Nhon Trach anh hung

Nhon Trach anh hung



1 Pages 1-10

▲back to top


1.1 Page 1

▲back to top


HUYỆN NHƠN TRẠCH
ANH HÙNG

1.2 Page 2

▲back to top


1.3 Page 3

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
HUYỆN NHƠN TRẠCH
ANH HÙNG
Nhà xuất bản Đồng Nai

1.4 Page 4

▲back to top


CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NHƠN TRẠCH
BIÊN SOẠN
Huỳnh Văn Tới
Hà Thị Thanh Thúy

1.5 Page 5

▲back to top


Lôøi môû
“Vùng đất và Con người” Nhơn Trạch định hình từ lâu đời,
gắn với sự hình thành, phát triển của Biên Hòa - Đồng Nai đã hơn
320 năm. Kết quả khảo cổ đã chứng minh: Thời tiền sử vùng đất
Nhơn Trạch là địa bàn cư trú của người xưa với nền văn minh tiền
kim khí dáng dấp của công trường - cảng thị vươn ra biển cách đây
2500 - 3000 năm. Thời khẩn hoang mở cõi, Nhơn Trạch đã in dấu
các bậc tiền hiền “khai khẩn”. Thời triều Nguyễn đến thời Pháp
thuộc, vùng đất Nhơn Trạch thuộc tổng Thành Tuy Hạ (huyện
Long Thành) với nhiều địa danh sớm được ghi chép trong sách
Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Năm 1960 bắt đầu
có tên đơn vị hành chính “quận Nhơn Trạch”. Sau mấy lần tách
nhập với huyện Long Thành, từ ngày 1.9.1994 chính thức thành
“huyện Nhơn Trạch” trực thuộc tỉnh Đồng Nai.
Nhơn Trạch có địa hình, địa thế, thổ nhưỡng, khí hậu và hệ
sinh thái đa dạng ưu thế cho phát triển kinh tế; đặc biệt là có vị trí
“đắc địa” thuận cho giao thông và giao thương nội vùng, kết nối
với ngoại vùng và biển khơi. Nhơn Trạch hội đủ “Thiên thời - Địa
lợi - Nhân hòa” khiến cư dân tứ xứ hội tụ, sinh sống, quảng giao
trên nền tảng văn hóa Việt Nam mang sắc thái của vùng đất mới.
Do vị trí đắc địa, Nhơn Trạch được xem là vùng trọng yếu,
yết hầu của trung tâm đầu não Sài Gòn, huyết mạch của hệ thống
cầm quyền xâm lược; cho nên cả thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và
5

1.6 Page 6

▲back to top


chính quyền Sài Gòn đều tập trung binh lực để khống chế, bao
vây, chia cắt, thậm chí hủy diệt để làm chủ tình hình ở vùng đất
này. Các căn cứ quân sự dày đặc vây quanh bóp nghẹt không gian
yên bình của Nhơn Trạch; hệ thống đồn bót nhiều hơn trường học,
tra tấn nhiều hơn là chữa bệnh; các cuộc càn quét huy động số
binh lính nhiều hơn số dân cư trú; nhiều công trình dồn dân lập
ấp chiến lược, tàn phá ruộng vườn, ủi trắng cả khu Lòng Chảo để
“tát nước bắt cá” truy diệt quân dân giải phóng; mỗi người ở Nhơn
Trạch gánh chịu số lượng bom đạn gây sát thương ắt nhiều hơn số
lương thực, thực phẩm cần cho sự sống.
Âm mưu, thủ đoạn của giặc càng bạo tàn thì ý chí, quyết tâm
đánh giặc của người Nhơn Trạch càng cao. Giặc biến Nhơn Trạch
thành yếu khu máu lửa thì Đảng lãnh đạo xây dựng Nhơn Trạch
thành vùng đất thép tôi luyện trong mưa bom bão đạn. Quân dân
Nhơn Trạch một lòng theo Đảng làm cách mạng, chịu hy sinh, mất
mát để đạt mục đích cao nhất là đánh đuổi quân xâm lược, góp
phần giải phóng dân tộc, xây dựng quê nhà. Trong hai cuộc kháng
chiến chống giặc Pháp và giặc Mỹ xâm lược, Đảng lãnh đạo xây
dựng ở Nhơn Trạch các phòng trào cách mạng kết tinh lòng yêu
nước của mọi người, tập hợp mọi người thành một khối đoàn kết
bền chặt, phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng các lực lượng
kháng chiến từ không đến có; từ yếu đến mạnh; từ thế bị khủng bố
đàn áp đến chủ động tiến công; từ vườn ruộng đồng quê đến các
căn cứ kháng chiến; từ các tổ chức đoàn thể cách mạng đến các
lực lượng vũ trang đủ các thứ quân du kích, bộ đội địa phương, bộ
đội chủ lực; ba mũi chính trị - binh vận - vũ trang đều tiến công;
tất cả cùng đánh giặc theo lãnh đạo của Đảng và sáng tạo của dân,
tạo nhiều chiến công vang dội.
Thành quả cách mạng của quân dân Nhơn Trạch được lòng
dân ghi nhận bằng những trang sử vàng: Xây dựng thế trận lòng
6

1.7 Page 7

▲back to top


dân; đánh bại mọi âm mưu chiếm đóng, hủy diệt, mị dân của quân
xâm lược; kiên cường bất khuất trong chiến đấu cũng như trong tù
ngục; sáng tạo cách đánh bằng địa đạo, đặc công, ô ụ chiến đấu,
bắn tỉa, phục kích, đấu tranh chính trị, tuyên truyền vận động; phá
tan ấp chiến lược, đẩy lùi mọi cuộc càn quét, ủi trắng chiến khu;
đánh chìm nhiều tàu chiến vạn tấn, bốn lần làm nổ tung khu kho
Thành Tuy Hạ; phá rã hệ thống đồn bót, khu quân sự trên địa bàn;
cuối cùng hội quân tiến về Sài Gòn giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Tính ra, trong 30 năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân dân Nhơn Trạch đã đánh
thắng hơn 14.400 trận, nghĩa là mỗi ngày hơn 1,3 trận thắng. Với
thành tích được xét theo qui định, Đảng bộ - Nhân dân huyện
Nhơn Trạch cùng 7/12 xã và ba cá nhân thuộc huyện Nhơn Trạch
được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Các
danh hiệu anh hùng này tiêu biểu và được kết tinh bởi phẩm chất
anh hùng của quân dân Nhơn Trạch ở khắp các mặt trận, các lực
lượng suốt các thời kỳ kháng chiến.
Chiến thắng càng oanh liệt, vẻ vang; tổn thất, hy sinh càng
lớn. Tất cả các làng xã ở Nhơn Trạch đều bị chiến tranh tàn phá;
nhiều nơi nhà ở, vườn ruộng tan hoang, dân sinh kiệt quệ. Mất
mát, hy sinh trong chiến tranh nhiều không kể xiết. Theo thống
kê chưa đầy đủ, thời điểm năm 2015, toàn huyện có gần 2.000 gia
đình chính sách nhiều hy sinh trong chiến tranh; hơn 1.500 liệt sĩ
đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, chưa kể nhiều liệt sĩ có tên
trong Đền thờ Liệt sĩ đến từ các tỉnh thành khác trong cả nước.
Đau thương đọng lại nhiều nhất ở các gia đình liệt sĩ, nhất là
ở các người vợ, bà mẹ có nhiều người thân hy sinh cho Tổ quốc.
Qua các đợt xét hồ sơ theo Pháp lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự
7

1.8 Page 8

▲back to top


Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” (ngày 10.09.1994), Chủ
tịch nước đã phong tặng/truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng cho 258 mẹ ở huyện Nhơn Trạch (nhiều nhất các huyện,
thành phố trong số gần 2.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng toàn
tỉnh). Trong đó, 50 mẹ có nhiều người thân (từ ba người trở lên)
có chồng, con hy sinh. Đáng kể là các trường hợp của mẹ Phan Thị
Phàn (xã Phước An,7 liệt sĩ), Đào Thị Phấn (xã Phú Hội, chồng và
3 con là liệt sĩ), Huỳnh Thị Cận (xã Phú Hội, 3 con trai và 1 con
gái hy sinh), Trương Thị Bê (xã Phú Hữu, chồng và 3 con là liệt
sĩ), Lê Thị Chuột (xã Long Tân, cả 3 con trai đều hy sinh), Lê Thị
Kính (xã Long Thọ, cả 4 con trai là liệt sĩ), Nguyễn Thị Ba (xã
Phú Hội, cả 4 con trai đều hy sinh), Trần Thị Sắc (xã Phú Hội, 4
con trai là liệt sĩ),Võ Thị Thấy (xã Phú Hữu, 4 con trai là liệt sĩ,
có hai anh em hy sinh cùng một ngày), Huỳnh Thị Chẩm (xã Long
Thọ, chồng, 2 con trai và 1 con gái là liệt sĩ); có trường hợp cả mẹ
và con đều là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (mẹ Nguyễn Thị Thế và
con gái là Trần Thị Thiệt, xã Phú Hội). Hầu hết các mẹ đều là cơ
sở cách mạng với nhiều thành tích đóng góp quan trọng, nhiều mẹ
bị giặc bắt, tra tấn, tù đày, thương tật. Có những Bà mẹ anh hùng
bản thân cũng là liệt sĩ: Hồ Thị Khiêm (xã Phước Thiền), Phan Thị
Ớn (xã Phú Hội), Trần Thị Thiệt (xã Phú Hội), Huỳnh Thị Thế (
Long Thọ). Hơn 50 bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác có người con
trai duy nhất hy sinh (có người mất cả chồng và con trai duy nhất)
khiến sau chiến tranh sống trong cảnh hiu quạnh vì thiếu nguồn
lực lao động và hiếm hoi con cháu. Nếu trường hợp trớ trêu của
nữ đồng chí Lưu Thị Xinh (bí danh là Ba Huyền Tâm) được công
nhận là liệt sĩ thì ở Nhơn Trạch có thêm một Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng với hoàn cảnh đặc biệt: Bản thân là liệt sĩ và hai người chồng
đều là liệt sĩ.
8

1.9 Page 9

▲back to top


Hoàn cảnh và thành tích của các tập thể, cá nhân Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở
huyện Nhơn Trạch mỗi trường hợp một vẻ, kỳ diệu, phi thường
và sinh động; có ý nghĩa thiêng liêng để tôn vinh, giáo dục truyền
thống; là tấm gương để đời đời con cháu học tập và làm theo trong
thời đại mới.
Khi thực hiện Quyết định của Ban Thường vụ Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch về biên soạn và xuất bản “Lịch sử Đảng bộ
huyện Nhơn Trạch 1903 - 2015”, Ban biên soạn nhận thấy thành
tích anh hùng ở Nhơn Trạch tỏa sáng, không thể nén trong dung
lượng một tập sách cô đọng theo khuôn phép khoa học lịch sử nên
phát sinh tập sách “Huyện Nhơn Trạch anh hùng” này theo phong
vị khoa học xã hội nhân văn nhằm để làm rõ, bổ sung cho tập sách
lịch sử Đảng bộ huyện; nói nôm na là viết về con người để sáng tỏ
những con số và sự kiện.
Tập sách “Huyện Nhơn Trạch Anh hùng” trình bày gồm hai
phần. Phần I, về những tập thể và cá nhân Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân; gồm các tập thể: Đảng bộ và nhân dân huyện
Nhơn Trạch và 8 đơn vị: Xã Phước An, xã Phú Hội, xã Phú Hữu,
xã Long Thọ, xã Phước Khánh, xã Long Tân, xã Phú Đông và
Tiểu đoàn 240 (D240); ba cá nhân anh hùng gồm: Nguyễn Quyết
Chiến, Dương Văn Thì, Nguyễn Văn Quang. Phần II, về 258 Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng được trình bày theo danh sách các đợt
phong tặng và truy tặng. Ở phần phụ lục, danh sách các mẹ được
sắp xếp theo địa phương quản lý hồ sơ, có đánh số trang để tiện
tra cứu.
Nội dung tập sách được viết theo hồ sơ quản lý và các bản
báo cáo thành tích theo mẫu qui định, kết hợp việc tham khảo tài
liệu, điền dã thực tế, có điều chỉnh đôi chỗ để thống nhất về nội
9

1.10 Page 10

▲back to top


dung, vẫn còn một số khác biệt về số liệu và thời điểm không kiểm
chứng được.
Trong quá trình hình thành tập sách, Ban Biên soạn hết sức
cố gắng để tập sách có nội dung đầy đủ, khách quan, chân thực,
truyền cảm; tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, khó thể vượt qua.
Chiến tranh kéo dài khiến mất mát, đau thương chồng chất; nhiều
gia đình ly tán, tha hương; phần lớn số mẹ anh hùng và nhân
chứng lịch sử đã mất; tư liệu về đời sống thầm lặng của các anh
hùng thường chỉ nương theo trí nhớ và đếm thời gian trên đốt
ngón tay. Tài liệu lưu trữ (nhất là hình ảnh) thiếu hệ thống, không
đầy đủ, phân tán và nhiều sai lạc gây khó khăn rất nhiều cho công
tác thẩm định, biên soạn, biên tập. Bởi vậy, tập sách dày trang
nhưng mới chỉ phản ánh được một phần nhỏ cuộc sống anh hùng
của các bậc anh hùng.
Mặc dù đã nhiều cố gắng, nhưng tập sách “Huyện Nhơn
Trạch anh hùng” vẫn không tránh khỏi những thiếu sót ngoài ý
muốn. Mong bạn đọc gần xa, các tập thể, cá nhân Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân và các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cùng
gia đình chia sẻ và góp ý bổ khuyết. Xin tác giả các công trình và
tư liệu liên quan lượng thứ cho việc tham khảo, sử dụng tư liệu
cần thiết ở tập sách phi lợi nhuận này.
10

2 Pages 11-20

▲back to top


2.1 Page 11

▲back to top


PHẦN I
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN

2.2 Page 12

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH
Huyện Nhơn Trạch1 nằm phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai,
huyện có 12 xã với diện tích 39.947 héc-ta, dân số là 104.487
người, hầu hết là người Kinh (chiếm 99%).
Bao quanh phía Nam và Tây của huyện là hệ thống sông
ngòi chằng chịt, theo kênh mương chạy dẫn vào đất liền tạo nên
hệ thống giao thông đường thủy rất thuận lợi. Phía Bắc và Đông
của huyện có tỉnh lộ 17, nằm trên liên tỉnh lộ 25 và tỉnh lộ 19 nối
thành đường tròn khép kín đi qua 10 xã, ôm trọn khu Lòng chảo,
nối liền quốc lộ 51 nên giao thông đường bộ rất thuận lợi.
Huyện Nhơn Trạch được chọn để xây dựng căn cứ địa cách
mạng vì có những đặc điểm sau:
Huyện tiếp giáp với Rừng Sác, bằng đường thủy, dễ dàng
thông qua Quảng Xuyên Cần Giờ và ra biển cả. Rừng Sác là vị trí
quan trọng về mặt quân sự của miền Đông Nam Bộ, ôm gọn sông
Lòng Tàu, là “cuống họng” về đường thủy từ Sài Gòn ra khỏi hải
phận quốc tế; là cửa ngõ của chiến khu Rừng Sác, là bàn đạp để
tấn công kho xăng Nhà Bè của địch, cũng như đánh phá tàu địch
từ biển vào.
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
12

2.3 Page 13

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Huyện Nhơn Trạch có khu Lòng Chảo rộng 110 km2, là rừng
Giồng với cây cối rậm rạp, chằng chịt, lợi thế cho việc đóng quân
và thực hiện chiến tranh du kích. Nhơn Trạch lại áp sát Sài Gòn -
cơ quan đầu não của địch cả 2 thời kỳ, là cửa ngõ đi vào Sài Gòn
từ phía Đông Nam và trở thành bàn đạp cho lực lượng đặc công
đánh vào sào huyệt địch. Nhiều xã trong huyện có đồi, gò cao, cây
rừng bao phủ, thuận lợi cho việc phục kích theo dõi địch từ trên
cao.
Đồng bào Nhơn Trạch hầu hết là dân thuần nông, vốn có
truyền thống yêu nước. Từ thời Cần Vương, có nghĩa quân Nguyễn
Trung Trực, Trương Công Định về đóng ở Rừng Sác và được đồng
bào giúp đỡ, bao bọc. Thời kỳ Pháp đô hộ, có phong trào Thiên
Địa Hội hoạt động chống Tây và đã chọn Nhơn Trạch là nơi đóng
quân. Được sự giúp đỡ, che chở và tham gia của người dân, Thiên
Địa Hội đã tổ chức nổi dậy phá khám Sài Gòn vào năm 1916, diệt
tên Tri phủ Trần Bá Hựu ở quận Long Thành và một số Tây Đoan,
Tây Sở, cường hào, ác bá.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa, huyện Nhơn Trạch sớm nhận ánh
sáng của phong trào cách mạng; từ năm 1937, Xứ ủy Nam kỳ đã
cử đảng viên về xây dựng cơ sở. Đến năm 1939 đã có những cơ
sở Đảng ở xã Long Thọ, Phước An, Hiệp Phước. Từ chỗ thành lập
các nghiệp đoàn, huyện tiến tới xây dựng phong trào Thanh niên
Tiền phong và thành lập Mặt trận Việt Minh - lực lượng nòng cốt
cho ngày Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền 25.8.1945.
Về phía địch, từ năm 1929 giặc Pháp đã xây dựng kho bom
Thành Tuy Hạ lớn nhất miền Nam, lập cầu cảng Tuy Hạ để tàu lớn
ra vào. Từ năm 1955, Mỹ đưa Nhơn Trạch lên thành Yếu khu Tuy
Hạ tăng lượng bom đạn gấp nhiều lần so với thời Pháp, xây sân
13

2.4 Page 14

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
bay dã chiến, bãi pháo 105 ly, quyết tâm đàn áp bằng được phong
trào cách mạng Nhơn Trạch.
Mặc dầu vậy, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
đồng bào Nhơn Trạch vẫn giữ vững là căn cứ địa cách mạng suốt
30 năm, bảo vệ cơ sở Đảng an toàn giữ vững vị trí là bàn đạp
để lực lượng cách mạng tấn công Sài Gòn, cơ quan đầu não của
địch. Phong trào cách mạng ở Nhơn Trạch thực hiện phương châm
Đảng với dân là một, tổ chức chiến tranh toàn dân, toàn diện, đảm
bảo đoàn kết toàn dân đánh bại cả Pháp và Mỹ cùng bọn lính chư
hầu. Nhơn Trạch cũng là địa phương đóng góp lương thực - thực
phẩm nhiều nhất tỉnh, tổ chức những trận đánh thắng lớn, làm
phấn khởi lòng dân, làm cho địch hoang mang, góp phần chiến
thắng trong cả nước. Cụ thể:
Giai đoạn năm 1945 - 1954, trong 9 năm kháng chiến chống
Pháp quân dân Nhơn Trạch đánh trên 5.870 trận lớn nhỏ; diệt
1.076 tên địch (trong đó có 427 tên lính Pháp), diệt 103 tên ác
ôn, phá hủy 13 xe quân sự (trong đó có 5 xe tăng), bắn chìm 2 tàu
quân sự, 48 ghe thuyền máy; thu 1.504 khẩu súng các loại (trong
đó có 1 đại liên, 37 trung tiểu liên, 34 khẩu col) và hàng ngàn tấn
đạn, lựu đạn. Đồng bào Nhơn Trạch đóng góp hàng chục ngàn
ngày công, tham gia phục vụ chiến trường như: chặt tre làm cọc,
cắm kín cánh đồng Lớn, góp phần phá tan cuộc nhảy dù của giặc
Pháp; đắp đập ngăn sông, phá cầu cống, ngăn tàu bè của địch trên
đường sông; phá đường, đào hào làm hầm chông, đắp ụ ngăn xe
cơ giới và góp phần chống càn; tham gia dân công hỏa tuyến phục
vụ các chiến dịch, vận chuyển vũ khí, lương thực, đào hầm nuôi
lực lượng quân đội chính quy. Huyện có 2.986 thanh niên tòng
quân, bổ sung lực lượng quân đội chính quy, có 4.635 thanh niên,
phụ nữ tham gia lực lượng du kích địa phương. Toàn huyện có 134
14

2.5 Page 15

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
cán bộ, chiến sĩ tập kết ra Bắc, 1.452 gia đình là cơ sở tin cậy của
cách mạng.
Về của, đồng bào góp 283 chỉ vàng, 15 tấn đồng và sắt chủ
yếu là mâm, nồi, chậu, lư hương, chân đèn bằng đồng; ủng hộ 414
căn nhà để cơ quan có chỗ làm việc; ủng hộ 154 ghe thuyền, 158
xe bò và 12 cặp bò kéo để làm phương tiện chuyển vận, số lúa
gạo ủng hộ cách mạng hàng chục ngàn tấn. Trong 9 năm kháng
chiến, đồng bào đóng góp đầy đủ số lượng thuế nông nghiệp với
số lượng hơn 120 ngàn giạ lúa. Phong trào Hũ gạo nuôi quân có
1.250 gia đình thực hiện đóng góp 1 kg gạo/tháng/hộ, tổng số gạo
đã thu được 105 tấn.
Một số thành tích, trận đánh điển hình:
Ngày 27.10.1945, quân dân huyện Nhơn Trạch diệt 1 tiểu
đội lính Nhật khi chúng càn vào xã Hiệp Phước.
Tháng 3.1946, lực lượng du kích xã Long Thọ bao vây, diệt
tiếp viện, bức rút đồn Long Thọ. Cũng thời gian này, lực lượng du
kích xã Phước An bao vây, đánh phá, buộc địch phải rút khỏi đồn
Gò Cát.
Giai đoạn 1945 - 1946, lực lượng du kích của huyện đã đánh
trên 200 trận, diệt 27 tên giặc Pháp, 153 ngụy quân, 9 tên ác ôn, 2
tên chỉ điểm, phá 2 đồn lớn, 13 chốt dân vệ, phá hủy 2 xe quân sự,
thu 37 súng các loại, nhiều đạn và lựu đạn.
Từ cuối năm 1947 - 1954, địch phải co cụm lại, phòng thủ
và bị đánh khắp nơi trên toàn huyện. Riêng đồng chí Nguyễn Kim
Huy, du kích xã Long Tân, tham gia đánh 67 trận, diệt 67 tên địch,
bằng chiến thuật “bắn sẻ” nổi tiếng.
15

2.6 Page 16

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Năm 1947, lực lượng du kích liên thôn 12 qua công tác binh
vận đã đánh úp đồn Phú Hội, bắt sống toàn bộ trung đội địch thu
27 súng các loại, nhiều đạn và lựu đạn. Năm 1948, du kích xã Phú
Hữu phục kích chống càn, bẻ gãy cuộc càn, bắn chìm 2 ghe máy,
1 xuồng máy, diệt 23 tên giặc, thu 17 súng các loại; năm 1949, phá
rã 4 hội đồng tề, bắt giáo dục 18 tên, diệt 6 tên ác ôn. Năm 1953,
du kích xã Đại Phước phá chốt dân vệ tại tua Bến Ngự, diệt 3 tên,
bắt sống 15 tên, thu 2 súng các loại.
Trận cầu Lò Rèn nổi tiếng trong toàn tỉnh diễn ra vào năm
1946, du kích địa phương phối hợp với lực lượng Bình Xuyên
(Chi đội 3, Chi đội 4) và bộ đội Mai Văn Vĩnh phục kích tại cầu
Lò Rèn thuộc xã Long Thọ, tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi khi bọn
chúng càn về hướng xã Phước An, thu toàn bộ vũ khí, trong đó 3
khẩu trung liên và 1 súng cối 60 ly.
Trận đánh tại ngã ba Long Điền trong năm 1948 làm địch
khiếp sợ, đồng bào trong huyện phấn khởi. Khi được tin giặc Pháp
dùng 18 ghe thuyền máy chở gần 200 quân càn vào về phía cơ sở
của ta ở khu Long Điền, bộ đội địa phương, du kích liên thôn 12
cùng với C.2775 chủ lực Miền phục kích, đón đánh phá tan cuộc
càn, bắn chìm 12 ghe, diệt 36 tên, thu 32 súng các loại, trong đó
có 2 khẩu trung liên.
Từ năm 1954 - 1975, trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ
quân dân Nhơn Trạch đánh 7.560 trận lớn nhỏ, diệt 2.405 tên địch,
trong đó có 423 tên lính Mỹ và Thái Lan, loại khỏi vòng chiến đấu
5.860 tên địch; phá hủy 96 xe quân sự, trong đó có 48 xe tăng, bắn
chìm 13 tàu chiến, 64 ghe thuyền máy, bắn rơi 34 máy bay các
loại, phá hủy 1.090 ngàn tấn bom đạn, thu hàng chục ngàn tấn vũ
khí.
16

2.7 Page 17

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Về sức người, trong kháng chiến chống Mỹ, đồng bào Nhơn
Trạch đóng góp hàng trăm ngàn ngày công phục vụ cho cách
mạng như: đào địa đạo, giao thông hào, hầm chông, ô ụ chiến đấu,
làm nhiệm vụ dân công hỏa tuyến vận chuyển vũ khí, lương thực
- thực phẩm, cáng thương... phá ấp chiến lược, phá đường, cầu
cống, ngăn sông. Toàn huyện có 3.520 thanh niên tòng quân nhập
ngũ, xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam, 6.147 thanh niên -
phụ nữ tham gia lực lượng chiến đấu ở địa phương, 1.825 gia đình
đào hầm, nuôi giấu cán bộ.
Về sức của, đồng bào đóng góp hàng trăm ngàn tấn lương
thực - thực phẩm để cung cấp cho bộ đội địa phương và bộ đội
của trên về, mua hàng chục triệu đồng tiền công trái phiếu ủng hộ
cách mạng.
Về công tác đấu tranh chính trị, trải qua thời kỳ chống Mỹ,
đồng bào Nhơn Trạch tổ chức trên 400 lần đấu tranh với nhiều
hình thức: tố cáo địch vi phạm Hiệp định về đình chiến; bắt phu,
bắt lính, tố cáo địch giết hại dân thường, phá hoại hoa màu, tài sản,
tố cáo âm mưu đồn dân lập ấp chiến lược, làm vành đai trắng, rải
chất độc hóa học...
Những cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu trong giai đoạn này
như:
Năm 1963, địch rải chất độc hóa học, phá hủy trên 2 ngàn
héc-ta ruộng lúa, hoa màu. Đồng bào đã làm kiến nghị, chụp hình
để có tang chứng rồi lên Biên Hòa - Sài Gòn đấu tranh, đòi địch
phải bồi thường thiệt hại. Mỗi đoàn gần 200 người.
Năm 1964, địch ném bom giết hại 536 thường dân ở ngã ba
Giồng Sắn1, hàng ngàn đồng bào đã kéo nhau lên Sài Gòn đấu
1  Thuộc xã Phú Đông
17

2.8 Page 18

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
tranh, tố cáo tội ác của địch đồng thời mời phóng viên chứng kiến,
viết bài đăng báo. Ngày mở cửa mả của những nạn nhân xấu số
bị địch giết hại, hàng chục ngàn đồng bào kéo về Giồng Sắn - nơi
xảy ra thảm họa nhằm tố cáo tội ác kẻ thù, để tang những người
bị giết hại.
Năm 1968, địch quyết tâm gom dân Xóm Hố (xã Phú Hội)
vào ấp chiến lược. Đồng bào kéo về quận lỵ đấu tranh; cử một
đoàn về Sài Gòn gặp Phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn
Cao Kỳ. Cuối cùng địch phải chấp nhận yêu cầu, không dám gom
dân.
Cũng trong năm 1968, địch pháo kích làm chết 1 cụ già và
1 em nhỏ ở Phú Hội. Trên 200 người dân đã khiêng xác nạn nhân
lên quận đấu tranh. Địch phải xin lỗi, bồi thường nhân mạng, tổ
chức làm tang ma chôn cất. Đồng bào đi đưa ma rất đông để tố
cáo tội ác kẻ thù.
Về công tác binh vận, huyện cài người vào làm nội ứng phá
2 đồn, 8 bót, 5 tua và 24 chốt phòng vệ dân sự. Qua công tác này
đã phá rã 104 ấp chiến lược và làm cho 1.642 tên lính ngụy bỏ
súng với gia đình, một số đi theo cách mạng. Điển hình như ngày
11.11.1963, khi tướng lĩnh địch làm đảo chính giết Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, tinh thần binh lính địch
hoang mang. Qua công tác binh vận, tại Nhơn Trạch có 364 lính
quân đội Sài Gòn bỏ súng trốn về gia đình. Năm 1975, khi được
tin lực lượng cách mạng giải phóng Phước Long, Huế - Đà Nẵng,
qua công tác binh vận, 760 lính quân đội Sài Gòn bỏ trốn về gia
đình, một số xin theo cách mạng.
Một số thành tích, trận đánh điển hình trong kháng chiến
chống Mỹ:
18

2.9 Page 19

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Giai đoạn từ 1954 - 1959, địch khủng bố đẫm máu, bắt bớ
trả thù những người kháng chiến cũ. Đồng bào Nhơn Trạch đã tổ
chức hơn 100 cuộc đấu tranh để đưa kiến nghị đòi hiệp thương
tổng tuyển cử, đấu tranh đòi chồng con bị địch bắt giam cầm, lợi
dụng địch tổ chức “Tố cộng” để tố cáo vạch mặt kẻ thù đã vi phạm
Hiệp định Genève, tổ chức phá cuộc trưng cầu dân ý của chính
quyền Ngô Đình Diệm.
Tại xã Phú Hội, lực lượng Bình Xuyên rút về Rừng Sác,
Huyện ủy chỉ đạo dùng lực lượng Bình Xuyên để phá địch. Tháng
7.1955, địa phương sử dụng lực lượng Bình Xuyên bao vây lấy
đồn Phước Thọ, bắt sống toàn bộ số dân vệ và vũ khí. Tại Phước
Khánh, diệt tên Lạc, tên Thái là 2 tên cảnh sát ác ôn, thu 2 súng.
Ngày 23.10.1955, từ Rạch Bảy đã bắn 10 trái cối 61 về khu vực
bầu cử của chính quyền Ngô Đình Diệm tại Phước Lý; đồng bào
lấy lý do không an toàn, không đến nơi bỏ phiếu. Tại Vĩnh Thanh,
sau khi liên lạc được với người của ta cài vào trong đoàn di cư,
đã vận động bà con đấu tranh đòi trở về miền Bắc. Tại Long Tân,
một đội du kích lấy danh nghĩa Bình Xuyên diệt tên đại úy Cao
Đài liên minh Lê Thành Kham.
Ngày Quốc khánh của Diệm bị pháo kích (cối 61) của ta đặt
tại Long Thọ bắn về chi khu, diệt 2 lính, bị thương 5 tên, gây rối
loạn. Khi lực lượng Bình Xuyên ở khu Rừng Sác bị quân đội của
Ngô Đình Diệm tấn công, tan rã, huyện kịp thời vận động được
một số chiến sĩ trở về với cách mạng, thu được 2 máy thông tin
lớn, 4 khẩu cối 61, hàng chục tấn vũ khí.
Điểm hay của Nhơn Trạch là Huyện ủy đã phối hợp cùng
Tỉnh ủy, Ban binh vận Xứ vận động tiểu đoàn 3 Bình Xuyên do
Võ Văn Môn “ly khai” chế độ Ngô Đình Diệm, kéo về Rừng Sác
19

2.10 Page 20

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đến Chiến khu Đ và sau đó chuyển hóa thành lực lượng võ trang
giải phóng.
Ở giai đoạn này, quân dân Nhơn Trạch đã vô hiệu hóa toàn
bộ âm mưu của địch khi chúng xây dựng chế độ độc tài trên mảnh
đất Nhơn Trạch; người dân Nhơn Trạch dù trong hoàn cảnh khó
khăn vẫn giữ được tấm lòng son sắt với Đảng, với cách mạng.
Giai đoạn 1960 - 1964, mở đầu phong trào Đồng Khởi, dân
và quân Nhơn Trạch đã diệt 19 tên ác ôn ở các xã, điển hình là diệt
tên Mười Hiếm tại Phước An, phá rã 6 hội đồng tề, bắt giam giáo
dục trên 30 đối tượng. Sau đợt truy quét, bọn ác ôn tối không dám
về xã, bọn tề xã sợ hãi bỏ trốn về Biên Hòa, Sài Gòn. Tại Phước
Khánh, 23 dân vệ đã mang súng ra đầu thú, tự nguyện tham gia
lực lượng cách mạng. Nhiều tên ngụy bắn tin ra xin cách mạng tha
chết, cần gì thì giúp ngay. Năm 1961, dựa vào hệ thống địa đạo, du
kích Phước An đánh tan cuộc càn của địch, diệt 2 xe tăng, bắn rơi
một trực thăng, diệt 21 tên. Tại Long Thọ, thông qua công tác binh
vận, huyện cài người làm nội ứng phối hợp du kích Long Thọ đã
phá đồn Long Thọ, diệt gọn trung đội dân vệ thu toàn bộ vũ khí.
Tại Phước An, để phá âm mưu xây dựng khu trù mật Hang Nai
của địch, huyện chỉ đạo phải phá băng được đồn Gò Cát, tiến tới
bao vây khu trù mật, bắn tỉa diệt lính bảo vệ, tổ chức quần chúng
giữ đất không cho khai phá, vận động những người đến bỏ về. Kết
quả, địch thất bại trong âm mưu này.
Năm 1963, du kích Phước An kết hợp với lực lượng C.240
(tỉnh Biên Hòa) chặn đánh một đại đội lính bảo an, diệt 45 tên, bị
thương 15 tên; thu 16 súng, 1 col, 1 khẩu M.79. Trong năm 1963 -
1964, quân dân Nhơn Trạch phá rã 104 ấp chiến lược. Ở xã Phước
Thiền, địch phải làm đi làm lại ấp chiến lược tới 7 lần, xã Phú Hội
tới 5 lần, xã Phú Hữu - Đại Phước làm tới 8 lần, nhưng. Không xã
20

3 Pages 21-30

▲back to top


3.1 Page 21

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
nào trong huyện, ấp chiến lược do mà địch xây dựng ấp chiến lược
tồn tại được 1 tháng.
Năm 1964, du kích Long Thọ kết hợp với C.240 chặn đánh
bọn dân vệ tại khu Miễu Mặt trăng diệt 27 tên thu 27 súng nhiều
đạn và lựu đạn. Năm 1965, du kích xã Long Tân kết hợp C.240
chặn đánh bọn bảo an đi mở đường, diệt 23 tên, đốt 2 xe quân sự
và thu 24 súng. Trong giai đoạn này, quân dân Nhơn Trạch phá
tan âm mưu xây dựng ấp chiến lược, xây dựng khu trù mật Hang
Nai của địch, xây dựng vững chắc khu an toàn Phước An, mở rộng
vùng tự do, xây dựng được nhiều “Lõm chính trị”, dồn địch vào
thế bị động.
Giai đoạn 1965 - 1968, địch tiến hành chiến tranh cục bộ,
quân viễn chinh, lính chư hầu ồ ạt đổ vào chiến trường Nhơn
Trạch, tăng cường hỏa lực đánh phá phong trào cách mạng. Năm
1966, lực lượng C240 cùng du kích liên xã phá tan cuộc càn của
Lữ đoàn dù 173 của Mỹ tại khu Lòng chảo, diệt tại trận 56 tên, đốt
phá 3 xe quân sự, bắn rơi một máy bay lên thẳng. Ngày 27.1.1966
du kích liên xã, lực lượng C240 kết hợp với D.240 phá cuộc càn
của Lữ đoàn 119 Thủy quân lục chiến Mỹ tại khu Hang Nai. Trận
đánh kéo dài 7 ngày đêm, ta diệt 103 tên giặc, đốt phá 3 xe quân
sự, bắn cháy 2 máy bay lên thẳng.
Năm 1967, du kích liên xã đã tấn công phá ấp Tân sinh Bến
Sắn (xã Phước Thiền) khi địch vừa thành lập, ngay đêm khánh
thành. Tại ấp Bến Sắn xã Phước Thiền, ta diệt tại chỗ vợ chồng
tên Quận trưởng Lê Kim Trọng và 1 cố vấn Mỹ, bắt sống 27 tên
dân vệ thu toàn bộ vũ khí. Tháng 2.1967, du kích xã Phước Khánh
phục kích, dựa vào ụ chiến đấu giao thông hào, đẩy lùi 1 cuộc càn
của lính Mỹ, bắn chìm 2 ghe, diệt 13 tên.
21

3.2 Page 22

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Cũng trong năm 1967 du kích địa phương, bộ đội huyện cùng
C.240 của tỉnh và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 của Khu miền Đông1
800 của Miền phá tan cuộc càn của địch gồm 2 sư đoàn, kéo dài 11
ngày đêm, diệt 167 tên giặc, đốt phá 5 xe quân sự, bắn cháy 6 máy
bay lên thẳng. Trận đánh diễn ra ngay trên địa đạo Phước An.
Năm 1968, du kích xã Phú Hữu kết hợp với Đoàn 10 đặc
công Rừng Sác phá tan cuộc càn của lính Mỹ, bắn cháy 1 máy bay
lên thẳng, bắn chìm 2 tàu bo bo diệt 7 lính Mỹ, bị thương 36 tên.
Năm 1968, du kích xã Phước Khánh cùng lực lượng Đoàn 10 phá
tan cuộc càn, bắn cháy 2 máy bay, 1 thuyền máy, diệt 38 tên địch,
trong đó có 19 lính Mỹ. Tại Long Thọ, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn
4 C.2402 800 của Miền, D.240 của tỉnh cùng bộ đội, du kích địa
phương đánh bót Vườn Điều, tiêu diệt 105 tên giặc Thái, thu nhiều
vũ khí, quân trang, quân dụng. Tuy nhiên trước đó, vào tháng
12.1967, ta thất bại tại chốt Vườn Điều. Hàng trăm bộ đội hy sinh
sau này mới tìm được hài cốt.
Tổng kết trong giai đoạn này, quân dân Nhơn Trạch đối đầu
với quân viễn chinh Mỹ và đã đánh thắng kẻ địch, bảo vệ chiến
khu Phước An, giữ vững địa bàn huyện Nhơn Trạch là cơ sở, căn
cứ địa cách mạng, góp phần chiến thắng vào cuộc tổng tiến công
và nổi dậy mùa xuân 1968.
Giai đoạn 1969 - 1975 là thời kỳ căng thẳng nhất, địch dùng
hơn 40 xe ủi, hàng trăm xe tăng, ủi trắng khu Lòng Chảo. Trên
không, địch dùng máy bay ném bom bắn phá. Dưới sông, hàng
trăm tàu địch vây hãm. Quân dân Nhơn Trạch hạ quyết tâm: “Một
tấc không đi, một li không rời” quyết bám trụ đánh địch.
1 Năm 1965, Tiểu đoàn 800 chuyển thành Tiểu đoàn 1, nòng cốt xây dựng Trung đoàn 4.
2  D240 đến năm 1972 mới thành tiểu đoàn
22

3.3 Page 23

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Ngày 8.5.1969, du kích xã Phú Hữu do đồng chí Nguyễn
Quyết Chiến (Sáu Chiến) chỉ huy dùng lối đánh đặc công, diệt
gọn Trung đội lính Mỹ đóng dã ngoại tại Vàm Ông Mai, thu 1
khẩu đại liên và 10 súng AR15. Tháng 12.1969, đồng chí Sáu
Chiến lại cùng du kích xã Phú Hữu, diệt gọn trung đội lính Mỹ
đóng tại Giồng Ông Đông, thu 2 khẩu trung liên và 1 hòm đạn.
Tại xã Long Thọ, Anh hùng bắn sẻ Nguyễn Văn Vân là du kích
xã từ năm 1965 - 1972 đã diệt 101 tên địch. Năm 1969, đồng chí
Nguyễn Văn Thơi, du kích xã Phú Hữu dùng súng AK bắn rơi 1
máy bay Mỹ OH6.
Năm 1969, C240 của huyện được tăng cường hỏa lực, 1 khẩu
DKZ 75 và 1 khẩu 12 li 7, diệt bót Nhà mồ Phú Mỹ, diệt 1 trung
đội dân vệ, bắt sống 7 tên thu toàn bộ vũ khí.
Tháng 10.1969, du kích xã Phước Thiền phục kích, diệt gọn
đội bình định áo đen gồm 8 tên, hóa trang bắn vào xe GMC bảo
an, diệt tên đại úy thu 8 súng, 1 máy PR 25 và 1 máy chữ.
Ngày 14.4.1972, đội đặc công Miền cùng đội đặc công Nhơn
Trạch đột nhập kho bom Thành Tuy Hạ phá hủy 75 ngàn tấn bom
đạn, diệt 15 tên, bị thương 25 tên. Ngày 13.8.1972 tiếp tục đánh
kho bom Thành Tuy Hạ lần thứ 2 phá hủy 10.578 tấn bom đạn,
đánh chìm 1 tàu, diệt 22 tên, bị thương 42 tên. Ngày 12.11.1972
tiếp tục đánh kho bom Thành Tuy Hạ lần thứ 3, bom nổ, lửa cháy
2 ngày đêm, phá hủy 50 ngàn tấn bom đạn. Ngày 13.12.1972, tiếp
tục đánh kho bom Thành Tuy Hạ lần thứ tư, làm 80% khu kho
bom bị phá hủy, 60% số bom đạn bị phá. Đây là chiến công lớn,
đánh trúng “dạ dày” của địch.
Năm 1971, du kích địa phương cùng với trung đoàn 4 chống
càn, diệt 2 đại đội bảo an, bắt sống tên Đại úy Tùng thu toàn bộ vũ
23

3.4 Page 24

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
khí và 2 máy thông tin PRC.25. Năm 1973, Đội Đặc công Đoàn
10 cùng với đặc công huyện, từ Phước Khánh đã bí mật đột nhập
kho xăng Nhà Bè, đốt cháy 85% số lượng xăng dầu, tại đây ngọn
lửa cháy suốt 12 ngày đêm.
Từ năm 1968 - 1974, Đoàn 10 cùng lực lượng địa phương
đã 28 lần đánh tàu giặc trên sông Sài Gòn và sông Lòng Tàu,
đánh chìm 3 tàu chiến lớn của Mỹ gồm: chiếc HOSSIS trọng tải
10 ngàn tấn, chiếc EFFLO trọng tải 10 ngàn tấn, chiếc TOURIST
ANAVAUS trọng tải 12 ngàn tấn.
Năm 1975, huyện Nhơn Trạch được chọn là một trong những
hướng tiến về Sài Gòn, đồng bào phục vụ sư đoàn 325 (Quân đoàn
2) về lương thực - thực phẩm, giúp 100 ghe thuyền để đưa bộ đội
qua sông Long Tàu; cùng bộ đội đưa pháo 130 ly lên đồi Bình Phú
- Bình Tuy để bắn về Sài Gòn, khống chế sân bay Tân Sơn Nhất
góp phần vào chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Tổng kết giai đoạn này: quân dân Nhơn Trạch đánh bại hoàn
toàn giặc Mỹ xâm lược, giữ vững là căn cứ địa cách mạng là bàn
đạp để tấn công Sài Gòn cơ quan đầu não của địch.
Giai đoạn 1975 - 1995, nét nổi bật trong 20 năm xây dựng và
sản xuất của huyện là: đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, các
ngành phát triển đều, đắp đường ra xã Phước Khánh, ngọt hóa đập
Ông Kèo, đưa điện vào vùng sâu, vùng xa. Nâng cấp giao thông
thủy bộ, xây cầu mới trên lộ 17, khai hoang 5 ngàn héc-ta, phục
hóa 2.400 héc-ta, phát triển 500 héc-ta ao hồ để nuôi tôm, cá xuất
khẩu...
Về khen thưởng, qua 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp -
chống Mỹ, quân dân Nhơn Trạch được Chính phủ cách mạng lâm
thời miền Nam Việt Nam và Hội đồng Chính phủ tặng thưởng
24

3.5 Page 25

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
nhiều huân huy chương các loại, gồm: 302 Huân chương Chiến
sĩ giải phóng hạng Nhất; 334 Huân chương Chiến sĩ giải phóng
hạng Nhì, 431 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba, 131
Huân chương Chiến thắng; 333 Huân chương Chiến công; 309
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cùng nhiều bằng khen của tỉnh và
quân khu.
Năm 1996, quân và dân huyện Nhơn Trạch được trao tặng
danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
25

3.6 Page 26

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
ĐỘI DÂN QUÂN DU KÍCH
XÃ PHƯỚC AN
Xã Phước An1 thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Trải
dài theo trục đường số 19, xã Phước An nằm trong khu vực lòng
chảo. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, phía Bắc xã Phước
An giáp chi khu Nhơn Trạch và kho đạn Thành Tuy Hạ; phía Nam
giáp sông Lòng Tàu - đường thủy chiến lược từ Lòng Tàu về Sài
Gòn; phía Đông giáp xã Phước Thọ cặp theo sông Thị Vải; phía
Tây là khu đồng bào theo đạo Thiên Chúa di cư từ miền Bắc vào
do địch bố trí.
Phước An là bàn đạp của cách mạng nhằm uy hiếp và tiến
công địch ở Thành Tuy Hạ, ngăn chặn sự chuyển vận đường thủy
của địch với Sài Gòn. Phước An có khu Rừng Sác thuận lợi cho
ta trú, ém quân, là căn cứ địa cách mạng suốt 2 thời kỳ kháng
chiến.
Diện tích xã Phước An khoảng 8 km2 gồm 4 ấp: Bà Bông,
Bà Trường, Vũng Gấm, Quới Thạnh, mật độ dân số thưa thớt,
chuyên nghề đánh lưới trên sông và làm củi. Nhân dân có truyền
thống yêu nước, cách mạng, kiên cường chiến đấu suốt 9 năm
chống Pháp.
1 Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh hùng, Nhà
xuất bản Đồng Nai, 1985.
26

3.7 Page 27

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phước An là trọng
điểm đánh phá, bình định của địch ở khu lòng chảo Nhơn Trạch.
Từ năm 1960, địch xây dựng hệ thống đồn bót dọc đường 19 do
một tổng đoàn dân vệ 50 tên đóng giữ. Từ năm 1962, địch tăng
cường một trung đội bảo an; bên trong là bộ máy tề xã, ấp và cảnh
sát trên 20 tên. Từ năm 1966, nhân dân Phước An còn phải đối đầu
với quân Mỹ, quân đồng minh Thái Lan. Ngoài hàng rào ấp chiến
lược, địch sử dụng chất độc hóa học hủy diệt Rừng Sác, dùng
bom, pháo, xe cơ giới ủi phá địa hình, phá địa bàn bám trụ của lực
lượng cách mạng, cho từng đoàn máy bay trực thăng từ 3-5 chiếc
dàn hàng ngang quạt để phát hiện hầm bí mật của ta. Bên trong
xã, ấp bọn cảnh sát, bình định, tâm lý chiến liên tục ruồng bố, tiến
hành chiến tranh tâm lý gây chia rẽ, nghi kỵ trong nhân dân.
Năm 1960, Đội dân quân du kích xã Phước An hình thành làm
nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở. Tháng 10.1960
kết hợp lực lượng huyện và cơ sở nội tuyến, đội tập kích tổng đoàn
dân vệ tại chợ giữa ban ngày, thu 6 súng, đồng thời đẩy mạnh đấu
tranh chính trị binh vận, hù dọa làm địch hoang mang.
Liên tục trong năm 1961, Đội kết hợp vừa vũ trang tuyên
truyền vừa diệt ác làm rệu rã bộ máy tề xã. Ngày 20.10.1961, đội
tổ chức đào công sự, hầm hố vây lấn địch tại bót Gò Cát, đồng thời
vận động hơn 300 nhân dân đấu tranh kêu gọi địch buông súng.
Ngày 24.10.1961, địch hoang mang bỏ đồn rút chạy, ta bắt sống 4
tên, thu 7 súng, giải phóng hoàn toàn 2 ấp Bà Bông, Bà Trường.
Đầu năm 1962, Đội dân quân du kích xã Phước An nhiều
lần phục kích đánh diệt bọn bảo an, dân vệ đi càn quét buộc nhân
dân làm ấp chiến lược. Đồng thời, đội còn vận động nhân dân
đấu tranh quyết liệt chống địch rào ấp, gom dân. Năm 1963, địch
27

3.8 Page 28

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
khoanh dân tại chỗ lập ấp chiến lược, xây dựng lại bót Gò Cát, tua
ở chợ để yểm trợ việc lập lại bộ máy tề xã ấp. Đội dân quân du
kích xã Phước An vẫn kiên trì bám sát địch, đánh địch đi tuần tiễu
mở đường, diệt nhiều tên làm chúng co lại trong đồn.
Cuối năm 1963, đội làm nòng cốt phát động nhân dân nổi
dậy phá hàng ngàn mét rào ấp chiến lược, xây dựng hầm chông,
hố đinh đánh địch đi càn. Đầu năm 1964, ta lại giải phóng 2 ấp
Bà Bông, Bà Trường sau khi địch tái chiếm, Đội dân quân du kích
xã Phước An phát triển lên 1 trung đội, vận động hàng chục thanh
niên thoát ly tham gia chiến đấu.
Tháng 5.1964, tại Phước An ta bắt đầu xây dựng ụ chiến đấu
và địa đạo để đánh địch lấn chiếm. Trong 2 năm 1964 - 1965, du
kích cùng nhân dân đóng góp trên 5 ngàn ngày công, xây dựng
được 3 ụ chiến đấu liên hoàn nhau.
Tháng 9.1964, ụ chiến đấu đầu tiên hoàn thành tại ấp Bà
Trường. Địch điều tiểu đoàn 4 lính thủy đánh bộ cùng 1 tiểu đoàn
bảo an chia làm nhiều mũi càn vào để tiêu diệt ụ. Chỉ với 7 đồng
chí, du kích Phước An đã bám trụ, bố trí chông, mìn bẻ gãy nhiều
đợt xung phong của địch suốt nửa ngày. Địch rút lui mang theo 32
xác chết và bị thương, trong đó có 1 đại úy.
Thắng lợi của Đội dân quân du kích xã Phước An vừa hỗ trợ
phong trào đấu tranh của nhân dân, vừa chứng tỏ ưu thế của chiến
thuật ụ chiến đấu, như báo cáo của Bộ Chỉ huy quân khu miền
Đông năm 1964 đã đánh giá: “...Đội dân quân du kích xã Phước
An (Biên Hòa) lực lượng kém hơn địch từ 20 đến 80 lần, vẫn cứ
đánh và giành thắng lợi”.
Ngày 1.7.1965, địch lại tổ chức cuộc càn quét quy mô lớn
vào Phước An với 1.600 quân chủ lực của sư đoàn 18 và bảo an
28

3.9 Page 29

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
do các cố vấn Mỹ chỉ huy. Đội dân quân du kích xã Phước An chỉ
có 14 đồng chí (có 2 y tá) đã bố trí trận địa chiến đấu mìn, chông
quanh ụ chiến đấu, Đội bẻ gãy nhiều đợt xung phong của địch. Đến
15 giờ ngày 3.7.1965, địch rút lui. Ta diệt 67 tên, làm bị thương 30
tên (có 4 cố vấn Mỹ), bắn rơi 1 máy bay lên thẳng. Qua thắng lợi
này hơn 10 đồng chí trong đội đã được kết nạp vào Đảng.
Phát huy thắng lợi này, ngày 9.7.1965, Đội dân quân du kích
xã Phước An kết hợp với đấu tranh binh vận của nhân dân tiến
hành vây địch ở bót Gò Cát. Ngày 10.7, đại đội bảo an đóng bót
Gò Cát bỏ chạy, xã Phước An lại được giải phóng.
Tháng 3.1966, lữ đoàn dù của 199 của Mỹ càn vào Phước An
với 40 xe tăng ủi phá khu lòng chảo nhằm tiêu diệt đội du kích và
văn phòng Huyện ủy đóng tại đây. Dựa thế địa đạo, Đội dân quân
du kích xã Phước An dũng cảm đánh trả địch quyết liệt diệt 63 tên
Mỹ, bắn rơi 4 máy bay lên thẳng. Đây là trận đánh Mỹ đầu tiên
của đội du kích, khẳng định tinh thần chiến đấu kiên cường và sự
trưởng thành của đội.
Từ năm 1967, quân đồng minh của Mỹ là Thái Lan thuộc
sư đoàn Mãng Xà Vương, Hắc Báo thay nhau vào xây dựng căn
cứ Nước Trong, từ đó bung ra đánh phá vùng Nhơn Trạch, Long
Thành. Chúng đóng 3 cụm quân ở 3 ấp Bà Bông, Bà Trường, Vũng
Gấm, kết hợp với việc rải chất độc hóa học hủy diệt Rừng Sác, phá
địa bàn bám trụ của du kích và đoàn 10 đặc công của miền.
Với sở trường đánh phục kích, gài trái, hầm chông, bố đinh,
đội nhiều lần bẻ gãy các trận càn của quân Thái Lan, đánh diệt
chúng, có trận diệt gọn một tiểu đội Thái Lan tại miễu Ông Tùng,
hơn 20 tên lọt hầm chông, hố đinh, diệt 16 tên cán bộ bình định,
thu 8 súng, đánh bại âm mưu “Bình định cấp tốc”, “Bình định đặc
biệt” của chúng.
29

3.10 Page 30

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Từ năm 1969 - 1971, địch tăng cường và tập trung mọi
phương tiện hủy diệt rừng Giồng và Rừng Sác ở Phước An, gây
cho lực lượng cách mạng rất nhiều khó khăn, thiếu đói. Đội du
kích vẫn kiên trì bám trụ dùng bom pháo lép của địch tự tạo vũ khí
đánh diệt 3 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, diệt nhiều sinh
lực bộ binh địch.
Trong 2 năm 1973 - 1974, phong trào đấu tranh của nhân
dân ở Phước An phát triển rộng. Ngày 19.5.1974, Đội dân quân du
kích xã Phước An hỗ trợ cho cơ sở tiến hành binh vận, đội phòng
vệ dân sự ấp Vũng Gấm nổi dậy trừng trị tên trưởng ấp ác ôn, thu
8 súng, bắt 6 tên khác; tiếp theo đội 4 lần tập kích vào đồn dân vệ
Vũng Gấm, diệt 4 tên, làm bị thương 12 tên khác, làm bọn tề ấp
xã khác lo sợ.
Trong khí thế cách mạng sôi nổi, tháng 3.1975, đội cùng
nhân dân dùng 3 mũi giáp công bao vây kêu gọi bọn lính ở Vũng
Gấm buông súng. Trong gần 2 tháng, đội bắn chết và bị thương
14 tên, phá hủy 1 cầu, 1 cống trên đường 19, 4 xe gắn máy, thu 2
súng.
Cuối tháng 4.1975, đội làm nòng cốt phát động nhân dân
trong xã nổi dậy phá rã tề ngụy, giải phóng hoàn toàn xã Phước
An.
Trong 15 năm liên tục chiến đấu, Đội dân quân du kích xã
Phước An đã đánh hàng trăm trận, diệt 282 tên địch, thu 54 súng
các loại, bắn rơi 2 máy bay, hủy 3 xe tăng thu gom hàng trăm bom
pháo lép tạo vũ khí đánh địch.
Đội dân quân du kích xã Phước An đã được khen thưởng: 1
Huân chương Chiến công hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công
30

4 Pages 31-40

▲back to top


4.1 Page 31

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
hạng Nhì, 3 Huân chương Chiến công hạng Ba, nhiều bằng khen,
giấy khen.
Ngày 6.11.1978, Đội dân quân du kích xã Phước An được
Nhà nước và Chính phủ tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
31

4.2 Page 32

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đội dân quân du kích xã PHÚ HỘI
Xã Phú Hội1 thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, từ
xa xưa đã nổi tiếng với những vườn cây ăn trái như chôm chôm,
bưởi, sầu riêng xanh ngát. Xã chạy dài theo trục đường số 17. Về
phía Đông, Phú Hội giáp rừng và xã Phước Thiền, phía Tây giáp
xã Long Tân với đồng ruộng mênh mông, phía Nam giáp rừng,
sông Đồng Môn, sông Lòng Tàu, rất thuận lợi cho giao thông ở
phía Đông của xã.
Hầu hết người dân ở Phú Hội là dân địa phương sinh sống
lâu đời với nghề làm vườn, nghề trồng lúa nước. Nhân dân có
truyền thống yêu nước, đã đấu tranh kiên cường trong kháng chiến
chống Pháp.
Đường 17 xuyên qua xã Phú Hội nối liền với kho đạn Thành
Tuy Hạ. Địch dùng đường này để chuyển vũ khí về Quân đoàn III
của chúng ở Biên Hòa, từ đó chi viện cho các tiểu khu quân sự ở
chung quanh. Sông Đồng Môn và Lòng Tàu là đường thủy chiến
lược nối liền với Vũng Tàu và Nhà Bè, Sài Gòn.
Với cách mạng, xã Phú Hội là địa bàn bám trụ của du kích
xã, lực lượng vũ trang huyện, tỉnh Biên Hòa, Đoàn 10 đặc công
miền để đánh địch và cắt đứt đường giao thông thủy, bộ của địch,
1 Nguồn: Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh hùng, Nhà
xuất bản Đồng Nai, 1985.
32

4.3 Page 33

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
tiến công các chi khu Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ cùng các cơ
quan đầu não của địch ở Sài Gòn.
Vì thế, xã Phú Hội là xã tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.
Địch xây dựng tại đây 4 đồn, 3 chốt với trên 1 đại đội bảo an và
dân vệ đóng giữ. Bộ máy kìm kẹp có cảnh sát, bình định nông
thôn và tề xã, ấp. Có lúc chúng còn tăng cường lính của sư đoàn
18 xuống càn quét, đánh phá. Từ năm 1966, quân dân xã Phú Hội
còn phải đối đầu với quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu Thái
Lan đồng minh của Mỹ.
Tháng 8.1960, xã Phú Hội được chọn làm điểm diệt ác đầu
tiên để phát động phong trào kết hợp đấu tranh chính trị, vũ trang
toàn huyện và Đội dân quân du kích xã Phú Hội được thành lập.
Mở đầu cho phong trào toàn huyện, Đội dân quân du kích xã
Phú Hội đã tổ chức diệt tên trưởng ấp Phú Mỹ và phát động nhân
dân toàn xã nổi trống, mõ, đốt đuốc uy hiếp địch. Ta làm chủ ấp
ban đêm, huy động được hàng chục thanh niên tòng quân chiến
đấu, phát triển được cơ sở và phong trào cách mạng xã.
Từ năm 1962, Đội dân quân du kích xã Phú Hội tập trung
vào nhiệm vụ đánh địch càn quét bên ngoài, cùng lúc phát
động nhân dân chống địch dồn dân lập ấp chiến lược. Cuộc đấu
tranh kéo dài đến năm 1963, do không tát được dân nên địch phải
khoanh dân tại chỗ, tiến hành xây dựng hàng rào ấp chiến lược
nhằm đánh bật đội du kích.
Đội du kích xã vẫn kiên trì, từng lúc bám ấp, vừa phá ấp
chiến lược vừa vận động nhân dân cùng phá. Bên trong, ban đêm
nhân dân bí mật phá ấp, dùng lý lẽ đấu tranh chống địch không
làm hại, vừa quyên tiền mua kềm gửi ra cho bộ đội du kích phá
ấp.
33

4.4 Page 34

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Cuối năm 1964, Đội dân quân du kích xã Phú Hội làm nòng
cốt cho phong trào ụ chiến đấu tại xã, phát triển thành địa đạo để
bao vây cô lập địch trong đồn, bót. Đầu tiên, đội xây dựng ụ chiến
đấu ở bìa rừng, sau đó phát triển rộng ra giáp xã Long Tân đánh
diệt bọn bảo an đi càn quét phía ngoài có kết quả. Đầu năm 1965,
kết hợp 2 lực lượng bên trong, bên ngoài kết hợp 3 mũi đấu tranh,
Đội dân quân du kích xã Phú Hội và nhân dân phát động phong
trào phá ấp chiến lược toàn xã, giải phóng hoàn toàn xã Phú Hội,
tiến hành xây dựng làng xã chiến đấu.
Ngày 3.3.1966, một bộ phận lữ đoàn dù 199 của Mỹ càn vào
Phú Hội. Vận động theo địa đạo và dựa vào ụ chiến đấu, Đội dân
quân du kích xã Phú Hội liên tục phản công và tiến công địch suốt
2 ngày đêm, bẻ gãy nhiều cuộc tiến công của địch, diệt 51 tên Mỹ.
Phát huy thắng lợi, đội tiếp tục củng cố công sự vây lấn, bứt rút
bọn bảo an tại đồn Phú Hội, tiếp tục giữ vững vùng giải phóng.
Từ năm 1967, địch dùng bom pháo hủy diệt rừng, kết hợp
xe tăng, xe ủi ủi tàn phá địa bàn, tăng cường lực lượng hành quân
liên tục phía ngoài, xây dựng lại ấp chiến lực, tăng cường bọn bình
định đánh phá bên trong gây cho lực lượng xã nhiều khó khăn.
Bằng tư tưởng tiến công, Đội dân quân du kích xã Phú Hội đã đào
hầm bí mật để trụ lại, tìm mọi cách vào ấp diệt ác, phá kìm, đánh
bọn bình định bên trong.
Đầu tháng 7.1967, Đội tập kích đoàn bình định nông thôn tại
xã, diệt 2 tên đồn trưởng và phó, bắt sống 8 tên, thu 15 súng các
loại, 2 máy thông tin và nhiều tài liệu, đánh bại âm mưu bình định
của địch. Ngày 19.7.1967, đội tổ chức phục kích đánh một tiểu
đội Mỹ ngoài ấp, diệt 4 tên thu 4 súng, 2 máy thông tin PRC 25. 2
mặt trận đánh trong và ngoài này có tác dụng làm lỏng rã thế kìm
34

4.5 Page 35

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
của địch. Từ 16 giờ trở đi, bọn địch co cả vào đồn, không dám đi
càn quét.
Từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm
1968, nhất là từ năm 1969 đến năm 1971, địch tập trung đánh phá
khu Lòng Chảo Nhơn Trạch rất quyết liệt, trong đó có xã Phú Hội.
Có lúc trên không chúng tập trung từng đoàn máy bay lên thẳng
dàn hàng ngang quạt để tìm hầm bí mật của ta. Dưới mặt đất, địch
cho xe cơ giới ủi phá địa hình. Tuy gặp nhiều khó khăn, Đội dân
quân du kích xã Phú Hội vẫn kiên trì bám trụ hầm bí mật, dùng
B40 và mìn tự tạo đánh diệt 10 xe tăng, xe ủi địch. Đồng thời, Đội
chia làm nhiều tổ nhỏ bí mật vào ấp diệt ác làm bọn tề rúng động,
tạo điều kiện cho nhân dân đấu tranh chống bắn pháo, đòi bồi
thường thiệt hại, đòi về đất cũ sản xuất.
Trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, Đội dân quân du
kích xã Phú Hội liên tục tiến công địch. Nổi bật trong 2 ngày 30 và
31.12.1972, 13 du kích kiên cường bám trụ bẻ gãy nhiều đợt phản
kích của liên đội 32 bảo an, diệt 15 tên. Địch điên cuồng dùng
máy bay đến ném bom bừa bãi vào xã, hủy diệt 132 nhà dân. Đội
vẫn liên tục trụ bám giữ được thế làm chủ 2 ấp, đánh bại kế hoạch
“tràn ngập lãnh thổ” của địch.
Tham gia chiến dịch mùa khô 1974 - 1975, Đội dân quân
du kích xã Phú Hội bí mật luồn sâu diệt bọn bình định, bọn tề xã
ấp làm địch rất lo sợ. Theo tinh thần chỉ đạo của Huyện ủy Nhơn
Trạch là “xã giải phóng xã, ấp giải phóng ấp”, tháng 4.1975 Đội
dân quân du kích xã Phú Hội đã phát triển lên 35 đồng chí. Ngày
27.4.1975, đội du kích kết hợp 3 mũi tiến công địch ở bót dân vệ
và trung tâm cộng đồng ở xã. Ngày 28.4.1975, phối hợp với mũi
tiến công của chủ lực, Đội dân quân du kích xã Phú Hội phát triển
35

4.6 Page 36

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đánh chiếm thêm 2 đồn, 4 chốt, 1 ụ ở ấp Đất Mới và ấp Phú Mỹ,
cùng nhân dân truy lùng bọn tàn binh địch, diệt 10 tên ác ôn, 3 bảo
an, bắt sống 12 tên, thu 13 súng các loại, nhiều đồ dùng quân sự,
giải phóng hoàn toàn xã Phú Hội.
Trong 15 năm chiến đấu, Đội dân quân du kích xã Phú Hội
đã tác chiến độc lập và phối hợp được 1.250 lần; loại khỏi vòng
chiến đấu 900 tên (có 200 Mỹ và Thái Lan); bắt sống 55 tên.
Đội đã được tặng thưởng 5 Huân chương Chiến công (2
hạng Nhất, 2 hạng Nhì, 1 hạng Ba), 3 Huân chương Chiến công
hạng Ba cho cá nhân, 3 bằng khen, 6 đồng chí đạt danh hiệu Dũng
sĩ diệt Mỹ, 1 đồng chí là Dũng sĩ diệt cơ giới Mỹ, 3 đồng chí là
Chiến sĩ quyết thắng, 7 đồng chí là Chiến sĩ thi đua, 18 giấy khen
cho cá nhân.
Ngày 6.11.1978, Đội dân quân du kích xã Phú Hội vinh dự
được Nhà nước và Chính phủ tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân.
36

4.7 Page 37

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN XÃ PHÚ HỮU
Xã Phú Hữu1 thuộc huyện Nhơn Trạch, nằm sát đoạn cuối
của sông Đồng Nai, cách ngoại ô Thành phố Hồ Chí Minh một
dòng sông. Do vị trí nằm cạnh kho bom Thành Tuy Hạ nên cả 2
thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ, xã Phú Hữu chịu chà xát
nặng nề.
Diện tích của xã Phú Hữu khoảng 2.352 héc-ta, hầu hết là
ruộng lúa nước. Dân số xã khoảng 13.200 người. Xã có phong
trào cách mạng từ rất sớm. Đầu năm 1946 xã đã thành lập được
chi bộ. Thời chống Pháp, địa bàn xã là cơ sở đóng quân của bộ đội
Bình Xuyên. Thời chống Mỹ, địa bàn xã là cơ sở của Đoàn 10, bộ
đội Nhà Bè, Thủ Đức.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân
dân xã Phú Hữu đã tích cực đóng góp cho cách mạng về sức người
lẫn sức của, về vật chất lẫn tinh thần. Cụ thể, toàn xã có 296 gia
đình là cơ sở cách mạng. Đặc biệt gia đình má Hai ở Cầu Kê đã
nuôi Đại đội 5 thuộc Đoàn 10 trong suốt 3 năm liền. Toàn xã có
250 mẹ tham gia Hội Mẹ chiến sĩ. Đồng bào trong xã Phú Hữu đã
đóng góp được 6.500 tấn lúa để nuôi bộ đội cán bộ, mua 2,5 triệu
đồng công trái phiếu. Toàn xã có 750 thanh niên lên đường nhập
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch
37

4.8 Page 38

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
ngũ. Gần 300 thanh niên nam nữ tham gia lực lượng du kích địa
phương.
Suốt 2 thời kỳ kháng chiến đồng bào, du kích địa phương đã
kết hợp với bộ đội của trên tham gia đánh 537 trận diệt 1.068 tên
địch trong đó có 136 tên lính Mỹ, diệt 36 tên ác ôn, thu 1.076 súng
các loại, bắn chìm 1 tàu quân sự và 4 xuồng máy, bắn rơi 3 máy
bay phá hủy 7 xe quân sự.
Trong công tác binh vận, có 43 lính đem súng về hàng cách
mạng. Đồng bào trong xã Phú Hữu còn tổ chức gần 100 cuộc đấu
tranh chính trị, tham gia 10 ngàn ngày công phục vụ cho chiến
đấu.
Với những thành tích trong chiến đấu trong 2 thời kỳ kháng
chiến, toàn xã Phú Hữu được cấp trên khen thưởng 42 Huân
chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, 63 Huân chương Chiến sĩ
giải phóng hạng Nhì, 78 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng
Ba, 17 Huân chương Chiến thắng, 68 Huân chương Chiến công,
35 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang.
Từ ngày hòa bình lập lại, đồng bào toàn xã đã tham gia lao
động xây dựng cuộc sống mới trong các tập đoàn sản xuất.
Năm 1994, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú Hữu được
Nhà nước phong tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân.
38

4.9 Page 39

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN XÃ LONG THỌ
Xã Long Thọ1 thuộc huyện Nhơn Trạch, nằm trên tỉnh lộ
19 chiều dài từ km 5 đến km 11. Phía Đông xã Long Thọ giáp
xã Long Phước, phía Tây ôm gọn căn cứ địa cách mạng là khu
Lòng Chảo, phía Nam giáp xã Phước An và phía Bắc giáp xã Hiệp
Phước.
Xã có diện tích 2302,19 héc-ta. Dân số toàn xã là 5189 nhân
khẩu, với 989 hộ, hầu hết là người Kinh, sống tập trung trong 5
ấp. Người dân trong xã chủ yếu sống bằng ngư nghiệp và nông
nghiệp; còn lại một số ít buôn bán nhỏ. Xã có 98% người dân theo
đạo Phật, thờ cúng gia tiên, nên địch khó dụ dỗ thành lập được
Hội đồng tề.
Xã Long Thọ có nhiều lợi thế về mặt quân sự như: Từ khu
Lòng Chảo, quân ta có thể tiến đánh địch rồi lại rút an toàn vào
khu Lòng Chảo bao la, địch không tài nào tìm ra tung tích. Về mặt
thủy chiến, từ mé sông Thị Vải, có thể tiến lên đánh địch, rồi lại
theo mé sông rút ra Rừng Sác mênh mông. Toàn xã có 5 ấp, nối
nhau theo chiều dài 6km, theo thế trường xà, địch khó bao vây
toàn bộ, khống chế lực lượng của ta.
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo huyện Nhơn Trạch
39

4.10 Page 40

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Do có vị trí quan trọng nên địch bố trí nhiều quân và khí tài
ở Long Thọ. Cụ thể, giặc Pháp chiếm đóng 3 đồn tại các ấp: Bàu
Nâu, Suối Cạn, đình Phước Long. Mỗi đồn, địch bố trí gồm 1
trung đội lính thiện chiến đã qua luyện tập quân sự, trang bị cùng
số vũ khí như: 3 khẩu đại liên, 3 trung liên, 3 tiểu liên, còn lại là
súng trường và đạn dư thừa. Ngoài ra có xe tăng, máy bay, pháo
tầm xa yểm trợ. Trong khi đó, lực lượng du kích tại xã thời kỳ này
chỉ có 32 đồng chí, xuất thân là nông dân, chưa hề cầm súng vũ
khí, vũ khí phần lớn là lựu đạn, giáo mác, và 36 súng trường, đạn
cấp có hạn.
Đối với đế quốc Mỹ, tại xã Long Thọ, Mỹ chiếm đóng 5 đồn:
tại Vườn Điều có 1 tiểu đoàn Thái Lan, tại Đồng Tranh có 1 tiểu
đoàn xe tăng Mỹ và 3 đồn lính ngụy là: Bàu Nâu, Suối Cạn, đình
Phước Long. Số quân có lúc gần 2 ngàn lính, với lượng vũ khí: 12
đại liên, 18 trung liên, 54 tiểu liên, còn lại là súng trường tự động,
đạn dư thừa. Ngoài ra có xe tăng, máy bay, pháo tầm xa ở Bến
Sắn và pháo ở Thành Tuy Hạ hỗ trợ. Xét tương quan, lực lượng du
kích xã Long Thọ có 52 đồng chí, vũ khí có 36 khẩu súng trường,
đạn cấp theo định mức rất hạn chế.
Tuy vậy, là địa bàn trọng điểm nên xã Long Thọ được các
cấp lãnh đạo; các nhà quân sự chọn làm nơi đóng quân, như: Chi
đội 1 và Chi đội 2 Bộ đội Bình Xuyên, Chi đội thuộc bộ đội Thái
Nguyên, Đại đội Đô Lương, Fff, Chi đội 7 Đại đội Mai Văn Vĩnh,
Bộ đội Trương Văn Giàu, Bộ đội Hoàng Thọ. Từng thời kỳ, có lúc
quân số của trên về gần 2 ngàn, không còn nhà dân nào là không
có bộ đội. Người dân Long Thọ lo nơi ăn, chốn ở, phục vụ như
một đơn vị hậu cần với lòng mong mỏi là: “Bộ đội ăn no, là đánh
thắng”.
40

5 Pages 41-50

▲back to top


5.1 Page 41

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Khi Pháp chiếm đóng nước ta, ruộng đất bị bọn địa chủ,
tay chân của đế quốc chiếm gần hết, trong đó có tên địa chủ Cả
Dị cướp trên 300 héc-ta ruộng đất trong xã; ngoài ra còn nhiều
tên cướp từ 20 héc-ta - 50 héc-ta. Người nông dân suốt đời phải
đi làm thuê, làm mướn cho địa chủ. Cuộc sống khổ cực làm cho
người dân Long Thọ căm thù giặc sâu sắc; ý thức dân tộc độc lập
được hun đúc suốt 84 năm đô hộ của thực dân Pháp. Lòng mong
nước duy nhất của người dân trong xã là phải đánh đuổi thực dân
Pháp, diệt bọn cường hào ác bá, đem lại cuộc sống thanh bình,
hạnh phúc cho đồng bào. Do đó, khi ông Tám Trụ, người lãnh đạo
phong trào Thiên Địa Hội tuyên truyền, phát động phong trào là
nhiều người dân ở xã Long Thọ tham gia ngay. Tuy nhiên do thiếu
chủ trương, đường lối đúng đắn nên phong trào Thiên Địa Hội chỉ
tồn tại từ năm 1916 đến năm 1927.
Khoảng đầu năm 1935, có ông Võ Văn Long, tức Ba Long,
người ấp Cái Vạn, làm nghề buôn trầu cau ở Cần Giuộc, Tân An,
qua mối quan hệ, ông đã kết bạn với ông Tư Một (tên thật là Đáng)
là đảng viên mật của Xứ ủy Nam kỳ và ông Ba Long, người đầu
tiên đem tài liệu cách mạng về tuyên truyền ở xã.
Thời gian này, đồng chí Trịnh Văn Dục nhận nhiệm vụ của
Xứ ủy Nam kỳ, bí mật về xã Long Thọ xây dựng cơ sở Đảng. Tại
xã Phước Thiền có ông Trương Văn Kỷ bí mật thành lập Nghiệp
Đoàn trong giới công nhân trí thức; nhưng sự thật là tuyên truyền
về chủ nghĩa Mác. Đến 1944 và đầu năm 1945, nhiều người dân
ở xã Long Thọ biết về chủ nghĩa Mác, về cuộc Cách mạng tháng
Mười Nga; về nhà nước dân chủ đầu tiên trên thế giới. Nhiều thanh
niên ở xã Long Thọ bí mật gia nhập tổ chức “Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội” - tổ chức do Đảng lãnh đạo. Đến đầu
năm 1945, tổ chức này được bí mật đổi tên là “Thanh niên Tiền
phong” và lực trở thành nòng cốt trong ngày tổng khởi nghĩa.
41

5.2 Page 42

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Khi được tin Hà Nội đã giành chính quyền vào ngày 19.
8.1945 và Huế vào ngày 23.8, đồng bào Long Thọ náo nức chuẩn
bị khởi nghĩa, một khí thế Cách mạng nổi lên rất mạnh nhất là
phong trào thanh niên tiền phong với vũ khí là tầm vông vạt nhọn
ngày đêm tập dợt.
Vào ngày 24.8.1945, các đồng chí Võ Văn Lương và Lê Tân
Châu bí mật về xã tổ chức, chuẩn bị vũ khí gồm tầm vông, giáo
mác, cờ cách mạng và khẩu hiệu, rồi tổ chức làm 3 đoàn để giành
chính quyền tại xã, tiến về huyện tham gia giành chính quyền, tiến
về thành phố tham gia giành chính quyền. Hầu hết đồng bào Long
Thọ tham gia trong ngày tổng khời nghĩa này, không phân biệt trẻ,
già, nam, nữ. Việc giành chính quyền tại xã gọn, nhẹ, không gặp
sự chống đối nào. Chính quyền thật sự về tay người nông dân xã
Long Thọ.
Ngày 25.8.1945, cách mạng giành lại chính quyền và thành
lập chính quyền tại xã. Đến ngày 28.8.1945 xã Long Thọ đã thành
lập xong Ủy ban Hành chính kháng chiến lâm thời.
Chính quyền dân chủ nhân dân vừa được thành lập chưa
được bao lâu thì ngày 23.12.1946, tiếng súng của giặc Pháp lại nổ
ra trên mảnh đất Nhơn Trạch. Âm mưu của thực dân Pháp là muốn
xâm chiếm nước ta một lần nữa. Nghe lời kêu gọi của Đảng, của
Bác Hồ, đồng bào Long Thọ lại đứng lên cùng toàn dân đi vào
cuộc kháng chiến trường kỳ đánh Pháp - đánh Mỹ.
Tháng 3.1948, Chi bộ Đảng xã Long Thọ được thành lập.
Kể từ đó, đồng bào ra sức bảo vệ, không để cho địch đi sâu đánh
phá. Đến ngày đình chiến năm 1954, chi bộ dù có nhiều đồng chí
hy sinh, bị tù đày, nhưng vẫn được duy trì 63 đảng viên. Tập kết
ra Bắc 17 đồng chí. Số còn lại, vẫn bám trụ bí mật chỉ đạo phong
trào. Thời kỳ thực hiện điều lắng (4HBC) nhưng chi bộ Đảng đã
42

5.3 Page 43

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
lập đường dây bí mật, liên lạc giữa Đảng và dân, nên mọi chỉ thị
của trên vẫn được thi hành.
Năm 1954 - 1960, đồng bào Long Thọ thực hiện bất hợp tác
với kẻ thù, như: Không nhận bất cứ một gia đình di cư nào (Bắc
di cư năm 1954) vì đây là âm mưu của địch, nhằm phân hóa đồng
bào trong xã phá cơ sở Đảng trong quần chúng. Đồng bào Long
Thọ biểu tình, đòi thực hiện Hiệp định Genève. Tổng tuyển cử,
Hiệp thương để thống nhất đất nước, tẩy chay cuộc trưng cầu dân
ý và bầu cử của Diệm. Biểu tình phản đối khi Diệm ra Luật “10-
59” và thực tế là địch đã không thực hiện được tại xã Long Thọ.
Từ năm 1961 - 1967, đồng bào Long Thọ kiên quyết không
để cho địch dồn dân thành lập ấp chiến lược. Khi địch dùng vũ lực
đàn áp dân, ép buộc phải vào ấp chiến lược, đồng bào lại làm nội
ứng để cùng lực lượng du kích nổi lên phá ấp chiến lược.
Đến năm 1967, thấy bị đồng bào phản đối quyết liệt và không
một ấp chiến lược nào tồn tại đến một tháng, nên từ đó địch đành
phải bỏ.
Trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp - chống Mỹ,
toàn xã Long Thọ đã có 415 gia đình là cơ sở của Đảng. Đồng bào
Long Thọ đã đưa 746 thanh niên lên đường nhập ngũ, gia nhập
quân đội chính quy, xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam, và đã
lập nhiều chiến công hiển hách, được phong tặng quân hàm cấp
cao trong quân đội. Đến ngày 30.4.1975 miền Nam hoàn toàn giải
phóng, toàn xã có 158 liệt sĩ, 132 gia đình liệt sĩ.
Trong phong trào dân công hỏa tuyến, xã Long Thọ thành
lập được 4 đội dân công hỏa tuyến, mỗi đội 35 người, luân phiên
làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm ra chiến
trường. Mỗi đợt từ 5 đến 10 ngày có lần lên tận Chiến khu Đ, thời
43

5.4 Page 44

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
gian cả tháng. Tổng số ngày công phục vụ công tác này là trên 8
ngàn ngày công.
Về phong trào dân công phục vụ địa phương, đồng bào Long
Thọ có nhiều đóng góp. Tiêu biểu như trong đợt cắm cọc, chống
cuộc nhảy dù của giặc Pháp xuống Đồng Lớn, âm mưu tiến vào
chiến khu Phước An, đồng bào Long Thọ đã đóng góp trên 3 ngàn
ngày công vào rửng lấy tre về vạt nhọn rồi ra cắm, với số cọc trên
10 ngàn cọc. Hay như trong thời kỳ chống chiến tranh đặc biệt của
Mỹ 1963 - 1965, theo kế hoạch của Huyện ủy; đồng bào Long Thọ
phá hủy lộ 19, con đường huyết mạch, từ km5 đến km11, xe quân
sự hoàn toàn không thể đi qua được, với số ngày công là trên 10
ngàn ngày công, còn qua đường 15 phá đường cầu Mới Suối Cả và
cầu Tám Trụ. Đồng bào Long Thọ còn đóng góp trên 5 ngàn ngày
công, làm giao thông hào chiến đấu xung quanh xã dài 280m.
Đồng bào Long Thọ còn đóng góp trên 10 ngàn ngày công, phục
vụ phá ấp chiến lược, làm cho địch phải xây dựng đi, xây dựng lại
ấp chiến lược tới 58 lần. Đến năm 1967, địch không còn khả năng
để xây dựng nữa. Kế hoạch, âm mưu của địch sụp đổ hoàn toàn.
Trải qua 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đồng
bào xã Long Thọ đóng góp số lượng rất lớn lương thực, thực phẩm,
hoặc của cải vật chất cho cách mạng.
Cụ thể, thời kỳ xây dựng công binh xưởng tại chiến khu
Phước An, Huyện ủy vận động, đồng bào Long Thọ đem vật dụng
bằng đồng, bằng sắt như: mâm, nồi, chậu, kể cả đồ thờ như lư
hương, chân đèn ủng hộ cách mạng với số lượng 12 tạ, để sản xuất
vũ khí. Suốt 30 năm, đồng bào Long Thọ làm nghĩa vụ đóng thuế
nông nghiệp với nhà nước với số lượng hàng trăm dạ lúa. Xã Long
Thọ còn thành lập Hội Mẹ chiến sĩ vào năm 1947.
44

5.5 Page 45

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Trong phong trào Hũ gạo nuôi quân, thời chống Pháp có 278
gia đình thực hiện, thời chống Mỹ có 302 gia đình thực hiện. Với
chỉ tiêu khoảng 2 kg gạo/ hũ/tháng, suốt thời chống Pháp, đồng
bào Long Thọ đóng góp 54 tấn gạo, thời chống Mỹ đóng góp 86
tấn gạo cho cách mạng.
Vào thời kỳ gặp khó khăn về kinh tế, bộ đội của trên về
nhiều đột xuất, với lời kêu gọi của Huyện ủy, đồng bào xã Long
Thọ ủng hộ 154.000 dạ lúa để kịp thời nuôi quân. Người dân còn
mua công trái phiếu lên đến 13 triệu đồng. (Giá vàng lúc đó 12
ngàn đồng/lượng).
Để có phương tiện chuyển vận vũ khí, lương thực, đồng bào
Long Thọ ủng hộ 148 ghe thuyền, 72 xe bò với 12 cặp bò kéo cho
cách mạng. Ngày nào cũng có từ 5 đến 10 người chở bộ đội qua
sông.
Trong suốt 2 thời kỳ kháng chiến, với vị trí là vành đai bảo
vệ chiến khu Phước An, xã Long Thọ bị địch tàn phá nặng nề nhất,
có thời kỳ chúng đốt phá không còn một nóc nhà. Tổng cộng qua
2 cuộc kháng chiến, toàn xã Long Thọ đã có 1.856 nóc nhà đồng
bào bị địch đốt phá. Có gia đình phải làm nhà đi, làm nhà lại tới
4 - 5 lần. Nhiều gia đình ở gần đồn bốt địch đã phải chuyển đi nơi
khác.
Những tội ác điển hình của giặc như: Ngày 23.12.1946, giặc
Pháp nhảy dù xuống Đồng Lớn, âm mưu tiến vào chiến khu Phước
An, nhưng bị đánh phủ đầu, không thể tiến vào Phước An được.
Chúng tràn vào 2 ấp thuộc xã Long Thọ đốt 120 nóc nhà, bắn
thường dân, bắn chết bầy trâu gồm 93 con, bắt đàn bò 64 con làm
cho đồng bào 2 ấp này mất hết trâu bò cày kéo.
45

5.6 Page 46

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Ngày 16.7.1949, giặc Pháp càn vào xã, bị du kích đánh trả,
diệt tại trận 7 tên, làm bị thương 4 tên. Ngày hôm sau chúng càn
tiếp với số quân đông hơn, chúng đánh trả thù, đốt phá 260 nóc
nhà dân, bắn chết bà Hai Long, bà Ấm, ông Hai Tạo rồi ném xác
vào nhà cháy, để khủng bố tinh thần đồng bào.
Tàn ác hơn cả là giặc Mỹ đã rải chất độc phá hoại, hủy diệt
350 héc-ta vườn cây ăn trái, trên 500 héc-ta ruộng lúa, gồm 200
héc-ta cây rừng thuộc Lòng Chảo.
Tháng 6.1950, trong 1 cuộc càn do tên Một Phước chỉ điểm,
địch bắn chết một lúc 5 người dân. Trong đó có anh Chót là em
ruột Chủ tịch xã và các anh Hai Thâu, Tám Sạn, Tám Hồi, Hai
Dẫm.
Qua Tổng kết, trải qua hai thời kỳ kháng chiến cứu quốc,
quân dân Long Thọ đã tổ chức đánh 1.195 trận lớn nhỏ, trong đó,
đánh độc lập 904 trận (gồm chống càn, gài trái, diệt ác ôn, phá ấp
chiến lược) và đánh kết hợp là 291 trận.
Cụ thể, thời chống Pháp quân dân xã Long Thọ đã diệt 297
tên giặc, trong đó có 103 tên giặc Pháp, bắt sống 8 tên, bắt sống
cả một Hội đồng tề, gồm 12 tên giải về trên, phá đồn Long Thọ
4 lần, thu toàn bộ vũ khí, diệt 9 tên ác ôn, có nhiều nợ máu, binh
vận 34 tên lính.
Trong thời chống Mỹ quân dân xã Long Thọ diệt 1.070 tên
giặc, trong đó có 38 giặc Mỹ, 182 tên giặc Thái, bắt sống 83 tên,
diệt đồn Long Thọ 7 lần, phá 58 lần ấp chiến lược, diệt 21 tên
ác ôn, có nhiều nợ máu, binh vận 28 tên lính ngụy, thu 438 súng
các loại, thu 3 máy PRC-25, phá 3 xe tăng, 2 xe GMC, thu 1máy
rà mìn Thái Lan, bắn chìm 2 tàu bo bo, 7 ghe thuyền máy, trong
những trận càn của địch theo đường sông.
46

5.7 Page 47

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Trận đánh tiêu biểu của quân và dân Long Thọ phải kể đến là
vào năm 1947 trong một trận càn theo đường sông lợi dụng nước
lớn, Pháp định đổ quân lên Vàm Cây Khô, từ đó đánh úp vào phía
Nam của cơ quan của xã. Lực lượng du kích xã Long Thọ, lợi
dụng chiến hào, ô ụ chiến đấu đánh bại cuộc càng, diệt và làm bị
thương một số lính địch, bắn cháy 2 tàu của giặc. Trận đánh nổi
tiếng của lực lượng du kích Long Thọ, với 19 tay súng, đã quần
nhau với giặc suốt 5 tiếng đồng hồ.
Hay như trận đánh đồn Long Thọ vào tháng 8.1962. Đồn
địch vào 1 trung đội, do tên Xá Cảnh sát làm trưởng đồn. Ban
chỉ huy xã đổi Long Thọ cài đồng chí Đặng và đồng chí Trợt vào
trong đồn làm nội ứng. Thông qua một bữa nhậu tạo cơ hội cho
lực lượng du kích xông vào đồn, diệt một số tên, bắt sống toàn bộ,
cả tên trưởng đồn, thu toàn bộ vũ khí. Trận đánh diễn ra trong 3
ngày, tạo tiếng vang lớn.
Trong trận đánh ngày 2.7.1966, giặc Mỹ càn về xã Long
Thọ, đến miễu Mặt Trăng thì lọt vào trận phục kích của du kích xã.
Sau tiếng nổ của 2 trái DH10, 1 xe bị lật, 1 xe bốc cháy, các chiến
sĩ đồng loạt nổ súng. Địch rút chạy diệt 13 tên giặc Mỹ. Sau trận
này đồng chí Kiên, đồng chí Duy được cấp bằng khen của tỉnh,
Dũng sĩ diệt cơ giới.
Tiếp đến, năm 1966 diễn ra trận bao bót đồn Long Thọ. Đồn
Long Thọ nằm cạnh lộ 19, gần trung tâm của xã, với số quân là 3
trung đội. Du kích xã tập trung bao vây, đêm tấn công, ngày bắn
tỉa, địch tấn công không được, rút không được, chúng phải cho
máy bay, thả lương thực thực phẩm. Sang ngày thứ bảy, địch phải
cho 1 tiểu đoàn đến đánh phá vây mới rút được bọn này về đồn
bỏ trốn.
47

5.8 Page 48

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Năm 1964, lính dân vệ thuộc một chốt quân sự của địch láng
đê, mở đường, chờ cho chúng tiến xa đồn, du kích xã tập trung
đánh chặn đường về, buộc phải chạy tản vào mé rừng. Lập tức
các chiến sĩ du kích quay trở lại tấn công thẳng vào chốt quân sự,
bắt sống toàn bộ lính còn lại và số súng đạn, phá tan chốt quân sự
địch.
Năm 1973, trong chiến dịch Diệt trừ bọn bình định áo đen,
du kích xã Long Thọ đã tập kích đánh tan đội Bình Định áo đen
tại nhà ông Sáu Hữu, diệt 5 tên.
Ngày 18.2.1975, Du kích xã Long Thọ đã phục kích diệt gọn
tiểu đợi tuần tra của địch từ đồn Bến Sắn ra, diệt 13 tên, thu 13
súng.
Từ năm 1963 - 1972, tại xã Long Thọ có đồng chí Nguyễn
Văn Nhỏ, tự Bé Vân - được gọi là người du kích bắn sẻ. Với cây
trường bá bỏ, anh đã diệt 101 tên giặc. Đồng bào trong xã gọi anh
là anh hùng bắn sẻ hay gọi là anh hùng “101”.
Ngoài ra, quân dân Long Thọ còn có những trận đánh kết
hợp tiêu biểu như trận Cầu Lò Rèn diễn ra vào tháng 3.1946. Đây
là trận càn đầu tiên của giặc Pháp vào chiến khu Phước An. Lực
lượng của địch là một Đại đội Âu Phi. Lực lượng du kích Long
Thọ kết hợp với lực lượng bộ đội Mai Văn Vĩnh và Chi Đội 4
thuộc lực lượng Bình Xuyên. Đã bố trí trận địa và mai phục tại
khu Cầu Lò Rèn. Khi địch lọt vào mặt trận, theo tiếng kèn, toàn
bộ quân ta xông lên đánh giáp lá cà, áp đảo. Không đầy 30 phút, ta
tiêu diệt gọn đại đội Âu Phi của giặc, thu 1 súng cối 60 ly, 1 trung
liên, 4 tiểu liên và khẩu súng trường, 2 khẩu súng lục, nhiều đạn
dược, bắt sống 8 tên.
48

5.9 Page 49

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Hay như vào tháng 6.1946, giặc Pháp tổ chức cuộc càn lớn,
âm mưu tràn qua Long Thọ để vào Phước An. Lực lượng của địch
gồm 2 đại đội. Lực lượng du kích xã, kết hợp với lực lượng Chi
đội do Mai Văn Vĩnh chỉ huy đã mai phục, bẻ gãy cuộc càn, diệt
28 tên và một số bị thương, bắn cháy 1 xe GMC. Trận đánh kéo
dài từ 10 giờ đến 23 giờ.
Trận tiêu diệt Mỹ tại khu vực miễu Ông Thiện diễn ra vào
tháng 10.1969, du kích Long Thọ kết hợp với D240 của tỉnh, phục
kích diệt 12 tên lính Mỹ. Số còn lại, hoảng sợ rút về quận.
Ngày 4.2.1975, du kích xã Long Thọ kết hợp với đoàn 10,
bao vây Phước Long - Phước Thọ, đồng thời phục kích diệt bọn
tiếp vận. Địch cho tiểu đoàn bảo an 340 xuống giải vây nhưng
lực lượng Đoàn 10 đẩy lùi. Hôm sau địch điều 2 tiểu đoàn, D318
chiến đoàn cơ giới và D258 biệt động quân, có máy bay yểm trợ
tràn xuống giải vây và rút số quân ở 2 đồn trên về quận. Đồn bỏ
trống. Trong đợt bao vây, chặn đánh đoàn tiếp viện của địch, du
kích xã và đoàn 10 diệt 67 tên, phá 5 xe quân sự.
Với những thành tích đạt được, ngày 31.3.1973, quân dân
Long Thọ, được Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhì.
Toàn xã có 158 liệt sĩ, 7 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 2 Huân
chương Độc lập, 57 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất,
70 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì, 84 Huân chương
Chiến sĩ giải phóng hạng Ba, 35 Huân chương Chiến thắng, 50
Huân chương Chiến công, 64 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, 135
Huân chương các loại,182 Bằng khen các loại.
Đặc biệt, năm 1996, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân
dân xã Long Thọ được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh
hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
49

