Ban tinh ca nguoi linh

Ban tinh ca nguoi linh

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
TUYỂN TẬP SÁNG TÁC - BẢN TÌNH CA NGƯỜI LÍNH

1.2 Page 2

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN
Kính tặng

1.3 Page 3

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN
TUYỂN TẬP SÁNG TÁC
BẢN TÌNH CA NGƯỜI LÍNH
NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI

1.4 Page 4

▲back to top

1.5 Page 5

▲back to top
Lời giới thiệu
Của cố nhà văn Hoàng Văn Bổn
Tôi biết Ẩn vào những năm 1948 đang kháng chiến
chống Pháp giữa rừng Chiến khu Đ, vùng Bình
Chánh - Ông Đông. Dạo ấy, tôi đang làm Trưởng ban Giáo
dục huyện Tân Uyên kiêm Hiệu trưởng Trường Tiểu học
Kháng chiến của huyện. Trong số học trò độ vài chục em
gồm con em cán bộ kháng chiến, thiếu sinh quân, con em
Liệt sĩ có Huỳnh Ngọc Ẩn. Bố Ẩn là anh Tư - Huỳnh Văn
Lũy, đảng viên kỳ cựu - Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa.
Thực ra, hồi nhớ lại các em học sinh tiểu học ngày
ấy, kham khổ, lam lũ, đói, bệnh tật đủ thứ. Lục lại trí nhớ,
khó tìm ra em nào nổi bật gây ấn tượng, khó quên. Giống
nhau như trứng gà, trứng vịt, lử khử, rách rưới. Da xanh
mét, bụng chang bang vì lá lách bị bệnh sốt rét sưng phù.
Cho nên, bảo em nào nổi bật, khó nhớ lắm. Chỉ trừ vài em
gái nhà có gạo cung cấp thêm, có thức ăn như mắm ruốc,
muối tiêu... Viết đến đây, tự dưng thấy bùi ngùi. Một thế
hệ tương lai của đất nước mà phải chịu cảnh ấy đến ba
chục năm trời. Có thể nói: Chín năm trong rừng Chiến khu
Đ, rất ít được một bữa cơm hai chén. Toàn là cơm không
trộn khoai, mì sợi, khoai củ, rau tàu bay. Vậy mà thế hệ
ấy vẫn chung thủy với kháng chiến, với mái trường Tiểu
5

1.6 Page 6

▲back to top
học Kháng chiến huyện Tân Uyên chúng tôi cho đến ngày
hòa bình năm 1954. Cái mái Trường Tiểu học Kháng chiến
ấy một năm bị giặc đốt cháy ít nhất cũng năm, bảy lần.
Các thầy chúng tôi dẫn các em chạy giặc, tổ chức đánh lại
chúng, chặt cây rừng, cắt tranh làm lại trường, lại vào học.
Tự lên rừng chặt cây, đốt rẫy, trồng lúa, khoai, rau. Tự viết
tài liệu do chúng tôi rút ruột soạn ra, in bột, in bằng đất sét,
phổ biến toàn huyện. Tham gia các đội tuyên truyền xung
phong, diễn kịch tuyên truyền cho kháng chiến...
Đã năm mươi năm trôi qua, trong đó có ba mươi năm
kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ. Số ít trong các em học sinh Trường Tiểu học Kháng
chiến huyện Tân Uyên ngày ấy đã hy sinh, đã qua đời vì
bệnh tật. Số lớn đã thành đạt, trở thành cán bộ cao cấp của
Đảng, Nhà nước, trong đó có: Huỳnh Văn Bình - Chủ tịch
UBND tỉnh Đồng Nai; Lê Thị Ngọt - Phó thống đốc Ngân
hàng Nhà nước; Huỳnh Ngọc Ẩn - Phó Giám đốc Sở Thủy
lợi tỉnh Đồng Nai; Cúc A Sâm - Thượng tá bác sĩ quân y;
Mười Cao - Thượng tá công an; Trương Đình Cát - Giám
đốc xí nghiệp gạch ngói 3/2; Đỗ Hữu Báu - Cán bộ giáo dục
tỉnh Đồng Nai; Huỳnh Chí Quốc - Phó Giám đốc Sở Xây
dựng Đồng Nai; Huỳnh Dĩnh - Giám đốc Sở Giáo dục…
Tất nhiên, ai cũng hiểu rằng Trường Tiểu học Kháng
chiến huyện Tân Uyên chỉ là buổi học đầu đời của các
em. Nhưng là một buổi học đầu đời vô cùng quan trọng
suốt cuộc đời các em. Cái buổi học đầu đời trong rừng sâu,
trong bom đạn ấy, đẹp lắm, không dễ gì quên được. Đó là
hành trang quan trọng suốt cả quá trình nửa thế kỷ qua
của các em. Với các em được đi tập kết, được làm học sinh
miền Nam trên đất Bắc, những ngày ấy lại càng sống mãnh
6

1.7 Page 7

▲back to top
liệt, thêm thù nhà, nợ nước và sẵn sàng hy sinh vì non sông
đất nước, vì ngày sum họp quê hương giải phóng.
Những bài thơ viết dưới dạng gần giống như “nhật ký”
của Huỳnh Ngọc Ẩn, đúng như “tiếng lòng tôi” của một
học sinh miền Nam, của một chiến sĩ vượt Trường Sơn
chiến đấu gian khổ góp phần giải phóng quê hương. Là
tiếng kêu nhức buốt tận tim của một người con khi nghe
tin người cha Đảng viên Cộng sản đã bị kẻ thù giết hại, là
nỗi lòng thương mẹ, nhớ cha, nhớ mảnh rừng chiến khu
năm xưa có mái trường tuổi thơ ấu đã hun đúc nên nhân
cách, khí phách các em.
Xuyên suốt hơn mấy chục bài thơ, hầu như không bài
nào tác giả không nhắc đến lòng thương nhớ cha mẹ, các
em, lòng căm thù giặc xâm lược và lòng mong muốn được
cầm súng chiến đấu để sớm được trở về quê hương...
Cũng có những “tiếng lòng” về tình yêu thuở ấy, nhưng
không bài nào trọn vẹn. Tình cảm riêng tư vẫn cứ bị tình
yêu quê hương, lòng thương nhớ cha mẹ cắn rứt:
Những năm đất nước cắt rời
Đêm Nam, ngày Bắc bời bời nhớ mong
Từ trong sâu thẳm cõi lòng
Giữ bao kỷ niệm sống cùng thời gian
Bàn chân xuống biển, lên ngàn
Mỗi miền đất nước muôn vàn mến yêu
Những kỷ niệm khó phai mờ về một Chiến khu Đ của
“miền Đông gian lao mà anh dũng” cũng luôn thường trực
trong trái tim anh:
7

1.8 Page 8

▲back to top
Nơi một thời cùng chung ấm lạnh
Kỷ niệm ngày qua bừng dậy trong tôi
Như thấy mây dông vần vũ bầu trời
Giặc đến đốt nhà hung hăng bắn giết
Máu lại đổ thấm sâu từng tấc đất
Và hờn căm như lửa cháy ngút trời!
Chiến khu Đ - cứ địa của lòng người
Bao lớp cha anh bền gan chống giặc
“Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”
Lũ giặc nghe câu nói cũng kinh hoàng...
Đại khái, bài nào cũng bị cái tư tưởng, cái tình cảm chủ
đạo chen vào, cắt ngang giữa dòng suy nghĩ mơ màng, lãng
mạn nhất. Có lẽ đó là điều dễ thấy ở tuổi trẻ học sinh miền
Nam những năm tháng tập kết, xa quê hương. Bởi vì xét
cho cùng, không thống nhất đất nước, đời các em không
còn gì cả: quê hương, cha mẹ, ông bà, gia đình, dòng sông
nơi mình sinh ra, mái trường đầu đời trong khói lửa. Đó
là đặc điểm của tuổi trẻ miền Nam tập kết. Cũng là một
trong những sức mạnh to lớn của nhân dân ta đánh thắng
kẻ thù xâm lược hung bạo và mạnh nhất thuở ấy: Một nửa
đất nước bị đô hộ. Một nửa gia đình bị chia hai. Một nửa
hạnh phúc vợ chồng chờ ngày gặp lại.
Và, đây là một đoạn thơ anh viết về kỷ niệm ngày má
tiễn anh đi tập kết:
Như chiều nay dưới trời cao lộng
Tiễn con đi xa lòng má trĩu buồn
Má dặn con: “Ra miền Bắc hậu phương
Ráng học tập luyện rèn cho giỏi
8

1.9 Page 9

▲back to top
Mai mốt trở về xây dựng quê hương...”
Thương má quá, con nuốt từng lời dặn
Ôi! Mẹ hiền - hình ảnh quê hương!
Thuở ấy, trên thế giới có vài nước bị chia cắt làm đôi:
Triều Tiên, Đức và Việt Nam. Nhưng chia đôi triệt để đi tập
kết thì chỉ có ở Việt Nam. Một người nửa ở nửa đi. Một cặp
vợ chồng nửa ở nửa đi. Thế đấy, mà đó là cuộc chia ly suốt
cả chục năm trời.
Ngoài cái chung ấy ra, với Ẩn, lại thêm những nỗi đau
riêng nếu không đặt trong bối cảnh “tập kết”, “chia đôi”
ấy không dễ gì đứng vững được: Năm 1956, Liệt sĩ Huỳnh
Văn Lũy, Phó bí thư Tỉnh uỷ Biên Hòa (vào Đảng Cộng sản
Việt Nam năm 1936) đã bị giặc Mỹ giết tại quê nhà, cù lao
Mỹ Quới, huyện Tân Uyên. Từ ấy, lúc nào cái chết của cha
cũng là động lực thúc đẩy Ẩn đứng lên, tiến về phía trước,
bất chấp mọi gian nguy, thử thách. “Bức ảnh gia đình” mà
Huỳnh Ngọc Ẩn luôn mang theo bên mình đã trở thành
một kỷ niệm sâu sắc, một nguồn động viên khích lệ vô
cùng lớn lao đối với anh:
Mỗi khi xem bức ảnh gia đình
Lòng tôi như ánh lửa lung linh
Nâng bức ảnh, áp lên lồng ngực
Thấy cả quê hương nặng nghĩa tình
và, vì thế, nên:
Bức ảnh theo tôi ra chiến trường
Mỗi lần xem ngắm, dội tình thương
Vọng lời ba má thầm căn dặn
Tiếp sức tôi qua mỗi chặng đường...
9

1.10 Page 10

▲back to top
Trong hành trang của tâm hồn mình, Huỳnh Ngọc Ẩn
dành nhiều tình cảm cho người cha thân yêu, người đồng
chí từng dìu dắt anh từ khi còn trong nôi cho đến khi trở
thành anh bộ đội Cụ Hồ. Anh có những câu thơ khá xúc
động về người cha của mình, như:
... Rừng Bà Xuân ngày ấy
Ba tiễn con lên đường
Bóng ba như bóng núi
In dáng hình quê hương...
Ba cố ghìm xúc động
Căn dặn con nhiều điều
Tình ba như biển rộng
Vỗ về con thương yêu!
Con nhìn ba thương quá
Mái tóc pha sương chiều
Ba đi làm cách mạng
Vượt qua bao hiểm nghèo...
Càng thương quý, tự hào về ba, nên khi nhận được tin
ba đã anh dũng hy sinh, Huỳnh Ngọc Ẩn càng đau đớn, tiếc
thương ba và căm thù giặc:
Ôi! Chiều nay mình con trên xứ Bắc
Khóc người cha đã anh dũng hy sinh
Trong đau thương, con đã chọn cho mình
Ngày trở lại trả thù nhà nợ nước
Ba hãy yên lòng có con đang tiếp bước
Trên con đường giải phóng quê hương...!
10

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
Và, để có được giây phút thiêng liêng được trở về quê
hương, thực hiện tâm nguyện trả thù nhà, nợ nước, Huỳnh
Ngọc Ẩn đã dồn hết sức lực tâm huyết, tình cảm của mình
để học tập, rèn luyện trên thao trường, trong giảng đường
đại học, trở thành chàng kỹ sư thủy lợi, thành Đảng viên
Cộng sản, rồi về Nam tham gia giải phóng quê hương. Thơ
“nhật ký” của Ẩn cũng ghi lại rất nhiều kỷ niệm đẹp đẽ đó:
Bốn ngàn ngày sống trên đất Bắc
Không đêm nào không nhớ quê hương
Thương mẹ hiền dãi nắng dầm sương
Tần tảo nuôi chồng con đánh giặc
Thương người cha kiên cường bất khuất
Anh dũng hy sinh trên vùng đất Chiến khu
Bao chiến sĩ hiên ngang trước kẻ thù
Hào khí “Miền Đông gian lao mà anh dũng”
Nơi Chiến khu mịt mùng bom đạn
Bóng cha già tha thiết ngóng chờ con
Ba có biết con ba vừa vô Đảng
Thành đồng chí của ba, chung trận tuyến diệt thù
Từ hôm nay, khi ngắm ảnh Bác Hồ
Con có thể gọi Người là: Đồng chí
Và vinh dự được làm người chiến sĩ
Trong đội ngũ điệp trùng về giải phóng quê hương!
Anh phải đi, không chần chừ thêm nữa
Khi “Tiếng quê hương nức nở gọi ta về”
Anh và em đã chung một câu thề
11

2.2 Page 12

▲back to top
Nước còn giặc, anh phải ra tiền tuyến
Em ở lại ráng lo tròn mọi chuyện
Vất vả gian nan xin chớ quản gì
Và hãy tin: “Đợi anh, anh sẽ về...”
Ngày giải phóng sẽ không còn xa nữa
Dù hôm nay đường ra tuyến lửa
Bom đạn quân thù đánh chặn ngày đêm
Cả đoàn quân đang rầm rập xông lên
Thề quyết tử - Trận cuối cùng quyết thắng!
Cho ngày mai con ta khôn lớn
Được sống yên vui trên đất nước hòa bình...
Cho đến ngày cầm súng trở về chiến đấu giải phóng
quê hương, được quỳ lạy mộ cha, được ôm trong vòng tay
của mẹ già, được gặp lại các em, mới thấy được những bài
thơ của chàng trai học sinh miền Nam tập kết và có những
thành công trong cuộc đời trên đất Bắc đã đem lại cho anh
những vui mừng đến ngỡ ngàng, đến mức thực rồi mà cứ
tưởng như mơ. Hay nghe anh tâm sự trong bài thơ Mừng
ngày sum họp:
Sự thật là đây vẫn ngỡ ngàng
Đúng rồi, lịch sử đã sang trang
Giặc tan, đất nước mừng sum họp
Ta giữa nhà ta giữa xóm làng...
Khách đến đông vui chuyện hỏi dồn
Chuyện ngày xa cách, chuyện nước non
Chuyện sống học hành trên đất Bắc
Tình bạn, tình yêu... chuyện vợ con
12

2.3 Page 13

▲back to top
Câu chuyện về ba thêm xúc động
Mỗi lời như khắc họa vào tim
Chuyện má một mình trong lửa đạn
Làm lụng nuôi nhà, dạy dỗ em
Và bao câu chuyện thời tranh đấu
Đồng đội ba ai mất ai còn
Ai nản chí, gian nan lùi bước
Ai kiên cường giữ trọn lòng son...?
Hãy chúc mừng nhau chén rượu đầy
Vui mừng sum họp buổi hôm nay
Ba mươi năm ngập tràn gian khổ
Mà tới bây giờ mới thấy đây
Một mảnh tình riêng, một mảnh hồn riêng, nhưng
nhìn lại là cái chung của một lớp trẻ vào đời từ những năm
Cách mạng tháng Tám năm 1945, trưởng thành trong ba
mươi năm chiến đấu trường kỳ, đầy hy sinh của đất nước.
Tôi nghĩ, đấy cũng là một nguồn sức mạnh hào hùng
của dân tộc ta suốt ba mươi năm trời khiến quân thù phải
khiếp sợ.
Ngày nay, tên người cha thân yêu của Huỳnh Ngọc Ẩn,
là đồng chí Đảng viên phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa năm
1940 - Huỳnh Văn Lũy đã được Đảng đặt tên cho một con
đường, một con phố, đường Huỳnh Văn Lũy.
Chàng trai học sinh miền Nam tập kết năm xưa đã ở
tuổi trên sáu mươi, đã đi trọn con đường cầm súng chiến
13

2.4 Page 14

▲back to top
đấu, xây dựng quê hương, xứ sở là mơ ước của người cha đã
muôn đời xứng đáng là tấm gương chói lọi của người còn
sống, của lớp trẻ Đồng Nai hôm nay.
Và dù không còn trực tiếp đảm đương công việc do
Đảng và nhân dân giao phó, Huỳnh Ngọc Ẩn vẫn một
lòng chung thủy đi theo con đường cách mạng, con đường
mang tên ba, như phần cuối bài thơ Con đường mang tên
ba, anh viết:
Mùa thu nay đất nước thật thanh bình
Bao đồng chí của ba hóa tên đường tên phố
Đi giữa quê hương rợp màu cờ đỏ
Con thầm gọi tên ba và tên những con đường...!
Đồng Nai, ngày 19/8/1999
Nhà văn Hoàng Văn Bổn
14

2.5 Page 15

▲back to top
LỜI TỰA
Nhà văn Hoàng Ngọc Điệp
(Nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Đồng Nai)
Thành phố Biên Hòa có một con đường nhỏ rất đỗi
hiền hòa, bình dị mang tên Huỳnh Văn Lũy, chạy
vắt qua khu dân cư yên bình, cách đó không xa là dòng
sông Đồng Nai sóng nước trong xanh. Trong những năm
đầu làm cư dân thành phố Biên Hòa, thi thoảng tôi đi
qua con đường ấy, dần dà được biết đường mang tên ông
Huỳnh Văn Lũy, một đảng viên Cộng sản kỳ cựu, trong
kháng chiến chống Pháp từng giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh
ủy Biên Hòa. Năm 1956, người Phó bí thư Tỉnh ủy đã bị
quân Pháp giết hại ngay tại cù lao Mỹ Quới - quê hương
của ông.
Cuộc đời vẻ vang của Huỳnh Văn Lũy đã được Huỳnh
Ngọc Ẩn - con trai ông nhắc đến trong Tuyển tập sáng tác
- bản tình ca người lính. Tôi có cơ may được chị Huỳnh
Ngọc Kim Mai - cán bộ Hội đồng nhân dân tỉnh, cháu nội
cụ Huỳnh Văn Lũy và là con gái ông Huỳnh Ngọc Ẩn nhờ
viết lời giới thiệu cuốn sách còn ở dạng bản thảo chưa xuất
bản này. Cuối năm Giáp Thìn, công việc bận rộn, mãi tôi
mới có thời gian để đọc bản thảo, đọc rồi trong lòng dâng
lên một cảm xúc khó tả, một nỗi xúc động lạ lùng. Tôi, một
người hoàn toàn xa lạ, bỗng nhiên được gửi gắm tâm tư
của một người con sinh ra, lớn lên trong một dòng họ cách
15

2.6 Page 16

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
mạng “cha truyền con nối” có nhiều Liệt sĩ và Bà mẹ Việt
Nam anh hùng. Niềm vinh dự ấy khiến tôi có đôi chút lo
lắng, nhưng rồi tôi đã xem tuyển tập sáng tác với tất cả sự
trân trọng và biết ơn…
Tuyển tập sáng tác - Bản tình ca người lính được chấp
bút bởi tâm niệm của tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn phải “viết lại
những điều không quên”, những điều mà suốt nhiều năm
ông đã ấp ủ. Bản thảo gồm ba phần, văn xuôi, thơ và phụ
lục hình ảnh, phần văn xuôi gồm nhiều bài về những con
người cụ thể, các sự kiện, sự việc đã diễn ra, phần thơ hơn
40 bài và phần phụ lục gồm trên 30 tấm ảnh.
Phần văn xuôi bắt đầu từ mốc thời gian trước năm
1945, lúc Huỳnh Ngọc Ẩn mới học lớp 1 trường làng. Một
không gian Nam Bộ vừa quen vừa lạ mở ra với ngôi chợ
nhỏ, nơi tiểu thương bán cháo cá, bán cà rem cây, nơi có
lễ hội cúng đình với những màn hát bội tưng bừng… Tuổi
thơ của Huỳnh Ngọc Ẩn đầy giông bão nhưng cậu cũng
được chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử đáng nhớ: Thực dân
Pháp đánh phá Nam Bộ, càn quét, bắn giết cán bộ, Nhân
dân, người bác ruột của cậu bị giặc giết hại, thả xác xuống
sông. Những người nông dân thật thà, chất phác bên sông
Đồng Nai đã kiên cường đứng lên chống ngoại xâm bằng
tất cả sức mạnh của truyền thống yêu nước, căm thù giặc:
“Chúng bị chết nhiều tên và ta thu được nhiều súng đạn,
chúng chỉ chạy thoát được vài ba tên”. Huỳnh Ngọc Ẩn
từng chứng kiến các chú cán bộ đánh cá trên sông Đồng
Nai, bắt được con cá dài gần 1,5m và nặng tới nửa tạ để
chiêu đãi cha cậu, một cán bộ đặc biệt. Ngày 2/9/1945, cậu
được ríu rít đi bên cha, tay cầm lá cờ đỏ sao vàng hòa vào
dòng người hân hoan chào đón ngày độc lập đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…
16

2.7 Page 17

▲back to top
Bản tình ca người lính
Tuổi nhỏ cơ hàn, Huỳnh Ngọc Ẩn sớm biết phụ mẹ
nuôi em bằng nhiều “nghề”: đi chợ Biên Hòa bán chuối,
dừa, đu đủ… rồi đến chăn trâu, làm phụ hồ. Cậu từng may
mắn sống sót cùng… hai con trâu trong trận lụt lịch sử
năm Nhâm Thìn 1952. Trong những câu chuyện rủ rỉ, miên
man, không theo trình tự thời gian của Huỳnh Ngọc Ẩn có
vô số chi tiết sống động về cuộc sống những năm 40 - 50
thế kỷ trước. Dưới gót giày của thực dân Pháp, cuộc sống
ấy đầy rẫy chết chóc, nhọc nhằn, bất an mà mẹ tác giả đã
đúc kết trong câu nói với con trai: “Nước mất nhà tan là vậy
đó con ”.
Kỷ niệm khắc cốt ghi tâm với ông bà nội ngoại, với ba
má, chị Hai, bạn bè, đồng đội, người thân của mình được
Huỳnh Ngọc Ẩn kể lại tỉ mỉ, gửi gắm rất nhiều tình thương
yêu trong từng câu chữ. Chàng trai nông dân Nam Bộ
Huỳnh Ngọc Ẩn có một tâm hồn phong phú, nhạy cảm,
giàu tình yêu thương nên qua lời kể của ông, quê hương,
đặc biệt là người thân hiện lên mỗi người một vẻ, với những
nét riêng, người nào cũng gây xúc động. Đó là bà nội hay ca
cẩm vì thương cháu cơ cực thiếu thốn, là người mẹ tảo tần
có chồng theo kháng chiến và bị tù đày phải một nắng hai
sương cày cuốc, cấy trồng nuôi con, là chú Bảy Đua bị giặc
bắn chết rồi còn bị chúng tạo dáng ngồi cầm điếu thuốc
lá… Tác giả nhớ nằm lòng những lần được ông nội đưa đi
chơi, nhớ món chuối ép khô và dọc khoai môn muối chua
của bà nội, lá thư viết tay gửi bà nội giấu trong rổ may…
Tất cả những sự kiện, những biến cố lớn nhỏ của cuộc đời
được giãi bày một cách chân thực, mộc mạc, có sao nói vậy
khiến văn chương của Huỳnh Ngọc Ẩn toát lên vẻ đẹp rất
riêng, vẻ đẹp của sự chân chất, thuần hậu.
17

2.8 Page 18

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Huỳnh Ngọc Ẩn là một trong số gần 32.000 học sinh
miền Nam tập kết. Ông đã có những ngày sống trong tình
yêu thương của đồng bào miền Bắc thời kỳ còn vô vàn
thiếu thốn, gian khổ. Nhưng dù được nuôi dưỡng, đùm
bọc, Huỳnh Ngọc Ẩn vẫn không phút giây nào nguôi nhớ
về quê nhà. Cậu bé học lớp 7G nhận được tin cha bị địch sát
hại đã trốn giờ nghỉ trưa, chui vào lớp học, một mình ngồi
khóc… Sau ngày cha bị địch giết hại, Huỳnh Ngọc Ẩn nung
nấu ý định nhập ngũ, khát khao được trở về Nam chiến
đấu, rồi ông trở thành một kỹ sư thủy lợi giỏi, có đóng góp
quan trọng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
đất Bắc. Trong tuyển tập sáng tác, ông nhắc đến tên rất
nhiều người, nhiều sự kiện, cho thấy tuổi trẻ của ông khá
sôi nổi, nhiều màu sắc, không ít biến cố và ngập tràn cảm
xúc. Chuyện tình yêu và hôn nhân của ông với cô giáo Trần
Thị Kim Chung là “mối duyên kỳ ngộ’’ giữa chàng trai Nam
Bộ với cô gái Bắc Bộ, một bản tình ca tuyệt đẹp về sự thủy
chung, bền chặt của tình vợ chồng dài hơn nửa thế kỷ rất
đáng ngưỡng mộ.
Sau mấy chục năm sống ở Hà Nội, Hải Phòng, Thanh
Hóa… được Nhà nước nuôi dưỡng, giáo dục và trưởng
thành, năm 1974, Huỳnh Ngọc Ẩn “đi B” và may mắn trở
về công tác ngay tại quê hương mình. Những trang sáng
tác của ông về thời gian là quân tình nguyện trên đất bạn
Campuchia, những ngày tháng công tác tại Chiến khu Đ,
về Chi đội 10 anh hùng, về bức chân dung do họa sĩ Huỳnh
Phương Đông vẽ, sự kiện con cọp ba móng hung dữ từng
ăn thịt nhiều người bị bộ đội đặt mìn giết chết, gia đình thi
tướng Huỳnh Văn Nghệ còn giữ răng và móng của con ác
18

2.9 Page 19

▲back to top
Bản tình ca người lính
thú… là những trang cảm động và chứa đựng những tư liệu
lịch sử quý giá.
Phần thơ được ông Huỳnh Ngọc Ẩn đặt tựa “Tiếng lòng
tôi với quê hương” gồm hơn 40 bài, mở đầu bằng những
câu thơ khiến người ta rớm lệ:
Thơ tôi tiếng của lòng tôi
Chở yêu thương với buồn vui cuộc đời
Những năm đất nước cắt rời
Đêm Nam ngày Bắc bời bời nhớ mong
(Tiếng lòng tôi với quê hương)
Điểm tựa cho thơ của Huỳnh Ngọc Ẩn là cuộc kháng
chiến vĩ đại của cả dân tộc trong đó gia đình ông, làng
quê của ông đã hiến dâng những gì tốt đẹp nhất cho cách
mạng, với niềm tin vững chắc sẽ có ngày hòa bình, thống
nhất Tổ quốc:
Hai tiếng miền Nam đêm ngày vang vọng
Rộn rã tim ta như trông giục lên đường
Đồng đội hẹn nhau sẵn sàng đợi lệnh
Cùng trở về giải phóng quê hương
(Tiếng gọi quê hương)
Giống như tất cả những người con miền Nam xa xứ,
Huỳnh Ngọc Ẩn sống trong hoài niệm, lấy thơ làm phương
tiện để ký thác, gửi gắm nỗi nhớ về quê hương, người thân,
mái trường thời thơ ấu, bạn bè đồng chí… Thơ ông chân
thực, hồn nhiên như thơ ca dân gian, không đa dạng về
hình thức, ý, lời đều bình dị, mộc mạc, dễ hiểu, dễ cảm
nhận. Có lẽ khi viết ra những câu thơ, ông không quan
19

2.10 Page 20

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
tâm đến những yếu tố gọi là “kỹ thuật”, không bận lòng
về “hình tượng thơ”, chỉ muốn dùng ngôn ngữ chuyển tải
những thổn thức trào dâng trong trái tim luôn hướng về
quê cha đất tổ:
Giữa rừng ngồi ước ngày mai
Ngày mai hết giặc tương lai huy hoàng
(Giữa chiến trường nhớ vợ con)
Huỳnh Ngọc Ẩn viết nhiều về ngôi trường học sinh
miền Nam trên đất cảng Hải Phòng, về thầy cô giáo và bạn
đồng môn. Hơn bốn mươi bài thơ, tất thảy đều là những lời
tâm tình giản dị, câu chữ không hoa mỹ, không bóng bẩy
nhưng lại khiến bạn đọc xúc động bởi sự chân thật xuất
phát tự đáy lòng:
Bốn ngàn ngày sống trên đất Bắc
Không đêm nào không nhớ quê hương…
Hai tiếng miền Nam đêm ngày vang vọng
Rộn rã tim ta như trống giục lên đường
(Tiếng gọi quê hương)
Và cũng giống như hầu hết người làm thơ khác, những
bài viết về gia đình, cha mẹ, vợ con của Huỳnh Ngọc Ẩn
luôn là những bài “gan ruột” giàu cảm xúc nhất và có sức
lay động lòng người. Nỗi nhớ vợ con được ông thể hiện đầy
ưu tư, khắc khoải:
Thương con còn tuổi đưa nôi
Lo mùa trở rét, lo trời heo may
(Giữa chiến trường, nhớ vợ con)
20

3 Pages 21-30

▲back to top

3.1 Page 21

▲back to top
Bản tình ca người lính
Hay khi nhìn bức ảnh gia đình, tâm trạng ông đan xen
cả niềm vui lẫn nỗi buồn, hình ảnh những người thân yêu
với quê hương xa vời hòa chung làm một:
Mỗi khi xem bức ảnh gia đình
Lòng tôi như ánh lửa lung linh
Nâng bức ảnh áp lên lồng ngực
Thấy cả quê hương nặng nghĩa tình
(Bức ảnh gia đình)
Đọc thơ Huỳnh Ngọc Ẩn, người ta nhận ra ông làm thơ
trong mọi hoàn cảnh, cuộc sống riêng với những biến cố
thăng trầm, đầy ắp nỗi niềm đã khơi nguồn cảm hứng cho
thơ ông. Và tôi tin, ông làm thơ không phải để khẳng định
“cái tôi” của mình trong văn chương mà chỉ là mượn loại
hình nghệ thuật ngôn từ giàu chất trữ tình để thổ lộ thế giới
tâm hồn phong phú, ẩn sâu bên trong ông.
Có thể Tuyển tập sáng tác của Huỳnh Ngọc Ẩn chưa
thật lôi cuốn, hấp dẫn nếu xét ở khía cạnh một tác phẩm
văn học. Nhưng với rất nhiều sự kiện được ghi chép tỉ mỉ,
cẩn thận, Tuyển tập góp phần lưu giữ ký ức quý giá về một
thời kỳ lịch sử bi tráng của miền Đông Nam Bộ nói riêng,
đất nước Việt Nam nói chung.
Với cảm nhận của riêng tôi, thơ văn của ông Huỳnh
Ngọc Ẩn mang giá trị viên ngọc thô chưa mài giũa, dù còn
sù sì góc cạnh nhưng vẫn lấp lánh sắc màu...
Đồng Nai, tháng 3 năm 2025
21

3.2 Page 22

▲back to top

3.3 Page 23

▲back to top
Bản tình ca người lính
LỜI NGỎ
Từ nhỏ đến lớn, tôi được nuôi dạy và lớn lên trong
một gia đình cách mạng. Cha tham gia cách mạng
từ những năm tôi hãy còn nhỏ, khi tôi biết được thì Cách
mạng tháng Tám 1945 đã thành công. Gia đình tôi ở vùng
địch tạm chiếm, bản thân được nhìn thấy những bất công,
bắn giết, khảo tra, cùm kẹp và ngược đãi của địch đã đối xử
với các chiến sĩ cách mạng không may bị sa vào tay chúng.
Gia đình tôi cũng nằm trong diện chúng đàn áp, bắt bớ làm
cho tôi thêm căm thù địch và yêu quý cách mạng. Tôi ao
ước được mau lớn để được tham gia công tác cách mạng.
Trong kháng chiến chống Pháp, gia đình tôi là gia đình
cách mạng nên bị địch khủng bố, phải di tản lên Chiến khu
Đ và từ đó tôi được tham gia làm công tác liên lạc cho cơ
quan. Tôi hiểu và giác ngộ cách mạng từ đó…
Khi được tập kết ra Bắc, học ở các trường học sinh
miền Nam, tôi luôn cố gắng học tập và rèn luyện tư cách
đạo đức tốt, được thầy yêu bạn quý, là hạt nhân đoàn kết
các vùng, miền.
Từ lúc trở thành anh “bộ đội Cụ Hồ”, tôi luôn là người
lính “đầu tàu”, được đồng đội yêu quý, cấp trên tin tưởng
giao nhiệm vụ là người thầy dạy văn hóa lớp 5 (cấp 2) cho
23

3.4 Page 24

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
anh em bộ đội, mặc dù tôi chưa qua đào tạo sư phạm và
được tổ chức Đảng đưa vào đối tượng kết nạp Đảng của
đơn vị.
Năm 1962, đơn vị bộ đội Sư đoàn 330 (bộ đội miền
Nam) cử tôi đi thi vào Đại học Thủy lợi Hà Nội, tôi đã thi
đậu trong số khoảng 50/100 người dự thi, được Trường Đại
học gửi theo học Trường Bổ túc Văn hóa Công nông Trung
ương (1962 - 1963) và tôi vinh dự được kết nạp Đảng trong
khi còn là sinh viên.
Đầu năm 1968, tôi được được về Nam Hà(1) nhận công
tác, xây dựng hậu phương miền Bắc. Quý III năm 1974, tôi
được nhận quyết định đi B về miền Nam chiến đấu, được
Bộ Thủy lợi giao quân cho Bộ Quốc phòng để tập trung
huấn luyện ở Trường 105 Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Theo
kế hoạch, chúng tôi phải huấn luyện ba tháng, sau đó rút
xuống còn một tháng thì lên đường. Đoàn hành quân bằng
xe tải, sau gần một tháng đã về đến Lộc Ninh - vùng giải
phóng thuộc tỉnh Bình Phước.
Đầu năm 1973, ta ém quân trên Trường Sơn, chuẩn bị
cho Chiến dịch mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Kế hoạch mở
hai trường đào tạo trung cấp Thủy lợi và Nông nghiệp tạm
gác lại. Các cán bộ được phân công về các quân khu (mật
danh T1, T2, T3, T4, T6) như: T1 (Tây Ninh, Bình Dương,
Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Biên Hòa và Bà Rịa);
T4 (Sài Gòn - Gia Định); T3 (Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ,
Sóc Trăng (thêm phần Bạc Liêu), Rạch Giá và Cà Mau). Tôi
(1) Nam Hà là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng tồn
tại trong hai giai đoạn 1965-1975 và 1991-1996.
24

3.5 Page 25

▲back to top
Bản tình ca người lính
làm Tổ trưởng tổ cán bộ thủy lợi được phân công về T1 -
làm việc ở Sở Nông lâm Đông Nam Bộ do đồng chí Ba Hà
quê Tiền Giang làm Giám đốc Sở.
Ngày 10/03/1975, quân ta tấn công và giải phóng Buôn
Ma Thuột, mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên, tạo bước
ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện chiến trường, để
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến
dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước vào mùa Xuân năm 1975.
Đầu năm 1976, khu Đông Nam Bộ thành lập hai tỉnh:
Đồng Nai và Sông Bé. Đồng chí Ba Hà về làm Phó chủ tịch
tỉnh Sông Bé. Tôi và đồng chí Năm Bình cùng một số đồng
chí về công tác tại tỉnh Đồng Nai. Tỉnh Đồng Nai sớm thành
lập Ty Nông nghiệp - Thủy lợi, lúc đó đồng chí Năm Bình và
đồng chí Sáu Hải làm Phó Ty Nông nghiệp - Thủy lợi; đồng
chí Tư Nghiệp, quê Bà Rịa làm Trưởng Ty Nông nghiệp -
Thủy lợi. Tôi được phân công làm Trưởng phòng Thủy lợi
thuộc Ty Nông nghiệp - Thủy lợi.
Đầu tháng 7/1976, Phòng Thủy lợi tách ra thành lập Ty
Thủy lợi. Ngành Thủy lợi tập trung cơ sở vật chất để phục vụ
sản xuất nông nghiệp như: xây dựng các đập dâng trên suối;
trạm bơm dầu; bơm điện; kênh mương; hồ chứa nước…
Ngày 07/01/1979, quân đội ta giúp nhân dân
Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng bạo tàn do Pol Pot
cầm đầu. Trung ương chỉ đạo tỉnh Đồng Nai kết nghĩa tỉnh
KampongThom để giúp đỡ nhân dân Campuchia. Về thủy
lợi, tôi cùng anh em thay phiên đi công tác ở KampongThom
để xây dựng công trình thủy lợi và đào tạo cán bộ sơ cấp và
công nhân máy cho nước bạn. Mỗi lần đi công tác ở nước
25

3.6 Page 26

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
bạn là một lần ra chiến trường nhưng cuối cùng chúng tôi
đều hoàn thành nhiệm vụ và trở về an toàn.
Quá trình từ một cậu bé liên lạc, tôi đã trở thành một
người lính, trở thành một kỹ sư, một đảng viên của Đảng.
Tôi luôn cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành
người lính tốt, người Đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc./.
Huỳnh Ngọc Ẩn
26

3.7 Page 27

▲back to top

3.8 Page 28

▲back to top

3.9 Page 29

▲back to top
Chiến khu Đ
Ra đi để trở về
29

3.10 Page 30

▲back to top

4 Pages 31-40

▲back to top

4.1 Page 31

▲back to top
Bản tình ca người lính
Những câu chuyện đáng nhớ về ông nội
Trước năm 1945, tôi còn đi học lớp 1 trường làng. Một
ngày kia, tôi nhớ trời mát mẻ, có lẽ là đầu mùa mưa, ông
nội tôi vốn là một người có uy tín trong làng đi cúng đình.
Trong giờ ra chơi, thầy Nở nhìn thấy ông tôi đi qua trường
học. Thầy bảo tôi: “Ẩn ơi!”. Tôi dạ: “Thưa thầy!”. “Ông nội
con đi cúng đình”. Tôi nhanh nhẹn, lễ phép xin thầy, “Thưa
thầy! Cho phép con đi chơi với nội, xem cúng đình!”. Thầy
gật đầu và bảo: “Con gởi sách vở cho bạn rồi đi đi!”. Tôi
chạy vào lớp gởi sách vở cho bạn, rồi chạy theo nội.
Tôi chạy theo nội: “Thưa nội, thầy giáo cho con đi xem
cúng đình!”. Được ông cho phép, tôi rất vui. Ông nội lần
trong bóp da ở thắt lưng lấy cho tôi một cắc (một hào) bằng
kim loại. Đối với tôi, đây là một số tiền lớn lần đầu tôi được
cầm. Xung quanh đình làng Tân Trạch ngày ấy như một cái
chợ rất đông vui!... Có người bán xoài, có người bán cháo cá,
có người bán cà lem cây. Tôi muốn ăn kem, nhưng nhiều
người mua quá, tôi thì thấp nhỏ không thể mua được nên
nhờ một anh lớn, không quen mua 2 xu kem, chia làm hai,
tôi một nửa và anh ấy một nửa. Sau đó, tôi đi ăn cháo cá và
rồi lại mua xoài ăn… Tôi được nội cho tiền chiêu đãi một
bữa nhớ suốt đời.
31

4.2 Page 32

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Ngày hội cúng đình ở quê, tôi còn được xem hát bội. Vì
ông phải đảm nhận việc cúng đình, nên tôi tự lo cho mình.
Năm 1946, quân Pháp lập đồn bót và lập hội tề ở làng
tôi. Chúng bắt ông nội tôi - Huỳnh Hữu Giao phải làm việc
cho chúng và không được từ chối!...
Tối hôm đó, Việt Minh bắt ông nội tôi đi. Sáng hôm
sau, bác Hai tôi cho người xuống đồn báo với trưởng đồn
là tối qua, Việt Minh về bắt ông rồi. Khi đồn trưởng và lính
Pháp lên nhà thì cả nhà đều khóc bảo là Việt Minh bắt đưa
ông tôi đi đâu không biết.
Gần cả tháng, không thấy ông nội về. Sau đó, một hôm
tôi thấy ông về nhà vào ban đêm, cơm nước và ngủ. Ban
ngày, ông lánh mặt không tiếp xúc với người ngoài.
Khoảng cuối năm 1948, từ vùng tạm chiếm ở làng, ông
nội lên Chiến khu Đ thăm ba tôi. Ông tôi tự đi một mình,
có người đưa đò qua sông để lên xã Tân Hòa, Mỹ Lộc - nơi
ba tôi đóng quân và làm việc ở đó. Lúc đó, ba tôi gửi tôi ở cơ
quan Hội Nông dân Cứu quốc tỉnh Biên Hòa, ở xã Mỹ Lộc.
Khi ông tôi tới đó, ông cháu gặp nhau rất mừng. Ba tôi bận
họp ở tỉnh. Các chú ở Hội Nông dân bảo tôi: “Cháu vào báo
với cha là có ông nội mới lên thăm”. Tôi vào nơi đóng quân
của Ủy ban hành chánh tỉnh, Công an tỉnh nơi có cuộc họp
quan trọng báo tin cho ba tôi biết. Lúc đó là giờ nghỉ giải
lao, bạn của ba là: bác Ba Thuận (Phạm Văn Thuận) bảo
tôi: “Con ra nói với nội: Ba con và các bác bạn của ba con
mời ông nội vào Ty Công an tỉnh Biên Hòa nơi ba và các
bác đang họp”. Gần một tiếng sau, tôi đưa ông nội vào chỗ
các bác và ba đang họp, lúc này gần 5 giờ chiều cũng là
giờ nghỉ. Ba và các bác rất mừng vì có ông nội đến thăm.
32

4.3 Page 33

▲back to top
Bản tình ca người lính
Nội được chào đón, coi như khách quí của các bác - bạn
của ba. Trong hội nghị, tôi biết còn có bác Ba Bang - Trương
Văn Bang - Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời
Biên Hòa.
Trong Hội nghị hôm ấy, lực lượng hậu cần Ty Công an,
cử một tổ đi đánh cá ở sông Đồng Nai và bắt được một
con cá đao nặng chừng 50kg, dài gần 1,5m. Con cá đao
được chế biến thành nhiều món ăn trong Hội nghị. Ba tôi
và đồng đội của ba chiêu đãi vị khách đặc biệt là ông nội
tôi - ông Huỳnh Hữu Giao ở Chiến khu Đ một bữa cơm rất
sang trọng.
33

4.4 Page 34

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Tôi đi dự ngày lễ độc lập đầu tiên
Ngày ấy, ba tôi là một trong số Đảng viên tiền khởi
nghĩa huy động lực lượng cướp chính quyền ở tỉnh Biên
Hòa. Sau đó huy động lực lượng Thanh niên Tiền phong
đi dự lễ độc lập tại thị xã Biên Hòa ngày 2/9/1945. Ngoài
ra, lực lượng Thanh niên Tiền phong của tỉnh còn giao cho
huyện Xuân Lộc cử 300 Thanh niên về Sài Gòn biểu dương
lực lượng và dự lễ độc lập tại Sài Gòn do đồng chí Lê Ngọc
Liệu chỉ huy(1).
Trung đội Thanh niên Tiền phong làng Tân Trạch do
Đảng lãnh đạo về biểu dương lực lượng và dự lễ độc lập
tại thị xã Biên Hòa do anh Hai Nữ chỉ huy, ba tôi làm chính
trị viên.
Từ 3giờ 30 phút sáng 2/9/1945, lực lượng của ta đã đi
đò Võ Sa sang đường 24 để đi Biên Hòa, Một điều đáng nhớ
là quân Nhật còn đóng quân ở sân bay Biên Hòa, vì thế
muốn xuống thị xã Biên Hòa chỉ có một đường duy nhất
(1) Sau này, đồng chí Lê Ngọc Liệu là Chủ tịch Ủy ban Kháng
chiến huyện Xuân Lộc rồi làm Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Biên Hòa
năm 1950. Năm 1951 - 1954, Trung ương Cục miền Nam phân chia lại
chiến trường Nam Bộ, sáp nhập 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa thành
tỉnh Thủ Biên, đồng chí làm Phó Văn phòng Tỉnh ủy Thủ Biên.
34

