng ở hai bên hoặc vòng
quanh. Dưới chân các trụ đá thường là nơi phân bố hầm mộ được đậy
bằng những đĩa đá lớn cùng loại phiến thạch mica (rộng trung bình
1,5-2m).
Di tích tìm thấy nhiều đĩa đá nhất là San Kong Phan (khoảng 70 tiêu
bản). Ở đây, phần lớn đĩa đá còn úp nguyên tại chỗ (in situ). M.Colani
đã đào thám sát 18 huyệt mộ còn nguyên dưới các đĩa đá nằm úp. Tất
cả các hầm mộ đều có dạng hình khối chữ nhật, kích thước trung bình
1 x 0,5m và sâu khoảng 1m. Các hầm mộ kiến thiết từ đá ghép, một số
có ngách vào với những bậc thang lát đá. Ở một vài hầm mộ, dưới đáy
nền được người xưa lát thêm 2 phiến đá mỏng đặt song song với nhau,
có thể là trụ đỡ lớp gỗ lát dùng đặt thi hài người chết (?). Dấu tích than
tro và xương răng người xưa có trong 3 hầm mộ. Sưu tập hiện vật tìm
được trong mộ phần, ở xung quanh mộ và các trụ đá dựng bên mộ, là
những đồ đựng bằng đất nung để mộc nặn bằng tay (nồi vò, bình hay hũ
có chân đế...), một số vòng đĩa được mài từ diệp thạch mica với đường
kính khoảng 30-40mm, có trang trí các hoạ tiết hình sao, đồ đồng gồm:
Nắp vung, bình và một số nhẫn gần như không hở.
M.Colani đã liên tưởng cấu trúc các công trình Hua Phan với những
cấu trúc mộ Thái hiện đại ở Thanh Hóa (Việt Nam). Sự vắng mặt đồ sắt
ở di tích Cự thạch Hua Phan khiến một số người nghĩ về niên đại sớm
- Thiên kỷ I trước Công nguyên. Theo P.Bellwood (1978), những ngôi
mộ không lớn nhưng có cấu trúc tương tự hầm đá Hủa Phăn đã được
200 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21 Pages 201-210

▲back to top

21.1 Page 201

▲back to top
phát hiện ở miền Tây Trung Nguyên có niên đại thuộc Thiên niên kỷ I
trước Công nguyên, dù ông không rõ chúng có liên hệ gì với các di tích
Lào đồng dạng hay không.
3. 4. 2. Cao nguyên Mường Phuôn (tỉnh Xiêng Khoảng)
Các di tích Cự thạch nổi danh nhất miền Bắc Lào nằm trên cao
nguyên này, đã được M.Colani định vị thành 5 “cánh đồng Chum đá
và đặc tả 13 di tích tiêu biểu trong các quần thể đó. Chum đá tập trung
dày đặc nhất thuộc khu I - gồm các cụm Bản Ang và phụ nhóm Bản
Lạt Sẻn và Bản Xoa (475 chum) và rải rác ở 4 khu vực khác (khu II-V).
Các nhóm Bản Ang gồm: Nhóm Tây Bắc với 200 tiêu bản xếp hình
cánh cung dài khoảng 300m; nhóm Tây Nam (20 chum) và nhóm Đông
Bắc (50 chum). Các nhóm chum Bản Latsen và Bản Soa nằm cách Bản
Ang 10-14km về phía Nam - Tây Nam được thống kê 90-115 chum đá.
Ở 4 khu khác (II-IV) chứa 175 chum đá, phân bố ở Bản Siêng Kiêu (44
chum), Bản Nanong (34 chum), Bản Xót (28 chum), Bản San Hinoume
(21 chum), Bản Vi (8 chum)...
Tất cả 650 chum đá Xiêng Khoảng do M.Colani thống kê đều được
chế tạo từ sa thạch mềm bản địa, dáng thô kệch giống như thùng khoét
rỗng hình trụ tròn, đáy và vai rất dày, phần dưới rộng và thuôn nhỏ dần
lên miệng, với nhiều kiểu cỡ khác nhau như: Hình thon cao hay thấp và
to ngang, đáy bằng hoặc đáy lồi..., chế tác sơ sài thô thiển hay tỉ mỉ tinh
tế hơn... Khó có thể hoài nghi là phần lớn chum được chế tác tại chỗ
bởi chúng nặng nhiều tấn. Tiêu bản lớn nhất trên cánh đồng Bản Ang
cao 3,25m, đường kính 3m, nặng 14 tấn, với lòng chum có thể chứa tới
6 người bên trong. Trong mỗi nhóm, các chum lớn thường đặt ở giữa,
các chum nhỏ thường đặt ở hai đầu hay ở xung quanh. Ở một số tiêu
bản, vành miệng tạo thành gờ dày, có thể làm bờ để đỡ những nắp đậy
bằng gỗ. Dưới chân nhiều chum còn nằm rải rác các đĩa đá có hình tròn
lớn (đường kính trung bình 1,5-2m), cũng được chế tác từ loại sa thạch
mềm bản điạ.
Theo P.Bellwood (1978), những chiếc đĩa này không phải và cũng
không thể dùng làm nắp đậy chum như khẳng định của M.Colani, vì
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 201
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.2 Page 202

▲back to top
chúng thường có một mặt phẳng, mặt trên hoặc cong lồi như hình mu
rùa, hoặc tạo hình như chiếc nấm, mặt ngoài một số đĩa có trang trí
khắc nổi hình người hoặc một số loài thú có 4 chân như hổ báo hay loài
khỉ. Có đĩa đá ở Keotan nằm đè lên 2 công cụ bôn đá hình tứ giác.
Những chiếc đĩa đá này có thể được người xưa sử dụng trong các nghi
lễ mà chúng ta chưa hiểu rõ (H86-87).
Gần đây, tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học tháng 7-1998 tại Hà
Nội, một nhà khảo cổ học Lào đã giới thiệu một đĩa đá Xiêng Khoảng
có hình các cánh sao chạm nổi mô phỏng mặt trống đồng Heger loại
I. Phát hiện này dường như thêm bằng chứng mới ủng hộ giả định của
M.Colani về chức năng đĩa đá Xiêng Khoảng có thể là bản sao bằng đá
của trống Đông Sơn được người xưa sử dụng để “gọi hồn”, hoặc phục
vụ như những mâm bồng đựng lễ phẩm cho người đã khuất còn di tồn
trong chum đá. Ngoài chum đá, M.Colani còn giới thiệu một số nhóm
đá dựng ở Đông Bắc Bản Ang, hoặc các phiến đá phẳng giống Dolmen
202 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.3 Page 203

▲back to top
thường dùng đậy đồ đựng khác, có khi đồ đựng ở Thao Kham còn chứa
cả dao găm có cán tượng nữ đặc trưng của văn hóa Đông Sơn. Có khi
1 phiến đá phẳng đậy 2 hàng gồm 6 đồ đựng gốm xếp liền nhau (H88).
Một di tích chứa đựng các vết tích cực kỳ quan trọng cho quần thể
Cự thạch Xiêng Khoảng là hang đá ở Bản Ang, nơi M.Colani khai quật
thấy số lượng lớn than tro, xương người cháy sém, cùng các bình gốm
nhỏ chứa di cốt đã hỏa thiêu. Các di cốt cháy sém cũng có trong lòng
một số chum đá, song không thể xác định được số lượng cá thể người.
Cùng với vết tích than tro, xương người cháy sém ở Hua Phan, Xiêng
Khoảng, hang đá Bản Ang giống một lò thiêu tiền sử đã ghi nhận tục
hỏa thiêu bản địa từ xa xưa.
Hiện vật tìm thấy ở trong hay ngoài mộ chum hoặc trong các hố
đào nền hang Bản Ang khá phong phú về lượng loại như: Rìu bôn đá,
bàn mài sa thạch, chuỗi đá quý và thủy tinh, đồ đồng gồm: Vòng tay,
hoa tai, lục lạc, tượng người nam cao 9cm... Đồ sắt gồm: Rìu, cuốc,
dao, liềm, dao găm, giáo, lao, mũi tên, vòng tay. Đồ gốm có: Nồi, vò,
bình, dọi se sợi, đầu tượng bò Ấn Độ, cùng nhiều vỏ sò ốc. Các sưu
tập di vật Xiêng Khoảng và Hua Phan thường được coi là đồ tùy táng
tiền sử và được nhiều học giả coi là gần gũi với các sưu tập di vật thời
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 203
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.4 Page 204

▲back to top
đại Kim khí của các trung tâm văn hóa lớn đương thời ở Somrong Sen
(Campuchia) và Đông Sơn, Sa Huỳnh, Đồng Nai (Việt Nam), có thể
có niên biểu nửa sau Thiên niên kỷ I trước Công nguyên (Colani, M.,
1935; Bellwood, P., 1978; Đặng Bích Hà - NNK, 1997) (H88).
Các di tích Cự thạch Thượng Lào là hiện tượng văn hóa tiền sử
- sơ sở độc đáo của lục địa Đông Nam Á. Theo P.Bellwood (1978),
các hình loại Cự thạch tương tự Xiêng Khoảng có thể thấy ngoài hải
đảo xa xôi như Sulawesi và ở vùng Tây Á như miền Đông Bắc Ấn
Độ. Ví dụ, ngay từ năm 1929, J.Mills và J.H.Hutton đã phát hiện một
nhóm di tích tương tự trong dãy núi Cachar, với các chum đá thô kệch,
phần lớn chế tác đơn giản bằng cách đục rãnh khoét rỗng trên đá tảng,
nhưng có vài tiêu bản chum rất giống đồ đựng trong sưu tập Xiêng
Khoảng. Ngoài ra, loại đá mà các tác giả này gọi là “đá để ngồi” cũng
khá giống những cấu trúc Dolmen tìm thấy ở miền Nam Sumatra và
một số đĩa đá ở Xiêng Khoảng. Điều rất thú vị là trong các di tích Cự
thạch Calhar đã tìm thấy rất nhiều bôn đá có vai (loại 8 theo R.Duff)
và dù cho khoảng cách giữa Calhar với Xiêng Khoảng dài không dưới
1.200km, P.Bellwood (1978) vẫn tin rằng giữa chúng có thể có quan hệ
thân thuộc. Madelène Colani từng tin rằng chủ nhân văn hóa Cự thạch
trên cao nguyên Thượng Lào có thể là người bản địa, dù họ có nhiều
đồ tùy táng mang gốc gác ngoại nhập. Theo một số nhà khoa học Việt
Nam (Đặng Bích Hà - NNK, 1997), truyền thuyết bản địa xác nhận
những chiếc chum kỳ lạ này là “vò ủ chứa rượu nếp” của những người
khổng lồ tổ tiên Kha thường uống trong những cuộc viễn chinh đi săn
hay chiến trận và những nắp đá xếp tròn xung quanh chum Cự thạch
là ghế ngồi của ông tổ Kha để đàm thoại khi uống rượu và chúc nhau
thắng trận. Theo các huyền thoại khác, chum Cự thạch cũng là những
hũ đựng rượu nếp” khao quân mừng chiến thắng trước lúc xuất chinh
của người anh hùng bách chiến bách thắng tên gọi cổ truyền là Khun
Cheung (Thao Chương).
Nhiều tài liệu điền dã khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa dân gian
hay nghiên cứu dã sử ở Lào và láng giềng cung ứng các kênh thông tin
có ích nhiều hơn cho giả thuyết về tuổi sơ sử của chính các công trình
204 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.5 Page 205

▲back to top
Cự thạch hiển hách này. Chúng tôi ủng hộ các giả thuyết của một số
đồng nghiệp Lào cho rằng các quần thể Chum đá và Cự thạch Bắc Lào
hình thành từ đầu thời Kim khí gắn kết với các người thợ đá bản xứ sử
dụng thành thục các công cụ kim khí và cả đục đá để chế tác và đục đẽo
tạo chum và các di tồn Cự thạch khác mà không ít dấu tích còn lưu lại
trên chum, nắp, trụ Menhir hoặc Dolmen Hủa Phan và Xiêng Khoảng
với khung niên biểu rộng 3.000-2.000 cách ngày nay. Chủ nhân các
di tích Cự thạch kỳ vĩ đó có thể là tổ tiên xa xôi của những nhóm tộc
người lớn nhất vương quốc cùng chung bán đảo Suvarnbhumi (Đông
Dương) - những tộc người Lao - Loum (Ai Lao) bản địa từng xuất
hiện trong thư tịch cổ Trung Hoa mà về sau hòa trộn với với những
tộc người Lao - Theung thuộc ngữ hệ Môn - Khmer từ phía Tây và cả
các bộ lạc Australoid từ phía Nam đến. Phải chăng các chiến công kiến
thiết Cự thạch Lào ghi nhận các sự nghiệp lao động cộng đồng từ thời
manh nha Nhà nước sơ sử đầu tiên và rải ra trong nhiều thế kỷ đến tận
thời vương quốc quyền lực Ai Lao đổi tên thành Nan Chao trong giai
đoạn Sa Kok có biên cương Bắc - Đông Bắc giáp Zhe Zhuan và Kuang
Xi (Trung Hoa), Tây - Tây Bắc giáp Tibet và Makatha (Ấn Độ cổ),
Nam giáp Angkor, Tây Nam giáp Burma và Đông Nam giáp Việt Nam?
(Thepsimuong, B., 2003).
Theo tài liệu Folklore bản xứ, người Pọng xưa cư trú ở Sầm Nưa
có truyền thuyết về hai anh em vị thủ lĩnh của họ là Hạt Ang và Hạt
Uộc gắn với địa danh trên vùng có nhiều trụ và chum Cự thạch. Những
người Tay (Lào Thay) cư trú ở Bản Phèn (Mường Phuôn), Kok Pho
(Sầm Nưa), Naxen Tao (Mường Ven) ngày nay còn thừa nhận người
Pọng là chủ nhân vùng đất này trước khi chủ nhân của họ đến lập
nghiệp, nên cứ mỗi lần lễ đâm trâu cúng thổ thần “Phi Mương” của
người Pọng, họ lại mời chính người Pọng làm chủ lễ và khấn thần bằng
tiếng Pọng. Một số thói quen trong đời sống văn hóa vật chất, tinh
thần, tín ngưỡng của các dân tộc Lào hiện nay mang dáng dấp tập tục
ghi nhận ở chủ nhân văn hóa Cự thạch Lào xưa cũng được các học giả
quan tâm so sánh; ví như, các tập quán chôn người trong huyệt mộ kiểu
“hàm ếch” hay các đồ trang sức bằng vỏ ốc biển của bộ tộc Kăm Mụ...
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 205
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.6 Page 206

▲back to top
Những gợi ý này còn mơ hồ, dù rằng liên hệ của các bộ tộc thuộc
ngữ hệ Môn - Khmer cư trú lâu đời trên các cao nguyên Hủa Phăn và
Xiêng Khoảng với chủ nhân các công trình Cự thạch kiến tạo dày công
chính nơi này là khả thực. Sự phân bố dày đặc những cánh đồng chum,
những hàng trụ dựng, những hầm mộ Cự thạch chứng nhận sự quần tụ
đông đảo, lao động sáng tạo tập thể và có tổ chức dài lâu của các cộng
đồng người mật tập từ sơ kì thời đại Sắt, với những điều kiện sinh thái
thuận hợp cho việc thực thi kinh tế nông nghiệp nương rẫy và khai triển
giao lưu với các trung tâm văn minh láng giềng cùng thời đại “cách
mạng” này. Chỉ có trên cơ tầng kinh tế nông nghiệp nương rẫy phát
triển cao với sự góp sức của nông cụ khai hoang và thu hoạch bằng sắt,
chỉ có sự đảm bảo thu hoạch thặng dư và tích lũy cần và đủ, các cộng
đồng người cổ bản xứ mới huy động được lực lượng lao động phi sản
xuất nông nghiệp lớn lao để chuyên chế chum và các công trình Cự
thạch nặng hàng tấn, vận chuyển, phối trí, kiến tạo các nghĩa địa tiền
sử, phục dịch cho táng tục hỏa thiêu người chết được lưu truyền dài lâu
qua nhiều thế hệ. Với kích thước khổng lồ của từng chum đá, M.Colani
đã liên tưởng mỗi chum như 1 dạng “nhà mồ” chung chứa xương tro
hỏa thiêu của nhiều người chung huyết thống (1 gia đình?) và mỗi cụm
- nhóm trên các cánh đồng chum Cự thạch được hình dung là nghĩa địa
của cộng đồng người (1 công xã tiền sử).
Các xã hội người cổ Bắc Lào vào thời đại này dường như đạt trình
độ phân hóa giàu nghèo, không chỉ thể hiện qua phối trí tùy táng phẩm,
đặc biệt là vũ khí quý kim lúc đương thời hay trang sức đồng thau, đá
hiếm, thủy tinh đa màu, khác biệt lượng loại trong từng chum - hầm
hay từng cụm - nhóm, mà có khi được thể hiện qua qui mô của bản
thân của mỗi công trình Cự thạch và mỗi quần cụm di tích giống như
sự phân định xưa về địa vị xã hội của cá nhân, cơ cấu quyền lực của
thủ lĩnh, quy mô cộng đồng, về sự phân hóa tài sản và manh nha giai
cấp - những nhân tố khả dĩ là “tiền đề cho sự ra đời Mường Phuôn trên
cao nguyên Xiêng Khoảng và các mường cổ đại” vào những thế kỷ sau
Công nguyên trên toàn bộ lãnh thổ Lào (Đặng Bích Hà - NNK, 1997).
206 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.7 Page 207

▲back to top
4. Đôi điều phụ chú về văn hóa Cự thạch châu Á và về các vết
tích liên quan đến truyền thống tạo dựng Đá lớn trên lãnh thổ Việt
Nam.
Trước đây hơn nửa thế kỷ, nhà khảo cổ học lỗi lạc người Anh
V.Gordon Childe từng phát biểu rằng: “Thuật ngữ “Cự thạch” chỉ
dùng cho những công trình tưởng niệm đồ sộ, dù công dụng của chúng
chưa biết đầy đủ hoặc còn đầy bí ẩn, chúng ta vẫn có quyền giả định
rằng chúng được người xưa kiến tạo vì sự mê tín hoặc giả phục vụ các
mục đích nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng của họ” (Childe, V.Gordon., 1947-
1948). Hàng ngàn di tích kiến thiết từ Đá lớn muôn hình thù và kích cỡ
vừa phác thảo từ nhiều vùng địa lý - sinh thái của khu vực và châu lục
thật khó có thể mường tượng dù chỉ mang tính đại đồng nhất trong một
thuật ngữ mơ hồ là “Cự thạch”. Đương nhiên, những loại hình di tích
Đá lớn ít gây tranh luận nhất về chất “Cự thạch” của chúng, lại dễ chấp
nhận hơn cả về chức năng tang ma hay tế lễ gán cho chúng, nếu gắng
mà tách lọc ra cũng chỉ còn vài kiểu dáng cơ bản nhất: Chum vò Đá
lớn, công trình đá xếp dạng Dolmen, mộ Cự thạch dạng có phòng ghép
bằng các tấm đan lớn rộng và trụ đá dựng kiểu Menhir.
Ngoại trừ chum đá thuộc các cánh đồng “đặc sản”, các công trình
kiến trúc kiểu Dolmen, mộ Cự thạch và đá dựng dạng Menhir phân
bố gần như đan xen nhau ở
một số cương vực châu Á.
Trong bình diện châu lục
này, các văn hóa có kiến
trúc Dolmen, mộ Cự thạch,
trụ Menhir được định vị
niên biểu thời đại Kim khí
mà theo B.M. Kim (1982),
là “các truyền thống vững
chắc” hình thành một vành
đai vĩ đại viền quanh lục
địa Trung Quốc từ Bắc
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 207
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.8 Page 208

▲back to top
(Đông Nam Siberia, miền Bắc Mông Cổ, Đông Bắc Manchuria, các
vùng Toàn La Đạo, Nam Sơn Lý, Ninh Viễn Quận, Bình An Đạo -
Triều Tiên, Đông Bắc Chubu, Bắc Hải Đạo - Nhật Bản, Sơn Đông
và Triết Giang - Trung Quốc) đến Nam (Đài Loan, Java và Sumatra -
Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Tây Tạng và Tứ Xuyên - Trung Quốc...)
(H89). Nguời ta còn tính cả vào vành đai này các ngôi mộ Cự thạch có
tuổi ở khoảng giữa Thiên niên kỷ I trước Công nguyên khai quật dọc
Hắc Long Giang và Cát Lâm, vùng Martime (Nga); hoặc Xích Phong
(Mông Cổ), cùng các Dolmen, mộ đá ghép, Menhir thuộc lãnh thổ
Việt Nam, cùng Dolmen mang đặc điểm Caucasia ở Tây Nam Á trong
khung cảnh chung của văn hóa Cự thạch ở “thế giới Nam Đảo” châu Á
và châu Đại Dương.
Về cơ bản, sự phân bố của những công trình Cự thạch châu Á
thường gắn liền với các văn hóa hình thành nơi cận biển và các đảo
nằm giữa biển, với những ngoại lệ không kém huy hoàng nằm sâu
trong nội địa và trên những cao nguyên huyền vũ nham cao trình cách
mực nước biển 1.000-2.000m. Thực tế sinh thái nhiệt đới - cận nhiệt
đới chung cho các quần thể di tích Cự thạch danh tiếng nhất châu Á
đã gợi mở các lý thuyết liên hệ các nền văn hóa bản địa gắn kết với
những công trình Đá lớn - những nền văn hóa tiền sử và sơ sử của các
xã hội người có chung điều kiện sống và kiếm sống trên các thảm thực
vật nhiệt đới - cận nhiệt đới gần gũi nhau. Mà hạt hòa thảo quan trọng
nhất cho cuộc sống con người cư trú châu lục này chính là hạt lúa nên
toàn bộ văn hóa và xã hội của những người phổ biến tục thờ đá và xây
dựng Dolmen, mộ đá ghép hay những công trình Cự thạch lớn lao nhất
châu lục thời tiền sử và sơ sử được xem như “những cư dân trồng lúa
(Kim, B.M., 1982).
Vì một tảng đá nặng nhiều tấn có thể khai thác, chế tác và di chuyển
đường trường bởi sức người, chúng ta dễ dàng hình dung được công
cuộc xây dựng một quần thể kiến trúc Cự thạch với nhiều tấm đan ghép
cùng cỡ, nhiều trụ, khối có sức nặng đòi hỏi không ít thời gian lao động
và trí lực cộng đồng người xưa. Bởi thế, GS B.M. Kim đã đưa ra giả
định về một mối “quan hệ chức năng” thể hiện như sau:
208 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.9 Page 209

▲back to top
ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
(physical life)
ĐỜI SỐNG TINH THẦN
(spiritual life)
NGHỀ TRỒNG LÚA (rice cultivating)
CỘNG ĐỒNG ỔN ĐỊNH VỮNG CHẮC
(settled community)
LỄ NGHI CỘNG ĐỒNG
(communial rites)
XÂY DỰNG CÁC DOLMEN
(constructing Dolmens)
Đã có nhiều lý giải nhằm làm sáng tỏ ý tưởng của xã hội xây dựng
và sử dụng Cự thạch; ví như, sự chọn lựa vùng mai táng thủ lĩnh trong
mộ Cự thạch, hay xếp đặt Dolmen liên quan đến “nơi thiêng liêng bất
khả xâm phạm” dành cho tổ tiên của họ hoặc “thánh địa” và nơi lễ
nghi mang tính chất cộng đồng; các lý giải về tục “thờ Đá lớn”, “thờ
thần Mặt Trời”, “thờ thần Mặt Trăng”, “thờ các thế lực siêu tự nhiên”,
về “hướng trục” Dolmen theo hướng mặt trời vận hành thường nhật
từ bình minh (Đông) đến hoàng hôn (Tây) liên quan đến sinh - tử đời
người; hoặc hướng về nguồn nước, hướng dòng chảy liên hệ với nguồn
sống, sự trường thọ và sự thịnh vượng tiền sử; hoặc hướng về “núi
thiêng” nơi “thế giới linh hồn tổ tiên”...
Các học giả đặc biệt chú ý đến các huyền thoại bản địa như “huyền
thoại thiên tử” (Heavenly Son myths) và “huyền thoại noãn sinh
(Oviparous myths), về thủ lĩnh và đế vương cùng sự tạo hình Nhà nước
sơ khởi được coi là có liên hệ với các biến cố lịch sử quan trọng trong
thời đại Kim khí của châu lục.
Theo B.M.Kim (1982), truyền thuyết về thiên tử - tổ tiên của người
sáng lập nước bén rễ trong niềm tin của các cộng đồng người Bắc Á cổ
xưa nói tiếng Altaic. Còn huyền thoại “noãn sinh” phổ biến trong thần
thoại cổ Triều Tiên xuất hiện muộn hơn là tín ngưỡng cho rằng tổ tiên
hoặc người sáng lập ra vương quốc được sinh ra từ quả trứng (hoặc cái
hộp) - thứ tín ngưỡng xuất hiện từ thời đại đồ Đồng là thứ tín ngưỡng
mới được du nhập ở miền Đông Nam bán đảo cùng với sự truyền bá
của nghề trồng lúa và phong tục thờ đá.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 209
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

21.10 Page 210

▲back to top
Khác với cuộc sống du cư cùng các đàn gia súc phương Bắc, những
người nông dân định cư hình thành truyền thống văn hóa riêng, cùng
với Dolmen, Cự thạch và huyền thoại đẻ trứng ở miền Nam bán đảo.
Cả hai cộng đồng người với hai mô thức sống khác biệt dần hội nhập
bởi hôn nhân ngoại tộc và cuộc tiếp xúc của hai truyền thống văn hóa
lớn ở Triều Tiên diễn ra trong huyền thoại khi lớp con cháu nối dõi
thiên tử Giải Mộ Thức cưới nàng Liễu Hoa nằm trong trứng người con
gái của Thượng Đế (hay Hà Bá).
Theo J.B. Kim (1973), huyền thoại noãn sinh với nhiều biến thể
phổ cập khắp châu lục, từ phương Bắc (Yakuts, Maritime - Nga; truyền
thuyết về vua Châu Đan (Shu - En), vùng bờ biển Đông Trung Quốc)
về phương Nam (bộ lạc Bái Loan (Bai - Wan) ở Đài Loan, bộ lạc Yueh
ở đảo Hải Nam, bộ lạc Munda ở Ấn Độ, các bộ lạc ở Tây Tạng và cả
châu Đại Dương)... Huyền thoại noãn sinh cũng là thể loại tín ngưỡng
đặc trưng khắp vùng Đông Nam Á, từ Burma (vương quốc Mao),
Thái Lan (bộ lạc Thai), Việt Nam đến Philippines, Java, Kalimantan,
Sulawesi..., mà dường như tín ngưỡng cổ kính này lan truyền từ Đông
Nam Á theo đường biển Nam Trung Hoa đến bán đảo Triều Tiên và
miền Đông Bắc Á.
Sự phân bố những công trình và kiến trúc Cự thạch ở châu Á, từ
miền Đông Bắc Á qua vùng đệm Đông Nam Á đến miền Tây Nam Á,
gần như gối đầu lên không gian phẳng của huyền thoại noãn sinh của
châu lục, đã được B.M. Kim (1982) minh giải qua đồ bản coi như là sự
kết hợp “đồng thời” (thời đại Đồng thau - Sắt sớm) và “trùng nhau
(không gian phân bố môi sinh nhiệt đới - cận nhiệt đới) giữa văn minh
nông nghiệp trồng lúa (văn hóa vật chất) và huyền thoại noãn sinh
trong thế giới tinh thần, tín ngưỡng tiền sử và sơ sử. Các học giả cũng
tin rằng huyền thoại noãn sinh cũng tương hợp với nền văn hóa, văn
minh Kim khí Đông Sơn ở Bắc Bộ và miền Bắc Trung Bộ Việt Nam
(Kim, J.B., 1973; Kim, B.M., 1982), song còn để trống toàn bộ Đông
Nam Á lục địa trong phác đồ phân bổ Dolmen và mộ Cự thạch ở châu
lục, rất đơn giản chỉ vì họ chưa tiếp xúc các nguồn dẫn liệu Cự thạch
210 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22 Pages 211-220

▲back to top

22.1 Page 211

▲back to top
Việt Nam, dù cuộc đào đầu tiên ở Hàng Gòn (Long Khánh) diễn ra
cách nay đã hơn 7 thập kỷ.
Ở Việt Nam - “khu đệm” giữa ba vành đai Cự thạch dày đặc nhất
châu lục (Hàn Quốc, Ấn Độ và Nam Dương), trong kho tàng văn hóa
dân gian phong phú của nhiều tộc người, có không ít truyền thuyết nói
về nguồn gốc các tộc người tương tự huyền thoại noãn sinh của châu
Á. Ví như, các truyện kể về “quả bầu mẹ” từ trong đó sinh ra các tộc
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 211
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.2 Page 212

▲back to top
người, truyện kể về “đôi chim thần đẻ trứng trăm, trứng nghìn”, nở ra
người Việt, người Mường, người Xá, người Thái, người Lự..., truyện
kể về “bọc trứng nở trăm trai” của người Việt, với 50 người con theo
cha Lạc Long Quân về miền đồng bằng và vùng ven biển lập nghiệp để
trở thành người Việt, 50 người con khác theo mẹ Âu Cơ lên rừng sinh
sống để trở thành nhiều dân tộc thiểu số anh em khác (UBKHXHVN,
1971).
Điều cần lưu tâm là trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, ngoài quần
thể di tích kiến trúc Cự thạch Hàng Gòn (Đồng Nai), ở cả miền Bắc
và miền Trung đất nước đã chứng nhận sự có mặt của một số dấu vết
đáng được coi thuộc truyền thống văn hóa Cự thạch của đất liền Đông
Nam Á (H90).
Trong cương vực phân bố cơ bản của phức hệ di tích văn hóa Kim
khí Đông Sơn (Bắc Bộ và cực Bắc Trung Bộ), các công trình kiến trúc
Cự thạch thuộc kiểu Dolmen và Menhir rõ ràng nhất được ghi nhận ở
Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Lào Cai, Tuyên Quang, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Hà Nội và Nghệ An.
Trên đất Cao
Bằng, các di tồn Cự
thạch kiểu Dolmen
hiện hữu ở Bản Thành
(Hòa An), Hà Quảng
(Trường Hà) và Hồng
Việt (Nguyên Bình).
Ở Hà Quảng, Dolmen
nằm ven bờ suối gồm
tấm đá trần (2,4-3m x
1,4-1,8m x 1,1-1,3m)
xếp chồng lên 3 mỏm đá cao 1,1-1,2m dài theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam (Trình Năng Chung, Lê Hải Đăng, Mạc Văn Lung, 2003). Ở Bản
Thành, Dolmen nằm gần sông Bằng Giang gồm 2 tấm đá trần to dày
(3,5 x 0,85 x 0,25-0,35m và 3,05 x 0,82 x 0,3-0,4m) được xếp đặt liền
212 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.3 Page 213

▲back to top
kề nhau tạo thành hình chữ nhật trải dài theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam đặt trên 2 tấm đá kê to dày hình chữ nhật (cao 1,07-1,35m, rộng
1,5-1,75m và dày 35-40cm) (H91).
Theo PGS.TS Trình Năng Chung (2002), Dolmen Bản Thành “rất
giống về cấu trúc và hình dáng Dolmen Dosan-ri thuộc tỉnh Cholla
Nam-Do nằm phía Nam Hàn Quốc” có thể thuộc phạm trù nghiên cứu
thời đại đồ Sắt Việt Nam và khá phù hợp với tài liệu truyền thuyết lịch
sử nổi tiếng của người Tày “cẩu chủa cheng vùa” (9 chúa tranh vua)
liên quan đến vua Bộ Nam Cương gần nước Văn Lang là An Tự Vương
Thục Chế và con trai Thục Phán, “mà toàn bộ những sự kiện và tình
tiết lịch sử đều diễn ra vào khoảng thời gian trước khi Thục Phán An
Dương Vương thay thế Vua Hùng lập nên nhà nước Âu Lạc - niên biểu
tương hợp giai đoạn cuối của nền văn hóa Đông Sơn, khi đồ sắt gia
nhập vào đời sống cư dân Việt cổ”.
Ở Hồng Việt, 2 Dolmen gần bờ suối có cấu trúc giống nhau gồm
khối đá phiến vôi trần dạng hình nấm (dài 5-6,5m, dày 1,4-1,8m và dài
1,8-2m, dày 1,2-1,4m) chồng lên 3 khối đá (cao 1,4-1,5m và 70-90cm)
mà theo các nhà khảo sát cấu trúc gần gũi với di tích Cự thạch Trường
Hà (Hà Quảng) nhưng trông cổ sơ hơn và kích thước lớn hơn, chúng có
thể liên quan đến tục thờ đá của cư dân nguyên thủy nơi đây vào thời
đại Sắt (Trình Năng Chung, Đào Quý Cảnh, Đàm Thị Ninh, 2004).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 213
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.4 Page 214

▲back to top
Ở Hà Giang và Lào Cai, bên cạnh các “bãi đá cổ” có nhiều họa
tiết điêu khắc các hệ thống hình hình học và họa tiết hình nhân hay
biểu tượng sinh thực khí ở Xín Mần và Sa Pa, các di tồn thực thụ là
Cự thạch” chính là 2 Dolmen nằm gần suối Nậm Khòong dưới chân
đồi Nấm Dần cùng Dolmen Hầu Thao và dấu tích đá phiến ở Tả Van
(Sa Pa).
Ở Nấm Dần, các Dolmen cấu trúc tấm trần đá phiến magma biến
chất (dài 2,3-2,4m, rộng 1-1,1m, dày 35-40cm) chồng trên 3 đá kê chỉ
cao 20cm mà các nhà khảo sát cho rằng thuộc thời sơ kỳ Sắt với niên
đại có thể trùng với di tích Cự thạch có chạm khắc Xín Mần - khoảng
đầu Công nguyên và có thể liên quan đến tục thờ thần Đá của cư dân
tiền sử bản địa mà giờ đây, người Dao cư trú 4 thế kỷ nay trong vùng
vẫn còn tục thờ thần Đá trên ngọn núi lớn gần đó (H92) (Trình Năng
Chung, Nguyễn Thị Minh Lý, Lù Văn Hiếu, 2007; Lâm Mỹ Dung,
2009).
Ở Sa Pa, ngoài
di tích đá chồng
ghi nhận ở Bản Phô
(Hầu Thao) (H93),
trong địa phận Tả
Van, gần với “bãi
đá cổ” còn có nhiều
phiến đan đá trầm
tích màu trắng xám,
phủ lớp patine màu
vàng xám hình chữ
nhật, hình thang dẹt (quy mô 1,85 x 1,1 x 0,36m đến 3,45 x 1,27 x
0,36m) và 1 “hầm” được tạo bằng vách núi có hình gần vuông có thể
là dấu tích còn lại của một di tích thuộc loại hình Dolmen dựng ở lưng
chừng sườn đồi cao (Ngô Thế Phong, Nguyễn Văn Đoàn, Đỗ Văn
Chung, 2003). Theo PGS.TS Lâm Mỹ Dung (2009), các thanh đá lớn
Tả Van Giáy không chỉ mang một chức năng, có lẽ bên cạnh chức năng
214 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.5 Page 215

▲back to top
hầm mộ của dòng họ thủ lĩnh địa phương, nó còn mang những chức
năng thờ cúng (thần Núi, thần Đá?), tưởng niệm, đánh dấu lãnh thổ
và đặc biệt chứng tỏ uy quyền, phản ánh một giai đoạn lịch sử của địa
phương.
Ở Lạng Sơn, di tích Cự thạch ghi nhận ở Chóp Chài gồm: 3 tảng đá
hình trụ lớn với 2 tảng to nằm hai bên và tảng ở giữa nhỏ hơn, có vết
tích chế tác của con người, đặc biệt là các lỗ đục chạm (quy mô từ 6,5
x 1,3 x 0,6m đến 9 x 1,66-1,8 x 1,44m). Theo các nhà khoa học, Cự
thạch Chóp Chài có nhiều khả năng là loại hình “trác thạch” (bàn đá)
quy mô lớn, phân bố trên diện rộng và có thể còn một số di tích Đá lớn
khác có liên quan.
Ở Mẫu Sơn (Lộc Bình), các nhà khảo sát lưu ý đến 2 di tích gọi là:
Hầm mộ đá” được dựng bằng những tảng đá lớn được khai thác tại
chỗ kiểu Dolmen và rất nhiều phiến tảng đá lớn rộng ở xung quanh.
Dolmen Mẫu Sơn 1 là cấu trúc đá xếp hình hộp chữ nhật với tấm trần
(1,3 x 1,1 x 0,8m) gác trên 2 phiến đá bào nhẵn và đá gốc. Dolmen Mẫu
Sơn 2 đã bị đổ sập, ngổn ngang 83 phiến đá lớn nhỏ còn nhận dạng các
cặp phiến đá dựng thẳng ghép với nhau, hình thành 2 cạnh song song
của một khối hộp chữ nhật (mỗi cạnh dài 2m, cao 0,9m, dày trung bình
22cm). Xung quanh 2 cấu trúc này còn các cụm phiến đá hầu hết đều
tạo hình hộp chữ nhật và mang trên thân vết bào tạo rãnh ngoàm để tăng
độ ôm sát giữa các
phiến đá khi chồng
lên nhau mà theo
phỏng đoán của
nhà khai quật, “đây
chắc hẳn là vùng
lãnh địa linh thiêng
của một tộc người
hùng mạnh” (Ngô
Thế Bách, 2004).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 215
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.6 Page 216

▲back to top
Ở Tuyên Quang, di tích Dolmen ghi nhận ở Nà Hang (Xuân Tân)
và Thiện Kế (Sơn Dương). Dolmen Nà Hang gồm tấm trần bằng phiến
đá vôi lớn (2,2-2,5m x 1,2-1,5m x 1,1- 1,3m) đặt trên 2 khối đá kê lớn
cao 0,8-1m, nằm theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Theo các nhà phát
hiện, đây là di tích Dolmen gần gũi về cấu trúc với di tích Trường Hà
(Cao Bằng) mà cho đến gần đây, cư dân địa phương còn tổ chức cúng
thần linh ở Cự thạch Nà Hang (Trình Năng Chung, Quan Văn Dũng,
2005). Dolmen Thiện Kế gồm tấm trần đá phiến magma biến chất
giống như một con thuyền, với hai bề mặt khá phẳng (2,4 x 0,9-1 x 0,3-
0,35m), phân bố theo hướng Bắc - Nam, đặt trên một số tảng đá hình
nêm kê cao hơn mặt đất khoảng 45cm (H94). Theo PGS.TS Trình Năng
Chung (2009), di tích có thể liên quan đến tục thờ thần Đá của cư dân
tiền sử bản địa mà niên đại, qua so sánh với các di tích đồng loại Đá lớn
của khu vực Đông Nam Á, có thể vào khoảng “sau Công nguyên vài
thế kỷ, gần 2.000 năm cách ngày nay, khi mà nền văn hóa Đông Sơn
vẫn tồn tại trên những vùng núi phía Bắc” (Trình Năng Chung, 2009).
Trên đất Bắc Giang, khu di tích Cự thạch nằm ven bờ tả ngạn sông
Lục Nam giữa đồng lầy Trung Đề (Vũ Xá) được dân tại chỗ gọi là
cống đá”, “bàn đá” hay “chiếu đá” nằm theo hướng sông chảy Đông
Bắc - Tây Nam.
Trong quần thể, cấu trúc lớn nhất (Chuôm Đế 1) vốn còn nguyên
vẹn nắp đá sa thạch đỏ hình chữ nhật (2,3 x 1,15 x 0,5m) chồng lên 7
tảng đá kê xếp đặt trên bè ghép bằng các thân gỗ tròn (đường kính 20-
216 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.7 Page 217

▲back to top
30cm). Ở cấu trúc 2, nắp đá (2 x 1,4 x 0,35-0,4m) chồng lên 2 tảng đá
hình khối chữ nhật kê ở 2 đầu nắp.
Cấu trúc Chuôm Đế 3 có tấm đá trần phẳng nhẵn (1,8 x 1,5 x 0,35-
0,4m) chồng trên một số tảng đá kê. Cấu trúc 4 khá nguyên vẹn, với
phiến nắp dày thô có hình gần chữ nhật (quy mô khoảng 2 x 1 x 0,4m),
cùng 2 tảng đá hình khối chữ nhật và hình gần bầu dục kê khá chắc
chắn ở 2 đầu. Tất cả kiến trúc Cự thạch Chuôm Đế đều ngập trong sình
lầy khoảng 40-50cm đến 70-90cm đều còn mang vết chế tác thô sơ dọc
các rìa cạnh, được coi như một “loại hình di tích khảo cổ học mới xuất
hiện ở lưu vực sông Lục Nam và vùng rìa Đông Bắc đồng bằng Bắc
Bộ. Công trình kiến trúc Cự thạch gợi hình ảnh những “trác thạch
(Dolmen) thời sơ sử, thuộc phạm trù nghiên cứu thời đại Sắt Việt Nam”
(Trần Quốc Vượng, 1975; Trần Quốc Vượng, Trình Năng Chung, Phạm
Đức Mạnh, Trần Đình Luyện, 1975; Vương Văn Hòa, Trình Năng
Chung, 1978).
Trong địa phận Bắc
Ninh, quần thể di tích
Cự thạch phát hiện trên
sườn Nam núi Lạn Khai
ngay sau hậu điện chùa
Phật Tích từ lâu đời
được đặt tên là “bàn cờ
tiên” vẫn còn 2 cấu trúc
kiểu Dolmen kiến tạo
chủ yếu từ phiến tảng
đá hoa cương. Trong đó,
cấu trúc Lạn Khai 1 nằm cách chóp đỉnh Lạn Khai chỉ khoảng 1,7-2m,
có cấu tạo hình hộp chữ nhật, với cửa hướng xuống thung lũng Cửu
Đỉnh (hướng Nam chếch Đông 15º), quy mô chung 1,6-2m x 1-1,25m
x 0,5-0,8m. Cấu trúc Lạn Khai 2 nằm thấp hơn khoảng 8m gồm tấm
nắp ghép nhiều tảng, phiến tạo hình vòm giống kiểu hầm “hàm ếch
hướng chính Nam (tấm lớn nhất quy mô 4,3 x 2,3 x 2,11m) (H95).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 217
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.8 Page 218

▲back to top
Các vách đỡ nắp cũng ghép bằng nhiều phiến tảng lớn nhỏ khác
nhau.
Những công trình đá xếp kiểu “bàn cờ tiên” chính là “những
Dolmen do con người tạo ra, tương tự loại Dolmen có dạng gần giống
chiếc bàn rất phổ biến ở khu vực châu Á và Đông Nam Á... có thể đoán
định các Dolmen này được làm trước thời Đông Hán có thể vào giai
đoạn văn hóa Đông Sơn như trường hợp các Dolmen ở Indonesia
(Nguyễn Quốc Hùng, 2000).
Các di tích kiểu Dolmen tương tự gần đây nhất còn thấy có dưới
chân núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và ở Sóc Sơn (Hà Nội). Ở Đông Hội
(Vĩnh Phúc), Dolmen gồm tấm nắp đá phiến magma biến chất, có
hình con thuyền trải dài theo hướng Bắc - Nam (quy mô 3,1-3,15m
x 1,05-1,1m x 0,4-0,45m). Ở mỗi đầu tấm đá được kê cao trên 2 tảng
đá to hình nêm chôn cao hơn mặt đất ruộng 45cm (H96). Theo PGS.
TS Trình Năng Chung (2009), di tích Dolmen ở Đông Hội có cấu trúc
218 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.9 Page 219

▲back to top
tương tự với Cự thạch ở Cao Bằng, Bắc Giang và gần đó nhất là Sóc
Sơn (Hà Nội), có thể có niên đại vào khoảng sau Công nguyên vài thế
kỷ - khoảng 2.000 năm cách nay, phù hợp với tài liệu khảo cổ học về
loại hình di tích Đá lớn ở khu vực Đông Nam Á.
Ở Sóc Sơn, 2 cấu trúc Dolmen được phát hiện trong địa phận Minh
Tâm và Thái Lai. Dolmen Minh Tâm từ lâu được dân tại chỗ gọi nhiều
tên như: “Hòn đá 3 chân”, “cầu đá 3 chân”, “miếu thờ Đá”, “đá hổ
ngồi” gồm tấm đá trần giống bazan màu xám (4,8-5,05m x 1,8-2,3m x
10-59cm, cao toàn bộ 0,64-1,7m) đặt trên 3 chân đỡ cao 1,05-1,2m.
Dolmen Thái Lai cũng có nhiều tên gọi từ cổ truyền như: “Hòn đá 3
chân”, “cầu đá 3 chân”, “bàn thờ Đá thiêng”, “bàn mài kiếm” với 1
tấm trần sa thạch mịn màu xanh rêu gần có hình tam giác với đầu nhọn
hướng ra sông Đồng Đỏ về chính Bắc (4-4,1m x 1,4-1,45m x 0,3-
0,47m) đặt trên 3 chân đỡ nhô cao cách nền ruộng 60-70cm (H97).
Ở Hà Nam, di tích Cự thạch được gọi là “bàn cờ tiên” nằm trên
Núi Đụn (Thanh Lưu) hiện còn là 3 phiến đá lớn thuộc loại đá trầm
tích màu trắng xám, trong đó phiến lớn nhất có quy mô đo được dài
5,5m, rộng 3,1m và dày 0,85m. Phiến thứ hai có quy mô 1,8 x 1,35 x
0,35m. Phiến cuối có hình mai rùa, dài 1,35m, rộng 1,2m và dày 0,6m,
có khả năng liên quan đến công trình Dolmen cổ xưa (Ngô Thế Bách,
Mai Khánh, 2005). Ở Nghệ An, các dấu tích văn hóa Cự thạch được
tìm thấy trên đất Hưng Yên (Hưng Nguyên) là các cấu trúc kiểu bàn đá
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 219
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

22.10 Page 220

▲back to top
giống Dolmen, phòng đá ghép, hay các tảng đá dựng gợi nhớ các công
trình kiểu Menhir (H98) (Lâm Mỹ Dung, 2009).
Ngoài những dấu tích đá lớn xếp đặt dạng “trác thạch” - bàn đá,
(và cả kiểu phòng đá và trụ đá dựng kiểu Menhir đã kể trên), có thể còn
nhiều di tích Cự thạch cổ xưa xen lẫn trong các “rừng đá” với hàng
trăm “hòn mồ” của các nghĩa địa trong xứ Mường cổ vùng núi rừng
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Các trụ đá đa dạng thuộc nhiều kích cỡ khác
nhau (Mường Thàng: 200-320 x 23-145 x 3-95cm, Mường Vang: 65-
287 x 18-37 x 5-30cm, Đống Thếch: dài 300-500cm, Ngọc Lâu: dài từ
150-200cm đến 400-500cm). Chúng thường được coi có các chức năng
cơ bản như: “Cột đánh dấu biên mộ” hay “hàng rào vây quanh mộ
(Nguyễn Đình Chiến, 1983; Trần Anh Dũng, Lại Văn Tới, 1986); là
biến dạng của các cọc định vị mộ quan tài hình thuyền” (Đỗ Văn Ninh,
1977) và “bia chí ghi khắc sơ lược tiểu sử người chết (danh phận, chức
tước, năm sanh tử) cho đời sau” hoặc “đá phúng viếng người chết của
thân nhân giống như công trình tưởng niệm của người sống với người
quá cố” (Trịnh Cao Tưởng, Phan Tiến Ba, Lê Đình Phụng, 1985; Trần
Anh Dũng, Lại Văn Tới, 1986). Chúng còn mang các ý nghĩa lễ nghi
tôn giáo khác trong các khu “cấm địa” Mường cổ; ví như các trụ đá
dựng làm “nơi cư trú của linh hồn”, “nơi bảo hộ cho linh hồn”, nơi các
hồn ma nhảy múa, hoặc “đứng trên đỉnh hòn mồ” để nhìn về làng bản
trong những chiều sương mù bao phủ... (Trần Từ, 1996); hoặc chúng là
tàn dư liên quan đến tín ngưỡng tang ma, tế lễ của văn hóa Cự thạch
ở các dân tộc miền Nam Thái Bình Dương” (Phạm Quốc Quân, 1992).
Khi nhận thức sự hình thành táng thức mộ thuyền ở một số bộ phận
cư dân Đông Sơn liên quan đến một cấu trúc nhiều lớp (1. Một nền xa
là tín ngưỡng thờ Mặt Trời của cư dân thời đại Kim khí; 2. Một nền
gần là tín ngưỡng về chiếc thuyền đưa linh hồn của cư dân Đông Nam
Á; 3. Tâm thức của cư dân trồng lúa vùng lầy trũng; 4. Tác động của
đường viền văn hóa biển” một hoặc nhiều lớp cư dân mang yếu tố văn
hóa Nam Đảo đến từ cuối Đá mới - đầu Kim khí thẩm thấu vào những
vùng sâu hơn phía trong, hòa lẫn cộng đồng Việt tạo nên một sắc thái
220 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23 Pages 221-230

▲back to top

23.1 Page 221

▲back to top
biển, giống như một trong những cội nguồn cho văn hóa Việt cổ), GS.
Hà Văn Tấn đã cho rằng: “Những Dolmen ở Hà Bắc có thể vẽ thành
một đường liên tục của vòng cung Dolmen phía Nam qua Đài Loan đến
Nhật Bản” (Hà Văn Tấn, 1994).
Trong cương vực phân bố cơ bản của phức hệ di tích văn hóa Sa
Huỳnh ở miền Nam Trung Bộ, Cự thạch cũng có thể quan sát thấy ở
một số vùng liên quan đến tín ngưỡng tục sùng bái và tôn thờ đá thiêng,
biểu trưng cho các quyền lực siêu nhiên từ đất, trời, non, nước... Cuộc
khảo sát tháng 5-1998 của Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ học thuộc
Viện Khoa học Xã hội tại Thành phồ Hồ Chí Minh cùng nhà nghiên
cứu tuồng cổ và văn hóa dân gian Mịch Quang tiến hành ở các dãy núi
Kỳ Sơn và Phụng Sơn thuộc địa phận xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định. Địa điểm này nằm cách Quy Nhơn khoảng 15km về
phía Bắc, cách quốc lộ 1A gần 5km về phía Tây và cách đầm Thị Nại
khoảng 1,5km về phía Đông, nằm chắn giữa các lũng bằng trồng lúa
gọi là “ruộng Rộc”.
Trên đỉnh và sườn các dãy núi này, một số tảng, phiến hoa cương
xếp thành nhiều hình thù với quy mô khác nhau, mà từ lâu đời, Nhân
dân trong vùng thường gắn chúng với những huyền thoại, truyền thuyết
dân gian về “các ông, các bà khổng lồ tát cạn nước biển”, để lại các vết
tích kỳ dị trong quá trình lao động của họ; ví như, “những hỏa lò khổng
lồ”, “đá ông Táo” (3 trụ đá lớn có thiết diện ngang gần vuông, cao
2-2,5m, xếp cạnh nhau), “đá phụng Hoàng Sào” (3 trụ đá xếp chụm
góc và tỏa thành 3 nhánh, với trụ giữa cong tạo hình giống đầu chim
và 2 trụ bên tỏa ra như 2 cánh mà nhìn xa tương tự chim phượng nằm
ổ), “đá lưỡi dao” (1 tảng đá hình lưỡi dao phay đặt trên 1 bệ đá phẳng
nhẵn); “đá nhà” (cấu trúc dạng vòm kiểu trác thạch, gồm 2 phiến đá
cao khoảng 2,3-2,4m dựng ngang đỡ 1 phiến đá rộng tương đương, tạo
hình giống như “nhà hầm” rộng khoảng 1,5m), “động Tiên” (gồm 1
tấm đá phẳng hình bầu dục quy mô 2,2 x 1,8m nằm trên những lớp đá
nhỏ xếp giống như để tạo nền, xung quanh phiến đá còn 1 dãy trụ đá
hơi thon đầu xếp dựng sát nhau), “đá chuông, đá trống, đá mõ” (các
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 221
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.2 Page 222

▲back to top
phiến, tảng xếp thành cụm phẳng mà khi đập vào bằng búa, các phiến
ghép phát âm thạch như tiếng chuông, trống hay mõ) và khá nhiều đá
xếp tạo hình giống xương cá mà tương truyền là do các ông bà khổng
lồ ăn cá xong quẳng xương vương vãi xung quanh các hỏa lò...
Những kỳ quan Đá lớn vùng Kỳ Sơn, Phụng Sơn gắn liền với các
huyền thoại bản địa gợi cho người ta nhớ lại các di tích đá khả dĩ “nhân
tạo” hơn ở gần đó nhất: Di tích lịch sử “bàn đá Gò Rô” với mặt bàn
lớn phẳng nặng hàng tấn, xếp đặt lâu đời trên 3 tảng đá lớn trong vùng
cư trú của đồng bào dân tộ Kor - vùng núi rừng nguyên sinh Cà Dăm
ven bờ sông Rinh (nhánh lớn của sông Vệ) ở Trà Phong, Trà Bồng,
miền Tây Quảng Ngãi. Đặc biệt, di tích “hầm mộ Cự thạch” Đồng Phổ
được khám phá ngay từ năm 1909 ở làng Đồng Phổ, nằm cách khu mộ
chum Sa Huỳnh chỉ khoảng 5km về phía Nam.
Công trình Đồng Phổ được một tu sĩ khai quật vào năm 1912,
dường như ông đã đào thấy 2 mộ chum ở đây và vào tháng 4-1923,
H.Parmentier khảo sát lại. Đây là “kiến trúc kỳ lạ” bao gồm một căn
phòng hình chữ nhật, quy mô khoảng 7 x 3,7m, được ghép lắp tạo các
vách bằng những tấm đan đá phẳng lớn dựng thẳng đứng trên mặt đất,
với nền đá nhỏ. Phòng đá lớn hình chữ nhật nằm theo hướng Đông Tây,
có một cửa mở ra hướng Đông, với một “bình phong” chắn phía trước
được tạo bởi 4 tảng đá lớn dựng thẳng. Phía sau phòng đá còn một tảng
222 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.3 Page 223

▲back to top
đá lớn nằm hơi xa và vết tích của một đoạn “hành lang” ngắn lát bằng
đá dẫn đến góc Bắc của vách Tây kiến trúc (H99).
H.Parmentier nghĩ rằng phòng đá Đồng Phổ có niên đại và tính
chất văn hóa đồng thời với các khu mộ chum Sa Huỳnh cổ điển với
khung niên biểu chung “muộn hơn thời đại Đá”, song “sớm hơn Cham-
pa” và dường như không liên quan đến Chăm, dù cấu trúc vẻ ngoài các
mộ Chăm thực sự mà ông đã quan sát ở gần Vịnh Nai (Ninh Thuận) có
phối trí tương tự Đồng Phổ và những truyền thuyết dân gian nơi đây
cũng gắn phòng đá Đồng Phổ với vị thần Champa vẫn được dân chúng
cúng thờ xin phép thần cho trồng lúa ở xung quanh di tích (Parmentier,
H., 1924).
Theo Van der Hoop (1932), di tích Đồng Phổ (Việt Nam) thực sự
là một trường hợp “ngoại lệ” ở vùng đất này, vì “Cự thạch” với đúng
nghĩa ông đang sử dụng khảo cứu các công trình ở miền Nam Sumatra
không có mặt ở Đông Dương. Ông gọi kiến trúc Đồng Phổ là một nấm
mồ dạng “Tumulus” chứa hầm mộ ghép bằng đá lớn, hoặc là “lăng mộ
Cự thạch dạng Stone-cist”. Nhưng theo Peter Bellwood (1978), “mộ
Đá lớn” Đồng Phổ (và cả mộ Cự thạch Hàng Gòn) đều có khả năng
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 223
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.4 Page 224

▲back to top
quan hệ với văn hóa Sa Huỳnh cổ điển và chúng không có đồng dạng
ở Đông Nam Á lục địa, ngoại trừ một nhóm nhỏ trên bán đảo Malacca
(Malaysia).
Trong cương vực miền Nam Tây Nguyên, vùng cao đất đỏ và đồng
bằng châu thổ cận biển Nam Bộ, ngoại trừ quần thể di tích kiến trúc Cự
thạch Hàng Gòn (Long Khánh), các trụ, tảng đá lớn bằng hoa cương
hay sa thạch cũng được quan sát thấy ở một số khu vực, song không rõ
chúng được người xưa chủ ý kiến thiết hay là “thiên tạo”.
Ở Gia Lai, di tích Cự thạch được ghi nhận ở làng A, xã Ya M’Nông,
huyện Chư Pah phân bố trên sườn đồi đất đỏ bazan ven suối Ya Yat bị
máy xúc ngoạm lên nằm dọc bờ kênh, độ dài khoảng 15m ở độ sâu
1,1-2,5m so với bề mặt sườn đồi. Các nhà khảo cổ học thống kê được
50 tiêu bản chiều dài 1-3m, chu vi 1-2m, chưa tính các tảng còn vùi
trong lòng đất. Phần lớn tảng đá đều có hình tứ giác (gần vuông hoặc
gần hình chữ nhật) với lớp phủ patine dày màu xám nhạt hay xám vàng,
có thể là đá bazan bị phong hóa có độ cứng tương đối lớn. Các nhà
khoa học cho rằng đây có khả năng là một di tích Cự thạch có quy mô
tương đối lớn (Trần Quý Thịnh, Bùi Văn Liêm, Nguyễn Gia Đối, Mai
Thị Cúc, 2001). Ngay trong nội đô Thành phố Hồ Chí Minh, những
tảng đá lớn đơn lẻ còn sừng sững trên đường Hoàng Việt (phường 4
quận Tân Bình), có tiêu bản cao tới 2,8-4,5m mà chủ nhân các căn nhà
chứa chúng cũng không biết chúng đã có tự bao giờ và từ đâu đưa đến
(H100). Dù chưa rõ các trụ đá được người xưa kiến thiết hay do “thiên
tạo”, nhưng hình thù và kích cỡ của chúng vẫn gợi nhớ các công trình
đá dựng ở những vùng giàu trường thạch kiểu Menhir của châu lục.
Đương nhiên, các công trình di tích có sử dụng Đá lớn khám phá
nhiều nhất ở miền đất này thường lại là vật liệu gia cố móng, bao ghép
tường, hoặc là cấu kiện của kiến trúc mộ táng hay đền tháp thuộc phức
hệ văn hóa cổ sử Óc Eo và hậu Óc Eo trong cả thiên niên kỷ đầu tiên
sau Công nguyên và thuộc các thời muộn hơn.
Từ miền đất từng được coi là “thị cảng lớn nhất” (Coedès, G.,
1947), hay một “đô thành Phạn ngữ” “Na Phất Na” (Naravaranagara)
224 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.5 Page 225

▲back to top
(Malleret, L., 1951), đến các kiến trúc đài điện cấu tạo từ hàng trăm tấn
granit và grès ở Nền Chùa, Đá Nổi, Gò Cây Trôm, Cạnh Đền, Phật Nổi,
Mốp Văn, Kè Một, Vĩnh Hưng, Gò Xẻo Da, Chùa Giữa, Lưu Cừ, Thành
Mới, Gò Tháp, Thanh Điền, Bình Thạnh, Chót Mạt, Phụng Sơn Tự, Gò
Bú, Lộc Chánh, Giồng Lớn, Gò Đồn, Gò Xoài, Bình Tả, Trâm Quỳ,
Cát Tiên, Đạ Lăk, Miếu Ông Chồn, Tân Lại... (H101).
Vì tính chất phong phú đa dạng, trình độ kỹ thuật chế tác tinh xảo,
điêu khắc chạm trổ cầu kỳ, vì sự phân bố rộng khắp Nam Tây Nguyên
và Nam Bộ của các công trình có đá lớn Óc Eo - hậu Óc Eo và truyền
thống di tích chứa đá lớn kéo dài hàng ngàn năm, một số học giả dễ
dàng coi quần thể di tích Cự thạch Hàng Gòn liên quan với phức hệ di
tích kiến trúc Óc Eo, thậm chí tới mức như là thành quả lao động của
chính cư dân Óc Eo ở miền cao đất đỏ Đông Nam Bộ. Ví như, Louis
Malleret (1963) đã ráng tìm một “nguồn gốc Ấn Độ” cho ít nhất một
phần ngôi mộ Đá lớn ở Hàng Gòn. Theo tác giả, hầm mộ Cự thạch có
nhiều khả năng được xây cất trong thời đại đồ Đồng, song dường như
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 225
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.6 Page 226

▲back to top
có “hai thời kỳ nối tiếp nhau” đặc trưng bởi những vật liệu xây cất cơ
bản khác nhau: Một bằng granite vùi sâu dưới đất “hiển nhiên ở địa
phương”; còn một bằng sa thạch phối trí lộ thiên “chắc chắn ở bên
ngoài đem đến”. Công trình Cự thạch Hàng Gòn chịu ảnh hưởng của
cấu trúc Ấn Độ trong các kiến trúc Tissamaharama và Anuradhapura ở
Sri Lanka (Ceylon), với những rãnh lõm hình bán nguyệt ở đầu các cột
đá hoàn toàn giống nhau. Cách thức mà các nhà xây cất Cự thạch Hàng
Gòn bằng cách ráp ghép những tấm đan đá theo các “đường soi vũm”
không phải là phương pháp tạo hình những “mộ phiến ghép” (Slab-
graves) của Mã Lai, mà lại gợi mở mối liên quan ở gần hơn (dù vẫn còn
khác biệt) với các công trình kiến trúc đền đài ký hiệu K (K8) trên cánh
đồng Óc Eo. Qua đó, tác giả cũng nghĩ đến khả năng mộ Cự thạch
Hàng Gòn “không quá lâu đời” như người ta đã nghĩ (thời đại đồ Đồng
hoặc sớm hơn) và cũng có thể ở vào thời điểm kiến tạo công trình Hàng
Gòn, sự giao thiệp giữa Ấn Độ và miền Nam Đông Dương đã thiết lập,
cùng với sự khai triển của văn hóa Cự thạch khắp hải phận Đông Nam
Á dường như cũng để lại những vết tích trong truyền thống văn hóa Óc
Eo vào “thời đại Phù Nam”.
Các giả định của Louis Malleret được một số nhà khảo cổ học Việt
Nam về sau trích dẫn và thảo luận thêm với nhiều tư liệu điền dã và
nghiên cứu mới về truyền thống văn hóa Óc Eo ở đồng bằng châu thổ
Nam Bộ. Có người tin rằng mộ Cự thạch Hàng Gòn “không phải của
dân dã” mà gắn bó với quần thể di tích thời kỳ Đồng - sơ kỳ Sắt trong
khuynh hướng tập trung thống nhất các cộng đồng người lại với nhau
tiến đến thành lập quốc gia là hiện tượng phổ biến của nhân loại...
Song, không rõ là các di tích khảo cổ học này có liên quan gì đến cái
nước Xích Thổ mà sử sách thường hay nhắc đến không?” (Lê Trung
Khá, 1987). Theo Võ Sỹ Khải (1987), ngôi mộ Cự thạch Hàng Gòn “
niên đại sớm hơn so với Óc Eo” và thể hiện “những mối quan hệ xa
hơn của các tộc người bản địa với các nền văn minh cổ ở Đông Nam
Á trong truyền thống Cự thạch”. Ở thời đại Kim khí, tục thờ Đá lớn
dựng ngoài trời là một tín ngưỡng tập thể của chung cộng đồng giống
226 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.7 Page 227