5.10 Page 50

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN XÃ PHƯỚC KHÁNH
Phước Khánh1 là một xã thuộc vùng Rừng Sác, địa bàn cuối
cùng phía Tây Nam của huyện Nhơn Trạch, như là một hòn đảo
giữa bốn bề sông nước. Phía Đông xã Phước Khánh giáp rạch Ông
Kèo, phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Bắc giáp bưng
ruộng xã Phú Đông, phía Nam giáp sông Lòng Tàu, Cần Giờ.
Diện tích tự nhiên của xã là 3.680 héc-ta, trong đó diện tích cấy
lúa chỉ còn 2.124 héc-ta còn lại là vùng bưng, dừa nước, sình lầy,
ngập mặn quanh năm, ẩm thấp. Dân số trong thời chống Pháp là
gần 2.300 người, thời kỳ chống Mỹ là 867 hộ, với 5.759 người.
Người dân xã Phước Khánh theo 3 tôn giáo, có 1 nhà thờ
Thiên Chúa với 280 hộ theo đạo, với 1.157 giáo dân, 1 thánh thất
Cao Đài với 99 hộ theo đạo có 155 tín đồ, có 1 chùa với 50 phật
tử quy y, còn lại là hình thức tín ngưỡng dân gian như: đình, miếu,
thờ cúng ông bà. 85% người dân làm nông nghiệp; thương nghiệp,
buôn bán nhỏ, thuê mướn chiếm 15%.
Phước Khánh kênh rạch chằng chịt nhưng nguồn nước ngọt
không có, người dân phải đi 8 đến 10km qua xã Vĩnh Thanh, Đại
Phước mới chở được nước về. Trong giai đoạn chống Pháp và Mỹ,
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
50

6 Pages 51-60

▲back to top


6.1 Page 51

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Phước Khánh cách kho xăng Nhà Bè 2km, cách tổng kho Thành
Tuy Hạ 8km và Thành phố Hồ Chí Minh 8km.
Trong hệ thống sông ngòi, Lòng Tàu là con sông lớn nhất cắt
Rừng Sác thành 2 khu Đông và Tây nối sông Nhà Bè ra tận Biển
Đông. Chiều rộng và độ sâu của sông Lòng Tàu rất thuận lợi cho
tàu lớn đi lại. Vì thế từ lâu sông Lòng Tàu đã trở thành đường thủy
quan trọng từ biển vào Sài Gòn của Pháp và Mỹ.
Đặc khu Rừng Sác là yết hầu của thủ đô Sài Gòn, nếu địch
chủ động và khống chế được thủy lộ quốc tế Lòng Tàu thì đương
nhiên tiềm lực chiến đấu của ta trên cả 3 bình diện: chính trị, quân
sự, kinh tế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi vậy, Mỹ đã xây
thêm 3 đồn trong xã, có 2 trung đội nghĩa quân B62, B63 chốt
giữ. Phía Nam căn cứ hải quân, đặc khu Rừng Sác, có sân bay
lên thẳng, 1 trận địa pháo 6 khẩu, khu vực yếu điểm của tổng kho
xăng dầu bố trí một đại dội. Dọc sông Lòng Tàu có 1 Đại đội 908
tại khu Rừng Sác. Nhà Bè tăng cường đưa sang tiểu đoàn biệt
động quân số 6, lính sư đoàn 18, Biệt khu Thủ đô và Đại đội viễn
thám thường xuyên thay nhau ruồng bố, càn quét...
Do vị trí chiến lược quan trọng, tháng 4.1966 Bộ Chỉ huy
Miền quyết định thành lập Đặc khu Rừng Sác là một khu quân
sự đặc biệt rộng 710km2. Đây là khu vực tập hợp 10 xã của nhiều
tỉnh, trong đó có 2 xã Phú Hữu và Phước Khánh của huyện Nhơn
Trạch.
Lực lượng đứng chân của ta trong kháng chiến chống Pháp
có Trung đoàn 300, bộ đội Lam Sơn, bộ đội địa phương Cần Giờ,
Trung đoàn 307 Bình Xuyên. Từ năm 1966 đến 1975, có Bộ Chỉ
huy nhẹ, Đại đội 5, 1, 2, 3 của Đoàn 10 đặc công Rừng Sác.
51

6.2 Page 52

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hơn 90% nhân dân
Phước Khánh lam lũ với đồng ruộng, than củi, nghèo khó nhưng
tâm hồn phóng khoáng, tinh thần giàu lòng yêu nước. Nơi đây có
phong trào yêu nước sớm nhất tỉnh với danh nghĩa là Thiên Địa
Hội vào năm 1908 do cụ Nguyễn Xuân Sang phụ trách. Từ những
năm 1940, có nhiều cán bộ cách mạng từ Sài Gòn chạy về Phước
Khánh tránh sự khủng bố của thực dân Pháp, được đồng bào giúp
đỡ, che chở. Lực lượng Thanh niên Tiền phong được xây dựng
1945 bởi thủ lĩnh Đọt (đồng chí Thanh Ba, nay là Thiếu tướng).
Ngày 25.8.1945, mặc dù ở khá xa, biệt lập so với các xã khác
trong huyện nhưng được tin Việt Minh cướp chính quyền thì ở xã
Phước Khánh cũng tổ chức cướp chính quyền thắng lợi. Chính
quyền cách mạng được thành lập, đủ các ban ngành có từ 5 đến 7
người.
Cuối năm 1946, đồng chí Lâm Văn Tám người xã Phước
Khánh được kết nạp vào Đảng. Đến tháng 10.1948, Chi bộ xã
được thành lập gồm 4 đồng chí. Năm 1950, kết nạp 34 đồng chí
đưa tổng số đảng viên toàn xã lên 38 đồng chí (có 33 chính thức,
5 dự bị).
Từ đầu năm 1946, Hội Mẹ chiến sĩ xã Phước Khánh tổ chức
xây dựng phong trào hoạt động Hũ gạo nuôi quân, có 145 gia đình
hưởng ứng sôi nổi. Chỉ tính từ năm 1947 - 1951 xã đã góp được
36 ngàn lít gạo. Phong trào đóng thuế nông nghiệp và tự nguyện
nuôi quân tại nhà cũng rất sôi nổi. Từ năm 1946 - 1951, trung bình
hàng năm đồng bào đóng từ 10 - 20 tấn lúa về cấp trên và hàng tấn
gạo nuôi bộ đội tại xã.
Hơn 100 gia đình đã đóng góp nhiều lư nhang, chân đèn và
đồ dùng quý bằng đồng được cất giữ lâu đời trong tuần lễ vàng,
52

6.3 Page 53

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
tuần lễ bạc. Sau 1 tuần, 8 ngàn kg đồng được chuyển cho công
binh xưởng đúc vũ khí.
Hàng tháng, các mẹ, các chị đều lo gạo, tiền, thuốc men đi
thăm bộ đội và thương binh. Mỗi lần đi, đoàn có từ 10 - 40 người.
Có lần gặp địch, các chị phải lội sình, vác ghe, đồ đạc đi cả 4 -
5km mới tới được. Tuy có trở ngại nhưng các chuyến thăm anh em
vẫn thường xuyên được tổ chức, ngoài tình yêu thương chăm sóc,
đùm bọc dành cho chiến sĩ, thương binh, người dân Phước Khánh
còn rất hào hiệp với các địa phương khác. Đầu năm 1946, đồng
bào ở Xuân Lộc bị đói, Phước Khánh đã cử đoàn cán bộ lên thăm
hỏi, chia sẻ, đón 25 hộ 70 người về xã để chăm lo, giúp đỡ tạo điều
kiện cho họ sinh sống. Khi nạn đói bão lụt năm Thìn 1952 hoành
hành, địch lại tăng cường phong tỏa, chặn hầu hết các ngả đường
sông, đường bộ không thể qua lại được. 36 cán bộ xã và huy động
hơn 50 người dân đào một con mương bí mật xuyên qua rừng Chà
Là cắt sông Sở Dừa dài hơn 2km trong suốt 1 tháng trời để đưa
23 ngàn giạ lúa về chiến khu Phước An. Người dân trong xã cũng
tham gia mua công trái phiếu ủng hộ Chính phủ 1.250.000 đồng.
Trong phong trào Tiêu thổ kháng chiến, nhân dân xã Phước
Khánh đã tự phá 150 căn nhà, có 50 căn nhà kiên cố. Đồng bào
giáo dân cũng kiến nghị chính quyền xin tự triệt hạ hệ thống phụ
của nhà thờ. Nhờ vậy mà quân Pháp khi chiếm đóng ở đây xây
dựng đồn bót chậm hơn so với các xã lân cận.
Toàn xã có 260 thanh niên tòng quân (19 nữ, 30 là thanh niên
Công giáo). Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ nữ phối hợp với các đoàn
thể của xã 5 lần tổ chức gần 1 ngàn lượt người lên Thành Tuy Hạ
yêu cầu chống bắn pháo và càn quét bừa bãi; từ năm 1951 - 1954,
vận động 20 tề, xã và hàng trăm binh sĩ bỏ ngũ về sinh sống với
gia đình.
53

6.4 Page 54

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lực lượng du kích xã được thành lập sau ngày cướp chính
quyền, 1 tiểu đội gồm 12 đồng chí trang bị 1 súng phun lửa, 1
súng 2 nòng, còn lại là mác, mã tấu. gậy tầm vông. Đến năm 1948,
đội du kích được trang bị đủ súng, làm nhiệm vụ bảo vệ Đảng,
chính quyền, trấn áp bọn tạo phản, giữ địa bàn, chiến đấu, phục
vụ chiến đấu, đưa rước cán bộ... Trong thời kỳ chống Pháp, quân,
dân Phước Khánh đã tổ chức đánh gần 200 trận, diệt 167 tên, thu
hơn 100 súng, hàng trăm lựu đạn.
Ngày 20.3.1947, 1 đại đội Pháp và lính Cao Đài từ Bình
Khánh càn sang, 9 du kích phối hợp với lực lượng chi đội 3 chặn
đánh. Khi ghe địch vừa tới, ta nổ súng và ném lựu đạn, bắn chìm
1 thuyền, diệt 16 tên, thu 10 súng, bẻ gãy cuộc càn.
Tháng 3.1948, địch tổ chức càn lớn vào Phước Khánh. 1
tiểu đoàn du kích và lực lượng của trên đã chia làm nhiều tổ, chốt,
chặn chia cắt địch ra nhiều hướng tiêu diệt. Bị đánh bất ngờ địch
tháo chạy, bỏ lại 6 xác chết, ta thu 5 súng, bảo vệ được 5 ngàn giạ
lúa cho huyện.
Cuối năm 1948, du kích Phước Khánh phối hợp với du kích
Phú Hữu bao vây bức hàng 2 đồn địch ở rạch Miễu và Miễng
Sành (xã Phú Hữu) trong suốt 2 tháng liền, buộc địch phải rút khỏi
đồn.
Sau hiệp định Genève năm 1954, cán bộ, đảng viên trong xã
đi tập kết, chỉ còn lại 1 đồng chí bám giữ xây dựng phong trào.
Đến tháng 12.1956, 10 đồng chí trong số tù chính trị phá khám
Tân Hiệp ở Biên Hòa về Phước Khánh được đồng bào che chở
nuôi giấu. Đây là những cán bộ kiên trung, là nòng cốt cho phong
trào cách mạng ở xã. Năm 1960, Chi bộ Đảng xã Phước Khánh
được thành lập có 6 đảng viên. Năm 1961 xã phát triển thêm 1 chi
bộ B (hoạt động hợp pháp) gồm 4 đồng chí. Trong thời kỳ ác liệt
54

6.5 Page 55

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
nhất (1966 - 1972) có lúc chi bộ chỉ còn 3 đồng chí, nhưng vẫn
không rời địa bàn.
Quân dân xã Phước Khánh có phương châm quân sự là: Bằng
cách đánh nhỏ, lẻ, chủ yếu là diệt ác, thám báo chỉ điểm, gài trái,
mìn để tạo thế cho các đơn vị thuộc Đoàn 10 đặc công Rừng Sác
đứng chân làm nhiệm vụ trọng yếu. Quân và dân Phước Khánh đã
đánh 508 trận, diệt 426 tên có 34 lính Mỹ, 24 ác ôn, loại 65 tên,
bắt sống 2 tiểu đội, gọi hàng 134 tên, rã hơn 100 tên, thu 412 súng,
3 máy phá thông tin PRC10, 1 máy PRC25, hàng trăm mìn trái,
hàng ngàn đạn các loại, bắn cháy 2 máy bay trực thăng, phá và bắn
chìm 26 tàu xuồng quân sự (do Đoàn 10 đánh), có 1 tàu trọng tải
trên 10 ngàn tấn.
Tháng 4.1963, du kích đã cùng với 40 thanh niên trong xã
chỉ trong 1 đêm đã phá bứt 3 cầu, cắt đứt đường giao thông trên
bộ, hỗ trợ cho đồng bào trong 3 tháng liên tục 9 lần phá ấp chiến
lược, phá banh hơn 3 km rào kẽm gai của 2 ấp chiến lược, buộc
địch phải bỏ xây dựng.
Tháng 5.1964, lực lượng du kích chặn đánh một trung đội
địch đi càn, diệt 3 tên, thu 4 súng, bẻ gãy cuộc càn.
Ngày 27.2.1966, địch từ Nhà Bè càn qua. Du kích Phước
Khánh do Xã đội trưởng Hòa chỉ huy, ém quân ở khu vực trại vịt
nhà bác Tám, để cho toán địch vô bắt vịt và mất cảnh giác, ta nổ
súng, cả tiểu đội địch bị diệt, ta thu 4 súng ga-răng, 2 súng cac-bin,
24 lựu đạn, từ đó đón đánh bọn càn quét vào ấp 1, 2. Được tin 8
du kích Phước Khánh chặn đánh cả đại đội địch, Bí thư Huyện ủy
Nguyễn Văn Thông ra tận nơi tổ chức rút kinh nghiệm trận đánh,
quyết định tặng lại 2 khẩu súng cac-bin mà du kích đã thu được.
Tháng10.1966, 2 du kích dùng trái phục kích bọn lính Mỹ đi
càn, trái nổ, diệt 6 tên Mỹ.
55

6.6 Page 56

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Ngày 21.7.1967, từ khu Nhà Bè địch càn sang Phước Khánh.
Chúng đổ quân bằng trực thăng, du kích xã cùng với Đoàn 10 chia
làm 4 tổ chiến đấu. Dựa vào ô vụ, giao thông hào, lực lượng đã
chiến đấu suốt từ 9 giờ đến 16 giờ cùng ngày, diệt 38 tên (có 19
lính Mỹ), bắn cháy 2 máy bay trực thăng, thu 2 súng M116, 1 súng
col ngắn côn 45ly.
Tháng 8.1967, du kích phục vụ cho Đoàn 10 đánh chìm 1 tàu
lớn chở vũ khí trên sông Lòng Tàu giữa ban ngày.
Cũng trong tháng này, du kích chuyển 11 khẩu ĐKB từ sát
sông Nhà Bè về ấp Miễng Sành, bố trí canh gác, giữ bí mật cho
trận đánh. Trận đánh này, ta bắn trúng kho xăng Nhà Bè cháy suốt
16 tiếng đồng hồ.
Tháng 3.1973, 2 tiểu đội địch đột nhập vào căn cứ du kích
chỉ còn 5 đồng chí (có 2 nữ) vì anh em đi công tác chưa về. Do
phát hiện trước, các đội viên du kích chủ động tấn công đánh địch
bị đánh bất ngờ, địch rút lui bỏ lại 4 xác chết, ta thu 40 súng.
Về đấu tranh chính trị - binh vận, quân dân xã Phước Khánh
lấy phương châm: chính trị binh vận kết hợp với vũ trang, diệt ác,
phá kìm, làm lỏng sự kìm kẹp của địch, phải giữ được địa bàn, dân
cư, giữ địa bàn cho Đoàn 10 đứng chân. Nội dung đa dạng, phong
phú, hình thức thì tế nhị, sâu lắng, không tổ chức theo quy mô lớn
với năm, ba trăm người rầm rộ trương cờ, biểu ngữ đi đấu tranh
như các xã khác.
Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ nữ xã thường xuyên thăm hỏi,
viếng, giúp đỡ các gia đình binh sĩ, kể cả sĩ quan chế độ Sài Gòn
khi có hữu sự. Hàng ngàn bức thư thăm hỏi của người dân, dòng
tộc, xóm làng gởi cho binh sĩ, sĩ quan, cả với nhà chức trách để
thăm hỏi, khích lệ, kiến nghị yêu sách, nhằm nới lỏng sự kìm kẹp,
ruồng bố của địch.
56

6.7 Page 57

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
24 tên ác ôn bị diệt, ấp chiến lược 9 lần bị phá, gọi hàng 134
tên, hơn 100 tên rã ngũ, hơn 200 thanh niên trốn lính là kết quả
của công tác chính trị, kết hợp với binh vận. Ngoài ra, còn có một
số thành tích điển hình trong công tác chính trị, binh vận kết hợp
ở Phước Khánh như:
Tháng 3.1955, có một cuộc di dân lớn về Long Thành, cư
dân đã lên đến 7 ngàn người ở thị trấn Long Thành và Đại Phước,
đông nhất là Phước Khánh 4 ngàn người. Việc di dân kèm theo
những “chính sách” gọi là ưu đãi của chính quyền Ngô Đình Diệm
để lung lạc gây chia rẽ giữa dân di cư và dân địa phương như: cấp
đất, lập trại, cấp giống, vật nuôi, đồ dùng, vật dụng... Nắm được ý
đồ của địch, ta vận động giáo dân ở địa phương làm nòng cốt đấu
tranh đòi quyền lợi như: nhà ở, nước uống... Cuối năm 1955, địch
phải đưa số dân này về xã Vĩnh Thanh, là địa phương lúc đó còn
thưa thớt người.
Trung thu năm 1955, Ngô Đình Diệm cũng bày trò gửi thơ
cho thiếu nhi thì Phước Khánh xuất hiện bài vè:
Thiếu nhi là cháu Bác Hồ
Ai thèm làm cháu thằng Ngô bao giờ.
Rồi câu vè đó cứ râm ran truyền đi, đến tai “ông” Diệm và từ
Trung thu sau “ông” không viết thư nữa.
Trên cầu Phước Khánh, địch giăng một khẩu hiệu lớn “Diệt
cộng là yêu nước” thì sáng hôm sau chữ yêu được thêm dấu sắc,
địch tức tối phải tháo xuống.
Quân dân Phước Khánh còn tổ chức cuộc binh biến lấy đồn
Phước Khánh năm 1955 rất ngoạn mục. Đồn Phước Khánh do
Trung úy Lạc làm Trưởng đồn, Tư Thức (là con liệt sĩ của 1 gia
đình trong chống Pháp) làm Đồn phó. Bà Phan Thị Nho, má của
57

6.8 Page 58

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đồng chí Bí thư Huyện ủy Nguyễn Văn Thông quen biết với má
của Tư Thức đã dùng kế ly gián, loan tin cho lính trong đồn tin tối
mật: Trung úy Lạc đã có danh sách gửi lên trên, phần đông lính
trong đồn là Bình Xuyên chui vô để lợi dụng thời cơ nổi dậy, má
của Tư Thức là người cầm đầu. Tư Thức kêu Trung úy Lạc sang
phòng mình bàn công việc, Lạc không biết qua liền thì bị Tư Thức
kết liễu bằng 1 viên đạn và tuyên bố với binh sĩ Trung úy Lạc định
tạo phản đã bị trừng trị, anh em ai muốn theo cách mạng thì theo,
không thì về nhà làm ăn. Gần 50 binh sĩ ta tuyển được 21 anh em,
còn cho về nhà làm ăn, ta thu súng 54 súng. Huyện ủy sau đó điều
đồng chí Nguyễn Minh (Năm Ninh) Đội trưởng đội du kích sang
làm phó, thành lập lực lượng giáo phái Bình Xuyên, do Tư Thức
là Trưởng. Lực lượng này sau tham gia đánh đồn Long Tân, đánh
chốt địch ở chợ Đại Phước, trận đánh này Tư Thức hy sinh.
Mô hình Hũ gạo nuôi quân được duy trì đến ngày giải phóng.
Từ 145 gia đình đã lên tới 416 gia đình, chỉ trong 15 năm (1960
- 1975) nhân dân đã đóng góp được 21.200 lít gạo, 30 ngàn giạ
lúa chuyển về huyện và tỉnh. Năm 1963, địch phong tỏa gắt gao
đường vận chuyển. Một lần nữa, cán bộ và nhân dân xã lại đào
tát một con mương từ Rạch Miễu, qua Sở Dừa đến Phú Hữu để
chuyển 25 ngàn giạ lúa về trên.
Đối với bộ đội Đoàn 10, từ năm 1966 - 1975, mỗi ngày đồng
bào Phước Khánh đã cung cấp lương thực cho gần 300 cán bộ và
chiến sĩ, số lương thực phục vụ Đoàn 10, ước tính 22.680kg gạo,
nhân dân còn làm tốt thu đảm phụ bằng lúa trong 10 năm được
360 tấn.
Phục vụ chiến dịch Mậu Thân 1968, nhân dân đã đóng góp
cho bộ đội và du kích 2 triệu đồng tiền mặt, mua 1,2 triệu đồng
lương thực, thực phẩm, thuốc men, ủng hộ 300 con vịt.
58

6.9 Page 59

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Lực lượng thường xuyên của xã có từ 5 - 12 đồng chí bổ
sung cho lực lượng của huyện. Trong chống Mỹ có gần 200 thanh
niên được bổ sung về trên, xã thành lập tổ dân, tổ giao liên, tải
đạn, lương thực, thực phẩm, đưa đón cán bộ, đơn vị đi làm nhiệm
vụ, huy động gần 30 ngàn lượt người đào kênh mương để chuyển
lương thực về trên. Xã cũng thành lập tổ thu lượm bom đạn lép.
Hằng tháng có ghe của huyện xuống chở, nếu kẹt hoặc anh em cắt
đường vận chuyển về trên hoặc chuyển cho Đoàn 10 chế tạo thành
thủy lôi để đánh tàu. Bom đạn lép mà xã thu lượm được hàng trăm
trái, góp một phần không nhỏ trong việc tự tạo trái để đánh giặc.
Một số người dân ở Phước Khánh có đóng góp tiêu biểu
cho cách mạng như: Linh mục Nguyễn Văn Hầu (Tự Hiệu), má 6
Nhiều, anh Nguyễn Văn Ba (Ba chày mổ), anh Nguyễn Văn Ninh,
ông Lâm Văn Tám , gia đình ông Phan Văn Long, má Út Ràng,
gia đình ông Nguyễn Văn Cự, gia đình ông Trần Văn Cảnh, gia
đình Chú Bảy Độ , chị Ba Cầm (Nhụy) anh Phan Văn Hòa, vợ
chồng anh Sô, chị Chín Mi, anh Sáu Lô, chị Tới, chị Huệ...
Với địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Địch cố giữ, ta
quyết đánh, cuộc chiến ở đây diễn ra quyết liệt, từng ngày từng
giờ, kể từ năm 1966 khi bộ đội Đoàn 10 về đứng chân trên vùng
đất này.
Địch cho rằng không một điểm xuất quân nào khác ngoài
Phú Hữu, Phước Khánh, Rạch Lá... Do đó, địch thường xuyên
dùng lực lượng đặc khu, liên đoàn biệt động quân số 6, càn quét,
chà đi xát lại nhiều lần. Pháo binh thường xuyên bắn cấp tập cả
giờ đồng hồ, B52 rải thảm. Bom đạn, pháo, cày xới, đào khoét
làm mặt đất biến dạng mà đến nay vẫn chưa san lắp được. Bom
phát quang, chất độc hóa học đã hủy diệt hàng trăm héc-ta lúa, hoa
59

6.10 Page 60

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
màu, vườn tược, hàng ngàn héc-ta Rừng Sác bị tàn phá nặng nề,
phá hoại hệ sinh thái của rừng.
Tháng 9.1966, Nha cảnh sát Đô Thành thông báo treo thưởng
10 ngàn đồng cho nhân viên nào bắt được hoặc giết được 1 “Việt
cộng”. Ủy ban hỗn hợp Sài Gòn, Trung tá Nguyễn Văn Luận,
Giám đốc cảnh sát cũng ra thông báo:“đồng bào tự tay hạ sát hoặc
chỉ cho cơ quan an ninh bắt được 1 tên Việt cộng thưởng từ 50-
100 ngàn đồng”, hoặc “ai tiếp tế cho Việt cộng 1 lít gạo cũng bị tử
hình”. Về mùa khô, chúng phong tỏa các tuyến đường, triệt nguồn
nước ngọt. Đêm đến, trên các sông rạch, tàu, xuồng địch thường
xuyên thả để phục kích, thế là chạm súng. Những trận đánh lấy
nước ngọt cũng trở nên quyết liệt. Địch càn vào căn cứ, làng xóm
chúng đập phá lu, hũ, bồn đựng nước. Giọt nước mùa khô quý như
giọt máu. Địch đã gây tổn thất lớn đến cách mạng.
Thế nhưng, quân dân xã Phước Khánh vẫn kiên cường chiến
đấu. Trước tiên phải nhắc đến sự hy sinh to lớn của bộ đội Đoàn
10. Đặc biệt là Đại đội 5 đơn vị đặc công của Bộ được điều từ
miền Bắc vào quân số 130 đồng chí, vượt Trường Sơn đã hy sinh
10 đồng chí, đến Tây Ninh được chia làm 2 đơn vị lấy ký hiệu 5A
và 5B là đơn vị đặc công thủy. 5A được chuyển về Vũng Gấm,
Nhơn Trạch, 5B về Sài Gòn. “Gia đình” 5A đứng chân trên địa
bàn Phước Khánh được nhân dân rất tin yêu, giúp đỡ chở che như
chính những đứa con ruột thịt của mình. Đến tháng 4.1971, 5A chỉ
còn đủ mâm cơm 6 đồng chí, rồi đến các chiến sĩ C1, C2, C3 của
Đoàn 10 cũng bị tổn thất nhiều.
Thiệt hại của nhân dân thì tăng lên gấp bội, hơn 1 ngàn căn
nhà bị phá sập hoặc cháy trụi, có nhiều gia đình bị đốt phá nhiều
lần. 200 thường dân vô tội bị chúng sát hại, trong đó có 40 phụ nữ
và em nhỏ, hơn 6 ngàn giạ lúa bị cướp, bị cháy, trên 200 trâu bò,
60

7 Pages 61-70

▲back to top


7.1 Page 61

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
hàng ngàn gà vịt bị địch bắn chết hoặc cướp mất, hàng ngàn héc-ta
ruộng bị bỏ hoang hóa. Hàng trăm người dân bị địch tình nghi, bắt
giữ, giam cầm đánh đập rất dã man, ở đủ các nhà tù, nhiều người
trở thành tàn phế, rất thương tâm, như: má con chị Chín Tiến đều
bị tù, khi cách mạng giải phóng nhà tù, 2 má con chỉ gặp nhau
trong phút chốc rồi chị trút hơi thở cuối cùng khi tuổi đời chưa
tròn 20...
Suốt trong 2 cuộc kháng chiến đánh Pháp và Mỹ, lòng dân
Phước Khánh luôn hướng theo Đảng và Bác Hồ kính yêu, tin
tưởng thắng lợi nên một tấc không đi, bám đất, bám làng, chiến
đấu sản xuất.
Về quân sự quân dân xã Phước Khánh đánh trên 700 trận, có
100 trận phối hợp với bộ đội Đoàn 10, các đơn vị của trên, diệt 593
tên, có 34 lính Mỹ, 24 ác ôn, thám báo, thu 562 súng các loại, gọi
hàng 134 tên, bắt sống 50 tên, loại 65 tên, rã gần 300 tên, bắn cháy
2 máy bay trực thăng, phá và đánh chìm 35 tàu xuồng quân sự, có
1 tàu trọng tải trên 10 ngàn tấn, thu hàng ngàn đạn các loại...
Hũ gạo nuôi quân của người dân trong góp được 57.200 lít,
gạo cung cấp cho đoàn 10 được 30.260 lít; lúa đẩm phụ góp 1.650
tấn, lúa tự nguyện đóng góp được 1.720 tấn, mua công trái phiếu
được 1.250.000 đồng, góp 8 ngàn kg đồng, huy động trên 30 ngàn
lượt ngày công, 3 lần đào mương để tạo đường vận chuyển lương
thực vũ khí, đạn dược, đào 300m giao thông hào, đắp 95 ô ụ chiến
đấu.
Thanh niên tòng quân là 360, bổ sung cho trên và xây dựng
lực lượng xã. Rất nhiều các đồng chí trưởng thành, giữ chức vị cao
của Đảng và Nhà nước (1 Trung tướng, 1 Thiếu tướng, 2 Thiếu tá,
3 Tỉnh ủy viên).
61

7.2 Page 62

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Toàn xã có 114 gia đình liệt sĩ, 6 gia đình có công, 3 bà Mẹ
Việt Nam Anh hùng.
Vào năm 1973, quân dân xã Phước Khánh được Tư lệnh
Miền tặng Huân chương Giải phóng hạng Ba; xã còn được tặng 36
Huân chương Giải phóng hạng Nhất, 18 Huân chương Giải phóng
hạng Nhì,38 Huân chương Giải phóng hạng Ba; 12 Huân chương
Chiến thắng; 39 Huân chương Chiến công; 28 Huân chương Vẻ
vang; Đội 5 thuộc Đoàn 10, 3 lần tuyên dương anh hùng (các
năm 1972, 1973, 1975); danh hiệu Thành đồng Quyết thắng (năm
1968 - 1969); 2 liệt sĩ được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân (đồng chí Xê, Dần)
Đặc biệt, năm 2000 nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phước
Khánh được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu Tập thể
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
62

7.3 Page 63

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN XÃ LONG TÂN
Xã Long Tân1 nằm phía Tây Bắc của huyện Nhơn Trạch,
phía Đông giáp xã Phú Hội, phía Tây giáp xã Phú Thạnh, phía
Nam giáp xã Phước An, phía Bắc được bao bọc bởi dòng sông
Đồng Nai, bên kia bờ sông là huyện Thủ Đức (nay là quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh).
Xã nằm dọc 2 bên liên tỉnh lộ 25A (trước kia là liên tỉnh lộ
17) dài 5km. Tổng diện tích tự nhiên 3.537 héc-ta, là xã rộng thứ 2
của huyện Nhơn Trạch, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 2.609
héc-ta chủ yếu là trồng lúa và hoa màu.
Dân số toàn xã hiện có 6.919 người với 1.379 hộ gia đình,
hầu hết là người tại chỗ lâu đời,. Nghề nghiệp chủ yếu sống bằng
nghề nông của người dân trong xã là lao động nông nghiệp chiếm
85%. Trước đây, xã có Sở Cao su Tân Tường được thành lập từ
thời Pháp thuộc nên có 1 bộ phận dân cư trong xã làm công nhân
cao su. Đến nay, Sở Tân Tường đã được sáp nhập vào Nông trường
cao su Thành Tuy Hạ, diện tích cao su trên địa bàn xã có 350 héc-
ta và số dân trong xã là công nhân cao su có 400 người. Dân cư
còn lại trong xã sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau như: đánh
bắt thủy sản, tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
63

7.4 Page 64

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Long Tân có vị trí chiến lược khá quan trọng đối với huyện
Nhơn Trạch: xã có diện tích lớn, trải dài theo trục lộ 17 - liên tỉnh
lộ quan trọng để vận chuyển vũ khí, lương thực, quân đội từ Long
Thành về, từ Sài Gòn lên; xã lại nằm trong vành đai (cách 5km)
của tổng kho bom đạn Thành Tuy Hạ - kho đạn lớn nhất miền
Nam thời Pháp và thứ 2 ở miền Nam thời Mỹ.
Địa hình xã phức tạp: phía Bắc đồng ruộng giáp sông Đồng
Nai là con đường thủy huyết mạch, vượt qua sông là đất Sài Gòn.
Phía Nam là rừng giồng mênh mông nối liền với chiến khu Phước
An là một vùng căn cứ nổi tiếng Long Thành - Nhơn Trạch trong
cả 2 thời kỳ kháng chiến.
Với địa hình như vậy, Long Tân là nơi rất thuận lợi cho việc
trú quân, là điểm xuất phát cho những trận đánh kho bom đạn,
đánh tàu giặc trên sông và các đồn bót quanh vùng. Do đó, trong
cả 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, xã Long Tân luôn là lõm
căn cứ của các đơn vị bộ đội, du kích, của các cơ quan Huyện ủy.
Nhiều năm liền đầu thời kỳ kháng chiến Long Tân còn giữ được
vị trí là vùng tự do của kháng chiến, vùng giải phóng của cách
mạng.
Lực lượng vũ trang trên địa bàn xã trong thời kỳ chống Pháp,
ngoài các lực lượng tự vệ dân quân, du kích xã còn có các bộ phận
đơn vị cơ động của công an xung phong huyện, của các chi đội và
trung đoàn chủ lực thường xuyên qua lại. Trong giai đoạn chống
Mỹ, bên cạnh du kích Long Tân còn có đại đội huyện C240 và các
đơn vị thuộc bộ phận cơ động của Đoàn 10 đặc công Rừng Sác.
Về phía địch, do biết rõ vị trí quan trọng của xã nên cả trong
2 thời kỳ Pháp, Mỹ xâm lược, chúng đều tìm mọi cách đánh phá
phong trào cách mạng ở địa phương, xây dựng tề xã và mạng lưới
gián điệp, chỉ điểm để khống chế đồng bào trong xã, xây dựng
64

7.5 Page 65

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
đồn bót xung quanh để khống chế đường di chuyển của ta. Khi
không vào được xã, địch bắn pháo cả ngày đêm để quấy rối, tổ
chức nhiều đợt càn quét thọc sâu đốt nhà, giết người, rải chất độc
hóa học phá hoại cây cối hoa màu, sử dụng xe tăng, xe ủi phá rừng
căn cứ.
Vào thời kỳ ác liệt, cao điểm là những năm 1969-1972, địch
đóng trong địa bàn xã tới 9 đồn. Mỗi đồn 1 trung đội lính địa
phương quân, nghĩa quân; 1 phân chi khu 12 lính và sĩ quan; l
cuộc cảnh sát 12 tên, 1 liên đoàn bình định xây dựng nông thôn.
Ngoài ra còn có các chốt Mỹ 2 tiểu đoàn và chốt lính Thái Lan 2
tiểu đoàn hòng đánh tan rã các lực lượng vũ trang và phong trào
cách mạng của nhân dân Long Tân.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở xã Long
Tân đã nhen nhóm những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột.
Năm 1927, công nhân Sở Cao su Tân Tường trong xã đoàn
kết đấu tranh với chủ Tây đòi tăng lương, chống cúp phạt, đòi
nghỉ chủ nhật và đuổi tên cai gian ác của đồn điền. Công nhân cử
đại diện đến tận nhà chủ sở gửi yêu sách, kết quả chủ Tây phải
nhượng bộ. Từ đó trong công nhân cao su Long Tân đã có cơ sở
Công hội đỏ hoạt động.
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, một số cơ sở mật của
Đảng ở Sài Gòn bị lộ chạy về Long Tân, đã được đồng bào trong
xã cưu mang, giúp đỡ, che giấu và các đồng chí tiến hành tuyên
truyền cách mạng cho giới trẻ trong xã, tạo đà cho phong trào
thanh niên Long Tân phát triển sau Cách mạng tháng Tám.
Ngày 24.8.1945, cùng với toàn huyện, nhân dân Long Tân
vùng lên nhanh chóng giành chính quyền. Ngày 25.8.1945, hàng
trăm thanh niên và các tầng lớp nhân dân trong xã hăng hái xung
phong lên Sài Gòn tham gia cướp chính quyền.
65

7.6 Page 66

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trong khí thế cách mạng sôi nổi, phong trào thanh niên
Long Tân phát triển mạnh mẽ, Đoàn thanh niên Tiền phong của
xã nhanh chóng hình thành, chỉ trong 2 ngày xã tập hợp được 180
thanh niên vào tổ chức tham gia mọi mặt hoạt động phục vụ cách
mạng, bảo vệ thôn xóm. Ngày 16.9.1945, cùng với thanh niên các
xã trong huyện, những thanh niên đầu tiên của Long Tân đã tự
nguyện đăng ký lên đường tòng quân.
Thực hiện phong trào toàn dân ủng hộ kháng chiến, ngay từ
cuối năm 1945 đồng bào Long Tân đóng góp cho cách mạng hàng
ngàn giạ lúa. Phong trào Hũ gạo nuôi quân được hầu hết người
dân trong xã thực hiện trong suốt những năm 1946 - 1948, chuyển
đến các đơn vị bộ đội hàng trăm tấn gạo. Nhiều cơ sở vượt qua sự
kiểm soát của địch mua, tiếp tế quần áo, thuốc men cho bộ đội.
Để phá hoại kinh tế địch, nhằm vào cơ sở khai thác của các
chủ đồn điền Pháp, nhân dân đã huy động hàng trăm công chặt
phá, vạt vỏ cao su, đập chén mủ, nhổ máng mủ làm cho hàng chục
ngàn cây cao su không khai thác được.
Hưởng ứng lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến, đầu năm 1947
đồng bào Long Tân huy động hàng trăm ngày công dùng đục sắt
chặt đứt chiếc cầu sắt lớn trên lộ 17 qua xã. Hàng trăm gia đình
chặt vườn cây, dỡ nhà, cất giấu lương thực lúa gạo dời về chiến
khu Phước An. Phong trào đào đường, đắp ụ chiến đấu cản bước
tiến của giặc Pháp diễn ra sôi nổi trong suốt các năm 1948 - 1949.
Nhân dân trong xã góp hàng vạn ngày công chặt gỗ lớn trong rừng
về trồng cọc xen với hầm hố trên một vành đai dài 5km từ ranh
giới Long Tân - Phú Hội đến Phú Thạnh, đào gần 100 hầm lớn
chống chiến xa, đặt hố chông, gài lựu đạn góp phần giữ vững vùng
tự do ở 2 ấp Long Hiệu, Vĩnh Tuy trong nhiều năm liền. Trong
Tuần lễ Đồng năm 1948, hầu hết các gia đình trong xã có đồ đồng
66

7.7 Page 67

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
đều đem ra đóng góp cho cách mạng. Toàn xã đã chuyển hàng tấn
đồng, nhiều tấn gang, sắt về chiến khu.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân trong xã Long Tân
đưa hơn 100 con em lên đường nhập ngũ. Điển hình trong phong
trào tòng quân cứu nước là 1 nhóm nhỏ ở ấp Bình Phú chỉ có 34
hộ dân hầu hết làm ở Sở cao su, một số làm rẫy và nghề tự do, chỉ
trong 2 năm 1945 - 1946 đã có 31 thanh niên nhập ngũ, có 13 liệt
sĩ trong thời kỳ chống Pháp.
Sự đóng góp hy sinh to lớn của nhân dân Long Tân góp phần
làm nên những chiến công trong kháng chiến chống Pháp. Cụ thể
sau Cách mạng tháng Tám thắng lợi, từ phong trào thanh niên tiền
phong, xã Long Tân đã xây dựng được lực lượng dân quân chiến
đấu. Đến năm 1946, mỗi ấp của xã đều có một tiểu đội dân quân,
toàn xã có l trung đội du kích do đồng chí Phạm Tự Do chỉ huy.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, du kích xã Long Tân
vừa chiến đấu độc lập, vừa phối hợp tác chiến với các lực lượng
chủ lực đã đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương nhiều
tên Pháp, ngụy, phá tề trừ gian hàng chục tên, hỗ trợ tích cực cho
phong trào quần chúng, giữ vững vùng tự do trong nhiều năm.
Ngày 25.1.1946, quân Pháp tấn công Nhơn Trạch, trận đầu
dân quân Long Tân cùng bộ đội đánh Pháp, trên suốt đoạn đường
qua xã, diệt hàng chục tên lính Âu - Phi.
Tháng 4.1946, du kích Long Tân và các xã xung quanh phối
hợp với bộ đội các chi đội vệ quốc đoàn đánh liên tiếp nhiều trận
tiêu diệt 2 trung đội Pháp, bắt sống 2 tên sĩ quan, phá hủy 2 xe
quân sự.
Đầu năm 1947, 2 trung đội lính Commando Thành Tuy Hạ
càn vào ấp Long Hiệu. Lực lượng liên thôn 12 và du kích xã phục
67

7.8 Page 68

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
kích trên đường lộ diệt 3 tên, làm bị thương 5 tên, buộc địch phải
rút quân.
Trong năm 1948, bằng những trận chống càn trong và ngoài
địa bàn xã, du kích Long Tân phối hợp bộ đội huyện diệt và làm bị
thương hơn 20 tên giặc, thu 13 súng trong đó có 1 trung liên.
Đặc biệt là trận đánh tàu mủ cao su tại rạch Cui trên sông
Đồng Môn vào đầu năm 1948. Lúc này, đường bộ bị phá, giặc
Pháp phải dùng thuyền để chở mủ cao su. Đoàn thuyền của địch
gồm 14 chiếc, có 2 trung đội lính yểm trợ. Đội du kích xã cùng đại
đội C Trung đoàn 310 Biên Hòa đứng chân ở Long Thành đã phục
kích, bất ngờ nổ súng đánh chìm tại chỗ 7 thuyền, diệt 7 tên lính.
Địch hoảng sợ rút chạy, quân ta đốt cháy 7 chiếc còn lại. Đoàn
thuyền địch bị phá hủy hoàn toàn.
Năm 1949, du kích xã đã đánh nhiều trận chống địch càn phá
hoại mùa màng, thu lại nhiều ghe lúa và 50 con trâu trả lại cho
dân. Trong đó, có trận Cầu Ván ở giáp xã Phú Thạnh, mặc dù địch
lên 1 đại đội Cao Đài, bên ta chỉ có 1 trung đội địa phương và đội
du kích xã, nhưng bằng lối đánh bất ngờ, quân ta đã diệt được 7
tên, làm bị thương 10 tên địch, phá vỡ cuộc càn.
Liên tục trong 2 năm 1948 - 1949, quân giặc càn vào Long
Tân đều bị du kích cùng bộ đội, công an xung phong đánh bật ra.
Chúng không sao vào được vùng tự do Long Tân mà chỉ bắn cối,
pháo từ các bót xung quanh vào xã quấy phá sinh hoạt của nhân
dân.
Công tác diệt tề, trừ gian ở Long Tân rất mạnh trong những
năm đầu chống Pháp khiến cho địch không lập được tề xã suốt
4 năm liền. Nhân vật nổi lên như một huyền thoại là đồng chí
Nguyễn Kim Quy (Ba Quy) quê ấp Long Hiệu, Long Tân. Đồng
68

7.9 Page 69

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
chí là chiến sĩ có tài diệt ác, trừ gian, đánh giặc nổi tiếng cả vùng
Nhơn Trạch. Tháng 4.1946, đồng chí Ba Quy bắt sống 6 tên tề xã
Mỹ Hội, thu 6 súng đưa về chiến khu. Các năm 1948 - 1949, đồng
chí trực tiếp thọc sâu trừng trị, cảnh cáo, thu súng, giáo dục hàng
chục tên tề xã, ấp ở Long Tân và các xã lân cận. Một mình 1 súng
2 nòng, đạn tự chế lấy, đồng chí Ba Quy đi khắp vùng Lòng Chảo
diệt tề, đánh giặc bằng lối đánh thông minh táo bạo, diệt và làm
bị thương nhiều lính Pháp, khiến binh lính địch đã có câu truyền
tụng “Gặp Ba Quy là rỗ mặt”. Địch treo giải thưởng rất lớn cho
cái đầu của anh. Đồng chí Nguyễn Kim Quy đã được kết nạp vào
Đảng năm 1948 tại chi bộ xã Long Tân và hy sinh tháng 7.1952
do bị lính Cao Đài phục kích tại ấp Long Hiệu.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, phong trào quần
chúng và đấu tranh chính trị ở Long Tân diễn ra sôi nổi.Thực hiện
âm mưu chia cắt nước ta lâu dài, sau khi đình chiến năm 1954,
Mỹ - Diệm đánh phá ác liệt phong trào cách mạng của quần chúng
ở Nhơn Trạch, trong đó có xã Long Tân.
Các đảng viên được Đảng phân công ở lại địa phương vẫn
tiếp tục bám trụ địa bàn tiếp tục hoạt động. Đầu năm 1958, chi bộ
Đảng xã Long Tân được thành lập lại với 4 đảng viên, xây dựng
căn cứ trên rừng Giồng, tổ chức bám quần chúng xây dựng cơ sở,
truyền đơn qua cơ sở được chuyển đến đồng bào trong xã và xã
bên (Phú Thạnh) và công nhân cao su ở Thành Tuy Hạ.
Do đó, sau ngày Đồng khởi, phong trào đấu tranh chính trị
và ủng hộ cách mạng của nhân dân trong xã được phát triển nhanh
chóng, manh mẽ. Phong trào Hũ gạo nuôi quân tiếp tục được nhiều
hộ dân trong xã hưởng ứng, mỗi tháng chuyển cho bộ đội từ 200-
300kg gạo, liên tục trong nhiều năm. Công tác binh vận được tổ
chức dưới nhiều hình thức như: các bà mẹ vận động con đào ngũ,
69

7.10 Page 70

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Hội Phụ nữ rải truyền đơn vào đồn địch kêu gọi binh lính bỏ súng
địch về làm ăn. Đồng bào có ruộng làm riêng cho du kích, cung
cấp lúa gạo cho anh em 2 năm liền.
Ngày 13.6.1961, địch càn vào Lòng Chảo, du kích xã cùng
bộ đội 195 tương kế, tựu kế đột kích phá tan chốt dân vệ ở ấp Long
Hiệu.
Năm 1963, cơ sở xã làm công tác binh vận, kêu gọi được 15
dân vệ ở đồng Long Tân làm nội ứng, tạo điều kiện cho du kích
tiến công đồn diệt 8 tên, gọi hàng 19 tên, thu 35 súng các loại.
Ngày 5.7.1964, Đại đội 240 của huyện cùng du kích xã phục
kích trên lộ 17 diệt 2 xe quân sự và 14 tên địch, trong đó có 1 thiếu
úy ngụy và 1 tên ác ôn của yếu khu Tuy Hạ. Trong năm này tại
trận đánh ở Vàm Ông Huê, du kích và bộ đội đã bắn chìm 4 tàu
địch, diệt 18 tên lính ngụy.
Những năm 1962 - 1964, địch ra sức đàn áp phong trào quần
chúng trong xã, dồn dân lập ấp chiến lược dựng tề xã, ấp kìm kẹp
song nhân dân Long Tân không khuất phục. Các cơ sở mật phục
vụ du kích, bộ đội đánh nhiều trận thọc sâu thắng lợi, diệt hơn 10
tên ác ôn, chỉ điểm, giải tán tề xã. Từ tháng 3.1965, được sự hỗ
trợ của lực lượng vũ trang, đồng bào Long Tân tổ chức được hàng
chục đợt phá ấp chiến lược, mỗi đợt có từ 100-150 người tham
gia. Đến cuối năm 1965, các ấp chiến lược của địch trong xã đều
bị phá tan, 3 trung đội dân vệ chiến đấu của địch tan rã. Trong khí
thế sôi nổi đó, hàng chục thanh niên Long Tân thoát ly vào căn cứ
tham gia kháng chiến.
Trong 2 năm 1964 - 1965, nhằm hỗ trợ cho phong trào phá
ấp chiến lược của đồng bào trong xã, du kích Long Tân đã nhiều
lần táo bạo thọc sâu vào lòng địch diệt ác, phá kìm, giải tán hội
đồng xã ấp và diệt hơn 10 tên ác ôn, điệp báo và lính bình định.
70

8 Pages 71-80

▲back to top


8.1 Page 71

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Giữa năm 1965, được cơ sở cung cấp tin tức, du kích Long
Tân và bộ đội 240 phục kích 1 tiểu đội lính nghĩa quân tại ấp Long
Hiệu, tiêu diệt 6 tên, thu 5 súng tiểu liên.
Trong năm 1966, du kích Long Tân và C240 của huyện đánh
2 trận thắng giòn giã, trong đó trận Bến Trảng (ấp Long Hiệu) ta
diệt 42 lính Cao Đài, bắt sống 1 tên, thu 22 súng các loại, có 1
đại liên và 3 trung liên. Trận tập kích đồn Long Hiệu, nhờ có cơ
sở nội tuyến, quân ta tiến công địch vào giữa đêm, diệt và làm bị
thương 9 tên, bắt sống 8 tên, thu 17 súng. Những trận đánh trong
năm 1966 đã làm ngụy quân, ngụy quyền binh lính, chính quyền
Nhơn Trạch rất lúng túng và hoảng sợ.
Như vậy, trong những năm 1965 - 1966, Long Tân trở thành
vùng giải phóng, địch không chiếm được. Chúng bắn pháo vào xã,
tổ chức càn quét bắt bớ quần chúng hàng chục người giam giữ đưa
lên khám Chí Hòa, đày ra Côn Đảo nhưng nhân dân Long Tân vẫn
đấu tranh mạnh, liên tiếp tổ chức hàng chục cuộc đấu tranh từ 30
- 50 người kéo lên đồn, lên quận lỵ Nhơn Trạch đòi chúng không
được bắn pháo vào nhà cửa, vườn tược, đòi bồi thường hư hao cây
trái và nhà dân. Nhân dân trong xã còn tham gia gần ngàn ngày
công đào đường, phá cầu cống, đắp ụ ngăn chặn giao thông trên lộ
17, đi dân công tải thương, tải đạn cho bộ đội đánh giặc.
Trong đợt tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm
1968, nhiều quần chúng trong xã dùng ghe chở bộ đội qua sông
đánh giặc. Có hàng trăm gia đình chà gạo từ 50 - 100 lít (khoảng
80kg) dự trữ cùng thực phẩm, muối để tiếp tế cho bộ đội. Chị em
phụ nữ tổ chức được nhiều đợt thăm, tặng quà cho bộ đội, thương
binh động viên chiến sĩ đánh giặc.
Tháng 2.1968, sau khi nghiên cứu năm quy luật hoạt động
đường sông của tàu giặc, du kích Long Tân cung cấp tin và phối
71

8.2 Page 72

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
hợp 1 phân đội của bộ đội Đoàn 10 đặc công Rừng Sác phục kích
đánh tàu tải đạn của Mỹ ở khu vực rạch Ông Cuôi, ấp Vĩnh Tuy,
đánh chìm 3 tàu, 8 xà lan, 8 ngàn tấn bom, đạn các loại và thu 1
ngàn trái cối 81 của địch. Tiếp đó, cũng tại ấp Vĩnh Tuy, du kích
cùng bộ đội 240 của huyện đánh địch càn quét diệt 35 tên, làm bị
thương 17 tên, bắt sống 1 tên.
Đặc biệt, những năm 1969 - 1971 là giai đoạn cực kỳ ác liệt
ở huyện Nhơn Trạch, địch sử dụng tới cấp trung đoàn quân viễn
chinh Mỹ, quân chư hầu Thái Lan, nhiều tiểu đoàn quân Sài Gòn,
chủ lực ngụy bình định, bảo an, dân vệ dày đặc cùng máy bay và
hàng chục xe tăng, xe ủi triệt phá rừng Lòng Chảo. Song Xóm Hố
- Long Tân vẫn là căn cứ của lực lượng vũ trang và các cơ quan
huyện. Dưới sự giúp đỡ đùm bọc của nhân dân Long Tân, bất chấp
bom đạn, ác liệt, tổn thất, căn cứ Xóm Hố vẫn tồn tại, bộ đội, cơ
quan vẫn bám trụ cho đến đầu năm 1971 mới dời về Phước An.
Đầu năm 1969, tại ấp Bình Phú, đội biệt động huyện cùng
du kích phục kích xe chở lính tiếp viện cho đồn cầu sắt trên lộ 17,
diệt 25 tên trong đó có 2 tên Mỹ, phá hủy l xe GMC.
Trong các đợt chống càn quyết liệt đầu năm 1971 để bảo vệ
căn cứ Xóm Hố, dù lực lượng của địch đông gấp nhiều lần, song
các đồng chí du kích xã, bộ đội huyện vẫn liên tục đánh địch nhiều
trận bằng các hình thức tập kích, phục kích xung quanh căn cứ diệt
hàng chục tên địch, phá hủy 1 xe tăng và 1 xe ủi.
Năm 1972, đã phục vụ cho Đoàn 10, đánh chìm 3 tàu địch
cùng 12 ngàn tấn đạn dược tại Vàm Cá Mấu, Rạch Sơn, Ông Huê
sông Đồng Nai.
Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của lực lượng vũ trang
xã, cùng tấm lòng kiên trung của đồng bào Long Tân, qua giai
72

8.3 Page 73

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
đoạn ác liệt, đến tháng 1.1975, Long Tân lại được huyện chọn
làm căn cứ đứng chân để chỉ đạo chiến dịch mùa khô. Đầu tháng
4.1975, Long Tân giải phóng được 3 ấp và ngày 27.4.1975, khi
các đơn vị chủ lực tiến qua xã tấn công Sài Gòn, đồng bào và du
kích Long Tân đồng loạt tiến công, nổi dậy giải phóng hoàn toàn
quê hương.
Long Tân là xã sớm có truyền thống đấu tranh cách mạng từ
những năm 20 đầu thế kỷ. Dưới truyền thống đó, trải qua 30 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân
dân Long Tân đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, tổn thất
một lòng theo Đảng đến cùng, không ngừng đóng góp sức người
sức của cho cách mạng, cho kháng chiến.
Tính chung trong 2 cuộc kháng chiến nhân dân trong xã
đóng góp hàng vạn giạ lúa, hàng trăm tấn gạo để nuôi cán bộ, bộ
đội, tham gia hàng chục ngàn ngày công phục vụ kháng chiến,
đào đường, phá cầu, lập ụ chiến đấu, đào hầm ngăn xe giặc, phá
ấp chiến lược và phục vụ bộ đội đánh giặc, đã tự phá dỡ nhà cửa,
chặt phá hàng ngàn cây ăn trái để tiêu thổ kháng chiến, đóng góp
hàng ngàn kg đồng, gang, sắt cho bộ đội đúc súng đạn, tổ chức
hàng trăm cuộc đấu tranh chính trị với địch, tiễn đưa con em của
mình lên đường tòng quân cứu nước, trong đó 120 người con ưu tú
của xã đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Những
hy sinh đóng góp to lớn đó của nhân dân Long Tân góp phần quan
trọng để Long Tân có một vùng lớn căn cứ của huyện trong suốt
thời kỳ chiến tranh.
Lực lượng vũ trang xã Long Tân sớm được thành lập trong
cả thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Tuy lực lượng không nhiều
lại phải luôn đương đầu với một kẻ thù mạnh và đông đảo là quân
Pháp, quân Viễn chinh Mỹ, quân chư hầu Thái Lan, quân đội Sài
73

8.4 Page 74

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Gòn chủ lực ngụy, bảo an, dân vệ lúc tới cấp trung đoàn, tiểu đoàn
được trang bị đầy đủ vũ khí cả máy bay, xe tăng, pháo binh, cùng
mạng lưới tề, điệp ác ôn dày đặc nhưng các chiến sĩ dân quân
du kích xã luôn phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
không sợ hy sinh tổn thất, không ngừng tiến công địch. Lực lượng
vũ trang xã Long Tân đánh hơn 1 ngàn trận lớn nhỏ khi độc lập,
khi phối hợp cùng bộ đội tiêu diệt hàng trăm tên địch cả Mỹ, tay
sai, Thái Lan, thu hơn 100 súng các loại, đánh chìm hàng chục tàu,
thuyền của địch, phá hỏng hàng chục ngàn tấn bom, phá hủy nhiều
xe quân sự, xe tăng của chúng.
Với những thành tích vẻ vang của 2 cuộc kháng chiến, xã
Long Tân đã có 6 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng, 87 gia đình được công nhận là gia đình
liệt sĩ. Toàn xã được tặng thưởng 375 huân, huy chương, trong đó
có 12 Huân chương Chiến công, 65 Huân chương Chiến sĩ giải
phóng, 31 Huân chương Chiến thắng, Huân chương Chiến sĩ vẻ
vang.
Đặc biệt, vào năm 2000, nhân dân và lực lượng vũ trang xã
Long Tân đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Tập thể Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
74

8.5 Page 75

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG NHÂN DÂN XÃ PHÚ ĐÔNG
Xã Phú Đông1 có diện tích tự nhiên 2.172 héc-ta, nằm ở
hướng Tây - Tây Nam của huyện Nhơn Trạch. Địa bàn xã là một
vùng lòng chảo có vị trí chiến lược rất quan trọng, phía Bắc giáp
xã Đại Phước, phía Nam giáp xã Phước Khánh và căn cứ Rùng
Sác, phía Đông giáp căn cứ quân sự, kho bom Thành Tuy Hạ, phía
Tây giáp sông Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Về dân số, trước năm 1975 xã có trên dưới 1 ngàn hộ với
khoảng 5 ngàn khẩu. Nhân dân trong xã sống bằng nghề nông là
chủ yếu.
Địa hình xã là một vùng lòng chảo khép kín, phía Bắc có tỉnh
lộ 25A chạy sát thông qua Sài Gòn, đi Bà Rịa - Vũng Tàu; phía
Tây có 7km đường thủy đi hướng Biên Hòa - Đồng Nai và chảy
ngược vào quân cảng Sài Gòn, xuôi ra cửa biển Vũng Tàu. Có
hương lộ 319 đi qua suốt chiều dài của xã.
Trong xã có hệ thống kênh rạch chằng chịt thông ra sông
Nhà Bè và vùng căn cứ Rừng Sác, phía Đông gần trung tầm xã là
vùng đất cao dễ quan sát khống chế toàn xã. Có 2 hướng tiếp giáp
với căn cứ quân sự lớn của địch (Quân cảng Nhà Bè - Kho bom
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
75

8.6 Page 76

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Thành Tuy Hạ), 2 hướng tiếp giáp với căn cứ Rừng Sác và vùng
kháng chiến của ta.
Với địch, chúng xác định địa bàn xã là vành đai chiến lược
để bảo vệ Sài Gòn về phía Đông Nam và các căn cứ hậu cần kỹ
thuật quân sự của chúng (quân cảng Nhà Bè, kho bom Thành Tuy
Hạ), là hướng ngăn chặn chủ yếu sự chi viện của ta cho căn cứ
Rừng Sác vào vùng kháng chiến lòng chảo Nhơn Trạch và Biên
Hòa.
Trong khi đó, do địa bàn xã có rừng rậm và hệ thống kênh
rạch, dân cư đông sống tập trung, nên lực lượng cách mạng dễ
quan sát để xâm nhập, trà trộn đi lại đồng thời trú ém cơ động lực
lượng, tổ chức các trận đánh nhỏ lẻ gây tổn thất và nguy hiểm cho
địch. Xã Phú Đông còn là hậu phương chi viện sức người sức của
cho căn cứ Rừng Sác, vùng kháng chiến lòng chảo Nhơn Trạch, là
bàn đạp cho lực lượng ta tổ chức tiến đánh vùng ven Sài Gòn và
các căn cứ quân sự của địch.
Đối với địch, xã Phú Đông cũng là địa bàn quan trọng có
chiến lược về quân sự nên địch bố trí đông lực lượng và đầy đủ các
quân binh chủng, nhưng phần lớn là ta tác chiến với hải quân, lục
quân, quân chư hầu của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Lực lượng địch
thường xuyên từ 2-3 tiểu đoàn mỗi hướng. Thời điểm căng thẳng,
địch huy động lực lượng cấp từ các trung đoàn và có lúc lên tới sư
đoàn đóng quân trên địa bàn xã Phú Đông.
Về đấu tranh vũ trang, trong suốt 2 thời kỳ kháng chiến,
quân và dân Phú Đông luôn phải đối đầu và tác chiến với các đối
tượng lực lượng địch đông và có vũ khí trang bị hiện đại.
Tháng 2.1946 diễn ra trận đánh quân Pháp đầu tiên tại vàm
Ông Chuốt. Một tàu chiến chở quân Pháp càn vào vàm Ông Chuốt
76

8.7 Page 77

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
thì đã bị lọt vào ổ phục kích của du kích xã, dưới sự chỉ huy của
đồng chí Năm Trứ tấn công địch bằng 2 trái AT, 3 tay súng với 145
viên đạn còn lại là giáo mác, tầm vông. Khi điểm hỏa tàu giặc bị
bốc cháy, lính địch bỏ chạy tháo mạng.
Kết quả ta tiêu diệt 14 địch, bắt sống 5 tên, thu 19 súng
trường, 2 khẩu colt 45, 12 lựu đạn, 1 hòm đạn. Đây là chiến thắng
vang dội đầu tiên của quân và dân xã, gây tiếng vang lớn, củng cố
tạo niềm tin trong đồng bào, lực lượng du kích xã có thêm vũ khí
để tiếp tục đánh địch.
Thời kỳ chống Pháp, nhân dân trong tổ chức 13 lần đấu tranh
biểu tình phản đối viếc phá hoa màu, bắn vào thôn xóm đòi dân
sinh - dân chủ, buộc địch phải bồi thường tài sản và tính mạng, kết
hợp với du kích xã sau mỗi lần đấu tranh là tiến hành rải truyền
đơn vạch mặt kẻ thù, kêu gọi đoàn kết chống lại sự xâm lược
của thực dân Pháp và tay sai ngoại bang và bè lũ phản động bán
nước.
Tổng kết trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân và lực
lượng vũ trang xã Phú Đông phối hợp với bộ đội đặc công thủy
đánh 17 trận, phối hợp với bộ đội Nhà Bè đánh 15 trận, chủ yếu
phá kho xăng Nhà Bè, cùng bộ đội Thủ Đức tổ chức 12 trận đánh
chống càn; độc lập tác chiến 165 trận như: gài trái, phục kích, bao
đồn giặc. Kết quả, quân dân xã Phú Đông đã tiêu diệt 340 tên,
trong đó có 24 tên lính Pháp, bắn chìm 1 tàu quân sự, 4 thuyền
máy, bắn cháy 1 xe quân sự thu 158 súng các loại, 2 hòm đạn, 43
lựu đạn.
Trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân và lực lượng vũ
trang xã Phú Đông phối hợp với Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đánh
29 trận trên sông Lòng Tàu; phối hợp với bộ đội Nhà Bè đánh kho
xăng 17 trận; phối hợp với D240 tỉnh, C240 huyện đánh 56 trận;
77

8.8 Page 78

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
phối hợp với bộ đội Thủ Đức đánh 24 trận, độc lập tác chiến như
gài trái, phục kích, phá ấp chiến lược, diệt ác ôn 346 trận. Kết quả
đã diệt 568 tên, trong đó có 186 tên Mỹ, 9 tên Thái Lan, 36 tên ác
ôn, thu 274 súng các loại, trong đó có 3 đại liên, 7 trung liên, 12
tiểu liên, 1 súng cối, 170 lựu đạn, 96 hòm đạn, 3 máy thông tin
PRC25, 2 máy PRC10, bắn chìm 1 tàu, 6 thuyền máy, bắn cháy 3
máy bay lên thẳng, phá hủy 3 xe thiết giáp M113, 4 xe GMC.
Về đấu tranh chính trị, do nằm trong vùng kiểm soát kiềm
tỏa của địch nên đồng bào Phú Đông bị địch đàn áp nặng nề, khắc
nghiệt, dã man. Trước tình hình đó, nhân dân xã liên tục đứng lên
đấu tranh, biểu tình chống lại sự đàn áp của địch từ tự phát đến
tự giác và trở thành phong trào rộng rãi trong toàn xã. Nhân dân
trong xã đã tiến hành thành lập ban lãnh đạo, chỉ đạo phong trào
đấu tranh đòi dân sinh dân chủ và quyền con người trong toàn xã.
Ban lãnh đạo gồm một số cụ ông, cụ bà dưới sự phụ trách chung
của cụ ông Võ Văn Hảo và cụ bà Chín Ngư. Khi xảy ra vấn đề,
ban tổ chức huy động nhân dân kéo đi đấu tranh với chính quyền
địa phương các nhà chức trách hồi bấy giờ.
Thời kỳ chống Mỹ, chỉ trong năm 1956, toàn xã đã có 500
đồng bào đã kéo về quận lỵ Nhơn Trạch đấu tranh chống trưng cầu
dân ý, làm cho cuộc vận động trưng cầu dân ý của địch tại xã Phú
Đông bị thất bại.
Năm 1964, má Sáu Ngữ và má Tám Ứng dẫn đầu đoàn biểu
tình khoảng 1 ngàn người tập trung kéo về Sài Gòn biểu tình phản
đối địch ném bom giết hại 536 người tại ngã ba Giồng Sắn, trong
đó có 108 người dân của xã làm nghề chài lưới bị chết một cách
vô tội. Cuộc biểu tình đấu tranh này gây tiếng vang lớn trong và
ngoài địa phương, buộc địch phải mang tiền bồi thường đến từng
gia đình có người than bị giết hại bồi thường.
78

8.9 Page 79

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Năm 1964 - 1965, đồng bào tổ chức kéo về quận lỵ Nhơn
Trạch đấu tranh tố cáo địch rải chất độc hóa học làm hư hại hoa
màu với hàng ngàn chữ ký trong đơn và kèm theo những tấm ảnh
chụp cụ thể, buộc tên quận trưởng phải nhượng bộ giảm 50% số
thuế.
Năm 1968, địch ném bom vào khu dân cư làm sập 18 căn
nhà chết 7 người dân, đồng bào tổ chức chở xác nạn nhân lên quận
đấu tranh biểu tình buộc địch phải bồi thường thiệt hại nhà cửa và
tính mạng cho nhân dân.
Trong công tác binh vận, Đảng ủy xã bấy giờ giao nhiệm vụ
này cho Hội Mẹ chiến sĩ do má Sáu Ngữ phụ trách, giao cho đoàn
thanh niên, phụ nữ đảm trách mục tiêu vừa bảo vệ vợ con lính vừa
khuyên nhủ, vừa hù dọa. Kết quả, năm 1952 có 3 lính Commando
mang súng ra đầu hàng, trong đó 1 tên người ở xã, 1 tên ở Hố Nai.
Năm 1953, có 2 tên ngụy nhân viên chính quyền địa phương bỏ
hàng ngũ về Sài Gòn, 23 tên lính địa phương quân bỏ trốn. Năm
1963, khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính và bị giết khiến địch hoang
mang, tổ binh vận xã đã viết thư kêu gọi vào hàng ngũ địch trong
các ấp chiến lược trong xã, có 16 tên dân vệ bỏ trốn khỏi hàng đào
ngũ, tạo điều kiện cho du kích phá ấp tịch thu 14 súng các loại.
Trong phong trào diệt ác phá kìm, nhân dân Phú Đông khẳng
định tội ác của kẻ thù gây ra cho nhân dân địa phương là do bàn
tay bọn phản quốc, bọn mật thám, bè lũ phản động ôm chân đế
quốc cho nên đồng bào phải kiên quyết trừng trị chúng. Sự mưu
trí, dũng cảm, thông minh, trong 2 kỳ kháng chiến, nhân dân trong
xã đã tiêu diệt trừng trị 36 tên ác ôn, trong đó có những tên khét
tiếng bị trừng trị như: Hai Giồ, Tư Nở, Tư Cúp, Ba Thức, Sáu
My.
79

8.10 Page 80

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Địch âm mưu xây dựng ấp chiến lược nhằm “tát nước bắt
cá”, giành đất, kiểm soát nhân dân ngăn chặn lực lượng cách mạng
trà trộn dựa vào dân để hoạt động cũng như xây dựng cơ sở hậu
phương chi viện cho căn cứ và vùng kháng chiến. Trong suốt 13
năm, địch đã xây dựng trên địa bàn xã 4 ấp chiến lược nhưng cứ
xây xong là bị ta phá liền, địch làm đi làm lại nhiều lần. Đến năm
1973, địch không còn khả năng xây dựng ấp chiến lược trên địa
bàn xã.
Về xây dựng cơ sở, chi viện sức người, sức của cho cách
mạng, mặc dù địa bàn xã bị địch kiềm tỏa 3 mặt kìm kẹp chặt
nhưng trong suốt 30 năm kháng chiến, xã Phú Đông vẫn là cơ sở
của cách mạng là địa bàn đóng trú ém quân của trung đoàn 10 đặc
công thủy, đại đội Nhà Bè, đại đội Thủ Đức.
Đồng bào Phú Đông giữ vững truyền thống yêu nước, ngoài
việc phối hợp với các tổ chức của ta công khai đấu tranh đòi dân
sinh dân chủ, nhân dân địa phương còn là nơi cung cấp sức người,
sức của và là hậu phương lớn của căn cứ Rừng Sác, các vùng
kháng chiến thuộc khu lòng chảo Nhơn Trạch.
Trong 2 thời kỳ kháng chiến, ngoài xây dựng lực lượng trực
diện đấu tranh với chính quyền ngụy quân, ngụy quyền và tay sai,
nhân dân xã đã vận động trên 430 lượt thanh niên lên đường nhập
ngũ bảo vệ quê hương. Tiêu biểu là: gia đình má Chín Ngư có 3
con, gia đình má Năm Thơm có 4 con, gia đình má Bảy Tròn có 4
con, gia đình má Sáu Lạt có 3 con, gia đình má Sáu Nguyệt có tới
6 người con... tất cả đều đi bộ đội.
Ngoài ra, đồng bào trong xã đã đóng góp cho cách mạng 390
tấn lương thực, phong trào Hũ gạo nuôi quân được duy trì suốt
những năm từ 1961 đến 1974, 372 hộ đã đóng góp được 2.100kg
gạo.
80

9 Pages 81-90

▲back to top


9.1 Page 81

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Trong công tác xây dựng Đảng và chính quyền, ngày
22.12.1946, chi bộ Đảng đầu tiên của xã được thành lập gồm 3
đồng chí, đi vào hoạt động lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng
chiến chống bọn thực dân xâm lược và bọn phản động bán nước.
Từ đó chi bộ được củng cố, bổ sung đảm bảo số lượng chất lượng,
đủ sức lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Đến năm
1954, tổng số đảng viên toàn xã có 37 đồng chí. Sau năm 1954 có
14 đồng chí đi tập kết, 18 đồng chí đi điều lắng, còn bám trụ hoạt
động bí mật tại địa phương là 5 đồng chí. Đến năm 1963, số đảng
viên trong xã bắt đầu được củng cố, phát triển; sau ngày miền
Nam giải phóng 30.4.1975, tổng số đảng viên toàn xã là 43 đồng
chí. Trong quá trình hoạt động có 26 đồng chí đảng viên hy sinh,
9 đồng chí bị bắt cầm tù, 4 đồng chí bí thư chi đảng bộ bị hy sinh
trong các thời kỳ.
Tháng 3.1967, lực lượng du kích xã phối hợp với bộ đội
Nhà Bè dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Quyết Chiến (Sáu
Chiến) tiến đánh một tiểu đoàn Mỹ khi chúng tổ chức càn vào ấp
Giồng Ông Đông. Lợi dụng địa hình kênh rạch, lực lượng của ta
luồn lách chia cắt đội hình của địch trận đánh kéo dài từ 10 giờ-14
giờ, ta tiêu diệt 7 tên lính Mỹ, làm bị thương nhiều sinh lực địch,
bắn cháy 1 máy bay lên thẳng.
Trận đánh táo bạo vào đêm 26 rạng sáng 27.10.1967, sau khi
theo dõi đánh các vị trí đóng quân dã ngoại của bọn Mỹ, đồng chí
Sáu Chiến cùng đồng chí Tám Tâm dùng bùn non ở sông rạch bôi
vào khắp mình cải trang chống sự phát hiện của chó bẹcgiê. Bằng
sự táo bạo mưu trí, 2 đồng chí bò vào đội hình địch lấy được 2
khẩu M16, gài trái nổ rồi bò ra. Khi trái phát nổ, ta diệt tại chỗ 9
tên lính Mỹ và 1 số bị thương, bọn Mỹ còn lại hoảng sợ bỏ chạy.
81

9.2 Page 82

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Ngày 3.6.1968, khi chi bộ xã đang họp tại Sở Dừa có 2 đồng
chí cán bộ cấp trên về dự. Đang họp, bọn địch càn đến bằng tàu
chiến và 2 xuồng máy. Bằng sự mưu trí, dũng cảm, đồng chí Sáu
Chiến cùng anh em chiến sĩ du kích tiếp cận địch bố trí vị trí phục
kích. Khi địch tiến vào trận địa phục kích, ta tiến hành điểm hỏa
mìn ĐH10 làm tàu của địch bốc cháy. Địch tràn lên, chiến sĩ ta với
18 tay súng chiến sĩ ta đã kiên quyết chống trả địch buộc phải rút
chạy. Kết quả, ta tiêu diệt 34 tên, bắn cháy 1 tàu chiến, bảo vệ các
đồng chí cấp trên rút ra an toàn.
Ngày 14.6.1972, du kích xã phối hợp với Đoàn 10 đặc công
thủy, tổ chức đánh vào kho xăng Nhà Bè với 26 trái cối 82 đã
trúng bồn xăng bốc cháy phá hủy của địch 10 triệu lít xăng, dầu.
Với lòng căm thù giặc sâu sắc, Đảng bộ và nhân dân xã Phú
Đông kiên trì bám đất, bám làng, xây dựng cơ sở chính quyền
cách mạng, chính quyền anh dũng kiên cường vượt qua mọi gian
khổ ác liệt liên tục tiến công địch, đấu tranh giành độc lập góp
phần quan trọng và tích cực trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, nhiều người hy sinh. Toàn xã có 15
thương binh, 1 bệnh binh, 106 gia đình chính sách, 76 gia đình liệt
sĩ, 35 gia đình có công với cách mạng.
Trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại, Đảng ủy, chính quyền,
nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú Đông được Đảng, Nhà
nước khen tặng: 82 Huân chương Quân công kháng chiến; 680
Bảng gia đình vẻ vang; 7 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 1 Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân...
Năm 2000, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Phú Đông
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân.
82

9.3 Page 83

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
TIỂU ĐOÀN 240 - TỈNH BIÊN HÒA(1)
Tiểu đoàn 240 tỉnh Biên Hòa, tiền thân là Đại đội 240, thành
lập từ tháng 7.1961 (khi tách tỉnh Thủ Biên thành tỉnh Biên Hòa
và Thủ Dầu Một) với 40 cán bộ, chiến sĩ lấy từ Đại đội 380 tỉnh
Thủ Biên.
Địa bàn chiến đấu thường xuyên của Tiểu đoàn 240 bao gồm
các huyện Vĩnh Cửu (giáp Chiến khu Đ), Long Thành, Nhơn Trạch
(giáp chiến khu Rừng Sác và tỉnh Bà Rịa - Long Khánh). Đây là
chiến trường trọng yếu với các đường giao thông chiến lược như:
quốc lộ 1, quốc lộ 15, các tỉnh lộ 24, 17, 19, sông Lòng Tàu, kho
bom Thành Tuy Hạ...
Đối tượng tác chiến thường xuyên của đơn vi bao gồm: bộ
máy chính quyền tay sai, lính bảo an, dân vệ, bình định nông thôn,
cảnh sát ngụy quyền, sư đoàn 18 bộ binh, các đơn vị chủ lực ngụy
như: biệt động, nhảy dù, lính thủy đánh bộ. Từ năm 1965, đơn vị
trực tiếp tác chiến với quân viễn chinh Mỹ (lữ dù 173, lữ bộ binh
199, sư đoàn Mãng xà vương Thái Lan, một bộ phận quân Úc - từ
Bà Rịa lên).
Hình thành từ cao trào Đồng khởi, trong 15 năm hình thành
và chiến đấu, Tiểu đoàn 240 đã liên tục bám trụ, cơ động trên các
chiến trường tỉnh Biên Hòa, giữ vững quan điểm tư tưởng tiến
1  Tổng hợp, khai thác thông tin do Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh cung cấp.
83

9.4 Page 84

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
công, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền,
diệt ác phá kìm hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị quần chúng;
đánh chống càn bảo vệ căn cứ; đánh phá ấp chiến lược, phối hợp
chủ lực tác chiến trong các chiến dịch lớn; làm nòng cốt trong tiến
công và nổi dậy giải phóng địa phương trong chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng. Tiêu biểu:
1. Trong những năm năm 1961 - 1964, Tiểu đoàn 240 đã 2
lần dùng phương thức kết hợp vũ trang, binh vận, đấu tranh chính
trị của quần chúng bao vây bức rút, bức hàng dồn bảo an ở đồi Trị
An, mở rộng vùng giải phóng giáp Chiến khu Đ.
2. Tiểu đoàn 240 liên tục đánh định chống càn quét, bảo vệ
căn cứ. Cụ thể như ngày 8 và 9.11.1964, với hệ thống ô ụ chiến
đấu, Tiểu đoàn 240 đánh bại cuộc càn của 2 tiểu đoàn lính thủy
đánh bộ, 2 đại đội bảo an có cố vấn Mỹ chỉ huy vào căn cứ Lòng
Chảo (xã Phước An, huyện Nhơn Trạch). Tháng 6.1966, đơn vị
bám trụ đánh bại cuộc càn của Lữ đoàn dù 173 Mỹ có máy bay,
xe tăng, pháo binh yểm trợ bảo vệ căn cứ Suối Cả (xã Bình Sơn,
huyện Long Thành). Ngày 23.12.1966, Tiểu đoàn 240 bám trụ
đánh bại cuộc càn của 1 tiểu đoàn quân chư hầu Thái Lan vào căn
cứ Suối Cả, diệt trên 100 tên. Ngày 14.7.1969, đơn vị bám trụ địa
bàn khu Lòng Chảo (Phước An) đánh bại cuộc càn quy mô lớn của
quân Mỹ, Thái Lan có máy bay, 45 xe tăng, xe ủi ở Trảng Đồng
Lớn, Hang Nai, Vũng Gấm...
3. Tiểu đoàn 240 liên tục đánh diệt đồn bót, đánh phá ấp
chiến lược kết hợp vũ trang tuyên truyền mở vùng giải phóng xây
dựng cửa khẩu hậu cần cách mạng. Đáng chú ý như năm 1962 tiêu
diệt đồn Siph, đồn Bình Sơn, mở rộng vùng giải phóng ở các đồn
điền cao su An Viễng, Siph, Helena, Bình Sơn, mở rộng cửa khẩu
hậu cần Bình Sơn (lộ 1, 15 và liên tỉnh lộ 2). Năm 1962, đơn vị
84

9.5 Page 85

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
phối hợp du kích các xã bao bó địch trong đồn bót, phát động nhân
dân nổi dậy phá khu trù mật Phước An, giải phóng nhiều ấp thuộc
các xã Phước An, Phước Thọ, Phước Long (lộ 19), Phú Hội, Phú
Mỹ, Phước Thiền, Long Tân (lộ 17). Trận đánh diệt 2 đại đội bảo
an vào ngày 27.9.1972 ở Hang Nai, Phước An.
4. Tiểu đoàn 240 liên tục đánh giao thông địch trên quốc lộ
15, 17, 19 tiêu diệt nhiều phương tiện thiết bị chiến tranh của địch,
cắt đứt giao thông của chúng. Tháng 11 và tháng 12.1964, đợt hoạt
động thu hút địch phối hợp với chiến dịch Bình Dã (1964 - 1965),
đơn vị cùng tiểu đoàn 800 Quân khu 7 đẩy mạnh đánh giao thông
lộ 15, từ Tam Phước đến Quán chim Phước Thái (giáp Bà Rịa),
diệt 26 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, diệt làm bị thương
278 tên, thu nhiều vũ khí các loại.
5. Trong chiến dịch tiến công mùa xuân Mậu Thân năm 1968,
Tiểu đoàn 240 tiến công chi khu Long Thành, Nhơn Trạch, pháo
kích gây thiệt hại nặng kho bom Thành Tuy Hạ, phối hợp với du
kích các xã phát động quần chúng nổi dậy bao vây đồn bót, đã giải
phóng và làm chủ xã Bình Sơn 8 ngày đêm, giải phóng và làm chủ
ấp Vũng Gấm (Phước An) 10 ngày đêm.
6. Tiểu đoàn 240 liên tục bằng nhiều hình thức tác chiến phá
hủy nhiều bom, đạn của địch trong kho bom Thành Tuy Hạ. Cụ
thể, bằng cách đánh đặc công, đêm 10.4.1972, đơn vị phá hủy 3
dãy nhà, 4 ụ dã ngoại, phá hủy 72 tấn bom đạn. Đêm 12.8.1972,
một tổ đặc công của tiểu đoàn 240 tiến công kho bom thành Tuy
Hạ, phá hủy 10.578 tấn đạn, bom, mìn các loại, đánh chìm 1 tàu.
7. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Tiểu đoàn 240 Biên Hòa
liên tục tấn công diệt các đồn bót địch trên lộ 17, 19, đồng thời
phát động quần chúng nổi dậy tấn công chính trị, binh vận bao vây
đồn bót, chốt địch, giải phóng các xã lộ 17, 19, giải phóng chi khu
85

9.6 Page 86

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Long Thành, Nhơn Trạch, tiếp quản kho bom Thành Tuy Hạ, đồng
thời tạo điều kiện cho sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2 vượt sông
tiến về giải phóng Sài Gòn.
8. Sau ngày giải phóng, Tiểu đoàn 240 tiếp tục hoàn thành
nhiệm vụ tuyên truyền, vận động đồng bào vùng có đạo Công
giáo, tiêu diệt nhiều nhóm tàn quân chống phá cách mạng ở Suối
Đĩa, Trảng Bom... góp phần bảo vệ công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc ở địa phương.
Trong 15 năm chiến đấu, Tiểu đoàn 240 Biên Hòa đã đánh
502 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 2.597 ngụy, 357 Mỹ,
115 lính Thái, bắt sống 720 ngụy, thu 756 súng các loại, phá hủy
16 xe tăng, 82 xe quân sự, 16 xe ủi, bắn rơi 7 máy bay trực thăng,
diệt 8 đồn cấp trung đội, 83 bót, diệt gọn 14 đại đội, 85 trung đội
ngụy, diệt 1 trung đội lính Mỹ, đánh tiêu hao 2 tiểu đoàn Mỹ, 1
tiểu đoàn lính Thái.
Với những thành tích tiêu biểu trên, năm 2012, Tiểu đoàn
240 được Nhà nước, Chính phủ phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
86

9.7 Page 87

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
DƯƠNG VĂN THÌ
Dương Văn Thì1 sinh năm 1936,
là người con thứ bảy trong một gia đình
nông dân ở xã Phú Hữu, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Em trai thứ tám
của ông là Dương Văn Thôi, tham gia du
kích tại xã nhà, là liệt sĩ.
Năm 1959, Dương Văn Thì vào
du kích, hoạt động bí mật ở địa phương.
Trong bối cảnh chính quyền Diệm đàn
áp, khủng bố gắt gao người kháng chiến,
Dương Văn Thì vượt qua mọi kìm kẹp
của bọn tề điệp do thám, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nắm tình
hình địch, phục vụ cho cấp ủy địa phương, lãnh đạo Đồng khởi
1960 làm thất bại cuộc chiến tranh cảnh sát đơn phương của bè lũ
Mỹ - Diệm. Trong những ngày bừng bừng khí thế cách mạng ấy,
đồng chí đã vận động nhân dân và 9 thanh niên vào lực lượng vũ
trang, đóng góp trên 500 giạ lúa và tiền bạc để mua sắm dụng cụ
cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc. Để hạ uy thế của địch
trong chủ trương diệt ác, phá kìm, Dương Văn Thì đã diệt được 2
tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân.
Tháng 4.1966, Dương Văn Thì nhập ngũ, vào bộ đội địa
phương huyện Thủ Đức, chiến đấu trên mảnh đất ven đô hướng
Đông Bắc Sài Gòn. Cùng với đồng đội, đồng chí được giao nhiệm
vụ kiên trì bám trụ địa bàn, xây dựng lực lượng, cùng với anh em
du kích và các đơn vị tập trung của cấp trên phối hợp chiến đấu
giữ được vùng căn cứ Bưng Sáu Xã, nỗ lực duy trì thế áp sát trung
1  Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy Nhơn Trạch.
87

9.8 Page 88

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
tâm chỉ huy chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ và tay sai ở Sài
Gòn, luôn chủ động tấn công theo yêu cầu chung của Quân khu
Sài Gòn - Gia Định.
Trong những tình huống gay go, Dương Văn Thì luôn nêu
cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, mưu trí đối phó với kẻ thù. Một
lần trên đường công tác, bị máy bay địch phát hiện quần đảo bám
sát, đồng chí xử trí nhạy bén, kịp thời bắn rơi tại chỗ chiếc máy
bay do thám, bảo vệ an toàn cho 2 đồng chí Huyện ủy Thủ Đức
trước khi các máy bay địch đến đánh phá.
Năm Mậu Thân 1968, trong 2 đợt tập kích chiến lược, Dương
Văn Thì lúc bấy giờ là trung đội trưởng bộ đội địa phương đã liên
tục đánh mìn chặn các xe địch trên xa lộ, chuẩn bị chiến trường,
nắm các mục tiêu phục vụ các đơn vị cấp trên tấn công địch.
Sau đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, địch phản kích dữ dội trên
các hướng ven đô. Thủ Đức là trọng điểm càn quét, bắn phá của
Mỹ và quân chủ lực của chế độ Sài Gòn; theo đó bọn bảo an, dân
vệ ra sức càn quét, tạo nhiều khó khăn cho việc bám trụ, hậu cần,
tiếp tế của ta. Trong tình hình đó, Dương Văn Thì có nhiều tháng
tạm đứt liên lạc với quân khu, vẫn động viên anh em nêu cao tinh
thần tự lực cánh sinh, vừa vận động nhân dân thu mua lương thực
giúp cho các đơn vị bạn nuôi quân trên 30 đồng chí, vừa tích cực
thu gom bom pháo lép tự tạo ra các loại mìn trái, lựu đạn, cạm
bẫy, vừa cùng với du kích chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ
địa hình, ổn định thế đóng quân, phát triển không ngừng các lõm
du kích bao vây cô lập và vô hiệu hóa các đồn chốt địch rải khắp
vùng Bưng 6 xã.
Tháng 4.1970, so sánh lực lượng giữa ta với địch, Dương
Văn Thì tổ chức một trận đánh giữa ban ngày, chỉ huy 1 tổ thọc
88

9.9 Page 89

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
sâu ra xa lộ, lợi dụng tâm lý chủ quan của giặc, bắn cháy 1 xe bọc
thép M.113, tiêu diệt 5 tên Mỹ.
Khi địch điều xe ủi đất, ủi phá vườn tược, cây trái của đồng
bào để xây dựng khu thương phế binh Sài Gòn, Dương Văn Thì
đã chỉ huy 7 đồng chí bí mật luồn đánh bại Đại đội địch đóng
sâu trong ấp Tây Hòa thu được một máy thông tin PRC.10. Sau
đó, đồng chí dẫn 1 tổ mang mìn vào giữa đội hình địch từ giữa
cụm đóng quân của chúng đánh ra. Địch bất ngờ, bị động. Ta diệt
được12 tên và làm bị thương nhiều tên khác; tuy không thu được
súng nhưng anh em rút lui an toàn, gieo cho địch nỗi khiếp sợ,
hoang mang.
Tháng 4.1971, địch chủ trương đánh rộng ra, tiến hành một
cuộc càn về hướng Bưng 6 xã, rìa ấp phía Nam xã Phước Long.
Những trái mìn du kích cài đặt đều không nổ. Dương Văn Thì quả
cảm lên kiểm tra và thay kíp nổ. Cuối cùng trái nổ làm 13 lính địa
phương chết và bị thương.
Trong một trận đánh khác, đến giờ nổ súng thì bị lộ, tình
huống xấu đi và nguy hiểm, Dương Văn Thì cương quyết vẫn
đánh và đích thân mang lựu đạn xông lên trước, một mình tập kích
để động viên đơn vị vào trận. Trận ấy diệt 7 tên địch, thu được 1
quả mìn claymore (định hướng).
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Dương Văn Thì
nhận lệnh đưa Đại đội 2 bộ đội địa phương của huyện về nhập
với công binh, đặc công nước, đặc công bộ và D4, hình thành lực
lượng tấn công chiếm giữ cầu Sài Gòn. Suốt ngày 28.4.1975, địch
phản kích dữ dội với trực thăng, tàu FOM, bộ binh và thiết giáp.
Trận đánh diễn ra ác liệt, từ 3 giờ đến 19 giờ. Quân ta có 6 chiến
sĩ hy sinh và 8 chiến sĩ bị thương. Dương Văn Thì bị thương, hết
đạn, địch lại tăng viện 1 đại đội tập kích từ phía sau, tiến hành 9
89

9.10 Page 90

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đợt tấn công, tình thế thật ngặt nghèo. Dương Văn Thì bình tĩnh,
cho gom hết đạn của địch, dùng lần lượt 5 khẩu đại liên thu được
của chúng, giữ vững trận địa, diệt 13 tên địch, bắt giữ 2 tù binh.
Suốt quá trình chiến đấu, Dương Văn Thì đã trực tiếp chỉ
huy và tham gia chiến đấu 125 trận, diệt và làm bị thương 258 tên,
trong đó có 7 tên ác ôn, bắn rơi và phá hủy 3 máy bay lên thẳng,
bắn cháy 5 xe quân sự (có 2 thiết giáp M113), bắn chìm 2 tàu
xuồng chiến đấu, thu 3 máy VTĐ (2PRC 25, 1PRC 10) và 45 súng
các loại. Riêng Dương Văn Thì đã diệt 63 tên địch (trong đó có 25
tên Mỹ, 2 tên ác ôn), đánh cháy 1 xe M113 và xe ủi đất địa hình.
Đồng chí Dương Văn Thì được trao Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Ba; 2 Huân
chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương
Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy hiệu Hồ Chí Minh;
Huy hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh; 2 Huy chương toàn thắng; 4
lần đạt danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng cấp 2, cấp 3; Danh hiệu
Dũng sĩ xung kích; 9 bằng khen và 1 giấy khen; Chiến sĩ thi đua
Quân khu Sài Gòn - Gia Định năm 1969.
Đồng chí Dương Văn Thì được Nhà nước phong tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vào ngày
6.11.1978. Khi được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam, đồng chí Thì là Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, cấp bậc Trung úy, Đại đội trưởng bộ đội địa
phương Thủ Đức. Ngày 27.8.1988, đồng chí từ trần, cấp bậc lúc
này là Thiếu tá Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng.
90

10 Pages 91-100

▲back to top


10.1 Page 91

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
NGUYỄN QUYẾT CHIẾN
Đồng chí Nguyễn Quyết Chiến,
là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
sinh năm 1940 (trong lý lịch khai sinh
năm 1942), quê xã Phú Hữu (nay thuộc
xã Phú Đông), huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Sinh ra trong gia đình nông dân
nghèo nhưng có truyền thống yêu nước,
có cha là ông Nguyễn Văn Thể - người
sớm có mặt trong phong trào Thanh niên
tiền phong và sau đó tham gia Việt Minh
kháng chiến chống Pháp, vì thế đồng chí Chiến sớm giác ngộ cách
mạng, tối cùng cha vác cuốc đào đường thực hiện tiêu thổ kháng
chiến.
Năm 1958, đồng chí kết hôn với Dương Thị Nương, con gái
ông Dương Văn Lê - người cùng sống bằng nghề rừng, cùng hoạt
động Việt Minh và là bạn chí cốt của ông Thể. Cũng thời gian này,
đồng chí bắt đầu hoạt động bí mật. Ngày 17.10.1965, đồng chí
chính thức thoát ly.
Vào lực lượng dân quân xã năm 1965, đồng chí Nguyễn
Quyết Chiến đã liên tục chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, mưu trí
trực tiếp đánh và chỉ huy dân quân xã đánh hơn 100 trận, diệt hàng
trăm tên địch và thu trên 20 súng các loại. Đặc biệt trận đánh ngày
5.6.1967, đồng chí thu được 8 súng và diệt gần 1 trung đội Mỹ.
Trong 1 trận đánh vào tháng 12.1967, đồng chí lấy được 4 súng,
diệt 20 tên. Trận ngày 20.8.1968, một mình đồng chí lấy được 1
khẩu đại liên của địch và cùng đồng đội diệt 40 tên Mỹ.
91