4.5 Page 35

▲back to top
Bản tình ca người lính
đi là đi ngang qua khu vực sân bay Biên Hòa. Ba tôi phải
thỏa thuận với quân Nhật là mở cổng đường vào sân bay
để đoàn quân đi xuống thị xã Biên Hòa ở ngã ba Dốc Sỏi(1)
xuống tới thị xã thì trời vừa hửng sáng.
Ngày ấy tôi vừa tròn 9 tuổi. Tôi đi cùng với ông nội
ngoài đoàn quân.
Tôi còn nhớ Trung đội Thanh niên Tiền phong mỗi
người mang một cây gậy tầm vông vạt nhọn dài 1.5m, bên
hông đeo một cuộn dây thừng, mục đích khi đánh giặc bắt
được tù binh thì trói lại. Vũ khí của đơn vị chỉ là cây tầm
vông. Trên tay tôi và ông nội cầm lá cờ đỏ sao vàng nhỏ
vẫy chào đoàn quân diễu hành. Cả tỉnh Biên Hòa chỉ có vài
trung đội là có súng, còn lại chỉ có gậy tầm vông và một số
cây mã tấu. Tuy vậy, đoàn quân đi rất hùng dũng, khí thế
lắm. Sau đợt diễu hành tất cả tập trung về quảng trường
Sông Phố. Đồng chí Hoàng Minh Châu - Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cách mạng lâm thời đọc diễn văn về ngày lễ độc
lập trên mảnh đất Biên Hòa.
Sau lễ mít tinh, các đơn vị trở về quê. Tôi về đến nhà,
hơn 2 giờ chiều tuy đói và mệt nhưng trong lòng rất phấn
chấn, vui vẻ.
(1) Bây giờ là cổng 2 sân bay Biên Hòa.
35

4.6 Page 36

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Viết lại những điều không quên
Nếu không kể lại, chắc thế hệ đời sau không được biết.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thực dân Pháp
xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, quân Pháp
nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Nhân dân Nam Bộ bước vào
cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau đó, bộ đội từ Bắc nam
tiến để cùng nhân dân Nam Bộ đánh giặc.
Nhưng thị xã Biên Hòa vẫn bị giặc chiếm, Ủy ban nhân
dân tỉnh Biên Hòa phải sơ tán về cù lao Mỹ Quới ở làng
Tân Trạch quê tôi và mượn nhà của ông nội tôi, ông Huỳnh
Hữu Giao làm Văn phòng.
Ngày đó, quyền Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành
chính tỉnh Biên Hòa là ông Hoàng Bá Bích là cha của Hoàng
Kim Chung trong kháng chiến chống Pháp. Anh Trung có
quân hàm Đại tá và có bút danh nhà văn quân đội là “nhà
văn Kim Chung”. Ngày 6/1/1946, nhân dân ta nô nức tham
gia bầu cử Quốc dân đại hội (Quốc hội) khóa đầu tiên. Một
trong ba đại biểu của đơn vị tỉnh Biên Hòa đắc cử là ông
Hoàng Minh Châu, Chủ tịch tỉnh Biên Hòa.
36

4.7 Page 37

▲back to top
Bản tình ca người lính
Trên đường đi họp Quốc hội, ông Hoàng Minh Châu bị
giặc bắt và tra tấn dã man. Sau đó, trước phản ứng mạnh
mẽ của công luận, thực dân Pháp thả ông. Năm 1948, ông
mất tại Bệnh viện kháng chiến tỉnh Vĩnh Long ở tuổi 37.
Như vậy, là vào thời gian này ngay trong nhà ông Huỳnh
Hữu Giao có đến hai ông Chủ tịch: một ông quyền Chủ
tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh là ông Hoàng
Bá Bích, còn một ông Chủ tịch nữa do dân bầu là Huỳnh
Hữu Giao, Chủ tịch xã Mỹ Quới, bây giờ là xã Bạch Đằng,
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ngày 15/3/1946,
ông Hoàng Bá Bích hy sinh tại Chiến khu Đ.
Ủy ban nhân dân tỉnh Biên Hòa, sơ tán và hoạt động ở
địa điểm nhà ông nội tôi khoảng 2 tháng thì di dời đến địa
điểm mới mà tôi không được biết.
Năm 2000, tỉnh Đồng Nai đã khánh thành khu di tích
lịch sử cách mạng ở xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, nơi
thành lập Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều (02/1935)
và Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa (02/1937). Chủ trì cuộc
họp ngày đó có đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy
Đồng Nai và ông Đoàn Thạnh, Bí thư Huyện ủy huyện Vĩnh
Cửu, tỉnh Đồng Nai. Các đại biểu được mời có tôi và anh
Hoàng Minh Chánh, con trai của nguyên Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân tỉnh đầu tiên là ông Hoàng Minh Châu, đại biểu
Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
do Bác Hồ làm Chủ tịch nước.
Trong thời gian năm 1930-1935, Chi bộ Đông Dương
Cộng sản Đảng đầu tiên được thành lập với tên gọi Chi bộ
Phú Riềng. Khu đồn điền Cao su Phú Riềng thuộc tỉnh Biên
37

4.8 Page 38

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Hòa. Một chi bộ nữa là Chi bộ Mỹ Lộc, được thành lập sau
đó một vài tháng.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Đảng bộ
Đồng Nai, Chi bộ Bình Phước - Tân Triều (nay thuộc xã Tân
Bình, huyện Vĩnh Cửu) giữ vai trò lịch sử rất quan trọng.
Đó không chỉ là tổ chức Đảng Cộng sản hình thành đầu
tiên ở Biên Hòa, mà còn là nơi huấn luyện, đào tạo nhiều
cán bộ đảng viên lãnh đạo cho tỉnh; đồng thời là hạt nhân
để xây dựng Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Biên Hòa tháng 2/1937.
Chi bộ Bình Phước - Tân Triều là một dấu son trong lịch sử
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai.
Ba tôi, Huỳnh Văn Lũy được kết nạp từ một chi bộ ở
tỉnh Gia Định, sau được chuyển về sinh hoạt ở Chi bộ Bình
Phước - Tân Triều. Sau đó, ba tôi được Chi bộ Bình Phước
- Tân Triều phân công về xây dựng chi bộ Đảng ở cù lao
Mỹ Quới thời kỳ chống Pháp. Địa bàn này giờ đây thuộc xã
Bạch Đằng, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
38

4.9 Page 39

▲back to top
Bản tình ca người lính
Giặc dữ đến quê hương
Cuối năm 1946, giặc từ bót Tân Ba hành quân bằng
thuyền tam bản lên làng An Chu, Cù lao Mỹ Quới bắt ông
Hương cả Quí kết tội ông có vũ khí, lựu đạn chôn trong
nhà. Biết tin, du kích Mỹ Quới chuẩn bị lựu đạn đón đánh
địch khi chúng xuống ghe tam bản đổ về Tân Ba. Kết quả,
quân địch bị chết nhiều tên và ta thu được nhiều súng đạn,
chúng chỉ chạy thoát được vài ba tên.
Đầu năm 1947, địch mở các cuộc hành quân lớn để
trả thù và đóng đồn bót ở đây. Chúng xuất phát từ phía
dưới cù lao đi lên. Đầu tiên, chúng bắt ông Hai Kỷ, ông bị
bệnh không đi được. Tên sỹ quan lính lê dương nói bằng
tiếng Pháp: “Mày không đi được thì tao giết mày”. Ông Hai
Kỷ kêu: “Thím Bảy ơi!”(1). Tên sỹ quan bắt ông Hai Kỷ nằm
xuống và chặt đầu ông chỉ còn dính chút da ở cổ, sau đó
hắn lên nhà bác Hai. Bác Hai đang bị bệnh nên bị bắt. Tên
này lục trong ngăn kéo tủ thấy có tờ báo Dân chúng bằng
tiếng Pháp(2), ngoài ra còn có giấy Hồng đơn màu đỏ. Nó
(1) Bà Bảy Súng, nhà ở cạnh đó.
(2) Tờ báo của Đảng Cộng sản Đông Dương được xuất bản ở Sài
Gòn có trụ sở đặt tại số 43, đường Hamelin (sau này là đường Lê Thị
Hồng Gấm, P. Nguyễn Thái Bình, Q.1, TP. Hồ Chí Minh).
39

4.10 Page 40

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
cho là nền cờ đỏ (tuy không có sao vàng). Nó đánh bác Hai
tôi và nói:
- Mày là Cộng sản.
Trưa hôm đó, tên này đưa bác Hai tôi lên Điều Hòa và
tách riêng bác Hai khỏi những người bị bắt, sau đó tàn ác
bắn bác Hai tôi bên bờ sông và lôi xác bác quăng xuống
sông.
Chiều hôm ấy, chúng lần lượt thả những người bị bắt.
Cả nhà tôi rất sốt ruột vì bác Hai tôi chưa được thả về. Mãi
đến 5 giờ chiều, có người nhà bà Tám(1) cầm thẻ căn cước
chạy xuống báo tin dữ là bác Hai tôi đã bị giặc bắn chết,
lôi xác bỏ xuống sông. Dân làng đã vớt xác bác Hai tôi lên,
trong túi bác có thẻ căn cước dán ảnh chân dung. Đêm đó,
thi hài bác tôi đã được đưa về nhà, cả nhà đều khóc vì mất
mát quá lớn. Ba tôi cũng đã về và khóc thảm bên thi hài của
người anh duy nhất.
Sau đó, giặc đóng bót ở đình làng Tân Trạch. Hàng
ngày, chúng hành quân vào các làng trong Cù lao bắt thanh
niên chúng cho là Việt Minh, đánh đập, tra khảo, sau đó cứ
mỗi đêm chúng chặt đầu 2 - 3 người uy hiếp tinh thần. Đao
phủ của bót này có 2 tên: Chín Rực là thầy đội và Năm Mạo
là cai đội. Hai tên đao phủ hành động theo sự chỉ đạo của
tên sỹ quan Pháp.
Dân làng Cù lao Mỹ Quới bị giặc tàn ác sát hại hàng
trăm người, xác trôi lềnh bềnh trên sông ngày ấy.
(1) Bà cô tôi lấy chồng ở Điều Hoà.
40

5 Pages 41-50

▲back to top

5.1 Page 41

▲back to top
Bản tình ca người lính
Chiến khu Đ quê tôi
Chiến khu Đ được bộ đội Quân khu 7 xây dựng từ
thời kháng chiến chống Pháp với mốc lịch sử là ngày
Nam Bộ kháng chiến (ngày 23/09/1945) với bài hát: “Mùa
thu rồi ngày 23, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến, rền
khắp trời lời hoan hô. Dân phương Nam nhịp chân tiến ra
trận tiền…
Ngay sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và Bộ Quốc phòng còn non trẻ của ta ở Hà Nội đã tổ chức
bộ đội từ các tỉnh miền Bắc hành quân Nam tiến để cùng
với quân dân Nam Bộ đánh quân đội Pháp xâm lược.
Ban đầu Chiến khu Đ chỉ có 5 xã phía Bắc huyện Tân
Uyên: Tân Hòa, Tân Tịnh, Thường Lang, Lạc An và xã Mỹ
Lộc. Về sau, Chiến khu Đ được mở rộng thêm.
Ngay từ thời kỳ đó, quân đội Quân khu 7 đã có tầm
nhìn chiến lược đưa ra quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng
đối với giặc là: “Chiến khu Đ còn; Sài Gòn mất”.
41

5.2 Page 42

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Để mở rộng địa bàn Chiến khu Đ, trong kháng chiến
chống Pháp, Tỉnh ủy và chính quyền tỉnh Biên Hòa đã
thành lập huyện Sông Bé, gồm các buôn làng người dân
tộc ít người ở vùng rừng núi phía Bắc tỉnh. Về sau này tôi
được biết là các xã Lý Lịch, Tà Lài, Bù Cháp 1, Bù Cháp 2,…
Khoảng đầu năm 1948, tỉnh đã cử đồng chí Nguyễn
Văn Long lên huyện Sông Bé làm Chủ tịch huyện. Đồng chí
Hai Long đã trực tiếp làm việc với các già làng ở vùng này,
về sau tôi được biết các già làng là ông Năm Nổi ở Lý Lịch;
ông K’Lư ở Bù Cháp, ông Hai Gõ ở Tà Lài,...
Trong thời gian làm Chủ tịch huyện Sông Bé, có một
già làng ở vùng này đã gả con gái cho ông Chủ tịch huyện
Hai Long, Huyện đội trưởng là chú Trần Liên Xô trong
năm 1954 đi tập kết. Chú là Thượng úy ở phòng hậu cần Sư
đoàn 330.
Năm 1949, khi tôi còn là cậu bé liên lạc ở Văn phòng Ủy
ban tỉnh Biên Hòa có gặp chú Long, Chủ tịch huyện Sông
Bé; khi chú về Ủy ban tỉnh Biên Hòa làm việc, thời gian đó
Ủy ban tỉnh đóng quân ở xã Mỹ Lộc huyện Tân Uyên.
Như vậy, Chiến khu Đ được mở rộng lên giáp tỉnh Lâm
Đồng vùng ngã ba sông Đạ Huoai (Lâm Đồng), thượng
nguồn sông Đồng Nai.
Sau ngày 30/04/1975, tôi được về tiếp quản Biên Hòa,
đã được gặp lại hai vợ chồng chú Hai Long vẫn còn sống ở
phường Trung Dũng thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Năm 1953 đến đầu năm 1954, cuộc chiến giữa ta và
thực dân Pháp đã đến hồi kết thúc. Quân ta và Pháp đã có
cuộc đọ sức quyết liệt, một mất một còn ở mặt trận Điện
Biên Phủ. Trong khi đó, cộng đồng quốc tế đã có cuộc họp
42

5.3 Page 43

▲back to top
Bản tình ca người lính
ở Hội nghị Genève ở Thụy Sĩ để bàn việc kết thúc chiến
tranh ở Việt Nam.
Ngày 7/5/1954, quân ta đã tiêu diệt được cứ điểm Điện
Biên Phủ bắt sống tướng De Castries và Bộ Tham mưu của
Pháp ở cứ điểm Điện Biên Phủ.
Sau đó ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève được ký kết
ở Thụy Sĩ. Nước ta tạm chia cắt hai miền, lấy vĩ tuyến 17
sông Bến Hải làm ranh giới tạm thời giữa hai miền. Quân
ta tập kết về miền Bắc, quân Pháp tập kết phía miền Nam.
Theo Hiệp định, sau 2 năm hai miền sẽ Hội nghị hiệp
thương và tiến hành tổng tuyển cử, thống nhất đất nước.
Nhưng âm mưu của đế quốc Mỹ muốn chia cắt lâu dài
đất nước ta, nên Mỹ đã dần thay thế Pháp để thực hiện âm
mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa mới của
Mỹ. Ngày 7/7/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về làm Thủ
tướng miền Nam Việt Nam. Được sự trợ giúp mạnh mẽ
của Mỹ, Ngô Đình Diệm ra sức đàn áp đồng bào ta ở miền
Nam. Chúng trả thù những người kháng chiến cũ, giết hại
và bỏ tù những người yêu nước ở miền Nam.
Theo quy luật phát triển xã hội “Có áp bức thì có đấu
tranh”, đồng bào và quân đội ta ở miền Nam với sự chi viện
sức người, sức của của đồng bào ta ở miền Bắc, ta đã bền bỉ
chiến đấu suốt 21 năm mới giành được độc lập thống nhất
đất nước.
Để thắng được 1/2 triệu quân Mỹ và các nước chư hầu
của Mỹ như: Úc, Thái Lan, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên
và một triệu quân đội Sài Gòn với vũ khí hiện đại như: tàu
chiến, máy bay, kể cả máy bay chiến lược B52, ta quyết
đánh đến cùng, vừa đánh vừa đàm phán ở Hội nghị Paris
43

5.4 Page 44

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
(Pháp). Suốt 3 năm (từ 1971 đến 1973), bằng sự bền bỉ ta đã
ký kết được Hiệp định Paris năm 1973, quân Mỹ phải cuốn
cờ xuống tàu về nước.
Thực hiện được sự chỉ đạo của Bác Hồ với bài thơ chúc
Tết của Bác năm 1968:
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào
Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn
Từ thời điểm quân Mỹ rút quân, đến ngày quân đội ta
giải phóng toàn miền Nam chỉ hơn một năm.
Năm 1954, theo nội dung của Hiệp định Genève, tôi
xuống tàu đi tập kết từ cảng Gò Dầu ra cửa sông Lòng Tàu
để lên tàu buôn của Pháp. Tàu chạy khoảng 1km thì thấy
thành phố Vũng Tàu, tới ngày thứ 2 là ngày Quốc khánh
2/9/1954. Tới 2 giờ chiều ngày thứ 3 thì tàu cập bến Sầm
Sơn ở Thanh Hóa. Đồng bào và học sinh ở tỉnh Thanh Hóa
ra bến Sầm Sơn chào mừng bộ đội và đồng bào miền Nam
tập kết. Gọi là đồng bào miền Nam nhưng thực ra chỉ có 2
trung đội thiếu sinh quân của tỉnh Thủ Biên và tỉnh Bà Rịa,
mỗi trung đội chỉ đó 45 người.
Bộ đội và thiếu sinh quân được nghỉ ở nơi đón tiếp 3
ngày theo quy định. Sáng ngày thứ 2 có đồng chí Nguyễn
Chí Thanh, Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng đến thăm
bộ đội và thiếu sinh quân. Sau khi thăm hỏi, đồng chí cho
phép thiếu sinh quân ở trạm đón tiếp một tuần để được
nghỉ ngơi, xem văn công và chiếu phim hàng đêm sau đó
mới về nơi đóng quân.
44

5.5 Page 45

▲back to top
Bản tình ca người lính
20 năm tập kết ra miền Bắc, tôi đã được rèn luyện kỹ
chiến thuật trong quân đội. Sau đó được học văn hóa hết
cấp phổ thông và học Đại học Thủy lợi ở Hà Nội. Năm 1968,
tốt nghiệp Đại học, tôi về Sở Thủy lợi Nam Hà công tác.
Năm 1974, tôi nhận được quyết định đi B từ Ban Thống
nhất Trung ương. Cuối năm 1974, tôi về tới Trung ương Cục
miền Nam, đơn vị đóng quân ở căn cứ Tà Thiết, thuộc tỉnh
Bình Phước. Quân số anh em đi B, được Trung ương Cục
phân công về các khu: T1 (Quân khu 7), T4 (Sài Gòn - Gia
Định),T3 và T4 (quân khu miền Tây Nam Bộ).
Các quân khu cử cán bộ lên căn cứ Tà Thiết đón số
cán bộ đã được phân công. Tôi và số anh em được về khu
miền Đông được đồng chí Tám Tưởng đưa về căn cứ ở xã
Lý Lịch, huyện Độc Lập, tỉnh Tân Phú. Tỉnh Tân Phú do
Khu ủy Khu 7 mới thành lập từ đầu năm 1973. Lúc này, tỉnh
Tân Phú gồm có bốn huyện:
Huyện Độc Lập ở Chiến khu Đ, quận Gia Tân, quận
Gia Kiệm, quận Định Quán thuộc vùng địch kiểm soát.
Khi về T1 tôi và một số anh em cán bộ Thủy lợi và các
cán bộ kỹ sư Nông nghiệp như đồng chí Năm Bình, đồng
chí Sáu Hải được nhận công tác ở Sở Nông lâm Đông Nam
Bộ do đồng chí Ba Hà làm Giám đốc Sở. Các đồng chí trong
ban lãnh đạo Sở có đồng chí Tư Nghiệp, đồng chí Bảy Tửu
(Thái Tửu).
Quân khu 7 có kế hoạch xây dựng nông trường Tà Lài,
nên đồng chí Ba Hà đích thân đưa tổ cán bộ làm quy hoạch
xuống hiện trường thuộc xã Tà Lài. Đoàn đã làm việc với
đồng chí Hai Gõ, Bí thư kiêm Chủ tịch xã Tà Lài bố trí địa
bàn đóng quân, để tiến hành nhiệm vụ được giao. Đồng
45

5.6 Page 46

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
chí Hai Gõ giao cho con trai 7 tuổi dẫn tổ công tác chúng
tôi đi chừng 2km qua một con suối nhỏ gần suối Vàm Hô,
chỗ vạt rừng thấp. Chú bé chỉ: “Đây là chỗ ở của các bác”.
Sau đó, chú bé tự đi về một mình, còn chúng tôi thì bắt
đầu công việc chặt các cây nhỏ và quét lá cây rừng, dọn
dẹp như nền nhà của mình. Sau đó, chọn cây để mắc võng
nằm nghỉ lúc rảnh rỗi. Ngay ngày hôm sau, đồng chí Ba
Hà, Giám đốc Sở Nông lâm Đông Nam Bộ đã có địa bàn và
bản đồ địa hình khu vực quy hoạch, đưa anh em chúng tôi
đi thực địa một vài nơi thuộc Nông trường Đà Lạt để nắm
tình hình.
Có một sự việc đáng nhớ là trong đêm đầu tiên ở đây.
Đồng chí Sử, kỹ sư nông nghiệp trong tổ quy hoạch của
chúng tôi đã đi săn thú và bắn được một con nai nghé (nai
tơ) chừng 100kg. Sau đó, về kêu anh em chúng tôi đi thu
chiến lợi phẩm. Tôi cùng đồng chí Đỗ Chu Lương, học
trung cấp Thủy lợi; đồng chí Thắng, kỹ sư nông nghiệp đi
khiêng nai về, để sáng hôm sau làm thịt.
Anh em chúng tôi được thưởng thức sản phẩm của núi
rừng Chiến khu Đ. Cùng vui của chúng tôi ngày hôm ấy
còn có sự góp mặt của đồng chí Ba Hà, người thủ trưởng
quý mến. Và cũng ngay chiều hôm ấy, đồng chí Ba Hà đã
lên đường về địa điểm đóng quân ở xã Lý Lịch.
Điều thú vị và bất ngờ đối với tôi là trên đường đến nơi
công tác ở xã Tà Lài, đồng chí Ba Hà đã đưa đoàn chúng tôi
nghỉ qua đêm ở khu kho lương thực do đồng chí Bảy Tâm,
còn gọi là anh Bảy AK phụ trách. Tôi có dịp gặp anh Bảy
và biết được anh là chiến sĩ tình báo của ta ở ngoài Bắc đã
đóng vai thanh niên Công giáo để vào Nam. Anh Bảy đã
46

5.7 Page 47

▲back to top
Bản tình ca người lính
đến đất Biên Hòa và bắt liên lạc được với ba tôi đang là Việt
cộng nằm vùng. Anh Bảy còn nhớ chi tiết, lúc đó ba tôi hay
sử dụng xe cuộc, xe đua để đi lại.
Một thời gian sau, tình hình chiến tranh ác liệt, chú
Bảy Tâm (Nguyễn Trọng Tâm) bị địch bắt giam ở nhà lao
Tân Hiệp. Anh Tư Quí, người cận vệ của ba tôi và anh Hai
Thông cũng bị bắt và giam cùng ở nhà lao Tân Hiệp.
Ngày 2/12/1956, đồng chí Bảy Tâm, Hai Thông lãnh
đạo sự kiện phá nhà lao Tân Hiệp giải thoát cho gần 500
tù nhân nhà lao Tân Hiệp. Trong cuộc vượt ngục đó, 462
chiến sĩ đã thoát khỏi sự giam cầm của địch, trở về với
Đảng, với nhân dân để tiếp tục đấu tranh còn 22 đồng chí
mãi mãi nằm lại với đất mẹ, gửi lại tuổi xuân cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có nhà thơ Dương
Tử Giang.
Sau ngày giải phóng, chính quyền tỉnh Đồng Nai đã
xây dựng, tôn tạo thành di tích nhà lao Tân Hiệp. Và, con
đường bên cạnh nhà lao Tân Hiệp được đặt tên đường
Dương Tử Giang, tên của nhà thơ cách mạng đã bị giặc sát
hại ở tại nhà lao này.
Trong thời gian chúng tôi đi nghiên cứu thực địa ở
Nông trường Tà Lài. Qua theo dõi tình hình chiến sự chúng
tôi được biết hầu như mỗi ngày quân ta giải phóng một
tỉnh, bắt đầu từ trận đánh Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk, sau
đó là Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên,
Khánh Hòa.
Sau khi nghiên cứu thực địa xong, chúng tôi tự cho
phép được nghỉ 3 ngày ở ấp 125 rừng cây giá Tỵ do bà Trần
47

5.8 Page 48

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Lệ Xuân(1) trồng. Tới ngày thứ ba, khi chúng tôi định về Tà
Lài thì lúc 4 giờ sáng hôm đó quân ta đã nổ súng đánh vào
Xuân Lộc. Cánh cửa thép của quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Một buổi chiều, có một người khách lạ ghé qua chỗ
đóng quân của tôi xin nghỉ qua đêm. Hỏi ra tôi được biết
người khách lạ ấy là chú Tám Lâm, bạn của ba tôi thời kháng
chiến chống Pháp. Chú ở huyện Hớn Quản. Tôi hỏi chú có
biết xã Long Nguyên(2), quê của bạn gái tôi tên là Nguyễn
Thị Đúng. Thì ra, bà con rất gần chú Tám Lâm lại là Bí thư
kiêm Chủ tịch xã Phước Sang, một xã di cư từ huyện Hớn
Quản sang huyện Độc Lập thời kháng chiến chống Pháp
là huyện Sông Bé của tỉnh Biên Hòa. Sau đó là huyện Độc
Lập, tỉnh Tân Phú của ta thời đánh Mỹ.
Huyện Độc Lập, đa phần là đồng bào dân tộc ít người
như: ấp Lý Lịch (dân tộc Chơ Ro), Tà Lài (Stiêng), Bù Chap
1, Bù Chap 2 (Châu Mạ) chỉ có xã Phước Sang là người Kinh
có vẻ như văn minh hơn các xã người dân tộc, xã có trạm y
tế, có trường học, có trụ sở Ủy ban,… Xã quy định các gia
đình thay phiên hàng tháng mỗi gia đình nuôi một con heo
ít nhất 30kg để cả xã chia phần ăn liên hoan.
Có một việc tôi còn nhớ mãi. Năm 1951, hai tỉnh Thủ
Dầu Một và Biên Hòa sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên. Chị
Hai tôi, Huỳnh Thị Kim Dung, nữ y tá được điều lên Trạm
Quân y huyện Hớn Quản. Trong một lần giặc đột kích vào
trạm xá, đồng chí trạm trưởng bị bắn chết, thương binh
(1) Vợ ông Ngô Đình Nhu - cố vấn chính quyền Việt Nam Cộng
hòa.
(2) Nay là thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
48

5.9 Page 49

▲back to top
Bản tình ca người lính
cũng bị chết. Riêng chị Dung bị giặc bắn bị thương chạy
được ra ngoài, chị bị thương nặng không đi được, cũng
may chỉ bị thương phần mềm ở mông và đùi và giặc không
biết nơi chị nằm.
Khi giặc rút quân, ta mới quay về giải quyết hậu quả
của cuộc đột kích của giặc và chữa trị vết thương cho chị.
Ít lâu sau chị được đưa về Chiến khu Đ cách đó khoảng 50
đến 70km. Chiến khu Đ còn có một địa danh mà tôi luôn
tự hào là “suối Mã Đà” với câu thơ: “Mã Đà sơn cước anh
hùng tụ”.
Đây là khu rừng có nhiều cọp, beo, muỗi, rắn độc, voi,
trâu rừng chỉ những người có chí khí mới dám đến nơi này.
Thời đánh Mỹ, Quân khu 7 đã đóng quân ở nơi này,
ta có hầm trú ẩn và địa đạo giặc ném bom vẫn được an
toàn,…
Sau giải phóng năm 1975, quân ta rời căn cứ, đồng chí
Tiến, Đội trưởng đội bảo vệ Quân khu 7 được giao nhiệm
vụ Giám đốc Trường lái xe Sở Giao thông tỉnh Đồng Nai.
Gần 15 năm sau, trong một lần đi săn thú, đồng chí
Tiến có dịp về lại nơi này thấy cảnh ngày xưa giờ đã trở nên
hoang tàn…
Đồng chí Tiến đã viết thư gửi Thường vụ Tỉnh ủy đề
nghị tỉnh Đồng Nai cần có phương án quản lý khu di tích
lịch sử thời kháng chiến chống Mỹ của Quân khu 7, một địa
điểm quan trọng của Chiến khu Đ anh hùng, cũng là một
địa chỉ đỏ, để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ sau này,
về chiến công của bao thế hệ ông cha trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ.
49

5.10 Page 50

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Đầu năm 1990, khu di tích Chiến khu Đ đã được tỉnh
Đồng Nai định hướng sẽ trở thành điểm về nguồn và giáo
dục truyền thống của thế hệ trẻ. Với 3 di tích lịch sử cấp
quốc gia trong khu vực, gồm: căn cứ Khu ủy miền Đông,
căn cứ Trung ương Cục miền Nam và địa đạo Suối Linh.
Năm 1996, UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo để trùng
tu, tôn tạo các di tích trên, đồng thời xây dựng Trung tâm
sinh thái - văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ để bảo tồn, phát
huy giá trị của các di tích. Tôi còn nhớ một hạng mục quan
trọng phải thực hiện là 15km đường giao thông từ khu dân
cư suối Mã Đà vào cứ điểm đóng quân của Khu ủy Khu
7. Cụ thể phải phát quang 15km cây rừng ven suối Mã Đà
để làm đường giao thông, mặt đường rộng từ 6 đến 7m.
Khu di tích được thực hiện hơn 1 năm thì hoàn thành. Tỉnh
Đồng Nai đã mời các tỉnh thuộc Quân khu 7 về dự lễ khánh
thành khu di tích lịch sử này như: Thành phố Hồ Chí Minh,
tỉnh Sông Bé, tỉnh Bà Rịa, tỉnh Long An,…
Tôi còn nhớ, năm 2000 hay 2001 nhân ngày thành lập
Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944), Quân khu 7 và
tỉnh Đồng Nai đã mời Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm
Chiến khu Đ địa điểm đóng quân của Khu ủy khu 7 khu vực
suối Bà Hào.
50

6 Pages 51-60

▲back to top

6.1 Page 51

▲back to top
Bản tình ca người lính
Chi đội 10 anh hùng
Sau ngày Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945), các nhóm
vệ quốc đoàn từ các quận trong tỉnh được tổ chức thành
Chi đội 10. Dưới sự chỉ đạo thống nhất của thi tướng Huỳnh
Văn Nghệ.
Chi đội có 3 Tiểu đoàn:
Tiểu đoàn Lê Lợi (lấy tên danh nhân)
Tiểu đoàn Quang Trung (lấy tên danh nhân)
Tiểu đoàn Trần Quốc Tuấn (lấy tên danh nhân)
Các đại đội lấy tên các trận đánh đã đi vào lịch sử dân
tộc như Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa,…
Thời kỳ đầu, tuy mới được thành lập vũ khí còn thô sơ,
nhưng Chi đội 10 đã hành quân từ Tân Uyên xuống thị xã
Biên Hòa để đánh địch, vào tận hang ổ của chúng để đánh.
Các năm tiếp theo Chi đội 10 cũng được tăng viện quân
đội từ miền Bắc đã liên tục đánh giặc trên quốc lộ 1, quốc
lộ 20 (Sài Gòn - Đà Lạt) như các trận: Đồng Xoài, Bàu Cá.
Oanh liệt nhất là trận La Ngà, gây cho giặc bị tổn thất nặng
51

6.2 Page 52

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
nề. Chi đội 10 di chuyển trên 80km từ Chiến khu Đ vượt
sông Đồng Nai lên quốc lộ 20 buộc đoàn xe quân sự Pháp
lọt vào trận địa đúng kế hoạch, thời gian của Ban Chỉ huy,
tiến công bất ngờ, mãnh liệt thể hiện tinh thần chiến đấu
kiên cường của bộ đội ta.
Lực lượng địch có hàng tiểu đoàn hành quân, có đến 40
đến 50 xe cam nhông(1) chở quân, có cả xe tăng thiết giáp.
Ta đã diệt gọn cả xe giặc trên đoạn đường từ cầu La
Ngà đến khu Đá Ba Chồng - Định Quán dài 10km và giết
hai tên đại tá Pháp, bắt sống một tên trung uý bị thương.
Sau khi chữa lành vết thương cho tên trung úy này, bộ đội
Chi đội 10 đã cử một nữ y tá ra bót Cây Đào, Công Thanh,
Vĩnh Cửu để trao trả cho tên Đại úy sĩ quan Pháp ở đây.
Sau thắng lợi này, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam gửi điện khen cán bộ, chiến sĩ Chi đội 10, tặng thưởng
đơn vị làm nên chiến thắng La Ngà danh hiệu Huân chương
Quân công hạng Hai. Chiến thắng La Ngà luôn là niềm tự
hào của quân dân miền Đông và Biên Hòa, Đồng Nai.
Sau năm 1975, các đồng chí cựu chiến binh đã có công
sưu tầm về lịch sử các đơn vị chiến đấu và các trận đánh
oanh liệt thời kháng chiến chống Pháp 1945-1954. Ở tỉnh
thì có Hội Cựu Chiến binh tỉnh, các đơn vị chiến đấu thì
có Ban Liên lạc Tiểu đoàn 303, Ban Liên lạc Chi đội 10.
Các đồng chí này thuộc lớp chiến sĩ ngày xưa còn ít tuổi.
Tôi còn nhớ chị Mỹ, vốn là y sĩ bộ đội Chi đội 10 kêu tôi
bằng em, vì chị là bạn của chị Hai - Huỳnh Thị Kim Dung
(mẹ cháu Huỳnh Minh Hoàn. Sau 1975, cháu mới học cấp
3, sau đó cháu đã cố gắng phấn đấu thi vào ngành y nối
(1) Tiếng Pháp: Camion.
52

6.3 Page 53

▲back to top
Bản tình ca người lính
tiếp nghề y của ba mẹ. Và cuối cùng cháu đã phấn đấu trở
thành Giám đốc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai).
Đến khi đồng chí Tám Ảnh, bạn học thời học sinh
miền Nam được giao quyền Trưởng Ban liên lạc truyền
thống kháng chiến Cựu Chiến binh Chi đội 10 Biên Hòa
thì đồng chí có mời tôi tham gia Ban Liên lạc và làm Phó
ban. Lúc này tôi thấy mình cần có trách nhiệm làm cầu nối
với thế hệ các anh chị đã đi trước, nhất là các anh chị cùng
quê hương với tôi ở xã Bạch Đằng huyện Tân Uyên (nay là
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
Chi đội 10 là lực lượng vũ trang cách mạng chính quy
đầu tiên của tỉnh Biên Hòa cũ, là bước sáp nhập mới rất
gọn của Vệ quốc đoàn Biên Hòa cũ, Vệ quốc đoàn quận
Châu Thành (huyện Vĩnh Cửu ngày nay) với Vệ quốc đoàn
Long Thành; là một trong hơn 20 chi đội của Khu 7 ngày
ấy lần lượt được công nhận theo quyết định của Khu bộ
trưởng Nguyễn Bình. Trong kháng chiến, nhiều cán bộ
chiến sĩ của Chi đội 10 Biên Hòa đã dũng cảm chiến đấu,
hy sinh để giành lại hòa bình, tự do, độc lập cho đất nước,
cho dân tộc. Trong đó có những trận chiến đã làm cho kẻ
thù hoang mang, lo sợ và là dấu ấn không thể nào quên
như trận chiến La Ngà diệt hàng trăm lính và xe quân sự
của Pháp. La Ngà là chiến thắng giao thông lớn nhất miền
Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của quân dân Biên Hòa đồng thời là chiến thắng nêu
cao chính nghĩa cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc
của Việt Nam, đập tan luận điệu tuyên truyền của thực dân
Pháp là cơ bản đã bình định Nam Kỳ(1).
(1) Trích Văn bia chiến thắng La Ngà (01/03/1948).
53

6.4 Page 54

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Năm 2018, Nhà nước đã trao tặng cho Chi đội danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Chi đội 10 Biên Hòa.
Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, tỉnh
đội Đồng Nai đã tổ chức lễ mừng công với sự tham gia của
chính quyền cơ quan quân sự 8 tỉnh, thành Đông Nam Bộ
và hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, thân nhân thương binh, liệt
sĩ của Chi đội 10 Biên Hòa đã đến gặp mặt.
Tôi thấy cảm động vì các anh chị, con cháu của các
chiến sĩ Chi đội 10 năm xưa tự hào, xúc động vì người thân
của họ đã góp phần xương máu để xây nên “Tượng đài lịch
sử Chi đội 10 anh hùng”(1). Tôi đã tự tay trao tặng danh hiệu
Chi đội 10 Anh hùng có ghi tên họ người thân về tận gia
đình, nên bà con thấy rất vinh dự.
Trong buổi lễ này, tôi có đọc bài thơ ngắn về chiến
công của bộ đội và người dân ở Chiến khu Đ và người chỉ
huy tài giỏi của mình, thi tướng Huỳnh Văn Nghệ.
Anh hùng chiến sĩ khu miền Đông
Đánh giặc từ lúc còn tay không
Đồng bào chiến sĩ luôn sát cánh
Từ giáo mác đến gậy tầm vông
(1) Ngày 01/03/1948, Chi đội 10 tỉnh Biên Hòa cùng các đơn vị
vũ trang của Quân khu 7, du kích quận Châu Thành (nay là thành phố
Biên Hòa và huyện Vĩnh Cửu), huyện Xuân Lộc đã tổ chức trận phục
kích giao thông trên quốc lộ 20, tấn công đoàn xe quân sự của thực dân
Pháp từ sài Gòn đi Đà Lạt. Chỉ trong 45 phút, Chi đội 10 đã phá huỷ
59/70 xe quân sự, tiêu diệt 25 tên sĩ quan Pháp trong đó có Đại tá De.
Sérigné, chỉ huy bán lữ đoàn lê dương Pháp ở Đông Dương cùng 150
lính Pháp.
54

6.5 Page 55

▲back to top
Bản tình ca người lính
La Ngà, Bàu Cá đang chiến công
Cả nước hân hoan tỏa tấm lòng
Miền Đông vùng đất đầy kiêu hãnh
Cùng cả nước đánh giặc lập công
Tưởng niệm thi tướng tròn trăm năm
Từ thời đất nước còn tối tăm
Nay nhận độc lập, đời tươi sáng
Trong ta sâu thẳm mối tình thâm.
Tôi không ngờ, bài thơ ngắn của tôi có sức lay động
đến tình cảm của người “họa sĩ - chiến sĩ” Huỳnh Phương
Đông(1).
Sau hội nghị, trong bữa cơm liên hoan ở tỉnh đội Đồng
Nai, họa sĩ cùng ngồi chung với tôi. Khi tiệc gần kết thúc,
họa sĩ Huỳnh Phương Đông xin phép tôi 5 phút để lấy giấy,
bút vẽ ký hoạ chân dung cho tôi. Sau đó, họa sĩ hỏi tên họ
và địa chỉ của tôi và hẹn hai tuần sau sẽ gửi ảnh cho tôi.
Thật bất ngờ, đúng 2 tuần sau tôi nhận được bức họa
chân dung từ người hoạ sĩ tài hoa. Trong bức hoạ là hình
ảnh của tôi, một người chiến sĩ đang trên trường hành
quân ra chiến trường năm xưa. Giống như hoạ sĩ Huỳnh
(1) Huỳnh Phương Đông (1925-2015) tên khai sinh là Huỳnh
Công Nhãn, sinh tại Gia Định (nay là TP. Hồ Chí Minh), nguyên quán
Sóc Trăng, là họa sĩ, chiến sĩ đã tham gia hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, cứu nước. Ông có hơn 70 năm không ngừng cống
hiến cho sự nghiệp sáng tác mỹ thuật, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Các tác phẩm của ông có giá trị nghệ thuật và lịch sử to lớn, là di sản
quý giá của nền hội họa đương đại Việt Nam.
55

6.6 Page 56

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Phương Đông đã gặp tôi và ký hoạ ngay nơi chiến trường.
Tấm ảnh ký họa tôi như kỷ vật quý giá trong đời lính của
mình đã được người họa sĩ tài ba trao tặng.
Tôi thầm cảm ơn người họa sĩ tài hoa năm xưa đã kịp
ghi lại hình ảnh của tôi, người lính cụ Hồ trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như người chiến
sĩ trong công cuộc tái thiết đất nước từ đống tro tàn sau 30
năm chiến tranh tàn khốc.
15/10/2022
56

6.7 Page 57

▲back to top
Bản tình ca người lính
Đi học trường làng và trở thành cậu bé liên lạc
Vào đầu năm 1948, để mị dân đã bình định được nơi
này, giặc tổ chức trường học để cho con em dân làng được
đi học nhưng thực chất chúng lấy nhà của bác Ba Triệu,
gần bót để dạy học. Chúng thuê thầy giáo từ Biên Hòa lên
để dạy học cho con em của mấy tên lính mà tôi còn nhớ là
tên Chín Rực và Năm Mạo. Tôi cùng một số anh em trong
làng được đi học. Tôi học lớp 3 (bây giờ là lớp 2). Hàng
ngày, bọn con lính là thằng Rốt, thằng Sáng, hống hách ăn
hiếp anh em mình. Vì còn nhỏ, thiếu hiểu biết nên tôi có
biểu hiện thách thức đánh nhau với bọn chúng, con của
mấy tên lính ác ôn.
Một lần, tôi hẹn đánh nhau với chúng vào một buổi
trưa, sau giờ tan học. Lúc vào cuộc, các bạn tôi như: Tư
Huân, anh Bảy Lăng đều bỏ cuộc, chỉ còn một mình tôi
chọi ba địch thủ, coi như đánh tứ trụ. Kết quả là chưa
đánh nhau được bao lâu thì tôi tự bỏ chạy, coi như (thua).
Nhưng, đấy là việc làm dại dột và nguy hiểm nhất của đứa
trẻ, con của một cán bộ Việt Minh dám đối đầu với con của
bọn việt gian ác ôn. Lúc đó tôi mới 12 tuổi.
Chiều về nhà, tôi dặn chị Hai Huy, con bác Tám Ấu;
chị Bé, con bác Hai là không được “méc” má tôi. Các chị
57

6.8 Page 58

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
đều “ừ” đồng ý. Vậy mà, các chị vẫn báo với má tôi (mà
tôi không biết). Một vài ngày sau đó, du kích bao vây đồn
giặc, ba tôi có về nhà vào ban đêm. Má nói chuyện đánh
nhau của tôi. Ba quyết định cho tôi nghỉ học trường làng và
đưa tôi vào chiến khu Bình Chánh để học Trường Tiểu học
Kháng chiến Tân Uyên.
Học chưa đầy tháng chung với anh Tòng, anh Quỳnh,
con bác Hai Giang thì giặc lại hành quân đốt trường nên
phải tôi lại khăn gói lên Chiến khu Đ học văn hóa ở Văn
phòng Uỷ ban Kháng chiến tỉnh Biên Hòa. Giáo viên là
các thầy giáo do Ty Giáo dục cử sang dạy. Bạn học của tôi
ngày đó có Mười Hữu, Ngọc Chính, Xuân Lan, Thu Lan,
Lan, Chi,...
Đầu năm 1949, lúc đó tôi 13 tuổi, văn phòng Ủy ban
Kháng chiến Hành chính tỉnh Biên Hòa, đóng quân ở xã
Mỹ Lộc. Chủ tịch tỉnh là ông Nguyễn Minh Thành tức ông
Sáu Của (Tô Văn Của).
Phụ trách tiểu đội thiếu nhi, làm liên lạc viên của Ủy
ban là anh Đẳng. Anh huấn luyện cho chúng tôi lăn, lê, bò
toài, đồ đạc gọn gàng ngăn nắp. Chúng tôi thay nhau làm
tiểu đội trưởng một ngày (thực ra là trực nhật mỗi ngày) gọi
là “làm trực nhật”. Người phụ trách làm trực nhật có quyền
tổ chức “báo động, tập hợp” toàn tiểu đội để kiểm tra tinh
thần sẵn sàng chiến đấu của tiểu đội, có sự giám sát kiểm
tra của đồng chí phụ trách là anh Đẳng.
Nhiệm vụ của chúng tôi là phân công một số anh em
đi liên lạc, chuyển công văn đến các cơ quan trên địa bàn,
số còn lại có nhiệm vụ cắt và dán bao thơ. Hàng ngày, cơ
quan cử một anh dạy văn hóa cho tiểu đội thiếu nhi. Mặc
58