▲back to top
như “hình thức nguyên thủy của tín ngưỡng Cự thạch”. Ở thời sau,
trong những cộng đồng nông nghiệp của xã hội Óc Eo, với sự phát triển
của tư tưởng tư hữu tài sản và sự hình thành bất động sản, cả thần linh
cũng phân hóa cùng với sự phân hóa tài sản và “đây là trường hợp về
sự biến mất của tín ngưỡng Cự thạch trong hình thức nguyên thủy của
nó...Với quyền tư hữu ruộng đất, “thần Đá lớn” đã vỡ ra thành những
“thần Đá nhỏ” được thờ ở những nơi tập thể dưới cộng đồng và ở cả
gia đình.“Thần Đá lớn” đã trở thành một loại “thần Đất” ở các địa
phương nhỏ hay ở trong phạm vị một khoảnh đất riêng. Trong những
di chỉ Óc Eo đã tìm thấy nhiều viên đá thờ bằng nắm tay hay nhỏ hơn,
gồm nhiều loại đá màu sắc khác nhau. Tục thờ đá này đã truyền qua
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 227
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.8 Page 228

▲back to top
nhiều thế hệ ở nhiều dân tộc trên vùng châu thổ sông Cửu Long và vẫn
còn tồn tại cho đến nay trong các cộng đồng người Việt đến sinh sống
từ hơn ba thế kỷ này dưới hình thức “thờ Ông Tà” thờ từ những tảng
đá lớn bằng người thật cho đến những viên cuội nhỏ bằng quả trứng”
(Võ Sĩ Khải, 1997).
Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với các nhận định trên. Trước cuộc
đào tôn tạo hầm mộ Hàng Gòn (7A) và khám phá mới di tích Cự thạch
kế bên (7B), chúng tôi vẫn nghiêng về các kiến giải của E.Saurin (1963,
1968) coi tuổi của quần thể kiến trúc Cự thạch này chắc chắn sớm hơn
các di tích thuộc phức hệ văn hoá Óc Eo (thế kỉ I, II- VI,VII sau Công
nguyên) (Phạm Đức Mạnh 1984, 1985).
Bởi lẽ, trước hết trong các trung tâm di tích lớn nhất của phức hệ
văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở Nam Tây Nguyên và Nam Bộ không hề
thấy một cấu trúc “nguyên Cự thạch”, mà các tảng, khối đá lớn chỉ là
vật liệu nền móng hoặc cấu kiện kiến trúc, hay tượng thờ mang dấu ấn
của ảnh hưởng tín ngưỡng, tôn giáo Ấn Độ và đạo Phật. Mặt khác, trên
phần lớn các tấm đan hay cột trụ sử dụng trong các kiến trúc Óc Eo
này thường được gia công tạo tác và chạm trổ trang trí ở trình độ điêu
khắc đá khá cao siêu; và, quan trọng hơn cả là các bộ sưu tập di vật đủ
loại chất liệu (đá, đồng, chì, bạc, vàng, gốm, gỗ...) kèm theo kiến trúc
có phụ kiện Cự thạch mang đặc trưng Óc Eo với hơn 40 kết quả C14
minh định khung niên biểu cơ bản của “thời đại Óc Eo” trong 7 thế kỷ
đầu Công lịch (Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, 1995; Võ Sĩ
Khải, 1997).
Đây cũng đặc điểm nguyên thủy của Cự thạch - đặc điểm làm cho
Trác thạch” Trà Bồng và “mộ phiến ghép” Đồng Phổ khác biệt về
chất với các kiến trúc có đá lớn, tượng tròn, phù điêu, văn bia có niên
biểu Champa ở cực Nam Trung Bộ (H102), nhưng coi Cự thạch Đồng
Phổ (cũng như quần thể mộ Cự thạch Hàng Gòn) đều thuộc văn hóa Sa
Huỳnh thời Sắt sớm (Bellwood, P., 1978) thì không thật thuyết phục.
Bởi lẽ, xét chung bình diện văn hóa Cự thạch châu Á, quần thể kiến
trúc và công xưởng Cự thạch Hàng Gòn miền Đông Nam Bộ (Việt
228 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.9 Page 229

▲back to top
Nam) chính là hiện tượng lịch sử độc đáo và hiếm có (nếu chưa muốn
nói là “độc nhất vô nhị”) so với toàn bộ kiến trúc thuộc truyền thống
Cự thạch nguyên thủy ở cả khu vực và châu lục.
Người ta đã từng tách lọc từng bộ phận của kiến trúc Cự thạch
Hàng Gòn để so sánh với các Dolmen, “mộ đá phiến”, “mộ Cự thạch
có phòng” hoặc “bàn đá”, “chiếu đá”, các cặp trụ, Menhir có thân
vuông cạnh, thân tròn hay gần hình elip, với rãnh bán nguyệt ở các
đầu trên với nhiều công trình Đá lớn ở Việt Nam (Đồng Phổ), Bắc
Trung Hoa, Bắc Miến Điện, Assam, bán đảo Deckker Translordanie,
Changkat Mentri, Sungkai, Nam Perak (Malaysia), hay các đảo Java),
ở Sri Lanka (Tissamaharama, Anuradhapura), các công trình Cự thạch
ở Thượng Lào (Xiêng Khoảng, Hủa Phan)... Thế nhưng, ngoài các
hầm đá có phòng ghép hình hộp chữ nhật có kích cỡ tương đương
với mộ Cự thạch Hàng Gòn, các tấm đan hoa cương có cạnh tạo gờ
vát và khoét các rãnh khuyết ở miền Nam Sumatra, Malacca và Ấn
Độ (Tegoerwang 11-14, Siring Agong, Batoeberak 3, Kerala, Sumba,
Timor...), chúng ta vẫn chưa tìm thấy các mô hình hoàn toàn đồng dạng
với hầm mộ hình hộp khép kín hoặc gần kín và các trụ cột Cự thạch
hữu quan “kiểu Hàng Gòn” và “kích cỡ Hàng Gòn” ở bất cứ đâu trên
toàn miền địa hình sinh thái nhiêt đới - á nhiệt đới của châu lục rộng
lớn này.
Với một phần hình hài “công xưởng chế tạo Cự thạch” (Workshop
- Site for megalithic monuments) vừa được khám phá “tại chỗ” (in
situ), chúng ta được biết thêm một loại hình di tích mới trong lịch sử
kiến trúc Cự thạch của các tộc người vùng Nam Á nói chung, nhưng
trước tiên, chúng chứng thực rằng bản thân hầm hộp Đá lớn được cộng
đồng cư dân bản địa trực tiếp cộng lực khai thác, chuyển vận, tập kết
nguyên liệu đá phiến, đá tảng lớn nặng nhiều tấn từ xa về và chế tác
“tại chỗ” các phụ kiện để ghép lắp công trình hoàn chỉnh.
Hầm đá lớn hình hộp chữ nhật Hàng Gòn dường như được kiến
thiết ngầm trong đất, là hầm mộ chứa những hũ vò gốm đựng tro cốt
hỏa thiêu người chết từ tiền sử, nếu chúng ta, với sưu tập mảnh gốm
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 229
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

23.10 Page 230

▲back to top
trong địa tầng Hàng Gòn, đặt niềm tin ít ỏi vào những thông tin mà
H.Parmentier và L.Malleret thu nhận từ những người lao công đào bới
ngay hiện trường hoặc những người chứng nhận cuộc khai quật đầu
tiên. Trục của hầm mộ nằm theo hướng gần Đông Tây - hướng chuyển
vận của mặt trời trên đầu người nguyên thủy thường nhật vĩnh cửu qua
từng thế hệ. Cửa của hầm mộ có thể mở ra chính hướng Đông - hướng
của bình minh từ tiền sử, nếu ta quan tâm đến sự chênh lệch của 2 tấm
đan ghép đầu Đông (hẹp vừa khít 2 thành hông, nắp trên và đáy) và ở
đầu Tây (rộng chờm hẳn sang 2 bên Nam và Bắc) và quan trọng hơn là
lỗ khuyết bán nguyệt ở rìa cạnh tấm đan ghép đầu Đông cứ khiến chúng
tôi nghĩ mãi về các “lỗ thoát hồn” khoét trên các mộ chum vò gốm để
trẻ đi chơi” ở Ban Căng (Phạm Minh Huyền, 1975), hay là “đường ra
vào” của linh hồn tiếp xúc với thế giới người sống, với thiên nhiên và
biển cả, biểu hiện mối quan hệ con người - linh hồn - biển cả, là một
trong những đặc điểm của mộ vò Việt Nam và Đông Nam Á (Ngô Sĩ
Hồng, Phạm Quốc Quân, 1994; Ngô Thế Phong, 1995).
230 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24 Pages 231-240

▲back to top

24.1 Page 231

▲back to top
Với “lỗ thoát hồn” đã có, với bề dày và sức nặng áp đảo của nắp
(khoảng 7 tấn) so với các vách tường và với cả tấm nền hầm đá (khoảng
1-4 tấn), chúng tôi hoàn toàn không tin rằng hầm Cự thạch phải đóng
mở nắp đậy nhiều lần theo hệ thống chuyển dịch mà nhà khảo cổ kiêm
kiến trúc sư lão thành H.Parmentier thiết kế (1929). Vì lẽ đơn giản nếu
thiết kế cho dự tính “động mồ” chuyển dịch và mở đóng nắp nhiều lần,
các nhà xây dựng tiền sử với trình độ kỹ thuật và năng lực sáng tạo vốn
có hoàn toàn có thể hoán đổi vị trí 2 tấm nắp (quá nặng) và đáy (nhẹ
hơn nhiều) để ít nhất cũng tránh được mọi rủi ro hay “sự cố kỹ thuật
gây thương vong lao động và phá hoại công trình). Thế nên, chúng tôi
tin vào đồ án thiết kế của kỹ sư Jean Bouchot nhiều hơn, với giả định
nắp hầm cần nặng nhất để vĩnh viễn đóng lại khi người xưa hoàn tất đại
lễ cuối cùng tiễn biệt linh hồn thân nhân về với tiên tổ, để cho sự yên
nghỉ vĩnh hằng các thần nhân thủ lĩnh của họ, bảo vệ che chở vong hồn
trong “hang kín nhân tạo” nơi “thánh địa” giữa miền đồi rừng nhiều ác
thú và mưa lũ nhiệt đới thường niên này, với “lỗ thoát hồn” hướng
Đông nằm âm dưới đất giống như các cửa thông có nắp đá đậy trên hay
ngầm trong các mộ Cự thạch dạng Dolmen và Stone-cist Ấn Độ.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 231
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.2 Page 232

▲back to top
Vấn đề cần lý giải hơn liên quan đến các hàng trụ thạch được chôn
theo từng cặp đối xứng qua trục dài của hầm mộ theo các bức ảnh hiện
trường của M.Gastaldy. Đã rõ rằng không phải người cổ xây dựng
phòng mộ và 2 trụ hoa cương lớn nhất trong “thời Đá mới”, rồi mới
làm thêm 2 hàng, dãy trụ sa thạch trang trí ở “thời đại Kim khí” như
giả thuyết của Jean Bouchot, vì các kết quả khai quật “công xưởng chế
tác Cự thạch” bên cạnh chúng ghi nhận 2 trụ sa thạch nằm bên các trác
thạch hoa cương ở cùng bình độ và nằm ngay trên lớp phế liệu cùng
nham thạch và các dấu tích đồng, gốm liên quan với than tro có tuổi
C14 tương ứng thời Sắt sớm ở Nam Bộ (Việt Nam). Nhưng chúng tôi
đồng tình với J.Bouchot khi ông cho rằng các hàng cột có rãnh lõm
yên ngựa” trên đầu dùng để đỡ các đà ngang của mái nhà che hầm Cự
thạch - một kiểu “nhà mồ” Cự thạch nguyên thủy và lớn nhất, lớn hơn
cả “nhà mồ” phú gia hay thủ lĩnh trong các nghĩa địa Gia Rai ở Plai
Rlung (Đăk Lăk).
Ở nhiều dân tộc Tây Nguyên cũng như các tộc người cư trú những
miền núi rừng khác ở Việt Nam và Đông Nam Á, trong “thế giới có thể
nhìn thấy” của người sống và cả trong “thế giới bên kia”, những mái
nhà dành cho thủ lĩnh thường là lớn nhất ở mọi chiều kích, đẹp nhất
ở trang hoàng, với những biểu tượng đặc thù cho mỗi vùng, miền văn
hóa, mỗi dân tộc, mỗi thời đoạn biến động thăng trầm của lịch sử, dù
quan sát chuyên khảo ở các trung tâm xã hội, tín ngưỡng, văn hóa của
họ tộc, bộ lạc hay liên minh bộ lạc như “nhà rông”, “nhà làng”, “nhà
tổ”, “nhà gốc”, “nhà mẹ” hay ở “nhà mồ” - những trung tâm xã hội,
tín ngưỡng, văn hóa của họ tộc, bộ lạc hay liên minh bộ lạc từ thời kỳ
gác gỗ làm nhà sàn” theo truyền thống kiến trúc cổ truyền Đông Sơn
ở Việt Nam và Đông Nam Á (Goloubew, V., 1938; Trần Quốc Vượng,
1970; Nguyễn Khắc Tụng, 1978, 1982; Trịnh Cao Tưởng, 1981; Chu
Thái Sơn, 1983; Tạ Đức, 1999) (H103).
Ở miền đồng bằng châu thổ Nam Bộ (Việt Nam), những dấu tích
nhà sàn có cột tạo ngoàm, có mộng ngông, mộng một mang, đặc biệt
kiểu tạo rãnh theo hình “lõm yên ngựa” để gác dầm sàn, đà hay xà
ngang, đã tìm thấy không ít vết tích từ rất cổ xưa, đặc biệt trong các
232 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.3 Page 233

▲back to top
làng tiền sử lưu trú trên sình lầy, ven sông rạch hay các cửa sông giáp
bờ biển từ hàng ngàn năm trước khi xây dựng quần thể kiến trúc Cự
thạch (Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Bưng Bạc, Bưng Thơm, ND 11,
Phú Chánh, Gò Rạch Rừng..., với hệ niên đại C14 từ 3.360 ± 80 đến
2.100 ± 40 cách ngày nay). Cấu trúc nhà sàn nguyên thủy Nam Bộ còn
tiếp tục xây cất trong các “làng nổi” Óc Eo ở Nền Chùa, Đá Nổi, Cạnh
Đền, Giếng Đá, Mốp Văn, Gò Thành, Gò Hàng, Gò Chùa (niên đại C14
của cọc gỗ từ 2.580 ± 40 đến 1.410 ± 50 cách ngày nay). Đặc biệt, cuộc
khai quật Gò Tháp năm 1993 còn phát hiện một lá vàng in nguyên hình
một nhà sàn giống với hình nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn (Heger
I) hoặc dạng nhà sàn và nhà mồ của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
hiện nay (Đào Linh Côn, 1995). Trong thư tịch cổ, loại di tích kiến trúc
có mái che bằng vật liệu nhẹ như tre, gỗ kiểu này được gọi là “can lan
- nhà sàn dựng nên cọc gỗ khá phổ biến trong sinh hoạt của các cộng
đồng người “Nam Man” thuở ấy (Malleret, L., 1959; Lê Xuân Diệm,
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 233
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.4 Page 234

▲back to top
Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, 1995; Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm,
Mạc Đường, 1990; Ngô Văn Doanh, 1993; Phạm Đức Mạnh, 1996).
Những mô hình nhà còn tìm thấy trong mộ chum gốm Giồng Cá Vồ,
với đỉnh là tượng chim có 4 đầu quay 4 hướng và 4 góc mái nhà uốn
cong (Đặng Văn Thắng, NNK, 1998) (H104).
Trang trí hình chim trên các “mái nhà Đông Sơn” khắc họa mặt các
trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Quảng Xương và cũng là
đặc trưng của nhiều mái nhà cổ truyền của nhiều dân tộc Tây Nguyên,
ở các vùng núi rừng Việt Nam và Đông Nam Á khác (Tạ Đức, 1999).
Những kết cấu nhà sàn, hình nhà khắc trên vàng lá, mô hình nhà
khám phá trong mộ táng hoặc trong các địa tầng tiền sử, sơ sử, cổ
sử Nam Bộ hiển nhiên là những gợi ý tốt cho việc hình dung “mái
nhà mồ” tre gỗ có thể dựng thêm trên khung sườn Cự thạch của thủ
lĩnh Đồng Nai thời sơ sử, mà chúng tôi cứ nghĩ là chắc có, khi chiêm
ngưỡng nhà mồ thủ lĩnh J’rai Tây Nguyên được J.Bouchot (1929) so
sánh với mộ Cự thạch Hàng Gòn và cả hình chiếc “quan tài đồng” dài
2m, nặng 251,1kg có đúc liền mái nhà rất thực ở Đại Ba Na (H105).
Dầu vậy, vẫn còn các cột thạch mà đầu không tạo “rãnh lõm hình
yên ngựa” ở hầm mộ và cả ở công xưởng Cự thạch. Các cột trụ cũng
được người xưa chế tạo kỹ lưỡng, dày công tạo tác và trau chuốt láng
nhẵn, với chân lớn và đầu thon nhỏ. Chúng lại ngắn nên không phải đà
ngang gác qua các cặp trụ có rãnh “lõm yên ngựa” như các sà ngang đỡ
mái của hầm đá. Chúng có lẽ các cột đá dựng thêm quanh nhà mồ Cự
thạch như thường thấy trong nhiều nhà mồ Tây Nguyên (H106a-b).
Ngoài tính chất trang hoàng, chúng còn ý nghĩa “đá thờ”, “đá báo
công”, “bia chí”, “đá anh hùng” dành cho các thủ lĩnh thế hệ sau khi
thành danh hoặc thành “thần nhân” được vinh hạnh dựng trên vùng
thánh địa”, hoặc giả như “những người lính canh” mà các thế hệ sau
dựng thêm để bảo vệ “nhà mồ Cự thạch” nơi yên nghỉ của thủ lĩnh tối
cao - tổ tiên đã hóa thần linh trong cõi vĩnh hằng, như các tục lệ cổ
truyền còn được ghi nhận trong “thế giới Cự thạch” từ Đông Bắc Á
đến Tây Nam Á.
234 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.5 Page 235

▲back to top
Từ những dấu tích đầu tiên về hình hài một công xưởng chế tác
đá nhỏ thời tiền sử, các bằng chứng dẫu còn ít ỏi nhưng vô cùng quan
trọng liên quan đến những nhà xây dựng Cự thạch thời sơ sử, đã góp
phần minh định chủ nhân đích thực kiến tạo và sử dụng quần thể kiến
trúc Đá lớn có một không hai này đích thực là chủ nhân của phức hệ
di chỉ văn hóa nguyên thủy Đồng Nai ở thời kỳ “tiền Nhà nước” trong
giai đoạn hậu kỳ Đồng - sơ kỳ Sắt miền Đông Nam Bộ (Việt Nam).
Trong tình hình chung khan hiếm di tồn vật chất, đặc biệt các vật liệu
hữu cơ trong các địa tầng đất đỏ huyền vũ nham giàu axit nên rất ít niên
đại C14 được giám định trong các trung tâm giàu di tích Cự thạch ở
khu vực và châu lục, hệ thống niên đại C14 trong địa tầng quan hệ đến
Cự thạch ở Hàng Gòn (Đồng Nai, Việt Nam) quả là hiếm quý. Đó là
các bằng chứng có thể khiến ta vững tin hơn vào tuổi của quần thể kiến
trúc Đá lớn Hàng Gòn cổ kính vào bậc nhất của khu vực và không phải
là thật muộn, xét trong bình diện tồn tại văn hóa Cự thạch châu lục.
Đây cũng là khoảng giao thời của đời sống xã hội tiền sử, sơ sử
đang chuyển mình từ trạng thái nguyên thủy sang văn minh, từ mô
hình xã hội “cộng đồng theo hình thức công xã láng giềng” với thiết
chế dân chủ bản địa “mẫu quyền” trong quản lý đất nước truyền thống,
chuyển mình sang dạng xã hội “cộng đồng dân cư hành chính tôn giáo
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 235
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.6 Page 236

▲back to top
theo lãnh thổ” khi tiếp nhận tinh hoa văn hóa Ấn Độ cổ từ Tây Phương
Thiên Trúc đến - khoảng giao thời “tiền lập quốc”, chuyển mình sang
cấu trúc và thiết chế xã hội mới, khi Hỗn Điền (Kaundinya) chinh phục
và cưới nữ vương xứ Phù Nam Liễu Diệp làm vợ, lập “đô” (Varman
Capital) để cai trị “quốc” và “tiểu quốc”, chia “thành” để quản “ấp”...,
tiến tới hình hài một “Nhà nước phát triển có nhiều chư hầu (nước
nhỏ)”, có các kinh đô, thành thị, thương cảng, phố phường, ấp trại, với
đủ loại dân quy tập trong các “tổ chức hành chính” (pura, nagara) lớn
có nhiều kiến trúc đồ sộ, tượng thần to cao, vật dụng đẹp quý là nội
phẩm hay ngoại phẩm; ví như, ở các kinh đô Đặc Mục (Vyahapura), Na
Phất Na (Naravaranagara), các đô thành như Y Chư Na (Isannapura),
Bhavapura, Anindityapura, Bhavapura, Anindityapura, Babadityapura,
Nrpadityapura...
Đó cũng là hình hài một “Nhà nước phát triển” thời cổ sử Nam
Bộ với các thành đô “phản ánh rõ ràng đầy đủ tầm vóc lớn lao, sức
mạnh tuyệt đối vương quyền, thần quyền thuỏ ấy”, với Bà La Môn là
quốc giáo, tầng lớp đạo sĩ là rường cột chế độ, các đại gia, đại thương
gia là cơ sở xã hội chủ yếu của vương quyền, với cơ chế điều hành
các tiểu quốc “phân cấp đất kiểu phong kiến” mang màu sắc chế độ
xã hội “quân chủ chuyên chế” đặc trưng ở Nam Bộ Việt Nam, khác
biệt với “chế độ Nhà nước phong kiến lấy đạo Phật làm quốc giáo,
dùng Nho giáo hành pháp” đặc trưng ở miền Bắc Việt Nam (Nguyễn
Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, 1990). Sự đổi thay cấu trúc
xã hội ở buổi giao thời để “lập quốc” ấy góp phần lý giải vì sao quần
thể Cự thạch Hàng Gòn nơi vùng đất đỏ huyền vũ nham Long Khánh
không còn là “thánh địa” của một “Kurung” hay một “Varman” duy
nhất cho cả miền văn hóa này từ những thế kỷ đầu Công nguyên, khi
những công trình kiến trúc nặng dần xuất hiện dành riêng cho các đô
thị, hải cảng, thành quách mới, những “thánh địa” thời “lập quốc và
tiểu quốc”, những quần thể đền đài, tháp thờ, lăng mộ mang tầm vóc
thánh đường” giống như các trung tâm tinh thần mới ở thời đoạn lịch
sử “tiếp nhận tinh hoa văn hóa cổ Ấn Độ, chinh phục đồng bằng châu
236 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.7 Page 237

▲back to top
thổ Cửu Long, xây dựng xã hội Óc Eo văn minh thịnh vượng” (Nguyễn
Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, 1990; Võ Sĩ Khải, 1997).
Trong tình hình thông tin khảo cổ học hiện nay, Cự thạch Hàng
Gòn theo cách diễn tả của một nữ học giả người Nga, chỉ có thể “biết
nói” (Kamnhia govoritsa), thông qua cái gọi là “cái phông” hay “cơ sở
văn hóa, kỹ thuật” (Seneviratne, S., 1999) của chính nó, qua các thông
tin nội hàm tiền sử của chính phức hệ văn hóa Kim khí truyền thống bản
địa Đông Nam Bộ thời kỳ “tiền Nhà nước” (Phạm Đức Mạnh, 1991,
1996, 1999-2001). Dẫu rằng, các công cuộc và nỗ lực tiếp cận với ý
tưởng đích thực khi kiến tạo và sử dụng Cự thạch của tổ tiên chúng ta
ở miền đất này trong quá khứ đôi khi giống như là hoang tưởng; như
học giả Anh R.J.C. Atkinson đã giãi bày rất thực lòng trong cuốn sách
lớn của ông ở chính chương viết về “ý nghĩa của trụ Cự thạch” (The
Meaning of Stonehenge):
“Chương viết này liên quan tới một câu hỏi cuối cùng: Tại sao?
Tại sao tất cả Stonehenge được dựng lên? Tại sao chúng được dựng
và tái dựng không chỉ một lần mà có khi tới không dưới 4 lần? Tại sao
nhiều cấu trúc trụ thạch đa dạng được dựng cùng những phương cách
đặc biệt như vậy? Tất cả điều đó có ý nghĩa như thế nào? Toàn bộ
những câu hỏi như thế đều bắt đầu từ chữ: “Tại sao”?. Chí có một câu
trả lời súc tích, ngắn gọn, giản đơn và hoàn toàn chính xác là: ‘Chúng
ta không biết và chúng ta có thể không bao giờ biết được” (Atkinson,
R.J.C., 1956: 166; Christie, A., 1979: 242-252).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 237
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.8 Page 238

▲back to top
THAY CHO KẾT LUẬN
Trăm năm bia đá thì mòn...” (ca dao); nhưng:
“Trái đất tượng hình lên từ bùn lầy và trên đó các thế hệ người cứ
nối tiếp nhau qua...”
(La Terre c’est de la boue et des gens qui passent...)
(Paul, FORT, - Malleret, L., 1959).
Với tầm nhìn địa - sinh thái, cuộc chiếm cư của con người đầu
tiên trong lịch sử và về sau theo thời gian triển nở toàn bộ không gian
phẳng Đồng Nai và miền đồi rừng - châu thổ Đông Nam Bộ không
tách rời phần đất thượng lưu và trung lưu sông Đồng Nai, nơi bắt đầu
dòng chảy huyết mạch dài gần 600km này với sự trợ thủy của các hệ
lưu Đạ Nhim, Đạ Huoai ở phần Nam cao nguyên Tây Nguyên (Phạm
Đức Mạnh, 1991, 1996).
Từ khoảng giữa Thiên niên kỷ III trước Công nguyên, người cổ
Đồng Nai khởi dựng sự nghiệp chinh phục miền núi rừng đồi đá phiến,
đất đỏ bazan phong hóa và châu thổ vùng hạ lưu dòng sông này. Ban
đầu, họ khai sơn lập địa dựng làng, tạo ấp tựa vào các sườn Nam (hoặc
chếch Nam) của đồi gò cao thoáng và hướng về sông suối. Họ đốt rừng
làm rẫy để trồng tỉa lúa nương, cây có củ, cây cho bột và nhiều hoa
màu khác, hoạt động sản xuất thủ công lúc nông nhàn, đi săn bắt và
hái lượm mọi vật phẩm thiên nhiên đa dạng, phong phú ở miền sinh
thái nhiệt đới - Á nhiệt đới này. Họ tổ chức xã hội dân chủ đơn sơ trên
nền tảng đại gia đình mẫu hệ và xây đắp cộng đồng làng ấp theo huyết
thống.
Về sau, từ khoảng giữa Thiên niên kỷ II trước Công nguyên, những
người nông dân nguyên thủy Đồng Nai khởi dựng công cuộc lao động
mới để lấn biển, chế ngự đầm lầy, hòa nhập và biến đổi tự nhiên trên
toàn bộ vùng châu thổ giàu ấn tượng và chưa từng có trong tiền sử về
238 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.9 Page 239

▲back to top
tiềm năng kiếm sống, về yêu cầu kỹ thuật, công trí và cả lòng dũng
cảm. Họ đã mở rộng thêm nhiều lần địa bàn hoạt động kiếm sống
truyền thống, chiếm lĩnh dài ngày và tập trung khai thác những nguồn
lợi tự nhiên đặc trưng cho tiểu vùng châu thổ thấp, các cửa sông và đầm
lầy thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn cận biển. Họ làm nhà sàn dài theo
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 239
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

24.10 Page 240

▲back to top
kiểu kiến trúc lợp lá cọ, lá dừa nước, cỏ tranh trên hệ thống cọc bằng
danh mộc nguyên sinh bản địa (tràm, gõ, căm xe, cẩm thi, cẩm lai, bình
linh, da đá, cà chắc, bằng lăng, giáng hương, huỳnh, xoay, sao, dầu, vên
vên...), dựng nên những làng “chuyên chài”, hoặc “chài - nông”, “chài
- nông - thương” theo kiểu “những trại ấp trên nước” (Trần Quốc
Vượng, 1996) trên các mô gò thấp cấu tạo bằng đất cát hỗn hợp phù sa
sông, biển dọc ven các cửa sông hay trên các cù lao và các đầm lầy
hướng biển... Và, khi đã “đứng trước biển”, họ tập trung sản xuất thủ
công trong các làng nông nghiệp và làng nghề truyền thống, tập kết sản
phẩm trên quy mô cộng đồng về các “bến chợ” và các “tiền phố” cù
lao, đóng hải thuyền không chỉ để đánh bắt cá xa bờ hơn mà còn để vận
chuyển lương thảo, tài vật sơn hào hải vị, trang sức xa hoa và quặng
quý, buôn bán thông thương trên mặt sông, mặt bể...
Từ nửa sau Thiên niên kỷ I trước Công nguyên, chủ nhân phức hệ
di tích văn hóa Kim khí Đông Nam Bộ khởi sự một công cuộc lao động
mới thời sơ sử, kiến thiết quần thể công trình Cự thạch làm “thánh
địa” nơi trung điểm cao nguyên đất đỏ huyền vũ nham không xa biển,
phụng sự các lễ hội theo tín ngưỡng nông nghiệp cổ truyền của toàn
cộng đồng để thờ cúng tổ tiên và thần mặt trời, ghi ân các danh nhân
văn hóa, các anh hùng có công khai phá, mở mang và gìn giữ lãnh thổ
và tôn vinh thủ lĩnh. Khi ấy, xã hội cổ Đồng Nai mang hình hài một nền
văn minh nông nghiệp bán sơn địa vùng châu thổ ven biển.
Trên toàn cương vực lãnh thổ Đông Nam Bộ thuỏ ấy, từ đầu sông
về cửa bể, người cổ đã hoàn thiện việc xây dựng ổn định những khu
kinh tế, văn hóa, thương mãi, dân cư lớn, những làng ấp nông nghiệp
chuyên hoạt động canh tác lúa cạn nơi nương rẫy và đồng bằng, những
xưởng thợ thủ công chuyên nghiệp chế tác công cụ, trang sức đá,
những lò gốm, lò nấu thủy tinh, lò đúc đồng, lò rèn sắt, những xưởng
dệt, xưởng mộc làm nhà và đóng thuyền, những làng chài, những chợ
làng và chợ vùng kiểu “thị trấn” nơi “trên bến dưới thuyền” để mua
bán nội phẩm và ngoại phẩm đổ về từ muôn phương, những “tiền cảng
thị” (Pre-ports) sầm uất một thời...
240 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25 Pages 241-250

▲back to top

25.1 Page 241

▲back to top
Việc kiến tạo quần thể công trình Cự thạch chứa “thánh cốt” các
nhân thần ghi dấu thời hoàng kim của tục thờ Đá lớn của chủ nhân miền
văn hóa này thời sơ sử, minh định tài trí trong lao động và tổ chức lao
động, trong tiếp thu và sáng tạo tinh hoa văn hóa Cự thạch của khu vực
và châu lục của các nhà xây dựng cổ Đồng Nai, xác thực sự đổi thay
trong thế giới tâm linh bản địa liên quan với việc tôn vinh thủ lĩnh - các
Kurung hay Varman thời sơ sử. Có thể ở thời này, trong tín ngưỡng
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 241
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.2 Page 242

▲back to top
nguyên thủy Đồng Nai vẫn còn mang đậm “niềm tin vào vật linh với
cuộc sống con người, vận mệnh cộng đồng” (Nguyễn Công Bình,
Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, 1990), với bằng chứng là những tượng
rùa, heo bằng đá hay bùa tượng bằng đồng mang khối hình “chó săn
chồn dơi” trong mộ địa Dốc Chùa, tượng con trút (hay “tê tê”) (manis
javanica) bằng đồng hay các hình ếch, voi trên qua đồng Long Giao,
tượng gốm hình chim Cần Giờ như “những sản vật của vật linh giáo”;
dẫu rằng vẫn còn in dấu tục thờ Đá lớn dạng khác (kiểu trụ thạch
Menhir ở Hoàng Việt, Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh), hay các
tục thờ cúng tổ tiên, các tục lệ cổ truyền từ đời sống tâm linh đa thần
thờ cúng mọi vật kỳ dị ở mọi nơi hiểm địa, kiểu “thờ cây cổ thụ lớn,
đỉnh núi cao, vực nước sâu, dòng suối thẳm”, thờ mặt trời, mặt trăng,
các vì sao, gió, mưa và sấm sét, thờ đất, nước, các vị thần hộ mệnh con
người, gìn giữ bến nước, ruộng đồng, cửa nhà và bếp lửa... (Nang Kỳ
Hiệp, 1999); các tập tục chôn người ngoài di chỉ trong chum gỗ, trong
chum gốm “ghi dấu sự đổi thay mới trong tư duy về cõi chết, phân biệt
hai thế giới người sống và thế giới bên kia”... (Nguyễn Công Bình, Lê
Xuân Diệm, Mạc Đường, 1990).
Nhưng sự hình thành và vai trò của quần thể mộ Cự thạch Hàng
Gòn, xét trong bình diện phân bố di tích, di vật đặc sắc giai đoạn hậu
kỳ Đồng thau - sơ kỳ Sắt miền Đông Nam Bộ (Việt Nam) Thiên niên
kỷ I trước Công nguyên, hoàn toàn cho phép chúng ta liên tưởng từ
242 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.3 Page 243

▲back to top
kiểu thức “phân vùng biểu tượng quyền lực” đến sự hình thành của
mạng lưới phân quyền thời sơ sử” xung quanh “thánh địa - thạch tự
tháp” trong thời đoạn lịch sử được xem như là “đỉnh điểm” của phức
hệ văn hóa Kim khí Đồng Nai (Phạm Đức Mạnh, 1991, 1996, 1997,
1999) (H107-108).
Trong tình hình thông tin khảo cổ học hiện nay, không còn hoài
nghi rằng: Sự tiến bộ của toàn bộ đời sống xã hội vật chất, tinh thần tiền
- sơ sử Đồng Nai xây dựng trên nền tảng kinh tế sản xuất nông nghiệp
và sự mở rộng của lao động thủ công, mà trước hết là kỹ nghệ sản xuất
công cụ chế tạo “phổ dụng” (Generalized tools) bằng đá và công cụ
trực tiếp khai thác kiếm sống bằng tre gỗ “chuyên hóa” (Specialized
tools) và kỹ nghệ gốm, muộn hơn là luyện kim và dệt vải. Chính trong
các loại hình kinh tế sản xuất cơ bản này, khuynh hướng hoạt động
kinh tế quan trọng nhất là phương thức nông nghiệp trồng lúa cạn, rau
củ nguyên thủy, hướng kiếm sống đã đem lại cho người cổ Đồng Nai
nguồn thức ăn cơ bản, thường trực và chất lượng nhất, mà chính nó đã
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 243
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.4 Page 244

▲back to top
ngự trị ở đây gần như rộng khắp mọi tiểu vùng địa hình sinh thái và
trong mọi thời gian lịch sử.
Sự hiện diện những khu di chỉ định cư lâu niên, thậm chí tới 300-
600 năm, với diện tích ước lượng cho từng ấp cổ không thua kém một
làng Việt hiện đại (1-3ha) và bề dày đáng kể của địa tầng văn hóa sinh
hoạt vật chất không gián cách, chứa đựng những loại hình nông cụ cơ
bản cho phép tái dựng tất cả các nông đoạn quan trọng nhất của quá
trình sản xuất từ khai hoang vỡ hóa gieo trồng đến thu hoạch và tiêu thụ
sản phẩm, cùng vết tích thóc lúa, rơm rạ chứa trong xương gốm, trong
đất sình và đi theo người chết sang “thế giới vĩnh hằng”, là những bằng
chứng trực tiếp và gian tiếp quan trọng nhất để khẳng định cơ sở thiết
yếu của việc định cư dài lâu và đông đảo người cổ, quy mô quần cư và
tổ chức xã hội, sự huy động lực lượng cộng đồng để sản xuất nông
nghiệp và kiến thiết Cự thạch và về vai trò chủ đạo của nghề trồng lúa
cạn không dùng sức kéo trong sự phát triển kinh tế cổ xưa ở Đồng Nai.
Cùng với sự vắng bóng kỹ thuật dùng cày kiểu Đông Sơn (liên
quan với việc sử dụng sức kéo của người và động vật), sự phổ hợp của
tổ hợp nông cụ mang đậm tính năng canh tác và thu hoạch ở những
miền địa hình sinh thái Đông Nam Bộ cụ thể hiển nhiên là bằng cớ cho
giả định về sự hiện diện những hình thái đơn giản và cổ xưa nhất của
nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa bán sơn địa trước núi trên những
vùng kinh tế, dân cư trọng yếu thời Kim khí xung quanh “thánh thạch
Hàng Gòn”, các vùng bán bình nguyên đất đỏ bazan huyền vũ nham
và hệ thống bậc thềm phù sa cổ (Ancient aluvia). Việc trồng lúa nước
trong châu thổ với những giống loài hòa thảo kém chịu hạn mà ngày
nay sản xuất thâm canh ở đồng bằng Nam Bộ được ghi nhận nơi đây
khá muộn màng. Nếu như R.O. Whyte (1972) có lý khi cho rằng kinh
tế nông nghiệp trồng lúa nước không thể xuất hiện trước khi phổ cập
đồ sắt, mà sắt hiện diện ở miền Đông Nam Bộ theo những bằng cớ hiện
có không sớm hơn 500 năm trước Công nguyên; thì nông nghiệp trồng
lúa nước nếu có mặt ở hạ lưu Đồng Nai vào thời điểm này cũng khu
biệt nơi những vùng ven đầm lầy cận biển, các cù lao và bãi nổi mới
244 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.5 Page 245

▲back to top
bồi tụ, chứ chưa thực sự khai triển trên đa phần mặt bằng châu thổ (
Văn Tấn, 1987; Phạm Đức Mạnh, 1991, 1996).
Trước khi lúa nước trở thành cây lương thực quan trọng với sự
manh nha kỹ thuật canh tác mới mang sắc thái của nghề trồng lúa thâm
canh “trong châu thổ” mới thành tạo, chủ yếu ở đồng bằng Mekong
với 9 nhánh cuối nguồn quen gọi là “Cửu Long”, mà bằng cớ đầu tiên
không sớm hơn khung niên biểu thế kỷ II-VII sau Công nguyên, có thể
vững tin rằng: Nông nghiệp nương rẫy trồng lúa cạn, cây có quả, củ
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 245
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.6 Page 246

▲back to top
cho bột và hoa mầu khác là hiện thực rộng khắp cương vực đồi gò đất
đỏ bazan phong hóa bán bình nguyên, thung lũng suối sông và đồng
bằng cao Đồng Nai trong tiền sử. Sự tiến triển sản xuất nông nghiệp
gắn liền với khai triển luyện kim đã nâng cao khả năng đảm bảo đời
sống và mức sống nguyên thủy và ghi nhận những tiến bộ kinh tế, văn
hóa mới của xã hội mà những người xây dựng Cự thạch cổ Đồng Nai
từng gắn bó, đặc biệt từ nửa sau Thiên niên kỷ I trước Công nguyên.
Trong lúc đem lại sản phẩm lương thực rõ ràng là nhiều hơn và ổn
định hơn các nghề kiếm sống khác, chính nông nghiệp đa canh và luân
canh trên nhiều dạng địa hình với vị trí hàng đầu của lúa cạn, bên cạnh
cây có quả, củ cho bột, đã tăng cường khối dự trữ lương thảo, thực
phẩm cộng đồng, thành tạo điều kiện định cư lâu bền và mở rộng cộng
đồng khắp đồng bằng ven sông và đầm lầy cận biển, bảo hiểm các công
cuộc tổ chức mật tập lực lượng, sử dụng lao động khai thác chuyển vận
kiến thiết Cự thạch và duy trì thường niên các lễ hội ở quy mô toàn
cộng đồng liên quan tới nhiều tín ngưỡng nông nghiệp và tục thờ thần
mặt trời, thờ cúng tổ tiên, sùng kính thánh nhân và các anh hùng khai
phá, suy tôn thủ lĩnh bộ lạc, tôn giáo, các Kurung hay Varman, củng cố
sự giàu có và quyền quản lý tài sản của từng nhóm người đơn lẻ, đưa
đến sự xuất hiện ngày càng rõ của phân chia giàu nghèo và quyền lực,
đặc biệt rõ ở “thời đại cây kiếm sắt” trong các cánh đồng nghĩa địa
chum viền quanh “thánh thạch” ở Long Khánh, Xuân Lộc - Cần Giờ,
dẫn đến sự xuất hiện phân hóa giai cấp trong lòng xã hội nguyên thủy
Đồng Nai ngay từ buổi đầu khởi dựng các sự nghiệp xây dựng trung
tâm tinh thần từ Cự thạch (H109-110).
Đây cũng là cơ sở kinh tế khả thực là nền tảng, cái đảm bảo đời
sống vật chất, tinh thần, tín ngưỡng và sự bình ổn của toàn bộ hoạt
động xã hội chính yếu thời tiền sử - sơ sử “ở một trong những vùng đất
phì nhiêu nhất Đông Nam Á” đương thời (Bellwood, P., 1978).
Trong điều kiện môi trường sinh thái nhiệt đới - Á nhiệt đới Nam
Bộ, nông nghiệp trồng lúa cạn và cây có quả, củ cho bột thể hiện tính
tích cực khai thác mặt bằng và chiều sâu thổ nhưỡng Đồng Nai hiển
246 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.7 Page 247

▲back to top
nhiên đem lại nguồn thức ăn chủ yếu và ổn định nhất, nhưng không hề
tách rời các phương thức tìm kiếm thức ăn và khai thác triệt để nguồn
lợi sinh cảnh khác như chăn nuôi các nghề cổ truyền như săn bắn
chim thú, mò cua bắt ốc ven suối, câu đơm cá tôm trong đầm hồ và chài
lưới dài ngày trên sông biển, hái lượm cỏ trái hoang dại, lấy nhựa cây
hòa màu cho áo gốm hoặc xăm mình, hái lá làm thuốc chữa bệnh hay
hạt hột (như trái kơ nia) lấy dầu và đạm thực vật...
Sự tổng hợp nguồn liệu khảo cổ học, đặc biệt việc giám định di tồn
thực phẩm cổ không chỉ minh định nguồn lợi phong phú đến dường
như bất tận của miền rừng, đầm lấy và sông biển Nam Bộ thời đại Kim
khí, cung ứng tri thức về “thực đơn” tiền sử, về tập tục săn bắn, chế
biến, ăn uống, tận dụng nguyên liệu chế tác công cụ, vũ khí, trang sức
của những nhà thiện xạ và ngư dân Đồng Nai xưa, mà còn là dẫn liệu
làm chúng ta tin vào vai trò không nhỏ của kinh tế khai thác ở đây,
cũng như sự lấn át của nghề săn bắn chim thú và đánh cá so với chăn
nuôi tiền sử Đồng Nai (Lê Trung Khá, 1980, 1985, 1989; Phạm Đức
Mạnh,1991, 1996).
Đương nhiên, trong bối cảnh mà “chưa bao giờ trong tiền sử Đông
Nam Á hình thành các bộ lạc chuyên chăn nuôi. Cho đến mãi sau này,
chăn nuôi vẫn chỉ là kinh tế phụ gia đình phụ thuộc vào nông nghiệp.
Trên một vùng rộng lớn, từ Đông Nam Á đến châu Đại Dương, thức ăn
thịt do chăn nuôi chưa bao giờ trở thành thường xuyên mà chủ yếu là
dùng trong các lễ tiết” (Rappaport, R.A., 1967), có thể sự săn bắn và
chăn nuôi không phát triển trong “nền văn minh thực vật” (Civilisation
du végétal) (Gourou P., 1948) Đông Nam Á và nguồn đạm thực phẩm
của cư dân tiền sử chủ yếu khai thác không phải từ thú rừng hay vật
nuôi, mà là từ các loài nhuyễn thể, cá cua tôm tép nước ngọt, nước lợ
và nước mặn (Hà Văn Tấn, 1982). Chỉ với cơ tầng nông nghiệp vững
gắn liền với cuộc sống định cư và mở mang sản xuất khả dĩ tạo nguồn
lương thực dư thừa có thể ổn định dân cư và phân công lao động xã hội
ổn thỏa, mới huy động nổi lực lượng nhân công đủ cung ứng cho kiến
tạo Cự thạch và các sự nghiệp mở mang bờ cõi mang tầm cỡ như thế
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 247
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.8 Page 248

▲back to top
(Phạm Đức Mạnh, 1996), mới hình thành các đội ngũ thợ thủ công có
tính chuyên nghiệp cao hơn tiền nhân làm nông, thợ và lôi kéo họ sản
xuất tinh chế những đồ vật uy thế trang bị cho các tinh hoa của xã hội
đương thời (Nguyễn Ngọc Hải, 1990).
Ở Đồng Nai trong thời đại của những người xây dựng Cự thạch,
bên cạnh hai hoạt động kinh tế trực tiếp đưa lại thành phẩm nhằm
thỏa mãn nhu cầu lương thảo, thực phẩm cổ, các ngành nghề kinh tế
thủ công phụ trợ có vai trò quan trọng để cung cấp nông cụ và trang
bị phương tiện cho các hoạt động kiếm sống như săn bắt, đánh cá, hái
lượm và phục vụ đời sống sinh hoạt tinh thần bình dị đặc thù của chủ
nhân miền văn hóa này trong quá khứ.
Một số ngành nghề thủ công Đồng Nai truyền thống rất đặc sắc,
nhưng chỉ được nhận dạng qua các dụng cụ hay thành phẩm ít ỏi còn
bảo tồn. Ví như, nghề se sợi, dệt vải (dấu tích chỉ còn là sưu tập gần
500 dọi se chỉ bằng đất nung và vết vải in trên các đồ tùy táng chôn theo
người chết); nghề đan lưới (suốt lưới bằng gõ đỏ hay căm xe); nghề
mộc (làm nhà sàn, đóng thuyền, khoét đẽo thân danh mộc làm quan tài
giống lu chum, chế tạo kiếm thờ và nghi trượng trang bị cho thủ lĩnh
bộ lạc hay thầy tế lễ, cung ứng kiếm dao, cung nỏ, chốt đũa... cho đời
sống thường nhật); nghề chế tác đồ xương sừng (ghè đập, đục đẽo, gọt
mài, cưa chặt, chẻ tách, trau chuốt các nguyên vật liệu vốn là tàn tích
thức ăn như xương cẳng chó, sừng hươu, gạc nai, đốt sống thú, răng
voi và hổ, mai rùa biển, vỏ trai ốc... làm công cụ, dụng cụ, vũ khí, trang
sức để dùng và bán buôn); nghề nấu thủy tinh màu (học cách trộn nấu
nguyên liệu, tạo hình bằng phương pháp ép khuôn, ủ lò, pha chế màu
đơn hay đa sắc từ hợp chất kim loại hoặc á kim như: Co, Se, MnO, Cu,
CuO, Cu (NO₃)₂, Ag, AgNO₃..., tu sửa bán thành phẩm trang sức bằng
cắt gọt, cưa mài và đánh bóng); nghề rèn sắt (sản phẩm công cụ, vũ khí,
trang sức cho phép hình dung phương pháp chế tạo và quy trình công
nghệ đơn giản thô sơ ngay từ khâu khai thác quặng thiên nhiên đưa vào
lò nấu chảy bằng phương pháp hoàn nguyên, rồi đem nung đỏ bằng
ống bễ” lò rèn và gò trên đe tạo hình vật dụng) (Nguyễn Công Bình, Lê
248 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.9 Page 249

▲back to top
Xuân Diệm, Mạc Đường, 1990)... Những di vật tìm thấy “tại chỗ” (in
situ) trong địa tầng văn hóa Hàng Gòn II (7B) không chỉ là bằng chứng
liên quan trực tiếp đến những người xây dựng Cự thạch, mà còn hàm
chứa những đặc trưng chung của các ngành nghề còn nhiều tàn tích vật
chất nhất ở Đồng Nai trong các thời kỳ tiền sử và sơ sử, như nghề làm
gốm, nghề chế tác đá và nghề luyện đúc hợp kim đồng thau.
Trước hết, nói về nghề làm gốm. Vết tích khảo cổ học ở miền Đông
Nam Bộ minh chứng rằng: Ngay từ thời lập làng ấp ở Cầu Sắt và Suối
Linh từ khoảng giữa Thiên niên kỷ III trước Công nguyên, người nông
dân nguyên thủy Đồng Nai đã đạt đến trình độ cao của nghề làm gốm
bằng bàn xoay, với thành phẩm phân tích rõ chức năng sử dụng như đồ
đựng, đồ đun nấu, đồ ăn uống đơn giản về dáng vẻ, mộc mạc về phôi
thai, bình dị trong trang điểm.
Nghề làm gốm cổ truyền đến Hàng Gòn ở Đồng Nai phục vụ trước
hết các nhu cầu vốn có của nông nghiệp, ngoài ra còn chế tạo thêm
dụng cụ cho nhiều ngành nghề khác; ví như, là đạn cho ống thổi hay
chạc, ná để săn bắn hoang cầm (có khi là các viên đất tươi dùng điều
tiết giảm nhiệt trong các lò nung gốm, hoặc chỉ giản đơn là bi cho trẻ
chơi); đó còn là nồi nấu, muôi rót và khuôn đất sử dụng để chế tác và
luyện đúc đồ kim loại, là ống chỉ và dọi se sợi cho người thợ dệt, chì
lưới cho ngư dân, quả cân cho thương nhân quý phẩm, bàn đỡ, bàn
xoa cho chính công đoạn tạo hình đồ đựng lớn, hoa tai, bông tai, tượng
chim và tượng người cho đời sống văn hóa tinh thần và tín ngưỡng...).
Đặc sản của nghề thủ công Đồng Nai lâu đời này khá đơn giản và mộc
mạc, mà nhìn chung là dung dị hơn, so với gốm Đông Sơn ở miền Bắc
và gốm Sa Huỳnh ở ven biển miền Trung, những phức hợp gốm cổ có
kiểu hình phong phú hơn, cách thức trang trí duyên dáng hài hòa và
tinh mĩ hơn; đã thể hiện rõ ràng nhất những “đặc tính” văn hóa vật chất
Đồng Nai bình dị và thực dụng, những “đặc tính” văn hóa bản địa hằn
dấu trong cuộc sống sản xuất, chiến đấu, trong nếp sinh hoạt, lối tư duy
và đời sống tinh thần của cộng đồng người cùng huyết thống với các
nhà xây dựng Cự thạch nơi đây.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 249
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

25.10 Page 250

▲back to top
H112.
Riêng về nghề sản xuất đồ đá, đây là nghề phổ cập và cổ điển nhất,
với sự góp mặt gần hết thao tác kỹ thuật cơ yếu của kỹ nghệ chế tác đá
tiền sử, tìm kiếm và lựa chọn nguyên liệu, tách đập, bổ chặt, dùi đục,
250 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26 Pages 251-260

▲back to top

26.1 Page 251

▲back to top
ghè đẽo trực tiếp và gián tiếp, tu chỉnh một hay nhiều lần, mài phá và
trau chuốt, trổ chạm hay đánh bóng, sửa chữa và cải biến để tận dụng
phế phẩm, cưa và khoan... mà không ít kinh nghiệm được các nhà xây
dựng Cự thạch ứng dụng trong các công trình ưu tú của mình. Đây
cũng là nghề thủ công có vai trò như là nền tảng kỹ thuật của sự phát
triển kinh tế - xã hội cổ Đồng Nai thuỏ ấy, “đã góp phần tạo nên bản
sắc và đặc trưng vật chất cơ bản nhất của cuộc sống cư dân văn hóa
Đồng Nai” (Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường 1990).
Sản phẩm của kỹ nghệ đá chiếm tới hơn 80% tổng số công cụ lao động,
vũ khí và vật phẩm nghệ thuật, tín ngưỡng Đồng Nai cổ.
Ngoài các loại hoa cương và có thể cả sa thạch dùng kiến tạo công
trình Cự thạch phải kiếm xa nơi trú ngụ truyền thống, phần lớn nguồn
liệu nham thạch làm thành phẩm nhỏ đã được người thợ Đồng Nai
khai thác tại chỗ, trong đó: Phổ biến nhất là đá sừng hoặc phiến sừng,
có nguồn gốc từ sét kết - bột kết; đá phun trào, chủ yếu là andezit,
andezito - bazalt (porfirit), daxit porfir bị biến chất, với các thành phần
khoáng vật chủ đạo là thạch anh, cocdierit, biotit có cacbonat, epidot
- zoizit có hocblen hoặc felspat, clorit, xerixit, fenzit, porfir (phun trào
axit); ngoài ra, là các loại đá bazan olivin, hoặc dolerit, quaczit hoặc
quaczit biotit biến chất từ cát kết... Về cơ bản, chúng có kiến trúc ban
biến trạng (ít loại có kiến trúc garbo), hạt biến tinh, thường bị biến chất
khi tiếp xúc nhiệt, cấu tạo khối trạng, nền hạt thường mịn, cứng nhưng
dòn, vừa thích hợp cho việc chế tác và sử dụng công cụ, lại dễ khai
thác vì nguồn liệu sẵn có trong nhiều bãi cuội tự nhiên lộ thiên dọc hệ
thống sông Đồng Nai và các chi lưu ở cả tả ngạn lẫn hữu ngạn (Phạm
Đức Mạnh, 2008).
Ngoài công xưởng chuyên chế Cự thạch ở Hàng Gòn và những
xưởng thợ, làng thợ (Đồi Phòng Không) chuyên làm vòng tay bằng kỹ
thuật đục và khoan tách lõi ở 1-2 mặt từ các loại đá mềm phân phiến
yếu, hoặc đá khối trạng như bazan, sa thạch mịn, đá bùn xám xanh, cát
kết biến chất, phiến sừng đen, đá sừng andalurit, xerixit, clorit, thạch
anh, quaczit, daxit...; thành phẩm ưu tú của kỹ nghệ chế tác di vật đá
nhỏ bản địa là các bộ thạch cầm - sản phẩm có âm vực biểu trưng sáng
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 251
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.2 Page 252

▲back to top
giá cho tài năng “những người thầy của đá” Đồng Nai và thần thái diện
mạo văn hóa, sinh cảnh Đồng Nai xưa, khám phá ở các làng cổ Bình Đa,
Gò Me, Đa Kai, Lộc Hòa, Rạch Lá... với khởi hình có thể tìm trong sưu
tập giống đàn Suối Linh, từ trước tuổi cổ nhất của quần thể Cự thạch
nhiều thế kỷ. Trong các ấp làng đương đại với Hàng Gòn thuộc giai
đoạn văn hóa phát triển cao, hiển nhiên là có thể quan sát thấy sự thuyên
giảm rõ rệt vai trò của công cụ, vũ khí đá liên quan chặt chẽ với sự xuất
hiện và tăng trưởng những di vật tương ứng bằng đồng thau và sắt.
Những nguồn liệu vật chất thu được từ các cuộc khai đào ở đây
(khuôn đúc sa thạch, nồi nấu chảy và muôi múc đồng, xỉ đồng và sưu
tập sản phẩm nguyên dạng công cụ, vũ khí, trang sức, di vật nghệ thuật,
tín ngưỡng từ mộ táng và kho tàng) khẳng định chắc chắn về tính bản
địa của nghề sản xuất khuôn mẫu và chế luyện tại chỗ đồ kim loại trong
hàng loạt làng cổ Đồng Nai từ đầu sông về cửa biển (Cát Tiên, Hàng
Gòn, Suối Chồn, Dầu Giây, Long Giao, Đại An, Dốc Chùa, Cù Lao
Rùa, Bình Đa, Gò Me, Gò Cát, Long Bửu, Gò Cao Su, Cái Vạn, Cái
Lăng, Rạch Lá, Bưng Bạc, Bưng Thơm...). Lần đầu tiên ở Đông Nam
Á, chúng ta được chứng kiến một sưu tập khuôn đúc bằng sa thạch
lớn tới hơn 160 tiêu bản từ 28 di tích, chỉ tính riêng 12 địa điểm thuộc
Thiên niên kỉ I trước Công nguyên đã thu được 149 tiêu bản = gần 93%
toàn bộ khuôn đúc Đồng Nai. Trong đó, chỉ tính riêng số luợng khuôn
đúc khai quật ở Dốc Chùa (76 chiếc) và Bưng Bạc (38 chiếc) đã lớn
hơn toàn bộ khuôn thu thập xưa nay ở cả Đông Nam Á (Lào, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia và cả Đông Sơn, Sa Huỳnh của Việt Nam).
Đương nhiên, trên địa bàn Đông Nam Bộ hiện tại vẫn chưa có nỗ
lực kiếm tìm các dấu vết chứng nhận hoạt động khai thác quặng đồng
cùng quặng của những hợp kim cần có và sơ chế kim loại. Sự vắng mặt
nguồn quặng đồng trên địa bàn Đồng Nai và các nghiên cứu địa - hóa -
lý đồ đồng Đông Dương hiện biết cho phép giả định rằng: Những nghệ
nhân luyện kim cổ Đồng Nai có thể sử dụng nguồn quặng nhập khẩu từ
Lào, Thái Lan và Đông Sơn qua phương thức trao đổi giao lưu thông
thương bình đẳng và định kì chủ yếu nhờ các dòng chảy huyết mạch
Mékong và Đồng Nai về Nam Bộ (Phạm Đức Mạnh, 1984).
252 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.3 Page 253

▲back to top
Phân tích quang phổ mẫu vật cho biết, công cụ, vũ khí, di vật nghệ
thuật Đồng Nai được chế tạo không phải từ đồng đỏ nguyên chất, mà là
từ đồng thau hợp kim nhân tạo: Cu + Sn (30 mẫu = 44,1%), Cu + Pb +
Sn (16 mẫu = 23,5%), Cu + Sn + Pb (11 mẫu = 16,2%); các hỗn kim ít
thấy hơn là Cu + Pb (6 mẫu = 8,8%), Cu + Pb + Sn + As (3 mẫu trống
= 4,4%), Cu + Pb + As (1 mẫu trống = 1,5%), chỉ 1 mẫu rìu ở Hiệp
Hoà (Biên Hòa) là có thể coi như đồng đỏ nếu chấp nhận rằng các hàm
lượng kim loại, lưỡng kim và á kim khác nhỏ dưới 1% được xem như
tạp chất đã sẵn trong quặng đúc.
Trong hệ thống di tích tiền Đông Sơn - Đông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ (Việt Nam), chiếm số luợng lớn nhất là các mẫu hợp kim Cu
+ Sn + Pb (208 mẫu = 31%), Cu + Sn (157 mẫu = 23,4%), Cu + Pb +
Sn (148 mẫu = 22,1%); trong khi đồng nguyên chất chiếm tới 76 mẫu
(11, 3%) lớn hơn tất cả hỗn kim còn lại như Cu + Pb (44 mẫu = 6,6%),
Cu + As (13 mẫu = 1,9%), Cu + Sb, Cu +Pb + As, Cu + Sn + Pb + As,
Cu + Pb + Sn + As đều có 5 mẫu (0, 75%), Cu + Sn + As (3 mẫu =
0,4%) và Cu + Sn + As + Pb (2 mẫu = 0,3%). Trong các bảng thống kê
đã nêu, các tỷ lệ thành phần hợp kim cơ bản tương ứng còn có thể tham
khảo qua nhiều sưu tập đã công bố ở Đông Nam Á đất liền và hải đảo,
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 253
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.4 Page 254

▲back to top
mà đáng chú ý nhất là các sưu tập Nam Trung Hoa (Vạn Gia Bá, Thạch
Trại Sơn, Đại Ba Na, với nhóm mẫu Cu nguyên chất tới 10 mẫu =
47,6%, Cu + Sn có 8 mẫu = 38,1%, Cu + Sn + Pb có 3 mẫu = 14, 3%)
và Bắc Thái Lan (Ban Nadi, Non Nok Tha, Obloang - Chiềng Mai, với
nhóm mẫu Cu + Sn tới 77 mẫu = 68,75%, Cu + Pb + Sn có 12 mẫu =
10,72%, Cu + Sn + Pb có 10 mẫu = 8, 92%, trong khi đồng nguyên chất
có 7 mẫu = 6,25% lớn hơn hỗn kim còn lại như: Cu + Pb (5 mẫu =
4,46%), Cu + Sn + As (1 mẫu = 0,9%). Các mẫu phân tích ít ỏi còn lại
ở Malaysia (Kampong Sungai Lang, Klang Selangor, Tembeling) có
7/8 mẫu là Cu + Pb + Sn, 1 mẫu Cu + Sn + Pb và ở Indonesia (Majbrate
- Tân Guinea, Hồ Kerinci - Sumatra, Kun Kah) chỉ 2/4 mẫu là Cu + Pb
+ Sn, các mẫu còn lại là Cu + Pb và Cu + Sn + Pb. Các quan hệ chi tiết
hơn về thành phần hóa học của các sưu tập đồ đồng ở Việt Nam (Đông
Nam Bộ, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ) và ở
Đông Nam Á, chúng ta có thể quan sát ở tổ chức đồ biểu diễn hàm
lượng Cu, Sn, Pb, As (H.114).
254 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.5 Page 255

▲back to top
Theo nhận định đã lâu
của GS.TS W.Solheim II,
hỗn kim Cu + Sn + Pb là
đặc điểm của sưu tập đồ
đồng Đông Sơn điển hình.
Trong nhóm mẫu của
Dốc Chùa (Bình Dương),
Bình Lộc (Đồng Nai)
có dung lượng đáng kể
phosphore (P), cũng phù
hợp với nghiên cứu của
I.R.Selimkhanov ở Non
Nok Tha (Hà Văn Phùng,
1981) và gợi ý về nguồn
quặng cùng chung một
điều kiện địa hình (Phạm
Đức Mạnh, 1984).
Trong khung cảnh
tiền - sơ sử Đông Nam Á
thời phổ cập nhiều công trình Cự thạch, hiện nay chúng ta có thể đi đến
nhận định rằng: Ngay từ giữa Thiên niên kỷ II trước Công nguyên, các
trung tâm đúc đồng theo một truyền thống riêng và “khác Ấn - Hoa
mà P.Bellwood (1978) gọi là “phong cách Đông Sơn” (H115) ở Bắc
Việt Nam và Nam Trung Quốc, cùng miền Đông Bắc Thái Lan nhiều
tiềm năng thành các lò sản xuất khởi nguyên của kỹ nghệ luyện kim
đồng thau toàn khu vực. Dưới ảnh hưởng của các lò trung tâm này và
xây dựng trên nền tảng nguyên liệu nhập từ Đông Sơn hoặc Thái Lan,
đã phát sinh và phát triển nghề chế tác kim loại đồng thau ở Đồng Nai.
Một trung tâm luyện kim độc lập mới tuy phụ thuộc vào nguồn quặng
nhập khẩu thường kỳ, vẫn khu biệt trong phong cách tạo khuôn 2-4
mang nhằm sản xuất hàng loạt những sản phẩm đồng thau của riêng
mình, có thể đã hình thành vào ranh giới hai Thiên niên kỷ II-I trước
Công nguyên ở cuối nguồn của Mekong.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 255
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.6 Page 256