10.2 Page 92

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trưởng thành từ một dân quân lên xã đội trưởng, đồng chí
luôn luôn là tấm gương sáng chói về ý chí tiến công cách mạng,
về tinh thần chiến đấu cực kỳ dũng cảm, mưu trí, táo bạo; luôn nêu
cao trách nhiệm xây dựng lực lượng dân quân địa phương, góp
phần đẩy mạnh phong trào toàn dân đánh giặc, phục vụ đắc lực
cho bộ đội chủ lực đứng chân hoạt động ở địa bàn phía đông Sài
Gòn. Đồng chí được kết nạp Đảng ngày 14.4.1968.
Đồng chí đã được khen thưởng 3 Huân chương Chiến công
giải phóng (1 hạng Nhất, 1 hạng Nhì, 1 hạng Ba). Ngày 20.12.1969,
đồng chí Nguyễn Quyết Chiến được Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân năm 19691. Khi được tặng danh hiệu anh
hùng, đồng chí là Xã đội trưởng xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch.
Đồng chí cũng 2 lần được cử tham dự Đại hội Anh hùng chiến sĩ
thi đua ở Phân khu 4 và miền Đông Nam Bộ.
Năm 1972, đồng chí là Huyện đội phó huyện Nhơn Trạch,
sau đó được cử ra miền Bắc đi học tại Học viện Quân sự (Hà Nội),
học xong đồng chí trở về công tác ở Huyện đội Long Thành, giữ
nhiệm vụ Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự huyện Long Thành.
Chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, đồng chí tham gia chiến đấu
tại chiến trường Campuchia. Năm 1994, đồng chí là Chánh Thanh
tra quốc phòng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai.
Về nghỉ hưu năm 1999, đồng chí Đại tá Nguyễn Quyết Chiên
tiếp tục phát huy truyền thống Bộ đội cụ Hồ, giữ nhiệm vụ Chủ
tịch Hội Cựu chiến binh huyện Nhơn Trạch suốt 10 năm liền. Ở
địa phương, đồng chí luôn là tấm gương mẫu mực trong gia đình,
làng xóm.
Đồng chí Nguyễn Quyết Chiến mất năm 2011.
1  Nguồn: Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng Nai, 1998
92

10.3 Page 93

▲back to top


Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
NGUYỄN VĂN QUANG
Đồng chí Nguyễn Văn Quang1
tự Sên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam, dân tộc Kinh, sinh năm 1944, quê
xã Phước Lai, huyện Long Thành, tỉnh
Đồng Nai. Khi được tặng danh hiệu anh
hùng, đồng chí là Tiểu đội trưởng Đại
liên Đại đội 1, Tiểu đoàn 445 Bà Rịa -
Long Khánh.
Sinh trưởng trong 1 gia đình bần
nông có mối thù sâu sắc với thực dân, địa
chủ, năm 1964 đồng chí xung phong gia
nhập lực lượng vũ trang. Trong vòng 3 năm (từ năm 1964 đến năm
1967), đồng chí Nguyễn Văn Quang đã tham gia 20 trận đánh,
diệt 180 tên địch (trong đó có 73 tên Mỹ, 25 tên Úc), diệt 1 xe
tăng M41, 1xe Jeep, thu 27 súng các loại và 2 máy thông tin. Đặc
biệt trận đánh đầu tiên vào tháng 5.1965 tại An Ngãi, đồng chí đã
diệt 4 tên, thu 1 trọng liên và 1 máy thông tin của địch. Trong trận
Đá Giăng diễn ra vào tháng 1.1966, đồng chí diệt 15 tên, lấy 3
trung liên. Trong trận sông Cầu vào tháng 5.1966, dù một mình bị
địch bao vây nhưng đồng chí vẫn kiên cường đánh lui 8 đợt xung
phong của địch...
Trong chiến đấu, đồng chí Nguyễn Văn Quang là chiến sĩ
kiên cường, cực kỳ gan dạ, chủ động tiến công mãnh liệt, tiêu
diệt địch, thu vũ khí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong mọi
mặt công tác, đồng chí luôn luôn cần mẩn đi đầu, đoàn kết thương
1  Hồ Sơn Đài - Trần Quang Toại (chủ biên), Đồng Nai những đơn vị anh hùng, Nhà xuất
bản Đồng Nai, 1985.
93

10.4 Page 94

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
yêu tận tình giúp đỡ đồng đội, được toàn thể cán bộ, chiến sĩ quý
mến.
Đồng chí đã được khen thưởng 1 Huân chương Chiến công
giải phóng hạng Ba, 3 lần dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, 1 lần dũng
sĩ diệt cơ giới. Ngày 17.9.1967, đồng chí Nguyễn Văn Quang đã
được ủy Ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Ba và danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 19671.
1  Nguồn: Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, NXB Đồng Nai, 1998
94

10.5 Page 95

▲back to top


PHẦN II
BÀ MẸ VIỆT NAM
ANH HÙNG

10.6 Page 96

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Bùi Thị Chín
(1930 - 1965)
Mẹ Bùi Thị Chín sinh đúng vào
năm Đảng ra đời, năm 1930 (Canh Ngọ)
trong một gia đình nông dân nghèo đông
con tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ là con thứ chín, các
vị thân sinh lấy luôn thứ đặt thành tên
(trong danh sách tuyên dương anh hùng
ghi là Bùi Thị Chính).
Khi mẹ lớn lên, quân Pháp đã đóng bót Phú Hội, thường
ngày ruồng bố, càn quét trong xã. Mẹ lấy chồng là Hồ Văn Tư,
một nông dân cũng nghèo. Hai người không một thước ruộng
vườn, để kiếm sống đã phải lầm lũi làm mướn. Vợ chồng mẹ sống
ở một căn nhà lá nhỏ tại Xóm Hố, được cán bộ xã và du kích giáo
dục nên ông Tư liên tục trốn bắt lính, và dù thuộc loại nghèo nhất
nhì trong xã nhưng nếu gia đình có cơm thì vợ chồng mẹ luôn sẵn
sàng san sẻ cho anh em bộ đội cũng như không bao giờ chối từ
những đóng góp cho kháng chiến trong khả năng của mình.
Năm 1962 - 1963, quân đội Sài Gòn ra sức dồn dân vào ấp
chiến lược ở ven lộ 17. Không muốn chịu cảnh o ép, vợ chồng mẹ
tạm lánh qua Vũng Gấm cùng một số gia đình khác. Cuộc sống
thiếu thốn hơn, gian khổ hơn song mẹ vui vì không bị giam hãm
trong cảnh cá chậu chim lồng. Mẹ chỉ thương con trai Hồ Văn Ro
còn nhỏ, bom đạn rền trời, ăn uống thất thường, nắng mưa dầu
dãi.
Những tháng ngày long đong cực khổ khiến mẹ nhuốm
bệnh, đành phải về sống ở quê hương. Ít lâu sau, vì không tiền
96

10.7 Page 97

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
thuốc thang, mẹ qua đời (năm 1965). Ông Hồ Văn Tư lâm cảnh gà
trống nuôi con, vẫn làm thuê làm mướn để kiếm sống. Mỗi năm
ông đi hái sầu riêng mướn trong hai ba tháng mùa vụ, cũng được
ít nhiều.
Năm 1969, Hồ Văn Ro vừa 17 tuổi, hội đồng xã làm giấy gọi
đi quân dịch. Đồng chí Hai Hùng, cán bộ huyện, đã vận động Ro
đi thoát ly, gia nhập đội du kích xã. Địch cho gọi ông Tư lên hỏi,
bắt ông đi tìm con. Ông trả lời:
- Nó đi đâu mất từ hồi đó, có khi nó qua mấy cô mấy dì nó ở
Sài Gòn. Xin xã cho tôi giấy tôi qua tìm nó...
Vùng lòng chảo Nhơn Trạch đã bị địch rải chất độc khai
quang và dùng máy ủi san bằng địa hình. Cán bộ, bộ đội, du kích
xã hồi này phải vào bám trụ ở các vườn cây sum suê của Phú Hội.
Vì vậy, Ro thường được gặp cha. Địch biết Việt Cộng trà trộn
trong dân nên ra lệnh cấm đủ thứ. Nhà ít người mà mua nhiều
bánh, nhiều thuốc lá, nhiều thực phẩm dễ bị ghép tội “tiếp tế cho
Việt Cộng”. Nhưng vì thương con, thương đồng đội của con, ông
Tư tìm cách mua và nhờ người mua những thứ các anh cần đến.
Một bữa đi công tác, Ro bị thương. Ông Tư biết tin, yêu cầu đồng
đội đưa Ro về xóm, tìm cách che giấu, mua thuốc chữa chạy; ít
bữa sau vết thương lành, anh lại tham gia công tác. Có những bữa
ông Tư gặp anh ngồi ven đường đi trong xóm không được kín đáo,
đã nhắc con phải cẩn thận.
Ngày 20.7.1970, Hồ Văn Ro và hai đồng đội đột ấp Xóm Hố
gặp cơ sở để lấy gạo tải về căn cứ. Khi trở ra, ba anh vướng mìn
Claymore địch gài, cả ba hy sinh. Bọn lính phục kích gần đó đem
xác về đồn Miễu phơi nắng nhằm khủng bố tinh thần nhân dân rồi
cho người nhắn thân nhân đem về chôn cất. Ông Hồ Văn Tư lên
xã, xin phép chôn gần nơi các anh hy sinh.
97

10.8 Page 98

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Mẹ Bùi Thị Chín đã cống hiến núm ruột duy nhất cho sự
nghiệp giải phóng đất nước cao cả. Mẹ được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cao quý theo Quyết định
số 438/KTCTN ngày 24.4.1995. Mẹ và gia đình cũng được Nhà
nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2000.
98

10.9 Page 99

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Châu Thị Sang
(1920 - 1966)
Mẹ Châu Thị Sang quê ở xã Phú
Hữu, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa
(nay thuộc huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai), sinh năm Canh Thân 1920 trong một
gia đình nông dân. Lớn lên mẹ về làm dâu
ở Đại Phước, xã láng giềng cách khoảng
vài cây số. Chồng mẹ là ông Trương Văn
Trung làm ruộng, tương đối đủ ăn so một
số gia đình khác. Mẹ chỉ sinh hạ một con trai là Trương Vĩnh Phúc
vào năm 1944.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào Thanh niên
Tiền phong từ Sài Gòn đã lan về Đại Phước. Ở lứa tuổi trung niên,
ông Trung cũng tham gia cùng nhiều trung niên, thanh thiếu niên
trong làng vào các việc tập luyện, tuần tra, canh gác làng xóm. Khi
quân Pháp đánh chiếm Nhà Bè, Cát Lái, kho bom Thành Tuy Hạ
thì chúng cũng đóng bót ở Đại Phước. Ông Trung vào dân quân du
kích Phước Thành, do chỉ điểm nên bị bắt giam ở Thành Tuy Hạ
một thời gian. Được tha về, ông trở thành cơ sở mật địa phương.
Suốt thời chống Pháp cho tới khi quân Mỹ nhảy vào miền
Nam cứu vãn chế độ Sài Gòn đang có nguy cơ sụp đổ (1965),
Trương Vĩnh Phúc được cha mẹ nuôi cho ăn học. Nghe gia đình
kể chuyện cũ, anh liên hệ với tình hình đương thời, thấy không thể
sống mãi như thế được. Khi sắp bị bắt đi quân dịch, anh được một
số bà con là cán bộ và cơ sở mật giáo dục. Chiều ngày 7.3.1966,
các anh Năm Thà, Huỳnh Đức Thắng tổ chức đưa anh đi xuống
vùng căn cứ Rừng Sác - Phước An. Phúc gia nhập Đại đội 245
99

10.10 Page 100

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
huyện Long Thành, cơ động chiến đấu khắp địa bàn hai huyện
Long Thành, Nhơn Trạch.
Mẹ Châu Thị Sang bị bệnh nặng, do thiếu thuốc chữa chạy
nên qua đời ngay năm 1966.
Ông Tám Trung tục huyền, đã cùng vợ kế được chị Hai
Thành, bà Hai Bích, bà Hai Hầu móc nối, đi thăm Phúc ở Bàu
Bông (Phước An) và ở một vài nơi khác.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 của
quân dân miền Nam làm thất bại chiến lược chiến tranh cục bộ
của đế quốc Mỹ. Tổng thống Johnson thôi không ra ứng cử nhiệm
kỳ hai, Hoa Kỳ buộc phải ngồi vào bàn hội nghị Paris, lính Mỹ và
chư hầu từng bước rút dần về nước. Nhưng trong lúc xuống thang,
địch đánh phá hành lang Biên Hòa - Vũng Tàu rất dữ dội. Ở Nhơn
Trạch, chúng “lột da” khu lòng chảo bằng bom pháo, chất độc hóa
học, máy cày ủi địa hình và nhiều cuộc càn quét quy mô lớn. Đại
đội 240 huyện Long Thành cơ động chiến đấu suốt hai phía đông
và tây lộ 15. Do cường độ đánh phá của địch, đơn vị cũng như các
cơ quan huyện phải phân tán nhỏ.
Ngày 8.3.1970, Tiểu đội trưởng Trương Vĩnh Phúc hy sinh
trong khi chiến đấu ở Vườn Huệ - nơi giáp ranh hai xã Long Tân,
Phú Hội. Khá lâu sau này, ông Tám Trung mới nhận được tin dữ.
Mẹ Châu Thị Sang hiến dâng con trai duy nhất cho sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước nên được Nhà nước
truy tặng danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 814/KTCTN ngày 24.4.1996. Mẹ và gia đình được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2000.
100

11 Pages 101-110

▲back to top


11.1 Page 101

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Tứ
(1903 - 1987)
Xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch)
nổi tiếng vì là xã anh hùng trong hai thời
kỳ kháng chiến của dân tộc, là xã có số
lượng bà mẹ Việt Nam Anh hùng nhiều
nhất tỉnh Đồng Nai trong đợt phong tặng
đầu tiên năm 1994. Mẹ Đặng Thị Tứ là
một trong những mẹ được truy tặng danh
hiệu cao quý đó.
Mẹ sinh năm Quý Mão 1903 trong một gia đình trung nông.
Khi vừa đến tuổi cập kê, mẹ lấy chồng, đôi vợ chồng trẻ được cha
mẹ chia cho năm mẫu ruộng và hơn một công vườn kiêm đất ở.
Cũng như bao phụ nữ hồi đó, mẹ sinh hạ cả thảy mười con nhưng
chỉ nuôi được sáu người đến tuổi khôn lớn.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ba con trai lớn của
mẹ đều hăng hái tham gia phong trào cách mạng địa phương. Giặc
Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, ba anh theo tiếng
gọi của Tổ quốc thoát ly tham gia kháng chiến. Anh Hai Phong
(Nguyễn Thanh Phong) công tác ở cơ quan dân chính. Anh Ba
Đường (Nguyễn Quang Đường) vào bộ đội địa phương huyện
Long Thành, bám trụ chiến đấu liên tục trên mảnh đất quê hương
thân thuộc. Anh Tư Phiên (Nguyễn Hữu Dũng) được đào tạo thành
y tá Quân y viện tỉnh đội Bà Rịa.
Nhà mẹ Tứ ở ngay sát đường liên tỉnh 25, lính hàng ngày qua
lại trước cổng. Biết gia đình có con theo Việt Minh, chúng thường
xét hỏi, bắt ông bà kêu các con về. Anh em cán bộ tỉnh, huyện, xã
và bộ đội tranh thủ lúc không có địch ghé thăm gia đình và được
101

11.2 Page 102

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
mẹ ủng hộ gạo, mắm, thực phẩm... nhiều lần. Có những đêm mẹ
nấu cơm cho anh em ăn và dỡ mang theo.
Từ một chiến sĩ, anh Ba Đường (Nguyễn Quang Đường) qua
quá trình chiến đấu dũng cảm đã trở thành Trung đội trưởng quân
báo của Huyện đội Long Thành. Ngày 11.11.1949, anh đi công tác
lọt ổ phục kích địch ở sở Aborati (Long Thành) và hy sinh. Đồng
đội đưa anh về an táng tại rừng Phước Nguyên (Tam An). Khá lâu
sau, mẹ Tứ mới biết tin dữ này. Vì nhà ở ven lộ, địch có thể vào
bất ngờ nên mẹ phải cố nén đau thương, chỉ khóc con vào lúc đêm
khuya. Rồi sau đó khi các anh em, đồng chí của các con ghé qua
nhà, mẹ lại sẵn lòng cho gạo, tiền, thuốc, thực phẩm... không tiếc
thứ gì. Mẹ không có điều kiện đi thăm các con nên lâu lâu lại gửi
cho các anh và đồng đội những thứ cần thiết.
Sau trận bão lụt Nhâm Thìn (tháng 10.1952), phong trào
kháng chiến miền Đông Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, lương thực,
thực phẩm, thuốc men chữa bệnh... đều thiếu thốn nghiêm trọng.
Một số người không chịu đựng nổi gian khổ đã rời bỏ hàng ngũ
kháng chiến về thành. Anh Tư Phiên (Nguyễn Hữu Dũng) là y tá
đã góp phần chữa trị cho hàng trăm thương binh qua những năm
dài kháng chiến, nhưng bản thân anh sau đó bị mắc bệnh sốt rét
ác tính vào tháng 10.1953. Do thiếu thuốc men chữa trị, anh hy
sinh ở Hắc Dịch ngày 13.10.1953. Mẹ Đặng Thị Tứ mất thêm một
giọt máu thân thương, xiết bao đau đớn. Hiệp định Genève 1954
lập lại hòa bình tạm thời trên đất nước ta càng làm mẹ nhớ tới hai
liệt sĩ.
Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, gia đình mẹ Đặng Thị Tứ bị
theo dõi ngặt vì anh Hai Phong (Nguyễn Thanh Phong) được bố
trí ở lại hoạt động gây dựng cơ sở, tổ chức đấu tranh chính trị đòi
102

11.3 Page 103

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
nhà cầm quyền miền Nam hiệp thương với miền Bắc, tiến tới tổng
tuyển cử tự do thống nhất nước nhà theo Hiệp định.
Sau cao trào Đồng khởi 1960, con gái thứ mười của mẹ là
Nguyễn Thị Huyền Ngân khi đó mới 17 tuổi đang đi học ở quận
lỵ Long Thành đã được một số cán bộ xã như đồng chí Hai Muôn
móc nối, giáo dục, vận động. Mười Ngân bỏ học đi thoát ly, là y
tá Trường Đảng Bà - Biên tháng 2.1961. Cô hăng say công tác, tổ
chức giao nhiệm vụ gì cũng gắng hoàn thành, không nề khó khăn
nguy hiểm. Lúc này mẹ Tứ đã già yếu, chiến tranh ngày càng khốc
liệt, Mười Ngân lại không ở một địa điểm nhất định nên mẹ không
thể đi thăm dù rất nhớ con gái thân yêu.
Đầu tháng 11.1967, một đoàn dân công vận tải hàng chiến
lược có một số người bị đau ốm, Mười Ngân và vài đồng chí quân
y được giao nhiệm vụ điều trị cho số anh chị em này ở căn cứ Bàu
Hàm. Ngày 4.11.1967, địch đột kích vào đây, cô và hai đồng chí
khác hy sinh. Mãi về sau mẹ Tứ mới biết tin xé lòng này. Hai hố
mắt của người mẹ già tưởng chừng cạn khô lại một lần nữa tuôn
chảy những giọt nước mắt hiếm hoi.
Sau ngày toàn thắng của dân tộc (tháng 4.1975) mẹ vui vì
con trai đầu lòng Nguyễn Thanh Phong trở về. Nhưng mẹ vẫn
buồn vì không tìm thấy mộ và hài cốt của cả ba con đã hy sinh.
Nắng mưa và bom đạn của bao nhiêu năm chiến tranh đã xóa sạch
vết tích của biết bao liệt sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc độc lập, tự do.
Mẹ Đặng Thị Tứ qua đời năm 1987. Mẹ được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
103

11.4 Page 104

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đào Thị Phấn
(1911 - 2009)
Xã Phú Hội - Đơn vị Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân huyện Nhơn
Trạch, là xã có 22 Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng (tính đến đợt trao tặng năm 1994).
Mẹ Đào Thị Phấn (Hai Phấn) là một trong
những bà mẹ được tặng danh hiệu cao
quý, vẻ vang đó. Mẹ sinh năm 1911 tại
xóm Bàu Cá (nay là Xóm Hố, Cây Dầu)
trong một gia đình nông dân nghèo. Làm ruộng là chính song mẹ
có nghề phụ làm bún, đó là nguồn thu nhập thêm giúp mẹ nuôi cả
gia đình cũng như đóng góp đáng kể cho cách mạng.
Chồng mẹ là ông Lư Văn Nén (Hai Nén). Ông từng tham gia
Thanh niên Tiền phong trước Cách mạng tháng Tám, sau làm cán
bộ Nông hội xã. Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần
thứ hai, chúng đóng bót ở nhà thờ Phú Hội. Ông theo cơ quan xã
chuyển xuống Phước An nhưng vẫn “cơm nhà, việc nước”. Thi
thoảng ông ghé qua nhà lấy gạo, tiền, quần áo. Việc nuôi dạy bảy
con nhỏ, nuôi mẹ chồng già và đóng góp ủng hộ kháng chiến đều
do mẹ Phấn gánh vác. Giặc càn bố, mẹ lo dắt đàn con tránh né.
Hai giờ rưỡi chiều ngày 25 tháng 5 năm Tân Mão (29.6.1951),
ông Nén về Phú Hội mua thức ăn xuống Phước An thì bị địch phục
kích bắn chết ở Dốc Bàu Lồng. Một người lính quen về báo, mẹ
Hai rụng rời chân tay, muốn té xỉu. Nhưng mẹ gượng lại được,
cùng mấy người quen đi kiếm thi hài chồng, đến miếng rẫy Dốc
Bàu Lồng thì thấy ông nằm đó, chỉ còn chiếc quần cụt che thân.
Mẹ nhờ mua 4 mét vải để bó xác chồng. Mẹ chồng cho chiếc đệm
bàng thay cho cỗ hòm (quan tài) để chôn ông.
104

11.5 Page 105

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Con trai thứ tư của mẹ là Lư Văn Gương lúc đó còn nhỏ, sau
này lớn lên anh theo bộ đội. Tới Hiệp định Genève 1954 anh đi tập
kết, hai mươi mốt năm sau anh mới trở về khi đất nước hoàn toàn
sạch bóng quân thù. Suốt những năm dài xa cách ấy, mẹ luôn cầu
mong cho anh luôn mạnh khoẻ, tiến bộ.
Mẹ Hai Phấn tiếp tục là một trong các cơ sở cách mạng chí
cốt ở Phú Hội. Anh Sáu Trực (Lư Văn Trực) không cam chịu cảnh
“cá chậu chim lồng” tìm gia nhập đơn vị vũ trang của đồng chí
Hai Sơn năm 1960. Một bữa, địch đột vào căn cứ Phước Thiền,
anh Sáu Trực bị thương, chúng đem đi nhà thương Chợ Rẫy chữa
trị để khai thác. Rồi chúng đưa anh về Biên Hòa để tra hỏi, song
anh không khai điều gì. Mẹ thăm nuôi con ròng rã được gần một
năm. Sang ngày 28 tháng chạp năm Tân Sửu (2.2.1962), Sáu Trực
bị bắn ở Sân bia Nhơn Trạch. Mẹ vô cùng đau đớn, xuống xin xác
con về chôn cất.
Căm thù giặc, anh Bảy Hào (Lư Văn Hào) gia nhập lực lượng
vũ trang tỉnh để trả thù cho cha và anh ruột. Thi thoảng anh ghé
thăm mẹ, chứ mẹ không có điều kiện và cũng không biết anh ở
đâu để đi thăm. Ngày 26 tháng 11 năm Giáp Thìn (29.12.1964),
anh Bảy Hào hy sinh ở Suối Quít, Cẩm Đường vì pháo kích.
Tám Kiệt (Lư Văn Kiệt) - con út của mẹ mới 17 tuổi theo
anh Hai Tình vào rừng chiến đấu từ năm 1965. Mẹ sắm một số
vật dụng cần thiết gửi cho con. Có lần mẹ được móc xuống Phước
Thọ thăm mới biết Tám Kiệt là y tá. Gần cuối năm Tân Hợi (năm
1971), mẹ tưởng không sống nổi khi nghe tin sét đánh: Tám Kiệt
hy sinh ngày 29 tháng 9 âm lịch (16.11.1971) ở Bàu Hàm vì bị
địch phục kích.
Mẹ Hai Phấn được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Nhì, được cất ngôi nhà tình nghĩa đầu tiên trong xã năm
105

11.6 Page 106

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
1983. Mẹ qua đời năm 2009. Tên của mẹ sau đó được đặt cho
một con đường khang trang nhất ở xóm Cây Dầu, xã Phú Hội. Mẹ
được Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
106

11.7 Page 107

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đinh Thị Tỵ
(1891 - 1980)
nhà, việc nước.
Mẹ Đinh Thị Tỵ sinh năm 1891
- thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX.
Mẹ là người xã Phú Thạnh, huyện Nhơn
Trạch, một trong những vùng đất lừng
danh trong lịch sử đấu tranh chống quân
xâm lược của dân tộc ta. Thời thanh xuân,
mẹ Tỵ kết hôn với ông Đặng Văn Phụng,
và từ đó bắt đầu nặng gánh hai vai việc
Mẹ có bốn người con trai thì ba người đã lần lượt lên đường
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hai anh
Đặng Văn Nữ (sinh năm 1924 - bí danh Lý Thiết Đầu) và Đặng
Văn Ngưu (sinh năm 1926 - bí danh Đặng Văn Nghĩa) cùng thoát
ly gia đình năm 1945, sau ngày cuộc tổng khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi. Từ một đội viên thanh niên cứu quốc, anh Đặng
Văn Nữ đã liên tục phấn đấu trở thành cán bộ mặt trận Việt Minh
và được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1947. Hai
năm sau (1949), anh được cách mạng giao nhiệm vụ Chính trị
viên xã đội Phước Khánh, chi ủy viên phụ trách công tác chính
trị. Sự nghiệp hoạt động cách mạng của anh đang rộng mở thì
tháng 5.1952, Đặng Văn Nữ hy sinh khi đang trên đường công tác
cùng với đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến xã.
Đồng bào đã chôn cất anh tại Rạch Đọp (xã Phước Khánh), nhưng
không bao lâu, bom đạn chiến tranh đã xóa mất dấu tích ngôi mộ
của người chiến sĩ chưa đầy ba mươi tuổi.
107

11.8 Page 108

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Một năm sau, nỗi đau mất con chưa nguôi ngoai thì mẹ Đinh
Thị Tỵ lại nhận thêm một bất hạnh mới: anh Đặng Văn Ngưu hy
sinh khi đang cùng đội du kích chống địch càn quét vào Chiến khu
Đ - khu căn cứ của cách mạng. Cũng như người anh ruột Đặng
Văn Nữ, anh Đặng Văn Ngưu đã trải qua một quá trình phấn đấu
bền bỉ, bắt đầu từ một đội viên Thanh niên Cứu quốc xã Phú Thạnh
(1945) trở thành cán bộ Huyện đoàn Long Thành (1947) rồi thành
Phó thư ký Mặt trận Liên Việt tỉnh Biên Hòa. Anh mất đi là một
tổn thất lớn cho phong trào cách mạng của địa phương. Riêng với
mẹ Tỵ - người mẹ rứt ruột sinh thành thì sự hy sinh của anh vĩnh
viễn là nỗi đau không gì bù đắp nổi. Ác nghiệt thay, vào năm 1953
mẹ còn mất thêm người con trai là anh Đặng Văn Tám (sinh năm
1922). Anh nhập ngũ tháng 6.1949, là cán bộ Quân giới Tỉnh đội
Biên Hòa (cũ). Tháng 6.1953, trong khi đang mở kíp bom, chẳng
may bom nổ, anh hy sinh, hài cốt của anh về sau cũng do chiến
tranh nên gia đình hiện vẫn chưa tìm được phần mộ.
Ba người con trai - một phần xương thịt của mẹ Tỵ đã ra đi
mà không trở về. Mẹ qua đời vào năm 1980. Với những hy sinh
to lớn, mẹ Đinh Thị Tỵ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1985. Riêng mẹ được Nhà
nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
108

11.9 Page 109

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đổng Thị Sáu
(1922 - 1985)
Sinh năm 1922 trong một gia đình
không giàu có nhưng nền nếp ở xã Phước
Thiền (huyện Nhơn Trạch), năm 1945 má
Đổng Thị Sáu lấy chồng. Người được má
trao thân gởi phận là một thanh niên gốc
Bắc, di cư vào quê má. Rồi cũng năm ấy,
vợ chồng má dắt díu nhau lên Sài Gòn
làm ăn. Vài năm sau, má Sáu trở về quê
với người con nhỏ trên tay. Người con trai duy nhất của má mang
họ mẹ, Đổng Văn Dạn.
Bà Nguyễn Thị Ni, em dâu má Sáu kể: má Sáu vóc dáng
mảnh mai lắm và yếu ớt từ nhỏ. Nhưng những năm một mình nuôi
con, cứ qua mùa vụ, má lại gánh quang gánh hàng rong lên vai,
tảo tần buôn bán khắp nơi, suốt ngày lầm lũi “bán mặt cho đất bán
lưng cho trời” để kiếm tiền nuôi con.
“...Cho đến tận khi chị nằm xuống, tôi chưa hề nghe chị Sáu
tôi than thở một lời về những gì chị tôi đã phải trải qua. Chị tôi vốn
hiền lành ít nói. Là chị chồng - em dâu, nhưng chúng tôi đã sống
yêu thương hòa thuận suốt gần 40 năm trời, ngay cả sau khi chồng
tôi bị bắt lính và mất tích năm 1972. Sau ngày giải phóng, cán bộ
Nhà nước đến đón chị Sáu tôi lên ở Trại nuôi dưỡng cha mẹ liệt sĩ,
chị không chịu đi, chị nói muốn sống trong căn nhà của cha mẹ và
sống với các con tôi” - bà Nguyễn Thị Ni kể.
Năm 1967, khi mới 21 tuổi anh Đổng Văn Dạn nhập ngũ,
là chiến sĩ của Huyện đội Nhơn Trạch. Hai năm con trai đi kháng
chiến, má nhiều lần đi bộ lặn lội lên vùng Phước Thọ, Phước An
109

11.10 Page 110

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
và rừng Phước Lai để thăm con. Tất cả số tiền cóp nhặt được má
đều dành cho người con trai duy nhất ấy.
Một đêm khuya năm 1969, đồng đội của con má mang về
một cái đồng hồ, một cái bóp, kèm theo giấy báo tử của liệt sĩ
Đổng Văn Dạn. Đồng đội chôn cất anh tại rừng Phước Lai, nơi
anh bị trúng mìn và hy sinh trong một chuyến công tác. Sau ngày
miền Nam giải phóng, má Sáu đã cố công kiếm tìm nhưng ngôi
mộ của con trai má không còn để lại dấu vết nào sau bao năm vật
đổi sao dời. Và năm 1985, ngày 7 tháng 10 âm lịch, má ra đi âm
thầm trong ngôi nhà má đã sinh ra và sống suốt 63 năm với nhiều
biến động.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Má cũng được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
110

12 Pages 111-120

▲back to top


12.1 Page 111

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Dương Thị Chính
(1923 - 1984)
Mẹ Dương Thị Chính sinh năm
1923 tại Long Trường, Thủ Đức, tỉnh
Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí
Minh), trong một gia đình nông dân
nghèo vốn cần cù lao động và sớm giác
ngộ lý tưởng Cộng sản. Thân sinh của mẹ
là những người yêu nước, sớm đứng vào
hàng ngũ những người công nông yêu
chuộng tự do hòa bình, cầm tầm vông giáo mác lên đường khởi
nghĩa từ những năm 1945.
Chồng của mẹ, ông Trần Văn Hung (sinh năm 1907) là người
cùng làng, cùng một ý chí, một tấm lòng yêu nước, và đã cùng mẹ
sớm gầy dựng một cơ sở đấu tranh cách mạng từ những năm đầu
kháng Pháp. Gia đình mẹ trở thành một địa chỉ đỏ, nơi nuôi giấu
và đóng góp cho sự nghiệp cách mạng từ lương thực, thực phẩm
đến những đứa con yêu dấu của mình. Con trai mẹ, anh Trần Văn
Hít cùng vợ là Nguyễn Thị Nguyên (tự Hồng) đã gửi lại cho gia
đình mẹ hai đứa cháu: Trần Hoàng Nam và Trần Thị Tự, rồi cùng
nhau lên đường hoạt động cách mạng. Trần Văn Hít nhập ngũ đầu
năm 1963, tham gia đội du kích xã Long Trường. Ngày 29.1.1964,
anh bị địch bắt, những trận đòn và các loại hình tra tấn dã man
của địch không khuất phục được người Cộng sản trẻ - Trần Văn
Hít, vốn sinh ra và lớn lên trong môi trường của một gia đình yêu
nước, cách mạng qua nhiều thế hệ. Địch tức tối đem bắn anh tại
đồn rồi vùi mất xác. Những người thân của gia đình sợ mẹ không
chịu đựng nổi nên giấu kín hung tin. Chị Nguyễn Thị Nguyên trở
thành góa phụ từ đó càng tích cực hoạt động hợp pháp, công khai
111

12.2 Page 112

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
trước kẻ thù. Chị thường đi đầu trong việc tải đạn, mua thuốc men
dụng cụ y tế, chuyển vận lương thực cho đồng đội. Vừa chiến đấu,
vừa sản xuất, vừa nuôi con, con dâu Nguyễn Thị Nguyên đã làm
cho mẹ Dương Thị Chính hài lòng. Các con của chị Nguyên giờ
đây đã thật sự trở thành những công dân có ích, tham gia công tác
lãnh đạo tại địa phương, cùng nhân dân xã Long Tân, Nhơn Trạch,
Đồng Nai tích cực xây dựng quê hương sau những năm tháng
chiến tranh ác liệt.
Người con gái thứ ba của mẹ (Trần Thị Nửa) lên đường nhập
ngũ vào cuối năm 1964, chị được đào tạo và trưởng thành trong
đội hình ngành quân y của quân đội Việt Nam Anh hùng. Hai mươi
hai tuổi, Trần Thị Nửa thoát ly gia đình, trở thành y tá của Quân y
Thủ Đức rồi đến Phước An hoạt động. Nơi đây chị trở thành người
vợ, người mẹ. Ngày 13.12.1969, địch dội bom xuống vùng căn cứ
cách mạng, cày xới từng xóm làng của miệt vườn Phước An. Chị
Nửa hy sinh, để lại cho chồng đứa con vừa tròn một tháng tuổi.
Anh Lê Văn Dương (chồng chị Nửa) được tin vợ hy sinh, ẵm con
trở về nội, nào ngờ gia đình anh cũng vừa bị bom giặc giết hại. Mẹ
Chính lặn lội đến Phước An đưa cháu ngoại về nuôi dưỡng để con
rể được tiếp tục lên đường đánh giặc.
Con trai mẹ - Trần Văn Tiến tham gia lực lượng vũ trang từ
năm 1962, mới tròn 18 tuổi đã là Trung đội trưởng của một đơn vị
thuộc Phân khu 4 và hy sinh anh dũng ngày 9.12.1969 trong một
trận bị địch phục kích ở một khu rừng gần Biên Hòa, trước người
chị của mình bốn ngày.
Ba người con yêu quý đã lần lượt hy sinh. Đứa con đầu mẹ
không được biết, hai người kế theo mẹ nhận hung tin chỉ cách
nhau vài ngày, chẳng thể đo được nỗi đau của mẹ. Nhưng với mẹ
Chính, phẩm chất anh hùng không chỉ là nỗi đau mất con, bản
112

12.3 Page 113

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
thân mẹ còn là một cơ sở cách mạng chu đáo, một tấm gương kiên
trung với cách mạng cho dân làng trong suốt thời chiến tranh ác
liệt.
Mẹ đã nhiều lần địu con cõng cháu chạy tránh những cơn
hoạn nạn. Nhà bị giặc đốt vì gia đình có con đi bộ đội. Mẹ bị địch
bắt, bị tra khảo vì mẹ là người tiếp tế cho cách mạng. Mẹ đã nuôi
con trưởng thành trong bối cảnh nước mất nhà tan và giáo dục con
trở thành những người yêu nước. Mẹ lại thay con của mình nuôi
các cháu lớn lên thành người. Cả cuộc đời mẹ là sự chịu đựng, hy
sinh cho con, cháu và cho Tổ quốc.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Năm 1989, mẹ vĩnh viễn ra đi sau khi
đã hoàn thành trách nhiệm của một người mẹ, người phụ nữ Việt
Nam Anh hùng.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
113

12.4 Page 114

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Dương Thị Phụ
(1905 - 1997)
Trong ngôi nhà đơn sơ khiêm tốn
của má Dương Thị Phụ ở xã Hiệp Phước,
ba tấm bằng Tổ quốc ghi công lúc nào
cũng được treo trang trọng trên bàn thờ.
Không chỉ những liệt sĩ đã nằm xuống
mà cả gia đình má - 2 vợ chồng cùng 6
người con còn là cơ sở cách mạng suốt 2
mùa kháng chiến. Căn nhà của má dù nhỏ
nhưng từng là điểm hẹn của bộ đội và các cán bộ hoạt động bí mật.
Cũng như nhiều gia đình chí cốt khác, má Dương Thị Phụ đã nuôi
không biết bao nhiêu lượt thương binh trong nhà.
Người bạn đời của má, ông Huỳnh Văn Diệu, hy sinh lúc
ông vừa tròn 40 tuổi. Khi ấy ông là nhân viên Ban tiếp tế Long
Thành. Tháng 7.1946, ông bị bắt trong lúc vận động mua lương
thực cho bộ đội ngay trên mảnh đất Phước Lai quê ông. Trong thời
gian bị giam cầm tại khám đường Biên Hòa, ông cùng các bạn tù
đấu tranh và bị bí mật thủ tiêu không lâu sau đó.
Sau khi người bạn đời nằm xuống, má lại lần lượt đón nhận
tin 2 người con hy sinh. Liệt sĩ Huỳnh Ngọc Chiếu, sinh năm 1927,
nhập ngũ tháng 7.1948, khi mới 21 tuổi. Con trai má là Trung đội
trưởng bộ đội tình nguyện Đông Nam Bộ - Cao Miên. Anh nhập
ngũ chỉ 2 năm sau khi người cha qua đời, và hy sinh trước ngày
đình chiến 1954 không bao lâu. Má cùng người con trai út xuống
tận xã Tân Bằng, huyện Bạc Liêu để tìm mộ liệt sĩ Huỳnh Ngọc
Chiếu. Đồng đội của con má cho hay, liệt sĩ Huỳnh Ngọc Chiếu
hy sinh trong một trận chống càn tận vùng biên giới giáp ranh
Campuchia, đồng đội đã không đưa được anh về tới đơn vị.
114

12.5 Page 115

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Liệt sĩ Huỳnh Văn Bửu sinh năm 1937, hy sinh năm 1963
trên chính mảnh đất quê nhà, má cũng không tìm được mộ. Anh là
Bí thư chi bộ xã Phước Lai, hy sinh trong lúc cùng cán bộ các ban
ngành của xã ra đồng thu đảm phụ.
Trong chiến tranh, mọi mặt trận đều khốc liệt. Má đã cống
hiến 3 người thân yêu vì sự nghiệp độc lập của dân tộc. Song với
má và những người con còn sống, sự lựa chọn vẫn không hề thay
đổi. Nỗi đau và niềm tự hào to lớn của má hòa cùng trong nỗi đau
và niềm tự hào chung của đất nước và của những người chung
quanh. Má và các con của má đã âm thầm làm điểm tựa cho cuộc
cách mạng đến tận ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Riêng má được Nhà nước phong tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
Má qua đời ngày 1.3.1997.
115

12.6 Page 116

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Dương Thị Tốt
(1894 - 1978)
Mẹ Dương Thị Tốt sinh năm 1894,
mất năm 1978 do bệnh tật và tuổi cao sức
yếu. Mẹ có tất cả 8 người con (4 trai, 4
gái), trong đó có 5 người là đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chị Trần Thị Nghiệp và Trần Thị
Xuyên là cơ sở chí cốt của cách mạng.
Chị Trần Thị Đầm là liên lạc, tiếp tế cho
bộ đội Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác. Anh Mười Thọ (Trần Văn
Thọ, còn có tên là Nhiệm) sau giải phóng có thời gian làm Phó
Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa...
Thời chống Mỹ, cuộc đời mẹ Dương Thị Tốt thật lận đận.
Vừa nuôi con khôn lớn, dạy dỗ con cháu nên người, vừa phải
đương đầu với bao lần bắt bớ, khảo tra của địch. Hồi ấy, mỗi lần
bộ đội và du kích đánh đồn Phước Thọ thì bọn giặc lại tìm đến bắt
mẹ tra hỏi về các con của mẹ: “Trí, Nhiệm ở đâu?” Mẹ dõng dạc
trả lời: “Mấy ông kiếm nó mà bắt, tôi không biết!”. Cũng nhiều
lần giặc truy lùng, bắt bớ, bản thân mẹ phải lánh mặt vài ngày
hoặc vài tháng ở Cần Giờ, Vũng Tàu... cho qua “cơn sóng gió”.
Lúc sinh thời mẹ Tốt cũng như bao bà mẹ Việt Nam Anh
hùng khác, từng khóc thầm tiễn biệt núm ruột của mình ra đi vì
nước.
Con của mẹ - anh Trần Văn Bi (Trần Văn Thuyền, Bảy
Thuyền) sinh năm 1930 là Trưởng ban Giao liên huyện Long
Thành. Ngày 3.9.1959, Bí thư Huyện ủy Long Thành là Hà Tư
đầu hàng địch, đưa lính đến phục kích tại lô cao su ở Bình Sơn,
116

12.7 Page 117

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
nơi đặt hộp thư hỏa tốc của giao liên huyện. Khi Bảy Thuyền
cùng một cán bộ khác là Sáu Cẩn (Võ Văn Bê) đến chỗ hộp thư
thì trúng phục kích. Chúng nổ súng bắn xối xả và kêu gọi hai anh
đầu hàng. Hai anh quyết liệt bắn trả, ném lựu đạn làm địch thương
vong một số, nhưng do tương quan lực lượng kém nên hai anh bị
bắt đưa về Long Thành, Bảy Thuyền thì bị thương ở bụng. Chúng
băng bó cho Bảy Thuyền, dụ dỗ anh đầu hàng nhưng anh dũng
cảm tháo băng, lôi ruột của mình ra bứt đứt, rồi hy sinh trong sự
kinh hồn tán đảm và kính phục của bọn địch.
Anh Trần Văn Chót, kém anh Bi 2 tuổi, năm 1961 là y tá
huyện đội Nhơn Trạch, hy sinh ngày 12.4.1964 trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Giữa lúc các con của mẹ Tốt người ngã xuống, người tiếp
tục cầm súng chiến đấu giữ quê hương, thì mẹ vẫn âm thầm chịu
đựng nỗi đau, động viên con cháu không vì sự hy sinh mất mát
mà từ bỏ cách mạng, đi ngược lại lợi ích của dân tộc và ý chí quật
cường của nhân dân vùng Phước Thọ, Phước Long (huyện Nhơn
Trạch).
Nối tiếp truyền thống gia đình, anh Trần Văn Tẻn, con liệt sĩ
Trần Văn Bi gọi mẹ bằng bà nội được mẹ nuôi dưỡng như mẹ hiền
từ lúc mới 8 tháng tuổi lại gia nhập du kích, làm chiến sĩ bảo vệ
các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy Long Thành. Và anh cũng đã hy
sinh tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp chung. Anh bị vướng
mìn của giặc gài trên đường đi tải lương thực khi vừa 21 tuổi.
Với những đóng góp to lớn của bản thân và gia đình, mẹ
Dương Thị Tốt được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Ba và truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 438/KTCTN ngày 24.4.1995.
117

12.8 Page 118

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Hồ Thị Canh
(1904 - 1990)
Sau ngày 30.4.1975, những người
con của xã Phước An anh hùng đã lần lượt
trở về sum họp. Niềm vui đoàn tụ chan
hòa trong nhiều gia đình. Nhưng ở một
căn nhà lá nhỏ tại ấp Bàu Bông có người
mẹ vẫn ra tựa cửa, mòn mỏi chờ đợi đứa
con trai độc nhất của mình. Người mẹ ấy
chính là má Hồ Thị Canh.
Má khóc liền mấy ngày đêm. Mười lăm năm trời bóng chim
tăm cá mẹ con cách biệt, má chẳng có một tin tức gì về anh. Kể
từ khi anh thoát ly khoảng giữa năm 1960, lúc mới 21 tuổi đầu,
cho đến ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, cái tin duy nhất mà
má nhận được là tin con trai má đã ra đi. Ngày 15.3.1970, anh hy
sinh trong một trận chống càn ở xã Phú Hội anh hùng. Nơi liệt sĩ
Lê Văn Đờn (tự Tiện) hy sinh cách chỗ má ở không hơn 10 cây số
đường chim bay, mà cái tin anh mất phải hơn 5 năm trời má mới
biết được.
Khi hòa bình lập lại, má vẫn ngày ngày tần tảo đi chặt cây
tràm, cây đước làm củi bán kiếm tiền mua gạo, trồng ớt, mướp,
bầu chắt chiu nuôi cháu thơ dại, nuôi chồng bệnh tật và nuôi cả
những đứa cháu trong họ chồng có người thân đã hy sinh. Cả cuộc
đời má thầm lặng sống, thầm lặng hy sinh, thầm lặng vun đắp cho
mọi người. Má ra đi bình thản, nhẹ nhàng vào năm 1990.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Riêng má được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
118

12.9 Page 119

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hồ Thị Khiêm
(1914 - 1971)
Má Hồ Thị Khiêm sinh năm 1914
tại xã Phước Thiền (Nhơn Trạch), có hai
con liệt sĩ và bản thân má cũng là liệt sĩ.
Sáng 8.11.1971 âm lịch, một kẻ
chiêu hồi đã dẫn đường cho địch bao vây
cứ Long Điền. Bộ đội trong cứ đã rút
gần hết nhưng má chưa đi lọt. Địch chủ
trương bắt sống nên kêu đích danh tên
má, dụ hàng, nhưng má đã bắn trả quyết liệt. Địch phải dùng M79
bắn xối xả vào nơi má ẩn nấp, má trúng đạn hy sinh. Rồi chúng
mang xác má về đồn Bến Sắn. Lúc ấy khoảng 10, 11 giờ trưa. Đến
tận 3 giờ chiều ngày hôm ấy, chồng má, ông Nguyễn Văn Cẩn,
mới xin được xác má về chôn cất. Kẻ chiêu hồi là người đã từng
được má che chở chăm sóc trong nhà. Ấy là câu chuyện đau lòng
về cái chết của liệt sĩ Hồ Thị Khiêm mà mãi đến tận bây giờ những
cán bộ cách mạng ở huyện Nhơn Trạch vẫn còn nhắc lại.
Má đã có một cuộc sống vợ chồng không trọn vẹn. Người
chồng của má đem lại nhiều xáo trộn trong gia đình khi ông đèo
bồng một người vợ bé ở làng bên. Song bất chấp những nỗi khổ
riêng, ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
gia đình má đã là đầu mối tiếp tế cho bộ đội, là cơ sở cách mạng
kiên trung. “Má tôi vẫn thầm cám ơn ba vì cho dù cuộc sống vợ
chồng không hòa thuận, song ba vẫn là người giúp má hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng” - những người con của má Hồ Thị Khiêm
kể. Năm 1964, má Hồ Thị Khiêm chính thức thoát ly vì bấy giờ
tình hình gắt gao, má không thể hoạt động hợp pháp được nữa. Và
119

12.10 Page 120

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
lần lượt, má mang theo 4 người con vào cứ Long Điền (trừ người
con gái thứ 3 đã lấy chồng và người con út còn quá nhỏ). Thế nên
các con má tham gia cách mạng từ khi còn rất trẻ. Liệt sĩ Nguyễn
Thị Cúc, con gái thứ 6 của má là y tá của quân y huyện Nhơn
Trạch, hy sinh trên đường tải thương tại khu căn cứ Phước Thọ
vào tháng 4.1970 khi mới mười sáu tuổi. Người thương binh được
chị đưa đi hôm ấy là anh Nguyễn Văn Sinh, hiện còn sống tại xã
Long Thọ. Hôm ấy, máy bay “chụp” trúng hai người. Chị Nguyễn
Thị Cúc hy sinh còn anh thương binh bị bắt. Sau chiến tranh anh
được trao trả.
Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệp, con trai má Hồ Thị Khiêm, là một
chàng trai dũng cảm và xông xáo. Ngày 30.8.1963 anh Nguyễn
Văn Hiệp, chiến sĩ trinh sát huyện đội, đi trinh sát đồn Tam An
và bị địch bắn. Anh được đưa về Quân y viện huyện Nhơn Trạch
nhưng do vết thương quá nặng, anh đã ra đi trong sự thương tiếc
của mọi người. Năm ấy anh vừa 25 tuổi.
Má Hồ Thị Khiêm không những là cán bộ phụ nữ năng nổ
của xã Phước Thiền, đóng góp hy sinh vô điều kiện cho cách mạng
mà còn là tấm gương sáng trong cho các con noi theo. Người mẹ
ấy đã trải qua cuộc đời đầy ý nghĩa, bình dị sống, bình dị cống
hiến và hy sinh. Má một mình vượt qua chặng đường dài 57 năm,
nặng trĩu trên vai là trách nhiệm với gia đình, với quê hương, đất
nước, để rồi thanh thản ra đi vào ngày 25.1.1971.
Má được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba
năm 2000. Nhà nước truy tặng cho má danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
120

13 Pages 121-130

▲back to top


13.1 Page 121

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hồ Thị Quý
(1921 - 1951)
Vào khoảng đầu năm 1950, có
một người đàn ông ngoài 30 tuổi, gia
đình đông con, chuyên đi làm thuê, cuốc
mướn hoặc mò cua bắt cá, đi đăng đi
xúc kiếm chút tiền về nuôi gia đình. Một
hôm, ông đi không thấy về, vợ con ở nhà
lo lắng, ngóng trông. Rồi nghe dân làng
kháo nhau: ông Lê Văn Nhạn đã bị Tây
bắt vô sở cao su Ship (nông trường cao su Long Thành bây giờ)
đánh chết rồi! Người chồng trẻ ấy chết đi để lại người vợ chưa đầy
30 tuổi và 5 đứa con thơ dại. Người vợ trẻ ấy chính là má Hồ Thị
Quý, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở xã Long Tân.
Làng quê Long Tân thuở ấy nghèo lắm, làm được miếng ăn
đã khó lại còn phải nơm nớp trông chừng Tây về làng bố ráp để lo
kiếm đường chạy. Tuy vậy, cái tình của người dân Long Tân vẫn
luôn chan chứa, thủy chung. Cái ác, cái xấu do bọn giặc gây ra
đã nung nấu sự phẫn nộ, lòng căm thù của bà con. Do đó, người
góa phụ trẻ Hồ Thị Quý dù nghèo khổ, cơ cực với một nách 5 con
thơ vẫn sẵn sàng giúp đỡ, nuôi giấu những người cách mạng đánh
Tây, đuổi Nhật.
Khoảng tháng 4.1951, Tây đến làng, người mẹ trẻ quýnh
quáng ẵm đứa con út Lê Thị Sáu (sinh năm 1950) chưa đầy tuổi
thôi nôi và dắt vội đứa con gái Lê Thị Tư mới 2 tuổi chạy đi trốn
Tây, ba mẹ con nấp trong bụi cây gần khúc sông Vàm Môn. Giặc
phát hiện ra chỗ ẩn nấp của ba mẹ con và bắn chết bà mẹ trẻ cùng
đứa con còn ẵm trong lòng. Đứa con gái còn lại, em Lê Thị Tư bị
bọn chúng cắt cổ, quăng xác vào lùm cây rồi bỏ đi. May mắn thay,
121

13.2 Page 122

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đứa bé ấy chưa chết. Em hoảng sợ kêu khóc và bò lết ra khỏi lùm
cây, được hàng xóm cứu sống.
Bà mẹ vắn số Hồ Thị Quý ra đi ở tuổi 30, đứa con trai lớn
nhất của bà chưa đầy 13 tuổi. Thương các cháu mồ côi mồ cút, bà
ngoại Nguyễn Thị Được đón các cháu về nuôi cũng bằng cái nghề
ba mẹ các cháu đã trải qua: đi xúc đi tát, mò cua bắt ốc, làm thuê
làm mướn... Các cháu đã lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của
ngoại, của bà con chòm xóm.
Anh Lê Minh Hoàng, con lớn của má kết duyên cùng cô
Nguyễn Thị Đào, người cùng xã. Sau đó anh Hoàng tham gia hoạt
động cách mạng ở cơ sở, năm 1962 anh thoát ly hẳn và hoạt động
trên địa bàn Nhơn Trạch. Vợ anh ở lại cũng tham gia hoạt động
hợp pháp tại địa phương. Năm 1971, trên đường đi công tác anh
Hoàng lúc đó là Bí thư xã Long Tân đã bị phục kích tại khu vực
ấp Bình Phú và hy sinh. Lúc ấy anh mới 33 tuổi, để lại con trai đầu
lòng 8 tuổi và hai con gái, đứa con gái út mới chỉ 10 tháng. Trước
đó, em trai anh Lê Minh Hoàng là Lê Minh Chiến (sinh năm 1940)
đi du kích xã Long Tân năm 1960, năm 1967 hy sinh, bị bọn lính
kéo xác về huyện, chị Hai Đào phải lên huyện xin nhận xác về
chôn. Cũng năm 1967, người con trai út của má Hồ Thị Quý là Lê
Văn Năm (sinh năm 1948) - đi bộ đội công binh huyện hồi mới 15
tuổi - cũng hy sinh ở xã Phước An và mất xác. Còn cô gái Lê Thị
Tư, người bị bọn Pháp cắt cổ nhưng thoát chết năm xưa (vẫn còn
vết sẹo) có chồng, sinh được ba người con. Chồng cô cũng tham
gia cách mạng và hy sinh khoảng năm 1965 - 1966.
Má Hồ Thị Quý được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994. Trước đó, má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1985. Hiện con dâu Nguyễn
Thị Đào thờ cúng má tại ấp Long Hiệu, xã Long Tân.
122

13.3 Page 123

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Huỳnh Thị Cận
(1905 - 1998)
Năm 1995, Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng Huỳnh Thị Cận ở ấp Đất Mới 1, xã
Phú Hội, Nhơn Trạch. Người già ở vào
tuổi này thường lúc nhớ lúc quên, nhưng
với mẹ Cận, trí tuệ mẹ còn minh mẫn
lắm.
Mẹ Cận có đến mười lần sinh nở,
nhưng do ốm đau, bệnh tật... chỉ còn lại
năm người, mẹ nuôi đến ngày khôn lớn. Rồi, 3 người đi theo cách
mạng và hy sinh trên đất xã nhà.
Người con trai thứ 8 của mẹ, ông Lê Văn Xây, sống bằng
nghề làm ruộng rẫy cũng ở xã Phú Hội, kể lại: “Hồi thời chống
Pháp, anh em tôi còn nhỏ, tôi nhớ thường ngày má tôi gánh từng
gánh trầu, gánh cau đi chợ Phước An, Phước Thọ để bán. Tan buổi
chợ, má mua gạo gánh về. Gặp lính Tây, chúng lục soát, hạch
sách, hành hạ má đủ điều, ấy vậy mà má chịu đựng, lây lất nuôi
anh em tụi tôi và giúp đỡ Việt Minh. Sang thời chống Mỹ, Phú
Hội là vùng tranh chấp, Mỹ và tay sai tập trung đánh phá ác liệt.
Mục tiêu của chúng nhằm triệt tiêu các căn cứ của ta ở đây. Phong
trào tòng quân giết giặc nổi lên rầm rộ. Như bao gia đình khác ở
xã, các em tôi cũng đi theo cách mạng, chiến đấu và hy sinh. Đứa
thứ 9, Lê Văn Bên, du kích xã, ngày 3.10.1965, đi dán cờ, bị lính
phục kích trúng thương. Sau đó, chúng phát hiện, mang ra bắn
chết. Người thứ 10, Lê Văn Ron, đi bộ đội chủ lực, đánh trận Bến
Trăng tiêu diệt cả gần đại đội lính và hy sinh trong trận này vào
ngày 17.10.1966. Người con út, Lê Thị Mười, du kích xã, trong
123

13.4 Page 124

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
một lần dừng quân Xóm Hố, bị tay chiêu hồi khai báo, chúng phục
kích, cô Út chiến đấu dũng cảm và hy sinh ngày 7.9.1969. Sau giải
phóng, mộ của Lê Văn Bên được đưa về nghĩa trang liệt sĩ huyện.
Hai người còn lại tìm mãi đến giờ mà vẫn không ra, xem như thất
lạc”.
Như bao bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác, mẹ Cận cũng mang
nặng nỗi đau của sự mất con. Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1985. Mẹ được Nhà
nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu
tiên theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Đúng 4 năm sau, ngày 10.10.1998, mẹ Cận qua đời.
124

13.5 Page 125

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Huỳnh Thị Hạng
(1922 - 2017)
tiếng khóc chào đời.
Cả đời, mẹ Huỳnh Thị Hạng vẫn
không quên những ngày sống cơ cực
dưới ách thống trị của thực dân phong
kiến và đế quốc. Từ thời con gái, mẹ đã
tận mắt chứng kiến biết bao điều tủi nhục
mà nhân dân ta phải gánh chịu, khi mà
bọn giặc thẳng tay đàn áp phong trào
cách mạng tại Long Thọ - nơi mẹ cất
Mẹ thường nói: “Đất nước mình mà mình không được làm
chủ, lại còn bị thằng Pháp, thằng Mỹ đè đầu, cưỡi cổ chịu sao
nổi”. Bởi vậy, mẹ đã sớm giác ngộ và đi theo cách mạng. Năm
mẹ 30 tuổi thì cả gia đình mẹ bị bắt lên đồn giặc để tra hỏi, riêng
mẹ bị giam cầm 3 tháng vì đi theo Việt Minh ở rừng Đước, Phước
Thọ”.
Năm 1960, mẹ Hạng lưu luyến tiễn đưa người con trai lớn là
anh Nguyễn Văn Non lúc đó mới 19 tuổi vào làm cán bộ báo vụ
trong lực lượng bộ đội địa phương quận Long Thành. Trên đường
tải gạo ra căn cứ, ngày 15.8.1968, anh Non bị hy sinh khi bị giặc
phục kích.
Hai người con trai kế của mẹ Hạng - anh Nguyễn Văn Nước
(sinh năm 1943) và Nguyễn Văn Phải (sinh năm 1947) cùng một
lúc thoát ly tham gia cách mạng năm 1964. Anh Nước là Tiểu đội
trưởng du kích xã đã anh dũng ngã xuống ngay trên quê hương
Long Thọ trong một trận chống càn ác liệt của địch ngày 23.9.1966.
Trước đó một năm, anh Phải lúc bấy giờ là du kích xã cũng đã ra
đi vĩnh viễn trên đường tuần tra trinh sát.
125

13.6 Page 126

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Không có nỗi đau nào hơn nỗi đau của người mẹ mất con. 3
con trai mẹ Hạng đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Trong vòng có 4 năm, mẹ Hạng phải 3
lần khóc tiễn biệt các con.
Dằn nỗi buồn thương, mẹ Hạng lại lao vào công tác cách
mạng. Ban ngày mẹ giả vờ đi chợ để mua thực phẩm, thuốc men
về cất giấu tại nhà, tối đến bộ đội, du kích lần về lấy mang đi theo
địa điểm đã quy ước trước...
Cứ như vậy, vừa chăm sóc người con trai út Nguyễn Văn Lễ
lâm bệnh ngặt nghèo, mẹ Hạng vừa đóng góp cách mạng cho đến
ngày đất nước thống nhất.
Mẹ và gia đình được tặng thưởng Huân chương Lao động
hạng Ba. Riêng mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
Mẹ qua đời ngày 26.3.2017, thọ 95 tuổi.
126

13.7 Page 127

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Huỳnh Thị Hý
( ? - 1960)
Má Huỳnh Thị Hý người xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, cả đời gắn bó
với nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình.
Chị Phan Thị Thổi, con gái thứ 3
của má Huỳnh Thị Hý không còn nhớ rõ
ngày tháng năm sinh của mẹ ruột mình.
Chị chỉ nhớ khoảng năm 1960, khi sinh
cậu em trai út Phan Văn Chiến, má chị bị
băng huyết nặng. Thiếu thuốc men, thiếu phương tiện cấp cứu, má
Huỳnh Thị Hý đã qua đời. Vợ chồng chị Thổi hiện đang sống trên
mảnh đất xưa kia là căn nhà cũ của má Hý. Năm tháng qua đi, ngôi
nhà đã được thay bằng căn nhà gỗ khang trang mới cất sau giải
phóng. Bao quanh ngôi nhà, vẫn như trước kia là vườn tạp đủ loại
cây cối. Không còn bom đạn, cây trái trong vườn tốt tươi, bưởi
hầu như đơm hoa kết quả quanh năm.
Chị Thổi kể, má Hý sinh được bốn người con, ba trai, một
gái. Trước giải phóng, đất Phú Hội gò đống ngổn ngang, cỏ và cây
dại mọc lan tràn lút đầu người. Gia đình má Hý chủ yếu sống bằng
nghề nông nhưng không có ruộng, phải mướn của người khác để
cấy hái rồi tới mùa, đóng tô tức cho chủ đất. Mỗi năm, chủ đất thu
của gia đình má 15 giạ lúa một mẫu, cả nhà vì thế làm quanh năm
quần quật mà vẫn không đủ ăn. Thiếu thốn, đói khổ, mấy mẹ con
thường dắt nhau đi mót lúa, chài tôm cá sống qua ngày.
Chồng má, ông Phan Văn An đã hoạt động cách mạng từ thời
còn thực dân Pháp. Có thời kỳ, ông đội tên giả, mang căn cước giả
lên hoạt động ở thành phố Biên Hòa. Má Hý mang con lên Biên
127

13.8 Page 128

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Hòa, ở với chồng vài bữa rồi tất tả mang con về cho chồng rảnh
tay hoạt động. Sau đình chiến, ông An bị chính quyền Ngô Đình
Diệm bắt giam ở khám Chí Hòa vì tội “làm cộng sản”. Ra tù, ông
vẫn tiếp tục hoạt động và lại bị địch rình rập, theo dõi. Biết mình
bị lộ, ông quyết định tìm đường về căn cứ hoạt động, trao gánh
nặng nuôi con cho vợ và bà nội, bà ngoại.
Má Huỳnh Thị Hý sống và nuôi con trong những ngày kháng
chiến vô cùng gian khổ. Nhưng má sớm qua đời nên không chứng
kiến sự trưởng thành của các con. Má mất được ít lâu thì tháng
2.1960, anh Phan Văn Lợi (sinh năm 1941) thoát ly gia đình. Anh
được tổ chức phân công làm y tá phục vụ quân y viện Nhơn Trạch.
Hồi ấy, đơn vị của anh đóng ở Rừng Sác - Phước An là căn cứ
của cách mạng. Khi chị Thổi sinh con đầu lòng, anh Lợi vượt qua
vòng kiểm soát gắt gao của liên đội 32 bảo an, đóng ở đồn Phú Mỹ,
đồn nhà Mồ, lặn lội về thăm em và cháu. Anh được cử đi học lớp
nghiệp vụ y tế để về phục vụ cơ quan huyện ủy. Học xong, ngày
20.4.1963, trên đường từ tỉnh trở về đơn vị, vừa đến xã Phước An,
anh vấp phải trái gài của địch và hy sinh. Thời gian đó, ông Phan
Văn An đang là cán bộ kinh tài của huyện. Hàng ngày, ông cùng
đồng đội “ém kỹ ngoài bờ ruộng, chờ đến tắt mặt trời mới bơi
xuồng về ấp. Một buổi chiều năm 1970, trong cảnh tranh tối tranh
sáng, ông đã không phát hiện ra tàu địch thả trên vàm kinh sông
Ô Môn. Một cuộc đụng độ quyết liệt xảy ra, người cán bộ kinh tài
chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh.
Người thứ ba trong gia đình má Hý tham gia cách mạng là
anh Phan Văn Tân (sinh năm 1946, thoát ly ngày 6.6.1965). Anh
cũng là cán bộ kinh tài như cha mình, kiêm thêm chức vụ Xã
đội trưởng xã Phú Hội. Anh thường bơi xuồng đi thu thuế ruộng,
chuyên chở lúa gạo, củi... cho cách mạng. Ngày 25.4.1972, không
128

13.9 Page 129

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
may xuồng của anh lọt vào ổ phục kích của địch. Anh hứng trọn
loạt đạn M.79 của địch, năm ấy anh vừa tròn 26 tuổi.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Má cũng được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
129

13.10 Page 130

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Sớm
(1925 - 1976)
Nhà má Huỳnh Thị Sớm là căn nhà
tình nghĩa được xây dựng đầu tiên ở xã
Phước An, huyện Nhơn Trạch. Má cũng
là một trong những bà mẹ Việt Nam Anh
hùng đầu tiên của địa phương.
Những năm đầu thập niên 60, Phước
An, nơi chôn nhau cắt rốn của má là vùng
trọng điểm của đạn, pháo, của những
cuộc càn quét. Vùng đất chiến khu ngay sát nách Sài Gòn này đã
gánh chịu nhiều khốc liệt. Nhưng cả ba người con của má vẫn lần
lượt lên đường theo cách mạng.
Hai tháng sau khi nhập ngũ, anh Trương Văn Ba hy sinh
trong một trận chống càn vào ngày 24.6.1964.
Năm năm sau, người con đầu lòng của má - anh Trương Văn
Cái - lại tiếp tục nằm xuống. Đồng đội anh sau này kể lại: ngày
3.1.1969, trên đường tải thương về cứ quân y, anh Cái đã bị máy
bay địch bắn tử thương.
Mộ anh chưa xanh cỏ thì người con trai thứ ba của má - anh
Trương Văn Nự - cũng vĩnh viễn ra đi ngày 18.7.1969, khi anh Nự
đi làm công tác phong trào thì bị lọt vào vòng vây của giặc. Anh
chiến đấu dũng cảm và đã anh dũng hy sinh.
Một năm sau ngày đất nước thống nhất, má qua đời (năm
1976). “Sau này trong những ngày giỗ Tết, vú1 tôi thường hay kể
lại chuyện mấy ông anh. Vú tôi muốn con cháu phải nhớ tới mấy
1  Vú, tức má - tiếng địa phương.
130

14 Pages 131-140

▲back to top


14.1 Page 131

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
anh, nhớ ngày để cúng giỗ. Vú tôi mất lúc tôi chừng 10 tuổi, còn đi
coi trâu. Bấy giờ tôi chưa đủ lớn để hiểu được nỗi đau của vú trước
những mất mát của gia đình. Nhưng sau này, khi có cái gì gợi tôi
nhớ đến vú, tôi hiểu ra rất nhiều... Chỉ một điều tôi ân hận là vú tôi
mất sớm quá, chưa một ngày nào sung sướng cả. Bây giờ gia đình
thì chưa khá giả gì nhưng cũng không cực như ngày xưa...” - anh
Trương Văn Phiếu, người con út của má sống tại Phước An kể.
Ông Trương Văn Tốc - người bạn đời của má Sớm - bùi ngùi
nhớ lại: “Bả mất, tui xây mộ rồi ở vậy tới giờ. Nhiều năm qua, tui
cũng quen với sự thiếu vắng bả rồi. Nhưng thi thoảng, tới ngày giỗ
bả thì tôi cũng nhớ lắm. Ngày xưa bả buôn bán cực khổ, mua đồ
tiếp tế cho du kích mấy lần bị bắt...”
Cuộc đời má Sớm thật bình dị. Nhưng cái phi thường của
một người mẹ anh hùng chính là ở sự hy sinh, sự quên mình mà
không phải ai cũng có thể hiểu hết được. Má và gia đình được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1985. Má
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
131

14.2 Page 132

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Thế
(1930 - 1962)
Má Thế sinh năm Canh Ngọ (ứng
với năm 19301) trong một gia đình bần
nông ở quê nghèo xã Phước Long (nay
thuộc ấp 2 xã Long Thọ). Má là con thứ
năm trong nhà, nên dân làng thường gọi
là Năm Thế. Trên má là Hai Tỉnh (chết
bệnh do lao lực làm xâu quá sức cho lính
Nhật), Ba Giác (cán bộ cơ sở xã Phước
Long), người thứ Tư chết bệnh từ nhỏ. Sau má Thế là Sáu Cường,
Bảy Phượng, Tám Hùng, Chín Tấn đều là cán bộ thoát ly kháng
chiến chống Mỹ, đảng viên từ trước năm 1965.
Gia đình má Thế ở làng Phước Long ai cũng biết: Nghèo
khó, thanh sạch, cha mẹ mất sớm, anh chị em yêu thương, đùm
bọc nhau trong vòng tay yêu thương của xóm làng. Mẹ má là bà
Lâm Thị Trừ, chịu thương chịu khó, bệnh nặng, thiếu thuốc men,
mất năm 1946; má Thế và các anh chị em nghèo thiếu cả khăn
tang, lúc an táng bom đạn cũng không để yên. Năm sau, 1947, cha
của má là Huỳnh Văn Phê cùng hơn 30 thường dân Phước Long
bị tử nạn chiến tranh, các anh chị em má trở thành côi cút; lúc đó
má vừa 17 tuổi, phải cùng chị Ba Giác làm đủ mọi việc để thay
cha mẹ nuôi dưỡng các em.
Vào tuổi 18, má Thế vừa đảm việc nhà vừa tham gia việc
nước, bắt đầu nhận công tác trong phong trào phụ nữ ở xã. Với
dáng người nhỏ nhắn, nhiệt thành, siêng năng, các cô chú kháng
chiến ai cũng thương, tin cậy, giao việc hệ trọng. Trong công tác,
1  Có tài liệu ghi: 1929
132

14.3 Page 133

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
má quen và hợp ý với chàng trai Lê Duy Linh người cùng xã, cùng
hoạt động kháng chiến. Năm 1948, đám cưới diễn ra trong căn cứ,
đơn giản mà đầm ấm, lời thề sắt son với nhau cũng là lời thề quyết
hy sinh vì đất nước. Về làm dâu, má được nhà chồng tạo điều kiện
tham gia công tác, cũng thường được về nhà phụ giúp chị Ba Giác
nuôi em. Được vậy, má vui lòng, dù rất vất vả.
Niềm vui chẳng bao lâu, nỗi đau ập đến. Ngày 13.9.1953,
chồng má - đồng chí Lê Duy Linh hy sinh trong một chuyến công
tác từ Phước Thọ về họp tỉnh đội. Thương mẹ già mất con, thương
hai con thơ dại mất cha, tình thương và trách nhiệm lớn lao oằn
nặng trong con người bé nhỏ của má. Nhưng, người ta thấy má
mạnh mẽ hơn, cương nghị hơn, sức làm việc nhiều hơn.
Má xin nhà chồng được đưa con về với chị Ba Giác, các anh
chị em cùng nhau rau cháo, vừa kiếm sống vừa tiếp tục công tác.
Má rất giỏi trong việc gánh đất mướn, trọng lượng của gánh đất
nặng hơn trọng lượng của chính má. Lúc đó, các anh chị em của
má đều có công tác được giao, việc ai người đó biết, trẻ nhỏ làm
việc nhỏ.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, cán bộ kháng chiến
nòng cốt đi tập kết, cán bộ phong trào ở lại trong dân, chờ thực
thi hiệp định. Nhưng, chính quyền Ngô Đình Diệm trở mặt, ra sức
khủng bố lùng bắt người tham gia kháng chiến. Cuộc sống của nhà
má lại nổi sóng, các anh chị em vừa làm mướn, vừa tránh các đợt
khám xét, tra hỏi, bắt bớ trong chiến dịch Trương Tấn Bửu. Đến
năm 1959, Bí thư Huyện ủy kháng chiến tên Hà Tư đầu hàng, dẫn
giặc đi lùng bắt cán bộ kháng chiến, tàn phá cơ sở cách mạng thì
gia đình má không ai yên thân, Ba Bính (anh Rể) và Sáu Khiêm bị
bắt đi tù, số còn lại phải chia cách để tản cư; má Thế gởi hai con
133

14.4 Page 134

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
gái là Lê Thị Hoàng, Lê Thị Oanh về nhà nội, bản thân má thoát
ly ra căn cứ, tiếp tục công tác.
Công tác cách mạng thoát ly trong vòng vây vùng địch tạm
chiếm, thật là vất vả gian nan đối với cán bộ nữ, vừa sống thiếu
thốn trong căn cứ, vừa bám dân bám làng để vận động quần chúng,
vừa bám gia đình để thăm con, chăm sóc mẹ chồng. Má đi về như
con thoi, sớm tối bất kể, thoắt ẩn, thoắt hiện. Tên ác ôn Chín Trớn
biết hoàn cảnh của má, nhiều lần cho mật phục, đón bắt nhưng đều
thất bại.
Một buổi sáng ngày rằm tháng 10.1962, trong một chuyến
công tác, má Thế bất ngờ lọt vào ổ phục kích của trung đội lính
đồn Phước Long. Chúng nổ súng, bắn má bị thương, dụ dỗ đầu
hàng. Má kiên quyết không đầu hàng, chúng kê súng sát hại rồi
kéo má về phơi xác lõa thể tại chợ Phước Long, cấm không cho
ai đến gần. Đến trưa, nắng rát, Bà Hai Sủi bán vải trong chợ cám
cảnh may cho má bộ quần áo trắng, đến đấu lý với lính canh giữ:
“Mấy ông ác vừa thôi, người ta chết rồi, cũng phải cho người ta
tấm áo che thân chớ!”. Mấy tên lính đuối lý, tắt ánh mắt hả hê, làm
thinh cho má được mặc áo.
Đến giữa trưa, sau nhiều lần năn nỉ, người em má vừa mới
đi tù về là Sáu Khiêm (Sáu Cường) mới được tên chỉ huy cho phép
đưa má về chôn, nhưng ra lệnh ác nhơn: Không được khiêng. Sáu
Khiêm cùng người em họ là Tư Chùng lặng lẽ đưa má vào hòm,
dùng dây chạc bò còng lưng kéo chiếc hòm, vừa kéo vừa khóc
“Nay chị được mặc áo mới rồi!. Mình về nhà chị ơi!.”. Kéo hòm
đi khỏi đó hơn 100 mét, hai người mới được nhiều người khác trợ
giúp khiêng về nhà.
Tang má xong, vài ngày sau, thêm một người trong nhà là
Ngô Thị Vĩnh hy sinh ở tuổi 18. Con gái lớn của má là Lê Thị
134

14.5 Page 135

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hoàng lớn lên, thoát ly, tiếp tục con đường của má, cũng anh dũng
hy sinh trong độ tuổi 19, cách má 6 năm. Con gái thứ hai là Lê Thị
Oanh tham gia công tác mật, bị bắt, bị tù, quyết không khai báo,
cũng kiên cường như phẩm cách của má.
Một tháng sau khi má hy sinh, tờ báo Tin Tức tháng 11 của
Tỉnh ủy Biên Hòa có đăng bài thơ về má:
Má ơi!. Má đâu rồi1
Tiếng kêu thảm thiết từng hồi đêm khuya
Ngủ đi con, sáng sớm mẹ về
Con đừng khóc nữa vỗ về bà ru
Đêm nay không ánh trăng lu
Nhìn hai cháu dại hận thù trào sôi
Chim non trong cảnh cút côi
Xót thương hai trẻ lệ rơi tuôn dầm
Chia lìa cốt nhục tình thâm
Hồn oan như thể thì thầm đâu đây
Năm xưa cũng một ngày này
Quân thù đã giết cha bầy trẻ thơ
Đau thương uất hận chưa mờ
Hẩm hiu bên mẹ con thơ ấm lòng
Ngầy đêm nợ nước thù chồng
Hai vai gánh nặng dứt lòng ra đi
1  Không rõ tác giả là ai. Có thể về sau tác giả cũng đã hy sinh
135

14.6 Page 136

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nắng mưa gian khổ ngại gì
Tình thương con dại gát đi bên lòng
Quyết đem sương trắng máu hồng
Bảo vệ Tổ quốc ruộng đồng quê hương
Thế rồi chị ngã bên đường
Quân thù đã cướp tình thương cuối cùng
Chị chết trọn nghĩa vẹn trung
Như gương liệt sĩ Triệu Trưng thuở nào
Muôn tim rạn nứt thương đau
Khi nhìn hai trẻ lao nhao bên bà
Gương chị là bản hùng ca
Như đang thúc giục trẻ già đứng lên
Đấu tranh cương quyết vững bền
Diệt tan Mỹ - Diệm xây nền tự do.
Bản thân là liệt sĩ, có chồng và con gái cũng là liệt sĩ, má
Huỳnh Thị Thế được Tổ quốc ghi công, Chủ tịch nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
136

14.7 Page 137

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Biểu
(1903 - 1990)
Mẹ Nguyễn Thị Biểu sinh năm
1903 tại xã Long Thọ, huyện Nhơn
Trạch. Long Thọ là xã anh hùng trong 2
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đó
là vì địa phương có những người dân anh
hùng, trong đó có mẹ Biểu.
Trong kháng chiến chống Pháp, cả
gia đình gồm mẹ Biểu, chồng và 4 người
con của mẹ đều tham gia cách mạng. 2 người con của mẹ đã hy
sinh khi làm nhiệm vụ: liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệp hy sinh năm 1947,
liệt sĩ Nguyễn Văn Đạt hy sinh ngày 4.6.1950. Mẹ Biểu qua đời
năm 1990. Hiện con mẹ là Nguyễn Công Thành thờ cúng mẹ tại
ấp 1B, xã Phước Thái, huyện Long Thành.
Mẹ Nguyễn Thị Biểu được truy tặng danh hiệu cao quý Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTB ngày
26.9.2014 vì những cống hiến của mẹ trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
137

14.8 Page 138

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Phá
(1927 - 1953)
Mẹ Nguyễn Thị Phá sinh năm 1927
tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai
Trên chiếc bàn thờ ở nhà của người
cháu ngoại Lê Thành Đạt (khu Bàu Cá,
xã An Phước, huyện Long Thành) là
2 tấm bằng Tổ quốc ghi công và bảng
công nhận danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng, được treo rất trang trọng. Cạnh đó là 3 tấm ảnh mẹ
Nguyễn Thị Phá, liệt sĩ Dương Thị Cơ và liệt sĩ Dương Văn Vàng
với những gương mặt còn rất trẻ. Mẹ Nguyễn Thị Phá ra đi ngày
29.6.1953 lúc mới 26 tuổi. 2 người con liệt sĩ của mẹ cũng vậy, hy
sinh khi tuổi mới đôi mươi.
Liệt sĩ Dương Thị Cơ, Thượng sĩ Quân đội nhân dân Việt
Nam, hy sinh ngày 27.3.1970 (Bằng Tổ quốc ghi công số IB.709);
liệt sĩ Dương Văn Vàng, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, hy
sinh ngày 14.4.1970 (Bằng Tổ quốc ghi công số IB.750).
Mẹ Nguyễn Thị Phá được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay cháu ngoại của mẹ là ông Lê Thành Đạt đang thờ
cúng mẹ.
138

14.9 Page 139

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Hóa
(1904 - 2007)
Mẹ Trần Thị Hóa sinh năm 1904
tại xã Phước Thọ (nay là xã Long Thọ,
huyện Nhơn Trạch). Mẹ Hóa kết hôn với
ông Trương Chiếm, người cùng quê. Vợ
chồng mẹ đều là những nông dân chơn
chất, cần cù trên đồng ruộng nhưng luôn
giàu tinh thần yêu nước.
Khi cả nước bước vào 2 cuộc kháng
chiến 30 năm chống Pháp và chống Mỹ, mẹ Hóa động viên chồng
và 3 người con tham gia cách mạng. Bốn người thân yêu có mặt
trên chiến trường ác liệt, lòng mẹ Hóa luôn thấp thỏm lo âu mỗi
khi nghe tiếng súng, nhưng mẹ biết rằng nếu ai cũng bo bo giữ thân
mình thì đất nước không thể có tự do, độc lập, hòa bình. Niềm vui
của mẹ là thỉnh thoảng đi thăm và tiếp tế để chồng con yên lòng
chiến đấu. Rồi mẹ hay tin 2 người thân của mẹ hy sinh: chồng mẹ,
liệt sĩ Trương Văn Chiếm, hy sinh ngày ngày 17.6.1969; con trai
mẹ, liệt sĩ Trương Văn Ngay, hy sinh ngày 10.11.1972. Tin dữ như
xé lòng, nhưng mẹ vẫn cố gắng chăm lo cho các con còn lại, tiếp
tục đóng góp cho cách mạng đến ngày toàn thắng.
Mẹ mất vào ngày 6.4.2007. Mẹ Trần Thị Hóa được truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTB ngày 26.9.2014. Hiện con trai Trương Văn Cưới thờ
cúng mẹ tại ấp 1B, xã Phước Thái, huyện Long Thành.
139

14.10 Page 140

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Tứ
(1919 - 2006)
Mẹ Nguyễn Thị Tứ sinh năm 1919
tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch. Long
Thọ quê mẹ Tứ trong 2 giai đoạn kháng
chiến nằm trong vùng tranh chấp ác liệt
giữa ta và địch, vì đây là khu vực cửa ngõ
bảo vệ chiến khu Phước An của phong
trào kháng chiến huyện Nhơn Trạch.
Chính vì vậy, tấm lòng hướng về cách
mạng của mẹ Tứ cũng như bao nhiêu người dân Long Thọ khác
càng kiên trung hơn bao giờ hết. Cùng với bà con trong làng, mẹ
Tứ tham gia tiếp tế lương thực thực phẩm, tiền bạc, nuôi giấu cán
bộ, đồng thời động viên các con thoát ly tham gia kháng chiến.
Hai người con của mẹ Tứ đã hy sinh trong cuốc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sĩ Châu Thái Bảo, Bí thư Chi bộ xã
Phước Tân (huyện Long Thành, nay thuộc thành phố Biên Hòa),
hy sinh ngày 15.2.1968, Bằng Tổ quốc ghi công số 2N.219c theo
Quyết định số 562/TTga; liệt sĩ Châu Bá Hùng, là y tá xã Phước
Tân, hy sinh ngày 24.2.1969, Bằng Tổ quốc ghi công số 2N.226c
theo Quyết định số 562/Ttga.
Mẹ Nguyễn Thị Tứ qua đời ngày 13.9.2006. Hiện con trai là
ông Châu Bá Ngân thờ cúng mẹ tại ấp Tân Mai 2, xã Phước Tân
(nay là phường Phước Tân, thành phố Biên Hòa).
Đảng và Nhà nước đã truy tặng mẹ Nguyễn Thị Tứ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2679/
QĐ-CTN ngày 1.12.2015.
140

15 Pages 141-150

▲back to top


15.1 Page 141

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Lành
(1913 - 1990)
Mẹ Nguyễn Thị Lành sinh năm 1913
tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch.
Quê hương Long Thọ tự hào vì có
những người mẹ như mẹ Lành. Khi xã
Long Thọ bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, rồi đến kháng chiến
trường kỳ đầy gian khó để chống đế quốc
Mỹ, mẹ Lành luôn một lòng hướng về
cách mạng. Không chỉ tích cực đóng góp nuôi quân, nuôi giấu cán
bộ, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ mẹ đã 3 lần tiễn con lên
đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, 2 lần mẹ đau xót nhận tin con hy
sinh trong cùng 1 năm. Đó là liệt sĩ Nguyễn Văn Sót, hy sinh ngày
15.5.1965, và liệt sĩ Nguyễn Văn Miết, hy sinh ngày 4.4.1965.
Sau ngày đất nước thống nhất, mẹ Lành sống an vui cùng
các cháu ngoại, hưởng không khí hòa bình, độc lập tự do từ thành
quả mà các con của mẹ đã đóng góp máu xương. Mẹ qua đời ngày
27.12.1990. Hiện cháu ngoại mẹ là ông Trần Văn Trắng thờ cúng
mẹ tại ấp 1 xã Phước Thái, huyện Long Thành.
Ghi nhận công lao đóng góp cũng như những hy sinh mất
mát của mẹ, Nhà nước đã truy tặng mẹ Phạm Thị Lành danh hiệu
cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-
CTN ngày 26.9.2014.
141

15.2 Page 142

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Em
(1920 - 2015)
Mẹ Phan Thị Em sinh năm 1920 tại
xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai
Quê hương Long Thọ của mẹ Em
trong 2 kháng chiến là xã anh hùng, người
dân Long Thọ luôn anh dũng kiên cường,
đấu tranh vì độc lập tự do, sẵn sàng hy
sinh bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, ở giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các con của mẹ Em cũng
như bao thanh niên Nhơn Trạch khác đã tình nguyện lên đường
nhập ngũ chống ngoại xâm. 2 người con của mẹ Em đã vĩnh viễn
không về, cống hiến máu xương cho quê hương. Đó là liệt sĩ Trần
Văn Tý và liệt sĩ Trần Văn Thền. Nén đau thương, mẹ mạnh mẽ
vượt qua nỗi đau, tiếp tục sống và đóng góp sức lực nhoe bé cho
đất nước.
Mẹ Phan Thị Em mất vào ngày 24.11.2015. Hiện nay, con
của mẹ là Trần Thị Như, cư trú tại khu Cầu Xéo, thị trấn Long
Thành, huyện Long Thành đang thờ cúng mẹ.
Những cống hiến và hy sinh của mẹ đã được Đảng và Nhà
nước ghi nhận, ngày 26.9.2014 mẹ đã được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
142

15.3 Page 143

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Cầm
(1904 - ?)
Mẹ Lê Thị Cầm sinh năm 1904 tại
xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ sớm qua đời và hiện cháu
của mẹ là bà Lê Thị Điểu, cư trú tại thị
trấn Long Thành, huyện Long Thành
đang thờ cúng mẹ, nhưng cũng không
còn nhớ được gì về cuộc đời mẹ, kể cả
năm mất của mẹ.
Chỉ biết rằng, mẹ Lê Thị Cầm có một người con gái độc nhất
là Nguyễn Thị Thấy. Dù rất thương yêu núm ruột duy nhất, nhưng
khi con lớn lên và bảy tỏ mong muốn tham gia công tác cách
mạng, mẹ đã ủng hộ và tiễn con thoát ly. Liệt sĩ Nguyễn Thị Thấy
hy sinh ngày 25.8.1948 tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Năm 2008, mẹ và gia đình được Nhà nước tặng Huân chương
độc lập Hạng Ba theo Quyết định số 815/QĐ-CTN ngày 26.6.2008.
Ngày 23.5.2002, mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 281/2002/QĐ-CTN của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
143

15.4 Page 144

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Chuột
(1916 - 2011)
Má Lê Thị Chuột mới lên bốn tuổi
thì đã mồ côi mẹ. Cha thì nghèo, phải đi
ở đợ để kiếm tiền nuôi con. Rồi thì má
Chuột cũng đã lớn dần trong cuộc sống
bần hàn và bất hạnh ấy.
Cái nghèo từ đời cha nối đến đời
con. Má lấy chồng năm 16 - 17 tuổi, cả
hai vợ chồng cũng nghèo xác nghèo xơ
phải đi làm thuê làm mướn sớm khuya vất vả. Thời chống Pháp
được cách mạng giác ngộ, chồng của má tham gia kháng chiến,
hết làm giao liên lại sang giữ kho lúa cho cách mạng...
Đến một ngày, con trai đầu lòng của má, anh Nguyễn Văn
Đỏ (Hai Đỏ) xin phép má thoát ly tham gia cách mạng. Má trả lời
dứt khoát: “Đi kháng chiến cực lắm nghen. Con muốn đi thì đi,
nhưng không được hèn nhát quay về”. Đi chưa được bao lâu, anh
Hai Đỏ bị địch bắt đày ra Côn Đảo 5 năm (1959 - 1963). Nghe
tin anh bị bắt và tù đày, hai người em kế là Nguyễn Văn Minh và
Nguyễn Văn Nhứt lần lượt xin má cho thoát ly để tiếp bước theo
anh.
Biết gia đình má có con theo “Việt Cộng” nên bọn cảnh sát,
lính bảo an, địa phương quân luôn theo dõi mọi hành động của gia
đình má, tìm cách hạch sách, gây khó khăn mỗi khi gặp má ra chợ
buôn bán. Hằng đêm, má thường thầm khấn vái cầu nguyện mong
các con được bình an, không sa vào tay giặc.
Sống trong sự kìm kẹp của giặc có thể vượt qua, nhưng khổ
đau nhất đó là lúc má được tin hai người con thân yêu là anh Minh
144

15.5 Page 145

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
và anh Nhứt lần lượt hy sinh trong năm 1967. Bốn năm sau, năm
1971, má lại nhận được một tin như sét đánh ngang tai: “Anh Hai
Đỏ đã hy sinh”. Như vậy là 3 người con thoát ly đều đã vĩnh viễn
ra đi. Những buổi chiều chạng vạng tối, má thường ra ngồi trước
cửa thẫn thờ nhìn về phương trời phía trước để thương nhớ ba
người con. Cho tới ngày hòa bình, rồi đến lúc mất má cũng chưa
tìm được mộ chí của các con.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Nhà nước phong tặng má danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
145

15.6 Page 146

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Dần
(1912 - 2003)
Mẹ Lê Thị Dần sinh năm 1912,
nguyên quán ở xã Phú Hưng, huyện Châu
Thành (Bến Tre).
Chồng mẹ là ông Nguyễn Văn
Sành - người cùng quê. Tháng năm hạnh
phúc bên nhau, gia đình mẹ có thêm hai
người con trai. Người con đầu tiên là anh
Nguyễn Văn Hai, sinh năm 1930; người
con thứ là Nguyễn Văn Mảnh, kém người anh hai tuổi.
Châu Thành, Bến Tre cũng là một trong những cái nôi của
phong trào đấu tranh cách mạng. Kẻ thù nhiều phen kinh hoàng
trước sức đấu tranh chính trị của người dân tại đây và của các lực
lượng du kích. Trong hàng ngũ của những chiến sĩ tóc dài, mẹ có
mặt trong đoàn quân ấy. Hai con của mẹ cũng được giác ngộ cách
mạng, tham gia vào lực lượng giải phóng.
Anh Nguyễn Văn Mảnh tham gia bộ đội năm 1962 trong
lực lượng Huyện đội Châu Thành. Là người lính đặc công, anh
cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh ngay trên quê hương mình.
Những chiến công đó đã góp phần cổ vũ cho phong trào đấu tranh,
diệt thù ở Bến Tre, làm cho Mỹ và tay sai lo sợ và ra sức đánh phá.
Tháng 11.1968, trong một đợt chống Mỹ càn, anh Mảnh hy sinh
ngay trên mảnh đất quê nhà. Và vợ anh - chị Quởn, người giao liên
cho cơ sở cách mạng cùng ba người con của mình cùng ngã xuống
bởi những loạt bom ác nghiệt của kẻ thù. Hai trong năm người con
của anh Mảnh bơ vơ, mồ côi, sống với bà nội.
146

15.7 Page 147

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mẹ Dần gần như không gượng dậy được trước những mất
mát này. Những người thân lần lượt ra đi - chồng và con trai, con
dâu ngã xuống ngay trên mảnh đất quê nhà. Trên bước đường mưu
sinh, mẹ đã dừng lại ở Giồng Ông Đông (huyện Nhơn Trạch). Tại
đây, anh Nguyễn Văn Hai tiếp nối cha anh, tham gia vào lực lượng
xã Phú Hữu, làm Tổ trưởng nông hội. Trong đợt công tác tuyên
truyền, lạc quyên để phát triển du kích địa phương, anh bị địch
phục kích bắn chết tại sân đình vào ngày 10.12.1971.
Năm 1975, đất nước thống nhất, hòa bình, mẹ Dần vui mừng
khôn xiết. Nhìn hai đứa cháu nội, ngày nào còn bé bỏng nay đã
lớn khôn, lòng mẹ vui nhưng trong tâm hồn mẹ luôn nhớ về hai
con trai của mình. Nhà nước phong tặng mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ và gia đình cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
Mẹ qua đời ngày 15.8.2003.
147

15.8 Page 148

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Đối
(1917 - 2018)
Mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị
Đối sinh năm 1917, tại ấp Đất Mới, xã
Phú Hội, Nhơn Trạch. Năm 20 tuổi, mẹ
lấy chồng. Năm 1945, ông Nguyễn Văn
Ngọc chồng mẹ tham gia kháng chiến
chống Pháp. Hiệp định đình chiến năm
1954, ông ở lại nhà làm ăn.
Mẹ có tất cả 9 người con (7 trai, 2
gái). Trong số này có 3 người con trai tham gia cách mạng và hy
sinh. Anh Nguyễn Văn Huân (tên gọi ở nhà là Nguyễn Văn Rít),
sinh năm 1949, con thứ 3 của mẹ. Cơ sở của ta về, kêu gọi thanh
niên tòng quân đánh giặc, giải phóng quê hương, anh tình nguyện
ra đi. Kế đó là anh Nguyễn Văn Sáu (người con thứ 6), rồi Nguyễn
Văn Công (Rít nhỏ) cũng hăng hái theo tiếng gọi tòng quân. Như
bao bà mẹ khác ở xóm Hố, con đi theo Cách mạng, mẹ vui lòng
nhưng canh cánh nỗi lo, đêm ngày dõi theo tin tức các con. Chiến
tranh ác liệt quá, hy sinh mất mát nhiều quá. Những lo âu của mẹ
rồi cũng không tránh khỏi. Mẹ lần lượt đón nhận ba nỗi đau mất
con. Anh Nguyễn Văn Huân hy sinh năm 1962 tại xã nhà trong
một trận đột kích của giặc, đồng đội mai táng anh trong xóm Hố.
Địch nhiều lần càn quét, mộ anh Huân mất dấu tích. Sau ngày giải
phóng, mẹ nhiều lần tìm kiếm nhưng vẫn không tìm ra. Người thứ
2, anh Nguyễn Văn Công đi bộ đội C.240 của huyện Long Thành.
Tháng 7.1965, trong một trận đánh ác liệt, anh hy sinh anh dũng.
Sáng ra, bọn lính đem xác anh về đồn, bà con trong xóm nhận ra,
về báo lại, gia đình đến nhận về chôn. Sau giải phóng, hài cốt của
anh được quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Long Thành. Người
148