6.9 Page 59

▲back to top
Bản tình ca người lính
dù lớp học chỉ hơn 10 người nhưng giáo viên phải dạy
nhiều chương từ lớp 1 đến lớp 4. Mỗi lớp có khi chỉ từ 1 - 3
học sinh, tuổi đời cũng khác nhau, từ 10 - 14 tuổi. Cũng có
một số anh từ 15-17 tuổi, cơ quan vận động vào quân giới
để sản xuất vũ khí như: anh Đạt, anh Đường, anh Thêm,
anh Ti.
Cuối năm 1949, máy bay địch bắn phá cơ quan ác liệt
nên Ủy ban Kháng chiến tỉnh phải dời về khu rừng Đất
Cuốc (khu mỏ đất Cao lanh bây giờ). Ở đây, nhiều anh em
bị sốt rét, trong đó có tôi. Có lần, tôi phải vào Bệnh viện
Quân y do bác sỹ Võ Cương phụ trách để điều trị.
Khoảng cuối năm 1949 -1950 ở Chiến khu Đ có con cọp
ba móng ăn thịt rất nhiều người. Các cơ quan và nhà dân
đều phải làm nhà gác và xung quanh phải làm hàng rào cao
từ 2-3m để tự bảo vệ mình. Trong số nạn nhân của con cọp
ba móng có cán bộ trung đội pháo binh bắn máy bay, cán
bộ phụ nữ, nhà sư, trong đó có bạn học của tôi, tên Sáu nhà
ở Mỹ Lộc. Lúc đó, bạn tôi 12 tuổi, đang phụ giúp gia đình
hái đậu xanh bên bìa rừng, cũng bị cọp ba móng ăn thịt. Có
một lần, tôi và các anh đi thơ hỏa tốc ban đêm, đoạn đường
chừng 5-6 km. Anh lớn được mang súng Thompson, anh
kia cầm lựu đạn. Còn tôi bé nhất được phân công cầm đất,
chỗ nào nghi có cọp các anh bảo tôi ném đất vào chỗ đó,
nếu có cọp các anh sẽ bắn và ném lựu đạn.
Một buổi sáng, tôi được phân công đi công tác một
mình, đường xa 5 - 6km. Trên đường đi, tôi bị lên cơn sốt
rét, lạnh run người, không đi được phải nằm lại bên đường,
nhờ ánh mặt trời sưởi ấm, lúc đó khoảng 9-10 giờ. Sau khi
cơn lạnh run người dần qua, tôi lại tiếp tục lên đường. Đi
được 40 phút, cơn nóng 390C-400C lại đến, khiến tôi không
59

6.10 Page 60

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
đi được nữa. Tôi phải nằm lại bên đường, chờ cơn nóng sốt
lui dần, để tiếp tục đến nơi giao thư và trở về cơ quan.
Vào một buổi chiều đẹp trời nhưng khí hậu mùa khô
hơi nắng nóng, tôi đang bị sốt rét nằm ở nhà má ở Đất Đạo,
cách Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh chừng 2-3km,
tôi được tin con cọp ba móng đã bị các anh ở binh công
xưởng đặt mìn cho nổ và bắn chết. Dân làng khắp vùng
Chiến khu rất mừng và kéo vào Đất Cuốc để xem con cọp
ba móng bị giết chết. Tôi tuy muốn đi xem, mà không thể đi
được. Nghe kể, vào lúc chạng vạng tối ngày hôm trước, cọp
ba móng bắt ăn thịt anh thanh niên cũng bị sốt rét chưa
kịp lên gác ở vùng Đất Cuốc. Sáng hôm sau, dân làng nhìn
thấy xác anh. Người mẹ định đem chôn phần còn lại của
con, nhưng các anh bộ đội binh công xưởng đề nghị mẹ
cho phép đơn vị dùng phần xác còn lại của con mẹ để làm
mồi, để đơn vị bắn hạ cọp ba móng, để trừ mối hậu họa
cho dân làng vùng Chiến khu. Bà mẹ nghe được thấu tình,
hợp lí nên bộ đội, quân giới mới đặt mìn và bắn chết cọp ba
móng vào cuối năm 1950, tại Đất Cuốc, Chiến khu Đ.
Các anh bộ đội đã dựng con cọp ở tư thế nằm phủ phục
thế tấn công chụp ảnh. Hình ảnh ấy đến bây giờ có khi vẫn
còn lưu lại ở các anh bộ đội quân giới. Riêng gia đình bác
Tám Nghệ vẫn còn lưu giữ một cái răng và một cái móng
của con cọp ba móng từ cách đây hơn 75 năm về trước, do
các anh ở binh công xưởng tặng cho bác Tám Nghệ, Huỳnh
Văn Nghệ.
60

7 Pages 61-70

▲back to top

7.1 Page 61

▲back to top
Bản tình ca người lính
Bà nội tôi
Bà nội Võ Thị Ngô của tôi có hai người con trai duy
nhất đều là Liệt sĩ: Liệt sĩ Huỳnh Văn Ngôn (sinh năm 1912)
và ba tôi, Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy (sinh năm 1916). Bà nội
tôi có dáng người nhỏ nhắn, nghe nói ngày xưa bà vốn là
người đẹp người, đẹp nết, giỏi giang trong làng.
Lúc về già, bà vẫn còn tráng bánh tráng để bán vào dịp
Tết. Có người đặt bánh để phục vụ lễ cưới bà vẫn làm, rất
khéo tay.
Ngày tôi còn nhỏ lúc chiều tối bà thường pha nước
nóng tắm cho tôi vì má tôi rất bận việc đồng áng, cơm
nước. Lớn lên một chút, tôi đảm nhận công việc chăn trâu,
cắt cỏ cho trâu ăn. Áo rách, má tôi chưa kịp vá, bà nội đã
nhanh tay vá áo cho tôi. Mấy chiếc áo bà ba bị rách hai
tay chỗ cùi chỏ, bà cắt đi, khéo léo khâu làm áo ngắn tay.
Bà luôn mong muốn làm sao cho tôi được mau lớn, thành
người. Bà hay ca cẩm: “Không biết chừng nào cháu của bà
mới lớn khôn”, nghĩ lại tôi thấy thương bà biết bao!
61

7.2 Page 62

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Năm tháng trôi qua, rồi một ngày tôi cũng trở thành
cậu thanh niên 15-16 tuổi. Tôi biết gánh chuối, bưởi, dừa
ở nhà ra chợ Biên Hòa bán để mua gạo ăn cho gia đình mẹ
và các em. Tôi không quên mua cho bà quà bánh, thứ bánh
mà tôi hay mua về cho bà là loại bánh da, nhân đậu xanh,
bây giờ gọi là bánh pía Sóc Trăng.
Nhớ ngày ba, má và anh em tôi ở Chiến khu, khoảng
cuối năm 1949, bà tôi khăn gói lên Chiến khu thăm gia
đình tôi và chị Hai Dung. Quà của bà nội mang lên là chuối
ép phơi khô và có cả món ăn bình dân mà khi ăn cả nhà
rất cảm động trước sự chăm chút của bà nội. Đó là dọc
khoai môn (ngó khoai) mọc dưới rộng. Bà muối chua đem
lên cho con, cháu nấu canh. Từ vùng tạm bị chiếm xa xôi,
bà phải đi đò qua sông (nếu gặp địch thì rất nguy hiểm),
sau đó đi bộ tiếp vài chục cây số mới đến chỗ con và các
cháu ở.
Tôi vẫn còn nhớ như in, có một bức hình bà nội chụp
với ba, má, tôi và hai em Lài, Hài ở Chiến khu Đất Cuốc,
nơi ba tôi làm việc. Rất tiếc, vì chiến tranh kéo dài nên tấm
hình ấy không còn nhưng những kỷ niệm về bà vẫn còn in
đậm trong trái tim tôi.
62

7.3 Page 63

▲back to top
Bản tình ca người lính
Hai lần đối mặt với cọp ba móng
Khoảng đầu mùa khô năm 1950, giặc càn vào Chiến
khu. Tối hôm đó cả Chiến khu phải sơ tán vào rừng sâu. Bộ
đội chủ lực, Tiểu đoàn 303 có nhiệm vụ nổ súng đánh địch
khi chúng đến gần nơi đồng bào sơ tán, để bảo vệ dân. Gia
đình tôi đi theo bà con, những người am hiểu về đất rừng
ở đây. Đêm đó, bà con quần tụ trong khu rừng sâu. Các
ông lão mắc võng nằm gác phía ngoài cho các bà già, trẻ
con và phụ nữ nằm ngủ bên trong. Ở giữa khu đóng quân
có đốt một đống lửa, gồm các cây củi lớn để luôn có than
hồng sưởi ấm. Khoảng 4 giờ sáng, tôi mắc tiểu nên ra gần
nơi đóng quân để đi vệ sinh. Từ xa, có một đốm lửa từ từ
di chuyển về phía tôi. Tự nhiên, tôi thấy rờn rợn cả người,
mắt vẫn nhìn thẳng vào đốm lửa hồng tự trấn tĩnh: “Không
có gì đâu!”. Ánh lửa hồng dừng lại chừng 5-7 giây rồi tắt.
Tôi quay vào chỗ nằm, vừa nằm xuống thì nghe có tiếng
bác Hai gọi: “Chú Ba ơi! Chú dậy đi! Từ nãy giờ tôi thấy con
63

7.4 Page 64

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
cọp nó đi vòng vòng nơi mình ở!...”. Chú Ba thức dậy hỏi:
“Nó đâu anh?”. Bác Hai chỉ hướng tôi vừa mới đi vệ sinh
về. Chú Ba lại gần đống lửa cầm một cây củi, có than hồng
chọi về phía ấy. Thì ra, ánh lửa như cục than hồng chính là
mắt con cọp vào ban đêm. Tôi đã đối mặt với cọp ba móng
mà nào có biết. Lúc đó, chỉ cần có một cú nhảy vồ… thì, tôi
như tiêu mạng rồi...
Sau sự việc tôi đối diện với cọp chừng 20 phút, cách
nơi chúng tôi đóng quân gần 500m, cọp ba móng đã vồ
một con ngựa và ăn thịt gần một nửa. Đây chính là con
cọp ba móng xuất hiện tại vùng rừng miền Đông Nam Bộ
khoảng năm 1948. Con cọp này một chân chỉ có ba móng,
nó đã ăn thịt rất nhiều cư dân sống tại vùng này và gieo rắc
nỗi kinh hoàng cho những người sinh sống ở tại Chiến khu
Đ. Sự hoành hành của con cọp ba móng đến mức Ủy ban
Hành chính Kháng chiến tỉnh Biên Hòa lúc đó đã phải lên
kế hoạch tổ chức săn lùng để tiêu diệt.
Một lần khác, tôi đối mặt với con cọp “hai chân” nhưng
tôi thấy còn nguy hiểm hơn con cọp ba móng mà tôi đã
gặp. Đó là vào một ngày cuối năm 1952, tôi và chú Năm
Đựng đi bán tranh ở chợ Biên Hòa. Khi chúng tôi lên xe về
quê từ chợ Biên Hòa đến Bến Cá thì trên xe đã đầy khách.
Tôi và chú Năm Đựng phải đứng. Gần chỗ tôi đứng có một
tên lính, người mà tôi coi còn nguy hiểm hơn cọp ba móng
vì tên này có thể bắt tôi và tôi có thể bị đánh đập, khảo tra
và cầm tù. Tôi trấn an, coi như không có chuyện gì xảy ra.
Tên lính thoải mái tán gái từ Biên Hòa về tới Bến Cá. Tới
chợ Bến Cá, tôi và anh bạn xuống xe, hành lý chỉ là một
đôi quang gánh trống rỗng. Tên lính gọi tôi: “Ê! Nhỏ!”. Tôi
quay lại, lễ phép đáp: “Dạ! Thưa thầy! Thầy kêu (gọi) tôi?”.
64

7.5 Page 65

▲back to top
Bản tình ca người lính
Tên lính hỏi: “Mầy có phải con ông Ỷ không?”. Tôi đáp:
“Dạ không phải, tôi ở bên kia sông!”. Sau đó tôi nghĩ mình
bị hớ, vô tình cho nó biết quê của mình. Tên lính cứ nhìn
chằm chằm tôi. Tôi nói: “Xin phép thầy, tôi đi”, vừa nói tôi
vừa quay đi…
Tên lính ấy tên Thảo, nhân viên cơ quan hậu cần ở
Chiến khu Đ, đóng quân cách nhà má tôi chừng vài trăm
mét, nên biết ba tôi và nhớ mặt tôi. Khoảng 2-3 năm nay,
y đầu hàng giặc vì kháng chiến gian khổ không chịu được.
May mà y nhớ mang máng tên ba tôi thành vần “Ỷ” chứ
nếu không y có thể bắt tôi, một đứa trẻ thiếu niên, con
của một cán bộ Việt Minh ở Chiến khu Đ mà y có thời gian
phục vụ. Qua sự việc trên, tôi thấy tên Thảo như loại cọp
ba móng hai chân mà tôi đã đối mặt. Khi đã phản bội quê
hương, Tổ quốc, y còn nguy hiểm hơn con cọp ba móng ở
Chiến khu Đ năm nào.
65

7.6 Page 66

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Hầm bí mật của ba
Năm 1954 (sau Hiệp định Genève 20/7/1954), Hiệp
định đình chiến giữa ta và Pháp về lập lại hòa bình ở Đông
Dương nói chung, Việt Nam và Pháp nói riêng, nước ta chia
làm hai miền Bắc - Nam. Từ vĩ tuyến 17 trở ra do ta kiểm
soát, từ vĩ tuyến 17 trở vào do quân đội Pháp kiểm soát. Hai
bên chuyển quân theo hai phía theo qui định, phía ta trong
vòng 30 ngày phải rút khỏi Chiến khu Đ.
Sau Hiệp định, ba tôi được giao nhiệm vụ đọc diễn văn
trước quân dân Chiến khu Đ. Cuộc mít tinh ở Thiềng Liềng
- Bà Đá về nội dung của Hiệp định và việc chuyển quân
đi tập kết. Sau đó ba con tôi gặp nhau và ba tiễn tôi đi tập
kết. Dường như ba biết trước tình hình, khi quân Pháp tiếp
quản, quản lí vùng đất miền Nam. Khi chia tay, ba không
nói nhiều mà chỉ khuyên tôi ra Bắc cố gắng học hành và
rèn luyện tư cách đạo đức để sau này xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Ở Sở Y tế Thủ Biên, chị Hai Dung con bác Hai, Huỳnh
Hữu Ngôn không được đi tập kết, phải về quê. Chị Hai tặng
hết đồ đạc cá nhân cho các bạn được đi tập kết. Cũng may,
trên đường về, chị Hai Dung được gặp ba và bác Phạm Văn
Thuận. Hai ông biết được chị Hai không được đi tập kết
nên viết giấy gửi bạn để chị Hai Dung được đi tập kết ra
66

7.7 Page 67

▲back to top
Bản tình ca người lính
Bắc. Nhờ đó, hai vợ chồng chị Hai Dung được gặp lại nhau
trên đất Bắc và đoàn tụ gia đình.
Ba ở lại hoạt động bí mật có anh Tư Quí, quê Hải
Dương, dân cao su làm cận vệ cho ba, nhận ba làm cha
nuôi. Má và bác Hai làm lễ cưới chị Tư Bi cho anh Tư Quí.
Anh Tư Quí có nhiệm vụ đào cho ba hầm bí mật để ba nằm
vùng ở địa phương. Hầm bí mật được chọn dưới cục gò mối
có bụi gai găng ở phía Đông Nam nhà chú Năm Hài (hiện
gò mối vẫn còn). Cửa hầm bí mật quay ra phía cánh đồng,
nơi hàng rào đất vườn nhà bác Tám thẳng với đất chú Tư
Cồm (con ông Bảy Thính). Anh Tư Quí đào một đoạn giao
thông hào dài khoảng 70m ra tới hầm, nhân lực anh Tư
chọn là các thanh niên tốt trong làng để thực hiện như: chú
Chín Hò, anh Ba Sự... Trong khuôn đất nhà họ Huỳnh, nhà
tôi có tới ba hầm bí mật, trong nhà bà nội có hầm bí mật
ở nhà trên (nhà cũ) dưới chân cột cái. Hầm thứ ba ở xung
quanh mộ của ba tôi, do chú Út Hung (Bí thư xã) và anh
Ba Cơ (ba của Sỹ), Chủ tịch kiêm Xã đội trưởng đào. Trong
kháng chiến, để che mắt kẻ thù “người sống đã sống chung
với người chết để hoạt động cách mạng”. Cửa hầm bí mật
ở ngay phía đầu mộ ba.
Sau ngày 30/4/1975, di tích hầm bí mật vẫn còn, cửa
hầm bị sụp, tôi đem bụi hoa huệ trồng ở đây, để mỗi mùa
xuân về hoa nở, thay nén tâm nhang cho chú Út Hung, anh
Ba Cơ, và em trai của anh Ba Cơ, vì ba người đã ở hầm bí
mật này. Người đem trái cây, xôi chè ra cúng ba thực chất là
tiếp tế cho ba ông Việt cộng này chính là má và chị Hai Huy.
Nhắc lại chuyện cũ để nhớ, tưởng nhớ các anh hùng
liệt sỹ năm xưa, những người đã góp máu xương giành lại
độc lập cho đất nước.
67

7.8 Page 68

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Nghĩa tình của má
Má tôi tên là Nguyễn Thị Hớn (tự là Du). Sở dĩ má mang
tên Du (tên của dì Sáu tôi) để che mắt giặc hoạt động cách
mạng. Gần như cả cuộc đời má tôi mang tên người em thứ
sáu của mình Nguyễn Thị Du, vợ của thầy giáo Nguyễn
Văn Sua, người cùng làng Tân Trạch, cù lao Mỹ Quới, xã
Bạch Đằng.
Má tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp, gia
giáo. Là chị Hai trong một gia đình đông con nên ngay từ
nhỏ má đã chịu thương, chịu khó phụ ông bà ngoại chăm
lo các em nhất là dì Chín và hai cậu út. Khi có gia đình
riêng, má lại tần tảo chăm sóc cha mẹ chồng, nuôi con
để chồng yên tâm công tác. Không những vậy, có những
lúc má còn làm giao liên đưa thư cho ba không quản hiểm
nguy đến tính mạng của mình. Một lần, ba tôi nhờ má đưa
thư cho bác Ba Thuận ở Chi bộ xã Bình Ý. Năm 1956, giặc
bắt bớ, giam cầm đảng viên, những người tham gia kháng
68

7.9 Page 69

▲back to top
Bản tình ca người lính
chiến, yêu nước ở nhà lao Tân Hiệp, Biên Hòa, ba nhờ má
đưa thư giấu trong phên đường cho một đồng chí ở nhà lao
Tân Hiệp. Không lâu sau đó, ngày 22/7/1956, ba tôi bị giặc
phục kích, hy sinh tại cù lao Mỹ Quới (Tân Uyên) ở tuổi vừa
tròn 40. Lúc đó, ba đang là Phó bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa.
Nghĩa tình của má đối với ba còn thể hiện trọn vẹn qua
câu ca dao: “Chàng đi cho thiếp đi cùng, đói no thiếp chịu,
lạnh lùng thiếp cam”. Câu thơ xưa đã vậy nhưng ở má tôi
còn sâu đậm hơn, vĩ đại hơn cả sự hy sinh đó đặc biệt là
khoảng thời gian ba tôi bị giặc bắt, tra tấn dã man và lưu
đày biệt xứ ở huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Năm ba bị
bắt, má tôi chừng 25 tuổi, còn tôi chừng lên 5. Hoàn cảnh
thật éo le, con thơ nheo nhóc nhưng má vẫn một mực xin
phép ông bà nội, ngoại được lên Trảng Bàng để thăm nuôi
ba. Ông bà nội, ngoại thương cho hoàn cảnh của gia đình
tôi nên gom góp ít tiền để má dằn túi lên đường. Còn tôi
được má gửi nhà ông bà ngoại cho dì Tám chăm sóc.
Tôi vẫn còn nhớ những ngày được đi thăm ba má ở
Trảng Bàng trên một chiếc xe đò chạy bằng than củi. Sống
với ba má được gần một tuần thì tôi được vợ chồng bác
Hai và chị Ba Kim đón về Sài Gòn, sau đó bác Hai tiếp tục
đưa tôi về Biên Hòa với ông bà ngoại. Dù ba tôi sống trong
cảnh tù đày nhưng ba má vẫn động viên nhau chia ngọt, sẻ
bùi. Gần hai năm sau, ba tôi được tha tù. Má vừa sinh em
Lài vừa mới mười ngày tuổi đã phải bồng bế về quê. Lúc
ba về cả hai gia đình nội, ngoại đều mừng rơi nước mắt.
Về nhà chưa bao lâu ba lại đi kháng chiến còn má ở nhà lo
việc đồng áng và nuôi dạy đàn con thơ. Năm 1948, giặc truy
lùng những cán bộ kháng chiến và gia đình, vợ con của họ
để trả thù. Má lại thu xếp vào Chiến khu Đ cùng ba. Năm
69

7.10 Page 70

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
1951, má trở về quê và sinh ra em Nhị trong hoàn cảnh khó
khăn cùng cực, tài sản chỉ là đôi bàn tay trắng và miếng
đất cằn cỗi mọc đầy cỏ tranh. Từ đôi bàn tay ấy, má đã tảo
tần biến cỏ tranh thành ruộng vườn, cơm gạo nuôi lớn đàn
con. Sau Hiệp định Genève, ba từ Chiến khu Đ trở về. Khi
em Nhị chưa đầy 7 tháng tuổi thì ba hy sinh. Má còn cưu
mang, nuôi dạy em Công(1), một đứa trẻ mồ côi ở Chiến
khu Đ do cậu Bảy đưa về. Sau này, em trở thành chiến sĩ
giải phóng quân và hy sinh anh dũng trong trận tấn công
vào Chi khu quân sự quận Tân Uyên năm 1964.
Cả cuộc đời má đã yêu và trở thành vợ của một chiến
sĩ Cộng sản nên má chấp nhận thay chồng gánh vác mọi
việc, từ việc chăm sóc cha mẹ chồng đến nuôi dạy con
thơ. Không chỉ có vậy, má còn thay ba gánh vác một phần
công việc cách mạng của ba, là cơ sở hoạt động cho cách
mạng địa phương cho đến ngày đất nước hoàn toàn giải
phóng. Và những năm cuối cùng của cuộc đời má luôn là
tấm gương hy sinh, thủy chung son sắt cho con cháu. Ngày
mừng thọ má tuổi 95, tôi có viết bài thơ tặng má:
Ngày giải phóng tuổi má sáu mươi
Ba mươi năm sau, má tròn chín lăm
Gác tay lên trán nghĩ thầm
Mà thương đời má, tháng năm khổ nhiều
Thay chồng gánh vác nuôi con
Lo toan mọi việc, héo hon đời mình
Bao năm khói lửa chiến binh
Má luôn bình tĩnh một mình lo toan
(1) Ba má tôi đặt tên em là Huỳnh Văn Công.
70

8 Pages 71-80

▲back to top

8.1 Page 71

▲back to top
Bản tình ca người lính
Nuôi con ăn học, chăm ngoan
Mai sau thành đạt, xây giang san nước nhà
Cho dù giặc bắt khảo tra
Đến giờ đất nước thăng hoa
Gia đình đoàn tụ, một nhà đông vui
Đoàn viên có chút ngậm ngùi
Thương người nằm xuống không nguôi tấc lòng
Trong tim thổn thức thầm mong
Công dày, nghĩa lớn, thỏa lòng má vui.
Tháng 8/2011
71

8.2 Page 72

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Quê ngoại dấu yêu
Bà ngoại tôi, bà Đồng Thị Hảo quê ở ấp Bình Thới, xã
Bình Hòa, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hòa xưa.
Ông cố ngoại tôi là ông Đồng Văn Đinh ngày xưa nổi
tiếng giàu có ở vùng này. Bà ngoại là con thứ năm của ông
cố. Tôi còn nhớ khi được mẹ dẫn về thăm ông cố ngoại,
ông cố tôi đã già lắm rồi. Ông mặc bộ đồ bà ba màu trắng
nằm trên võng ở nhà trên. Ông còn khỏe và rất minh mẫn.
Ông bảo chúng tôi “Cây trái trong vườn, con cháu muốn
ăn cứ tự do hái ăn”. Tôi còn nhớ, trước nhà ông có một cây
mận, lúc chín có màu đỏ, trắng mà tôi rất thích ăn và được
má tôi hái cho ăn.
Kể từ ngày đó, tôi chưa một lần được về thăm quê ông
cố ngoại cho đến sau ngày giải phóng miền Nam. Cây mận
trước nhà ông cố ngày xưa không còn nữa nhưng tình cảm
của tôi với bà ngoại và quê ngoại yêu thương vẫn đong đầy
trong ký ức.
72

8.3 Page 73

▲back to top
Bản tình ca người lính
Từ năm 1948 - 1950, ba tôi đưa má và ba đứa con (khi
đó tôi 12 tuổi, em Tư Lài 8 tuổi và em Hài 5 tuổi) vào Chiến
khu Bình Chánh - Tân Uyên, sau lên Chiến khu Đ, Đất Đạo,
xã Tân Lân, là căn cứ địa của Chiến khu Đ.
Năm 1956, khi má đang mang thai em Nhi, ba đã đưa
má về quê là vùng tạm chiếm ở xã Bạch Đằng. Gia cảnh
nhà tôi lúc đó vô cùng khó khăn, dì Sáu và dì Tám phải
cho đồ cũ để mặc. Đầu năm 1951, ba giao nhiệm vụ cho
tôi là về quê giúp má phụ nuôi em. Tôi còn nhớ, trước khi
bà ngoại qua đời, tôi có về Bình Thới gặp được bà Chín và
cậu Tư Lộ. Lúc này cậu Tư học hết lớp nhất và đang làm
thủ kho, giữ vật tư cho công trường xây dựng - khu nhà
lầu cao tầng, do nhà thầu tư bản xây dựng ở khu chợ Tân
Định - Sài Gòn, gần đường đi sân bay Tân Sơn Nhất. Cậu
Tư hứa với bà ngoại giúp tôi kiếm việc làm thêm ở công
trường xây dựng. Tôi làm được tháng thứ ba thì được tin
bà ngoại mất. Bà ngoại tôi cũng có hai người con là Liệt
sĩ. Đó là Liệt sĩ Nguyễn Văn Sơn và Nguyễn Văn Nho, hai
người em trai yêu quý của má tôi. Năm 2014, bà ngoại tôi
đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng.
73

8.4 Page 74

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Trở thành lao động chính
Vào cuối năm 1951, khi tôi vừa kết thúc năm học lớp
nhì (tương đương lớp 4 bây giờ) ba tôi giao nhiệm vụ: “Má
và các em: Lài, Hài đã về quê - vùng tạm chiếm ở cù lao Mỹ
Quới, con về quê phụ lao động nuôi em, má con có bầu em
Nhi sắp sinh”. Tôi về quê gặp má và hai em, má rất mừng
vì tôi đã về cùng sống bên gia đình và hy vọng tôi, đứa con
trai lớn có thể phụ giúp má những lúc khó khăn.
Đầu tiên má chuẩn bị cho tôi đôi quang gánh để gánh
các thứ ở nhà có đi chợ Biên Hòa bán như: chuối, đu đủ,
ngâu, dừa. Có một lần, tôi trèo hái dừa, té từ độ cao 5m
xuống đất ngất xỉu suýt chết.
Ban đầu, tôi gánh chưa quen, chỉ gánh được khoảng
12-13kg và phải cố gắng gánh chạy theo các cô, các chị đi
phía trước rất vất vả nhưng từ từ rồi cũng quen. Mỗi lần
bán được hàng, tôi phải mua 5 lít gạo để cả nhà có gạo ăn
và mua thêm muối, nước mắm. Về nhà, tối đến, tôi đi soi cá
dưới sông để có đồ ăn trong ngày.
74

8.5 Page 75

▲back to top
Bản tình ca người lính
Tháng 10/1952, một trận bão lũ lịch sử ập đến vùng
Đông Nam Bộ. Tỉnh Biên Hòa nước dâng cao từ 2,5 - 3m so
với những năm bình thường. Voi và cọp cũng bị cuốn trôi
từ rừng về phía hạ lưu sông Đồng Nai.
Đầu năm 1952, má và bác Hai bàn: hai nhà sẽ mua một
đôi trâu để cày cấy vì nhà có nhiều ruộng đất. Trước mắt,
giao cho tôi đi chăn trâu. Khi nhờ dượng Tám ở nhà máy
cưa Biên Hòa mua được trâu, tôi xuống cưỡi trâu một tuần
ở nhà dì Tám. Sau khi có giấy tờ, tôi dẫn trâu về quê, đi
đến đình Bình Thảo, tôi bị một anh du kích chặn lại, đòi
đóng thuế cho Việt Minh rồi mới được đi. Tôi nghĩ thầm:
“Tôi cũng là Việt Minh đây”. Thật ra, trong túi không có
tiền nhưng tôi trả lời với anh cho xuôi: “Thưa anh, tôi là
người được người ta thuê, dẫn trâu về làng Mỹ Quới để cày
ruộng”. Anh du kích nghe cũng có lí nên nói: “Thôi, em dắt
trâu đi!...”. Từ đó, tôi trở thành đứa trẻ chăn trâu. Má và bác
Hai thuê người tập cho trâu cày, vì có một con trâu nghé
mới lớn tên tên là “trâu Quýt”, con lớn hơn tên “trâu Xe”.
Lần đầu, thuê chú Năm Lèo cày vỡ đất. Lần hai, thuê anh
Hớ ở Lợi Hòa (Bình Lợi) cày dùm và lần ba đến lượt tôi cày.
Trận lụt năm Nhâm Thìn 1952, nhà tôi nước lên
khoảng 1,2m, ngoài đồng nước lên đến bụng trâu. Chân
trâu bị ngâm nước bị bong tróc, tôi phải cho trâu lên gò mả
cao. Bác Sáu có đất ở gò Điều Hòa nên biểu tôi cùng anh
Sáu (anh của Sư Văn) đánh trâu lên đó. Khi chúng tôi đưa
trâu lên chỗ giáp ranh giữa hai làng Tân Trạch và Điều Hòa
thì gặp một thác nước chảy rất mạnh khiến trâu không thể
vượt qua và có thể bị trôi. Anh Sáu, được giúp sức nên đến
lần thứ hai thì vượt được thác nước. Còn tôi, mặc dù cố hết
75

8.6 Page 76

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
sức nhưng phải đến lần thứ ba, tôi mới đưa được hai con
trâu vượt qua thác nước. Trâu ăn cỏ ở khu gò cao được một
tuần lễ, thì nước rút mới cho trâu về được.
Sau trận lụt năm 1952, tôi còn có một việc làm đáng
nhớ là đi bán tranh ở Biên Hòa. Má và em Lài đánh tranh,
còn tôi phải gánh tranh đi bán để có tiền mua gạo.
Đầu năm 1953, tôi đi làm phụ hồ cho thợ xây nhà. Cậu
Tư Lộ, lúc đó 18 tuổi, là công nhân giữ kho vật liệu cho
nhà thầu xây nhà cao tầng ở Sài Gòn(1). Nhà thầu yêu cầu
sử dụng vài người phụ quét dọn khu vực công trường. Cậu
Tư Lộ kêu bà ngoại tôi bằng cô ruột. Vì có mối quan hệ nên
cậu Tư Lộ xin nhà thầu cho tôi chân thợ phụ hồ bất đắc dĩ.
Có việc làm nên tôi có tiền phụ má lo cho ba đứa em và tôi
cũng sắm cho mình bộ đồ mới.
Làm được 2-3 tháng thì tôi được tin bà ngoại mất và về
chịu tang ngoại. Cuộc đời thợ hồ cũng đã qua đi.
Cuối năm 1953, ba nhắn tôi lên Chiến khu Đ để làm hồ
sơ đi học văn hóa ở Liên khu 5, sau đó trở về, tôi chuẩn bị
đi hẳn. Má tôi rất buồn, trách: “Mày đi, con Lài phải chăn
trâu, nó bị té gãy tay!”. Tôi thấy thương em gái 9 tuổi phải
thay tôi giữ trâu. Em tôi cưỡi trâu bị té sai khớp cùi chỏ
phải, tay trái, má tôi phải đem em lên thầy Đội(2) ở Điều
Hòa để “nắn” (tức chữa sai khớp), đi 3 - 4 lần mới khỏi.
(1) Khu chợ Tân Định, P. Tân Định, TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
(2) Ông thầy Đội đi lính sang Pháp trong chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (năm 1914-1918), ông học được nghề “nắn” khớp, chữa bệnh
cho dân trong vùng.
76

8.7 Page 77

▲back to top
Bản tình ca người lính
Tuổi thơ của tôi quá cơ cực. Mỗi lần, nhìn thấy tôi, bà
nội lại xót xa, ca cẩm: “Không biết cháu tôi đến khi nào mới
lớn khôn và thoát được cảnh cơ hàn?”. Tôi còn nhớ, mỗi
lần đi chợ, tôi đều nhớ mua cho nội vài cái bánh pía để nội
ăn, uống nước, mua cho em Nhi một chai xá xị.
Một điều đáng nhớ là trước lúc đi xa, tôi có linh cảm là
sẽ không còn được gặp lại nội, nên tôi có để lại một bức thư
gửi chị Ba Kim, nhờ chị Ba săn sóc nội lúc tuổi già. Không
thể nói cùng chị, nên tôi để lại lá thơ ấy trong rổ kim chỉ
của chị. Khi tôi đi rồi, một lần giở kim chỉ ra may vá, chị
Ba phát hiện được lá thơ của tôi và đọc cho bà, bác Hai và
má tôi nghe. Cả nhà đều xúc động khi nghĩ về đứa con, đứa
cháu nghèo khổ mà hiếu thảo với nội và má.
77

8.8 Page 78

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Chú Bảy Đua
Chú Bảy Đua (Nguyễn Văn Đua), người chiến sĩ tình
báo năm xưa của Chi đội 10 Biên Hòa anh hùng. Sau này,
chú Bảy Đua được bác Út Thôi mời về làm Xã đội trưởng xã
Bạch Đằng.
Nếu không kể, chắc không ai biết đến trường hợp chú
Bảy hy sinh. Tôi còn nhớ đầu năm 1954, khoảng tháng
2/1954 chú Bảy hẹn tôi lên nhà bác Út Thôi để chú đưa tôi
lên Chiến khu Đ. Chủ trương của tỉnh lúc này là cho con
em cán bộ cách mạng ra Liên khu 5 hay miền Bắc để học
văn hóa.
Một buổi chiều, má đưa tôi lên nhà bác Út Thôi rồi
quay về. Tôi muốn xin má được đi học theo ý nguyện của
ba nhưng không dám nói ra vì tôi biết má không muốn xa
con dù là ý tưởng rất tốt đẹp. Sau này, tôi luôn hối hận về
điều đó...
Chú Bảy dặn các chị con chú khi nào tôi ra thì lên gặp
chú. Theo sự chỉ dẫn của các chị, tôi ra khu vực đình Điều
Hòa, cách nhà bác Út Thôi khoảng 200m. Khu đình qua
nhiều năm chiến tranh không có người săn sóc, nên cây
78

8.9 Page 79

▲back to top
Bản tình ca người lính
cỏ mọc hoang vu. Cửa hầm chú Bảy ở ngay dưới gốc cây
cổ thụ. Chú Bảy Đua bảo tôi: “Cháu ra nhà bác Út nghỉ, tối
chú vào đưa cháu lên Chiến khu Đ”.
Sau khi ăn vội bát cơm tối, khoảng 8 giờ chú Bảy đưa
tôi qua sông đoạn cồn Bình Ninh, sau đó lại đưa qua đoạn
Tân Tịch (bến đò Bà Miêu) để đi vào Mỹ Lộc và chú cháu
tôi xa nhau từ dạo ấy.
Sau 20 năm đi tập kết ra Bắc học hành, thành đạt khi
trở về Nam tôi được biết chú Bảy Đưa đã hy sinh vào thời
điểm trước ngày ký Hiệp định Genève chừng một tháng.
Nghe kể lại rằng, khi bác Út Thôi và chú Bảy Đua vào
nhà bác Út, bác Út đi trước, chú Bảy đi sau. Chú Bảy bị
trúng đạn vì giặc phục kích còn bác Út chạy thoát. Sáng
hôm sau, giặc khiêng xác chú Bảy về đồn ở đình làng Tân
Trạch để xác chú Bảy ở tư thế ngồi, tay cầm trái sấu màu
vàng, miệng chúng cho ngậm thuốc lá. Giặc rêu rao chú
Bảy là người xấu. Nhưng chú Bảy Đua là người yêu nước,
được dân làng chôn cất, nhang khói.
79

8.10 Page 80

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Bác Mười của tôi
Bác Mười Đeo sinh năm 1917, mất ngày 19/12/1972.
Đơn vị của bác Mười là Xí nghiệp D20, sản xuất thiết bị
điện, thuộc Bộ Điện than trước đây. Đơn vị ở gần ga Yên
Viên, Hà Nội. Khu tập thể ở gần Cống Thôn, bên hữu hạn
sông Đuống.
Mùa lũ năm 1971, đê Cống Thôn bị vỡ, nước lũ đã làm
bùn cát tràn vào nhà tập thể của bác. Sau lũ, cơ quan phải
dọn dẹp bùn cát ra ngoài sân thành một đống cát hàng
100m3.
Đầu năm 1972, trong một chuyến lên Hà Nội công tác,
tôi đã có dịp về thăm bác Mười ở địa điểm này.
Chuyện về bác Mười là một câu chuyện thật buồn
biết bao! Tuy bác chỉ ít hơn ba tôi có một tuổi nhưng bác
không có vợ con. Khi còn trẻ, bác cũng có người yêu và
hai người yêu thương nhau thắm thiết nhưng duyên không
thành hiện thực, vì gia đình của người yêu chê bác nghèo
và không có tương lai sự nghiệp. Người yêu của bác là cô
Út Tài.
Cô Út Tài đi lấy chồng xa ở xã Thạnh Phú, được một,
hai năm thì bị bệnh nặng, xin nhà chồng cho về nhà mẹ
ruột để chữa bệnh, nhưng bệnh tình của cô ngày càng nặng
80

9 Pages 81-90

▲back to top

9.1 Page 81

▲back to top
Bản tình ca người lính
thêm và cô qua đời khi chưa đến 30 tuổi. Còn bác Mười thì
đi hoạt động cách mạng cùng với ba của tôi. Lúc tôi biết thì
bác Mười làm công tác văn phòng ở cơ quan Tỉnh ủy Biên
Hòa. Thời đó, chú Trường Sinh làm Chánh văn phòng.
Khoảng năm 1948, cơ quan Tỉnh ủy, Ủy ban Hành
chính Kháng chiến tỉnh và công an ở khu rừng thuộc xã Mỹ
Lộc có một cột mốc, cây gỗ gõ ở bìa rừng. Vị trí cây gõ là
“điểm mốc chỉ điểm” để bọn gián điệp chỉ điểm cho máy
bay giặc Pháp ném bom ba cơ quan đầu não của tỉnh Biên
Hòa ngày đó. Máy bay giặc Pháp ném đúng mục tiêu ba cơ
quan này, nhưng rất may là không có thiệt hại về người.
Về sau, Ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh chuyển
về gần làng Mỹ Lộc nhưng cũng bị giặc ném bom một lần
nữa vào đầu năm 1949 nhưng may mắn không có thiệt hại
về người. Thời gian này, tôi làm liên lạc ở văn phòng Ủy
ban. Cuối năm 1949, cơ quan chuyển về Đất Cuốc thì được
an toàn.
Năm 1952 đến 1953, do sức khoẻ yếu nên bác Mười
được cơ quan cho nghỉ an dưỡng ở xã Đại An. Đầu năm
1954, giặc Pháp hành quân vào Chiến khu, bác Mười bị giặc
phục kích, bắn bị thương nặng, gãy xương đùi trái, không
chạy được, sau đó giặc đến chỗ bác nằm. Bác Mười bị hôn
mê, nhưng giặc không bắn chết mà còn sơ cứu vết thương
cho bác. Lúc này đang diễn ra Hội nghị Genève, nên giặc
cũng bớt hung hăng.
Sau khi giặc rút quân, du kích xã Đại An đã khiêng bác
Mười vào Quân y viện, đùi trái bác Mười bị nhiều viên đạn
làm gãy xương đùi dài gần 20cm. Các bác sĩ quân y đã giải
phẫu sắp xếp lại xương đùi và băng bó cho bác.
81

9.2 Page 82

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Được tin, ba tôi đã cử anh Hai Hưởng đóng quân ở chỗ
ba vào Quân y viện để săn sóc cho bác Mười. Sau đó, ba
đến chỗ tôi đang học văn hóa xin phép cho tôi được đi với
ba vào Quân y viện thăm bác. Lúc này, bác đã tỉnh táo hơn
nhưng vết thương còn rất đau đớn.
Sau gần một tháng khi ba và tôi đến thăm bác, thì
thương binh ở Quân y viện cùng bác Mười được xuống tàu
đi tập kết. Thật bất ngờ là tôi cũng được đi chuyến tàu với
bác. Chuyến tàu thứ hai khu Đông Nam Bộ tập kết ra bến
Sầm Sơn, Thanh Hóa. Chuyến đầu chở bộ đội ở Thủ Biên
và Bà Rịa cũng xuất phát từ cảng Gò Dầu (Bà Rịa).
Chuyến tàu đầu tiên chở bộ đội từ Bãi Tranh (Gần cảng
Gò Dầu) ra cây số “0” cửa sông Lòng Tàu, cách thành phố
Vũng Tàu chừng 1km về phía Tây Nam.
Tôi đi chuyến tàu buôn do Pháp thuê để đưa quân
đội đối phương di chuyển đến địa điểm tập kết Sầm Sơn,
Thanh Hóa ở miền Bắc. Ra tới miền Bắc, Bộ Y tế và quân
đội đã tận tình chữa trị vết thương cho bác để khỏi bị cắt bỏ
chân phải của bác vì vết thương khá nặng.
Khi vết thương của bác Mười được chữa lành, chân trái
của bác bị ngắn hơn chân phải 0,07m. Bác phải đóng đôi
giày chân trái cao 0,05m để khi đi đỡ bị khập khiễng.
Cuối năm 1954 đầu năm 1955, đất nước ta còn nghèo
chưa đủ điều kiện nuôi thương binh nên có chính sách đưa
thương binh về làng, mỗi làng nuôi từ hai đến ba thương,
bệnh binh.
Mỗi thương binh được gửi ở một nhà để có điều kiện
chăm sóc. Bà con cho thương binh một mảnh ruộng, do
82