▲back to top
Bắt đầu từ Thiên niên kỷ I trước Công nguyên, những người thợ
đúc chuyên nghiệp Đông Nam Bộ đã cung ứng cho cộng đồng người
cổ thuộc cương vực phía Nam của phức hệ di tích văn hóa Sa Huỳnh
gần như toàn bộ công cụ, vũ khí, trang sức bằng đồng thau, mà chỉ vài
thế kỷ sau còn tiếp tục bán cả qua đồng và chuyển giao đồ sắt. Cùng với
binh khí mũi nhọn kiểu “qua” (Ko) của Trung Nguyên và nhạc khí kiểu
trống đúc theo hình mẫu của “phong cách Đông Sơn” (hình mẫu trống
Đông Sơn từng điêu khắc có dây buộc quai đeo ngang vai người lính
dắt kiếm mang vòng ống trên phù điêu Cự thạch Batoegadjan, hay hình
trống Heger I chạm cùng 2 người và 1 con chó ở Cự thạch Airpurah
được nhiều học giả coi là bằng chứng liên hệ văn hóa Cự thạch Pasemah
với văn hóa Đông Sơn trong Thiên niên kỷ I trước Công nguyên);
những di vật đặc thù Đồng Nai, nhất là rìu lưỡi trũng, giáo chuôi nhỏ,
dao gặt và tượng tròn (chó săn chồn dơi, trút Manis javanica) và cả bộ
khuôn đúc sa thạch lớn nhất khu vực chứng nhận sự phát triển của nghề
chế luyện vật phẩm kim loại trong các xưởng đúc rải khắp lưu vực
Đồng Nai, khắc họa những tiến bộ kỹ thuật và đặc trưng của giai đoạn
phát triển cao trong truyền thống văn hóa tiền sử - sơ sử của cộng đồng
người chủ nhân quần thể Cự thạch bản địa. Và, cùng với Đông Sơn
(Bắc Việt Nam - Nam Trung Quốc) và Thái Lan, có thể tin được rằng
Đồng Nai đã thực sự trở thành một trong những trung tâm quan trọng
nhất của kỹ nghệ luyện kim đồng thau Đông Nam Á (H116).
Từ giữa Thiên niên kỷ I trước Công nguyên - niên biểu đầu tiên chỉ
dẫn các công cuộc khởi dựng Cự thạch Hàng Gòn chuẩn bị cho “động
thổ”, Đồng Nai đã thực sự trở thành một trung tâm rèn sắt sớm, với
sản phẩm hoàn chỉnh minh chứng cho một cuộc sống sơ sử Đồng Nai
thanh bình hơn là chiến trận, dẫu cho đây là “thời đại cây kiếm Sắt”
(Engels, F., 1848).
Sự phổ cập công cụ lao động từ khai hoang vỡ đất đến canh tác và
thu hoạch bằng sắt tiến bộ hơn, đã chuyển đổi chất lượng và năng suất
lao động, mở rộng những tiểu vùng dân cư, các phân miền kinh tế sản
xuất và khai thác mới, củng cố những liên hệ kinh tế, kỹ thuật, văn hóa,
tín ngưỡng nội vùng, tạo thành những điều kiện cơ yếu cho tập trung tài
256 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.7 Page 257

▲back to top
sản, tích lũy kho báu,
phân hóa giàu nghèo,
thu hút và mật tập
nhân công, quản lý
lao động cộng đồng
và cố kết quyền lực
trung tâm của các
Kurung - Varman
liên vùng - tiểu vùng,
đáp ứng sức ép của
thực tế tăng trưởng
dân số, di cư, nhập
cư, hỗn cư và nhu
cầu phát triển tất yếu
của xã hội nguyên
thủy bản địa vào xã
hội văn minh có cấu
trúc sơ khai của Nhà
nước đầu tiên - một
Nhà nước có kinh đô
của quốc vương, có
thành của các chúa địa phương tự quản nhiều làng ấp như các “đơn
vị hành chính cơ sở”, mà hạt nhân đầu tiên của cấu trúc xã hội mới là
các tiểu gia đình phụ hệ thay dần chỗ của các đại gia đình mẫu hệ và
cộng đồng làng dân cư hành chính tôn giáo theo lãnh thổ cũng thay
cho cộng đồng làng theo huyết hệ (Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm,
Mạc Đường, 1990). Đấy, như đã nói, cũng là thời đoạn bắt đầu cuộc
tình duyên Hỗn Điền - Liễu Diệp diễn ra ở xứ sở phì nhiêu này, đi vào
huyền thoại và cổ sử (Phạm Đức Mạnh, 1996, 1997).
Sự xuất hiện công cụ, vũ khí sắt trên các cánh đồng và các chiến
trường Đông Nam Bộ thời sơ sử (H109) cũng là lúc bắt đầu xuất lộ
những quả cân bé tí nhưng tinh chế bằng đá ở Dốc Chùa và bằng sắt ở
Phú Hòa, các quả cân cỡ rất nhỏ hẳn đặc chế cho thương gia chỉ dùng
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 257
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.8 Page 258

▲back to top
cân “bảo vật”. Chúng dường như là vật chứng còn bảo tồn để xác nhận
sự phát triển ở trình độ mới của sản xuất không chỉ đơn thuần phục
dịch nhu cầu nội vùng của cộng đồng xã hội người bản xứ, mà còn
đáp ứng cho việc khai triển trao đổi thông thương ngoại vùng từ lương
thực, thực phẩm, lâm hải sản đến ngưồn quặng hiếm quý, các tác phẩm
nghệ thuật, các đồ trang sức kim hoàn, gương đồng kiểu Tây Hán và đồ
chuyên dùng cho các nghi lễ, tín ngưỡng tôn giáo thiêng liêng và nhiều
bảo vật khác (H110).
Có thể là ở đây và từ thời gian này, đã hình thành trên cơ tầng nộng
nghiệp cộng đồng sự phân công lao động xã hội sơ khai giữa các ngành
nghề kinh tế chủ đạo (nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và
cả nghề trồng lúa nước ở những tiểu vực khả thực nhất, trồng hoa màu,
cây có củ cho bột, cây cho trái và chăn nuôi) và những ngành cung ứng
lương thảo, thực phẩm, hương liệu và lâm hải sản tiền sử khác (săn bắn,
đánh cá, hái lượm những sản phẩm “sơn hào hải vị” của núi rừng, suối
sông, đầm lầy, biển cả); sự phân vùng khai thác các tiềm năng thiên
nhiên khả quan nhất của mỗi tiểu vùng và chuyên môn hóa những
258 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.9 Page 259

▲back to top
ngành thủ công quan trọng nhất, cùng đội ngũ thợ nghề chuyên nghiệp
thực thi, phục vụ trước hết các đòi hỏi cổ truyền của kinh tế chủ đạo và
yêu cầu đương đại của kinh tế nông nghiệp trồng trọt, khai thác, sản
xuất thủ công giao lưu thông thương nội và ngoại vùng, có tác dụng
như là “đòn bẩy mạnh mẽ của sản xuất” xã hội (F.Engels).
Trong tổng thể kết cấu văn hóa của cộng đồng tộc người Đồng Nai
buổi khởi dựng các công trình Cự thạch, chính nền nông nghiệp dùng
cuốc triển khai nơi nương rẫy và đồng bằng châu thổ là cơ sở nền tảng
và là động lực cho sự phát triển đa dạng song chuyên hóa hệ ngành
nghề hỗ trợ. Chính sự phát triển của nông nghiệp là “cơ sở kinh tế” của
toàn xã hội tiền sử - sơ sử Đồng Nai, cũng như là “cơ sở kinh tế của cả
những nền văn hóa và văn minh phát triển cao nhất” (Masson, V.M.,
1983).
Chính trong địa vực “cửa ngõ” (Gateway) của các luồng giao lưu
văn hóa, kỹ thuật trên sông biển Đông Nam Á, nơi được coi là “ngã
ba đường của các nghệ thuật” (Le carrefour des Arts) (Groslier, B.P.,
1961), hoặc “ngã ba đường của dân cư và văn minh” (Carrefour de
peuple et de civilisation) (Jansé, O., 1961), những thương nhân Đồng
Nai, trên những con
thuyền khoét rỗng từ
gỗ sao hay bè mảng
ghép từ tre nứa,
thông thương ngược
xuôi các dòng chảy
huyết mạch hay men
theo bờ biển, khai
thông những hành
trình giao lưu buôn
bán, học hỏi kỹ thuật,
tích lũy kinh nghiệm
sáng tạo văn hóa, hóa
thân trong các lễ hội
lạ, mục kích nhiều
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 259
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

26.10 Page 260

▲back to top
thắng cảnh và kiến trúc Cự thạch, tiếp xúc với nhiều vùng miền đất,
đảo khác của Đông Nam Á và châu lục. Có thể trong thực tế lịch sử còn
tồn tại những con đường thông thương trên cạn, quản tượng hay lội bộ,
vượt núi băng rừng gian khổ không thua gì hành trình tìm nguồn quặng
hiếm và chuyển vận Cự thạch. Nhưng trong Thiên niên kỷ I trước Công
nguyên, khi mà bình diện khu vực của “phong cách Đông Sơn” đã thực
sự thành hình (H111-115), chúng ta có nhiều cơ sở hơn để vững tin
rằng: Các lái buôn thương nhân Việt cổ đủ ý chí và năng lực sử dụng
những hải thuyền quen thuộc của mình (hẳn sẽ không khác nhiều các
hình thuyền khắc trên trống đồng mà họ là tác giả nguyên thủy nhất)
men theo dòng chảy lớn nhất Đông Nam Á Mekong, qua những lãnh
địa có liên quan vào miền Đông Nam Bộ; hoặc giả họ mở đường hàng
hải trực tiếp vượt biển Đông vào Nam Bộ, giống như các “trạm dừng
chân” trước các cuộc viễn dương vào thế giới hải đảo của khu vực và
châu lục.
Đây cũng là những con đường giao lưu văn hóa, thông thương đặc
sản, liên kết mối lái và bằng hữu, chuyển giao kỹ nghệ, lan truyền các
cảm hứng nghệ thuật và tín ngưỡng tiền sử - sơ sử trọng yếu nhất và
khả thực nhất với trình độ sử dụng địa hình nguyên thủy trên đất liền,
theo sông, vượt biển trực tiếp hoặc gián cách qua các văn hóa cầu nối
đến với Đồng Nai và từ Đồng Nai lại ra đi... Sự ảnh hưởng của văn
minh Việt cổ đến Đồng Nai có hiệu lực như tác nhân kích thích quan
trọng trong quá trình phát triển lịch sử văn hóa, mà qua hơn thế kỷ với
bao thế hệ học giả nỗ lực kiếm tìm và suy ngẫm, chúng ta quan sát được
ở Đồng Nai. Thế nhưng, những nhân tố gắn liền với sự phát triển nội
tại, quy định bản sắc văn hóa, nội hàm văn minh tiền - sơ sử Đồng Nai
và hun đúc bản lĩnh hào khí những con người đã biến mơ ước xây
dựng “thánh thạch” thành hiện thực - người cổ Đồng Nai - “quả tim
đích thực của văn hóa”, trong suy nghĩ của tác giả, đóng vai trò quyết
định.
Bởi thế, cho dù có chứa đựng các yếu tố “ngoại nhập” (đồ trang
sức bằng đá quý và bán quý, mã não như agate, granat, cornaline, bằng
thủy tinh nhân tạo đủ sắc màu, bằng bạc hay vàng, bông tai 3 mấu nhọn
260 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27 Pages 261-270

▲back to top

27.1 Page 261

▲back to top
giống trang sức “Lingling - O” của thổ dân vùng núi Philippines và vật
đeo có hình 2 đầu thú được coi như “đặc sản văn hóa Sa Huỳnh”, thủ
pháp tô màu trang điểm gốm giống Tây Phương Thiên Trúc, phong
cách đúc đồng theo nguyên mẫu trống Đông Sơn hay mẫu “Ko” Hoa
Hạ, gương đồng Tây Hán, tư duy mai táng các Kurung - Varman hay
người thân đã khuất trong các quan tài bằng thân cây khoét rỗng kiểu
tiền Việt - Mường hay Việt cổ, hoặc trong quan tài bằng vò chum gốm
có lẽ là sáng tạo riêng của cư dân vùng cận biển; hay cả lối thờ cúng
các tiên tổ và nhân thần bằng Cự thạch, tôn vinh công đức các thủ lĩnh
nắm vương quyền và thần quyền cao nhất cộng đồng trong các công
trình Đá lớn dạng “Dolmen” hay “Big-Stone Cist” của văn minh hải
đảo). Phức hệ văn hóa tiền sử - sơ sử Đồng Nai chính là “nền cảnh
hay “cái phông” văn hóa của quần thể Cự thạch đặc sắc vào bậc nhất
trên đất liền của khu vực Đông Nam Á. Cả phức hệ văn hóa này trình
diễn trước chúng ta hôm nay như một hiện tượng lịch sử riêng biệt về
cơ bản có kích thước văn hiến độc đáo và phân biệt về chất với mọi văn
hóa kim loại có hoặc không kiến tạo “thánh thạch” gần xa cùng thời ở
quy mô toàn khu vực hay châu lục.
Những đặc trưng và thành quả điển hình nhất nằm ngoài lòng hầm
Cự thạch chứa “thánh tích” của chủ nhân phức hệ văn hóa này được thể
hiện trong tất cả không loại trừ bất cứ sưu tập nào từ đá, đồng, sắt, bạc,
vàng đến gốm, gỗ hay xương, sừng, ở bất kỳ thời gian vận động nào
và phản ánh chân xác tình trạng xã hội Đồng Nai xưa, kinh tế, văn hóa
và tín ngưỡng, tôn giáo sơ khai của cư dân bản địa, biểu dương những
nét đặc thù của nghệ thuật tiền sử - sơ sử Đồng Nai, nền nghệ thuật dân
gian bình dị mộc mạc được sản sinh trên cơ sở Cầu Sắt - Suối Linh từ
thời còn “hồng hoang” Đồng - Đá (Enéolithique) và lớn lên nhờ tiềm
năng sinh thái nhiệt đới - á nhiệt đới bán sơn địa nơi cửa sông và tam
giác châu thổ cận biển, nhờ kinh nghiệm sống biết hòa nhập và biến đổi
thiên nhiên, nhờ truyền thống và thế mạnh của giao lưu đón nhận khá
sớm những thành tựu tri thức nhân loại ưu việt và hữu ích đương thời,
không ngừng tái tạo và “cha truyền con nối” sự nghiệp xây đắp xã hội
cổ Đồng Nai - những “thiên nhiên thứ hai” của chính mình trên mảnh
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 261
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.2 Page 262

▲back to top
đất rất nhỏ bên bờ biển Thái Bình mang tên Đông Nam Bộ (Phạm Đức
Mạnh, 1991-2001).
Đấy cũng chỉ mới là đôi nét hình hài diện mạo và lịch sử văn hóa
của chủ nhân những công trình kiến trúc Cự thạch ưu tú khả dĩ giữ vai
trò “thánh địa” ít nhất 5 thế kỷ kế cận Công nguyên nhất. Trên nền
cảnh lịch sử đặc thù ấy, sự diễn biến văn hóa nguyên thủy vào văn
minh sơ khởi ở quy mô lưu vực hiển nhiên là phản ánh sinh động và
sôi nổi cuộc sống giao thời sơ sử - cổ sử Đồng Nai trong diễn trình hội
nhập với văn minh Óc Eo từ tâm điểm khởi thủy nơi đô thành, thị cảng
dọc cửa biển Mekong mà ngay trong các thế kỷ I, II-VI, VII sau Công
nguyên“...được nuôi dưỡng bằng phù sa sông Hậu” (Hà Văn Tấn,
1984) và với “thánh địa mới” kiểu “bồn địa giữa núi” Cát Tiên ở ngã
ba Đạ Đờng nơi cao nguyên Đồng Nai Thượng vào khoảng cuối Thiên
niên kỷ I sau Công nguyên (thế kỷ X-XII) (Trần Quốc Vượng, 1996,
1999), khi các đô hội, cảng thị kiểu Óc Eo - Ba Thê, Tháp Mười - Bình
Tả, Thị Vải - Cần Giờ miền hạ lưu thất thủ vì nhiều luồng công phá của
con người từ ngoại vực và của cả thiên nhiên (Sakurai, Y., 1996; Phạm
Đức Mạnh, 1997) (H117-118).
Sự biến diễn văn hóa cổ nhất là ở buổi đầu của thời này sẽ mang diện
mạo và khuynh hướng mới, với cơ chế “hội nhập văn hóa” (Cultural
intergration) trong các điều kiện, phương thức và tiến độ giao lưu mới,
nhanh mạnh và thực dụng hơn, mà cũng nhờ nó, xã hội cổ sử Nam Bộ
ở các thế kỷ đầu Công nguyên được chứng kiến thêm những biến cố
chính trị chưa từng có trong tiền sử về ý nghĩa ngoài cộng đồng và công
cuộc xây đắp làm giàu bản sắc truyền thống trong bối cảnh lớn rộng
hơn của miền Nam Đông Dương lại diễn ra ở tầm mức mới hữu hiệu
và tiến bộ hơn. Theo thiển ý của tác giả, đó là điều có thể hiểu và hình
dung được và từ tri thức khảo cổ học hiện trạng những trung tâm quần
tụ dân cư nhiều thành phần dân tộc và danh phận xã hội, những trung
tâm hội nhập giao lưu, kết tinh văn hóa, mật tập vương binh thần quyền
mới sau tiền sử của một cấu trúc kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, thương
mãi, chính trị, tôn giáo đa và liên cộng đồng ở buổi giao thời sơ sử - cổ
262 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.3 Page 263

▲back to top
sử; một tổ chức xã hội cao hơn, có sức mạnh hơn và tầm vóc lịch sử
lớn hơn, đặc trưng bằng sự manh nha Nhà nước thuộc loại rất sớm của
khu vực; cùng những kiểu đô thị, hải cảng - “phố cù lao” thích hợp
môi sinh và mang đặc thù ở bước đi ban đầu sau Công nguyên, đáp ứng
hiệu quả quá trình bành trướng ảnh hưởng của văn minh Sông Hằng mà
nhiều học giả phương Tây và Bắc Mỹ gọi là “Ấn Độ hóa” (Hindouisé;
Indianisé; Indianization), với các làn sóng văn hóa Bà La Môn và Phật
giáo Bắc Tông - Nam Tông theo chân các đạo sĩ và sư tăng ni từ Tây
Phương Thiên Trúc, và nhiều phương khác nữa, dồn đến Nam Bộ (Việt
Nam) và địa vực Nam Đông Dương.
Bức tranh tổng quát của quá khứ cổ sử miền cao nguyên và đồng
bằng ven biển Đông ở tận cùng miền “đất rừng phương Nam” của Tổ
quốc ta hiện nay, nhờ giải mã thấu đáo các quy trình giao lưu tương hỗ
và hội nhập, kết tinh văn hóa biện chứng ấy, có thể hình dung ở mức
chân xác nhất và rất hấp dẫn từ những đường nét cơ bản khả thực và
đặc sắc trong ít nhất không dưới 7 thế kỷ - tính từ lúc người Đồng Nai
thực sự đã bước hẳn ra ngoài thời nguyên thủy.“Cái đã qua chính là
màn giáo đầu cho cái sẽ tới”(William Shakespeare).
Và từ các làng cổ trên đồi cao, rừng thẳm, ốc đảo, cù lao (Cầu
Sắt, Hàng Gòn, Dầu Giây, Suối Chồn, Bình Đa, Cái Vạn, Bưng Bạc,
Bưng Thơm...), từ những “cánh đồng chum” dành cho đủ hạng dân ở
vùng cao đất đỏ bazan Xuân Lộc, Long Khánh, Cẩm Mỹ hay nơi cửa
bể Cần Giờ, đến các “nghĩa địa chum” dành cho thủ lĩnh ven bờ đầm
Phú Chánh (Bình Dương), cùng kho tàng chứa vũ khí, tượng quý Long
Giao và quần thể kiến trúc mộ Cự thạch Hàng Gòn, từ những “hiện
tượng Đồng Nai” trong lịch sử thăng trầm của văn hóa và văn minh
Đông Nam Á, những “đỉnh cao” của cuộc sống tiền sử - sơ sử bản địa
ấy, cuộc sống cổ sử lại bắt đầu ở chính mảnh đất “Biên Hùng” này,
dù cho Cự thạch Hàng Gòn dần đi vào Thiên kỷ không còn là “thánh
thạch” nữa, dù cho:
“Trăm năm bia đá thì mòn ...”
(Ca dao).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 263
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.4 Page 264

▲back to top
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO
AIYAPPAN, A, 1945. “The Megalithic Culture of Southern India”
- 32nd Indian Science Congress, Presidential Address: Anthropology
and Archaeology Section, 32.
ALLCHIN, B. - ALLCHIN, F.R, 1968. “The Birth of Indian
Civilization” - Harmondsworth, Penguin Books; 1982. The Rise
of Civilization in India and Pakistan - Cambridge University Press,
Cambridge.
AN, CHI-MIN, 1954. Khảo cổ học báo (chữ Trung Quốc), 7:77-
101.
ARNDT, P.P., - S.V.D., 1932. “Die Megalith Kultur der Nad’a
(Flores)” - Anthropos, 1-2.
ATKINSON, R.J.C., 1956. Stonehenge, Hamish Hamilton,
London.
BABINGTON, J., 1823. “Description of the Pandoo coolies in
Malabar” - Transactions of the Literary Society of Bombay, 3:324-330.
BAHN, P.G., ed., 1995. 100 Great Archaeological Discoveries,
Barnes and Noble Books, Hull - London.
BANERJEE, N.R., 1965. “The Iron Age in India” - New Delhi:
Munshiram Manoharlal.
BATCHELOR, D., 1999. “Megalithic Culture in Europe: A
Stonehenge Case Study” - World Megalithic Culture, Korea.
BECK, H.C., 1937. “Beads from slab graves in Malayan in
Southern Perak” - Bulletin of the Raffles Museum, Singapore, B, 1 (2):
75-79.
BELLWOOD, P., 1978. Man’s Conquest of the Pacific. New York,
Collins, Auckland-Sydney-London.
264 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.5 Page 265

▲back to top
BENEDICT, P.K., 1976. “Austro - Thai and Austroasiatic” -
Austroasiatic Studies, I (eds. P.N. Jenner - L.C. Thompson, S. Slarosta.
Hawaii.
BENOIT, F., 1912. “L’Architecture” - L’Orient meựdieựval et
moderne. Laurens, 4:464-465. Paris.
BEZACIER, L., 1972. Le Vietnam, de la préhistoire aứ la fin de
l’occupation Chinoise. Paris: Picard.
BIE, C.W.P.De., 1932. “Verslag van de ontgraving der Steenen
Kamers in de doesoen Tandjoeng Ara, Pasemah Hoogvlakte - TITLV,
72: 626-635.
BINTARTI, D.D., 1981. “The bronze object from Kabila, West
Sabu, Lesser Sunda Islands-Aspek-Aspek Arkeologi Indonesia” -
Pusat Penelian Arkeologi National, 8. Jakarta.
BOSCH, F.D.K., 1930. “Verslay van een Reisdoor Sumatra”,
Oudheidkundig Verslag. Bijlage C.
BOUCHOT, J., 1927a. “Les fouilles (de Xuan Loc)” - BSEI,
nouvelle série, 2(2): 155-156, 1pl. Sai Gon; 1927b. “Fouilles (à Xuan
Loc)” - BSEI, nouvelle série, 2(3): 219-220. Sai Gon; 1929. “Quelques
notes en marge de la découverte de Xuan Loc” - BSEI, nouvelle série,
4(2): 114-124, 4 pl. Sai Gon.
BOULBET, J., 1964. “Modes et technique du Pays Ma” - BSEI,
nouvelle série, 34 (2). Sai Gon.
BREEKS, I.W., 1873. An Account of the primitive tribes and
monuments of the Nilgris. London: William H.Allen.
BÙI KIM ĐÍNH, 2005. “Phát hiện di tích Cự thạch Thái Lai (Hà
Nội)” - NPHMVKCH 2005: 447-449.
BURGESS, J., 1874. “The dolmens at Konur and Aihole” - Indian
Antiquary, 3: 306-308.
CHANDRAN, J., 1978a. “Living Stones” - the Straits Times
Annual 1978; 1978b. “The Menhirs of Sabah” - Pelita, 2; 1982. “The
Megalithic Culture in Malaysia: A Survey of Megaliths and associated
finds in Peninsula Malaysia, Sarawak, and Sabah” - MCA, 99-126.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 265
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.6 Page 266

▲back to top
CHENG, T.K., 1963. Chou China. The Archaeology of China.
Cambridge, 3, 47: 181-182.
CHILDE, V.G., 1948. “Megaliths” - Ancient India, 4:5-13. New
Delhi.
CHOO, A.A., 1987. A Guide to the Collections National Museum
Singapore - Archaeology, Published by Order of the Director National
Museum, Singapore.
CHRISTIE, A.H., 1979. “The Megalithic Problem in South East
Asia” - Early South East Asia, I: 242-252. New York-KualaLumpur:
Oxfort University Press.
CHU QUANG TRỨ, 1999. Kiến trúc dân gian truyền thống Việt
Nam, Hà Nội: Mỹ thuật.
CODRINGTON, K., de B., 1930. “Indian cairn and urn burials”
- Man, 39:139.
COEDÈS, G., 1968. The Indiannised States of Southeast Asia -
East-West Centre Press. Honolulu.
COLANI, M., 1932. “Champis de jarres monolithiques et de
pierres funéraires du Tranninh” - Praehistorica Asiae Orientalis, 1:
103-128. Ha Noi; 1934. “Champis de jarres monolithiques et de pierres
funéraires du Tran-Ninh (Haut-Laos)” - BEFEO, 33(1): 355-366. 1935.
Mégalithes du Haut Laos (Huapan - Tranninh) - PEFEO, 1-2, Paris.
COLLING, S.H.D., 1937. “Recent Finds of Iron - Age Sites in
Southern Perak and Selangor, Federated Malay States” - Bulletin of the
Raffles Museum, B-1 (2): 75-120. Singapore
CUNNINGHAM, A., 1871. Report of the Archaeological Survey
in India for 1862-1865 - Simla: 1, Introduction: 30-31 (Reprinted,
Varanasi: Indological Book House 1972).
DAS, T.C., - CHATTERJEE, A.N., 1927. The Hos of Seraikella -
Anthropological papers of the University of Calcutta, 1: 1-94.
DE, P., 1978. Human skeletal materials and cultural contents
in ancient India: A Study on spatiotemporal relationships - Ph.D.
dissertation, University of Calcutta, 447-454.
266 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.7 Page 267

▲back to top
DEO, S.B., 1970. Excavations at Takalghat and Khapa - Nagpur:
University Press; 1973. Problem of South India Megaliths - Dharwar:
Karnataka University; 1985. “The Megalithic Problem: A Review” -
RAIPP, 447-454.
DIỆP ĐÌNH HOA, NGUYỄN VĂN BỬU, 1977. “Đồ đồng
thau Dốc Chùa (Sông Bé) qua phân tích quang phổ” - NPHMVKCH
1977:106-108.
DIZON, EUSEBIO, Z., 1999. “Micro-megalithic Culture in
Batanes Islands,Northern Philippines” - World Megalithic Culture,
1999, Korea.
DO, Y.H., 1959. “A Study of Korea Megalithic Culture” -
Kokominsok, 4.
ĐẶNG BÍCH HÀ, PHẠM NGUYÊN LONG, VŨ CÔNG QUÝ,
NGUYỄN LỆ THI, NGUYỄN DUY THIỆU, NGUYỄN HÀO
HÙNG, TRẦN CAO THÀNH, 1997. Lịch sử Lào, Hà Nội.
ĐẶNG VĂN THẮNG, VŨ QUỐC HIỀN, NGUYỄN THỊ HẬU,
NGÔ THẾ PHONG, NGUYỄN KIM DUNG, NGUYỄN LÂN
CƯỜNG, 1998. Khảo cổ học tiền sử và sơ sử Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
ĐÀO HUY QUYỀN, 2007. Tượng gỗ Tây Nguyên. Thành phố Hồ
Chí Minh.
ĐÀO LINH CÔN, NGUYỄN DUY TỲ, 1993. Địa điểm khảo cổ
học Dốc Chùa, Hà Nội.
ĐỖ BÁ NGHIỆP (chủ biên), 1993. Đồng Nai di tích văn hóa,
Đồng Nai.
ĐỖ VĂN NINH, 1974. “Những khu mộ Mường ở Hòa Bình” -
KCH, 16: 139-140; 1977. “Mộ Mường và tục chôn cất truyền thống
Việt Nam” - Dân tộc học, 2.
EERDE, I.C., Van., 1929. “Kort Verslay nopens de studiereis van
den Directeur der Afdeeling Volkenkunde naar Nederlandsch” - Indie,
19de Jaar Verslag der Koninklijke Vereeniging “Koloniaal Instituut”.
Amsterdam.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 267
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.8 Page 268

▲back to top
ENGELHARD, H.E.D., 1891. “Controleur B.B. letter to the
“Bataviaasch Genootschap” concerning the Images Pageralam 1 and
Tandjoengara 1”, Not B.G. 37-38.
ENGELS, F., 1848. Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước - Bản dịch Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội: 1971.
EVANS, I.H.N., 1927. “On Slab-built Graves in Perak” - JFMSM,
12 (5): 111-119; 1929. “Tombeaux construits en dalles aứ Peựrak” -
BSEI, 4 (1); 1931. “A Futher Slab-built Grave at Sung Kai, Perak” -
JFMSM, 15 (2): 63-64.
FENG, H.C., et al., 1973. Khảo cổ học báo (chữ Trung Quốc), 2:
41-60.
FERGUSSON, J., 1872. Rude Stone Monuments in all countries,
their ages and uses. London: John Murray.
FLEMING, M.E., 1963. “Observations on the megalithic problem
in Eastern Asia” - BIEAS, 15:153-162.
FONTAINE H., 1970. “Découverte d’un nouvelle station
Néolithique dans la province de Bien Hoa” - AGVN, 13 (2): 87-101,
5 pl; 1971a. “Enquête sur le Néolithique du bassin inférieur du Dong
Nai” - AGVN, 14: 47-116; 1971b. “Renseiquements nouveaux sur la
céramique du champ de jarres funéraires de Dau Giay” - BSEI, 46
(3): 323-328; 1972a. “Nouveau champ de jarre dans la province de
Long Khanh” - BSEI, 47 (3): 397-446; 1972b. “Deuxième note sur le
“Néolithique” du bassin inférieur du Dong Nai” - AGVN, 15: 123-129;
1973. “Note sur la découverte de perles du site de Dau Giay” - BSEI,
48 (4): 619-620.
FONTAINE H., - DELIBRIAS G., 1973. “Ancient marine levels
of the Quaternary in Vietnam - Translation of “Anciens niveaux marins
du Quaternaire au Vietnam” par Mr. W.Meachanu” - Journal of the
Hong Kong Archaeological Society, 4: 29-33.. Hong Kong
FUJIMOTO, T., 1979. Sites and Findings in Ancient Hokkaido.
Tokyo.
268 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.9 Page 269

▲back to top
GASPARDONE, E., 1955. “The megalithic tomb of Xuan Loc
(Cochinchina)” - JGIS, 4 (1): 26-35.
GHOSH, A.K., 1965.”The dying custom of megalithic burials
in India” - Bulletin of the International Commission on urgant
Anthropological and Ethnological Researcher, 7: 13-16; 1975.
“Prehistoric religion from Indian megaliths - Valcamonia Symposium
1972”- Actes du “Symposium International sur les religious de la
Prehistoire”, 443-452. Capo di Ponte.
GIFFEN, A.E., Van., 1927. “De Hunne bedden in Nederland” -
Utrecht, 1:137.
GORDON, D.H., 1950. “The early use of metals in India and
Pakistan” - Journal of the Royal Anthropological Institute, 80: 55-78;
1954-1955. “The pottery industries of the Indo-Iranian border: a re-
statement and tentative chronology” - Ancient India , 10-11: 172-174..
New Delhi
GROSLIER, B.P., 1961. Indochine, Carrefour des Arts. Paris;
1966. Indochine. Negel, 143-144. Genéve.
GUNADI, N., 1980. “Laporan ekskavasi kubur Kalang” -
Bojonegoro, Java Timur (Report on excavation of “Kalang” graves -
Bojonegoro, East Java. Interim Report), Jakarta; 1986. “Watu kandang
salah satu unsur megalitik (Watu kandang or stone stall as megalitihic
element)” - Pertemuan Ilmiah Arkeologi 2, Jakarta.
GURDON, P.R.T., 1907. The Khasis. London; Macmillan.
GURURAJA, RAO, B.K., 1972. “The Megalithic Culture in
South India”, Mysore, 234-253.
HÀ QUANG HẢI, 1996. Đặc điểm địa tầng Đệ tứ và đặc điểm địa
mạo miền Đông Nam Bộ - Luận án PTS KHĐL-ĐC, Hà Nội.
HÀ VĂN PHÙNG, 1981. “Vấn đề luyện kim và chế tác kim loại
thời dựng nước đầu tiên” - KCH, 3: 44-55.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 269
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

27.10 Page 270

▲back to top
HÀ VĂN TẤN, 1987. “Địa hình các di tích thời đại Kim khí
Việt Nam” - KCH, 4: 31-35; 1994. “Thuyền, mộ và mộ thuyền” -
TBKHVBTLSVN, 46-51; 1996. “Lời khai mạc Hội nghị thông báo khảo
cổ học lần thứ 31” - NPHMVKCH 1996:3-5; 1999-cb.b. Khảo cổ học
Việt Nam. I: Thời đại Kim khí. Hà Nội
HAAN, B., De., 1921. “Rapport over de Werkzaamheden op Oost-
Java” - O.V.II,Bijlage H.
HARRISSON, T., 1958. “Megaliths of Central and Western
Borneo” - Sarawak Museum Journal, 8 (11): 394-401; 1961. “Megaliths
of Central Borneo and Western Malaya, compared” - Sarawak Museum
Journal, 2 (10); 1964. “Inside Borneo” - Geographical Journal, 130;
1973. “Megalithic EVidences in East Malaysia” - JMBRAS, 46 (1)..
Singapore
HEEKEREN, H.R., Van., 1931. “Megalithisch overblijfselen
in Besoeki” - Djawa, July,11: 1-18; 1958. The Bronze-Iron Age of
Indonesia. The Hague (S-Gravenhage: Martinus Nijhoff).
HEINE-GELDERN, R., Von., 1937. “L’Art preựbouddhique de
la Chine et de l’Asie du Sud-Est et son influence en Oceựanie” - Revue
des Arts Asiatiques, 11 (4): 177-206, Paris; 1945. “Prehistoric Research
in the Netherlands Indies” - Science and Scientists in the Netherland
Indies (eds. P.Honig - F.Verdon), New York: Board for the Netherland
Indies, Surinam and Curacao, 129-167. New York.
HIGHAM, C.F.W., 1996. The bronze Age of Southeast Asia.
Cambridge University Press. Cambridge.
HOOP, A.N.J,.Th.Van.der., 1932. Megalithic remains in South
Sumatra (trans. By W.Shirlaw). Zutphen.
HOVEN, W., 1927. “De Pasemah en haar Verwantschaps”,
Huwelijks-en Erfrecht, Dissertation, Leiden.
HUBENET, J.B., 1903. “Letter, addressed to the Bataviasch
GenootschAP, 20 May 1903, concerning dolmens in the Kendeng-
MountAIns, East-Java” - Not.B.G.,55.
270 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28 Pages 271-280

▲back to top

28.1 Page 271

▲back to top
HUGO, H.J., 1998. “Nghệ thuật trên đá” - Người đưa tin UNESCO,
4/1998, Hà Nội.
HUNT, E.H., 1924. “Hyderabad cairn burials and their significance”
- Journal of the Royal Anthropological Institute, 54: 140-156.
HUỲNH HOA, 1997. “Heat of Stone” - Heritage, September/
October-97: 37-42.
HWANG, K.D., 1965. “The Bronze Age Social Problems
considered with graves system”- Kokominsok, 14.
IM, S.G., 1976. “A Synthetic Study of the Dolmens in the Korean
Peninsula” - The Baiksan Hakbo, 20.
IMAMURA, K., 1996. Prehistoric Japan - University College
London Press, England.
JANSÉ, O.R.T., 1961. “Vietnam, carrefour de peuples et de
civilisation” - France-Asie, 17 (165): 1645-1670, Tokyo.
JOHN, K.J., 1985a.”The Megalithic Culture in Manipur” - RAIPP,
441-446; 1985b. “The Megalithic Culture of Kerala” - RAIPP, 485-
489.
KAGAMIYAMA, T., 1955. Dolmens in Western Japan. Fukuoka.
KAPITA, O.H., 1976. “Masyarakat Sumba dan adat istiadatnya” -
Jakarta: Gunung Mulia, Waingapu.
KAUFFMANN, H.E., 1971a.”Stone memorials of the Lawa
(North West Thailand)” - VSS, LIX (1): 129-151; 1971b. “Traces de
meựgalithisme in Thailande” - Meựlanges de preựhistoire, d’archeựo-
civilisation et d’ethnologie offerts aứ Andreự Varagnac, 487-498.
Paris: Sevpen.
KEANE,A.H., - HADDON, A.C., 1920. Man past and present.
Cambridge.
KIM, B.M., 1982. ed. Megalithic Cultures in Asia (MCA), 2.
Hanyang University Press, Seoul, Korea.
KIM, J.B., 1973. “Distribution of the Oviparous myth” (Japanese)
- Han, 13.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 271
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.2 Page 272

▲back to top
KOCHANG COUNTY, CHOLLABUKDO PROV., 1999. The
remains of Kochang Goindol (Dolmen). Chollabukdo Province, Korea.
KOHLBRUGGE, J.H.F., 1930. “Systematisch en Beschrijvend
Leerboek der Volkenkunde. Groningen” - Den Haag.
KOMAI, K., 1973. Megalithic Cultures in Ancient Japan. Tokyo.
KOMOTO, M., 1978. “Remarks on the Dolmens in Ancient
North-west Kyushu, Japan”- The Kobun Rouso; 1982. “Megalithic
Monuments in Ancient Japan” - MCA, 4-40.
KOTANI, Y., 1972. “Implications of Cereal from Uenoharu
Kumamoyo” - Journal of the Anthropological Society of Nippon, 80: 2.
KRAJAEJUN, P., 2009. “A new discovery of Slab Coffins in Tak
Province, Western Thailan”- 19th IPPA Congress, Ha Noi.
KRICHNASWAMI, V.D., 1949. “Megalithic types of South
India” - Ancient India, 5: 35-45. New Delhi.
KROM, N.J., 1914. “Voorloopige Lijst van Oudheden in de
Buitenbezittingen” - O.V., Bijlage T; 1923. “Het oude Java en Zijn
Kunst”- Hearlem; 1931. “Hindoe-Javaansche Geschiedenis”- Tweede
druk, S’-Gravenhage.
KRUUT, A.C., 1906. “Het Animisme in den Indischen Archipel”
- S’-Gravenhage; 1909. “Het Landschap Bada in Midden-Celebes”
- TAG; 1932. L’Immigration preựhistorique dans le pays Toradoas
occidentaux” - Hommage du Service Archeựologique des Indes
Neựerlandaises au 1er Congreứs des Preựhistoriens d’Extreõme-
Orient aứ Ha Noi, Janvier 1932, Batavia.
KUO, P.C., 1955. Khảo cổ học báo (chữ Trung Quốc), 9: 92-104.
1956; Hui-hsien fachueh pao kao. Peking.
LAL, B.B., 1960. “From the megalithic to the Harappan: Tracing
back the graffiti on the pottery” - Ancient India, 16: 4-21. New Delhi
LÂM THỊ MỸ DUNG, 2009. Studies on mrgaliths in Vietnam -
19th IPPA Congress, Ha Noi.
272 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.3 Page 273

▲back to top
LÊ QUÝ ĐÔN, 1776. Phủ Biên tạp lục, II (bản dịch Lê Xuân Giáo
1973. Sài Gòn).
LÊ TRUNG KHÁ, 1980. “Quần động vật ở Bình Đa (Đồng Nai)”
- NPHMVKCH 1980:130-135; 1985. “Nghiên cứu quần động vật ở hai
di chỉ khảo cổ học An Sơn và Rạch Núi” - KCH, 4: 3-12; 1987. “Sài
Gòn thời tiền sử” - Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, I. Lịch
sử, 13-77.
LÊ XUÂN DIỆM, ĐÀO LINH CÔN, VÕ SĨ KHẢI, 1995. Văn
hóa Óc Eo, những khám phá mới. Hà Nội.
LÊ XUÂN DIỆM, NGUYỄN VĂN LONG, 1983. Đàn đá Bình
Đa. Đồng Nai.
LÊ XUÂN DIỆM, PHẠM QUANG SƠN, BÙI CHÍ HOÀNG,
1991. Khảo cổ Đồng Nai thời tiền sử. Đồng Nai.
LI CHI, 1968. The beginning of Chinese Civilization. Three
lectures illustrated with finds at An Yang - Washington Press.
LING, S.S., 1967. “The dolmen culture of Taiwan”, East Asia
and the Southwestern Pacific - Monograph, 10, Institute of Ethnology
Academia Sinica. Taipei, 1-150.
LOEWENSTEIN, P.J., 1953. “Tulang Mawas” re-examined”
- JMBRAS, 26 (1); 1956. “The origin of the Malayan Metal Age” -
JMBRAS, 29 (2), 174: 51-58.
LOOFS-WISSOWA, H.H.E., 1965. “Some remarks on “Philippine
Megaliths” - AS, 3: 393-402. Manila; 1967. “Elements of the Megalithic
Complex in Southeast Asia (An annotated Bibliography)” - Oriental
Monograph, 3. Canberra. Australian National University Press.
LƯU ÁNH TUYẾT, 1982. “Mộ Cự thạch Hàng Gòn (Đồng Nai)”
- NPHMVKCH 1982:150-152.
MACDONALD, A.W., 1975. “A note on Tibetan Megaliths” -
Essays on Ethnology of Nepal and South Asia (Bibliotheca Himalayaca,
III (3) (ed. H.K.Kuloy, Kathumandu).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 273
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.4 Page 274

▲back to top
MAJUMDAR, D.N., 1950. The affairs of a tribe: a Study in tribal
dynamics - Lucknow: University Publisher.
MALLERET, L., 1954. “A propos d’analyses de bronzes
archéologiques” - BSEI, 29: 297-308; 1959-1963. L’Archéologie du
delta du Meự Kong - PEFEO, 43, 4 tomes. Paris.
MARSCHALL, W., 1968. “Metallurgie und fruhe
Besiedlungsgeschichte Indonesiens” - Ethnologica, 4: 31-263; 1974.
“On the stone Age of Indonesia”, Tribus, 23.
MARTIN, K., 1894. Reisen in den Molukken, in Ambon, den
Uliasserm, Seran (Ceran) and Buru. Leiden.
MASSON, V.M., 1983. Nghề trồng trọt nguyên thủy (chữ Nga) -
Leningrad.
MATSUO, T., 1957. Studies of Dolmens in Northern Kyushu.
Saga.
MESURIER, H.P., 1867. “Cairns” - Proceedings of the Asiatic
Society of Bengal, Year 1867, 164-165.
MIKAMI, T.1961.The Study of the Dolmen and Stonecist in
Manchuria and Korea. Yoshigawa Kobuhkan, Tokyo - American
Anthropologist.
MISRA, V.D., 1977. “Some aspects of Indian Archaeology” -
Allahabad: Prabhat Prakashan.
MISRA, V.D., - BELLWOOD, P., eds. 1985. Recent Advances
in Indo-Pacific Prehistory - Section 4: Megalithism in India, 447-500.
NAKANE, C., 1967. Garo and Khasi. Paris: Mouton.
NARASIMHAIH, B., 1980. Neolithic and Megalithic Cultures in
Tamil Nadu. Delhi.
NGÔ SỸ HỒNG, PHẠM QUỐC QUÂN, 1994. “Mộ vò ở Đông
Nam Á” - TBKH-BTLSVN, 53-73.
274 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.5 Page 275

▲back to top
NGÔ THẾ BÁCH, 2004. Có một “Linh địa” trên đỉnh Mẫu Sơn
(Lạng Sơn) - NPHMVKCH 2004: 734-736.
NGÔ THẾ BÁCH, MAI KHÁNH, 2005. Di tích Cự thạch ở xă
Thanh Lưu (Hà Nam) - NPHMVKCH 2005: 449-450.
NGÔ THẾ PHONG, 1996. Giai đoạn Đá mới - Sơ kỳ Kim khí ở
Việt Nam và Đông Nam Á - Luận án PTS KHLS, Hà Nội.
NGÔ THẾ PHONG, NGUYỄN VĂN ĐOÀN, ĐỖ VĂN
CHUNG, 2003. Phát hiện di tích Cự thạch Tả Van Giáy, Sa Pa, Lào
Cai - NPHMVKCH 2003: 103-104.
NGÔ VĂN DOANH, 1993. Nhà mồ và tượng mồ Gia-rai, Bahnar.
Gia Lai; 1999. Từ điển văn hóa Đông Nam Á phổ thông, Hà Nội.
NGUYỄN HỒNG ÂN, 2008. Di tích khảo cổ học Cái Vạn (Nhơn
Trạch - Đồng Nai) - Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành KCH, TP. Hồ Chí
Minh.
NGUYỄN HỒNG ÂN, 2015. Những di tích khảo cổ học cự thạch
ở Đồng Nai trong khung cảnh Việt Nam và Châu Á, Luận án Tiến sỹ,
Học viện KHXH - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
NGUYỄN HỒNG ÂN, 2024. Bảo vật Quốc gia vùng đất Biên
Hòa - Đồng Nai. Đồng Nai.
NGUYỄN CÔNG BÌNH, LÊ XUÂN DIỆM, MẠC ĐƯỜNG,
1990. Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội.
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN, 1983. “Mộ Mường Vang trong phổ hệ
mộ thuyền Việt Nam” - KCH, 1: 92-101.
NGUYỄN GIANG HẢI, 1996. Nghề luyện kim đồng ở miền Đông
Nam Bộ trong thời đại Đồng - Sắt sớm Việt Nam - Luận án PTS KHLS,
Hà Nội.
NGUYỄN GIANG HẢI, PHẠM ĐỨC MẠNH, 1996. “Phân tích
hóa - quang phổ một số đồ đồng Đông Nam Bộ” - NPHMVKCH 1996:
260-261.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 275
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.6 Page 276

▲back to top
NGUYỄN KHẮC SỬ, PHAN THANH TOÀN, 2009. “Thực
trạng và giá trị các lớp văn hóa tiền sử ở An Giang trong nghiên cứu
nguồn gốc văn hóa Óc Eo” - Văn hóa Óc Eo, nhận thức và giải pháp
bảo tồn, pháy huy giá trị di tích, An Giang: 25-39.
NGUYỄN KHẮC TỤNG, 1982. “Nhà Đông Sơn” - KCH, 3: 39-
42.
NGUYỄN KHÁNH TRUNG KIÊN, 2007. Khai quật di tích khảo
cổ học Phù Mỹ (Lâm Đồng) - KCH, số 4.
NGUYỄN KIM DUNG, 1999. “Kết quả phân tích niên đại tuyệt
đối một số địa điểm khảo cổ học những năm gần đây” - NPHMVKCH
1999: 343-345.
NGUYỄN KIM DUNG, TRỊNH SINH, VŨ QUỐC HIỀN,
1994. “Kết quả phân tích quang phổ mẫu đồng ở di chỉ Giồng Cá Vồ
(1994)” - NPHMVKCH 1994: 184-185.
NGUYỄN NGỌC, PHẠM HÙNG, 1984. “Một số nét về
lịch sử phát triển địa chất đồng bằng Nam Bộ trong Kỷ thứ tư” -
VHOEVCVHCODBCL: 60-65.
NGUYỄN NGỌC HẢI, 1990. “Vài nét về nền văn minh từ lúa
gạo ở Đông Nam Á” -HĐKH, 0866-7152.
NGUYỄN QUỐC HÙNG, 1999. “Phát hiện mộ Cự thạch (Dolmen)
trên núi Lạn Kha (Bắc Ninh)” - NPHMVKCH 1999: 486-487.
NGUYỄN THỊ HOÀI HƯƠNG, 2007. Báo cáo đồ gốm ở Khu
di tích Hàng Gòn đợt khai quật 2007 - Tư liệu Ban Quản lý Di tích và
Danh thắng Đồng Nai; Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG, NGUYỄN KHẮC SỬ, 2000.
“Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Lung Leng (Kon Tum)” -
NPHMVKCH 2000: 94-96.
NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG, PHẠM VĂN HẢI, PHẠM
QUỲNH ANH, 2001. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa di chỉ An
Khương và Lộc Tấn 2 (Bình Phước) - NPHMVKCH 2001:850-852.
276 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.7 Page 277

▲back to top
NGUYỄN TRUNG ĐỖ, 2002. Di tích đất đắp hình tròn Bình
Phước - Luận án Tiến sĩ, Thành phố Hồ Chí Minh.
NGUYỄN TUYẾT HỒNG, 1999. “Làng nghề làm đá cổ truyền
Bửu Long (Biên Hòa - Đồng Nai)” - “Tìm hiểu làng nghề truyền thống
ở các tỉnh phía Nam Việt Nam”, Thành phố Hồ Chí Minh.
NGUYỄN VĂN ĐOÀN, TRƯƠNG ĐẮC CHIẾN, 2007. “Khai
quật di tích Đa Kai lần thứ hai năm 2006” - KCH, số 4: 25-43.
NGUYỄN VĂN LONG, 2010. Báo cáo khai quật Gò Bà Đao
(Tây Ninh) - Tư liệu của tác giả.
NIEUWENHUIS, A.W., 1907. Quer durch Borneo. Leiden.
NISHIMURA, MASANARI, NGUYỄN DUY TỲ, NGUYỄN
XUÂN LÝ, 2009. The Excavation of Da Kai, A Neolithic Circular
Settlement Site in the upper reach of the Dong Nai River, Southern
Vietnam, Japan, 2009.
NITTA, EIJI., 1995. “Đất nước của chum đá và Triệu Voi” - Từ
Fukuoka đến Á châu (chữ Nhật), 2:150-177, Fukuoka; 1998. “Report
of the field survey in South Vietnam for the archaeological Study on the
Mekong Civilization” - Kagoshima University, 1998; 2004. “Nghiên
cứu đối sánh mộ chum ở Đông Nam Á” - Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An,
Hội An: 312-325.
NÔNG KỲ HIỆP, 1999. “Thần linh của người Tây Nguyên xưa”
- Dân tộc và thời đại, 6:29-30.
OTANI, T., 1978. “On the circular earthen enclosure with bank” -
Archaeological Journal, 1978.
PANT, P.C., 1985. “The Megaliths of Jangal Mahal, and Vedic
tradition” - RAIPP: 481-484.
PARMENTIER, H., 1924. “Note d’Archéologie Indochinoise,
Dépots de jarres à Sa Huynh (Quang Ngai, An Nam)” - BEFEO, 24 (1-
4): 325-341; 1929. “Vestiges mégalithiques aứ Xuan Loc” - BEFEO,
28 (3-4): 479-485, pl.XVI-XVII.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 277
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.8 Page 278

▲back to top
PEACOCK, J.L., 1965. “Pasemah Megaliths: Historical,
Functional and Conceptual Interpretations” - BIEAS, 13.
PERRY, W.Y., 1918. The Megalithic Culture of Indonesia,
Manchester; 1927. The Chidren of the Sun. 2nd edition. London; 1948.
The Megalithic Culture of Indonesia, Manchester.
PHẠM DIỆP, 2000. “Nhà sàn trong khu vực lịch sử - dân tộc Đông
Nam Á” - Đông Nam Á, những vấn đề văn hóa - xã hội, ĐHKHXH&NV
- ĐHQG-HCM: 88-107.
PHẠM ĐỨC MẠNH, 1979a. “Phát hiện công cụ Đá cũ ở
Bình Xuân (Đồng Nai)” - NPHMVKCH 1979: 20; 1979b. “Những
hiện vật đá mang dấu ấn Hòa Bình - Bắc Sơn ở Suối Chồn (Đồng
Nai)” - NPHMVKCH 1979: 52-54; 1984. “Văn hóa Dốc Chùa - một
giai đoạn phát triển cao của trung tâm Kim khí Đông Nam Bộ” -
VHOEVCVHCOĐBCL: 106-121; 1985a. “Qua đồng Long Giao (Đồng
Nai)” - KCH, 1: 37-68; 1985b. “Suy nghĩ về Không gian văn hóa của
Sa Huỳnh và về Sa Huỳnh” - KCH, 3: 31-46; 1985c. “Thử bàn về sự
phân công lao động và chuyên môn hóa của các ngành thủ công cơ bản
trong giai đoạn Đồng phát triển ở Đông Nam Bộ” - NPHMVKCH 1985:
92-97; 1991. Những di tích khảo cổ học nguyên thủy ở miền Đông Nam
Bộ (Việt Nam) trong hai Thiên niên kỷ II-I trước Công nguyên (chữ
Nga), 538 c; Leningrad; 1994a. “Giao llưu và hội tụ - thành tố của bản
sắc văn hóa cổ ở Việt Nam trong thời đại Kim khí” - KCH, 4: 17-27;
1994b. “Tiền sử Đông Nam Bộ - một thế kỷ khám phá và thành quả”
- NCLS, 6 (277)/1004: 12-20; 1995. “Sự triển nở của Phức hệ văn hóa
cổ Đông Nam Bộ trong thời gian và trong không gian” - KHXH, 24:
109-116; 1996. Di tích khảo cổ học Bưng Bạc (Bà Rịa - Vũng Tàu),
Nội; 1997. “The Bung Bac Archaeological Site, Southern Vietnam”
- Journal of Southeast Asian Archaeology, 17.ISBN.0918-4457: 60-
71. Tokyo, Japan; 2000a. “Some Recent Discoveries about the Pre-and
Proto-history of the Southeastern Part of Vietnam” - Southeast Asian
Archaeology 1998, Wibke Lobo and Stefanie Reimann, eds, Berlin:
139-148); 2000b. “Về các mẫu vật đá Hàng Gòn 7A-B (Đồng Nai)
278 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.9 Page 279

▲back to top
giám định dưới kính hiển vi phân cực” - NPHMVKCH 2000: 242-244;
2001. “Đồng Nai, thời Tiền sử và Sơ sử” - Địa chí Đồng Nai, III. Lịch
sử, Đồng Nai, 2001: 7-57, 395-426; 2003. Tân Uyên - Nông Nại,
miền hội tụ văn hóa nội sinh - ngoại sinh thời Thự sử” - KCH, số
5 (125): 16-36; 2006a. “Văn hóa Cự thạch trên bán đảo Hàn Quốc:
Lịch sử khám phá và khảo cứu loại hình căn bản - KCH số 2: 85-
98; 2006b. Trống đồng kiểu Đông Sơn (Heger I) ở miền Nam Việt
Nam, ĐHQG-HCM; 2006c. “The Pre - and Proto - Historic Cultural
Artifact Collections of the Southeastern Vietnam in the Context of the
Asian Mainland during 2nd - 1st Millenium BC” - The 2nd International
Conference on Southeast Asian Values - Exchange and Cooperation,
December 12-13, 2006, Angkor Century Hotel, Siem Reap-Angkor,
Royal Academy of Cambodia: 122-136; 2007a. “Các sưu tập công cụ
- vũ khí bằng đồng vừa phát hiện ở Đồng Nai” - KCH số 1: 30-43;
2007b. Đàn đá tiền sử Lộc Ninh ĐHQG-HCM; 2008. “Kỹ nghệ tinh
luyện kim loại nguyên sinh ở cuối nguồn “Sông Mẹ”, cội nguồn và bản
sắc” - KCH, số 3:21-31; 2009. Ứng dụng Thạch học nghiên cứu hiện
vật đá ở Nam Bộ và vùng phụ cận - ĐHQG-HCM; 2009. “Mộ Cự thạch
Hàng Gòn - “Thạch Tự Tháp” của Thủ lĩnh tinh thần Nam Bộ thời Sơ
sử” - ĐHQG-HCM, số 117-2009: 29-33. 2010. “Tục thờ Dolmen thời
Cổ đại ở Hà Nội trong bình diện Di sản văn hóa Cự thạch Việt Nam và
Thế giới” - NPHMVKCH 2010
PHẠM ĐỨC MẠNH, ĐỖ BÁ NGHIỆP, 1995. “Báo cáo sơ bộ
kết quả khảo sát di tích Cự thạch vừa khám phá cạnh hầm mộ Hàng
Gòn 7A vào tháng 12/1995” - Tư liệu Bảo tàng Đồng Nai.
PHẠM ĐỨC MẠNH, NGUYỄN HỒNG ÂN, 2010. Những phát
hiện mới về thời Sơ sử trên miền đất đỏ bazan Long Khánh - Đồng Nai,
Đồng Nai số 1889, thứ bảy, 13/11/2010:10.
PHẠM ĐỨC MẠNH, NGUYỄN HỒNG ÂN, 2020. Mộ cổ Đồng
Nai; Đồng Nai.
PHẠM ĐỨC MẠNH, NGUYỄN HỒNG ÂN, 2021. Văn hoá Cái
Vạn; Đồng Nai.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 279
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

28.10 Page 280

▲back to top
PHẠM ĐỨC MẠNH, NGUYỄN GIANG HẢI, NGUYỄN
HỒNG ÂN, 2015. Hàng Gòn - Kỳ quan cự thạch Việt Nam; Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
PHẠM ĐỨC MẠNH, TRẦN QUANG TOẠI, NGUYỄN
HỒNG ÂN, 2006. “Các sưu tập công cụ - vũ khí bằng đồng vừa phát
hiện ở Đồng Nai” - Bảo tàng Đồng Nai - thông tin khoa học, 11/2006.
PHẠM ĐỨC MẠNH, TRẦN THANH ĐÀO, 1995. “Những binh
khí mũi nhọn bằng đá độc đáo ở miền Đông Nam Bộ” - KHXH, 23:
77-81.
PHẠM HÙNG, 1978. “Kết quả khảo sát địa chất - địa mạo các địa
điểm khảo cổ học ở miền Đông Nam Bộ” - NPHMVKCH 1978:73-77.
PHẠM HUY THÔNG, 1976. “Khảo cổ học miền Nam sau chiến
thắng” - KCH, 18: 5-8.
PHẠM LÝ HƯƠNG, NGUYỄN QUANG MIÊN, 2001. “Các
kết quả xác định niên đại bằng phương pháp Radiocarbon ở Việt Nam
và một số nhận xét” - KCH, 3: 80-99.
PHẠM QUANG SƠN, 2006. Báo cáo điều tra - đào thám sát di
tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn (Long Khánh - Đồng Nai) - Tư liệu Viện
Phát triển bền vững vùng Nam Bộ và Ban Quản lý Di tích - Danh
thắng Đồng Nai; 2007. Mộ Cự thạch Hàng Gọ̀ n, những phát hiện mới
- NPHMVKCH 2007: 157-162; 2009. “New Excavations at Hang Gon
Megalith” - IPPA 2009, Program and Abstracts, 19th IPPA Congress,
Ha Noi: 178.
PHẠM QUANG SƠN, NGUYỄN THỊ HOÀI HƯƠNG, 2007.
Báo cáo khai quật, thăm dò Mộ Cự thạch Hàng Gòn 2007 - Tư liệu Ban
Quản lý Di tích - Danh thắng Đồng Nai, 2007.
PHẠM QUỐC QUÂN, 1992. “Mộ Mường Thàng, Kim Truy (Hòa
Bình)” - TBKH-BTLSVN, 60-72.
PURUSA, M., 1981. “Pola penempatan sarkofagus desa Tigawasa,
Bali” (Pattern of disposition of Sarcophagi at Tigawasa, Bali - Seminar
Sejarah National III (3rd Seminar on National History). Jakarta.
280 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29 Pages 281-290

▲back to top

29.1 Page 281

▲back to top
RAMACHANDRAN, K.S., 1971. A Bibliography on Indian
Megaliths. Madras: Government of Tamil Nadu; 1975. “Radiocarbon
Dates of Archaeological Sites in India” - Hyderabad.
RAO, K.P., 2009. Sun and Stars in the Megalithic Tradition of
India - IPPA 2009, Program and Abstracts, 19th IPPA Congress,
November 29th - December 5th, 2009, Vietnam Academy of Social
Sciences, Institute of Archaeology, Vass, Ha Noi: 179.
RAPPAPORT, R.A., 1967. Pigs for the ancestors. New Haven.
RAVEN, H.C., 1926. “The stone images and vats of Central
Celebes”- National History, 26.
REA, A., 1915. Catalogue of the Prehistoric Antiquities from
Adichanallur and Perumbair. Madras: Government Press.
RENFREW, C., - BAHN, P.G., 1991. Archaeology, Theories,
Methods and Practice - Thames and Hudson Ltd., London, England.
RICHARDS, J. 2005. Stonehenge, a history in photographs,
Bahns & Noble, New York.
RIESENFELD, A., 1950. Megalithic Culture of Melanesia.
Leisen.
RIM, B.T., 1964. “The typology and chronology of Korean
dolmens” - Sa Chong, 9. Korea University.
RIVERS, W.H.R., 1913. Sun-cult and megaliths in Oceania.
Birmingham (also in: AA, 17, 3-1915).
RIVETT - CARNAC, J.H., 1879. “Prehistoric remAIns in Central
India” - Proceedings of the Asiatic Society of Bengal, 47: 1-16.
SAKURAI, Y., 1996. “Thử phác dựng cấu trúc của khu vực Đông
Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa)” (Vũ Minh Giang
dịch từ An Essay on historical structure of Southeast Asia (relation
between maritime and terrestrial history) - NCĐNA, 4 (25): 37-55.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 281
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.2 Page 282