15.9 Page 149

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
thứ 3 là anh Sáu, trước cũng theo bộ đội chủ lực, sau về du kích
xã, hy sinh ngày 29.1.1969 tại ấp xóm Hố.
Ấp Đất Mới thuộc vùng tranh chấp, có con đi theo Cách
mạng, mẹ luôn bị bọn chúng rình rập, theo dõi. Khó khăn đủ điều
nhưng mẹ vẫn kiên trì chịu đựng, ngày ngày tảo tần buôn bán
kiếm tiền nuôi các con ở nhà và tiếp tế cho các con và đồng đội.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Mẹ Lê Thị Đối được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu theo Quyết
định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ qua đời vào ngày 6.10.2018.
149

15.10 Page 150

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Kính
(1907 - 1969)
Mẹ Lê Thị Kính sinh năm 1907 tại
xã Long Thọ (huyện Nhơn Trạch), có 6
con (4 trai, 2 gái), thì đã có 4 con trai
cống hiến đời mình cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Anh Nguyễn Văn Bao, người con
trai thứ của mẹ năm 1958 khi mới vừa
tròn 25 tuổi đã là Bí thư chi bộ xã Phước
Thọ. Nhiệm vụ của anh thời kỳ này là vừa phụ trách công tác lãnh
đạo Đảng vừa tổ chức cho các lực lượng vũ trang và quần chúng
tham gia diệt ác phá kìm. Trong một lần đột nhập vào xã vận động
thanh niên tòng quân, anh bị lọt vào ổ phục kích của giặc và hy
sinh ngày 15.1.1960.
Anh Bao mất đi là nỗi đau của mẹ, nhưng trong hoàn cảnh
chiến tranh ác liệt lúc bấy giờ, sự mất mát hy sinh là không tránh
khỏi. Bởi vậy, mẹ Lê Thị Kính vẫn động viên các con còn lại tham
gia cách mạng, đó là ước muốn của mẹ, là tấm lòng son của bà mẹ
Long Thọ vì sự nghiệp chung.
Năm 1968, mẹ Lê Thị Kính lại tiếp tục đưa người con trai cả
là anh Nguyễn Văn Quảng gia nhập du kích xã. Từ một chiến sĩ
bình thường, trải qua quá trình chiến đấu và công tác, anh Quảng
đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành Bí thư chi bộ xã Phước
Thọ. Năm gần 40 tuổi, anh Quảng đã ngã xuống trước họng súng
của địch khi đang tải lương thực và phát động quần chúng tại cơ
sở.
150

16 Pages 151-160

▲back to top


16.1 Page 151

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Những mất mát trên quả là to lớn đối với mẹ. Song, với lòng
yêu nước, thương dân, mẹ Kính một lần nữa động viên 2 con trai
còn lại là anh Nguyễn Văn Chưởng sinh năm 1936 và anh Nguyễn
Văn Phán sinh năm 1937 tiếp bước hai anh.
Anh Chưởng tham gia cách mạng năm 1967, là cán bộ trực
tiếp phụ trách công tác thanh niên xã Phước Thọ. Anh thường
xuyên tổ chức tuyên truyền phát động quần chúng gia nhập lực
lượng du kích, đấu tranh chống bắt lính trên địa bàn liên xã Phước
Thọ - Phước Long. Còn anh Phán sau khi thoát ly năm 1966 đã
là Xã đội phó Phước Thọ, bản thân anh cùng với đồng đội tiến
hành nhiều đợt đột ấp, diệt ác phá kiềm, gây cho địch nhiều hoang
mang lo sợ.
Ở Phước Thọ phong trào cách mạng quần chúng phát triển
mạnh mẽ vào những năm 1968 - 1969. Đi đến đâu cũng thấy mọi
người bàn bạc về cách tổ chức đánh địch, gầy dựng cơ sở mật. Đối
phó với tình hình này, bọn địch tăng cường việc kiểm tra, khống
chế các gia đình cách mạng. Chúng lập ra bộ máy an ninh, mật vụ
dày đặc hòng phát hiện và dập tắt trong trứng nước những nhen
nhóm cách mạng mới hình thành ở đây. Anh Nguyễn Văn Chưởng
và anh Nguyễn Văn Phán - 2 con của mẹ Kính hoạt động bí mật gây
cho địch nhiều tổn thất lớn nên bị chúng rình rập, theo dõi gắt gao.
Anh Chưởng bị địch phục kích bắn chết ngày 10.11.1969 trong
khi đi phát động quần chúng. Trước đó 10 tháng (ngày 3.1.1969)
anh Phán đã hy sinh khi đang bám trụ bị địch phát hiện.
Bốn người con trai mất đi, mẹ Kính và chồng cũng qua đời
sau đó vì tuổi cao, bệnh tật. Hai người con gái lấy chồng ở xa,
nên việc thờ cúng hương hỏa được giao lại cho anh Nguyễn Thiện
Cảm là con ruột liệt sĩ Nguyễn Văn Quảng, gọi mẹ Kính bằng nội.
Trong mái nhà đơn sơ nhưng gọn gàng ấy có treo trang trọng tấm
151

16.2 Page 152

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
bằng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Kính theo Quyết định số
394/KTCTN ngày 17.12.1994, bằng Tổ quốc ghi công của 4 liệt
sĩ, Huân chương Giải phóng hạng Ba của mẹ như để nhắc nhở con
cháu tiếp nối truyền thống cách mạng của gia đình, của quê hương
Long Thọ.
152

16.3 Page 153

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Mua
(1904 - 1986)
Mẹ Lê Thị Mua sinh năm 1904, quê
ở ấp Vọng Đông, xã Phú Hữu, quận Long
Thành, tỉnh Biên Hòa (nay là ấp Bến Ngự,
xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai). Gia đình mẹ làm ruộng, khi
lớn lên mẹ lấy chồng cũng là dân ruộng.
Nơi mẹ sinh ra và cư ngụ suốt đời giống
như một cù lao, bốn bề sông rạch lớn nhỏ
bao quanh; xưa kia từ Phú Hữu hoặc Đại Phước muốn tới đó phải
qua đò. Đất đai kém màu mỡ, vào mùa khô, những lằn phèn bị
ém, muối bị rửa trôi thì bà con mới cày cấy được, song năng suất
thu hoạch rất thấp. Vợ chồng mẹ có một mẫu ruộng, phải trần thân
đánh vật với đất mới đủ nuôi đàn con sáu đứa.
Sau cao trào Đồng khởi (khoảng giữa năm 1960 trở đi),
phong trào đấu tranh ở huyện Long Thành có bước phát triển mới.
Bộ đội và du kích các xã đông lên, quả đấm vũ trang hỗ trợ đắc
lực cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân trong huyện.
Con của mẹ, anh Ba Cảnh (Nguyễn Văn Cảnh tức Tâm, sinh năm
1935) được cán bộ huyện và xã móc nối, đã đi thoát ly, gia nhập
Đại đội 240 Biên Hòa vào tháng 2.1962.
Tháng 4.1962, anh Năm Thảnh (Nguyễn Văn Thảnh) lúc ấy
25 tuổi, không muốn bị bắt cầm súng địch chống lại nhân dân đã
theo bước anh Ba Cảnh cũng gia nhập Đại đội 240 Biên Hòa.
Sau chiến thắng Bình Giã vang dội đầu năm 1965, anh Sáu
Thơi (Nguyễn Văn Thơi tức Cường, sinh năm 1942) tiếp bước
hai anh ruột đi thoát ly tháng 2.1965. Anh vào đơn vị 260 huyện
Trảng Bom.
153

16.4 Page 154

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nhớ các con, tuy đã già yếu, mẹ Mua vẫn gắng đi thăm khi
được móc nối. Vượt qua nhiều đồn bót giặc, mẹ rất vui khi gặp
mặt các con và thấy các anh khỏe mạnh, công tác và chiến đấu tốt,
được bạn bè yêu mến.
Trong đêm 20.10.1966, khi cùng một số đồng chí đột vào ấp
Đất Đỏ ở Long Điền (huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
bây giờ), Trung đội phó Nguyễn Văn Thảnh hy sinh. Phải mấy
năm sau mẹ mới biết tin.
Ngày 10.9.1969, anh Sáu Thơi cùng mấy anh em trong đơn
vị lọt ổ phục kích địch tại vườn ngô Trảng Bom (nay thuộc huyện
Thống Nhất) hy sinh.
Một năm sau, ngày 20.9.1970, anh Ba Cảnh làm quân bưu đi
thư, bị địch phục kích ở Bàu Năn Suối Cả (Long Thành), hy sinh.
Hai tin dữ đến tai mẹ gần như cùng một lúc làm mẹ tưởng khó bề
sống nổi. Mẹ để nước mắt tuôn trào, không cần che giấu.
Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, mẹ Lê
Thị Mua được tặng Huân chương Độc lập. Mẹ sống với người con
út và qua đời năm 1986. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
154

16.5 Page 155

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Mười
(1916 - 1968)
Mẹ Lê Thị Mười sinh năm Bính
Thìn (1916) trong một gia đình làm ruộng
ở xã Thạnh Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh
Long An. Mẹ lấy chồng khá sớm như
bao thiếu nữ cùng trang lứa trong làng.
Chồng mẹ là ông Trần Văn Cảnh lớn hơn
mẹ mười tuổi; ông sinh năm Bính Ngọ
1906. Mẹ sinh cả thảy chín người con:
năm trai, bốn gái.
Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi, ông Cảnh cũng như
bao trai làng đều đứng trong hàng ngũ Thanh niên Tiền phong.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa, ông tham gia
kháng chiến tại địa phương. Hầu như mọi việc trong nhà: làm lụng
nuôi chồng con, đóng góp với xã, dẫn các con nhỏ chạy giặc càn
bố... đều dồn lên vai mẹ.
Hết chống Pháp, cả gia đình mẹ cùng bước vào cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Sau cao trào Đồng khởi 1960, phong trào đấu
tranh cách mạng ở quê mẹ dấy lên sôi nổi. Con trai đầu của mẹ
là anh Hai Thất (Trần Văn Thất) tham gia du kích mật rồi được
cử làm Xã đội trưởng Thạnh Mỹ. Thoát ly sau anh không lâu là
Sáu Xừ (Trần Văn Xừ), được tuyển vào đơn vị bộ đội huyện Châu
Thành (Long An).
Đêm 9.9.1961, đội du kích Thạnh Mỹ phối hợp với bộ đội
huyện đánh bót Thạnh Mỹ diệt một số sinh lực địch, song Xã đội
trưởng Trần Văn Thất trúng đạn gãy chân. Không thể rút lui cùng
đồng đội, anh nằm lại bắn cản, chặn địch phản công. Giặc kêu gọi
155

16.6 Page 156

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đầu hàng, song anh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi rơi vào
tay chúng. Để khủng bố tinh thần nhân dân địa phương, chúng mổ
bụng anh rồi phơi xác cạnh bót. Mẹ Lê Thị Mười vô cùng đau đớn
trước cái chết thảm khốc của con trai, luôn nhắc nhở các con nhớ
mối thù này. Từ đó, các con mẹ lần lượt tham gia cách mạng vào
các thời điểm khác nhau. Chồng mẹ nhận nhiệm vụ giao liên cho
huyện với các vùng Vàm Cỏ, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc... Dò
biết gia đình mẹ là “gia đình Việt cộng”, địch ra sức kìm kẹp gắt
gao. Nhắm sống không nổi ở quê hương, mẹ và các con lên tá túc
ở xã Phước Khánh (huyện Nhơn Trạch).
Nhanh chóng bắt liên lạc với cơ sở Nhơn Trạch, ông Trần
Văn Cảnh được móc nối với bộ đội đặc công Rừng Sác. Anh em
chỉ biết biệt danh ông là ông Tư So Đũa. Ông nhận nhiệm vụ tiếp
tế, giao liên tại ngã tư Chà Là và một số địa điểm khác.
Anh Sáu Xừ (Trần Văn Xừ) qua 6 năm chiến đấu dũng cảm
đã trưởng thành, từ một chiến sĩ trở thành Trung đội trưởng đặc
công của Huyện đội Châu Thành, Long An. Ngày 10.5.1966, đơn
vị anh đánh bót địch và anh hy sinh trên cửa mở. Mãi khá lâu mẹ
Mười mới biết tin dữ này. Mẹ đứt từng khúc ruột khi hai con đã
bị giặc giết hại.
Tháng 8.1966, chị Tám Lan (Trần Thị Lan tức Kim Hương)
xin mẹ cho đi thoát ly theo cách mạng. Chị trở thành y tá quân y
Huyện đội Nhơn Trạch sau một khóa huấn luyện. Trước đó một
tháng, em trai chị là Chín Liêm (Trần Văn Liêm) cũng được mẹ
đồng ý cho đi bộ đội địa phương huyện Duyên Hải.
Ngày 17.2.1968, pháo địch bắn sụp hầm làm chiến sĩ Trần
Văn Liêm hy sinh. Cũng thời gian này, anh Trần Văn Xíu bị
thương trong chiến đấu. Các tin dữ dồn dập bay về đã làm mẹ Lê
Thị Mười ngã bệnh và ít lâu sau mẹ qua đời.
156

16.7 Page 157

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Sau tết Mậu Thân, địch mở nhiều đợt bình định, phản kích ác
liệt. Ông Trần Văn Cảnh và con trai út Trần Văn Lem nhận nhiệm
vụ giao liên, hoạt động trên đất bạn Campuchia khoảng hai năm
mới trở về miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu.
Ngày 10.9.1971, địch mở cuộc càn lớn vào căn cứ ta ở Nhơn
Trạch. Là chiến sĩ quân y, chị Tám Lan hướng dẫn các thương
binh vào hầm bí mật tránh địch. Chẳng may chị bị vướng mìn, hy
sinh tại chỗ.
Mẹ Trần Thị Mười có bốn con liệt sĩ, một con thương binh.
Đảng và Nhà nước không quên ơn mẹ đã hy sinh các núm ruột
yêu quý cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc, tặng thưởng gia đình mẹ Huân chương Độc lập hạng Ba
năm 1985. Nhà nước truy tặng mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
157

16.8 Page 158

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Nhàn
(1916 - 2012)
Năm 1995, đã 80 tuổi rồi mà mẹ Lê
Thị Nhàn vẫn còn minh mẫn nhớ rất rõ
những gì xảy ra cách đây hàng chục năm,
đặc biệt là những lần mẹ tham gia đấu
tranh, chống dồn dân - bắt lính phải vào
tù ra khám mấy lượt.
Mẹ kể: “Sau phong trào Đồng khởi
năm 1960, khí thế cách mạng trong quần
chúng sôi sục hẳn lên, nhiều nơi - trong đó có xã Long Thọ tổ chức
được đội du kích vũ trang, thường xuyên đánh địch khi chúng đi
cướp bóc, phá hoại nhà cửa của nhân dân. Bản thân mẹ tích cực
móc nối, đưa đường cho du kích, bộ đội, tham gia tiếp tế lương
thực, thực phẩm ra vùng căn cứ”. Mẹ Lê Thị Nhàn tham gia cách
mạng từ thời kháng Pháp, bởi vậy mẹ đã vinh dự đứng vào hàng
ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1945. Mẹ có tất cả 8
người con, gồm 4 trai, 4 gái, trong đó 3 người con trai lớn của mẹ
đã anh dũng hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Anh Mai Văn Trường sinh năm 1943, thoát ly gia nhập đội
du kích xã tháng 7.1963, chiến đấu hy sinh tháng 12.1964.
Anh Mai Văn Dài cũng vào du kích xã Phước Thọ năm 1960
khi mới 14 tuổi, ngã xuống ngay trên mảnh đất quê hương ngày
10.10.1966 khi cùng du kích đột nhập vào ấp.
Rồi anh Mai Văn Quận sau đó cũng tiếp bước hai anh mình,
làm liên lạc cho đội du kích xã. Trong một lần được chi bộ phân
công đi trinh sát nắm tình hình, anh Quận đã anh dũng hy sinh
tháng 5.1966 khi đối mặt với quân thù.
158

16.9 Page 159

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Như vậy, chỉ trong vòng 6 năm mẹ Lê Thị Nhàn đã lần lượt
tiễn đưa ba núm ruột của mình cho sự nghiệp vinh quang của dân
tộc. Năm 1966, hai cái tang đến với mẹ cách nhau 5 tháng. Đau
xót hơn, cả 3 trường hợp hy sinh đều trong tuổi thanh xuân. Biến
đau thương thành hành động cách mạng, vừa làm lụng vất vả nuôi
các con còn lại, mẹ và chồng là ông Mai Văn Lê vừa cố gắng hơn
trong các hoạt động giúp đỡ bộ đội, du kích về mọi mặt, tạo điều
kiện cho lực lượng vũ trang tại chỗ chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh
lực địch.
Bản thân mẹ Lê Thị Nhàn trong phong trào đấu tranh chính
trị đã bị địch bắt giam nhiều lần, trong đó lần thứ ba mẹ bị giam
giữ và tra hỏi hơn 3 tháng ở nhà tù Nhơn Trạch và Biên Hòa. Đó
là vào năm 1968, lính Sài Gòn và lính Thái Lan tổ chức một trận
càn lớn trên phạm vi liên xã. Bọn chúng đốt cháy hàng chục căn
nhà mà chúng nghi là cơ sở tiếp tế cho “Việt cộng”. Nhà mẹ là
kho chứa lúa của Ban Kinh tài xã Phước Thọ nên cũng không
thoát khỏi ngọn lửa tàn bạo của kẻ thù. Mẹ bị bắt, nhưng sau đó vì
không thu thập được bằng chứng kết tội, nên chúng phải trả tự do
cho mẹ sau mấy tháng giam cầm.
Suốt thời son trẻ cống hiến đời mình cho cách mạng, vậy mà
sau ngày giải phóng với cái tuổi đã gần 60, mẹ Lê Thị Nhàn vẫn
tiếp tục tham gia sinh hoạt Đảng và phụ trách công việc chăm lo
chính sách cho những người có công cách mạng tại Long Thọ cho
đến năm 1985 mới nghỉ hưu.
Mẹ Nhàn được Nhà nước tặng thưởng 01 Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất, 01 Huân chương Độc lập hạng Ba, Bảng
vàng Gia đình vẻ vang. Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
Mẹ qua đời ngày 15.7.2002.
159

16.10 Page 160

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Thể
(1919 - 1990)
Má Lê Thị Thể là một trong số các
bà mẹ anh hùng của tỉnh Đồng Nai có
người con độc nhất hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc. Má sinh năm 1919 tại xã Phú Hữu
huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai. Ông
bà thân sinh mất sớm, không có con trai,
bốn chị em má sống trong sự đùm bọc
che chở của dòng họ và bà con chòm xóm. Lớn lên, cả bốn chị em
đều sớm được giác ngộ cách mạng và lần lượt tham gia các phong
trào ở địa phương.
Trong kháng chiến chống Pháp, má Thể là đội viên du kích,
có nhiệm vụ cung cấp lương thực, thực phẩm để nuôi quân đánh
giặc. Nhiều lần má cùng đội du kích đã vượt qua hàng rào lửa đạn
của địch phong tỏa dày đặc để vận chuyển lương thực đến các cơ
sở. Trong một trận chống giặc Pháp ruồng bố, người chị gái của
má Thể là Lê Thị Hiệp bị địch bắn trọng thương. Má và anh em
trong đội chống trả quyết liệt với địch để chuyển chị Hiệp về cứ an
toàn. Nhưng vết thương quá nặng, lại thiếu thuốc men và phương
tiện cấp cứu nên chị Hiệp đã hy sinh. Mất mát lớn lao do cái chết
của người chị gái, má Thể càng lao vào công tác chống địch đàn
áp, gom dân. Địch đánh phá dữ dội, tổ chức buộc phải sắp xếp cho
má lên Sài Gòn để lánh nạn. Ngày chia tay quê hương, đồng đội,
má Thể lưu luyến khóc ròng.
Những năm sống và hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn, má
lập gia đình với ông Nguyễn Văn Chuẩn. Năm 1943, đứa con trai
160

17 Pages 161-170

▲back to top


17.1 Page 161

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
đầu lòng ra đời, má đặt tên con là Lê Văn Chiến. Ông Chuẩn ốm
đau, bệnh tật luôn, má phải vừa tần tảo nuôi chồng con, vừa hoạt
động. Năm 1950, ông Chuẩn bị bệnh mất, mẹ con má Thể rời
bỏ đô thành trở về quê hương sinh sống. Năm 1954, Hiệp định
Genève được ký kết, má bịn rịn tiễn người con độc nhất lên đường
ra Bắc tập kết, còn má vẫn ở lại quê hương chuẩn bị bước vào thế
trận mới. Má đi binh vận, nuôi giấu thanh niên trốn lính... Nhà
má luôn là nơi che chở các thanh niên trốn lệnh quân dịch lúc bấy
giờ.
Rồi con trai má trở về sau những năm học tập trên đất Bắc.
Má vui mừng đón anh trở về. Tháng 5.1967, chiến trận đang ác
liệt thì má nhận được tin sét đánh: Lê Văn Chiến đã hy sinh khi
anh đang làm nhiệm vụ điều nghiên chiến trường. Thi hài anh
được bà con an táng tại Rạch Tân, xã Long Trường, huyện Thủ
Đức (nay thuộc TP. Hồ Chí Minh). Liệt sĩ Lê Văn Chiến được nhà
nước truy tặng ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng
Nhì và hạng Ba.
Sau khi người con duy nhất hy sinh, má hiến dâng những
năm tháng cuối đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau giải
phóng, má về sống ở Rạch Miễu trong sự đùm bọc yêu thương
của chi bộ Đảng, chính quyền địa phương và bà con chòm xóm.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập
hạng Ba năm 1985. Năm 1990, má Lê Thị Thể đã vĩnh viễn yên
nghỉ trên mảnh đất quê nhà. Má được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994.
161

17.2 Page 162

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Trọng
(1913 - 1993)
Sinh năm 1913 tại ấp Rạch Bẩy, xã
Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, má Lê Thị
Trọng đã sống tròn tám mươi năm trên
mảnh đất ghi dấu biết bao kỳ tích lịch sử.
Gia đình má vốn là nông dân, bản thân má
và chồng má - ông Trần Văn Kiết cũng
là nông dân. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, vùng quê Phú
Hữu - Nhơn Trạch của má luôn là địa bàn mà địch tập trung xây
dựng hệ thống đồn bót, tích cực gom dân vào ấp chiến lược. Gia
đình má Trọng với bảy người con (sáu trai, một gái) sống nhờ
ruộng rẫy, bởi vậy vợ chồng má quyết liệt bám đất, bám làng,
không chịu vào ấp chiến lược sống cảnh “cá chậu chim lồng”.
Hàng ngày liên đội 6 biệt động quân và sư đoàn 18 bộ binh địch
xua quân đi càn quét đều qua nhà má, chúng dụ dỗ, hăm dọa, bắt
cả nhà má phải làm tay sai chỉ điểm cho chúng.
Sợ các con lớn lên phải đi lính làm bia đỡ đạn cho địch, má
Trọng tìm cách liên lạc với cơ sở để đưa các con đi tham gia cách
mạng. Năm 1961, má tiễn hai con trai là Trần Văn Chanh (sinh
năm 1940) và Trần Văn Chua (sinh năm 1942) lên đường vào căn
cứ. Biết má cho con theo “Việt Cộng”, địch bắt má lên nhốt ở xã,
buộc má phải gọi con về hoặc chỉ điểm cho chúng bắt các cơ sở
cách mạng. Không khuất phục được má, chúng đành thả má ra và
liệt gia đình má vào diện “sổ bìa đen”.
Năm 1964, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta
bước vào giai đoạn ác liệt. Má Trọng tiếp tục đưa người con thứ
162

17.3 Page 163

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
tư của mình là anh Trần Văn Sơn, lúc ấy mới 16 tuổi, đi tham gia
cách mạng. Anh được nhận vào đơn vị bộ đội huyện Long Thành.
Mấy năm sau, hai người con trai nữa của má Trọng lại lần lượt
theo nhau lên đường. Có năm trong số sáu người con trai cầm
súng bảo vệ Tổ quốc, má Trọng tự hào vì gia đình má đã góp phần
trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của dân tộc. Niềm tin vào
cách mạng và tình yêu đối với các con đã giúp má có thêm sức
mạnh để vượt qua cảnh kềm kẹp, tra khảo đêm ngày của địch.
Tháng 7.1968, anh Trần Văn Chua trên đường về căn cứ
Cẩm Đường công tác đã rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng dụ
dỗ anh nếu đầu hàng sẽ được “khoan hồng”, nhưng người cán bộ
của Mặt trận Biên Hòa đã chiến đấu ngoan cường tới hơi thở cuối
cùng. Nỗi đau mất con không quật ngã được má Trọng, chỉ nung
nấu thêm lòng căm thù giặc của má. Năm 1974, má lại đau đớn
đón nhận cái tin khủng khiếp thứ hai: anh Trần Văn Chanh - cán
bộ tổ chức Huyện ủy Long Thành kiêm Bí thư xã trên đường công
tác đã bị địch bắn trọng thương và bị bắt. Bọn địch đánh đòn tâm
lý dụ dỗ anh nếu chịu chỉ các cơ sở cách mạng, chúng sẽ đưa anh
đi bệnh viện chữa trị vết thương và được hưởng cuộc sống sang
giàu. Không lay chuyển được Trần Văn Chanh, chúng tức giận
bắn chết anh và cho xe kéo thi thể anh khắp xã Long Tân để uy
hiếp tinh thần quần chúng. Cái chết oanh liệt của con trai khắc sâu
trong tâm khảm má Trọng lòng căm thù giặc, gắn chặt hơn số phận
của gia đình má vào vận mệnh của dân tộc.
Hòa bình lập lại, những người con của má Trọng lần lượt
trở về. Ngoài hai anh Chanh và Chua, vẫn thiếu bóng dáng người
con thứ ba là Trần Văn Sơn. Anh sinh năm 1943, nhập ngũ tháng
5.1964, là chiến sĩ Đại đội 245, huyện đội Long Thành. Má Trọng
đêm ngày phấp phỏng chờ đợi anh trở về đoàn tụ với gia đình thì
163

17.4 Page 164

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
nhận được tin đau đớn: anh Sơn đã hy sinh ngày 18.4.1971 trong
lúc đang chiến đấu tại xã Tam An (Long Thành). Khi hy sinh anh
là Thượng sĩ Tiểu đội trưởng Đại đội 245 Long Thành. Anh được
Nhà nước truy tặng huân chương Giải phóng hạng Hai, hạng Ba
và hạng Nhất.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Năm 1993, má Lê Thị Trọng vĩnh
viễn yên nghỉ trên mảnh đất quê nhà. Với những đóng góp to lớn
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, má đã được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định
số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
164

17.5 Page 165

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Tư
(1905 - 1987)
Làng Phước Lý, tổng Thành Tuy
Hạ, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa xưa
là quê hương của mẹ Lê Thị Tư. Nhà mẹ
ở gần đình Ông Kèo, nay là ấp Chính
Nghĩa, xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ ra đời năm Ất
Tỵ 1905 trong một gia đình nông dân.
Chồng mẹ cũng làm ruộng ở cùng ấp.
Đôi vợ chồng trẻ ra sức khai phá một mảnh rừng hoang khoảng
một mẫu thành ruộng. Nếu chỉ trông vào lúa thì không đủ, những
lúc nông nhàn ông còn chặt củi bán cho ghe chài chở về Sài Gòn.
Mẹ sinh hạ được hai con trai Đặng Văn Tông năm 1932 và Đặng
Văn Đại năm 1936.
Cách mạng tháng Tám 1945 sắp nổ ra thì làng Phước Lý heo
hút thưa dân cũng dấy lên phong trào Thanh niên Tiền phong từ
Sài Gòn lan về. Là thiếu niên, Đặng Văn Tông thấy các chú các
anh tập tành, canh gác cũng tự nguyện tham gia. Cuối năm 1945,
quân Pháp đánh chiếm Cát Lái, Nhà Bè rồi tràn qua đóng bót và
đóng lại ở kho bom Thành Tuy Hạ. Ở tuổi 14 nhưng vóc người
cao lớn, anh Tông xin vào du kích xã. Nhà tuy nghèo song mẹ Lê
Thị Tư vẫn ráng cho con tiền gạo, áo quần để con hoạt động. Mẹ
cũng đóng góp, ủng hộ kháng chiến bằng hũ gạo nuôi quân. Giặc
càn bố, mẹ lại lo dắt em Đại đi trốn.
Mới 16 tuổi Đặng Văn Tông được cử làm Tiểu đội phó du
kích xã Phước Lý (thuộc Ban Công tác liên thôn 13 huyện Long
Thành lúc đó). Anh hăng hái công tác, luôn luôn hoàn thành nhiệm
165

17.6 Page 166

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
vụ được giao. Ngày 19.2.1948, anh đi công tác tới Bến Trăn thuộc
ấp Long Điền xã Long Tân thì đụng lính commando(1). Anh Tông
hy sinh tại đây. Mẹ Tư nghe tin, đau xót vô cùng. Nỗi đau ấy kéo
dài nhiều năm về sau.
Năm 1951 tình hình chung ở huyện Long Thành gặp nhiều
khó khăn.Tên Suacot chỉ huy lính commando áo đen liên tục phục,
đột kích đánh phá các vùng tranh chấp. Ở nhà không yên, Đặng
Văn Đại mới 15 tuổi đã xin mẹ cho đi thoát ly. Đến tháng 7.1954,
Hiệp định Genève ký kết, Đại được đi tập kết ra Bắc. Thế là từ đó
người mẹ già ngày ngày mong ngóng con trai trở về.
Anh Đặng Văn Đại ra Bắc được đi học, sau đó công tác ở
Ty Công an Thanh Hóa. Anh lấy vợ, có con. Theo yêu cầu của
chiến trường, anh hồi kết, công tác tại Tây Ninh. Anh hy sinh ngày
1.11.1969.
Sau ngày thống nhất đất nước, mẹ Lê Thị Tư mới biết tin
xé lòng này. Mẹ qua đời năm 1985. Để ghi nhận công ơn của mẹ,
Nhà nước truy tặng cho mẹ Lê Thị Tư danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 814/KTCTN ngày 24.4.1996. Mẹ
và gia đình cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Ba năm 2000.
1  Lính nhảy dù, biệt kích (nay gọi là lính đặc công).
166

17.7 Page 167

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Y
(1928 - 2000)
Má Lê Thị Y sinh năm 1928 tại Phú
Hội (huyện Nhơn Trạch). Chồng má, ông
Nguyễn Văn Cớ quê ở miền Bắc vào làm
phu cao su ở Sở Tân Tường rồi thoát ly
theo cách mạng từ tháng 4.1945. Hai
người gặp nhau, lấy nhau cũng khoảng
thời gian ấy. Năm 1946, má sinh người
con đầu lòng và cũng là con trai duy nhất,
anh Nguyễn Thanh Sơn
Ngày 6.7.1952, má được tin chồng hy sinh. Ông Nguyễn
Văn Cớ bị lọt vòng kích trong khi đi điều nghiên để đánh vào bót
địch. Lúc ấy, ông là Đại đội phó Đại đội Đô Lương (Huyện đội
Long Thành). Má đã lặn lội lên vùng rừng Xà Minh để tìm xác
chồng nhưng không tìm được. Vài ngày sau, má cũng bị bắt tại chợ
Cây Dương (Thành Tuy Hạ, nay thuộc huyện Nhơn Trạch). Hai
năm tù tội, chúng đưa má từ trại giam Phú Lâm đến Hạnh Thông
Tây rồi về Bà Rịa. Đình chiến 1954, má được trao trả ở Cà Mau.
Trong thời gian ấy, con trai má được gởi nuôi ở một ngôi chùa tại
Biên Hòa. Anh Sơn được học nghề thuốc rồi nhập ngũ năm 1965,
làm y tá cho một đơn vị quân giải phóng ở huyện Tân Phú.
Năm 1960, má bị bắt lần thứ 2 tại quận Long Thành. Chúng
tra tấn rồi chuyển má từ Ty cảnh sát Biên Hòa đến trại giam Phú
Lợi. Năm 1962, má được thả khi đang ở trại giam Thủ Đức. Từ
năm 1963 trở đi, má đã là đảng viên cộng sản, một cán bộ tích cực
của Hội Phụ nữ huyện Nhơn Trạch.
167

17.8 Page 168

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Khi con trai má hy sinh, mọi người sợ má buồn nên giấu má.
Năm 1969, một y sĩ tên Phước ở đơn vị con trai má về tìm má, lúc
ấy má thật sự hết hy vọng. Sau giải phóng, má có lên Định Quán,
Tân Phú tìm đến đơn vị của con, được trao giấy báo tử: liệt sĩ
Nguyễn Thanh Sơn hy sinh ngày 1.9.1969, còn mộ thì không thể
tìm thấy. Cho đến mãi sau này, theo thói quen má vẫn cúng cơm
chồng con vào ngày Thương binh liệt sĩ 27.7.
Năm 1971, má được rút về Hội Phụ nữ tỉnh Biên Hòa cũ. Sau
giải phóng, má xuống công tác tại huyện Cần Giờ (lúc ấy thuộc
tỉnh Đồng Nai), sau đó là cán bộ Hội Phụ nữ rồi Trưởng phòng
thương binh xã hội huyện Thống Nhất. Má nghỉ hưu năm 1982 và
tá túc trong chùa Ngọc Linh (xã Hiệp Phước) suốt 13 năm. Ngày
19.5.1995, Công ty Thiết bị điện số 4 (Khu công nghiệp Biên Hòa
1) xây tặng cho má căn nhà tình nghĩa. Má sống ở đây cho đến khi
qua đời vào ngày 5.4.2000.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng cho má theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994.
168

17.9 Page 169

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lư Thị Lụa
(1912 - 1992)
Má Lư Thị Lụa sinh năm 1912 tại
xã Phú Hội, cả đời gắn bó với quê hương
nhau rún của mình.
Các con của má không thể nhớ rõ
má mình đã bị địch bắt bao nhiêu lần.
Lần nào bị khảo tra, má cũng lặp đi lặp
lại y chang những câu chúng hỏi. Cho
nên đánh đập chán tay mà vẫn không
khai thác được gì, bọn địch bèn thả má ra.
Quanh năm buôn gánh bán bưng, má Lụa chắt chiu từng
đồng lời mua thực phẩm tiếp tế cho các con mình đánh giặc. Má
đi móc nối cơ sở cho đàng mình, thu thập tin tức hoạt động của
địch báo cho tổ chức. Dù hiểm nguy cận kề đe dọa, má Lụa kiên
quyết thực hiện bằng được những công việc Cách mạng yêu cầu.
Mặc bao gian khổ nhọc nhằn, má Lụa không một lần sờn lòng
chùn bước. Lấy cớ đông con, má tích lũy từng gánh gạo, từng
viên thuốc, vuông vải... rồi chuyển lên rừng. Má không màng đến
miếng ăn ngon, chưa lần mặc tấm áo đẹp. Má dành tất cả cho các
con mình, cho bộ đội ăn no mà chiến đấu. Những đêm giông to
gió lớn, má Lụa thao thức năm canh, thương các con ở rừng bị
mưa bị lạnh. Mỗi lần nghe tiếng súng nổ, nước mắt má lại chảy
dài... Má lo sợ lắm! Chiến tranh ác liệt, mũi đạn lằn tên, biết đâu
mà tránh. Và rồi nỗi lo của má thành sự thật - Cả thảy ba lần, má
Lụa ngậm ngùi “khóc lá xanh rơi...”: anh Trà Văn Năm, anh Trà
Thanh Phong, chị Trà Thị Hiền ... các con của má lần lượt hy sinh
trong chiến đấu.
169

17.10 Page 170

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Ngày đất nước hòa bình, má Lư Thị Lụa thôi buôn bán, quay
về với mảnh vườn nhà. Đất đai cằn cỗi, hoa lợi nghèo nàn, cuộc
sống của má vô cùng chật vật... vậy mà má không một tiếng than
van. Tuổi càng già, sức càng yếu, má vẫn lam lũ sinh sống bằng
đôi tay lao động của mình. Những đứa con nuôi của má ở các đơn
vị cũ ghé thăm, cứ xót xa cho má cả đời cơ cực. Má Lụa chỉ móm
mém cười: “Bây giờ hòa bình rồi, có ăn mắm ăn muối gì cũng
được. Gia đình đoàn tụ không phân tán rẽ chia, không bị địch bắt
bớ tù đày, sống không lo âu sợ sệt như vầy là má vui rồi... Với lại,
tại tánh tao thích làm, ăn không ngồi rồi tao chịu không nổi”.
Má Lư Thị Lụa qua đời năm 1992. Má được Nhà nước truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
394/KTCTN ngày 17.12.1994.
170

18 Pages 171-180

▲back to top


18.1 Page 171

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lư Thị Thạnh
(1912 - 1968)
Má Lư Thị Thạnh nổi tiếng trong
làng quê Xóm Hố (xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch) vì tài đấu tranh chính trị.
Mỗi khi có đoàn kéo đi đấu tranh, bao
giờ má cũng là người đi đầu. Bọn giặc
phải khiếp sợ má vì tài đối đáp sắc bén.
Khi trở về nhà lao động trên ruộng vườn,
má không quên nhẩm xem còn bao nhiêu
gạo cho những đoàn quân qua làng đêm nay mang đi. Tin thắng
lợi của quân cách mạng được má ghi dấu hằng ngày bằng những
vết khắc trên cột nhà.
Các con trai của má, anh Ba, anh Bảy, anh Tám đều thoát
ly theo cách mạng. Trong đó, người con trai thứ ba của má - anh
Lư Văn Chắc (Ba Vân) giữ nhiệm vụ Phó Bí thư Huyện ủy huyện
Nhơn Trạch. Đang giữa lúc chiến lược“Chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ liêu xiêu, giữa năm 1965, má nhận được tin anh Ba
Vân hy sinh trong một chuyến công tác. Nuốt nỗi đau, má dồn hết
tình thương cho “hai thằng con là quân cách mạng” còn lại. Má
tự hào nói với mọi người: “Thằng Bảy, thằng Tám mần việc cách
mạng giỏi lắm. Hai đứa nó là niềm hy vọng của tui”.
Công việc còn bộn bề, cách mạng còn cần nhiều sự đóng góp
của má... nhưng vào những ngày đầu năm 1968, má Lư Thị Thạnh
đột ngột qua đời vì bệnh, hưởng dương 56 tuổi. Sau đó không
lâu, anh Nguyễn Văn Rọt, người con trai thứ tám của má hy sinh
cuối năm 1968. Anh Rọt là giao liên của miền. Trong một chuyến
đưa đoàn đi công tác anh Rọt gặp phải ổ phục kích của giặc. Anh
171

18.2 Page 172

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Văn Thương, người con thứ bảy của má là cán bộ kinh tài
huyện bị máy bay giặc bắn trên đường đi công tác đầu năm 1971.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Má được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994.
172

18.3 Page 173

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Ngô Thị Quờn
(1895 - 1979)
Trên quê hương Long Thành -
Nhơn Trạch, những ngày đầu Cách mạng
tháng Tám 1945, phong trào cách mạng
thật sôi nổi. Chính quyền nhân dân đầu
tiên được thành lập là niềm vui, tự hào
của mọi người dân. Tưởng rằng đất nước
sạch bóng thù, thế nhưng thực dân Pháp
núp bóng đồng minh thực hiện dã tâm
xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhân dân Long Thành - Nhơn Trạch
đứng lên sẵn sàng kháng chiến bảo vệ quê hương. Nhà nhà, người
người khắp nơi góp công, góp của ủng hộ chính quyền cách mạng
nuôi quân. Trước sức tiến công của kẻ thù, người dân thực hiện
chính sách vườn không nhà trống, tiêu thổ kháng chiến.
Mẹ Ngô Thị Quờn ở làng quê dù còn nhiều cực nhọc, nghèo
túng nhưng trước bao cảnh hy sinh mất mát vì sự tàn phá của kẻ
thù, mẹ Quờn đã suy nghĩ nhiều về đứa con trai Bùi Văn An của
mình. Đó là núm ruột duy nhất, niềm hy vọng của họ hàng, là nơi
nương tựa của vợ chồng mẹ khi tuổi già xế bóng, là người nối dõi
của họ Bùi nhà chồng. Nhưng đất nước đang kêu gọi mẹ vượt qua
tất thảy ý nghĩ riêng tư, cùng dân làng tiễn đưa con mình tham gia
kháng chiến.
Từ Phú Thạnh, Long Tân và các xã kế cận, bước chân anh
Bùi Văn An rảo khắp để tuyên truyền cho cách mạng.
Cùng với phong trào quần chúng, lực lượng vũ trang và dân
quân du kích phát triển mạnh. Nhiều trận đánh mưu trí, táo bạo
gây cho địch bao nỗi kinh hoàng. Bởi vậy, địch cũng ra sức khủng
173

18.4 Page 174

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
bố, đàn áp phong trào cách mạng. Chúng tổ chức nhiều cuộc bố
ráp, phục kích. Trong một lần cùng đồng đội vượt trở ngại từ xã
Phú Thạnh đến xã Long Tân để làm nhiệm vụ tuyên truyền, anh
An bị giặc Pháp phục kích và ngã xuống trên mảnh đất quê hương
khi tuổi đời còn rất trẻ.
Lòng mẹ Quờn quặn đau. Con mất mà nghiệp nước nhà chưa
xong. Nỗi kỳ vọng người con trai duy nhất sẽ là người thừa tự cho
mẹ tiêu tan. Mẹ buồn, song mẹ tự hào, con trai đã đi theo chính
nghĩa, theo cách mạng. Trên mảnh đất quê hương, máu con mẹ đã
hòa vào thành khí thiêng của non nước này. Niềm tự hào về con là
niềm an ủi mẹ đi suốt quãng đường đời còn lại cho đến khi mẹ ra
đi mãi. Mẹ Quờn mất năm 1979 trong sự chăm sóc của xóm làng.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 438/KTCTN ngày 24.4.1995. Mẹ và gia
đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba
năm 2000.
174

18.5 Page 175

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Ba
(1910 - 1978)
Má Nguyễn Thị Ba sinh năm 1910
ở xã Phú Hội, một xã anh hùng với nhiều
chiến tích vẻ vang của huyện Nhơn Trạch.
Chồng má là ông Lê Văn Hai, người Long
Tân, cách Phú Hội một cái cầu. Thuyền
theo lái, gái theo chồng, cô gái Phú Hội
đã về quê chồng cho đến trọn cuộc đời...
Hầu như cả cuộc đời má - sinh con
đẻ cái, làm lụng vất vả cực nhọc, chiến đấu gian khổ, hy sinh cũng
chỉ vì hòa bình, độc lập, tự do... Thời kháng chiến chống Pháp,
chồng và con trai lớn của má cùng tham gia chiến đấu. Rồi sự mất
mát đầu tiên đã xảy ra: người con trai đầu lòng của má, anh Lê
Văn Dũng đã ngã xuống vào khoảng năm 1948-1949. Ẩn nhẫn,
má tiếp tục nuôi các con kế tiếp lớn lên... Bốn người con của má
trong thời kháng chiến chống Mỹ lần lượt thoát ly vào rừng làm
cách mạng. Thằng Ba của má (anh Lê Văn Thanh) đi du kích xã
vào thời điểm kế hoạch bình định của chế độ Ngô Đình Diệm
đang triển khai (năm 1962), dân bị dồn vào ấp chiến lược. Trong
một lần đi công tác, anh trúng phục kích của địch, hy sinh để lại vợ
và hai con thơ dại. Nỗi đau của má là mất con nhưng không được
khóc. Xác con nằm lại đâu đó ngay trong rừng Long Tân. Má chua
xót vì: “Không vô thăm được để thắp cho nó nén nhang”.
Năm 1971 - 1972, chiến tranh đến hồi leo thang ác liệt khắp
các chiến trường, địa bàn Nhơn Trạch cũng là một điểm nóng
của bom đạn Mỹ. Thằng Tám (Lê Văn Tiến) của má ở bộ đội 240
của tỉnh về hoạt động tại Phú Hội trong cao trào chống địch lấn
175

18.6 Page 176

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đất giành dân; còn Út Mười (Lê Văn Mười), trinh sát của bộ đội
huyện lại về hoạt động ngay tại địa bàn xã Long Tân. Má nghe
phong thanh tin hai người con về gần thì vừa mừng vừa lo. Mừng
vì có thể má sẽ được gặp con của má nay mai, nhưng lo vì lúc này
bọn giặc đánh rát quá, bom đạn có chừa ai. Thế rồi cái tin không
bao giờ mong chờ ấy lại đến với má: Út Mười hy sinh ngay trên
mảnh đất Long Tân vào cái tuổi 16. Vẫn biết con hy sinh vì nghiệp
lớn, nhưng má không tránh được nỗi buồn. Hôm ra đồn lính xin
nhận xác con về chôn, má cố nén chặt niềm đau riêng để nước mắt
chảy ngược vào. Má tự dặn mình không được khóc, không được tỏ
ra mềm yếu trước bọn lính. Thế nhưng, khi đêm về, má sống với
nỗi đau của sự mất mát chẳng thể nào bù đắp được này.
Vết thương lòng của má chưa kịp lành miệng, nỗi buồn chưa
kịp nguôi ngoai, má lại nhận được tin thằng Tám (Lê Văn Tiến)
hy sinh ở Phú Hội và được bà con ở đó chôn cất. Tám Tiến ngã
xuống trên đất quê ngoại khi tuổi đời vừa mới 25, để lại người mẹ
già hơn 60 tuổi và vợ cùng con gái còn thơ dại.
Cả đời của má tất tả với miếng cơm manh áo, gánh chịu biết
bao sự âu lo của người mẹ trong thời chiến dưới mưa bom, đạn
dội; sự mất mát dần những núm ruột dứt ra đã làm má khô cạn
nước mắt.
Ngày hòa bình đến, anh Lê Văn Phong, người con trai thứ
sáu của má trở về. Cùng với vài người con trai, con gái còn sót
lại sau cuộc chiến, má trở về mảnh đất cũ dựng tạm lại mái nhà
để ở, có chỗ để đặt bàn thờ để thờ chồng, thờ con... Má sống với
con cháu được 3 năm sau ngày hòa bình rồi mất (năm 1978) ở tuổi
68.
176

18.7 Page 177

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Ghi nhận những công lao to lớn của má trong sự nghiệp cách
mạng, giải phóng dân tộc, má được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
177

18.8 Page 178

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bạn
(1913 - 1983)
Trên bàn thờ má Bạn, cái ống ngoáy
trầu của má được con cháu lưu giữ như
một kỷ vật quý giá của gia đình. Đó là
cái ống ngoáy mà các chiến sĩ đặc công
Rừng Sác tặng má. Nó được làm bằng
phần đuôi của một vỏ đạn đại liên M60
của Mỹ, một cái chìa vôi bằng nhôm,
cũng là một thứ “nguyên liệu” từ vũ khí
chiến tranh... Và cái “bộ đồ nghề” ăn trầu giản dị ấy vẫn chung
thủy với má cho đến phút cuối đời.
Má sinh năm 1913 tại xã Phước An (Nhơn Trạch) anh hùng
và mất năm l983 tại quê nhà, tám năm sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng.
Sau khi ông Nguyễn Văn Tư - chồng má - hy sinh, má không
thể ngăn cản những người con thân yêu của mình tiếp tục lên
đường nhập ngũ, dù cũng như bao bà mẹ khác, má khổ sở vì nỗi
lo mất con. Anh Nguyễn Văn Dẻo vào du kích tháng 4.1965. Ba
năm sau, ngày 13.1.1968, khi đi công tác vào ấp, anh bị địch phục
bắn. Người con thứ 2 của má - anh Nguyễn Văn Chiến thoát ly
sớm hơn và trở thành cán bộ cơ yếu của Tỉnh đội. Anh cũng ra đi
ở tuổi 24 tràn đầy sức sống, sau khi người anh cả nằm xuống hơn
1 năm.
Chị Trương Ngọc Yến, người con dâu út của má Bạn, kể
rằng: “Má tôi sống bằng đủ nghề, nhưng chủ yếu là nghề đương
đệm (đan đệm bằng cói). Nghề đó cực lắm. Mần đệm phải làm
nhiều thứ. Đi cắt cỏ lác về rồi phải phơi cho đủ nắng, đủ dai.
178

18.9 Page 179

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Rồi lựa, rồi đan. Tiền công kiếm được chỉ đủ đong gạo từng bữa.
Nhưng má tôi sống hiền lành nên được bà con yêu thương đùm
bọc...”
Má được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
179

18.10 Page 180

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bảy
(1902 - 1970)
Mẹ Nguyễn Thị Bảy (xã Long Tân,
huyện Nhơn Trạch) được Nhà nước truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994. Quê mẹ ở xã Phú Hữu -
một xã nằm đoạn cuối của con sông Đồng
Nai, nơi có truyền thống cách mạng từ rất
sớm.
Mẹ sinh ra và lớn lên trên làng quê nông nghiệp Phú Hữu.
Nơi đây gắn liền với bao kỷ niệm của đời sống gia đình hạnh phúc
của mẹ và chồng là ông Nguyễn Văn Gần. Người con trai độc nhất
Nguyễn Văn Ba (tự Hoàng) chào đời và cũng đã cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng.
Anh Nguyễn Văn Ba lớn lên bị bắt quân dịch, nhưng gia
đình tìm mọi cách “chuộc” về và đưa anh thoát ly theo cách mạng.
Tháng 10.1964 anh tham gia Huyện đội Long Thành, chiến đấu
chống thù ngay trên quê nhà. Ngày nhập ngũ, chị Nguyên, vợ anh
đang mang thai cháu thứ nhì gần đến ngày sanh. Nhưng chị vẫn
động viên anh lo việc nước, ở nhà, chị chăm sóc cha mẹ chu toàn.
Không những thế, chị Nguyên còn là một cơ sở hoạt động hợp
pháp, cùng với nhiều người khác, chị làm giao liên, tiếp tế cho bộ
đội, du kích.
Đứa con trai độc nhất đi bộ đội, mẹ Bảy ở nhà với chồng,
con dâu. Lòng mẹ cứ canh cánh lo cho con trai khi kẻ thù cứ đưa
quân dồn dập đánh phá quê hương. Mỗi lần nghe tiếng súng ở đâu
đó rộ lên, hay nghe tiếng bom thả là mẹ hướng về nơi ấy chờ tin,
180

19 Pages 181-190

▲back to top


19.1 Page 181

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
trông ngóng. Con dâu lại tìm nơi chồng đóng quân và đưa mẹ đến
thăm con ở Phước Nguyên, Vũng Gấm. Gặp con mẹ mừng vui
khôn tả. Một ít bánh, xôi, khăn áo... mẹ đem theo gởi cho con như
hồi còn ở nhà đi học.
Đầu năm 1968, tại Phước Nguyên, một bộ phận của huyện
đội Long Thành bị pháo của quân địch, anh Nguyễn Văn Ba anh
dũng hy sinh trên quê hương khi vừa tròn 27 tuổi với chức vụ
Tểu đội trưởng. Chị Nguyên nhận được tin, âm thầm đến Phước
Nguyên thăm mộ anh. Chị giấu tin với mẹ Bảy, sợ mẹ đang bệnh
rồi lại buồn thêm. Còn mẹ cứ nghĩ con mình công tác xa nên con
dâu chưa đưa đi thăm. Mẹ hy vọng sẽ gặp lại con trai duy nhất của
mình. Hai năm sau, chị Nguyên mới nói thật với mẹ. Trước sự mất
mát, mẹ yếu dần, sau đó ra đi mãi vào năm 1970.
Đất nước thống nhất, chị Nguyên dẫn con rời Phú Hữu về
Long Tân sinh sống. Trên một đồi cao, chị dựng ngôi nhà đơn sơ,
cần mẫn làm ăn nuôi con. Nơi trang trọng ngôi nhà này, chị và
các con âm thầm thờ cúng người thân: Ba chị là liệt sĩ Đào Văn
Thưởng, chồng chị là liệt sĩ Nguyễn Văn Ba và mẹ chồng - mẹ
Bảy, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
181

19.2 Page 182

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bi
(1928 - 1947)
Mẹ là người con thứ 10 trong một
gia đình đông con ở huyện Nhơn Trạch.
Năm 1995, sau khi mẹ Bi được truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng,
người anh thứ 7 của mẹ là ông Nguyễn
Văn Ấn đã gần 80 tuổi, tuổi tác đã gần
đất xa trời nhưng ông vẫn còn minh mẫn.
Ông kể: “Cô Mười Bi hồi trước tham gia
cách mạng từ sớm, là Trưởng ban Phụ nữ xã Phước Thọ. Là một
người chịu thương chịu khó, ngoài việc gia đình, cô thường đi sớm
về khuya làm các nhiệm vụ do cách mạng giao như đưa đường cho
bộ đội, du kích, tải lương thực, đạn dược, vận động quần chúng
đấu tranh với địch...”
Mẹ sinh ra anh Nguyễn Văn Trí đúng vào năm 1945. Vừa tần
tảo nuôi con, mẹ vừa tiếp tục cống hiến đời mình cho sự nghiệp
vẻ vang của dân tộc. Năm 1947, khi anh Trí tròn 2 tuổi, mẹ chẳng
may bị bệnh mất, người con trai duy nhất phải giao lại cho ông Ấn
nuôi dưỡng, đùm bọc, trong khi cha cậu bé, vẫn không có tin tức
gì. Thế là người cậu ruột vừa nuôi con mình, vừa gánh vác thêm
núm ruột của người em gái...
Cũng theo lời ông Ấn, khi 17 tuổi, anh Nguyễn Văn Trí đã
nằng nặc xin ông cho thoát ly gia đình đi làm cách mạng. Ông Ấn
chiều theo ý cháu và anh Trí gia nhập lực lượng bộ đội địa phương
huyện Long Thành. Trong một trận đánh địch ở Hiệp Phước,
không rõ năm nào, anh Trí đã anh dũng hy sinh ngày 28.6. Đồng
đội của anh lúc đó đã an táng anh tại Gò Tranh thuộc địa bàn xã
182

19.3 Page 183

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hiệp Phước. Sau này, ông Ấn có tổ chức tìm hài cốt, nhưng không
có kết quả, bởi giờ ở đấy, cây cối đã mọc um tùm, xóa hết đi dấu
vết của thời chiến tranh.
Ngày mẹ Nguyễn Thị Bi được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, ông Ấn xúc động lắm. Không chỉ vì
người đó là người em ruột của ông, mà là vì ông còn có công lao
lớn trong việc nuôi dưỡng người con duy nhất của mẹ từ thưở ấu
thơ cho đến lúc trưởng thành. Và con của mẹ đã yên nghỉ ngàn đời
vì đấu tranh cho mục tiêu cao cả của dân tộc Việt Nam.
Nhà nước truy tặng mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 814/KTCTN ngày 24.4.1995.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
183

19.4 Page 184

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bộn
(1920 - 2005)
Mẹ sinh năm 1920 tại xã Phú Hữu,
quận Long Thành (nay thuộc huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai).
hy sinh anh dũng.
Mẹ và chồng - ông Nguyễn Văn
Tiết, sinh hạ được mười hai người con,
chín trai, ba gái. Mẹ đã đóng góp cho
công cuộc vệ quốc của dân tộc nhiều
chiến sĩ giải phóng trong đó có ba liệt sĩ
Nguyễn Minh Chừng, con của mẹ lên đường nhập ngũ ngày
13.3.1962, đảm nhận chức vụ Trung đội phó, Tỉnh đội Biên Hòa.
Nguyễn Văn Tiến sinh năm 1948 cũng theo anh lên đường nhập
ngũ vào tháng 8.1963 ở đơn vị C1 huyện Long Thành với cấp bậc
trung sĩ, chức vụ Tểu đội trưởng. Ngày 1.1.1967, Nguyễn Minh
Chừng hy sinh trong một trận đối đầu với địch. Mẹ chẳng biết xác
con được chôn cất ở đâu.
Tháng 2.1967, Nguyễn Văn Thành vừa tròn 15 tuổi cũng
tham gia cách mạng, sau đó trở thành Xã đội trưởng xã Đại Phước.
Tháng 4.1968, Nguyễn Văn Tiến hy sinh trong trận chống càn bảo
vệ vùng bám trụ tại Bến Trảng, Bến Đá, Vĩnh Cửu, Đồng Nai.
Anh được Nhà nước phong tặng Huân chương Chiến sĩ giải phóng
hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Ba. Mẹ cũng không tìm
thấy xác anh và nỗi đau của mẹ lại chồng chất. Ngày 12.9.1974,
trong chuyến công tác phối hợp với đoàn 10 Rừng Sác đánh bót
Cầu Cháy tại ấp Ông Kèo xã Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thành đã
hy sinh.
184

19.5 Page 185

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Chiến tranh đã cướp mất ba người con thân yêu của mẹ.
Không tìm được xác các con, mẹ chua xót, day dứt mãi. Tình
thương mẹ dồn cho những đứa con còn lại, luôn động viên, tiếp tế,
giúp đỡ các con chiến đấu. Bản thân mẹ không tiếc gì hết. Mẹ từng
bị bắt, bị tra tấn đến mức ngất xỉu, tổn hao sức khỏe, nhưng tấm
lòng mẹ vẫn hướng về cách mạng, dành trọn cho các con.
Mẹ được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất,
Huân chương Độc lập hạng Ba. Năm 1994, mẹ được Nhà nước
phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định
số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ qua đời vào ngày 15.3.2005.
185

19.6 Page 186

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bông
(1920 - 1945)
Mẹ Nguyễn Thị Bông sinh năm
Canh Thân 1920 trong một gia đình nông
dân nghèo ở xã Phước Thiền (huyện Nhơn
Trạch). Lớn lên mẹ lấy ông Nguyễn Văn
Mển cũng thuộc lớp bần cố nông. Đôi vợ
chồng trẻ không có mảnh ruộng, chuyên
đi làm mướn kiếm sống qua ngày. Ở tuổi
21 mẹ sinh hạ một con trai là Nguyễn
Văn Thanh rồi thôi. Năm 1945 do thiếu đói và bệnh tật không
thuốc chữa chạy, mẹ qua đời, hưởng dương 26 tuổi. Ông Mển phải
đưa con nhỏ cho em vợ là Út Mười Ba (Nguyễn Thị Biếu) trông
nom, nuôi dạy.
Giặc Pháp trở lại chiếm đóng quận lỵ Long Thành rồi thực
hiện chiến thuật vết dầu loang, đánh ra nhiều xã khác, lập nhiều
đồn bót. Xã Phước Thiền có một bót, ngày ngày lính tráng càn
quét, ruồng bố hòng tiêu diệt hết lực lượng kháng chiến địa
phương. Năm 1947, ông Nguyễn Văn Mển bị địch bắn chết ở ấp
Long Điền trong một lần chúng càn ngoài đồng. Mới sáu tuổi đầu,
Thanh mồ côi cả cha lẫn mẹ, nhưng được dì út Mười Ba nuôi cho
ăn học đàng hoàng.
19 tuổi, anh Thanh được đồng chí Sáu Liên đưa đi thoát ly
theo kháng chiến. Lúc đầu, Nguyễn Văn Thanh là du kích trụ bám
địa phương, tham gia đánh một số trận diệt ác phá kìm tại Phước
Thiền và các xã bạn. Rồi anh trở thành cán bộ xây dựng phong
trào cơ sở khi địch thực hiện quốc sách ấp chiến lược. Nhiều lần
anh cùng đồng đội đột nhập vô các ấp, móc nối bà con thân quen
186

19.7 Page 187

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
ủng hộ cách mạng. Giữa năm 1965, anh Nguyễn Văn Thanh được
cử làm Trưởng ban Kinh tài xã cùng các đồng chí vận động bà con
nhận giữ giùm mấy ngàn giạ lúa cho cách mạng. Ngày 9.11.1966,
anh móc nối xây dựng cơ sở ở đồng ruộng Bến Sắn thì đụng địch
ruồng bố, bao vây định bắt sống. Anh dũng cảm chiến đấu, hy sinh
trên mảnh đất quê hương.
Mẹ Nguyễn Thị Bông có công sinh hạ một người con hy sinh
vì Tổ quốc nên được Nhà nước nước truy tặng danh hiệu vinh dự
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 814/KTCTN ngày
24.4.1996. Mẹ và gia đình được cũng được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2000.
187

19.8 Page 188

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chánh
(1919 - 1999)
Năm 1995, tôi được gặp mẹ tại nhà
người con trai thứ 8 của mẹ ở Biên Hòa
- anh Huỳnh Văn Tiễn, công tác tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai. Những
khổ đau vì mất chồng, mất con dường
như còn đọng lại trong vóc dáng khắc
khổ, gầy gò và lặng lẽ của mẹ.
Mẹ Nguyễn Thị Chánh sinh năm
1919 tại ấp Phú Mỹ 2, xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch. Mẹ sống
gắn bó với quê hương. Mẹ lấy chồng năm 18 tuổi và có cả thảy 10
người con. Chồng mẹ, ông Huỳnh Văn Lời, tham gia cách mạng
từ thời kháng chiến chống Pháp. Gia đình chồng của mẹ cũng là
gia đình có truyền thống cách mạng và chịu nhiều hy sinh mất
mát.
Cha chồng và người em chồng là liệt sĩ, hy sinh năm 1947.
Năm đó ông Lời cũng bị thương nặng, anh em cơ sở đưa về căn
cứ Phước An để điều trị. Một năm sau đó, người con thứ 3, anh
Huỳnh Văn Lường mất trong một trận ruồng bố của Tây.
Sau năm 1954, chồng mẹ trở về làm ruộng, nuôi vịt và tham
gia cách mạng tại địa phương. Cũng nhờ nuôi vịt mà gia đình có
điều kiện tích trữ lương thực, lúa gạo tiếp tế nuôi quân. Gia đoạn
chống Mỹ 1960-1965, Mỹ và tay sai càn quét, đánh phá ác liệt,
song nhà của mẹ cũng như của nhiều cơ sở ở Phú Hội đã chở
che nuôi giấu cán bộ, bộ đội an toàn. Nhưng đến năm 1970, có
kẻ chiêu hồi, cơ sở bị lộ. An ninh ban 2 của chi khu Long Thành
xuống tận nhà bắt mẹ cùng người con thứ 2 và thứ 4. Dù bằng
188

19.9 Page 189

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
nhiều thủ đoạn khảo tra, đánh đập nhưng chúng chẳng khai thác
được gì. Chúng quay trở lại nhà bắt ông Lời tiếp tục điều tra và
đánh đập đến chết. Ngày ông mất là 23/11/1970.
Trong 2 cuộc kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị Chánh đã mang
nặng những nỗi đau riêng của gia đình và nỗi đau chung của dân
tộc, nên các con lớn lên mẹ đều cho đi theo cách mạng. Mẹ ở nhà
cặm cụi làm lụng vất vả, hy sinh vì chồng vì con. Mẹ bảo: “Tụi nó
tàn bạo và ngang ngược, mẹ uất ức lắm!”. Mẹ đau buồn vì những
mất mát riêng nhưng điều an ủi là các con của mẹ đều rất xứng
đáng. Hai người con liệt sĩ là Huỳnh Văn Riêng (theo cách mạng
lấy tên là Huỳnh Văn Tiến), bộ đội địa phương của tỉnh Biên Hòa,
hy sinh tại xã Tam An, Long Thành năm 1965, và Huỳnh Văn
Lớn, du kích xã Phú Hội, hy sinh năm 1972. Các con còn lại trừ
những đứa nhỏ, đều hoạt động cách mạng và không ít lần bị kẻ thù
bắt bớ, tù đày, khảo tra...
Mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17/12/1994.
Ngày 3/4/1999, mẹ qua đời ở xã Phú Hội. Mẹ và gia đình được
Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2000.
189

19.10 Page 190

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chiến
(1912 - 1946)
Má Nguyễn Thị Chiến sinh năm
1912 tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn
Trạch. Ông Trần Văn Cón - nguyên Phó
Bí thư chi bộ xã Phước Thiền - người con
trai còn lại của má, kể về câu chuyện tình
duyên trắc trở của cha mẹ mình. Theo lời
ông Cón, trước khi lấy má ông, ba ông đã
yêu tha thiết người con gái tên Nguyễn
Thị Đắc. Không biết vì lý do gì mà gia đình không chịu, rồi vội
vã cưới người con gái hiền hậu Nguyễn Thị Chiến về cho ba ông.
Má Chiến buôn bán giỏi giang, một tay quán xuyến sạp hàng
của nhà chồng, đồng thời đảm đương việc nội trợ, chăm sóc phụng
dưỡng cha mẹ chồng. Chồng không yêu thương, má tủi cực trong
lòng nhưng không nói ra, cứ ngày càng gầy mòn đi. Rồi má mất
khi mới 34 tuổi, để lại 5 đứa con nhỏ vào ngày 19.11.1946.
Sau đó, ông Trần Văn Mừng chính thức lấy vợ lẽ, người ông
đã yêu tha thiết một thời. Ông cũng là người tham gia đóng góp
nhiều cho cách mạng, từng tiếp tế nuôi quân. Năm người con của
ông với người vợ đầu - má Nguyễn Thị Chiến - lớn lên thì đã có
4 người (trừ người con gái thứ 3) tham gia cách mạng. Con của
má, người anh Hai trong gia đình - anh Trần Văn Chúng, nhập
ngũ tháng 2.1946, B trưởng (thuộc C60, E303) đã hy sinh trong
khi chiến đấu đánh đoàn xe lửa số ở vùng Rừng Lá (Bình Thuận)
vào tháng 3.1954, chỉ trước ngày đình chiến vài tháng. Lúc ấy, anh
mới 31 tuổi. Đến giai đoạn chống Mỹ, chị Trần Thị Rỡ, sinh năm
1928, y tá xã Phước Thiền, bị địch bắt và khép vào tội vi phạm
190

20 Pages 191-200

▲back to top


20.1 Page 191

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Luật 10/59 của chính quyền Ngô Đình Diệm, tội liên hệ với Việt
Cộng và bị tử hình vào ngày 4.7.1962.
Người con trai liệt sĩ thứ 3 của má Nguyễn Thị Chiến được
đồng đội cũ nhắc nhở khá nhiều. Anh tên Trần Văn Rạng, sinh năm
1930, nhập ngũ ngày 9.1961, là Trung úy (thuộc D2, phân khu Bà
Rịa). Anh là Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy diệt ác của huyện Nhơn
Trạch, chính là người thủ tiêu 2 vợ chồng đại úy Trọng, ác ôn khét
tiếng trong vùng. Anh. Anh hy sinh ngày 13.10.1969. Ông Trần
Văn Cón kể, ngoài phần mộ của liệt sĩ Trần Văn Rạng, 2 liệt sĩ
Trần Văn Chúng và liệt sĩ Trần Thị Rỡ mãi đến nay vẫn chưa tìm
thấy phần mộ. Đây cũng là nỗi day dứt lớn của gia đình ông.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985.
Má Nguyễn Thị Chiến đã mất cách nay gần 50 năm, không
kịp thấy các con mình trưởng thành, cống hiến, hy sinh cho đất
nước. Má không còn sống để hưởng vinh dự trong ngày được Nhà
nước tôn vinh danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
191

20.2 Page 192

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chơn
(1912 - 1989)
Má Nguyễn Thị Chơn sinh năm
1912 tại xã Phước An anh hùng, có 3 con
là liệt sĩ.
Mười bốn năm sau hòa bình, cái
tin con trai lớn mất với má vẫn cứ như
chuyện phi lý, má không muốn tin dù
điều ấy là sự thật. Những dòng nhắn tin,
những lần tìm hỏi khắp miền Đông... vào
những năm đầu giải phóng đều không lời đáp. Lời đáp chính thức
má nhận được rồi cũng tới: Tấm bằng Tổ quốc ghi công của liệt sĩ
Trần Văn Ngàn. Má vẫn thầm mong đó là một sự nhầm lẫn, một
sự trùng tên.
Niềm mong mỏi ấy xuất phát từ việc má nhìn thấy anh Ngàn
lần cuối lúc anh đi tập kết ra Bắc.
Hai mươi mốt năm chống Mỹ, má lo thắc thỏm khi nghe tin
miền Bắc bị Mỹ ném bom. Đôi lúc, má cũng tự hào nói với bà con
chòm xóm: “Thằng Hai tui vậy mà sướng hơn mấy đứa em nó.
Giờ nó đang công tác ở miền Bắc hòa bình, đang sống gần Bác
Hồ...”
Rồi hai người em trai của anh Ngàn cũng lần lượt nằm xuống.
Anh Trần Văn Cấm hy sinh vào tháng 4.1966 trong một trận đánh
địch tại quê nhà. Anh Trần Văn Ánh - người con út của má - hy
sinh chưa đầy 4 năm trước ngày thống nhất đất nước trong một
trận chống càn của quân Mỹ vào căn cứ phân khu Bà Rịa.
192

20.3 Page 193

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Niềm hy vọng của má là người con cả - anh Ngàn sẽ từ miền
Bắc trở về đoàn tụ trong ngày đại thắng. Nhưng, anh đã hy sinh từ
năm 1962 trên đường về Nam công tác.
Chị Trần Thị Bé - người con duy nhất của má còn sống hiện
nay - kể lại: Trước lúc mất vào năm 1989, má tôi còn nằm mơ thấy
anh Hai. Má nói: “Tao thấy anh Hai mày dẫn tao ra Bắc. Nó đã có
vợ, có con. Nó đưa con trong nôi chứ không phải đưa võng như
trong quê mình”.
Những người dân quanh vùng kề, lúc còn sống vợ chồng
má Nguyễn Thị Chơn được bà con nể nang, quý trọng. Má Chơn
siêng làm, hiền hậu, hay giúp người. Gia đình má cũng là cơ sở
cách mạng. Trên đôi quang gánh tảo tần, má đi ra “vùng tự do” để
mang về cho bộ đội địa phương, du kích xã Phước An những mặt
hàng nhu yếu phẩm...
Người con rể của má hiện nay - ông Huỳnh Điệp - kể lại:
“Từ khi tôi chưa lấy nhà tôi bây giờ, gia đình ba má vợ tôi là chỗ
thân tình với bộ đội đặc công Rừng Sác. Má coi anh em bộ đội
như con. Ba tôi lúc còn sống cũng là một người một lòng một dạ
đi theo cách mạng. Xin lấy một ví dụ: Khi 2 người con cả và con
út trong gia đình đã thoát ly, anh Ba tôi lúc ấy đang học ở Sài Gòn
và đã tìm được chỗ làm ổn định. Ông cụ đã cương quyết gọi về để
vào du kích, sợ anh tôi ở đất Sài Gòn thì sa ngã hoặc bị bắt lính.
Má tôi thương anh Ba lắm nhưng cũng đồng tình với quyết định
của ba tôi. Bởi má tôi vốn sinh ra trong một gia đình có truyền
thống cách mạng. Và, chỉ hơn một tháng sau khi thoát ly, tháng
4.1966, anh Ba tôi đã hy sinh trong một trận đánh...”
193

20.4 Page 194

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Suốt 77 năm cực nhọc, má vẫn sống với những giấc mơ.
Trong chiến tranh, mơ hòa bình. Lúc con đi chiến đấu, mơ ngày
đoàn tụ. Khi hòa bình, mơ đời sống đỡ vất vả hơn...
Má được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994. Má
và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập
hạng Ba năm 2000.
194

20.5 Page 195

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Cửu
(1913 - 1956)
Mẹ Nguyễn Thị Cửu sinh năm Quý
Sửu 1913 trong một gia đình nông dân
nghèo ở xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ lấy ông Huỳnh Văn
Lộc ở xã Hiệp Phước láng giềng, cũng
là dân làm ruộng, sinh hạ năm người con
đều nuôi được tới tuổi trưởng thành (một
gái đầu lòng và bốn trai kế tiếp).
Khi Cách mạng tháng Tám 1945 sắp nổ ra, ông Huỳnh Văn
Lộc dù ở lứa tuổi trung niên vẫn hăng hái tham gia phong trào
Thanh niên tiền phong. Khi ta cướp chính quyền thắng lợi ở quận
lỵ thì ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các xã Phước Lai,
Phước Kiểng... được thành lập. Ông tham gia một số công tác của
xã. Đầu năm 1946, quân Pháp trở lại đánh chiếm quận lỵ Long
Thành rồi nống ra các xã trong vùng. Ông trở thành cán bộ phong
trào của xã, cơm nhà việc nước, Giặc đóng bót trong xã, ông đi đi
về về giữa quê và chiến khu Phước An. Một lần ông giấu một bó
giấy tờ ghi chép công tác ở mái nhà, lính địch đi ruồng bố xét nhà,
thấy tài liệu, bắt mẹ Cửu gọi ông về. Mẹ vờ đồng ý, làm kế hoãn
binh nói ông đi làm ăn xa, khi nào về sẽ bảo ông ở lại. Sau đó,
chúng không nhắc tới, mẹ cũng cho qua luôn lời hứa trước.
Do đau bao tử mãn tính không tiền mua thuốc chữa chạy,
mẹ Nguyễn Thị Cửu qua đời để lại các con còn nhỏ dại. Vào thời
kỳ này, Mỹ - Diệm thực hiện chiến lược chiến tranh cảnh sát, huy
động mọi lực lượng quân sự và các công cụ bạo lực phản cách
mạng hòng tiêu diệt cách mạng miền Nam. Ở các xã Phước Lai,
195

20.6 Page 196

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phước Kiểng (nay nhập thành xã Hiệp Phước) số hương chức hội
tề cũ lại nhảy ra nắm chính quyền. Mạng lưới do thám, chỉ điểm
hoạt động mạnh để dò la số cán bộ nằm vùng và cơ sở mật. Các
chiến dịch tố cộng, diệt cộng khiến nhiều đồng chí ở Phước Kiểng
sa vào tay địch: Hoàng, Bảy Bùng, Tú, Năm... Suốt mấy năm liền,
Hiệp Phước thuộc loại vùng yếu.
Đầu năm 1962, anh Ba Minh (Huỳnh Ngọc Minh, tức Anh
Dũng sinh năm 1942) bị bắt quân dịch, được đồng chí Ba Chơn
móc đi thoát ly. Anh vào du kích xã một thời gian rồi trở thành cán
bộ xây dựng phong trào. Khi địch gom dân lập ấp chiến lược năm
1963, anh nhiều lần đột vô các ấp xây dựng cơ sở, nhận tiếp tế rồi
lại rút về căn cứ trong rừng.
Năm Sơn (Huỳnh Ngọc Sơn, tức Hùng Cường, sinh năm
1950) mới mười ba tuổi ngày ngày đi tìm anh em cán bộ. Tháng
9.1963, Năm Sơn bỏ nhà theo anh Ba Minh vào căn cứ. Ưa thích
đi chiến đấu, Năm Sơn xin gia nhập C.240 của huyện Long Thành,
được giao bất kỳ nhiệm vụ nào cũng hoàn thành tốt và luôn luôn
xin đi chiến đấu.
Chị Hai Thu (Huỳnh Thị Thu, tên thật là Huỳnh Thị Trinh)
lấy chồng ở xã An Lợi cũng được giao nhiệm vụ nắm tin tức, tình
hình hoạt động của địch trong ấp chiến lược An Lợi kịp thời báo
cho các đồng chí Sáu Rạng và Linh từ năm 1963. Các đồng chí
yêu cầu chị bán sương sa tuy lãi rất ít nhưng có thể la cà mọi chỗ,
nắm chắc tình hình địch phục vụ các cuộc đấu tranh của ta.
Tư Quang (Huỳnh Ngọc Quang) vừa đến tuổi quân dịch, chị
Hai Thu đưa vô căn cứ giao cho anh Ba Minh. Mới đầu anh làm kế
toán kinh tài huyện Nhơn Trạch, được ít lâu anh xin đi bộ đội Tiểu
đoàn 2 thuộc Trung đoàn 4, Sư đoàn chủ lực 5 của Miền.
196

20.7 Page 197

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Các con đều đi thoát ly, trừ con út quá nhỏ sống ở nhà, cho
nên ông Huỳnh Văn Lộc bị hội đồng xã gọi lên gọi xuống, bắt phải
kêu các con về.
Năm 1965, anh Ba Minh trở thành Bí thư chi bộ xã Phước
Lai. Sáng ngày 24.7.1965, anh cùng một đồng chí đột vào ấp Cây
Vạn rồi trở về căn cứ. Các anh đụng lính bảo an 464 ở khu Lò than
Phước Long. Anh Ba Minh đã vào tới rừng, thấy đồng đội bị đạn
bắn gãy chân nên quay lại cõng đi. Anh cũng trúng đạn, lính vây
chặt gọi hàng. Anh bắn một tên bị thương rồi hô lớn: “Đả đảo đế
quốc Mỹ! Hồ Chủ tịch muôn năm!” Chúng biết anh không đầu
hàng, xả súng nát cả ngực, cả hai đều hy sinh. Chúng kéo xác các
anh về chợ. Chị Hai Thu - lúc này đang ở Hiệp Phước - ra xin thi
thể các anh đem về chôn. Sau một hồi giằng co chúng mới chịu
cho tẩm liệm. Một tên chỉ huy thắp nhang, khấn xỏ xiên: “Cầu
cho anh siêu thoát, phù hộ chúng tôi được mạnh giỏi và các đồng
chí của anh chiêu hồi về với chính nghĩa quốc gia...”. Chị Hai Thu
giận cành hông đốp lại luôn: “Nếu nó còn sống, nó vặn họng các
anh...”
Năm 1966, bị công an quận Long Thành tầm nã, chị Hai
Thu đi thoát ly luôn cho tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Cùng năm này ông Huỳnh Văn Lộc lâm trọng bệnh qua đời.
Là bộ đội giải phóng từ tuổi thiếu niên, Năm Sơn hăng hái
chiến đấu. Đêm 25.5.1968, đơn vị C.240 đánh bót Phú Hội. Năm
Sơn hy sinh được đồng đội an táng chu đáo.
Tư Quang chiến đấu khắp các chiến trường miền Đông Nam
Bộ. Tháng 7.1968, tiểu đoàn anh về đứng chân ở Bà Rịa, chuẩn bị
vào đợt ba Mậu Thân. Ngày 2.8.1968, tổ ba người của anh xung
phong đi tiếp ứng cho ban chỉ huy đơn vị bị lính úc tấn công. Khi
197

20.8 Page 198

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
các anh đến nơi, đơn vị đã rút đi và tổ này lọt ổ phục kích của lính
chư hầu Úc. Cả tổ hy sinh, mãi sau này vẫn không tìm được mộ.
Mẹ Nguyễn Thị Cửu có công sinh thành ba liệt sĩ góp phần
vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, được Nhà nước truy
tặng danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
198

20.9 Page 199

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Đặng
(1904 - 1997)
Má Nguyễn Thị Đặng sinh năm
1904 ở ấp Ông Kèo xã Vĩnh Thanh (Nhơn
Trạch). Trong dáng dấp nhỏ bé của má
luôn ẩn chứa sức sống mãnh liệt của một
người mẹ anh hùng, một cơ sở cách mạng
kiên trung suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ.
Thời chiến tranh, xã Vĩnh Thanh
nghèo lắm, cực lắm nhưng người dân Vĩnh Thanh luôn một lòng
với cách mạng. Má Đặng cũng vậy, quanh năm chắt chiu từng
hạt gạo, cả khoai nuôi giấu cán bộ để góp phần đánh Pháp, đánh
Mỹ. Má là hội viên Hội Mẹ chiến sĩ, luôn đi đầu trong các phong
trào vận động lo hũ gạo nuôi quân, xây dựng tình đoàn kết giúp
đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Năm 1950, giặc Pháp đóng
bót trong xã, gia đình má cùng một số dân làng không chịu làm nô
dịch cho giặc nên kéo nhau ra Rừng Sác bờ sông Ông Kèo cất chòi
ở tạm. Lúc ấy cuộc sống rất khó khăn, vừa phải tránh né các cuộc
ruồng bố của giặc, vừa phải kiếm sống bằng việc làm củi, xúc tép,
buôn bán nhỏ. Nhưng má vẫn tìm mọi cách liên lạc với “bộ đội
Cụ Hồ” đóng góp nuôi quân, tham gia tích cực Hội Mẹ chiến sĩ.
Tên tuổi má Đặng trở thành niềm tin yêu, thành ngọn lửa ấm trong
lòng các chiến sĩ vệ quốc.
Năm 1951, giặc Pháp tăng cường bố ráp thúc ép số dân “ly
khai” trở về làng. Khoảng 30 hộ phải nhổ chòi trở lại vòng kềm
kẹp của giặc. Chúng hăm dọa, khủng bố những gia đình này rất
dữ. Những người tình nghi trong số này thường bị gọi, bị bắt lên
199

20.10 Page 200

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
bót để hạch hỏi, nhiều khi bị đánh đập khảo tra rất dã man. Gia
đình má bị “chiếu cố” nhiều nhất. Nhưng nhờ khôn khéo, giỏi
ứng xử má không bị phát hiện. Trong thời gian này, chồng má -
ông Nguyễn Văn Trụ, và con trai độc nhất - Nguyễn Tấn Nghĩa
thoát ly tham gia kháng chiến. Ông Trụ công tác ở Ủy ban Kháng
chiến hành chính xã Phước Lý, vẫn bí mật cùng má buôn bán nhỏ
để đóng góp nuôi du kích xã. Đến năm 1962, do lao khổ, nhọc
nhằn, ông Trụ bệnh nặng, qua đời, để lại má gánh nặng gia đình
và nhiệm vụ dở dang. Anh Nghĩa ngay từ ngày đầu thoát ly tham
gia tổ quân báo của xã đội với nhiệm vụ bám địch, nắm tình hình,
cung cấp tin tức cho bộ đội tổ chức đánh giặc. Anh là người lanh
lợi, gan dạ, trung thực nên đồng đội rất tin cậy. Năm 1949, trong
một lần công tác, anh bị quân Pháp ở kho đạn Thành Tuy Hạ phát
hiện, bắt giam ở bót Catinat 6 tháng. Chúng tra tấn anh bằng đủ
loại cực hình nhưng không khai thác được điều gì, đành phải thả.
Anh trở về với tấm thân đầy thương tích, tay chân bị liệt. Má Đặng
chạy đôn chạy đáo lo tiền, lo thang thuốc cho anh. Trong vòng tay
yêu thương của má, anh Nghĩa dần dần bình phục, lại tiếp tục hoạt
động. Má Đặng rất thương con nhưng không hề ngăn cản mà luôn
động viên, giúp đỡ con hoàn thành nhiệm vụ.
Ít lâu sau, trên đường làm nhiệm vụ, anh bị địch phục kích,
bắn trọng thương. Giặc mang anh về kho đạn dùng cực hình khai
thác, không đạt mục đích, chúng giết anh rồi thủ tiêu mất xác.
Nghe tin con hy sinh, má Đặng tưởng chừng không thể gượng
sống được. Núm ruột duy nhất của má, niềm hy vọng của má đã ra
đi. Nỗi đau không thể diễn tả được, không có gì bù đắp nổi. Nhưng
rồi, má cũng vượt qua, vì má nghĩ má phải sống để làm tròn nhiệm
vụ của người mẹ chiến sĩ, còn nhiều đứa con chiến sĩ khác cần đến
sự chăm sóc của má.
200

21 Pages 201-210

▲back to top


21.1 Page 201

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Sự hy sinh cao cả và tấm lòng đôn hậu, bình dị của má Nguyễn
Thị Đặng quả xứng đáng với danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
mà Nhà nước phong tặng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994. Trước đó má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1985.
Má qua đời ngày 24.7.1997.
201

21.2 Page 202

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Đẩu
(1921 - 2012)
Má Nguyễn Thị Đẩu sinh năm 1921
tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Gia đình má bao đời sống
bằng nghề nông. Lớn lên, má lấy chồng
cũng là một nông dân. Chồng má, ông
Nguyễn Văn Bia đã từng tham gia hoạt
động Việt Minh thời kháng Pháp. Sau đó,
vì sức khỏe yếu, ông ở lại quê nhà cùng
vợ chăm lo ruộng rẫy. Năm 1940, má Đẩu sinh người con trai đầu
lòng đặt tên Nguyễn Văn Du. Một lần ông Bia cuốc vườn, chẳng
may chạm phải trái nổ, ông bị thương nặng. Bọn địch nghi ngờ
ông chôn giấu vũ khí trong vườn, bèn đưa ông về đồn Phước Long
băng bó. Suốt nửa tháng trời, ông Bia bị chúng hạch hỏi, làm khó
dễ, không moi được gì chúng mới chịu thả ông ra.
Sau biến cố ấy, sức khỏe ông Bia suy sụp, gánh nặng gia đình
hầu như dồn cả lên vai má Đẩu. Ít lâu sau, ông Bia qua đời, để lại
vợ góa con côi. Nguyễn Văn Du bước vào tuổi thanh niên khi Mỹ
- Diệm đang tăng cường đánh phá phong trào cách mạng của nhân
dân miền Nam. Tháng 4.1957 chúng mở chiến dịch Nguyễn Trãi
đánh phá vùng Đông Nam Bộ. Đặc biệt, “Dụ 57” của Ngô Đình
Diệm đã cướp đoạt số ruộng đất đã được chính phủ kháng chiến
chia cho nông dân, đẩy nhiều gia đình nông dân vào cảnh trắng
tay, mất hết ruộng đất. Sống trong cảnh bị Mỹ - Diệm khủng bố,
o ép, lại bị địa chủ bóc lột tàn tệ, người dân Nhơn Trạch nung nấu
lòng căm thù giặc. Nguyễn Văn Du cũng như hầu hết thanh niên
cùng thời vừa lớn lên đã ghi danh vào đội du kích, sẵn sàng đánh
địch. Đội du kích nhận lãnh nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng,
202

21.3 Page 203

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
vận chuyển lương thực, chống địch càn quét... Cuộc kháng chiến
gian khổ đã mau chóng tôi luyện Du trưởng thành. Anh được cấp
trên giao nhiệm vụ Xã đội trưởng xã Phước Thọ. Một trong những
may mắn lớn của Du là anh được người mẹ thân yêu hết lòng ủng
hộ và tạo mọi điều kiện cho anh công tác. Má Đẩu là người liên
lạc, tiếp tế cho con. Má cũng là người đứng ra lo liệu cho anh một
tổ ấm gia đình riêng để anh yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Hồi ấy
má xuôi ngược rừng đước Phước Long - Phước Thọ mỗi ngày như
đi chợ.
Tháng 4.1962, Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh xây dựng
ấp chiến lược toàn miền Nam. Đồng thời, chúng tăng cường đưa
quân đi càn quét, đánh phá các vùng căn cứ kháng chiến. Ngày
20.4.1962, Nguyễn Văn Du chỉ huy đội du kích chống bọn bảo an
càn quét vào Phước Thọ. Trong trận chống càn đó, người xã đội
trưởng mới hai mươi hai tuổi đời đã anh dũng hy sinh. Đứa con
độc nhất mất đi, má Đẩu đau đớn như bất kỳ người mẹ nào từng
mang nặng đẻ đau, nuôi con lớn nên người. Nhưng má không gục
ngã vì bên cạnh má còn có con dâu và đứa cháu nội thơ dại. Hơn
nữa, chiến sự còn tiếp diễn, cách mạng còn cần đến sự hỗ trợ cả
vật chất lẫn tinh thần của những người dân như má. Và má Đẩu
đã vượt qua nỗi đau, cùng cả nước đi qua chiến tranh cho tới ngày
toàn thắng.
Sau ngày giải phóng, má vui tuổi già bên đàn chắt nội và người
cháu dâu. Má đã được nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Ba, và năm 1994 phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Má Nguyễn Thị Đẩu mất ngày 29.2.2012 (nhằm ngày 8
tháng 2 năm Nhâm Thìn).
203

21.4 Page 204

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Dính
(1910 - 1987)
Người dân xã Hiệp Phước (huyện
Nhơn Trạch) hầu như không biết gì về
cuộc đời má Nguyễn Thị Dính, nhưng
hình ảnh má lại rất quen thuộc đối với họ
- một người đàn bà điên lang thang khắp
nẻo đường quê, suốt mấy chục năm ròng.
Quang gánh trên vai, người mẹ ấy đã
thắp nhang dọc những con đường Nhơn
Trạch, Long Thành, Bà Rịa, Hòa Long và biết bao con đường mòn
không tên khác đã in những bước chân trần của má. “Má đi tìm
thằng Hai”, má bảo với mọi người như thế.
Em dâu của má Nguyễn Thị Dính kể: “Chị Hai tôi là một
người đảm đang chịu khó. Hồi tôi chưa về làm dâu trong gia đình
này, nhưng bọn con gái chúng tôi thời đó đã nể tài buôn bán và
cái đức siêng làm của chị. Đứa con của chị Hai tôi không được
gia đình chồng nhìn nhận. Và có lẽ không muốn thành gánh nặng
cho cha mẹ nên chị xin ra ở riêng. Vì thế, chị Hai tôi thui thủi một
mình, sinh con rồi nuôi con khôn lớn...”.
Từ ấy bao nhiêu tình cảm yêu thương mẹ dồn hết cho người
con trai duy nhất Nguyễn Văn Đương. Nhưng tình yêu mãnh liệt
ấy vẫn không ngăn má tiễn chân con lên đường chiến đấu vì độc
lập, tự do của đất nước, dân tộc. Để rồi năm 1963, tin con trai duy
nhất hy sinh đã là nỗi đau cuối cùng giáng xuống cuộc đời cay
cực và cô đơn của má. 24 năm dài sau đó má lang thang tìm kiếm
núm ruột của mình. Liệt sĩ Nguyễn Văn Đương đã chiến đấu và
anh dũng hy sinh trên đường cùng đội du kích xuống xóm trinh
204

21.5 Page 205

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
sát nắm tình hình địch để chuẩn bị cho một trận đánh. Năm 1977,
giấy báo tử mới được gởi về tới tay má.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 1985. Má được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN
ngày 17.12.1994.
205

21.6 Page 206

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Đổ
(1911 - 1969)
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn
Thị Đổ chỉ có người con gái độc nhất tên
là Nguyễn Thị Thịnh, sinh năm 1942,
thoát ly tham gia cách mạng năm 18 tuổi,
làm cán bộ Nông hội huyện Nhơn Trạch,
hy sinh ngày 12.12.1964. Mẹ cũng đã
mất từ năm 1969, năm ấy mẹ 58 tuổi.
Nhà của mẹ ở ấp Xóm Hố, xã Phú Hội
(huyện Nhơn Trạch), một ấp nổi tiếng và kiên cường trong hai
thời kỳ kháng chiến đánh Pháp và Mỹ.
Mẹ Đỗ sinh năm 1911, quê quán xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch. Chồng mẹ là người cùng xã, ông mất sau khi sinh chị Thịnh,
và mẹ vẫn ở vậy nuôi con cho đến tuổi trưởng thành. Chị Thịnh
dáng người mảnh mai, xinh đẹp. Tuổi 18 chị Thịnh càng tươi xinh,
thanh niên trai tráng trong ấp nhiều người ngỏ lời... Nhưng chị
chẳng hề quan tâm đến chuyện gia đình chồng con. Rồi một ngày
nọ, chị xin phép mẹ thoát ly, tham gia cách mạng. Sau khi cho
con đi, mẹ ở nhà làm vườn trồng cây trái, sống bằng hoa lợi, đồng
thời tích trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men để tiếp tế cho cách
mạng...
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 438/KTCTN ngày 24.4.1995. Mẹ
và gia đình cũng được Nhà nước truy tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
206

21.7 Page 207

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Đồng
(1913 - 1992)
Căn nhà của mẹ Đồng từng sống
thật im ắng. Trên chiếc bàn thờ, di ảnh
của mẹ đã cũ mờ nhưng còn đọng lại đôi
mắt bao dung ẩn chứa nỗi buồn diệu vợi.
Niềm hy vọng sum họp gia đình của mẹ
với người con trai duy nhất không thành.
Anh Nguyễn Văn Hương đã hy sinh trên
chiến trường miền Đông Nam Bộ. Mẹ ở
nhà âm thầm nuôi cháu - con gái của liệt sĩ Hương - cho đến ngày
mẹ ra đi mãi mãi vào năm 1992, thọ 80 tuổi.
Trên làng quê Đại Phước mẹ đã chứng kiến và gánh chịu
những đau khổ mà kẻ thù gây ra cho người dân lành. Cuộc sống
đầy vất vả lại mất tự do, kẻ thù cứ luôn bố ráp, khủng bố những ai
có con đi cách mạng.
Những ngày tháng đó, mẹ phải đi làm thuê. Chồng mẹ, ông
Nguyễn Văn Tượng, đan thúng, rổ để mẹ mang bán, đắp đổi cuộc
sống từng ngày. Nhưng mẹ có niềm an ủi, vui mừng khi con trai là
anh Hương giác ngộ cách mạng, chọn một con đường đúng đắn để
đi. Anh tham gia du kích xã Đại Phước, hoạt động ngay chính trên
quê hương mình. Lực lượng du kích xã Đại Phước đã nhiều lần
làm cho địch khiếp vía, kinh hoàng. Diệt gian, phá ấp chiến lược...
phong trào cách mạng thập niên 60 tại đây phát triển mạnh. Thế là
địch ra sức ruồng bố bằng nhiều hình thức. Năm 1968, trong một
trận đánh càn, một số cơ sở cách mạng, lực lượng du kích xã sa
vào tay giặc. Con trai mẹ Đồng bị bắt trong trường hợp này.
Để tách những người chiến sĩ ra khỏi cái nôi phong trào cách
mạng, kẻ thù đã đem những chiến sĩ của ta bị bắt đày đi Côn Đảo.
207