9.3 Page 83

▲back to top
Bản tình ca người lính
bà con cày cấy săn sóc đến khi gặt lúa phơi khô, sau đó xay
lúa, giã gạo để thương binh có gạo ăn. Bác Mười được về
một làng (xã) thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh(1)
Đầu năm 1956, Nhà nước đã xây được làng thương
binh ở làng Đại Tráng, thị xã Bắc Ninh và tôi đã được về
thăm bác Mười ở đó.
Về sau bác Mười được bố trí làm công tác bảo vệ ở Xí
nghiệp D20 chuyên sản xuất thiết bị điện. Thời gian học
Đại học Thủy lợi ở Hà Nội (1963 - 1966), nhiều lần tôi về
thăm bác ở đây.
Cuối năm 1972, máy bay B52 của Mỹ ném bom ở Hà
Nội (từ 17/12 đến 30/12). Đêm 18/12, bác Mười bị trúng
bom B52 rải thảm ở khu vực ga Yên Viên, Hà Nội. Bác bị
một mảnh bom trúng lưng bể phổi. Bác được anh em thủy
lợi đang đắp đoạn đê Cống Thôn bị vỡ đưa đến bệnh viện
dã chiến ở Châu Quì (gần Đại học Nông nghiệp Hà Nội).
Sau này, có dịp gặp mấy anh công nhân thủy lợi quen biết,
tôi mới được biết sự việc này.
Đầu năm 1973, trong chuyến về Bộ Thủy lợi làm việc
tôi ghé thăm chị Hai Dung. Chị báo cho tôi là chị nhận
được tin cơ quan bác Mười báo tin buồn là bác Mười bị
bom 52 đã mất ngày 19/12/1972. Tôi với chị Hai Dung đã
đến Xí nghiệp D20 nơi bác Mười công tác. Hai chị em tôi
mua bông và nhang đèn, đi cùng cán bộ Xí nghiệp D20 ra
thăm phần mộ của bác Mười. Đây là phần mộ đất, chôn
chưa lâu, khắc tên họ bác cùng ngày tháng năm sinh và
(1) Vì quá lâu, nên tôi không còn nhớ làng, xã ấy dù bác Mười đã
đưa tôi về thăm bà con ở đó một hai lần.
83

9.4 Page 84

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
năm mất. Tấm bia bị ngã do kích thước nhỏ, lại chôn
trên nền cát. Mộ bác ở gần xí nghiệp giao thông của ngành
giao thông.
Tháng 6/1974, trước khi lên đường đi B, tôi mua hoa,
nhang đèn đến thăm mộ bác để lên đường vào Nam. Một
điều quá đau buồn là phần mộ của bác Mười đã không còn
nữa. Tôi khóc nức nở bên đường phía đối diện khu nghĩa
trang trước đây tôi đã đốt nhang và để lại hoa ở nơi đó. Sau
đó, tôi được biết xí nghiệp giao thông đã xin địa phương
giải tỏa nghĩa trang để mở rộng diện tích xí nghiệp. Chị em
tôi ở xa không nhận được thông tin kịp thời nên phần mộ
của bác Mười đã không có người thân đến nhận.
Từ năm 1975 đến đầu năm 1976, tôi có viết thư nhờ Xí
nghiệp D20 tìm kiếm phần mộ của bác tôi ở địa điểm khu
mộ mới di dời nhưng vẫn bặt vô âm tín. Cuối cùng, giữa tôi
và cơ quan của bác chưa tìm được tiếng nói chung về việc
tìm kiếm mộ phần của bác, nhân viên bảo vệ của Xí nghiệp
D20 đã hy sinh trong đợt B52 của giặc Mỹ ném bom ở Hà
Nội 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972 lịch sử.
Ngày 19/12/1972, ngày bác Mười hy sinh cũng là ngày
toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (19/12/1946),
cũng là ngày sinh con tôi, Huỳnh Dũng Tiến. Ngày bác
Mười hy sinh cũng là ngày sinh của lớp người mới - tương
lai của đất nước.
08/9/2020
84

9.5 Page 85

▲back to top
Bản tình ca người lính
Kỷ niệm với chị Hai Dung
Chị Hai Dung mà tôi coi như chị ruột của mình là
con gái bác Hai Ngôn (Liệt sĩ Huỳnh Hữu Ngôn), anh trai
của ba tôi. Khi chị 16 tuổi, ba tôi đưa chị vào khu tham gia
kháng chiến.
Vào giữa năm 1948, tôi nghỉ học ở trường làng vì đánh
nhau với con của mấy tên lính ác ôn trong làng như tên
Chín Rực và Năm Mạo. Hai tên đao phủ này gây bao tội ác
với dân làng, chúng chặt đầu những người mà chúng nghi
là du kích Việt Minh vào ban đêm ở cầu trên sông.
Tôi được ba gửi vào Chiến khu Bình Chánh để học ở
Trường Tiểu học Kháng chiến Tân Uyên. Học được chừng
một tháng thì giặc hành quân vào chiến khu đốt trường, tôi
phải nghỉ học. Một hôm, tôi bị sốt rét nhưng có hẹn với chị
Hai Dung hai chị em phải lên xã Tân Hòa, thuộc Chiến khu
Đ. Trên đường đi phải qua trọng điểm nguy hiểm là đoạn
Lò Chén (tức lò gốm) cách đồn Tân Uyên chừng 1,5km. Vì
địch thường phục kích để bắn Việt Minh qua lại nơi này
nên du kích địa phương thường có ám hiệu: úp cái tĩn(1) trên
đầu cọc cao 1m là không có địch. Hôm chị em tôi đi, không
có ám hiệu an toàn, có lẽ cái tĩn đã bị địch đập bể. Lúc qua
đoạn đường này, phải chạy thật nhanh nên chị Hai phải
cõng tôi để chạy qua đoạn đường nguy hiểm. Về sau, để
an toàn khi qua đoạn đường này, du kích đã dẫn đường xa
(1) Vại sành.
85

9.6 Page 86

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
vào phía trong, cách chỗ cũ khoảng 2km. Đây là con đường
an toàn của ta, đi từ Bình Chánh, Khánh Vân (bây giờ là xã
Khánh Bình, thành phố Tân Uyên) lên Chiến khu Đ. Lúc
bấy giờ Chiến khu Đ gồm 5 xã: Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc,
Thường Lang và Lạc An. Chiến khu Đ là địa bàn của tỉnh
Biên Hòa, Quân khu 7. Còn chiến khu Bình Chánh lúc đó
là địa bàn của Ủy ban Hành chính và Huyện đội Tân Uyên.
Trong thời gian đầu tham gia kháng chiến, chị Hai làm
hội viên của Hội Nông dân Cứu quốc tỉnh Biên Hòa. Sau
đó, chị được học lớp cứu thương của Ty Y tế và làm việc ở
ngành y tế.
Năm 1951, tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một sáp nhập
thành tỉnh Thủ Biên. Chị làm y tá ở huyện Hớn Quản
(thuộc tỉnh Bình Phước).
Vào mùa mưa năm 1951, giặc đột kích vào trạm xá
huyện Hớn Quản bắn chết đồng chí Trạm xá trưởng và một
số thương binh. Còn chị tôi bị thương ở đùi, mông may mà
trúng đạn phần mềm. Tuy vậy, chị phải nằm lại qua đêm ở
trong rừng. Ngày hôm sau đơn vị mới đưa chị về chiến khu
để điều trị.
Đầu năm 1954, tôi nghe cô Tâm, vợ chú Năm Thái kể
chuyện chị Hai đã có người yêu. Đó là anh É, tức là anh
Huỳnh Văn Khải là y sỹ thuộc Ty Y tế Thủ Biên. Cô Tâm hỏi
ba tôi: “Anh Tư có biết chưa?”. Ba tôi nói là chưa biết. Sau
Hiệp định Genève 20/7/1954, chị Hai may mắn được tập
kết ra miền Bắc và gặp lại anh Khải. Vài năm sau đó, anh
chị kết hôn. Trước khi làm đám cưới anh Khải đã là bác
sỹ còn chị Hai là y sỹ. Các cháu Hoàn, Hạnh, Hoa lần lượt
chào đời. Trong mấy mươi năm sống trên đất Bắc, anh, chị
và các cháu là người thân duy nhất của tôi.
86

9.7 Page 87

▲back to top
Bản tình ca người lính
Trái tim non rung động
“Em hãy kể chuyện mà em thấy sâu sắc nhất trong
đời em” là đề bài văn kể chuyện của học sinh lớp 6(1) do
thầy giáo Võ Tề, quê Thừa Thiên - Huế ra cho học sinh
lớp 6 Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc số 14 ở Hải
Phòng(2).
Sau khi đọc đề bài, tôi suy nghĩ khoảng 4 đến 5 phút
và xin phép được hỏi thầy: “Thưa thầy, em có câu chuyện
buồn muốn kể lại có được không?”.
Thầy giáo Tề trả lời:
- Em kể vui cũng được, chuyện buồn cũng được.
Và đó là câu chuyện buồn về “Trái tim non rung động”
của tôi. Câu chuyện ba tôi bị giặc bắt năm 1940. Lúc đó, tôi
chỉ là cậu bé ở tuổi lên 5 và ba má tôi chỉ có một mình tôi.
(1) Lúc này trình độ cấp 2 là từ lớp 5 đến lớp 7.
(2) Từ năm 1954 đến năm 1975 gần 30.000 con em đồng bào miền
Nam từ Quảng Trị đến Cà Mau đã được rèn luyện và trưởng thành dưới
mái trường miền Bắc, trong đó Hải Phòng là một trong mười tỉnh thành
miền Bắc đón tiếp và nuôi dưỡng học sinh miền Nam nhiều nhất.
87

9.8 Page 88

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Tôi còn nhớ ba tôi bị bắt vào một đêm tối trời, trời mưa
dầm khoảng tháng 7 âm lịch năm 1940. Khi tôi đang ngủ
say, má bế thốc tôi dậy: “Ẩn! Dậy con! Ba con bị bắt!”. Tôi
giật mình thức dậy, tim đập thình thình…
Má bế tôi từ trong buồng bước ra ngay nhà trên, nhà
ông nội (sau là nhà bác tôi - bác Hai Ngôn).
Ở nhà trên, ông tôi đốt cây đèn toa đăng, đèn dầu rất
sáng “tiếp ông khách không mời mà đến” - đó là ông chủ
quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa.
Má tôi bế tôi ra hành lang, để tôi xuống đất và nói: “Ba
con nằm kia kìa! Con đến với ba con đi!”.
Tôi thấy lờ mờ ba tôi nằm trên tấm đệm phơi đậu xanh
vừa mới hái lúc trưa. Tôi vừa đi được một, hai bước về phía
ba thì tên lính gác nắm lấy cánh tay tôi quăng ra và nạt:
“Đi vô!”. Má vội ôm và bế tôi lên. Khi vào nhà, tôi thấy ông
nội mở tủ lấy một số tiền lớn, hai tay ông run run đưa cho
tên quận trưởng mập ú và nói: “Xin ngài nhận cho chút lễ
mọn!”. “Lễ mọn” của ông tôi là cả gia tài của gia đình tôi
mà ông bà tôi, ba, má tôi đã lao động suốt đời để tạo ra.
Lúc đó đầu óc bé nhỏ của tôi chưa hiểu được nên mới
hỏi má: “Má ơi! Ba bị lính quận bắt mà sao ông nội còn
cho họ tiền?”. Má mới giải thích: “Vì ba con làm Cộng sản,
chống lại chính quyền thuộc Pháp, có tội nặng. Ông nội
phải cho tên quận trưởng tiền để nó đừng bắn giết ba con”.
Má tôi thở dài: “Nước mất nhà tan là vậy đó con!...”.
Sáu tháng sau ngày ba bị bắt, gia đình nhận được điện
báo: “Ba tôi bị lưu đày biệt xứ lên tỉnh Tây Ninh, huyện
Trảng Bàng”. Nhà chức trách quy định hàng tuần phải đến
88

9.9 Page 89

▲back to top
Bản tình ca người lính
trình diện và không được đi khỏi địa bàn. Ba tôi phải xin
làm người rửa bát cho tiệm phở để có cơm ăn.
Được tin điện báo, ông nội, ông ngoại bàn nên bối trí
cho má và tôi lên Trảng Bàng thăm ba tôi. Mỗi ông góp cho
má tôi một đồng tiền Đông Dương để ba má tôi có thể sống
được nơi xứ người.
Sau khi má và tôi lên thăm ba chừng vài ngày thì ông
nội lên thăm ba, sau đó đến ông ngoại. Rồi lần lượt bác Hai
trai, bác Hai gái và chị Ba Kim(1) lên thăm ba. Lần này, bác
Hai đưa tôi về Sài Gòn nghỉ một ngày sau đó đưa tôi về quê
và gởi ở nhà ông bà ngoại cho dì Tám (lúc đó chừng 12 - 13
tuổi) săn sóc: cho ăn, cho ngủ, tắm rửa dắt đi chơi.
Một ngày hè kia, khoảng cuối năm 1943, má tôi bế đứa
em gái mới sinh được 10 ngày tuổi từ Trảng Bàng về quê.
Má tôi nói với ông bà nội, vợ chồng bác Hai là ba tôi đã
được thả và một tiếng sau thì ba tôi đã về đến nhà. Ông bà
nội, vợ chồng bác Hai và con cháu đều vui mừng khôn xiết.
Ông bà nội và bác Hai bảo tôi: “Con chạy vào báo cho ông
bà ngoại và các cậu, dì là ba, má con đã về rồi!”.
Cả gia đình ông bà nội, ông bà ngoại đều vui mừng vì
ba tôi đã mãn hạn tù, ba má tôi đã về và lần này tôi có thêm
em gái 10 ngày tuổi. Sau này bà nội đặt tên cho em là Lài vì
theo bà: “Lài có nghĩa là lưu lạc, lạc loài...”.
Đọc bài viết của tôi, thầy giáo Võ Tề vô cùng xúc động
nên thầy cho tôi điểm 5, điểm cao nhất của Liên Xô và thầy
đọc bài viết của tôi cho cả lớp nghe.
8/9/2015
(1) Chị Ba Kim lớn hơn tôi một tuổi.
89

9.10 Page 90

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Người anh cứu mạng của tôi
Anh Tư Nở (Võ Văn Nở) đi bộ đội Chi đội 10 từ sau ngày
Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945). Anh chính là người anh
cứu mạng của tôi khi giặc càn vào Chiến khu Đ và bắn anh
em tôi ở chân dốc Bà Nghiêm(1).
Một lần, sau khi gặp ba tại Chiến khu Đ, từ xã Tân Dân,
ngã tư Bà Đã - Thiềng Liềng về Biên Hòa qua khu ruộng
dưới chân dốc Bà Nghiêm, tôi đã gặp và ở chung với anh
Tư Nở.
Sáng sớm, có tin giặc càn vào Chiến khu, cả làng sơ tán
vào rừng đến 11 giờ 30 trưa. Thấy yên tĩnh, anh Tư Nở và
tôi ra suối tắm giặt. Anh Tư tắm xong trước nằm hát nghêu
ngao, tôi cũng tắm xong và đang phơi áo thì giặc đã xuống
tới chân dốc Bà Nghiêm. Thấy tôi, bọn giặc bắn mấy loạt
tiểu liên nhưng không trúng. Tôi chạy theo lối mòn vào
(1) Dốc Bà Nghiêm từ chân ruộng xã Tân Hòa vào vùng đất Đạo.
Đất Cuốc xưa thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa.
90

10 Pages 91-100

▲back to top

10.1 Page 91

▲back to top
Bản tình ca người lính
rừng, anh Tư Nở gọi tôi: “Ẩn! Chạy đường này”. Tôi đang
chạy bỗng khựng lại. Một quả lựu đạn nổ cách tôi chừng 4
đến 5m. Nếu tôi không thắng kịp, có thể tôi đã lãnh đủ quả
lựu đạn đó. Anh Tư bảo tôi phải chạy tắt theo anh vào rừng.
Hai anh em tôi chạy thêm chừng một lúc bọn giặc vẫn bắn
tiểu liên đằng sau nhưng không có hiệu quả. Nhanh như
cắt, chúng tôi đã chạy sâu vào rừng. Anh Tư đã cứu mạng
cho tôi.
Một lần khác, không có hẹn mà Tết năm 1958, anh Tư
từ Nông trường Lam Sơn, Thanh Hóa, đi phép ra Hà Nội ở
chỗ chị Hai Dung và gặp tôi ở đó. Anh dẫn tôi ra Câu lạc bộ
Thống Nhất, gần hồ Hoàn Kiếm thưởng thức hương vị Tết
ở quê nhà. Sau đó, hai anh em đi dự hội đồng hương Biên
Hòa ở hội trường nhà máy nước đá trên đường Trần Quang
Khải, bên đê sông Hồng.
Tiết mục đầu tiên, bác Tám Nghệ đọc thư của Bí thư
Tỉnh ủy Biên Hòa là chú Năm - Nguyễn Văn Trị, người
chiến sĩ kế cận của ba tôi ở tỉnh Biên Hòa năm 1945-1954.
Sau đó bác Năm Kính, nguyên Phó chủ tịch tỉnh thời
kháng chiến chống Pháp ở Biên Hòa gọi tôi ra chỗ vắng nói
chuyện.
Bác Năm nói: “Bác Tám Nghệ bàn với bác là cần cho
cháu biết một tin quan trọng. Trong cuộc kháng chiến
chống giặc ở miền Nam, ba cháu đã anh dũng hy sinh!...”
Đầu óc tôi như nổ tung. Hai hàng nước mắt rơi lã chã….
Anh Tư Nở lại chỗ tôi, tôi nói với anh Tư: “Bác Năm vừa
báo cho em biết là ba em đã hy sinh. Bây giờ anh em mình
về chỗ chị Hai Dung”.
91

10.2 Page 92

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Hai anh em tôi đi từ đường Trần Quang Khải về đến
Bệnh viện lao, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Hà Nội. Suốt
dọc đường, tôi đã khóc sướt mướt như một đứa trẻ vì sự ra
đi của ba tôi là một sự mất mát quá lớn đối với tôi. Chắc
bà con các khu phố Hà Nội cũng quá đỗi ngạc nhiên, khi
nhìn thấy cảnh một thanh niên khóc nức nở trên đường
phố Hà Nội.
Việc ba tôi hy sinh là sự mất mát lớn của cách mạng ở
vùng Đông Nam Bộ, của gia đình và bản thân tôi. Tôi đã
bị một cú sốc lớn. Tôi nói với anh Tư Nở và chị Hai Dung:
“Em chỉ muốn ở một mình. Sáng mai dù là mùng một Tết
em phải ra ga để về Trường học Học sinh miền Nam ở Hải
Phòng”. Lúc đó chị Hai Dung đang có thai cháu Hoàn, sắp
đến ngày sinh. Và đúng hôm sau tôi đã đi Hải Phòng.
Có một việc mà tôi không thể nào quên được là sau
bữa cơm trưa, các bạn về nghỉ trưa thì tôi lại lên lớp ngồi
một mình khóc. Thầy giáo Tề, giáo viên chủ nhiệm lớp 7G
biết được sự việc và thầy đã đến chia buồn cùng tôi.
Thầy giáo Tề quê ở Huế, lúc đó thầy là giáo viên dạy
giỏi và đối tượng kết nạp Đảng của Chi bộ Đảng ở Trường
Học sinh miền Nam, số 14 Hải Phòng.
Một điều hy hữu là năm 1958 khi tốt nghiệp lớp 7 (cấp
2), tôi đã đi bộ đội và bốn năm sau tôi đã thi đỗ vào Đại học
Thủy lợi Hà Nội. Trong cuộc hội thảo sinh viên các trường
đại học ở Hà Nội trên sân Hàng Đẫy, tình cờ tôi gặp lại thầy
khi thầy đang là lớp trưởng của sinh viên Đại học Sư phạm
Hà Nội.
Sau này, khi tôi, anh Tư Nở và anh Bảy Đỏ cùng ở Sư
đoàn 330 đóng ở Thanh Hóa, nhưng hầu như anh em tôi
92

10.3 Page 93

▲back to top
Bản tình ca người lính
không có dịp gặp nhau vì tôi ở C31 - D16, bộ đội thông tin
của sư đoàn bộ, còn các anh thuộc sư đoàn.
Một lần, tôi tìm và đến thăm anh Tư Nở ở nông trường
Lam Sơn, nông trường quân đội chuyên trồng cây cao su ở
Thượng nguồn sông Chu, nơi có đập Bãi Thượng được xây
dựng thời Pháp thuộc. Nguồn nước từ đập này được dẫn
theo kênh nổi để tưới hầu hết ruộng lúa cho cả tỉnh Thanh
Hóa. Nơi tôi đóng quân có nhà máy thuỷ điện Bàn Thạch(1).
Khi tôi là giáo viên ở trường văn hóa sư đoàn, tôi dạy bổ túc
văn hóa lớp 5 cho anh em bộ đội năm 1961.
Năm 1960, anh Tư Nở có quyết định đi B, anh Tư đến
gặp anh Bảy Đỏ và hai anh đã đến thăm tôi để tạm biệt để
vào Nam chiến đấu. Mấy anh em tôi rủ nhau ra thị trấn
Thọ Xuân, bến sông Chu chụp một tấm ảnh. Đây là tấm
ảnh để đời của ba anh em chúng tôi. Năm 1968, tôi được
tin anh Tư đã hy sinh ngoài mặt trận khi chỉ còn vài năm là
giải phóng quê hương.
Sau năm 1975, đất nước độc lập, thống nhất, tôi đã
phóng lại tấm hình của ba anh em chúng tôi chụp năm
1960 tặng lại anh Bảy Đỏ, chị Út Quỳnh - em út của anh Tư
Nở. Và chị Út đã phóng to ảnh của anh Tư Nở để làm tấm
ảnh thờ ở nhà của chị bên cạnh bến phà xã Bạch Đằng.
Anh Tư Nở hồi đi B có quân hàm trung úy, khi về Nam
anh là Tiểu đoàn trưởng, sau đó anh có chức vụ chính trị
viên trung đoàn. Lúc anh Tư hy sinh năm 1968, anh Bảy Đỏ
(1) Nhà máy điện Bàn Thạch được đưa vào hoạt động năm 1961,
trở thành công trình thủy điện đầu tiên tại Việt Nam xây dựng sau Cách
mạng tháng Tám. Nhưng 5 năm sau đó, Bàn Thạch là một trong những
cơ sở kinh tế đầu tiên của Việt Nam bị máy bay Mỹ ném bom.
93

10.4 Page 94

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
cũng có quyết định đi B nhưng vì bệnh tim anh phải ở lại
Hà Nội. Được biết, anh chị Bảy Đỏ có hai con gái và nhà ở
góc ngã ba đường Cao Thắng, TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
Cuộc đời anh Tư Nở khiến tôi luôn trăn trở thương
anh. Thời trẻ, anh đã có gia đình nhưng chiến tranh đã làm
hai vợ chồng mãi mãi không còn gặp nhau nữa. Anh chị
chưa có con, sau này dường như anh chưa gặp được người
ý hợp tâm đầu cho đến khi anh qua đời vào dịp Tết Mậu
Thân năm 1968.
Kỷ vật còn lại trong tôi về anh chính là tấm hình lưu
niệm trong giờ khắc quan trọng ấy, khi anh lên đường vào
Nam chiến đấu và hy sinh. Anh Tư Nở chính là người anh
đã cứu mạng tôi và đã hy sinh cả tuổi thanh xuân đẹp nhất
cho quê hương, đất nước.
12/10/2022
94

10.5 Page 95

▲back to top
Bản tình ca người lính
Bước ngoặt cuộc đời
(Từ cuộc mất mát hy sinh của ba - Người cha thân yêu)
Tết năm 1957-1958 là cái cái Tết không thể nào quên
của tôi. Tôi từ Trường Học sinh miền Nam, Hải Phòng về
Hà Nội ăn Tết cùng chị Hai Dung và được tin ba tôi đã hy
sinh trên mảnh đất quê hương, cù lao Mỹ Quới năm 1956
khi ông vừa tròn độ tuổi 40.
Nghe tin ba hy sinh, tôi một mình quay trở về Trường,
trong lòng buồn bã như kẻ mất hồn. Sau 3 ngày nghỉ Tết,
tôi đeo mảnh vải đen, để tang cho ba lên lớp học. Thầy giáo
Võ Tề, giáo viên phụ trách lớp biết tin đã đến chia buồn
cùng tôi.
Cứ sau mỗi buổi sáng lên lớp học, trưa về ăn cơm
xong, tôi lại lên lớp đóng cửa lại. Tôi ngồi một mình, nghĩ
về ba, về sự thương yêu, săn sóc dạy dỗ của ba. Nhưng giờ
95

10.6 Page 96

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
đây và mãi mãi về sau tôi sẽ không còn được hưởng bao
niềm hạnh phúc đó nữa. Cứ thế, hai hàng nước mắt tôi rơi,
rơi mãi…
Các bạn trong lớp biết, nhưng cứ để tôi yên. Đó cũng
là sự chia sẻ cùng tôi trước cú sốc quá lớn. Một lần, vì quá
buồn, tôi viết thư cho bác Năm Kính, nguyên Phó Chủ tịch
tỉnh Biên Hòa - bạn thân của ba tôi. Nhận được thơ tôi, bác
Năm Kính viết thư an ủi, trong thơ bác Năm Kính có viết
mấy câu thơ của nhà thơ Tố Hữu.
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ, súng kề vai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa
Rồi năm 1958, tôi cũng đã thi kết thúc năm học cuối
cấp 2. Các bạn tôi đã chuyển trường, chuyển lớp.
Đầu tháng 10/1958, Thành đội Hà Nội có đợt tuyển
quân gửi các trường tuyển 400 tân binh có trình độ cuối
cấp 2 và cấp 3. Tôi cũng đăng ký: “Tòng quân” và đã trúng
tuyển. Ngày 10/10/1958 là ngày hội giao quân: 335 tân
binh quê miền Bắc được giao cho ba sư đoàn miền Bắc còn
50 tân binh quê miền Nam được giao cho Sư đoàn 330, bộ
đội miền Nam tập kết. Tôi nằm ở đơn vị này, địa điểm giao
quân là đình Hoàng Mai phía Đông Nam, Hà Nội.
Đón anh em chúng tôi là các anh cán bộ khung đại
đội, trung đội và tiểu đội. Tôi thuộc tiểu đội 5, trung đội 2,
đại đội 40. “C40” do anh Chiêu làm Tiểu đội trưởng; anh
Huỳnh Phi Hùng, Đại đội trưởng. Lúc về đơn vị, chúng tôi
mới bắt đầu tập luyện. Đơn vị yêu cầu mỗi chiến sĩ viết một
96

10.7 Page 97

▲back to top
Bản tình ca người lính
bài báo tường. Nhớ lại ngày hội giao quân, tôi viết một bài
báo, trong đó có mấy câu thơ.
Các anh là cựu binh
Chúng tôi là tân binh
Gặp nhau bên một mái đình
Tuy chưa quen mặt,
Nhưng quen tình quê hương...
Sau cú sốc quá lớn, vì quá đau buồn, nên tôi quyết
định đi bộ đội, để có dịp cầm súng trả thù cho ba. Tôi đi bộ
đội mà không báo cho một ai biết cả, kể cả chị Hai Dung,
bác Mười và các bác đồng hương, bạn chiến đấu của ba tôi.
Về sau, tôi mới được biết các bác bạn của ba tôi, đánh giá
tôi là một đứa “vô kỷ luật” không báo cho các bác biết.
Việc đi bộ đội là việc lớn, một thử thách lớn, một “bước
ngoặt cuộc đời tôi”. Sống trong môi trường bộ đội tôi đặt
mục tiêu phấn đấu là phải nắm vững chương trình trung
học cấp 3 - hết cấp 3 phổ thông. Sau thời gian lao động
(vận chuyển gạch, lấy cát về xây dựng doanh trại bộ đội),
tôi được phân cho đơn vị thông tin vô tuyến điện C31-
D16-F330.
Chúng tôi bắt đầu học kỹ thuật thông tin vô tuyến
điện. Ngoài giờ tập luyện chúng tôi tự tổ chức tổ học tập
văn hóa chương trình cấp 3 gồm các bạn “tâm đầu, ý hợp”
như: Nguyễn Hồng (quê Vĩnh Long); Huỳnh Ngọc Ẩn (quê
Thủ Biên); Phan Phùng Xuân (quê Sa Đéc); Nguyễn Xuân
Khương (quê Quảng Ngãi).
Chúng tôi chơi thân với nhau, đặt yêu cầu là phải trau
dồi kiến thức. Ngoài chương trình cấp 3 phải đạt được,
97

10.8 Page 98

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
chúng tôi còn có nhu cầu thưởng thức văn hoá nên đặt
mua nhiều loại tạp chí, sách báo như: Tạp chí văn học,
điện ảnh và các tuyển tập văn học sử.
Thỉnh thoảng, chúng tôi mới đi chơi, phần lớn thời
gian ngoài giờ kể cả chủ nhật, chúng tôi ưu tiên cho việc
tự nâng cao kiến thức, học tập. Bốn chúng tôi học chuyên
môn vô tuyến điện vào loại khá. Phan Phùng Xuân được
cử đi học Trường sỹ quan Sơn Tây; Nguyễn Hồng được
đi học Nga văn để làm việc với chuyên gia Liên Xô về tên
lửa; Xuân Khương về Công an thành phố Hà Nội còn tôi
được cử làm thầy giáo để dạy văn hóa bổ túc cho bộ đội.
Tôi được về (tiểu đoàn) Trường Văn hóa của Sư đoàn 330 ở
Thọ Xuân, Thanh Hóa. Ở đơn vị trực thuộc sư đoàn bộ, nên
tôi có nhiều dịp vào cơ quan thăm chú Út Lắm (Nguyễn
Văn Lắm)(1). Một hôm, tôi gặp chú Nguyễn Văn Tư, Trung
đoàn phó Trung đoàn 310 Biên Hòa. Chú Tư là bạn thân
của ba tôi. Chú đã tặng lại tôi ba bức ảnh của ba tôi tặng
chú(2). Sau này, từ hình chụp chung, tôi tách riêng hình của
ba tôi. Một lần khác, khi tôi đến chỗ bác Lương Văn Nho,
nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Biên Hòa, tôi được gặp
chú Năm Quảng - Nguyễn Văn Quảng, nguyên Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn Quang Trung, Trung đoàn 310 - Biên
Hòa, lúc đó chú Năm Quảng làm thiếu tá Cục Cán bộ, Bộ
Quốc phòng. Bác Nho, chú Quảng cũng đều là bạn thân
của ba tôi. Các bác, các chú đều quan tâm đến tôi. Về sau,
bác Năm Quảng làm Thứ trưởng Bộ Thương binh Xã hội,
khi về Nam bác là Tư lệnh Quân đoàn 4.
(1) Trước đây là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lê Lợi, Trung đoàn
310 - sau là Huyện đội trưởng huyện Tân Uyên.
(2) Một tấm ảnh cá nhân và hai tấm chụp chung.
98

10.9 Page 99

▲back to top
Bản tình ca người lính
Có lần hai, ba đứa chúng tôi đi chơi ở thị trấn Thọ
Xuân tình cờ gặp chú Xô - Trần Liên Xô. Chú là chồng cô
Tám Liên, em gái bác Sáu Của - Tô Văn Của (bác Sáu Của,
nguyên Chủ tịch tỉnh Biên Hòa, chú Xô cho tôi mấy đồng
để đi chơi cùng bạn.
Sau gần một năm làm giáo viên dạy văn hóa lớp 5 bổ
túc cho anh em bộ đội, do nhiệt tình truyền đạt kiến thức
toán, lý cho anh em bộ đội, tôi được anh em trong đơn vị
quý mến, kể cả các đồng chí lãnh đạo trường như: đồng chí
Khuê quê Hà Nội, Thượng úy Hiệu trưởng và đồng chí Hy,
quê Gia Định xuất thân từ lực lượng Bình Xuyên, tham gia
kháng chiến - bộ đội miền Đông đeo quân hàm Trung úy,
Hiệu phó Trường Văn hóa Sư đoàn.
Qua công tác dạy bổ túc văn hóa cho bộ đội, tôi từ
một đoàn viên thanh niên, được cấp ủy đơn vị đưa lên “đối
tượng kết nạp Đảng”. Sau thời gian giảng dạy hai khóa lớp
5 bổ túc, một số giáo viên và một số anh em học văn hóa bổ
túc lớp 5 được đơn vị giới thiệu ra Hà Nội dự thi vào Trường
Đại học Thủy lợi và Trung học Thủy lợi. Kết quả: Hơn 50%
anh em chúng tôi đã trúng tuyển trong đó có tôi.
Việc tôi được cử đi thi tuyển vào Học viện Thủy lợi
Điện lực và đã trúng tuyển quả là một niềm vui lớn lao và
quá bất ngờ đối với tôi. Những người thân, bạn bè quan
tâm đến tôi đều mừng cho tôi. Nhưng trước mắt tôi còn
nhiều thử thách khác cần vượt qua như: sức khoẻ, trí tuệ để
tiếp thu kiến thức trong quá trình học đại học…
Năm thứ 3, từ khu vực (Lục Nam), Đại học Thủy lợi
sơ tán về Hà Bắc, do học lực của tôi đạt loại khá nên tôi đã
được kết nạp Đảng ngày 1/5/1966. Đầu năm 1968, tôi ra
99

10.10 Page 100

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
trường với tấm bằng kỹ sư Thủy lợi và về nhận công tác tại
Ty Thủy lợi Nam Hà, chuyên thiết kế đê, kè, kể cả kè Mỏ
Hàn chỉnh trị sông Hồng. Kết quả công tác của tôi được thủ
trưởng cơ quan và bạn đồng nghiệp tin tưởng.
Đầu năm 1971, cơ quan Ty Thủy lợi Nam Hà tổ chức
đám cưới cho vợ chồng tôi. Vợ tôi là cô giáo dạy cấp 2 quê ở
huyện Vụ Bản. Về dự đám cưới tôi có bác Mười Đen, cháu
Hạnh, con chị Hai Dung (10 tuổi) và bác Năm Kính, Hội
đồng hương Thủ Biên. Bác Năm là bạn thân của ba tôi,
nguyên là Phó chủ tịch Biên Hòa thời kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Khi đám cưới đã xong, trước khi bác Năm Kính về Hà
Nội, bác nói với vợ chồng tôi: “Bác Năm mừng cho hai
cháu. Giờ đây cháu đã trưởng thành, công lao này có một
phần xương máu của ba cháu, vì thế cháu hãy suốt đời nhớ
ơn người cha anh dũng nhé”.
Nghe bác Năm dặn dò, tôi rất xúc động, hai hàng nước
mắt lại tuôn rơi. Tôi đã oà khóc trước mặt bác Năm và vợ -
Kim Chung.
Từ năm 1971 - 1974, hai vợ chồng tôi sinh được hai
người con: con đầu là cháu trai tên Huỳnh Dũng Tiến(1),
con gái tên Kim Thủy. Tháng 9/1974, tôi nhận được quyết
định đi B về Nam công tác. Lúc tôi vào Nam, con gái mới
được một tháng rưỡi. Lúc tôi về Nam Hà đón vợ con vào
Nam tháng 7/1976, Tiến bốn tuổi rưỡi, Thủy một tuổi rưỡi.
Có một điều đáng nhớ là ở tuổi học sinh tôi thường đến
thăm bác Năm Tráng (Trịnh Trọng Tráng), quê Bắc Ninh,
(1) Bí danh của ông nội - Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy.
100

11 Pages 101-110

▲back to top

11.1 Page 101

▲back to top
Bản tình ca người lính
2 vợ chồng bác Năm Thái (Lê Thái), Phó chủ tịch tỉnh Biên
Hòa thời kháng chiến chống Pháp. Về sau khi tôi học và tốt
nghiệp Đại học Thủy lợi, các bác cũng rất mừng cho tôi,
đứa con trai của người bạn chiến đấu và đã hy sinh trong
giai đoạn chống Mỹ, năm 1956.
Đầu năm 1976, khi nước nhà thống nhất, bác Năm
Tráng và hai vợ chồng bác Năm Thái, cô Tâm hẹn cùng
tôi về quê thăm má tôi. Các bác và má tôi gặp nhau rất vui
mừng, sau bao nhiêu năm nước nhà bị chiến tranh, chia
cắt. Giờ đây, nước nhà đã được độc lập. Các bác vui mừng
báo với má tôi: “Cháu Ẩn đi tập kết với chúng tôi, giờ đây
cháu đã trưởng thành”. Má tôi cảm động: “Xin cám ơn các
anh, chị đã quan tâm săn sóc dạy bảo cháu Ẩn. Bây giờ
cháu đã trưởng thành, góp phần xây dựng quê hương đất
nước”. Giữa năm 1976, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai có
quyết định thành lập Ty Thủy lợi và tôi giữ cương vị Phó Ty
Thủy lợi Đồng Nai.
101

11.2 Page 102

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Những người bạn thời học sinh
miền Nam trên đất Bắc
Dù thời gian đã trôi qua 60 năm về trước, song tôi vẫn
nhớ những hình ảnh thân thương của các bạn ngày nào.
Từ các bạn gái mang tên những loài hoa như: Thu Lan,
Thu Cúc, Xuân Lan đến các bạn: Đức Dung, Mỹ Kim Đang,
Thanh Bé, Ngọt, Tua, Đúng… Có những người bạn dù chỉ
gặp một lần, chưa biết tên nhưng là bạn của bạn tôi như
bạn của Hồ Lâm Minh. Bạn gái của Minh tôi gặp ở nhà bác
Hai Ngôn, công nhân cảng Hải Phòng. Bác Hai đưa tiền
cho bạn gái của Minh, người Hoa, học Trường Học sinh
miền Nam ở Hải Phòng đi chợ về nấu cho mỗi người một
tô bún bò thật ngon.
Tô bún bò năm xưa như một bữa tiệc thịnh soạn, tới
giờ tôi vẫn còn nhớ hương vị. Sau năm 1975, tôi có dịp gặp
lại bác Hai Ngôn, bác làm công ty xăng dầu ở Đồng Nai. Có
lần sau bốn năm xa cách, tôi gặp lại Triết, bạn học cùng
khối lớp 7 nhưng khác lớp. Tôi học lớp 7G còn bạn Triết
học lớp 7H, Trường Học sinh miền Nam số 14, Hải Phòng.
Ngày gặp lại, Triết đang học Đại học Bách khoa còn tôi
102

11.3 Page 103

▲back to top
Bản tình ca người lính
đang học Trường Bổ túc Văn hóa Công nông Trung ương.
Vào dịp Tết năm 1962, Triết mời tôi: “Chiều 30 Tết, Ẩn ra
nhà mình ăn Tết, số nhà C ở khu chợ Mơ, Hà Nội nhé” và
tôi đã nhận lời. Tôi cảm thấy ấm lòng vì những ngày tháng
xa quê hương, bạn đã quan tâm săn sóc đến tôi. Chiều 30
Tết năm ấy, tôi đạp xe gần 15 cây số từ ga Yên Viên gần cầu
sông Đuống ra chợ Mơ để ăn Tết cùng bạn.
Lần đầu tiên tôi đến nhà Triết, thật mừng vì Triết còn
ba, mẹ nhưng bạn biết quan tâm và mời những người bạn
thân về nhà ăn Tết, trong đó có tôi. Chiều con, cũng là tấm
lòng thương quí của bậc cha mẹ đối với các em xa gia đình,
xa quê hương trên đất Bắc nên bố mẹ Triết tổ chức cho các
con ăn Tết. Thức ăn cũng đơn giản gồm có hai con gà, 1kg
thịt bò, 1kg đậu phộng rang, vài lít rượu nếp cho hơn 10
đứa con trai ăn Tết(1) Khoảng 8 giờ tối các bạn đã có mặt
đông đủ. Chúng tôi coi như là những bạn thân của nhau,
uống trà, ăn đậu phộng rang, sau đó tiếp tục uống rượu, ăn
thịt bò xào đậu cô ve, ăn cháo gà… vừa ăn vừa trò chuyện
vui vẻ. Đến khoảng 11 giờ tôi say rượu, ra ngoài ói mửa và
bị cảm lạnh. Tôi vào nhà và bác trai đã nhường chỗ ngủ của
bác cho tôi. Vì không biết uống rượu, nên tôi bị say và ngủ
một giấc tới sáng. Tôi xin lỗi hai bác vì uống rượu say và xin
phép ra về. Đây là một ngày Tết đáng nhớ trong đời tôi...
(1) Thời đó việc chi như vậy là quá lớn.
103

11.4 Page 104

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Tình yêu tuổi học trò
Tình yêu tuổi học trò khá sâu đậm trong tôi, giúp tôi
vơi bớt nỗi buồn để vượt qua những ngày đau buồn nhất
của cuộc đời. Trước mất mát quá lớn, ba tôi đã hy sinh nơi
chiến trường miền Nam quê hương.
Ở đơn vị bộ đội C40 thuộc Sư đoàn bộ 330 được hơn
một năm, lúc trời chiều tĩnh lặng nhìn phía trời xa có ngọn
núi mờ và sắc thắm chiều tà, tôi nhớ em Kim Đang và tức
cảnh có mấy vần thơ:
Chiều lặng non mờ nhớ tới Đ
Hôm nào trên bến cảng lúc chiều về
Cầm tay dạo bước trên đường phố
Như hẳn lòng ta đã say mê!
Tuy nhiên, một năm sau, tôi có quyết định đi phép, lúc
này tôi đã kết thúc lớp học vô tuyến điện chuẩn bị nhận
104

11.5 Page 105

▲back to top
Bản tình ca người lính
công tác. Đơn vị tôi là C31-D16 đại đội vô tuyến điện, tiểu
đoàn thông tin đơn vị 7330. Qua bạn Võ Hữu Ân (bạn thân)
sinh viên Đại học Kinh tế Bạch Mai, tôi biết địa chỉ của bé
Ba, Trường Học sinh miền Nam, số 26 Mai Lĩnh, Hà Đông.
Qua bé Ba, tôi sẽ biết địa chỉ của Kim Đang ở Hải Phòng để
xuống đó thăm em.
Từ Hà Nội, tôi vào Trường Học sinh miền Nam số 26
tìm gặp bé Ba ở lớp C5. Gặp một học sinh nam trực bảo vệ,
tôi nói: “Cho tôi gặp bé Ba ở lớp C5”. Em này bảo tôi: “Chú
ngồi đây đợi một lát”. Em đi vào khu học sinh nữ chừng 5
phút, sau đó quay ra nói với tôi: “Bé Ba nói không quen ai
là bộ đội cả!”. Quả thật, tôi rất buồn và thất vọng!
Tuy nói vậy, nhưng bé Ba vẫn đi theo em học sinh bảo
vệ xem chú bộ đội là ai? Em có quen không?
Vì chúng tôi học khác trường ở Hải Phòng nên lúc tôi đi
bộ đội, bé Ba không biết và cũng không có bạn nào thông
báo cho em biết. Nhìn thấy tôi, bé Ba reo lên: “Anh Hồng
Ân! Anh đi bộ đội khi nào vậy? Em không biết?”. Tôi trả
lời: “Bây giờ thì em biết rồi phải không? Anh đi bộ đội hai
năm rồi! Lúc ở Hải Phòng, được tin ba hy sinh, anh buồn
quá đi bộ đội để được về miền Nam đánh giặc trả thù cho
cha anh!”.
Thăm hỏi bé Ba về chuyện học tập ở trường, việc
chuyển tiếp của trường từ Hải Phòng về Mai Lĩnh, Hà Đông.
Còn Kim Đang vẫn học lớp 6B ở trường số 4 Hải Phòng. Thế
là tôi biết địa chỉ của Kim Đang.
Tạm biệt bé Ba tôi quay về Hà Nội và sáng hôm sau tôi
từ Hà Nội đi Hải Phòng thăm Kim Đang thân yêu. Sau hai
năm xa cách tôi về Hải Phòng hai ngày thăm Kim Đang,
105