▲back to top
SARKAR H.B., 1982. “Megalithic Culture of India” - MCA, 127-
163.
SAURIN, E., 1963a. “Station préhistorique a Hang Gon près Xuân
Lộc (Sud Vietnam)” - BEFEO, 51 (2): 433-452; 1963b. “La station
préhistorique de Hàng Gòn près Xuân Lộc (Vietnam)” - AP, 6 (1-2);
1966. “Une site archéologique à Dau Giay (province de Long Khanh)”
- BIRA, 4: 90-98, pl.I-II. Saigon; 1968a. “Nouvelles observations
préhistoriques à l’Est de Sai Gon” - BSEI, XLIII (1): 1-17; 1973. “Le
champ de jarres de Hang Gon, près de Xuan Loc (Sud Vietnam)” -
BEFEO, 60: 329-357. Paris.
SCHNITGER, F.W., 1939a. Forgotten Kingdoms in Sumatra.
Leiden (reprints: E.J.Brill 1964, Leisen; OUE 1989, Singapore); 1939b.
“The largest image of Sumatra” - The Lloyd Mail, 9: 145-147.
SEN, A.K. - PRONOTTI., 1985. “Megalithism and the Bulders:
Studies of Relationships” - RAIPP, 465.
SENA-MARTINEZ, J.C., 1994. “Megalitismo, habitat e
sociedades: a bacia do Medio e Alto Mondego no conjunto da Beira
Alta (c.5200-3000 BP.)” - Actas do Seminario: “O Megalitismo no
Centro de Portugai: novos dados, problematica e relacoea com outras
areas peninsulare” - Estudos Prehistoricos, 2: 15-29. Viseu.
SENEVIRATNE, S. 1999. “The Megaliths of South Asia with
special reference to the Archaeology of Early Iron Age Megalith in Sri
Lanka” - World Megalithic Culture 1999, Korea.
SESHADRI, M., 1956. The Stone-using cultures of Prehistoric
and Protohistoric Mysore. London.
SEWELL, R., 1882. List of the antiquarran remAIns in the
Presidency of Madras. Delhi: Indological Book House (reprint 1972).
SINGH, O.K., 1985. “A live megalithic Culture in Manipur”-
RAIPP, 491-496.
SINGH, P., 1985. “Megalithic remains in the Vindhyas” - RAIPP,
473-476.
282 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.3 Page 283

▲back to top
SOEJONO, R.P., 1977. Sistim-sistim penguburan pade akhir
masa prasejarah di Bali (Late prehistoric burial systems in Bali) -
Ph.D.dissertation, University of Indonesia, Jakarta; 1982. “On the
megaliths in Indonesia” - MCA, 73-98.
SOLHEIM, W.G.II., 1975. “Reflections on the new data of
Southeast Asian Prehistory: Austronesian origins and consequence” -
Asian Perspectives, 18: 146-160. Hong Kong; Honolulu.
SOUNDARA, RAJAN, K.V., 1959.“Sanur 1950 and 1952: A
megalithic Site in District Chingleput” - Ancient India, 15: 4-42. New
Delhi; 1963. “Community movements in Protohistoric India” - Journal
of the Oriental Institute, 12: 69-82. New Delhi.
SUKENDAR, H., 1980.“(Report on an archaeological research at
Central Sulawesi” - BPA, 25, Jakarta; 1981a. “Megalithic survival: A
stone grave at Terjan - Rembang” - Seminar Sejarah National, 3. Jakarta;
1985. “The living megalithic tradition in Eastern Indonesia” - Bulletin
of the Indo-Pacific Prehistory Association, 6: 55-62; 1999. “Prehistoric
Megalithic and living Megalithic Culture” - World Megalithic Culture
1999, Korea.
SUNDARA, A., 1969-1970. “A new type of Neolithic burial in
Terdal, Mysore State” - Puratattva, 3: 23-33; 1970. “A new type of
passage chamber tomb in Kaladgi, Bijapur District” - IA, 4: 216-226;
1975. The early chamber tombs of South India - Delhi: University
Publishes; 1985. “A newly discovered megalithic carving in Karnataka”
- RAIPP, 471-472.
SUTABA, I.M., 1976.“Megalithic tradition in Sembiran-North
Bali” - Aspects of Indonesian Archaeology, 4.
TẠ ĐỨC, 1999. Nguồn gốc và sự phát triển của cấu trúc biểu
tượng ngôn ngữ Đông Sơn. Hà Nội.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 283
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.4 Page 284

▲back to top
TAYLOR, M., 1851. “Ancient remAIns at the village of Tiwarji near
Ferozabad on the Bhima” - Journal of the Bombay Branch of the Royal
Asiatic Society, 3: 179-196; 1873. “Description of cAIrns, cromlechs,
kistvaens and other Celtic, Druidical or Seythian monuments in the
Dekhan” - Transactions of the Royal Irish Academy, 24: 329-362.
THEPSIMUONG, B., 2003. The Plain of Jars, A Guide Book,
Vientian, Lao.
TOMBRINK, E.P., 1870. “Hindoe-monumenten in de bovenhade
van Palembang, als bron van geschied (Hindu-monuments in the
highlands of Palembang, as a source of historical research)” - Tijschrift
voor Indische Taal-Land-en Volkenkunde, 19: 1-45.
TORII, R., 1917. “Excavation report of Pyongnam and Hwanghae
Provinces” - Cho-Sun Chongdogbu. Seoul; 1931. “On the megalithic
remains in China” - Yonching Journal of Chinese Studies.
TRẦN ANH DŨNG, LẠI VĂN TỚI, 1986. “Mộ Mường cổ, cấu
trúc và táng tục- KCH, 3: 31-42; 2007. “Di chỉ Giồng Nổi (Bến Tre)
qua 3 lần khai quật” - KCH, số 2:1335.
TRẦN QUANG TOẠI (chủ biên), 2001. Đồng Nai, di tích văn
hóa, Đồng Nai.
TRẦN QUỐC VƯỢNG, NGUYỄN VĂN HÁN, PHẠM VĂN
HIỆP, 1978. “Nghề đá Ngũ Hành Sơn, cái nhìn dân tộc - khảo cổ học”
- KCH, 2: 55-58.
TRẦN QUỐC VƯỢNG, TRÌNH NĂNG CHUNG, PHẠM
ĐỨC MẠNH, TRẦN ĐÌNH LUYỆN, 1975. “Phát hiện đồ đá cuội ở
Hà Bắc” - NPHMVKCH 1975:89-92.
TRẦN QÚY THỊNH, BÙI VĂN LIÊM, NGUYỄN GIA ĐỐI,
MAI THỊ CÚC, 2001. “Phát hiện di tích Cự thạch ở Làng A, xã Ia
M’Nông, huyện Chư Pah (Gia Lai)” - NPHMVKCH 2001: 133-134.
TRẦN TỪ, 1996. Người Mường ở Hòa Bình. Hà Nội.
284 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.5 Page 285

▲back to top
TRICHT, B., Van., 1929. “Levende antiquiteiten in West Java”
- Batavia and Soerabaja, no data. Appeared originally in Djawa,
Tiiddschrift van het Java - Institut, Soerakarta.
TRÌNH NĂNG CHUNG, 2009a. “Study of Ancient Inscribed
Figures on the Stones at Xín Mần, Ha Giang Province, North Vietnam”
- 19th IPPA Congress, Ha Noi: 70; 2009b; “Phát hiện di tích Cự thạch
ở chân núi Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc” - An Ninh Thế giới, số 874,
15/7/2009:24.
TRÌNH NĂNG CHUNG, ĐÀO QUÝ CẢNH, ĐÀM THỊ
NINH, 2004. “Di tích Cự thạch ở Ḥòa An (Cao Bằng)” - NPHMVKCH
2004:178-179.
TRÌNH NĂNG CHUNG, LÊ HẢI ĐĂNG, MẠC VĂN LUNG,
2003. “Di tích Cự thạch ở Hà Quảng (Cao Bằng)” - NPHMVKCH
2003:166-167.
TRÌNH NĂNG CHUNG, NGUYỄN THỊ MINH LÍ, LÙ VĂN
HIẾU, 2007. “Phát hiện di tích Cự thạch ở Hà Giang” - NPHMVKCH
1999: 151-153.
TRÌNH NĂNG CHUNG, QUAN VĂN DŨNG, 2005. “Di tích
Cự thạch ở Nà Hang (Tuyên Quang)” - NPHMVKCH 2005:247-248.
TRỊNH CAO TƯỞNG, PHAN TIẾN BA, LÊ ĐÌNH PHỤNG,
1986. Báo cáo khai quật khu mộ Mường Đống Thếch (Hà Sơn Bình) -
Tư liệu Viện Khảo cổ học.
TRỊNH HOÀI ĐỨC, 1820. Gia Định thành thông chí - Bản dịch
Tru Trai Nguyễn Tạo, Sài Gòn, 1972.
TUCCI, G., 1973. The ancient Civilization of Transhimalaya
(trans by J.Hogarth), London, 41-42.
TWEDIE, M.W.F., 1957. Prehistoric Malayan (Background in
Malaya), 6, Raffles Museum, Singapore.
ULLMANN, L., 1850. “Tweede-Luitenant der infanterie, Hindoo-
Beelden in de Binnenlanden van Palembang” - Indisch Archief.
Tijdschrift voor de Indien, I: 493-494.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 285
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.6 Page 286

▲back to top
ỦY BAN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM, 1971. Lịch sử Việt
Nam, I. Hà Nội.
VÕ SĨ KHẢI, 1987. “Đất Gia Định từ thế kỷ VII đến trước thế kỷ
XVI” - Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, I. Lịch sử, 81-124;
1997. “Văn hóa Óc Eo 20 năm nhìn lại” - Một số vấn đề khảo cổ học ở
miền Nam Việt Nam: 310-355.
VONK, H.W., 1934. “De “batoe tatahan” bij Air Poear (Pasemah
landen) (with a post scriptum by P.V.van.Stein Callenfels)” - Tijschrift
voor Indische Taal-Land-en Volkenkunde, 74: 296-300.
VŨ CÔNG QUÝ, 1994a. “Di tích khảo cổ học tiền sử và sơ sử
ở Malaysia: Di tích Cự thạch ở Malaysia” - Tìm hiểu lịch sử văn hóa
Đông Nam Á hải đảo. Hà Nội: 64-90; 1994b. “Những di tích khảo cổ
học tiền sử và sơ sử ở Lào” - Tìm hiểu lịch sử văn hóa Lào, 3, Hà Nội.
VŨ QUỐC HIỀN, TRƯƠNG ĐẮC CHIẾN, LÊ VĂN CHIẾN,
2007. “Khai quật Giồng Lớn lần thứ hai (năm 2005)” - TBKH-
VBTLSVN: 19-43; 2008. “Di tích Giồng Lớn (Bà Rịa - Vũng Tàu) qua
hai lần khai quật” - KCH, số 6:32-46.
VƯƠNG THU HỒNG, 2007. “Di tích văn hóa “tiền Óc Eo” ở
Long An với mối quan hệ xa gần trên vùng châu thổ đồng bằng sông
Cửu Long” - KCH, số 4:44-57.
VƯƠNG VĂN HÒA, TRÌNH NĂNG CHUNG, 1978. “Nhóm di
tích kiến trúc đá cổ ở Hà Bắc” - NPHMVKCH 1978:347-349.
WESTENENK, L.C., 1922. “De Hindoe-oudheden in de
Pasemah-hoogvlakte -Residentie Palembang (The Hindu-antiquities
on the Pasemah plateau - Residence of Palembang)” - Weltevreden.
Albrecht.
WHANG, Y.H., 1982. “The general aspect of megalithic culture of
Korea” - MCA, 41-64.
WHEELER, R.E.M., 1947. “Megalithic and other cultures in
Mysore state” - AI, 4: 181-310; 1948. Brahmagiri and Chandravalli;
1959. Early India and Pakistan. London: Themes and Hudson.
286 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.7 Page 287

▲back to top
WHYTE, R.O., 1972. “The Graminae, wild and cultivated of
monsoonal and equatorial Asia; I. Southeast Asia” - Asian Perspectives,
15: 27-151.. Hong Kong; Honolulu
WILLEMS, W.J.A., 1938. “Het onderzook der megalithe te
Pakaoewan bij Bondowoso (Investigation on megaliths at Pakaoeman,
near Bondowoso)” - Oudheidkundige Dienst in Nederlandsch - Indie;
Rapporten, 3.
WINSTEDT, R.O., 1941. “Slab-graves and Iron implements” -
JMBRAS, 19.
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 287
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.8 Page 288

▲back to top
CHỮ VIẾT TẮT
BEFEO. Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême-Orient. Hanoi;
Paris.
BSEI. Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises. Sai Gon.
IPPA. Indo-Pacific Prehistory Association.
JMBRAS. Journal of the Malaysian Branch of the Royal Asiatic
Society. Singapore.
KCH. Khảo cổ học. Hà Nội.
NPHMVKCH. Những phát hiện mới về khảo cổ học, Hà Nội:
1975-2009.
MCA. Megalithic Cultures in Asia. Hanyang University Press;
Monograph N.2-133. Seoul-Korea, 1982.
RAIPP. Recent Advances in Indo-Pacific Prehistory (eds.
V.N.Misra-P.Bellwood. 1985, Canberra).
TBKH-VBTLSVN. Thông báo khoa học - Viện Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam, Hà Nội.
288 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.9 Page 289

▲back to top
WEBSITES
http://ccr.sagepub.com/cgi/alertshttp://ccr.sagepub.com/cgi/
content/abstract/36/2/151
http://ccr.sagepub.com/subscriptionshttp://dolmen.new21.org.
http://ier.sagepub.comhttp://mcu.sagepub.com/cgi/content/
abstract/9/3/237
http://www.igoindol.net.http://www.jstor.org/journals/rai.html.
http://www.jstor.org/journals/rss.html.http://www.jstor.org/
journals/sam.html.
http://www.jstor.org/journals/sophia.html.]http://www.jstor.org/
about/terms.html.
http://www.sacredsites.org.ukhttp://www.sagepublications.com
www.absoluteastronomy.comwww.ancient-bulgaria.com
www.ancientireland.org/www.ancientmuseumstore.com/
www.ancient-sculpture.com/www.ancient-wisdom.co.uk
www.ancientworlds.netwww.archaeology.about.com
www.archaeology.ie/www.archaeology.suite101.com/
www.archives.gov.vnwww.art.com/.../
www.badarchaeology.wordpress.comwww.ballybegvillage.com
www.baotangnhanhoc.orgwww.baotuyenquang.com.vn
www.bigstockphoto.com/www.brantacan.co.uk
www.britannica.comwww.burrenforts.ie
www.cackaloo.comwww.calxibe.com
www.carmalaga.com/www.channel.nationalgeographic.com
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 289
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

29.10 Page 290

▲back to top
www.cinet.gov.vnwww.comp-archaeology.org
www.dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vnwww.dictionary.
reference.com
www.dolmenmetalworks.com/www.encyclopedia.com/
www.english-heritage.org.uk/www.essortment.com
www.focuspocus.orgwww.fotografilwimvanvelzen.nl
www.fotosearch.comwww.galiciaguide.com
www.gallery.tourism.gov.ilwww.graphicleftovers.com/
www.geomancy.org/www.great-britain.co.uk/..
www.greatbuildings.comwww.gregsworldofphotography.com
www.heritage-key.com/.www.hdnd.dongnai.gov.vn
www.imagetrail.netwww.inmagine.com/.../
www.irishmegaliths.orgwww.josetaboada.com
www.khamphaviet.vnwww.laocai.gov.vn
www.legendsofamerica.com/www.longkhanh-dongnai.gov.vn
www.luutruvn.gov.vnwww.lyhocdongphuong.org.vn
www.megalithicmonumentsofireland.comwww.megalithic.co.uk
www.megalithics.com/.../www.megalithic-visions.org/.
www.megalithomania.com/.../www.mullinavat.com/
www.museumwales.ac.ukwww.mythicafireland.com
www.mythicalireland.com/ancientsiteswww.nature.com›www.
newgrange.com
www.newsfinder.org/www.newworldencyclopedia.org
www.newworldencyclopedia.org/www.quehuong.vnwww.
realdolmen.eu
www.sciencedaily.comwww.shadowsandstone.com
290 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30 Pages 291-300

▲back to top

30.1 Page 291

▲back to top
www.southfrance.com/www.statemaster.com www.stonepages.
com
www.stonepages.com/www.stonehengewest.com/
www.stonehengepundit.blogspot.com/.../www.stonehenge-
avebury.net
www.stonehengenews.co.uk/www.thongnhat.edu.vn/modules.
www.thongnhat.edu.vnwww.touristvina.comwww.tripadvisor.com
www.thuviendongnai.gov.vn/www.ugvf.orgwww.vacne.org.vn
www.vannghesongcuulong.org /www.vietbao.vnwww.vietgle.vn/
www.vi.wikipedia.orgwww.vietnamplus.vn
www.waterfordcountymuseum.org/.../www.world-science.net
www.worldtimelines.org.uk/.www.wordwellbooks.com/
www.yenhung.netwww.yourmuseumstore.com/
www.xaluan.comwww.123rf.com/
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 291
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.2 Page 292

▲back to top
CHÚ DẪN BẢNG THỐNG KÊ
Bảng I. Thống kê hầm Cự thạch và trụ đá cùng mảnh vỡ.
Bảng II. Thống kê các hố khai quật - thăm dò Hàng Gòn 2006-
2007 (Phạm Quang Sơn, 2006-2009; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị
Hoài Hương, 2008).
Bảng III-IV. Hàng Gòn II (7B) - Phế liệu đá thống kê theo kích
thước (chiều dài nhất) và theo ô khai quật (Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn
Du, 1996).
Bảng V. Phế liệu đá thống kê ở Hàng Gòn (20006-2007, 2010)
(Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, 2006; Nguyễn
Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương,
2008; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010).
Bảng VI-VII. Thống kê tổng thể hiện vật Hàng Gòn 1996-2010
(Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, 2006; Nguyễn
Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương,
2008; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010)
Bảng VIII. Kết quả phân tích bào tử, phấn hoa ở Hàng Gòn và vùng
đất đỏ phụ cận (Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Đức Mạnh, 2011).
Bảng IX. Kết quả phân tích bào tử, phấn hoa ở Tây Nguyên và
Nam Bộ (Việt Nam) (Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Khắc Sử, 2000;
Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Văn Hải, Phạm Quỳnh Anh, 2001;
Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Đức Mạnh, 2011).
Bảng X. Kết quả phân tích gốm ở Hàng Gòn và vùng đất đỏ phụ
cận(Phạm Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, 2006;
Nguyễn Thị Hoài Hương, 2007; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài
Hương, 2008; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010)
292 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.3 Page 293

▲back to top
Bảng XI. Kết quả phân tích đồ đồng ở Hàng Gòn II (7B).
Bảng XII. Kết quả phân tích C14 ở Hàng Gòn (1996-2007) (Phạm
Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài
Hương, 2008; Phạm Đức Mạnh, Nguyễn Hồng Ân, 2010)
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 293
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.4 Page 294

▲back to top
CHÚ DẪN BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH
H1. Công cụ cuội ghè sơ kỳ Đá cũ ở Đồng Nai (Dầu Giây, Gia Tân,
Suối Cả, Suối Quýt) (Saurin, E.1963; Phạm Đức Mạnh, 2004-2009).
H2. Khuôn đúc và đồ đồng thau ở Hàng Gòn 1 và Suối Chồn
(Saurin, E, 1963; Nguyễn Mạnh Lợi, Đỗ Bá Nghiệp, Nguyễn Văn
Long, 1978).
H3. Nghĩa địa quan tài chum gốm Phú Hòa (Fontaine, H. 1972-
1975).
H4. Nghệ thuật Đồng Nai thời Thự sử (Fontaine, E. 1972-1975;
Nguyễn Mạnh Lợi, Đỗ Bá Nghiệp, Nguyễn Văn Long, 1978; Phạm
Đức Mạnh, 1992).
H5. Bản đồ khảo cổ học Tiền sử - Sơ sử Long Khánh và vùng phụ
cận (nền: Tổng cục Địa chính, Nxb Bản Đồ, Hà Nội, 1999).
H6. Cuộc khai quật di tích Cự thạch ở Xuân Lộc năm 1927 (Photos:
M.Gastaldy).
H7. Phục chế mặt bằng và mặt cắt Hàng Gòn I (7A) (Parmentier,
1929).
H8. Quần thể di tích Cự thạch Hàng Gòn I (7A) 1996-1999 - mặt
bằng chung, hầm đá, nắp, vách đông và 2 đế lót.
H9. Hầm đá Hàng Gòn I (7A) (nhìn các hướng).
H.8-12 Hàng Gòn I (7A) - hầm đá và phụ kiện (các trụ cộ đá và
ký hiệu)
H.13. Di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B), những dấu tích ban đầu.
H.14. Vị trí địa lý khu di tích Cự thạch Hàng Gòn hiện nay.
H.15. Kiến trúc Cự thạch Hàng Gòn (7ª) và Công xưởng chế tác Cự
thạch Hàng Gòn (7B) định vị qua không ảnh (nguồn: 2010 Google-Eye
alt 5777 nes/Spot Image, 2010 Europa Technologies, 2010 MapIt).
294 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.5 Page 295

▲back to top
H.16. Di vật tiền sử phát hiện xung quanh quần thể di tích Cự thạch
Hàng Gòn.
H.17. Các nhà khoa học Nhật Bản khảo sát và tham gia khai quật
Hàng Gòn II (7B).
H.18-20. Di tích công xưởng Cự thạch Hàng Gòn II (7B) - hiện
trường khai quật năm 1996 và trắc diện các vách đào; điều tra và mở
các hố thám sát xung quanh hố khai quật chính
H.21. Cao độ các hố khai quật Hàng Gòn 2007 (Phạm Quang Sơn,
Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008).
H.22-23. Các hố khai quật xung quanh mộ Cự thạch Hàng Gòn
2007 (Khu A - mặt bằng và vị trí) (Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài
Hương, 2008).
H.26-28. Các hố khai quật xung quanh mộ Cự thạch Hàng Gòn
2007 (Khu A - mặt bằng và vị trí; bình diện và trắc diện các hố khai
quật) (Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008).
H.29-32. Các hố khai quật khu C và khu B 2007 - mặt bằng và vị
trí, bình diện và trắc diện (Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương,
2008).
H.33. Các hố thám sát năm 2010 (10HG II (7B)-HTS1 và 10HG I
(7A)-HTS2).
H.34-35. Hàng Gòn II (7B), các tấm đá hoa cương, trụ cột và hòn
cuội lớn trong hố khai quật chính (cụm A-C).
H.36-37. Tù và đồng (2006) (Bảo tàng Đồng Nai-Thông báo khoa
học, 2008) & di vật đồng 1996 Hàng Gòn II (7B).
H.38-43. Gốm Hàng Gòn 2007 (Nguyễn Thị Hoài Hương, 2007).
H.44-45. Bùa đeo đá và bàn mài (07HG-C-H1) (Phạm Quang Sơn,
Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008).
H.46. Đá hoa cương di tích Cự thạch Hàng Gòn 1996-2007 (Phạm
Đức Mạnh, Lưu Văn Du, 1996; Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài
Hương, 2008).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 295
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.6 Page 296

▲back to top
H.47-48. Hàng Gòn II (7B), đá loại C: Cuội không có lớp phủ
patine.
H.49. Mảnh tước thu thập ở di chỉ - xưởng Suối Linh (Đồng Nai).
H.50-51. Hàng Gòn II (7B), đá loại D-E: Cuội có lớp phủ patine
sáng màu và sẫm màu.
H.52. Tổ chức đồ phân phối chiều dài phế liệu đá ở di tích Hàng
Gòn II (7B).
H.53-54. Mẫu trầm tích Hàng Gòn I-II (7A-7B) 2010, Cầu Sắt,
Suối Chồn và Long Giao.
H.55A-C. Bào tử và phấn hoa vùng Hàng Gòn - Long Khánh
(Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Đức Mạnh, 2011).
H.56A-B. Bào tử và phấn hoa ở Lung Leng (Nguyễn Thị Mai
Hương, Nguyễn Khắc Sử, 2000).
H.57-59. Lát mỏng thạch học đá hoa cương, sa thạch và phế liệu
Hàng Gòn I-II (7A-7B).
H.60. Mẫu gốm ở Hàng Gòn II (7B), Cầu Sắt, Long Giao và Suối
Chồn.
H.61-62. Stonehenge: Chuyển vận đá xanh trên song Avon và trên
đất liền 1954 (Richards, J. 2005) và thực nghiệm chuyển vận đá lớn ở
Bougon (miền Tây Pháp) 1979 (Renfrew, C., - Bahn, P., 1991).
H.63-64. Làng đá Bửu Long, Biên Hòa, Đồng Nai - công đoạn chế
biến “đá sống” thành “đá chín”, dụng cụ và các thao tác cơ bản của
nghệ nhân (Ảnh: Nishimura Masanari) và nghệ nhân làng đá Ngũ Hành
Sơn, Đà Nẵng chạm khắc thành phẩm (Huỳnh Hoa, 1997).
H.65. Tổ chức đồ biểu diễn hàm lượng Cu,Sn, Pb và As trong di vật
đồng ở Hàng Gòn II (7B) và Đông Nam Bộ.
H.66. Các tổ chức đồ phân phối số lượng Cu - hợp kim và biểu diễn
hàm lượng Sn và Pb trong di vật đồng thau ở Hàng Gòn II (7B) và ở
Đông Nam Bộ.
296 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.7 Page 297

▲back to top
H.67. Niên đại di tích khảo cổ học Đông Nam Bộ và vùng ven thời
đại Kim khí xác định bằng các phương pháp C14 - AMS và Nhiệt phát
quang.
H.68. Stonehenge - nhìn từ các hướng (Richards, J. 2005).
H.69-70. Một số loại hình kiến trúc Cự thạch trên thế giới qua tư
liệu viết và ghi nhận trên Internet.
H.71-73. Trụ đá kiểu Menhir và loại hình Cự thạch kiểu Dolmen
ở Korea (Whang, Y.H. 1982; Kim, B.M,.1982; Imamura, K. 1996;
Kochang County, 1999).
H.74-75. Loại hình Cự thạch kiểu Dolmen và hoàn thạch ở Nhật
Bản (Komoto, M. 1982).
H.76. Một số loại hình di tích Cự thạch ở Trung Quốc và Đài Loan
(Kim, B.M., 1982; Krajaejun, P. 2009).
H.77-78. Loại hình mộ đá ghép và di tích Cự thạch ở Ấn Độ và Sri
Lanka (Sarkar, H., 1982, Pant, P.C., 1985; John, K.J. 1985; Seneviratne,
S., 1999)
H.79-81. Các loại hình mộ đá ghép, Dolmen, Menhir và tượng
đá ở Indonesia (Heine-Geldern, R.Von., 1928; Hoop, Van der, 1932;
Sukendar, H., 1981; Soejono, R.P., 1982; Riesenfeld, A., 1950;
Krajaejun, P. 2009).
H.82. Hình khắc trống Đông Sơn, vòng cổ, kiếm, dao găm và mắt
người trên Cự thạch Indonesia (Heine-Geldern, R.Von., 1928; Hoop,
Van der, 1932; Heekeren, 1958; Soejono, R.P., 1982).
H.83-84. Mộ Cự thạch, Dolmen và Menhir Mã Lai (Evans, I.H.N.,
1927; Jeshurun, C., 1982; Choo A.A. 1987).
H.85. Mộ đá phiến ghép Thái Lan (Krajaejun, P. 2009).
H.86-88. Các “Cánh đồng chum” Cự thạch ở Thượng Lào - mặt
cắt chum và nắp Cự thạch tiêu biểu, hang hỏa táng Bản Ang và di vật
(Colani, M. 1933, 1935; Thepsunuang, B. 2003).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 297
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.8 Page 298

▲back to top
H.89. Bình diện phân bố của “Dolmen - Stonecists” và của “Huyền
thoại noãn sinh” (Oviparous myths) ở Châu Á (Kim, B.M., 1982,
fig.1,5, p.170,186).
H.90. Di tồn Cự thạch ở Việt Nam (nền: Nxb Bản Đồ, Hà Nội,
2003)..
H.91-97. Các Dolmen ở Bản Thảnh (Cao Bằng), Nấm Dẩn 1-2
(Xín Mần, Hà Giang), Bản Phố, Hầu Thao (Lào Cai), Thiện Kế (Tuyên
Quang), Lạn Kha 1-2 (Bắc Ninh), Đông Hội (Vĩnh Phúc) và Sóc Sơn
(Hà Nội) (Trình Năng Chung, 2002, 2006, 2009; Ngô Thế Phong,
Nguyễn Văn Đoàn, Đỗ Văn Chung, 2003; Lâm Mỹ Dung, 2009).
H.98. Cự thạch ở Hưng Nguyên (Nghệ An) (Lâm Mỹ Dung, 2009).
H.99. Phác họa bình đồ khu mộ đá Đồng Phổ gần Sa Huỳnh
(Parmentier, H.1929).
H.100. Các trụ đá dựng ở Hoàng Việt (Tân Bình, Thành phố Hồ
Chí Minh).
H.101-102. Đá lớn trong các đài điện Hindu và Phật giáo thuộc
truyền thống văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở Nam Bộ và trong thánh địa
- tháp cổ Champa.
H.103. Cấu trúc nhà mồ và nhà rông Jrai và Bahnar ở Tây Nguyên
(Ngô Văn Doanh, 1993; Đào Huy Quyền, 2007).
H.104. Di tồn nhà sàn và hình nhà Nam Bộ thời tiền sử và cổ sử
(Phạm Đức Mạnh, 1997; Vũ Quốc Hiền, Hồ Khắc Bửu, 2000; Manguin,
P.I., Võ Sĩ Khải, 1998; Nguyễn Minh Sang, 1984; Phạm Minh Nguyên,
2000; Đặng Văn Thắng, 1998; Đào Linh Côn, 1995).
H.105. Di tồn nhà Đồng Sơn và hình nhà miêu tả trên đá (Phạm
Diệp, 2005) và đồng miền Bắc Việt Nam và Vân Nam (Chu Quang Trứ,
Nguyễn Khắc Tụng, Higham, C. 1996; Tạ Đức, 1999).
H.106a-b. Hình nhà mồ thủ lĩnh J’rai Tây Nguyên (Henri Maitre -
Bouchot, J,.1929) và phác dựng giản đơn nhất về cấu hình “nhà mồ thủ
lĩnh” Nam Bộ nguyên thủy” ở Hàng Gòn (Đồng Nai).
298 DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.9 Page 299

▲back to top
H.107. Sơ đồ phân bố di tích - di vật đặc sắc giai đoạn hậu kỳ Đồng
- sơ kỳ Sắt Nam Bộ (Việt Nam) thiên niên kỷ I BC.
H.108. Phân vùng biểu tượng quyền lực thời Sơ sử Nam Bộ (Việt
Nam) giai đoạn hậu kỳ Đồng - sơ kỳ Sắt thiên niên kỷ I BC.
H.109. Di vật đặc trưng của “Thủ lĩnh vùng” Nam Bộ thời Sơ sử
((Saurin, E., 1973; Fontaine, H,.1972,1975; Nguyễn Duy Tỳ, Đào Linh
Côn,1995; Đặng Văn Thắng, 1998; Phạm Đức Mạnh, 2006).
H.110. Nghĩa trang thủ lĩnh Phú Chánh (Phạm Đức Mạnh, Mariko
Yamagata, 2003).
H.111. Bản đồ phân bố trống đồng Đông Sơn (HI) ở Đông Nam Á.
H.112. Bản đồ phân bố gương đồng Tây Hán “Tứ ly - Tứ nhũ” ở
Á Châu.
H.113. Qua đồng phát hiện ở Việt Nam, Thái Lan và Trung Hoa (Lê
Văn Lan, Phạm Văn Kỉnh, Nguyễn Linh, 1963; Lichi, 1968; Ronald,
1979; Dewall, M, 1979; White, J. 1985; Lê Trung Khá, 1998; Phạm
Đức Mạnh, 2007).
H.114. Tổ chức đồ biểu diễn hàm lượng Cu, Sn, Pb, As trong di vật
đồng thau ở Việt Nam và Đông Nam Á.
H.115. Bình diện tiền sử - sơ sử của “phong cách Đông Sơn” trên
đất liền Đông Nam Á thiên niên kỷ I BC.
H.116. Một số loại hình di vật tiền sử - sơ sử ở Đông Nam Á lục
địa trong thời đại Kim khí (thiên niên kỷ I BC.).
H.117. Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á
(Sakurai, Yumlo, 1996).
H.118. Sơ đồ lưu vực “địa - văn hóa - chính trị” tam giác châu Đạ
Đờng - Đồng Nai (Trần Quốc Vượng, 1998).
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT 299
MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN

30.10 Page 300

▲back to top

31 Pages 301-310

▲back to top

31.1 Page 301

▲back to top
RESEARCH SUMMARY
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE HANG GON
MEGALITHIC TOMB

31.2 Page 302

▲back to top
PART ONE.
GEOGRAPHICAL AND HUAMANITIES
CONTEXT OF THE BASALTIC RED SOIL REGION
AT DONG NAI PROVINCE

31.3 Page 303

▲back to top
Dong Nai is the central provice of the Southeastern Part of Nam Bo
(Vietnam). This province has a natural land area of about 5.866 sq.km,
with a population of over 1.989.500 inhabitants and bordering with the
provinces of Lam Dong, Binh Thuan, Binh Phuoc, Binh Duong, Ba Ria
- Vung Tau and Ho Chi Minh City. On natural maps, the eastern part of
South Vietnam shows a gradual incline from North - North East toward
the South of a complex system of folded formations presenting 8 terraces,
from the highland’s topography of old volcanic basaltic craters, through
the hilly topography combining schist - basalt - ancient alluviums, to
that of the low delta, the river terraces and young sea shelves, of widely
different formation origins and ages. In the general topographic division,
the Long Khanh - Xuan Loc region is integrally located in the basaltic
red soil sub-zone lying in the North East and having the character of
a buffer half plain between two regions, with many types of weathered
shells and soil zones showed in: “Schema of distribution of deep drilled
holes in Eastern South Vietnam and their stratigraphic correspondence
with the deep drilled holes in the area of Xuan Loc (Ha Quang Hai,
1996). On topographic division and paleogeographical division maps,
the sub-area of Xuan Loc, Long Khanh is integrally located in the region
comprising hills and high eroded plains of the highlands, extending in
the southernmost region adjoining the mountainous highlands of Lâm
Viên (altitude: 800-100m), with a 10-30m thick weathered shell, and the
layer of red - yellowish brown - reddish violet soils which prolong the
undulated eroded surface of the plain with its layer of yellowish red -
yellow soils, a radiating hydrological network, good potential in forest,
possessing high resources in eruptive rocks, sandstone, slate, precious
stones (sapphire) and half-precious stones (opal, chalcedony), along with
mountainous clay resources that prehistoric men might have exploited for
manufacturing tools, weapons and ceramics. Besides the volcanic relief,
in the sub-zone Long Khanh, Xuan Loc, there still are eroded and leveled
surfaces from the altitudes of 300-500m to those of 50-40m, which are
cut through Xuan Loc’s QII age basalt; the ancient river terraces, from
terrace III (70-50m) to the South of Xuân Lộc, of QI age, and terrace II
(35-25m), of QII-III age, and constituted by materials from the Thủ Đức
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 303
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.4 Page 304

▲back to top
formations, to terrace I (15-10m), extend along side the modern rivers and
streams (Paleogeographical schema, Geological and Geomorphological
maps - Ha Quang Hai, 1996).
Our concern is the activities of ancient men relating to the highlands
terraces made of lava weathered into red soils, ancient alluvial surfaces,
fluvial deposits along valleys and streams. Especially, on the surface
of the basaltic elevated zone of Xuan Loc, Long Khanh, archaeological
relics and prehistoric culture vestiges are concentrated with the greatest
number, from the collection of Paleolithic tools manufactured in basalt
appertaining to QII-III age, to ancients villages living from agriculture,
hunting, gathering of forest products or fishing as well as handicrafts,
cemeteries where the dead were buried in earthen tombs, ceramic jars or
megalithic tombs, treasures buried in volcanic craters in the metal age,
etc.
With its humid monsoon tropical climate, the Southern Vietnam has
the highest density of solar radiation in the country. The high and relatively
stable heat regime equivalent to an annual average temperature of 26-
27°C, with tTotal temperature of the year attains 9.500-10.000°C. There
are regions having great quantity of rainfalls. The rainy season lasts from
May to November, during 140-160 days, accounting for 90% of the total
rainfalls. The dry season lasts from December to April, with rare rainfalls.
With a relatively stable climate, a regime of division into two seasons,
under the influence of the monsoon, the tropical - subtropical forest covers
still occupy over 50% of the natural land area of Southeastern part, with
flora together with a fauna rich in species and ecological environmental
backgrounds (birds, mammals, fish, shrimps, mollusks...), especially in
preserved primary forests such as the “natural museums” in Cat Tien
(35.000ha) etc.
The ecological environmental backgrounds of the Long Khanh, Xuan
Loc weathered basaltic red soil region as well as the whole Eastern Nam
Bo, Vietnam in general, created in every historical period the necessary
and favourable conditions for the economic development, cultural
creation, and civilization of human communities living and growing in
this region.
304 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.5 Page 305

▲back to top
According to historians, there is an ancient region - a region
“comprising entirely of wild forests covered with thick grass, each forest
at times is widest than one thousand miles” (Le Quy Don, 1776); the old
habitat of the mountaineers Chrau and Ko Ho whose languages appertain
to the Mon-Khmer linguistic group (of the Bahnar type according to H.
Fontaine, 1972; or the Ma type according to J. Boulbet, 1964). In the
history of over three century of the Bien Hoa country’s reclamation, when
Nguyen Huu Canh was mandated by the Lord Nguyen Phuc Chu for going
to the South in 1698 “to conquer the Nong Nai and transform it into the
district of Gia Dinh, to transform the Dong Nai into the county of Phuoc
Long, and establish the Tran Bien citadel” (Trinh Hoai Duc, 1820) Long
Khanh, Xuan Loc belonging to the canton Tan Chanh (Phưoc Long) was
still a wild region “with hills and mounds rising in a majestic succession”,
covered by thick jungle, with tall sky-scraping trees, for hundreds of
miles” (Dai Nam nhat thong chi), lying next to the “Loc Dong” (Plain of
the Stags), Bien Hoa, Dong Nai (Malleret L., 1963).
Since the infancy mankind, the weathered basaltic red soil Highlands
of Long Khanh, Xuan Loc has been preserving vestiges of man’s activities
in the primitive ages, with some collection of basalt tools unearthed at
Hang Gon 6, Dau Giay 2, Nui Dat, Cam Tiem, Suoi Da (Gia Leu), Binh
Loc, Binh Xuan 2 etc. There are collections of flake, biface and bifacial,
scraper-like stone cores, point-type implements, etc. tools of early
Acheulean type (fig.1). Even though no discovery has been made “in situ”
in archaeological levels or accompanied with corresponding remains of
ancient human or fauna and flora, many Xuan Loc’s artifacts have been
studied by Vietnamese and foreign reseachers who, based on the method
of manufacture and typological analysis results, have generally admitted
that they are the true product of the most primitive hominids - “Colonies
of hominids” populating the basaltic red soil hilly half-plain region of the
Southern Vietnam.
The life of Xuan Loc’s hominids might have been that of fairly
developed “Homo erectus clans”, who have been named by anthropologists
“Mongoloide meựridionale”, a from of life recognized as that of a human
society determined to be of the Pleistocene epoch, in primitive forests
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 305
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.6 Page 306

▲back to top
and on volcanic red soil terraces of the Southern Vietnam. From this
period on, the first page of history of the conquest of Đong Nai records
the establishment of the tradition of manufacturing tools from basaltic
pebbles and pebble processing tradition would continue to be maintained
in ancient Đong Nai’s communities during many tens of thousands of
years later.
Besides vestiges of stone age’s primitive people, Long Khanh, Xuan
Loc subzone is also a place of birth and continuous settlement of metal
age’s men, the driving sub-zone of prime importance in Đồng Nai’s ancient
society and tradition of cultural and technical creation throughout the
Bronze age - Early Iron age period during two millennia preceding the
Chirstian Era. The first vestiges of this historical ear were known since
the start of this century, through the intermediary of information on the
discovery of the “Heaven’s axes - Lightning blades” (such as axes, adzes,
square or shouldered chisels...) near Dau Giay, Gia Kiem, Tan Phong
(Hieu Kinh), etc. (Barthère F., 1911; Fontaine H., 1972).
The best studied per-historic vestige site of the Chalcolithic (or
Enéolithique) in Xuan Loc, Long Khanh zone is Cau Sat, with its collections
confirming the presence of the primitive slash-and-burn agriculture in the
fertile red soil region in ancient Dong Nai, besides the handicrafts of
manufacturing tools - stone jewelry, pottery making on revolving table
and the hunting - food collecting economy for exploiting products of the
tropical wooden hilly region in the Southern Vietnam. The Cau Sat habitant
site, along with Suoi Linh excavation site in the alluvial region at the Song
eé - Dong Nai fluvial confluence, are considered as two typical sites of the
starting stage of the cultural - stone and pottery manufacture tradition in
the metal age of the Southern Vietnam in the transitional period between
the IIIrd and IInd Millennia B.C.
In the “post- Cau Sat “ historic period (appertaining to the Bronze
Age, beginning from the IInd millenium B.C.), in the Xuan Loc, Long
Khanh schistous hill - basaltic red soil mound region, Dong Nai’s folks
continued the tradition of establishing villages on the sides of fresh and
aerated fertile red soil hills and mounds on river and stream banks. There
306 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.7 Page 307

▲back to top
were large settlements, and the scale of each “ancient village” was not
less than the area of a modern Viet village, 1-2 ha, around Hang Gon
megalithic toms, discovered by E. Saurin in the area of 10 sq.km. of Hang
Gon Rubber tree Plantation, with quite similar collcted ancient culture
relics, such as: hoes, axes, square or shouldered adzes or chisels, grinding
stones, flakes, amulet type pendants, stone necklaces or bracelets, ceramic
“marbles”, potsherds, jars, glasses, trays, lids, etc. The most important
in this village group is Hang Gon (or Nui Gom) with 4 sandstone moulds
and Carbon 14 dating with as result: 3.950 ± 250 BP (fig.2). Besides
Hang Gon site group discovered by E. Saurin, there is also the group of
sites concentrated around Cau Sat, in the territory of Xuan Phu, Xuan
Truong, Xuan Binh (the sites: Binh Xuan, Doi Mit, Doi Xoai, Dau Giay
3, Tan Lap, Lap Thanh, Suoi Nhan...). The pre-historic culture relics in
each of these sites stretches on 1-3ha, everywhere on the slightly sloping
hill-sides along stream banks. The common chronology of whole group of
these relics is estimated to be the first half of the IInd millenium B.C.
The early Iron in the schist - basaltic red soil Xuan Loc, Long
Khanh sub-zone has been better studied contain ancient culture
vestiges considered as the most remarkable and representative of the
whole Southern Vietnam. This is the peak development stage of Dong
Nai pre and proto-historic culture complex, proving economic and
cultural exchange performances and contemporaneous advanced
technical progresses, relating to the invention of iron metallurgy and the
applications of this industry’s products in the reality of production and
traditional struggle, starting from the middle of the Ist Millenium B.C.
A form of vestige characteristic of the early Iron Age in Xuan Loc, Long
Khanh and Southern Vietnam includes ancient agricultural villages, with
workshops specialized in smelting bronze - forging iron - creating and
selling jewelry made of precious or semi-precious stone, agate, coloured
glass, silver, gold, ... Besides traditional graveyards (composing of
earthen mounds) next to the settlements, have also taken shape, apart
on the red soil hill sides along small streams separate graveyards where
the dead are buried in creamic jars in Suoi Chon, Dau Giay, Hang Gon
9 (C14: 2.300, 2.190 and 2.100 ± 150BP) and Phu Hoa (C14: 2.400 ±
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 307
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.8 Page 308

▲back to top
140 and 2.590 ± 290BP) (fig.2-3). Hang Gon jar tomb cemetery vestige,
together with similar “Plain of Jars” of Xuan Loc, Long Khanh region
(Suoi Chon, Dau Giay, Phu Hoa), from a group of vestiges with all the
endogenous cultural characteristics of the last development stage of the
proto-history of Dong Nai are all the down stream territory of this river
system. Besides the group of jar tombs vestiges of Suoi Chon, Dau Giay,
Suoi Da, Phu Hoa and the contemporaneous agriculture - handicraft -
trading villages of the early Iron age, in the basaltic red soil sub-zone of
Xuan Loc, Long Khanh still exitst other interesting vestiges of the Dong
Nai’s material and spiritual culture. For example, the vestige complex of
Hang Gon 7 Megalithic tomb, or the “Storage” containing weapons, tools
and rare animal bronze statues in Long Giao ancient volcano crater, etc.
The discovery of Long Giao treasure and halberds has been made in the
area concentrating the most representative artifacts of the whole Eastern
South Vietnam in the early Iron age - the Suoi Chon, Dau Giay, Suoi
Da, Phu Hoa earthen tombs - jar tombs vestige group encircling Hang
Gon megalithic tomb, about which E. Saurin (1973) believes firmly that
there are parental relationships between them”, in Xuan Loc, Long Khanh
area (fig.4-5). Maybe this also suggests the presence of a central zone of
Dong Nai ancient culture, a zone of an identical ecological environmental
background with the dense tropical forests intermingled with numerous
rivers and streams, and an unlimited potential of forestry product resources
which were “infinitely supplied to the prehistoric hunting and food
gathering life” (Fontaine H., 1972) along with stretches of basaltic red
soil hills “in one of the most fertile land of South East Asia” (Bellwood P.,
1978). This is also a region possessing great numbers of Iron implements
and weapons splendid jewelry, gigantic megalithic tombs and innumerable
jar tombs, rare statues, halberds and the prestigious bronze drums - a
land which was a settlement and spiritual center once renowned of Dong
Nai’s ancient man. And the Binh Phu, Phu Chanh, Vung Tau, Bu Dang,
Phuoc Long, Ben Tre drums and Hang Gon megalithic tomb precisely the
first signs on the formation and growing up of a higher power structure,
surpassing the ranks of sub-zone tribal chiefs, entitled to bear bronze
halberds, of this community. There were also the “Dong Nai phenomena”
308 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.9 Page 309

▲back to top
in the history of the ups and downs of South East Asia’s culture and
civilization.
The above summarily described vestiges of Dong Nai ancient man’s
activities are the first system of almost entirely the most important
prehistoric and proto-historic archaeological evidences known to date,
in Xuan Loc, Long Khanh basaltic red soil sub-zone, on the background
context of the Southern Vietnam’s metal culture. These are also evidences
related to the “techno-cultural background context”, or the so-called
“techno-cultural basis” or “techno- cultural backdrop” of the complex
of megalithic architecture unique from prehistory up to this date in this
regional culture.
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 309
HANG GON MEGALITHIC TOMB

31.10 Page 310

▲back to top
PART TWO.
MEGALITHIC SITES IN THE RED SOIL REGION
OF LONG KHANH - XUAN LOC, DONG NAI
The first megalithic vestiges in the red soil
region was given by E. Saurin (1968) the number
7 among the 10 prehistoric sites located on the
lands belonging to the Company of Rubber Tree
Plantations of Xuan Loc (established in 1911).
We use the name given by E. Saurin to the first
vestiges, but we divide them into two distinct
groups: Hang Gon I (Hang Gon 7A) and Hang
Gon II (Hang Gon 7B).

32 Pages 311-320

▲back to top

32.1 Page 311

▲back to top
Chapter I.
THE MEGALITHIC SITE HANG GON I (7A)
1. Prospection
At the beginning of 1927, while directing the construction of the Xuan
Loc - Ba Ria road (now the Interprovincial Road No 2), French civil
engineer J. Bouchot was advised by Mr. Mercier that there were blocks
of stone of strange shape erected at the side of this section of road in the
red soil rubber tree plantation belonging to Mr. Baze. The biggest stone
block was erected vertically under a secular tree and considered by local
population as a mysterious stone altar,this was why they had built a small
shrine for worshipping the “Stone Genie” (Monsieur le Rocher). As he
was a “correspondent” of the “École Francaise d’Extrême-Orient” and
(EFEO), he immediately commanded the workmen supplied by the French
Governor of Cochinchina excavate the “Stone Genie”.
2. Excavations
The excavations lasted from April 14 to May 16, 1927. J. Bouchot
ordered to dig around the “Stone Genie” a nearly round moat, with the bed
of the moat resembling a large basin. He discovered vertically or slightly
obliquely erected stone slabs or pillars, almost symmetrically arranged
on two rows. In the middle, there is a large stone chamber, considered
as the “chamber-tomb” (tombeau-chambre), tightly closed by 6 granite
slabs. The stone chamber is almost intact, except a small break at the
North-East corner of the chamber caused by the falling down of a close-
by long granite slab. Before the witness of the Director of the plantation
W. Baze, local population et several invited personalities coming from
Saigon (Mr. Blanchard de la Brosse, journalist, photoraphers, etc), the
slab of the Eastern end of the chamber is pried open. It is recorded that
the inside of this “historical architecture” was still crammed tightly with
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 311
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.2 Page 312

▲back to top
red soils entirely similar to the outside soils, but there were no precious
objects, besides “pieces of pottery extremely friable to the extent that they
fell apart into tiny bits as soon as they were lifted up with the hands” (des
morceaux des qu’elles eựtaient prises en main). For the reason nothing
precious had been found in this “astoundingly solid” burial vault, J.
Bouchot intended to continue to excavate when the rainy season would
end in Xuan Loc, with better technical means for digging and moving
stone, but his dream could not be realized.
3. Jean Bouchot’s First Publication
Immediately after the excavation ended, the first information on the
“excavation” of Xuan Loc megalithic vestiges were published by the
Review “Sociéựté des Etudes Indochinoises” on two consecutive numbers
together with photographs. Afterward, in 1929, J. Bouchot published in
addition “Some remarks on the margin of Xuan Loc discovery” (Quelques
notes en marge de la découverte de Xuan Loc) along with 4 photographs
taken by M. Gastadly.
The first publications of J. Bouchot let aside numbers of important
details, and did not meet the most elementary research demands. Later,
archaeologists could not even know the form of the initial excavation pit
as well as its depth and width, the stratigraphic relation between the rows
of pillars and the burial vault, how many ceramic bowls or pots were
buried in the burial vault and what did they contain? ect.
In the author’s opinion, there are 12 pillars arranged into two
rows (double rangeựe de pillers du nombre de douze), in the East-West
direction, among which, the two biggest pillars are made of granite (7,2m
long, 1,1m wide and 35cm thick) and 10 small pillars made of sandstone
or basalt (2,5-3m high).The two big granite pillars were erected on a
pedestal about 10cm higher than the stone chamber’s foundation; their
lower ends bear a wide prominence which was likely to be assembled with
some curious tenon system (assembleựs par un curieux dispositif de tenon
et de mortaire); their upper ends present each a groove shaped (ensellure)
like an arab saddle (salle arabe) probably destined to receive a tree trunk
312 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.3 Page 313

▲back to top
type beam (un tronc d’arbre) lying transversally on the stone vault. 10
small sandstone or basalt pillars are laid directly on the ground without the
intermediary of “anti-sinking” (sans intermeựdiare) pedestals, at a level
of about 60cm higher than the stone chamber’s foundation, and have also
on their upper ends saddle-shaped groove, sophistically manufactured
with an elliptic section (fig.6).
Concerning the stone vault at the center, the author determined
definitively its similarity with the various ancient tombs of the world
called “Dolmens”. “The Dolmen of Xuan Loc” has a rectangular shape
and is tightly closed by 6 granite slabs, for guarantying security to one or
many corpes and treasures contained inside. On the basis of the destiny
of granite, the biggest slab of the dolmen’s lid (4,2m long, 2,7m wide and
30cm thick) may weight as much as 7 tons. J. Bouchot think that: the
hypothesis considering the rows of pillars encircling the stone vault as a
system helping to move, lift and lower more easily the tomb’s lid is wrong,
because the pillars and the stone vault were not built in the same historical
period. Perhaps, in the first phase, the ancient built separately the Dolmen
and the two biggest granite slabs. There were made of the kind of stone
they had to exploit at a great distance from Xuan Loc since the quarries of
which only existed in Southern Central Highlands (at a distance of about
6km from Da Lat) or in Central Vietnam. In these quarries, the ancient
might have been able to exploit easily huge 5-6m wide and 25-40cm thick
stone slabs, of which, after their transport to Xuan Loc, they only needed
to make processing by chipping and hewing so as to obtain a rectangular
shape, and then boring and grinding the “grooves and tenons” (munir
l’appareil de goutieứres ou de riogles) in order to assemble the slabs into
a parallelepiped.
After the “granite period”, the ancient continued to manufacture
and erect the sandstone pillars in rows (banquettes) on a level 60cm
higher than the granite tomb. The ancient might easily find sanstone in
open air quarries near the vestige site, but pillar manufacture technique
had become more sophisticated. The sandstone or basalt bars of a later
period have the charater of supplementary decoration for the dolmen.
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 313
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.4 Page 314

▲back to top
The author believes that this is a megalithic work appertaining to the
“Neolithic civilization” in the “mordern Neolithic” geological level
which is called “Robenbausien” by Sir Gabriel Mortillet. The megalithic
burial vault was tightly closed for the reason that the prehistoric builders
were concerned with the protection of secrecy, something similar to the
habitual esotericism or many Pacific’s peoples.
The author tried to find some similarities with Hang Gon dolmen in
the regions of Caucasus, Hight Burma, Assam, North China (according
to V. Golobew), in Java (according to Dr. Stein Canllenfels), in Changkat
Mentri - Sungkai, Southern Perak (according to commniqueựs of Straits
Settlement and Malaysia’s Museums), “tumulus” type tombs, in Nagasaki,
Kyushu which were burials of important personalities having relationships
with the “first phase of history” (aube des temps historiques) (according to
Abbé de la Trappe and Bisho Martin in the work: “Le Shintoisme, réligion
régionale”, T.I: The orgin: Essay on the ancient history of Japan, ect.).
He also established the relationship between architectual details in the
Xuan Loc Dolmen, such as the “consoles”, the “saddle-shaped grooves”
of the main pillars, the hand-rail, with similar structural elements in
“tomb”, “stone chamber”, or “sanctuary”, ... -like megalithic vestiges in
Trans-Jordan (Palestine) through documents supplied by Lubbock, Alfred
Bertholet, Mader, Evans, ... and believes that: the Hang Gon Dolmen has
family relationships with Far-Eastern Dolmens and is a “representative
of the Asian Dolmen family”. Noting the extraordinary labour supplied
by the indigenous ancient men having exploited , transported on long
distances, for building the Xuan Loc Dolmen, structural elements of these
weights even not seen in Angkor, the author believes that this architectual
work was built for a chief (tombe de chef) and suggests that one must try
to find in the Central Highlands the descendants of Xuan Loc Dolmen’s
creators, because such “a people could never totally die” (un peuple ne
meurt jamais tout entier) (Renan).
According to J. Bouchot, the arrangement of the pillar rows around
the Xuân Lộc megalithic tomb resemble in a extraordinary manner the
structure of mortuary houses of the wealthy (riches) or chiefs in the Gia
314 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.5 Page 315

▲back to top
Rai cemetery in Plai Rlung (Dak Lak) described in the work “Jungles
Mois” of Henri Maitre. The main architectural elements allow to
recognize or think that the Jarais have carefully conserved and improved
the specific burial rituals handed down by the their ancestors, since the
initial period of Xuan Loc with the huge stone tomb bearing the uniform
characteristics of the worldwide ancient Dolmenoid tomb family, in the
manner of a”common tradition”, or a “antic custom” (antique habitude
de l’Humanité) of mankind concerning megalithic monuments.
4. Studies by Henri Parmentier and Foreign Scholars
After the discovery by J. Bouchot, the strange megalithic vestiges in
Hang Gon red soil region drew the interest in research and comtemplation by
many scholars of the world. The first person to come to the site immediately
after the excavation had ended was the renowned archaeologist - Chief of
the Archaeological Service of Indochina, Henri Parmentier (3rd September
1927). He was absolutely stunned for after 30 years’ wandering at every
corner of Indochina, he had never seen any such gigantic monument.
Afterward, from 13th December 1927 to the end of 1930, he returned
to this site 3 more times along with the scholars G. Coedès, Van Stein
Callenbels, to study this “megalithic tomb”. As at the start, he had been
a National Architect, H. Parmentier endeavoured to recover on drawing
the orginal state from the ruins strewn almost all fallen apart around this
important stone vault. He noted that the stratum of red soil is continuously
uniform up to 1 m under the foundation of the stone chamber, is mixed with
numerous small pebbles, and appertains to the famous red soil that the
Chief of the Gollogical Service, F.Blonde, had determined as belonging to
the Quaternary, similar to the fertile chocolate-coloured soil in the basaltic
highlands of Indochina. The parallelepipedic stone vault (coded A on the
drawing by H. Parmantier), of 4,5m long, 2m wide and 1,5m high (data
used afterward by L. Malleret and H. Fontaine) had been assembled with
6 monoliths, lying in the East-West direction (the dirrection of the western
end’s wall differs from the South of 2º). He analyzes more in details the
architectural elements, the mortise-grooves on the floor and the lid of the
chamber, two prominences of the lid in the form of large tenons, the whitish
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 315
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.6 Page 316

▲back to top
granite material, the position of the main sandstone pillars, the flat stone
slabs supporting the pillars for avoiding sinking into the porous red soil
ground, the small tenons and the saddle-shaped grooves on each of the
pillars, ect.
He coded quite sufficiently the pairs of erected pillars (BB’, CC’,
DD’, EE’, FF’), noticed the on-site or the broken pieces on the Eastern
brim of the hole, and supplied us a “probable view” of the plan and cross-
sections of the vestige (fig.7), but the most valuable is what until now has
been assessed as “convincing and highly reliabledrawings thanks to their
scientific foundation” (Do Ba Nghiep 1993). According to H. Parmentier
(1929), the Xuan Loc megalithic monuments are “extraordinary vestiges
unique at this moment in Indochina”. He compared the stone pillars with
the kind uncovered in Oceania but as the excavations of J. Bouchot did
not uncover the smallest indications showing what may be called relics,
except the low temperature-baked earthern pots, able to prove the ancient
origin, it is difficult to classify Hang Gon tomb into the same period with
the Menhirs or Dolmens of the world which were buried accomplanied
with polished stone implements).
Concerning Xuan Loc megalithic vestige complex, the inaccessible
underground vault suggested to the author the impression that the
monument resembled a tumulus buried under a mound, with at least an
entrance leading to the front end of the vault, similar to the tomb of a great
chief or “collective tomb” (tombe commune) containing the corpes of
many chiefs or warriors which would have been quickly consumed for the
reasin Xuan Loc red soil contains Phosphorus. According to the author,
this burial vault looked like a “real antechamber of immortality”, with a
low slab-ceiling the two ends of which are protruding like two “auricles”,
to which may be attached a rope so as to be able to displace several times
the lid and open the chamber each time it was necessary to bury one
chief or warrior. The transport of the tomb’s lid was figured out by the
author in a simple manner: After raking out all the earth layer covering
the tomb’s lid, one wooden bar might be placed under each mortise at
the slab’s end, a rope would be attached and suspended on the system
of round wooden beams placed on pairs of pillars at different levels
316 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.7 Page 317

▲back to top
(niveaux). Afterward, two teams of men would slowly raise the slab-lid in
two opposite directions and maintain the slab-lid stable on the system of
round tree trunks placed horizontally on the CC’, DD’, EE’ pairs of stone
pillars at the front end of the tomb during all the whole ceremony. It was
just this such figured out structure that suggest some ideas on the ancient
carpentry and the usual way of using lumber of these times. Especially, the
shape of the tall and strong BB’ pillars proves the high qualifications of
workmen in the ancient tradition of building architectural frames and, the
existence of several pairs of stone pillars suggests the possibility the tome
might be repeated opened, and closed. H. Parmentier considers this as a
never seen arrangement among ancient Indochinese monuments, which
will nedd to be further prospected and studied, and further compared to
other site in the Xuan Loc, Long Khanh red soil region as well as in other
regions. For example, in Suzannah plantation, J. Bouchot noticed a grotto
bearing prehistoric drawings (une grotte as dessins preshistoriques) in
Vo Dat (Long Thanh), in the medium reaches region of La Nga river in
the midst of a dense forest, there are great quantities of open air granite
where seemingly there still are vestiges of a stone quarry. Furthermore, it
will be also necessary to make comparison with the huge slabs vertically
driven in the ground at the stone circle vestige (enceinte) in Dong Pho (Sa
Huynh); the long and thin chipped stone slabs, of unclear use and origin
in Phnom Penh’s museum (Cambodia); the large stone jar tombs in Xieng
Khoang (Laos), the megalithic constructions with supporting pillars of
a type and shape similar to those of Xuan Loc in Oceania, according to
publications by F. Benoit (1912), ect.
After the work done by J. Bouchot and H. Parmentier, many other
foreign scholars visited Hang Gon megalithic tomb, and introduced the
monument. There were the investigation and visits to “Xuan Loc megalithic
tomb” by G. Coedès, accompanied by the Inspector Permanent Member
of the Archaeological Association, J. Y. Clayes in 1931, O. Jansé in 1934,
L. Malleret, P. Levy, L. Bezacier in 1937-1943, E. Saurin in 1963, H.
Fontaine in 1972, ect., uncovered many other ancient culture vestiges in
the vicinity of the megalithic tomb. The first researcher considering the
tomb as a megalithic monument of the region’s indigenous population
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 317
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.8 Page 318

▲back to top
was E. Saurin, when he related the Xuan Loc Dolment to the prehistoric
vestige complex of Hang Gon 1-5, 8-10, in particular to the Hang Gon
9 ceramic jar tomb zone as well as to the much farther away Plain of
megalithic jars in Northern Laos (Colani M. 1931, 1935).
In “L’Archéologie du delta du Mékong”, L. Malleret evaluated the
megalithic monument as having a “grandiose importance” because it had
opened more in depth research and survey works in the whole red soil
region which extents from Xuan Loc to Ba Ria and Xuyen Moc in the
South. According to L. Malleret, the main vestige is the megalithic vault
lying at a depth of 1,5m from each surface, without any trace of tumulus
covering it, and circled by several pillars in majority in sandstone, with
grooves bearing head.With ceramic pieces which fell into tiny bits as soon
as they were lifted up with the hand, the vestiges were really in accordance
with the function of a funerary champer which might be protected by a
wooden framework, with pieces of round lumber put transversally on
monolithic pillar’s grooves. The Journalist J. Faget, one of the witnesses
of the opening of the stone vault, related as follows to L. Malleret: The
stone tomb containing great quantity of earthenware intermingled with
red soil, constituted of piles of bowls arranged or fallen on the vault’s
floor, these bowls contained ashes and charcoal so that one might
assume that this stone vault was a “sepulture reserved to the remains of
incinerated corpses”.The initial information on Hang Gon vestiges was
also used by many people in general studies of the prehistory and proto-
history of South East Asia and East Asia. Many scholars considered it as a
megalithic burial vault (Garpardone E. 1955, Loof. HHE. 1961), with the
European conceptions on “megaliths” and “megalithic monuments” of
Dolmen and Menhir type, such as prehistoric architecture made of large
stone blocks. Some people considered the rows of upright polished stones
as having relationship with “delmenoid graves”, and the remnants of the
round-bottomed ceramic jars resemble the common structure of numbers
fo slab-built graces in Perak, excavated by Ethnology M.A. I.H.N. Evans
(1928), or the narrow chambers containing iron implements and weapons,
ceramic utensils, round beads, bark-cloth beaters, and pieces of bronze
with an aging bright patina in Chankat Mentri, Sungkai, excavated by H.
318 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.9 Page 319