21.8 Page 208

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Ở chuồng cọp ngục tù của đế quốc, như bao chiến sĩ cách mạng
khác, anh Hương giữ vững lòng son với cách mạng, chịu đựng các
đòn tra tấn dã man của kẻ thù. Cho đến ngày địch phải nhượng bộ
trước sức tiến công mạnh mẽ của quân đội cách mạng, anh Hương
được địch trao trả về với cách mạng năm 1973.
Từ khi con bị bắt, mẹ Đồng bặt vô âm tín về con trai mình.
Chỉ biết con bị bắt, đày Côn Đảo mà không biết sống chết ra sao.
Mẹ ở nhà dồn hết tình thương vào chăm lo cho cháu nội. Thương
cháu sinh ra cha bị bắt, không biết có được ngày về. Mấy năm sau,
con dâu mất, cháu mẹ lại mồ côi.
Anh Hương được trao trả trở về công tác tại Ban Hậu cần
thuộc Tỉnh đội Biên Hòa. Với những thành tích hoạt động, anh
vinh dự được tặng thưởng Huân chương chống Mỹ, Huân chương
Chiến công... Anh tiếp tục hoạt động cho đến tháng 9.1974, khi
đơn vị đóng tại Bình Sơn, di chứng của đòn thù tra tấn ở Côn Đảo
đã quật ngã anh. Anh hy sinh tại cứ và được đồng đội an táng tại
đồi 105 - K76B - Bình Sơn - Long Thành.
Ngày đất nước thống nhất, mẹ Đồng cùng chồng mừng vui
khôn tả. Thoát cảnh tù đày, được tự do nhưng mẹ còn hy vọng về
ngày gặp lại con trai của mình. Bao ngày tháng chờ mong, trông
đợi, gia đình mong con trai về, cháu nội mẹ mong gặp được để
biết mặt ba. Đợi hoài, đợi mãi cho đến khi chị Lê Thị Hoa - người
cùng quê từng hoạt động với anh Hương cho biết: anh Hương đã
hy sinh. Mẹ thảng thốt, bàng hoàng. Nỗi đau mất con đè nặng tuổi
già của mẹ.
Giờ đây cháu mẹ đã khôn lớn và thay cha thờ cúng mẹ. Nhà
nước truy tặng mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
208

21.9 Page 209

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Hoa
(1924 - 1970)
Má sinh năm 1924 và mất năm 1970.
Cái chết của má cũng thật đau thương:
vì nhớ con, từ ấp Vũng Gấm, xã Phước
An, huyện Nhơn Trạch má đi chiến khu
Phước An tìm mấy anh để thăm nhưng
một quả mìn oan nghiệt đã cướp đi cuộc
sống của má. Điều đau đớn hơn, lúc ấy
các anh cũng đã hy sinh trước má chưa
đầy 1 năm, chưa ai để lại cho má một mụn cháu nào.
2 người con của má: liệt sĩ Nguyễn Văn Ron, sinh năm 1950,
vào du kích tháng 1.1968. Và hơn một năm sau, ngày 20.9.1969,
anh Ron hy sinh trong lúc phục kích đánh địch ngay trên quê
hương mình. Người con đầu lòng của má, liệt sĩ Nguyễn Văn
Tiến, cũng hy sinh sau em mình 7 tháng. Bấy giờ anh Tiến là một
y tá của du kích, anh bị lọt vào vòng kích của địch khi vào ấp Bàu
Bông công tác quần chúng.
Góa chồng từ năm 26 tuổi, má chấp nhận cuộc sống cay cực,
vất vả để nuôi con. Chồng má - liệt sĩ Nguyễn Văn Trốn - cũng
hy sinh oanh liệt thời chống Pháp. Bấy giờ, ông là Phó chủ tịch
xã Bình Thạnh (thuộc Phước An ngày nay). Đồng đội kể rằng ông
đã chiến đấu hết sức anh dũng ngày 10.9.1948, khi giặc Pháp đột
nhập vào căn cứ cách mạng... Người thiếu phụ trẻ đẹp Nguyễn Thị
Hoa đã sống trong cảnh mẹ góa con côi như thế cho đến khi lìa
đời. Thuở ấy, bao lời dạm hỏi má Hoa “đi bước nữa” đều bị má từ
chối... Rồi những chàng trai má rứt ruột sinh ra cũng lần lượt từ
biệt má để nối gót người cha anh hùng, má chỉ còn người con gái
duy nhất là Nguyễn Thị Huệ.
209

21.10 Page 210

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Má được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994. Má
và gia đình cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc
lập hạng Ba năm 2000.
210

22 Pages 211-220

▲back to top


22.1 Page 211

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Huệ
(1911 - 2007)
Tuổi thơ của mẹ Nguyễn Thị Huệ
gắn liền với những cơ cực của dân làng
Đại Phước. Năm 1911 mẹ sinh ra, được
lớn lên, được lao động như bao người ở
làng quê của mẹ. Rồi mẹ lấy chồng, ông
Trần Văn Chơi đưa mẹ về lập nghiệp tại
quê nội, làng Phú Hữu, nay thuộc huyện
Nhơn Trạch.
Năm 1947, người con trai duy nhất của mẹ là anh Trần Văn
Măng nằng nặc xin mẹ cho đi bộ đội để đuổi thực dân Pháp xâm
lược. Mẹ lặng im, cố nén tình cảm riêng tư để tiễn con theo cách
mạng. Trước đó, con của mẹ đã hăng hái trong công việc du kích
xã, nô nức với đồng đội cùng nhân dân đi “phá khu nô lệ” giải tỏa
đồng bào các vùng tạm chiếm đưa về vùng tự do.
Tháng 7.1947, Trần Văn Măng vừa tròn 17 tuổi chính thức
thoát ly gia đình và tham gia trong phong trào thanh niên huyện
Long Thành. Năm 1950, giặc càn đánh phá ác liệt, Huyện đoàn
Long Thành từ Phước An phải dời về Gò Dầu. Tháng 5.1952,
chàng trai 22 tuổi Trần Văn Măng anh dũng hy sinh trong trận
quyết tử để bảo vệ căn cứ tại Thái Thiện, Gò Dầu.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, mẹ nhận giấy báo
tử của con. Nỗi đau mất con và sự hụt hẫng khiến mẹ đổ bệnh.
Mẹ trở nên tiều tụy và luôn bị dày vò bởi ý nghĩ chua xót 23 năm
mẹ không cắm được cho con một cây nhang, cũng không tìm thấy
được hài cốt con, dù chỉ một nấm mồ.
211

22.2 Page 212

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Năm 1978, chồng của mẹ qua đời. Mẹ chuyển về quê cũ
sống với cháu dâu. Mẹ được địa phương xây nhà tình nghĩa và
nhận sự phụng dưỡng tận lòng của các cơ quan, đoàn thể cùng bà
con lối xóm. Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Độc lập hạng Ba năm 1985. Năm 1994, mẹ được phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ qua đời ngày 29.8.2007.
212

22.3 Page 213

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Hương
(1910 - 2005)
Nhà của má Nguyễn Thị Hương
nằm giữa 3 căn nhà lá của 3 cô con gái ở
xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch. Bốn
mái tranh nép vào nhau làm nên cái vẻ
đầm ấm, sum vầy. Đấy là hình ảnh mà
mọi người đều quen thuộc trước khi má
qua đời vào ngày 1.10.2005.
Cũng chính căn nhà này, mảnh vườn
này, là nơi má từ miền quê xã Long Thọ về làm dâu, nơi má cùng
chồng vỡ đất, tạo lập vườn rẫy, nơi má đã che giấu, chăm nuôi bao
thương binh cho tới ngày lành lặn. Má có 3 người con trai tham
gia cách mạng. Má nghĩ rằng, ở đâu đó khi các con má gặp khó
khăn cũng sẽ có những người như má chăm sóc đỡ đần. Vì vậy
nhà má luôn luôn có sẵn rất nhiều võng, gạo, thức ăn, thuốc men,
bộ đội bị thương là cứ tìm nhà má mà vào. Má có sẵn hầm để giấu
các anh. Nếu tình hình không yên, má cùng chồng và các con gái
sẽ biết chỗ đưa thương binh tạm lánh đi.
Từ khi còn trẻ, má Hương đã theo ông nội bán thuốc tễ rong.
Lấy chồng, có con, tham gia cách mạng, nghề cũ của má cũng tạo
nguồn tài chính để mua sữa, bông băng, thuốc Tây... cho thương
binh.
Má có 6 người con, ba trai, ba gái. Má đã từng mơ ước có
những đứa cháu nội ngoan ngoãn, kháu khỉnh. Thế rồi 3 người con
trai của má lần lượt hy sinh. Anh Đặng Văn Thép, con trai cả của
má, sinh năm 1930, tham gia đội du kích xã Long Thọ, hy sinh
khi mới vừa 17 tuổi (ngày 2.11.1947) trong một trận chống càn
213

22.4 Page 214

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
ở khu Long Thọ. Anh Đặng Văn Sang, sinh năm 1942, nhập ngũ
tháng 1.1961, là du kích xã Phước Lai, bị trúng trái nổ trên đường
đi công tác ngày 10.10.1963. Nghe nói, anh Sang hy sinh ở vùng
Lòng Chảo nhưng vùng ấy bị san ủi, má bao nhiêu lần tìm mộ
nhưng đều không thấy. Anh Đặng Văn Đức an táng tại vườn nhà.
Đây là người con duy nhất mà gia đình tìm được xác. Anh là chiến
sĩ của Đại đội 240, nhập ngũ tháng 5.1963, hy sinh ngày 11.5.1969
trong một trận đánh ở Xóm Hố (Phú Hội).
Hồ sơ liệt sĩ chỉ ghi lại có thế, má cũng không biết gì thêm
về hoàn cảnh hy sinh của các con trai mình. Ba người con trai của
má đã rời vòng tay mẹ khi còn rất trẻ, chưa kịp nghĩ đến ánh mắt
nụ cười của một thiếu nữ nào. Các anh đã chiến đấu anh dũng và
về với lòng đất mẹ trong tư thế của những người anh hùng.
Má được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Má và gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
Độc lập hạng Ba năm 2000.
214

22.5 Page 215

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Hường
(1922 - 2000)
Má Nguyễn Thị Hường sinh năm
1922 và trưởng thành tại xã Long Tân
(huyện Nhơn Trạch), có ba người thân là
liệt sĩ.
Mất mát hy sinh càng lớn lao thì sức
chịu đựng của các bà mẹ anh hùng càng
bền bỉ. Má Nguyễn Thị Hường kể: “Ông
nhà tôi (Sáu Nhỏ) tham gia cách mạng từ
năm 1945. Năm 1954, ông làm Chủ tịch xã Phú Hội và chỉ đạo
chiến đấu ở khu vực lòng chảo Phú Hội - Phú Mỹ. Trong một lần
về thăm nhà ông đã bị kẻ thù phục kích, sát hại. Xác ông, gia đình
cũng chẳng được chôn. Sau này mới biết, anh em đằng mình lấy
được và đem chôn trên đồi sau trường học Phú Mỹ”.
Khi chồng má hy sinh, má một nách nuôi 5 người con dại.
Má đã tần tảo buôn bán, nuôi dạy các con khôn lớn mặc cho kẻ thù
o ép, làm khó dễ đủ điều. Năm 1960, má tiễn con lớn vào chiến
khu. Chiến tranh ngày càng khốc liệt. Theo tiếng gọi của Tổ quốc,
các con má lần lượt ra đi năm nào tháng nào má không còn nhớ
nổi. Chỉ biết rằng: “Thằng thứ 3 ra đi lúc 19 tuổi, và thằng thứ 4 ra
đi khi mới 14 tuổi”. Đưa các con đi chiến đấu, còn bản thân má thì
tiếp tế, thăm nuôi. Anh Nguyễn Văn Tráng, người con thứ 3 của
má sau này trở thành xạ thủ nổi tiếng của Tiểu đoàn 445. Kẻ thù
ngày càng khủng bố ác liệt. Chúng tăng cường bắt bớ, tra tấn, tù
đày các chiến sĩ cách mạng. Bản thân má cũng bị địch bắt tra tấn
và giam cầm 3 lần tổng cộng 6 tháng 7 ngày.
215

22.6 Page 216

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Rồi người con lớn của má, anh Nguyễn Văn Dũng hy sinh
tại căn cứ Minh Đạm (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) vào năm
1970 ở tuổi 40. Đớn đau nhiều lắm nhưng má chỉ biết khóc thầm,
khóc vụng. Chưa đầy một năm sau, anh Nguyễn Văn Dẫu hy sinh
và đến năm 1973 thì anh Nguyễn Văn Tráng hy sinh sau một trận
chiến ác liệt ở Bình Sơn (huyện Long Thành), trận ấy quân ta đã
chiến thắng giòn giã, nhưng trên đường về bị địch phục kích và 7
chiến sĩ hy sinh cùng lúc. Khi hay tin má bất chấp hiểm nguy tìm
về Bình Sơn để nhận xác con mình. Thế nhưng kẻ thù đã đào hố
chôn tập thể 7 liệt sĩ, đến nay vẫn chưa tìm thấy mộ.
Chiến tranh qua đi, người con trai duy nhất còn lại là anh
Bảy Tùng (công tác tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Biên Hòa, nay
đã nghỉ hưu).
Má Nguyễn Thị Hường được phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994. Má qua đời ngày 7.2.2000 (mùng ba Tết), các con
đưa má về an táng ở xã Long Tân, nơi chôn nhau cắt rốn cũng là
nơi yên nghỉ cuối đời của má, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn
Thị Hường.
216

22.7 Page 217

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Lẹt
(1912 - 1982)
Xã Phú Hữu, huyện Long Thành cũ
(nay là huyện Nhơn Trạch) đã được nhà
nước tuyên dương đơn vị Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân về thành tích
chiến đấu xuất sắc trong thời kỳ chống
Mỹ cứu nước. Bốn bà mẹ Việt Nam Anh
hùng được tuyên dương và truy tặng năm
1994 của xã đều tập trung ở ấp Vọng
Đông, nay thuộc xã Phú Đông (từ Phú Hữu tách ra năm 1994).
Mẹ Nguyễn Thị Lẹt sinh năm Nhâm Tý (1912), là một trong bốn
mẹ được truy tặng danh hiệu cao quý đó.
Gia đình mẹ Sáu Lẹt thuộc loại nghèo, ruộng đất ít, căn nhà
lá đơn sơ như phần lớn nhà của bà con trong ấp hồi đó. Mẹ sinh
3 con trai, hai vợ chồng gắng lắm mới nuôi được các con. Quân
Pháp trở lại đóng một số đồn bót quanh vùng, thỉnh thoảng chúng
lại tràn vào ấp nhỏ Vọng Đông. Hai vợ chồng mẹ lo bồng bế, dắt
díu đàn con thơ dại chạy giặc ruồng bố nhiều lần. Rồi người chồng
thân yêu lâm bệnh qua đời, để lại gánh nặng gia đình cho người vợ
còn trẻ mới ngoài 30 tuổi.
Sau Hiệp định Genève, phong trào cách mạng huyện Long
Thành khá mạnh. Ta giác ngộ được một số lính Bình Xuyên của
Bảy Môn, Ba Phú đi theo cách mạng. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của đồng chí Vũ Khánh - Bí thư Huyện ủy - 5 thanh niên tích cực
được chọn đưa vào tăng cường, bổ sung lực lượng Ba Phú tháng
2.1956. Một trong số này là anh Dương Văn Hai (tức Mai), con
của mẹ Sáu Lẹt. Ở lực lượng Ba Phú, anh Hai lúc thì đi Bà Rịa,
217

22.8 Page 218

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
lúc lên Chiến khu Đ làm nhiệm vụ. Sau cao trào Đồng khởi ở tỉnh
Biên Hòa, anh trở về công tác và chiến đấu ở Huyện đội Long
Thành.
Tháng 11.1961, con trai thứ nhì của mẹ là Ba Sâm (Dương
Văn Sâm) vừa đến tuổi quân dịch. Theo chân anh Hai, Ba Sâm gia
nhập đội du kích xã Phú Hữu.
Đầu năm 1963, mới 17 tuổi, Tư Nghĩa (Dương Văn Nghĩa)
cũng tiếp bước hai anh trai, mới đầu vào du kích, sau một thời gian
chuyển lên công tác ở Ban Kinh tài tỉnh Biên Hòa (cũ).
Tuy nghèo, mẹ Sáu Lẹt vẫn rất chịu khó đi thăm các con.
Mỗi lần đi, mẹ đều có quà và những thứ cần cho con và đồng đội,
dù mẹ phải bán dần bán mòn đến hết ruộng đất, đi làm mướn kiếm
sống.
Ngày 15.6.1966, Trung đội trưởng Dương Văn Hai (tức
Mai) dẫn một nhóm chiến sĩ bộ đội địa phương Long Thành đi
tải gạo cho đơn vị. Các anh lọt ổ phục kích của địch; anh Hai hy
sinh, được các đồng chí an táng tại xã Phước Thọ (nay là xã Long
Thọ).
Năm tháng sau, vào một đêm tháng 11.1966, Tiểu đội trưởng
du kích xã Dương Văn Sâm và một số cán bộ huyện, xã đột vào
ấp Phước Lương để vận động và tổ chức cơ sở cùng nhân dân
phá ấp chiến lược này. Địch chống trả, anh Sâm hy sinh, được bà
con chôn cất chu đáo. Hai tin dữ này được giấu kín, rất lâu về sau
mẹ Sáu Lẹt mới biết. Mẹ không thể công khai khóc than về đau
thương mất mát to lớn ập đến cùng một lúc. Chỉ đến đêm, mẹ mới
để nước mắt tuôn chảy. Mẹ càng thương Tư Nghĩa, ráng đi thăm
con dù phải thắt lưng chịu cực để dành cho con chút quà nhỏ gói
trọn tình mẫu tử.
218

22.9 Page 219

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Sau Tết Mậu Thân, địch tiến hành liên tiếp các chiến dịch
bình định hòng đẩy các lực lượng cách mạng ra xa các đô thị, thị
trấn và các trục đường giao thông quan trọng, đồng thời đánh phá
ta rất ác liệt. Ngày 5.3.1969, anh Dương Văn Nghĩa, cán bộ Ban
Kinh tài tỉnh được cử đi đưa thư hỏa tốc từ Ban Kinh tài đến trạm
giao liên tỉnh. Anh hy sinh tại xã Long Phước (huyện Long Thành)
khi băng ngang lộ 15 (quốc lộ 51 ngày nay). Mẹ Sáu Lẹt chỉ biết
tin này sau ngày toàn thắng.
Mẹ Nguyễn Thị Lẹt qua đời năm 1982. Mẹ được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
394/KTCTN ngày 17.12.1994.
219

22.10 Page 220

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Mành
(1925)
Bị bom tiện đứt mấy ngón chân trên
đường đi tiếp tế, năm 1972 má Nguyễn
Thị Mành phải vào bệnh viện Chợ Rẫy
điều trị. Chính vào thời điểm này má nhận
được tin con má hy sinh. Đầu tháng, anh
Hồ Văn Lo ngã xuống trong trận chiến
đấu chống càn tại Tân Tường (Thành Tuy
Hạ). Cuối tháng chị Hồ Phương Trang lại
hy sinh trên đường chuyển đạn tải lương. Ôi! Cùng một lúc, mấy
nỗi đau... Má Hai Mành khóc con khàn cả tiếng. Má thú thật, lúc
đó má chỉ muốn chết cho rồi.
Nhưng như bao bà mẹ anh hùng của làng quê Phú Hội (huyện
Nhơn Trạch), giây phút đau thương rồi cũng qua đi. Khi nỗi đau
tinh thần đã tạm nguôi ngoai, và vết thương thể xác liền da lành
thịt, má Hai Mành lại vững vàng tiếp tục nhiệm vụ của mình.
Mười đứa con của má, chỉ trừ “út gái, út trai còn nhỏ ở nhà,
còn bao nhiêu thì... đi vào rừng hết ráo!” Chính vì vậy mà một lần
giặc mời má Mành đi họp, khi đến ủy ban quận thì chúng áp giải
má ra xe chở luôn về khám. Chúng đe dọa bắn chết các con của má
nếu không “chiêu hồi”. Chúng yêu cầu má gọi các con về, chúng
sẽ khoan hồng và trả tự do cho má. Nén lòng uất hận, má Mành
chậm rãi trả lời:
- Con tui nó lớn hết rồi! Tự nó thích thì nó đi. Tui không
xúi không biểu, nên tui cũng không gọi không kêu. Còn mấy ông
muốn thì cứ tìm tụi nó mà bắn, ai mà cản được mấy ông?...
220

23 Pages 221-230

▲back to top


23.1 Page 221

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đến ngày giải phóng, trên bàn thờ các liệt sĩ ở nhà má Hai
Mành có thêm hình ảnh Trung đội phó C240 Hồ Minh Cảnh. Còn
anh Hai Lực, con trai lớn nhất của má là thương binh, sau này là
Bí thư Đảng ủy xã Phú Hội.
Mang dòng máu yêu nước, cả nhà má Hai Mành đều tham
gia cách mạng. Với má Hai Mành là “chuyện bình thường, ai ở vào
hoàn cảnh của má cũng làm y vậy...”. Giờ đây đất nước yên bình,
các con của má Hai Mành trở về sống quây quần quanh má. Điều
má Hai Mành vui nhất là từ ngày được Nhà nước phong danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994, má được “nhiều con ghé thăm má lắm...”. Những ân
tình này giúp má Hai Mành cảm thấy quãng đời xế bóng thêm vui
và nhiều ý nghĩa.
221

23.2 Page 222

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Nhiều
(1917 - 2007)
Má Nguyễn Thị Nhiều quê ở Giồng
Ông Đông, lấy chồng ở Phước Thiền
(nay thuộc huyện Nhơn Trạch). Má có
một người con với người chồng đầu tiên.
Chồng mất, sau này má chắp nối với một
người cảm thương hoàn cảnh của má. Bốn
đứa con nữa lần lượt ra đời. Rồi người
chồng thứ 2 cũng ra đi, bỏ lại má với năm
đứa con thơ. Cuộc đời của má đầy gian nan vất vả, một tay làm
thuê làm mướn để nuôi năm đứa con đến lúc trưởng thành.
Những người con trai của má lớn lên như những cây cột
vững chãi trong nhà, che chở cho má và em gái. Song, các con trai
của má lần lượt nhập ngũ, bởi làm sao có thể chỉ nghĩ đến hạnh
phúc riêng tư khi quanh mình bà con còn đau khổ. Má vẫn muốn
các anh lấy vợ trước khi nhập ngũ để má có cháu ẵm bồng lúc
tuổi già. Cả bốn người con trai má đều trả lời rằng: các anh không
muốn má thêm vất vả, hòa bình rồi các anh có cháu cho má cũng
không muộn gì.
Nhưng ba người con của má ra đi đều không trở về. Anh
Võ Văn Lượng nhập ngũ tháng 4.1961 khi tròn 21 tuổi, chuẩn úy,
Trung đội phó (Đại đội 240 Long Thành), hy sinh tại Suối Cả năm
1968, không cách nhà bao xa. Sau chiến tranh, bao lần má nhờ
đồng đội cũ của anh tìm mộ mà vẫn bặt vô âm tín. Anh Nguyễn
Văn Khá sinh năm 1942, nhập ngũ ngày 30.5.1963, là thiếu úy,
Trung đội trưởng thuộc đơn vị C1 Long Thành, hy sinh năm 1971.
Người con trai thứ ba của má, anh Nguyễn Văn Dẫu sinh năm
222

23.3 Page 223

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
1947, nhập ngũ năm 18 tuổi. Anh là chiến sĩ bảo vệ của văn phòng
Tuyên huấn Bà Rịa, hy sinh trên đường tải hàng chiến lược cho cơ
quan. Ba người con trai của má ra đi giữa tuổi thanh xuân, dành
trọn cuộc đời cho đất nước, không kịp để lại cho má niềm vui
được ôm vào lòng đứa cháu nội của mình. Người con trai thứ tư,
là con út trong nhà cũng tham gia cách mạng, bị sốt rét ác tính và
mất ở cái tuổi 21 nhiều ước mơ.
Má được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994. 13
năm sau, má qua đời vào ngày 31.8.2007.
223

23.4 Page 224

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Nớt
(1910 - 1992)
Cuộc đời của má Nguyễn Thị Nớt
nhiều gian truân. Khi còn trẻ, nhờ chăm
chỉ và tiết kiệm, má cùng chồng dành
dụm được một gia sản kha khá. Đến năm
31 tuổi, má có niềm hạnh phúc được làm
mẹ, lại là con trai. Tưởng như cuộc sống
gia đình thế là trọn vẹn hạnh phúc. Nào
ngờ, người chồng bỏ má và đứa con thơ
đi tìm hạnh phúc mới, đem theo cả tài sản trong nhà. Má Nguyễn
Thị Nớt như bao nhiêu phụ nữ nông thôn thời ấy phải ngậm đắng
nuốt cay, dằn lòng chịu đựng. Người chồng chính thức sang ở với
người vợ mới. Má một mình, chắt chiu tằn tiện nuôi anh Trần Văn
Lập, người con duy nhất khôn lớn. Rồi anh có vợ, mang đến cho
má niềm vui là một đứa cháu gái kháu khỉnh. Sau đó, anh nhập
ngũ ngày 16.1.1961, khi ấy anh tròn 20 tuổi.
Má được an ủi ít nhiều vì căn nhà cô quạnh của má có thêm
tiếng nói tiếng cười của trẻ thơ và sự chăm lo của người con dâu.
Má và con dâu nhiều lần lên đơn vị thăm con, thăm chồng. Anh
là một chiến sĩ dũng cảm. Trong 5 năm ngắn ngủi phục vụ trong
quân đội, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ giải phóng
hạng Ba, hạng Nhì. Sau này, anh được truy tặng Huân chương
Chiến công hạng Ba. Anh hy sinh ngày 5.5.1966 khi là Tiểu đội
phó (đơn vị Đại đội 240 - Long Thành). Lúc ra đi, có lẽ anh chưa
hề hay biết cô con gái thứ hai của mình vừa chào đời.
Con trai hy sinh, những người thân lo lắng trước sự suy sụp
tinh thần của má. Má đã lên Tam An, An Lợi, nơi đơn vị con đóng
224

23.5 Page 225

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
quân hy vọng tìm được mộ con, song hy vọng ấy của má cũng
không trở thành hiện thực. Không lâu sau, người con dâu đưa 2
đứa con gái về bên ngoại, để lại má sống một mình. Má sống đơn
côi âm thầm như một chiếc bóng trong căn nhà ở xã Hiệp Phước,
nơi mà trước đây má đã từng có một người chồng, một đứa con
trai, một người con dâu và 2 đứa cháu nội xinh xắn. Người anh trai
của má lên ở chung để chăm sóc, trông nom em gái mình. Trước
khi qua đời, ông dặn con trai phải thay ông chăm sóc người cô của
mình. Từ đó hai cô cháu nương tựa nhau cho đến khi má mất vào
ngày 2.2 âm lịch năm 1992.
Má được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
225

23.6 Page 226

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Ớn
(1911 - 1993)
Năm 1995, chúng tôi đến ngôi nhà
mà mẹ Ớn từng sống tại xã Đại Phước
theo sự hướng dẫn của cán bộ địa phương.
Ngôi nhà lá đơn sơ nằm cách con đường
đất đỏ một thửa ruộng nhưng đi thì ngoằn
ngoèo, gấp khúc.
Mẹ Ớn không còn nữa. Mẹ đã ra
đi năm 1993 sau một cơn bệnh kéo dài.
Người cháu nội duy nhất của mẹ là Nguyễn Văn Đầy sống trên
căn nhà mà mẹ đã từng sống bao năm qua.
Cuộc đời mẹ là chuỗi dài cơ cực và lắm nỗi đau riêng. Mẹ Ớn
lớn lên trên quê hương Đại Phước và lập gia đình với một người
cùng quê. Người con trai duy nhất của mẹ ra đời tên Nguyễn Văn
Tròn. Anh sinh ra cũng là lúc cha anh bị Tây bắn chết. Mẹ Ớn làm
lụng, vò võ nuôi con khôn lớn.
Anh Tròn tham gia cách mạng trong những năm tháng nhân
dân kháng chiến chống Mỹ. Anh nhập ngũ vào Đại đội 240 đóng
quân ở Long Thành - Nhơn Trạch. Đây là một trong những đơn vị
chủ lực trên địa bàn này.
Chồng mất, con trai độc nhất tham gia bộ đội, mẹ ở nhà
trông ngóng tin con. Mẹ mong con sẽ là người tốt, lo việc nước
giỏi giang nhưng cũng biết lo việc nhà, để sau này nhà có tông
đường dòng dõi. Anh Tròn đi bộ đội, nay đây mai đó đóng quân
tùy theo tình hình. Hễ cứ mỗi lần đơn vị chuyển đến gần quê hoặc
đi công tác là mẹ hồ hởi thăm con và chờ mong con về.
226

23.7 Page 227

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Một hôm, mẹ có tin mừng. Nghe tin con trai có vợ trong cứ,
có con, mẹ Ớn vui khôn tả. Mẹ lo cho cháu ở trong cứ thiếu thuốc
men, chăm sóc lại làm khó khăn cho cha mẹ nó công tác, mẹ nhắn
con trai đưa cháu về mẹ nuôi.
Khi anh Tròn mang con về, mẹ đón cháu nhưng cũng đầy lo
lắng. Để qua mắt kẻ thù, gia đình yên ấm, con an tâm công tác,
mẹ nuôi cháu nhưng nhờ người xung quanh nhận cháu. Mẹ lại làm
lụng nuôi cháu, hy vọng đất nước thống nhất để cả gia đình sum
họp.
Thế nhưng, tháng 11.1965, con trai mẹ hy sinh. Lòng mẹ đau
như cắt khi nhận được tin. Tại Giồng Ông Đông, ngay trên quê
nhà, con trai mẹ bị địch phục kích giết chết. Địch đem xác ra Cát
Lái, Phước Lương... để dụ người thân ra nhận. Thương con, nén
lòng mình để bảo vệ cho phong trào cách mạng, mẹ âm thầm chịu
đựng. Cuối cùng, địch đem xác anh Tròn chôn ở gần khúc sông
Lòng Tàu. Mẹ ghi nhớ như vậy để sau này có dịp đến tìm mộ, đem
con về ở nhà.
Những năm tháng cuối đời, mẹ hay bệnh luôn. Bao nhiêu
tình thương mẹ dồn hết vào cho cháu nội - hòn máu duy nhất của
con trai mình. Những lần mạnh khỏe nghe nói mẹ đã tìm ra khúc
sông Lòng Tàu, nơi an táng anh Tròn, nhưng nước xoáy vào bờ
đã làm mất dấu, trôi lở mộ của con trai. Hy vọng của mẹ ngày nào
gia đình sum họp bất thành, dù đó chỉ là hài cốt con trai. Ở Đại
Phước, mẹ lại âm thầm nuôi cháu khôn lớn nên người cho đến khi
mẹ qua đời.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
227

23.8 Page 228

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Ba
(1877 - 1952)
Mẹ Nguyễn Thị Ba sinh năm 1877
tại ấp Bến Cộ, xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch. Cả cuộc đời mẹ gắn bó với quê
hương, gia đình, làng xóm, thủy chung
như nhất. Gia đình mẹ thuộc hàng bần
cố nông, không có ruộng đất mà lại đông
con, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng
cho trời để mưu sinh. Lớn lên, mẹ kết hôn
với ông Lê Văn Đó, lớn hơn mẹ 2 tuổi, là người cùng quê, cùng
cảnh nghèo. Vợ chồng chí thú làm ăn, siêng năng lao động, quanh
năm suốt tháng làm thuê làm mướn nhưng vẫn không thoát được
nghèo đói. Mẹ sinh hạ 8 người con, nhưng do nghèo, con bệnh
không tiền thang thuốc chạy chữa nên 4 người con mất từ lúc nhỏ,
chỉ còn lại 2 trai: Lê Văn Sáng (sinh năm 1905), Lê Văn Phải (sinh
năm 1907) và 2 gái (Lê Thị Nhiêu, Lê Thị Triệu).
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công trên quê hương Long
Thành - Nhơn Trạch, 2 người con trai của mẹ Ba hăng hái tham
gia công tác cách mạng. Vợ chồng mẹ càng tích cực làm việc, sản
xuất để các con yên tâm lo việc nước. Cả nước bước vào cuộc
kháng chiến chống Pháp, hai con trai của mẹ Ba - anh Năm Sáng
là Bí thư xã Đại Phước, còn anh Bảy Phải công tác ở Ban Kinh tài
của xã. Tuy công tác tại địa phương nhưng các anh bận rộn đến nỗi
quanh năm biền biệt chẳng thấy tạt về nhà, mẹ không chỉ lo tiếp tế
cho các con và đồng đội mà còn thay con nuôi cháu.
Năm 1947, chi bộ xã Đại Phước đang họp thì quân Pháp bất
ngờ đi càn, ập vào tận nơi và xả súng, ném lựu đạn vào nơi họp.
228

23.9 Page 229

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Bí thư xã Lê Văn Sáng, cán bộ xã Lê Văn Phải và 2 đồng chí khác
trong chi bộ đều hy sinh. Tin dữ về đến nhà, chồng mẹ đau đớn khi
2 con trai cùng hy sinh đi nên ngã quỵ, một năm sau ông qua đời.
Trong vòng một năm chịu 3 cái tang lớn, nhưng mẹ Ba luôn tự nhủ
phải cố gắng vượt qua để chăm lo cho các cháu mồ côi.
Ngày 26.1.1952 (ÂL), mẹ Ba qua đời. Sau ngày đất nước
thống nhất, 2 người con trai dũng cảm của mẹ Ba được công nhận
liệt sĩ (Bằng Tổ quốc ghi công số CL.826cp, CQ.912cp, ngày
19.3.1991. Năm 2018, mẹ Nguyễn Thị Ba được truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 454/QĐ-CTN
ngày 26.3.2018. Hiện cháu nội là Lê Thị Hoa (sinh năm 1945,
con của liệt sĩ Lê Văn Sáng) thờ cúng mẹ tại ấp Bến Cộ, xã Đại
Phước.
229

23.10 Page 230

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Năm
(1914 - 1996)
Mẹ Nguyễn Thị Năm sinh năm 1914
tại ấp Phước Lý, xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch. Trong 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ, người dân xã Đại
Phước một lòng hướng về cách mạng, đi
đầu trong các cuộc đấu tranh chính trị,
đóng góp sức người sức của cho kháng
chiến, góp phần vào thắng lợi của phong
trào đấu tranh ở Long Thành - Nhơn Trạch, trong đó có mẹ Năm.
Hai người con của mẹ Năm đã hy sinh trong kháng chiến.
Đó là liệt sĩ Lê Văn Chuộng (Bằng Tổ quốc ghi công số YM.164c,
ngày 1.8.1977) và liệt sĩ Lê Ngọc Ánh (Bằng Tổ quốc ghi công số
2H.496b, ngày 7.10.1977).
Mẹ Nguyễn Thị Năm qua đời năm 1996. Hiện con gái Lê
Thị Bằng thờ cúng mẹ tại ấp Phước Lý, xã Đại Phước. Mẹ được
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
454/QĐ-CTN ngày 26.3.2018.
230

24 Pages 231-240

▲back to top


24.1 Page 231

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trương Thị Bê
(1930 - 1999)
Mẹ Trương Thị Bê sinh năm 1930
trong một gia đình nông dân nghèo khó
nhưng giàu truyền thống yêu nước tại xã
Đại Phước, huyện Nhơn Trạch. Đến tuổi
lập gia đình, mẹ kết hôn với ông Mai Văn
Trét (còn có tên là Mai Văn Hai), một
thanh niên cùng tuổi và cũng cùng quê.
Vợ chồng mẹ có 4 người con (2 trai, 2
gái) là: Mai Văn Lẹ (1950), Mai Văn Mên (1952), Mai Thị Dung
(1954) và Mai Thị Nhỏ (1956).
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông Trét chồng mẹ và 3 người
con lớn đều tham gia cách mạng. Từ đó, mẹ làm lụng được bao
nhiêu đều dành dụm để tiếp tế cho chồng, con cùng đồng đội, đó
là niềm vui của mẹ. Con trai lớn Mai Văn Lẹ là Xã đội trưởng xã
Phú Hữu, hy sinh năm 1968 ở khu vực sông Ông Kèo trong khi vợ
đang mang thai, chưa được biết mặt con. Con trai Mai Văn Mên
hy sinh trong trận đánh sân bay Biên Hòa năm 1968, không tìm
được xác. Con gái Mai Thị Dung là chiến sĩ Đội cối C240 cũng hy
sinh năm 1968 cùng với 8 đồng đội khác tại xã Phú Hội do trúng
mìn của địch gài. Chỉ trong vòng 1 năm, mẹ Bê mất đi 3 người
con, tang tóc chồng tang tóc, nỗi đau đắp nỗi đau. Đã vậy, bọn
địch ở địa phương còn liên tục chèn ép, gây khó dễ, hoạnh họe bắt
mẹ do biết mẹ có người thân theo cách mạng. Cuộc sống quá khó
khăn, mẹ Bê phải đưa con gái út là Mai Thị Nhỏ qua bên kia sông,
sống ở khu vực Cát Lái.
231

24.2 Page 232

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh nổ ra, quân giải phóng
tiến quân thần tốc về hướng Sài Gòn, quân dân Nhơn Trạch tích
cực chuẩn bị công tác hậu cần, phối hợp bộ đội chính quy tiến
công đánh địch. Mẹ Bê lòng mừng khấp khởi, mong quê nhà mau
giải phóng thì tin dữ bay về: ông Mai Văn Trét trên đường tải đạn
tại xã Bình Sơn (huyện Long Thành) thì bị địch phục kích, hy sinh
cùng với 28 đồng đội khác, lúc đó là tháng 3.1975, thắng lợi đã
cận kề...
Sau ngày đất nước thống nhất, chồng và 3 con của mẹ Bê
được công nhận liệt sĩ, trong đó liệt sĩ Mai Văn Trét có Bằng Tổ
quốc ghi công theo Nghị quyết số 574-KT/HĐNN, sổ vàng số 540
ngày 23.11.1984 do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh
ký; liệt sĩ Mai Thị Dung sổ vàng số 2107 ngày 23.11.1984 do Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh ký.
Mẹ Trương Thị Bê được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 522/KT-CTN ngày 22.8.1995.
4 năm sau, mẹ qua đời. Hiện con gái Mai Thị Nhỏ thờ cúng mẹ
tại Thạnh Mỹ Lợi, phường Cát Lái, Quận 2, Thành phố Hồ Chí
Minh.
232

24.3 Page 233

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Phương
(1922 - 2013)
Chồng mẹ Nguyễn Thị Phương (quê
ở xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch) mất từ
lúc người con trai duy nhất của mẹ - anh
Lý Văn Sang chỉ mới được 10 tuổi. Sức
yếu, gắn với ruộng vườn không nổi, mẹ
tập tành buôn bán nuôi con. Thời gian đi
qua như gió, thoắt cái, anh Sang đã bước
vào “tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Rồi một
ngày mẹ đi bán trở về và nhận được tin “thằng Sang vô rừng theo
cách mạng”.
Ngày ngày mẹ đều trông tin con. Hễ được tin giao liên báo
là mẹ vào ngay Xóm Hố, anh Sang và đồng đội đợi mẹ ở đó. Nào
thuốc rê, gạo, tương, mắm, muối... mẹ nén đầy ba lô cho các con.
Mẹ dặn anh Sang: “Nhớ bắn là phải trúng nha con”.
Mẹ bị giặc bắt đánh đập, tra tấn, “đổ xà bông” mấy lần vì tội
“cho con theo quân giải phóng”. Không khai thác được gì ở mẹ,
chúng thả mẹ ra. Mẹ lại gồng gánh đi khắp nẻo đường quê, chắt
mót từng đồng “cho thằng Sang đánh giặc”.
Đầu năm 1966, suốt 3 tháng liền bặt tin con, mẹ Phương đi
tìm con khắp nơi. Cán bộ cách mạng nói với mẹ là “thằng Sang
đi đánh giặc xa”. Mẹ không tin, mẹ nghĩ anh Sang bị giặc bắt. Lại
quảy gánh lên vai, mẹ đi tìm con khắp các khám: Chí Hòa, Tân
Hiệp, Phú Lợi... mà con vẫn biền biệt. Có đêm nằm mơ, mẹ thấy
anh Sang cười: “Tìm con làm gì mất công, mai mốt con về với
má”. Mẹ lại nước mắt vắn dài. Không giấu được mẹ, đồng đội của
anh mới cho mẹ biết là anh Sang đã hy sinh trong một trận chống
233

24.4 Page 234

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
càn ở vùng ven Sài Gòn. Mẹ về nhà lập bàn thờ, bày những món
anh Sang thích ra: chuối khô, bánh tổ...
Mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 438/KTCTN ngày 24.4.1995.
Mẹ qua đời ngày 13.5.2013.
234

24.5 Page 235

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Sang
(1917 - 2002)
Quê má Nguyễn Thị Sang ở Cần
Giuộc, Long An. Tuổi đôi mươi, má rời
gia đình lên Nhơn Trạch gặt thuê, rồi ở
lại làm dâu ở đây. Hai vợ chồng trẻ ngay
từ những ngày đầu kháng chiến chống
Pháp đã trở thành cơ sở cách mạng. Hồi
trận lụt năm Thìn 1952, thời điểm khó
khăn của cách mạng, hai vợ chồng má
phải nằm rừng Long Phước, ăn chuối cây suốt 12 ngày. Sau đó,
hai người lại về Cần Giuộc móc nối mua lúa gạo cho bộ đội.
Năm 1954 đình chiến, cả gia đình trở lại Phước Thiền (huyện
Nhơn Trạch). Lúc ấy, má đã có 3 người con. Những năm đánh Mỹ,
má là người chuyên tổ chức mua đèn pin, dây điện, thuốc Tây cho
bộ đội. Bộ đội cần bất cứ thứ gì má cũng bằng mọi cách tìm cho
ra. Các anh bộ đội từng đóng quân ở Nhơn Trạch ngày ấy giờ còn
nhắc: má làm đủ thứ việc, nào tiếp tế, tải thương, nào chăm sóc
thương binh, chẳng việc gì má ngại...
Sau những cuộc biểu tình do phụ nữ huyện tổ chức, má bị
bắt tại quận Nhơn Trạch, bị đánh đập rồi sau đó đưa đi giam cầm
ở khám Biên Hòa. Không khai thác được gì ở má và đồng thời,
má cũng được một số đồng chí hoạt động “2 mang” hồi ấy giúp
đỡ nên địch buộc phải thả má. Những năm tháng gian nan ấy, má
cũng không dám tin là mình còn sống được đến ngày hòa bình.
Chồng má - ông Nguyễn Văn Lai - đã từng trúng pháo địch bị
thương trong khi đi làm đồng. Các con tham gia cách mạng, 3
người hy sinh. Người con cả Nguyễn Văn Điền, sinh năm 1938,
235

24.6 Page 236

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
nhập ngũ năm 1960, Xã đội trưởng xã Phước Nguyên, hy sinh
ngày 13.6.1964 trong một trận chống càn ở ấp Long Điền. Anh
Nguyễn Văn Phước, sinh năm 1944, nhập ngũ ngày 7.7.1967 Xã
đội phó xã Phước Thiền hy sinh ngày 23.9.1967 trong khi cùng
đơn vị phối hợp với lực lượng du kích xã Phước Kiển đột kích vào
ấp đánh địch. Anh Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1951, nhập ngũ
ngày 6.4.1971, cũng là Xã đội phó xã Phước Thiền, hy sinh ngày
3.6.1974 trong trận đánh đoàn xe quân sự tại xã Phước Thiền. Cả
3 người con của má Nguyễn Thị Sang đều hy sinh trên mảnh đất
Nhơn Trạch, nơi hy sinh rất gần nhà. Song cho đến lúc qua đời, má
vẫn ngậm ngùi vì không tìm được mộ của các anh.
Má nghỉ hưu năm 1983, song vẫn tham gia hoạt động xã hội
ở địa phương cho đến khi qua đời vào ngày 18.4.2002. Má được
Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
236

24.7 Page 237

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Thế
(1899 - 1983)
Mẹ Nguyễn Thị Thế và người con
gái của mẹ là Trần Thị Thiệt, cả hai đều
là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Mẹ Nguyễn Thị Thế có chồng là ông
Trần Văn Cội hy sinh trong kháng chiến
chống Pháp. Bằng Tổ quốc ghi công ghi
chức vụ của ông là Trưởng ban Mặt trận
xã Phú Hội.
Hai người con liệt sĩ của mẹ là Trần Thanh Tùng (hy sinh
năm 1947) và Trần Thị Thiệt (hy sinh năm 1965). Liệt sĩ Trần
Thanh Tùng có hai người con gái. Liệt sĩ Trần Thị Thiệt có 4
người con, trong đó người con thứ hai Trần Thị Thanh Giang là
đội viên Đoàn văn công tỉnh, hy sinh ở Bà Rịa ngày 16.1.1971,
và người con út Trần Văn Năm, du kích xã Phú Hội, hy sinh ngày
5.6.1972.
Anh Trần Văn Sanh, người gọi Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
Nguyễn Thị Thế là bà ngoại đã giới thiệu với tôi về gia đình mẹ
Thế như vậy. Trong ký ức về mẹ Thế, anh Sanh kể lại: “Ngoại là
người sống nặng về tình cảm, tính tình dễ chịu. Hai thời kỳ chiến
tranh, nhà của ngoại đều là cơ sở cách mạng. Vườn nhà ngoại khá
rộng, trong vườn có nhiều hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ. Đến năm
1965, địch tập trung đánh phá ác liệt, cơ sở mới chuyển dời đi nơi
khác. Cũng năm này, mẹ tôi hy sinh. Hồi còn sống, ngoại luôn
mong ước đất nước sớm thanh bình, con cháu đoàn tụ. Nhưng,
chưa đến ngày độc lập, con cháu nhiều người hy sinh quá. Sau
ngày giải phóng, ngoại già không làm được gì, tôi làm phụ giúp,
237

24.8 Page 238

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
chăm sóc cho ngoại. Rồi tuổi già, ngoại mất năm ngoại 84 tuổi
(1983)”.
Mẹ Thế được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng cùng lượt với con mình vào đợt đầu tiên theo Quyết
định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
238

24.9 Page 239

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Thiếp
(1921 - 1953)
Mẹ Nguyễn Thị Thiếp sinh năm
Tân Dậu (1921), quê quán ở xã Phú Hội,
quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa cũ (nay
là huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai)
trong một gia đình làm ruộng. Năm 1940,
mẹ lấy chồng là người cùng xã. Gia đình
nhà chồng tương đối khá giả, nên đời mẹ
lúc đó đỡ phần vất vả.
Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, nhân dân Phú Hội cùng nhân dân cả nước mừng vui
đón chào nền độc lập mới mẻ, thoát ách thống trị của thực dân
phong kiến. Mẹ Thiếp thì vui gấp bội, ngoài cái nao nức chung
của toàn dân, mẹ còn sung sướng vì sinh được một con trai cho gia
đình chồng. Ông Lương Văn Thêm - chồng mẹ - hăng say tham
gia mọi công tác của xã, không phải lo miếng cơm manh áo hàng
ngày cho bản thân và vợ con như nhiều người khác trong xã. Dốc
lòng vào mọi việc chung, dần dần ông được tín nhiệm của cấp
trên, trở thành Phó ban Kinh tài huyện Long Thành.
Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, chúng
kéo quân về đóng bót Phú Hội vào một ngày đầu năm 1946. Trong
lúc chồng lo công tác thì mẹ Thiếp phải lo nhiều bề: lo làm ăn, lo
chạy giặc, lo đóng góp ủng hộ kháng chiến... Nhiều lần mẹ phải
bồng bế đứa con còn măng sữa theo bà con chạy càn dưới làn đạn
giặc. Những khi chồng ghé qua nhà, mẹ đều mua cho ông một số
thứ cần thiết, đưa cho ông gạo, tiền xài... Một thời gian sau, ông
chuyển qua Ban Sưu tầm và mua nguyên vật liệu cho công binh
239

24.10 Page 240

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
xưởng, rồi lên Chiến khu Đ. Địch dò biết gia đình mẹ có người đi
kháng chiến, đã đốt nhà mẹ.
Một thân một mình vất vả làm ăn nuôi con, mẹ lâm bệnh
nặng. Do thiếu thuốc men, mẹ qua đời năm 1953 khi mới ngoài 30
tuổi, để lại con trai Lương Văn Lên mới bắt đầu cắp sách đi học.
Ông Thêm vì bệnh nặng, ở Chiến khu Đ không có điều kiện chữa
chạy, đã về quê Phú Hội. Vừa lành bệnh, ông bị địch bắt lính. Cán
bộ ta kịp thời móc nối, yêu cầu ông giúp đỡ kháng chiến và không
được làm điều gì có hại cho nhân dân, cho cách mạng. Chấp hành
đúng sự chỉ đạo, ông Thêm nhiều lần lấy đạn địch gửi ra cho du
kích xã. Thời gian đi lính bất đắc dĩ ấy chỉ kéo dài khoảng một
năm thì chấm dứt. Hiệp định Genève vào tháng 7.1954 được ký
kết, hòa bình tạm thời lập lại trên đất Phú Hội cũng như ở một số
địa phương khác miền Nam.
Sáu năm liền, từ tháng 7.1954 đến giữa năm 1960, phong
trào cách mạng ở huyện Long Thành cũng như ở xã Phú Hội đầy
những thăng trầm. Có lúc diễn ra sôi nổi những cuộc đấu tranh
đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền đất nước, hàng
trăm đồng bào kéo lên quận trực diện trao kiến nghị. Nhưng do
địch dồn toàn lực thực hiện chiến lược chiến tranh một phía, mở
các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, lại thêm một số kẻ đầu hàng
phản bội giúp địch đánh phá khiến cho đến năm 1959 hầu hết các
chi bộ xã bị phá vỡ, nhiều cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng
bị chúng bắt giam, bắn giết. .
Năm 1962, vừa 17 tuổi, Lương Văn Lên được cán bộ xã và
huyện giáo dục, đã tham gia đội du kích xã. Địch gom dân lập ấp
chiến lược. Chúng đốt nhiều nhà dân, trong đó có nhà của anh
Lên, bắt bà con ra sống gần bót hoặc ra ven lộ 17 để dễ bề kiểm
soát, mặt khác thực hiện âm mưu “tát nước bắt cá”. Căm thù giặc,
240

25 Pages 241-250

▲back to top


25.1 Page 241

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
anh sát cánh cùng đồng đội kiên cường bám trụ liên tục tiến công
địch. Ngày 18.4.1964, anh cùng hai đồng đội đi giao liên, chuyển
thư từ và tài liệu thì lọt ổ phục kích của bọn biệt kích ở Bàu Điều
vùng Lòng Chảo Nhơn Trạch. Các anh ngã xuống đúng mùa sầu
riêng thơm ngát, được các đồng chí an táng chu đáo (nhưng sau đó
địch ủi phá địa hình làm các ngôi mộ này mất tích).
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 438/KTCTN ngày 24.4.1995.
241

25.2 Page 242

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Viết
(1895 - 1952)
Xã Phước Thọ, tổng Thành Tuy
Thượng, quận Long Thành, tỉnh Biên
Hòa cũ (nay nhập với Phước Long thành
xã mới Long Thọ, huyện Nhơn Trạch,
Đồng Nai) là một trong những làng quê
nghèo của tỉnh. Ruộng không nhiều, đất
cát kém màu mỡ, cày bừa nhẹ nhưng dễ
bị nén chặt cổ rễ làm lúa và hoa màu kém
phát triển; nhiều vườn thấp chịu ảnh hưởng thủy triều hàng ngày
từ sông Thị Vải truyền vào. Mùa khô, chất phèn mặn ảnh hưởng
lớn tới cây trồng. Đây là nơi chôn nhau cắt rốn và sống đến mãn
đời của mẹ Nguyễn Thị Viết (sinh năm Ất Mùi 1895). Giống như
mẹ, chồng mẹ là ông Trần Văn Nhiều, cũng là bần nông mấy đời
sống với ruộng vườn và nghề hạ bạc (đánh và câu tôm cá) trên
sông Thị Vải. Mẹ sinh hạ cả thảy mười người con, nhưng ba người
chết lúc còn nhỏ, sống đến tuổi trưởng thành còn được bảy người
(năm trai, hai gái).
Thời chín năm kháng chiến chống Pháp, các con còn thơ dại
nên vợ chồng mẹ phải quần quật làm mới đủ nuôi sắp nhỏ. Xã
Phước Thọ ít ruộng nên Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành
chánh huyện Long Thành có chủ trương vận động nhân dân đi
làm lúa ở xã Phú Hữu để có lương thực tự cấp tự túc và đóng góp
một phần cho kháng chiến. Ngày 5.12.1949, chồng mẹ là Trần
Văn Nhiều đi gặt ở Phú Hữu thì bị lính Pháp đi càn phá hoại mùa
màng bắn chết. Đó là cái tang quá to lớn đối với mẹ Nguyễn Thị
Viết. Vì đàn con nhỏ mẹ ráng vượt qua đau thương, tiếp tục làm
ăn nuôi bày con thơ dại. Nhưng do thiếu thốn và bệnh tật, mẹ đi
242

25.3 Page 243

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
theo chồng về thế giới bên kia năm 1952. Bảy người con của mẹ
trở thành mồ côi, phải đùm túm tự bươn chải mà sống.
Đến thời chống Mỹ, các con của mẹ trưởng thành dần, một
số lấy chồng lấy vợ. Từ năm 1950 đến 1960, phong trào cách
mạng ở xã Phước Thọ cũng như toàn huyện Long Thành (cũ) phát
triển không đều. Những cuộc diệt ác lẻ tẻ và những cuộc đấu tra-
nh chính trị đòi chính quyền Sài Gòn phải tôn trọng Hiệp định
Genève, không được khủng bố, trả thù người kháng chiến cũ, hiệp
thương tiến tới tổng tuyển cử hòa bình thống nhất nước nhà...
dấy lên sôi nổi cho đến năm 1956 - 1957 thì bị địch tập trung mọi
lực lượng quân sự, cảnh sát, mật vụ, chỉ điểm đàn áp dã man qua
nhiều đợt tố cộng, diệt cộng. Hà Tư - Bí thư Huyện ủy - đầu hàng
giặc, dẫn lính đánh phá hầu hết các chi bộ và cơ sở quần chúng
trong huyện. Phong trào tạm lắng vào năm 1959. Nhưng tới tháng
3.1960, Nghị quyết Trung ương 15 được đồng chí Ba Đắc triển
khai ở Long Thành, bắt đầu cao trào Đồng khởi ở địa phương. Một
số cán bộ và cơ sở còn lại được ráp nối, phong trào hồi phục và có
bước phát triển mới.
Anh Năm Bích (Trần Văn Bích) là người con đầu tiên của
mẹ Viết thoát ly tham gia cách mạng năm 1960. Tiếp đó, năm
1961 anh Bảy Trung (Trần Văn Trung) được móc nối, đi bộ đội
trinh sát của R. Năm 1962, khi địch bắt đầu gom dân lập ấp chiến
lược ở Phước Thọ thì anh Sáu Hạnh (Trần Văn Hạnh) lại vào rừng,
tham gia công tác phong trào địa phương, làm kinh tài xã, rồi kinh
tài huyện Nhơn Trạch, tiếp đến trở thành Bí thư chi bộ xã Phước
Lai (nay là Hiệp Phước). Anh Tám Nếu (Trần Văn Nếu, tức Trí)
mới 17 tuổi, không chịu cảnh cá chậu chim lồng và địch hoạnh
họe vì các anh ruột theo Việt Cộng, đã bỏ ấp Bàu Nâu theo các
anh gia nhập du kích rồi trở thành cán bộ phong trào thanh niên
243

25.4 Page 244

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
xã từ tháng 8.1963. Em Trần Văn Út (tức Tài) là du kích xã tháng
2.1964 lúc mới 14 tuổi. Như vậy chỉ gần bốn năm, năm con trai
của mẹ Viết đều đứng trong hàng ngũ cách mạng.
Sáng 23.10.1965, tổ du kích của Út được giao nhiệm vụ trinh
sát mở đường từ căn cứ trở ra dân. Anh em lọt ổ phục kích của
địch hy sinh toàn bộ ba người.
Từ một du kích, anh Năm Bích trở thành Trưởng ban An
ninh xã Phước Thọ. Nhiều lần anh từ căn cứ ở ven sông rạch đột
về các ấp công tác. Đêm 13.6.1967, anh cùng đồng đội về xã diệt
ác phá kìm, khi trở ra thì bị pháo địch dập, hy sinh ngay trên quê
hương.
Chiến tranh ngày càng ác liệt trên đất Phước Thọ, nhưng
lực lượng địa phương vẫn bám trụ công tác và chiến đấu. Đêm
19.10.1970, ba cán bộ xã - trong đó có Bí thư chi bộ xã đột về móc
nối với cơ sở thì lọt ổ phục kích của địch. Đêm 20.10.1970, anh
Tám Nếu (Trần Văn Nếu) - cán bộ thanh niên xã - cùng hai đồng
đội được cử vào ấp Cai Vạn nắm tin tức số đồng đội mất tích đêm
trước. Các anh gặp anh Chín Tấn (Huỳnh Minh Tấn) ở cạnh nhà
cha của chị Hồng Hoa, biết hai anh kia đã hy sinh chỉ còn sót Chín
Tấn. Trên đường trở ra, các anh lọt ổ phục kích địch, Tám Nếu hy
sinh ở gần nhà Năm Nghĩa (Phước Long). Đây là người con - liệt
sĩ thứ ba của mẹ Nguyễn Thị Viết.
Anh Sáu Hạnh và anh Bảy Trung tham gia cách mạng tới
ngày toàn thắng mới trở về quê sinh sống.
Mẹ Nguyễn Thị Viết được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 814/KTCTN ngày
24.4.1995.
244

25.5 Page 245

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Bánh
(1923)
Từ ngày 23.7.2018, đoạn đường
dài hơn 50 mét vào nhà bà mẹ Việt Nam
Anh hùng Phạm Thị Bánh ở ấp 5, xã
Hiệp Phước (nay là khu phố Phước Hiệp,
thị trấn Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch)
đã được đổ bê tông khang trang, sạch sẽ.
Không những thế, nhà mẹ Bánh và bà
con quanh đó khi đi lại vào ban đêm cũng
đã có đèn đường soi sáng, không phải lo vấp ngã hay tối tăm như
trước kia.
Niềm vui này là do Đảng ủy xã Hiệp Phước vừa tổ chức làm
công tác dân vận, huy động lực lượng dân quân tự vệ, đoàn thanh
niên cùng đông đảo nhân dân địa phương nhiệt tình hưởng ứng
việc trải bê tông và gắn đèn đường vào nhà mẹ Bánh. Chỉ trong
một ngày, đoạn đường vào nhà mẹ Bánh đã được trải bê tông và
mắc 5 bóng đèn đường với tổng kinh phí thực hiện 18 triệu đồng,
trích từ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa của xã.
Cảm động trước sự quan tâm của chính quyền địa phương,
ông Phan Văn Quýt, người con trai đang trực tiếp nuôi dưỡng Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng Phạm Thị Bánh, chia sẻ: “Nhiều năm nay,
gia đình tôi rất mong muốn đổ bê tông đoạn đường vào nhà để đi
lại cho sạch sẽ, thuận lợi nhưng chưa làm được. Nay được chính
quyền địa phương đổ bê tông cho con đường vào nhà, gia đình tôi
và bà con lối xóm mừng lắm”. Trong ngôi nhà nhỏ, mẹ Phạm Thị
Bánh tuy sức khỏe đã giảm sút nhiều nhưng cũng không giấu nổi
niềm hạnh phúc.
245

25.6 Page 246

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Mẹ Bánh có 2 người con trai là liệt sĩ. Đó là liệt sĩ Trần Minh
Đức (sinh năm 1943, con nuôi của mẹ Bánh, tham gia du kích tại
địa phương, giữ chức Xã đội phó xã Phước Lai, hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 22.12.1962); liệt sĩ Phan
Thành Châu (sinh năm 1959, tham gia chiến đấu tại chiến trường
Campuchia, hy sinh ngày 7.5.1979).
Không chỉ lặng lẽ tiễn các con lên đường theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc lúc lâm nguy, mẹ Bánh cùng chồng là
Phan Văn Để cũng tích cực tham gia cách mạng tại địa phương
từ rất sớm. Từ năm 1954 đến 1974, mẹ Bánh là người trực tiếp
tiếp tế tiền, lương thực, thuốc men cho lực lượng du kích bộ đội
địa phương và bộ đội C240. Năm 1965, chồng mẹ Bánh - ông
Phan Văn Để - cũng hy sinh do bị địch bắt, tù đày và tra tấn dã
man. Mẹ Bánh được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba
(theo Quyết định số 18-KT/HĐNN ngày 25.8.1987). Năm 2014,
mẹ Bánh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ/CTN ngày 26.9.2014 do
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký.
246

25.7 Page 247

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phan Thị Ớn
(1912 - 1970)
Đến ấp Xóm Hố, xã Phú Hội, nhắc
đến mẹ Phan Thị Ớn, những người lớn
tuổi đều biết về một hành động chiến đấu
anh hùng và đã hy sinh rất ngoan cường
của mẹ. Mẹ sinh năm 1912 tại xã Phú
Hội anh hùng.
Nhà của mẹ là cơ sở cách mạng của
xã. Trong vườn nhà có nhiều hầm bí mật;
nằm giáp với triền rừng là căn cứ cách mạng của xã nên anh em bộ
đội, du kích thường hay đi về. Mẹ nghèo khổ nhưng lòng mẹ bao
dung, một mực thương yêu và lo lắng nhiều đến các con đi theo
cách mạng chiến đấu gian khổ, hiểm nguy. Giao ước của mẹ với
anh em bộ đội, du kích là: hễ không có lính mẹ giựt thùng đuổi két,
các con có thể về. Còn mẹ im là biết có lính đi càn... Hôm đó, vào
một ngày của năm 1970, như thường lệ, sáng sớm có một toán lính
đi vào triền rừng, sau một hồi càn quét, bắn phá, bọn chúng kéo về
song chỉ có phân nửa, phân nửa còn lại, chúng nằm ém quân trên
ấy. Mẹ cứ ngỡ chúng kéo về hết, nên giựt thùng đuổi két... Nào
ngờ, một số anh em cơ sở lục tục kéo về thì mẹ phát hiện bọn lính
hãy còn ẩn nấp. Nguy hiểm quá, làm sao bây giờ? Không kịp nữa
rồi! Mẹ đã ứng xử kịp thời và gan dạ bằng cách liều mình xông
ra cản đường và hô lớn... Nhờ hành động quả cảm của mẹ mà anh
em bộ đội, du kích hôm đó bảo toàn được lực lượng. Còn mẹ, bọn
chúng trả thù bằng một loạt đạn bắn thẳng vào người mẹ. Mẹ mất
mà một viên đạn M79 chưa kịp nổ vẫn còn nằm ngay trong người.
Năm đó, mẹ 58 tuổi. Mộ của mẹ chôn sơ sài. Sau giải phóng các
con mới bốc mộ về an táng ngay trong vườn nhà.
247

25.8 Page 248

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Chị Phan Thị Hường người con gái thứ 3 của mẹ, cũng có
con là liệt sĩ, hiện đang sống trong ngôi nhà đơn sơ, nhỏ bé, được
cất trên nền nhà xưa của mẹ, hồi tưởng lại: “Mẹ có tướng tốt, tính
tình hoạt bát vui vẻ và thông minh. Để giúp đỡ cách mạng, thường
ngày mẹ hay đi lượm mo cau, cọng tàu đem về bó chổi, song mục
đích chính là theo dõi tình hình địch để thông tin cho cách mạng.
Chồng chết, để lại cho mẹ đến 6 người con. Ba người con gái hiện
thời còn sống, nhưng ba người con trai thì đã hy sinh hết hai. Anh
Phan Văn Tâm năm 17, 18 tuổi đã đi bộ đội, ở Tiểu đoàn 2, Khu 4,
đánh trận Vạn Kiếp (Bà Rịa), hy sinh ngày mồng 2 Tết năm 1968,
năm ấy anh 24 tuổi. Người kế là Phan Văn Châu đi bộ đội C240
của tỉnh Biên Hòa. Sau vì bệnh, anh xin về thăm gia đình, dưỡng
bệnh. Anh nằm dưới hầm bí mật, bọn lính đi càn phát hiện. Chúng
gọi lên, anh Châu không lên, chúng liệng trái xuống hầm, anh hy
sinh. Sau giải phóng, mộ anh Châu được quy tập về nghĩa trang
liệt sĩ tỉnh, còn mộ anh Tâm đến nay vẫn tìm chưa ra.
Mẹ Phan Thị Ớn được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
248

25.9 Page 249

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Mười
(1919 - 2004)
Mẹ Nguyễn Thị Mười, sinh năm
1919 tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai, mất năm 2004. Hiện nay,
con của mẹ là bà Đào Thị Quốc, cư trú tại
khu Phước Thuận, thị trấn Long Thành,
huyện Long Thành đang thờ cúng mẹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, gia đình của mẹ là cơ sở tiếp tế cho
cán bộ cách mạng. Mẹ có hai thân nhân là liệt sĩ: chồng của mẹ là
liệt sĩ Đào Mỹ Đền, sinh năm 1913, hy sinh năm 1973; con là liệt
sĩ Đào Văn Tới, sinh năm 1945, hy sinh năm 1968.
Mẹ Nguyễn Thị Mười đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
249

25.10 Page 250

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Phàn
(1905 - 1993)
Trong danh sách các Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng ở Đồng Nai, mẹ Phan Thị
Phàn là người có nhiều con hy sinh nhất.
Trong căn nhà mà mẹ đã sống những
ngày tháng cuối cùng của cuộc đời tại
xã Phước An huyện Nhơn Trạch, có đến
7 tấm bằng Tổ quốc ghi công của chồng
mẹ và sáu người con trai. Bảy liệt sĩ, bảy
người yêu thương nhất của mẹ đã vĩnh viễn ở lại trong cuộc chiến,
bỏ mẹ bơ vơ với đứa cháu nội duy nhất và người con dâu khi hòa
bình trở về. Rồi đến lượt mẹ cũng đi gặp các anh. Mẹ qua đời năm
1993.
Mẹ Phàn sinh ra trong một gia đình nông dân giàu truyền
thống cách mạng ở xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng, mảnh đất “trung dũng kiên cường, đi đầu diệt
Mỹ”. Người con trai cả, anh Nguyễn Văn Phàn thoát ly từ lúc
Cách mạng tháng Tám thành công, rồi ngã xuống trước ngày ký
Hiệp định Genève 1 năm (1953). Người con thứ hai cũng tiếp tục
nằm lại mảnh đất quê hương một năm sau đó: liệt sĩ Nguyễn Mốc
giữ chức vụ Xã đội trưởng Điện Hòa, hy sinh tháng 8.1954 khi
đang tổ chức phân công gỡ mìn đem về cải tiến đánh địch.
Rồi các anh: Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Xí, Nguyễn Văn
Thành cũng lần lượt ngã xuống. Người ra đi sau cùng là liệt sĩ
Nguyễn Tình, người con thứ 3 của mẹ (ở miền Trung gọi là con
thứ tư do kêu anh Cả bằng anh Hai). Anh Tình hy sinh trong lúc
làm nhiệm vụ trinh sát trước ngày giải phóng Đà Nẵng (29.3.1975)
chưa đầy 4 tháng!
250

26 Pages 251-260

▲back to top


26.1 Page 251

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Sáu người con của mẹ Phàn ra đi, chỉ có mỗi mình liệt sĩ
Nguyễn Văn Sanh còn để lại cho mẹ một giọt máu. Người cháu
nội duy nhất của mẹ Phàn là bác sĩ Nguyễn Quang Vinh, công tác
tại trạm xá khu vực Đại Phước, huyện Nhơn Trạch. Anh kể nhiều
kỷ niệm về bà nội anh hùng của mình: “Lúc nhỏ, nội thường bỏ
tôi trong một cái mủng (cái thúng) rồi gánh tôi đi làm, hoặc đi trú
đạn và thậm chí đi đấu tranh chính trị với bà. Tôi chọn học y khoa
cũng chỉ với ước mong sau này chữa bệnh cho nội. Nhưng...”. Bà
Thái Thị Thanh, mẹ của bác sĩ Vinh và là con dâu duy nhất của mẹ
Phàn kể lại: “Mẹ chồng tôi ngày xưa đấu tranh giỏi lắm. Bả nhập
đồn, nhập bót, nhập thị... khéo léo và dũng cảm. Tổ chức yêu cầu
là bả đi ngay, chỉ cần vác trên vai cây gậy là đi. Tôi đi làm cách
mạng suốt bao nhiêu năm chiến tranh, thằng Vinh một tay bả trông
nom. Hai mẹ con sống với nhau còn ít hơn hai bà cháu. Từ khi làm
dâu, tôi sống với mẹ tôi miết cho tới khi bả mất. Hơn 34 năm trời,
kỷ niệm về mẹ tôi làm sao kể hết được...”
Vùng quê mẹ Phàn nghèo lắm, đất cằn chỗ trũng làm lúa,
chỗ gò trồng khoai lang, sắn (khoai mì)... Thời chiến tranh, quê
mẹ Phàn là vùng trắng, vùng không dân. Mẹ quyết tâm bám trụ
mặc bao khó khăn vây bủa. Mìn ba càng, mìn claymore, đạn pháo
từ những căn cứ dày đặc dọc Vĩnh Điện ra Đà Nẵng... ranh giới
giữa cái chết và cái sống như đường tơ kẽ tóc. Cái đói, cái nghèo
không khuất phục được mẹ. Đi mót khoai, mót lúa, mót củi về
bán, đi chợ cho anh em du kích, nuôi cháu nội thay dâu, khổ cực
trăm bề... mẹ vẫn cắn răng chịu đựng. Có một điều chính người
con dâu mẹ cũng lấy làm lạ. Đó là khi nghe tin các người con
lần lượt hy sinh, mẹ không khóc. Mẹ chỉ im lặng trút ra câu nói
đầu môi: “Hết Mỹ mới hết chết; còn Mỹ, còn chết nữa”. Bấy giờ,
mẹ không dám để tang con mình, nuốt nước mắt đau thương vào
trong để đối mặt với kẻ thù từng ngày.
251

26.2 Page 252

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Sau ngày giải phóng mẹ vẫn còn mạnh khoẻ, đi làm hợp tác
xã, sau khi anh Vinh tốt nghiệp y khoa Huế, mẹ Phàn theo anh vào
Phước An sống với cháu. Mẹ sinh ra trên mảnh đất anh hùng của
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và nằm xuống cũng trên mảnh đất anh
hùng của tỉnh Đồng Nai. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
252

26.3 Page 253

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phan Thị Thiệt
(1923 - 1973)
Mẹ Phan Thị Thiệt sinh năm Ất
Sửu 1923 trong một gia đình nông dân
nghèo ở ấp Vọng Đông, làng Phú Hữu,
tổng Thành Tuy Hạ, quận Long Thành,
tỉnh Biên Hòa cũ (nay là xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai). Mẹ lấy
chồng là ông Trần Văn Sổ, cũng là một
bần nông và khi ra ở riêng, hai người chỉ
có vài công ruộng một vụ nên phải làm mướn mới đủ nuôi thân.
Đôi vợ chồng trẻ dựng chiếc chòi lá nhỏ xíu trên đất người ta suốt
hơn nửa thế kỷ; thay nhiều lần cây và lá nhưng chiếc chòi chỉ đủ
chỗ cho ba người dung thân. Mẹ sinh hạ một con trai là Trần Văn
Sách vào năm 1940.
Ông Năm Sổ cả đời quần quật lam lũ đánh vật với mấy công
ruộng rồi đi làm mướn nên không có điều kiện tham gia việc xã
hội. Mẹ Thiệt phần lo nuôi con, phần lo chạy giặc cho đến khi
Sách khôn lớn.
Sau cao trào Đồng khởi 1960, ông Tám Lục (Trần Văn Lục)
- em ruột ông Năm Sổ - có mấy người con được cán bộ mật giáo
dục, móc nối đi thoát ly. Người chú ruột này thấy cháu đã đến tuổi
quân dịch, bèn động viên anh Sách tham gia cách mạng. Vừa cưới
vợ được ít lâu, anh nghe lời chú và cán bộ cách mạng, gia nhập
du kích xã một thời gian ngắn. Sau đó anh xin đi bộ đội thuộc
đơn vị C240 huyện Long Thành. Ấp Vọng Đông thuộc vùng sâu,
địch kềm chặt nên anh không thể về thăm cha mẹ và vợ con. Mẹ
Phan Thị Thiệt chỉ có một con duy nhất nên rất nhớ anh. Mỗi khi
253

26.4 Page 254

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
được móc nối, mẹ mượn chiếc xuồng nhỏ, mang theo ít gạo và
thực phẩm một mình một mái chèo len lách qua nhiều tua bót giặc
xuống tận Rừng Sác Phước An tìm gặp con. Đó là những giờ phút
sung sướng của người mẹ già khi thấy con mình vẫn mạnh khỏe,
được đồng đội quý mến, và nhất là Sách khác hẳn khi còn ở nhà.
Anh vẫn hiền lành nhưng năng nổ công tác, được bà con nơi đóng
quân tin yêu.
Ngày 12.9.1972, Tiểu đội trưởng Trần Văn Sách được giao
nhiệm vụ đưa thương binh từ Rừng Sác lên tuyến trên. Khi nhóm
tải thương đi ngang đường ủi Phước Lai (nay thuộc thị trấn Hiệp
Phước, huyện Nhơn Trạch) thì các anh lọt ổ phục kích địch. Anh
Sách hy sinh được đồng đội an táng chu đáo. Một thời gian sau,
mẹ Thiệt mới nghe tin con hy sinh, xiết bao đau xót. Mẹ thương
khóc con đến sinh bệnh, vì gia đình quá nghèo không tiền thuốc
thang nên năm 1973 mẹ qua đời. Ông Năm Sổ cũng mất sau đó
vào năm 1975.
Có công sinh hạ, nuôi dưỡng rồi dâng hiến giọt máu duy
nhất cho Tổ quốc hòa bình, thống nhất nên mẹ Phan Thị Thiệt
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
254

26.5 Page 255

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Của
(1919 - 1954)
Mẹ Trần Thị Của ra đời năm Kỷ
Mùi (1919) tại xã Phước Khánh, quận
Long Thành, tỉnh Biên Hòa cũ (nay là
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) trong
một gia đình nông dân. Đến tuổi trưởng
thành, mẹ lập gia đình với một nông dân
hiền lành, chất phác cùng xã. Hai vợ
chồng mẹ cần cù làm ăn, sinh được ba
con trai và các con gái đều sống đến tuổi
trưởng thành.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời được gần một
tháng thì thực dân Pháp đem quân trở lại xâm lược lần nữa. Cuối
năm 1945, từ Sài Gòn, theo đường sông, một cánh quân địch đánh
chiếm kho bom đạn Thành Tuy Hạ rồi thực hiện chiến thuật vết
dầu loang, đóng nhiều đồn bót ở quanh vùng, trong đó có bót
Phước Khánh. Chúng thường vào làng ruồng bố, nói là “lùng bắt
Việt Minh” nhưng thực ra là cướp của dân, đốt phá nhà dân. Vợ
chồng mẹ Trần Thị Của theo bà con tản cư xuống Sở Dừa và vào
Rừng Sác tránh giặc. Chạy riết, không có gì nuôi bầy con nhỏ dại,
vợ chồng mẹ đành quay về Phước Khánh làm ăn sinh sống. Do
chịu đựng bao vất vả, thiếu thốn, mẹ nhuốm bệnh, không thuốc
men chữa trị nên qua đời năm Giáp Ngọ (1954) khi mới 35 tuổi.
Chồng mẹ phải gồng lưng nuôi bầy con.
Sau Hiệp định Genève tháng 7.1954, phong trào đấu tranh
cách mạng ở Phước Khánh có lúc khá sôi nổi. Cán bộ huyện, xã
và bà con ở đây đã vận động đồng bào di cư đấu tranh đòi chính
255

26.6 Page 256

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
quyền phải cấp ruộng, cấp trâu như đã hứa... và nhiều gia đình di
cư đòi về ở xã Vĩnh Thanh thắng lợi. Nhưng rồi phong trào tạm
lắng do bọn phản bội đầu hàng dẫn lính và cảnh sát đi bắt bớ,
bắn giết các cơ sở cách mạng tại đây. Sau Đồng khởi 1960, chiến
lược Chiến tranh một phía của Mỹ - Diệm phá sản. Chúng thay
bằng chiến lược Chiến tranh đặc biệt, đưa việc lập ấp chiến lược
lên thành quốc sách. Để có thể gom dân, chúng rải chất độc hóa
học trên quy mô lớn ở nhiều nơi trong quận Nhơn Trạch. Rừng
dừa nước, các bụi tre, ruộng lúa ở Phước Khánh bị chất độc xóa
đi màu xanh của sự sống. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Long
Thành, một số bà con Phước Khánh đã cùng bà con nhiều xã khác
kéo về quận lỵ Nhơn Trạch (đặt ở xã Phú Thạnh) đấu tranh đòi
chúng không được tiếp tục rải chất độc, phải bồi thường thiệt hại
cho nhân dân...
Tháng 7.1963, cán bộ huyện và xã đã móc nối vận động
anh Năm Dũng (Nguyễn Văn Dũng) - con trai mẹ Của tham gia
cách mạng. Anh được đưa lên đơn vị đặc công của D.3 thuộc Y.4,
đứng chân tác chiến tại khu vực Dĩ An - Bắc Thủ Đức. Nhiệm vụ
chính của đơn vị là giúp lực lượng cách mạng địa phương diệt ác
phá kềm, phá hàng loạt ấp chiến lược ở chung quanh căn cứ Thủy
quân lục chiến Sóng Thần - Dĩ An.
Tháng 5.1964, anh Sáu Cảm (Nguyễn Văn Cảm) lại tiếp
bước anh trai, rời quê hương đi chiến đấu.
Các em đã theo cách mạng, địch không để cho anh Tư Hòa
(Nguyễn Văn Hòa, tức Nhiều) được yên. Anh móc nối với xã xin
đi thoát ly, vào du kích địa phương năm 1965. Đây là địa bàn ác
liệt, các đồng chí hy sinh nhiều. Anh Tư Hòa sau đó được cử làm
Bí thư Chi bộ xã kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ Xã đội trưởng. Chiến
trường Dĩ An - Bắc Thủ Đức rất quan trọng nên nơi đây có cả lính
256

26.7 Page 257

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mỹ và Nam Triều Tiên đóng thành cụm căn cứ liên hợp để địch
bảo vệ an ninh cho Sài Gòn. Tiểu đoàn 3 với quân số không đông,
lại đóng rải ở nhiều điểm khác nhau nhưng vẫn liên tục tiến công
địch.
Ngày 10.1.1967, anh Năm Dũng hy sinh trong một trận chiến
đấu. Cha anh rất lâu về sau mới nhận được tin này.
Anh Tư Hòa bám trụ quê hương chiến đấu. Địch mở liên tiếp
nhiều đợt bình định, càn quét xã Phước Khánh hòng diệt hết số cán
bộ hạ tầng và cơ sở ta. Không ở được trong dân, các anh xuống ở
sở Dừa để phục vụ Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đánh các kho bom
đạn Thành Tuy Hạ và kho xăng Nhà Bè bên kia sông. Sáng sớm
ngày 13.5.1969 máy bay trực thăng Mỹ liên tục quần đảo xăm xoi
sở Dừa. Rà sát ngọn cây, chúng phát hiện được anh em, đã bắn
rocket khiến Bí thư Chi bộ Tư Hòa và một đồng chí nữa hy sinh.
Bà con ở gần nơi hai liệt sĩ hy sinh đã chôn cất chu đáo.
Năm 1971 anh Sáu Cảm, Tiểu đội trưởng Quân đội nhân dân
Việt Nam hy sinh trong chiến đấu tại một địa điểm thuộc huyện
Bến Cát (nay thị xã Bến Cát) tỉnh Bình Dương. Mãi sau ngày giải
phóng, gia đình mới biết tin này.
Một người con trai khác của mẹ là Nguyễn Văn Xuân cũng
tham gia cách mạng, giữ nhiệm vụ Bí thư Huyện ủy huyện Nhơn
Trạch, Long Thành (1970 - 1979, 1980).
Mẹ Trần Thị Của và gia đình được Nhà nước trao tặng Huân
chương Độc lập năm 1985. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 438/KTCTN
ngày 24.4.1995.
257

26.8 Page 258

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Dương
(1900 - 1977)
Má Trần Thị Dương sinh năm 1900,
vốn quê ở Phước Thiền. Sau khi kết hôn
với ông Nguyễn Văn Dy, má chuyển về
Phú Hội - quê chồng sinh sống. Hai vợ
chồng má sinh năm đứa con nhưng chỉ
nuôi được một con gái độc nhất là chị
Nguyễn Thị Lùng. Tuy được sống trong
sự nâng niu, chăm bẵm của cha mẹ, cô
gái Nguyễn Thị Lùng lại có một ước mơ: thích làm Việt Minh.
Rồi ước mơ được toại nguyện, chị Lùng trở thành dân công
hỏa tuyến hoạt động tại địa bàn Phước An. Cuộc kháng chiến
chống Pháp gian khổ đã sắp đặt cho chị Lùng gặp anh Nguyễn
Văn Giao, trưởng hạt kiểm lâm xã Phước Thái. Cặp vợ chồng trẻ
sinh con đầu lòng Nguyễn Thị Tuyết Dung ngay trong rừng. Con
vừa đầy tuổi, chị Lùng đã phải gởi cho bà ngoại để đi phục vụ mặt
trận. Giữa năm 1951, trong một lần cáng thương cho bộ đội, chị
bị trúng đạn của địch. Viên đạn phá một vết thương lớn ngay vùng
màng tang khiến chị Lùng đau đớn, quằn quại suốt mấy ngày liền
trên giường bệnh. Trong nỗi đau đớn, người mẹ trẻ trăn trối gởi
giọt máu duy nhất của mình cho cha mẹ rồi trút hơi thở cuối cùng.
Xác chị được bộ đội an táng dưới lùm cây tràm xã Phước An. Về
sau, bom đạn cày xới liên miên đã xóa mất dấu tích ngôi mộ của
người nữ liệt sĩ.
Cái chết của con gái đã khiến má Trần Thị Dương đau buồn
khôn xiết. Có bao nhiêu tình mẫu tử má dồn hết cho đứa cháu
ngoại bé bỏng sớm mồ côi mẹ. Nhưng không bao lâu, Tuyết Dung
258

26.9 Page 259

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
lại lâm vào cảnh mồ côi cha. Anh Nguyễn Văn Giao đang làm
Trưởng hạt kiểm lâm được tổ chức rút về Tây Ninh làm công an
mật. Trong một lần đi công tác, anh và một đồng chí tên là Thắng
chẳng may rơi vào ổ phục kích của địch. Bọn giặc bắn gãy chân
anh, rồi truy bức anh phải đầu hàng. Dụ dỗ, hăm dọa đủ điều
không được, chúng cột dây lòi tói vào cổ anh rồi cho xe zeep kéo
lê về dinh tỉnh trưởng Tây Ninh. Suốt chặng đường, người cán bộ
Việt Minh kiên cường đó đã không ngớt chửi rủa địch trước sự
chứng kiến của nhân dân. Không khuất phục nổi “tên Việt Minh
cứng đầu cứng cổ”, giặc đã bắn chết anh Giao và anh Thắng rồi
vùi xác hai người chung một huyệt.
Con gái và con rể hy sinh, má Dương thay các con nuôi đứa
cháu ngoại thơ dại - niềm vui và cũng là hy vọng cuối cùng của hai
ông bà. Nhưng cũng chỉ được ít lâu, năm 1955, ông Nguyễn Văn
Dy lại qua đời. Căn nhà nhỏ giờ đây chỉ còn hai bà cháu, một già
một trẻ sống lủi thủi bên nhau. Má Dương yêu chiều cháu ngoại
hết nước, gọi cháu là “con” và xưng “má” để chị Dung được bù
đắp nỗi thiếu vắng tình mẫu tử. Má đâu ngờ, vừa tròn 17 tuổi, cô
cháu gái vốn mang dòng máu cách mạng của cả cha lẫn mẹ đã trốn
bà ngoại đi bộ đội. Chị đi liền một mạch 16 năm, hết làm nhân
viên đánh máy cho Tỉnh đội Bà Rịa, lại đến Tỉnh đội Biên Hòa.
Suốt thời gian ấy, chỉ có một lần duy nhất chị thu xếp về thăm bà
ngoại, ăn với bà bữa cơm rồi lại lên đường. Bọn địch ở ấp Phú Mỹ
thoạt tiên còn hoạnh họe, làm khó dễ má Dương. Sau đó chúng
đinh ninh chị Dung đã chết nên bỏ mặc, không buồn nhìn ngó đến
“bà già Việt Cộng” nữa.
Chị Dung kể, suốt đời chị không bao giờ quên được kỷ niệm
ngày đầu tiên chị tham gia hoạt động cách mạng. Dạo đó là tháng
1.1962. Đang học dở dang Trung học, chị trốn nhà đi theo du kích.
259

26.10 Page 260

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Bà ngoại hay tin hớt hải chạy tìm cháu khắp nơi, vừa chạy vừa gọi
thảng thốt: “Dung ơi, về với má đi con”. Tiếng gọi yêu thương và
đau đớn của bà đã theo chị suốt những năm kháng chiến chống
Mỹ đầy gian khổ, cho đến năm 1977 chị được giải ngũ trở về gia
đình. Chị cứ ngỡ sẽ được sống mãi mãi bên bà ngoại - người vừa
là cha, vừa là mẹ của chị để chăm sóc bà lúc tuổi già sức yếu. Song
tiếc thay, mới được vài tháng bà cháu sum họp, má Dương đã đột
ngột qua đời.
Những cống hiến, hy sinh lớn lao của má Trần Thị Dương
và gia đình được Tổ quốc ghi nhận, Nhà nước truy tặng má danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 438/KTCTN
ngày 24.4.1995.
260

27 Pages 261-270

▲back to top


27.1 Page 261

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Nga
(1919 - 2011)
Mẹ Trần Thị Nga sinh năm Kỷ Mùi
(1919) tại ấp Vọng Đông, xã Phú Hữu,
quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa cũ (nay
là xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai). Gia đình mẹ chuyên làm
ruộng, khi gần 20 tuổi, mẹ lấy chồng
cũng là nông dân. Như nhiều phụ nữ Việt
Nam hồi đó, mẹ sinh hạ khá đông con,
chín người cả thảy.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, chồng mẹ tham gia
Thanh niên Tiền phong rồi đảm nhận một vài công tác khác trong
xã, ấp. Đầu năm 1946, quân Pháp trở lại đóng quân kho bom đạn
Thành Tuy Hạ, Phú Hữu, Đại Phước... Ấp Giồng Ông Đông như
một cù lao bốn bề sông nước vây quanh, người dân ở đây chỉ chạy
quanh mỗi khi giặc càn bố. Vì chồng mẹ tham gia công tác nên
Tây đốt nhà mẹ.
Dưới thời Ngô Đình Diệm, gia đình mẹ Nga đã nuôi giấu,
tiếp tế và thu lượm tin tức địch báo cho cán bộ cách mạng.
Tháng 4.1962, anh Ba Lộc (Nguyễn Văn Lộc) - con trai mẹ
- không muốn bị bắt quân dịch cầm súng địch bắn vào bà con
cô bác, đã móc nối xin gia nhập bộ đội địa phương huyện Long
Thành.
Tháng 2.1963, anh Năm Liêm (Nguyễn Văn Liêm) vừa 17
tuổi, không muốn chịu cảnh cá chậu chim lồng trong vòng rào
kẽm gai ấp chiến lược nên theo chân anh Ba, gia nhập đơn vị C240
Biên Hòa. Chồng mẹ Bảy Nga vì vậy bị lính bắt về đồn Thành
261

27.2 Page 262

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Tuy Hạ giam giữ vì tội “có con theo Việt Cộng”. Chúng trói ông ở
cột cờ giữa đồn, tra khảo và bắt đi kêu các con về. Bắt giữ ít bữa,
chúng phải thả.
Một lần khác, do một tin mật báo, chúng bắt ông và em Sáu
Hiếu (Nguyễn Văn Hiếu). Hiếu còn nhỏ bị chúng dộng đầu vào lu
nước, bắt khai ra số cán bộ bám trụ nằm vùng cũng như tin tức về
hai anh ruột. Hiếu không khai điều gì.
Đơn vị C240 tác chiến chủ yếu trên địa bàn Long Thành,
Nhơn Trạch. Mẹ Bảy Nga đôi lần được móc nối đi thăm các anh
tại Sở Dừa (Phước Khánh), lần nào cũng mang cho các anh và
đồng đội những thứ thiết yếu để con yên tâm đánh giặc. Ngày
15.10.1965, địch càn phá mùa màng của đồng bào Phú Hữu. Đơn
vị C240 đang đứng chân tại đây đã chiến đấu để bảo vệ lúa chín
và tài sản của bà con. Anh Năm Liêm (Nguyễn Văn Liêm) hy sinh
tại rạch Ông Mai, được đồng đội và bà con an táng chu đáo. Ít lâu
sau, tin dữ này mới được báo cho gia đình. Mẹ Nga vô cùng đau
đớn nhưng phải cố nén để địch không làm khó dễ. Anh em cán bộ,
bộ đội về bám trụ, điều nghiên kho bom đạn Thành Tuy Hạ, cảng
Cát Lái... tiếp tục được gia đình mẹ nuôi giấu an toàn.
Anh Ba Lộc (Nguyễn Văn Lộc) là Tiểu đội trưởng quân báo
của Huyện đội Long Thành theo, chỉ đạo của huyện hoạt động cơ
động khắp địa bàn Long Thành, Nhơn Trạch. Ngày 15.4.1967,
địch càn lớn vào xã Phước Thọ (huyện Nhơn Trạch). Tuy ít người,
anh Ba Lộc và đồng đội vẫn dũng cảm chiến đấu quyết liệt và hy
sinh tại đây. Mãi về sau mẹ Bảy Nga mới được biết. Theo cách
tính dân gian, ba năm mẹ mất liền hai con trai yêu quý.
Đến tết Mậu Thân 1968, Sáu Hiếu (Nguyễn Văn Hiếu) vừa
đến tuổi địch gọi đi quân dịch. Tiếp bước hai anh, anh Hiếu tham
gia du kích xã Phú Hữu tháng 6.1968. Gan dạ từ nhỏ, anh trưởng
262

27.3 Page 263

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
thành khá nhanh. Du kích xã Phú Hữu tích cực giúp đỡ bộ đội
Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đánh kho bom đạn Thành Tuy Hạ và
kho xăng Nhà Bè... Anh Sáu Hiếu được kết nạp Đảng và được cử
làm Xã đội trưởng xã Phú Hữu. Tháng 5.1973, trong lần vượt sông
Ông Kèo đi nhận nhiệm vụ chiến đấu, anh lọt ổ phục kích địch và
hy sinh. Xã phải giấu mẹ một thời gian. Khi biết tin, lòng mẹ tan
nát. Ba con ra đi, đều hy sinh hết. Nỗi đau to lớn khiến mẹ ngã
bệnh nhưng vẫn phải nén nước mắt lúc ban ngày.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, mẹ Trần Thị Nga
được được tặng thưởng Huân chương Độc lập. Năm 1994, mẹ
được Nhà nước trao tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ qua đời ngày 11.7.2011.
263

27.4 Page 264

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Nhạt
(1911 - 2010)
Ở ấp Đất Mới, xã Phú Hội (Nhơn
Trạch) bà con gọi Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng Trần Thị Nhạt với cái tên thân
thương là bà Chín “tình nghĩa”. Mẹ Trần
Thị Nhạt có một con độc nhất, anh Lê
Văn Thành, đi du kích xã, hy sinh năm
1971. Năm ấy anh tròn 23 tuổi.
Từ ngày con mẹ không còn, niềm
vui của mẹ là được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của chòm
xóm. Đau yếu, mẹ có có người cháu ruột - chị Lê Thị Tư ở ấp Phú
Mỹ 1 gần đó lui tới, săn sóc; còn bình thường, chợ búa, cơm nước
mẹ tự lo lấy được.
Năm 1995, dù tuổi đã cao nhưng mẹ vẫn minh mẫn, nhớ
được nhiều chuyện, chuyện đời mình, chuyện con, chuyện làng
xóm. Giọng bồi hồi, mẹ kể về đời mẹ và núm ruột của mình. Lấy
chồng năm 22 tuổi, sinh được anh Thành, chồng mẹ bỏ theo vợ bé.
Hai mẹ con cơ cực đủ điều, làm thuê làm mướn kiếm sống. Ngay
căn nhà đàng hoàng để ở còn không có. Hai mẹ con có lúc phải tá
túc nhà họ hàng. Năm 1969, cả hai mẹ con đều bị trúng pháo của
địch phải đi nằm bệnh viện ở Long Thành hơn 2 tháng. Ở bệnh
viện về không lâu sau đó, anh Thành đi theo dân công. Lúc ra đi
anh Thành không hề nói mẹ đi làm gì. Chỉ khi vào rừng rồi, mới
viết thư gửi về: “Má đừng buồn, ở nhà với anh chị Tư. Rảnh rỗi
con về thăm má! Lúc nào về, con “huýt gió” má biết đón con”.
“Chị Tư thương, em không thể ở nhà được, nếu không bọn chúng
sẽ bắt đi lính! Em gởi má nhờ chị chăm sóc dùm. Ngàn lần biết ơn
chị! Em, Thành!”
264