11.6 Page 106

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
anh Thanh và anh Rong cùng quê, đang học công nhân kỹ
thuật ở Hải Phòng. Lâu ngày mới gặp lại nhau, nên chúng
tôi rất vui vẻ, thời gian hai ngày qua nhanh rồi chúng tôi
lại chia tay nhau. Về lại đơn vị, thỉnh thoảng tôi lại nhớ
đến em, nhớ lại ngày gặp lại người con gái nhỏ và có mấy
vần thơ:
Mùa xuân năm ấy anh về lại
Suối tóc em dài xuống quá vai
Đôi má em hồng, lòng e thẹn
Ta cùng hướng đến một tương lai
Sau kỳ nghỉ phép ít lâu, tôi được chuyển từ C31 - D16
về Trường Văn hóa của Sư đoàn 330, tương đương tiểu
đoàn, với cương vị giáo viên dạy văn hóa lớp 5 bổ túc cho
anh em bộ đội.
Tôi dạy Toán, Lý mỗi tuần ba ngày liên tục, mỗi lớp
học chỉ kéo dài ba tháng. Tôi dạy đến khóa thứ hai vừa kết
thúc thì có giấy chiêu sinh từ Học viện Thủy lợi Hà Nội. Lúc
này, đối tượng thi tuyển Đại học Thủy lợi phải có trình độ
văn hóa cấp 3 (tôi thuộc đối tượng này) còn thi tuyển vào
trung cấp Thủy lợi chỉ cần có trình độ văn hóa cấp 2 (anh
em bộ đội tôi dạy có thể dự thi được).
Đoàn chúng tôi gồm khoảng 70 anh em, thầy trò được
ra Hà Nội để dự thi. Trước khi tôi đi thi ở Hà Nội có chuyện
vui như thế này. Vào buổi sáng chủ nhật, tôi đi hớt tóc, sau
khi hớt tóc xong, tôi trả tiền cho chú em hớt tóc độ tuổi
chừng 23. Chú em nhìn tôi và nhận xét: “Tôi thấy anh giống
sinh viên hơn là anh bộ đội?”. Tôi ngạc nhiên trước nhận
xét của anh thợ hớt tóc và vui vẻ hỏi lại: “Thật hả chú?”.
Chú thợ trả lời như khẳng định lại: “Tôi nhìn anh giống
106

11.7 Page 107

▲back to top
Bản tình ca người lính
như sinh viên!”. Tôi vui vẻ nói với chú thợ hớt tóc: “Chú
mày có nhận xét tương đối phù hợp với hoàn cảnh của tôi,
vài ngày tới tôi được cử đi thi Đại học ở Hà Nội”. Nếu mấy
tháng sau chú mày không thấy tôi ở đây (Thọ Xuân - Thanh
Hóa), tức là tôi đã là sinh viên Đại học ở Hà Nội”. Và sự
thật, quả như câu chuyện giữa tôi và chú thợ hớt tóc, tôi đã
thi đậu vào Đại học Thủy lợi Hà Nội. Trong thời gian học
Đại học, một anh bạn sinh viên đọc cho tôi nghe mấy câu
thơ sau:
Nghe tin em vào Đại học!
Nửa tin nửa ngờ?
Tên lại, trùng tên?
Hoàn cảnh của tôi cũng giống câu thơ của người anh
bộ đội nghe tin về đứa em đồng hương đã thi đậu vào đại
học, một tin vui nhưng vẫn bán tín bán nghi? Nhưng đây
đúng là sự thật ở hoàn cảnh của riêng tôi. Đây hẳn là một
tin vui đối với những người quen biết và yêu quí tôi.
Mùa hè năm 1962, tôi quyết định xuống Hải Phòng
thăm Kim Đang. Trên chuyến tàu đi Hải Phòng tình cờ tôi
gặp anh Bích, chị Tua là bạn. Hai vợ chồng anh chị có một
đứa con trai đầy năm. Anh chị đi Hải Phòng để gửi con để
chị Tua tiếp tục học Đại học Sư phạm. Ba chúng tôi tới nhà
bác Hai Lĩnh, tôi không gặp được Kim Đang vì em đi phép
lên Hà Nội mà tôi không biết. Hôm sau, ba chúng tôi quay
lại Hà Nội. Khi về đến Đại học Sư phạm, anh chị gặp Kim
Đang ở đó và nói: “Anh Hồng Ân đi Hải Phòng thăm em.
Hóa ra em đã về đây. Thôi, ngay bây giờ em sang Đại học
Thủy lợi gặp ảnh đi!”. Kim Đang vội sang Đại học Thủy
lợi thăm tôi. Đây là lần thứ hai chúng tôi gặp lại nhau kể
107

11.8 Page 108

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
từ ngày tôi đi bộ đội vào Thanh Hóa. Đây cũng là lần gặp
nhau cuối cùng, kể từ ngày chúng tôi quen nhau mùa hè
1956-1957. Tuy nhiên, hè năm 1964, tình cờ tôi gặp Tám,
bạn gái của Kim Đang (người được Kim Đang kể chuyện
mối tình giữa tôi và em) tại nhà của Lê Quốc Khánh(1) ở khu
công nghiệp Việt Trì. Sau khi nghe Quốc Khánh giới thiệu:
“Đây là anh Hồng Ân - bạn anh”. Tám “ờ” lên một tiếng:
“Anh là Hồng Ân hả? Nay em mới biết anh, em có nghe Kim
Đang nói chuyện về anh”.
Năm 1964, cuối học kỳ 2 năm thứ nhất Đại học Thủy
lợi, tôi nhận được thư Kim Đang. Đọc thơ em tôi rất xúc
động nên có mấy vần thơ:
Chiều nay, anh nhận được bức thơ
Của người con gái, anh yêu quí
Gửi đến anh giữa mùa thi, học kỳ 2 năm thứ nhất
Anh rõ rồi! Đúng lắm, em thân yêu
Như buổi chiều dừng lại
Nghe trái tim mình: “thổn thức!”.
Cũng trong năm 1964, Mỹ dựng lên sự kiện: “Vịnh Bắc
Bộ”, cho tàu Maddox - hạm đội 7 xâm phạm vùng biển của
ta, bị hải quân ta tấn công, chúng lấy cớ ta hiếu chiến để
đem máy bay bắn phá miền Bắc. Các trường Đại học ở Hà
Nội và nhân dân phải sơ tán về nông thôn và miền núi. Đại
học Thủy lợi, Đại học Giao thông sơ tán về huyện Lục Nam,
Hà Bắc. Các trường Học sinh miền Nam cũng sơ tán khắp
nơi. Kể từ thời điểm đó, chúng tôi mất liên lạc nhau.
(1) Quốc Khánh, bạn tôi quê ở Huế.
108

11.9 Page 109

▲back to top
Bản tình ca người lính
Đầu năm 1968, tôi tốt nghiệp Đại học Thủy lợi và về
công tác tại Sở Thủy lợi Nam Hà (Nam Định). Sau đó, Sở
Thủy lợi sơ tán về xã Nhân Hậu, huyện Lí Nhân.
Nhiều mối tình tuyệt đẹp của tuổi trẻ thời Học sinh
miền Nam như chúng tôi đã trôi qua với bao nhiêu kỷ niệm.
Sau năm 1975, đất nước được độc lập, thống nhất. Tôi
có dịp gặp lại những người bạn thân, trong đó có những
mối tình mà vì chiến tranh đã không thể đến được cùng
nhau như: tình yêu giữa bé Ba - Hoàng Minh; Hữu Ân -
Ngọc Điệp. Duy chỉ có đôi bạn thân của tôi là Xuân Lan
- Ngọc Thuận là được như ý.
Một kỷ niệm nhớ đời là lúc ở bộ đội tôi có gửi cho Kim
Đang tấm ảnh anh bộ đội trẻ, còn Kim Đang gửi cho tôi
tấm ảnh ở tuổi 17. Đó là những kỷ niệm đẹp, khó phai mờ.
109

11.10 Page 110

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Thủy lợi - Tình yêu của tôi…
Năm 1958, tôi từ một học sinh lớp 7 hệ 10 năm phổ
thông, trở thành anh bộ đội Cụ Hồ thuộc Sư đoàn 330, bộ
đội miền Nam tập kết, đóng quân ở Thanh Hóa.
Ban đầu là C40 đại đội tân binh trực thuộc Sư đoàn 330,
sau sáu tháng luyện tập thao trường chúng tôi được biên
chế học VTV (Vô tuyến điện) thuộc C31 - Đ16 - F330. Đại
đội 31, Tiểu đoàn 16, thuộc Bộ đội thông tin Sư đoàn 330.
Năm 1959, Bộ Quốc phòng mở tuyến đường Trường
Sơn 559. Các đơn vị bộ đội miền Nam tập kết tổ chức tuyển
cán bộ, sĩ quan từ thiếu uý trở lên, tổ chức thành các đoàn
cán bộ vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu.
Từ năm 1960 đến năm 1961, có nhiều chuyến bộ đội
hành quân đi bộ đường Trường Sơn. Sau đó tiếp tục tổ
chức đi đường biển, đường Trường Sơn trên biển, đoàn tàu
không số. Chọn anh em ở vùng biển để huấn luyện thành
các thủy thủ lái tàu biển, để đưa bộ đội và vũ khí, đạn dược,
thuốc men tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ.
Với các đồng chí thiếu sức khỏe, không đủ điều kiện
về Nam đánh giặc, Sư đoàn tổ chức các lớp học văn hóa
để nâng cao trình độ văn hóa từ cấp 1 đến cấp 2 cho anh
110

12 Pages 111-120

▲back to top

12.1 Page 111

▲back to top
Bản tình ca người lính
em, để các anh chị được đi học các trường nghề, sau này có
công việc làm tại miền Bắc.
Cuối năm 1960 đầu năm 1961, tôi được chọn là giáo
viên dạy lớp 5 bổ túc cho bộ đội. Còn anh em tân binh đơn
vị C40 của tôi, lần lượt đi học trường Sĩ quan chuyên ngành
Pháo binh, bộ binh, lái xe tăng, không quân.
Trường văn hóa tương đương đơn vị tiểu đoàn, trực
thuộc sư đoàn do đồng chí Sỹ, Trung tá, Trưởng phòng
chính trị Sư đoàn phụ trách. Đồng chí Khuê, thượng uý quê
Gia Lâm, Hà Nội làm Hiệu trưởng. Đồng chí Huấn, Trung
úy, bộ đội miền Nam tập kết, có gốc bộ đội Bình Xuyên làm
Hiệu phó.
Trường dạy học từ lớp 2 đến lớp 5 bổ túc. Lúc này tôi
đã có trình độ lớp 9 bổ túc (hệ 10 năm). Đến tháng 6/1961,
tôi đã dạy xong hai lớp, mỗi lớp 50 người. Sau đó, tôi trúng
tuyển vào đại học Thuỷ lợi.
Thời gian này, Phòng Chính trị Sư đoàn (đồng chí
Nguyễn Văn Sỹ) trung tá nhận được công văn chiêu sinh
của Học viện Thủy lợi Điện lực Hà Nội thông báo chiêu
sinh 2 trình độ Đại học và Trung cấp Thủy lợi.
Lúc tôi đi học, đơn vị bộ đội có giới thiệu với nhà trường
tôi là đối tượng kết nạp Đảng nên năm thứ ba (1966), tôi
được kết nạp Đảng ngày 1/5/1966.
Đầu năm 1968, khi có bằng kỹ sư Thủy lợi tôi được
nhận công tác tại Phòng Đê điều thuộc Sở Thủy lợi tỉnh
Nam Hà.
Phòng Đê điều có một tổ thiết kế chuyên thiết kế các
đê, kè, cống dưới đê do tôi phụ trách làm Tổ trưởng. Hàng
111

12.2 Page 112

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
năm, tôi đều có kế hoạch khảo sát và thiết kế lại các đoạn
đê, kè xung yếu sau đó trình Giám đốc Sở Thủy lợi phê
duyệt. Sau khi có bút phê của Bộ Thủy lợi, chúng tôi mới
bắt tay vào thực hiện. Tổ kỹ thuật phòng tôi có hai bộ phận:
Nhóm thiết kế đê, kè phía Bắc của tỉnh do đồng chí Bản, Tổ
phó phụ trách. Nhóm thiết kế đê, kè các huyện phía Nam
của tỉnh do tôi phụ trách gồm đê, kè các sông và đê kè biển.
Cụ thể là các huyện Nam Ninh, Xuân Thủy, Nghĩa Hưng.
Thời gian này, Mỹ âm mưu ném bom đê, kè, cống của ta
ở miền Bắc, để gây nạn vỡ đê. Tháng 7/1971, chúng đã ném
bom cống Minh Châu trên sông Đào, nhánh sông Hồng.
Đài tiếng nói của ta đã phản đối quyết liệt âm mưu giết hại
dân miền Bắc. Lần thứ hai vào ngày 16/8/1972, Mỹ đã ném
bom đê, kè Quán Cát, An Lãng. Bom từ trường, bom chưa
nổ công binh tỉnh đội đánh mìn kích nổ, nhưng bom vẫn
không nổ. Bộ đội thống nhất với cán bộ thủy lợi cho dân
công đắp lại đoạn đê bị ném bom. Khi hai xe chở đất đắp
đê và hai xe đạp của bộ đội ở chiến trường được nghỉ phép
và một anh cán bộ dắt xe đi qua đoạn đê đang đắp thì bom
phát nổ; miệng hố bom rộng 15m, sâu 9m. Dân công ta hy
sinh ba người, bị thương 5 người. Hai cán bộ và bộ đội từ
chiến trường ra phải đi cấp cứu ở bệnh viện Nam Định. Tôi
phụ trách tuyến đê kè này đã có mặt kịp thời, cùng cán bộ
các ngành liên quan, Sở Lao động, Sở Tài chính và cơ quan
địa phương giải quyết hậu quả, vụ việc Mỹ ném bom vào
đê sông Hồng của ta ở miền Bắc. Cụ thể phải trợ cấp tử
tuất cho dân công bị tử nạn và tài tiền trợ cấp cho chị em bị
chấn thương vì bom nổ.
Sau mùa lũ năm 1971, kè Quán Cát, An Lãng bị sạt lở
nặng. Tôi cũng đã thiết kế kè mỏ hàn chỉnh trị sông, nhằm
112

12.3 Page 113

▲back to top
Bản tình ca người lính
đưa dòng chủ lưu sông Hồng ở đoạn kè này, chủ yếu đoạn
cuối kè Quán Cát, kè Quy Phú ra xa bờ.
Phía sau kè mỏ hàn số 1, 2, 3, khoảng cách các kè mỏ
hàn là 120m. Chiều dài kè mỏ hàn số 1 là 120m; mũi kè
được gia cố bằng đá hộc; mỏ hàn số 2 dài 130m; mỏ hàn số
3 dài 140m. Phía sau mỏ hàn số 3 là bãi kè mềm bằng các
bụi cây tre, có cành lá mỗi cụm cây tre có ba cây được neo
bởi rọ đá nặng 50 đến 60kg. Mục đích tạo thành bãi bồi ở
đoạn sông phía trên kè Cổ Lễ.
Năm 1978, trong dịp ra Hà Nội họp ở Bộ Thủy lợi, tôi
có dịp về thăm anh em ở Ty Thủy lợi Nam Hà. Tôi được
anh em ở Sở Thủy lợi tỉnh đón tiếp nồng ấm, sau đó đưa về
thăm huyện Hà Nam Ninh, nơi có xây các kè mỏ hàn chỉnh
trị sông Hồng.
Đồng chí Hải, kỹ sư ở Sở Thủy lợi, sau đó là Phó Chủ
tịch huyện Hà Nam Ninh đã tiếp tôi. Anh em đã đưa tôi ra
thăm các kè mỏ hàn mà tôi đã thiết kế, chỉ đạo thi công.
Các kè mỏ hàn hiện vẫn còn, tuy nhiên qua thời gian, kè
đã xuống cấp. Đoạn đê, kè Quy Phú thời gian đó, có đường
nhựa cho xe lưu thông đã bị cấm cho xe ô tô lưu thông. Xe
phải đi đường vòng phía trong. Nay bờ kè đã ổn định, nên
địa phương đã cho ô tô được lưu thông trở lại.
Công tác chống bão, bảo vệ an toàn đê biển ở hai
huyện Xuân Thủy và Hải Hậu rất quan trọng. Từ năm 1968
đến năm 1974, tôi thường đi công tác ở hai huyện này.
Đê biển huyện Xuân Thủy từ cửa Ba Lạt, cửa sông
Hồng đổ ra biển từ xã Giao An, Giao Xuân, Giao Thiện, đến
cống số 9, số 8 xã Bạch Long đã được tôi thiết kế và chỉ đạo
đắp to và cao trên 4,5 m để đảm bảo an toàn khi có bão.
113

12.4 Page 114

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Tuy nhiên, cơn bão số 9 năm 1971 đoạn đê cống số 9
suýt bị vỡ vào tháng 8/1971. Tuy đê được thiết kế cao 4,5m,
mặt đê rộng 6m, mái xoãi phía biển 3/1, nhưng sau trận
bão đó có chỗ mặt đê chỉ còn lại 1,5m - 2m - 2,7m từ mặt
đê xuống chỗ chân sâu 3m.
Sở Thủy lợi và Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo đắp
lại đê. Buổi tối, anh em chúng tôi họp ở cống số 9. Khi ra
về cơ sở để nghỉ, do tối trời lại đi không có đèn pin nên tôi
bị rơi xuống chỗ đoạn đê bị bão tàn phá mặt đê còn 1,5m,
như rơi xuống hố. Tôi bị chấn thương khá nặng, khớp gối
tổn thương không cử động được nhưng may mắn chưa
gãy. May có đồng chí kỹ sư Truyền ở phòng thi công của
Sở Thủy lợi nhảy xuống chỗ tôi bị nạn bế tôi lên. Đồng chí
Truyền người to cao và rất khỏe. Tôi được đưa trở lại nhà
quản lý cống số 9. Sau đó, có cô con gái ông Ngung là học
sinh cấp 3, xức dầu săn sóc nên cơn đau bớt dần. Rất tiếc,
lúc đó tôi đã có vợ chứ còn độc thân có khi tôi đã trở thành
con rể của ông và ở vùng biển này.
Năm 1968 đến năm 1974, vùng biển từ Phước Lý xã Hải
Chính đến xã Hải Triều, Hải Hòa là vùng biển lở (gọi là biển
tiến). Các kỹ sư Phòng Thiết kế - Sở Thủy lợi Nam Hà đã
thiết kế và đang thi công tuyến đê phía trong, đê thay cho
tuyến đê phía ngoài có khả năng bị vỡ khi có bão biển.
Từ năm 1970 đến 1971, tôi đã thiết kế tuyến đê phía
sau xã Hải Triều đến Hải Hòa. Năm 1972 đến năm 1973,
trong một chuyến đi công tác chỉ đạo chống bão, tôi được
đi cùng với đồng chí Soạn, chính trị viên Tỉnh đội Nam Hà
để kiểm tra đoạn đê xung yếu này.
Tỉnh Nam Hà quan tâm đến vùng này vì xã Hải Chính,
114

12.5 Page 115

▲back to top
Bản tình ca người lính
Hải Lý và Hải Triều là vùng làm muối của tỉnh, hai huyện
khác là Xuân Thủy (xã Giao Lâm - Cồn Tàu) xã Bạch Long
và huyện Nghĩa Hưng là xã Nghĩa Phúc cũng là vùng làm
muối, nước mắm, mắm tôm của tỉnh.
Bão biển thường tàn phá vùng này, nhiều lần tôi về
làm việc với đồng chí Đàm, Phó phòng Thủy lợi huyện
Nghĩa Hưng, đồng chí Quynh, đồng chí Phối, kỹ sư Thủy
lợi ở huyện.
Qua mấy năm về huyện Nghĩa Hưng công tác, tôi đi
theo đường 55 từ huyện Nam Trực về tới nông trường Rạng
Đông. Tôi kịp nhận ra, phía Nam của huyện nằm giữa hai
con sông. Phía Đông có sông Ninh Cơ, phía Tây huyện là
sông Đáy đều đổ ra biển. Phù sa của hai con sông này đổ
ra biển hình thành vùng đất nông trường Rạng Đông của
tỉnh Nam Hà.
Trong một lần về Nghĩa Hưng, sau khi giải quyết xong
công việc, anh em ở huyện có nhã ý đưa tôi đi ca nô sang
thăm huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nơi có nhà thờ Phát
Diệm. Vậy là tôi được đi thăm nhà thờ Phát Diệm, nơi thứ
hai có nhà thờ sau nhà thờ Bùi Chu bên sông Ninh Cơ của
huyện Xuân Thủy - Nam Hà. Hai nhà thờ đạo Thiên Chúa
giáo nổi tiếng nhất miền Bắc Việt Nam, có thể nói là nhất
nhì Việt Nam.
Có một số sự việc mà tôi còn nhớ mãi. Nhóm kỹ sư
Thủy lợi ra trường Đại học Thủy lợi được điều về Sở Thủy
lợi Nam Hà công tác bao nhiêu người tôi không còn nhớ rõ,
chúng tôi đợi Ban Lãnh đạo sở bàn việc phân công công tác
ít nhất là 10 ngày mới được công bố. Tôi nhớ kỹ là tôi quê
ở xứ Biên Hòa, Đồng Nai lúc đó là đảng viên Đảng Cộng
115

12.6 Page 116

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
sản 29 tuổi. Đồng chí Hiệp là đảng viên quê Hà Bắc, kỹ sư
chuyên tu được bố trí là cán bộ quản lý trạm bơm điện Như
Trác đang thi công. Anh Phiên đi học từ học sinh phổ thông
được phân về Phòng Thiết kế, còn tôi được phân công về
Phòng Đê điều.
Đảng ủy Sở và Ban Giám đốc bố trí tôi sinh hoạt với
Đoàn Thanh niên của Sở nên tôi thấy như mình trẻ lại mấy
tuổi. Sau khi về Sở Thuỷ lợi được một năm, qua theo dõi
đối tượng kết nạp Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Giai, Bí
thư chi đoàn Phòng Đê điều là con liệt sĩ du kích thời đánh
Pháp, tôi đã về làm việc với cán bộ, chi bộ xã Lộc Vượng,
huyện Mỹ Lộc xác minh trường hợp đồng chí Giai và giới
thiệu kết nạp Đảng với Đảng ủy Sở Thủy lợi Nam Hà. Người
giới thiệu thứ hai là Ban Chấp hành đoàn Sở Thủy lợi Nam
Hà. Trần Xuân Giai, đảng viên mới là người cầu tiến nên
từ cán bộ Trung cấp Kỹ thuật Thủy lợi, qua học tại chức
đại học trở thành kỹ sư Thủy lợi, sau đó lên Phó phòng rồi
Trưởng phòng Đê điều, đảng ủy viên Đảng bộ Sở Thủy lợi.
Sau này, đồng chí trở thành Phó bí thư rồi Bí thư Huyện ủy
Giao Thủy, được điều động về làm Giám đốc Sở Thủy lợi rồi
lên Phó chủ tịch tỉnh Nam Hà. Do có mối quan hệ với cán
bộ Đoàn nên khi tôi xây dựng gia đình với bà xã Trần Thị
Kim Chung, Sở Thuỷ lợi đã giao trách nhiệm với đoàn thay
mặt cơ quan đứng ra tổ chức chu đáo lễ cưới cho chúng tôi.
Tuy thời gian đã cách xa trên 50 năm và cách xa về địa
lý Bắc - Nam, nhưng tình nghĩa giữa tôi và đồng chí Giai
luôn luôn gắn bó và gần nhau. Đối với tôi, các anh chị ở Sở
Thủy lợi Nam Hà mà tôi đã quen biết và làm việc vẫn luôn
luôn gần gũi và quý mến mỗi khi gặp lại và chúng tôi luôn
tự hào và nhắc lại những ngày đáng nhớ.
116

12.7 Page 117

▲back to top
Bản tình ca người lính
Mối duyên kỳ ngộ
Đầu năm 1968, tốt nghiệp Đại học Thủy lợi, tôi được
về tỉnh Nam Hà để nhận công tác ở Sở Thủy lợi. Tình cờ
tôi gặp anh Đặng Trần Chỉnh, bạn học thời học sinh miền
Nam trên đất Bắc. Anh Chỉnh sau khi học hết phổ thông
đậu Đại học Bách khoa Hà Nội. Khi tốt nghiệp ra trường,
anh được phân công làm giảng viên ở Đại học Thủy lợi Hà
Nội.
Anh Chỉnh gặp tôi bảo: “Mày về Nam Hà nhớ tìm gặp
anh Phan Thành Thật”. Tôi đồng ý và nghĩ chắc anh Thật
là bạn cùng học ở Đại học Bách khoa là người đồng hương
Nam Bộ.
Khi về tới Nam Định, nghỉ ở nhà khách Sở Thủy lợi,
tôi hỏi anh em: “Ở đây có anh nào tên Phan Thành Thật
không?”. Anh em nói “có” nhưng anh Thật đi công tác
vắng, vợ anh Thật, chị Lan đang nấu cơm dưới bếp. Tôi
gặp chị Lan mới biết chị quê tỉnh Long An. Trong chuyến
đi công tác này, khi máy bay Mỹ ném bom vào đê, anh Thật
bị sức ép của bom ói ra máu phải nằm viện cả tuần. Sau
khi anh ra viện, anh em tôi mới được gặp nhau. Lúc này chị
Lan sắp sinh cháu Thụy. Anh Thật ói ra máu vì thời đánh
117

12.8 Page 118

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Pháp ở trong Nam anh là chiến sĩ Tiểu đoàn 307 ở Khu 8,
đã từng bị một mảnh đạn găm trong phổi phải. Còn tôi là
thiếu sinh quân ở Biên Hòa, Khu 7.
Sau khi điều trị ở Bệnh viện Nam Hà, Bệnh viện đã
chuyển anh lên Bệnh viện lao Hà Nội chữa trị. Trước ca
phẫu thuật cắt bỏ 2/3 lá phổi nơi có mảnh đạn chưa được
lấy ra, Bệnh viện đã chăm sóc, điều trị để nâng thể trạng và
sức khoẻ cho anh. Khi ra viện, về Nam Định nhà anh đã bị
bom Mỹ xóa sổ. Anh em trong đơn vị trợ giúp dựng lại, nhờ
cơ quan cấp cho mấy chục cây tre luồng (phế thải) chống
lụt bão làm cột kèo.
Cơ duyên anh Thật là “ông mai” cho vợ chồng tôi là anh
quen cô giáo Trần Thị Kim Chung vì cô Chung là con nuôi
của bác Bùi Đồng Văn quê ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Trong một lần cô Chung ra Sở Thủy lợi Nam Hà thăm bác
Văn (nhưng bác Văn đi công tác vắng) thì gặp anh Thật làm
cùng phòng với bác. Anh Thật nói với cô Chung: “Em ngồi
đây chơi đợi anh mấy phút, vì anh có việc sẽ quay lại”. Lúc
đó, tôi đang họp chi bộ và được nghỉ giải lao 15 phút. Anh
Thật bảo tôi: “Ẩn, anh nói với em chuyện này, có cái Chung
ra tìm bác Văn, em xuống xem sao?”. Ý anh Thật, chị Lan
muốn tôi và Chung quen biết, tìm hiểu để đi đến hôn nhân.
Tôi đến gặp cô Chung, dù chưa nói chuyện được câu nào
nhưng trong lòng tôi thầm nghĩ: “Xem ra cũng được!”. Lần
đó, anh Thật đóng dùm cô Chung đôi guốc mộc.
Khi bác Văn đi công tác về, anh Thật kể lại với bác Văn
sự việc trên. Anh Thật cùng bác Văn nhất trí quan điểm
giúp tôi và cô Chung tìm hiểu để đi đến hôn nhân. Sau đó
mấy ngày bác Văn cùng tôi đến thăm cô Chung ở xã Đại
118

12.9 Page 119

▲back to top
Bản tình ca người lính
An nơi có trường cấp 2 cô Chung đang dạy học. Cô Chung
đang dạy lớp 7 phổ thông, môn Văn, Sử, Địa.
Một lần khác, vào chủ nhật, bác Văn và tôi về thăm gia
đình cùng thầy u của cô ở thôn Tiền, xã Kim Thái, huyện
Vụ Bản, Nam Hà. Từ đó, chúng tôi có mối quan hệ thư từ,
đi lại thăm nhau. Sợi dây liên kết là cậu Hà, em của Chung.
Mối lương duyên này ban đầu cũng gặp nhiều khó
khăn, hầu hết phía gia đình nhà gái đều phản đối. Người
đầu tiên chấp nhận là cô Chung, thứ hai là cậu Hà, người
thứ ba là thầy.
Khi tình yêu của hai chúng tôi “chín đỏ”, tôi đã báo
cáo với cơ quan. Ban Giám đốc đã cử bác Mẫn, Đảng ủy
viên Trưởng phòng đê điều đi cùng tôi qua nhà gái để
nói “chuyện người lớn”. Tôi nghĩ bác Mẫn là ông mai đáng
tin cậy.
Chúng tôi được tiếp tục tìm hiểu và đã đi đến hôn nhân
sau hơn nửa năm yêu thương nhau.
Trước ngày cưới tôi đã mời bác Mười, bác họ của tôi và
các bác bạn của cha tôi nguyên là lãnh đạo tỉnh Biên Hòa
thời kháng chiến chống Pháp.
Trước đám cưới một ngày là kỷ niệm thật khó quên
của tôi và sau đó là mối lương duyên kỳ ngộ và sự gặp gỡ
mang tính sui gia giữa nhà trai, nhà gái.
Vào đúng sáng hôm tôi về bên nhà gái và rời cơ quan
chừng 30 phút thì bác Mười của tôi, bác Lê Đeo đi từ Hà
Nội đến Nam Định. Bác Mười và cháu Hạnh (10 tuổi) vào
cơ quan tìm tôi. Cơ quan biết bác Mười là bác của tôi từ Hà
Nội về Nam Định dự đám cưới nên đã cử người đưa bác
119

12.10 Page 120

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Mười và cháu Hạnh về Vụ Bản để bác tôi được gặp và biết
được gia thế của cháu dâu tương lai.
Thật là một sự trùng hợp, bố vợ tôi là Đảng viên kỳ cựu
từ năm 1930 đã trải qua tù đày của thực dân Pháp, còn ba
tôi Đảng viên năm 1935 qua khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940
cũng bị tù đày của thực dân Pháp. Còn bác Mười lại là bạn
chiến đấu của ba tôi.
Một chuyện vui quá bất ngờ ngoài sự tưởng tượng của
tôi là sự có mặt của bác Năm, Trịnh Trọng Kính, nguyên
Phó Chủ tịch tỉnh Biên Hòa thời kháng chiến chống Pháp,
bạn của ba tôi. Bác Năm có mặt vào lúc 17 giờ chiều hôm
trước gặp tôi và anh em trong phòng. Bác Năm nói chuyện
rất hay, rất hấp dẫn, anh em chúng tôi rất vui. Tối hôm đó,
bác Năm thay mặt Hội đồng hương tỉnh Biên Hòa làm việc
với lãnh đạo Sở Thủy lợi Nam Hà bàn về đám cưới cho vợ
chồng tôi vào ngày mai.
Cụ thể, buổi sáng lúc 6 giờ 30 phút, Đoàn Thanh niên
của Sở cùng chú rể đi xe đạp vào Kim Thái, khu vực ga Gôi
để rước dâu. Sau thủ tục xin rước dâu của họ nhà trai, đại
diện gia đình nhà gái cũng cử một phái đoàn đưa dâu. Ông
chú họ cô dâu, Trần Viết Ngủ, Phó chủ tịch xã Kim Thái
đưa vợ tôi ra nhà họ nhà trai ở Sở Thủy lợi để làm lễ cưới
trước 10 giờ ngày hôm đó.
Thế là trước ngày cưới một ngày, đại diện gia đình của
họ nhà trai của tôi đã kịp diện kiến với gia đình bên họ nhà
gái. Coi như thông gia hai họ là bác Mười và bố vợ tôi, ông
Trần Viết Sơn đã gặp nhau.
Và ngay sáng sớm ngày đám cưới của vợ chồng tôi, cơ
quan đã cử người đi theo xe của bác Năm Kính vào gặp gia
120

13 Pages 121-130

▲back to top

13.1 Page 121

▲back to top
Bản tình ca người lính
đình bố mẹ vợ tôi. Thật là: “Quan san muôn dặm một nhà,
Bốn phương sum hợp thật là ấm êm”.
Đại diện hai địa phương Biên Hòa, Đồng Nai và tỉnh
Nam Hà cũng đã gặp gỡ để bàn việc tổ chức lễ cưới cho vợ
chồng tôi, kỹ sư Thủy lợi Huỳnh Ngọc Ẩn, kết duyên cùng
cô giáo Trần Thị Kim Chung được chu đáo.
Đám cưới của chúng tôi, ban đầu tưởng sẽ vắng vẻ và
buồn tẻ nhưng trái lại thật đông vui và đầm ấm, ngoài sự
tưởng tượng của tôi.
Trước lời dạy ân cần tưởng đơn sơ nhưng thân quý của
bác Năm, tôi thật sự xúc động và nghẹn ngào nói: “Cháu
cảm ơn bác Năm!”. Còn người vợ trẻ của tôi, sau khi chứng
kiến sự việc trên đã nhận xét: “Chồng mình mít ướt, có
phần ủy mị, dễ bị xúc động”. Tôi còn nhớ năm 1949 khi
bác Năm là Phó Chủ tịch Biên Hòa phụ trách tài chính ở
Mỹ Lộc, Chiến khu Đ. Tôi và các bạn thường được bác cho
một ít tiền có ảnh Bác Hồ. Đến giờ, khi tôi trưởng thành và
lập gia đình, bác vẫn quan tâm, lo lắng cho tôi.
Về sau, tôi đã phóng to ảnh của ba làm khung hình rất
đẹp. Tôi để di ảnh của ba trên đầu giường của mình để tự
nhủ mình luôn làm việc tốt, có ích cho xã hội.
Đám cưới của tôi được tổ chức vào ngày 16/01/1971,
trước Tết chừng 12 ngày. Cuối năm, vợ chồng tôi đón con
trai đầu lòng, cháu Huỳnh Dũng Tiến. Năm cháu Tiến tròn
một tuổi, tôi lên Hà Nội duyệt Đồ án thiết kế Kè mỏ hàn
chỉnh trị sông Hồng, kè Quán Các, An Lãng. Trọng điểm là
kè Qui Phú. Đó là ngày 26/12/1972.
Cũng trong đêm 26/12/1972, máy bay B52 của Mỹ ném
121

13.2 Page 122

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
bom phố Khâm Thiên và bệnh viện Bạch Mai. Bà con ta bị
bom Mỹ giết hại rất nhiều. Cũng may tôi được an toàn để
về Nam Hà tiếp tục công tác.
Tháng 6/1974, tôi nhận được quyết định đi B. Lúc đó
vợ tôi có bầu cháu Thủy sắp đến ngày sinh. Tôi được nghỉ
phép ba ngày nên đã đưa cháu Tiến lên Hà Nội thăm cô Hai
- chị Huỳnh Thị Kim Dung, mẹ cháu Huỳnh Minh Hoàn(1).
Sau khi hết ba ngày phép, tôi về cơ quan nhưng chưa
có quyết định lên đường. Cơ quan yêu cầu tôi tiếp tục làm
việc cho đến khi có quyết định mới. Tôi tiếp tục công tác
và đưa đoàn cán bộ các ngành về Xuân Thủy, Hải Hậu giải
quyết hậu quả thiệt hại cơn bão vừa xảy ra ở hai huyện này.
Khi ấy tôi là Phó đoàn. Sau hơn một tuần làm việc chúng
tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Tôi được về thăm gia đình, lúc
đó vợ tôi đã sinh con thứ hai cháu Huỳnh Kim Thủy được
ba ngày.
Sau một tháng tiếp tục công việc, tôi mới có quyết định
lên đường đi B chính thức. Chúng tôi nhận quân trang
quân giải phóng, sau đó Bộ Quốc phòng đưa chúng tôi đến
trường 105, trường huấn luyện học tập tình hình thực tế ở
(1) Lúc đó cháu Hoàn được 13 tuổi. Sau năm 1975, cháu về Nam
học cấp 3 sau đó học Đại học Y phấn đấu công tác và trở thành Thầy
thuốc nhân dân, Giám đốc Sở Y tế Đồng Nai. Cha cháu Hoàn là Liệt sĩ
Huỳnh Minh Khải quê Bình Dương. Cha cháu hy sinh thời đánh Mỹ ở
Chiến khu Đ. Lúc đó anh là Trưởng phòng y tế huyện Tân Uyên. Chị
Hai là người rất có trách nhiệm với gia đình và xã hội. Chị đã nuôi dạy
ba người con ăn học nên người, trong khi chồng chị đi B và hi sinh sau
đó. Ba người con của chị được ăn học đến nơi đến chốn, có công ăn
việc làm ổn định và xây dựng gia đình êm ấm, nuôi dạy con ngoan.
Hiện nay, chị đã 96 tuổi, chị vẫn còn minh mẫn và sức khỏe ổn định.
122

13.3 Page 123

▲back to top
Bản tình ca người lính
chiến trường miền Nam đánh Mỹ và rèn luyện sức dẻo dai
cho bộ đội đi vào chiến trường. Theo kế hoạch chúng tôi sẽ
phải huấn luyện ba tháng nhưng trước tình hình khẩn cấp
của chiến trường chúng tôi chỉ huấn luyện có một tháng.
Trước ngày lên đường, chúng tôi được nghỉ phép 3 ngày để
thăm gia đình bạn bè trước lúc đi Trường Sơn vào B2.
Ngày chia tay khoảng cuối tháng 10/1974, tôi chia tay
bà con và cha mẹ ở quê vợ. Sau hai tháng sinh con thứ hai,
vợ tôi đã mang ba lô nặng gần 30kg đưa tôi ra ga Gôi, Vụ
Bản để đi Hà Nội. Một điều hết sức xúc động, lưu luyến đối
với tôi là vợ tôi sinh con, sức khỏe còn yếu mà cứ nằng nặc
đòi mang ba lô để đưa chồng vào chiến trường. Tôi cảm
động, rơi nước mắt thương vợ một nách hai đứa con thơ và
cha mẹ già yếu. Hoàn cảnh thật éo le.
Sau này, khi vợ tôi qua đời (ngày 09/12/2020) sau 50
năm chúng tôi chung sống êm ấm bên nhau. Vợ tôi mất ở
tuổi 74 và có 40 năm tuổi Đảng. Đám tang vợ tôi có rất đông
thân quyến gia đình hai bên, bạn bè thân hữu. Một điều rất
vinh dự là tổ chức đảng và chính quyền địa phương đã có
bài Điếu văn trước khi đưa quan tài vợ tôi về quê an nghỉ.
Tôi thật sự cảm động trước sự chia buồn của người
cùng ngành thủy lợi Đồng Nai, anh Phan Tự Trí - nguyên
Phó Giám đốc xí nghiệp Khảo sát Thiết kế thuộc Sở Thủy
lợi Đồng Nai, cũng là một nhà thơ đã đến đốt nhang cho vợ
tôi và tặng hai câu đối thật có ý nghĩa:
Nghĩa ngọc rạng hoài danh Ngọc Ẩn
Tình vàng ngân mãi tiếng Kim Chung
Và, tôi đã khắc hai câu đối trên, ngay trên bia mộ người
vợ hiền đã quá cố.
123

13.4 Page 124

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Tiếp bước con đường của ba
Một cú sốc rất lớn trong đời tôi đó là khi tôi hay tin ba
tôi đã hy sinh năm 1956. Ngày ấy, tôi thấy dường như tôi
không phải là tôi nữa. Tôi như là một con người khác vậy.
Tôi muốn về miền Nam để chiến đấu…
Và thời cơ đã đến, sau 3 năm học cấp 2 ở Trường học
sinh miền Nam số 14 Hải Phòng ngắn ngủi, tôi từ giã
mái trường thân yêu để gia nhập quân đội theo diện tình
nguyện nhập ngũ do Thành đội Hà Nội tuyển quân. Bộ
Quốc phòng giao cho Thành đội Hà Nội thực hiện, đầu tiên
lấy 400 quân để tăng cường quân số cho quân đội có trình
độ văn hóa từ hết lớp 7 đến lớp 10(1), trong đó, bộ đội miền
Bắc 350 quân, bộ đội miền Nam 50 quân. Tôi là một trong
50 binh sỹ của Sư đoàn 330 đóng quân ở Thọ Xuân, Thanh
Hóa. Các bác bạn của ba tôi biết tin tôi đi bộ đội rất buồn
và giận, vì tôi không xin phép các bác, các bác cho tôi là
đứa “vô kỷ luật”. Thật ra, vì tôi quá buồn trước cái chết của
người cha thân yêu…
(1) Hệ trung học phổ thông 10 năm.
124

13.5 Page 125

▲back to top
Bản tình ca người lính
Tôi đặt cho mình mục tiêu là phải phấn đấu vươn lên,
tu dưỡng đạo đức, tiếp tục tự học văn hóa cho hết cấp 3,
học chuyên môn cho tốt, theo yêu cầu của quân đội. Quân
đội rèn luyện cho tôi từ các kiến thức quân sự cơ bản, cho
đến kiến thức chuyên môn kỹ thuật thông tin vô tuyến
điện. Tôi sử dụng thành thạo máy thông tin liên lạc 2W,
thu phát sóng vô tuyến điện v.v… Kết quả kiểm tra tôi được
loại khá. Qua hai năm tại ngũ, các bạn đã về bộ đội quân
binh chủng và lần lượt học trường lục quân. Tôi vì sức khỏe
có phần không được tốt nên được cử làm giáo viên quân
đội dạy cấp 2 cho bộ đội. Sau hơn một năm làm thầy giáo
tôi được cử đi thi vào Trường Đại học Thủy lợi Hà Nội và
đã đậu vào trường này. Tôi học khóa 5, Đại học Thủy lợi
Hà Nội (niên khóa 1963-1968). Trong thời gian học tập ở
trường, tôi được kết nạp Đảng ngày 1/5/1966. Sau Tết Mậu
Thân năm 1968, tháng 3, tôi tốt nghiệp Đại học Thủy lợi về
công tác ở Ty Thủy lợi Nam Hà.
Tôi còn nhớ những ngày đầu học ở Đại học Thủy lợi
Hà Nội, có một chiều, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng
tôi gọi là “chú Đồng” đến thăm trường. Chú Đồng dặn dò
chúng tôi: “Các em phải có gắng học tập, học phải rèn
luyện trí thông minh, học phải kiểm nghiệm kiến thức qua
thực tế. Các em phải phấn đấu trở thành trí thức vừa hồng,
vừa chuyên”. Thực hiện theo lời dạy của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng, tôi luôn phấn đấu thực hiện tốt lời dạy ấy...
Sau những ngày đầu công tác còn bỡ ngỡ, tôi dần trở
thành một kỹ sư vào loại khá vững vàng, chuyên viên đáng
tin cậy cho Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Thủy lợi. Có lúc tôi
còn làm chuyên viên cho đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy đi
chỉ đạo chống lụt, bão ở tỉnh Nam Hà. Tôi đã thiết kế đê, kè
125