▲back to top
C. Robinson, H. Gordon Graham... According to observations made by Dr.
Van Stein Callenfels and L. Bezacier (1972), the burial in the prehistoric
burial vault of Xuan Loc, or the conservation of human remains in stone jar
in Tran Ninh or ceramic jars of Sa Huynh were religious and worshipping
habits which only existed since the beginning of the Christian Era, instead
of dating from a remote period of the Neolithic age. As to Dr. P. Bellwood
(1978), he believes that it is possible that Xuan Loc and Dong Pho stone
tombs had relationship with Sa Huynh classical early Iron age culture and
there are no similar vestiges in mainland South East Asia, except a small
group in the Malacca peninsula.
From 1975 until today, archaeologists and museums have guided
hundreds of scientists from several countries (Russia, Germany, Bulgaria,
Hong Kong, Japan, Taiwan, ect.) to come to Hang Gon and discuss
scientific issues relating to this unique megalithic vestige complex. The
most noteworthy is the opinion of many Japanese scholars. For example,
Professor Dr. Xumio Sakurai shows great concern about the ecological
environmental conditions in Hang Gon basaltic red soil hilly region
(Vietnam), which closely resembles those of the regions rich in megalithic
vestiges in Pasemah highlands (Indonesia). Professor Eiji Nitta (1998)
believes that: Hang Gon burial vault (tom-cist) might be associated with
the Long Giao “Ko”-halberd-dagger collection Depot. These halberds
were manufactured after Chinese models and made by coying of the
date after the “Post-Warring States period” -after the 3rd century B.C.
“Ko”-daggers were collected and stored for some generations as some
kind of “Regalia” for the bigmen in this area. They were handed down
through generations of chiefs; and the possessors of these halberds,
who kept them as “Coat of Arms”, were buried in Hang Gon huge stone
tomb. The observations by Professor E. Nitta are close to the opinion of
H. Parmentier and deserve great attention. However, unlike him, I still
believe that the chiefs armed with Long Giao bronze halberds were purely
military chiefs, like the Chinese scholar Li-chi (1968) had once suggested.
Whereas the personages whose remains rested in Hang Gon megalithic
burial vault were really the ones who possessed the highest power of the
community.
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 319
HANG GON MEGALITHIC TOMB

32.10 Page 320

▲back to top
5. Researches and Studies on the Megalithic Site Hang Gon I (7A)
by Vietnamese Archaeologists, 1975-1995
To Vietnamese archaeologist circles, the task of making researches
on Hang Gon megalithic vestiges is closely attached to the field-word
programmes aiming at unceasingly widen knowledge on ancient cultures
of the Highlands and South Vietnam deltaic plains.
From the initial information issued “Archaeology in South Vietnam
after the 1975 Victory”, relating Hang Gon megalithic tomb with the
stone-dressed tombs in Lang Vac on the bank of Hieu river (Nghe An)
(Pham Huy Thong, 1976), a number of researchers, basing themselves on
new uncovered results on South Vietnam prehistoric and proto-historic
cultures, have supported the observations by E. Saurin considering that
Hang Gon megalithic tomb was a “tomb for burying the dead after
incineration, built in the metal period, during the Full Bronze Age,
probably in the transitional epoch to the Early Iron Age”, and asserting
that: the high value of this monument does not depend on its size, but to
the fact that it contains the creativeness of the prehistoric construction
workers, and is the “relic contributing to shedding light on many issues
concerning the cilivization that archaeologist circles call Dong Nai river
cilivization” (Luu Anh Tuyet, 1982).
After this monument had been classified as “National Historic and
Cultural Heritage” in 1984, the stone vault and pillars have also been
considered as “symbols of the supreme power of the indigenous community
in the Early Iron age”, the “post Doc Chua period”, or the “Suoi Chon
epoch - a peak development epoch of the prehistoric and proto-historic
cultural tradition of Dong Nai in the second half of the Ist millenium
B.C.” (Pham Duc Manh, 1991-2009).
A number of other people on the contrary support the hypothesis of
L. Malleret considering the owners of Hang Gon Dolmen as the probable
owners of masonry-stone architectural vestiges strewn almost everywhere
in Western South Vietnam’s provinces, Ho Chi Minh City, and Dong Nai
and Lam Dong provinces, appertaining to Oc Eo culture the dates of
320 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33 Pages 321-330

▲back to top

33.1 Page 321

▲back to top
which were from the Iest century to the 7st century AD (Le Xuan Diem et
al.1991).
At the beginning of 1992, Dr. Nguyen Van Long and Mr. Luu Van Du
directed the excavation for the purpose of consolidating and enhancing
the monument, with a view to salvage the stone vault from collapsing as
it was ofter inundated in the rainy season. The total area included in the
plan amounted to over 1.400m2 (44 x 32m), and was dug by the excavation
team so as to form preventing erosion. The size of the landing steps is 10,4
x 9,8m; 15 x 15m; 20 x 20m, rising progressively from the floor of the
tomb (threshold 3) to the site’s surface (threshold 1). All the bars, sections
and blocks of pillars of the stone vault were gathered and grouped on the
surface of this landing step structure.
Our surveys from 1997 to 1999 here noted that: Althought the above-
mentioned excavation for the purpose of consolidating and enhancing
had not yet aimed at the objective of restoring the initial state of the site,
at least in accordance with the reliable drafts by H. Parmentier in 1929;
thanks to this excavation, almost the totality of the structural elements
of Hang Gon 7A megalithic vestige complex may each be studied and
controlled with precision in details, in particular, the parts buried in the
ground that the former scholars had not yet described or of which they
had not supplied the accurate dimensions.
The totality of the 55 specimens have been by our care experimentally
assembled, measured in details and coded according to 22 different
indexes (fig.8). These specimens belongs to two main groups:
5.1. The stone vault: 6 slabs (27HG7A-HM-1-6) assembled into a
parallelepiped (at present, there are 5 intact in-situ slabs, in particular
the slab at the Western end of the vault has been dismounted). Common
size: Height: 1.6 m (at the Western end) - 1,7m (in the middle) - 1,65m (at
the Eastern end). Length: 4,43m (measured from the two extremities of the
East-West walls) - 5,25m (measured on the vault’s lid). Width: 1,65-1,9m
(measured between the two lateral walls) - 2m (measured on the vault’s
lid) (fig.9-12).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 321
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.2 Page 322

▲back to top
The whole stone vault is made of coarse biotitic granite, with a grayish
white core and numerous black mineral impurities, the surface is covered
with a black or dark brown patina.
A few characteristics deserving attention in the slabs of Hang Gon
burial vault are: the stone lid, if restored, has the largest size, the greatest
thickness and weight (5,65 x 2,2 x 0,24m), with both ends protruding as
a gigantic shouldered ax handle; on the lower side there are encirling
grooves of an almost rectangular cross-section so as to coincide tightly
with the four walls of the vault; the upper side is slightly convex in its
middle. The floor slabs of the vault is almost rectangular but the Eastern
end side is straight, while the Western end side is a little convex; the
grooves are fairly deep, so as to coincide tightly with the four walls and
create thus a chamber above a stone floor. The two slabs used as the
(thick) Northern wall and the (thin) Southern wall had been manufactured
in such a way that the wall thickens progressively from the edge assembled
with the lid. The Western wall, which is assembled in such a manner that it
is a little inclined as compared with the longitudinal axis of both the floor
and the lid, has a rectangular shape but is slightly jutting out to the two
sides of the burial vault: 2,5-2,52m long. The Eastern wall was initially
dismounted since the excavation in 1927; when the broken pieces are
assembled, the size is: 1,75m long x 1,3m wide x 11cm thick; in particular
on one side edge, there still is clearly the semi-spherical faulted hole. It
is just this semi-spherical hole which asserts that the opening orientation
of the whole stone vault is the East and may also bear the significance
of a “soul escape hole”, like in many other megalithic monuments and
ceramic jar cemeteries in Vietnam and the Far East (fig.9).
5.2. The other components: 2 supporting pedestals still having a
round or triangular shape, determined by H. Parmentier as of a level
higher than the stone vault floor in order to support 2 long granite pillars
BB’. What is worthy to say is that the pedestal coded 27HG7A-PK-8a is
still bearing grooves similar to those of the floor slab (or the lower side of
the lid slab). This suggests the possibility that there still is another stone
vault in Hang Gon (because the vault itself still has the floor slab and the
322 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.3 Page 323

▲back to top
stone lid intact); or at least the possibility the ancient had manufactured
and assembled this integral burial vault in-situ, in case it is really a floor
(or lid) slab which had been disregarded by the ancient and used afterward
as a supporting pedestal (fig.10).
The other 40 spicimens may be assembled into 12 pillars (belonging
to 6 pairs as noted by J. Bouchot and H. Parmentier) and an unmatched
segment. Among which: the pair of pillars 27HG7A-PK-B-9-B’-10 made
of granodiorite, with as size: longest dimension 8,2-7,7m, widest 1,1-
1,5m, thickest 0,43-0,3m.
The pair of pillars 27HG7A-PK-C-11-C’-12 made of quartzite-
containing sandstone, carefully processed, well polished, with a shiny
yellowish brown external surface, an elliptic cross-section, and as size:
longest dimension 3,6m - 3,35m, widest 0,65m, thickest 0,43-0,3m.
The pair of pillars 27HG7A-PK-D-13(Granodiorite)-D’-14
(Sandstone) also has an elliptic cross-section, and saddle-shaped grooves
on their head as the above-mentioned pair, but are bigger: longest
dimension 4,07m - 3,85 m, widest 0,57m - 0,8m, thickest 0,55m - 0,38m.
Besides the above 6 pillars which have been accurately studied and
described by H. Parmentier, for the remaining pillars, it is now only
possible to guess their old code through his draft. Among which, the pair
of pillars 27HG7A-PK-15 (Sandstone) - 18 (Granite), seemingly the pair
FF’, having as size: longest dimension 4,75m - 3,95m, widest 0,45-0,4 m,
thickest 0,31m - 0,3m (fig.7-8); The pair of pillars 27HG7A-16 (Granite)
- 17 (Sandstone), seemingly the pair GG’, having as size after shape
reconstruction: the longest dimension 4m - 3,8m, widest 0,4m, thickest
0,2m - 0,19m; The pair of pillars 27HG7A-PK-19-20 made of sandstone,
with a nearly oval cross-section, broken into 5 sections, seemingly the
pair EE’, which originally was the well buried pair of pillars at the
excavation moment (still lacking in H.Parmentier’s draft), with as size
longest dimension 3,7m - 3,85m, widest 0,32m - 0,35m, thickest 0,19m
- 0,23m. Pillar 27HG7A-PH-21 made of fine-grained sandstone, never
yet seen in the previous studies by French scholars, the remaining size
is longest dimension 1,6m, widest 0,32m, thickest 0,23m. According to
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 323
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.4 Page 324

▲back to top
the on site draft by H. Parmentier, it is possible that this is the specimen
lying near the pair of pillars CC’ (fig.7-8). The specimen 27HG7A-PK-22
is the biggest sandstone block among all the stone pieces collected in
the excavation for consolidating and enhancing the vestiges. These stone
blocks do not belong to the pillars, but instead seem to have relation with
the stone pedestals supporting the pair of pillars BB’ that Jean Bouchot
and Henri Parmentier have described. The size of what remains of the
biggest block is 0,62m long x 0,5m wide x 0,26m thick (fig.12; Table I).
324 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.5 Page 325

▲back to top
Chapter II.
THE MEGALITHIC SITE HANG GON II (7B)
1. Prospection
Almost 7 decades after the uncovering of Hang Gon dolmen, at the
beginning of December 1995, Bulldozer drivers of the Stone Enterprise
under Hang Gon Planation discovered new granite slabs at a distance
of 60m to the South East from the Dolmenoid burial vault. Mr. Tran Tu
Oai, the guardian of the National Historic and Cultural monument sent
an urgent telegram to Dong Nai Museum for informing it on this new
discovery. Immediately after, the Dong Nai Museum and the Centor of
Archaeological Studies organized three investigation expeditions and
proposed to the Ministry of Culture and Information of Vietnam and
Dong Nai People’s Commitee a project for an urgent excavation permit.
During the excavation process (1st - 2st January 1996), Messrs.:
Nguyen Nam Ngu (Director of Dong Nai Culture and Information Service),
Do Ba Nghiep (Director of Dong Nai’s Museum) along thith many leaders
of local People’s Commetees and Authorities, Visitor groups from Ho Chi
Minh City, Long An, Ha Noi, appertaining to many Scientific Agencies
(Institute of Archaeology, Institute of Social Sciences in Ho Chi Minh
City, the Museum of the Southern Provinces), Newspaper and Television
reporters, Japanese scientiests working in Vietnam, ect. came to visit the
excavation site.
2. Actual Situation and Landscape of the Megalithic Site Complex
Hang Gon II (7B)
Hang Gon I (7A) Dolmen vestige has as coordinaties: 10o51’44’’ N
- 107o14’07’’ E (at the center of the East end gate of the stone vault),
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 325
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.6 Page 326

▲back to top
as to the recently uncovered megalithic site (Hang Gon II - 7B) has as
coordinates: 10º51’43’’ N - 107º14’10’’ E (at the reference point 0 of the
excavation pit) (fig.14-15). On 1/10.000 and 1/50.000 scale maps (fig.14),
the vestige zone is located next to the center of Hang Gon rubber tree
planation, altitude: 256m, at 800-900m to the South West from Suoi Da
(Stone stream), and 97m to the East from the Interprovincial Road N.2,
in the midst of a region densely criss-crossed by small streams (Suoi Da,
Gia Lieu, Suoi Ram, Gia Cop, ect.). Around the vestiges is the population
settlement zone belonging to Hang Gon hamlet, Xuan Thanh commune,
the Rubber Processing Factory, interpersed with fields planted with
rubber trees, coffee-trees, blank pepper, and orchards.
Hang Gon II megalithic vestge is located on the border between the
zone reversed to the protection of Hang Gon I megalithic vestige and
the precinct of the Stone Enterprise. When the Stone Enterprise was
dissolved, bulldozers began to level hills, digging down to the depth of
4-5m, denuding entire weathered reddish brown basaltic hill sides along
with many large stone blocks and great quantity of Pleistocene rocks
of igneous origin. According to the map made by E. Saurin (1968), the
Hang Gon Dolmen complex is almost in a central position, at only 250 m
from Hang Gon 8,1-1,1km from Hang Gon 9 jar tomb cemetery and only
4-5,5km from Hang Gon 1-5 site complex. New investigations and surveys
have gathered numerous prehistoric relics in a vicinity of 100-300m to
1.000-1.200m from the megalithic vestige zone, including mainly stone
implement (axes, adzes, edges, hoes, chisels, grinding stones and bronze
fagment) (fig.16), baked earth jewelry beads, 4 earthen marbles, a number
of sherds from jars, pots, bowls, ect. Along with the discoveries made
by French scholars in the 60s and 70s (Saurin E.1963-1973; Fontaine
H.1968-1975), archaeological vestiges relics and artifacts which have just
been systematically studied confirm that Hang Gon red soil planation and
proto-historic cultural relics, and still need great concern in permanent
research and systematic studied by archaeologists in the future.
326 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.7 Page 327

▲back to top
3. Archaeological Fieldworks at the Megalithic Site Hang Gon II
(7B)
3. 1. Excavations
- Methods of Field Studies
The main excavation pit has been determined based on the direction
of the axis of the granite slab protruding out of the ground wall - the East-
West direction (which is also the direction of Hang Gon I Dolmenoid burial
vault). The reference point of the whole zone planned to be excavated (point
0) has been determined to be on the corner of the protruding granite slab.
Depending on the existing megalithic monument vestiges, the excavation
pit will be expanded in the related directions, until the whole underground
megalithic monument will be uncovered.
Independently of the current extent of the expansion of the main
excavation pit, around the big pit, will vbe bored many small exploration
holes at different intervals, with the application of manual boring
technique for achieving each hole so as to find megalithic vestiges, while
awaiting support for studying the integrity of this zone from researchers
of the Institute of Physics, National University of Ho Chi Minh City, with
such modern geophysical methods as: Passive and active Geophysical,
Magnetic surveying, Self-Potential, Gravity Surveying, Active Acoustic or
Seismic Electrical methods. In the main excavation pit, an embankment
with an upper edge width of 0,5m is preserved at the center of the pit the
East-West and North-South directions (constituting a “T” shape) in order
to help making observations as well as drafting the megalithic monument
(fig.18). Along with the cross-section of the embankment, two basic
cross-sections of the excavation pit supply sufficient information on the
Archaeological stratum on the integrity of Hang Gon II megalithic vestige.
This embankment will only be eliminated of Hang Gon II megalithic
vestige. This embankment will only be eliminated when the excavation of
Hang Gon II will be completely achieved.
- The Archaeological Plane
The total area of the complete excavation pit at the IInd megalithic
Site in Hang Gon is 6,4 x 14m = 89,6m², among which: EF (Western
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 327
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.8 Page 328

▲back to top
section) = CD (Eastern section) = 6,4m, and ED (Southern section) =
FC (Northern section) = 14m. The plan of the excavation pit is divided
into squares (2 x 2 = 4m²) and rectangles (2,4 x 2m = 4,8m²), coded by:
h-g, a-e (counting from the Western earth-wall to the Eastern earth-wall)
and numbered 1-3 (counting from the Southern earth-wall to the Northern
earth-wall). Layers of soil are dug out from the ground surface down to
the bottom, and are in turn horizontally raked in order to look for and
determine whether there is any ancient border. The pit continues to be dug
under the horizontal granite slab, at a depth of about 2-2,5m; with special
method, the earth block supporting each separate slab is treated in order
to collect the totality of material vestiges contained there.
After achieving the excavation, the slabs having been displaced by the
bulldozers are replaced in their old location on the vestige’s plan, using
the method of moving stone slabs which have been successfully used in
a number of regions in the world (a rope is attached to the stone slab
and hanged on a 2-storied system of longitudinal and transversal round
timbers and human labour is used to pull this system) The determination of
the coordinates and establishment of the plan and the side view drawings
of the whole Hang Gon megalithic architectural complex, photographing
and recording of Video tape of the excavation site were realized by
Nishimura Masanari, Mariko Yamagata, Tran Minh Tri, Nguyen Vinh
Huy, Luu Van Du and Nguyen Hong An (fig.19).
- The Archaeological Stratigraphy
Except the layer of road pavement stone on the surface with a thickness
of 20-40cm, basically, on the cross-sections at the North and East walls of
the excavation pit, it is possible to recognize 4 layers:
+ Layer 1 - “Reddish Brown”, Standard colour: 5 YR 4/6 (Oyama A.,
Takehara H. 1995). This is the surface layer with an average thickness
of 20 - 70cm, mixed up with great quantity of tree roots, grasses, coarse
rocks, ashes and charcoal, earthernware and ceramics along with modern
bricks and tiles.
+ Layer 2 - “Brown - Bright Brown”, (7.5 YR 4/3-5/6), Thisis also
a recently built layer, with a thickness varying between 20-62cm, mixed
328 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.9 Page 329

▲back to top
up with charcoal, burned out tree roots, brown or white blue-enameled
ceramic potsherds along with modern bricks and tiles.
+ Layer 3 - “Bright Reddish Brown”, (5 YR 5/6), with an average
thickness of 70-90cm, a friable structure, fairly homogenous, mixed up
with a very small quantity of fine laterite gravel, tree roots, and in a few
places ashes and charcoal. This is the primitive earth layer on the surface
of grassy hills. Sandstone and granite borken pieces, together with waste
materials from processed pebbles are strewn in the North-Eastern corner
of the excavation pit, densely concentrated into layers around and under
the granite slab groups.
+ Layer 4 - “Dark Reddish Brown”, 2.5 YR 4/3-5/6), of a homogenous
formation, is the stratum of red soil characteristic of many zones in Hang
Gon Planation, of a tight but friable structure, entirely without tree roots,
laterite gravel or any other mineral material. There is accumulation of
ashes and charcoal close to the granite slabs. In particular in the North-
Eastern corner of the excavation pit there are many big cobbles covered
with a gray and grayish green patina. The major part of the granite
slabs are lying in this layer. Archaeological artifacts which only begin
to appear under the granite slabs, from the depth of 10-14cm downward
(as compared with the reference point), include: 2 bronze fragments, 24
ceramic fragments, many flakes, chipped out pieces, which are generally
broken and concentrated into a thick layer of 15-46cm. In the two North-
Eastern and South-Eastern corners of the pit, there are spots pf grayish
white baked earth, with size from 1,8 x 0,68m to 1,4 x 0,8m, together with
blocks of reddish brown baked earth which have also taken on at some
spots a grayish black colour and a pock-marked surface (fig.19).
In brief, the original pedologic characteristic of Hang Gon stratum
is the homogenous reddish brown soil, with very little or no laterite
gravel. Naturally, mixed up with pebble wastes there are also ashes and
charcoal which begin to appear from the depth of + 0,3m (as compared
to the reference point) and are accumulated in greater quantity under the
granite slabs).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 329
HANG GON MEGALITHIC TOMB

33.10 Page 330

▲back to top
4. Archaeological Test Diggings
Besides the regular excavation pit, for controlling the geological
strata in this zone, in particular to observe the distribution of the stone
waste layer, the research team has dug 9 survey pits, with a total area of
36 M2 (2 x 2m = 4m² for each pit), at a distance of 4-8m to 20-25m from
the excavation pit in the 4 main directions: East - North - West - South.
In the survey pits, we have uncovered additionally 5 coarse potsherds,
many blocks and pieces of sandstone, granite and pebbles resembling
the artifacts found in the main excavation pit. Based on the state of the
strata in the excavation pit’s and the related survey pits, we may figure
out the main distribution pattern of the stone waste layer in Hang Gon II
megalithic site, stretching to the East, and expanding in the North-South
direction on a distance of about 12-14m (survey pits I to V). This is the
portion of area still having the potentiality of continuing to be excavated
in Hàng Gòn II megalithic vestige site (Đong Nai) (fig.20).
330 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34 Pages 331-340

▲back to top

34.1 Page 331

▲back to top
Chapter III.
THE ARCHAEOLOGICAL FIELDWORKS
(RECONNAISSANCE AND EXCAVATIONS)
AND STUDIES AT HANG GON
AND NEIGHBOURING REGIONS (2006-2011)
1. The Archaeological Fieldwork (2006-2007) for Embellishment,
Reconstruit and Preserved Plans of Hang Gon Megaliths according
to Heritage Law
From march 2006 to september-november, 2007, the Hang Gon
excavation Team was based under the leadership of Mr. Le Tri Dung
(Director of the management board of national monument and charms
of nature of Dong Nai Province) and Dr Pham Quang Son with the
participation of Messrs, and Mmes: Dr. Nguyen Van Long and M.A Nguyen
Thi Hoai Huong (ISSHO), Prof. Dr. Pham Duc Manh (Director of HCM
City University Museum), Prof.Dr. Lam My Dung (Director of Ha Noi
University Museum), Dr. Nguyen Thi Hau (Vice Director of The Urban
Development Research Institut - HCM City), Phan Thi Thinh, Nguyen
Xuan Nam, Do Dang Thang, Pham Van Minh, Le Thanh Thien, Nguyen
Thi Tinh (the management board of national monument and charms of
nature of Dong Nai Province). This Program in order to embellishment,
Reconstruit and preserved Plans of Hang Gon Sites according to Heritage
Law.
The total area of the excavation is 964,45m2 with 34 pits, among
which: the Area A (Hàng Gòn I-7A) = 24 pits; the Area C (Hang Gon
II-7B) = 5 pits and the Area B (suburtan Area) = 5 pits. The plan of the
excavation pit is divided into squares and rectangles. In all pits, layers of
soil are dug at a depth of about 1-2,2m - 2,7-3,9m, with 3 stratifications
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 331
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.2 Page 332

▲back to top
(surface layer with a thickness of 20-35cm, “Reddish Brown” layer with
an average thickness of 20-60cm and “Bright Reddish Brown layer”
(fig.21-32; Table II).
2. The Archaeological Fieldwork (2010-2011) for Stratigraphy
Studying of Hang Gon and neighbouring Basaltic Regions
In the 2010-2011 Seasons, new research Team with participation of
Messrs: Prof.Dr Pham Duc Manh, M.A Nguyen Hong An, Tran Anh Thinh,
Nguyen Van Trung and Nguyen Van Hung has dug survey pits (2m2 to each
pits) in Hang Gon I-II (7A-B) and in neighbouring basaltic regions (Long
Khanh, Xuan Loc, Cam My) for checking cultural stratums anf analyzing
of collective soil and ceramic samples. Beside newly discoveries of jar
burial and settlement remains at Suoi Chon, Cau Sat, Long Giao, there is
only 1 granit fragment being connected with the workshop-sie Hang Gon
II (7B) (fig.33).
332 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.3 Page 333

▲back to top
Chapter IV.
ARCHAEOLOGICAL ARTIFACTS
1. Megalithic Vestiges
Hang Gon II megalithic vestiges are made of granite and sandstone
(greứs). In the excavation pit zone, the relics are distributed almost on the
same level and are divided into three groups, among which:
1. 1. Group A: A rectangular thin plane granite slab, lying in the
East-West direction with a size of: 5,1m long, 1,6-1,75m wide, 5-10cm
thick. At present, it has been broken into 9 pieces, which nevertheless are
re-assembled together, and coded A1 - A9.
1. 2. Groupe B: Includes 2 granite slabs assembled together into a
rectangle, lying in the North East - South West direction, at 1m from the
South East corner of Group A, size: 2,6m long, 1,5m wide, 12cm thick.
In both these two groups of granite pieces, the slabs still bear visible
processing marks, in particular, mark of flattening by chipping at the
edges, or 10 x 5cm nearly rectangular or semicircular-cross section
grooves, with still unclear function.
1. 3. Groupe C: Comprising 2 sandstone pillars and one big cobble
lying apart at the foot of the West wall of the excavation pit. These two fine
grayish brown sandstone pillars were carefully processed, giving to the
pillars’ square or rectangular cross-sections, size: 3,25-3,4m long, 30cm
wide, 20-23cm thick. The two stone pillars have their heads touching each
other and their bodies oriented towards the South-East, their legs make
between themselves an angle of 27º. The cobble, lying at a distance of
about 30cm from the pillar to the South, has an oval shape and a size of:
19,6cm long, 14cm wide and 9,2cm thick (fig.34-35)
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 333
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.4 Page 334

▲back to top
2. Other Archaeological Findings
The totality of the artifacts uncovered in survey and excavation pits
from 1996 to 2010 is 11.672 specimens, with 4.487 stone artifacts (38,44%),
4 bronze artifacts (0,04%) and 7.181 pottery fragments (61,52%) (Tables
VI-VII), including:
2. 1. Bronze Artifacts: 2 bonze trumpets were discovered in the red
soil pit (2006), with common size as 21,5 x 4,6cm and 23,5 x 5,5cm (fig.36).
2 pieces from the rim of a container and its lid, with a diameter of 31-
31,6cm, and a nearly oval (0,9 x 0,7 x 0,5cm) bronze block. Besides, there
is also a bronze artifact uncovered outside of the excavation pit (1996),
which is probably a piece from a prehistoric Iron implements (carve knife)
(fig. 37).
2. 2. Ceramic Artifacts: In the excavation pit of Hang Gon II (7B)
Site, there are 24 pottery fragments, including: 6 container rims, 16 pieces
from container bodies, 2 container bases. In survey and excavation pits
from 2006 to 2010, there are 7.181 pottery fragnments, inckuding: 435
container rims, 6.098 pieces from container bodies, 705 container bases
and 2 handle fragments. In common, Hang Gon ceramics belong to the kind
of hard, and coarse ceramics, made with a turn-table of fine grained clay,
but mixed with great amount of sand, ground molluse shells of a mat white
colour, furthermore the baking temperature is low so that the ceramics are
often soft, friable and easy to absorb water. Unbaked pottery is brown and
covered with a thin brown yellowish surfaces. These are pieces of small
and medium containers, with an opening of 16-30cm diameter. A number
of potsherds have simple combed or incised decoration motifs (fig. 38-43).
2. 3. Stone Artifacts: 4.487 stone artifacts include as follow:
1 stone amulet (2007) (mesure: 15,6 x 2,5 - 5,5 x 1,4cm) is similar
with artifact of Đoi Mit, Suoi Chon, Dau Giay, Nui Gom, Phu Hoa, Cai
Lang, which named by H.Fontaine as: “Pendenloque” (fig.44).
1 sandstone grater (2007) (mesure: 12,6 x 10,5 x 5,9cm) (fig.45).
334 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.5 Page 335

▲back to top
4.485 stone fragments with 72 specimens collected in survey and
excavatin pits 2006-2010 (1,6%) and 4.413 specimens uncovered in
excavation pit of Hang Gon II (7B), including some Megalithic fragments,
spetical or hemisphere and stones in tortoise shell form etc.
Especially, collection of Hang Gon II (7B) with 4.413 specimens,
including 299 granite pieces (6,8%), 4.114 pieces of pebble waste (93,2%).
Among the granite pieces, 153 are made of grayish white granodiorite
with 145 pieces of the wide shape type (length/width ratio > 2).
146 pieces are in grayish green cataclastic granite (or amphibiotite),
with 144 among them of the wide shape type and 2 of the narrow shape
type; a number of pieces of this group have a round or oval shape, with a
very high hardness, and might have been used as hewing blocks or a kind
of “hammer” for boring stone (fig. 46).
In the remaining stone artifacts, 394 pieces do not bear great impact
of patination, and frequently still conserve the original black or grayish
brown pebble cover (that is pebbles having a block structure such as
quartzite, basaltic olivine, quartz - epidote and hornblende,...), white
bearing many chipping, hewing and processing marks by prehistoric
stone workers. They include 344 specimens of the wide shape type and 50
of the narrow shape type.
Besides the group of pebbles flakes, there still are 1.449 spicemens
(1.259 of which are of the wide shape type and 290 of the narrow shape
type) bearing a bright (clear green, yellowish, bright yello, grayish white)
patina, made of various kinds of stone: tuffaceous andesite, prophyritic
andesite, microdiorite, granophyre, carnelian, flouritic prophyry,
trachytic daxit prophyry, etc.; 2.271 pieces (1.999 of which are of the wide
shape type and 272 of the narrow shape type) bearing a dark colour (dark
brown, dark green) patina, made of basalt, dolerite, diabase or tuffaceous
sandstone, etc. (fig.47-51). The concrete statistical data on the size of each
group of stone waste (A-D), as well as their distribution in the excavation
pit are given in the Diagram (fig.52) and Statistical Tables III-VII.
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 335
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.6 Page 336

▲back to top
Chapter V.
RESULTS OF PEDOLOGY
AND SAMPLE ANALYSES OF HANG GON SITE
AND NEIGHBOURING REGIONS, 1996-2011
1. Analysis of Spores and Pollens from Hang Gon Site and
Neighbouring Regions
Analist: M.A Nguyen Thi Mai Huong (Institute of Archaeology,
National Academy of Social Sciences).Number of Samples: 20, among
which 10 samples collected in Hang Gon site, 5 samplles in Suoi Chon,
4 Samples in Cau Sat and 1 sample in Long Giao (Long Khanh, Cam My
regions).
Results of Spores and Pollens Analysis confirm that: In generally,
Spores and Pollens in the red soil stratums of the basaltic regions of Hang
Gon and Long Khanh - Cam My regions are poory, with the characteristic
collection including Carex sp, Coniogramme sp, Digitania sp, Flagellaria
sp, Ophyopogon sp, Polygala sp, Umbelliferae gen.indet, Albizia sp,
Myrtus sp, Pterocarya sp, Alternanthera sp, Burmania sp, Maglolia sp,
Morus sp. and the general distributed collection including Dicksonia
sp., Lygodium sp., Lycopodium sp. Polypodiaceae ge.indet, Polypodium,
Triletes sp, Osmunda, Eriocaulon sp., Leleba sp., Myrica sp., Sapindus
sp., Solanaceae gen.indet; Polygonum sp., Sequoia sp., Quercus sp.,
Palmae gen.indet, Leguminosae gen.indet, Chenopodium sp, Compositae
gen.indet, Pilea sp và Amaranthaceae sp., Poaceae gen.indet, which
frequent being attemding in stratums of other regions such as Lung Leng
- Kon Tum, Thon Bon and Phu My - Lam Dong (Highlands) and An
Khuong, Loc Tan (Binh Phuoc), Go Cay Tung, Linh Son Nam, Go Tu Tram
(An Giang). Esspecially, Poaceae gen.indet (includind Oriza) is rich in
336 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.7 Page 337

▲back to top
stratums of Hang Gon (35 corns) and of Hang Gon regions (Cau Sat = 11,
Suoi Chon = 23, Long Giao = 4) (fig.53-55; Tables VIII-IX).
2. Lithological Analysis by Polarizing Microscope
Analysts of sample collection Hang Gon II (7B)-1996: Prof.Dr. Huynh
Trung (Ho Chi Minh City National University), Dr. Hoang Huu Thanh
(Chief of the Lithological analysis Laboratory, Institute of Geology,
National Academy of Sciences and Technology).
Number of samples: 35, among which 26 samples were analyzed
in the Ho Chi Minh City National University, with as common code: 99
HCM; 9 samples were analyzed at the Institute of Geology in Ha Noi,
with as common code: 98 HN. 9 sample were collected in Hang Gon I
(7A) site; 26 samples were collected in Hang Gon II (7B) site. Analysts
of sample collection Hang Gon 2006-2007 of The League of Geological
maps in South Vietnam (Ho Chi Minh City).
Basically, the various types of granite exploited by the ancient and
transformed into structural components in the building of Hang Gon
megalithic monuments contain great quantity of plagioclase (25-50%),
potassic feldspar (15-40%), quartz (20-30%). The minerals biotite,
biotite-hornblende occupy an important ratio (5-15%); Ores, such as
pyroxene, zircon, apatite are rare (<3%). They often have a medium
or coarse-grained structure, a block construction; a number of grano-
diorote - biotite - hornblende have amonzonitic structure, with an even
distribution of coloured minerals. The granite of slabs as well as flakes,
chips, broken stones in Hang Gon II (7B) are entirely similar to that of
Hang Gon I (7A) site. Granite and granodiorites used in Hang Gon are
widespread in the moutanious zones in Southern Central Highland (Lam
Dong) and the Southeastern part of Central Vietnam (Binh Thuan).
A number of rocks mixed up with the collection of Hang Gon II (7B)
granite wastes have difference mineral composition in plagioclase (20-
45%), potassic feldspar (medium grain: 30-60%, fine grain: 5-7%),
quartz (5-15%), biotite (10-20%), amphibole (10-25%), they are usually
intrusive igneous rocks (granodiorite, cataclastic granite, amphibiotite)
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 337
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.8 Page 338

▲back to top
which, as very hard rocks, might have been used by the ancient as hewing
blocks (or stone hammers) in the process of manufacturing stone tools in-
situ; they may be found in Dinh Quan, Xuan Loc (Dong Nai) regions or
farther (Pham Duc Manh, 1999).
The various kinds of metamorphosed sandstone, greứs acko-
sandstones, tuffaceous sandstones, used by the ancient for manufacturing
pillars, usually are fine and medium grained, an uniform block construction,
with as main compoment fine grain (70-80%) including: quartz (70-85%),
feldspar (10-25%) and silica (quartize, andesite) (5-10%); together with
cementous materials (20-25%) including: cericite (70-80%), chlorite
(biotite) (15-30%).
The various kinds of sandstone often constitute thin layer in Jurassic
(J1 - 2bd) metamorphosed sediments, fairly common in Southern Central
Highlands (Lam Dong), the southernmost part of Central Vietnam (Ninh
Thuan) and in Dong Nai. The other kinds of stones have incurred great
influences of the aging process in the form of a covering layer of chalk of
difference thickness and colour having often as origin igneous sediments
because the epidotes and chlorites had developed specific characteristics.
These stones were exploited by the ancient from the numerous open air
sources in Southern Central Highlands and Southern Vietnam and used as
raw proto-historic working and struggling life (fig.57-59).
8 Stone samples 2006-2007 for Lithological Analysis by Polarizing
Microscope were granit granophyr, diorit hornblend biotit, bazan olivin,
tuf andesit and quartz-turmalin (Pham Quang Sơn, 2006-2009).
3. Analysis of Ceramic Paste Elements by Quantitative Spectro-
Chemical Method
Analysts of ceramic sample collections at Hang Gon II (7B) (8
samples) and at neighbouring regions (9 samples):
Dr .Phan Ngoc Ha, Chief of the Chemical Spectrography Section,
Institute of Geology, National Center for Sciences and Technology.
Number of samples: 17 samples, including 8 samples of Hang Gon II (7B)
338 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.9 Page 339

▲back to top
and 1 sample of Long Giao, 2 samples of Cầu Sắt, 6 samples of Suoi Chon
(fig.60).
Analysts of ceramic sample collection Hang Gon 2006-2007 of The
League of Geological maps in South Vietnam (Ho Chi Minh City) - 5
samples. These ceramic samples were clay with fine sandy loam, pulverize
mollusk fragments (Pham Quang Son, Nguyen Thi Hoai Huong, 2008).
Total Results of expertise may be seen on (Table X).
4. Analysis of Bronze Alloy Elements by Quatitative Spectrological
Method
Analyst: Dr. Phan Ngoc Ha, Chief of the Chemical Spectrography
Section, Institute of Geology, National Center for Sciences and Technology.
Number of samples: 3 (Table XI).
Generally speaking, according to results of expertise, the main
components of Hang Gon II (7B) site’s Bronze samples are copper (Cu)
and Tin (Sn); the content of lead (Pb) is small, that of Zinc (Zn) is negligible
(0.01%). Although alloy composition is still different in the 3 samples, but
the contents of their main components are similar to the group of analyzed
samples of Doc Chua (Binh Duong), Long Giao and Hiep Hoa, Cai Van
(spear sample) and Cau Sat (Dong Nai) Bronze artifacts.
5. Dating by Radio-Carbon C14 Analysis
Analyst: Engineer Nguyen Kien Chinh, Chief of the C14 Laboratory,
Ho Chi Minh City Nuclear Technic Science Center. Number of samples
of Hang Gon II (7B)-1996: 4. All samples were charcoal (coded: HCMV
- 01/96 - 04/96), and had the closet relationship with granite slabs in the
stratum and the site’s Plan. Number of samples of Hang Gon 2006-2007:
8 charcoal samples in common stratum with traces of charcoal and ashes,
terracotta area uncovered in the excavation pits. Total Results of expertise
may be seen on (Table XII).
According to Dr. Pham Quang Son (2006-2009), the results of these
excavations have contributed considerably to the understanding and
interpretation of important technical and cultural issues of this monument
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 339
HANG GON MEGALITHIC TOMB

34.10 Page 340

▲back to top
such as evolution of the strata, process of construction and related
religious aspects and burial retes. Problems of dating and the historical
context of Hang Gon Megaliths also have been resolved to some extent
because of the recent work.
In Our Opinion, All charcoal samples at Hang Gon II (7B) had the
closet relationship with granite slabs in the stratum and the site’s Plan.
They had been collected in the layer of original dark reddish brown soil,
which had never been mixed up. They lay under the granite slabs, at the
same level with the granite, sandstone and other stone wastes. For this
reason, we may be convinced thay: they indicate the starting date of the
construction of Hang Gon megalithic monuments - from the middle of the
Ist millenium BC to the 3-2 Centuries BC.
The Hàng Gòn megalithic monuments’ vestiges having finished the
whole architectural complex of this site may have dated more or less later
than this time - probably from about the 2-nd - 1-st centuries BC to the
beginning of the Christian Era. Naturally, pebble wastes found in Hang
Gon along with the still remaining technical imprints suggest to us some
relationships with the smaller stone artifacts in Eastern South Vietnam
which are much older than the dates recently given by the C14 method
(Pham Đuc Manh, 1996-2009).
340 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35 Pages 341-350

▲back to top

35.1 Page 341

▲back to top
PART THREE.
THE HANG GON MEGALITHIC COMPLEX ON
CONTEXT OF DONG NAI METAL CIVILIZATION
AND OF CONTINENTAL MEGALITHIC CULTURES

35.2 Page 342

▲back to top
Chapter I.
THE HANG GON I-II (HANG GON A-B) MEGALITHIC
SITE COMPLEX, A SPIRITUAL CULTURE CENTER OF
DONG NAI IN THE “PRE-STATE” PERIOD
As it lies close to Hang Gon I (7A) National Historic and Cultural
Vestige, the discovery and in due time excavation of Hang Gon II (7B)
megalithic vestiges have not only maintained intact the material vestige
of the megalithic monument which was still lying “in situ”, but also
contributed to shed light on many great scientific issues which have been
raised during many past decades on this famous megalithic tomb zone.
“We have now new knowledge on the megalithic vestiges thanks to the
excavation in Hang Gon” (Ha Van Tan, 1996). It is easy to understand
the high concern shown by the Press Media on the excavation site
through the numerous first hand news recording the new discovery on
the Radio and Television and the newspapers: “Dong Nai”, “Tuoi Tre”,
“Sai Gon Giai Phong”, “The Saigon Times Daily”, “Saigon Eco”, ect.
The first results of the excavation, expertise and scientific research on the
megalithic vestiges and other related materials vestiges are teaching in
some Vietnamese Universities and introduced to scientific conferences in
the country and abroad (Conferences for announcing new archaeological
discoveries, the Ist International Vietnamology Conference in Hanoi,
Scientific conferences on South East Asia’s History and Culture in Ho Chi
Minh City, the 7th International Conference of the European Association
of South East Asian Archaeologists in Berlin - Germany, September 1998;
International Scientific Conference on the “Oriental Cultural Heritage
(Traditions and cultural relationships in ancient culture and civilization
development process)”, in Saint Petersburg, Federal Republic of Russia,
342 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.3 Page 343

▲back to top
November 1999; in particular, expounded in two reports by Prof.Dr.
Nguyen Quoc Hung and Prof. Dr. Trinh Nang Chung at the I-st and II-nd
International Conferences on the World Megalithic Culture of the World
Megalithic Association in Kanghwa and Seoul - Korea (December, 1998
and August 1999) and two reports by Dr. Pham Quang Son and Prof. Dr.
Lam My Dung in 9th IPPA conference in Ha Noi, 1999 (Pham Duc Manh,
1998-2010).
In spite of the fact that bulldozers had pushed and uncovered 3 of its
granite slabs, for the most part of its structure, the megalithic vestiges in
the recently excavated zone still lied intact “in situ” underground. On the
archaeological stratum, the most important ones (III-IV) among the lower
soil sub-strata still conserved intact their level where the granite and
sandstone megalithic vestiges along with other archaeological artifacts
and samples had been positioned since prehistoric times. Basically, this is
a stratum of basaltic reddish brown soils, with various different shades, a
compact structure but soft, friable and fairly homogenous, with a negligible
amount or a total absence of gravel - a very characteristic stratum of the
hilly terrain of Hang Gon and the close-by Xuan Loc, Long Khanh region,
which has been reserved since nearly a century to the planation of coffee-
trees, and other industrials plants and fruit trees.
The recently excavated Hang Gon megalithic vestige comprises
slabds made of granite consecutively arranged one after another
in the East - Est direction (Group A) and the North East - South West
direction (Group B), along with two long sandstone pillars having their
heads touching each other in the direction of the East (Group C). All
the megalithic were horizontally positioned by the ancient on the level
of only about 50cm higher than that of the Hang Gon I (7A) dolmenoid
burial vault. On the metarials, colours and grain structure of the rocks,
results of lithological analyses by Polarizing Microscope show that: the
granite slabs and sandstone pillars had been manufactured in Hang Gon
II zone from the same materials source as that of the granite - sandstone
megalithic architectural complex excavated by J. Bouchot not far from
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 343
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.4 Page 344

▲back to top
there. Although there still are some marks of different detail processing
(rectangular or semi-circular grooves, the longitudinal slanting hewing
marks along one edge of the slab), the ancient workmen had also applied
on the recently uncovered megalithic monument techniques of granite
and sandstone manufacturing from the initial block-slab so as to draft,
readjust, grind, polish and flatten surfaces, bore the mortise-grooves or
levels with the view to realize the megalithic assembling similar to that
of Hang Gon I Dolmen complex. Hang Gon ancient workmen might have
exploited sandstone from open air sources right in the basaltic red soil of
the Southern Vietnam, but as to the granite source able to supply long and
large slabs similar to the dolmen’s components, in the present situation,
there is not yet any geological discovery able to deny the hypothesis of J.
Bouchot on the adequate granite quarries in Southern Central Highlands
and Southern Central Vietnam.
To exploit and transport to Xuan Loc hundreds of tons of granite in
the conditions of the primitive geomorphology of forest covered mountains
without any fluvial way constituted extraordinary efforts of the prehistoric
indigenous collective labour forces. The realisms of this hypothesis still
has entirely its value after many experiments of transporting megaliths by
the only human forces and the use of levels for pushing slabs or blocks of
stone with a weight of several tons on a system of simple wooden rollers
across many different types of terrain in the world (in France, England,
Indonesia, Egypt, Mexico, Peru or at the Pâques Islands ect.) (fig.61-62).
Based on the market left on many slabs and pillars in both Hang Gon I and
II zones and the chips and flakes of granite and sandstone which have been
just uncovered, we may figure out that the hewing and chipping work for
manufacturing this megalithic monument ought to have the help of many
kinds of pointed or flat end chisels (with a V-shaped cutting edge, balanced
of “biased” so as to do “biased chiseling”). In particular, the creation
of rectangular or semi-spherical mortises, or grooves (par rainures -
Malleret, L.1963) in order to assemble the stone chamber has suggested
the existence of technical relationships with South Vietnam’s carpentry.
344 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.5 Page 345

▲back to top
(the Han vaults in China were also assembled with large wooden slabs
weighing many tons each thanks to such similar grooves). The presence of
metal tools in the process of manufacture of the megalithic components in
Hang Gon may be figured out with many quarries-workshops for exploiting
and manufacturing megaliths, traditional handicraft villages specializing
in the exploitation of andesite, diabase, and granite and supplying raw
materials (or the “living stone”) to family workshops for turning out the
“ripened stone” and “carrying out artistic stone works” in Buu Long
(Dong Nai) (Nguyen Tuyet Hong, 1999); in traditional handicraft villages
which processed marble and sandstone from Ngu Hanh Son (Tran Quoc
Vuong, Nguyen Van Han, Pham Van Hiep, 1978; Huynh Hoa 1997) (fig.63-
64); and collections of “Champa statues”, made of sandstone, basaltic
porphyry, grano-biotite, tuffaceous daxit, diabase-permatite...
Traditional experience, the “handed down from generation to
generation” secret of traditional handicraft villages, in the exploitation
and transport of the “living stone” and the many work stages such as
carving the “ripened stone”, bearing clearly the characteristics of an
age-old specialized division of labour, help us figure out to some extent
the process of construction of these megalithic complexes in Hang Gon,
especially from the technical methods of hewing and chipping in order to
manufacture these grooves slabs, these pillars with saddle-shaped end, or
assembling the whole complex in prehistory. The discovery of the slabs and
pillars as well as all the waste products, i.e. the granite or sandstone chips
and flakes, has supplied new material to researches on the techniques for
manufacturing stone objects, and asserted the indigenous character of the
manufacture and assembly in-situ of these megalithic monuments, as well
as on the capability of supplying spare parts to theses dolmen complexes
and the possibility that these megalithic monuments in their combined
arrangement in the common plan were used to serve on common activities
of the ancient community.
The newly excavated megalithic vestiges are tightly linked with Hang
Gon’s complex of completed granite and sandstone monuments were
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 345
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.6 Page 346

▲back to top
probably the places for storing raw materials and the first megalithic
workshop known in South East Asia. The waste products in the form of
granite and sandstone chips and flakes discarded after the process of
manufacturing megaliths are in the same archaeological stratum with
the totality of the prehistoric culture’s bronze, baked earth and pebble
artifacts, and contribute thus to the resolution of a number of enexplained
scientific questions related to Hang Gon’s complex of megalithic
monuments, the most important among these questions concern the date
of their construction, their main use and real owners.
First of all, the material vestiges directly related to the megalithic
slabs, with their green patina, are similar to bronze tool artifacts in the
prehistoric and proto-historic bronze collection of Southern Vietnam (Doc
Chua, Cai Van, Suoi Chon, Bung Bac, Bung Thom, Long Giao, Giong
Ca Vo). Analyzed by chemical-spectroscopic method, Hang Gon artifacts
are Copper + Tin (Cu + Sn) alloy. This is the major alloy composition
of Eastern South Vietnam’s Bronze artifacts (30 samples = 44,1% of
the total), mainly concentrated in production implements (axes = 12
samples) and weapons (spears, lances, halberds: 12 samples), very rarely
found in containers (2 samples) and jewelry (1 sample). Whereas, alloy
compositions such as Cu + Pb + Sn (16 samples = 23,5%), Cu + Sn +
Pb (11 samples = 16,2%) are recorded in almost every kind of artifacts;
Cu + Pb is found in only 6 samples = 8,8%, all are weapons. The Cu
+ Pb + As and Cu + Pb + Sn + As (4 samples = 5,9%) compositions
only exist in “Dongson type” drums (fig.65-66). Concerning the group
of Hang Gon ceramic container pieces, visual analysis of the material,
studies of typology and decorative motifs have recorded their similarity
with Hang Gon 9, Suoi Chon, Phu Hoa, Doc Chua, Bung Bac, Bung Thom
ancient ceramics. Generally speaking, Hang Gon ceramics appertain to
the kind of coarse ceramic, mixed with sand, minerals and ground mollusk
shells. Results of chemical-spectroscopic analyses recorded that Hang
Gon II (7B) ceramic samples are quite similar to the group of samples
found in Cau Sat, Suoi Chon, Long Giao, Loc Hoa, Cai Van and a few
346 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.7 Page 347

▲back to top
samples found in other sites such as Ben Do, Go Da, Loc Giang, Giong
Phet... They are often made of “coarse Kaolin”, the average proportions
SiO₂/Al₂O₃ is 2,9-4,4%, with the contents of the main additives not widely
different and the presence of impurities such as Fe, Mg, Mn, K... However,
in Hang Gon II (7B) samples, Al₂O₃ contents are generally low (fluctuating
between 5,13-12,8%, with as average 8,97%, i.e. in the category having
the lowest contents in comparison with collections of ceramics in Southern
Vietnam in particular and in Vietnam in general). CaO contents varies
widely between samples mixed with great amount of ground mollusk
shells (4,46-9,89%) to those without ground mollusk shells (0,02-0,08%).
Fe₂O₃ contents (3,75-5%) are much lower than on other places; while
Mg contents (0,25-3,45%) are much more higher than in many placesin
Eastern Vietnam. etc..
Hang Gon ancient Bronze and Pottery are still rare, but it is clear that,
besides thousands of pebbles wastes (with numerous specimens considered
as “processed flake-tools” (eựclat-galets aménagés) - product bearing
marks of manufacture by men, referred to by Western archaeological
concepts as “Pebble culture”), hewing stones, and stone cores, the granite
- sandstone raw materials in the excavated earth stratum, are reliable and
accurate evidences contributing to shedding light on the archaeological
nature of the whole zone of megalithic architecture. This is precisely one
visible part of a complete Micro-lithic product-ware processing workshop
which had appeared since a long while, even before the ideas of storing
raw materials and starting to build the megalithic monuments had taken
shape: a workshop for manufacturing megaliths was established later on
the floor space of the traditional prehistoric workshop itself. The most
recent date of this kind of prehistoric workshop-site is in direct relations
with the megalithic workshop of the proro-historic period with all the
complex of granite and sandstone monuments which appeared some
centuries afterward. This conclusion is proved through many C14 dating
results at many different coordinated on the plan and cross-sections of this
“workshop-site” which recorded the formation and existence of this site
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 347
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.8 Page 348

▲back to top
in the interval of time between 2.670-2.220 ± 40 years BP. This valuable
C14 dating results constitute also the first C14 dating related to Vietnam
and South East Asia’s megalithic monuments and vestiges.
From Hang Gon C14 chronology in the context of the C14 dating
results of the whole Southern Vietnam (fig.67), we may figure out the
starting of an epic historical period, staying at a peak level of cultural
and spiritual development of Đong Nai prehistoric and proto-historic
culture complex: the period of the Late Bronze Age and Early Iron Age,
with many settlement centers, ahigh degree of development of natural
resources exploitation, agricultural and handicraft production, trading
and communication, technical exchanges and cultural and artistic
creation on a regional and continental scale of the multi-racial community
inhabiting and building this natural its environment and the challenges
of time for reason of endogenous purposes and thanks to extraordinary
spiritual efforts and gigatic sums of primitive labour.
Ideas of building megalithic type architectural work were bred and
given birth within a primitive society having attained a necessary and
sufficient high degree of development in the Metal Age. And the models of
these monuments, able to satisfy the desire of this society’s owners, might
have come to this Basaltic red soil half-plan hilly region from the South
East Asia’s islands or farther to the West from India - It is possible that the
initial megalithic models were works of the “Stonecist, megalithic tomb”
or “Dolmen” type; however, in the indigenous prehistoric and proto-
historic subconsciousness, in the midst of an ecological environment and
a geomorphology lacking natural caves, autochthonous workmen (who
had been the owners of the largest collections of implements, weapons
and moulds in Vietnam, the unique “lithophone” collection of Đong Nai’s
characteristics since a very long time before there was any noticeable
influence of Brahmanist or Buddhist culture, architecture and arts in
this region: the whole complex of megalithic monuments, with it the
middle of different height. Such is the appearance of an original gigantic
architectural plan which may be classified as a “marvel” of collective
348 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.9 Page 349

▲back to top
labour, a creative and organized labour lasting for several years, a “marvel
in the form of a burial stone vault deserving to be especially reserved to
the numerous superior iron production implements and weapons, jewelry
made of precious stone, coloured glass or precious metals which are the
most splendid imported products, including “amulets” and local animal
figurines, along with bronze “halberds”, “mirrors” and drums deservedly
considered as symbols of power and wealth of the local nobility, was
precisely the once pretigious center of gathering and spiritual life of Dong
Nai’s ancient men. And, was the unique “Holy Land” type megalithic
architectural complex the first and last sign of the birth and growth of
a supreme power structure, outclassing the local religious, military and
tribal leading forces, the noble calss with the right of being equipped with
iron dagger, wood ceremonial sword, ceremonial stick, bronze halberd,
and having the means to use the most sophisticate - locally produced
or imported - and the most expensive jewelry, of the whole multi-racial
community in the peak Suoi Chon, Phu Hoa, Can Gio development stage
since the Early Iron Age?
This was also the apogee of Southern Vietnam’s prehistoric and
proto-historic life - a hard but epic life lasting many centuries before the
Christian Era, with Vietnam’s largest stone tool collection in Cau Sat, Suoi
Linh, My Loc and Phuoc Tan; South East Asia’s largest mould collection
in Doc Chua, Bung Bac, Bung Thom and Suoi Chon; and collections
of swords, daggers, cross-bow, wooden pin for fabricating fishing nets
which might have been found in stilt-house villages in river estuaries or
on seashore; cemeteries filled with ceramic jar-coffins of Sa Huynh type,
chief tombs where the deceaded were buried in starwort wood jar having
as “lid” a Dongson (Heger I-type) drum and containing Western Han
type bronze mirror together with wooden ceremonial sword, official baton
as well as many local product (such as axes, wooden and stone fragments,
cucurbitaceae, areca, gramineous remains,...); the complex lithophone
sets, manufactured in carnelian, “the miraculous and precious stone,
granted by the Sky” in Binh Da, Loc Hoa; the halberd storage, the axes,
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 349
HANG GON MEGALITHIC TOMB

35.10 Page 350

▲back to top
the huge bronze statues of the pangolin (Manis javanica) in Long Giao;
Hang Gon megalithic tomb complex - “Dong Nai phenomena” in the
history of the ups and downs of South East Asia’s culture and civilization
(Pham Duc Manh, 1985, 1999). It was not a haphazard if Prof. Nitta Eiji
(University of Kagoshima - Japan) was particularly interested in Long
Giao bronze halberds depot and Hang Gon huge stone tomb and believed
that: the Long Giao halberd collection might have been manufactured in
accordance with the Chinese “Ko” models dating from the Post-Warring
States period, in about the 3rd century BC. The Long Giao “Ko” were
accumlated and stored from generation to generation as a symbol of
leadership in the whole region.
The Chiefs possessed this halberd collection as regalia of his power
which might be buried in Hang Gon megalithic stone tomb. Only after
being handed down for many generations was the bronze halberd collection
buried in the Long Giao depot, for in South Vietnam leadership’s new
relagia had appeared for replacing them that we have not yet uncovered
up to now. This replacement was related to social and religious changes
which had appeared in Dong Nai river valley at about the beginning of
the Christian Era, one of the noteworthy reasons of which was influences
from the outer world.
The hypothesis of this Japanese scholar deserves to be discussed
further, but although not knowing on what material basis has his opinion
been built, I entirely agree with him in the general date of the whole Long
Giao “Ko”-halberd collection, its spiritual value and the Chinese model
of these “Ko”, but these prototypes might have been transiting across
Dongson culture distribution area or through Co Rat highlands, along
the Mekong river valley into South Vietnam. However, in South Vietnam
itself, we have uncovered the direct prototypes of the Long Giao halberd
collection in Doc Chua, Go Queo, Phu Tuc and Bau Hoe dating from
about the middle of the Ist millenium BC and a more remote past, with
the “group of stone pointed weapons” of Cu Lao Rua, Binh Da and
350 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36 Pages 351-360

▲back to top

36.1 Page 351

▲back to top
Ben Do dated by the C14 method to the end of the IInd millenium -
beginning of the Ist millenium BC (Pham Duc Manh, Tran Thanh Dao,
1995). The phenomenon of the gathering of copper ore and basic alloys
by Dong Nai’s ancient men for mass producing halberd type weapons
having the biggest size and weight in Asia has been seen by myself as an
“archaeological phenomenon of a period when Iron had been already
widely used for replacing bronze implements and weapons in the life of
the ancient people”. Besides the bronze halberds - the special weapon
with high spiritual and artistic value that an Iron weapon would not be
able to replace - a symbolic kind of weapon of “Suoi Chon period”, in the
2nd half of the Ist millenium BC, with C14 date recorded as belonging to
Phu Hoa and Hang Gon 9.
This was also the beginning of new historical period, the period of
appearance of “a power division network” in Dong Nai’s proto-history
- The inter-zone and sub-zone powers, along with the corresponding
inter-zone power emblems in Southern Vietnam (Hang Gon “Holy Land”
megalithic architectural complex) and the sob-zone nobility power or sib-
zone “bigmen”’s emblems recorded in the high altitude basaltic red soil
hilly region in Dong Nai - Song Be, as in the region of the low hills - old
alluvial valleys - new alluvial plains, marshlands in river estuaries close to
the sea-shore, ect... During this epic half-millenium of labour and struggle,
the unique megalithic architectural complexes of this region entirely
deserve the title of “the millenium’s monument” - the most outstanding
work of Dong Nai’s intellect in the Proto-historic period, from the arts of
organizing collective labour, exploiting and transporting on long distance
hundreds of tons of megaliths in the primitive geomorphologic conditions,
to the creativity in the design of the whole “Holy Land” complex, both
harmonious and gigantic, which prove the extraordinary building skills of
these Dong Nai’s “stone masters”.
The unbelievable efforts of ancient Dong Nai’s intellect and
collective labour may only be explained as a total mobilization, a tight
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 351
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.2 Page 352

▲back to top
labour organization in the view of building a “pyramid-like” monument
specific to this cultural province, reserved to Dong Nai’s Chiefdom - a
clear symbol of the “cultural crystalline block”, “cultural stereotype”
or “cultural apogee” specific to Dong Nai, different from “Sa Huynh
apogee” and “Dong Son apogee” in the Early Iron Age. An area of high
land had been selected for building the “Holy Land” in the midst of a
region of continuous and prosperous settlements of the utmost importance
of the ẹoàng Nai’s multiracial community dating from many centuries BC
and lying close to the Jar tombs cemetery. The construction of Hang Gon
megalithic architectural complex revealed part of the role of the spiritual
Center of Eastern South Vietnam, clearly standing out among other
economic and cultural centers in other fields, other settlements around
the nuclei -”cities”, and “market centers” growing thanks to the supply
of argo-forestry and aqua-products from agricultural, fishing, handicraft
(including ceramic kiln, stone quarry, bronze moulding, blacksmith),
hunting, and trading... villages, in the period of gestation of a primitive
State of South Vietnam style in the Orient (Pham Duc Manh, 1991-2009).
352 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.3 Page 353

▲back to top
Chapter II.
THE HANG GON (DONG NAI, VIETNAM)
MEGALITHIC ARCHITECTURAL COMPLEX
ON THE REGIONAL AND CONTINENTAL MEGALITHIC
CULTURE PLANE
Hang Gon megalithic architectural complex is located on the
basaltic red soil plain which extends to the coastal region. One of the
common atributes of megalithic cultures seems to be the fact that they
are located along littorals, in peninsulas or on islands, i.e.near the sea
or with easy access from the sea, in Asia as in many prehistoric cultures
that have architecture made of huge stones on other regions of the world
(Fergusson J.1872; Perry W.J.1919,1927; Hoop van der.1932; Willems
W.1938; Childe V.G.1948; Weeler M.1959; Deo S.B.1970; Ramachandra
K.S.1971; Kim B.M.1982; Arnaud J.M.1999; Cody E.1999...).
In the treasure of mankind’s civilization, megalithic monuments
are of the type of grandiose cultural heritage; they are present in most
of the continents, except in Australia. Etymologically, megalith is the
combination of “Lithos” and “Mega”. This is why we may have the
tendency to understand them simply as the “products” the ancient had
created from “rede huge large stones”. From the rough stone slabs having
been or not processed into pillars that the ancient erected vertically to
use as ceremonial piles or the simplest “burial stones”, often erected in
pairs, or in rows (stones forming at line), including at times hundreds of
Menhirs - upright stones - monolithes”, like in Stonehenge, England; the
huge alignments of Carnac and Morbihan types in France; the 3 m high
rows of stones in Skara Brae, Shetland, Orkney (Scotland) or 6 m high in
Locmerjaquer; or entire gigantic belts of “enormous standing stones” of
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 353
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.4 Page 354

▲back to top
horseshoe or U shape, or forming circles as those of Cromlechs, the Stones
of Stennes or the Ring of Brodgar, similar to “celestial alignments” on the
Atlantic littoral from Spain, the West of France, North Germany, Southern
England, Brittany and Scandinavia,... to “architectural monuments made
of huge stones”, more carefully arranged and more sophisticatedly
processed, assembled with more research and combined into complex
including tables, chairs, and chambers on ground surface or structured
into underground vault of the kind the dolmens, or stone graves with
stone coffins - the frequently seen structures in stone cemeteries; or these
mysterious “Holy Land” type monuments, extraordinary masterpieces
of the kind of the nearly 300 m high woman statue in the middle of the
Mediterranean Sea along with the Stone Walls bearing carved inscriptions
on 5.000 year-old prehistoric information; the hundreds of statues
weighing tens oftons and of some millennia younger on Pauques Island in
the middle of the Pacific Ocean; the colossal heads on basalt-andesite, or
the 3,19-4,6m high monolithic sculptures representing God and Goddess
heads; 6-50 ton monolithic pieces, monolithic altars in basalt, column
tombs in basalt, monolithic temples, the “Piramide de la luna” in Central
America (La Venta, Tabasco, San Francisco, Bajacalifornia, Yaxchichan,
Chichen Itza, Malinalco, Coatlicue, Coyol Yauhqui - Mexico), ect.
(fig.68-70).
Furthermore, many people still include into the megaliths, several
types of other megalithic relics, such as: “the field of stone jars”, the huge
stone vases used as coffins, the stone basins and terraces, stone avenues,
stone places, sarcophagi, cylindrical coffins, mortars, troughs, etc... or,
millions of petroglyphic works all over the world, some people want also
to intergrate the stone arts products into megalithic vestiges, pushing
thus this branch of research out to the limits of many specialties. In the
task of field research on the cultural and material history, the megalithic
cultural heritage of mankind until today still contains many puzzles on the
prehistoric past, starting from the origin of the stone worshipping custom
and the real purpose in the building of megalithic monument (ancestor’s
354 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.5 Page 355