27.5 Page 265

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Chiến tranh ác liệt quá. Đêm nào súng đạn nổ nhiều, mẹ
không ngủ được. Có lần anh Thành bị thương, cơ sở nhắn về cho
mẹ hay tin, mẹ khóc, lo lắng. Mẹ nhắn với anh em du kích, cho
Thành về gặp mặt, mẹ mới tin. Rồi sau đó, anh Thành có về gặp
mẹ. Đó cũng là lần gặp duy nhất. Anh Thành hy sinh do vướng
mìn của địch trên đường đi công tác. Bọn lính lôi xác anh ra bỏ
ngoài đường. Sáng sớm bà con Phú Hội đi chợ nhận ra Hai Thành
chạy về báo tin, lòng mẹ đau quặn thắt. Sau đó mẹ xin xác con
về tắm rửa, chôn cất ở ấp Phú Mỹ. Sau ngày giải phóng, mộ anh
Thành được chuyển về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Long Thành.
Hồi anh Thành còn sống với mẹ, anh thường đi giăng câu.
Lưỡi câu anh tự làm lấy. Đến sau này, mẹ Nhàn vẫn còn giữ được
một cái búa nhỏ hồi đó anh Thành thường dùng để đánh lưỡi câu.
Mẹ gìn giữ nó, xem như một kỷ vật thiêng liêng về núm ruột của
mình.
Mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Mẹ qua đời ngày 20.3.2010.
265

27.6 Page 266

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Nhị
(1924 - 1997)
Ngày Nhà nước làm lễ tuyên dương
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu tiên ở
Hà Nội (tháng 12.1994), má Trần Thị Nhị
(Phú Hội - Nhơn Trạch) được đại diện
hơn 140 bà mẹ tiêu biểu ở Đồng Nai về
thủ đô dự hội. Điều má nhớ nhất là được
thăm lăng Bác Hồ. Má rơm rớm nước
mắt nói: “Thấy Bác Hồ nằm đó, mới biết
mình hy sinh không bao nhiêu”.
Vào những năm đầu thập kỷ 60, gia đình má Trần Thị Nhị
lúc nào cũng như dầu sôi, lửa bỏng. Lúc bấy giờ, Phú Hội thuộc
“vùng tự do”. Ban ngày Phú Hội thuộc vùng kiểm soát của “quốc
gia”, ban đêm thì cách mạng làm chủ tình hình. Vợ chồng má Nhị
cứ bị “tụi quốc gia” gọi lên đồn tra vấn suốt về việc cho con theo
“Việt Cộng”.
Má Nhị có 7 người con, trong đó 4 người con lớn đều theo
cách mạng. Nhà có 6 công ruộng, má và ba tập cho mấy đứa nhỏ
cáng đáng hết việc nhà, việc ruộng. Hai ông bà lao vào làm công
tác liên lạc, dẫn đường cho quân cách mạng. Cuộc tổng tiến công
và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 nổ ra, xong nhiệm vụ của
mình, má Nhị thấp thỏm chờ mong tin từng đứa con. Linh cảm
người mẹ không sai, sau chiến dịch, anh Nguyễn Văn Lem - người
con thứ 9 của má ra đi mãi mãi không trở về. Anh Lem là bộ đội
đặc công, hy sinh trên đường yểm trợ cho đồng đội rút quân ở mặt
trận vùng ven Sài Gòn.
266

27.7 Page 267

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đến cuối năm 1968, anh Nguyễn Văn Chiến - người con thứ
4 của má hy sinh. Anh Chiến là du kích xã Phú Hội. Trên đường
tuần tra đụng một toán giặc, anh đã trực tiếp cầm súng chiến đấu
và hy sinh anh dũng. Hai nỗi đau giáng xuống cùng lúc, tưởng đã
không thể nào gượng dậy nữa... Nhưng bên má còn có ba. Ba nói
với má: “Con nó mất rồi, mình gánh việc dùm con”. Thế là má
tình nguyện làm việc gấp đôi, gấp ba lúc trước. Nỗi đau chưa kịp
lắng xuống, năm 1971, anh Nguyễn Văn Công - người con thứ 2
của má - lại hy sinh. Trong một trận càn quét của giặc, chúng đã
ủi trúng hầm ẩn nấp của anh Công (anh là bộ đội chủ lực Miền) và
anh hy sinh trong trận “xáp lá cà” đó. Ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng, má lau nước mắt nói với những người con còn lại:
“Các con ráng sống làm sao cho đừng tủi vong linh anh em”.
Má được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
Má qua đời ngày 10.10.1997.
267

27.8 Page 268

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Sắc
(1914 - 2012)
Má Trần Thị Sắc sinh năm 1914 tại
Xóm Hố - Phú Hội. Thời con gái, má Trần
Thị Sắc (cô Ba Sắc) nổi tiếng là hoa khôi
miệt vườn Phú Hội. Cô có lối nói năng sắc
sảo, ứng xử thông minh, tác phong nhanh
nhẹn... Với những ưu thế “bẩm sinh” này,
cô Ba Sắc đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ
quan trọng cách mạng giao cho.
Thời đó, địch lùa dân sống tập trung quanh bót Tây cho dễ
bề kiểm soát. Ai “cả gan” bám trụ ở Xóm Hố xã Phú Hội thì vô
cùng khốn đốn với giặc Tây. Chúng săn lùng cán bộ Việt Minh,
gặp thanh niên thì bắt bớ, thấy phụ nữ thì giở trò đồi bại. Đất ở nơi
này thường xuyên bị bom cày, đạn xới vì bọn địch biết rõ Xóm Hố
là nguồn tiếp tế chủ lực cho vùng kháng chiến Phước An. Chúng
kiểm soát gắt gao, không cho bà con trữ gạo, ăn tới đâu thì mang
lúa chà tới đó. Vải, muối, thuốc tây, dầu đèn... tất cả mọi thứ chỉ
được phép mua đủ dùng. Ấy vậy mà với cái nghề “đầu nậu” mua
bán trái cây, má Sắc vận chuyển mỗi lần hàng ghe thực phẩm từ
Sài Gòn về tại Nước Trong (nay thuộc huyện Long Thành). Rồi
từ đây, má tải bằng xe bò vào Phước An cho anh em kháng chiến.
Thật không dễ gì qua mặt bọn địch với lượng hàng nhiều như thế.
Má phải “lót tay” để qua trạm, phải bóng gió đẩy đưa, cũng có khi
má chửi tạt vào mặt chúng mới đem hàng về được.
Mười người con của má Trần Thị Sắc lần lượt ra đời. Má vừa
nuôi con, vừa hoạt động, vừa buôn bán. Đến khi các con khôn lớn,
các con lại rời má Sắc để vào bộ đội, hoặc tham gia các đơn vị du
268

27.9 Page 269

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
kích địa phương. Rời nhưng vẫn không xa. Bởi quân chuyển đến
đâu, má đi đến đó. Các căn cứ: Bình Đa, Bàu Hàm, Tân Uyên, Cây
Gáo... nơi nào cũng có dấu chân của má. Má lặn lội tận Chiến khu
Đ thăm con, thăm cháu, thăm em.
Đã hai lần má bị địch bắt vì “có con là Việt Cộng”. Chúng
dọa sẽ đánh cho má “la lết hết đi tiếp tế...”. Và chúng đã làm
đúng như lời nói - chồng của má hai lần bị bắt ở tù vì vợ đi tiếp
tế cho Cộng sản. Các con của má có cả thảy 4 người là liệt sĩ: anh
Lê Văn Kiệt (sinh năm 1934) đột kích vào ấp tải lương, hy sinh
ngày 15.6.1961 tại Phước Thọ (nay là xã Long Thọ, huyện Nhơn
Trạch); anh Lê Văn Thắng (tự Lợi, sinh năm 1937), thượng úy
công an, lọt vòng vây bị giặc bắn chết ngày 14.5.1971; sang năm
1972, ngày 14.10 anh Lê Văn Thường (sinh năm 1940) anh dũng
hy sinh trong một trận chiến chống Mỹ ác liệt; và ngày 16.6.1974,
anh du kích mật xã Phú Hội Lê Văn Tùng (sinh năm 1944) lại hy
sinh trên đường đi công tác.
Đất nước hòa bình, nỗi buồn mất con vẫn chưa phai nhòa
trong tâm hồn má Trần Thị Sắc. Nhưng mỗi khi nhắc đến, má
Sắc không giấu niềm tự hào về những đứa con liệt sĩ của mình.
Má được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì
(Quyết định số 693-KT/HĐNN ngày 11.7.1985), Huân chương
Kháng chiến hạng Ba (Quyết định số 245-KT/HĐNN ngày
6.7.1989), Kỷ niệm chương Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày
(Quyết định số 1002/TTg ngày 24.11.1997), phong tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994.
Má qua đời ngày 4.10.2012. Hiện người con trai là Lê Văn
Duyệt thờ cúng má tại ấp Xóm Hố, xã Phú Hội.
269

27.10 Page 270

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Sang
(1916 - 1997)
Má Trần Thị Sang sinh năm 1916,
lúc được phong tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
394/KTCTN ngày 17.12.1994, má vẫn
còn minh mẫn, tỉnh táo.
Quê quán tại xã Vĩnh Thanh (huyện
Nhơn Trạch), má Trần Thị Sang lấy
chồng là ông Đỗ Văn Xuân và chuyển về
quê chồng (Mỹ Phước - Bến Cát - Sông Bé, nay thuộc tỉnh Bình
Dương) sinh sống. Má sinh được tám con: bốn trai, bốn gái.
Năm 1960, giữa lúc Ngô Đình Diệm tàn sát những người
kháng chiến, ông Đỗ Văn Xuân thoát ly gia đình tham gia cách
mạng. Ông trở thành cán bộ binh vận, hoạt động trong vùng địch
kiểm soát. Ông thường xuyên móc nối với một trưởng đồn ngụy,
lấy đạn dược và vũ khí của địch đem về cho cách mạng. Ngày
1.12.1962, sau khi đánh đồn Cây Dền, ông rút về nhà nhưng không
may bị địch phát hiện. Chúng bắt và trói ông vào cột nhà, tra khảo
đánh đập dã man hòng lấy lời khai của ông. Má Sang lúc đó đang
bồng đứa con vừa nửa tháng tuổi trên tay, má đau đớn uất hận
chứng kiến giặc tra tấn hành hạ người chồng thân yêu. Rồi ông
Xuân bị địch giết hại, má dồn hết niềm hy vọng vào các con đang
tuổi khôn lớn. Nhưng rồi chiến tranh ác nghiệt đã lần lượt chia lìa
những người con yêu quý của má. Đỗ Văn Huỳnh, con trai trưởng
của má sinh năm 1940, tròn 20 tuổi anh được cha dìu dắt vào con
đường cách mạng. Khi ông Xuân ngã xuống, Huỳnh đang là Đại
đội trưởng đơn vị trinh sát của Ban An ninh phân khu V. Ngày
270

28 Pages 271-280

▲back to top


28.1 Page 271

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
10.5.1969, trên đường đi công tác tại xã Chánh Phú Hòa (Bến Cát
- Sông Bé) anh bị lọt vào vòng vây của địch. Cuộc chiến đấu ác
liệt diễn ra, người chiến sĩ trinh sát 29 tuổi đời đã ngã xuống, để
lại cho má Sang người vợ trẻ và hai đứa con nhỏ dại.
Người con trai thứ hai của má Sang là Đỗ Văn Đệ (tự An)
sinh năm 1943, thoát ly gia đình khi mới 16 tuổi (năm 1959). Đệ là
y tá, Tiểu đội trưởng đơn vị C.300. Trong thời gian tại ngũ, anh về
thăm má được vài lần rồi biệt tăm, không để lại chút hồi âm. Mãi
sau ngày giải phóng, gia đình má Sang mới nhận được giấy báo tử
của anh. Em kế Đỗ Văn Đệ là Đỗ Văn Tự (tự Tâm) sinh trong năm
Cách mạng tháng Tám thành công (1945) cũng thoát ly gia đình
lúc mới 18 tuổi (1963). Anh là Xã đội phó xã Mỹ Phước (Sông
Bé). Ngày 10.10.1968, được thông báo đoàn xe của Mỹ ngụy sẽ
càn từ Bến Cát về sở cao su Ông Chính, Tự cùng đồng đội vạch kế
hoạch đánh địch. Cả đội mai phục chờ địch tại vườn cao su ấp 4
xã Mỹ Phước. Trong cuộc đụng độ ác liệt này, Tự và đồng đội diệt
một xe bọc thép chở đầy lính Mỹ, nhưng anh cũng trúng đạn và
anh dũng hy sinh. Ngoài ba người con trai đã ngã xuống, má Sang
còn có người con gái út Đỗ Thị Vốn cũng tham gia cách mạng, bị
địch bắt giam đến sau ngày giải phóng mới được thả về.
Đất nước hòa bình, má trở về ấp Chính Nghĩa, xã Vĩnh Thanh
(huyện Nhơn Trạch) sinh sống. Các con, cháu của má đều tham
gia công tác tại địa phương. Gia đình má Sang được bà con làng
xóm đánh giá là gia đình truyền thống mẫu mực của xã. Má được
trao tặng Huân chương Độc lập năm 1985. Má Trần Thị Sang mất
năm 1997. Hiện cháu ngoại là Đỗ Nhất Trí (con của bà Đỗ Thị
Vốn) thờ cúng má tại xã Vĩnh Thanh.
271

28.2 Page 272

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Thiệt
(1924 - 1965)
Như bao người phụ nữ nông thôn
chân lấm tay bùn khác, má Trần Thị Thiệt
cơ cực từ khi còn nhỏ. Má sinh năm 1924
tại xã Phú Hội giàu hoa trái. Chị Trần Thị
Cải, con gái lớn của má, kể: khoảng ngoài
20 tuổi, má lấy chồng. Song đường tình
duyên của má cũng nhiều lận đận.
Theo lời chị Cải, cả 4 người con của
má đều không nhớ rõ về ba mình. Ông vốn là một nghệ sĩ, một tay
đàn nhạc tài tử nhưng sau này bị bệnh, bỏ đi lang thang rồi mất
tích. Thế nên, có chồng mà cuộc sống của má Thiệt càng cay cực
hơn. Má làm thuê làm mướn, một tay nuôi 4 đứa con và người mẹ
ruột. Bà cụ thân sinh của má Trần Thị Thiệt cũng là Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Má Trần Thị Thiệt có
người cha từng làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã Phú Hội. Ông
tên Trần Văn Côi, sinh năm 1896, tham gia cách mạng từ 1945.
Ông bị bắt giam, bị tra tấn suốt một tháng và qua đời trong nhà tù
của thực dân Pháp năm 1951.
Chị Cải kể rằng, khi chị đủ lớn để nhớ được đôi điều, chị đã
thấy ngày ngày má đem cơm lên căn cứ Phú Mỹ cho bộ đội. Năm
1964, má thoát ly. Căn nhà của má bị đạn pháo bắn cháy nhiều lần.
Má cũng nhiều lần bị bắt, bị đánh đập tra khảo. Song vì không đủ
bằng cớ, má lại được tha về. Nhiệm vụ của má là nắm tình hình
địch để báo cáo về căn cứ. Là một cán bộ cách mạng hoạt động
hợp pháp, má đã vượt qua rất nhiều khó khăn và phải cực kỳ khôn
khéo để không bị lộ. Nhưng, ngày 7.7 âm lịch năm 1965, khi má
272

28.3 Page 273

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
vừa từ căn cứ trở về, đạn pháo đã chụp lên căn nhà của má. Má hy
sinh trong chính mái nhà của mình, nơi tưởng như an toàn và bình
yên nhất. Khi ấy, má vừa tròn 6 tuổi Đảng. Má ra đi để lại 4 đứa
con bé bỏng cho bà ngoại.
Con trai thứ 3 của má - anh Trần Văn Năm (sinh năm
1956), nối tiếp truyền thống của mẹ đã tham gia cách mạng. Ngày
5.5.1972 anh đưa đường cho bộ đội đánh địch ở miếu Dinh Ông,
nay thuộc xã Phú Hội. Trung đội Cánh Dơi (PRU - đơn vị biệt
kích thám báo) do tên ác ôn Tám Tho chỉ huy đã phục và bắn chết
6 người, trong đó có anh Trần Văn Năm.
Người con gái thứ 2 của má - liệt sĩ Trần Thị Thanh Giang,
sinh năm l951 - cũng hy sinh khi vừa bước sang tuổi 20. Chị là
diễn viên ca múa của đoàn văn công Bà Rịa - Long Khánh trước
đây. Trên đường đi công tác tuyên truyền, chị bị trúng đạn pháo
của địch và hy sinh tại Núi Đất (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)
vào ngày 16.1.1971. Cho đến bây giờ, gia đình cũng không biết
liệt sĩ Trần Thị Thanh Giang yên nghỉ ở nơi nào.
Má được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày 17.12.1994.
273

28.4 Page 274

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Tranh
(1900 - 1980)
Má Trần Thị Tranh sinh năm 1900
tại xã Tam Đa, huyện Thủ Đức, Sài Gòn
(nay thuộc TP. Hồ Chí Minh). Tuổi ấu
thơ của má trôi qua trong cảnh đói nghèo
cực khổ vì nông dân thời ấy bị thực dân
Pháp và bọn địa chủ bóc lột thậm tệ. Ít
năm sau, gia đình má bồng bế nhau chạy
qua xã Phú Hữu (huyện Nhơn Trạch) sinh
sống với hy vọng vùng đất mới rất trù phú này sẽ giúp cả nhà dễ
thở đôi chút.
Má Tranh lớn lên kết hôn với ông Phạm Văn Tiên, một nông
dân quê ở Nhơn Trạch. Vợ chồng má sinh bảy người con, năm
trai, hai gái. Các con má Tranh lớn lên giữa lúc thực dân Pháp
đêm ngày bắt bớ, lùng sục hòng bắt thanh niên đi làm bia đỡ đạn.
Bốn người con trai vừa tới tuổi trưởng thành, vợ chồng má tìm
cách móc nối với cơ sở, đưa các con đến với những người kháng
chiến.
Năm 1948, gia đình má tiễn người con trai lớn là anh Phạm
Văn Chà (sinh năm 1930) nhập ngũ. Anh được điều động về đơn
vị Tỉnh đội Biên Hòa. Năm 1954, anh Chà được tập kết ra Bắc
học tập và trở lại chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Ngày
20.4.1968, trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân,
anh hy sinh tại chiến trường Tây Ninh trong khi đang chiến đấu.
Lúc ngã xuống, anh là Phó ban quân báo của Tỉnh đội Biên Hòa.
Người con trai thứ hai của má Tranh là Phạm Bình Minh (sinh
năm 1940) nhập ngũ tháng 2.1961. Anh là chiến sĩ của Ban 2,
274

28.5 Page 275

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phân khu 4. Mười năm sau, gia đình má Tranh được tin anh đã hy
sinh ngày 24.5.1971. Liệt sĩ Phạm Bình Minh được Nhà nước truy
tặng ba Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, hạng Nhì và
hạng Ba.
Người em kế của Phạm Bình Minh là anh Phạm Văn Y, thoát
ly gia đình năm 1963, hoạt động ngay tại quê hương Nhơn Trạch,
anh được bầu làm Huyện ủy viên phụ trách Bí thư xã Phú Hữu.
Tháng 4.1969, người Bí thư xã mới 27 tuổi đời đã anh dũng hy
sinh khi cùng đội du kích chống trả quyết liệt trận càn quét lớn của
sư đoàn 18 Sài Gòn vào Phú Hữu. Thi hài anh được đồng đội mai
táng tại Đại Phước, huyện Nhơn Trạch.
Ba người con của má Tranh đã vĩnh viễn ngã xuống cho nền
độc lập của dân tộc. Năm 1980, má qua đời. Với những đóng góp
to lớn cho cách mạng, gia đình má được Chính phủ khen tặng
Huân chương Độc lập hạng Ba. Riêng má Trần Thị Tranh, người
có công sinh thành và dưỡng dục ba liệt sĩ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
394/KTCTN ngày 17.12.1994.
275

28.6 Page 276

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Võ Thị Liền
(1905 - 1944)
Làng Phước Long, tổng Thành Tuy
Thượng, quận Long Thành, tỉnh Biên
Hòa cũ, nay là xã Long Thọ, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai, là nơi chôn nhau
cắt rốn của mẹ Võ Thị Liền, sinh năm
Ất Tỵ 1905 trong một gia đình nông dân
nghèo. Mẹ lấy ông Bảy Phô (Huỳnh Văn
Phô) vừa làm ruộng vừa làm nghề hạ bạc
(câu cua, bắt cá) trên các sông rạch trong vùng. Mẹ sinh 4 người
con: 2 con gái là Huỳnh Thị Khi và Huỳnh Thị Khu, 2 con trai là
Huỳnh Văn Tao và con trai út Huỳnh Minh Tiến (Sáu Nào, sinh
năm 1939), tất cả đều sống trong khu kháng chiến. Khi Tiến mới
vài tuổi, mẹ Võ Thị Liền lâm bệnh nặng, thiếu thuốc men chữa
chạy nên qua đời ở tuổi gần bốn mươi.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhân dân Phước
Long được sống những ngày độc lập tự do hào hùng khoảng hơn
bốn tháng. Cuối tháng 1.1946, đúng ngày ông Táo chầu trời năm
Ất Dậu, quân Pháp từ Biên Hòa và Nhà Bè đi thành hai mũi chính,
đánh chiếm quận lỵ Long Thành. Sau đó, thực hiện chiến thuật
tằm ăn rỗi, vết dầu loang, chúng nống ra đóng nhiều đồn bót trong
quận, trong đó có bót chợ Mới Phước Long. Phần lớn nhân dân
trong xã rút vào sâu trong rừng, cách xa lộ 19. Ông Bảy Phô là là
cơ sở cách mạng, cũng là một trong số người không muốn sống
trong ách kềm kẹp của giặc. Du kích Phước Long, Phước Thọ liên
tục quấy rối địch, thanh niên mấy xã trong vùng đào phá rồi dùng
mìn đánh sập cầu Mít. Đầu năm 1947, hưởng ứng chủ trương “phá
khu nô lệ”, dân ấp chợ Mới Phước Long một đêm tự đốt nhà cửa
276

28.7 Page 277

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
của mình rồi lên rừng giồng hoặc về chiến khu Phước An làm ăn
sinh sống. Giặc Pháp tức tối đem quân đi càn, thực hiện chính
sách dã man: phá sạch, đốt sạch, giết sạch. Chị Hai Khi (Huỳnh
Thị Khi) là hội viên phụ nữ bị địch bắn chết trong một cuộc ruồng
bố của địch. Ông Bảy Phô ráng làm ăn nuôi các con khôn lớn.
Sau Hiệp định Genève tháng 7.1954, vùng đất từ Phước An
qua Phước Thọ tới Phước Long cũng không được hưởng hòa bình.
Quân Bình Xuyên của Bảy Viễn kéo về đóng trong vùng, được
cán bộ ta giáo dục, vận động một bộ phận đã đi theo cách mạng.
Các chiến dịch tố cộng, diệt cộng liên tiếp diễn ra từ tháng 4.1956
trở đi, một số cán bộ và cơ sở ở Phước Long bị bắt, nhiều đồng chí
chuyển vùng hoạt động theo Chỉ thị 4-HBC của Xứ ủy Nam Bộ.
Tổn thất nặng nề nhất là khi Bí thư Huyện ủy Long Thành Hà Tư
phản bội chiêu hồi, dẫn lính đánh phá tất cả các chi bộ và nhiều cơ
sở ở huyện Long Thành.
Nhưng từ khi Nghị quyết 15 của Trung ương khóa 2 được
triển khai thì phong trào Đồng khởi ở toàn huyện Long Thành và
Nhơn Trạch lên cao. Thay cho việc đấu tranh chính trị đơn thuần,
ta dùng lực lượng vũ trang làm đòn xeo thúc đẩy đấu tranh chính
trị có kết quả hơn. Anh Sáu Nào - con ông Bảy Phô và mẹ Võ Thị
Liền - đã cùng nhiều thanh niên xã Phước Long được bà Ba Thi,
chị Lê Thị Nở (Xuân Mai), ông Mười Thọ... móc nối, giáo dục
nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước. Chị Năm vờ dẫn đi chặt củi, đưa
một nhóm, trong đó có Tiến đi thoát ly, tham gia du kích xã.
Du kích Phước Long, Phước Thọ phối hợp với bộ đội đơn
vị 240 Long Thành tham gia diệt ác phá kềm ở nhiều địa phương
trong hai huyện. Qua quá trình hoạt động, anh Huỳnh Minh Tiến
tỏ rõ năng lực tổ chức nên năm 1962 được kết nạp Đảng và trở
thành cán bộ xây dựng phong trào, tổ chức nhiều cơ sở mật ở
277

28.8 Page 278

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phước Long, Phước Thọ. Khi địch gom dân lập ấp chiến lược
(năm 1963), anh được cử làm Bí thư Chi bộ Phước Long, bám trụ
địa phương, cùng các đồng chí tiến hành phá ấp chiến lược. Đây là
thử thách năng lực một Bí thư chi bộ trẻ, lúc này anh mới 25 tuổi.
Anh phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách. Rồi anh được rút về
Huyện ủy Nhơn Trạch làm công tác tuyên huấn.
Năm 1970, anh được điều về huyện Long Thành và trở thành
Huyện ủy viên, phụ trách Bí thư xã Phước Nguyên (nay nhập với
xã An Lợi thành xã An Phước). Vào thời điểm này, Mỹ đang phải
xuống thang sau cuộc tập kích chiến lược xuân Mậu Thân 1968
của quân dân miền Nam. Để rút dần quân Mỹ và chư hầu, địch
bình định ác liệt tam giác chiến lược Sài Gòn - Biên Hòa - Vũng
Tàu. Lính Mỹ và Thái Lan với mật độ phi pháp dày đặc chà đi xát
lại dọc lộ 15 nhằm bảo đảm an toàn cho việc xuống thang. Anh
Huỳnh Minh Tiến phụ trách một địa bàn nóng bỏng, trong lần đi
công tác tháng 9.1971 bị vướng mìn, hy sinh.
Mẹ Võ Thị Liền được Nhà nước truy tặng mẹ danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/KTCTN ngày
17.12.1994. Gia đình mẹ (ông Huỳnh Văn Phô và bà Võ Thị Liền)
cũng được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba (Quyết
định số 208-KT/CTN ngày 1.6.2000). Hiện cháu mẹ là Huỳnh Thị
Ngọc Yến thờ cúng mẹ tại ấp 2 xã Long Thọ.
278

28.9 Page 279

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Võ Thị Thấy
(1910 - 1982)
Với bản chất hiền hòa, chơn chất
của người nông dân ngày ngày sớm tối
cùng chồng con ra đồng cày sâu cuốc
bẫm, cuộc đời của mẹ Võ Thị Thấy (sinh
năm 1910, tại Phước Lương - xã Phú
Hữu) những tưởng sẽ bình lặng như dòng
sông hiền hòa ngang qua nhà mẹ.
Nhưng hàng ngày ra đồng, mẹ vô
cùng xót xa trước sự đàn áp lùng sục, đánh phá cách mạng của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Mẹ trao đổi với chồng: “Gia đình mình
có tới 12 đứa con, 7 đứa gái thì không sao, nhưng 5 đứa con trai
đều ở tuổi đi quân dịch, nếu cứ để ở nhà thì sớm muộn cũng bị
bắt đi lính đàn áp bà con mình; tốt nhất là động viên cho con đi
theo các bác, các chú làm cách mạng, giải phóng đất nước”. Thế
là trong hai năm 1963-1964, gia đình mẹ lần lượt tiễn 4 con trai
vào vùng giải phóng.
Tiễn các con đi, mẹ nào được yên thân, bọn tề, xã, mật vụ
bắt mẹ lên tra khảo buộc cung khai các con mẹ hiện ở đâu, hoạt
động địa bàn nào, thuộc tổ chức nào, và hăm dọa sẽ giết hết cả gia
đình nếu không khai báo. Dù bị tra tấn dã man, nhưng trước sau
như một mẹ đều trả lời: “Các con tôi đã trưởng thành, ý thức được
nghĩa vụ giải phóng dân tộc là trách nhiệm của thanh niên, tham
gia cách mạng là ý nguyện của các con tôi làm sao tôi cản được.
Còn tụi nó hoạt động ở đâu thì các ông cứ đi mà tìm”. Trước sự đối
đáp bản lĩnh và gan góc của mẹ, chúng buộc phải thả mẹ nhưng
gom gia đình vào khu gia đình Cộng sản, phải tuân thủ theo quy
định nghiêm ngặt của chúng.
279

28.10 Page 280

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Sống trong sự kềm kẹp của giặc, nhưng mẹ vẫn tìm cách
liên lạc với cách mạng. Bằng sự tháo vát và mưu trí, mẹ đã giúp
cho phong trào cách mạng ở địa phương tránh được những tổn
thất mà địch không thể ngờ được. Vì nhà mẹ ở gần đồn địch nên
mẹ điều nghiên nắm rõ quy luật hoạt động của chúng, thông báo
cho cách mạng bằng những dấu hiệu bình thường mà địch không
hề biết như: chiếc nón lá đặt trên mái nhà nếu úp là tình hình yên
ổn có thể hoạt động được, nếu ngửa là địch chuẩn bị lùng sục càn
quét. Một trong những đóng góp tiêu biểu nhất của mẹ là đã làm
tốt công tác binh vận với người con rể là quân nhân chế độ cũ nên
anh ta đã điều nghiên, nắm tình hình và vẽ sơ đồ kho bom Thành
Tuy Hạ để phục vụ cho các chiến sĩ biệt động của ta. Khi được
người con rể trao cho tấm sơ đồ, mẹ giấu vào gấu quần và chuyển
đến cho các cơ sở mật đưa về căn cứ an toàn, phục vụ cho trận
đánh kho bom đạt kết quả thắng lợi, gây cho địch bao nỗi kinh
hoàng. Nhìn ngọn lửa ngùn ngụt bốc cháy ở kho bom Thành Tuy
Hạ, lòng mẹ rộn ràng niềm vui như chính mình trực tiếp tham gia
vào trận đánh này.
Nhưng niềm vui chưa trọn thì ngày 5.6.1967 tin dữ báo về:
anh Trương Văn Dứt đã anh dũng hy sinh trong một trận chiến
đấu chống địch càn quét. Nỗi đau này chưa nguôi thì đến tháng
4.1969 mẹ lại nhận tin người con trai lớn là Trương Văn Giàu hy
sinh. Không nhìn được mặt con trước lúc hy sinh, mẹ chỉ biết lau
nước mắt, đêm đêm cầu mong cho những đứa con còn lại được
bình an. Nhưng đêm 29.11.1969 mẹ như chết đứng khi được tin:
trên đường đi công tác anh Trương Văn Chỗ và anh Trương Văn
Hết gặp được nhau, chưa kịp hàn huyên sau bao năm xa cách, thì
lại cùng đồng đội chiến đấu với địch và hai anh đã anh dũng hy
sinh.
280

29 Pages 281-290

▲back to top


29.1 Page 281

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Sau ngày miền Nam giải phóng, hòa cùng dòng người mừng
thắng lợi lịch sử của dân tộc, mẹ đã giang rộng đôi tay già yếu ôm
hôn những đứa con trong đoàn quân chiến thắng mà cứ ngỡ như
những đứa con thân yêu của mẹ trở về.
Mẹ qua đời năm 1982. Trân trọng với những đóng góp cho
sự nghiệp cách mạng, mẹ đã được Đảng và Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 394/
KTCTN ngày 17.12.1994.
281

29.2 Page 282

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đỗ Thị Tiên
(1918 - 2001)
Mẹ Đỗ Thị Tiên sinh năm 1918 tại
xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch là một trong những địa phương
giàu truyền thống cách mạng của tỉnh
Đồng Nai. Từ xã Đại Phước có thể di
chuyển thuận lợi qua phía Sài Gòn bằng
phà Cát Lái. Trong thời kỳ chiến tranh,
cảng Cát Lái là nơi quân đội và hải quân Mỹ dùng làm trạm nhận
vũ khí, đạn dược và từ đây chuyển lên căn cứ quân sự ở Long Bình
và Biên Hòa. Với địa thế này, tàu tiếp vận và tuần tiễu Mỹ từ Vũng
Tàu lên Nhà Bè, Cát Lái thường bị quân du kích của ta phục kích
và đánh phá.
Chứng kiến thực tế ấy, hai người con trai của mẹ Tiên đã
tham gia vào đội ngũ của quân cách mạng và đều hy sinh trong
năm 1971. Trong đó, liệt sĩ Phan Văn Lợi hy sinh tháng 4.1971,
liệt sĩ Phan Văn Rồi hy sinh ngày 14.5.1971.
Tuy chịu nỗi đau quá lớn khi mất đi 2 người con chỉ trong
vòng 1 tháng nhưng mẹ Tiên vẫn tự hào vì các con của mẹ đã hy
sinh thân mình vì nền độc lập của Tổ quốc. Những ngày cuối đời,
mẹ Tiên sống cùng người con trai Phan Văn Đạo cho đến khi mất
(ngày 2.5.2001 âm lịch). Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN
ngày 26.9.2014.
282

29.3 Page 283

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Ngô Thị Bí
(1902 - 1949)
Mẹ Ngô Thị Bí sinh năm 1902
và mất ngày 5.9.1949 tại xã Long Tân,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ Bí có hai người con trai tham
gia chiến đấu và hy sinh trong kháng
chiến chống Mỹ. Cả hai người con này
đều hy sinh năm 1972. Trong đó, người
em Nguyễn Văn Quyết (sinh năm 1943)
công tác tại Thị đội Long Thành hy sinh ngày 1.4.1972 và người
anh Nguyễn Văn Trực (sinh năm 1937) là Trưởng công an xã Long
Tân hy sinh tại xã Long Tân vào tháng 12.1972.
Hiện nay, người thờ cúng mẹ là cháu nội Nguyễn Thị Phấn.
Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
283

29.4 Page 284

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Ngô Thị Ngàn
(1912 - ?)
Mẹ Ngô Thị Ngàn sinh năm 1912
tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Đây là địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng, được quân đội Mỹ thành
lập căn cứ quân sự và kiểm soát gắt gao.
Tuy vậy, điều này không ngăn được tấm
lòng yêu nước và quyết tâm đấu tranh
giành độc lập của nhân dân địa phương.
Mẹ Ngàn cũng không nằm ngoài số đông người dân ấy.
Mẹ Ngô Thị Ngàn có hai người con trai hy sinh trong cuộc
chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Người con trai Nguyễn Phước
Mừng, hy sinh tháng 3.1970. Chỉ 3 tháng sau đó (tháng 6.1970),
mẹ lại phải đón nhận tin hy sinh của người con trai Nguyễn Hữu
Tính.
Sau chiến tranh, mẹ Ngàn sống cùng người con trai Nguyễn
Kim Lãng tại ấp 3, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch. Mẹ được
Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 945/QĐ-CTN ngày 16.5.2016.
284

29.5 Page 285

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Bảy
(1921 - 2015)
Mẹ Nguyễn Thị Bảy sinh năm 1921
tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Sống trong vùng chiến sự, gia đình
mẹ Bảy hiểu được những đau thương, mất
mát do chiến tranh đem đến. Bản thân mẹ
Bảy đã chứng kiến nhiều bà mẹ tiễn con
đi tham gia chiến đấu và không còn được
đón con trở về. Tuy vậy, với lòng yêu nước, căm thù giặc, mẹ Bảy
vẫn ủng hộ các con vào bộ đội.
Và, như nhiều bà mẹ anh hùng khác trên khắp đất nước Việt
Nam, các con trai của mẹ đã nằm lại trên chiến trường để đổi lấy
độc lập, tự do cho dân tộc. Mẹ Bảy có hai người con hy sinh trong
kháng chiến chống Mỹ là liệt sĩ Nguyễn Văn Hết (hy sinh tháng
2.1971) và liệt sĩ Nguyễn Văn Thiệt (hy sinh tháng 8.1969).
Những ngày cuối đời, mẹ Bảy sống cùng con trai út là ông
Nguyễn Văn Ngang tại khu vực Bàu Sen, ấp 3, xã Phú Thạnh,
huyện Nhơn Trạch. Mẹ mất ngày 22.9.2015 và được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
2392/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Trước đó, gia đình mẹ Bảy được
tặng Bảng vàng gia đình danh dự theo Quyết định số 17TTgg ngày
19.9.1986.
285

29.6 Page 286

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Võ Thị Nữa
(1910 - 1951)
Mẹ Võ Thị Nữa sinh năm 1910 tại
ấp Long Hiệu, xã Long Tân, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ Nữa là một
người có lòng yêu nước và luôn thể hiện
thái độ chống giặc ngoại xâm.
Mẹ có hai người con trai tham gia
kháng chiến chống Mỹ và đều hy sinh.
Đó là liệt sĩ Lê Văn Xưa (sinh năm 1928)
và liệt sĩ Lê Văn Nhu (sinh năm 1941). Cả hai đều làm du kích xã
Long Tân và hy sinh tại địa bàn xã này. Liệt sĩ Xưa hy sinh ngày
25.10.1963 còn liệt sĩ Nhu hy sinh ngày 27.4.1965.
Trong những ngày chiến tranh ác liệt, mẹ bị giặc bắt đưa về
xã Bình Sơn và mất tại Bình Sơn (huyện Long Thành) vào ngày
5.5.1951 (ÂL). Một điều khiến các con cháu của mẹ đến nay vẫn
ray rứt đó là vì điều kiện chiến tranh nên chưa tìm được phần mộ
của mẹ.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
286

29.7 Page 287

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Bạch Thị Đời
(1925 - 1957)
Mẹ Bạch Thị Đời sinh năm 1925
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Mẹ Đời sinh ra trong một gia đình
nông dân nghèo. Năm 20 tuổi mẹ lấy
chồng, cuộc sống cơ cực, hai vợ chồng
mẹ phải quanh năm chân lấm tay bùn để
kiếm tiền nuôi con. Những năm kháng
chiến chống Pháp, mẹ Đời cùng với nhân dân địa phương ủng
hộ lương thực, thực phẩm, thuốc men cho bộ đội. Năm 1957, mẹ
lâm bệnh nặng rồi qua đời sớm, ở tuổi 32 khi các con đang còn
rất nhỏ.
Sau khi trưởng thành, hai con trai của mẹ Bạch Thị Đời là
Nguyễn Văn Tự (sinh năm 1946) và Nguyễn Văn Năm (sinh năm
1950) theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc tham gia kháng
chiến chống Mỹ. Sau thắng lợi của cuộc tấn công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968, tại mặt trận thị xã Biên Hòa, Bộ Chỉ huy Mặt trận
Biên Hòa cho lệnh rút quân ra ngoài địa bàn thị xã để bảo toàn lực
lượng và chuẩn bị cho những kế hoạch trong tình hình mới. Năm
1969, trong một trận tập kích tại Nhơn Trạch, anh Nguyễn Văn Tự
hy sinh. Chỉ một năm sau, gia đình mẹ Đời tiếp tục nhận tin anh
Nguyễn Văn Năm hy sinh.
Để ghi nhớ công lao to lớn của mẹ Bạch Thị Đời, Chủ tịch
nước đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng cho mẹ theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện tại, mẹ được con gái Nguyễn Thị Kỉnh thờ phụng tại ấp Câu
Kê, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
287

29.8 Page 288

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Châu Thị Ngân
(1903 - 1965)
Mẹ Châu Thị Ngân sinh năm 1903
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình
thuần nông, mẹ Châu Thị Ngân sớm kết
hôn với ông Đặng Văn Mười người cùng
địa phương. Mẹ sinh được 5 người con,
trong đó 3 người tham gia quân ngũ.
Không những ủng hộ con tham gia kháng chiến, ở nhà mẹ Ngân
cùng với nhân dân địa phương hằng ngày đưa thức ăn, thuốc men,
mùng mền phục vụ bộ đội trong vùng căn cứ.
Theo lời kể của ông Đặng Văn Nguyệt, con trai mẹ, những
năm 60, chính quyền Mỹ - ngụy ra sức lùng sục quân cách mạng
khắp nơi. Ông Nguyệt nhiều lần bị địch bắt giam, bị đánh đập
nhằm buộc ông phải khai báo các người anh của ông đang hoạt
động cách mạng ở đâu. Tuy nhiên, sau nhiều lần tra khảo không
thành công, địch phải thả ông ra. Niềm vui được trở về về đoàn tụ
gia đình chưa trọn vẹn thì mẹ Ngân mất do lâm bệnh nặng.
Đầu năm 1970, ông Nguyệt và cha hay tin anh Đặng Văn
Đức hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ. Nỗi đau chưa
nguôi ngoai, chỉ vài tháng sau gia đình ông lại nhận tin anh Đặng
Ngọc Xuân hy sinh.
Sau khi mẹ Châu Thị Ngân mất và 2 con trai hy sinh, ông
Đặng Văn Mười sống cùng với các con đến năm 1985 thì qua đời
do tuổi già, sức yếu. Các con, cháu của mẹ Ngân đều sinh sống ở
xã Phú Hữu với công việc chính là làm nông.
288

29.9 Page 289

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mẹ Châu Thị Ngân được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày
26.9.2014. Hiện, mẹ được con trai Đặng Văn Nguyệt thờ phụng
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
289

29.10 Page 290

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Vở
(1906 - 1996)
Mẹ Lê Thị Vở sinh năm 1906 tại xã
Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai.
Mẹ Lê Thị Vở có hai người con đi
bộ đội, cả hai đều hy sinh trên đường làm
nhiệm vụ. Đó là liệt sĩ Nguyễn Văn Rớt
(sinh năm 1930) hy sinh năm 1949 và liệt
sĩ Nguyễn Văn Kèn (sinh năm 1923) hy
sinh năm 1954. Theo lời kể của con gái mẹ là Lê Thị Bán, ngày
các con trai lên đường, mẹ cứ thế lẽo đẽo đi theo. Nhưng chỉ đi
được một đoạn thì bị con kiên quyết mong mẹ quay về. Mẹ nuốt
nước mắt dừng chân nhìn con khuất bóng. Hai lần nhận giấy báo
tử của con, mẹ Vở lúc thì ngất lịm, lúc gần như phát điên, nhưng
cha còn suy sụp và bi quan hơn thế nên mẹ luôn là người gượng
đứng dậy làm điểm tựa cho gia đình.
Sau năm 1975, mẹ tiếp tục làm nông, nuôi dạy con cháu và
tham gia vào các hoạt động địa phương. Mẹ Vở có sức khỏe dẻo
dai, chăm chỉ, làm việc gì cũng nhanh và khéo, kể cả đến lúc già
vẫn độc lập lo cuộc sống của mình. Những năm cuối đời, mẹ yếu
hẳn, mắt không còn nhìn rõ nên mới chịu nhận sự chăm sóc của
con cái.
Trước sự cống hiến, hy sinh to lớn của mẹ Vở, Chủ tịch
nước đã truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện, con
gái Nguyễn Thị Bán thờ phụng mẹ tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
290

30 Pages 291-300

▲back to top


30.1 Page 291

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Chiếm
(1914 - 2005)
Mẹ Nguyễn Thị Chiếm sinh năm
1914 tại ấp Phước Lương, xã Phú Hữu,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Sau khi lập gia đình, mẹ Chiếm
phát huy truyền thống yêu nước của quê
hương đã động viên con trai Lê Văn
Đành (sinh năm 1947) và Lê Văn Cảnh
(sinh năm 1949) lên đường nhập ngũ. Mẹ
Chiếm vừa lao động, sản xuất vừa tích trữ lương thực, thuốc men
rồi tranh thủ thời gian mang vào nơi anh Đành, anh Cảnh đóng
quân cho bộ đội. Năm 1967, mẹ Chiếm nhận được tin anh Đành
hy sinh khi làm nhiệm vụ chiến đấu.
Rồi cuộc chiến bước vào giai đoạn khó khăn, khi quân và
dân ta chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968. Cũng trong chiến dịch Mậu Thân này, mẹ Chiếm lại
hay tin con trai Lê Văn Cảnh hy sinh. Thêm một lần lòng mẹ quặn
thắt, mẹ không bao giờ gặp lại những người con thân yêu.
Đất nước thống nhất, mẹ Nguyễn Thị Chiếm tiếp tục làm
nông, sống cùng con cháu tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch.
Theo lời con cháu của mẹ kể, trong cuộc sống thường ngày, mẹ
luôn răn dạy các con, cháu phải luôn phát huy truyền thống của
gia đình cách mạng, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Không chỉ tích cực lao động, sản xuất, phát
triển kinh tế mà gia đình của mẹ nhiều năm liền đạt danh hiệu gia
đình văn hóa. Các con cháu của mẹ luôn kính trên nhường dưới,
291

30.2 Page 292

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
sống hòa đồng, thân thiện với xóm làng. Những năm cuối đời, mẹ
sống vui vẻ, hạnh phúc cùng với gia đình con trai Lê Văn Hai.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện, mẹ được con trai Lê Văn Hai thờ cúng tại ấp Phước Lương,
xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
292

30.3 Page 293

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Kiều
(1912 - 1992)
Mẹ Nguyễn Thị Kiều sinh năm
1912 tại xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Sinh ra trong một gia đình nông dân
nghèo, từ nhỏ mẹ Kiều phải lao động vất
vả để kiếm sống cơ cực như mọi người
phụ nữ nghèo tại vùng quê Nhơn Trạch.
Lớn lên, mẹ lập gia đình cùng với người
cùng quê, sinh hạ được 8 người con cả trai lẫn gái. Cuối 1945, giặc
Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ. Năm 1946, giặc Pháp đã tràn về
Nhơn Trạch, xóm làng xao xác, nhân dân tiếp tục sống trong cảnh
loạn lạc, bom đạn giặc ngày đêm giết hại dân lành. Mẹ Kiều đã
cùng bà con xóm ấp thường lui tới các đơn vị bộ đội tiếp tế quần
áo, gạo và thuốc men.
Cùng với đó, mẹ Kiều động viên con, cháu tham gia kháng
chiến. Hai con trai của mẹ là Trần Hoài Lâm (sinh năm 1946) và
Trần Văn Bảy (sinh năm 1948) vào bộ đội rồi hy sinh trong trận
đánh ở Nhơn Trạch năm 1970.
Theo lời kể của ông Trần Văn Tám (con trai mẹ Kiều), sau
khi các anh vào bộ đội, ông Tám ở nhà cùng mẹ làm ruộng và
nuôi các em. Tuy nhiên, khi ông được 18 tuổi, ông bị quân địch
bắt, đánh đập, tra tấn nhằm bắt ông phải khai địa điểm hoạt động
của các anh trai. Không lấy được nguồn tin, quân địch đưa ông
về giam 2 tháng ở Biên Hòa. Những ngày ông bị giam, mẹ Kiều
thường xuyên đi bộ vào thăm nuôi ông, đồng thời đấu tranh với kẻ
địch để ông nhanh chóng được thả ra.
293

30.4 Page 294

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 kết
thúc thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn độc lập. Mẹ Kiều trở về với
cuộc sống đời thường, tiếp tục nuôi dạy con cháu, ra sức tăng gia
sản xuất. Mẹ Kiều sống giản dị, gần gũi với bà con, làng xóm. Mẹ
tích cực tham gia công tác phụ nữ ấp, hòa giải các gia đình tưởng
như tan vỡ trở lại hạnh phúc, sum vầy. Do tuổi già, sức yếu mẹ qua
đời năm 1992, hưởng thọ 80 tuổi.
Với thành tích trong kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị Kiều được
tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba theo Quyết định số 69/
QĐ-HĐNN ngày 11.7.1985. Đến năm 2014, mẹ được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện, con trai Trần Văn Tám thờ
phụng mẹ tại xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
294

30.5 Page 295

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Là
(1921 - 1965)
Mẹ Nguyễn Thị Là sinh năm 1921
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Theo lời kể của những người dân
địa phương, mẹ Nguyễn Thị Là có cuộc
sống giản dị, chịu thương, chịu khó. Ở xã
Phú Hữu, ai có việc gì cần mẹ giúp đỡ là
mẹ rất nhiệt tình, không kể trời nắng hay
mưa, ban ngày hay ban đêm. Mẹ làm lụng vất vả nuôi con lớn
khôn. Khi các con đến tuổi trưởng thành, vì lâm bệnh nặng, không
có điều kiện để chữa trị, mẹ Nguyễn Thị Là mất năm 1965.
Những năm 60, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước
vào giai đoạn khó khăn, ác liệt. Con gái mẹ là Lê Thị Chương
(sinh năm 1948) cùng thanh niên trong xã Phú Hữu tham gia du
kích ngay tại địa phương. Trong một lần tập kích (năm 1969), chị
Lê Thị Chương bị thương nặng và hy sinh. Tiếp nối truyền thống
cách mạng của chị gái, người con trai lớn của mẹ là anh Lê Văn
Biết (sinh năm 1951) lên đường tham gia cách mạng. Chiến tranh
ác liệt một lần nữa đã cướp đi người con trai yêu quý của mẹ khi
anh vừa tròn 19 tuổi.
Một người mẹ có 2 người con đều đã cống hiến trọn vẹn tuổi
thanh xuân cho thắng lợi của cuộc kháng chiến anh dũng. Tôn vinh
những đóng góp của mẹ cho sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch nước
đã truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn
Thị Là theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện,
con gái Nguyễn Thị Khéo thờ phụng mẹ tại ấp Phước Lương, Phú
Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
295

30.6 Page 296

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Nhiều
(1893 - 1978)
Mẹ Nguyễn Thị Nhiều sinh năm
1893 tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong thời kỳ kháng chiến, mẹ
Nhiều hoạt động trên địa bàn quan trọng
Nhơn Trạch nơi có Chiến khu Rừng Sác.
Trong giai đoạn khó khăn gian khổ ấy,
không quản ngại hiểm nguy do kẻ thù
thường xuyên vây ráp, khủng bố, cùng với nhiều phụ nữ khác
trong xã, mẹ Nhiều đã tích cực tham gia đóng góp lương thực,
thực phẩm nuôi giấu cán bộ, du kích đánh địch.
Mẹ Nguyễn Thị Nhiều sớm kết hôn và có 8 người con, trong
đó, có 5 người đi bộ đội và tham gia du kích ở địa phương. Nhiều
người từng bị địch bắt, đánh đập tù đày. Sau khi được thả ra, họ
tiếp tục tham gia du kích rồi hy sinh khi đang trên đường làm
nhiệm vụ. Đó là liệt sĩ Hoàng Văn Độ, hy sinh 1947 và liệt sĩ
Hoàng Thị Thích hy sinh năm 1953.
Mẹ Nguyễn Thị Nhiều là người phụ nữ đã sống qua 2 cuộc
kháng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cả cuộc đời mẹ sẵn
sàng hiến dâng những điều quý giá nhất cho hòa bình, thống nhất
đất nước. Khi Tổ quốc cần, mẹ không ngần ngại đưa tiễn chồng,
con ra lên đường làm nhiệm vụ.
Đất nước hòa bình cũng là lúc tuổi mẹ đã già (hơn 80 tuổi).
Vào thời điểm đó, mẹ Nhiều sống cùng 6 người con còn lại tại
xã Phú Thạnh. Sau khi mẹ mất, các con, cháu của mẹ cùng nhau
thờ phụng và lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống gia đình. Do
296

30.7 Page 297

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
tuổi già, sức yếu và bệnh tật, cả 6 người con của mẹ Nhiều đều đã
mất.
Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện, cháu
nội Hoàng Minh Phụng thờ phụng mẹ tại xã Phú Thạnh, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
297

30.8 Page 298

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Vảng
(1924 - 2005)
Mẹ Nguyễn Thị Vảng sinh năm
1924, tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Xuất thân trong một gia đình nông
dân nghèo, lại sống trong hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh, đến tuổi đôi mươi,
mẹ Vảng lấy chồng là người cùng quê.
Hai vợ chồng mẹ Vảng có cùng suy nghĩ
là quyết tâm tham gia cách mạng nên mẹ luôn đảm đang, tảo tần,
lam lũ một đời nuôi chồng, nuôi con, nuôi bộ đội. Không chỉ cung
cấp các vật dụng thiết yếu cho bộ đội như thức ăn, thuốc men,
mùng mền phục vụ trong các vùng căn cứ mà mẹ còn động viên
thêm 2 con trai vào căn cứ, cùng bộ đội đánh đuổi thực dân, đế
quốc xâm lược.
Để chồng và con yên tâm chiến đấu, ban ngày mẹ tranh thủ
đi làm thuê mướn, ban đêm mẹ cuốc đất khai hoang để trồng lúa
mùa. Trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968, con trai thứ mẹ là
Nguyễn Văn Do (sinh năm 1948) khi đó mới 20 tuổi đã ngã xuống
trên đường làm nhiệm vụ. Nghe tin con hy sinh, mẹ rất đau buồn
nhưng không dám thổ lộ vì sợ nhiều “tai mắt” của địch chú ý. Chỉ
một năm sau, con trai cả Nguyễn Văn Bang (sinh năm 1945) hy
sinh khi đang chiến đấu chống lại sự truy quét của quân địch.
Với đức tính anh hùng, bất khuất, đảm đang và lòng yêu
nước, Nguyễn Thị Vảng được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN
ngày 26.9.2014. Đây là niềm vui, niềm tự hào lớn đối với mẹ. Đó
298

30.9 Page 299

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước đối với những công lao, đóng
góp của mẹ trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc. Hiện, mẹ
Nguyễn Thị Vảng được cháu Nguyễn Thanh Tùng thờ phụng tại
ấp Cát Lát, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
299

30.10 Page 300

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phạm Thị Thất
(1923 - 1999)
Mẹ Phạm Thị Thất sinh năm 1923
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Mẹ Phạm Thị Thất xuất thân trong
một gia đình nông dân nghèo, ruộng đất
rất ít. Thời thơ ấu, mẹ vừa làm ruộng vừa
phải đi làm thuê phụ giúp cha mẹ kiếm
tiền. Khi trưởng thành, mẹ Phạm Thị
Thất đã ý thức được thân phận của người dân mất nước bị đè nén,
bất công và luôn mong ước một ngày, cách mạng sẽ vùng lên đánh
đuổi thực dân Pháp. Những năm kháng chiến, mẹ cùng với nhân
dân địa phương giúp đỡ bộ đội và du kích, động viên con trai lên
đường nhập ngũ.
Năm 1968, người con cả của mẹ là anh Nguyễn Văn Lợi
(sinh năm 1948), đã anh dũng hy sinh. Đó là nỗi đau đầu tiên của
mẹ. Khi nỗi đau ấy chưa kịp nguôi ngoai thì năm 1969, người con
thứ của mẹ là anh Nguyễn Lộc (sinh năm 1951) cũng đã anh dũng
hy sinh. Trước nỗi mất mát không gì bù đắp được đó, mẹ tưởng
như không gượng dậy được nữa. Nhưng nhờ sự động viên của
chính quyền, đoàn thể, làng xóm và gia đình, mẹ Thất đã gắng
sống với các cháu của mình, chờ ngày đất nước thống nhất, bằng
tất cả sức lực còn lại của một người mẹ có 2 người con mãi mãi đi
xa không bao giờ trở lại.
Những năm 1970 - 1975, mẹ lại Thất tiếp tục vận động bà
con xã Phú Hữu đấu tranh với giặc, ngày đêm bám trụ giữ làng,
cung cấp thực phẩm nuôi bộ đội ở vùng căn cứ. Hòa bình lập lại,
300

31 Pages 301-310

▲back to top


31.1 Page 301

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
mẹ sống vui vẻ, hạnh phúc trong sự yêu thương của con cháu, sự
gần gũi của làng xóm. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày
26.9.2014. Hiện, con trai út Trương Văn Ngôi (sinh năm 1965) thờ
phụng mẹ tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
301

31.2 Page 302

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Như
(1919 - 2008)
Mẹ Trần Thị Như sinh năm 1919,
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Năm 20 tuổi, mẹ Nguyễn Thị Như
lập gia đình với người chồng cùng xã
Nguyễn Văn Nhiều. Trong kháng chiến,
chồng mẹ và 2 con trai lên đường nhập
ngũ. Ở nhà, mẹ vừa làm ruộng, vừa tích
trữ lương thực, thuốc men mang vào vùng căn cứ cho chồng cùng
đồng đội. Theo lời kể của anh Nguyễn Văn Quây (con trai mẹ), mẹ
Như có vóc người cao lớn. Mẹ làm nhiều việc, từ trồng lúa đến đi
rừng, may vá, dệt vải... Những năm mất mùa đói kém, giặc Pháp
kiểm soát gắt gao, mẹ lại lên rừng tìm củ, lá cây, thức ăn lo cho
các con và sát cánh bên chồng làm cách mạng những mong giành
lại độc lập, tự do cho đất nước.
Mỗi lần mang lương thực vào vùng căn cứ cho chồng, con
và cho bộ đội, mẹ Như phải vượt qua nhiều chốt chặn của địch,
nhưng không vì thế mà mẹ nao núng. Mỗi lần tiếp tế cho bộ đội
là một lần mẹ đấu trí với kẻ thù và miệt mài bám chân trần trên đá
sỏi để băng rừng... Năm 1947, mẹ nhận tin chồng hy sinh khi đang
trên đường làm nhiệm vụ. Nỗi đau vừa nguôi ngoai, mẹ lại liên tục
nhận giấy báo tử của các con là liệt sĩ Nguyễn Văn Bé (sinh năm
1946) hy sinh năm 1971 và liệt sĩ Nguyễn Văn Tý, hy sinh 1973.
Sau ngày độc lập, mẹ Trần Thị Như sống cùng con cháu tại
xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch. Trong cuộc sống đời thường, mẹ
sống hiền lành, chịu thương chịu khó, được làng xóm yêu quý,
302

31.3 Page 303

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
kính trọng. Gia đình mẹ nhiều năm liền đạt danh hiệu gia đình văn
hóa. Mẹ được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện, ông Nguyễn Văn Quây (sinh năm 1943) thờ phụng mẹ tại
ấp Câu Kê xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
303

31.4 Page 304

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chuộng
(1934 - 1964)
Mẹ Nguyễn Thị Chuộng sinh năm
1934 và mất ngày 20.3.1964, nguyên
quán tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Mẹ Chuộng sinh ra và lớn lên trên
quê hương có truyền thống đấu tranh
cách mạng từ lâu đời. Mẹ Chuộng sớm
giác ngộ và tham gia hoạt động nuôi giấu
bộ đội trong suốt thời kỳ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 - 1954). Trong thời gian này, mẹ lập gia đình với một nông
dân hiền lành chất phác cùng xã.
Mẹ Nguyễn Thị Chuộng sinh được một người con trai tên là
Trương Văn Cu. Sau khi lập gia đình, anh Cu vào bộ đội. Ở nhà,
với sự mưu trí, khôn khéo, mẹ Chuộng cùng bà con cơ sở chuyển
ra vùng căn cứ giải phóng nhiều tấn lương thực, thực phẩm, thuốc
men tiếp tế cho cách mạng, góp phần đáng kể vào thắng lợi của sự
nghiệp chống Mỹ ở địa phương. Năm 1975, anh Trương Văn Cu
chiến đấu và hy sinh tại vùng quê hương Nhơn Trạch trong Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ghi nhận đóng góp cao cả và cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng, mẹ Nguyễn Thị Chuộng được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN
ngày 1.12.2015. Hiện, cháu nội Trương Thanh Bình thờ phụng mẹ
tại ấp Cát Lái, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
304

31.5 Page 305

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Đâu
(1916 - 1997)
Mẹ Trần Thị Đâu sinh năm 1916
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch - một
vùng đất có truyền thống kháng chiến. Vì
thế, như bao người dân xã Phú Hữu khác,
mẹ Đâu sớm giác ngộ cách mạng, có lòng
yêu nước chống ngoại xâm. Mẹ kết hôn
với ông Nguyễn Văn Trưa, người cùng
quê và cũng cùng chung cảnh ngộ, chung
chí hướng.
Trong suốt 2 thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, cả gia đình mẹ Đâu đều góp sức cho cách mạng theo
khả năng của mình. Chồng và các con mẹ Đâu đều thoát ly tham
gia cách mạng, bản thân mẹ Đâu thì tiếp tế lương thực thực phẩm,
làm giao liên đưa tin tức, nuôi giấu cán bộ. Năm 1968, cùng lúc
mẹ nhận 2 tin dữ: chồng mẹ, ông Nguyễn Văn Trưa và con trai Lê
Văn Tây (sinh năm 1946) đều hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Sau
ngày đất nước thống nhất, chồng và con mẹ Đâu được công nhận
liệt sĩ (Bằng Tổ quốc ghi công số EM.093m và 5P.603b).
Mẹ Trần Thị Đâu qua đời ngày 8.9.1997. Hiện người con trai
Nguyễn Văn Đông thờ cúng mẹ tại ấp An Xuân, xã Long Hưng,
thành phố Biên Hòa. Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 945/QĐ-CTN ngày 16.5.2016.
305

31.6 Page 306

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Thậm
(1914 - 1960)
Mẹ Nguyễn Thị Thậm, tên thường
gọi là mẹ Sáu, sinh năm 1914, nguyên
quán tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai và mất vào ngày
17.3.1960 tại ấp Trầu, xã Phước Thiền.
Hiện nay con của mẹ là ông Nguyễn Văn
Xong đang thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Trong kháng chiến (từ năm 1948
đến năm 1951), mẹ đã trực tiếp vận động nhân dân đóng góp gạo
và tiếp tế lương thực nuôi quân tại địa phương. Mẹ có 02 người
con là liệt sỹ: Liệt sỹ Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1939, chức vụ
Tểu đội trưởng - Đoàn 10 Rừng Sác, hy sinh vào ngày 24.11.1968
khi tham gia trận đánh tại Đồng Tranh, Nhơn Trạch và liệt sỹ
Nguyễn Văn Bon, sinh năm 1944, chức vụ Trung đội phó CT9 Sư
9 Biên Hòa, hy sinh vào tháng 10.1968 khi tham gia trận đánh tại
Tân Uyên, Biên Hòa.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014, mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
306

31.7 Page 307

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Võ Thị Sáu
(1906 - 1944)
Mẹ Võ Thị Sáu sinh năm 1906,
nguyên quán ở ấp Trầu, xã Phước Thiền,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai và mất
năm 1944. Hiện nay cháu của mẹ là bà
Nguyễn Thị Ngọc Anh đang thờ cúng mẹ
tại quê nhà.
Mẹ Võ Thị Sáu có 2 người con là
liệt sỹ, đã anh dũng hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Nguyễn Văn Bê,
sinh năm 1934, chức vụ Trưởng ban Nông hội, hy sinh vào ngày
4.5.1969 trên đường đi công tác và liệt sỹ Nguyễn Văn Vinh, hy
sinh vào ngày 28.3.1963.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 Mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
307

31.8 Page 308

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bé
(1910 - 1999)
Mẹ Nguyễn Thị Bé sinh năm 1910
tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai và mất vào ngày 03.8.1999
tại ấp Bến Sắn, xã Phước Thiền.
Mẹ có 2 người con tham gia kháng
chiến và đã hy sinh khi đang làm nhiệm
vụ. Đó là liệt sỹ Nguyễn Văn Quốc, sinh
năm 1940, chức vụ Thượng sỹ Quân đội
nhân dân Việt Nam, hy sinh vào ngày 23.12.1968 và liệt sỹ Nguyễn
Văn Thanh, sinh năm 1947, chức vụ Tiểu đội phó Quân đội nhân
dân Việt Nam, hy sinh vào ngày 20.7.1967.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
Hiện nay, con của mẹ là bà Nguyễn Thị Dung đang thờ
phụng mẹ tại quê nhà ở xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
308

31.9 Page 309

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mai Thị Hiện
(1915 - 2003)
Mẹ Mai Thị Hiện sinh năm 1915
và từ trần vào ngày 18.4.2003, nguyên
quán tại ấp Bến Cam, xã Phước Thiền,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là ông Nguyễn Văn Lộc
đang thờ cúng mẹ tại quê nhà ở xã Phước
Thiền.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ
đã tham gia tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi quân. Theo lời kể
từ con của mẹ thì sinh thời mẹ luôn quan niệm và nhắc nhở con
cái, người thân trong gia đình dù khó khăn nhưng hãy yêu nước,
yêu đồng bào mình, giữ vững độc lập dân tộc.
Cuối năm 1969, mẹ đã phải nén đau thương khi nhận được
tin báo tử của người con yêu dấu hy sinh trong khi tham gia chiến
đấu là liệt sỹ Nguyễn Văn Hiếu, hy sinh vào ngày 18.11.1969.
Đầu năm sau, nỗi đau của mẹ lại nhân lên khi tiếp tục nhận tin báo
tử của người con thứ hai là liệt sỹ Nguyễn Thanh Nhàn, hy sinh
vào ngày 11.01.1970 trong khi tham gia kháng chiến chống Mỹ.
Vì có những đóng góp và công hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
309

31.10 Page 310

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Trừng
(1920 - 1992)
Mẹ Lê Thị Trừng sinh năm 1920 và
mất ngày 23.6.1992, nguyên quán tại ấp
Bến Cam, xã Phước Thiền, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, con rể
của mẹ là ông Nguyễn Văn Thương đang
thờ phụng mẹ tại quê nhà ấp Bến Cam, xã
Phước Thiền.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ
đã tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi quân; tham gia nuôi dưỡng
cán bộ Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định. Mẹ có 2 người con là liệt
sỹ, đều hy sinh tại xã Phú Hội khi tham gia kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Lý Minh Tiến, sinh năm 1942, chức vụ
Trung sỹ quân đội, hy sinh vào ngày 6.2.1968 và liệt sỹ Huỳnh Thị
Cư, sinh năm 1951, là dân công, hy sinh vào ngày 26.4.1963.
Mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
310

32 Pages 311-320

▲back to top


32.1 Page 311

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Dương
(1907 - 1987)
Mẹ Nguyễn Thị Dương sinh năm
1907 và mất ngày 11.8.1987 tại ấp Bến
Cam, xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, con dâu của mẹ
là bà Nguyễn Thị Phênh đang thờ phụng
mẹ tại quê nhà ở xã Phước Thiền.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ
đã tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi
quân. Mẹ Nguyễn Thị Dương có 02 người con là liệt sỹ: Liệt sỹ
Đặng Văn Tạo, sinh năm 1931, là du kích, hy sinh vào năm 1952
khi tham gia chiến đấu tại cầu Gành, Biên Hòa và liệt sỹ Đặng
Văn Chấn, sinh năm 1942, là du kích, hy sinh vào năm 1962 khi
tham gia kháng chiến chống Mỹ.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn Thị
Dương.
311

32.2 Page 312

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Thâu
(1904 - 1945)
Mẹ Huỳnh Thị Thâu sinh năm 1904
và mất vào ngày 30.10.1945, nguyên
quán tại ấp Bến Cam, xã Phước Thiền,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là ông Nguyễn Văn Ách
đang thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Trong kháng chiến, mẹ đã tham gia
tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi quân.
Lúc còn sống mẹ luôn quan niệm dù khó khăn nhưng hãy yêu
nước, yêu đồng bào mình, giữ vững độc lập dân tộc.
Liệt sĩ Nguyễn Văn Bê, chức vụ Phó công an xã, hy sinh khi
tham gia kháng chiến chống Pháp và liệt sĩ Nguyễn Thanh Nhàn,
sinh năm 1943, hy sinh vào năm 1973 trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ tại ấp Trầu, xã Phước Thiền là 2 người con trai thân yêu
của mẹ Huỳnh Thị Thâu.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
312

32.3 Page 313

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Hóa
(1914 - 2003)
Mẹ Nguyễn Thị Hóa sinh năm 1914
và qua đời vào ngày 29.3.2003 tại ấp Bến
Cam, xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, con của mẹ là
bà Nguyễn Thị Mai đang thờ phụng mẹ
tại quê nhà.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ
đã tham gia tiếp tế lương thực, thực phẩm
nuôi quân. Mẹ có chồng là liệt sỹ Phạm Văn Ghi, sinh năm 1916,
là cán bộ kinh tài xã, hy sinh vào năm 1950 khi tham gia kháng
chiến chống Pháp. Con trai mẹ là liệt sỹ Phạm Văn Rai, sinh năm
1939, chức vụ Xã đội phó, hy sinh vào năm 1968 khi tham gia
kháng chiến chống Mỹ tại xã Phước Nguyên (cũ), huyện Long
Thành.
Ngày 26.9.2014, mẹ đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng vào theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN.
313

32.4 Page 314

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Nhỏ
(1905 - 1988)
Mẹ Phan Thị Nhỏ sinh năm 1905
tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch và
mất vào ngày 22.11.1988, tại ấp Trầu,
xã Phước Thiền, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, cháu ngoại của mẹ là bà Huỳnh Thị
Nhiên sống tại ấp Trầu, xã Phước Thiền
đang thờ cúng mẹ.
Mẹ Phan Thị Nhỏ có 2 người con là
liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Lê Văn Quyền, sinh năm 1940, chức vụ Tiểu
đội phó và liệt sỹ Lê Văn Phước, sinh năm 1952, là đội viên du
kích. Cả 2 người con của mẹ đều hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ
cứu nước.
Mẹ Phan Thị Nhỏ đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN.
314

32.5 Page 315

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Ngọt
(1906 - 1962)
Mẹ Phạm Thị Ngọt sinh năm 1906
tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch
và mất ngày 30.5.1962 tại ấp Trầu, xã
Phước Thiền. Hiện nay, cháu nội của mẹ
là ông Phan Quyết Thắng đang thờ cúng
mẹ tại quê nhà.
Mẹ Phạm Thị Ngọt có 2 người con
là liệt sỹ: Liệt sỹ Phan Văn Đáo, sinh năm
1931, chức vụ Thượng úy Quân đội nhân dân Việt Nam, hy sinh
vào năm 1967 và liệt sỹ Phan Văn Bảy, sinh năm 1939, là đội viên
du kích, hy sinh vào ngày 20.1.1962. Cả 2 người con của mẹ đều
hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Phạm Thị Ngọt.
315

32.6 Page 316

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Mười
(1906 - 2000)
Mẹ Lê Thị Mười sinh năm 1906 tại
xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch và
mất vào ngày 1.10.2000 tại ấp Trầu, xã
Phước Thiền. Hiện nay, cháu nội của mẹ
là bà Huỳnh Thị Chúc đang thờ cúng mẹ
tại xã Phước Thiền.
Trong kháng chiến, mẹ tham gia
tiếp tế lương thực cho cách mạng. Mẹ có
2 người con là liệt sỹ, đều hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước: Liệt sỹ Nguyễn Thị Lợi, là đội viên du kích, hy sinh vào
ngày 22.7.1965 và liệt sỹ Nguyễn Văn Châu, là Thiếu úy Quân đội
nhân dân Việt Nam, hy sinh vào ngày 10.6.1967.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
316

32.7 Page 317

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Bùi Thị Bờ
(1913 - 2005)
Mẹ Bùi Thị Bờ sinh năm 1913,
nguyên quán ở xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch. Mẹ mất vào ngày 15.1.2005 tại
ấp Bến Cam, xã Phước Thiền, huyện
Nhơn Trạch. Hiện nay, con của mẹ là ông
Nguyễn Văn Dễ sống tại ấp Bến Cam
đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ
tham gia tiếp tế lương thực, thực phẩm nuôi quân. Mẹ có 2 người
con là liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Đó là liệt sỹ Nguyễn Văn Lô, chức vụ Tểu đội trưởng, hy
sinh vào năm 1970 tại Nhà tù Côn Đảo và liệt sỹ Nguyễn Chi
Lăng, làm Bí thư huyện, hy sinh vào năm 1973 trong khi tham gia
kháng chiến tại xã Long Tân, huyện Long Thành.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
317

32.8 Page 318

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chiều
(1895 - 1949)
Mẹ Nguyễn Thị Chiều, tên thường
dùng là Nguyễn Thị Thi, sinh năm 1895
và từ trần vào ngày 6.4.1949 tại xã Phước
Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện nay, cháu của mẹ là ông Lê Văn
Hùng đang thờ cúng mẹ tại quê nhà ở ấp
Bến Sắn, xã Phước Thiền.
Mẹ Nguyễn Thị Chiều đã động viên
các con tham gia hoạt động cách mạng và hai người con của mẹ đã
hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là liệt sỹ Lê Thị Em, sinh
năm 1932, hy sinh vào ngày 15.8.1957 và liệt sỹ Lê Thị Mành,
sinh năm 1929, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp
do bị Pháp bắt và bắn chết.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
318

32.9 Page 319

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mã Thị Khương
(1913 - 2005)
Mẹ Mã Thị Khương sinh năm 1912
và mất năm 2005 tại xã Phước Thiền,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là ông Trần Minh Việt
đang thờ cúng mẹ tại quê nhà ở ấp Bến
Sắn, xã Phước Thiền.
Trong kháng chiến, mẹ Mã Thị
Khương đã tham gia tiếp tế lương thực
cho cách mạng. Người bạn đời của mẹ là liệt sỹ Trần Ngọc Kiên,
sinh năm 1912, Xã đội trưởng, hy sinh vào năm 1953 tại xã Long
Tân, huyện Nhơn Trạch trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Mẹ một mình tần tảo nuôi các con nhỏ. Khi trưởng thành, mẹ đã
động viên, tiễn đưa các lên đường nhập ngũ tham gia kháng chiến
chống Mỹ và có 2 người con đã hy sinh là liệt sỹ Trần Ngọc Khải,
sinh năm 1944, Trung sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam, hy sinh
vào năm 1970 tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch và liệt sỹ Trần
Ngọc Khởi, sinh năm 1947, Thượng sỹ Quân đội nhân dân Việt
Nam, hy sinh vào năm 1966 tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch.
Những cống hiến và công lao to lớn của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, ngày 11.7.1985, mẹ được tặng thưởng Huân
chương Độc lập hạng Ba và ngày 23.3.1997 mẹ đã được Chủ tịch
nước ra quyết định phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 1306/KTCTN.
319

32.10 Page 320

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Ai
(1909 - 1970)
Mẹ Nguyễn Thị Ai sinh năm 1909
tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Do bệnh nặng, mẹ đã qua
đời vào năm 1970 và hiện cháu của mẹ
là bà Nguyễn Thúy Nga đang thờ cúng
mẹ tại quê nhà ở ấp Bến Sắn, xã Phước
Thiền.
Trong kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị
Ai đã tham gia tiếp tế lương thực cho cách mạng. Bên cạnh đó, mẹ
cũng động viên người con trai duy nhất lên đường tham gia hoạt
động cách mạng và đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Đó
là liệt sĩ Nguyễn Quang Vinh, sinh năm 1930, là Bí thư chi bộ xã
Phước Thiền, hy sinh vào ngày 19.9.1961.
Năm 1997, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 1306/KT-CTN ngày 23.7.1997 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn Thị Ai.
320

33 Pages 321-330

▲back to top


33.1 Page 321

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Võ Thị Én
(1915 - 2014)
Mẹ Võ Thị Én sinh năm 1915 và
mất vào ngày 27.5.2014 tại quê nhà ở ấp
Bến Cam, xã Phước Thiền, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, con của
mẹ là ông Trần Văn Hùng đang thờ phụng
mẹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, mẹ
đã tham gia tiếp tế lương thực, thực phẩm
nuôi quân. Mẹ có 02 người con là liệt sỹ, hy sinh trong khi tham
gia kháng chiến chống Mỹ: Liệt sỹ Võ Văn Cảm, là giao bưu
huyện, hy sinh vào năm 1968 và liệt sỹ Võ Văn Hai, làm giao liên
tỉnh, hy sinh vào năm 1968 tại thị xã Long Khánh.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Võ Thị Én danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
321

33.2 Page 322

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Rớt
(1932 - 1995)
Mẹ Nguyễn Thị Rớt sinh năm 1932
tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, kẻ
thù dày xéo quê hương, sớm giác ngộ
cách mạng, hai người con yêu dấu của
mẹ Nguyễn Thị Rớt là liệt sĩ Hồ Cẩm
Bào và liệt sĩ Hồ Lăng Tròn đã tham gia
công tác các mạng và anh dũng hy sinh.
Mẹ Nguyễn Thị Rớt qua đời năm 1995. Hiện nay, cháu của
mẹ là bà Hồ Thị Đẫm, cư trú tại khu Cầu Xéo, thị trấn Long Thành,
huyện Long Thành đang thờ cúng mẹ.
Ngày 01.12.2015, mẹ Nguyễn Thị Rớt đã được Nhà nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định
số 2679/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
322

33.3 Page 323

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Trước
(1920)
Mẹ Phạm Thị Trước sinh năm 1920
tại xã Tam An, huyện Long Thành, sau đó
gia đình mẹ chuyển về cư trú tại ấp Chợ,
xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Mẹ kết hôn với ông Lê Văn Dô,
người ở xã Tam An, chỉ có người con trai
duy nhất là liệt sĩ Lê Văn Be. Nhưng khi
con bày tỏ mong muốn được tham gia cách mạng để đánh đuổi đế
quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, góp phần đem lại hòa bình cho
đất nước, mẹ đã vui vẻ tiễn con đi thoát ly. Lê Văn Be vào du kích
xã, nhiều lần cùng đồng đội diệt ác phá kềm. Từ khi con đi, mẹ
Trước làm việc nhiều hơn, sống tiết kiệm hơn để dành dụm tiếp tế
cho con mỗi khi con cùng đồng đội về ghé ngang nhà hay những
lúc đi thăm con. Năm 1968, trong một lần xâm nhập đồn Phước
Thiền để trinh sát cho trận đánh phối hợp, Lê Văn Be hy sinh.
Hiện nay, mẹ Trước sống cùng người cháu là Phạm Thiện
Nhân tại ấp Chợ, xã Phước Thiền. Mẹ Trước hiền lành, sống chan
hòa với bà con lối xóm nên rất được mọi người yêu quý, kính
trọng.
Mẹ và gia đình được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập
hạng Ba, bằng số DK127-CP. Bản thân mẹ Trước được phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
438/KTCTN ngày 24.4.1995.
323

33.4 Page 324

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Hai
(1922 - 2014)
Mẹ Lê Thị Hai sinh năm 1922 và
mất vào ngày 3.1.2014 tại quê nhà ở xã
Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Hiện nay, mẹ đang được con
trai là ông Đặng Văn Hỏi thờ cúng tại ấp
Trầu, xã Phước Thiền.
Liệt sỹ Đặng Văn Sua, sinh năm
1953, là Xã đội phó xã Phước Thiền, hy
sinh vào ngày 24.6.1971 trong khi đánh đồn Bến Sắn, xã Phước
Thiền và liệt sỹ Đặng Văn Bụng, sinh năm 1956, hy sinh vào ngày
6.5.1972 trong khi tham gia đánh trận tại ấp Phú Mỹ, xã Phú Hội.
Đó là hai người con thân yêu của mẹ Lê Thị Hai đã hy sinh trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Những cống hiến và đóng góp hy sinh của mẹ đã được Đảng
và Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
324

33.5 Page 325

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Nhựt
(1923)
Mẹ Nguyễn Thị Nhựt sinh năm
1923 tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, mẹ đang
sinh sống cùng con gái là bà Nguyễn Thị
Kim Ngân tại quê nhà ở ấp Bến Sắn, xã
Phước Thiền.
Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt,
đứng trước cảnh nước mất nhà tan, mẹ
đã động viên, tiễn chân các con của mình lên đường nhập ngũ.
Mẹ Nguyễn Thị Nhựt có 2 người con là liệt sĩ, hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ: Liệt sĩ Trần Tấn Lộc, sinh năm 1920, hy
sinh vào ngày 19.6.1963 và liệt sĩ Trần Ngọc Sơn, sinh năm 1942,
hy sinh vào năm 1969. Trong kháng chiến, bản thân mẹ cũng tích
cực tham gia tiếp tế lương thực nuôi quân tại địa phương.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2392/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 phong tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
325

33.6 Page 326

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Diệp Thị Rông
(1925)
Mẹ Diệp Thị Rông sinh năm 1925
tại xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, mẹ đang sinh
sống tại ấp Bến Sắn, xã Phước Thiền với
con của mẹ là ông Nguyễn Ngọc Toàn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trường kỳ và anh dũng của dân
tộc, mẹ Diệp Thị Rông đã động viên các
con lên đường tham gia công tác cách mạng. Mẹ có 02 người con
là liệt sỹ, đều hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Đó là
liệt sỹ Nguyễn Thị Hồng Nghĩa, sinh năm 1944, hy sinh vào năm
1969 và liệt sỹ Nguyễn Văn Xong, sinh năm 1952, hy sinh vào
năm 1973.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã
phong tặng mẹ Diệp Thị Rông danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
326

33.7 Page 327

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Huỳnh Thị Hết
(1914 - 2016)
Mẹ Huỳnh Thị Hết sinh năm 1914 tại
tỉnh Long An và mất vào ngày 20.4.2016
tại ấp Bến Sắn, xã Phước Thiền, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay,
con của mẹ là bà Nguyễn Thị Qưởn sống
tại xã Phước Thiền đang thờ phụng mẹ.
Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, mẹ Huỳnh Thị Hết đã động viên
các con lên đường tham gia kháng chiến và có 02 người con của
mẹ đã anh dũng hy sinh. Đó là liệt sỹ Mai Văn Liêu, sinh năm
1940, hy sinh vào ngày 8.10.1969 và liệt sỹ Nguyễn Văn Sang,
sinh năm 1950, hy sinh vào ngày 25.8.1963. Trong kháng chiến,
bản thân mẹ cũng đã tích cực tham gia công tác cách mạng ở địa
phương, tiếp tế lương thực cho cách mạng để nuôi quân.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2392/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Huỳnh Thị
Hết.
327

33.8 Page 328

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Chẩm
(1908 - 1962)
Mẹ Huỳnh Thị Chẩm sinh năm
1908 và mất vào năm 1962 tại xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện nay, con của mẹ là bà Bùi Thị Huệ
đang thờ cúng mẹ tại quê nhà ở xã Phú
Hội.
Mẹ Huỳnh Thị Chẩm có chồng và
03 người con là liệt sỹ, hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chồng là liệt sỹ Bùi Văn Thể,
hy sinh vào năm 1970. Ba người con của mẹ lần lượt hy sinh trong
3 năm liên tiếp: liệt sỹ Bùi Văn Lơ, hy sinh vào năm 1969; liệt sỹ
Bùi Thị Diễn, hy sinh vào năm 1970 và liệt sỹ Bùi Văn Khê, hy
sinh vào năm 1971.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Huỳnh Thị Chẩm danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 1306/KT-CTN, ngày 23.7.1997 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
328

33.9 Page 329

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Kiển
(1896 - 1984)
Nguyễn Thị Kiển sinh năm 1896
ở xã Phước Long (nay là ấp 2, xã Long
Thọ) huyện Nhơn Trạch, thường được
gọi là má Hai Kiển. Má Kiển sinh ra, lớn
lên trong một gia đình thuần nông nghèo
khó, nếp nhà thanh sạch, trân trọng nghĩa
tình. Thôn nữ Hai Kiển hiền lành, giỏi
giang, thạo việc vườn ruộng, có lúc làm
giá gánh bộ đi bán nơi xa hàng chục cây số.
Tuổi thanh xuân, thôn nữ Hai Kiển gá nghĩa cùng trai làng
tên Trần Văn Đại, sinh 3 người con trai: Trần Văn Thụ, Trần Văn
Thiện, Trần Văn Thiệm. Duyên lành đứt đoạn, chẳng may ông
Trần Văn Đại khi đang lao động bị rắn cắn tử vong, để lại 3 con
thơ cho người vợ trẻ khi ấy mới 25 tuổi.
Duyên trời đưa đẩy, Hai Kiển đi bước nửa kết duyên cùng
Nguyễn Văn Tủ, người cùng làng, hạ sinh con trai Nguyễn Văn
Cơ và con gái Nguyễn Thị Cầu. Rồi người chồng Nguyễn Văn Tủ
cũng sớm ra đi vì bạo bệnh, người vợ trẻ Hai Kiển nặng gánh gia
đình với 5 con thơ dại.
Các con của má Kiển lớn lên trong vòng tay yêu thương của
má, trong hoàn cảnh giặc Pháp chiếm đóng, tàn phá xóm làng, sưu
cao thuế nặng. Các anh Trần Văn Thụ, Trần Văn Thiện sớm nhận
ra việc cần phải làm của trai làng, tham gia công việc cách mạng
giao, phục vụ kháng chiến. Anh Hai Trần Văn Thụ sinh năm 1910,
trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, là cán bộ công an
huyện Long Thành, hy sinh trong chiến đấu ngày 20.7.1947. Theo
329

33.10 Page 330

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
bước chân anh Hai Thụ, Trần Văn Thiện cũng tham gia kháng
chiến chống Pháp, cũng là chiến sĩ quả cảm ngành công an, hy
sinh ngày 14.5.1964 trong kháng chiến chống Mỹ. Nguyễn Văn
Cơ sinh năm 1924, tham gia công tác cách mạng từ nhỏ, làm công
tác cơ sở tại xã nhà, hy sinh ngày 6.7.1951 trong nhiệm vụ y tá
vùng chiến khu. Con trai má Trần Văn Thiệm cũng là cơ sở cách
mạng, cùng với má nuôi giấu cán bộ, phục vụ kháng chiến. Con
gái út của má là Nguyễn Thị Cầu sinh 1926, tham gia cách mạng
từ tháng 10 năm 1945, thoát ly vào chiến khu năm 1949, lấy tên
kháng chiến là Phan Thị Chi, bí danh Ba Chi. Nữ cán bộ Phan
Thị Chi được kết nạp Đảng ngày 3.9.1949 (vừa được Bí thư Tỉnh
ủy Đồng Nai trao huy hiệu 70 tuổi Đảng ngày 1.9.2020), trưởng
thành trong phong trào phụ nữ từ cơ sở đến Khu miền Đông, từng
làm nhiệm vụ Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Biên Hòa, Trưởng Văn
phòng Phụ nữ khu miền Đông.
Nói đến má Hai Kiển, người ta nhớ đến một phụ nữ thuần
hậu mà kiên cường, một người mẹ chiến sĩ bao dung, một cán bộ
cơ sở mưu trí, khôn khéo. Thời chống Pháp nhà má như là một cơ
quan an toàn của đơn vị quốc gia tự vệ cuộc, má làm công việc
như một “chánh văn phòng” chu đáo và hiệu lực.1
Chuyện kể rằng, từ tháng 5.1946, giặc Pháp đóng được bót
ở cầu Bà Ký và Phước Thọ, từ đó làm bàn đạp liên tục càn quét,
đánh phá ở Phước Long, làm cho phong trào cách mạng yếu đi.
Lúc bấy giờ, cơ quan Quốc gia tự vệ cuộc của xã do đồng chí Đình
Kim phụ trách, đóng quân tại nhà má Hai Kiển. Một lần, tên Hon
(Việt gian) ở Phước Lai đi ngang qua nhà má, thấy các anh làm
1  Thành tích của má Nguyễn Thị Kiển, sau ngày giải phóng 30.4.1975, đồng chí Nguyễn
Thanh Dương - Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa có xác nhận
tại văn bản ghi ngày 26.4.1982.
330

34 Pages 331-340

▲back to top


34.1 Page 331

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
việc, mắt hắn láo liên. Các anh gọi vào giáo dục rồi cho về. Sau
đó, tên Hon dẫn lính ở bót Chùa Bà Ký đến bao vây nhà má Hai,
các anh chạy khỏi. Má Hai Kiển về nhà phát hiện cặp tài liệu và
cây súng ngắn còn trong đống bao, má giấu đi, rồi giao lại nguyên
vẹn cho đơn vị. Sau trận càn bắt hụt cán bộ, giặc ở bót chùa Bà Ký
chưa chịu buông, thường xuyên cùng lính bót Phước Thọ rình rập
nhà má Hai, nhưng không làm gì được má.
Nhà má Hai thường là nơi đi về, ăn ở, tiếp xúc của cán bộ
huyện, xã. Nhiều kẻ phản bội từng ăn ở nhà má, khi chiêu hồi
thường dẫn lính đến nhà má lùng bắt cán bộ, tra vấn, gây áp lực
ép má khai báo. Tên Hà Tư -Bí thư Huyện ủy đóng ở căn cứ trong
rừng cũng thường công khai đến ở nhà má. Khi đầu hàng giặc, Hà
Tư dẫn lính đến nhà má Hai Kiển khủng bố tinh thần, yêu cầu má
gọi con về đầu hàng. Má Hai im lặng, kín đáo đem các vật dụng
liên quan đến cán bộ kháng chiến giấu trong vườn nhà. Lần thứ
hai, chúng lại kéo đến, xộc vô buồng nói là tìm các thứ mà hắn bỏ
quên, nhưng thực là để tìm manh mối để truy xét việc nuôi giấu
cán bộ của má. Không lung lạc được má, bọn chúng tiu nghỉu kéo
đi.
Lần thứ ba, Hà Tư lại đưa công an đến, lần này có tên Việt
gian nguy hiểm là Mười Hiếm vốn thông thạo mọi thứ ở Phước
Long. Hà Tư giới thiệu má Hai với Mười Hiếm. Được dịp, má Hai
tố cáo vạch mặt Hà Tư trước Mười Hiếm bằng lời lẽ ôn hòa nhưng
sắc bén, rằng Hà Tư là kẻ chẳng ra gì, đến nhà, được má và người
nhà quí trọng, giúp đỡ tận tình, giờ trở mặt hại người, đúng là kẻ
vô luân bại lý. Hà Tư bẻ mặt. Mười Hiếm lúng túng, nói lảng vài
câu, đưa má bức thư kêu gọi con má ra hàng rồi kéo quân rút lui.
Lần thứ tư, chúng lại xuống nhà kêu má Hai Kiển lên xã nói lời từ
con. Má Hai khẳng khái nói: Con tôi không có lỗi vì vậy tôi không
331

34.2 Page 332

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
từ. Tôi già rồi, không biết nói trong máy. Từ đó, chúng không đến
nhà má Hai nữa.
Má Hai Kiển là vậy, trọn đời má trung hậu, đảm đang trong
thiên chức phụ nữ; mưu trí, bất khuất trong đấu tranh với giặc
thù. Má vừa là mẹ chiến sĩ với tình thương yêu ngọt ngào, vừa là
một chiến sĩ trong đội quân tóc dài với khí phách “uy vũ bất năng
khuất”. Má mất ngày 9 tháng Giêng năm 1984, thọ 98 tuổi, cháu
nội má là Trần Tiến Nhạn (con trai Trần Văn Thiệm) thờ cúng má
tại gia đình.
Với thành tích của má và ba con trai hy sinh trong kháng
chiến, má Nguyễn Thị Kiển được tặng thưởng Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, và được
Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 523/QĐCTN ngày 5.6.2007.
332

34.3 Page 333

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Bùi Thị Bầy
(1915 - 1988)
Mẹ Bùi Thị Bầy sinh năm 1915 và
mất năm 1988 tại xã Long Thọ, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay,
con của mẹ là bà Võ Thị Vinh sống tại ấp
4, xã Long Thọ đang thờ phụng mẹ.
Trong chiến tranh ác liệt, mẹ Bùi
Thị Bầy đã mất đi 2 người con yêu dấu và
đã được Đảng và Nhà nước ta công nhận
là liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Võ Văn Chép, hy sinh vào tháng 9.1965 và
liệt sỹ Võ Văn Lợi, hy sinh vào ngày 18.11.1969. Cả 02 người con
của mẹ đều hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
333

34.4 Page 334

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đoàn Thị Mần
(1920 - 1990)
Mẹ Đoàn Thị Mần sinh năm 1920
và qua đời vào ngày 10.5.1990 tại xã
Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai, hưởng thọ 70 tuổi. Hiện nay, cháu
nội của mẹ là ông Trần Văn Hương sống
tại xã Long Thọ đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Đoàn Thị Mần có 2 người con
đã lên đường tham gia kháng chiến chống
Mỹ cứu nước và đã hy sinh anh dũng, được Tổ quốc ghi công.
Đó là liệt sỹ Nguyễn Ánh Lịch, hy sinh vào năm 1963 và liệt sỹ
Nguyễn Triển Lãm, hy sinh vào năm 1968.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
334

34.5 Page 335

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Cốc
(1915 - 2004)
Mẹ Nguyễn Thị Cốc sinh năm 1915,
nguyên quán ở xã Long Thọ, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hai người con thân yêu của mẹ,
với sự động viên từ mẹ, đã tham gia hoạt
động cách mạng và anh dũng hy sinh
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là
liệt sỹ Lưu Văn Bước, hy sinh vào ngày
26.6.1962 và liệt sỹ Lưu Văn Được, hy sinh vào ngày 20.11.1968.
Cả 2 người con của mẹ đều hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước.
Ngày 11.7.1986, mẹ đã được Hội đồng Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba và ngày 26.9.2014, mẹ đã
được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Mẹ Nguyễn Thị Cốc mất vào ngày 29.2.2004 tại quê nhà.
Hiện nay, con trai mẹ là ông Lưu Văn Em đang thờ phụng mẹ.
335