13.6 Page 126

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
trên sông Hồng, kể cả kè mỏ hàn chỉnh trị sông Hồng; thiết
kế đê, kè bảo vệ bờ biển ở các huyện Hải Hậu, Xuân Thủy,
Nghĩa Hưng v.v… Có lúc, tôi còn chỉ đạo thi công khi công
trường gặp khó khăn như kè Quán Các - An Lãng.
Công tác từ năm 1968 đến năm 1972 khi đã có một số
kinh nghiệm, tôi tiến hành bàn giao dần cho một đồng chí
kỹ sư loại giỏi của Sở Thủy lợi Nam Hà để tôi có thể đi B -
về Nam làm nhiệm vụ theo yêu cầu của cách mạng miền
Nam, cụ thể là của khu Đông Nam Bộ và của tỉnh Biên Hòa
- quê hương tôi.
Trong thời gian công tác ở Nam Hà, tôi đã yêu một cô
giáo cấp 2, con gái của một đồng chí lão thành cách mạng
và chúng tôi nên duyên vợ chồng.
Sau lễ cưới mọi người ra về, tôi cảm động phát khóc vì
cơ quan, bạn bè, hội đồng hương tỉnh Biên Hòa và dòng
tộc rất quan tâm đến tôi. Gia đình bên vợ cũng an tâm vì
có bác họ của tôi và bạn thân của ba tôi cũng đã đến chung
vui chứ không phải trên đất Bắc tôi chỉ có một mình đơn
độc, không có người thân thích.
Anh em, đồng nghiệp công tác của tôi ở các huyện như
huyện Xuân Thủy, Hải Hậu đều có mặt và có quà mừng
đám cưới cho vợ chồng tôi.
126

13.7 Page 127

▲back to top
Bản tình ca người lính
Trở về Chiến khu Đ
Tôi trở về Chiến khu Đ ngày 3/5/1975, tức chỉ sau ngày
30/04/1975 có 3 ngày.
Ngày đó, tôi được đơn vị cho nghỉ phép ba ngày về
thăm gia đình, sau 21 năm xa cách. Vì đã nhiều năm không
biết tin tức của gia đình nên tôi phải về thị trấn Tân Uyên
để gặp chị Hai Giúp nhờ chị cho biết tin về gia đình, trước
khi về gặp má và các em của tôi.
Địa điểm xuất phát là Trại nghiên cứu về sản xuất nông
nghiệp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Bàu Cá,
huyện Trảng Bom, Biên Hòa. Lúc 6 giờ 30 phút, tôi đón xe
đò Đà Lạt - Sài Gòn để về Sài Gòn. Một điều bất ngờ là nhà
xe không thu tiền và rất ưu ái đối với bộ đội giải phóng. Khi
về đến Sài Gòn, xe dừng ở một khu phố ngoại thành. Tôi
xuống xe và ăn sáng ở chỗ xe phở ven đường, sau đó tiếp
tục ăn một đĩa bánh cuốn, trong khi đó bà con ở đây lân
la tìm hiểu về mấy anh bộ đội giải phóng. Bà con hơi ngạc
nhiên vì phần đông bộ đội giải phóng là người miền Bắc
127

13.8 Page 128

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
mà tôi là bộ đội mặc quân phục đội mũ tai bèo lại là người
miền Nam. Tôi nói chuyện say sưa với bà con hồi lâu đĩa
bánh cuốn vẫn còn hai phần ba mà tôi thấy đã no không
còn đói nữa. Tôi đã trả tiền và chào bà con để đi vào tiệm
hớt tóc. Sau khi hớt tóc, tôi đón xe về Biên Hòa(1), rồi tiếp
tục ra bến xe lam ở gần chợ Biên Hòa để về chợ Tân Uyên.
Khi đến cầu Bà Kiên thì xe dừng vì cầu Bà Kiên bị địch
đánh sập(2). Hành khách trả tiền và xuống xe đi bộ qua cầu
Bà Kiên để về Tân Uyên vì cầu chỉ sập ở mố cầu phía Tân
Uyên. Phía bên Tân Uyên cũng có xe lam đi về chợ Tân
Uyên. Khi lên xe, tôi gặp hai cô gái Việt Cộng được quân
giải phóng đón từ Côn Đảo về đất liền. Hai cô gái ngoài hai
mươi tuổi, dáng vẻ vẫn còn ốm yếu. Một cô cao và trắng
hơn(3) bị tra tấn nên một chân bị thương, bước khập khiễng.
Một cô da bánh mật hơi thấp hơn một chút. Tôi và hai cô
đều giành nhau để trả tiền xe, một cử chỉ thân tình và đáng
yêu của những người lính Việt Cộng. Khi đến khu vực Bình
Chánh, Khánh Vân thì hai cô xuống xe. Còn tôi, khi đó tìm
tới chợ Tân Uyên. Tôi hỏi nhà chị Hai Giúp, con cô Tư Mãi,
chị bác Năm Xải, bác Năm Xải có con là anh Ba Luông, có
đứa con gái mà chị Hai Giúp đang nuôi.
(1) Bến xe ở gần khu nhà 5 tầng phía đối diện khách sạn Vĩnh An
sau này.
(2) Giặc đánh sập cầu vì sợ xe tăng của ta từ Tân Uyên về Tân Ba,
Biên Hòa và Sài Gòn.
(3) Sau này em tôi, Út Nhị, có gặp cô da trắng, đang làm việc ở Sở
Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương. Cô ấy còn nhớ và nói chuyện
với Út Nhị có nhắc lại chuyện đã gặp tôi, anh bộ đội giải phóng xa lạ mà
thân quen trên chuyến xe ngày nào.
128

13.9 Page 129

▲back to top
Bản tình ca người lính
Nhà chị Hai Giúp ở phía Bắc chợ Tân Uyên gần bờ
sông. Nhà chị có nhiều đậu xanh đang phơi để mấy hôm
sau đem ra chợ bán. Chị Hai mừng rỡ tiếp đón tôi và chỉ
tôi “có cô Út” em gái bác Mười Đeo đang bán đường ngoài
chợ. Sau khi hàn huyên, chị Hai Giúp đưa tôi ra chợ gặp
cô Út. Cô rất mừng khi hai cô cháu gặp nhau. Sau đó, cô
chỉ tôi nhà chị Tư Lái, con của cô Năm, bên cạnh chợ Tân
Uyên. Tôi đến thăm gia đình chị Tư Lái rồi chào mọi người
để xuống đò Tân Uyên về nhà ở cù lao Mỹ Quới.
Trên chuyến đò có bốn anh bộ đội giải phóng (tôi và
ba anh nữa). Trên đường làng từ ấp Bình Hưng đến Điều
Hòa tôi nói với anh bộ đội có vẻ là sĩ quan(1): “Em là Ẩn, con
của ông Tư Lũy ở Tân Trạch”. Anh sĩ quan nói: “Ngày xưa
ông Tư đã cử anh đi học trường lục quân Trần Quốc Tuấn ở
Nam Bộ, khi đi ông Tư có cho anh tiền lộ phí đi đường”. Tôi
nhớ lại đầu năm 1950, tỉnh Biên Hòa có chọn một số anh
có trình độ văn hóa, có sức khỏe để cử đi học trường quân
sự ở Nam Bộ. Trong số đó có anh Hoàng Văn Bổn (sau này
là nhà văn, nhà biên kịch quân đội); anh Bảy Sanh về sau là
Giám đốc Sở Lâm nghiệp rồi Phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai;
anh Tư Trung, Đại tá quân đội ở đơn vị A42, sân bay Biên
Hòa, sau là Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh.
Tôi và ba anh bộ đội chia tay ở làng Điều Hòa. Tôi đi
tiếp chừng 20 đến 30 bước thì có tiếng hỏi từ nép nhà bên
vệ đường vọng ra: “Ai đi ngoài đường đó?”. Tôi trả lời: “Tôi
là Hai Ẩn, con ông Tư Lũy ở làng Tân Trạch”. Người nói
chuyện với tôi cũng là người quá thân quen, bảo tôi: “Nếu
là con ông Tư thì vào đây”. Tuy mới gặp lần đầu nhưng tôi
(1) Vì bên cạnh anh có hai anh lính cận vệ.
129

13.10 Page 130

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
đoán đây là bác Tám Bời, anh ruột bác Út Thôi, nguyên Bí
thư kiêm Chủ tịch xã Bạch Đằng, nhân vật nổi tiếng của
Việt Minh trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp và
thời kỳ đầu chống Mỹ ở miền Nam. Tôi chào bác Tám và
người thân trong gia đình, nói chuyện năm ba câu rồi xin
phép để về nhà.
Đi tiếp chừng 500 đến 600m thì tôi đến khu gò Mả, địa
phận làng Tân Trạch. Người tôi gặp đầu tiên là một anh
nông dân còn ít tuổi nhìn giống anh Chín Tranh. Tôi hỏi:
“Có phải anh là anh Chín Tranh không?”. Anh nói: “Tôi
là Út, em của anh Chín Tranh”. Qua mối liên quan huyết
thống trong gia đình anh Út hỏi tôi: “Có phải chú là chú
Hai Ẩn phải không?”. Tôi trả lời ngay: “Phải tôi đây”.
Tôi hỏi anh: “Đường vào nhà mình đi đường nào?”. Anh
nói: “Để tôi đưa chú về nhà!” rồi anh kêu anh Hai Chiến(1):
“Anh Hai ơi! Chú Hai Ẩn về rồi!”. Anh Hai Chiến đang cày ở
miếng đất phía trong dừng cày và chạy lại chỗ tôi. Hai anh
em ôm nhau và nước mắt tôi rơi lã chã và không nói được
lời nào.
Tôi đi từ chỗ anh Hai Chiến qua nhà anh Út rồi qua
nhà bác Hai vào đến nhà má mà nước mắt cứ rơi rơi...
không nói được lời nào.
Gặp má, hai mẹ con ôm nhau khóc.
Sau má mới biểu một đứa nhỏ nào đó, chạy xuống
trường học kêu Út Nhị về vì Út Nhị đang đá banh ở đó. Lúc
đó khoảng 5 giờ 30 chiều, má đang nấu cơm. Sau đó chừng
30 phút, Út Nhị về nhà, lúc đó trời đã nhá nhem tối, anh em
tôi gặp nhau.
(1) Anh ruột
130

14 Pages 131-140

▲back to top

14.1 Page 131

▲back to top
Bản tình ca người lính
Tối hôm đó và suốt hai ngày hôm sau nhiều bà con
thân thích và anh em công tác ở địa phương cũng đến nhà
thăm tôi. Không khí thật đầm ấm. Tôi còn nhớ, dượng Tám
ở Biên Hòa gần nhà máy cưa cùng con trai tên Hai cũng về
quê thăm tôi.
Sau ba ngày phép, tôi xuống Biên Hòa thăm gia đình
chị Ba Kim, anh Hai Hưởng, anh rể và các cháu. Tôi còn
tranh thủ đến thăm gia đình dì Tám rồi mới lên đường trả
phép ở trại Nghiên cứu Sản xuất Nông nghiệp ở Bàu Cá.
Chuyến đi này có Út Nhị, em tôi đưa anh đến đơn vị công
tác. Sau đó, hai anh em tôi cùng các anh, chị đưa lúa gạo và
bàn ghế đã vận chuyển từ căn cứ ra đây, bây giờ lại đưa về
Biên Hòa đã được giải phóng.
31/8/2022
131

14.2 Page 132

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Trên đất bạn Campuchia
Ngày 7/1/1979, quân tình nguyện Việt Nam cùng lực
lượng chống Pol Pot của Campuchia đã đánh quân Pol Pot
chạy khỏi thành phố Phnôm Pênh. Thực tế quân Pol Pot
vẫn còn trụ ở nông thôn và rừng núi của Campuchia và ra
sức chống lại quân đội tình nguyện của Việt Nam với sự chỉ
đạo của cố vấn quân sự Trung Quốc. Hỏa lực của chúng rất
mạnh, trừ không quân và hải quân hay xe tăng thiết giáp.
Từ năm 1979 đến năm 1982 quân ta bị tổn thất khá
lớn. Thời gian này Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
chỉ đạo: Mỗi tỉnh ở Nam Bộ ra tới Nam Trung Bộ kết nghĩa
với một tỉnh ở Campuchia để giúp đỡ nước bạn phục hồi
kinh tế sau họa diệt chủng Pol Pot.
Tỉnh Đồng Nai kết nghĩa với tỉnh Kampong Thom của
Campuchia. Tỉnh này ở phía Bắc Campuchia giáp tỉnh
Xiêm Riệp, gầnThái Lan. Thời gian này lực lượng Pol Pot ở
2 tỉnh này hoạt động chống phá khá mạnh.
Đầu năm 1982, tỉnh Đồng Nai cử một đoàn cán bộ đại
diện các ngành sang thăm tỉnh Kampong Thom kết nghĩa,
dẫn đầu đoàn do đồng chí Sáu Trung, Chủ tịch tỉnh Đồng
Nai. Đoàn xuất phát từ Biên Hòa đến huyện Gò Dầu, Tây
132

14.3 Page 133

▲back to top
Bản tình ca người lính
Ninh qua cửa khẩu Mộc Bài đất Campuchia đến thị xã Xoài
Riêng, Campuchia. Đoàn dừng chân nghỉ ăn trưa ở đây và
tự tổ chức nấu ăn.
Từ biên giới Campuchia đến thị xã Xoài Riêng, thành
phố Phnôm Pênh, các thị xã, thị trấn đều không có bóng
người, đường xá, cầu cống đều xuống cấp một cách thảm
hại, ta phải có trách nhiệm cùng nhân dân Campuchia
phải xây dựng lại từ đống tro tàn do Pol Pốt gây nên.
Từ 1982 đến 1985, tôi cùng cán bộ công nhân ngành
Thủy lợi Đồng Nai đi lại nhiều lần để giúp ngành nông
nghiệp tỉnh Kampong Thom đào tạo công nhân máy bơm,
khảo sát thiết kế phục hồi kênh mương dẫn nước, cụ thể:
Xí nghiệp khảo sát thiết kế cử hai tổ khảo sát địa hình
do đồng chí Lai và đồng chí Minh đi đo tuyến kênh hồ 30/9
ở huyện Si Tung giáp tỉnh Xiêm Riệp, giáp Thái Lan về đến
Kampong Chàm. Đây là căn cứ của của quân Pol Pot, có
lần chúng rượt đuổi anh em. Cũng may mọi người đều an
toàn. Đoàn còn khảo sát tuyến kênh tưới từ hồ Si Tung về
tới tỉnh Kampong Chàm dài gần 170(km) tưới gần 2000(ha).
Đáng nhớ là đầu năm 1984, đích thân tôi đưa đoàn
công nhân xây lắp thuộc công ty xây lắp chỗ đồng chí Cải
làm Giám đốc. Đội xây lắp do đồng chí Lê Quang Thành,
Phó Giám đốc xí nghiệp khảo sát thiết kế trực tiếp làm Đội
trưởng. Sở Thủy lợi Đồng Nai muốn thử thách đồng chí
đảng viên dự bị trong nhiệm vụ đặc biệt này. Đội phó, đội
công tác này là đồng chí Bình, kỹ sư Thủy lợi của Công ty xây
lắp Thủy lợi. Nhiệm vụ của đoàn là xây hai cống lấy nước từ
hồ 30/9 và lắp ráp 10 cửa cống lấy và xả lũ từ hồ 30/9.
133

14.4 Page 134

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Để triển khai công tác trên được thuận lợi, tôi đề nghị
đồng chí Hai Thông, Trưởng đoàn chuyên gia tỉnh Đồng
Nai tại Kampong Thom, mời đồng chí Trung - Đoàn trưởng
Trung đoàn Gia Định tại Kampong Thom làm việc. Đồng
chí Trung hứa sẽ triển khai quân đảm bảo an toàn cho
công nhân thực thi nhiệm vụ ở hồ 30/9, huyện Si Tung,
tỉnh Kampong Thom.
Trước khi đưa đoàn cán bộ, công nhân của ta vào khu
vực hồ 30/9, Trung đoàn Gia Định đã giao chiến với quân
Pol Pốt tại đây và đã hy sinh hai chiến sĩ tân binh.
Vào lúc 14 giờ một ngày mùa khô năm 1984, tôi đưa
đội thợ xây lắp gồm 20 người từ quốc lộ 6, Kampong Thom
đi Xiêm Riệp vào hồ 30/9(1). Đi được khoảng 1km thì có tin
báo: “Các anh không nên đi vì quân Pol Pot phục kích”. Tôi
bảo đồng chí Đằng lái xe, quay ra lộ 6 vào gặp đồng chí tiểu
đoàn trưởng đề nghị tiểu đoàn cử một đại đội, đưa công
nhân vào vị trí công trường. Đồng chí tiểu đoàn trưởng
đồng ý và cử đồng chí đại đội trưởng tầm 25-27 tuổi đeo
lon trung úy chỉ huy ba trung đội. Mỗi trung đội chỉ có 12
đồng chí đi trên ba xe không mui hành quân đưa anh em
chúng tôi vào công trường, sau đó anh em tự trở ra. Tôi chỉ
đạo đồng chí Thành, cử anh em đi mua một con heo chừng
60-70kg để mai làm lễ khởi công rồi chia cho công nhân và
bộ đội ăn tươi một bữa. Bộ đội bảo vệ công trường với quân
số một tiểu đoàn do đồng chí Thuật, quê Gia Lâm làm Tiểu
đoàn trưởng mang quân hàm thượng úy. Đồng chí Hùng,
Trung úy làm Tiểu đoàn phó quê ở Hóc Môn. Theo chương
trình, tôi ở công trường với anh em công nhân ba ngày hai
(1) Khoảng cách chừng 13km.
134

14.5 Page 135

▲back to top
Bản tình ca người lính
đêm. Đêm đầu tiên, tiểu đoàn bảo vệ, ban chỉ huy tiểu
đoàn có hai người và thực binh hai đại đội. Mỗi đại đội chỉ
có ba tiểu đội bố trí ở hai đầu đập ở phía Đông. Ban Chỉ
huy ở giữa nhưng ở phía sau đập, cách hai đại đội phía trên
đập chừng 200m, để bảo vệ Ban chỉ huy an toàn. Phía Tây
Bắc có một đại đội (đủ quân số) bộ đội Campuchia. Phía
Tây Nam, quân ta bố trí bãi mìn.
Đêm đầu tiên ở công trường, tin tình báo của ta cho
biết, quân Pol Pot sẽ đánh vào công trường. Đồng chí
Thuận báo cho tôi: “Đêm nay Pol Pot sẽ đánh vào đây có
gì chú xuống hầm trú ẩn”. Thực tế, hầm chỉ huy sâu 1,4m,
không có nắp hầm. Tôi nằm cạnh Ban chỉ huy tiểu đoàn.
Khoảng 20 giờ, phía Đông Bắc có pháo hiệu màu đỏ, phía
Đông Nam có pháo hiệu màu xanh. Còn thiếu pháo hiệu
màu vàng phía Tây Nam(1). Phía Tây Bắc có đơn vị bộ đội
Campuchia. Đồng chí Thuật báo cho tôi, nếu địch đánh
ta từ hướng này, thì ta cứ bắn vào hướng này để tự bảo vệ
mình. Địch đã lùa trâu đi vào bãi mìn, mìn nổ nên phải bỏ
dở trận đánh này.
Đêm thứ hai, lúc 17giờ, một đại đội của ta đóng quân
phía Đông Bắc, hành quân qua đây vì trời tối xin nghỉ qua
đêm tại công trường. Tôi thấy an tâm hơn vì đã có thêm
quân ở công trường. Quả thật, đêm đó không có chuyện gì
xảy ra.
Ngày thứ ba ở công trường, mọi việc đều tốt đẹp. Tầm
1 giờ 30 phút sáng chúng tôi có khách. Đó là đồng chí Hai
Thông, Trưởng đoàn chuyên gia tỉnh Đồng Nai được đại đội
của trung đoàn Gia Định đưa vào thăm công trường, sau
(1) Nơi có bãi mìn.
135

14.6 Page 136

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
đó đón tôi về thị xã Kampong Thom. Hôm đó, tôi gặp đồng
chí Xô Han, Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch tỉnh Kampong
Thom và báo cho đồng chí biết tình hình ở công trường.
Tôi đã mua một con heo trong lễ khởi công ở công
trình, sau đó chia phần cho anh em bộ đội Việt Nam, bộ
đội Campuchia và cán bộ công nhân trên công trường liên
hoan. Đồng chí Xô Han khen tôi rất chu đáo, quan tâm đến
đời sống của bộ đội và cán bộ công nhân thủy lợi trên công
trường, thi công phục hồi công trình Thủy lợi hồ 30/9 ở
huyện Si Tung, tỉnh Kampong Thom, giáp tỉnh Xiêm Riệp.
Đồng chí Xô Han đề nghị tôi để tỉnh Kampong Thom
chi số tiền mua heo trong lễ khởi công, tôi nói với đồng chí
Xô Han: “Đây là chuyện nhỏ, đồng chí đừng bận tâm”.
Công việc ở công trường đúng theo kế hoạch phải thực
hiện trong ba tháng nhưng anh em làm khẩn trương năng
suất lao động nên sau một tháng rưỡi chúng tôi đã hoàn
thành nhiệm vụ và rút quân về nước an toàn.
Ngành Thủy lợi Đồng Nai giúp tỉnh Kampong Thom
đào tạo nguồn nhân lực. Tỉnh bạn đề nghị cử 50 người sang
Đồng Nai đào tạo cán bộ kỹ thuật Thủy lợi có trình độ sơ cấp
Thủy lợi. Thực hiện chương trình này tôi đề nghị với bạn:
Đồng Nai sẽ soạn giáo án đào tạo sơ cấp Thủy lợi cho
bạn, dịch từ tiếng Việt sang ba ngoại ngữ: Campuchia, Anh,
Pháp, gửi cho lãnh đạo tỉnh Kampong Thom. Nếu bạn
nhất trí thì tỉnh Kampong Thom chiêu sinh từ 50-75 người,
tổ chức ăn, ở hậu cần cho lớp học. Phía Đồng Nai sẽ cử
giáo viên và phiên dịch tiếng Campuchia, chương trình đào
tạo trong ba tháng, bằng cấp do Chủ tịch tỉnh Kampong
Thom ký.
136

14.7 Page 137

▲back to top
Bản tình ca người lính
Kết quả chương trình đào tạo nhân lực cho bạn đạt kết
quả tốt đẹp, được 75 người.
Cuối năm 1985, ngành Thủy lợi Đồng Nai có cuộc
họp tổng kết trong năm giúp tỉnh Kampong Thom phục
hồi kinh tế về Thủy lợi đạt kết quả tốt đẹp. Cán bộ và công
nhân đi làm nhiệm vụ quốc tế đều an toàn trở về. Anh em
được khen thưởng.
Trong quá trình làm việc với tỉnh Kampong Thom về
công tác thủy lợi có đồng chí Tứ, cán bộ phiên dịch của
đoàn chuyên gia chỗ đồng chí Hai Thông. Một điều đáng
tiếc là sau khi làm việc với tôi khoảng một tuần, trong sinh
hoạt đồng chí Tứ và anh Đội trưởng Đội văn nghệ tỉnh
Kampong Thom có xảy ra xích mích và đã gây hậu quả
đáng tiếc. Đó là mất mát quá lớn của đoàn chuyên gia tỉnh
Đồng Nai.
137

14.8 Page 138

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Thủy lợi Đồng Nai, những ngày đầu xây dựng
Tổ Thủy lợi đầu tiên của Sở Nông lâm Đông Nam Bộ
gồm:
- Đồng chí Huỳnh Ngọc Ẩn, quê Biên Hòa - kỹ sư
- Đồng chí Mạc Sử, Cán bộ Trung cấp Thủy lợi, quê Hải
Hưng
- Đồng chí Nguyễn Kim Bộ, Cán bộ trung cấp Khảo sát,
quê Hà Tây
- Đồng chí Đỗ Chu Lương, quê Hải Dương
Số cán bộ này được Bộ Thủy lợi điều về để tăng cường
cho B2 vào năm 1974. Giám đốc Sở Nông nghiệp Đông
Nam Bộ lúc đó là đồng chí Ba Hà, Kỹ sư Nông nghiệp được
đào tạo thời Pháp.
Đầu năm 1976, tỉnh Đồng Nai được thành lập trên cơ
sở sáp nhập các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh và
Tân Phú thuộc Chiến khu Đ cũ. Lúc đó, tỉnh có một phòng
138

14.9 Page 139

▲back to top
Bản tình ca người lính
Thủy lợi thuộc Sở Nông nghiệp, Trưởng phòng Thủy lợi lúc
đó là tôi.
Phòng Thủy lợi có các đồng chí sau:
- Đồng chí Khúc Cương - kỹ sư
- Đồng chí Huỳnh Cải - kỹ sư
- Đồng chí Đỗ Ngọc Huân - kỹ sư
- Đồng chí Nguyễn Văn Thuận - kỹ sư
- Đồng chí Mạc Sử - Cán bộ trung cấp
- Đồng chí Đỗ Chu Lương - Cán bộ trung cấp
- Đồng chí Nguyễn Kim Bộ - Cán bộ trung cấp
- Đồng chí Mạc Đinh Cư - Công nhân máy bơm
- Đồng chí Nguyễn Văn Bảy - Công nhân máy bơm
Thời gian này đất nước vừa mới giải phóng gần như
như chưa có các công trình Thủy lợi. Đồng đất một màu
khô cháy, không có sự sống. Bình quân lương thực đầu
người chỉ đạt 80 kg/người/năm.
Trước tình hình trên, đồng chí Sáu Trung, Chủ tịch
tỉnh mời bốn đồng chí kỹ sư Thủy lợi có mặt lúc đó gồm:
Huỳnh Ngọc Ẩn, Khúc Cương, Huỳnh Cải, Đỗ Ngọc Huân
lên văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh tỉnh giao nhiệm vụ:
“Các đồng chí nghiên cứu đề xuất cho tỉnh những vị trí có
thể xây dựng công trình thủy lợi như: trạm bơm điện, bơm
dầu, đập, hồ chứa nước. Làm sao trong một vài năm các
công trình phục vụ được sản xuất nông nghiệp để đảm bảo
được đời sống cho nhân dân. Trước mắt, trong vòng 2 -
3 năm bình quân lương thực đạt 180-200 kg/người/năm.
Sau đạt 240 kg/người/năm”.
139

14.10 Page 140

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Công việc trước mắt của chúng tôi là nắm được các
công trình đã có, các công trình xây dựng dở dang và đề
xuất xây dựng các công trình thủy lợi mới trên địa bàn tỉnh
đồng thời tổ chức đào tạo cán bộ sơ cấp Thủy lợi sử dụng
cán bộ tại chỗ; đề xuất với Bộ Thủy lợi, bổ sung chi viện cán
bộ kỹ sư, trung cấp từ các tỉnh ở miền Bắc quan tâm chi
viện cho Đồng Nai. Lúc đầu, Bộ Thủy lợi chi viện cho một
số cán bộ trung cấp Thủy lợi như các đồng chí: Nguyễn
Văn Đáp, Bối, Hoạt, Hằng, Kiều Thịnh, Đàng, Vũ Thành. Về
sau, có đồng chí Nguyễn Thị Hạnh - kỹ sư.
Một loạt các công trình Thủy lợi được xây dựng như:
- Trạm bơm điện Lợi Hòa, Bình Hòa, Bình Long do
đồng chí Bối phụ trách, đồng chí Sơn thi công.
Trạm bơm Phước Tân, cô Hằng phụ trách, đồng chí
Hồng - Bảnh thi công.
- Trạm bơm Tân Hạnh, đồng chí Dực phụ trách, đồng
chí Hồng - Bảnh thi công.
- Trạm bơm Thiện Tân, do đồng chí Phao phụ trách.
- Thi công đập Sông Xoài - Bà Rịa do đồng chí Thuận
phụ trách, đồng chí Lầu đảm nhận thi công.
- Đập Long An do đồng chí Huân thi công.
- Thi công đập Đồng Hiệp, huyện Tân Phú, kỹ sư Huân
thiết kế, đồng chí Đáp giám sát thi công, nhân công tại chỗ.
- Thi công đê Chu Hải - Bà Rịa, đồng chí Tú giám sát
thi công, thi công do đồng chí Thăng, kỹ sư Đổm (Cục Thủy
lợi - Bộ Nông nghiệp Sài Gòn).
- Thi công đập Suối Cả, đồng chí Thành giám sát thi
công, đồng chí Vương Kiên thi công, có kỹ sư Bảnh hỗ trợ.
140

15 Pages 141-150

▲back to top

15.1 Page 141

▲back to top
Bản tình ca người lính
- Đập Bàu Hàm, đập Năm Sao do đồng chí Cải phụ
trách thi công, đồng chí Thắng thi công.
- Đập Rạch Đông (Bến Súc), do đồng chí Cải chỉ đạo thi
công, dân địa phương thực hiện.
- Đập đất hồ Cầu Mới - Xuyên Mộc, lực lượng dân công
địa phương thực hiện. Cuối năm 1976, thi công đập bê
tông, do đồng chí Phóng chỉ đạo.
- Đập Cầu Cháy ở Vũng Tàu do đồng chí Vũ Thành
giám sát thi công, thi công do đồng chí Hiếu đảm nhận.
- Đập Gia Liêu 1, do đồng chí Hạnh giám sát thi công.
- Thi công đập Sông Dinh do đồng chí Lịch phụ trách,
đồng chí Lầu thi công.
- Thi công sửa đập Tân Hiệp (Biên Hòa) do đồng chí
Hoạt phụ trách.
- Thi công đập Bà Đáp do đồng chí Sáu Liêm thi công.
- Thi công đập Sông Rai do đồng chí Trung phụ trách,
đồng chí Hồng thi công, kỹ sư Bảnh hỗ trợ.
- Thi công cống Cầu Cháy (Vũng Tàu) do đồng chí Vũ
Thành phụ trách, đồng chí Hiếu thực hiện.
- Thi công đập Cù Nhí (Xuân Lộc) do đồng chí Oánh
phụ trách.
- Thi công đập Gia Tân: dân thực hiện, sau Sở Thủy lợi
cử một đồng chí kỹ sư từ Đoàn Thủy lợi Hà Bắc chi viện.
Một điều rất quan trọng là Ban lãnh đạo ngành Thủy
lợi lúc đó đã nhanh nhẹn biết sử dụng chuyên môn của trí
thức chế độ cũ để thi công công trình Thủy lợi mà ta cần
như: kỹ sư Bảnh, kỹ sư Đổm.
Trước yêu cầu rất lớn và cấp bách của công tác Thủy
141

15.2 Page 142

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
lợi nên Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định thành
lập Ty Thủy lợi Đồng Nai từ tháng 6/1976. Ban lãnh đạo
ban đầu do đồng chí Thái Tửu, Cấp trưởng và hai đồng chí
cấp phó là tôi và đồng chí Khúc Cương; kế toán trưởng là
đồng chí Kiều Thịnh.
Sau khi một loạt các công trình trên được xây dựng
xong, Ty Thủy lợi Đồng Nai đã lên danh sách số công nhân
quản lý các công trình Thủy lợi trình Uỷ ban nhân dân tỉnh
ra quyết định số nhân sự cần thiết này do Ty Thủy lợi quản
lý sử dụng thông qua Phòng Thủy nông của Ty Thủy lợi,
phòng có mối quan hệ với địa phương khai thác các công
trình thủy lợi, phục vụ tổ sản xuất ở địa bàn.
Chúng tôi đã đào tạo được hai lớp công nhân thủy lợi
(sơ cấp) ở hai địa điểm: tại đình Bình Thảo, huyện Vĩnh Cửu
được 45 người do đồng chí Quế, quê Nam Hà phụ trách;
tại đình Tân Hạnh, thành phố Biên Hòa được 50 người do
đồng chí Tuyên phụ trách.
Cuối năm 1976, Bộ Thủy lợi điều động, tăng cường lực
lượng cán bộ thủy lợi khá lớn cho ngành Thủy lợi Đồng Nai
từ Sở Thủy lợi Hà Bắc với 20 người. Trên cơ sở nguồn cán bộ
này, Ty Thủy lợi Đồng Nai đã kiện toàn được bộ máy thủy
lợi ở cấp huyện và các phòng ban thuộc sở và bổ sung lực
lượng chỉ đạo xây dựng công trình đang tổ chức thi công và
xây dựng được Công ty xây lắp Thủy lợi, Xí nghiệp khảo sát
- thiết kế thuộc Sở; xây dựng được Trường sơ cấp Thủy lợi
ở Bà Rịa để đào tạo cán bộ sơ cấp đạt chuẩn cho tỉnh. Hiệu
trưởng là đồng chí Duy. Trường đào tạo được bốn khóa thì
được nhập vào Trường Trung cấp Nông nghiệp thuộc tỉnh
ở Bàu Cá, huyện Thống Nhất.
142

15.3 Page 143

▲back to top
Bản tình ca người lính
Sau khi được tăng cường lực lượng cán bộ, kỹ sư trung
cấp của Sở Thủy lợi Hà Bắc, các phòng, ban chuyên môn,
nghiệp vụ của Sở mới được củng cố và kiện toàn:
- Phòng Hành chính: Đồng chí Bình, Trưởng phòng
- Phòng Tổ chức: Đồng chí Nghi, Trưởng phòng
- Phòng Kỹ thuật cơ bản: Đồng chí Dực, Trưởng phòng
- Phòng Kế hoạch: Đồng chí Hạnh, Đồng chí Huyến,
Đồng chí Thoa
- Phòng Tài vụ: Đồng chí Kiều Thịnh, Trưởng phòng
- Phòng Quy hoạch - Thủy văn: Đồng chí Đồng phụ
trách
- Giám đốc Công ty xây lắp Thủy lợi: Đồng chí Cải; Phó
Giám đốc gồm các đồng chí: Đức, Phao
- Giám đốc xí nghiệp Khảo sát Thiết kế: Đồng chí Hạnh.
- Ban Thanh tra: Đồng chí Khánh
Các phòng Thủy lợi ở các huyện được kiện toàn
- Huyện Tân Phú: Đồng chí Ca, đồng chí Quế
- Huyện Xuân Lộc: Đồng chí Duyệt
- Huyện Long Thành: Đồng chí Ngô Bình, đồng chí
Huấn
- Huyện Châu Thành: Đồng chí Hùng, đồng chí Thủy
- Huyện Long Đất: Đồng chí Sáu Liêm, đồng chí Trung
- Huyện Thống Nhất: Đồng chí Nga, đồng chí Tặng
- Huyện Xuyên Mộc: Đồng chí Thanh, đồng chí Toàn
- Thành phố Biên Hòa: Đồng chí Tuyên
- Huyện Vĩnh Cửu: Đồng chí Giống (bộ đội), đồng chí
Bối, đồng chí Thiều (bộ đội)
143

15.4 Page 144

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Đến năm 1989, Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyết định
thành lập Công ty khai thác Thủy lợi, Giám đốc là đồng
chí Huỳnh Ngọc Ẩn; hai Phó Giám đốc là đồng chí Nguyễn
Văn Thuận, và Lê Quang Thành; Kế toán trưởng đồng chí
Nguyễn Thị Hoa. Công ty được giao làm chủ đầu tư xây
dựng mới các công trình, giám sát chất lượng thi công, khi
hoàn thành nghiệm thu và quản lý khai thác công trình
cho có hiệu quả. Công ty phải tổ chức thu Thủy lợi phí các
công trình Thủy lợi phục vụ sản xuất Nông nghiệp, Công
nghiệp. Để trên cơ sở đó có kinh phí đầu tư tu bổ công trình
và trả lương cho công nhân.
Ngay từ đầu ngày thành lập, Công ty đã được tỉnh giao
làm chủ đầu tư các công trình quan trọng như:
- Hệ thống thủy lợi Ông Kèo, huyện Nhơn Trạch
- Hồ Suối Giàu - Lồ Ồ, huyện Long Đất
- Hồ Gia Ui, huyện Xuân Lộc
- Tu bổ các tuyến kênh, hồ Sông Mây
- Tu bổ các kênh tưới hồ Núi Le
- Tu bổ các kênh tưới hồ Đa Tôn
- Bê tông tuyến kênh tưới Trạm bơm Lợi Hòa, Bình
Hòa,…
Tổ chức bộ máy của Công ty dần được hoàn thiện với
các phòng, ban: Phòng Kỹ thuật, Quản lý nước, Đội Xây
lát(1), Tài vụ. Trình độ chuyên môn của anh, chị em được
cử đi đào tạo từ Trường Đại học Thủy lợi Hà Nội, Trường
Nghiệp vụ tài chính ở TP. Hồ Chí Minh,…
(1) Sau này là Xí nghiệp xây lát.
144

15.5 Page 145

▲back to top
Bản tình ca người lính
Để đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác, đơn vị đã
mua sắm máy móc, thiết bị như máy vi tính và cử anh chị
em đi học chuyên môn để sử dụng thành thạo, hiệu quả
đáp ứng yêu cầu của công việc.
Quá trình xây dựng và thành lập Công ty Thủy lợi từ
chỗ nhỏ yếu, cơ sở vật chất còn nghèo nàn và lạc hậu sau
10 năm (1989-2000) cơ ngơi của Công ty tương đối đầy đủ,
trình độ chuyên môn của anh, chị em đã được nâng lên
rõ rệt. Phần lớn anh chị em đều có trình độ đại học đáp
ứng được nhiệm vụ của Công ty trước mắt cũng như về lâu
dài. Đồng lương và cuộc sống của anh, chị em cán bộ công
nhân viên được ổn định và nâng cao. Đây cũng là thời điểm
bàn giao công tác Thủy lợi từ lớp cán bộ lớn tuổi cho lớp
cán bộ trẻ năng động hơn.
145

15.6 Page 146

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Thăm lại chiến trường xưa
Một điều thú vị và bất ngờ là những năm tháng cuối
đời tôi đã được đi thăm vùng đất lịch sử và xa xôi của Tổ
quốc.
- Thăm tỉnh Điện Biên có trận đánh Điện Biên Phủ lịch
sử, kết thúc chiến tranh đánh Pháp xâm lược 1945-1954.
Đất nước tạm chia cắt đất nước hai miền lấy vĩ tuyến 17
làm ranh giới. Theo Hiệp định Genève đất nước tạm chia
hai miền: Bắc - Nam, 2 năm sau (năm 1956) hai miền sẽ
tiến hành hội nghị hiệp thương tổng tuyển cử để thống
nhất đất nước.
- Đi thăm tỉnh Hà Giang nơi địa đầu đất nước có cột cờ
Lũng Cú, di tích cấp quốc gia: đình Tân Trào và cây đa Tân
Trào.
- Thăm lán Nà Lừa, căn cứ đặc biệt của Bác Hồ thuộc
Căn cứ địa Việt Bắc thuộc tỉnh Tuyên Quang.
Về thăm chiến trường xưa Điện Biên Phủ
Đoàn đi máy bay từ sân bay Tân Sơn Nhất lúc 9 giờ 30
phút đến sân bay Điện Biên Phủ lúc 11 giờ 30 phút. Sau
khi ăn cơm trưa ở thị xã Điện Biên, xe đưa đoàn đi thăm
146

15.7 Page 147

▲back to top
Bản tình ca người lính
núi Mường Phăng, nơi đóng quân của bộ đội chỉ huy mặt
trận Điện Biên Phủ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo.
Từ chỗ bãi đỗ xe chúng tôi đi bộ hơn 1km. Đoạn cuối đến
hầm chỉ huy chừng 600m, có 250m bậc thang lên dốc, ai
sức khỏe hạn chế khó thực hiện được đoạn đường này. Từ
đỉnh núi Mường Phăng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ
Chỉ huy chiến dịch có thể quan sát trận Điện Biên, Cánh
đồng Mường Thanh các đồi phụ cận của địch: như đồi Him
Lam, đồi A1 và các cứ điểm khác.
Phương án của ta lúc đầu là “Đánh nhanh, thắng
nhanh”, có sự góp ý của chuyên gia quân sự Trung Quốc
nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lời căn dặn của Bác
Hồ “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, Tướng quân tại ngoại. Trao
cho chú toàn quyền quyết định” tức Tướng quân chỉ đạo
tại mặt trận. Nếu chắc thắng thì đánh, nếu thấy không chắc
thắng thì chưa đánh và phải tìm phương án khác tốt hơn và
đã “đánh là phải thắng”. Đại tướng quyết định, tạm dừng
trận đánh, pháo binh đã đưa vào trận địa, Đại tướng chỉ
đạo phải kéo ra, sau đó bố trí trận địa mới cho phù hợp. Chỉ
đạo bộ đội, đào giao thông hào vây lấn đồn địch. Ban đầu,
đồn giặc ở đỉnh đồi, ta thì ở dưới chân đồi nên có chuyện
đồng chí Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng để đồng đội bắn
trung liên về phía địch và đồng chí Bế Văn Đàn đã hi sinh
ở tư thế này.
Ở diễn biến khác, sau quả B40 của ta, bộ đội ta xung
phong lên đồn địch, nhưng súng trung liên của địch vẫn
bắn về phía bộ đội ta xung phong. Đồng chí Phan Đình
Giót liền lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo cơ hội để bộ đội
ta tràn lên tiến công diệt giặc, và quân ta đã chiến thắng
trận này.
147

15.8 Page 148

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Một cứ điểm quan trọng của mặt trận Điện Biên Phủ
là đồi A1. Đây là một cứ điểm mạnh nhất của địch vì có xe
tăng bảo vệ có lô cốt, lỗ châu mai, hỏa lực gồm đại liên 12
ly 7, bắn xa trên dưới 1.000m, trung liên bắn gần 100 đến
300m. Để đánh thắng cứ điểm này, bộ đội ta phải đào hào
vây lấn, đến khoảng cách 30m bộ đội ta đào hố chữ Z và đặt
bộc phá 800kg sau đó đặt đồng hồ hẹn giờ. Khi bộ đội rút
lui an toàn thì mìn nổ, bộ đội ta xung phong lên đồn địch.
Vì bom hẹn giờ quá lớn, sức công phá mạnh nên bọn lính
chết như rạ, quân ta toàn thắng. Sau khi các cứ điểm bị tiêu
diệt, bộ đội ta tiến quân vào Bộ Chỉ huy cứ điểm Điện Biên
Phủ của địch, hầm của tướng De Castries. Đồng chí Đại
đội trưởng Tạ Quốc Luật Đại đội 360, Tiểu đoàn 130, Đại
đoàn 312 bộ đội ta đã bắt sống tướng De Castries cùng toàn
bộ Bộ Tham mưu và Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Lá
cờ Quyết chiến quyết thắng của quân đội ta tung bay trên
nóc hầm Sở Chỉ huy của địch. Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ, đạo diễn nổi tiếng Liên Xô, Roman Karmen đã làm
bộ phim thời sự - tài liệu Việt Nam trên đường thắng lợi về
chiến thắng Điện Biên Phủ - trong đó có ghi lại hình ảnh
2.000 tù binh bị ta bắt sống.
Chuyến đi Hà Giang
Khởi hành từ phố cổ Hà Nội, phố Hàng Hành trên
xe 24 chỗ nhưng đoàn chúng tôi chỉ có 21 người(1). Xe lăn
bánh lúc 6 giờ sáng ngày 27/05/2022 thì đến thành phố Hà
Giang tham quan. Sau đó, đoàn dùng cơm ở quán ăn bên
bờ sông Lô, nơi ra đời nhạc phẩm nổi tiếng Sông Lô của cố
(1) Hà Nội 8 người và TP. Hồ Chí Minh 23 người.
148