▲back to top
spirit worship, cult of supernatural power, symbol of meteorological
observatory, cosmic representation, esthetical functions, funerary or burial
rituals, magical or religious purposes, symbols of social status - emblems
of KIngs or community leaders, ect.); the owners and the original cultures
related to the monuments, the important socio-economic, religious and
worshipping conditons, typological variations and propagation through
time and space, ect. The world-wide distribution of megalithic monuments
have given birth to many romantic theories, from the conception linking
megalithic vestiges with seafarer people - “The children of the Sun” (W.
H. Perry), the “original creators” in each cultural area, to theories such
as “Migration theory” (Ratzei), “Element targedanken (Bastian), the
“Caucasian source” (Keane, Haddon, Kohlbrugger), ect., unceasingly
discussing with one another during the whole last century.
In Asian Extent - occupying 1/5th of the total area and one half of
the total populatiuon of the world, the kind and types megalithic culture
vestiges are not less diverse and, except small group located deep on the
mainland from North China to South East Highlands and North Eastern
India, they are also distributed along small peninsulas and archipelagoes,
constituting a giganic are extending from Korae, and Japan through
Taiwan, Indonesia and the Southernmost par of Malaysia to Southern
India, marking the various “steps of manking” (Hugot,H.J.1998) on this
mainland, continuously from the prehistory untill today.
1. Megalithic Culture centers in North-East Asia
The centers considered as the richest in megalithic vestiges in this
region had taken shape since a very early epoch, and are the most densely
concentrated on the Korean peninsula and many islands of Japan. A number
of vestiges are sparsely distributed on coastal regions of Northeast China,
in Southern Siberia, Mongolia, Manchuria down to Tibet and Taiwan.
1. 1. The Korean Peninsula
The earliest record on prehistoric megalithic monuments on the
Korean peninsula was realized by Lee Kyu-Bo at the end of the Kiryo
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 355
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.6 Page 356

▲back to top
dynasty in the 12-th century. But serious studies on these vestiges only
began in the first half of the 20-th century, when megalithic monuments
called the prehistoric “Goindol, Jisokmyo” were objects of typological
studies in the manner of Japanese schools (Torii, 1917). Basically, the
scholars used the term “Megaliths” for the kind of vertical stone pillar
vestige of the Menhir type and stone assembly with dome of the Dolmen
type, or in the form of chamber - burial vault of “chamber graves” of
“Stonecists” type.
Megaliths of Menhir type on Korean peninsula (Hwang Seogri, North
Chungchung Province - fig.71) are habitually 0,5-3,5m long and are
erected separately with 1-2 bars on low fields. They are object of worship,
marks of separation between small villages’ territories, or are considered
as special sacred landmarks for delimiting the territory of a determined
community. Sometimes, pairs of menhirs standing next to each other are
conceived as “Grandfather”, “Grandmother Stone” (Kim B.M., 1982;
Whang Y.H., 1982; Imamura, K. 1996). Chamber Graves or Stonecists
often have the structure of a parrallelepipedic stone coffin assembled with
6 big slabs (similar to Hang Gon stone vault but much more smaller). In
exceptional cases in Korea, the stonecist has one wall assembled from
many small stone slabs, or has no bottom slab, or the chamber tomb is
assembled from stone slabs and possesses a door communicating with the
corpse containing chamber (Kim B. M., 1982). But in the majority of the
cases, a “stone box”, assembled from stone slabs, was used by the ancient
for containing the dead, with a clearly determined funerary function, and
commonly refered to as “megalithic tomb-cist”.
Dolmen type megalithic vestiges are widely distributed in almost all
Korea, except in the province of HamKyungbuk-do, and are particularly
densely concentrated along rivers in the western part of this peninsula
(fig.72-73). This is a kind of vestiges considered as the most representative,
“an essential element” of Korean megalithic culture. The most celebrated
dolmen centers are recored in Kochang (Southwestern Chollabuk-do)
with about 2.000 dolmens belonging to 85 different sites (the biggest
356 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.7 Page 357

▲back to top
dolmen of Korea measures 5m high, 7m wide, 7m long in Dosan-ri,
Wungok-ri, Asan-myon), among which, Chuklimri and Sangkap-ri are
considered as the most important sites of Korea’s Bronze Age, and used as
fundamental vestiges for studying the “aspects of memorial service and
types of tombs,civilization origin, ect.” (Jin L. Y.,1991). In Chollanam,
usually 50-100 dolmens are gathered in groups. In Chuklimri, Sangkapri,
the dolmens are distributed into rows (for example, in Maesan village,
the dolmen row measures up to 1.764m in length and is orientated in
the direction of the East. Among the thousands of dolmens uncovered by
the Universities of Wonkwang and Chollobruk-do provinces, as much as
550 dolmens have been excavated, most of them have a length of 1-2m
(79%), only 2 dolmens smaller than 1m and 6 dolmens are bigger than
5m. Since before 1945, Japanses scholars, such as Fujita, Torii, Umehare
had divided Korean dolmens into 2 kinds: the Southern (or single cap
stone) type and the Northern (or table) type. Since the beginning of the
60s, a number of Japanese scholars, such as Mikami, Komoto, have also
shown concern to a common chronology of Korean dolmens. According to
many publications (Kim B. T., 1964; Kim W. Y.. 1974; Hwong K. D., 1965;
Kim C. W. - Youn M. B., 1967; Jo Y. J., 1979; Whang Y. H., 1982; Kim B.
M., 1982; Jin L. Y., 1991).
Korean dolmens are the combination of three main types (with 5-8
sub-types, depending on the classification by each scholar), such as:
- Type 1 (Table type dolmen): distributed in North-Western coastal
areas, especially densely concentrated in the Southern parts of Pyongang
and Hwanghae provinces. A number of vestiges are distributed along
the Eastern seashore from Manchuria to Muckho on the Western coat,
the southernmost vestige is Gochang in Cholla province. This type is
considered as the earliest type of dolmen found in Korea and this has
become the key support to the general theory of the gradual spread of
dolmens in Korea from North to South (Whang Y. H., 1982).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 357
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.8 Page 358

▲back to top
- Type 2 (Go-table type Dolmen): This type was previously termed as
a subtype of the Southern type by Japanese scholars. But the distinctive
structure of this type has led Korean scholars to classify them as a main
type. This type is usually formed by one big slab of cap stone placed upon
four or sometimes more supporting rocks, and grave chambers were
constructed under these stones. The dolmens of this type are found mostly
in Cholla and Kyongsang provinces, a few of them are found in the central
part of Korea around the Han river. But they never penetrated far into the
Northwestern or Eastern part of the Korean coast. Recently some Korean
scholars have come to think that this type is a modified type of the earliest
unsupported cap stone type dolmen which brought the original megalithic
culture from the central Chinese Coast, so it is the latest production of
Korean megalithic dolmens (Kim W. Y., 1974).
- Type 3 (Unsupported cap stone type Dolmens): This type is rather
indistinctively styled dolmens, just simple cao stone ground surface are
all one can find at the first glance. They are usually found concentrated
in a very limited area. For example, the number of dolmens of this type
from the Yongsan river area is more than 6,000 units (Choi M. L., 1978)
and altogether may reach well over 10,000 units in Korea by conservative
estimation. Furthermore, they are not themselves a homogenous type,
because their underground grave chamber style differs from each other
so much, it is usually subdivided into several distinctive type by every
archaeologist (7 subtypes by Rim B. T., 1964; 8 subtypes by Kim C. W.,
Youn M. B., 1967; 12 subtypes by Im S. G., 1976).
At present the absolute chronology of Korean megaliths, especially of
dolmens is not established yet, because concrete scientific proofs are still
lacking. Generally speaking, the scholars believe that Korean megaliths
originated from the Neolithic Age (Kim C. W.; Youn M. B.; do Y. H.) or the
Late Neolithic Age (Rim B. T.) together with the appereance of agriculture
in this peninsula. The tradition of building megalithic architectural works
had well established itself in the Bronze Age culture, with as evidence
358 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.9 Page 359

▲back to top
accompanying the dolmens the coarse plain pottery, polished stone
daggers, stone implements, ground stones, stoone chisels and sometimes
Bronze implements or Bronze daggers, e.g. in Songgukri graves, dolmens
and stone cists at Whangjeoncheon (Chonam), ect. Megalithic monuments
of traditional dolmen type progressively disappeared at the end of the
Bronze Age - Early Iron Age, with as common date from the VIIIth century
to the IIIrd century BC. (Kim W. Y.; Youn M. B.), corresponding to the
different material cultural stages in each regions. Although there are
different opinions on the common chronology (e.g., certain people think
that the upper limit only went up to the IVth - VIth centuries BC (B. T.
Rim; C. W. Kim) or to the Xth century BC (Y. H. Do) and the lower limit
to the IInd century BC (C. W. Kim) or the Ist century AD (B. T. Rim);
on the geographical origin of Korean megalithic culture, the reason of
the flourishing state of megalithic construction tradition in North East
Asia, the diversification of Dolmen type, ect...; we may firmly belive that:
Korean dolmens are elements of the megalithic culture showing to us the
spiritual world of our ancestors - the huge tombs’ builders believed that
the huge stones slabs had a “mysterious power” instead of being simple
construction materials; they had souls and might influence strongly on
men’s fate and fortune. These people worshipped the huge stones because
they had faith in “natural phenomena” and the “Universe” as well as
the sacred objects which possessed soul or consciousness (animism).
Sacred traditions in ancient consciousness and are still being decoded
by programmes of more systematic excavations and researches in Korea.
1. 2. The Japanese archipelago
More than a century ago, the English engineer W.Gowland gave the
Japanese tumuli the name of “Dolmens”, but his opinion is denied by
recent studies (Komoto M. 1982). Japanese Tumuli at Ishibutai (Naga
Prefecture) and at other places must not be identified with the Megalithic
monuments in the European sense of the term. Only the dolmens, stone
circles (and other stone construction similar to the stone circles and the
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 359
HANG GON MEGALITHIC TOMB

36.10 Page 360

▲back to top
“underground form” of Dolmens in Kyushu, Chumoku, Shikoku) are
to be considered as Megalithic monuments in Japanese Archipelago
(Kagamiyama T. 1995; Komoto M. 1982).
- Dolmens: Dolmen type structures are limited along the
westmost coast of Western Japan (Komoto M. 1978,1982). The total
number of the dolmens in Northwestern Kyushu probably amounts
to appriximately 500. The majority of these dolmens lie either along
the seaway of the western coast of Japan or along the river flowing
into the East China Sea. The constructions under the capstone
are of quite various types such as a pit-graves, stone cists, urns,
pit-graves with boulder brim. Through the analysis of the technique
of supporting the “gigantic stone lid” and the Chronology of
grave-goods, Japanese Scholars recognize 3 main shapes (fig.74):
+ Dolmens have no supporting stones under the capstone, and
beneath the capstone there are piled stones over burial structures, such as
stone-cists, pit-graves with wood coffin in which dead bodies are placed.
They are limited in the East China Sea areas, such as sites of Harayama,
Fukandake, Maruyama.
+ Dolmens have 3 or 4 supporting stones under the capstone, and
beneath the capstone there are piled stones over the burial structure, but
in later times, pit-graves with stone brim appear instead of piled stones.
Burial structures of this shape have the pit-graves, the stone-cists and the
urns. These dolmens are distributed widely over Northwestern Kyushu
in the early Stage of Yayoi Culture. In the Eastern parts of Northwestern
Kyushu, many burial constructions are found under the capstone, and
Dolmens coexist with tombs of other styles such as urns, stone-cists, pit-
graves and pit-graves with wooden coffin, while in the Western parts of
Northern Kyushu, the Dolmens consist only of cemeteries. Artefacts from
these Dolmens contain polished stone arrowheads of Korean type and
polished red painted pottery.
360 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37 Pages 361-370

▲back to top

37.1 Page 361

▲back to top
+ Dolmens have no supporting stones them. Instead of piled
stones, they have small irregularly arranged boulders over the
pi-graves. These Dolmens are limited in the river reaches of Kumamoto
Prefecture at the final Stage of building Dolmens in Japanese Archipelago
and usually Japanese archaeologists do not find grave-goods in these
Dolmens (Komoto M. 1982).
In general, the Japanese Dolmens are quite alike those iin Korea
in shape. In particular, the 1-st type Dolmens without supporting stones
under capstone (Harayama, Fukandake, Maruyama) are introduced
in Westernmost coasts of Kyushu about 3-rd century BC, together with
ceremation and incipient agriculture in dry fields. Dolmens of this type
closely resemble the Southern Korea Dolmens (Daebong-dong). In these
areas they may be connnected with those of Southwestern Korea, but their
distribution are limited in small areas in Northwestern Kyushu and they
had not much influence on the Japanese History.
Thesecond type Dolmens with supporting stones in Northwestern
Kyushu bear resemblance to the Kokan-ri Dolmens and brout various
social changes in the History of Japan. In the beginning of Yayoi Culture,
In these areas Dolmens seem to have been built under the direct influence
of the Southeastern Koreans. They had various forms of graves in the
cemetery such as Dolmens, pit-graves, pit-graves with wooden coffin or
arranged stone, urns and brought a highky developed technique of well-
field agriculture to Japan. Afterwards, their descendants, by obtaining
Iron or bronze artefacts through the trade with Southern Korea, did
establish the new political system over the mostparts of the Japanese
Islands (Komoto M.1982).
One of famous groups of Dolmens in the East China Sea areas in
the final Jomon - early Yayoi Stages is the Harayama Site (Nagasaki
Prefecture, on the foot of Mt.Unzen in the Shimahara Peninsula. This
Site was discovered by Mr.Baba, and after systematic investigations and
excavations of Mr.Shichida, Prof.Kagamiyama in 1953-1954 (Matsudo
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 361
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.2 Page 362

▲back to top
T.1957), Japanese Scholars note that the Harayama Dolmens are
distributed in 3 separate groups: The A-group (10 Dolmens) situated on
the mouth and has 3-4 supporting stones below capstone with stonecist or
pit-graves containing the final Jomon Stage Pottery and pieces of charcol.
The B-group (30 Dolmens) situated at the center. Under the capstones
there is a small rectangular stonecist with tubular beads, arrowheads,
pottery fragments. The C-group located on the back of the Site with over
100 Dolmens were excavated. There are found urns, stone-cists, pit-graves
sa a burial strcuture under the capstone with or without supporting stones.
These graves contain pottery of the final Jomon and early Yayoi Cultures.
The Nakanohama (Yamaguchi Prefecture) Site, situated on the east
coast of the Japan Sea, was excavated 8 times. Its large cemetery is
composed of 4 groups, with 1 Dolmen only, together with many stone-
cists and pit-graves with stone brim. The same circumstances are found
at various sites in the Eastern parts of Northern Kyushu along the Japan
Sea (Odomo, Tokusue, Shito - with 1-10 Dolmens with pit-graves, urns,
pit-graves with stone brim, containing pottery, tubular beads, Korean
arrowhead.
Other Dolmen centers are found in Maruyama (17 Dolmens), Morita
(16 Dolmens), Setoguchi (14 Dolmens), Sakogashira (13 Dolmens),
Tokusue (more than 10 Dolmens), Kishidaka (9 Dolmens), Wariishi (6
Dolmens), Gotanda and Hayamajtri (5 Dolmens), Nishi Ishinari (3
Dolmens), Funaishi (2 Dolmens) and Minamikoji, Kouda, Kawayori,
Saori, Odomo (1 Dolmen) (Saga Prefecture), Fukandake (20 Dolmens),
Onadai (8 Dolmens), Tanukiyama (7 Dolmens) (fig. 389), Satobaru (3
Dolmens), Ogawanai (10 Dolmens), Matsubara (2 Dolmens), Izaki and
Keikaen (1 Dolmen) (Nagasaki Prefecture), Yatsuwari (12 Dolmens),
Fujio (9 Dolmens) (fig. 388), Kogayama (5 Dolmens), Toshinokami and
Asobaru (2 Dolmens), Nakabaru and Tonomoko (Kumamoto Prefecture),
Shito (10 Dolmens), Oda (fig. 386), Higashikota, Shikafunaishi, Kagaishi,
Yoỏc, Hayamadai (fig. 387), Asada (1 Dolmens) (Fukuoka Prefecture),
362 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.3 Page 363

▲back to top
with same form of graves containing burnished-red painted pottery, Jade
and tubular beads, stone-chipped arrowheads.
According to Prof. Masayuki Komoto’s work (1975, 1978, 1982), the
first shape Japanese Dolmens without supporting stones are introduced
about 3-rd century BC for the 1-st time in the East China Sea areas at
the final Jomon Stage. About the 2nd Century BC, the 2nd shape Japanese
Dolmens with supporting stones are built in Japan Sea areas after the
fashion of the Southeast Korea at the early Stage of the Yayoi Culture
(the general C14 chronology varies between 610 ± 100 BC and 350 ± 30
AD). And at the end of the middle Stage of the Yayoi Culture, Dolmens
disappeared (the general C14 chronology of the Yayoi middle Stage is
between 480 ± 105 BC and 520 ± 150 AD). With the impressed chaffs of
rice at the bottom or the body of jar-type pottery unearthed from Dolmens
as graves-goods in Harayama, Maruyama at the final Jomon Stage and
charred rice, barkley materials at Uenoharu (Kumamoto) (Kotani Y.1972),
some Japanese scholars maintain that people of this period cultivated rice
and barley in the dry fields by the method of slash and brun technique.
On the Japan Sea in the Eastern parts of Northern Kyushu - the famous
for the cradle land of wet-fiels cultivation areas. Dolmens are strongly
associated with agriculture. These Dolmens introduced here consist of
agricultural complex together with the technique of cultivation in wet-
fields, polished equipment, weaving ect. After Drs. T.Kanaseki, M.Naga’s
anatomical studies, people of high statue came into these areas, bringing
the technique of rice cultivation with tham from Southern Korea at the
beginning of Yayoi Culture. Dolmens of new type with supporting stones
beneath the capstone are considered to have been built by the Korean
people mixed with native under these historical circumstances.
- Stone circles.Stone circles and related monuments in Hokkaido and
the moutainous regions from Tohoku to Chubu districts have been studies
by an expert in continental Archaeology and a man of great erudition
in European Megaliths - Dr. K.Komai, after the World War II. Since
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 363
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.4 Page 364

▲back to top
Dr.Komai’s works a large number of cirlces and related monuments have
been become known over the Eastern part of the Japanese Islands. These
constructions are usually found at the foot of mountain or hill-ridges which
command a fine view. They are supposed to be divided into 4 shapes:
+ Shape A is the cairn which arranges stones in circles framed with
kerb stone and stands in a line or irregularly. Japanese cairns have not
always piled stones covering stone structures, but the stones used for the
structures are usually placed not vertically. The Otoe Site (Hokkaido),
situated in the hill-ridge jutting out a long way into the Ishikari River,
consists of 13 cairns standing in a line on the hill-ridge. The whole interior
of the circles is covered with pebbles and gravel. Most of the cairns have
rectangular or oblong pit-graves 2,5-1,4m in length, 1m in width. Grave-
goods from this Site contain pendants of Jade, beeds, lacquered bowl and
chipped stone arrowheads. Some examples of this shape have circular
earthern enclosures with bank such as the Site of Shuen A (fig.75). At Kinsei
(Yamanashi), over 10 stone structures with large sunken stone pillars
are excavated. Pilled stones are arranged irregulaly around the stone
pillars in their center. These stone constructions which maybe related to
the cairns are distributed at random on the slopes of the mountains, with
many pottery fragments, stone sword, pendant, clay figures, cremated
bone unearthed from here and there around these cairns. The same
form is recognized at other places of Hokkaido (Gotenyama - 73 stone-
cairns with pottery, beads, stone axe, bar-shaped stone club, comb, clay
figure; Hokkei - 5 stone-cairns; Takidai - 1 cairns; Jichinyama - 1 cairns
with pottery, pendant and bead by Jade, arrowhead, and at Kabayama,
Sawanai (Iwate), Unjono, Kurokura, Sedeno (Akita), Sengo (Shizuoka),
with pottery, chipped stone knives.
+ Shape B consists on small cairns which are arranges so as form a
circle which found at Nishizakiyama, Katsuyama, Sodeno, Oyu Monakado,
Manza, Komijo, Samuki, Teraji. In Nishizakiyama, 7 small cairns, each
of them 1-1,5m in diameter on an average, make approximately circular
364 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.5 Page 365

▲back to top
zone of cobbles. Under these stone constructions there is a small pit-
grave whose upper part is packed with pebbles. The most famous Sites
of Japanese stone-circlesare Oyu Nonakodo and Manza, respectively
in double concentric circles, and the inner and outer circles consist of
cairns or stone constructions (the outer diameters 30-43m - 32-52m).
There are so called “Sun-Dial” in the middle of the two circles, with
form a radial with sunken stone pillar in their center and the fringes of
the structures are brimmed with kerb-stones. The pit-graves under the
stone structuresare elliptic in plan and large enough to contain corpses
buried in a contracted position. These stones structures maybe recognize
the nature of “Sepulchral monuments” (Komoto M.1982). In other sites
(Katsuyama - 77 cairns with outer diameter 45-90m; Sodeno - 4 cairns
and Teraji, with outer diameter 10-16m), pottery and cremated bone were
found.
+ The C shape circles are few in number at Koyo, Okushibetshu,
Tabata. The fartheast East of Hokkaido Site (Okushibetsu) has a circular
stone row arranged with pebbles or small boulders about 11m in diameter,
with 4 fireplaces and 1 burial site consisting of pit-graves nearby the
stone-circle. This circle may have been build for ceremonial monuments.
+ The D shape circle of Cromelech type have been in few sites in
Japan, such as Wallara (2m in diameter), Jichinyama ect.
The Mikasayama Site (near Otaru City, Hokkaido) has a circular ring
(22-30m in diameter) of more than 100 standing stones (about 1 m in
height on an average). In the circle center, there are sunken stone pillars
rectangular in section (Komai K.1973). Based upon chronology og the
grave-goods, the building of the stone circles seems to have begun in
the early Jomon Stage, but their numerical increases date from late to
Jomon Culture (Fujimoto T. 1979). Bisedes, some burial constructions are
supposed to be orginated in or related to the stone-circles at Hokkaido.
For exemples, at Kashiwagi B, 3 circular earthern enclosures with bank
have been excavated. There are many pit-graves in and around the
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 365
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.6 Page 366

▲back to top
earthern bank arranged to form a concentric cirlce (21m in the outer, 12-
13m in the inner diameter, about 45-60cm in height), with 47 pit-graves
in and around the bank (Otani T. 1978). At Kurisawa - 21 circles (28-32m
in the inner diameter, 65-67cm in height) with circular or oval pit-graves
anb other constructions at Kiusu, Marukoyama, Ichani, Nobana Minami,
Otoe Kita, Misawa, Mimi ect., with grave-goods from these structures
resemble those of the stones circles, e.g., lacquered wooden bowls, beads
of Jade, pottery from late to final Jomon types. Therefore, circular earthern
enclosures with bank are certainly originated in the stone circles, circles of
the A-shape with circular earthern bank in particular (Komoto M. 1982).
Stone circles and other related monuments distributed widely
in Eastern Japan were undboubtedly constructed after the Siberian
monuments. In Eastern Siberia and Northern China, there are many stone
circles datable back to the early Neolithic, such as Hairal. In Japan, they
seem to have begun in the early Stage of Jomon, i.e., about 5.000 BC, but
their numerical increases date from late to final Jomon Stage - 2.000-
1.000 BC. Since it is a well attested fact that some stone constructions
have large quantitites of charred bones, opinion is divided on the question
whether stone circles were built forceremonial purposes, or for burial
(Komot M. 1982). In farther relation, the Japanese Megalithic monuments
(and other slab tombs at North China) dating I-st Millenium BC were
suggested the concerned possibility with the pottery-jar burial tradition
at the same time in Southern Japan (Bellwood P. 1987).
1. 3. China’s mainland and Taiwan.
The known Megalithic vestiges in China and its neighbouring regions
through the introductory works research studies of such scholars as T.
Mikami (1961), T. K. Cheng (1963), S. S. Ling (1967), B. M. Kim (1982).
The vestiges refered to as “Sokbung” and “Shih-peng” in the Chungyuan
are often considered as bearing Dolmen’s typological characteristics,
although many scholars still have not recognized the presence of the
strictly so called megalithic vestiges in mainland China.
366 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.7 Page 367

▲back to top
In China, the most evident sites where megaliths were used for building
architectural works are the stone tombs. Vestiges of stone-reinforced
tombs of “pit-tomb” type with stone reinforcement have been recorded
in Loyang of the Shang dynasty, and in Tom 2 (at Kuweit’sun - Honan,
during the Warring States period) (Kuo, Pao-chun 1955-1956), but their
main structure is a rectangular or square pit with a wooden chamber.
The tombs with megalithic structure close to the various types of
dolmen, stonecist, cairn typical of megalithic cultures, are found only
in Kansu in the North-West (Cheng T. K., 1963), Tibet (Tucci G., 1973;
Macdonald A., 1975) Szechwan in the South West (Cheng T. K., 1946),
Taiwan (Fleming M.E., 1963; Ling S. S., 1967), Che Kiang in the South
East (Mikami T., 1981), Shantung in the East (Torii R., 1931), Hopei in
the North East, Manchuria and Korea beyond the Great Wall (Mikami T.,
1961; Kim B. M., 1982). In other words, the tradition of using stone for
burials was popular among the peoples surrounding China proper, and
from the Chinese point of view, they were all nomadic barbarians. thus
during the Chou period, the descendants of the Shang in Shen Si, Shan Si
and Hu Nan kept their distinctive burial traditions, with wooden chamber
pit-tomb since the Neolithic period, while nomadic peoples of the satellite
societies around the Chungyuan kept using “stone burials”.
The vestiges considered as stonecists uncovered in North East China
bear essentially the common characteristics of the “durable tradition of
stone tomb culture in South-Eastern Siberia and Eastern Asia” (Kim B.
M., 1982), recorded along the coast from Sungari, the Liao-Ping peninsula
and the region of T’ang Shan, Hopei province and extending as far as
Taiwan and Tibet. The existence of stone burials of the “stonecist tomb”
type which are scattered all over the northern frontiers, from Sze-Chwan
and Kansu” and slate tombs at Lifan has been mentioned by T. K. Cheng
(1946, 1963). The same type of burials including about 100 stonecist have
been found along the upper Min river (Feng, Han-Chi, et al., 1973). The
construction of a stonecist here is simple - a conffin consisting of stone
slabs,2.1 - 1.5m long, 0.6 - 0.9m wide, the side for the head of the body is
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 367
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.8 Page 368

▲back to top
wider and 70 cm deep. The bottom and the cover are made of one to five
stone slabs, and the long wall consists of three stone slabs and the short
wall of one slab. Most of these burials were laid horizontally, but the tomb
SZM3 lies on a slope of 100. In this particular case, the roof is covered
with 5 small slabs sloping from the higher part to the lower.
Dolmens and stonecists have been noted by A. Macdonald (1975) as
the vestiges of “Tibetan megaliths” in Tibet and South Eastern China,
when he described the “stone altars”, or Iha-t’o, which consist of two
large stones with a stone slab placed across them horizontally”, as
“obviously a dolmen” and “a typical rectangular stonecist tomb found at
Shigaste, Tsang”.
Also in the Tibet-Szechwan region, T. K. Cheng excavated stone tombs
along the upper reaches of Min river, where many Menhirs seemingly
had been previously recorded. Vestiges of Dolmens type have also been
observed by T. K. Cheng in Mien Ning, Yilung. Along the upper reaches
of the Yang Tzu river. Probably these are “legged type dolmens”, like
the stone monuments that autochthonous population call You-Yuch-T’ai
(celestial platforms) with the stone table’s surface so large that 10 people
can sit on it (Cheng T. K., 1963).
In the coastal region of Eastern China, a number of dolmens have
been found and are designated with the Chinese terminology of “Shih-
peng”, for example, 2 dolmens in Tai-Shi-Shan and Shui-An Hsien
(Che Kiang), one of them had crumbled, the other conserved intact the
structure constituted at the four corners by 4 stone slabs supporting a
large and flat 2,7 x 2,1 m stone lid, 48-65cm thick (fig.76). Besides, there
still are “legged type” dolmens in Shan Tung and “footed type” ones in
Che Kiang. The Shan Tung’s dolmens, uncovered at Wang Mu Shan (Tu
Po Tsun, Tzu Chuan Hsien) have capstones with a size of 5,4 x 2,92 x
1,5m and 1,84 x 1,16 x 0,88m. In Shin-men-tzu and Erh-nu-shih localities
(Yung-cheng Hsien), there are also a number of dolmen-like monuments
distributed separately or in groups (Mikami T., 1961).
368 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.9 Page 369

▲back to top
In West and South West China, S. S. Ling (1967) has signaled the
presence of a number of megalithic monuments in Shih-peng Shan in the
“Dolmen mountain” of Yang-yang (Ho Nan). According to An Chi-Min
(1954), in Hopei, a number of “stonecists” had been uncovered in Tang-
Shan City. A number of stonecist sites have been assigned “pre-Han”
period date; besides, there may be also some tombs appertaining to later
period.
In Taiwan, along the Northern coast, Prof. S. S. Ling has excavated
many stone tombs in prehistoric sites in Pei-nan. The findings here have
supplied a “stone cist culture” bridge between North Eastern Asia and
South East Asia’s islands (Java, Sumatra) and South West Asia (India)
(Kim B. M., 1980).
Along with the stone cists, on this archipelago, according to Statistical
figures of S. S. Ling (1987), over 80 dolmens have been found, many of
which are “grave dolmens”. However, it seems that only a few number of
dolmens here belong to prehistory, other dolmens turned out to be of the
historical phases, for some of them they even have been only built in these
recent centuries. According by the paper of Pipad Krajaejun (University
of Thampasat, Thailand) in 9th IPPA conference in Ha Noi, 2009, same
slab stonecists were in Southeast part of Taiwanwith original source of
ancient Peinan cultural tradition (fig.76). These Sites were similar with
slab stonecist excavated in Thailand, Malaysia and Indonesia .
2. Megalithic Culture centers in South-West Asia
The Indian subcontinent played an important role in the creation and
propagation of megalithic cultures of different types since immemorial
times. The history of researches on India’s prehistoric megalithic
monuments started more than one century ago, when “coarse” and
mysterious stone had attracted the interests of many scholars; for example,
the groups of stone cists in North Kerala (Babington,1823), the “stone
cairns - circles - kistvaens” in Dekhan (Taylor M,1873), the “megalithic
remains” in Delhi hilly region, Mitzapur, Orissa (Cunningham A,1871),
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 369
HANG GON MEGALITHIC TOMB

37.10 Page 370

▲back to top
hundreds of Stone cairns - kists in Vindhyas (Mesurier, 1867) or Uttar
Pradesh (Carlleyle A.C, 1883). In the starting episode of Indian megalithic
studies, the scholars applied the synthetic method of research, drafted the
tendency of looking for the ancestors of the Celtic, Druidic and Scythian
megalithic builders (Ferguson,1872), or studying the local tradition of
megalithic construction and “practices” still existing in the worshipping
customs of Nilgris hilly region’s tribes, in Tamil Nadu (Breeks, 1873).
From the end of the 19-th century - the beginning of the 20-th century, a
number of investigation and excavation programmes were realized in the
megalithic classical sites, “megalithic graves” in Tinnevelly, Junapani
(Maharashta), Madras, Adichanallur, Perumbair, Andhra Pradesh, ect.
(Sewell, 1882; Rea A., 1915; Hunt, 1924). In 1930, the majority of the
megalithic sites which had been excavated in 1/4th of the XXth century
were presented in the Review “Man”, N. 30. After the World War II,
thanks to the results of Karnataka excavation campaigns, the renowned
scholar M. Weeler began to build the common chronological table for
South India’s megalithic vestiges from South of the 18th latitude, North of
Hyderabad and South of Godavari system, and put forth many points of
view on the “authorship” drawn from the conception of “Western source”
of South India’s megalithic culture (Weeler M., 1948, 1959, 1968). After
the chronological framework” of Weeler, many excavation and research
results on megalithic vestiges were additionally published (Sorendara
Rajan, 1959; Sharma G. R., 1962 - 1963; Banerjee, 1965; Rao G., 1972;
Deo S. B., 1973; Sundara, 1975). In particular, the bibliography by K. S.
Ramachandra (1971) and documents supplied by International Scientific
conferences on India - Pacific Prehistory 1985 (Misra V. N. - Bellwood
P. 1985) and on the II-nd World Megalithic Conference in Seoul, 1999
(Sereviratne S., 1999) have systematized many India and Ceylonese
megalithic monuments.
2. 1. General distribution.
The distribution of megalithic vestiges in South West Asia is
concentrated in three main areas: the Southern Indian peninsula , North
370 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38 Pages 371-380

▲back to top

38.1 Page 371

▲back to top
- North Western and North Eastern India. Naturally , the most important
megalithic vestiges bear the characteristic features of funerary works,
most densely concentrated in South India, on Deccan highlands in about
the Ist millenium BC to the beginning of the Christian Era (Sarkar H.,
1982). In this region, thousands of vestiges different types have been found
(menhirs, dolmens, urn-burials, stone-dolmenoid cists, cairns, circles,
rock-cut caves, passage graves, hood-umbrella stones, ect.) Megalithic
monuments are more sparsely distributed in North Western India and
Pakistan, such as Baluchistan and Makran coast (Iran), Waghodur and
Leh of Ladakh, Buzzahom near Srinagar, Deosa near Jaipur, Khera near
Fatehpur Sikri, Agra, Deodhoora neare Almora, Allahabad, Mirzapur,
Varanasi, ect. (Weeler R.E.M, 1948). The megalithic region in North
Eastern India, extending from the frontier with Burma to nearly the
center of the peninsulam bearing the characteristic features of the local
culture, having tight relationships with the tration of building megalithic
monuments of South East Asia. According to many scholars, we may
note an “ancient prehistoric megalithic tradition”, along with all the
transformation tendency within the limits of South India and the “living -
contemporary megalithic tradition” within the limits of Eastern India, in
the settlement region of autochthonous population having the custom of
erecting Menhirs, forked posts, dolmens considered since a long time as
“souvenirs left by Nature” (Sarkar H., 1982).
Before 1962, a number of scholars believed that South India’s
megalithic culture was limited in Karnataka, Andhra Pradesh, Kerala
(fig. 403) and Tamil Nadu States, with many important excavations in
Tadakanahall, Porkalan, Trichur, Vellinatukunnu (Calicut), Cheruppa,
Pallikkai (Malappuram), Cananorem Marayur (Idukki), Wynad, Palghat,
Ernakulam, Kottayam, ect. From 1962 onward, investigations made by
the University of Allahabad on Hathia hilly region and the right bank of
Chandraprabha river, in Chakia and South Eastern Uttar Pradesh, on a
stretch of land of up to 320 km in length from Kramanasa valley to the
East to Paisuni - Mandakini valley (Bonda - Satna) to the West, with three
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 371
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.2 Page 372

▲back to top
group of megalithic culture vestiges the most representative of Vinahyas
in: Varanasi, Chunar Ahraura, Chachai. In general, besides the megalithic
sites attached to settlement vestiges as Maski, Takalghat, Palyampalli,
Naikund, near Nagpur in Maharashtra (Sharma G. R., 1962; Deo S. B.,
1970), megalith distribution regions often lack settlement sites which
would have been attached to the ownwers of the systems of megalithic
monuments, with the two main characteristics of the indigenous culture
which are the use of “black-and-red pottery” and the widespread use of
Iron implements.
The presence of megalithic monuments of Southern India origin is
also recorded in Sri-Lanka, the southernmost zone of the “South Asia
Early Iron Age techno-cultural complex” - where there are nearly 50
Megalithic memorial sites of “burial type” and a number of “habitation
sites” with a destiny of about 100 - 200 burial/acre, in Amuradhapira,
Ibbankatuwa, Pinnewa-Gelsohonkanotta, ect.). S. Seneviratne (1999)
believes that: the owners of this megalithic culture were Early Iron Age
population comprising “Aryan” peoples immigrating from North India in
the 5-th century BC, along with a number of small communities coming
from the peninsular region and South India, bringing with them the Oriza
sativa rice, millet and other plants, horses, domesticated animals, copper
and iron melting techniques, jewelry production, the manufacture of black
and black-and-red pottery with post-firing graffiti symbols, along with the
megalithic monuments, ect.
2. 2. Basic types of Megalithic sites
On the basic of knowledge received from olde generations (Taylor
1951; Breeks, 1873; Burgers, 1874; Branfill, 1880; Codrington, 1930),
since 1949, V. D. Krishnaswami has proposed a relatively complete and
scientific system for classifying Indian megaliths, a number of scholars
continued to detail the local types, such as in Uttar Pradesh (Sharma G.
R., 1957-1958, 1960-1964), Karnataka (Allchin, 1968; Sundara, 1970,
1975), ect. Basically, it is possible to identify the main types of megalithic
372 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.3 Page 373

▲back to top
vestiges in South West Asia through the stone circles, megalithic tombs
and menhirs in their complete architectural complex. Stone circles
vestiges in the mountainous regions of Indian peninsula are divided into
2 great groups in Baluchistan (Pakistan) (of the “cairn - circle” type)
and in the Ganges plain (of the “stone circle” type). Vestiges of cairn -
circle type are recorded in Madras, Chingleput, often include one mound
encircled with coarse stones the appearance of which is similar to that
of “stone dolmenoid cists”. The most noticeable difference besides in the
fact that the burial is realized in a rectangular coffin, with the vault of the
assembled and mended pottery with bands of spiral decoration motifs,
evidence of the use of iron and knowledge on horse domestication (Gordon
D.H., 1954 - 1955).
Megalithic tombs are very rich in quantity and number of types and
subtypes. The group of vestiges considered to be of the earliest dating
is distributed in North Karnataka with usually a port-holed chamber
structure, including 3 types: Port-holed dolmenoid cist with a short
passage; port-holed dolmen; and oblong dolmenoid cist with port-hole.
The presence of a “port-hole” is a characteristic reature related to similar
vestiges in West Asia, which have been gererally dated as post 800 BC
(Sandara A., 1975) and even th Mediterranean Sea region (Child V. G.,
1948) (fig.77).
Other types of megalithic tombs-cist without “port-hole” are rarely
found; but people also distinguish Indian megalithic tombs thanks to the
“chamber-tomb” and “passage tomb”, the various kinds of “dolmenoid
cist” and transepted cist” or “slab-circle” like stone tombs, with
specific structure in some places (e.g. the “Greek or Latin cross”, “with
sarcophagus or sarcophagi”, “orthostats” or “antechamber”, “rock-
cut cave type” or “dome-shaped type”, “hood-hat stones” or “multiple
hood stones” (Ramanchandra K.S, 1971; Samdara A, 1975). Vestiges
of Mehir type are very common in North Kerala, Burzahom (Kashmir),
Coimbatore (Tamil Nadu), North Karmataka (Marashimbaiah B., 1980).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 373
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.4 Page 374

▲back to top
In particular, in North West Andra Pradesh, there as much as 43 Mehir
vestiges; in Deccan, the menhirs are erected in two or more rows along side
avenues and, although no accompanying material culture relics, they are
considered as “memorial pilars” in nature or “hero stones” throughout
the subsequent historical periods (Sarkar H. S., 1972) (fig.78).
2. 3. Common chronological table and a sketch of the ancient Indian
Megalithic society
A common chronology of Indian megalithic culture is a scientific
issue which has been discussed since the 19-th century until today, with
a particular draft built by each of the interested scholars. For example,
M.Weeler (1948) believed that the beginning of Indian Megaliths
(Chronology of commencement) went back to about the 2-nd century
BC. While Gordon and Haimendort think that the period of spreading of
megaliths was from the 7-th century to the 4-th century BC. As to Seshadri
(1956), this period was longer: from the middle of the 6-th century BC to
the 1-st century AD. Many people consider that megalithic culture had
its origin in the “Indian Neoliths” (Sundara, Aiyappan”, 1945). Prof.
Sharmar used the term “Chalcolithic Megaliths” to designate contact
period in Maharashtra” is placed in the 7-th century BC with 14 evidences
in Takalgat and Vidarbha megalithic sites in about the 7-th - 6-th centuries
BC. Earlier dates are are supported by many people in Hallut (1.000 BC)
or Terdal (1.100 BC) when the megalithic culture of Karnataka region has
been pushed up to the “Neolithic - megalithic period” (Sundara 1969-
1970; Deo S., 1973). With S. Severiratne (1999), the commencement of
Indian megaliths must be rectified to 1.200 BC. According to this author,
whereas European megaliths have been place in the Neolithic context,
with as date the III-rd were associated with pre-urban village communities
existing since the Mesolithic- Neolithic - Chalcolithic periods in South
Asia and the “sub-continental techno - cultural backdrop of Megaliths
was the Iron Age culture, the culture mainly represented by the megalithic
memorials.
374 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.5 Page 375

▲back to top
Generally speaking, C14 dating and other existing evidence confirm
that the earliest megalithic works were built at the beginning if the Ist
millennium BC, if not earlier. Since the oldest dates in passage tombs,
in North Karnataka (1.000 BC), vestiges in Kotia - Allahabad - Uttar
Pradesh (30-200 BC), the C14 chronology gives in the general picture
of megalithism a spreading of the monuments from South to North India
and not vice-versa (Agrawal, Kusumgat, 1974). The contemporaneous
cultures in the North Eastern part of the peninsula were able to seek
inspiration from South East Asia, with its very ancient megalithic vestiges.
For the reason, at present there is not yet any C14 dating revealing
megaliths from the last half of the IInd millennium BC (Misra, 1977) and
the question of the origin, or authorship of megalithic culture in India
still needs further discussion, megalithic culture on this peninsula most
probably extended form 1.000 BC to the 3-rd century AD. Usually, the
appearing of these megalithic vestiges having the function of burial or
memorial monuments cause very deep impressions; but it is regrettable
that for the most part of megalithic vestiges, it is difficult to find out any
information related to their oweners and builder, except old cultural marks
of the megalithic population in Maski, Sanganakallu, Hallur, Brahmagiri
(Karnataka). Kunnattur, Sengamedu, Pailyampalli, Tirukkampuliyar
(Tamil Nadu), Dharanikota, Kesarapalle (Andhra Pradesh), ect.
In the traditional archaeological chronology Table on Megaliths in
India and Sri-Lanka from 1.000 BC - 300 AD, the vestiges containing
jar tombs, the burial vault with passsage and stone cairn - circles are
considered as the first signs on megaliths in this region. As to Dolmens
and slab-tombs, apparently they have a later age, and the youngest are the
unique monuments having the shape of an umbrella - the “hat - stones”,
or the “rock-cut caves” in Kerala. Among them, slab-cists and dolmenoid
tombs are outstanding as one among three fundamental characteristics of
the autochthonous culture containing them; and, along with this, 2 other
important factors, the use of Iron and black-and-red pottery, seemingly
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 375
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.6 Page 376

▲back to top
have created a characteristic megalithic techno-cultural complex having
developed to its apogee.
The pottery collecte in megalithic vestiges constitutes the material
evidences which have received the greates concern; in particular, the
black-and-red pottery in the Southern part of the peninsula, at Vidarbha
stone circles sites (Maharathtra), Andhra Pradesh, Tamil Nadu; and the
painted pottery, coloured with “black-on-red”, found in the megalithic
vestiges of Andhra - Karnataka, Takalgat, Naikund..., with many kinds
and shapes (cups, phials, kettles, containers with lid and handle, in the
form of a flying bird or some mammal, such as goat, buffalo or decorated
with symbols having probably relationships with the Brahmi - Egyptian,
Harappan - Post Harappan hieroglyphs and even with chalcolithic pottery
(Lal., 1960).
Besides pottery, Indian megaliths also supply many other artifacts,
especially Iron and Copper tools. Until a recent period, iron tools
uncovered in megalithic tombs are considered as the earliest evidence
on the use of Iron in India and Pakistan, earlier than 250 BC - 300 BC,
except the peoples building the megalithic tombs in Baluchistan and
Southern India (Gordon D. H., 1950), a number of scholars belive that: It
was the Achaemenid Persians themselves who had introduced the use of
Iron in Northern India since the end of the 6th Century BC and the tration
of using Iron of Southern India’s megalith builders had been received from
Northern India (Weeler M., 1959).
New archaeological discoveries show that: the appearance of iron
implements attached with the painted pottery in Northern India have as
average date 700 BC (Banrjee N. R., 1965), the Hallur, Dharwar, Karnataka
excavation proves that the presence of iron implements in Southern India
dated from 1.000 BC, this is also the earliest date on the Iron on this whole
peninsula (Rao N., 1967, 1971). Iron implements contained in Indian
megalithic monuments comprise, in types and shapes, tools, weapons,
and implements, used in agricultural production, handicraft activities and
376 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.7 Page 377

▲back to top
struggle, there are also burial articles having a ritualistic character; as
well as copper or bronze implements and weapons, ritualistic artifacts,
except the copper bracelets, animal-shaped bells, dishes and pots and
jars with lid decorated with bird of flower figures, which may be exotic
relics. Besides metallurgy, the megalithic peoples were also strong in
the techniques of polishing precious stones, manufacturing beads, and
pendants of agate, carnelian, blood stones, and melting glass and crystal
from the rich resources of Deccan highlands.
We may believe that the owners of Indian megalithic cultures had
a pastoral and agricultural economy, the evidence of which comprises
not only tools and farming implements, but also vestiges of foods (bones,
horns, teeth of sheep, goats, buffaloes, oxen, ect.), the animal figures drawn
for decorating ceramics, remain of rice grain, rice chaffs, cereal grains
(ragi, green gram...) burned into charcoal, ect. in the megalithic sites of
the regions of Tamil Nadu, Coorg, Kapa, Karntaka, Deccan highlands,
with different ecological and environmental conditions. According to a
number of scholars, besides ragi and upland rice which are suitable more
to the semi-arid fields than to humid fields, water-rice cultivation and the
use of water reservoir may have been known to Southern India megalithic
peoples since then (Deo S. B., 1989).
The real origin and owners of South West Asia’s megalithic cultures
evidently have been the issues the most discussed ever. Since a long time,
Western scholars have raised the question of theur Celtic or Scythian
origin or tried to relate them with Central Asia’s tribes (Rinett - Carnal
J. H., 1879), or endeavoured to attach them with peoples speaking the
Dravidian languages. A number of people believe that Southern India’s
megalithic vestiges existed among the Southern tribes who were in tight
relation with a number of zones in the North Western part of this peninsula
(Singh, 1989), ect.
Although hundred of human remains with about 70 craniums have been
excavated in megalithic sites from Bengal to Tamil Nadu and Southward
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 377
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.8 Page 378

▲back to top
to Sri Lanka, from the beginning of the 19-th century until today, very
few specimens have been well conserved. Anthropological studies on the
collection of megalithic craniums support the points of view believing that
the ethnic origin of the megaliths’ owners in particular and India’s Metal
Age cultures in general are “heterogeneous” (Kenedy Kar., 1965, 1973,
1975; Begley, Lukacs, Kennedy 1981, Kennedy K.A.S, Kevisky J. 1989).
“Mix-blood” between brachycrany and dolichocrany. The owners of
Indian megalithic culture are figured by the author as a “post-1000 BC”
unified people comprising two main layers of inhabitants, the earliest
one comprises the dolichocrany, and following it a layers of “hyper-
chamaerrhine” (Sen A. K. - De P., 1989).
These layers of inhabitants had a very remote origin, which may
be found in the Neolithic - Chalcolithic sites, and even in the earliest
stages of Mesolithic culture, refered to as the “blade - bladelet phases”
and continued to be present in the following periods, and had tight
relationships with the unique development marked by the building
of megalithic tombs in this region. It is also possible that there was
another layer of population with the characteristics of head-forms being
“mesocranial” and “brachycranial”, also called “chamaerrhine; hyper-
chamaerrhine”, who would also be responsible of the creation of a number
of Indian megalithic structures. From anthropological studies results
(yielded mixed results in head forms, ect.), and vestiges of various types
in different ecological regions, the scholars have also raised the issue of
the migratory routes, from various areas into India and reversely. For
example, the mesocranial and brachycranial peoples in tight relationship
with the slab-dolmenoid cists may have been people having immigrated
from Western Asia to India at about 1.000 BC (Sarkar H., 1972); or even
the megalithic people migrated from North to South India through the
Rajasthan and Central India (Subbarao, 1962). S. Rajan (1963) and
Allchins (1968) have supported the opinion on their indigenous origin in
the pe people migrated from North to South India through the Rajasthan
and Central India (Subbarao, 1962). S. Rajan (1963) and Allchins (1968)
378 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.9 Page 379

▲back to top
have supported the opinion on their indigenous origin in the peninsula
rather a farther origin.
Whether the presently known megaliths in India had a foreign or
indigenous origin, the commencement of megalithic culture in this area
had tight relationships with not only vestiges of their owners’ remain,
but also their socio-cultural and economic lifes as well as characteristic
language. The scholars all recorded that the presence of megaliths
denoted an outstanding stradition in spiritual culture of the autochthonous
communities, their religious beliefs and worship, magico-religious rituals
in the social life of these peoples which were different from one another
in ecological environment, culture and language (Gourdon, 1914; Das-
Chatgterjice, 1927; Majummdar, 1950, Nakame, 1967; Ghosh, 1965,
1972; Deo S., 1973).
The multiple relationships of South West Asia’s megalithic peoples are
also described as attached to post burial rituals, re-internment, considered
as the best way of burying a deceased along with burial articles in graves,
cists, urns, pit-circles, cairn-circles; whereas cremation and true burial
may have been exotic elements in Indian megalithic cultures (Sarkar
H., 1985). Documents on Stone-built tombs - megaliths appear in many
Vedicliterature traditional works, although cremation was the widespread
funerary custom in all the Vedic period. For example, on the use of stone
in tombs for preventing the dead from penetrating the living’s world, the
way of building stone tombs and the burial tradition reserved to God’s
worshippers, ect.
Megalith’s function are also attached to “local beliefs”, such as: the
megalithic structures that Uttar Pradesh’s natives call Bhiraharis, are
seen as hidden treasures (Pant P.C., 1989); the cult of the dead, ghost
worship, feasts of merits at the side of megalithic memorials, ect. helped
ancient megalithic cultural traditions in South West Asia to conserve many
characteristic features in the living megalithic tradition of the country of
the marvelous “Arabian nights tales”.
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 379
HANG GON MEGALITHIC TOMB

38.10 Page 380

▲back to top
3. Megalithic Culture centers in South-East Asia
In the continental framework, with the South-East Asia area having
the evident position of a bridge, playing an important role in the material
and spiritual life of many autochthonous peoples from prehistoric times,
megalithic monuments were the top-ranking objects or adoration,
in particular in the the Austronesian world. Except the Philippines
archipelago, where some vestiges of dolmens, vertically erected stones
of columnar type, with some indications of human modifications, along
with boat-shaped stone structures are too scant only seen as the “first
archaeological evidences of a truly Barangay society with mircro-
megalithic culture in Batanes Islands, Northern Philippines (Dizon E.Z.,
1999); the richer megalithic centers of the Austronesian world, in Indonesia
and Malaysia, were recorded, studied and even have been subject of big
monographs since the middle of the 19-th century and megalithic vestiges
keep being uncovered and discussed until today.
3. 1. The Indonesian Archipelago
The world of Indonesian islands contains many megalithic monuments
distinguishable by their types and dates. The most part of these monuments
were built since prehistoric times. R. Von Heine Geldern (1937, 1945)
thinks that: Indonesian megalithic cultural tradition had its origin from
Yunan, South China in the Neolithic period. But according to other
scholars (Bellwood P., 1978; Sukendar H., 1999). Neolithic megaliths
have never been discovered in this archipelago, although in a number of
cist-graves there are stone axes, beads, pottery. Most of the prehistoric
megalithic groups in Indonesia dated from the Bronze Age, probably
from the Ist Millenium BC, and have relationships with “burial” and
“non-burial ceremony” functions, in the forms of Menhirs, slab-stones,
terraces, dolmens, sarcophagi, mortars, statues, ... A number of megalithic
monuments have later dates, appertaining to the historic periods when
this land received more and more important influences from the Indian
and Chinese civilizations and the great religions of the continent and
380 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39 Pages 381-390

▲back to top

39.1 Page 381

▲back to top
the world (Hinduism, Islam). The tradition of building and worshipping
megaliths in Indonesia and the whole Oceania is still conserved until the
recent past periods (in Niah, Sumba, Flores, Timor, Sabu, the mountanious
region of Kalimantan, around Kota Kanabalu - Sabah, ect.) (Schnitger F.
W., 1930; Harrison T., 1958, 1964, 1973; Loofs HHE., 1965; Sukendar
H., 1981; ect.).
The first signs of Indonesia megaliths were mentioned in the military
reports of S. Ullmann (1850), Palembang’s Governor (1861), E. P.
Tombrink (1870), H. O. Forbes (1885), H. E. D. Engelhard (1891), H. E.
Steinmetz (1898) on statues, menhirs, mortars, terraces, ... on Pasemah
highlands, Palembang (Southern Sumatra). In the 20-th century, many
other megalithic monuments were found in Kalisat-Banjoewangi,
Mahakam Kajan, Borneo, Besoa, Napoe (Celebes), Timor (Hubenet J. B.,
1903; Nieuwenhuis A. W. 1907; Kruut A. C., 1908-1909; Krom N. J., 1914;
Batenburg C. J., 1913-1919; Junius F. J., 1921; Hoven W., 1922-1925).
From 1918-1923, W. J. Perry published two monographs on megaliths in
Indonesia and proposed a hypothesis on the long voyage of “the children
of the Sun” from Greece to America. In 1922, L. C. Westenenk used many
illustrations of Pasemah mysterious stone carvers for imagining “a voyage
of a Funan’s Prince” to this country. The detailed description of many
megalithic sites and introduction of new field research and excavations
results on Indonesian archipelago were presented in several different
works (Haan B., 1921; Giffen AE., 1927; Tricjt B., 1929; Eerde I. C., 1929;
Bosch F. D. K., 1930; Kruyt A. C., 1932; Raven H. C., 1931; Kanden W.,
1938; Armdt P., 1932; Bie D., 1932; Heekereen H. R., 1931; Willems W.
J. A., 1938) The most noteworthy is the painstaking researches by Dr. Van
der Hoop from 1931-1935, in the 4 regions from Palembang - Pageralam
- Soeroelangoen - Tandjoengsakti, to Pasemah - Lampong and West Java
and the system of thousands of megalithic relics in over 50 sites. The first
monograph on Indonesian megalithic culture of the author (1932), along
with the monographs of Harrison on Borneo’s megaliths (Eastern Java)
and of Riesenfeld (1950) are considered as an important summing up on
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 381
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.2 Page 382

▲back to top
megalithic cultures in South East Asia’s island and Oceania, which for
many year have been used by researchers circles on the cultural history
of Asian and World’s peoples. Documents on megalithic vestiges are also
used by many works of restoration of prehistoric vestiges in Indonesia
and Oceania (Schinitger, 1939; Ter Haar, 1948; Van Leur, Shrieke, 1955);
Geertz, 1956; Van Heekeren, 1958; Wertheim, 1959; Vekke, 1960; ect.).
In particular, numerous scientific opinions on megaliths (classification,
dating, functions, tradition and artislic style...) put forward by R. Von Heine
Geldern since 1945 have been tumultuously debated by contemporaneous
scholars and those of the generations coming after him. From the middle
of the 70s decade until today, many ethnological - archaeological surveys
realized by the Center of Archaeology (Jakarta) in the whole insular
region. Concrete results have been regularly published, from the chapters
written on megaliths in Indonesia and Melanesia of P. Bellwood (1978) to
reports by Indonesian archaeologists in their country or in International
scientific conferences on megaliths (Kapita, 1976; Sukendar H., 1980-
1999; Hadimuljoo, 1976; Soejono, 1977-1982; Durusa, 1981; Bintarti,
1981; Gunadi, 1980-1986; Sumiyati, 1980; ect.).
Generally speaking, in the ancient megalithic culture centers,
considered by many people as the biggest in Indonesian (Sumatra, Java,
Sulawesi, Bali, Sumba, Kalimantan, Sumbawa, Flores, Timor), endogenous
developments of many different types of vestiges has been recorded. In
each zone, isolated discoveries are very sparse. The megalithic vestiges
of the same category are often linked together and with other types of
megaliths, arranged in a limited architectural area, comprising many
megalithic remnants and artifacts of different types in the forms and
size of the specimens, scale of the works and their use and function (11
categories according to Van der Hoop, 1932; 12 categories according
to R. Von Heine Geldern, 1945l ect.). In brief, we may divide Indonesian
megaliths into two main groups:
- Megalithic graves: Include megalithic vestiges containing the
evidence of the burial of the dead, remains of the deceased or burials
382 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.3 Page 383

▲back to top
articles. Megalithic graves comprise many kinds and types, but all are
essentially built from at least two assembled large slabs or boulders.
Among which:
+ Sarcophagus has a simple form, made from two stone blocks,
sometimes having the shape of a “lid - roofshaped lid” and a coffin, named
“Kalamba” (cylindrical coffin carved out of a hollowed cubical monolith).
The most representative specimens, recorded in Besuki, Batutring, Bali,
West Sumba, Minahasa (North Sulawesi), are often decorated with carved
human shapes, lizards, buffalo-heads, or geometrical motifs (circles,
rectangles) (Radimuljono, 1976; Soejono B. P., 1977; Purusa M., 1981).
+ Stonecists are often assembled from rough and thick slabs constituting
a parallelepiped. The wall-slabs are often decorated with human or
buffalo shapes, or painted with red, black, yellow and white colours.
Stonecists are concentrated on Pasemah highlands (Southern Sumatra -
9 sites; Sawahs near Tandjoengan, Tjawang, Tegoerwangi), often made
of pyroxene - andesite, and have a parallelepipedic shape (2,35 x 1,3m
- 2 x 1,2m, 1,2-1,3m high) longitudinally aligned in the East - West, by
North 17,5-23m, direction. Excavations directed by Van der Hoop (1932)
in Tegoewangi uncovered strings of beads, made of red stone or coloured
glass, bronze artifacts decorated with spiraled motifs, and gold nails (fig.
428-441). Stonecists made from thinner slabs and undecorated have been
also found in Besoeki, Kuningan, Wonosari, Bojonegoro (Guanadi, 1980,
Hoop Van Der, 1932) and also in Malaysia and South Vietnam.
+ Stone chamber are built underground, often comprising coarse
large boulders used intact or summarily hewed and chipped assembled
into chamber, sometimes containing remains (of deceased relatives) along
with the main buried dead. Sometimes the chamber is carved into a stone
cliff, which type only exists in Southern Sumatra (fig.79) (De Bie, 1932),
Northern Sumatra, Besuki, Toraja (Soejono R. P., 1982; Sukendar H.,
1999).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 383
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.4 Page 384

▲back to top
+ Dolmen graves - Stone tables are often made of andesite, basalt,
silicified limestone with a prominent structure above ground level, shaped
like a gigantic table, with a big sized monolith supported by some (4-6 or
more) small stones. A number of dolmens are called “recument stones”,
but in reality they are support stones which have sunk deeply in the ground.
The stone lids are often flat, but some also rise in their middle like tortoise
carapace. The dolmen graves often contain bronze bracelets, or rings,
bell stones or glass artifacts, gold rings, pottery and are often associated
with other megalithic types, such as: the menhirs, arranged in the East -
West direction in Pasemah, or “dissolith” in Nias, or in “male-female”
pair in Flores, and stone statues. Dolmens are recorded in South Sumatra
(20 sites - Paelaupanggoeng, Tegoerwangi, Tangdjoengmenanggara,
Batoettjawang, Tandjoengara, Batoeberak, Sumberjaya - Lampung);
Java (Pasir-Padang, Besoeki, Nias, Central Celebes, Sumba, ect. (Hoop
Van der, 1932; Perry W. J., 1918; Giffen A. E., 1927, Steinmetz H. E.,
1898; Kruyt A. C., 1932; Heekeren Van, 1931, 1958; Gurdon P. R., 1907;
Rapita, 1976; Sukender H., 1981, 1999) (fig.80).
+ Stone jars - vats are often cylindrical, void in the inside or
separated into two parts, having a lid like a big stone dish. The vestiges
in Badu, Napu, Besoa (Central Sulawesi) are often sculpted and carved
into decorative masks, or human shapes with the two arms raised up,
lizard and monkey shapes (Raven H.C., 1926; Kruyt A.C., 1932; Hoope
Van der., 1932; Kendern W., 1938). They resemble a great deal the stone
jars and lids in Upper Laos, but the distance existing between Sulawesi
and Xieng Khouang is over 3000 km, the scholars used to considered
these two regions as having independent cultural development with each
other. According to P. Bellwood (1978), the decorated stone jars and
lids in Napu, Bada, Besoa were made by the inhabitants of Minakasa
island (North Sulawesi) and the region near Toba island (North Sumatra)
in about the same period, thanks to the existing ethnological evidence.
He also suggests the possible relationship between the stone jars - vats
384 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.5 Page 385

▲back to top
and the pottery jar burials widely distributed in islands in North Eastern
Indonesia, the Philippines archipelago and in cavs in Southern Mindanao.
+ Stone enclosures and stepped terrace - pyramid graves are often
made of Kalistone, and resemble structures made of an arrangement of
big and small stones, often associated with other megalithic types as
menhirs and tetraliths in Southern Sumatra (Leba Sidoeg, Palangkenidal,
Minkik-Pasemah), Java, Kosala, Eastern Nusa, Kewar, Lewalutas, East
Timor (fig. 475), Nias, Southern Banten. These types of vestiges are not
recognized by Heine Gelden and a number of scholars in the “Megalithic
lists”, but to other people, they are seen as “important signs” of complexes
of Megalithic culture sites, among them, these in Kewar are Ruler’s tombs,
those in Lewalutas are tombs of Tribal Jaillo Chiefs, in Nias “aerosali”,
ect. (Sunkendar H., 1999).
Among the above-mentioned megalithic monuments containing
evidence of burials, besides a number of burials articles, human remains
are recorded as having the position of the coarpes, buried in single or
multiple burials: stretched, flexed or crouched (Soejono B. P., 1982).
However, the absence of human remains, and sometimes even of the
burial articles in a number of megalithic tombs suggests that there were
also the customes of incineration, re-interment or symbolic burial similar
to the case of other megalithic memorials (Triclit Van, 1929; Subata,
1976; Bintarti, 1981; Sunkendat H., 1985, 1999).
- Various other megalithic vestiges and monuments related to the Pre
and Proto-history’s spiritual world:
This group includes nearly all the megalithic sites in Indonesian
islands, from simple monoliths related to festive ceremonies or worshipping
rituals, artistic creation and other prehistoric spiritual activities, to more
complex architectures, linking together a higher number of megalithic
objects, not easy to explain because of their multuple functions.
+ Stone cairns are the simplest megalithic constructions form
because they only comprise boulders or pebbles heaped up into mounts
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 385
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.6 Page 386