34.6 Page 336

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chuộc
(1905 - 1973)
Mẹ Nguyễn Thị Chuộc sinh năm
1905 tại xã Phước An, huyện Nhơn
Trạch và mất năm 1973 tại xã Long Thọ,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con dâu của mẹ là bà Nguyễn Thị
Hận sống tại ấp 5, xã Long Thọ đang thờ
phụng mẹ.
Mẹ có 02 người con tham gia kháng
chiến chống Mỹ và đã anh dũng hy sinh, được công nhận là liệt
sỹ: Liệt sỹ Nguyễn Văn Đúng, hy sinh vào ngày 9.8.1969 và liệt
sỹ Nguyễn Văn Lịnh, hy sinh vào ngày 19.9.1969.
Gia đình mẹ đã vinh dự được Chính phủ tặng Bảng vàng
gia đình danh dự chống Mỹ cứu nước vào ngày 19.8.1981. Đến
năm 2014, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 truy tặng cho mẹ
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
336

34.7 Page 337

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Nghị
(1907 - 1980)
Mẹ Lê Thị Nghị sinh năm 1907 và
mất năm 1980 tại xã Long Thọ, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện tại, cháu
ngoại của mẹ là bà Trần Thị Thu sống tại
xã Long Thọ đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Lê Thị Nghị có 2 người con hy
sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước:
Đó là liệt sỹ Trần Văn Mộng, hy sinh
vào ngày 7.1.1962 và liệt sỹ Trần Văn Kháng, hy sinh vào ngày
20.10.1966. Hai lần nhận tin báo tử của con với biết bao đau xót,
nhưng mẹ vẫn mạnh mẽ vượt qua nỗi đau, tiếp tục sống và cống
hiến cho đất nước.
Mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận những
cống hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
337

34.8 Page 338

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Chính
(1917 - 1991)
Mẹ Trần Thị Chính sinh năm 1917
và mất vào ngày 6.7.1991 tại quê nhà ở
xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Hiện nay, con dâu của mẹ là
bà Nguyễn Thị Bé và cháu nội của mẹ
là ông Lưu Thanh Sơn sống tại ấp 3, xã
Long Thọ đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Trần Thị Chính có 2 người con
tham gia hoạt động cách mạng và đã hy sinh vì sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước, được công nhận là liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Lưu Thị
Nữ, hy sinh vào ngày 6.6.1972 và liệt sỹ Lưu Văn Rỡ, hy sinh vào
ngày 12.1.1962.
Mẹ Trần Thị Chính đã được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng
Huân chương Kháng chiến hạng Ba và đã được truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
338

34.9 Page 339

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Bi
(1917 - 2002)
Mẹ Đặng Thị Bi sinh năm 1917 và
mất vào ngày 15.8.2002 tại quê nhà ở ấp
2, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Hiện nay, con của mẹ là ông
Nguyễn Văn Điền đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Đặng Thị Bi có chồng và 1
người con hy sinh vì sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước. Chồng là liệt sỹ Nguyễn
Văn Thường, hy sinh vào năm 1968. Con là liệt sỹ Nguyễn Thanh
Phương, hy sinh vào năm 1970.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Đặng Thị Bi danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
339

34.10 Page 340

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Bùi Thị Hết
(1875 - 1990)
Mẹ Bùi Thị Hết sinh năm 1875,
nguyên quán tại xã Long Thọ, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Năm 1990,
mẹ qua đời vì tuổi cao sức yếu tại quê
nhà. Hiện nay, cháu của mẹ là ông Phạm
Văn Nhứt đang thờ phụng mẹ.
Trước cảnh nước mất nhà tan, mẹ
Bùi Thị Hết đã động viên các con tham
gia hoạt động cách mạng. Hai người con thân yêu của mẹ đã anh
dũng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trong kháng chiến
chống thực dân Pháp. Đó là liệt sỹ Phạm Văn Tranh và liệt sỹ
Phạm Văn Ngân.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 16.5.2016 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 945/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
340

35 Pages 341-350

▲back to top


35.1 Page 341

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hồ Thị Mai
(1924)
Mẹ Hồ Thị Mai sinh năm 1924 tại
ấp 2, xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ lấy chồng là người
cùng làng, ông Trần Văn Mậu, sinh năm
1920. Vợ chồng mẹ có 7 người con (2
trai, 5 gái).
Trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp, ông Trần Văn Mậu tham gia cách
mạng, hy sinh vào năm 1948. Đến giai đoạn chống Mỹ, người con
trai của mẹ là Trần Văn Phước nối tiếp truyền thống của cha, thoát
ly hoạt động cách mạng, hy sinh vào năm 1966.
Từ năm 1969 - 1972, mẹ tham gia đưa bộ đội vào rừng bằng
ghe. Trong cuộc sống đời thường, mẹ luôn là người mẹ, người bà
mẫu mực, răn dạy con cháu phải biết quan tâm, chăm sóc, giúp
đỡ người khác. Mẹ tích cực vận động gia đình và hàng xóm chấp
hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, mẹ đang sống cùng người con gái là bà Trần Thị Cẩm
Nhung tại xã Hiệp Phước (nay là thị trấn Hiệp Phước), huyện
Nhơn Trạch.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và Nhà
nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được phong tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày
26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
341

35.2 Page 342

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Nở
(1935)
Mẹ Lê Thị Nở bí danh là Lê Thị
Xuân Mai, sinh năm 1934 tại xã Long
Thọ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai,
trong một gia đình truyền thống cách
mạng. Người mẹ của má Nở là bà Võ Thị
Nhẩm (sinh năm 1904), là một bà mẹ có
phẩm chất anh hùng, kiên cường bám trụ
mảnh đất quê hương để nuôi dạy con cái
nên người, phục vụ kháng chiến, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng;
là mẹ chiến sĩ từ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, nhiều lần
trực diện đấu tranh chính trị với giặc Pháp và Mỹ Ngụy, nhiều lần
bị giặc bắt, tra tấn nhưng không có thủ đoạn nào lay chuyển được
mẹ. Con trai lớn của mẹ Nhẩm là Lê Duy Linh sinh năm 1930,
tham gia kháng chiến chống Pháp từ trước năm 1948, hy sinh năm
1953. Nhiều con cháu, dâu rể lớn lên trong vòng tay của mẹ Nhẩm
trở thành anh hùng, liệt sĩ.
Lê Thị Nở là con gái thứ ba của mẹ Nhẩm (dân Nam Bộ
thường gọi là Tư Nở, Tư Xuân Mai), được mẹ Nhẩm nuôi dưỡng,
giáo dục bằng lòng yêu nước, thương dân, và ý chí chống giặc cứu
nước. Từ nhỏ, Tư Nở đã giúp mẹ Nhẩm nhiều công việc phục vụ
kháng chiến. Năm 1954, trong tuổi đôi mươi, Tư Nở được cách
mạng tin cậy, giao nhiệm vụ, bắt đầu là những công tác hợp pháp
trong lòng địch; bị lộ, Tư Nở bị giặc bắt giam ở nhà tù Phú Lợi,
suốt mấy năm bị tù đày, tra tấn, dụ dỗ, Tư Nở không khai báo; giặc
không khai thác được gì, phải thả, Tư Nở về nhà, thoát ly kháng
chiến, công tác tại xã. Năm 1960, Tư Nổ được giao nhiệm vụ là
Xã đội trưởng xã Phước Thọ, năm sau thêm nhiệm vụ Bí thư Chi
342

35.3 Page 343

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
bộ xã. Năm 1963, được Tỉnh ủy rút về trên công tác tại Hội Phụ nữ
tỉnh Biên Hòa, nhiệm vụ là Ủy viên Ban Chấp hành. Năm 1969,
Tư Nở được phân công bám trụ tại Long Thành; đến năm 1973 lại
bị địch bắt giam đày đi nhiều nhà lao ở Biên Hòa. Đến năm 1974,
người mang nhiều bệnh, Tư Nở ra tù, về với gia đình, vẫn quan
hệ mật thiết với cách mạng, cùng mẹ Nhẩm tham gia công tác ở
cơ sở.
Chồng mẹ Nở là Nguyễn Văn Ba, tên hoạt động cách mạng
là Phạm Hồng Lách (Ba Lách), là một cán bộ uy tín trong ngành
công an tỉnh Đồng Nai, trong một đợt truy quét tàn binh phản cách
mạng đã bị phục kích, hy sinh năm 1977; lúc đó con gái duy nhất
của mẹ là Nguyễn Thị Bích Ngân vẫn còn thơ dại. Con gái nuôi
của mẹ Nở là Lê Thị Hoàng sinh năm 1949, tham gia kháng chiến
chống Mỹ hy sinh vào tháng 4.1968 khi chưa tròn 19 tuổi.
Ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của mẹ Lê Thị
Nở và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2392/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 phong
tặng Lê Thị Nở danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
343

35.4 Page 344

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Ba
(1932 - 1950)
Mẹ Trần Thị Ba sinh năm 1932,
nguyên quán ở xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ kết hôn với
ông Trần Văn Cụt, người cùng làng, có
người con trai là Trần Văn Bảnh, sinh
năm 1948.
Trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp, cả gia đình mẹ kể cả các anh chị
em ruột, anh rể và chồng của mẹ đều tham gia hoạt động cách
mạng, trong đó mẹ Trần Thị Ba là giao liên cơ sở. Khoảng năm
1950, trong một chuyến giao liên mẹ bị giặc Pháp bắn chết tại cầu
Bà Ký. Lúc ấy, mẹ đang mang thai người con thứ hai trong bụng.
Người con trai duy nhất của mẹ khi lớn lên theo truyền thống
của gia đình cũng tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã
anh dũng hy sinh. Liệt sĩ Trần Văn Bảnh là Xã đội phó, hy sinh
vào ngày 3.11.1971 khi trên đường đi công tác bị địch phục kích
(Bằng Tổ quốc ghi công số 1Y.882 theo Quyết định số 1610/TTga
do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 22.12.2006).
Liệt sĩ Trần Văn Bảnh hy sinh khi chưa lập gia đình. Hiện tại, một
người cháu là ông Trần Văn Măng sống tại ấp Xóm Hố, xã Phú
Hội đang thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của mẹ và gia
đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 154/KT/CTN, ngày 20.4.2000 truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Trần Thị Ba.
344

35.5 Page 345

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Tám
(1915 - 1975)
Mẹ Nguyễn Thị Tám sinh năm 1915
tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai và mất vào ngày 28.1.1975
tại ấp Xóm Hố, xã Phú Hội. Hiện nay,
con của mẹ là Thái Văn Nhơn đang thờ
phụng mẹ.
Trước cảnh giặc dày xéo quê hương,
mẹ đã vận động chồng và 2 người con
tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1967, do bị địch càn quét,
con của mẹ là liệt sỹ Thái Thị Đen, sinh năm 1954, đã hy sinh
vào ngày 20.7.1967. Ít năm sau đó, mẹ Nguyễn Thị Tám cùng với
chồng - liệt sỹ Thái Văn Quán, sinh năm 1925 - cùng hy sinh vào
cùng một ngày, được công nhận là liệt sỹ. Do địch phát hiện gia
đình mẹ là cơ sở cách mạng, chúng đã bắn chết mẹ và người bạn
đời của mẹ vào ngày 28.1.1975. Mẹ còn có 1 người con hiện là
thương binh hạng 3/4.
Năm 2010, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 10114/QĐ-CTN ngày 14.7. 2010 truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn Thị
Tám.
345

35.6 Page 346

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lư Thị Hòa
(1923 - 2004)
Mẹ Lư Thị Hòa sinh năm 1923
tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai và mất vào ngày 4.3.2004 tại
ấp Xóm Hố, xã Phú Hội.
Mẹ Lư Thị Hòa trong kháng chiến
đã tham gia hoạt động cách mạng tại địa
phương, nuôi giấu cán bộ cách mạng. Mẹ
cũng đã động viên 4 người con của mình
tham gia kháng chiến, trong đó có 2 người con hy sinh. Đó là liệt
sỹ Lê Văn Sáng, sinh năm 1946, hy sinh khi bị lọt vào vòng phục
kích của địch vào ngày 12.1.1970 và liệt sỹ Lê Thị Thu (Hà), sinh
năm 1948, hy sinh khi bị địch phục kích vào tháng 12.1974.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và Nhà
nước ghi nhận. Mẹ được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba.
Năm 2014, mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, con của
mẹ là bà Lê Thị Nguyệt đang thờ cúng mẹ tại quê nhà ở ấp Xóm
Hố, xã Phú Hội.
346

35.7 Page 347

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Phương
(1922 - 2014)
Mẹ Đặng Thị Phương sinh năm
1922 tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai và mất vào ngày 12.4.2014
tại ấp Đất Mới, xã Phú Hội. Hiện nay, ông
Nguyễn Văn Năm là con của mẹ đang thờ
phụng mẹ tại quê nhà.
Mẹ Đặng Thị Phương có 2 người
con là liệt sỹ, đều hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kỳ của dân tộc: Liệt sỹ
Nguyễn Văn Đực, sinh năm 1945, hy sinh do bị lọt vào vòng phục
kích của địch vào ngày 25.5.1967; liệt sỹ Nguyễn Văn Loan, sinh
năm 1958, là thương binh hạng 1/4, hy sinh do vết thương tái phát
vào ngày 8.12.1986.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Đặng Thị Phương danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
347

35.8 Page 348

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đặng Thị Thôi
(1900 - 1996)
Mẹ Đặng Thị Thôi, tên thường gọi
là mẹ Thiêu, sinh năm 1900 tại xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
và mất vào ngày 27.4.1996 do tuổi già
sức yếu. Hiện nay, ông Nguyễn Văn Toàn
là cháu của mẹ sống tại ấp ấp Đất Mới, xã
Phú Hội đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Đặng Thị Thôi có 2 người con
lên đường nhập ngũ chiến đấu vì nền độc lập tự do của dân tộc và
đã anh dũng hy sinh. Đó là liệt sỹ Nguyễn Văn Định, sinh năm
1932, hy sinh vào ngày 16.8.1968 và liệt sỹ Nguyễn Công Minh,
sinh năm 1936, hy sinh vào ngày 16.3.1964. Cả 2 người con của
mẹ hy sinh do bị lọt vào vòng phục kích của địch.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
348

35.9 Page 349

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Mười
(1906 - 1998)
Mẹ Nguyễn Thị Mười sinh năm 1906
tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai và mất vào ngày 10.10.1998.
Hiện nay, cháu của mẹ là ông Nguyễn
Văn Tài sống tại ấp Đất Mới, xã Phú Hội
đang thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Mẹ Nguyễn Thị Mười và gia đình
tham gia tiếp tế lương thực và là cơ sở
cách mạng. Mẹ có 02 người con là liệt sỹ, hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Liệt sỹ Nguyễn Công Lâm, sinh
năm 1937, hy sinh vào ngày 16.6.1968 và liệt sỹ Nguyễn Văn
Gầm, sinh năm 1946, hy sinh vào ngày 28.01.1968. Cả 2 người
con của mẹ đều hy sinh khi bị lọt vào vòng phục kích của địch.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
349

35.10 Page 350

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Bộ
(1916 - 2001)
Mẹ Lê Thị Bộ sinh năm 1911 tại xã
Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai và mất vào ngày 10.7.2001 tại ấp Đất
Mới, xã Phú Hội. Hiện nay, con ruột của
mẹ là ông Phạm Văn Bất đang thờ phụng
mẹ tại quê nhà ở xã Phú Hội.
Mẹ Lê Thị Bộ tham gia tiếp tế
lương thực, thực phẩm, thuốc men cho
cơ sở cách mạng. Mẹ có 2 người con là liệt sỹ, hy sinh trong kháng
chiến chống Mỹ: liệt sỹ Phạm Văn Mới, sinh năm 1944, hy sinh
vào ngày 1.5.1968 và liệt sỹ Phạm Văn Cũ, sinh năm 1947, hy
sinh vào ngày 5.6.1971. Cả 2 người con của mẹ đều hy sinh khi bị
lọt vào vòng phục kích của địch.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
350

36 Pages 351-360

▲back to top


36.1 Page 351

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Nghĩa
(1911 - 1995)
Mẹ Đặng Thị Nghĩa, tên thường gọi
là mẹ Mười Ba, sinh năm 1911 tại xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai và
mất vào ngày 5.12.1995 tại ấp Xóm Hố,
xã Phú Hội. Hiện nay, con trai của mẹ là
ông Thái Văn Thành đang thờ phụng mẹ
tại quê nhà.
Mẹ Đặng Thị Nghĩa đã nuôi giấu
chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến. Mẹ có 2 người con là liệt
sỹ, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường kỳ
và anh dũng của dân tộc. Đó là liệt sỹ Thái Minh Trí, sinh năm
1948, hy sinh vào ngày 22.9.1968 và liệt sỹ Thái Minh Hóa, sinh
năm 1952, hy sinh vào ngày 6.10.1972.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Đặng Thị Nghĩa.
351

36.2 Page 352

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Thâu
(1920 - 1980)
Mẹ Nguyễn Thị Thâu sinh năm
1920 và qua đời vào ngày 10.9.1980 tại
quê nhà ở xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, con của mẹ là
Phan Văn Việt sống tại ấp Xóm Hố, xã
Phú Hội đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến, gia đình mẹ là
cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Mẹ đã
động viên chồng và 05 người con tham gia hoạt động cách mạng.
Chồng của mẹ là liệt sỹ Phan Văn Bốn, sinh năm 1919, hy sinh
vào ngày 8.3.1974 do bị lộ và bị địch bắn chết. Mẹ có một người
con hy sinh vào ngày 6.5.1968 do bị lọt vào vùng phục kích của
địch là liệt sỹ Phan Văn Hường, sinh năm 1939. Hai người con
khác của mẹ là thương binh hạng 4/4.
Những công lao, cống hiến hy sinh của mẹ và gia đình đã
được Đảng và Nhà nước ghi nhận, năm 2005 mẹ đã được Chủ tịch
nước truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì và được truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
352

36.3 Page 353

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Dứa
(1917 - 1962)
Mẹ Lê Thị Dứa sinh năm 1917 và
mất vào ngày 1.8.1962 tại xã Phú Hội,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là bà Lê Thị Quan đang
thờ phụng mẹ tại quê nhà ở ấp Phú Mỹ I,
xã Phú Hội.
Mẹ Lê Thị Dứa có 2 người con là
liệt sỹ, hy sinh trong kháng chiến chống
Mỹ: liệt sỹ Nguyễn Văn Văn, sinh năm 1950, hy sinh khi bị lọt
vào vòng phục kích của địch vào tháng 7.1966 và liệt sỹ Nguyễn
Văn Dính, sinh năm 1949, hy sinh vào ngày 13.5.1970 do bị địch
càn quét.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
353

36.4 Page 354

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Thiệp
(1920 - 2005)
Mẹ Nguyễn Thị Thiệp sinh năm
1920, nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời
vào ngày 10.3.2005 tại quê nhà. Hiện nay,
con của mẹ là ông Nguyễn Duy Dũng
sống tại ấp Phú Mỹ I, xã Phú Hội đang
thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến, gia đình mẹ là
cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Mẹ buôn gánh bán bưng để
mua thuốc men, lương thực tiếp tế cho cơ sở cách mạng. Khi bị
địch phát hiện, chúng đã bắt giam mẹ tại khám đường Biên Hòa.
Mẹ đã vận động 7 người con của mình tham gia hoạt động cách
mạng, trong đó có 2 người con là liệt sỹ và 1 người con là thương
binh hạng 2/4. Hai người con của mẹ đã hy sinh là liệt sỹ Nguyễn
Thị Nhàn, sinh năm 1945, hy sinh vào tháng 6.1970 và liệt sỹ
Nguyễn Thanh Nghị, sinh năm 1958, hy sinh vào ngày 25.1.1975.
Cả hai đều hy sinh do bị lọt vào vòng phục kích của địch.
Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Kháng chiến và truy
tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận công lao và những
cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
354

36.5 Page 355

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị He
(1918 - 2013)
Mẹ Đặng Thị He sinh năm 1918 và
mất vào ngày 18.4.2013 tại xã Phú Hội,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là bà Nguyễn Thị Mười
đang thờ phụng mẹ tại ấp Đất Mới, xã
Phú Hội.
Trong kháng chiến, mẹ Đặng Thị He
đã tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc
men cho cơ sở cách mạng. Mẹ có 2 người con là liệt sỹ, hy sinh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Nguyễn
Văn Hải, sinh năm 1942, hy sinh do bị địch càn quét vào tháng
10.1968 và liệt sỹ Nguyễn Văn Sẳng, sinh năm 1946, hy sinh vào
ngày 11.10.1970 do bị lọt vào vòng phục kích của địch.
Mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do đã có nhiều
cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
355

36.6 Page 356

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Võ Thị Giệng
(1918 - 1981)
Mẹ Võ Thị Giệng sinh năm 1918,
nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời vào
ngày 5.3.1981 tại quê nhà. Hiện nay, con
của mẹ là ông Huỳnh Văn Lành sống tại
ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội đang thờ phụng
mẹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trường kỳ và anh dũng của dân tộc, mẹ Võ Thị Giệng
đã động viên các con lên đường tham gia công tác cách mạng
và 2 người con thân yêu của mẹ đã hy sinh và được Tổ quốc ghi
công. Đó là liệt sỹ Huỳnh Thiện Tâm, hy sinh vào ngày 6.8.1971
và liệt sỹ Huỳnh Công Thành, sinh năm 1952, hy sinh vào ngày
5.11.1970 do bị lọt vào vùng phục kích của địch.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Võ Thị Giệng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
356

36.7 Page 357

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lương Thị Phát
(1911 - 2010)
Mẹ Lương Thị Phát sinh năm 1911
và mất vào năm 2010 tại xã Phú Hội,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là bà Lê Thị Bảy sống tại
ấp Đất Mới, xã Phú Hội đang thờ phụng
mẹ.
Trong kháng chiến, mẹ và gia đình
đã tham gia công tác cách mạng, tiếp tế
lương thực cho cơ sở cách mạng, mua thuốc men, cứu thương cho
bộ đội. Mẹ có 2 người con là liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Trương Trung
Tín, sinh năm 1941, hy sinh vào ngày 24.7.1972 và liệt sỹ Lê Văn
Lập, sinh năm 1946, hy sinh vào ngày 4.1.1968. Cả 2 người con
của mẹ hy sinh khi bị lọt vào vòng phục kích của địch.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
357

36.8 Page 358

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lâm Thị Bửu
(1919 - 2009)
Mẹ Lâm Thị Bửu sinh năm 1919,
nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất vào ngày
1.7.2009. Hiện nay, con gái là bà Nguyễn
Thị Sương đang thờ phụng mẹ tại ấp Đất
Mới, xã Phú Hội.
Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, mẹ động viên chồng là liệt sỹ Lý
Văn Bảy, sinh năm 1917 tham gia hoạt động cách mạng và đã hy
sinh vào ngày 12.1.1948. Bước thêm bước nữa, người bạn đời thứ
hai của mẹ cũng tham gia kháng chiến và đã hy sinh vào ngày
13.2.1952 là liệt sỹ Nguyễn Văn Mật, sinh năm 1906. Một mình
mẹ tảo tần nuôi con thơ và đến khi trưởng thành thì con mẹ lên
đường nhập ngũ. Một lần nữa chiến tranh đã cướp đi con trai của
mẹ - liệt sỹ Nguyễn Văn Ước, sinh năm 1950, hy sinh vào ngày
21.7.1970. Cả 2 người chồng và con của mẹ đều hy sinh do bị lọt
vào vùng phục kích của địch. Trong chiến tranh, gia đình mẹ là cơ
sở hoạt động cách mạng, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cán
bộ, chiến sĩ cách mạng.
Mẹ đã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba
và được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày
26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
358

36.9 Page 359

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trà Thị Rang
(1919 - 2011)
Mẹ Trà Thị Rang sinh năm 1919,
nguyên quán ở xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ Trà Thị Rang có 2 người con
lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc và đã hy sinh do bị lọt
vào vùng phục kích của địch. Đó là liệt
sỹ Phạm Văn Xuân, sinh năm 1945, hy
sinh vào ngày 12.12.1965 và liệt sỹ Phạm Văn Thành, sinh năm
1957, hy sinh vào ngày 13.11.1973.
Mẹ qua đời vào ngày 9.3.2011 và hiện con của mẹ là ông
Nguyễn Văn Hiệp đang thờ phụng mẹ tại quê nhà ở ấp Phú Mỹ II,
xã Phú Hội.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
359

36.10 Page 360

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đặng Thị Phước
(1909 - 1991)
Mẹ Đặng Thị Phước sinh năm 1909
và mất năm 1991, nguyên quán tại xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện nay, con của mẹ là ông Nguyễn Văn
Thanh sống tại ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội
đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Đặng Thị Phước có 2 người con
lên đường tham gia kháng chiến và đã hy
sinh do bị lọt vào vùng phục kích của địch. Tổ quốc ghi công các
con của mẹ là liệt sỹ Nguyễn Thị Bông, sinh năm 1940, hy sinh
vào ngày 6.01.1968 và liệt sỹ Nguyễn Văn Sanh, sinh năm 1945,
hy sinh vào ngày 6.11.1968.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Đặng Thị Phước.
360

37 Pages 361-370

▲back to top


37.1 Page 361

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lý Thị Thưa
(1915 - 1984)
Mẹ Lý Thị Thưa sinh năm 1915 tại
xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Mẹ qua đời vào ngày 1.10.1984 và
hiện đang được con trai là ông Lê Văn
Năm thờ phụng tại quê nhà ở ấp Xóm
Hố, xã Phú Hội.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trường kỳ và anh dũng của dân
tộc, mẹ Lý Thị Thưa đã động viên các con lên đường tham gia
công tác cách mạng và mẹ có 2 người con đã hy sinh, được công
nhận là liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Lê Thanh Bình, sinh năm 1938, hy
sinh vào ngày 1.12.1966 do bị địch càn quét và liệt sỹ Lê Văn Dễ,
sinh năm 1947, hy sinh vào ngày 10.6.1971 do bị lọt vào vòng
phục kích của địch.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
361

37.2 Page 362

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Hảo
(1907 - 1993)
Mẹ Nguyễn Thị Hảo sinh năm
1907, nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Do tuổi già
sức yếu, mẹ đã từ trần vào năm 1993 tại
quê nhà. Hiện nay, con của mẹ là ông Mai
Văn Hùng sống tại ấp Phú Mỹ II, xã Phú
Hội đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến, gia đình mẹ là
cơ sở tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cách mạng. Mẹ có 2 người
con là liệt sỹ: liệt sỹ Nguyễn Văn Nhàn, sinh năm 1944, hy sinh
vào ngày 15.5.1972 do bị địch phục kích và liệt sỹ Mai Văn Chúc,
sinh năm 1949, hy sinh vào ngày 10.10.1972 do bị lọt vào vùng
phục kích của địch.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
362

37.3 Page 363

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Lúa
(1903 - 1998)
Mẹ Đặng Thị Lúa, sinh năm 1903
và mất vào ngày 5.4.1998 tại xã Phú Hội,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, cháu của mẹ là ông Từ Trí Dũng
đang thờ phụng mẹ tại quê nhà ở ấp Đất
Mới, xã Phú Hội.
Mẹ Đặng Thị Lúa có 2 người con
là liệt sỹ, hy sinh trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống Mỹ cứu nước của dân tộc. 2 người con của mẹ
đều hy sinh do bị lọt vào vùng phục kích của địch, đó là liệt sỹ Từ
Văn Du, sinh năm 1938, hy sinh vào ngày 18.11.1973 và liệt sỹ Từ
Văn Tính, sinh năm 1932, hy sinh vào tháng 4.1972.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Đặng Thị Lúa danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
363

37.4 Page 364

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Biển
(1896 - 1950)
Mẹ Nguyễn Thị Biển sinh năm
1896 và mất vào ngày 15.9.1950 tại xã
Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Hiện nay, bà Nguyễn Thị Thanh
Tâm sống tại ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội là
con của mẹ đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ: Liệt
sỹ Phạm Văn Ca, sinh năm 1917, hy sinh
vào ngày 24.4.1949 và liệt sỹ Phạm Văn Thành, sinh năm 1935,
hy sinh vào ngày 29.2.1971. Cả 2 người con của mẹ đều hy sinh
do bị lọt vào vùng phục kích của địch trong kháng chiến chống
ngoại xâm cứu nước.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
364

37.5 Page 365

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Nhỉ
(1900 - 1945)
Mẹ Nguyễn Thị Nhỉ sinh năm 1900,
nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời vào
ngày 8.12.1945. Hiện nay, mẹ đang được
ông Đặng Văn An là con trai của mẹ thờ
phụng tại ấp Phú Mỹ I, xã Phú Hội.
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ: liệt sỹ
Đặng Văn Cải, sinh năm 1937, hy sinh
vào ngày 27.7.1971 bị địch phục kích và liệt sỹ Đặng Văn Xại,
sinh năm 1943, hy sinh vào ngày 2.8.1971, trong trận đánh đồn
Mít Nài.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn Thị Nhỉ.
365

37.6 Page 366

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Sinh
(1921 - 2011)
Mẹ Nguyễn Thị Sinh sinh năm
1921, nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời
vào ngày 5.3.2011 tại quê nhà. Hiện nay,
chồng của mẹ là ông Nguyễn Văn Đức
sống tại ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội đang
thờ phụng mẹ.
Mẹ Nguyễn Thị Sinh có 2 người
con là liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Nguyễn Văn Mười, sinh năm 1949, hy
sinh vào ngày 14.4.1969 do bị lọt vào vòng phục kích của địch
và liệt sỹ Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1952, hy sinh vào ngày
1.12.1974 do địch càn quét, cơ sở bị lộ.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
366

37.7 Page 367

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Võ Thị Le
(1924 - 2007)
Mẹ Võ Thị Le sinh năm 1924
và mất vào ngày 1.1.2007 tại Phú Hội,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là ông Lê Văn Út sống
tại ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội đang thờ
phụng mẹ.
Mẹ Võ Thị Le có 2 người con là liệt
sỹ, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Đó là liệt sỹ Lê Hồng Quốc, sinh năm 1950, hy sinh vào ngày
5.2.1970 và liệt sỹ Lê Văn Tiến, sinh năm 1945, hy sinh vào ngày
10.4.1969. Cả 2 người con của mẹ Võ Thị Le đều hy sinh do bị lọt
vào vùng phục kích của địch.
Do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mẹ đã được Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTN.
367

37.8 Page 368

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bén
(1899 - 1979)
Mẹ Nguyễn Thị Bén sinh năm 1899
tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai và
mất vào ngày 3.5.1979 tại ấp Phú Mỹ I,
xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch. Hiện nay,
con của mẹ là bà Nguyễn Thị Bê sống tại
ấp Phú Mỹ I, xã Phú Hội đang thờ phụng
mẹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trường kỳ và anh dũng của dân tộc, mẹ Nguyễn Thị Bén
đã động viên các con lên đường tham gia công tác cách mạng. Mẹ
Nguyễn Thị Bén có 2 người con là liệt sỹ Huỳnh Văn Đãi và liệt
sỹ Huỳnh Văn Bảy đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Nguyễn Thị Bén danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
368

37.9 Page 369

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Dương Thị Tửu
(1903 - 1986)
Mẹ Dương Thị Tửu sinh năm 1903
tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ qua đời vào ngày 7.5.1986.
Hiện nay, con của mẹ là ông Nguyễn Văn
Mười đang sống tại ấp Xóm Hố, xã Phú
Hội thờ phụng mẹ.
Mẹ có chồng và 1 người con là liệt
sỹ, hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.
Tổ quốc ghi công chồng của mẹ là liệt sỹ Nguyễn Văn Nha, sinh
năm 1902, hy sinh vào ngày 27.5.1963 do bị địch bắn chết khi cơ
sở bị lộ và con của mẹ là liệt sỹ Nguyễn Thị Dét, sinh năm 1942,
hy sinh vào ngày 22.11.1966 do bị địch càn quét.
Mẹ đã được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì
theo Quyết định số 77-KT/HĐNN ngày 27.7.1988 và đã được truy
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
369

37.10 Page 370

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Sâm
(1893 - 1971)
Mẹ Nguyễn Thị Sâm sinh năm
1893, nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ từ trần
vào ngày 10.4.1971. Hiện nay, con của
mẹ là bà Đào Thị Thanh Mai đang thờ
phụng mẹ tại quê nhà ở ấp Phú Mỹ I, xã
Phú Hội.
Mẹ Nguyễn Thị Sâm có 2 người
con thân yêu đã anh dũng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Đó là liệt sỹ Đào Thị Ca, sinh năm 1920, hy sinh do bị địch
phục kích vào ngày 24.1.1952 và liệt sỹ Đào Mỹ Dền.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
370

38 Pages 371-380

▲back to top


38.1 Page 371

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Trực
(1915 - 1945)
Mẹ Trần Thị Trực sinh năm 1915 và
mất năm 19.10.1945 tại quê nhà ở xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện nay, ông Nguyễn Văn Nhựt sống tại
ấp Xóm Hố, xã Phú Hội đang thờ phụng
mẹ.
Mẹ Trần Thị Trực có 1 người con trai
duy nhất tham gia hoạt động cách mạng
với sự ủng hộ, động viên của mẹ và đã hy sinh trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Nguyễn Văn Tượng, sinh
năm 1936, hy sinh vào tháng 10.1961.
Mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
vào ngày 16.5.2016 theo Quyết định số 945/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do đã có cống
hiến, hy sinh to lớn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
371

38.2 Page 372

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đặng Thị Quốc
(1917 - 2019)
Mẹ Đặng Thị Quốc sinh năm 1917
tại xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ Quốc kết hôn với ông
Huỳnh Văn Xa, cũng là người xã Phú
Hội, sinh được 8 người con nhưng chỉ có
5 người sống đến trưởng thành (3 trai, 2
gái).
Trong kháng chiến, cả gia đình mẹ
Quốc đều tham gia cách mạng. Ông Huỳnh Văn Xa là cán bộ của
xã Phú Hội trong giai đoạn chống Pháp, còn mẹ Quốc thì suốt 2
cuộc kháng chiến mẹ tảo tần buôn gánh bán bưng từ chợ Phú Hội
đến Bà Rịa về chợ Long Thành và ngụy trang mua lương thực,
thuốc men để tiếp tế cho cơ sở cách mạng. Mẹ còn đào hầm nuôi
giấu cán bộ, bộ đội. 2 người con trai của mẹ từ lúc mới 15-16
tuổi đã thoát ly theo cách mạng, rồi hy sinh: Liệt sĩ Huỳnh Văn
Thương, sinh năm 1943, hy sinh vào ngày 1.3.1967; liệt sĩ Huỳnh
Văn Hết, sinh năm 1945, hy sinh vào ngày 9.8.1968. Cả 2 người
con của mẹ hy sinh do bị lọt vào vòng phục kích của địch, được
đồng đội chôn cất nhưng do chiến tranh, địch cày xới nhiều lần,
địa hình thay đổi nên sau ngày đất nước thống nhất gia đình tìm
kiếm nhiều lần mà vẫn không tìm thấy mộ. Các con của mẹ hy
sinh khi còn trẻ, chưa ai lập gia đình. Mẹ Quốc sống tại ấp Đất
Mới, xã Phú Hội cùng với người con gái là bà Huỳnh Thị Thu, mẹ
qua đời ngày 31.12.2019.
372

38.3 Page 373

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Những cống hiến của mẹ đã được Đảng và Nhà nước ghi
nhận, năm 1984 mẹ được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Kháng chiến hạng Ba và đã được phong tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định
số 2392/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
373

38.4 Page 374

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Võ Thị Mì
(1890 - 1951)
Mẹ Võ Thị Mì sinh năm 1890 và
mất ngày 19.3.1951 tại quê nhà ở xã Phú
Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện nay, cháu của mẹ là bà Lê Thị Sang
đang thờ phụng mẹ tại ấp Xóm Hố, xã
Phú Hội.
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ, đều hy
sinh trong kháng chiến chống Mỹ khi bị
lọt vào vùng phục kích của địch. Đó là liệt sỹ Lê Văn Bộ, sinh năm
1915, hy sinh vào ngày 24.2.1950 và liệt sỹ Lê Văn Phép, sinh
năm 1917, hy sinh vào ngày 1.12.1950.
Mẹ Võ Thị Mì đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng vào ngày 1.12.2015 theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do đã
có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
374

38.5 Page 375

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Huyến
(1905 - 1944)
Mẹ Nguyễn Thị Huyến sinh năm
1905, nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ từ trần
vào ngày 26.1.1944 và hiện đang được
thờ phụng tại quê nhà ở ấp Xóm Hố, xã
Phú Hội bởi người cháu là ông Phan Văn
Hùng.
Mẹ có 1 người con duy nhất tham
gia hoạt động cách mạng và đã hy sinh. Tổ quốc ghi công liệt sỹ
Phan Văn Biểu hy sinh vào ngày 3.12.1968 trên đường đi công tác
do bị lọt vào vùng phục kích của địch. Liệt sỹ Phan Văn Biểu đã
được Hội đồng nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến
hạng Nhì.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2679/QĐ-CTN, ngày 1.12.2015 truy tặng danh hiệu
cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn Thị Huyến
do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
375

38.6 Page 376

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Nguyệt
( ? - 1958)
Mẹ Nguyễn Thị Nguyệt, không rõ
năm sinh, nguyên quán ở xã Phú Hội,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ đã
qua đời vào ngày 27.7.1958 tại quê nhà.
Hiện nay, cháu của mẹ là bà Huỳnh Thị
Nga sống tại ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội
đang thờ phụng mẹ.
Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, mẹ Nguyễn Thị Nguyệt đã động viên người con trai duy
nhất tham gia kháng chiến vì độc lập dân tộc. Và Tổ quốc đã ghi
công con trai mẹ - liệt sỹ Lê Văn Thu, sinh năm 1926, hy sinh vào
ngày 10.11.1971 do bị lọt vào vòng phục kích của địch.
Ghi nhận những cống hiến, hy sinh của mẹ và gia đình vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2679/
QĐ-CTN ngày 1.12.2015.
376

38.7 Page 377

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Giang
(1917 - 1969)
Mẹ Lê Thị Giang sinh năm 1917,
nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời vào
ngày 20.7.1969 và hiện cháu của mẹ là
bà Đoàn Thị Tuyết đang thờ phụng mẹ tại
quê nhà ở ấp Phú Mỹ II, xã Phú Hội.
Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt,
đứng trước cảnh nước mất nhà tan, kẻ thù
dày xéo quê hương, mẹ Lê Thị Giang đã động viên, tiễn chân
người con trai duy nhất lên đường nhập ngũ. Con trai mẹ, liệt sỹ
Lê Văn Cớ, sinh năm 1947, đã hy sinh vào ngày 23.1.1970.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2679/QĐ-CTN, ngày 1.12.2015 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
377

38.8 Page 378

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Ba
(1911 - 2001)
Mẹ Huỳnh Thị Ba sinh năm 1911 và
mất vào ngày 4.12.2001 tại quê nhà ở xã
Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Hiện nay, ông Nguyễn Văn Phương,
là cháu của mẹ, đang thờ phụng mẹ tại ấp
Phú Mỹ II, xã Phú Hội.
Mẹ có 1 người con duy nhất tham
gia hoạt động cách mạng và đã hy sinh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Võ Văn
Ngưỡng, sinh năm 1950, hy sinh khi bị địch phục kích vào ngày
8.8.1968.
Mẹ đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày
1.12.2015 theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN do đã có nhiều cống
hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
378

38.9 Page 379

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Nhỏ
(1908 - 1952)
Mẹ Nguyễn Thị Nhỏ sinh năm
1908, nguyên quán tại xã Phú Hội, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, người con trai duy nhất của mẹ
đã lên đường nhập ngũ và đã hy sinh. Đó
là liệt sỹ Nguyễn Trung Tâm, sinh năm
1948, hy sinh vào ngày 11.6.1967 do bị
lọt vào vùng phục kích của địch.
Mẹ Nguyễn Thị Nhỏ qua đời vào ngày 5.6.1952. Hiện nay,
cháu của mẹ là bà Trương Thị Hương và ông Nguyễn Văn Toàn
sống tại ấp Phú Mỹ I, xã Phú Hội đang thờ phụng mẹ.
Năm 2015, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2679/QĐ-CTN ngày 1.12.2015 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Nguyễn Thị Nhỏ.
379

38.10 Page 380

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lý Thị Vĩnh
(1903 - 1988)
Mẹ Lý Thị Vĩnh sinh năm 1903,
nguyên quán tại Đồng Nai. Mẹ qua đời
vào ngày 28.01.1988 (ÂL). Hiện nay,
cháu của mẹ là bà Nguyễn Thị Hồng
Cúng đang thờ phụng mẹ tại ấp 1, xã
Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Trong kháng chiến, mặc dù đói khổ
nhưng mẹ Lý Thị Vĩnh đã chắt chiu, dành dụm nuôi con và tiếp tế
lương thực, thực phẩm nuôi quân tại địa phương. Mẹ có 1 người
con duy nhất tham gia kháng chiến và đã hy sinh, được công nhận
là liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Nguyễn Tuất, sinh năm 1926, hy sinh vì sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước vào ngày 25.8.1970.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2015 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN,
ngày 1.12.2015 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
380

39 Pages 381-390

▲back to top


39.1 Page 381

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Biền
(1896 - 1948)
Mẹ Phạm Thị Biền sinh năm 1896
tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai và mất vào năm 1948 tại xã
Lộc An, huyện Long Thành. Hiện nay,
chắt của mẹ là ông Lê Văn Đức, sống
tại ấp Bàu Bông, xã Phước An đang thờ
phụng mẹ.
Mẹ Phạm Thị Biền đã động viên
người con trai độc nhất lên đường tham gia kháng chiến và con
của mẹ đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là liệt sỹ
Huỳnh Văn Rỡ, sinh năm 1927, hy sinh vào tháng 3.1948, trong
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 154/KTCTN, ngày 20.4.2000 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
381

39.2 Page 382

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Tư
(1912 - 2001)
Mẹ Nguyễn Thị Tư sinh năm 1912
và mất vào ngày 25.12.2001 tại quê nhà
ở xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Trong kháng chiến, mẹ đã tham gia
trực tiếp tham gia công tác cách mạng
tại địa phương, che giấu cán bộ, chiến
sỹ, làm công tác đưa tin cho cơ sở cách
mạng, giúp đỡ lương thực, thực phẩm, quần áo và cho mượn nhà
để làm cơ sở hội họp.
Mẹ Nguyễn Thị Tư có 2 người con liệt sĩ: liệt sĩ Lê Văn
Nô, sinh năm 1949, hy sinh vào ngày 4.11.1967 và liệt sĩ Lê Văn
Hạnh.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, mẹ đã được Hội
đồng Bộ trưởng tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất theo
Quyết định số 152/KT-HĐBT ngày 20.11.1984 và vào năm 2014,
mẹ Nguyễn Thị Tư được truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, con dâu của mẹ là Võ Thị Năm đang thờ phụng mẹ
tại ấp Bà Trường, xã Phước An.
382

39.3 Page 383

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Bùi Thị Hoa
(1908 - 1988)
Mẹ Bùi Thị Hoa sinh năm 1908
và mất vào năm 1988 tại xã Phước An,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là bà Nguyễn Thị Lai
đang thờ phụng mẹ tại ấp Bà Trường, xã
Phước An.
Sinh ra và lớn lên trên quê hương
giàu truyền thống cách mạng, đứng trước
cảnh kẻ thù dày xéo quê hương, mẹ Bùi Thị Hoa đã động viên,
tiễn chân các con của mình lên đường nhập ngũ và có 2 người con
của mẹ đã hy sinh, được công nhận liệt sỹ. Liệt sỹ Nguyễn Văn
Xây, hy sinh vào ngày 20.10.1954 và liệt sỹ Nguyễn Văn Trọng,
sinh năm 1931, hy sinh vào ngày 8.10.1972.
Mẹ đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất và đến
năm 2014, mẹ được truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN
do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
383

39.4 Page 384

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bay
(1906 - 1995)
Mẹ Nguyễn Thị Bay sinh năm 1906
và mất vào ngày 25.2.1995 tại quê nhà
ở xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Hiện nay, mẹ đang được con
gái là bà Lê Thị Hát và cháu nội là ông
Lê Văn Mai sống tại ấp Bà Trường, xã
Phước An đang thờ phụng.
Trong kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị
Bay đã tích cực tham gia đóng góp tiền, gạo, thuốc cho cán bộ,
chiến sỹ cách mạng. Mẹ có 2 người con liệt sỹ đã hy sinh trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Lê Văn Sang,
hy sinh vào ngày 23.7.1970 và liệt sỹ Lê Văn Lẹ, sinh năm 1937,
hy sinh vào tháng 11.1973.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Nguyễn Thị Bay danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
384

39.5 Page 385

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Xinh
(1909 - 2005)
Mẹ Nguyễn Thị Xinh sinh năm
1909, nguyên quán tại xã Phước An,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
từ trần vào ngày 25.3.2005. Hiện tại, con
của mẹ là Huỳnh Văn Chương đang thờ
phụng mẹ tại quê nhà ở ấp Bàu Bông, xã
Phước An.
Mẹ Nguyễn Thị Xinh đã động viên
các con lên đường tham gia kháng chiến để đánh đuổi quân thù,
giành lại độc lập, tự do cho đất nước và hai con của mẹ đã hy sinh
vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là liệt sỹ Huỳnh Văn Cạn, sinh
năm 1941, hy sinh vào ngày 10.7.1961 và liệt sỹ Huỳnh Văn Cải.
Do có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định
số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
385

39.6 Page 386

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Nuôi
(1915 - 2010)
Mẹ Nguyễn Thị Nuôi sinh năm
1915 và mất vào ngày 17.4.2010 tại xã
Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Hiện nay, con của mẹ là ông Trần
Văn Linh, sinh năm 1959 sống tại ấp Bà
Trường, xã Phước An đang thờ phụng
mẹ.
Trong kháng chiến, kẻ thù luôn
khủng bố những người tham gia cách mạng nhưng mẹ Nguyễn
Thị Nuôi vẫn tham gia đóng góp tiền, gạo, thuốc, quần áo... cho
cán bộ cách mạng tại địa phương. Mẹ cũng khuyến khích, động
viên các con tham gia hoạt động cách mạng và có 2 người con đã
hy sinh vì Tổ quốc. Liệt sỹ Nguyễn Văn Huấn, sinh năm 1938, hy
sinh vào ngày 14.4.1972 và liệt sỹ Nguyễn Văn Ngự, sinh năm
1940, hy sinh vào ngày 20.7.1970.
Mẹ Nguyễn Thị Nuôi đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
386

39.7 Page 387

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Hỏi
(1913 - 1997)
Mẹ Lê Thị Hỏi sinh năm 1913,
nguyên quán tại xã Phước An, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời
vào ngày 18.5.1997 tại quê nhà và hiện
được thờ cúng tại ấp Bà Trường, xã Phước
An bởi con của mẹ là bà Lê Thị Hoa.
Tham gia hoạt động công tác cách
mạng tại địa phương trong kháng chiến,
mẹ đã trực tiếp giúp đỡ cán bộ, chiến sỹ cách mạng tại địa phương,
làm công tác đưa tin, hỗ trợ lương thực, thực phẩm, quần áo cho
cách mạng. Mẹ Lê Thị Hỏi có 2 người con liệt sỹ: Liệt sỹ Lê Văn
Hoàng, sinh năm 1931, hy sinh vào ngày 9.10.1960 và liệt sỹ Lê
Văn Lạc, hy sinh vào ngày 12.10.1966.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã tặng
thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba vào năm 1984 và truy
tặng mẹ Lê Thị Hỏi danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
387

39.8 Page 388

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Quảng
(1913 - 2000)
Mẹ Huỳnh Thị Quảng sinh năm
1913 và mất vào ngày 11.6.2000 tại quê
nhà ở xã Phước An, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, con của mẹ là
bà Lê Thị Biển sống tại ấp Vũng Gấm, xã
Phước An đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến, mẹ Quảng đã
tích cực đóng góp tiền của, vải, thuốc
men cho bộ đội và cách mạng. Mẹ có chồng và 1 người con liệt sỹ,
hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Người bạn
đời của mẹ là liệt sỹ Lê Văn Hải, sinh năm 1903, hy sinh vào ngày
26.12.1959. Con của mẹ là liệt sỹ Lê Văn Dã, sinh năm 1945, hy
sinh vào ngày 8.8.1967.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
388

39.9 Page 389

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Hầu
(1908 - 1992)
Mẹ Nguyễn Thị Hầu sinh năm 1908
tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Sau khi mẹ qua đời vào ngày
16.4.1992, con gái là bà Phan Thị Bòn
hiện đang thờ phụng mẹ tại ấp Bàu Bông,
xã Phước An.
Nhà của mẹ là nơi sinh hoạt và che
giấu chiến sỹ cách mạng trong thời kỳ
chống Mỹ. Đồng thời, mẹ cũng đã tích cực đóng góp tiền, gạo,
thuốc men cho cách mạng. Mẹ Nguyễn Thị Hầu có 2 người con
liệt sỹ: Liệt sỹ Phan Văn To, sinh năm 1934, hy sinh vào ngày
8.3.1960 và liệt sỹ Phan Văn Quang, sinh năm 1947, hy sinh vào
ngày 11.9.1971.
Do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mẹ đã được Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTN.
389

39.10 Page 390

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trần Thị Lời
(1911 - 1991)
Mẹ Trần Thị Lời sinh năm 1911
trên quê hương giàu truyền thống cách
mạng huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ qua đời vào ngày 8.3.1991 và hiện
đang được con của mẹ là bà Trần Thị Lê
thờ phụng tại quê nhà ở ấp Bà Trường, xã
Phước An.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trường kỳ của dân tộc, chiến tranh đã cướp mất đi 2
người con thân yêu của mẹ. Tổ quốc ghi công liệt sỹ Nguyễn Văn
Nầy, sinh năm 1936, hy sinh vào ngày 6.9.1962 và liệt sỹ Nguyễn
Văn Nọ, sinh năm 1939, hy sinh vào ngày 24.10.1967. Đồng thời,
mẹ Trần Thị Lời cũng đã tích cực đóng góp tiền, gạo, thuốc, quần
áo... cho cách mạng tại địa phương trong kháng chiến.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
390

40 Pages 391-400

▲back to top


40.1 Page 391

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Đường
(1906 - 1966)
Mẹ Trần Thị Đường sinh năm 1906
tại xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch và
mất vào ngày 26.4.1966 tại ấp Ông Kèo,
xã Vĩnh Thanh. Hiện nay, con của mẹ là
ông Châu Văn Tiên, sinh năm 1951 sống
tại ấp Bà Trường, xã Phước An đang thờ
phụng mẹ.
Trong kháng chiến, như nhiều bà
mẹ khác nơi quê hương giàu truyền thống cách mạng, mẹ Trần
Thị Đường đã đóng góp tiền, gạo, thuốc cho cách mạng tại địa
phương. Mẹ có 2 người con liệt sỹ: Liệt sỹ Châu Văn Nghe, sinh
năm 1937, hy sinh vào ngày 7.10.1970 và liệt sỹ Châu Văn Khởi,
sinh năm 1939, hy sinh vào ngày 25.12.1970 trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
391

40.2 Page 392

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Lừa
(1912 - 1995)
Mẹ Huỳnh Thị Lừa sinh năm 1912
và mất vào năm 1995 tại xã Phước An,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện
nay, con của mẹ là ông Nguyễn Văn Theo
đang thờ phụng mẹ tại ấp Bàu Bông, xã
Phước An.
Mẹ Huỳnh Thị Lừa có chồng và 1
người con là liệt sỹ. Chồng của mẹ là liệt
sỹ Nguyễn Văn Bộ, sinh năm 1902, hy sinh vào ngày 20.8.1954.
Con của mẹ là liệt sỹ Nguyễn Văn Thanh, sinh năm 1944, hy sinh
vào ngày 20.12.1969 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bản thân mẹ Huỳnh Thị Lừa cũng đã tích cực tham gia công tác
cách mạng tại địa phương trong kháng chiến, đóng góp tiền, gạo,
lương thực cho cách mạng.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
392

40.3 Page 393

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Lê
(1930 - 2006)
Mẹ Nguyễn Thị Lê sinh năm 1930
và mất vào ngày 9.6.2006 tại xã Phước
An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị
Lê đã tích cực cùng bà con quyên góp
tiền bạc, lương thực, vải, thuốc men tiếp
tế cho cách mạng. Cũng trong thời kỳ đó,
mẹ đã động viên các con lên đường tham
gia kháng chiến và hai người con của mẹ đã hy sinh vì sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Đó là liệt sỹ Huỳnh Văn Lượng, sinh năm 1945,
hy sinh tháng 3.1969 và liệt sỹ Huỳnh Văn Đực.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
Hiện nay, con của mẹ là bà Huỳnh Ngọc Thơ sống tại ấp
Qưới Thạnh, xã Phước An đang thờ phụng mẹ.
393

40.4 Page 394

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Nhành
(1922 - 1972)
Mẹ Lê Thị Nhành sinh năm 1922
và mất năm 1972 tại xã Phước An, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, bà
Nguyễn Thị Chung là con của mẹ sống
tại ấp Bàu Bông, xã Phước An đang thờ
phụng mẹ tại quê nhà.
Trong giai đoạn chiến tranh ác liệt,
đứng trước cảnh nước mất nhà tan, kẻ thù
dày xéo quê hương, mẹ tần tảo nuôi dạy các con còn nhỏ. Khi con
đến tuổi trưởng thành, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, các con của mẹ đã lên đường nhập ngũ với sự động viên tinh
thần từ mẹ. Hai người con thân yêu của mẹ đã hy sinh và được Tổ
quốc ghi công là liệt sỹ Nguyễn Văn Thệ, sinh năm 1945, hy sinh
vào ngày 30.12.1972 và liệt sỹ Nguyễn Văn Đại, sinh năm 1947,
hy sinh vào ngày 16.10.1966. Bản thân mẹ Nguyễn Thị Nhành
cũng đã tích cực đóng góp tiền, gạo, thuốc men cho cách mạng tại
địa phương trong kháng chiến.
Với những công lao đóng góp và hy sinh cao quý đó, mẹ đã
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
394

40.5 Page 395

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Rít
(1928 - 2017)
Mẹ Phạm Thị Rít sinh năm 1928 và
mất vào ngày 23.1.2017 tại quê nhà ở xã
Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai.
Trong kháng chiến chống Mỹ,
mẹ Phạm Thị Rít đã tích cực đóng góp
của cải vật chất cho cách mạng tại địa
phương. Trong quá trình hoạt động, mẹ
bị địch phát hiện, bắt và tù đày.
Mẹ Phạm Thị Rít có 2 người con liệt sỹ đều hy sinh trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là liệt sỹ Nguyễn Văn
Quảng hy sinh vào ngày 7.8.1972 và liệt sỹ Nguyễn Văn Sanh,
sinh năm 1948, hy sinh vào ngày 13.6.1964.
Do đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mẹ đã được phong tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày 26.9.2014 theo
Quyết định số 2392/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, con của mẹ là bà Nguyễn Thị Vân đang thờ phụng
mẹ tại ấp Vũng Gấm, xã Phước An.
395

40.6 Page 396

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Ngọc
(1906 - 1964)
Mẹ Nguyễn Thị Ngọc sinh năm
1906 và mất vào ngày 3.11.1964 tại xã
Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Hiện nay, bà Huỳnh Thị Diêm là con
của mẹ, sống tại ấp Bàu Bông, xã Phước
An đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến, mẹ Nguyễn Thị
Ngọc đã tích cực đóng góp tiền bạc, gạo
cho cách mạng. Mẹ có 2 người con lên đường nhập ngũ theo tiếng
gọi thiêng liêng của Tổ quốc và đã hy sinh. Đó là liệt sỹ Huỳnh
Văn Đổng, sinh năm 1950, hy sinh vào ngày 19.4.1974 và liệt sỹ
Huỳnh Văn Châu, sinh năm 1935, hy sinh vào ngày 3.3.1969.
Với những công lao, hy sinh to lớn đó, ngày 1.12.2015, mẹ
đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN của Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
396

40.7 Page 397

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Rằng
(1912 - 2013)
Mẹ Nguyễn Thị Rằng sinh năm 1912
tại xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ từ trần vào ngày 13.6.2013
và hiện đang được con gái là bà Nguyễn
Thị Cúc sống tại ấp Bà Trường, xã Phước
An thờ phụng.
Mẹ Nguyễn Thị Rằng đã động viên
các con lên đường tham gia kháng chiến
và hai con của mẹ đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó
là liệt sỹ Nguyễn Văn Chơn, hy sinh vào tháng 8.1969 và liệt sỹ
Nguyễn Văn Lành, hy sinh ngày 16.7.1963. Vượt qua nỗi đau,
mẹ vẫn tiếp tục sống và cống hiến cho đất nước cho đến ngày qua
đời.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Nguyễn Thị Rằng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
397

40.8 Page 398

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Bùi Thị Út
(1924 - 1985)
Mẹ Bùi Thị Út, sinh năm 1924,
nguyên quán tại xã Phước An, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Ngay từ giai đoạn đầu kháng chiến
chống Pháp, xã Phước An đã được mệnh
danh là “thủ đô kháng chiến” của vùng
Long Thành - Nhơn Trạch. Nhiều cơ
quan, đơn vị của huyện, lực lượng vũ
trang, bộ đội Bình Xuyên... đã về vùng rừng giồng Phước An xây
dựng căn cứ kháng chiến. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
quân dân Phước An đã xây dựng nơi đây thành căn cứ địa cách
mạng. Một hệ thống địa đạo chằng chịt đã được thiết kế khắp vùng
“lòng chảo” Phước An, vừa là nơi ẩn náu vừa là nơi chiến đấu.
Địch nhiều lần tổ chức càn quét quy mô lớn vào Phước An, nhưng
lần nào cũng thất bại.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mẹ Bùi Thị Út
không chỉ tham gia đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ cách mạng,
tiếp tế lương thực cho bộ đội mà mẹ còn vận động các con thoát
ly theo kháng chiến. Mẹ có 2 người con trai đã anh dũng hy sinh
khi chiến đấu bảo vệ quê hương Phước An, đó là liệt sĩ Hoàng
Ngọc Trí, sinh năm 1941, hy sinh ngày 20.4.1966 và liệt sĩ Hoàng
Thành, sinh năm 1957, hy sinh ngày 14.9.1972.
Mẹ qua đời ngày 17.11.1985. Hiện con gái Hoàng Thị Đặng
đang thờ cúng mẹ tại ấp Cẩm Tân, xã Xuân Tân, thị xã Long
Khánh.
398

40.9 Page 399

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mẹ Bùi Thị Út được truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
399

40.10 Page 400

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Nên
(1916 - 2001)
Mẹ Lê Thị Nên sinh năm 1916 tại
xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Phước An quê mẹ là xã có truyền
thống văn hóa lâu đời gắn với đời sống
sông nước, nhưng những năm sống dưới
ách đô hộ của thực dân Pháp, rồi đế quốc
Mỹ và chính quyền tay sai tàn phá, giày
xéo, thường xuyên càn quét đánh phá, gây nhiều chết chóc tang
thương. Phước An lập làng kháng chiến ngay từ khi thực dân Pháp
tái chiếm Nam Bộ, trở thành trung tâm kháng chiến với nhiều hoạt
động, nhiều chiến công được ghi vào sử sách. Mẹ Lê Thị Nên
cùng gia đình tham gia hoạt động kháng chiến từ rất sớm, làm đủ
mọi việc của cư dân làng kháng chiến: Sản xuất, tiếp tế nuôi quân,
vận động đoàn thể tổ chức hoạt động ... Trong giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ, gia đình mẹ là cơ sở của cách mạng, nhiều người
thoát ly, tham gia chiến đấu.
Mẹ Nên có chồng và 1 người con là liệt sĩ. Chồng mẹ là
liệt sĩ Nguyễn Kim Huy, Ủy viên quân sự xã, hy sinh trong thời
kỳ chống thực dân Pháp. Con trai của mẹ là liệt sĩ Nguyễn Văn
Nhiều, Tiểu đội phó bộ đội địa phương, Quân đội nhân dân Việt
Nam, hy sinh trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Mẹ mất ngày 02.9.2001. Con của mẹ là ông Nguyễn Văn Bé
hiện đang thờ cúng mẹ tại gia đình ở ấp 2, xã Phước Bình, huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
400

41 Pages 401-410

▲back to top


41.1 Page 401

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mẹ Lê Thị Nên được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
401

41.2 Page 402

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Hà
(1907 - 1945)
Mẹ Phan Thị Hà sinh năm 1907 tại
xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Do nhà nghèo, bệnh tật không
tiền chữa chạy nên mẹ mất vào năm
1945.
Mẹ Phan Thị Hà có người con độc
nhất là liệt sĩ Võ Văn Danh, sinh năm
1938, hy sinh năm 1967 tại Cần Giờ,
Thành phố Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hiện nay, cháu của mẹ là Võ Phi Tùng, cư trú tại thị trấn Long
Thành, huyện Long Thành đang thờ cúng mẹ.
Ghi nhận công lao của Mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng Mẹ Phan Thị Hà danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2014.
402

41.3 Page 403

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Yến
(1903 - 1991)
Mẹ Trần Thị Yến sinh năm 1903 tại
xã Phước An, huyện Nhơn Trạch - một xã
anh hùng của huyện anh hùng.
Ngay từ đầu thời kỳ miền Nam
bước vào cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp theo lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, khu vực Lòng Chảo Phước
An đã trở thành căn cứ kháng chiến của
vùng Long Thành - Nhơn Trạch cũng như của tỉnh. Nhiều cơ quan,
đoàn thể, đơn vị bộ đội đã đóng quân nơi đây. Chính vì vậy, địch
đã tổ chức nhiều cuộc càn quét ác liệt vào Phước An để tiêu diệt
cách mạng. Quân và dân Phước An không chỉ chiến đấu chống
trả lại các cuộc càn quét liên miên của địch mà còn tổ chức đánh
trả gây cho địch nhiều thiệt hại, nuôi giấu cán bộ, một lòng với sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Mẹ Yến cũng như những bà mẹ Phước
An khác, tích cực lao động sản xuất để đóng góp cho kháng chiến,
là hậu phương vững chắc cho gia đình, động viên chồng và các
con lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Chồng mẹ Yến, liệt sĩ Hồ Văn Gồng, sinh năm 1902, hy sinh
ngày 3.3.1948; con của mẹ, liệt sĩ Hồ Ngọc Thành, hy sinh ngày
10.10.1950 trong kháng chiến chống Pháp. Mẹ Yến qua đời ngày
25.3.1991.
Ghi nhận công lao của mẹ với sự nghiệp cách mạng, Nhà
nước đã truy tặng mẹ Trần Thị Yến danh hiệu cao quý Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày
26.9.2014. Hiện cháu ngoại Nguyễn Kim Hạnh thờ cúng mẹ Yến
tại ấp 1A, xã Phước Thái, huyện Long Thành.
403

41.4 Page 404

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chanh
(1925 - 1993)
Mẹ Nguyễn Thị Chanh sinh năm
1925 và mất vào ngày 23.6.1993 tại quê
nhà ở xã Phước Khánh, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Không cam lòng nhìn kẻ thù dày xéo
quê hương, mẹ đã tham gia công tác cách
mạng tại địa phương, tiếp tế lương thực,
thuốc men cho cách mạng. Mẹ Nguyễn
Thị Chanh đã động viên, tiễn người con độc nhất lên đường nhập
ngũ chiến đấu vì nền độc lập tự do của dân tộc. Trong quá trình
hoạt động, con trai mẹ là liệt sỹ Phạm Văn Bộ bị địch bắt và đã
hy sinh.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 1306/KT-CTN, ngày 23.7.1997 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, em dâu của mẹ là bà Văn Thị Tip đang thờ cúng
mẹ tại ấp 2, xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch.
404

41.5 Page 405

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Trinh
(1921 - 2002)
Mẹ Nguyễn Thị Trinh sinh năm
1921 tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Ngày 13.6.2002,
mẹ qua đời tại quê hương Phước Khánh,
hưởng thọ 81 tuổi.
Tham gia công tác cách mạng trong
kháng chiến chống Mỹ tại địa phương,
mẹ đã mang gạo, thức ăn, thuốc men tiếp
tế cho cách mạng. Mẹ Nguyễn Thị Trinh có 2 người con tham gia
kháng chiến, trong quá trình hoạt động đã bị địch bắt và hy sinh.
Tổ quốc ghi công liệt sỹ Trần Văn Tam, sinh năm 1941, hy sinh
vào tháng 8.1965 và liệt sỹ Trần Văn Lực, sinh năm 1950, hy sinh
vào ngày 15.6.1966.
Hiện nay, con của mẹ là bà Trần Thị Hoa, sống tại ấp 2, xã
Phước Khánh đang trực tiếp thờ phụng mẹ. Mẹ Nguyễn Thị Trinh
đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vào ngày
26.9.2014 theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì những cống hiến, hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
mẹ và gia đình.
405

41.6 Page 406

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Sô
(1918 - 2009)
Mẹ Nguyễn Thị Sô sinh năm 1918
và mất vào ngày 9.4.2009 tại quê nhà ở
xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Hiện nay, con của mẹ là ông
Phạm Văn Cu đang trực tiếp thờ phụng
mẹ tại ấp 2, xã Phước Khánh.
Mẹ Nguyễn Thị Sô có 2 người con
tham gia hoạt động cách mạng và đã hy
sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ
Phạm Văn Tùng, sinh năm 1935, hy sinh vào ngày 6.1.1968 và liệt
sỹ Phạm Văn Bảy, sinh năm 1939, hy sinh vào ngày 10.4.1970.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
406

41.7 Page 407

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Nơi
(1919 - 1991)
Mẹ Nguyễn Thị Nơi sinh năm 1919
tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ qua đời tại quê hương
vào ngày 4.4.1991. Hiện nay, con của mẹ
là bà Nguyễn Ngọc Mai, sinh năm 1960,
ở tại ấp 2, xã Phước Khánh đang trực tiếp
thờ phụng mẹ.
Mẹ Nguyễn Thị Nơi có 2 người con
là liệt sỹ, liệt sỹ Nguyễn Văn Nào, sinh năm 1945, hy sinh vào
năm 1972 và liệt sỹ Nguyễn Văn Thắng, sinh năm 1949, hy sinh
vào năm 1969. Mẹ vẫn mạnh mẽ vượt qua nỗi đau, sống và cống
hiến cho đất nước. Mẹ vẫn tiếp tục tham gia công tác cách mạng
tại địa phương, tiếp tế lương thực, thuốc men cho cách mạng.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
407

41.8 Page 408

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Huỳnh
(1910 - 1996)
Mẹ Nguyễn Thị Huỳnh sinh năm
1910 và mất vào ngày 11.11.1996 tại xã
Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Hiện nay, con trai là ông Chung
Văn Thiện đang trực tiếp thờ phụng mẹ
tại ấp 2, xã Phước Khánh.
Mẹ Nguyễn Thị Huỳnh đã tham gia
tiếp tế gạo, thuốc men cho cách mạng tại
địa phương trong kháng chiến. Mẹ có 2 người con đã anh dũng
hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là liệt sỹ Chung Văn
Tặc, sinh năm 1943, hy sinh vào năm 1969 khi bị địch bắt và liệt
sỹ Chung Văn Cược, sinh năm 1945, hy sinh vào năm 1968 trong
chiến dịch Mậu Thân.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
408

41.9 Page 409

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Bảy
(1913 - 1998)
Mẹ Nguyễn Thị Bảy sinh năm
1913, nguyên quán tại xã Phước Khánh,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
từ trần vào ngày 29.6.1998 và hiện đang
được con trai là ông Hồ Văn Thoại trực
tiếp thờ phụng tại quê nhà ở tại xã Phước
Khánh.
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ, đã hy
sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Hồ Văn
Nga, sinh năm 1941, hy sinh vào ngày 25.5.1968 và liệt sỹ Hồ
Văn Thành, sinh năm 1945, hy sinh vào tháng 7.1968.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
409

41.10 Page 410

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Ba
(1914 - 2000)
Mẹ Lê Thị Ba sinh năm 1914 và
mất vào ngày 25.01.2000 tại xã Phước
Khánh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Hiện nay, con của mẹ là ông Dương
Ngọc Thành ở ấp 1, xã Phước Khánh
đang thờ phụng mẹ.
Mẹ Lê Thị Ba có 2 người con là liệt
sỹ. Đó là liệt sỹ Dương Minh Chiến, sinh
năm 1946, hy sinh vào ngày 18.8.1972 và liệt sỹ Dương Văn Lợi,
sinh năm 1950, hy sinh vào ngày 23.3.1970. Cả 2 người con của
mẹ đều hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
410

42 Pages 411-420

▲back to top


42.1 Page 411

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Lâu
(1902 - 1960)
Mẹ Nguyễn Thị Lâu sinh năm 1902
và mất vào ngày 27.8.1960 tại quê nhà
ở xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, cháu nội là ông
Phan Văn Bảnh đang trực tiếp thờ phụng
mẹ ở xã Phước Khánh.
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ đều anh
dũng hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước. Đó là liệt sỹ Phan Hồng Khanh (Nhỏ), sinh năm 1935, hy
sinh vào ngày 16.2.1962 và liệt sỹ Phan Hồng Khanh (Út), sinh
năm 1944, hy sinh vào ngày 23.8.1966.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Nguyễn Thị Lâu danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 781/QĐ-CTN, ngày 25.4.2015 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
411

42.2 Page 412

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Nên
(1920 - 1957)
Mẹ Phan Thị Nên sinh năm 1920,
nguyên quán tại xã Mỹ Lệ, huyện Cần
Đước, tỉnh Long An. Mẹ mất vào ngày
26.9.1957 tại xã Phước Khánh, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay,
con của mẹ là bà Huỳnh Thị Nho, sinh
năm 1941, ở xã Phước Khánh đang trực
tiếp thờ phụng mẹ.
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong cùng
một năm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong kháng chiến chống
Mỹ. Liệt sỹ Huỳnh Văn Võ, sinh năm 1943, hy sinh vào năm 1968
do bị địch bắn và liệt sỹ Huỳnh Thị Tư, sinh năm 1945, hy sinh
vào năm 1968 do bị bom nổ.
Năm 2015, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 781/QĐ-CTN ngày 25.4.2015 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Phan Thị Nên.
412

42.3 Page 413

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Hảo
(1924 - 2004)
Mẹ Trần Thị Hảo sinh năm 1924
và mất vào ngày 30.12.2004 (nhằm ngày
20.11 ÂL) tại xã Phước Vĩnh Tây, huyện
Cần Đước, tỉnh Long An. Hiện nay, con
của mẹ là ông Nguyễn Quốc Anh, cư ngụ
ở xã Phước Khánh đang trực tiếp thờ
phụng mẹ.
Mẹ Trần Thị Hảo có 02 người con
là liệt sỹ: Liệt sỹ Nguyễn Văn Xường, sinh năm 1941, hy sinh vào
ngày 03.7.1965 và liệt sỹ Nguyễn Văn Phích, sinh năm 1948, hy
sinh vào ngày 13.9.1969. Cả 2 người con của mẹ đều hy sinh vì sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 781/QĐ-CTN, ngày 25.4.2015 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
413

42.4 Page 414

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đặng Thị Ký
(1918)
Mẹ Đặng Thị Ký sinh năm 1918
tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Mẹ có 2 người con là liệt sĩ, đều hy
sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước
trong cùng một năm 1969, chỉ cách nhau
hơn 2 tháng. Đó là liệt sĩ Nguyễn Văn
Nuôi, sinh năm 1939, hy sinh vào ngày
1.7.1969 và liệt sĩ Nguyễn Văn Chiến, sinh năm 1942, hy sinh vào
ngày 15.9.1969. Hiện nay, con của mẹ là ông Nguyễn Văn Hoài
đang phụng dưỡng mẹ tại ấp 1, xã Phước Khánh. Qua tuổi bách
tuế, đã 102 tuổi nhưng mẹ Ký vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Phương
châm sống thọ của mẹ là lao động chăm chỉ, tinh thần lạc quan,
vui vẻ, sống rộng mở. Mẹ được mọi người trong làng trong xã yêu
quý vì tính hài hước, thường hay giúp đỡ người khác dù gia đình
và bản thân mẹ cũng còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, người thân
cũng như người dân địa phương kính trọng vì mẹ luôn sống mẫu
mực, nhắc nhở các con các cháu giữ gìn truyền thống cách mạng
của gia đình.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã
phong tặng mẹ Đặng Thị Ký danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
414

42.5 Page 415

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Xê
(1925)
Mẹ Lê Thị Xê sinh năm 1925 tại xã
Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ kết hôn với một nông dân
cùng xã là ông Nguyễn Văn Lời, sinh
được 7 người con (4 trai, 3 gái), trong đó
2 người con trai đầu Nguyễn Văn Kịch,
Nguyễn Văn Liệt là anh em song sinh,
cùng sinh năm 1941.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả gia
đình mẹ đều đóng góp sức người, sức của cho cách mạng. Vợ
chồng mẹ nhiều lần thay nhau tiếp tế cho cán bộ, bộ đội của Đoàn
10 đặc công Rừng Sác. 2 anh em Nguyễn Văn Kịch và Nguyễn
Văn Liệt khi lớn lên đều gia nhập bộ đội thuộc đơn vị C240. Mỗi
lần hiếm hoi các con tạt về thăm mẹ hay mẹ tìm đến nơi đóng quân
thăm con, mẹ đều giục 2 anh cưới vợ cho mẹ có cháu ẳm bồng.
Lần nào 2 anh cũng cười, nói rằng bao giờ chiến thắng, đất nước
thống nhất không còn bóng quân thù thì mới yên lòng tính chuyện
gia thất. Ngày 1.9.1969, liệt sĩ Nguyễn Văn Kịch hy sinh khi chiến
đấu chống càn tại khu vực Bà Ký (huyện Long Thành) do trúng
bom. Đến ngày 15.1.1973, liệt sĩ Nguyễn Văn Liệt cũng hy sinh
khi đang chiến đấu. Mẹ chỉ biết tin các con khi nhận giấy báo tử
của đơn vị gởi về. Cả 2 liệt sĩ khi hy sinh vẫn chưa lập gia đình,
chưa có cháu như ước nguyện của mẹ. Mẹ càng đau buồn hơn khi
không an táng các con mồ yên mả đẹp theo phong tục, bởi cả 2 liệt
sĩ đều hy sinh do trúng bom, không còn thi thể.
Sau ngày đất nước hòa bình, đời sống gia đình mẹ Xê rất
415

42.6 Page 416

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
khó khăn như hoàn cảnh chung cả người dân cả nước. Mẹ Xê
động viên các con, các cháu tích cực sản xuất, vượt qua đói nghèo,
thường nhắc nhở người thân không được sống ỷ lại, giữ gìn truyền
thống. Mẹ Lê Thị Xê đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai
tặng bằng khen “Mẹ liệt sỹ đã có nhiều nỗ lực khắc phục hoàn
cảnh khó khăn, vươn lên ổn định cuộc sống” theo Quyết định số
2131/QĐ-UBND ngày 12.7.2007. Hiện nay, mẹ đang sinh sống
tại quê nhà ở ấp 1, xã Phước Khánh cùng cháu nội là Nguyễn
Thanh Mộng. Mẹ là tấm gương mẫu mực cho gia đình, dòng họ
và người dân trong làng xóm noi theo.
Với những công lao, hy sinh to lớn đó, ngày 26.9.2014, mẹ
đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN.
416

42.7 Page 417

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Bảy
(1920 - 1966)
Mẹ Nguyễn Thị Bảy sinh năm 1920
tại xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất ngày 30.7.1966.
Hiện tại, người con thứ 6 của mẹ là ông
Nguyễn Văn Bảy đang thờ cúng mẹ tại
ấp Phước Lý, xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Chồng và một người con trai của
mẹ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chồng
mẹ là liệt sỹ Nguyễn Văn Lời, sinh năm 1920, hy sinh năm 1964.
Con trai là liệt sỹ Nguyễn Văn Phước, hy sinh năm 1968 ở Suối
Cả, huyện Long Thành.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
417

42.8 Page 418

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phạm Thị Điểu
(1912 - 1955)
Mẹ Phạm Thị Điểu sinh năm 1912
tại xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Kiếng họ Phạm của mẹ Điểu là một
trong năm dòng họ lớn nổi tiếng ở vùng
Phú Hữu vì có truyền thống yêu nước,
từng tham gia khởi nghĩa chống Pháp của
nghĩa quân Trương Định. Gia đình của
mẹ cũng nối tiếp truyền thống đó. Từ nhỏ, mẹ Điểu đã biết chịu
thương chịu khó cần cù làm việc, đảm đang khéo léo. Lớn lên, mẹ
kết hôn với ông Mai Văn Trí, người cùng làng và cũng thuộc năm
dòng họ lớn - họ Mai. Truyền thống này đã được vợ chồng mẹ
Điểu giáo dục, trao truyền cho các con cháu sau này.
Giai đoạn kháng chống Pháp, gia đình mẹ Điểu không chỉ
tích cực đóng góp sức người, sức của cho cách mạng mà mẹ Điểu
còn giúp đỡ nuôi giấu, đưa đón, che chở, bảo vệ cho cán bộ. Nhà
nghèo, ruộng đất không có lại còn phải nuôi bầy con đông đúc,
nhưng mỗi khi cán bộ, bộ đội ghé qua nhà là mẹ nhiệt tình tiếp
đón, ai khó khăn mẹ còn dúi thêm tiền giúp đỡ. Khi cách mạng
cần, mẹ luôn sẵn lòng góp sức không hề ngần ngại, tấm lòng mẹ
lúc nào cũng rộng mở, bao dung.
Do bệnh nặng, mẹ qua đời vào ngày 1.4.1955 trong sự đau
xót, tiếc thương của người thân, bà con làng xóm. Nhớ những lời
mẹ dạy, bước vào giai đoạn kháng chống Mỹ, các con của mẹ:
Mai Văn Hai (Mai Văn Trét, Mai Văn Rỗ), Mai Thị Liễu, Mai Văn
Mực lần lượt thoát ly theo phong trào cách mạng giải phóng miền
418

42.9 Page 419

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nam. Sau này, các cháu nội của mẹ lớn lên cũng theo bước cha đi
làm cách mạng.
2 người con của mẹ đã ngã xuống vì Tổ quốc. Liệt sĩ Mai
Văn Mực, hy sinh ngày 4.10 (ÂL) ở khu vực xã Long Tân trong
một trận càn quét của địch. Liệt sĩ Mai Văn Hai vào tháng 3.1975
khi trên đường tải đạn tại xã Bình Sơn (huyện Long Thành) thì
bị địch phục kích, hy sinh cùng với 28 đồng đội khác, lúc thắng
lợi đã cận kề (liệt sĩ Mai Văn Hai có Bằng Tổ quốc ghi công theo
Quyết định số 574-KT/HĐNN, sổ vàng số 540 ngày 23.11.1984
do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh ký). 3 người cháu
nội của mẹ là Mai Văn Lẹ, Mai Văn Mên, Mai Thị Dung (con của
liệt sĩ Mai Văn Hai) cũng hy sinh trong cùng năm 1968, trong đó
liệt sĩ Mai Văn Mên hy sinh khi đánh sân bay Biên Hòa; con dâu
của mẹ là Trương Thị Bê (vợ liệt sĩ Mai Văn Hai) cũng là Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng. Cả gia đình lớn nhỏ của mẹ Điểu đều một
lòng hướng về cách mạng dẫu phải chịu nhiều đau thương mất
mát, 6 người tham gia kháng chiến đã nằm lại hết 5 người. Hiện
tại, người con trai duy nhất còn lại là ông Mai Văn Gấu đang thờ
cúng mẹ tại quê nhà ở ấp Phước Lý, xã Đại Phước.
Ghi nhận những công lao, đóng góp hy sinh của mẹ, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang đã truy tặng mẹ Phạm Thị Điểu danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tại Quyết định số 2393/
QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
419

42.10 Page 420

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Chọn
(1915 - 1971)
Mẹ Nguyễn Thị Chọn sinh năm
1915 tại xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ từ trần vào
ngày 4.11.1971 (ÂL). Hiện tại, con út của
mẹ là Cao Văn Út đang thờ phụng mẹ tại
địa chỉ 142 ấp Phước Lý, xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ Nguyễn Thị Chọn có 2 con là
liệt sỹ. Đó là liệt sỹ Cao Nam Tư, sinh năm 1943, hy sinh năm
1968 trong trận càn quét của địch ở vàm Ông Kèo và liệt sỹ Cao
Thị Dung, sinh năm 1955, hy sinh trong trận đánh ở vàm Rạch
Mã, cầu mới Phước Khánh năm 1973.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy
tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
420

43 Pages 421-430

▲back to top


43.1 Page 421

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Châu
(1919 - 2008)
Mẹ Lê Thị Châu sinh năm 1919, tại
xã Mỹ Thủy, thuộc quận 9 (cũ) Đô thành
Sài Gòn (nay là phường Cát Lái quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh). Mẹ chuyển về
cư trú tại ấp Phước Lý, xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai và từ
trần vào ngày 2.11.2008. Hiện tại, con
gái của mẹ là bà Đào Thị Lạc đang thờ
phụng mẹ.
Mẹ có hai người con trai đã tham gia cách mạng và hy sinh
trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Đó là liệt sĩ Đào Minh
Trung, Trung đội phó Quân đội nhân dân Việt Nam, hy sinh vào
đầu tháng 2.1968 trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân tại trận đánh Hàng Xanh (Bằng tổ quốc ghi công số 3Q.685b
theo Quyết định số 1777/TTga do Thủ tướng Chính phủ Phạm
Văn Đồng ký ngày 28.12.1977; liệt sỹ Đào Văn A, sinh năm 1954,
là đội viên du kích, hy sinh ngày 21.7.1971 trong trận đánh tại xã
Đại Phước (Bằng Tổ quốc ghi công số PM.461k theo Quyết định
số 787/TTga do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký ngày
1.8.1977.
Trong kháng chiến, mẹ đã đào hầm bí mật trong nhà, nuôi
giấu cán bộ cách mạng và cung cấp thuốc men, lương thực cho
cách mạng. Ghi nhận những đóng góp, hy sinh ấy, mẹ và gia đình
đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến
hạng Nhất tại Quyết định số 18/KT-HĐNN ngày 25.8.1987 và
mẹ được truy tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam Anh hùng ngày
26.9.2014 tại Quyết định số 2393/QĐ-CTN.
421

43.2 Page 422

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Còn
(1908 - 2007)
Mẹ Nguyễn Thị Còn sinh năm
1908, nguyên quán tại xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
lấy chồng là ông Dương Văn Chất, một
nông dân cần cù trong làng, sinh được 4
người con (2 trai, 2 gái). Vợ chồng mẹ
chí thú làm ăn, nhưng chứng kiến tội ác
của giặc Pháp đối với đồng bào, với bà
con trong làng, thấm thía được nỗi nhục của người dân mất nước,
càng căm thù giặc càng quyết tâm theo Đảng, theo Bác Hồ đánh
đuổi xâm lược. Ông Dương Văn Chất hoạt động cách mạng từ
trước Cách mạng tháng Tám 1945, làm thủ lĩnh Thanh niên Tiền
phong của xã, hạt nhân nòng cốt cho phong trào khởi nghĩa giành
chính quyền tháng 8.1945. Khi chính quyền về tay nhân dân, ông
Chất là Chủ tịch ủy ban đầu tiên của xã Phước Lập (Cù lao Ông
Cồn). Kháng chiến chống Pháp nổ ra trên quê hương Nhơn Trạch,
cả gia đình mẹ Còn nỗ lực đóng góp sức người sức của cho cách
mạng. Ông Chất là Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến xã.
Mẹ Còn tham gia Hội Mẹ chiến sĩ của xã, tiếp tế lương thực, thực
phẩm, thuốc men, nuôi giấu cán bộ, đưa tin, việc gì được cách
mạng giao mẹ cũng hoàn thành không nề hà gian khổ.
Năm 1949, quân Pháp đưa bọn lính Cao Đài phản động về
đóng bót ở một số nơi như Phú Thạnh, Câu Kê, Giồng Ông Đông
để đánh phá phong trào kháng chiến, trong đó tên trung tá Lê
Thành Kham, Chỉ huy trưởng khét tiếng là ác ôn. Ông Dương
Văn Chất trong một chuyến công tác bị sa vào tay bọn lính của Lê
Thành Kham và bị chúng đưa đi thủ tiêu.
422

43.3 Page 423

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mẹ Còn
tiếp tục làm cơ sở cho cách mạng, tiếp tế, nuôi giấu cán bộ. Nhiều
cán bộ hoạt động bí mật kể cả ở khu vực bên kia sông (nay thuộc
quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh) được mẹ nuôi giấu, bảo vệ. Con
trai mẹ là Dương Văn Tài (sinh năm 1938) nối tiếp bước cha của
mình, thoát ly theo cách mạng, là Huyện ủy viên, Bí thư xã Hiệp
Phước (nay là thị trấn Hiệp Phước). Đêm 29 rạng sáng 30.4.1975,
trong không khí sôi sục giải phóng Nhơn Trạch, quân ta khẩn
trương tiến vào giải phóng Sài Gòn thì Bí thư xã Dương Văn Tài
hy sinh tại ấp Bến Cộ, xã Đại Phước.
Sau ngày đất nước thống nhất, mẹ sống cùng gia đình con
trai Dương Văn Khang. Tính mẹ hay lam hay làm, cho đến lúc tuổi
cao sức yếu vẫn phụ giúp trong nom, dạy dỗ các cháu. Niềm vui
của mẹ là những cán bộ được mẹ nuôi giấu năm xưa vẫn thường
trở về thăm mẹ. Mẹ Còn mất vào ngày 6.4.2007. Hiện nay, cháu
nội của mẹ là ông Dương Văn Hoàng đang thờ phụng mẹ tại xã
Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và Nhà
nước ghi nhận. Mẹ được truy tặng Huy chương Kháng chiến hạng
Nhất tại Quyết định số 1924 ngày 12.11.2012. Năm 2014, mẹ đã
được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
423

43.4 Page 424

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Mai Thị Sao
(1905 - 1955)
Mẹ Mai Thị Sao sinh năm 1905,
nguyên quán tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Kiếng họ Mai ở
Phú Hữu của mẹ Sao là dòng họ lớn, nổi
tiếng có truyền thống yêu nước, thời nào
cũng có người tham gia khởi nghĩa cũng
như các hội kín chống thực dân Pháp.
16 tuổi, mẹ lấy chồng là ông
Nguyễn Ngọc Sanh, một nông dân nghèo cùng làng. Mẹ sinh 10
lần, nhưng chỉ nuôi lớn được 5 người con (2 trai, 3 gái). Những
năm tháng sống đời nô lệ, giặc Pháp gây rất nhiều tội ác dã man
với người dân Phú Hữu. Năm 1944, vợ chồng mẹ Sao cùng con
gái út là Nguyễn Thị Tím lúc ấy mới 7 tuổi đi dự đám cưới bằng
ghe cùng với bà con lối xóm. Lúc về, ghe gần cập bến Vàm Ô (khu
vực Ông Mai) thì một toán lính Pháp xuất hiện ở bờ sông. Dù trên
ghe phần lớn là phụ nữ, trẻ em nhưng đám lính vẫn thản nhiên bắn
xối xả vào nhứng người dân vô tội. Một số người bị thương, một
số hoảng hốt nhảy xuống sông lẩn trốn, riêng bé Tím không may
trúng đạn, chết tại chỗ.
Ông Nguyễn Ngọc Sanh sớm giác ngộ cách mạng như nhiều
thanh niên Phú Hữu thời ấy, khi Cách mạng tháng Tám 1945 nổ
ra ở Long Thành - Nhơn Trạch, ông Sanh hăng hái vác tầm vông
vạt nhọn tham gia cướp chính quyền tại xã Phú Hữu và quận Long
Thành. Khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2, ông Sanh thoát ly gia đình, giữ
nhiệm vụ Trưởng ban Công an xã Phú Hữu. Cuối năm 1946, ông
424

43.5 Page 425

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Sanh đang tham dự cuộc họp ở xã thì bất ngờ giặc Pháp đi càn ập
vào tận nơi. Các cán bộ dự họp rút ra phía sông, nhảy xuống nước
bơi thoát đi, ông Sanh vì đi sau cùng yểm trợ cho đồng đội rút đi
nên bị địch bắn trúng chân và bị bắt. Địch đưa ông về nhà việc
xã Phú Hữu tra tấn dã man suốt 2 ngày, không khai thác được gì
nên đưa ông đến cầu Cháy (nay thuộc xã Đại Phước, đường đi đến
Giồng Ông Đông) bắn chết để thị uy, rồi buộc đá vào chân thả trôi
sông. Nghe tin dữ, gia đình mẹ Sao chèo ghe dọc theo sông tìm
xác chồng, cha trong nước mắt. 2 ngày sau, lúc chiều tối người
con gái thứ tư là Nguyễn Thị Lan mới tìm được xác cha, thi thể lúc
ấy bị trương phình, 2 tay bị trói quặt ra phía sau lưng, chỉ nhận ra
cha qua chiếc áo quen thuộc mẹ tự tay may cho cha, chân cha cũng
còn nguyên sợi dây điện buộc theo cục đá. Mẹ Sao lẳng lặng chôn
chồng ở mảnh đất ruộng sát bờ sông, do thi thể bị trương lên nên
cắt mãi sợi dây diện buộc đá nơi chân vẫn không đứt, đánh phải
chốn theo sợi dây điện lẫn cục đá mà trong lòng nặng trĩu nỗi căm
thù giặc. Từ đó, mẹ vừa tần tảo nuôi đàn con côi cút, vừa dạy cho
con biết nối tiếp chí cha đánh đuổi xâm lược, thoát khỏi kiếp nô lệ.
Dù hoàn cảnh khó khăn, nhưng mẹ Sao luôn dành dụm gạo thóc,
tiền bạc để tiếp tế cho cách mạng, làm giao liên đưa tin, nuôi giấu
cán bộ khi được yêu cầu, không nệ hà bất cứ việc gì khi cách mạng
cần. Cả 2 người con trai lớn của mẹ là Nguyễn Ngọc Tánh (sinh
năm 1922), Nguyễn Ngọc Yển (sinh năm 1924) đều thoát ly theo
kháng chiến. Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tánh, hy sinh năm 1951, còn
Nguyễn Ngọc Yển sau này tiếp tục tham gia kháng chiến chống
Mỹ.
Do bệnh nặng, mẹ Sao mất ngày 6.10.1955. Hiện tại, con gái
của mẹ là bà Nguyễn Thị Cúc đang thờ phụng mẹ xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch.
425

43.6 Page 426

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nhà nước đã truy tặng mẹ Mai Thị Sao danh hiệu cao quý
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam để ghi nhận công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với
cách mạng.
426

43.7 Page 427

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Xinh
(1910 - 1984)
Mẹ Lê Thị Xinh sinh năm 1910 tại
xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Mẹ kết hôn với ông Dương Văn
Danh (sinh năm 1899), sinh được 5
người con. Ông Danh sớm giác ngộ,
tham gia cách mạng từ trước năm 1945,
là một trong những người nhận chỉ đạo
và tổ chức cho người dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Đại
Phước khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, ông Dương Văn Danh là Phó Chủ tịch xã
Đại Phước. Tháng 4.1947, liệt sĩ Dương Văn Danh trên đường đi
công tác bị lọt ổ phục kích của địch, hy sinh. Một mình mẹ Xinh
từ đó vừa thay chồng nuôi dạy con, vừa đóng góp cho cách mạng
theo cách của mình. Con trai mẹ là Dương Văn Hiển (sinh năm
1930) cũng giống cha, tham gia cách mạng từ lúc mới 15 tuổi,
ban đầu làm giao liên sau đó là nhân viên Công an xã Đại Phước.
Liệt sĩ Dương Văn Hiển hy sinh ngày 28.12.1948. 2 cái tang ập
đến chỉ trong vòng hơn một năm khiến mẹ Xinh vô cùng đau đớn,
nhưng mẹ phải gượng dậy để lo cho các con nhỏ, tiếp tục ý chí
của chồng.
Trong cả 2 giai đoạn kháng chiến, mẹ Xinh phải lo cho các
con mồ côi, đời sống rất khó khăn nhưng dù vất vả đến đâu mẹ vẫn
luôn tìm cách tiếp tế cho cách mạng. Nhà mẹ luôn bị địch chú ý
vì có người thân đi kháng chiến, mẹ phải khôn khéo tìm cách qua
mắt địch. Có nhiều lúc bọn lính vào nhà thấy mẹ đang nấu một
427

43.8 Page 428

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
nồi cơm to, chúng hoạnh họe hỏi bà già nấu cơm chi nhiều vậy, bộ
tiếp tế cho Việt Cộng hả. Mẹ cười giả lả, phân trần: “Tui đi cấy lúa
mướn ở xa, nhà toàn con nít con nôi đâu có biết nấu nướng gì, lạng
quạng nó đốt nhà, bởi vậy tui phải nấu sẵn, lớp đem theo lớp để lại
cho sắp nhỏ ăn”. Cứ vậy, mẹ âm thầm đóng góp cho phong trào
giải phóng. Con trai Dương Văn Sáu (sinh năm 1945) cũng như
cha anh mình, 16 tuổi đã thoát ly làm du kích xã Đại Phước, hy
sinh ngày 8.7.1963. Cả 2 con trai mẹ đều hy sinh ở tuổi 18, chưa
kịp lập gia đình, chưa để lại cho mẹ đứa cháu nối dõi nào.
Mẹ qua đời vào ngày 22.4.1984 tại quê nhà. Hiện tại cháu
nội của mẹ, ông Dương Văn Thông, đang thờ phụng mẹ.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
428