15.9 Page 149

▲back to top
Bản tình ca người lính
nhạc sĩ Văn Cao. 20 giờ cùng ngày đoàn nghỉ qua đêm ở thị
xã Hà Giang.
Ngày 28/05, đoàn thăm khu đèo Mã Pí Lèng. Đêm
ngày 28/05, trời mưa to ở vùng này nên bị sạt lở đất ở đèo
Mã Pí Lèng. Công nhân giao thông phải xúc khối đất ở đây,
thời gian đi phải chậm lại khoảng 40 phút. Đường đi phải
qua nhiều dốc, khúc cua khá nguy hiểm. Đáng kể là đoàn
đã đến mỏm đá Obama. Từ mỏm đá này, tôi có thể nhìn
thấy phần lớn các dãy núi “Cao nguyên đá Đồng Văn”, khu
du lịch sinh thái của miền núi phía Bắc Việt Nam. Cũng từ
mỏm đá này, chúng tôi còn nhìn thấy sông Quế được hình
thành từ cao nguyên đá Đồng Văn.
Sông Quế là sông nguồn của sông Lô lịch sử, nơi bộ đội
ta đã bắn chìm nhiều tàu giặc trên sông thời kháng chiến
chống Pháp (1945 - 1954) trên mảnh đất Tuyên Quang.
Có một điều thú vị là ở Hà Giang có 184km đường núi
được hình thành từ con đường đi bộ của người dân vùng
này từ trước năm 1954, đoạn đường từ Hà Giang đi lên
biên giới Việt - Trung, nơi có cột cờ Lũng Cú, Đồng Văn. Từ
năm 1956 - 1959, đất nước ta đã huy động thanh niên xung
phong từ sáu tỉnh: Nam Định, Thái Bình và bốn tỉnh phía
Bắc phá đá mở đường hình thành con đường nhựa rộng
6m như ngày nay. Bác Hồ đã về thăm con đường này và đặt
tên là con đường “Hạnh Phúc” của người dân nơi đây. Để
hoàn tất con đường này, lực lượng thanh niên xung phong
của sáu tỉnh đã phải hi sinh 64 người do tai nạn lao động và
do ốm đau bệnh tật.
149

15.10 Page 150

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Ngày 29/05, đoàn đi thăm Khu dinh thự vua Mèo được
xây dựng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945(1).
Ngày 30/05, đoàn thăm khu phố cổ Hà Giang và chợ Hà
Giang. 12 giờ trưa ngày 30/05, đoàn trả phòng và quay về cây
đa Tân Trào từ thị xã đến đất Vị Xuyên. Mặt trận Vị Xuyên là
chiến trường ác liệt trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
ở biên giới phía Bắc từ năm 1979 - 1989. Đất Vị Xuyên cách
thị xã Hà Giang chừng 50 đến 60km. Nghĩa trang Liệt sĩ Vị
Xuyên là nơi an nghỉ của hơn 1.800 liệt sĩ đã hy sinh trong
cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc bảo vệ Tổ quốc.
Nghĩa trang được khởi công xây dựng từ năm 1990.
Thăm tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm căn cứ địa Việt
Bắc
Một lần đi thăm tỉnh Hà Giang, chuyến đi từ Hà Nội
lên Hà Giang, đi theo quốc lộ 2B đến địa phận thị xã thì
gặp một di tích cổ mang tên Cổng thành nhà Mạc. Đây là
thành nhà Mạc, khi thất trận ở thành Thăng Long, đã chạy
lên vùng núi Cao Bằng, nhưng kinh đô thì ở tại vùng đất
Tuyên Quang. Trước khi về Hà Nội, chúng tôi quyết về
thăm di tích lịch sử cấp quốc gia là lán Nà Lừa, cây đa Tân
Trào và đình Tân Trào và đoàn đã thực hiện được nguyện
vọng của mình.
Từ Tuyên Quang về Tân Trào theo đường 2C, khi đến
địa phận Tân Trào, phía phải đường 2C, có bảng chỉ dẫn, rẽ
phải 17km là tới khu di tích Cây đa Tân Trào. Cổng chào của
khu du lịch về nguồn đề mấy chữ: “Kính chào quý khách về
thăm khu du lịch Tân Trào”. Đoàn cử đại biểu vào phòng
(1) Khoảng năm 1939 đến 1940.
150

16 Pages 151-160

▲back to top

16.1 Page 151

▲back to top
Bản tình ca người lính
đón tiếp mua vé tham quan. Một tiếp viên giới thiệu đoàn
được tham quan ba địa điểm từ xa đến gần.
Đoàn tham quan lán Nà Nưa (còn gọi là lán Nà Lừa)
hướng dẫn viên đưa đoàn vào thăm lán Nà Lừa, nơi từ năm
1943, Bác Hồ đã về đây hoạt động. Từ trạm đón tiếp, đoàn
đi bộ hơn 1.000m thì đến chân núi, sau đó leo dốc lên chỗ
Bác ở và làm việc trên 300 bậc thang. Trước lán nơi Bác ở
và làm việc có khu bàn đá để Bác ngồi và làm việc như bàn
ghế thiên nhiên ban tặng cho bậc vĩ nhân như Bác. Lán ở
gần suối để Bác lấy nước ăn và tắm giặt. Qua lời kể của cán
bộ quản lý di tích, trong thời gian Bác ở lán Nà Lừa, Bác
bị bệnh rất nặng tưởng như không qua khỏi. Các cán bộ ở
bên Bác và bà con ở đây rất lo lắng cho Bác. May thay, khi
đó có một thầy lang từ nơi khác đi qua đây. Bà con báo tin
cho thầy biết, “có một ông ké” mà bà con rất quý mến bị
bệnh rất nặng, đe dọa đến sự sống. Ông thầy được bà con
đưa vào thăm bệnh cho Bác. Sau đó, ông thầy lên rừng hái
một nắm lá thuốc và một trái cây rừng mà ông gọi là thuốc
chữa bệnh cho Bác. Lá cây thì sắc thuốc để Bác uống, còn
trái cây thì thái ra nấu cháo để cho Bác ăn. Người săn sóc
Bác phải bón cho Bác từng thìa nhỏ một. Thật mầu nhiệm,
loại thuốc của ông thầy lang người dân tộc như một liều
thuốc tiên, đã giúp Bác vượt qua hoạn nạn, sức khỏe Bác
tốt dần lên.
Lúc này, thời cơ trong nước và quốc tế thuận lợi để
cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945
thắng lợi.
Đoàn tiếp tục tham quan đình Tân Trào. Đình Tân
Trào ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương là nơi
Bác và Trung ương Đảng chọn làm nơi họp Quốc dân Đại
151

16.2 Page 152

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
hội. Dưới mái đình này, sáng ngày 17/8/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ trong lễ ra mắt quốc dân.
Năm 1967, Bác Hồ có về Tuyên Quang và thăm lại lán
Nà Lừa. Trong chuyến đi này, Bác có chỉ đạo tỉnh Tuyên
Quang nên xây hồ ở suối Nà Lừa để dân có nước sản xuất
lúa gạo và nước dùng. Sau hai năm ngày Bác mất, tỉnh
Tuyên Quang đã xây được hồ Nà Lừa, đường vào lán Nà
Lừa phải đi qua cầu bê tông trên đập hồ Nà Lừa.
Cách đình Tân Trào khoảng 500m về phía Đông là Cây
đa Tân Trào. Dưới bóng cây đa Tân Trào, chiều 16/8/1945,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc bản Quân lệnh số 1, phát
động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đây cũng
là nơi huấn luyện lực lượng vũ trang, hội quân, mít tinh,
vui chơi văn nghệ ngoài trời. Hiện bóng cây đã mất, chỉ còn
phần gốc đa khá to. Khu bảo tàng Tân Trào đã trồng cây đa
nhỏ bên cạnh gốc cây đa cổ thụ xưa, về sau sẽ thay thế cây
đa Tân Trào năm xưa đã đi vào lịch sử của dân tộc ta ở vùng
đất Tuyên Quang.
152

16.3 Page 153

▲back to top

16.4 Page 154

▲back to top

16.5 Page 155

▲back to top
Tiếng lòng tôi với quê hương
155

16.6 Page 156

▲back to top

16.7 Page 157

▲back to top
Bản tình ca người lính
TIẾNG LÒNG TÔI VỚI QUÊ HƯƠNG
Thơ tôi - tiếng của lòng tôi
Chở yêu thương với buồn vui cuộc đời
Những năm đất nước cắt rời
Đêm Nam, ngày Bắc bời bời nhớ mong
Từ trong sâu thẳm cõi lòng
Giữ bao kỷ niệm sống cùng thời gian
Bàn chân xuống biển, lên ngàn
Mỗi miền đất nước muôn vàn mến yêu
Trải bao bom đạn, hiểm nghèo
Vần thơ - nhật ký, bấy nhiêu ân tình?
Một thời vì nước hy sinh
Nôm na với tấm lòng thành - kính dâng...
157

16.8 Page 158

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
KỶ NIỆM VỚI BA
Rừng Bà Xuân ngày ấy
Ba tiễn con lên đường
Bóng ba như bóng núi
In dáng hình quê hương...
Ba cố ghìm xúc động
Căn dặn con nhiều điều
Tình ba như biển rộng
Vỗ về con thương yêu!
Con nhìn ba thương quá
Mái tóc pha sương chiều
Ba đi làm cách mạng
Vượt qua bao hiểm nghèo...
Tấm chăn đơn xẻ nửa
Con xếp làm hành trang
Cuộc đời con từ đó
Mang tình ba lên đường...
158

16.9 Page 159

▲back to top
Bản tình ca người lính
NHẬN TIN BA HY SINH
Đang náo nức vui xuân cùng đồng đội
Bỗng bàng hoàng chết lặng chiều nay
Một tin buồn như sét đánh ngang tai:
- “Ba đã hy sinh trong trận càn của giặc!”
Trái tim con từng cơn quặn thắt
Nước mắt tuôn, môi mím chặt căm thù
Hình ảnh người cha anh dũng, nhân từ
Như lửa cháy sáng bừng trong ký ức
Nhớ tuổi thơ ba ân cần chăm sóc
Dạy con kết diều, lựa gió thả diều lên
Những đêm hè ba kể chuyện thần tiên
Dành cho con trái vườn nhà ngon nhất...
Nhớ thuở cùng ba dưới mái nhà rách nát
Ba dạy con lẽ sống làm người:
“Hãy hiên ngang bước dưới mặt trời”
Người đã tặng con một cuộc đời đẹp nhất
Đường cách mạng kiên cường bất khuất
Vượt mọi hiểm nguy, bất chấp tù đày
Lòng vững tin vào thắng lợi ngày mai
Thắp sáng trong con niềm khát vọng...
159

16.10 Page 160

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Vì lý tưởng của ba, con đã sống
Như lúc nào ba cũng ở bên con
Bao tháng ngày một dạ sắt son
Rằng ba sẽ cùng con đi tới đích.
Nào hay biết dã tâm kẻ địch
Cướp mất đời ba trên bến quê nhà
Từ nay, chúng con chẳng còn ba
Người đồng chí thân thương gần gũi nhất
Ôi! Chiều nay mình con trên xứ Bắc
Khóc người cha đã anh dũng hy sinh
Trong đau thương, con đã chọn cho mình
Ngày trở lại trả thù nhà nợ nước
Ba hãy yên lòng, có con đang tiếp bước
Trên con đường giải phóng quê hương...
160

17 Pages 161-170

▲back to top

17.1 Page 161

▲back to top
Bản tình ca người lính
MÁ TIỄN CON ĐI TẬP KẾT
Con nhớ mãi buổi chiều năm ấy
Má sụt sùi khóc tiễn con đi xa
Qua nhà bác Út Thôi, Điều Hòa
Nhập vào đoàn quân lên đường ra Bắc
Ngắm nhìn má lòng con thổn thức
Thương má một đời dãi nắng, dầm sương
Bàn chân mài khắp đất quê hương
Thầm lặng nuôi ba đi làm cánh mạng.
Trải nhiều phen ngút trời bom đạn
Bao đêm chong bóng thức canh hầm
Ba bị giặc bắt tù xa xứ
Má lo buồn lặn lội tìm thăm
Vai gầy gánh giang sơn nhà chồng
Nuôi con lớn gửi đi giải phóng...
Như chiều nay dưới trời cao lộng
Tiễn con đi xa lòng má trĩu buồn
Má dặn con: “Ra miền Bắc hậu phương
Ráng học tập luyện rèn cho giỏi
Mai mốt trở về xây dựng quê hương...”
Thương má quá, con nuốt từng lời dặn
Ôi! Mẹ hiền - hình ảnh quê hương!
161

17.2 Page 162

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Ở THÀNH NAM, NHỚ BA
Trước khi tôi cất tiếng chào đời
Ba tôi đã là người Cộng sản(1)
Người hiên ngang coi thường bản án
Nhận tội mình là “Yêu nước thương dân”
Tự nguyện xin vào Đảng Cộng sản quang vinh
Bị giặc bắt giam: Côn Lôn, Bà Rá...
Nguyện chiến đấu cho ước mơ cao cả
Bất chấp gông xiềng, đòn vọt, khảo tra...
Năm bốn mươi (1940) Khởi nghĩa Nam Kỳ
Bao chiến sĩ đầu rơi máu chảy
Chí giải phóng ngút trời lửa cháy
Thề đập tan bao xiềng xích, tù đày
Sống giữa đồng bào như chim giữa rừng cây
Lòng yêu nước chở che người Cộng sản
Gió núi, mưa rừng, gian nguy không nản
Góp sức làm nên một Nam Bộ - thành đồng
Có ba tôi - một chiến sĩ kiên cường
Cùng dân tộc viết nên trang sử mới
(1) Ba tôi: Chiến sĩ Cách mạng Huỳnh Văn Lũy, hoạt động cách
mạng tại quê hương và vùng Chiến khu Đ, đã anh dũng hy sinh năm
1956.
162

17.3 Page 163

▲back to top
Bản tình ca người lính
Chào Cách mạng mùa Thu - cờ đỏ bay chói lọi
Đã khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa!
Một nửa non sông đã thuộc về ta
Nửa còn lại tung bay cờ giải phóng
Tôi mơ thấy dáng ba tôi lồng lộng
Trên khắp núi rừng đồng ruộng quê hương
Tôi ước ao sẽ chóng được lên đường
Về sát cánh cùng ba và đồng đội
Dù có hy sinh cũng quyết tâm giành lại
Độc lập tự do và Tổ quốc vẹn toàn...
Tháng ngày sống giữa thành Nam
Lòng con nhớ thương ba khôn xiết
Xin gửi quê hương vần thơ con viết
Cầu chúc cho ba chân cứng đá mềm...!
Nam Định, 1958
163

17.4 Page 164

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
BỨC ẢNH GIA ĐÌNH
Mỗi khi xem bức ảnh gia đình(1)
Lòng tôi như ánh lửa lung linh
Nâng bức ảnh, áp lên lồng ngực
Thấy cả quê hương, nặng nghĩa tình
Người trong bức ảnh dõi nhìn tôi
Bà nội già thương tóc bạc rồi
Em Hài nghiêng đầu nương bóng má
Em Lài bên nội, miệng cười tươi
Ba tôi dáng thẳng nhìn xa rộng
Tôi tựa vào ba vẻ tự hào
Đầu đội ca lô xanh sắc nắng
Cả nhà trông mới đẹp làm sao!
Bức ảnh theo tôi ra chiến trường
Mỗi lần xem ngắm, dội tình thương
Vọng lời ba má thầm căn dặn
Tiếp sức tôi qua mỗi chặng đường...
(1) Bức ảnh gia đình chụp ở Chiến khu Đ, tác giả luôn mang bên
mình như kỷ vật thiêng liêng nhất.
164

17.5 Page 165

▲back to top
Bản tình ca người lính
GẶP BẠN
(Kỷ niệm gặp mặt Học sinh miền Nam
trên đất Bắc 1954-1975)
Bạn tôi, tuổi nhỏ hôm qua
Giờ đây sao đã hóa ra cụ già?
Cụ ông cho đến cụ bà
Say sưa ca múa như là thơ ngây
Những ngày thơ ấu trước đây
Yêu thương nồng ấm, tình đầy mến thương
Hôm qua cùng học một trường
Miền Nam yêu quí vấn vương, mặn nồng
Yêu thương ta để trong lòng
Tình yêu thuở ấy trắng trong như là
Thật xinh như một bông hoa
Mãi là kỷ niệm trong ta ngày nào
Đẹp như một giấc chiêm bao
Sao mà lưu luyến, sao mà tri ân
Lòng đau như đã khóc thầm
Thương thầy, cô, chú tháng năm dạy mình
165

17.6 Page 166

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Sáng như ánh điện lung linh
Ấy là nghĩa cử, ân tình nước non
Dạy ta như dạy đứa con
Để con được học để còn đấu tranh
Một mai ta đã thành danh
Góp công góp sức để dành giang sơn
Trong lòng, ta vẫn biết ơn
“Bác, Đảng, miền Bắc” dạy ta thành người.
28/7/2012
166

17.7 Page 167

▲back to top
Bản tình ca người lính
THĂM LẠI TRƯỜNG XƯA
(Kỷ niệm ngày thăm lại Trường Học sinh
miền Nam số 1 Đông Triều(1) 15/11/2004)
Năm mươi năm mới gặp lại nhau
Lòng ta luống những dạt dào yêu thương
Hôm nay thăm lại mái trường
Bao năm xa cách, lên đường dựng xây
Quê hương xa thẳm trời mây
Giờ đây nhớ lại những ngày gian lao
Lòng ta vẫn thấy tự hào
Đã được Bác, Đảng đồng bào cưu mang
Nuôi ta khôn lớn thành người
Để ta góp sức dựng xây nước nhà
Nay về ta lại gặp ta
Lòng ta thổn thức, hương hoa đầu đời
Niềm riêng khó nói nên lời
Phải chăng gặp lại cho vơi nỗi lòng?
Chờ mong, ta vẫn chờ mong
Gặp người bạn cũ, tình nồng năm xưa.
(1) Trường Học sinh miền Nam số 1, Đông Triều là một trong
những Trường Học sinh miền Nam trên đất Bắc dành cho thanh thiếu
nhi miền Nam là con em cán bộ, bộ đội chọn gửi ra để học tập chuẩn
bị cho cách mạng miền Nam và xây dựng đất nước sau này.
167

17.8 Page 168

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
BỒI HỒI NHỚ BẠN NGÀY XƯA
(Kỷ niệm 50 năm Trường Học sinh miền Nam
trên đất Bắc)
Nay về thăm lại Hải Phòng
Đất cảng, yêu dấu mặn nồng yêu thương
Đâu rồi! Bao mái trường xưa?
Bạn ấu thơ, thầy cũ bây giờ nơi đâu?
Tóc xanh, giờ đã bạc đầu!
Bồi hồi nhớ lại, những ngày năm xưa
Thầy cô dạy bảo chúng tôi học hành
Trường xưa những mái nhà tranh
Chúng tôi đã được học hành chăm ngoan
Ngày mai đời sẽ sang trang
Chúng tôi thành đạt lên đường về Nam
Giờ đây, nhớ lại những ngày qua
Các thầy, cô bác ruột rà thân thương
Trường xưa, về lại mái trường xưa
Bồi hồi nhớ “Bác” giao thừa chúc xuân.
Tháng 11/2004
168

17.9 Page 169

▲back to top
Bản tình ca người lính
HỘI NGỘ
(Thân tặng các thầy cô, các bạn Học sinh miền Nam
nhân dự lễ Kỷ niệm 55 năm Trường Học sinh
miền Nam trên đất Bắc 16/12/2009)
Bây giờ gặp lại nhau đây
Lòng ta nhớ lại những ngày đã qua
Xa gia đình nhớ má, ba
Quê hương cách trở phương xa ngút ngàn
Quân thù gây cảnh tóc tang
Chúng lê máy chém khắp miền Nam
Đàn áp chém giết dã man vô cùng
Những người kháng chiến kiên trung
Kiên quyết chiến đấu cùng vì quê hương
Thương ba má mỗi chiến trường
Cố gắng học tập, xây quê hương sau này
Chúng ta là những học sinh
Sớm hôm đèn sách vì tình nước non
Đá mòn nhưng dạ chẳng sờn
Mai ngày thành đạt, rửa hờn cho dân
Chiến trường thì phải xả thân
Nước nhà độc lập muôn phần đẹp hơn
169

17.10 Page 170

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Năm mươi lăm năm gặp (lại) nhau
Mỗi người cảm thấy xiết bao vui vầy
Gặp cô bác, các cô thầy
Săn sóc, dạy dỗ những ngày năm xưa
Thầy trò đều sải sớm trưa
Để ta thành đạt như ngày hôm nay
Những cô gái, những chàng trai
Quyết tâm học tập (vì) tương lai nước nhà
Nước mình rồi sẽ thăng hoa
Mừng ngày gặp lại má ba thỏa lòng
Quê hương ba má chờ trông
Miền Nam giải phóng cờ hồng tung bay.
170

18 Pages 171-180

▲back to top

18.1 Page 171

▲back to top
Bản tình ca người lính
TÌNH ĐỒNG ĐỘI
Các anh, những chàng lính cũ
Còn chúng tôi, chiến sĩ tân binh
Gặp nhau dưới một mái đình(1)
Chưa quen mặt, đã chung tình quê hương
Hôm qua từ giã mái trường
Cùng nhau nhịp bước lên đường về đây(2)
Thao trường luyện tập hăng say
Chung nhau gian khổ, chung ngày nắng mưa
Dù nắng cháy da
Mưa sa rát mặt
Nhưng ý chí căm thù quân giặc
Cắt thân mình Tổ quốc làm hai
Chúng lê máy chém khắp nơi
Đàn áp đồng bào - những người kháng chiến...
(1) Đình Hoàng Mai, Hà Nội, buổi đầu tiên nhập ngũ.
(2) C40, thuộc Sư đoàn 330, đóng quân tại Tây Hồ, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
171

18.2 Page 172

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Ta biết rõ đường ta đi phải đến
Nên sớm khuya hăng hái luyện rèn
Mồ hôi đổ thao trường xao xót
Để chiến trường bớt đổ máu anh em
Lính cũ mới đều là đồng đội
Dắt dìu nhau nuôi dưỡng chí bền
Sẽ nhịp bước trong đoàn quân giải phóng
Quét sạch quân thù cho đất nước bình yên...
172

18.3 Page 173

▲back to top
Bản tình ca người lính
TIẾNG GỌI QUÊ HƯƠNG
(Trên miền Bắc, nghe lời kêu gọi của Mặt trận
dân tộc Giải phóng miền Nam)
Bốn ngàn ngày sống trên đất Bắc
Không đêm nào không nhớ quê hương
Thương mẹ hiền dãi nắng, dầm sương
Tần tảo nuôi chồng, con đánh giặc
Thương người cha kiên cường bất khuất
Anh dũng hy sinh trên vùng đất Chiến khu
Bao chiến sĩ hiên ngang trước kẻ thù
Hào khí “Miền Đông gian lao mà anh dũng”
Ôi! Sáng nay, nghe từ Đài Phát thanh Giải phóng
Tiếng quê hương vang vọng khắp non sông
Như biển dâng trào, cuộn sóng
Cửu Long rung chuyển Trường Sơn ào ào bão nổi
173

18.4 Page 174

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Ta bỗng thấy như mình có lỗi
Lòng nôn nao mong sớm được trở về
Cùng anh em trả nợ nước thù nhà
Đi giữa quê hương, tung bay cờ giải phóng
Hai tiếng miền Nam đêm ngày vang vọng
Rộn rã tim ta như trống giục lên đường
Đồng đội hẹn nhau, sẵn sàng đợi lệnh
Cùng trở về giải phóng quê hương.
Ngày 03/04/1965
174

18.5 Page 175

▲back to top
Bản tình ca người lính
NHỚ CHIẾN KHU Đ
Nơi một thời cùng chung ấm lạnh
Kỷ niệm ngày qua bừng dậy trong tôi
Như thấy mây giông vần vũ bầu trời
Giặc đến đốt nhà, ra tay bắn giết
Máu lại đổ thấm sâu từng tấc đất
Và hờn căm như lửa cháy ngút trời!
Chiến khu Đ - căn cứ địa của lòng người
Bao lớp cha anh bền gan chống giặc
“Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”
Lũ giặc nghe câu nói cũng kinh hoàng...
Hôm nay đây trên núi rừng Thanh Hóa
Lòng bồn chồn nhớ Chiến khu Đ
Bạt ngàn cây xanh, suối sâu, đường hiểm
Che chở quân ta, xuất quỷ nhập thần
Giặc đến đây chịu thảm bại bao lần
Càng thua đau càng điên cuồng giết chóc
Chúng rải bom xăng và phun thuốc độc...
Nhưng Chiến khu Đ vẫn gan góc kiên cường...
175

18.6 Page 176

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Làng quê tôi - Cù lao Bạch Đằng
Sông Đồng Nai mở vòng tay ôm chặt
Nơi lòng người thủy chung, son sắt
Dựng tiền đồn - cửa ngõ Chiến khu Đ
Đêm mơ trở về sống giữa Chiến khu
Sát cánh cùng cha anh chiến đấu.
Thanh Hóa, 1956
176

18.7 Page 177

▲back to top
Bản tình ca người lính
PHÚT CHIA TAY
(Ngày xa vợ con lên đường ra chiến trường)
... Nhớ hoài giây phút tiễn anh đi
Em bật khóc nước mắt rơi lã chã
Thằng cu Tiến - con trai cưng bé nhỏ
Cũng nghẹn ngào, phụng phịu gọi: “Ba ơi!”
Anh nghe trong lòng nước mắt tuôn rơi
Mải nhìn con thơ cùng cha già, mẹ yếu
Giây phút ấy làm anh chợt hiểu
Anh đi rồi gia cảnh sẽ bơ vơ...
Xóm giềng thương, em có thể nương nhờ
Lúc đau yếu, khi tắt đèn tối lửa
Anh phải đi, không chần chừ thêm nữa
Khi “Tiếng quê hương nức nở gọi ta về”(1)
Anh và em đã chung một câu thề
Nước còn giặc, anh phải ra tiền tuyến
Em ở lại ráng lo tròn mọi chuyện
Vất vả gian nan, xin chớ quản gì
Và hãy tin: “Đợi anh, anh sẽ về...”(2)
Ngày giải phóng sẽ không còn xa nữa
(1) Thơ Lê Anh Xuân
(2) Lời bài thơ Đợi anh về của nhà thơ Nga K. Simonov (Tố Hữu
dịch).
177

18.8 Page 178

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Dù hôm nay đường ra tuyến lửa
Bom đạn quân thù đánh chặn ngày đêm
Cả đoàn quân đang rầm rập xông lên
Thề quyết tử - trận cuối cùng quyết thắng!
Cho ngày mai con ta khôn lớn
Được sống yên vui trên đất nước hòa bình...
Chào hậu phương sâu nặng, nghĩa tình
Em ở lại nuôi con và chờ đợi
Vững niềm tin vào ngày mai thắng lợi
Anh sẽ về trong khúc khải hoàn ca...
Nam Hà, ngày 21/01/1975
178

18.9 Page 179

▲back to top
Bản tình ca người lính
TRÊN ĐƯỜNG HÀNH QUÂN
Ta lại hành quân ra chiến trường
Xin chào miền Bắc - hậu phương
Chào quê hương, bạn bè đồng đội
Xa vợ hiền và con nhỏ yêu thương!
Ôi! Gian nguy đường ra chiến trận
Đèo cao, vực sâu, nắng núi mưa ngàn
Súng đạn, hành trang đè nặng
Bom đạn quân thù như mưa trút từng cơn...
Quân đi qua từng chặng đường Trường Sơn
Đưa ta về gần quê hương một chút
Qua những cánh rừng dày hun hút
Ngỡ đã về với rừng Chiến khu xưa.
Những bữa cơm chan đẫm nước mưa
Cơn sốt rừng, chia tay đồng đội
Vai bầm tím, bàn chân buốt nhói
Lòng vững tin vào thắng lợi ngày mai...
Hành quân ròng rã mấy tháng trời
Miền Nam gọi ta mau về tới đích
Xưa vượt biển trên đường đi tập kết
Nay vượt Trường Sơn về giải phóng quê hương!
Trường Sơn, ngày 05/02/1975
179

18.10 Page 180

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
GIỮA CHIẾN TRƯỜNG, NHỚ VỢ CON
(Thương tặng vợ cùng hai con)
Ước gì ép được không gian
Hai phương dồn lại tấc gang gần kề
Cho trong giây phút ta về
Bên vợ con được trọn bề yêu thương?
Nhưng ta đang ở chiến trường
Đạn bom ác liệt, khôn lường hiểm nguy
Ngày mai... có thuận đường về
Ngày mai... ai biết chuyện gì xảy ra?
Quê nhà em vẫn chờ ta
Hai con Tiến, Thủy mong ba từng ngày
Ước gì chắp cánh cao bay
Chỉ trong thoáng chốc về ngay sân nhà
Vợ con mừng rỡ ùa ra
Mừng mừng, tủi tủi... làm ta thẫn thờ...
180

19 Pages 181-190

▲back to top

19.1 Page 181

▲back to top
Bản tình ca người lính
Thương em mòn mỏi đợi chờ
Bao đêm thảng thốt, ngày giờ chia phôi
Nhớ chiều Vụ Bản, ga Gôi
Tiễn tôi, em khóc, làm tôi sụt sùi
Thương con còn tuổi đưa nôi
Lo mùa trở rét, lo trời heo may...
Giữa rừng, ngồi ước ngày mai
Ngày mai hết giặc, tương lai huy hoàng
Ẩn về trong ánh hào quang
Gia đình sum họp, Bắc - Nam một nhà
Ngày vui khúc khải hoàn ca
Thương em bù lại cách xa, đợi chờ...
Rừng Chiến khu Đ, 17/3/1975
181

19.2 Page 182

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
VỀ QUÊ VỚI MẸ(1)
(Kỷ niệm ngày trở về quê hương
sau hơn 20 năm xa cách)
Quê tôi xứ ấy, bên kia sông
Tôi đã về đây dưới nắng hồng
Đợi đò sang đón về bên ấy
Mẹ già mòn mỏi đợi chờ mong
Con đã về đấy với mẹ, mẹ ơi!
Con mẹ ôm nhau nước mắt rơi
Bao năm xa cách và li biệt
Buồn vui, tủi tủi không nói nên lời!
Nhớ lúc con xa mẹ, tuổi thiếu niên
Bắc - Nam xa cách bởi 2 miền
Miền Nam máu lửa và tranh đấu
Miền Bắc hậu phương học hành siêng
Con đã thực hành ý nguyện ba
Cho dù con đã phải đi xa
Ra sức học hành để xây dựng(2)
Ngày mai, đất nước nở ngàn hoa.
(1) Năm 1975.
(2) Tác giả đã học tập để trở thành kỹ sư Thủy lợi để góp phần xây
dựng đất nước.
182

19.3 Page 183

▲back to top
Bản tình ca người lính
NGÀY SUM HỌP
Sự thật là đây vẫn ngỡ ngàng
Đúng rồi, lịch sử đã sang trang
Giặc tan, đất nước mừng sum họp
Ta giữa nhà ta giữa xóm làng...
Khách đến đông vui, chuyện hỏi dồn
Chuyện ngày xa cách, chuyện nước non
Chuyện sống học hành trên đất Bắc
Tình bạn, tình yêu... chuyện vợ con
Câu chuyện về ba thêm xúc động
Mỗi lời như khắc họa vào tim
Chuyện má một mình trong lửa đạn
Làm lụng nuôi nhà, dạy dỗ em
Và bao câu chuyện thời tranh đấu
Đồng đội ba ai mất ai còn
Ai nản chí, gian nan lùi bước
Ai kiên cường giữ trọn lòng son...?
183

19.4 Page 184

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Hãy chúc mừng nhau chén rượu đầy
Vui mừng sum họp buổi hôm nay
Ba mươi năm mịt mùng bom đạn
Mà tới bây giờ mới thấy đây
Vui quá em ơi ngày toàn thắng
Anh sẽ ra quê đón em vào
Mừng vui cho bõ ngày xa cách
Cho hả lòng ta những ước ao...
184

19.5 Page 185

▲back to top
Bản tình ca người lính
VẦN THƠ DÂNG BÀ
(Kính dâng hương hồn bà nội - Mẹ Việt Nam Anh hùng)
Bà tôi - má của ba tôi
Một đời chắt giọt mồ hôi cấy trồng
Vai gầy chai với gánh gồng
Âm thầm lam lũ thay chồng nuôi con
Khói nhang một tấm lòng son
Đêm ngày cầu nguyện cho con an lành
Khuyên con bền chí đấu tranh
Đuổi quân xâm lược quyết giành tự do
Chiến trường ác liệt, cam go
Lòng bà như lửa cháy qua đêm trường
Đâu ngờ chịu cảnh đau thương
Con hy sinh giữa quê hương anh hùng
Nỗi đau như cắt xé lòng
Cắn răng bà nhủ: đau chung giống nòi
Một mình chạy ngược lo xuôi
Dạy con, nuôi cháu thành người giỏi giang
Tiễn con, đưa cháu lên đường
Bà như nguồn cội yêu thương dặn dò
Ngày mừng độc lập tự do
Cháu con kết vạn nhành hoa tặng bà...
185

19.6 Page 186

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
THƠ TẶNG VỢ
Vợ tôi cô giáo, dạy phổ thông
Bao năm nồng thắm, một tấm lòng
Tình Nam - nghĩa Bắc, mà sâu nặng
Dạt dào tình nghĩa, vẫn mênh mông
Vượt bao gian khó, và cách xa
Anh đi chiến đấu, con xa ba
Mình em nuôi dạy con thơ ấu
Hẹn ngày đoàn tụ, sẽ không xa!
Giải phóng, đoàn viên đã đến rồi
Qua cơn bĩ cực dạ bồi hồi
Chiến tranh, máu lửa tình li biệt
Viết tiếp đoàn viên, khúc vãn hồi
Dạy con bước tiếp và dựng xây
Hiến dâng sự nghiệp đất nước này
Đất nước cha ông luôn gìn giữ
Gia đình ta, đoàn tụ sum vầy.
186

19.7 Page 187

▲back to top
Bản tình ca người lính
VỀ THĂM CHIẾN KHU XƯA
(Dự cầu truyền hình Khu lưu niệm an ninh (bảo vệ)
Trung ương Cục miền Nam ở Tây Ninh)
Nay về thăm lại Chiến khu
Bồi hồi nhớ lại mùa thu năm nào
Bùi ngùi ruột thắt lòng đau
Máu xương đồng đội còn vương nơi này
Thấm vào ngọn cỏ rừng cây
Để giành độc lập dựng xây nước nhà
Giờ đây đất nước thăng hoa
Để cho con cháu, nhà nhà ấm êm
Đêm nằm mắc võng Tân Biên
Để lòng hồi tưởng chiến trường liệt oanh.
26/7/2012
187

19.8 Page 188

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
THƠ GỬI BÁC HẠNH Ở HẢI PHÒNG
Thơ bác gửi từ thành phố cảng
Gợi lại trong tôi bao kỷ niệm xưa
Những đứa con của miền Nam tập kết
Bao đêm thao thức nhớ quê nhà
Được gặp bác như một người cha
Chăm sóc ân cần, chí tình dạy bảo
Và biết bao tấm lòng thơm thảo
Vì miền Nam, vì những đứa con xa...
Thời gian như con tàu đi qua
Đọng lại trong tôi bao tình nghĩa bác
Giờ đây nước nhà thống nhất
Tôi ở Đồng Nai, nhớ bác Hải Phòng
Bên dòng sông êm đềm xanh trong
Nhớ phố biển sôi trào dậy sóng
Muốn nén không gian trời biển rộng
Để được gần kề bên bác đêm nay...
188

19.9 Page 189

▲back to top
Bản tình ca người lính
Đất nước mình đang từng ngày đổi thay
Nhà máy, công trường mọc lên như nấm
Rừng núi Trị An thành nguồn điện sáng
Điện sông Đà tỏa sáng tận Cà Mau
Đường thênh thang mở lối tới mạnh giàu
Bao mơ ước năm xưa đã thành hiện thực...
Dẫu cuộc sống còn bao điều day dứt
Bác cũng như tôi chưa thể bằng lòng
Và đêm nay tôi ngồi nhớ Hải Phòng
Hình ảnh bác như một lời khích lệ!
189

19.10 Page 190

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
TÌM MỘ ANH TRONG RỪNG CHIẾN KHU Đ
(Tưởng nhớ anh Huỳnh Minh Khải)
...Qua Tân Uyên, Tân Lợi, Tân Thành
Xuyên rừng Chiến khu Đ mênh mông
Lần theo dấu tích thời chinh chiến
Chúng tôi đi tìm kiếm mộ anh...
Mấy chục năm trời sau chiến tranh
Lối mòn phủ kín thảm rừng xanh
Gió mưa san phẳng bao triền dốc
Khe suối năm xưa cũng đổi dòng...
Luồn rừng và tìm trong ký ức
Lần theo dấu vết thời đã xa
Nơi đâu là điểm quân ta đóng
Dòng suối còn soi bóng mái nhà...
190

20 Pages 191-200

▲back to top

20.1 Page 191

▲back to top
Bản tình ca người lính
Khu rừng xưa xảy ra trận chiến
Giặc rải bom xăng đốt trụi rồi
Đất hồi sinh chẳng còn nguyên vẹn
Tìm đâu cho thấy mộ anh tôi?
Cuốc xới, đào tìm đã mấy nơi
Đất cũng chung đau với dạ người
Nhiều phen tìm thấy bao đồng đội
Sao gọi tên anh chẳng đáp lời...
Rồi một ngày nước mắt tuôn rơi
Tìm được mộ anh đưa về quê mẹ
Trong khói nhang, có người ngồi kể
Câu chuyện về anh như một anh hùng...
191

20.2 Page 192

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
MẢNH VƯỜN QUÊ
(Kính tặng má)
Tôi về thăm vườn quê
Đất bao đời truyền lại
Cỏ mọc đầy hoang dại
Mộ cha ông ủ buồn!
Cây má trồng cuối vườn
Vẫn thơm lừng hương bưởi
Hàng dừa xanh, rặng chuối
Soi bóng dòng Đồng Nai
Má đã gần trăm tuổi
Kể chuyện xưa ngậm ngùi
Mảnh vườn đầy kỷ niệm
Nước mắt - máu - mồ hôi
Bao lần quân giặc đến
Xăm dò hầm khắp nơi
Má ngồi trên đống lửa
Nghĩ cách sao cứu người
192

20.3 Page 193

▲back to top
Bản tình ca người lính
Thương bác Cao, bác Nghệ...(1)
Hoạt động thường tới lui
Cả thôn cùng bám trụ
Nuôi cách mạng, nuôi đời
Trong đạn bom, nắng, lửa
Vườn nhà càng xanh tươi...
Mảnh vườn quê yêu dấu
Chiếc nôi tuổi thơ tôi
Thuở trèo cây hái trái
Rủ bạn bè tới chơi
Bày trò đánh trận giả
Thả diều lên khơi vơi...
Tháng năm dài xa cách
Vườn quê - mảnh hồn người!
(1) Ngô Bá Cao, Huỳnh Văn Nghệ, những chiến sĩ hoạt động cách
mạng tại miền Đông Nam Bộ.
193

20.4 Page 194

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
CON VỀ THĂM MÁ
(Nhân ngày má mất 24/7/2012 âm lịch)
Chiều nay con về thăm má
Đến đầu nhà con gọi “má ơi!”
Đáp lời con là im lặng như tờ
Con kịp nhận ra rằng má đã đi xa
Bao vòng hoa của cô bác gần xa để tưởng niệm má
Con vẫn khắc ghi
Vòng hoa của nguyên Chủ tịch nước
Của Chủ tịch, Bí thư, các địa phương: TP. Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,…
Vòng hoa của các đơn vị vũ trang: Quân khu 7, của Sư
đoàn 9 anh hùng, của anh hùng lực lượng vũ trang, bộ đội
đặc công Quân khu 7
Vòng hoa của đại diện lực lượng vũ trang năm xưa,
Tại Chiến khu Đ: Trung đoàn 310, Trung đoàn 301(1),
Tiểu đoàn 303 anh hùng
Con không thể quên: vòng hoa của vị chức sắc cấp cao
các tôn giáo: đạo Phật, đạo Thiên Chúa giáo,…
Má ơi! Chín sáu năm cuộc đời má, thấm đẫm mồ hôi,
nước mắt
(1) Trung đoàn 310 - Biên Hòa; Trung đoàn 301 - Thủ Dầu Một.
194

20.5 Page 195

▲back to top
Bản tình ca người lính
Để lo cho chồng và nuôi con đến tuổi trưởng thành
Lo cho chồng, nuôi con đánh giặc
Để góp phần giành lại độc lập cho nước nhà
Để nhân dân ta được áo ấm, cơm no, hạnh phúc
Bao vòng hoa thân tình ấy, là lời tiễn đưa thâm tình
Đối với má, người vợ Liệt sỹ - Huỳnh Văn Lũy
Khi ra đi về với cõi vĩnh hằng
Xin vĩnh biệt má - mẹ hiền vô cùng yêu thương.
Con của má.
18/11/2017
195

20.6 Page 196

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
CON ĐƯỜNG MANG TÊN BA
(Tưởng nhớ ba tôi -
Chiến sĩ cách mạng Huỳnh Văn Lũy)
...Con đường mang tên ba
Bình dị giữa phố nhà bình dị
Con đi giữa đồng bào đồng chí
Bồi hồi như sắp được gặp ba!
Như gặp người vừa từ ngõ bước ra
Cùng đi với chú Cao, bác Nghệ(1)
Nuôi chí lớn một thời trai trẻ:
“Đuổi giặc xâm lăng, giành lại nước non nhà...”
Khắp các nẻo đường ngang dọc quê ta
Ba đã từng qua những ngày lửa khói
Nơi Chiến khu Đ, mưa ngàn, nắng núi
Có ba đi trong đội ngũ điệp trùng...
(1) Ngô Bá Cao và Huỳnh Văn Nghệ, cùng hoạt động cách mạng
với ba tôi.
196

20.7 Page 197

▲back to top
Bản tình ca người lính
Thoát khỏi ngục tù về giữa lòng dân
“Đường Cách mệnh” dựng cao trào tranh đấu(1)
Giặc dã man dìm dân trong lửa máu
Đã làm nên một Nam Bộ Thành Đồng(2)
Từ đất Thủ - Biên(3) và khắp miền Đông
Lửa cách mạng âm thầm lan tỏa mãi
Đón mùa thu cả non sông vùng dậy
Rợp đất rợp sông, cờ đỏ sao vàng...
Đôi mắt ba khóc đồng chí bao lần
Lại rỏ lệ tiễn con đi tập kết
Giây phút ấy cha con mình đâu biết
Ngày con trở về ba đã hy sinh?
Mùa thu nay đất nước thật thanh bình
Bao đồng chí của ba hóa tên đường tên phố
Đi giữa quê hương rợp màu cờ đỏ
Con thầm gọi tên ba và tên những con đường...
(1) Tài liệu do Bác Hồ biên soạn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
(2) Khởi nghĩa Nam Kỳ xảy ra vào năm 1940 do những người Cộng
sản lãnh đạo.
(3) Thuộc vùng đất Thủ Dầu Một (Bình Dương) và Biên Hòa,
Đồng Nai ngày nay.
197

20.8 Page 198

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
VIẾNG BẠN TRƯỜNG HỌC SINH MIỀN NAM
(Tặng Nguyễn Văn Tiên và gia đình)
Đến thăm bạn một chiều mưa
Đốt nhang tiễn biệt một chiều trưa
Chia li bằng hữu, lòng đau xót
Thâm tình bè bạn tựa duyên ưa.
15/7/2012
198

20.9 Page 199

▲back to top
Bản tình ca người lính
THẮM TÌNH VIỆT - LÀO
Tình nguyện quân, trên đất nước Lào
Sống bên nhau, gian khổ có nhau
Vì nền độc lập của mỗi nước
Là niềm hạnh phúc, luôn khát khao
Đón anh chiến sĩ Pathét Lào(1)
Từ thuở hàn vi lúc gian lao
Hạt gạo chia đôi, tình huynh đệ
Vui buồn, hoạn nạn ta có nhau
Đường Trường Sơn, Đông nắng, Tây mưa
Ta đi đất bạn, lúc chiều trưa
Trên đường vạn dặm, thời chinh chiến
Ca khúc quân hành tựa duyên ưa
Đã qua rồi, lửa đạn chiến chinh
Ta bên nhau, thắm đậm nghĩa tình
Nay xây dựng lại, đời no ấm
Ấy tình nồng ấm, hai nước mình.
05/6/2015
(1) Tiểu đoàn 2, Pathét Lào ở nông trường Sao Vàng (Thanh Hóa)
năm 1959.
199