▲back to top
in order to use as a place for worshipping natural powers or ancestors.
This type of sites is very representative of Bali, with numbers of stone
cairns resembling tumuli or kurgants, or the cairns for skulls in Melanesia
(Sukendar H., 1985).
+ Stone circles - cromlechs are usually the main element at the center
of megalithic constructions, the inside of it is used as the worship place
like in Kenar (Soejono R. P., 1982), but in some place, such as Ruteng
(west Flores), Jerjan (Central Java) they are burial places (Sukendar
H., 1981). Stone circle - cromlech structures are wide spread in Asia, in
particular in Japan and North Western Asia.
+ Stone avenues were built by stone alignments, and concentrated in
Pasemah highlands. Talangpadang Avenues have 4 alignment orientated
in the East - West direction, with 42 (1-1,25 m high) flat boulders (fig.
481). In Nias and Kewar (Timor), avenues are associated with other
megalithic types.
+ Stone bathing, assembly or meeting places are usually flat stone
floors, often accompained with long benches in Sumatra, Nias, Kewar
(Timor). A number of works have a similar flat floor but bigger, called
“parks” in Melanesia, and were used for dancing festivities or ceremonies.
+ Mehirs, upright stones are the simplest form of megaliths and
are widely distributed. They are often natural boulders either without
processing or carved into a oblong shape. They are erected separately
or assembled into groups near the complete megalithic construction. For
examples, in Pasemah (Southern Sumatra - 8 groups, of a medium height
of 0,5-5m), exceptionally some pillars are higher than 5 m like the “huge
Menhir” at Toraja (fig. 482). A number of pillars assembled on a nearly
square or rectangular plan are called “tetraliths” in Pasemah, Eastern
and Western Java, Nias, Central Celebes..., used in ancestor worship
(fig.80) (Hoop Van der, 1932; Sukendar H., 1999).
+ Stone chairs - seats - benches are almost similar to dolmens
because they have also a flat slab, but smaller. Seats in Nias are often
386 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.7 Page 387

▲back to top
carved whereas those in Bali are simpler since they are only summarily
processed on the back side of the stone slab.
+ Stone mortars (Lesoengbantoe) are usually natural or summarily
processed boulders, they bear 1-7 round holes (there is only one case of
square hole); In Salak Datar, the holes are 21-24cm wide, 12-14cm deep.
In Tandjoengsirih, the mortars are believed to be stone rice mortars. The
pit-marked stones in Matesih, Wonosari (Java) are called by natives “batu
dakon”. There are 20 specimens or mortars in Southern Suwata and still
less in Central Celebes (Hoop Van der, 1932; Bintarti D.D., 1977).
+ Stone troughs are dug out boulders, bearing a rectangular or round
hollow with a size of 55 x 22cm to 104 x 18cm, and 11 x 13cm deep.
Exceptionally, there are boulder bearing 2 rectangular hollows; they are
rarely decorated with human shapes. There are 12 specimens in Pasemah;
a number of kinds of vestiges may be compared to trough such as skull
tombs in Nias, small sized sarcophagi in East Java, stone urn in Central
Celebes, coffins in Batak Lands. Besides, there are other spherical holes,
stones resembling stairs, altar, ect., still concealing many secrets in South
Sumatra, and Borneo.
+ Stone sculptures - statues - imahes - figures are particularly
interesting kinds of artifacts among Indonesia’s megalithic complexes. In
Pasemah highlands alone, Van der Hoop has found a total number of up to
53 specimens since 1932 (fig.81), not to say yet anything about other regions
such as Eastern and Western Java, Nias, Central Celebes, Bataklanks,
ect. Generally speaking, stone sculptures represent many types of men
and animals styles characterized by R. Heine Geldern as “Static primitive
style” as “indigenous elements” and “agitated - more evolved style” as
a result of outside influences, such Dongsonian and ultimately Chinese
(1953). The “static type” style is represented in group of Menhir statues
and Polynesian statues, concentrated in Sumatra, Java, Bali, Sulawese,
Timor (Kruyt A.C., 1904; Kinsbergen J., 1914; Krom N.C., 1914-1931;
Hoope Van der, 1932; Heekeren H.R., 1931; Kaundern, 1938; Kapita,
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 387
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.8 Page 388

▲back to top
1976; Sukendar, H., 1980, 1985, 1999). The Polynesian statues represent
human figures in a sitting or squatting position, roughly carved, except a
number of specimens with more finely carved details such as the eyelash,
finger-nails, jewelry, ... Several statues represent men riding elephants
or Indian buffaloes, sometimes bearing their airm 1-2 children, wearing
clothes or loin-cloth, belt, usually alos jewelry such as necklace, force-
arm gains and leg-gains, sword, with usually a wide face, nearly square
jaw, protruding eyes, short nose, wide mouth, wide ears... R. Von Heine
Geldern also sees them as “more evolved style” and the megalithic tombs
in Pasemah bear Early Han influences almost as if they were the results of
a colonizing movement from mainland South East Asia to this archipelago
at about the middle of the 2-nd - 1-st century BC. The so-called statues
with an “agitated movement style” in Pasemah have been compared by
Van der Hoop to Java and Egypt’s Plastic Arts; however other sculptures
(Batoegadjan, Airpurah) are considered as clear indications on the age
and the attachment of Pasemah’s megaliths to South East Asian Bronze
Age and Dongson culture of the Ist millenium BC (Hoop Van der, 1932;
Vonk H.W., 1934; Heekeren H.R., 1958’ Soejono R.P., 1982). According P.
Bellwood (1978), human and animal shapes on Pasemah’s sculptures with
arm and leg rings, cap with back pompon, waist belt, ... are the familiar
ornaments and customs on stone sculptures in Tran Ninh (Upper Laos).
In particular, the Batoegadjah bas-relief representing a lying elephant
with two soldiers at its sides, with one of the soldiers having bare breast,
bearing loin-cloth, dagger, sword, and even a Heger I type bronze drum
attached with a rope on his shoulders. This Heger I type drum is also
carved on the Airpurah stones (fig.82) along with 2 men and one dog,
manifesting the relationship between this megalithic culture and Dongson
culture at the end of the Ist Millenium BC. Van der Hoop is right when
he believes that: a number of Pasemah figures have relationship with the
tombs, dolmens, menhirs, “When one stands before one of these great
images of the Pasemah, sculptured with so much care and devotion and
attempts to imagine how much Labour and how much time it must have
388 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.9 Page 389

▲back to top
cost to erect and complete such a colossus, the impression received is
“that these images were used for purposes of worship”. It is not nesessary
to adopt the extreme standpoint, a standpoint which, after Reinach, seems
to have becom more or less fashionable, viz., that with the primitives all
art must be associated with religion or magic, to think, in a case like this,
of something more than “an expression of art, or the desire to creater”.
And it is vert probable that “the image of the South Sumatra type must be
conceived as ancestral images”.
The basic types ot vestiges built in Indonesia’s megalithic centers have
relationship with the spiritual world filled with secrecy of the Austronesian
past. Notwithstanding the differences in density, quantity, number of
kinds and types, sizes and megalithic symbols related to each type and
each center, this an unique cultural - artistic - religious complex though
unified of the Austronesian world, with the characteristic features on a
greater extent - Asia’s celebrated belt of equatorial and sub-equatorial
megalithic works. The spiritual world of the South Pacific’s islands with
their specific megalithic symbols still has relationship with the custom
of sun worship which has been developed by L. Flobenius (1923) and
J. Kohlbrugge (1930). According to many scholars, the main megalithic
ideas behind the megalithic constructions complexes in general were
worship of ancestors - traditional habits and customs having permeated
the entire social and religious concepts. According to Van der Hoop, it
seems that the Sun worship was linked more with the bronze culture than
with the megalithic culture, but megaliths might have nevertheless served
the rising Sun direction, construed as the commencement of the seed time.
For many others, burial vaults having their gates orientated toward the
East in Sumatra archipelago, Seram and the custom of burying the dead
by orientating the head of the deceased toward their home in the East and
their feet toward the “land of Spirits” (Rivers WHR., 1913; Alkema B.,
Bezemer J., 1927; Martin K., 1984). Basically, megalithic complexes in
Indonesia are often considered as the “Holy Lands”, “miraculous places”
and their construction was the task of Serunting Sakti (Pahit Lidah) very
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 389
HANG GON MEGALITHIC TOMB

39.10 Page 390

▲back to top
common in the orla tradition in Sunberjaya and Lampung (Sumatra).
Heine Geldern (1945) conceived megalithic culture as a “link” between
the living and the dead, and megaliths are tightly attached to the concepts
of “Life after death”. J. L. Peacock (1962) tried to explain the Pasemah
megaliths as signs of the upper class in a society where there was class
division.
According to P. Bellwood (1978), many Indonesian megaliths were
attached to the funerary ceremony of religious leaders and in Oceania
their functions were wider and related in many respects to the spiritual
world, with as evidence the burial articles, altars and ceremonial statues.
According to H. Sukendar (1999), the system of functions that may be
recorded in many types of megaliths in Indonesian is esthetical purposes;
symbols of social status - the wealth and popularity, characteristics of the
King or community leaders; magical and religious purpose. He believes
that: most of the prehistoric megaliths were reserved to the ancestor
spirit worship; a megalithic community usually believe that the ancestor
spirits live in the mountains - the “ancestor world”, so most megalithic
structures were oriented toward moutains (Balinese sarcophagi toward
Mount Agung; stonecists in Muningan, Cirebon - mount Dempoi;
megaliths in Pasemah and West Sumatra - mount Sago; the terraced
structures in Indonesia were built for Mountain worship (like at Zigurat
in Mesopotamia or the Pyramids in Egypts); Dolmens and graves in West
- East Sumba are orientated towards “Sacred mountains” as Pornombor
Hill, ect., along with the customs of worshipping megalithic relics for the
reason statues represent “celestial body”, the sun, Moon, Stars, and God
(the Holy One) in Sumatra, Sumba, ect.
Who were the builders of these “miraculous places” complexes in
Indonesia and the Austronesian world; what were their material and
spiritual life, labour and artistic creation and their surnatural beliefs in
prehistoric and proto-historic times? What were the real relationships
megaliths had with the Past and their distribution extent? These questions
have been asked since nearly a century, and their answers also dated
390 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40 Pages 391-400

▲back to top

40.1 Page 391

▲back to top
from nearly a century, and have constantly changed along with new
discoveries and excavation, accumulating thus knowledge on megaliths in
the area and the continent until today. Since 1932, Van der Hoop objected
aganist the point of view considering that Pasemah images and statues
bear anthropological characteristics of the Caucasian or Negroid races,
instead he believes that there is possibility of the existence of relationships
with the Malays - one branch of the Mongoloids. They might have been
linked to one of these stream of immigrants from East Asia, regularly seen
in the Archipelago - human stream that N.J. Krom (1923) termed as “Oer-
Malaliers” (Initial Malays or Prae-Proto-Malays). According to A.C.
Kruyt (1932), carved figures and megaliths of the Celebes suggest the
possibility of the existence of 4 layers of population: one raced linked to
Melanesia; one race whose vestiges are still conserved in today’s Toradja
with the dark skin complexion, round face and flat nose; one race living
far up in the mountains, manufacturing stone graves, statues, mortars
(may be used to grind Colza agratis grains), who constitute the group
of inhabitants coming form the North, from Japan, possibly through the
intermediary of Formosa, Poelan Botol, Munahassa, Lore (Napoe Besia,
Bada) and down to East Java; one race manufactured ceramics with the
customs of incineration and conservation of the remains in ceramic jars,
and are the group of immigrant bearing the influences from the Indian
Ocean, probably bringing with them inundated rice cultivation at a later
date.
Based on the sketches of human faces on stone sculptures, the
author believes that the natives of Central Celebes had “round eyes”.
The inhabitants coming to the Celebes from North Asia through Japan
were Mongoloid stone workers with “Oblong or almond shaped eyes”.
These are the two main shapes of eyes recorded in Java-Bali’s arts; in
Bali, Kekasaran (round eyes) and Kemanisang (oblong eyes) (fig.82).
According to Soejono (1981), the round eyes in Pasemah, Toraja represent
the Melanesoid, while the oblong eyes indicate the Mongoloid type. From
the Late Neolithic Age to the Early Iron Age, South East Asia’s island
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 391
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.2 Page 392

▲back to top
world had experienced many changes. The search for the real native land
of Austronesians - the owners of the multi-varied and colossal megalithic
constructions in the middle of the belt of Asian megaliths and their
numerous displacement on the Pacific have been drafted by R. H. Geldern
(1937, 1945) and continue to be discussed. For exmaple, P. Bennedict
(1942, 1976) with the hypothesis on the mass of the “Austro-Thai” and
“Austro-Asiatic” inhabitants; W. Marshall (1968, 1974) assumes that the
Austronesian had arrived, after 1.500 BC, from mainland South East Asia,
bringing with them metallurgy, inundated rice agriculture, the megalithic
tradition; W.G. Solheim II (1975, 1976) ponders about the formation of
the mass of “Nusantao” inhabitants in Southern Philippines - Eastern
Indonesia and their migration into mainland South East Asia bringing
with them Sa Huyứnh ceramic tradition and southward to Oceania
bringing with them Lapita ceramics. According to P. Bellwood (1978),
the dissolution of societies speaking the pre-Austronesian languages had
taken place about 5.000-7.000 years ago in the center of the Austronesian
world (Philippines, Indonesia, Taiwan), preparing thus the basis for
the development of the Austronesian on mainland South East Asia
and Oceania. The representatives of the pre-Austronesian people had
migrated to this region from South China and Japan before 5.000 BP,
bringing with them the “flake” technique and agriculture. Thanks to such
migrations, the growth of Mongoloid population, in particular in Taiwan,
Philippines and Sulawesi, was accentuated. If the Bronze - Iron metallurgy
techniques appeared thanks to the relationship with the Asian continent,
the jar tomb tradition appeared thanks to independent development in
Philippines, Indonesia and Sa Huynh (Vietnam). The traditions of (pottery
and megalithic) jar burials had gone across the South East Asia island
world (Sulawesi) to come to the Mon-Khmer territory (Hue phan - Xieng
Khuang), and West Asia (Cachar).
The megalithic world of Austronesia almost never incite new
impressions, thought, recapitulative and scientific deductions. One of the
answers that I believe to be the most accurate (or the nearest to the truth)
392 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.3 Page 393

▲back to top
has always been that of R. Heine Geldern (1945), giving his greatest and
most fundamental point of view on the traditions and styles in the creation
of megaliths, referred to as “older” and “younger” of the Austronesian
world, from the end of the Neolithic to the Early Iron age, with the coming
of age of the “Dongsonian style” in the Ist Millennium BC, and before the
arrival of the wave of Indian and Chinese civilizations’ influences in this
area, although there may be many people who would not agree with my
belief.
3. 2. The Malaysian peninsula.
In Malaysia, the metal age was linked to megalithic monuments used
as cits graves which have been found since the 19-th century in South
Perak, North Selangor, a number of regions belonging to the States of
Negri Sembilan and Malacca. In 1895, J. Surveyor discovered at Changkat
Mentery one rectangular granite stonecist, with the bottom and walls
assembled from thick flat slabs, and a size of 8,2 x 2ft, 5ft deep, containing
pottery and carnelian beads (Evans IHN., 1928; Twedie MWF., 1957). In
1928, 3 other granite stonecists were uncovered near Sungkai Klak (fig.
583-586) (Evans IHN., 1928, 1929).
At the end of 1935, H. D. Noone reported the presence of granite
coffins near Slim village (South Sungkai); in February 1936, Rafflers
Museum excavated 3 granite slab-cists. Afterward, the rubber workers
still uncovered 7 more similar granite slab-cists but destroyed them. All the
Perak slab-cists have been described almost alike the Pasemah (Sumatra)
stone cist but they are longer and narrower. They are often built with 3
main slabs, among them 2 wall slabs erected a little slantingly toward the
inside, usually along many different directions (North-South, East-West)
(fig.83). The slab-cists contain great quantity of carnelian or glass beads,
pottery, clay fragments, bronze remains and Iron instruments named
“Tulang mawas”, “warlike or ceremonial or currency” (Collings H.,
1937); or “miners tools for shaping timber” or used for the manufacture of
boats” (Evans, 19311’ Baker, 1937; Loewenstein J., 1953; Choo A., 1987;
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 393
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.4 Page 394

▲back to top
Winstedt R. O., 1941). These iron tools are considered as evidences for
classifying the granite slab-cist groups of South Perak into the Iron period
of the Malaysian Prehistory (Jeshurun C., 1982) or the Ist millennium AD
because these Iron tools may contain many improvement with regard to
the Dongsonian style (Bellwood P., 1978).
In North East Selangor, in August 1934, large granite slabs were
uncovered, which may have been slab-cist similar to those of Perak, in
Kerling, together with a colection of 7 iron axes, 2 iron spears (fig.83)
(Collings H.D., 1937; Choo A., 1987). In Negri Sembilan, the most famous
megalithic sites is the alignment in Pengkalan Kempas, erected in three
main rows, along with a number of other megalithic relics such as: one
pile carved with the name of “Allah”, one round stone dish decorated
with animal or tree-shaped motif, and recumbent stones, ect. In the village
of Terachi (Kuala Pilah), in 1962, M. Sheppard the stone alignments witn
the pillars erected in pairs (usually each pair has one high pillar slightly
leaning toward the inside a height 5-6ft and one small pillar with a height
of 3-4ft.
In Malacca, similar stone alignments have been recorded from the
limits of Negri Sembilan onward and are most densely concentrated in
the district of Alor Gajah (fig. 597-598). Smaller stone slabs also exist in
many regions in Central Malacca, in particular the “kramats” (shrines)
in Machap (Sheppard M., 1936; Chandra J., 1978).
In Penang, an erected stone slab near the township of Bukit Mertajam
measures up to 5 ft 10 inches in height, and 3-4ft in width, similar to
the erected stones of the region of Sabah, along with a huge boulder
measuring 30 x 15ft bearing undeciphered inscriptions, having probably
relationship with the alignments erected in Nakon Sri Thammerat, which
have been considered as “remains of megalithic tradition in Thailand”
(Kauffamn H.E., 1971; Chandran J., 1982; Loofs H.H.E., 1989).
In Sarawak, the most evident vestiges of megaliths comprise 150 stone
alignments from the source of Baram river to its tributaries in the Murud
394 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.5 Page 395

▲back to top
region, along with the Dolmens (Batu Ritong) in Kelabit highlands, large
blocks - carved with human figures, the Menhirs erected in pairs (the
highest slabs measures 4 ft, the smallest ones about 3 ft) in Bario village
and the stone urns (fig.84) (Harrison T., 1958, 1961; Chandran J., 1982).
In Sabah, megalithic monuments stretch along a belt close to Kota
Kinabalu, in particular along side the Papar - Tuaran road, with the
Menhirs pillars in coarse grayish white sandstone, 4-6ft high, each pillar
weighing up to 1 ton (fig.84). The Menhirs are aligned in rows and stand up
right above rice fields, looking like “silent sentinels of the past” (Chandran
J., 1982). Basically, the vestiges designated as “megalithic scenes”
in Malaysia contain 3 main types: slab-cists and dolmens; Menhirs;
Rock figures. Slab-cists in South Perak - North Selangor and dolmens
at Batu Ritong are considered as the various types bearing funerary
characteristics in the general category of megalithic constructions. The
Menhirs bear common characteristics in shape and use, but have also
specific features of each region: for example, the Menhirs of Sabah are
often erected on dikes or flat inundate rice field, have a nearly rounded
shape with a tapering out head and are carved with figures and writings.
The Menhirs in Negris Sembilan - Malacca, are often erected in pairs,
called “married megaliths”, in Pengkalan, Kelabit (Sarawak), among
which, the vertically planted menhirs in Kelabit are almost identical to
those of the Toraja region (Sulawesi - Celebes). Rock figures constitute
their own group in Sarawak (Chandran J., 1982, 1989).
In the state of scarcity of material documents related to Malaysia’s
megaliths, the scholars strive to analyze and compare the megalithic relics
and the burial articles with their equivalents in many other cultural areas.
According to I.H.N.Evans (1928, 1931), the granite slab-cists of Malaysia
may be related to the megalithic cists in Philippines. T. Harrison (1958)
compares them to megalithic vestiges in Central Borneo. P.Bellwood
(1978) finds that a small number of megaliths in Malacca may be close
to the structure of Xuaừn Loọc dolmen (South Vietnam). Besides, when
studying the burial articles in Malaysia’s stone-cists. H.C. Beck (1937)
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 395
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.6 Page 396

▲back to top
has relied on carnelian and glass bead strings for assigning to the slab-
cists the date in about the 1-4 Century AD; Vu Cong Quy (1994) thinks
that iron axes of Malaysia resemble those of Dongson culture, whereas
Malaysian Iron javelins resemble those found in the stone jars of Xieng
Khuang (Upper Laos) and Malaysian ceramics are close to those of Sa
Huyứnh culture, Kalanay - Tabon (Philippines) and those found in the
burial jars of Indonesia.
According to A.Choo (1987), the stone slab-cists of Malaysia are
of the Iron Age, seemingly from the last half of the Ist millennium AD,
similar to the slab-cists containing metal tools and stone sarcophagi in
Eastern Java, Bali, Pasemah - Southern Sumatra. Naturally, the Iron Age
of Malaysia had relationships with Dongson cultural tradition in North
Vietnam and more tightly with the iron industry of Sa Huyứnh culture
in Central Vietnam (dated 600 BC - end of the Ist millennium BC, may
be the beginning of the Christian Era) and aslo with the vestiges in
South Western Thailand (Ongbak Cave, Ban Dontaphet). It is likely that
megalithic sites in Malaysia were linked to the needs of age-old traditional
funerals. According to J.Chandran (1982), in Negri Sembilan, folkloric
documents record the “married megaliths” as giving the land-mark of
the ancestors’ tomb, who habitually were warriors of renowned heroes.
In Kadazan (Sabah), megalithic relics are tightly linked to the age-old
autochthonous agricultural tradition, since: the erected menhirs mark
the reclamation of land and the tradition of worshipping Menhirs and
the ancestors having erected the menhirs for ensuring to obtain bumper
harvests; the erected stones are also considered as the boundaries (or
“oath-stones”) dilimiting individual land ownership; or sometimes there
is also in megaliths a “calendrical purpose”, ect. The propagation of
many forms of folk-beliefs in super-natural powers is contained in the
living megalithic tradition which has been lasting until today, although to
date nobody yet dare to say that he himself has a complete understanding
of the meanings of Prehistoric megaliths and Malaysian megaliths.
396 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.7 Page 397

▲back to top
3. 3. The Western Thailand.
In the Western Thailand, except caves with figures, Megalithic remains
newly were discovered at Pre- and Proto-historic sites in Nai Sian và Ban
Wang Pra Chop, Tak Province (Western Thailand) (Krajaejun, P.2009).
In the Naisian, near the habitation site Kang Hin, excavated only 2 slab
coffins from 30 slab stones (Length ≈ 250cm).
Ban Wang Pra Chop is small si te dimension about 10 x 10m. Here,
excavated in 2006 found 4 layers (layer 1 - recent and disturbed; layers
3-4 - natural layers and layer 2 - Wang Pra Chop layer, found 5 slab stones
(slab coffins), earthen ware potteries.Slab coffin size (cm) average: Width
≈ 72,25cm, Length ≈ 217,5cm, High ≈ 49,75cm (Adult can lay down inside
the slab stone).Artifacts were found in Ban Wang Pra Chop including:
Earthen shereds were found 6.336 pieces, 15.001,5gr, 45 potteries (plate,
pot, cup, piece forming technique); 4 polished axes; stone bracelets (12
types: A1-6, B3-6, C1-2, E1-2); stone disk was found under slab stone.
2 charcoal samples for Carbone - 14 dating with result: 2.350 ± 260 BP
(OAP 2.446)/ 1.100-300 BC (2 sigma) (The sample found in Wang Pra
Chop layer near potteries, bracelets and 1 polished axe). 2.520 ± 260 BP
(OAP 2.447)/ 1.300 - 0 BC (2 sigma) (The sample is charcoal found in
post holes, around post hole found potteries and bracelets) (fig.85).
In structure form and in entomb pattern, both 2 Thailand Slab Coffin
Sites were similar some Excavated Slab Coffins from Malaysia, Java and
Taiwan. The Present day ceremony in the Ban Wang Pra Chop Site after
slab Stone were unearthed (Krajaejun, P. 2009).
3. 4. The Upper Laos highlands.
Megalithic sites are very common in the Austronesian and Malayo-
Polynesian societies in Indonesia and Oceania (Bellwood P., 1978)m
but in mainland South East Asia, megaliths with their right meaning of
vestiges of huge stone slabs structures (Loofs, H.H.E, 1967) are often
absent, except in Upper Laos and Vietnam, Laos’ megalithic sites are
attached to the renown of Madeleứne Colani, Doctress having published
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 397
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.8 Page 398

▲back to top
two big monographs on megaliths in Upper Laos Highlands more than 70
years old.
On Hua Plan highlands (Sam Nua), M. Colani uncovered many groups
of vestiges of menhir type and burial vaults covered by a large stone dish,
in particular in San Kong Phan, Keo Hintan, Vieng Nokkhouai... In San
Kong Phan, on the crest of the pass leading from Koute to Phakha, there
are 11 groups, including 115 stone pillars. In Keo Hin Tan, 121 pillars
are usually 2 - 3m high, a number are higher than 3m; they are often
aligned in straight lines, curves or circles, with the highest pillars in the
middle, the lower at the two side. At the foot of pillars, are distributed the
burial vaults, covered with round or ellitic stone dishes (average width of
1,5-2m). In San Kong Phan there are the greatest number of stone dishes
- 70 spicemens, the majority of them are still lying in-situ. M. Colani
made investigation excavation of 18 parallepipedic burial vaults under
the stone dishes, their average size was 1 x 0,5m and 1m deep. All the
vaults are made from assembled stones, a number of them have a side
entrance equipped with stone steps. The bottom of the vault is often lined
with two thin parallel stone slabs, maybe their function is to support the
wooden plank used to lay the corpse of the dead (?). Remains of ashes
and charcoal along with human bones and teeth only existed in three
of the tombs. Collections of relics in the tombs, around the tombs and
stone pillars include hand-made pottery (pots, vases, jars,...), a number
of 0 30-40cm stone bracelets decorated with star-shaped motifs; bronze
containers with lids, vases and a number of rings. M. Colani associated
the structure of Hua Phan megalithic vestiges with Thai tombs structure
in Thanh Hoa, Vietnam (1935). The absence of iron tools in Hue Phan
megalithic sites may lead a number of scholars to think about an early
date - Ist Millennium BC, for theses structures; according to P. Bellwood
(1978), the tombs are not big but have a dated from Ist Millennium BC,
although it is not known whether they had any relationship with the Laos’
stone tombs.
398 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.9 Page 399

▲back to top
In Muong Phuon highlands (Xieng Khoang), M. Colani recorded that
there were 5 “stone fields” and described especially 13 sites among these
megalithic complexes. The stone jars are the most densely concentrated
in Zone I (including the Ban Ang - Ban Lasen - Ban Xoa groups, with 475
stones jars). The groups belonging to Ban Ang, include: the North West
group with 200 specimens arranged in the form of an arc of about 300m
long; the South West group (20 specimens) and the North East group
(50 specimens). The jar groups in Ban Lasen and Ban Xoa are distant
from Ban Ang of about 10-14km to the South - South West and numbered
to 90-115 stone jars. Besides, 4 other zones (II - IV) contains 175 stone
jars, distributed in Ban Sieng Kieu (44 specimens), Ban Na Nang (34
specimens), Ban Xot (28 specimens), Ban San Hinoune (21 specimens),
Ban Vi (8 specimens), ect.
All the 650 jars, that had been counted by M. Colani in Xieng Khoang,
are made of local soft sandstone, and have a round cylindrical shape, with
very thick bottom and shoulders, slimming off toward the opening, with
many types and sizes: high slim jars; low and stout jars; jar with flat or
convex bottom; coarsely or carefully manufactured jars,... There may be no
doubt about the local origin of these stones jars because each jar weighs
up to several tons. The biggest specimen on Ban Ang plain is 3,25m high,
3m in diameter and weighs 14 tons, with the interior able to accommodate
up to 6 persons. In each of the groups, the big jars are usually placed
in the middle, the smaller jars are place at the two ends or around. It is
possible that in the past a number of jars might be closed with a wooden
lid. Under a number of jars, there still are round stone dishes with average
diameter of 1,5-2m. According to P. Bellwood (1978), these stone dishes
were not used as lids to cover the stone jars as in M. Colani’s opinion,
since they often have a convex surface like a tortoise shell or a mushroom,
the external surface of the dishes are often decorated with human or tiger,
panther, and monket figures (One of the dishes in Keotan lied above 2 stone
adzes). The stone dishes might have a ceremonial meaning that we do not
yet understand. Recently, in the International Conference on Vietnamese
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 399
HANG GON MEGALITHIC TOMB

40.10 Page 400

▲back to top
Studies in Hanoi (July, 1998), one Laotian Archaeologist introduced a
Xieng Khoang stone dishes wearing a Sun drawing imitating the face of
a Heger I bronze drum. This discovery seems to support the hypothesis of
M.Colani on the function of Xieng Khoang stone dish similar to a copy
of a Dongson Bronze used by the ancient to invoke spirits, or as tray for
contaning offering to the souls of the dead. Besides the stone jars, M. Colani
also introduced a number of stone containers in North East Ban Ang, or
the flat stone slabs designated by her as dolmens, which were often used
to cover other kinds of containers, somtimes the containers in Thao Kham
also sorted poniards the handle of which is a woman’s statue - an artifact
characteristic of the Dongson culture. Sometimes when one flat stone slab
covers two rows of 6 containers placed side by side. A site containing
extremely important vestiges for Xieng Khoang megalithic complex is the
cave in Ban Ang plain - where M.Colani has uncovered a great quantity
of ashes and charcoal, burned human bones, along with small earthen
vases containing incinerated remains. The burned out remains also exist
inside a number of stone jars, however it was impossible to determine the
exact of corpses still remaining in each jar. With the vestiges of ashes and
charcoal, burned out human bones in Hua Phan, Xieng Khoang, Ban Ang
cave resembles a prehistoric crematorium and proves the local ancient
incineration custom (fig.86-87).
The artifacts found inside and outside the stone jars or in Ban Ang
caves are relatively rich in quantity and kinds: stone axes and adzes,
grinding sandstone, beads in precious stones and glass, bronze artifacts,
including bracelets, ear-rings, round bells, the statue of a man measuring
9 cm in height... Iron implements, including axes, hoes, knives, scythes,
poniards, spears, javelins, arrow-heads, bracelets,...; together with earthen
containers such as pots, jugs, vases, spindles, sea shells, ... Xieng Khoang
collection of artifacts (and also that of Hua Phan) used to be considered
as burials articles since prehistoric times, that many scholars consider as
close to the Metal Age artifacts of Somrong Sen (Cambodia) and Dong
Son, Sa Huynh, Dong Nai (Vietnam), dated probably from the second half
400 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41 Pages 401-410

▲back to top

41.1 Page 401

▲back to top
of the Ist millennium BC (Colani M., 1935; Bellwood P., 1978; Dang Bich
Ha et al.,1997) (fig.88). Upper Laos’s vestiges are unique prehistoric and
proto-historic cultural phenomena in mainland South East Asia. According
to P. Bellwood (1978), the various types of stone jars similar to those of
Xieng Khoang may be found in South Pacific’s islands (Sulawesi) and
in Western Asia (North Eastern India). For example, J. Mills and J. H.
Hutton have discovered one group of similar vestiges of coarse stone jars
in the Cachar range of mountains, among which a number of jars are very
similar to those of Xieng Khuang; besides, there still is the kind of “stones
for sitting” similar enough to the dolmens of Southern Sumatra and a
number of Ban Ang stone dishes. What is interesting is that in Cachar
stone jars there are also many stone adzes (type 8 by R. Duff) resembling
the stone tools in Xieng Khoang. In spite of the fact the distance Cachar
- Xieng Khoang attains ip to 1.200km, Peter Bellwood still believes that
there is a parenthood relationship between them.
M. Colani once believed that the owners of the megalithic works
in Upper Laos highlands might have been the aborigines although
many burial articles were imported goods. According to to a number of
Vietnamese researchers (Dang Bich Ha et al.,1997), aborigine tradition
records the stone jars as the jars containing liquor of the giants who
celebrated victory. Ethnological and folk-loric documents in Laos seem
to support the hypothesis that the owners of the megalithic works were
peoples appertaining to the Mon-Khmer linguistic family. For example the
Phong, ancient inhabitants of Saàm Nửa, had a legend about the leaders
of the Phong people, the brothers, Hat Ang and Hat Uoc, whose name are
attached to the localities having the menhirs and stone jars. The people
Lao Thay inhabiting in Ban Phen (Muong Phuon), Kok Pho (Sam Nua),
Naxen Tao (Muon Ven) still recognize today that the Pong people were
the owners of this land since primitive times. The dense concentration
of the “stone jars fields”, the vertically erected stone alignments, the
megalithic tombs attest the dense settlements, the long term creative and
organized collective labour of communities of Upper Laos’ inhabitants
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 401
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.2 Page 402

▲back to top
since the Early Iron Age, with favorable ecological conditions for a slash-
and-burn agricultural economy with fluvial communication with the
neighbouring civilization centers of these times. It was only on the basis of
the developed slash-and-burn agricultural economy, with the contribution
of land reclamation and harvesting iron implements, along with harvest
surpluses ensuring sufficient stocks of foods and riches, that might ancient
men communities be able to mobilize great non-agricultural productive
forces for manufacturing the jars and megaliths weighing several tons,
transporting and assembling them in prehistoric, for the purpose of
serving the customs of incineration of the dead during many jar as kind of
common mortuary house containing the ashes of many people of the same
descent, and each megalithic jar group as a common cemetery belonging
to a primitive prehistoric commune. Societies of Upper Laos’ ancient men
of this period seemed to have attained a degree of division between the
rich and valuable or otherwise commonplace burial articles, but also
through the scale of each type and group of vestiges themselves; similar to
the old division based on the social status of each individual, the leader’s
power structure, the size of the community, the division of wealth and the
appearance of class division, ect. - factors that might have been premises
to the birth of Muon Phuon on Xieng Khoang highlands and the ancient
Muongs in the first centuries of the Christian Era on the integrity of Laos’
territory (Dang Bich Ha et al., 1997).
3. 5. Some remarks on Asian Megalithic culture and the vestiges
relating to the Megalithic tradition in vietnamese territory.
Nearly half a century ago, the famous archaeologist V. Gordon Childe
declared: The term “megaliths” is applied only to monuments the use of
which is known imperfectly or not at all, but we presume were erected
for some superstitious, ritual or religious end” (1947-1948). It would be
difficult to include into the same vague term the thousands of vestiges
buitl from huge stone slabs of multiple shapes and sizes which have just
been described from many geographical and ecological regions of the
continent. Nevertheless, the types of vestiges not causing much discussion
402 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.3 Page 403

▲back to top
on their megalithic nature, are the ones which may be easily attributed
a funerary or ceremonial function, if we try to isolate them, we may
distinguish some of their most basic types: the big stone jars; the dolmens
and stone slab-cist or chamber-tombs; the menhirs.
Except the stone jars of the “specific” fields of Upper Laos, the
various types of dolmens - stone slabcists or chamber-tombs as well as
menhirs are distributed almost interminglingly in the whole extent of Asia.
In the Asian context, cultures containing architectures of the types of the
dolmens, slab-cist or chamber-tombs, and menhirs are assigned dates in
the Bronze-Age, according to B. M. Kim (1982), these solid traditions
built “a gigantic belt” encirling mainland China, from North (South
Eastern Siberia, Northern Mongolia, North Eastern Manchuria, Cholla,
Namsan-ri, Yongpyun-kun, Pyungan of Korea, Hokkaido, North Eastern
Chubu of Japan, Shantung, Chekiang of Chian), to South (Taiwan, Java
and Sumatra - Indonesia, Malaysia, India, Tibet and Szechwan, ect.). It
is possible to include also into this huge belt the megalithic tombs dated
from the Ist Millennium BC which have been excavated along the Heilung
Chiang, Chilin, the Maritime Province (Russia), or Chifeng (Mongolia)
and the Dolmens - Slab-cists - Menhirs in the territory of Vietnam, or
the dolmens of Caucasian characteristics in South Western Asia in the
common frameworkof the megalithic cultures of the Austronesian and
Asia-Pacific’s world (fig.89). Basically, the distribution of megalithic
monuments in Asia is often linked to cultures located near the sea or in
the middle of the sea, though there are some splendid exceptional cases
deeply located on the mainland, in the red soil highlands at an altitude of
1.000-2.000m. The common tropical and sub-tropical ecological reality
surrounding the most renowned megalithic vestige complexes in Asia
suggests the edification of theories linking local cultures with megalithic
monuments - the prehistoric and proto-historic cultures of human societies
having the same living conditions on the tropical and sub-tropical vegetal
cover of the earth. And the most important cereal grain for the inhabitants
of this contient is rice, this is why the intergrity of the cultural and social
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 403
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.4 Page 404

▲back to top
background of the peoples having propagated the customs of stone
worship and building the biggest megalithic monuments of the continent
may be considered as that of rice cultivating peoples (Kim B. M. 1982).
As one stone slab weighing several tons may be excavated, processed and
transported on a long distance by human forces, one can easily figure
out the task of building one megalithic construction complex with many
slabs assembled together, many pillars or slabs the weigh of which would
demand great amount of time, intelligence and collective labour force
from the ancient. This is why, B. M. Kim put forth a hypothesis on the
functional relationship which is expressed as follows:
PHYSICAL LIFE
Rice cultivating
Settled community ---->
SPIRITUAL LIFE
Communal rites
(Construction of dolmens)
There have been many standpoints aimed at shedding light on the
intention of the society of the builders and users of megalithic monuments;
for example, the zone selected for burying the Chief in a slab-cist or
dolmen must be related to the “Holy Land” or “Sacred places” reserved
to the ancestors and for this reason inviolable, or a communal ceremonial
place; the points of view on the custom of worshipping megaliths, the
sun and supernatural powers; or the orientation of dolmen’s axis in the
direction of the sun’s movement (Sunrise in the East, sunset in the West),
having relationship with the birth and death in human life, or orientated
toward the water source, the stream direction is related to the source
of life, the longevity and prehistoric prosperity; or orientated toward
a “sacred mountain” considered as the “ancestor spirit world”, ect.
Korean scholars are also particularly interested in local oral traditions
such as the “Heavenly Son myths” and Oviparous myths”, the legends
on chiefdoms - kingdoms and tribal states are considered as related to
important historic events in the Metal Age in North East Asia and many
other regions.
404 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.5 Page 405

▲back to top
According to B.M.Kim (1982), the Heavenly Son myths - the ancestors
of the founder of the nation - have taken roots in the beliefs of the ancient
North Asian speaking the Altaic language. As to the “Oviparous myths”,
which is common to ancient Korean mythology, and have appeared later
than the “Heavenly Son myths”, they are the belief that the ancestor
or the founder of a kingdom had been born from an egg (or a box in
other variant) - a belief which appeared in the bronze Age and have been
imported into South Eastern part of the Korean peninsula, along with rice
cultivation and the custom of stone worship. Different from the nomadic
life following cattle herd in the North, the settled farmers formed their
own cultural tradition, together with the dolmens, megalithic vestiges and
Oviparous myths in the South. Both two communities with two different
models of livelihood progressively unified thanks to extra-descendant
taken place in a legendary past when the descendants of Emperor Haemo-
su to J.B.Kim (1973), the Oviparous myths with other variant are common
all over the continent, from the North (Yakuts - Maritime Province, Russia;
Shu-en King’s myths; the coastal region of China’s East Sea), to the South
(Bai-wan Tribe ain Taiwan, Yueh Tribes in Kainan Island; Munda Tribes
in India; Tribes in Tibet and Oceania) and in South East Asia (Burma
- Kings State Mao; Thailand - Thai tribes; Vietnam, Philippines, Java,
Kalimantan, Sulawesi, ect.), and it seems that this ancient belief has
spread from South East Asia via the South China’s Sea to the Korean
peninsula and North East Asia.
The distribution of Asian megalithic monuments from North East Asia
through South East Asia to South West Asia nearly relies on the distribution
area of Oviparous myths in Asia, which has been represented by B.M.Kim
(1982) on a map as “simultaneous combination, at the Bronze Age - Early
Iron Age period, and coincidence between the tropical and sub-tropical
ecological conditions of the rice cultivating agricultural civilization and
the Oviparous myths in the prehistoric and Proto-historic spiritual world”
(fig.89). The scholars also believe that the Oviparous myths concided with
the Dongson culture in Vietnam from the middle of the 8-th century BC
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 405
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.6 Page 406

▲back to top
to the beginning of the Christian Era; however the integrity of mainland
South East Asia is still left white in the distribution map of stone-cists -
Dolmens in Asia.
In Vietnam, in the rich treasure of folkloric culture of several peoples,
there are myths talking about the people’s origin similar to Asian Oviparous
myths. For example, the legends on “The Mother Gourd” giving birth
to peoples, the couple of birds giving birth to 100 or 1.000 eggs which
hatch out the Viet, the Muong, the Xa, the Thai, the Lu, ect.; the legends
of “the egg-cyst which hatches out to give birth to one hundred boys” of
the Viet, 50 among them followed their Father Lac Long Quan to go to
the coastal plains and become the Viets, the remaining 50 followed their
Mother Au Co to the forest and become the other peoples. It is noteworthy
to remark that on the present territory of Vietnam, beside Hang Gon site,
there are also other vestiges which may be considered as belonging to
the megalithic culture tradition of mainland South East Asia (fig.90). Up
to now in Vietnam, except the flat stones with carved marks at Sa Pa and
Xin Man; Character Megalithic Remains were found at some Sites in the
Dong Son Cultural Area, in the Sa Huynh Cultural Area, the Dong Nai -
Oc Eo Cultural Area and Tay Nguyen Highlands. In the limits of the main
distribution zone of the complex of Dongson Metal culture relics (North
Vietnam and Northern Central Vietnam), Megalith sites were found in
Cao Bang, Ha Giang, Lao Cai, Lang Son, Tuyen Quang, Bac Giang, Bac
Ninh, Vinh Phuc, Ha Noi, Ha Nam and Nghe An.
In Cao Bang Province, during 2001-2003, Trinh Nang Chung has been
conducting fieldwork to archaeological study and discovered 5 dolmens
at Truong Ha (Slab size avenrage: Length 240-300cm, 140-180cm Width,
110- 130cm Thick, 110-120cm High), at Ban Thanh (Hoa An) (Dolmen
1 size avenrage: Length 350cm, 85cm Width, 25-35cm Thick, 110cm
High and Dolmen 2 size avenrage: Length 305cm, 82cm Width, 30-40cm
Thick) (fig.91) and at Hong Viet (Dolmen 1 size avenrage: Length 500-
650cm, 140-180cm Thick, 140-150cm High and Dolmen 2 size avenrage:
Length 180-200cm, 120-140cm Thick, 70-90cm High) (Trinh Nang
406 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.7 Page 407

▲back to top
Chung et al. 2001-2003). In Ha Giang Province, at Nam Dan valley (Xin
Man), Trinh Nang Chung and his team discovered two megalithic relies.
They are over 700m far from the carved figues relic (with more than 80
different carved figures on the rock - geometric designs such as circules,
rectangules, squares, parallel lines, palindrromes; 42 dominant motifs,
human footprints and fertility symbols...). The first Dolmen size avenrage:
Length 230-240cm, 100-110cm Width, 35-40cm Thick (fig.92). There has
been no evidence for the date of this structure and the author initially
supposed that they were created at the same time as the Xin Man carved
figures (Trinh Nang Chung, 2006, 2009).
In Lao Cai Province, Ngo The Phong and his team discovered some
bigstone bars (These stones size avenrage: Length 185-345cm, 120-
127cm Width, 36cm Thick) at Ta Van Giay commune (Sa Pa Distric,), near
the famous ancient stone field of Sa Pa (Its latitude 22018’070” North and
103053’126” East) (Ngo The Phong et al. 2003). By Lam My Dung’s paper
(2009), there are 2 Dolmen at Ban Pho and Hau Thao (Sa Pa) (fig.93).
The excavation Results of Ta Van Giay show 7 large stone bars that
are non-standard rectangular and similar in size, with one exposed flat
face. Those stone bars are not in situ. They gradually slid downwards.
Based on the physiognomy, it is possible to see that if they had belonged
to any megalith type, they would hardly star in the middle of the hill cliff.
They might have been from a high hill top that was fairly flat and wide and
after many sliding times, they moved to the present position. During the
excavation, the scientists conducted a survey to investigate the area round
the site and found a fragment of a terre-cotta bottom and a potsherd of a
brown-inlaid jar (from the Tran period). Ta Van Giay cannot exist alone. It
must have a certain ralation to the ancient stone fields in Sa Pa and their
counterparts that have just found in the area (possible references are some
Asian sites such as complexes of megalith sites at Yoshinogari, Ashiziri
Cape (Japan), the field of jars at Xieng Khoang (Laos), Sunda (Indonesia)
and other similar located along Vietnamese - Chinese borders. The date
of their appearance and existence are impossible to identify exactly with
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 407
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.8 Page 408

▲back to top
current data. It is probable that the site was set up from the medieval to
contemporary time. The large stone bars were once used intentionally
and associated to a generation of local inhabitants living in that area
(reasonably Tay - Thai minorities). Those stones bear megalith ideas and
have various functions such as burial and votive area and symbol of poeer
that seems to be the main function (Lam My Dung, 2009).
In Lang Son Province, at Chop Chai, there are large stone bars on
a fairly-flat hill top. They are very large and nearly rectangular (Stone
size aventage: Length 650-900cm, 130-180cm Width, 60-144cm Thick).
No processed traces and original structure have been found. At Mau
Son, apart from the vestiges of a temple built is late 19th century, there
are some stone tombs (dolmens), two of which remains visible structure.
Remarkably, at the small tomb found some traces of mortar to attach the
cover to the tomb. There are many other large stones lying in clusters
around the site. Some of them remain processed traces. Obviously, this
site provides materials for building the ancient temple. Mau Son site
was excavated in 2003. They were about 20m away from those stones to
the southeast, near a running rivulet. The results of archaeological data
(artifacts) aare not enough for us to date the remains. Most of the found
artifacts here have a very late date (the 19th century). The date given by
the excavators is the tenth - twelfth century, which were based on the
comparison of the types and materials with other megalith sites in Bac
Giang, Bac Ninh Provinces (Lam My Dung, 2009).
In Tuyen Quang and Vinh Phuc Provinces, 2 Dolmen were found by
Trinh Nang Chung and his Team in 2005 at Na Hang (Stone size aventage:
Length 220-215cm, 120-150cm Width, 110-130cm Thick, 80-100cm High)
and Thien Ke - Son Duong (Stone size aventage: Length 240cm, 90-100cm
Width, 30-35cm Thick, 45cm High) (Tuyen Quang) and at Dong Hoi - Dai
Dinh (Tam Dao) (Stone size aventage: Length 310-315cm, 105-110cm
Width, 40-45cm Thick, 45cm High) (fig.94-95) (Trinh Nang Chung, 2005-
2009).
408 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.9 Page 409

▲back to top
In Bac Giang, the most evident megalithic vestiges are the vestige
complex lying in Chuom De field (fig. 605, 606), on the left bank of Luc
Nam river (Bac Giang), uncovered by Late Prof. Tran Quoc Vuong and
his disciples (including the author of this book) in April 1975 (Tran Quoc
Vuong, 1975), and afterward, re-investigated in April 1978 (Vuong Van
Hoa, Trinh Nang Chung November 1999 (Pham Duc Manh, 2000-2010).
These are strange stone structures, named by the people of Dam village
(Vu Xa - Luc Nam) “stone tables”, “stone mats” or “stone drains”, which
were built in remotes ages in the North East - South West direction (the
flow direction of Luc Nam river). The biggest structure, called Chuom
De, comprises a red rectangular sandstone lid (2,3m long x 1,15m wide,
0,5m) placed on 7 cubic or conic boulders arranged on a straight line in
the middle (3 boulders) and at the four corners (4 boulders). This whole
dolmen-like structures is built on a raft of 20-30cm round lumbers. The
remaining dolmens (Chuom De 2-4) lying at a distance of 60-1.200m to
the South West (60-70m), the North (200m) and the North East (1200m)
from Chuom De I vestige, with the rectangular or oval lid slabs having
a medium size of 1,8-2m long x 1-1,5m wide x 0,35-0,4m thick, placed
on 2 or more boulders at their two ends. These dolmens are sinking in
marsh land to a depth of about 40-50cm to 70-90cm, and bear marks
of coarse hewing and chipping. In Bac Ninh, Megalithic remains in Lan
Kha mountain compreses 4 bigstone structures as “Dolmen type” with
common measures from 1,6-2m x 1-1,25m x 0,5-0,8m to 4,3 x 2,3 x 2,11m
(fig.96).
All these stone structures are considered as “A kind of archaeological
vestige newly uncovered in the Luc Nam river basin and the North
Eastern marginal zone of North Vietnam delta - megalithic construction
works evoking the prehistoric and proto-historic Dolmens, appertaining
to Vietnam’s Early Iron Age research domain” (Tran Quoc Vuong, 1975;
Tran Quoc Vuong, Trinh Nang Chung, Pham Duc Manh, Tran Dinh Luyen,
1975; Vuong Van Hoa, Trinh Nang Chung, 1978; Trinh Nang Chung,
1999; Pham Duc Manh, 2000-2010).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 409
HANG GON MEGALITHIC TOMB

41.10 Page 410

▲back to top
Besides these megalithic sites, there may also be ancient megalithic
vestiges mixed up in the “Forest of erected stones” in the ancient Muong
cemeteries in the mountanious and forest-covered regions of North and
Central Vietnam. The erected stone pillars have different sizes (Muong
Thang: average length: 200-320cm wide, 23-145cm, thickness: 3-95cm;
Muong Vang: 65-287cm long, 18-37cm wide, 5-30cm thick; Dong Thech:
average length 300-500cm; Ngoc Lau: average length from 150-200cm
to 400-500cm, ect.) They are often considered as having such basic
function as: “Pillars for making tomb’s limits” (Pham Quoc Quan, 1983;
Nguyen Dinh Chien, 1983), “fence surrounding tombs” (Tran Anh Dung,
Lai Van Toi, 1986), “Variants of the lankmark piles for locating tombs
with boat-shaped coffin” (Do Van Ninh, 1977), “Funeraty stelae giving
summary biography of the dead to the posterity”, or they may have other
ceremonial and religious meanings in the ancient Muong “forbidden
zones”, such as: the erected stone pillars are the places of residence of
the spirits, the place for the defense of the deceased’s soul in the other
world, the place “from where the dead may stand and looks on to their
village in misty evenings” (Tran Tu, 1998), or they may be the “remmants
related to funerary and ritual beliefs of the megalithic culture of South
Indochina’s peoples (Pham Quoc Quan, 1992), ect. According to Ha Van
Tan (1994), making observation on the formation of the funerary ritual in
tombs with boat-shaped coffin in one part of Dong Son population having
relationship with a multiple-layer structure such as: 1 - A far background
is the Sun Worship beliefs of the Metal Age people; 2 - A close background
is the beliefs on the boat conducting the souls of South East Asia’s people;
3 - The subconscious of the rice cultivating people in the marshy region;
4 - The impact of the “maritime cultural belt” with one or more layer of
population bringing with them Austronesian cultural elements from the
Late Neolithic - Early Bronze Age, imbibing into deeper mainland region,
as one of the sources of the Ancient Viet cultures.
According to the author, the dolmens in Luc Nam (Bac Giang) may be
linked to the continuous are of dolmens extending from Vietnam through
410 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42 Pages 411-420

▲back to top

42.1 Page 411

▲back to top
Taiwan to Japan. However, on the “sketchy map of Vietnamese megaliths”,
the stone works of the kinds of the menhirs erected in the ancient Muong
cemeteries have been marked by myself in order to suggest the possibility
to continue to investigate, systematize and study the megalithic vestiges
belonging to both the two current traditions in Vietnam and South East
Asia, which have been characterized by megalithic vestiges researchers
of long seniority in the world as “Primitive or prehistoric” and “Living
megalithic Art culture traditions”. There are 2 Dolmen sites at Minh
Tam (average size: 480-505cm Length; 180- 230cm Wide, 10-59cm
Thickness; 64-170cm High) and Thai Lai (average size: 400-410cm
Length; 140-145cm Wide, 30-47cm Thickness; 120cm High) (Soc Son -
Ha Noi) (fig.96-97); 3 bigstone bars of Dolmen (average size: 135-550cm
Length; 120-310cm Wide, 35-85cm Thickness) at Dun Hill (Thanh Luu
- Ha Nam). There are also many stones of Dolmen, Menhir or Chambers
at Hung Yen (Hung Nguyen - Nghe An) (fig.98) and at Chu Pah - Gia
Lai Province in Tay Nguyen Highlans (50 nearly rectangular stones with
average size: 100-300cm Length) (Ngo The Bach et al. 2005; Tran Quy
Thinh et al, 2001; Lam My Dung, 2009). According to Lam My Dung
(2009), the megalithic sites found in Vietnam so far were mainly built in
the areas of forest, hills and mounds, which were quite separate from the
settlement sites and they were easy to observe from a distance. The ancient
inhabitants took advantage of natural stones to arrange purposefully.
Similar to some Asian countries, the megalith sites in Vietnam do not exist
separately but in assemblages with various functions and diversified forms
such as dolmen sites, straight to flat stones with carved marks. However,
the most popular type is dolmen. The megalith sites in Vietnam all belong
to the past megalith tradition, though some sites are still used for votive
practices by the local people. However, those sites, in fact, have lost their
initial function and the present local people almost know nothing about
the original function as well as the dates of those sites with large-size
stones. But, generally, the megalithic sites in Vietnam have just been
studied and what have done are just notations, preliminary description
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 411
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.2 Page 412

▲back to top
of each site. Many other problems such as their owners, functions,
morphological classification need further investment both money and grey
matter. The set-up/construction and exploitation of these sites might be
clossely associated to: i) the psychiatry in favour of “monumentality” and
the desire for showing this character by the local powerful class; ii) the
mixture of many religious levels and holy items of the local people and iii)
the contact, interaction and integration of many cultural layers/sources.
The megalith sites in Vietnam might include two stages of formation and
development. The early stage (protohistory) is associated to the formation
of chiefdoms and the later one (contemporary history) is connected with
local and the regime of chieftain of the minorities (Lam My Dung, 2009).
In the main zone of distribution of Sa Huynh (South Vietnam) Metal
Age vestige complexes, a number of megalithic relics may also be observed
in a number of regions related to the belief and customs of worship of
Sacred stones which represent the supper-natural powers issued from the
Earth, the sky, mountains, rivers, the sea... For example, the granite slabs
or boulders are assembled into many different shapes and sizes in Ky
Son - Phung Son mountanious region (Binh Dinh), local population often
links them with popular legends on “the giants who had bailed out all the
water of the sea” and had left such vestiges of their work. These are the
stone kilns of the giants (3,2-2,5m high pillars with almost a square cross-
section, with their upper ends close to one another and their other ends
radiate as three branches); “Nest of Phoenix” (3 pillars, with the center
pillar vertically erected resembling the head of a bird and 2 other pillars
spreading out like the wings of the bird); “Knife blade stone” (1 stone
slab resembling a chopping knife) laid on flat polished stone pedestal);
“domed stones” (2 stone walls 2,3-2,4m high supporting a slab-lid
(creating a kind of stone cellar of 1,5m wide); “Fairy Grotto” (comprising
one flat 2,2 x 1,8m oval slab lying on layers of fine stone arranged as
foundation, around them are erected rows of pillars having their head
slingtly tapering off standing close to one another; “Bell-drums-gongs-
stones” (comprising slabs, boulders arranged into a plane group; when
412 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.3 Page 413

▲back to top
struck, the associated slabs or boulders give off the sounds of Bell, drums
or Gongs); “Fishbone stone” (the groups of stones are arranged into fish
bone which, according to the legends, were the giant’s foods in remote
times) (Pham Duc Manh, 1998).
The sacred huge stone marvels in Ky Son - Phung Son region are
tightly attached to local legends and make us think about the megalithic
vestiges which ought have been more “artificial”, not far from there. This
is the Table-stone “historic vestige” in Go Ro, with a flat slab weighing
many tons placed on three boulders since very long time in the settlement
region of the Kor people in the Ca Dam mountanious region covered with
primitive forest on the shore of Rinh river (Tra Phong, Tra Bong, Western
Quang Ngai province). And still more special, the “megalithic tombs”,
“a very primitive construction” discovered in 1909 in Dong Pho village
(fig.99), at a distance of only 5km to the South from the renowned Sa
Huynh jar tombs cemetery. This site was excavated by a Missionary in
1912 and it seems that 2 burial (?) pottery jars were uncovered, and in
April 1923, H. Parmentier re-investigated it. This “strange enclosure”
includes a rectangular 7 x 3,7m chamber assembled with flat slabs erected
on a foundation of small stones. The Stone chamber is orientated in the
East - West direction, and has a door opening on the East, equipped
with a wind-screen wall comprising 4 boulders erected in front of the
door, together with a section of a corridor laid with stones leading to
the Northern corner of the construction work. The author thinks that
Dong Pho chamber dated from the same time and has similar cultural
characteristics with Sa Huynh ceramic jar tomb cemetary; their common
date is later then the Neolithic Age, but earlier than Champa. And it seems
that this site has no relationship with Champa, although the structure of
this chamber is almost similar to the Champa tombs in Vinh Nai (Ninh
Thuan) and popular legends in this place links this megalithic construction
with a Champa Genie, this Genie is worshipped by the people who ask his
agreement for cultivating rice in the fields surrounding the stone tomb
(Parmentier H., 1924). Yet, Van der Hoop (1932) sees Dong Pho “large
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 413
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.4 Page 414

▲back to top
stone sepulchral or tumulus” as an exceptional case, because megaliths,
construed in the meaning he used to make research on South Sumatra do
not exist in Indochina. According to P. Bellwood (1978), it is possible that
Dong Pho (and also Hang Gon’s) slab-cists have relationship with Sa
Huynh culture and there are no similar structures in mainland South East
Asia, except a small group on the Malacca peninsula (Malaysia).
In the limits of Southern Central Highlands, the red soil hilly regions
and the coastal plains of South Vietnam, besides Hang Gon megalithic
vestige complex, the granite or sandstone pillars or boulders recorded
in some places. For examples, there are 50 blocks with their lenth 1-3m
discovered in Chu Pah (Gia Lai province) (Tran Quy Thinh et all, 2001),
even in Ho Chi Minh City, slabs of stone of a height of 2,8-4,5m in Tan
Binh (fig.100); although it is not clear whether they had been artificially
built by the ancient of naturally created by Nature, they always evoke the
erected menhirs in the regions rich megaliths of this continent. Monuments
using megaliths uncovered in greatest number in South Vietnam usually
comprise materials for strengthening foundation, assembling walls,
the granite and sandstone slabs and pillars which constituted the main
architectural components of tombs or temples and towers appertaining
to Oc Eo - Post-Oc Eo Early historic culture complex, dating from the Ist
millennium AD, among hundreds of Stone mounds, from Oc Eo - Ba The
- the Sanskrit civilization City Naravaranagara (Malleret L., 1951) or the
“Great Port town” (Coedès G., 1947), to the stone constructions made
from hundreds of tons of granite and sandstone in Nen Chua, Da Noi, Go
Cay Trom, Canh Den, Phat Noi, Mop Van, Ke Mot, Vinh Hung, Go Xeo
Da, Chua Giua, Luu Cu, Thanh Moi, Go Thap, Thanh Dien, Binh Thanh,
Chot Mat, Phung Son Tu, Go Bun, Loc Chanh, Giong Lon, Go Don, Go
Xoai, Binh Ta, Tram Quy, Cat Tien, Da Lak, Mieu Ong Chon, Tan Lai,
Long Hung ect. (fig.101).
For the reason of their variegated character, their ingenious
processing techniques, their refined sculptures and carvings; and the wide
distribution in all Southern Central Highlands and South Vietnam of Oc
414 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.5 Page 415

▲back to top
Eo - Post-Oc Eo megalithic monuments and because of the megalithic
construction tradition had lasted thousands of years, a number of scholars
have easily believed that Hang Gon megalithic monuments complex has
tight relationship with Oc Eo architectural vestige complex, and even they
do believe so to the extent they consider it as the fruit of the labour of Oc
Eo inhabitants themselves in the red soil hilly region of Eastern South
Vietnam. For example, L. Malleret (1963) has though of an Indian origin
for Hang Gon megalithic monument.
According to him, it is probable that Hang Gon megalithic tomb was
built in the Bronze Age, however, it seems that there were 2 consecutive
periods which are characterized by the difference in constructions
materials: In the first period, the construction of granite burial vaults
deeply sunk in the ground had evidently a local origin, the structure of
sandstone pillars added in a later period are “certainly brought in from
the outside”. Hang Gon megalithic monuments bears Indian influences
from the Tissamaharama and Anuradhapura construction in Sri Lanka
(Ceylon) with the semi-circular grooves on the pillars’ heads. The way the
builders of Hang Gon megalithic tombs assembled stone slabs following
grooves, in the opinion of L. Malleret, is not the method of building
stone graves in Malaysia, instead, he suggests a relationship with the
architecture of “K-type” temples K8 in Oc Eo fields. For this reason, the
author thinks it is possible that Hang Gon megalithic tombs are not as old
as people often think (Bronze Age or earlier) and it is possible that at the
date of construction of Hang Gon megalithic complex, relations between
India and Southern Indochina had been established, and along with the
development of megalithic cultures all over the territorial waters of South
East Asia, it seems that this had also left some relics in Oc Eo culture
in Fu Nan’s epoch. The hypotheses of L. Malleret have been afterward
extracted by a number of Vietnamese scholars and further discussed
with many newly excavated materials and new research results on Oc Eo
culture in South Vietnam. For example, there are people who believe that
Hang Gon megalithic tomb did not belong to the autochthons and were
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 415
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.6 Page 416