43.9 Page 429

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Tỉnh
(1919 - 1976)
Mẹ Đặng Thị Tỉnh sinh năm 1919
tại xã Phước Vân, huyện Cần Đước, tỉnh
Long An. Mẹ từ trần ngày 7.4.1976 do
tuổi cao, bệnh nặng. Hiện tại, con ruột
của mẹ, ông Trần Văn To, đang thờ phụng
mẹ tại ấp Cù Lao, xã Đại Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ Đặng Thị Tỉnh sinh được 03
người con thì 02 con trai đã lên đường tham gia kháng chiến chống
Mỹ cứu nước và mãi mãi không trở về. Đó là liệt sỹ Trần Văn
Quang, sinh năm 1945, đội viên đội võ trang Nguyễn Văn Trỗi tại
đơn vị Thành đoàn Sài Gòn, hy sinh tháng 4.1967 trong trận càn
quét của địch ở xã Long Khuê, huyện Cần Đước, tỉnh Long An
và liệt sỹ Trần Văn Lớn, sinh năm 1948, hy sinh ngày 25.11.1965
trong trận đánh ở Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Với những công lao, hy sinh to lớn đó, ngày 26.9.2014, mẹ
đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN. Trong ký ức của
người thân, mẹ là người rất hiền lành, tần tảo sớm hôm, sống chan
hòa với bà con, làng xóm.
429

43.10 Page 430

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Nho
(1916 - 2016)
Mẹ Phan Thị Nho sinh năm 1916
tại xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Từ nhỏ, mẹ đã nổi tiếng là một thôn
nữ đảm đang, cấy giỏi nhất làng. 16 tuổi,
mẹ lấy chồng là ông Nguyễn Sanh Thành,
người cùng quê. Ông Thành sớm giác ngộ
cách mạng, sau Cách mạng tháng Tám
1945 ông công tác trong Huyện ủy Long Thành, giữ nhiệm vụ Chủ
tịch Mặt trận Liên Việt của huyện, quanh năm xa nhà. Một mình
mẹ vừa làm lụng nuôi các con, vừa giáo dục con về truyền thống
yêu nước chống ngoại xâm. Mẹ thường bảo, cá sấu ở Rừng Sác,
cọp dữ ở Rừng Lá tuy hung dữ nhưng không ác bằng bọn Tây, bọn
Việt gian theo chân Pháp ăn bơ thừa sữa cặn giết hại đồng bào.
Nhà nghèo, mẹ suốt ngày vất vả trên đồng ruộng, mò cá bắt tôm,
làm thuê làm mướn, có khi mẹ mượn ghe xuống tận Đồng Tháp
Mười bắt cá làm mắm chở về bán để kiếm tiền nuôi con. Nghèo,
nhưng tấm lòng mẹ luôn hướng về cách mạng. Nhà mẹ suốt những
năm kháng chiến chống Pháp vẫn nhận nuôi bộ đội vệ quốc đoàn,
cán bộ cách mạng. Mẹ ăn bữa đói bữa no, nhưng hũ gạo nuôi quân
trong góc nhà của mẹ luôn đầy để đóng góp cho phong trào kháng
chiến. Mỗi tuần một lần, mẹ cùng với cô em chồng đi bộ lên tận
Quới Thạnh, cách Giồng Ông Đông 15km, gánh gạo, thuốc men,
vải... về tiếp tế cho cách mạng. Mẹ cũng tích cực xây dựng cơ sở
kháng chiến trong nhân dân trong số những người quen biết, đây
là những gia đình nòng cốt hỗ trợ rất nhiều cho phong trào cách
mạng trong 2 cuộc kháng chiến, từ đóng góp tài chính, lương thực,
430

44 Pages 431-440

▲back to top


44.1 Page 431

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
thực phẩm, thuốc men cho đến nuôi giấu cán bộ. Con trai lớn của
mẹ là Nguyễn Chiến Lũy (Hai Thông, sinh năm 1932) cũng sớm
tham gia kháng chiến lúc mới 12 tuổi.
Năm 1954, Hiệp định Genève ký kết, ông Nguyễn Sanh
Thành tập kết ra miền Bắc. Ở lại quê nhà, mẹ vừa làm lụng thay
chồng nuôi dạy các em, các con, các cháu, vừa tham gia phong trào
đấu tranh chính trị của xã, huyện. Những đợt đấu tranh yêu cầu
địch thực hiện Hiệp định Genève, chống bầu cử giả hiệu, chống
dồn dân lập ấp chiến lược, chống bắt lính, yêu cầu địch không
được bắn pháo bừa bãi giết hại thường dân vô tội... mẹ Nho đều
dũng cảm đi đầu, dùng lý lẽ đấu tranh thắng lợi. Địch biết mẹ có
chồng, con tham gia kháng chiến, nhiều lần bắt bớ như “cóc bỏ
dĩa”, đánh đập khảo tra nhưng mẹ không hề thoái chí nản lòng.
Mẹ cũng làm công tác giao liên, đưa nhiều cán bộ cách mạng băng
qua vùng địch, đi thu thuế tài chính ở xã Đại Phước chuyển về
cho cơ sở cách mạng ở xã Phú Hội và Phước An mà bọn lính địch
đóng chốt ngày trong nhà mẹ không hề hay biết. Có chiến sĩ Đoàn
10 đặc công Rừng Sác bị địch bắn chết rồi định vứt xác xuống
sông, mẹ đấu tranh để đưa thi thể anh về chôn trong khu mộ của
gia đình. Đặc biệt, năm 1955 mẹ Nho làm công tác binh vận, vận
động được một số lính địch bỏ ngũ theo cách mạng, tổ chức làm
binh biến đốt đồn Phước Khánh, diệt tên đội Lạc ác ôn, thu nhiều
vũ khí rồi kéo vào rừng theo cách mạng.
Lần lượt, những người con kế tiếp của mẹ là Nguyễn Thị
Kim Dung (sinh năm 1943), Nguyễn Văn Vàng (sinh năm 1954)
thoát ly hoạt động cách mạng. Các con dâu, con rể của mẹ Nho
cũng tham gia kháng chiến. Mẹ luôn dặn dò các con: không bao
giờ được đi đầu giặc (đầu hàng), đầu giặc là phản bội dòng tộc,
phản bội nhân dân, phản bội quê hương. Từ đó, mẹ Nho lần lượt
431

44.2 Page 432

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đón các cháu nội, cháu ngoại từ trong rừng về nuôi nấng, chăm
sóc cho các con yên lòng chiến đấu.
Ngày 5.9.1971, máy bay Mỹ ném bom bắn phá rồi đổ quân
xuống căn cứ quân y huyện ở rạch Cái Tròn (xã Long Phước,
huyện Long Thành). Con gái mẹ là Nguyễn Thị Kim Dung, y
tá công tác ở Quân y hy sinh cùng 11 đồng đội khác. Con trai út
Nguyễn Văn Vàng, thoát ly ngày 27.1.1970 làm du kích xã Đại
Phước sau đó vào bộ đội Đơn vị 19/5 rồi chuyển làm Thơ ký Văn
phòng Phân khu ủy Bà Rịa, hy sinh tại chiến trường huyện Cẩm
Mỹ. Ngày 26.1.1973, một ngày trước khi Hiệp định Paris được ký
kết, Nguyễn Văn Vàng hy sinh tại huyện Cẩm Mỹ, đồng đội đưa
thi thể về chôn ở cánh đồng Cu Nhí (Rà Rịa). Mãi 9 tháng sau, mẹ
Nho mới hay tin.
Đất nước thống nhất, mẹ Nho lại tiếp tục nuôi cháu cho các
con yên tâm học tập, công tác. Mẹ sống lạc quan, yêu lao động,
chan hòa với bà con xóm giềng, chấp hành tốt chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước nên rất được người dân địa phương
yêu quý, kính trọng. Mẹ mất vào ngày 7.4.2016, hưởng thọ 100
tuổi. Hiện tại con trai ruột của mẹ, ông Nguyễn Chiến Lũy (Hai
Thông) thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Ghi nhận những đóng góp cho cách mạng, mẹ đã được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì tại Quyết
định số 18/KT-HĐNN ngày 25.8.1987, được phong tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ngày 26.9.2014 tại Quyết định số
2392/QĐ-CTN.
432

44.3 Page 433

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đào Thị Huyền
(1921 - 2006)
Mẹ Đào Thị Huyền sinh năm 1921
tại xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai và qua đời vào ngày 4.2.2006.
Hiện tại con gái ruột của mẹ, bà Bùi Thị
Đường ở ấp Phước Lý, xã Đại Phước
đang thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến, mẹ đã tần tảo
sản xuất, đóng góp lương thực, tài chính
và 3 chiếc xuồng ghe để vận chuyển cán bộ cách mạng. Bản thân
mẹ đã nuôi 3 người em ruột lớn lên và tham gia cách mạng là Đào
Minh Sang (nguyên là Huyện đội phó Huyện đội Long Thành),
Đào Minh Đáng (đi tập kết và mất ở miền Bắc) và Đào Minh Mão
(đã hy sinh).
Mẹ có 2 người con là liệt sỹ: Liệt sỹ Bùi Văn Tàng, hy sinh
ngày 24.4.1972 trong một trận đánh ở khu vực Cầu Nước Trong,
xã Tam An, huyện Long Thành và liệt sỹ Bùi Văn Thành, hy sinh
ngày 23.3.1968 tại khu vực Cầu Mười Huỳnh, Rừng Sác. Cả hai
con của mẹ đến nay vẫn chưa tìm thấy mộ.
Trong ký ức của người thân, mẹ là người rất hiền lành, gương
mẫu, thường giúp đỡ bà con chòm xóm khi ốm đau, bệnh tật. Ghi
nhận những công lao, đóng góp của mẹ, Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang đã truy tặng mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
ngày 1.12.2015 tại quyết định số 2679/QĐ-CTN.
433

44.4 Page 434

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Đặng Thị Ngà
(1910 - 1990)
Mẹ Đặng Thị Ngà sinh năm 1910 tại
xã Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Mẹ mất ngày 17.11.1990 và
hiện con ruột của mẹ là ông Phan Hồng
Liên, cư trú tại ấp 2, xã Hiệp Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đang
thờ phụng mẹ.
Trong kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cứu nước, mẹ là cơ sở cung cấp thuốc men, lương thực,
thực phẩm cho chiến sỹ cách mạng. Mẹ có 2 con là liệt sỹ Phan
Hồng Quân, sinh năm 1947, hy sinh ngày 20.3.1974 khi bị địch
càn quét và liệt sỹ Phan Thành Tâm, sinh năm 1950, hy sinh ngày
19.7.1969 trong trận đánh chống trả địch.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Đặng Thị Ngà.
434

44.5 Page 435

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Nhung
(1909 - 1996)
Mẹ Nguyễn Thị Nhung sinh năm
1909 tại ấp 1, xã Hiệp Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ kết hôn với ông Huỳnh Ngọc
Ẩn (sinh năm 1904), có 5 người con (2
trai, 3 gái). Trong 2 cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả
gia đình mẹ đều tực tiếp tham gia hoặc
có đóng góp cho cách mạng. Nhà không có ruộng đất, hằng ngày
mẹ Nhung mua nông phẩm của bà con trong làng gánh ra chợ
bán, hoặc đi chợ Bà Rịa mà hàng hóa về bán lại kiếm tiền đắp đổi
nuôi con. Do tính chất công việc của mẹ phải đi nhiều nơi, nên
cách mạng giao cho mẹ nhiệm vụ mua thực phẩm, thuốc men,
sau đó mẹ giả vờ vào rừng chặt củi để chuyển hàng vào căn cứ.
Ông Ẩn thì tham gia công tác ở xã. Sau khi lên nắm quyền, chính
quyền Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 đàn áp, bắt bớ, giết
hại những người yêu nước, người kháng chiến cũ. Ông Ẩn cũng bị
bắt đày đi Côn Đảo, bị địch tra tấn đến chết vào ngày 22.7.1960.
Cả 2 người con trai của mẹ là Huỳnh Văn Hương, Huỳnh
Văn Sinh (Huỳnh Văn Tám) đều tham gia cách mạng. Trong đó,
do nhà nghèo, hoàn cảnh khó khăn nên từ nhỏ Huỳnh Văn Tám
được mẹ gởi lên Biên Hòa ở với chị là Huỳnh Thị Sâm, sau đó
tham gia hoạt động cách mạng và hy sinh tại đây. Khi đất nước
hòa bình, mẹ sống chan hòa với mọi người xung quanh và làm
gương cho con cháu noi theo. Gia đình mẹ được công nhận Gia
đình cách mạng gương mẫu ngày 20.6.1992. Ngày 7.6.1996, mẹ
435

44.6 Page 436

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
qua đời do tuổi cao sức yếu. Hiện các con của mẹ đều không còn,
con dâu của mẹ là bà Nguyễn Thị Hường (vợ ông Huỳnh Văn
Hương) thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng ngày 16.5.2016 theo Quyết định số 945/QĐ-CTN của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
436

44.7 Page 437

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Huề
(1901 - 1967)
Mẹ Nguyễn Thị Huề sinh năm
1901 tại xã Hiệp Phước, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất vào ngày
9.8.1967. Ông Phan Thanh Châu, thường
trú ở tổ 6, ấp 2, xã Hiệp Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, là cháu nội
của mẹ hiện đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có 1 người con duy nhất tham
gia hoạt động cách mạng và đã hy sinh. Đó là liệt sỹ Phan Văn Để,
sinh năm 1921, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp vào ngày 14.4.1947.
Ghi nhận những cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mẹ được Chủ tịch nước
Trần Đại Quang truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
tại Quyết định số 237/QĐ-CTN ngày 14.2.2017.
437

44.8 Page 438

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Huỳnh Thị Đâu
(1914 - 1991)
Mẹ Huỳnh Thị Đâu sinh năm 1914
tại xã Hiệp Phước (nay là thị trấn Hiệp
Phước), huyện Nhơn Trạch.
Trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Hiệp Phước nằm trong
vùng địch chiếm đóng, đời sống người bị
o ép hết sức khó khăn nhưng mẹ Đâu vẫn
tích cực tham gia hoạt động cách mạng ở
cơ sở, theo dõi tình hình của địch rồi báo về căn cứ kháng chiến
theo đường dây giao liên. Mẹ có 2 người con trai đã hy sinh khi
tham gia cách mạng giải phóng quê hương. Đó là liệt sĩ Nguyễn
Văn Tô, hy sinh ngày 4.2.1968 trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân (Bằng Tổ quốc ghi công theo Quyết định số
254/Ttga); liệt sĩ Nguyễn Văn Thanh, hy sinh năm 1967 (Bằng Tổ
quốc ghi công số GB.012m).
Mẹ qua đời năm 1991. Ghi nhận công lao đóng góp cũng
như hy sinh to lớn của mẹ và gia đình, Đảng và Nhà nước đã truy
tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện nay mẹ được con
gái Nguyễn Thị Hoa thờ cúng tại phường Quang Vinh, thành phố
Biên Hòa.
438

44.9 Page 439

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Lài
(1923 - 2004)
Mẹ Nguyễn Thị Lài sinh năm 1923.
Sinh thời, mẹ sinh sống tại ấp Giồng Ông
Đông, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất ngày 7.3.2004.
Con gái ruột của mẹ là bà Lê Thị Lùng,
hiện đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có 2 con là liệt sĩ, hy sinh trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Đó là liệt sĩ Lê Văn Ơn, sinh năm 1945, hy sinh tháng 6.1964 và
liệt sĩ Lê Văn Bền, sinh năm 1949, hy sinh ngày ngày 19.9.1973.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2014 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
439

44.10 Page 440

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Bài
(1918 - 2012)
Mẹ Nguyễn Thị Bài sinh năm 1918
tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
mất ngày 26.4.2012. Con trai ruột của mẹ
ông Trần Đại Ca hiện đang thờ phụng mẹ
tại quê nhà ở ấp Bến Ngự, xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, mẹ đã tiếp tế nuôi quân, cung cấp
thuốc men, thực phẩm cho cán bộ cách mạng. Mẹ có 2 con hy sinh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó là liệt sỹ Trần
Văn Dũng, sinh năm 1941, hy sinh ngày 1.10.1966 và liệt sỹ Trần
Văn Ê, sinh năm 1945, hy sinh ngày 20.8.1968.
Nhà nước đã truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ghi nhận
công lao và những cống hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
440

45 Pages 441-450

▲back to top


45.1 Page 441

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Trừ
(1932 - 2006)
Mẹ Nguyễn Thị Trừ sinh năm 1932
tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
mất ngày 1.9.2006. Cháu nội của mẹ, ông
Đào Châu Hoa, hiện đang thờ phụng mẹ
tại xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch.
Cả một đời mẹ Nguyễn Thị Trừ cần
cù lao động nuôi chồng và hai con tham
gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hai
con trai của mẹ đã hy sinh, mãi mãi không về. Tổ quốc ghi công
liệt sỹ Đào Văn Dũng, sinh năm 1951, hy sinh ngày 6.5.1969 và
liệt sỹ Đào Văn Quyết, sinh năm 1953, hy sinh ngày 19.5.1971.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng mẹ danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những cống
hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
441

45.2 Page 442

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phạm Thị Tiết
(1915 - 2004)
Mẹ Phạm Thị Tiết sinh năm 1915
ở huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ mất ngày 8.3.2004 tại ấp Giồng Ông
Đông, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch.
Hiện nay, cháu nội của mẹ là ông Đặng
Hoàng Vũ đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có hai con hy sinh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước trường
kỳ của dân tộc là liệt sĩ Đặng Văn Hơn, sinh năm 1940, hy sinh
ngày 1.4.1967 và liệt sĩ Đặng Văn Tròi, sinh năm 1941, hy sinh
ngày 5.5.1970.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Phạm Thị Tiết.
442

45.3 Page 443

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hồ Thị Biên
(1919 - 1946)
Mẹ Hồ Thị Biên sinh năm 1919 tại
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Lúc
còn sống, mẹ cư trú tại ấp Bến Ngự, xã
Phú Đông, huyện Nhơn Trạch. Mẹ qua
đời vào ngày 12.10.1946. Hiện tại ông
Hồ Văn Xem, cháu gọi mẹ bằng cô ruột
đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có một người con trai độc nhất
là Võ Văn Hảo đã lên đường tham gia hoạt động cách mạng với sự
ủng hộ, động viên từ mẹ. Liệt sỹ Võ Văn Hảo sinh năm 1944, hy
sinh tháng 8.1966 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ghi nhận công lao của mẹ với cách mạng, Nhà nước đã truy
tặng mẹ Hồ Thị Biên danhhiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 1306/KT-CTN, ngày 23.7.1997 của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
443

45.4 Page 444

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Biết
(1910 - 1969)
Mẹ Nguyễn Thị Biết sinh năm 1910
tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Sinh thời, mẹ cư trú tại xã Đại Phước,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
mất ngày 11.12.1969. Cháu nội của mẹ
là ông Thái Ngọc Thạch hiện đang thờ
phụng mẹ tại xã Phú Đông, huyện Nhơn
Trạch.
Mẹ có người con trai độc nhất là liệt sĩ Nguyễn Văn Thanh,
sinh năm 1932, hy sinh ngày 9.5.1967. Trong kháng chiến chống
Mỹ, mẹ đã trực tiếp tham gia tiếp tế lương thực nuôi quân, làm cầu
nối liên lạc giữa các cơ sở cách mạng.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 23.7.1997 mẹ đã được truy tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 1306/KT-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
444

45.5 Page 445

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Của
(1916 - 1950)
Mẹ Trần Thị Của sinh năm 1916
tại xã xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai. Mẹ lập gia đình với ông
Đặng Văn Điểu, người cùng làng và chỉ
sinh người con trai duy nhất là Đặng Văn
Hỉnh.
Do nhà nghèo, mẹ bệnh nặng mà
không có tiền chạy chưa thang thuốc nên
mẹ mất ngày 24.1.1950.
Mẹ Trần Thị Của có một con trai duy nhất đã lên đường tham
gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đã mãi mãi ra đi không
bao giờ trở lại. Đó là liệt sĩ Đặng Văn Hỉnh, sinh năm 1941, là y
tá, ngày 22.8.1964 trong một đợt địch càn và ném bom xuống khu
vực có hầm của Quân y, làm sập hầm khiến anh hy sinh.
Hiện tại, cháu gọi mẹ bằng cô là ông Trần Kim Thanh đang
thờ phụng mẹ tại xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch. Trong kháng
chiến, mẹ làm tiếp tế lương thực, thuốc men nuôi quân. Với những
công lao đóng góp to lớn đó, mẹ đã được Nhà nước truy tặng danh
hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 154/
KT-CTN, ngày 20.4.2000 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
445

45.6 Page 446

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lê Thị Có
(1924 - 1945)
Mẹ Lê Thị Có sinh năm 1924 tại
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Sinh
thời, mẹ cư trú tại xã Phú Hữu, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất
ngày 15.5.1945 và hiện bà Nguyễn Thị
Hảo đang thờ phụng mẹ tại xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch.
Mẹ Lê Thị Có đã động viên người
con thân yêu của mẹ lên đường tham gia kháng chiến chống Mỹ
cứu nước và đã anh dũng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Đó là liệt sỹ Cao Văn Ảnh, sinh năm 1942, hy sinh ngày
1.2.1968.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
Quyết định số 280/2002/QĐ-CTN ngày 23.5.2002 truy tặng mẹ
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng để ghi nhận những
cống hiến, hy sinh của mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
446

45.7 Page 447

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Bùi Thị Hai
(1900 - 1950)
Mẹ Bùi Thị Hai sinh năm 1900 tại
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Lúc
còn sống, mẹ cư trú tại ấp Bến Ngự, xã
Phú Đông, huyện Nhơn Trạch. Mẹ mất
ngày 16.7.1950. Con trai ruột của mẹ
là ông Nguyễn Văn Vân hiện đang thờ
phụng mẹ.
Mẹ Bùi Thị Hai có hai người con
trai là liệt sỹ: Liệt sỹ Nguyễn Văn Tư, sinh năm 1943, là đội viên
du kích, hy sinh ngày 20.5.1963 và liệt sỹ Nguyễn Văn Phải, sinh
năm 1947, hy sinh ngày 16.6.1972 trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
Năm 2016, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 945/QĐ-CTN ngày 16.5.2016 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho Mẹ Bùi Thị Hai.
447

45.8 Page 448

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Dương Thị Hoa
(1923 - 2015)
Mẹ Dương Thị Hoa sinh năm 1923
tại tỉnh Đồng Nai. Sinh thời, mẹ cư trú
tại ấp Giồng Ông Đông, xã Phú Đông,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ
mất vào ngày 25.2.2015. Con trai ruột
của mẹ, ông Nguyễn Văn Lên, hiện đang
thờ phụng mẹ.
Mẹ có hai người con là liệt sỹ, hy
sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Liệt sỹ Nguyễn Văn
Chiến, sinh năm 1945, hy sinh ngày 1.9.1969 và liệt sỹ Nguyễn
Văn Trân, sinh năm 1947, hy sinh ngày 1.8.1969.
Trong kháng chiến, mẹ tham gia tiếp tế lương thực nuôi quân,
làm cầu nối liên lạc giũa các cơ sở cách mạng. Với những công lao
đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và gia đình, ngày 26.9.2014
mẹ đã được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 2392/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
448

45.9 Page 449

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Đẹt
(1918 - 2016)
Mẹ Lê Thị Đẹt sinh năm 1918, tại
tỉnh Đồng Nai. Sinh thời, mẹ cư trú tại ấp
Giồng Ông Đông, xã Phú Đông, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất
ngày 3.12.2016. Con trai ruột của mẹ,
ông Nguyễn Văn Út hiện đang thờ phụng
mẹ tại quê nhà.
Trong kháng chiến, mẹ tham gia
tiếp tế lương thực nuôi quân, làm cầu nối liên lạc giữa các cơ sở
cách mạng. Mẹ có hai người con trai là liệt sỹ hy sinh trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước: Liệt sĩ Nguyễn Văn Trung, sinh năm
1944, hy sinh ngày 15.10.1970 và Liệt sĩ Nguyễn Văn Quân, sinh
năm 1952, hy sinh ngày 15.9.1969.
Với những công lao đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước
phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo
Quyết định số 2392/QĐ-CTN, ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
449

45.10 Page 450

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Thái Thị Ba
1926 - 2017)
Mẹ Thái Thị Ba sinh năm 1926,
nguyên quán tại ấp Bến Ngự, xã Phú
Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ đã qua đời vào ngày 5.12.2017. Hiện
con dâu của mẹ là bà Lê Thị Đương đang
thờ phụng mẹ tại quê nhà.
Cả chồng và con của mẹ đều tham
gia cách mạng và hy sinh trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Chồng mẹ là liệt sĩ Đoàn Văn Sỹ, sinh
năm 1923, hy sinh ngày 11.2.1974. Con trai là liệt sĩ Đoàn Văn
Thắng (tự Nghĩa) sinh năm 1947, hy sinh tháng 1.1968.
Trong kháng chiến, mẹ làm cầu nối liên lạc giữa các cơ sở
cách mạng, cung cấp lương thực, thuốc men cho cách mạng và tảo
tần mua bán nuôi chồng, con tham gia kháng chiến.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2392/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Thái Thị Ba.
450

46 Pages 451-460

▲back to top


46.1 Page 451

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trần Thị Liên
(1895 - 1974)
Mẹ Trần Thị Liên sinh năm 1895
tại tỉnh Long An. Mẹ cư trú tại xã Phú
Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
và đã qua đời ngày 2.3.1974. Hiện tại, bà
Nguyễn Thị Tám đang thờ phụng mẹ.
Mẹ có hai con là liệt sỹ: Liệt sỹ
Nguyễn Văn Bé, sinh năm 1919, hy sinh
vào ngày 9.9.1948 trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và liệt sỹ Nguyễn Văn Sơn, sinh năm 1936,
hy sinh ngày 17.7.1963 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Những cống hiến và đóng góp của mẹ đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, năm 2015 mẹ đã được truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2679/QĐ-CTN,
ngày 1.12.2015 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
451

46.2 Page 452

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phạm Thị Lý
(1882 - 1956)
Mẹ Phạm Thị Lý sinh năm 1882 tại
xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Ngày 10.5.1956, mẹ qua đời
tại quê nhà ở ấp Giồng Ông Đông, xã Phú
Đông và hiện cháu nội của mẹ, ông Trần
Văn Xê đang hương khói, thờ phụng mẹ.
Trong suốt 9 năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, mẹ không chỉ góp
công, góp sức cho phong trào cách mạng mà còn động viên chồng
và các con trực tiếp chiến đấu bảo vệ quê hương. Mẹ có 8 người
con (4 trai, 4 gái) thì cả 4 người con trai đều tham gia kháng chiến
gồm: Trần Văn Hiệp, Trần Văn Thiên, Trần Văn Thê và Trần Văn
Sẳn.
Hai người con của mẹ đã hy sinh, để lại sự tiếc thương lẫn
tự hào khôn xiết trong lòng mẹ và bà con làng xóm. Đất nước mãi
ghi danh liệt sĩ Trần Văn Thê, sinh năm 1930, hy sinh năm 1954
trong kháng chiến chống Pháp và liệt sỹ Trần Văn Sẳn, sinh năm
1935, hy sinh năm 1963 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong đó, liệt sĩ Trần Văn Sẳn bị địch bắt trên đường đi công tác,
bị chuyển hét từ trại giam này sang nhà tù khác, bị tra tấn dã man
nhưng vẫn giữ vững khí tiết cách mạng và hy sinh trong trại giam
Thủ Đức. Người con trai khác của mẹ là Trần Văn Thiên cũng bị
địch bắt, giam giữ tra tấn nhưng cũng không khai báo.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
quyết định truy tặng mẹ danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng vào ngày 16.5.2016 để ghi nhận công lao và những cống
hiến hy sinh của mẹ với cách mạng.
452

46.3 Page 453

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Hồ Thị Khanh
(1918 - 1956)
Mẹ Hồ Thị Khanh sinh năm 1918
tại ấp Long Hiệu, xã Long Tân, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Cũng như những người dân yêu
nước tại xã Long Tân, mẹ Hồ Thị Khanh
đã tham gia nuôi quân và tiếp tế lương
thực, thuốc men cho quân cách mạng.
Chồng mẹ, ông Nguyễn Công Đán (sinh
năm 1916) mất sớm vì bệnh tật lức mới 31 tuổi, mẹ một mình tần
tảo nuôi 4 người con (2 trai, 2 gái). Dù gặp nhiều hiểm nguy và
không ít vất vả, gian truân nhưng mẹ vẫn một lòng ủng hộ cách
mạng. Năm 1956, mẹ bị bệnh nặng và qua đời ngày 8.3.1956. Mẹ
chồng mẹ là bà Tạ Thị Đồng đón cháu côi cút về nuôi dưỡng.
Tinh thần yêu nước và ý chí kiên cường đã được mẹ truyền
lại cho các con của mình. Vì vậy, dù mẹ mất sớm, nhưng cả hai
người con trai đều noi gương mẹ tham gia hoạt động cách mạng,
chiến đấu anh dũng để bảo vệ Tổ quốc.
Liệt sĩ Nguyễn Văn Bảnh (tự Sơn, sinh năm 1944) tham gia
cách mạng từ năm 1963, làm y tá trong quân y. Tháng 9.1967,
anh hy sinh ở Phước An trong một trận càn của quân chư hầu Úc.
Được tin anh trai hy sinh, người con thứ của mẹ Khanh là Nguyễn
Văn Chiến (tự Linh, sinh năm 1946) càng quyết tâm giết giặc, diệt
thù. Cuộc chiến ngày càng khốc liệt hơn. Vào năm 1971, trước
khi triệt thoái toàn bộ quân sự Mỹ, quân chư hầu về nước, địch
tổ chức một số cuộc càn quét lớn đánh vào các căn cứ quan trọng
của ta. Trong một trận càn quét của địch vào căn cứ của ta ở Nhơn
453

46.4 Page 454

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trạch vào tháng 6.1971, Nguyễn Văn Chiến bị địch từ trên máy
bay bắn xuống, trúng đạn hy sinh, sau đó địch đưa xác anh về chi
khu Nhơn Trạch rồi chôn luôn, mãi đến sau ngày đất nước thống
nhất mới tìm được hài cốt.
Hai người con gái còn lại của mẹ là Nguyễn Thị Đào và
Nguyễn Thị Hường, trong đó Nguyễn Thị Đào cũng tham gia cách
mạng, có chồng là liệt sĩ Lê Minh Hoàng, mẹ chồng là Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng Hồ Thị Quý.
Mẹ Khanh được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014. Hiện nay,
người con gái Nguyễn Thị Đào đang thờ phụng mẹ và hai liệt sĩ
Nguyễn Văn Bảnh, Nguyễn Văn Chiến ở ấp Long Hiệu, xã Long
Tân.
454

46.5 Page 455

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Tươi
(1925)
Mẹ Lê Thị Tươi sinh năm 1925 tại
xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Khi đến tuổi lập gia đình, mẹ kết
hôn cùng ông Trần Tấn Nghiệp và sinh
được hai người con (1 trai, 1 gái). Thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, ông Nghiệp
tham gia cách mạng và hy sinh trong một
trận đánh ở xã Long Tân vào ngày 4.2.1949. Sau khi chồng mất,
mẹ Tươi đi bước nữa và sinh thêm được 5 người con (2 trai, 3
gái).
Người con trai đầu Trần Nguyễn Long (sinh năm 1944, con
ruột của liệt sĩ Trần Tấn Nghiệp) khi lớn lên đã noi gương cha,
tham gia kháng chiến chống Mỹ và đã anh dũng hy sinh vào ngày
18.11.1971.
Người chồng sau của mẹ cũng tham gia hoạt động công khai
trong kháng chiến chống Mỹ. Bản thân mẹ tuy phải làm lụng vất
vả để nuôi 7 người con nhưng vẫn bớt xén phần lương thực của
gia đình để ủng hộ cho bộ đội ta.
Hòa bình lập lại, mẹ có niềm vui được sum vầy bên các con
cháu. Hiện nay, mẹ Tươi đang sống cùng người con trai út là ông
Nguyễn Văn Hiếu tại ấp 1, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch. Mẹ
tuy tuổi đã cao nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Mẹ được phong
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
2392/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
455

46.6 Page 456

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Lý Thị Huệ
(1918 - 2000)
Mẹ Lý Thị Huệ sinh năm 1918 tại
xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Trong cả hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, địa
bàn xã Phú Thạnh có vị trí chiến lược
quan trọng.
Sau khi chiếm được miền Nam,
năm 1929 thực dân Pháp xây dựng ở xã
Phú Thạnh một công trình có tên gọi là căn cứ quân sự Thành Tuy
Hạ để bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, làm hậu thuẫn cho việc bình
định, vơ vét tài nguyên. Sau Hiệp định Genève, Mỹ thay chân
Pháp và từ đây Thành Tuy Hạ được đặt tên mới là “Căn cứ Phan
Bội Châu”. Mỹ đã đầu tư sửa chữa, nâng cấp và mở rộng, biến
thành một kho chứa các loại vũ khí, đạn dược lớn chỉ sau Tổng
kho Long Bình.
Là một địa bàn nằm cạnh khu căn cứ quân sự, bị địch kiểm
soát gắt gao, nhưng lòng người dân xã Phú Thạnh vẫn hướng về
cách mạng, kiên trì đấu tranh chống địch. Bản thân mẹ Lý Thị Huệ
cũng tham gia tiếp tế lương thực, thuốc men cho bộ đội ta trong
kháng chiến chống Mỹ.
Mẹ Huệ sinh được 7 người con (4 trai, 3 gái), trong đó hai
người con trai Phạm Trí Phú (sinh năm 1947, là con thứ 5) và
Phạm Hữu Đức (sinh năm 1950, là con thứ 6) cũng noi theo chí
hướng của mẹ, tham gia chiến đấu tại địa phương và đều là bộ đội
đặc công. Ngày 2.1.1966, mẹ Huệ nhận tin con trai thứ 5 hy sinh.
Không lâu sau đó, vào tháng 1.1969, con trai thứ 6 của mẹ cũng
456

46.7 Page 457

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
hy sinh. Cả hai người con này đều được mẹ Huệ tìm cách đem về
chôn cất tại đất nhà. Sau khi đất nước được giải phóng, các anh
được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ địa phương.
Những ngày cuối đời, mẹ Huệ sống cùng người con gái thứ
hai (theo cách gọi của người Nam Bộ) Phạm Thị Thanh tại quê
nhà (ấp 1, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch). Mẹ qua đời năm
vào 2000 và được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam
Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
457

46.8 Page 458

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Cảnh
(1923)
Mẹ Nguyễn Thị Cảnh sinh năm
1923 tại ấp Long Hiệu, xã Long Tân,
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Vào
những năm ác liệt của trận chiến chống
quân Mỹ xâm lược, mẹ Cảnh đã cùng với
nhiều phụ nữ khác trong xã Long Tân đã
tham gia nuôi quân và tiếp tế lương thực
cho quân du kích xã Long Tân.
Mẹ Cảnh có 2 người con hy sinh trong kháng chiến chống
Mỹ. Đó là liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệp (sinh năm 1946), hy sinh ngày
25.7.1968 khi chiến đấu tại xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch).
Người con gái của mẹ là liệt sĩ Nguyễn Thị Kim Thanh (sinh năm
1948) làm y tá xã Long Tân, hy sinh khi bị địch phục kích tại ấp
Vĩnh Tuy, xã Long Tân vào tháng 2.1971.
Mẹ hiện được người con gái Nguyễn Thị Hồng phụng dưỡng
tại quê nhà (ấp Long Hiệu, xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai). Mẹ tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn, sống vui,
sống khỏe; vẫn giữ thói quen ăn trầu như ngày xưa.
Với những công lao đóng góp, hy sinh to lớn đó của mẹ và
gia đình, ngày 26.9.2014 mẹ đã được phong tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2392/QĐ-CTN của Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
458

46.9 Page 459

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Di
(1903 - 1977)
Mẹ Nguyễn Thị Di sinh năm 1903
tại thôn Long Sơn, thị trấn Long Điền,
huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Long Đất là huyện cũ ở phía Nam tỉnh
Bà Rịa -Vũng Tàu. Nơi đây nổi tiếng
với cuộc khởi nghĩa chống Pháp của
Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định,
Phong trào kháng chiến chống Pháp do
tri phủ địa phương là Nguyễn Thành Ý khởi xướng, cũng là nơi
sản sinh người con gái anh hùng Võ Thị Sáu...
Năm 1930, mẹ Di sinh được một người con trai, đặt tên là
Nguyễn Văn Chỉ. Đây cũng là người con duy nhất của mẹ. Cũng
như rất nhiều bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác trên khắp đất nước
Việt Nam, bằng tình yêu nước nồng nàn, mẹ đã dâng hiến người
con yêu quý nhất cho đất nước. Con trai của mẹ, liệt sĩ Nguyễn
Văn Chỉ hy sinh năm 1953 khi đang trên đường đi công tác ở
huyện Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Những ngày cuối đời, mẹ được người cháu là Nguyễn Thành
Hải phụng dưỡng tại nguyên quán. Mẹ mất vào ngày 22.5.1977.
Năm 1986, ông Nguyễn Thành Hải chuyển đến sinh sống tại ấp
2, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch và thờ phụng mẹ tại đây. Mẹ
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 522/KT-CTN ngày 22.8.1995.
459

46.10 Page 460

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Đống
(1913 - 1994)
Mẹ Nguyễn Thị Đống sinh năm
1913 tại xã Đại Phước, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Sau khi lập gia đình, năm 1941, mẹ
Đống sinh được một người con trai duy
nhất và đặt tên là Nguyễn Văn Hương.
Vì thế, bao nhiêu tình thương mẹ dồn hết
cho người con trai này. Mẹ tần tảo sớm
hôm nuôi cho con trai khôn lớn, vui mừng khi con yên bề gia thất.
Ông Hương kết hôn không lâu sau thì vợ cấn thai rồi sinh được
một người con gái (năm 1968) và đặt tên là Nguyễn Thị Hai. Chưa
kịp vui mừng chào đón thành viên mới thì ông Hương đi chiến
đấu. Chiến sự ngày càng ác liệt. Dù địa bàn chiến đấu không xa
nhà nhưng ông Hương không có dịp về thăm mẹ, thăm vợ con.
Cũng từ đó, mẹ Đống không còn được gặp lại người con trai duy
nhất nữa. Chị Hai cũng chưa từng được cha ẵm bồng, chăm sóc.
Ngày 23.9.1974, trong một trận đánh ác liệt tại xã Bình Sơn,
huyện Long Thành, Nguyễn Văn Hương đã anh dũng hy sinh. Con
trai mất, mẹ Đống sống cùng con dâu và cháu nội. Mẹ mất ngày
5.7.1994 (ÂL) và hiện đang được người cháu nội thờ phụng. Mẹ
được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo quyết
định số 194 KT/CTN ngày 17.12.1994.
460

47 Pages 461-470

▲back to top


47.1 Page 461

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Mua
(1896 - 1983)
Mẹ Nguyễn Thị Mua sinh năm 1896
tại xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai. Vùng đất Nhơn Trạch, Đồng
Nai là nơi có truyền thống cách mạng.
Tinh thần chiến đấu, hy sinh vì độc lập
dân tộc đã ngấm sâu vào trong mẹ. Trong
những tháng năm ác liệt nhất của chiến
tranh, mẹ đã động viên hai người con trai
của mình tham gia cách mạng.
Người con trai tên Nguyễn Văn Cu là cán bộ giao bưu, hy
sinh tháng 8.1964. Chỉ hơn nửa năm sau, vào tháng 3.1965, mẹ lại
tiếp tục đón nhận một tin buồn: người con trai Nguyễn Văn Phước
cũng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ.
Những ngày cuối đời, mẹ có niềm vui sống là được quây
quần cùng gia đình người con gái tên là Nguyễn Thị Võ. Mẹ mất
vào năm 1983. Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo quyết định số 2679/QĐ-CTN ngày 1.12.2015.
461

47.2 Page 462

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Thi
(1917 - 1948)
Mẹ Nguyễn Thị Thi sinh năm 1917
tại ấp Vĩnh Tuy, xã Long Tân, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Mẹ đã qua đời sớm vào ngày
10.8.1948 nên mẹ không được chứng kiến
sự trưởng thành của các con. Người con
trai Nguyễn Bá Nhẫn (sinh năm 1940)
dù thiếu vắng bàn tay chăm sóc và tình
thương của mẹ từ nhỏ nhưng vẫn trở thành một chàng trai giàu
nhiệt huyết và tình yêu quê hương. Khi đến tuổi trưởng thành,
chàng trai trẻ Nguyễn Bá Nhẫn đã xin vào đội du kích xã Long
Tân. Anh hy sinh vào tháng 7.1965 khi mới 25 tuổi. Mẹ Thi còn
một người con cũng anh dũng hy sinh trong kháng chiến là liệt sĩ
Nguyễn Thành Tâm.
Mẹ được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 781/QĐ-CTN ngày 25.4.2015.
Hiện nay, người con gái của mẹ Thi là bà Nguyễn Thị Sáu
đang thờ phụng mẹ.
462

47.3 Page 463

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Tính
(1919 - 2009)
Mẹ Nguyễn Thị Tính sinh năm 1919
tại ấp Long Hiệu, xã Long Tân, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Nơi đây nổi
tiếng với Trận đánh Long Tân diễn ra vào
ngày 18 và 19.8.1966. Trong trận đánh
này, quân đội ta đã tiến hành một trận vận
động phục kích tiêu diệt tiểu đoàn quân
Úc tại khu vực sở cao su Long Tân. Đây
là trận đánh có ý nghĩa rất quan trọng: Lần đầu tiên trên chiến
trường, ta đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn quân đội chư hầu Úc,
trong đó diệt gọn một đại đội lính Úc, bắn cháy 2 xe thiết giáp,
giết và làm bị thương hàng trăm lính Úc. Trận đánh góp phần đập
tan ý đồ càn quét bình định của địch và thúc đẩy phong trào cách
mạng của Bà Rịa - Long Khánh tiếp tục phát triển.
Bản thân mẹ Tính ngay từ trẻ đã trực tiếp tham gia hoạt động
trong kháng chiến chống Mỹ: Cung cấp đạn dược, tiếp tế gạo cho
quân đội cách mạng. Mẹ được tặng Huân chương Kháng chiến
hạng Ba theo Quyết định số 691 ngày 11.7.1986.
Mẹ có 2 người con hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ là
liệt sĩ Nguyễn Văn Thường sinh năm 1942, hy sinh năm 1961 tại
tỉnh Bình Dương và liệt sĩ Nguyễn Văn Dừ sinh năm 1944, hy
sinh tháng 2.1973 ngay tại xã Long Tân. Cả 2 liệt sĩ đều được tặng
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba.
Những ngày cuối đời, mẹ sống cùng con gái là bà Nguyễn
Thị Chót tại xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch. Mẹ mất ngày
22.10.2009 và được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN năm 2014.
463

47.4 Page 464

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Út
(1920 - 1985)
Mẹ Nguyễn Thị Út sinh năm 1920
tại xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Cũng như những người dân yêu
nước khác ở Nhơn Trạch, mẹ Út đã tham
gia tiếp tế lương thực cho quân cách
mạng. Không chỉ góp sức, góp của cho
kháng chiến, mẹ Út còn động viên hai
người con trai tham gia chiến đấu. Cả hai người con này đều đã
anh dũng hy sinh. Liệt sĩ Hồ Văn Dũng (sinh năm 1939), là đội
viên du kích chiến đấu tại địa bàn xã Long Tân, hy sinh năm 1964.
Liệt sĩ Hồ Minh Hoàng (sinh năm 1941) hy sinh năm 1967 cũng
tại địa bàn xã Long Tân.
Những ngày cuối đời, mẹ Út sống cùng người con trai là
Đào Minh Hổ. Mẹ mất ngày 13.3.1985 (ÂL). Với những công lao
đóng góp đó, mẹ đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN,
ngày 26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
464

47.5 Page 465

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Đồng
(1912 - 1964)
Mẹ Phạm Thị Đồng sinh năm 1912
tại xã Long Phước (nay thuộc phường
Long Phước, quận 9, Thành phố Hồ Chí
Minh). Mẹ mất sớm vào ngày 15.6.1964,
hưởng dương 52 tuổi.
Mẹ Đồng có 2 người con trai cùng
tham gia chiến đấu tại địa bàn Long
Thành - Nhơn Trạch trong kháng chiến
chống Mỹ. Đó là Trung sĩ Lê Văn Phát (sinh năm 1939), là A phó
(Tiểu đội phó) Huyện đội Long Thành và Lê Văn Tài (sinh năm
1950) là du kích xã Long Tân.
Trung sĩ Lê Văn Phát là người đã trực tiếp tham gia và hy
sinh trong trận đánh khu vực Long Thành trong Chiến dịch Tết
Nguyên Đán năm 1969.
Người con trai thứ của mẹ Đồng là Lê Văn Tài tham gia làm
du kích ở xã Long Tân (huyện Nhơn Trạch). Sau khi người anh
trai hy sinh được 8 tháng thì liệt sĩ Lê Văn Tài cũng hy sinh tại xã
Long Tân (tháng 10.1969).
Hiện nay, mẹ Đồng và hai người con liệt sĩ đang được người
cháu ngoại của mẹ Đồng là chị Đặng Hồng Điệp thờ cúng tại ấp
Long Hiệu, xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch.
Năm 2014, ghi nhận công lao, đóng góp hy sinh to lớn của
mẹ và gia đình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã có Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho mẹ Phạm Thị Đồng.
465

47.6 Page 466

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Phan Thị Bảy
(1911 - 2007)
Mẹ Phan Thị Bảy sinh năm 1911 tại
ấp Long Hiệu, xã Long Tân, huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. Sống trong vùng
chiến sự, chịu sự kiểm soát gắt gao của
quân địch nhưng với tấm lòng yêu nước,
căm thù giặc sâu sắc, mẹ Bảy đã không
màng hiểm nguy phục vụ cách mạng. Mẹ
nuôi quân, cung cấp thuốc cho quân du
kích.
Mẹ sinh được 3 người con (2 trai, 1 gái). Cả 2 người con
trai của mẹ đều tham gia cách mạng và chiến đấu tại địa phương.
Người con trai cả Trần Văn Bắc (sinh năm 1935) là Thiếu úy Quân
đội nhân dân Việt Nam, hy sinh ngày 23.2.1970 tại ấp Long Hiệu
do bị địch phục kích bắn chết khi trên đường đi làm nhiệm vụ.
Người con thứ hai là Trần Văn Đùm (sinh năm 1943) là đội
viên du kích, làm nhiệm vụ tại khu Lòng Chảo - Phước Thọ -
Phước An. Nơi đây có địa đạo Phước An, là căn cứ của Huyện ủy
Nhơn Trạch. Hệ thống địa đạo này có chiều dài 1,5km (được đào
từ ngày 19.5.1963 đến cuối năm 1964) với nhiều ngõ ngách, hầm
bí mật. Từ năm 1972, địa đạo này là nơi bám trụ dài ngày của 500
cán bộ, chiến sĩ Đoàn 10 Rừng Sác, là nơi xuất phát đánh địch ở
các hướng sông Lòng Tàu, kho bom Thành Tuy Hạ... gây cho địch
nhiều tổn thất nặng nề. Ngày 12.4.1964, khi đang trên đường đi
làm nhiệm vụ, chiến sĩ Trần Văn Đùm bị địch phục kích và đã hy
sinh anh dũng.
466

47.7 Page 467

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Mẹ Bảy may mắn còn người con gái út là bà Trần Thị Mười
(sinh năm 1954). Những năm tháng cuối đời, mẹ sống cùng gia
đình người con gái này. Mẹ mất ngày 18.1.2007. Mẹ được Nhà
nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết
định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
467

47.8 Page 468

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Trương Thị Bướm
(1916 - 1967)
Mẹ Trương Thị Bướm (tên thường
gọi là Phẩm, Phượng) sinh năm 1916
tại xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Trải qua 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Điện
Bàn là mảnh đất khốc liệt nhất của tỉnh
Quảng Nam, với gần 19.000 liệt sĩ ngã
xuống và 2.176 mẹ Việt Nam Anh hùng.
Thời trẻ, mẹ Bướm tham gia nuôi quân, tiếp tế thuốc, che
giấu cán bộ... Chính mẹ là người cổ vũ 2 người con tham gia cách
mạng, giải phóng dân tộc, truyền tình yêu nước, thương dân cho
các con. Mẹ bị lính Đại Hàn giết năm 1967.
Mẹ có 2 người con trai hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ
là liệt sĩ Dương Triết Minh (sinh năm 1942), hy sinh tại huyện
Điện Bàn, Quảng Nam vào năm 1973 và liệt sĩ Dương Đình Thông
(sinh năm 1948), hy sinh tại huyện Điện Bàn, Quảng Nam năm
1967 khi mới 19 tuổi.
Sau khi đất nước giành được hòa bình, người con ruột còn
lại của mẹ Bướm là ông Dương Thanh Tùng đã chuyển đến lập
nghiệp tại xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch và thờ phụng mẹ tại
đây. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 1221/QĐ-CTN ngày 20.6.2016.
468

47.9 Page 469

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Trương Thị Hai
(1927 - 1955)
Mẹ Trương Thị Hai sinh năm 1927
tại xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Khi đến tuổi lập gia đình, mẹ Hai
kết hôn cùng người thanh niên Nguyễn
Văn Sy, là người cùng xã. Với lòng yêu
nước, căm thù giặc, mẹ Hai đã ủng hộ
chồng tham gia kháng chiến chống Pháp.
Chiến tranh ác liệt, chồng mẹ đã không thể trở về để cùng mẹ
chăm sóc, nuôi nấng con cái.
Chồng mất, một mình mẹ Hai tần tảo nuôi con. Khi con đến
tuổi trưởng thành và lập gia thất, mẹ Hai lại động viên con tham
gia chiến đấu. Người con trai của mẹ là liệt sĩ Trương Đình Oai
(sinh năm 1947) cũng anh dũng hy sinh khi đang chiến đấu.
Mẹ Hai may mắn còn có người cháu nội là Trương Thị Liên.
Vì vậy, sau khi mẹ mất đã được người cháu này thờ cúng. Mẹ
được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
theo Quyết định số 280 KT/CTN ngày 23.5.2002.
469

47.10 Page 470

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Võ Thị Út
(1921 - 1988)
Mẹ Võ Thị Út sinh năm 1921 tại xã
Đại Phước, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai. Là một người có lòng yêu nước, căm
thù giặc, mẹ Út đã tham gia làm công tác
dân vận, tiếp tế lương thực, thuốc men
từ trong ấp chiến lược ra ngoài rừng cho
bộ đội ta. Khi các con đến tuổi trưởng
thành, mẹ đã cổ vũ, động viên con tham
gia chiến đấu trực tiếp.
Mẹ có 2 người con trai hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ:
Liệt sĩ Đào Văn Rích (sinh năm 1947), hy sinh tháng 12.1969 tại
xã Phước Thọ trong trận càn của địch; liệt sĩ Đào Văn Rắc (sinh
năm 1949), hy sinh tháng 3.1968 tại địa bàn Rạch Mương, xã
Phước Khánh trong một lần bị địch phục kích.
Sau chiến tranh, mẹ sống cùng với người con trai là Đào Văn
Ni tại ấp Bến Cộ, xã Đại Phước, huyện Nhơn Trạch. Mẹ có lối
sống chan hòa, giản dị với mọi người xung quanh. Tuy đời sống
kinh tế có khó khăn nhưng mẹ vẫn răn dạy các con cháu trong gia
đình phải sống đức độ, thường xuyên làm việc thiện để tạo phước
cho con cháu đời sau.
Mẹ mất ngày 26.2.1988 (ÂL) và được người con trai là Đào
Văn Ni thờ phụng. Mẹ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày
26.9.2014.
470

48 Pages 471-480

▲back to top


48.1 Page 471

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Huỳnh Thị Trà
(1913 - 1993)
Mẹ Huỳnh Thị Trà sinh năm 1913
tại thôn Quảng Xuyên, xã Phú Xuân,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Mẹ Huỳnh Thị Trà sinh ra và lớn lên
trên quê hương có truyền thống đấu tranh
cách mạng Thừa Thiên Huế. Những năm
chiến tranh vùng đất này đã in dấu ngàn
vạn bước chân của quần chúng nhân dân.
Đội quân cách mạng hiên ngang bước qua trước cửa Hoàng thành,
khẳng khái, thể hiện vị thế của người dân làm chủ. Cũng giống
như những người dân yêu nước, mẹ Huỳnh Thị Trà tham gia cách
mạng, hoạt động bí mật tại xã Phú Xuân. Vừa hoạt động, mẹ tích
cực vận động bà con quyên góp lương thực, thực phẩm, thuốc men
cho bộ đội.
Mặc chiến tranh ác liệt, mặc cho địch bao vây đe dọa và
khủng bố, mẹ Trà kiên trì bám cơ sở, đưa thông tin đến với bộ đội.
Chồng mẹ là ông Võ Văn Trọng (sinh năm 1910) cũng là chiến
sĩ cách mạng hoạt động bí mật. Năm 1958, trong một trận đánh
chống lại sự càn quét của địch tại mặt trận Hương Thủy (Thừa
Thiên Huế), chồng mẹ đã hy sinh. Nén nỗi đau to lớn ấy, mẹ Trà
can trường động viên các con trai lên đường tham gia kháng chiến
những mong các con đóng góp sức để đất nước được hòa bình,
thống nhất hai miền Nam - Bắc.
Hai con của mẹ Huỳnh Thị Trà là Võ Văn Nghiêm (sinh năm
1942) và Võ Văn Bòn (sinh năm 1954) theo truyền thống gia đình
cũng hăng hái tham gia khởi nghĩa, giành chính quyền ở Thừa
471

48.2 Page 472

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Thiên Huế. Trong trận Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968 tại Huế, hai người con của mẹ đã anh dũng hy sinh.
Đất nước thống nhất, Mẹ Huỳnh Thị Trà cùng con trai Võ
Nghiêm Thái (sinh năm 1935) vào sinh sống tại ấp Phước Lương,
xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Mẹ mất năm 1993
và được con trai thờ phụng tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Ngày 5.6.2007, mẹ được truy tặng danh hiệu cao quý Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 523/2007/QĐ-CTN
vì đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mẹ
còn được được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký truy tặng
Huân chương Độc lập hạng Ba theo Quyết định số 815 ngày
26.6.2008.
472

48.3 Page 473

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Lê Thị Hạng
(1919 - 2004)
Mẹ Lê Thị Hạng sinh năm 1919 tại
xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành, tỉnh
Quảng Ngãi.
Nghĩa Hành, Quảng Ngãi là vùng
đất giàu truyền thống cách mạng. Trong
kháng chiến chống Pháp, quân và dân
Nghĩa Hành đã dốc sức vào cuộc kháng
chiến kiến quốc, trở thành thủ phủ của
vùng tự do Liên khu V. Ở đây có trụ sở Ủy ban Kháng chiến Hành
chính miền Nam Trung Bộ, nơi đồng chí Phạm Văn Đồng, đại
diện của Đảng và Chính phủ ở làm việc. Cụ Huỳnh Thúc Kháng
cũng đã sống, làm việc và mất ở đây. Nghĩa Hành là nơi tập trung
nhiều cơ quan của Liên khu V và của tỉnh, các đơn vị quân đội,
các trường trung học nổi tiếng như Trường Trung học Lê Khiết,
Trường Trung học Bình dân miền Nam Trung Bộ.
Từ khi cuộc kháng chiến chuyển sang tổng phản công, Nghĩa
Hành trở thành hậu phương chi viện nhiều sức người, sức của, góp
phần đắc lực vào cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi với chiến
dịch Bắc Tây Nguyên giải phóng toàn tỉnh Kon Tum đầu năm
1954. Trong kháng chiến chống Mỹ, Nghĩa Hành tiếp tục phát huy
truyền thống cách mạng, kiên trì đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất giàu truyền thống cách mạng,
mẹ Hạng tích cực tham gia phong trào đấu tranh, cùng nhân dân
Hành Phước chống lại sự càn quét của địch. Từ năm 1945-1952,
mẹ tham gia du kích tại địa phương. Những năm 1952-1975, mẹ
tham gia Ban Chấp hành Phụ nữ thôn, Trưởng Ban Nông hội thôn
473

48.4 Page 474

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
ở xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành. Noi gương mẹ Hạng, các
con của mẹ cũng tình nguyện nhập ngũ. Năm 1972, người con trai
cả Nguyễn Kiểm của mẹ hy sinh. Chưa đầy một năm sau, con gái
Nguyễn Thị Đương cũng hy sinh (năm 1973) khi đang trên đường
làm nhiệm vụ.
Hòa bình lặp lại, mẹ Hạng cùng con trai Nguyễn Văn Hợp
vào Đồng Nai định cư. Mặc dù gia đình khó khăn nhưng mẹ Hạng
vẫn tảo tần, chăm lo cho các con ăn học đầy đủ, nên người. Mẹ
mất vào tháng 9.2004, hiện được con trai thờ phụng tại xã Phú
Thạnh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trước những đóng góp, thành tích và cống hiến của mẹ
cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch nước đã ký
Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014 truy tặng cho mẹ
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Những năm cuối
đời, mẹ Hạng sống hạnh phúc, đoàn tụ bên con cháu.
474

48.5 Page 475

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Nguyễn Thị Định
(1920 - 2009)
Mẹ Nguyễn Thị Định sinh năm
1920 tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Trong những năm tháng đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
gia đình mẹ Nguyễn Thị Định đã có nhiều
công lao và đóng góp cả máu xương cho
cách mạng. Thuở mười tám đôi mươi, mẹ
Định lấy chồng người cùng quê, tên ông là Nguyễn Văn Búp, vừa
làm ruộng vừa tiếp tế lương thực cho bộ đội. Hai người sinh hạ
được 4 người con (2 gái, 2 trai). Cũng bởi nằm trong vùng kìm kẹp
của địch nên phong trào đấu tranh cách mạng của quân dân Phú
Hữu luôn phát triển mạnh, nhiều trận đánh đã nổ ra gây cho địch
nhiều tổn thất. Tiếp nối truyền thống của quê hương, chồng mẹ
Định và 2 người con trai xung phong đi theo cách mạng.
Những năm 1950-1970, địch đánh phá ác liệt. Trong một
trận càn quét của địch vào Nhơn Trạch năm 1952, chồng mẹ hy
sinh. Ngày nhận được tin báo người chồng yêu thương của mình
hy sinh, trái tim mẹ như vỡ vụn. Đến 1969, người con thứ 4 của
mẹ là Phạm Văn Đẹp hy sinh khi đang trên đường làm nhiệm vụ.
Hy sinh, mất mát là thế, nhưng mẹ vẫn kiên cường để nuôi
dạy ba người con còn lại nên người. Theo lời kể của ông Phạm
Ngọc Ty (cháu nội mẹ), trong đời sống hằng ngày, mẹ Định là
người hiền từ, sống hòa đồng với xóm làng, tích cực tham gia
công tác xã hội ở địa phương. Mẹ luôn động viên con cháu tích
cực lao động, phát huy truyền thống hào hùng của gia đình. Vì
475

48.6 Page 476

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
vậy, con cháu của mẹ Định ai nấy cũng đều cố gắng, học tập, làm
việc, cống hiến sức mình, cùng nhau xây dựng quê hương giàu
đẹp.
Mẹ qua đời vào năm 2009. Mẹ được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/
QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện tại, cháu nội Phạm Ngọc Ty thờ phụng mẹ tại xã Phú
Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
476

48.7 Page 477

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Bảy
(1913 - 2004)
Mẹ Phạm Thị Bảy sinh năm 1913
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Lớn lên giữa những ngày tháng
chiến tranh ác liệt, bằng nhiệt huyết tuổi
trẻ, mẹ Bảy tích cực tham gia công tác
của địa phương, góp phần phục vụ chiến
đấu. Không thể trực tiếp cầm súng chiến
đấu trên chiến trường, mẹ Phạm Thị Bảy đóng góp công sức, tiền
bạc, thực phẩm tiếp tế cho cán bộ cách mạng, bộ đội, du kích địa
phương. Mẹ kết hôn với ông Lê Văn Trăm người cùng địa phương
rồi lần lượt sinh hạ 7 người con, người nào cũng tham gia dân
quân du kích rồi thoát ly vào bộ đội.
Liệt sỹ Lê Văn Sâm, con trai đầu của mẹ (sinh năm 1936) hy
sinh đầu năm 1962 - đó thời điểm cuộc chiến ở chiến trường miền
Nam Việt Nam đang bước vào giai đoạn khó khăn. Tin về anh
Sâm hy sinh chưa nguôi, nước mắt chưa kịp khô, chỉ mấy tháng
sau, trong một buổi chiều cuối năm 1962 mẹ lại hay tin người con
trai thứ Lê Văn Sành (sinh năm 1938) hy sinh trong một trận càn
lớn. Dẫu biết chiến tranh có đau thương, mất mát, nhưng mẹ Bảy
chẳng thể ngờ rằng chỉ chưa đầy năm mà chiến tranh đã cướp của
mẹ hai người con yêu quý. Đôi mắt mẹ mờ đi sau bao đêm dài
khóc cạn nước mắt vì thương nhớ con nhưng mẹ luôn tự nhủ mình
không thể gục ngã.
Nuốt nước mắt vào trong, mẹ lại kiên cường lao động, sản
xuất để góp sức cho kháng chiến. Hòa bình lập lại, mẹ tần tảo nuôi
477

48.8 Page 478

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
dạy con cháu nên người, phát huy truyền thống của gia đình, để
tiếp tục cống hiến, xây dựng quê hương. Ngoài 2 liệt sĩ đã hy sinh,
các con của mẹ gồm: Lê Minh Hoàng (mới mất), Lê Văn Đông,
Lê Hoàng Mậu, Lê Văn Xưa và Lê Văn Dày thay nhau chăm sóc,
phụng dưỡng mẹ. Những năm cuối đời, mẹ sống vui vẻ, hạnh
phúc bên con cháu. Mẹ mất năm 2004.
Năm 2014, mẹ Phạm Thị Bảy được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-
CTN ngày 26.9.2014.
Hiện nay, mẹ được cháu nội là Lê Văn Ba (sinh năm 1960)
thờ phụng tại ấp Phước Lương, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
478

48.9 Page 479

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Đầy
(1906 - 1998)
Mẹ Phạm Thị Đầy sinh năm 1906
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Mẹ Phạm Thị Đầy vốn sinh ra và
lớn lên trong một gia đình nông dân
nghèo, có đức tính hiền hòa, nhân hậu,
ngay thẳng, chất phác, căm thù giặc sâu
sắc. Những năm chống Pháp, chiến tranh
ác liệt diễn ra khắp nơi, đâu đâu trên quê hương mẹ cũng đều có
dấu chân kẻ thù giày xéo. Hưởng ứng phong trào cứu quốc, yêu
nước, mẹ cùng thanh niên, phụ nữ tham gia nhiều hoạt động kêu
gọi người dân địa phương bí mật tiếp tế lương thực, thuốc men
cho bộ đội.
Những năm chiến tranh diễn ra ác liệt trên địa bàn Nhơn
Trạch, các con của mẹ Đầy gồm Lê Văn Đực và Lê Minh Hòa
xung phong tham gia cách mạng, sau đó thoát ly vào bộ đội. Tuy
nhiên, chiến tranh ác liệt, các anh đã anh dũng hy sinh máu xương
mình cho Tổ quốc.
Hình ảnh của mẹ Phạm Thị Đầy vừa gánh vác việc nước vừa
đảm đang việc nhà để chồng, con yên tâm đánh giặc trở thành một
biểu tượng đẹp trong lòng người dân xã Phú Hữu. Mẹ Đầy đã hiến
tặng những người con thân yêu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Sự
hy sinh ấy góp phần làm nên hình ảnh Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
kiên cường, bất khuất.
Mẹ mất năm 1998. Năm 2014, mẹ được Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
479

48.10 Page 480

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện mẹ Phạm Thị Đầy được con gái là Lê Thị Gái (sinh năm
1943) thờ phụng tại xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai.
480

49 Pages 481-490

▲back to top


49.1 Page 481

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Phạm Thị Rớt
(1926 - 2005)
Mẹ Phạm Thị Rớt sinh năm 1926
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Đến tuổi lập gia đình, mẹ kết hôn
với ông Lê Văn Nhuận cũng là người
cùng quê. Những năm kháng chiến chống
Pháp, không cam chịu trước sự giày xéo
của kẻ địch, chồng mẹ cùng với người
dân Phú Hữu tham gia cách mạng. Vừa lao động sản xuất, mẹ Rớt
vừa nuôi dạy con, động viên chồng để chồng hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Mẹ Rớt ủng hộ cách mạng bằng cách góp lương thực, thực
phẩm và thuốc men cho bộ đội đóng trên địa bàn.
Chiến tranh ác liệt, ông Lê Văn Nhuận hy sinh. Gạt nước
mắt, mẹ động viên người con lớn Lê Văn Chay noi gương cha cố
gắng hết mình cho công cuộc giải phóng của dân tộc, mong ngày
hoà bình trở lại cả gia đình sẽ được đoàn tụ. Năm 1967, trong một
trận đánh lớn ở Nhơn Trạch, mẹ hay tin con trai Lê Văn Chay hy
sinh trên đường làm nhiệm vụ. Nỗi đau chồng nỗi đau, mẹ dường
như ngã quỵ. Nhưng với tinh thần bất khuất của người phụ nữ
Việt Nam, mẹ đã kiên cường vượt lên đau thương để lao động, sản
xuất, nuôi dạy những người con còn lại khôn lớn, nên người.
Đất nước giải phóng, phát huy truyền thống cách mạng của
gia đình, mẹ Rớt luôn khuyên bảo con cháu sống và làm việc theo
quy định của Nhà nước, sống phải có nghĩa có tình, làm điều hay
việc thiện, quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ khó khăn với bà con láng
giềng. Mẹ mất vào năm 2005. Năm 2014, mẹ được Nhà nước truy
481

49.2 Page 482

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
2339 ngày 26.9.2014.
Hiện tại, mẹ được con gái Phạm Thị Lượm thờ phụng tại ấp
Cát Lái, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
482

49.3 Page 483

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Còn
(1919 - 1968)
Mẹ Đặng Thị Còn sinh năm 1919
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, nhà của mẹ Còn là cơ sở cách mạng,
là nơi nuôi giấu cán bộ hoạt động tại địa
phương. Tiếp nối truyền thống gia đình,
mẹ tham gia phong trào cách mạng, nhất
là giai đoạn 1960-1965. Trong những năm tháng ác liệt ấy, cùng
với “đội quân tóc dài” mẹ Còn và các mẹ, các chị và lực lượng
thanh niên xã Phú Hữu luôn nêu cao tinh thần bất khuất, trở thành
lực lượng đi đầu trong các phong trào đấu tranh ở địa phương.
Chứng kiến cảnh địch đốt hàng trăm nóc nhà của người dân,
mua chuộc, hăm dọa, cho xe gom đồ đạc để người dân không có
nhà phải vào ấp chiến lược, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc, hai người con sinh đôi là Hồ Văn Sổ và Hồ Văn Sơn (sinh
năm 1947) tình nguyện xin mẹ được lên đường nhập ngũ. Ở hậu
phương, cũng như bao người mẹ khác, mẹ Còn vừa đấu tranh
chống lại áp bức vừa chắt chiu, chịu thương chịu khó làm ra hạt
lúa củ khoai, mong ngày đất nước thống nhất để gia đình được
đoàn tụ. Không biết bao lần, mẹ Còn ra đứng ở đầu ngõ mong
ngóng con trở về thăm nhà.
Năm 1968, khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968 đang diễn ra, mẹ Đặng Thị Còn lâm bệnh nặng rồi qua
đời. Một năm sau (năm 1969) gia đình mẹ nhận được báo tử của
483

49.4 Page 484

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
đơn vị hai người con Hồ Văn Sổ, Hồ Văn Sơn, hai anh đã hy sinh
trong chiến đấu.
Với những thành tích và những cống hiến cho sự nghiệp đấu
tranh và giải phóng dân tộc, mẹ Đặng Thị Còn được Chủ tịch nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số
2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện, người cháu Dương Thị Kim Liên thờ phụng mẹ tại ấp
Phước Lương, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
484

49.5 Page 485

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Đặng Thị Thà
(1902 - 1943)
Mẹ Đặng Thị Thà sinh năm 1902
tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
Mẹ Thà lập gia đình khi mới tuổi
đôi mươi với người chồng cùng quê. Dù
cuộc sống của người nông dân một nắng
hai sương nhưng vợ chồng mẹ luôn cố
gắng nuôi con trưởng thành. Vừa tần tảo
nuôi con, mẹ vừa tích cực tham gia công tác phụ nữ, tuyên truyền,
vận động người dân địa phương ra sức ủng hộ và giúp đỡ cách
mạng. Mẹ là người chịu thương, chịu khó, một lòng vững vàng
với cách mạng, bao phen bị giặc bắt bớ, đánh đập, mà vẫn không
hề khuất phục. Năm 1943, mẹ lâm bệnh nặng rồi qua đời.
Cháu nội của mẹ Thà là Lê Thị Dơn cho biết, thuở đó, khi
chiếm đóng Nhơn Trạch, giặc Pháp đã tăng cường hệ thống cai trị
nhằm bóc lột, vơ vét tiềm năng vùng đất vốn màu mỡ, trù phú này.
Cha và chú lớn lên đều tham gia cách mạng tại địa phương. Địa
bàn hoạt động của cha và chú trải dài từ Nhơn Trạch đến căn cứ
Chiến khu Đ. Liệt sĩ Lê Văn Trình trong một đợt chống trả sự càn
quét của địch, không may bị phục kích và hy sinh năm 1949. Đến
năm 1963, gia đình mẹ Thà nhận được tin liệt sĩ Lê Văn Minh hy
sinh.
Với những đóng góp to lớn cho cách mạng, mẹ Đặng Thị
Thà được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày 26.9.2014.
Hiện nay, cháu nội Lê Thị Dơn thờ phụng mẹ tại xã Phú
Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
485

49.6 Page 486

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Thị Hiển
(1911 - 2001)
Mẹ Nguyễn Thị Hiển sinh năm
1911 tại xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
Chồng mẹ Hiển là ông Võ Văn Trầu,
người cùng quê tham gia du kích tại địa
phương nhưng vì mắc bạo bệnh nên qua
đời sớm. Mẹ Hiển sinh được 7 người con,
chủ yếu sống bằng nghề làm nông ở xã
Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, mẹ Hiển đã vận động bà con nuôi quân, giúp
đỡ lúa gạo, áo quần cho bộ đội và nuôi giấu cán bộ cách mạng.
Tại địa phương, mẹ Hiển nhận anh Nguyễn Văn Xạ làm con
nuôi. Anh Nguyễn Văn Xạ cùng con ruột Võ Văn Cường thoat ly
tham gia cách mạng. Cuối năm 1968, mẹ Hiển hay tin anh Xạ hy
sinh. Cứ nghĩ mẹ sẽ chẳng thể vượt qua, thế nhưng gạt đi hai dòng
nước mắt, mẹ thắp nén hương trước bàn thờ tổ tiên và di ảnh của
con nuôi rồi khuyến khích những người con còn lại lên đường
chiến đấu. Năm 1974, một lần nữa mẹ nhận giấy báo tử đơn vị con
trai Võ Văn Cường gửi về nhà. Nỗi đau mất cả hai con đè nặng
trong tim mẹ. Các anh đã ra đi như những người anh hùng, nhưng
lòng mẹ khôn xiết nhớ thương.
Chính nỗi đau đã thúc giục Mẹ vượt mọi gian khổ để làm
tròn trọng trách của người mẹ hậu phương. Mẹ vẫn tiếp tục tham
gia hoạt động cho cách mạng cho đến ngày đất nước hoàn toàn
giải phóng.
486

49.7 Page 487

▲back to top


Anh hùng lực lưBợÀnMg ẸvũVItỆrTaNnAgMnAhNâHnHdÙâNnG
Những năm cuối đời, mẹ sống vui vẻ, hạnh phúc bên con
cháu. Mẹ qua đời vào năm 2001
Mẹ Nguyễn Thị Hiển được Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định số 2393/QĐ-CTN ngày
26.9.2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.
Hiện nay, cháu nội Võ Thị Hương thờ phụng mẹ tại ấp Câu
Kê, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
487

49.8 Page 488

▲back to top


PHỤ LỤC

49.9 Page 489

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Quyết định phong danh hiệu AHLLVTND
cho Nhân dân và LLVTND huyện Nhơn Trạch
(Số 761/KT - CTN ngày 29.01.1996)
489

49.10 Page 490

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Tiểu đoàn 240 đón nhận danh hiệu AHLLVTND
(ngày 18.12.2012)
490

50 Pages 491-500

▲back to top


50.1 Page 491

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phước Khánh, đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
491

50.2 Page 492

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Nguyễn Quyết Chiến
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng
492

50.3 Page 493

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Một gia đình cách mạng có 4 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 13 liệt sĩ
Đội viên du kích
xã Phú Hội anh hùng
493

50.4 Page 494

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Mẹ Trần Thị Sắc và mẹ Đào Thị Phấn (huyện Nhơn Trạch)
Tặng nhà tình nghĩa cho Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Đới
(huyện Nhơn Trạch)
494

50.5 Page 495

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
viếng Đền thờ Liệt sĩ huyện Nhơn Trạch (năm 2003)
Các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
viếng Đền thờ Liệt sĩ huyện Nhơn Trạch (năm 2003)
495

50.6 Page 496

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Thủ tướng Phan Văn Khải thăm các Bà mẹ VNAH
huyện Nhơn Trạch ngày 7.2.2000
496

50.7 Page 497

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm các Bà mẹ VNAH
huyện Nhơn Trạch năm 2006
497

50.8 Page 498

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
huyện Nhơn Trạch năm 2006
498

50.9 Page 499

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Phú Cường (khóa X) tặng bằng khen cho
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Diệp Thị Rông (xã Phước Thiền)
tại lễ kỷ niệm và biểu dương người có công với cách mạng tiêu
biểu, ngày 27.7.2017
499

50.10 Page 500

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Huỳnh Văn Tới thăm
và tặng quà Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Nhựt,
huyện Nhơn Trạch, ngày 13.7.2017
Đ/c Phạm Sỹ Linh, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện
đến thăm và tặng quà Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Đặng Thị Quốc
xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch, ngày 21.6.2017
500

51 Pages 501-510

▲back to top


51.1 Page 501

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
DANH SÁCH TẬP THỂ
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
STT
Tên tập thể anh hùng
Năm
phong Trang
tặng
1
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
huyện Nhơn Trạch
1996
12
2 Đội dân quân du kích xã Phước An
3 Đội dân quân du kích xã Phú Hội
1978 26
1978 32
4
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phú Hữu
1994
37
5
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long Thọ
1966
39
6
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phước Khánh
2000
50
7
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
xã Long Tân
2000
63
8
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân
xã Phú Đông
2000
75
9 Tiểu đoàn 240 tỉnh Biên Hòa
2012 83
501

51.2 Page 502

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
DANH SÁCH CÁ NHÂN
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
STT
Họ và tên
Năm phong tặng Trang
1 Nguyễn Quyết Chiến
1969
91
2 Dương Văn Thì
6.11.1978
87
3 Nguyễn Văn Quang
1967
93
502

51.3 Page 503

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
DANH SÁCH
BÀ MẸ Việt Nam Anh hùng
STT
Họ
1 Đỗ Thị
2 Võ Thị
3 Châu Thị
4 Nguyễn Thị
5 Nguyễn Thị
6 Dương Thị
7 Nguyễn Thị
8 Trương Thị
9 Nguyễn Thị
10 Nguyễn Thị
11 Phạm Thị
12 Nguyễn Thị
13 Lê Thị
14 Nguyễn Thị
15 Mai Thị
16 Lê Thị
17 Đặng Thị
18 Phan Thị
19 Đào Thị
20 Nguyễn Thị
21 Nguyễn Thị
22 Nguyễn Thị
Tên
Tiên
Út
Sang
Bộn
Huệ
Chính
Đống
Hai
Út
Bảy
Điểu
Chọn
Châu
Còn
Sao
Xinh
Tỉnh
Nho
Huyền
Ớn
Ba
Năm
xã, thị trấn
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Đại Phước
Trang
282
470
99
184
211
111
460
469
464
417
418
420
421
422
424
427
429
430
433
226
228
230
503

51.4 Page 504

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
23 Trương Thị
24 Nguyễn Thị
25 Đặng Thị
26 Nguyễn Thị
27 Nguyễn Thị
28 Nguyễn Thị
29 Nguyễn Thị
30 Dương Thị
31 Lê Thị
32 Nguyễn Thị
33 Phạm Thị
34 Nguyễn Thị
35 Huỳnh Thị
36 Nguyễn Thị
37 Võ Thị
38 Nguyễn Thị
39 Mai Thị
40 Lê Thị
41 Nguyễn Thị
42 Huỳnh Thị
43 Nguyễn Thị
44 Phan Thị
45 Phạm Thị
46 Lê Thị
Đại Phước
231
Đồng
Đại Phước
207
Ngà
Hiệp Phước
434
Cửu
Hiệp Phước
195
Hương
Hiệp Phước
213
Nớt
Hiệp Phước
224
Dính
Hiệp Phước
204
Phụ
Hiệp Phước
114
Y
Hiệp Phước
167
Nhung
Hiệp Phước
435
Bánh
Hiệp Phước
245
Huề
Hiệp Phước
437
Đâu
Hiệp Phước
438
Thậm
Phước Thiền
306
Sáu
Phước Thiền
307
Phước Thiền
308
Hiện
Phước Thiền
309
Trừng
Phước Thiền
310
Dương Phước Thiền
311
Thâu
Phước Thiền
312
Hóa
Phước Thiền
313
Nhỏ
Phước Thiền
314
Ngọt
Phước Thiền
315
Mười
Phước Thiền
316
504

51.5 Page 505

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
47 Bùi Thị
48 Nguyễn Thị
49 Hồ Thị
50 Nguyễn Thị
51 Nguyễn Thị
52 Nguyễn Thị
53 Đổng Thị
54 Nguyễn Thị
55 Mã Thị
56 Nguyễn Thị
57 Lê Thị
58 Nguyễn Thị
59 Diệp Thị
60 Huỳnh Thị
61 Võ Thị
62 Nguyễn Thị
63 Phạm Thị
64 Nguyễn Thị
65 Lê Thị
66 Nguyễn Thị
67 Hồ Thị
68 Lê Thị
69 Hồ Thị
70 Nguyễn Thị
Bờ
Phước Thiền
317
Chiều
Phước Thiền
318
Khiêm Phước Thiền
119
Bông
Phước Thiền
186
Nhiều
Phước Thiền
222
Sang
Phước Thiền
235
Sáu
Phước Thiền
109
Chiến
Phước Thiền
190
Khương Phước Thiền
319
Ai
Phước Thiền
320
Hai
Phước Thiền
324
Nhựt
Phước Thiền
325
Rông
Phước Thiền
326
Hết
Phước Thiền
327
Én
Phước Thiền
321
Rớt
Phước Thiền
322
Trước
Phước Thiền
323
Bảy
Long Tân
180
Chuột
Long Tân
144
Ba
Long Tân
175
Quý
Long Tân
121
Nhàn
Long Tân
158
Khanh
Long Tân
453
Tính
Long Tân
463
505

51.6 Page 506

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
71 Phan Thị
72 Võ Thị
73 Phạm Thị
74 Ngô Thị
75 Nguyễn Thị
76 Nguyễn Thị
77 Trương Thị
78 Nguyễn Thị
79 Lê Thị
80 Võ Thị
81 Nguyễn Thị
82 Nguyễn Thị
83 Nguyễn Thị
84 Huỳnh Thị
85 Dương Thị
86 Huỳnh Thị
87 Nguyễn Thị
88 Bùi Thị
89 Đoàn Thị
90 Nguyễn Thị
91 Nguyễn Thị
92 Lê Thị
93 Trần Thị
94 Đặng Thị
Bảy
Long Tân
466
Nữa
Long Tân
286
Đồng
Long Tân
465
Long Tân
283
Thi
Long Tân
462
Cảnh
Long Tân
458
Bướm
Long Tân
468
Hường
Long Tân
215
Kính
Long Thọ
150
Liền
Long Thọ
276
Bi
Long Thọ
182
Viết
Long Thọ
242
Đẩu
Long Thọ
202
Hạng
Long Thọ
125
Tốt
Long Thọ
116
Chẩm
Long Thọ
328
Kiển
Long Thọ
329
Bầy
Long Thọ
333
Mần
Long Thọ
334
Cốc
Long Thọ
335
Chuộc
Long Thọ
336
Nghị
Long Thọ
337
Chính
Long Thọ
338
Bi
Long Thọ
339
506

51.7 Page 507

▲back to top


95 Bùi Thị
96 Hồ Thị
97 Lê Thị
98 Huỳnh Thị
99 Nguyễn Thị
100 Nguyễn Thị
101 Trần Thị
102 Nguyễn Thị
103 Phạm Thị
104 Phan Thị
105 Lê Thị
106 Nguyễn Thị
107 Nguyễn Thị
108 Nguyễn Thị
109 Phạm Thị
110 Lê Thị
111 Trần Thị
112 Lê Thị
113 Nguyễn Thị
114 Hồ Thị
115 Nguyễn Thị
116 Trần Thị
117 Lê Thị
118 Bùi Thị
ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
Hết
Long Thọ
340
Mai
Long Thọ
341
Nở
Long Thọ
342
Thế
Long Thọ
132
Biểu
Long Thọ
137
Phá
Long Thọ
138
Hóa
Long Thọ
139
Tứ
Long Thọ
140
Lành
Long Thọ
141
Em
Long Thọ
142
Cầm
Long Thọ
143
Lài
Phú Đông
439
Bài
Phú Đông
440
Trừ
Phú Đông
441
Tiết
Phú Đông
442
Dần
Phú Đông
146
Nga
Phú Đông
261
Mua
Phú Đông
153
Lẹt
Phú Đông
217
Biên
Phú Đông
443
Biết
Phú Đông
444
Của
Phú Đông
445
Phú Đông
446
Hai
Phú Đông
447
507

51.8 Page 508

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
119 Dương Thị
Hoa
Phú Đông
448
120 Lê Thị
Đẹt
Phú Đông
449
121 Thái Thị
Ba
Phú Đông
450
122 Trần Thị
Liên
Phú Đông
451
123 Phạm Thị
Phú Đông
452
124 Trần Thị
Thiệt
Phú Hội
272
125 Đào Thị
Phấn
Phú Hội
104
126 Nguyễn Thị
Phương
Phú Hội
233
127 Trần Thị
Dương
Phú Hội
258
128 Nguyễn Thị
Đổ
Phú Hội
206
129 Nguyễn Thị
Chánh
Phú Hội
188
130 Bùi Thị
Chính
Phú Hội
96
131 Nguyễn Thị
Thiếp
Phú Hội
239
132 Nguyễn Thị
Thế
Phú Hội
237
133 Trần Thị
Sắc
Phú Hội
268
134 Trần Thị
Nhị
Phú Hội
266
135 Huỳnh Thị
Cận
Phú Hội
123
136 Trần Thị
Nhạt
Phú Hội
264
137 Nguyễn Thị
Mành
Phú Hội
220
138 Lê Thị
Đối
Phú Hội
148
139 Lư Thị
Lụa
Phú Hội
169
140 Huỳnh Thị
Phú Hội
127
141 Lư Thị
Thạnh
Phú Hội
171
142 Đặng Thị
Tứ
Phú Hội
101
508

51.9 Page 509

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
143 Trần Thị
Ba
Phú Hội
344
144 Lư Thị
Hòa
Phú Hội
346
145 Đặng Thị
Phương
Phú Hội
347
146 Đặng Thị
Thôi
Phú Hội
348
147 Nguyễn Thị
Mười
Phú Hội
349
148 Lê Thị
Bộ
Phú Hội
350
149 Đặng Thị
Nghĩa
Phú Hội
351
150 Nguyễn Thị
Thâu
Phú Hội
352
151 Lê Thị
Dứa
Phú Hội
353
152 Nguyễn Thị
Thiệp
Phú Hội
354
153 Đặng Thị
He
Phú Hội
355
154 Võ Thị
Giệng
Phú Hội
356
155 Lương Thị
Phát
Phú Hội
357
156 Lâm Thị
Bửu
Phú Hội
358
157 Trà Thị
Rang
Phú Hội
359
158 Đặng Thị
Phước
Phú Hội
360
159 Lý Thị
Thưa
Phú Hội
361
160 Nguyễn Thị
Hảo
Phú Hội
362
161 Đặng Thị
Lúa
Phú Hội
363
162 Nguyễn Thị
Biển
Phú Hội
364
163 Nguyễn Thị
Nhỉ
Phú Hội
365
164 Nguyễn Thị
Sinh
Phú Hội
366
165 Võ Thị
Le
Phú Hội
367
166 Nguyễn Thị
Bén
Phú Hội
368
509

51.10 Page 510

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
167 Dương Thị
Tửu
Phú Hội
369
168 Nguyễn Thị
Sâm
Phú Hội
370
169 Trần Thị
Trực
Phú Hội
371
170 Đặng Thị
Quốc
Phú Hội
372
171 Võ Thị
Phú Hội
374
172 Nguyễn Thị
Huyến
Phú Hội
375
173 Nguyễn Thị
Nguyệt
Phú Hội
376
174 Lê Thị
Giang
Phú Hội
377
175 Huỳnh Thị
Ba
Phú Hội
378
176 Nguyễn Thị
Nhỏ
Phú Hội
379
177 Lý Thị
Vĩnh
Phú Hội
380
178 Phan Thị
Ớn
Phú Hội
247
179 Nguyễn Thị
Mười
Phú Hội
249
180 Nguyễn Thị
Tám
Phú Hội
345
181 Huỳnh Thị
Trà
Phú Hữu
471
182 Võ Thị
Thấy
Phú Hữu
279
183 Lê Thị
Thể
Phú Hữu
160
184 Lê Thị
Trọng
Phú Hữu
162
185 Trần Thị
Tranh
Phú Hữu
274
186 Đinh Thị
Tỵ
Phú Hữu
107
187 Phạm Thị
Đầy
Phú Hữu
479
188 Phạm Thị
Rớt
Phú Hữu
481
189 Phạm Thị
Bảy
Phú Hữu
477
190 Bạch Thị
Đời
Phú Hữu
287
510

52 Pages 511-520

▲back to top


52.1 Page 511

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
191 Nguyễn Thị
192 Châu Thị
193 Lê Thị
194 Trần Thị
195 Nguyễn Thị
196 Nguyễn Thị
197 Đặng Thị
198 Đặng Thị
199 Nguyễn Thị
200 Phạm Thị
201 Nguyễn Thị
202 Trần Thị
203 Nguyễn Thị
204 Phan Thị
205 Ngô Thị
206 Lê Thị
207 Lý Thị
208 Ngô Thị
209 Nguyễn Thị
210 Lê Thị
211 Nguyễn Thị
212 Nguyễn Thị
213 Nguyễn Thị
214 Nguyễn Thị
Chiếm
Phú Hữu
291
Ngân
Phú Hữu
288
Vở
Phú Hữu
290
Như
Phú Hữu
302
Định
Phú Hữu
475
Vảng
Phú Hữu
298
Còn
Phú Hữu
483
Thà
Phú Hữu
485
Hiển
Phú Hữu
486
Thất
Phú Hữu
300
Chuộng
Phú Hữu
304
Đâu
Phú Hữu
305
Phú Hữu
295
Thiệt
Phú Thạnh
253
Quờn
Phú Thạnh
173
Hạng
Phú Thạnh
473
Huệ
Phú Thạnh
456
Ngàn
Phú Thạnh
284
Bảy
Phú Thạnh
285
Tươi
Phú Thạnh
455
Di
Phú Thạnh
459
Mua
Phú Thạnh
460
Nhiều
Phú Thạnh
296
Chơn
Phước An
192
511

52.2 Page 512

▲back to top


huyện Nhơn Trạch ANH HÙNG
215 Nguyễn Thị
216 Hồ Thị
217 Huỳnh Thị
218 Phan Thị
219 Nguyễn Thị
220 Phạm Thị
221 Nguyễn Thị
222 Bùi Thị
223 Nguyễn Thị
224 Nguyễn Thị
225 Lê Thị
226 Huỳnh Thị
227 Nguyễn Thị
228 Trần Thị
229 Trần Thị
230 Huỳnh Thị
231 Nguyễn Thị
232 Lê Thị
233 Phạm Thị
234 Nguyễn Thị
235 Nguyễn Thị
236 Nguyễn Thị
237 Bùi Thị
238 Lê Thị
Hoa
Phước An
209
Canh
Phước An
118
Sớm
Phước An
130
Phàn
Phước An
250
Bạn
Phước An
178
Biền
Phước An
381
Phước An
382
Hoa
Phước An
383
Bay
Phước An
384
Nuôi
Phước An
386
Hỏi
Phước An
387
Quảng
Phước An
388
Hầu
Phước An
389
Lời
Phước An
390
Đường
Phước An
391
Lừa
Phước An
392
Phước An
393
Nhành
Phước An
394
Rít
Phước An
395
Xinh
Phước An
385
Ngọc
Phước An
396
Rằng
Phước An
397
Út
Phước An
398
Nên
Phước An
400
512

52.3 Page 513

▲back to top


ĐẢNG BỘ HUYỆN NHƠN TRẠCH
239 Phan Thị
240 Trần Thị
241 Trần Thị
242 Lê Thị
243 Nguyễn Thị
244 Nguyễn Thị
245 Nguyễn Thị
246 Nguyễn Thị
247 Nguyễn Thị
248 Nguyễn Thị
249 Lê Thị
250 Nguyễn Thị
251 Phan Thị
252 Trần Thị
253 Đặng Thị
254 Lê Thị
255 Trần Thị
256 Nguyễn Thị
257 Lê Thị
258 Nguyễn Thị
Phước An
402
Yến
Phước An
403
Của
Phước Khánh 255
Mười Phước Khánh 155
Chanh Phước Khánh 404
Trinh Phước Khánh 405
Phước Khánh 406
Nơi
Phước Khánh 407
Huỳnh Phước Khánh 408
Bảy
Phước Khánh 409
Ba
Phước Khánh 410
Lâu
Phước Khánh 411
Nên
Phước Khánh 412
Hảo
Phước Khánh 413
Phước Khánh 414
Phước Khánh 415
Sang
Vĩnh Thanh
270
Đặng
Vĩnh Thanh
199
Vĩnh Thanh
165
Kiều
Vĩnh Thanh
293
513

52.4 Page 514

▲back to top


Muïc luïc
PHẦN I
Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân
11
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Nhơn Trạch............12
Đội dân quân du kích xã Phước An.....................................................26
Đội quân du kích xã Phú Hội..............................................................32
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Hữu.......................37
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Long Thọ.....................39
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phước Khánh...............50
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Long Tân.....................63
Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Phú Đông.....................75
Tiểu đoàn 240 - Tỉnh Biên Hòa ..........................................................83
PHẦN II
BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
95
PHỤ LỤC
488
Hình ảnh............................................................................................489
Danh sách tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân..............501
Danh sách cá nhân Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.............502
Danh sách Bà mẹ Việt Nam Anh hùng .............................................503

52.5 Page 515

▲back to top


HUYỆN NHƠN TRẠCH ANH HÙNG
Đảng bộ huyện Nhơn Trạch
Mã ISBN: 978-604-52-9578-6
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GĐ - TBT. BÙI THỊ LÂM NGỌC
Chịu trách nhiệm bản thảo:
PGĐ. TRƯƠNG VĂN TUẤN
Biên tập:
Biên tập kĩ thuật:
Trình bày:
Sửa bản in:
Bìa:
Nguyễn Thị Kim
Nguyễn Văn Lừng
Hoàng Phương
Nguyễn Thị Kim
Hoàng Phương
.................................................................................................................
In: 1.300 bản. Khổ: 16 x 24 cm. In tại: Công ty Thiên Ngôn - 134/8
Hoàng Hoa Thám, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Số XNKHXB: 2656 - 2020 / CXBIPH / 1 - 239 / ĐoN, Cục Xuất bản,
In và Phát hành xác nhận ngày: 10/7/2020, Quyết định xuất bản số: 10/
QĐA-ĐoN, do NXB Đồng Nai cấp ngày: 20/7/2020.
In xong và nộp lưu chiểu: quý 3/2020.
.................................................................................................................

52.6 Page 516

▲back to top


Nhà xuất bản Đồng Nai,
1953J (số cũ 210) Nguyễn Ái Quốc, TP Biên Hoà, Đồng Nai
Ban Biên tập: (02513) 825 292 - P Kinh doanh: 946 521 - P Kế toán: 946 520
Fax: (02513) 946 530 - Email: nxbdongnai@hcm.vnn.vn