20.10 Page 200

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
HÀNH QUÂN TRÊN ĐẤT BẠN
Dốc Miếu, Khe Sanh đến Nam Lào
Con đường chinh chiến đến gian lao
Quân đi trùng điệp (ngày) đêm không dứt
Chiến thắng ngày mai sẽ đến mau
Hành quân ngày ấy, đoạn Khe Sanh
Xe băng qua suối, tuột dốc nhanh
Anh em quăng cát, tăng ma sát
Để xe thẳng tiến, khỏi hãm phanh
Đông Trường Sơn rét mướt, Tây Trường Sơn nắng trưa
Miền Nam thẳng tiến trời không mưa
Bụi tung mù cát, trời oi bức
Thức trắng đêm dài, trời sao thưa
Gặp em cô gái, đất Sầm Nưa
Trên đường hành quân, lúc giữa trưa
Hồn nhiên tươi trẻ, em cười khẽ
Sưởi ấm lòng chiến sĩ, qua Sầm Nưa
Con đường giải phóng, ta đã qua
Chắc hẳn, sẽ không còn bao xa
Lòng ta phơi phới vô tư quá
Ngày vui chiến thắng, gặp mẹ cha.
Kỷ niệm Đông Xuân 1974
200

21 Pages 201-210

▲back to top

21.1 Page 201

▲back to top
Bản tình ca người lính
NHỮNG CHÀNG TRAI,
CÔ GÁI THỦY LỢI ĐỒNG NAI
(Mừng ngày thành lập Hội Thủy lợi Đồng Nai
08/03/2009)
Gặp lại nhau trên mảnh đất Đồng Nai
Thuở còn cô gái với chàng trai
Ra đi hồ hởi và xây dựng
Cùng nhau hướng đến một tương lai
Đồng lúa quê ta một màu xanh
Xóm làng cô bác nhớ các anh
Chàng trai cô gái xây thủy lợi
Góp phần đất nước tiến lên nhanh.
05/3/2012
201

21.2 Page 202

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
XÂY DỰNG THỦY LỢI VÙNG ĐẤT ÔNG KÈO
(Kính tặng các đồng chí kỹ sư, cán bộ kỹ thuật,
công nhân xây dựng và quản lí khai thác công trình
Thủy lợi Ông Kèo, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai)
Qua Vĩnh Thanh, Phú Hữu, Phú Đông
Đại Phước, Phước Khánh dân chờ mong
Điện, đường thẳng tắp xe bon chạy
Cuộc sống hồi sinh, nước mát trong
Đắp đê, xây cống ở vùng sâu
Rừng Sác, chua mặn đã bấy lâu
Nay được khai hoang thành đất mới
Người dân hưởng lợi ngỡ mưa ngâu
Vùng đất hồi sinh mạch sống mới
Đất ấy, thân thương đất quê mình
Đã đổ máu xương để gìn giữ
Ý Đảng, lòng dân mãi nghĩa tình.
9/8/2012
202

21.3 Page 203

▲back to top
Bản tình ca người lính
NGÀY GẶP LẠI
(Họp mặt các cựu chiến binh ngành
nông nghiệp Đồng Nai)
Gặp lại các anh - người lính già
Nắng bụi thời gian, đã sạm da
Năm tháng qua đi thời chinh chiến
Trong ra cảm thấy vừa hôm qua
Tinh thần đồng đội mãi đậm đà
Tình người chiến sĩ vẫn thiết tha
Quên sao được bao lớp người yên nghỉ
Đốt nén hương lòng ở trong ta
Chiến tranh chiến sự đã lùi xa
Nay về xây lại quê hương ta
Tuổi già vui vẻ trong đoàn tụ
Hân hoan phấn khởi ta gặp ta.
8/10/1999
203

21.4 Page 204

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
NGÀY GIỖ THỨ 43 CỦA BA TÔI
(Kính tặng má và Út Nhị)
Hôm nay ngày giỗ của ba
Bao người thân đồng chí thiết tha
Về đây tưởng niệm người nằm xuống
Để đất hồi sinh nở muôn hoa.
Đồng chí của ba những năm xưa
Chẳng quản đường xa, đội nắng mưa
Về đây, tưởng nhớ người đã khuất
Nghĩa tình đồng đội chiến trường xưa.
Hương thơm tỏa ngát tình xưa ấy
Lòng mẹ bâng khuâng như vẫn thấy
Ba ở đâu đây cùng đồng đội
Trong lòng rộn rã ngập niềm vui
Ngày đi con trẻ tóc còn xanh
Nước nhà khói lửa thời chiến tranh
Nay về xây dựng quê hương cũ
Cuộc sống thanh bình như bức tranh.
Út Nhị năm ấy còn nằm nôi
Cam chịu khổ đau cảnh mồ côi
Nay đã trưởng thành người bác sĩ
Chữa trị dân lành lúc ốm đau
Đời vui, khúc hát ngọt ngào yêu thương.
Tháng 7/1999
204

21.5 Page 205

▲back to top
Bản tình ca người lính
MỪNG BA TRÒN TRĂM TUỔI
(1916 - 2016)
Bốn mươi năm chiến đấu đời ba
Luôn giữ bên mình chữ xông pha
Giành lại giang sơn cho con trẻ
Độc lập tự do cho nước nhà
Trăm năm sinh nhật cuộc đời ba
Trăm tuổi đời ba đã trải qua
Đã giành độc lập đời tươi sáng
Mãi ghi ơn, công đức người cha
Vì đất nước, chẳng tiếc máu xương
Cho đời nô lệ, vạn tình thương
Ba đã dấn thân cho dân tộc
Đòi lại công bằng, khắp bốn phương.
1/5/2016
205

21.6 Page 206

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
THI TƯỚNG CỦA RỪNG XANH
(Tưởng niệm Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ tròn 100 tuổi)
Anh hùng chiến sĩ khu miền Đông
Đánh giặc từ thuở còn tay không
Đồng bào chiến sĩ luôn sát cánh
Từ giáo mác với gậy tầm vông
La Ngà, Bàu Cá, vang chiến công
Cả nước hân hoan thỏa tấm lòng
Miền Đông, vùng đất đầy kiêu hãnh
Cùng cả nước đánh giặc lập công
Tưởng niệm thi tướng tròn 100 năm
Nhớ thời đất nước còn tối tăm
Nay giành độc lập đời tươi sáng
Trong tôi sâu thẳm, mối tình thâm.
206

21.7 Page 207

▲back to top
Bản tình ca người lính
NHỚ TIỂU ĐOÀN 303 ANH HÙNG
(Nhân Tiểu đoàn 303 được phong tặng
Anh hùng LLVTND)
Anh hùng chiến sĩ Tiểu đoàn 303
Chiến công (ngày) ấy như vừa qua
Đất Cuốc, bến Chang Chang ngày ấy
Là niềm kiêu hãnh ở trong ta
Chiến tranh chiến sự, đã lùi xa
Ta tưởng như vừa mới hôm qua
Bồi hồi cảm xúc tình thân ái
Nay về, ta mới lại gặp ta
Đồng đội tôi, ai mất, ai còn?
Gia đình đã chờ đợi mỏi mòn
Đốt nén nhang thơm người nằm xuống
Để mọi người, vui hưởng vẹn tròn.
Biên Hòa, ngày 20/8/2015
207

21.8 Page 208

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
ANH EM KẾT NGHĨA VƯỜN ĐÀO
(Tặng anh Huỳnh Ngọc Ẩn, Biên Hòa - Đồng Nai,
sân bay Côn Đảo và sân bay Tân Sơn Nhất)
Anh em kết nghĩa vườn đào
Hôm nay sum họp nghẹn ngào lâng lâng
Anh bảo, các em xin vâng
Tình sâu nghĩa nặng chín tầng mây bay
Chia tay tại cảng sân bay
Anh em sẽ có một ngày đoàn viên
Xa nhau ta có lời nguyền
Đến ngày gặp lại nên duyên tình đời
Xa anh, em có đôi lời
Chúc anh chị mãi tình đời đẹp sao
Trên đời ai đếm được sao?
Thỏa lòng mong ước thanh cao đợi chờ
Tình ta đẹp tựa trong mơ.
25/4/2017
Lê Xuân Dương
208

21.9 Page 209

▲back to top
Bản tình ca người lính
GẶP LẠI NHAU
(Thân tặng em Trần Xuân Giai, Lê Xuân Dương;
trong ngày gặp lại trên đất Đồng Nai, Bình Dương
và Côn Đảo -Bà Rịa - Vũng Tàu)
Bây giờ mới gặp lại nhau
Lòng ta vẫn thấy ngọt ngào như xưa
Khi nắng sớm, lúc chiều trưa
Trong ta như thấy mới vừa hôm qua
Nay về ta lại gặp ta
Anh em, tình nghĩa đậm đà tình thâm
Ra về lòng thấy lâng lâng
Hẹn ngày gặp lại muôn phần vui hơn.
15/4/2017
209

21.10 Page 210

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
ĐƯA CON VỀ QUÊ(1)
Dẫu biết rằng con phải đi xa
Để buồn đau lại cho mẹ cha
Nhưng không ngăn được dòng lệ chảy
Là điều đau xót của nhà ta.
Quê ba ôm ấp con dâu Hiền
Gia đình luôn nặng nỗi ưu phiền
Rằng con ngắn số vì đau ốm
Là điều mất mát mối tình riêng
Con nằm bên cạnh thím với bà
Sau này sẽ đến mẹ với ba
Rồi đây phải đến ngày gặp gỡ
Phải đến ngày kia sẽ không xa.
24/3/2013
(1) Đưa dâu Hiền về quê Mỹ Quới - Bạch Đằng - Tân Uyên - Bình
Dương sau ngày giỗ tổ Hùng Vương.
210

22 Pages 211-220

▲back to top

22.1 Page 211

▲back to top
Bản tình ca người lính
CHÁU DẠO ĐƯỜNG PHỐ
(Tặng cháu Huỳnh Minh Quân)
Cháu đi hè phố ngó nghiêng
Lúc đi, lúc chạy thật phiền lòng ông
Ông có nhiệm vụ ngó trông
Cháu mà té, ngã phiền lòng mẹ ba
Sự việc vừa mới hôm qua
Đầu cháu chảy máu như là thường xuyên
Đi đứng hay cứ ngó nghiêng
Phải chăng tìm hiểu láng giềng bà con?
Cháu hay chạy nhảy lon ton
Nói năng phụng phịu véo von như là
“Chào bác, chào ông, chào bà”
Phải chăng, đây hẳn món quà yêu thương?
12/7/2011
211

22.2 Page 212

▲back to top

22.3 Page 213

▲back to top
Phần phụ lục
213

22.4 Page 214

▲back to top

22.5 Page 215

▲back to top
Bản tình ca người lính
Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy
Người con ưu tú của vùng đất Chiến khu Đ
Đồng chí Huỳnh Văn Lũy sinh ngày 1/5/1916 tại xã Mỹ
Quới, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Bạch Đằng,
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Sinh ra và lớn lên
trong một gia đình, một quê hương có truyền thống cách
mạng bên hữu ngạn sông Đồng Nai - cái nôi của những tài
năng như: Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn,
Nguyễn Văn Nghĩa, Bình Nguyên Lộc. Ông nội đồng chí là
Huỳnh Hữu Phụng, từng tham gia nghĩa quân của Bình Tây
đại nguyên soái Trương Định. Tiếp nối truyền thống gia
đình, quê hương, đồng chí đã sớm giác ngộ, tham gia cách
mạng với bí danh Dũng Tiến, hoạt động trong Mặt trận
Dân chủ Đông Dương. Ngày 17/2/1936, đồng chí Huỳnh
Văn Lũy vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản
Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí
còn là người đứng ra thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở xã
Mỹ Quới và sau đó là Bí thư Chi bộ.
Năm 1935, khi Chi bộ Đảng Bình Phước - Tân Triều
được thành lập (là Chi bộ đầu tiên của tỉnh Biên Hòa cũ),
đồng chí Huỳnh Văn Lũy là thanh niên hạt nhân của tổ
215

22.6 Page 216

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
chức “Liên đoàn học sinh” hoạt động trong phong trào học
sinh địa phương.
Những năm tháng hoạt động cách mạng, đồng chí
Huỳnh Văn Lũy đã có nhiều thành tích, đóng góp rất lớn
cho sự nghiệp gìn giữ, giành độc lập vĩ đại của quê hương,
đất nước. Từ một học sinh yêu nước, đồng chí đã kêu gọi,
giác ngộ theo lý tưởng cách mạng cho rất nhiều thanh
niên tại địa phương. Tháng 9/1936, thực hiện chủ trương
của Đảng là phát triển phong trào, vận động cách mạng,
các đồng chí: Nguyễn Văn Nghĩa, Huỳnh Văn Lũy, Phạm
Văn Khoai, Phạm Văn Thuận, Hồ Văn Đại… và một số
đồng chí khác trong Chi bộ Bình Phước - Tân Triều thống
nhất thành lập Ủy ban hành động tỉnh Biên Hòa do đồng
chí Nguyễn Văn Nghĩa làm Chủ tịch. Đồng chí Huỳnh Văn
Lũy phụ trách khu vực Long Thành, đã cùng với các đồng
chí trong Ủy ban hành động tổ chức nhiều cuộc mít tinh,
đưa dân nguyện đòi giảm sưu thuế, đòi các quyền tự do,
dân chủ.
Đặc biệt, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương
(1936-1939), đồng chí cũng đã tổ chức diễn thuyết, thành
lập nhiều tổ chức Ái hữu ở quê nhà để đấu tranh cho
dân sinh, dân chủ, tuyên truyền Chủ nghĩa Cộng sản, xây
dựng và phát triển các chi bộ ở Long Thành, Xuân Lộc và
Tân Uyên…
Từ năm 1940 đến 1945, một giai đoạn lịch sử có nhiều
sự kiện trọng đại của đất nước, đồng chí Huỳnh Văn Lũy
tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, bị bắt và bị giam cầm, tù đày
tại Bà Rá, Hớn Quản (nay thuộc tỉnh Bình Phước), Trảng
Bàng (tỉnh Tây Ninh). Ra tù, đồng chí tiếp tục móc nối với
các đảng viên khác tham gia Cách mạng tháng Tám năm
216

22.7 Page 217

▲back to top
Bản tình ca người lính
1945 tại Tân Uyên. Ngày 23/9/1945, tại Hội nghị cán bộ
toàn tỉnh Biên Hòa tổ chức ở nhà Hội xã Bình Trước (TP.
Biên Hòa) do đồng chí Hà Huy Giáp đại diện Xứ ủy Nam Kỳ
chủ trì, đã bầu ra Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh.
Hội nghị cũng thống nhất thành lập Mặt trận Việt Minh
tỉnh do đồng chí Hồ Hòa làm Chủ nhiệm; đồng chí Huỳnh
Văn Lũy là Phó chủ nhiệm phụ trách tổ chức Hội Nông dân
Cứu quốc, xây dựng Ủy ban Mặt trận Việt Minh các cấp
để tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, huy động sức người
sức của cho kháng chiến. Sau Hội nghị, đồng chí Hồ Hòa
chuyển về hoạt động tại Bà Rịa và hy sinh vào đầu năm
1946. Đến tháng 11/1946, đồng chí làm Chủ nhiệm Mặt
trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa.
Tháng 7/1947, Hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh lần II
được triệu tập tại Mỹ Lộc (Tân Uyên) nhằm kiểm điểm
phong trào kháng chiến ở địa phương, bàn việc chỉ đạo
kháng chiến toàn dân, toàn diện ở giai đoạn tiếp theo. Tại
Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Văn Ký được bầu làm Bí thư
Tỉnh ủy, Huỳnh Văn Lũy được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy,
đồng thời là Chủ nhiệm Mặt trận Kháng chiến đầu tiên của
tỉnh Biên Hòa.
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, phong trào
kháng chiến của nhân dân Biên Hòa từng bước được phát
triển: tổ chức Liên đoàn Cao su chống phá âm mưu bành
trướng của thực dân, đồng bào dân tộc Chơro ở Lâm San
(huyện Cẩm Mỹ hiện nay) được vận động tổ chức hỗ trợ bộ
đội vượt Sông Ray, Hội Phụ nữ Cứu quốc huyện Vĩnh Cửu
hỗ trợ bộ đội đánh giặc trừ gian. Đặc biệt là phong trào
bình dân học vụ, xóa mù chữ. Đồng bào Chơro ấp Lý Lịch
(huyện Vĩnh Cửu) không quên hình ảnh đồng chí Huỳnh
217

22.8 Page 218

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Văn Lũy - người cán bộ Mặt trận năng nổ, hết lòng vì nước,
vì dân về làng, học tiếng của đồng bào, dạy đồng bào con
chữ và cách làm ăn, tập hợp đồng bào dân tộc thiểu số
thành khối đoàn kết dân tộc.
Từ năm 1948 đến tháng 5/1951, đồng chí Huỳnh Văn
Lũy đã tập trung chỉ đạo thực hiện chủ trương sản xuất tự
túc, đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất ở vùng căn cứ,
chỉ đạo Ty Giáo dục Biên Hòa mở trường tiểu học ở Chiến
khu, tiếp tục cùng Đảng bộ tỉnh Biên Hòa xây dựng và củng
cố các lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh toàn dân
khắp các xã trong tỉnh, mở nhiều trận đánh lớn làm phá
sản âm mưu của địch.
Tháng 2/1950, thực hiện Sắc lệnh “Tổng động viên
nhân lực, vật lực” cho kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng chí Huỳnh Văn Lũy lại bận rộn với việc huy
động các lực lượng thuộc khối Mặt trận và động viên các
tầng lớp nhân dân đóng góp nhân lực, vật lực cho kháng
chiến nhằm chiến thắng giặc Pháp và chống sự can thiệp
của đế quốc Mỹ. Đặc biệt, trong trận bão lụt năm Nhâm
Thìn 1952, đồng chí đã vận động nhân dân bị địch tạm
chiếm, nông dân từ vùng ít bị thiên tai như Trảng Bom,
Long Thành hàng chục giạ lúa, hàng tấn giống khoai mì
về vùng căn cứ Chiến khu Đ giúp cách mạng vượt qua khó
khăn trong phong trào sản xuất tự túc để tiếp tục chiến đấu
sau cơn bão lụt lịch sử đó. Đồng chí Huỳnh Văn Lũy cũng là
người thầy, người đàn anh đào tạo các thế hệ lãnh đạo cách
mạng để sau này họ tham gia trong cuộc chiến chống Mỹ
như các đồng chí: Ngô Bá Cao, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên
Hòa năm 1959; Phan Văn Trang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy
218

22.9 Page 219

▲back to top
Bản tình ca người lính
Biên Hòa năm 1964; đồng chí Nguyễn Văn Luông, nguyên
Bí thư Tỉnh ủy Sông Bé… Cuộc đời của đồng chí Huỳnh
Văn Lũy gắn liền với những cột mốc quan trọng của chiến
trường cách mạng Thủ Biên, Chiến khu Đ.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, với cương
vị là Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh, đồng chí Huỳnh Văn
Lũy đã cùng với quân dân Biên Hòa, Thủ Biên đoàn kết một
lòng, vận động quần chúng nhân dân và các đoàn thể cứu
quốc đóng góp sức người, sức của chiến đấu bảo vệ Chiến
khu Đ, vận động tín đồ Phật giáo tham gia Mặt trận Việt
Minh, lập quỹ cứu quốc ủng hộ kháng chiến đánh đuổi
thực dân, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng non
trẻ ngày càng vững mạnh. Trong thời gian hoạt động cách
mạng, đồng chí nhiều lần bị địch bắt, tra tấn dã man nhưng
không hề khai báo, vẫn giữ vững khí tiết người Cộng sản.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève
được ký kết. Thực hiện Hiệp định, Tỉnh ủy Thủ Biên chủ
trương vừa tổ chức chuyển quân tập kết, vừa thu xếp lực
lượng cán bộ trung kiên ở lại bám dân hoạt động. Đồng
chí Huỳnh Văn Lũy nằm trong đội hình ở lại, tiếp tục bám
dân để xây dựng, củng cố phong trào cách mạng. Tháng
10/1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập. Cũng thời gian
này, liên Tỉnh ủy miền Đông ra đời. Cuối năm 1954, Xứ ủy
Nam Bộ và liên Tỉnh ủy miền Đông quyết định lập lại 2
tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một cho phù hợp tình hình mới.
Đồng chí Huỳnh Văn Lũy được giao nhiệm vụ Phó bí thư
Tỉnh ủy Biên Hòa. Đầu năm 1956, Tỉnh ủy Biên Hòa được
kiện toàn, đồng chí Hoàng Tam Kỳ được bầu làm Bí thư
Tỉnh ủy, đồng chí Huỳnh Văn Lũy tiếp tục làm Phó bí thư
Tỉnh ủy cùng đồng chí Ngô Bá Cao.
219

22.10 Page 220

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Sau Hiệp định Genève, trong khi phần lớn cán bộ
kháng chiến trước đây đều đi tập kết, chính quyền Ngô
Đình Diệm ra sức khủng bố, càn quét, thực hiện nhiều âm
mưu thâm độc để dàn áp, dập tắt phong trào cách mạng.
Nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, tình hình rất khó khăn, nhiệm
vụ của những cán bộ kháng chiến ở lại càng nặng nề.
Năm 1956, đồng chí Huỳnh Văn Lũy bị giặc phục kích,
hy sinh tại cù lao Mỹ Quới (Tân Uyên) ở tuổi vừa tròn 40.
Không chỉ đồng chí Huỳnh Văn Lũy, mà dòng họ
Huỳnh của đồng chí ở xã Bạch Đằng cũng có nhiều đóng
góp, hy sinh cho cách mạng. Mẹ ruột đồng chí là bà Võ
Thị Ngô, mẹ vợ của đồng chí là bà Đồng Thị Hảo, vợ của
đồng chí là bà Nguyễn Thị Du đều được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Anh ruột đồng
chí Huỳnh Văn Lũy là Huỳnh Hữu Ngôn cũng là Liệt sĩ, hy
sinh năm 1946; con ruột của đồng chí là Huỳnh Văn Công
cũng là Liệt sĩ hy sinh năm 1964 trong trận đánh vào Chi
khu Tân Uyên.
21 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Huỳnh Văn Lũy
đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong đồng chí và đồng
bào 2 tỉnh Bình Dương, Đồng Nai. Đồng chí là một trong
những cán bộ chủ chốt, cánh chim đầu đàn của phong
trào cách mạng vùng Đông Nam Bộ và Chiến khu Đ. Đồng
chí đã được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân hai tỉnh
Đồng Nai và Bình Dương ghi nhận, tôn vinh. Để ghi nhớ
công lao của người chiến sĩ cách mạng kiên trung trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tên của Liệt sĩ Huỳnh
Văn Lũy đã được đặt cho một xưởng in, một trường Đảng ở
căn cứ kháng chiến. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng, tên ông được đặt cho một con đường tại TP.Biên
220

23 Pages 221-230

▲back to top

23.1 Page 221

▲back to top
Bản tình ca người lính
Hòa, tỉnh Đồng Nai và trên mảnh đất Bạch Đằng nơi ông
ngã xuống cũng có một ngôi trường mang tên đồng chí
Huỳnh Văn Lũy.
Học bổng Huỳnh Văn Lũy được thành lập từ năm 1990,
do gia đình cùng các nhà hảo tâm và cựu học sinh Trường
THCS Tân Uyên đóng góp. Hàng năm, vào dịp khai giảng
và tổng kết năm học, quỹ học bổng này trao khoảng 60 - 70
suất học bổng cho học sinh nghèo hiếu học ở các trường:
Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Văn Lũy, Lê Thị Trung và THCS
Thường Tân. Từ khi thành lập quỹ học bổng đến nay, đã
có hàng ngàn suất học bổng đã được trao tặng và giúp học
sinh nghèo vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Đã
có nhiều học sinh nhận học bổng này trở thành những
người thành đạt tiếp tục đóng góp công sức để xây dựng
quê hương Bình Dương ngày càng giàu mạnh. Vào dịp Lễ,
Tết, những người con, cháu của dòng họ Huỳnh Văn cũng
tự nguyện đóng góp để tặng quà cho người nghèo, gia đình
chính sách khó khăn ở quê nhà.
221

23.2 Page 222

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Tự hào truyền thống một gia đình có 3
Mẹ Việt Nam Anh hùng
Ở vùng đất giàu truyền thống cách mạng như Bạch
Đằng, hầu hết các gia đình đều có người hy sinh xương
máu cho công cuộc giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước. Gia đình ông Huỳnh Ngọc Ẩn (con trai Liệt sĩ Huỳnh
Văn Lũy) là một trong những gia đình cách mạng tiêu biểu
có ba Bà mẹ Việt Nam anh hùng và sáu Liệt sĩ, trong đó có
một Liệt sĩ mà tên ông vinh dự được đặt tên trường, tên
đường là Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy.
Bà nội của ông Huỳnh Ngọc Ẩn là mẹ Võ Thị Ngô (sinh
năm 1881) được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng. Hai người con duy nhất của mẹ là Huỳnh Hữu Ngôn
(sinh năm 1912) và Huỳnh Văn Lũy (sinh năm 1916) đã hy
sinh quên mình vì Tổ quốc. Ông Huỳnh Hữu Ngôn tham
gia cách mạng khi còn là cậu thanh niên mười tám, đôi
mươi. Trong trận càn của Pháp năm 1946, ông bị bắn chết.
222

23.3 Page 223

▲back to top
Bản tình ca người lính
Nỗi đau mất đi đứa con trai đầu chưa nguôi, mẹ tiếp tục
nhận hung tin ông Huỳnh Văn Lũy hy sinh trên đường đi
công tác ở xã Mỹ Quới, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay
là xã Bạch Đằng, thành phố Tân Uyên).
Mẹ Đồng Thị Hảo (sinh năm 1883), bà ngoại của ông
Huỳnh Ngọc Ẩn là một trong 398 mẹ được truy tặng danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng năm 2014. Mẹ đã
viết tiếp trang sử truyền thống cách mạng của gia đình
với hai người con là Liệt sĩ Nguyễn Văn Nho (sinh năm
1936) và Liệt sĩ Nguyễn Văn Sơn (sinh năm 1939). Liệt sĩ
Nguyễn Văn Nho hy sinh năm 1963 tại Chiến khu Đ khi
đang làm nhiệm vụ. Trong đợt tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân năm 1968 ở Sài Gòn, đồng chí Nguyễn Văn
Sơn đã anh dũng hy sinh khi cùng đơn vị tiến công vào Đài
Phát thanh Sài Gòn. Bao năm qua, gia đình đã tìm kiếm
khắp nơi nhưng hài cốt của Liệt sĩ Nguyễn Văn Sơn vẫn
còn nằm đâu đó chưa về được với người thân và đồng đội.
Riêng hài cốt của Liệt sĩ Nguyễn Văn Nho đã được đồng đội
và gia đình đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố
Tân Uyên.
Không chỉ bà nội, bà ngoại mà mẹ của ông Huỳnh
Ngọc Ẩn là mẹ Nguyễn Thị Du (Nguyễn Thị Hớn) cũng
vinh dự được Nhà nước tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng. Chồng mẹ, Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy sinh ra
trong gia đình có truyền thống cách mạng nên từ nhỏ đã là
hạt nhân hoạt động phong trào học sinh địa phương trong
tổ chức “Liên đoàn học sinh”. Ông còn là người đứng ra
thành lập Chi bộ đầu tiên ở xã Mỹ Quới. Sau khi lập gia
đình, ông vẫn tiếp tục con đường cách mạng đã chọn. Mẹ
một vai gồng gánh nuôi sáu người con trưởng thành. Tiếp
223

23.4 Page 224

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
nối truyền thống cách mạng, các con trai mẹ đều xin được
thoát ly vào rừng. Tiễn chồng, con lên đường, mẹ hy vọng
đất nước mau chóng hòa bình để gia đình sum họp. Năm
1956, ngày nhận được giấy báo tử của chồng, mẹ khóc rất
nhiều nhưng vẫn động viên các con bước tiếp con đường
cha đang đi. Trong ba người con tham gia cách mạng, anh
Huỳnh Văn Công đã hy sinh và mãi mãi “yên nghỉ” dưới
lòng đất mẹ trong trận tấn công vào Chi khu quân sự quận
Tân Uyên năm 1964.
Mẹ Du cũng thường nhắc nhở các con, với người phụ
nữ, không có nỗi đau nào tột cùng bằng nỗi đau mất chồng,
mất con, mất đi những người thân yêu nhất. Nhưng bản
thân mẹ và hàng vạn người phụ nữ Việt Nam trong chiến
tranh phải vượt qua mất mát để tự hào khi người thân của
mình hy sinh vì nghĩa lớn, vì nền độc lập, tự do của dân tộc.
Tiếp nối truyền thống cách mạng của gia đình, nhớ ơn
những người đã hy sinh cho Tổ quốc, các thế hệ con cháu
dòng họ Huỳnh ở Bạch Đằng đều cố gắng học tập, làm việc
tốt, sống có đạo đức. Hiện nay, hầu hết đều có công ăn việc
làm ổn định. Riêng gia đình Liệt sĩ Huỳnh Hữu Ngôn có
bốn người con, cháu đều chọn ngành y để cống hiến, trong
đó có người cháu Huỳnh Văn Khải là bác sĩ - Liệt sĩ hy sinh
năm 1967. Các con, cháu Liệt sĩ - bác sĩ Huỳnh Văn Khải
đã giữ cương vị Giám đốc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai; trưởng,
phó các khoa ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai. Gia đình
Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy có sáu người con, một người là Liệt
sĩ Huỳnh Văn Công, năm người còn lại đều có cuộc sống
ổn định. Ông Huỳnh Dũng Tiến, cháu đích tôn của Liệt sĩ
Huỳnh Văn Lũy chia sẻ: trải qua hai cuộc chiến tranh, nỗi
đau chia ly, mẹ mất con, vợ mất chồng đều gắn liền với
224

23.5 Page 225

▲back to top
Bản tình ca người lính
những người thân thiết trong gia đình của ông. Biến nỗi
đau thành niềm tự hào, các thành viên trong gia đình đều
tâm niệm, sự hy sinh của ông, bà là động lực để con cháu
học tập, làm việc tốt giúp cho đời, cho xã hội, cộng đồng.
Cháu nội của Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy mang tên Huỳnh Dũng
Tiến - là bí danh của ông nội Huỳnh Văn Lũy khi hoạt động
cách mạng.
Không chỉ giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ con
cháu, dòng họ Huỳnh tại xã Bạch Đằng còn xây dựng Quỹ
học bổng Huỳnh Văn Lũy. Hơn 20 năm nay, hàng ngàn
phần quà, suất học bổng đã được trao cho học sinh nghèo
hiếu học, học sinh giỏi các trường ở Tân Uyên. Những hoạt
động từ thiện xã hội đã tác động tích cực đến các thành
viên trong gia đình. Thế hệ trước dạy cho thế hệ sau lòng
biết ơn, sự quan tâm đối với những mảnh đời khó khăn
hơn mình. Quan tâm để những người khó khăn phát triển
vươn lên làm giàu cho quê hương đất nước là niềm vui, là
hạnh phúc của gia đình Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy.
225

23.6 Page 226

▲back to top
HUỲNH NGỌC ẨN - Tuyển tập sáng tác
Ngày này nhớ người đi trước
Đồng chí Huỳnh Văn Lũy sinh năm 1916 trong một gia
đình nông dân có truyền thống yêu nước ở ven sông Đồng
Nai, nay thuộc xã Bạch Đằng, thành phố Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương. Ông nội của đồng chí - Huỳnh Hữu Phụng là
“chiến sĩ Cần Giuộc” - nghĩa quân của Trương Công Định.
Sớm giác ngộ cách mạng, năm 19 tuổi, đồng chí Huỳnh
Văn Lũy đã là đảng viên Đảng Cộng sản. Trong đấu tranh
chống thực dân Pháp, điều kiện hoạt động cách mạng vô
cùng khó khăn gian khổ: khi bí mật, lúc công khai, đồng chí
đã bị địch bắt, tù đày nhiều nơi như: Côn Đảo, Trảng Bàng,
Hớn Quản… nhưng đồng chí vẫn không sờn lòng, kiên trì
cùng đồng bào, đồng chí lãnh đạo phong trào khởi nghĩa
đấu tranh.
Năm 1946, đồng chí Huỳnh Văn Lũy là Chủ nhiệm Mặt
trận Việt minh tỉnh Biên Hòa. Năm 1954, đồng chí được
Trung ương Cục miền Nam bố trí ở lại để lãnh đạo phong
trào cách mạng địa phương với các chức danh: Phó Bí thư
Tỉnh uỷ Thủ Biên, Phó Bí thư Tỉnh uỷ Biên Hòa.
Năm 1956, trên đường công tác, đồng chí đã anh dũng
hy sinh trên quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình,
khi tuổi đời vừa tròn 40 tuổi, 20 năm hoạt động cách mạng,
226

23.7 Page 227

▲back to top
Bản tình ca người lính
để lại sự thương tiếc khôn nguôi của đồng bào, đồng chí và
bà con ruột thịt.
Để ghi nhớ công lao đóng góp vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc của anh hùng Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy, quân dân khu
Đông Nam Bộ đã đặt tên xưởng in trong kháng chiến là
xưởng in Huỳnh Văn Lũy. Sau ngày giải phóng, tỉnh Đồng
Nai đã đặt tên con đường nội ô thành phố Biên Hòa là
đường Huỳnh Văn Lũy.
Nhân kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, tỉnh Bình Dương cũng quyết định đặt tên con
đường nội ô thị xã Thủ Dầu Một là đường Huỳnh Văn Lũy.
227

23.8 Page 228

▲back to top

23.9 Page 229

▲back to top
Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy
Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa.
Đồng chí Huỳnh Văn Lũy
năm 1951.
Đồng chí Huỳnh Văn Lũy (bìa phải), năm 1951.
229

23.10 Page 230

▲back to top
Học sinh Trường miền Nam trên đất Bắc (1954 - 1958).
Kỷ niệm với các bạn Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc
số 14 - Hải Phòng (1956 - 1957).
230

24 Pages 231-240

▲back to top

24.1 Page 231

▲back to top
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn
khi còn là học sinh Trường
học sinh miền Nam trên
đất Bắc (1954).
Tác giả và bạn học Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc
số 14 - Hải Phòng (1956 - 1957).
231

24.2 Page 232

▲back to top
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn và các bạn sinh viên Trường Đại học Thủy lợi
Hà Nội (1963 - 1964).
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn khi còn
ở Sư đoàn F330 đóng quân tại
Thanh Hóa (1958 - 1962).
232
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn
năm 1978.

24.3 Page 233

▲back to top
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn và vợ (năm 1971).
233

24.4 Page 234

▲back to top
Tác giả và em trai Huỳnh Văn Nhị (năm 1975).
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn
năm 1984.
234

24.5 Page 235

▲back to top
Huỳnh Ngọc Ẩn và các chiến sĩ Sư đoàn F330.
235

24.6 Page 236

▲back to top
Vợ chồng tác giả (đứng sau) với người thân trong gia đình năm 1971.
236

24.7 Page 237

▲back to top
Đồng chí Huỳnh Ngọc Ẩn - Phó Giám đốc Sở Thủy lợi Đồng Nai
kiểm tra thi công đập Suối Cả, huyện Long Thành, năm 1976.
Cán bộ Sở Thủy lợi Đồng Nai kiểm tra công tác thi công đập Suối Cả,
huyện Long Thành, năm 1976.
237

24.8 Page 238

▲back to top
Tham gia công tác nghiệm thu kè mỏ hàn chỉnh trị sông Hồng
tháng 12/1972.
Đồng chí Huỳnh Ngọc Ẩn (thứ hai từ trái qua) kiểm tra công tác
thi công cống Ông Kèo (Nhơn Trạch) năm 1991.
238

24.9 Page 239

▲back to top
Gia đình tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn, năm 1989.
239

24.10 Page 240

▲back to top
Kiểm tra công trình thuỷ lợi Ông Kèo, huyện Long Thành,
tháng 7/1992.
240
Đắp đập Suối Cả, huyện Long Thành, tháng 6/1976.

25 Pages 241-250

▲back to top

25.1 Page 241

▲back to top
Gia đình tác giả tại vườn bưởi quê nhà, ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng,
huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Tác giả đứng giữa (thứ ba từ trái sang) với mẹ Nguyễn Thị Du -
Bà mẹ Việt Nam anh hùng, vợ của liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy.
241

25.2 Page 242

▲back to top
Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Du cùng con, cháu
ngày mừng thọ 90 tuổi.
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn và vợ - bà Trần Thị Kim Chung.
242

25.3 Page 243

▲back to top
Tác giả tại Đền thờ gia phả họ Huỳnh, xã Bạch Đằng,
thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Tác giả Huỳnh Ngọc Ẩn và bà Sáu Ngàn (Huỳnh Thị Ngàn),
một nữ chiến sĩ cách mạng kiên trung.
243

25.4 Page 244

▲back to top
Tác giả dự Hội nghị Chiến sĩ Hai Giỏi tại Hà Nội năm 1996.
Họp mặt truyền thống Ban Nông nghiệp, Trung ương Cục miền Nam,
năm 2000.
244

25.5 Page 245

▲back to top
Họp mặt truyền thống cán bộ Ban Nông nghiệp,
Trung ương Cục miền Nam năm 2011.
Dự họp mặt truyền thống cán bộ Ban Nông nghiệp Trung ương
Cục miền Nam năm 2010 tại Cần Thơ.
245

25.6 Page 246

▲back to top
Dự họp mặt truyền thống Quân dân y - Chiến khu Đ,
miền Đông Nam Bộ lần thứ 2 (năm 2018).
Tác giả (thứ hai từ phải qua) cùng những đồng đội xưa thăm lại
Bộ Chỉ huy Miền tại Lộc Ninh (Bình Phước).
246

25.7 Page 247

▲back to top
Dự lễ Kỷ niệm 50 năm ngành Thuỷ lợi Việt Nam và
20 năm ngành Thuỷ lợi Đồng Nai.
Thăm chùa Hương Tích, Hà Tĩnh năm 1998.
247

25.8 Page 248

▲back to top
Thăm Bảo tàng thành phố Nam Định năm 2022.
248
Tác giả (đứng giữa) trước tượng đài Trần Hưng Đạo,
thành phố Nam Định, năm 2022.

25.9 Page 249

▲back to top
Mục lục
LỜI GIỚI THIỆU............................................................ 5
LỜI TỰA....................................................................... 15
LỜI NGỎ....................................................................... 23
CHIẾN KHU Đ - RA ĐI ĐỂ TRỞ VỀ
Những câu chuyện đáng nhớ về ông nội................... 31
Tôi đi dự ngày lễ độc lập đầu tiên.............................. 34
Viết lại những điều không quên................................. 36
Giặc dữ đến quê hương............................................... 39
Chiến khu Đ quê tôi ................................................... 41
Chi đội 10 anh hùng ................................................... 51
Đi học trường làng và trở thành cậu bé liên lạc........ 57
249

25.10 Page 250

▲back to top
Bà nội tôi ..................................................................... 61
Hai lần đối mặt với cọp ba móng............................... 63
Hầm bí mật của ba...................................................... 66
Nghĩa tình của má....................................................... 68
Quê ngoại dấu yêu....................................................... 72
Trở thành lao động chính........................................... 74
Chú Bảy Đua................................................................ 78
Bác Mười của tôi.......................................................... 80
Kỷ niệm với chị Hai Dung........................................... 85
Trái tim non rung động............................................... 87
Người anh cứu mạng của tôi...................................... 90
Bước ngoặt cuộc đời.................................................... 95
Những người bạn thời học sinh miền Nam
trên đất Bắc................................................................ 102
Tình yêu tuổi học trò................................................. 104
Thủy lợi - Tình yêu của tôi….................................... 110
Mối duyên kỳ ngộ...................................................... 117
Tiếp bước con đường của ba.................................... 124
Trở về Chiến khu Đ................................................... 127
Trên đất bạn Campuchia.......................................... 132
Thủy lợi Đồng Nai, những ngày đầu xây dựng........ 138
Thăm lại chiến trường xưa........................................ 146
250

26 Pages 251-260

▲back to top

26.1 Page 251

▲back to top
TIẾNG LÒNG TÔI VỚI QUÊ HƯƠNG
Tiếng lòng tôi với quê hương.................................... 157
Kỷ niệm với ba........................................................... 158
Nhận tin ba hy sinh................................................... 159
Má tiễn con đi tập kết............................................... 161
Ở thành Nam, nhớ ba............................................... 162
Bức ảnh gia đình........................................................ 164
Gặp bạn...................................................................... 165
Thăm lại trường xưa.................................................. 167
Bồi hồi nhớ bạn ngày xưa......................................... 168
Hội ngộ....................................................................... 169
Tình đồng đội............................................................ 171
Tiếng gọi quê hương................................................. 173
Nhớ Chiến khu Đ....................................................... 175
Phút chia tay.............................................................. 177
Trên đường hành quân............................................. 179
Giữa chiến trường, nhớ vợ con ................................ 180
Về quê với mẹ ............................................................ 182
Ngày sum họp............................................................ 183
Vần thơ dâng bà......................................................... 185
Thơ tặng vợ................................................................ 186
Về thăm Chiến khu xưa............................................. 187
251

26.2 Page 252

▲back to top
Thơ gửi bác Hạnh ở Hải Phòng................................ 188
Tìm mộ anh trong rừng Chiến khu Đ...................... 190
Mảnh vườn quê......................................................... 192
Con về thăm má........................................................ 194
Con đường mang tên ba........................................... 196
Viếng bạn Trường Học sinh miền Nam................... 198
Thắm tình Việt - Lào................................................. 199
Hành quân trên đất bạn........................................... 200
Những chàng trai, cô gái thủy lợi Đồng Nai............ 201
Xây dựng thủy lợi vùng đất Ông Kèo....................... 202
Ngày gặp lại................................................................ 203
Ngày giỗ thứ 43 của ba tôi........................................ 204
Mừng ba tròn trăm tuổi............................................ 205
Thi tướng của rừng xanh........................................... 206
Nhớ Tiểu đoàn 303 Anh hùng.................................. 207
Anh em kết nghĩa vườn đào...................................... 208
Gặp lại nhau............................................................... 209
Đưa con về quê.......................................................... 210
Cháu dạo đường phố.. ............................................... 211
252

26.3 Page 253

▲back to top
PHẦN PHỤ LỤC
Liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy Người con ưu tú của
vùng đất Chiến khu Đ............................................... 215
Tự hào truyền thống một gia đình có 3
Mẹ Việt Nam Anh hùng............................................ 222
Ngày này nhớ người đi trước.................................... 226
253

26.4 Page 254

▲back to top

26.5 Page 255

▲back to top
Tuyển tập sáng tác
BẢN TÌNH CA NGƯỜI LÍNH
Huỳnh Ngọc Ẩn
Mã ISBN: 978-604-42-3408-3
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
BÙI THỊ LÂM NGỌC
Biên tập: Nguyễn Thị Kim
Biên tập kĩ thuật: Nguyễn Thị Hồng Tươi
Trình bày: Minh Huyền
Sửa bản in: Nguyễn Thị Kim
Bìa: Họa sĩ Nguyễn Minh
In: 500 bản. Khổ: 14.5 x 20.5 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn -
134/8 Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh.
Số xác nhận ĐKXB: 1239 - 2025 / CXBIPH / 3 - 396 / DoN,
Cục Xuất bản, In và Phát hành xác nhận ngày: 14/04/2025, Quyết
định xuất bản số: 779/QĐ-NXBĐN, do NXB Đồng Nai cấp ngày:
14/05/2025. In xong và nộp lưu chiểu: quý 2/2025.

26.6 Page 256

▲back to top
Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hòa, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh: 946 521 - P Kế toán: 946 520
Fax: (02513) 946 530 - Email: dongnainxb@gmail.com