▲back to top
not linked to the settlement - tombs vestige sites appertaining to Dong
Nai culture complex in the Bronze Age - Early Iron Age period in the
tendency of concentration and unification of human communities in the
process of formation of states; although it is not yet clear whether or not
archaeological vestige complexes of this period had any relationship with
the country Xich Tho that ancient history had recorded (Le Trung Kha,
1987). According to Vo Si Khai (1987), Hang Gon megalithic tombs is
dated from an earlier period as compared to Oc Eo and represents more
distant relationships of autochthonous peoples with ancient civilizations
following the megalithic traditions of South East Asia. In the Metal Age,
the custom of worshipping huge stone slabs erected in the open air was
a collective belief of the community similar to the “primitive megalith
worship”. Later, in agricultural communities of the Oc Eo society, with
the development of private ownership and the appearance of real estates,
even genii were divided simultaneously with the division of properties.
This was the case of disappearance of megalith worship in its origin form.
With the private land ownership, the “Megalith Genie” had broken down
into many “small stone genii” who were worshipped in collectivities of a
lower level than the community and even in each family. The “Megalith
Genie” had become a kind of “Earth Genie” in small localities or within
the limits of a private field, which has been transmitted from generation to
generation until today in the form of “Mr Stone’s worship (Ong Ta - Ong
Da) in the Mekong river delta, “the worship has been transfered from
stone boulders of the size of a a man to pebble of a size of an egg” (Vo Si
Khai, 1987). I agree entirely with the above observations.
Before the excavations of Hang Gon, I had always inclined toward
the opinions of E. Saurin (1963,1968) seeing the age of these megalithic
complex as certainly earlier than the vestiges belonging to Oc Eo cultural
complex (Ist, IInd century - VIth, VIIth century AD) (Pham Duc Manh,
1984, 1985). Because, fist of all, in the largest megalithic architectural
centers appeartaining to Oc Eo - Post-Oc Eo cultural complex in Southern
Central Highlands and South Vietnam, no “entirely megalithic” structure
416 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.7 Page 417

▲back to top
of Hang Gon type has ever been found, but instead only materials for
foundation, or architectural components, statues or numerous genii
bearing the marks of Hinduism and Buddhism’s influences (fig.101-102).
On the other hand, almost all pillars used in the construction of Oc Eo
temples, palaces, tombs and mausoleums are processed, carved and
decorated to a sophisticated degree and what is still more important is
that the collections of artifacts of various kinds (stone, bronze, lead, silver,
gold, ceramic, wood, ect,...) accompanying the architectural works with
more than 40 C14 dating results have clearly demonstrated their Oc Eo
characteristics, and the basic chrnology of the Oc Eo period in the 7 first
centuries of the Christian Era (Le Xuan Diem et al, 1995).
This is also the primitive characteristic of megaliths - a characteristic
rendering the Tra Bong dolmens and Dong Pho megalithic cists different
in quality with the other architectural constructions using huge stone
components, statues, sculptures stelae appertaining to the Champa
chronology in Central Vietnam. But considering Dong Pho megalithic
tomb and even Hang Gon megalithic complexes as appertaining to Sa
Huynh Early Iron Age culture (Bellwood P., 1978), has not convinced me.
For the reason that, in the general context of Asian megalithic cultures,
Hang Gon megalithic complex (stone burial vault with pillar system and
megalith workshop) is an unique and rare prehistoric and proto-historic
phenomenon (if not the only in its kind) as compared to all the other
primitive megalithic traditions of the whole area and continent. People
have once separated each individual component of Hang Gon megalithic
architectural construction in order to compare it with the dolmens, slab-
cists, chamber or room-cists, megalithic tombs, stone tables or slabs,
stone pairs of stone alignments, menhirs with saddle-shaped heads and
round or elliptic body, ect. which have frequently been found in megalithic
sites in Vietnam (Dong Pho - Sa Huynh), Northern China, Northen
Burma, Assam, Deckker peninsular, Trans-Jordan, Chankat Mentri,
Sungkai, Malacca, South Perak (Malaysia) or Java island, Sri Lanka
(Tissamaharama, Anracha-pura), Laos (Xieng Khoang, Hua Phan), ect.
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 417
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.8 Page 418

▲back to top
However, besides the parallelepipedic stone vaults of a size similar to that
of Hang Gon megalithic tomb, large slabs with polished edges and sides
and bored with hemispheric holes in Southern Sumatra, Malacca, South
India (Tegoerwang 11 - 14, Siring Agong, Batoeberak 3, Kerala, Sumba,
Timor, ect.),
We still have not found any model entirely identical to the while
complex of megalithic tomb with the pillar system in the primitive
megalithic culture tradition) in the entire tropical - sub-tropical ecological
region of the continent. With part of a megalithic workshop site uncovered
in-situ, we have learned a new kind of vestige in the history of megalithic
architecture of Southern Asia’s peoples in general. But first of all, they
prove that autochthonous communities exploited, transported and stored
the raw materials constituted by granite slabs, sandstone boulders,
weighing several tons, from distant areas and processed them on the site
so as to assemble them into large stone vaults and rows of stone pillars
in Hang Gon. Hang Gon large parallelepipedic stone vault seems to have
been built underground. This is a burial vault containing ceramic jugs
storing the incineration ashes of dead people since a prehistoric time,
if we may believe the information that H. Parmentier and L. Malleret
had collected from the workers assuming the excavation or the journalists
witnessing this first excavation. The axis of the vault follows a near East -
West direction - the Sun’s movement direction. The door of the burial vault
may be orientated toward the East, the direction of dawn since ever, if we
are concerned with the difference between the two slabs on the eastern
end (narrow and close fitting to the vault door) and on the western end
(exceeding on the North and South sides); and even more important the
semi-circular hole on the edge of the slab mounted at the Eastern end may
resemble an “spirit escape date” (or “Spirit’s ventilation gate”) bore on
pottery burial jars for allowing the dead’s spirit to go for a walk, get in
contact with the living world, the Nature and the Sea, expressing thus the
“man- spirit - Sea” relationship as one of the characteristics of Vietnam
and South East Asia’s jar tombs (Pham Minh Huyen, 1977; Ngo Si Hong,
418 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.9 Page 419

▲back to top
Pham Quoc Quan, 1994; Ngo The Phong, 1995). With the “spirit escape
gate”, the thickness and the overwhelming weight of the lid (about 7 tons)
as compared to the wall slabs and floor slabs, I do not believe at all that
the stone vault ought to open and experimented architect H. Parmentier
had designed (1929). For the simple reason that: if the design had been
forecast for all moving in or out of the tomb with several openings and
closing of the lid, the prehistoric megalithic builders, with their technical
skill and creative capacity were entirely capable of permuting the positions
of the lid slab (too heavy) and the bottom slab (much lighter) so as to at
least avoid any risk of “technical accident” causing wounded and dead in
the labour force and damaging the work. For this reason, I believe more
in the project designed by J. Bouchot, with the hypothesis that the lid of
the vault, the heaviest component was left indefinitely close once people
had achieved the last great ceremony for the eternal rest of their Chief,
so as to protect the spirit of the dead in the “close artificial proto”, in
the middle of this hilly and forest-covered region filled with wild beasts
and tropical rains, with the “spirit escape gate” oriented to the East and
lying under the surface of the ground resembling the ventilation openings
closed lids of the dolmenoid cists in India. The issue that needs explanation
relating to the rows of stone pillars erected in symmetrical pairs across
the longitudinal axis of the burial vault after the photos of the excavation
site taken bvy Mr. Gastaldy (fig.103). It is clear that the ancient had not
processed as follows: build the burial vault and two granite pillars in
the Neolithic Age and afterward add two rows of sandstone pillars in the
Metal Age, as in the hypothesis of J. Bouchot, because the results of the
excavation of the nearby “megalithic worksite” have noted 2 sandstone
pillars lying next to the granite slabs and other stone, pottery and bronze
relics having as C14 dating results corresponding to the Early Iron Age.
But I agree with J. Bouchot when he believes that the rows of pillars with
saddle-shaped grooves on their heads, used to support the transversal
beams of the roof of the stone vault - a kind of stone mortuary house the
most primitive and largest, larger than the mortuary house of richmen or
leaders in Jarai cemeteries in Plai Rlung (Dak Lak) (fig. 102). In many
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 419
HANG GON MEGALITHIC TOMB

42.10 Page 420

▲back to top
Central Highlands’ peoples and other peoples of Vietnam and South East
Asia, in the world of the living and even in the world of the dead, the
roof reserved to the Leader is always the biggest and the finest, in its
ornamentation, with symbols specific to each cultural region, each people,
each historical period, which may be observed serapately in the Common
House, the village Meeting House, the Ancestor’s House, the Origin’s
House, the Mother’s House, the Mortuary House - the social, people lived
in stilt houses, following the Dong Son traditional architecture in Vietnam
and South East Asia (Tran Quoc Vuong, 1970; Goloubew V., 1938; Nguyen
Khac Tung, 1978, 1982; Trinh Cao Tuong, 1981; Chu Thai Son, 1983; Ta
Duc, 1985, 1987, 1999) (fig.103).
In South Vietnam’s plains, vestiges of stilt house with piles having
tenons and grooves, of the saddle-shaped type, for placing the floor beams,
transversal bars, cocoa-nut-tree leaves for covering the roof, ect. have
been found in many prehistoric villages in marshlands, on river banks, or
the sea-side since thousands of years before the building of the megalithic
complexes (Cai Van, Cai Lang, Rach La, Bung Bac, Bung Thom, Le Minh
Xuan, Phu Chanh, Rach Rung, ect. dated by C14 to the period extending
from 360 ± 80 to 2.100 ± 40 BP). The most primitive stilt house structure
in South Vietnam continued to be built in the Oc Eo stilt house villages
which have been excavated in Nen Chua, Da Noi, Canh Den, Giong
Da, Mop Van, Oc Eo, Ba The, Go Thanh, Go Chua... (dated by C14 on
samples of pillars to the period extending from 2.580 ± 40 to 1.410 ± 50
BP). In particular, the excavation of Go Thap in 1993 also uncovered one
golden leaf bearing the carved drawing of a stilt house resembling the one
figuring on the Heger I bronze drum, or the stilt house, mortuary house of
Central Highlands Peoples (Dao Linh Con, 1995) (fig.104). According to
ancient documents, this kind of stilt house structure was called “Can Lan”
and widely used in communities of “Nam Man” or Southern barbarians
in these times. (Malleret L., 1959; Vo Si Khai, 1985; Le Xuan Diem et al,
1995; Nguyen Cong Binh et al, 1990; Ngo Van Doanh, 1993; Pham Duc
Manh, 1996). Recently, models of house have still been found in Giong
420 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43 Pages 421-430

▲back to top

43.1 Page 421

▲back to top
Ca Vo ceramic jar tomb cemetery with on the summit the statue of a bird
having 4 heads oriented toward four directions, the four corners of the
roofs are bent upward (Dang Van Thang et al., 1998) (fig.104). The bird
head ornament on “Dongson house roofs” are commonly represented on
Heger I type (Ngoc Lu, Hoang Ha, Song Da, Quang Xuong) bronze drums,
and are also a characteristic of the traditional roofs of many peoples in
the Central Highlands and South East Asia (fig.105).
The stilt house structures, the drawing of a house carved on a golden
leaf, baked earth models of prehistoric and antic houses in South Vietnam
obviously give good suggestions for figuring out a “mortuary house roof”
in bamboo which might have been erected on the megalithic framework of
the tomb of a proto-historic Dong Nai Chief. Nevertheless, there still are
a number of sandstone pillars the heads of which do not bear any saddle-
shaped groove at the stone vault site and the megalithic workshop site.
These carefully polished stone pillars with sout foot and tapering out head
are not the pairs of pillars having saddle-shaped grooves on their heads
for supporting transversal bars. They are probably the stone piles erected
additionally around the megalithic mortuary house, like what is frequently
seen in many wooden mortuary houses of the Central Highlands. Besides
their decoratibe nature, they have also the meaning of “Occult stones”,
“Totem piles”, “Merit-engraving stones”, “Stelae”, “Heroes’ stones”
reserved to future generations’ leaders who would have the honour to be
placed on the “Community’s Holy Land”; or otherwise “Guards” that
the descendants erected for defending the resting place of the Supreme
Leader - defied ancestors in the eternal world, whom traditonal customs
still recorded in the megalithic world, from North East Asia to South West
Asia (fig.106). The first relics on the shape of the megalithic workshop-
site, the used stone tools and the evidences (pottery, bronze fragments) are
still scarce but of the utmost importance since they are related to proto-
historic megalith builders and contribute to shedding light on the fact
that the owner having built and used the megalithic construction complex
were also the real owner of ẹoàng Nai primitive culture complex in the
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 421
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.2 Page 422

▲back to top
Pre-State epoch and Late Bronze Age - Early Iron Age period. In the
situation of scarcity of materials relics, in particular, organic materials in
the basaltic and rich in acids red soil stratum - very few C14 dating have
been subsequently realized in these megalithic culture centers of South
East Asia in particular and of Asia in general; the C14 chronology in
Hang Gon is really rare and precious. These are evidences rendering us
more confident of the age-old past of Hang Gon complex, the oldest in the
area and among the earliest in the context of Asian megalithic culture.
This was also a period of transition of the local prehistoric and proto-
historic societies which were metarphosing from the “primitive” state to
a “civilized” state - the transitional period between the communitarian
societies in the form of neighbouring communes under a matriarchal
democratic institution in the traditional social management system, and a
communitarian society of inhabitants under an administrative and religious
management through territorial division, when the quintessence of the
ancient Indian culture was assimilated - in the transitional period from a
pre-State society to a new social structure in the period when Kaundinya
conquered and married the Queen of Funan Lieu Diep, founded the
capital Varman, for administering the principalities citadels, and hamlets,
and progressed to the establishment of a “developed State”, in the Oc
Eo period - a State having a great number of vassals, having their own
capital, towns, ports, streets and guilds, hamlets and farms with all kinds
of population, assembled in great administrative units (pura, nagara)
containing large architectural constructions, colossal statues of genii,
beautiful and precious utensils, such as: Vyahapura, Naravaranagara,
Isanna pura, Bhavapura, Anindityapura, Badadityapura, Nrpadi-
tyapura...
This was a form of developed State in ancient times “reflecting
clearly and entirely the enormous scale, the absolute power of royalty -
the divine power of these times”, with Brahmanism as national religion,
the priest caste as the main support of the regime; the great families,
great traders were the basic foundation of the royal authority, with
422 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.3 Page 423

▲back to top
the Principality management institution based on feudal allocation of
lands, bearing the colours of an absolute monarchy political regime
using Buddhism as national religion, Confucianism as administrative
doctrine”, characteristic of North Vietnam (Nguyen Cong Binh, Le Xuan
Diem, Mac Duong, 1990). Changes in social structure in the transitional
period for founding a new nation contribute to explain why Hang Gon
megalithic complex in the basaltic red soil upper region highlands were
no more the “Holy Land” of an unique “Varman” of this whole cultural
province since the first centuries of the Christian Era, when heavy
architectual construction works were reserved to new urban centers, ports
and fortresses, the new “Holy Lands” of the period of foundation of new
nations and principalities - palaces and temples, similar to new spiritual
centers in the historical period of “assimilation of the quintessence of
ancient Indian culture, conquest of the Mekong river delta, and building
of a civilized and prosperous Oc Eo society”.
In the modern situation of archaeological information, Hang
Gon megaliths only “can speak” through the so-called “basic techno-
cultural backdrop” (Seneviratnes 1999), i.e. the basic information about
the essential content of the endogenous and exogenous elements of the
traditional autochthonous Metal Age cultural complex of Đồng Nai itself
in the “Pre-State” stage (Pham Duc Manh, 1991, 1996, 1999, 2008).
Although, the attempts and effort to approach the actual intention of our
ancestors, when they built and used the megalithic monuments in this land
in the past, sometimes resemble an excess of ambition, like the confidences
English scholars R. J. C. Atkinson made in his book, in chapter VI “The
meaning of Stonehenge”:
“This chapter is concerned with the final question: Why? Why was
anything built at Stonehenge at all? Why once built, was it rebuilt no less
than four times? Why were the various structures built in these particular
ways? Why does it all means? To all these questions beginning with
“Why”, there is one short, simple and perfectly correct answer: We do
not know, and we shall probably never know” (Atkinson A. H. 1956: 166).
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 423
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.4 Page 424

▲back to top
FOR A CONCLUSION
“In hundreds of years, stone stelae may be eroded...” (Folk-popular
saying); But: “Earth is also mud together with all the passers-by” (La
Terre c’est de la boue et des gens qui passent...) (Paul Fort - after Mallecet
L., 1959).
From a geo-ecological standpoint, the settlement of the first people
in history in Southern Vietnam should be considered in conjunction with
Dong Nai river’s upper and medium reaches region in Southern Central
Highlands, from where Dong Nai river its nearly 600km - long southward
course along with the waters from its Da Nhim and Da Hoai tributaries
(Pham Duc Manh, 1991, 1996, 2008). From about the middle of the
IIIrd Millennium BC, Dong Nai’s ancient people started their mission
of conquering the hilly and forest-covered schisteous and basaltic red
soil regions and the deltaic plain in this river’s lower reaches region.
At the beginning they reclaimed the hills and plains, founde villages
and hamlets by basing themselves on the Southern (or near Southern)
hillsides looking over rivers and streams. The burned the forest, prepared
the land for cultivating upland rice, tuber crops, cereals, and other farm
produce, did handicraft activities at their free time, hunting and gathering
of nature’s products, organized a simple democratic society relying upon
the great matriarchal family, village and hamlet communities and blood
relationships.
Afterward, from the middle of the IInd Millennium BC, the primitive
Dong Nai farmers began new labour tasks aimed at encroaching on the
sea, integrating into and changing the nature on the totality of the delta
which had a higher potential of riches but required higher technical
qualifications, labour and intelligent as well as courage. They widened
424 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.5 Page 425

▲back to top
their traditional territory of activity aimed at ensuring their living,
occupied it on long term and concentrated their efforts in the exploitation
of natural resources specifig to the ecological system of the low river
delta and the magrove forests in the coastal region. They built long stilt
houses on wooden piles, covered by light thatched roof, developed fishing
villages or fishing - farming - trading villages of the type of the “lake
dwelling camps” (Cité lacustres) (Tran Quoc Vuong, 1996) on low earth
mounds, swamps in river’s estuaries or on sea-shore. They focused on
family handicraft production, the building of sea vessels for doing fishing,
transport of foofstuffs, merchandises, natural rare products, precious ores
and trade exchanges.
From the middle of the Ist Millennium BC, the owners of Dong Nai
prehistoric culture complex to be used as the “Holy Land” in the center
of the basaltic red soil highlands, not far from the sea, in order to serve
festive and ceremonial activities of the whole community in the cult of
their ancestors and the Sun, commemorate the merits of the heroes who
had reclaimed the territory and venerate their Leaders. At that moment,
the ancient Đồng Nai society bore the form of an agricultural civilization
on semi-mountainous and deltaic regions not far from the sea. On the
whole territory of this period’s Southern Vietnam, from rivers’ estuaries
to sea coasts, the ancient had achieved the edificatioon of great stabilized
economic, trading and population settlement zones, agricultural villages
and hamlets specializing in the cultivation of upland rice on dry fields and
in the plains, professional handicraft workshops, carpentry workshops for
manufacturing implements - stone jewelry, ceremic kilns, glass melting
ovens, bronze moulding furnaces, blacksmith workshops, weaving
workshops, carpentry workshops for house and ship building, fishing
villages, village market places and regional market places of the fluvial port
type for the sale and purchasing of domestic and imported goods arriving
from distant places - such prosperity lasted a long while... The construction
of megalithic architectural works containing “sacred remains”, marked
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 425
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.6 Page 426

▲back to top
the heyday of the customs me megalithic worship among the owners of
Dong Nai proto-historic cultural province, confirmed the creativity in
labour and organization, in the assimilation and creation of megalithic
culture quintessence in the area and the whole continent by Dong Nai’s
ancient builders, attested changes operated in the local spiritual world
having relationship with the veneration of the Leaders - Varman in Proto-
history. Perhaps, in this period, Dong Nai’s primitive religious belief still
bore heavily the “faith in the role of miraculous objects in man’s life and
the society’s fate” along with talismans in the form of basalt statues of
tortoises, pigs and bronze statues depicting dogs chasing a fox, in Doc
Chua; statues of the pangolin (Manis javanicus); elephant or amphibian
figures carved on the bronze halberds of Long Giao, the bird clay statues
in Can Gio, ect.
Along with the Big stone worship in Tan Binh, ancestor worship,
and traditional customs such as the worship of secular trees, miraculous
mountain peaks, water abysses, steep torrents, the custom of bury the
dead in earth tombs, or in pottery and wooden jars, that of distinguishing
two words: That of the living and that of the dead, ect. But the creation
and the role of Hang Gon Dolmens - Menhir tombs complex, considered
in the context of the most remarkable distribution of vestiges and artifacts
of the Late Bronze Age - Early Iron Age period in the Millenium BC, are
entirely able to allow us to think about a type of “proto-historic power
symbol - zone demarcation at the cultural peak of Dong Nai Metal site
Complex” (Pham Duc Manh, 1996, 1997, 1999, 2008) (fig.107-108). In
the present situation of archaeological information, there is no more any
doubt that: Progresses of the entire material and basis of the agricultural
production economy and the development of manual labour, first of all,
the industries producing stone generalized tools and wooden specialized
tools as well as the pottery industry, and later, metallurgy and weaving
industry; in these various production ecomonies, the most important
economic activities were the primitive cultivation of upland rice and tuber
426 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.7 Page 427

▲back to top
crops and vegetables which brought regularly to Đồng Nai ancient people
their main foods, and it was this activity itself which domained almost all
the sub-regions in every stage of cultural development.
The presence of long-standing settlement vestiges sites, lasting
sometimes as much as 300-600 years, with the area of each hamlet not
smaller than any modern Vietnamese village (1-3ha), and a considerable
thickness of the material life cultural layer containing the main kinds of
farming implements, allowing thus to restore the most important stages
of agricultural work in the cycle of production - harvest - consumption
of the end products, together with traces of rice and paddy, straw and
thatch evidences for asserting the essential basis of the long-standing
and dense settlement of ancient men, the scale of group settlement and
social organization, the mobilization of labour force for population
and construction of megalithic monuments, and on the leading role of
the cultivation of upland rice without the use of draf animals and in the
economic development of ancient Dong Nai.
Together with the absence of the use of the plough (related to the use of
man or animal’s traction in the manner of Dong Son), the wide-spread use
of framing implement assortment, bearing clearly the characteristics of
farming and harvesting in the various regions of Eastern South Vietnam,
naturally constitutes the proofs for the hypothesis on the presence of
the simplest and oldest forms of the agricultural economy, based on the
cultivation of upland rice in semi-mountanious regions preceding the
mountains, in important economic and settlement zones of the Metal Age,
around “Hang Gon Hole Megaliths”: basaltic red soil half-highlands and
the system of ancient alluvial terraces. The cultivation of inudated rice in
river deltas, with non drought-resistant species that are today intensively
produced in South Vietnam deltaic plains, has been recorded here at a
fairly late date. If R.O.Whyte (1972) was right when he said agricultural
economy based on inundate rice cultivation could have not appear
before the wide-spread use of iron implements, and according to existing
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 427
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.8 Page 428

▲back to top
evidences, iron was not present in Nam Bo Viet Nam earlier than 500
BC; then agriculture, if present at that moment in Dong Nai river lower
reaches region, should have been also limited in marshy lands next to the
sea side, the newly deposited islets and banks, and were not yet developed
on most of the delta’s surface (Ha Van Tan, 1987; Pham Duc Manh, 1991,
1996, 2008). Before wet-rice became an important food crop with the
appearance of new farming techniques bearing the characteristics of the
intensive rice cultivation in the newly formed delta, mainly in Mekong
river plains, the first evidences of which was not earlier than the 2-7
Century AD, we may firmly believe that: the agriculture consisting in
upland rice cultivation, fruit-trees, tuber crops and other farm products
planting, was a wide-spread reality in all the basaltic red soil hilly regions
of the weathered half-highlands, stream and river valleys and high plains
of Prehistoric Dong Nai.
Progresses of agricultural production, which were attached to the
development of metallurgy, raised the ability to ensure subsistence and the
primitive standard of living as well as record new economic and cultural
progresses in the society of Dong Nai megalithic builders, in particular
since the second half of the Ist Millennium BC. While bringing a quantity
of food-stuff clearly more abundant and more stable than other livelihood
earning activities, it was the poly-crop agriculture, always practiced in
many types of terrain, with upland rice as main crop, and besides of it,
fruit-trees, farinaceous tuber crops, which had increased the food and
food-stuff stocks of the community, creating thus favourable conditions
for a durable settlement as well as the expansion of the community in all
the river side plains and coastal marsh-lands, and allowing to organize
and use labour forces for exploiting, transporting stone and building
megalithic monuments as well as organize ceremonies and festivals of
the community having relationship with numbers of agricultural beliefs
and the cults of the Sun and the ancestors, veneration of the founding
heroes and the “Varman”, strengthen the wealth and the right to manage
428 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.9 Page 429

▲back to top
their own properties of separate groups of people, leading to the more
and more evident division of the society according to wealth and power,
which was particularly evident, in the “period of the iron sword”, in the
“jar plains” - Xuan Loc - Can Gio jar tomb cemeteries, leading to class
division in Dong Nai primitive society since the very start of the task of
megalith building. This was also the main economic basis, ensuring the
material - spiritual - and religious life as well as the stability of all main
social activities in prehistory and proto-history”... in one of the most
regions of contemporaneous South East Asia” (Bellwood P., 1978).
In the tropical and sub-tropical ecological environmental conditions
of Nam Bo Viet Nam, the agriculture consisting in upland rice, fruit-trees,
tuber crops cultivation represented the intensive exploitation of Dong
Nai’s available area and soil variety, and naturally brought about the
main stable resources, but could not be separated from other means of
earning a livelihood and thorough exploitation of other resources related
to other environment such as cattle raising and traditional activities such
as hunting, gathering of crabs and snails along streams, angling and
catching fish and shrimps in ponds and lakes as well as long-term fishing
on rivers and sea, gathering wild fruits, extraction of plant sap in order
to mix it with colours for dyeing customes or body tattoing, picking leaves
in order to use as medicine for curing diseases, or grains and kernels
(such as the Ko-nia fruit’s) for extracting oil and vegetal protein, etc...
The combination of archaeological information sources, in particular the
expertise of remains of ancient foods not only ascertains the seemingly
inexhaustible and extremely rich resources of Southern Vietnam marshy
and forest-covered regions as well as rivers and sea in the Metal Age,
supplies knowledge on prehistoric menus, the habits of ancient Dong
Nai’s hunters and fishermen in hunting - processing foodstuffs - expoilting
raw materials for manufacturing implements - weapons and jewelry, but
also allows us to believe in the rather important role of the Exploitation
Economy here, as well as the predominance of hunting over cattle-raising
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 429
HANG GON MEGALITHIC TOMB

43.10 Page 430

▲back to top
in prehistoric Dong Nai (Le Trung Kha, 1980, 1985, 1989; Pham Duc
Manh, 1991, 1996).
Naturally, in a context when: Never yet in South East Asia’s prehistory
had been formed any tribe specializing in cattle raising. Until much
later dependent of agriculture. On a large area, from South East Asia to
Oceania, meat furnished by cattle raising had never become a regular
food but instead were mainly used on festive occasions (Rappaport R.
A., 1967), probably hunting and cattle raising could not developed in
the “vegetal civilization” (Gourou P., 1948) of South East Asia and the
protein resources of this region’s prehistoric inhabitants were mainly
extracted not from wild animals or cattle, but from fresh, brackish or
marine water mollucks - fish, crabs, prawn and shrimps (Ha Van Tan,
1982). Only with a durable agricultural basis, attached to a settled life and
development of production, able to create abutant food resources capable
of ensuring the stabilization of the population and the division of labour
in society, was it possible to mobilize sufficient labour forces to supply
to the construction of Megalithic monuments (Pham Duc Manh, 1996),
constitute craftsman forces of higher skills than the farmers-craftsmen,
and conduct them to produce sophisticated utensils for equipping the
cream of the contemporaneous society (Nguyen Ngoc Hai, 1990).
In Dong Nai, in the times of the megalithic monuments builders,
besides the two economic activities directly manufacturing finisted
products aimed at meeting demands for foods and foodstuffs, handicraft
anxiliary economic branches had an important role in the supply of
farming implements and equipment for such livehood earning activities
as hunting, fishing, gathering and services rendered to the simple and
specific spiritual life of the owners of this outstanding cultural region. A
number of traditional handicrafts in Dong Nai were outstanding, but it is
only possible to recognize them through the still preserved implements or
finished products. For example, spinning and weaving (the only remaining
relics are the collection of near 500 spindles in baked earth and traces
430 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44 Pages 431-440

▲back to top

44.1 Page 431

▲back to top
of cloth imprinted on burial articles), fishing net-weaving net spindle in
Dipterocanpaceae lauraceae or xylia dolaliriformis-woods), carpentry
(building of stilt-houses, ship-building , digging tree trunk for making
coffin similar to jug and jars, manufacture of worshipping swords and
ceremonial decoration for equipping tribal leaders or priests, supplying
swords, daggers, bows and cross-bows, latch and bolts, chopsticks, ect...,
for dialy life use), manufacture of bony and horny handicraft products
(chipping, carving, grinding, sawing, chopping, cleaving, spiltting,
polishing raw materials which initially were remmants of foods such as,
dog’s leg-bones, stag’s horns, deer’s horns, animals’ vertebrae, tortoise
shells, oyster and snail shells... use as implements, tools, weapons or
jewelry in wholesale and retail trade), coloured glass ,melting industry
(mixing and melting of raw materials, forming by the method of moulding
and annealing, fabrication of colourings with monochrome or polychrome
blends based on metal or metalloid compounds, such as Co, Se, MnO,
Cu, Cuo, Cu(NO₃)₂, Ag, AgNO₃... finishing jewelry bu cutting, carving
sawing, grinding, polishing) (Nguyen Kim Dung et al, 1995), blacksmith
industry (the products including implements - weapons - jewelry allow
to figure out the manufacturing methods and the simple and rudimentary
technological processes from one expoitation through melting in furnace
by the restitution method, to hearing the iron to red hot in the forge with
the belows and then hammering it on an anvil for forming the implements)
(Nguyen Cong Binh, Le Xuan Diem, Mac Duong, 1990).
The artifacts found in-situ in Hang Gon 7 cultural stratum are not
only the evidences directly related to the megalith builders but also imply
the common characteristics of the industries still leaving many materials
relics in Dong Nai, such as ceramic manufacture, stone processing and
bronze metallurgy. Ceramic manufacture: Archaeological vestiges in
Southern Vietnam prove that: since the foundation of Cau Sat and Suoi
Linh villages, the primitive farmers of Dong Nai had attained a high skill
level in the manufacture of ceramic on turnable, with products having
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 431
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.2 Page 432

▲back to top
clearly defined function such as containers, cooking utensils, table wares,
all are simple in their form, with rustic semi-finished product, ordinary and
plain in their ornaments. Traditional ceramic manufacture industry came
to Hang Gon in Dong Nai for serving first of all the habitual demands
of agriculture, afterward besides this, tools are also produced for other
professions, such as projectiles for hunting wild birds, melting pot -
pouring end and earth mould for moulding metals, yarn cop and spindle
for the weaver, net sinkers for fisherman, scale sliding weight for traders,
supporting table and turnable for the container forming work stage, ear-
rings and ear-pendants, bird statues, human statues for the spiritual and
religious life...). These especial handicraft products of ancient Dong Nai
in general are more rustic than the ceramics of Dong Son in the North
and Sa Huynh on the coastal region of Central Vietnam which have richer
types and shapes, more aesthetic, more harmonious and sophisticated and
utilitarian material culture, the characteristics of the local culture which
had imprinted their marks on the production and struggle life, the habits
and customs in daily life and spiritual life of a community of the same
descent with the megalith builders of this region).
Stone tools production industry: This is the most wide-spread
and classical industry, with the contribution of almost all the essential
technical processes in prehistoric stone processing industry - the search
and selection of raw materials, splitting, chopping, hewing and chipping
and indirect re-adjusting once or more times, coarse grinding, polishing
and fishing, reparing and transforming in order to make the most of waste
products, sawing and boring, ect., no few experience among these had
been applied by the megalith builders in their outstanding works. This is
also the handicraft industry playing the role of the technical basis for the
socio-economic development of ancient Dong Nai, “contributing to the
creation of the basis character and the essential material characteristics
of Dong Nai culture’s people” (Nguyen Cong Binh, Le Xuan Diem, Mac
Duong, 1990). Products of the stone industry occupy as much as 80% of
432 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.3 Page 433

▲back to top
the total quantity of implements - weapons and artistic - regilious ware of
the ancient Dong Nai different knids of granite and perhaps alos sandstone
taking part to the constructions of megalithic architectural works which
had to be fetched far from traditional settlement places, the major part of
stone used as raw materials for manufacturing small finished products was
exploited on the field, among which: The most common were hornstone
or schistose hornstone having as origin argillite or aleurolite; eruptive
rocks, mainly andesite or andesito-basalt (porphyroid), dasitic as quartz,
cordierite, carbonated biotite, epidotic zoisite contaning hornblencde
or feldspar, chlorite, xerisitic felsite, (acid eruptive) porphyry; besides,
there are basaltic olivine, or dolerite, quartzite of quartzitic biotite
metamorphosed from sandstone... Basically, they have a metamorphosed
aggregated structure (only some rare kinds have a garbo structure),
crystallized grains, and have been often denatured by thermal pressures;
a massive texture, with often fine background grain, are hard but brittle,
both suitable to the manufacture and use of implements, and easy to exploit
because their available resources exist in many pebble open air deposit
along Đồng Nai river nad its left bank and right bank tributaries system.
Besides the Hang Gon workshop specialized in the processing of
megaliths along with the craftsmen’s workshops and guilds (such as
Phong Khong Hill) specializing in the manufacture of bracelets by the
techniues of chiseling and boring for separating the core on 1-2 faces
from various kinds of soft and weak schistose stone or aggregated as
basalt, fine sandstone, bluish gray siltstone, metamorphosed sandstone,
black schistous hornstone, bluish gray siltstone, xerisite, chlorite, quartz,
quartzite, dasite; the outstanding products of the local small-sized stone
processing industry are the lithophone sets - a product having a sound
range symbolyzing the talents of Dong Nai’s “stone masters” as well as
the cultural and ecological profile of ancient Dong Nai, uncovered in
the ancient villages of Binh Da, Go Me, Da Kai, Loc Hoa and Rach La,
the precedent form of which may be found in the musical instrument-like
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 433
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.4 Page 434

▲back to top
Suoi Linh collection, dating from many centuries before the megalithic
complex. In the contemporaneous hamlets and villages of the highly
developed cultural stage’s Hàng Gòn, it is evident that one may observe
an obvious reduction of the role of stone implements and weapons in tight
relationship with the appearance and growth of the corresponding bronze
and iron artifacts.
The materials collected from excavations realized here (sandstone
moulds, bronze melting got and ladle for scooping bronze, copper scoriae
and collection of real-size implements - weapons - jewels - artistic and
religious artifacts uncovered in tomb or depots) ascertain the indigenous
character of the industry of mould production and on the site metal ware
processing in series of ancient villages of Dong Nai from river sources
to estuaries (Phu My, Cat Tien, Suoi Chon, Hang Gon, Dau Giay, Long
Giao, Doc Chua, Binh Da, Go Me, Go Cat, Long Buu, Cu Lao Rua, Go
Cao Su, Cai Van, Rach La, Cai Lang, Dai An, Bung Bac, Bung Thom,
ect.). For the first time in South East Asia, we may witness a collection of
big sandstone moulds including as much as 160 specimens from 28 sites;
in the 12 sites appertaining to the Ist Millennium BC alone, as much as
149 specimens = nearly 93% of the total number of Dong Nai’s moulds,
have been collected. Among these, in taking only account of the number
of moulds excavated in Doc Chua (76 pcs) and Bung Bac (38 pcs) we
have already a quantity greater than the total number of moulds collected
since the start in the whole South East Asia (Laos, Thailand, Malaysia,
Indonesia and even including Dong Son and Sa Huynh of Vietnam).
Obviously, currently in Southern Vietnam, there is not yet any effort
destined to find out the traces confirming activities of exploitation of
copper ore and ores of the various needed metal alloys, along with metal
preliminary processing. The absence of copper ore sources in Dong Nai’s
territory and geo - physico - chemical research results on the known
Indochinese bronzes allow to assume that: Dong Nai’s ancient metallurgic
craftsmen might have used ores imported from Laos, Thailand and Dong
434 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.5 Page 435

▲back to top
Son by an egalitarian and periodical trade exchange method mainly
through the arterial fluvial ways of the Mekong and Dong Nai rivers to
South Vietnam (Pham Duc Manh, 1984). Spectrographical analysis results
showed that: Dong Nai’s implements - weapons - artistic artifacts are not
produced from pure red copper, but from artificial bronze alloys: Cu + Sn
(30 samples = 44,1%), Cu + Pb + Sn (16 = 23,5%), Cu + Sn + Pg (11
samples = 16,2%), the less frequently encountered alloys are Cu + Pg (6
samples = 8,8%), Cu + Pb + Sn + As (3 drum samples = 4,4%), Cu + Pb
+ As (1 drum sample = 1,5%), there is only one ax sample in Hiep Hoa
(Cu Lao Pho), other metals, bimetals and metalloids the concentration
of which is less then 1% are considered as impurities inclued from the
start in ores. In the pre-Dongsonian - Dongsonian vestiges in North and
Northern Central Vietnam (Vietnam), the highest quantity are occupied
by the groups of samples Cu + Sn + Pb (208 samples = 31%), Cu + Sn
(157 samples = 23,4%), Cu + Pb + Sn (148 samples = 22,1%), whereas
pure copper occupy as much as 76 samples = 11,3%, more important than
all the remaining alloy such as Cu + Pb (44 samples = 6,6%), Cu + As
(13 samples = 1,9%), Cu + Sb, Cu + Pb + As, Cu + Sn + Pb + As, Cu
+ Pb + Sn + As all have 5 samples (0,75%), Cu + Sn + As (3 samples =
0,4%), Cu + Sn + As + Pb (2 samples = 0,3%). In Our inventories, the
ratios of main alloy components of many collections already published
in South East Asia’s mainland and islands are also presented, but the
most deserving attention are the collections from South China (Wanjiaba,
Dabona, Shizhaishan), with the group of pure copper samples having up
to 10 samples = 47,6%, Cu + Sn 8 samples = 38,1%, Cu + Sn + Pb 3
samples = 14,3%), and Northern Thailand (Ban Na Di, Non Nok Than,
Obloang - Chiang Mai, with the Cu + Sn group having up to 77 samples
= 68,75%, Cu + Pb + Sn 12 samples = 10,71%, Cu + Sn + Pb 10 samples
= 8,92%, whereas pure copper has 7 samples = 6,25%, more important
than the remaining alloys such as Cu + Pb (5 samples = 4,46%), Cu +
Sn + As (1 sample = 0,9%). Among rare remaining analyzed samples
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 435
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.6 Page 436

▲back to top
in Malaysia (Kampong Sungai Lang, Klang Selangor, Tembeling), 7/8
samples are made of Cu + Pb + Sn, 1 sample of Cu + Sn + Pb, and in
Indonesia (Majbrate - New Guinea, Kerinci Lake - Sumatra, Kunkah),
only 2/4 samples are made of Cu + Pb + Sn, the remaining samples are
only made of Cu + Pb and Cu + Sn + Pb (Pham Duc Manh, 1991-2008).
For more details on the chemical composition of the bronze collections of
Vietnam (Southern Vietnam, North Vietnam - Northern Central Vietnam,
Central Highlands) and in South East Asia, we may consults the diagrams
giving the concentrations of Cu, Sn, Pb, As (Fig.109-110). According to
the remark made long time ago by W. Solheim II, artifacts wit Cu + Sn
+ Pb alloy are a characteristic of a typical Dongson bronze collection.
In the group samples of Doc Chua (Binh Duong) and Binh Loc (Dong
Nai), there is a considerable content of Phosphorus (P), which is also
in accordance with research results by I. R. Selimkhanov had the same
geomorphologic conditions.
On the background of prehistoric and proto-historic South East
Asia in the epoch of generalization of megalithic monuments, we may
presently come up to the following observations: As early as the middle
of the IInd Millennium BC, it is possible that centers of bronze metallurgy
of Đông Sơn type in North Vietnam and South China, along with North
Eastern Thailand might have been the starting productive furnaces of the
bronze metallurgy of the whole area. Under the influence of these centfal
furnaces and built on the basic of imported raw material from Dong Son
or Thailand, a bronze processing industry was set up and developed in
Dong Nai. An independent metallurgic center, although still having to rely
on regularly imported raw materials sources, specializing in the ways of
creating 2-4 trough moulds aimed at mass-producing bronze ware of its
own, moght have been founded at about the limit between the two Ist - IInd
Millennia BC in Mekong’s river lower reaches regions.
Beginning from the Ist Millennium BC, Southern Vietnam’s bronze
casters supplied to ancient men’s communities appertaining to the
436 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.7 Page 437

▲back to top
Southern region of Sa Huynh cultural complex almost the total number of
bronze implements - weapons - jewels, to the extent that, some centuries
after, bronze halberds were still sold in the period of transition to the
Iron Age. A Long with sharp-pointed weapons of the type of the Chinese
Chungyung-halberds and cast drum type musical manufactured after
“Dongsonsian style” models (Dongson drum model appearing attached
with a lace to the shoulders of a soldier’s figure wearing sword and
bracelets on the megalithic bas-relief of Batoegadjan, or the Heger I
drum carved together with two men and one dog on Airpurah megalithic
monument, have led many scholars to linked Pasemah megalithic culture
with the Ist Millennium BC and with Dong Son culture), the specific
artifacts of Dong Nai, in particular the concave-bladed axes, short-
handled spears, harvesting blades and statues (dog hunting a flying
fox, pangolin) and the biggest sandstone mould of the area confirm the
prosperity of metallurgy and metal ware processing in the metallurgic
workshops all over Dong Nai’s river basin, and underline the technical
progresses and characteristics of the high level development stage in the
prehistoric and proto-historic cultural traditions of the communities of the
indigenous megalithic complexes’ owners, and, along with Dong Sơn and
Thailand, we may believe that: Đồng Nai actually become one of the most
important centers of bronze metallurgy in South East Asia (fig.107-113).
From the middle of the Ist Millennium BC - The earliest date indicating
the start of the construction of Hang Gon megalithic monuments, Dong
Nai had really become an early iron metallurgy center, with fully made
products, proving that Dong Nai’s proto-historic life was more peaceful
than warlike, in spite of the fact that this was “the era of the iron sword”
(F.Engels,1848). The generalization of more advanced iron work - farming
- harvesting implements changed labour quality and productivity, opened
new sub-zones of population settlement, production and exploitation,
strengthened internal economic, technical, cultural and religious
relations, created necessary conditions for the concentration of wealth,
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 437
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.8 Page 438

▲back to top
accumulation of riches, differentiation between the rich and the poor,
collective labour management and reinforcement of the central power of
inter-regional and sub-regional Varmans, alleviating pressures of the real
population growth - migration and immigration - mixed settlement and the
needs of the primitive indigenous society for an indispensable development
into a civilized society equipped with the primary structure of a primitive
State - a State having a royal capital, and fortresses for local princes who
governed many hamlets and villages as “grassroots administrative units”,
with the small patriarchal families as elementary nuclei in replacement
of the great matriarchal families and the communities of administrative
and religious villages as geographical division units in replacement of
the communities of villages based on blood-relationship (Nguyen Cong
Binh, Le Xuan Diem, Mac Duong, 1990) - the period when the love story
between Hon Dien and Lieu Diep took place in this prosperous country
and was integrated into legends and ancient history (Pham Duc Manh,
1996-1997).
The appearance of iron implements and weapons on the cultivated
fields and battlefields of Southern Vietnam in proto-historic (fig.109-111)
coincided with the moment of first appearance of stone weights in Doc
Chua and iron weights in Phu Hoa - the very small weights especially
manufactured for traders, certainly reserved for the wieghing of precious
objects, which seem to be the still preserved witnesses for confirming a
new level of prosperity which not only served the internal needs of the
indigenous social community, but also satisfied the development of exterior
trade exchanges of foodstuffs, foods, forest and sea products, including
ores, artistic master-pieces, jewelry, West Han style bronze mirros and
special equipment for ceremonies, religious and worshipping activities
as well as other ware (fig.112). Probably in this region and from this
time on, was formed on the basis of a communal agriculture a primary
social labour division between the main economic braches (agriculture
with uplands rice as the most generalized plant, including also inundated
438 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.9 Page 439

▲back to top
rice cultivation in the most cultivable zones, other farm produce, tuberous
plants and fruit-trees and cattle raising) and other prehistoric branches
supplying foodstuffs, foods, forest and sea products (hunting, fishing,
gathering of various products of mountains and forests, rivers and
streams, marshes and ponds, sea); territorial division for exploiting to the
best natural resources in each sub-zones and specialization of the most
important handicraft requirements of the leading economic branches and
the contemporaneous demands of an economy relying on agriculture,
natural resources exploitation, handicraft production and the region’s
interior and exterior trading exchanges, with the effects of a “strong level
of the social production” (F.Engles). In the general cultural structure
of Dong Nai’s tribal community at the moment megalithic monuments
started to be built, the hoe-wielding agriculture on slash-and-burn fields
for a multivaried but specialized development of the supporting industry
system. The development of agriculture was itself the “economic basis” of
the whole Dong Nai’s prehistoric and proto-historic historic society, and
even the “economic basis of themost developed cultures and civilizations”
(Masson V. M., 1983).
In the gateway of the cultural and technical flows on South East Asia’s
rivers and seas, in the place which is seen as the “Crossroads of the
Arts” (Le Carrefour des Arts) (Groslier B. P., 1961), or the “Crossroads
of peoples and civilizations” (Carrefour de peuple et de civilization)
(Jané O., 1961), Dong Nai traders, on boats dug out from “parasherea”-
wood or rafts assembled from bamboo, made trade exchanges along
arterial streams or alongside sea coasts, opened trade exchange relation
itineraries, learned and accumulated experiences in cultural creation,
intergrated themselves into strange festivals and ceremonies, witnessed
many beautiful sights and megalithic monuments, got in contact with
number of other lands and island of South East Asia and the continent.
Probably, in reality, there were also island trade exchange roads, crossing
mountains and forests, not less difficult than the itineraries for seeking
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 439
HANG GON MEGALITHIC TOMB

44.10 Page 440

▲back to top
and transporting megaliths. But in the Ist millennium BC, when the
geographical extent of the “Dongsonian style” had actually taken shape
(fig.113-115), we may have a greater basis for firmly believe that: The
Viet traders had sufficient will and capability for using the big boats they
knew well (which probably did not differ much from the boats carved on
the broze drums of which they had been just the first authors), to follow
the greatest waterway of South East Asia, the Mekong river, through the
related territories to come to Nam Bộ Vietnam, or otherwise they might
opened maritime routes and directly crossed the East Sea to come to South
Vietnam, as “transit stations”, before beginning their long voyage to the
islands of the area and the continent. These were also the most important
and the most realizable roads for cultural exchanges - trading of specialty
products - friendship relations - technical transfer - artistic inspiration
and religious belief propagation in prehistory and proto-history, with
available transport means in inland primitive geomorphologic conditions,
and following rivers and sea routes, for directly or indirectly, through the
intermediary of gap-bridging cultures, going to or departing from Dong
Nai.
Influences of the ancient Việt civilization on Dong Nai had the effects
of important stimulating factors of the process of historical and cultural
development that, during more than a century, many generations of
scholars have looked for and analyzed, and we have observed in Dong
Nai. However, the factors, linked to the internal development, determining
the prehistoric and proto-historic cultural nature of Dong Nai and
cultivating the skills and heroic spirit & of those who had transformed
their dream of building a “Holy Land” citadel into reality - Dong Nai’s
ancient men - “the real hearts of culture”, in the author opinion, should
play a decisive role. For this reason, though containing “imported”
factors (jewels in precious or semi-precious stones - such as agate,
granate, carnelian, multicoloured artificial glass, silver or gold, 3-noded
ear-rings, similar to the “Lighling-O” of Philippines’ mountaineers,
440 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

45 Pages 441-450

▲back to top

45.1 Page 441

▲back to top
ornamented with two-heahed animal figures, considered as a Sa Huynh
“specialty”, the cplouring and ornamenting manner resembling that of
India, the technique of casting bronze after models of Dong Sơn drums or
Chungyuan - “Ko”-halberds, West Han’s mirrors, the way of burying a
deceased Varman or kinfolk in a coffin made of a dug out tree trunk in the
ancient Viet - Pre-Viet-Muong manner or in a coffin made of a ceramic jar
as in the coastal regions, or revering the merits of the Chiefs possessing
the highest temporal and religious power in the community in megalithic
monuments of the “Dolmen” or “stone-cist” type in insular civilizations),
Dong Nai’s prehistoric and proto-historic cultural complex was itself the
cultural background of the most outstanding megalithic complex on the
mainland of the area. All this cultural complex present itself before us
as a separate historic phenomenon and having essentially the scale of
an unique culture separable by nature from all contemporaneous metal
civilization having or not built “Holy Land” megalithic monuments in the
whole Southeast Asia or Asian Continental.
But the characteristicsand most typical results, besides the megalithic
burial vaults containing the Holy relics of this cultural complex, are
reflected, without any exception, in all collections of artifacts, whether
they are made of stone, bronze, iron or horn, silver, gold or ceramic, of
any episode, reflecting faithfully the actual situation of ancient Dong
Nai society, the primitive economic, cultural and religious activities of
the aborigines, enhancing the specific features of Dong Nai’s prehistoric
and proto-historic arts, created around Cau Sat - Suoi Linh since the
chaotic times of the Chalcolithic period, and growing thanks to the
tropical - sub-tropical ecological potential of a region comprising semi-
mountainous lands - river estuaries - deltas near the sea, and the lived
experience of intergration into and transformation of nature, and relying
on the traditions and advantages of exchanges, allowing to receive
the contemporary outstanding and useful achievements of mankind’s
intellect, for unceasingly regenerating and “handing down generation to
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 441
HANG GON MEGALITHIC TOMB

45.2 Page 442

▲back to top
generation” the task of building Dong Nai society - and one’s own “second
nature” on the small piece of land on the Pacific shore bearing the name of
Southern Vietnam. Above are some features on the historical and cultural
profile of the owners of the outstanding megalithic monuments able to
play the role of “Holy Land” at least during the five centuries preceding
the Christian Era.
In this special historical context, the transformation of a primitive
culture into a primary civilization, of the scale of a river system basin,
vividly and intensely reflected life in the transitional period between the
proto-history and ancient history of Dong Nai, in its process of integration
into the Oc Eo civilization, with as initial center the urban centers, markets
places and ports along Mekong river’s estuaries”... fed by Hau river’s
alluviums” (Ha Van Tan, 1984), and the new “Holy Land” of the type
of Cat Tien, “basin in the midst of mountains”, at Da Dong three-way
crossroads in Dong Nai Highlands at the end of the Ist Millennium AD
(10-12th century AD - Tran Quoc Vuong, 1966, 1999), when the urban
centers, markets places and ports of Oc Eo - Ba The, Thap Muoi - Binh
Ta and Thi Vai - Can Gio types in the lower reaches region fell under the
numerous attacking streams from outskirts zone peoples and also from
nature (Pham Duc Manh, 1997-2008; Yumilo Sakurai 1996) (fig.116-118).
The earliest cultural transformations, taking place at the start of this
period, bear new forms and tendencies, with the cultural intergration
process, in the new exchange conditions, mode and pace - more rapid and
more pragmatic, thanks to which, ancient South VietNam society, in the
first centuries of the Christian Era, may witness historical events never
yet seen in prehistory, in term of significance, surpassing the framework of
the community, and the undertaking of building and enriching culture and
traditions, on the background of Southern Indochina, again take place
but on a more efficient and more progressive new level. In the author’s
own opinion, this is understandable, and one may figure out, on the basis
of available archaeological knowledge, the actual state of centers of
442 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

45.3 Page 443

▲back to top
settlement grouping, cultural crystallization, concentration of temporal
and religious powers, post-prehistory integration and exchange relations
appertaining to a multi and inter-community economic - cultural - artistic
- trading - political - and religious structure, in the proto-history - ancient
history transitional period - a higher level social organization, of a larger
historical scale, and having more power, characterized by the appearance
of an embryonic State of the earliest kind in the area, along with urban
centers, market places and ports of the type adequate to the ecological
environment, and bearing the specific features of the beginning of the
Christian Era, assimilating influences of the expansion of the Ganges
civilization, that numbers of European and North-American scholars
desinate as the process of “Hindoniseự; Indianiseự; Indianization”,
with waves of Brahmanist and Great and Little Vehicle Buddhist cultures
following the paces of priests and bonzes from India and many other
countrie’s directions coming to South Vietnam and Southern Indochina.
The general picture of the ancient history of the Central Highlands and
the Eastern coastal plains of South Vietnam, thanks to the exhaustive
decoding of the reciprocal exchange relations and cultural integration
dialectical processes, it is possible to figure out to the most accurate and
extremely interesting extent the fundamental and outstanding features,
during at least 7 centuries - starting from the moment Đồng Nai men had
really stepped out of the primitive era.
“The Bygone precisely is the Prelude of the Coming...”
(William Shakespeare)
And from the ancient villages in high hills, deep jungle, oases, islands
(Cau Sat, Hang Gon, Dau Giay, Suoi Chon, Doc Chua, Binh Da, Cai
Van, Bung Bac, Bung Thom...) to Xuan Loc jar plains, belonging to jar
cemeteries on Can Gio estuary or Phu Chanh coastal marsh lands, the
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE 443
HANG GON MEGALITHIC TOMB

45.4 Page 444

▲back to top
Long Giao treasures containing weapons and precious statues, and Hang
Gon Megalithic Tomb Complex...., from the “Dong Nai phenomena” in
the history of the up-and-downs of South East Asia metal age culture and
civilization - these “peaks” of the local prehistoric and proto-historic life,
ancient history’s life re-started on this heroic frontier region, in spite of
the fact that Hang Gon Megalithic Monuments progressively entered a
next Millenium when they were no more “Stone Holy Land”; Though: “In
hundreds of years, stone stelae may be eroded...”
(Folk-popular saying).
444 SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB

45.5 Page 445

▲back to top
Muïc luïc
Lời giới thiệu.............................................................................................5
PHẦN THỨ NHẤT
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NHÂN VĂN VÙNG ĐẤT ĐỎ
BAZAN Ở ĐỒNG NAI...................................10
PHẦN THỨ HAI
CÁC DI TÍCH VĂN HÓA CỰ THẠCH TRÊN VÙNG ĐẤT ĐỎ
LONG KHÁNH, XUÂN LỘC, CẨM MỸ ....................19
Chương I
DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN I (7A)..................20
1. Phát hiện ban đầu.................................................................................20
2. Khai quật.............................................................................................20
3. Các công bố đầu tiên của Jean Bouchot..............................................21
4. Công trình nghiên cứu của Henri Parmentier
và học giả nước ngoài..........................................................................25
5. Công cuộc khảo cứu di tích Cự thạch Hàng Gòn I (7A)
của giới khảo cổ học Việt Nam giai đoạn 1975-1995.........................23
Chương II
DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN II (7B)..................38
1. Phát hiện ban đầu.................................................................................38
2. V ị trí - cảnh quan hiện tại của khu di tích
Cự thạch Hàng Gòn II (7B).................................................................40
3. Điền dã khảo cổ học ở di tích Cự thạch Hàng Gòn II (7B).................42

45.6 Page 446

▲back to top
Chương III
CÁC ĐỢT ĐIỀN DÃ (THÁM SÁT - KHAI QUẬT)
& NGHIÊN CỨU HIỆN TRƯỜNG HÀNG GÒN
& VÙNG PHỤ CẬN GIAI ĐOẠN 2006-2011................47
1. Đ ợt điền dã 2006-2007 phục vụ chương trình tôn tạo, trùng tu,
bảo tồn Hàng Gòn theo Luật Di sản văn hóa.......................................47
2. Đ ợt điền dã 2010-2011 nghiên cứu trầm tích Hàng Gòn
và vùng bazan trẻ phụ cận...................................................................63
Chương IV
HIỆN VẬT KHẢO CỔ HỌC............................65
1. Di tích Cự thạch...................................................................................65
2. Di vật khảo cổ học khác......................................................................66
Chương V.
KẾT QUẢ GIÁM ĐỊNH THỔ NHƯỠNG
& MẪU VẬT HÀNG GÒN & VÙNG PHỤ CẬN 1996-2011......94
1. Phân tích bào từ phấn hoa ở Hàng Gòn và vùng phụ cận....................94
2. Phân tích thạch học dưới kính hiển vi phân cực................................110
3. Phân tích thành phần chất liệu gốm bằng phương pháp hóa học
& quang phổ định lượng....................................................................115
4. Phân tích thành phần hợp kim đồng bằng phương pháp
quang phổ định lượng........................................................................117
5. Phân tích niên đại tuyệt đối bằng phương pháp C14.........................119

45.7 Page 447

▲back to top
PHẦN THỨ BA
QUẦN THỂ DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN
TRONG BÌNH DIỆN VĂN MINH KIM KHÍ ĐỒNG NAI
& VĂN HÓA CỰ THẠCH CHÂU LỤC..................122
Chương I.
QUẦN THỂ DI TÍCH CỰ THẠCH HÀNG GÒN
- MỘT TRUNG TÂM VĂN HÓA TINH THẦN ĐỒNG NAI
THỜI KỲ TIỀN NHÀ NƯỚC............................123
Chương II.
QUẦN THỂ DI TÍCH KIẾN TRÚC
ĐÁ LỚN HÀNG GÒN (VIỆT NAM) TRONG BÌNH DIỆN
VĂN HÓA CỰ THẠCH CHÂU LỤC.....................142
1. Các trung tâm văn hóa cự thạch miền Đông Bắc Á..........................146
2. Các trung tâm văn hóa cự thạch miền Tây Nam Á...........................166
3. Các trung tâm văn hóa cự thạch miền Đông Nam Á ........................177
4. Đ ôi điều phụ chú về văn hóa Cự thạch châu Á và về các vết tích liên
quan đến truyền thống tạo dựng Đá lớn trên lãnh thổ Việt Nam.......206
THAY CHO KẾT LUẬN..............................238
Tài liệu tham khảo.................................................................................264
Chữ viết tắt............................................................................................288
WEBSITES............................................................................................289
Chú dẫn bảng thống kê..........................................................................292
Chú dẫn sơ đồ - hình ảnh.......................................................................294
Research Summary................................................................................300
MỤC LỤC...................................................................................................

45.8 Page 448

▲back to top
CONTENTS
SPECIAL NATIONAL HERITAGE SITE
HANG GON MEGALITHIC TOMB...................301
PART ONE
GEOGRAPHICAL & HUAMANITIES CONTEXT
OF THE BASALTIC RED SOIL REGION
AT DONG NAI PROVINCE............................302
PART TWO
MEGALITHIC SITES IN THE RED SOIL REGION
OF LONG KHANH - XUAN LOC, DONG NAI............310
Chapter I
THE MEGALITHIC SITE HANG GON I (7A)...........311
1. Rospection.........................................................................................311
2. Excavations........................................................................................311
3. Jean Bouchot’s First Publication.......................................................312
4. Studies by Henri Parmentier & Foreign Scholars.............................315
5. Researches & Studies on the Megalithic Site Hang Gon I (7A) by
Vietnamese Archaeologists, 1975-1995............................................320
Table I. Inventory of Megalithic Chamber & piles with fragments
Chapter II
THE MEGALITHIC SITE HANG GON II (7B).............325
1. Prospection........................................................................................325
2. Actual Situation & Landscape of the Megalithic Site Complex
Hang Gon II (7B)...............................................................................325
3. Archaeological Fieldworks at the Megalithic Site
Hang Gon II (7B)...............................................................................327
4. Archaeological Test Diggings............................................................330

45.9 Page 449

▲back to top
Chapter III
THE ARCHAEOLOGICAL FIELDWORKS (RECONNAISSANCE
& EXCAVATIONS) & STUDIES AT HANG GON
& NEIGHBOURING REGIONS (2006-2011)..............331
1. T he Archaeological Fieldwork (2006-2007) for Embellishment,
Reconstruit & Preserved Plans of Hang Gon Megaliths according to
Heritage Law.....................................................................................331
2. T he Archaeological Fieldwork (2010-2011) for Stratigraphy
Studying of Hang Gon & neighbouring Basaltic Regions................332
Chapter IV
ARCHAEOLOGICAL ARTIFACTS......................333
1. Megalithic Vestiges............................................................................333
2. Other Archaeological Findings..........................................................334
Chapter V
RESULTS OF PEDOLOGY & SAMPLE ANALYSES
OR HANG GON SITE & NEIGHBOURING REGIONS,
1996 - 2011...........................................336
1. A nalysis of Spores & Pollens from Hang Gon Site
& Neighbouring Regions...................................................................336
2. Lithological Analysis by Polarizing Microscope..............................337
3. A nalysis of Ceramic Paste Elements by Quantitative
Spectro-Chemical Method.................................................................338
4. Analysis of Bronze Alloy Elements
by Quatitative Spectrological Method...............................................339
5. Dating by Radio-Carbon C14 Analysis.............................................339

45.10 Page 450

▲back to top
PART THREE
THE HANG GON MEGALITHIC COMPLEX ON CONTEXT OF
DONG NAI METAL CIVILIZATION & OF CONTINENTAL
MEGALITHIC CULTURES...............................341
Chapter I
THE HANG GON I-II (HANG GON A-B) MEGALITHIC SITE
COMPLEX, A SPIRITUAL CULTURE CENTER OF DONG NAI
IN THE “PRE-STATE” PERIOD........................342
Chapter II
THE HANG GON (DONG NAI-VIETNAM) MEGALITHIC
ARCHITECTURAL COMPLEX ON THE REGIONAL AND
CONTINENTAL MEGALITHIC CULTURE PLANE.......353
1. Megalithic Culture centers in North-East Asia..................................355
2. Megalithic Culture centers in South-Weast Asia...............................369
3. Megalithic Culture centers in South-East Asia..................................380
FOR A CONCLUSION..................................424
APPENDIX
REFERENCES
WEBSTES
NOTES ON INVENTORY TABLES
NOTES ON CHARTS, DRAWINGS, PHOTOS
RESEARCH SUMMARY
CONTENTS..........................................................................................448

46 Pages 451-460

▲back to top

46.1 Page 451

▲back to top
DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT MỘ CỰ THẠCH HÀNG GÒN
PGS. TS Phạm Đức Mạnh - TS. Nguyễn Hồng Ân
Mã ISBN: 978-604-42-2292-9
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PHÓ GIÁM ĐỐC TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Nguyễn Văn Lừng
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Nguyễn Văn Lừng
Nguyễn Minh
............................................................................................................
In: 1.000 bản. Khổ: 16 x 24 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM. Số XNKHXB:
4009-2024/CXBIPH/1-981/ĐoN, Cục Xuất bản, In và Phát hành
xác nhận ngày: 23/10/2024, Quyết định xuất bản số: 22/QĐA-ĐoN
do NXB Đồng Nai cấp ngày: 12/12/2024. In xong và nộp lưu
chiểu: quý 4/2024.

46.2 Page 452

▲back to top
Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh - Phát hành: 946 521 - 946 530
Email: dongnainxb@gmail.com